Thư Gửi Thầy Cô Giáo Cũ.
Hoa-Kỳ, ngày .. tháng.., năm 20..
Thầy (Cô) kính mến,
Thầy (Cô) có còn nhớ những kỷ-niệm dưới mái trường Trung-Học XYZ của niên-khóa 196.-196., với những đứa học-trò mà Thầy (Cô) đã từng đánh-giá "học ra học, chơi ra chơi" không ?
Mới đó đã hơn mấy mươi năm rồi Thầy (Cô) nhỉ ? Em có cảm-tưởng như một giấc mộng mà em mới vừa tỉnh giấc!
Năm ấy, Thầy (Cô) mới vừa ra trường từ Đại-Học Sư-Phạm Sài-Gòn, trông còn trẻ-trung và đầy nhiệt-quyết, về quê nhà phục-vụ với tất-cả tâm-huyết, mong đàn em sẽ trở thành những người thật hửu-ích cho xã-hội. Vào lớp, Thầy (Cô) miệt mài dạy cho đến hết phút cuối cùng, thậm chí đôi lúc còn thêm giờ...Tận-tình giải-thích những thắc mắc của chúng em cho đến khi nào chúng em đã hiểu rõ. Nếu có bế-tắc, Thầy (Cô) thật-thà bảo chúng em là Thầy (Cô) cần nghiên-cứu thêm ... Sự chân-thật này làm chúng em vô cùng cảm-mến và kính-phục.
Thầy (Cô) rất bình-dân, luôn gần-gũi, tìm hiểu những khó-khăn, động-viên, khuyến-khích và giúp-đở chúng em với tất-cả chân-tình . Nói tốt cho Thầy (Cô) quá nhiều sẽ là một sự dư thừa ... Đối với riêng em, Thầy (Cô) đã là một gương mẫu mà em cố-gắng noi theo. Và như Thầy (Cô) thấy đó, em nối gót theo Thầy (Cô), đã trở thành một "kẻ đưa đò chở khách sang sông", như Thầy (Cô) từng nói, những người khách viễn-hành sẽ trở thành những người tiến-bộ hơn kẻ đưa đò đang và sẽ "dặm chân một chỗ" nơi đây. Đó không phải là một lời than-thở, một ganh-tỵ mà là một lý-tưởng, một thiên-chức, một niềm vui thật to tát của nhà giáo chúng ta, phải không Thầy (Cô) ?
Trở thành một đồng-nghiệp với Thầy (Cô), em thật tình rất hãnh-diện; Thầy (Cô) có chia xẻ niềm hãnh-diện ấy của em không ? Thầy (Cô) có thấy sự làm việc nhiệt-tình của mình ngày nào đã không phí, ít nhất là có một học-sinh âm-thầm "trả ơn" khi nó đã cố-gắng tối-đa để trở thành người hửu-ích cho xã-hội như ước muốn của Thầy (Cô)? Thật ra không chỉ có mình em tạo cho mình một nghề-nghiệp khiêm-nhường, mà Thầy (Cô) có cả một "đám" học-sinh đã trở thành những người có kiến-thức và địa-vị thật cao sau này .
Em đã theo dõi hành-trình của Thầy (Cô) từ ngày em rời trường, rời tỉnh nhà ... Và đến 197.., em đã tìm về "đầu quân" với Thầy (Cô) ở trường Trung-học mà Thầy (Cô) là Hiệu-Trưởng. Đây là một trong những ước mơ tha thiết của em đã trở thành sự thật.
Sau 1975, những biến-động dạo ấy đã làm thầy trò chia cách ... Mỗi người đã bị lôi cuốn vào con lốc nghiệt-ngã ...
Thật vô cùng vui mừng khi nối liên-lạc lại với Thầy (Cô) vài năm gần đây. Em đã chỉ thỉnh thoảng gọi thăm với những lời nói thông thường nhưng có lẽ Thầy (Cô) đã không rõ được những ý-nghĩ thầm kín trong tâm-tư của em. Tự nhiên hôm nay, những ngày tháng cuối năm ở đất người với không-khí lễ hội của năm này, em chợt nghĩ đến Thầy (Cô) và các thầy cô khác của em, và cả đám học–sinh cùng lớp với em ngày nào nay tóc cũng đã muối tiêu hay bạc trắng, em muốn viết một lá thư như một lời cám-ơn Thầy (Cô) và cả với Quý Thầy Cô khác, đã dầy công dạy dỗ em nên người .
Và em muốn nhắc thêm một kỹ-niệm nữa ... : chắcThầy (Cô) còn nhớ, em là một học-sinh nghèo, và hoàn-cảnh sống đã có lần em bị bịnh nặng. Khi biết được, Thầy (Cô) đã biếu cho em những liều thuốc quý báu; những liều thuốc đã giúp em thật nhiều cho cơ-thể lẫn tâm-hồn . Đã cảm-ơn và sẽ mãi mãi cám-ơn Thầy (Cô). Và dỉ-nhiên em cũng luôn cảm-ơn Quý thầy cô khác đã dẩn dắt em từ lớp vỡ lòng cho đến lúc ra trường đời ...
Nhân dịp năm hết Tết đến, em kính chúc Thầy (Cô) và gia-đình luôn được VẠN SỰ TỐT LÀNH.
Kính thư,
Một học trò cũ. A.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2013 06:43:43 bởi Anh Tú >
Chiếc Áo Tết Vải Vàng
(Viết để nhớ mẹ tôi)
Năm 1945, ba tôi qua đời tại quê nội. Vì hoàn cảnh đặc biệt nên năm sau má mang con về với bà ngoại đã già cũng đang đơn chiết một mình.
Từ dòng sông An-Lương quê nội quê mùa, chúng tôi thối về dòng sôngTân-Qui quê ngoại càng quê mùa nghèo khó hơn. Những năm này thực dân Pháp vẫn còn cai trị nước ta, hay bố ráp vùng sâu có du kích chống Pháp bám trụ mà quê ngoại tôi là một. Những năm bốn mươi này đại đa số dân chúng nghèo khó thiếu ăn, thiếu mặc; về mặc thì áo quần tả tơi vá víu thậm chí có người mặc bằng bố tời (dùng làm bao bì đựng lúa gạo).
Những ngày cuối năm năm ấy, má gom góp được vài nải chuối, buồng cao, dừa khô, rau cải…chèo tam bảng len lỏi sông rạch chằng chịt miền quê đi chợ Vãng (Vĩnh Long) để bán kiếm tiền may đồ Tết cho con. Với mớ tiền chắt chiu dành dụm trước đó, má gom đủ tiền mua một khúc vải vàng ( màu của áo thầy tu), loại vải thô mà tôi trộm nghĩ dạo đó chỉ có thứ này mà thôi. Má đưa tôi xem, nói “sẽ may đồ Tết cho con của má nếu còn đem về được tới nhà”. Với trí óc con nít đâu hiểu gì, lòng chỉ biết mừng rơn cười cầu tài, nở cờ trong bụng mà khờ khạo chẳng biết nói hoặc ôm má để tỏ lòng cám ơn ( như con nít khôn ngoan nhanh lẹ bây giờ). Dù còn bé, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ mồn một lời má tôi nói (cũng như khung cảnh lúc ba tôi mất).
Trên đường về, đến một nơi vắng vẻ má tôi dừng lại, bảo tôi cổi áo (một cái áo sơ mi đen vá nhiều lổ), quấn khúc vải mới quanh bụng tôi, buộc chặt rồi mặc áo trở lại. Má bảo tôi ngồi yên gần trước mủi tam bản; cẩn thận không động đậy nhất là lúc dừng lại trạm kiểm soát của du kích nơi kiểm soát an ninh, hàng hóa mang ra, mua vào từ vùng địch…Má tôi biết rằng khúc vải này sẽ bị tịch thu nếu bị bắt gặp vì có người đã từng bị như vậy.
May mắn họ xét từ đầu chí cuối chiếc tam bảng nhưng không để ý đến đứa con nít như tôi. Thế là năm ấy má đã may cho tôi một áo sơ mi mới ngắn tay để tôi tung tăng vui Tết trong khi má và ngoại vẫn chỉ mặc bộ quần áo cũ thường ngày.
Nụ cười luôn nở trên môi má trong những ngày Tết khi má đã cho tôi một mùa Xuân vàng rực như những cành mai đầy hoa nở rộ trước sân nhà. Bản thân tôi siêng năng hơn trong phận sự đốt nhang bàn thờ tổ tiên mỗi tối và bình nước trà của ngoại trên bộ ghế giữa nhà luôn đầy ắp. Tôi nói chuyện huyên thuyên với ngoại, với má hơn thường ngày, đủ mọi chuyện “trên trời dưới đất”.
Tình thương đằm thắm của má mà đặc biệt là trong những ngày Tết năm ấy đã là chất liệu giúp tôi biết phải làm gì để cho má vui lòng.
Má đã thành người thiên cổ vào một trong những năm khó khăn nhất của thập niên bảy mươi, hình ảnh má nằm trên giường bịnh đau buồn hỏi tôi “Con đang lo cho má đó hả?” khi mà chúng tôi đang lo cất trại để làm một cái tiệc cưới nho nhỏ cho em gái lại trùng hợp với lúc má biết mình sắp lâm chung. Tôi không cầm được nước mắt trả lời trong nghẹn ngào “ Đâu có má ơi! Lo đám cưới cho em con đó” “Thôi đừng gạt má!” Tôi không nhớ nét mặt má lúc ấy ra sao vì màng lệ đã che mắt tôi rồi!
Bà con góp ý là lo "đôi bạn" cho em gái tôi để em khỏi bơ vơ với đời ở căn nhà tổ phụ này khi má tôi mất vì biết chắc rằng má tôi không qua khỏi và tôi cũng sẽ phải lưu lạc xa nhà sau này.
Xong đám cưới cho em là mẹ cũng vĩnh biệt chúng tôi.
Chiếc áo vàng và hình ảnh buồn hiu ốm o của má với những câu hỏi xé lòng ( và còn nhiều kỹ niệm khác nữa) mãi mãi nằm trong ký ức tôi
A.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2013 06:44:26 bởi Anh Tú >
Những Ly Chè Đậu Đỏ
Có dạo tôi biết nhà của ĐHM, bạn chí-cốt, ở thị-trấn Phụng-Hiệp (Phong-Dinh) nhưng chưa một lần đến chơi vì chúng tôi có thể gặp nhau bất-cứ lúc nào tại phố-thị Cần-Thơ. Vào lúc muốn tìm thăm bạn để tạm-biệt đi làm ăn xa, tôi đành phải cầu may đi hỏi thăm láng-giềng của bạn mà thôi.
Bằng xe gắn máy, từ Cần-Thơ lấy quốc-lộ 1 về cuối miền đất nước, tôi đến xóm nhà trước khi gặp cầu Phụng-Hiệp như M. chỉ-dẫn lúc trước; rất may bà con cho biết gia-đình bạn vẫn còn ở nơi này.
Vợ của M. ân-cần tiếp đón và cho biết chồng đang đi làm việc đến tối mới về nên chỉ đường cho tôi đến gặp bạn hiền ngay.
Tại nơi làm việc là lò sản-xuất đường bên dòng kinh Búng Tàu hiền-hoà, cạnh những đống mía ngổn-ngang vừa chất lên bờ từ ghe thu mua, những đống bã mía vừa ép xong còn mùi thơm hấp-dẫn đám ruồi, với vẻ ngạc-nhiên cùng tột, với đôi chân không…cân-đối nhau (vì bị mìn, không chết là may), bạn “cà nhắc” ùa chạy đến ôm chầm tôi mừng-rỡ. Không ngờ hai đứa còn gặp nhau sau hơn mười năm từ khi bắt-buộc phải lìa bỏ Cần-Thơ, nơi hai đứa đã có thêm rất nhiều kỹ-niệm đầm-ấm không kém so với những kỹ-niệm thời còn đi học.
Tức-khắc, bạn giao công việc cho người khác, cùng tôi trở về nhà để hàn-huyên. Một bửa cơm đạm-bạc được chị M. nấu nhanh đải khách; ba món canh chua tôm bông so đũa, hột vịt xào khổ qua và cá trê vàng nướng chấm nước mắm gừng. Ôi bửa cơm tái ngộ rất “truyền-thống của dân Nam Bộ” sao mà hấp-dẫn vô cùng; càng ngon hơn khi nó chan-hoà tình bạn thân-thiết của hai hàn-sinh đã từng chia ngọt xẻ bùi cũng như cay đắng thuở nào. Tay vừa cầm đũa, miệng đã hỏi đáp “túa xua” từ lúc bắt đầu bửa cơm tái-ngộ dẫn cho đến khuya hôm ấy; đêm tôi ở nhà bạn lần đầu (và có lẽ là lần cuối). Hỏi han nhau những gì đã xãy ra khi chúng tôi phải lìa bỏ mọi công việc đang làm ăn ở Tây-Đô để trở về nguyên-quán năm nào. Khoảng thời-gian sau đó chúng tôi cùng trãi-nghiệm những tình-huống tương-tự với nhau; những truân-chuyên rồi cũng qua đi để cuộc sống trong hoàn-cảnh mới được hình-thành.
Thật là thoải-mái và hạnh-phúc khi chúng tôi có dịp quay về dĩ-vãng, thuở hai đứa được trúng tuyển vào trường Collège de Vĩnh-Long mà sau đó không lâu được đặt tên bằng quốc-ngữ Trung-Học Công-Lập Nguyễn Thông và tiếp theo đổi thành là Trung-Học Tống Phước Hiệp.
Đối với học-trò khờ khạo của trường nhỏ miền quê vừa đậu Tiểu-học như chúng tôi, chập chững lên phố-thị vào trường trung-học là một biến-cố vĩ-đại của đời mình. Bao nhiêu khó-khăn, ngỡ-ngàng khiến mình vừa lo sợ vừa bị kích-thích trên bước đường học-hành xây-dựng tương-lai.
Dạo đó, M. và tôi chưa quen biết, mãi đến cấp lớp đệ nhị (hay 11) do một tình-cờ mà từ đó bắt đầu chơi thân khi biết hoàn-cảnh giống nhau: cùng là học-trò nghèo từ quê lên tỉnh-lỵ, được tha-nhân giúp-đở cho ở trọ miễn phí mà còn xem như con cháu trong nhà.
Cuối niên-khóa lớp đệ nhị, chúng tôi phải đi thi Tú-Tài 1 cho nên mọi môn học cần phải chăm-chỉ trao-dồi cẩn-thận nhất là những môn chánh như Toán, Lý Hóa và Việt văn . Năm ấy có một vị giáo-sư Việt Văn rất tích-cực dạy dỗ chúng tôi. Thầy soạn rất nhiều tài-liệu cho học-sinh tham-khảo, nhiều bài thơ của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Cao Bá Quát…bắt chúng tôi học thuộc lòng để có tài-liệu dẩn-chứng khi làm luận văn. Thầy cần “quay rô-nê-ô” bài vở để phát cho tất cả học-trò của thầy. Thầy giao cho hai đứa tôi làm việc này. Rô-nê-ô là lối in thông-dụng thời đó: đánh máy bài viết lên giấy stencil, loại giấy đặc-biệt rất dai không thấm ướt, máy đánh chữ sẽ đụt lỗ trên giấy khi đánh chữ. Sau đó giấy này được gắn lên “máy rô-nê-ô” quay bằng tay, bài viết in ra được đóng lại thành tập như quyển sách. Công việc này đòi hỏi phải kiên-trì, chăm-chỉ, kỹ-lưỡng…Thầy cho chút ít thù-lao trích ra từ tiền do học-sinh góp lại cho chi-phí. Sau giờ học, hai đứa “tác-nghiệp” bằng cách nhờ máy đánh chữ, và máy quay rô-nê-ô của văn-phòng của nhà trường. Một đứa đọc bài cho đứa kia đánh máy và thay phiên nhau…
Sau những giờ “làm việc” nhọc-nhằn, để tự tưởng thưởng cho mình khi có tiền thù-lao, hai đứa thường đạp xe lên miếu Bảy Bà*(nơi này lúc ấy có bán hàng ăn vặt,thức uống trên những xe đẩy nhỏ cho học sinh), tọa-lạc giửa Trung-Học Bán Công Nguyễn Thông (lúc ấy trường Trung-học công-lập Nguyễn Thông đã đổi tên thành Trung-học công-lập Tống Phước Hiệp và trường Trung-học bán công của tỉnh nhà mới dùng tên Nguyên Thông) và Trung-học Tư-thục Long Hồ, để thưởng-thức những ly chè đậu đỏ rất ngon, béo và ngọt và có lẽ …càng ngon/ngọt/béo hơn khi để tâm-hồn bay theo những tà áo dài trắng thướt tha trước mắt. Nhớ bạn tôi ăn chè đậu đỏ …với cái miệng rất dễ thương: không bao giờ thiếu những cái chép miệng và đôi lúc có cả …hít hà!!!
Say-sưa nhắc những kỹ-niệm khác nữa cho đến quá khuya, nhưng phải tạm dừng lại để đi ngủ khi chúng tôi nghe được tiếng “tằng hắng” của chị M. vẫn chưa an giấc. A.
August 8, 2012
*Miễu đã trùng-tu và ghi là “Di-Tích Cửa Hữu Thành Long-Hồ”
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/EA360E5C1FD2491F8EF23FA4B7A7C56B.jpg[/image]
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/EAF90922D849459A923632B3B10EC601.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2013 07:00:29 bởi Anh Tú >
Người Bán Cá
Như bao phụ nữ khác khi lớn lên theo lối mòn xã hội, dì Hai có chồng rồi có con. Sống trong vùng quê thời chiến tranh Pháp Việt, ngày đêm phải đối diện thường trực với sự bất trắc, gia đình dì phải tản cư ra ven tỉnh lỵ, nơi bình an hơn.
Là nông dân chân chất, chỉ có “ba chữ” để đọc được báo chứ đâu có tay nghề gì để tìm được công việc chốn đô thị: chồng dì theo học nghề thợ mộc, dì xách rổ theo chân chủ đất vốn là một người bà con xuống chợ để tập tành mua bán cá tìm chút ít tiền lời để cho gia đình độ nhật qua ngày.
Cá thì phải có mùi tanh, hôi. Người bán buôn cá làm sao không dính được mùi cá, nhưng mùi cá đâu có biến con người thành cá được; mà thật ra con cá con tôm vốn đâu có nguy hiểm mà ngược lại còn bị hiến thân làm thực phẩm để nuôi sống con người. Đâu phải là tiểu thư khuê các, bước đầu ngửi mùi tanh của cá, không nói ngoa vì nơi tập trung nhiều cá tôm mùi có nồng nặc hơn khi ở quê vốn cũng thường làm cá nấu ăn, dì Hai cũng có phần khó chịu nhưng điều đó dì vượt qua đễ dàng. Bản tính hiền lành, thân thiện, chịu khó, thương người …không vì mùi tanh của cá mà biến chất, trái lại ở môi trường sống của giai cấp nghèo khó này, kiếm ăn từng bửa đã làm con người của dì được tốt hơn.
Ở đâu cũng vậy, chợ cá, chợ trái cây, chợ vải, chợ giày, thậm chí những nơi cao sang quyền quý cở nào cũng có kẻ tốt người xấu. Cho nên ở chợ cá này dì cũng đã gặp những hạng người “tay bằng miệng, miệng bằng tay” nhưng khi những người này gặp dì cũng phải nể nang cái điềm đạm hiền hậu của dì.
Buôn bán cò con vốn liếng không là bao mà đôi lúc dì lại mua những mớ hàng “cá …thiu nếu không muốn nói là thối” của những bà cụ nghèo trong quê đem ra bán đổi gạo. Vì từ tâm mà dì làm như vậy.
Thời ấy, rất nhiều bà con vùng quê xa xôi tản cư ra chợ, tìm nơi cất một căn nhà nhỏ vùng ven tỉnh lỵ để cho con cháu trọ học hoặc phòng khi cuộc chiến sôi động trong quê thì có chỗ tạm trú. Dì Hai cũng thế. Nhà của dì Hai rất nhỏ nếu không muốn nói là cái chòi. Nhà có ba phần: phân nửa phía sau là cái phòng cho dì và con gái, phân nửa trước là nơi để bàn thờ, một bàn với bình trà và vài cái ly, một "cái chái" là nơi bếp núc và cũng là nơi ăn cơm. Còn chỗ nào có khoảng trống nữa thì tối lại bày ghế bố (loại xếp) ra cho chồng và đứa con trai ngủ qua đêm.
Trong xóm có một người học trò…nghèo, rất nghèo nên đang “ở trọ” trong một cái lò rèn để đi học. “Phòng trọ” không cửa nẻo là nơi chứa dụng cụ, bụi bậm, gần sông ban đêm gió thổi … “ào ào”. Tắm giặt dưới sông, tự nấu nướng, đèn dầu lửa leo lét học bài…
Nhà dì Hai chật hẹp, tiền bạc không có, chỉ có …nghề bán cá và tấm lòng thương người bao la, dì hai một hôm đã kêu đứa học trò khó đó đến ở với dì: “Có mắm, ăn mắm, có muối ăn muối, có cá ăn cá…với gia đình dì, trải ghế bố dưới chái bếp mà ngủ cháu ạ! Hẩm hiu với dì đi chắc đở tủi thân cháu hơn!”
Khi chiến tranh Pháp Việt chấm dứt, nhưng năm hoà bình cho phép dì trở về quê cũ, người láng giềng kế bên muốn mua căn nhà của dì, mục đích để có đất rộng hơn, dì Hai, người bán cá, đồng ý nhưng với điều kiện là để cho người học trò khó tiếp tục ở cho đến khi xong bậc Trung học.
Nay thì dì dượng Hai đã về với cát bụi từ lâu. Hai người con của dì dượng cũng thế.
Kẻ đã một thời nhờ ơn đùm bọc của những bạn hàng chợ cá (là những người thở cái không khí tanh tưởi, dẫm chân trên những vũng nước bẩn , đã vọc tay trong những chậu chứa tôm cá hôi tanh) giúp đở học hành đổ Tú Tài để rồi thành “sĩ phu” đến hôm nay còn sống sót, xin ghi lại câu chuyện nhỏ của một món nợ to không bao giờ trả nỗi kiếp này và cả những kiếp sau của tôi. A. viết theo lời kể của bạn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.09.2012 09:23:48 bởi Anh Tú >
MỘT CẢNH ĐỜI
(Kính tặng chị Tư H.,người thủ tiết thờ chồng suốt đời.)
Có một thị trấn nghèo nàn nằm bên giòng sông hiền hoà nước ngọt quanh năm nối liền sông Tiền và sông Hậu của Cửu-Long-Giang. Thị trấn này chỉ có một con đường duy nhất mà hai bên là những căn phố nhỏ nhắn buôn bán đủ loại hàng hoá cung cấp cho nông dân quanh vùng.
Nơi đó có cửa tiệm vợ chồng chú thiếm Hai. Bà con bên ngoài thấy họ chăm chỉ làm ăn, hòa thuận, gọi nhau ngọt nào “anh anh em em”, nghĩ rằng đó là một cặp vợ chồng thật hạnh phúc. Bỗng nhiên không rõ vì lý do gì, người vợ bỏ đi và chồng phải quán xuyến mọi việc nhà.
Ở tuổi còn thanh xuân và cũng cần có người phụ giúp bán buôn, nên chú Hai có ý tìm người tục huyền. Cuối cùng chú để ý đến cô Ba cùng lứa tuổi, hiền lành, đảm đang, sắc vóc bình thường như phần lớn những người gái quê của Nam Kỳ Lục Tỉnh trái ngọt cây lành.
Bắt đầu hằng ngày họ gặp nhau chào hỏi, nói chuyện nắng mưa dẫn lần đến thân quen rồi thương yêu. Chú nhờ cha mẹ đứng cưới xin cô Ba đàng hoàng bằng mọi thủ tục cổ truyền.
Cuộc sống chấp nối của cặp đôi này, chồng một lần hôn nhân lở vở, vợ là gái còn son xem ra cũng hoà thuận và hạnh phúc vô cùng. Năm sau người vợ mới của chú Hai hạ sinh một trai kháu khỉnh.
Thời gian âm thầm trôi qua…..Bổng đất bằng dậy sóng, người vợ cũ của chú trở về với một đứa con nhỏ. Chú hoan hỉ đón hai người vào nhà. Ai đâu ngờ chú Hai đã tráo trở phản bội cô Ba,người đã đặt tất cả lòng tin yêu vào mình.
Họ phải sống chung một nhà và cô Ba lại bị người vợ trước, thiếm Hai, ăn hiếp trước sự thờ ơ không rõ là cố ý hay vô tình của ông chồng.
Ai cũng nói: Chú Hai bị vợ bỏ, cưới hỏi cô Ba một cách đàng hoàng thì rõ ràng cô Ba ở cương vị vợ chánh hợp pháp dù là đến sau. Nhưng vốn hiền lành và không được sự che chở của chồng, cô đành chịu thiệt thòi, chán nản bồng con trở về nhà mẹ, bán buôn cò con để nuôi đứa trẻ vô phước của hôn nhân đổ vở một cách thật vô lý và bất công với cô.
Vì cách hành xử vô đạo lý của mình, Chú Hai đã đánh mất tình cảm tốt đẹp của bà con ở thị trấn đã dành cho. Người đàn ông này đã xem cô Ba và đứa con máu mủ của mình như người xa lạ; càng tệ bạc khi không có một sự cấp dưỡng, giúp đở dù nhỏ nhặt nào. Người đàn bà hiền hậu cam phận chịu đựng hoàn cảnh nghiệt ngã ấy, sống một mình nuôi con khôn lớn, không lời oán trách.
Chẳng những thiếm Hai chua cay, hách dịch với cô Ba …mà đám con của thiếm cũng giống như mẹ, đối xử và xem mẹ con của cô như kẻ thù, có lẽ vì sợ chia phần tài sản của chú Hai chăng?
Thời gian trôi qua âm thầm, người lớn thành người già, trẻ con thành người lớn, tất cả rồi cũng phôi pha.
Đến một ngày chú Hai bịnh qua đời, thiếm và đám con tiếp tục sống thoải mái với cơ ngơi của chồng/cha để lại.
Bây giờ cô Ba đã già, bịnh hoạn, bán buôn thua lỗ. Anh Thảo, con trai của cô nay đã lớn, lập gia đình, phải thức khuya dậy sớm, làm việc cực nhọc kiếm tiền nuôi mẹ, bà ngoại và vợ con.
Ngày qua ngày vì lao lực , anh ngả bịnh và ra đi để lại người vợ trẻ; còn cô Ba phải chịu cảnh trẻ già khóc măng non.
Một nét son đã điểm lên cho những người phụ nữ hiền thục của Việt Nam là người vợ trẻ của anh Thảo vẫn “ở vậy” thờ chồng, chắt chiu nuôi con, một lòng kính mến /nuôi dưỡng mẹ chồng …. Những thập niên của thế kỷ trước có rất nhiều thiếu phụ miền quê đã hành xữ như vợ của Thảo; còn bây giờ thì sao?
Và có phải là quả báo nhãn tiền hay không mà một số con cái của chú thiếm Hai đã sớm theo chú Hai và thiếm thì bị bịnh hoạn hành hạ khổ sở trước khi lìa đời?
Còn những đứa con của anh Thảo, dưới sự chăm sóc của chị Thảo, cộng với tình yêu thương rất mực của bà nội nay đã khôn lớn và thành danh trên đường đời. Những đứa con này là những người hiếu thảo đã chăm sóc, nuôi mẹ và nội; dù làm xa cũng thường xuyên cố gắng về thăm hai người ruột thịt yêu dấu của mình.
Phải chăng đây là một bi hài kịch của xã hội con người vốn có trí óc, có suy nghĩ mà đã dẫm lên đạo lý làm người để mang tiếng xấu với hậu thế nói chung và cho bà con lối xóm của mình nói riêng. Và cuộc sống vẫn còn ý nghĩa khi có những người -như gia đình anh chị Thảo- còn giữ được những nếp sống đạo đức tốt đẹp của xã hội ta.
A.
July 2012
Trứng Trời
(Để nhớ ba tôi)
Hôm nay, tôi rất xúc động khi tình cờ biết được tâm sự của một người bạn vắng cha từ lúc còn trong bụng mẹ đã tìm được lại tình phụ tử sau hơn nửa thế kỷ. Bạn đang tận hưởng hạnh phúc to lớn này mà bạn ngỡ rằng chỉ có thể gặp trong mơ. Hạnh phúc đã tỏa sáng ngời lên mặt bạn, ở ánh mắt long lanh, ở nụ cười rạng rỡ, ở lời tâm sự chia sẻ với bạn bè một cách tha thiết, nồng ấm…tình cha con. Bạn ơi, Bạn chỉ vô phước nửa đời người thôi bạn ạ, nửa còn lại bạn hãy tận hưởng tình cha con thiêng liêng, tuyệt vời nhé bạn. Bạn hạnh phúc hơn tôi đó vì cha của tôi giã từ cõi đòi này khi tôi vừa lên năm và dỉ nhiên tôi vĩnh viễn mất cha. *** Xưa, tuổi đời qúa ít ỏi, tri thức vừa mới chập chửng trong bộ óc non nớt, tôi chỉ nhớ một vài kỹ niệm với cha thân yêu mà tôi xem đó là những hạnh phúc hiếm quý nhất của đời mình. Nó cứ hiển hiện về thật ấm áp mỗi dịp gặp những tình tự về cha mà tôi xem đó là những hạnh phúc tìm lạị. Ba má tôi vì hoàn cảnh sống đời trôi nổi, rày đây mai đó. Có lần chúng tôi đã sống một thời gian tại Cái Khế (Cần Thơ) trong một ngôi nhà lá nhỏ nghèo nàn. Trước nhà là một con đường cho xe hơi cũ kỹ với đất đá lồi lõm vì không được bảo quản, bên kia là một con rạch nhỏ mà mỗi chiều tôi thường đến tắm rửa, vui đùa. Một hôm sau khi tắm xong vượt lộ về nhà, tôi đã bị một xe đạp đụng phải, té và trán bị thương đến nay vẫn còn vết xẹo: Nhớ thuở xưa theo giòng đời xuôi ngược
Ba má tôi trôi nổi đến Cần Thơ
Sống lam lũ một thời gần Cái Khế
Cảnh cũ người xưa nhớ mãi đến giờ.
Có những lúc tình cờ tay xoa mặt
Chạm vết trầy trên trán: vết yêu thương.
Thương mẹ cha, thương giòng Bassac
Ấm áp lòng khi mỗi lúc soi gương!
Một chiều, qua bên kia đường đi tắm
Ở rạch con nho nhỏ nước lững lờ
Khi đùa giỡn vướng chân té ngã
Vết thương thành dấu ấn thuở ấu thơ.
(Trích Vết Thương Trên Trán_2010_A.)
Thuở ấy vì còn bé nên sự hoài niệm các khoảng đời không liên tục. Tôi lại nhớ có lúc chúng tôi đã sống trên một chiếc tam bảng với cái mui tròn làm bằng lá (lá dừa nước thì phải?), nấu cơm bởi chiếc cà ràng ở phía sau lái. Cuộc sống gom gọn trong lòng chiếc tam bảng với cảnh gạo chợ nước sông không biết kéo dài bao lâu. Má tôi là người lo mọi việc cho cuộc sống lang thang này: cơm nước, chèo chống, thuốc men trị bịnh cho ba tôi… Một buổi sáng, chiếc tam bảng cấm sào trên dòng rạch nhỏ, nước ròng chảy siết cuốn trôi theo những trái mận chín rơi rụng từ những vườn cây của vùng đất phì nhiêu Chợ Lách. Ba tôi ở sau lái, tôi trước mủi tam bảng cùng nhau vớt trái, lựa những trái còn nguyên vẹn để ăn dần. Thỉnh thoảng cha con khoe với nhau mỗi lần vớt được trái ngon với nụ cười vui vô tư bất chợt có được. Hôm nay hoài niệm về ba nhưng không thể nào không nhắc lại sự gian nan của má tôi, người phụ nữ hiền hoà miền quê sông nước Cửu Long, suốt đời chịu nhiều nỗi truân chuyên, cay đắng. Tay yếu chân mềm phải chèo bơi tam bản di chuyển đó đây, có lần dòng nước chảy quá nhanh làm chiếc mui vướng một thanh cây của cầu khỉ bắt ngang dòng rạch, tưởng đâu nhận chìm “ cả nhà” xuống nước. Không lâu sau đó, bịnh ba tôi trở nặng, ba mẹ quyết định về ngôi nhà tổ phụ nơi bác Hai của tôi đang quán xuyến. Chúng tôi phải vượt ngang sông Cổ Chiên. Không may khi đang giữa sông thì một cơn giông chợt đến, nước nổi cơn thịnh nộ, những đợt sóng to hăm dọa nhận chìm “cái nhà” và cả chúng tôi xuống lòng sông. Với sức cố gắng vượt bực cùng sự trợ lực yếu ớt của ba đang bịnh hoạn, và hơn hết chắc là sự phò trợ của Phật Trời mà chúng tôi đến bờ phía Vĩnh Long an toàn trong sự hải hùng …vừa giảm bớt. Về đến nhà bác hai, tôi ngã bịnh. Đứa con nít năm tuổi thì chắc chắn còn “nhỏng nhẻo” “vòi vĩnh” cha mẹ cái này cái nọ, cả những cái mà cha mẹ không thể lo được dù là chiều con. Những “tánh con nít” này lại dai dẳng hơn khi bị bịnh hoạn. Lần đó vì khó chịu trong mình nên tôi khóc dai dù mẹ kiên nhẫn dỗ dành. Ba tôi nhỏ nhẹ hỏi: “Con muốn gì cứ nói, ba sẽ làm lo cho con”. Chắc có lần nghe thấy ai nói “gì đó” mà tôi trả lời : “Con muốn ăn trứng… trời!” và tay tôi chỉ lên trời. Ba tôi đã cười ngất và nói sẽ kiếm “trứng trời” cho tôi ngay. Ba đã nhờ người leo lên các cây cau tìm trứng chim cho tôi. Chuyện nhỏ mà hạnh phúc ba đã cho tôi rất lớn; nó ngon tuyệt, béo ngậy…mà hương vị đến bây giờ như ở vòm lưởi…và cả trong tim tôi. A. September 7, 2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2013 07:02:27 bởi Anh Tú >
Xin cám ơn tác giả Anh Tú đã viết về tình cha nghĩa mẹ thật sâu đậm qua những giòng chữ chân tình. Dù được sống với cha mẹ thời gian ít hay nhiều, tất cả những kỷ niệm đã có với hai bậc song thân, là con cái chúng ta không bao giờ quên và luôn chắt chiu gìn giữ phải không?
Cũng xin cám ơn nhờ đọc chữ của Anh Tú, NH được đi về lại vùng đất Cần Thơ nơi NH đã có dịp sống và đi học ở đó một thời gian.
Thân chúc tác giả Anh Tú luôn sức khoẻ để tiếp tục viết những sáng tác mới.
Thân mến
Nguyệt Hạ
Chào Nguyệt Hạ,
Cám ơn Nguyệt Hạ đã quá bước đến mảnh vườn con con này và tặng cho AT những lời khen nồng ấm, cảm thông. Và càng vui khi biết Nguyệt Hạ một thời đã là cư dân Tây Đô yếu dấu của ...Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Chúc Nguyệt Hạ sức khoẻ tốt và niềm vui tràn đầy.
Anh Tú
CON ĐƯỜNG CHÍN CÂY SỐ.
Cũng con đường dài chín cây số ấy nhiều người đi/về quá dễ-dàng thế mà Lê, bạn của tôi, phải gian-nan vất-vả.
Lê mồ-côi cha sớm, mẹ nghèo, được một người thân đở đầu giúp cho đi học.
Thời thập niên 1950 sau khi đậu Tiểu-học, người bà con ấy không muốn cho Lê tiếp-tục học lên. Những bà con lối xóm góp lời bàn ra: Cho nó ở nhà tập làm ruộng rồi lớn lên chút nữa thì cưới vợ cho xong, học bao nhiêu đó đủ rồi! Đây cũng là một nếp sống của nông-dân thời ấy, đặc-biệt áp-dụng khắc-khe với phái nữ, họ chuộng nghề ruộng rẫy, bình-dị, chắc-chắn hơn là học-hành tốn kém, xa vời biết có thành-công hay không?
Bạn tôi buồn rười-rượi nhưng vốn ham học, tính tình này hình như nằm sẳn trong máu của chàng, đã âm-thầm đi thi tuyển vào lớp đệ-thất. Thời đó trường lớp rất hạn-chế chỉ có một trăm tuyển-sinh cho hai lớp đệ-thất nên Lê không được may-mắn như mong muốn.
Chuyện “làm ruộng, lấy vợ sớm” khiến bạn tôi vô cùng sợ hải và tuyệt-vọng. Còn nước còn tát, được thầy hướng-dẫn, bạn lại đi thi lớp tiếp-liên cũng ngoài chợ tỉnh. Lần này thần may-mắn gọi tên. Ngày biết được trúng tuyển, vui buồn/lo-lắng lẫn lộn; buồn lo vì ở ngoài chợ tỉnh thành “tứ cố vô thân”, chỗ đâu mà trọ học và tiền đâu để chi-phí sách vở, cơm nước. Người thân có còn tiếp tục giúp đở cho mình nữa không?
Ngày tựu trường đã đến, sáng sớm phải ra chợ làng để đi xe đò đến lớp với giỏ cơm tẻ nấu sẳn mang theo. Thấy Lê ham học, vẫn “lỳ lợm” đến trường, người thân không đành ngăn cản lại cho một ít tiền để đi xe, mua sách vở. Lúc bấy giờ có người chủ chiếc xe đò thương tình cho bạn quá giang buổi sáng: Lê đứng ké né ở bợ xe lên xuống ở phía sau xe. Buổi chiều khi tan học thì xe đã nghỉ chạy, bạn đành…đi bộ về khi hoàng hôn rơi xuống. Từ trường về nhà dài chín cây số, có nhiều đồn“bót” …và còn phải qua vài cây số đường vườn nữa mới về đến nhà, xa diệu-vợi …phải làm sao đây? Lầm lũi đi khi chậm/khi nhanh, nước mắt lưng tròng buồn cho số phận côi-cúc hẩm-hiu, cháng thầm vái van mặt trời đừng lặn sớm. Đi được nửa đường thì trời chạng vạng, đồn đã đóng cửa, lính canh kêu đứng lại, nghe rõ tiếng súng đạn lên nòng…Bạn mếu máo la lớn lên kể lể sự tình để xin lính mở cửa đồn và may mắn quá họ thông-cảm cho đi qua. Không còn thời gian để về nhà nên Lê đành vào nhà người chị bà con ở gần nơi đó xin tá-túc qua đêm . Người chị cho ăn, cho chỗ ngủ. Đêm về trằn trọc không biết ngày mai mình phải làm sao đây? Tiếp-tục về nhà thì mất buổi học, không về thì thân nhân sẽ lo lắng còn có thể bị la rầy nữa! Sự ham học thắng nên sáng sớm lại xin quá giang xe đò đến lớp với giỏ cơm mới mà người chị đã nấu cho. Hôm nay khi tan học may sao có người bạn cho Lê đi nhờ xe đạp nên kịp về đến nhà.
Nói về giỏ cơm tình-nghĩa: cơm tẻ kèm một cái hột vịt hoặc vài con cá lòng tong kho khô hoặc con khô cá sặc đã là cao-lương mỹ-vị; đôi khi chỉ có miếng dưa leo cùng tí “khô quẹt” (nước mắm nấu cho “sắc” lại) cũng xong. Lê tự biết rằng những giỏ cơm đơn-sơ này không tự trời cao rơi xuống mà từ mồ-hôi công sức, thắm đậm tình thương của người thân dành cho mình nên dặn lòng phải làm sao đừng phụ lòng mọi người.
Trở lại câu chuyện…Như Trời thương người học trò có chí, thời-gian ngắn sau đó trường Trung-học nhận thêm một trăm tuyển sinh nữa và Lê lần này có tên trong danh-sách. Người ta nói sự may-mắn ít khi có hai lần (họa vô đơn chí, phước bất trùng lai) thế nhưng chàng lại ngoại-lệ: vào đệ-thất và những ngày kế tiếp có những người bạn quý thương tình giúp-đở, thay nhau cho Lê quá giang xe đạp về nhà. Sự quyết-tâm đi học như thế đã làm xúc-động mọi người và không thể lợi-dụng lòng tốt của những bạn quý mãi, cuối cùng người thân đở đầu phải kiếm chỗ trọ cho chàng.
H luôn khắc cốt ghi tâm biết ơn những người thân, những bè bạn có tấm lòng thương bao-la đã giúp-đở mình.
Sau những thay đổi của dòng đời nghiệt-ngã, bạn bè cũng chưa có dịp gặp lại nhau Hy-vọng một ngày nào nhờ trời chúng tôi còn khoẻ mạnh có dịp hội-ngộ trước khi bàn-giao hẳn thế-gian này cho thế-hệ tiếp nối.
Con đường chín cây số vẫn còn đó nhưng thời gian đã mặc cho nó chiếc áo mới hơn. Nó sẽ mãi trường tồn trong lòng đất nước Việt mến yêu, gắn bó với những thế-hệ con Rồng cháu Tiên tiếp nối nhau của miền đất Lục tỉnh bên dòng Cửu Long hiền-hoà, con sông lừng danh Đông Nam Á.
Chỉ chín cây số đường xa
Mà bao kỹ-niệm thiết-tha một thời!
Câu chuyện nhà trọ của Lê rất đặc-biệt và cũng là một ngả rẽ giúp bạn tôi tiếp-tục tiến bước được trên con đường học-hành để gây dựng tương-lai. Nay mai tôi sẽ kể tiếp… A.
July 7, 2011
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.02.2014 02:52:08 bởi Anh Tú >
“Nhà Trọ"
Lê sẽ không còn đi học vất vả trên Con đường dài chín cây số mỗi ngày nữa mà chỉ một lần mỗi cuối tuần đi về nhà mà thôi vì cuối cùng người thân đã tìm được một nơi ở trọ cho Lê.
Thân-nhân của Lê không có người quen ngoài chợ và càng không có khả-năng tài-chính để mướn nhà. Được sự gợi ý của một người quen, thân-nhân của Lê tiếp-xúc với ông Năm, chủ một lò rèn tại một xóm lao-động nghèo ven sông Cửu.Cái lò rèn nằm ngay bờ sông, ọp ẹp, bụi bậm, dơ bẩn, trống trước trống sau, chỉ có một “phòng” nhỏ với vách lá cũ-kỹ để chứa dụng-cụ. Qua trao đổi biết hoàn-cảnh của Lê, ông Năm tốt bụng thương tình cho bạn tạm trú để đi học: một ghế bố đặt trong phòng dụng-cụ, đem củi gạo nồi niêu để tự nấu ăn, tắm rửa thì dùng nước sông, vệ-sinh thuở ấy có cầu tiêu công-cộng cũng ở ven sông, đêm về học-hành dùng đèn dầu lửa…
Từ “nhà trọ” đến trường chỉ cần đôi mươi phút một lượt đi/về, Lê cảm thấy hạnh-phúc vô cùng khi so-sánh với con đường chín cây số gian-nan đầy bất-trắc.
Bà con quanh lò rèn đột-nhiên có thêm người láng giềng thư-sinh mặt trắng lúc nào cũng “ở rút” trong “phòng” bởi tự ti mặc cảm, nỗi hổ-ngươi vì hoàn-cảnh hàn-vi cũa mình, nhưng Lê biết rằng, qua ánh mắt, họ thương hại mình nhưng không khinh khi. Chỉ thời-gian rất ngắn sau đó bà con đã tỏ ra thật thân-thiện, chuyện trò thăm hỏi và sẳn-sàng giúp-đở Lê những gì cần giúp. Sư đón tiếp nồng ấm của xóm nghèo đã cho bạn thật nhiều an-ủi, nhiều sức mạnh hơn nữa để quyết-tâm học-hành thành-công.
Có cần phải viết ra đây những bửa cơm hẩm qua ngày của Lê không? Gạo, củi, muối, nước mắm người đở đầu cho kèm thêm hai mươi đồng bạc thời đó mà một tờ báo bán-tuần-san có tiểu-thuyết Châu Về Hiệp Phố (có hai nhân-vật chánh là Hoàng Ngọc Ẩn, Lệ Thuỷ) của tác-giả Phú Đức thời đó đã là ba đồng thì một cái hột vịt là thức ăn tiêu-chuẩn với cơm cho một ngày của Lê. Dù vậy người học-trò nghèo này vẫn cảm thấy thật may-mắn, hạnh-phúc, thầm nghĩ người cha vắng số đã phù-hộ để có những người tốt bụng hổ-trợ con đường học-vấn của mình.
Thời-gian sau, có Dì Hai trong xóm với căn nhà lá nhỏ , buôn bán cá tép dưới chợ tỉnh để độ nhật, gia-đình nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng nhân-ái, kêu bạn đến ở với Dì. Dì nói:”Có gì ăn nấy với Dì, chớ cháu ở cái nhà trọ này mãi xem tội quá!” Dì cho Lê tình thương như con / cháu ruột thịt. Từ đó Lê càng cố-gắng học thật tốt hơn nữa và kết-quả kỳ thi bằng Trung-Học Đệ-Nhất-Cấp (cuối niên-học lớp Đệ tứ hay lớp chín) đã đạt được thứ hạng cao.
Đến đây, người thân đở đầu cũng có vẻ không muốn Lê học tiếp-tục nữa nhưng thời điểm này làm sao mà bạn bỏ cuộc được. Dầu sao thì tình-thế hiện-tại vẫn thuận-tiện cho Lê kiên-trì tiến bước lên hơn dạo trước.
Vẫn ở nhà Dì Hai cho hết niên-khóa lớp Đệ Tam (Lớp mười), Dì Hai quyết-định dọn nhà về quê nên bán căn nhà nhỏ cho gia-đình kế bên với điều-kiện là vẫn để cho Lê ở tiếp-tục cho đến khi tốt-nghiệp Tú-tài. Lê thường tâm-sự chuyện này với đôi mắt lưng tròng: “Sao mà có người tốt bụng giúp mình tận tình vô vị lợi như vậy!”
Quới-nhân xóm nghèo này thật nhiều! Không lâu sau đó Lê được Cô Dượng Năm chủ đất khu này, nơi mà Cô Dượng đã quãng-đại cho cả chục gia-đình từ trong các làng quê trốn chạy chiến-tranh thời Pháp thuộc cất nhà trú-ngụ, kêu Lê lên nhà Cô Dượng ở. Cô Dượng đã đối xử với bạn như người thân, các con của Cô dượng xem Lê như người anh cả trong nhà.
Sau này khi đã ra đời rồi Lê vẫn xem nơi đây là nhà, luôn nhớ về và viếng thăm khi có dịp. Mối thâm tình đó đã trở thành ruột thịt tự bao giờ và kéo dài cho đến ngày nay.
Sau hơn nửa thế-kỷ vật đổi sao đời, người xưa dần biến mất, cảnh cũ đổi thay, nhưng xóm nghèo này đã là nơi chốn thân thương của Lê kể từ ngày bạn bước chân vào cơ ngơi làm ăn của Ông Năm Lò Rèn hiền-lành tốt bụng mà mỗi lần nhớ đến thì người và cảnh vật vẫn còn nằm im trong góc tim của Lê vội-vàng trỗi dậy. A.
August 5, 2011
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.02.2014 06:50:28 bởi Anh Tú >
HỢP TAN
Gặp gở.
Căn nhà nhỏ của chị Hải kế bên bến nước của một xóm nghèo, với vài chục gia-đình tản-cư từ quê lên, ở ven tỉnh-lỵ bên giòng Cửu-Long. Hầu như ngày nào bà con trong xóm đều gặp chị Hải không sáng thì chiều vì phải xuống bến sông gánh nước, tắm giặt….hoặc mang củi, cây trái ….mua từ những xuồng ghe đem lên nhà.
Thọ, trọ học ở đây, cũng không ngoại-lệ, cứ chiều xuống là mang xà-bông, khăn, áo …đi tắm. Mỗi lần như vậy nếu gặp nhau là họ trao đổi nụ cười và câu nói Thọ thường nhận từ chị Hải là: “ Cậu đi tắm …hả?” Một câu nói thừa-thải nhưng bửa nào mà chị không nói thì chàng lại phân-vân: “ Bộ chị ấy giận mình sao …cà !”.
Chị là thợ may, hằng ngày khách khứa vô ra để đặt may hoặc lấy quần áo được làm xong. Khách-hàng thường là phụ-nữ, già có trẻ có, Thọ cũng chẳng quan-tâm cho lắm.
Hè năm ấy Thọ không về nhà vì phải theo học thêm khoá hè để chuẩn-bị cho niên-khoá tới được tốt hơn
Như thường-lệ Thọ cùng vài bạn sau khi đá banh xuống bến sông bơi lội, đùa giởn với sóng nước cho buổi tắm mỗi chiều. Hôm nay, họ tắm lâu hơn mọi hôm, đùa giởn ồn ào hơn, trỗ tài bơi lội náo-nhiệt hơn vì lẽ phiá sau nhà chị Hải hướng ra sông thỉnh-thoảng thấp-thoáng hai bóng hồng lạ tha-thướt ra vào…
Chiều xuống thấp, đêm về!
Buổi tối Thọ thường đọc sách, làm toán, học bài…Hôm nay, không hiểu sao lòng bồn-chồn không học-hành được mà một thắc-mắc trổi dậy trong lòng…Thọ đi lên đi xuống bến sông, mắt liếc vào nhà chị Hải, một hành-động bất-thường. Đến đêm thì thao-thức, vật lộn với những câu hỏi lởn-vởn trong đầu: “ Họ là ai nhỉ?”, họ là hai cô gái lạ xuất-hiện hôm qua ở nhà chị Hải. Như có gì thôi-thúc trong lòng, chàng tự bảo mình phải tìm cho ra tông-tích.
Vốn là học-sinh nghèo từ quê lên tỉnh nên Thọ chăm-chỉ học-hành cho tốt để vừa lòng gia-đình, xứng-đáng với những lời khen tặng “học-trò khó siêng-năng” của bà con thân thương của xóm nghèo này ban tặng. Dù đến tuổi mơ mộng tình-ái thường tình của thanh-niên lớn lên, Thọ luôn tự nghĩ rằng mình sẽ chẳng có cô nào chiếu-cố vì ăn mặc đơn-sơ với quần áo cũ mèm, ngày lễ nam-sinh mặc lễ phục quần tây/áo sơ-mi trắng còn nhóm học-sinh nghèo như Thọ thì vận bộ bà ba trắng đứng riêng một góc sân trường, vì tự-ti mặc-cảm nên không ăn nói chửng-chạc, văn-vẻ như bạn bè mà trái lại ngâp ngừng, nhút-nhát, e-thẹn…Thế mà bây giờ Thọ nhất thời thay đổi thái-độ, bạo-dạn lân-la đến nhà chị Hải hôm sau để làm quen hai cô em họ của chị từ Sài-Gòn về đây nghỉ hè.
Là thị-dân, sinh ra và lớn lên ở Sài-Gòn, đã hun-đúc cho hai cô lối sống dạn-dĩ, cởi-mở, hoạt-bác, vui-vẻ …Đặc-biệt họ rất thân-tình, không khách-sáo, kệch-cỡm. Những ưu-điểm ấy đã thúc đẩy Thọ thích được kết thân với họ. Thọ có linh-tính hình như chị Hải đã nhúng tay vào sắp xếp chuyện này cho những người trẻ tuổi này có dịp gặp-gỡ để kết thân nhau vì vào lúc gỏ cửa nhà chị để làm quen, Thọ thấy họ chụm lại nói nhỏ với nhau và cười khúc-khích ngó về phía chàng. Nhận-xét ấy không sai bởi sau này khi đã thân quen, chị thú-thật vì mến Thọ nghèo mà hiền-hậu, chăm-chỉ, học-hành giỏi, đứng-đắn nên muốn giới-thiệu với mấy cô em họ, biết đâu…có mối duyên lành?!
***
Những ngày hè trôi qua nhanh. Những kỷ-niệm nho nhỏ nhen nhúm khởi đầu cho tình bạn được hình thành trong lòng mỗi người; người ở lại xóm mhỏ nghèo-nàn và những người trở về thủ-đô phồn-hoa nhộn-nhịp với hẹn ước sẽ gặp lại nhau trong mùa tựu trường.
Thọ thầm so-sánh hai chị em Ngọc và Huyền, hai cô em họ của chị Hải. Cả hai sắc vóc bình-thường nhưng có những nét ngầm thanh-lịch. Cô chị Ngọc tánh tình điềm-đạm, mĩm cười nhiều hơn nói. Cô em Huyền thì liếng-thoáng, líu-lo như chim sơn ca, hoạt-bát, cười nói liền miệng dễ gây chú-ý và cảm-tình với những người tiếp chuyện và chính điều này tình-cảm của Thọ đã nghiêng về Huyền; nàng đang học tại một trong hai trường nữ công-lập nỗi tiếng miền Nam trước 1975 tại thủ-đô Sài-Gòn.
Không hẳn “thảm thương” như hai câu thơ :
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ.
Hàn Mặc Tử
Nhưng gần gần như vậy, Thọ ngơ ngơ ngẩn ngẩn suốt ngày không làm gì được. Chàng mong mau đến ngày tựu trường để có dịp đến thăm hai cô bạn mới. Những buổi chiều đi tắm chàng vẫn thường liếc mắt nhìn lên nhà chị Hải dù biết rằng họ không còn ở đó. Đôi lúc trò chuyện với chị Hải, chàng tìm cách nói khéo để dò hỏi xem cảm nghĩ của Ngọc và Huyền đối với mình ra sao. Hình như nhìn thấu “tim đen” của chàng nên chị trả lời ởm ờ “Tôi cũng không được rõ nhưng….”, chị dừng lại mĩm cười để chàng chờ đợi đôi giây rồi nheo mắt: “ chắc…họ có thể cũng như cậu vậy”. Nghe thế lòng chàng phấn-khởi lên và càng háo-hức tưởng-tượng những tình-tiết lãng-mạn có thể xãy ra trong lần gặp lại sắp đến.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Nguyễn Du
Tối hôm nay trăng rằm rực-rỡ trên bầu trời không mây, gió thổi nhè nhẹ mang hơi nước từ giòng sông Cửu mơn-man mặt chàng, ngồi bên này bờ sông nhìn sang bên kia bờ hướng Bắc cũng là hướng của Kinh-đô ánh sáng – thành-phố của người con gái vừa gặp-gỡ mà đã cho chàng thật nhiều mơ ước, chàng tự hỏi : “Giờ này em đang làm gì và có nghĩ đến anh như anh đang nhớ em không?
Tìm Thăm
Mùa tựu trường đến là nỗi mừng vui không cùng của Thọ. Chàng khăn gói trở lại Sài Gòn. Sắp xếp mọi việc sẳn-sàng cho việc học xong , chàng vội-vã trong nôn nóng tìm đến địa-chỉ nhà Ngọc và Huyền. Vốn nhà nghèo (thế mà nay lại.. đèo bồng?) nên mọi di-chuyển chàng thường dùng xe đạp, vừa tiết-kiệm, vừa thể-dục lại dể tìm kiếm địa-chỉ lần đầu. Cũng không khó-khăn lắm cuối cùng chàng đã đến trước cửa nhà hai chị em.
Trong ngỏ hẻm của một khu trung-lưu, qua vài lần đổi hướng, một căn nhà đơn-sơ với gát lửng, không sân sau, một khoảng sân trước nho nhỏ có hàng rào cây đủ để …ngăn người lương-thiện, chừng tỏ chủ-nhân của căn nhà là giới trung lưu.
Ba của Ngọc và Huyền là công-chức làm việc ở trung-tâm Sài-Gòn, sáng vác ô đi chiều vác về trên một chiếc xe gắn máy cở nhỏ gọi là Mobylette. Với dáng người nhỏ-nhắn, lịch-sự vừa đủ nên ông có vẻ hơi nghiêm-khắc. Lần đầu chào kẻ lạ như chàng, nhất là đưọc giới-thiệu là người bạn mới của con gái của mình, ông bắt tay lỏng lẻo, cười nửa miệng nói lời xã-giao: “Ở nhà chơi nhe, tôi phải đi làm!”. Dù thế chàng cảm thấy quá đủ, tự tin thầm nghĩ “ông già này” cũng dễ thương và chắc đã có chút cảm-tình với mình.
Mẹ của hai chị em chỉ là phụ-nữ nội-trợ chăm lo cho gia-đình, vui khi có bạn bè của con đến chơi nhất là bạn của con gái vừa mới lớn trong nhà. Bà khoảng trên năm mươi, dáng người trung-bình, trắng-trẻo, vui-vẻ luôn có nụ cười trên môi; lúc còn trẻ chắc bà là một phụ-nữ đẹp. Bà kêu con gái làm nưóc đá chanh đải khách . Ngày nắng Sài Gòn, còng lưng đạp xe vài cây số mà được mời một ly nước “chua lạnh ngọt” như thế thì còn gì bằng, nhất là được người bạn gái mới quen mình ái-mộ mời.
Ngọc và Huyền còn hai em trai và hai em gái; chúng tò mò nhìn người bạn mới của hai chị với mắt cười chào mừng. Một tín-hiệu tốt cho Thọ.
Đây là lần đầu trong đời chàng đánh liều làm điều mà trước kia chàng không bao giờ dám nghĩ tới. Có lẽ đã đến lúc tình-yêu cuả trai gái lớn lên đã chín mùi trong chàng đã khiến chàng can-đảm như thế. Không tránh khỏi sự bỡ-ngỡ phài có của người con trai với mặc-cảm nghèo khó vô-tình đã tạo sự nhút-nhát, ngượng-ngùng bấy lâu thành thói quen; do đó Thọ thiếu kinh-nghiệm trong giao-tiếp với người khác phái. Trong trường-hợp này… mặt yếu lại trở thành mặt mạnh, Ngọc và Huyền tin-tưởng chàng là người tốt.
Giống như một ngẫu-nhiên nhưng được hình thành từ những sự kiện khách-quan lẫn chủ quan là Ngọc vô-hình-chung xem mình là vai chị đối với chàng thể-hiện qua vài cử-chỉ và lời nói. Điều ấy chàng và Huyền vui mừng chấp- nhận và thầm cám-ơn sự tế-nhị của Ngọc.
Sau những phút giây bỡ-ngỡ ban đầu, những câu nói vụng-về lẫn bâng-quơ dần dần dẫn đến rộn-rã vui cười của tuổi trẻ vốn dễ nhanh chóng hình-thành.
Thọ thầm nghĩ nửa giờ viếng thăm lần đầu tiến-triển tốt đẹp như vậy chắc vừa đủ nên viện cớ về để lo cho việc nhập học, chàng chào tạm biệt mọi người và xin phép có dịp sẽ thường đến viếng thăm. Được lời mời chàng trở lại bất-cứ lúc nào là đóa hoa đẹp nở rộ trong lòng chàng hôm ấy.
Hạnh-Phúc
Các chị em của Huyền và Ngọc đã trở lại trường hai tuần rồi cũng như Thọ.
Trường của Huyền và nhà trọ của Thọ tình-cờ nằm cùng trên một con đường, đầu đường thuộc quận Một và cuối đường ở quận Ba. “Em đầu sông, anh cuối sông”! Xưa chàng có bao giờ để ý đến sự liên-hệ này đâu, nay lại thường nghĩ về và thấy thương làm sao những vật vô-tri này, chúng như có phép mầu làm cho tâm-hồn chàng lâng lâng hạnh-phúc.
Ngày xưa muốn nói gì với ai thì chờ hoặc tạo ra dịp mặt đối mặt chớ đâu may mắn như bây giờ có đủ cách liên-lạc bất cứ lúc nào. Chàng muốn ngay bây giờ đạp xe đến thăm Huyền cho thoả sự chờ mong nhưng vì ngại mới có thời-gian ngắn mà đã vội-vàng người ta cười cho. Chàng tự nhủ lòng hãy ráng đợi thêm một tuần nữa vậy. Khi chiều xuống, lúc rảnh rang Thọ đạp xe từ cuối đường đến đầu đường, đi ngang ngôi trường kín cổng cao tường nhìn vào tưởng như thấy nàng trong ấy cho đở nhớ.
Như dự-định, trong một buổi viếng thăm, chàng đã mạnh dạn ngõ lời mời Ngọc, Huyền và các em vào thứ bảy tới cùng nhau đi dạo chợ Sài Gòn và nhân tiện chàng sẽ đải một chầu kem để mừng …sự hình thành một tình bạn mới. Mở lời thật khó-khăn vì đây là lần đầu tiên trong đời…May mắn là đối tượng vui-vẻ nhận lời và chàng rất vui-vẻ…huýt sáo trên đường về nhà trọ.
Kể từ ngày thứ bảy ấy, những vĩa hè của đường Tự-Do, Lê Lợi, Lê Thánh Tôn….đã đón nhận thêm những bước chân của những người trẻ tuổi ở tuổi mộng mơ bát phố hầu như mỗi cuối tuần; Thảo Cầm Viên, bến Bạch-Đằng là nơi của những buổi pinic vui chơi quên cả giờ về.
Theo thời-gian tình bạn thân-mật hơn cho nên những buổi xem xi-nê được hình thành một cách tự-nhiên. Những rạp chiếu phim như Eden, Rex, Hưng Đạo, Casino...lần lượt đón chào nhóm bạn hửu nửa tá thành-viên đến viếng. Không ai bảo ai như vô tình nhưng thật ra là cố ý chấp nhận cho mối liên hệ thân mật giữa Thọ và Huyền từ từ hình thành cho nên vào rạp thì hai người luôn được sắp xếp ngồi bên nhau.
Đến một lúc nào đó mọi người trong gia-đình Huyền cũng như bè bạn của họ đã phải khen Thọ và Huyền là một cặp xứng lứa vừa đôi. Dù vậy nhưng họ luôn gìn giữ gìn tình-yêu thật trong sáng chỉ với những cái nhìn âu-yếm, những lần nắm tay nhau dạo phố, quá lắm là những nụ hôn phớt má bất chợt của Thọ tặng Huyền mà thôi.
Rồi có những buổi tối trễ tràng sau những giờ học bài mỏi mệt, chợt nhớ em da diết. Cầm lòng không được, Thọ đã đạp xe cọc cạch dưới ánh đèn đêm vượt đường xa đếm thăm Huyền dù biết rằng khi đến nơi có thể người yêu đã vào giấc ngủ. Như thể có “thần-giao cách-cảm” cho nên khi đến nơi, đứng ngoài hàng rào thì chàng đã thấy Huyền trên balcon như chờ đợi. Những bàn tay gởi nụ hôn gió trao nhau cũng đủ thoả lòng của hai kẻ đang yêu tha-thiết. Đã khuya và cũng đã đạt được ý mình mong muốn là chỉ cần như vậy là thỏa dạ Thọ huýt sáo đạp xe trở về.
Cũng có những tuần miệt mài học ôn bài vở để thi lục-cá-nguyệt nên họ phải gát lại những buổi đi dạo phố thường lệ. Dù thiếu vắng những liếc mắt thiết-tha, những nụ cười rộn rã, những bước chân chim của người yêu bên cạnh, Thọ cũng đành chịu. Huyền chắc chắn cũng cùng tâm-trạng nhưng vì là nữ giới, kềm lòng chẳng được nên một chiều thứ bảy nọ chị em của Huyền đã đến nhà trọ của Thọ để viếng thăm. Thôi thì tạm gát lại bài vở đôi giờ để cùng nhau ra phố.
Biết bao kỷ-niệm sâu đậm của mối tình đầu tiên Thọ đã trân-trọng ghi khắc vào lòng. Chàng tự nhủ lòng phải cố-gắng học-hành để đổ đạt ra trường có một nghề bảo-đảm cho tương-lai thì khi đó Huyền sẽ là người cùng chàng đi suốt đường đời. Chàng luôn luôn cố giử mối tình thật trong sạch để tôn-vinh tình-yêu lứa đôi; đó cũng là, theo quan-niệm của Thọ, sự tương kính của lứa đôi làm nền tảng cho tình-yêu lâu dài.
Những lần được dịp đi chơi riêng lẻ, những buổi che dù đi dưới mưa…hai đứa đã từng thỏ thẻ tâm-sự như vậy và siết chặt tay nhau như lời thề thủy-chung.
Duyên Phận.
Nhớ vào những ngày lễ dài hạn Thọ thường ở chơi với gia-đình Huyền suốt ngày như người thân trong nhà. Thậm chí có những lúc Thọ ở lại nhà của Huyền qua đêm. Kể từ khi quen nhau đến sau này hai người luôn luôn giữ một khoảng cách cần-thiết để bảo-đảm tình-yêu của họ thật trong sạch cho nên dù đôi khi Thọ ở chơi qua đêm, hai đứa không bao giờ bị gia-đình phàn-nàn bất cứ chuyện gì mờ ám nào cả. Thọ quan-niệm phải giữ-gìn sự quan-hệ của hai đứa trong vòng lễ giáo cho đến ngày thành-hôn.
Thọ dành thời-gian rảnh rỗi của thời-khoá-biểu sinh-hoạt trong tuần để hẹn gặp với nhau ở một điểm nhất-định, gặp dù chỉ nhìn nhau nói đôi lời hoặc khi thuận-tiện cùng ngồi với nhau bên ly kem cũng đã thấy tình-yêu lên ngôi.
Mọi chuyện ở đời đều thay đổi theo thời-gian: hướng phải hay trái, tích-cực hoặc tiêu-cực. Chuyện tình-yêu của Thọ và Huyền cũng không ngoại lệ.
Chợt có những thất hẹn. Lời giải-thích: Sau giờ học em bận phải học thêm khóa học ở một nhà máy dệt nào đó bên Khánh-Hội thuộc quận Tư. Những tìm hiểu cho biết: Hình như một điều gì đó không ổn cho tình-yêu của hai người xuất-hiện. Một kỷ-sư Hoá-học ở nhà máy Khánh-Hội muốn giúp Huyền một nghề! Có lúc nàng lánh mặt…
Đã không vào yêu thì thôi chớ khi vướng phải thì sự chao đảo dù nho nhỏ của cuộc tình cũng làm buồn bã ít nhiều.
May sao chuyện học nghề rồi cũng chẳng đến đâu vì một lý-do nào đó mà Thọ cũng không cần tìm hiểu chỉ biết cảm-ơn hoàn-cảnh đã trả người yêu của mình trở về vị-trí cũ.
Những buổi dạo phố cuối tuần tiếp-tục cách bình thường đã cho nhau lại những phút giây lãng-mạn, hạnh-phúc.
Để ghi dấu những kỷ-niệm lang thang trên từng góc phố Sài-Gòn, Thọ muốn có một vài tấm ảnh thì luôn luôn bị Huyền khéo léo thối thoát. Một thoáng suy-nghĩ về thái-độ này của người yêu nhưng chàng nhanh chóng biện-hộ cho nàng vì …nàng sống trong sự giáo-dục đạo-đức xưa cũ giữ-gìn này nọ nhưng sau này thì Thọ hiểu rõ đó là cách tính toán lo xa của Huyền.
Bảo lục miền Trung trầm-trọng xảy ra cho bao gia-đình lâm cảnh màn trời chiếu đất cần sự hổ-trợ của mọi người trong nước. Sài-Gòn, thủ-đô của miền Nam Việt-Nam cũng góp phần “Lá lành đùm lá rách”. Chiến-dịch quyên góp quy-mô được hình thành để đi lạc-quyên khắp thành-phố. Lực-lượng học-sinh sinh-viên được huy-động một cách chính-quy. Những tổ học-sinh do một sinh-viên hướng-dẩn được thành-lập để lao vào chiến-dịch. Thọ và Huyền cũng lăn xả vào công-tác với tất cả tình-yêu đồng-bào bừng cháy trong tim.
Sau chuyến công-tác này Huyền bắt đầu thân quen với anh chỉ huy của tổ lạc-quyên, là một sinh-viên y-khoa sắp ra trường. Một bàn cân được thiết-lập trong gia-đình của Huyền và họ đã đánh giá là tương-lai của anh sinh-viên này sẽ sáng sủa hơn của Thọ; kẻ mà chỉ là một giáo-sư trung-học tầm-thường. Và sự kết-luận đó đã là kim chỉ nam của một kế-hoạch giã-từ. Những nhạt-nhoà bắt đầu xuất-hiện vào những ngày Thọ đến thăm người yêu. Cánh cổng vào nhà trước kia em út của Huyền tranh nhau mở mỗi khi chàng đến… bây giờ hai đứa ngó nhau chờ lịnh, cửa vẫn im lìm để Thọ đứng đợi khá lâu. Thậm-chí đôi khi chàng cảm thấy lố-bịch, tủi lòng lẫn chút xấu-hổ đến độ muốn bỏ đi nhưng vì thương Huyền nên cố-gắng kiên-nhẫn đợi.
Lần đầu quen Huyền tại một tỉnh lẻ vào mùa hè năm chàng đậu Tú-Tài 2 và niên-khóa kế là chàng vào Đại-Học tại Sài-Gòn. Bốn năm trôi qua chàng ra trường, rời thành-phố đến một nhiệm-sở xa xôi. Một năm vì nghề-nghiệp phải cách trở người yêu. Chàng đang rơi vào trạng-thái bất an lo-lắng cho mối tình đầu hình như đã mỏng-manh.
Có lần để xác-định rõ thái-độ của Huyền, chàng hỏi:
-Em nghĩ sao nếu anh đưa mẹ đến xin cưới em?
Huyền lơ đảng trả lời:
-Tùy ba mẹ em quyết-định….hay là anh xin cưới chị của em đi!
Những chữ cuối cùng là chén nước lạnh tạt mạnh vào mặt Thọ. Huyền đã đánh-giá chàng quá thấp, thiếu sự tương-kính. Sự kiên-trì mong cứu vãn tình-yêu của Thọ đã đến một giới-hạn mà tự-ái của người con trai có thể chịu đựng. Thọ tự nhủ: trên bầu trời xanh bao la còn có biết bao nhiêu vì sao lấp lánh cớ gì phải nhập nhàng với một kẻ quay lưng. Buồn-bã một chút phải có vì chàng cũng là con người bình-thường nhưng nghĩ ra rằng đó là một may-mắn cho chàng khi đáp số được giải tìm sớm sủa.
Chàng biết mình phải làm sao rồi! Sự cay đắng bất chợt khiến chàng bất động. Cuối cùng chàng nhìn thẳng vào mắt Huyền không nháy mắt như soi rọi quả tim của Huyền xem coi cấu-tạo bởi chất-liệu gì mà tàn-nhẫn với chàng đến vậy. Một phút trôi qua trong sự im lặng của hai người, chàng nhẹ-nhàng:
-Thôi anh về đây!
Thọ tự mình mở cổng, lắc nhè nhẹ cánh cổng tựa nói lời từ-giả với nó rồi từ từ đóng lại. Tình-yêu này rồi sẽ phải khép lại như thế sao?
Thọ không đến nhà của Huyền khá lâu cho đến một hôm…Hôm ấy khi chàng đứng trước cổng thì ngay tức thì Huyền ríu rít chào mừng, tự tay chạy ra mở cửa cho chàng, thân-mật mời ngồi rồi chạy đi làm ly nước đá chanh giải khát, ly nước ngọt-ngào nhắc chàng nhớ lại lần đầu tiên đến đây cũng chính tay Huyền làm và mời. Trước sự việc như vậy lòng chàng nhất thời xúc-động thầm nghĩ: “ Ồ! Bộ em …suy nghĩ lại rồi sao?” nhưng tức khắc chàng đã hiểu ngay tại sao Huyền có thái-độ nồng ấm này. Giải đáp có tức thời khi mà không lâu sau đó Huyền ngõ lời nhờ chàng xem điểm thi Tú-tài 2 của Huyền ra sao?
Lúc bấy giờ Thọ đang làm giám-khảo kỳ thi Tú-tài 2 năm ấy, năm Huyền dự thi. Có lẽ chàng cảm thấy thoải-mái hơn nếu Huyền biết kiên-nhẫn chờ đến khi chàng tự báo tin. Chàng bình-thản và có phần lạnh nhạt:
-Hôm nay anh đến đây cũng vì chuyện này. Em đã đậu rồi. Chúc mừng em!
Nàng mừng-rỡ và cám-ơn chàng.
Thôi thì thông-cảm cho Huyền! Nghĩ cần làm cho hết vai-trò cho phải phép, chàng ngồi nán lại tiếp tục chuyện trò .
Trong câu chuyện, Thọ hiểu thêm rằng bà nội của Huyền có lúc bị bệnh, nằm nhà thương và được sinh-viên y-khoa mà Huyền quen biết dạo trước săn-sóc giúp-đở tận-tình. Gia-đình và kể cả Huyền vô-cùng biết ơn.Anh ấy cũng đã thường đến đây chơi như chàng dạo trước.
Đã rõ lắm rồi ! Tuy-nhiên Thọ, dù sao cũng xem như là bạn thân của nhau, bèn ngõ lời mời Huyền và các chị em đi chợ Sài-Gòn dạo phố và…nhân đó đãi kem mừng Huyền thi đậu. Sau một lúc như đắn-đo suy-nghĩ, Huyền từ-chối nói rằng vì…dạo này ba mẹ khó-khăn nên không thể nhận lời. Thọ đành xuôi theo dòng:
-Đi không được cũng chẳng sao cả….Cám-ơn em.
Chàng lơ-đảng hướng mắt ra khung cửa sổ nhìn bầu trời mùa hè xanh thăm thẳm, không một áng mây mà sao trong đầu chàng hình như có chút mây xám đang lững-lờ trôi. Dầu không ai nói ra lời chia tay nhưng những diễn-tiến đã xãy ra giữa hai người mặc-nhiên phải hiểu rằng bây giờ chỉ còn là tình bạn, lại là một tình bạn nhạt nhòa. Dù đã thế nhưng Huyền nỡ lòng nào đối xử nghiệt-ngã với chàng như vậy? Đành thôi!
Thọ cố-gắng ngồi lại đôi mươi phút nữa, cố tiếp-tục trò chuyện, giử nét mặt bình-thản dù thật ra trong lòng nổi sóng.
Nhưng kịp trước khi Thọ ngõ lời ra về thì Huyền lại nhận lời; có lẽ nàng suy-nghĩ lại dù sao cũng cần tỏ vẻ biết điều một chút: cám-ơn chàng đã giúp đở xem điểm thì mới phải phép.
Đã trễ rồi! Bị hụt-hẫng từ đầu và do đó tự-nhiên thấy thờ-ơ trong chuyện hẹn-hò này, chàng nhỏ nhẹ trả lời bằng hai chữ cám-ơn gọn nhẹ không xác-nhận sẽ chấp-nhận buổi hẹn hay không.
Chàng đã đọc đâu đó những dòng thơ:
Em lạnh nhạt lúc chân anh quay gót
Có buồn không? Khi lòng tự hỏi lòng
Buồn bã đó nhưng tim sao hờ hững
Có gì đâu đời vốn chuyện hư không!
Vâng! Đời người đúng là hư không! Với “sinh lão bệnh tử”, sống đời nghèo khổ hay sung-sướng, vô-phúc hay hạnh-phúc, bình-dị hay danh-vọng, bị áp-bức hay uy-quyền….., từ người dân khố rách áo ôm cho đến vua chúa như Tần Thủy Hoàng rồi cũng sẽ đi đến “một mẫu số chung” là số không mà thôi.
Như vậy thì Thọ ơi! Xá vì một mối tình gái trai cỏn con này mà phải quỵ lụy, khổ sầu? Trời cao đất rộng người đông, sao hằng hà, biển sông khắp chốn, ngàn hoa đua nở ngoài kia…mi hãy vui ngắm sao trời lấp lánh, những cánh hoa thơm, những đóa hoa dại mộc-mạc, rong bước sông hồ, …hãy làm tròn thiên-chức của mình trên con đường mà mi đã chọn, chả lẻ không ý-nghĩa và hạnh-phúc hơn sao?
Chàng chào mọi người ra về mà trong lòng thầm nghĩ là từ-biệt, không ai đưa ra cửa, tự mở rào rồi nhẹ-nhàng khép lại, nhịp bước rời ngõ hẻm ra con đường lớn thênh-thang, thông-thống, sáng đèn hướng về trung-tâm thành-phố.
Thành-phố đã lên đèn. Chàng muốn đi lang-thang để cho sự cô-đơn lên ngôi khi bước chân chàng tự-nhiên dẫn chàng vào lối cũ nơi mà thuở nào chàng và Huyền nắm tay truyền hơi ấm cho nhau trong những tối hẹn hò.
Nhịp bước cô-đơn để buồn trầm lắng
Hàng me đêm đứng im-ắng gục đầu
Cùng bóng mình sóng đôi trên đường vắng
Tự hỏi bao giờ vợi bớt niềm đau?
Chàng chợt dừng lại lề đường trước một bà lão bán thuốc lá, mua một điếu lẻ, que diêm loè lên, hít nhẹ một hơi, ngụm khói bay quanh mặt chàng…Một cảm-giác lạ bắt gặp vì là lần đầu hút thuốc, chàng nâng-niu, vo-ve điếu thuốc và tiếp-tục bước đi….
Đến ngày giờ hẹn, chàng không đến và cũng không rõ Huyền có đến hay không nữa: tất-cả chẳng còn quan-trọng với chàng!
Thôi xem như lỗi của mình vì Thọ đã không đủ tiêu-chuẩn để lo tương-lai cho người hôn phối dưới mắt của Huyền và gia-đình Huyền, thì sự lỗi hẹn này chàng xin chọn để chấm dứt hẳn câu chuyện ước mơ cuộc sống lứa đôi của hai người mà chàng đã đặt rất nhiều kỳ-vọng. Và hơn hết sự kính-trọng giữa hai người yêu nhau đã mất thì thử hỏi chuyện vợ chồng sẽ về đâu?
A.
Octber, 2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.03.2014 00:48:50 bởi Anh Tú >
Tuyết Đầu Mùa
Định cư tại vùng đất này khá lâu tôi có bao giờ để ý tới những trận tuyết đầu mùa đâu.
Nói gì lần đầu tiên gặp tuyết lúc mới định cư tại Hoa Kỳ coi như đã mờ mịt trong ký ức. Lúc đó bở ngở với mọi thứ cho đời sống của một gia đình nơi xứ lạ, ngôn ngữ bất đồng, không tiền bạc, không nghề nghiệp phù hợp với xã hội mới …thì tâm trí đâu để ý đến chuyện tuyết rơi.
Lăn xả vào cuộc sống với hai bàn tay trắng thì tuyết là một trở ngại đáng ghét khi Đông về. Lạnh rét, trơn trợt, càng nguy hiểm hơn khi trở thành nước đá nếu nhiệt độ hạ xuống thấp thì màu tuyết trắng…là màu tượng trưng cho sợ hải..
Phải dọn tuyết cho con đường vào nhà, tuyết rơi ít thì việc này là việc nhỏ nhưng nếu tuyết nhiều hoặc thường xuyên thì cũng …làm đau lưng lắm. Người địa phương nếu có tiền thì họ mua máy thổi tuyết hoặc mướn người cào còn như mình, dân tha phương cầu thực, đã sống và lớn lên tại đất nước nghèo khổ thì chịu khó tự lo toan để tiết kiệm thêm ít tiền mua gạo. Những lần cầm xẻng xúc tuyết … ném tuyết đi đôi khi cũng cho tôi những hoài niệm về quê nhà dấu ái. Vốn xuất thân từ giai cấp bần cố nông, đào rãnh vét mương, đấp bờ ngăn nước…là chuyện thường ngày; rồi những lần lao động xã hội chủ nghĩa đào kinh thủy lợi, đắp đê nuôi tôm xuất khẩu năm nào thì chuyện xúc tuyết chỉ là chuyện đi dạo chơi ngắm cảnh mà thôi. Đôi phút nhớ về như thế cũng đã làm chùn dạ kẻ xa quê hương. Thiển nghĩ dù có nhọc nhằn nhưng đôi bàn chân dẫm lên đất mẹ, đôi tay chay cứng nắm cái xẻng cán bằng cây lưởi thép rèn từ lò rèn thủ công, đầu đội trời xanh thăm thẳm, nắng chang chang, mũi thở mùi đất…nồng mùi rạ mục, mắt nhìn quanh thấy bà con tóc đen, mũi tẹt nói …tiếng độc âm thì tâm tư ấm áp vô cùng. Điều này nói ra nếu có là cường điệu đi chăng nữa nhưng nó là sự thật đã nằm sâu kín trong góc tim khi xa quê cha đất tổ.
Những bở ngở ban đầu nơi xứ lạ rồi cũng qua đi. Nhập giang tùy khúc nhập gia tùy tục, bụng đói thì tay phải làm…để hàm nhai nghĩa là phải hội nhập. Một trong những cái hội nhập phải biết lái xe và phải mua xe, dù mới dù cũ; mua xe để làm phương tiện di chuyển chứ không phải để…làm của, khoe sang. Lần lái xe đầu tiên, cái gì đầu tiên cũng…run, thực tập để thi lấy bằng lái, lần đầu tiên đưa vợ đi chợ đi làm, đưa con đi học, lần đầu tiên lên xa lộ xe cộ như mắc cưởi chạy vùn vụt …đều run! Khỏi nói lần đầu tiên lái xe khi đường có tuyết còn run gắp nhiều lần, xe nó lạn qua lại, thắng thì xe quay đầu hoặc cứ …trườn tới mãi! Riết rồi cũng quen: ngày qua ngày kinh nghiệm tích lũy cho việc lái xe trong tuyết nên bớt sợ hãi nhưng luôn luôn phải cẩn trọng.
Nhớ có lần lái trên đường tuyết đổ bằng chiếc xe con “front wheel drive” (tạm dịch là loại hai bánh trước phát động; loại này khá hơn loại hai bánh sau phát động, và thua loại bốn bánh phát động khi đi trong tuyết) lái một cách khép nép, từ tốn, chậm rãi sát lề thì có chiết xe Jeep “four wheel drive” (bốn bánh phát động) chạy vù qua mặt, vừa qua mặt một đổi thì chiếc xe ấy quay như bông vụ; có lẽ do tài xế thắng gấp thì phải.
Có lúc đi làm “ca” hai,tôi luôn về khuya. Một hôm dưới một trận bảo tuyết giửa đêm, tám hướng tuyết trắng xoá, phải lái xe như rùa bò theo sự đoán mò phương hướng của con đường về nhà. Theo cách này xe bị leo lề đường …dễ xảy ra như chơi. Căng mắt lên để lái xe, miệng niệm “Di Đà” và trời lạnh thế mà thân thể đẫm ướt mồ hôi.
Tuy nhiên, thuở ấy còn…phong độ nên nàng tuyết hành hạ cở nào cũng không có ngán.
Những năm gần đây khi vào tuổi hưu, mỗi lúc Đông về thì bắt đầu để ý đến tuyết đầu mùa, thầm vái trời mùa Đông mỗi năm càng ít tuyết càng tốt vì đã ngán cái lạnh thấu xương và cảnh lom khom xúc tuyết. Dù vậy đôi lúc cũng thấy tuyết đẹp khi nhớ lại thời đi học xem phim L’Arbre De Vie (thuở ấy dịch là Cây Nhân Sinh) mê đào Elizabeth Taylor vận y phục màu đỏ nằm trên tuyết trắng như bông gòn.
Hôm 29/10/2012 nàng “ superstorm” Sandy tấn công vùng Tri-State (New Jersey, New York và Connecticut) ở bờ Đông Bắc Huê Kỳ gây cảnh màn trời chiếu đất, mất điện, mất nhà, dân chúng chưa kịp hoàn hồn thì một trận bão mới gọi là Nor’easter có gió mưa tuyết tấn công nơi này lần nữa. Thật là “họa vô đơn chí”. Có thấy được những hình ảnh tàn phá nhà cửa khủng khiếp tại những nơi mà trung tâm bảo lướt qua làm người dân ở đấy mất tất cả, sống vất vưởng trong giá băng thì mình đang êm ấm trong nhà mới cảm nhận được cái phúc to tát mà mình đang hưởng.
Ngày 7/11/2012, trận bảo mới bắt đầu, tuyết đầu mùa bắt đầu rơi khi trời sắp tối.(P1).
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/73BCAB27668D4E8893BD61D0DF4EDD31.JPG[/image]
Sáng hôm sau thức dậy thấy tuyết đã rơi phủ đầy sân(P2),
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/7A9B73E4786C4A7A8715C3CDB334DB8C.JPG[/image]
tuyết bám trên cành cây, tuyết phủ những đống cây ngả (do Sandy gây ra) được gom lại…(P3,4)
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/87FE1C7E3B68484B92A09797062D3039.JPG[/image]
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/E68BAB1333F74B658F53DD801E3B3F5E.JPG[/image]
Sáng 9/11/2012 do nhiệt độ ấm trở lại, tuyết đã tan phần nào, chúng tôi đến sân vận động gần nhà nơi mà mỗi sáng thường đi bộ. Thấy trên sân có một “tảng đá” bằng tuyết(P5),
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/D6F41920D90C4FECBC51ED276144A072.JPG[/image]
chắc do ai đó đến đùa với tuyết hôm qua đắp thành.
Lạnh lẽo, ướt át …khó làm công việc dọn dẹp ngoài trời, một cháu nội đến trường còn một đứa ở nhà cũng dễ “quản lý”, có chút thì giờ nên ngồi xuống ghi ra bất cứ những ý nghĩ gì liên quan đến tuyết chợt xuất hiện trong đầu để đánh dấu một móc thời gian và chuyển đến bè bạn đọc chơi để … “giết” thì giờ.
A.
Mùa bầu Tổng Thống Hoa Kỳ
November, 2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.11.2012 23:43:55 bởi Anh Tú >
Ý nghĩ vụn vặt một sáng.
Bắt đầu tháng cuối cùng của năm 2012.
Cứ khoảng ba hay bốn giờ sáng là thức giấc, tôi ít khi ngủ trở lại được ngoại trừ hôm trước đã bị mất ngủ. Mãi rồi trở thành thói quen. Để ngủ được ít nhất sáu tiếng đồng hồ cho mỗi đêm nên tôi phải đi ngủ sớm. Theo dòng thời gian, ta thường trãi qua những điều lạ mà lúc thanh niên ta không bao giờ nghĩ tới.
Không gian thật tỉnh lặng; chỉ có tiếng gõ nhịp của chiếc đồng hồ treo tường dù chạy điện mà tiếng tích tắc vẫn rõ mồn một. Tôi có cảm giác đó là tiếng bước chân của mình như xê dịch dần đến một điểm đích nào đó ở cõi mơ hồ.
Bốn muỗng cà phê xay sẳn cho vào”phin”, một ly nước sôi thêm vào, chờ đôi phút, tôi sẽ có “ly cà phê một mình” pha với một ít sữa bột, không đường. Dân “xây chừng” chắc chẳng có ai thích loại cà phê này đâu; với tôi nó là “số một”…! Ăn cơm chiều sớm mỗi ngày nên qua đêm thức dậy là đói meo. Một lát bánh mì và một trái chuối để lót dạ là tối thiểu..
Tôi tự nghĩ mình cũng còn tốt số - còn có thể tự mình làm ly cà phê / mẫu bánh mì cho cái bụng, còn có cái máy vi tính để viết/để vào mạng đọc tin trao đổi thư từ,...cho “cái đầu”- hơn bao nhiêu người thiếu thốn …ở đâu đó trên trái đất này rồi. Nhìn xuống để có cảm giác dễ sống chớ nhìn lên mỏi cổ khổ sở lắm. Hạnh phúc nho nhỏ cũng dễ dàng tìm, nó ở quanh ta; nhưng hạnh phúc là đủ nghĩa rồi đâu cần phải là nho nhỏ hay là to tát.
Sáng mùng một tháng muời hai rồi! Chỉ còn ba mươi mốt ngày nữa kể cả hôm nay tôi sẽ được thêm một tuổi. Nhanh thật! Mới đó!
Tiếng trống công phu, tiếng gà gáy báo sáng thường lệ nhưng sao hôm nay tôi say sưa lắng nghe; nghe thấy hơi thở mình thật ngọt ngào làm sao! Một ngày mới với sức khoẻ dồi dào cho tôi niềm vui sống: hạnh phúc!
Có ai chia sẻ cùng tôi ý nghĩ vụn vặt này? Nếu có tôi sẽ nhận thêm một hạnh phúc khác nữa và xin cảm ơn. A.
01 Dec 2012
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/371E144CD58F430D81FFDB52E8153FA7.JPG[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.12.2012 23:35:17 bởi Anh Tú >
Giáng Sinh này tôi nghĩ…
Thú thật không thể nhớ khi nào tôi để ý tới lễ Giáng Sinh lần đầu tiên; có lẽ vào các năm cuối của bậc Trung học, sau một thời gian tiếp xúc với cuộc sống thị thành và tuổi đời lớn hơn.
Bắt chước mọi người xung quanh, tôi cũng nhịn ăn để dành tiền mua vài tấm thiệp, tập tành viết lời chúc Giáng Sinh cho vài bạn thân. Dần dần số thiệp tăng theo số bạn quen biết và hòa mình vào những niềm vui dịp lễ này dù tôi là người ngoại đạo.
Những kỷ niệm về lễ Giáng Sinh, tôi còn nhớ một vài cách mờ nhạt, một vài thì rõ ràng.
Vào thập niên 1960-1970, mỗi lúc vào tháng mười hai dương lịch, tôi nôn nao chờ đợi những ngày vui này cũng như bao bạn bè cùng lứa tuổi. Dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa miền Nam, Giám mục Ngô Đình Thục cai quản địa phận Thiên chúa giáo ở Vĩnh Long, vốn là anh của Tổng thống Ngô Đình Diệm, có năm đã tổ chức rất rình rang lễ Giáng sinh. Ngoài giáo dân đi xem lễ còn rất nhiều dân chúng tràn xuống đường để cùng vui, nhất là đi xem đốt pháo bông.
Khi bước chân vào Đại học ở Sài Gòn, sự tham gia vui chơi Giáng Sinh của tôi có phần sôi nổi hơn. Thời tiết tháng mười hai vào đêm gay gay lạnh là dịp để nam thanh nữ tú ăn diện quần áo mùa đông khoe với mọi người và …với đất trời. Tôi nhớ rất rõ, tối ngày hai mươi bốn, nhóm bạn của chúng tôi, chỉ là bạn trai thôi, đã ăn diện và nôn nả chen chân vào dòng người đông nghẹt, nhích từng bước chân ngắn, trên đường Tự Do từ đại lộ Lê Lợi hướng về nhà thờ Đức Bà để xem lễ. Có những cặp đôi trai gái nắm tay nhau cũng hăng hái lăn xả vào đám đông; có lẽ đây là dịp may để chàng ra tay “bảo vệ” người yêu cách hợp tình hợp lý với những cử chỉ thân mật cố ý.
Tôi đã có dịp ăn Réveillon nhưng ăn ở lề đường với chúng bạn mà thức ăn chỉ là miến gà, sâm bổ lượng…Khó mà diễn tả được cảm nhận về cái thú ăn đêm lang thang “rất Sài Gòn” thuở ấy. Nhớ lại thấy thương nó làm sao và sẽ không bao giờ có lại được dù bây giờ cố ý trở lại nơi xưa tìm kiếm.
Một Giáng Sinh nào đó tôi dự pinic với nhóm bạn của một bạn thân lúc đó đang học ở trường Kỷ Thuật Phú Thọ (Sài gòn). Dịp này, tôi quen thêm nhiều bạn mới mà sau này theo thời gian trở nên rất thân tình. Thời ấy còn trẻ nên vui chơi hết mình: có lần tôi được phái đi mua phim chụp hình, bị té Vélo Solex chân bị thương đi cà nhắc mà vẫn không bỏ cuộc chơi. Bây giờ, sau khoảng nửa thế kỷ tôi còn liên lạc nhóm bạn này được phân nửa; như vậy có lẽ đã là điều hạnh phúc.
Khi đi vào cuộc đời, những mùa Giáng Sinh dần dần mất đi không khí sôi động, lãng mạn của tuổi trẻ mà lại có hương vị khác: hương vị thơm tho, nhẹ nhàng, đầm ấm của gia đình hoặc chua chát, đắng cay của xã hội.
Một Giáng Sinh năm nào, vợ chồng chúng tôi ngồi bên nhau, tay trong tay, nhìn dòng người qua lại trên đường phố, vui với niềm vui của họ. Vào nửa đêm tặng vợ một nụ hôn …nồng nàn trên má theo cách rất Á Đông và cùng nhau tìm vào giấc ngủ thật bình yên.
Sau năm 1975, với tôi, Giáng Sinh đã vào quên lảng khi đối diện với những đổi thay của xã hội. Tuy vậy dịp này, một lần trong đời, vào một đêm hai mươi bốn tháng mười hai, tôi đón đêm Giáng Sinh trong đình Tân Giai thuộc Phường ba Thị xã Vĩnh Long cùng một số người giống hoàn cảnh, với một manh chiếu nhỏ, nằm nghĩ ngợi mông lung rồi cố mà ngủ trên tấm ván bề ngang hai tấc, là chỗ dành cho khán giả ngồi xem hát bội (hát bộ) khi cúng đình. Người ta nói Giáng Sinh dạo đó ngủ như thế chúng tôi sẽ được an toàn hơn là ở nhà với vợ con.
Những năm định cư ở ngoại quốc, Giáng Sinh là ngày nghỉ ngơi làm việc ở hảng xưởng, là dịp làm những chuyện cho nhà cửa thay vì vui đón Giáng Sinh. Nói vậy chứ nhìn đám con của mình hợp bạn thuộc các sắc dân khác đón Giáng Sinh với quà cáp gói giấy sặc sỡ, thiệp chúc đủ kiểu, đèn giăng mắc khắp nơi, cây thông giả hay thật…mình cũng vui lây.
Khi ấy con mình còn nhỏ, ngây thơ sống bên cha mẹ, Giáng Sinh vốn không là ngày lễ truyền thống của mình nên tôi thật vô tình thờ ơ với ý nghĩa, sự nhộn nhịp chào đón nó của người bản xứ.
Dần dần tôi biết người dân nơi đây đã xem ngày Giáng Sinh rất quan trọng như ngày Tết Nguyên Đán của Việt Nam mình, ngày họp mặt, tạ ơn Chúa, tạ ơn đời, tạ ơn người với người; người sống với người sống và cả với người chết.
Theo thời gian, con cái lớn có vợ có chồng, sống rải rác nhiều nơi theo nghề nghiệp thì đoàn tụ đại-gia-đình lại một nơi trong ngày Giáng Sinh thật vô cùng khó khăn. Chụp được một tấm hình có đủ mặt mọi người trong gia đình ở một thời điểm nào đó là chuyện…may mắn, hi hửu.
Năm nay tôi đi thăm nhà mới của đứa con gái thứ, nhân đó gặp em gái của nó từ tiểu bang khác cùng đến. Bà xã của tôi ở nhà với con trai lớn chờ cô gái út từ xa về. Con trai áp út thì vẫn ở tại nhà của nó để đón nhạc gia đến viếng. Như vậy đó! Giáng sinh này đại-gia-đình của tôi ở ba nơi.
Cũng có nhiều Giáng Sinh vợ chồng chúng tôi không ở bên nhau vì hoàn cảnh dù buồn cũng phải chấp nhận nhưng không ưu tư. Khi mà tuổi đời chồng chất, tình cảm có phần nhạy cảm hơn chăng mà năm nay, hôm qua đi bộ một mình nơi nắng ấm mà tôi cảm thấy lành lạnh, cô đơn, nhớ nhà hơn bao giờ hết. Qua lễ tôi về nhà, cái ổ của mình, sẽ thấy ấm áp hơn dù nó nhỏ bé, cũ kỷ và ngoài trời đang là mùa Đông rét lạnh. Nhưng lại chạnh nghĩ rồi sẽ có một ngày nào đó ta đi không bao giờ và không thể nào trở về tổ ấm nữa. Và tôi thốt lên hai chữ thường dùng khi sự thể không tránh được: đành thôi!
A
December 21, 2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2012 06:15:19 bởi Anh Tú >
Chuyện Cũ Vừa Đi Qua.
Tôi định khoe với anh chị em một chuyện người khác có thể đã gặp nhưng với tôi là lần đầu. Chúng tôi đã xem đó là một niềm vui trong những ngày cuối năm 2012. Vì quá bận và cũng chờ đợi câu chuyện này đi đến đâu nên mãi đến hôm nay mới bắt đầu viết xuống. Vì vậy tôi đặt tựa bài là Chuyện cũ vừa đi qua…
Từ Lễ Ma Quỷ (Halloween) vào cuối tháng mười, tôi thấy “nó” xuất hiện trong vườn trước nhà tôi, nhỏ nhắn cở ngón chân cái màu đỏ nhưng tôi không chú tâm. Trong thời tiết bắt đầu trở lạnh khi đêm về cho đến sáng, trưa thì ấm lên một chút, tôi nghĩ nó sẽ không tồn tại được lâu. Vào tháng mười một, nhiệt độ đã thấp xuống lắm rồi dù chưa xuống đến không độ C (32 độ F) thế mà nó phát triển bình thường, ngạo nghễ trong không gian khi mà mọi cây khác đều trụi lá. Vì vậy bắt đầu để ý tới nó…cho đến ngày 28 tháng 11, tôi quyết định đặt tên cho nó là Nụ Hồng Mùa Đông; tôi tiếp tục theo dõi và chụp hình…nó.
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/562E0F3C90D144D082F6DC545DC72E57.JPG[/image]
Trong hình 1 bạn thấy chỉ có các cây thuộc họ thông thì luôn xanh lá và ngoài đường còn những đống lá vàng đang chờ nhân viên của tỉnh hạt đến hốt đi. Năm nay do bảo Sandy hoành hành, chúng tôi đang ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, tạo nhiều cây ngả nên chuyện dọn lá đã bị chậm lại; trước kia công tác này luôn luôn xong trước ngày Lễ Tạ Ơn.Năm nay sau ngày lễ này, những đống cây lá vẫn còn nằm chờ…
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/5959E2110E594B9C942CE0B165B7A9CB.JPG[/image]
Trong hình 2, phía sau xa xa các bạn có thấy “nàng Sandy” đã để lại dấu vết? Một cây thông bị nàng bẻ gảy; phần cây gảy cắt đứt đường dây dẫn điện khiến chúng tôi phải xài đèn nến, nấu cơm bằng bếp gas nhỏ loại dùng cho “tả pín lù” trong một tuần trọn.
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/76C8EABA10D54B3A81C3AD38DACBDE72.JPG[/image]
Ngày 18 tháng mười hai tôi đi Florida thăm gia đình của đứa con gái thứ vừa mới dời đến theo công ăn việc làm, nhân đó làm quen vùng nắng ấm bấy lâu nghe tiếng mà chưa biết và cũng vui Giáng Sinh với gia đình chúng nó. Trước khi đi tôi cũng không quên từ giã cánh Hồng Mùa Đông bằng cách chụp một ảnh.
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/F6662CDCCF834493941856B4A9639F8A.JPG[/image]
Sau mười ngày tôi đi xa, trời lạnh gió mạnh mà đóa hồng vẫn còn đó dù vài cánh mỏng đã bắt đầu héo hon đôi chút. Ngày 29 tháng 12, tuyết trắng rơi đầy trời; màu trắng làm nền cho màu đỏ nổi bật, cánh hoa hồng vẫn đẹp rực rỡ, ngất ngưởng rung rinh theo cơn gió đông ve vuốt.
Cần nói thêm là ở chợ thì những bó hoa hồng tươi bày bán hằng ngày không thiếu nhưng những cánh hồng này được trồng từ vùng ấm hay trong nhà kiếng có điều hoà nhiệt độ thích hợp. Khi đi bộ quanh vùng, tôi đã để ý nhưng chẳng thấy một loài hoa nào còn sống.
Ngẩm nghĩ niềm vui nào cũng qua đi, cuộc sống nào- của hoa, cỏ,vật,con người…- đều cũng đến lúc tàn tạ. Đó là quy luật tạo hoá. Biết vậy chúng ta hãy chấp nhận và vui sống với những lúc nào ta có thể.
[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/102577/548821E351074DD693C9D3622F6A39A0.JPG[/image]
Cánh Hồng Mùa Đông năm nay đã cho chúng tôi một hạnh phúc quý hiếm đặc biệt. Tôi chụp thêm một ảnh cuối cùng vào ngày tôi viết xong cậu chuyện này.Chúng tôi xin chia sẻ hạnh phúc cỏn con này với tất cả quý bạn hửu và mong tất cả quý bạn cũng nhận được phần nào niềm vui khi đọc bài này.
Chúc tất cả anh chị em luôn luôn được mọi sự như ý trong những ngày tháng sắp tới.
A,
January 4,2013
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.01.2013 20:50:40 bởi Anh Tú >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: