CỬA PHẬT- truyện ngắn
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 42 bài trong đề mục
Kiều Giang 11.04.2012 11:49:29 (permalink)
[Helpful answer received] / [List Solutions Only]
              CỬA  PHẬT                         

Truyện ngắn của  KIỀU GIANG


Ông Tư Bố năm nay đã ngoại thất tuần , thế mà trông ông còn rất vạm vỡ rắn chắc , dáng dấp của một nông dân đã nhuốm màu thế sự. Khi mới sinh ông, mẹ  ông hỏi chồng nên đặt tên con là gì . Cha ông bảo “ Tên là Bố”. Bà giật nẩy mình : “ Chẳng lẽ tôi và ông sau này cũng sẽ gọi nó bằng Bố , coi sao được”. Ông giải thích: “ Tôi với bà mà còn gọi nó bằng Bố , thì thiên hạ ai mà chẳng phải gọi nó bằng Bố chứ, ý tôi muốn sau này nó cưỡi lên đầu những tên dân đen như tôi và bà bây giờ bị người ta cưỡi vậy , chứ chẳng lẽ, bà nghĩ coi, cả cái dòng họ nhà tôi suốt đời này qua đời nọ cứ làm cố nông, để cho mấy thằng địa chủ nó cưỡi trên lưng mình mãi hay sao? Hơn nữa , bà không nhớ cái tên Lã Bố  trong Tam quốc chí , thật oai hết chỗ nói . Biết đâu nhờ cái tên đó mà nó sẽ làm cho dòng tộc tôi được đổi đời”. Bà ngẫm nghĩ, thấy cũng có lý, nên véo vào mông chồng : “ Đúng là ông cao kiến, biết lo xa”. Đâu có ai ngờ cái giấc mơ của đôi vợ chồng cố nông trong cái chòi tranh heo hút kia, sau này lại trở thành hiện thực !
 
    Sau kỳ đại hội cấp tỉnh cuối năm ngoái, ông Tư Bố xin rút lui , và trong cái buổi đầy tai tiếng cho những công bộc hạ cánh an toàn ,về vườn với một tài sản kếch sù từ trên trời rơi xuống, ông chỉ muốn thiên hạ gọi ông bằng hai tiếng thân mật : “Tư Bố”.  
   Dù xuất thân từ một nông dân ít học, nhưng ông Tư cũng khá nhạy bén với thời thế, nên ông lên rất nhanh. Từ một anh du kích xã trong chiến tranh , chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, ông nhảy lên cấp trung ương, được bổ về nắm quyền một tỉnh, dễ như trở bàn tay. Có người phục tài, hỏi ông bí quyết thành đạt , ông chỉ xua tay , triết lý : “ có gì đâu…có gì đâu, không cần khôn, cũng đừng dại, chỉ cần  “biết”  là được”.
   Bây giờ thì ông Tư Bố đã vui thú điền viên . Một tập đoàn tài chính khổng lồ được giao cho cậu con trai đầu tên Chiến , ba mươi lăm tuổi , điều hành, còn chức tổng giám đốc công ty sắt thép thì dành cho cô con gái rượu tên Thắng, vừa tròn ba mươi mơn mởn, du học nước ngoài về, đang cặp bồ với cậu con trai của một vị chủ hảng máy bay lớn nhất nước. Có lúc ông Tư cười một mình :“Bọn nhỏ bây giờ nó cũng chọn môn đăng hộ đối dữ đó nha, khác xa thời của mình, các cô con gái bần cố nông thô kệch lại chính là cái bệ phóng cho sự nghiệp của các đức ông , có lúc mình cũng thấy bà nhà mình khô như gạch, mà lúc nào cũng phải nói là rất tự hào về vợ , vì cái nét duyên dáng không chê vào đâu được ! 
Thời ấy , sợ nhất là vướng phải các cô con gái địa chủ , phú nông thì coi như đời cắm xuống bùn đen ”. Ông Tư cười một mình và lẳng lặng  giấu kín ý nghĩ đó vào trong đầu.
Ông Tư Bố ít con và có con muộn , ông nghĩ các con ông dù phải đứng tên các công ty cho hợp với thế cuộc, nhưng ông biết chúng còn rất non nớt trong thị trường và trên chính trường nên vẫn cần sự cố vấn của ông .
   Căn biệt thự rộng cả ngàn mét vuông đất của ông Tư được nhà nước hóa giá, nằm gần trung tâm một thành phố lớn, bây giờ dù có rất nhiều tiền cũng chưa chắc đã sở hữu được. Ông vẫn thường nghe chúng truyền miệng rằng “ Những gì mà thời nay không mua được bằng tiền, thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền”. Ông cười nhạt : “Chúng nó bố láo, hãy thử đem tiền mà mua căn biệt thự của ông ,xem có được không !”. Ngồi bên chiếc cửa sổ hai lớp kính, xây theo kiểu Pháp, mùa đông thì ấm, mùa hè lại rất mát, với khí trời tự nhiên ( là một quan chức gốc nông dân, ông không ưa dùng máy điều hòa), ông Tư Bố nhìn ra khoảng vườn dài mút mắt, với những hàng cây kiểng thẳng tắp , được cắt xén, uốn thành hình những con vật trong bộ tứ linh , mà trong cả nước ít người có . Một làn gió mát rượi đem ôxy từ những cành cây cao ngã bóng trên các con mương nhân tạo lượn quanh vườn, thổi vào người, làm cho ông có cái cảm giác khoan khoái thích thú lạ thường . Ông rất tự hào về căn biệt thự đó. Vì nó chính là xương máu kết hợp với tài xoay xở của ông . Không dễ gì, trong thời buổi kinh tế thị trường , tất đất tất vàng này mà chính phủ ưu tiên cho ông đến mức như vậy ! Nằm đêm, nhiều lúc ông cao hứng thì thầm “Xin cảm ơn ông Các Mác, Ông “Sáu” Lê Nin . Dù con không hiểu một tí gì về chủ nghĩa Duy vật hay chủ nghĩa vô sản của các người, danh từ “ chủ nghĩa” mà con đã thuộc lòng , đối với con chỉ là sự phù phiếm, một thứ trưởng giả mới trong tư duy. Con hiểu rằng, duy chỉ nhờ cái tên “Bố” nằm mơ của cha con, một bần cố nông thứ thiệt, mà các người đã thương , cho con có được ngày hôm nay”.  Nhưng  ông Tư, một người sống trong sang giàu tột dỉnh quá nhanh chóng, như chưa kịp chuẩn bị cho mình một tâm lý hưởng thụ những tiện nghi mà như trên trời rơi xuống, có khi đâm ra ngỡ ngàng, nghi hoặc rằng cái của đó không phải là của mình. Nên có khi, ông  lại thì thầm như rên rỉ : “ Cha mẹ ơi, giờ đây cha mẹ đang ngậm cười nơi chín suối , nhưng còn con, vẫn phải ở lại cái trần gian đầy gió bụi vô thường này, đã có gì là chắc ! Nhớ cái ngày giai cấp vô sản của mình vùng lên,  cải cách ruộng đất nổ ra ,con là người lính xung trận đi đầu trong làng xã , chính tay con đã thi hành cái lệnh triệt bỏ bọn địa chủ bóc lột… Bao năm qua con đã tự hào về công lao mà mình đã đóng góp . Nhưng giờ đây, trong chính căn biệt thự nguy nga này và hàng trăm hecta rừng cao su mà con đang sở hữu kia, con lại trở thành một loại cố-nông-địa-chủ mới, giàu gấp trăm lần họ ngày xưa, nếu một ngày kia, lỡ có một cuộc cách mạng vô sản lần thứ hai nổ ra, thì máu trên sân đình  bây giờ lại chính là máu của con ! Sao có thể như vậy được , cha mẹ ơi , có linh thiêng hãy phù hộ cho con , cho cháu sau này”. Nhưng rồi ,có lúc phấn khích ông lại tự an ủi : “ Làm gì có cuộc cách mạng vô sản lần thứ hai , giai cấp tư sản ngày nay đều đã xuất thân từ vô sản, họ đang nắm trong tay quyền lực, và vẫn tự cho mình là vô sản, thì còn có giai cấp vô sản nào vào đây nữa chứ ? Bố ơi, ngươi không thấy rằng giai cấp tư bản mới ở Nga đang chiến thắng giòn giã đó sao ? Đầu óc ngươi bây giờ làm sao vậy, hãy an tâm đi , ngài Tư Bố ạ”. Nghĩ thì vẫn nghĩ vậy, nhưng ông Tư vẫn hoang mang vì ông không sao cắt nghĩa được bao nhiêu rối rắm đang từng ngày diễn ra trước mắt ông . Xã hội biến chuyển nhanh quá , đầu óc già của ông làm sao theo kịp ! Ông Tư Bố càng ngày càng cảm thấy mỏi mệt vì sự lo sợ dày vò . Nỗi ám ảnh  về những cuộc giết chóc ngày xưa ,gần như lúc nào cũng hành hạ ông, rồi cái guồng máy quyền lực và sự giàu sang kéo đến, quay tít trong đời ông, chẳng khác gì những ngày ông cầm súng chiến đấu, cận kề giữa cái sống và cái chết . Sự giằng xé giữa cái tôi và cái thực trạng của xã hội không bao giờ ngưng nghỉ trong ông , ông hoang mang đến cực độ , ít đêm nào ông được ngon giấc . Đôi khi ông cũng muốn nâng cấp tri thức của mình bằng cách phân tích lịch sử. Ông tự tra hỏi “ Trong sách vở mà ta đã học thì lịch sử nhân loại tiến lên theo đường thẳng, từ chế độ cộng sản nguyên thủy, qua chế độ nô lệ, đến phong kiến , tư bản , rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội và kết thúc ở chủ nghỉa cộng sản khoa học . Nhưng bây giờ, ta thấy , nó chẳng thẳng tí nào! Ngày xưa , địa chủ kết hợp với tư bản thì bây giờ vẫn chưa xóa được tư bản và địa chủ . Có thay đổi chăng chỉ là những con người khác, được tô vẽ bằng thứ màu sắc khác, tên gọi khác , được khoát lên một lớp áo khác… vì chẳng có ai sống mãi để giữ cái giai cấp của mình . Ngày ấy , bần cố nông phải bán con mình cho địa chủ, lý hào. Bọn họ sống trong một làng một xóm ,có đi ra, đi vào, còn thấy mặt mũi của con, nhưng bây giờ văn minh hơn , dân nghèo lại bán con gái mình cho Đài Loan , Hàn Quốc, Trung Hoa, qua Miên làm gái điếm . Biền biệt không về, mà nếu còn về, thì chỉ còn lại cái xác không hồn hoặc là những thây ma ! Có lẽ cuộc mua bán nào cũng cháy gan cháy ruột ! Và không có cuộc đấu tranh giai cấp nào , mà con người không đưa vào đó sự hận thù, máu và nước mắt . Đấu tranh giai cấp , có khi là một thứ nhân danh nên nó lặng lẽ qua đi rất nhanh , và giai cấp thống trị không bao giờ chịu từ bỏ tham vọng , đem ban phát quyền lợi cho giai cấp bị trị . Ví như mình bây giờ , sau bao nhiêu năm cống hiến cả xương máu, chẳng lẽ bây giờ tự dưng đem cả quyền bính, nhà cửa ,xe cộ, đất đai…. trả lại cho đám dân đen nghèo khổ kia .Thật là vô lý, bất công ! ( ? )Người ta đang hô hào cho một thế giới phi giai cấp nhưng ông thấy cái hố phân cách giàu nghèo hình như ngày một sâu rộng hơn và không biết bao giờ mới lấp được. Khi mà trên quê hương ông còn đầy rẫy bất công thù hận và hình như vẫn còn sinh sôi nảy nở mỗi ngày ”.
   
  Đứng trước cái tuổi 75 , không hiểu sao, càng ngày ông Tư càng cảm thấy thời gian cứ vùn vụt trôi qua mặt mình . Từng ngày từng giờ, từng phút từng giây , đều là nỗi ám ảnh của một thế giới bên kia, khi ông, một lần nữa sẽ phải bước qua cái ngưỡng cửa của tử sinh . Rồi ông sẽ về đâu ! Bánh xe của thời gian sẽ nghiền nát ông thành tro bụi .  Và những gì mà bao nhiêu năm nay ông tưởng là của riêng ông , bằng mọi giá và mọi cách , sở hữu cho được nó . Bao nhiêu của cải ông có được, như muốn ngược dòng thời gian trôi về với quá khứ , tuột khỏi tay ông, biến thành ảo mộng … Cũng như ngày trước, ông phải chuẩn bị cho mấy mươi năm đời người  nơi trần thế. Ông đã sang giàu tột đỉnh, hưởng thụ không thiếu một thứ gì , kể cả các “ nàng tiên” cũng đã qua tay ông . Thì bây giờ đã đến lúc ông cần phải chuẩn bị một đời sống vĩnh cửu của kiếp sau . Mặc dù từ nhỏ, ông được dạy rằng làm gì có linh hồn, làm gì có kiếp sau . Chỉ có cái trần gian trơ trụi nhưng đầy cám dỗ này mà bao đời ông bà cha mẹ, cháu con ông thèm khát, đam mê… . Là một nông dân có tính thực tế , ông vẫn luôn luôn chu đáo mà ! “Những ngày còn lại trên thế gian này, nhất định ta phải tìm đến Cửa Phật , để từ đó ta leo lên Niết Bàn, như ta đã từng leo lên trên các bậc thang của quyền uy trong xã hội hiện tại . So găng với con người mà ta cũng đã chiến thắng kia mà ! Đức Phật bao giờ cũng từ bi hỷ xả hơn con người phàm tục, chắc chắn Đấng Thế Tôn chẳng bao giờ hẹp hòi với ta” . Ông lẩm bẩm .

Trong ngôi biệt thư sang trọng, lâu nay được ông và đứa con trai nhờ kiến trúc sư loại giỏi thiết kế và trang trí theo kiểu Tây, không gian sống thật thoáng đãng. Có thể xem đây là một thế giới thu nhỏ của sự giàu sang , phòng khách nhà ông cũng đồng thời là một thư viện, không thiếu bất kỳ loại sách gì , kể cả các loại sách quí hiếm mà người thư ký riêng của ông sưu tầm trước đây. Ông cẩn thận mời một cô quản lý thư viện tỉnh về sắp xếp thư mục giúp ông. Khách đến nhà, không ai là không trầm trồ ,đánh giá mức độ thông thái của gia chủ và không tiếc lời bày tỏ sự ngưỡng mộ ,cảm phục một nhà lãnh đạo tài năng, có tâm, có tầm hiểu biết sâu rộng qua cái thư viện mini này. Trên các bức tường xung quanh và trên các trụ cột hình trụ vuông, ốp đá hoa cương màu gụ bóng lộn ,được trưng bày một cách điệu nghệ của một họa sĩ có tay nghề thiết kế tầm cỡ, những bức bức tranh đắc tiền của các họa sĩ nổi tiếng trong nước và trên thế giới. Mỗi lần có khách, ông Tư không ngại mất thì giờ, đưa khách đi tham quan thư viện của nhà ông , đôi khi mất cả tiếng đồng hồ. Mặc dù có cái thư viện đồ sộ như thế, nhưng những lúc nhàn rỗi, ít khi ông tư sờ đến quyển sách, họa hoằng thì cũng chỉ với mấy đầu sách về chính trị , về tư tưởng  Mác Lê,  những nghị quyết của các kỳ đại hội…Ông cho rằng sách là nơi phù phiếm và lòe loẹt trí thức. Cái thư viện này là nơi để ông chứng tỏ với cấp trên rằng ông luôn tự nghiên cứu để xứng đáng với cái ghế của mình, còn với cấp dưới và quần chúng nhân dân không ai dám gọi ông là ông quan dốt vì chỉ mới qua lớp bốn trường làng rồi cứ thế mà học bổ túc cho có cái bằng đại học, chẳng ai biết là thật hay giả, thiên hạ vẫn phải gọi ông là cử Bố . Thế mà cũng có thằng xỏ lá ba que , bày người ta bỏ bớt hai cái râu của chữ “cử” đi . Ông tức phát điên, nhưng đành chịu, vì dù có quyền lực đến đâu cũng không ai bỏ tù được tin đồn. Đôi khi ông ra mặt coi thường cái hạng trí thức trói gà không chặt, mang danh ông tiến sĩ này, ông thạc sĩ nọ,nhưng gặp ông vẫn phải cúi đầu thật sâu mới dám bắt tay . “ Chính trị là chủ soái của xã hội thời nay mà !” . Ông đắc ý cười nhạt .

Đã bao nhiêu năm, ông Tư Bố rất tự hào về cái thư viện mini trong nhà mình, và  cũng một phần nhờ nó như một biểu tượng của trí thức giúp ông đã êm ru leo lên  từng nấc thang danh vọng . Nhưng giờ đây, cái thư viện chẳng còn đắc dụng cho ông nữa . Bước chân ông đã đi qua trần gian của những tháng năm biến động mãnh liệt của đất nước , dù muốn hay không , ông cũng  đã phải đi tôn thờ vật chất , gươm giáo, súng đạn và cả sự gian dối xảo quyệt, thì giờ đây gối đã mỏi , chân đã chùn, những ngày còn lại trên cái cõi vô thường này, ông phải trở lại với con đường tâm linh, hướng về Phật pháp. Do đó , căn phòng ngay trên đầu cái thư viện đồ sộ, ông quyết định lập một Niệm Phật đường thật lớn, chẳng thua gì một ngôi chùa nho nhỏ trong thành phố, để ông bắt đầu cuộc hành trình về Niết Bàn .Nét mặt ông bỗng đăm chiêu và nghiêm trang mỗi khi nghĩ đến điều ấy.

   Sau gần một năm thi công gấp rút, công trình mà ông Tư Bố gọi là Niệm Phật Đường đã hoàn thành ,ngay trong ngôi biệt thự của ông. Niệm Phật Đường có kích thước 10 – 15 chưa kể hai dãy hành lang . Căn phòng dùng làm Niệm Phật Đường bây giờ, trước đây là nơi vui chơi giải trí của gia đình, bạn bè, khách khứa . Các trò tiêu khiển cực “hot” đã được tổ chức ở đây. Khi ấy, nói như các con ông, đó là thiên đường của trần gian, còn bây giờ theo ông, nó là thiên đường trên thiên đường và ông sẽ đi vào cái thiên đường vĩnh cửu ấy . Mắt ông trở nên rực rỡ, môi ông run run vì sung sướng mỗi khi nghĩ về điều mà ông không ngờ , tiền tài , vật chất đã biến thành  thần thánh ! Nơi mà ông Tư xây dựng để phục vụ nhu cầu tâm linh cuối đời , vừa đồ sộ lộng lẫy vừa trang nghiêm lại pha nét trầm mặc của màu thiền Trúc Lâm .Trước sân Niệm Phật Đường là hai cây bồ đề thuộc hàng cổ thụ, rễ cây si bám đầy mà ông đã mướn tìm từ hơn một năm nay, bứng về trồng ở hai bên góc vườn, phủ bóng rợp  cả một khoảng sân rộng . Lùi vào bên trong là tượng của Đường Tam Tạng cao 5 mét ,đứng trước là tượng Quán Thế Âm và Thích Ca mâu Ni ngự trên đài sen , nét mặt đầy vẻ nhân từ , trông giống như đang mỉm cười với chúng sinh . Bên hông trái ,lùi về phía sau một chút là hòn giả sơn thật lớn, cao khoảng 5 mét , trước cửa hang là tượng đức Quán Thế Âm đang truyền giáo pháp của Đúc Như Lai biến thành nước Cam lồ vĩnh viễn chảy xuống trần gian . Hông phải của chánh điện là tàng kinh các ,chứa hầu hết các bộ kinh quí của của Phật giáo .Trong chánh điện rộng gần một trăm rưởi mét vuông, mái đúc trên 6 cây cột tròn , được điêu khắc rất tinh tế hình rồng vàng ánh, tượng Thích Ca Mâu Ni tọa trên đài sen cao 2 mét đúc bằng đồng, trước mặt tượng là chiếc lư  lớn , khói hương nghi ngút, bên phải là chiếc chuông đồng treo trên chiếc giá gỗ mun được chạm trổ công phu , bên trái là chiếc mõ to bằng cái đầu người làm bằng gỗ hương bóng lộn …Ông Tư đã không tiếc , bỏ ra hàng chục tỉ đồng để hoàn thành một công trình phục vụ cho nhu cầu tâm linh, dù cũng đã có người khuyên ông không nên làm quá rình rang , e không hợp với cái địa vị lãnh đạo của ông đối với nhân dân địa phương , nhưng ông không nghe, vì dù sao, ông cũng đã về hưu , công khai như thế còn hơn có vị lãnh đạo cao cấp lén lút đi xem bói để đoán trước thời vận của mình . Nơi đây sẽ cứu rỗi linh hồn ông , phải  xứng đáng với tâm nguyện của ông.

   
Ông Tư Bố chọn hôm nay ngày rằm tháng bảy, ngày mà Tôn giả Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Phật, đem lễ vật dâng cúng Tam bảo , xin giúp sức để cứu cha mẹ mình đang bị đảo huyền nơi âm cảnh, để gióng tiếng chuông mõ khánh thành Niệm Phật đường , cầu mong sao nơi suối vàng , cha mẹ ông sẽ mỉm cười mừng đứa con  tên  Bố , đã theo gót Mục Kiền Liên Tôn giả, một ngày kia sẽ đưa ông bà ra khỏi cõi âm , siêu thăng về nơi tiên cảnh . Trong lễ khánh thành hôm nay, ông Tư chỉ mời hai vị Thượng tọa có uy tín nhất của địa phương cùng một số trai tăng đến dâng lễ cung nghinh và an vị Phật . Ông không dám mời các quan chức địa phương , vì e rằng sẽ bị đả kích vì ông đã “tiến bộ” quá nhanh , bỡi dù sao thì trong túi ông vẫn còn giữ chiếc thẻ đỏ , đó là chiếc bùa hộ mệnh , đã bao năm ,nhờ nó mà ông mới có năng lực tài chính để rước “thuốc phiện của dân chúng” về nhà . Người ta rất ngạc nhiên về sự thay đổi rất nhanh dáng vẻ bề ngoài của ông tư Bố. Trừ những lúc đi ra ngoài, trên chiếc Roll Royce giá gần cả triệu đôla , về đến nhà là ông thay ngay một bộ nâu sồng hoặc già lam, phong thái giống như một vị hòa thượng , có điều là mái tóc dày và cứng của ông vẫn còn được nhuộm đen một cách cẩn thận . Đã hơn một tháng nay, sau hôm quy y ở chùa Vĩnh Nghiêm về , mặc dù ông chỉ ăn chay có 4 ngày mỗi tháng, theo thói quen, bữa ăn nào, ít nhất cũng phải có mấy lon bia , nhưng hằng ngày ông Tư đọc kinh hai lần , buổi sáng và buổi tối . Phải gọi là đọc kinh vì ông Tư đã thuộc câu kinh nào đâu và khi đọc, ông Tư không hiểu và cũng không quan tâm là mình phải hiểu những câu kinh ấy có ý nghĩa gì . Trước mặt ông là 3 bộ kinh đang mở, sắp hàng ngang . Thường là ông ngồi theo kiểu nửa kiết già hoặc quì trên chiếc gối bông dày để đọc kinh . Khi ông lễ Phật , ông không muốn ai theo dõi nên đóng kín các cửa lại.
    
     Hôm nay, đêm rằm tháng tám, bên ngoài trăng mùa thu vành vạnh , tỏa ánh vàng lung linh tinh khiết xuống  niệm Phật đường nằm giữa ngôi biệt thự mênh mông sang trọng nhưng đầy vẻ huyền mặc, chỉ một mình ông Tư ở nhà cùng với bầy chó berger đang canh giữ ở phía dưới , sau gần 2 tiếng đồng hồ đọc kinh, ông quyết tâm  "tham thiền nhập định", để cầu xin Đức Phật hiển linh cho ông thấy được hào quang của đấng Thế Tôn
- Nam mô A Di đà Phật …Nam mô A Di Đà Phật ….

Cứ một câu ấy, mắt nhắm nghiền , ông Tư lâm râm trong miệng cả ngàn lần .
     
   Bỗng nhiên , đầu óc ông trống rỗng, rồi trời đất như quay cuồng, thân xác ông bồng bềnh giữa không trung , cảnh vật chung quanh biến mất .Ở phía đàng tây, một vầng hào quang sáng chói cả khoảng trời, Đức Phật xuất hiện trên đài sen lơ lửng ở lưng chừng trời ,với muôn ngàn tia sáng lung linh tỏa ra từ Pháp Thân rọi chiếu xuống trần gian ngồn ngập . Tâm hồn ông Tư như bị thôi miên và mê hoặc bỡi những luồng tia sáng đó, ngực ông nặng trĩu, máu nóng dồn lên thái dương , tim đập liên hồi. Cuối cùng ông Tư dồn hết can đảm, lấp bấp:
  -Bạch đấng Thế Tôn, con tục danh là Lê Bố, pháp danh là Vạn Hảo , hôm nay được ơn trên cho con được diện kiến Như Lai, con xin cúi đầu nghe đức vô thượng quyền năng dạy bảo !
Một giọng nói ấm trầm vang xa trong không trung , không biết phát ra từ đâu mà vang vang trong tai ông, nghe như ở từ mọi phía : 
  -Thí chủ đáng thương kia, con cần gì ở ta mà đêm nay con gọi ta không ngớt . Chẳng phải con đã bỏ nhiều tiền của , xây cất công trình đồ sộ để tu niệm rồi đấy sao ?
-Bạch Đấng cứu thế,  con chỉ xây được cửa chùa nhưng con chưa bao giờ thấy được cửa Phật . Cả năm nay , từ ngày nương vào cửa tôn nghiêm, con cứ ngỡ rằng con sẽ gặp được Như Lai mách bảo cho con đường dẫn vào cửa Phật, để cầu xin Đức Thế tôn toàn năng gọt bỏ những tội lỗi con đã gây ra trên trần gian điên dại và ô trọc này . Nhưng nào có được ! Con thấy linh hồn con vẫn cứ trĩu nặng những trói buộc của trần gian…
  -Hỡi thí chủ đáng thương kia, Cửa của ta có ở khắp mọi nơi, bao giờ cũng rộng mở, nhưng lại khó vào , khi tự thân con còn mang nặng nhiều nghiệp chướng . Linh hồn con bây giờ đang đeo nhiều chiếc bao nặng nề đó , giống như một người đang mang nhiều bao cát nơi giếng sâu, nếu không vứt bỏ được những bao cát ấy đi , thì làm sao nhảy nổi lên khỏi miệng giếng ? Con hãy vứt bỏ những bao nghiệp chướng ấy đi thì con sẽ tìm ra cửa của ta ở ngay trong lòng con.
-Bẩm Đức Thế Tôn , vì sao con lại tạo ra nghiệp chướng?
  - Hành ác tất tạo nghiệp con ạ !
  - Tội ác của con sao ? Con đã gây ra nhiều tội ác ?
  - Tội ác con ạ ! Nếu như khi con vào các cửa của các tổ chức nơi trần gian, con phải cung khai lý lịch , thì hôm nay nếu con chưa nhận ra tội lỗi của mình thì làm sao con có thể vào Cửa Phật ?
Toàn thân ông Tư run lên bần bật như người lên cơn sốt rét, vì ông thường nghe người ta nói : “lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt”. Ông hoang mang : “ Những gì mà lâu nay ta lừa dối nhân dân, lừa dối tổ chức, bây giờ đứng trước đấng toàn năng không biết ta còn có thể quanh co được nữa hay không !”. Rồi giọng nói vừa từ bi vừa đanh thép kia lại vang lên trong tai ông:
- Làm sao ta có thể rửa sạch những tội lỗi cho con , chỉ có chính con mới làm được điều đó , nên con phải thấy được tội lỗi của mình . Con tự xưng mình là một công bộc của nhân dân và là đứa con của Phật , con đã biết ngũ giới là gì chứ?
Đến đây thì hồn phách của ông Tư suy sụp hoàn toàn , mồ hôi tháo ra ướt cả lưng áo lam già, một biểu tượng của từ bi ,xuất thế . Ông nói trong bụng :“ Trả lời về mấy chữ : Cần - kiệm - liêm - chính , chí công - vô tư, thì thật dễ ẹt trước những người cùng một ruột với ông , nhưng bây giờ trước mặt Như Lai, làm sao ta có thể xảo ngôn với Đấng toàn năng”. Ông cố thu hết sức bình sinh để bộc bạch:
  -Bẩm Đức Thế Tôn, con đã mon men hiểu được 5 điều răn của Bậc Đại Giác, trước hết là không sát sanh, nhất là không được giết người …
-Đúng thế . Điều ấy con tự hiểu con hơn ta .
  -Bạch Thế Tôn, con chí lỡ giết người trong khi con đang chiến đấu để tự bảo vệ mình !
  - Chỉ có thế thôi sao? Con không giết ai trong tư thế quỳ gối van xin con chứ ?
   Môi ông Tư tự nhiên cứ rung lên, ánh sáng trước mắt nhòe nhoẹt,  khi ông nghĩ đến sau cái ngày toàn thắng . Giữa lúc tranh sáng tranh tối, và lòng hận thù chất chứa trong hàng chục năm, ngùn ngụt bốc lên cùng với đôi tay quen chém giết, ông đã lỡ phạm sai lầm tày trời mà chính ông, ông cũng không thể nào dung tha cho mình được . Ông mở lòng sám hối:
   -Bạch Như lai , Quy luật của chiến tranh thật nghiệt ngã, hậu quả của chiến tranh thật khốc liệt, sự khốc liệt ngấm sâu vào tận đáy tim của những người chiến bại và cả những người chiến thắng . Đã mấy mươi năm rồi , chúng con cố quên đi, nhưng những vết sẹo hồng kia vẫn không bao giờ chịu liền thịt trên lưng của thời gian . Ôi, chủ nghĩa . Ôi , đấu tranh . Ôi, súng đạn. Ôi, hận thù ! Ôi, lịch sử và nhân danh ! Loài người không còn con đường nào khác hay sao ? Chân lý và sai lầm chỉ cách nhau có một kẽ tóc !
  - Con nói đúng . Vết thương trên thân xác con, trong tâm hồn con rồi sẽ lành, nhưng vết thương trên lưng thời gian thì vẫn còn đấy . Thiện và ác, chân lý và sai lầm , những vết thương kia sẽ là chứng nhân của lịch sử .
  Đức Như Lai ngưng  một chút rồi tiếp :
  -Còn điều giới thứ hai , con còn nhớ không?
  -Bạch  Đức Như Lai, con nhớ rất rõ . Đó là không được ăn cắp ! Và từ lúc ấu thơ, con chưa hề ăn cắp một xu , một hào của ai .
Trong ánh hào quang rực rỡ một góc trời, Đấng Thế Tôn vẫn dịu dàng, ôn tồn và nhân từ:
  - Con nghĩ thế nào là ăn cắp, và làm gì thì mới gọi là ăn cắp ? Chẳng lẽ chỉ có đi bẻ trộm một quả bắp mới gọi là ăn cắp hay sao ? Ăn cắp là cố thủ đắc tất cả những gì mà không phải do mồ hôi, cơ bắp, trí tuệ của mình tạo ra cho xã hội và bản thân. Là trực tiếp hoặc gián tiếp, dùng mánh khóe và quyền lực lấy đi những thành quả lao động của người khác, lấy đi những tài nguyên của đất nước, đó là xương máu của cha ông đã bao đời để lại , là làm giàu trên mồ hôi nước mắt của đồng đội, đồng bào …Con không thấy đồng bào con còn biết bao người cùng khổ .Khẩu phần của họ không bằng của con chó nhà con . Giá một chai rượu ngoại con dùng có thể nuôi sống gia đình họ một năm . Con có biết của cải xã hội chảy về đâu không ? Lương tri con người bây giờ quả đã không đuổi kịp dục vọng rồi !
Sự thực thì ông Tư chưa bao giờ nghĩ là mình đã ăn cắp của nhân dân . Có “cống hiến” thì phải có hưởng thụ chứ ! Và ông luôn mạnh miệng phê phán những kẻ ăn cắp, vì ông thấy còn biết bao nhiêu quan chức còn giàu sang hơn mình . Thế rồi ai cũng có quyền chửi người khác, vì dù có ăn cắp, thì mình vẫn còn ăn cắp ít hơn, và bàn tay mình vẫn sạch hơn. Họ cứ nhìn cái túi của nhau, tự hào về cái túi trong sạch của mình mặc dù mỗi ngày cái túi ấy , trong vòng quay của lòng tham , sự non nớt của luật pháp và sự móc ngoặc, che chắn, nó cứ tự động đầy thêm lên. Đồng tiền, của cải cứ núp sau cái ghế của ông mà chảy vào nhà ông như nước lũ, không còn kiểm soát nổi nữa. Ông đã chẳng hiểu rằng đồng tiền cứ chảy theo quyền lực và quyền lực lại đẻ ra đồng tiền . Ông nhớ lại bao nhiêu cách đồng tiền cứ tìm những kẽ hở nhà ông mà chui vào . Như cái tên Hùng kia , bỗng nhiên đến trả giá gấp 10 lần giá thị trường để mua căn biệt thự cũ của ông, cứ tưởng rằng hắn hớ và dại , nhưng đâu có ngờ liền sau đó hắn xin được trúng thầu khai thác titan dọc theo các bãi cát ven biển miền Trung, ông đành phải chìu theo ý hắn, vì đã lỡ rồi . Đại loại là như thế …và như thế. . . Nhưng ông nào có bắt ép hắn , hắn tự nguyện đấy chứ ? Đồng tiền cứ tự nguyện và những con người tự nguyện theo ông . Ông không hiểu hay không muốn hiểu , vì sao đồng tiền cứ chạy đến những nhà quyền thế mà chui vào và luật pháp nước ông thì không có điều nào cho rằng cả gia chủ và đồng tiền ấy có tội . Chưa có tội “hối mại quyền thế”. Những ông quan quyền cao chức trọng thì tha hồ bán cái quyền thế mà làm giàu và bán mãi không bao giờ cạn . Quyền càng lớn thì bán càng nhiều tiền ,càng dễ bán , nhiều người mua mà giá lại càng cao !Lạ thật ! Lâu rồi thành thói quen , một ngày kia, không còn cách nào để giaỉ thích , ông Tư coi cái tài sản kếch sù mà ông hiện có là do phúc đức của ông bà cha mẹ ông để lại, do ông ăn ở hiền lành nên Trời Phật cho ông ! Bây giờ Đức Như Lai dạy như thế , chẳng lẽ , cái tài sản kia là của ăn cắp hay sao ? Ông mơ hồ và bàng hoàng ,ông không còn hiểu đâu là chân lý nữa !
    Còn 3 điều giới còn lại ! Ông Tư Bố đang đắm chìm trong hồi tưởng …
Từ ngày ông được cất nhắc lên những bậc thang của danh vọng , kinh qua nhiều chức vụ về chính trị và kinh tế , có quyền rồi có tiền, đã giàu thì phải sang, cái mùi bùn đất lam lũ hôi tanh , cái nếp sống quê mùa thô kệch đã bao đời nay, dần dần tách khỏi con người ông, lùi xa về  dĩ vãng để nhường chỗ cho cuộc sống trưởng giả xa hoa . Cái bản năng hưởng thụ đã bị đè nén bao nhiêu năm nay bây giờ trổi dậy . Người đàn bà bần cố nông nồng nặc mồ hôi lúa đất heo gà chưa kịp chạy theo mùi nước hoa thứ xịn, đã một thời làm bệ phóng cho ông bay lên trên con đường danh lợi, giờ đây đã trở thành nỗi ám ảnh của ông trước và sau các cuộc truy hoan với các cô gái chân dài tha thướt . Ông nhớ lại mấy mươi cô gái tuổi đôi mươi mơn mởn, vì phải kiếm cho được việc làm nhàn hạ, đành phải ôm hận qua tay ông , khi ông làm giám đốc một khách sạn lớn . Gian dâm ư ? Hồi ấy ông cố ngụy tín rằng “hai bên cùng có lợi”, ông có lấy không cái gì của ai đâu ? Nhưng bây giờ đứng trước Đấng Toàn Giác , cái bao nghiệp chướng ngàn cân kia lại tròng lên cổ ông, có lẽ không bao giờ ông thoát ra được! Thân ông Tư Bố mềm nhũn ra như một đống  thịt không xương . Khi mà hình ảnh của những ngày xa hoa sa đọa trở về bên ông thì cáiCửa Phật linh thiêng , nơi ông hằng mơ ước cho những ngày còn lại, chỉ còn là cái bóng xa xăm mờ nhạt. Ông Tư ngước nhìn lên bầu trời đầy trăng sao, ánh hào quang trước mắt ông khi mờ khi tỏ. Chắp hai tay lên ngực, ông khẩn khoản:
-Bạch Đức Thế Tôn , trong cả ngũ giới con đều mắc phải, tội lỗi của con chồng chất, nghiệp của con tạo ra có khi còn nặng hơn cả núi thái sơn , chẳng lẽ cửa Phật đã đóng kín lại với con , con sẽ mãi mãi chịu bao nhiêu hình phạt tàn khốc nơi địa ngục, con đường đi đến Cửa Phật vĩnh viễn bị cắt đứt rồi hay sao !
   -Thí chủ tội nghiệp kia, Cửa Phật ở khắp mọi nơi mọi lúc và không hề khép lại với bất cứ ai bao giờ. Cửa Phật là chốn thiêng liêng vi diệu, sắc sắc không không , ở giữa sâu thẳm của chính linh hồn con mà con chưa bao giờ thấy được . Bao nhiêu sinh linh trượt dài theo cái ác , tạo nghiệp từ kiếp này qua kiếp khác, ngụp lặn triền miên trong bể khổ luân hồi. Trong suốt cuộc đời, từ một anh nông dân hiền lành, con đã say men chiến thắng, dấn thân vào cuộc tranh giành quyền lực và của cải , lao vào cuộc sống xa hoa hưởng thụ, đã lấy đi biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt của người khác . Chính lòng dục đã che lấp tâm trí con, dẫn con vào cái đêm tối của tội ác, bây giờ muốn thoát ra, không phải nhất triêu nhất tịch, mà phải trải qua sự khổ hạnh lâu dài…
 
Ông Tư Bố chắp tay vái lia lịa:
  -Bạch Như Lai, dù gian nan vất vả đến đâu con cũng nguyện đi theo Phật pháp, quyết giũ bỏ gánh nặng của trần gian !
-Con đường tìm về vô ngã không dễ dàng chút nào đâu con .
  -Bạch Đấng Đại Giác, dù phải leo trên núi cao hay lặn xuống biển sâu, con cũng quyết làm cho được.
  - Thế thì tốt lắm . Cửa Phật đâu cần con phải khổ nhọc như vậy . Điều con phải làm dễ hơn nhiều, đó là , trước hết, con hãy đem tất cả nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, công ty, ngân hàng, đồn điền, nói chung là những gì không phải là của con, trả lại cho nhân dân, trả lại cho những đồng bào cùng khổ trên quê hương con, cắt bỏ đi những món nợ của trần gian mà con đang mang nặng bên người . Chính những thứ đó đã trói buộc con, không bao giờ buông tha cho con thanh thản ra khỏi cái trần gian nợ nần đó, con sẽ mãi lẩn quẩn sau bức màn vô minh , không thể ngộ được Chánh Pháp, thì làm sao con thấy được Cửa Phật mà vào. Hỡi thí chủ đáng thương của ta, hôm nay ta chỉ có mấy lời này cho con, mong con đừng quên.
Chợt vầng hào quang sáng rực cứ lùi xa mãi và mất hút về cuối chân trời . Ông Tư Bố  như giật mình ra khỏi trạng thái nửa thực nửa mơ, đôi bàn tay còn chắp  trên ngực trong thế ngồi nửa kiết già. Ông bàng hoàng rên rỉ :
  -Đức Như Lai ơi, sao Đấng Toàn Năng không bắt con bỏ ra hàng ngàn tỉ để xây hàng trăm ngôi chùa trên đất nước con, để những đứa con của Phật , từng đêm, từng đêm , tụng niệm , vinh danh Đức Thích Ca Mâu Ni , mà lại khuyên con phải từ bỏ tất cả của cải, dù là phù vân nơi trần gian mà con kiếm được .Làm sao con tự cắt bỏ đi một phần thân thể của con ! Đức Thế Tôn ơi , biết đến bao giờ con mới tìm ra Cửa Phật !
Ông Tư Bố gục xuống trên cuốn kinh Pháp Hoa còn mở ở trước mặt,ruột gan rối bời, hồn như đang mang theo bao nhiêu tảng đá cõi trần . Còn ở ngoài kia mảnh trăng rằm đã chếch về hướng tây, buông ánh vàng vằng vặc xuống sân Niệm Phật Đường tĩnh lặng . Hình như chỉ có chú sóc trên cành Bồ Đề đang nheo mắt cười với chị hằng . Rất xa xôi…


<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.04.2015 19:39:27 bởi Kiều Giang >
#1
    Ct.Ly 11.04.2012 20:17:07 (permalink)
    #2
      Kiều Giang 11.04.2012 21:52:14 (permalink)
      Ct.LY ơi, có lẽ thơ văn là cái nghiệp của người cầm bút.Như Ct.Ly đó, cũng phải vất vả cho cái nghiệp văn chương, nên KG chưa chán đời đâu. Còn ước mơ là chưa già phải không?
      KG xin cảm ơn Ct.Ly đã quan tâm đọc truyện của KG. Chúc Ct.LY luôn vui khoẻ và chúc VNTQ ngày một phát triển để phục vụ nghệ thuật.
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.04.2012 00:29:59 bởi Kiều Giang >
      #3
        Kiều Giang 13.05.2012 12:49:24 (permalink)
                                          HOANG TƯỞNG
                                 

                                              Truyện ngắn của KIỀU GIANG
                   

             
        Đã quá một ngày đêm, Tuấn không hề ăn uống gì . Anh cứ quì mãi nơi góc nhà, miệng lẩm bẩm những câu gì không rõ  .Trưa nay ,Quyên cố gắng dỗ đút cho chồng  mấy muỗng cháo, nhưng cứ ngậm vào rồi Tuấn lại phun ra, mắt lơ láo, đờ đẫn , dáng hình tiều tụy trong bộ áo quần pyjama đã nhàu nát hôi hám mà mấy bữa rồi, anh nhất định không cho Quyên thay. Những con ruồi xanh được dịp, đậu cả trên mặt mũi anh . Quyên thở dài, đưa tay đuổi thay cho chồng . Hồng Quỳnh, đứa con gái lên ba của vợ chồng Quyên, có lẽ chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra, nên cứ chồm hổm, hai bàn tay buông thõng trên hai gối, trố mắt nhìn cha, rồi quay sang mẹ: “ Sao Ba không chịu ăn cháo hả mẹ?”. Quyên không thể trả lời con , vì cổ chị nghẹn cứng, cố nén những giọt nước mắt chực trào ra. Chị không muốn khóc trước mặt con, vì sợ những mảng tối của cuộc đời đã sớm xâm nhập vào tâm hồn còn quá bé bỏng thơ ngây.

                  Tuấn và Quyên quen nhau khi còn học chung ở trường đại học khoa học xã hội và nhân văn . Tuấn học khoa báo chí còn Quyên thì theo tổng hợp văn. Họ yêu nhau đã bốn năm và cho nhau nhiều kỷ niệm đẹp của thời sinh viên thơ mộng , vì họ biết tôn trọng , giữ gìn cho nhau, khác với nhiều sinh viên cùng lứa , sống thác loạn trong một xã hội mà tuổi trẻ gần như mất cả phương hướng đạo đức và lý tưởng . Con đường của tuổi trẻ đời nay hình như chỉ là kiếm tiền và hưởng thụ. Họ rất khao khát những tiện nghi vật chất được quảng cáo đầy rẫy trên phim ảnh và trên cá phương tiện truyền thông đại chúng khác . Cuộc sống xa hoa của các đại gia mới nổi trong giới kinh doanh và các quan chức quyền thế cùng các tiểu công tử của họ đã làm mờ mắt những chàng trai có chút học thức khi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời .   Họ cố sống vội, sống gấp vì lỡ mai đây xã hội lại tạo được cái phanh cho cỗ xe tham nhũng thì họ không còn cơ hội để vung tiền vào những cuộc truy hoan.  
                   Khát vọng hôn nhân chín muồi và cháy bỏng trong nhau nhưng đôi uyên ương Quyên – Tuấn đành phải hẹn đến sau khi tốt nghiệp mới tổ chức hôn lễ được.Nhưng không phải lúc nào ý trời cũng chiều theo lòng người, nên cái giấc mơ đơn giản và thiết tha của hai người vẫn chưa thực hiện được sau khi rời khỏi ghế nhà trường . Tuấn còn phải làm nghĩa vụ quân sự hai năm. Quyên lại phải đợi chờ, phải đè nén những đêm dài thổn thức và trống rỗng, những ngày thẫn thờ bên những trang giáo án và đám học sinh nghịch ngợm, vô tình . Quyên vẫn yêu cái ngây thơ của chúng, có khi lòng cô giáo trẻ cũng thấy vui lây, nhưng nỗi diết da nhung nhớ  kia hình như lúc nào cũng đeo một hòn đá tảng lên tâm hồn cô.
              Thấy con gái ngày càng xanh xao, ông Quân, hiện là hiệu phó một trường trung học phổ thông ở dưới tỉnh, khuyên Quyên về trường ông dạy, gần gũi với các em cho đỡ buồn, nhưng cô con gái cưng của ông chẳng chịu chiều lòng cha, vì ở Sài Gòn, dẫu sao mỗi tháng hai lần Quyên còn có dịp thăm Tuấn ở quân trường, về dưới đó, phải xa Tuấn lâu quá, cô không chịu nổi . Ba mẹ Tuấn là cán bộ địa phương cấp thấp đã về hưu,rất yêu quý Quyên, coi Quyên như là con dâu chính thức, nên lần nào đi thăm Tuấn , ông bà cũng gọi Quyên.
                Gần ba năm trong quân ngũ, Tuấn là một bộ đội Cụ Hồ xuất sắc về nhiều mặt nên đã được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng . Sau khi xuất ngũ về địa phương, với tấm bằng đại học báo chí trong tay, cùng với sự giúp đỡ của những người bà con có chức quyền , Tuấn được nhận vào làm phóng viên phụ trách mảng xã hội ở một tờ báo có uy tín của thành phố. Là một trí thức trẻ đầy nhiệt huyết, nếp nghĩ , cách làm của Tuấn khác xa với một số “thanh niên cách mạng 30/4”, cầm cờ đỏ nhảy vào thanh niên xung phong hoặc các phong trào thanh niên khác, mong chạy trốn quá khứ, đi tìm cơ hội cho tương lai, có người rất thành đạt nhờ cái bầu nhiệt huyết và lòng tin vào sự đổi thay của đất nước nhưng cũng lắm kẻ cơ hội, nhờ giỏi nịnh bợ mà được cất nhắc lên tận cấp trung ương, để rồi rơi rụng dần vào vũng bùn của tiền tài và danh vọng, vác bạc tỷ chui vào khám để dưỡng già.
                Vì muốn có cuộc sống tự lập nên sau ngày cưới, Tuấn và Quyên thuê một căn hộ chung cư để được hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc trong một thế giới mật ngọt của tình yêu đôi lứa . Họ quấn quýt bên nhau. Hết giờ làm việc là Tuấn về ngay với Quyên. Nhiều hôm bạn rủ đi lai rai ở mấy quán nhậu vỉa hè gần sát cơ quan , dù rất nể bạn, nhưng anh đều kiếm cách hoãn binh, chỉ trừ khi phải cố hoàn tất một phóng sự điều tra không thể bỏ dở giữa chừng thì anh mới điện báo xin lỗi vợ. Những lần như thế, Quyên cứ cặm cụi soạn giáo án để quên đi cái thời khắc đợi chờ căng thẳng, thỉnh thoảng Quyên lại bật tivi xem, chứ không bao giờ chịu ăn cơm trước, nhiều hôm đến tận mười hai giờ đêm Tuấn mới về, cô chỉ nhẹ nhàng: “ Anh về muộn, em lo quá, có trở ngại gì không anh?” Khi nhìn vào mắt chồng, thấy Tuấn không vui, cô biết là công việc không suôn sẻ, nhưng chẳng dám hỏi tiếp. Tuấn thấy vợ lo lắng, gượng vui cho qua chuyện.
                Nhờ vui tính, bộc trực ,chân tình, hăng say trong công việc, bài viết sâu sắc, nên Tuấn được anh em trong cơ quan và lãnh đạo tờ báo thương yêu nể trọng. Anh cũng rất tin tưởng và kính mến chú tổng biên tập tờ báo. Tuấn phát hiện ra một điều thú vị là hầu hết các nhà cầm quyền trên thế giới được bầu bán thực sự hay giả tạo đều rao giảng rằng chính quyền của họ là từ dân, do dân và vì dân .Tuy nhiên, kimh nghiệm lại cho thấy rằng, không hiểu sao, suốt lịch sử của xã hội loài người, nhân dân thường là một thế lực đối lập với chính quyền và Tuấn đã vô tình, không biết từ lúc nào, anh lại đứng về phía của những người thấp cổ bé miệng . Những bài phóng sự điều tra dài, liên tiếp đăng trên ba số báo của Tuấn về hàng trăm hecta ruộng của đám dân nghèo khai hoang ở Đồng Tháp Mười bị lấy sung công, chỉ sau có hai năm khai khẩn, được dư luận hết sức quan tâm, đồng tình, thì ngược lại, các quan chức địa phương, những người ra quyết định lấy diện tích tích đất ấy chia nhau để “cải thiện đời sống khó khăn” của họ, lại rất giận dữ. Điện thoại và thư nặc danh tới tấp gửi cho Tuấn và tòa soạn báo với lời lẽ phí báng, đe dọa. Một tháng sau, tổng biên tập của tờ báo bị thay, còn Tuấn thì bị cấp trên liên tiếp gọi lên làm kiểm điểm, rồi tạm đình chỉ công tác. Trong khi đó, bạn bè anh viết những bài phóng sự giới thiệu các doanh nhân, doanh nghiệp thì được lãnh đạo khen lấy khen để, nào là “góp phần vào việc thúc đẩy sự hội nhập”, nào là “có tầm nhìn chiến lược thúc đẩy nền kinh tế quốc dân”… Và tất nhiên, những phong bì dày cộm công khai đút vào tay họ, sau các cuộc nhậu nhẹt linh đình.
               Dự đoán trước được những điều không may đang và sẽ xảy ra với Tuấn, trong bữa cơm chiều, Quyên gác đũa, ngước nhìn chồng :
        - Anh nghĩ là mình có thể thay đổi được gì ư ?
        - Em muốn nói đến thay đổi điều gì?
        -Thay đổi một số chi tiết máy trong một guồng máy đang quay với tốc độ địa cầu.
        -Được chứ. Đó là nhiệm vụ của bất cứ ai, khi họ còn là con người trên trái đất này. Anh mãi mãi tin ở con người  bây giờ và tin ở lịch sử nhân loại, như tin ở tình yêu của em !
        Tuấn đưa mắt trìu mến nhìn Quyên, nhưng cô lại nhìn chồng đầy thương xót:
        -Anh hơi lãng mạn và không tưởng đấy ! Không biết bao nhiêu con đường mà mỗi con người phải lựa chọn để đi qua , nhưng chánh đạo thì quá ít, còn tà đạo thì lại vô cùng và có ai tự nhận con đường mình đang đi là tà đạo bao giờ, khi mà con đường ấy đem lại sự giàu sang một cách mờ ám cho cá nhân, cho bè nhóm họ. Những kẻ mạnh bao giờ cũng có những lý lẽ riêng và ngòi bút chân chính của anh chỉ vẽ được những nét vẽ quá mờ nhạt trên nền trời đêm, rồi sẽ không ai thấy dùm cho anh cả. Em sợ tòa án dị giáo La Mã sẽ giết chết Galilei của em !
        Tuấn chăm chú nghe, nhìn Quyên, thỉnh thoảng lại ngước nhìn lên trần nhà, cái bầu nhiệt huyết và nỗi âu lo đang hòa quyện với nhau, xâu xé tâm hồn non trẻ của anh. Chần chừ một chút,anh đặt đũa xuống mâm rồi quả quyết:
        -“ E pur si mouve”, em yêu ơi, “Dù sao thì trái đất vẫn quay quanh mặt trời”, và Galilei của em đã nói như thế. Phải tin vào chân lý chứ em! Không tin vào chân lý thì ta còn gì để sống , sống mà không dám đấu tranh cho lẽ phải thì còn sống để làm gì? “Hạnh phúc là đấu tranh”, Marx đã từng trả lời con gái mình như vậy. Và Galilei cũng đã khẳng định: “ Chân lý luôn hàm chứa một sức mạnh, càng công kích nó thì nó càng vững chắc”. Em hãy vững tin vào anh, anh có làm gì sai đâu ?
              Quyên linh cảm và mơ hồ thấy những điều không lành như sắp xảy đến trên con đường đầy chông gai mà Tuấn đang đi. Nhưng biết Tuấn đang mang trong mình bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ , sự tự tin và cả quyết. Lúc mới quen nhau , chính cô cũng yêu những điều đó, nhưng hôm nay cô thấy lo sợ. Quyên dịu dàng khuyên chồng:
        - Sống mà không có lý tưởng và lòng nhân ái thì quả thật là không đáng sống. Nhưng là người khôn ngoan, vẫn phải biết lách qua làn đạn đang hướng về mình. Trước tòa án giáo hội La Mã, nhìn người vợ và hai đứa con thơ, Galilei vẫn phải nhận là mình sai để giữ lấy mạng sống. Và anh đã biết đấy, cho đến bây giờ, chân lý của Galilei vẫn là chân lý…
               Quyên đứng lên, vòng qua sau lưng ghế chồng, hai tay ôm cổ Tuấn, miệng áp vào tai anh, ngượng ngập thì thầm: “Em đã…có mang rồi anh yêu ạ”. Trong thoáng chốc, Tuấn đưa tay giằng lấy tay Quyên,quay phắt lại phía sau, ánh mắt rạng ngời sung sướng nhìn Quyên : “ Có thật không em, từ bao giờ, sao em không nói với anh?”. “Chắc cũng đã hai tháng, gần đây em có hiện tượng ốm nghén, nên mới dám báo với đức lang quân. Anh không thấy gì khác ở em sao? Có nghĩ gì đến em đâu, chỉ lao đầu vào mấy bài báo!”. Tuấn đứng lên, đẩy chiếc ghế bên cạnh, đỡ nhẹ Quyên ngồi xuống, hôn lên tóc vợ rồi ôn tồn: “Thật là anh có lỗi nhiều với em. Mấy bài phóng sự điều tra cùng những cái bóng đen phủ lên nó, đã chiếm hết thì giờ và tâm trí anh, em hãy thông cảm và tha thứ cho anh”. Biết là Tuấn không đời nào từ bỏ nỗi đam mê của mình, nên cô chộp lấy cơ hội: “ Và từ nay em sẽ phải dài dài tha thứ cho anh chứ gì ?” Quyên âu yếm nhìn sâu vào mắt chồng…
              Sau khi bị kết cho cái tội “nói xấu cán bộ chủ chốt cấp tỉnh” và “gây hoang mang trong nhân dân”, Tuấn bị treo bút một năm, đưa xuống phụ giúp công tác ở xưởng in. Trong thời gian này, anh được nhàn hạ, rảnh rỗi để chăm sóc cho mẹ con Quyên. Anh bao hết mọi khâu từ giặt giũ đến nấu nướng, quét dọn, kể cả xoa bóp và làm hề cho vợ cười. Đêm nào bé Hồng Quỳnh khó ở, khóc nhè thì Tuấn đưa nôi con sang phòng làm việc của mình dỗ dành ru con, để cho Quyên ngủ . Anh cố làm mọi cách cho Quyên vui, nhất là không bao giờ dám đi làm về muộn một phút nào. Quyên thấy Tuấn rất hạnh phúc khi cô sinh cho anh một đứa con, nhưng cô vẫn phát hiện được một nỗi buồn hãy còn giấu kín trong mắt chồng.
                Sau ngày thôi nôi của Hồng Quỳnh, cũng là lúc Tuấn được phục chức. Nếu như con thiêu thân lao vào ánh sáng chói chang của những ngọn đèn, thì ngược lại, Tuấn lại lao vào những mảng tối của cuộc đời, trong một cái xã hội mà con người đã bị tha hóa đến cùng cực. Nhiều bài phóng sự điều tra phát hiện sự rút ruột lớn trong xây dựng cơ bản, trong việc phát triển hạ tầng giao thông,đặc biệt nghiêm trọng là việc bòn rút nguồn vốn ODA vào những canh bạc lớn và việc ăn chơi sa đọa của một số quan chức cấp cao làm xôn xao dư luận cả nước. Nhân dân đi vay tiền của nước ngoài về để ngài thứ trưởng tắm bia với các em chân dài, xây nhà riêng còn lộng lẫy hơn cả hoàng cung của các đời vua nước Đại Cồ Việt. Và có lẽ Lý Công Uẩn đã thấy trước điều xấu hổ nhục nhã ấy nên đã dời đô về Thăng Long đúng một ngàn năm nay rồi ! 
                 Đâu có ai ngờ, những lời động viên báo chí tham gia vào công tác chống tham nhũng đại bi ai và tiểu bi ai, lại đưa Tuấn vào cái bẩy việt vị. Anh đã hăng hái “cầm đèn chạy trước ô tô”. Thế là một lần nữa, Tuấn lại vướng vào cái tội là viết những điều chưa được công bố hoặc cho phép, không phải anh thổi phồng những quả bóng của dư luận mà anh lại đi thổi phồng vào những hòn đá tảng đen ngòm đang chìm sâu dưới đáy Hồ Hoàn Kiếm . Con cừu non ngước mắt nhìn trời , thấy bầu trời vẫn xanh, nhưng chung quanh mình lại là một bầy thú lạ.
               Hôm nay là đêm cuối cùng Tuấn được tại ngoại hầu tra. Quyên dỗ con ngủ sớm, cô đẩy cửa bước vào phòng làm việc của chồng , Tuấn đang ngồi trước bàn vi tính, chống cằm ngước mắt chăm chăm nhìn vào bức hình cưới của hai người treo trên tường, trong ảnh, Quyên nép sát dầu vào ngực anh, cười dịu dàng rạng rỡ. Thấy Quyên vào, anh từ từ quay lại nắm tay vợ:
        - Theo tin mấy đứa bạn anh ở bên tòa án, lần này anh ít khả năng được tha bỗng hay lãnh án treo.
        Quyên bá vai chồng, tay kia âu yếm vuốt ngược tóc anh ra sau:
        -Dẫu sao thì thập tự giá cũng đã được đóng lên . Họ cho rằng các anh là bọn “ăn cơm chúa, múa ngược đường gươm”, còn mấy ông quan con trong cơ quan anh thì được dịp bĩu môi : “Khéo ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng”. Thật là một bi hài kịch hoàn toàn  đúng nghĩa! À, còn luật sư đã nói gì với anh?
        - Em biết rồi còn phải hỏi. Xưa nay việc tranh luận công khai trước tòa chỉ là một thủ tục có tính hình thức, tất cả hầu như đã được định sẵn đàng sau cái búa và cái chuông. Mấy ông bên công tố nói với luật sư Trung, bạn anh, kỳ này phải cho mấy con ngựa non nhà báo biết rằng cái loa không phải là của họ.
                Quyên lặng lẽ đứng ôm cổ chồng. Một đám mây đen dày đặc kéo qua che khuất bầu trời trong xanh  trên đầu họ. Người vợ, người mẹ trẻ cố mím chặt môi, để khỏi bật ra tiếng khóc làm nao lòng chồng. Không phải vì sợ những ngày tháng khó khăn sắp vây quanh cuộc đời mẹ con chị,vì dẫu sao từ bé, chị cũng đã quen sống trong một gia đình nhà giáo đông con. Giờ đây, với đồng lương ít ỏi của một cô giáo trẻ, chị sẽ cố gắng dè xẻn để được sống với tất cả lương tri của một con người. Nhưng điều chị không thể yên tâm là sức khỏe của Tuấn, anh thường ho và mất ngủ.
                Với bản án hai mươi bốn tháng tù giam cho Tuấn, Quyên đã đêm đêm âm thầm mất nhiều nước mắt cho nó, lời dun dế đã thành câm, chẳng còn than khóc nổi phận mình, chỉ còn mong ngày mai sẽ có ánh mặt trời. Đã một năm trôi qua, với Quyên, thời gian là một sự vô tình đầy khắc nghiệt. Cô đơn là nỗi dằn xé lạnh lùng và khủng khiếp nhất. Những hình ảnh của một thời sinh viên đầy ắp lý tưởng và thơ mộng như đang mưng mủ từng ngày trước cái thực tế phũ phàng, mà không biết những “người lớn” đã vô tình hay cố ý giáng xuống lòng tin của họ. Chẳng lẽ giờ đây họ cũng đành phải học theo phương cách mới là dối trá và vô cảm,  nhập vào một nền văn hóa mới là “văn hóa phong bì và cúi lòn” . Ngòi bút không thể đứng thẳng thì cái xương sống cũng đành phải cong, người ta không thể bước đi bằng hai bàn chân, mà phải lê mình trên hai chiếc đầu gối. Đã và đang có hiện tượng chảy máu chất xám vì những hiền tài của đất nước không chịu nổi với cái nạn bè phái – xin cho – luồn lọt – đút lót. Đứa trẻ mới bước chân vào ngưỡng cửa cấp một, đã được nhà trường dạy cho bài học đầu tiên là hối lộ và nói dối, nó rất tài trong việc che đậy lỗi lầm của mình trong giao tiếp ứng xử, và đánh mất niềm tin vào những người đang dạy dỗ nó. Sau những năm làm cái nghề nghe rất kêu: “kỹ sư tâm hồn”, Quyên thấy mình đang bị đọa đày trong sự dối trá, đang phá hoại tâm hồn trẻ thơ, mình phải quay tít trong một guồng máy “ thành tích” mà từ ông bộ trưởng cho đến chị lao công, có lẽ ai cũng phải cắn răng mà cười trong trĩu nặng ưu tư và nước mắt. Quyên thấy mình có tội với thế hệ tương lai.
                 Sau hơn một năm bị giam giữ, Tuấn có quyết định được giảm án , trả về cho gia đình, vì có dấu hiệu tâm thần. Hôm đón Tuấn ở khu quản lý trại giam, Quyên đã ôm chồng khóc nức nở như một đứa trẻ, như nàng chưa bao giờ được khóc. Có lẽ dòng nước mắt ấy là sự pha trộn của vui mừng và buồn tủi, còn Tuấn thì ngơ ngác, đờ đẫn nhìn mọi người, hình như Quyên cũng chỉ còn là cái bóng chập chờn trong trí nhớ của anh. Quyên đưa Tuấn ra cỗng trại giam, một tay cô xách cái túi nhựa đựng quần áo còn tay kia thì dắt chồng như dắt một đứa trẻ, nước mắt vẫn ràn rụa trên khuôn mặt trái xoan thanh tú, nhưng đã hằn sâu nét ưu tư khắc khổ của một thiếu phụ chờ chồng mà như đang đợi chờ một nỗi tuyệt vọng xa xăm. Nàng không thể tưởng tượng nổi một tình cảnh tồi tệ đến như thế này.
               Quyên nấu nước ấm, pha dầu sả tắm cho chồng. Có lẽ ít nhất là một tháng rồi Tuấn không hề tắm rửa gì. Mùi hôi từ thân thể anh bốc ra, làm cho Quyên liên tục bị ói, dù cho sự nhớ mong , lòng yêu thương và nỗi xót xa đang cuộn chảy trong lòng cô, đang muốn khóa cái cuốn họng Quyên lại, cũng như cô muốn đóng chặt nỗi khổ đau đang dâng lên, chực trào ra nơi đôi mắt, nhưng không được. Tắm và mặc quần áo xong, Quyên lặng lẽ dìu Tuấn ngồi lên ghế rồi cẩn thận cắt móng tay, móng chân cho anh, một công việc mà khi còn tỉnh, Tuấn không bao giờ cho Quyên làm, trừ có một lần Quyên muốn chứng tỏ sự âu yếm của mình đối với chồng.
                 Bất ngờ Tuấn gạt tay Quyên ra, chạy xuống bếp lấy cái xon đặt lên bàn, hai tay cầm hai chiếc đũa, vừa gõ nhịp vừa hát :
                 “Homo  sapiens . Homo sapiens . Con người tinh khôn . Con người tinh khôn.Tính xưa vẫn còn. Anh giấu con chồn. Vào trong túi xách.Tìm đường chui lách. Để mà ăn riêng. Chúng mình cùng săn. Sao anh lại thế. Lòng người dâu bể. Làm kẻ vô luân. Sa mạc lớn dần . Vào hồn anh đó. Trăng sao cùng khổ. Anh có biết chăng. Homo Sapiens ?”   Ha…ha…ha…
                  Tuấn cười một tràng dài, còn Quyên thì chẳng hiểu gì cả. Mấy câu nghêu ngao của Tuấn cùng cái xon và chiếc đũa gợi Quyên nhớ lại ngày mới yêu nhau, buổi tối Tuấn rủ Quyên đi ăn kem  ở bến Bạch Đằng, ăn xong, Tuấn ôm vai Quyên, hai người đứng tựa vào lan can, nhìn con tàu đang kéo còi rời bến, anh cầm chiếc muổng gõ nhịp vào thanh sắt và ca trong gió một đoạn bài “Biển nhớ” của Trịnh Công Sơn : “ Ngày mai em đi cồn đá rêu phong rũ buồn, đèn phố nghe mưa tủi hờn, nghe ngoài trời giăng mây tuôn. Ngày mai em…”. Một làn gió mát lạnh lướt qua mặt sông rồi lồng lộng thổi vào hai người, làm tóc Quyên bay xõa vào mặt Tuấn, anh ôm siết cô vào ngực, ghé vào tai thì thầm: “ Xin em đừng bao giờ bỏ anh đi như con tàu kia, chắc khi ấy anh sẽ điên mất, em nhớ nhé”. Đâu có ai ngờ, cuộc đời lại oái oăm và trớ trêu đến như vậy. Cô chẳng rời chồng nửa bước, nhưng giờ đây, người yêu của cô ngày nào, cũng đã thành người mất trí rồi ! “ Định mệnh chăng?”.Một linh cảm thoáng qua. Trái tim đa cảm của Quyên quặn thắt , nàng đứng sát lại sau ghế, quàng tay ôm cổ Tuấn, nghẹn ngào:
        -         Anh yêu ơi, đừng nói nhảm nữa, em sợ lắm ! Rồi em sẽ mời bác sĩ chữa khỏi bệnh cho anh, hay là anh muốn mãi mãi là môt người sống trong hoang tưởng  để quên hết những khổ đau của trần gian điên dại này. Không được đâu anh ơi, nếu như thế thì em cũng sẽ chết mất ! Xin anh hãy thương em và  con của chúng ta.
                Tuấn quay nhìn Quyên, đôi mắt vô cảm, rồi anh tiếp tục hát:
               “Ta giống Rồng Tiên .Anh giống Rồng Tiên . Một bọc trăm con. Ta lên Trường Sơn .Ta ra Đông Hải . Đôi vai trần trụi. Gánh cả non sông . Hơn bốn ngàn năm. Cùng xây tổ ấm. Bây giờ nhung gấm. Treo vạt sông trôi. Giàu sang hỡi người. Cũng về hư ảo. Nay ta khờ dại. Ôm trái tim người . Đi về muôn nơi…”
                  Tuấn ngừng hát khi thấy hai người lạ bước vào nhà vì Tuấn đã không còn nhận ra cha mẹ ruột của mình. Quyên bước ra, cúi đầu: “ Con chào Ba mẹ”. Ông bà Quang thấy Quyên mặt đầy nước mắt, rất xót xa, nhưng cố gắng gượng:“Đừng quá đau buồn con ạ, hãy cứng rắn lên, nỗi bất hạnh nào rồi cũng sẽ qua đi. Còn có Ba mẹ đứng bên con”. Quyên đưa tay quệt nước mắt và nói nhỏ “dạ”. Bà Hoa đến nâng bàn tay Tuấn lên , nhìn vào mắt con, nghẹn ngào: “Con có nhận ra mẹ không? Sao con đến nông nỗi này”. Lời nói của bà lại rơi vào im lặng, Tuấn trân trân nhìn bà.
                  Ông Quang nhớ lại, trước khi cho đăng loạt bài phóng sự điều tra về việc các quan chức của mấy tỉnh miền tây lấy đất khai hoang của dân chia nhau “cải thiện”, ông đã nghe cái bầu nhiệt huyết đang sôi sục trong đứa con trai ông, nhưng ông cũng mường tượng được rằng khi Tuấn chìa cái gương soi cho người có tật, thì cũng đồng nghĩa với việc anh sẽ nhận những mảnh kính của cái gương vỡ bắn tung tóe vào mặt anh, tấm gương mà con ông đưa ra sẽ là một tai họa cho nó . Tuấn đi trước một bước, chọc đau vào cái túi tham của thiên hạ nên đã phải lãnh hậu quả. Ai dám cả gan cầm đèn chạy trước ô tô, đều bị ô tô cán chết, đó là chân lý. Bài học của người bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Văn Nguộc vẫn còn đấy, những kẻ có quyền không ai muốn nhớ đến những trang sử mà nó có thể đe dọa đến cái túi tham của mình. Sự nhập nhằng giữa đất công và đất tư là dòng sông nước đục cho những người cơ hội buông câu, cho những kẻ quyền thế ở địa phương muốn vơ ruộng đất của nhân dân về cho mình. Người ta dựa vào cái chính sách tập thể hóa để biến đất tư thành đất công, sau đó lại quy hoạch hóa để làm ngược lại, lấy đất công bán cho doanh nhân. Mua rẻ, bán đắt gấp chục, có khi gấp trăm lần, kẻ “ lèo lái” trở thành “ nứt đố đổ vách” chỉ trong một sớm một chiều.
               Hồng Quỳnh ở mẫu giáo về, thấy ông bà Quang, vội vòng tay: “ cháu chào ông ,bà nội ạ !”. Bà Hoa chạy lại bế cháu, hôn lấy hôn để rồi khen :“Cháu bà ngoan quá”, rồi bà lấy mấy con búp bê đưa cho bé, bé cúi đầu cảm ơn rồi bất chợt quay nhìn sang Tuấn: “Ba ơi, sao Ba không nói gì, ngày mai Ba mua búp bê cho con nhé ! Đêm qua con thấy mẹ khóc, sao Ba không dỗ mẹ?”Tuấn ngơ ngác nhìn con, không nói gì, rồi lại cầm đũa gõ vào xon hát tiếp: “…Ôm trái tim người. Đi về muôn nơi. Hỡi dòng sông trôi. Ngàn năm chẳng cạn. Dòng sông tìm bạn . Là ánh trăng ngà. Nay ta đã già. Đi tìm ngôi sao. Nhật nguyệt trên cao. Còn ta dưới thấp. Sao đời vẫn đục. Như mắt vua quan. Lời dọc lời ngang. Bao nhiêu mệnh bạc. Ngoài kia sông khát. Khóc người đầu non. Lòng mẹ héo hon. Đứa con lầm lạc. Tim anh máu nhạt. Lúa đợi mùa thơm. Bao nhiêu tủi hờn . Dồn lên  ngọn bút. Em về xuân sắc. Cho ta cội tình. Ta thắp bình minh. Vào hang hùm sói. Ngàn năm ngồi đợi. Xin trời mãi xanh. Tay vun chồi xuân. Thiên thu một cõi. Ai người có tội. Hỡi màu thanh thiên. Homo Sapiens ?”
                  Đã quá nửa đêm, sau khi dỗ giấc cho chồng con và hoàn thành những trang giáo án cho ngày mai, trằn trọc mãi, không thể nào chợp mắt, Quyên ra đứng tựa vào lan can, nhìn ra dòng sông Sài Gòn đang âm thầm lặng lờ trước mặt.Trăng mùa thu hạ tuần yếu ớt gieo ánh vàng hấp hối lên không gian tĩnh lặng mơ hồ. Những chòm sao đêm rơi rụng trên sóng nước lăn tăn tạo thành những con rắn vàng ngoe ngoảy rồi tan loãng trong dòng nước bâng khuâng.  Bầu trời trong veo nhả làn gió thu mát rượi lướt thướt qua mặt sông rồi tràn vào những tầng chung cư mới xây đang yên ngủ nặng nề. Quyên muốn tan vào trong cái khoảng không tĩnh mịch êm ả của trời đêm,nhưng nào có thể được, nàng đang đối mặt với những cơn sóng đang trào dâng trong tâm hồn, trước những bão tố chỉ là mới bắt đầu kéo qua cuộc đời nàng. Quyên cố hít thở sâu để giảm bớt tần số của nhịp tim trong lồng ngực cô. Cô âm thầm rên rỉ : “ Anh yêu ơi, cái giấc mơ làm thay đổi lòng người, làm cho xã hội đầy ắp thương yêu, biết sẻ chia nhau miếng cơm manh áo, cắt bỏ bớt đi cái dạ dày và cái túi tham của những người quyền thế, trong xã hội ngày nay, những ôm ấp của chúng ta, phải chăng cuối cùng cũng chỉ là những hoang tưởng còn nặng nề hơn cái bệnh hoang tưởng đang dày vò anh bây giờ ?”Phải chăng thế giới của loài người là thế giới của dục vọng?Và ngọn lửa dục vọng phi nhân kia sẽ dẫn loài người đến chỗ tự thiêu đốt mình. Quyên bâng khuâng không biết mỗi chúng ta đang ngăn chặn nó lại hay cũng vô tình trôi theo dòng chảy của nó. Bàn tay của tạo hóa đang nắm một bài toán mà ẩn số mãi mãi cũng chỉ là ẩn số, và những nhà đạo đức học trên thế gian này còn phải mãi mãi đi tìm !
                Quyên thấy mệt nơi ngực, quay vào phòng chồng, Tuấn đang ngủ say, hơi thở nặng nề. Một nỗi cô đơn như đang lan tỏa trong từng mạch máu và từng tế bào trên da thịt cô.Thật khủng khiếp ! Cô ngã người xuống giường, kéo chăn trùm kín đầu. Ngoài kia màn đêm vẫn lạnh lùng phủ lên dòng sông đang chảy.
                                
                     Sài Gòn  12/5/2012
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.08.2012 21:56:58 bởi Kiều Giang >
        #4
          mưa phố núi 13.05.2012 13:34:32 (permalink)
          Hehehe ...Đây mới chính là " tình quân " của mpn .
          Hỡi cánh chim bị giam cầm kia ,mi không ngại bầu trời đầy giông bão hay sao ?
          Ánh sáng của công lý ,
          Khát vọng được sống ,được yêu ,được hít thở bầu không khí tự do
          đã khiến một con thú tật nguyền không còn hoang tưởng mơ màng ...
          Hay lắm ! Khiến em hãnh diện vì anh .
          Hỡi quân vương của thiếp !

          * Nè ,bữa nay mpn phá lệ đó nghe . Ở Mỹ hôm nay là Motherday (ngày nhân danh các bà mẹ )
          tui lại đi ca tụng đàn ông .
          * Đừng tưởng bở nghe , tui vẫn còn oán huynh lắm ( cái tội hông chịu làm người mà lại làm thú tật nguyền ) mpn
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2012 17:19:21 bởi mưa phố núi >
          #5
            Kiều Giang 13.05.2012 16:53:27 (permalink)

            Trích đoạn: mưa phố núi

            Hehehe ...Đây mới chính là " tình quân " của mpn .
            Hỡi cánh chim bị giam cầm kia ,mi không ngại bầu trời đầy giông bão hay sao ?
            Ánh sáng của công lý ,
            Khát vọng được sống ,được yêu ,được hít thở bầu không khí tự do
            đã khiến một con thú tật nguyền không còn hoang tưởng mơ màng ...
            Hay lắm ! Khiến em hãnh diện vì anh .
            Hỡi quân vương của thiếp !

            * Nè ,bữa nay mpn phá lệ đó nghe . Ở Mỹ hôm nay là Motherday (ngày nhân danh các bà mẹ )
            tui lại đi ca tụng đàn ông .
            * Đừng tưởng bở nghe , tui vẫn còn oán huynh lắm ( cái tội hông chịu làm người mà lại làm thú tật nguyền ) mpn

            Xin được làm một cánh chim bay trong bầu trời giông bão, nhả những lời chúc phúc cho quê hương.
            Xin được cảm ơn em đã tạm quên trong giây phút ngày Motherday, để đồng cảm với anh. Biết đâu nhờ đó mà " con thú tật nguyền" lại biến thành người.

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2012 17:07:24 bởi Kiều Giang >
            #6
              NgụyXưa 14.05.2012 01:32:58 (permalink)
              "Hoang Tưởng" đã được mang vào thư viện.
               
              Chưa chắc đã là "hoang tưởng", biết đâu chả là khởi đầu của "Cách Mang Hoa Lài"!
               
              Xin cám ơn tác giả Kiều Giang.
              #7
                Kiều Giang 14.05.2012 16:26:03 (permalink)
                Xin Cảm ơn Anh Ngụỵ Xưa đã quan tâm. Kính chúc Anh sức khoẻ để phục vụ nghệ thuật.Chúc mừng anh vừa có chuyến về thăm quê hương vui vẻ, tốt đẹp
                Trân trọng chào anh.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2012 16:28:42 bởi Kiều Giang >
                #8
                  Kiều Giang 08.07.2012 10:49:50 (permalink)
                   ĐÔI  BÀN  CHÂN
                                                                                 

                                                                        Truyện ngắn của KIỀU GIANG
                         





                      Năm tôi lên ba tuổi, mỗi lần mẹ tôi ra ruộng cấy, bà thường đem gửi tôi cho cô Xuân , chỉ cách nhà tôi cái giậu dâm bụt. Ở miền Trung, tháng Mười, trời rét và chịu những cơn mưa đông tầm tã, có khi kéo dài đến cả mươi ngày, nên cô Xuân chẳng dám thả tôi ra nửa bước vì cô sợ tôi bị trượt chân ướt lạnh. Cô làm nghề kéo sợi dệt vải bông. Cô rất khéo tay, hình như cô làm được tất cả các khâu từ khi mua bông về,kéo sợi,…cho đến khi dệt xong một cây vải đem ra chợ bán. Mỗi lần cô quay chỉ, một tay đẩy bàn quay, tay kia cầm con cúi bông thả chỉ vào cuộn. Cô bắt tôi phải ngồi chết dúm trong lòng cô, lưng áp sát vào cái bụng bầu ( cô đang mang thai 8 tháng), mắt tôi đăm đăm nhìn cuộn chỉ quay tít. Thỉnh thoảng tôi thấy hình như có một cái chân vô hình thật bé đạp nhẹ vào lưng tôi. Tôi ngước mắt lên nhìn cô Xuân  , cô hiểu ý, giải thích: “Em ở trong bụng cô, nó đạp con đấy”. Tôi cảm thấy rất tù túng khó chịu nhưng không dám đòi đi chơi vì sợ cô mách mẹ đánh đòn.
                            Ba tháng sau ngày cô Xuân sinh đứa con gái đầu lòng, mẹ tôi mới cho tôi qua nhà cô Xuân chơi. Mẹ giải thích: “Con còn bé mà vào buồng đàn bà đẻ, mai sau đầu óc mụ ra, học không được”. Tôi không hiểu vì sao, nhưng không dám trái lời mẹ. Lúc sau này thì tôi không còn vô dụng như hồi cô Xuân chưa sinh em bé. Không hiểu sao, khi không có tôi thì cô Xuân đặt chiếc nôi gần khung cửi để tiện ru con mỗi khi bé trở giấc, nhưng vừa thấy tôi sang thì cô lại đẩy nôi ra xa, đặt một chiếc ghế bên cạnh và bắt tôi ngồi đưa nôi ru em, chắc là cô muốn cho tôi có việc làm, không phải ngồi ủ rũ nhìn cô dệt vải. Tôi chỉ biết đưa tay lắc lay cái vành nôi chứ không hề biết hát một câu nào. Hai tay cô Xuân vẫn thoăn thoắt đưa thoi, nhưng thỉnh thoảng liếc nhìn tôi mỉm cười, rồi bảo tôi hát theo cô: “ Con ơi ăn ngủ cho ngoan….Mai kia khôn lớn lo toan việc đời”. Tôi bập bẹ hát theo, ban đầu tôi thấy rất khó khăn, nhưng rồi tôi cũng thuộc. Cứ thuộc hết câu này cô lại dạy cho tôi câu khác: “Con chim đa đa …nó đậu nhánh đa đa…Chồng gần không lấy…mà đi lấy chồng xa…Mai sau cha yếu…mẹ già… Chén cơm…đôi đũa…tách nước trà…ai dâng…”. Câu hát này dài quá, rất khó thuộc, nhưng cô động viên: “ Con giỏi lắm, cố lên rồi sẽ thuộc thôi mà, tối về hát cho mẹ nghe, mẹ sẽ khen và yêu con nhiều hơn đấy”. Sau này lớn lên tôi mới biết bài hát ấy chứa đầy tâm sự của cô, một người con Huế, vì hoàn cảnh mà phải đi lấy chồng xa. Thế rồi, nhờ cô Xuân và cái nôi nhà cô mà tôi đã thuộc được nhiều bài hát dân gian sâu lắng nghĩa tình. Đâu có ai ngờ, Sương, con bé nằm nôi, thường chìm sâu trong giấc ngủ, thấm đẫm những lời ru ngô nghê nguệch ngoạc của tôi, một cậu bé lên bốn, lên năm, cứ thế, hàng năm trời. Tôi nhớ nhất là những khi  Sương thức giấc, mở mắt, nhìn tôi nhoẻn miệng cười, đôi môi mọng đỏ như thiên thần. Thế rồi từ cái tâm trạng bị bắt buộc, tôi bỗng thấy thích thú khi được cô Xuân gọi bảo đưa nôi cho bé Sương. Tôi muốn được nhìn bé huơ tay trườn chân, đòi tôi bế, tôi muốn bế, nhưng cô Xuân không cho.
                          Thời gian trôi qua như một giấc mộng. Mới ngày nào Sương còn nằm nôi mà bây giờ đã là cô bé lên mười, biết phụ mẹ kéo sợi dệt vải, suốt ngày quanh quẩn bên mẹ, nước da cũng giống mẹ, trắng hồng. Mái tóc của Sương đen mượt, làm cho tôi nhớ đến những cô gái trong các tạp chí mà cậu Hai tôi mua từ tỉnh về cho tôi lấy giấy bao vở. Khi đến lớp, nhìn những cô gái trong tranh, tôi lại nhớ đến Sương, một nỗi nhớ thoáng qua nhưng tha thiết dịu dàng. Bé Sương còn có biệt danh là Bi Chai,do tôi đặt, vì đôi mắt em sâu tròn, con ngươi xanh biếc long lanh như hòn bi bằng chai mà mẹ đi chợ mua cho tôi đánh bi với bọn trẻ con trong xóm. Không hiểu sao, cô Xuân và cả Sương đều thích cái biệt danh ấy. Còn tôi thì cô gọi là Huy Đen, vì ngoài giờ đến trường cách nhà hành mấy cây số đi bộ, tôi còn phải phụ những việc nhẹ trong công việc đồng áng của Ba mẹ , nên nước da tôi nâu đen , Sương thường gọi tắt tên tôi là anh Đen, rồi có khi lại phá lên cười và chạy về nhà trốn mất.
                            Tôi thường được cô Xuân nhờ chỉ cho Sương học toán. Mỗi khi ngồi bên Sương, nghe cái mùi thơm của xà bông “Cô Ba” từ mái tóc  thoảng ra cùng với mùi da thịt của Sương, làm cho tim tôi đập mạnh, lòng tôi rạo rực khó tả, và hình như tôi lại muốn giữ cái mùi hương ấy ở lại trong lồng ngực mình. Tôi không thể nào rời mắt khỏi đôi bàn tay búp măng ngà ngọc của Sương đang cố nắn nót từng chữ viết bằng cây bút lá tre cán gỗ. Đôi bàn tay ấy như thách thức đôi bàn tay chai sần thô kệch vì phải làm lụng vất vả của tôi. Không hiểu sao trong đầu tôi cứ xuất hiện sự so sánh giữa một bên là tấm thân ngà ngọc của nàng, còn bên kia là cái bộ tướng đen điu thô cứng , vai u thịt bắp của tôi. Có lẽ vì quá yêu thương nên tôi đã thần tượng hóa em rồi chăng ?
                           Thế rồi một biến cố hết sức quan trọng xảy ra cho đời tôi và Sương, để giúp tôi hiểu được thế nào là nét đẹp của đôi bàn chân . Hôm ấy một buổi sáng mùa đông, trời không mưa, Sương đòi theo tôi ra đồng xem gặt lúa, bất chợt em vô tình trượt chân xuống ruộng, rồi bỗng em la hoảng : “ Đau quá! Đau quá!”. Sương cúi xuống ôm bàn chân rên rỉ. Tôi vội chạy đến, một tay đỡ em, còn tay kia nâng bàn chân em lên xem, tôi hết hồn, một con đỉa trâu đang bám chặt vào cổ chân Sương. Tôi nhanh tay bóc con đỉa khỏi bàn chân em, máu ra ròng ròng. Tôi hoảng quá, không nói một lời nào, bế xốc Sương chạy một mạch về nhà. Sau khi rửa sạch vết thương bằng nước giếng ở góc sân, tôi tự  nhai trầu với vôi đắp lên vết thương, mà không dám cho cô Xuân biết, sợ cô quở trách . Sương ngồi trên ghế, hai chân buông thõng. Tôi đưa tay đỡ bàn chân bị thương, ngước mắt nhìn em. Đôi mắt bồ câu như thăm thẳm in vào hồn tôi. Tôi cúi xuống nắn nót bàn chân và Sương không phản đối. Sương im lặng. Đến giờ phút này tôi mới đủ bình tĩnh để nhận ra rằng, đôi bàn chân nhỏ nhắn u thon ( mặc dù không có tập tục bó chân như người  Tầu), với những ngón chân khít vào nhau, trắng muốt, với tôi, nó đẹp đến nỗi tôi không bao giờ muốn buông nó ra nữa. Những ngày sau đó Sương thường đưa tay níu song cửa sổ nhìn sang nhà tôi, còn tôi thì giả vờ ra sau nhà xách nước để được thấy em. Cũng may vết đỉa không sâu, vết thương cũng nhanh lành. Từ đấy hình bóng Sương cứ đi theo tôi bất cứ lúc nào, cả trong giấc ngủ. Có đêm tôi mơ thấy nàng bị đỉa bám, khóc thét lên, ôm chặt lấy tôi, còn tôi thì thấy nuối tiếc cái giấc mơ ấy khi giật mình thức dậy.
                          Mối tình thầm kín, thơ ngây, dân dã ấy hình như đã in sâu trong tâm hồn còn quá măng non của tôi. Nhưng rồi cũng đến lúc tôi phải giã từ Sương, cô bé  tuổi 13, tâm hồn trong trắng như sữa của hạt gạo tháng mười, gương mặt hiền lành như vầng trăng rằm vừa lên khỏi đường chân trời ở đằng đông trong một đêm thu của đồng quê tĩnh lặng, để ra tỉnh học bậcTú tài. Không biết nàng là Lọ Lem hay Bạch Tuyết trong cổ tích tôi. Tôi là một gã khờ  chơi vơi trong vòng vây của hình bóng ấy.
                            Hôm tôi đi, Sương đưa tôi một quãng đường làng, em chớp mắt nhìn tôi rồi cúi mặt, tôi nắm tay Sương lặng lẽ, chẳng thốt được lời nào. Cuối cùng tôi buông tay nàng rồi quay đi. Được khoảng mươi bước, tôi nhìn lại thì thấy Sương quay đầu chạy nhanh về nhà. Có lẽ em tôi đã khóc ! Tôi cúi đầu, nặng nề bước về hướng đường cái quan, nơi có chuyến xe cuối cùng về tỉnh trong ngày.
                            Gần một năm trọ học ở thị xã, tháng nào tôi cũng viết thư cho Sương. Nàng hồi âm cho tôi bằng những cánh thư màu xanh, tình yêu bé bỏng thơ ngây của nàng như in trên nét chữ học trò viết bằng bút lá tre mực tím. Tôi âu yếm cẩn thận cất những cánh thư ấy ở tận đáy rương sách của cậu học trò tuổi mười bảy đang mơ.
                           Hè năm nay, tôi về quê thăm nhà , Sương cùng mấy đứa em tôi ra đón ở tận đầu làng. Đôi mắt “bi chai” long lanh, môi cười  hớn hở nhưng có vẻ rụt rè , hai tay bá vào cổ của hai đứa em. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy Sương thay đổi quá nhiều. Nàng lớn như thổi, vóc dáng của một thiếu nữ chứ không còn như một cô bé mười ba, mái tóc đen huyền chảy xuống ngang vai, óng ánh trên chiếc áo lụa hoa, màu xanh ngọc. Tôi ngượng ngập lí nhí: “Mẹ em có khỏe không?”. Nàng vẫn cúi đầu, nói nhỏ: “ Dạ khỏe, mẹ vẫn thường nhắc đến anh”. Còn tôi, trong chỗ sâu thẳm của tâm hồn mình, tôi không thể nào quên cô, quên cái bàn chân bé bỏng trong bụng cô đạp vào lưng tôi, khi tôi ngồi trong lòng cô, một buổi sáng mùa đông, mười bốn năm trước, cô ngồi kéo sợi. Ngay cái đêm mới về lại quê, tôi rủ Sương ra cánh đồng trơ gốc rạ tháng Năm, hai chúng tôi ngồi xuống bờ ruộng phủ một lớp cỏ khô . Trăng mười sáu vằng vặc tỏa xuống không gian tĩnh lặng êm đềm của một miền quê hiền hòa chịu thương chịu khó, soi rõ nét thanh tú trên khuôn mặt thoáng vẻ u buồn của Sương. Từng làn gió nhẹ thoảng qua làm cho hương tóc của Sương chập chờn trong khứu giác nhạy cảm của tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy như mình đang tan biến vào tình yêu thanh khiết, thánh thiện của nàng. Ngồi im lặng thật lâu tôi mới dám mở đầu câu chuyện:
                  -Anh thấy lúc này nước da em sạm nắng ?
                       Sương liếc nhìn tôi, giọng tha thiết phân trần:
                  -Đã một năm nay mẹ em không còn dệt vải nữa. Bây giờ vải sợi dệt tay không còn bán được, thỉnh thoảng em phải ra đồng giúp Ba mẹ.
                       Tôi an ủi nàng:
                  -Trông em bây giờ như một thiếu nữ trưởng thành, da có ngâm một chút cho thêm rắn chắc. Có điều anh sợ là không biết em có đủ thời gian để học hành ?
                  Nàng như hờn trách:
                  -Từ khi anh đi, em thành dốt toán. Còn văn thì cứ miệt mài vào những cánh thư chảy theo dòng thương nhớ. Vào lớp em cứ thẫn thờ cùng những lá thư anh gửi, có những đêm em lịm dần vào nỗi nhớ mênh mông…. Không biết rồi anh có bắt đền được cho em không?
                  Tôi như choáng ngợp trong những lời yêu thương của Sương. Tôi không ngờ tình yêu nàng dành cho tôi, đã bao lâu nay, được âm thầm giấu kín trong tận sâu thẳm trái tim nàng. Thời gian như ngừng lại, không gian tan vào cõi không mơ hồ diệu vợi. Xa xa, thăm thẳm tiếng gà khuya giật mình cùng ánh trăng vô tình trải xuống cánh đồng quê đang yên ngủ. Tôi ngồi sát vào bên Sương, ngại ngùng:
                  -Anh xin cảm ơn trái tim thầm lặng của em, cảm ơn Thượng đế đã đưa xuống trần gian một thiên thần bé bỏng cho anh. Thiên thần ấy sẽ ngự trị  tâm hồn và cuộc đời anh mãi mãi.
                  Nàng ngây thơ đáp lời tôi:
                  -Nhưng anh đã bỏ rơi thiên thần ấy lại chốn quê nghèo này để đi tìm một tương lai cho đời anh. Em cứ thấp thỏm đợi chờ và hồi hộp lo âu. Và em có linh tính hình như có một thế lực vô hình nào đang rình rập cướp mất tình ta.
                     Ba mẹ tôi bắt tôi phải học hành thành công để rộng đường tương lai cho tôi. Từ ngày bước chân lên tỉnh học, tôi thấy càng yêu cái quê hương nghèo khó của tôi, có lẽ vì nơi ấy có nàng. Tôi đâu có ngờ từ đây, đời tôi lại gắn với đời nàng. Mai này nếu tôi phải giã từ bờ tre gốc rạ của quê hương tôi để ra tỉnh sống, tôi không thể chỉ mang theo hình bóng của nàng mà phải mang theo cả cuộc đời nàng. Tôi tưởng tượng một ngày tôi được sống bên nàng, nâng niu chăm sóc cho nàng, tự nhiên tôi thấy tình yêu thật là cao quý và thiêng liêng biết chừng nào ! Tôi đưa tay nắm bàn tay ngọc ngà của Sương, giọng run run thì thầm:
                  - Vâng, bây giờ anh hiểu rằng em là trái tim của anh, tình yêu của em là khí trời cho anh hít thở từng phút từng giây. Từ nay đời anh không thể thiếu em được. Nhưng anh cần phải học để chuẩn bị tương lai cho cuộc đời hai chúng mình. Xin em hãy chờ anh.
                  -Em sẽ mãi mãi chờ anh, chờ cho đến già đến chết.Em sẽ là mãi mãi của anh.
                  Nhưng rồi nàng lại ngập ngừng:
                  -Nhưng cuộc đời con gái…em sợ lắm, đôi khi em nghĩ nó không còn là của riêng em!
                          Năm ấy, theo yêu cầu của Ba mẹ , tôi phải vào Sài Gòn để học đại học, nếu không sẽ phải vào lính, còn Sương, sau khi tốt nghiệp trung học, đành phải gác bút ở nhà giúp đỡ Ba mẹ nàng. Thế rồi cũng đến ngày chiến tranh bao trùm lên từng tất đất, từng cọng rơm ngọn cỏ của quê hương tôi, mọi người phải đùm túm về thành phố. Ba mẹ tôi vào Nha Trang còn gia đình Sương chạy lên nương náu với người bác ruột ở Pleiku. Tất cả sự chia ly bắt đầu từ đấy. Tôi chỉ được Ba mẹ cho biết như thế, còn địa chỉ của gia đình Sương thì những người trong xóm cũng không ai biết. Mẹ tôi dỗ dành tôi: “ Khi ra đi người ta còn không kịp chào nhau một tiếng, huống hồ địa chỉ của nhau, biết được nơi phải đến cũng là may mắn lắm rồi. Mai kia lần lữa mẹ sẽ tìm cho con”.
                        Mấy năm sau, vì thấy tôi quá đau đớn, mẹ tôi cũng cố tìm, nhưng cũng chỉ nghe phong phanh là Sương đã lấy chồng. Chồng nàng là một sĩ quan không quân, đơn vị đóng ở Pleiku. Tháng Giêng năm 1974, vì giao thông đường bộ đã hoàn toàn bị cắt đứt, tôi mua vé bay ra Pleiku để tìm nàng, may ra còn được nhìn lại nàng, nhìn lại đôi bàn chân định mệnh của nàng lần cuối cùng. Suốt cả tuần, tôi đã lội hết các hang cùng ngõ hẻm, nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu. Nhiều đêm trắng, tôi lang thang trên những con phố trơn lầy đất đỏ, trời giá rét với những cơn mưa phùn cuối đông còn sót lại, xa xa vọng tiếng đại bác đì đùng, hình như tôi đã đi qua hầu hết các quán “cà-phê không ngủ”, nhưng hình bóng nàng vẫn mờ xa nơi chân trời vô định. Niềm hy vọng dần dần lịm tắt trong lòng tôi.
                        Sau biến cố năm 1975, tôi nghe hình như Sương đã theo chồng di tản ra nước ngoài. Còn tôi ở lại đây, ôm nỗi buồn của một trí thức mới học xong hôm qua mà hôm nay đã lỗi thời, trong một đất nước hoang tàn sau hơn hai mươi năm chiến tranh, lòng người ly tán…hoài nghi mọi thứ giá trị, chân và giả đều lẫn lộn trên đời này, vết thương của xã hội đang tiếp tục rỉ máu, chưa biết bao giờ sẽ lành. Nỗi cô đơn và sự trống rỗng đang xâm chiếm cõi lòng tôi . Tôi muốn trốn khỏi thành phố để quên đi sự phi lý của cuộc đời. Bây giờ tôi không còn quyền tra hỏi mà phải biến mọi thứ thành đức tin, một thứ đức tin mù quáng, cái mà Marx đả kích đến tận cùng. Tôi muốn trở về với những tháng ngày quê mùa dân dã, những ngày tôi đã sống với Sương, với tình yêu đầu đời trong suốt và long lanh như giọt sương mai. Tôi đã đăng ký vào thanh niên xung phong.
                        Những ngày sống với bưng biền đỉa vắt, với cuốc rựa dao găm, làm cho tôi quên hết mọi thứ trên đời này. Duy chỉ có một thứ mà tôi không thể nào quên được, đó là những lời thỏ thẻ ngây thơ, tình yêu  thanh khiết của nàng. Bao nhiêu năm qua, hình như Thượng Đế đã đùa cợt trên chiếc lưng trần của tôi, trên cuộc đời yếu đuối nhỏ nhoi bé bỏng và đôn hậu của nàng. Đôi bàn chân của nàng đã in lên đời tôi thành những dấu chấm. Chấm than, chấm hỏi, chấm treo và cuối cùng là chấm hết. Nhiều khi tôi hát nghêu ngao một mình trong bóng đêm: “Đôi bàn chân ấy dẫm tình anh…. Bao năm ru mãi dấu không lành…. Giữa đời gió cát em đâu ngỡ…. Anh vẫn yêu hoài dáng bàn chân…”. Thượng Đế đã đặt vào tay một cô bé nhà quê một phép mầu để cô có thể cướp đi linh hồn tôi.
                           Rồi một hôm tôi trở về thăm ngôi nhà chỉ còn trơ những bức tường, mà tôi đã lớn lên bên cạnh nàng. Những ngọn dừa, bụi chuối đã bị bom đạn xé nát, chỉ còn trơ lại cái giếng khơi mà tôi thường xách nước để rửa chân cho nàng, hình như vẫn âm thầm còn nguyên vẹn. Có lẽ nó muốn làm chứng cho mối tình đơn sơ mộc mạc nhưng sâu thẳm của tôi.
                        Ôi chiến tranh ! Chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ của con người, trong đó có tình yêu của tôi. Nàng đã ra đi cùng với hàng triệu người khác. Một cuộc di dân hiếm thấy trên thế giới này. Họ đã vội vã bỏ lại sau lưng quê hương, bạn bè, người yêu…, mồ mả ông bà, để ra đi. Mà lý do cuộc phân ly vẫn còn là một chấm hỏi lớn của lịch sử. Người ta đã phải mất bao nhiêu thứ, còn tôi chỉ mất đôi bàn chân mà hình như tôi đã lỡ yêu thương từ trong bụng mẹ. Một bí ẩn đẫm chất thơ của cuộc đời này.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2012 17:35:49 bởi Kiều Giang >
                  #9
                    NgụyXưa 09.07.2012 02:30:58 (permalink)
                    Chuyện tình thời thơ dại nào cũng đẹp và mong manh như hạt sương ban mai.
                     
                    "Đôi Bàn Chân" đã được mang vào thư viện.
                     
                    Xin cám ơn tác giả Kiều Giang. 
                    #10
                      Kiều Giang 09.07.2012 15:36:20 (permalink)
                      Xin cảm ơn anh NGUỴ XƯA đã đồng cảm và chia sẻ.
                      Kính chúc anh luôn vui khoẻ.

                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.07.2012 15:39:39 bởi Kiều Giang >
                      #11
                        Kiều Giang 29.12.2012 21:25:26 (permalink)
                        KHỐI U


                        Truyện ngắn của KIỀU GIANG



                        Tôi cũng không nhớ nổi cái khối u quái ác đó đã hiện hữu trong tôi từ bao giờ. Nhưng chắc chắn một điều phải là từ ngày tôi đã trở thành giàu sang phú quí, ăn uống dư thừa, đỏ da thắm thịt,có bơ có sữa, có rượu ngon gái đep suốt sáng thâu đêm , có áo mão xênh xang, lên xe xuống ngựa, có nhà cao cửa rộng, có tôi tớ đầy nhà, có kẻ hầu người hạ, và nhất là có cả một đám quan quân như sa tăng sai đâu đánh đấy, luôn trung thành tuyệt đối với tôi, vì áo mão cân đai được tôi ban phát, không bao giờ cạn, bổng lộc, quyền uy thọ hưởng không bao giờ dứt...

                        Bây giờ ngồi đây, mang cái khối u đã già, di căn khắp người, cả xác thân rã rời......Tôi nhớ lại cái ngày xưa, khi còn là một gã thư sinh khố rách, da bọc xương,bữa sắn bữa khoai,măng rau cháo bẹ, vợ tôi thì cằn cỗi khẳng khiu, mấy đứa con òi ọp rách nát, làng trên xóm dưới xơ xác tiêu điều . Một đêm nọ , vợ thỏ thẻ bên tai tôi : “ Mình à, em nghe nói trên núi Nga Sơn ở bên Tây Thiên gì đó , có một đạo sĩ nhập định đã suốt mấy mươi năm, có tài hô phong hoán vũ , cải tử hoàn sinh ,mình hãy mau tìm đến ngài thỉnh sách cầu kinh đem về khổ luyện , may mà tìm được con đường có thể giúp cho gia đình cùng bà con xóm giềng và cả quê hương, đất nước mình thoát khỏi cái đói nghèo bệnh tật đã đeo đẳng ta từ kiếp này qua kiếp khác”.
                        Nghe theo lời nàng, từ giã xóm thôn, từ giã quê hương khổ đau , tôi khăn gói lên đường , quyết tâm tầm thầy học đạo, mong có ngày đem cái sở học mà cứu nước giúp đời.
                        Đường lên Nga sơn - Tây Thiên đầy gian lao vất vả , mưa dầm nắng lửa, đêm lạnh buốt thấu xương, ngày nóng như thiêu đốt, đói chẳng cơm ăn ,khát không nước uống. Nhưng rồi một ngày kia , sau gần một tháng vật lộn với tử thần, tôi cũng đã đến được đỉnh Nga sơn , một trong năm ngọn núi cao nhất của Tây Thiên, sừng sững giữa trời như muốn chọc thủng mấy tầng mây xanh .Khi mặt trời vừa lách qua khỏi cái khe núi sương tuyết còn phủ mờ ở phía đàng đông, ngước nhìn lên đỉnh Nga Sơn , giữa lưng chừng trời, tôi nhác thấy, sau lớp mây thưa, là một vùng cây lá um tùm xanh thẳm ẩn trong bảy sắc cầu vồng sau một cơn mưa nhẹ. Quả là chốn bồng lai tiên cảnh như trong hoài niệm tuổi thơ tôi.Tôi mừng quýnh, hơi thở hổn hển, cố lê bước chân nặng nhọc về phía khoảnh rừng đầy cuốn hút kia. Mới vừa tiếp cận với bìa rừng, tôi đã được thưởng thức một khúc nhạc rừng kỳ ảo hòa quện muôn âm sắc của thiên thai. Bầy chim rừng, không hiểu vì sao , bỗng dưng sà đậu trên vai tôi như một cử chỉ thân thiện rồi vụt bay đi , mất hút vào rừng, gửi lại một thứ âm thanh huyền diệu.Rồi những con thú dáng vẻ hiền lành ,như đã được ai đó dạy bảo cẩn thận, lần lượt đi qua và cúi chào tôi, tỏ vẻ vui mừng, vì có lẽ lâu lắm chúng mới có dịp đón người khách lạ. Tôi phơi phới tiến theo đàn thú về phía tịnh cốc, nơi theo làn gió bốc ra mùi hương trầm thoang thoảng . Bỗng tôi giật thót,vì có giọng nói đầy nội lực phát ra từ phía cửa hang:
                        -Nhà ngươi là ai, ở đâu ,vì sao phải gian lao vất vả tìm đến nơi thâm sơn cùng cốc này ?
                        Nghe giọng nói vừa uy nghiêm vừa lạnh lùng, cũng chẳng mấy thân thiện, tôi run lên vì lo sợ, nhưng lại cũng vừa mừng trong lòng , vì cuối cùng thì tôi cũng nghe được tiếng người, đó là một sự thèm khát chỉ sau bát cơm, manh áo mà trong một tháng trời tôi phải làm bạn với núi cao hố thẳm , hang hùm miệng sói, tôi vội quỳ xuống, mắt hướng về tịnh cốc:
                        -Bạch Đạo sư, con, người nước Đại Ngu, ở miền Đông Thiên nghèo khó. Liền mấy năm nay, quê hương con bão lũ triền miên, mất mùa đói kém, giặc giã nổi lên như ong, xóm thôn xơ xác tiêu điều, quan quân thi nhau vơ vét của dân, tiếng oán than ngút trời dậy đất, thấm vào hang cùng ngõ hẻm. Được nghe Đại Sư là bậc cao thâm đắc đạo, con xin được đến đây thỉnh giáo nghe kinh. Kính xin Đại sư xót thương, không chê kẻ hèn này là người phàm tục, truyền dạy đạo pháp, để con đem về truyền lại cho đồng bào con, mong có ngày đất nước con thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực!
                        - ĐẠO có trong khắp đất trời và trong mỗi con người, hà tất nhà ngươi phải đến tận nơi này để tìm ta?
                        -Bạch Thầy, quê hương con cũng có nhiều đạo giáo, nhưng hoàn cảnh hiện nay, chẳng còn linh nghiệm gì. Hơn nữa chẳng có ai dẫn dắt con vào con đường tu nghiệm ấy. Xin Thầy hãy chỉ cho con đường đến Đạo Pháp của Thầy
                        -“Tận kỳ tâm,tắc tri kỳ tính. Tri kỳ tính tắc tri Thiên.” Trước hết phải đi vào chính lòng ngươi, sau đó hãy đi vào lòng nhân dân ngươi, đó là con đường cho ngươi và cho đồng bào ngươi bây giờ đó.
                        Những lời của Đạo Sư nói thì tôi cũng đã nghe, nhưng nó mơ hồ quá, tôi không thể nào hiểu được và chẳng thể nào áp dụng được cho hoàn cảnh hiện tại của quê hương .Tôi nài nỉ:
                        -Xin đại sư xót thương! Con đã không cần đến mạng sống, lặn lội ngày đêm, nay đến được nơi này, nếu thầy không ban ơn chỉ giáo, thì con nguyện bỏ thây nơi này chứ không về nữa.
                        Không gian và thời gian như tan vào hư vô, núi rừng chìm vào im lặng, con người như chẳng còn hiện hữu trong thế gian này... Sau một khoảng lặng rất lâu, tôi vẫn quì chờ đợi. Đột ngột,một giọng trầm ấm vang ra từ thạch động:
                        -Người thiện tâm áo rách kia, đã từ lâu ta không muốn nhận môn đồ, vì Đạo pháp mênh mông, huyền năng biến hóa khôn lường, trên đời này mấy ai lĩnh nghiệm được, chỉ toàn là ngộ nhận, rồi đem Đạo Pháp vùi chôn vào hố sâu của tội lỗi, gieo rắc khổ ải cho muôn dân. Đạo của ta hôm nay chưa chắc đã đúng với đất trời ngày mai, làm sao ta truyền cho ngươi Đạo của ta bây giờ? Biết đâu đây sẽ là mầm mống của thống khổ và tội ác mai sau.
                        - Thưa Thầy , con một lòng thỉnh giáo Đạo pháp của Thầy.
                        Vị Đạo Sư lại tiếp :
                        -Nhưng có lẽ cũng không ai vượt ra khỏi ý trời, hôm nay ta đành phải nhận ngươi làm môn đồ đầu tiên và cũng là cuối cùng của ta, mong rằng sau này ngươi phải thuận thiên mà hành đạo, nhất nhất phải tuân theo luật hiếu sinh của đất trời, thương xót muôn dân, gọt giũa cái tôi cho thật trinh bạch, tránh xa mùi phú quý lợi danh, kéo bè kéo đảng, tranh giành quyền lực, giết hại lê dân ,nếu không thì Đạo của ta sẽ có tác dụng ngược lại, gậy ông lại đập lưng ông,khi đó không những muôn dân sẽ thống khổ mà chính cái thân của ngươi sẽ uổng công bao năm tu luyện với ta, cuối cùng cũng chẳng giữ được nắm xương tàn của ngươi đâu, hãy nghe cho kỹ, kẻo sau này bảo rằng sao ta không dặn trước.
                        Nghe những lời răn ấy lòng tôi như sáng ra, thân tôi run lên cầm cập, nỗi vui mừng không tả xiết . Tôi lâm râm khấn nguyện: "Thầy ơi, người là cứu tinh cho linh hồn mông muội của con,Đạo pháp của Người là con đường sáng cho quê hương con. Con mãi mãi ghi nhớ lời thầy, xin thầy nhận nơi con ba lạy này”
                        -Ngươi, hãy đứng lên, vào trong thay đổi y phục, tắm gội cho thanh sạch, để rồi ngày ngày kinh sách , thức khuya dậy sớm, không được trễ nải . Từ đây ngươi phải làm quen với màu muối dưa kham khổ, quên đi mùi thịt cá nem chả cao sang, nệm êm chăn ấm,trong băng tuyết đông về không thấy lạnh,lửa hạ thiêu đốt không thấy nóng. Hãy luyện cái tâm sao cho, không chạy theo đàn hát xênh xang để lấy vui,lên xe xuống ngựa để thấy sang,phú quý vinh hoa không làm mờ mắt,áo mão cân đai không thấy đẹp, những lời nịnh hót chính là liều thuốc độc bọc đường,rượu ngon gái đẹp là địa ngục giữa thiên đường , võng lọng cao sang là mùi hương của cõi chết. Thất bại không được chán nản, thành công rồi không được khoác lác kiêu căng. Có như thế ngươi mới có thể mon men vào chánh đạo.
                        - Bẩm Thầy, con xin ghi lòng tạc dạ!
                        Kể từ đây, ngày ngày tôi miệt mài kinh sách, đêm đêm thầy tôi tĩnh tọa như một vị thánh sống,mắt nhắm nghiền, chìm sâu vào quán tưởng, không còn để ý gì đến sự vật chung quanh, đi vào cõi mênh mông của tâm thức, giảng cho tôi nghe lẽ Đạo lẽ Đời, Đời trong Đạo và Đạo trong Đời. Phải lấy Đạo mà soi sáng cho Đời, lấy Đời trùng tu cho Đạo, Đạo với Đời chỉ còn là Một.Đời mà không có Đạo thì Đời sẽ đi vào cõi mê lầm lạc, Đạo không có Đời sẽ không tưởng viễn vông. Có như thế Đạo mới dựa vào cái Sinh cái Động của đời mà trở nên vi diệu, còn Đời dựa vào Đạo để bớt lầm lạc vô minh, tâm cho thiện, trí mới sáng, thì Đạo mới mong cứu người giúp đời.Nhà chính trị cũng phải vừa là bậc chân tu, luôn luôn hun đúc lòng nhân. Nhân, trí ,dũng không thể thiếu một. Thầy tôi thao thao bất tuyệt còn tôi như chìm say vào lời khải thị của Người.
                        Năm tháng cứ trôi đi, ngày đêm chìm vào kinh sách làm cho khái niệm về thời gian mờ nhạt dần trong tâm thức tôi. Một hôm thầy tôi gọi tôi lại gần và ân cần bảo:
                        -Thế là đã hơn mười năm trôi qua,con đã theo ta học Đạo. Đạo pháp thì vô cùng, nhưng đời người lại có hạn và mục đích của con lên đây là tìm con đường cứu khổ giúp đời. Tuy là con chưa đạt được đỉnh cao của Đạo Pháp, nhưng lòng con cũng đã vững, con có thể quay về quê hương , kẻo ý nguyện của con không còn đủ thời gian để thực hiện. Điều cuối cùng ta muốn dặn con là Đạo của ta không phải là một thứ tôn giáo, vì theo ta, tôn giáo nếu bị lợi dụng thì chỉ đưa nhân dân vào con đường mông muội. Ta không phải là Giáo Hoàng. Sau khi con trở về quê, một thời gian nữa ta cũng xuống núi để hoằng hóa đạo pháp, đưa học thuyết của ta vào lòng nhân loại, biến thế giới thành thiên đường nơi trần thế . Ta phải thực hiện cho được ước nguyện đại đồng của ta.
                        -Bạch Thầy, Kinh sách của thầy đã đi vào tim con . Chúng ta đã đi theo con đường của Darwin ,Hegel, Feuerbach . Từ vụ nổ vũ trụ hàng tỷ năm về trước , sự hình thành thế giới này cũng chỉ là vật chất, từ vật chất mà ra, và cuối cùng cũng về lại vật chất. Lịch sử loài người là một lịch sử đấu tranh cho miếng ăn vì miếng ăn , ngoài ra chẳng còn gì nữa ! ? (Chẳng biết phải hoàn toàn như thế không, nhưng tôi cứ nói bừa , để thầy tôi vui lòng).
                        Ngay hôm sau , lưu luyến chia tay với thầy, tôi trở về quê hương , trên vai trĩu nặng một gánh kinh thư do thầy truyền dạy,mà tôi tin rằng nhờ đó mà tôi có thể làm thay đổi bộ mặt điêu tàn của đất nước tôi. Từ trên đỉnh Nga sơn, nhìn về hướng mặt trời, quê hương tôi như chìm trong sương mù . Những đỉnh núi chập chùng nhấp nhô giữa những tầng mây, cho tôi có cái cảm giác như mình không còn ở nơi cõi tục. Giá như không có vợ con, xóm làng, tổ quốc, thì tôi xin được ở lại với thầy, sớm hôm với muối dưa,áo vải , với núi rừng quanh năm tuyết phủ , để rồi một ngày kia quên đi cả chính mình . Nhưng bây giờ ,khoảng đất trời bao la kia lại là nơi tôi phải đến, bao nhiêu nỗi khổ của trần gian là nơi tôi phải gặp, bao cay đắng bất công của cuộc đời là nhiệm vụ mà tôi phải đem cái sở học của mình để giải quyết.Ôi, trần gian hàm chứa bao nỗi oan khiên ,cái vòng quay tử sinh nghiệp chướng luân hồi kia, biết bao giờ con người mới thoát ra được ?
                        Và ngày ấy tôi đã trở lại quê hương.
                        Khi tôi về đến làng thì mọi việc ở đây đã thay đổi quá nhiều . Vợ tôi, người ta nói đã qua đời sau một năm từ khi tôi từ giã nàng lên đường học đạo, các con tôi chẳng biết bây giờ lưu lạc phương trời nào, trai tráng trong làng hoặc bị bắt đi lính hoặc đã chết vì đói rét bệnh tật.Tôi hoang mang đến cùng cực, nhưng nghĩ đến mười năm phải lìa xa vợ con, lên đường tầm đạo, mà bây giờ về đây, cha mất con , chồng mất vợ, mất người thân, xơ xác xóm làng, tôi gượng dậy, quyết phải làm một điều gì đó để đền đáp ơn sinh thành cho cha mẹ tôi, trả ơn người vợ hiền chắt chiu từng xu khuyên tôi lên đường học đạo, cho mười năm khổ luyện với thầy tôi nơi thâm sơn cùng cốc.
                        Sau một thời gian sống trong cái chòi hoang mục nát, ẩm mốc, hôi thối, giã từ hương linh của vợ hiền , hành trang lên vai, tôi hướng về phía kinh thành. Đường đến kinh đô nước Đại Ngu như đi trên những lưỡi dao, một bên là địa ngục còn bên kia là thiên đường . Bên những thôn xóm xác xơ, không có lấy một tiếng gà gáy chó sủa, dẫu mùa này là mùa gặt hái thu đông , nhưng những đàn cò vẫn cao tít tầng xanh, vì chúng biết rằng chẳng có gì cho cái dạ dày trống rỗng của chúng khi đậu xuống cánh đồng lạnh lẽo trống huơ . Trái lại, thỉnh thoảng tôi lại bắt gặp những dinh thự nguy nga, từ xa đã nghe những tiếng đàn ca hát xướng suốt sáng thâu đêm, những tiếng cười của sự sung túc dư dật. Tôi đánh liều bước đến trước mặt mấy tên lính canh ,biết chúng là một bọn kiêu binh, được triều đình nuông chìu, để chúng bảo vệ ngai vàng mục nát, chúng có thể giết bất cứ ai mà chúng không ưa, nên tôi vội đặt quang gánh xuống đất và quì mọp:
                        -Bẩm quan lớn, kẻ tiện dân xin quan lớn cho thưa chút việc!
                        Tên đứng gần tôi nhìn bạn hắn cười, rồi quay lại :
                        -Nhà ngươi muốn nói gì ?
                        -Nghe nói Hoàng Thượng xuống chiếu chiêu hiền để tìm người tài đức giúp vua trị nước, xin quan lớn cho phép tiện dân được vào trong để bày tỏ gan ruột cùng bá quan và hoàng thượng.
                        Nghe chưa hết câu, bọn chúng đã nổi lên một tràng cười dài rồi nghiêm sắc mặt:
                        - Xem tướng tá nhà ngươi, thì đi theo ta vác giáo còn chưa chắc đã được, mà dám đòi giúp vua trị nước! Đúng là cóc muốn leo cột đình?
                        Biết là có lạy lục xin xỏ với chúng cũng vô ích. Nhớ lại ngày lên đường đi Tây Thiên, vợ cầm tay nhét cho năm quan tiền làm lộ phí, chịu đói khát suốt dọc đường, còn lại ba quan, tôi nghĩ chỉ còn cách đút lót cho chúng. Tôi lấy mấy quan tiền cuối cùng còn sót lại và phân trần:
                        -Bẩm quan! Kẻ bần đinh chỉ còn sót lại hai quan tiền ,xin quan lớn cầm để nhấp chén trà nhạt mà chiếu cố đến cái thân hèn này.
                        Bọn chúng thấy tôi xơ xác tiều tụy, biết có vòi thêm cũng chẳng có,một đứa đưa tay giật cái túi vải nâu cất giấu lâu ngày đã trở thành màu đen, rồi hất hàm:
                        -Đi đi . Nhưng hãy cẩn thận cái thân già của ngươi, quan trường là chốn hang hùm miệng sói, chẳng phải là nơi thôn dã quê mùa mà ngươi có thể ung dung ra vào.
                        Tôi mừng quýnh , cúi gập người chào mấy tên lính rồi bước thẳng về hướng đại nội, chờ một thời gian khá lâu để tên nha dịch bẩm báo. Một lúc sau, hắn trở lại cho biết tôi phải ra nghỉ ở dịch xá chờ 3 ngày để quan thượng thư bộ lễ thẩm xét quyết định .
                        Tôi chọn bộ quần áo đẹp nhất để diện kiến đức vua nhưng cũng chỉ là đồ cũ nát được giặt sạch lại thôi. Trước mặt bá quan áo mão cân đai sáng rực, tôi rụt rè bước vào nội điện và quì xuống mà đầu gối vẫn còn run:
                        -Kẻ tiện dân bái kiến hoàng thượng. Hoàng thượng vạn tuế - vạn vạn tuế
                        -Kẻ hàn sĩ kia, hôm nay ngươi đến đây có gì để giúp ta?
                        -Bẩm bệ hạ. Đó là kế sách an dân - hưng quốc . Thưa bệ hạ
                        -Kế sách của nhà ngươi như thế nào?
                        -Tâu bệ hạ, trước hết phải an dân . Chính sách An dân nói ra dài dòng nhưng có thể tóm tắt thành bốn ý, là làm cho dân no, dân tin , dân theo và dân xây dựng bảo vệ đất nước. Muốn an dân trước hết phải có quan thanh liêm, biết lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân, phép nước phải nghiêm minh, đã phạm pháp thì quan cũng xử như dân, phải thấm câu "thượng chính hạ nghiêm, thượng bất chính hạ tắc loạn”, dân nổi loạn chống lại triều đình, cái gốc là do quan chứ không phải do dân. Dù xây bao nhiêu nhà tù cũng không chứa hết lòng oán hận của nhân dân…
                        -Kẻ hàn sĩ kia ,như vậy chẳng hóa ra nhà ngươi cho rằng bá quan triều thần ta là không liêm khiết chăng ?Ngươi hãy giữ lấy cái đầu của ngươi đó.
                        -Bẩm Bệ hạ,tiện dân không hề dám mạo phạm như vậy, ở đây tiện dân chỉ bẩm tâu kế sách mà thôi, kính xin Bệ hạ mở lượng hải hà anh minh soi xét.
                        -Thôi, ta tạm cho ngươi gửi cái đầu trên cổ, bây giờ ngươi thử nói đến việc hưng quốc ?
                        -Bẩm Bệ hạ, nếu an được dân , tắc hưng được quốc. Ngày nay hưng quốc cái cơ bản là phải phát triển kinh tế, tạo ra nhiều của cải cho đất nước, mở rộng giao thương với nước ngoài, trao đổi hàng hóa, làm cho đất nước ngày càng giàu . Cần coi trọng giáo dục , phải minh minh đức, phải tân dân , dân trí phải cao, phá bỏ tập tục hủ lậu...và...
                        -Còn tín ngưỡng và tôn giáo thì sao?
                        -Muôn tâu bệ hạ, thầy con dạy rằng tôn giáo là sản phẩm của trí tưởng tượng của những kẻ yếm thế hoặc của những kẻ dư dật muốn được sùng bái tạo ra , để mê hoặc nhân dân ,là liều thuốc an thần cho những ai không chịu đựng nổi với sự thống khổ của kiếp nhân sinh.Trước mắt, ta chưa triệt bỏ được nhưng dần dần cần phải đưa tôn giáo ra khỏi xã hội văn minh…Đình miếu , chùa chiền dần dần sẽ phải biến mất trong xã hội ta .Bệ hạ đã thấy ngay từ thời nhà Lê ,Vương phi Ngọc Giao bị kết tội chết chỉ vì soát thấy trong phòng bà có tượng Phật đó sao? Đành rằng đó là cái cớ để Nguyễn Thị Anh triệt bỏ Ngọc Giao , nhưng đó cũng do chính sách của triều đình.Nói chung,theo chủ thuyết của thầy tiện dân thì tôn giáo là phản khoa học . Triết lý của các tôn giáo tồn tại trên đất nước ta và cả thế giới phải được thay thế bằng một nền triết lý khoa học.
                        -Thế còn Khổng giáo mà bao đời nay nó là nền tảng cho ngai vàng của ta thì ngươi nghĩ thế nào?
                        -Bẩm Hoàng Thượng, Đạo Khổng có chỗ còn dùng được nên ta chưa vội xét đến, hơn nữa nó đã in quá sâu trong lòng dân tộc ta, bây giờ không tách bỏ được . Triết lý là nền tảng của tư tưởng ,tư tưởng là nền tảng của văn hóa . Triết lý Khổng Mạnh đã đi vào mạch máu văn hóa của nhân dân ta .Bây giờ muốn giảm bớt ảnh hưởng của Nho giáo trong nền văn hóa của ta, chỉ còn cách là hình thành một tư tưởng triết lý mới có đủ sức đẩy lùi triết lý Khổng Mạnh ra khỏi nền văn hóa Nho giáo của dân tộc hiện nay.
                        Có lẽ cũng đã mỏi mệt, cuối cùng đức vua phán:
                        -Người hàn sĩ kia, những lý thuyết của ngươi nghe dài dòng quá, phải có thời gian để các quan bàn bạc, trình tấu với trẫm , sau đó mới biết có thu dụng được hay không ? Nay trẫm giao cho bộ lễ lo chỗ ăn ở cho ngươi chờ chiếu chỉ của trẫm. Truyền bãi triều.
                        Hơn hai mươi năm , triều đình dùng sách lược an dân - hưng quốc của tôi, đời sống của nhân dân đã có thay đổi.Nhưng có một điều kỳ lạ ,mà bao đời nay khó mà thay đổi được ,đó là cứ dân khá lên một thì quan lại giàu lên gấp trăm gấp ngàn lần.Từ triều đình đến quan lại các cấp đều giàu nhanh bất ngờ và đầy mờ ám. Chúng lao vào kiếm tiền với bất kỳ những thủ đoạn nào dù là tàn bạo nhất. Tôn giáo giờ đây cũng trở thành món hàng trao đổi giữa thần linh và con người .Chúa đã chết rồi chăng ? Phật đã chết rồi chăng ? Hoặc nếu còn sống thì cũng chỉ sống chung với quyền lực, dối gian và tội ác, cùng với lớp người cùng khổ mê tín dị đoan cầu xin được thoát khỏi cái địa ngục của trần gian .Với cái triết lý vật hóa triệt để của thầy tôi,những con người được xã hội nhồi nhét cho cái triết thuyết ấy, đã đi vào con đường vong thân và sa đọa cùng cực. Quan lại và những kẻ nhiều tiền lao vào những cuộc đỏ đen ăn chơi thâu đêm suốt sáng. Quyền uy ,tiền bạc ,rượu ngon gái đẹp, ngựa xe,ruộng đất ao vườn là mục tiêu , là vinh quang là tự hào của đời người. Tất cả các giá trị đều đã được vật hóa. Những căn cơ của Đạo Pháp thầy tôi truyền dạy thì tôi đã đem áp dụng. Không biết tôi còn thiếu sót ở chỗ nào mà giờ đây, dù có đem lại chút tiến bộ về vật chất cho đất nước, nhưng xã hội lại đi vào con đường sa đọa tối tăm, con người đã mất hết lương tri, nhân tính ,tình người trở thành mong manh mờ ảo, đồng tiền là thước đo của mọi giá trị? Hay đây là vấn đề của thời gian, thời gian vừa là nền tảng ,chứng nhân của lịch sử vừa là dòng sông cuốn cho lịch sử trôi đi, ai không chạy theo kịp với thời gian thì đành phải bơ vơ bên bờ lịch sử . Chẳng lẽ Đạo pháp của thầy tôi đã lỗi thời, chẳng còn thích hợp với xã hội loài người ngày nay nữa hay sao ?Giờ đây nỗi bâng khuâng ấy không bao giờ dứt trong tôi. “Bên nây dãy Py-rê-nê là chân lý" .Còn bên kia là gì hỡi thầy ? Chẳng lẽ thầy tôi đã sớm đi về bên kia của dãy Py-rê-nê ! “Thầy ơi, Đạo Pháp của thầy chẳng đuổi kịp với thời gian?Cái chính sách an dân – hưng quốc lâu nay con vẫn tự hào, ngày nay coi như đã phá sản!”. Tôi rên rỉ .Cái chức quan hành khiển bộ công của tôi giờ đây đã biến thành cái thòng lọng , mỗi ngày càng siết chặt vào cổ tôi.Vòng quẩn quanh vừa phúc đức vừa tai họa nghiệt ngã ấy cứ bám vào tâm hồn tôi ,không thể nào rũ bỏ được, dù đôi khi, lũ tôi tớ nhố nhăn lố bịch bon phót, làm cho tôi không thể nào chịu nổi, chúng ngợi ca tôi hết lời, chúng cho tôi là một ông quan vĩ đại nhất trần đời, công đức của tôi vĩnh viễn sống với thời gian, sẽ bất tử với non sông đất nước . Và bắt đầu từ con đường đầy đắng cay ấy, cái khối u quái ác nhen nhóm hình thành trong tôi lúc nào tôi chẳng hề hay biết,cho đến một ngày, thầy thuốc phát hiện thì đã quá muộn, vì tôi đã già nua mỏi mệt. Có điều rất kỳ lạ là cái khối u oan nghiệt kia , nó cũng hao hao giống tính nết của tôi. Nó và tôi không ưa gì nhau, nhưng lại cần có nhau, vì có tôi thì nó mới có đất để sống , còn tôi cần nó, như một chứng nhân lịch sử cho sự tồn tại vĩnh viễn với thời gian của tôi .Ôi, thương nhưng mà đau ,đau nhưng mà cần, ôm ấp nhau để tồn tại ,sao cái trần gian chật chội này nó trói buộc con người ta, tù đày con người ta, oái oăm đến thế!
                        Ban đầu cái khối u xuất hiện trong đầu tôi, từng đêm nó tỉ tê với tôi rằng nó vô hại, nó có thể sống chung hòa bình với tôi và còn giúp đỡ ủng hộ tôi nữa, thầy thuốc cũng nói thế, ông cho rằng đó là một khối u bẩm sinh, cái gen của dòng tộc tôi để lại, như một tất mệnh của tôi, lịch sử không cho tôi làm khác được, dần dà, tôi cũng quen đi...Nhưng rồi cái khối u lém lỉnh kia cứ lớn dần. Nó cũng có tất cả mọi bộ phận của một con người, nhưng đặc biệt là nó không có trái tim nó sống bám vào tôi . Nó chẳng yêu thương ai mà chỉ yêu chính nó. Nó chẳng có tha nhân.
                        Khi khối u lớn dần thì cũng chính là lúc cơ thể tôi mỗi ngày một yếu đi. Khối u đã di căn. Nó sinh con đẻ cháu, lập bè lập đảng, tha hồ đục khoét cơ thể tôi, nó tiêu diệt những tế bào tốt trong tôi, nó biến tôi thành một mảnh đất mầu mỡ cho nó. Bao nhiêu phương thức trị liệu của thầy thuốc đưa ra đều vô hiệu. Bây giờ cả cơ thể tôi đã là của nó. Bộ chỉ huy là khối u to tướng trong đầu tôi và tay chân bộ hạ của nó nằm khắp trong người tôi. Nhưng nó đã không cho tôi chết, vì điều đó có nghĩa là nó cũng chẳng còn đất sống.
                        Rồi một hôm, khi tôi đang mơ màng trong giấc ngủ nặng nề, thì khối u trong đầu tôi thét lên rằng: “ Này lão quan già ,pháp thuật mà ông đã hấp thu được nơi vị đạo sĩ bên Tây Thiên Nga Sơn xa xôi kia, công lao mấy mươi năm khổ luyện của ông là một môn pháp có đất mà không có trời ,có thân mà không có tâm, có thể xác mà chẳng có linh hồn ,làm sao mà chẳng dẫn đến bệnh hoạn cho thân ông và cho xã hội. Cái khối u mà ông và xã hội mang hiện nay là một sai lầm lịch sử mà nhân ông phải gánh chịu, không thể một sớm một chiều mà xóa bỏ đi được .Bản thân ông bây giờ ông đã bị tẩu hỏa nhập ma , đâu còn con đường nào cứu vãng cho cái thân già của ông. Ông có trách người ,oán trời cũng chỉ là vô ích”.
                        Tôi choàng tỉnh,mồ hôi toát ra toàn thân ,ướt cả gối chăn,trước mặt tôi là cái bóng đêm mờ mịt ,âm u...
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2012 07:42:16 bởi Kiều Giang >
                        #12
                          Ct.Ly 31.12.2012 01:02:36 (permalink)
                          #13
                            Kiều Giang 04.01.2013 15:13:20 (permalink)
                            Ct Ly thân mến,
                            Đúng như Ct Ly nói, khối u trong người, nếu phát hiện sớm thì còn chữa được. Còn khối u của xã hội và người tạo ra nó có lẽ sẽ vất vưởng qua nhiều thế hệ. Thật đáng buồn!
                            Cảm ơn CT Ly thấu hiểu và đồng cảm
                            Xin chúc Ct Ly một mùa xuân mới thắng lợi và hạnh phúc
                            Cho phép KG gởi lời chúc sức khỏe và chúc mừng năm mới BAN ĐIỀU HÀNH VÀ BAN BIÊN TẬP
                            Trân trọng
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.01.2013 20:40:20 bởi Kiều Giang >
                            #14
                              Kiều Giang 04.06.2013 12:41:02 (permalink)
                                   
                              Từ  ĂN XIN  Qua  ĂN CẮP  Đến  ĂN CƯỚP
                                                       Chính luận của KIỀU GIANG
                               
                                    Sau cái giấc mơ “đại nhảy vọt” , với việc “ đại công nghiệp hóa”  nước Trung Hoa “vĩ đại”  với  hàng triệu lò luyện kim bằng than củi trên khắp đất nước  của cố chủ tịch MAO TRẠCH ĐÔNG   bị phá sản, thì nước TRUNG HOA CỘNG SẢN như hoàn toàn rơi vào khủng hoảng, bế tắt. Tầng lớp trí thức ở thành thị hoang mang , mất niềm tin, uất hận vì phải sống trong tù ngục của tư tưởng, ở nông thôn, nông dân cùng kiệt đói khổ vì cái chính sách tập thể hóa đất đai, biến nông dân thành những con bò chỉ biết kéo cày, nếu như không có những nhà tù và những họng súng khát máu của chế độ tàn bạo của MTĐ( theo một sử gia người Đức thì MTĐ đã trực tiếp hoặc gián tiếp giết hơn 70 triệu người Trung Hoa trong mấy mươi năm cầm quyền) , thì 600 triệu  dân Trung Hoa đã nổi dậy phá tan cái gông cùm khổng lồ đang được kéo đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Trong nội bộ chóp bu của đảng CỘNG SẢN thì tranh giành quyền lực, thanh toán lẫn nhau một cách khốc liệt.  Cuối cùng, ĐẶNG TIỂU BÌNH (CÁI BÌNH NHỎ) thắng thế nhảy lên lãnh đạo nước TRUNG CỘNG hoang tàn.
                                  Sau trận thua đau VIỆT NAM, do nhà quân sự thiên tài VÕ NGUYÊN GIÁP chỉ huy, tập đoàn quân CÔN MINH của TQ, dưới sự thống lĩnh của tướng DƯƠNG ĐẮC CHÍ bị xóa sổ đầu năm 1979 ở biên giới VIỆT - TRUNG, đã làm cho “ CÁI BÌNH NHỎ” giật mình, dẫu rằng cũng ráng gồng mình tuyên bố rằng đã “ dạy xong cho VN một bài học”. BÌNH đã phải đặt lại vấn đề hiện đại hóa quân đội TQ.
                                   Trái với ông Thầy họ MAO  cho rằng MỸ chỉ là con HỒ GIẤY,và mạnh miệng tuyên bố là nhân dân Trung Hoa không sợ MỸ. Nếu như chiến tranh hạt nhân có xảy ra, thì nước Trung Hoa "vĩ đại" vẫn còn ít nhất là  300 triệu người, đủ để xây dựng lại một nước Trung Hoa Xã hội chủ nghĩa hung cường (?).(Một cái chết rất nhân bản và nhân văn phải không !)
                                    Cuối năm 1979, nhà lãnh đạo họ ĐẶNG với sách lược: “MÈO ĐEN CŨNG ĐƯỢC, MÈO TRẮNG CŨNG ĐƯỢC, MIỄN LÀM SAO BẮT ĐƯỢC CHUỘT”, xách gói qua MỸ để  XIN KỸ THUẬT VÀ VỐN  của  MỸ, nước mà cách đó không lâu TQ xem như là kẻ thù số một không đội trời chung, mưu đồ lấy máu của thằng em VN để ngăn chặn bước chân của chú SAM tiến lên lãnh thổ “thiên đường” TQ. ĐẶNG khoe rằng y có 700 triệu dân đang đói rách, nhân công rẻ mạt để làm miếng mồi nhử tư bản Mỹ. Vị Tổng Thống thứ 39 của Hoa Kỳ, người mà sau này đoạt giải NOBEL về hòa bình(2002) là JIMMY CARTER đã ân cần bắt tay ĐẶNG TIỂU BÌNH ở phòng bầu dục tại Nhà Trắng  và bật đèn xanh cho  các nhà tư bản Mỹ đầu tư vào TQ, hòng cứu vãng những suy thoái đang chực chờ trước mặt của nền kinh tế Mỹ. Nhưng vị Tổng Thống “hiền lành” của nhân dân Mỹ đã không thể lường hết tính quỷ quyệt của của những tên Đại Hán không bao giờ chịu nhường cho ai một bước chân, nếu không bị bắt buộc phải nhường bằng quyền lực và cái đám 600 triêu nông dân đang háu ăn vì đói, sẵn sàng bu vào những chú SAM để kiếm ăn với bất kỳ thủ đoạn nào.
                                 Thế rồi tư bản và kỹ thuật Mỹ, kể cả kỹ thuật cao đưa vào đầu tư sản xuất tạiTQ mong kiếm được lợi nhuận cao .Người Mỹ đã không ngờ  dân TQ là dân ĂN CẮP giỏi nhất thế giới. Những sản phẩm mà Mỹ mới sản xuất hoặc nhập khẩu vào TQ hôm nay thì ngày mai lập tức đã có hàng nhái của TQ tung ra thị trường với giá rẻ cạnh tranh với hàng chính hảng của Mỹ.Thế là sở hữu trí tuệ Mỹ bị TQ ĂN CẮP thoải mái. Nhiều lần Mỹ cảnh báo với nhà cầm quyền TQ, nhưng đã bị làm ngơ và nạn ĂN CẮP BẢN QUYỀN vẫn cứ tiếp tục.
                                  Mới đây, ngày 22-5- 2013, một ủy ban về ĐÁNH CẮP SỞ HỮU TRÍ TUỆ được AFP dẫn báo cáo cho thấy hàng năm Mỹ đã thiệt hại hơn 300 tỉ USD do bị đánh cắp sở hữu trí tuệ, trong đó TQ chiếm đến 80% tiếp đến là NGA và ẤN ĐỘ.
                                   Về thương mại hai chiều, trong khi Mỹ xuất khẩu sang TQ những mặt hàng có kỹ thuật cao để cho các doanh nghiệp trong nước của TQ ăn cắp kỹ thuật để làm hàng nhái, thì Mỹ trở thành bãi rác để chứa những loại hàng tiêu dùng  kém chất lượng có khi còn chứa nhiều chất độc hại chết người của TQ
                                  Không những Mỹ bị Trung Quốc  ĐÁNH CẮP SỞ HỮU TRÍ TUỆ gây thiệt hại cho Mỹ khoảng 200 tí USD hàng năm, mà nỗi năm cán cân thương mại chính thức vẫn cứ nghiêng về phía Trung Quốc 200 tỉ USD .
                                  Mặt khác, mặc dù đồng DOLLAR Mỹ liên tục bị phá giá trong 15 năm trở lại đây, nhưng chính phủ TQ vẫn không chịu nâng giá đồng NHÂN DÂN TỆ, với mục đích là chiếm thế thượng phong trong xuất khẩu hàng sang Mỹ, làm cho mỗi năm Mỹ phải mất ít nhất 200 tỉ DOLLAR về thâm hụt thương mại với TQ.Bộ Tài chính Mỹ nhiều lần đàm phán với phía TQ nhưng không thành công.
                                 Không những gây thiệt hại cho Mỹ và cả Châu Âu về mặt kinh tế thương mại, mà anh ba TÀU quỷ quyệt, sau khi đã hiện đại hóa đất nước, đã chuyển sang ĂN CẮP công nghệ  quốc phòng của Mỹ , kể cả của NGA, qua KHÔNG GIAN MẠNG. Tin tặc Trung Quốc, thực chất xuất phát từ Bộ quốc phòng TQ đã đánh cắp hàng loạt thông tin về hệ thống vũ khí hiện đại của Mỹ, từ tàu ngẫm , máy bay chiến đấu, trực thăng, đến lá chắn tên lửa…
                                Sau gần 30 năm người Mỹ đã sai lầm chìa đôi tay “TỐI HUỆ QUỐC” cho CHÚ BA TÀU, tưởng rằng có thể kiếm chác được gì đó tại quốc gia chiếm một phần năm dân số thế giới. Không ngờ chú SAM đã thất bại thê thảm . Mỹ biến thành con nợ lớn nhất của TQ với hơn 1000 tỉ ĐÔLA, ngược lại người Mỹ và Châu Âu đã biến một nước TQ nông nghiệp lạc hậu, với hơn 500 triệu người dân TQ sống dưới mức nghèo đói ở những thập niên cuối thế kỷ trước, biến những anh nông dân thành những nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, biến nước Trung Hoa lạc hậu thành một quốc gia có nền công nghiệp và quốc phòng hiện đại đáng gờm của Mỹ. Nước TÀU đã trở nên hùng mạnh nhờ khéo léo “dỗ ngọt” tư bản Mỹ và giỏi ĂN CẮP CÔNG NGHỆ TIÊN TIẾN của nhiều nước, còn nước Mỹ trở thành một nước khủng hoảng kinh tế chưa có hồi kết.
                                   Tuy là một nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, nhưng TQ  chưa hề bỏ một xu viện trợ không hoàn lại cho ai bao giờ, mà bắt đầu nuôi mộng bành trướng, đi ĂN CƯỚP của nước khác, đặc biệt là các nước láng giềng, không chừa một ai, cứ lấn được cướp được là lấn, là cướp, bất chấp luật pháp quốc tế. Đất đai của thiên hạ đã hàng triệu năm, nhảy vào chiếm rồi nói của mình. Biến Thái Bình dương mênh mông là thủy lộ chung cho tất cả các nước thành ao nhà của mình, không có một chút trách nhiệm nào của một nước lớn trong việc bảo vệ hòa bình và dân chủ trên thế giới.
                                  Nhưng giới lãnh đạo Trung quốc nên nhớ kỹ rằng, một nước dù hùng mạnh đến đâu cũng không có thể chống lại cả loài người tiến bộ và đầy lòng nhân ái, phân biệt rất rõ phải trái đúng sai, chứ không phải ngu muội, để dễ cho ai đó xảo ngôn lừa bịp, kể cả những người Trung Quốc yêu tự do dân chủ và hòa bình. Do đó những hành động ngang ngược, lấy mạnh hiếp yếu, chà đạp lên lương tri và nhân phẩm, coi thường luật pháp quốc tế, đi ngược lại với hiến chương Liên hiệp quốc, đi ngược lại những ước vọng chính đáng của loài người, cuối cùng chắc chắn sẽ thất bại hoàn toàn .Loài người không thể bị tiêu diệt, hành tinh xanh của chúng ta phải được bảo vệ. Chủ nghĩa quốc gia ích kỷ và hẹp hòi nhất định sẽ phá sản.
                               
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 04.06.2013 17:09:34 bởi Kiều Giang >
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 42 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9