Chương bốn "Nhau móc"
-
16.05.2012 10:17:41
Chương IV
NHAU MÓC
Sau chuyến vào Hồng Gai cuối cùng ấy, Quận điều tôi ra khu điều tra Cẩm Phả. Bộ máy Công an lúc bấy giờ chưa tổ chức theo địa giới hành chính như các ngành khác. Cấp trung ương là Nha. Cấp tỉnh là Ty. Dưới Ty là các Quận. Mỗi quận có thể bao gồm hai ba huyện thị. Dưới Quận là các Khu điều tra. Khu điều tra Cẩm Phả gồm cả Hà Lầm và Hà Tu, do anh Thuỷ phụ trách. Đây là nơi tập trung đông công nhân nhất vùng mỏ. Và cũng là nơi cơ sở của ta lớn mạnh, hoạt động sôi nổi nhất cả vùng. Và đã có nhiều cuộc đấu tranh biểu tình, bãi công liên tiếp nổ ra.
Nhưng đó là những ngày đầu, những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến. Khi ta quay về vùng địch tạm chiếm, gây dựng lại cơ sở, nắm lấy dân, cán bộ còn non nớt, chưa có kinh nghiệm, tổ chức ồ ạt theo kiểu đánh trống ghi tên. Cho nên chẳng bao lâu đã bị địch phát hiện. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố. Đã có không biết bao nhiêu người dân ưu tú của vùng mỏ bị bắt bớ tra khảo, tù đày. Và cũng không biết bao nhiêu hạt giống trung kiên nhất, bị chúng bí mật đem dìm xuống biển mất tích!
Cơ sở Công an cũng bị vỡ. Chỉ còn một vài “nhân mối” được cài vào cơ quan đầu não của mỏ là chưa bị lộ. Nhưng cũng tạm ngừng hoạt động. Hàng loạt nhân viên điều tra, hoạt động nội thành như anh Phong, anh Cẩm, anh Ngọc bé (Ngọc lớn là quận trưởng) đều bị lộ, phải rút ra ngoài. Cả anh Thuỷ cũng bị gọi về Quận nghỉ ngơi, và kiểm điểm rút kinh nghiệm về vụ vỡ cơ sở đó.
Trong đợt tôi vào Hông Gai công tác vừa qua, tuy thời gian không được lâu, kết quả đạt được không nhiều, nhưng về tinh thần hăng hái công tác, trong hoàn cảnh gian nan, nguy hiểm, và ý thức chấp hành mệnh lệnh cấp trên, thì tôi được coi là khá, Cho nên tôi được lãnh đạo cơ quan tín nhiệm hơn và quý mến hơn trước. Về bàn thân, tôi cũng tự hào, và vui mừng. vì mình đã vượt qua được một chặng đường đầy bỡ ngỡ và thử thách để đi tiếp. Mừng nhất là bây giờ tôi lại được về công tác với anh Thuỷ. Tôi tự nhủ mình sẽ hết sức cố gắng để cùng anh gây dựng lại cơ sở đã bị địch phá vỡ.
Người đưa chúng tôi về Cẩm Phả là anh Tống, nhân viên giao thông của Quận. Khi để vợ con ở lại Cẩm Phả, đi tham gia kháng chiến, anh Tống đã ngoài bồn mươi tuổi, Người anh cao lênh khênh, mặt dài, trán dô, răng đen, chiếc ra chiếc vảo. Cặp môi dầy đã giu ra hết cỡ mà chẳng bao giờ che kín được những chiếc răng ấy. Tướng người trông dữ tợn, nhưng tính nết anh lại rất hiền lành. Bọn trẻ con chúng tôi tha hồ trêu đùa anh, gọi anh là “Tống nghêu”, “Tống vẩu”. Anh cũng chỉ cười bảo: “Tơ lơ mơ thế mà tớ khối em mê đấy nhá!”. Anh mặc quần đùi, chân đen, dài như chân đà điểu. Đội chiếc nón rách, cổ vắt khăn mặt bông, khoác bị, chống gậy (cũng là chiếc điếu cày), anh lướt lưng ngất ngưởng bước đi. Trông anh vừa có cái vẻ khổ sở của một ông lão ăn mày. lại vừa có vẻ dữ dằn như một khách lục lâm. Anh thuộc lòng từng ngọn núi, từng khe rừng, và đi rất nhanh, không mấy ai theo kịp. Những lúc ngồi chờ, anh tranh thủ rít một hơi thuốc lào. Và khi chúng tôi đến, anh lại mắng một câu quen thuộc: “Nhanh nhanh lên chứ! Các cậu chậm như rùa. Đi như thế có mà mùng thất mới đến nơi!”.
Quá trưa hôm ấy chúng tôi đến xã Dương Huy. Gọi là xã nhưng chỗ chúng tôi nghỉ chân chỉ là một bản nhỏ, có dăm bảy gia đình người Cao Lan ở hẻm núi. Khi anh Thuỷ và tôi leo lên sàn nhà, thì anh Tống đã lấy cà mèn ở trong bị ra, đặt lên bếp thổi cơm. Chờ cơm chín. Anh lấy nắp cà mèn đặt lên bếp, bỏ cục mắm tôm, và nắm riềng giã nhỏ vào, trưng lên. Thế là thành bữa cơm “thịnh soạn”, có cả vị ngọt, mặn của biển và vị cay, thơm của núi rừng. Cơm nước xong, chúng tôi lại đi tiếp. Lại vượt suối trèo đèo.
“Một đèo, một đéo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo…”
Đúng như bà Hồ Xuân Hương đã tả. Ở đây chỉ kém đèo Ba Dội là không có “Cửa son đỏ loét…”. Còn bậc đá và rêu xanh thì bạt ngàn, vô cùng vô tận. Qua không biết bao nhiêu suối nông, suối sâu, đèo cao, đèo thấp. Mãi đến lúc xế chiều chúng tôi mới đến dẫy núi cuối cùng, tiếp giáp với đất Cẩm Phả. Đứng ở đây đã nhìn thấy những dẫy núi đá vôi tím ngắt, nhấp nhô trên Vịnh Bái Tử Long. Nhìn về phía tây thấy đường Mười Tám mảnh mai như sợi dây leo, nằm vắt vẻo trên Đèo Bụt. Đang chui lủi ở trong rừng rậm, bỗng tầm nhìn được mở ra, trước mênh mông bát ngát trời mây, non nước. Có lẽ khách bộ hành đi đến đây, chẳng mấy ai là không dùng chân nhìn ngắm.
Chúng tôi xuống núi. Đi đến chân rừng gần làng Quang Hanh. Từ đây trở đi là vùng địch tạm chiếm. Đây là cửa rừng, và cũng là cửa khẩu giao lưu giữa vùng núi Dương Huy và vùng biển Cẩm Phả. Do có vị trí then chốt như vậy, nên quân địch thường xuyên tuần tiễu, hoặc phục kích ở đoạn đường này. Sợ gặp địch đi tuần, anh Tống cho chúng tôi nghỉ, chờ trời tối mới vượt qua quộc lộ. Quang Hanh lúc bấy giờ còn hoang sơ, dân cư thưa thướt, chỉ có mấy chục nóc nhà người Cao Lan sinh sống. Lúc nhọ mặt người, anh Tống đi trước, xuống đường quốc lộ nghe ngóng. Không thấy động tĩnh gì, anh vẫy tay cho chúng tôi vượt đường. Qua đường Mười Tám trót lọt, qua dải rừng thông phía nam quốc lộ, chúng tôi xuống bãi sú, rồi tiến dần về phía thị xã Cẩm Phả.
Đang mùa thu. Chập tối nước lên. Trời nổi gió. Thông reo. Sóng vỗ ào ào vào bãi cát. Vẫn phải đề phòng bọn phục kích. Chúng tôi đi cách nhau khoảng hơn chục mét, vừa đi vừa lắng tai nghe ngóng. Bỗng tôi thấy lẫn trong tiếng sóng gió, có một thứ âm thanh gì rất lạ. Tôi chưa từng thấy bao giờ. Nó âm…âm…u…u…rền rĩ liên hồi không dứt. Và càng đi, tiếng âm u ấy càng nổi hơn, rõ hơn. Nhưng vẫn không phải là tiếng người, tiếng thú, hay bất cứ một thứ âm thanh nào ở trên dương thế. Tiếng kêu ấy nghe xa xôi, sâu thẳm như tiếng than vãn từ cõi âm ty, địa ngục nào vọng về. Hoảng quá, tôi chạy lên cầm tay anh Thuỷ kéo lại hỏi:
- Anh ơi! Tiếng gì kêu nghe ghê thế? Anh Thuỷ ghé vào tai tôi thì thầm:
- Muỗi đấy, có gì đâu mà sợ. Đến Bến Gio rồi chú sẽ biết.
Anh nói thì chắc là đúng. Nhưng tôi vẫn phân vân. Tuy chưa được đi nhiều, nhưng tôi đã ở nông thôn, ở thành phố, và núi rừng. Ở đâu cũng có muỗi. Có nơi muỗi nhiều như trấu xay. Nhưng làm gì có chuyện muỗi kêu đến dậy trời, dậy đất cả một vùng như vậy?
Quả nhiên chưa đến Bến Gio. Tức là chưa trông thấy làng mạc nhà cửa đâu, đã thấy muỗi rào rào đâm bổ vào mặt người như ai ném cát. Mặc dù trời gió, muỗi vẫn chui vào mắt, vào tai, vào mũi. Tuy đêm tối không nhìn thấy, nhưng có lẽ bầu trời đặc ngẫn toàn muỗi. Nếu vơ một cái cũng có thể tóm được một nắm đầy.
Đến Bến Gio, xóm đầu tiên của xã Cẩm Bình Tây. Có lẽ vì sợ muỗi, không nhà nào dám sáng đèn. Chỉ thấy các đống hun, từ trong nhà ra ngoài ngõ. Mùi khói xông lên khét lẹt. Đây là xóm đồng bào công giáo, đang giờ cầu kinh buổi tối. Tiếng cầu và tiếng muỗi trộn lẫn vào nhau thành một thứ âm thanh ngân nga rền rĩ, nghe buồn thảm như tiếng thở than của những oan hồn.
Cẩm Bình là xã của những người thợ mỏ. Vợ con họ và những người già cả, ở nhà chuyên trồng rau, cấy lúa. Ruộng rau nào người ta cũng đào hố ngâm phân. Ở đây không có nước máy. Để có nước tưới và ăn uống, người ta đào mỗi nhà một cái ao. Nước ao tù và hố ngâm phân đã sản sinh ra đàn muỗi vĩ đại như vậy.
Anh Thuỷ đưa tôi đến nhà ông Tài Liệu, một gia đình cơ sở ở xã Cẩm Bình tây. Trước ông Liệu là thợ lái tầu, sau bị bệnh sâu quảng, phải cắt bỏ một chân. Ông nghỉ việc ở nhà từ trước Cách mạng tháng tám. Ông bà chỉ có một người con gái là vợ anh Ngọc bé. Từ ngày vỡ cơ sở, anh Ngọc đi thoát li. Chị về ở bên nhà ngoại. Hai mẹ con có nghề nuôi tằm dệt lụa, đem từ quê Thuỷ Nguyên ra. Để chuẩn bị cho tuổi già, ông bà nuôi anh Dần là cháu làm con “lập tự”. Anh Dần là thợ đốt lò tầu hoả.
Anh Thuỷ bảo ông Quản Mạ làm giấy tờ cho tôi. Ông Mạ là người Sán Dìu, đi lính thời Pháp thuộc, có hàm “quản”. Ông là người duy nhất ở trong làng biết nói tiếng Pháp, được dân và cán bộ kháng chiến cử ra làm lý trưởng “Hội tề hai mang”. Ông Mạ cũng là bạn hàng xóm với ông Tài Liệu. Hai nhà ở gần nhau, chỉ cách bốn năm sào ruộng..
Thời gian chờ đợi giấy tờ tôi phải lẩn tránh, lúc nào cũng căng thẳng. mắt trước, mắt sau, thấy người lạ vào nhà lại vội vàng chui tọt vào trong buồngg ẩn nấp. Sốt ruột quá. Một hôm thấy yên lắng, không thấy bọn lính Tây đi tuần, hay bọn “Bảo an” xuống làng chặt tre rào bốt, tôi sang nhà ông Mạ, định hỏi xem ông đã lấy được thẻ cho tôi chưa. Người ở trong nhà chạy ra mắng con chó đang chồm lên sủa, và đón khách là cô Minh, con gái ông bà Quản.
Trước tôi đã nghe chị Ngọc khen cô Minh là người đẹp, và có học hành. Giờ thấy cô, mắt tôi bỗng hoa lên. Quả là chị Ngọc nói không sai. Tôi đứng sững lại, vì vẻ đẹp, và cũng …vì sợ cả chó nữa! Cô mặc quần áo lụa mầu mỡ gà, rất phù hợp với khuôn mặt trái xoan và tầm cao dong dỏng của khổ người, chân đi guốc, tóc buông xoã ngang vai. Hoàn toàn không phải là một thôn nữ như tôi đã tưởng tượng, mà rõ ràng là một “tiểu thư” ở nơi đô thị. Người ta hay nói đến một thứ tình yêu “sét đánh”. Chẳng biết chuyện ấy có thực không? Còn trường hợp của tôi đây, chỉ là sự choáng ngợp của thị giác, trước một công trình của tạo hoá thôi. Cô Minh niềm nở cười, mời:
- Anh vào trong nhà đi!
Nghe giọng nói của cô, hình như có một cái gì khác lạ. Nhưng mấy con chó vẫn sủa, khiến tôi không tin vào tai mình. Cô nhanh nhẹn mở rộng các cánh cửa và mời tôi ngồi. Ba gian nhà gỗ lim khá to. Một gian có vách ngăn làm buồng. Những tiện nghi bàn ghế, giường tủ, bàn thờ, và cách bài trí chẳng khác gì những gia đình khá giả ở quê tôi. Chỉ riêng ở trên cửa buồng có dán một lá bùa giấy đỏ, chữ nho là chứng tỏ nguồn gốc của chủ nhân. Chợt nhớ một câu tục ngữ ở quê tôi người ta hay sử dụng: “Đất sỏi mà cũng có chạch!”.
Cô Minh pha nước mời khách. Tôi nói lý do cuộc đến thăm. Cô bảo: “Thầy em lên đồn binh trên phố. Mẹ em đi làm đồng cũng chưa về”.
Bây giờ thì thật rõ ràng rồi. Trời đất ơi! Thì ra cô Minh bị ngọng! Những chữ tròn âm rõ nghĩa trên kia là tôi viết theo cách thông thường, chứ thực ra cô không phát âm được như vậy. Đồn binh. Cô nói gần như “ồn inh”. Làm đồng, gần như “àm ồng”…Tôi cứ ngây người ra nhìn cô, chẳng nói được gì. Trong lúc cô vẫn thân mật, vồn vã, nói cười. Không biết có phải vì cô đã quen với giọng nói của mình, nên không thấy có gì khác lạ? Hay vì nhà thanh cảnh vắng, đang buồn, lại gặp người khác giới cùng trang lứa mà cô vui như vậy? Hay vì tinh thần yêu nước, người ở đây nhưng lòng vẫn hướng về phía núi rừng? Biết tôi là người ở bên kháng chiến, nên cô quý mến chăng? Bây giờ tôi ngây người ra, không phải vì vẻ lộng lẫy của người con gái trẻ trung này nữa. Mà vì lần đầu tiên tôi nhận thấy sự trớ trêu của tạo hoá. Không hiểu vì sao trời đất đã rộng lòng ban phát cho cô nhiều vẻ đẹp, nhưng lại bắt cô phải chịu tất nguyền!
Ngay tối hôm ấy ông Quản Mạ đã đem thẻ sang cho tôi. Ông bảo:
- Anh chưa có giấy tờ, tôi cũng lo lắm chứ, nhỡ ra thì…Nhưng phải chờcùng cùng làm với mấy người nữa, để bọn Tây nó khỏi nghi.
Thẻ ghi tên tôi là Lê Văn Triệu. Họ ông Tài Liệu. Khi khai báo xin thẻ, tôi đã cố ý lấy họ của vị anh hùng Triệu Quang Phục làm tên mình. Một phần để dễ nhớ, phần nữa là để tự nhủ mình phải cố gắng giúp anh Thuỷ gây dựng lại cơ sở. Cũng như ngày xưa Triệu Quang Phục đã giúp Mai Hắe Đế đánh giặc giữ nước vậy Thế là từ hôm ấy tôi thành anh chàng Lê Văn Triệu, cháu ông Tài Liệu, ở quê ra mỏ kiếm việc làm.
Để hai ông bạn già được tự do trò chuyện với nhau như mọi lần, tôi đút thẻ vào túi, rủ anh Dần ra bờ ao, bàn chuyện ngày mai đi xin việc.
Khi chúng tôi về hai ông già vẫn còn tâm sự. Trên chiếc bàn ọp ẹp chẳng có gì, ngoài cái điếu bát sứt mẻ, chỉ có hai bát nước chè xanh hái ở vườn nhà. Tuy mỗi người một cảnh ngộ, người bị bắt lính sang Tây, người nghèo đói phải bỏ quê hương đi làm phu mỏ, nhưng họ có chung một thời trai trẻ, với những đam mê vui thú như nhau, và cả những đắng cay tủi nhục cùng thời. Người ở trong nước bị chủ mỏ đánh đập. Người ở ngoài nước cũng bị quan Tây bạt tai “Mẹc xà lù”. Họ cũng giống nhau là khi lĩnh được đồng lương, dù ít ỏi cũng lao vào sòng bạc, rượu và nhà chứa…Có lần tôi đã nghe thấy ông nọ hỏi ông kia: “Ông bị cái bệnh phải gió ấy năm nào?”. Thời ấy chưa có thuốc kháng sinh. Và có lẽ vì thế nên bây giờ mỗi ông chỉ có một cô con gái.
***
Tuần lễ sau.
Vào lúc gà gáy dồn. Trời chưa sáng. Chưa có tiếng còi tầm lần thứ nhất. Anh Dần đã gọi tôi dậy chuẩn bị đi làm. Anh xin cho tôi đi làm “nhau móc” ở đầu tầu anh đốt lò. Đây là lần thứ hai tôi đi làm mỏ, nên chẳng có gì phải lo lắng, hồi hộp, mọi thứ đã sẵn sàng. Mà hành trang của người thợ mỏ có gì nhiều nhặn đâu. Anh thợ lò chỉ có cái mũ chụp lên đầu, và cái búa vác vai. Còn tôi làm nhau móc, dụng cụ chẳng có gì, ngoài hai bàn tay. Tôi mặc bộ quần áo ta mầu đen, đội nón lá, đi dép cao su trắng. Loại dép thông dụng nhất thời bấy giờ, vừa diện đi chơi hay đi làm cũng đều được cả. Anh Dần đưa cho tôi cái xoong sắt tự gò có quai xách, bên trong đựng hai bò gạo, hai con cá khô mặn và một nhúm muối. Anh bảo: “Tầng của chúng ta làm ở trên núi Trọc, vừa xa vừa cao. Phải đi sớm thế vầy mới kịp”.
Chúng tôi lặng lẽ đi. Anh Dần hơn tôi có bốn tuổi, mà mặt mũi hốc hác, lầm lì như một ông già, chẳng rằng chẳng nói. Trời dần dần sáng. Tôi nhìn lên mỏ chỉ thấy toàn núi trọc trùng trùng điệp điệp. cũng như núi ở bất cứ nơi nào. Nhưng đến nơi mới thấy: Hoá ra đất núi chỉ là cái vỏ “nguỵ trang” của tạo hoá, để giấu những của cải vô cùng vô tận ở bên trong. Than! Tầng trên, tầng dưới bạt ngàn chỗ nào cũng lấp lánh than đen, và ngổn ngang đất đá. Có chỗ vỉa than gần như nằm phơi trên mặt đất. Người ta khoan lỗ bắn mìn, bóc lớp đất đá phủ ngoài đi rồi xúc lấy than.
Nghề mỏ hầu hết đều là những công việc nặng nhọc. Tuy nhiên ở một vài khâu sản xuất cũng có những việc nhẹ. Bọn chủ mỏ đã khôn khéo đưa vào đấy những công nhân dưới tuổi lao động, để giảm tiền công xuống chỉ còn một phần nhỏ, so với người lớn nếu cùng làm một việc. Và chúng gọi những người lao động ít tuổi ấy là “nhau”. “Cu ly tí nhau”. Việc của tôi là móc những chiếc xe gòong lai thành một dẫy dài để đầu tầu hoả kéo đi. Hoặc tháo móc cho chúng rời ra khi cần thiết, nên gọi là “nhau móc”. Còn những đứa xách xô dầu đi tra vào các máy móc, thiết bị thì gọi là “nhau dầu”…
Chúng tôi làm thông tầm, liền tám tiếng mỗi ngày. Không kể gì mưa nắng. Mưa không có chỗ trú. Nắng thi tầng than nóng như lò lửa. Trưa nấu cơm ăn tại chỗ. Nhưng việc thổi nấu, ăn uống ấy đều phải giấu bọn đốc công người Pháp. Tục ngữ nói: “Trới đánh tránh lúc ăn”. Bọn họ cũng biết việc ăn uống vụng trộm của chúng tôi. Và rất có thể họ biết cả câu tục ngữ kia nữa. Nhưng không bao giờ họ công nhận: Người thợ mỏ có quyền và cần phải ăn giữa ca.
Một buổi trưa, anh Dần bảo tôi đi nấu cơm. Tầng tôi làm không có bếp lò. Tôi xách xoong lên tầng trên thổi nhờ. Xoong cơm vừa sôi thì một chiếc xe gòong ở trên đầu dốc bị trôi, đâm sầm vào chiếc ở dưới đánh “choang” một tiếng, trật bánh, xe cặm. Mấy người xúm lại loay hoay bốc xe. Tôi bình thản ghế cơm, vì đây không phải việc và tầng mình làm. Bỗng thấy tiếng rình rịch ở sau lưng. Tôi quay lại…Ôi lão Ximôlet! Thằng đốc công nổi tiếng ác. Có biệt danh là “Tây ba toong”. Nó cầm ba toong giang thẳng cánh, nhằm đầu tôi quật xuống. Tôi kịp né người gạt ba toong, rồi cắm đầu chạy. Nó hằm hằm đuổi theo, vừa chửi bới om xòm, có đủ cả “mẹc” lẫn đồ bú c…”. Nhưng con cáo đã già rồi. Có lẽ nó già gần bằng lão Ray chánh mật thám. Lại béo quá, bụng to như cái thúng úp, nó đuổi làm sao được. Chờ nó đi rồi, tôi quay lại, xoong cơm cháy mất gần một nửa, mà trên vẫn sống vì vung chưa đậy.
Ngồi trong bụi ỏng ăn cơm, lúc bấy giờ tôi mới thấy tay đau quá, nhức buốt lên đến tận nách. Bê bát cơm cũng đau. Cũng may là lúc tránh đòn, tôi đã giơ tay trái gạt ba toong. Nếu là tay phải chắc tôi phải nghỉ việc. Giận sôi lên sùng sục. Tôi nghĩ ngay đến khẩu súng ngắn đẻ trong hộp sắt giấu ở bờ ao. Nếu được tự do hành động, chắc chắn tôi sẽ trả thù. Nhưng phẫn uất thì nghĩ quẩn, chứ nhiệm vụ của tôi đâu phải là để hạ sát một tên đốc công hung bạo.
Tối hôm ấy bà Tài Liệu (bây giờ về danh nghĩa đã là thím tôi), phải nấu nước lá tre bóp cho tôi. Thím xuýt xoa: “May đấy. Nó đánh trượt chứ không thì gẫy tay”. Chú Liệu “xì” một tiếng, bảo: “Chuyện vặt. Bọn tôi ngày xưa mới khổ chứ!”.
Đêm trung thu. Vành trăng sáng trong vằng vặc, hắt hai cái bóng đen sì nghiêng ngả xuống mặt đường Mười Tám, lấp loáng sương đêm. Trăng sắp lặn.về phía Tây. Chúng tôi đi ngược về phia Đông. Cây cối hai bên đường lả lay, lướt đi vù vù, theo từng cơn gió heo may thổi từ phía Cẩm Phả xuống Cẩm Bình. Một tay xách xoong, tay đau dút trong túi áo, tôi đi sát vào anh Dần cho đỡ lạnh. Ánh trăng trong và gió se se lạnh đã gợi tôi nhớ đêm nào, trung thu ở quê nhà. Lần đầu tiên mẹ mua cho anh em tôi một ông “Tiến sĩ giấy”. Trẻ con cả xóm đến rước ông tiến sĩ và chờ nồi bánh đúc lạc của bà đang sôi trên bếp. Cờ bằng lá chuối. Trống đánh bằng mồm. Mà sao cái đêm trung thu ấy lại vui đến thế?...
Tiếng còi tầm lần thứ hai vừa dứt. Trên tầng than chiếc đầu tầu hoả “Luốc” cổ lỗ và bé bỏng của bác tài Dưỡng đang xình xịch lao trên đường ray, dồn những chiếc gòong đầy đất đá, nằm rải rác trên các đường ray. Tôi đóng móc lập thành một đoàn tầu dài. Bác điều khiển đầu máy, kéo ra đầu đường đổ xuỗng chân núi. Tôi đang đứng chờ người ta nghiêng gòong đổ đất đá, thấy một cô công nhân trẻ măng, bê nón thuốc lá đi chia cho mỗi người một điếu. Đến chỗ tôi cô cũng đưa một điếu và bẽn lẽn cười: “Mời anh hút thuốc!”. Tôi ngơ ngác không dám cầm, giữa lúc ấy có tiếng nói:
- Mày cứ cầm đi! Nó mới cưới chồng đấy - Lại có tiếng nữa chen vào:
- Hôm nay nó khao cả tầng này chứ không riêng bọn mình đâu.
À…ra thế. Một lệ tục giản dị và đẹp đẽ, tôi chưa được thấy bao giờ. Tôi cầm thuốc, không dám chúc chị hạnh phúc, vì chẳng thấy ai chúc cả. Trong lúc mọi người đang vui vẻ hút thuốc, có anh táo bạo, trước khi cầm thuốc còn đấm vào vai cô gái cười nói:
- Của này đêm tân hôn chúng mày không quật nhau đến lúc sáng bạch ra, tao cứ đi đẩu xuống đất.
Thế là một trận trêu đùa bùng lên. Cánh thợ trẻ nhao nhao cười nói:
- Thế có mà thủng mẹ nó mất chứ còn gì!
- Ô hô! Kìa! Nó mệt rũ ra kìa. Đúng rồi chúng mày ơi! Tiếng cười phá lên. Cô dâu xấu hổ quá, bê nón thuốc lá chạy mất.
- Hôm ấy tan tầm về, vừa đến nhà chị Ngọc (bây giờ thành em con chú tôi), đã gọi tôi đến bên khung cửi tươi cười bảo:
- Cô Minh vừa sang chơi đấy! Cô ấy có ý chờ anh về. Nhưng bà cụ gọi, cô ấy về rồi.
- Có việc gì thế chị? À cô! Chị Ngọc lườm tôi một cái rồi nói:
- Biết anh đau tay, người ta sang thăm chứ còn việc gì nữa. Đàn ông các anh chỉ được cái khéo vô tình!
- Ai nói mà cô ấy biết? Chắc cô phải không?
- Đâu! Anh chỉ đổ vạ liều - Chị Ngọc cười lấp liếm rồi hạ thấp giọng nói tiếp:
- A…này, cô ấy đang trách anh đấy. Cô ấy bảo: “Hàng xóm láng giềng mà chẳng bao giờ thấy anh sang chơi!”. Thôi mai chủ nhật, anh sang bên ấy chơi đi. Đúng là anh vô tình quá đấy. Bao nhiêu lần cô ấy sang nhà mình chơi. Anh không thấy có gì khác hay sao?
Thôi thế là khổ tôi rồi! Người ta đang liên minh với nhau, lấy sợi tơ, sợi tóc nhằm buộc chân tôi đây! Thực ra những lần cô Minh sang chơi với chị Ngọc, đôi lúc tôi cũng bắt gặp những ánh mắt nhìn tôi thầm vụng. Lúc đầu tôi tưởng đó là sự thường tình của tuổi trẻ. Cũng như tôi nhìn cô ấy hay bất kỳ người con gái nào khác. Nhưng càng về sau tôi càng thấy sự việc không phải là như vậy.. Vì bên trong những cái nhìn ấy là một trái tim đang rộn ràng, xao xuyến. Có lẽ cô Minh cũng như phần lớn các cô gái chưa chồng thời bấy giờ, do có lòng yêu nước, nên đối tượng tình yêu của họ đã đặt cả vào những chàng trai đang đi kháng chiến. Mà tôi cũng là một trong số các chàng trai đó. Biết vậy nên tôi càng phải lẩn tránh, và để làm nản lòng cái khối liên minh này, tôi nghiêm mặt nói: “Có chứ. Tôi thấy cô ấy đẹp gái, có học, biết nói tiếng Pháp, biết đan len, khâu may giỏi. Và đặc biệt là có lòng tốt, hay sang thăm bạn gái!” Chị Ngọc giẫy nẩy lên, cau mày lườm tôi một cái rồi dận go, lao thoi dệt tiếp.
Đêm hôm ấy tôi trằn trọc, miên man suy nghĩ. Tuy tôi mới mười bẩy tuổi còn non nớt, chưa từng trải, nhưng những tin hiệu của con tim thì tôi nhận biết được rồi. Tôi biết tình yêu đã nẩy nở và đang nung nấu ở trái tim non trẻ kia. Nhưngt làm sao tôi có thể tiếp nhận được? Trong lúc tuổi còn quá trẻ lại đang đi kháng chiến, nay đây mai đó, bốn bể không nhà. Nếu yêu nhau, hẹn đến ngày nước nhà độc lập, như những đôi trái gái khác, thì liệu đến ngày ấy tôi có còn sống để trở về nữa không? Nào ai đã biết ngày ấy là bao giờ? Còn lâu hay chóng? Con gái chỉ có một thời. Nếu lâu cô ấy có chờ được không?...
Tôi đã nói tất cả những ý nghĩ ấy với chị Ngọc nhằm đến tai cô Minh. Nhưng xét cho cùng thì đó chỉ là những lý lẽ tôi đưa ra để lẩn tránh, thoái thác. Chứ thực tình từ nơi sâu thẳm của lòng tôi, thì không hoàn toàn đúng như vậy. Ngay những phút đầu tiên trông thấy cô, tôi đã choáng váng, sững sờ…Nhưng oái oăm thay khi nghe cô nói, thì tất cả tình cảm ấy đã vụt bay đi mất. Cũng như chuyện cổ tích ngày xưa kể về mối tình ngang trái của Trương Chi và nàng My Nương. Mà có người đã viết thành bài hát. Một thời vì cảm thương cho họ tôi đã hát:
“Khi nghe tiếng hát thì thương
Nhưng khi thấy mặt lại càng buồn thay…”.
Hôm sau. Chủ nhật. Khi đã nói tất cả với chị Ngọc, tôi cũng muốn sang thăm cô Minh cho trọn tình xóm láng. Nhưng ngại quá, chẳng có ai là bạn đi cùng. Rủ chị Ngọc thì như xôi chấm xôi. Rủ anh Dần thì như dùi đục chấm mắm cáy. Đi một mình thì ngượng lắm, biết ăn nói làm sao? Nghĩ đi nghĩ lại, tôi quay ra đi giặt. Lát sau chị Ngọc đi hái lá dâu về. Chị chạy ra ao tìm tôi, nét mặt hí hửng như chú khách vớ được vàng. Chị cùng giặt với tôi cho nhanh rồi giục: “Về nhà em cho cái này!”. Vẻ phấn khích ấy cũng làm tôi hồi hộp. Mặc dù tôi biết chắc chắn lại chuyện về cô Minh, nhưng cụ thể ra sao thì chị chưa nói.
Về nhà, chị Ngọc đưa cho tôi một gói giấy báo, được buộc cẩn thận bằng mấy sợi len đỏ. Chị bảo : “Cô Minh gửi cho anh đấy. Anh mở ra đi!”. Tôi định không mở, nhưng sợ chị Ngọc giận, nên mở. Một chiếc áo len cộc tay, mầu hạt dẻ và một phong thư, nét chữ bay bướm rất đẹp:
“Anh Triệu thân mến,
Em gửi cho anh chiếc áo len mùa thu, để anh mặc đi làm cho đỡ lạnh. Nếu anh mặc vừa, và không chê nó xấu xí, em sẽ đan cho anh cái dài tay mặc mùa đông. Ý anh thế nào? Cho em biết sớm kẻo đan không kịp. Mùa đông sắp đến nơi rồi. Anh đi làm sớm có lạnh không?
Chào anh và mong thư anh.
Em Lã Thị Ngọc Minh.
Tái bút: Mầu hạt dẻ anh có thích không? Chiếc sau anh thích mầu gì cho em biết”.
Trời ơi! Thế là chuyện tày đình rồi! Liệu đây có đơn thuần là chiếc áo len nữa không? Hay đó là sợi dây thòng lọng, mà đầu kia cô Mimh nắm giữ? Tôi phải làm gì để gỡ ra đây?...
Tôi đưa lá thư cho chị Ngọc. Chị chỉ liếc qua, dường như nội dung chị đã biết cả rồi.
Người ta hay nói đến các thiên hướng của nữ giới như thuỷ chung, hết lòng tận tuỵ vì chồng, vì con…Nhưng có lẽ vẫn chưa hết. Theo tôi, họ còn một thiên hướng đáng kính nữa là rất nhâỵ cảm về chuyện lứa đôi. Anh náo, cô nào, yêu ai, bỏ ai? Họ là người phát hiện ra sớm nhất. Cũng như tất cả những tình tiết chung quanh các mối tình ấy, họ đều thích thú tìm hiểu cặn kẽ để khen, chê. Nếu thấy điều gì đó không thích, có thẻ họ sẽ dèm pha, thậm chí bịa chuyện nói xấu. Nhưng nếu thích, họ sẽ sẵn sàng đứng ra bắc cầu, chắp mối, giúp đỡ một cách nhiệt tình. Chị Ngọc của tôi cũng vậy. Chị đã hết lòng giúp đỡ cô Minh. Và giở đây chị đang kiên nhẫn chờ đợi thái độ của tôi. Tình thế đã đến lúc không thể làm ngơ được nữa. Tôi quyết định nói thẳng với chị Ngọc:
- Tôi rất cảm ơn cô Minh và cả cô nữa. Nhưng tôi không mặc áo của cô ấy đâu. Nhờ cô chuyển lời, và cho tôi gửi lại áo.
Nét mặt chị Ngọc tái đi, mắt nhìn cái áo không chớp, khoé miệng hơi dệch ra một chút, vừa giống như cười lại gần như khóc. Giữa lúc ấy cô Minh bước vào cổng. Có lẽ cô không còn đủ kiên nhẫn ngồi ở nhà chờ kết quả. Trông thấy cô, tôi chạy vụt vào trong buồng rồi nhìn qua khe cửa. Biết tôi lánh mặt và thấy chiếc áo vẫn để trên giường, cô quay ngoắt ra. Tiếng guốc dồn dập lao đi, rồi xa mãi ra ngoài ngõ. Chắc cô chạy về geo mình xuống gối khóc, để không ai trông thấy những giọt nước mắt bẽ bàng, uất hận của mình.
Khi nghe thấy tiếng guốc cô Minh chạy về, tôi đã mừng là mình vừa tránh được một cuộc đối mặt không cần thiết. Nhưng khi đoán biết thế nào cô cũng khóc, thì người tôi lại nóng bừng lên. Tôi chợt hiểu ra mình đã xử sự một cách thật tàn nhẫn. Ân hận quá, tôi chỉ muốn thốt lên: “Minh ơi! Xin cô hãy tha thứ cho tôi. Thực lòng tôi không muốn làm cô đau khổ. Sự bạc bẽo, phũ phàng này chẳng qua cũng chỉ vì tôi còn nhỏ dại. Và cả cô cũng còn quá trẻ, liệu cô có hiểu và tha thứ cho tôi không?”.
Từ hôm ấy trở đi, chị Ngọc tuyệt nhiên không hé răng nói với tôi bất cứ điều gì về cô Minh nữa. Và tôi cũng cố quên đi, coi như lỗi lầm đã là quá khứ, không nên nhắc đến nữa. Nhưng trong thâm tâm thì mãi mãi sau này mỗi khi nhớ lại, lòng tôi vẫn day dứt khôn nguôi.
Khoảng hơn một năm sau, khi đã chuyển đi nơi khác, trên đường về tỉnh qua đây, tôi được chị Ngọc cho biết cô Minh đã đi lấy chồng. Chồng cô là người Pháp, một viên chức mỏ, làm ở cảng Cửa Ông. Tôi cầu mong và thầm chúc cô hạnh phúc. Và qua việc cô chọn đối tượng lần này, tôi càng cảm phục cô là người có con mắt tinh đời. Bởi lẽ chồng cô sẽ chẳng bao giờ biết cô có tật nói ngọng. Vì người nào dùng tiếng nước ngoài mà chẳng ngọng nghịu ít nhiều. Ngay cả chồng cô khi nói tiềng Việt, chắc anh ta còn ngọng hơn cả cô nữa kia.
Cái ngày chủ nhật bỗng dưng hoá ra buồn bã và nặng nề ấy của tôi, rồi cũng chậm chạp qua đi. Hôm sau tôi lại đi làm. Sương sớm và gió thu lạnh lẽo. Tôi thiếu áo mặc. Ngoài cái áo phin đen mỏng, bên trong chỉ có chiếc áo sợi dệt cộc tay. Chả thấm tháp gì với khí lạnh ở núi đá Vịnh bốc lên, và ở rừng đại ngàn phương Bắc thổi về. Tôi lại nghĩ đến chiếc áo len mầu hạt dẻ. Áo đan mới đẹp và khéo làm sao!...
Anh Dần có chiếc áo vải bạt kiểu lính mặc ngoài nên đỡ rét. Anh đi chếch về phía Bắc, che bớt gió cho tôi. Đường vắng ngắt không một bóng người. Trời chưa sáng. Anh Dần ghé sát vào tai tôi thì thầm:
- Việc đưa ông tài Dưỡng vào tổ chức, hôm nay chú nói cho ông ấy mừng.
- Vâng em cũng định thế.
- Chả còn gì phải thử thách đâu. Tôi làm với ông ấy mấy măm nay chẳng lạ gì. Con giai ông ấy trước là tự vệ mỏ, đã thoát li. À ông ấy có người em họ làm đốc công. Sếp Toại ở Cẩm Bình đấy. Ông ấy cũng là người tốt đáng tin cậy.
Thực ra sếp Toại mới là nhân mối tôi cần hướng tới. Vì ở cương vị ấy, về mặt tình báo ông ta sẽ có ích hơn những người thợ như bác tài Dưỡng. Mấy lần, qua bác Dưỡng, tôi đã gặp sếp Toại. Nhưng nguyên tắc bí mật, tôi không cho anh Dần biết.
Công việc đang tiến triển thuận lợi thì một hôm anh Thuỷ đến bảo tôi: “Chú phải rút vào bí mật thôi. Tôi mới nhận được báo cáo Sở mật thám phái tên Phổ về đây tăng cường cho bọn Cảm Phả. Nó chẳng lạ gì chú. Để chú ở đây sẽ không an toàn. Tôi cử chú về Hà Lầm - Hà Tu. Mấy hôm nữa có thuyền vào đón anh em ta đi. Tôi sẽ bàn giao cơ sở ở đấy để chú nắm.
Thế là phải chuyển đi rồi. Tôi cảm thấy thất vọng vì mơ ước thì nhiều mà làm lại chẳng đáng là bao. Đúng ngày hẹn, anh Pháo đưa thuyền vào Bến Gio đưa chúng tôi đi Hà Tu. Tôi giã từ Cẩm Phả. Giã từ ông bà Tài Liệu, anh Dần và chị Ngọc. Những người đã vì nước mà che chở cho tôi, sẵn sàng đón nhận tất cả sự nguy hiểm có thể ập đến bất cứ lúc nào. Không dám gặp cô Minh lần cuối cùng, tôi nhờ chị Ngọc chuyển lời chào. Và một lần nữa tôi xin cô tha thứ cho tôi. Chị Ngọc cười, hai mắt đỏ hoe: “Chúc anh lên đường mạnh khoẻ. Chắc là chẳng bao giờ cô ấy quên được anh đâu. Mối tình đầu của cô ấy mà”.
***
Thuyền đưa chúng tôi đến Cẩm Hà. Đây là một thôn ngoại vi, hẻo lánh, nằm ở phía đông nam thị trấn Hà Tu. Trước mặt là bãi sú và những dẫy núi đá xanh bạt ngàn trùng điệp của Vịnh Hạ Long. Sau lưng là đồi thông và đường Mười Tám, chạy từ Hồng Gai ra Cẩm Phả.. Cả thôn chỉ có hơn chục gia đình, và đều là thợ mỏ. Có người đang đi làm. Có người đã về hưu, hay ốm đau bệnh tật. Để kiếm thêm, người ta vỡ vạc những mảnh đất nhó hẹp, sình lầy, hoang hoá ở các hẻm núi, ven ngòi thành ruộng cấy lúa, trồng khoai. Họ đều là người ở đồng bằng đến đây làm ăn từ trước Cách mạng tháng tám. Gia đình nào cũng nghèo. Nhà cửa lụp xụp, tranh tre, nứa lá. Vườn tược không rào dậu, hoang sơ, đầy những cây na, cây táo mọc dại, chứ không phải người trồng. Cả thôn chỉ có một con đường “độc đạo”, từ trên dốc thị trấn đi xuống. Cuối đường, một mỏm núi đất nằm thoi loi ra biển chặn lại, thành đường cụt.
Có lẽ vì thế nên bọn lính Tây đóng trên đồn Hà Tu it khi nhòm ngó. Và Cẩm Hà đã thành địa điểm trú chân tương đôi an toàn cho các cán bộ hoạt động bí mật ở vùng này.
Chúng tôi ở nhà anh Thiện. Nhà chỉ có hai mẹ con. Bà mẹ làm ruộng. Anh Thiện trước làm mỏ cùng anh Pháo, sau bị bệnh lao phải thôi việc, đi cắt tóc rong. Người anh hom hem, gầy yếu, xanh rớt như tầu lá, ngoài ba mươi tuổi nhưng không dám nghĩ đến chuyện lấy vợ. Nhờ hàng ngày anh đi cắt tóc rong mà chúng tôi nhanh chõng nắm được tình hình diễn biến trong vùng.
Chúng tôi, cả ba người cùng không có giấy tờ hợp lệ. Phải chờ trời tối mới đột nhập vào nội thị. Anh Thuỷ đưa tôi đến các địa điểm hòm thư bí mật, rồi vào từng nhà cơ sở, giới thiệu cho đôi bên nhận mặt nhau, trao đổi công việc, thu lượm tin tức.
Xong việc ở Hà Tu. Anh Pháo đưa chúng tôi đi Hà Lầm. Anh Thuỷ bảo anh Pháo là “Thổ công” ở vùng này, đường ngang lối tắt, chỗ nào anh cũng biết. Anh Pháo là dân thuyền chài, sinh trường trên mặt nước. Nhưng con cá kình này đã có một thời vượt biển, lên bờ, vào mỏ Hà Lầm, rồi Ha Tu làm công nhân. Người anh lực lưỡng như đô vật, da đen, mặt rỗ. Tính nết phóng khoáng ngang tàng, bất chấp hiểm nguy. Những việc rắc rối trong đời sống, anh hay giải quyết bằng “nắm đấm”. Có lẽ vì thế nên anh không làm ở đâu được lâu. Có lần không chịu được một câu đèo xíu của tay cai, hai người cãi nhau. Anh đánh tay cai chết ngất rồi bỏ xuống biển. Ở đây anh gặp anh Thuỷ và xin đi thoát ly, làm nhân viên Công an danh dự (cộng tác viên ngoài biên chế).
Chúng tôi đi xuyên rừng Hà Tu, sang lán Mười Bốn - Hà Lầm. Gọi là lán thợ, nhưng ở đây không như lán trong nội thị. Nhà xây từng dẫy ngang dọc nối tiếp nhau. Lán Mười Bốn lúc bấy giờ còn rậm rạp. Người thưa. Nhà gianh vách đất, ở rải rác bên khe núi, chân rừng, như kiểu bản trại của người thiểu số. Nhờ địa thế thuận lợi, chúng tôi vào nhà mẹ Ngẫu từ lúc trời còn sáng. Đây là một gia đình cơ sở của anh Thuỷ.
Mẹ Ngẫu bị loà cả hai mắt, đầu vấn khăn, che miếng vải đen chéo ngang mặt, ngồi trên giường. Thấy tiếng chúng tôi, mẹ nhận ra ngay, hỏi:
- Thằng Thuỷ, thằng Pháo đấy à? Đi đâu lâu thế mới thấy?
- Vâng, Chúng con đi Cẩm Phả. Mẹ có khoẻ không?
- Khoẻ. Thằng Dũng vừa đi làm. Vợ nó đi giao rượu chưa về. Có nước ở trên bàn đấy. Còn ai nữa thế?
Anh Thuỷ giới thiệu tôi. Mẹ chẳng nói gì. Có lẽ vì không nhìn thấy tôi, mẹ đang lắng nghe để còn phân biệt. Chúng tôi đang ngồi uống nước, bỗng thấy tiếng lao xao ở ngoài ngõ. Anh Pháo ngó ra, bảo: “Bọn lính Tầu đến đây!” (lính Nguỵ, người Việt gốc Hoa). Chúng tôi chạy vội vào trong buồng. Cả anh Thuỷ và tôi cùng rút súng ra. Anh Pháo cầm quả lựu đạn lăm lăm, ngón tay móc vào vòng khoá an toàn. Có thể bọn chúng phục ở đâu đó, đã phát hiện ra chúng tôi chăng? Nếu chúng xông vảo cửa buồng thì buộc lòng chúng tôi phải nổ súng tự vệ. Nhưng không phải. Đó là bọn lính “Bảo an” đi tuần vào xin nước uống. Nghe tiếng chúng đi đã xa, chúng tôi mở cửa buồng ra. Mẹ Ngẫu bảo: “Dạo này chúng nó đi luôn đấy. Ôi dào, chẳng qua là đi ghẹo gái, và vặt trộm quả cây ở vườn người ta chứ tuần với phòng gì bọn chúng nó”.
Sau gần một tuần ở làn Mười Bốn, công việc xong. Chúng tôi quay về Cầm Hà. Rồi anh Thuỷ và anh Pháo về Cẩm Phả. Tôi ở lại một mình.
Bây giờ đã là tháng mười âm lịch. Lúa gặt xong. Thóc đã vào bồ. Nhưng rơm còn chưa lên đống. Sân nhà nào cũng bề bộn rơm đang phơi. Mùi thơm quen thuộc từ những sân rơm lan toả khắp nơi, khiến tôi lại nhớ những ngày còn bé ở quê nhà. Đêm tháng mười se se lạnh, trời trong, trăng sáng. Bố và anh tôi đập lúa ở ngoài sân. Mẹ ngồi giũ rơm. Tôi cùng đứa em lấy những lượm rơm chưa giũ, xếp thành ô vuông. Giả vờ làm cái chuồng lợn. Rồi hai “con lơn” chui vào trong, nằm ngửa mặt lên trời. Hai đứa đố nhau, làm sao chỉ một hơi mà đọc được hết câu đồng dao: “Ở trong nhà bước ra ngoài cửa, ngửa mặt lên trời. Đố ai đếm được mười ông sao sáng…”. Đếm được đủ mười ông. Nhưng phải đếm vừa xuôi vừa ngược xen kẽ nhau như: “Một ông sao sáng. Hai ông sáng sao…”. Chỉ có thế mà hai đứa mải mê đếm, cho đến khi ngủ rời ra lúc nào không biết.
Chiều nhạt nắng, nền trời xanh thăm thẳm. Sân rơm vàng rộm lên, cùng mùi thơm như lời mời gọi. Tôi ra sân ngồi chơi ngắm nhìn những ngọn núi đá xanh ngoài biển. Bỗng thấy tiếng gọi:
- Anh ơi! Anh gì ơi! Cho bọn em hỏi thăm nhà chị Toan ở đâu?
Trong lúc đang thả hồn mình bay đi cùng trời mây non nước, tôi quên bẵng mất thực tại và buột miệng nói luôn:
- Các chị cứ đi thẳng, sắp đến rồi đấy!
Họ đi rồi tôi mới sực nhớ…thôi chết! Nhà chị Toan là chỗ ở của cán bộ Công đoàn. Họ là ai?...Tôi vội vàng chạy theo. Hai người con gái lạ ấy đội nón, khoác bị, quần đen, áo trắng. Một người đi giầy vải mầu trắng. Người kia đi dép da. Tôi gọi với: “Này! Các chị ơi!”. Họ dừng lại. Tôi chạy gần đến nơi thì một người mừng rỡ thốt lên:
- Ôi…Anh Quế! Thế mà làm bọn tôi sợ hết cả hồn. Sao? Anh ở đây à?
- A…à chị Thông! - Nhận ra người quen, tôi cũng mừng rỡ reo lên – Sao chị lại vào đây?
- Bọn tôi bị lộ rồi. À giới thiệu với anh Quế: Đây là Mỹ, bạn tôi cùng tổ Công đoàn.
Tôi nhìn người chị Thông vừa giới thiệu. Cô xinh đẹp và ít hơn chị Thông đến vài ba tuổi. Dáng người dong dỏng, với những đường cong mềm mại, dụi dàng. Khuôn mắt trái xoan, thanh tú, hao hao giống cô Minh.
Tôi đưa hai người đi.
Nhà chị Thông ở gần nhà Bắ Nhau. Khi còn ở Hồng Gai, tôi chỉ biết chị chứ không quen. Lúc đầu thấy chị bán vàng hương ở chợ. Sau lại thấy chị đi làm công nhân nhà máy sàng. Bây giờ gặp ở đây tôi mới biết chị hoạt đông công đoàn. Chợt chị Thông hỏi tôi:
- À, anh Nhân bị bắt, anh đã biết chưa?
- Tôi giật mình. Tuy đã dự đoán trước, nhưng bây giờ biết sự thật tôi vẫn choáng váng thốt lên:
- Thế à! Thật khổ thân anh ấy! Tôi bị lộ phải rút vào bí mật. Ở đây cũng gần như ở thế giới khác, nào tôi có biết tin tức gì đâu. Thế bà Bang có bị bắt không, chị?
- Bà Bang thì liên quan gì đến anh Nhân mà chúng nó bắt. Nhưng anh đừng lo, chúng nó thả anh Nhân rồi. Không ngờ ông Sếp của anh ấy tốt thế. Mấy lần ông ấy cãi nhau với lão Ray, lão mới cho về đấy. Ông ấy còn đến tận nhà thăm bá Nhau cơ mà.
Ôi…thật là mừng! Việc chúng không bắt bà Bang, và thả anh Nhân, chứng tỏ chúng chưa tìm ra đầu mối tôi vào Hồng Gai. Đồng thời cũng chứng tỏ anh Quân đã không khai sự thật. Và chắc chắn anh Nhân đã khai như lời tôi đã dặn: “Nó còn bé dại, nghe thằng Năng rủ rê trốn nhà đi mất, Không biết đi đâu”.
Đến nhà chị Toan, anh Cầm, cán bộ Công đoàn ra đón khách. Tôi quay về với bao ý nghĩ ngổn ngang, vừa vui lại vừa buồn. Khi phải bỏ Hồng Gai trốn đi, tôi đã biết thế nào anh Nhân cũng bị bắt. Nhưng không ngờ cả bá Nhau cũng bị giam cầm. Giờ đây tuy hai mẹ con đã được tự do, nhưng liệu có chắc chắn không? Hay đến một lúc nào đó tìm ra tung tích tôi, chúng lại bắt? Và về danh nghĩa, sự hi sinh, chịu đựng tù đày ấy là vì nước, vì kháng chiến. Nhưng liệu hai mẹ con bá có điều gì oán hận tôi không?...
Vui vì ở đây tôi chẳng có ai là người thân quen, từ nay tôi đã có chị Thông. Tôi coi chị như người bạn thân nhất của mình. Mặc dù chị lớn hơn tôi nhiều tuổi, và trước đây chưa lâu vẫn còn là người xa lạ.
Từ hôm ấy lúc nào rỗi tôi cũng sangchơi.
Một hôm vào buổi chiều, tôi sang thấy hai người ngồi ở ngoài sân, trên mô rơm, vẻ mặt người nào cũng buồn buồn. Biết họ mới đi, còn nhớ nhà, tôi ngồi xuống góp chuyện. Chị Thông hỏi tôi:
- Thế cái ông lái bò bị bắt ở nhà bà Nhiếp, có phải là người của bọn anh không? Tôi gật đầu. Chị thốt lên:
- Biết ngay mà. Tôi đoán không sai. Lái bò làm sao lại trắng trẻo, khôi ngô thế?
- Còn các chị vì sao lại bị lộ - Tôi hỏi. Chị Thông bỗng mím môi, chau mày, làm ra vẻ mặt đanh đá. Chị dí ngón tay vào trán cô Mỹ nói:
- Chỉ tại cái của nỡm này! Giá cứ lấy quách cái thằng khốn nạn ấy đi có phải yên thân không. Đằng này lại chỉ mơ tưởng những “chàng chiến sỹ” ở mái đẩu mãi đâu nên mới khổ.
Cô Mỹ cười thẹn, hai má ửng hồng lên. Cô vừa đấm chị Thông vừa nũng nịu trách: “Chị chỉ được cái hay nói xấu em thôi. Em có mơ tưởng ai đâu!”. Rồi cô ngả đầu nằm, lấy khăn mùi soa che ánh nắng xiên khoai cho khỏi chiếu vào mắt.
Chị Thông kể lại: Tổ công đoàn của chị có người say mê Mỹ. Anh ta theo đuổi đã lâu. Nhưng Mỹ vẫn từ chối. Viện lý do bố mất sớm, anh thoát ly đi kháng chiến, nhà chỉ con một mẹ một con nên chưa muốn đi lấy chồng. Thế là tình yêu không được đền đáp, đã sinh ra thù hận. Cái thằng “Giu Đa” nhẫn tâm ấy quá cay cú, nó nhẩy ra đầu thú, phản bội cả Tổ quốc và người nó yêu…
Tôi đang chăm chú theo dõi chuyện chị Thông, bỗng nghe thấy tiếng Mỹ se sẽ hát:
“Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mờ chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng…”.
Ôi! Bài “Con thuyền không bến”. Mỹ hát hay quá! Giọng trong veo, sâu lắng, làm lay động lòng tôi. Nếu âm thanh có thể chuyển được thành các vật thể hữu hình, thì giọng hát ấy vừa mượt mà, êm dịu như nhung lụa, vừa ấm áp, ngọt ngào như mật, như đường. Bài này tôi đã hát từ ngày còn đi học. Sau Cách mạng thàng tám không thấy ai hát nữa. Giờ đây tôi mới được nghe lại. Mà không ngờ Mỹ có giọng hát hay đến thế. Tôi nhìn xuống tấm khăn tay. Bỗng bắt gặp đôi mắt nấp dưới đó đang nhìn tôi đăm đăm. Ôi! Cái nhìn nồng cháy, cuốn hút như có phép lạ, thu hết hồn tôi, khiến tôi bàng hoàng, xao xuyến.
Chọn bài hát ấy, và cái nhìn này, có phải Mỹ muốn nói: Đời em và lòng em đang là con thuyền chưa có bến đậu không? Tôi không dám tin ngay là Mỹ đã chú ý đến tôi, đã hé mở cho tôi một điều gì đó. Mặc dù chị Thông đã nói Mý vẫn mơ tưởng những người “chiến sỹ”. Mà tôi thì chắc cũng được coi là một trong số các chiến sỹ ấy? Tôi cũng không hiểu được thật rõ ràng là mình đã nhận được gì qua cái nhìn kỳ diệu đó. Chỉ biết chắc đó là một điều thật quan trọng, vừa xẩy ra giữa Mỹ và tôi. Khiến mặt tôi bỗng nóng bừng lên…
Để che giấu bộ mặt xúc động của mình, tôi vội vàng đứng dậy, chẳng kịp chào hỏi gì, cám đầu chạy thẳng về nhà. Nhà vắng ngắt. Anh Thiện đi cắt tóc. Bà mẹ đi làm đồng chưa về. Sân rơm vương vãi, bề bộn. Tôi thu rơm vào giũa sân, quét dọn, rồi nằm lên đống rơm, nhìn hoàng hôn cháy đỏ phía chân trới. Và lòng tôi lúc ấy cũng cháy lên nung nấu vì những ý nghĩ phân vân: Cái nhìn ấy có phải là biểu hiện của tình yêu không? Nhưng thật là buồn, những câu hỏi ấy chẳng ai có thể trả lời, chẳng căn cứ vào đâu để xác định.
Nhưng từ giây phút ấy, tâm trí tôi hầu như đã hoàn toàn thay đổi. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến cặp mắt lấp lánh ấy, cùng những nụ cười bừng sáng nở trên đôi môi em. Và tai tôi luôn luôn vẳng lên tiếng hát: “Đêm nay thu sang cùng heo may…”. Không nhìn thấy Mỹ, tôi thấy thiếu vắng, nhớ nhung. Đêm ngủ cũng nửa mơ nửa tỉnh. Chỉ mong được gặp em để hỏi và nghe câu trả lời. Nhưng đến lúc gặp nhau, tự nhiên tôi lại trở nên vụng về, bối rối, chẳng biết nói gì, hỏi gì. Rồi chẳng lẽ cứ ngồi nhìn nhau mãi. Tôi đành đứng dậy lững thững quay về, ngẩn ngơ như người mất của.
Tối hôm ấy anh Thuỷ và anh Pháo ở Cầm Phả về. Anh Thuỷ báo cho tôi biết: Anh Tống đã bị bọn phản động ở Trại Thán bắn chết trên đường giao thông về tỉnh.. Bọn dã man ấy còn cắt tai anh, nộp cho quân Pháp để lĩnh thưởng. Cái tin thật là buồn! Thế là anh Tống đã hy sinh rồi! Chẳng bao giờ chúng tôi còn được ăn món mắm tôm trưng riềng của anh nữa!
Sáng hôm sau, anh Thuỷ sang nhà chị Toan. Anh bảo đi họp “Hội”. Tôi biết anh là đảng viên, Nhưng lúc bấy giờ Đảng chưa ra công khai, nên anh nói tránh đi như vậy. Tôi cũng theo anh sang chơi với bọn chị Thông, cô Mỹ. Mỹ đang quét sân, chẳng hiểu sao nét mặt buồn rười rượi. Cô bảo tôi: “Chị Thông về tỉnh rồi anh ạ! Chị ấy gửi lời chào anh, chúc anh ở lại công tác mạnh khoẻ”.
Thảo nào! Hai chị em cùng đi thoát li với nhau, cùng ở với nhau một chỗ, bây giờ kẻ đi người ở, ai mà chẳng buồn. Đến tôi là nam giới ở nơi heo hút này, việc chị Thông đi cũng khiến tôi thấy hẫng hụt, chứ nữa là bạn gái. Tôi thốt lên:
- Chị ấy đi bao giờ, sao không ai cho tôi biết?
- Đêm hôm qua. Chị ấy cũng định sang bên anh, nhưng thuyền giao thông sợ cạn, phải đi ngay.
- Chợt nhận ra một điều còn đáng buồn hơn việc chị Thông về tỉnh, tôi vội vàng hỏi:
- Thế còn…còn Mỹ thì sao? Có phải về tỉnh không?
- Em cũng muốn về cùng chị Thông để được đi học. Nhưng anh Cầm bảo em ở lại đây công tác.
Tôi nén sâu vào trong lồng ngực một tiếng thở dài nhẹ nhõm.
Họp xong, trên đường về, anh Thuỷ bảo chuẩn bị ngay ngày mai cả ba anh em phải đi Hà Lầm có công tác đột xuất rất quan trọng.
***
Chiều hôm sau. Ở chân rừng lán Mười Bốn, Hà Lầm, có cuộc họp liên tịch giữa Công an và Công đoàn. Bên Công an có anh Thuỷ, anh Pháo và tôi. Bên Công đoàn có anh Cầm và anh Thụ, tổ trưởng công đoàn cơ sở ở thị trấn Hà Lầm. Anh Cầm chủ trì cuộc họp, giới thiệu cho hai bên biết nhau. Rồi anh phổ biến chủ trương của đoàn thể (danh xưng thường dùng để gọi Đảng thời gian ấy) và Công an cấp trên về việc diệt trừ tên Huấn, Chánh mật thám kiêm thị trưởng Hà Lầm. Tên này đã phá vỡ nhiều cơ sở của ta, bắt bớ, đánh đập, gây nhiều tội ác với nhân dân.
Sau đó, mọi người cùng bàn bạc kế hoạch để hoàn thành nhiệm vụ. Anh Thụ cho biết tên Huấn không đêm nào dám ngủ ở nhà. Nó hay ra Hồng Gai, hoặc vào ngủ ở trại lính Pháp. Nó nghiện thuốc phiện, sáng nào cũng đến tiệm hút rồi mới đi làm
Tổng hợp các ý kiến, cuối cùng anh Thuỷ phân định một kế hoạch như sau: Lực lượng ta có hai tay súng: Khẩu “Paravenlum” của anh Thuỷ và khẩu “Sinechien” của tôi, chia làm hai mũi, một tấn công, và một bảo vệ. Múi thứ nhất gồm tôi và anh Thụ. Chúng tôi sẽ đột nhập vào tiệm thuốc phiện, khi tên Huấn vừa đến. Anh Thụ sẽ chỉ cho tôi biết mặt y, để tôi nổ súng. Mũi thứ hai có anh Thuỷ và anh Pháo. Mũi này bố trí ở gần trại lính, có nhiệm vụ bắn cản đường, khi bọn Tây nghe thấy tiếng súng chạy ra đuổi mũi thứ nhất. Rồi cả hai cùng rút chạy lên rừng.
Để bảo đảm tuyệt đối bí mật cho cơ sở, sáng mai vào lúc còi tầm thứ nhất, tôi phải có mặt ở địa điềm này, để anh Thụ đưa vào nội thị. Và cùng lúc ấy anh Pháo đưa anh Thuỷ đến địa điểm mai phục. Hai người đi đường riêng. Tất cả đều tán thành kế hoạch đó. Cuộc họp nhanh chóng kết thúc.
Anh Thuỷ, anh Pháo và tôi về nhà mẹ Ngẫu ở qua đêm.
Cái đêm trước giờ nổ súng ấy, tôi trằn trọc, lo lắng không sao ngủ được. Ngày mai giữa thanh thiên bạch nhật, ở cái phố xa lạ nằm sâu trong lòng địch này, tôi sẽ phải đương đầu trong một trận chiến đấu gần như “đơn thương độc mã”. Anh Thụ cho biết: Bao giờ tên Huấn cũng kè kè khẩu súng ngắn ở bên mình. Vào tiệm thuốc phiện, khi nhận được mặt nó, liệu tôi có kịp nổ súng trước nó không? Tiệm thuốc buổi sáng, chắc không phải chỉ một người đến hút. Nhỡ tôi bắn trượt vào người khác thì sao? Vả lại, tay súng của tôi chắc chắn không “thiện xạ” bằng anh Thuỷ. Vậy tại sao tôi lại ở mũi tấn công? Còn anh ây lại ở phía sau, gọi là để bảo vệ! Hay anh Thuỷ đã có sự tính toán cá nhân, thiệt hơn, lợi hại gì đây?...
Nhưng…thôi! Cũng được. Chẳng sao. Mà như thế cũng là hợp lý. Anh ấy là cấp trên, và là người đã hết lòng yêu thương, quý mến tôi, đã dìu dắt tôi đi theo cách mạng. Anh ấy còn bố mẹ già, còn vợ con, còn một ông anh ruột mù loà. Còn tôi chỉ có một minh, không phải lo gánh nặng gia đình. Và cũng chẳng có gì vướng mắc, ngoài một chút vấn vương thầm kín chưa thổ lộ được. Thời xưa người ta còn dám hy sinh thân mình vì một người “tri kỷ”. Như Kinh Kha vì Thái tử Đan mà bỏ mình ở cung vua Tần. Còn tôi bây giờ, nếu có gặp rủi ro náo đấy mà đi không về nữa, thì cũng không phải chỉ vì một cá nhân. Chắc rồi tôi cũng được liệt vào hàng con cháu, đi theo dấu chân người tiền bối như Phạm Hồng Thái: Vì tất cả mọi người…
Vừa thấy tiếng còi tầm tu lên chưa dứt tiêng, tôi đã bật dậy, giắt khẩu súng vảo trong bụng. Anh Thuỷ và anh Pháo cũng dậy ngay. Chúng tôi nhẹ nhàng hé cửa lách ra ngoài sân. Anh Thuỷ ôm vai tôi, ghé vảo tai tôi bảo: “Em đi trước đi, Cẩn thận nhé!”. Tôi đến điểm hẹn. Anh Thụ đã chở ở đấy rồi. Chúng tôi đi hêt lán Mười Bốn, xuống trục đường chính dẫn vào thị trấn thì trời mới mờ mờ sáng. Người tan ca đêm và người đi làm ca sáng cùng đổ ra đường, ngược xuôi tấp nập. Trời rét. Mới đầu mùa đông, nhưng mấy hôm nay đêm nào cũng có sương giá. Cây cỏ hai bên đường ướt đẫm như mưa. Tôi thu hai tay vào trong bụng cho đỡ lạnh, và nắm chặt lấy khẩu súng. Cái vật vô tri vô giác này, hơn bất cứ lúc nào, giở đây nó vẫn là người bạn trung thành và tin cậy nhất của tôi. Đồng thời nó cũng là tất cả sức mạnh để tôi tấn công và tự vệ. Tôi hiểu rằng: Nếu tên Huấn rút súng ra, thì chính cái mẩu thép lạnh ngắt này sẽ bảo vệ tôi, chứ không phải là anh Thuỷ và anh Pháo.
Vào phố, anh Thụ đưa tôi về nhà anh nghỉ chân. Tôi ngồi xuống giường. Thấy bày bộ ấm chén và bao thuốc lá thơm chưa bóc. Một bà già ở sân sau bước vào. Bà rót nước mời tôi. Anh Thụ đi xuống bếp rồi quay lại ngay, đi sau anh là một phụ nữ. Chị lên để chào tôi, và chắc cũng là để xem “chú Việt Minh” mồm ngang mũi dọc ra sao, rồi chị lại đi xuống bếp. Anh Thụ không giới thiệu gì. Tôi đoán chắc bà già là mẹ, còn chị kia là vợ anh. Chúng tôi mới biết nhau, lại trong giờ phút căng thẳng, nên ai cũng ít nói. Và thực ra cũng không ai còn tâm tri đâu mà để ý đến chuyện giao tiếp. Anh Thụ bảo tôi ở nhà nghỉ. Anh đi theo dõi tên Huấn. Một lúc sau, chị Thụ bê mâm cơm lên. Chị xới hai bát để xuống cạnh mâm mời tôi, mời bà mẹ rồi xuỗng dưới nhà. Mâm cơm có rất nhiều thưc ăn. Bà mẹ gắp vào bát ép tôi ăn. Được quý mến đôi khi cũng là một sự khổ. Đầu óc tôi đầy những lo âu. Bụng dạ có cảm giác đói khát gì đâu mà ăn với uống! Nhưng vẫn phải cố ăn, để khỏi phụ lòng người tiếp đãi.
Từ nãy bà mẹ chỉ ngồi yên nhìn và nghe tôi với anh Thụ trao đổi công việc. Giờ anh đi rồi, bà mới có dịp hỏi chuyện tôi. Và câu đầu tiên bà hỏi là: “Cụ Hồ có được mạnh khoẻ không, cháu? Anh em ta ở ngoài chiến khu có thiếu thốn lắm không?”.
Trời ơi! Bà cụ tưởng tôi ở chiến khu, tưc là ở chỗ Bác Hồ về đây. Bà có biết đâu, chính tôi cũng chưa được trông thấy “Cụ Hồ” bao giờ, ngoài những tấm ảnh. Tôi lúng túng quá, không biết nói thế nào, nên đành phải nói dối:
- Cụ Hồ vẫn khoẻ mạnh bác ạ. Còn anh em chúng cháu cũng không thiếu thốn lắm đâu.
- Vậy à? Được như vậy thì mừng lắm. Nhưng anh em ở trong rừng về mùa đông chắc là rét lắm, lại còn khi ốm khi đau. Ở đây chị em chúng tôi vẫn bảo nhau gom góp thuốc men, áo ấm, gọi là tấm lòng của người ở nhà gửi ra ngoài ấy đấy.
Anh Thụ về báo:
- Nó vừa đến tiệm thuốc phiện rồi anh ạ. Ta đi thôi!
- Phải thay đổi kế hoạch anh Thụ ạ! Tôi nói.
Anh ngạc nhiên nhìn tôi và im lặng chờ đợi. Tôi bình tĩnh trao đổi lại với anh. Đêm qua tôi đã suy nghĩ rất kỹ. Kế hoạch của anh Thuỷ có điểm sơ hở mà lúc họp không ai phát hiện thấy. Đó là tiệm thuốc buổi sáng, chắc không chỉ có một mình tên Huấn. Rất khó cho tôi kịp thời hành động, khi biết mặt nó. Mà như vậy thì bản thân anh Thụ sẽ bị lộ, sẽ phải rut ra ngoài. Sở dĩ tôi không dám bàn với anh Thuỷ ngay đêm qua, vì sợ có thể anh cho là thấy khó khăn, nguy hiểm tôi chùn bước. Tôi bảo anh Thụ:
- Nếu có chỗ nào đứng chờ nó ra thì hay quá. Nếu không thì buộc lòng chúng ta phải thực hiện như kế hoạch trước.
- Có. Đối diện tiệm thuốc phiện có mấy gia đình mới chuyển đi. Vì Sở sắp sửa lại nhà.
Chúng tôi đi ngay. Tôi quên không cảm ơn và chảo hai mẹ con bà mẹ anh Thụ. Đến ngôi nhà hoang đó, chúng tôi dán mắt vào khe cửa, nhìn sang bên kia đường. Những giây phút cuối cùng, căng thẳng nhất của sự việc đã đến. Thời cơ có một, không hai sắp bắt đầu. Còn lâu hay chóng đây? Thời gian đã trôi đi, đang trôi đi, hay không bao giờ trôi đi nữa? Tôi hoàn toàn không ý thức được. Chỉ biết rằng chúng tôi phải đứng ở đây, và chờ đợi. Chờ đợi đã lâu lắm rồi. Cả đời tôi cho đến lúc ấy, chưa phải chờ đợi ai lâu và lo lắng, bồn chồn đến thế!..
Bỗng thấy hai người cùng xuất hiện ở khuôn cửa phia bên kia. Anh Thụ thì thầm bảo tôi: “Thằng mặc áo véc, tháp là thằng Huấn đấy! Còn thằng cao hình như là thằng lính Tầu”.
Tôi mở cửa, sang đường, tiến sát đến sau lưng tên Huấn, rút súng bóp cò. “Đoàng!”. Một tiếng nổ vang lên, khói bay mù mịt. Tên Việt gian đổ vật xuống đường. Tên kia không bị bắn cũng ngã. Nó vùng dậy chạy biến. Tên Huấn quằn quại, lật nghiêng người định rút súng. Tôi bắn liền ba phát nữa rồi rút chạy. Dân phố đổ ra cửa đứng xem. Chắc họ không ngờ tiếng súng kháng chiến vừa thét lên, làm náo động cả phố phường, lại không phải do một chiến sĩ cao lớn, xương sắt, da đồng nào thực hiện, mà lại là một chú thiếu niên, áo đen, đầu trần, chân dép cao su trắng đang chạy đây.
Sợ lộ mặt, tôi vẫy súng, ra hiệu cho họ vào trong nhà. Cửa đóng ầm ầm, nhưng rồi lại mở ra ngay. Có lẽ người ta không muốn bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi được nhìn thấy con người ở nơi mà lòng người ta vẫn nghĩ đến chăng? Chạy được một quãng, tôi ngoái lại, thấy bọn anh Thuỷ đang chạy phía sau lưng. Tôi vững tâm chạy thẳng lên đồi thông. Cùng lúc ây tôi nghe thấy tiếng kẻng báo động ở trại lính vang lên dồn dập. Lên dốc tôi chạy không được nhanh. Chỉ một lát bọn anh Thuỷ chạy kịp. Càng lên cao, đồi càng dốc. Bây giờ tôi đã thấm mệt, chân tay như nhũn ra, không điều khiển được, bước xiêu, bước vẹo. Anh Pháo vội nắm cánh tay tôi, kéo xốc đi, chẳng kể gì gai góc, lau sậy, dây dợ vướng viú chằng chịt. Chúng tôi vừa tiến được vào trong rừng rậm, thì thấy vang lên tiếng súng bắn đuổi theo. Đạn bay xé gió, rú rít ào ào như mưa giông, và chan chát găm vào thân cây, chung quanh chúng tôi. Đủ cả tiếng trung liên, tiểu liên và súng trường.
Lúc bầy giờ cánh rừng giữa Hà Lầm và Hà Tu còn rậm rạp. Chúng tôi tìm chỗ kín, bẻ lá nằm chờ trời tối rồi rút về Cẩm Hà.
Thế là chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Cả ba anh em cùng vui mừng. Riêng tôi thì lòng như đêm hội. Vì biết rằng ở Cẩm Hà giờ này có người đang mong đợi tôi về. Vâng, tôi đã làm tròn nhiệm vụ rồi! Tôi sắp về đây! Hỡi người đang mong đợi! Xin hãy chờ tôi về. Tôi sẽ đem chiến công nhỏ bé này trao riêng cho em, để được nhận những nụ cười, những ánh mắt tươi vui, và đầy kiêu hãnh…
Khi chúng tôi về đến nhà anh Thiện, thì anh Cầm và bà con trong xóm đã tụ tập ở đây ngay từ chập tối. Họ đang hồi hộp chờ chúng tôi về. Cái tin thằng Huấn phải đền nợ máu đã bay về đây từ sáng. Ai cũng vui mừng. Nhưng biết quân Pháp đuổi theo chúng tôi, lại thấy tiếng súng nổ nhiều, nên ai cũng lo. Thấy chúng tôi toàn vẹn trở về, mọi người mừng rỡ xúm lại rối rít hỏi han, chúc tụng. Chỉ riêng tôi bị hẫng hụt. Vì không thấy Mỹ đâu? Nhưng cũng chỉ ngạc nhiên, và tiếc nuối âm thầm chứ không dám để lộ ra nét mặt.
Trong số bà con ở Cẩm Hà, người tỏ ra vui mừng nhất là bác Phúc. Ngay đêm ấy, bác mời và lôi kéo bằng được chúng tôi về nhà bác. Chả là bác có anh con trai, làm thợ lái máy xúc ở mỏ Hà Lầm, bị tên Huấn bắt, rồi mất tích. Bác bảo chúng tôi đã trả thù cho con bác, giúp bác. Cho nên chúng tôi phải uống rượu mừng với bác. Rượu bác nấu, gà nhà nuôi, có phải mua đâu mà ngại.
Cùng các anh, tôi ngồi xuống giường, mâm cơm đầy thức ăn thơm phức. Sau một ngày đầy lo âu, vất vả, lại gần như phải nhịn đói, tất nhiên là tôi ăn rất ngon. Nhưng lại một lần nữa tôi cảm thấy, được quý mến đôi khi cũng là một sự khổ. Tôi chỉ muốn ở nhà anh Thiện, ăn vội mấy bát cơn nguội, rồi chạy sang nhà chị Toan tìm Mỹ. Nhưng nào có được đâu! Xong bữa cơm mời, thì đêm đã qúa khuya rồi, còn đi làm sao được nữa!
Sáng hôm sau, tôi sang nhà chị Toan. Chị đang cho lợn ăn. Vừa trông thấy tôi chị đã nói:
- Mừng chú thắng lợi trở về! Chắc chú sang tìm cô Mỹ phải không? Nó phải chuyển công tác, đi chiều nhôm qua rồi!
Tôi đứng sững như bị trời trồng. Bao nhiêu hy vọng chứa chan, bỗng dưng sụp đổ. Tôi hỏi chị:
- Cô ấy chuyển đi đâu hả chị?
Chị liếc mắt vào trong nhà. (Chắc anh Cầm đang ở trong ấy). Rồi với vẻ mặt cảm thông, ái ngại, chị đến bên tôi nhỏ giọng thì thầm:
- Anh Cầm chuyển nó xuống công tác dưới xã Trúc Võng, thay chị Lan về tỉnh học. Nó cứ ra ngẩn vào ngơ, chuẩn bị, dùng dắng mãi rồi mới xuống thuyền. Lúc đi, nó ôm chị khóc, bảo là nhớ chị. Chẳng biết có phải thế không? Hay nó còn… nhớ ai nữa thì chị chẳng biết?
Người tôi bỗng nóng bừng bừng, tim đập tưởng ngạt thở. Trúc Võng là quê hương, làng xóm của dân đánh cá, ở ngoài Vịnh Hạ Long. Xã không có đường thuỷ giới phân định rộng hẹp. Mà cứ ở đâu có nước, có cá là ở đấy có thuyền đánh cá, và cũng có thể coi đấy là xã Trúc Võng được rồi. Một người con gái sinh trưởng ở thành phố, lại cho xuống biển, anh Cầm thật lạ lùng đến khó hiểu. Nhưng dù sao vẫn còn hơn là em về tỉnh. Tình yêu bảo tôi vẫn còn hy vọng. Biết đâu lại chẳng có ngày gặp nhau…
Nhưng rồi lâu dần tôi mới hiểu . Cả hai đứa cùng hoạt động bí mật ở trong vùng địch, lại kẻ ở trên bờ người dưới biển, trông đợi một dịp may ngẫu nhiên nào đó cũng chỉ hoài công. “Hạc nội, mây ngàn”, biết đâu mà tìm một bóng chim, tăm cá! Cơ hội gặp nhau chỉ là hão huyền!
***
Trước khi về Cẩm Phả, anh Thuỷ tăng cường cho tôi một nhân viên công an danh dự là anh Xương. Anh là em họ anh Pháo, hơn tôi ba tuổi, người thấp, mặt đầy trứng cá, nhưng rất khoẻ mạnh và chịu khó. Bố mẹ anh Xương mất sớm, nhà chỉ có hai chị em, lại nghèo, không có thuyền và đồ nghề. Anh chuyên đi làm thuê. Người chị xấu số của anh, cả hai đời chồng đều chết non. Vì không có con nên chị lại về ở với em, khi đã đứng tuổi. Nhưng đó chỉ là danh nghĩa, chứ có thuyền đâu mà ở. Chị góp vốn với người bạn có thuyền, hai người đi buôn cá chung.
Anh Xương thích đi thoát ly đã lâu, nhưng bây giờ mới được anh Pháo giúp đỡ nói với anh Thuỷ. Thấy anh không biết chữ, nhưng có giấy tờ hợp pháp, đi lại đẽ dàng. Tôi dậy anh học, và giao cho anh việc đến các hòm thư lấy báo cáo.
Từ ngày tên Huấn bị bắn, bọn Pháp tăng cường lùng sục, vây ráp, kiểm tra giấy tờ rất ngặt. Rồi một hôm chúng ập đến Cẩm Hà. Giữa lúc anh Thiện đang cắt tóc cho anh Cầm ở ngoài đầu hè, bất chợt trông thấy chúng, anh Thiện chỉ kịp kêu lên mỗi tiếng “Tây!”. Anh Cầm hoảng hốt không kịp gỡ bỏ chiếc khăn trắng đang quàng trước ngực, nhẩy vọt vào rừng. Chúng không dám đuổi, chỉ bắn theo như vãi đạn vào trong rừng. Tôi và anh Xương chạy ra hồi nhà, phía khuất chúng không nhìn thấy rồi lẻn vào trong rừng.. Chúng bắt anh Thiện lên đồn tra hỏi. Anh khai: Người ở dưới thuyền lên cắt tóc, không biết là ai. Chẳng có chứng cớ gì, chúng giam anh mấy hôm rồi cho về.
Nhưng từ đấy Cẩm Hà không còn là căn cứ tương đối an toàn của chúng tôi nữa. Anh Cầm, sau khi thoát hiểm đã bí mật rút đi nơi khác. Tôi và anh Xương rút ra hang đá ở tạm ít ngày. Rồi sau cũng tìm được thuyền chuyển ra ngoài Vịnh.
Anh Xương đưa tôi đến thuyền gia đình ông cụ Hương, người họ hàng và cũng là chỗ anh vẫn làm ăn trước. Đây là một gia đình khá giả, có nề nếp, đông con, nhiều cháu. Ông cụ goá vợ, ngoài bẩy mươi tuổi nhưng còn phương phi, khoẻ mạnh và rất tốt bụng, sẵn lòng ủng hộ, giúp đỡ kháng chiến.
Trong mỗi mùa cá, người dân chài thường tìm đến một vùng biển thích hợp để làm nghề. Chiếc thuyền lớn là nhà của cả gia đình, được neo đậu lại một chỗ, cho người già và trẻ nhỏ ở. Còn những chiếc khác nhỏ hơn thì đưa ngư cụ đi đánh bắt ở trong vùng. Tối mới về chỗ neo đậu. Lúc anh em tôi đến, gia đình cụ Hương đang ở Vụng Ruốc. Đây là một vụng nước sâu, kín đáo, nằm lọt giữa một vùng núi đá vôi bạt ngàn, giăng mắc như thiên la địa võng của Vịnh Hạ Long. Ngày ngày thuyền của các con đi đánh cá, ông cụ ở nhà với đàn cháu nhỏ lít nhít, trứng gà, trứng vịt, và chị con gái út.
Tuy địa thế núi non hiểm trở như vậy, nhưng ở đây cũng không phải là chỗ thật an toàn. Bọn mật thám liên bang Pháp đã khôn khéo mua chuộc được lão Hội Hành, người Trúc Võng đứng ra làm “Hội tề”. Chúng trang bị vũ khí, tiền bạc cho Hội Hành chiêu mộ dân địa phương làm lính dõng, lập thành một tuyến hành lang trên mặt biển, bảo vệ cho cả khu mỏ, từ Hông Gai, Cẩm Phả đến Cửa Ông. Bọn phản động này đã gây cho ta không ít khó khăn, trong việc sử dụng mặt biển làm bàn đạp đi vào khu mỏ.
Nhưng dân chài có biệt tài là họ phân biệt được thuyền lạ hay quen, ngay từ lúc chiếc thuyền nào đó vừa xuất hiện còn ở rất xa, mãi cuối tầm nhìn. Vì thế nên thuyền của bọn mật thám đi dò la, hay thuyền của bọn lính Hội Hành đi tuần đến đâu cũng đều bị phát hiện và làm cho bọn chúng trở nên vô tác dụng. Tức là có cái gì cần phải cất giấu hay lẩn tránh, người ta đã làm xong trước khi chúng đến khám xét.
Chỉ còn phải đề phòng khi chúng đi đêm. Anh Xương đã tìm được một chỗ ở trên núi, có mỏm đá chìa ra như mái nhà che nắng, che mưa. Anh chặt cây gác lên đá làm giường. Đêm nào không có việc phải vào đất liền, hai anh em tôi lên núi ngủ, sáng lại xuống thuyền.
Từ ngày rút xuống thuyền, và biết đây cũng thuộc xã Trúc Võng thì chút hi vọng gặp lại Mỹ ở trong tôi lại bừng lên, khiến tôi thao thức. Nhưng đó cũng chỉ là thầm ước, thầm mong một mình, chứ có gặp ai quen biết đâu mà hỏi thăm tin tức.
Nhưng rồi…Chẳng biết có phải do trời xui đất khiến không? Vào một buổi chiều mùa đông gió rét, cả nhà đang ăn cơm, chợt chị Út nhìn ra ngoài xa rồi tự hỏi: “Lẵng của ai kia nhỉ?”(*). Nhìn chưa rõ, chị đứng dậy, che mắt nhìn giây lát rồi thốt lên: “A…chị Mỹ! Đúng rồi! Gớm, chèo dẻo y như người dưới thuyền”.
Tim tôi bỗng đập thình thình, người nóng ran lên. Không ngờ cái cơ hội mỏng manh tưởng đến cả nghìn năm cũng không thể có. Thế mà giờ đây lại là sự thật. Chiếc lẵng nhỏ bé kia chẳng khác nào con thuyền giấy của tuổi thơ tôi đang hiển hiện, và đang to dần lên như có pháp lạ. Miếng cơm đang nhai, bỗng trở nên nhạt nhẽo. Tôi không muốn ăn nữa mà vẫn phải ăn. Mà lại còn phải tiếp chuyện ông cụ Hương nữa mới khổ chứ!
Ông cụ đang say sưa kể về cái thời xa xưa “oanh liệt” của mình. Ông lặn từ sáng đến trưa chỉ có hai hơi, nách cắp một cây gỗ lim, làm cho bọn lính kiểm lâm tức phát điên lên mà không làm gì được. Rồi còn: Vì sao cái vụng này có tên là Vụng Ruốc? Ngày ấy biển còn lắm tôm nhiều cá. Con ruốc ở dưới hang sâu thò tay lên kéo mạn thuyền của ông nghiêng xuống nước. Thuyền sắp đắm. Ông rút con dao chém đứt phăng chân ruốc. Cứu được thuyền, lại có mắm ruốc ăn nửa năm mới hết. Từ đấy cái vụng nước trắng này ai cũng gọi là Vụng Ruốc.
Chiếc lẵng đã áp sát vào mạn thuyền, Mỹ gọi:
- Chị Út ơi! Cho em xin cái áo dài. Mai em…
- Ơ…chị đi đâu, hay về tỉnh mà lấy áo, chị Mỹ?
- Em về tỉnh. Chúc chị và gia đình ở lại mạnh khoẻ.
- Thế còn lớp học bình dân của bọn em, nghỉ à?
- Không! Rồi sẽ có người xuống thay chị chứ.
(*) Thuyền nhỏ, có mui che, không có buồm, dùng để đi lại giữa các thuyền to với nhau.
Tôi xin phép cụ Hương đứng dậy, lách qua kẽ trống giữa hai tấm mui thuyền. Bây giờ Mỹ mới trông thấy tôi. Nét mặt nàng ngây ra, hai mắt chớp chớp, như vẫn chưa tin người đang lặng lẽ bước sang lẵng mình đây lại đúng là tôi. Lúc ấy, tuy không nhìn thấy mặt mình, nhưng tôi biết nó rất nghiêm trang và căng thẳng, chẳng khác hôm nào tôi dán mắt vào khe cửa của căn nhà hoang ở thị trấn Hà Lầm. Hay nét mặt tôi lúc ấy nhất định phải là bộ mặt bất cần của con bạc đã thua nhẵn túi, đã trắng tay, chẳng còn gì để mất, và chẳng cần gì phải đắn đo, nghĩ trước, nghĩ sau. Tôi lầm lì và lặng lẽ bước sang lẵng Mỹ. Chiếc lẵng nhỏ bé nghiêng đi, chòng chành như không muốn nhận thêm người. Tôi vào trong khoang, và ra hiệu cho Mỹ cùng vào. Nhìn vẻ mặt ấy, chắc Mỹ đã hiểu điều gì sắp xẩy ra. Nàng ngoan ngoãn gác chèo, buộc lẵng vào thuyền cụ Hương rồi vào trong khoang. Mỗi người ngồi một bên mạn. Mỹ nhìn xuống tránh mắt tôi, nét mặt thật buồn. Tôi cũng vậy, vẫn im lặng nhìn Mỹ, lòng đầy bối rối, không biết bắt đầu từ đâu?...Nhưng rồi biết bao ý nghĩ bị dồn nén, nung nấu bây lâu bỗng bật lên thành tiếng, thành lời: “Tôi muốn nói với Mỹ một điều mà cả đời tôi chưa nói với ai bao giờ. Từ lâu tôi đã định nói. Và có đến hàng trăm lần tôi đã định nói. Nhưng thật khổ cho tôi là chưa bao giờ tôi có thể nói được. Cho đến bây giờ, trước hoàn cảnh này buộc tôi phải nói. Vì ngày mai chúng ta đã phải xa nhau. Dù Mỹ có trách mắng hay làm gì tôi cũng cam chịu. Vì tôi yêu em”.
Nước mắt đầy mí, rồi dòng dòng chẩy trên má, Mỹ gục đầu vào ngực tôi thổn thức: “Em cũng vậy. Em khổ lắm! Nhưng anh oi! Bây giờ chúng ta mới nói được với nhau thì đã quá muộn rồi!”.
Mỹ đổi tư thế, tựa cằm vào vai tôi, cắn răng nén tiếng khóc cho khỏi oà lên. Nhưng rồi không nén được, người rung lên, em khóc như mưa như gió. Và tất cả những ý nghĩ bấy nay chồng chất ở trong tôi, giờ đây dường như đã trôi theo những dòng nước mắt ấy. Đầu óc trở nên trống rỗng, chẳng biết nói gì, tôi ngồi yên lau nước mắt cho em.
Khi bình tĩnh lại, Mỹ kể với tôi về những ngày còn ở Hồng Gai: Hoàng yêu Mỹ từ lúc anh chưa vào tổ công đoàn. Mặc dù Mý không yêu và đã từ chối. Nhưng thấy anh ta là người hăng hái, nhiệt tình, cũng tỏ ra yêu nước, ghét Tây, nên Mỹ đã giới thiệu anh ta vào tổ công đoàn, và cùng nhau hoạt động. Rồi sau đấy Mỹ gặp anh Cầm. Anh là cán bộ xuống cơ sở kiểm tra công tác. Không ngờ rồi anh Cầm cũng ngỏ lời yêu Mỹ. Vì nể anh là cán bộ lãnh đạo, Mỹ không dám dứt khoát như đã trả lời Hoàng. Anh Cầm còn nhờ các chị trong tổ công đoàn như chị Thông vận động, giúp đỡ.
Chuỵện dần dần lộ đến tai Hoàng. Nó biết mình không cân sức với anh Cầm. Cay cú vì thất vọng, nó ra đầu thú, nhằm chỉ điểm cho bọn mật thám bắt anh Cầm và Mỹ để trả thù. Nhưng cái thằng cháu chắt “Diu Đa” ấy đã không thực hiện được ý muốn như tổ tông nó. Tổ công đoàn đã kịp rút ra ngoài. Mỹ và chị Thông về Cẩm Hà.
Rồi sau anh Cầm không cho Mỹ về tỉnh cùng chị Thông, vì anh còn nuôi hi vọng. Nhưng chuyện đời thật lắm rủi may. Không ai có thể biết trước được những gì sẽ xẩy ra. Anh Cầm đã không ngờ tôi quen biết chị Thông, và bỗng chốc cả ba chúng tôi đã thành bạn bè thân thiết. Là người lớn tuổi, từng trải, hiểu biết, chắc anh Cầm đã nhìn thấy những gì chúng tôi còn giấu giếm. Và hiểu rằng sự bất lợi đang nghiêng về phía anh. Cho nên anh đã quyết định cho Mỹ xuông Trúc Võng, trước khi tôi ở Hà Lầm đem thắng lợi trở về.
Còn bây giờ? Khi Mỹ đã dứt khoát từ chối tình yêu của anh, nên anh cho Mỹ về tỉnh, dưới hình thức quen thuộc và đầy ưu ái là đi học.
Nhưng Mỹ bảo chuyến đi này không hẳn đã là về tỉnh học như lời anh Cầm nói. Em cảm thấy có điều gì đó khang khác, chưa rõ ràng, làm em lo lắng, băn khoăn…Rồi em lại khóc. Lúc ấy tôi cho là Mỹ chưa đi xa nhà bao giờ, nên lo lắng quá thôi, chứ chẳng có chuyện gì. Tôi thấy cần phải an ủi em bằng cách nào đó, ngoài lời nói. Tôi rụt rè áp môi vào bên má nóng bỏng của em. Cả hai đứa cùng run rẩy. Rồi theo bản năng, cả bốn làn môi cùng gắn vào nhau. Mặc dù lúc đó tôi chưa biết câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Xuân Diêu.: “Tháng giêng ngon như một cặp môi ghần”. Chờ Mỹ bình tĩnh trở lại, tôi hỏi:
- Thế sao em không yêu anh Cầm? Anh ấy là cán bộ lãnh đạo, lại có công dìu dắt em. Mà anh ấy cũng đẹp trai đấy chứ!
- Em chẳng biết. Thấy anh ấy có vẻ thâm trầm, em chỉ kính trọng như ông giáo già dậy em học ngày xưa thôi.
- Thế còn anh? Mỹ cười ngượng nghịu. Rồi cũng như chị Thông, cau mày, làm vẻ mặt đanh đá, dí ngón tay vào trán tôi, bảo: “Anh thì em chúa ghét!”.
Chợt Mỹ nhìn ra ngoài trời và thốt lên: “Thôi chết! Tối rồi anh ơi! Lại gió to thế này, làm sao em về được bây giờ?”. Tôi bừng tỉnh, như người từ trong mơ bước ra. Đêm cuối năm. Gió mùa đông bắc tràn về. Biển cồn cào, sóng vỗ ầm ầm. Mặt nước và chân núi liền một mầu tím đen, mù mịt…Chẳng lẽ đã đến lúc chúng tôi phải xa nhau rồi hay sao? Tôi nắm lấy bàn tay thon nhỏ của em. Em run rẩy thì thầm: “Chỗ em ở xa lắm. Trời tối thế này, biết đâu mà tránh đá ngầm?”.
Không thấy chiếc lẵng của gia đình cụ Hương đâu, tôi biết anh Xương đã lên núi. Không còn cách nào khác, tôi quyết định đưa Mỹ lên “ngôi nhà thiên tạo” ở trên núi, chờ trời sáng.
Bước ra ngoài khoang, tôi mới thấy hêt cái buốt giá của khí núi và lớp lớp gió mùa. Cũng còn may là cái vụng này được núi che chắn, nên sóng không to lắm. Chiếc lẵng chồm lên, dập xuống không quá mạnh. Đến trước “nhà”, chúng tôi buộc lẵng vào đá rồi leo lên.
Khi đi tìm chỗ ở, anh Xương đã sơ xuất, không nghĩ đến nghững ngày đông gió rét như thế này. Chọn ngay cái hõm ở lưng chừng núi, trông như cái hàm con quái vật khổng lồ há hoác ra, và đón đúng hướng gió đông bắc. Càng lên cao gió càng mạnh. Gió ào ào vật vã trên các lùm cây, và rú rít lên trong các hốc đá thành hàng nghìn tiếng kêu hoang dại không ngừng. Rét quá! Tôi mặc hai cái áo phin đen mỏng dính, bên ngoài thêm chiêc áo sợi dệt cộc tay. Mỹ cũng vậy. Nàng chỉ hơn tôi là chiếc áo ngoài bằng len đan.
Lên đến “hõm nhà”, tôi soi bật lửa, thấy anh Xương đắp chiếc chăn chiên nằm thẳng băng, úp mặt vào vách đá. Chẳng biết có phải anh ngủ thật không, hay vì chúng tôi anh phải ngủ vờ?...Giường chỉ là những cây núi khẳng khiu bằng cổ tay, gác lên ngọn đá nhấp nhô, cao thấp, giải lá cây, và chiếc chiếu ông cụ Hương cho. Tôi rón rén nằm xuống bên anh Xương, không dám kéo chăn đắp. Mỹ nằm ngoài. Gió thốc từ sườn núi lên, đập vào “hàm ếch”, rồi dội xuỗng người tê buốt. Chúng tôi nằm sát vào nhau, ôm nhau, ủ cho nhau đỡ rét. Hơi ấm từ hai tấm thân đang độ tràn trề sinh lực lan toả sang nhau, khiến cả hai cùng rạo rực. Tôi mạnh dạn đưa bàn tay lạnh giá của mình lên bộ ngực ấm áp, nở nang và rắn chắc của em. Đây là lần đầu tiên trong đời người con trai, tôi mới dám làm như vậy. Và cả em, chắc chắn cũng là lần đầu tiên em run rẩy thì thầm: “Tất cả là của anh!” Nhưng…Nhưng…Trong cái rét cắt da cắt thịt này. Lại một người con trai dưới quyền mình đang nằm bên cạnh…Và nhất là cuộc kháng chiến còn trường kỳ gian khổ. Nhỡ ra…nhỡ ra hậu quả thì sao?...Tôi xiết chặt em vào lòng, và cố bám vào hoàn cảnh để vượt qua bản thân mình.
Chúng tôi im lặng nằm bên nhau như những kẻ đã đầu hàng trước hoàn cảnh và thời gian vừa nghiệt ngã, vừa tàn bạo. Vì chỉ còn đêm nay nữa thôi. Đây là đêm đầu tiên và cũng là đêm cuối cùng, chúng tôi còn được ở bên nhau, trước giờ ly biệt. Một đêm hiếm hoi đến thiêng liêng như vậy, làm sao chúng tôi có thể ngủ được. Mà nói chuyện thì lai sợ anh Xương…
Chúng tôi trở dậy, dắt nhau ra ngoài hõm đá tìm chỗ ngồi. TRời tối đen như mực. Đá tai mèo nhọn sắc như mũi dao, phải lót dép mới ngồi được. Hai đứa hẹn nhau, chờ đến ngày hoà bình, đất nước được độc lập tự do, nếu còn sống trở về sẽ cưới nhau. Chúng tôi còn nói với nhau cả về tương lai như nhà ở, công việc làm ăn, mua sắm tiện nghi, và cách tổ chức cuộc sống gia đình…Tóm lại là tất cả những gì mà lúc ấy chúng tôi có thể nghĩ ra được. Mỹ tin cậy và âu yếm ngả vào lòng tôi. Chúng tôi ôm nhau, lòng thấp thỏm chỉ lo trời chóng sáng…
Có câu ca dao: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn…”. Vâng. Chúng tôi cũng đang tính chuyện trăm năm. Nhưng vẻn vẹn chỉ có một đêm ở bên nhau thì thật là ngắn ngủi. Bầu trời vừa tối sẫm, giờ đây bỗng đã nhạt rồi. Giây phút chúng tôi thấp thỏm lo âu sắp đến. Đêm sắp qua rồi, Những dẫy núi tím đã hiện lên đường chân trời mờ đục. Đã đến lúc chúng tôi phải chia tay nhau rồi! Chúng tôi hôn nhau lần cuối cùng, rồi nắm tay nhau xuống núi. Mỹ bước xuống lẵng, tát nước, cởi dây, cầm mái chèo, và ngước lên nhìn tôi lần cuối cùng rồi chèo đi. Trời hãy còn mờ mờ tối, tôi không nhìn rõ những dòng nước mắt trên gương mặt em. Còn tôi, đứng trên mỏm đá, lòng đau như cắt, nước mắt chứa chan, nhìn theo hình dáng em mờ ảo, chập chờn đang trôi đi mỗi lúc một xa...
Thấm thoắt lại một năm nữa sắp qua đi. Tết đến. Mới ngày nào tôi ăn tết ở nhà bá Nhau. Đó là cái tết đầu tiên tôi đi kháng chiến xa nhà. Bây giờ là tết thứ hai, tôi ở đây đón xuân trên biển.
Dân Trúc Võng sống phân tán, quanh năm lênh đênh đi theo mùa cá và con nước. Nhưng đến tết, dù làm ăn ở đâu người ta cũng về tập trung ở trước cửa đền Đầu Mối, để nghỉ ngơi đón xuân, ăn tết. Tôi chưa có dịp đến xem ngôi đền này, nhưng đã nhiều lần nhìn thấy khi thuyền đi qua. Ngôi đền nhỏ bé, xây bám vào chân núi đá, trước cửa có doi cát bằng phẳng. Ông cụ Hương bảo đền thờ đức Thánh Trần.. Nhà Trần có nhiều danh tướng có công đánh giặc Nguyên, được nhân dân tôn thờ là Thánh. Nhưng vị thờ ở đây là vị nào, thì nhiều người không biết. Người ta chỉ biết hằng năm về đây, thành tâm đem lễ vật lên đền cúng tế. Cầu mong Thánh phù nhộ độ trì cho gia đình mạnh khoẻ, tai qua nạn khỏi, trời yên, biển lặng, làm ăn gặp nhiều may mắn hơn năm cũ. Đền ở đây cũng như nhà Rông ở Tây Nguyên, như Đình làng ở hầu hết nông thôn nước ta, vừa là nơi thờ cúng, vừa là noi tụ hội của cả cộng đồng.
Do tập trung đông, người xấu lẫn kẻ tốt, chẳng biết đâu phân biệt. Nhất là bọn phản động Hội Hành, chúng cũng về đây cúng tế với dân làng. Cho nên phải tìm chỗ cho tôi tạm trú mấy ngày tết. Cụ Hương bàn với anh Xương và hai anh con trai. Các anh ấy đã tìm được chỗ rồi.
Sang nay ba mươi tết, anh Xương mượn lẵng của gia đình cụ Hương, vào bến Hông Gai đón chị Tẹo. Người chị xấu số của anh. Chị không có thuyền, đi buôn cá chung. Tan buổi chợ hết năm, chị về ăn tết với chúng tôi (đúng ra là chị về ăn tết với anh Xương, em chị). Mãi chiều muộn hai chị em anh Xương mới về. Chị đội khăn đen, trong vấn khăn trắng, để tang người chồng sau mới mất. Người chị thấp lùn, đen đúa, mặt ngắn, răng đen, mũi tẹt, béo tròn như con cá nóc. Ca dao có câu:
“Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con
Những người béo trục béo tròn
ăn vụng như chớp cấu con cả ngày”.
Vâng. ăn vụng và cấu con là hai tật xấu. Nhưng giá chị Tẹo có con để mà cấu thì cũng là hạnh phúc!
Chị ngồi thu lu ở giữa sạp, hai tay bó gối. Trước mặt để cái bị đựng quần áo. Bên cạnh chị là cái làn mây, trong có mấy thẻ vàng hương, bên quai làn buộc một con gà dò. Bất chợt tôi tự hỏi: Chẳng lẽ đời một người đàn bà, đã hai lần tạo dựng gia đình, mà cơ nghiệp chỉ có thế thôi ư?...
Tôi chào gia đình cụ Hương, chúc cụ mạnh khoẻ sống lâu, để nhìn thấy nước nhà độc lập như cụ hằng mong mỏi. Chúc cả nhà đón xuân vui vẻ, rồi xuống lẵng cùng chị em anh Xương về địa điểm mới.
Đó là một chiếc thuyền rất to, được neo đậu ở một con lạch kín, cả ba mặt đều có vách đá dựng đứng, vừa kín gió, vừa tránh được những con mắt tò mò. Nhưng đó không phải là chiếc thuyền còn nguyên vẹn. Nếu trước đây là thuyền vận tải, thì tải trọng phải đến bẩy tám chục tấn. Nếu là thuyền buôn, thì chủ nó phải là một tay triệu phú. Không ai biết nó đã gặp bão, hay bị bọn cướp biển giết người, lấy của rồi bỏ thuyền lênh đênh, trôi dạt đến khu vực này.
Anh Xương bảo: Khi dân ở đây phát hiện thấy, thì thuyền đã đắm. Không ai dám lấy sử dụng, vì sợ oan hồn của chủ thuyền báo oán. Người ta chỉ lột hết những gì có thể lấy đi được. Con thuyền chỉ còn lại cái vỏ không. Các anh tát nước, vét bùn, rửa sạch rồi kéo nó vào đây. Không kịp lên núi chặt cây, các anh lấy cọc đăng ở thuyền nhà gác tạm, thay ván sạp, và che lên một tấm mui. Thế là chúng tôi có chỗ ở để đón xuân. Có cả nồi xoong, bát đĩa và hũ đựng nước ngọt. Thu xếp một lát, rồi hai chị em ạnh Xương đi giết gà, thồi cơm nếp làm cỗ. Tôi chẳng có việc gì làm, ngồi nhìn lên xung quanh vách núi dựng đứng, uy nghiêm, lặng phắc, lòng bỗng tưởng nhớ đến quê hương. giờ này mẹ và chị dâu tôi đi chợ sắm tết chắc đã về. Bánh chưng nấu suốt đêm qua, sáng nay chắc đã vớt rồi. Các anh chị em tôi tết này có những ai ở lại nhà? Họ đang làm gì? Liệu có ai nhắc đến tôi không?... Ôi chao! Lạ thật! Hôm qua, hôm nay và ngày mai, cũng chỉ là thời gian thôi. Nhưng sao cứ ngày ba mươi tết thì nỗi nhớ quê hương, nhớ người ruột thịt của người xa xứ lại da diết thế?..
Mỗi lần tết đến người ta hay nói: Xuân đễn gõ cửa mọi nhà. Vâng. Mùa xuân của đất trời thì ở đâu cũng có. Nhưng lòng người có cảm nhận được xuân không? Đó mới là điều quan trọng… Tôi nghĩ, xuân chẳng đến với lòng người cô quạnh.
Cỗ làm xong, chị Tẹo bảo anh Xương bê để lên mũi thuyền. Chị rửa tay, vuốt áo, vẻ mặt thành kính, ngồi xuống bên mâm cỗ, buông khăn, xoã tóc. Chị thắp ba nén hương, rồi chắp tay lầm rầm khấn vái. Bỗng chị nấc lên, rồi oà ra tiếng khóc: “Hờ…anh ơi! Anh sống khôn thác thiêng…Hôm nay là ngày ba mươi tết. Anh ở đâu thì về chứng giám cho em…”. Tiếng khóc va vào vách đá, rồi dội lại, hoá ra hàng trăm tiếng vọng trộn lẫn vào nhau, thành một thứ âm thanhn kỳ dị, cứ quẩn quanh trong lạch hẹp, không thoát ra ngoài được.
Rồi đang khóc chồng, chị lại chuyền sang khóc cha, khóc mẹ. Chị kể lể thân mình vất vả quanh hiu, trách thân, trách phận mình thua chị kém em…Tiếng than vãn của chị càng nghe càng thảm thiết. Khiến người ngoài cuộc là tôi, đang nhớ nhà cũng không cầm lòng được. Tôi bảo anh Xương khuyên chị thôi đừng khóc nữa. Mắt anh Xương cũng đỏ hoe. Dường như chỉ còn chờ tôi tỏ rõ thái độ. Anh lau nước mắt, quát: “Thôi! Chỉ được cái lắm nước mắt”. Nhưng chị chưa nguôi, vẫn kể lể. Thôi cũng được, cứ để chị khóc, để trút vợi nỗi lòng. Ở trên đời này chị còn có ai đâu!
Chị Tẹo rất ít nói. Có lẽ chị cho là đời mình chẳng có gì đáng nói, ngoài những chuyện buồn. Chuyện thiên hạ thì nhiều lắm, hơi đâu mà tọc mạch. Còn tôi, qua anh Xương chắc chị đã biết cả rồi. Lúc gặp tôi, chị chỉ chào mỗi tiếng “Cậu”. Và bây giờ là câu thứ hai, khi gắp miếng thịt gà để vào bát tôi, chị bảo: “Cậu ăn đi!”.
Cơm nước xong thì trời vừa tối. Ở đây tuy khuất gió, nhưng khí lạnh từ đá núi xông ra tê buốt. Nhà không có dầu đèn, không hoa đào, không bánh chưng, không pháo tết. Trời không trăng sao, tối đen như mực, và lặng phắc như tờ. Ngồi thầm mãi cũng mỏi lưng, chúng tôi đi nằm, chờ đón tiếng pháo giao thừa nổ trong tâm tưởng...
Sáng hôm sau nước lên. Cái “nhà’ khổng lồ của chúng tôi, nằm dí dưới lõng bùn, giờ đã nhúc nhích được rồi. Chị Tẹo ngôi têm trầu. tôi đang xem những con còng còng đỏ ở trong lỗ bò ra. Chúng chạy rối rít như tỏ ý vui mừng thấy nước lên. Anh Xương bảo dân dưới thuyền rất kỹ kiêng. Năm nào sáng mùng một tết, đúng cữ nước lên, người ta cho đó là năm tốt lành, nô nức rủ nhau đi “xuất hành”, hái lộc, và thăm hỏi nhau. Quả nhiên chẳng mấy chốc đã thấy hai chiếc lẵng chèo vào chỗ chúng tôi. Mỗi lẵng có năm người thanh niên trẻ, cả nam và nữ. Có người tôi quen, có người chưa gặp bao giờ. Đôi bên tay bắt mặt mừng, rối rít chúc tụng nhau những lời tốt đẹp. Họ là đại biểu của Đoàn thanh niên xã Trúc Võng đến chúc tết chúng tôi. Được họ đến thăm, trong hoàn cảnh đang thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất, khiến chúng tôi vô cùng cảm động. Họ còn đem cho chúng tôi cả bánh chưng, bánh gio, kẹo và cả thuốc lá nữa.
Hỏi chuyện họ tôi mới biết, phần lớn trong số họ đã qua lớp học “Bình dân” do cô giáo Mỹ dậy.
(Một thời giông bão- tiểu thuyết của Tạ Hữu Đỉnh)