ĐƯỜNG TA ĐI (Khảo luận văn chính sử)
hai1957 08.11.2012 16:44:45 (permalink)
ĐƯỜNG TA ĐI

Khảo luận văn chính sử





An Phong Nguyễn Văn Diễn


MỤC LỤC

• Giới Thiệu của Nhà văn Nguyễn Văn Sâm, Giáo sư, Tiến sĩ Ðại học Văn khoa Sài Gòn
• Tựa của Tiến sĩ Dương Ðức Nhự, Giáo sư Ðại học Văn khoa Sài Gòn
• Cảm nghĩ của thân hữu:
o Nhà thơ Dương Hồng Hoa
o Nhà thơ Huyền Minh
o Nhà văn Trần Hồng Văn, tức Tiến sĩ Ðặng Ðắc Thiệu
• Thay lời Phi Lộ của An Phong Nguyễn Văn Diễn

CHƯƠNG I – GỐC MIÊU DẤU TÍCH VĂN HÓA VIỆT CỔ

• Văn hóa mồ côi
• Những bước đầu tìm về dĩ vãng nòi giống của Triết gia Kim Ðịnh
• Lộ trình di cư các dân tộc Ðông Á
Hình 1 – Bản đồ đông Phi Châu nơi phát hiện người Hiện đại đầu tiên trên Ðịa cầu
• Những nền văn hóa Việt cổ
• Kết luận I

CHƯƠNG II – XÍCH THẦN XÍCH QUỶ

• Bối cảnh lịch sử thời đại Ðế Minh
Hình 2 – Bảng chữ chân chim cổ
• Những tiên liệu của vua Ðế Minh
• Triết lý Nông nghiệp lộ rõ trong hành động của vua Ðế Minh
• Chiến tranh Miêu-Hoa ở Trác Lộc
Hình 3 – Bản đồ chiến tranh Trác Lộc
• Du mục Hoa tộc lập quốc
• Nghi vấn lịch sử: Nước Văn Lang và 18 vị vua Hùng
Hình 4 – Xuân Thu và Chiến Quốc
Hình 5 – Ðông Á sau chiến tranh Trác Lộc
• Nước Âu Lạc
• Việt Nam trong giai đoạn nhà Triệu
• Nghi vấn lịch sử: Lâm Ấp có phải là Chiêm Thành không
Hình 6 – Bản đồ nhà Tần xâm lăng Bách Việt
• Vị thế làng xã Việt trong giai đoạn lệ thuộc
• Kết luận II

CHƯƠNG III -BIỆT SẮC VĂN HÓA CHỦNG VIỆT

• Vầng nhật
Hình 7 – Trống đồng và Giếng cổ
Hình 8 – Biểu tượng Thái cực
• Tiên Rồng
• Truyền thống tả nhậm
• Tập quán làng xã
• Quan niệm nhân sinh và vũ trụ trong ca vũ
• Tìm hiểu một bài vè cổ :Thương em từ thủa Tiên Rồng
Hình 9 – Biểu tưởng tổng hợp
• Kiến trúc Việt cổ
• Bí mật phòng trung
• Chuyện ông Bàn Cổ
• Kết luận III

CHƯƠNG IV – VĂN MINH THẾ GIỚI

• Khái niệm về văn minh thế giới
• Văn minh Mésopotamie và Babilon
• Ai-Cập cổ đại
• Hi-Lạp cổ
• Thiên chúa Yehova và dân tộc Israel
• Các tôn giáo thờ độc thần
• Người trong văn hóa Ấn-Ðộ
• Suy tư của các triết gia Hi-Lạp cổ
• Văn minh Tây phương hiện đại
• Khoa học và Tôn giáo
• Âu châu và cuộc cách mạng xã hội
• Kết luận IV

CHƯƠNG V – Chân Thiện Mỹ trong chuyện ÔNG BÀN CỔ

• Nguồn gốc chuyện ông Bàn Cổ
• Tư tưởng ẩn dấu trong chuyện ông Bàn Cổ
• Nhìn sơ về Tây phương cổ đại
• Từ Ông Bàn Cổ đến huyền sử dân tộc
• Ba giai đoạn của minh triết Miêu tộc
• Những nghịch lý trong xã hội Trung Hoa
• Vài mẫu người đặc trưng trên thế giới
• Người Nhân chủ
Hình 10 – Chữ Vương cũng gọi là Nhân
• Một chuyện vui
• - Kết luận V

CHƯƠNG VI – ÐƯỜNG TA ÐI

• Tâm sự của người viết
• Xin xem Ðường Ta Ði như một gợi ý
• Xây dựng con người, xây dựng xã hội
• Quan niệm học đường mới
• Lễ hội quốc gia
• Tổng luận
Sách tham khảo
Vài nét về tác giả

PHỤ LỤC

• Bài 1 : THỜI ÐẠI DÂN TỘC
Triết gia Lương Kim Ðịnh
• Bài 2 : KINH THIÊN VIỆT ÐẠO, ÐƯỜNG KHAI MẠCH TINH THẦN DÂN TỘC
Dũng Lạc Trần Cao Tường
• Bài 3 : SỰ TÍCH TIÊN RỒNG VÀ VÒNG THÁI CỰC
Nguyễn Minh Triết PhD tức thi sĩ Lưu Nguyễn Từ Thức
• Bài 4 : DU HÀNH VÀO TRUNG TÂM TẾT
An Phong Nguyễn Văn Diễn
Kính dâng lên hồn thiêng tổ tiên nòi giống, các anh hùng dựng nước và giữ nước đã cho tôi cảm khái văn hóa Dân tộc
Kính dâng lên đồng bào Việt Nam trong nước và hải ngoại
Kính dâng lên Ba Mạ, một đời con tri ân và tưởng niệm
Kính dâng lên các Thầy Cô đã dạy cho con ngũ thường
Cảm ơn em, người vợ dịu hiền đã giúp anh hoàn thành tốt đẹp tác phẩm này
Trao về các con, các cháu niềm thao thức trọn đời ta


Houston, ngày 20 tháng 7 năm 2003
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.11.2012 09:08:03 bởi hai1957 >
#1
    hai1957 08.11.2012 17:02:06 (permalink)
    LỜI GIỚI THIỆU

    Tiến sĩ, nhà văn NGUYỄN VĂN SÂM

    Giáo sư Đại học Văn khoa Saigon



    Chủ đích của tác giả Đường Ta Đi không nằm ở chỗ viết một tác phẩm nặng nề với quá nhiều tài liệu và dẫn chứng để khảo sát về vấn đề văn hóa Việt Nam thuần túy trên mặt học thuật, di chỉ, nếp sống, tôn giáo. Do vậy ta sẽ không thấy An Phong Nguyễn Văn Diễn làm công việc giống công trình của những người đi trước như Đào Duy Anh, Phạm Quỳnh, Bình Nguyên Lộc, Aurousseau, H. Maspero, L. Cadière, Maurice Durant… để rồi từ công trình đó, luận chứng, lý giải để giải quyết những nghi vấn về văn hóa vốn còn tồn đọng quá nhiều khi nói đến đời sống văn hóa, văn minh của người Việt. Nói như vậy, không có nghĩa tác giả Đường Ta Đi không biết những gì mà các nhà tiên phong về các vấn đề này đã đưa ra và ông không có khả năng làm một công việc như vậy. Mục tiêu khác, cách viết khác, nên ông chỉ nói những điều gì cần thiết cho chủ đích cuốn sách của mình mà thôi.
    Đường Ta Đi là sự thể hiện cụ thể tấm lòng của An Phong Nguyễn Văn Diễn đối với tương lai dân tộc trong điều kiện phá sản tinh thần của người Việt sau thời gian bi đát của Việt tộc do hoàn cảnh thực tế của hậu bán thế kỷ hai mươi.
    Tuy vậy, quyển sách mang đầy tâm huyết này không phải là một tài liệu kêu gọi hay khuấy động lên lòng yêu nước một cách chung chung. Đây là một tác phẩm có cơ sở từ những suy lý đào sâu trên những vốn văn hóa Dân tộc trước đây đã bị lu mờ hay biến dạng với thời gian.
    Trong quá trình lịch sử, một vài sắc thái và đường nét văn hóa Viết tộc và văn hóa Hán tộc đã hòa lẫn nhau khiến khó nhận chân được những nét riêng biệt của hai bên trong thời khởi điểm. Bằng lý luận, một vài nhà văn hóa gần đây đã đưa ra được một số nét đặc thù của văn hóa Việt tộc mà từ lâu phần đông người Việt đều cho rằng những thứ đó thuộc về văn hóa Hán tộc mà Việt tộc đã vay mượn. Tôi cho rằng, ông An Phong Nguyễn Văn Diễn đã có lý và có công khi nói một cách xác quyết về văn hóa Việt Nam:
    Đó là một nền văn hóa từ lâu bị che lấp, bị cưỡng đoạt… Một nền văn hóa Mồ Côi không được thừa nhận.
    Lý luận triết học vốn mang tính cách khó thuyết phục, nhất là về các lãnh vực nhân văn. Cho nên những lý thuyết dựa thuần túy trên lý luận không phải luôn luôn được chào đón bởi đại đa số các nhà nghiên cứu và dư luận, mong sao An Phong Nguyễn Văn Diễn, về mặt này sẽ vượt qua được bức tường trở ngại đó. Cái trở ngại mà những người đi trước như các học giả Bình Nguyên Lộc, Hoàng Văn Chí hay triết gia Lương Kim Định đã gặp phải.
    Tuy nhiên, như đã nói ở trên, tác giả Đường Ta Đi chỉ dùng những giá trị suy ra từ các giai đoạn văn hóa Việt cổ để làm nền tảng cho một đề nghị phối hợp giữa văn minh Cổ Việt và văn minh Tây phương trên bình diện xây dựng lại Việt Nam mà ông đã khẳng định ngay khi đặt tên cuốn sách : Đường Ta Đi. Trong khi các vị có tên nêu trên thì viết cho một mục đích hoàn toàn khác, cung cấp những kiến thức cơ bản về văn hóa Việt Nam mà thôi.
    Mượn những công cuộc nghiên cứu của những người đi trước, điểm xuyết thêm một vài suy luận hữu lý để đặt cơ sở lập luận của mình cho niềm mong ước ông cưu mang từ lâu, cũng là mối bận tâm cho những ai suy nghĩ về việc xây dựng nước nhà trong những năm sắp đến, đó là trọng tâm của Đường Ta Đi. Không cần đi sâu hơn vào chi tiết, tôi cũng có thể quả quyết rằng, chỉ với tấm lòng đó thôi, tác giả quyển sách quý vị cầm trên tay xứng đáng để chúng ta yêu mến, khâm phục và đọc kỹ.
    Tưởng rằng, nỗi thao thức ấy, trăn trở ấy của tác giả đã thể hiện một cách chân thành trên từng trang sách mà ông đã để nhiều công phu biên soạn, ôm ấp, nâng niu khi mà quê hương Việt Nam cứ mãi lầm lũi bước đi trong bóng đêm dày đặc của lầm than, ngu dốt và nghèo đói… Bằng vào tâm tình ấy, thiết tha ấy, chúng ta đọc sách An Phong Nguyễn Văn Diễn, biết đâu một lúc nào đó, sẽ có người nhận ra rằng đây là một phương thức, một hướng đi hợp tình, hợp lý nhất cho công cuộc dựng xây một Việt Nam thanh bình, thịnh vượng và hạnh phúc dài lâu. Điều đó quả là một mơ ước muôn đời của Việt tộc!
    Đường Ta Đi còn rất đáng đọc vì nó cho ta hầu như toàn bộ kiến thức văn hóa Việt cổ. Trong đó chứa đựng đầy dẫy những tin tức lịch sử, địa lý, truyền thống xã hội, quan niệm nhân sinh và vũ trụ của người Việt thời tiền sử. Nó chính là những viên gạch nền tảng trong việc xây dựng lại đất nước, những bước đi khó khăn của Việt tộc làm đau lòng tất cả chúng ta, trong giai đoạn cải tổ xã hội những năm sắp đến mà ai cũng biết rằng không còn xa.
    Những viên gạch nền tảng đó rất đáng yêu vì lấp lánh tình yêu thương Việt tộc cũng như tinh thần kẻ sĩ trước nhu cầu cần thiết xây dựng lại thanh bình, thịnh vượng đã mất của dòng giống.

    NGUYỄN VĂN SÂM

    Xuân Giáp Tuất, Tháng Giêng




    THAY LỜI PHI LỘ

    AN PHONG NGUYỄN VĂN DIỄN



    Sài-Gòn cuối thập niên 60, các rạp chiếu bóng như Đại Nam, Eden, Thanh Bình… đồng loạt chiếu một phim mạo hiểm đường rừng đặc sắc, nội dung rất cảm động. Phim mang tựa đề “ĐƯỜNG VOI ĐI” và được giới thiệu là phóng tác theo một chuyện có thật. Tôi không nhớ rõ tình tiết toàn chuyện, tuy nhiên xin dựa vào những điểm chính câu chuyện để kể lại cho bạn nghe.
    Tại một khu rừng già xứ Kenya ở Nam Phi Châu có rất nhiều đàn voi. Chúng họp thành một bầy rất lớn, hàng mấy ngàn con. Những đàn voi sống hiền lành dưới sự dẫn dắt của những con voi đực già to lớn với những chiếc ngà dài, trắng, cong vuốt. Bầy voi thường dùng một con đường độc đạo dẫn đến một hồ nước tuyệt đẹp, nước trong vắt, để uống hoặc cùng nhau nô đùa, tắm rửa. Hồ nước này vốn khởi đầu một con sông cho nên người dân địa phương thường gọi là hồ Đầu Nguồn.
    Hồ Đầu Nguồn là một thắng cảnh tuyệt đẹp diệu kỳ với những vách núi dựng đứng, xen kẽ rừng cây và bãi cát chạy dài ven bờ. Nhiều thác nước từ những bờ đá cao liên tục tuôn nước ào ạt. Nước rơi trắng xóa, hơi sương nhàn nhạt, mờ ảo như cảnh bồng lai! Mặt hồ rộng, in màu trời xanh biếc, thấp thoáng nhiều giống chim, cò, thú hoang lui tới kiếm ăn, uống nước.
    Con đường độc đạo rộng lớn dài khoảng một cây số dẫn đến Hồ Đầu Nguồn thì dân địa phương gọi là đường “Voi Đi”. Con đường này đã trải qua hàng vạn năm với hàng ngàn thế hệ loài voi sinh sống, đi lại, đùa dỡn… mỗi ngày; bây giờ đất ở đấy cứng như đất nện, phẳng phiu, không một ngọn cây, cọng cỏ nào có thể mọc lên nổi. Đó là con đường huyết mạch, con đường truyền thống, linh thiêng, thân thiết của loài voi. Bởi thế, đường Voi Đi và hồ Đầu Nguồn là hai nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống của những con thú to lớn nhưng hiền lành này.
    Tuy nhiên, cuộc sống an nhiên, tự tại của bầy voi bắt đầu gặp tai họa khi một nhà thám hiểm vừa là tài phiệt Tây phương thấy được thắng cảnh tuyệt vời của vùng hồ Đầu Nguồn này. Ông ta lập tức vận động mướn cho bằng được toàn vùng đất đó. Ông dựng lên một bức tường rào kiên cố chắn ngang đường Voi Đi và xây dựng một trung tâm du lịch sang trọng trên con đường rộng lớn ấy để chào mời du khách khắp nơi đến thưởng ngoạn, giải trí.
    Những đàn voi bị bít mất đường đến hồ Đầu Nguồn, ngày ngày chúng theo nhau tới bên ngoài bức tường rào kêu thét phẫn nộ đòi đường đi! Nhà tài phiệt liền cho xạ thủ dùng súng bắn chết nhiều con khiến đàn voi hoảng sợ bỏ chạy tán loạn. Tuy nhiên, đàn voi này chạy thì đàn voi khác lại đến. Chúng đi đi lại lại dọc theo tường thành, vung vòi lên cao, miệng liên tục gào thét, âm thanh chát chúa, vang vọng đinh tai nhức óc. Cứ như thế, ngày nào cũng diễn ra những cảnh huyên náo, chết chóc vô cùng thương tâm.
    Thế rồi, ngày khánh thành trung tâm du lịch cũng sắp đến. Để chấm dứt cảnh hỗn loạn ảnh hưởng đến việc làm ăn, nhà tài phiệt Tây phương này tập họp nhiều tay súng cừ khôi, tổ chức một cuộc săn voi đại quy mô. Ông phân chia những xạ thủ này thành nhiều toán, tỏa đi khắp nơi, quyết tâm tìm giết và xua đuổi bầy voi ra khỏi vùng đất sinh sống của chúng. Cuộc săn voi diễn tiến vô cũng tốt đẹp, hàng trăm con voi bị giết và họ thu được vô số ngà voi quí giá. Những đàn voi hoảng sợ chạy tứ tán ra các vùng rừng núi rất xa!
    Ngày khánh thành trung tâm du lịch, du khách khắp nơi trên thế giới theo lời quảng cáo, mời gọi của nhà tài phiệt về tham dự rất đông. Người ta mời nhau uống Champagne, tiệc tùng, xem múa hát, khiêu vũ, dạo chơi trên đường Voi Đi hoặc chơi trượt nước, tắm mát, lái thuyền… trên hồ Đầu Nguồn tuyệt diệu.
    Tuy nhiên, có một điều làm mọi người chú ý lắng tai nghe… xen lẫn trong tiếng trống nhạc dập dềnh, tiếng người chúc tụng nhau… là những tiếng thét lanh lảnh, ồn ào của loài voi vọng lại từ phía rừng sâu!
    Thì ra, bầy voi bị săn đuổi mấy hôm trước đã không chịu rời bỏ quê hương hồ Đầu Nguồn thân yêu của chúng! Chúng đang gọi nhau trở về trên đường Voi Đi, càng lúc càng đông. Hàng chục con, hàng trăm con, rồi hàng ngàn con như những khối đá to lớn, xám xịt, lắc lư, trùng điệp bên ngoài bức tường thành kiên cố. Hiện tượng hàng ngàn con voi tập trung bên ngoài bức tường chắn của trung tâm du lịch là một biến động gây kinh hoàng cho hàng trăm nam nữ du khách hiện diện ở đó. Người ta lo lắng, e ngại không biết chuyện gì sẽ xẩy ra!
    Tuy nhiên, đối với vị chủ nhân trung tâm du lịch thì đây là một hành động thách đố, xúc phạm và khiêu khích… làm bùng lên sự tức giận vốn là đặc tính xưa nay của ông. Lập tức ông ra lệnh tất cả tay súng hiện có trong trung tâm lên ngay bờ tường, chuẩn bị trừng phạt bầy voi đã cả gan xâm phạm bờ cõi và phá hoại công việc làm ăn đang diễn tiến tốt đẹp. Ông mỉm cười tự tin cho lệnh mời toàn thể du khách đến khu vực tường thành để mục kích một màn bắn voi cực kỳ vĩ đại, hấp dẫn, có một không hai.
    Lệnh nỗ súng ban ra, sau loạt đạn đầu tiên, hàng chục con voi đứng phía trước lập tức gục xuống! Những con voi đứng kế đó tỏ ra nao núng. Chúng quay ngoắt về phía sau, hàng ngũ bầy voi có vẽ rối loạn.
    Những con voi phía sau tung vòi lên cao, thét lớn như để khích động tinh thần cho những con phía trước. Lạ thay, sau những tiếng gào thét đó, đàn voi phía trước lập tức quay trở lại.
    Rồi đột nhiên cùng một trật, có lẽ đây là một cảm ứng tương quan đặc thù của loài thú hoang dã, bầy voi cả ngàn con tung vòi lên cao và đồng loạt thét lên những tiếng thét ghê hồn! Âm thanh cộng hưởng tạo thành tiếng rít lanh lảnh như tiếng sét nổ bên tai, kéo dài liên tục tưởng như bất tận…
    Khủng khiếp và kinh hoàng lan ra nhất nhanh đến độ bọn xạ thủ lập tức bỏ súng, hai tay bịt chặt lỗ tai, trố mắt nhìn và đầu óc quay cuồng trong tiếng thét hãi hùng đó. Tất cả du khách cực kỳ chấn động, họ hốt hoảng xô lấn nhau bỏ chạy hỗn loạn về phía một nhà khách ở gần đấy. Họ không còn lòng nào đứng xem nữa. Chẳng những vậy, có nhiều người bắt đầu tỏ ra chống đối việc chủ nhân trung tâm du lịch tàn sát bầy voi một cách man rợ.
    Sau tiếng thét như để tăng thêm hùng khí và áp đảo đối phương, bầy voi vừa gào thét vừa xông lên trong khi những xạ thủ cũng vừa chụp lại những khẩu súng và hướng về phía trước liên tục nhã đạn… Con này gục xuống thì con khác tiến lên, đàn trước bị loại thì đàn sau tràn tới… Bầy voi như những đợt sóng thần của đại dương dồn dập tràn tới tạo nên một cuộc thí mạng tàn khốc, kinh hồn!
    Trong cảnh bắn giết cực kỳ kinh hoàng đó, nếu chú ý quan sát trận địa, ta sẽ thấy khoảng cách giữa bầy voi và bức tường thành càng lúc càng rút ngắn. Những con voi phía sau, mình đầy máu, dẫm lên xác đồng bạn, tiến lên không một chút e dè sợ hãi. Chúng dùng thân hình to lớn húc mạnh vào bức tường rào kiên cố. Sức mạnh của tủi nhục, của căm hờn, của đoàn kết đã xô ngã một đoạn dài bức tường thành chắn ngang đường Voi Đi! Những tay súng lì lợm nhất đã phải rút chạy trong nỗi khiếp sợ mà xưa nay họ chưa từng gặp!
    Bầy voi đông như kiến, tràn vào bên trong như nước vỡ bờ. Chúng đạp đổ bất cứ thứ gì vướng bận trên đường đi. Chúng chạy nhanh tới hồ Đầu Nguồn thân yêu ngàn đời của loài voi, để lại phía sau cái cơ ngơi đồ sộ của trung tâm du lịch đang bốc cháy dữ dội.
    Trong cơn giận dữ điên cuồng, nhà tài phiệt hò hét tập họp toàn thể thợ săn, nhân viên cảnh vệ, cho tới cả bồi bếp và lao công, phát vũ khí cho họ, lập thành một đạo quân hùng hậu, quyết tâm tận diệt bầy voi.
    Trước sự chuẩn bị vũ lực tàn bạo để thủ tiêu những con vật hiền lành này, toàn thể du khách hiện diện cực kỳ xúc động. Họ đau lòng thấy hoàn cảnh tuyệt vọng của bầy voi. Họ tìm mọi cách thuyết phục nhà tài phiệt Tây phương nhằm ngăn ông ngưng lại cuộc bắn giết man rợ. Nhưng buồn thay, chẳng những họ không thành công trong sứ mệnh bảo vệ bầy voi cho khỏi chết mà còn bị đàn áp dã man. Cuối cùng tất cả du khách bị nhà tài phiệt ra lệnh cho bộ hạ xô đẩy, dồn ép họ vào một hốc núi để ông rảnh tay hạ sát toàn thể bầy voi.
    Thế rồi, đoàn người hùng hậu với vũ khí trên tay siết dần vòng vây chung quanh hàng ngàn con voi đang tắm rửa, nô đùa dưới hồ nước. Họ chờ phát súng lệnh để kết thúc mạng sống của hàng ngàn con voi, hoàn thành giấc mộng giàu sang và thỏa mãn tính hiếu sát của nhà thám hiểm ác độc.
    Vào lúc những du khách bị đàn áp thô bạo vì phản đối việc bắn giết bừa bãi giống vật quý hiếm này, có một chàng thanh niên gan dạ. Anh dùng mẹo nhỏ, lừa được bọn canh gác, thoát ra khỏi hốc núi. Anh đem hết tâm lực vượt rừng già, chạy nhanh về thành phố, thông báo tin dữ. Quân đội Kenya lập tức được điều động tới và kịp thời ngăn chặn hành động hung hãn của nhà thám hiểm Tây phương đồng thời giải thoát các du khách đang bị giữ trong hốc núi.
    Vị đại diện chính quyền Kenya nhìn hàng ngàn con voi to lớn đang vui đùa tắm rửa trong hồ nước bao đời của chúng, ông lên tiếng thống trách nhà tài phiệt Tây phương cùng đoàn quân của ông ta đã vi phạm thỏa ước đã ký kết khi phá hoại tài nguyên thiên nhiên của quốc gia Kenya và xác quyết sẽ đưa ông này ra tòa xét xử. Cuối cùng ông cao giọng tuyên bố:
    “Vĩnh viễn trả lại đường Voi Đi và hồ Đầu Nguồn cho loài voi.”

    #2
      hai1957 08.11.2012 22:55:31 (permalink)
      Chương I

      GỐC MIÊU VÀ DẤU TÍCH VĂN HÓA VIỆT CỔ



      I/1.- VĂN HÓA MỒ CÔI

      Giải thích hai chữ văn hóa, tự điển Lê Văn Đức và nhóm Lê Ngọc Trụ viết: “Văn hóa là mọi sự cần dùng về đời sống có tổ chức của một dân tộc như : kinh tế, pháp lý, mỹ thuật, văn chương v.v…”
      Theo Bs. Nguyễn Thị Thanh trong “Văn hóa Tiền sử và Sơ sử Việt Nam” thì “văn hóa là sản phẩm tinh thần và vật chất tốt đẹp, phát xuất từ những suy tư của trí tuệ, của lương tri, lương tâm, sự thông minh, nghị lực cùng sự khéo léo tay, chân, cơ thể của con người. Một nước giàu thịnh, có văn hóa vật chất, khoa học kỹ thuật tiến bộ, chưa hẳn là một nước có văn hóa cao toàn hảo, nếu họ không có phần văn hóa tinh thần theo đúng với lương tâm con người. Vì thế một nước nghèo yếu, kém kỹ thuật, nhưng có một nền văn hóa tinh thần theo đúng lương tâm con người muôn thuở, thì họ vẫn là một nước có văn hóa cao. Vì phần tinh thần bao giờ cũng cao quí hơn phần vật chất. Cũng thế, người khoa bảng cao, khả năng tài chánh dồi dào, chưa phải là người có văn hóa hơn người ít học, nghèo nhưng có tư cách và nhân phẩm. Văn hóa tuy bao la phức tạp, nhưng thật ra nó rất rõ ràng đơn giản. Vì thế, tùy suy tư của trí tuệ, tùy hành động của cá nhân, tập thể hay dân tộc mà người ta đánh giá văn hóa của họ cao hay không”.
      Do ở điều kiện kinh tế, luân lý, đạo đức, truyền thống và tổ chức xã hội của mỗi dân tộc mà xã hội loài người thời cổ phát sinh hai mô thức văn hóa chính.
      Một là văn hóa du mục, phát sinh từ những dân tộc chuyên về chăn nuôi, họ không ở một chỗ mà thường xuyên di chuyển theo đàn thú. Cai trị xã hội bằng cường lực… Điển hình là các dân tộc ở Trung Đông, Âu châu cổ, Tây Bắc Á…
      Hai là văn hóa nông nghiệp, phát sinh từ những dân tộc định cư một chỗ, sống bám vào ruộng đất. Chỉ đạo xã hội là minh triết hoặc tôn giáo. Điển hình là các dân tộc ở vùng Lưỡng Hà, vùng châu thổ sông Nil, sông Hằng và nhất là vùng Đông Nam Á lục địa với 3 dòng sông lớn: Hoàng Hà, Trường Giang (Dương Tử) và Hồng Hà. Một điều rất lý thú là những nền văn hóa nông nghiệp này hầu như cùng xuất hiện trong khoảng thời gian từ 8 đến 10 ngàn năm về trước, cùng nằm trên những vĩ độ 20 đến 30 Bắc vĩ tuyến và lập cư lâu đời trên các châu thổ của những con sông lớn.
      Theo thời gian, có những nền văn hóa cổ đã đi vào dĩ vãng như văn hóa Lưỡng Hà (Mésopotamie), văn hóa Babilon, văn hóa Ai Cập, Hi Lạp, La mã, Maya, Incas (Trung Mỹ), Angkorwat (Cambodia cổ), Chiêm Thành và Phù Nam (vùng Hậu Giang cổ).v.v…
      Có những nền văn hóa đang chập chờn như văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật, Việt Nam… Cũng có nhiều nền văn hóa đang được cố gắng hồi sinh trở lại như văn hóa Do Thái, văn hóa Hồi giáo của các nước ở Trung Đông và một số ở Đông Á, hay cố tình hủy diệt cả một nền văn hóa như Trung cộng đang làm ở Tây Tạng, Khờ Me đỏ đã làm ở Cambodia…
      Ngày nay, chúng ta đang sống trong quỷ đạo văn hoá Tây phương. Nền văn hóa này được kiến tạo từ triết lý nhân bản suy lý của các triết gia Hi Lạp cổ Socrate, Platon, Antisthène, Aristote, Diogènes… khoảng 500 tr. CN. Ở Âu châu, vào thế kỷ 17, 18 sau CN, triết lý nhân bản này được các triết gia châu Âu làm sống lại, người ta gọi là thời kỳ Phục hưng. Nhờ áp dụng triết lý nhân bản suy lý, Tây phương đã dùng lý luận và toán học thúc đẩy khoa học kỹ thuật vươn lên mỗi ngày một tiến bộ. Từ lý luận, Tây phương dần dần xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế, đưa nhân loại đi vào thể chế cộng hòa, dân chủ, tự do, pháp trị dựa trên nền tảng nhân quyền… đời sống loài người trở nên sung túc và kiến thức con người được mở rộng hơn xưa rất nhiều.
      Cuối cùng, có một nền văn hóa mà chúng tôi muốn đề cập trong tài liệu này, đó là nền văn hóa mà triết gia Lương Kim Định đã xót xa đặt cho cái tên: văn hóa mồ côi!
      Gọi là mồ côi bởi vì cho đến nay, nền văn hóa kỳ diệu này vẫn tồn tại, nhưng hầu như chỉ có những ngưỡi hằng quan tâm đến cổ sử và văn hóa Việt cổ mới trăn trở, bỏ công tham gia nghiên cứu mà thôi. Về phía độc giả, đa số lắng nghe do tin vào giá trị rộng lớn của những tài liệu nghiên cứu có tầm vóc quốc tế rất cao của nhiều khoa học gia các ngành như: khảo cổ, khảo tiền sử và thượng cổ sử, nhân chủng học, ngôn ngữ học, văn hóa truyền thống, nhân thoại, chỉ số sọ…
      Tuy nhiên cũng không thiếu những người còn nghi ngờ hoặc vài cây bút vốn mang nhiều mặc cảm thân phận nhược tiểu vẫn tiếp tục đưa ra những ý kiến xuất phát từ môt số học giả Pháp trong thời kỳ thực dân. Những học giả người Pháp này, không phải là tất cả, đã làm việc theo một nguyên tắc có hậu ý tiêu diệt niềm tự hào dân tộc Việt bằng cách đưa ra những lập luận:
      “Người Việt Nam ngày nay vốn là con cháu của những di dân chạy loạn diệt chủng phương Bắc. Nếu họ không lệ thuộc dân tộc này thì cũng làm tôi dân tộc khác. Dân tộc Việt vay mượn ngôn ngữ của Trung Hoa, của Khờ Me, của Miến Điện, Mã Lai, Nam Dương… Đời đời trong dòng máu dân Việt mang truyền thống chia rẽ của tổ tiên .v.v…”
      Quả nhiên, việc làm đầy thiên kiến, lừa dối này của họ đã để lại không ít hậu quả tai hại dù dân Việt đã thoát ra khỏi xiềng xích đế quốc Pháp đã hơn nửa thế kỷ.
      Nền văn hóa mồ côi này nằm xen kẽ, lẫn lộn trong một nền văn minh khác ít nhất cũng đã hai ngàn năm trăm năm rồi (giai đoạn sau Khổng Tử). Nó mang tên họ khác và buồn thay, tất cả mọi người trên thế giới, kể cả con cháu của những tổ tiên hiền triết đã khai sinh ra nó đều tin rằng, nó là của Trung Hoa, của Khổng, Mạnh, Lão, Trang… Nhiều ngàn năm rồi, ai cũng nói như vậy, cho nên ngày nay hễ ai nói khác đi thì lập tức kẻ ấy bị cười vào mặt: Con nhái muốn đẻ ra con bò, yêu nước mù quáng!… Nhưng biết mà nói không được thì thao thức, đau lòng vì thấy mình vừa có lỗi với tổ tiên vừa làm cho dân tộc mất đi một kho tàng tư tưởng cực kỳ quý giá có giá trị trùm lấp.
      Tôi viết cụm từ có giá trị trùm lấp, bởi vì đây là một minh triết có một không hai của nhân loại mà tôi xin mượn những công trình nghiên cứu của các người đi trước như Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh, Bình Nguyên Lộc, Lương Kim Định, Phạm Văn Sơn, Hoàng Văn Chí, Phạm Cao Dương, Đinh Khang Hoạt, Nguyễn Xuân Quang, Heidegger, Keightley, Wilhelm G. Solheim II, David N, Max Scheller và rất nhiều người nữa… để làm nền tảng cho những lập luận và gợi ý một sự phối hợp giữa văn minh Việt cổ và văn minh Tây phương trong việc xây dựng lại quê hương thân yêu của chúng ta.
      Đã đến lúc người Việt cần mở rộng gia phả tổ tiên, cẩn trọng và đem hết tâm tình tìm lại tông tích nguồn cội, văn hóa cha ông để biết mình con cháu nhà ai? Tại sao thiên hạ quan tâm đặc biệt đến dân tộc mình, sử nước mình, nhất là thời tiền sử? Những thập niên hậu bán thế kỷ 20, sau khi Việt Nam thoát khỏi sự đô hộ và phong tỏa văn hóa của thực dân Pháp thì các sử gia, triết gia, học giả, khoa học khảo cổ… Việt Nam và thế giới nghiên cứu một cách nghiêm chỉnh. Họ đi sâu vào các lãnh vực tiền sử và sơ sử Việt Nam và Trung Hoa, họ say sưa đề cập tới nền văn hóa Động Đình* cách đây khoảng 9.000 năm đến 3000 năm.
      * Động Đình : Một địa danh cổ được nói đến trong Thượng cổ sử Việt Nam: Năm 2.879/TCN, Kinh Dương Vương Lộc Tục, vua nước Xích Quỷ (tên nước ta thời tiền sử) cưới nàng Long Nữ con gái của Động Đình Quân, một vị vua ở vùng Động Đình…
      Động Đình thời cổ là vùng châu thổ sông Dương Tử mà trung tâm là Động Đình Hồ. Vùng Động Đình có rất nhiều hồ, và hồ lớn nhất cũng gọi là hồ Động Đình. Chu vi hồ 450km. Hồ nằm trong phạm vi tỉnh Hồ Nam ngày nay, Hồ Động Đình nối với sông Dương Tử bằng một đoạn sông ngắn rộng nhiều sóng gió, đó là sông Tiền Đường được kể trong truyện Đoạn Trường Tân Thanh (truyện Kiều) của Nguyễn Du. Hồ Động Đình còn mang nhiều tên khác như: Ngũ Hồ, Cửu Giang Hồ, Tràng Hồ. Gần hồ có núi Cửu Nghi (Trung Nhạc Thái Sơn) là ngọn núi cao nhất trong Ngũ Nhạc. Phía Nam hồ Động Đình là Cánh Đồng Tương có kinh đô của vua Lạc Long Quân gọi là Cữu Linh nằm trên ngã ba hai sông Tiêu và sông Tương. Hai con sông này phát nguồn từ Ngũ Lĩnh chảy về phía Bắc, chúng gặp nhau ở Cánh Đồng Tương rồi đổ vào hồ Động Đình.
      Trên Cánh Đồng Tương có núi Thiên Đài, nơi vua Đế Minh làm lễ lên ngôi cho Lộc Tục. Hiện vẫn còn ngôi miếu cổ và một tấm bia đá ghi rõ sự kiện này. Sách Việt Nam Đệ ngũ Thiên niên kỷ, bài của bác sĩ Trần Đại Sĩ hiện là Trưởng ban Nghiên cứu Phối hợp Đông Tây y tại Pháp. Tục truyền ngày xưa có giống rồng Á châu sống trong phạm vi Đọng Đình Hồ (?).
      Theo các nhà khảo cổ học và sử học thì khu vực Động Đình cổ là trung tâm văn hóa nông nghiệp cùng thời với văn hóa Bắc Sơn miền bắc Việt Nam (7.000 – 1.000 năm tr.CN). Sau này, khi thống thuộc Trung Hoa, vùng Hồ Nam, Giang Nam, Lưỡng Quảng… vẫn là vùng đất nổi danh về văn thơ, triết học, nghệ thuật điêu khắc, hội họa, ca vũ, đồ gốm, tơ lụa, y dược, cao lương mỹ vị, người đẹp… hạng nhất của Trung Hoa xưa và nay.
      Vậy ai là chủ nhân của nền văn hóa tiền sử đó? Thiết tưởng hơn ai hết, người Việt chúng ta không thể thờ ơ đối với gia tài văn hóa của tổ tiên mình. Điều này lại càng thiết thực hơn khi nền văn hóa Tây phương đã và đang lộ ra nhiều khuyết điểm tai hại cho nhân loại trong suốt thế kỷ 19, 20. (Chúng tôi sẽ trình bày ở Chương IV – Văn minh thế giới) .
      Nền văn hóa mồ côi đặc thù này xuất phát từ một dòng dân gọi là Miêu tộc* cũng gọi là Viêm* (người xứ nóng) về sau gọi là Bách Việt*. Miêu tộc ra đi từ dãy Thiên Sơn, cao nguyên Himalaya cách đây nhiều chục ngàn năm họ theo các dòng sông lớn chảy về hướng Đông và Đông Nam mà xuống định cư ở lục địa Đông và Đông Nam Á châu.
      * Theo những trưng dẫn trong sách “Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt” của Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang các danh xưng Miêu, Viêm, Bách Việt được ông trình bày như sau: “Trong số các Học giả cho rằng Thần Nông là người Việt, người tiêu biểu là Giáo sư Kim Định. Giáo sư theo Mộng Văn Thông (Sử gia Trung Hoa), cho rằng Thần Nông là vua của Viêm tộc tức là Việt vì người Trung Hoa thời nhà Chu gọi chúng ta là Viêm Bang và gọi phương Nam (vùng châu thổ sông Dương Tử trở về Nam) là Viêm phương. Theo Mộng Văn Thông trong Cổ Sử Nhân Văn thì Viêm là Việt + Miêu. Giáo sư Kim Định gọi là Vimê”.
      Sau nhiều giai đoạn văn hóa mà sự tiến bộ gối đầu lên nhau một cách mật thiết; cho đến cách đây khoảng 9.000 năm (khởi đầu văn hóa Bắc Sơn), dòng Miêu tức Viêm này đã đạt được những bước tiến bộ đặc thù mà trung tâm văn hóa là những vùng đất lớn nằm quanh hồ Động Đình và châu thổ sông Dương Tử (Trường Giang) . Nền văn hoá này được đánh giá cao ở mức kỳ diệu và đã chứng tỏ khả năng đáp ứng nhu cầu thiết thực của con người * mặc dù nó chỉ mới là một nền văn hóa biểu tượng vì thời gian này chữ viết rất sơ khai chưa hoàn hảo.
      * Nhu cầu thiết thực của con người theo triết gia Lương Kim Định là Nhân bản toàn diện, có nghĩa là hạnh phúc con người phải đạt tới toàn diện gồm hai lãnh vực vật chất và tinh thần. Dựa vào nền tảng đó, ông đề xướng lối sống An Vi tức là triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực. Khác với văn minh

      I/2 .- NHỮNG BƯỚC ĐẦU TÌM VỀ NGUỒN CỘI CỦA Triết Gia KIM ĐỊNH VÀ MÔN SINH:

      Tại đại học Văn khoa Sài Gòn, năm 1958 khi giáo sư, triết gia, linh mục Lương Kim Định đề nghị thành lập môn Việt triết thì gặp ngay sự phản đối của một số giáo sư triết học đồng nghiệp và những viên chức có thẩm quyền. Họ mĩa mai: “Việt Nam làm gì có triết học mà giảng với dạy!” , “Văn hiến Việt Nam là cóp nhặt của Trung Hoa”… Cuối cùng, lời đề nghị cũng được miễn cưởng chấp thuận, nhưng đổi tên thành: triết Đông, theo chương trình giáo khoa, nhưng kèm theo đó cho xen kẽ triết Việt mà triết gia Kim Định soạn thảo (triết Đông vốn là của Trung Hoa, được giảng dạy tại các trường đại học ở Đài Loan và Hồng Kông nhưng không được các trường đại học này coi trọng).
      Mấy năm đầu, số giờ giảng dạy bị hạn chế tối đa và liền lương giáo sư phụ trách rẽ mạt đến độ một giáo sư đại học đã không đủ tiền để đi xích lô đến trường và mướn nhà… mà phải đến ở nhờ nhà riêng của một học trò cũ, Lm. Vũ Khánh Tường. Vài năm sau, từ chỗ lạ tai đến chỗ hấp dẫn, thuyết phục… Giáo sư Kim Định tạo một sinh khí mới trong giới sinh viên đại học Văn Khoa Sài Gòn. Họ ngóng giờ thầy Kim Định và đến nghe chật giảng đường.
      Những vị có thẩm quyền thấy rõ Việt triết là một thực tế có tầm vóc, đã nâng lên dần dần ngang hàng với triết tây và gọi chung là triết học Đông Á. Riêng triết gia Kim Định thì ông chính thức khai mở một hệ thống triết học mới mà ông gọi là Việt Nho, Việt triết và cuối cùng ông chính thức đặt tên cho triết thuyết này là triết lý An Vi. Từ Sài Gòn, giáo sư Kim Định được mời dạy thêm ở các đại học khác trên toàn quốc như Đà Lạt, Vạn Hạnh, Minh Đức, Thành Nhân, An Giang, Huế… (Theo học giả Nguyễn Duy Quang)
      Sau năm 1975, triết lý An Vi theo bước chân chạy loạn cộng sản của đồng bào miền nam, giáo sư Lương Kim Định và học trò của ông lan ra khắp thế giới với một ý thức mới: tổ chức tộc An Việt ra đời qui tụ nhiều nhóm môn sinh cũ và mới. Khởi đầu, dưới sự dẫn dắt của triết gia, các nhóm này tập họp thành những gia đình An Việt chuyên nghiên cứu Việt Nho (triết lý An Vi) và phổ biến sâu rộng ở ngoại quốc lẫn trong nước.
      Khi triết gia tạ thế (25-3-1997) hưởng thọ 82 tuổi, ông để lại cho đời bộ triết Việt Nho và An Vi gồm 42 cuốn. Có thể nói đây là một gia tài văn hóa đồ sộ nhất trong nền văn hóa sử Việt Nam.
      Tính đến tháng 1/2004 các gia đình An Việt tiếp nối đường đi của vị thầy khả kính gồm có:
      Âu châu: Gia đình Anh Quốc, Gđ. Bỉ, Gđ. Pháp, Gđ. Thụy Sĩ, Gđ. Hòa Lan, Gđ. Đức…
      Úc châu: Gđ. NSW 2195, Gđ. NSW 2204, Mulgrave Vic. 3170, Vic. 3133.
      Mỹ Châu: Liên giaGđ Toronto, Gđ Montrel, Gd. Mississauga ở Canada. Liên gia Gđ. Florida, Gđ. Ohio, Gđ. Illinois, Kemtucky, Arizona, Lousiana, nam California, Bắc California, Texas Houston… ở Hoa Kỳ) Mỗi gia đình quy tụ khoảng 10 đến 40 thành viên.
      Tại Việt Nam vì tình hình chính trị chưa cho phép nhưng cũng có mấy nhóm hoạt động trong âm thầm.

      I/3 .- HƯỚNG LAN TỎA CÁC DÂN TỘC ĐÔNG Á

      Để quý độc giả có khái niệm về những bước đầu của xã hội Miêu tộc còn gọi là Viêm, tổ tiên tiền sử của đa số dân tộc Đông Á (trong đó có Việt Nam), chúng tôi xin mời quý độc giả theo dõi vài nét thực cô đọng:
      Theo The Nation Academy Of Science-USA, ngày 29.07.1990, Tiến sĩ J.Y. CHU dựa vào Khoa học Di truyền DNA, chứng minh rằng người Hiện đại đầu tiên xuất hiện ở đông Phi Châu. Cũng trong năm này, giới khoa học gia nghiên cứu về nguồn gốc loài người trên thế giới đều thừa nhận thuyết người Hiện đại xuất hiện ở đông Phi châu là đáng tin cậy nhất. Đồng thời, trong khoảng 10 năm tiếp đó, các khoa học gia khảo cổ này cũng đã tính được thời gian những hậu duệ của người Hiện đại tản mát dần ra khắp mặt đất theo những lộ trình khá hợp lý. Họ đã tính được người Hiện đại có mặt trên trái đất cách đây khoảng 150.000 năm. Trải qua nhiều giai đoạn sinh sôi nẩy nở con cháu họ đợt này qua đợt khác lan tràn qua miền Tiểu Á rồi chia làm hai nhánh lớn một lan dần về phía đông và một lan dần về phía tây .
      A .- Nhánh đi về phía đông, cách đây khoảng 100.000 năm, nhiều nhóm lan dần về phía đông rồi tách làm hai hướng :
      - Hướng đông bắc nhóm A lan lên phía bắc Trung Á sống rải rác thành các bộ tộc du mục. Nhóm này trở thành thủy tổ của dòng Aryian (Ấn Âu) cách đây 50.000 đến 25.000 năm.
      - Hướng đông bắc nhóm B lan về phía đông, băng qua Ấn Độ, rồi tới phía bắc các nước Đông Dương. Họ lan dần lên Đông Á và có mặt ở khắp vùng đất lục địa Trung Hoa ngày nay. Nhóm này trở thành thủy tổ của giống Miêu tức Viêm về sau gọi là Bách Việt cách đây 60.000 năm.
      Cũng nhánh đông bắc B này lên rất xa về phía bắc, họ băng qua eo biển Bering vào đất Bắc Mỹ rồi lan tràn khắp Mỹ Châu. Cách đây 35.000 đến 25.000 năm
      (vào thời điểm này, các eo biển và hải đảo trên thế giới thường là đất liền vì mực nước rất thấp).
      Cũng nhánh đi về phía đông C băng qua nam Việt Nam rồi ra các quần đảo cực đông Châu Á và Úc Châu cách đây 60.000 đến 30.000 năm.
      B.- Nhánh đi về phía tây D, cách đây 90.000 năm, lan dần vào Châu Âu trở thành thủy tổ của các dòng du mục da trắng.
      Địa cầu từ khi được thành hình cho đến cách đây nhiều trăm ngàn năm luôn luôn thay hình đổi dạng. Từ khoảng 150.000 năm trở lại thì Địa cầu đã khá ổn định ngoại trừ thời tiết thì theo chu kỳ mà thay đổi: Khi lạnh quá thì băng, tuyết tràn ngập khắp nơi. Khi nóng quá thì băng tuyết tan, gây lũ lụt, nước dâng lên rất cao… khiến đời sống mọi sinh, thực vật trên Địa cầu không thể tránh khỏi những giai đoạn cực kỳ tàn khốc đến độ có nhiều giống bị tuyệt chủng.
      Ở Đông Á, các thủy tổ của dòng Miêu, Viêm cũng không tránh khỏi các đại thiên tai đó.
      Theo cố giáo sư, triết gia Lương Kim Định, lần lũ lụt cuối cùng, người Đông Á di cư lên vùng núi phía tây để tránh nạn. Khi nước rút về mức bình thường thì hậu duệ của họ từ các hang động trên các dãy núi phía tây lần xuống đồng bằng. Trên những vùng đất mới đó, dần dần hình thành các thị tộc, bộ tộc chuyên về nông nghiệp. Người nông nghiệp hiền lành nhưng tư tưởng thâm trầm do phải sống thích nghi với thiên nhiên. Họ thường xuyên quan sát vũ trụ, khí hậu, sông nước, cỏ cây… rồi theo thời gian họ rút ra những kinh nghiệm sống: Hợp với thiên nhiên thì tốt mà nghịch lại thì xấu. Trời, đất, vạn vật cùng một thể và những thứ đối chọi nhau như âm dương, sáng tối, nắng mưa, đực cái… phải nương nhau sinh tồn và tiến hóa tạo thành nhân sinh quan và vũ trụ quan của người nông nghiệp Đông Nam Á. Đó là văn hóa nông nghiệp
      Ở các vùng Bắc Á, Trung Á, Tây Bắc Á… thì hình thành những tộc, bộ tộc Du mục. Họ thiên về cường lực, chuộng thực tiễn, mạnh được yếu thua. Truyền thống văn hóa người du mục do đó hoàn toàn khác hẳn người nông nghiệp. Dó là văn hóa du mục.
      Trong phạm vi sử liệu, căn cứ theo sách “Trung Quốc Dân Tộc Sử” của sử gia Vương Đông Linh và “Cổ Sử Nhân Văn” của học giả Mộng Văn Thông thì con người cổ đại sau khi bị tiêu diệt trong các đợt băng tuyết, lũ lụt, những người còn sống sót kéo nhau lên miền cao nguyên sống trong các hang động để tránh lụt trong giai đoạn tuyết tan. Trong khoảng giữa thời đại Trung thạch và sơ kỳ Tân thạch khoảng từ 40.000 năm đến 25.000 năm trước đây, khí hậu tương đối ấm áp, loài người rời bỏ hang động trong các dãy núi Thiên Sơn ở bắc Tây Tạng và Tân Cương đi xuống các vùng bình nguyên.
      I/3A .- Một nhóm xuống các đồng bằng phía Tây trở thành thủy tổ giống du mục Aryan (Ấn Âu) vùng Trung Á (Trung Đông)*
      * Người Tây phương thường gọi Á châu là Đông phương. Họ chia Á châu ra làm ba vùng: Cận Đông, Trung Đông và Viễn Đông. Cận Đông là vùng bán đảo Á-Rập, Viễn Đông tức là các nước thuộc Đông Á lục địa và Đông Nam Á quần đão .
      I/3B .- Một nhóm xuống các đồng bằng phía Đông trở thành thủy tổ của các giống da vàng. Giống da vàng có 2 chi:
      Bắc tam hệ và Nam tam hệ có ba dòng*:
      I/3B1 – Bắc tam hệ
      - Dòng Mãn tộc chiếm cực Đông Bắc Trung Hoa ngày nay.
      - Dòng Mông Cổ chiếm vùng đất phía Bắc Trung Hoa ngày nay
      - Dòng Đột Quyết (Turkes) chiếm miền Tây Bắc Trung Hoa và Tây Bá Lợi Á (sau theo Hồi giáo nên gọi chung là Hồi tộc).
      * Cả ba dòng dân này đều sống theo truyền thống du mục, chế độ phụ hệ, tổ chức xã hội hướng về thực tiễn cường lực, hiếu chiến, sống thành từng bộ lạc riêng rẽ, man rợ và chưa khai hóa.
      I/3B2 – Nam tam hệ cũng có 3 dòng:
      - Dòng Hoa* theo Thiên Sơn Nam lộ như Miêu tộc nhưng còn sống đời săn hái du mục ở vùng Tân Cương, Thanh Hải vì nơi này thời đó vẫn còn là vùng đất thuận lợi cho việc săn bắt dã thu và chăn nuôi của dân du mục. Cho tới khi nơi này biến thành sa mạc (cách đây khoảng 5.000 năm) thì Hoa tộc mới men theo sông Hoàng Hà tiến vào Bắc Trung Hoa thuộc vùng cư trú của Miêu tộc.
      - Dòng Tạng* theo Thiên Sơn Nam lộ định cư vùng Hi Mã Lạp Sơn rồi ra Thanh Hải, Tây Khương.
      -Dòng Miêu** cũng gọi là Viêm**.Người Miêu tộc theo Thiên Sơn Nam lộ tiến về hướng Đông và Đông Nam và có mặt khắp nước Tầu cổ đại cho đến Bắc và Trung Việt Nam ngày nay.
      * Hoa và Tạng tổ chức xã hội theo truyền thống du mục và phụ hệ giống như các dòng Mãn và Mông Cổ thuộc Bắc tam hệ 1/1A1 và I/1A2.
      Miêu tộc định cư ở vùng khí hậu nắng ấm nên cũng gọi là Viêm, người xứ nóng. Dòng Miêu sau khi định cư, họ sống theo truyền thống nông nghiệp, chế độ mẫu hệ. Hệ tư tưởng dần dần được nẩy sinh do suy ra từ nhận thức thời tiết và thiên nhiên, vạn vật và con người. Họ tổ chức xã hội theo truyền thống thị tộc, bộ tộc, liên bộ tộc về sau tiến lên thành xóm, làng, huyện và nước. Người lãnh đạo cao nhất nước gọi là “thiên tử” và toàn dân Miêu gọi là “ thiên hạ”.
      Xin mở một ngoặc đơn ở đây để nhìn về phía Việt Nam trong thời gian này ra sao. Đó là những giai đoạn mà các nhà khảo cổ Việt Nam và thế giới gọi là những nền văn hóa nông nghiệp Việt cổ:
      Đấy là vài nét sơ lược thời tiền sử của một số các dân tộc sống ở vùng Đông Á lục địa do chính các nhà khảo tiền sử, cổ sử Trung Hoa nghiên cứu và biên soạn
      Học giả Đinh Khang Hoạt trong cuốn Tinh hoa sử Việt có trích dẫn tài liệu mang tên “Puzzle Begins To Fit Together” của tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học tại đại học Hawaii viết năm 1971, đã nói về xã hội Việt cổ đại như sau:
      Dựa vào những khám phá mới và những xác định vào thời gian… Tôi đồng ý với Sauer rằng, thực vật đầu tiên được thuần hóa là do nền văn hóa Hòa Bình của miền Đông Nam Á. Tôi cũng không ngạc nhiên về việc làm cho thực vật được thích hợp với thủy thổ này đã thực hiện trước đây nhiều chục ngàn năm trước Tây lịch”.
      Ông cũng lập luận rằng :
      Những dụng cụ bằng đá tìm được ở Australia, đồ gốm ở Nhật đã được định tuổi từ 20.000 đến 10.000 năm TCN đều bắt nguồn từ văn hóa Hòa Bình. Văn minh Yangshao và văn minh Lungson và nhiều di chỉ khảo cổ khác ờ Indonesia, Philipine… ở nhiều thời kỳ khác nhau trong khoảng 8.700 năm đến 3.000 năm tr.CN đều chịu ảnh hưởng của văn hóa Hòa Bình”.
      Hoa tộc: Cố học giả Bình Nguyên Lộc gọi Hoa tộc là du mục Mể Tây, một số học giả lại gọi họ là Trung Hoa cổ. Nói chung, họ tự nhận là cách đây 5000 năm, tổ tiên Hoa tộc còn sống đời du mục ở Tân Cương, Thanh Hải (Các sử gia thế giới gọi các giống du mục là savage, barbarian, Rợ… có nghĩa là dân tộc dã man, mọi rợ, chưa khai hóa). Các sử gia Trung Hoa đặt tên cho tổ tiên họ là Hoa tộc.
      Trong tài liệu này, chúng tôi cũng sẽ gọi họ là Hoa tộc như họ tự xưng. Tuy nhiên, người Hoa tộc chính cống chỉ ở từ Bắc Kinh trở lên phía bắc. Họ vẫn còn mang đậm nét họ là con cháu trực tiếp của dòng du mục Hoa tộc này (Thân hình to cao, da trắng tương đối, ăn lúa mì (bánh bao), tính tình thực tiễn… Ngày nay nhờ các phương pháp: Đo chỉ số sọ, ngôn ngữ tỷ giảo, so sánh DNA… người ta thấy rất rõ Hoa tộc miền Bắc thuộc giống Aryian (Ấn Âu) lai với Mông Cổ. Trong khi đó Hoa tộc miền Trung và miền Nam Trung Hoa thì lai với Miêu, Viêm. Càng xuống sâu về phía nam thì đặc tính Ấn Âu – Mông Cổ càng mờ nhạt và đặc tính Miêu tộc đậm lên.
      Vậy các dân tộc nông nghiệp bản thổ được gọi là Miêu hay Viêm là ai?
      Khởi đầu cổ sử Trung Hoa gọi họ là Miêu tộc, có khi gọi là Viêm tộc có nghĩa là người xứ nóng. Sử ta cũng đề cập đến vua Đế Viêm (vua xứ nóng). Trong cuộc chiến tranh với dân bản địa Miêu tộc tại Trác Lộc* năm 2.704 tr.CN thì họ gọi chúa của người Miêu là cổ thiên tử Xi Vưu, lãnh đạo Liên Minh Xích Quỷ**. Sau chiến tranh Trác Lộc, thì họ gọi dân ở phía Nam Hoàng Hà là Cửu Lê***. Đầu thời Chu họ gộp tất cả các dân tộc sống trong vùng châu thổ sông Dương Tử và gọi chung là Bách Việt. Cho đến thời Tần Thủy Hoàng thống nhất toàn cõi lục địa và cuộc tranh hùng Hán Sở tiếp đó, danh xưng Bách Việt**** vẫn còn thấy nhắc đến nhiều lần.
      * Trong bài này chúng tôi chưa nói tới cuộc chiến tranh tại Trác Lộc, một bước ngoặc cực kỳ quan trọng đã làm tiêu tan hai nước Xích Thần, Xích Quỷ và xuất hiện nước Văn Lang. Xin quý vị vui lòng xem chương II.- Hai nước Xích Thần và Xích Quỷ.
      ** Xích Quỷ vốn là tên nước ta thời Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân 2879-2704 TCN. Liên minh Xích Quỷ là sự liên minh của hàng trăm đội dân quân của các bộ tộc Miêu, Viêm nước Xích Quỷ. Liên minh này được chia làm hai đạo. Một đạo do Lạc Long Quân chỉ huy, một đạo do Âu Cơ chỉ huy. Có nhiều độc giả thắc mắc tại sao người xưa lại chọn chữ quỷ để đặt tên nước? Chúng tôi nghĩ, chữ quỷ là một trong hai vế thần, quỷ của triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực mà biểu tượng là cái hình tròn lưỡng nghi. Người là kết hợp bởi thần và quỷ. Như thế thần quỷ có ý nghĩa đồng dạng như trời đất, âm dương, tinh thần với vật chất, nhu cương, lạnh nóng, tình lý, mưa với nắng, đực cái… Ta không nên hiểu quỷ là ma quỷ là xấu xa… mà nên hiểu là sự khôn ngoan, hùng mạnh, thịnh vượng mang tính dương, tính vật chất, tính đực, mà biểu tượng là Rồng. Tên hai nước Xích Thần và Xích Quỷ xác định biệt sắc tư tưởng của nông nghiệp Đông Á. (Xin đọc chương II Xích Thần,Xích Quỷ)
      *** Cửu Lê: (tức là chín nhóm Lê) Theo Việt sử Toàn thư của sử gia Phạm Văn Sơn, vào thế kỷ thứ 9 tr.CN, một quý tộc Việt thuộc họ Mỵ kiêm tính các vùng đất cư trú của các bộ tộc Lê (Cửu Lê) ở vùng đất phía Bắc sông Dương Tử để lập nước Sở và xưng là Hùng Mỵ . Xin lưu ý chữ Hùng trong Hùng Mỵ , chúng tôi có phần bình luận danh hiệu Hùng của người Miêu ở chương II trong sách này.
      **** Bách Việt : Sách Trung quốc Sử cương chép về chiến công của Tần Thủy Hoàng có đoạn như sau:”Vua sai Đồ Thư đi đánh lấy đất Bách Việt, nay là tỉnh Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến…Vua nước Nam phải thần phục” (Xin lưu ý, chúng tôi chỉ dẫn chứng chữ Bách Việt, còn đúng hay sai của đoạn sử Tầu thì xin đừng quan tâm).
      Khi Hạng Võ chiếm được kinh đô nhà Tần, Sử ký Tư Mã Thiên chép:”Bà quân tên là Ngô Nhuế đem quân Bách Việt giúp và theo vào đất Tần được phong Hành sơn vương, đóng đô ở đất Chu”.
      Khi Lưu Bang diệt được Hạng vương và lên ngôi đế, sách Sử ký chép tiếp: “Tướng của bà quân Ngô Nhuế là Mai Quyên có công chiếm được đất Tính, đất Lịch, được phong làm Thập vạn Hộ hầu.”
      Vào cuối thời Vương Mãng, tước vương, tước quân của các vua man di Bách Việt bị Vương Mãng hạ xuống tước hầu. Họ tức giận, bèn hợp cùng bọn Lưu Tú, Lưu Điền… nổi lên chống lại, diệt Vương Mãng, lập Lưu Huyền làm Hán đế. (Trung quốc Sử cương)
      Như thế, dù gọi là Miêu, Viêm, Xích thần, Xích Quỷ, hay Cửu Lê, hay Bách Việt, man di, Nam man… các dân tộc nông nghiệp này trước sau vẫn là con cháu của dòng Miêu, Viêm. Dân tộc Miêu quả nhiênđã có một nền văn hóa cao trước khi có sự hiện diện của cường lực du mục Hoa tộc. Rõ ràng chỉ mới xuất hiện hai tên nước Xích Thần và Xích Quỷ, chúng ta đã thấy ló dạng một minh triết cực kỳ uyên thâm chứ không phải sau này mới có.

      I/4 . – NHỮNG NỀN VĂN MINH VIỆT CỔ

      Những biểu tượng của nhiều giai đoạn văn minh Viêm Việt cổ kéo dài trong khoảng mười ngàn năm, được coi là biệt sắc đặc thù của chủng Bách Việt, vốn có một nền văn minh cổ xưa chẳng những không thua kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới mà còn vượt trội hơn là khác. Chúng tôi xin đơn cử một số biệt sắc đó:
      1. – Tiên Rồng
      2. – Tả nhậm
      3. – Vầng nhật
      4. – Tập quán làng xã
      5. – Ca, vũ, hò, vè, hát ru em …
      6.- Thương em từ thủa Tiên Rồng
      7. – Kiến trúc Việt cổ
      8. – Bí mật phòng trung
      9. – Chuyện ông Bàn Cổ
      Các biểu tượng này chứa đầy quan niệm nhân sinh và vũ trụ cũng như mang tính ẩn dụ vô cùng sâu sắc vốn là minh triết chỉ đạo đời sống con người của nền văn hóa nông nghiệp Miêu Viêm và về sau gọi là Bách Việt. Người Việt xưa nay dù hiểu rất “lờ mờ”, vẫn ra sức bảo tồn. Chẳng những thế những di vật cổ hay truyền thống mang biệt sắc Việt tộc này có niên đại cách đây từ 9.000 năm đến 3.000 năm tức là niên đại văn hóa Bắc Sơn là một sự thật không còn nghi ngờ. Nền văn hóa này hiện diện trong xã hội Miêu tộc trước khi Rợ Hoa xâm lược vùng châu thổ sông Hoàng Hà .
      Những biểu tượng này, từ phía Động Đình càng tiến về phương Nam càng đa dạng, phong phú; khi xuống đến đồng bằng Bắc Việt Nam thì dày đặc.
      Có thể nói, Động Đình là nơi phát sinh nền văn minh nông nghiệp Viêm Việt còn miền Bắc và Trung Việt Nam là nơi bảo tồn và phát triển nền văn minh này do những biến cố lịch sử giữa hai dân tộc Việt–Hoa.
      Khi Hoa tộc xâm lăng trung tâm văn hóa Bách Việt Động Đình và pha trộn với truyền thống du mục của họ thì văn hóa nông nghiệp vùng rìa ở các châu thổ Hồng Hà, sông Cả, sông Mã… (Bắc và Bắc-Trung Việt ngày nay) chẳng những vẫn giữ được trinh nguyên mà còn được thường xuyên bổ sung do những cư dân đồng chủng chạy loạn từ phương bắc về tiếp sức.
      Cao điểm của nền văn hóa đặc thù Việt tộc xuất hiện vào thời đại nhà Thục với phát minh ngành sơn gỗ, sơn da, sơn cột, nhà có mái cong, mỹ thuật ván ngũ cong hai đầu ngành chôn cất có hòm hình thuyền, thủ tục cưới hỏi, nghệ thuật ca vũ… Phát triển tối đa mỹ thuật đồ đồng, kỹ nghệ trống đồng, mũi tên đồng, xây dựng thành quách và phát minh kỹ nghệ đồ sắt…
      Tuy nhiên, sau 1.000 năm bị du mục Hoa tộc đô hộ, với chính sách cướp đoạt văn hóa và đồng hóa, Hoa tộc đã làm dân ta quên đi rất nhiều truyền thống và tư tưởng Việt cổ đến độ sau khi đã dành được độc lập (năm 939), vua quan, triều đình Đại Việt được tổ chức rập theo khuôn mẫu Tầu. Giới sĩ phu Việt coi sử Tầu là chính, sử Việt là phụ. Họ học và phổ biến trong đại chúng luân lý, đạo đức Khổng, Mạnh và tư tưởng Lão, Trang… mà không ngờ rằng hai dòng tư tưởng này bắt nguồn từ tổ tiên hiền triết Việt tộc đã bị Tầu làm biến dạng theo truyền thống du mục của họ.
      Hai nền học thuật Khổng, Lão dù không đi cùng một hướng nhưng đắp đổi cho nhau tạo thành một xã hội mà kẻ cường lực, hung bạo thì làm vua, có toàn quyền trên thiên hạ, giới sĩ phu thì luồn cúi bợ đỡ để được vinh thân phì gia… Nếu vì lẽ gì mà thất bại trong cái xã hội đó thì đành vào rừng mà ở, làm bạn với cỏ cây. Lấy hai chữ ẩn sĩ, vô vi mà tự an trí, tự phát vãn!… Còn đâu nhân chủ, nhân trị, còn đâu vương hóa, còn đâu người vị người, còn đâu đầu đội trời, chân đạp đất?
      Trong hoàn cảnh như thế, làng xã Việt Nam với nếp sống bình dị của người dân sau lũy tre làng, đã là nơi giữ lại phần nào truyền thống tư tưởng và những biệt sắc văn hóa của tiền nhân. Mỗi làng xã Việt Nam có giá trị như một viện bảo tàng văn hóa trong suốt nhiều ngàn năm, chăm chút, gìn giữ trước bao nhiêu nghịch cảnh!
      Tài liệu văn hóa tiền và sơ sử Việt Nam của bs. Nguyễn Thị Thanh có ghi lại những nền văn hóa Việt cổ, tôi xin tóm lược dưới đây:
      - Văn hóa Sơn Vi hay Tiền Hòa Bình: Cách đây 30.000 đến 12.000 năm. Thời đại cựu thạch và trung thạch (giai đoạn vật dụng bằng đá có đầu nhọn tự nhiên cho đến đá ghè đẽo thành lưỡi hoặc đầu nhọn).
      - Văn hóa Hòa Bình: Cách đây15.000 đến 7.000 năm. Thời đại trung thạch đến sơ kỳ tân thạch (giai đoạn vật dụng đá đẻo ở phần lưỡi đến đá đẽo được mài bén ở phần lưỡi). Đây là thời kỳ phát minh văn hóa nông nghiệp.
      - Văn hóa Bắc Sơn: Cách đây 9.000 đến 3.000 năm. Thời đại tân thạch (dao hoặc búa đá được mài toàn phần). Phát triển nghi lễ mai táng, phát triển văn hóa nông nghiệp và nuôi gia súc; thuần hóa trâu, bò để làm ruộng… Phát triển kỹ thuật đan tre, mây, lát. Phát minh đồ gốm văn hoa chải, tiền đá Hòa bình và nghề dệt. Xã hội thành hình những cộng đồng và tổ chức làng xã, chợ búa, văn nghệ hát nói và ca múa. Thời kỳ Thần Nông Đế Viêm. Thời kỳ vua Kinh Dương vương (Lộc Tục, con thứ của vua Đế Minh) lập nước Xích Quỷ năm 2.879 tr.CN ở phía Nam sông Dương Tử.
      - Văn hóa Quỳnh Văn hay Hậu Sơn Vi: Cách đây 10.000-4.000 năm song song với Vh. Bắc Sơn. Đồng thời là khởi đầu văn hóa Bàu Tró, văn hóa tiền Phùng Nguyên. Đây là thời kỳ văn hóa Lạc Việt sơ khởi của những chi phía Nam trong nền văn hóa Bách Việt toàn vùng mà chúng tôi trình bày ở trên. Thời kỳ các vua Hùng dựng nước Văn Lang, thời gian này đất nước đã có 10 điều luật hoàn toàn khác với Hoa tộc (Hạ, Thương); phát triển đồ gốm có bàn xoay, hoa văn gốm hình dây thừng, hình kỷ hà, nghề đánh cá, nghề dệt; phát minh nghề làm rượu; sơ kỳ đồng thau; truyền thống nhà sàn có mái cong, truyền thống cưới hỏi theo mẫu hệ; tục uống nước bằng mũi.
      - Văn hóa Phùng Nguyên hay Hậu Bắc Sơn và Quỳnh Văn: Cách đây 6.000 đến 2.400 năm. Thời kỳ các vua Hùng và nước Văn Lang.
      - Văn hóa Gò Mun: Cách đây 4.800 đến 2.300 năm. Phát triển kỹ nghệ đồng thau, binh khí bằng đồng, mũi tên đồng, đồ gốm hoa văn chải.
      - Văn hóa Đồng Dậu: Cách đây 3.700 đến 2.200 năm. Phát triển cực ky rực rỡ kỹ nghệ đồng thau, mỹ thuật tinh xảo trong nghề gốm, nghề chài lưới, câu cá… Phát minh ngành họa và âm nhạc, đàn bầu (?). Phát minh chữ lăng quăng, chữ chân chim và chữ tượng hình (chữ Nho cổ?), chế tạo một loại giấy làm bằng cây Mật Hương rất nổi danh, phát giác trà, thuốc lá… Chiến tranh giữa vua Hùng cuối cùng của họ thứ 18 với Thục Phán. Nước Văn Lang chấm dứt năm 208 tr.CN.
      - Văn hóa Đông Sơn: Năm 800 đến năm 111 tr.CN. Phát minh ngành sơn gỗ, sơn da, sơn nhà có mái cong, mỹ thuật ván ngủ cong hai đầu, ngành chôn cất có hòm hình thuyền, thủ tục cưới hỏi… Phát triển tối đa mỹ thuật đồ đồng, kỹ nghệ trống đồng. Phát minh kỹ nghệ đồ sắt. Đây là thời Xuân thu và Chiến quốc và cuối cùng, chư hầu Tần thống nhất toàn cõi Trung Hoa, xưng là Tần Thủy Hoàng. Ở Lĩnh Nam, Thục phán lập nước Âu Lạc 257-207 tr.CN. Kế đó là các triều đại nhà Triệu nước Nam Việt và cuối cùng năm 111 tr.CN bị Hoa tộc thôn tính và đô hộ.
      Kể từ giai đoạn này, bằng chủ trương đàn áp văn hóa cực kỳ khốc liệt của Hoa tộc, các truyền thống văn hóa và tư tưởng nông nghiệp Bách Việt cổ bị khựng lại và đi dần vào quên lãng!! Trong khi đó, Hoa tộc, với hành trang văn hóa mới, được đắp bồi liên tục bởi văn hóa Bách Việt và được Khổng, Mạnh cùng Lão, Trang chấn chỉnh đã thực sự vươn lên giai đoạn “tột đỉnh văn minh Trung Hoa” của các thời đại Hán, Đường, Tống, Minh sau này.
      Những nền Văn hóa Sơn Vi, Tiền Hòa Bình, Hoà Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn, Hậu Sơn Vi vừa nêu là văn hóa Bách Việt cổ được tìm thấy ở “vùng rìa” Bắc Việt Nam. Trung tâm của nó là vùng Động Đình đã được người Trung Hoa khảo cứu khá tường tận, tuy nhiên, họ công bố rất nhỏ giọt vì “tự ái dân tộc” và không muốn đánh mất những gì họ tự hào về văn minh Trung Hoa.
      Kể từ văn hóa Phùng Nguyên, Hậu Bắc Sơn, Hậu Quỳnh Văn, Gò Mun, Đồng Dậu, Đông Sơnthì miền Bắc Việt Nam dần dần thay thế vùng Hồ Nam, Giang Nam và Lưỡng Quảng và phát triển mạnh để trở thành trung tâm mới của Việt tộc.

      I/5 .- KẾT LUẬN I

      Trong suốt hai thời kỳ đô hộ Việt tộc, càng về sau người Trung Hoa càng tỏ ra quyết liệt trong việc xóa bỏ văn hóa Việt như tịch thu mọi trống đồng Lạc Việt (người Việt gọi là thần cổ), vật dụng tế lễ bằng đồng, nấu chảy rồi đúc trụ đồng, sao chép các chuyện cổ, thơ nói, vè, ca dao… và nhận làm của riêng. Hàng đoàn xe chở đầy tài liệu công thư khố, văn, thơ, sổ sách, biểu, tấu của các triều đại Đại Việt như Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ (xâm lược Minh đầu TK.15). Thay vào đó, họ bắt dân ta học theo cái văn hóa mà họ đã phóng tác, chế biến từ những điều học được của tổ tiên ta và gọi là giáo hóa Nam man, man di… Trường hợp hai ông Thái thú Nhâm Diên và Sĩ Nhiếp là những thí dụ điển hình. Quả thực Hoa tộc thiếu cái thật thà của người La Mã khi các sử gia La Mã luôn luôn xác nhận rằng họ học được văn minh từ người Hi Lạp khi họ xâm lăng nước này!!
      Ảnh hưởng của đồng hóa may sao chỉ tràn vào các cơ chế chính trị, học thuật, cung đình và những hoạt động nhân gian có liên hệ đến vua quan và triều đình… Còn làng, xã Lạc Việt thì vẫn giữ được cái “dáng” an nhiên tự tại nhờ một loại luật bất thành văn: “Luật vua thua lệ làng” bảo vệ.
      Để những ai còn ngờ vực những vấn đề chúng tôi vừa nêu trên, xin cống hiến quý vị vài mẫu tài liệu lý thú sau đây:
      Triết gia Lương Kim Định viết trong sách Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam:
      Trước hết là việc Khổng Tử tuyên bố: Thuật nhi bất tác, tức là chỉ thuật lại đạo cổ xưa chứ ông không sáng tác. Và, nếu cần xác định là đạo cổ ấy ở đâu, thì ông bảo là ở phương Nam trong câu: Khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo Nam phương chi cường dã quân tử cư chi (sách Trung Dung/10). Vì những lý do trên, chúng ta nên từ bỏ thói quen coi Khổng Tử như một người sáng lập Nho giáo. Công lao của Khổng Tử, chúng ta không bao giờ quên, như người học trò luôn luôn kính trọng và biết ơn vị thầy của vạn thế!”
      Bác sĩ, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh, cựu Gs. Đại học Moncton Canada, trong bài “Phát hiện thơ cổ thời kỳ văn hóa Bắc Sơn” viết năm 1994, có kể môt câu chuyện… cười ra nước mắt của cố Tổng thống Tưởng Giới Thạch như sau:
      Năm 1958, khi Tổng thống Đài Loan, Tưởng Giới Thạch, chủ tọa lễ khai mạc đại hội văn hóa Trung Hoa gồm các nhà làm văn hóa Trung Hoa như sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, giáo sư các bộ môn khoa học xã hội….”
      Sau khi nghe các học giả thuyết trình về văn minh Trung Hoa, ông hỏi: “Vậy nền học thuật và tư tưởng Khổng, Lão xuất phát từ đâu?” Họ trả lời: “Từ phương Nam” Nghe thế Tổng thống liền đứng lên ra về… bỏ cả bữa cơm truyền thống mà theo chương trình thì Tổng thống sẽ chủ tọa
      Tại sao vị Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc nổi giận đến độ phải bỏ về? Chắc chắn ông biết rõ, nói tới phương Nam là nói tới địa bàn cư trú của các dân tộc Bách Việt mà Hoa tộc đã cưỡng chiếm mấy ngàn năm về trước, mà… đụng tới Bách Việt thì Trung Hoa không còn gì để nói cả!
      Chẳng riêng gì Sử ký Tư Mã Thiên thời Hán, hầu như mọi sử gia Trung Hoa các triều đại Trung Hoa về sau như Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh cũng chép về các dân tộc Bách Việt và những vùng đất cư trú cổ xưa của họ và gọi họ một cách trịch thượng, đầy miệt thị là man di Bách Việt, Nam man.
      1 .- Văn hóa Sơn Vi cũng gọi là Tiền Hòa Bình cách đây khoảng 30.000 năm đến 12.000 năm.
      2 .- Văn hóa Hòa Bình cách đây khoảng 15.000 năm đến 7.000 năm.
      3 .- Văn hóa Bắc Sơn cách đây khoảng 9.000 năm đến 3.000 năm
      Những tài liệu nghiên cứu về thời kỳ hoang dã của người Đông Á lục địa này, đã mặc nhiên xác nhận rằng, chủ nhân của đất nước này từ 5.000 năm trở về trước không phải Hoa tộc mà chính là người Miêu tức Viêm.
      **Tây phương ngày nay chỉ mới đạt tới lãnh vực vật chất (suy lý), còn tinh thần thì thả lỏng. Triết gia gọi triết lý Nhân bản Tây phương là triết lý Nhị nguyên.
      Theo chúng tôi thì du mục Hoa tộc cổ là một giống Rợ (người man dã) đã tràn vào Đông Á rất sớm, cùng thời gian với vua Ménès tấn công chiếm vùng châu thổ sông Nil, Ai Cập của những “Tiểu bang” Nông dân đang sống thảnh thơi ở đó. Cũng y hệt như thế, các giống du mục khác ở Trung Bắc Á, Bắc Á và Đông Âu mà sử sách Tây phương gọi là Rợ cũng tràn vào vùng Trung Đông, Ấn Độ và châu Âu nhưng trể hơn du mục Hoa tộc và Ménès rất nhiều. Đó là các giống Rợ Vandale, Ostrogoth, Franc, Germain, Wisigoth Slave, Scythes… ở châu Âu; Rợ Turkes, Hébreux (Do Thái), Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Tạng, Mông Cổ, Hung Nô ở châu Á…
      Sử gia Nguyễn Hiến Lê trong Lịch sử Thế Giới viết “Bên cạnh các dân tộc văn minh còn có nhiều giống người dã man chiếm trọn Trung Âu, Đông Âu, Bắc Á, Cao nguyên Tây Tạng và gần hết đại lục châu Phi… Các giống người man rộ này sống bằng nghề chăn nuôi và giặc cướp”.
      Vậy Rợ Hoa sống ở Thanh Hải và Tân Cương vùng Tây Bắc lục địa Đông Á cũng không khác gì các giống Rợ chúng tôi vừa dẫn trên. Cho đến khoảng năm 2720 tr.CN thì Rợ Hoa thiên di theo thượng nguồn sông Hoàng Hà mà vào Đông Á. Tại đây họ đụng đầu với đông đảo cư dân nông nghiệp Bắc Miêu. Họ liền họp nhau lại đánh cướp, chiếm đoạt (phần chi tiết chúng tôi sẽ trình bày ở Chương II).
      Lâu đời trước đó, tại vùng Đông Á này, cháu ba đời của vua Đế Viêm thường được tôn xưng là Thần Nông là Đế Minh đã làm vua Miêu tộc năm 3118 Tr.CN. Nếu tính 3 đời là 100 năm thì vua Đế Viêm làm vua khoảng năm 3218 tr.CN. Cuộc chiến tranh giữa Liên minh Xích Quỷ và Rợ Hoa tại Trác Lộc vào năm 2704 tr.CN. Như vậy, vua Đế Viêm Thần Nông làm vua trước khi Rợ Hoa xâm nhập đất Bắc Miêu khoảng 514 năm . Nếu nói rằng, vua Đế Viêm Thần Nông là vua của Hoa tộc cổ thì ông ấy làm vua Hoa tộc vào lúc nào?
      Thần Nông có nghĩa là “thần nghề nông” của xứ nông nghiệp, xứ nông nghiệp khí hậu nóng nên Thần Nông còn gọi là Đế Viêm. Vua Thần Nông sáng tạo ra cày, bừa để trồng lúa, trồng khoai ; nếm vỏ cây, rể cũ, lá, hạt… để làm thuốc ; lâp chợ cho dân trao đổi thực phẩm, vật dụng… sao lại làm vua một giống Rợ du mục ở xứ lạnh vốn chỉ có đồng cỏ để chăn nuôi gia súc? Chẳng những thế, du mục không bao giờ định cư một chỗ mà di chuyển thường xuyên thì làm sao mà định canh? Do đó, bảo rằng Thần Nông Đế Viêm là vua của du mục Hoa tộc quả thực là một chuyện gán ghép đến buồn cười.
      Một chi tiết quan trọng khác là theo truyền thông ngôn ngữ Hoa tộc thì phải gọi là Nông Thần, Viêm Đế chứ không thể gọi Thần Nông Đế Viêm là ngôn ngữ Việt tộc.
      #3
        hai1957 09.11.2012 09:42:58 (permalink)
        Chương II

        NƯỚC XÍCH THẦN VÀ NƯỚC XÍCH QUỶ



        II/1.-BỐI CẢNH LỊCH SỬ, XÃ HỘI THỜI ĐẠI VUA ĐẾ MINH

        Nhờ sự phát triển rực rỡ của nền nông nghiệp dưới thời đại Thần Nông Đế Viêm*, xã hội Miêu, Viêm mà về sau gọi là Bách Việt đã có những phát triển vô cùng khởi sắc trên nhiều lãnh vực. Cư dân nông nghiệp sinh tụ đông đảo, đời sống an lạc, sung túc… Thời gian này tương ứng với giai đoạn giữa của thời kỳ văn hóa Bắc Sơn kể từ 7.000 đến 1.000 năm trước Công nguyên).
        * Thời đại Thần Nông Đế Viêm:
        Thời kỳ 1.- Từ vua Thần Nông Đế Viêm đến cháu ba đời là vua Đế Minh từ năm 3118 đến 2879 tr.CN kéo dài 239 năm.
        Thời kỳ 2.- Từ vua Đế Minh chia nước cho hai con lập thành hai triều đại Xích Thần (Bắc Miêu) và Xích Quỷ (Nam Miêu).
        A.- Triều đại Xích Thần:
        - Đế Nghi 2.879 – 2.813/tr.CN
        - Đế Lai 2.813 – 2.704/tr.CN
        - Đế Du Võng 2.704 – 2.636/tr.CN
        B .- Triều đại Xích Quỷ:
        - Kinh Dương Vương 2879 – (?) tr,CN
        - Lạc Long Quân năm (?) – 2.704/tr.CN
        Từ năm 2704 tr.CN trở về trước là giai đoạn độc lập và thanh bình được coi là cảnh thái hòa đã đạt. Sau chiến tranh Trác Lộc 2704 tr.CN, nước Xích Thần (Bắc Miêu) hoàn toàn bị tiêu diệt, nước Xích Quỷ (Nam Miêu) thì mất vua (Lạc Long Quân), lạc tướng đến độ triều đình tan rã. Bà Âu Cơ về đất Tương Dạ (trên Cánh Đồng Tương) lập đàn, phong cho con trưởng Lạc Long Quân thuộc Hồng Bàng Thị (con của người mẹ họ Hồng Bàng) lên làm Hùng vương và đổi tên nước là Văn Lang. Sau họ Hồng Bàng còn có 17 họ khác thay nhau làm Hùng vương. (Xin xem phần khảo luận ở đoạn sau).
        Năm 1959, mặc dù chính quyền Trung Hoa Cộng sản không công bố nhưng báo chí Đài Loan có đăng một bản tin xuất phát từ các nhà khoa học khảo cổ ở bảo tàng viện Hồ Nam. Bản tin cho biết họ tìm được tại di chỉ khảo cổ Xinqlang, phía Đông hồ Động Đình khoảng 50 km những miếng đất sét nung hình chữ nhật có ghi những chữ chân chim và họ giải đoán là bảng ghi những con số thu hoạch nông nghiệp và chăn nuôi của những quý tộc xã hội Miêu.
        Họ xác định những mảnh đất nung này có niên đại 4.600 năm tr. CN + 100. Việc phác giác những cổ vật tiền sử ở Xinqlang đã xác nhận trước khi “văn minh!” du mục Hoa tộc tràn tới thì Nam Miêu đã có văn minh chữ viết.



        Trong giai đoạn tiền sử này, vùng Bắc Việt Nam dù là vùng rìa của trung tâm văn hóa Động Đình, các chuyên gia ngành khảo cổ học và tiền sử học đã tìm thấy nhiều di chỉ quan trọng điển hình nhất là tại Bắc Sơn. Đấy là giai đoạn tân thạch khí với những đồ đá mài và sơ kỳ kim loại đồng thau, phát triển nghi lễ mai táng, thuần hóa trâu bò, kỹ thuật đan tre, mây, lát. Phát minh đồ gốm văn hoa chải, tiền đá Hòa bình và nghề dệt và nhất là nghệ thuật ca múa, hát nói, vè, hát ru em, hò giã gạo, chèo thuyền…
        Xã hội Việt cổ đã hình thành những cộng đồng và tổ chức làng xã, đình, miếu, chợ búa, văn nghệ hát nói, ca múa… Như thế, nếu vùng Bắc Việt Nam đã đạt được những thành quả như trên thì vùng trung tâm Động Đình chắc hẳn còn cao hơn.
        Tuy nhiên, vào cuối thời vua Đế Minh (2789 Tr.CN), cháu ba đời vua Thần Nông Đế Viêm*, một số khó khăn có tầm vóc an nguy quốc gia và sự sinh tồn của xã hội Miêu cổ đã bắt đầu xuất hiện:

        II/1A .-Một vài khó khăn mới của xã hội Miêu tộc

        Xã hội nông nghiệp Miêu tộc sinh sôi nẩy nở rất nhanh. Đất nước vốn không có biên giới nên đồng ruộng lan tràn hết đồng bằng này qua đồng bằng khác. Sự phát triển nông nghiệp rộng ra về mọi phía, nhất là về phía Nam, nhờ vùng này khí hậu ẩm ướt, ấm cúng, mưa thuận gió hòa… khiến việc liên lạc giữa trung ương và các tộc địa phương mỗi ngày một trở nên khó khăn, chậm chạp. Việc điều động nhân dân thực hiện những công tác công ích không thể thích ứng với đường lối lãnh đạo của chế độ Liên minh Bộ tộc mà đứng đầu là những vị vua gọi là Thiên tử*
        * Thiên tử : Khi sử gia nổi danh nhất Trung Hoa, Thái sử công Tư Mã Thiên (thuộc một dòng họ chuyên viết sử từ thời nhà Chu đến thời cực thịnh nhà Hán) tả lại cuộc chiến tranh Hoa–Miêu tại Trác Lộc năm 2704 tr.CN, ông gọi người lãnh đạo các bộ lạc du mục Hoa tộc là Cộng chủ trong khi đó ông gọi người lãnh đạo liên minh Xích Quỷ là Cổ Thiên tử Xi Vu.
        Tại sao ông ấy không gọi Hiên Viên là Thiên tử?
        Cho tới giai đoạn này, Hoa tộc chỉ là những bộ lạc du mục gọi là hậu. Tù trưởng bộ lạc gọi là hậu chủ. Từng đoàn, từng lũ, man rợ y như các giống du mục khác trên thế giới thời đó, họ kéo nhau đi tìm đất sống. Họ xâm nhập đất Bắc Miêu và gặp sự chống cự của cư dân nông nghiệp Miêu tộc, họ liền họp nhau “công kênh” một hậu chủ hùng mạnh nhất là Hiên Viên lên làm “Cộng chủ” (chữ của Tư Mã Thiên) để gọi người lãnh đạo các hậu. Như vậy có nghĩa là họ chưa lập quốc, chưa xưng vua, xưng vương, xưng đế gì cả. Họ chỉ là một đám Rợ du mục cường bạo, dã man mới tập trung lại…
        Như vậy danh hiệu Thiên tử là danh hiệu của các vị vua Miêu tộc đã có từ rất lâu về trước chứ không phải của Hoa tộc.
        Theo quan niệm nông nghiệp cổ đại, Thiên tử là người đứng đầu Thiên hạ và Thiên hạ thì không hạn định biên giới. Thiên tử thay Thiên hạ tế giao trời đất, nghiên cứu thiên tượng để đoán thời tiết và định ngày tháng nước lớn, nước ròng, gió mây, mưa nắng để chỉ cho dân biết mà làm mùa. Thiên tử chấp hành ý dân như ý trời, gìn giữ đức hiếu sinh bằng lòng nhân như cha mẹ vỗ về, giáo huấn con và gọi đấy là nhân trị hay vương đạo, vương hóa. Các bộ tộc tự trị đối với Thiên tử ngoại trừ việc hằng năm cung cấp đồ tuế cống (cống phẩm), đóng góp dân quân và lương thực mỗi khi thiên tử cần đến để duy trì công đạo và tôn trọng quyền tài phán của Thiên tử.
        Xem thế, vai trò lãnh đạo xã hội nông nghiệp Miêu tộc rất nhẹ nhàng, uyển chuyển, nhân ái… thích hợp với bản tính người nông nghiệp mà xã hội du mục vốn chuộng cường lực và thực tiển khó có thể có được.
        Đây là vấn đề cốt lõi, là khởi đầu của mọi nghi vấn văn hóa giữa hai dân tộc Việt và Hoa mà phía Việt luôn luôn là kẻ gánh chịu mọi áp đặt cực kỳ phủ phàng trước cường lực Hoa tộc trong suốt 5000 năm lịch sử chiến tranh và hòa bình của hai dân tộc Hoa, Việt.
        Về sau, khi Hoa tộc làm chủ Bắc Miêu (nước Xích Thần) thì họ tiếp tục duy trì truyền thống lãnh đạo của xã hội Miêu tộc vì họ quá ít nhân lực và chưa đủ sức mạnh để trực tiếp cai trị một vùng đất quá rộng lớn và người thì đông đảo. Họ phong hàng vạn tộc trưởng Bắc Miêu làm vua chư hầu. Tuy nhiên, họ không duy trì được thanh bình lâu dài vì bản tính dã man, hung bạo, chỉ chú trọng thực tiễn cường lực và truyền thống độc đoán của du mục. Chính sách Nhân trị của Miêu tộc chỉ áp dụng vài trăm năm đầu, về sau chỉ còn là khẩu hiệu “cho vui”. Các chư hầu gốc du mục Hoa tộc nuốt dần các chư hầu gốc Miêu tộc khiến từ hàng vạn chư hầu thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn xuống còn vài ngàn thời Thương. Cho đến thời Chu thì còn lại vài trăm… vài chục… rồi 7,6 chư hầu.
        Sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp thế kỷ 13 có nhắc việc: “Vua Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng rồi lãnh đạo quân đội đánh nhau với Hiên Viên ở Bản Tuyền. Đế Lai thua trận bị giết”. Từ chứng liệu này và đoạn sử Tư Mã Thiên vừa dẫn trên, chúng tôi tìm được người lãnh đạo Liên minh Xích Quỷ chính là vua Đế Lai. Thật rõ ràng, vua Đế Lai khi cầm quân tại Trác Lộc và Bản Tuyền là cựu thiên tử (ông đã truyền ngôi cho Đế Du Võng) chứ không phải đương kim thiên tử, vì thế sử Tầu gọi ông là cổ thiên tử Xi Vu có nghĩa là “cựu vương xấu xí và khoác lác”.

        II/1B .-Du mục Hoa tộc

        Du mục Hoa tộc sống thành từng bộ lạc gọi là hậu. Mỗi hậu có hậu chủ là những ông chủ tham lam, hung bạo với những đội quân kỵ và bộ chuyên lo việc xâm chiếm đất đai, trấn áp kẻ địch, bắt nô lệ và bảo vệ tài sản của hậu chủ. Các nhóm du mục Hoa tộc thời kỳ này còn rất man rợ mà về sau các giống Rợ Trung Á và Châu Âu cũng y hệt.
        Trong một thời gian dài, chia ra thành nhiều giai đoạn, các giống du mục man rợ ở Tiểu Á, Trung Á, Tây Bắc Á, Âu châu… cũng gặp phải thiên tai hạn hán hoặc sa mạc hóa… Họ di dân đi khắp nơi tìm đất sống. Họ đã xâm lược thành công và tạo ra nhiều nước “mới” thời cổ như Hi Lạp, Ai Cập, Ấn Độ, Ba Tư (I-Ran), Babilon (I-Raq), Hébreux (Do Thái)… Những nước này học được nền văn hóa đặc thù của những nước mà họ xâm lược để trở nên văn minh, cường thịnh.
        Khoảng năm 2750 tr. CN, những vùng đất ở tây bắc lục địa Đông Á như Tân Cương, Thanh Hải… dần dần bị sa mạc hóa khiến những bộ lạc du mục Hoa tộc (các sử gia Tây phương gọi các giống du mục là Savage hay Barbarian, Rợ… tức là dân tộc dã man, mọi rợ, chưa khai hóa) chuyên chăn nuôi dê, cừu, heo, bò, ngựa… đang sống rải rác tại đây phải đi tìm những đồng cỏ mới cho những đoàn gia súc của họ. Họ đưa thân tộc cùng với những đoàn gia súc, đầy tớ và đội quân bảo vệ đi dọc theo nguồn bờ bắc sông Hoàng Hà mà vào phía bắc Trung Hoa ngày nay. Họ đã gặp vùng đất cực bắc của nước Xích Thần và người nông nghiệp Bắc Miêu ở đó.
        Rợ Hoa tộc cũng không nằm ngoài bản tính hung hăng, cường bạo, dã man của xã hội du mục. Trước vùng đất bạt ngàn, đồng lúa mênh mông… niềm mơ ước của họ y hệt như dân Do Thái khi rời khỏi Ai Cập tiến vào đất Palestine. Điều đáng nói là trong khi lịch sử các nước kia đã ghi lại sự vay mượn văn hóa của các dân tộc mà họ xâm lược, còn Trung Hoa thì thật là mĩa mai, họ cho rằng nền văn hóa mang biệt sắc nông nghiệp vùng Đông Á là do họ mang tới từ… hai sa mạc Tân Cương, Thanh Hải !!!..

        II/2.-NHỮNG TIÊN LIỆU CỦA VUA ĐẾ MINH

        Vua Đế Minh đã thấy được sự uy hiếp đó đối với khu vực địa đầu của đất nước. Ông muốn truyền ngôi thiên tử cho Lộc Tục là con thứ, vốn là rể của vua Động Đình Quân ở phía nam Trường Giang (sông Dương Tử) nhằm dựa vào sức mạnh Động Đình để bảo vệ vùng đất phía Bắc. Nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh, không nhận.
        Cuối cùng, vua Đế Minh chia lãnh thổ làm hai vùng. Từ sông Trường Giang trở lên bắc gọi là nước Xích Thần, phong cho Đế Nghi làm tự quân. Từ hồ Động Đình trở về nam gọi là nước Xích Quỷ, phong cho Lộc Tục làm vua gọi là Kinh Dương Vương với lời dặn: “Hai nước phải đoàn kết như keo sơn thì đất nước mới bền vững được”

        II/3.-TRIẾT LÝ NÔNG NGHIỆP LỘ RÕ NÉT TRONG HÀNH ĐỘNG CỦA VUA ĐẾ MINH

        II/3A .- Nước Xích Thần và nước Xích Quỷ.
        Năm 1944-45 tôi học trường Pellerin, Huế, vị sư huynh Việt Nam dạy lớp tôi tên là frère (sư huynh) Paul,một tu sĩ rất già, râu tóc bạc phơ. Bài học về huyền sử Tiên Rồng, tôi được frère Paul dạy: vua Đế Minh chia nước ra làm hai, phong cho Đế Nghi làm vua nước phía bắc, gọi là nước Xích Thằng; Lộc Tục làm vua nước phía nam gọi là nước Xích Quỷ… Về sau, khi học những lớp cao hơn ở Sài Gòn, tôi không thấy nhắc đến tên nước Xích Thằng nữa. Tôi vẫn thắc mắc không hiểu tại sao tên nước Xích Thằng của Đế Nghi bị gạt ra khỏi sách giáo khoa?
        Năm 1986, tôi tham gia sinh hoạt An Việt, một tổ chức nghiên cứu triết lý An Vi của triết gia Lương Kim Định. Có lần tôi hỏi cha Kim Định về việc loại bỏ tên nước Xích Thằng trong huyền thoại Tiên Rồng. Cha đáp, có lẽ Bộ Quốc gia Giáo dục thời đó cho rằng tên Xích Thằng* vô nghĩa nên không để vào. Tôi trình bày, thưa, cha có nghĩ là Xích Thần mà đọc trại ra Xích Thằng không? Bởi vì phải có Xích Thần mới có Xích Quỷ** chứ! Cha nhìn tôi gật gù: Đúng lắm! Người là hội tụ bởi thần và quỷ kia mà! Cha dặn tôi: Phải đấy, anh viết một bài nói về việc nầy đi nhé! Thời gian đó tôi đang bận rộn chuẩn bị in cuốn “Thần Long Bách Việt” nên quên bẵng.
        * Xích Thằng: Tôi nghĩ, người Hoa vốn tiểu tâm, ngạo mạn… họ tự xưng là Hoa tộc (đẹp như đóa hoa), Trung Hoa (cái hoa ở trung tâm) còn thiên hạ thì họ miệt thị là bọn tứ di, nam man, man di, man (mọi rợ)… Người Mông Cổ, họ gọi là hung nô (mọi, đầy tớ). Các dân tộc ở phía tây họ gọi là rợ Khuyển, rợ Hồ… Tên vua Đế Lai chúng đổi là Xi Vu (xấu xí, láo khoét). Tên bà Triệu Thị Trinh, người Việt cổ gọi bà là oa Triệu (oa=o=cô Triệu, tiếng Tầu đọc là Triệu oa) họ đổi ra là Triệu Ẩu (Triệu ẩu tả); Tên nước Xích Thần họ đổi là Xích Thằng và gọi chung cả hai nước là “thằng quỷ”, vừa xóa nhòa cái di tích văn hóa Việt cổ vừa tỏ ra cha chú, trịch trượng. Đau thật!… Suốt mấy ngàn năm người Việt vô tình cứ theo đó mà gọi…
        Anh Hoa tộc ơi, anh học lóm văn hóa tổ tiên tôi và anh từng viết vào thượng cổ sử Trung Hoa rằng nước Văn Lang của tổ tiên tôi có 10 điều luật (có luật tức là xã hội đã có tổ chức, có luật pháp, truyền thống, đạo đức, luân lý). Anh khen giấy Mật hương của người Văn Lang bền dai, mực không lem, có mùi hương thoang thoảng, xuống nước không rã… (có giấy tức là đã có chữ viết, có ghi chép… cho dù còn sơ khai). Anh đến đất Văn Lang cướp của, giết người, hãm hiếp phụ nữ, đày đọa dân Việt… Nhưng anh lại ghi vào sử của anh: vua sai quan qua Giao Chỉ giáo hóa man di! Anh ăn gian, nói dối kéo dài nhiều ngàn năm… May sao, đã có đức Khổng Phu Tử làm chứng: đạo mà ngài ghi chép để dạy cho các anh là “đạo cổ của người quân tử ở phương Nam”. Có nghĩa là… chẳng những các anh đã không xóa được gì cả mà còn để lại trong lịch sử nước anh những vết bẩn muôn đời không bao giờ rửa sạch được nữa”!
        ** Xích Quỷ .- Bác sĩ Trần Đại Sĩ, trưởng ban Nghiên cứu Phối hợp Đông Tây y tại Pháp, sau chuyến công tác y học ở nam Trung Hoa 1980, đã viết trên “Việt Nam đệ ngũ thiên niên kỷ” xuất bản tại Mỹ năm 1994 như sau: Hiện nay ở tả ngạn sông Tương Giang, trong dãy núi Quế Dương có một ngọn núi cao 179m mang tên là Thiên Đài Sơn, đỉnh tròn, sườn núi thoai thoải, có đường đi lên. Trên đỉnh có một ngôi miếu hoang phế, rêu phong, không người ở. Có một tấm bia cổ khắc chuyện vua Đế Minh phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương và đặt tên nước là Xích Quỷ tại đấy.
        Ông cho biết, tại thư viện tỉnh Hồ Nam, ông được đọc một cuốn phổ viết từ thời nhà Đường do Chu Minh Văn biên soạn nói rõ chuyện vua Đế Minh truyền ngôi cho Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ trên Thiên Đài Sơn và chuyện các quan nhà Đường khi được sai sang cai trị Lĩnh Nam đã chung tiền xây ngôi miếu hoặc xuất tiền tu bổ ngôi miếu này. Mỗi lần như thế, họ tổ chức cúng tế linh đình để cầu xin Miêu vương Đế Minh phù hộ cho họ được bình an cai trị dân Miêu ở chín quận đô hộ.


        II/3B.- Nhất nguyên Lưỡng cực

        Danh xưng hai nước Xích Thần và Xích Quỷ mang dấu vết minh triết Đông Á: Nhất nguyên Lưỡng cực hoặc Nhất thể Lưỡng tính. Trong đại thể Miêu tộc (Người) luôn luôn có sự kết hợp bởi Thần và Quỷ. Hai cụm từ trên có nghĩa: Trong một Nguyên (Thể) luôn luôn có hai Cực (Tính): âm và dương, tình và lý, tinh thần và vật chất… Tỷ dụ: Người là kết hợp bởi Trời và Đất, âm và dương, thần và quỷ, tình và lý, nhu và cương, nóng và lạnh, đực và cái…
        Lời dặn dò của vua Đế Minh khi đặt tên hai nước và phong vương cho hai con:
        Hai nước phải đoàn kết như keo sơn thì dòng giống mới bền vững được…”
        Thật là thú vị khi hiểu được những tư tưởng ẩn dấu trong lời nói đó. Bởi vì đấy không phải là một lời khuyên đoàn kết bình thường như ta thường nghe mà đấy là lời minh xác một triết lý quan trọng: Người là kết hợp bởi Thần và Quỷ… sự kết hợp đó không thể chia cắt được, chia cắt là không thể tồn tại… đó là triết lý Nông nghiệp Miêu tộc cổ: Con Người phải duy trì Nhất nguyên Lưỡng cực thì mới có thái hòa trong cuộc sống của mình và xã hội..
        Vua Đế Minh khi đặt tên nước Xích Thần, Xích Quỷ và lời dặn dò đoàn kết là sống, chia rẽ là chết cho hai con, ngài đã an bài triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực trong đời sống của hai xã hội mới. Và, lời căn dặn là một huấn lệnhtriệt để: âm dương phải hòa hợp như keo sơn mới có thái hòa. Nói theo triết gia Lương Kim Định thì: nhu cầu thiết thực của con người phải đặt trên nền tảng Nhất thể Lưỡng tính tức là nhân bản toàn diện gồm hai lãnh vực tinh thần và vật chất luôn luôn kết hợp làm một.
        Khác với Tây phương ngày nay chỉ chọn một trong hai, có cái này thì không có cái kia hoặc ngược lại. Chẳng những thế, họ chú trọng quá nặng vào vật chất (Nhân bản suy lý) còn tinh thần thì lơ là, thả nổi có khi chối bỏ chà đạp. Triết gia Lương Kim Định gọi triết lý Tây phương là Nhị nguyên, hai Nguyên tách biệt, có cái này thì không thể có cái kia.

        II/4.-GIẢ THUYẾT LỊCH SỬ VỀ CUỘC CHIẾN TRANH HOA-VIỆT TẠI TRÁC LỘC, 2704 tr.CN

        Để quý độc giả có cái nhìn sinh động về xã hội Miêu tức Viêm Việt trong khoảng thời gian 20 năm kể từ năm 2720 đến năm 2700 tr.CN chúng tôi xin trình quý vị một tài liệu tạm gọi là giả thuyết lịch sử:
        Chiến tranh Trác Lộc 2704 tr.CN.
        Giả thuyết dưới đây được tổng hợp từ các tài liệu đã được dẫn chứng trong sách này.
        II/4A .- Vị trí nước Xích Thần (Bắc Miêu) nằm vắt ngang sông Hoàng Hà trải dài xuống phía bắc châu thổ sông Dương Tử với hàng vạn bộ tộc nông nghiệp chuyên canh lúa nước, chăn nuôi gia súc như trâu, bò, lợn, chó, gà, vịt… trồng cây ăn trái, đánh bắt tôm, cá, mò nghêu, lượm sò… Xã hội Xích Thần theo truyền thống mẫu hệ, thanh bình, trù phú và hầu như chưa hề biết chiến tranh. Vị vua đương thời là Đế Lai, con Đế Nghi, cháu nội Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông Đế Viêm. Kinh đô nước Xích Thần đặt tại Sơn Đông tức là vùng đất thuộc chư hầu Lỗ sau này. Vào thời Chiến quốc đất này sẽ là nơi sinh của đức Khổng Tử. Quý độc giả đọc sách Đông Châu Liệt quốc chắc không quên nước Lỗ là một nước có truyền thống luân lý và đạo đức nổi tiếng thời cổ.
        Danh xưng vua của nước Xích Thần có ý nghĩa như đại tù trưởng, đại tiên chỉ. Sử gia Trung Hoa Tư Mã Thiên thì gọi vua nước Xích Thần là thiên Tử.
        Việt sử Tân Biên chép:
        “… Chúng tôi cả quyết như vậy bởi vì từ thời Hồng Bàng cho tới khi nhà Đông Hán sang lập nền đô hộ trên đất ta, thể chế chính trị Lạc Việt tuy có tính cách phong kiến nhưng sử sách không hề chép có sự lãnh đạm hay mâu thuẫn giữa quý tộc và bình dân vì vậy Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (ngoại kỷ quyển 1 tờ 9b) đã có thể bình luận tình trạng Lạc Việt đời thượng cổ như sau”:
        “Nước Nam về thời Lạc Hồng vua dân cùng cầy, cha con cùng tắm, người và giống vật cùng ở nhà sàn. Ruộng Lạc điền theo nước triều lên xuống. Dân đời ấy cùng nhau vui vẻ chơi đùa ở trong cõi đất không rét không nóng. Người già rồi thì chết, người trẻ đến lúc già không biết gì đến việc đánh nhau. Có thể gọi là đời chí đức, gọi là nước cực lạc. Vua thì yên vui như tượng Phật. Dân thì vẽ mình làm ăn, không phiền nhiễu gì đến sưu thuế, không việc gì canh phòng. Vua dân thân nhau, dẫu vài nghìn năm cũng không thay đổi…”
        Xã hội Việt tộc cổ là như vậy, nếu so với uy quyền của các vua du mục Hoa tộc sau này thì khác hẳn, quyền hành của các vị vua phong kiến hay chuyên chế của truyền thống du mục vốn rất bạo ngược, thuế má, sưu dịch nặng nề, chiến tranh chiếm đoạt liên miên lúc nào cũng sẵn sàng xẫy ra…

        II/4B .- Khoảng năm 2.720 tr.CN, có nhiều hậu du mục Hoa tộc (mỗi hậu như một bộ lạc có từ một tới vài vạn người) với những đàn gia súc đông đảo từ vùng Tân Cương, Thanh Hải (đang bị sa mạc hóa)du cư về phía Đông Nam. Các sử gia Tây phương gọi dân du mục trên thế giới làSavage, Barbarian tức là Rợ, có nghĩa là thành phần dã man, mọi rợ, chưa khai hóa.
        Rợ Hoa tộc tấn công chiếm đoạt đất đai của nước Xích Thần, bắt dân Miêu Bắc làm nô lệ, cướp đoạt tài sản, hảm hiếp phụ nữ. Những toán kỵ binh và bộ binh hùng mạnh của họ xông vào các khu cư ngụ Miêu tộc như vào chỗ không người. Nhiều tù trưởng Miêu tộc quật cường tổ chức chống cự nhưng đều bị đánh bại. Trung Quốc Sử Cương viết về người Miêu:
        Kẻ cường bạo hơn cả là Xi Vu (ám chỉ vua Đế Lai là kẻ sấu xí, khoác lác), thường nhiễu loạn các bộ lạc (Hoa tộc) khiến nhân dân không ở yên được”.
        Tuy nhiên trước những đoàn quân thiện chiến, những đội kỵ binh hung hãn của rợ Hoa tộc, các bộ tộc Bắc Miêu thuộc nước Xích Thần thua liên tiếp nhiều trận phải rút về phía Nam sông Hoàng Hà. Nhiều đoàn rợ Hoa tộc nhân đà thắng lợi, họ vượt sông Hoàng Hà đánh tràn xuống phía Nam. Thế nước Xích Thần mỗi ngày một trở nên nguy ngập.

        II/4C .- Để cứu nguy nước Xích Thần, vua Đế Lai đem công chúa Âu Cơ (một vị nữ tướng) về Nam, đến nước Xích Quỷ (Nam Miêu, Bách Việt) cầu viện binh đồng thời gả công chúa Âu Cơ cho vua Lạc Long Quân, con vua Kinh Dương Vương, cháu nội vua Đế Minh. Tổ chức xã hội Xích Quỷ giống xã hội Xích Thần, tuy nhiên đất nước Xích Quỷ thịnh vượng, dân cư đông đúc, giàu mạnh hơn. Lạc Long Quân họp dân quân 100 bộ tộc gọi là Liên Minh Xích Quỷ*, chia làm hai cánh, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Long Quân, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Công chúa Âu Cơ.
        * Chúng ta đã biết hai nước nông nghiệp Bắc Miêu và Nam Miêu thanh bình lâu đời, không có quân đội thường trực. Khi hữu sự, các vua Miêu tộc thường góp dân quân từ các bộ tộc. Cuộc góp quân 100 bộ tộc nước Xích Quỷ năm 2704 Tr. CN là một cuộc tập họp đại quy mô khiến du mục Hoa tộc rất lo sợ (con số 100 có ý nói rất nhiều bộ tộc có dạng như nói: trăm họ, muôn dân…).
        Quân Liên Minh Xích Quỷ theo vua Đế Lai tiến lên phía bắc họp với tàn quân Xích Thần lập thành một đạo binh rất lớn. Để chứng tỏ lòng quyết chiến, vua Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng rồi dẫn đại binh tiến lên sông Hoàng Hà (sử Tàu ngạo mạn gọi cựu vương Đế Lai là Cổ Thiên tử Xi Vu). Thấy quân binh Miêu tộc được tiếp viện từ phương Nam tiến lên “đông vô số”, những hậu du mục Hoa tộc ở phía nam sông Hoàng Hà vội vã rút lui. Họ lập phòng tuyến tại Trác Lộc, cách bờ bắc Hoàng Hà vài trăm dặm và cầu cứu các rợ du mục Hoa tộc khác.

        II/4D .- Hội nghị các thủ lĩnh du mục họp ở Tân Trịnh, họ công kênh thủ lĩnh Hiên Viên họ Hữu Hùng Thị, một hậu (bộ lạc) hùng mạnh nhất, lên làm cộng chủ các hậu Hoa tộc. Cộng chủ liền lãnh đạo quân các hậu kéo về Trác Lộc tổ chức ngăn chặn Liên Minh Xích Quỷ.

        II/4E .- Quân Liên minh Xích Quỷ sơn mặt đỏ, rất đông, có tài xử dụng búa. Nhân khi sương mù dày đặc, họ ào ạt tấn công vào phòng tuyến du mục Hoa tộc rất dữ. Quân du mục bị đánh bất ngờ, hốt hoảng, hàng ngũ rối loạn, thoát chạy.
        Trong nhất thời quân du mục thua Liên minh Xích Quỷ, tuy nhiên nguyên lực quân sự của họ vẫn hùng mạnh. Chẳng bao lâu sau, cộng chủ Hiên Viên chế được “xa bàn” để định phương hướng, liền hội quân các hậu, tổ chức phản công. Quân du mục vốn là những đạo quân chuyên nghiệp, được trang bị xa mã và kỵ binh. Họ có tài xử dụng cung và trường thương. Bộ binh thì to lớn, mặc áo da và đánh cận chiến bằng giáo dài và mã tấu.



        Quân Liên Minh Xích Quỷ là những nông dân mới tập họp, ô hợp, thiếu kinh nghiệm và vũ khí chiến đấu. Sau trận đầu toàn thắng, trở nên khinh địch, lơ là việc phòng bị. Đến khi quân du mục Hoa tộc dùng xa bàn khống chế được sương mù và tấn công thì liên minh Xích Quỷ không chống nổi, hàng ngủ rối loạn, thua lớn. Vua Đế Lai lui quân về phía Đông, lập trại tại Bản Tuyền. Tại đây, hai bên lại đánh một trận lớn, quân Xích Quỷ lại bị thiềt hại nặng. Vua Đế Lai tử trận. Liên minh Xích Quỷ hoàn toàn tan vỡ.

        II/4F .- Lạc Long Quân dẫn tàn quân theo bờ bắc sông Hoàng Hà chạy ra hướng đông. Có lẽ nhà vua định lên cao nguyên Sơn Đông, kinh đô nước Xích Thần, nơi chưa bị xâm chiếm để cố thủ. Tuy nhiên quân Hoa tộc truy kích rất dữ, phải chạy ra biển Đông và mất tích*.
        Kể từ đấy, nước Xích Thần mất hẳn** vào tay du mục Hoa tộc.

        *Chạy ra biển Đông và mất tích :
        Theo cố học giả Bình Nguyên Lộc trong sách “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” (danh xưng Mã Lai xuất phát từ địa danh Hi-Malaya tức cao nguyên Hi Mã lạp sơn chứ không phải nước Mã Lai Á ngày nay) với những dẫn chứng rất đáng tin cậy thì đoàn quân của Lạc Long Quân đã tản mát ra khắp nơi ở Biển Đông: Đông-Bắc lục địa, kết hợp với dân địa phương lập ra nước Triều Tiên; phía Đông với giống Ai Nô lập nước Nhật, Đài Loan; Đông Nam họ lên quần đảo Célèbre ở Indonésia, đảo Hải Nam; phía Nam họ đổ bộ lên đồng bằng sông Cả và sông Mã với đồng chủng. Ông gọi sự kiện đạo binh Lạc Long Quân chạy ra biển đông là cuộc di dân đợt một của dân tộc Việt Nam, còn cuộc di dân đợt hai xẩy ra vào cuối Chu và Tần và Hán.
        ** Các Bộ tộc, Bộ lạc nước Xích Thần (bắc Miêu, Thần Nông bắc) sau khi bị Hoa tộc xâm lược đã chuyển đổi thành “hàng vạn” nước chư hầu và nước phụ dung của vua chúa du mục Hoa tộc. Họ dần dần trở thành người Trung Hoa gốc Miêu.


        Cánh quân của công chúa Âu Cơ vượt sông Hoàng Hà chạy về phía nam. Bị quân Hiên Viên đuổi riết, bà lại vượt sông Dương Tử lui về vùng núi Ngũ Lĩnh trên Cánh Đồng Tương* quê hương chồng. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp thì Âu Cơ và các con (các đơn vị dân quân trong Liên Minh Xích Quỷ) đã về đến Tương Dạ. Bà ở lại đấy có ý đợi tin tức Long Quân.

        II/4G.- Sách Lĩnh Nam Trích Quái kể:
        Chờ lâu không gặp chồng, bà lập đàn ở Tương Dạ* kêu khóc tha thiết:
        “Quân ở phương nào, làm cho mẹ con ta ngày đêm thương nhớ”
        Các con cũng khóc:
        “Bố ở phương nào mau về với chúng con”.
        Thốt nhiên Long Quân về trên đàn, ông bàn với Âu Cơ nên chia các con ra trấn giữ các nơi. Long Quân dặn Âu Cơ phong con trưởng họ Hồng Bàng Thị làm vua gọi là Hùng Vương, đóng đô Phong Châu.
        Sau khi mọi việc tạm ổn, công chúa Âu Cơ nhớ nhà, nhớ nước bèn đem các con đi lên biên cảnh. Vua Hoàng Đế (Sau chiến thắng tại Trác Lộc, Hiên Viên xưng vua và đổi tên là Hoàng Đế) nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái khiến mẹ con không về bắc được.
        * Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ : Những danh xưng Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ, sông Tiêu, sông Tương… ở phía Nam Động Đình Hồ có thể đã xuất hiện từ câu chuyện công chúa Âu Cơ và các con thương nhớ Lạc Long Quân và lập đàn kêu khóc? Để rồi từ đó trở thành địa danh nổi tiếng trong văn học sử Việt cũng như Trung Hoa sau này.
        Về sau người Tầu có chuyện hai bà vợ vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm xác chồng
        Cánh Đồng Tương. Khi họ đến bờ sông Tiêu Tương thì nghe dân địa phương nói vua Thuấn chết ở đấy. Hai bà này bèn ngồi bên những bụi trúc trên bờ sông Tương mà khóc lóc thảm thiết. Nước mắt họ rơi trên các lóng trúc. Từ đó, mới có tên sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương và trúc hai bên bờ sông Tương có những đốm xanh như ngọc rất đẹp giống những giọt nước mắt của hai bà ấy.
        Cho đến giữa thời nhà Thương khoảng 1000 năm sau chiến tranh Trác Lộc, Hoa tộc chỉ mới mò tới vùng đất giữa 2 con sông Dương Tử và Hoàng Hà, thì vào thời vua Thuấn chắc chắn vùng đất nam Dương Tử vô cùng xa lạ đối với Hoa tộc. Chúng tôi nghĩ, chuyện hai bà vợ vua Thuấn mang nặng tính giả tạo, huyễn hoặc qua giai thoại vua Thuấn đi tuần thú “tới phía Nam Động Đình Hồ và chết ở đấy và chuyện nước mắt của hai bà này làm cho những lóng tre hai bên bờ Tương Giang từ đó lốm đốm nước mắt màu xanh ngọc!!!”Thời Nghiêu, Thuấn, phía Nam Trường Giang còn là đất thuộc quyền người Nam Miêu, trong phạm vi nước Văn Lang của các vua Hùng, thì chuyện vua Thuấn đi tuần thú phương Nam ở đây là phương nam của châu thổ sông Hoàng Hà cho tới phía bắc châu thổ sông Dương Tử .


        Chuyện những cây trúc hai bên bờ sông Tương về sau có hình những đốm nước mắt của hai bà vợ vua Thuấn lại càng quá hoang đường… Rõ ràng người Tầu đặt ra chuyện này nhằm che dấu nguồn gốc xuất hiện những địa danh mang tên sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ… của Việt tộc.
        Tiếng Tầu vốn là một kết hợp bởi hàng trăm thứ tiếng của nhiều dân tộc gốc nông nghiệp Miêu, Viêm mà họ xâm lăng và đồng hóa… trong đó, chắc chắn ngôn ngữ của người Bắc Miêu mà trung tâm là vùng Sơn Đông và nam Miêu (Bách Việt) vùng Động Đình đã giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Chỉ riêng vùng Giang Nam, Hồ Nam, Lưỡng Quảng (đất Bách Việt cổ)… xưa nay vốn là trung tâm xuất phát những nền văn học, nghệ thuật, triết học, kinh tế, võ thuật, ca múa, hàng tơ lụa, đồ gốm… của Trung Hoa đã cho chúng ta một lời giải đáp rất rõ: Những “Hán ngữ” đầy dẫy trong hàng ngàn danh xưng Việt cổ (Thiên tử, Thiên hạ, Đế Viêm, Đế Minh, Đế Lai, Đế Du Võng, Lộc Tục, Kinh Dương Vương, Sùng Lãm, Lạc Long Quân, Động Đình Quân, Long Nữ, liên minh Xích Quỷ, kinh đô Cửu Linh, sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ, Bách Việt…) là ngôn ngữ của Miêu tộc do các quý tộc Bách Việt đem tới bắc Việt Nam trong nhiều cuộc rút lui về phía nam cách đây nhiều ngàn năm.
        Tưởng cũng nên nói thêm, thổ ngữ của các địa phương Miêu, Viêm hay Bách Việt kể cả vùng rìa là bắc Việt Nam hầu như không giống nhau do ở họ cư ngụ trên một vùng địa lý quá rộng và rất hiếm khi liên lạc với nhau(xin xem mục II/9. Nghi vấn lịch sử: Lâm Ấp có phải là Chiêm Thành không?)
        Một vấn đề quan trọng khác: công chúa Âu Cơ làm tướng không phải là điều ngạc nhiên nếu chúng ta nhớ xã hội Việt cổ theo chế độ mẫu hệ. Trước và sau bà Âu Cơ có nhiều vị nữ lưu khác như bà Oa Nữ (Việt ngữ gọi là O Nữ hoặc Oa Nữ, chuyển qua Hoa ngữ thành Nữ Oa), Bà quân Ngô Nhuế (Hành Sơn Vương), bà Mai Quyên, bà Man Thiện, Hai bà Trưng, bà Triệu Thị Trinh (Oa hoặc O Trinh, chuyển qua ngôn ngữ Tầu đọc là Triệu Oa… rồi miệt thị thành Triệu Ẩu), bà Bùi Thị Xuân… Các vị này làm vua, làm tướng cầm quân dẹp giặc vô cùng oanh liệt không thua gì nam giới.

        II/4H.- TÌM HIỂU SUY TƯ CỦA NGƯỜI XƯA

        Các danh xưng Xích Thần, Xích Quỷ và nhân thoại Tiên Rồng không phải là những chuyện huyền hoặc, vô bổ như nhiều người lầm tưởng.
        Đó chính là quan niệm nhân sinh và vũ trụ cũng như đường lối xây dựng xã hội và con người hoàn thiện mà người xưa cài đặt vào những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Mục đích nhằm truyền dạy, lưu lại cho con cháu khi mà tình thế không cho phép họ diễn đạt trực tiếp những vấn đề bị coi là “quốc cấm”.
        Cũng có thể vào thời ấy, dù đã có chữ viết nhưng chỉ mới ghi ra những chữ tượng hình như những chữ số, cái nhà, đất, nước, sông, núi, trâu, bò… chứ chưa diễn tả được tư tưởng hoặc những từ trừu tượng thuộc về tình cảm, tâm linh… Vậy, để truyền lại tư tưởng của tổ tiên nòi giống, người xưa chỉ có thể dựa vào những câu ca dao, phong dao, tục ngữ, thành ngữ, vè, ca múa hoặc trong những câu chuyện ta gọi là chuyện cổ, là nhân thoại, huyền sử để phổ biến trong đại chúng. Nhờ vậy mà lưu truyền đến các thế hệ về sau.
        Âm – Dương và quan niệm nhân sinh :
        - Xích Thần, Thần thuộc Âm chỉ tinh thần, lương tri, đạo đức, luân lý, nhu, văn, đường ngang, nét cong, hình tròn…
        - Xích Quỷ, Quỷ thuộc Dương, chỉ vật chất, lý trí, luật lệ, cương, dũng, nét dọc, nét gãy, hình vuông…
        Xã hội nói chung và con người nói riêng phải được xây dựng và duy trì trên nền tảng có âm có dương, có tinh thần có vật chất, có tình có lý, có nhu có cương… như hai dòng điện âm dương phải được nối lại mới phát ra ánh sáng, như hai sợi chỉ ngang dọc đan vào nhau mới thành tấm vải…
        Thái cực và quan niệm vũ trụ :
        - Liên minh Xích Quỷ = Tiên Rồng = Thái cực = Nhất nguyên Lưỡng cực
        - Cha Rồng đem 50 con xuống biển, Mẹ Tiên đem 50 con lên núi = âm dương phân cực = Sinh lưỡng nghi
        - Âu Cơ lập họ Hồng Bàng làm vua Văn Lang và chia con trấn giữ khắp nơi = Lưỡng nghi biến hóa vô cùng
        Tuy nhiên, càng về sau, nước Văn Lang càng bị dồn vào thế thu hẹp trên cả hai lãnh vực đất đai và văn hóa vì các tộc ở phía Bắc bị ảnh hưởng cường lực thống trị của Hoa tộc dần dần nổi lên xưng độc lập… Và cuối cùng, Việt tộc lâm vào cảnh nô lệ Hoa tộc hơn 1000 năm. Với ý đồ đồng hóa dân Việt thành Tầu, kẻ cường bạo Hoa tộc đã thi hành một kế hoạch bôi xóa văn hóa vô cùng tinh vi… Vì thế, cho đến khi thoát khỏi xiềng xích nô lệ Hoa tộc thì Việt tộc dù đang sống trong văn hóa nguồn cội (đã bị pha chế, biến dạng) mà vẫn tưởng là học được văn minh của kẻ thù!

        II/5.-DU MỤC HOA TỘC LẬP QUỐC

        Sau chiến thắng ở Trác Lộc 2704 Tr. CN, du mục Hoa tộc chiếm trọn toàn bộ đất Miêu Bắc, nông dân Miêu hiền lành, đông gấp trăm lần Hoa tộc. Họ có một nền văn hóa “khoan nhu dĩ giáo” và họ đã bắt đầu sáng tạo chữ viết. Do vậy, cộng chủ Hiên Viên dựa theo truyền thống Miêu tộc, ông đổi tên là Hoàng Đế* với thiên chức mới: thiên tử. Ông phong các hậu chủ Hoa tộc và các trưởng bộ tộc nước Xích Thần quy phục tạo thành một hệ thống hàng vạn nước chư hầu hoặc nước phụ dung, mở màn cho chế độ phong kiến sơ khai của Hoa tộc thời kỳ lập quốc. Đất đai của mỗi chư hầu có lẽ bằng một tổng hoặc xã ngày nay. Chế độ chư hầu tự trị, có quân đội, luật lệ, kinh tế riêng… vua chư hầu cha truyền con nối. Chư hầu phải tuân phục chính quyền trung ương, hỗ tương quân sự, nộp cống và vật lệ định kỳ…
        Nhờ vua Hoàng Đế sáng suốt tiếp nhận nền văn hóa tư tưởng chứa đầy luân lý, đạo đức, xây dựng và dẫn dắt xã hội trên nền tảng Âm Dương, Tam thông, Ngũ hành… của Miêu tộc, các triều đại khởi đầu của du mục Hoa tộc đạt được một giai đoạn thanh bình lâu dài hiếm có trong lịch sử Trung Hoa.

        * Hoàng Đế, đọc cổ sử, chúng ta thấy chữ Đế nơi nhiều vị vua Việt cổ như Đế Viêm (Thần Nông), Đế Minh, Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng. Cùng lúc này, du mục Hoa tộc vẫn còn mang những danh xưng Hậu chủ. Khi Hiên Viên được tôn làm người lãnh đạo các Hậu thì xưng là Cộng chủ. Cho đến khi chiếm được nước Xích Thần thì Hiên Viên liền đổi tên là Hoàng và gọi là vua Hoàng Đế theo truyền thống Miêu tộc.
        Chúng tôi nghĩ, khởi thủy chữ Đế là danh hiệu của người lãnh đạo xã hội Miêu tộc. Khi một Trưởng bộ tộc Miêu được chọn làm Thiên tử (người đứng trên cái đế). Ông Minh, ông Nghi… đứng trên cái đế thì được gọi là Đế Minh, Đế Nghi… Cộng chủ Hiên Viên sau khi chiếm được nước Xích Thần thì ông chiếm ngôi vị Đế của Đế Nghi và tự gọi là Hoàng Đế (ở đây ta thấy truyền thống ngôn ngữ Việt cổ và Hoa tộc có sự khác biệt: Việt đặt ngôi vị trước đại danh từ nên gọi là Đế Minh, Đế Nghi… Tầu đặt đại danh từ trước từ chỉ ngôi vị nên gọi là Hoàng Đế. Cũng như Oa Nữ, Oa Triệu của Miêu thì Tầu gọi là Nữ Oa, Triệu Oa, Đối với Triệu Oa họ miệt thị bằng cách đọc trại đi là Triệu Ẩu (ẩu tả) như đã dẫn trong đoạn trước).
        Tiếp đó, con và cháu nội Hoàng Đế thì chỉ gọi tên mà không xưng Đế (Thiếu Hạo, Xuyên Húc), phải chăng đã có sự cân nhắc, phân biệt trong việc xử dụng danh xưng “Đế” của Miêu tộc?
        Tuy nhiên, các vị vua sau Xuyên Húc thì lại gọi: Đế Cốc, Đế Chí, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Khải… theo đúng truyền thống ngôn ngữ Miêu. Có lẽ áp lực văn hóa Miêu đang đè nặng lên xã hội đương thời (hàng vạn nước chư hầu và phụ dung vốn gốc Miêu). Sau Đế Khải thì các vua kế tiếp của Hoa tộc không lót chữ “Đế”như các vua trước. Dù vậy, các sử gia Trung Hoa vẫn dùng chữ đế trong cụm từ: “lên ngôi đế, đế nghiệp…”
        Hai ngàn năm trăm năm sau, danh xưng Hoàng Đế được Tần Chính làm sống lại nhưng đổi thành tước hiệu, nó có nghĩa như đại đế, vua nước lớn. Chẳng những thế, Tần Chính ngông nghênh tự xưng là Tần Thủy Hoàng còn con cháu thì sẽ xưng Tần Nhị Thế, Tần Tam Thế cho đến vạn thế… Y bãi bỏ chế độ chư hầu, chế độ phong đất và thi hành một đường lối cai trị cực kỳ hà khắc, tàn độc… Giả dụ ông ta xưng là Đế Chính và áp dụng lại đường lối trị dân theo truyền thống Miêu tộc cổ của thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn thì xã hội Trung Hoa thời nhà Tần sẽ tốt đẹp biết mấy…


        II/6.-NGHI VẤN LỊCH SỬ : NƯỚC VĂN LANG VÀ 18 VỊ VUA HÙNG.

        Trong khi đó, nước Xích Quỷ ở phía Nam bị mất lãnh đạo. Công chúa Âu Cơ trong tư thế là Mẹ của toàn dân, bà lập Đàn ở Tương Dạ, phong cho người con trưởng của Lạc Long Quân thuộc Hồng Bàng Thị (con của người mẹ họ Hồng Bàng) lên làm Hùng Vương (xin hiểu Hùng vương thời này có vị thế như một đại tộc trưởng, liên tộc trưởng… khác hẳn các vị vua quân vương Hoa tộc và các vua chư hầu đang hình thành ở phía Bắc). Giá trị minh triết của hai nước Xích Thần và Xích Quỷ không thích hợp nữa, bà đặt tên mới: nước Văn Lang.
        Khởi đầu nước Văn Lang trải dọc từ hồ Động Đình tới đất Thanh Hóa, Nghệ An, rộng từ Tứ Xuyên ra tới biển Đông. Về sau, một phần do Hoa tộc lấn chiếm, một phần do các tộc đồng chủng nổi lên giành độc lập, tạo thành những nước mới, khiến biên giới nước Văn Lang tụt dần về phía Nam gần giống ngày nay. Quý tộc những nước Bách Việt mới lập, mỗi lần bị Hoa tộc chiếm mất nước lại chạy về Nam, nhập vào Văn Lang và trở thành những dân tộc thiểu số ở các vùng Thượng du, vùng biên giới miền Bắc, vùng miền núi hoặc các phần đất phía Nam quận Nhật Nam sau này gọi là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên*.
        * Ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên xưa nay nhiều sử gia vẫn cho rằng đây là đất cổ của Chiêm Thành. Điều này không đúng. Chúng tôi có phần bình luận về ba tỉnh miền Trung này qua tựa đề: Nghi vấn lịch sử: Lâm Ấp có phải là Chiêm Thành không ở đoạn sau).



        Có 4 giả thuyết về thời đại các vua Hùng.
        Giả thuyết 1.- Giả thuyết này dựa vào huyền thoại Tiên Rồng kể chuyện Âu Cơ phong cho con trưởng của Lạc Long Quân hoặc vị tộc trưởng họ Hồng Bàng lên ngôi Hùng Vương. Tuy nhiên giả thuyết này gặp khuyết điểm rất lớn là 18 vị Hùng Vương làm vua suốt 2446 năm kể từ năm 2.704 đến năm 258 tr.CN. Tính ra trung bình mỗi vị ở ngôi vua 135 năm (chưa kể thời gian các ngài chưa lên ngôi). Cũng thời gian này nhà Hạ bên Tầu có 17 đời vua với 432 năm, nhà Thương có 34 đời vua với 629 năm, nhà Chu có 37 đời vua với 878 năm. Đổ đồng mỗi vua Tầu chỉ làm vua 22 năm. Vậy số cách biệt tuổi tác quá xa không thể có trên thực tế.
        Giả thuyết 2.- Theo truyền thuyết, đời Hùng vương thứ sáu, Phù Đổng Thiên vương đánh tan giặc Ân bên Tầu (nhà Ân tức là nhà Thương 1505-1134 tr.CN, biên giới nước Văn Lang và Trung Hoa thời gian này rất gần nhau). Vua Hùng vương thứ 6 cùng thời với vua Trụ bên Tầu là vị vua cuối cùng của nhà Ân. Vua Trụ dũng mãnh, ham chinh phạt nhưng lại đam mê tửu sắc… đến độ mất nước vào tay Chu Bá Phát (tổ nhà Chu). Nếu quả thực như thế thì vua Hùng thứ 6 trị vì Văn Lang trong khoảng những năm 1120 tr.CN. là thời điểm nhà Chu diệt nhà Thương (Ân) mà lập quốc. Cho đến năm 257 tr.CN. thì vua Hùng thứ 18 bị Thục Phán diệt mà chiếm Văn Lang. Giả dụ mỗi vị vua Văn Lang bình quân ở ngôi được 25 năm thì từ vua Hùng thứ I đến vua Hùng thứ VI chỉ có thể lập quốc Văn Lang khoảng năm 1270 tr. CN:
        Số năm làm vua của 6 vua Hùng đầu tiên:
        6 vị x 25 năm =150 năm
        Vậy thời điểm nước Văn Lang xuất hiện là:
        1120 tr.CN +150 năm = năm 1270 tr.CN.
        Như thế, vua Hùng thứ nhất chỉ có thể xuất hiện vào khoảng năm 1270 tr.CN chứ không thể xuất hiện ngay sau chiến tranh Trác Lộc 2704 tr.CN. được. Vậy bà Âu Cơ đâu có thể sống từ năm 2704 đến năm1284 tr.CN để thực hiện lời dặn của Lạc Long Quân?
        Giả thuyết 3 .- Theo Lịch Sử Việt Nam của sử gia Phan Huy Lê, từ Hùng là từ Việt âm Hán. Tiếng Mường có từ Kun, Lang Kun chỉ người con trưởng, ngành trưởng. Người Môn-Khơ-Me, người Xink-Mun người Khơ-Mú, người Kháng, Thái, Lào… có từ Khun chỉ Tù trưởng, thủ lĩnh. Người Mun-Đa có từ Khunzt chỉ tộc trưởng. Như vậy có lẽ chữ Hùng được phiên âm từ Kun, Khun hay Khungzt. Do đó ta có thể nói Hùng vương nguyên là thủ lãnh của một bộ tộc hay liên minh bộ tộc, đúng như sử gia Hoài Nam Tử viết: “Tù trưởng bộ lạc Văn Lang dùng pháp thuật quy phục 15 bộ lạc mà lập nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng vương”. Con số 18 đời Hùng vương chỉ là con số biểu trưng, ý nói là rất nhiều. Người Việt Nam thường nói: 9 từng mây, 9 ngọn sông, voi chín ngà gà chín cựa ngựa 9 hồng mao; 18 đời quận công, Thạch Sanh đánh tan quân 18 nước; 36 chước, giặc có 36 tướng… Như vậy giả thuyết III chấp nhận có rất nhiều Hùng vương chứ không phải là 18 vị.
        Khổ nỗi, không thể có một dòng họ con cháu nối nhau làm vua liên tục suốt 2.446 năm…
        Chúng tôi xin trình giả thuyết mới:
        Giả thuyết 4.- Danh xưng Hùng vương, theo giả thuyết 3 có nghĩa là chức vị người đứng đầu để gọi người lãnh đạo liên minh bộ tộc như danh xưng Vua, Quốc trưởng, Tổng thống… một quốc gia chứ không phải danh hiệu như những danh hiệu Quang Trung, Gia Long, Louis 8, Elizabeth đệ II… Còn con số đi theo sau từ Hùng Vương là con số thứ tự của cái Ho làm Hùng Vương chứ không phải là số hiệu của một vị vua như ta thường thấy.
        Như thế, thời đại Hùng vương thứ I gồm những vị vua thuộc họ Hồng Bàng. Thời đại Hùng vương thứ II, thứ III… là những Hùng vương thuộc các họ khác. Vậy 18 đời Hùng vương là 18 dòng họ thay phiên nhau làm Hùng vương. So sánh với thời gian 88 vị vua Tầu của 3 họ Hạ, Thương, Chu làm vua trong 1939 năm hoặc sau này10 họ Việt như Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý… Nguyễn thay nhau làm vua từ năm 939 đến 1945 tổng cộng 1006 năm, thì 18 họ làm Hùng vương trong 2.446 năm tỏ ra rất hợp lý.
        Lý do khác, truyền thống vua cha truyền ngôi cho con chỉ xẩy ra trong chế độ Phụ hệ. Thời đại các Hùng vương lại thuộc chế độ Mẫu hệ, con cái theo mẹ và mang họ mẹ. Con, cháu các Hùng vương chắc chắn cũng mang họ mẹ chứ không mang họ của vua cha. Việc truyền ngôi cho con để duy trì dòng họ hoàn toàn không thích hợp với chế độ Mẫu hệ. Lẽ dĩ nhiên con, em, cháu trong gia tộc Hùng vương đương nhiệm có ưu thế hơn người khác nhưng chưa hẳn có thể làm lệch cán cân tuyển chọn của Hội đồng Tộc trưởng thường căn cứ trên tài năng đức độ. Cho dù có truyền ngôi cho em để duy trì dòng họ thì cũng chỉ đặt trên tình cảm anh em thân cận được vài đời Hùng vương là tối đa, cuối cùng rồi con của vị vua (em út cùng một mẹ) cũng sẽ phải nhường ngôi khi họ khác được bầu lên.
        Thời xã hội Miêu tộc cổ đại, làm vua là tiếp nhận trách nhiệm hơn là quyền uy, danh vọng và của cải vật chất như những vị vua thời quân chủ mà ta thường thấy sau này. Nó có dáng như vị Tiên chỉ trong làng, như Tộc trưởng một tộc họ nhưng trên một tầm vóc rộng lớn hơn. Chức vụ Hùng vương không phải là ước mơ của những kẻ chọc trời khuấy nước, tranh bá đồ vương như các thời đại về sau. Bởi đó, theo truyền thống, người được chọn lên ngôi vua thường tỏ ra lo lắng, e sợ không đảm đương nổi công việc trọng đại. Khi không thể từ chối được mới cung kính vâng lời.
        Từ những luận cứ trên, chúng tôi tin rằng, mỗi họ Mẫu hệ lên làm Hùng vương khoảng ba, bốn đời vua thì có những người tài đức cao trọng hơn xuất hiện và đại hội các Tôc trưởng lại suy cử Mẫu hệ khác lên thay thế.
        Những tin tức thêm về nước Văn Lang.-
        1.- Khi mới lập quốc, Văn Lang có biên cương như huyền sử đã ghi, tức là toàn bộ vùng đất phía Nam sông Dương Tử với cơ chế trị quốc khoan nhu dĩ giáo* mà Thiên tử là Hùng Vương và Thiên Hạ là hàng trăm, hàng ngàn bộ tộc gọi chung là Bách Việt ở phương Nam.
        * Khổng Tử (551-479 Tr. CN) người nước Lỗ thời Chiến quốc khi nói về nơi xuất phát Đạo cổ ngài nói là ở phương Nam trong câu: “Khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo Nam phương chi cường dã quân tử cư chi” (sách Trung Dung/10).)
        Tuy nhiên, từ phía Bắc, Hoa tộc từ nhà Hạ (2195-1763 Tr.CN) tới nhà Thương (1763-1134 tr.CN) sau khi nuốt trọn và đồng hóa nhân dân nước Xích Thần thành Trung Hoa, thì nhà Chu trong hai giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc, sức mạnh cường lực của họ đã ảnh hưởng rất mạnh trên các bộ tộc Bách Việt kế cận.
        Xã hội Bách Việt ở cực Bắc Văn Lang (phía Nam sông Dương Tử) cũng bị ảnh hưởng nhưng chậm hơn. Các Tộc trưởng ở đây hầu như không quan tâm tới vị trí tối cao của các Hùng Vương theo truyền thống Việt cổ mà lại thích làm vua theo cơ chế quyền lực trực trị của Hoa tộc. Do vậy, họ theo nhau thoát ly khỏi chính quyền trung ương Văn Lang. Họ dựng lên những nước nhỏ, xưng vua và tranh chấp nhau… gần giống các cuộc chiến tranh chư hầu cùng thời của nhà Chu.
        Tuy nhiên, thời nhà Chu cuối Xuân Thu (550 tr,CN), truyền thống du mục không dừng lại ở bên kia bờ Trường Giang. Bằng cách này hay cách khác, đã xuất hiện dọc theo bờ Nam sông Trường Giang và bắt đầu khống chế một số nước Việt phương Nam. Chiến tranh giữa các chư hầu liên miên khiến xã hội đảo điên, luân lý suy tàn… Lão Tử, Khổng Tử xuất hiện. Họ vận dụng tư tưởng sẵn có của phương Nam, kêu gọi bảo vệ luân lý, đề cao đạo đức, thiết lập lại tôn ti trật tự xã hội… (Nho) hoặc chủ trương sống nhàn, sống tự nhiên, không tranh chấp, vô vi, tự tại… (Lão)
        Cho đến giữa thời kỳ Chiến Quốc nhà Chu thì biên giới nước Văn Lang đã lui tới gần sát lằn ranh biên giới Việt Nam Trung Hoa ngày nay.
        Tới đây chúng ta nhận ra một vấn nạn có tính cách “sinh tử” của nước Văn Lang là chế độ Nhân chủ, Nhân Trị Bách Việt (theo kiểu tiền sử) đã tỏ ra quá yếu thế trước áp lực của các nước theo chế độ quân chủ chuyên chế du mục phương Bắc: Liên tiếp nhiều bộ tộc nông nghiệp bị thu hút theo truyền thống tổ chức của xã hội du mục càng ngày càng gia tăng. Họ li khai Văn Lang và lập quốc bằng những cơ chế quân chủ sơ khai.
        2.- Theo sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt sử Toàn Thư thì vào thế kỷ thứ 9 tr.CN, một quý tộc Việt ở Chiết Giang thuộc Thị tộc Mỵ đứng lên lập nước Sở và xưng là Hùng Mỵ (vua Mỵ). Rõ ràng, danh xưng hùng trong Hùng Mỵ có liên hệ với hùng của Hùng vương: hùng = vua. Tuy nhiên vào giai đoạn này, Hùng Mỵ và nước Sở đã bước vào truyền thống quân chủ chuyên chế của du mục Trung Hoa.
        3.- Các Hùng vương không hoàn toàn do phái nam đảm nhiệm mà chắc chắn đã có nhiều nữ Hùng vương. Bởi vì, là thời đại mẫu hệ, trước đó đã có bà Nữ Oa, bà Vụ Tiên, bà Âu Cơ và sau đó lại có Bà Quân Ngô Nhuế, bà Mai Quyên, bà Man Thiện, Hai Bà Trưng, bà Trần Thiếu Lan, bà Phật Nguyệt, bà Triệu Thị Trinh… đã làm vua, làm tướng thì nhất định phải có nữ Hùng vương trong suốt 2.446 năm đằng đẵng đó.



        4.- Hai vua Kinh Dương Vương (Lộc Tục) và Lạc Long Quân (Sùng Lãm) thay nhau làm vua nước Xích Quỷ và nước này đã bị tan rã vì mất lãnh đạo sau trận Trác Lộc năm 2.704 TCN. Tù trưởng các bộ lạc Việt thay nhau làm Hùng vương nước Văn Lang là thời đại kế tiếp sau thời đại Xích Quỷ. Nhiều sử gia ghi rằng Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân là hai vị vua đầu tiên của nước Văn Lang và gọi họ là Hùng vương thì e nhầm chăng ?

        II/7.-NƯỚC ÂU LẠC

        Trong cuộc chạy thoát về phương Nam tìm đất sống, quý tộc của một quốc gia Miêu tộc dòng Âu là Thục Phán đã bất ngờ đánh chiếm nước Văn Lang dòng Lạc của vị Hùng vương cuối cùng thuộc họ thứ 18. Thục Phán*lên làm vua xưng là An Dương Vương đổi Quốc hiệu là Âu Lạc năm 257 tr.CN. An Dương Vương lưu dụng toàn bộ Lạc hầu, Lạc tướng, Bố chính… của Văn Lang giúp mình cai trị đất nước.
        *Thục Phán, nguyên là cháu vua Thục đất Tứ Xuyên, vị vua này đã chết khi nước Thục bị chư hầu Tần Xâm lược năm 270 tr.CN. Đúng ra Thục Phán là con của một vị Thái tử nhà Thục sống lưu vong trên đất Tây Âu, tại đây vị Thái tử này được tôn là “vua Thục” (lưu vong) nên cũng có sách chép là con vua Thục. Thục Phán là một tướng trẻ có tài cầm quân, xây thành đắp lũy. Họ sống lưu vong ở nước Tây Âu của vua Trạch Hu Thống và giúp vua này bình định giặc giã và lập được nhiều công trạng. “Vua Thục” xin cưới công chúa Văn Lang nhưng vị Hùng vương cuối cùng thuộc họ thứ 18 cự tuyệt nên đem lòng thù hận. Trước khi chết, ông vua lưu vong này khuyên Thục Phán nên chiếm lấy Văn Lang.
        Mặt khác, vua Trạch Hu Thống nước Tây Âu vốn ngại Thục Phán ở lâu trong nước “bất tiện” nhân đó giúp binh lực cho Thục Phán xâm lăng Văn Lang theo kiểu vừa đền ơn vừa tống cổ đi. Hùng vương bị tấn công bất ngờ, thua trận, phải tự sát năm 257.


        II/8.-VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN NHÀ TRIỆU

        Năm 207 tr.CN, một quốc gia Việt tộc khác ở vùng Nam Hải, Quế Lâm, Mân Việt… là nước Nam Việt của Nam Việt vương Triệu Đà*thôn tính nước Âu Lạc lập thành một quốc gia với biên cương rộng lớn, phía Bắc lên tới Động Đình Hồ. Kinh đô đặt tại Phiên Ngung (Quảng Tây).
        * Một số các sử gia cho rằng, Việt Nam trong thời này là đã lệ thuộc Trung Hoa.
        Chúng tôi có thiển ý: Triệu Đà phản Tần phục Việt, cùng dân Việt lập quốc gia Nam Việt và xưng là Nam Việt Vương, ông “ngồi xổm, nhai trầu” mà tiếp sứ giả nhà Hán tức là ông đã nhập quốc tịch Việt. Nước Nam Việt độc lập, không lệ thuộc nhà Tần cũng không lệ thuộc nhà Hán. Về sau dù có xưng thần với Hán nhưng vẫn giữ vững biên cương, và nền tự chủ suốt 5 đời vua không khác gì các họ Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần… sau này.

        Trước đó, những vùng đất phương Nam như Nam Hải, Việt Thường, Quế Lâm, Mân Việt, Tây Âu*… qua những biến động lịch sử mà chuyển đổi thành nước Nam Việt dưới triều đại Triệu Việt Vương có thể coi là một cuộc đảo chánh hành chánh mà những cấp lãnh đạo địa phương người Bách Việt hầu như không thay đổi. Sau này quý tộc Văn Lang và Âu Lạc cùng Triệu Đà chia xẻ quyền hành lãnh đạo dân tộc, chúng ta không có lý do gì để gọi Hải Nam, Quế Lâm, Mân Việt, Tây Âu đô hộ Âu Lạc. Hơn nữa đây là thời chiến tranh nhiễu nhương liên tục nhiều trăm năm giữa Việt tộc với Việt tộc, Việt tộc với Hoa tộc. Sự kiện Nam Việt Vương thống nhất các nước Việt tộc phía Nam Trường Giang tạo nên một nước lớn trên bình diện xã hội, chính trị và quân sự có giá trị ngăn chặn bước tiến của Hoa tộc là một điều hữu lý.
        * Trước đây, những quận này là những quốc gia thoát ly từ nước Văn Lang của các Hùng Vương. Họ độc lập được một thời gian và cũng tham gia tranh bá đồ vương trong giai đoạn Xuân Thu, Chiến Quốc ở châu thổ Trường Giang. Năm 221 tr.CN, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư xâm lăng các nước Việt phương Nam là xâm lăng các nước Việt này (ngoại trừ Ngô, Sở đã bị xâm lăng trước đó)
        Sau này Vua Gia Long nhà Nguyễn đặt tên nước ta là Nam Việt khiến vua Thanh tức giận vì cho rằng vua Gia Long muốn nhắc lại ranh giới nước ta thời nhà Triệu. Chẳng những thế, nếu gọi nước ta lệ thuộc Nam Việt thì chúng ta nghĩ sao về việc Thục Phán xâm lăng Văn Lang? Cho nên, xin cứ để nhà Triệu là một dòng vua Việt Nam chính thống như tiền nhân đã chấp nhận từ hơn hai ngàn năm trước là thỏa đáng hơn cả.


        II/9.-NGHI VẤN LỊCH SỬ: LÂM ẤP CÓ PHẢI LÀ CHÀM KHÔNG? NƯỚC VIỆT THƯỜNG Ở ĐÂU ?

        Nhân khi nói tới các nước Bách Việt ở phía bắc thoát ly từ quốc gia Văn Lang, xưng độc lập, rồi dần dần bị Hoa tộc xâm chiếm, chúng tôi xin mời quý độc giả trở lại thăm nước Việt Thường. Nước Việt Thường được nhắc đến rất nhiều trong lịch sử Việt cũng như Trung Hoa và gây nhiều tranh luận về vị trí của nước này. Chẳng những thế, từ nước này mà phát sinh ra nhiều nghi vấn lịch sử rất quan trọng khác trong giai đoạn 1000 năm lệ thuộc Trung Hoa.
        Chúng tôi xin trình trước công luận một số tài liệu liên quan đến vấn đề này.
        - LÂM ẤP CÓ PHẢI LÀ CHIÊM THÀNH KHÔNG?
        - NƯỚC VIỆT THƯỜNG Ở ĐÂU?
        - NGUỒN GỐC 3 LÀNG LONG HƯNG, ĐẠI NẠI Ở QUẢNG TRỊ VÀ MỘ TRẠCH Ở THỪA THIÊN?
        - CHUYỆN CHÙA PHẬT LỒI Ở QUẢNG TRỊ
        - NGÔN NGỮ VÀ VĂN NGHỆ VIỆT THƯỜNG



        II/9A .- SỬ TẦU – SỬ VIỆT

        Sử gia Việt Nam khi viết sử Việt từ giai đoạn lệ thuộc Trung Hoa trở về trước thường truy cứu từ sử Trung Hoa. Sử gia Trung Hoa khi ghi chép các chuyện ở biên ngoại, họ thường dựa theo báo cáo của bọn quan lại trấn nhậm. Bọn này đa số là bọn có tội bị đày, tham nhũng, gian ác… nói chung là bọn sâu dân mọt nước. Làm thì lếu, báo cáo thì hay, miễn sao có lợi cho họ… Do vậy, lịch sử Việt Nam trong thời kỳ Trung Hoa đô hộ trở về trước không khỏi bị trình bày sai lạc. Điển hình là “giặc” Lâm Ấp mà bọn quan lại đô hộ Tầu này gán cho người Chàm để chạy tội.
        Mặt khác, nguồn gốc quốc gia Việt Thường của người Lâm Ấp cũng nằm trong chủ trương bôi xóa dấu ấn Bách Việt nhằm mục đích đồng hóa “Man di” và chia rẽ hai dân tộc Việt Lạc và Việt Thường.
        Tuy nhiên, người Trung Hoa khi chép sử các nước Việt phương Nam đã vô tình để lộ ra nhiều sơ hở khiến chúng ta có thể suy ra những sự thực khi tìm về nguồn gốc của người Lâm Ấp. Sau đây là những sự kiện rất quan trọng mà chúng tôi xin đề nghị các sử gia Việt Nam ngày nay xét lại.

        II/9B .- LÂM ẤP LIÊN MINH LẠC VIỆT NỔI DẬY ĐÁNH ĐUỔI ĐÔ HỘ TRUNG HOA

        Sử gia Phạm Cao Dương trong sách Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam, từ trang 114 đến trang 122 đã dẫn rất nhiều sách sử Trung Hoa để trình bày tiểu mục “Người Lâm Ấp quấy phá Giao châu” chúng tôi xin trưng dẫn những đoạn như sau (Những đoạn có danh mục A, B, C… chữ nghiêng là phần trích dẫn):
        A- “Lâm Ấp: Quốc giới của Việt Thường thời xưa, đời Tần là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận …tr.117…
        Đời nhà Tần, Tầu chỉ mới chiếm được vài nước Bách Việt ở sát bờ sông Dương Tử (Trường Giang) mà nước Việt Thường là một. Họ đổi tên nước Việt Thường thành huyện Lâm Ấp. Vậy Lâm Ấp có thể là tên một địa danh quan trọng của nước Việt Thường và nằm trong nhóm nước bị nhà Tần chiếm rồi gom lại thành một quận gọi là Tượng Quận. Tượng Quân không nằm ở Việt Nam mà nằm bên Tầu, sát với bờ Nam sông Dương Tử. Câu B dưới đây do chúng tôi ngắt ra khỏi câu A:
        B- “… đời Hán đổi làm huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam.” tr. 117
        C- ”Trung tâm của nước này theo các nhà khảo cứu hiện đại là các vùng kế cận thành phố Huế ngày nay” tr.116,
        Huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận ở bên Tầu thời Nhà Tần và huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên thời lệ thuộc nhà Hán là hai địa bàn khác nhau, cách nhau nhiều ngàn cây số; còn thời gian của hai giai đoạn này cách nhau chừng 260 năm. (Kể từ năm 221 tr.CN, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem nửa triệu quân xâm lăng các nước Việt phương Nam đến năm 43 sau CN, Mã Viện thôn tính nước ta vào thời Hai Bà Trưng).

        Sử gia Phạm Cao Dương và nhiều sử gia khác nghĩ rằng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là quốc giới của nước Việt Thường, có nghĩa nước Việt Nam xưa có tên là Việt Thường. Cách suy nghĩ này không đúng vì lẫn lộn hai địa danh cùng mang tên Lâm Ấp và Việt Thường vừa ở bên Tầu vừa ở bên ta, do vậy gây nhiều sai lầm khác rất quan trọng, chúng tôi sẽ bàn tới ở tiểu mục nước Việt Thường ở đâu?
        A- Trong “Bulletin des Amis du Vieux Huế” (Đô Thành Hoài Cổ), Học giả Đào Duy Anh viết bài “Les colonnes de bronze du Mã Viện”xác định rằng trụ đồng Mã Viện ở núi Đồng Trụ cũng gọi là núi Lam Thành thuộc tỉnh Nghệ An. Ông nói rằng sách Ngô Lục và sách Tùy Thư đều chép như thế,
        B- “… dẹp xong tàn quân của tướng Đô Dương ở huyện Cư Phong, quận Cửu Chân, Mã Viện kéo quân vào Nhật Nam, tiến sát vùng biên giới thì dân Chàm đem vàng bạc dâng cống chúc mừng. Mã Viện liền tâu xin phong cho dân Chàm ở đất Tượng Lâm.(Nguồn gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc)
        C- Sử gia Phạm Văn Sơn trong Việt sử Tân Biên (tr.198) chép theo sách Lĩnh Ngoại: Cột đồng Mã Viện ở Lâm Ấp (Chiêm Thành). Ông chép thêm: Khâm Định Việt Sử Tiền Biên, Nghệ An Thi Tập, Vân Đài Loại Ngữ… cũng nói Đồng Trụ ở Lâm Ấp… tại Nghệ An huyện Hưng Nguyên có một hòn núi gọi là Đồng Trụ ăn vào giữa làng Phú Điền và Nghĩa Liệt. Núi này ở đồng bằng đột khởi lên một ngọn cao chạy thẳng xuống Lam Giang…
        D- “Sự xuất hiện của người Chàm đã được sử Trung Hoa nói tới trong một biến cố xảy ra ở huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam trong thời Đông Hán, đời Hòa Đế niên hiệu Vĩnh Nguyên thứ 14, tức năm 102 sau TL. Năm đó hơn 3000 người ở huyện này đã nổi lên cướp phá, đốt các dinh thự… Để đề phòng những cuộc biến loạn mới, nhà Hán đặt chức Tướng Binh Trưởng Sử ở huyện này” Tr.114.
        Đất Bình, Trị, Thiên cổ tên là gì thì không ai biết vì là đất hoang “khỉ ho cò gáy, cho ăn đá gà ăn muối…” có lẽ có một vài bộ lạc Chàm sống rải rác ven sông và bờ biển. Tuy nhiên, điều nay khoáng quan trọng, việc tìm hiểu việc làm của Mã Viện trong cuộc xâm lược đất Lĩnh Nam thì chúng tôi thấy rất rõ:
        Sau khi Mã Viện diệt nhà Trưng và chiếm cứ toàn bộ đất Lĩnh Nam và miền Bắc Việt Nam, y kéo quân vào vùng biên giới quận Nhật Nam. Người Lâm Ấp rất lo sợ, họ đem vàng bạc, châu báu “dâng cống” cho Mã Viện và xin quy phục. Mã Viên bèn xin Hán triều đặt tên vùng đất người Lâm Ấp đang cư trú ở vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là huyện Tượng Lâm, bổ nhiệm huyện lệnh Tầu lo việc cai trị và đặt huyện này dưới quyền thống trị của Thái thú quận Nhật Nam. Cái khéo của Mã Viện là kết hợp đất Tượng Quận và huyện Lâm Ấp ở bên Tầu thành huyện Tượng Lâm cho người Lâm Ấp ở bên Việt (rất đông sử gia Việt đều tưởng rằng địa danh Tượng Quận ở phía Nam sông Dương Tử là tên cũ của địa danh Tượng Lâm).
        Chẳng những thế, y cướp đoạt hàng ngàn trống đồng và các dụng cụ bằng đồng dùng trong việc thờ cúng của dân Việt đúc thành một trụ đồng rất lớn và trồng giữa ranh giới Nghệ An và Quảng Bình để phân biệt đất Lâm Ấp và đất Lạc Việt dù rằng Tượng Lâm cũng là một huyện trực thuộc quận Nhật Nam.
        Mã Viện biết rất rõ nhóm dân hối lộ vàng bạc cho y là con cháu người Lâm Ấp ở Tượng Quận (bên Tầu) nên y đặt tên huyện Tượng Lâm và phong đất này cho họ. Tuy nhiên y vẫn cứ gọi họ là Chàm, tại sao? – Rõ ràng y muốn dấu tung tích của đám dân này để chia rẽ hai đồng chủng Lạc Việt và Việt Thường cũng có thể y dấu tung tích của họ để ẵm trọn số vàng bạc hối lộ vì sợ phải chia cho vua quan nhà Hán
        Kể từ đoạn nầy, chúng tôi chỉ nói về người Lâm Ấp ở địa bàn Tượng Lâm và xin quý độc giả tạm quên địa bàn “huyện Lâm Ấp và Tượng Quận bên Tầu”. Khi minh định Lâm Ấp không phải là Chàm, chúng tôi sẽ dùng lại huyện Lâm Ấp này.
        Huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam là một trong 9 quận Việt cổ đang bị Tầu đô hộ. Ba ngàn dân huyện Tượng Lâm nổi dậy tấn công huyện lỵ, đốt phá các dinh thự… Vậy đây không phải là Chàm xâm lăng “nước ta” mà là dân Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm nổi dậy chống lại quan quân đô hộ. Rõ ràng bọn quan lại đô hộ Tàu đã vu cáo cho Chàm để chạy tội tham ô, gian ác, hiếp đáp dân lành đến độ dân chúng huyện Tượng Lâm đã nổi lên “làm loạn”!
        A- “Năm 137, Hậu Hán Thư lại ghi rằng người Man ở cõi xa thuộc huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam là bọn Khu Liên đem vài ngàn người đánh huyện Tượng Lâm, đốt thành quách, công sở, giết người Trưởng lại. Thứ sử Giao Châu là Phàn Diễn đem hơn một vạn quân thuộc hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân đến cứu, nhưng quân lính sợ phải đi xa đã quay lại đánh phá phủ lỵ . Phàn Diễn tuy dẹp được bọn quân sĩ làm phản nhưng thế lực quân Man mỗi ngày một mạnh” (Tr.114)
        Lại dân Man (Lâm Ấp) nổi dậy dưới sự lãnh đạo của một người (tộc trưởng?) tên là Khu Liên. Họ đốt phá thành quách, công sở và giết Trưởng lại Tầu chứ không cướp bóc của dân Việt. Hơn một vạn quân Giao Chỉ và Cửu Chân được điều động tới dẹp loạn. Một vạn quân này hẳn là người Lạc Việt mới hợp tác với quân Lâm Ấp đánh lại bọn quan lại Trung Hoa. Sau vụ này, huyện lỵ Tượng Lâm vẫn còn nằm trong tay nghĩa quân Tượng Lâm.
        B- “Năm sau (năm 138), Thị Ngự Sữ Giả Xương sang công cán ở quận Nhật Nam đã cùng với các châu quận hợp sức đánh Khu Liên nhưng đánh không lại, lại bị bọn Khu Liên phản công và bao vây hơn một năm khiến quân Hán lâm vào tình trạng thiếu lương ăn và vua Hán lo ngại triệu tập các Công khanh … Sau nhiều cuộc nghị luận sôi nổi, cựu thứ sử Tinh Châu là Chúc Lương và Trương Kiều, người đã dẹp giặc Ích Châu đã được triều đình bổ làm thái thú Cửu Chân và thứ sử Giao Châu (phủ đô hộ đóng ở Giao Chỉ). nhờ khéo phủ dụ, hai viên quan mới này đã ổn định được tình thế.” Tr.115
        Rõ ràng, vị anh hùng tên là Khu Kiên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của dân Tượng Lâm nổi lên lật đổ chính quyền đô hộ Trung Hoa chứ không có Chiêm Thành nào ở đây cả… Các Thứ sử và Thái thú ở hai quận cực Nam Giao Châu Đô hộ phủ này hể có biến là báo cáo về Tầu rằng, giặc Chàm tấn công “nước ta” để chạy tội tham ô, bạo ngược khiến dân Việt vì căm hờn mà nổi dậy.
        Vậy Lâm Ấp là ai mà các sử gia Việt đều theo Tầu mà gọi là Chàm? Và mĩa mai thay, các sử gia của ta cũng bắt chước Tầu gọi rằng: “ giặc Chàm đánh nước ta!”
        A- “Năm 144 hơn một ngàn người ở quận Nhật Nam lại nổi dậy đốt phá các huyện ấp. Họ liên kết cả với người Cửu Chân. Thứ sử Giao Châu là Hạ Phương dùng ân nghĩa chiêu dụ. Quân giặc đều ra hàng cả”. Tr.115
        B- “Năm 160, khi nhân dân huyện Cư Phong dưới sự lãnh đạo của Chu Đạt chống lại sự tham bạo của viên huyện lệnh, “quân Man” (Lâm Ấp) đã tiếp tay. Số người làm loạn lên tới bốn, năm ngàn. Họ tấn công vào quận Cửu Chân. Thái thú Nghê Thức ra đánh bị tử trận… Nhà Hán sai Đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng đi đánh, phá tan được. Nhưng tướng giặc vẫn còn chiếm đóng Nhật Nam, thế lực ngày một cường thịnh. Nhà Hán lại phải sai Hạ Phương sang chiêu dụ. Nhờ uy tín có sẵn, Hạ Phương đã khiến được 20.000 quân giặc đầu hàng” Tr.115

        Lại có 2 cuộc nổi dậy của nô lệ Việt, lần trước năm 144 có hơn 1000 người; lần sau, năm 160, đông hơn, có đến 5000 người. Chẳng những vậy, lại có thêm quân Lâm Ấp liên minh tiếp trợ. Dân Việt nổi dậy dưới sự lãnh đạo của anh hùng Chu Đạt tấn công quận Cửu Chân và giết được thái thú Nghê Thức. Tuy nhiên, hình như nghĩa quân không chiếm được quận lỵ Cửu Chân. Do vậy họ tiến vào Nhật Nam và phối hợp với nghĩa quân ở đây tấn công giải phóng quận Nhật Nam. Từ đó, phong trào dân chúng nổi dậy bùng lên mãnh liệt và trở thành một cuộc Khởi nghĩa thật sự. Nghĩa quân chiếm được quận Nhật Nam và các huyện của quận này trong một thời gian dài.
        Nhà Hán sai tướng Ngụy Lãng điều quân từ Cửu Chân vào Nhật Nam đánh dẹp cuộc nổi dậy có quy mô lớn của Chu Đạt, nhưng quân Ngụy Lãng đã bị thất bại, có thể y đã bị giết chết. Sau đó, nhà Hán phải sai thứ sử Giao Châu là Hạ Phương đem đại quân từ Giao Chỉ đến đàn áp. Chắc chắn cuộc đàn áp rất tàn khốc, đến độ các đạo Nghĩa quân đang chiếm giữ quận Nhật Nam và các huyện của quận này đã phải đầu hàng. Tổng số Nghĩa quân đầu hàng lên tới 20.000 người. Như thế có nghĩa là dân Việt huyện Cư Phong ở Cửu Chân và quận Nhật Nam cùng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của anh hùng Chu Đạt rất đông. Có lẽ sau khi Chu Đạt bị tử trận (?) thì Nghĩa quân mới đầu hàng. Nếu số Nghĩa quân đầu hàng lên tới 20.000 thì số bị Nghĩa quân bị tàn sát không dưới 10.000.
        A- “Theo các tài liệu của người Tàu, niên đại chính thức của sự thành lập vương quốc của người Chàm là năm 192. Năm đó con của viên công tào bản xứ tên là Khu Liên, đã lợi dụng tình trạng suy yếu của nhà Hán, giết viên huyện lệnh huyện Tượng Lâm và xưng làm vua. Khu Liên cũng là tên của nhóm người nổi loạn năm 137. Vương quốc này được người Trung Hoa gọi là Lâm Ấp là do sự gọi tắt của Tượng Lâm Ấp có nghĩa là kinh đô hay đúng hơn là lỵ sở của Tượng Lâm (có nghĩa là rừng voi). Trung tâm của nước này theo các nhà khảo cứu hiện đại là các vùng kế cận thành phố Huế ngày nay”. Tr.116
        Năm 192, sau hơn 320 năm định cư ở huyện Tượng Lâm quận Nhật Nam, người Lâm Ấp đứng lên lâp quốc. Họ xưng quốc hiệu là gì thì không ai biết, chúng tôi tạm gọi là (Tân) Việt Thường. Tuy nhiên các sử gia Tầu thì cứ gọi là nước Lâm Ấp, là Chàm. Rõ ràng người Tầu chỉ muốn coi Lâm Ấp là Chàm và dứt khoát dập tắt việc quay trở lại dòng giống Việt Thường cổ! Không muốn người Lạc Việt liên kết với đồng chủng Việt Thường vốn rất quật cường dù chỉ là con cháu một nhóm dân chạy loạn.
        B- “Năm 433, tiến hơn một bước nữa, Phạm Dương Mại (vua nước Lâm Ấp) sai sứ sang cống nhà Tống, xin quản lãnh Giao Châu nhưng không được vua nhà Tống chấp nhận”. Tr.120
        C- “Phạm Dương Mại do đó tiếp tục cướp phá Giao Châu khiến năm 446 nhà Tống phải cử Đàn Hòa Chi và Tông Xác đem quân đi đánh… quân Chàm đại bại. Chỉ Phạm Dương Mại và các con chạy thoát được thân…” Tr.120

        Tới giai đoạn này, nước Lâm Ấp đã đủ mạnh, đã có nhiều liên hệ mật thiết với nhân dân các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ… đã tự thấy có đủ tầm vóc nói chuyện với nhà Tống để
        xin quản lãnh Giao Châu” (lời chép của Sử gia Trung Hoa với tư thế nước lớn). Chúng tôi nghĩ đấy là cuộc vận động của vua Lâm Ấp đòi nhà Tống phải chấp nhận cho Giao Châu tự trị. Tuy nhiên, nhà Tống không chấp nhận.
        Vua Lâm Ấp Phạm Dương Mại liền tạo sức ép quân sự bằng cách cho quân đội tấn công thẳng vào phủ trị Giao Châu. Mười ba năm sau tức là năm 446 nhà Tống sai tướng Đàn Hòa Chi và Tông Xác đem đại binh giải cứu Giao Chỉ, trong đánh ra, ngoài đánh vào khiến quân Lâm Ấp đại bại. Vua Phạm Dương Mại và con trai thoát được nhưng quân đội Lâm Ấp thì bị tàn sát toàn bộ, vô cùng khủng khiếp. Nước Lâm Ấp từ đó suy yếu hẳn. Cuộc chiến này giằng co suốt 13 năm, chắc chắn vô cùng cam go khiến Lâm Ấp kiệt quệ và đi đến chỗ đại bại.
        Chúng tôi đã dẫn chứng những tài liệu của sử gia Phạm Cao Dương và một số học giả khác ghi lại từ các sách sử Trung Hoa nói về các cuộc chiến tranh giữa Trung Hoa và Lâm Ấp đồng thời chỉ ra những phần quan trọng để xác minh rằng Lâm Ấp không phải là Chàm (Chiêm Thành), mà là một dòng dân rất gần với Việt tộc. Họ thường xuyên liên minh với dân Việt đánh đuổi xâm lược Trung Hoa. Cho đến năm 192 là năm người Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm chính thức lập quốc. Các cuộc liên minh nổi dậy giữa Việt tộc với Lâm Ấp như trên còn kéo dài liên tục vào những năm tiếp theo: 220, 230, 248, 353, 399, 413, 415, 420, 424, 431, 433, 446, 448, 627…808
        Trong suốt thời gian kể trên người Lâm Ấp liên tục liên minh với dân Việt đánh phá các phủ huyện đô hộ Tàu ở các quận Nhật Nam, Cửu Chân có khi tràn tới quận Giao Chỉ… Dù ghi như trên, thỉnh thoảng sử gia Phạm Cao Dương vẫn theo sát sách sử Trung Hoa, cứ gọi Lâm Ấp là Chàm.
        Chúng tôi xin mời quý độc giả xem qua Việt Sử Toàn Thư của Sử gia Phạm Văn Sơn trước:
        A- “… Trung quốc lại trở về cái cảnh tam phân ngũ liệt gần giống như thời Đông Chu … các ngai vàng luôn luôn thay đổi. Do vị trí của nó, Giao châu thuộc về NamTống … Năm 448 Lâm Ấp nhân cơ hội (Trung Hoa nội loạn) cử Sứ sang điều đình với Tống triều xin lãnh đất Giao châu, nhưng đề nghị của họ không được chấp thuận”. Trang 131
        B- “Trái lại năm 468 tháng ba, mùa hạ, triều Tống cử Đàn Hòa Chi sang làm thứ sử Giao châu và đánh Lâm Ấp. Vua Lâm Ấp sợ xin trả lại những người Nhật Nam bị Lâm Ấp bắt trước đây và nộp vàng để tạ tội”.tr.131

        Đoạn sau đây khá dài, xin tóm tắt:
        Mặc dù Lâm Ấp nộp vàng xin tạ tội nhưng đại quân Đàn Hòa Chi vẫn tấn công, tàn sát dân Lâm Ấp cực kỳ dã man. Vua Phạm Dương Mại phải dẫn vợ con chạy trốn. Quân Tống tha hồ vơ vét vàng bạc.Tr.131
        C- “Sử không ghi rõ ràng sau cuộc thắng trận này nhà Tống có lập nền đô hộ ở Lâm Ấp không, có lẽ họ đã cho Lâm Ấp đầu hàng và hàng năm nộp cống.”Tr.131

        Việt Sử Tân Biên cũng của Sử gia Phạm Văn Sơn (gồm 7 cuốn với khoảng 4000 trang) ghi thêm:
        A- “Người ta nghi rằng khai sinh ra nước Lâm Ấp là bọn giặc bể dòng giống Mã Lai đã xâm nhập vào đất Trung Việt truớc kỷ nguyên có kinh thành là Khu Túc ở Huế bây giờ…”Tr. 215/Q.I.
        B- “Họ (Lâm Ấp) hợp giống với Cao Miên và giống Chiêm Thành trong khi một chi phái của họ hợp với giống Mông Cổ và dân tộc Việt Nam” Cũng trang 215/QI.

        Sử gia Phạm Văn Sơn viết “người ta nghi” tức là các sử gia không biết đích xác Lâm Ấp là ai, họ ngờ rằng Lâm Ấp là giặc bể từ Mã Lai đến. Nhưng họ quên rằng, nhiều năm trước, khi Tần Thủy Hoàng xua quân tấn công các nước Việt phương Nam và tàn sát dân Việt vô cùng dữ dội. Nhiều dòng Bách Việt trong đó có dân Ấp Lâm của nước Việt Thường đã dùng thuyền chạy về phương Nam tị nạn. Cũng do vậy, cái tên nước Việt Thường, quốc giới của Việt Thường, Tượng Quận… dính vào ba tỉnh miền Trung này. Và, thêm một minh xác rất quan trọng: Hai tên hai châu Ô, Châu Rí của Chiêm Thành hoàn toàn chưa xuất hiện trong giai đoạn 1000 năm lệ thuộc này.
        Tôi nghĩ, các sử gia Tầu quá biết Lâm Ấp là Việt Thường (Bách Việt) nhất là khi Mã Viện đặt tên huyện Tượng Lâm cho dân tị nạn đang sống ở đó, tuy nhiên nhất định họ cứ phải theo chủ trương chia rẽ hai dòng Việt Lạc và Việt Thường.
        Tại sao có sự giống Mông Cổ ở đây? Điều này không lạ, theo Tiến sĩ J.Y.Chu trên Tạp chí khoa học The Nation Academy Of Science – USA ngày 29/7/1990 thì người Hiện đại đầu tiên xuất hiện từ đông Phi Châu cách đây vào khoảng 150.000. Từ đây họ dần dần di cư ra khắp thế giới. Có nhóm tiến về phía đông qua Ấn Độ, tới bán đảo Trung Ấn rồi tách ra làm hai: Một nhóm tiến lên phía đông bắc băng qua bắc Việt Nam, Trung Hoa, Mông Cổ, đông Tây Bá lợi Á rồi băng qua eo biển Bering mà vào Châu Mỹ. Nhóm thứ hai đi xuống phía nam, vào Thái Lan, Mã Lai rồi ra các quần đảo ở Đông Nam Á. Trong nhóm lên phía bắc Á chắc chắn có tổ tiên Miêu Viêm tức Bách Việt và nhiều tổ tiên của các chủng khác như Tây Tạng, Mản, Mông … Vậy Việt Thường có giống Mông Cổ cũng không lạ vậy.
        Từ các đoạn trích dẫn ghi trên chúng tôi có suy luận như sau:
        Chúng ta đã biết lịch sử giữa Chiêm Thành và Đại Việt kể từ năm 981 (thời nhà Tiền Lê), đến các nhà Lý, Trần và các họ về sau cho tới Chúa Nguyễn là những cuộc chiến tranh tàn khốc và hận thù triền miên cho đến khi Chiêm Thành bị Việt tộc nuốt trọn. Trong khi đó giữa Lâm Ấp và Việt tộc, các quận Nhật Nam, Cửu Chân luôn luôn kết hợp ngoài đánh vào, trong nổi dậy, cùng tấn công kẻ xâm lược Trung hoa rất nhịp nhàng trong suốt 700 năm gần như không ngưng nghỉ.
        Nếu Lâm Ấp là Chiêm Thành với mảnh đất chỉ bằng vài tỉnh nhỏ (Bình, Trị, Thiên), chắc chắn họ không dám xin “lãnh” Giao châu vốn là thủ phủ 9 quận Việt tộc đang bị Tầu đô hộ. Chín quận này đất rộng người đông gấp 20 lần Lâm Ấp.
        Nói cách khác, Lâm Ấp kiên trì, tích cực, liên tục hợp tác với Việt tộc tấn công các phủ trị đô hộ Trung Hoa đến độ vua quan Trung Hoa đàn áp dữ dội mà đi vào diệt vong là do họ chung dòng Bách Việt với Việt tộc, hai dân tộc cùng mang nổi căm thù đô hộ Trung Hoa cực kỳ sâu nặng. Chúng tôi tin rằng, vua quan Lâm Ấp đã có quyết định khôn ngoan khi vừa giúp giải phóng đồng chủng 9 quận vừa quyết tâm thâu hồi lại quê hương Việt Thường của họ.
        Một điều rất rõ ràng là trong khi nước Lâm Ấp với kinh đô đặt tại Khu Túc trong phạm vi tỉnh Thừa Thiên hiện nay đang gây sóng gió liên tục với quan quân đô hộ Trung Hoa, thì Chiêm Thành đã lập quốc rất lâu trước đó với kinh đô Chiêm Bà (Quảng Ngãi) sau đó dời về Đồ Bàn (Quảng Nam). Chứng tỏ Lâm Ấp là Việt Thường – Chiêm Thành là Chàm, hai dân tộc này hoàn toàn khác nhau.

        II/9C .- ĐOẠN SỬ BI ĐÁT CUỐI CÙNG CỦA NGƯỜI VIỆT THƯỜNG NƯỚC LÂM ẤP

        Sách Cương Mục Tiền biên chép:
        Khoảng giữa niên hiệu Trinh Quan (627-649) nhà Đường, vua Lâm Ấp là Đầu Lê chết, con là Trấn Long bị giết, người trong nước lập con bà cô của Đầu Lê là Gia Cát Địa lên làm vua. Gia Cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương và thường cho quân sang xâm lấn An Nam. Hoàn Vương do đó bị quan đô hộ An Nam là Trương Chu đánh phá phải bỏ Lâm Ấp dời đến đất Chiêm, gọi là nước Chiêm Thành… Bấy giờ thành Phật Thệ ở Phủ Thừa Thiên, Thành Chà Bàn ở tỉnh Bình Định đều là di tích cố đô của Chiêm Thành thời đó.
        Sách Việt Sử Toàn Thư thì chép:
        Chư Cát Địa đổi quốc hiệu ra Hoàn Vương quốc nhưng nước này vẫn quen thói quấy nhiểu Giao Châu. Đã có phen họ chiếm được châu Hoan, châu Ái (tức là hai tỉnh Thanh, Nghệ của ta) – Hai thế kỷ sau vào năm Mậu Tý (808), Đô hộ Trương Chu lại đem quân đánh Hoàn Vương quốc rất tai hại khiến họ phải lui xuống phía Nam (hai vùng Nam, Ngãi bây giờ). Lại một lần nữa, quốc hiệu Lâm Ấp đổi ra Chiêm Thành cho tới ngày nay.
        Cách hành văn của 2 đoạn sử trên, cùng trình bày giai đoạn cuối cùng của lịch sử nước Lâm Ấp nhưng có nhiều điểm không giống nhau (thời gian và danh xưng thành Phật Thệ…). Chúng tôi xin thử bình giải:
        Thời vua Trinh Quan nhà Đường (627 – 649), nước Lâm Ấp, vua Đầu Lê chết, thái tử là Trấn Long vừa lên ngôi thì bị giết, triều đình tôn Gia Cát Địa là con bà cô của vua Đầu Lê lên ngôi. Gia Cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn Vương, kinh đô Khu Túc thì đổi tên là Phật Thệ và tiếp tục đường lối của tổ tiên, tiến hành những cuộc liên minh quân sự với Lạc Việt đánh đuổi quân cướp nước ra khỏi bờ cõi. Trong gần 200 năm (từ khoảng 627 – 808) họ tổ chức nhiều cuộc nổi dậy có lúc họ chiếm được Cửu Chân và Nhật Nam. Năm 808, triều đình Trung Hoa sai tướng Đô hộ Trương Chu đem đại binh tiêu diệt Hoàn Vương quốc (Lâm Ấp).
        Lần thứ hai từ sau ngày gạt lệ rời bỏ quê hương Việt Thường bên hồ Phiên Dương năm 221 Tr. CN ; con cháu Việt Thường năm 808 sau CN , kẻ ra đi, người ở lại và hàng vạn người nằm xuống, dưới những nấm mộ tập thể, chôn vùi đây đó trong vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên.
        Nước Lâm Ấp hoàn toàn bị tiêu diệt. Khi quân Trương Chu rút đi thì nước Chiêm Thành đã lập quốc từ lâu với kinh đô Chiêm Bà (Quảng Ngãi) sau đó dời về Đồ Bàn (Quảng Nam) liền vượt đèo Hải Vân tiến ra chiếm đất Tượng Lâm (Bình, Trị, Thiên). Người Việt Thường, Lâm Ấp một số lánh nạn lên vùng núi hay ra bờ gần biển, một số khác chạy ra Nghệ An, Thanh Hóa sống chung với dân Lạc Việt một số ở lại trở thành nô lệ Chiêm Thành…
        Từ đầu thế kỷ thứ 9, lịch sử nước ta không còn nhắc đến tên huyện Tượng Lâm hoặc nước Lâm Ấp nữa. Vùng đất này có tên mới: Châu Ô, Châu Rí (Lý) do Chiêm Thành đặt. Cũng từ năm ấy, sử Việt chép rất kỷ các giai đoạn “chiến tranh và hòa bình” giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
        Năm 1304, đời nhà Trần, khi vua Chiêm Chế Mân, dâng hai châu Ô, Lý để xin cưới Công chúa Huyền Trân thì con cháu Việt Thường ở lại với Đại Việt trong khi dân Chiêm Thành rút về phía nam đèo Hải Vân.
        Năm 1697, phần đất cuối cùng của người Chàm bị chúa Nguyễn Phúc Chu nuốt trọn và nước Chiêm Thành hoàn toàn bị xóa tên.

        II/9D .- VỊ TRÍ NƯỚC VIỆT THƯỜNG CỔ



        Cho đến hôm nay, vị trí nước Việt Thường trên các tài liệu lịch sử Việt Nam vẫn còn là một nghi vấn.
        1- Một số sử gia cho rằng Việt Thường là tên nước Việt Nam cổ, tức là toàn miền Bắc Việt Nam ra tới Đèo Ngang.
        2- Ông L.Wie1ger, nhà Trung Hoa học thì rời vị trí Việt Thường xa hơn nữa. Ông cho Việt Thường là Cao Mên (Trích dẫn từ VSTB tr. 38).
        3- Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược lại nói nước Việt Thường ở phía Nam Giao Chỉ. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38)
        4- Sử gia Lê Văn Hòe trong Việt Sử cho rằng nước Việt Thường ở vào vị trí 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên ngày nay. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38)
        5- Ông Lê Chí Thiệp nói rằng, xem bản đồ Trung Hoa thế kỷ 20 Tr. CN còn chia ra nhiều bộ lạc trình độ khác nhau thì không thể tin được Sứ giả Việt Thường vượt đường bộ từ Bắc Việt, hoặc theo hải đạo đến được thành Bình Dương là kinh đô của vua Nghiêu tận tỉnh Sơn Tây, phía Bắc sông Hoàng Hà và dưới đời Chu lại đến thành Tây An ở phía Nam sông Vị, tỉnh Thiểm Tây bấy giờ. Theo lẽ đương nhiên, chỉ có gần gũi nhau, chịu ảnh hưởng của nhau mới có sự giao dịch với nhau. Tóm lại, Việt Thường tất không xa Hán tộc, có lẽ ở phía Nam sông Dương Tử vùng hồ Phiên Dương và sông Dương Tử. Lý luận này theo ý chúng tôi có ý nghĩa hơn cả. (Trích dẫn từ VSTB tr. 38)
        6- Ở trang 39 VSTB ghi “Kinh Thư chép đất Dương có nhiều giống chim lạ, đất Kinh có nhiều rùa lớn thì Việt Thường ở vào khu hồ Phiên Dương và hồ Đông Đình, như vậy ta càng thấy sự đối hợp với việc cống chim Trĩ và Rùa lớn.
        7- Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, vùng hồ Phiên Dương có đất Việt Thường, vua Sở Hùng Cừ (887 Tr. CN) phong cho con út là Chấp Tỳ làm vua ở đấy. Việt Thường, Việt Chương có lẽ là hai tên dùng lẫn cho nhau (như Cao Mên, Cao man; Lào, lèo…). Ông Lê Chí Thiệp định vị trí Việt Thường ở ngay chỗ thành Nam Xương…”
        Chúng tôi rất tán đồng ý kiến của ông Lê Chí Thiệp. Nước Việt Thường chỉ có thể ở vùng gần hai hồ Động Đình và Phiên Dương. Nhưng lý do tại sao vùng Bình, Trị, Thiên lại có tên là Việt Thường thì chúng tôi có câu trả lời như sau:
        Năm 221 tr. CN, Tần Thủy Hoàng xua quân xâm lăng các nước Việt phương Nam. Nước Việt Thường bị đánh bại, quý tộc Việt Thường ở “kinh đô Lâm Ấp (?)” bèn đưa dòng họ và quân đội theo đường biển chạy về phương Nam và đổ bộ lên vùng đất sau này gọi là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên thuộc nước Âu Lạc của vua Thục An Dương Vương và tị nạn ở đó. Họ thân thương gọi vùng đất mới này là (Tân) Việt Thường, là Lâm Ấp (tổ quốc và kinh đô cũ). Sử ta về sau lẫn lộn vị trí nước Việt Thường là vậy. Xin nhắc lại vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên là nơi “Khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối…” là “rú”, tại đây có thể đã có một số bộ lạc Chàm sống rải rác trên các đồng bằng nhỏ hẹp… họ lập tức họ bị người tị nạn Việt Thường khống chế

        *. Triều đình Chiêm Thành ở bên kia đèo Hải Vân có lẽ đã không quan tâm tới đám dân Chàm không đáng kể này.
        *Y hệt thổ dân Đài Loan năm 1949 bị đoàn quân bại trận của tổng thống Tưởng Giới Thạch khống chế ngay khi họ đổ bộ lên đảo này.
        Dân tị nạn Lâm Ấp “vui sống” ở đó, trải từ cuối thời Âu Lạc của Thục An Dương Vương, qua Nam Việt của nhà Triệu, rồi nhà Hán xâm lăng Nam Việt và đặt phủ trị đô hộ… Cho đến khi Mã Viện diệt Hai Bà Trưng vào năm 43 là 264 năm. Mã Viện đem quân đuổi đánh tàn quân Hai Bà vào tận đất Nhật Nam. Người Lâm Ấp một mặt không giúp Hai Bà Trưng, một mặt thất hứa với Mã Viện trong việc tấn công mặt hậu Lĩnh Nam. Bây giờ lại hối lộ Mã Viện rất nhiều vàng bạc châu báu để được yên thân. Nhờ vậy, Mã Viện lập huyện Tượng Lâm trực thuộc quận Nhật Nam và cho người Lâm Ấp tiếp tục cư trú ở đó. Như vậy, Lâm Ấp đã tỏ ra rất khôn ngoan. Họ “ừ! è!…” với Mã Viện nhưng nhất định không tiếp tay cho giặc để đánh đồng chủng. Có lẽ họ dư biết dù liên minh với Lĩnh Nam cũng không chống nổi với Mã Viện. Khi biết Hai Bà Trưng đã hoàn toàn thất bại trước Mã Viện thì họ dâng vàng bạc để được yên thân mài nanh vuốt chờ dịp quật khởi. Quả nhiên, kể từ năm 102 (60 năm sau), khi đã có thực lực, Lâm Ấp tung ra hàng loạt cuộc tấn công vào quân đô hộ Tầu không ngưng nghỉ.
        Theo sách Cương Mục, năm 192 tức là 408 năm sau khi dân Lâm Ấp định cư ở Tượng Lâm quận Nhật Nam, con cháu người Việt Thường tị nạn chính thức tái lập quốc gia. Chúng tôi không biết ngoài tên nước Lâm Ấp, Chàm, Chiêm Thành mà sử Tầu thường gọi, họ có quốc hiệu nào khác không. Sau khi lập quốc, họ tiếp tục tổ chức kết hợp với dân Việt ở nhiều địa phương Việt Lạc liên tục tấn công các phủ trị đô hộ Tầu các quận Nhật Nam, Cửu Chân có khi vươn tới quạn Giao Chỉ. Triều đình Trung Hoa phải vô cùng chật vật để bảo vệ quyền đô hộ. Cho đến năm 468 nhà Tống đưa đại binh tấn công nước Lâm Ấp, tàn phá 55 thành khiến nước Lâm Ấp yếu đi.

        II/9E.- VÀI TÀI LIỆU RIÊNG

        II/9E1 .- Bí mật ngôn ngữ Việt Thường: 3 Làng LONG HƯNG, ĐẠI NẠI, MỘ TRẠCH nói tiếng gì?
        Bí mật về ngôn ngữ của dân hai làng Long Hưng và Đại Nại ở Quảng Trị và làng Mộ Trạch ở Thừa Thiên ngày nay nói tiếng Việt với 60-80% đặc âm địa phương, khó nghe đến độ chính dân Quảng Trị với khoảng 20% đặc âm (dân chúng ở vùng quê không học chữ Quốc ngữ) cũng rất cực khổ để hiểu họ muốn nói gì. Tỉ dụ: Ló : lúa ; rọn : ruộng ; nác : nước ; su : sâu ; khun : khôn ; ngái : ngại : mói : muối ; đùi : cùn ; lọi : gãy ; cái chưng: cái chân ; lưa sưa : lưa thưa ; chạc dây : sợi dây ; mụ tra : bà già ; mự : mợ ; cơm siu :cơm thiu ; cái trố-ôt : cái đầu ; lộ mụi : lỗ mũi ; rào : sông ; bọ tui : bố tôi ; bưa : vừa ; bấp bo : vấp té ; trung nớ : trong đó ; đi ẽ : đi ĩa ; côi : trên ; trộ mưa : trận mưa ; mi đi mô rứa : mầy đi đâu đó ; ốt dột quái : xấu hổ quá ; giãy tọt lên côi nớ : nhảy vọt lên trên đó… Tất cả vần NH biến thành GI như cái nhà : cái già ; con nhện : con giện ; bổng nhưng : bổng giưng ; nhiều : giều ; tuy nhiên : tuy giên ; nhức nhối : giức giối ; nhảy nhót : giảy giót ; nhà nho : già gio, nhu nhược : giu giược…
        Những địa phương ngữ nói trên, chắc chắn có pha trộn ít nhiều với tiếng Chàm khi mà người Lâm Ấp đã từng sống chung với người Chàm cả ngàn năm trong suốt thời kỳ lệ thuộc Trung Hoa.
        Chúng tôi không biết nhiều về ngữ học, cũng xin lạm bàn để phân biệt tiếng Lâm Ấp và tiếng Chàm trên một quy tắc đơn giản như sau: Tiếng nào nghe na ná hoặc có vần như tiếng Việt toàn quốc là tiếng Lâm Ấp đồng chủng Việt tộc, còn tiếng nào không giống ai là tiếng Chàm.
        Tỉ dụ 1 : MÓI nghe na ná và cùng vần với MUỐI, GIÃY TỌT cùng vần với NHÃY VỌT… thì mói, giãy tọt là tiếng của Lâm Ấp đồng chủng Việt tộc.
        Tỉ dụ 2 : RÀO là sông, cái TRỐT là cái ĐẦU, CÔI là TRÊN… rõ ràng RÀ0, TRỐT, CÔI… không giống ai thì có thể là tiếng vay mượn của Chiêm Thành.
        Vậy chúng ta tạm có bản phân tích dưới đây
        1.- Những tiếng nghe na ná hoặc đồng vận như : rọn : ruộng ; nác : nước ; mói : muối ; sưa : thưa ; su : sâu ; chộ nớ : chỗ đó ; tra : già ; lộ mụi : lỗ mũi ; mự : mợ ; trộ mưa : trận mưa ; cơm siu :cơm thiu ; bấp : vấp ; giều : nhiều ; bọ : bố ; mần chi hỉ : làm gì nhỉ ; chưn : chân ; con giện : con nhện ; bưa : vừa ; lấy dô-ôn : lấychồng ; hun : hôn ; ma tui : mẹ tôi … là tiếng Bách Việt dòng Việt Thường.
        2.- Những tiếng khác vần hoặc không giống ai như: trốt : đầu ; chạc : sợi dây ; lọi : gãy ; rào : sông ; tê : kia ; rứa : thế ; răng : sao ; nôốt : thuyền ; nậy : lớn ; cái đọi : cái tô… có thể là tiếng vay mượn của Chàm, Chiêm Thành.
        Xét tổng quát, ngôn ngữ miền bắc và miền nam (kể cả Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khanh Hòa… vốn là quê hương của Chiêm Thành), khi nói lên, mọi người trên toàn quốc có thể nghe và hiểu nhau dễ dàng mặc dù có một vài đặc âm, đặc ngữ nhưng không đáng kể.
        Riêng ngôn ngữ của vùng Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa (nhất là thời gian chữ quốc ngữ chưa thông dụng) thì hai miền bắc và nam Việt Nam phải cố gắng lắm mới hiểu được. Nếu chẳng may gặp phải dân ở ba làng Long Hưng, Đại Nại và Mộ Trạch (80% đặc âm + đặc ngữ) nói ở trên thì không thể biết được họ muốn nói gì. Y hệt như ta nghe người… Tây Tạng nói chuyện!! Nhất định những đặc âm, đặc ngữ ấy là do các dân tộc dòng Bách Việt vì biến động lịch sử mà phải thay đổi nơi cư trú đã xuất hiện trong dòng Lạc Việt.
        Qua bản phân tích đơn giản nói trên, chúng tôi thấy rõ dân ba làng Long Hưng, Đại Nại và Mộ Trạch đúng là con cháu của dòng Việt Thường còn sót lại. Còn dân chúng các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình cho đến cả Nghệ An, Thanh Hoá rất có thể trong huyết quản có lẫn ít nhiều máu Việt Thường.
        II/9E2 .- Tượng người đầu chim bằng đồng đen ở chùa Phật Lôi
        Khoảng năm 1920, trời làm lụt lớn trên sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Nước lụt xoi mòn bờ cát phía làng Nhan Biều đối diện với tỉnh lỵ. Sau lụt, dân làng phát giác một đầu chim bằng đồng lồi trên bờ cát. Đào lên thì đó là một tượng người đầu chim bằng đồng đen, nặng khoảng 60 ký. Dân làng Nhan Biều liền xây một ngôi miếu thờ Người Chim gọi là chùa Phật Lồi. Vài năm sau, quan sứ Pháp đem lính đến miếu tịch thu tượng “Người Chim”, nói rằng đem về Pháp nghiên cứu!?
        Ngày tôi còn ở Quảng Trị, cậu tôi vốn sinh trưởng ở làng Nhan Biều tả hình dáng tượng Người Chim như sau: cổ chim khá cao, mõ chim dài, mạnh khỏe, mồng chim lớn và thẳng đứng. Bên dưới cổ là thân người “trơn tru” không tạc quần áo (khi dân làng đưa lên bàn thờ thì họ hay quần áo cho tượng chim). Hai chân chim con nhện : khẳng khiu, giống bàn chân người, đứng trên một cái đế, tất cả bằng đồng đen… Ngày nay nhớ lại, tôi tin chắc rằng đó là biểu tượng “Người Chim” của người Lâm Ấp đem từ đất nước Việt Thường đến đất Quảng Trị cổ hoặc họ đã đúc ở đấy.
        Như chúng tôi đã dẫn chứng, nước Việt Thường cổ ở giữa hồ Phiên Dương và hồ Động Đình. Vùng này có rùa lớn và giống chim Trỉ rất đẹp… Người Việt Thường thờ chim Trĩ làm biểu tượng như người Lạc Việt thờ chim Lạc. Họ đã từng đem rùa lớn có khắc lịch nông nghiệp trên mai rùa tặng vua Nghiêu khoảng năm 2300 Tr. CN. Đến năm 1100 Tr. CN họ lại đem tặng vua nhà Tây Chu một đôi chim Bạch Trĩ để tỏ lòng “ngưỡng mộ”, thì chúng ta sẽ không sai khi nghĩ rằng:
        Người Lâm Ấp ở huyện Tượng Lâm đúng là dân nước Việt Thường cổ đã từng di cư đến tị nạn ở đất Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và tái lập quốc gia Lâm Ấp ở đó.
        II/9E3 .- Di sản văn học Việt Thường vẫn vang vọng
        Từ lâu, một vài nhạc sĩ cho rằng người Chàm xưa mang nổi buồn mất nước nên ca nhạc của họ mang nét u sầu, ai oán… cũng vì thế, nhạc cổ miền Trung đặc biệt là hai điệu Nam Ai và Nam Bình đã bị ảnh hưởng bởi nhạc Chàm. Chúng tôi nghĩ rằng những phán đoán trên có phần nào phiếm diện.
        Từ những minh xác về nguồn gốc người Việt Thường nước Lâm Ấp, chúng tôi có những ý kiến như sau về bộ môn “văn nghệ cổ*” miền Trung từ Huế trở ra như sau:
        *Chúng tôi gọi chung là văn nghệ cổ, trong đó có âm nhạc, ca dao, tục ngữ, chuyện cổ, vè, ca múa, thổi kèn, đánh đàn, đánh trống, truyền thống lễnhạc…xuất phát từ dòng Việt Thường này. Chúng tôi rất mong sẽ có nhiều học giảđể tâm nghiên cứu sâu rộng những vấn đề mà tôi đề cập sơ lược hôm nay.
        Dân Việt Thường từ hồ Phiên Dương (bên Tầu) theo đường thủy chạy về vùng Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên tị nạn, chắc chắn họ đã đem theo truyền thống văn hóa của họ đến vùng đất cư trú mới. Nguồn gốc nước Lâm Ấp, biểu tượng Chim Trĩ, tiếng nói Việt Thường thì đã được dẫn chứng. Tuy nhiên còn nhiều truyền thống đặc thù khác chưa được đề cập tới, trong đó có sinh hoạt văn nghệ của họ. Do vậy, “văn nghệ cổ” miền Trung ngày nay, đặc biệt là Huế (cũng là kinh đô của nước Lâm Ấp, “Tân Việt Thường”), sau đó là Quảng Trị, Quảng Bình và có thể cả Nghệ An và Thanh Hóa… mang dạng văn nghệ và âm nhạc Việt Thường bởi các lý do sau :
        1.- Đất Bình, Trị, Thiên (huyện Tượng Lâm) vốn là đất cư trú của người Lâm Ấp từ năm 221 tr. CN đến năm 808 sau CN (tồn tại hơn 1000 năm) thì bị Chiêm Thành chiếm và đổi tên là châu Ô, châu Rí (Xin lưu ý: Dù bị chiếm mất nước, người Lâm Ấp và văn hóa của họ vẫn tồn tại ở đó). Năm 1.304, vua Chiêm Chế Mân dâng hai châu này cho nhà Trần đển xin cưới Công chúa Huyền Trân. Rõ ràng người Chiêm không màng đến một vùng đất vốn không phải là của họ. Tất nhiên họ cũng không thiết tha, khóc thương đến độ phải đặt ra những điệu nhạc ai oán, não nuột như thế.
        2.- Vùng đất phía nam xứ Huế như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… có kinh đô Chàm Đồ Bàn và là địa bàn định cư lâu đời của Chàm, nếu có nhạc ai oán vì mất nước thì phải xuất hiện tại vùng này chứ không phải từ Huế trở ra.
        3.- Người Việt Thường vốn là một dân tộc có văn hóa cao. Khi phải bỏ nước ra đi vì giặc ngoại xâm (Tần Thủy Hoàng) tất nhiên nổi tủi nhục, sầu hận nước mất nhà tan của họ phải vô cùng cay đắng, sâu nặng. Văn nghệ của họ chắc chắn đã bị ảnh hưởng từ các cuộc ra đi tị nạn đó. Trải qua bao công lao xây dựng, chiến tranh tàn phá, thăng trầm, cuối cùng mới lập được quốc gia Lâm Ấp. Rồi nước Lâm Ấp lại cũng bị điêu tàn, bị chiếm đoạt và phải làm nô lệ dân Chiêm Thành…
        4.- Việt Thường và Lạc Việt đồng chủng, đồng ngôn ngữ (dù phát âm hơi khác), đã từng chung vai sát cánh chống lại đô hộ Trung Hoa suốt bảy trăm năm… nhất định hai dân tộc này đã có thông gia, có trao đổi văn hóa một cách mật thiết.
        Những điệu Nam Ai, Nam Bình và nhiều loại văn học khác như văn, thơ, ca dao, chuyện cổ, ca vè… của các vùng liên hệ tất nhiên chịu ảnh hưởng từ văn nghệ Việt Thường. Nếu so nổi buồn Việt Thường với những cung điệu ai oán sầu hận của người Việt tị nạn ở hải ngoại ngày nay với những bản nhạc “Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt”, “Người Di Tản Buồn”, “Khi Xa Sài Gòn”, “Sài Gòn Niềm Nhớ Không Quên”, “Ai Trở Về Xứ Việt”, “Em Nay Ở Phương Nào”… Với hàng vạn bài thơ, truyện, ca dao mới… nói lên niềm chua xót nước mất, nhà tan… Hai nổi đau thương, khắc khoải của hai dân tộc Việt Lạc, Việt Thường trong hai giai đoạn lịch sử cực kỳ đau thương ấy, chắc cũng không khác nhau bao nhiêu…
        Chúng tôi tin rằng những biệt sắc văn nghệ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình kể cả Nghệ An và Thanh Hóa một số lớn là di sản văn hóa Việt Thường chứ không phải là của Chàm như chúng ta vẫn tưởng.

        II/9F .- LỊCH SỬ NƯỚC TA THỜI LỆ THUỘC VÀ TIỂU QUỐC LÂM ẤP CẦN TU CHỈNH LẠI

        Tiểu quốc Lâm Ấp, dòng dõi Việt Thường, đồng chủng Việt tộc hào hùng của ngàn năm trước, hậu duệ của quý ngài nay ở đâu? Hay đã hòa tan trong dòng Đại Việt của các thời đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn? Hai vị anh hùng Khu Liên người tái lập quốc gia Lâm Ấp; Chu Đạt, người lãnh đạo 30.000 nghĩa quân đánh chiếm hai quận Cửu Chân và Nhật Nam là ai? Và biết bao anh hùng, liệt nữ hai nước Việt Lạc và Việt Thường đã bỏ mình trong suốt 700 năm lịch sử nổi dậy bất thành ấy? Có ai dành cho họ giọt nước mắt, nén hương thương tiếc, đồng thời làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử đầy máu và nước mắt nhưng vô cùng hào hùng ấy!
        Những người anh hùng ấy chắc chắn phải được vinh danh trong lịch sử Việt tộc.
        Chúng tôi thiết tha kêu gọi các nhà làm sử Việt Nam, các học giả đang nghiên cứu thực hiện bộ sách Giáo khoa Tiểu, Trung và Đại học nên tu chỉnh các đoạn sử này để khỏi phụ lòng những anh hùng Việt tộc ở hai quận Cửu Chân và Nhật Nam cùng cả một dòng giống Việt Thường oanh liệt cổ xưa đã hết lòng với tổ tiên Việt tộc trong nổi khốn cùng một ngàn năm đô hộ! Điều này rất cấp thiết.
        Chúng tôi đề nghị viết lại các biến chuyển lịch sử Việt Nam nên dựa trên 4 điểm chính sau đây:
        1.- VỊ TRÍ NƯỚC VIỆT THƯỜNG Ở PHÍA NAM SÔNG DƯƠNG TỬ GẦN HỒ ĐỘNG ĐÌNH VÀ HỒ PHIÊN DƯƠNG, LÀ MỘT TRONG BA NƯỚC DÒNG BÁCH VIỆT BỊ NHÀ TẦN THÔN TÍNH NĂM 221 TR.CN. NHÀ TẦN ĐỔI THÀNH HUYỆN LÂM ẤP VÀ GỌI VÙNG ĐẤT MỚI CHIẾM LÀ TƯỢNG QUẬN.
        2.- SAU ĐÓ MỘT SỐ DÂN VIỆT THƯỜNG Ở HUYỆN LÂM ẤP, TƯỢNG QUẬN THEO ĐƯỜNG THỦY CHẠY VỀ PHÍA NAM. HỌ ĐỔ BỘ LÊN ĐẤT QUẢNG BÌNH, QUẢNG TRỊ VÀ THỪA THIÊN VÀ ĐỊNH CƯ Ở ĐÓ. VÙNG NÀY VỐN LÀ ĐẤT HOANG DÃ Ở VỀ PHÍA NAM CỦA QUẬN NHẬT NAM. NĂM 43, NHÀ HÁN SAI MÃ VIỆN XÂM LĂNG LĨNH NAM, MÃ VIỆN LẬP ĐẤT NÀY LÀ HUYỆN TƯỢNG LÂM, ĐẶT HUYỆN LỆNH CAI TRỊ VÀ CHO NGƯỜI LÂM ẤP CƯ TRÚ Ở ĐÓ. NĂM 192, NGƯỜI LÂM ẤP GIẾT HUYỆN LỆNH TẦU MÀ LẬP QUỐC, ĐẶT KINH ĐÔ Ở KHU TÚC GẦN HUẾ .
        3.- NGƯỜI LÂM ẤP TRƯỚC VÀ SAU KHI LẬP QUỐC (102 Tr.CN – 808 S.CN) NHIỀU LẦN LIÊN MINH VỚI DÂN VIỆT CÁC QUẬN NHẬT NAM, CỬU CHÂN VÀ GIAO CHỈ TẤN CÔNG VÀO THÀNH LŨY ĐÔ HỘ TRUNG HOA NHẰM GIẢI PHÓNG VIỆT TỘC THOÁT KHỎI THẢM TRẠNG LỆ THUỘC TRUNG HOA. NHƯNG TIẾC THAY MỌI CỐ GẮNG ĐỀU KHÔNG THÀNH CÔNG. NƯỚC NÀY ĐÃ BỊ TRUNG HOA TIÊU DIỆT VÀO NĂM VÀ BỊ CHIÊM THÀNH CHIẾM KHOẢNG NĂM 808. NƯỚC LÂM ẤP (ĐẤT TƯỢNG LÂM) BỊ CHIÊM THÀNH ĐỔI THÀNH HAI CHÂU Ô, LÝ…
        4.- DÂN TỘC VIỆT NAM XÁC NHẬN SỰ SAI LẦM KHI GỌI NHÂN DÂN LÂM ẤP LÀ CHÀM, LÀ GIẶC TRONG QUÁ KHỨ. NAY CHÍNH THỨC VINH DANH VÀ TRI ƠN NGƯỜI LÂM ẤP VÀ NƯỚC LÂM ẤP LÀ ĐỒNG CHỦNG BÁCH VIỆT ĐÃ HẾT LÒNG VỚI DÂN TỘC VIỆT NAM TRONG NỔI KHỐN CÙNG 1000 NĂM LỆ THUỘC TRUNG HOA.

        II/10.-VỊ THẾ LÀNG XÃ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN LỆ THUỘC HOA TỘC

        Vào giai đoạn này, sự bành trướng của con cháu du mục Hoa tộc đã trở thành một đế quốc cường thịnh bậc nhất của lịch sử Trung Hoa không dừng lại ở đó mà tiếp tục lấn chiếm về phương Nam. Năm 111 tr. CN, nhà Hán thôn tính nước Nam Việt mở đầu thời kỳ 1000 năm Việt Nam lệ thuộc Trung Hoa.
        Một ngàn năm nô lệ Trung Hoa là một thử thách cực kỳ cam go đối với dân tộc Việt Nam sau khi các dân tộc Bách Việt đã lần hồi đánh mất những phần đất rộng lớn ở phía bắc và đại đa số dân chúng đã biến thành Tầu. Và, như chúng ta đã biết, người Việt khi thì ẩn nhẫn chờ đợi thời cơ, khi thì vùng lên chống trả mãnh liệt. Trước sau có 9 cuộc cách mạng nổi lên giành độc lập, tự chủ mà càng về sau càng dồn dập, quyết liệt, càng có qui củ và tài trí. Cuối cùng thì người Việt đã hóa giải được áp lực đồng hóa khủng khiếp của Hoa tộc đồng thời vươn vai đứng lên với thế giới sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 939.
        Do đâu mà người Việt Giao Chỉ thoát được áp lực đồng hóa sau 1000 năm lệ thuộc Hoa tộc mà các dân tộc cùng chung danh xưng Bách Việt đã phải khuất phục trước đó?
        Câu trả lời đúng nhất là do họ đã giữ được tinh anh của văn hóa Việt cổ trong hệ thống các bộ tộc, bộ lạc Bách Việt mà về sau được gọi là làng xã mà người Tầu có thể đã xem thường. Người Tầu không biết rằng: sau cái lũy tre tầm thường ấy, khi ở thế tỉnh, làng quê là một cuộc sống êm đềm, hiền hòa, dễ bảo, dễ ăn hiếp; nhưng khi có cơ hội thì nó chuyển qua thế động. Từ làng này qua làng khác, bùng lên như những ngọn sóng thần cuốn phăng xiềng xích nô lệ!
        Như đã trình bày ở đoạn trước, sau chiến tranh Trác Lộc các bộ lạc, bộ tộc Miêu nào “theo về” liền được vua Hoàng Đế phong chư hầu hoặc phụ dung với quyền tự trị khá cao mà chính quyền trung ương tôn trọng. Dần dần các chư hầu học thói “thực tiễn cường lực” của du mục, thôn tính lẫn nhau khiến từ hàng vạn chư hầu xuống còn vài ngàn, vài trăm, vài chục rồi thì… 7, 6 nước “lớn”… Cuối cùng chư hầu Tần thống nhất toàn thể lục địa Trung Hoa, thì biệt sắc văn hóa Miêu tộc cổ chuyển thành “văn minh” Trung Hoa, nghĩa là bối cảnh xã hội nông nghiệp nhân chủ, nhân trị và xã hội mẫu hệ theo năm tháng chuyển thành xã hội du mục quân chủ cường lực chuyên chế và xã hội phụ hệ.
        Khác với chế độ quân chủ phong kiến của giai đoạn Hạ-Thương-Chu gồm vị Thiên tử chăm lo vỗ về Thiên hạ, đem vương hóa mà thi ân ban đức cho người dân (dù chỉ còn là những giai đoạn rất ngắn ngủi, còn thì đa số chỉ để làm khẩu hiệu, làm kiểng)… dần dần chuyển qua quân chủ chuyên chế mà đỉnh cao là giai đoạn Tần Thủy Hoàng. Sau đó, nhà Hán lại càng ra sức tô bồi cho chế độ tạo thành một định chế quân chủ chuyên chế, tạo thành một truyền thống toàn trị của xã hội Trung Hoa các thời đại về sau.
        Khi đô hộ Việt Nam, các triều đình Trung Hoa thường chỉ quan tâm tới hai cấp quận, huyện. Họ đặt chức Thứ sử trông coi guồng máy đô hộ gọi là An Nam Đô Hộ Phủ, các chức Thái thú thì cai trị cấp Quận. Cấp Huyện thì họ đặt chức Huyện lệnh. Toàn bộ đám quan lại này hoàn toàn là người Trung Hoa, chúng cực kỳ gian ác, tham ô, coi người dân còn tệ hơn gia súc. Tuy nhiên, đối với Làng, Xã* thì họ để như cũ, tức là cho tự trị tùy theo truyền thống sẵn có từ xưa gọi là Lệ của mỗi Làng. Truyền thống này quan trọng nhất là thể lệ thành lập cơ quan lãnh đạo chính trị, hành chánh, kinh tế, an sinh… của Làng Xã. Chắc chắn trong thời đô hộ các chức vụ quan trọng của Làng, Xã đã bị bọn quan lại đô hộ Tầu mua chuộc hoặc áp đảo phải làm tay sai cho họ. Họ kiểm soát chặt chẻ bằng một chế độ độc đoán, hung bạo để bảo vệ chính quyền đô hộ và thỏa mãn lòng tham không đáy của bọn này vốn ở xa triều đình trung ương. Rõ ràng, nhờ ở vị thế tự trị này mà các truyền thống văn hóa Làng Xã Việt cổ đã tồn tại.
        *Làng, Xã là đơn vị khởi điểm của tổ chức hành chánh hạ tầng cơ sở của nước ta từ nhiều ngàn năm trước, Làng là ngôn ngữ Việt, Xã là chữ Hán. Tùy theo vị trí mà Làng, Xã còn có nhiều tên khác:
        • Trang, Động, Sách, Trại là những xóm làng tiếp giáp rừng núi hay ở sâu trong rừng, núi.
        • Vạn thì ở vùng ven biển, ven sông chuyên nghề chài lưới, chuyên chở, khuân vác đường sông, đường biển .
        • Phường thường ở các thị trấn đông người, thường làm cùng một nghề (phường nón, phường đúc…)
        Thành phần dân chúng của Làng Xã được kể gồm có: Tiểu hoàng nam (trên 18 tuổi), Hoàng nam (trên 20), Nhiêu (từ 50 tuổi), Lão nhiêu (trên 60).Kể từ hạng Nhiêu có thể được bầu vào Hội đồng Hương xã, có giá trị như một nghị viện của Làng để bàn thảo việc Làng, bầu cử các chức vụ trong Làng như Xã trưởng và các chức sắc khác…
        Chúng tôi tin chắc rằng ít nhất là hơn một nửa những truyền thống văn hóa của người dân trong các Làng Xã miền bắc và các tỉnh phía bắc miền trung vẫn còn duy trì tốt đẹp. Từ những may mắn đó, Làng Xã Việt tộc đã là nơi phát sinh ra những anh hùng dân tộc và là những căn cứ yểm trợ, huấn luyện và xuất phát những đoàn quân kháng chiến cứu nguy đất nước.
        Một điểm son khác, đất bắc và trung Việt Nam vốn là vùng cực nam của văn hóa Động Đình, từ thời Văn Lang đã là nơi dung thân của nhiều nguồn tị nạn xâm lược Hoa tộc mà đa số là thành phần quý tộc Bách Việt và thân nhân của họ. Vì là thành phần trốn chạy, đa số trong các nhóm này nương náu trong các Làng Xã xa nơi thị trấn hoặc cư trú trên các vùng cao nguyên, miền núi… Sự kiện này vô tình giúp cho làng xã Giao Chỉ liên tục được bổ sung tinh hoa văn hóa Bách Việt cũng như tinh thần bất khuất của dân Việt càng ngày càng được củng cố. Nhờ đó mà suốt 1000 năm lệ thuộc, dân tộc Việt không bào giờ lùi bước mà liên tục chống trả cho đến khi toàn thắng.

        II/11-KẾT LUẬN II

        Văn hóa Bách Việt cổ trong thời kỳ còn trinh nguyên là văn hóa biểu tượng, các loại chữ viết đang còn sơ khai như chữ chân chim, chữ tượng hình, chữ nòng nọc… chỉ mới được dùng để chỉ ra một vài sự kiện trong đời sống thường nhật có hình dạng như những chữ số, trâu bò, nhà cửa, sông núi, mưa nắng… nó chưa đủ khả năng trình bày những ý niệm thuộc về tư tưởng, tâm linh, vốn mang tính trừu tượng.
        Cùng với những loại chữ này, người xưa đã dùng những hình vẽ khắc trên mu rùa, hòn sỏi, búa đá, búa đồng, khạp đồng, trống đồng… hoăc những quan niệm nhân sinh, vũ trụ được cài đặt trong các nhân thoại như chuyện ông Bàn Cổ, chuyện Phục Hy, Nữ Oa, Toại Nhân, Hữu Sào, Thần Nông trước chiến tranh Trác Lộc. Hay chuyện Tiên Rồng, Sách ước Gậy thần, Trầu cau, Thánh Gióng, Tiên Dung Chữ Đồng Tử, Bánh chưng bánh dày, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mai An Tiêm, Trương Chi… sau chiến tranh Trác Lộc.
        Một số khác được cơ chế hóa trong các nghi lễ dân gian như đám cưới, đám giỗ, lễ hội, lễ tết…, trong phong dao, đồng dao, ca dao, hát ru em, thành ngữ… hoặc trong các truyền thống sinh hoạt làng xã, trong phạm vi đình làng. Các học giả cũng tìm thấy trong nhiều loại sách, sử Trung Hoa ghi lại những truyền thống văn hóa, đạo đức, luân lý, tư tưởng Việt cổ. Điển hình trong các bộ Tứ thư, Ngũ kinh, Đạo đức kinh… của Khổng Phu Tử, Lão Tử và học trò của các ông ghi chép lại… Chúng tôi gọi đó là nền văn hóa kỳ diệu của tổ tiên hiền triết Việt tộc.
        Nếu quý độc giả chưa đọc Đường Ta Đi từ chương I, có thể khi nghe chúng tôi nói văn hóa tư tưởng Việt tộc cổ tràn ngập trong Kinh sách và đời sống người Trung Hoa, hẳn có vị nhăn mặt cho rằng chúng tôi quá lời đến độ sống sượng! Xin thưa, không quá lời đâu! Không sống sượng đâu! Sự thực chính xác đến độ chính chúng tôi cũng phải ôm đầu kinh ngạc, tiếc nuối cho một gia tài văn hóa cha ông bị cướp đoạt, mạo nhận suốt nhiều ngàn năm. Cho đến ngày nay, con cháu dù đang xữ dụng văn hóa ấy mà vẫn cứ nghĩ rằng mình được ông hàng xóm tàn bạo, điêu ngoa khai hóa, dạy bảo!!!
        Giả thử, bây giờ ta đưa vài trăm ngàn người miền Thượng ở Pleku, Kontum, Banmêthuột; đặt họ vào đồng bằng Cửu Long sống giữa đồng bào miền Nam thì họ sẽ có tư tưởng và cuộc sống như thế nào sau một ngàn năm? Chắc chắn họ sẽ suy nghĩ và đời sống giống như người Việt miền Nam. Có thể họ sẽ có những “làng” Gia Rai, “xẽo” Cheo Reo, “xóm” Cái Bà Na…
        Ngày nay người Việt dù đang sống hầu như khắp nơi trên đất Mỹ, nhưng cùng đồng thuận rằng Cali là “thủ đô” là “Sàigòn Nhỏ” của dân Việt tỵ nạn và chỉ mới non 30 năm người Việt đã có những suy nghĩ và cuộc sống không khác gì người “Mỹ trắng”. Tôi chọn Mỹ trắng mà không chọn Mỹ Đen, Mễ… vì Mỹ trắng có nếp sống văn minh cao hơn các giống kia. Vậy khi rợ Hoa rớt vào hủ gạo Miêu tộc cách đây 5000 năm ở lục địa Đông Á họ cũng ở trong hoàn cảnh y hệt những điều chúng tôi vừa nói trên. Cái đáng buồn là vì họ quá mạnh quá gian ác trong khi Miêu thì quá hiền nên văn hóa Miêu bị đóng dấu “made in China” mà thôi.
        Ngày nay, nếu chúng ta tìm học tư tưởng người xưa thành hệ thống, sàng sẩy, chọn lọc, khai triển, phối hợp với những hiểu biết của nhân loại ngày nay, chúng tôi tin chắc rằng đất nước Việt Nam sẽ có một minh triết chủ đạo chẳng những trong công cuộc kiến tạo, dựng xây quốc gia dân tộc mà còn quảng bá cho thế giới ngày nay. Cố triết gia Lương Kim Định gọi đó là Việt đạo là triết lý An vi với hướng đi nhân chủ, nhân trị trong một xã hội bình sản, tự do và dân chủ hoàn mỹ.
        Mở rộng tầm mắt nhìn quanh, những định chế tổ chức của các nước trên thế giới ngày nay đã đưa con người đi vào tình trạng lệ thuộc tất cả, nghĩa là không nô lệ thần minh thì cũng nô lệ vật chất hoặc vất bỏ tất cả… Đó là con đường thoái thác quyền làm Người!
        Ông Cao Bá Quát, một nhân tài văn học Việt Nam cuối thế kỷ 18 đã phải thốt lên trước những lễ cầu đảo rềnh rang của triều đình vua Tự Đức:
        Thần thánh chi chi kệ!
        Không nhân đếch có ra Người!

        Triết gia Kim Định vốn là một linh mục Công giáo đã rất can đảm khi viết:
        Trời có việc của Trời, Đất có việc của Đất, Người có việc của Người. Nay bỏ cái khả năng của Người mà đi cầu cái khả năng của Trời, Đất thì có lầm chăng?”

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.11.2012 09:55:54 bởi hai1957 >
        #4
          hai1957 12.11.2012 09:19:55 (permalink)
          Chương III

          BIỆT SẮC ĐẶC THÙ CHỦNG VIỆT


          III/1 .- VẦNG NHẬT

          Từ thời thượng cổ, hầu như dân tộc nào cũng quan tâm mặt trời và tôn thờ mặt trời như một vị thần linh đầy quyền năng và sức mạnh. Đó là điều dễ hiểu. Tuy nhiên các dân tộc Miêu, Viêm về sau gọi là Bách Việt cũng thờ vầng nhật thì có chi lạ?



          Trên những trống đồng Lạc Việt đẹp nhất là trống Đông Sơn xuất hiện trong thời kỳ văn hóa Bắc Sơn còn gọi là Hậu Hòa Bình (7000 năm đến 1000 năm tr.CN). Mỗi trống đều có chạm hình ảnh mặt trời ở chính giữa mặt trống một cách sống động và trang trọng. Nó ức chế mọi hình ảnh khác được chạm trổ chung quanh rất mật thiết. Bất cứ ai khi nhìn vào mặt trống với những ngôi nhà mái cong, những hình người nhảy múa, thổi kèn, gõ sanh, giã gạo, những ngôi nhà mái cong… đều không khỏi dấy lên tự đáy lòng niềm hoài cổ mênh mang. Và, liên tưởng về dĩ vãng của xã hội Việt tộc cách đây hàng năm ngàn năm, mười ngàn năm! Các cụ đã kiến tạo thực khéo léo những ngôi nhà mái cong rất mỹ thuật, đã làm vè (thơ) có vần, có âm, có nhịp điệu. Chẳng những thế còn có nhạc và nhạc cụ như kèn, gõ sanh, đánh cồng, thúc trống… và những vị khác thì hưởng ứng bằng những động tác nhịp nhàng, vừa ca vừa múa. Các cụ đã ăn cơm bằng gạo giã trắng…
          Từ những điêu khắc trên mặt trống đồng, các học giả, triết gia ngày nay có nhiều cách đọc để tìm hiểu xã hội Việt của thời gian 1000 đến 7000 tr. CN (giai đoạn văn hóa Bắc Sơn).
          Trước nhất là đọc đúng theo những hình khắc trên mặt trống, nhờ đó mô tả khá chính xác các sinh hoạt xã hội Việt cổ như làm nghề nông, trồng lúa, đã có cối xay lúa, cối giã gạo cho trắng. Có chăn nuôi gia súc, thuyền bè đánh bắt tôm cá. Nghệ thuật xây cất nhà cửa, sân khấu có mái che, có màn kéo. Có văn, thơ, ca, múa. Cách ăn mặc của dân chúng trong các dịp hội hè. Từ đó có thể suy ra các lãnh vực khác như truyền thống sinh hoạt xã hội, luân lý, đạo đức, luật lệ, văn học nghệ thuật, nghề nghiệp…
          Kế đó là đọc theo con mắt triết học từ những biểu tượng được trình bày trên mặt trống để biết được quan niệm nhân sinh và vũ trụ của người xưa… Triết gia Lương Kim Định cho rằng trống đồng là cuốn sách cổ đã lưu giữ lại toàn bộ tư tưởng của tổ tiên Việt tộc.
          Ai cũng biết, các dân tộc khác thờ mặt trời với một ý nghĩa đơn thuần: thần ánh sáng có nhiều quyền năng và sức mạnh. Trong khi đó, các dân tộc Bách Việt đã thoát ra ngoài quan niệm mộc mạc, đầy mặc cảm tự ti đó. Tổ tiên Việt tộc nhìn mặt trời như một biểu tượng tinh thần, một cực trong Lưỡng Cực hay một Tài trong Tam Tài của triết lý Nông nghiệp Miêu tộc.
          Nhân giả kỳ thiên địa chi đức” (Người là cái đức của Trời và Đất.)
          Đấy là giá trị tột đỉnh của con người Miêu, Viêm trong Nho khi nói tới mặt trời.
          Lệ thường, khi nói tới Nho ta liền nghĩ tới đức Khổng Phu Tử và cho rằng Nho do ngài đặt ra. Sự thực, Nho không do đức Khổng Phu Tử khai sáng, chính ngài đã viết trong sách Trung Dung là ngài : “Thuật nhi bất tác” ở đoạn khác ngài viềt “Khoan nhu nhĩ giáo bất báo vô đạo Nam phương chi cường dã quân tử cư chi” thì ta nên hiểu rằng, Nho vốn đã có từ trước ở phương Nam mà ngài chỉ là người ghi chép lại chứ không sáng tác.
          Trong những phần trước, chúng tôi đã trình bày, văn hóa Trung Hoa là sự vay mượn mang tính chiếm đoạt từ văn hóa truyền thống và văn minh của các dân tộc Miêu tức Viêm về sau gọi là Bách Việt đã bị du mục Trung Hoa cổ xâm lăng. Do đó, xin quý độc giả nên quên hẳn những ý nghĩ cho rằng “Việt là man di, là Nam man… Từ ngàn xưa Việt đã học lóm được văn minh Tầu…” như 1000 năm qua người Việt vẫn thường lầm lẫn khi nói tới vấn đề này. Vậy Nho là gì, của ai và xuất hiện từ bao giờ?
          Nếu hiểu theo nghĩa uyên nguyên thì Nho là đáp ứng mọi nhu cầu thâm sâu của con người. Sách Pháp Ngôn viết:
          Thông Thiên Địa viết Nho (Thông được với Trời, Đất tức là đáp ứng được mọi nhu yếu thâm sâu của con người.)
          Tại sao phải cảm thông với Trời, Đất mới tìm được cái nhu yếu thâm sâu hầu đáp ứng đời sống chân thiện mỹ của con người? Bởi vì người nông nghiệp Đông Á cổ đại đã suy ra rằng con người là một trong ba vị thế quan trọng của vũ trụ: đó là vị thế Tam Thông: Trời, Đất, Người… Trời là chủ, Đất là chủ và Người là chủ.
          Đức Khổng Tử viết :
          Nhân giả kỳ Thiên Địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tứ khí. (Người là cái đức của Trời, Đất, là giao điểm của Âm Dương, là nơi Quỷ Thần tụ hội, là cái khí tinh tế của Ngũ hành (năm vật chất đầu tiên trong vũ trụ: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ rất cần thiết cho sự sinh hóa và sống còn của vạn vật).
          Ngài còn nhấn mạnh :
          Nhân giả kỳ Thiên Địa chi tâm giả (Con người là cái tâm của Trời Đất)
          Những câu trên nói rõ vị thế của Người đối với Trời, Đất: Con người là linh khí của vũ trụ, là cái đức, là trung tâm… của Trời Đất, của quỷ thần, của âm dương.
          Hình như chưa vừa lòng, ngài viết thêm :
          Đạo giả, phi thiên chi đạo, phi địa chi đạo, nhân chi sở dĩ đạo giả”(Đạo là gì? Trời không phải là đạo, Đất không phải là đạo, Người mới là đạo !)



          Như thế, quan niệm nhân sinh và vũ trụ của “người quân tử cư ngụ ở phương Nam” đã đưa vị thế con người lên tột đỉnh : Đó là vị thế Nhân chủ
          Con người không thể chỉ biết kêu xin Quỷ, Thần hay nương tựa vào Trời và Đất để chỉ ra cho mình hay để cầu xin cho mình con đường sống mà chính mình phải biết xử dụng những thứ đó để tạo lập hạnh phúc cho mình.
          Để hình dung Trời mang ý niệm tinh thần, tâm linh… tổ tiên hiền triết Việt tộc vẽ hình tròn (biểu tượng) hay hiện thực bằng chiếc bánh dầy cắt ra từng khoanh tròn, hình tròn của đồng tiền cổ, mái nhà cong… Để đối lại với Trời, khi nói tới Đất, vật chất, lý trí… các cụ vẽ hình vuông hay cái bánh chưng, cái lỗ hình vuông trên đồng tiền cổ, cái nền nhà, chiếc bánh chưng… Thực là huyền diệu khi người Việt chúc người sản phụ bằng câu:“mẹ tròn con vuông” vừa để nói lên lòng mong ước sự vẹn toàn trong việc sinh con của người mẹ vừa minh xác sự xuất hiện của con người vừa lọt lòng mẹ là thành quả của sự tụ hội Trời Đất, Quỷ Thần, Âm Dương…
          Con người ấy từ khi lọt lòng mẹ cho đến khi tắt thở được người xưa mô tả như kiếp người đang đi trên một đoạn nào đó của con đường thiên lý. Con Người ấy, đầu đội trời chân đạp đất, an nhiên tự tại, biết rõ và làm chủ con đường anh hay chị ấy đang tiến bước trong trời đất bất tận để tìm về chân thiện mỹ. Vậy trước khi sinh ra trong hình hài một đứa bé, sinh vật ấy đã là cái gì? Sau khi thân xác ấy tàn lụi, sinh vật đó sẽ là cái gì? Đi về đâu?
          Các tôn giáo lớn trên địa cầu và tổ tiên Việt tộc đã nói về sinh vật kỳ diệu đó: Đó là linh hồn, thần hồn hay nói nôm na là ba hồn chín vía, là phách…
          Công giáo trình bày linh hồn bằng hình ảnh: Thiên chúa thổi hơi vào Adam để tạo nên nguồn sống. Vậy hơi thở Thiên chúa được coi như khởi thủy của linh hồn con người Thiên chúa giáo. Nếu là người công chính, khi nhắm mắt xuôi tay, linh hồn ấy sẽ trở về với Thiên chúa.
          Phật giáo trình bày linh hồn bằng hình ảnh kiếp luân hồi. Nếu con người diệt được tham sân si, chăm lo hành thiện, nói chung là giác ngộ lời đức Phật, linh hồn ấy sẽ thoát được kiếp luân hồi tức là được giải thoát và đạt được cõi vô cùng của niết bàn.
          Người Dravidian, một dòng cư dân ở vùng Tây Bắc Ấn Độ cách đây 3200 năm trở về trước, và đạo Ấn Độ (Indu) ngày nay, định nghĩa linh hồn như một phần chi thể của Purusa đại ngã (Thượng đế) thoát ra, thâm nhâp vào phôi thai mà làm người. Con người đó phải toàn thiện để trở về với Purasa đại ngã.
          Cả ba tôn giáo trên đều kêu gọi con người phải cầu nguyện, diệt dục, thi hành bác ái… mới đạt được cõi vĩnh hằng. Chắc chắn, không phải ngẫu nhiên mà nhân loại đã có những lý giải về linh hồn một cách khá trùng hợp như vậy.
          Còn văn hóa Miêu tộc cổ thì sao?
          Các cụ trình bày con người bằng biểu tượng Lưỡng nghi cũng gọi là âm dương: Bên trong hình tròn có một nét cong như hình chữ S ngược, chia đều diện tích hình tròn thành hai mảnh như hai giọt nước ôm vào nhau bên xuôi bên ngược. Một mảnh tô màu đen, ở chỗ nở rộng nhất có một chấm mầu trắng. Một mảnh tô trắng, ở chỗ nở rộng nhất có một chấm mầu đen.



          Người là một kết hợp hoàn mỹ của tinh thần và lý trí, của linh hồn và thể xác… Hai nguyên lực này khi tương nhượng, khi lấn ép nhưng luôn luôn hài hòa cân bằng đến mức tuyệt đỉnh. Chẳng những thế, trong âm luôn luôn có dương và trong dương luôn luôn có âm. Đó là một sự gắn bó chặt chẽ của hai nguyên lực để tạo nên một bản thể toàn vẹn cũng gọi là Nhân bản Toàn diện.
          Đó là nền tảng, là khởi điểm của triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực và triết gia Lương Kim Định gọi là triết lý An Vi.
          Trong phần cuối của chuyện ông Bàn Cổ*, được mô tả như sau: Khi ông Bàn Cổ chết, hai con mắt ông biến thành mặt trời và mặt trăng. Máu ông chảy ra thành sông, hồ, biển cả. Xác ông rã ra thành đất, thành núi. Lông tóc đâm rễ xuống đất mọc lên thành rừng cây bạt ngàn còn những con vật sống trên cơ thể ông trở thành loài người… Như thế, người xưa coi mặt trời là thành quả cao nhất mà con người đã tu luyện để đạt hạnh phúc và soi rọi cho con cháu, hậu thế…
          * Chuyện ông Bàn Cổ chúng tôi có bàn kỷ ở chương 5. Ở đây chúng tôi chỉ xin trích đoạn để dẫn chứng mặt trời với con người Nhân bản toàn diện mà thôi.
          Chuyện ông Bàn Cổ là một chuyện mang tính biểu tượng, tính ẩn dụ rất cao độ của các dân tộc nông nghiệp Miêu, Viêm về sau gọi là Bách Việt. Con người Nhân chủ khi chết đi vẫn hiện diện một cách mật thiết với vũ trụ và hậu thế qua hình ảnh mặt trời, mặt trăng, đất nước, biển cả, rừng cây và nhân loại. Đoạn văn kể câu chuyện có vẻ thô sơ đó đã phác họa những tư tưởng khởi đầu cho một minh triết cực kỳ uyên thâm, chủ đạo đời sống con người Đông Á: triết lý Nhân chủ với mẫu người Nhân bản Toàn diện. Khi sống là một con người biết sống trong tinh thần làm chủ. Khi chết, vẫn tiếp tục là một hữu ích cho hậu thế và tồn tại với vũ trụ như mặt trời, mặt trăng… hay trở về với thần linh theo quan niệm tôn giáo.
          Như thế, biểu tượng Vầng nhật của văn hóa nông nghiệp Miêu, qua đoạn chót chuyện ông Bàn Cổ, mặt trời không phải là một vị thần đầy quyền uy, sức mạnh mà là một gương thành công của con người: Sau khi chết, một con mắt của ông Bàn Cổ biến thành mặt trời. Ông Bàn Cổ, mẫu người trượng phu ấy, đã biết sống sao cho đáng sống, đã biết chết sao cho đáng chết vậy.
          Theo dịch lý, miền Nam thuộc hỏa, biểu tượng của mặt trời trong dịch là quẻ ly, ly vi nhật (mặt trời màu đỏ). Tên nước ta từ xưa đến nay đa số đều chọn danh xưng liên quan mật thiết với quẻ ly như : Xích Quỷ (xích là đỏ), Nam Việt, Đại Nam, Việt Nam (phương Nam thuộc hỏa, ứng vào quẻ ly) cho đến cả màu đỏ truyền thống đều luôn luôn hướng về quẻ ly này. Thời triều đình vua Bảo Đại dùng cờ long tinh (cờ vàng có một sọc đỏ ở giữa), thời chính phủ Trần Trọng Kim dùng cờ quẻ ly (cờ vàng ở giữa có chữ ly gồm 2 sọc đỏ hai bên, sọc đỏ ở giữa thì tách làm hai đoạn), thời chính phủ quốc gia Việt Nam rồi đệ I và đệ II Việt Nam Cộng Hòa thì có cờ vàng ba sọc đỏ. Màu đỏ mặt trời đúng là mầu truyền thống của Việt tộc từ cổ chí kim không bao giờ thay đổi.
          Người xưa đã dựa vào trời để trình bày những suy tư của họ: Trời có một giá trị linh thiêng, luôn luôn sinh động, soi rọi và liên hệ với người vô cùng chặt chẽ, thân thiết như cha mẹ, ông bà, tổ tiên đối với con cháu:

          1. Trời sinh trời dưỡng
          2. Trời cho cầy cấy đầy đồng,
          Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê,
          Một mai lúa gặt đem về,
          Thờ cha kính mẹ trọn bề hiếu trung!
          3. Trời sinh trâu thì sinh cỏ,
          Đất sinh giếng thì sinh mo,
          Người sinh O thì sinh Tui
          4. Trời nắng rồi Trời lại mưa
          Chứng nào tật ấy có chừa được đâu!
          5. Trời chưa cho lúa chín vàng
          Cho anh đi gặt cho nàng đem cơm!
          6. Trời mưa lác đác ruộng dâu
          Cái nón đội đầu cái thúng cắp tay,
          Bước chân xuống hái dâu này
          Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ
          Thương em chút phận ngây thơ,
          Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng.
          Xa xôi ai có tỏ tường,
          Gian nan tân khổ ta đừng quên nhau.
          8. Trời cao đất rộng bao la,
          Việc gì mà chẳng phải vào tay ta,
          Trong việc nhà ngoài thì việc nước,
          Giữ làm sao sau trước vẹn toàn,
          Lọ là cầu Phât cầu Tiên!
          9. Trời Đất hương hoa,
          Người ta cơm rượu
          10. Trời mưa thì mặc trời mưa
          Tôi không có nón trời chừa tôi ra


          Từ những câu ca dao, phong dao trích dẫn nêu trên, vầng nhật quả là một hình ảnh gắn bó, thân thiết như tình cha mẹ, ông bà đối với con cháu. Biệt sắc Việt tộc ấy thực là hiếm quý và khó tìm thấy ở bên ngoài vùng đất Đông Á. Nó gắn liền với đời sống con người Việt tộc từ cổ đến kim trong tục ngữ, phong dao, ca dao, hội họa dân gian, trên các đồ đá, đồ gốm. đồ đồng cổ…

          III/2 .- TIÊN RỒNG

          Khi trình bày biệt sắc Tiên Rồng thiết tưởng cũng nên mời quý độc giả thưởng thức lại câu chuyện kỳ lạ mà tổ tiên chúng ta đã để lại. Đó là chuyện Họ Hồng Bàng:
          “Theo tục truyền, vua Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông Đế Viêm, khi đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (năm dãy núi lớn ở phía Nam Trung Hoa ngày nay, chúng nằm vắt ngang từ Tây sang Đông) thì gặp một nàng Tiên. Hai người lấy nhau và sinh hạ một người con đặt tên là Lộc Tục. Sau đó Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam. Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và Đông giáp bể Nam Hải.
          Kinh Dương Vương Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 tr.CN), lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ và sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi vua xưng là Lạc Long Quân.
          Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con vua Đế Nghi nước Xích Thần) là công chúa Âu Cơ. Bà Âu Cơ sinh ra một bọc trứng, nở ra 100 người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là dòng dõi Rồng, nàng là dòng dõi Tiên nên ăn ở với nhau lâu không được. Nay được 100 đứa con thì nàng hãy đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải”.
          Người con trưởng Lạc Long Quân được bà Âu Cơ phong làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu (bây giờ là huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), đặt tướng Văn gọi là Lạc hầu, tướng Võ gọi là Lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan lang, con gái vua gọi là Mỵ nương, các quan nhỏ gọi là Bố chính. Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối. Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm Quý Mão (258 tr.CN) thì bị nhà Thục lấy mất nước”. Đấy là huyền sử Tiên Rồng
          Theo các học giả trên thế giới, truyền thuyết, huyền sử, nhân thoại hay thần thoại thường được người xưa dựa vào lịch sử để gửi gấm tư tưởng của mình… Do vậy, trong truyền thuyết, huyền sử hay nhân thoại vừa có phần nào giá trị lịch sử lại vừa mang giá trị tư tưởng trong đó. Bởi vì vào thời gian đó, loài người chưa có chữ viết hoặc đã có nhưng còn sơ khai không đủ để diễn đạt tư tưởng hoặc từ ngữ mang tính trừu tượng. Cũng có thể vì chính quyền đương thời cấm đoán mà người xưa phải chuyển qua phương thức chuyện cổ hay huyền sử, nhân thoại để truyền bá trong cộng đồng dân tộc. Chuyện Tiên Rồng là một tỷ dụ điển hình. Vậy chuyện Tiên Rồng đến với dân Lạc Việt vào thời điểm nào? Lý do nào đã thúc đẩy người xưa phóng tác từ lịch sử ra câu chuyện kỳ lạ đó?
          Trong Chương II, chúng tôi đã đối chiếu chuyện Tiên Rồng với cuộc liên minh quân sự các bộ tộc nông nghiệp nước Xích Quỷ để cứu viện nước Xích Thần. Cuộc hôn nhân giữa công chúa Âu Cơ và Lạc Long Quân có tính cách cổ vũ tinh thần đoàn kết giữa hai nước Xích Thần và Xích Quỷ trong cuộc kháng chiến chống du mục Hoa tộc tại Trác Lộc năm 2704 trước CN. và xác minh nguồn gốc, văn hóa truyền thống của cư dân nông nghiệp Miêu tộc.
          Đấy là một trong những cái khiêng của Việt tộc cố chống lại chủ trương xóa bỏ văn hoá của cường lực Hoa tộc quyết tâm làm cho Việt tộc quên đi dĩ vãng của họ.
          Bình thường, khi những biến cố lịch sử làm cho một số truyền thống văn hóa quan trọng dần dần đi vào tàn lụi, quên lãng, thì xã hội có nhu cầu duy trì giai đoạn lịch sử hay văn hóa ấy bằng cách :
          1.- San định (sắp xếp gọn gàng, có hệ thống và loại bỏ những tin tức sai lầm…) những tin tức lịch sử họ thu thập được như Khổng Tử đã làm khi nhà Chu đi vào li loạn vì chiến tranh giữa các chư hầu khiến luân lý, đạo đức suy đồi…
          2.- Đưa vào vè, vào kinh, hát nói, ca dao, ru em, phong dao hoặc hội họa, điêu khắc… kêu gọi bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc như người Việt hải ngoại đã làm khi rời khỏi quê hương trốn chạy cộng sản…
          3.- Dựa vào biến cố lịch sử đó để gửi gấm tư tưởng của tiền nhân hay của đương thời bằng cách phóng tác thành truyền thuyết, huyền sử, nhân thoại, để giáo dục và lưu truyền cho hậu thế.
          Tôi tin chắc rằng, trong thời đại Hùng-vương, “lịch sử Tiên Rồng” đã được kể đầy đủ và trung thực. Tuy nhiên cho đến khi Hoa tộc hoàn thành việc nuốt trọn vùng đất cuối cùng của Việt tộc, thì chủ trương đồng hóa của Hoa tộc được thi hành triệt để. Nguồn gốc và văn hóa Bách Việt là mục tiêu quan trọng nhất mà các triều đình Trung Hoa phải xóa bỏ. Phải làm cho dân Việt quên hẳn quá khứ của dân tộc. Phải cắt đứt mọi liên hệ văn hóa của con cháu Bách Việt với tổ tiên của chúng. Phải hạ giá trị chúng xuống hàng Man di, Nam man. Phải làm cho chúng đời đời không ngóc đầu lên được!! Do vậy, “Lịch sử Tiên Rồng” bằng mọi giá phải bị đàn áp, phải chìm vào bóng tối. Vì thế, “Huyền sử Tiên Rồng” liền được người xưa thay thế để vừa bảo vệ tài nguyên tư tưởng của cha ông vừa duy trì nguồn gốc dân tộc.
          Những gì du mục Hoa tộc đã làm ở Đông Á đều giống hệt du mục Ariyan (Ấn Âu) khi xâm lăng Ấn Độ đã đối xử với dân tộc Dravidian cổ. Du mục Hébreux (Do Thái cổ) khi tiến vào đất Palestin còn dã man hơn du mục Hoa tộc và du mục Aryian. Dân Hébreux (Do Thái) có chính sách tiêu diệt văn hóa các dân tộc bị họ xâm lược vô cùng tàn độc, được ghi vào kinh thánh của họ: Dân Hébreux chiếm được thành nào ở vùng Palestin thì tàn sát toàn bộ nam, phụ, lão, ấu kể cả đàn bà mang thai… cho đến cả bò, cừu, dê, lừa, ngựa, chó… thành trì, cung điện, đền thờ. nhà cửa dân chúng… Nói chung, họ hũy diệt tất cả, chỉ để lại mặt đất trống trơn cho dân Hébreux (Do Thái) ở!! Dù vậy, đôi khi vì dân bản xứ quá đông, hoặc họ bỏ trốn vào sa mạc khiến người Hébreux không giết hết được. Về sau, cứ mỗi lần có chiến tranh nổi dậy của người bản xứ cũ, dân Do Thái lại đổ lỗi cho tổ tiên của họ đã không giết hết người bản xứ!!… (kinh Cựu ước đồng thời là sách lịch sử của Do Thái).
          Ngược lại, trong các cuộc xâm lăng Đông Á của Hoa tộc, có lẽ Miêu tộc còn sống sót là nhờ đất đai của người Miêu rộng mênh mông. Miêu dân lại đông xấp ngàn lần Hoa tộc nên họ không thể giết hết mà phải giữ các ngài làm nô lệ cho họ và đồng hóa dần dần thì có lợi hơn là giết tiệt giống như Do Thái đã làm trên mảnh đất tý teo Palestin. Quả nhiên, chính sách đồng hóa của Hoa tộc đã biến 95% Miêu dân thành Trung Hoa (ngày nay). Còn lại không tới 5% là Lạc Việt, sau 1000 năm nô lệ và suýt bị đồng hóa đã thoát ra khỏi xích xiềng mà dựng lại cơ đồ Đại Việt sau đó.
          Nhờ có huyền thoại Tiên Rồng mà dân tộc Việt Nam có một khẩu hiệu đoàn kết cực kỳ quan trọng trong công tác dựng nước và giữ nước.
          Tuy nhiên, du mục Hoa tộc lại thua xa cái thật thà rất đáng khen của người La Mã. Khi quân La Mã xâm lăng Hi Lạp và nhờ học được văn minh Hi Lạp mà họ trở nên cực kỳ cường thịnh. Trước sau, các sử gia La Mã tự nhận rằng người La Mã học được của Hi Lạp, nhờ Hi Lạp mà họ trở nên giàu mạnh, văn minh… và họ truyền bá văn minh đó ra khắp thế giới. Nền văn minh Hi Lạp nhờ đó được vinh danh và tồn tại cho đến ngày nay.
          Từ huyền thoại Tiên Rồng mà cổ nhân đã chuyển từ bước ngoặc chiến tranh Trác Lộc (2704 tr.CN) chúng tôi xin góp ý như sau :
          Các dân tộc trên thế giới có thói quen chọn cho dân tộc mình một vật biểu tượng và xây dựng chung quanh biểu tượng đó một huyền thoại nhằm đề cao nguồn gốc của dân tộc họ. Người Pháp thì có con gà cồ, Anh thì sư tử, Nga thì gấu trắng, Đức có chim ưng, Ấn Độ có rắn, Lào có voi, Hoa tộc có cọp trắng (sau khi chiếm hai nước Xích Thần và Xích Quỷ (rồng đỏ) thì người Trung Hoa lấy rồng thay cọp)… Hầu hết mọi dân tộc chỉ dùng độc nhất một vật biểu tượng thuộc loại hùng mạnh của cường lực du mục. Chỉ riêng Việt tộc là có hai biểu tượng là Tiên và Rồng , mang cái lãng mạn tính của người nông nghiệp Đông Á đồng thời ẩn dấu trong đó một triết lý cực kỳ uyên nguyên, tuyệt diệu.
          Các nhà nghiên cứu triết học Đông Á gọi Tiên Rồng là biểu tượng cao nhất, vi tế nhất của “nét song trùng” . Và, phải chăng nhờ nét song trùng hiện diện hầu như trong mọi lãnh vực mà ngôn từ của người Việt trở nên phong phú và mang tính lãng mạn rất cần có của những nhà thơ, nhà văn !
          Khởi đầu, người ta thấy nét song trùng này khắc vào những viên đá cuội tìm được trong các ngôi mộ rất cổ ở Bắc Sơn (Thái Nguyên) mà từ lâu, các nhà nghiên cứu ở Viện Bác cổ Hà Nội chưa hiểu được ý nghĩa nhưng lại rất phổ cập trong đại chúng Việt Nam xưa cũng như ngày nay. Nó bám chặt vào đời sống dân Việt như hình với bóng trong ngôn ngữ và tập quán sinh hoạt nhân gian… Nét song trùng đi vào tiếng nói tạo thành một biệt sắc ngôn ngữ Việt tộc một cách kỳ diệu, duyên dáng hầu như không nước nào trên thế giới có truyền thống ngôn ngữ song trùng này: đất nước, làng xóm, non sông, ruộng vườn, nhà cửa, bàn ghế, chén đũa… hay ông bà, cha mẹ, thầy trò, vợ chồng, con cái, trai gái, cháu chắt, chú bác, cô dì… hay chơi đùa, ca hát, hội hè, ăn uống… hay xanh xanh, đo đỏ, trăng trắng… hay thoang thoảng, bồng bềnh, thơm thơm, thui thúi… Có thể nói, hầu như bất cứ một từ nào cũng có thể kẹp thêm một từ đối nghĩa, đồng bộ hay đồng âm đi kèm để tạo ra âm song trùng truyền thống đặc thù của người Việt.
          Trong tập quán, khi đã có bánh thì có trái, có cau thì có trầu, có xôi thì có chè, có rượu thì có trà, có trống thì có chiêng, có hội phải có hè, có cờ phải có quạt…
          Triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực đặt con người vào phạm trù xử thế có tình lý, có nhu cương, có tinh thần vật chất… để đạt được tối đa thái hòa thì biệt sắc song trùng đi vào hiện thực trong cùng khắp đời sống Việt tộc. Nét song trùng vừa xuất hiện tràn ngập, vừa thâm sâu đến độ trở thành vật biểu Tiên Rồng.
          Con người Việt tộc được sinh ra, nuôi dưỡng và dẫn dắt tiến lên con người Nhân bản Toàn diện vừa bởi Tiên trên trời vừa bởi Rồng dưới nước.
          Sách Nhân Chủ của Triết gia Lương Kim Định bàn về Tiên Rồng như sau:
          Đó chính là hai cột trụ chống đỡ tòa nhà văn hóa Việt tộc. Nó đem lại cho nền văn hóa này nét đặc trưng vô cùng quý giá mà không một nền văn hóa nào có, ít ra là đến độ sáng chói như thế. Các học giả gọi đó là “Nét song trùng biểu thị lưỡng hợp tính” (Dual unit). Lưỡng hợp tính nếu nói theo khoa học, là dây nóng và dây lạnh của điện lực hay là hai cực Nam, Bắc của thỏi nam châm hoặc là proton và electron trong nguyên tử hay trong thuyết tương đối của Einstein : “Không, Thời nhất phiến” nghĩa là không gian và thời gian đúc lại thành một (Space time continueum).
          Đây là một khám phá cực kỳ mới lạ; vì trước kia, người ta quan niệm không gian và thời gian như hai thực thể đứng rời nhau. Einstein khám phá KHÔNG và THỜI luôn luôn hòa hợp như hai sợi chỉ ngang dọc dệt trên tấm vải. Và từ đó, KHÔNG, THỜI được coi như những viên gạch xây nên vũ trụ.
          Thuyết tương đối của Einstein đã phá vỡ tận gốc rễ văn hóa Tây phương vốn chỉ xây dựng trên độc nhất một cực KHÔNG mà bỏ THỜI. Do đó, triết lý Tây phương tuy rất đồ sộ nhưng đã không xây dựng được một nền triết lý nhân sinh”.
          Một trong những triết gia nổi tiếng của Tây phương hiện nay, ông Heidegger khi bình luận câu “Người là con vật biết suy lý” của Tây phương ông chua chát viết một câu thật thê thảm: “Văn hóa Tây phương truyền đến đâu thì gieo máu và nước mắt đến đó!”

          III/2A .- Một bài thơ cổ diễm lệ ảnh hưởng từ tư tưởng Tiên Rồng:

          Trong hai nền văn học Trung Hoa và Việt Nam có truyền tụng một bài thơ cổ rất diễm lệ. Bài thơ trình bày tâm sự của một thiếu phụ Bách Việt cổ có chồng đi hành quân xa đã cho tôi một vài suy nghĩ “vui vui”. Nhân đây xin lạm bàn bài thơ ấy để quý độc giả thưởng thức cái thâm trầm của người xưa.
          Đó là bài: “Cộng Ẩm Tương Giang Thủy
          Lệ thường, những tác phẩm thi ca cổ, nếu không đạt tới một giá trị tuyệt vời, đi vào lòng đại chúng, thì khó có thể tồn tại với thời gian. Thảng hoặc, dù vẫn còn tồn tại nhưng cũng chỉ được lưu hành trong giới thi nhân yêu chuộng thơ cổ mà thôi.
          Riêng bài thơ “Cộng Ẩm Tương Giang Thủy” thì khác. Tự nó kết liền với thơ văn Việt tộc một cách đậm đà, mật thiết hầu như ai cũng lỏm bõm nhớ vài câu chữ Nho hoặcbài thơ dịch Việt ngữ .
          Bài thơ này xuất hiện từ thời Chu khoảng năm 700 tr. CN. Thời gian này các tộc họ Bách Việt cổ ở cực Bắc Văn Lang không còn tôn phục các vua Hùng Vương ở Phong Châu nữa. Họ ly khai nước Văn Lang, nối đuôi nhau lập thành thành nhiều nước Việt phương Nam (Nam Trung Hoa) như Sở, Việt Thường, Dương Việt, Mân Việt, U Việt, Việt (Việt Câu Tiễn) , Nam Việt, Quí Việt, Tây Âu, Đông Âu, Thục, … triều đình các nước Việt tân lập này được tổ chức theo truyền thống du mục Trung Hoa nghĩa là thực tiển và cường lực thống trị xã hội. Họ đem quân đánh nhau liên tục (cùng thời với giai đoạn Chiến quốc) chỉ với mục đích chiếm đất dành dân và làm bá chủ thiên hạ. Dù vậy, truyền thống văn hóa của các nước này vẫn còn đậm nét Việt tộc trong đời sống dân chúng.
          Trong số này nước Sở thành hình sớm nhất và là một nước lớn, hùng mạnh; kế đó là nước Việt Quốc của Việt Câu Tiển đã từng làm bá chủ chư hầu cả 100 năm. Khởi đầu, tất cả các nước nói trên nằm trong quốc gia Văn Lang (từ 2704 tr.CN) đến thời nhà Chu (1109 tr.CN). Kể từ giai đoạn này các địa phương phía Bắc Văn Lang đã dần dần ly khai khỏi chính quyền trung ương của các Hùng vương mà lập ra những nước mới như đã kể trên. Chúng tôi nghĩ rằng bài thơ này xuất hiện trong giai đoạn chiến tranh giữa các nước Việt (tân lập) nầy.
          Chàng là một chiến sĩ trẻ tuổi tên là Lý Sanh đang hành quân trong vùng Ngũ Lĩnh Sơn. Vợ chàng là một thiếu phụ hiền thục, xinh đẹp tên Lương Ý Nương . Nhà của vợ chồng nàng ở cuối sông Tương. Mọc dài theo hai bên bờ Tương Giang là những khóm trúc vàng rất đẹp, thân trúc đan vào nhau san sát. Đặc biệt giống trúc này có những mắt trúc rất ngộ nghĩnh, trông giống như mắt người!
          Một chiều Thu, bầu trời một màu xanh trong vắt, đây đó những cụm mây bàng bạc trôi lững lờ theo chiều gió. Lương Ý Nương dạo bước dọc theo bờ sông Tương Giang mà lòng nặng trĩu tình riêng. Nàng chọn một phiến đá dưới bóng trúc rồi vén áo ngồi lên. Dòng sông chảy lững lờ mang theo những lá trúc, từng chiéc, từng chiếc, rơi nhẹ trên mặt nước trông như những chiếc thuyền nan mong manh, bập bềnh trên biển cả. Lòng Lương Ý Nương buồn vời vợi nhớ thương người chồng xa vắng đã lâu. Chồng nàng đang hành quân ở thượng nguồn Tương Giang núi Ngũ Lĩnh. Đã mấy Thu trôi qua trong cô liêu, khắc khoải, nàng vẫn chưa được tin tức của chàng.
          Nhưng Lương Ý Nương vẫn luôn tin rằng ở đầu nguồn dòng Tương Giang này chắc chắn Lý Sanh vẫn mạch khỏe, vẫn luôn nhớ tới nàng… Niềm tin đó giúp cho nàng an tâm chờ đợi ngày chàng trở về.
          Chợt nàng thấy thấp thoáng dưới làn nước trong veo có cái gì rất lạ… đúng rồi, nó như những con mắt ai đang nhìn nàng đăm đăm. Nàng quay đầu nhìn sâu xuống dòng sông. Ô kìa! Lấp lánh trong dòng nước gợn sóng, đôi mắt của Lý Sanh đang nhìn nàng như tha thiết, như trìu mến!… Nàng dụi mắt nhìn kỹ, không phải một đôi mắt, mà là hàng chục, hàng trăm con mắt lẫn lộn bên cạnh những lóng trúc vàng khi ẩn khi hiện trong dòng nước xanh biếc!
          Rồi… nàng cũng nhận ra, đấy là những “mắt trúc” phản chiếu trên mặt nước mà vì quá mẫn cảm, nàng đã liên tưởng đến đôi mắt người yêu.
          Cảm xúc dâng lên từ những con mắt thiết tha ấy, nàng giang hai tay, với ra dòng nước, vốc lấy một vụm nước mát rượi mang hình đôi mắt người yêu. Nàng trìu mến đưa lên miệng uống bằng cả tấm lòng nhớ thương vô bờ. Nàng nghĩ rằng, ở đầu nguồn trên kia chàng cũng đang nhìn nàng, cùng uống với nàng dòng nước Tương Giang… và chàng cũng đang nhìn thấy những con mắt thương nhớ của nàng đang nhìn chàng…
          Đạt được sự cảm thông tuyệt vời với người yêu, nàng trở về nhà trong niềm vui nhẹ nhàng, bình an như những ngày họ sống bên nhau..
          Trong bối cảnh đó êm đềm, thơ mộng đó, bài thơ Cộng Ẩm Tương Giang Thủy xuất hiện như một bản tình ca bất diệt:

          Nhân đạo Tương Giang thâm,
          Vị để Tương Giang bạn!
          Giang thâm chung hữu để,
          Tương tư biên vô ngạn!
          Quân tại Tương Giang đầu,
          Thiếp tại Tương Giang vĩ,
          Tương tư bất tương kiến,
          Cộng ẩm Tương Giang thủy.


          Bản dịch sau đây không biết của ai :

          Tương Giang người bảo sâu,
          Chẳng bằng lòng thương nhớ!
          Sông sâu còn có đáy,
          Tương tư không bến bờ!
          Chàng ở đầu Tương Giang,
          Thiếp ở cuối Tương Giang,
          Nhớ nhau mà chẳng thấy,
          Cùng uống nước Tương Giang”


          Bài thơ thực độc đáo và hay hơn nữa là nó nhắc nhở ta nhớ tới những sự tích lâm ly từ con sông nổi danh này. Tương Giang còn có tên là sông Tiêu Tương, do hai con sông Tiêu và Tương cùng bắt nguồn từ núi Ngũ Lĩnh và nhập lại thành một dòng chảy lên phía Bắc, qua Cánh Đồng Tương rồi đổ vào Hồ Động Đình.
          Tên Tương Giang và Cánh Đồng Tương có lẽ xuất phát từ chuyện bà Âu Cơ thương nhớ Lạc Long Quân (mất tích) sau cuộc thảm bại của Liên minh Xích Quỷ tại Trác Lộc trước đại binh Hoa Tộc của Hiên Viên (2704 tr.CN). Bà dẫn cánh quân 50 bộ tộc (một cánh trong Liên Minh Xích Quỷ) chạy về miền Nam ở vùng núi Ngũ Lĩnh. (Xin xem Chương II/4 .- Giả thiết lịch sử: Chiến tranh Trác Lộc 2704/tr,CN)
          Sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp TK.13 kể như sau:… Chờ lâu không gặp chồng, bà Âu Cơ bèn lập đàn ở Tương Dạ* kêu gọi tha thiết:
          Quân ở phương nào, làm cho mẹ con ta ngày đêm thương nhớ”.
          Các “con” cũng khóc:
          Bố ở phương nào mau về với chúng con”.
          Thốt nhiên Long Quân về trên đàn, bàn với Âu Cơ nên chia các con ra giữ vững các nơi. Long Quân dặn Âu Cơ phong con trưởng họ Hồng Bàng (con đầu của người mẹ họ Hồng Bàng) làm vua và đóng đô ở Phong Châu. Sau đó, công chúa Âu Cơ nhớ nhà, nhớ nước bèn đem các “con” đi lên biên cảnh. Vua Hoàng Đế (sau chiến thắng tại Trác Lộc, Hiên Viên xưng vua và đổi tên là Hoàng Đế) nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái khiến “mẹ con” không về Bắc được.
          * Cánh Đồng Tương, đồi Tương Dạ: Những danh xưng Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ, kinh đô Cửu Linh, sông Tiêu Tương,… ở phía Nam Động Đình Hồ chắc chắn không do người Trung Hoa đặt ra sau này mà đã xuất hiện từ câu chuyện công chúa Âu Cơ và các con thương nhớ Lạc Long Quân và lập đàn kêu khóc. Để rồi từ đó trở thành những cụm từ: Sông Tiêu Tương, Đồi Tương dạ, Kinh đô Cữu Linh. Sông Tiêu Tưởng cũng gọi là Tương Giang hay sông Tương rất nổi danh trong văn học Việt cũng như Trung Hoa sau này?

          Bên cạnh cái diễm lệ cùng với nổi buồn mênh mang và để lại nhiều cảm xúc sâu xa cho người đọc của bài thơ, chuyện chàng Lý Sanh và nàng Lương Ý Nương còn tiềm ẩn một tư tưởng vô cùng lý thú, xin mời bạn đọc tiếp :
          Sông Tương người bảo sâu…
          Sông sâu còn có đáy

          Sông sâu mấy cũng phải có giới hạn của vật hữu thể của lý luận.
          Chẳng bằng lòng thương nhớ…
          Tương tư không bến bờ

          Nhưng lòng thiếp thương nhớ chàng thì quả thật là không có gì để đo được! Bởi vì ai mà đo được cái chiều sâu tâm linh ? Ngay bốn câu đầu chúng ta đã thấy được tác giả bài thơ có chủ ý so sánh giữa vật chất hữu thể và tiềm thức tâm linh mà trong lòng không khỏi liên tưởng đến hai cực Âm và Dương trong Dịch lý.
          Chàng với thiếp, một người ở đầu sông, một người ở cuối sông, buồn thương đến độ nhớ nhau mà không thể gặp được nhau. Lý tính vốn là một sức mạnh thường áp đảo cảm tính khiến cho giá trị Nhất nguyên Lưỡng cực mất hẳn trạng thái cân bằng, dẫn đến khổ đau trong đời sống. Cái khổ vì Âm thiếu Dương hay Dương thiếu Âm làm cho nàng phải sống thui thủi, không còn sinh thú và chàng cũng không tránh khỏi xót xa, lo lắng cho người vợ đang cô quạnh ở nhà…
          Làm thế nào để Âm và Dương gặp nhau? Quả nhiên đây là một vấn nạn cần được hóa giải để cân bằng cuộc sống của đôi vợ chồng trẻ. Dòng nước Tương Giang với những mắt trúc phản chiếu từ dòng sông và cái giao cảm nẩy sinh từ tâm linh con người tạo thành một nhịp cầu nối lại Lưỡng cực. Điều mà tự thâm tâm người thiếu phụ phát sinh ý tưởng ngộ nghĩnh: những đôi mắt của chàng đang âu yếm nhìn nàng và nàng vốc nước uống với chàng, đã tạo thành niềm ủi an, lòng yêu đời trong cuộc sống cô liêu của người chinh phụ.
          Trên lãnh vực từ ngữ, tên chàng là Lý Sanh, mang ý nghĩa: Lẽ thường của cuộc sống, thuộc về Lý luận, biểu tượng là Rồng hay Đất thuộc Dương tính. Tên nàng là Lương Ý Nương, mang ý nghĩa: Ý tưởng lương thiện, đạo đức, thuộc về Tâm linh, biểu tượng là Tiên hay Trời thuộc Âm tính.
          Tại sao tên của chàng và nàng cùng nội dung bài thơ lại mang nét Âm Dương Tiên Rồng Việt tộc?
          Phải chăng tác giả bài thơ cổ là một hiền triết Bách Việt xưa đã đem tâm tư gởi gấm vào bài thơ tuyệt đẹp ấy? Tâm tư ấy rõ ràng mang tư tưởng Tiên Rồng song hiệp rất rõ nét. Đó cũng là triết lý Nhất Nguyên Lưỡng cực của Việt tộc tiền sử!!

          Bởi đó, để làm sáng tỏ nguyên ý bài thơ cổ, có người đã chắp thêm cuối bài thơ :

          Tình đôi ta tuy hai mà một
          Đời chúng mình tuy một mà hai


          hoặc:

          Chàng với Thiếp tuy hai mà một!
          Thiếp với Chàng tuy một mà hai


          Chàng với Thiếp tuy mỗi người ở một đầu sông nhưng cùng uống chung một dòng nước nên trở thành một. Và, dẫu là một nhưng vẫn là hai cuộc đời, hai nếp sống khác biệt.
          Nếu Tình với Lý, Nhu với Cương, Vật chất và Tinh thần luôn luôn nằm trong Nhất nguyên Lưỡng cực thì con người, thì xã hội hài hòa, hạnh phúc biết bao!

          III/2B .- Thâm ý bôi xóa những địa danh Việt cổ của Hoa tộc.

          Về sau, văn chương Trung Hoa có kể chuyện hai bà vợ vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm xác chồng ở Cánh Đồng Tương. Khi họ đến bờ sông Tương thì nghe dân địa phương nói vua Thuấn chết ở đấy. Hai bà này bèn ngồi bên những bụi trúc trên bờ Tương Giang mà khóc. Nước mắt họ rơi trên các lóng trúc. Cũng vì vậy mà con sông nầy có tên là sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương và trúc hai bên bờ sông Tương có những đốm xanh rất đẹp giống những giọt nước mắt của hai bà ấy.
          Thật ra, cho đến thời nhà Thương, Hoa tộc chỉ mới tràn tới vùng đất phía Bắc sông Dương Tử, thì vào thời vua Thuấn 1200 năm trước đó chắc chắn vùng đất phía Nam sông Dương Tử còn xa lạ đối với Hoa tộc.
          Chúng tôi nghĩ, chuyện hai bà vợ vua Thuấn mang nặng tính giả tạo, huyễn hoặc qua giai thoại nước mắt của hai bà này làm cho những lóng tre hai bên bờ Tương Giang mang những dấu lốm đốm hình giọt nước mắt. Để rồi từ đấy, Trúc ở vùng Tương Giang được gọi là Trúc Lệ. Rõ ràng người Tầu đặt ra chuyện này nhằm che dấu nguồn gốc xuất hiện những địa danh mang tên sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ… của Việt tộc đồng thời quảng cáo cho nghiệp vụ buôn bán loại trúc vàng Tương Giang, Động Đình vốn là sở trường của người Trung Hoa xưa nay.
          Câu chuyện hai bà vợ vua Thuấn đi tìm chồng rất cảm động nhưng không tạo được cảm xúc cho người nghe vì nó không thật và thiếu giá trị lịch sử. Ở mặt khác, nó lộ rõ ý đồ bôi xóa những mốc lịch sử và những địa danh chỉ rõ gốc ngọn của Việt tộc: những hoạt động của công chúa Âu Cơ và nước Văn Lang sau chiến tranh Trác Lộc .
          Họ “đánh lận con đen” nhưng không dấu được cái đuôi mờ ám khi dại dột nói rằng : Nước mắt của hai bà vợ vua Thuấn là nguyên nhân cho các lóng tre hai bên bờ Tương giang về sau có những vết đốm rất đẹp giống như những giọt nước mắt!!
          Dù sao, chân và giả của những câu chuyện thời Tiền sử, chúng ta tạm gác đó để trở lại bài thơ cổ. Những câu chuyện trên với những nét sầu đau bi đát đã khiến biết bao văn nhân, thi sĩ Trung Hoa và Việt Nam thương cảm viết lên những dòng thơ tuyệt tác quý hiếm:

          Kìa đâu trúc lệ nhuộm mầu!
          Tiêu Tương tí tách mưa sầu quạnh hiu!


          Hay:

          Ngàn Tương thủa rụng cơn mưa,
          Lã chã thâu đêm tiếng gió khua
          …”

          Ai cũng nói chuyện Tiên Rồng là một huyền thoại nhằm tuyên dương nòi giống. Nhưng mấy ai ngờ rằng tổ tiền hiền triệt Việt cổ đã ký thác vào đấy một minh triết cực kỳ sáng chói và nội dung giai đoạn lịch sử cực kỳ quan trọng của dân tộc mà kẻ thống trị Trung Hoa thời đó muốn bưng bít.

          III/3 .- TRUYỀN THỐNG TẢ NHẬM

          Tả nhậm là thuận trái. Lấy trái (tả) làm trọng, phải (hữu) làm khinh. Theo truyền thống Việt – Hoa (sau thời Chiến quốc), tả tướng trọng hơn hữu tướng. Trên bàn thờ thì bên trái trọng hơn bên phải. Vòng quay 12 con thú của một Giáp cũng quay từ tả sang hữu. Người ta vẫn bảo: Trọng tả là của Tầu. Nhiều ngàn năm rồi không ai phản đối. Chúng tôi xin đưa vấn đề này lên dư luận để minh chính rằng: Văn hóa tả nhậm xuất phát từ Việt tộc.
          1.- Từ thời Chiến Quốc (khoảng 600 tr.CN) trở về trước, Hoa tộc xử dụng tả hữu rất lộn xộn, vì sự vay mượn chưa chính thức trở thành “Hoa tịch”. Nếu chú ý, cho đến thời Xuân thu (trước thời Chiến quốc) quan Hữu tướng trọng hơn quan Tả tướng. Về sau, khi Hoa tộc tràn tới phương Nam thì văn hóa Động Đình mới chính thức ăn sâu vào xã hội Hoa tộc. Khi đức Khổng Phu Tử hoàn thành Tứ thư thì tả nhậm “đương nhiên nhập vào quốc tịch Trung Hoa”.
          2.- Cổ thư Trung Hoa “Hoài Nam Tử” khi nói về người Văn Lang đã viết:“Người Văn Lang thuận tả, xã hội có 10 điều luật” . Văn Lang là hậu duệ Miêu tộc thì Miêu tộc cũng thuận tả. Khi sử gia Tầu viết như thế, thì có nghĩa là họ thuận hữu!
          3.- Du mục Hoa tộc khi lên ngựa, tay trái họ cầm cương còn tay phải họ cầm roi. cài nút áo ở giữa (nút bên tà áo phải, khuy bên tà áo trái) , cầm kiếm hay làm các việc khác. Họ thuận hữu y như các dân tộc du mục khác trên thế giới.
          Trái lại, nông nghiệp Miêu tộc ra ruộng cầm dao, vác cuốc, cầm cày tay phải, còn tay trái họ cài nút áo (hàng nút ở nách phải) . Phụ nữ bồng em bên nách phải, tay trái làm các việc khác. Do vậy Miêu tộc thuận tả. Tính cách “quen tay” này trở thành truyền thống của mỗi cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên ở Việt tộc thì thói quen thuận tả dần dần tiến lên, phát sinh tư tưởng đề cao lãnh vực tinh thần, trọng văn, bảo vệ kẻ yếu và trở thành biểu tượng văn hóa.
          Ngày xưa, người Việt mặc áo cài nút bên phải hoặc áo tròng qua đầu hoặc dùng hai vạt trước buộc túm lại; còn các loại áo cài ở giữa là ảnh hưởng 1000 năm bị Hoa tộc (vốn trọng hữu) đô hộ. Đến khi Việt Nam bị Pháp đô hộ thì ta lại tiếp tục bắt chước truyền thống châu Âu: trọng hữu.
          Như thế, trọng tả hay tả nhậm là một biệt sắc của văn hóa Việt tộc đã đi sâu vào xã hội Trung Hoa mặc dù họ vẫn còn thói quen du mục như thuận tay phải và cài nút áo bằng tay phải. Chẳng những thế, họ xử dụng tả hữu không dứt khoát khi họ nói “cánh tả”, “tả phái” hay “tả khuynh” để gọi phía chống đối. Tả đạo là cái đạo sai lầm, tà ma. Ẩu tả là làm lếu láo, làm lấy rồi… Chữ tả đối với họ là tan nát, rách tả tơi, bậy bạ… mà người quân tử phải xa lánh. Như thế, rõ ràng trọng tả của Việt chưa xóa hẳn cái trọng hữu của du mục Hoa tộc đã có trước khi tràn vào đất Trung Hoa ngày nay.
          Từ thói quen thuận tả, thử tìm hiểu tại sao người Việt cổ nâng phía Tả lên hàng biểu tượng? Theo triết gia Kim Định, tay trái gần tim hơn nên mạch máu ở tay trái lưu thông mạnh hơn. Nông nghiệp Miêu tộc vốn là xã hội “Nhân trị” nên trọng tay gần tim tức là trọng tình nghĩa hơn sức mạnh, trọng văn hơn võ, trọng tinh thần hơn vật chất, tình hơn lý, âm hơn dương(Người Âu châu trọng phái nữ là do giao tế, nịnh đầm chứ không phải biểu tượng triết học) .
          Huân tước người Anh, Robert Stephenson Smith, 1st Baron Baden-Powell of Gilwell (1857-1941) người khai sáng phong trào Hướng đạo Thế giới đã sáng tạo ra truyền thống “bắt tay trái” cho toàn thể đoàn viên Hướng đạo Thế giới. Khi chủ tọa lễ Lên đường cho Tráng sinh (danh hiệu cao nhất dành cho ngành Tráng Hướng đạo Thế giới: Tráng sinh Lên đường) thì ông trao cho người tráng sinh một chiếc gậy hai nạng còn gọi là gây Lên đường (gậy dài 1m20 đầu gậy có 2 nạng nhỏ tương tự cái nạng ná bắn chim).
          Ông cho rằng, tay trái gần tim, biểu tượng cho lòng nhân ái, cho hòa bình nên Hướng đạo sinh dùng tay trái để bắt tay chào hỏi nhau. Còn gậy Lên Đường ông mô tả như sau: Tráng sinh luôn luôn đối diện trước hai ngả đường trái-phải, chính-tà, vui tươi-giận dữ, thành thật-gian dối, tận tâm-bê bối, siêng năng-lười biếng… Ông khuyên người Tráng sinh Lên đường phải luôn luôn sáng suốt chọn con đường lương tri, công chính, hành thiện… Quả nhiên, thật hiếm hoi để thấy một người phương Tây có lối suy nghĩ và hành xử mang tính Nhân chủ, Nhân trị của con người nông nghiệp Đông Á cổ tuyệt diệu như thế.
          Thật ra nếu quý độc giả đã từng là một Hướng đạo sinh thì sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng ông Baden-Powell là một sĩ quan trong quân đội hoàng gia Anh quốc đã từng công tác lâu năm tại Ấn Độ. Một dân tộc nông nghiệp có bà con với nông nghiệp Miêu tộc Đông Á từ ngày cùng nhau rời Đông Phi di chuyền về phía Đông cách đây khoảng 90.000 năm. (Theo The Nation Academy Of Science – USA, ngày 29.07.1990, Tiến sĩ J.Y. CHU dựa vào Khoa học Di truyền DNA, chứng minh rằng người Hiện đại đầu tiên xuất hiện ở Đông Phi Châu).
          Tay trái thường yếu hơn tay phải nên cần được thương yêu, che chở… do vậy, truyền thống các triều đình Đông Á thường giao cho quan Tả sử chép lời, quan Hữu sử chép việc. Lời là phẩm, là vô hình nên được trao cho tả; Việc là lượng, là hữu hình nên trao cho hữu.
          Biểu tượng tả nhậm hiện diện rõ ràng trong câu : “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” . Dân tuy rời rạc, không có thế đáng tôn, nhưng tiềm ẩn một giá trị đáng trọng, nên dân là quý nhất, ý dân là ý Trời. Xã tắc là nền đắp cao để thờ thần Đất và thần Mùa màng giúp cho dân được sống ấm no, nhưng chính vì do dân lập ra nên Xã tắc được đứng ở hành thứ hai. Vua tuy là chúa tể cả thần và dân nhưng kỳ thực phải nhờ lòng dân có yêu mến, quy phục; xã tắc có yên ổn thì ngôi vua mới được lâu bền. Vì thế nhà vua phải đứng hàng thứ ba. Nếu đem so sánh với sinh hoạt đất nước ta hiện nay, chúng ta có thể nói: Công dân vi quý, Hiến pháp thứ chi, Hành pháp vi khinh. Nếu tổng thống dựa vào truyền thống này mà lãnh đạo đất nước thì kết quả sẽ tốt đẹp hơn là lệ thuộc bất cứ một tập đoàn nào khác.
          Triết lý Tả nhậm được coi là nền tảng xây dựng xã hội nhân chủ, nhân trị người Miêu cổ, tổ tiên của dân tộc Việt Nam.
          Sách Nhân chủ của triết gia Lương Kim Định có kể một chuyện cổ mang tính ẩn dụ rất cao:

          Xưa có một người họ Dư tên Bất Đình, ở Ngô Hưng. Bữa kia, họ Dư thấy có người đang nhốt một con rùa trong cái giỏ bên đường, ông liền mua rồi đem thả xuống khe. Sau họ Dư làm việc có công lớn, nhà vua phong tước vị: Dư Bất Đình hầu. Dư cho đúc ấn có hình đầu rùa trên mũi ấn. Lạ thay, đầu rùa quay về bên tả. Dư cho đúc lại đến lần thứ ba, mà đầu rùa vẫn cứ quay về bên tả. Dư thấy vậy, dùng ngay ấn đó mà không đúc lại nữa và theo triết lý Tả nhậm mà trị dân”. (Vân đài Loại ngữ).

          Câu chuyện mang truyền thống huyền thoại, nhưng rõ ràng người xưa chủ ý nhấn mạnh ở một điểm: Đầu rùa nhất định quay về bên tả. Con rùa thường được chọn làm biểu tượng cho sự cẩn trọng, vững vàng, chính xác… rõ ràng mang môt lời khuyên, một mật văn nhắc nhở con cháu dòng tả nhậm rằng: Không nên đổi hướng đi mà cần kiên trì tôn trọng nhân nghĩa, bảo vệ kẻ yếu, thực thi Nhân chủ, Nhân trị thì xã hội mới đạt thái hòa.

          Theo Từ điển Biểu Tượng Văn Hóa Thế Giới của Jean Chevalier và A. Gheerbrant, con rùa mang ý nghĩa vũ trụ: mai rùa biểu thị cho vòm trời, phía dưới bụng phẳng như mặt đất. Bốn chân là bốn trụ chống đở vũ trụ. Đầu và chân rùa có khả năng rút vào bên trong. Những đặc tính trên của rùa được coi là thích ứng với những hoàn cảnh nguy hiểm một cách khôn ngoan. Theo truyền thuyết, đời sống rùa kéo dài hàng trăm năm có khi hàng ngàn năm… Đối với Ấn Độ việc rùa thụt vào trong mai là một biểu tượng của quán tưởng, của sự trở lại trạng thái khởi nguyên, tức là của tư thế cơ bản của trí tuệ… Những chức năng trong đời sống của rùa đã làm cho nó trở thành một sinh vật được yêu thích chẳng những ở Đông Á mà Âu châu, Phi châu cũng đưa rùa lên hàng biểu tượng. Sách Bhagavad Gita (2/58) của Ấn Độ viết: “Khi, tựa như con rùa co hết tứ chi vào trong mai, con người tách các giác quan khỏi các sự vật có thể cảm giác, thì sự hiền minh trong con người sẽ thực sự vững chắc”.

          Biệt sắc văn hóa Tả nhậm quả nhiên là một triết lý sống đem lại sự an bình tuyệt vời và thanh bình lâu dài cho con người vậy.

          III/4 .- TẬP QUÁN LÀNG XÃ

          Xin nhắc lại về làng xã Việt tộc mà chúng tôi đã trình bày rất kỹ ở các phần trước. Suy ra từ sử liệu của Trung Hoa thì Miêu tộc đã có hệ thống hàng vạn bộ tộc, bộ lạc dưới sự “dẫn dắt”* chung của một vị vua gọi là Thiên Tử… từ trước cuộc chiến tranh Trác Lộc (2704 tr.CN).

          * Chúng tôi dùng chữ “dẫn dắt” trong hai ngoặc kép để thay cho chữ cai trị hay lãnh đạo của các chế độ quân chủ phong kiến hay chuyên chế theo truyền thống du mục sau này. Bởi vì chức vua của Miêu tộc nông nghiệp trong thời đại đó có dạng như người cha, người thầy, người tiên chỉ, người phán quan hay người giáo chủ… Vị vua này có một số người phụ giúp chuyên trách các vấn đề trong xã hội như : mùa màng, y tế, thời tiết, xét xử, sinh tử, giáo hóa, tế lễ, an ninh… Lẽ dĩ nhiên cũng có những đội dân quân có bổn phận “làm đủ thứ việc” mà cấp trên giao phó chứ không phải là đạo quân chuyên nghiệp chỉ dùng cho việc chiến tranh.

          Cho đến thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn thì họ đếm được hàng vạn bộ tộc Bắc Miêu được phong làm nước chư hầu (dân số và đất đai mỗi chư hầu rộng khoảng cái tổng trước đây) hoặc nước phụ dung (khoảng bằng cái làng, trực thuộc cấp chư hầu) với những vị vua nhỏ có nhiều đặc quyền theo truyền thống du mục.
          Kế đó, khi vua Hùng vương lập nước Văn Lang (vùng Nam Miêu) thì gọi hệ thống bộ tộc, bộ lạc này là làng, tổng chúng tôi thấy được những điểm tương đồng của làng tổng Việt tộc với các nước chư hầu và vừa nói trên ngoại trừ những ông vua chư hầu hay vua phụ dung thì mang phong cách của một vị lãnh chúa phong kiến du mục. Những điểm giống nhau về mặt xã hội là: địa lý, phong tục, tập quán và tính chất tự trị của hai hệ thống chư hầu Tầu và làng, xã Việt.
          Về sau, khi các vua chư hầu thôn tính nhau để trở thành những nước chư hầu lớn thì xã hội cũng thay đổi với những sắc thái văn hóa pha trộn giữa du mục và nông nghiệp. Truyền thống văn hóa của xã hội chư hầu cổ cũng dần dần biến mất.
          Quý độc giả hẳn biết chuyện vua Trụ đời nhà Thương, ông vua này thuộc loại thích chinh phạt nhưng đồng thời lại đam mê sắc đẹp và nụ cười của nàng Đắc Kỷ… Ông vua này nghe lời bọn nịnh thần đốc xúi liền sai đánh trống và đốt Phong hỏa đài trên núi Ly Sơn (vốn là một mật hiệu giao ước với chư hầu để họ kéo quân về kinh đô cứu chúa) chỉ với mục đích làm trò cười cho nàng Đắc Kỷ vì nụ cười của nàng rất đẹp mà nàng lại ít cười. Chỉ nội trong đêm đó, các đạo binh chư hầu tề tựu đầy đủ dưới chân núi… để thấy vua Trụ đang ngồi uống rượu, nghe nhạc và say mê nhìn nàng Đắc Kỷ… cười. Câu chuyện cho chúng ta một lời giải! Quân binh của các chư hầu chỉ trong một buổi (có lẽ từ chiều đến gần nửa đêm) đã có mặt ở kinh đô. Vậy kinh đô của vua Thương không lớn hơn một cái tỉnh lẽ ở Việt Nam và những nước chư hầu chung quanh không lớn hơn một cái tổng, cái làng.
          Các chư hầu thời nhà Thương (khoảng 1500 tr.CN) trở về trước được xem là những tổ chức tự trị, có lãnh đạo riêng, quân đội và kinh tế riêng. Vua chư hầu chỉ vâng phục nhà vua trung ương qua những quy định khá đơn giản như phải tùng phục, dâng nạp các loại cống phẩm, hỗ tương quân sự… Trong khi đó làng, tổng Việt tộc cũng mang tính tự trị rất cao. Đến độ luật vua chỉ về đến cấp quận, huyện. Còn làng, tổng thì tùy theo lệ làng mà thi hành luật vua. Làng xã Việt Nam 100 năm trở về trước đúng là có “dạng” của xã hội các nước chư hầu thời Nghiêu, Thuấn…
          Triết gia Kim Định nói về làng xã như sau: “Làng, xã là một thể chế chính trị đặc thù của văn hóa Việt suốt nhiều ngàn năm. Khác với tổ chức chính trị của các nền văn hóa khác, quyền của vua quan đã không can thiệp vào đời sống làng, tổng. Dưới mắt triều đình, làng xã như một đảo ngoài biển khơi, ở đó, người dân tự lập, tự quyết định. Trong làng, dân tự tổ chức điều hành và có trách nhiệm trên mọi vấn đề. Họ tự chủ đến độ tùy hoàn cảnh địa phương, tùy tâm tính và thần linh để tự tạo cho mình những thể lệ đặc biệt, những lệ đó ngay cả phép vua cũng chịu thua, tưởng không có thể chế nào dân chủ hơn.

          Thể chế chính trị phép vua lệ làng này đã giúp người dân nước ta luôn luôn được hưởng nếp sống dân chủ và tự chủ trong khi vẫn đóng góp cho việc chung của đất nước.
          Triết gia cho rằng dịch chữ làng xã Việt Nam qua tiếng Pháp là village thì không chính xác và người Pháp cũng không có từ ngữ nào khác để dịch chữ làng xã cho đúng nghĩa. Bởi vì village là đất của các lãnh chúa Tây phương và người dân sống trong đó là nông nô của họ. Mọi người ở trong village bị giai cấp lãnh chúa và quý tộc làm tình làm tội trăm chiều mà không thể chống đối. Chủ đất có thể bắt bỏ tù hoặc đuổi họ ra khỏi làng để lấy đất lại …
          Khi thực dân Pháp đô hộ nước ta, khởi đầu họ thấy làng, xã tự trị thì họ nghĩ rằng, tính tự trị sẽ làm cho làng xã trở thành một quốc gia trong một quốc gia. Điều này sẽ là một yếu tố hủy hoại tinh thần chống Pháp của người Việt. Tuy nhiên, người Pháp đã vô cùng ngạc nhiên khi phát giác ra rằng, làng xã là những cứ điểm nuôi dưỡng, yểm trợ cách mạng vô cùng gắn bó (điển hình nhất là cuộc nổi dậy tại Ba Đình của ông Đinh Công Tráng) . Thì ra, tinh thần làng, xã cùng với tinh thần quốc gia dân tộc là một thứ keo sơn bền chặt không gì chia cắt được của người Việt trong suốt thời gian Pháp đô hộ nước ta.
          Chất keo sơn đó là tình đồng bào của cái bọc trăm trứngtình làng nước mà hầu như bất cứ thời đại nào cũng được đưa ra làm phương châm dựng nước, cứu nước và giữ nước.
          Người Pháp liền tổ chức lại làng xã bằng cách dành quyền bổ nhiệm những người thân Pháp vào chức lý trưởng thay thế chức xã trưởng do dân bầu, nhưng vẫn để làng tự trị. Do sự thay đổi này, một số làng trở thành nơi chứa chấp bè nhóm, gian đảng, hối mại quyền thế, tham ô, hà hiếp dân chúng. Lý trưởng thì trở thành tai mắt của thực dân Pháp… đã làm giảm sút rất nhiều tính cách nhân chủ nhân trị trước đó.
          Trong sách “Làng xóm Việt Nam”, học giả Toan Ánh viết như sau: “… Hành chánh tại làng xã Việt Nam được tổ chức theo chế độ tự trị, là một chế độ đặc biệt đã được áp dụng tại nước ta ngay từ thời tiền sử . Việc cai trị trong xã từ xưa vẫn do dân chúng cử ra theo những tục lệ cổ truyền của mỗi làng xã… Triều đình không can thiệp tới việc đề cử này, và dẫu triều đình có muốn can thiệp chưa chắc đã được vì “phép vua thua lệ làng”.
          Thực ra, cho tới thế kỷ XVIII, các triều đại VN cũng đã nhiều lần muốn nhúng tay vào việc làng xã, nhưng rút cuộc làng xã vẫn là của dân và chính dân đã luôn luôn bầu lấy những người lo việc dân…”

          III/5 .- QUAN NIỆM NHÂN SINH VÀ VŨ TRỤ TRONG CA VŨ

          Chúng ta thường nghe nói: “xướng ca vô loại”. Con nhà ca hát là những kẻ không được liệt vào 4 thứ hạng được phân công trong xã hội quân chủ chuyên chế (sĩ, nông, công, thương) .
          Câu này xuất phát từ Hán nho. Quý độc giả đã thấy tác giả thường trích dẫn từ nho để bình luận đấy là Việt nho, câu nầy lại đổ cho Hán nho! Như thế có mâu thuẫn không? Chúng ta đã biết, văn hóa Bách Việt bị trộn lẫn trong văn minh Trung Hoa, cứ tạm gọi là 50/50.
          Như vậy nhất định không phải cái gì xuất phát từ Hán nho cũng là của Bách Việt, và khi chúng tôi gọi cái gì thuộc Bách Việt trong Nho là chúng tôi có những bằng chứng từ các chuyện cổ tích của Việt tộc hoặc từ các di vật cổ do tổ tiên để lại như trống đồng, khạp đồng. dao, búa… và cả trong truyền thống tập quán nhân gian, trong ca dao, đồng giao, phong dao, tục ngữ… của Việt tộc mà Hoa tộc không có. Trung Hoa ngày nay sau 5.000 năm lập quốc, rõ ràng họ được thành hình với hơn 90% Miêu tộc và một số chủng tộc khác ở Đông Á, do vậy việc tìm lại tư tưởng người Việt cổ trong văn minh Trung Hoa ngày nay không phải là chuyện khó.
          Ca vũ cổ thì Tầu rất yếu kém, bởi đó các vua chúa Tầu luôn luôn thưởng ngoạn bộ môn này từ các đoàn ca vũ phương Nam, nhất là vùng Giang Nam (châu thổ sông Trường Giang còn gọi là sông Dương Tử) , Lưỡng Quảng. Vùng Giang Nam, Lưỡng Quảng vốn là đất của Bách Việt. Vua chúa Tầu thích nghe ca vũ phương Nam nhưng vẫn miệt thị ca vũ là xướng ca vô loại, bởi vì nó thuộc man di và đúng theo chính sách, cái gì xuất phát từ man di là vô loại!
          Cái mâu thuẫn đến buồn cười là trong khi miệt thị xướng ca vô loại thì tại sao trong mọi lễ nghi của triều đình lại để giới ca múa điều hành hát lễ, đánh chiên, đánh trống, thổi kèn, ca múa trước các đàn lễ? Xướng ngôn cho vua quan hành lễ? Chính họ là những người thân cận thần thánh, dẫn dắt người khác đến với thần thánh kia mà!!
          Những hình chạm trổ trên các trống đồng, thạp đồng Lạc Việt hầu như bao giờ cũng có cảnh người gõ sanh, đánh phèn la, thổi kèn, cõng nhau múa hát, giã gạo chày nhịp hai, nhịp ba, múa hát trên thuyền…
          Trống đồng là thần cổ, linh cổ của dân Việt mà có cảnh ca múa thì nhất định không bao giờ người Việt cổ gọi ca múa là “xướng ca vô loại”… Chắc chắn các cụ đã gọi là lễ nhạc, là nhã nhạc hay linh nhạc…
          Chỉ sau thời gian bị Tầu đô hộ và tiêm nhiễm truyền thống du mục Hoa tộc, triều đình Việt tộc đi theo quan niệm Tầu : “xướng ca vô loại”. Tuy nhiên chỉ có giới nho sĩ và triều đình miệt thị ca múa còn trong nhân gian thì ca hát vẫn được yêu mến và bảo tồn mặc dù nó đã mất đi rất nhiều giá trị nguyên thủy, vì chẳng những không được nâng đỡ mà còn bị chê bai, kỳ thị: con cái nghệ sĩ ca múa “không được dự thi, không được làm quan…”. Con cái nhà quan, nhà gia thế, đạo hạnh kể cả con nhà giàu… đều không lấy chồng, cưới vợ con nhà ca hát vì sợ mình trở thành “thông gia” và con cháu trở thành “đồ vô loại!!!”.
          Từ ca múa, ngâm, ru hò, hát nói… của nhân gian đến lễ vũ trong các cuộc tế lễ ở đình, chùa, am, miếu; từ phong thái đi, đứng, quay tả, quay hữu, tới lui, bái lạy, dâng của lễ… đều được phối hợp với trống đại, trống con, trống cơm, chiêng, cồng, phèn la, đàn, kèn, sáo, mõ, sanh… Tất cả đều được vũ hóa đến độ tinh vi và nhất định những lễ vũ đó không thể thiếu vắng trong các cuộc lễ tế lớn nhỏ của Việt tộc.
          Cao điểm nhất về phía triều đình là ba ngày đại lễ Tế giao, tức là lễ do chính nhà vua làm chủ tế trong việc giao cảm với Trời, Đất. Lễ này xác định vị thế Nhân chủ của người với Thiên chủ và Địa chủ. Lễ Tế giao có từ thời Thần Nông Đế Viêm. Thường thì kế tiếp sau các lễ hội… bao giờ cũng có phần ca múa nhân gian và hội hè, xôi thịt vô cùng hào hứng.
          Những sinh hoạt họp lửa, hội ca trong nhân gian vẫn còn truyền tụng cho tới ngày nay, mặc dù thời gian đã bào mòn đi khá nhiều những vết tích của thời thái cổ.
          Một học giả Pháp, ông Granet (1930) đã viết lại một số sinh hoạt hội ca của các dân tộc gốc Bách Việt vùng Nam Trung Hoa, Bắc Việt Nam cho tới vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh. Thường lệ hằng năm vẫn còn tổ chức những buổi hội ca rất lớn :
          Hải Nam và miền Bắc Việt Nam: Trong cộng đồng Mường và Dao, khi một chàng trai yêu thương một cô gái thì mang đàn, sáo… đến trước nhà cô ấy gẩy đàn và ca hát. Nếu cô ưng ý thì sẽ bước ra gặp chàng hoặc mời chàng vào nhà nói chuyện. Khi hai người hợp ý hợp tình thì sẽ thưa với cha mẹ hai bên để làm đám cưới và chàng trai sẽ về ở bên nhà gái. Đám cưới kéo dài suốt ngày và một đêm đốt lửa hội ca mà phần chính là cô dâu và chú rể trình diện trước các bạn nam nữ.
          Vân Nam : Người Lô Lô mặc dù làm việc suốt tuần cực khổ nhưng cuối tuần là tụ họp nhau múa hát, gõ nhịp, mời rượu… giữa trai gái cho đến nửa đêm mới tan hàng. Vào dịp cuối năm, họ mời gọi tụ hội đông đảo, đốt lửa, đốt pháo, ca, múa… vô cùng náo nhiệt suốt cả đêm.
          Miêu : Biên giới Vân Nam và Việt Nam, cùng dạng với người Miêu Quảng Tây, người Thổ Cao Bằng thì tụ họp hai bè trai gái, nắm tay múa hát theo nhịp trống cơm và đàn “Lousen?”. Khi hát đối đáp, bên nào thua, con gái sẽ bị vò tai cho đỏ lên mới thôi, con trai thì bị phạt rượu.
          Nam Chiếu : Người dân tin rằng, có những vụ mang thai với rồng trong lúc tắm hoặc chạm phải cái cọc nổi mà có thai. Người Miêu Tử ngoài hát đố còn có trò ném cầu làm bằng chỉ ngũ sắc và đánh trống đồng…
          Long Châu : Những người đi dự hội ca mang cơm, rượu theo, có trên 1.000 người. Tục lệ hội ca này vẫn lưu hành hàng năm trong tỉnh Quảng Tây và thường bị nhà cầm quyền Trung Hoa tìm cách ngăn cản. Mỗi lần quan Tàu cấm thì đường sá hỗn loạn, thiên hạ xôn xao bất bình.
          Trong các tổ chức này, dân Bô Di , nam nữ bao giờ cũng hợp thân trước rồi mới cưới sau. Xã hội Long Châu cho đến ngày nay vẫn giữ chế độ mẫu hệ. Họ châm biếm, riễu cợt những thiếu nữ lấy chồng theo kiểu phụ hệ. Các giống dân khác ở vùng Dương Tử Giang và Hán Thủy cũng có những truyền thống như dân Long Châu.
          Quý Châu : Người Lô Lô thường tổ chức hát trên núi. Họ đấu trí, thi tài ăn nói và thi ca. Các cuộc hội ca này đang còn lưu truyền mặc dù có phần thưa thớt hơn trước.
          Nhật : Có lối hát đôi phối hợp với múa gọi là Kagai. Họ chia thành hai nhóm hát đối nhau hoặc có khi một người thay cho cả nhóm. Các buổi Hội hát này thường tập trung quanh vấn đề tình yêu trai gái hoặc diễu khích nhau. Hát Kagai vẫn được duy trì trong đại chúng.
          Trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay từ những vùng Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hóa ra đến vùng thượng du miền Bắc thì các nhóm Mán, Mường, Thái, Mèo, Plong, Hung, Hát, Vân Kiều, Toi Oi (Pa coh), Kha Tu, Dao, Chi Dao, Lê, Bạch, Thổ, Nùng, Lô Lô, Tày… cũng có những buổi họp lửa hội ca rất thịnh hành nhờ các triều đình Việt Nam không ngăn cản. Đây là truyền thống văn hóa đặc thù của các giống dân này từ lâu đời mà cổ sử Trung Hoa cũng như Việt Nam ít thấy đề cập tới khi nói về họ. Có lẽ các vua chúa Trung Hoa và Việt Nam cho rằng đấy là “xướng ca vô loại” của các dân thiểu số nên không quan tâm tới.
          Tưởng cũng cần nói thêm, các dân tộc thiểu số miền Trung Việt Nam trước đây 2.000 năm sinh sống ở ven biển. Sau đó họ bị các giống khác mạnh hơn như Chiêm Thành, tấn công dành đất, dồn họ lên núi. Các dân tộc thiểu số miền thượng du Bắc Việt Nam thì có hoàn cảnh khác. Họ bị người Trung Hoa xâm lấn, phải di tản về Nam. Họ được các vua Việt Nam cho ở các vùng đồi núi miền Bắc để làm phên dậu.
          Người nghệ sĩ ca múa đất Kinh (người Việt ở đồng bằng) chẳng những không được sự tán trợ, khuyến khích, dẫn dắt của triều đình mà còn bị miệt thị là “xướng ca vô loại” và cấm cản giới này thi cử, làm quan… vì vậy nghệ thuật ca múa cổ của người Kinh đã mai một rất nhiều, nhất là về bộ môn múa nếu so với đồng bào thiểu số miền thượng. Từ khoảng 1940 trở về trước, ca vè cổ thu gọn trong các tổ chức địa phương như làng xã, ngoài đồng, trong nhà, trên sân… vào mùa gặt hoặc hò đối đáp lúc cấy lúa, lúc giã gạo, lúc chèo thuyền, kéo gỗ… hoặc chuyển thành hát cô đào ở các phố thị mà thôi.
          Họp lửa, hội ca, do đó, là một sinh hoạt truyền thống, rất được người dân mọi giới, nhất là thanh niên nam nữ ưa chuộng vì nhờ những sinh hoạt này họ có nhiều cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu nhau trước khi trở thành vợ thành chồng.

          Triết gia Kim Định viết trong Văn Lang Vũ bộ : “Ở thời sơ nguyên, khi chưa bị những quy ước trái khoáy của du mục bẻ quặt thì trống quân (ca múa) là một cuộc tế lễ toàn vẹn gồm ăn uống, hát xướng, giao hoan… Và do đó, nó gây âm vang sâu thẳm vào lòng người đến độ chỉ huy cuộc sống trong cả năm, từ ý nghĩ cho đến việc làm, lời nói. Nó gây sức mạnh đến nỗi mọi lời khác sẽ biến đi nhưng những lời hát trong trống quân được giữ lại như ca dao, tục ngữ hay nếu đã có văn học thì như kinh điển. Kinh thi chính là kết nạp những bài hát trong trống quân. Còn trong Việt tộc thì kết tinh vào trống đồng, nơi chim mẹ Âu Cơ đang lao xuống hôn miệng Rồng là bố Lạc”.

          Theo Granet, ca vũ và trống đồng được coi là hai bộ phận quan trọng nhất trong việc tế tự của người Bách Việt mà trước đó người Trung Hoa gọi là Miêu tộc. Ca vũ kết hợp với trống đồng đem tâm tình của người giao cảm với trời, đất. Từ đó, trống đồng được tôn trọng, gọi là thần cổ, linh cổ, được tôn thờ và làm linh chứng cho những lời thề nguyền long trọng.
          Bs. Nguyễn Thị Thanh, nói về ca vũ cổ Việt Nam như sau : Thời cổ, ca vũ và trống đồng còn được dân Bách Việt đem ra sử dụng trong các lễ tế và hội hè, ca múa. Trên trống đồng, khạp đồng… được ghi chép bằng những nét khắc họa đặc biệt về ca vũ và tình yêu nam, nữ trong thực tế của sự sống hạnh phúc và duy trì nòi giống.
          Nhân đây tôi xin giới thiệu 1 bài “hát nói” rất cổ từ giai đoạn văn hóa Bắc Sơn (7000-1000 tr.CN). Tôi đã tạm đặt tên là:

          III/6 .- THƯƠNG EM TỪ THỦA TIÊN RỒNG

          Năm 1961, khi dự khóa đào tạo quản đốc đồn điền do CHPI tổ chức tại Banmêthuột, tôi được cử đi thực tập ở đồn điền cà phê Ea Tull, Darlac. Tại đây có một bản Mường di cư từ các tỉnh phía Bắc miền Trung. Họ nói tiếng Việt xen lẫn nhiều cổ ngữ nên rất khó nghe nhưng lại rất thân tình với người Kinh. Trong một ngày lễ giỗ tổ, tôi được mời đến dự và đặc biệt chú ý điệu vũ của một nhóm thanh niên thiếu nữ Mường. Chín cặp, đứng xen kẽ thành vòng tròn, hai chân dậm xuống đất bước nhịp nhàng về phía trái, phía phải hay tiến vào phía trong, lui ra phía ngoài, theo nhịp trống và cồng. Tay người này úp vào tay người kia, lúc đưa lên cao, lúc hạ xuống thấp hoặc múa… Toàn cảnh có vẻ giản dị nhưng rất đều, cân đối, hài hòa và gợi cảm. Họ “hát nói” một bài vè rất lạ trong khi múa. Tôi thấy hay nên chép lại và học thuộc lòng bài vè ấy. Quý độc giả hẳn đã biết, người Mường vốn là người Việt nguyên thủy, sở dĩ họ chậm tiến là do họ ở sâu trong rừng núi và ít tiếp xúc với người Việt đồng bằng.

          Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh, một nhà khảo cổ ở Canada, cho rằng bài vè“Thương em từ thủa Tiên Rồng” có nhiều cổ ngữ từ thời văn hóa Bắc Sơn niên đại từ 7000 năm đến 1000 tr.CN. còn triết gia Lương Kim Định khi đọc bài vè thì đã gọi: “Đây là kinh Việt”

          THƯƠNG EM TỪ THỦA TIÊN RỒNG

          1. Khoai to bồn thì tốt cộ (Khoai to vồn thì tốt củ)
          2. Đậu ba lá thì bừa un (Đậu ba lá thì vừa vun)
          3. Gà mất mạ thì lâu khun (Gà mất mẹ thì lâu khôn)
          4. Gái thiếu trai thì thậm khổ
          5. Trai thiếu gái thì thậm khổ
          6. Trời sinh trâu thì sinh cỏ
          7. Đất sinh giếng thì sinh mo (mo cau làm gầu múc nước)
          8 . Người sinh oa thì sinh tui (Người sinh o thì sinh tui)
          9. Oa một mình thì khôn đặng
          10. Tui một mình thì khôn đặng
          11. Gió ngoài biển hắn dồn vô
          12. Mây trên trời hắn cuộn lại
          13. Oa với tui cùng cuộn lại
          14. Tui với oa cùng cuộn lại
          15. Hai đứa miềng cùng cuộn lại

          Chỉ cần 15 câu giản dị, người Việt cổ từ 4000 năm trước đã gởi một thông điệp cực kỳ quan trọng bàn về nhân sinh và vũ trụ quan mà ngày nay chúng ta cần nghiên cứu xem các cụ muốn nói gì .

          III/6A .- Đầu tiên, ta chú ý về những con số :
          Nhóm 3 câu , tức số 3 : quan niệm Tam thông, Giao cảm giữa Trời, Đất và Người.
          Nhóm 2 câu, tức số 2 : triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực (một thể có hai cực âm dương).
          Hợp 5 câu thành một đoạn, tức số 5 : Ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Năm vật chất quan trọng trong vũ trụ rất cần thiết cho sự sinh hóa của vạn vật và sự sống còn của vũ trụ.
          Thông thường thì vè hay thơ mỗi đoạn chỉ có bốn câu. Ở đây, chủ tâm rất dứt khoát của người xưa là luôn luôn có 2 câu cộng với 3 câu làm thành một đoạn 5 câu. Minh bạch đến độ không thể lẫn lộn là trùng hợp hay ngẫu nhiên được.
          III/6B.- Bây giờ ta thử xét từng đoạn của bài vè cổ:
          III/6B1: Đoạn đầu
          Câu 1,2,3 nói về kinh nghiệm trồng trọt và xuất xứ của bài vè là của người nông nghiệp. Khoai, đậu, gà là ba loại thực phẩm tiêu biểu của người nông nghiệp xuất phát từ ba nơi khác nhau: khoai ẩn mình dưới đất, đậu kết trái trên mặt đất và gà (chim) bay trên không. Chỉ rõ thực phẩm, nguồn sống con người, có mặt khắp nơi trong trời đất. Để có đầy đủ các loại thực phẩm ấy, điều quan trọng nhất là con người phải có kinh nghiệm và yêu mến công việc vỡ đất canh tác, chăm sóc, nuôi dưỡng… trong lãnh vực nông nghiệp tức là phải có trách nhiệm làm chủ các lãnh vực của mình. Từ 3 câu trên ta có thể suy ra hai ẩn ý đã được tác giả cài vào:
          1) Trách nhiệm của nhà nông: nguyên lý Nhân chủ.
          2) Số 3 dịch lý :
          - Tam Tài : Trời là chủ– Đất là chủ– Người là chủ; – - Tam Thông : Trời, Đất, Người đồng thông, giao cảm.
          Nếu ta thay trách nhiệm công tác nông nghiệp bằng bất cứ công việc nào khác vào 3 câu đầu thì ta cũng thấy ngay nguyên lý Nhân chủ Việt cổ vẫn là một lối đi hoàn chỉnh dẫn dắt con người trên đường thành công.
          Câu 4,5 xác định Triết lý Nhị nguyên (hai thể riêng biệt, âm dương không bao giờ đi chung) chỉ đem lại đau khổ triền miên mà thôi (thậm khổ). Hành xử ở đời mà chỉ dụng lý mà quên tình hay trọng tình mà bỏ lý thì chỉ đem lại đổ vỡ, thất bại, buồn chán… Phải có cả hai: tình và lý. Chẳng những thế, trong lý phải có tình, trong tình phải có tý: đó là triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực.
          Tổng hợp thành 5 câu của đoạn đầu:
          - Đầu tiên là bài toán cộng rất chính xác:
          2 + 3 = 5 không sai vào đâu được. Tuy nhiên, đây chỉ là giá trị đơn thuần rằng trong số 5 này có 2 tư tưởng: nhân chủ và tình lý cộng lại. Thế là quá đẹp. Nhưng còn nữa bạn ạ !
          - Đó là giá trị phụ trội phát sinh từ việc kết hợp hai tư tưởng Nhân chủ và Tình Lý song hành. Thực tế, khi hai tư tưởng trên hợp tác với nhau thì nó đẻ ra nhiều chuyện tốt đẹp hơn nữa! Tỷ dụ như o với tui mà cuộn lại… thì chắc chắn o sẽ phát hành liền tù tì mỗi năm một tác phẩm, chứ đâu phải chỉ có mình tui với o phải không? Còn khi có o trợ lực cho tui để tui chỉ lo cày cấy, trồng trọt, chăn nuôi… thì cái ăn, của mặc dư thừa. Hạnh phúc để đâu cho hết!
          - Kế nữa, số 5 mang ý nghĩa 5 vật chất trong vũ trụ. Đó là ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) năm chất này rất cần thiết cho sự sinh hóa của vạn vật và sự sống còn của vũ trụ.
          - Cũng từ số 5 Ngũ hành này, nó cho chúng ta nhiều bài học của đạo làm người Nhân chủ và đạo trị quốc Nhân trị :
          Một .-Ngũ trong đời sống con người, Ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín (mang tính Dũng).
          Hai .- Ngũ trong tình yêu, giao tế, và hùn hạp công tư, Ngũ tâm: Thật thà, Trong sạch, Tận tình, Vui vẻ, Lắng nghe (mang tính Thích nghi).
          Ba .- Ngũ trong việc đối xử với người trên kẻ dưới, Ngũ luân : Nhân, Hiếu, Đễ, Trung, Thứ… (mang tính Trung Dung)
          Chúng tôi gọi đấy là Tam tính. Vận dụng Tam tính làm động lực xây dựng triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực thì con người bước lên vị trí Nhân chủ bên cạnh Trời, Đất và xã hội bước lên vị trí Nhân trị giữa Người với Người.
          Chỉ mới 5 câu đầu, ta đã thấy tâm tư của tác giả bài vè quả có một kiến thức uyên bác tuyệt vời về cái lẽ thường của con người đối với mình, đối với xã hội và vũ trụ.

          III/6B2 : Đoạn giữa
          Câu 6,7,8 : Trời sinh, đất sinh, người sinh chỉ ra ba nhiệm vụ được phân bố trong vũ trụ, trời làm việc của trời, đất làm việc của đất, người làm việc của người. Muốn cho mọi việc đều ổn thỏa, hài hòa, tốt đẹp… con người phải có trách nhiệm của một chủ trong ba ngôi chủ. Trách nhiệm đó là cải sửa bản thân, cải sửa thiên nhiên, vũ trụ để xây dựng cuộc sống mỗi ngày một tốt đẹp đồng thời cảm thông với trời, đất để đời sống con người trở nên có ý nghĩa. Đó là nguyên lý tam thông* đồng thời cũng là nền tảng Nhân chủ và luật cân bằng trong vũ trụ.
          * Con người và trời, đất cùng sinh, cùng sống khắng khít, giao cảm với nhau.
          Ý niệm cùng sinh cùng sống khắng khít trên lãnh vực triết lý: Khi một người được sinh ra thì trời, đất mới xuất hiện với người ấy; người ấy càng “lớn lên” bao nhiêu thì trời, đất cũng “lớn lên” bấy nhiêu. Bởi đó, triết học nông nghiệp Miêu tức Viêm Việt cho rằng, nếu không có người thì vũ trụ có cũng như không. Con người tìm hiểu, xử dụng và cải tạo vũ trụ, thiên nhiên để xây dựng cuộc sống, do đó con người giao cảm với trời đất trong suốt cuộc sống của mình. Người xưa gọi là tam thông, chuyển hóa thành đạo làm người, đạo thờ ông bà. Rõ ràng người xưa đã thấy được con người có một vị thế vô cùng quý giá, một biệt sắc trong vũ tru mà lý giải Tây phương ngày nay còn rất mập mờ khi cho rằng con người chỉ hơn con vật ở chỗ biết suy lý rồi xây dựng xã hội trên một chiều suy lý đó!!

          A .- Quan niệm vũ trụ :
          Trời sinh trâu thì sinh cỏ : Mọi việc làm của trời làm đều có dụng ý tạo điều kiện tốt đẹp và cân xứng cho muôn vật sinh tồn.
          Đất sinh giếng thì sinh mo : Đất cũng có việc làm đối xứng, tạo ra tài nguyên vật liệu mà con người tựa vào đó mà xử dụng để tồn tại.
          Người sinh o thì sinh tui : Con người cũng không ở ngoài lẽ thường âm dương mà trời đất đã tác động lên thiên nhiên và vũ trụ.

          B .- Luật cân bằng trong thiên nhiên
          Nhờ trời đất và con người luôn luôn hướng về: Có cái này phải có cái kia mà phát sinh Luật cân bằng trong thiên nhiên. Nhờ đó mà mọi vật phát triển và tồn tại. Làm ngược lại là phản Luật cân bằng của tạo hóa.

          C .- Xác lập : Con người có trách nhiệm bảo vệ và duy trì sự cân bằng hài hòa khi xử dụng thiên nhiên và vũ trụ để tạo cuộc sống hạnh phúc cho mình.
          Câu 9,10 : Lời thơ của hai câu này mang tính thuyết phục rất mạnh, nó có dạng như một lời giáo huấn qua việc lặp đi lặp lai hai cụm từ :
          O một mình thì khôn đặng!
          Tui một mình thì khôn đặng!

          Nhằm thúc dục đi vào Nhất nguyên Lưỡng cực: Phải có đủ hai mới được tức là cổ vũ một đời sống có âm, có dương; có tình, có lý; có song hành đoàn kết…

          III/6B3 .- Đoạn cuối :
          Câu 11,12: Gió dồn, mây cuốn là hai chuyển động của trời đất. Nông nghiệp Bách Việt rất cần mưa. Muốn biết có mưa hay không thì phải trông trời, nhất là trời ở phía biển, phải xem gió, nhìn mây. Hạnh phúc của nông nghiệp là khi thấy gió dồn, mây cuốn từ ngoài biển, đem mưa trút xuống đồng ruộng cho hoa mầu vươn lên. Người Việt cũng thường dùng nhóm từ “mây mưa” để diễn tả chuyện chăn gối, hạnh phúc lứa đôi. Cổ nhân đã vận dụng tới những chuyển động của trời đất, của vũ trụ để tiếp tục diễn đạt nguyên lý âm dương, tình lý song hành hầu tiến đến mục đích cuối cùng một cách toàn vẹn.
          Câu 13,14,15 : Hạnh phúc tràn đến rạt rào không dứt trong đời sống con người nếu biết nghe theo những điều nêu trên.

          III/6B4 .- Rà lại toàn bài
          Trong suốt tài liệu trên, người viết nhiều lần nhắc đến ba bộ số 2 – 3 – 5 do nhiều thế hệ Miêu tộc còn gọi là Viêm và về sau thì gọi là Bách Việt sáng tạo. Các thế hệ tiền nhân hiền triết đó đã trải qua nhiều ngàn năm gối đầu lên nhau, dùng cái tâm và cái trí để suy ra từ các diễn biến của vũ trụ, của đời sống con người tạo thành những quan niệm nhân sinh, vũ trụ cực kỳ sáng chói.
          Ngày nay, để có thể thông suốt tư tưởng tiền nhân, cố triết gia Lương Kim Định đã đề nghị đừng nhìn cổ vật, di vật Việt tộc đằng sau tấm kính suy lý Tây phương, đừng đánh giá “bề mặt, vòng ngoài”. Hãy dùng cái tâm linh con người để giao cảm, để thẩm thấu vào tận cốt lõi của mỗi sự kiện trên nền tảng ba bộ số 2 – 3 – 5 ấy thì chúng ta sẽ nghiệm ra ngay giá trị tư tưởng tổ tiên hiền triết Việt tộc.



          - Toàn bài vè là ngôn ngữ Việt cổ mộc mạc, ngắn gọn được xác định xuất hiện từ giai đoạn văn hóa Bắc Sơn (7000 đến 1000 tr.CN).
          - Bài vè phát huy và cổ vũ một hệ tư tưởng độc đáo chính xác đến độ chẳng riêng gì người có lòng tìm hiểu phải ngạc nhiên, sảng khoái mà bất cứ ai nghe một lần cũng đạt được sự cảm thông dễ dàng và thấm sâu vào tâm khảm dù chưa được giải thích tường tận.
          - Càng nghiên cứu bài thơ cổ, càng phát giác ra bao kỳ thú khiến người viết không dám nghĩ tiếp vì đoạn khảo luận này đã quá dài.
          - Quả thật, toàn bộ bài thơ cổ, vừa là một bản tình ca tuyệt diệu đồng thời là một luận đề triết học vừa thực tiễn vừa siêu hình được luận giải vô cùng sắc bén trên nhiều vấn đề phức tạp của nhân loại mà các triết gia thế giới ngày nay đang khổ công tìm kiếm!!
          - Cũng tương tự như nổi buồn của nàng Lương Như Ý trong bài thơ cổ “Cộng Ẩm Tương Giang Thủy” trình bày ở phần trước, quả nhiên nàng đã hóa giải được niềm thương nhớ, buồn khổ khi nhìn sông nước Tương Giang bằng cái nhìn thông suốt và tâm linh giao cảm tuyệt diệu ấy. Nếu Lương Như Ý là một thiếu phụ tây phương ngày nay thì nàng không thể có cái tâm ấy để gặp chồng! Và nàng cũng như xã hội nàng đang sống (giả thiết nàng đang ở trong xã hội tây phương) phải chấp nhận biết bao biến động phát sinh từ sự thiếu vắng tâm ý ấy?

          III/7 .- KIẾN TRÚC VIỆT CỔ

          Một số kiến trúc Á Đông mà ngày nay mọi người thường thấy nơi các cung điện của vua chúa, đình, chùa, miếu, mộ, cổng… mang một hình giáng rất đặc thù. Đó là mái nhà, mái cổng oằn xuống ở giữa và hai đầu mái thì cong vuốt lên còn mái thì lợp bằng loại ngói âm dương… Các nhà khảo cổ viện bảo tàng Hà Nội năm 1939 đã tìm được tại di chỉ Bắc Sơn những di vật chôn theo người chết trong các ngôi mộ cổ cách đây từ 9000 năm đến 3000 năm, những ngôi nhà làm bằng đất nung có mái nhà cong vuốt hai đầu. Họ gọi là nhà Bắc Sơn. Những ngôi nhà được khắc chạm trên trống đồng Lạc Việt cũng là những ngôi nhà có mái cong rất đặc biệt.
          Lịch sử Trung Hoa có ghi lại một đoạn về cuộc bang giao giữa nhà Đường và Nhật Bản vào năm 606 về việc trao đổi du học sinh và thợ thuyền của hai nước này. Các du học sinh và thợ thuyền Nhật khoảng 200 người đã xây tại kinh đô Lạc Dương một ngôi nhà sàn chín căn rộng lớn, có chân và lên xuống bằng 5 bậc thang. Đặc biệt mái nhà được làm cong vút lên theo truyền thống văn hóa Nhật. Họ gọi là Minh nghĩa đường. Kiến trúc Minh nghĩa đường mang một nghệ thuật hài hòa, nghiêm kính mà không thiếu phần lộng lẫy nên đã làm vua quan nhà Đường kinh ngạc và ngợi khen không tiếc lời. Chính vua Đường cũng đã vi hành đến xem. Từ đó, sinh hoạt truyền thống xã hội Trung Hoa dần dần chuyển hướng theo lối kiến trúc mái cong đặc biệt đó.
          Đúng ra, từ lâu về trước, các miền thuộc Hồ Nam, Lưỡng Quảng, Giao Chỉ… đã có kiến trúc mái nhà cong (nhà mái cong Bắc Sơn) chứ không phải đợi du học sinh và thợ thuyền Nhật đến với Minh Nghĩa Đường. Phải chăng các mẫu nhà mái cong Bách Việt trước năm 606 chưa đạt tới nghệ thuật của kiểu nhà Minh nghĩa đường Nhật Bản? Hay vì vùng này đang bị chiến tranh xâu xé suốt nhiều trăm năm khiến đất nước hoang tàn không còn những kiến trúc có tầm vóc, có nghệ thuật? Hay vì kỳ thị là kiểu nhà của dân nô lệ Giao châu đô họ phủ, là Man di, Nam man nên chưa lôi cuốn được vua chúa Trung Hoa?
          Theo học giả Bình Nguyên Lộc trong sách Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam thì tổ tiên của người Nhật là những dân quân Bách Việt trong đạo quân liên minh Xích Quỷ của Lạc Long Quân 2704 tr.CN, sau thảm bại tại Trác Lộc, đoàn quân của Lạc Long Quân chạy ra phía Đông, một nhóm đã vượt biển ra hải đảo, kết hợp với giống Ai-Nô mà tạo thành dân Nhật… Nếu giả thuyết của cố học giả Bình Nguyên Lộc là đúng thì việc người Nhật xây nhà Minh nghĩa đường có mái cong ở Lạc Dương năm 606 là chuyện dễ hiểu.
          Hình ảnh Trời, Đất đã được người xưa sáng tạo một cách khéo léo trong nghệ thuật dựng nhà của người Bách Việt. Với chiếc mái cong biểu hiệu của trời và nền nhà hình vuông, biểu hiệu của đất. Ở trong ngôi nhà với sự hiện diện của trời tròn, đất vuông đó, con người xây dựng cuộc sống an bình, hạnh phúc. Con người ấy, đúng là Người viết hoa chứ không phải là “con vật biết suy lý” hay “con vật tinh khôn” mà quý ông Aristote và Nguyễn Văn Đức đề cập trong sách của các ông. Tư tưởng đã được cơ chế hóa thành ngôi nhà mái cong đầy nghệ thuật, thật không thể còn sáng tạo nào ngoạn mục hơn!

          III/8 .- BÍ MẬT PHÒNG TRUNG

          Nói nôm na là truyền thống đỡ đẻ (phụ sản) mang biệt sắc Việt tộc của các quốc gia lập quốc trên vòng cung Đông-Bắc, Đông và Đông-Nam Trung Hoa ngày nay. Đó là các nước bà con Việt tộc: Triều Tiên, Nhật Bản, thổ dân Đài Loan, thổ dân Hải Nam, thổ dân quần đảo Célèbres Inđonésia*và Việt Nam.

          * Cố Học giả Bình Nguyên Lộc trong “Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam” tức là cao nguyên Hi-Malaya (Thiên Sơn), với những dẫn chứng rất đáng tin cậy thì đoàn quân của Lạc Long Quân sau khi thua trận ở Trác Lộc năm 2704 tr.CN đã chạy theo bờ Bắc sông Hoàng Hà và tản mác ra nhiều nơi ở biển Đông: Một nhóm lên vùng Đông-Bắc kết hợp với thổ dân, về sau lập ra nước Triều Tiên; phía Đông kết hợp với giống Ai-Nô ở hải đảo lập ra nước Nhật; một số ra đảo Đài Loan; phía Đông Nam họ lên quần đảo Célbrès Indonésia, đảoHải Nam; phía Nam họ đổ bộ lên đồng bằng Bắc Việt với đồng chủng.

          Trên thế giới, mỗi chủng tộc đều có một truyền thống phụ sản riêng biệt của tổ tiên họ truyền lại. Thường thì do “bà mụ” truyền lại cho con gái từ đời này qua đời khác hầu như không bao giờ thay đổi.
          Từ ngày nền y học Tây phương phát triển khắp thế giới thì các nước trên thế giới dần dần chuyển hướng theo phương thức chung như chúng ta vẫn thấy ngày nay. Tuy nhiên ở những vùng thôn quê hẻo lánh hoặc miền núi xa xôi, các bà mụ vườn vẫn còn xử dụng phương pháp cổ truyền để phụ sản mỗi khi người dân cần tới họ.
          Đối với người Tầu, khi sản phụ tới giờ “lâm bồn” thì bà mụ đưa vào phòng sản phụ một chiếc bồn bằng gỗ hoặc sành. Người sản phụ Trung Hoa ngồi lên chậu mà sinh con… do vậy mà người Tầu gọi lúc sinh con của phụ nữ Trung Hoa “giờ lâm bồn”.
          Người Lào thì ngồi trên một cái giá gỗ còn dưới đất thì lót lá chuối (đã hơ lữa) và cũng sinh nở như người Trung Hoa.
          Người Nga thì sản phụ nằm trên giường. Phần trên bụng được treo một tấm màn có ghi vài câu kinh nguyện để sản phụ trông vào đó mà cầu kinh. Người chồng quỳ bên cạnh, cầm tay vợ, nói những lời an ủi và khuyến khích nàng. Trong khi đó thì ở phía sau bức màn, bà mụ làm công việc đỡ đẻ.
          Người Đức thì khác hẳn, người ta để hai chiếc ghế đối diện cách nhau khoảng 70 cm. Một ghế thì để người mẹ hoặc chị của sản phụ ngồi dang rộng hai chân. Ghế kia thì sản phụ ngồi dựa ngửa và gác chân lên đùi người đối diện… Trong khi đó thì bà mụ quỳ ở giữa hai người mà làm công việc đỡ đẻ.
          Chủng Lạc Việt cùng các dân tộc sống trên vòng cung bán đảo và hải đảo Trung Hoa: Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, quần đảo Célèbres Indonesia, Hải Nam, Việt Nam có cùng một truyền thống phụ sản giống nhau : Sản phụ nằm trên giường, còn bà mụ thì đỡ đẻ và cắt rốn hài nhi bằng một sợi chỉ tước ra từ lá dứa hoặc dùng mảnh sành đập vỡ rồi dùng chỗ bén để cắt rốn.
          Xem ra thì cách thức phụ sản Việt Nam và các nước Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan, đảo Hải Nam, quần đảo Célèbres Indonesia gần giống với lối phụ sản y học ngày nay. Truyền thống chôn nhau hài nhi ở vườn sau của chủng Việt đã tạo thành một biệt sắc rất thân tình qua câu nói “Nơi chôn nhau cắt rốn” để ám chỉ quê hương xứ sở của mình. Các dân tộc khác không có câu nói đầy ý nghĩa thâm thúy mà gợi hình tuyệt diệu như thế!

          III/9 .- CHUYỆN ÔNG BÀN CỔ

          Chúng tôi để chuyện Ông Bàn Cổ vào đây để lấy phần biệt sắc văn hóa Việt tộc, tuy nhiên chuyện ông Bàn Cổ có một tầm vóc tư tưởng cực kỳ bao la hiếm có. Người viết xin dành hẳn một chương để rộng đường bình luận : Chương 5 : Chân thiện mỹ trong chuyện ông Bàn Cổ.
          Quý độc giả, hoặc có thể lật tới chương 5 đọc tiếp để có sự liên tục tư tưởng, hoặc cứ theo sự sắp xếp có chủ ý của tác giả. Xin chân thành cám ơn.

          II/10 .- KẾT LUẬN III

          Trên đây là chín trong số hàng chục biệt sắc văn hóa truyền thống Việt tộc mà chúng tôi nghĩ là quá đủ để xác minh rằng : Bên cạnh những tư tưởng thâm sâu của Việt cổ đã bị Hoa tộc cưỡng đoạt, xào nấu, rồi ép buộc dân Việt phải tiếp nhận để đồng hóa; người Việt làng xã, người Việt miền núi và người việt thị thành… tùy theo bối cảnh xã hội mình sống, vẫn ngoan cường giữ vững truyền thống nguyên thủy để tồn tại. Đấy là những gia tài cực kỳ quý giá mà người Việt đã bảo tồn cho tới ngày nay trước bao thảm họa đồng hóa của cường lực Hoa tộc.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.11.2012 09:53:58 bởi hai1957 >
          #5
            hai1957 12.11.2012 21:59:53 (permalink)
            Chương IV

            VĂN MINH THẾ GIỚI


            IV/1.- KHÁI NIỆM VỀ VĂN MINH THẾ GIỚI

            Văn minh là kết quả của văn hóa, văn hóa là gốc của con người. Do đó, nói về văn minh tức là bàn về người. Bàn về người phải xét đến gốc ngọn của người. Vậy xin mời quý độc giả cùng chúng tôi lược qua một vài suy nghĩ của loài người trên thế giới khi họ nói về con người.
            Từ các nhà hiền triết Ấn Độ thời cổ khi soạn kinh Upanishad đến các thần học gia Thiên chúa giáo hoặc giới nghiên cứu thuật luyện đan… đã nêu lên một số biểu tượng về con người khá giống nhau về sự tương ứng giữa con người và vũ trụ. Họ đồng thuận với nhau rằng sự vận động của con người có tác động tích cực lên các nguyên lý chi phối vạn vật trong thiên nhiên, nói chung là vũ trụ.
            Họ cho rằng: xương bởi đá, bộ phận tiêu hóa bởi đất, máu và sự tuần hoàn bởi nước, phổi và hơi thở từ không khí, đầu và hệ thần kinh từ lửa. Con người tiếp xúc với vũ trụ qua ba cấp độ: mặt đất với đôi chân, không khí với nửa thân trên, trời với cái đầu. Người tham dự vào ba giới: khoáng vật, thực vật và động vật; bằng trí tuệ, bằng tinh thần và bằng thần linh. Cứ như thế, con người có vô tận những thế kết hợp. Tuy nhiên, đôi khi không tránh khỏi những kết hợp mang tính huyền hoặc hơn là biểu tượng của giới bùa ngải, bói toán hoặc phong thủy…
            Đó là vài nét thực cô đọng chúng tôi xin tạm diễn đạt dựa vào sách vở đã được một số hiền triết Đông, Tây định nghĩa vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ II sau Công nguyên (Roberto Fludd Utriusque Cosmi Historia, Oppenheim, 1619)
            Chúng ta thử về gần hơn với giải thích của một trí thức Việt Nam ngày nay: ông Lê Văn Đức trong Việt Nam Tự Điển gồm 2 cuốn lớn, tổng cộng hơn 3000 trang, đã định nghĩa về người như sau:
            Loài động vật hai chân, mình đứng thẳng, biết nói để tỏ ý muốn, dùng hai tay để làm mọi việc cần ích cho đời sống và tinh khôn hơn mọi loài khác trên trái đất”.
            Theo ông Nguyễn Văn Đức, con người chỉ mới tinh khôn hơn loài vật theo kiểu con ngựa tinh khôn hơn con bò, con chó tinh khôn hơn con ngựa, con người tinh khôn hơn con chó!
            Cách đây 2500 năm, ông Aristote còn nói được một câu văn minh hơn câu của ông Đức nhiều! Ông ấy nói: “Người là sinh vật biết suy lý
            Có điều, tại sao cả hai ông Đức và ông Aristote đều quên rằng ngoài cái tinh khôn, ngoài cái suy lý ra, con người còn có Lương tri, Tâm Linh, Tiềm thức cộng với Đạo đức, Luân lý và nhất là một lý tưởng cao đẹp để làm cho đời người đáng sống hơn! Chân thiện mỹ hơn?
            Từ cổ chí kim, từ Đông qua Tây, thiên hạ bàn về Người kể có hàng vạn cuốn sách. Chúng tôi xin tóm lược vài nét chính để quý độc giả có khái niệm trước khi đi vào chủ đề.
            Lịch sử văn hóa Tây phương cho thấy quan niệm về vũ trụ và con người thay đổi từng giai đoạn. Khởi đầu, từ rất lâu đời, là tin tưởng tuyệt đối vào thần minh và cho rằng, con người là nô lệ của thần minh:
            Quan niệm duy thiên = duy thần

            Kế đó, cách đây khoảng 2.500 năm, bắt đầu có những ý kiến chối bỏ thần minh và đề cao nhân bản, đặt con người nằm trong sự vận hành của vũ trụ:
            Quan niệm duy địa = duy lý

            Tuy nhiên, quan niệm duy địa chỉ mới khởi xướng đã bị dập tắt suốt một thời gian dài gần 2300 năm mới được hậu thế phục hoạt trở lại.
            Triết gia Kim Định bàn về vấn đề này như sau: “…Cho nên thần thoại là một tấm gương phản chiếu khá trung thực tư tưởng của loài người khi chưa bị ngoại cảnh chi phối của mỗi nền văn hóa nguyên thủy. Nó chính là nhân sinh quan và vũ trụ quan của mỗi dân tộc”.
            Căn bản của nền văn minh thế giới ngày nay xuất phát từ một số các nước sau đây: nước Ai Cập cổ đại, Mésopotamie, (vùng đất nằm giữa hai hai con sông Tigris và Euphrate còn gọi là Lưỡng Hà địa), Babilon, Hy Lạp, Do Thái, Ấn Độ và Đông Á (gồm các nước Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên…). Vậy trong phần mở đầu, xin mời quý độc giả điểm qua một số thần thoại đặc trưng.
            (Chúng tôi cố gắng tóm lược thật rõ ràng, ngắn gọn hi vọng không làm rối trí và gây sự nhàm chán trước một số độc giả ít quan tâm về vấn đề này)

            IV/2 .- VĂN MINH MIỀN MÉSOPOTAMIE VÀ THẦN THOẠI BABYLON

            IV/2A .- Mésopotamie
            Vùng đất Mésopotamie rất phì nhiêu, nằm giữa hai con sông nổi danh Tigris và Euphrate chảy song song từ bắc tây-bắc xuống nam đông-nam và đổ ra vịnh Persian (vịnh Ba Tư). Thời thượng cổ người ta gọi vùng đất này là địa đàng. Khu đông-nam gọi là Chaldée, khu tây-bắc gọi là Assyrie. Vùng này là chỗ gặp nhau của nhiều con đường giao thông đông, tây, nam, bắc nên nhiều dân tộc tranh nhau chiếm đoạt và nó trở thành nơi thị tứ văn minh khá rực rở thời cổ đại.
            Khoảng 2500 tr.CN, dân tộc Sémite cường thịnh lên ở miền Chaldée, họ lập đô tại Babylon. Luật Babylon xử rất nghiêm với quý tộc nhưng lại thường khoan dung cho giới bình dân và nô lệ.
            Khoảng 1000 năm sau, dân Assyrie diệt Chaldée, dày xéo Ai Cập rồi định đô ở Ninive. Họ đã có chiến xa bọc đồng, đặt trạm thông tin cho nhau…
            Chẳng bao lâu sau đó họ lại bị người Babylon dưới sự lãnh đạo của vua Nabuchodonosor nổi lên tàn phá thành Ninive lạp lại đế quốc Babylon. Nhưng rồi Babylon lại bị vua Cyrus nước Ba Tư tàn phá… Hai xã hội Chaldée và Assyrie tuy cường thịnh không lâu dài nhưng họ rất văn minh và có nhiều đóng góp cho nhân loại.
            Luật miền Mésopotamie khắc trên đá, xã hội có ba giai cấp: quý tộc, bình dân và nô lệ. Phụ nữ bình đẳng với nam giới và được tham gia công việc xã hội… Lâu đài, thành quách xây bằng gạch, cửa bằng đồng. Babylon có vườn treo, cung điện cực kỳ rực rỡ… Họ khá giỏi về khoa thiên văn. Thư viện có nhiều sách văn học, triết học, lịch sử, khoa học. Tuy nhiên, chữ viết của họ rất khó học và nhiều bất tiện nên không phổ cập trong dân chúng…

            IV/2B .- Thần thoại Babylon:
            Khi đó chưa có trời cũng chưa có đất nên gọi là Thái hoang (Tiamat). Thần Apsu pha nước vào Thái hoang Tiamat để sinh ra các thần tử, tôn, cháu, chắt… Dần dần các vật lớn lên và thành hình vũ trụ. Đột nhiên Thái hoang Tiamat giết hết các thần khác để độc chiếm vũ trụ. Nhưng Thái hoang vốn vô trật tự nên không cai trị được, khiến vũ trụ đảo lộn.
            Bấy giờ có thần Marduk thổi một luồng gió cực mạnh làm bão rồi dùng vũ khí đẩy cơn bão vào miệng Thái hoang đang há ra chực nuốt Marduk. Bụng Thái hoang Tiamat phồng lên, Marduk liền đâm một nhát dao vào bụng, Thái hoang nổ tan tành. Marduk xẻo Tiamat làm hai mảnh, một miếng treo lên làm trời, một miếng trải ra làm đất.
            Kế đó Marduk lấy đất sét nhào với huyết của mình mà tạo ra loài người với mục đích để phục vụ các thần. Lúc đó con người dốt nát như thú vật. Một thời gian sau có thần người cá dạy cho nghệ thuật, khoa học, xây thành, luật lệ… và cũng vì đó mà loài người phạm tội với các thần khiến các thần tức giận làm lụt hồng thủy để tiêu diệt nhân loại.
            Có một thần tên là Ea thương loài người muốn duy trì loài người bèn giúp một dòng tộc đạo đức là gia đình ông bà Sahamashnapisthim. Thần dạy cho ông này đóng một tàu lớn. Khi hồng thủy dâng lên giết hết nhân loại thì ông Sahamashnapisthim đem cả gia đình lên tàu. Nhờ vậy gia đình ông khỏi chết và trở thành thủy tổ của nhân loại. Sau đại hồng thủy, các thần tưởng rằng loài người đã hoàn toàn bị hủy diệt nên hối hận và cãi nhau vì từ nay không còn người phục vụ họ nữa.
            Khi nước hồng thủy rút thì tàu của gia đình ông Sahamashnapisthim mắc cạn trên đỉnh núi Nisir. Ông liền thả một con chim câu đi dọ thám tình hình. Khi biết nước đã rút, ông liền đem gia đình ra khỏi tàu và dâng lễ vật tạ ơn lên các thần. Các thần vô cùng kinh ngạc thấy loài người vẫn còn sống sót. Họ sung sướng nhận lễ vật của ông Sahamashnapisthim với lòng biết ơn và xúm xít bu lại quanh của lễ đông như đàn ruồi.
            Từ thần thoại Babilon cũng gọi là văn minh Mésopotamie, chúng ta thấy con người vẫn do thần linh (Marduk) sinh ra để phục vụ họ và hầu hết các thần này đều là ác thần, vô đạo.
            Những xã hội theo truyền thống thần minh này có những lễ, tục lệ cực kỳ dã man :
            - Dân Mo-ap giết con trưởng nam để tế thần khi sắp ra trận. Sau khi thắng trận họ lại giết hàng ngàn kẻ địch để cảm tạ thần.
            - Dân Assyrie săn bắt các dân tộc khác hoặc kẻ địch để tế thần Ashur (thần mặt trời).
            - Dân Phénicien và dân Carthage mỗi năm thiêu sống hàng trăm trẻ em để tế thần Moloch.
            - Người Trung Hoa thời quân chủ cũng có tục lệ giết người để tế cờ trước khi ra trận hoặc trả thù cho cha mẹ bằng cách giết kẻ địch và moi tim* trước bàn thờ.
            * Tục moi tim kẻ địch để trả thù cho cha mẹ vẫn được tả trong các tiểu thuyết dã sử và kiếm hiệp Trung Hoa. Người Việt cũng bị ảnh hưởng, tuy nhiên thường chỉ tế cờ bằng trâu, bò trước khi tham chiến mà thôi. Thảng hoặc lắm mới có chuyện giết người trước bàn thờ tổ tiên như vua Gia Long đã giết các con của vua Quang Trung trước Thái Miếu, đào mả vua Quang Trung, cắt đầu để vào buồng xí còn xác thì giả nhỏ, trộn với thuốc súng bắn ra Biển Đông sau khi diệt được Nhà Tây Sơn. Chế độ cai trị và luật pháp của triều Thanh đã ảnh hưởng rất nặng lên triều Nguyễn.

            IV/3 .- AI CẬP CỔ ĐẠI

            Khởi đầu họ sống từng tiểu bang có dạng như tự trị, đại đa số tập trung vào hạ nguồn sông Nil. Vùng này gần biển, khí hậu mát mẻ, đất đai phì nhiêu. Đời sống dân chúng thoải mái.
            Cho đến cách đây 5000 năm (chú ý: thời gian này ở Đông Á, Hiên Viên lãnh đạo các Hậu du mục Hoa tộc xâm lăng đất đai người Miêu) vua Ménès dùng sức mạnh quân sự thống nhất các tiểu bang và lập nước Ai Cập. Xã hội Ai Cập thịnh lên, chia thành nhiều cấp: quí tộc, giáo sĩ, công thương và nông dân. Giới nông dân bị đối xữ khắc nghiệt nhất, hầu như họ phải gánh vác tất cả mọi công việc của đất nước: đi lính, làm phu, xây dựng lâu đài, thành quách, đền thờ, Kim tự tháp, phục dịch giai cấp quý tộc và giáo sĩ…
            Họ thờ nhiều thần, tin linh hồn bất diệt nên có tục ướp xác khi chôn cất hoặc xây Kim tự tháp. Đủ loại thần: thần thiện, thần ác, thần mặt trời, thần mặt trăng, thần bò, thần cá sấu… hai vi thần lớn nhất là thần sông Nil và thần Mặt Trời. Vua cũng là thần và được tôn thờ ngang hàng với thần sông Nil.
            Họ biết dùng thuyền buồm, bánh xe, nấu thủy tinh, dệt vải rất mịn và đào kinh đưa nước vào ruộng. Kiến trúc, toán học (ký hiệu Pi:3.141605), làm lịch (365 ngày), tính giờ và chữ viết. Chữ viết, chữ số và toán học… của họ đã giúp rất nhiều cho sự tiến bộ của nhân loại ngày nay.
            Vì thờ quá nhiều thần linh và thường xuyên bị áp bức, đày đọa liên tục của giới vua chúa, quý tộc, tăng sĩ… nên đại đa số nông dân nghèo đói, yếu đuối khiến dân tộc Ai Cập nói chung có tinh thần yếu hèn, chấp nhận thiệt thòi, dễ bị khuất phục. Do vậy Ai Cập thường xuyên bị nạn ngoại xâm tàn phá, đô hộ… đến độ về sau họ trở thành nhu nhược, quên đi gần hết văn hóa cha ông. Họ không đọc được chữ viết, không biết đến lịch sử, thơ văn, toán học… đã được tổ tiên họ ghi chép trong các đền thờ, hầm mộ, cung điện và những Kim tự tháp!
            Vào thế kỷ 18, người Âu châu tìm được cách đọc chữ Ai Cập mà học được toán hình học và đại số học, lịch sử, văn chương, khoa học thiên văn… trong các Kim tự tháp, phần mộ, đền đài Ai Cập cổ đại… Có thể nói rằng, thế giới Tây phương văn minh lên mau chóng một phần nhờ sự phát hiện và tiếp thu kịp thời nền văn minh Ai Cập cổ đại cũng không phải là không đúng.
            Người Ai Cập mưu cầu hạnh phúc bằng cách tựa hẳn vào thần linh là tự đặt mình vào vị thế vong thân vậy.

            IV/4 .- HI LẠP CỔ

            Cách đây khoảng 4000 năm, giống Hélène (Hi-Lạp) du mục, rất dã man, dơ dáy, tàn bạo… rời châu thổ sông Danuble (Đông Âu) di dân về phía Nam tìm đất sống. Họ chiếm bán đảo Grèce (xin đừng lộn với đảo Crète) và học được văn minh Grèce và Phénie mà trở nên văn minh, hùng cường hơn hẳn cha ông họ thủa trước. Tuy nhiên từ nhiều lý do, dân Hi Lạp cổ không thống nhất được mà lập ra nhiều thành phố tự quản và thường chống phá nhau.
            Họ thờ rất nhiều thần : thần mưa, thần gió, thần núi, thần biển, thần tài, thần thể thao, thần văn chương, thần khoa học… cao nhất là thần Zéus (thượng đế) nắm quyền lãnh đạo các thần khác. Những vị thần Hi Lạp có nhiều đức, nhiều tật xấu y như loài người. Thần Zeus, cũng được gọi là thượng đế nhưng tính tình cũng đầy tham sân si y hệt con người.
            Hầu như tất cả mọi người, khi có vấn đề đều tới các đền thờ, điển hình là đền Delphes, để xin ý kiến của thần linh như người Việt đến chùa, miểu xin xăm… Giai cấp quí tộc, tư tế, chiến sĩ, thương nghiệp… dành hết mọi quyền lợi và được nhiều ưu đãi trên giới bình dân và nô lệ. Tuy nhiên so với các dân tộc khác, đời sống dân Hi Lạp được coi là thoải mái. Bởi vì mọi việc gian khổ họ đều giao cho nô lệ quán xuyến cho đến cả những việc quan trọng như quản gia, chăm sóc đồng ruộng, dạy học, buôn bán, thư ký các văn phòng…
            Thần thoại Hi-Lạp cho đến ngày nay vẫn còn ảnh hưởng rất mạnh trên thế giới, nhất là Âu châu và Mỹ châu. Câu chuyện như sau:
            Thượng đế Uranos lấy Ga-Ea (thần đất) sinh ra các thần gọi là Titans. Các Titans tranh quyền cai trị với cha là thượng đế Uranos, nên Uranos tức giận giam các Titans vào Tartare (âm phủ). Mẹ Ga-Ea phản đối hành động tàn ác của cha Uranos bèn âm mưu với các Titans tìm cách giết cha. Một Titan tên là Kronos (thần Thời Gian) đứng ra đảm nhiệm việc này. Mẹ Ga-Ea liền trao cho Kronos một vũ khí có dạng lưỡi răng cưa.
            Khi thượng đế Uranos đến thăm Ga-Ea có thần Trèbe hộ vệ, lúc hai thần đang âu yếm nhau thì thần Kronos xông đến đâm chết cha và dùng vũ khí có lưỡi răng cưa cắt thịt cha ra từng mảnh vất xuống đại dương. Máu Uranos chảy ra khắp nơi biến thành những thần Furies (thần Giận dữ). Những miếng thịt nổi lềnh bềnh trên đại dương bị sóng đánh nổi bọt biến ra các nữ thần Vénus (Aphrodite, thần Vệ nữ).
            Hạ sát cha xong, thần Kronos cứu các Titans ra khỏi Tartare và kéo nhau lên núi Olympe chiếm ngôi Uranos (núi Olympe là ngọn núi cao nhất ở Hi-Lạp, kinh đô của thượng đế Uranos). Các Titans bèn tôn Kronos lên ngôi thượng đế. Kronos lấy chị Rhe-Ea làm vợ. Theo lời nguyền của Uranos trước khi chết, thì Kronos sẽ bị một trong các con chiếm mất ngôi, nên hễ nàng Rhe-Ea sinh đứa nào thì Kronos ăn thịt liền đứa đó. Tuy nhiên mẹ Rhe-Ea cũng dấu được một đứa tên là Zeus (Jupiter) trên đảo Crète.
            Quả nhiên, khi lớn lên, Zeus truất quyền cha Kronos và bắt phải nhả các anh em mình ra, đồng thời Zeus đầy các Titans (chú, bác, cô, dì) xuống đất. Nhờ vậy mà trái đất bắt đầu có loài người.
            Từ đó, thần Zeus làm chủ trời đất, đặt bản doanh trên núi Olympe. Thượng đế Zeus vốn hoang dâm, đêm nào cũng mò xuống vùng bờ biển Địa Trung Hải (Méditerranien) tìm gái trần gian. Cũng vì vậy mà trần gian có nhiều người có họ máu với thần minh, nhất là… người Hi-Lạp quý tộc. Các thần đều qui phục Zeus ngoại trừ bà vợ Zeus là bà Junon thì nhất định không phục. Bà Junon vốn là một nữ thần rất chua ngoa, đanh đá. Có lần Zeus giận bắt bà treo lơ lửng giữa trời, hai chân buộc hai núi đá cho nặng. Junon trả đũa cũng dữ dội không kém. Bà bắt trói cổ Zeus giam vào xó tối, may nhờ có thần Briarée lén vào mở trói cứu thoát.
            Trong số các Titans bị đày xuống trần gian làm người, có người tên làTitan Japet sinh được một con trai là Prométhée. Một hôm thần Minerve xuống chơi trần gian thì gặp chàng Prométhée, thấy chàng thông minh, tuấn tú thì đem lòng thương mến. Khi trở về, Minereve liền đem chàng theo cho biết sự giàu sang của kinh đô Thượng đế Zeus trên núi Olympe. Lợi dụng cơ hội đó, Prométhée liền ăn cắp lửa đem về giúp trần gian bớt tăm tối. Chẳng may Thượng đế Zeus biết được, bắt Prométhée treo lên núi Caucase cho chim kên kên ăn gan. Sau 13 thế hệ, Prométhée được thả ra nhưng Zeus lại đeo vào tay chàng một chiếc vòng có miếng đá núi Caucase và gọi là vòng định mệnh (có nghĩa con người là nô lệ của thần minh và phải chết). Theo bản viết của Dies thì Prométhée có nghĩa là “tư tưởng nhìn xa” là một vị thần có khuynh hướng nổi loạn…
            Dân Hi-Lạp mừng lễ Zeus rất long trọng, dâng cho ông ngày thứ Năm (Jeudi) còn kính Junon vào tháng Sáu (Juin). Thần Vệ nữ được kính vào thứ sáu (Vendredi). Mars vốn là thần chiến tranh được La-Mã chọn làm tháng Ba (Mars)… Ở Academie thì người ta thờ Prométhée và để nhớ ơn chàng đã mang lửa về cho trần gian nên đã có tục chạy đuốc từ núi Olympe đến nơi thi đấu thể thao. Ngày nay thế giới vẫn còn truyền tụng cảnh rước đuốc và châm lửa trong các lễ khai mạc Thế vận hội …
            Thần minh Hi-Lạp đưa ra hai mẫu người mang hai vị thế khác nhau trong xã hội: Khởi đầu con người được sinh ra từ các Titans bị đầy. Kế đến là một mẫu người cao cấp hơn tức là dân tộc Hi Lạp và sau này là dân La Mã, được sinh ra do thượng đế Zeus và gái Địa Trung Hải. Hai dân tộc Hi Lạp và La Mã cho rằng mình có họ máu với thần minh, tự nhận là người tự do, có nhiều uy quyền trên các dân tộc khác gọi là người nô lệ. Tuy nhiên, cả người tự do lẫn nô lệ đều phải lệ thuộc thần minh, phải tế lễ, phụng sự thần minh.
            Con người của văn hóa Hi Lạp và La Mã vong thân từ khởi điểm của thần thoại này.

            IV/5.- THIÊN CHÚA YÉHOVA VÀ DÂN TỘC ISRAEL

            Dân Israel, Do Thái, có tên cổ là Hébreux và thiên chúa Israel có tên là Yéhova cũng gọi là Yahvé. Yéhova có tự vô cùng và tồn tại đến vô cùng, thông minh sáng láng, biết trước mọi việc, quyết định mọi sự trên trời dưới đất… Jéhova sáng tạo và cai quản vũ trụ với nhiều thiên thần hầu hạ.
            Thiên thần tổng thủ lãnh là Luciphe cấu kết với một số thiên thần nổi lên làm loạn, dành ngôi thiên chúa. Các thiên thần trung thành, đứng đầu là Michael chống lại Luciphe, tạo thành một cuộc đại chiến làm chấn động các tầng trời. Cuối cùng nhóm Luciphe thảm bại, bị loại ra khỏi thiên đường. Tuy nhiên, chúng vốn là thiên thần có nhiều quyền năng, sự hiểu biết và có đời sống bất diệt nên Yéhova không thể hủy diệt hay bỏ tù chúng được. Từ đó chúng trở thành quỷ dữ luôn luôn tìm cách chống đối thiên chúa
            Kế đó, Yéhova dựng lên trời đất, tinh tú, biển rộng, cây cối và muôn thú trong năm ngày. Ngày thứ sáu ngài lấy đất sét nắn thành hình tượng giống mình rồi hà hơi vào, tạo ra ông Adam, lại lấy xương sườn Adam đắp đất tạo ra Eve, đó là hai thủy tổ nhân loại. Thiên chúa Yéhova cho hai người ở vườn Địa đàng (khoảng giữa hai dòng sông Euphrate và Tigris vùng đất này ngày nay thuộc nước I-Raq). Đó là một khu vườn tuyệt diệu đầy đủ cây trái và muôn thú. Thiên chúa Yéhova cho hai ông bà xử dụng tất cả nhưng lại cấm hai người không được ăn trái của hai cây rất đặc biệt ở giữa vườn, gọi là trái cấm. Một cây có tên “Biết lành biết dữ” có nghĩa là hiểu biết và thông suốt mọi việc thiện ác. Một cây có tên “Sống muôn đời” có nghĩa ăn trái cây ấy sẽ sống mãi, bất diệt (thiên chúa và các thiên thần lẫn quỷ dữ đều đạt được hai yếu tố: Biết lành biết dữ và sống muôn đời cộng thêm bản năng sẵn có)
            Một hôm, Eve bị quỷ (thần Luciphe) lấy hình một con rắn dụ dỗ ăn trái cấm cây “biết lành biết dữ” sẽ thông minh, thông suốt mọi vấn đề y như thiên chúa. Eve nghe bùi tai, ăn và đưa cho Adam cùng ăn. Liền khi đó, họ trở nên thông suốt mọi vấn đề. Thiên chúa biết được, giận dữ đuổi hai ông bà ra khỏi vườn Địa đàng. Chẳng những thế, họ bị phạt sẽ phải khổ sở để kiếm sống và phải chết. Eve phải chịu thêm nỗi đau đớn lúc sinh đẻ. Hình phạt này con cháu muôn đời phải gánh, gọi là tội tổ tông. Thiên chúa lại đặt một thiên thần tên là Chérubim cầm gươm lửa canh giữ vườn địa đàng vì sợ hai ông bà có thể trở lui ăn trái cây sống muôn đời : “E chúng nó sẽ bằng ta chăng”.
            Nhiều ngàn năm sau, loài người sinh sôi đông đảo, không còn nhớ tới Yéhova và gây nhiều điều tội lỗi liền bị thiên chúa làm lụt hồng thủy, hủy diệt toàn thể nhân loại, chỉ chừa gia đình ông Noe là được cứu sống(chuyện ông Noe đóng tàu tị nạn hồng thủy gần giống chuyện Sahamashnapisthim đóng tàu của thần thoại Babilon). Từ gia đình ông Noe nhân loại lại sinh sôi nẩy nở lan tràn khắp mặt đất.
            Nhiều chục ngàn năm sau nữa (khoảng năm 1500 tr. CN), thiên chúa Yéhova lập giao ước với một người tên Abram ở Chaldé như sau: con cháu Abram sẽ sinh đẻ đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển; Abram và con cháu đời đời được thiên chúa phù trợ để trở nên giàu có, được hứa ban cho toàn vùng đất Ả Rập từ sông Euphrate đến biển Địa Trung Hải và từ Biển Đỏ đến núi Liban. Đổi lại, Abram và con cháu phải đời đời phụng thờ Yéhova với những lề luật do Jéhova ấn định, phải thi hành mọi ý muốn của Yéhova qua các ngôn sứ còn gọi là tiên tri và không được thờ bất cứ một thần nào khác. Sau khi giao ước, thiên chúa Yéhova liền đổi tên của Abram thành Abraham, có nghĩa người đã giao ước.
            Dân Do Thái là con dòng vợ chính của Abraham nên được tách riêng để thi hành giao ước. Một số rất đông các dân tộc Ả Rập khác cũng thuộc máu mủ của Abraham nhưng là dòng phụ nên không tính. Dân Do Thái vốn hiếu chiến, ăn gian nói dối, xử sự cực kỳ tàn độc nên bị chính các dân tộc bà con của họ căm ghét, hận thù hầu như muôn đời.
            Khi dân Do Thái thịnh vượng thì thường quên giao ước, cưới vợ ngoại giáo và thờ lạy các thần linh của các dân tộc lân cận nên bị Yéhova hành phạt vô cùng nặng nề. Khi họ khổ quá, cầu xin tha tội và làm những lễ toàn thiêu chiên, bò cực kỳ tốn kém thì được thiên chúa tha thứ và cứu giúp. Họ đánh bại quân thù, xây dựng lại non nước, đền thờ. Suốt 3.500 năm (từ năm 1500 tr.CN đến 1946), lịch sử Do Thái là một thiên bi hùng ca liên tục.
            Trong toàn bộ kinh Cựu ước, nhiều lần, chính thiên chúa Yéhova tự nhận mình là một vị thần dễ nổi nóng, hay ghen tị, hay thù dai, hay hờn lẫy, hoặc bỏ mặc không thèm đếm xỉa đến dân Do Thái nữa… những khi ấy Yéhova xúi các dân tộc khác “hành” dân Do Thái chết bỏ. Tuy nhiên Yéhova cũng dễ cảm động trước những lời cầu xin tha thứ. Ngài lại ban ơn, giúp đỡ phù trợ dân Do Thái rất nhiệt tình. Nhiều lần ngài hứa hẹn với dân Do Thái… nghe đã lỗ tai vô cùng.
            Khi thương thì Yéhova thiên vị Do Thái đến độ coi các dân tộc khác còn tệ hơn cả con giun con dế. Yéhova kỳ thị và cực kỳ tàn độc với các dân tộc khác không còn một chút gì gọi là nhân đạo. Chẳng hạn ngài ra lệnh cho Do Thái khi chiếm được thành nào của dân ngoại thì phải “tru hiến” (tàn sát để hiến dâng) nghiã là giết hết nam, phụ, lão, ấu kể cả đàn bà mang thai, cho đến cả dê, bò, ngựa, chó, gà… Phá bình địa nhà cửa, thành quách, đền đài… không được bỏ sót một thứ gì ngoài mặt đất trống trơn, dù họ có cùng huyết thống và chẳng thù oán gì với dân Do Thái cả!
            Tuy nhiên, Do Thái sau gần 1.500 năm lập quốc (kể từ năm 1500 tr.CN đến năm 70 s.CN) vẫn kỳ còm trong giải đất Palestin tí xíu, với 2/3 là sa mạc, với nội chiến và chiến tranh cùng khắp các dân tộc láng giềng hoặc làm nô lệ hết nước này qua nước khác hầu như không bao giờ chấm dứt. Và cuối cùng, năm 70 họ bị người La Mã đuổi ra khỏi tổ quốc làm kiếp tha hương gần 2000 năm. Từ đó dân Do Thái lưu vong trên khắp thế giới, đi tới đâu họ cũng bị các quốc gia địa phương kỳ thị, xua đuổi, hạn chế việc làm và nhất là đổ lên đầu họ đủ thứ tội: tội giết chúa, tội nguyên nhân gây ra các bệnh dịch tả, dịch hạch, hạn hán, lụt lội, giúp nước thù địch, gián điệp… Họ tràn vào những khu Do Thái cư ngụ tàn sát, hảm hiếp, cướp bóc, xua đuổi dân Do Thái cực kỳ dã man! Điển hình, từ năm 1938-45 dân Do Thái bị quốc xã Đức thủ tiêu trên bốn triệu người trong các lò thiêu.
            Năm 1946, đế quốc Anh làm ngơ cho nhiều nhóm Do Thái trở về mua đất lập làng trên quê hương cũ và cuối cùng hội Quốc liên chấp nhận cho họ đôc lập 1947. Vừa tuyên bố độc lập họ bị các nước Ả Rập trong toàn vùng liên minh tấn công trước sau 3 cuộc chiến tranh tàn khốc. May mắn họ được các nước Tây phương trợ lực vô cùng tích cực. Cả ba cuộc chiến tranh họ đều chiến thắng lẫy lừng và bảo vệ được nền đôc lập. Dù thế, cho đến nay họ vẫn không sống yên ổn được vì các dân tộc Ả Rập không chấp nhận sự hiện diện của họ trên vùng đất Ả Rập.
            Đó là sơ lược sự liên hệ giữa thiên chúa Yéhova và dân tộc Israel. Phải chăng, dù dựa vào vị thần minh oai hùng nhất vũ trụ hay cường quốc hùng mạnh nhất địa cầu mà bản chất vong thân thì hạnh phúc dẫu có cũng chỉ chập chờn như gió thoảng, mây trôi?

            IV/6 .- NHỮNG TÔN GIÁO THỜ ĐỘC THẦN

            Từ năm thứ 30 sau CN, tại Israel, một người Do Thái tên là Jésus dựa vào kinh điển Do Thái giáo cổ rao giảng một giáo lý mới. Đạo mới cũng thờ thiên chúa Jéhova nhưng cổ vũ triết lý bác ái và sống thánh thiện để được hưởng ơn cứu độ. Năm 33, ngài bị bọn tư tế của Do Thái giáo cấu kết với nhà cầm quyền La Mã giết chết trên thập tự giá.
            Theo Tân ước thì ba ngày sau ngài sống lại, tiếp tục giáo huấn môn đồ thêm 40 ngày và về trời. Các môn đệ của ngài tiếp tục truyền bá đạo ngài trên toàn đế quốc La Mã và xưng là đạo Kitô. Đạo Kitô khởi đầu lan truyền ở Trung Đông, Bắc Phi châu và các thị trấn trong phạm vi đế quốc La Mã… Trong giai đoạn này, đạo chỉ hoạt động trong phạm vi tôn giáo. Các vua chúa La Mã nhận thấy Kitô giáo chủ trương con người ngang nhau trước mặt thiên chúa, nhiều điều trong giáo lý đụng chạm đến quyền lợi nhà vua và giai cấp quý tộc nên quyết định cấm đoán và truy diệt rất dã man. Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 3, đạo Công giáo được đế quốc La Mã thừa nhận và giúp đở, nhờ đó đạo phát triển rất mạnh khắp Âu châu và thế giới.
            Đầu thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mã chia làm hai đế quốc: đông La Mã và tây La Mã. Đạo Công giáo cũng bị ảnh hưởng, chia thành hai: giáo hội phương Đông và giáo hội phương Tây. Tuy nhiên khi cả hai đế quốc đông, tây La Mã kế tiếp nhau sụp đổ thì hai giáo hội này vẫn liên tục kình chống nhau cho đến ngày nay.
            Từ sau năm 555, chiến tranh giữa các tộc, các rợ ở Âu châu chống lại đế quốc La Mã để dành độc lập xẩy ra triền miên, giáo hoàng Grégoire Le Grand lãnh đạo giáo hội phương Tây (đại giáo hoàng 590-604) dùng uy thế tôn giáo, thành lập quân đội, xây dựng nhiều nhà thờ, cung điện và nhiều tu viện (những tu viện này có giá trị như những pháo đài), can thiệp thường xuyên vào phạm vi thế quyền… Từ đó uy quyền của giáo hội phương Tây vươn ra khắp châu Âu và gọi là Công giáo La Mã do giáo quyền Công giáo chọn Vatican (Rome) là thủ đô.
            Đầu thế kỷ 7, ở La Mecque và Médine Trung Đông, Mahomet xưng là tiên tri cuối cùng của thiên chúa Jéhova (thiên chúa Do Thái) nhưng ông gọi là đấng Allah, lập đạo Mahomed. Đạo Mahomed lan tràn mạnh trong người Hồi (Hồ) nên cũng gọi là đạo Hồi hay Hồi giáo. Giáo lý Mahomed pha trộn giữa hai tôn giáo Do Thái giáo, Kitô giáo và một số truyền thống đặc thù của các dân tộc du mục sống trên sa mạc, khá giản dị. Ông chủ trương vừa mời gọi vừa hù dọa, khi cần ông cũng không từ chối chiến tranh gọi là thánh chiến để áp đặt tôn giáo mới lên các dân tộc quanh vùng.
            Trong suốt các thế kỷ thứ 7, 8, 9 đạo Mahomed phát triển liên tục. Hầu như toàn bộ Trung Cận Đông cùng một số nước ở Âu châu, Á châu và Đông Á quần đảo nằm trong ảnh hưởng đạo Mahomed. Nền văn minh Hồi giáo trong nhiều thế kỷ vươn lên một đỉnh cao tuyệt vời gồm chính trị, xã hội, văn chương, nghệ thuật, y học, toán học, thiên văn, trồng tia, kỹ nghệ…
            Vào đầu thế kỷ 11, một dân tộc theo đạo Mahomed gọi là người Thổ Seljoucides chủ trương dùng thánh chiến để mở rộng biên cương Hồi giáo. Từ Tân Cương họ tràn tới tiêu diệt Ba Tư, chiếm Hi Lạp, Syrie, Jérusalem, sát hại tín đồ công giáo, hăm dọa Constantinople.
            Năm 1095, phía Công giáo La Mã vận động các nước Âu châu tổ chức nhiều đạo binh Thập Tự Quân vượt biển Địa Trung Hải tấn công Hồi giáo. Cuộc thánh chiến này phía Tây phương dành lại được vài phần đất, quan trọng nhất là vùng Jérusalem. Tuy nhiên, phía Hồi giáo cũng chống cự vô cùng dũng cảm. Hai bên khi được khi thua giằng co mãi đến năm 1270 thì phía Âu châu kiệt quệ khiến họ phải bị ngưng lại. Phía Hồi giáo cũng dần dần phân hóa thành nhiều hệ phái chống phá nhau.
            Vào thế kỷ 16 -17, phía Công giáo La Mã có nhiều phong trào cải cách khiến đạo này chia thành nhiều phái: Công giáo, Tân giáo. Tân giáo lại chia làm hai: phái Luther và phái Calvin. Chia rẽ tôn giáo gây ra chia rẽ chính trị và tạo thành những cuộc chiến tranh giữa các nước Âu châu hoặc nội chiến.
            Nói chung, tiếp theo Do Thái giáo với thiên chúa Jéhova bắt đầu từ thời thượng cổ, là các tôn giáo mới (từ năm 0033 trở về sau) thờ độc thần : giáo hội Công giáo, giáo hội Đông phương, giáo hội Chính thống, giáo hội Anh Quốc, Hi-Lạp, hàng trăm giáo hội Tin Lành và các hệ phái Hồi giáo… đang là một cộng đồng tôn giáo quan trọng trong đời sống nhân loại ngày nay. Tuy nhiên, hầu như họ không thể ngồi lại với nhau được dù thờ cùng một vì thiên chúa.
            Từ nhân sinh quan thiên chúa giáo của Do Thái cổ, chúng ta vẫn thấy con người chưa thoát ra được những hệ lụy của tính vong thân vì vẫn phải run sợ, vẫn phải nương tựa, phải cầu xin sự cứu độ nơi thần linh…

            IV/7 .- NGƯỜI TRONG VĂN HÓA ẤN ĐỘ

            Trước năm 1200 tr.CN, các dân tộc bản thổ tại Ấn Độ đã có nền văn hóa gọi là văn hóa Dravidian. Sau đó là nền văn hóa ngoại xâm gọi là Aryian vùi dập Dravidian mà thay thế. Từ Phật Thích Ca xuất hiện vào khoảng năm 600 tr.CN cho đến ngày nay thì văn minh Ấn Độ chuyển dần thành sự kết hợp giữa hai nền văn hóa cổ xưa nói trên. Tuy nhiên, văn hóa ngoại xâm Aryian tại Ấn Độ luôn luôn làm chủ tình thế.
            Văn hóa Dravidian hướng về nhân bản tâm linh mang tầm vóc vũ trụ. Linh hồn gọi là Purusa, xuất phát từ thần Prajapati cũng gọi là Brahma tức là chúa tể vũ trụ. Prajapati đã tự hóa thân thành Purusa đại ngã (nói một cách khái quát: đại ngã là sự thành đạt tuyệt đối về thể xác cũng như tinh thần. Với Phật giáo là thoát khỏi kiếp luân hồi, với Công giáo là bậc thánh, với Nho thì là người quân tử…). Cứu cánh của văn hóa Dravidian là phải đạt được đại ngã để trở về với Prajapati, chúa tể vũ trụ và Yoga là phương pháp để đạt thành đại ngã. Đó là nhân bản toàn diện; cũng vì thế mà văn hóa Dravidian bị quan niệm thần minh của văn hóa Aryian đàn áp.
            Khoảng năm 1200 tr.CN, một nhánh thuộc giống Ấn Âu (Ariyan) từ phía Đông biển Caspienne tiến về Nam. Một phần lập quốc tại cao nguyên Iran (Ba Tư). Phần còn lại xâm lăng Ấn Độ của cư dân Dravidian. Họ lập ra cả ngàn tiểu quốc. Họ đàn áp dân tộc Dravidian và hủy diệt văn hóa của dân tộc này. Người Aryian lập đạo Bàlamôn làm quốc đạo, xã hội chia thành 4 giai cấp: quý tộc, tu sĩ, chiến sĩ, và nông-thương. Thổ dân Dravidian không được kể tới nên gọi là vô loại (padi). Họ bị tội đổ chì vào lỗ tai nếu bị bắt khi đang nghe lén tu sĩ Bàlamôn đọc kinh. Các chế độ tiểu quốc ở Ấn Độ và cách đối xử cực kỳ dã man với người Dravidian tồn tại mãi cho đến cuối thế kỷ 19 mới được người Anh bãi bỏ.
            Quan niệm thần minh của người Aryian hướng về cứu độ, đặt nặng linh hồn mà khinh bỏ thể xác, ngược lại với quan niệm tiến hóa toàn diện vừa thân xác vừa tinh thần của Dravidian. Chính sự mâu thuẫn này mà văn hóa của kẻ bị mất nước Dravidian phải chìm vào bóng tối gọi là “đạo kín”, họ tu trong rừng sâu ở các hốc núi, gốc cây…
            Tuy nhiên văn hoá Dravidian vẫn được nhiều người ái mộ, kể cả những quý tộc Ariyan. Họ tu học “đạo kín” Dravidian trong rừng sâu. Năm 563 tr.CN, đức Thích Ca Mâu Ni cỡi bỏ giai cấp quý tộc của mình, vào rừng tu theo “đạo kín” này. Sau 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới một gốc cây bồ đề, ngài cải sửa, hoàn chỉnh tư tưởng và nguyên tắc hành đạo của đạo này thành một triết lý uyên thâm. Đạo Phật phát sinh từ đó.
            Đạo Phật cũng giống Kitô giáo, không phát triển được ở quê hương vì bị giới tu sĩ đạo Balamôn đang thịnh hành hợp với chính quyền địa phương chống phá, tàn sát… Phải phát triển ra các nước láng giềng. Phải chăng nhờ vậy mà Phật giáo và Công giáo mang tính cách thế giới?
            Nếu so với nền văn minh Trung Hoa ngày nay thì văn hóa kẻ xâm lăng là Hoa tộc vốn rất lu mờ trước văn hóa sáng chói của các dân tộc bị xâm chiếm (Miêu tức Viêm còn gọi là Bách Việt). Sự kiện trên khiến văn minh Trung Hoa mang dấu ấn: kẻ xâm lăng đóng dấu quốc tịch Trung Hoa lên các giá trị tư tưởng của cư dân bản xứ. Cái dở của Hoa tộc là không có can đảm nhìn nhận nền văn hóa mang dấu môc kia là của dân bản địa mà còn lật lọng gọi cư dân bản xứ là “man di”, “Nam man”. Quả thật, họ thua xa du mục Aryian Ấn Độ về mặt thành thật ngoại trừ đức Khổng Phu Tử.
            Chúng ta tạm ngưng tìm hiểu các nền văn minh loài người để xem vào khoảng năm 500 tr.CN phương Tây và Trung Á nghĩ gì về thần minh.

            IV/8 .- SUY TƯ CỦA CÁC TRIẾT GIA HI LẠP CỔ

            Giữa thế kỷ thứ V trước CN, giới trí thức trong các đại học Hi Lạp đã có những suy tư về thân phận con người đáng cho thế giới ngày nay khâm phục.
            Họ cho rằng vạn vật trong thiên nhiên đều do những nguyên tử kết hợp lại mà thành. Chẳng những thế, có những người sáng suốt, nhận ra cái sai lầm của thời đại, đó là những triết gia tiên khởi của Tây phương như Socrate và các học trò của ông: Platon, Antisthène, Aristippe. Họ lập ra phép luận lý được nhiều người trọng vọng. Từ phép luận lý, họ khai mở nhân bản bằng khẩu hiệu: “Hãy tự nhận thức giá trị bản thân mình”.Cũng từ đó họ suy ra đạo đức học : “Con người có những hành động xấu xa chỉ vì người ta không biết và cũng không ai tự nguyện làm kẻ độc ác”.
            Chúng ta sẽ thấy từ những nhịp cầu tư tưởng của Socrate và nhóm học trò của ông… sẽ giúp Aristote (học trò của Platon) bước mạnh tới một chủ thuyết: “Người là một sinh vật biết suy lý” sau này.
            Socrate không để lại một tác phẩm nào, phải chăng khi ông bị ép phải uống thuốc độc chết, chính quyền và giới tư tế Hi Lạp đã thủ tiêu sách của ông? Tuy nhiên, Platon viết cuốn “Chế độ Cộng Hòa” để tả một chính thể lý tưởng, thì vẫn còn tồn tại.
            Học trò của Platon là Aristote (384-322 tr.CN), thầy dạy của Alexandre Đại đế, tiếp tục tiến tới sau khi “đi qua chiếc cầu” của những người đi trước. Ông đặt vấn đề về giá trị con người trước thần minh. Ông lý luận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất đồng thời coi cảm xúc, tư tưởng và khái niệm đều xuất phát từ các vật thể thực tại, mà ông nhận thấy nằm ngay trong mỗi bản thân. Chủ thuyết “Con người là một sinh vật biết suy lý” thành hình và là một bước tiến mới của tri thức con người trước cái mênh mông huyền bí của vũ trụ. Dù vậy Aristote đã không đả động gì đến chế độ nô lệ đang là một thực tại thê thảm khác hiện diện trước mặt ông mỗi ngày. Phải chăng triết lý nhân bản chỉ dành cho mẫu người có vũ khí trong tay? Hay ông đã gặp sự phản ứng từ phía chính quyền và tôn giáo? Bởi đó, chủ thuyết của Aristote đã tạo cơ hội cho Tây phương thế kỷ 17, 18 tiếp tục chối bỏ giá trị “nhân bản của giới nô lệ” cho đến thế kỷ 19.
            Nền triết học nhân bản Hy-Lạp vừa được khai sinh chưa được bao lâu thì bị quật ngã vì ba lý do:
            1.- Chính quyền và giai cấp tư tế Hi Lạp xưa nay vẫn dựa vào nhau để cai trị và hưởng những đặc quyền, đặc lợi. Nay có kẻ chống phá có thể nguy hại đến quyền lợi của mình, lẽ dĩ nhiên họ phản ứng. Kết quả, Socrate bị ép uống thuốc độc chết tại trường đại học và thế hệ sau đó, Aristote, cũng phải giả điên…
            2.- Giới chủ trương nhân bản hầu như chỉ hạn hẹp trong thành phần trí thức, trưởng giả chứ không phổ cập trong đại chúng.
            3.- Sự xuất hiện của một số tôn giáo mới mang nhiều nhân tính mà hầu hết xuất phát trong vùng Cận Đông.
            Giữa thế kỷ IV tr.CN, nhóm hậu sinh của nhà triết học cổ Antisthène, người sáng lập chủ thuyết Cynic mà người nổi danh nhất là Diogènes. Họ phê phán mạnh mẽ đường lối của Platon về các tư tưởng chủ đạo của chủ thuyết duy tâm khách quan. Họ cho rằng con người chỉ có thể hạnh phúc và đạo đức khi đoạn tuyệt với giàu sang, quyền lực và thú vui xác thịt. Con người cũng không nên lấy làm trọng các luật lệ của xã hội. Họ chủ trương từ bỏ mọi hình thức thờ phượng trong lễ nghi tôn giáo.
            Từ cuối thế kỷ IV đến III tr.NC, một nhóm triết gia, đứng đầu là Zénon, lập ra thuyết khắc kỷ (dằn sự ham muốn) gọi là chủ thuyết Stoycien. Họ chủ trương cần phải sống cho phù hợp với tự nhiên vì đấy là lý tưởng của kẻ trí thức, của hiền nhân thực sự. Thoát ly ra khỏi những dục vọng, là đạt được thanh thản tâm hồn, là hạnh phúc của con người…
            Vào những năm đầu kỷ nguyên thứ I, chủ nghĩa khắc kỷ bắt đầu phát triển trong phạm vi đế quốc La Mã. Chủ nghĩa được bổ sung thêm, chủ yếu là những tư tưởng thuộc về đạo đức và tôn giáo…
            Trở lại vấn đề các tôn giáo mới xuất hiện trong khoảng thế kỷ thứ VI tr.CN trở lại:
            1 – Nguyên vào thời gian này ở các nước Cận Đông xuất hiện một số tôn giáo mới, thích hợp với đa số đại chúng và nô lệ hơn là các thần thoại cổ, điển hình là của Ai Cập, Hi Lạp, La Mã và Mésopotamie. Trước hết là đạo Dionisos xuất hiện Sicily ở phía Nam nước Ý cuối thế kỷ thứ VI tr.CN được mọi người xưng tụng là đấng Cứu thế con Thiên chúa Jupiter (Zeus).
            2 – Xứ Capodo có đạo thờ nữ thần Ma, về sau đạo này tràn qua Ionie, La Mã và một số các nước khác. Người ta tin rằng, nếu tự hoạn hoặc hủy hoại một vài cơ phận trong cơ thể như tai, mắt, tay, chân… thì xin gì cũng được nữ thần Ma ban cho.
            3 – Nữ thần Isis được tôn xưng là thánh mẫu Isis của Ai Cập được truyền bá rất rộng và phát triển nhanh chóng nhiều nơi ở Châu Âu nhờ đạo này đưa ra hình ảnh bà mẹ đau thương, lân tuất và an ủi kẻ ưu phiền… đáp ứng trực tiếp vào niềm hi vọng của con người hơn. Người ta gọi thánh mẫu Isis là Sao biển, Nữ vương trên trời, Mẹ Thiên chúa… Chồng của Isis là Osisris được tổ chức mừng lễ sống lại vô cùng trọng thể. Con của họ là Horus mà trong các bức tượng điêu khắc người ta thường thấy mẹ Isis bồng trên tay.
            Đạo Isis được dân nghèo và dân nô lệ đón nhận mau chóng nhờ câu chuyện rất cảm động, lễ nghi tinh luyện, ca nhạc du dương, không phân biệt quốc tịch, sang hèn, đẳng cấp. Từ Ai Cập đạo Isis mau chóng tiến sang Sicile, La Mã, các nước quanh Địa Trung Hải và Tây Âu như Pháp, Ý, Tây Ban Nha,Hi-Lạp, Thổ Nhỉ Kỳ, Thụy Điển, Phần Lan, các nước ở Bắc Phi… rất mạnh, đến nay vẫn còn nhiều cộng đồng dân chúng duy trì thờ phượng …

            IV/9 .- VĂN MINH TÂY PHƯƠNG HIỆN ĐẠI

            Lịch sử thế giới đến thế kỷ 17-18 thì mọi di sản của thời trung cổ để lại ở Tây phương đều bị kích bác, loại bỏ. Những kẻ bảo tồn, binh vực các di sản ấy có thể bị khủng bố, diệt trừ như trước kia tôn giáo pháp đình* của tòa thánh La mã đã khủng bố và diệt trừ những người có tinh thần khoa học và tư tưởng mới vào giữa thế kỷ 16 vậy”.
            * Tôn giáo pháp đình do giáo hội Công giáo La mã lâp ra từ lâu nhưng hoạt động rất hạn chế trong phạm vi tín lý. Năm 1542, giáo hoàng Paul III cổ vũ dùng tôn giáo pháp đình để bài trừ tự do tư tưởng. Các giáo sĩ dòng Dominicain được bổ nhậm làm pháp quan và sai đi khắp nơi lập tòa án luận tội và kết án những người đề xướng tư tưởng khác biệt với giáo hội hoặc giới chủ trương cải cách hoặc bất tuân lệnh của tòa thánh… bằng những tội rất nặng có thể bị xử tử hình, hỏa thiêu, tù đày…
            Giáo hoàng Paul IV (1559-1565) ra lịnh khủng bố triệt để những kẻ tình nghi có tư tưởng tà giáo. Tôn giáo pháp đình còn tràn qua lãnh vực khoa học và triết học. Bắt đầu từ năm 1559 tôn giáo pháp đình tổ chức các cuộc đốt sách, báo, tài liệu… khác biệt với quan điểm Thiên chúa giáo. Họ buộc tội các khoa học gia, triết gia, nhà văn không tuân theo lập luận của tôn giáo là tà giáo, là phù thủy và thiêu sống họ vô cùng dã man!.
            Tôn giáo pháp đình được giai cấp thống trị tiếp đón nhằm dựa vào thế lực tôn giáo để đàn áp các nhóm lý thuyết cách mạng đang làm đảo lộn trật tự xã hội mà họ đang thống trị.
            Thế lực tôn giáo cấu kết với nhà cầm quyền đè nặng lên cộng đồng dân chúng mà sự cách biệt quá lớn tạo thành mâu thuẩn xã hội vô cùng gay gắt. Những nhà tư tưởng, học giả xưa nay vẫn là những người nghiên cứu sách vở Hi-Lạp cổ với Socrate, Platon, Antisphen, Aristote, Zénon, Diogènes… tạo thành những phong trào chống đối mỗi ngày một lan rộng. Những cuộc hội họp nhỏ kiểu phòng trà (salon) bàn thảo những vấn đề tranh đấu cho tự do con người và gọi là cổ điển nhân văn* nhưng xây dựng trên nguyên tắc duy nhân** . Đỉnh cao của giai đoạn chuyển hướng đã đến vào thế kỷ 17 và18 với những cuộc cách mạng tại Pháp mới thật sự chín muồi trong việc xóa bỏ quyền lực tôn giáo và các sử gia gọi đây là thời kỳ Phục hưng.
            * Nhân văn (humanities), những luận thuyết, bình luận, triết lý các vấn đề liên quan tới đời sống và giá trị con người. Chẳng hạn, tài liệu quý bạn đang đọc là một chủ đề Nhân văn.
            ** Duy nhân (anthropologie), chỉ chú trọng tới người, tất cả mọi vấn đề trong xã hội đều phải phụ thuộc vào người. Người là một thực thể riêng rẽ cộng thêm lý trí chứ không liên hệ gì đến trời đất. Tín ngưỡng tâm linh, đạo đức, luân lý, luật pháp, truyền thống… chỉ là thứ yếu hoặc không cần đếm xỉa đến. Duy nhân rất gần với hiện sinh. (xin xem hiện sinh được đề cập ở phần dưới)
            Tuy nhiên, Darwin, Hobbes, Hegel… vẫn cứ biện minh cho việc chiếm đoạt và bóc lột các dân tộc nhược tiểu kể cả duy trì chế độ nô lệ. Các cuộc cách mạng tại Pháp cũng mở màn cho sự chối bỏ quyền lực của giáo hội Công giáo La Mã trên chính quyền các nước Âu châu. Kể từ đây, giáo hội Công giáo chỉ hoạt động trong phạm vi nhà thờ mà thôi.

            IV/10 .- KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO

            IV/10A .- Khoa học và tôn giáo hòa hợp đượckhông?
            Khoa học không có tôn giáo thì què quặt,
            Tôn giáo không có khoa học thì mù lòa
            ”.–
            Albert Einstein
            Phải chăng, hiểu cách chính xác nhất, tôn giáo là bệnh truyền nhiễm của lý trí?
            Nhà sinh vật học Richard Dawkins.

            Trên đây là hai lời bình luận điển hình của các khoa học gia thuộc hai phe chống đối nhau trên thế giới ngày nay. Tôn giáo, thể hiện sắc thái tâm linh, tín ngưỡng. Khoa học, thể hiện các tính toán của suy lý. Đôi khi hai giới này được xem là những tử thù của nhau. Đối với một số người, hai phạm trù này dường như đã bị khóa chặt trong một trận chiến một mất một còn. Như vậy, liệu khoa học và tôn giáo có thể hòa hợp với nhau được chăng? Chúng tôi tin rằng được.
            Về phía chúng tôi, những người tự nguyện làm công việc vận dụng kiến thức và tâm ý để phóng họa một hướng đi, chắc chắn chúng tôi không thể bỏ sót vấn đề vô cùng gai góc này. Bởi vì tôn giáo và khoa học vốn là Lưỡng cực trong triết lý Nhất nguyên. Tách rời hay bỏ một trong hai vấn đề này ra khỏi đời sống con người là một sai lầm đầy máu và nước mắt của nhân loại. Các phát triển khoa học ngày nay rõ ràng đang lấn lướt tôn giáo, một giá trị tâm linh cực kỳ quan trọng trên đường đi của chúng ta.
            Tuy nhiên những tin tức khoa học mấy năm qua đã cho thấy những khám phá mới ngoài trái đất và con người đang buộc các nhà thiên văn, các nhà khoa học vật lý xem xét lại quan điểm của họ về nguồn gốc vũ trụ và nêu lên những câu hỏi ngàn xưa liên quan đến sự hiện hữu của loài người: Vũ trụ và sự sống đã bắt đầu như thế nào và tại sao?
            Các khoa học gia, khi gặp được cái cốt lõi tận cùng của con người, tức là cái bản đồ về bộ GEN người vừa được hoàn thành gần đây, cũng đã phát sinh nhiều câu hỏi: Vô số hình thái khác nhau của sự sống đã được tạo nên như thế nào? Và, ai đã sáng tạo ra những cái GEN đó?
            Cái GEN với những phần thiết kế cực kỳ phức tạp của con người đã khiến cho một tổng thống Mỹ phát biểu:
            Chúng ta đang học một thứ ngôn ngữ mà Thượng đế đã dùng để tạo nên sự sống!”.
            Một trong các nhà khoa học chủ chốt của chương trình giải mã GEN đã khiêm tốn nhận xét:
            Lần đầu tiên chúng ta được nhìn thấy tận mắt cẩm nang của chính mình mà trước đây hình như chỉ ông Trời mới biết”.
            Nhưng các câu hỏi vẫn còn nằm đó:
            • Sự sống và vũ trụ bắt đầu như thế nào?
            • Sự sống và vũ trụ là những kiến trúc cực kỳ phức tạp, vô cùng huyền diệu không thể là một ngẫu nhiên.
            • Tại sao chúng hiện hữu?
            Một số khoa học gia cho rằng mọi vận hành trong vũ trụ đều có thể được giải thích bằng phân tích lý luận của toán học mà không cần đến sự khôn ngoan siêu phàm nào. Nhưng lại cũng nhiều khoa học gia khác cảm thấy quan điểm đó không thỏa đáng. Vì thế họ cố gắng tìm hiểu sự thực qua cả hai lăng kính: khoa học và tôn giáo. Họ nghĩ rằng:
            • Khoa học giúp lý giải sự sống và vũ trụ quanh ta hiện hữu như thế nào.
            • Tôn giáo chủ yếu cho biết tại sao vũ trụ hiện hữu?
            Nhà vật lý học Freeman Dyson nói:
            Khoa học và tôn giáo là hai cánh cửa mà qua đó người ta cố gắng tìm hiểu vũ trụ bao la bên ngoài”.
            Tác giả William Rees-Mogg viết:
            Khoa học nghiên cứu những gì đo lường được, còn tôn giáo nghiên cứu những điều không thể đo lường được.”
            Ông cũng nói:
            Khoa học không thể chứng minh hoặc bài bác sự hiện hữu của Thượng đế, cũng như nó không thể chứng minh hoặc bài bác một quan điểm đạo đức hay thẩm mỹ. Không có một lý do khoa học nào khiến người ta yêu thương người lân cận hay tôn trọng sự sống của con người… Cho rằng không có điều gì hiện hữu mà không thể được chứng minh bằng khoa học là sai lầm, là ấu trĩ. Những nhận định ngông cuồng đó có thể dẫn đến việc phủ nhận hầu hết mọi thứ chúng ta xem là giá trị trong đời sống nhân loại, chẳng những trong phạm vi Thượng đế hay trí tuệ con người mà cả tình yêu, thi văn và âm nhạc…

            IV/10B .- Khoa học mà cũng có đức tin và tín lý hay sao?!

            Học thuyết của một số khoa học gia phản đối tôn giáo dường như thường dựa trên các tiền đề đòi hỏi phải có một loại “đức tin” nào đó. Chẳng hạn, khi nghiên cứu về nguồn gốc của sự sống, hầu hết những người chấp nhận thuyết tiến hóa bám chặt vào các ý kiến đòi hỏi người nghe phải tin vào một số “tín lý” nhập nhằng các dữ kiện thật trộn lẫn với giả thuyết.
            Khi các khoa học gia đó dùng thẩm quyền của mình để áp đặt niềm tin mù quáng vào thuyết tiến hóa, rõ ràng họ muốn nói: “Bạn không phải chịu trách nhiệm về hành vi đạo đức của chính mình vì bạn chẳng qua là một sản phẩm của sinh học, hóa học và vật lý”.
            Nhà sinh vật học Richard Dawkins phát biểu trong một đại hội các Khoa học gia:
            Trong vũ trụ không có sự thiết kế, không có mục đích, không có điều ác, điều thiện, không có sáng tạo gì cả ngoài sự hờ hững vô nghĩa”.
            Để bảo vệ niềm tin đó một số khoa học gia đã dứt khoát bỏ ngoài tai mọi ý kiến trái ngược với những giả thuyết căn bản của họ về nguồn gốc sự sống. Quả nhiên các Khoa học gia này đã lập thêm một tôn giáo mới:“Tôn giáo Khoa Học Chân Giả Tròng Tréo”.

            IV/10C .- Lý do cần phân biệt mỗi phần vụ trong xã hội

            Ngày nay, việc phát giác ra GEN với sự hình thành cực kỳ phức tạp của các phân tử cần thiết để tạo thành một tế bào sống là điều không thể có được trong toán học và suy lý. Bởi thế học thuyết võ đoán về nguồn gốc sự sống và vũ trụ hiện hữu đang được thế giới soát xét lại.
            Albert Einstein thừa nhận:
            Trong giới khoa học gia uyên thâm, không thiếu những người có một tư duy tôn giáo nào đó của riêng họ… Tư duy tôn giáo đó thể hiện qua sự thán phục sâu xa trước sự hài hòa của quy luật tự nhiên, cho thấy có một trí thông minh siêu đẳng mà so với nó, tất cả sự thành đạt của loài người chỉ là sự phản chiếu hoàn toàn vô nghĩa. Tuy nhiên sự thán phục đó không nhất thiết sẽ khiến các nhà khoa học tin có đấng Tạo hóa hay một đức Chúa Trời thật…
            Mục tiêu của khoa học là mô tả các hiện tượng trong thế giới tự nhiên và giúp giải đáp câu hỏi các hiện tượng đó được hình thành như thế nào. Khoa học giúp ta hiểu biết sâu xa hơn vũ trụ vật chất nhưng khoa học không thể trả lời cho ta tại sao vũ trụ hiện hữu.
            Khoa học gia Allan Sandage đã nói lên một câu rất hay mà chúng tôi cố tìm cho phần kết luận đoạn sách này:
            Tôi không đọc sách sinh vật để học cách sống
            Thật là chí lý! Học làm cách nào để sống thì cần phải tìm đọc các loại sách nói về Người hay sách nói về Tôn giáo!

            IV/11 .- ÂU CHÂU & CUỘC CÁCH MẠNG XÃ HỘI

            Khởi đầu là cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Anh quốc, sau đó truyền qua Pháp và các nước lân cận. Ở Pháp, sau cách mạng năm1789, giai cấp phú hào nhờ kỹ nghệ và thương mãi mà thay thế giai cấp địa chủ của quý tộc và giáo sĩ . Bọn phú hào tham lam bòn rút sức lao động của công nhân tạo thành một giai cấp mới: giai cấp công nhân.
            Đời sống thợ thuyền từ đó cực kỳ khổ cực, làm việc mỗi ngày 13 giờ, trẻ em cũng phải đi làm mà gia đình lúc nào cũng đói rách. Đau ốm mà nghĩ việc thì không được lãnh tiền công, rủi bị tai nạn thì bị đuổi và không được bồi thường, cứu trợ, hơi trái lịnh chủ là bị cúp lương. Nơi làm việc tối tăm, thiếu an toàn, dơ bẩn và nạn thất nghiệp lúc nào cũng có thể xảy ra.
            Chủ nhân tha hồ bóc lột công nhân mà chính quyền thì nhắm mắt làm ngơ. Chỉ vì họ đeo đuổi lý thuyết “Kinh tế tự do cạnh tranh là yếu tố thăng bằng trong xã hội và là động cơ của sự tiến hóa” nên không muốn can thiệp, không muốn binh vực cho giới công nhân và dân nghèo.
            Bị bóc lột, bị ngược đãi thì sự phản kháng của dân nghèo mỗi ngày một tăng lên. Năm 1848 thợ thuyền nổi loạn ở Pháp. Phong trào chống đối chủ nhân bóc lột dần dần lan tràn qua các nước Trung Âu, Nam Âu rồi vượt Đại Tây Dương qua Bắc Mỹ.
            Cuộc nội chiến Bắc, Nam của Hoa Kỳ vào những năm 1861-1865 mà nguyên nhân là các tiểu bang phương Bắc muốn giải phóng nô lệ da đen còn các tiểu bang phương Nam thì chống lại và đòi ly khai là ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc nổi dậy của giai cấp thợ thuyền Pháp (1848). Nhờ tổng thống Mỹ, Abraham Lincoln, khéo léo lãnh đạo, phía Bắc đã chiến thắng phe Nam Mỹ, từ đó chế độ nô lệ và kỳ thị chủng tộc chính thức bị bãi bỏ và duy trì được sự thống nhất của nước Mỹ.
            Một thời gian ngắn sau cuộc nổi dậy của thợ thuyền, với sự trợ lực của các triết gia, kinh tế gia như Robert Owen, Saint Simon, Louis Blanc, Fourier… châu Âu dần dần thay đổi bộ mặt xã hội, cởi mở, đẹp hơn phần nào so với trước. Số giờ làm việc của công nhân mỗi ngày một rút ngắn bớt, trẻ em được bảo vệ, được đi học, công nhân có quyền lập nghiệp đoàn. Quyền bãi công, quyền khi đau ốm vẫn được hưởng lương, tiền phụ cấp vợ con.
            Tuy nhiên, sau các cuộc cách mạng kỹ nghệ, cách mạng thợ thuyền ấy, thế giới vẫn tiếp tục tràn ngập máu và nước mắt. Chính sách bành trướng đế quốc của các nước ở châu Âu điển hình là Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Đức, Nga, Bồ Đào Nha, Hoa Kỳ… Biết bao nhiêu cuộc đàn áp, bóc lột, giết chóc ghê rợn ở các thuộc địa và biết bao cuộc cách mạng đẫm máu chống đế quốc xâm lăng đã xẩy ra?
            Lịch sử thế giới trước và sau Công nguyên, nhân loại luôn luôn sống trong sự hãi hùng của chiến tranh tàn phá và hỗn loạn. Chiến tranh địa phương, chiến tranh liên quốc, chiến tranh tôn giáo, chiến tranh đế quốc… khiến xã hội loài người hầu như không bao giờ yên ổn. Thế rồi bước sang thời kỳ Phục hưng, người ta cởi bỏ ách tôn giáo mà chưa tìm được đạo thì nhân loại đã vội vã bước sang thế kỷ 19, 20 là thời đại khoa học cơ khí tiến lên rầm rộ chẳng những làm át đi giá trị nhân văn vừa mới phục hưng mà còn gây cho nhân loại ba lần mang trọng bệnh cực kỳ ngặt nghèo :phát xít*, quốc xã** cộng sản*** đồng thời đẩy thế giới bước sang một giai đoạn ngập tràn các biến động cực kỳ thảm khốc không lường được.
            * Phát xít : Thường là một đảng do quân nhân cầm quyền. Giới quân nhân, bình thường xong trung học thì vào trường huấn luyện sĩ quan học các bộ môn chuyên nghiệp của quân đội. Truyền thống quân đội là ra lệnh và tuân lệnh. Do đó họ thiếu các khả năng lãnh đạo đất nước, nhưng họ lại thích đồng hóa mình với tổ quốc và dân tộc. Họ trở thành độc tài, dùng công an, quân đội khủng bố dân chúng trắng trợn; kiểm duyệt sách, báo chí gắt gao; kiểm soát chặt chẽ sự đi lại, nhóm họp của dân chúng. Nguy hiểm nhất là họ thích gây chiến tranh để lấy cớ đàn áp dân chúng hoặc hóa giải sự phẫn nộ của mọi người để giữ vững quyền lực…
            ** Quốc Xã: Tập đoàn lãnh đạo bị bệnh đề cao chủng tộc mình một cách quá đáng và coi rẻ cũng như kỳ thị, tàn nhẫn hoặc tận diệt những người khác chủng tộc. Họ cho rằng, chỉ có chủng tộc của họ mới đủ tài năng lãnh đạo các nước trong vùng hoặc thế giới. Do vậy họ chủ trương gây chiến để phân chia lại ranh giới hoặc độc chiếm thế giới.
            *** Cộng sản: Là loại bệnh trầm kha, lây lan mau và rất khó chữa trị. Chỉ trong khoảng nửa thế kỷ chủ nghĩa cộng sản hành hoành gần một nửa địa cầu và gây dị ứng khắp nơi trên thế giới. Họ giản lược con người vào yếu tố kinh tế vật chất, lợi dụng danh nghĩa chiến tranh giải phóng các dân tộc nhược tiểu để mong tiến tới bá chủ hoàn cầu.
            Tuy nhiên, cho đến cuối thập niên 90, chủ nghĩa cộng sản đi vào tàn lụi. Hiện nay chỉ còn vài nước còn cố bám vào danh xưng cộng sản để duy trì quyền lực chứ thực chất thì đã thay đổi theo con đường tạm gọi là kinh tế thị trường.

            Thời kỳ khoa học cơ khí đã gây ra một giai đoạn nước mạnh xâm lăng nước yếu để chiếm đoạt đất đai, tài sản và cưõng bức lao động các dân tộc bị trị. Kinh hoàng nhất là các dân tộc da đen ở Phi châu, họ bị các nước Tây phương săn lùng, bắt giết, buôn bán làm nô lệ. Đã có hàng ngàn bộ tộc da đen ở Phi châu bị tàn phá, hàng trăm triệu người đã bị bắt, bị giết vô cùng man rợ. Hai cuộc chiến tranh thế giới 1916-18 và 1938-45 là những đại họa vô cùng tàn khốc của nhân loại cũng do hệ lụy của chủ nghĩa suy lý nhất nguyên (một chiều) của Tây phương.
            Năm 1945, tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập tại Cựu Kim Sơn, Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được công bố. Đây là một bản văn lịch sử vô cùng quan trọng đề cập tới giá trị của con người và quyền công dân… Tuy nhiên, các vấn đề thuộc về tinh thần như lương tri, đạo đức, tâm linh, tâm thức… thì vẫn là những hình ảnh xa lạ không thấy đề cập tới.
            Tại sao suốt 200 năm (1800-2000), triết lý Nhân bản Suy lý Tây phương đã không xây dựng được thanh bình, hạnh phúc cho chính họ và cho thế giới?
            - Khi Aristote định nghĩa: “Người là con vật biết suy lý” (animal raisonable), ông đặt con người vào phạm trù toán học thì tất nhiên nền nhân bản sẽ được dẫn dắt theo các lộ trình toán học, lý luận và đòn phép. Do đó, trong suốt 25 thế kỷ kể từ ngày thuyết nhân bản được Socrate, Aristote đề xướng và được xem là một hảo ý rất đáng ca ngợi nhằm giải phóng con người thoát khỏi thần minh, dành lại quyền làm người. Tuy nhiên, quán tính đã đưa nó đi quá xa, vô tình đẩy con người rời khỏi những giá trị tư tưởng mà nhân loại sau gối đầu lên nhau xây dựng từ nhiều ngàn năm trước. Quả nhiên, đây là điều bất hạnh cho loài người trong hai thế kỷ 19 và 20 vậy.
            Triết gia Lương Kim Định đã ghi lại trong sách Nhân chủ một vài ý kiến của các triết gia nổi danh phương Tây phê phán về văn minh Tây phương khiến ai đọc lên cũng không giật mình:
            Max Scheller viết: “Cái lầm chí tử của Tây phương thế kỷ 18, 19 là đã dẫn nhân loại đi theo mẫu người như một hữu thể chỉ biết suy lý…”
            Schopenhauer: “Một sai lầm phổ quát có từ lâu đời, cần phải được tẩy bỏ đi…
            Heidegger: “Đã từ lâu, chúng ta bị một mớ lộn xộn của những tư tưởng và khái niệm mượn từ trong các môn đó (ám chỉ triết lý Nhân bản Hy-Lạp). Mọi vấn đề của con người đều được giải quyết trên một câu định nghĩa sai lầm”.
            Và, chính triết gia Lương Kim Định cũng đã viết: “Nên đó tuy là một cuộc trở về với con người nhưng chưa đi đến cùng tột, chưa bàn đến cùng lý. Chỉ mới đi tới lý trí đã vội dừng lại, mà lý trí thì đâu phải là phần sâu thẳm của con người, bên trong lý trí còn có tiềm thức, lương tri và cõi tâm linh”.
            Bàn thêm về Hiện sinh :
            Hiện sinh (hiện đang sống) là trào lưu triết học hiện đại. Tuy nhiên triết học hiện sinh còn rất rời rạc, chưa có sự đồng nhất. Họ cho rằng, sự sống có trước bản thể, nghĩa là bản thể của con người chỉ được bắt đầu sau khi xuất hiện sự sống của người đó. Bản thể đó tiếp tục được đắp bồi mỗi ngày một vươn lên cao… Nếu chỉ giải quyết cho bản thể mà không lưu tâm tới sự sống thì không đúng. Cho nên cuộc sống hiện tại của con người không thể bị giới hạn bởi một mẫu bản thể nào cả vì con người có một tự do tuyệt đối để sự sống của họ phát triển trên mọi chiều hướng mà tôn giáo, truyền thống, luân lý, đạo đức, pháp luật… không thể xâm phạm hay ngăn chặn…
            Hiện sinh đả kích triết học cổ điển không biết gì đến con người. Con người Nhân bản của xã hội Tây phương ngày nay là một thứ mơ mộng, xa xỉ của giai cấp trưởng giả. Họ tố cáo các tôn giáo, mọi thứ huyền niệm và những gì gọi là truyền thống xã hội là phi nhân (deshumanisation)…
            Bù lại, Hiện sinh duy trì và phát triển một chủ điểm duy nhất: Lấy con người làm trung tâm điểm và là đối tượng suy tư.
            Từ các điểm trên, chúng ta thấy Hiện sinh hướng về duy nhân, vô thần, chối bỏ phẩm hạnh cá nhân, truyền thống đạo đức, luân lý xã hội và tâm linh con người. Về mặt duy nhân, họ sống buông thả, không cho ai, không ngày mai. Ở một mức độ nào đó, họ tỏ ra có quan tâm tìm phương hướng kiến thiết con người. Tuy nhiên, chủ trương của họ vô tình đã làm họ tách rời mọi trật tự của cộng đồng nhân loại hiện nay.
            Những triết gia hàng đầu của Hiện sinh như Husserl, Berdinaeff, Jean Paul Satre, G. Marcel… dù đã tìm mọi cách vận động cho Hiện sinh vẫn chưa tìm ra được một lối đi hợp tình hợp lý mà vẫn còn rất lúng túng và tiêu cực. Những tư tưởng này trái lại đang đi vào thoái hóa.

            IV/12 .- KẾT LUẬN IV

            Nói chung, triết học Tây phương chưa thành công trong việc thiết lập một nền nhân bản hoàn hảo mặc dù nó hiện diện trong văn chương, trong thi ca do tính phóng khoáng của lương tri con người chứ chưa đặt được nền tảng triết học để làm kim chỉ Nam trong việc dẫn dắt con người đi tới chân thiện mỹ.
            Văn minh thế giới cuối thế kỷ 20 rõ ràng nhờ vào thành quả của triết lý Nhân bản Suy lý Tây phương với những thành quả tiến bộ về Khoa học kỹ thuật mà xã hội loài người trở nên có tổ chức hơn, vật chất dư thừa và kiến thức nhân loại vươn lên rất cao hầu như trong mọi lãnh vực. Có điều ai cũng thấy, sự ổn định của con người, của gia đình, của xã hội và hòa bình thế giới vẫn còn đầy bất trắc. Rõ ràng nền văn minh Tây phương hiện nay chưa hoàn thiện.
            #6
              hai1957 13.11.2012 16:45:59 (permalink)
              Chương V

              Chân thiện mỹ trong chuyện ÔNG BÀN CỔ



              V/1.- NGUỒN GỐC

              Tên “Ông Bàn Cổ” còn gọi là Ông Bàn Hồ hay Ông Bàn Vũ hay Ông Bành Tổ… xưa nay ai cũng nói là người Tầu, riết rồi thành nếp, hễ ai nói khác là sai. Sự thực đây là một truyện là của dân tộc Dao* ở Quảng Tây đã được một viên quan Tầu tại quận Uất Lâm tên Từ Chỉnh đời Tam quốc sao chép (quá trể) vào sách Tam Ngũ Lược Chí năm 225 sau CN. Chúng ta đã biết, từ thời nhà Hán trở về trước, đất Quảng Đông và Quảng Tây tức là Lưỡng Quảng cũng gọi là Lưỡng Việt. Đất Quảng Tây có hai quận Uất Lâm và Thương Ngô vốn là hai quận trong tổng số chín quận nước ta thời nhà Triệu (179-111 tr.CN) trở về trước.
              Năm 111 tr. CN nước ta bị nhà Hán (Hán Vũ Vương) xâm lược và đô hộ. Thời đó, đa số các tộc họ người Dao cư trú ở quận Uất Lâm. Người Dao thuộc chủng Bách Việt cũng như các tộc họ khác Mường, Mán, Thái, Lô Lô… mà người Trung Hoa cổ gọi chung là Man di, Nam man.
              * Người Dao là một dân tộc khá đông dân, ngày nay họ sống rải rác từ các tỉnh phía Nam nước Tầu, suốt dọc biên giới Hoa Việt, vùng thượng du Bắc Việt xuống tới các tỉnh phía Bắc của miền Trung Việt Nam. Đời sống và tổ chức xã hội của họ gần giống người Mường. Những năm 1961- 63, khi còn làm phụ tá quản đốc các đồn điền chính phủ ở Banmêthuột, Darlac, người viết có nhận một số người Dao, Mường, Mán… di cư từ Thanh Hóa, Nghệ An vào làm việc cho đồn điền. Họ nói tiếng Việt với nhiều thổ ngữ rất khó nghe.
              Sách Lịch sử Việt Nam của nhóm sử gia Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh ghi: “Giang Nam, vùng đất ở phía Nam sông Trường Giang, ngoài hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây còn có vài tỉnh khác nữa, đến cuối Hậu Hán, cư dân Thái, Dao, Mèo, Tạng, Miến… vẫn chiếm đa số phần lãnh thổ. Lúc đầu cư dân Trung Hoa tập trung ở đồng bằng hạ lưu Dương Tử… Dần dần Hoa tộc đẩy các cư dân này bị dồn lên miền núi và gọi là “Sơn Việt”. Các cư dân Sơn Việt này dần dần đồng hóa thành Trung Hoa…”
              Chính người Trung Hoa cổ khi chọn chuyện này làm thời điểm khai thiên lập địa và khởi nguyên của con người, cũng đã chủ tâm đặt trước nhiều chuyện cổ khác… cho đến khi vua Hoàng Đế (Hiên Viên) lập quốc là năm 2.704/TCN.
              Chẳng riêng gì chuyện BÀN CỔ, những chuyện khác như NỮ OA, PHỤC HI… đều phản ảnh tư tưởng nông nghiệp xuất phát từ các dân tộc ở miền Nam Trường Giang đã cho chúng ta một giải đáp khá rõ ràng về nguồn gốc của chúng. Toàn bản văn cổ chuyện Ông BÀN CỔ được viết thành từng câu 4 chữ như sau:

              Hỗn mang chi sơ
              Vị phân Thiên Địa
              Bàn cổ thủ xuất
              Thủy phân âm dương
              Thiên khai ư Tý
              Địa tịch ư Sửu
              Nhân sinh ư Dần
              …..
              Bản dịch :

              Thái hoang ban sơ
              Trời đất chưa phân
              Bàn Cổ ra tay
              Trước phân âm dương
              Khai Trời giờ Chuột
              Dựng Đất giờ Trâu
              Sinh Nguời giờ Cọp* …

              * Tý, sửu, dần là 3 con thú đầu trong số 12 con thú biểu tượng của 12 năm để tính thời gian của văn hóa Bách Việt từ thời đại Phục Hy.

              Sách kể rằng mỗi ngày ông Bàn Cổ biến đổi chín lần, mỗi lần cao thêm 10 thước. Khi ông lớn lên bao nhiêu thì đất dầy thêm bấy nhiêu, trời cao thêm bấy nhiêu. Ông Bàn Cổ sống tới 18.000 năm nên đất cực dầy, trời cực cao, còn thân hình ông thì cực kỳ to lớn. Khi ông khóc, nước mắt chảy ra làm thành những dòng sông lớn. Hơi thở của ông là gió và khi ông liếc mắt nhìn đây đó thì tạo ra chớp nháy trên trời. Lúc ông vui vẻ, khỏe mạnh, hạnh phúc thì trời đất êm đềm, khí hậu tốt đẹp. Lúc ông buồn rầu, đau ốm thì mây mù phủ kín, trời đất ảm đạm, lạnh giá; lúc ông giận dữ, thì mưa gió, bão bùng, sấm sét, lụt lội tràn ngập khắp nơi. Đầu đội trời, chân đạp đất, ông sống an nhiên tự tại và xử dụng thiên nhiên để làm cho đời sống của ông mỗi ngày một thêm tốt đẹp.
              Khi ông chết, xác ông rã ra từng mảnh làm thành những vùng đất núi lớn trong Thiên hạ. Máu, mỡ chảy ra thành biển cả, hồ, ao. Hai con mắt ông trở thành mặt trăng và mặt trời. Lông, tóc đâm rễ xuống đất mọc thành cây cối. Những loài sâu bọ sống trên thân xác ông trở thành loài người.

              V/2 .- TƯ TƯỞNG ẨN DẤU TRONG CHUYỆN ÔNG BÀN CỔ

              Câu chuyện thoạt nghe có vẻ hoang đường, phóng đại đến độ hài hước, tức cười. Tuy nhiên nếu chịu khó suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy rằng, tổ tiên người Dao chắc chắn không truyền tụng một câu chuyện hài hước cho vui. Người Trung Hoa cổ cũng không ngu dại gì khi vay mượn một chuyện tiếu lâm của dân “man di” nô lệ để tôn lên thành ông tổ của họ!
              Chúng tôi nghĩ, khi ông quan thuộc địa quận Uất Lâm (một quận của Giao châu Đô hộ phủ) tên là Từ Chỉnh viết sách Tam Ngũ Lược Chí (Sơ lược 35 truyện có ý nghĩa) vào năm 225 là lúc bên Tàu chia làm ba nước (Tam quốc) Bắc Ngụy, Tây Thục và Đông Ngô. Đông Ngô chính là nước đang đô hộ nước ta, đã rất quan tâm đến chuyện ông Bàn Cổ :
              Giá trị tư tưởng cùng với mẫu người kỳ vĩ của chuyện ông Bàn Cổ đã làm cho nhà Đông Ngô sững sốt, lo âu khi biết thêm rằng, dòng giống “Nam man” Bách Việt có những suy tư thâm trầm về con người trước vũ trụ. Chủ trương chiếm đoạt và bôi xóa dấu vết tư tưởng văn hóa các dân tộc Bách Việt đồng thời tạo điều kiện dễ dàng cho chủ trương đồng hóa đã khiến cho họ dành ngay làm của riêng. Chẳng những thế, để thỏa mãn tính tự cao tự đại của nước lớn, họ phong ngay ông Bàn Cổ lên làm tổ tiên dòng Hoa tộc mà quên rằng tổ tiên Hoa tộc khi chưa vào Đông Á vốn là Rợ du mục từ Tân Cương, Thanh Hải thì làm gì có những suy tư của cư dân nông nghiệp?
              Lời ghi chú vô tư, rất đáng khen của ông quan đô hộ Từ Chỉnh đã vô tình làm lộ bộ mặt của những kẻ ăn vụng mà không biết chùi mép!!
              Từ việc học lóm câu chuyện ông Bàn Cổ đi tới quyết định tôn ông Bàn Cổ làm ông tổ người Trung Hoa của triều đình Đông Ngô, quý độc giả có thấy buồn cười, khi ta nói: “Ông tổ của người Trung Hoa ngày nay là man di Dao, dòng Bách Việt ở Quảng Tây!!!
              Giáo sư, triết gia Lương Kim Định trong sách Nhân chủ, cho rằng, chuyện ông Bàn Cổ là khởi điểm của triết học Đông Á mà đỉnh cao là mẫu người quân tử cũng đã xuất phát từ chuyện này.
              Có người đặt nghi vấn, con người làm sao lại có thể góp phần vào việc kiến tạo vũ trụ, thiên nhiên như chuyện ông Bàn Cổ, để xưng là nhân chủ? Vô lý và khoa ngôn chăng?
              Thưa, trước hết chúng ta không lấy con mắt khoa học kỹ thuật để nhìn về chuyện ông Bàn Cổ mà hãy nhìn đấy là một ẩn dụ mang tính chất triết học thì câu chuyện sẽ trở nên sáng sủa và đơn giản đến độ một trẻ nhỏ cũng cảm nhận dễ dàng. Khởi thủy ông Bàn Cổ không kiến tạo vũ trụ từ không đến có, vì trước ông Bàn Cổ đã có trời, đất… hoang sơ, mà theo nghĩa con người nắm phần xếp đặt, cải sửa và xử dụng thiên nhiên theo ý mình. Chúng ta có thể nói, nhờ có Người mà thiên nhiên, vũ trụ được biết tới, được đặt tên và được xử dụng. Nếu không có người, vũ trụ chỉ là khối vật chất vô danh, có cũng như không.
              Trang Tử diễn đạt ý trên bằng câu:
              Thiên địa dữ ngã tịnh sinh
              (Trời, Đất cùng với Ta sinh ra).
              Khi chưa có Người tức là chưa có nhận xét thì tất cả là thái hoang. Đâu có tên Hồng Hà, Hương Giang, Cửu long… Đâu có tên Kim Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh… Chỉ sau khi con Người sinh ra, thiên nhiên, vũ trụ mới được biết tới, mới được “kiến tạo tên tuổi” dần dần cùng với sự hiểu biết và bàn tay của Người mà thôi.
              Để sự diễn đạt được cụ thể hơn, xin đưa một tỉ dụ: Anh Y lúc chưa sinh ra thì vũ trụ chưa có đối với riêng anh. Khi anh Y mới sinh thì vũ trụ của anh thật là nhỏ: chiếc vú của mẹ, vòng tay của cha, là tiếng ru ạ ời, là sáng, là tối… Lớn lên một tí, vũ trụ của anh Y là khuôn mặt của các anh, các chị, là ngôi nhà thân yêu, là tiếng nói của mỗi người thân trong gia đình… Cứ thế, anh Y lớn lên bao nhiêu anh, vũ trụ quanh anh càng lớn lên, rộng ra, dày đặc bấy nhiêu… Anh là thầy giáo thì vũ trụ của anh trong phạm trù thầy giáo với học sinh, trường học, tài liệu, bài vở, đồng nghiệp, kỷ luật, tác phong thầy giáo… anh là nông dân thì vũ trụ của anh trong phạm trù nhà nông với đất đai, mùa màng, mưa nắng, thủy triều, con trâu, cái cày, hạt giống… cao hơn nữa, anh nhà thiên văn thì vũ trụ của anh trong phạm trù mặt trăng, mặt trời, các tinh tú với biết bao hệ lụy phức tạp của nó…
              Anh Y xử dụng và cải sửa vũ trụ cho thích hợp với cuộc sống và việc làm của anh và của xã hội. Anh sống an nhiên tự tại trong khung cảnh an hoà với ý niệm anh là một người chủ (nhân chủ) có trách nhiệm đối với thiên nhiên và xã hội từ dĩ vãng, hiện tại cũng như trong tương lai.
              Khi nhắm mắt lìa trần anh Y để lại cho con cháu biết bao tài sản vô giá: Vật chất là những tài nguyên anh đã cải sửa, xây dựng lên. Lý trí là tư tưởng, là kinh nghiệm thành bại trên đường đời. Tinh thần là nếp sống đạo đức, luân lý anh đã sống, đã khuyên dạy con cháu, đã dẫn dắt những người chung quanh. Tâm linh của anh, hiên ngang như mặt trời, dịu dàng như mặt trăng, soi sáng cho đời sau. Con cháu, hậu thế cứ theo đó mà dựng xây, sáng tạo… tiếp nối cuộc sống.
              Bằng vào nền tảng đó, quan niẹm nhân sinh Bách Việt mang tầm vóc một minh triết diệu kỳ, sinh động, soi sáng toàn bộ đời sống con người từ lúc chào đời cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay.
              Từ chuyện ông Bàn Cổ chúng ta thấy được quan niệm nhân sinh của người Bách Việt cổ đã thoát khỏi cái mặc cảm tự ti, hèn kém của kiếp người trước thiên nhiên vũ trụ. Con người Bách Việt đầu đôi trời, chân đạp đất, sống an nhiên tự tại trong ý thức làm chủ. Lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín để làm phương châm hành xử chẳng riêng gì với tha nhân mà cả với chính mình.

              V/3 .- NHÌN SƠ VỀ TÂY PHƯƠNG CỔ ĐẠI

              Quay nhìn về thế giới Tây phương cổ đại để xem họ suy tư như thế nào: Khởi đầu họ quan niệm con người là nô lệ của thần minh đến độ lấy cả mạng sống con người để tế lễ thần minh. Về sau họ lại chối bỏ thần minh mà đề cao nhân bản. Khi triết gia Socrates (470-399 Tr.CN) và những người đồng thời nối tiếp công việc của ông như Platon, Antisthène, Diogènes, Aristote… của Hi Lạp cổ đại, định nghĩa: “Người là con vật biết suy lý” (animal raisonable), là các ông đã đặt con người vào phạm trù sự vật. Do đó, trong gần 25 thế kỷ, tư tưởng nhân bản suy lý của Aristote được xem là một hảo ý nhằm giải phóng con người ra khỏi thần minh hầu trả lại độc lập cho con người.
              Thế kỷ 17, 18 khi Âu châu thoát khỏi ảnh hưởng giáo hội Công giáo, các bậc thầy Voltaire, Descartes, Galilée, Leibnitz, Képler, Pascal, Newton… phục hưng nền nhân bản suy lý tạo thành ý thức mới trong việc xây đắp nền móng khoa học thực dụng hiện đại. Địa cầu nhờ đó phát triển rất nhanh trên nhiều lãnh vực khoa học, đáp ứng được phần nào nhu cầu vật chất của con người. Xã hội dần dần chạy theo nguyên tắc suy lý và nhà nước pháp trị. Quán tính đã đẩy nó đi rất xa, từ suy lý* tới duy lý**rồi duy vật*** hiện sinh**** vô tình đưa con người ra khỏi khả năng kiểm soát giá trị thực tế của nó.
              * Suy lý: Sự suy diễn theo căn bản lý luận, dựa vào lý lẽ phải, trái mà kết luận. Tỉ dụ: Mẹ thương con là do tình cảm chứ không do suy lý. Chủ tiệm buôn tặng quà cho khách hành là do suy lý chứ không do tình cảm. Thầy dạy học trò vừa do tình cảm vừa do suy lý…
              ** Duy lý: Chỉ có lý tính, luận thuyết cho rằng con người vốn sẵn có lý tính tự nhiên mà nhận thức tất cả sự việc trên đời, những kinh nghiệm, tín ngưỡng, huyền niệm… đều không đáng kể…
              *** Duy vật: Con đẻ của Duy lý, cháu nội của Suy lý. Duy vật thiên về vật chất hoàn toàn, tinh thần chỉ là phụ thuộc hoặc không đáng kể. Từ duy vật mà phát sinh ra Duy vật Biện chứng pháp, Duy vật sử quan, Duy vật chủ nghĩa, Cộng sản chủ nghĩa, Xã hội chủ nghĩa…
              **** Hiện sinh: một quan niệm sống chối bỏ tất cả mọi ràng buộc của xã hội, luân lý, văn hóa, truyền thống, tín ngưỡng, luật pháp… Họ cho những điều đó là rác rến, làm cản trở tự do của con người (xin đọc thêm cuối Chương IV).
              Triết gia Lương Kim Đinh viết: “Thế giới thế kỷ 20 là một cơn sốt duy lý, duy vật và hiện sinh vô cùng nghiệt ngã, tạo nên biết bao thảm cảnh trên địa cầu. Đó là hậu quả của sự dẹp bỏ nền tảng đạo đức do tôn giáo xây dựng gần 2.000 năm để thay thế và phát triển tư tưởng nhân bản duy lý chưa được hoàn chỉnh
              Chúng ta dễ dàng nhận thấy nhân sinh và vũ trụ quan của người Tây Phương thời cổ là vong thân. Con người được sinh ra từ những loại thần cực kỳ hung dữ. Thân phận con người là những kẻ nô lệ thần minh, nếu lầm lỗi có thể bị thần minh tiêu diệt không thương xót.
              Ta thử đặt vài chữ Nếu để thấy vị trí chuyện Ông Bàn Cổ không thể hình dung được:
              Nếu chàng Prométhée tuổi trẻ (thần thoại Hy Lạp) trong dịp lên núi Olympie trong chuyến đi chơi đã ăn cắp lửa trời đem về soi sáng cho trần gian khỏi tăm tối để rồi bị Trời (thần Zeus) trừng phạt, trả thù cực kỳ tàn nhẫn!
              Nếu Abraham, tổ phụ người Do Thái phải đem con trai độc nhất sát tế thần Ya-Vê (Yéhova) để chứng tỏ lòng tuân phục tuyệt đối của mình!
              Nếu mỗi năm người Babilon phải giết hàng trăm thiếu niên nam nữ đồng trinh để tế thần Mo-Áp!
              Nếu người Ấn Độ vì sợ dơ bẩn lời cầu kinh Bàlamôn mà phạt tội người Padi* phải bị đổ chì vào lỗ tai (một cách giết người cực kỳ tàn khốc)!
              Nếu vua chúa Trung Hoa cổ giết hàng trăm sinh mạng con người để tế thần xã tắc trước khi ra trận hay tế thái miếu để tạ ơn “thần” tổ tiên dòng họ sau một cuộc chiến thắng!…
              Thì ông Bàn Cổ, chỉ một cái liếc mắt là phát sinh ra sấm chớp, chỉ một hơi thở là gió nổi lên, bỏ ra chút mồ hôi, nước mắt là đầy ắp công ích như nước các dòng sông lớn, nhỏ…! Ông đặt tên cho các giải thiên hà, các chòm sao, Thái dương hệ, cho sông núi… Chẳng những thế, ông sửa đổi thiên nhiên, vũ trụ để xây dựng cuộc sống…
              Thì chuyện ông Bàn Cổ khiến cho chúng ta thật sự kinh hoàng trước cái giá trị tuyệt vời của con người Việt cổ đối với vũ trụ. Đó là vị thế nhân bản hoàn mỹ hợp tình hợp lý ở chỗ con người đã nhận diện được mình là chủ của chính mình đồng thời là chủ của cái thiên nhiên bao la hùng vĩ chung quanh.
              *Padi, tiếng gọi miệt thị dành cho thổ dân Dravidien, “kẻ vô loại”, tiện dân… có nghĩa là không được phân loại trong 4 giai cấp của xã hội Ấn Độ.

              V/4 .- TỪ CHUYỆN ÔNG BÀN CỔ ĐẾN HUYỀN SỬ DÂN TỘC.

              Tiếp nối chuyện ông Bàn Cổ là huyền sử Nữ Oa và Phục Hy (4480 Tr.CN)*. Hình khắc trên thạp đồng cho thấy đuôi hai vị cuốn vào nhau biểu hiện sự gắn bó keo sơn của quan niệm âm dương. Nữ Oa cầm linh vật, dụng cụ vẽ hình tròn, biểu hiệu trời, thuộc về tâm linh. Phục Hy cầm tứ vật, dụng cụ vẽ hình vuông, biểu hiệu dất, thuộc về lý trí, đã xác nhận nền tảng Nhất nguyên Lưỡng cực của triết học Đông Á.
              Thời đại Hữu Sào*, người Bách Việt rời hang động, bước xuống đồng bằng, dựng nhà mà ở. Cái nhà mái cong (mái nhà cong biểu tượng trời, nền nhà hình vuông biểu trượng đất, con người sinh sống và giao cảm với trời đất trong căn nhà đó). Người ta gọi đấy là Tam thông: Trời, Đất, Người thông nhau qua hình ảnh trời che đất dưỡng đầy sinh động và mật thiết .
              Thời Toại Nhân* thì minh triết thành hình và xã hội Bách Việt đã đáp ứng được nhu yếu thâm sâu của con người. Đó là chế độ nhân chủ, nhân trị. Tuy nhiên đó chỉ mới bước một: Con người nhận chân giá trị đích thực của mình và xử dụng thiên nhiên cho đời sống của mình.
              Thời Thần Nông (3118 Tr.CN)* còn gọi là Viêm Đế, vị vua sáng chế ra cái cày và thuần hóa trâu bò để kéo cày làm ruộng. Nếm rễ cây để làm thuốc và lập chợ để người dân trao đổi của dư của thiếu. Xã hội Miêu tộc thời Thần Nông chứng tỏ đã đạt được sự dư ăn, dư mặc và khi bệnh hoạn đã có thuốc thang.
              Các thời đại nói trên đều nằm trong giai đoạn Văn hóa Bắc Sơn (7000 đến 1000 năm tr. CN)
              * Sách “Trung Quốc Sử Cương” chép : “Người Trung Hoa sau khi tràn xuống lưu vực sông Hoàng Hà, đánh đuổi người Miêu tộc đi, rồi mỗi họ chiếm lấy một khu vực, có người tộc trưởng cai quản gọi là hậu. Các hậu chọn một hậu mạnh nhất tôn làm thủ lĩnh. Tương truyền rằng khi mới khai thiên lập địa chỉ có người là Bàn Cổ. Sau có những thủ lĩnh mà công trình khai hóa còn để lại di tích là Tam Hoàng, Ngũ Đế. Nhưng Tam Hoàng, Ngũ Đế thì mỗi sách nói mỗi khác”…
              “Lịch sử Thế giới, Nguyễn Hiến Lê ghi”: “Tương truyền ông tổ của dân tộc Trung Hoa là ông Bàn Cổ rồi tới các đời Tam hoàng (Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng): Hữu Sào (dạy dân làm nhà), Toại Nhân (dạy dân nấu ăn); Phục Hy, (dùng lưới đánh cá, đặt ra chữ viết để thay cái tục lấy dây thắt nút, dạy dân phép cưới vợ gã chồng), Thần Nông (dạy dân cày ruộng, lập chợ, nếm cây cỏ để làm thuốc trị bệnh).
              Những điều người Trung Hoa viết có thể có thật về các hoạt động của tiền nhân cư dân bổn xứ vốn là những dân tộc nông nghiệp định canh lúa nước gọi là Miêu chứ không phải của du mục Trung Hoa. Vì cho đến năm 2704 tr.CN, Hậu chủ Hiên Viên mới được các hậu du mục dã man Tây Bắc công kênh lên làm Cộng chủ để đối phó với Liên Minh Xích Quỷ (Nước Xích Quỷ, Nam Miêu từ phía Nam kéo lên hổ trợ cho Bắc Miêu thì không thể có những vị tổ của du mục Trung Hoa ở đất Miêu từ 4480 cho đến 3118 tr.CN. như họ viết. Bởi vì dân du mục thì có bao giờ có thể phát minh ra cầy bừa, làm ruộng nước? Thuần hóa trâu, bò để cày ruộng? Đánh cá? Nếm thảo mộc để làm thuốc? Lập chợ búa…? Có chăng họ thuần hóa ngựa để cởi và kéo xe; dùng sửa bò để chế tạo thực phẩm; dùng da bò, cừu để làm lều, làm áo mặc; dùng nô lệ để giúp việc chăn nuôi và cao nhất là cầm vũ khí, chinh phạt…
              Chính người Trung Hoa sau khi chiếm đất nước Xích Thần (Bắc Miêu) và Xích Quỷ (Nam Miêu) đã cướp công lao và cướp luôn cả tên họ của tổ tiên dân bổn xứ.
              Từ vua Đế Viêm cũng gọi là Thần Nông cho tới cháu ba đời là vua Đế Minh, cuộc cách mạng nông nghiệp (thuần hóa trâu bò và chế tác cái cày, chế thuốc trị bệnh từ thảo mộc, lập chợ… ) thành công rực rỡ là bước thứ hai: xã hội tiến lên giai đoạn bình sản, ấm no và hạnh phúc.
              Tuy nhiên buồn thay! Cũng đồng thời dẫn đến sự thèm thuồng của các bộ lạc di dân du mục hiếu chiến Hoa tộc. Sự thảm bại tất nhiên của nông nghiệp Miêu tức Viêm, Việt trong cuộc chiến tranh tại Trác Lộc và cái chết của vua Đế Lai ở Bản Tuyền kéo theo sự tan rã liên minh Xích Quỷ của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đây là điều phải xẩy đến như lịch sử của các dân tộc nông nghiệp cổ trên thế giới mỗi khi đụng phải cường lực du mục.

              V/5 -. BA GIAI ĐOẠN MINH TRIẾT ĐÔNG Á

              Kể từ thời điểm Trác Lộc, chúng tôi tạm chia minh triết Đông Á làm ba giai đoạn :
              V/5A .- Giai đoạn Việt Nho* nguyên thủy
              * Danh xưng Việt Nho do triết gia Lương Kim Định đặt và chính ông đã đề xướng triết lý An Vi.
              Từ Toại Nhân (Khoảng 4.000 tr. CN) đến Đế Lai (2.704 tr.CN) và kéo dài với quốc gia Văn Lang với các vua Hùng vương. Đây là giai đoạn văn hóa nông nghiệp Bách Việt thuần túy, xã hội Bách Việt được lãnh đạo bằng chế độ nhân trị mà biểu tượng là mẫu người nhân chủ. Giai đoạn này tương ứng với các nền văn minh nông nghiệp khác trên thế giới thời đó như các vùng châu thổ Lưỡng Hà ở I Raq, sông Nil ở Ai Cập, sông Hằng ở Ấn Độ…
              V/5B .- Giai đoạn tiền Khổng Nho
              Từ cộng chủ Hiên Viên (sau đổi tên là vua Hoàng Đế chiếm được nước Xích Thần (2.704 tr.CN)* đến đức Khổng Phu Tử (554-479 tr.CN). Đây là giai đoạn hai nền văn hóa du mục và nông nghiệp tranh dành ảnh hưởng vào xã hội thái cổ. Một bên là các dân tộc du mục Hoa tộc (kẻ chiến thắng); Một bên là các dân tộc nông nghiệp Miêu tộc (kẻ bị xâm lăng). Cho đến đầu thời nhà Chu thì xã hội Hoa tộc đã hoàn thành được một nền văn hóa khá ổn định: quân chủ phong kiến với guồng máy triều đình, quan lại và đội quân chuyên nghiệp của du mục hội nhập với truyền thống nhân chủ, nhân trị cùng với toàn bộ tư tưởng minh triết của nông nghiệp Miêu tộc.
              Mẫu người Nhân chủ vốn là biệt sắc tư tưởng cao đẳng mang tính giáo hóa đại chúng Bách Việt bị vua chúa Hoa tộc chiếm lấy, biến thành mẫu người quân tử (kế tự) của giai cấp quý tộc. Mất tính Nhân chủ, xã hội Bách Việt chỉ còn là những người hạ lưu, chế độ Nhân trị teo lại, rút vào hệ thống làng xã. Bởi đó, ngày nay, nếu muốn biết giá trị văn hóa Việt cổ, người làm văn hóa phải tìm học làng xã Việt Nam là vậy.
              * Các bộ tộc nước Xích Thần sau trận Trác Lộc 2704 tr.CN bị đồng hóa trong hệ thống Hậu của du mục và gọi chung là chư hầu. Do đó, thời này có hàng vạn chư hầu. Mỗi chư hầu có những truyền thống văn hóa, xã hội, chính trị, tôn giáo mà triều đình trung ương phải tôn trọng. Đến khi các chư hầu thôn tính nhau còn lại vài ngàn, rồi vài trăm, vài chục… thì những biệt sắc đặc thù nông nghiệp của xã hội Miêu, Viêm dần dần tràn ngập xã hội hợp chủng mới đồng thời mang quốc tịch mới: Văn minh Trung Hoa với nền quân chủ chuyên chế và xã hội phụ hệ.
              Trong khi đó, nước Xích Quỷ non yếu ở phía Nam suýt tan rã (sau Trác Lộc) vì bị mất lãnh đạo, đã được bà Âu Cơ giúp đỡ lập quốc trở lại với quốc hiệu mới là Văn Lang. Hệ thống làng xã Việt tộc về sau dù bị cường lực Hoa tộc đô hộ suốt một ngàn năm vẫn kiên trì giữ vững truyền thống tự trị làng xã cho đến giữa thế kỷ 20 thì chế độ cộng sản làm cho tàn lụi. Tôi tin rằng, tinh thần tự trị của làng xã vẫn tiếp tục sống tiềm ẩn và chắc chắn sẽ có ngày hồi sinh khi có điều kiện.

              V/5C .- Giai đoạn Khổng Nho
              Từ Khổng Tử trở về sau gọi là Khổng Nho hay là Nho giáo do đức Khổng Tử sưu tầm và san định (sắp xếp lại cho có hệ thống) khi mà nền văn hóa hợp chủng Hoa-Việt đang càng ngày càng sa sút vì xã hội nhà Chu đi vào thời li loạn, đạo đức, luân lý suy đồi. Truyền thống quân tử kế tự nhờ Khổng Tử mà chuyển thành quân tử kế hiền*
              * Danh xưng quân tử không còn là đặc quyền kế tự của giai cấp quý tộc nữa mà dành cho bất cứ ai có đạo đức, luân lý gọi là kế hiền. Một vài danh xưng khác có phần khiêm nhượng hơn: Hiền nhân, Kẻ sĩ, Thức giả…
              Nhìn sâu hơn vào lịch sử, xã hội Trung Hoa từ ngày lập quốc cho đến giai đoạn này, sự chuyển hướng rất rõ nét: Khi Hoa tộc mới chiếm được đất Miêu thì vua chúa Hoa tộc dành hết những gì cao quý nhất của Miêu cho giai cấp quý tộc của họ, như:
              - Người là chủ (Nhân chủ) vốn là luận đề giáo dục rất thực tiển mà mỗi người dân Miêu phải cố gắng đạt tới. Khi chuyển qua Hoa tộc thì “người là chủ” biến thành “vua là chủ (quân chủ), người là tôi… tớ”.
              - Đất đai trong thiên hạ là của muôn dân, dân làm được tới đâu ăn tới đó. Đất đai, gia súc của cấp lãnh đạo Miêu tộc được chia cho dân làm hộ, nuôi hộ, ăn chia theo phép tỉnh điền… Khi chuyển qua Hoa tộc thì mọi đất đai, tài sản kể cả người đều là của nhà vua.
              - Vua Miêu đối với dân như cha mẹ đối với con, thầy đối với trò… trong chế độ Nhân trị – Khi chuyển qua Hoa tộc thì trở thành chuyên chính, pháp trị “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung!”(vua bảo dân chết, dân không chịu chết là phản nghịch, là phản quốc)…
              Tuy nhiên, sau một thời gian dài sống với Miêu tộc, người Hoa cũng học được đạo làm người, đạo làm vua của Miêu dân, nhưng họ chỉ học mà thôi, còn ứng dụng thì không, để “làm cảnh mà thôi”. Tỉ dụ như chuyện kế hiền vừa kể ở trên. Chuyện: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh (dân là quý nhất, kế đến là thần xã tắc, cuối cùng mới là vua). Chuyện: hàm vị phụ mẫu chi dân của các vua quan. Chuyện: Đem vương hóa mà vỗ về trăm họ hay thương dân như con đỏ… Những chuyện vừa kể quả nhiên là những bài giảng vô cùng giá trị mà Nho giáo đã phóng tác từ xã hội Miêu tộc để làm bài học thuộc lòng cho các bậc quân vương…Tuy nhiên, hình như suốt 5000 năm kể từ ngày Hoa tộc lập quốc chỉ có vài ông vua đầu tiên như Nghiêu, Thuấn… là có lưu tâm. Còn về sau thì thả nổi!
              Có người thắc mắc tại sao một nền văn hóa sáng chói như thế mà lịch sử Đông Á trong suốt nhiều ngàn năm vẫn không xây dựng được một xã hội thái hòa? Chẳng những thế lại còn đi vào suy thoái khi kề cận với văn minh Tây phương?
              Đúng là đã có những nghịch lý xã hội.

              V/6 .- NHỮNG NGHỊCH LÝ TRONG XÃ HỘI TRUNG HOA CỔ

              V/6A .- Nghịch lý giữa 2 nền văn hóa dị biệt
              Khởi đầu, khi nhân loại sống theo phương thức hái lượm và trồng trọt gọi chung là nông nghiệp thì tất cả mọi dân tộc sống theo chế độ mẫu hệ, gọi là Thị tộc (phái nữ cầm quyền trong gia đình). Khi một phần loài người chuyển qua phương thức chăn nuôi gia súc, thì giới này đổi thành chế độ phụ hệ (phái nam cầm quyền).
              Ở xã hội mẫu hệ, những hoạt động của cộng đồng xã hội được phân định thành lệ hầu như không bao giờ thay đổi. Trong một gia đình, người mẹ là chính, có thể có vài người chồng để có nam nhân thay nhau làm việc đồng áng. Con cái theo họ mẹ. Một gia đình như vậy gọi là thị.
              Nhiều gia đình cùng một thị họp lại thành một thị tộc. Những người mẹ cùng một thị tộc cử ra một người có tài đức, sức khỏe đảm nhiệm chức vụ trưởng thị hay trưởng tộc.
              Các trưởng thị, trưởng tộc (của nhiều họ khác nhau) trong cùng một khu vực họp lại thành một bộ và công cử ra một người đứng đầu gọi là bộ tộc trưởng hay tù trưởng bộ lạc. Trong sách này, chúng tôi thường dùng danh xưng tộc trưởng bộ tộc để gọi các bộ tộc trưởng. Tưởng cũng nên nhắc, các tộc trưỏng bộ tộc Miêu tức Viêm ở châu thổ sông Hoàng Hà và trung Trung Hoa sau chiến tranh Trác Lộc đã được cộng chủ Hiên Viên (vua Hoàng Đế) phong làm thành vạn vua chư hầu hoặc vua phụ dung…
              Trong bối cảnh cộng đồng các bộ tộc như thế, thông thường vị tù trưởng bộ tộc xã hội mẫu hệ nhẹ về quyền uy và tài sản nhưng lại nặng về trách nhiệm dẫn dắt, giáo huấn và tế tự . Cho đến sau chiến tranh Trác Lộc, nước Văn Lang được thành lập thì các bộ tộc, bộc lạc này dần dần chuyển thành làng xã.
              Xã hội nông nghiệp Miêu tức Viêm, về sau gọi là Bách Việt có hàng ngàn, hàng vạn bộ tộc, bộ lạc như thế và gọi chung là thiên hạ. Thiên hạ khai hoang lập ấp khắp nơi và hầu như không có biên giới. Các tộc trưởng trong Thiên hạ họp nhau công cử lên một vị vua gọi là Thiên tử.
              Thiên tử có nhiệm vụ vừa là đại tù trưởng, vừa là đại tư tế, đại phán quan… do vậy, chính sách cai trị của Thiên tử đi theo đường lối gọi là vương đạo
              *, thi hành vương đạo thì gọi là vương hóa. Khi có loạn, Thiên tử kêu gọi các bộ tộc, bộ lạc góp dân quân, lương thực, vũ khí để thi hành công đạo. Xã hội đó gọi là xã hội Nhân trị, con người trong xã hội đó lấy mẫu người Nhân chủ để duy trì luân thường, đạo lý…
              * Vương đạo: Dùng đức nhân để trị nước, dùng nghĩa để thu phục nhân tâm, dùng lễ nhạc để cải hóa dân tình, lo cho dân như lo cho mình…; đó là đạo của bực vương. Trái lại, bá đạo là dùng hình phạt để cai trị cho công bằng, dùng kỹ thuật để làm nước giàu, mạnh, dùng binh lực để chiếm đất đai; đó là đạo của các bực bá. Đại đa số các vua chúa Trung Hoa cổ xưng là dùng chính sách vương đạo nhưng đấy chỉ là khẩu hiệu mà thôi, hầu như triều đại nào cũng áp dụng bá đạo để trị dân.
              Con cháu của Thiên tử trong văn hóa Việt cổ mang họ mẹ, do đó không có chuyện nhường ngôi cho con để duy trì dòng họ. Dù vậy vẫn có vấn đề vận động truyền ngôi cho anh em để duy trì chức vị Thiên tử cho người thân trong thị tộc. Sau một thời gian vài anh em của Thiên tử dựa vào nhau để tạo áp lực công cử trong Đại hội các Tộc trưởng thì cũng phải đến giai đoạn hết người và việc tuyển chọn của Đại hội các Tộc trưởng lại bắt đầu căn cứ trên đức độ, tài năng mới* của nhân sĩ các Thị tộc khác…
              * Đế Minh, cháu ba đời vua Đế Viêm, sau vài triều đại thuộc họ khác, đã được công cử lại. – Đế Nghi có lẽ thiếu tài đức đã không được công cử. Lộc Tục là em, lại được công cử nhưng không nhận. Cuối cùng, giải pháp chia làm hai nước Xích Thần (Đế Nghi) và Xích Quỷ (Lộc Tục) đã được chấp nhận. – Con trưởng Lạc Long Quân thuộc họ Hồng Bàng Thị phải thuyết phục 15 Bộ tộc và được bà Âu Cơ ủng hộ mới được công cử lên ngôi Hùng vương. – Tiết Liệu là em thứ 12 của vua Hùng thứ 6, đã chứng tỏ am hiểu đạo lý, luân thường trong việc chế tạo bánh chưng, bánh dầy đã được chọn làm vua
              Làm Thiên tử là tiếp nhận trách nhiệm hơn là danh vọng, quyền uy và của cải. Do vậy, người được công cử thường không muốn nhận và đề bạt lại người khác. Do vậy mà có truyền thống nhún nhường nhiều lần trước khi lên ngôi. Cuối cùng khi không thể từ chối mới lễ độ tiếp nhận chứ không dành dựt tàn khốc, đầy máu và nước mắt như các chế độ quân chủ chuyên chế sau này.
              Triết gia Lương Kim Định nhận định về hai xã hội nông nghiệp và du mục như sau: “Người nông nghiệp bản chất hiền lành nhưng tư tưởng thâm trầm do phải sống thích nghi với thiên nhiên. Họ thường xuyên quan sát vũ trụ, khí hậu, sông nước, cỏ cây… rồi theo thời gian họ rút ra những kinh nghiệm sống : Hợp với thiên nhiên thì tốt mà nghịch lại thì xấu. Trời, đất, vạn vật cùng một thể và những thứ đối chọi nhau như âm dương, sáng tối, nắng mưa, đực cái… phải nương nhau sinh tồn và tiến hóa tạo thành nhân sinh quan và vũ trụ quan của người nông nghiệp Đông Nam Á. Người du mục thì trái lại, họ thiên về cường lực, chuộng thực tiễn, mạnh được yếu thua… Truyền thống văn hóa người du mục do đó hoàn toàn khác hẳn người nông nghiệp” (Sách Nhân Chủ).
              Xã hội nhân trị của Miêu tức Viêm mà về sau gọi là Bách Việt đã tồn tại nhiều ngàn năm trước công nguyên trên môt vùng đất rộng lớn gồm từ châu thổ sông Hoàng Hà vượt qua sông Dương Tử, sông Hồng Hà xuống đến sông Cả và sông Mã. Vị Thiên tử của chế độ Nhân trị này không ăn thuế … Bù lại, hàng năm vua và triều đình được cung ứng “đồ tuế cống” của các bộ tộc, và được thụ hưởng hoa lợi từ những công điền cung cấp tùy theo từng nhiệm vụ. Ruộng đất riêng của vua và quan chức triều đình được người dân canh tác và phân chia theo phép tỉnh điền*
              * Điền sản của mỗi vị được chia làm 9 phần bằng nhau, dân chúng chia nhau canh tác 8 phần để hưởng lợi, đồng thời cùng nhau làm phần còn lại, 100% huê lợi phần còn lại đó sẽ nạp cho người chủ đất đang có công tác lãnh đạo đất nước.
              Luật lệ Bách Việt có 10 điều, chủ yếu khuyên răn dân chúng gìn giữ đạo đức, luân lý của một xã hội nhân nhủ. Vua và dân cùng thờ cúng trời, đất và tổ tiên và những anh hùng dân tộc có công với đất nước gọi là đạo Tam Thông. Về sau biến dạng thành đạo thờ Ông Bà, vì chỉ có vua (trong giai đoạn phong kiến và chuyên chế) mới thông với trời, đất trong lễ tế giao).
              Văn hóa truyền thống, nền tảng Nhân chủ và chế độ Nhân trị của Miêu tức Viêm còn gọi là Bách Việt hình thành một xã hội thái hòa vững chải kéo dài không dưới 4.000 năm kể từ năm 2704 tr.CN trở về trước (Thời kỳ Văn hóa Bắc Sơn).
              Về sau, khi cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên minh Xích Quỷ (2704 tr.CN) thất bại thảm hại, nền văn hóa nông nghiệp tuyệt diệu này còn được duy trì ở phương Nam thêm 2.446 năm với 18 dòng họ nối nhau làm Hùng vương nước Văn Lang.
              Phải cho đến năm 111 tr. CN, khi Hoa tộc thôn tính nước Nam Việt (nhà Triệu) đặt ách nô lệ lên nước ta thì xã hội mẫu hệ và truyền thống tốt đẹp Việt tộc mới dần dần đổi qua chế độ phụ hệ. Tuy nhiên một điều cực kỳ may mắn cho con cháu Việt tộc là nền văn hóa siêu việt này vẫn tồn tại sau lũy tre làng nhờ sự sống còn của làng xã Việt Nam. Khẩu hiệu “Phép vua thua lệ làng” là một niềm hãnh diện của làng xã mà hầu như các thế lực quân chủ chuyên chế Việt Nam muốn dẹp đi nhưng không thể nào phá đổ nổi .
              Mặc dù khi người ta nhận ra được giá trị của làng xã Việt Nam thì nó đã không còn như nguyên thủy của nhiều ngàn năm về trước. Rõ ràng làng xã Việt Nam đã phải thi thố khả năng tuyệt diệu của nó một cách vô cùng cam go trong những căn cứ nhỏ hẹp dưới áp lực của các chế độ quân chủ chuyên chế luôn luôn tìm cách trấn áp, phá bỏ để độc quyền cai trị. Cuộc đấu tranh để sống còn này được thể hiện qua một khẩu hiệu cực kỳ khi quân, phạm thượng của người dân trong làng xã Việt Nam: “Phép vua thua lệ làng”. Nó mạnh mẽ đến độ trong suốt nhiều ngàn năm, quyền hành của nhà vua chỉ về đến quận, huyện mà thôi. Tinh thần Nhân chủ, Nhân trị và ý niệm an nhiên tự tại của người dân trong làng xã Việt Nam thực đáng cho người đời sau suy gẫm!
              Làng xã Việt Nam như những bang tự trị trong một liên bang mà quận, huyện chỉ là cơ chế điều hợp trong suốt 2000 năm kể cả những giai đoạn bị Tầu và Pháp đô hộ *.
              * Xin xem III/4 Tập quán làng xã
              Như thế, nghịch lý đã xẩy ra khi Hoa tộc pha trộn nền văn hóa du mục của họ với nền văn hóa nông nghiệp Bách Việt. Vì vậy trong nhiều ngàn năm, xã hội Hoa tộc dù được xây dựng ít nhất 75% trên nền tảng văn hóa Bách Việt đã không đạt được thành quả như xã hội Việt cổ nguyên thủy. Trái lại đã chất chứa đầy mâu thuẩn trên nhiều lãnh vực khiến đất nước chỉ tạo được thanh bình từng giai đoạn ngắn ngủi mà thôi.

              V/6B .- Nghịch lý xuất phát từ chế độ quân chủ chuyên chế
              Truyền thống du mục Hoa tộc từ giai đoạn quân chủ phong kiến đến quân chủ chuyên chế với những dòng vua cha truyền con nối mà hầu hết các triều đình Việt Nam về sau cũng noi theo. Truyền thống này đã tỏ ra vô cùng gượng ép khi chung sống với nền văn hóa tiền Nho lẫn Khổng Nho. Đấy là nghịch lý đã làm giảm hiệu năng của nền văn hóa đặc thù nông nghiệp Bách Việt.
              Bởi vì khi cố hòa giải cho mối tình du mục Hoa tộc và nông nghiệp Bách Việt, đức Khổng Phu Tử đã hết sức đề cao thuyết thiên mệnh để tránh đi cái tiếng làm cách mạng vô cùng nguy hiểm cho bản thân ông. Thuyết thiên mệnh dựa vào danh xưng Thiên tử và Thiên hạ của Miêu tộc để hóa giải mâu thuẫn của chế độ quân chủ chuyên chế và truyền thống Nhân chủ, Nhân trị đang tồn tại trong dân chúng. Tuy nhiên, ngay vào thời đại của ông, vua chúa các nước chỉ khoái tôn quyền nhà vua mà thôi và rất ngán cái chuyện “dân vi quý, quân vi khinh”. Vì thế, chẳng những ông bị thất nghiệp dài dài mà có lúc còn bị giới này đối xử rất bạc bẽo, thô bạo .
              Xã hội Trung Hoa và các xã hội ở Đông Á với chế độ quân chủ chuyên chế, nếu may mắn gặp được vị vua hiền đức, anh minh thì còn giữ được vài phần nhân trị. Còn chẳng may gặp phải thứ hôn quân vô đạo thì nhân trị chỉ có thể… ở trong tù.
              Xã hội Việt Nam trong suốt 10 thế kỷ (939-1900) dù tổ chức chính quyền theo đường hướng quân chủ chuyên chế Hoa tộc nhưng may mắn nhờ hệ thống hàng ngàn làng xã tiếp tục giữ vững cái gốc Nhân chủ, Nhân trị. Quan lại triều đình Việt đa số xuất thân từ làng xã đã ảnh hưởng rất mạnh lên đường lối trị quốc của chính quyền trung ương.
              Tỉ dụ: Khi nhà vua muốn làm một việc gì có thể gây tổn hại cho dân, cho nước thì thường bị các quan cản trở, tìm cách bác đi. Và, nếu triều đình không ngăn chặn được, khi lệnh xuống đến cấp làng xã lại bị phản ứng của dân nếu lệnh vua đụng đến lệ làng.
              Du khách thế giới thường ca ngợi những kỳ quan thế giới như Vạn lý trường thành, Kim tự tháp, vườn treo Babilon, tượng thần Jupiter, lăng vua Alicarnate… hay những trường giác đấu ở La mã, điện Louvre ở Pháp… có lẽ những du khách ấy quên rằng, biết bao triệu người đã bị đày đọa và gục chết dưới chân những kỳ quan ấy. Những thứ ấy được dựng lên để phục vụ một ông vua oai quyền mà không đem lại lợi ích gì cho ai cả, có chăng để lại trong lịch sử nhân loại những vết bẩn không bao giờ rửa sạch được.
              Khác hẳn với những nước có kỳ quan nói trên, nước Việt dù là một nước đông dân và hùng mạnh hơn các nước trong vùng như Chiêm Thành, Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện… nhưng cung điện, lăng miếu, đền đài, thành quách của nước Việt không đồ sộ, nguy nga, tráng lệ bằng các nước kia. Trái lại những việc ích quốc lợi dân như đắp hàng chục ngàn cây số đê điều chống lũ lụt, đào hàng chục ngàn cây số sông đào dẫn nước tưới ruộng khắp toàn quốc, mở mang lưu thông đường thủy, xây đập giữ nước chống hạn… Những con số vừa kể quả đáng được gọi là những kỳ quan đầy nhân tính hiếm có đã được các triều đình Việt tộc xưa quan tâm thực hiện.
              Hàng năm, trong những dịp lễ hội đầu mùa, vua quan nước Việt có truyền thống xắn quần, cột áo lội xuống ruộng, cầm cày thúc trâu vở luống đất đầu tiên hoặc tự tay nhà vua đánh trống cổ vũ dân chúng hăng hái tham gia công tác khởi công đào kinh, đắp đê, xây đập… Để cho muôn đời nhân dân an cư lạc nghiệp.
              Chỉ một vài tỉ dụ nêu trên đã nói lên dấu ấn tư tưởng Nhân chủ và xã hội Nhân trị trong xã hội Việt Nam dù đã bị mờ nhạt đi rất nhiều so với các thời đại Hùng vương trở về trước.

              V/7 .- VÀI MẪU NGƯỜI ĐẶC TRƯNG TRÊN THẾ GIỚI

              Nhân đây xin ghi lại một vài mẫu người đặc trưng của các nước trên thế giới mà triết gia Lương Kim Định ghi lại trong sách Nhân Chủ:
              Thiên tài : Vĩ nhân, người có biệt tài về một ngành chuyên môn: mỹ thuật, khoa học, văn nghệ, quân sự, xã hội…triết gia Nietzsche nhận xét:“thiên tài vị tất đã là nhân!”
              Người hùng : Có tài về quân sự, mưu lược hay vũ dũng, tung hoành ngang dọc để tranh đoạt chiến công, quyền lợi… Mẫu người này ít quan tâm tới nhân nghĩa
              Chính nhân : Mẫu người của Âu châu thế kỷ 17, là kẻ biết xã giao, lịch thiệp, có uy tín, được dân chúng yêu quý và giới quí tộc nể vì.
              Gentlemen : Người quí phái trong xã hội Anh quốc. Mẫu người này thuờng tỏ ra mình thông minh, trầm tĩnh, cương nghị hơn người nhằm đề cao đẳng cấp giới mình trong xã hội. Gentlemen như một loại hàm vị dành cho giới thượng lưu, quý tộc do đó họ cũng có những ưu đãi trước nhiều giới trong xã hội Anh.
              Cán bộ đảng viên : Cán bộ, đảng viên trong chế độ cọng sản đa số vốn xuất thân từ giai cấp thợ thuyền và nông dân. Họ được học tập một số bài bản, kinh điển chủ nghĩa duy vật biện chứng. Họ cuồng tín phụng sự đảng hay tôn thờ lãnh tụ đảng đã được lý tưởng hóa một cách giả tạo. Họ thường tự xưng là đẳng cấp “siêu việt”, là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”. Để đạt cứu cánh, họ bất chấp phương tiện .
              Người quân tử .- Mẫu người có đạo đức, luân lý, cao đẹp của các nước Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản… trước đây. Họ là những người rất được xã hội tôn trọng và coi đó là mẫu người lý tưởng. Các bậc vua chúa cũng phải dựa vào uy tín của họ để bảo vệ ngai vàng.
              Bằng con mắt vô tư, chúng ta thấy những mẫu người nói trên đều được các xã hội Đông, Tây tôn trọng ngoại trừ cán bộ đảng viên đảng cộng sản thì hoàn toàn ngược lại mặc dù họ được đảng và chính quyền cộng sản tôn họ lên hàng “ưu việt” và “đỉnh cao trí tuệ của loài người” và dành cho họ nhiều đặc quyền, đặc lợi.

              V/8 .- NGƯỜI NHÂN CHỦ

              Nhân đây xin phân tích sơ qua hai danh xưng Dân chủ Nhân chủ rất dễ bị lẫn lộn.
              Dân chủ là một trong những hình thức cơ chế chính quyền mà điều đặc trưng là việc tuyên bố nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do bình đẳng của mọi công dân. Đặt nặng quyền lợi của người dân trong một cộng đồng xã hội, một quốc gia… Điển hình của quyền lợi này là tự do ứng cử các chức vụ được quy định theo Hiến pháp hoặc bầu cử người đại diện cho mình ở các cơ chế lãnh đạo quốc gia, tỉnh, thành phố… Từ thể chế dân chủ mà phát sinh các quyền lợi khác như tự do tôn giáo, tự do lập đảng, hội đoàn, báo chí, hội họp, tự do đi lại, cư trú… nói chung là Nhân quyền.
              Trong khi đó Nhân chủ mang tính chất minh triết, chỉ ra đường lối xây dựng con người, xây dựng xã hội, giáo dục đại chúng biết trân quí giá trị nhân bản và đời sống con người trước “vũ trụ”. Chữ vũ trụ được hiểu là mọi vấn đề liên quan tới con người như cọng đồng xã hội, pháp luật, văn hóa, truyền thống, nghệ thuật, thiên nhiên… hoặc liên quan tới sự không để mình bị lôi cuốn, đam mê vì vật chất, danh vọng, quyền lợi bất chính…
              Đức Khổng Tử hiểu chữ “Nhân” có nhiều bậc. Cao nhất là bậc Thánh nhân, dưới Thánh nhân là Quân Tử tức là người có nhân cách, đạo đức, mô phạm để giữ địa vị dìu dắt, làm gương cho đại chúng.
              Triết gia Lương Kim Định, khi xét vị thế của người quân tử Đông Á, ông cho rằng: người quân tử mang một tầm vóc khác hẳn những vị kia (những mẫu người đặc trưng trên thế giới) một cách diệu kỳ:
              Chữ quân tử hay nhẹ hơn, hiền nhân, mang ý nghĩa tương tự chữ nhân chủ, tuy nhiên nhân chủ mang tính chất minh triết, chỉ ra đường lối xây dựng xã hội, giáo dục đại chúng; còn quân tử, hiền nhân mang tính cách hoàn thiện của kẻ sĩ. Theo nguyên lý Tam tài (Thiên, Địa, Nhân*) cũng gọi là Tam hoàng*, mà hoàng đồng nghĩa với quân*, vương* nên quân, vương cũng chỉ vào nhân.


              Chữ Vương


              * Truyền thống văn hóa Miêu Viêm gọi Nhân (Người, mang tính đại chúng) là một trong Tam tài. Khi Hoa tộc thôn tính băc Miêu thì vua chúa Hoa tộc dành độc quyền vị thế Nhân trong Tam tài cho giai cấp thống trị mà thôi. Do vậy hoàng, quân, vương cũng có nghĩa là Nhân. Chúng ta thấy ngay sự độc chiếm của quý tộc Trung Hoa khi cố tình gò ép chữ Nhân mang tính đại chúng thành hoàng, quân, vương mang tính cá nhân với những uy quyền cường lực của dòng họ kẻ làm vua.
              Chữ vương biểu thị bằng 3 nét ngang chỉ Thiên, Địa, Nhân; còn một nét sổ dọc ở giữa là quán thông Tam tài. Con người vừa thông với trời, thông với đất vừa nối kết giữa người với người. Cho nên nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đúng là những đức tính của con người nhân chủ đại chúng.
              Nói rõ hơn, khi còn trong giai đoạn văn hóa nông nghiệp Bách Việt thuần túy, toàn dân đều cố gắng đặt mình trong ý thức làm chủ để xứng đáng là một trong ba ngôi: Trời là chủ, Đất là chủ và Người là chủ. Đến khi nền văn hóa này bị du mục Hoa tộc chiếm đoạt thì vua chúa Hoa tộc dành riêng ngôi vị Người là chủ cho kẻ làm vua mà thôi . Đó là khởi đầu của chế độ quân chủ phong kiến và chuyên chế: Tất cả mọi thứ (kể cả người) trong thiên hạ đều là của nhà vua.

              V/9 .- MỘT CHUYỆN VUI

              Giống nhưng mà khác .
              “Một chiều tối sau bữa tiệc vui ở tiệm ăn, có hai người bạn cùng nhau ra xe trở về nhà. Da mặt người có xe ửng hồng vì phản ứng của men rượu còn người bạn đi cùng thì có vẽ tỉnh táo. Họ thong thả ra bãi đậu xe để trở về nhà, người bạn nói:
              - Anh để tôi lái xe cho.
              - Không được đâu, xe này anh không quen, để tôi lái, cứ yên tâm.
              - Này, chung quanh mấy cái restaurant này cảnh sát nó rình dữ lắm, anh không sợ nó bắt anh lái xe trong khi say rượu à? Chẳng những tù mọt gông mà còn bị tống về Việt Nam đó!
              Người có xe chắt lưỡi:
              - Việc gì phải sợ bạn ơi!
              - Lo trước cho an toàn, rắc rối với luật pháp mệt lắm đa!
              Người có xe gật đầu :
              - Mình mới ngụm một tí là mặt đỏ lên như say rượu, thật là chẳng giống ai… OK! Đừng để người ta hiểu lầm là hay nhất. Vậy nhờ bạn lái xe dùm tôi.
              Nói xong, người chủ xe trao chìa khóa cho bạn và dặn một vài chi tiết khác biệt của chiếc xe. Họ lên xe, rời bãi đậu và xe bắt đầu chạy qua quảng đường mà cảnh sát thường phục kích. Trong khi người bạn lo lắng nhìn ngược xuôi thì người kia vui vẽ âm ư một bài ca vui. Đến một ngã tư có bảng “Stop”, quả nhiên họ thấy một xe cảnh sát đậu khuất một tàn cây.
              Người bạn nhanh nhẹn rà chân thắng. Xe đứng hẳn sau bảng “Stop” đúng luật. Anh sờ lên giây “seat-bell”, giọng nói mất hẳn tự nhiên:
              - Cảnh sát kìa! Coi chừng, anh đã cài “seat-bell” chưa?
              Người chủ xe cười:
              - Bạn ơi, mình chỉ nên coi chừng kẻ xấu thôi. Nếu có cảnh sát ở đây thì mình càng yên tâm chứ! Tụi mình đóng thuế để họ bảo vệ an ninh cho mình cơ mà!
              - Nhưng tôi sợ, tôi cũng có uống tý rượu, lỡ ra họ đo…
              - Ây dà! Đo với thử… nhằm nhò gì ba cái chuyện lẻ tẻ mà quýnh lên! Mình giữ luật đâu phải vì sợ cảnh sát… mà vì an nguy của mình và của mọi người mà thôi.
              Người bạn chép miệng:
              - …!! Dù vậy mình cũng nên đề phòng chứ!
              - Dĩ nhiên lúc nào mình cũng nên cẩn thận! Nhưng mà… nếu vô ý phạm luật, bị cảnh sát quay đèn thì mình nên khen họ chứ, sao lại đề phòng họ như đề phòng kẻ gian?… Vui vẽ nhận lỗi và tự hứa lần sau mình nên lái xe cẩn thận là hay nhất phải không?
              - Thiệt! Tui chưa thấy ai tiếu lâm như anh à nghe!
              Người kia mĩm cười tự nhủ: “!!! Kể ra… khi suy nghĩ của một người không giống đa số thì trở thành “tiếu lâm”, trở thành “mát” thật, dù sự suy nghĩ đó là chính đáng.
              Qua chuyện vui trên, chúng ta có thể thấy rõ, tính nhân chủ thể hiện khá rõ nét ở một trong hai người bạn ấy. Vậy ai là kẻ nô lệ luật pháp, ai là người làm chủ luật pháp?
              Bàn về xây dựng con người Nhân chủ, học giả Nguyễn Việt An góp ý như sau:
              “Muốn xây dựng xã hội Nhân bản toàn diện thì phải có con người Nhân chủ. Con người Nhân chủ biết rõ mình ở đâu mà ra? Thành bởi gì? Ra đời để làm gì? Rồi trở về đâu? Nên sống sao cho ra sống, không quá lụy vào trời (tình cảm) hay quá ỷ vào đất (lý trí), không vướng vào ý hệ này, chủ nghĩa kia. Ngửng cao đầu tham dự vào cuộc sinh sinh hóa hóa với trời cùng đất.”
              Biểu tượng ông Bàn Cổ mà người xưa để lại vừa mang cái giản dị đến độ một thiếu niên cũng tiếp nhận dễ dàng. Nó vừa mang cái thâm sâu, cao diệu mà những học giả uyên thâm cũng phải tìm học sảng khoái. Chuyện ông Bàn Cổ không nhắc tới tâm linh, đạo đức, luân lý, không nói tới quan niệm nhân sinh, không đã động đến con người lý tưởng, không có những cụm từ chứa đầy triết lý như nhân chủ, nhân trị, nhân bản, nhất nguyên lưỡng cực, nhị nguyên… của nhiều ngàn năm sau, nhưng mỗi người nghe, tùy mức độ tiếp nhận, đều có thể hiểu được mình, hiểu được người, thấu đáo được vũ trụ chung quanh. Để từ đó, tùy vị thế trong cộng đồng xã hội của mình, nhìn ra một lối đi chân, thiện, mỹ cho mình, cho người, cho xã hội, cho thiên nhiên, vũ trụ… như câu chuyện đã kể :
              Ông càng lớn thì trời càng cao, đất càng dầy… Khi ông chết, mắt biến thành mặt trăng, mặt trời, máu mỡ chảy ra thành biển cả, thân xác rã ra thành những vùng đất, núi lớn trong thiên hạ, lông tóc đâm rể xuống đất mọc lên cây cối… Hai hình ảnh: Lúc mới sinh thì Trời Đất xuất hiện thật nhỏ trong tầm mắt bé sơ sinh; lúc chết thì thật vĩ đại… cho ta cái nhìn rất rõ nét giá trị của con Người trong vũ trụ vậy.
              Toàn bộ câu chuyện đi từ những điểm thật nhỏ như đếm từng ngày, như đo từng thước, như cái liếc mắt, như khi vui lúc buồn… để rồi lớn lên, cao thêm, dày thêm… thoát chốc 18.000 năm bùng lên, hùng vĩ đến vô cùng, hành động đến vô cùng và kết quả cũng vô cùng! Quả nhiên là một lối nói ẩn dụ, mới nghe thì có vẽ mộc mạc, tiếu lâm đến độ hoang đường mà thực sự mang một tư tưởng trùm lấp không giới hạn và sự uyên thâm vô lượng có giá trị đến muôn đời về sau.

              V/10 .- KẾT LUẬN V

              Xin đố quý độc giả một câu đố vui để kết thúc Chương V này:
              Tại sao những loài sâu bọ sống trên thân xác ông Bàn Cổ trở thành loài người?
              Tại sao loài sâu bọ lại biến thành người?
              Ta thử ngưng lại vài phút, pha một tách trà thật ngon, thưởng thức cái mùi vị truyền thống… lắng nghe lòng ta nghĩ sao về loài sâu bọ này!…
              - Ừ nhỉ! Kể cũng lạ, vì sao chúng lại thành người?
              - Nhất định đây là một câu kết thúc cực kỳ quan trọng, nếu ta không thưởng thức, không “ngộ” được câu này thì coi như chuyện ông Bàn Cổ hoàn toàn hỏng!! Và bài luận này phải “sổ toẹt”!!
              - Loài sâu bọ sống bám trên người ông Bàn Cổ chắc hẳn là những con chí, con rận, con ghẻ… Nhưng mà! Lý do nào thúc đẩy bọn chí rận này biến thành người mà không phải một con gì khác?
              Trong một truyện dài dã sử mang tên “Nước Non Tiền Sử”, tôi có dành một đoạn viết về chuyện ông Bàn Cổ. Nay xin trích phần chót của đoạn đó như một suy tư, một gợi ý của người viết để quý độc giả thử nghiệm lại xem, may ra chúng ta khám phá thêm những ý tưởng mới qua câu kết hài hước, hóm hỉnh, vô cùng trầm mạc của người xưa!
              ……………………………..

              “Một thanh niên đang đi ở vòng ngoài cùng, bỗng chen vào giữa câu chuyện :
              - Thưa thầy! Vậy thì người ta bắt nguồn từ loài chí rận chứ không phải từ ông Bàn Cổ sinh ra hay sao?
              Nghe hỏi, một cô gái có mặt trong nhóm bật cười, cô hóm hỉnh góp ý:
              - Vô duyên không! Ông Bàn Cổ… là… đàn ông… làm sao sinh đẻ cơ chứ?
              Cô vừa dứt lời thì lập tức những tiếng kêu thét vang lên ồn ào như vỡ chợ của bọn thanh niên đang đi chung quanh thầy Dực:
              - Đúng lắm!
              - Chí lý!
              - Cha nào ấm ớ thế! Ông Bàn Cổ chứ đâu phải bà Bàn Cổ mà đòi đẻ! Tếu thật!
              Cô gái thẹn, phân trần:
              - Này! Tôi nói thế không đúng hay sao!!
              Thầy Lê Dực tươi cười góp ý:
              - Ông Bàn Cổ, ta gọi bằng ông, nhưng theo tôi nghĩ thì vị tất đã là ông hay bà. Người xưa dùng câu chuyện ông Bàn Cổ như một ẩn dụ, truyền đạt cho con cháu chứ thực tế làm gì có người nào kỳ lạ như ông Bàn Cổ phải không?
              - Dạ đúng vậy thầy!
              Thầy Dực đưa tay lên trán bóp nhẹ, chặp sau thầy nói tiếp:
              - Vậy thì việc những con chí, con rận biến thành người cũng là một lối nói ẩn dụ. Ông Bàn Cổ không sinh đẻ ra loài người, nhưng những con vật dù nhỏ nhất, chẳng ra gì, nhờ sống trên người ông, thừa hưởng khí huyết, tinh thần, đạo lý và tư tưởng của ông, chúng đã trở thành loài người.
              Một chiến sĩ đi bên cạnh nghe đến đó bất chợt thốt lên:
              - À! Thưa thầy, con hiểu rồi… Loài người, nếu không có tư tưởng, không có đạo đức, luân lý, không có ý niệm tâm linh để duy trì cuộc sống cao đẹp, thì có khác gì những con chí, con rận… phải không thầy?
              Mọi người nghe lời góp ý thì cùng ồ lên, bên cạnh cái ngạc nhiên hứng thú còn pha lẫn sự kính phục chân thành lời dậy của cha ông :
              - Phải rồi! Nếu không thoát ra được cái thú tính thấp hèn thì con người khác gì loài chí rận!!”
              #7
                hai1957 14.11.2012 14:46:04 (permalink)
                Chương VI

                ĐƯỜNG TA ĐI



                VI/1 .- TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI VIẾT

                Những phần quý độc giả vừa đọc là tài nguyên tư tưởng của tổ tiên hiền triết Việt tộc, của các triết gia, sử gia, học giả, khoa học khảo cổ… Đông Tây cổ kim mà tôi cố gắng học hỏi, lý giải, tổng hợp, lập luận và phát huy… để làm sáng tỏ hơn nữa những nghi vấn lịch sử và văn hóa còn tồn đọng quá nhiều giữa hai dân tộc Việt-Hoa và những sai lầm nghiêm trọng của văn minh thế giới ngày nay.
                Nhằm mục đích giúp cho tác phẩm bớt nặng nề, rườm rà vì phải gánh thêm những ghi chú khô khan, ngoài những ghi chú sách trích dẫn hoặc tên tác giả, chúng tôi tập trung toàn bộ tên sách và tên tác giả trích dẫn vào những trang cuối cùng. Các loại tin tức này đã được phổ biến rất rộng trên sách báo, tài liệu và hầu như ai có lòng quan tâm đến văn hóa nước nhà đều ít nhiều đã đọc qua. Phần khác, việc làm của các người đi trước là cung cấp tin tức sưu khảo và kiến thức văn hóa Việt Nam, còn tôi chỉ dựa vào đó để gợi ý về một lối đi mới mà cố triết gia Lương Kim Định đã đề xướng từ hơn 40 năm qua. Đó là triết lý An Vi, một minh triết cực kỳ thâm sâu, dẫn dắt con người hướng về đời sống chân thiện mỹ mà thế giới ngày nay đang tìm kiếm.
                Tôi xin thẳng thắn minh định: Có rất nhiều sự kiện văn hóa Việt tộc quan trọng đã bị chôn vùi hàng bốn, năm ngàn năm cần phải được làm sáng tỏ trước dư luận:
                - Các giá trị tư tưởng và truyền thống văn hóa nông nghiệp Việt tộc đã bị người du mục Hoa tộc cổ vay mượn và pha trộn, biến chế bằng truyền thống cường bạo của họ trong suốt nhiều ngàn năm kể từ sau chiến tranh Trác Lộc 2704 tr.CN.
                Hình thức vay mượn văn hóa giữa các dân tộc láng giềng là chuyện bình thường. Tuy nhiên, ở đây sự vay mượn mang chủ tâm chiếm đoạt của Hoa tộc cổ bằng cách thay quốc tịch nền văn hóa nông nghiệp định canh Miêu tộc tức Viêm, Việt thành quốc tịch Trung Hoa. Bằng mọi giá, kẻ cường bạo trong suốt dòng lịch sử lập quốc và kiến quốc của họ, mỗi khi có cơ hội đều tìm cách tước đoạt mọi tài sản văn hóa Việt tộc với chủ trương làm cho người Việt quên đi nguồn gốc tổ tiên và văn hóa của họ. Nặng nề nhất, trong suốt giai đoạn 1000 năm đô hộ Việt tộc, người Trung Hoa cổ đã dùng mọi thủ đoạn gian trá và ác độc bôi xóa mọi ký ức văn hóa truyền thống của Việt tộc mà cha ông đã truyền lại từ ngàn xưa.
                Do vậy, từ năm 939 là năm Việt tộc tự giải thoát ách đô hộ của Hoa tộc đến nay, hậu duệ Miêu tộc tức Viêm, Việt không còn nhận ra mình là ai?
                Ngày nay, nhờ những nhân chứng quan trọng như đức Khổng Phu Tử và học trò của ông, nhờ các cổ vật tìm được từ dưới lòng đất ở Bắc Việt Nam, ở phía Nam Trung Hoa, của các thời đại trước khi du mục Hoa tộc lấn chiếm; nhờ hệ thống ca dao, tục ngữ, phong dao, ca vũ, hát ru em…; nhờ hệ thống làng xã Việt Nam như những bảo tàng viện sống, đã lưu giữ những giá trị văn hóa tuyệt vời đó cho đến ngày nay; nhờ các nước có nhiều liên hệ đến Việt Nam như Pháp, Vatican, Nhật, Mỹ và nhất là Trung Hoa… đã bảo tồn những tài liệu cổ quý gia của Việt tộc… Người Việt Nam đã dần tìn tìm lại được gia tài cực kỳ quý giá của cha ông để lại.
                Ngày nay, việc lấy ra dùng lại hoặc cải sửa và phối hợp với nền văn minh Tây phương hiện hữu để làm tăng thêm hiệu quả xây dựng cuộc sống hạnh phúc dân tộc thì đấy là một việc làm vô cùng cần thiết không thể bỏ lỡ!
                Khởi sự cho việc làm đó, chúng tôi xin mạo muội trình ra trước công luận tài liệu gợi ý mang dạng những ý niệm khởi đầu được nhen nhúm từ một tấm lòng để cùng hàng ngàn hàng triệu tấm lòng khác mạnh dạn tiến lên:
                ĐƯỜNG TA ĐI

                Đường đi của người Việt Nam ngày nay không khác gì đường Voi Đi trong truyện ngắn thay lời Phi Lộ ở đầu sách. Con đường huyết mạch và hồ nước linh thiêng ngàn đời của dân ta đã bị bít kín khiến toàn dân khao khát tìm về thanh bình, hạnh phúc của non nước cũ!
                Gầy dựng lại Việt Nam trong tương lai quả là một công tác cực kỳ cần thiết và phủ đầy chông gai sau khi xẩy ra biết bao biến cố tàn khốc cho dân tộc. Nhưng không thể nào chúng ta ngồi nhìn và chờ đợi sự bất động tự nhiên thành!!
                Chúng tôi vững tin rằng, với tài năng, óc sáng tạo, lòng kiên nhẫn, tính can đảm và nhất là tình yêu tổ quốc nồng nàn của dân tộc Việt Nam, kẻ sĩ Việt Nam… Chắc chắn một nước Việt Nam thanh bình, thịnh vượng, người vị người sẽ xuất hiện.
                Chẳng riêng gì người Việt yêu tự do làm được mà người Việt cộng sản cũng làm được nếu các anh chị ấy thật tâm muốn tìm cho Việt Nam một lối thoát trong danh dự cho tổ quốc, nòi giống và cả cho các anh. Lịch sử sẽ ghi lại công ơn các anh hay nguyền rủa các anh đều nằm trong sự quyết định hôm nay. Việc đó vô cùng cấp bách không thể chần chờ được nữa !!
                Chúng ta đã thấy, ngoài nhu yếu vật chất mà con người dựa vào khoa học để có, còn một thứ nhu yếu khác là tinh thần gồm cả một hệ thống cực kỳ thâm sâu: lương tri, tình cảm, luân lý, đạo đức, tâm linh, tiềm thức, thần linh… Những nhu yếu ấy chẳng những không thể thiếu được trong mọi tầng lớp xã hội Việt tộc mà còn giúp cho nhân loại sớm đạt được thái hòa.
                Dựa vào những hệ luận phát sinh từ suy lý, con người ngày nay được thế giới Tây phương cổ vũ cho việc vận dụng lý trí để suy diễn, để tranh thủ quyền lợi, tiền tài, danh vọng… cho dù phải dẫm lên lương tri, đạo đức, luân lý, tôn giáo… Cán cân công lý Tây phương đã nhiều lần chứng tỏ sự yếu kém của nó trước miệng lưỡi của suy lý…
                Tại sao phía Tây phương mới mở được một vế trong việc xây dựng hạnh phúc cho xã hội loài người thì đã đứng khựng lại?
                Dùng vế suy lý ấy viện dẫn hiến chương, hiến pháp, luật lệ để khống chế, đàn áp, hủy diệt những truyền thống luân lý, đạo đức, tâm linh tốt đẹp của loài người? Đó là một việc làm lầm lẫn vô cùng tai hại khiến nhân loại đi mãi từ xáo trộn này đến hỗn loạn khác mà không bao giờ chấm dứt được. Bởi vì, không thể dùng vế suy lý để khống chế vế tinh thần hoặc ngược lại, đó là chân lý. Trước một vấn đề, nhất là vấn đề liên hệ đến tính cảm, đến tâm linh, suy lý có nhiều đường để quyến rủ người nghe đi vào sai lầm. Tỉ dụ thực tế: Người Đức đã dùng suy lý để dẫn dắt dân tộc Đức đi vào chiến tranh thế giới, tiêu diệt hàng chục triệu sinh mạng. Người cộng sản đã dùng suy lý dẫn tới duy vật biện chứng để tạo hận thù giai cấp, hủy diệt tôn giáo, giết chết hoặc lôi cuốn hàng tỷ người vào cảnh lầm than, thống khổ hàng hai phần ba thế kỷ…
                Chẳng những thế, càng về sau sự rối loạn của thế giới loài người càng phức tạp, càng tinh vi, càng khó chữa trị.
                Bởi đó, chúng tôi mạnh dạn đề nghị với người Việt trong nước cũng như ở hải ngoại, hãy can đảm ngồi lại với nhau, tháo gỡ mọi hận thù dĩ vãng, mọi dị biệt tư tưởng để hướng về một Việt Nam sáng ngời trong tương lai:

                VI/2 .- XIN XEM ĐƯỜNG TA ĐI NHƯ GỢI Ý CHO MỘT LỘ TRÌNH SƠ THẢO

                Hãy chấp nhận và quyết tâm xây dụng một quốc gia Nhân chủ, Nhân trị, Tự do, Dân chủ và Bình sản cho tổ quốc, dân tộc Việt Nam.
                Dựa trên năm nguyên lý căn bản như sau :

                VI/2A .- NGUYÊN LÝ NHÂN CHỦ

                Mẫu người Nhân chủ là mục tiêu để chính quyền dẫn dắt, giáo dục toàn dân noi theo đồng thời là nền móng để tiến tới xã hội nhân bản toàn diện. Xã hội này được xây dựng trên ba yếu tố chính :
                1 : Lấy con người làm căn bản, mọi vấn đề đều khởi điểm từ con người trên căn bản Nhất nguyên Lưỡng cực. Con người làm chủ Giao ước để có xã hội trật tự. Giao ước đó được xây dựng trên năm đức tính căn bản: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
                2 : Con người là sự kết hợp hoàn thiện giữa thể xác và tinh thần mà đỉnh cao là con người Nhân chủ. Lấy con người Nhân chủ làm đối tượng phấn đấu để góp sức cùng nhau xây dựng xã hội hoàn thiện đó là xã hội Tự do, Dân chủ, Nhân trị và Bình sản.
                3 : Con người Nhân chủ ngoài sự phấn đấu để trở thành mẫu người hoàn thiện nghĩa là làm chủ bản thân, làm chủ công ích, công sản, quốc ước, thiên nhiên… còn có một đời sống tư riêng, đó là đời sống tinh thần. Biểu hiệu của đời sống tinh thần là: đạo đức, luân lý, lương tri, tín ngưỡng tâm linh, tiềm thức… Đề cao và cổ vũ đời sống tinh thần, một trong hai cực nền tảng của triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực. Đây là đường lối hay nhất tạo sự quân bình trong cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình dòng tộc hay từng cộng đồng trong xã hội.
                Nói chung, con người Nhân chủ là tự mình biết phấn đấu sống theo đạo lý gọi là quốc đạo, tự mình kềm chế các tính hư nết xấu và tự mình chăm lo cho cuộc sống của mình, từ đó con người mỗi ngày một trở nên hoàn thiện hơn.
                Khi xã hội đã có những bước tiến vững vàng, mẫu người Nhân chủ tiến thêm một bước cao hơn. Đó là con người toàn thiện với Tam tính: tính Dũng, tính Trung dung và tính Thích nghi để xã hội có thái hòa. (Xin xem thêm Mục III/6.- “Thương Em Từ Thủa Tiên Rồng, Tiểu mục III/6B)

                VI/2B .- NGUYÊN LÝ NHÂN TRỊ

                Nhân trị là trị nước theo cái đức của người, dùng nhân ái để cảm hóa con người cởi bỏ điều xấu, thi hành điều tốt. Chế độ Nhân trị dùng Quốc ước thay cho Hiến pháp. Quốc ước tức là giao ước của toàn dân, do Quốc hội soạn thảo và Tổng thống ban hành. Triết lý Nhất nguyên Lưỡng cực là minh triết chủ đạo trong việc xây dựng và lãnh đạo quốc gia xã hội, nền tảng thiết lập Quốc ước, trong đó, mọi vấn đề phải được giải quyết linh động, hợp tình, hợp lý tùy theo mỗi trường hợp. Quốc ước có khen thưởng có khuyên răn và trách phạt chứ không cứng ngắt một chiều suy lý và xử phạt tính theo suy luận và cân đo mang dạng toán học của các tòa án dựa vào Hiến pháp và Luật pháp hiện nay.

                VI/2C .- NGUYÊN LÝ DÂN CHỦ

                Một trong những hình thức chính quyền mà điều đặc trưng là việc tuyên bố chính thức và thực hiện trọn vẹn nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số cũng như thừa nhận quyền tự do và bình đẳng của mọi công dân.
                Toàn dân làm chủ quốc gia. thể hiện vị thế làm chủ bằng ứng cử và bầu cử tự do trong các cuộc đầu phiếu trên toàn quốc để chọn ra các cơ cấu lãnh đạo quốc gia gồm ba cơ quan: Lập ước, Hành ước và Tôi cao Quốc ước.
                Ở các địa phương như tỉnh, quận, làng xã, phường hay thành phố, thị trấn… các cơ cấu điều hành đều do người dân bầu ra. Tất cả mọi chức vụ dân cử đều có nhiệm kỳ cố định do Quốc hội Lập ước quyết nghị, Hành pháp ban hành và Tối cao Quốc ước minh chứng.

                VI/2D .- NGUYÊN LÝ TỰ DO

                Tự do trong ý thức Nhân chủ
                Tự do trong niềm tin, quý trọng và yêu thương Quốc ước
                Tự do theo bản tuyên ngôn nhân quyền Liên hiệp quốc.

                VI/2E .- NGUYÊN LÝ BÌNH SẢN

                Hạnh phúc lâu bền và thực sự của xã hội, luôn luôn phải được xây dựng trên hai yếu tố: Đời sống no ấm và tinh thần an nhiên tự tại của một người có ý thức Nhân chủ thực sự. Muốn có ấm no, an nhiên tự tại cho người dân… Quốc gia phải tạo điều kiện hợp tình hợp lý cho người dân có công việc làm ăn, đồng thời hạ thấp cách biệt giàu nghèo và ngăn chặn cảnh người bóc lột người, hà hiếp người.
                Để thực hiện chủ trương bình sản, chúng tôi xin gợi ý vài điểm chính:
                - Chuyển hướng dần thói quen cá nhân chủ nghĩa, anh hùng chủ nghĩa trở thành mẫu người phát triển cộng đồng*
                * Phát triển cộng đồng tức là vận động, hướng dẫn, giúp đở, mở rọng thêm nhiều lãnh vực sinh hoạt trong xã hội để vận động người dân tham gia các công tác cộng đồng trong các lãnh vực xã hội, bác ái, công ích… Nói chung, đó là tất cả mọi người cùng chung sức nhau mở mang tiện ích, mở rộng kiến thức làm cho đời sống người dân trong khu vực hướng thiện, tốt đẹp hơn.
                - Thay đổi dần cách làm ăn cá thể bằng hợp tác công ty có tính cách đại chúng hay gia tộc, đồng hương, đồng nghề, đồng phái tính, đồng đạo, đồng môn…
                - Mọi công nhân đều có quyền lợi trên tài nguyên và tài sản mà họ đã tham gia góp công, góp của để kiến tạo. Từ đó họ được chuyển đổi dần dần để trở thành thành viên có quyền lợi trong công ty mà họ đã cộng tác.
                - Phân chia lại ruộng đất và yểm trợ tích cực cho nông dân phát triển nông nghiệp. Chúng tôi xin gợi ý một số phương cách như sau :
                1) Nông dân lãnh ruộng của địa chủ, chính phủ, làm rẽ và đóng địa tô cho chủ trong một thời gian nhất định. Sau đó, phần ruộng làm rẽ ấy sẽ thuộc quyền sở hửu của người nông dân ấy với sự giúp đỡ tích cực của chính quyền trung ương và địa phương.
                2) Nông dân góp ít nhất là 1/10 tiền đất, chính quyền cho vay với lãi xuất nhẹ số tiền còn lại để mua đứt thửa ruộng. Sau đó nông dân sẽ trả góp trở lại chính phủ cho đến khi hết nợ.
                3) Ấn định mỗi địa chủ chỉ được giữ một số đất tối đa, số còn lại phải bán cho chính phủ theo hình thức mua quốc trái. Chính phủ cung cấp đất ấy cho nông dân canh tác.
                Các công tác đào kinh dẫn nước nhập ruộng, rửa phèn, xã mặn, phân bón, thuốc sâu rầy, hạt giống tốt, cung cấp các loại thiết bị, máy móc cơ khí nông nghiệp… cho đến việc tổ chức các khóa huấn luyện cán bộ nông nghiệp đều phải được chính quyền chuyên tâm chăm sóc lo lắng.

                VI/3 .- XÂY DỰNG CON NGƯỜI VÀ XÂY DỰNG XÃ HỘI

                Những ý kiến trên chỉ là khái niệm tổng quát suy ra từ kiến thức rất hạn chế của người viết về vấn đề nông nghiệp trong việc xây dựng đời sống ấm no cho người dân. Chúng tôi tin rằng, các chuyên gia về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, kỹ nghệ, xã hội, chính trị… với kinh nghiệm và tài năng sẵn có, chắc chắn có thể vạch ra được con đường xây dựng bình sản hợp tình hợp lý để xây dựng đất nước theo chiều hướng mới.
                Hãy hướng về một Việt Nam ngày mai bằng một chương trình xây dựng đất nước song song trên hai lãnh vực quan trọng nhất của loài người, đó là nhân văn và xã hội, bằng quyết tâm:
                XÂY DỰNG CON NGƯỜI và XÂY DỰNG XÃ HỘI
                Hãy nâng cao công tác xây dựng con người lên hàng quốc sách. Hãy thành lập ngay một cơ quan nghiên cứu và chỉ đạo văn hóa như một hàn lâm viện với các khả năng đại học chuyên ngành với sự tham gia của những triết gia, học giả, giáo sư, nhà văn, nhân sĩ, tu sĩ… thiết tha với tổ quốc dân tộc, có khả năng, đạo đức, uy tín và nhất là chấp nhận đường lối chung trong công tác dựng nước này.
                Thành viên của Hàn lâm viện phải được tổng thống tuyển chọn và quốc hội tấn phong. Họ có thể bị quốc hội biểu quyết yêu cầu từ tức hoặc bãi nhiệm với sự đồng thuận của tổng thống nếu họ phạm lỗi. Bình thường, họ sẽ làm việc liên tục cho đến ngày về hưu.
                Nhiệm vụ của các Hàn lâm viện là nghiên cứu kế hoạch, chương trình giúp đở chính phủ dẫn dắt quốc gia xây dựng một xã hội nhân bản toàn diện qua mẫu người nhân chủ. Đào tạo cấp thời các cán bộ văn hóa để đáp ứng nhu cầu trên toàn quốc.
                Để đạt được thành quả, lẽ dĩ nhiên chương trình hoạt động phải qua nhiều giai đoạn đào tạo, xây dựng. Phải đi từ dễ đến khó; từ thấp lên cao; từ đơn giản đến đa diện. Khoa học có thể đánh giá khả năng hoặc kiến thức của mỗi người, nhưng đạo đức, luân lý, tâm linh… vốn thuộc hệ thống tinh thần, trừu tượng, có tổ chức thi cử thì cũng chỉ cân đo được cái bên ngoài mà thôi. Còn nội tâm thì chỉ thể hiện lâu dài trong đời sống của mỗi người.
                Cụ thể trong việc xây dựng người, hãy xử dụng ngay các loại trường tiểu, trung, đại học trên toàn quốc; các trường chuyên ngành, các lớp đào tạo nhân viên, cán bộ, công nhân; Các trường huấn luyện quân đội, cảnh sát, hàng hải, hàng không, kiểm lâm, quan thuế, y tế xã hội, điều dưỡng… để làm phương tiện truyền đạt, giáo dục, huấn luyện
                Cao nhất là mở thêm các phân khoa đại học triết Việt nhằm cung ứng cho quốc gia các cử nhân triết, tiến sĩ triết… nhất định không bỏ sót một cơ hội nào cho việc truyền bá quốc đạo.
                Kế hoạch phải khởi đầu từ cơ quan các ngành cao nhất của quốc gia từ trung ương ra dần các tỉnh, quận, làng, phường… Tất cả mọi nhân viên chính quyền đều phải tham gia học tập, nghiên cứu, thảo luận và thực thi đạo lý trước tiên trên chính bản thân, gia đình và công việc làm của mình.
                Đối với đại chúng, cần xử dụng mọi phương tiện truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình, phim ảnh, bích chương, biểu ngữ, truyền đơn… chọn những câu ca dao, tục ngữ, chuyện cổ, thi ca thích hợp với đạo lý. Đặt các giải thi đua viết chuyện ngắn, chuyện dài, kịch bản, truyện phim, thơ, văn, ca nhạc, thể dục, thể thao… phổ biến rộng rãi từ thành thị tới thôn quê, từ duyên hải lên miền ngược… tạo thành một phong trào truyền thống đi sâu vào mọi sinh hoạt hàng ngày của đại chúng, dần dần trở thành thói quen, nền nếp, thâm nhập vào tiềm thức người dân.
                Trong rừng nhân thoại (vẫn thường gọi là huyền thoại), truyện cổ, ca dao, tục ngữ hay trong thi ca… lẫn lộn bên những lời di huấn của tổ tiên, vẫn không thiếu những hủ tục mê tín, dị đoan hoăc những quan niệm dị biệt của văn hóa ngoại lai… Cần được tẩy rửa để vừa đem lại tính hoàn mỹ của quốc đạo vừa dễ dàng hòa nhịp với văn minh nhân loại ngày nay.
                Hãy lập những hệ thống cấp bằng, tưởng lệ, sắc phong… cho cá nhân, tập thể, địa phương có thành tích tiến bộ trong việc giữ gìn và phát triển đạo lý. Những bằng, sắc phong, tưởng lệ này nên kèm theo một số tưởng thưởng vật chất và tinh thần do chính quyền hoặc tư nhân biếu tặng. Chẳng hạn được mời làm khách danh dự trong các dịp lễ, tiếp tân, thi đấu thể dục thể thao, hội Tết… tại địa phương hoặc thủ đô; Tặng vé du lịch, phụ cấp học bổng, thẻ giảm giá mua hàng, công nhân viên, quân nhân, công chức… được tăng lương, lên cấp, tù nhân được giảm án…
                Trong lãnh vực công kỹ nghệ, thương mãi hay tuyển sinh tham dự huấn nghiệp các ngành hãy đề cao giá trị đạo đức và nhân tính làm nền tảng tuyển chọn thành viên cũng như làm nền tảng xét xử khi có tranh chấp hay sai phạm…
                Hãy đề cao gia đình, hội đồng chi tôc, gia tộc và dành cho họ phần nào quyền giải quyết những vấn đề trong phạm vi gia đình, dòng tộc liên quan đến việc Hộ (Thuộc về tài sản, vườn đất, thuế má, sinh tử, giá thú, gia tộc, dòng tộc, quyền thừa kế…). Khi gia đình, gia tộc… không giải quyết được mới dùng đến công lý của tòa Quốc ước.
                Tinh thần Nhân chủ nội trị của làng, xã cần phải được chính quyền cấp cao hơn tôn trọng; ngược lại, làng xã phải thi hành các chủ trương, đường lối của chính quyền cấp trên. Trường hợp có mâu thuẫn không giải quyết được, tòa Quốc ước các cấp sẽ ra quyết nghị xác minh ai đúng ai sai. Một khi nội vụ lên tới tòa Tối cao Quốc ước thì toàn quốc phải tuân hành mọi phán quyết của tòa này.

                VI/4 .- QUAN NIỆM HỌC ĐƯỜNG MỚI

                Gần cả trăm năm nay, nền Giáo dục Việt Nam chạy theo khuôn mẫu học đường Âu Mỹ với một số thay đổi tùy theo chủ trương của mỗi chế độ (Thực dân, Quốc gia Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa, Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Đã đẩy học sinh, sinh viên và xã hội chạy theo quan niệm Nhân bản Suy lý, và Duy Vật của Âu Mỹ. Do vậy các bộ môn quan trọng, liên hệ đến đời sống con người như Công dân Giáo dục, Sinh hoạt Thanh niên, Nghệ thuật và lan đến cả các môn Sử ký, Địa lý, Văn chương… bị xem thường một cách tệ hại. Đó là một điều cực kỳlầm lẫn. Học sinh, sinh viên Việt Nam không nhiều thì ít đã vong thân ngay khi bước chân tới cổng trường.
                Bởi đó, trong lãnh vực văn hóa giáo dục, học đường là một đại bộ phận trong công việc xây dựng con người Nhân chủ. Để mạnh bước trên con đường xây dựng lại đất nước, xin hãy thay đổi quan niệm coi thường các môn học thuộc bộ môn Văn chương, nhất là đối với môn Công dân, Sinh hoạt thanh niên và Sử, Địa. Đề cao và cổ vũ các môn học này đồng thời lợi dụng các môn còn lại như Văn, Sinh ngữ, Nghệ thuật, Âm nhạc… để đưa chủ đề Nhân chủ cho học sinh, sinh viên nghiên cứu, thảo luận, làm bài, học bài…
                Chúng tôi đề nghị dùng danh xưng Nhân chủ thay cho môn học Công dân và danh xưng Nhập thế thay cho môn học Sinh hoạt thanh niên. Giáo sư môn Nhân chủ sẽ giảng dạy phần lý thuyết còn môn Nhập thế sẽ thực hiện bài học vào đời sống thực tế. Như thế, hai môn học này sẽ cùng chung một chương trình, giáo án mà giáo viên hay giáo sư phải hỗ trợ, bổ túc cho nhau trong suốt cả niên học. Ở bộ môn Nhập thế, thầy giáo sử dụng ngay bối cảnh xã hội ở địa phương để dẫn dắt học sinh bằng những bài học phát triển cộng đồng, bảo vệ môi sinh, giúp ích xã hội, quan sát và suy luận, thích nghi hoàn cảnh…
                Để học sinh tích cực tham gia môn học “Làm người” cực kỳ quan trọng này, nên dựa theo các sinh hoạt của tổ chức Hướng đạo Việt Nam, Hướng đạo Thế giới bằng những trò chơi giáo dục, cắm trại, lửa trại, thám du, trại bay… với những bài học “chuyên môn Hướng đạo” chẳng những giúp cho thanh thiếu niên dễ dàng thích ứng và đối phó trong mọi hoàn cảnh còn tạo nên những mẫu người Nhân chủ rất đáng mến từ khi còn nhỏ tuổi.
                Hiện thực tư tưởng Nhân chủ trong Học đường sẽ đem lại những kết quả chắc chắn, hiệu quả sẽ xuất hiện sau vài năm. Chẳng những thế, nó ảnh hưởng dây chuyền đến mỗi gia đình, dòng tộc, làng xóm… một cách nhẹ nhàng nhưng rất thiết thực.
                Môn học Nhân chủ có thể khởi sự từ lớp ba tiểu học và chấm dứt ở lớp 12 trung học. Nếu tính mỗi tuần lễ có 1 giờ học Nhân chủ và 2 giờ học Nhập thế thì từ lớp 3 đến lớp 12 sẽ có trên 1000 giờ học lý thuyết và thực hành cộng thêm 1000 giờ ôn học ở nhà. Đó là chưa kể ở các môn khác như Văn, Sử, Địa, Nghệ thuật, Âm nhạc… học sinh cũng có nhiều cơ hội thảo luận, nghiên cứu, làm bài… những vấn đề liên quan đến mẫu người Nhân chủ.
                Thiết tưởng, hàng năm đất nước chúng ta sẽ có nhiều trăm ngàn công dân ra trường với hành trang hàng ba, bốn ngàn giờ tu luyện làm Người, chắc chắn khối nhân lực đông đảo này sẽ là những nhân tố cực kỳ hữu ích thúc đẩy xã hội, đất nước tiến tới con đường Nhân chủ, Nhân trị.
                Nhiệm vụ Học đường còn cần quan tâm tới môt vấn đề quan trọng không kém, đó là công tác gột rửa, xóa bỏ một số thói quen trong đại chúng và hầu như trở thành cá tính của dân tộc từ sau hơn 1000 năm chịu đựng ách nô lệ Hoa tộc và 1000 năm độc lập dưới các nền quân chủ chuyên chế, thực dân Pháp đô hộ và Cộng sản toàn trị. Những cá tính đó chính người Việt cũng tự thấy với nhau. Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược đã viết : “Người Việt Nam có tính quỷ quyệt, hay nhạo báng, bài bác. Tâm địa nông nổi, liều lĩnh, thiếu kiên nhẫn. Hay khoe khoang, thích danh vọng, ham chơi bời cờ bạc. Hay tin ma quỷ, sùng sự lễ bái, kiêu ngạo và hay nói khoác…
                Chẳng những thế, với một dân tộc đất ít, người đông, quanh năm bão lụt, hạn hán phũ phàng; địa thế lại nằm trên một tọa độ nối liền các khu vực sầm uất: lục địa Trung Hoa ở phía Bắc, quần đảo Đông Á ở phía Đông, Lục địa Ấn Độ cùng với bán đảo Malaysia, Thái Lan, Miện Điện, Lào và Cambodia ở Tây Nam. Việt Nam trở thành một vùng đất trung tâm cho mọi dòm ngó, chiếm đoạt. Trong hoàn cảnh phải tranh thủ từng giờ, từng ngày để sống còn, người Việt không ít thì nhiều học theo những thủ đoạn “sống chết mặc bây, tiền thầy bỏ túi”. Khiến cho nhân phẩm con người mỗi ngày một lụn bại.
                Dù sao, người Việt cũng đã được nhiều báo chí ngoại quốc chú ý ca ngợi như : Lòng can đảm, thông minh, tính hiếu khách rất cao, tính thương người, dễ mủi lòng trước niềm đau của kẻ khác, có hiếu với cha mẹ, ông bà…
                Dù khen hay chê, công tác gột rửa những cá tính bất thiện hoặc thiếu lòng khiêm tốn, vị tha, bác ái… nói trên phải được hệ thống trường học lưu tâm uốn nắn ngay từ khi các cháu học sinh bước vào dưới cổng nhà trường. Hai môn học Nhân chủ và Nhập thế sẽ là những chất xúc tác quan trọng để chuyển hướng từ cái thiếu thiện lên cái hoàn thiện một cách cụ thể. Để rồi sau một thời gian, những cá tính tốt đẹp của người Việt cổ dần dần ăn sâu vào tâm thức người Việt ngày nay đồng thời phát triển vững mạnh và lâu dài trong sinh hoạt quốc dân.
                Trong phạm vi tín ngưỡng tâm linh, tôn giáo là những thực thể vô giá trong công cuộc xây dựng con người trở nên lương thiện và duy trì sự ổn định vững chắc trong cộng đồng xã hội. Đồng thời là một sự cân bằng tuyệt diệu làm cho đời sống con người dễ dàng thích nghi trong nhiều hoàn cảnh phức tạp. Chẳng những Quốc ước chấp nhận và cổ vũ tự do tôn giáo mà còn tạo sự hỗ tương đằm thắm giữa các tôn giáo. Chính quyền cần thường xuyên quan tâm trợ giúp cũng như thăm dò ý kiến các tổ chức này trên nhiều lãnh vực từ xây dựng đến lãnh đạo đất nước.
                Các ý kiến nêu trên chỉ là muôn một trong công tác xây dựng một xã hội Nhân bản Toàn diện bằng mẫu người Nhân chủ và chế độ Nhân trị. Đây là một cuộc cách mạng vĩ đại, một cuộc cách mạng văn hóa vô cùng thiết thực, chuyển đổi con người từ vị thế vong thân qua vị thế Nhân chủ.
                Triết gia Lương Kim Định cho rằng: “Cuộc cách mạng văn hóa này, chẳng những riêng cho dân tộc Việt Nam mà còn là khởi điểm cho nhân loại ngày nay”.
                Người xưa nói: “Trăm năm trồng người” có nghĩa là thực hiện một kế hoạch cải tổ văn hóa phải liên tục áp dụng trên nhiều thế hệ và phải mất hàng trăm năm mới có thể tạo thành thói quen, truyền thống trong xã hội. Tuy nhiên thời thế hiện nay đã khác ngày xưa rất nhiều, kế hoạch trồng người của chúng ta chỉ mất khoảng mười lăm, hai mươi năm thì có thể đã thấy kết quả.
                Tại sao? Xin thưa ngày nay là thời đại mà tin tức chỉ cần vài phút, vài giờ là cả nước, cả thế giới đều biết. Ngày nay toàn dân đều đi học, nhân lực và phương tiện truyền bá vô hạn và hơn hết là dân trí và nếp sống người dân đã vượt lên rất cao so với thế kỷ trước. Đó là những điểm vô cùng thuận lợi để chúng ta áp dụng thuật trồng Người vậy.
                Phải đưa kế hoạch Trồng Người ấy vào Quốc Ước để nó không bị làm mất sự liên tục vì nhiệm kỳ của cơ quan Hành Pháp thường chỉ có 4, 5 năm với những chủ trương đường lối riêng biệt của các vị Tổng Thống hoặc đảng phái của vị Tổng thống đương nhiệm ấy.

                VI/5 .- TỔ CHỨC CÁC LỄ HỘI QUỐC GIA

                Chúng tôi xin đề nghị thiết lập năm ngày lễ mang sắc thái văn hóa truyền thống mới trong sinh hoạt lễ hội của quốc gia:
                - NGÀY NHÂN CHỦ: Nếu chọn cùng một ngày với lễ kỷ niệm đức Khổng Phu Tử thì hợp tình nhất.
                - NGÀY DÂN CHỦ: Có thể tổ chức trước ngày tông tuyển cử các cơ chế quốc gia một vài ngày, nhân dịp này chính quyền vận động nhân dân tham gia đầu phiếu.
                - NGÀY TỰ DO: Có thể tổ chức cùng một ngày với ngày Quốc tế Nhân quyền
                - NGÀY BÌNH SẢN
                - NGÀY QUỐC ƯỚC
                Vào năm ngày truyền thống này, chính quyền và toàn dân tổ chức những sinh hoạt đặc thù truyền thống dân tộc như hội hè, ca múa, liên hoan, thi đấu thể dục, thể thao, tuyển chọn học sinh, sinh viên, học viên xuất sắc trên mỗi lãnh vực… phối hợp với những buổi học tập, hội thảo, thuyết trình… theo chủ đích của ngày hội. Vào dịp này, chính quyền các cấp trao tặng các cơ quan, đoàn thể, cá nhân xuất sắc… các cấp bằng, sắc phong, tưởng lệ và các phần thưởng có giá trị thiết thực để nâng cao tinh thần dân chúng.
                Hãy yểm trợ tích cực cho các đoàn thể có chủ trương cổ súy đạo lý và truyền thống văn hóa dân tộc. Quan tâm đến việc thành lập các đoàn thanh niên nam, nữ nhằm phát triển Quốc đạo, Việt đạo… hoặc vận động các đoàn thể đã có quá trình hoạt động hữu hiệu như : Hướng đạo Việt Nam, Thanh niên Thiện chí, Gia đình Phật tử (Phật giáo), Thiếu nhi Thánh thể (Công giáo), Hướng đạo đoàn (Cao Đài), Thiếu niên Tin Lành, Vô vi Nam… nêu cao tinh thần xây dựng đất nước và phát triển Đạo lý Việt tộc.
                Hãy thường xuyên mở ra các cuộc hội thảo để toàn dân có sự hiểu biết sâu rộng các hoạt động của quốc gia, các sinh hoạt của gia đình, dòng tộc, xóm phường, làng xã… Giúp mọi người ý thức vững vàng thế nào là Nhân chủ, Dân chủ, Tự do, Bình sản, Quốc ước và các cơ cấu quốc gia, nhất là các tòa Quốc ước trong xã hội Nhân trị.
                Chuyện cổ, Ca dao, Phong dao, Tục ngữ, Hò, Vè… truyền thống làng xã, gia đình, dòng tộc, kinh điển, di vật cổ, nghi lễ, đạo đức, luân lý… nói chung là văn hóa truyền thống Việt mà chúng tôi đã đề cập trong sách này y hệt như mỏm nhô của những tảng băng trên mặt đại dương. Bảy phần tám của những tảng băng này chìm dưới mặt nước, chỉ có mỏm tảng băng nhô lên trên mặt nước mà thôi. Bảy phần tám nằm dưới mặt nước ấy đúng là nền tảng, là căn bản, là cái “đế” vô cùng quan trọng mà chúng ta không thấy được, nhưng chúng ta biết chắc rằng cái “đế” ấy đang nằm đó.

                VI/6 .- TỔNG LUẬN

                Kể từ khi Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ Trung Hoa, dân tộc ta hầu như chưa bao giờ lấy lại được phong độ của một nước Nhân chủ, Nhân trị. Ảnh hưởng của văn hóa du mục Hoa tộc với chế độ quân chủ chuyên chế đã như một sợi xích kiên cố kéo dân tộc ta đi theo con đường đầy hiểm trở và bất trắc. Để rồi tổ quốc chúng ta, dân tộc chúng ta cứ phải trồi lên hụp xuống theo những chu kỳ thịnh suy của mỗi dòng họ vua chúa. Nếu không thì cũng nồi da xáo thịt, ngoại bang xâm lấn.
                Nhiều học giả cho rằng, đấy là quy luật, là bánh xe lịch sử… Chúng tôi không nghĩ như thế, và cho dù là quy luật, là bánh xe lịch sử thì đó cũng chỉ áp dụng cho những giai đoạn đất nước đặt dưới quyền cai trị của chế độ quân chủ chuyên chế. Ở những nước có dân chủ có tự do, thực sự đã chứng minh được điều đó: Đất nước họ không còn bị cái hỗn loạn của “những ông vua cuối cùng của dòng họ trở nên hư đốn, sa đọa… gây tai họa cho đất nước” vốn là đặc tính của nền quân chủ chuyên chế trước đây. Tuy nhiên, đất nước họ lại gặp cái hỗn loạn khác, phản ảnh của xã hội Nhân bản một chiều suy lý như đã trình bày.
                Lại kể từ khi cất bước lưu vong trên đất khách, nhìn thấy đất nước người giàu mạnh nhưng dân chúng thì luôn luôn bất mãn, tinh thần sa sút, luân thường đạo lý suy đồi. Đời sống người dân nhiều âu lo, gia đình bất trắc, xã hội lọc lừa, mạnh được yếu thua… Vậy thì họ thiếu cái gì ngoài cái giàu mạnh sung mãn đó?
                - Rõ ràng dân tộc Việt Nam có một triết lý siêu Việt mà nhân loại ngày nay đang thiếu.
                - Rõ ràng dân tộc chúng ta may mắn được tổ tiên để lại một di sản vô cùng quý báu mà chúng ta coi thường, bỏ xó suốt nhiều ngàn năm!
                - Rõ ràng cả thế giới đang hướng về Đông Á, đang chúi mũi vào tủ sách Khổng Nho, vào những di vật cổ đại như trống đồng, khạp đồng, vào truyện cổ, huyền thoại, ca dao tục ngữ, vào truyền thống xã hội làng xã… tìm tòi gạn lọc một cách khó khăn nhưng đầy tin tưởng và thống khoái.
                - Rõ ràng người Trung Hoa cổ đã dại dột đem trộn lộn truyền thống du mục của họ với nền văn hóa tuyệt diệu của tổ tiên Việt tộc khiến xã hội Trung Hoa suốt nhiều ngàn năm cứ vật vờ trong cái vòng lẩn quẩn “bạo chúa kế tiếp anh quân, minh vương nhường ngôi ác đế” làm cho nền tảng Nhân trị của Việt tộc không phát huy được chân giá trị của nó.
                - Rõ ràng việc xây dựng một xã hội Nhân chủ, Nhân trị, Dân chủ, Tự do và Bình sản là một việc làm cấp thiết không thể thiếu được trong chính sách của bất cứ chính quyền nào hiện nay hay sắp tới của quốc gia Việt Nam.
                Thưa quý độc giả,
                Ngày nay, cho dù đứng ở vị trí nào, người có tư tưởng Quốc gia hay theo chủ nghĩa Cộng sản đều không khỏi thấy lòng nặng chĩu cay đắng, tủi nhục, đau thương cho quê hương Việt Nam. Bởi vì cảnh người bóc lột người, dối trá, lường gạt, tham nhũng, phạm pháp… đã xem ra như một chuyện thường tình của người dân trong xã hội Việt Nam ngày nay.
                Toàn bộ tập sách Đường Ta Đi quý độc giả vừa đọc là những ý kiến được quy góp từ nhiều tài liệu quý giá của nhiều triết gia, học giả hằng quan tâm đến vận mệnh của đất nước. Người viết chỉ làm công việc sưu khảo, suy luận, liên kết và hệ thống hóa tạo thành một tổng luận, một hướng đi mà người viết tin chắc rằng sẽ đưa Việt Nam thoát khỏi giai đoạn tang thương chồng chất hiện nay.
                Đức Khổng Phu Tử trước khi nhắm mắt lìa trần, đã nói một câu cuối cùng với học trò của ngài:
                Xuất kỳ ngôn thiện, tắc thiên lý ứng chi”.
                Nói ra một điều lành, thì trời cũng ứng theo.
                Tôi thấy đây là một chuyện ích quốc, lợi dân đáng làm, phải làm thì đem hết tâm lực xông pha vào việc công ích mà không ngại cam khổ.
                Tôi chân thành gửi đến quý độc giả suy tư tôi viết trong cuốn sách này bằng một niềm tin bất diệt rằng:
                Con đường duy nhất dẫn đưa dân tộc Việt Nam tiến lên thanh bình, hạnh phúc và thịnh vượng lâu dài nhất định phải kết hợp giữa văn minh Tây phương cùng với những đường lối mà Tổ tiên chúng ta đã thực hiện thời trước. Những kinh nghiệm sống ấy không phải thành hình sau một vài trăm năm mà phải trải qua hàng năm bẩy ngàn năm miệt mài tìm kiếm mới có được. Cả một kho tàng tư tưởng thân yêu, hợp tình hợp lý ấy, chúng ta đành đoạn dứt bỏ để chạy theo cái văn hóa đang là niềm đau của xã hội loài người hiện nay sao?
                Xin hãy cùng nhau hướng về tổ quốc yêu thương, đem chân tình mà đãi thiên hạ, thì dẫu về sau có gặp được tổ tiên, có nhìn ra nhau là con cháu Lạc Hồng thì lòng cũng mãn nguyện rằng ta đã đi đúng đường vậy.
                Mong lắm thay!
                USA, ngày 01 tháng 7 năm 2003

                An Phong Nguyễn Văn Diễn



                SÁCH THAM KHẢO:


                Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim
                Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam, Nguyễn Đổng Chi
                Nhân Chủ, Lương Kim Định
                Việt Sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn
                Lĩnh Nam Chích Quái, Trần Thế Pháp
                Sứ Điệp Trống Đồng, Lương Kim Định
                Sử Ký của Tư Mã Thiên, Giản Chi Nguyễn Hiến Lê dịch
                The Kindom Within, Paulst Press
                Việt Sử Toàn Thư, Phạm Văn Sơn
                Puzzle Begins To Fit Together, tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II
                Myths to Live , Joseph Campbell
                Jung and Chistianity, Wallace Cliff
                Thánh Kinh Trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước Thiên Chúa giáo
                Holy Bible New Living Translation
                Nhân Chủ, Lương Kim Định
                Trung Quốc Sử Cương, nhà Xuất bản Đại Nam
                Từ Điển Biểu Tượng Văn Hóa Thế Giới, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, bản dịch: Phạm Đình Cư, Nguyễn Xuân Giao, Lưu Huy Khánh, Nguyễn Văn Vĩ…
                Việt Nam Đệ Ngũ Thiên Niên Kỷ, Một nhóm Thức giả, chủ biên: Vương Kỳ Sơn
                Từ Điển Triết Học, Cung Kim Tiến
                Sứ Mệnh Triết Đông, Thụy Sơn Trần Quốc Đoàn
                Bách khoa Đại Từ Điễn Funk &Wagnalls
                Encyclopedia, Leon L.Bram và Norma H. Dickey
                Việt Nam Tự Điển, Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ…
                Gốc Rễ Triết Việt, Lương Kim Định
                Cửa Vào Phong Tục Việt Nam, Phạm Việt Tuyền
                Kinh Hùng Khải Triết, Lương Kim Định
                Văn Học Tự Điển, Thanh Tùng
                The Origins Of Chinese Civilization, David N.Keightley
                Tạp chí Tỉnh Thức số 10-12 năm 2002
                Tinh Hoa Sử Việt, Đinh Khang Hoạt
                Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc
                Nếp cũ : Hội Hè Đình Đám, Toan Ánh
                Hồn Nước Với Lễ Gia Tiên, Triết lý An Vi, Kim Định
                Phong Thái An Vi, Lương Kim Định
                Tục Ngữ Phong Dao, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc
                Đất Lề Quê Thói (Phong Tục Việt Nam) Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu
                Văn Học Bình Dân, Nguyễn Trúc Phượng
                Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam, Lương Kim Định
                Làng Xưa Phố Cũ, Hoài Việt – Từ Nguyên – Trọng Khôi
                The Art Of Indochina, Bernard P.Groslier
                Thành Ngữ Điễn Tích Danh Nhân Tự Điễn, Trịnh Văn Thanh
                Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt, Nguyễn Xuân Quang
                Lịch Sử Thế Giới, Nguyễn Hiến Lê
                Văn Lang Vũ Bộ (Triết lý An Vi), Kim Định
                Thần Thoại Việt Nam, Nguyễn Tữ Năng
                Lịch Sử Việt Nam, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh
                #8
                  hai1957 15.11.2012 20:43:37 (permalink)
                  VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ


                  Bút hiệu liền với tên họ: An Phong Nguyễn Văn Diễn
                  Ngày và nơi sinh: 1936 Cổ Thành, Quảng Trị

                  Hoạt động xã hội:


                  1957 – 75 Thành viên hoạt động Hội Hướng Đạo Việt Nam, Trưởng đơn vị cấp tỉnh , Huấn luyện viên Trại trường cấp tỉnh và toàn quốc.
                  1960 – 68 Tốt nghiệp khóa Quản đốc Đồn điền CHPI (Compagnie des Hauts Plateaux Indochinois) tại Banmêthuột; Quản đốc các đồn điền Ea Hné, Ea Tull và Mộng Điệp … Ban Mê Thuột
                  1964 – 78 Gs. sử địa các trường trung học tại Ban Mê Thuột và Sàigòn.
                  1969 – 75 Sáng lập viên Hội Hướng đạo Quân đội trực thuộc TC.CTCT. QL.VNCH, Ủy viên Kế hoạch kiêm UV. Ngành Thiếu và Ngành Kha Hội đồng Trung ương, Khóa trưởng Trại trường huynh trưởng ngành Thiếu và Kha Hướng Đạo Quân Đội.
                  1970 –75 Thường viết trên báo Tiền Tuyến, Cục Tâm Lý Chiến QLVNCH, mục Thanh niên, Hướng Đạo …
                  1982 – 83 Vượt biển, tạm cư tại trại tỵ nạn Galang, Indonesia. Viết cho Nguyệt san Tự Do của Linh mục Dominici.
                  1983 – Đến Mỹ, cư ngụ tại Houston, TX.
                  1984 – 90 Huấn luyện viên Trại trường ngành Thiếu và Kha Hướng Đạo Hoakỳ (Boys Scout Of America) gốc Việt Nam.
                  1986 – … Hội viên An Việt, nghiên cứu và phổ biến triết lý An Vi của cố triết gia Kim Định
                  1985 – 89 Tổng thư ký Tòa soạn Houston Thời Báo
                  1991 – … Hội viên Văn bút Việt Nam Hải Ngoại, Trung tâm Nam Hoa Kỳ, đã từng giữ nhiệm vụ uv. Văn hóa, uv. Tổng thư ký, phó Chủ tịch…

                  Tác phẩm đã xuất bản:


                  Truyện dài dã sử : Thần Long Bách Việt, 1987
                  Khảo luận văn chính sử : Đường Ta Đi, 2003

                  Tác phẩm đã đăng trên các báo, tuyển tập… :


                  Truyện dài dã sử: Nước Non Tiền Sử
                  Biên khảo lịch sử : Việt Nam, 150 năm, những bước đi mệt mõi
                  Sử Biên niên : Việt Nam trong dòng lịch sử thế giới
                  Hồi ký: Hướng Đạo Việt Nam, 20 ngày hấp hối
                  Cùng nhiều tiểu luận bàn về văn hóa, lịch sử, kịch dã sử và truyện ngắn…
                  #9
                    Ct.Ly 24.11.2012 19:15:13 (permalink)
                    #10
                      Chuyển nhanh đến:

                      Thống kê hiện tại

                      Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                      Kiểu:
                      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9