Thanh nghe lời tôi, ngồi thẳng người lên, không khóc nữa. Nàng yên lặng nhìn tôi đăm đăm bằng đôi mắt đẫm lệ. Tôi ôn tồn hỏi: ”Em từ đâu đến đây tìm anh? Có chuyện gì mà buồn thế? Em cứ nói hết cho anh nghe. Nếu anh có thể giúp gì được cho em, anh sẽ hết lòng.”
Thanh lấy vạt áo chấm lệ, mím miệng thở dài rồi cất giọng gái miền Trung dịu dàng quen thuộc thuở xưa: “Em ở tận trên Việt Bắc, trong rừng thuộc tỉnh Thái Nguyên. Từ đó về đây, nơi nào có thuyền em đi thuyền, còn không thì đi bộ, mất ba ngày mới đến nơi, anh ạ. Chủ đích của em về đây gặp anh để cho anh biết chuyện của đời em, quan trọng mà buồn lắm!” Thấy tôi cũng yên lặng nhìn nàng, Thanh chớp chớp cặp mắt to đen, bắt đầu kể: ”Một ngày sau buổi chia tay với anh ở quán ăn tại Thanh Hóa, em và thằng em trai trở về Huế sớm vì em rất sợ phải gặp lại bạn bè trong nỗi đau buồn. Chúng em đi xe đến Huế đã mười giờ tối. Cha mẹ em thấy em khỏe mạnh thì mừng lắm. Mẹ em dọn cơm cho hai đứa ăn. Xong, mẹ em bảo em: ”Đường xa về mệt, con hãy đi ngủ ngay. Sáng mai, cha mẹ sẽ nói chuyện tương lai của con.” Hôm sau, em dậy sớm. Chờ em rửa mặt ăn sáng xong, cha em bảo: ”Như đã nói trong thư, cha mẹ gọi con về lập gia đình, xây dựng tương lai cho con. Con trai con gái lớn lên, ai cũng phải lập gia đình, như cha mẹ, rồi sinh con đẻ cái nối tiếp giống nòi. Chồng sắp cưới của con là con trai một người bạn thân của cha từ nhỏ. Gia đình anh ta danh giá, môn đăng hộ đối với nhà ta. Anh ta đã học xong trung học, lại biết khá nhiều về văn thơ và lấy bút hiệu là Tố Hữu. Tuy hai con chưa bao giờ có dịp gặp nhau, vì cả con lẫn anh ta phải đi học phương xa, nhưng cha mẹ thấy anh ta hiền lành nên rất ưng. Cha mẹ luôn luôn ước mong cho con có nơi nương tựa xứng đáng.”
(Đến đó, Thanh lắc nhẹ mái tóc đen hơi bù rối, kể tiếp). Cha mẹ em còn nói thêm là nhà trai xin làm lễ cưới vào tháng sau cùng ngày vì đó là ngày lành tháng tốt. Em không có ý kiến nào cả, chỉ biết chờ đợi sự diễn tiến của số mệnh mà thôi. Trước ngày cưới nửa tháng, người chồng tương lai của em theo cha mẹ đến trình diện chào hỏi cha mẹ em. Lúc đó, em nấp trong buồng nhìn ra để biết mặt chồng chưa cưới, chứ không được phép ra tiếp chuyện. Em thấy anh chàng dáng dấp thư sinh, không cao ráo khỏe mạnh đẹp trai, nhưng cũng không phải là người xấu trai, có vẻ hiền lành trong bộ quần áo dài cổ xưa chứ không mặc âu phục như các thanh niên thời nay. Hơn nữa, em thấy anh chàng có nhiều nét quê mùa là đằng khác.
Thế rồi, ngày cưới đến. Đám cưới được tổ chức linh đình cho đẹp mặt hai họ, vì cả hai gia đình đều khá giả. Lần đầu tiên đi làm dâu, xa gia đình, đến ở nhà chồng, cái gì cũng lạ lẫm. Cha chồng em rất hiền lành ít nói, duy có bà mẹ chồng người Huế đầu óc còn nặng phần cổ hủ phong kiến nên bà tỏ ra hơi khắt khe. Về phần các cô các cậu em chồng, chẳng ai tỏ ra thân thiện thương mến em cả. Thái độ chồng em lúc nào cũng lầm lì, khô khan, nên đời sống tình cảm của em thật buồn, nhưng số phận đã lỡ như vậy, em đành phải chấp nhận mọi thứ, kể cả việc làm vừa lòng mẹ chồng cùng các em chồng.
Chồng em hay vắng nhà. Khi ở nhà, anh ấy chẳng nói năng gì hoặc làm cử chỉ nào để biểu lộ sự yêu thương chiều chuộng vợ cả. Em chỉ biết có bổn phận làm vợ mà thôi, chứ không tài nào yêu chồng em được. Cứ như thế, em lầm lũi làm tròn bổn phận dâu hiền vợ ngoan. Được hơn một năm, em sinh con trai đầu lòng. Tới lúc đó em mới tìm thấy nguồn vui sướng và an ủi ở đứa con trai, nên em dồn hết tình thương vào nó, quên đi những chuyện xảy ra hàng ngày.
Thế rồi tới ngày 19 tháng Tám năm 1945, cách mạng tháng 8 của Việt Minh thành công. Lúc đó em thấy chồng em có vẻ vui sướng khác thường, lại đi họp đi hành liên miên. Có lần em tò mò hỏi Tố Hữu chồng em: ”Sao anh đi họp hoài vậy?” Chồng em hơi cau mày, lạnh lùng nói: ”Bây giờ cách mạng thành công, bổn phận làm trai phải đóng góp chứ.” Rồi anh ấy gật gù nói thêm: ”Sau này, nước ta sẽ không còn cảnh nhà giầu nhà nghèo, sẽ hết chuyện người bóc lột người hoặc dùng quyền hành áp bức đồng loại bắt người ta làm nô lệ nữa.”
Rồi một hôm, trong khi thu dọn quần áo của chồng đem đi giặt, em thấy chồng em để quên cái bóp đựng giấy tờ. Em tò mò giở ra xem thì thấy một giấy chứng nhận anh ấy là đảng viên cộng sản từ năm lấy em. Khi đó em mới hiểu, vì là đảng viên cộng sản nên chồng em hay vắng nhà đi hoạt động, chẳng ngó ngàng chú ý gì đến vợ con cả. Và khi cách mạng thành công, anh ấy lại hăng say hơn.
Đến cuối năm 1946, chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Nghe lời kêu gọi của chính phủ cộng sản, người dân ở thành thị tản cư và theo chính sách tiêu thổ kháng chiến. Gia đình nhà chồng em cũng đi tản cư về vùng quê, còn em thì bế con theo chồng đi lên Việt Bắc. Ở đó chính phủ trung ương lãnh đạo kháng chiến đặt bản doanh. Chồng em được cử làm chủ tịch văn nghệ kháng chiến. Anh ấy rất hăng hái hoạt động, làm thơ ca ngợi cách mạng, quên hết vợ con. Em thui thủi một mình lo lắng nuôi nấng chăm sóc đứa con và hầu hạ chồng mỗi khi anh ấy về thăm nhà. Có lẽ vì quá hăng say làm việc, đầu óc căng thẳng, nên anh ấy đâm ra khó tính, hay cáu gắt với em dù chỉ là một việc nhỏ nhặt chẳng đáng gì. Hơi tí anh ấy cũng lôi em ra phê bình gay gắt. Em buồn quá đâm ra lì lợm.
Cách đây hai năm, em sinh thêm một con trai nữa. Hai đứa con đem lại cho em niềm vui, làm em khuây khỏa, chứ nói thật với anh, lắm lúc em chán đời không thiết sống nữa! Từ khi lớn lên ở tuổi con gái học trò ngây thơ đầy mơ mộng, em chưa được hưởng hạnh phúc tình yêu. Năm học ở Thanh Hóa với anh, em chỉ có một tình yêu đơn phương câm lặng. Người em yêu là anh mà anh đâu có biết. Lúc nào anh cũng mang vẻ nghiêm nghị đạo mạo của một ông anh, ông thầy. Em là con gái, lại là con nhà nề nếp, nên tuy rất yêu mà không dám thổ lộ tình cảm với anh. Em sợ anh sẽ khinh em là con gái Huế lãng mạng thiếu giáo dục, nên em đành ôm mối tình câm và sau đó phải trở về nhà tuân theo lời cha mẹ đi lấy chồng, một người xa lạ mà em không yêu.
Lúc ấy, em nghĩ rằng vì không có hoàn cảnh gặp nhau để phát sinh ra tình yêu, nhưng sau này thành vợ thành chồng sẽ nẩy nở tình cảm. Nhưng số em không may. Từ ngày lấy chồng đến nay đã có hai mặt con rồi mà em chưa hề được hưởng một cử chỉ âu yếm, lời nói ngọt ngào từ người chồng mà chỉ nhận được sự hững hờ cay đắng thôi. Nhất là từ khi vợ chồng dắt nhau đi tản cư lên Việt Bắc, anh ấy quá ham mê quyền lực danh vọng, xa lánh vợ con. Hôm nào anh ấy về nhà là có chuyện, không chuyện này thì chuyện khác. Em chỉ còn biết ôm con khóc thôi, trong bụng mong cho anh ấy đi cho sớm và càng ít về càng hay!
Kể đến đây, anh Hữu Loan chợt ngừng lại, nhìn tôi hỏi:
- Chuyện dông dài quá nhỉ?
Tôi vội nắm tay anh, miệng ân cần:
- Em phục trí nhớ của anh. Anh em mình gặp nhau lần này, biết bao giờ em mới trở lại đây để đàm đạo với anh nữa. Những chuyện thâm sâu ấy cần được phơi bày hết ra một lần cho đồng bào hải ngoại và có thể quốc nội được hiểu rõ mọi chuyện. Xin anh cứ kể tiếp.
Anh Hữu Loan thở dài, cất giọng trầm trầm đặc sệt âm điệu Thanh Hóa:
- Anh cũng chiều ý em, Hưng ạ. Có một điều anh cần cho em biết thêm. Đó là Thanh tuy là gái Huế, nhưng qua nhiều tháng tiếp xúc với bạn bè tứ xứ và nhất là sau biết bao cuộc trò chuyện riêng với anh, tiếng nói của nàng rất đặc biệt. Nó vừa mang âm thanh Huế cổ kính và âm sắc du dương của Hà Nội, vừa đượm âm hưởng xứ Thanh Hóa rất nhẹ nhàng của anh, khiến người nghe dễ bị “thôi miên”. Thế mà anh chàng Tố Hữu không hề cảm động. Có lẽ đó là hiện tượng chung cho đa số thanh niên Bôn-Chê-Vích chăng? Riêng anh là một ngoại lệ, cũng như một số nhỏ thanh niên trong thế giới cộng sản này, nên anh không khỏi mủi lòng trước cảnh “nhi nữ trường tình”. Và, anh đã chú ý nghe Thanh kể lể.. .. ..
.. .. .. Thanh vén tóc, vạch áo cho anh thấy những vết bầm tím trên đầu trên người, trông thật phũ phàng với những dấu đòn thù thô bạo in vào làn da trắng mịn vô tội! Thanh ngước mắt nhìn anh, mấp máy cặp môi mềm đầy quyến rũ, hiến cho đời và cả anh những lời nỉ non của một sầu nữ diễm tình:
”Anh Hữu Loan ơi! Từng giây từng phút trôi qua trong cái quá khứ nhạt nhẽo ấy mà chỉ riêng em buồn tủi một mình, không có ai thân thiết mà tâm sự cho vơi đi niềm đau nỗi khổ. Em đã dằn lòng nhịn nhục hết sức rồi mà vẫn không thay đổi được gì. Cây muốn lặng gió chẳng muốn dừng. Sự chịu đựng của con người cũng có hạn thôi chứ, khổ nhục quá ai chịu nổi! Con giun xéo lắm cũng quằn mà! Cách đây một tuần lễ, anh Tố Hữu về nhà. Em lo cơm lo nước cho anh ấy, cố làm tròn bổn phận người vợ. Em nhận thấy nét mặt anh ấy lúc nào cũng đăm chiêu đầy khó chịu. Thằng con lớn của chúng em lại hay nghịch ngợm phá phách. Thế là anh ấy kiếm chuyện đay nghiến em: ”Ở nhà cả ngày, có hai đứa con mà cũng không biết lo dạy dỗ, để chúng nó phá phách thế à! Mai sau lớn lên sẽ hư hỏng!” Em bực mình quá nên cãi lại, dần dần hai vợ chồng thành to tiếng. Cơn nóng giận của anh Tố Hữu nổ bùng lên. Anh quát tháo mắng em là “con nhà mất dạy vô giáo dục” dám cãi lại cả chồng. Trời ơi! Chửi em là “con nhà mất dạy vô giáo dục” là đụng đến cha mẹ em rồi! Em không dằn được nữa, nên em cãi lại hăng hơn, không còn nể nang gì anh ấy nữa. Em cũng dùng những câu nặng nề chỉ trích gia đình anh ấy, làm anh ấy càng nổi nóng thêm, miệng hét toáng lên, lao người tới chỗ em đứng, một tay nắm lấy tóc em quấn chặt lại! Rồi anh ấy vừa đè em xuống vừa dùng tay kia đánh em một trận không nương tay. Đánh xong, hả cơn giận, anh ấy vơ lấy áo quần cho vào cặp, xách ra cửa đi luôn!
Sau trận đòn, khắp, người em đau ê ẩm. Tủi thân quá, em vào buồng ôm hai đứa con thẫn thờ vì hoảng sợ, em khóc sưng cả mắt. Với mối uất hận ngập trời, em tự nhủ em không bỏ phí cả cuộc đời, sống trong cảnh khổ đau mãi như thế được. Chồng gì mà vũ phu quá! Cuối cùng, em quyết định xin ly dị để không còn sống trong cảnh địa ngục trần gian như thế này nữa! Suy đi tính lại suốt đêm, sáng hôm sau, em dậy lo cho hai con ăn uống xong, tuy thân thể mặt mũi còn đau, em lấy giấy bút ra thảo ngay một lá đơn xin ly dị với các lý do đến từ câu chuyện xung đột giữa hai vợ chồng. Em ký tên sẵn một bên và để trống một bên cho anh ấy ký sau.
Kèm theo lá đơn xin ly dị, em còn viết riêng cho anh Tố Hữu một bức thư dài, trong đó có đoạn như sau:
”.. .. .. tôi lấy anh là do lệnh của cha mẹ tôi. Từ ngày ấy cho đến nay, tôi âm thầm chịu đựng cố gắng làm tròn bổn phận làm vợ làm dâu con. Thật ra, tôi chưa hề xúc động một tí nào với anh mà cũng chẳng cảm thấy yêu thương anh một giây phút nào cả. Thêm vào đó, tôi chưa bao giờ được hưởng hạnh phúc dù cũng chỉ là giây phút. Trái lại, cuộc sống vợ chồng chứa chất toàn chuyện cãi cọ do anh gây sự mắng nhiếc tôi. Vừa rồi, anh lại giở thói vũ phu thuộc loại côn đồ ra đánh đập tôi. Cho nên, tôi không còn muốn sống chung với anh nữa. Anh nên ký tên vào tờ giấy ly dị mà tôi viết sẵn kèm theo đây,.. .. ..”
Kể đến đó, Thanh ngửng đầu nhìn anh bằng ánh mắt vô cùng tha thiết. Nàng nhắm mắt vài giây rồi mở ra như quyết định lần cuối cùng trước khi thổ lộ một điều hệ trọng. Bằng giọng nói run run như của thiếu nữ lần đầu trao đổi lời yêu đương với người tình, Thanh nói trong hơi thở:
”Anh Hữu Loan ơi! Em đã nói trong thư gửi cho anh Tố Hữu những lời sau đây: ”Lúc còn con gái đi học ở Thanh Hóa, tôi đã quá yêu anh Hữu Loan. Đó là một con người có học thức, nhiều đạo đức, và là một nhà thơ nổi tiếng thời nay với bài thơ khóc vợ nhan đề Màu Tím Hoa Sim. Chắc anh cũng biết bài thơ đó. Lúc ấy, tôi đã yêu anh Hữu Loan một cách đơn phương, câm lặng, chỉ mình tôi biết cho chính tôi mà thôi. Anh Hữu Loan rất đứng đắn. Anh ấy dạy tôi và các chị em bạn tôi trong lớp riêng tại nhà. Ai ai cũng mến anh ấy, nhưng anh ấy quá nghiêm trang, coi tụi tôi như những người em gái mà thôi. Đó là mối tình đầu của tôi và tôi đã chân thành dâng hết con tim cho anh Hữu Loan. Tuy không được đáp lại, nhưng tôi luôn luôn tôn thờ mối tình cao đẹp đó.
Thế rồi bỗng dưng cha mẹ tôi gọi về, gả tôi cho anh. Tôi nào có quen anh yêu anh đâu. Chỉ vì chữ hiếu nên tôi phải vâng lời cha mẹ. Còn anh Hữu Loan lấy vợ được vài ngày thì chị ấy chết đuối.
Ngày mai, tôi sẽ gửi hai con cho người bạn, và tôi sẽ đi thật xa, về tỉnh Thanh Hóa, tìm đến anh Hữu Loan, kể cho anh ấy hết tâm sự của tôi. Tôi sẽ nài xin anh ấy hãy thương tôi và nhận cho mối tình sâu đậm chân thành mà tôi đã từng dành cho anh ấy. Nếu anh ấy chấp nhận tình yêu của tôi, tôi sẽ ở lại với anh ấy đến bạc đầu. Còn hai con, nếu anh lo cho chúng được thì càng hay, bằng không anh biên thư về Phòng Chính Trị khu Tư cho tôi biết, tôi sẽ về nhận hai con để nuôi nấng dạy dỗ chúng cho nên người sau này, vì tôi thương hai con tôi vô cùng.”
Viết xong, em để cả hai tờ giấy trên bàn, rồi mang con đi gửi. Đoạn, em thu xếp quần áo thường dùng vào tay nải, lên đường ngay. Suốt trong ba ngày lặn lội bằng cả đường bộ lẫn đường thủy, em tới được Thanh Hóa, hỏi thăm chỗ anh ở và tìm đến gặp anh đây nì, anh Hữu Loan yêu dấu ngàn đời của Thanh...ơi....!!!
(Còn tiếp)
Tác giả: Nhạc sĩ TRỊNH HƯNG.
Bố ơi, chết bỏ là làm sao vậy, thân mình ăn đâu ở đâu, bố ơi (khóc bố)
Tiếng Mường:
Pa hôn piải píai on đưa on cai, no ti kung pò kung mè, ăm guôm ăm ka.
Pò ơi, chít bô ta la no pò, thân ho ợm no, ở no pò ơi!
Còn nhiều từ khác, Việt Nam chúng ta mượn của Chàm, Cao Miên, Malaysia, Indonesia v.v... (Chúng tôi sẽ trở lại chi tiết này sau)
I. Sau đây là những từ Hán –Việt đã được nho hóa:
Suy = suy tàn, suy vi, suy yếu, suy sụp, lụn bại, yếu, xuống. Thí dụ: Sau vụ đó tinh thần ông ta suy sụp. Dòng họ đó sau mỗi đời cứ suy dần. Suy phản nghĩa với thịnh là lên, tấn tới, mạnh, thịnh đạt.
Tán = tứ tán, tán loạn, phân tán, làm vỡ ra, đâm, tán nhỏ, giã thành bột. Thí dụ: Muối đóng cục cứng quá, phải tán nó ra. Phải uống thuốc tán, dễ uống hơn thuốc sắc lên.
Tàn = hết, cuối chầu, không còn lại gì nữa. Tàn lụi, tàn mạt, tàn tệ, tàn ta, tàn cuộc.... Thí dụ: Đời nó coi như tàn rồi, không nghề nghiệp, không đồng xu dính túi. Xin đừng gạt tàn thuốc lá xuống sàn.
Tản = tản mát, tản lạc, di tản, thưa ra. Thí dụ: Xin mọi người tản ra chỗ rộng để tránh nguy hiểm. Sau khi tập hợp, binh sĩ tản hàng để lo công vụ.
Tao = sợi dây, một tao, quai thao biến thể của tao. Thí dụ: Năm tao thành một sợi, năm sợi thành một thừng lớn.
Táo = khô ráo, táo bón. Thí dụ: Ông X bị táo bón nặng. Bị bệnh táo bón sẽ sinh thêm các bệnh khác.
Tạo = tạo dựng, tạo tác, chế tạo, làm lên, làm ra..Thí dụ: Trong năm năm, bà ấy đã tạo được một cơ sở làm ăn vững chắc. Không có thì tạo ra cho có, đừng ngồi than thở.
Tặc = gian tặc, tặc tử, tặc thần, kẻ cướp, kẻ làm loạn, kẻ làm phản. Thí dụ: Nó là một tặc tử, một đứa con đánh chửi cha mẹ. Bọn gian tặc đã giết người cướp tài sản của dân lành.
Tẩm = ngâm trong chất lỏng, tẩm rượu, tẩm nước.... Thí dụ: Phải tẩm rượu ba ngày mới dùng được. Trước khi rán phải tẩm bột có trộn trứng gà.
Tập = tập giấy, tập vải, thếp, chồng (sách). Thí dụ: Bà ấy rút ra một tập tiền mới. In nhiều quá, một tập giấy trong ba ngày đã hết. Một tập sách trong một bộ sách.
Tập còn nghĩa khác: học làm, học để theo, bắt chước việc gì. Học tập, tập tành, tập thử. Thí dụ: Cô ấy đang tập thể dục buổi sáng. Phải tập làm lấy cho quen, tại sao cứ phải đi nhờ?
Tầng = tầng lớp, giai tầng xã hội. Tầng nhà Thí dụ: Cao ốc đó có tám tầng và một tầng hầm. Giai tầng xã hội của chế độ cộng sản vẫn phân biệt giàu nghèo.
Ti = nhỏ , quá nho. Tị hiềm,ti tiện, ti tiểu. Từ kép li ti là do ti Hán–Việt này. Thí dụ: Có những chấm trắng nhỏ li ti hiện trên màn ảnh. Đó là một mớ dây rối, kết bằng những sợi nhỏ li ti.
Tì = Vết, dấu vết, có vết không tốt lành. Chiếc vòng ngọc khá đẹp, nhưng rất tiếc một tì vết nhỏ. Suốt 20 năm làm việc cho chính phủ, bà ấy không có một tì vết nào.
Tị = không ưa nhau, ganh tị, tị nạnh, tị hiềm, ghen tị. Thí dụ: Cô ta thường hay ganh tị về sắc đẹp với các bạn. Hai người đó đã có sẵn mối tị hiềm.
Tỉ = so sánh, giống như, ví như, bằng với. Tỉ dụ, tỉ như. Thí dụ: Tỉ như công việc trước đây anh đã làm, không khác gì cả. Công đức cụ ấy quá lớn, tỉ như núi cao.
Tinh = tinh vi, tinh xảo, tài giỏi, thạo nghề. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh (Có nghề giỏi trong tay, đời sống sẽ khá).
Tính = Tính nết, tính tình, tính hạnh, bản chất. Thái độ, thói quen, phản ứng của một con người. Thí dụ: Tính anh ta từ xưa đã như thế, không thể thay đổi được. Cha mẹ sinh con Trời sinh tính.
Tính = còn có nghĩa là tính toán, dự tính, giải quyết, tính chuyện, định làm gì đó.... Thí dụ: Vấn đề này các anh tính làm sao? Học sinh này giỏi về tính (toán) lắm.
Tình = tính tình, tình cảm, tình ái. Tình người, tình yêu, tình yêu nước (ái quốc). Thí dụ: Tuy không còn tình yêu, nhưng vẫn còn cái nghĩa với nhau. Còn tình đâu nữa là thù đó thôi. Cách dùng của người Việt: hai từ kép tình cảm và cảm tình khác nhau: tình cảm (ở VN bây giờ gọi là cảm tính) là feeling, sentiment, nghĩ gì về một người. Một đối tượng, phản nghĩa với lý, lý tính.; còn cảm tình là sympathy ưa thích ai, yêu thương ai. Thí dụ: Tôi có cảm tình với diễn giả đó. Ông ấy là người khô khan, ít tình cảm.
Tỉnh = tỉnh táo, tỉnh dậy, thức tỉnh. Tỉnh phản nghĩa với mê, say. Thí dụ: Tỉnh lại đi, anh nằm mê, nói ú ớ nghe sợ quá! Anh ấy uống rượu quá chén, ngủ li bì, tỉnh dậy thì đã 3 giờ chiều rồi.
Tĩnh = tĩnh lặng, yên tĩnh, tĩnh tâm, tĩnh tại, tĩnh tọa.... Không ồn ào, ít tiếng động, không di động. Phản nghĩa với tĩnh là động. Thí dụ: Ở khu phố đó tĩnh lắm, ít xe cộ, ít trẻ con. Ta dại ta ngồi nơi tĩnh lặng; người khôn, tìm những chốn lao xao.
II. Sau đây là những từ Hán –Việt đã được nho hóa:
Tập = xấp, thếp/ tệp giấy, xấp tiền. Thí dụ: Cô ấy đốt đi cả một xấp thư tình. Ông X rút ra một thếp tiền mới tinh.
Tầng = từng, từng nhà lầu, từng lớp xã hội, từng từng lớp lớp. Thí dụ: Anh ấy ở khu chung cư bốn từng. Các từng lớp xã hội ai cũng cần đến món hàng đó.
Tháp = sạp, giường nhỏ và dài; sạp gỗ để ngủ. Thí dụ: Cụ ấy thích bày sập gụ tủ chè khảm xà cừ.... Bà A có một sạp vải ngoài chợ.
Thằng = thừng, dây thừng, dây đỏi, dây chạc. Chằng, dây chằng. Thí dụ: Sợi dây thừng này bện bằng tre nứa nên không được bền. Phải chằng buộc dây cho kỹ càng.
Thấu = thạo, giỏi, quen tay nghề, thành thạo (rành rẽ). Thí dụ: Anh X thạo nghề đan rổ rá lắm. Bà B tỏ ra rất thành thao trong vấn đề này.
Thô = vải bố, vải to sợi; ô dề, không gọn gàng xinh xắn. Thí dụ: Ông B đang nằm ngủ trên ghế bố kia kìa. Cô X chê dáng người anh X ô dề lắm!
Thốc = trọc lốc, không có tóc. Thí dụ: Thanh niên hiện nay có kiểu cắt tọc trọc. Cứ cạo trọc đầu đi là mát nhất.
Thôi = hối thúc, giục giã, hối hả. Thí dụ: Bị mọi người hối thúc quá anh ấy phải ra mặt. Cứ để từ từ, đừng hối cô ấy quá.
Thối = thoái thác, chối (từ), không nhận lời. Thí dụ: Đừng chối tội, hãy nhận tôi đi. Xin ông bà đừng từ chối, xin cứ nhận cho.
Thũng = bủng, sưng lên (bệnh phù thũng), bủng beo. Thí dụ: Chân bệnh nhân bị sưng to lên. Nó bị bệnh sốt rét, nước da xanh bủng xanh beo.
Thích = chích, đâm vào, Chích là dùng lời nói mà chọc, hoặc vật nhọn để đam vào. Thí dụ: Ông A thường hay nói châm chích người khác. Bệnh nhân này cần chích thuốc ba lần nữa mời khỏi bệnh. Đứa bé bị ong chích sưng cả mặt lên.
Thiền = ngồi im lặng để suy tưởng, (Chùa) chiền. Thí dụ: Miền Bắc có nhiều chùa chiền cổ.
Thời = thì giờ, xổi (tạm, vội vã), không có đủ thời gian, chỉ có rất ít thì giờ. Thí dụ: Dưa muối xổi không ngon bằng dưa nén. Không nên tin vào những người chỉ quen ăn xổi ở thì.
Thoán = choán, choán chỗ, chiếm lấy. Thí dụ: Bà này thưa gửi bà kia là bị choán chỗ. Cái bàn này lớn quá, choán hết chỗ ở phòng này.
Thống = xốn, xốn xang (đau , khó chịu). Thí dụ: Người bệnh thấy bị xốn trong mắt bên phải. Ăn mặc hớ hênh như thế, ngó xốn con mắt quá!
III. Góp ý với ông Bùi Văn Phú.
Tôi đọc báo Viet Mercury mới đây thấy có bài “Thư độc giả” của ông Bùi Văn Phú. Nội dung có liên hệ đến chữ nghĩa, ngôn ngữ Việt nên tôi xin được góp ý kiến. Ý kiến của tôi là người trên 70 tuổi có thể bị chê là cổ hủ, chậm tiến, thiếu thông tin quốc tế, nhưng nghĩ sao tôi viết thế, dù có bị phê bình là “chống cộng đến đêm’.
a. Tôi không nghĩ là nhà văn cộng sản Nguyên Ngọc, một cán bộ văn hóa “có tầm vóc” can đảm dám nói lên sự thật. Ông Nguyên Ngọc phải là người như thế nào mới được “nhà nước” cho đi tham quan và nghiên cứu. Nếu không ông sẽ tìm cách để trốn ở lại Mỹ, tìm tự do. Ông cán bộ khen Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng khác nào em hát chị khen hay, chẳng khác nào Nguyễn Đắc Xuân khen Ngụy Ngữ, Fidel Castro khen Phạm Văn Đồng.
b. Ông Nguyên Ngọc nói: ”Nền giáo dục Việt Nam ở phía Bắc suốt mấy mươi năm nay hoàn toàn không dạy triết học. Người ta chỉ dạy chính trị thôi” Điều tiết lộ này không có gì mới mẻ. Ai cũng biết từ sau 1975, rất nhiều người biết từ 1954 và nhiều người biết từ 1945. Nhà nước cho phép nói như thế cũng chẳng hại gì. Và bây giờ đã dạy triết chưa, dạy thứ triết học nào, hay là thứ triết nào có lợi cho chủ nghĩa thôi?
Ông nhà văn cán bộ cao cấp, ăn lương tháng của nhà nước trả lời: “Không được đọc, vì không có điều kiện, thiệt thòi cho những người trong nước quan tâm đến văn học” khi được hỏi là có đọc nhiều sách báo xuất bản ở hải ngoại không. Ông nói nghe dễ thương vô cùng. Tôi nghĩ ông ta đã không thành thật khi tâm tình như thế. Tôi nghĩ ông đã đọc rất nhiều (không phải đọc hết, vì có những cuốn viết về triết, tôn giáo rất khó hiểu, nếu trình độ thấp) vì đó là bổn phận của ông ta. Ông ta có thừa điều kiện để đọc, chẳng qua chỉ trả lời tránh né cho xong. Nhóm cán bộ tuyên truyền ở bên ngoài Việt Nam gửi về chắc không thiếu một cuốn sách nào xuất bản ở Mỹ, Gia Nã Đại, Úc, Pháp...
c. Ông Bùi Văn Phú lạc quan hy vọng rằng “Nhà văn Nguyên Ngọc sẽ tìm đọc được nhiều tác phẩm xuất bản ở hải ngoại để rồi có những nhận định khách quan về nền văn học của người Việt ở hải ngoại và chia sẻ những nhận định đó với đồng nghiệp trong cũng như ngoài nước”. Tôi thì cứ lo xa là ông cán bộ “có tầm vóc” lại có những nhận định rất chủ quan, thiên lệch. Ông không thể nào có nhận định khách quan được. Ông bắt buộc phải có nhận định chủ quan bất biến của đảng. Bởi ông không làm thế ông sẽ bị đào thải, bị cho “thôi chức vụ”ï ngay, mất chiếu ngồi ngay tức khắc. Ông ta cũng chẳng cần chia sẻ với ai, ông ra lệnh và ra chỉ thị. Đồng nghiệp ở ngoài nước có cần ông ta chia sẽ nhận định của cán bộ lớn không? Tôi chắc là không, nhà văn nhà báo ở hải ngoại đủ sức nhận định rồi. Đàn em của ông ở trong nước là phải nhận liền nhận định của ông ta là đúng trăm phần trăm.
Do đó báo Viet Mercury có cho chạy trên internet những bài tương tự, theo tôi có cũng được, không cũng chẳng sao.
Tôi cũng buồn ông Nguyễn Xuân Hoàng, ông dành độc quyền phỏng vấn “nhà văn Nhớn” kín đáo quá, chẳng cho phép chúng tôi hỏi ké ông cán bộ gộc vài câu ấm ớ! Tôi chợt có một đề nghị, là làm sao tổ chức Mỹ nào đó mời được ông Trần Bạch Đằng, hoặc bất cứ một ông nhà văn nhà thơ cán bộ nào qua họp báo hoặc cho thính giả nghe chuyện thật ở Hà Nội, Sài Gòn. Hoặc nếu không tiện, đề nghị ông Nguyễn Gia Kiểng, Nguyễn Gia Xương hay ông đại diện Phạm Ngọc Nhân tổ chức hội luận mời các nhà văn lớn của chế độ làm diễn giả chính. Bữa đó để bảo đảm an ninh các đồng chí thân thương, các ông đó sẽ cho chào lá cờ linh thiêng, màu đỏ có sao vàng ở giữa, nhưng sẽ thuê chừng 30 cảnh sát võ trang có dắt theo chó săn nữa cho chắc ăn. Muốn cho chắc ăn hơn nữa, cứ đặt cảnh sát chặn ngay ngoài cửa, khám xét kỹ lưỡng mới cho lọt vào. Ông bà nào có dấu hiệu cờ vàng ba sọc đỏ, bất cứ dưới hình thức nào là cấm cửa. Lật hết ống quần ve áo ra mà khám cho thật kỹ, như thế cử tọa vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt, chẳng có ai dám giơ tay chỉ mặt mắng mỏ.
Chỉ vất vả cho cụ Võ Tư Đản và ông cựu trung tá không quân Chu Tấn phải tổ chức hội luận chống đối. Thật là mệt cho hai vị đó quá!
Đề nghị thứ hai là nhà nước ta sẽ trịnh trọng mời hai vị cỡ danh tiếng ở tù lâu năm như nhà báo Thanh Thương Hoàng, nhà văn chống cộng nổi danh như ông Tưởng Năng Tiến về mở họp báo trả lời phỏng vấn ở ngay hội trường vườn hoa Ba Đình và tự do đả kích chủ nghĩa xã hội. Xong đâu đó hai vị trên thong thả mỉm cười bước lên máy bay trở về San Jose, sau khi đồng chí phụ trách Văn hóa Tư tưởng trong Bộ Chính trị và đồng chí Bộ trưởng Thông Tin ra tận chân cầu thang máy bay, ôm hôn từ biệt thắm thiết! Mong lắm thay!!
Nghe Thanh thổ lộ trong nước mắt tâm sự đau buồn của nàng, tôi (Hữu Loan) vừa xúc động vừa thương hại Thanh. Nhưng điều này đưa tôi vào cái thế vô cùng khó xư.û Thật tình tôi không hề biết việc Thanh đã yêu tôi từ ngày còn học ở Collège Thanh Hoá. Khi ấy, trong các lớp tư gia của tôi có nhiều nữ sinh. Tôi đều coi họ như em gái thôi. Bản tính tôi rất đứng đắn đối với phụ nữ, luôn luôn tôn trọng đạo đức làm người. Cho nên, tôi hằng quan niệm tình yêu giữa thầy trò là chuyện không trong sáng.
Giờ đây, tôi chỉ ngồi yên lặng nghe Thanh khóc lóc kể lể hết quãng đời làm vợ của nàng cho vơi đi nỗi buồn khổ. Chờ cho đến khi nàng ngừng nói một lúc, tôi mới nhẹ nhàng khuyên Thanh:
- Anh rất xúc động và cảm ơn Thanh đã dành cho anh một tình yêu cao đẹp. Anh sẽ giữ trong lòng cảm tình đó như một kỷ niệm quí báu suốt đời anh. Giờ đây, mọi việc đã lỡ rồi. Ta hãy coi đó là số mệnh do Trời an bài cho mỗi con người. Em hãy tạm quên đi những u uẩn của đời mình. Bây giờ, anh dẫn em đi ăn cơm nhé. Sau đó, về đây anh sẽ chỉ chỗ cho em nghỉ ngơi qua đêm cho thân xác khoẻ khoắn, tinh thần yên ổn. Tất cả mọi việc rồi sẽ qua đi một cách êm xuôi. Em đừng suy nghĩ nhiều quá, không những có hại cho sức khoẻ mà còn ảnh hưởng không tốt đến tương lai.
Nghe tôi bình tĩnh khuyên bảo, Thanh nín khóc. Nàng chấm nước mắt, ngoan ngoãn theo tôi ra phố ăn cơm. Khi trở về nhà, tôi sửa soạn chỗ cho nàng ngủ ở gian trong, nhường cho nàng cái giường của tôi có mắc màn. Còn tôi ra ngoài thềm nhà có mái hiên, mắc võng vào hai cái cột, ngủ cho mát.
Sáng hôm sau, chờ Thanh dậy sớm rửa mặt mũi xong, tôi lại dẫn nàng đi ăn điểm tâm. Khi trở về nhà, tôi quyết định nghỉ làm việc một ngày để có thì giờ tiếp tục khuyên nhủ Thanh. Tôi lựa lời hỏi nàng:
- Đêm qua em ngủ có ngon không? Em đã lấy lại sự bình thản của tâm hồn chưa?
Thanh cười gượng, đáp:
- Em đi bộ đường xa mệt mỏi quá nên nằm xuống là ngủ ngay và ngủ ngon lắm, anh Hữu Loan ạ! Còn tâm hồn em chắc không bao giờ bình thản được đâu!
Tôi nhìn Thanh, khoan thai nói:
- Lấy tư cách thầy cũ đáng tuổi một người anh lớn của em, anh có vài lời khuyên nhủ đối với em. Nếu em yêu anh, em hãy lắng nghe và làm theo lời anh chỉ bảo nhé?
Thanh gật đầu, long trọng hứa sẽ tuân theo những gì tôi sẽ nói. Nhìn sâu vào cặp mắt nhung còn vương nét chân thật của cô nữ sinh ngày xưa, tôi nhẹ nhàng nói:
- Anh rất thông cảm nỗi đau buồn của em. Chính anh cũng đã phải gánh chịu nỗi đau đớn không kém gì em. Anh lấy vợ. Đó là người con gái anh yêu lần đầu tiên trong đời anh. Thế mà chỉ có bảy ngày sau đám cưới, tử thần đã cướp đi người vợ yêu quí của anh trong một tai nạn chết đuối. Em tưởng tượng và sẽ thấy không còn gì có thể làm anh đau khổ hơn nữa. Nhưng rồi anh cho đó là một định mệnh do Trởi đã đặt để cho anh cũng như cho từng con người chúng ta. Chính em cũng không thoát khỏi cái thuyết định mệnh đó. Vậy thì chúng ta chỉ còn một cách là cố gắng chịu đựng nó mà thôi.
Giờ đây, anh thương mến em nhiều hơn trước, lý do là em đã làm tròn bổn phận của một người con gái có hiếu, biết vâng lời cha mẹ. Đó là một đức tính cao quí của con người. Tuy em không nhận được tình yêu lòng thương của người chồng, nhưng em có được tình yêu thương của các con. Anh tin chắc rằng tình mẫu tử em dành cho chúng đã và sẽ giúp em vơi dần đi sự đau khổ. Em đã từng hy sinh thì hãy tiếp tục hy sinh để thi hành trọn vẹn tứ đức tam tòng. Em hãy nghe anh, trở về với các con. Em có thể bỏ chồng, nhưng anh chắc em không nỡ bỏ con đâu, phải không, Thanh. Con trẻ không có tội tình gì cả. Tội lỗi là do người lớn gây ra. Lẽ nào con trẻ phải gánh chịu tội lỗi ấy! Hơn nữa, chúng còn quá nhỏ, rất cần sự trông nom săn sóc với tất cả tình mẫu tử. Nếu chẳng may gia đình đổ vỡ, chúng sẽ bơ vơ khốn khổ biết chừng nào! Trong hoàn cảnh chia ly, con trẻ ở với mẹ thì mất tình phụ tử cần thiết, mà ở với cha lại thiếu tình mẫu tử thiêng liêng. Từ lúc ấu thơ đến khi niên thiếu, chúng nó sẽ ra sao? Nhất là ở tuổi biết suy nghĩ, chúng sẽ buồn rầu lạc lõng. Điều đó rất có hại cho tương lai của đứa trẻ mất cha hoặc thiếu mẹ. Trong thực tế, trẻ con cần mẹ hơn ai hết.
Hơn nữa, nếu em ly dị với chồng, đi tìm hạnh phúc mới, em sẽ làm buồn lòng cha mẹ em khi các người còn ở trên dương thế. Tai tiếng sẽ bay xa, dư luận ngoài đời sẽ phê phán cha mẹ em vô phúc không dạy nổi con, để con gái tự do “trốn chúa lộn chồng”! Cha mẹ em sẽ đau lòng vô cùng ; em mang thêm tội bất hiếu.
Do đó, anh tha thiết khuyên em hãy vì các con mà hy sinh bản thân, trở về với gia đình.
Về phần anh, tuyệt đối anh không thể nào chấp nhận chung sống với em, dù biết rằng em yêu anh từ lâu một cách chân thành. Sự tự trọng của người đàn ông và đạo đức làm người không cho phép anh phá hoại gia cang người khác bằng hành động cướp vợ người ta, để mang tiếng nhuốc nhơ muôn đời!
Từ thuở sơ sinh đến khi khôn lớn, anh được thừa hưởng dòng sữa trong trắng của người mẹ trung trinh dưới lần yếm vải của phụ nữ Việt Nam nói chung và của người đàn bà xứ Thanh Hoá nói riêng. Em sinh trưởng trong một gia đình xứ Huế cổ kính và đã từng được giáo dục tại đất Thanh Hoá nổi tiếng về truyền thống Lạc-Việt, nên anh nghĩ rằng trong con người của em phải chứa đựng đầy đủ căn bản đạo đức tuyệt vời của gái miền Trung. Em hãy gìn giữ những đức tính ấy, để mọi tầng lớp phái đẹp mang yếm vải không hổ thẹn với đời.
Hơn nữa, đối với Tố Hữu, dù chỉ là quen biết qua vài lần hội họp văn nghệ, hai người chúng anh không phải là bạn bè, nhưng dầu sao anh Tố Hữu và anh cùng là những người đồng tâm đồng chí trong Hội Nhà Thơ cũng như trong cuộc chiến đấu chống thực dân.
Em cứ yên tâm nghỉ ngơi tĩnh dưỡng ở đây vài bữa, dành thì giờ suy nghĩ cân nhắc về những điều anh vừa khuyên nhủ em. Nếu em nhận thấy đó là những lời chân tình phát xuất ra từ thâm tâm của một người thầy, một người anh, và nhất là một người mà em yêu, anh xin em hãy vui vẻ trở về với các con của em. Anh thiết tha mong ước như vậy.
Thanh chăm chú nghe tôi nói, nhưng không làm một cử chỉ hoặc thốt ra một tiếng nào bày tỏ sự đồng ý chấp thuận cả. Khi tôi ngừng nói, Thanh thở dài cúi xuống ôm mặt. Tôi biết là đang đụng phải bức tường đá kiên cố mà những đợt tấn công vừa rồi không làm lay chuyển một ly! Tôi tự nhủ:”Mình phải kiên nhẫn với thiếu phụ con cháu bà Trưng bà Triệu này, may ra mới lay chuyển được!”
Những đêm kế tiếp, trong khi tôi chật vật ngủ trên võng, làm bạn với muỗi, chịu đựng sự giằng xé của bảy thứ tình Trời ban cho người trần tục, người đẹp mang tên thứ nhất của danh hiệu Thanh-Hoá êm ấm ngủ trong giường mắc màn, thân hình phô bày tất cả đường nét yêu kiều cám dỗ cao độ của một thiếu phụ đang xuân thì!
Tôi chợp mắt, thấy mình đang tiến gần khu vườn địa đàng với biết bao mỹ nữ chào mời không ngớt!
Tôi thức giấc theo tiếng gà gáy tinh sương, nhỏm dậy, đi xuống bếp đã thấy Thanh lom khom nhóm lửa. Chiếc lưng thon trong lần áo cánh mỏng chạy xuống bờ mông cong cong nở nang dưới làn vải thâm của chiếc quần hơi chật đong đưa nhè nhẹ khiến tâm can tôi như đang bị chính ngọn lửa do hai bàn tay nàng đang nhóm đốt cháy! Tôi phải đưa ngón tay cái lên miệng, ghé răng cắn mạnh, và thấy ngọn lửa tình thấp hèn trong tôi vụt tắt!
Thanh dọn bữa điểm tâm đơn sơ lên chiếc bàn mộc cũ, rồi hai chúng tôi cùng ngồi xuống ăn. Thanh cười như hoa nở, cất tiếng ríu rít như chim sơn ca, chớp chớp cặp mắt nhung đầy cám dỗ. Tôi lặng lẽ nhai nuốt miếng cơm mảnh cà, mang theo xuống bụng một cảm giác bồi hồi khó tả! Tôi ăn thật nhanh, rồi đứng lên bảo Thanh:
- Em ở nhà nghỉ ngơi, đừng chợ búa cơm nước gì nhé. Anh đi làm, đến trưa về đưa em đi ăn cơm.
Thanh nhìn tôi bằng ánh mắt tha thiết, cho tôi một nụ cười ám ảnh cả buổi sáng hôm đó, cũng như những buổi kế tiếp. Ra khỏi nhà, tôi vừa đi vừa cúi đầu suy nghĩ. Buổi trưa cũng như buổi tối, sau giờ làm việc, tôi về nhà dẫn Thanh đi ăn cơm. Khi ngồi ăn trong góc quán kín đáo, hoặc khi đối diện tại nhà, bất cứ lúc nào hai anh em bắt đầu tâm sự là tôi lại xoay câu chuyện vào điệp khúc khuyên nhủ đã trình diễn với Thanh như trên, qua những lời hết sức nhẹ nhàng mà cương quyết. Tôi cố gắng giúp Thanh nhận ra lẽ phải đường ngay, làm cho nàng ý thức rằng không còn con đường nào tốt hơn nữa. Ba ngày hai đêm trôi qua. Buổi tối ngày thứ ba, sau khi ăn cơm ở quán xong, về nhà, tôi nhận thấy nét mặt Thanh đoan trang hẳn lên. Nàng dịu dàng nói với tôi:
- Thưa anh Hữu Loan, mấy hôm nay nghe lời khuyên của anh, em suy nghĩ rất nhiều. Đêm hôm qua, nằm vắt tay lên trán, em nhận ra rằng những gì anh nói với em là những điều hay lẽ phải. Em chợt thấy thương các con em quá! Em cần chúng nó và chắc chắn chúng nó đang cần có em bên cạnh. Em nhớ các con vô cùng. Em tự hứa sẽ làm theo lời dạy bảo của anh. Sáng mai, em xin được từ biệt anh để quay về với các con. Em đi cũng khá lâu rồi, chắc chúng nhớ mẹ chúng lắm!
Sáng hôm sau, ăn điểm tâm xong, Thanh chào từ giã tôi. Tiếng nói của Thanh trong trẻo đầy chịu đựng tuy có thoáng hương vị ẩm ướt:
- Em cám ơn anh rất nhiều. Suốt quãng đời còn lại của em, em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh quí mến cùng những lời dạy bảo tốt đẹp của anh. Đó sẽ là những kỷ niệm tươi đẹp nuôi sống tâm hồn em. Em xin nguyện sẽ ăn ở thật xứng đáng với phái mang yếm vải Việt Nam!
Nói xong, Thanh vội vàng quay lưng bước ra khỏi cửa. Kể từ ngày đó, tôi không bao giờ gặp lại Thanh nữa. Tôi thở dài nhẹ nhõm, trong lòng mừng rỡ vô hạn, vì đã thực hiện được một việc tốt lành.
Năm 1955, tôi làm thư ký cho Hội Nhà Văn nên thường xuyên gặp Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi. Mỗi lần gặp nhau, Tố Hữu bắt tay tôi với đôi lời chào hỏi xã giao kèm theo ánh mắt cùng gương mặt lạnh lùng, trái với truyền thống thân mật giữa anh em cùng giới văn nghệ sĩ. Tôi hiểu là Tố Hữu với bản tính nhỏ nhen ích kỷ đã rất khó chịu khi biết rằng vợ hắn yêu tôi. Chắc hắn nghĩ rằng tôi cũng tầm thường như bao người khác đã lợi dụng vợ hắn mê trai nên đã làm điều xằng bậy với Thanh. Chẳng bao giờ hắn biết rằng chính tôi đã cố gắng hàn gắn cho gia đình hắn không đổ vỡ. Việc hắn biết ơn tôi lại càng mơ hồ hơn.
Vì luôn luôn ghen tức với tôi, thêm vào việc tôi đã tự ý bỏ hàng ngũ “cách mạng”, lấy con nhà địa chủ, phản đảng mà lại dám phê bình lãnh tụ, nên nhân dịp vụ Nhân Văn Giai Phẩm xảy ra, hắn ra lệnh quản thúc tôi nơi quê nhà tại Thanh Hoá cho bõ ghét. Đó là lý do tôi bị quản thúc.
Hữu Loan ngừng nói, khoan thai nhồi thuốc vào nõ điếu cầy, châm lửa rít một hơi dài. Tôi (Trịnh Hưng) rất thích được nghe tiếng điếu cầy kêu tong-tóc, rồi nhìn các cuộn khói đặc quánh bay ra khỏi cửa miệng mở rộng, dâng lên cao, tan mờ trong không gian. Đôi mắt lờ đờ vì khoái cảm hương vị ngậy đắng nồng cháy, Hữu Loan cất tiếng ấm hơn lúc nãy:
- Chắc chú không còn lạ gì đường lối chủ trương của đảng đối với văn nghệ sĩ vốn mang tiếng là tiểu tư sản mang nặng đầu óc lãng mạn ngả nghiêng. Đảng chỉ cần văn nghệ sĩ trong giai đoạn cần thiết như cuộc kháng chiến đánh Tây thôi. Khi đó, đảng hết mực chiều chuộng vuốt ve anh chị em văn nghệ sĩ. Sau khi chiến thắng, họ chẳng cần quái gì văn nghệ sĩ nữa! Họ chỉ cần “văn nô” thôi. Anh chị em văn nghệ sĩ chân chính ai cũng tự trọng, không chịu làm “văn nô”, tức là sáng tác theo chỉ thị đặt hàng đồng thời ca ngợi đảng một cách trơ trẽn! Ai chịu làm “văn nô” thì được ưu đãi ; ai không chịu, đảng thẳng tay gạt ra bên lề xã hội, đuổi ra khỏi Hội Nhà Văn, không cho công ăn việc làm, đẩy những văn nghệ sĩ ấy vào cảnh đói khổ chung với gia đình họ!!!
*
Cộng sản xưa nay chắc chắn rằng văn nghệ sĩ dù cứng đầu đến đâu cũng mềm lòng trước cảnh vợ con đói khát khốn khổ mà phải khom lưng đầu hàng chúng, chấp nhận làm “văn nô” cho tập đoàn cộng sản. Nhưng chúng đã lầm. Dù bị quản thúc trù dập liên miên, các văn nghệ sĩ này vẫn hiên ngang tranh đấu cho cuộc sống của gia đình họ. Hữu Loan, Quang Dũng, Văn Cao, .. .. .. Một phần không nhỏ, sự tranh đấu cương cường của họ đã từng được bàn tay các hiền thê trợ lực. Những nữ tướng âm thầm này mang tâm hồn đầy hy sinh cao cả, một lòng thờ chồng nuôi con. Dù phải vất vả trăm chiều, các bà vợ văn nghệ sĩ kia không bao giờ nản chí. Đức tính này từ từ lan rộng như vết dầu loang trong giới phụ nữ sống dưới chế độ cộng sản có những ông chồng mang danh cán bộ cao cấp mà tâm hồn nhỏ nhen ti tiện. Một số những người vợ vô phúc đó vẫn duy trì được tâm hồn cao đẹp, một mặt theo gương tốt của các bạn cùng phái, một mặt làm sáng danh tình mẫu tử bao la của người Mẹ Việt Nam. Chính vì thế, cái xã hội bị chủ thuyết vô luân làm nhão nát cho đến nay không bị hoàn toàn băng hoại. Phải chăng các phụ nữ ấy đang nuôi dưỡng tinh thần nữ anh hùng của bà Trưng bà Triệu, gây mầm mống quật khởi cùng nam phái nổi lên phá sập chế độ cộng sản Việt Nam độc tài man rợ, xây dựng cho đất nước một tương lai sáng lạn vừa làm sống lại truyền thống con Rồng cháu Tiên vừa theo kịp đà văn minh Tự Do Nhân Bản?!º
Nhạc sĩ TRỊNH HƯNG.