Chương v - Viên đạn bắn nhầm
tahuudinhqn 28.05.2012 15:29:37 (permalink)
CHƯƠNG V
VIÊN ĐẠN BẮN NHẦM
 
Sau tết Nguyên Đán. Đầu năm 1949, tôi nhấn được giấy gọi về tỉnh học. Lúc bấy giờ Ty Công anh liên tỉnh Quảng Hồng đã tách làm hai Ty: Quảng Yên và đặc khu Hồng Gai. Từ Vịnh Hạ Long tôi về Cẩm Phả, đi Dương Huy. Sau ba ngày lội suối trèo đèo, anh Nụ giao thông viên đưa tôi đến xã Vị Loại, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang. Đây là căn cứ địa của Đặc khu
Cái xã nhỏ bé ở vùng sơn cước này, có lẽ từ thuở khai sinh, chẳng mấy ai biết đến. Giờ đây, nhờ kháng chiến, cũng có chợ, cũng thành ra phố phường, hàng quán hẳn hoi. Nổi tiếng nhất là hiệu phở của ông Hoa kiều già và bà vợ trẻ người Việt. Gọi là hiệu phở, nhưng nếu khách muốn cơm rượu say sưa, với các món thịt thú rừng, thì lúc nào cũng có. Ông chủ kiêm đầu bếp, sẵn sàng xào nấu. Bà chủ kiêm tiếp viên bưng bê. Hiệu  nổi tiếng vì ngon thì ít, mà nổi tiếng vì bà chủ có đôi mắt lá răm, lúc nào cũng lúng liếng nhìn khách như “tống tình” thì nhiều.
Đây là cửa ngõ của vùng tự do, nối liền với chiến khu Việt Bắc. Phía đông là Hồng Gai. Phía nam là Quảng Yên, vùng địch tạm chiếm. Do vị trí quan trọng như vậy nên Vị Loại cũng có Đồn Công an, kiểm soát dòng người giao lưu giữa hai vùng. Tuy là vùng tự do, nhưng máy bay địch thì bất cứ lúc nào cũng có thể ập đến, cho nên tất cả nhà cửa đều làm dưới tán cây rừng. Tranh tre còn rất mới. Có lẽ phố mới lập từ ngày tách tỉnh. Chợ ở đây mới thật là “tự do”, tiêu cả hai thứ tiền. Tất nhiên đồng Tài chính là chủ yếu, nhưng đồng Đông Dương cúng tiêu được.
Nghỉ chân uống nước xong, anh Nụ đưa tôi đến Đồn Công an, giao cho anh Hát. Nhiệm vụ của anh đến đấy là xong. Anh Hát xem giấy tờ của tôi rất kỹ, rồi gọi điện thoại về Ty, khoảng nửa tiếng sau liên lạc ra đón tôi. Đây là lần đầu tiên tôi về cơ quan minh thuộc biên chế. Cả cơ quan ai cũng lạ. Người ra bắt tay tôi đầu tiên và cười nói vui vẻ, chú Bính liên lạc giới thiệu là anh Lân, Trưởng Ty. Vâng, anh Lân tôi đã biết qua chữ ký trên các công văn giấy tờ, còn người thì bây giờ mới được gặp. Anh còn trẻ, cũng tầm tuổi anh Viện, Trưởng Ty cũ. Dáng dấp cử chỉ và cách nói năng của anh giống một ông giáo hơn là người lãnh đạo một cơ quan chính quyền.
Người anh mỏng mảnh, tầm cao vừa phải, da trắng, môi đỏ, miệng rộng, trán cao, đôi mắt to thông minh và lúc nào cũng ánh lên những nét vui tươi trong sáng. Mẹ tôi hay nói: “Đàn ông rộng miệng thì sang/ Đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà”. Có lẽ đúng. Sau thấy anh dậy chú Bính và các anh ở văn phòng học ngoại ngữ Anh – Pháp, tôi mới biết anh vốn là một “cậu tú”, con nhà giầu ở Hải Phòng.
Sau những phút chào hỏi rối rít, bây giờ tôi mới nhìn thấy anh Ngọc bé . Anh không bắt tay tôi như mọi người, mà lại thụi tôi một cái vào mạng sườn, bảo: “Tao mong mày hết cả hơi”. Anh Ngọc người nhỏ, mặt tròn xoe như tên gọi. Nhưng “viên ngọc“ ấy không sáng bừng lên, mà lại nâu nâu, nhờ nhờ, và lúc nào cũng nhăn nhó, kể cả lúc cười. Anh mồ côi cả cha lẫn mẹ, ở với người họ hàng. Sau được ông Tài Liệu đón về nuôi. Đến tuổi mười tám, ông gả chị Thịnh, con gái ông cho anh. Ngày cơ sở Cẩm Phả vỡ, anh được rút về Quận Hồng Gai. Hai đứa chúng tôi gặp nhau và thân nhau từ ngày ấy. Anh Ngọc dẫn tôi về chỗ ở và hỏi thăm tin nhà. Rất tiếc là khi đi qua Cẩm Phả, chị Thịnh có gửi quà cho anh, nhưng tôi không dám cầm, vì không biết anh ở đâu.
Chiều nhôm ấy anh Ngọc rủ tôi ra suối tắm. Trời chiều êm ả. Qua mấy tháng xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc. Rừng núi xanh biếc một mầu lộng lẫy. Gió núi thoang thoảng mùi hoa trứng gà nở sớm. Một loài hoa chỉ nở vào mùa hạ. Suối nông, lòng rộng, rải đầy những tảng đá nhẵn bóng, vì hàng nghìn năm nước chẩy bào mòn. Tưởng như có bàn tay tiên nào vừa lau rửa. Chúng tôi lội ra giữa dòng. Tuy đang là những ngày xuân ấm áp, nhưng nước suối còn lạnh, trong vắt như pha lê. Anh Ngọc  bảo tôi cùng ngồi lên tảng đá giữa dòng rồi nói:
-       Biết tin mày về, tao mừng quá. Thế chuyện cậu với cái Mỹ đầu cuối làm sao? Chưa hiểu anh nói gì, tôi vội vàng hỏi lại:
-       Mỹ nào?
-       Cái Mỹ Công đoàn ấy chữ còn Mỹ nào! Cả cơ quan ai cũng biết hết rồi. Tớ lo cho cậu lắm. Nó bị nghi là gián điệp chui vào hàng ngũ ta đấy!
Trời ơi!..Tôi lặng người đi, tim đập thình thình, hơi thở dồn dập. Cái tin bất ngờ như sét đánh. Nhưng không dám tin ngay. Tôi hỏi lại:
-       Chuyện quan trọng thế làm sao anh biết? Anh cau mày xẵng giọng:
-       Cái thằng này…đần bỏ mẹ. Đã bảo cả cơ quan ai cũng biết lại còn hỏi. Ngày nó ở ngoài ấy về, vừa đến Ty là có lệnh tống giam ngay. Ai cũng tiếc con bé xinh đẹp thế mà lại là Việt gian. Nhưng sau nhiều lần hỏi cung, chẳng biết thế nào, ông Lân laị cho nó ra tại ngoại. Tức là nó được ra nấu cơm cho cơ quan, cậu hiểu chưa? Nhưng không được đi đâu cả, tối vẫn bị giam. Biết cậu sắp về đến nơi, chiều hôm qua ông Lân mới cho bảo vệ giải nó sang Uỷ Ban đặc khu, giam tạm ở bên ấy.
Thôi thế là thật rôi! Thế mà tôi cứ đinh ninh cô ấy được về tỉnh học. Có ngờ đâu cơ sự lại ra nông nỗi này! Lòng tôi tan nát, chán nản và sục sôi lên một thứ tình cảm lạ lùng, hoàn toàn trái ngược nhau: Vừa thương vừa giận. Thương cho thân phận người con gái ngây thơ như thế, mềm yếu như thế mà phải chịu cảnh tù đày khổ nhục. Giận là vì sao, vì mục đích gì mà cô ấy lại phản bội Tổ quốc, gia đình và tinh yêu chân thực của tôi?
Không!.. Không có lẽ nào những giọt nước mắt nóng bỏng ấy, những lời thổ lộ nghẹn ngào ấy, lại có thể là giả dối được. Nhưng nhất định phải có một lý do nào đấy nên cô ấy mới bị giam cầm như vậy. Ầ…thảo nào, sau khi cô ấy về tỉnh ít ngày, một hôm anh Lộc, một mình một lẵng chèo đến gặp tôi. Tôi biết anh từ ngày còn ở Xích Thổ, không rõ anh giữ chức vụ gì, chỉ biết anh ở trên Khu uỷ. Anh bảo tôi sang lẵng, chèo vào chân núi khuất, buộc lẵng rồi anh mới hỏi:
-      Cậu yêu cô Mỹ phải không?
Tôi xấu hổ quá, lại hoang mang không hiểu có chuyện gì. Trước đây mỗi khi đến cơ quan tôi, anh thường gặp Quận trưởng hay Quận phó, chứ có gặp nhân viên chúng tôi bao giờ đâu. Tôi lúng túng giây lát rôi mới nói:
-      Vâng! Nhưng…thưa anh có chuyện gì thế ạ?
-       À… không! Không có chuyện gì đâu. Tiện mình xuống đây công tác, thấy anh em họ nói, thì mình cũng hỏi để còn biết mà giúp đỡ các cậu, chứ chẳng có chuyện gì đâu. Thế cậu quen biết cô ấy trong trường hợp nào?
Vốn lòng ngay dạ thẳng, lại thấy anh hứa sẽ giúp đỡ, nên tôi đã kể hết với anh. Anh chăm chú lắng nghe, cuối cùng mới hỏi:
-       Cậu có nguyện vọng gì không?
-       Chúng em đá hứa với nhau, sau ngày nước nhà độc lập, nếu còn sống chúng em sẽ cưới nhau. Em chỉ mong rồi hai đứa sẽ thực hiện được nguyện vọng ấy.
Anh mỉm cười, gất đầu và chèo lẵng đưa tôi về chỗ cũ.
Thế ra việc anh Lộc đến gặp tôi hôm ấy, chẳng phải là ngẫu nhiên tình cờ, mà cũng không phải là để “giúp đỡ” chúng tôi như anh nói. Chắc là Công đoàn đã cho Mỹ về tỉnh, với báo cáo về cô như thế nào đấy, nên Đặc khu cử anh Lộc xuống thẩm tra, mà lúc đó vô tình tôi không biết.
Nhưng có đúng Mỹ là gián điệp không? Câu hỏi này, có lẽ tôi cũng như tất cả những ai đã biết chuyện này, sẽ không bao giờ có thể trả lời được. Trừ những người trong cuộc. Tuy nhiên, trong đáy lòng mình, tôi không tin người con gái ngây thơ trong trắng áy lại có thể phản bội Tổ quốc, chống lại cả gia đình, bạn bè, và người mình yêu. Vì tiền tài địa vị ư? Không lẽ một thiếu nữ mới mười bẩy mười tám tuổi đầu, học hành dang dở, bố chết, anh đi kháng chiến, nhà nghèo phải đi làm than, mà lại có gan mơ tưởng làm chánh mật thám để có địa vị, và có nhà lầu ô tô? Chắc là không!
Nhưng nếu không phải thì ai đã bịa đặt, dựng nên chuyền nghi ngờ tai hại này? Ai đã vô cớ, bỗng dưng ngậm máu phun người, vu cho cô cái tội tày đình ấy? Chẳng lẽ là anh Cầm ư?...
Tôi còn nhớ lúc chia tay nhau, Mỹ đã nói: “Em cứ lo chuyến đi này không hẳn là về tỉnh học…”. Hay đúng là anh Cầm rồi? Vì mộng ước không thành, anh  lấy chuyện Hoàng, người đã yêu Mỹ, ra đầu thú, để cho rằng trong đó có bàn tay bí mật của Mỹ. Ôi, không! Tôi không dám tin. Có lẽ nào một người ở cương vị lãnh đạo như anh, lại có tâm địa xấu xa đến thế?...
Dẫu sao thì đây cũng mới là nghi vấn. Còn phải chờ thời gian điều tra, xem xét thêm. Nếu có bằng chứng cụ thể, thì chắc chắn Mỹ đã bị xử rồi, chứ làm sao còn được ra tại ngoại. Vâng, đúng là sự việc còn nhiều điều bí ẩn. Nhưng thời gian ấy, cuộc kháng chiến đang gay go, quyết liệt, có khi chỉ vì một mẩu gương con bỏ túi. mà người con gái lương thiện bị nghi là “chỉ điểm” cho máy bay địch bắn phá. Nhặt được tờ truyền đơn rơi, bác nông dân vô tình đem gói thuốc lào, cũng có thể bị kết tội là làm “tay sai” cho giặc! Có người còn bị “bỏ quên” ở trại giam, không biết đã bao nhiêu năm, vì người ra lệnh bắt giữ đã hy sinh, hồ sơ can phạm đã bị bom napan đốt chắy. Thế là: “Chờ được vạ thì má sưng!”. Chỉ nghi ngờ thôi, cũng đủ hỏng cả một đời người rồi!..
Mỹ đã vậy. Còn tôi, người yêu của cô ấy, và cũng được gọi về tỉnh học, chắc chắn tôi đã không ở ngoài tầm nhìn của những con mắt điều tra. Liệu ngay bây giờ, hay ngày mai, ngày kia đây, có cái lệnh nào hạ xuống tống giam tôi không? Chẳng lẽ cuộc đời trẻ trung của tôi đến đây là chấm hết ư?...Người nóng bừng bừng. Tôi gieo mình xuống nước, ngụp lặn trong dòng chẩy, nhờ nước lạnh làm dịu bớt căng thẳng của đầu óc. Khi về, Anh Ngọc bảo tôi phải tuyệt đối bí mật, khộng được để lộ chuyện anh đã nói với tôi cho ai biết. Và nếu nghe ngóng được tin tức gì, anh sẽ báo cho tôi biết ngay.
Từ đấy tôi nơm nớp lo âu, và luôn luôn lắng tai nghe ngóng. Nhưng rồi, chẳng những đã không thấy lệnh tống giam tôi, mà tuyệt nhiên cũng không thấy ai nhắc đến việc ở đây đã từng có một phạm nhân tên là Mỹ bị giam giữ. Tuổi trẻ vốn nông nổi, tuy dễ buồn, nhưng cũng chóng khuây nguôi. Tôi hoà vào cuộc sống tập thể nhộn nhịp và tươi vui của cơ quan. Chiều chiều đánh bóng chuyền. Tối sinh hoạt, đọc báo và ca hát.
Rồi lớp học được khai giảng, với hơn chục học viên ở các Quận. Thị về. Chủng tôi được học hai môn, chính trị và nghiệp vụ. Chính trị do một vị cán bộ của Đặc khu giảng. Anh Hoàng Lân giang về chuyên môn. Tài liệu học tập do Nha Công an ấn hành. Sau gần ba năm công tác, đây là lần đầu tiên tôi được đi học, được hiểu thế nào là Cách mạng, gián điệp, phản giàn, và gián điệp đôi là gì?
Lớp học kết thúc. Chúng tôi chuẩn bị trở về đia phương công tác. Khi giao nhiệm vụ cho chúng tôi, anh Lân gặp riêng từng người, trong cái lều tranh biệt lập ở trong rừng, không ai được biết nhiệm vụ của người khác. Tôi hồi hộp chỉ mong mình được gọi đầu tiên, xem số phận ra sao. Nhưng hoá ra tôi được gọi sau cùng. Phòng làm việc và tiếp khách của một vị Trưởng ty thời chiến, không có bình hoa tươi, xalong, phích nước, tú tài liệu và máy bộ đàm như bây giờ. Anh ngồi trên một khúc gỗ tròn, đặt trên hai cái cọc có chạc cắm xuống đất. Trước mặt là cái bàn bốn cọc, mặt bằng phên nứa, trên đẻ quyển sổ tay và cây bút máy. Anh bảo tôi ngồi xuống khúc gỗ đối diện và nói một cách thẳng thắn, không vòng vo rào mở gì cả. Tất nhiên có kèm theo những nụ cười cởi mở và thân mật:
-       Chú kể cho anh nghe chuyện chú với cô Mỹ đi! Cứ nói thẳng, nói thật, nói hết không có gì phải e ngại.
Do đã biết sẽ có cuộc gặp gỡ này, và hiểu rằng bổn phận mình phải báo cáo với cấp trên, nên tôi đã chuẩn bị, và sẵn sàng trình bày với anh còn tường tận hơn cả lần trình bày với anh Lộc. Cuối cùng tôi nỏi thêm:
-       Em hoàn toàn không biết gì về những ngày cô Mỹ hoạt động ở Hồng Gai.
-       Nó cũng nói với anh nó yêu chú. Và ngay bây giờ, nếu cơ quan cho phép nó sẽ lấy chú. Chú cứ yên tâm công tác. Tuy cô ấy có vấn đề cần điều tra xem xét, nhưng Ty không nghi ngờ gì chú đâu. Chứng tỏ là Ty lại cử chú về địa bàn cũ công tác như trước. Chú thấy thế nào? Có thắc mắc gì không?
-       Vâng! Em xin sẵn sàng.
Tuy nói thế nhưng tôi vẫn còn lo. Nếu đúng anh không nghi ngờ gì tôi, sao không hỏi về Mỹ ngay từ hôm tôi mời về? Thời gian im lặng đó có phải là để anh còn quan sát, theo dõi, xem xét thêm về tôi không?...Dù sao tôi cũng thấy nhẹ nhõm, vì vừa trút được gánh năng lo âu mà bấy lâu vẫn canh cánh. Nghĩ lại những việc đã qua, tôi lại thầm cảm ơn anh Thuỷ. May sao anh đã bố trí tôi ở mũi tấn công diệt trừ tên Huấn. Nếu không có chút chiến công ấy, liệu bây giờ tôi có vượt qua được hoàn cảnh éo le, nghiệt ngã này không?...
 
***
 
Tôi chưa kịp lên đường, thì có lệnh mới. Sau khi đi họp ở bên Khu uỷ về, anh Lân chuẩn bị đi Dương Huy ngay. Anh lấy tôi và anh Vũ cùng đi. Thế là việc trở về địa bàn cũ của tôi, đương nhiên phải bãi bỏ. Khiến tôi lại băn khoăn, không hiểu quyết định này có ẩn chứa điều gì về tôi không? Dù sao tôi cũng coi đây là dịp may, để qua công viếc thực tế mà thể hiện về bản thân mình. 
Anh Lân cho biết bọn Phòng nhì ở Cẩm Phả (cơ quan mật thám Liên bang Pháp), đã tung tay chân vào Dương Huy, mua chuộc, lôi kéo dân chuyển cư ra Cẩm Phả, nhằm biến vùng “bàn đạp” quan trọng này của ta thành vùng trống không có dân để cô lập ta. Cán bộ địa phương mất cảnh giác, nên chúng đã ép được hơn ba chục hộ đi rồi. Công an có nhiệm vụ phối hợp với Đại đội địa phương quân, do Đại đội trưởng Hoàng Hà chỉ huy, đi nắm tình hình, giữ dân ở lại, và bảo vệ khu “bàn đạp”.
Ba anh em tôi đến Dương Huy, ở nhà ông Bí thư xã, người Cao Lan. Dân ở đây hầu hết là đồng bào thiểu số, không có người Kinh. Họ sống bằng nghề phát nương làm rẫy, và khai thác lâm sản, đem ra Cẩm Phả bán lấy tiền mua các nhu yếu phẩm. Nhưng nguồn sống đó đã bị địch bao vây, trước khi chúng cho tay chân vào lôi kéo. Chúng cấm không cho họ đem gạo, muối về rừng, với lý do: “Tiếp tế cho Việt minh”. Thế là đới sống của họ vốn đã nghèo nàn lại càng thêm cơ cực. Quanh năm chỉ có cháo ngô, bí đỏ, ăn với than cỏ gianh thay muối. Dân trí quá thấp. Xã không có trường học. Chỉ có một số ít cán bộ xã được cử đi học, mới tạm gọi là biết đọc, biết viết…
Một cuộc họp các cán bộ chủ chốt của xã lập tức được triệu tập. Sau khi nắm được tình hình, anh Lân ra lệnh bắt hai tên tay chân của địch để khai thác tin tức. Do anh trực tiếp hỏi cung. Suốt cả ngày tra hỏi, nhưng chúng không khai. Mãi gần tối, một đứa mới chịu khai ngày giờ, và những hộ sẽ đi chuyến tiếp theo.
Chiều hôm sau, Công an phối hợp với Bô đội bao vây một bản. Quả nhiên hơn hai chục hộ ở bản này đã chuẩn bị đi. Hành trang quang gánh, bị bọc, quần áo, nồi niêu, lương thực đã sẵn sàng. Họ chỉ còn chờ trời tối là lên đường. Chúng tôi vào từng nhà giải thích, vận động bà con ở lại làm ăn. Và hứa Đặc khu sẽ tạo điều kiện giúp đỡ đồng bào những khó khăn về nhu yếu phẩm. Họ chỉ im lặng nghe, chứ chẳng ai có phản ứng gì. Một sự im lặng thật khó lường. Có lẽ họ cho là “cán bộ” chỉ nói cho hay thôi, chứ đào đâu ra những thứ quý báu ấy ở trong rừng. Thật đáng tiếc là đúng như vậy. Không phải là họ nghĩ xấu về phía kháng chiến. Nhưng giá lúc bầy giờ ta có đủ gạo, muối cung cấp cho đồng bào, thì làm gì họ phải bỏ núi rừng, quê hương mà đi theo địch như vậy.
Nhưng đó là thời gian đang khó khăn, gay go nhất của lực lượng kháng chiến ở khu mỏ. Đặc khu chỉ có một Đại đội quân, mà nhiều lúc cũng không đủ ăn, áo không đủ mặc, người ốm đau không có thuốc men. Thậm chí có lần địch đánh vào khu căn cứ, cấp chỉ huy phải cho rút lui để bảo toàn lực lượng, thì còn lấy gì mà cung cấp cho dân?
Sau đó chúng tôi phối hợp với cán bộ địa phương kiểm tra toàn bộ số dân còn lại của xã, phân loại, lựa chọn từng nhà. Nhà nào có người già, đông trẻ con, và hoang mang dao động, thì cho lên vùng tự do. Lúc bấy giờ bọn thổ phỉ ở bốt Trại Thán đã bị bộ đội ta đánh tan. Đất hoang hoá ở đấy còn nhiều. Xã cử cán bộ đi theo, giúp đỡ số dân đó, lập trại tăng gia sản xuất. Chỉ giữ lại những hộ trung kiên, trẻ, khoẻ.
Công việc xong. Địa bàn Dương Huy được giữ vững. Chúng tôi rút về Ty. Chưa về đến nhà thì tôi bị sốt, đang khoẻ mạnh bình thường, cơn sốt bỗng dưng kéo đến. Hơn hai tháng ở Dương Huy, ngày cháo bẹ, canh măng, đêm nằm ngủ không có màn, muỗi rừng đã “tặng” tôi cái bệnh quái ác này. Tôi chống gậy vừa đi vừa run. Anh Lân và anh Vũ động viên tôi cố gắng đi, phải về nhà mới có thuốc,
Chúng tôi về Ty. Chỉ mấy hôm sau lại có lệnh khẩn cấp. Anh Lân phải đi Hoành Bồ ngay. Bọn Thanh Phán phản động ở đây do Bàn Đức Thắng cầm đầu, được quân Pháp ở vị trí Trới cung cấp vũ khí, chúng đã đón đường phục kích, sát hại cán bộ ta. Tình hình ở đây còn nghiêm  trọng hơn cả ở Dương Huy. Vì bọn phản động có vũ khí, đã công khai chống lại ta. Chuyến đi ấy, tôi đang ốm nên được ở nhà. Ngoài anh Vú ra, anh Lân còn bổ sung thêm mấy cán bộ nữa. Và lấy anh Kỳ, anh Pháo đem hai khẩu tiểu liên đi bảo vệ. (Anh Pháo đã trở thành nhân viên chính thức). Dạo ấy đang là mùa thu. Suốt ngày đêm mưa gió. Anh Lân mặc cái áo ca pốt mầu đen, đeo khẩu súng ngắn “Côn bát”, và cái sắc cốt, chống gậy, cùng cả đoàn ra đi từ sáng sớm. Nhưng không ngờ, ngay chiều hôm ấy, anh Phẩm đã chạy về trước, báo cái tin dữ dội và đau buồn như sét đánh: Đoàn công tác bị bọn phản động phục kích! Anh Hoàng Lân đã hi sinh! Chúng dồn cả băng tiểu liên vào anh, rồi biến mất vào rừng sâu. Các thành viên khác không ai việc gì.
Trời đất ơi! Thế là anh Lân hy sinh mất rồi! Cả cơ quan sửng sốt, rồi lặng đi, đau đớn nhìn nhau, không ai nói được thành lời. Một lúc sau anh em đưa thi hài anh về, đặt nằm ở trước sân, chuẩn bị mai táng. Tôi đang lên cơn sốt, tung chăn dậy ra thềm, nhìn anh lần cuối cùng, rồi gục đầu vào vách nứa nức nở khóc. Anh Lân ơi! Mới sáng hôm nay thôi, cũng trên mảnh sân này, anh còn cười nói vui vẻ. Thế mà bây giờ đã thành ra âm dương cách biệt, kẻ khuất người còn. Xin vĩnh bịêt anh! Người anh cả đứng mũi chịu sào, người chỉ huy tài năng và dũng cảm. Xin anh hãy yên lòng ở nơi chin suối. Mối thù này nhất định chúng tôi sẽ trả cho anh!
Hôm sau, Ty Công an Đặc khi Hồng Gai long trọng tổ chức lễ truy điệu anh Hoàng Lân. Có đông đủ các cơ quan, và đơn vị bộ đội địa phương cùng tham dự. Những tiếng hô: “Cương quyết trả thù cho đồng chí Hoàng Lân” thét lên, làm rung động cả một vùng rừng núi khu căn cứ.
 
***
 
Sở Công an liên khu Việt Bắc cử anh Quân về Đặc khu phụ trách Ty Công an. Nhưng mới tạm quyền chứ chưa quyết định chính thức. Anh còn trẻ, chưa có vợ con, người cao, gầy mảnh khảnh, mặt dài, hơi cong, và đầy mụn trứng cá. Một sợi dây chuyền với cây  Thánh giá nhỏ xíu bằng vàng, lấp lánh trong cổ áo sơ mi anh. Không như mấy người lập dị, đeo để làm dáng, để chơi chội hơn người, anh xuất thân từ một gia đình công giáo thực thụ ở Cẩm Phả. Anh đem theo cái biểu tượng tín ngưỡng ấy đi kháng chiến, có lẽ vì lòng kính Chúa thì ít, mà vì tình cảm thì nhiều. Anh bảo đó là vật kỷ niệm của mẹ trao cho anh lúc lên đường.
Khi còn công tác ở Cẩm Phả, thời gian ấy tôi chưa biết anh. Đã có lần anh Thuỷ đưa tôi đến gia đình anh chơi (Anh Quân là bạn học với anh Thuỷ). Hôm ấy có chị gái anh Quân ở nhà tiếp khách. Chị mời chúng tôi ở lại ăn cơm. Trong lúc làm cơm và tiếp chuyện anh Thuỷ, chị đưa cho tôi quyển sách kinh đọc lấp thời gian trống. Hồi còn đi học tôi đã được thấy vẻ huy hoàng, tráng lệ của Nhà thờ lớn Hà Nội, nhưng chưa được đọc sách Kinh bao giờ. Kinh Viết: “…Đức Chúa Lời sinh ra ngày đêm, mưa nắng…”. Vâng. Tôi nghĩ, đúng là có nhiều thứ do trời đất sinh ra. Nhưng cũng có nhiều thứ chỉ con người mới sinh ra được. Ví như cuộc kháng chiến máu lửa trường kỳ đây, có phải do trời sinh ra đâu?
Một hôm, anh Quân gọi tôi lên phòng làm việc riêng của Trưởng Ty, bảo: “Từ nay chú lên đây ở và làm việc với tôi”. Anh không nói rõ là làm việc gì, liên lạc, bảo vệ hay thư ký? Tôi không dám hỏi lại, sợ anh cho là đần, chỉ nghĩ: “Liên lậc đã có chú Bính, bảo vệ thì anh Pháo, anh Kỳ, chắc là thư ký rồi”. Nhưng vẫn chưa dám tin ngay. Vì anh với tôi hoàn toàn không quen biết nhau. Không hiếu anh căn cứ vào đâu, mà vừa về nhận nhiệm vụ đá tin tôi như vậy? Dù sao quyết địng ấy cũng khiến tôi vui mừng và hãnh diện.
Anh Qân rất chăm chỉ, trời chưa sáng đá dậy thắp đèn ngồi làm việc, và gọi tôi dậy học. Anh đưa cho tôi một lô sách. Cả sách chính trị lẫn chuyên môn. Có tập viết về công tác phản gián, về các tổ chức tình báo thế giới như “Giettapo”, “S S” v..v…Cả những cuốn lý luận Mác dầy cộp, của nhà xuất bản Sự Thật. Có quyển phê phán cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại của Quốc dân đảng. Anh bảo tôi: “Chú còn trẻ, phải cố gắng học tập mới tiến bộ được. Đọc thật kỹ, chỗ nào không hiểu hỏi tôi”. Tôi đang tuổi ăn tuổi ngủ, chứ có thèm đọc sách đâu. Nhưng nể anh, sợ anh, tôi vẫn phải đọc, Ấy thế rồi cái thứ không thèm ấy, chẳng bao lâu “ân” lại thấy “ngon miệng”.
Sau giờ thể dục, đánh răng rửa mặt xong, anh lại ngồi làm việc ngay. Anh đưa cho tôi những bản nháp công văn vừa thảo xong, bảo tôi đánh máy. Tôi biết đánh máy chữ từ ngày làm liên lạc ở Phòng giao dịch sở than Hồng Gai. Khi về Quận chờ công tác, tôi vẫn đánh máy cho anh Ngọc Quận trưởng. Thế ra anh Quân đã xem xét, tìm hiểu tôi trước khi về đây. Còn qua ai thì chẳng bao giờ tôi được biết.
Nhưng những ngày cần mẫn và chứa chan hy vọng ấy, của cả hai anh em tôi, chẳng được bao lâu. Một hôm tôi thấy gương mặt anh Quân như quắt lại, đầy vẻ buồn rầu. Anh lặng lẽ chuẩn bị hành trang. Lúc khoác ba lô lên vai, anh nắm chặt tay tôi nói: “Chú ở lại cố gắng công tác và học tập nhá, mình đi đây!”. Anh không nói là đi đâu, và vì sao lại phải đi? Tôi vừa buồn vừa tiếc, nhưng không  dám hỏi. Ở ngành  này, lại đang trong kháng chiến, chúng tôi chỉ có thể hỏi nhau, nói với nhau những gì không thuộc phạm vi bí mật của Nhà nước. Thậm chí cả những việc riêng tư của mỗi cá nhân cũng không được phép tò mò. Tôi chỉ đoán: Chắc anh không được Đặc khu chấp nhận cho ở cương vị ấy. Còn vì sao, thì chỉ các vị lãnh đạo mới biết được.
Từ đấy trở đi tôi không biết tin anh Quân ở đâu. Năm Mỹ ném  bom miền Bắc. Tôi đã về làm ảnh ở Uông Bí. Một hôm tôi đang đi, có chiếc xe tải đi cùng chiều vượt qua bên tôi về phía Hồng Gai, bỗng trên thùng xe thấy người vẫy gọi rối rít: “Chỉnh ơi! Chỉnh ơi! Quan đây!”. Chiếc xe không tải lao vút đi, tôi chỉ kịp nghe rõ được tên mình, còn tên người gọi xưng là Quan, hay Quân thì không rõ lắm. Chỉ biết là “thanh bằng”. Tôi nghĩ mãi không biết là ai? Quan thì chỉ trong Truyện Kiều mới có “Vương Quan”, chứ ngoài đời ai dám đặt tên cho con cháu mình như vậy. Thôi thế thì đúng là anh Quân, người quyền Trưởng Ty cũ của tôi rồi. Mà không, anh quyền Trưởng Ty là với cơ quan, còn với tôi thì anh đã là, và mãi mãi vẫn là Trưởng Ty rồi! Như vậy là tôi biết anh vẫn còn sống, còn làm gì, và ở đâu thì tôi không biết.
Khoảng hai năm sau, tình cờ gặp một người quê ở Cẩm Phả, tôi hỏi thăm, mới biết anh Quân về Cẩm Phả, vẫn ở ngành cũ. Nhưng thật không may, sau chuyến đi Đông Triều về, anh đã bị bom Mỹ sát hại. Tôi ngậm ngùi thương người anh, người đồng chí đã một thời cùng chia nhau gian khổ ở núi rừng. Và một lần nữa lại băn khoăn tự hỏi: Nếu Chúa đã sinh ra mọi thứ trên đời, thì quả bom giết hại anh Quân ấy, chẳng lẽ cũng do ý Chúa sinh ra hay sao?..
Xin trở lại những ngày kháng chiến chống Pháp ở trong núi rừng.
Phải chia tay anh Quân, tôi buồn quá. Buồn cho anh thì ít mà buồn cho tôi thì nhiều. Tôi sẽ làm gì đây? Lúc bấy giờ Ty Công an Đặc khu chưa có Phó Ty. Anh Quân đi. Anh Thiện, Trưởng ban chính trị, điều hành cơ quan. Anh cho tôi xuống Phòng hành chính giữ sổ công văn đi đến. Thôi cũng được, dù sao thì cũng là có việc làm.
Phòng hành chính là ngôi nhà năm gian, to nhất cơ quan, nằm gần con suối nước trong như lọc. Đây cũng là chỗ bằng phẳng nhất khu rừng đại ngàn này. Trước mặt có sân bóng chuyền. Do chân núi dốc nên một nửa sân hơi cao, nửa kia thấp. Cột căng lưới là hai cây gỗ to bằng bắp đùi, mọc song hàng thẳng tắp, được róc cành, chặt ngọn. Lưới đan bằng dây rừng, để cố định, hằng ngày treo cành lá nguỵ trang tránh máy bay. Nhà làm toàn bằng nứa, trừ cột. Mái lợp nứa, vách nứa, mặt bàn, và cả chiếu giải giường cũng bằng nứa. Hai gian hồi có vách ngăn, có bàn làm việc và giường nằm. Một gian của Trưởng ban chính trị, gian kia của Trưởng phòng hành chính. Ba gian giữa có dầy bàn dài hình chữ u, là chỗ làm viêc của bọn nhân viên chúng tôi. Nếu không có chiếc máy chữ để trên bàn, thì chắng ai dám nghĩ đây là văn phòng của một cơ quan cấp tỉnh. Hồ sơ, tài liệu của bọn chúng tôi được “triệt để quân sự hoá”. Tức là của anh nào, hết giờ làm việc phải đem về gối đầu giường anh ấy, để dễ chạy khi có báo động. Đây cũng còn là hội trường, nơi trung tâm của mọi sinh hoạt tập thể của cơ quan, như họp hành, học tập, nghe nói chuyện thời sự, đọc báo và ca hát. Thậm chí, khi chưa làm được nhà, đây còn là nhà ăn tập thể nữa.
Việc làm nhà lúc bấy giờ không như sau ngày hoà bình, Nhà nước cho kinh phí mua vật liệu, thuê thợ làm. Mà tất cả cơ quan, đơn vị, đều phải tự làm nhà lấy để ở. Đặc khu mới thành lập, chỉ có bộ khung người. Cũng như những ngày đầu kháng chiến, ta rút vào rưng, hầu như chỉ có hai bàn tay trắng, không làm thì lấy đâu ra nhà mà ở? Cơ quan tôi hầu hết đều là người trẻ tuổi, người nhiều tuổi nhất cũng chưa đến bốn mươi. Và phần lớn đều là học sinh ở nông thôn hay thành thị, đi tham gia kháng chiến, có ai là thợ mộc, thợ nề đâu. Nhưng có thời gian cả cơ quan đều phải đi làm nhà. Người nọ bảo người kia, thế rồi ai cũng làm được. Chẳng những được, mà còn đẹp nữa kia.
Vị Loại là một xã miền núi, thuộc huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang, có ba tộc người cùng sinh sống: Kinh, Thanh Y, Thanh Phán. Nguồn sống của dân địa phương chủ yếu là dựa vào lâm sản, ngoài ra họ còn cấy lúa, phát nương làm rẫy. Nhưng những lúc giáp hạt vẫn thiếu ăn. Chợ vẫn họp nhưng không có lương thực bán. Nên cơ quan nào cũng có một Đội tiếp tế. Đội này thường xuyên phải đi chợ Mai Siu, Bến Tắm, xa  hai ba chục cây số để mua gạo về cho cơ quan.
Về mùa mưa, đã nhiều phen cơ quan tôi đói mờ cả mắt, vì suối lũ, Đội tiếp tế đi chợ không về được. Có lần, còn ít gạo vét bồ, chị cấp dưỡng phài nhìn trời, đoán thời tiết, tính toán mỗi ngày mấy ống, nấu cháo chia cho anh em mỗi người một ca. rồi nửa ca. Sau thấy anh em đói quá, anh Trưởng phòng hành chính chống gậy, trèo đèo sang Uỷ Ban vay gạo. Được mấy chục cân, về đến nhà thì trời lại tạnh, rồi hoe hoe nắng. Cả cơ quan ai cũng mừng, và nhận định: Mưa tạnh, nước rút, chỉ ngày mai là Đôi tiếp tế về đến nhà.
Là người nội trợ giầu lòng thương người, chị cấp dưỡng bàn với chồng (anh Trưởng phòng hành chính), và được anh đồng ý. Thế là trưa hôm ấy chúng tôi được ăn cơm. Nhưng theo định suất, mỗi người chỉ được hai ca thôi. Cái ca của chúng tôi lúc bấy giờ là ca nhôm, thấp, tròn, vừa là cốc uống nứơc, vừa là bát ăn cơm. Dung lượng ca cũng chỉ bằng cái cốc, chứ không phải là ca “Chiến thắng” bằng sắt tráng men như của bộ đội. Bữa cơm đầu tiên sau ba bốn ngày ăn cháo, mặc dù ít ỏi, và thức ăn vẫn chỉ là măng rừng, “chạy qua hàng mỡ”, hay rau tầu bay luộc chấm muối, nhưng ai cũng vui, vừa ăn vừa kể chuyện ngày xưa: “Chàng rể đến thăm bố vợ. Là chàng rể mới, được bố vợ chiều, cho ngồi ăn cùng mâm. Khi liễn cơm hết, không thấy bố vợ gọi người xới. Chàng rể liền nghĩ ra một kế, nói: “Gia đình con vừa làm nhà mới, to đẹp hơn nhà cũ, gốc cột to bằng cái liễn này đấy”. Coong…Coong,.. Chàng rể gõ vào liễn mấy cái…”. Bọn chúng tôi đang cười, bỗng anh Trưởng phòng hành chính cau mày, gắt: “Đồng chí C, đổ ca cơm xuống!”. Mặt C đỏ bừng, vội đổ ca cơm vấo rá, rồi lẳng lặng đi xuống suối rửa ca. C đã ăn hết tiêu chuẩn rồi, tưởng mọi người mải chuyện, anh định ăn…thêm. Bị xấu hổ lây, mặt tôi nóng bừng lên. Tôi giận C sao không nhớ lời mẹ cha răn dậy: “Đói cho sạch, rách cho thơm”? Nhưng rồi tôi lại thương anh, vì đi kháng chiến, chịu đói rét, ốm đau đã khổ rồi, anh lại còn làm cho mình nhục nữa, thì chịu làm sao cho thấu!...
Trong kháng chiến chống Pháp, có cụm từ được nhiều người hay nhắc đến: “Trường kỳ kháng chiến gian khổ”. Cả trong âm nhạc cũng vậy: “:Hành quân xa tuy có nhiều gian khổ/ Vai vác nặng trán đã đổ mồ hôi…”. Vậy cái gian khổ nhất của cuộc kháng chiến là gì? Có lẽ, ngoài sự hy sinh xương máu, thì cái gian khổ nhất của kháng chiến là đói và rét, chứ không phải là ở các cuộc hành quân. Vì đường xa, cuốc bộ, tuy có vất vả, nhưng còn được nghỉ ngơi. Và sau khi nghỉ thì sức lực lại phục hồi. Còn đói và rét thì sau khi nghỉ ngơi có no ấm trở lại đâu. Cơ quan chúng tôi rất nhiều phen bị đói, không phải chỉ vì mưa lũ. Mà còn vì kho nhà nước hết gạo. Chợ không có lương thực bán. Cơ quanm phải cử người vào các làng bản mua sắn, mua ngô chạy ăn từng bữa.
Quần áo, chăn màn thiếu thốn. Mùa đông lạnh giá. “Sương như búa bổ mòn gộc liễu/ Tuyết nhường cưa xẻ héo càng ngô…”(Chinh phụ ngâm). Có những mùa đông rét dữ, suốt cả ngày đêm đều phải đốt lửa. Nhưng trứơc mặt thì bỏng rát, mà sau lưng vẫn buốt giá!...
 
***
 
Sau khi anh Quân đi một thời gian, Sở Công an Liên khu Việt Bắc có quyết định chính thức bổ nhiệm anh Đinh Viết Toàn về làm Trưởng ty Công an Đặc khu Hồng Gai, đồng thời triệu tập Trưởng Ban chính trị lên Sở họp. Anh Thiện lấy tôi đi cùng. Lúc bầy giờ chưa có cụm từ “tháp tùng”. Tôi không phải là đại biểu đi họp. Nhưng anh Thiện không cho biết tôi đi bảo vệ, hay làm thư ký riêng cho anh, mà chỉ là đi cùng như câu thành ngữ cổ: “Thuỷ tam, bộ nhị” mà thôi.
Từ khu căn cứ, chúng tôi đi lên Bến Tắm, chờ trời tối, đi ra phía trên vị trí Đông Triều, sang đò rồi lội bãi sông, vượt qua vị trí Cẩm Lý, lên Lục Nam. Đây là quãng đường nguy hiểm nhất của cuộc hành trình. Vì địch ở vị trí Đông Triều và Cẩm Lý thường bắn pháo sáng, câu mooc chê, hoặc phục kích bất cứ lúc nào. Đã không ít người bị trúng đạn chết, và bị địch bắt ở đoạn đường này. Thế mà vẫn nườm nượp người đi. Bộ đội, cán bộ đi công tác. Người tản cư đi về xuôi xin tiếp tế. Học sinh ở vùng địch, lên vùng tự do học. Người đi thăm chồng con, anh em. Nhưng đông nhất vẫn là người đi buôn, họ vận chuyển hàng hoá từ vùng địch lên vùng tự do. Người nào cũng mang vác, gánh gồng nặng nhọc, mò mẫm trong đêm tối, bùn lầy. Ngã lại đứng dậy, im lặng đi tiếp, không ai dám kêu, dám ho. Vì lợi nhuận, người ta cũng bất chấp cả hiểm nguy, chứ chẳng riêng gì những người đi kháng chiến, vì lý tưởng. vì độc lập và tự do.
Từ Bố Hạ trở đi là đất tự do. Chúng tôi đi ban ngày, lên Nhã Nam, Phú Bình rồi đến thị xã Thái Nguyên. Nói thì nhanh, đi thì chậm, cũng mất hai, ba  ngày, anh em tôi mới đến được Sở Công an liên khu Việt Bắc.
Đây là lần đầu tiên tôi được đạt chân lên đất “Thủ đô kháng chiến”. Thực hiện chủ trương: “Tiêu thổ kháng chiến”, thị xã Thái Nguyên đã thành một đống gạch vụn khổng lồ. Đâu đâu cũng thấy gạch, ngói, vôi vữa vỡ nát vương vãi, và cỏ dại, cây hoang lan tràn trên hè phố. Nhưng cứ tối đến thì hoàn toàn khác hẳn. Cả thị xã lại hồi sinh, lại bừng tỉnh. Tất cả các loại đèn dầu to, nhỏ lại bừng sáng lên như sao sa. Hàng quán, phố phường lại tấp nập, đông vui. Người lại chen chân nhau, kẻ mua người bán. Người miền xuôi, người miền ngược. Nhưng đông nhất vẫn là người ở các thành phố dưới xuôi tản cư lên đây sinh sống. Tuy những bộ quần áo phố phường trắng sáng, đã được đổi thành các mầu xanh, nâu, đen, xám cho phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến, nhưng người ta vẫn dễ dàng nhận ra họ ở các cử chỉ nói năng, hay làn da, mái tóc. Rồi đến bộ đội, và cán bộ các ngành, đêm nghỉ, họ ra phố, ra chợ tiêu xài, mua sắm.
Ở đây có đủ các mặt hàng, từ máy chữ, giấy pơ luya, bút máy Parker, đến các thứ hàng xa xỉ cao cấp như xà phòng thơm, nước hoa Pháp, thuốc lá Cravena và rượu Rum…Nhất là các cửa hàng ăn, giái khát của người Hà Nội tản cư thì không đêm nào vắng khách. Cơm phở chỉ là những món thông thường. Ở đây có cả bánh mì trắng muốt, nướng vàng, ăn với sốt vang bò hay thỏ, nấu đúng kiểu  Thủ đô. Vào cửa hàng giải khát, nếu khách không vội, có thể gọi một phin cà phê bột, để ngồi lắng nghe tiếng tí tách của những giọt nâu, đen mầu hổ phách chậm chạp rơi. Còn vội, khách muốn uống cà phê hoà tan: “Made in France” hay “Made  USA” cũng đều có cả. Có lẽ ở Hà Nội lúc bấy giờ có hàng gì, thì ở đây cũng có thứ hàng ấy. Thật đúng là “Thủ đô kháng chiến!”.
Tuy ta cũng có chủ trương: “Bao vây kinh tế địch”, các Đồn, Trạm Công an kiểm soát hàng hoá rất ngặt, nên không ít vụ xô xát giữa Công an kiểm soát và bộ đội đã xẩy ra. Anh bội đội nhận được hàng tiếp tế của gia đình ở vùng địch gửi lên. Anh Công an kiểm soát đòi tịch thu. Thế là thành chuyện. Nhưng rồi cũng chẳng ai có thể bao vây, cấm đoán được nhu cầu của cuộc sống, Hàng xa xỉ vẫn tràn lan…
Sau ba ngày họp, chúng tôi lên đường quay về. Nhưng anh Toàn, Trưởng Ty mới, muốn ghé lại Quận Công an Đặc biệt, thăm và chia tay anh Nghĩa, Quận trưởng, bạn anh, rồi hôm sau mới đi. Về danh nghĩa đây chỉ là một cơ quan cấp huyện, nhưng lại trực thuộc Sở Công an Liên khu, và được gọi là “Quận đặc biệt” .Chắc chắn đây phải là một cơ quan phản gián có hạng, chuyên trách việc bảo vệ các cơ quan đầu não của chiến khu Việt Bắc.
Quận Đặc biệt ở trong một cánh rừng bằng phẳng và kín đáo, có nhiều dẫy nhà lá ẩn hiện dưới các tán cây cổ thụ. Trước sân, chỗ trung tâm của các dẫy nhà là cái giếng xây, to lớn như giếng đình ở miền xuôi.
Đến cơ quan lạ, chẳng có ai quen biết, tôi đi ngủ sớm, và sáng hôm sau cũng dậy sớm ra giếng rửa mặt. Bỗng mắt tôi hoa lên, giật nẩy mình. Ô kìa!...Ai kia?...Chẳng lẽ là Mỹ ư?... Tôi bàng hoàng, dụi mắt. Đúng rồi! Là Mỹ, đang ngồi vo gạo. Hình dang ấy, gương mặt ấy, và hoàn cảnh một kẻ bị nghi là gián điệp, thì  có mặt ở một cơ quan phản gián là đương nhiên rồi, chẳng lẫn với ai được. Chỉ khác là bây giờ Mỹ gầy hơn trước, nét mặt buồn và võ vàng đi nhiều. Tôi lạnh toát xương sông, vội lia mắt ra chung quanh, xem có cặp mắt “phản gián” nào nấp ở đâu đó đang theo dõi cuộc tương phung kỳ lạ này không. Nhưng đó chỉ là phản xạ của người tình báo, chứ người ta đã bố trí chỗ quan sát, thì làm sao tôi có thể nhìn thấy được.
Thế là rõ ràng rồi: Sau ngày anh Hoàng Lân  đột ngột hy sinh, người trực tiếp phụ trách vụ an ngay từ lúc khởi đầu không còn. Người ta phải giải phạm nhân lên đây. Như vậy cũng có nghĩa là vụ án chưa biết đến bao giờ mới có ngày kết thúc. Vì kẻ “chủ mưu” còn ở trong vùng địch, ở bên kia chiến tuyến.
Nhưng còn tôi, người yêu của kẻ bị tình nghi, thì cơ quan cần phải biết, phải xem tôi đã bị “nhiễm độc”, bị “mua chuộc, lôi kéo” chưa? Cho nên anh Thiện cho tôi đi Việt Bắc với anh,  chẳng phải là “Thuỷ tam, bộ nhị” gì. Mà rất có thể là, hay chủ yếu là nhu cầu của cuộc điều tra.
Ngày xưa, vì ghen tuông, muốn nhìn thấy tận mắt sự đau đớn của kẻ tình địch, nên Hoạn Thư đã tạo ra một cảnh bất ngờ để Thúc Sinh và Thuý Kiều gặp nhau. Bây giờ, cũng rất có thể cơ quan phản gián cho “nghi phạm” và “nghi can” gặp nhau là để tìm một lời giải đáp nào đó chăng?...
Nghĩ vậy nên tôi đã chọn cách đề phòng cao nhất là im lặng. Cả Mỹ cũng vậy, cô không chào hỏi tôi, chỉ lặng im rửa nồi, vo gạo. Tuy chúng tôi không ai dám nói với nhau, nhưng bên nọ vẫn ngóng chờ bên kia. Nếu bên kia dám nói một điều gì đó, thì bên này có thể hiểu là tình hình ở bên ấy đã có phần sáng sủa. Ôi, những phút giây im lặng chờ đợi ấy, sao bồn chồn, nặng nề và cay đắng đén thế! Cuộc gặp gỡ bất ngờ của Thúc Sinh và Thuý Kiều ở trước mắt Hoạn Thư, chắc họ không phải lo sợ và xót xa như chúng tôi bây giờ. Trông thấy cố nhân mà chẳng dám nhận nhau, mới càng ghê sợ cho lòng dạ con người. Những kẻ ném đá giấu tay ấy, chỉ vì ghen tuông thù hận, mà làm cho tấm thân bồ liễu thành ra kẻ tôi đòi, và người lương thiện thành ra tên tội phạm.
Nhưng cũng không thể chờ đợi lâu được, vì lần rửa mặt và vo gạo này, chúng tôi càng phải tỏ ra vẫn bình thường như bao lần khác. Cuối cùng, tôi nhìn vào mắt em, để tìm một ánh nhìn quen thuộc, và qua đó để xem có thấy điều gì được tỏ lộ không? Nhưng Mỹ không nhìn tôi. Nét mặt vẫn buồn rầu và lặng lẽ. Mỹ nhặt những hạt thóc lẫn trong rá gạo bỏ ra ngoài. Ôi!..em nhặt thật, hay qua đó em muốn nói: “Em vẫn là hạt gạo trắng trong, chứ không phải là hạt thóc lẫn đâu”. Rồi nàng se sẽ hát. Hát thật nhỏ như chỉ để một mình tôi nghe được thôi. Cũng bài: “Con thuyền không bến”, như ngày xưa ở Cẩm Hà, nàng đã hát và lần đầu tiên hai cặp mắt đã giao nhau:
“Đêm nay thu sang cùng heo may
Đêm nay sương lam mở chân mây
Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng
Như nhớ thương ai chung tơ lòng…”.
Ôi tiếng hát dịu êm, thiết tha quen thuộc, nghe mới sao xuyến, và lay động làm sao! Bỗng tự nhiên tôi thấy mình rét run lên, như đêm nào gió mùa Đông Bắc tràn về, hai đứa ôm nhau trong vòm đá ở ngoài Vụng Ruốc, trên cái giường bằng những cành cây gác lên ngọn đá nhấp nhô cao thấp. Hai đứa đã ép sát vào nhau mà vẫn không ấm lên được, vẫn rét run cầm cập…
Em buồn mà hát, hay đây là bức thông điệp, sau bấy nhiêu đổi thay, xa cách, em muốn bày tỏ lòng mình vẫn trong trắng, thuỷ chung, nguyên vẹn như xưa chăng? Vâng. Có lé đúng như vậy. Em mượn lời bài hát để tỏ nỗi nhớ thương tôi, và thương cho thân phận mình đang bị giam cầm oan trái. Nghe những lời nhắn gửi thiết tha, thầm kín ấy, lòng tôi đang lạnh giá, bỗng lại sôi lên như lửa đốt. Mặt nóng bừng bừng, tôi chụm tay vốc nước phả lên mặt cho dịu bớt. Rồi sợ có người ra giếng bắt gặp, tôi nhìn em lần cuối cùng, rồi vội vã đi vào.
Người ta giải Mỹ lên đây, cũng như bệnh viện chuyển một ca “nan y” lên tuyến trên vậy. Nhưng người bệnh nan y, dù sao cũng còn hy vọng rồi bệnh sẽ có ngày được chữa khỏi. Mà nếu không khỏi, thì cũng chỉ đến chết là cùng, chết là hết. Còn chuyện của Mỹ thì không như vậy. Vụ án chỉ có thể được khép lại, khi nào kháng chiến thành công. Nhưng bao giờ thì chiến tranh kết thúc?...Và đến ngày ấy, liệu hồ sơ vụ án có còn không? Hay đã bị bom napan đốt cháy? Hay bị rơi vãi, thất lạc, kể cả bị bỏ đi trong những lần phải chuyển nhà, di dời khu can cứ? Và nhất là đến ngày ấy, liệu có ai còn nhớ mà đứng ra mở cuộc điều tra, rồi tuyên bố xử phạt , hay minh oan cho Mỹ không? Chắc là không. Và như vậy cũng có thể hiểu rằng vụ án sẽ chẳng bao giờ được kết thúc.“Trăm năm bia đá thì mòn/ Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Cái tên, cái tiềng xấu xa là gián điệp, là Việt gian của Mỹ sẽ chẳng bao giò gột rửa được. Cho dù vì ốm đau bệnh tật, hay vì uất ức, Mỹ có tự vẫn, thì cũng không phải là xong, là hết như con bệnh nan y được.
Từ buổi sáng hôm ấy, đến mài ngày hoà bình, năm 1955, tôi mới được tin về Mỹ. Một lần gặp anh Thuỷ ở bến phà Bãi Cháy. Anh cho biết, Mỹ được một ông lãnh đạo có uy tín và quyền lực đứng ra bảo lãnh. Ông nhận Mỹ làm con nuôi, và cho Mỹ về ở với gia đình ông. Chẳng biết cái tin ấy có đúng không? Hay vì thương tôi mà anh Thuỷ nói như vậy. Rồi từ bấy đến nay, hơn bốn mươi năm đã trôi qua, tôi không nhận được tin tức gì của Mỹ nữa.
 
***
 
Anh Đinh Viết Toàn cử tôi xuống công tác ở Quận Công an Hoành Bồ. Sau mấy tháng ở văn phòng giữ sổ đen, Quận cử tôi xuống phụ trách thị trấn Trới và xã Lê Lợi. Đây là hai đơn vị hành chính cấp xã quan trọng nhất của huyện Hoành Bồ lúc bầy giờ.
Sau hơn hai năm công tác ở đây, tôi được gọi về Đặc khu dự lớp chỉnh huấn. Thời gian ấy vào khoảng sau chiến dịch “Cao Lạng” thắng lợi. Cả một vùng biên giới rộng lớn được giải phóng. Đường giao thông sang nước bạn láng giềng được mở rộng. Lực lượng kháng chiến đã lớn mạnh. Ta đã mở những chiến dịch như “Hoà Bình”, rồi “Hoàng Hoa Thám”, và hoàn toàn nắm thế chủ động trên khắp các chiến trường.
Để chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo: “Tổng phản công” thắng lợi, Trung ương đã phát động trong cả nước, một phong trào học tập chính trị, cải tạo tư tưởng, chỉnh đốn tổ chức (gọi tắt là chỉnh huấn), nhằm xoá bỏ những tàn dư tư tường của giai cấp phong kiến, tư sản và tiểu tư sản, đề cao giai cấp công nhân, tiền phong lãnh đạo Cách mạng, cùng khối công nông liên minh, và tư tưởng vô sản, mở đầu cho cuộc cách mạng đấu tranh giai cấp lâu dài về sau này.
Đồng thời với phong trào chỉnh huấn, còn có chỉ thị mở rộng dân chủ nội bộ, nhằm xoá bỏ những ngăn cách không cần thiết, giữa cấp trên và cấp dưới, giúp cấp trên tránh bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, đề cao tinh thần cách mạng, và tác phong giản dị của giai cấp công nhân v..v…
Những vấn để đặt ra ấy quả là to lớn và quan trọng. Song cũng như tất cả những gì mới nẩy sinh, bao giờ cũng có phần thái quá. Vả chăng, vận dụng những chủ trương lớn như vậy vào cuộc sống, không phải là bất cứ ở đâu, và bất cứ địa phương nào cũng làm đúng cả. Cho nên ở cơ quan tôi đã có chuyện: Đang đêm, vị Trưởng ban chính trị dẫn mấy anh nhân viên văn phòng xông vào giường Trưởng ty, lột quần, đỏ mực vào chỗ kín rồi bỏ chạy. Cả cơ quan được một trận cười vui vẻ ầm ĩ. Rồi đêm sau, đến lượt Trưởng ban chính trị, cũng bị Trưởng ty đem quân đến đột kịch y như vậy. Quả là vui vẻ, cởi mở, trên dưới chan hoà thật. Và đó là chuyện sinh hoạt hàng ngày, cũng không có gì đáng chê trách. Nhưng dù sao việc đó cũng biểu hiện cách vận dụng đường lối dân chủ vừa ngây thơ vừa thô thiển.
Vậy còn những việc quan trọng thì sao? Có lẽ cũng vì sự thái quá của những buổi đầu ấy, hay nói cho đúng ra là lúc còn ấu trĩ, non nớt, nên khi phải đối mặt với những vấn đề to lớn hơn, ta đã phạm không ít sai lầm. Như khi nhìn nhận, đánh gía về con người, ta đã phạm một sai lầm hết sức nghiên trọng. Đó là bệnh “Thành phần chủ nghĩa”. Đề cao thành phần “công nông, vô sản” quá mức. Thậm chí tôn vinh như thần tượng. Coi thành phần là điều tiên quyết, quan trọng hơn cả tài năng và đạo đức. Vì thế cho nên không ít kẻ bất tài, chỉ nhờ thành phần mà được cất nhắc đề bạt. Và ngược lại, rất nhiều người chỉ vì thành phần mà điêu đứng khổ sở. Và rất đáng tiếc là cái bệnh ấy đã tồn tại quá lâu, nên đã gây ra cho đất nước không biết bao nhiêu tại haị.
Sau hơn hai thàng học tập lý luận, đầu óc tôi như đã sáng ra. Tôi đã hiểu được những đường lối, chính sách của Cách mạng và kháng chiến. Và qua học tập, tôi đã biết mình thuộc tầng lớp tiểu tư sản. Lớp người trên chẳng phải trên, dưới chẳng ra dưới. Thật đáng buồn!
Học tập lý luận xong, học viên phải lấy lý luận đối chiếu, soi rọi lại bản thân để viết bản kiểm điểm, và tự phê. Rồi đem ra tổ đọc để anh em góp ý, bổ sung, phê phán. Đây mới là những ngày gay go, vất vả nhất trong cả thời gian học tập. Tôi đã thành khẩn bộc lộ tất cả, lôi ra giấy trắng mực đen tất cả những thói hư tật xấu của mình. Kể cả những khuyết điểm chỉ mới xẩy ra trong ý nghĩ, hay trong giấc mơ…Thế mà khi đem ra tổ đọc. tôi vẫn bị phê là: “Thiếu quan điểm quần chúng, tự cao, tự đại…”.
Thế là tôi phải viết lai. Nhưng cũng vẫn chưa xong, vì bị tổ trưởng học tập phê là: “Có tư tưởng lãng mạn (hiểu theo ý xấu) đọc Truyện Kiều”. Tuy lúc bấy giờ tôi đã hiểu nghĩa hai chữ “lãng mạn” nghĩa là thế nào rồi. Nhưng đây là “lãng mạn tiểu tư sản”, thì quả là một sai lầm nghiêm trọng rồi! Chưa hết. Có học viên còn khẳng định rằng chính tai anh ta đã nghe thấy tôi hát “Nhạc vàng” ở bờ suối. Anh ta còn nhớ một câu: “Mùa thu chết rơi theo lá vàng”. Thế là tôi liền bị phê tới tấp, nào là: “Truyện Kiều là sách của một tên quan phong kiến viết ra, để phục vụ cho giai cấp phong kiến thống trị, áp bức bóc lột nhân dân. Là người của Cách mạng chống đế quốc phong kiến, sao đồng chí lại đọc Truyện Kiều? Mùa thu là mùa đẹp nhất, mùa Cách mạng thành công. Chứ sao mùa thu lại chết? Là người của Cách mạng, sách của Cách mạng sao đồng chí không đọc, mà lại đọc Truyện Kiều? Bài ca Cách mạng sao đồng chí không hát, mà lại hát nhạc vàng? Đồng chí còn luyến tiếc, chưa dám đoạn tuyệt với chế độ cũ à? Hằng ngày ăn cơm của dân, vận sáo của dân, sao đồng chí lại vô ơn thế? Sao đồng chí…Sao đồng chí…Sao đồng chí…
Rõ khổ thấy quyển sách và bài hát hay, thì tôi đọc, tôi hát, chứ nào tôi có luyến tiếc gì đâu!
Trong chỉnh huấn, tuy đã xác định phê bình là phương châm “Trị bệnh cứu người”. Nhưng trong thực tế phê để cứu người thì ít, mà để khoe lòng trung thành của mình thì nhiều. Thế là một lần nữa tôi lại phải viết lại rồi mới được tổ thông qua.
Dẫu sao thì tiểu tư sản như tôi cũng đỡ tủi hơn anh Lưu Đức. Anh là con nhà quan, thuộc thành phần tư sản, phong kiến. Anh Đức trước đây là cán bộ phụ trách cơ quan Tình báo miền Duyên hải, thay Thiếu tá Minh Sơn. Khi có chỉ thị Công an và Tình báo sáp nhập, anh trở thành cán bộ nghiên cứu của Ban chính trị Ty Công an Đặc khu. Lúc đọc bản tự phê thông qua tổ, anh vừa đọc vừa khóc. Chẳng rõ anh khóc vì hối hận trước những sai lầm của giai cấp mình xuất thân, hay anh tủi thân, thương cho mình chẳng may xuất thân từ giai cấp ấy. Là người trí thức, bản tự phê anh viết khá đầy đủ, rõ ràng từng sự việc, từng chi tiết. Nhưng vẫn bị anh em trong tổ phê phán kịch liệt, vì “tư tưởng hữu khuynh”, nương nhẹ cho những sai lầm của giai cấp thống trị, áp bức bóc lột. Anh phải viết đi viết lại nhiều lần rồi mới được tổ thông qua.
Lớp học bế mạc. Trưởng ty tuyên bố cho anh em nghỉ mấy hôm, rồi ai ở đâu lại về đấy tiếp tục công tác.
Thôi thế là chết tôi rồi! Lại phải về Lê Lợi, thì tôi biết ăn nói làm sao với bà Quý và cô Nghìn đây?...Phải gặp  anh Toàn, xin anh ấy cứu giúp cho mới được. Nhưng ông Trưởng ty này nghiêm lắm, nét mặt lúc nào cũng lạnh ngắt như tiền, chẳng mấy lúc nói cười cởi mở. Nhìn vào gương mặt ấy, bộ phận nào cũng thấy thẳng tuột: Mũi thẳng, lông mày thẳng, trán và chân tóc trứơc trán cũng thẳng, chỉ có bờ môi là có một chút cong, nhưng lại sắc, mí mắt cũng gần như thẳng, với những cái nhìn sáng loáng như dao chém. Tôi ngại quá, nhưng cũng không còn cách nào khác.
Lúc bầy giờ anh Toàn mới cưới vợ, anh em làm cho đôi tân hôn hai gian nhà ngoãm ở ngoài khu vực cơ quan. Chị Mận, vợ anh, người Hoành Bồ, tôi quen biết đã lâu. Chờ hết giờ làm việc, tôi ra nhà riềng, vừa thấy anh tôi đã kêu lên:
-       Anh Toàn ơi! Nếu lại phải về Lê Lợi bây giờ thì em chết mất! Anh cười, hai khoé mép cong ve lên, và bảo tôi ngồi, đưa cho tôi chén nước, hỏi:
-       Sao lại chết? Mấy năm nay cậu ở đấy công tác vẫn ổn cơ mà. Thế có chuyện gì nảo?
Tôi kể lại ngày mới về Lê Lợi. Anh Nhâm cán bộ Công an (người tiền nhiệm), đưa tôi đến ở nhà  bà Quý, là gia đình cơ sở của Công an. Sau một thời gian, có hôm bà quý hỏi tôi bao nhiêu tuổi, và sao chưa lấy vợ? Rồi nửa đùa nửa thật bà bảo: “Bao giờ cái Nghìn  hết hạn về, tao gả nó cho anh”. Bà có cô con gái tên là Nghìn, tham gia công tác địch vần, bị địch bắt đi tù ở căng Máy Chai, Hải Phòng. Tôi chỉ tủm tỉm cười rồi lảng sang chuyện khác. Câu chuyện tưởng như đùa ấy, không ngờ đến khi cô Nghìn về thì đã có nhiều người biết. Mấy cô gái hàng xóm, nhất là bọn trẻ con hay trêu đùa, họ gọi tôi là anh “Chỉnh Nghìn”. Người già thì khen là “đẹp đôi”. Mà nào cô ấy có xinh đẹp gì đâu! Người cao lớn, béo cùn béo cụt như cái cối xay. Tôi đứng ước chừng chỉ đến mang tai cô ta thôi. Hai cái chân to như hai cây chuối hột, xỏ trong hai ống quần đen, bước đi rình rịch như cuốc bổ xuông đất. Cười thì hở lợi, có bao nhiêu cái răng phô ra hết. Tiếng nói to, giọng ồm ồm như đàn ông… Của đáng tội, cũng còn vớt vát được một tẹo ở nước da trắng, và đôi mắt lá răm là còn có thể nhìn được.
Tuy thế, nhưng: “Ở xứ mù thì thằng chột làm vua”. Ở cái làng bị kẹp vào giữa một bên là đồi núi hoang vu, và bên kia là  bãi sú mênh mông, quanh năm thuỷ triều lên xuống, thì “ Cái tấm dung nhan” ấy vẫn là loại khá, cho nên người ta mới khen là “đẹp đôi”! Trước thiện ý ấy, buộc lòng tôi vẫn phải giữ nguyên mấy nụ cười trừ. Chứ còn biết nói năng làm sao, trong lúc tôi đang phải nhờ vả gia đình cô ấy.
Ngành Công an lúc bấy giờ luôn luôn thiếu tiền. Nhất là tiền Đông Dương, để chi phí cho các cán bộ hoạt động ở vùng hậu địch như tôi. Cả năm Quận mới gửi cho tôi được vài lạng thuốc phiện, nhờ người bán lấy tiền chi phí. Mọi chi tiêu sinh hoạt của tôi đều phải nhờ vào gia đình cơ sở. Cho nên muốn “há miệng” thì đã “mắc quai” mất rồi!
-       Anh Toàn lại hỏi:
-       Vậy là cậu không yêu cô ấy chứ gì?
-       Vâng! Em chỉ coi cô ấy như em gái thôi.
-       Thế thì làm sao lại chết?
-       Nhưng em đã…em đã…
-       À, trót dại rồi chứ gì? Thế thì cậu chết là đáng đời lắm. Thôi, cứ về đấy công tác đi, rồi cơ quan sẽ thu xêp cho.
Tôi giẫy nẩy lên:
-       Không! Không phải thế đâu! Em không làm gì dại dột đâu! Em chỉ hứa thôi. Mà không hiểu sao lúc ấy em ngu thế?..
Chả là khi nhận được giấy triệu tập về Đặc khu học, tôi cứ đinh ninh là mình ở đây đã lâu rồi, học xong thế nào cũng được chuyển đi nơi khác. Lúc tôi đang chuẩn bị hành trang sắp sửa lên đường, thì bà nội cô Nghìn ở ngoài sân dò dẫm vào trong nhà. Cụ đặt bàn tay gầy đét như cái chân gà phơi khô lên vai tôi, bảo: “Bao giờ đi thì dặn nó một câu, chẳng nó tủi thân”.
Ôi, trời đất! Bà cụ chín mươi hai tuổi, dúm dó như quả mướp khô, mắt loà, tai điếc, lặng lẽ, vật vờ như chiếc bóng, không hiểu cụ lấy cái gì để  thu nhận thông tin, mà cũng biết chuyện? Tôi bối rối quá. Làm thế nào đây? Nói gì bây giờ? Bà cụ nói phải. Chẳng lẽ cứ im lặng mà đi ư? Tôi chạy ra ngoài sân nhìn trời, nhìn đất. Trời tối rồi. Giờ này chắc nhân viên giao thông đã đến địa điểm. Thôi được. Tôi vào nhà xách túi, chào mọi người, rồi bước ra sân. Thấy cô Nghìn đi tiễn, tôi quay lại nói luôn: “Học xong, nếu tôi phải chuyển đi nơi khác, cô thương yêu ai thì cứ lấy. Nếu tôi lại được về đây, thì chúng ta sẽ nói chuyện sau. Thôi cô quay về đi!”.
Vâng! Em chỉ nói có thế, chứ tuyệt nhiên không làm gì sai trái. Và đấy cũng là lần đầu tiên em nói dối một người con gái. Em không ngờ mình lại tự hại mình. Suy nghĩ một lát, anh Toàn nói:
- Thôi được, cậu cứ về nghỉ ngơi đi, để mình còn trao đổi với các anh trong Ban lãnh đạo., Nhưng theo ý tớ thì cậu cứ về đấy công tác là tốt hơn cả. Suy nghĩ kỹ đi…
Hai hôm sau tôi được báo đến nhà anh Lộc họp (Lộc Công an, không phải Lộc khu uỷ). Lộc cùng công tác ở Hoành Bồ với tôi. Hai thằng rất thân nhau. Lộc mới lấy vợ, cùng tổ chức đám cưới “tập thể” với anh Toàn. Cuộc họp ngoài anh Toàn ra, chỉ có bốn năm nhân viên thuộc Quận Hoành Bồ, đang nghỉ sau lớp chỉnh huấn. Các thành viên cuộc họp ngồi bên mấy cái bàn nứa, làm cho đám cưới “tập thể”, chưa dỡ bỏ đi. Với vẻ mặt lạnh lùng, nghiêm nghị vốn có, anh Toàn tuyên bố lý do. Anh gọi tôi là “anh”, chứ hông dùng cụm từ “đồng chí” như những cuộc họp khác, và hướng cái nhìn sắc, lạnh về phía tôi, nói:
Về việc anh Chỉnh ở dưới cơ sở, tôi đã hội ý với Ban lãnh đạo rồi. Vì nhiệm vụ và lợi ích chung, Ty quyết định anh Chỉnh phải về địa phương cũ công tác. Còn việc mắc mớ tình cảm với gia đình cơ sở, anh Chỉnh phải thu xếp cho ổn thoả, để bảo đảm công tác lâu dài. Nếu không sẽ phải thi hành kỷ luật. Ý kiến anh Chỉnh thế nào phát biểu đi!
Thôi thế là nguy to rồi! Bị kỷ luật rồi!. Bao nhiêu năm tôi cố gắng công tác, và giữ gìn bản thân trước những cám dỗ, lôi cuốn của vật chất, dục vọng, thế mà bây giờ phải chịu bó tay, chỉ vì một lời nói suông dại dột hay sao? Thật đúng là được yêu mến đôi khi cũng khổ. Lần trước ở Hà Lầm, trước giờ nổ súng, tôi không muốn ăn mà vẫn phải ăn. Không muốn, nhưng ăn thì vẫn sống. Còn lần này được yêu, nhưng phải lấy người mình không yêu, thì chắc là tôi sẽ chết! Người ta đã từng chết vì tình yêu. Sao tôi lại phải chết vì không yêu? Mồ hôi vã ra, chân tay run lên, tôi đứng dậy ấp úng nói:
-       Thưa…Thưa lãnh đạo, cùng toàn thể anh em, mấy tháng nay được cơ quan cho ăn học, tôi đã hiểu nhiệm vụ của mình. Ty có thể cho tôi đi bất cứ đâu, và làm việc gì cũng được, chỉ xin lãnh đạo đừng bắt tôi về chỗ cũ, vì tôi không yêu cô ấy.
Anh Toàn đứng dậy, cặp lông mày nhíu lại thành một vệt đen thẳng tắp, khoé mép ve lên, và bằng một giọng rin rít trong kẽ răng, anh nói:
-       Thế là rõ rồi. Thay mặt lãnh đạo Ty, tôi tuyên bố kỷ luật anh Hoàng Hữu Chỉnh, ở mức cảnh cáo ghi lý lịch, vì đã chống lại lệnh điều động của cấp trên. Các đồng chí, ai có ý kiến gì không? Nếu không chúng ta nghỉ.
Mọi người nhìn tôi thương hại rồi giải tán. Tôi như thằng mất hồn, vừa tủi nhục, vừa đau buồn, lững thững đi ra ngoài suối cạn. Chân tay rã rời, mềm nhũn, tôi nằm xuống một tảng đá, úp cái mũ berê lên mặt khóc… Đã bao nhiêu đêm tôi ngồi trên đồi sim, hay dưới bãi sú xã Lê Lợi, ngắm nhìn khoảng trời sáng ánh đèn phía thị xã Hồng Gai, và mong ngày chiến thắng trở về. Tôi sẽ gặp lại Mỹ. Nếu cô ấy được minh oan, chúng tôi sẽ thực hiện lời hẹn trước. Nếu không, thì người đã có một thời tôi trộm yêu thầm nhớ là Yến, chứ đâu phải là cô Nghìn. Sao ông Toàn không thông cảm cho tôi, nỡ ép tôi phải lấy một người mà chẳng bao giờ tôi nghĩ đến.
Một lát sau, vợ Lộc và chị Mận, vợ anh Toàn đến an ủi tôi. Họ đã mủi lòng, vì giới tính, và cũng vì họ đang được hưởng hạnh phúc của tình yêu. Bằng một giọng nhỏ nhẹ, dịu dàng, chị Mận lên tiếng: “Thôi đừng khóc nữa, về nhà đi anh Chỉnh ạ! Phải sao thì chịu vậy, chứ khóc làm gì cho thêm khổ thân”. Vợ Lộc cũng nói: “Muộn rồi, về đi anh ạ. Hôm nay anh ở đây ăn cơm với vợ chồng em”. Nhờ những cử chỉ ân cần ấy, dần dần tôi cũng bình tĩnh trở lại. Nhưng mệt mỏi và chán nản quá, tôi đang cần ở một mình. nên chưa muốn về.
Hai chị về. Lộc ra. Hắn chẳng nói năng gì, chỉ ngồi nhìn tôi tủm tỉm cười ruồi. Giận cá, chém thớt, tôi dằn giọng nói đay:
- Tôi biết ông đang sung sướng rồi, làm gì mà phải khoe.
- Cứ nói nữa đi! Lộc nói.
- Hay ông ra đây để canh chừng, xem tôi có leo lên cây, rồi đâm đầu xuống  bãi đá không chứ gì?
- Tớ biết cậu không ngu đến thế. Tớ cười vì cậu là một thằng ngốc. Cậu tưởng mình bị kỷ luật thật à? Cậu thử nghĩ xem, nếu thật sao không họp ở Ty? Càn bộ Ty có ai đến không? Và sao không ghi biên bản để lưu vào hồ sơ lý lịch của cậu? Rõ ngốc! Đây chẳng qua chỉ là thủ đoạn vặt của ông Toàn. Ông ấy doạ thế để cậu về công tác cho xong việc. Nhưng cậu không về, thì coi như lãnh đạo đã xử lý rồi. Cậu rõ chưa?
Quả nhiên y như lời Lộc nói, cả Ty chẳng ai biết gì về việc này. Tôi được ở lại Ty, cùng hai cán bộ nữa đi hướng dẫn các lớp học tập chỉ thị “Phòng gian bảo mật” ở các cơ quan trong khu căn cứ…
Rồi một hôm anh Toàn bảo tôi và anh Nhâm làm hồ sơ lý lịch, chuẩn bị đi học. Ty quyết định cử hai anh em tôi lên Bộ (Nha Công an đã đổi thành Bộ). Thời gian học mười tám tháng. Tôi rất phấn khởi, vì hy vòng rằng sau khoá học mình sẽ được cất nhắc, đề bạt. Và đến lúc ấy tôi mới hiểu: Anh Toàn đã không thành kiến, trù dập, mà còn chú ý nâng đỡ tôi.
Nhưng rồi tình hình đã bất ngờ thay đổi. Đặc khu bổ sung cho Ty công an một huyện uỷ viên. Là anh Lê Đại. Khi mới sang, anh Đại chỉ làm việc với anh Toàn và anh Thiện ở văn phòng riêng. Sau ít ngày, thấy anh Toàn lên Việt Bắc học. Anh Đại mới chính thức điều hành công việc cơ quan.
Rồi một buổi tối có lệnh họp đột xuất. Cán bộ nhân viên tát cả các phòng ban đều tập trung ở hội trường. Chưa ai biết có việc gì, người nọ nhìn người kia chờ đợi. Giữa lúc đó anh Đại bước vào hội trường, đứng trước cử toạ anh nói:
-       Thưa các đồng chí! Hôm nay tôi xin báo cáo với các đồng chí, một thắng lợi mới của cơ quan ta…
Giữa lúc đó, ở phía cuối hội trường, bỗng có tiếng quát: “Giơ tay lên!”, và hai khẩu tiều liên của anh Pháo và anh Kỳ chĩa thẳng vào mặt anh Thiệu, và anh Luật. Bốn cánh tay run rẩy giơ lên, cùng hai cái mặt ngây ngô, xám ngoét. “Đứng dây! Đi ra!”. Họ đi rồi anh Đại mới nói tiếp:
-       Như các đồng chí vừa thấy đấy, tên Thiệu và Luật là hai tên tay sai của địch cài vào hàng ngũ ta. Qua điều tra nghiên cứu, chúng tôi đã có bằng chứng cụ thể. chính xác chúng là gián điệp, nên chúng vừa bị chúng ta bắt. Đây là một thắng lợi lớn của cơ quan ta. Các đồng chí cứ yên tâm, tin tưởng ở lãnh đạo. Chúng ta không bắt sai, không xử lý oan. Các đồng chí hãy vui mừng vì thắng lợi này, và cố gắng công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tình hình còn nhiều diễn biến, sau này có thế nào tôi sẽ báo cáo tiếp.
Cả hội trường lặng đi. Ai cũng sửng sốt, thật không ngờ. Thiệu là cán bộ nghiên cứu của Ban chính trị, chuyên theo dõi hoạt động của các tổ chức mật thám địch, người giúp việc đắc lực và tin cậy của anh Thiện. Hắn còn trẻ, khoảng hai bồn, hai lăm tuổi là cùng, đẹp trai, sử dụng tiếng Pháp thành thạo. Nghe đâu hắn vốn là nhân viên cơ quan mật thám liên bang Pháp (Deuxieme Bureaux  Surete Federale), được giác ngộ và tình nguyện làm việc cho ta, sau bị lộ phải rút ra ngoài.
Còn Luật, là Tổ trưởng tổ điều tra bảo vệ khu căn cứ. Hắn khoảng hai bẩy, hai tám tuổi, mặt to, miệng rộng, da tai tái, tính tình điềm đạm, ít nói, tận tuỵ với công việc, và tế nhị trong giao tiếp. Chắc hắn cũng là con nhà khá giả, có học hành. Thế mà không ngờ chúng lại là tay chân cuả địch, chui sâu vào tận nơi rừng thiêng nước độc này để chống phá Cách mạng từ trong phá ra, thì quả là to gan lớn mật thật.
Tuy anh Đại đã “đả thông tư tưởng”, nhưng sau cái đêm sửng sốt ấy, một không khí lo âu, trầm lắng vẫn bao trùm lên cơ quan. Ai ai cũng khẩn trương làm việc, nhưng ít nói, ít cười, ít cả hút thuốc lào vặt. Người vui tính, hay bông đùa như ông già Dư, mọi hôm, mỗi lần đi đâu về, vừa gõ cây gậy song xuống thềm, ông đã cho sổ tung ra một tràng tiếng Pháp với anh Thiện. Thế mà giờ đây ông chỉ lặng thinh, giương kính ngồi cặm cụi trước quyển sổ ghi chép chi tiêu của tổ quản lý cấp dưỡng.
Ông Dư vốn là một Đốc công ở mỏ Cẩm Phả, hoạt động bí mật cho ta, sau bị lộ được rút về Ty, làm quản lý. Khi đi, ông đem theo cả đứa con trai mười lăm tuổi tên là Thực. Ông định cho Thực lên vùng tự do tiếp tục học văn hoá, nhưng ở khu căn cứ làm gì có trường lớp nào. Ông phải tự dậy con học, rồi xin cho Thực làm liên lạc thay chú Bính. Ông đã có tuổi, tóc hoa râm, người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, tháo vát. Có hai thứ lúc nào ông cũng kè kè ở bên mình là cái sắc cốt da đựng tiền ăn của anh em, và chiếc gậy mà ông bảo là “vật bất ly thân”. Ông dùng gậy vì thói quen, chứ không phải vì chân yếu mà phải dùng. Ông với anh Thiện quen thân nhau từ ngày anh Thiện còn làm thư ký ở mỏ Cẩm Phả, nên giữa hai người, thỉnh thoảng lại có một đoạn hồi ức được sổ tung ra bằng tiếng Pháp như vậy.
Như thường lệ, hôm nào ông Dư cũng cùng bác cấp dưỡng đi chợ mua thực phẩm từ sáng sớm. Hôm ấy bác cấp dưỡng đã gánh hàng về lâu rồi, mà vẫn chưa thấy ông già Dư đâu? Mãi đến chiều tối, cơm nước xong, anh Pháo mới thì thầm kể lai với mấy đứa chúng tôi: Anh và anh Kỳ được lệnh phục ở bên bờ suối. Khi ông Dư về, chờ ông lội ra giữa suối, họ mới chĩa súng thét: “Giơ tay lên!”. Vốn tính vui vẻ, vô tư, già Dư cũng chĩa cái gây lên bờ thét: “Hô lê manh!” (giơ tay lên!). Rõ buồn cười, ông lão nhầm, tưởng bọn anh đùa. Đến lúc bị trói quặt cánh khuỷu mới ngây ra, hiểu là chẳng phải chuyện đùa!...
Và sau những tiếng cười thầm về sự nhầm lẫn ấy, là bao nhiêu lo lắng, hoang mang cứ âm thầm len lỏi đến từng người. Trong lúc làm việc, lúc ăn, lúc ngủ…Tuy mọi người vẫn tỏ vẻ bình thường, vẫn gọi nhau là đồng chí, là anh, em. Vẫn xưng tôi, xưng tớ, xưng mình. Nhưng nhìn nhau, nghĩ về nhau bây giờ đã bằng con mắt khác, và ở góc độ khác. Con mắt: “Cảnh giác cách mạng”. Con mắt nghi ngờ dò hỏi: “Bạn hay thù đây?”. Người này hôm nay còn là đồng chí, nhưng ngày mai thì chưa chắc. Và ngày mai không biết ai, còn ai nữa sẽ là kẻ thù? Nhất là những khi có việc gì đó, anh Đại phải đi từ nhà nọ sang nhà kia, cách nhau vài ba chục mét, bao giờ cũng có anh Kỳ hay anh Pháo cáp tiểu liên đi cùng, thì sự lo láng trong mỗi người càng tăng lên gấp bội.
Người bận rộn và lo lắng nhất cơ quan bây giờ có lẽ là anh Thiện, hai má hõm sâu, râu ria đâm ra tua tủa. Anh phải lo công việc của cả Ty, để anh Đại rảnh tay xuiống trại giam, cùng bộ phận chấp pháp ngày đêm hỏi cung, thẩm vấn bọn can phạm.
Một hôm, anh Đại vừa ở trại giam về đã triệu tập chúng tôi đến văn phòng Ty, giao nhiệm vụ khẩn câp: Đi bắt hai tên “Quốc dân Đang” ở Ty Thông tin tuyên truyền. Một thằng tên là Xừ hay Xứng (tôi không nhớ rõ). Thằng kia là Mần Dếnh, người Việt gốc Hoa. Tôi quen biết Dếnh từ ngày còn ở Hoành Bồ, trên đường công tác, đã nhiều lần đi cùng đoàn giao thông với nhau. Ở Ty Thông tin, hắn chuyên dịch các bản tin thời sự, chiến sự, và các tờ “bướm” giải thích chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước do Xừ soạn thảo sang chữ Hán.
Việc bắt người không có vũ khí, lại ở trong vùng căn cứ kháng chiến, đáng lẽ không phải là một việc khó. Nhưng Mần Dếnh là tay có võ Tầu vào hàng “cao thủ”, “sư phụ”, nên anh Đại phải trực tiếp đi chỉ huy. Kế hoạch  vạch ra như sau:
Bộ phận thứ nhất, do anh Đại trực tiếp chỉ huy, gồm khoảng mười tay súng, vừa tiểu liên vừa súng trường, có nhiệm vụ bao vây khu nhà ở, đồng thời cũng là nơi làm việc của hai tên (chúng ỏ chung), để phòng khi bị bắt, chúng có thể đạp vách chạy. Khi bao vây phải khéo léo ẩn nấp, không để đối tượng phát hiện được.
Khi bao vây xong. Bộ phận thứ hai phải nhanh chóng xông vào bắt chúng. Bộ phận này có ba người: Anh Pháo cầm khẩu tiều liên “Tôm Sơn”. Tôi cầm khẩu “Côn bát” của anh Lê Đại. (Khẩu Sinhechiên tôi vẫn dùng đã giao cho cơ quan từ ngày về chỉnh huấn. Vì quy định chung, tất cả học viên không được đem vũ khí vào lớp học). Người thứ ba là anh Kỳ. Anh to, khoẻ, làm nhiệm vụ trói pham nhân, (Lúc bấy giờ Công an chưa có khóa chuyên dụng). Nếu chúng chống cự, có thể bắn, nhưng không được bắn chết.
Chúng tôi nhẹ nhàng luồn lách trong rừng cây, không gây ra một tiếng động nhỏ nào, rồi ập vào cửa. Anh Pháo chĩa mũi súng vào tên Xừ. Tôi hướng vào Mần Dếnh quát: “Giơ tay lên!”. Mần Dếnh nằm gù trên giường, đang viết. Hắn chỉ từ từ ngồi thẳng lên chứ không giơ tay. Trong khoảnh khắc đầu tiên bất ngờ này, hắn chưa ý thức được tình thế. Hay hắn đang nghĩ đến một miếng võ thủ hiểm nào đây?...Tôi vội thét lên lần nữa: “Giơ tay lên! Không tôi bắn!”. Lúc bầy giờ hắn mới hiểu, và vội vàng đưa hai tay lên trên cặp kính lão, và mái tóc đã chớm hoa râm. Trói xong, anh Kỳ cùng anh Pháo giải phạm nhân đến trại giam, có anh Đại đeo khẩu “Côn bát” tôi vừa trả lại, đi cùng. .               
Công vụ kết thúc thắng lợi. Chúng tôi rút về Ty. Cả bọn lặng lẽ đi, không ai dám công khai bàn tán gì. Nhưng ai cũng hiểu tình hình như thế là nghiêm trọng rồi. Hôm nọ bắt bọn thằng Thiệu, thằng Luật là gián điệp. Lão Dư thì không biết là gi? Hôm nay bọn Mần Dếnh là “Quốc dân đảng” Trước đây còn hai vị nghe đâu là uỷ viên Uỷ Ban kháng chiến hành chính Đặc khu, bị gọi sang Công an thẩm vấn, tối không được vè, phải ngủ ở văn phòng Ty. Tuy họ chưa bị bắt, nhưng tối hôm ấy bọn chúng tôi phải bí mật canh gác suốt đêm. Hôm sau, chẳng biết họ được tha, hay đã bị giải đến trại giam rồi? Nghe dư luận xì xào ở Quảng Yên, và cả ở Hải Phòng nữa, số người bị bắt còn nhiều hơn Đặc khu.
Thậm chí cả ông Ngô Cường, Trưởng ban chính trị Ty Công an Quảng Yên cũng bị bắt. Vừa gián điệp vừa Quốc dân đảng. Không hiểu sao tự nhiên cùng một lúc bọn phản động lại vỡ tổ ra nhiều thế?...
Đi qua nhà anh Lưu Đức, người cùng học chỉnh huấn vói tôi trước đây, thấy hai gian nhà đóng cửa, mảnh sân con ẩm ướt, rêu có mọc xanh rì, tôi mới giật mình nhớ ra, đã lâu không thấy anh vào cơ quan làm việc. Anh đi công tác đâu xa. Hay đi học cùng anh Toàn. Hay…anh đã bị bắt rồi? Cũng có thể lắm chứ. Tromng lúc tình hình nghiêm trọng này, nào ai dám nói chắc được điều gì sẽ không xẩy ra. Nhất là anh Đức xuất thân từ một gia đình quan lại, phong kiến. Cái thành phần áp bức bóc lột ấy, trong chỉnh huấn đã bị lên án, bị phê phán rất gay gắt. Tuy cũng có thời gian anh là cán bộ lãnh đạo, nhưng Ngô Cường chẳng là cán bộ lãnh đạo đó sao?. Nếu đúng như vậy. thì chị Đức và hai cháu nhỏ đâu, mà nhà đóng cửa? Ôi thật là lắm chuyện bí hiểm, rắc rối, khó hiểu!...
Rồi một hôm, anh Đại không gọi tôi lên văn phòng Trưởng Ty, mà thân chinh xuống Phòng hành chính gặp tôi (Tất nhiên cũng có anh Pháo cắp tiểu liên đi cùng). Anh Đại hỏi:
-       Này! Có phải cậu có người anh mở hiệu ảnh ở Thái Nguyên không?
-       Vâng ạ!
-       Từ ngày cậu đi thoát ly, chưa được vè thăm nhà lần nào phải không?
Nghe đến đây bỗng mắt tôi sáng lên, nhìn anh cảm kích, như biết rằng mình sắp sửa được anh cho vàng. Và cặp mắt to, sâu thăm thẳm của anh cũng nhìn tôi một cách nhân từ, cặp môi hơi mỏng hé mở một chút như cười. Anh nói tiếp:
Trong khi chờ đợi lớp học ở trên Bộ gọi. Ty cho cậu về thăm nhà mười lăm ngày. Cậu chuẩn bị đi!
Ôi ! Tôi chỉ muốn nhẩy lên mà reo mừng vì vui sướng, quên cả nói lời cảm ơn anh. Anh là một cán bộ lãnh đạo thật giầu lòng nhân ái. Trong hoàn cảnh nước sôi, lửa bỏng thế này mà vẫn để tâm, thấu hiểu đến tình cảm, nguyện vọng của nhân viên. Quả tình anh em tôi, từ sau cái đêm tối tăm mưa gió, tháng giêng năm bốn bẩy chạy Tây ấy, đến nay, chưa được trông thấy mặt nhau lần nào, ngoài mấy lá thư ngắn ngủi.
 
 
Lần đầu tiên tôi nhận được tin nhà là mùa đông năm ngoái. Ngày ấy Quận Công an Hoành Bồ cho mấy đứa chúng tôi đã hoạt động lâu ngày ở trong vùng địch, được về Ty học và nghỉ ngơi ít ngày cho bớt căng thẳng. Chiều tối, chúng tôi ngồi quây quần bên bếp lửa. Chú liên lạc đi lấy công văn về, đưa cho Trưởng  phòng hành chính đọc. Đang đọc, bỗng anh phì cười, nói: “Đây Hoàng Hữu Chỉnh vẫn còn sống đây!”. Rồi anh đưa cho tôi một bức thư. Ô…Là thư của thằng em con chú tôi ở bộ đội, gửi cho Ty Công an Đặc khu. Nội dung thư chỉ hỏi xem có phải tôi đang công tác ở Đặc khu không? Và tôi cón sống hay đã chết? Cuối thư có ghi địa chỉ của anh Ba tôi: “Hiệu ảnh Sông Đằng, thôn Đức Lân, xã Tân Đức, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên”. Ngay tối hôm ấy tôi viết thư cho anh Ba. Và từ ngày ấy đã vài lần tôi nhận được thư anh.
Tôi khoác ba lô hăm hở lên đường. Lần đầu tiên được nghỉ phép, tôi đi nhanh như bay, chưa tối đã đến Bến Tắm. Cũng vẫn tuyến đường năm xưa tôi và anh Thiện đã đi. Nhưng bây giờ Cẩm Lý đã được giải phóng, đường có đôi chỗ đổi khác, và dẽ dàng hơn xưa nhiều. Qua Bố Hạ lên Nhã Nam, rẽ theo bờ sông Máng, sang đất Phú Bình. Đi mỗi quãng tôi lại hỏi thăm, rồi đến xã Đức Lân. Thấy ngôi nhà gianh vách đất, hai gian, và một cái bếp nhỏ bé, xinh xắn, đứng trơ vơ bên bờ sông Máng. Nhà bám vào mặt đê, không có vườn, và cũng chẳng có cây cối gì. Trước cửa treo tấm biển gỗ: “NHÀ ÁNH SÔNG ĐẰNG”. Đây rồi! Tôi chạy bổ vào trong nhà gọi toáng lên: “Anh ơi! Anh Phiêu ơi! Em về đây! Anh tôi chui ở trong buồng tối ra, nhoẻn miệng cười, hai mép đầy nếp nhăn. Trời ơi! Anh gầy quá! Trông y như ngày nào vừa thoát chết sau trận đói năm 1945 ấy.
-       Chú được về phép à? Mừng quá! Anh em bao nhiêu năm mới được gặp nhau. Đạc đi học. Trường nó ở Phương Độ, chiều mới về.
Mấy lần gửi thư cho tôi, anh không cho biết, bây giờ anh mới kể lại. Ngày còn ở bộ đội, anh đi chiến dịch, bị bom vùi suýt chết. Được anh em đào bới lên, đưa đi cấp cứu. Nhưng sau trận thập tử nhất sinh ấy, anh bị mắc bệnh lao. Quân y đã điều trị, nhưng không khỏi, cho nên anh mới gầy như vậy. Thương anh quá, tôi chẳng nói được nên lời, chỉ im lặng gật đầu.
Sau một lúc hàn huyên, anh đưa tôi đi xem nhà. Hai gian có vách ngăn đôi. Gian trong là giường ngủ và bàn làm việc. Cả hai thứ đều là sản phẩm tự tạo, theo kiểu kháng chiến. Tức là đóng cọc xuống đất, gác cây, giải phên nứa mà thành, chứ không phải gỗ xẻ, do thợ mộc đóng. Gian ngoài cũng ngăn đôi. Nửa ngoài mở cửa ra đường đón khách. Nửa trong là buồng tối làm ảnh. Trên tường treo mấy khung ảnh mẫu, phần lớn là ảnh bộ đội, quân phục mầu lá cây, đội mũ nan có lưới nguỵ trang. Và ảnh các cô thôn nữ, mặc áo cánh nâu, nở những nụ cười vừa tươi vui vừa đôn hậu. Trong bếp, ngoài chố nấu, còn kê cái phản mọt. Anh bảo:
-       Cái phản này mượn tạm của gia đình quen trong xóm. Tôi bị bệnh lây, phải ngủ riêng. Chú ngủ ở đây với Đạc. Lúc nào học, nó ngồi xuống đất. Thế là giường lại hoá thành bàn. Anh cười.
Chiều tan học, Đạc về. Đứa em bé bỏng, thằng bạn của tuổi thơ, mà những năm xa cách tôi đã dành nhiều thương nhớ, giờ đã cao vổng lên, lại ra vẻ người lớn, thấy tôi nó chỉ cười cười: “Anh về chơi à?”
Cơm nước xong. Trời chưa tối. Anh Ba đưa tôi đi chào các gia đình quen biết. Hai anh em đang đi, thì gặp một người đạp xe đến. Anh tôi chào:
-       Bác Dũng đi làm về đáy à? May quá, đang định sáng mai hai anh em tôi lên Uỷ Ban. Bác Dũng dừng xe hỏi:
-       Có việc gì thế, bác Phiêu? Trỏ  vào tôi, anh vui vẻ giới thiệu:
-       Đây là chú em tôi, công tác ở Ty Công an Đặc khu Hồng Gai, được về phép…Trước khi lên Bộ học. Định nhờ bác đóng cho em nó cái dấu giẫy đi đường.
-       Chú em đây hử? Bác Dũng chìa tay ra bắt tay tôi. Anh em giống nhau quá nhỉ. Đưa giấy đây, chiều mai về tôi đưa cho khỏi phải đi.
Tôi đưa giấy. Bác Dũng đi rồi. Anh Ba kể: Bác ấy là thư ký Uỷ Ban xã. Ngày mới xuất ngũ, anh đi chụp ảnh rong, thấy đây trù phú, có thể sinh sống được, anh đến Uỷ Ban trình giấy tò, và nhờ Uỷ Ban giúp đỡ, giới thiệu cho một chỗ trú chân. Bác Dũng đã thay mặt Uỷ Ban, đứng ra làm việc đó. Rồi sau một thời gian làm ăn, dành dum được ít tiền mua vật liệu, bác Dũng lại vận động bà con trong xã đến làm nhà cho “bệnh binh”. Và từ đấy hai người rất thân nhau. Tuy là bạn bè, và cả hai người đều còn trẻ, nhưng ở đây có cái lệ, hễ ai có vợ, có chồng, thì đều được lên cấp “bác”. Cũng như thời xưa, người làm quan, dù còn trẻ, người ta cũng gọi là “cụ lớn” vậy. Anh tôi lúc ấy, tuy chưa có vợ, nhưng bác Dũng cũng gọi là “bác”, vói ý nghĩa như tôn vinh, quý mến.
Đến nhà nào anh Ba cũng giới thiệu tôi như vừa nói với bác Dũng. Đáng lẽ chỉ cần nói tôi ở đâu về phép, thế là đủ rồi. Anh lại thêm cả chuyện sắp đi học, làm tôi ngượng quá. Nhưng nghĩ đi, nghĩ lại, tôi cũng phải thông cảm cho anh. Tuy có vẻ khoe khoang, nhưng dẫu sao thì đó cũng là sự thật. Có lẽ vì anh đang  khoẻ mạnh, đang chiến đấu lại thành ra bệnh binh phải xuất ngũ, sự nghiệp dở dang, nên anh hy vọng nhiều ở đứa em mình, mà sinh ra thế chăng?
Tôi về phép mới được khoảng năm hay sáu ngày, thì một hôm đang ngối đọc báo, thấy người bước vào cửa. Nhận ra người quen, tôi reo lên: A…cậu Hanh! Cậu đi công tác à? Ngồi chơi, nhà anh mình đây.
Ừ, mình đi công tác. Cậu khoẻ chứ. Ông anh đâu?
Lúc ấy anh tôi có khách mời đi chụp ảnh. Tôi pha trà tiếp Hanh, và hỏi thăm tình hình cơ quan. Hanh cùng lứa tuổi tôi, thoát ly sau tôi mấy năm. Ngày Hanh mới vào cơ quan, anh Toàn thấy chữ cậu ấy đẹp, lấy làm thư ký riêng. Bây giờ Hanh là thư ký riêng của anh Đại, Trưởng Ty mới. Hanh hỏi thăm về đời sống của anh em tôi, rồi mở túi dết lấy ra một mảnh giấy đánh máy, ngập ngừng định đưa cho tôi, nhưng lại để xuống giường, bảo:
-       Cậu có quyết định mớ đây! Tôi vội vàng cầm đọc:
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quyết định
Thi hành chỉ thị số…ngày…tháng…năm…của Bộ Công an, và Quyết Định của Đặc khu uỷ, về việc tinh giảm biên chế. Nay Ty Công an Đặc khu Hồng Gai quyết định:
Điều 1: Thải hồi ông Hoàng Hữu Chỉnh, nguyên là nhân viên, vì hêt tác dụng Công an..
Điều II: Ông Chánh văn phòng Ty Công an Đặc khu Hồng Gai, và ông Hoàng Hữu Chỉnh, chiểu theo quyết định thi hành.
Đặc khu Hồng Gai, ngày… tháng…năm…
Trưởng Ty Lê Đại (ký tên và đóng dấu).
Như bị sét đánh, tôi hoang mang, bàng hoàng, run rẩy, rời rụng cả chân tay, buông rơi mảnh giấy xuống giường, và kêu lên đau đớn:
-       Ơ…Thế này là thế nảo? Làm sao lại thế này hả anh Hanh? Anh nói đi! Tôi có làm điều gì hại dân, hại nước đâu? Sao lại lừa dối tôi, coi tôi như một kẻ tội phạm, để tôi đi khỏi cơ quan rồi phóng theo một mũi dao găm từ phía sau lưng, làm tôi nhục nhã thế này. Anh nói đi! Ngành Công an không cần tôi nữa, kháng chiến không cần tôi nữa, hay các ông lãnh đạo nghi ngờ tôi, thành kiến vì thành phần tiểu tư sản, con cường hào của tôi, mà đẩy tôi ra ngoài? Vâng, tôi biết các ông ấy là “công nông, là cách mạng, là trong sạch”. Và chỉ các ông ấy mới biết yêu nước, mới tuyệt đối trung thành. Thế sao các ông ấy không cầm súng bắn thằng Huấn, bắt thằng Mần Dếnh, mà lại giao cho một phần tử xấu xa không đáng tin cậy như tôi? Anh nói đi!
Dường như không thể lặng yên chịu đựng được nữa, Hanh lúng túng , nói:
-       Minh…mình…tôi…tôi cũng như anh thôi. Tôi có biết gì đâu mà nói. Đây là quyết định của lãnh đạo. Tôi chỉ có nhiệm vụ đem đến cho anh thôi, cả mười lăm cân gạo trợ cấp đây nữa, anh nhận đi!
Hanh đẩy bao gạo về phia tôi. Người tôi sôi lên, tưởng như chính cái bao gạo này đã làm cho tôi đau đớn và nhúc nhã. Tôi quát lên:
-       Không! Không! Anh đem về đi! Đem về trả các ông ấy. Tôi bỏ nhà đi kháng chiến, sẵn sàng hy sinh xương máu, có phải để lấy mấy cân gạo này đâu.
Hanh đứng dậy, giọng lại bình tĩnh, nhẹ nhàng:
-       Thôi cậu dừng bắt tội mình nữa. Cậu chẳng lạ gì, đường xa dặm thẳm vất vả lám. Mình về đây!
Hanh đi, tôi liền cầm bao gạo ném theo ra ngoài cửa, coi như tất cả sự điếm nhục này là tại nó, rồi đổ vật xuống giường khóc nức nở. Lần đầu tiên tôi nhận thấy nỗi đắng cay, uất hận của một kiếp người. Chẳng biết bao lâu sau, thì thấy tiếng anh tôi sửng sốt:
-       Chú Chỉnh! Chú Chỉnh! Chú làm sao thê? Không dám nhìn anh, tôi chìa mảnh giấy ra, nói:
-       Em bị đuổi rồi. Ty Công an cho người cầm giấy lên đây! Anh đọc, rồi rít lên qua hàm răng giận dữ:
-       Sao chú bảo sắp được đi học?  Tưởng chú đi kháng chiến tiến bộ thế nào, chứ hoá ra chú chỉ là thằng nói phét. Mà chú học được ở đâu cái thói gian dôi ấy? Chú đánh lừa cả tôi là anh chú à?
Trời cao đất dầy ơi! Oan ức cho tôi quá! Xưa nay tôi có lừa dối ai bao giờ đâu? Việc đi học là lệnh của Trưởng ty, đi phép có giấy đi đường, tôi có bịa được đâu? Chẳng hiểu vì sao bây giờ lại ra nông nỗi này? Để tôi thành ra kẻ lừa dôi, thành nguyên nhân gây ra nối khổ nhục cho chính anh mình.
Nhưng mực đen, dấu đỏ, sờ sờ ra đây. Tôi bị thải hồi, bị đuổi ra ngoài cơ quan là rõ ràng rồi, còn nói năng gì nữa. Tôi biết anh đang giận, đang xót xa vì thất vọng và xấu hổ. Nhưng với cái thân, cái kiếp người nhỏ bé này, tôi đang phải chịu nỗi đau của tôi cũng quá sức rồi, làm sao còn chịu thêm được nối đau của anh nữa. Tôi đành im lặng lắc đầu, và nghiến răng lại để khỏi bật lên tiếng khóc.  Nhưng nước mắt vẫn trào ra, dòng dòng, xối xả. Anh ném vào tôi một cái nhìn, tuy đã có phần bớt giận, nhưng vẫn đầy vẻ buồn rầu và chán nản. Rồi anh ôm ngực đi vào trong giường nằm. Tôi nghe thấy tiếng anh ho khan nặng nề, dồn dập, và kéo dài như xé phổi. Khi dứt được cơn ho, lại tiếp đến cơn sốt hâm hấp về chiều như thường lệ. Thật khổ thân anh, bệnh tật thế mà vẫn phải làm để nuôi thân, nuôi đứa em ăn học. Giờ lại thêm cái thằng “lừa đảo”, khoẻ mạnh, ở đâu lù lù dẫn xác về ăn bám. Mà lại dám ba hoa, khoác lác, nào đi học, nào đi phép, để anh mắc lừa. Anh cả tin. Anh phấn khởi quá, nên đã trót lỡ lời phô phang với bạn bè, xóm láng. Rồi ra anh biết ăn nói với mọi người sao đây?...
Từ hôm ấy, vì xấu hổ với mọi người, anh tôi không muốn đi đâu chơi. Cất cơn sốt, lại ngồi cặm cụi làm. Còn tôi suốt ngày ru rú ở xó bếp, hết nằm, lại đứng, lại ngồi. Tôi vẫn không thể hiểu được, vì sao mình lại lâm vào tình cảnh quái lạ này. Nếu quả thật ngành Công an không cần tôi nữa, thì sao các ông ấy không nôí thẳng với tôi một câu, mà lại dùng cái mẹo: “Đưa trâu qua rào” này để làm nhục tôi?...
Nhục thật! Nhưng không có gan tự tử, thì vẫn phải sống. Mà muốn sống thì phải làm. Mấy hôm sau nguôi giận, anh  bảo tôi làm những việc vặt như lau kính làm bóng ảnh, phơi, xén, vào bao. Hay có lúc vào buồng tối làm ảnh, anh cho tôi được vào xem. Chỉ xem thôi, chứ chưa được làm thử. Nhưng dù sao thì đó cũng là một chút việc làm, để tôi đỡ mặc cảm về sự cô đơn, hắt hủi.
Rồi một buổi chiều bác Dũng đi làm về, chẳng biết có việc gì quan trọng, không tiện nói ở trong nhà, bác gọi anh tôi ra bở đê nói chuyện. Lúc về mặt anh xám ngoét, anh gọi tôi vào bếp, hỏi:
- Ở dưới Hồng Gai chú đi theo bọn Quốc dân đàng à? Ôi thôi chết rồi! Tôi đờ người ra và chợt hiểu nguyên nhân vì sao mình bị thải hồi. Tôi sợ hãi thấy mình đang bị nghi là kẻ đã phạm một tội tày đình. Rõ khổ! Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ, nào tôi có biết bọn Quốc dân đảng mồm ngang mũi dọc ra sao đâu? Lần đầu tiên tôi nghe thấy cái tên ấy là do anh Ngọc, Quận trưởng Hồng Gai kể về vụ “Ôn Như Hầu”.(Trụ sở của Quốc dân đảng). Lần thư hai là anh Quân, quyền Trưởng ty đưa sách cho tôi đọc. Trong đó có cuốn sách phê phán “: Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại của Nguyễn Thái Học”. Thế mà bây giờ họ lại nghi oan cho tôi! Ức quá, tôi nói:
-       Không! Em không làm gì sai phạm cả. Em đi bắt Quốc dân đảng thì có, chứ theo Quốc dân đảng thì không! Anh tôi trợn mắt quát:
-       Mày nói láo! Mày còn già mồm! Sao có công văn của Ty Công an Thái Nguyên, Công an huyện Phú Bình sao lục gửi về xã, bác Dũng vừa cho tao xem đây? Người ta đang theo dõi mày, nghi mày là Quốc dân đảng. Người ta mù à? Không có lửa làm sao có khói?...
Anh là người yêu nước, vào Mặt trận Việt minh từ ngày chưa khởi nghĩa. Tất nhiên anh tin Dảng, tin Nhà nước hơn tin tôi. Còn tôi bây giờ, trong mắt anh đã thành một kẻ phản bội, không thể đội trời chung rồi. Nếu không vì chút tình ruột thịt ràng buộc, thì chắc anh đã tống tôi ra khỏi nhà cho nhẹ gánh, cho khuất mắt. Biết mình có nói gì trong hoàn cảnh này cũng là vô ích. Tôi im lặng, nhẫn nhục và sẵn sàng chờ đợi cái giây phút đứng trước mũi súng nghe tiếng thét: “Giơ tay lên!”, của những người một thời mình đã từng là đồng chí, đồng nghiệp của họ.
Vâng. Chắc chắn rồi sẽ  như vậy. “Xem bói ra ma, quét nhà ra rác”. Khi người ta đã nghi ngờ, cũng như khi đã “quét nhà”, thì sao lại không ra rác? Cho nên tôi mong cái việc sẽ đến ấy, hãy đến ngay đi, để tôi khỏi phải phấp phỏng, lo âu. Biết đi tù là khổ, nhưng sống những ngày chờ đợi người ta đến bắt mình đi tù, có sung sướng gì hơn đâu. Đi tù, tôi còn có dịp nói cho các ộng ấy biết, họ đã trông gà hoá quốc rồi! Vả chăng, đây là đất Thái Nguyên, Quận Công an đặc biệt ở đây. Biết đâu khi bắt tôi, người ta lại chẳng giải tôi đến Quận Công an đặc biệt?  Như vậy là tôi lại được gặp Mỹ, và tình yêu của chúng tôi lại có thêm một điểm tương đồng: Mỹ được về tỉnh học, lại hoá ra phải đi tù. Tôi được đi phép, lại thành ra tên Quốc dân đảng phản động!...
Chiều hôm ấy anh tôi lại lên cơn sốt, bỏ bữa ăn đi nằm. Ông y sỹ quân y bảo bệnh anh đã sang thời kỳ thứ hai, trầm trọng rồi, nếu có đủ thuốc, và được nghỉ ngơi, tẩm bổ thì vẫn còn hy vọng. Nhưng tiền đâu mà mua thuốc và tẩm bổ, ai làm cho mà nghỉ ngơi?
Tôi và chú út ngồi xuống mâm.  mỗi đứa ăn vội mấy bát cơm rau. Có quả trứng hấp, để phần anh, đêm cất cơn sốt, anh dậy ăn. Rửa bát xong, chú út dở sách vở ra phản ngồi học. Tôi chẳng biết làm gì, lững thững bước lên bờ đê, đi lang thang, vô định. Đêm thu trăng sáng, trời trong. Làng quê yên tĩnh trong những luỹ tre xanh, đen phất phơ trước gió. Ngững cánh đồng lúa mênh mông, phẳng lỳ, xa hút đến tận chân rừng Yên Thế trùng điệp. Con sông Máng với đôi bờ cao song song, đưa nước mải miết chẩy đi, chẳng biết đến những đâu đâu. Nhìn dòng nước lấp lánh ánh bạc, bất chợt trong đầu óc tôi loé lên một ý nghĩ tuyệt vong: “giải thoát”. Nhưng đó chỉ là ý nghĩ vụt đến, vụt đi, nhanh chóng như ánh sao băng, như tia chớp giật, chứ không phải là một ý định rõ ràng. Lúc bầy giờ tôi chưa được đọc Khuất Nguyên, chưa biết con sông Mịch La ở đâu. Còn con sông này là sông đào, vừa nông, lại vừa hẹp. Nếu tôi nhảy xuống, dù có ôm đá như Khuất Nguyên, thì chắc cũng không thể chết chìm được.
Nhưng không! Tôi phải sống! Dù có khổ sở, tuyệt vọng đến đâu cũng phải sống. Sông để chờ người ta đến bắt, dù có bị tra khảo đánh đập, cũng còn có dịp giãi bày. Nều vì một lý do nào đó người ta lại bỏ quên tôi ở đây, như đã từng quên phạm nhân ở trong trại giam. Hay như bỏ lửng Mỹ ở Quận đặc biệt. Thì tôi sẽ tự tìm lấy cơ hội. Nỗi oan ức này, nhất định phải có ngày được sáng tỏ, dù lúc ấy tôi đã già, đã quá muộn.
Tôi ngồi xuống bãi cỏ. Trăng đã lên cao. Gió núi se se lạnh. Đây là vùng Trung du, dân thưa, đất rộng, Người ta sử dụng đất như nhà triệu phú tiêu tiền. Dưới chân đê bỏ một dải đất hoang dài vô tận, rộng phải đến hai, ba mươi mét, cây hoang, cỏ dại mọc xanh rì, rồi mới đến ruộng lúa. Phải rồi…Tôi nghĩ ra rồi! Đất đây, tôi có thể thả sức khai hoang, trồng lấy rau ăn, vừa đỡ cho anh một phần chi phí, vừa có việc làm cho khuây khoả. Sợ để sáng mai chú út đi học sớm, tôi về bảo em:
-       Chú vào xóm mượn cho tôi cái cuốc.
-       Anh cần cuốc làm gì?
-       Vỡ đất trồng rau.
-       Ừ, hay đấy để em đi.
Sáng hôm sau. Tôi hăm hở vác cuốc, cầm dao ra chân đê phát cây. Cây to có thể làm củi, để riêng bó đem về, cành, lá, và cây nhỏ, phơi để đốt lấy gio, rồi giẫy cỏ, đào gốc, vừa giẫy, vừa cuốc. Có lẽ từ khi đào xong con sông này đến nay, chưa có ai động cuốc đến đây, nên đất rất rắn, mịn như gan gà, rễ cây chằng chịt, bổ cuốc xuống đánh bịch, lại nẩy lên. Tôi làm mướt mồ hôi, cả buổi sáng mà chỉ được bốn năm mét vuông đất. Trưa về nấu cơm. Chiều lại ra làm. Nhưng chỉ được một lúc, sau lòng bàn tay dộp lên, da vỡ, máu chẩy, đau, không nắm được chuôi dao và cán cuốc nữa. Vừa mệt, vừa chán nản, lại thêm nắng gắt, tôi bỏ cuốc nằm xuống bãi cỏ, úp cái nón lên mặt che nắng, đầu óc quay cuồng với bao ý nghĩ vẩn vơ, rồi thấy tủi thân, thương mình bị vùi dập oan trái. Chiều hôm quạnh vắng, chỉ có riêng mình với nỗi khổ của mình, chẳng biết than thở cùng ai, rồi nước mắt tự ứa ra. Tôi khóc…Ơ kìa! Sự yếu đuối và chán nản này, có phải là tư tưởng tiểu tư sản mà người ta vẫn phê phán đấy không? Không! Nhất định tôi không bỏ cuộc. Tôi phải thực hiện bằng được ý định nhỏ bé này của mình. Mà đây cũng không phải là lần đầu tiên tôi bị dộp tay. Lần đầu là ngày ở Hà Nội về quê, tôi đi đập đất trồng khoai, tay bị phồng lên đau rát. Phải mất gần một tuần, những chỗ đau ấy mới khỏi và thành chai. Từ đấy chai lì, vô cảm, cầm vồ, cầm cuốc tha hồ, chẳng hề gì. Nhưng từ ngày đi kháng chiến, những chỗ chai cứng ấy dần dần lại mền ra, hết dấu vết. Và bây giờ lại lặp lại như buổi đầu tiên mới lao động chân tay.
Tôi về nhà lấy khăn mặt, quấn hai bàn tay, lại tiếp tục cuốc. Nhưng cũng chỉ được mấy nhát thôi, tay vẫn đau, không nắm chặt cán cuốc được. Tôi đi nhặt những cành cây vương vãi. Bỗng thấy mấy người đi trên bờ đê. Người đầu trần, người nón rách, Người đeo túi, tay cầm gậy, quần áo lôi thôi, nhếch nhác. Trông xa như một lũ ăn mày. Nhưng không…Ô kìa!... Anh Ngọc Bé, anh Phong, lại cả chú Thực, con ông già Dư nữa. Họ đi đâu, mà sao lại đang tiến về phía hiệu ảnh? Không muốn để họ vào nhà, làm anh tôi thêm phiền lòng, tôi chạy lên đê gọi:
-       Các anh ơi! Đi đâu đấy? Cả bọn reo lên:
-       A thằng Chỉnh đây rồi! Chúng tao đi tìm mày đây, nhà đâu?
Người vừa nói là anh Phong. Anh lớn tuổi hơn bọn tôi. Và là người năm nào đã cùng chủng tôi đi tước súng của chủ mỏ Xương Bình ở Cái Đá. Do đó, sau này tên anh cũng được ghi vào cuốn: “Lịch sử ngành Công an Quảng Ninh”. Trông hành lý tồng tềnh, và cử chỉ mệt mỏi, bơ phò của họ, tôi đã đoán ra phần nào hoàn cảnh hiện thời của họ rồi. Tôi bảo họ ngồi xuống vệ cỏ nói chuyện, Tôi hỏi:
-       Tình hình ở dưới ấy bây giờ ra sao rồi? Và các anh tìm tôi có việc gì? Anh Phong đưa mắt cho anh Ngọc, vì anh Ngọc thân tôi hơn cả, nên để anh ấy noi:
-       Giảm biên chế. Bọn mình bị các ông ấy xua ra cả lũ như xua gà rồi! Nhà cửa, quê hương bọn mình ở đâu cậu biết cả rồi. Vùng địch thì về làm sao được, trừ trường hợp về đầu hàng. Chẳng còn biết bấu víu vào đâu. Thật sống dở chết dở. Định đi buôn, nhưng không có vốn. Thấy bảo cậu có ông anh mở hiệu ảnh, bọn mình rủ nhau lên đây. Cậu xem có giúp được anh em tí nào không?
Ôi trời đất! Ốc đã chẳng mang nổi mình ốc, thì làm sao mang gộc cho rêu! Tôi chìa hai bàn tay rớm máu cho các anh ấy xem, và nói rõ hoàn cảnh của mình cho họ hiểu. Chúng tôi cùng buồn bã nhìn nhau. Chẳng biết làm gì để giúp đỡ và an ủi nhau, ngoài những tiếng thở dài chán nản.
Tôi định hỏi thăm tinh hình ông già Dư, nhưng thấy vẻ mặt bơ phờ, ngơ ngác của chú Thực, tôi lại thôi. Nó đang mơn mởn như cái mầm cây, vừa nứt vỏ, nhú lên mặt đất, đã bị bão táp dập vùi! Chẳng biết rồi sẽ trôi dạt ra sao?...
Theo lời anh Ngọc thì: Họ đã bán hết tư trang, quần áo.(Mà tư trang của anh cán bộ kháng chiến thi có gì nhiều nhặn đâu. Trong ba lô chỉ có vài bộ quần áo, chiếc áo bông chần quả chám, hay cái áo len, hoặc sợi dệt để mặc mùa đông. Dép một đôi. Mũ một chiếc. Anh nào khá thì có thêm cây bút máy hay chiếc đồng hồ, là hết). Họ đã bán hết những gì có thể bán được, lấy tiền góp vốn, rồi vào các làng, bản người thiểu số mua lâm sản: Củ nâu, củ mài, dây mây, dây chão, tắc kè, ba kích, mật ong đem ra chợ bán.
Nhưng đó mới là “chủ chương”, còn đang huy động vốn, chứ chưa thực hiện được. Chẳng biết rồi ra có nên cơm, nên cháo gì không?
Còn tôi, tuy không ít khó khăn, nhưng vì chút tình anh em cùng vào sinh ra tử có nhau, bây giờ gặp hoạn nạn, bỏ nhau cũng không đành lòng. Tôi bảo họ ngồi chờ, rồi chay về nhà. Tài sản của một thằng “Tiểu tư sản” như tôi, ngoài hai bộ quần áo vải phin đen, chỉ còn chiếc đồng hồ “Pỉerce” và cây bút máy “Warever” là có thể bán được. Tôi giữ chiếc đồng hồ lại cho mình, còn chiếc bút máy tôi đứa cho anh Ngọc, rồi nói:
-       Đáng lẻ tôi phải mời các anh ở lại đây ăn, ngủ qua đêm, vì trời sắp tôí rồi  nhưng anh tôi bị bệnh, chiều nào cũng lên cơn sốt, lại đang phải lo lắng về tôi, nên không dám làm phiền lòng anh thêm. Xin các ánh thông cảm cho tôi.
Chúng tôi chia tay nhau. Thái độ ai cũng buồn bã, ngậm ngùi. Họ đi, tôi đứng nhìn theo. Chẳng biết  từ sáng đến giờ, họ có được ăn uồng gì không?  Chiều tà. Phía Tây, mặt trời đang xuống núi, đỏ ối một vùng.  Núi rừng Yên Thế bạt ngàn, sương giăng mờ mịt. Chẳng biết đêm ấy họ ăn ngủ ở đâu? Hay phải nhịn đói, nằm dưới gốc cây chờ trời sáng!…
Khoảng bốn năm hôm sau tay tôi mới khỏi. Việc vỡ đất lại tiếp tục. Hai lòng bàn tay dần dần đã thành chai. Đất vỡ cũng mỗi ngày thêm dài, thêm rộng. Thời gian thấm thoắt chẳng bao lâu, hiệu ảnh Sông Đằng đã có một vườn rau xanh tốt. Anh tôi cũng tỏ vẻ vui lòng, khen vườn rau đẹp.
Rồi một hôm ổ buồng tối ra, anh bảo tôi:
-       Còn cái phim tôi để lại, chú vào in thử, tráng xong đem ra cho tôi xem. Tôi mừng quá, vào in ba tấm ảnh cỡ 3x4, đem ra. Anh xem, rồi bảo:
-       Một tấm được, một tấm hơi già, lấy tạm, tấm kia, non, bỏ.
Tính anh rất cẩn thận, ngẫm nghĩ một lát, anh xé luôn cả hai tấm non và già, bảo tôi vào in lại. Lần này tôi đem ra, anh xem. bảo “được”. Đấy là in, còn phóng mới khó. Vì vùng “Tự do” không có điện, máy phóng (nếu có) cũng không dùng được. Phải dùng máy chụp cỡ  9 x 12, lắp phim, dựng máy áp vào cửa lùa buồng tối, rồi mở cửa lùa cho ánh sáng trời rọi qua phim, hắt hình ở trong phim lên tường, như kiểu màn ảnh chiếu phim, rồi đặt giấy vào chỗ có hình phóng. Tôi đã được xem, và đã thuộc lòng các thao tác của anh, nên khi anh cho phóng thử, tấm ảnh đầu tiên cỡ 9 x 12, anh bảo “được”. Và từ đấy anh giao việc buồng tối cho tôi.. Nhưng nói thì nhanh, làm thì chậm, trong thực tế, tôi còn làm hỏng khá nhiều, rồi mãi sau mới quen tay, mới thành thạo.
Một dạo chắc có đơn vị bộ đội đến trú quân ở quanh vùng Đức Lân, nên hiệu ảnh tự nhiên đông khách. Anh em tôi mải mê làm ngày, làm đêm. Khi bộ đội chuyển đi, anh tôi để dành được một ít tiền để chữa bệnh. Hôm đi Úc Sơn mua thuốc tiêm, anh đem máy ra hướng dẫn tôi chụp. Tôi lo lắm, vừa mong có khách để mình được chụp, vừa sợ chụp hỏng, bị anh mắng. Quả nhiên, anh tôi vừa đi, thì có một anh bộ đội đến chụp  hai kiểu, một kiểu cả người, một kiểu bán thân. Cầm máy, tim tôi đập thình thịch, tay run rẩy, lóng ngóng, lo từ lúc chụp cho đến tối tráng phim. May sao khi tráng xong, soi phim lên đèn, lại thấy anh tôi cười. Có lẽ đã lâu lắm, tôi mới thấy anh cười vui như vậy!
Khoảng giữa mùa đông năm ấy (1953), lại một việc nữa bất ngờ xẩy ra với tôi., Vâng, bất ngờ, vì việc ấy không bao giờ tôi có thể nghĩ ra được, chứ nói gì đến dám ước mong. Quãng đời tôi đã sống cho đến lúc ấy, tuy còn ngắn ngủi, mà đã có quá nhiều sự bất ngờ rồi. Có việc tưởng như bịa đặt, thế mà lại là sự thật. Đó là việc ông Lê Đại, Trưởng ty Công an Đặc khu Hồng Gai đến nhà tôi. người trước đây đã ký quyết định “thải hồi” tôi, vì “hết tác dụng công an”, và chắc chắn cũng là người đã ký công văn “Tối mật”, gửi Ty Công an tỉnh Thái Nguyên, đề nghị theo dõi tôi, một tên Quốc dân đảng nghi vấn. Nếu y dinh tê (chạy vào vùng địch), thì phải kịp thời bắt giữ ngay.
Hôm ấy rét lắm, bầu trời thấp, đầy mây xám ngắt. Và cũng vào buổi chiều. Vì cung đường từ Bố Hạ - Nhã Nam đi lên, đến Đức Lân thì trời đã sang chiều, Vừa ăn cơm xong, tôi đang ngồi chép bài thơ “:Tây Tiến” của Quang Dũng, in trên báo vào sổ tay, thì nghe thấy tiếng hỏi: “Cậu Chỉnh đấy à?”. Tôi  ngẩng lên, thấy ông Đại và một người nữa đang bước vào cửa. Bỗng mắt tôi hoa lên, rồi tối sầm lại, đầu óc choáng váng, mê mụ đi, như người đang ngủ say, bị giật mình thức dậy, nhưng còn lơ mơ chưa tỉnh, chưa phân biệt được giữa thực và hư. Phải đến cả chục giây sau tôi mới định thần được, và mời khách:
-       Mời hai anh ngồi chơi. Chắc hai anh đi công tác? Tôi rót nước mời . Người cùng đi với anh Đại, tôi chưa gặp bao giờ. Cả hai người cùng mặc áo bông, đeo túi, và quàng ngang ngực mỗi người một cuộn chăn, dưới áo phồng lên bao súng ngắn. Tôi biết không phải là họ đến bắt tôi, nhưng không hiểu vị khách mà lúc nào cũng tỏ ra mình là nhân vật quá quan trọng này, đến có việc gì? Đã sáu, bẩy tháng nay, từ ngày “Đi phép”(!) đến bây giờ tôi mới  trông thấy ông Đại. Ông già đi nhiều, râu ria đâm ra tua tủa, má hóp, mắt vốn đã sâu, giờ càng sâu thêm, mặt mũi võ vàng, phờ phạc. Chắc ông vẫn bận rộn quá nhiều công việc, vì bọn gián điệp, Việt gian, và Quốc dân đảng phản động, như ngày tôi còn ở cơ quan?...
Cả ba người cùng im lặng. Một lát ông Đại hỏi:
-       Ông anh đâu? Tôi trỏ sang gian bên, nói:
-       Anh em đang nằm nghỉ, ở trong kia.
Không uống nước, cả hai ông khách cùng đứng dậy Ông Đại bảo tôi ra bờ đê nói chuyện. Tôi định bụng sẽ trút tất cả sụ phẫn uất bấy lâu lên con người đẫ gieo tai, gáng hoạ vào đời mình, cho bõ bèn uất hận. Dù không thể gay gắt như ngày nào đã nòi với anh Hanh, thì cũng phải hỏi cho ra nhẽ: Vì sao? Tôi có tội lỗi gì mà ông ấy lại đối xử với tôi độc ắc như vậy? Nhưng tôi chưa kịp nói thì ông Đại đã trỏ vào người cùng đi, và lên tiếng:
-       Đây là anh Cần, Trưởng ty Công an Quảng Yên. Ở chỗ anh ấy đang cần người. Bọn mình đã trao đổi với nhau. Cậu xem thế nào, nếu có thể được thì thu xếp về dưới ấy tiếp tục công tác. Bây giờ cậu đã có cái nghề, có thể mở hiệu ảnh, làm công tác “Chức nghiệp hoá” (Dựa vào nghề nghiệp công khai, để bí mật hoạt động tình báo) thì rất tốt.
À...ra thế! Tôi thầm reo lên. Thế là rõ ràng rồi. vụ bắt bớ và sa thải hàng loạt cán bộ, nhân viên vừa qua, bây giờ các vị ấy đã biết là mình nhầm rồi, nên tìm tôi về. Nhưng để ở cơ quan cũ không tiện, nên chuyển đổi sang cho nhau. Và rất có thể cả bọn anh Thiệu, anh Luật, ông già Dư, anh Phong, anh Ngọc, những người đã bị bắt, hay bị đưa ra ngoài cơ quan dưới hình thức “Giảm biên chế” trong thời gian ấy, cũng đều như vậy cả.
Biết sai thì phải sửa. Nhưng sửa sai cũng có nhiều cách. Hoặc công khai nói rõ sự thật (Trường hợp này rất hiếm khi xẩy ra). Hoặc lờ sự thật đi không nói, cứ việc sửa. Và bao giờ người ta cũng đổ lỗi cho khách quan. để giảm nhẹ lỗi lầm cho mình. Trong vụ việc này, người ta còn lấy cả chủ chương “Giảm biên chế” để giấu giếm sai lầm, khuyết điểm của mình…Và áp dụng việc sửa sai cũng tuỳ từng đối tượng. Với những người đã bị chĩa súng vào mặt, trói giặt cánh khuỷu, rồi tống vào nhà giam, như bọn anh Thiệu, anh Luật, ông già Dư, thì phải nói thật. Còn với tôi. Chắc ông Đại tưởng tôi chỉ biết mình bị “thải hồi”, vì “hết tác dụng Công an” như đã ghi trong giấy “Quyết định”, cho nên bây giờ ông đóng vai người trung gian tốt bụng, biết Ty Công an tỉnh bạn cần người, ông đứng ra giới thiệu, giúp cả hai bên. Chứ ông có ngờ đâu: Nhờ bác Dũng tốt bụng, giầu lòng thương người, mà anh Ba tôi đã được đọc tờ công văn sao lục của huyện Công an Phú Bình, khiến vai diễn của ông bị bại lộ!
Nhưng thôi, dù cách này, cách khác, dù kín dù hở, dù khéo dù vụng, thì tôi cũng “tai qua nạn khỏi” rồi! Mà rất có thể cả những “tên gián điệp”, những tên “Quốc dân đảng” đã chui sâu vào hàng ngũ ta và bị bắt. Thì giờ đây tội lỗi của họ cũng chỉ là những con “ma trơi”, đã biền mất, trước ánh sáng mặt trời!!
Sau tôi mới biết, vụ án có mật số H 122, mà hai vị Trưởng ty đây là “đồng tác giả”. đã phạm sai lầm nghiêm trọng. Hai Đoàn kiểm tra của Bộ và Sở Công an Liên khu Việt Bắc về địa phương kiểm tra, xem xét đã có kết luận  như vậy. Cho nên mới có chuyến đi lên Việt Bắc của hai vị Trưởng ty, với danh nghĩa là người trực tiếp phụ trách, phải lên báo cáo với cấp trên. Nhân đó, họ ghé qua hiệu ảnh, để giải quyết một phần hậu quả.
Ôi, thật là vui mừng! Bao nhiêu oan ức, lo lắng, sợ hãi bây lâu canh cánh, giờ đã được trút  bỏ. Tôi đã có thể ngẩng mặt lên nhìn mọi người, và nói với bác Dũng, với anh Ba rằng: “Đấy! Em có phải là Quốc dân đảng phản động đâu!”.
Tôi còn đang mừng vui, và ngổn ngang suy nghĩ, chưa biết quyết định ra sao, thì anh Cần nói:
-       Nếu thu xếp được, về dưới ấy, cậu cứ làm dơn xin mở hiệu ảnh, đưa vào thường trực như người dân bình thường (Lúc bầy giờ giấy phép mở hiệu ảnh còn do ngành Công an cấp). Vì công tác của cậu phải tuyệt đồi bí mật, không được để cho ai biết, kể cả anh em trong cơ quan. Rồi mình sẽ gặp cậu sau.
Ôi! Được trở về cơ quan tiếp tục công tác. Tôi sung sướng, vui mừng như đứa trẻ lạc nhà vừa tìm lại được! Bao nhiêu oán hận chồng chất bấy lâu, giờ như có phép nhiệm mầu, bỗng nhiên biến mất. Nhưng lại lo: Mở hiệu ảnh phải có vốn liềng, máy móc, nhà cửa…lấy đâu ra? Tôi phân vân nói:
-       Vâng, để em suy nghĩ thêm, và em còn phải bàn với anh em đã. Anh Đại nói:
-       Cứ bàn bạc, suy nghĩ kỹ đi. Nếu có khó khăn gì thì cậu cứ viết thư cho anh Cần. Thôi bọn mình đi đây.
Tôi đem tin vui về kể lại. Cả nhà ai cũng mừng. Ba anh em bàn tính mãi, nhưng khó khăn lớn nhất vẫn là chiếc máy ảnh, Nó như con trâu của người nông dân, không có máy thì còn làm gì được. Tuy anh Đại đã dặn, nhưng chẳng lẽ mình chưa làm được gì đã viết thư xin, và chắc gì Ty Công an đã có máy ảnh mà cho. Thế là vẫn hoàn toàn bế tắc.
Rồi một hôm anh Ba đưa tiền cho tôi, bảo đi thuê xe đạp xuống Bố Hạ tìm nhà cụ Hai Cảnh. Tôi chưa biết cụ là ai, và có việc gì mà tìm nhà cụ? Anh bảo cụ là bố chị Gấm, vợ anh cả chúng tôi. À ra thế. Tưởng ai, hoá ta cụ Cảnh lại chính là ông Chủ xưởng gỗ ở phố Hàng Bột năm nào. Người mà một buổi sáng đã vuốt mắt cho mười hai cái xác ăn mày chết đói, nằm ở trước cửa nhà mình…
Ông Chủ xưởng gỗ ấy rất giỏi võ, nhất là tài phóng dao găm, trăm nhát đều trúng địch. Ông ham mê võ nghệ từ ngày còn đi học, nên khi thi trượt bằng thành chung, ông bỏ học lên miền núi tìm lò học võ. Rồi từ một võ sinh, nhờ thông thạo nhiều vùng rừng núi,và quen biết nhiều viên chức Kiêm lâm mà ông trở thành người buôn bè giầu có. Ông mở xưởng gỗ ở phố Hàng Bột để bà vợ trông nom.
Còn ông, vẫn thường xuyên có mặt ở trong rừng, mua gỗ đóng bè xuôi Sông Hồng về Hà Nội. Nhưng rồi bà vợ đã bỏ lại cho ông ba người con, đi theo một viên chức người Pháp ở Sở Kiểm lâm. Tù đấy ông bỏ nghề buôn bè, trở về trông nom xưởng gỗ, nuôi con, và thề sẽ không bao giờ lấy người đàn bà nào làm vợ nữa, nếu chưa rửa được mối hận tình.
Khi Trung đoàn Thủ đô rút khỏi Hà Nội, ông Cảnh cũng bỏ nhà, cùng người con trai (Hai cô con gái đã lấy chồng) ra vùng “Tự do” theo kháng chiến. Rồi cha con ông gặp vợ chồng anh cả chúng tôi ở Dốc Điệp. Sau, anh con trai đi bộ đội. Vốn là người có cá tính mạnh mẽ, biết quý trọng tự do của bản thân, cũng như  của người khác, cho nên ông không ở với con gái mà ở một mình.
Anh cả chúng tôi đi bộ đội, để hiệu ảnh cho chị Gấm trông nom. Sau hiệu ảnh bị mất trộm, chị về Hà Nội xin tiếp tế, nhưng rồi không thấy trở ra nữa. Hai căn nhà ở Dốc Điệp chỉ có một mình ông Cảnh trông nom. Một đêm kia, có thằng trộm vào nhà, đang ngủ thấy động, ông rút con dao cài ở vách liếp đầu giường, ngồi dậy quát:
-       Đứng yên! Không, ông phóng mũi dao này thì mất mạng! Mày biết tiếng Hai Cảnh chứ? Thằng trộm hết hồn, vội vàng sụp lạy, xin ông tha mạng. Ông bảo:
-       Nếu mày là thằng nhát gan, sợ chết, không dám đi bộ đội đánh giặc, thì đi kiềm việc gì mà sống, đừng làm cái nghề khốn nạn này, kẻo có ngày mất mạng đấy con ạ. Thôi, đi!
Sau đó, ông Cảnh chuyển về Bố Hạ, ở gần nhà người con gái út, để tối sớm cha con đi lại, trông nom, giúp đỡ nhau. Chồng chị út là công nhân quân giới đóng ở trong vùng.
Rồi năm tháng trôi đi. Số tiền ông Cảnh đem theo cũng cạn dần. Có người khuyên ông hồi cư. Ông bảo về Hà Nội bây giờ là đầu hàng giặc, ông không về. Và dần dần ông Chủ xưởng gỗ giầu có, đã trở thành cụ Hai Cảnh nghèo nàn, phải đi buôn nồi đất để kiếm sống, chứ nhất định không chịu hồi cư.
Anh Ba bảo tôi, thay mặt anh đến thăm cụ, và hỏi xem nếu chị cả để máy ảnh lại, thì xin cụ đem về dùng. Anh còn cho địa chỉ, để nhân chuyến đi, tôi đến thăm thầy giáo Tình, Thầy đã dậy tôi học ngày còn ở quê.
Tôi mới tập đi xe đạp có hai buổi chiều, sau giờ đi làm về, do anh Nhân giữ xe và hướng dẫn, từ năm 1948 ở sân vận động Hồng Gai. Đến bây giờ là vừa đúng năm năm sau, mới lại có dịp được đi xe. Cái xe “tồng tộc” vào loại nhất, nhì của chủng loại xe cho thuê, ở nông thôn, trong vùng kháng chiến. Xe không phanh, không chuông, không chắn bùn, chắn xích, không gác ba ga. Cả bàn đạp cũng không. Chỉ có hai cái chốt ngang, bằng ngón tay, một đâu nhọn hoắt, dùng làm bàn đạp. Đã thế, vành lai cỡ 700, cao lênh khênh, phải đạp lấy đà mấy cái rồi mới leo được lên yên.
Lại còn đường đi nữa mới khiếp chứ! Trên mặt đê Sông Máng, từ những ngày đầu kháng chiến, để chống xe cơ giới của địch, người ta đã đào hào chằng chịt. dích dắc hình chữ chi sâu hun hút. “…Đêm khuya gió bấc trăng lu / Rộn nghe tiếng cuốc biên khu phá đương …” (Tố Hữu). Đất đào hất lên mặt đê, tạo thành những ổ bò, ổ trâu mấp mô, cao thấp. Và cứ mỗi quãng, khoảng vài ba cây số lai có một cái ụ  cao vút, to kín mặt đê. Người đi bộ, phải đi men xuống chân đê, mới vượt sang bên khia ụ được.
Tôi dắt chiếc xe ra mặt đường, chân trái dận lên cái chốt bàn đạp, chân phải đạp mạnh xuông đất hai, ba cái lấy đà, rồi ngồi lên yên. Tay lái loạng choạng, vành xe đảo đi đảo lại như ông Từ lên đồng. Vừa đạp vừa run. Vẫn biết cái anh mới tập đi xe, hễ trông vào đâu là xe đi vào đấy. Nhưng khốn nỗi vì sợ, cho nên mắt cứ nhìn xuống rãnh. Thế là bao nhiêu phen lao đao, xuýt nữa thì rơi. Tôi vừa lái bằng tay, lại vừa lái bằng cả người mình. Thậm chí có lúc còn lái bằng cả mắt và môi nữa!
Nhưng rồi mỗi lúc một khá hơn. Tay chân vững chãi hơn. Đang cót két đạp, bỗng tôi lại nhớ, có lần được nghe kể: Tướng Nguyễn Sơn ngày mới tập đi xe đạp, ông đã xô vào cái mẹt của bà hàng quà, ngồi ở bên đường. Bị bà hàng mắng: “Cái ông này! Đi mới chả đứng, nghênh ngang cứ như ông tướng ấy!”. Ông cười, ngoảnh lại bảo: “Bà nói đúng, tôi là ông tướng đấy!”.
Cũng may, hôm ấy tôi không xô vào ai. Vì đường vắng, có ai ngồi ở trên đê đâu mà xô. Chứ nếu là đường đông người xem, chắc gì chyến đi đã được an toàn. Thế rồi tôi cũng lóc cóc đạp được đên Bố Hạ.
Vừa đi vừa hỏi thăm, mãi rồi mới đến cái phố có độc nhất một từ cộc lốc là “Mẹt”. Phố Mẹt nằm nép mình vào chân rừng, có khoảng vài chục nóc nhà, toàn bằng tre nứa của dân tản cư. Trước mắt là con đường mòn đất đỏ. mấp mô sỏi đá. Người ta trỏ vào một gian nhà trống hoác, bảo: “Nhà Cụ Hai đấy, nhưng ông cụ mất năm ngoái rồi!”. Tôi sững sờ đứng nhìn căn nhà vô chủ trống trơn, điêu tàn như để tưởng niệm một người yêu nước vô danh đã về thế giới bên kia, mà lòng không khỏi ngậm ngùi, thương tiếc cho một kiếp sinh, đã từng một thời vẫy vùng xuôi ngược.
Tôi đi tìm nhà chị Út. Chỉ có chồng chị ở nhà. Tôi tự giới thiệu mình, và nói mấy lời chia buồn cùng gia đình, rồi mới nói đến mục đích của chuyến đi. Anh tiếp tôi một lát, rồi đem ra chiếc va ly của chị dâu tôi để lại. Tôi nhận ra được ngay vật quen thuộc, mặc dù ngày chúng tôi tản cư ở Đông Triều nó con mới. Bây giờ mặt va ly đã chùng, các ổ khoá đều han dỉ. Trong va ly chẳng có máy móc gì, ngoài mấy bộ quần áo cũ, và một đọn tóc giả.
Mục đích chuyền đi hoàn toàn thất bại. Tôi quay về Bố Hạ, tìm nhà thầy giáo Tình. Thấy quán nước có vẻ sạch sẽ trên đường Nhã Nam - Bố Hạ, tôi xuống xe vào quán uống nước, và hỏi thăm đường. Bà chủ quán tóc bạc, da dẻ hồng hào, trông đẹp lão và phúc hậu. Bà bảo: “Nhà cậu Tình ở trong ngõ này. Anh cứ đi thẳng. Nhà có cây nhãn to ở trước sân đấy”. A…Bà gọi thầy giáo là “cậu Tình”, chắc là bà Phi, chị thầy đây. Thật không ngờ. Con người đã một thời nổi tiếng hồng nhan trên tình trường, đã từng là “Bà lớn”. một bậc “Mệnh phụ phu nhân” của quan Chánh sứ đứng đầu một tỉnh, mà bây giờ lại thành ra bà hàng nước ngồi đây! Vì thế sự xoay vần, hay vì cái kiếp hồng nhan mà bạc phận? Tôi lai nhớ hai “Ông Hổ đá”, ngồi chầu ở trước cửa đình làng, mà bọn học trò chúng tôi vẫn trèo cỡi lên lưng.
Khi quân Pháp chiếm Hải Phòng, bà chạy về quê ở với em. Tuy là người làng, nhưng tôi chỉ biết tiếng, chứ chưa được trông thấy người bao giờ. Trước khi tác chiến Thuỷ Nguyên, huyện có lệnh bắt buộc tất cả những người trong quá khứ đã có quan hệ với Pháp, phải tản cư lên vùng tự do. Trong đó có hai chị em bà.
Cây nhãn to đây rồi. Tôi bước vào trong sân. Trông thấy tôi, thầy Tình hơi ngỡ ngàng một chút, rồi nhận ra ngay. Từ ngày tôi nghỉ học thầy đến nay, đã hơn mười năm trôi qua, với biết bao thay đổi, cả hai phía, bây giờ thầy trò mới gặp lại nhau. Tôi đã lớn lên, và thầy cũng bắt đầu bước vào tuổi già. Thầy mừng lắm, vội gọi người nhà nấu nước, rồi thân chinh đi rửa ấm chén. Nhà thầy ở giũa xóm, dân cư đông đúc, trên một quả đồi thấp, thoai thoải. Ba gian nhà gỗ, lợp rạ, vách đất y như một gia đình trung nông ở quê nhà. Thầy hỏi thăm tất cả những người thân quen, và nói chuyện với tôi thân mật, cởi mở như bạn bè lâu ngày mới gặp, chứ không có sự cách biệt giữa thầy với trò. Thầy bảo:
-       Ngày tôi mới lên đây, khó khăn lắm lắm, chẳng biết làm gì để sống. Mình vốn là cái anh lười, lại quay ra cái nghề “gõ đầu trẻ”. Nhưng ở đây dân thưa, mà không có truyền thống hiếu học. Học trò ít quá, không đủ sống, tối tối tôi phải dán lá cao vào má, đi bán kẹo lạc và thuốc lá cuốn. Dán cao để học trò nó không nhận ra được mặt thầy…
Lúc bấy giờ ở vùng tự do chưa có phích chứa nước nòng. Có khách, phải chờ đun mới có nước pha trà. Người xách siêu nước lên là một thiếu phụ trẻ, khã xinh đẹp. Có lẽ thiếu phụ chỉ hơn tôi vài ba tuổi. Tôi lúng túng chưa biết là ai để xưng hô khi chào. Thầy liền giới thiệu:
 - Đây là nhà hai. Còn anh Chỉnh đây là học trò cũ của tôi, và là người làng. Nhà chuẩn bị làm cơm nhá. Bà hai chỉ thoáng nhìn tôi một cái, và hé miệng cười, rồi đi xuống dưới nhà. Thầy giáo kể tiếp:
- Sau, Tôi xin vào làm kế toán cho Uỷ Ban Kháng chiến Hành chính tỉnh. Cuộc sống từ đấy cũng tạm ổn định. Rồi đến chiến dịch “Hoàng Hoa Thám”, Uỷ Ban điều đi phụ trách dân công. Bà ấy là cán bộ phụ nữ xã, cũng đi phụ trách dân công. Đôi bên hằng ngày gặp nhau, họp hành, trao đổi công việc…Cái cảnh ở rừng, ở núi, đêm hôm, mình lại là cái anh đàn ông xa gia đình lâu ngày, chặc lưỡi một cái, nào ngờ lại có chửa. Thế là thành ra hai nhà!
- Thưa thầy, con trôm nghĩ: Ngày xưa khi các cụ nhà ta đặt tên cho thầy là “Tình”, chắc các cụ đã biết trước là thầy có số “đào hoa” rồi đấy ạ !
Cả hai thầy trò cùng cười.
Cơm nước xong, tôi từ biệt thầy, cô về Đức Lân. Tuy mục đích chuyến đi đã thất bại, song cũng không phải là thất bại hoàn toàn. Rồi từ đấy thầy trò tôi không còn dịp nào gặp nhau nữa. Sau đó khoảng chín, mười năm, tôi nhận được tin thầy qua đời.
 
***
 
Chúng tôi có người cháu họ bên quê mẹ, tên là Hồng. Hắn gọi chúng tôi là bác. Hồng vốn con nhà dòng dõi khá giả, nhưng tính nết lại lông bông, thuở nhỏ học hành đã không chăm chỉ, nên chẳng đỗ đạt gì, lúc lớn lại không chịu làm ruộng, đi học võ, mơ ước thành anh hùng. Ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hắn xung phong đi bộ đội, tưởng rồi mình sẽ làm tướng. Nào ngờ hai ba  năm xông pha trận mạc, cũng chỉ kiếm được cái chức tiểu đội phó. Hắn sinh ra bất mãn, bi quan, chán nản. Bị tiểu đội phê bình, hắn nổi máu “Trương Phi”, túm ngực áo, tát anh Tiểu đội trưởng mấy cái, rồi bỏ dơn vị trồn về nhà. Bị gia đình và bạn bè, xóm láng chê bai, chỉ trích, mà ngày nào cũng phải trốn lủi, chạy cả Tây lẫn ta, hắn bèn nhẩy ra hàng địch, và tình nguyện xin đi lính cho chúng.
Khoảng hơn, hay gần hai măm sau, chắc đã nếm đủ mùi ô nhục của một kẻ đầu hàng đi lính đánh thuê, cho nên, trong một trận càn, hắn đã quay súng bắn lại đồng bọn, tạo cơ hội cho quân ta chống càn thắng lợi, rồi chạy sang hàng ngũ ta. Chính phủ kháng chiến khoan hồng, cho hắn được tự do.
Hắn đi tản cư, kiếm sống bằng nghề đánh dâm trên dòng sông Máng. Từ ngày gặp anh tôi, bác chau nhận được nhau, lần nào đi chợ Đức Lân bán cá, hắn cũng vào hiệu ảnh chơi. Hắn cũng có ý thích nghề ảnh. Phải rồi, đã không làm tướng được, lại phải đi đánh dậm, thì nghề ảnh cũng là “sang” chán! Có lần Hồng đã nói với anh tôi xin học nghề. Nhưng anh mượn cớ hiệu vắng khách, bản thân lại bệnh tật, ốm đau, để thoái thác. Thực ra anh chê tính khí hắn nóng nẩy, cục mịch, khó mà làm được cái nghề tỉ mỉ này.
Nhưng với tôi thì lại khác, muốn mở, và phải mở hiệu ảnh, đã không có máy, không có vốn, mà người lại chỉ có một mình thì mở làm sao?..
Một hôm, Hồng đến chơi, tôi đem những khó khăn ấy bàn với hắn. Hắn mừng run lên. Có thể nói: Cả hai bác cháu cùng vớ được nhau, và cùng mừng như chú khách tìm được vàng. Hồng bảo:
-   Cháu với bác về Lỗ Sơn. Ở đấy cháu có nhiều người quen. Chúng ta gửi thư về nhà xin tiếp tế, nhờ người sang Hải Phòng mua máy, mua phim, giấy gửi lên. Sao không được.
Cả anh Ba cũng tán thành ý kiến của Hồng. Và thế là chỉ mấy thang sau ở Tân Mộc, khu căn cứ địa của tỉnh Quảng Yên, hiệu ảnh:”TÔ DUNG” được mở cửa đón khách.
Gọi là hiệu ảnh, có lẽ người ta sẽ tưởng tượng ra một cửa hiệu có phòng tiếp khách, phòng chụp đàng hoàng. Có máy móc tối tân. Có phông cảnh vẽ núi non, sông nước, lâu đài, liễu rủ. Có đèn chiếu sáng. Có khung kính lồng những tấm ảnh mẫu các cô gái mặc áo dài, đeo xuyến ngọc, trẻ, đẹp, tươi cười lộng lẫy, và những em bé sơ sinh non tơ, bụ bẫm…Không! Đây là hiệu ảnh thời chiến. Thời chiến có kiều hiệu ảnh riềng, không giống như thời bình. Và có lẽ cả thế giới cũng không ở đâu có kiểu hiệu ảnh nhu vậy. Hiệu ảnh “Tô Dung” ở trong một cánh rừng thau, cây thưa, thoáng đãng, trước cổng chợ Tân Mộc. Và cũng dập khuôn na ná như hiệu ảnh “Sông Đằng”. Hai gian nhà tre, lợp cỏ gianh, vách đất, ngăn đôi. Gian ngoài có bàn tiếp khách. Trên tường, đóng đinh gim mấy tấm bìa, dán một số ảnh cỡ 6 x 9 và 4 x 6, đem từ Đức Lân xuỗng làm ảnh mẫu. Gian trong để giường nàm và bàn làm việc. Bên cạnh là chái bếp, nửa trong đun nấu, nửa ngoài làm buồng tối. In ảnh bằng ánh sáng trời. Tất cả những “thiết bị nội thất” đều tự tạo, theo đúng kiểu kháng chiến. Tức là cắm cọc, gác cây, buộc lạt, và giải phên tre nứa mà thành. Máy chụp, phim, giấy đều do hãng “Kodak” sản xuất. Chỉ khổ một nỗi là máy cỡ 6 x 9, mà khách hàng thời chiến đa số chỉ thích cỡ 4 x 6. Cũng như anh Ba, tôi làm một cái ngăn, lắp vào trong máy, thành cỡ 4 x 6. Khi có khách chụp 6 x 9, phải trùm chăn lấy ngăn ra, quay phim quá đi một chút, lại thành máy 6 x 9. Khách chụp đứng dưới gốc cây thau, cảnh thật, chẳng cần gì phông vẽ.
Về vật liệu làm ảnh lúc bấy gìơ, ở trong vùng địch không thiếu thứ gì. Nhưng tiền đâu mà mua? Song dù sao được như vậy cũng còn hơn sau nay, thời chống Mỹ. Máy móc, phim, giấy ảnh hầu như không nhập vào. Chỉ có hàng viện trợ của các nước Xã hội chủ nghĩa. Mậu dịch phân phối cho các cơ quan thông tấn, báo chí, chứ không có bán ra ngoài cho dân chụp ảnh. Hiệu ảnh phải chụp bằng phim ích quang. Nói như vậy thật khó tin, Vì phim ích quang cỡ 30 x 40, làm sao lắp vào máy ảnh được mà chụp?  Thế mà lại là sự thật. Chẳng biết bằng cách nào mà các “nhà chuyên môn” đã rọc được phim ích quang nhỏ đúng cỡ thị trường yêu cầu, rồi gói giấy đen chông ánh sáng. Thế là thành phim chụp ảnh, tuy không được tốt lắm, vì “độ nhậy” kém, bắt hình chậm. Nhưng vẫn đắt hàng như tôm tươi!
Tân Mộc không phải là khu căn cứ của riêng tỉnh Quảng Yên,, mà cả thành phố Hải Phòng nữa. Ngoài bộ đôi và các cơ quan, đoàn thể hai tình ra, đây còn là nơi tập trung dân tản cư của huyện Thuỷ Nguyên, Kinh Môn, Chí Linh, Nam Sách. Họ lập các trại tăng gia, và mở cửa hàng buôn bán làm ăn. Chợ Tân Mộc đêm nào cũng họp, người đông như hội. Người ta mua bán đủ thứ, từ thóc gạo, khoai sắn, rau quả, lợn gà, đến cả trâu bò cũng được đánh ra chợ bán. Các hàng vải vóc, quần áo, xà phòng, khăn mặt, thuốc men …ở vùng địch chuyển lên, bày la liệt, không thiếu thứ gì.
Hiệu ảnh của bác cháu tôi, vừa mới, lại ở địa điểm thuận tiện, nên rất đông khách, làm không xuể. “Ông” cháu tôi chỉ được mỗi việc trông nhà, và đi chợ nấu cơm. Thỉnh thoảng cho vào buồng tối in, thì mười cái ảnh hỏng cả chín!
Công việc vừa ổn định, thì anh Cần, Trưởng ty cho người cầm thư đến hiệu ảnh bảo tôi đến gặp anh. Lúc ấy chiều đã muộn. Tôi đi theo người đưa thư, cách anh ta một quãng, như hai người không có liên hệ gì với nhau. Anh đưa tôi đến một cái chòi bí mật ở trong rừng, rồi đi ra ngoài. Trong rừng đã mờ mờ tối. Anh Cần và một người nữa đã chờ tôi ở đấy. Hai người ngồi, trước bàn có cây đèn bão thắp sáng. Anh Cần giới thiệu người cùng có mặt là anh Hải, Trưởng ban chính trị, và là người chỉ huy trực tiếp của tôi. Anh Hải người thấp, nhỏ, da nâu, mặc quân phục mầu lá cây, một ống tay áo giắt trong thắt lưng. Chắc anh là thương binh. Tôi được giao nhiệm vụ điều tra, phát hiện và theo dõi những tên gián điệp bí mật hoạt động ở khu căn cứ. Nhưng hai anh không giao cho tôi một “nhân mối” nào có vấn đề đã bị nghi ngờ. Tôi nghĩ: Có lẽ lãnh đạo Ty còn muốn thử thách và xem xét khả năng của điệp viên chăng?...Cuối cùng, chúng tôi thống nhất lịch gặp nhau hằng tháng, rồi nhanh chóng giải tán.
Từ ngày về Tân Mộc, qua dư luận tiếp xúc hằng ngày, tôi được biết vụ án “H 122” đã kết thúc. Tất cả những người bị bắt, bị quy kết là gián điệp, hay Quốc dân đảng đều được trả lại tự do. Có người đã được trở lại công tác, nhưng phải chuyển đi cơ quan khác, hay tỉnh nọ chuyển sang tỉnh kia. Người ta còn gọi đó là vụ “H 122” thứ hai. Vì trước đây ở Việt Bắc đã sẩy ra một vụ tương tự như vậy. Rồi một hôm tôi gặp anh Luật, người trước đây đã bị bắt ở giữa hội trường Ty Công an Đặc khu Hồng Gai. Anh mới được trả lại tự do. Sau một lúc tay bắt mặt mừng, tôi hỏi:
-       Bọn các anh có bị tra tấn không?
Dường như sự phẫn uất bấy lâu, giờ mới có dịp bung ra, anh xì một tiếng, vừa như tiếng cười mỉa, lại vừa như “xả van” cho bớt áp lực dồn nén trong lòng, và trợn mắt lên nói một thôi không ngừng:
-       Sao lại không? Cậu tưởng nó cho chúng tớ đi nghỉ mát à? Nó đánh cho sặc gạch ra ấy chứ! Hơn sáu chục con người, đủ cả cán bộ, đảng viên, người có chức, có quyền, cũng như người dân, lúc thì bị quy tội là Việt gian, gián điệp, lúc lại là Quốc dân đảng phản động, cứ rối tinh, rối mù lên, chẳng ai biết đích thực là mình mắc phải tội gì? Nhưng bị nó tẩn đau quá, thàng nào cũng phải nhận. Không Việt gian, gián điệp, thì Quốc dân đảng phản động. Nó hỏi hoạt đông với đứa nào? Thì khai ra thằng A, thằng B…Cứ thế lôi nhau ra, cho nên đội quân phản động ở khu căn cứ môi ngày một đông lên nhanh chóng… 
-       Thế, các anh có biết vì sao lại xảy ra chuyện này không? Tôi hỏi.
-       Cậu hỏi nguyên nhân ấy à? Có cái đếch gì đâu! Chỉ vì một thằng cha đu kích ở xã Thanh Luận khám người đi đường, thấy tờ truyền đơn gói thuốc lào, nó bắt người ta giải đến Đồn Công an. Thé là thành to chuyện, làm cho cả ba tỉnh lao đao, năm sáu chục con người bị điêu đứng, khổ sở, và nhục nhã. Mà đấy mới là nói đến cái đau thân thể, còn cái đau tinh thần, cái đau của lòng tin và sự nghi ngò, thì biết bao giờ vết thương ấy mới lành lặn được!
Thế là vụ án có cái mật số: “H122” khủng khiếp ấy, cuối cùng cũng chỉ là con số ma. Hay nói cho đúng, đó chỉ là “Viên đạn bắn nhầm”, ta bắn phải ta!
Hỡi những người may mắn! Xin đừng coi chúng tôi là những kẻ “CÓ VẤN ĐỀ” (theo nghĩa xấu), như một só người đã nhìn nhận. Mà nên hiểu chúng tôi là những người không may, bị cả hai làn đạn trái chiều nhau cùng nhắm tới. Và  sự rủi ro đó cũng nên coi là một sự hy sinh cho kháng chiến.
 
 (Một thời giông bão - Tiểu thuyết của Tạ Hữu Đỉnh)

 
 
 
 
 
 
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9