9
Hôm sau, thằng Hùng đến. Nó mặc quần đùi đen, áo bà ba trắng ngả màu cháo lòng. Tôi đưa nó vào buồng thằng Quảng, đó cũng là cái góc để nó học. Tôi để hai đứa nói chuyện với nhau, để hai đứa xử sự với nhau theo cái tuổi 14 của chúng nó.
Khi nó trở ra chào tôi để về, tôi hết sức ngạc nhiên. Nó như một đứa khác. Không phải chiếc áo bà ba màu cháo lòng mà là chiếc áo pull màu vàng, thay vì cái quần đùi màu đen là chiếc quần cụt trắng, đó là bộ đồ của thằng Quảng khi chơi bóng bàn. Tôi đoán biết thằng Quảng đã tặng cho nó. Rồi, hầu như ngày nào nó cũng đến trong một tuần thằng Quảng nằm dưỡng bịnh. Hai đứa cứ rù rì với nhau, thằng Hùng kể cho nó nghe về trận lũ lụt khiến nhà nó phải trôi dạt lên Sài Gòn. Hết chuyện, hai đứa lại nghe nhạc.
Thằng Hùng cắt thằng Đàm, nối với thằng Quảng. Thằng Hùng rồi cả băng bụi của thằng Hùng đều tôn nó làm “đại ca”. Quảng “đại ca”! Bọn thằng Hùng phục nó ở chỗ không chỉ tha thứ thằng Hùng mà còn cho thằng Hùng bộ đồ thể thao thật là bảnh chọe, võ nghệ thì bài bản có trường lớp hẳn hoi, lại giỏi bóng bàn. Có một lần, nó dẫn cả băng thằng Hùng cùng một bạn cùng lớp đến câu lạc bộ bóng bàn coi nó đánh độ. Một độ hai chục ngàn, nó đánh ba trận với ba đối thủ khác nhau, toàn người lớn, nó thắng cả ba. Bọn nhỏ phục nó sát đất. Với sáu chục ngàn đồng thắng độ, nó dẫn cả băng đến một quán nước vỉa hè. Cà phê, nước ngọt, kem, cả thuốc lá, tùy thích. Có một đứa cầm điếu ba số 5, hai tay dâng lên cho nó như hát tuồng: “Mời đại ca”. Lần đầu tiên, hai môi nó bập bập điếu thuốc. Được tôn là “đại ca”, dưới trướng mình có một đám đàn em để sai phái, nó sướng lắm. Nó như trên đỉnh vinh quang và quyền lực.
Và cũng từ cái đỉnh “đại ca”, nó tuột dốc.
Lang thang trên đường phố, trong tiếng ồn ào của xe cộ, giữa những dòng người qua lại, khi dạt về con đường này, lúc tấp vào một con hẻm nọ, đối với bọn nó có một sức hấp dẫn quái lạ. Một ổ bánh mì thịt vừa đi vừa nhai, nó thấy ngon hơn cơm nhà. Trong số bạn cùng lớp với nó thường hay đến chơi nhà tôi, đứa nào cũng quái lạ. Có đứa đến chơi khuya không chịu về, xin ngủ lại đêm với thằng Quảng. Tôi hỏi nó, nó nói má nó mất sớm, nó ở với dì ghẻ, mỗi lần ba nó đi vắng thì nó bị hành. Nghe tội nghiệp. Có đứa lại kể, ba má nó ly dị, người vợ mới, chồng mới, người nào cũng có con, không để ý đến nó, nó bơ vơ.
Sau này hỏi ra mới biết, đứa nào cũng có ba má. Không ai có dì ghẻ, cũng không có đứa nào ba má đã ly dị. Chúng đặt điều, thêu dệt cho đời mình thành bi kịch, lấy cớ để bỏ nhà lang thang cho thỏa chí. Vào một tối, bọn chúng túm tụm theo dõi mục: “Tìm người lạc” trên tivi. Khi một tấm hình của một thiếu niên xuất hiện cùng lời kêu gọi thống thiết của cha mẹ, thì cả bọn vỗ tay ào ào. Tôi lấy làm lạ:
- Sao lại cười.
Một đứa trả lời:
- Thằng đó trúng mánh rồi bác!
- Sao lại trúng mánh?
- Nó là bạn học của tụi cháu, tụi cháu biết.
- Nó đến đây chơi lần nào chưa? Tôi hỏi.
- Dạ chưa, nó có một băng khác.
- Sao nó lại trúng mánh? - Tôi lại hỏi.
- Dạ, nó bỏ nhà đi một tuần nay rồi, nó tuyên bố: khi nào ba má nó tìm nó trên tivi thì nó về.
- Sao lại tìm nó trên tivi thì mới chịu về? - Tôi hỏi.
- Dạ, tại nó thích có hình trên tivi, với lại nó muốn thử thách ba má nó, xem ba má nó có thương nhớ nó hay không?
Tôi thật sự không hiểu nổi. Tâm sanh lý tuổi này biến động lạ lùng quá. Tôi thấy cần phải quan tâm đến thằng Quảng nhiều hơn. Cái tuổi mười ba, mười bốn của lũ học trò chúng tôi ngày xưa, ấy là cái tuổi muốn thoát ra cái tôi trẻ con, muốn vươn lên thành người lớn, biết mơ ước, biết ham muốn, muốn chọn cho mình một hướng đi, cái hướng sau này đều lệ thuộc vào cha mẹ.
Chiến tranh thế giới đã tràn về đồng quê, đã nghe và thấy máy bay đồng minh bay dọc theo sông tìm sục tàu Nhật. Một chiếc tàu Nhật bị trúng bom, khói đen trùm cả sông cả chợ. Lần đầu tiên nghe tiếng bom, mặt đứa nào cũng tái xanh, có đứa đái ra quần. Chúng tôi gặp cả những người Sài Gòn tản về quê, áo quần lòe loẹt nhưng mặt mày mang theo nỗi sợ hãi của chiến tranh. Chúng tôi nghe người lớn xì xào bàn tán: Nhật sẽ lật Tây rồi cai trị nước mình. Có người mừng, người lo. Mừng vì hả, đã có người đánh thằng Tây, lo vì nghe nói Nhật ác lắm, ác hơn cả Tây. Người ta chia ra nhiều phe phái, đối nghịch nhau. Người cùng trong xóm, trước đây, ai ai cũng thân thiện, bây giờ khác phe khác phái, nhìn nhau mắt gườm gườm. Chỉ còn lũ học trò nhỏ chúng tôi, vì chưa biết phải theo ai, nên vẫn túm tụm lại với nhau, một cái khối nhỏ nhoi như cái cù lao giữa bốn bề sóng gió.
Sau ngày hè, đến học kỳ hai, trong những đứa cùng một nhà trọ chúng tôi, có một đứa đứng tách ra một mình: thằng Đồng, thằng hiền nhứt trong chúng tôi. Nó để tóc dài đến tận vai. Hỏi nó, nó nói:
- Tao theo đạo Phật giáo Hòa Hảo, tao để tóc theo đạo của tao!
Hai con mắt nó bỗng như nảy lửa:
- Tao làm gì kệ tao. Đừng có chọc tao nghe.
Bọn tôi thấy sờ sợ rồi nó nhìn chúng tôi, thao thao bất tuyệt:
- Kinh sấm của đạo tao có nói, sắp đổi đời, ngày đổi đời thì tối trời tối đất ba ngày ba đêm. Dưới sông thì cá sấu, trên bờ thì cọp. Kinh sấm răn dạy: người nào không theo đạo tao thì hùm tha sấu bắt. Quỷ dương gõ cửa từng nhà bắt hồn những người không nghe lời thầy tao. Sau đó, núi Cấm nổ ra ba tiếng sấm, núi Cấm tách ra, rồi rồng bay phượng múa, thầy tao sẽ lên ngôi. Thầy là người của Phật phái xuống trần trị vì thiên hạ. Ngày đó là ngày hội Long Hoa...
Nếu một ông già hay bà già nói những điều này qua giọng rì rầm trong một đêm dưới ánh đèn dầu, bọn nhỏ chúng tôi hoặc sẽ tin, hoặc sẽ sợ hoặc hoang mang, đàng này nó nói giữa ban ngày và lại là học trò như chúng tôi, không có gì xuất sắc, thường ngày lại là một đứa gà mờ. Không ai nao lòng, nhưng không ai dám cãi, dám đùa với nó.
Ngày hôm sau nhập học. Mới mấy tháng nghỉ hè mà thầy trò đã xa cách nhau. Thầy là một người biết chơi đàn. Thầy nghiêm khắc, nhưng lại thường nở nụ cười thân mật với học trò. Ngày nhập học đầu tiên không thấy thầy cười, thầy cúi đầu trầm ngâm, bước tới bước lui. Rồi thầy dừng lại đưa tay sửa lại kính, thầy hỏi:
- Trong lớp này sao có mấy em để tóc dài quá vậy?
Lớp nhứt chúng tôi có ba mươi đứa mà không chỉ có một mình thằng Đồng để tóc dài, có đến bảy đứa ngồi rải rác cả phòng. Dứt câu hỏi, một đứa cao lớn nhứt trường (nó đã quá tuổi học, mượn khai sanh của đứa khác, hạ xuống ba tuổi để học cùng lũ 13, 14 chúng tôi) đứng dậy:
- Thưa thầy, chúng em theo đạo.
Thầy nói, giọng nhỏ nhẹ mà cứng rắn:
- Các em theo đạo nào thầy cũng tôn trọng, nhưng là học trò đến trường thì tóc tai phải ngắn gọn sạch sẽ. Còn để tóc tai như vậy thì đừng vào lớp.
Không nói không rằng, nó ôm cặp, bước ra cửa, mặt hầm hầm. Các đứa khác cũng đồng hè đứng dậy, bước theo.
Thầy nhìn theo, lắc đầu ngán ngẩm. Buổi sáng hôm đó, thầy dạy uể oải, chúng tôi học cũng uể oải.
***
Lớp học buổi chiều, thầy nói:
- Vậy là lớp chúng ta còn 23 em, mấy em thấy sao?
Chúng tôi im thin thít, thầy nói:
Thời này là thời chiến tranh, ông bà nói là thời ly loạn. Nước mình nổi lên nhiều phe phái, nhiều đạo giáo. Đạo thì có đạo Thiên chúa, đạo Tin lành, đạo Cao Đài, gần đây thì có đạo Hòa Hảo, đạo này đang mạnh. Chuyện xảy ra sáng nay, các em biết rồi đó. Đảng thì có Đảng cộng sản, Quốc Dân đảng; đoàn thể thì có Thanh niên Cứu quốc, Thanh niên Tiền phong, mới đây thì có Mặt trận Việt Minh, người nào cũng phải chọn một chỗ đứng. Tuổi các em là tuổi đi học, đáng ra thì các em chưa nên nghĩ tới, nhưng thời thế phải khác, thời thế bắt các em phải lớn hơn. Các em phải tự chọn cho mình một con đường.
Một đứa trong chúng tôi vụt đứng dậy hỏi:
- Thưa thầy, thầy chọn con đường nào?
- Thầy chỉ dạy chữ cho mấy em chớ không thể dạy mấy em đi con đường nào. Tùy các em lựa chọn, còn phần của thầy, thầy sẽ theo đảng nào thực sự yêu nước. Thầy chỉ nói với mấy em như vậy thôi, mấy em đừng hỏi thêm.
Thầy ngưng lại, lau lại mặt kiếng:
- Thầy báo với các em một tin buồn. Trên cho biết, ngày mai quân Nhựt sẽ lấy trường mình làm trại lính. Chiều nay coi như bãi trường, các em trở về nhà, khi nào yên ổn thầy sẽ cho chạy giấy đến từng em.
Thật ngỡ ngàng, chúng tôi ngồi lặng đi một hồi lâu rồi mới lần lượt đứng dậy, để sách vở vào cặp, bước ra cửa.
Thầy đứng bên cửa, thầy bắt tay từng đứa chúng tôi như bắt tay người lớn. Mỗi lần bước ra khỏi cửa thì chúng tôi túa ra như một đàn chim. Còn buổi chiều hôm ấy, đứa nào cũng lặng lẽ, buồn sao. Đi qua hàng cây trứng cá, mấy đứa học trò gái ngồi thụp xuống gục đầu khóc. Con mắt tôi cay cay.
Từ nhà trường, tôi đi thẳng ra bến xe ngựa. May quá, bến xe dưới gốc cây da còn hai chiếc, có cả xe anh Hoành, thấy tôi, anh hỏi:
- Trốn học sao mà về sớm vậy?
- Nhựt nó lấy trường rồi.
- Vậy sao? Mẹ nó! Bây giờ về phải không?
- Tới đâu rồi nhỏ sẽ biết.
- Nhà của em có chín đứa lận. Chín đứa sẽ về hết. Tôi leo lên xe anh Hoành, gọi thêm chiếc xe kia cùng chạy về nhà ông Sáu làm rẫy.
Trên đường về, anh Hoành không gõ cương cho ngựa chạy nước kiệu mà buông cương cho con ngựa ô sải dài. Anh Hoàng hỏi lớn:
- Nghỉ học, tụi mày về làm gì?
Chưa biết sẽ làm gì, chúng tôi làm thinh. Anh lại hỏi:
- Tụi mày theo ai?
Tụi nhỏ chúng tôi lại làm thinh.
- Không biết theo ai hả?
Tôi hỏi:
- Anh theo ai?
- Tao theo Việt Minh.
- Việt Minh là ai?
Anh vừa ra roi thúc ngựa, vừa nói trong tiếng gió thổi:
- Việt Minh là Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh
- Anh vô Việt Minh để làm gì?
- Để đánh Tây, đánh Nhựt.
- Đánh hết hai thằng à?
- Thằng nào cướp nước mình thì mình đánh.
Nói rồi, anh ra roi, thúc ngựa chồm lên, hăm hở như lao vào trận chiến. Xe chạy sát bên bờ sông, gió thổi ào ào, gió thổi bay cả tóc. Gió thổi mát mà tôi nghe lồng ngực tôi hừng hực.
Làng tôi bấy giờ, lòng người ai cũng sục sôi. Bọn nhỏ chúng tôi đứng ngồi không yên, nháo nhác chạy theo các đàn anh.
Mỗi chiều, khi ngọn gió từ sông thổi lồng lộng và từ xa khơi của dòng sông, sóng cuộn lên đuổi nhau dồn dập vào bờ thì trên con đường lộ đá trước cửa nhà, hàng trăm trai tráng ở chợ xếp hàng tư, đầu đội nón rơm, vai vác tầm vông vạt nhọn, người nào không có tầm vông thì vác đòn gánh... đi một hai, vừa đi vừa hát bài Lên đàng:
Nào anh em ta cùng nhau xông pha, lên đàng...
Sau đoàn Thanh niên Tiền phong, lũ nhỏ chúng tôi như một cái đuôi.
Còn con đường chạy qua miệt vườn trước cửa bà cô tôi thì trai gái tín đồ Phật giáo Hòa hảo, đàn bà con gái bới tóc đã đành, đàn ông con trai cũng bới tóc, tóc người nào chưa đủ dài để bới thì xõa dài đến vai, tất cả đều mặc bà ba màu nâu. Họ không vác tầm vông mà nào kiếm, nào đao, nào roi. Họ cũng đi một hai và cất tiếng hát. Họ hát bài Hòn vọng phu:
... Lệnh vua hành quân trống kêu dồn
Quan với quân lên đường...
Thật bi tráng.
Rồi một buổi chiều, xe nhà binh Nhựt cuốn theo bụi đường chạy ào ào rồi dừng lại trước cái bót cò có lá cờ tam sắc xanh trắng đỏ. Lính Nhựt xuống xe, đưa họng súng vào bót nổ rầm rầm, náo động cả chợ cả làng. Trong bót cò im thin thít, không có một tiếng súng nào bắn trả lại.
Lính Nhựt phá cửa bót, xung phong, tiếng hét nghe thật man rợ. Trong bót không có vợ chồng thằng cò Tây, cũng không có một lính nào. Cái bót bỏ trống. Hóa ra vợ chồng thằng cò Tây và đám lính đã trốn về nhà thờ Lớn phía bên kia cù lao.
Lá cờ xanh trắng đỏ tuột xuống, lá cờ trắng ở giữa có một vòng tròn đỏ được kéo lên. Nhật đảo chánh Pháp.
Trong những ngày ấy, chú ba tôi từ Đồng Tháp trở về. Nhà tôi khách ra vào nườm nượp. Anh Hoành gặp chú tôi, nói với chú tôi chuyện gì đó, nói không ra tiếng, rất bí mật. Sau đó tôi thấy anh đánh xe không chạy long nhong khắp ngả đường. Tụi nhỏ cùng xóm chúng tôi cũng nhốn nháo, kéo nhau đi khắp ngã chợ, thấy không ai làm gì, chỗ nào cũng tụm ba tụm bảy.
Rồi nửa đêm, cả làng đùng đùng nổi dậy. Nào trống, nào phèng la, nào đuốc, nào tầm vông, gươm đao, cả ba mặt đường, trừ mặt bờ sông, rùng rùng kéo lại bót của bọn Nhựt. Lũ nhở ở xóm tôi, không trống, không phèng la. Chúng tôi lôi thùng thiếc ra sân, lấy củi làm dùi, hai tay đánh thùng thiếc, hưởng ứng dân làng.
Bọn lính Nhựt không bắn trả mà xuống bến, leo lên chiếc xuồng máy, băng qua sông. Ra đến giữa dòng, bọn Nhựt mới nổ súng bắn trả. Bọn lính Nhựt cũng lại trốn bên kia cù lao với vợ chồng thằng Cò Tây.
Sáng hôm sau, trời đất bừng sáng, và như đổi màu.
Trên đỉnh của cột cờ, cờ đỏ sao vàng lớn bằng chiếc chiếu bay phấp phới. Chẳng biết dân làng may cờ lúc nào mà trước nhà nào, cờ đỏ sao vàng cũng phất phới. Không chỉ trước nhà, cờ trương lên cả ngọn các cây xoài. Và không chỉ trước cửa nhà, trên ngọn cây mà dưới dòng sông cũng cờ. Dân làng chặt chuối kết thành bè, cắm cờ thả trôi sông. Cờ trên bè cùng với lục bình dập dềnh như một vườn hoa sặc sỡ trên mặt nước.
Những ngày ấy, lũ nhỏ chúng tôi ngồi trên xe ngựa rong khắp cả đường làng. Ấy là những ngày cuối tháng 8 năm 1945. Ngọn gió dưới con sông thổi lên sao mà mát.
Sau này, lớn lên tôi biết. Khác với miền Bắc, đất Nam Bộ không có mùa thu, một năm chỉ có hai mùa mưa nắng. Nhưng từ ngày Cách mạng Tháng 8 thành công, đất Nam Bộ đã có mùa thu, không phải mùa thu của trời đất mà là mùa thu cách mạng.
Không thể để hai vợ chồng thằng cò Tây với ba tên lính Nhựt lấy nhà thờ làm đồn lũy, chờ quân tiếp viện. Mỗi lần kêu gọi chúng đầu hàng, chúng trả lời bằng loạt súng khiêu khích. Nhà thờ nằm trong bốn bức tường kiên cố, không áp sát được bọn chúng. Dân trong cả huyện thay nhau bao vây bọn chúng. Trên sông, bờ bên này, xuồng hàng trăm chiếc, chiếc nào cũng có cờ đỏ sao vàng, mỗi chiếc có ba người, xuồng lớn bốn năm người với tầm vông, giáo mác, đâm qua sông như những mũi tên. Dù không có súng đạn nhưng vẫn nghe tiếng nổ, quân ta đốt khí đá giả tiếng đại bác, rồi đốt rơm ném qua tường cho bọn địch ngộp thở.
Lũ nhỏ chúng tôi đâu có làm gì được, nhưng cũng chạy lăng nhăng theo người lớn, cũng hò hét và ai sai gì làm nấy.
Đánh suốt cả một tuần, cả đêm lẫn ngày, cái đồn nhà thờ vẫn trơ trơ. Trong tình thế bế tắc ấy thì Quang Lớn xuất hiện. Anh mặc chiếc áo màu cứt ngựa, khoác vai cây tiểu liên, với vóc dáng to lớn cùng biết bao nhiêu huyền thoại về cuộc đời anh chị của anh, trông anh thật oai phong lẫm liệt. Cùng về với anh có mười một anh lính trẻ, cũng quần áo như anh, mỗi người khoác trên vai một cây súng trường, lưng đeo lựu đạn. Lựu đạn tròn có cái chập chả. Trước khi liệng thì phải đập vào cái chập chả, thấy xì khói rồi mới liệng vào quân thù. Với cây tiểu liên trên vai Quang Lớn, lũ nhỏ chúng tôi nghĩ, anh chỉ quét một loạt là bốn bức tường sẽ đổ nát và quân ta sẽ tràn vô như sóng tràn.
Nhưng nào có phải như vậy. Đạn tiểu liên chỉ có sức cào qua lớp vôi bên ngoài, không xuyên thủng đến màu gạch.
Sau này, tôi nghe nói lại, Quang Lớn bày binh bố trận như sau: Nhà nào có thang thì mang đến. Chỉ một ngày mà có hàng trăm cái thang được mang đến. Thang bắc lên tường. Chỉ có như vậy mới leo vào bên trong của cái đồn nhà thờ. Anh ra lịnh, anh và tiểu đội của anh, mỗi người một cái thang, leo lên trước, nổ súng, còn trai tráng trong làng tiếp tục leo thang, lao vào cùng bộ đội của anh.
Đúng như kế hoạch, anh cùng mười một người lính, leo lên thang, nhảy xuống bên kia tường, đồng loạt nổ súng. Thế là trai tráng tranh nhau leo thang nhảy vào bên trong. Vậy là trong sân cái đồn nhà thờ có hàng trăm con người với tầm vông, giáo mác và súng nổ. Trai làng nghe súng của Quang Lớn như lân nghe pháo, khí thế hừng hực. Lập tức, từ trên lầu chuông của nhà thờ thò ra lá cờ trắng.
Ba tên lính Nhựt cùng thằng cò Tây, chúc xuống đất, đưa tay đầu hàng. Quang Lớn cùng mười một người lính của anh diễu binh qua làng. Sau đội quân chiến thắng là đám con nít của chúng tôi thành một cái đuôi dài. Quân chiến thắng của Quang Lớn đi tới đâu, cờ đỏ sao vàng trên tay của dân làng phất tới đó cùng với lời tung hô vang trời.
Đám nhỏ chúng tôi, không ai tổ chức, không ai kết nạp, nhưng chúng tôi tự thấy rằng mình đã là Việt Minh, chúng tôi đã có một chỗ đứng ở trên đời. Từ cái chỗ đứng vững chắc ấy, tôi trở thành anh bộ đội cụ Hồ từ Nam ra Bắc, từ Bắc về Nam, đi suốt hai cuộc chiến tranh đánh Pháp chống Mỹ giành lại đất nước cho đến ngày nay.
... Bây giờ thằng Quảng quắn cùng với bạn bè của nó được sống trên đất nước hòa bình, có cha mẹ, có bạn bè, có nhà trường cùng mọi tiện nghi, có sẵn đoàn thể, không phải lựa chọn một chỗ đứng, nhưng lại không dễ dàng một chút nào. Chúng luôn luôn bị không biết bao nhiêu điều xấu cám dỗ. Giữa sự nên và sự hư mong manh như sợi tóc.
Từ ngày có được băng thằng Hùng Hổ tôn là đại ca, nó ngày càng hư hỏng. Ở trường, hễ đến môn toán, môn nó kém nhứt là nó “cúp cua” đi bụi với đám đệ tử. Đi chơi ban ngày chưa đã, nó chơi cả ban đêm. Học trò ở lứa tuổi của nó và cả những lớp trên đều phải đi học thêm. Học thêm thường học ban đêm. Nó xin tiền học thêm toán. Thấy nó chịu khó, cả nhà đều mừng, nhưng cả nhà bị lừa. Nó lấy tiền học để đi chơi với đám đệ tử, vừa thoải mái, vừa ngang nhiên.
Tôi có việc đi xa nhà một tháng. Về đến nhà thì tôi được tin như sét đánh.
- Thằng Quảng bị đuổi học rồi! - Má nó nói.
Tôi đứng như trời trồng, sau một lúc sững sờ, tôi hét lên:
- Nó đâu?
Lạ quá, má thằng Quảng hết sức bình tĩnh, mang ra cho tôi một ly nước lạnh, vỗ tay lên bàn tay tôi:
- Anh đừng nổi nóng. Chuyện đã lỡ rồi. Vợ chồng mình cũng có lỗi một phần, không theo dõi từng bước đi của nó. Đời, ai mà không bị vấp một lần. Trẻ con bây giờ lạ lắm, nếu đánh nó, chửi nó, nó sẽ bỏ nhà đi bụi đời, chi bằng vỗ về nó, an ủi nó, tạo điều kiện cho nó vượt lên là tốt nhứt.
Cơn giận trong tôi xuống dần. Tôi đến thầy hiệu trưởng tìm hiểu. Thầy hiệu trưởng, một con người đạo mạo, thấy mặt là phải nể, thầy nói:
- Tôi không ghét bỏ gì học trò. Lớp tôi không chỉ có một mình nó. Cả băng của nó 5 đứa. Nếu dung dưỡng thì cả băng của cháu sẽ lây lan cả trường, mỗi đứa cần phải kết bạn với những học trò ngoan. Tôi chỉ muốn mấy đứa cháu thay đổi môi trường, chớ không hề ghét bỏ các cháu.
Lý lẽ của thầy như vậy, tôi không thể mở miệng xin xỏ điều gì. Vừa đau, vừa thấy nhục.
Từ ngày bị đuổi học, nó ở nhà vào phòng, đóng cửa không tiếp một bạn nào.
Tôi gõ cửa. Tự tay tôi mở cửa bước vào phòng nó. Thấy tôi sau một tháng vắng nhà, nó ngỡ ngàng nhìn tôi, gục đầu, người xìu như con bún. Thấy tội nghiệp nhưng tôi chưa hết giận. Tôi gằn giọng:
- Muốn học hay muốn đi bụi đời, nói!
Nó gục đầu líu ríu:
- Dạ, con muốn học.
Tôi bước ra, đóng sầm cửa.
May cho tôi và cũng may cho nó. Tôi có một cô bạn thuộc ngành giáo dục, cùng ở rừng thời đánh Mỹ. Nay, cô là trưởng phòng giáo dục của quận. Tôi tìm đến cô, xin cho con được chuyển trường. Chúng tôi nói với nhau hết sức thoải mái. Cô hỏi hết sức tỉ mỉ: học lực, tư cách, bao nhiêu lần sai phạm đến nỗi phải bị đuổi. Không ngờ, cô hỏi đến năng khiếu thể thao của cháu: bóng đá, bóng rổ, bóng bàn, bóng chuyền...
Tôi nói:
- Cháu biết chơi bóng bàn.
Chơi bóng bàn thì có gì lạ mà tôi thấy mắt cô sáng lên. Cô hỏi:
- Cháu chơi có khá không?
Tôi dè dặt:
- Chơi cũng được.
- Nó chơi cỡ anh không?
Cô hỏi câu đó vì ở căn cứ R thời đánh Mỹ, cơ quan của cô có một bàn bóng, thỉnh thoảng tôi cầm vợt sang chơi, không ai đánh thắng tôi, cô biết.
Tôi đáp:
- Nó chơi khá hơn tôi.
- Thiệt vậy sao?
- Ở R, anh em mình chơi theo bản năng, còn tụi nhỏ bây giờ nó có học, có bài bản. Nó là vận động viên năng khiếu nhi đồng quận.
- Những lần thành phố tổ chức giải, cháu có thi đấu không?
Nói đến bóng bàn tôi lại hào hứng:
- Nó đoạt huy chương vàng thành phố, huy chương bạc toàn miền.
Cô đưa tay vỗ lên tay tôi:
- Được rồi! Khi nghe anh nói trường hợp bị đuổi của cháu, tôi băn khoăn không biết gởi cháu trường nào. Trường nào mà không phấn đấu đạt thành tích? Trường hợp của cháu, thầy cô nào cũng ngán. Nếu mình lấy danh nghĩa trưởng phòng mình gởi gắm, cô thầy có thể nghi mình có quà cáp, nếu không nói là ăn hối lộ. Tế nhị lắm! Bây giờ thì tôi đã có lối ra cho cháu.
- Lối ra như thế nào cô?
Như thoát ra nỗi khổ tâm, cô tươi cười:
- Trong ngành giáo dục của tôi có ông thầy hiệu trưởng mê bóng bàn lắm. Thầy là vô địch bóng bàn toàn ngành. Thầy định xây dựng một đội bóng nhà trường để thi đấu với các trường bạn. Thầy giỏi nhưng học trò lại dở, giải nào đội của thầy cũng rớt từ vòng ngoài, thầy cay cú lắm. Ngày mai, anh gởi tôi bằng khen và huy chương của cháu, tôi khoe với thầy. Và tôi sẽ dọa: nếu thầy không nhận thì tôi sẽ gửi trường khác, cái trường có đội bóng bàn học sinh mạnh nhứt của quận. Thầy sẽ không bỏ qua cơ hội đâu, anh yên tâm.
***
10
Đúng như lời của cô trưởng phòng giáo dục, hai ngày sau, tôi nhận được điện báo của cô, bảo sáng chủ nhựt, cháu đến trường để thầy kiểm tra. Không phải kiểm tra học lực của cháu vì sổ điểm của cháu thầy đã xem rồi, thầy muốn kiểm tra trình độ bóng bàn của nó.
Buổi sáng chủ nhựt, tôi chở nó đến trường. Tôi vui vì thấy ngôi trường trên con đường yên tĩnh, sân trường mát rượi dưới bóng những cây điệp cổ thụ. Sáng chủ nhật mà học trò đến chơi khá đông.
Thầy hiệu trưởng tuổi độ 40, dong dỏng cao, quần xám tro, áo sơ mi trắng. Thầy có gương mặt hiền từ, dễ gần. Thầy đón cha con tôi từ cổng và đưa cha con tôi thẳng vào phòng bóng bàn. Học trò tò mò kéo theo sau. Té ra những học trò buổi sáng chủ nhật này là những học trò mê môn bóng bàn và cũng là cổ động viên của thầy. Phòng bóng bàn bề ngang bề dài rất tiêu chuẩn. Thằng Quảng mặc bộ đồ thể thao, quần trắng áo xanh gọn gàng, thầy nhìn nó với đôi mắt cảm tình.
Học trò ngồi dài trên băng gỗ hai bên bàn bóng. Khi thầy vào bên trong, thầy trở ra với diện mạo con nhà thể thao. Thầy mặc quần đùi trắng, áo thun xanh, giày bata trắng, vừa gọn vừa đẹp. Học trò vỗ tay rầm rộ khi thầy cầm vợt đưa lên.
Thầy nói:
- Các em phải cổ động thật vô tư. Quả nào hay, bất cứ của ai, các em đều phải vỗ tay hoan nghênh, rõ chưa?
- Rõ!
Tiếng “Rõ” nghe ran cả phòng.
Thầy bước tới bắt tay Quảng. Thầy nói:
- Em là học trò, thầy dạy em phải nghe, nhưng trong thể thao thì bình đẳng. Là đối thủ của nhau, không được nhường, nhường có nghĩa là coi thường đối phương, em phải đấu hết mình.
Học trò cổ động viên, đứa nào cũng hồi hộp. Một trận đấu thật ngoạn mục. Hai đấu thủ hai cách đánh khác nhau. Thầy đứng xa bàn, thầy chơi bóng dài, bóng thầy sát lưới; thằng Quảng thì ôm bàn tấn công, giựt chan chát. Kẻ tấn người thủ, bóng qua lại liền liền, tiếng vỗ tay vang lên không ngớt, thật hào hứng.
Nó thắng “xê” đầu, thầy gỡ lại “xê” hai, “xê” ba nó thắng lại thầy với tỉ số khít khao trước sự cổ vũ nồng nhiệt của cổ động viên học trò.
Vậy là nó được trở lại trường. Tôi đâu có ngờ cái môn bóng bàn đã cứu nó. Nó được thầy cô quý mến, bạn bè nể trọng. Nó không chỉ được bổ sung vào đội bóng bàn nhà trường mà mỗi ngày sau giờ học, nó ở lại trường cùng thầy tập dượt cho đồng đội. Nó chơi lối chơi hiện đại hợp với tuổi trẻ hơn lối chơi xưa của thầy. Đồng đội nó tiến rất nhanh. Ngoài việc tập luyện trong nhà trường, nó còn cùng thầy tổ chức đấu giao hữu với bạn cũ của nó. Thầy mê quá. Thầy chắc mẻm là mùa giải tới, đội bóng nhà trường của thầy sẽ đoạt giải. Cả thầy trò đều khao khát chiến thắng.
Mùa hè lại đến, và giải bóng bàn học sinh toàn thành được long trọng tổ chức trong câu lạc bộ của thành phố.
Nhưng xui cho nó, xui cho đội bóng nhà trường của nó, nó được giao nhiệm vụ chủ công, trận nào cũng phải thắng để kéo đồng đội, nhưng nó chưa đấu thì đã bị loại từ đầu.
Ban tổ chức phát hiện ra nó. Trưởng ban tổ chức đến gặp thầy:
- Thưa thầy, trò Quảng không được thi đấu.
Thầy kinh ngạc đến sững sờ, tròn hai con mắt:
- Trò Quảng bị lỗi gì mà không được thi đấu?
- Trò Quảng không có lỗi gì, nhưng trò Quảng nằm trong hệ chuyên nghiệp. Giới bóng bàn thành phố không ai còn lạ gì cháu.
Thầy cãi lại:
- Nhưng trò Quảng là học trò trường tôi.
Trưởng ban tổ chức nhỏ nhẹ:
- Chúng tôi biết cháu vẫn là học trò, nhưng giải này là giải phong trào. Nếu để trò Quảng tham gia thì phạm qui. Mong thầy thông cảm.
Thầy đứng lặng, không nói được cái gì. Trưởng ban tổ chức đành an ủi thầy:
- Thầy phân công trò Quảng làm chỉ đạo viên cho đội bóng của thầy, trò Quảng chỉ đạo lợi hại lắm đó thầy.
Thầy nghe phải, thầy nhường quyền chỉ đạo cho nó. Lần đầu tiên đội bóng của thầy vào chung kết, đoạt giải nhì đồng đội, ngoài sức tưởng tượng của thầy và nhà trường.
Nó không được thi đấu, nhưng uy tín bóng bàn của nó từ đó lại... cao hơn.
Lạ thật!
***
Môn bóng bàn đưa nó trở lại nhà trường nhưng nó không còn say mê nữa. Tuổi 14, nó thuộc vào đội năng khiếu tuổi thiếu niên. Để chuẩn bị giải, nó cầm vợt trở về đội tập luyện. Thời gian qua, đồng đội của nó ngày nào cũng luyện tập với thầy, luôn cọ xát với người cao tay hơn mình, càng ngày càng lên bóng. Còn nó ngày ngày nó luyện cho người kém hơn. Nó làm thầy quá sớm, bóng càng ngày càng sụt. Trước đây nó là tay vợt số một của đội, bây giờ nó là cây vợt cuối bảng. Biết chẳng thắng ai, nó rút lui, nó bảo “gác kiếm”. Nó nản đến mức không xem đồng đội thi đấu nữa. Máu bóng bàn đã lạnh. Đến buổi thi đấu, nó cũng không đi. Tưởng nó đi cổ vũ cho đồng đội, không, nó rẽ đi ngả khác. Từ ngày chuyển trường, cái băng bụi đời đã rã, còn đó nhưng thiếu “đại ca”, không “ì xèo” nữa. Nó mới liên lạc với Hùng Hổ. Hùng Hổ đã đi học buổi học đêm. Hai đứa không đi bụi mà đi xem phim, đi hát karaoké.
Một buổi tối, cả nhà đông đủ, nó mang ra một cái băng, khoe với tôi:
- Ba nghe giọng hát này thử coi. Giọng trẻ đang lên.
Vốn là người mê nhạc, tôi hăm hở. Nó đặt cái máy nghe trên bàn trước mặt tôi, ấn nút.
Tiếng hát cất lên:
Nắng có buồn bằng đôi môi em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em...
Ca khúc Như cánh vạc bay mà Trịnh Công Sơn thường hát dưới gốc mận nhà tôi, tôi rất thích. Giọng của ca sĩ trẻ này là giọng của một chàng trai trẻ vừa vỡ tiếng, cái giọng vừa trầm vừa rè gây cho tôi một cảm xúc khá mạnh, nhưng tôi lấy làm lạ về nhạc. Giọng ca trẻ không hát với cây guitar mà hát với một dàn nhạc nhiều nhạc cụ, một dàn nhạc quá kém. Càng nghe, tôi càng phát hiện dần ra...
Tôi đánh cái bốp vào vai nó:
- Giọng của mày!
Cả nhà cười rộ lên.
Hóa ra là nó đi hát karaoké, nó thu băng. Cả nhà khen tôi phát hiện ra giọng của nó.
Nhớ lại năm tôi 14 tuổi, tôi làm liên lạc cho đơn vị Vệ quốc đoàn. Tôi chưa mang nổi cây súng dài, nhưng bên hông tôi lủng lẳng trái lựu đạn. Có trái lựu đạn đeo bên hông, tôi thấy mình không còn là trẻ con nữa. Tôi không còn mê chơi nữa, chỉ có một niềm say mê, say mê chiến đấu. Tôi muốn trở thành một vị tướng nếu không “phơi thây ngoài chiến trường”. Làm anh bộ đội mà mơ ước thành tướng là mơ ước chính đáng.
Tôi nghĩ, thằng Quảng chắc đang chọn một niềm say mê nào đó. Bỏ bóng bàn, đang ham thích ca hát chăng? Có thể lắm, vì dưới gốc cây mận, hầu như ngày nào cũng có văn nghệ sĩ đến chơi, âm nhạc đã nhiễm vào tâm hồn nó từ bé.
Thế là tôi sắm cho nó một cây đàn organ Yamaha và mời một cô giáo dạy nhạc về dạy cho nó.
Như một phép màu, cây đàn với âm thanh khiến nó say mê như cuồng, như đắm đuối. Sau giờ học là nó đạp xe như đua vội vàng trở về nhà với cây đàn. Bao giờ nó cũng ngồi đàn ôn bài trước khi cô đến. Những ngày đầu, nó đánh đàn như gõ thùng thiếc, đinh tai nhức óc. Kệ! Cái gì mới bắt đầu mà không chệch choạc lủng củng. Nó say mê đến độ đến bữa cơm gọi nó, nó bảo:
- Để con đàn cho cả nhà ăn ngon.
Sau một năm học đàn, nó tụ tập một số bạn học tập họp lại thành một ban nhạc. Ban nhạc của nó có một cây đàn organ, một guitar thùng, một guitar xăng, một guitar bass, một dàn trống, một dàn ca sĩ ba nam, hai nữ. Nó đặt tên cho ban nhạc của nó là ban nhạc Chuột nhắt, vì trong ban nhạc có ba đứa loắt choắt như chuột.
Mỗi lần có lễ lạt, nhà trường đều thuê ban nhạc cho ngày vui thêm rôm rả và phải mất ít nhứt một triệu đồng. Ngoài một triệu đồng cầm tay, còn phải bia bọt nữa. Từ ngày có ban nhạc Chuột nhắt, cây nhà lá vườn, nhà trường không hao tốn, lại tưng bừng rôm rả. Ban nhạc Chuột nhắt không chỉ hoạt động trong nhà trường mà còn mở rộng đến các trường khác. Nó không chỉ chơi đàn mà còn sáng tác cho Chuột nhắt. Đó là những ngày vui nhứt và hạnh phúc nhứt của nó trong một mùa hè âm nhạc trước khi chuyển lớp.
Qua năng khiếu và niềm say mê của nó, ai cũng đoán, nó sẽ trở thành nhạc sĩ. Chưa chắc, ở lứa tuổi 14, khó đoán trước được. Có lẽ phải đến mười năm sau, đến tuổi trưởng thành thì mới chắc.
Như tôi chẳng hạn. Năm 1946, 14 tuổi, tôi đi bộ đội đánh Pháp, là một đứa nhỏ vào bộ đội sớm nhứt so với những đứa nhỏ ở làng, có đứa đi sau tôi vài năm. Sau ngày giải phóng (30-4-1975), mấy đứa nhỏ ấy về làng với cấp đại tá, trung tá.
Còn tôi, khi tôi trở về, bà con trong làng đều nghĩ, phải là tướng, tệ lắm cũng cấp tá. Nghĩ vậy, kể ra thật là “logic”. Nhưng tôi, không tướng, không tá, cũng không úy mà là một... văn nghệ sĩ.
Các bạn thấy có lạ và vui không?
Hết
6-9-2002