Văn hóa nói ngọng của người VN
sen dat 19.09.2012 00:20:55 (permalink)
Hôm nay SĐ sưu tầm được một bài viết đọc cũng thấm thía lắm không biết bao giờ dân Việt Nam mới hết nói ngọng!
1- Bắc kỳ

Cơ bản sự “ngọng” của dân Bắc kỳ là phát âm “nhẹ” hẳn đi các phụ âm dẫn đầu mỗi chữ (như tr, r, s). Các Ngôn ngữ gia khắt khe hơn thì cho rằng người Bắc “lười” không chịu khó uốn lưỡi một chút cho đúng âm mà lại chọn khuynh hướng đọc dễ dàng hơn: giảm bớt cái âm uốn cong hay cao lên của phụ âm đầu.



Dân Bắc kỳ nhất là các vùng Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Bắc Ninh, v.v..., và ngay cả dân cư đất “ngàn năm văn vật” - 13 huyện Hà Nội - rất “phổ thông” nói ngọng líu lo (và đặc biệt bị lưu tâm nhiều nhất) hai phụ âm “l,n.” Chẳng hạn:
“Đi Hà lội mua cái lồi về lấu cơm lếp”
(“Đi Hà nội mua cái nồi về nấu cơm nếp”)
Hoặc là:
“Chỗ lước lày lông, nội được!”
(“Chỗ nước này nông, lội được!”)

Hay:
“Thằng Nong nàm việc thì nếu náo; nhưng nòng nợn thì ló gắp nia gắp nịa.”
(“Thằng Long làm việc thì lếu láo; nhưng lòng lợn thì nó gắp lia gắp lịa.”)
“Mình không nàm thì có bảo mình không nàm; mà mình nàm thì ló nại bảo mình nàm nấy nệ.”
(“Mình không làm thì có bảo mình không làm; mà mình làm thì nó lại bảo mình làm lấy lệ. ”)
“Tự nhiên như người Hà lội.”
(“Tự nhiên như người Hà nội.”)

Toàn bộ các chữ có “l” phang tới thành “n” và ngược lại (!)
Đại đa số dân Bắc kỳ (kể cả người viết và gia đình) còn nói trật nguyên âm “r, d, gi” (“rờ” thành ra “dờ” hay “giờ”):
“Kính dâm”
(Kính râm / kính mát)
“Mấy giờ giồi?”
(“Mấy giờ rồi?”)

Một em xướng ngôn viên (bây giờ vi-xi gọi là “phát thanh viên”) của một chương trình truyền hình trên VTV ở Việt Nam loan báo tin thời tiết nghe mà muốn “dởn da gà” luôn như sau:
"Có mưa dào dải dác; nhưng dét da diết.”
(”Có mưa rào rải rác; nhưng rét (lạnh) ra riết.”
“Mưa dừng ơi mưa dừng.”
(Như ông bạn Vũ Khanh của tôi ca lời bản nhạc “Mưa Rừng” của Huỳnh Anh)
Và nổi bật nhất và phổ thông nhất là sai nguyên âm “tr, ch:”
“Mười lăm chăng chòn; mười sáu chòn chăng.”
(“Mười lăm trăng tròn; mười sáu tròn trăng.”)

Hay là:
“Đường xưa lối cũ có bóng che, bóng che che thôn làng
Đường xưa lối cũ có ánh chăng, ánh chăng soi đường đi.”
(Lời ca bài hát “Đường xưa lối cũ” của Hoàng Thi Thơ mà tôi nghe ca sĩ Quang Minh - cũng dân Hải phòng - hát).

Trong khi lời hát đúng phải đọc là:
“Đường xưa lối cũ có bóng tre, bóng tre che thôn làng
Đường xưa lối cũ có anh trăng, ánh trăng soi đường đi.”
Một số địa phương ở Bắc như Nam Định, Ninh Bình và Thái Bình… vẫn phát âm đúng các phụ âm “r, d và gi” trong khi phần lớn các vùng khác (ở miền Bắc) đều phát âm sai.

Nên để ý, thật oái oăm, nghịch lý ở đây là hai thứ ngọng (có lẽ vì lười không chịu uốn lưỡi ?!) rành rành “tr” thành “ch” và “r” thành “d, gi” của dân Bắc kỳ lại được đại chúng có khuynh hướng rộng lượng chấp nhận như là “dạng chuẩn” riêng trong vấn đề hát lời ca của ngành tân nhạc (?). Một vài ca sĩ không phải gốc Bắc kỳ như Ngọc Hạ (Đà Nẵng / Quảng Nam, miền Trung), và Phương Dung (Gò Công, miền Nam) khi hát tân nhạc đôi khi đã cố tình phát âm đúng chữ “tr” (trăng, trong, trời) chứ không đổi sang “ch” như thông lệ thì nghe lại có vẻ rất căng thẳng (?) và ngượng ngạo (?) Thành ra vấn đề âm thanh ngọng (mà thuận tai?) được chấp nhận (hay không) còn tùy vào sự cảm nhận của đại chúng. Như vậy, không có gì gọi là “chuẩn” tuyệt đối cả.

Vùng Hải Hậu, Nam Định thì lại ngọng “tr, t” một cách khác:
"Con tâu tắng nằm cạnh gốc te tụi giữ tưa hè."
("Con trâu trắng nằm cạnh gốc tre trụi giữa trưa hè.”)
Tương tự, một số dân ở địa phương Thái Bình thì lại ngọng chữ “r, d” một cách khác nghe rất lạ tai. Như bà hàng xóm của tôi (gốc Thái lọ) là dân di cư 1954 ở Sài gòn cứ gọi con ơi ới:
“Rương ơi Rương! Ra đây mẹ cho miếng rưa.”
(“Dương ơi Dương! Ra đây mẹ cho miếng dưa.”)
Hà Tây, Hà ta thì cũng “lười,” bỏ bớt dấu huyền của mỗi chữ cho nó đỡ vướng:
“Con bo vang”
(“Con bò vàng”)

Hát là:
“Nhin chiêu vang đôi thông thưa thớt
Long bôi hôi buôn trông theo bóng”
(“Nhìn chiều vàng đồi thông thưa thớt
Lòng bồi hồi buồn trông theo bóng”
(Lời bản nhạc “Chiều Vàng” của Nguyễn Văn Khánh)

Người Bắc đọc sai tất cả chữ phụ âm “s” thành âm “x” hết ráo trọi; trong khi người miền Trung và miền Nam lại phân biệt “s, x” rất rõ ràng. Bắc kỳ đọc “s, x” như sau đây:
“Xáng xớm xương xuống xào xạc; xã xệ xửa xoạn xuống xuồng xang xông.”
(“Sáng sớm sương xuống xào xạc; xã xệ sửa soạn xuống xuồng sang sông.”)
Mẹ tôi còn kể thêm là ở ngoài Bắc, có vùng còn ngọng nguyên âm “s, x” ra “th” mà tôi chưa kiểm chứng được xem ra loại ngọng này thuộc vùng nào (Kính nhờ các bác uyên thâm bổ túc dùm nhà cháu ở phần này):
“Thúng hay thấm? hay trẻ con thậm thàn”
(“Súng hay xấm? hay trẻ con dậm sàn”)

2- Trung kỳ

Dân Trung kỳ (Huế và các xứ Quảng) hầu hết nói chéo (sai) hai dấu hỏi ngã:

“Đễ kỹ niệm”
(“Để kỷ niệm”)
(Nhà văn PNN tiếp lời MC Nam Lộc trên một “Asia DVD” trong chủ đề “Vinh danh người lính QLVNCH”).
Hoặc đổi phụ âm “t” thành “c” ở cuối chữ:
“Làm lụng đầu tắc mặc tối.”
(“Làm lụng đầu tắt mặt tối.”)

Người Huế chính gốc “ớt hiểm” còn chơi thêm dấu “nặng” vào hầu hết các các chữ; và đồng thời thêm “g” ở cuối chữ “không g.” Hiểu như vậy thì quý vị cũng đừng ngạc nhiên khi một cô thợ hớt tóc người Huế thơ mộng hỏi: “Anh muốn cắt dài hay cắt ngắn?”
“Hắng” / “Hắn”
Miền Trung, nhất là xứ Quảng, đôi khi xài sang, cho thêm nguyên âm “o, a” ở giữa chữ cho long trọng:
“Đo(á)m noái / Đám nói”
Hay:
“Đo(á)m hoải / Đám hỏi.”
Hoặc:
“Lâu đo(à)i tình o(á)i.” / Lây đài tình ái.”
Vùng Bình Định Qui Nhơn phát âm “hơi sai” nguyên âm “a, ă, e, ê, iê:”
“Nem boa bửa không tém một bửa”
(Đọc số phone: “537-0817”)

Hoặc:
“eng / ăn;” ” “téc đèng / tắt đèn;” “Chó kéng / Chó cắn;” “Nghem / Nghiêm.”
Dân Khánh Hòa, Phú Yên ngoài “a, ă, e, ê, iê...” (nhưng nghe sai có vẻ nhẹ nhàng hơn người Bình Định) còn đọc “ơ” thành ra “u” mới chết người. Gia đình thằng em cột chèo của tôi người Nha Trang (Khánh Hòa) nói thoải mái mời tôi:
“Mời anh ở lại ăn cum / ăn cơm.”

3- Nam kỳ

Dân Nam kỳ, đa số, có khó khăn khi phát âm các chữ bắt đầu bởi phụ âm “v, d.” Chẳng hạn:
“Dân dzệ dê dzợ dân dzận. Dân dzận dzậng dân dzệ.”
(“Anh lính Dân Vệ mê vợ của anh cán bộ của Ty Dân Vận Chiêu hồi. Làm cho anh cán bộ Dân Vận Chiêu Hồi giận hết sức!”

Hoặc:
“Cười lên đi để dzăng dzàng sáng chói / Răng vàng”
(Lời hát nhái trong dân gian cho câu “Kìa thôn quê dưới trăng vàng bát ngát” từ bài “Khúc ca ngày mùa “của Lam Phương).

Hoặc:
“Đi đâu chơi mới dzề hả? Dzui hông?...”
(“Đi đâu chơi mới về hả? Vui không?”)
Và sai lẫn lộn phụ âm “t, c” ở cuối mỗi chữ, đồng thời đôi khi tiện tay bỏ bớt nguyên âm (a, e, i, o, u) ở giữa chữ:
“Giữ chặc tình thân hủ / Giữ chặt tình thân hữu;”
“Cúi từng có giá đặt biệt / Cuối tuần có giá đặc biệt”

Đồng bào “Nam bộ” ta cũng dùng chéo (sai) hai dấu “hỏi ngã” và thêm “g” vào chữ “không g” như các bác Trung kỳ:
“Cho tui xin nửa chéng cơm nửa.”
(“Cho tôi xin nửa chén cơm nữa.”)
“Tổ quắc ăng năng / ăn năn”

Bà mẹ vợ tôi, người gốc Long Xuyên, khi nói đã tự ý đổi “y” thành “i” ở cuối chữ; đôi khi nghe cũng dễ bị hiểu lầm lắm (?):
“Tịm chúng tôi có báng đủ các lọi đồng hồ đeo tai.”
“Tiệm chúng tôi có bán đủ các loại đồng hồ đeo tay.”
(Như lóng rày ca sĩ BC làm quảng cáo cho tiệm đồng hồ Tic-Toc trên TV) .

Riêng dân vùng đồng bằng sông Cửu Long: Cần Thơ, Bạc Liêu, Sóc Trăng còn ngầu hơn, miệt này phát âm chữ “r” thành ra “g” nghe thoáng như lưỡi bị ngắn (?) hoặc giống tiếng Miên (?):
“Bắt con cá gô bỏ gổ, nó gục gịch gục gịch gớt dzào gổ gau găm.”
(“Bắt cá rô bỏ rổ, nó rục rịch rục rịch rớt vào rổ rau răm.”)
Tôi có rất nhiều bạn nói kiểu “đi ga chết gồi” (“đi ra chết rồi”) này. Nghe riết rồi cũng quen tai.

Ngoài ra, còn có hàng chục thổ ngữ nhỏ khác với cách phát âm và chữ dùng mà người vùng khác không tài nào hiểu nổi. Tuy nhiên bài viết ngắn này chỉ là một bài tạp bút, không phải là một bài khảo cứu ngôn ngữ; cho nên, trong phạm vi giới hạn, không tiện kể ra hết cho hoàn tất, đầy đủ. Nếu hưởn, quý vị có thể tự tìm hiểu thêm. Có một điều đáng để ý là người miền Nam nói sao thì họ viết y như vậy cho nên người Nam dễ bị sai chính tả (ngọng viết) hơn là đồng bào miền Bắc và Trung – Người miền Bắc và Trung tuy phát âm sai nhưng phần lớn lại viết đúng chính tả!

A. Kinh nghiệm gia đình và cá nhân người viết

Tôi sinh ra tại vùng ngoại ô của thành phố Hải Phòng vào năm 1950 và lớn lên ngay giữa trung tâm thành phố này – Thật ngẫu nhiên, Hải Phòng cũng là sinh quán của một số văn nghệ sĩ tên tuổi đương thời như: nhạc sĩ Văn Cao, Gia đình Lữ Liên (Lữ Liên, Thúy Liễu, Bích Chiêu, Tuấn Ngọc, Khánh Hà, Anh Tú, Thúy Anh, Lưu Bích... cả tiểu đội!), kép cải lương Hùng Cường, minh tinh Thẩm Thúy Hằng, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, ca sĩ Thu Phương, Quang Minh... (người viết xin phép được tiện đây thấy người sang bắt quang làm họ một tí cho thay đổi không khí!) nhưng đồng thời tôi cũng tự phát giác ra Hải Phòng là “thủ đô nói ngọng” (loại “phản cảm,” “nhà qué” “có 102 - một không hai ” “l,n”) của Việt Nam (xin lưu ý: Tôi thấy các “siêu sao” gốc Hải Phòng nổi tiếng mà tôi vừa liệt kê ở trên không có “sao” nào nói ngọng “l,n” cả mới là lạ !).



Gia đình nhỏ của bố tôi có 3 anh em trai, tất cả đều sinh ra tại Hải Phòng. Tôi cứ nhắm mắt mà vẫn yên tâm cam đoan là cả ba người (bố tôi và hai ông chú) đều nói ngọng lúc thiếu thời... Khi lớn lên, bố tôi và một ông chú nhỏ tuổi nhất làm “cách mạng kinh tế” phá rào, vượt qua lũy tre xanh, rời xa khỏi địa bàn Hải Phòng, đi lính quốc gia... Kết quả, sau này hai người (Bố tôi và ông chú trẻ) nói và viết tiếng Viêt không còn ngọng một tí ti ông cụ nào. Riêng ông chú tuổi kế bố tôi ở lại “bám trụ” Hải Phòng ngay từ ngày đầu chú mới sinh ra cho tới tận bây giờ; thì ông chú này và 8 đứa con vẫn ngọng đặc cán mai. Năm 1948, bố tôi 24 tuổi từ Sài Gòn trở về Bắc làm cảnh sát Hải Phòng; và lập gia đình với mẹ tôi - mẹ tôi cũng là dân sinh quán Hải Phòng; và chính mẹ tôi cũng nói ngọng “l,n” khá nặng. Tôi và 3 đứa em lớn được sinh ra tại Hải Phòng. Năm 1954 gia đình tôi (bố mẹ và 4 anh em tôi) tị nạn cs, theo làn sóng di cư vào Nam. Đến hôm nay, gia đình tôi có cả thẩy 8 anh em ruột và gia đình ông chú trẻ của tôi có 5 đứa con; tất cả chúng tôi (tổng cộng 13 người con của thế hệ thứ nhì) không có một ai nói ngọng “l,n” (nên biết chúng tôi nói rặc tiếng Bắc 54 y chang như quý vị nghe giọng nói của ca sĩ Vũ Khanh và Ý Lan – hoàn toàn khác hẳn với giọng Bắc kỳ 75 của Bằng Kiều, Nguyễn Hồng Nhung).

Năm 2005 tôi có dịp về Việt Nam, ghé qua thăm quê quán Hải Phòng thì mới thấy là tất cả toàn bộ (“chăm phần chăm”) họ hàng bên nội bên ngoại của tôi đều ngọng “l,n” hết ráo. Môt cô cháu gái của tôi, tuổi hai mươi mấy, trông dáng trắng da dài tóc xinh xắn, làm giáo viên tiểu học ở Hải Phòng, cũng ngọng “l,n” rất trầm trọng (có nghĩa là tất cả các chữ “l” đều đánh ra thành “n” và ngược lại); Ngọng líu lo (“l,n”) mà làm nghề mô phạm dậy trẻ con thì xem ra còn tệ hơn là đặc công khủng bố (văn hóa). Làm thiệt mạng (rất nhiều) người chứ chẳng phải chuyện đùa!

Qua kinh nghiệm của gia đình và cá nhân tôi thì sự phát âm sai (ngọng) phần lớn là vì ảnh hưởng của môi trường phát âm sai (Hải Phòng); không phân biệt được chữ đúng... Nếu có dịp đi ra khỏi môi trường ngọng này, như bố tôi chẳng hạn, và hội nhập vào môi trường phát âm đúng; hoặc có người chỉ dẫn như được học hành với thầy cô nói tiếng Việt chuẩn thì sự “ngọng” có thể dần dần sửa chữa được. Như vậy, “ngọng” là một bệnh nan y thật nhưng không phải là hoàn toàn hết thuốc chữa...

Điều đáng chú ý là ngoại trừ loại ngọng “phản cảm” “l,n”, hầu hết các loại ngọng hay phát âm sai bét khác đều được công chúng dễ dãi xí xóa thông cảm. Ngọng “l,n” đặc biệt bị phân loại là “sai cơ bản,” “bất bình thường”, “không chấp nhận được”. Trong giao tiếp bình thường mọi ngày, người ngọng “l,n” đôi khi còn bị hiểu lầm và bị “đánh giá” thấp như “nhà quê,” “ít học,” “kém văn hóa...” Trời đất! Quê tôi!

B. Bàn thêm một chút về lý do ngọng

Bên trong vòng đai lũy tre xanh, một cộng đồng khép kín, buổi sáng thức dậy đi làm ruộng, tối trở về nhà ăn uống nghỉ ngơi rồi ngày mai lại thức dậy đi làm ruộng tiếp thì với cuộc sống đơn giản như vậy, số người tiếp xúc hàng ngày chỉ loanh quanh là người trong gia đình làng xóm... Lời ăn tiếng nói hàng ngày và phong tục đã thấm sâu vào trong con người. Sự nói ngọng (phát âm sai) đã trở thành thói quen chung (cả làng đều ngọng cả), không ai thấy có nhu cầu hay tác động gì cần thiết phải sửa đổi.

Sau khi ra khỏi lũy tre xanh, gia nhập một cuộc sống phức tạp hơn, bon chen hơn, phải giao tiếp rộng rãi hơn với mọi người khác xứ; rồi qua phản ứng của họ (người khác xứ nghe mình nói ngọng thương hổng nổi!) người phát âm sai lúc đó mới cảm thấy được những cái bất lợi của việc phát âm sai của mình. Từ đó tác động vào ý muốn sửa chữa, vượt qua những lỗi phát âm.

Có một anh chàng “ngọng” đẹp trai vừa chân ướt chân ráo ra khỏi lũy tre xanh; vào một buổi đẹp trời phải lòng một em gái văn minh phố thị. Mặc dù anh biết cô em nhiều lần tỏ vẻ lạnh lùng không muốn thân thiện (phần lớn cũng chỉ vì kỳ thị tiếng nói ngọng), nhưng anh đẹp trai đã lỡ yêu rồi nên cũng liều, cố lấy hết can đảm viết ra một lá thư tình “ngọng.” Quý vị thử tưởng tượng xem khi đọc lá thư “phản cảm” này đại khái như dưới đây thì liệu cô nàng “xí xọn, khó tính” có mủi lòng được hay không?

“Em Nan ơi. Anh đã nhiệt niệt no nắng cho em đủ mọi chuyện thế mà em vẫn chưa hiểu cho nòng anh; Em vẫn tỏ vẻ nạnh nùng với anh. Bây giờ anh không biết phải nàm thế lào để nấy được nòng em....
Nễ.”

Em Lan (“Nan”) vì đã “dị ứng” sẵn với sự ngọng của anh Lễ cho nên tỏ vẻ cự tuyệt hơi quyết liệt. Em Lan dùng chính ngôn ngữ của anh “Nễ” trả lời anh “Nễ” vì mong anh “Nễ” dễ hiểu rõ ý của em. Em Lan viết trả lời anh “Nễ” đại khái như vầy:
“Anh Nễ nàm em sợ nắm. Em còn bé, không dám nghĩ đến chuyện tình cảm người nhớn... Nếu anh không giận em thì xin anh vui nòng nàm phúc sơ tán qua vùng khác nàm ăn để em còn yên chí học hành; no cho tương nai.
Lan.”

Chuyện tình cảm tha thiết, thành thật, đứng đắn mà không may dùng phải chữ nghĩa ngượng ngạo của vi-xi; cộng thêm chữ viết ngọng thì là một thảm kịch chứ không giống hai người đang diễn hài (kịch)... Có lẽ anh Lễ cần rất nhiều may mắn (và cả phúc đức nữa) mới có cơ may kết duyên với một em gái không ngọng.
Thiệt tình. Ai bảo cuộc đời này không bất công?

C. Làm sao sửa được tật nói ngọng

Trước hết người nói ngọng phải tự ý thức được sự ngọng của mình thì vấn đề sửa đổi mới có hiệu quả - Cái mục này nói thì dễ lắm mà làm là chuyện vượt cả Trường Sơn Đông lẫn Trường Son Tây trong một buổi...). Đối với một số người bảo thủ lý luận là: “Đây là tiếng mẹ đẻ; cha ông tôi đều nói như vậy. Tại sao phải thay đổi?” thì đành chịu.

Khoảng 5 tuổi trở lên, trẻ con bắt đầu hiểu được tiếng nói, và biết bắt chước cách phát âm tiếng mẹ đẻ. Nếu ngôn ngữ được uốn nắn ngay từ lúc này thì rất tốt (kể ra càng sớm càng tốt). Người đứng ra hướng dẫn và uốn nắn tốt nhất là thầy cô giáo vì ngay cha mẹ nhiều khi cũng đã ngọng sẵn rồi còn gì. Các cô giáo có than phiền là dù đã tương đối thành công sửa giọng ngọng của các em ở trong lớp; nhưng khi các em trở về nhà, sống giữa gia đình ông bà bố mẹ anh chị đều nói ngọng thì các em lại ngọng trở lại... Xem ra “sự nghiệp giải phóng dân tộc” còn dễ hơn là “sự nghiệp giải phóng ngọng!”

Muốn chữa nói ngọng thì phải nói cho chậm rãi để có thời giờ nghĩ và chỉnh các âm sai. Thầy giáo và bạn bè thân thiết có thể giúp đỡ rất hữu hiệu trong việc nhận diện các âm sai và sửa sai. Quan trọng nhất là sự kiên tâm, chịu khó luyện tập lâu dài. Ở Mỹ có những chuyên viên về sửa chỉnh ngôn ngữ (Speech Therapist / Speech Therapy) được đào tạo đặc biệt để giúp các công dân Mỹ có vấn đề phát âm Anh Ngữ như ngọng, cà lăm. Các tay chơi thể thao nổi tiếng như Bill Walton (basketball), Bo Jackson (football) bị cà lăm rất nặng khi họ mới xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn từ của các đài truyền hình thể thao phát hình các trận đấu giữa các trường đại học hoặc thể thao chuyên nghiệp. Thế mà chỉ sau một thời gian ngắn, nhìn thấy rõ là họ đã có thể trở thành người ăn nói bình thường, trôi chảy khi họ đảm nhận các vai trò phân tích thể thao (sprt analysts) cho truyền hình Mỹ trong các trận đấu.

Đã có nhiều ý kiến cấp tiến khá mạnh dạn cho rằng giải quyết vấn đề ngọng phải bắt đầu ngay từ lớp thấp nhất của trường tiểu học. Các trường sư phạm đào tạo thầy giáo, cô giáo tiểu học được đề nghị sẽ phải bắt buộc có điều kiện thu nhận khắt khe: Chỉ thu nhận thí sinh, sinh viên (làm thầy giáo trong tương lai) không ngọng. Có như vậy thì mới mong tìm ra lời giải, cách xuyên phá được vòng lẩn quẩn (dirty cycles), của bài toán “ngọng.” Tình trạng ngọng hiện nay ở trong nước thật đáng bi quan: Nhiều trường học của các huyện nằm ngay trong thủ đô, cái nôi văn hóa, Hà Nội (huyện Đông Anh hay Mỹ Linh chẳng hạn) có đến 30-40% tổng số học sinh tiểu học nói ngọng và 20-30% giáo viên ngọng - mà cả thầy Hiệu trưởng và Hiệu phó cũng ngọng luôn thể !

“Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu (ngọng) mãi thế này.”

Trần Văn Giang



#1
    Nguyệt Hạ 19.09.2012 05:22:31 (permalink)

    Cám ơn Sen Đat về bài viết thật hay và vui...

    NH cũng đọc được một bài nói về lỗi hỏi ngã, và các chữ dùng sai trong tiếng Việt. Cho phép NH để vào đây để mọi người cùng đọc nhé.



    ---------------------------------




    Trên dưới, ngắn dài ra sao?

    ___________

    Nguyễn Dư


    Bạn bè của tôi ơi ! Các bạn có còn nhớ mấy kỉ niệm " chữ nghĩa " năm xưa không ? Ôi ! Cái thời lạy cô đi qua, lạy thầy đi lại. Có đứa độc miệng khấn thêm Đi mau mau cho bọn con nhờ. Quên làm sao được cái thời ấy nhỉ ?

    Năm chúng tôi... Thôi, không dám chơi trèo, thấy người sang bắt quàng làm họ, người ta chửi cho thì khốn. Mình làm, mình chịu, đừng vơ thêm, lôi thêm người khác vào. Vậy, xin khiêm tốn sửa lại rằng... Năm tôi học lớp ba trường tiểu học Quang Trung (Hà Nội, 1952), có một lần cả lớp viết sai chính tả từ giặt gỵa. Sai đủ kiểu. Nhiều đứa viết là giặt dịa. Có đứa viết giặt gịa. Hai ba đứa viết giặt giạ. Thầy bảo phải viết là giặt gỵa. Cả lớp chả hiểu tại sao lại viết như vậy. Ngày sau sẽ hiểu. Hôm nay thầy dạy như vậy thì cứ biết như vậy.

    Mãi sau này mới được thấy từ giặt gyạ (Laver ses habits, giặt quần áo) trong tự điển của Génibrel (1898). Thấy cả vua Gyalong (Gia Long) trong báo L'Illustration (1857). Lật Từ điển tiếng Việt (1988) của Hoàng Phê ra xem thì thấy viết là giặt gịa.

    Từ đơn gịa không có trong từ điển của Hoàng Phê. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) định nghĩa gịa là đồ đong lúa, tức là từ giạ của Hoàng Phê.

    Hôm ấy có đứa hỏi vặn thầy tại sao không viết là giặt dịa? Thầy bảo không được vì giặt gỵa là từ kép, dê dưới (g) phải đi với dê dưới. May cho thầy. Cả lớp không có đứa nào biết trường hợp dê dưới đi với dê trên (d) của giản dị để đưa ra " ăn thua " với thầy.

    Muốn cho gyạ giống gịa thì chỉ việc thay một chữ, đặt cái dấu vào đúng vị trí. Có vậy thôi mà cũng không biết ! Không biết thì cứ giặt giũ cũng được. Dù sao thì giặt gyạ (Génibrel) hay giặt gịa (Hoàng Phê) cũng là một trường hợp... hơi phức tạp. Còn nhiều trường hợp khác giản dị hơn nhiều nhưng cũng đủ để làm cho trẻ con... bực mình !

    Năm tôi học lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây (Thị Nghè, 1954) gặp mấy chuyện nửa cười nửa mếu. Người lớn gọi là chuyện... ngôn ngữ bất đồng. Này, này, coi chừng vạ miệng bây giờ! Tiếng Việt thuần nhất. Không có chuyện ngôn ngữ bất đồng giữa người Việt với người Việt. Những kẻ có ý xấu muốn kì thị, chia rẽ thì... Chết ! Chết ! Cái sảy nảy cái ung thì... bỏ mẹ cả đám. Xin sửa lại. Đây chỉ là chuyện... phát âm không giống nhau thôi. Nói như thế được chưa ạ? Được, chúng ta không nên chuyện gì cũng... bé xé ra to !

    Xin phép được lau mồ hôi hột. Và xin bắt đầu lại câu chuyện. Năm tôi học lớp nhất trường tiểu học Thạnh Mỹ Tây (Thị Nghè), mỗi tuần phải viết một bài chánh tả. Viết xong, cả lớp đổi tập cho nhau. Cô giáo đọc lại, giảng nghĩa, chỉ cách viết các chữ khó. Cả lớp dò theo, sửa lỗi cho nhau. Bạn bè đứa nào cũng khoái bắt lỗi thằng ngồi bên cạnh. Đứa nào cũng chăm chú sửa cho bạn, không bỏ sót một cái dấu phết. Sửa bài như vậy vừa nhanh, vừa kĩ, lại vừa đỡ mệt cho cô. Có lần tôi bị một lỗi vì... một cái lá. Phải nói ngay là không phải cái lá nho úp úp mở mở hay cái lá đa lấp ló lem nhem, mà đây chỉ là cái lá chuối... " nỏn ". Cô giáo nhấn mạnh chữ " nỏn " dấu hỏi. Tôi giơ tay xin nói. Cô hất hàm cho phép. " Thưa cô, nõn dấu ngã chớ không phải dấu hỏi ". Cô giáo lắc đầu : " Dấu hỏi chớ không phải... dấu ngả ". " Dạ, nõn dấu ngã ". " Cãi bậy ". Cô đập thước kẻ xuống bàn : " Lên đây coi ". Tôi bất đắc dĩ phải lên chỗ cô đứng. Cô cầm thước chỉ vào trang sách. " Sách viết dấu hỏi nè, thấy chưa ? ". Tôi bắt đầu run. " Dạ thấy ". Trong bụng muốn nói thêm " Thấy cả mẹ em rồi, cô ơi ". Nói có sách, mách có chứng đàng hoàng, đâu phải chuyện giỡn. Cô có lí trăm phần trăm. Cãi nữa thì ăn đòn. Em chịu thua cô.

    Mấy năm sau mới được học câu Tận tín thư bất như vô thư (Đọc sách mà quá tin sách chẳng bằng không đọc sách). Thấm thía nhưng hơi muộn. Chỉ tiếc cho cái lá chuối " nỏn ", già héo mất rồi.

    Hôm ấy, tôi sốt ruột chờ giờ tan học. Thơ thẩn dạo một vòng sở thú, rồi mới về nhà. Dọc đường, khám phá ra một điều thú vị. Lang thang sở thú sướng hơn ngồi trong lớp học. Đến tối vẫn còn ấm ức. Tức hộc máu vì cái lá chuối " nỏn "... May mà chưa bị hộc máu thật. Thôi mà. Bỗng sực nhớ hình như có lần mẹ khuyên Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Còn đi học thì phải mặc áo gì đây, mẹ ? Mặc sơ mi trắng mau bẩn lắm. Chẳng lẽ ngồi yên chịu trận sao? Ngu vừa vừa thôi chớ ! Thua quỷ thua ma chứ ai lại thua cả cái " vớ vẩn " kia ? Đã vậy thì... Đi với chánh tả của cô thì mày phải mặc áo... bi- da-ma giáo. A ha ! Cái gì mới khó chứ ma giáo thì... dễ ợt cô à. Qua mặt cô cái vèo, khỏi cần bấm còi. Sách không phân biệt hỏi ngã thì mình phải làm cho hỏi ngã... giống nhau. Chu choa, xin lãnh hội những lời vàng ngọc của quới nhơn. Hỏi chỉ khác ngã cái đuôi vểnh cong. Dạ, đúng vậy. Vậy ta chỉ việc phe phẩy thêm một cái đuôi be bé xinh xinh vào dấu hỏi là xong. Hình dạng hỏi hay ngã sẽ giống nhau như... chị em con Ngọc sinh đôi ở cuối xóm. Xin bái lạy quới nhơn. Nhưng chưa xong ! Thông thường thì dấu hỏi phải viết thẳng đứng, dấu ngã viết nằm ngang. Đó là cách viết chân phương. Nôm na gọi là viết rõ ràng. Lối viết của những kẻ không theo tôn chỉ của ma giáo. Muốn theo ta thì từ nay phải viết... mập mờ. Không thẳng, không ngang, mà phải... lửng lơ con cá lóc. Chênh chếch như ánh trăng... một đêm trong rừng vắng ! (Ta lạc đề. Thèm sơn nữ quá). Viết nghiêng chênh chếch thế nào để kết quả chắc ăn một trăm phần trăm? Nhà địa lí gọi là nghiêng theo hướng tây bắc, đông nam. Nhà toán học gọi là nghiêng 45 độ âm. Nhà quê gọi là nghiêng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Đố cô giáo của con hay bất cứ ai phân biệt được hai cái dấu. Lá nõn hay lá nỏn ai muốn đọc thế nào cũng được. Xin đa tạ quới nhơn. Xin khất quới nhơn một li nước đá nhận. Ta thấy con bị nạn thì giúp, ta không nhận thù lao. Chết cha ! Chó chê chè ! Ngài không thèm ăn thật hay ngài chê chẳng bõ dính răng ? Quới nhơn hay là quái nhơn đây ?

    Cho đến hết năm học tôi không còn bị hai cái dấu hỏi, dấu ngã ám ảnh.

    Nhưng cái số con rệp vẫn còn bị sao quả tạ chiếu. Một hôm cô bắt viết bài tả một đám đánh nhau đến... mẻ đầu " sức " trán. Trúng tủ ! Biết rồi, khổ lắm, viết mãi. Mẻ sứt này thì cũng như Chớ cười những người đui què mẻ sứt của thời mặc quần... soọc. Tôi tự tin viết " sứt " trán. Một lỗi ! Lại gân cổ lên cãi. " Thưa cô, sứt mẻ là chữ t. Sức mạnh mới là chữ c ". Cô giáo liền giở bửu bối Nói có sách, mách có chứng để bịt họng đứa con nít. Một lần nữa tôi bị mắng là vừa bướng vừa không chịu nghe lời cô giáo trong lớp. Mấy thằng trời đánh thánh vật lại được một phen cười hô hố. Khoe đủ mấy cái răng... sứt ! Một lỗi là một lỗi, không tha thứ được. Tình thầy trò bắt đầu sứt mẻ. Sức mấy mà hàn gắn lại được.

    Lần này quới nhơn của tôi cũng khoanh tay chịu thua. Cô mày võ nghệ cao quá. Ta không địch lại được. Hoàn toàn bế tắc. Không có mẹo nào để làm cho c cũng như t được.

    Cũng may. Những ngày nửa cười nửa mếu rồi cũng qua mau. Đến kì thi tiểu học tôi tự nguyện " hoàn lương ". Ngậm ngùi từ giã ma giáo. Vì tin rằng người chấm bài sẽ không dựa vào mấy trang sách " mắc dịch " để hại đám tuổi trẻ mà tài cãi lí lại chưa cao. Tôi nhẹ nhõm trở về với dấu hỏi thẳng đứng, dấu ngã nằm ngang.

    Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học thừa nhận rằng phát âm của người miền Bắc phân biệt hỏi ngã, chữ cuối là c hay t, có g hay không có g, nhưng lại mắc phải mấy khuyết tật khác. Người miền Bắc uốn lưỡi không khéo như người miền Nam. Không phân biệt s với x, ch với tr, d với r... Thầy nào dùng sách do dáo (giáo) học Ngô Đê Mân chích (trích) lục, cho học trò viết chính tả bài Xự (sự) tích hai chị em, bà Chưng Chắc (Trưng Trắc), bà Chưng Nhị (Trưng Nhị) (Edmond Nordemann, Quảng tập viêm văn (Chrestomathie Annamite, 1898), Hội Nhà Văn, 2006, tr 50-52) thì chắc chắn chẳng có trò nào thoát được con số không to tướng.

    Đặc điểm của tiếng Việt là có năm cái dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Muốn doạ người nước ngoài chỉ cần đưa ra mấy câu thần chú : ma, má, mà, mả, mã, mạ. Ba, bá, bà, bả, bã, bạ. Mỗi chữ một nghĩa khác nhau. Cao siêu hơn thì đưa ra hình ảnh :

    Dưới hiên hiển hiện người hiền
    Sắc, không, ngã, nghiệp, pháp huyền hỏi ai ?

    Năm cái dấu sắc sảo, nặng nề, huyền bí... Con trẻ học hỏi vất vả, dễ ngã lòng. Đôi khi người lớn cũng bối rối cười trừ.

    Một vài hội đoàn Việt kiều bên Pháp, bên Mĩ kêu gọi bà con đóng tiền cho... thủ quỷ. Cho quỷ giữ quỹ, vì thế mà nhiều người e ngại đóng góp. Bộ sử nổi tiếng của Trần Trọng Kim được in lại bên Mĩ với tựa đề mới Việt Nam sữ lược (Miền Nam). Dường như từ sữ chưa có trong các từ điển tiếng Việt. Trong nước xuất bản Quốc triều chỉnh biên toát yếu (Thuận Hoá, 1998). Kẻ nào to gan muốn chỉnh cả chính sử của nhà Nguyễn?

    Chưa hết. Đôi lúc còn phải chọn chữ i ngắn (i) hay i dài (y). Ngày xưa, Huình - Tịnh Paulus Của viết : Nguít (ngó có nửa con mắt, không muốn ngó). Huinh đệ. Huiên đường. Ngày nay mấy từ này được viết là nguýt, huynh, huyên. I được thay bằng y. Ngược lại, ym (mát mẻ, tư nhuận) được viết là im. Y nhường chỗ cho i. Mọi người vui vẻ chấp nhận mấy thay đổi này.

    Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trường hợp khó thay đổi. Người này khư khư giữ chữ i. Thưa quí vị, ngân quĩ cúng ma quỉ còn tiền, khỏi phải quịt bọn hàng mã... Người khác lại khăng khăng đòi chữ y. Dài mới đẹp. Bồng bềnh, uyển chuyển, thướt tha. (Lại lạc đề). Thế là khắp nơi nổi lên một loạt nào là ca sỹ, văn sỹ, bác sỹ, thạc sỹ, tiến sỹ, sỹ quan... Ngày xưa dân ta chỉ biết Nhất sĩ nhì nông. Ngày nay sỹ bỵ bán sỷ. Mặt mày bý xỵ.

    Cứ theo trường phái ba phải là chắc ăn nhất. Có nhà báo đưa tin : Thượng nghị sĩ McCain thăm viếng Việt Nam... Các quan chức của ta đánh giá cao cuộc thăm viếng của thượng nghị sỹ McCain. Trường kĩ thuật " chất lượng cao " kia tự hào đào tạo được nhiều kỹ sư xuất sắc.

    Bên cạnh chuyện i ngắn i dài, lại còn chuyện phải đánh dấu cho đúng chỗ. Cần gì đúng ! Miễn sao trông cho cân đối là được. Cứ đánh vào giữa là xong. (Đóa hoa, lõa lồ...).

    Dài ngắn, trước sau, loạn xà ngầu. Mặc kệ quy định và quyết định của bộ Giáo Dục. Bất chấp Từ điển chính tả tiếng Việt (Hoàng Phê, Giáo Dục, 1985), Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Khoa Học Xã Hội, 1988).

    Trong chuyến du lịch Tam Đảo tôi nghe lỏm được tại một khách sạn.

    - Em làm giấy tờ cho anh để về thanh toán với cơ quan.

    - Dạ vâng. Thế tên anh " nà " gì nào ?

    - Lê Đức Linh

    - Nê Đức Ninh.

    - Anh tên là Linh. Không phải Ninh.

    - Ninh... Ninh... Thế tên anh viết bằng " nờ " dài hay " nờ " ngắn ạ ?

    - Cái nhà cô này thật là ỡm ờ. " Nờ " của anh dài. Vừa ý chưa ?

    Cô gái cười giòn tan :

    - " Nờ " dài. Tí nữa thì em cắt cụt.

    - Tưởng là chỉ có dê trên (d), dê dưới (g), i dài (y), i ngắn (i), bây giờ lại có cả " nờ " dài (l), nờ ngắn (n). Còn em, tên là gì ? Có trên dưới, ngắn dài gì không ?

    - Dạ, em " nà " Xuân.

    - Tên hay nhỉ, nhưng phải sờ mạnh (s) hay sờ nhẹ (x) Xuân mới chịu ?

    Cô Xuân đỏ mặt, cười duyên :

    - Nhè nhẹ thôi anh.

    Nguyễn Dư
    (Lyon, 11/2009)



    #2
      sen dat 22.09.2012 15:09:35 (permalink)
      Cám ơn Nguyệt Ha rất nhiều vì đã thêm một bài viết về cái tật của người Việt Nam chúng ta. Tác giả Nguyễn Dư viết rất hay và chính xác. Nếu mà bàn thì không bao giờ bàn hết và có nhiều trường hợp cười đau bụng luôn. Nếu là người ngoại quốc biết sơ sơ tiếng Việt họ dễ dàng nhận ra cái tật ngọng với những từ có chữ P người Việt thường không thể bặm môi thành ra chữ Pờ mà cứ bờ bờ ví dụ như Pétrolimex thì cứ nói là Bêtrolimex. Tên người ta  là John mà cứ kêu là Dzôn....Có một thời kỳ các nhà ngôn ngữ học còn muốn bỏ luôn chữ Y trong một số từ làm có người đùa bảo rằng "Con người ta tên Thúy mà bỏ đi viết i ngắn ra là Thúi à?". Rồi khi người lạ học tiếng Việt thì các câu chữ có dấu phát âm sai cũng được một mẻ cười. Ví dụ có một lần Sen Đất được một người dân tộc năn nỉ mua một món hàng Vừa bán ông ta vừa tâm sự rằng: "Noi thiêt nha! Người Thương chung tôi lam ăn cứt khô lăm! nghĩa là Nói thiệt nha! Người Thượng chúng tôi làm ăn cực khổ lắm!".
      Sen Đất sưu tầm thêm bài viết nữa coi cho vui vui.
      Bắc bảo Kỳ, Nam kêu Cọ (gọi là Kỳ Cọ)
      Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
      Bắc mang thai, Nam có chửa
      Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi

      Ôi! Bắc quở Gầy, Nam than Ốm
      Bắc cáo Ốm, Nam khai Bịnh
      Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
      Nam mần Sơ Sơ, Bắc nàm "Nấy Nệ"

      Bắc lệ tuôn trào , Nam chảy nước mắt
      Nam bắc Vạc tre , Bắc kê Lều chõng
      Bắc nói trổng Thế Thôi , Nam bâng quơ Vậy Đó
      Bắc đan cái Rọ , Nam làm giỏ Tre,

      Nam không nghe Nói Dai , Bắc chẳng mê Lải Nhải
      Nam Cãi bai bãi , Bắc Lý Sự ào ào
      Bắc vào Ô tô , Nam vô Xế hộp
      Hồi hộp Bắc hãm phanh , trợn tròng Nam đạp thắng

      Khi nắng Nam mở Dù , Bắc lại xoè Ô
      Điên rồ Nam Đi trốn , nguy khốn Bắc Lánh mặt
      Chưa chắc Nam nhắc Từ từ , Bắc khuyên Gượm lại
      Bắc là Quá dại , Nam thì Ngu ghê

      Nam Sợ Ghê , Bắc Hãi Quá
      Nam thưa Tía Má , Bắc ẩm Thầy U
      Nam nhủ Ưng Ghê , Bắc mê Hài Lòng
      Nam chối Lòng Vòng , Bắc bảo Dối Quanh

      Nhanh nhanh Nam bẻ Bắp , hấp tấp Bắc vặt Ngô
      Bắc thích cứ vồ , Nam ưng là chụp
      Nam rờ Bông Bụp , Bắc vuốt Tường Vi
      Nam nói: mày đi! Bắc hô: cút xéo.

      Bắc bảo: cứ véo! Nam : ngắt nó đi.
      Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gói
      Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn !
      Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác

      Bắc hay khoác lác , Nam bảo xạo ke
      Mưa đến Nam che , gió ngang Bắc chắn
      Bắc khen giỏi mắng , Nam nói chửi hay .
      Bắc nấu thịt cầy , Nam thui thịt chó .

      Bắc vén búi tó , Nam bới tóc lên
      Anh Cả Bắc quên , anh Hai Nam lú
      Nam : ăn đi chú , Bắc : mời anh xơi!
      Bắc mới tập bơi , Nam thời đi lội

      Bắc đi phó hội , Nam tới chia vui
      Thui thủi Bắc kéo xe lôi , một mình xích lô Nam đạp
      Nam thời mập mạp , Bắc cho là béo
      Khi Nam khen béo , Bắc bảo là ngậy

      Bắc quậy Sướng Phê , Năm rên Đã Quá !
      Bắc khoái đi phà , Nam thường qua Bắc
      Bắc nhắc môi giới , Nam liền giới thiệu
      Nam ít khi điệu , Bắc hay làm dáng

      Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
      Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
      Bắc nạo bằng gươm , Nam thọt bằng kiếm
      Nam mê phiếm , Bắc thích đùa

      Bắc vua Bia Bọt, Nam chúa La-De
      Bắc khoe Bùi Bùi lạc rang , Nam : Thơm Thơm đậu phọng
      Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ
      Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng , Bắc len lén ăn vèn

      Nam toe toét «hổng chịu đèn» , Bắc vặn mình «em chả»
      Bắc giấm chua «cái ả» , Nam bặm trợn «con kia»
      Nam mỉa «tên cà chua» , Bắc rủa «đồ phải gió»
      Nam nhậu nhẹt thịt chó , Bắc đánh chén cầy tơ

      Bắc vờ vịt lá mơ , Nam thẳng thừng lá thúi ****
      Khi thấm, Nam xách thùng thì Bắc bê sô
      Nam bỏ trong rương , Bắc tuôn vào hòm
      Nam lết vô hòm , Bắc mặc áo quan

      Bắc xuýt xoa "Cái Lan xinh cực!" ,
      Nam trầm trồ "Con Lan đẹp hết chê!"
      Phủ phê Bắc trùm chăn , no đủ Nam đắp mền
      Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền mới lâu…

      #3
        sen dat 06.10.2012 23:09:39 (permalink)
        Sự khác biệt giữa con lợn và con heo
        Con Lợn sinh ở miền Bắc - Con Heo sinh ở miền Nam. Cả hai đều bị các nhà lãnh đạo kì thị nặng lắm vì lúc nhâm nhi thì quan lớn chỉ khoái món cháo gà cháo vịt, còn cháo heo, cháo lợn nghe có vẽ đồ ăn cho bọn dơ bẩn ở trong chuồng!
        - Miền Bắc không heo nhưng lại thích "nói toạc móng heo" - Miền Nam không thấy lợn lại ưa dùng "bánh da lợn"
        - Miền Bắc có lợn sề, lợn nái, lợn giống, lợn cấn, lợn sữa, lợn choai, lợn tháu, lợn ỷ - Miền Nam có heo nhà, heo ruộng, heo bông, heo lang, heo cỏ, heo bò, heo đen, heo nọc, heo hạch, heo nái, heo nưa, heo lứa, heo mọi
        - Con Lợn ăn Ngô - Con Heo ăn Bắp.
        - Da Lợn làm bánh da Lợn - Da Heo khô dùng nấu lẩu.
        - Con Lợn đóng phim thiếu nhi "Hiệp sĩ lợn" - Con Heo đóng phim người lớn "Phim con Heo"
        - Phim con lợn chỉ cách chăn nuôi sinh sản cho nhi đồng - Phim con heo cũng cho thấy cảnh sinh sản nhưng lại cấm nhi đồng!
        - Miền Bắc trách cô kia "béo như lợn" - Miền Nam quở chị nọ "mập như heo"
        - Miền Bắc xỏ đàn ông háo sắc là lợn nọc - Miền Nam bảo đàn bà lang chạ là heo nái

        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9