Tác phẩm VÕ HỒNG
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 41 bài trong đề mục
hai1957 16.11.2012 11:47:29 (permalink)
HOÀI CỐ NHÂN

1. Hoài cố nhân

2. Ngày xưa

NXB:
Ban mai (1959)
Lá bối (1969)
Trẻ (1996)



1. HOÀI CỐ NHÂN


Một ngày đầu tháng chín năm 1942, tôi nhận được bức điện tín: “12 tháng 9 tới ga Hà Nội Stop Tìm dùm chỗ trọ Stop Hoàng Gia Lý”.

Tôi cầm bức điện tín, lòng rộn ràng vì bất ngờ. Hoàng Gia Lý là bạn tôi. Vào dịp hè, tôi về quê ở Ngân Sơn. Lý ghé lại nhà thăm và ngỏ ý sang niên khóa mới theo tôi ra Hà Nội học. Ba năm nay anh học ở Huế. Tôi tưởng rằng đó chỉ là một dự định nông nổi. Người ta ai cũng có thể dự tính nhiều điều, dự tính cả những điều mà họ biết trước hơn ai là không bao giờ thực hiện được.

Tôi học chung lớp với Lý khi tôi bắt đầu học lớp Ba trường phủ. Tôi bồi hồi nhớ lại cái cảm giác lo sợ rộn ràng khi đặt bước chân đầu tiên vào trường phủ. Từ nhỏ tôi phải học ở trường xã, một cái trường bằng ngói ở mỏm đầu núi. Muốn lên đến trường phải trèo một cái dốc dựng đứng. Người chọn địa điểm này để cất trường ý chừng đã quan niệm rằng trường giáo phải ở một nơi thật thanh tịnh, cách biệt hẳn với sự sinh hoạt của mọi người xung quanh. Đây là lần đầu tiên mà làng tôi, - nói rằng cả vùng tôi thì mới đúng, - có được một cái trường Nhà nước. Trước đó, người ta học chữ Nho. Trong khi chúng tôi cắp sách đến trường học vần B ba cái trứng, L quả lê, T quay tơ… v.v… thì trong xóm vẫn có nhiều đứa nhỏ như tôi và lớn hơn, ôm sách chữ Nho và mang cả nghiên cả mực đến học các thầy đồ. Hình như bất chấp cả bánh xe tiến hóa, bất chấp cả sự thế đã đổi thay, thầy đồ vẫn sang sảng giảng Tam tự kinh, vẫn dùng roi mây, vẫn bắt quì vỏ mít và vẫn bắt học trò tưới vườn chuối cho thầy, nấu nước pha trà hầu thầy. Thầy giáo trường Nhà nước thì như vẫn còn mang nặng tàn tích của thời kỳ Khổng Mạnh xưa kia mà chưa hoàn toàn biến đổi. Thầy là cái dấu nối giữa hai thời đại, thầy mặc áo dài và mang guốc. Vì quen mắt với bàn chân dơ nên được nhìn hai bàn chân sạch của thầy, sạch đến thấy được cả gân xanh và móng chân trắng nằm gọn trên đôi guốc mộc nép giữa quai guốc da, chúng tôi có cảm tưởng rằng đó là biểu hiện đầu tiên của văn minh. Lâu lâu, vào dịp Tết, thầy đi đôi giày vải trắng thì chúng tôi mừng như chính mình được ăn diện sang trọng. Khi ông Thanh tra tới thì thầy đội thêm cái khăn đóng đen. Trông thầy thật quả là sang trọng nhất vùng.

Lúc tiễn chân ông Thanh tra xuống khỏi cái dốc ngược, lúc nghe tiếng xe ô-tô của ông Thanh tra rồ máy, lúc thấy thầy và ông cai trường hổn hển leo lên hết bực chót của cái dốc, mặt đỏ kè, mồ hôi ướt vã đầy mặt và thấm qua áo, chúng tôi thấy thương thầy hết sức. Sau này, chúng tôi được biết rằng thầy và ông cai trường sở dĩ mệt như vậy không phải là vì leo lên leo xuống cái dốc mà vì phải đẩy xe cho ông Thanh tra. Cái xe ô-tô chết tiệt phải quay mới nổ và thường thì quay mà không nổ.Ông cai trường có nhiệm vụ quay. Ông Thanh tra ngồi cầm tay lái. Quay mươi vòng không nổ thì ông cai bỏ tay quay rồi cùng thầy giáo ra sau đẩy. Thật tội nghiệp cho cái thời xa xôi mà lũ nhỏ chúng tôi mới bắt đầu tiếp xúc với văn minh cơ khí. Nhiều đứa mỗi lần nghe còi xe vang lên ở đầu cầu là rủ nhau vội vã chạy xuống dốc trường. Khi xe chạy vụt qua, các anh nhảy xổ ra giữa đường, hít lấy hít để đám bụi mù sặc mùi ét-xăng, rồi khen rối rít: Thơm quá! Thơm quá!

Sở dĩ có hiện tượng đó là vì học trò của trường đa số là lũ trẻ góp nhặt ở năm, bảy làng lân cận. Nhiều anh từ nhỏ đến giờ cha mẹ bắt chuyên môn chăn bò, anh đến trường đem theo sự u mê (danh từ thầy giáo dùng để mắng chúng tôi) và sự bướng bỉnh. Nhưng rất phong phú về trò chơi: u mê, lên đồng, nhảy lò cò, đánh mạng, đánh đáo. Có nhiều chị chuyên môn đi hái củi đến nỗi tóc cháy vàng hoe. Đi học, họ làm như đi củi, mang theo muối vò chung với lá é để giờ ra chơi chạy vào bụi bờ bứt lá dang chấm muối ngồi ăn. Một số khác vốn quen với ruộng rẫy nên mỗi khi người ta dỡ khoai, đào sắn thì họ chạy tới cả đoàn để mót, để xin. Những củ khoai lang sống nhỏ bằng ngón tay út được nhai giòn tan và nuốt ngon lành. Chúng tôi ngây thơ hơn cứ nhìn rồi bắt chước lần lần. Ngây thơ thật, vì tuy là lớp Đồng Ấu song bạn của chúng tôi có nhiều anh tuổi có đến hai mươi và lực lưỡng thì y như những nhà nông thực thụ. Đến giờ ra chơi, họ vật tay suýt làm gãy cả chân bàn. Chúng tôi thành kính nhìn những bắp thịt nổi cuồn cuộn ở cánh tay, ở cổ, nhìn màu đỏ hừng hực ở mặt, ở vành tai và ở tròng mắt. Sự quê mùa còn đọc được ở quần áo nữa. Quần thì vừa ngắn vừa chật. Áo cũng vậy. Quần áo toàn bằng vải to thế mà mẹ mua cũng không đủ nên thường may ghép đến hai màu. Nhiều khi áo xanh mà hai túi trắng. Có lúc cả áo trắng mà một tay áo lại màu xanh. Đi học thì cột một mo cơm, kèm đùm mắm.

Với cái quá khứ chung chạ bất ổn ấy, khi bước chân vào trường phủ, tôi thấy không khí trang trọng hết sức. Trường cất cạnh phủ đường, ở mãi cuối một cái sân rộng. Trên sân có trồng nhiều bồn hoa huệ sắp đặt thành những hình cân đối. Những thân cây bàng cao che rợp cả sân, trường học thành có vẻ oai nghiêm xa cách. Nhất là muốn đến trường, chúng tôi phải đi qua một trong bốn cửa thành: cửa tiền, cửa hậu, cửa tả, cửa hữu, xây cất theo kiểu cổ bằng gạch dày hàng bốn, năm thước, trên có vọng môn cao. Đi ngang qua mặt phủ đường, chúng tôi còn bị choáng ngợp vì màu trắng của cái sân rộng sạch như lau, vì hai chú lính lệ gác cửa, vì mấy khẩu súng thần công há miệng đe dọa.

Trường chia làm hai phòng học, có hai thầy, thầy Tài dạy lớp Sơ đẳng, mặc âu phục; thầy Tùng dạy hai lớp, lớp Đồng Ấu và Dự bị, luôn luôn vận áo sa đen, nhưng rất chải chuốt tươm tất. Thầy ít nói nhưng hay mỉm cười. Mắt thầy cũng cười nữa. Học trò hay thì thầm với nhau:

- Cô cháu, em họ bà Lại mê thầy Tùng.

Hoặc:

- Thầy Tùng viết thơ cho chị Dung, cháu ông thông Nhất.

Có lần tin tức ly kỳ hơn:

- Thầy Tùng đi coi hát trường ở Phú Mỹ với cô Cẩm em thầy thông Ba. Chị Oanh cháu thầy đội Lệ, nghe nói nổi ghen nên ra sông tự tử.

Có chuyện tự tử ly kỳ nên chúng tôi càng chăm chú nghe. Nhiều cái miệng tròn lại. Nhiều vẻ mặt nghiêm trang một cách khôi hài. Chúng tôi tò mò nhìn thầy Tùng: thầy vẫn ăn diện chững chạc, vẫn mỉm cười bằng mắt và bằng môi. Thành ra chúng tôi bán tín bán nghi, không biết chuyện vừa rồi là đúng hay bịa. Nhưng có điều chắc chắn là thầy Tùng hay cười, vì thầy sung sướng, thỏa mãn. Sau này, mỗi lần nghĩ đến, tôi hay trở về cái kết luận: ái tình làm cho con người tươi vui, bồng bột.

Ngoài những chuyện tình do thầy Tùng đóng vai chính, còn rất nhiều chuyện tình khác nữa mà vai chính bên nữ là các cô em hay cháu của các thầy Lại mục, thông Nhất, thông Nhì, thông Ba, đội Lệ, v.v… Tội nghiệp cho các tiểu thư phải sống ẻo lả ở một phủ lỵ quê mùa. Tâm hồn đa cảm đa sầu của các cô đẹp như những dây hoa bị cỏ mọc lây lất ở một vùng đất cát khô cằn. Nhưng quả các cô đã làm đẹp cho cái phủ lỵ quê mùa này thật. Ngày chợ phiên Thành, bên cạnh màu đen cố hữu của áo và quần của người mua bán, thỉnh thoảng lướt qua một tà áo xanh lục, một màu áo tím. Đó là hai màu mà lúc bấy giờ các cô thích mặc hơn cả. Hai màu này đã làm tươi lên những khung cảnh trong ngày thơ ấu của tôi ở phủ lỵ Tuy An.

Bạn học của tôi lẽ tất nhiên là sang trọng hơn hồi ở Ngân Sơn. Tên cũng đẹp hơn. Không còn những: Hồ Văn Láu, Ngô Đột, Trần Lía. Không còn một xâu anh em ruột cách nhau hàng năm, sáu tuổi mà vẫn cùng học chung một lớp (vì trường mới mở lần đầu) và tên của họ nối tiếp nhau như một tràng chuỗi: Nguyễn Tao, Nguyễn Tui, Nguyễn May, Nguyễn Mắn hoặc Lê Lãnh, Lê Lụa, Lê Tơ, Lê Thao. Lần đầu nghe những cái tên đẹp khiến cho mỗi lúc thầy giáo kêu đến, tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng đàn: Lê Hoàng Mai, Ngô Gia Lưu, Trần Thị Kiều Thư, Bùi Thị Niệm Nhi. Giờ tập thể thao, thầy Tài bắt mặc đồng phục: áo sơ mi ngắn, quần đùi bằng vải tám trắng - thực ra thì vàng vàng - cổ áo, vành tay áo, vành ống quần viền đỏ (!). Lại có hai đường đỏ chạy dọc ở hai ống quần nữa. Bữa mặc biểu diễn đầu tiên, sân tập như đông thêm. Lạ mắt vì mấy cái viền đỏ cứ chạy loanh quanh trước mặt, chúng tôi thấy ngượng ngượng một cách lý thú. Giữa cái rừng trăng trắng đo đỏ ấy có riêng một anh mặc một bộ cùng kiểu nhưng lại màu đen viền trắng. Vải trang đầm đen nhánh, vải tàu bay trắng tinh, đường may cẩn thận. Thầy Tài gọi:

- Hoàng Gia Lý, sao không mặc một màu cho giống anh em?

- Thưa thầy, bà nội con mới may bộ này cho con. Bà con bảo đẹp.

- Ồ, thôi cũng được.

Tôi ngạc nhiên cho mãi đến sau này: thầy là một nhân cách bao dung khó có. Chúng tôi nhìn anh Hoàng Gia Lý. Anh mặc bộ đồ quả thật đẹp, nhất là da anh trắng. Đôi mắt sáng và nét mặt rạng rỡ, thông minh. Thân Lý mảnh khảnh. Tôi lưu ý đến Hoàng Gia Lý từ đấy. Anh có một vết sẹo dài chạy dọc theo cằm… sau này quen anh, tôi thấy nó không xấu mà hình như hơi có duyên là khác. Vì khi nghĩ rằng cái sẹo ấy mất đi, tôi sẽ thấy vẻ mặt ấy không phải là vẻ mặt của Lý nữa. Nó sẽ trơ trẽn, thiếu sự đậm đà.

Hỏi anh con ai, anh trả lời:

- Cháu bà Cử Hai.

Nhà anh là một căn phố buôn bán ở con đường chính. Bà anh buôn hàng vải, khá to. Anh lại cũng có một căn nhà ở cửa Đông, nằm mé ở đồng ruộng. Nhà có vườn trồng cây mát mẻ. Lần đầu tiên đi qua nhà anh thấy ở ngõ có trồng cây bông giấy màu đỏ và có hoa tigôn bò khắp mặt rào, tôi cho là nhà anh sang trọng. Vì hoa giấy đỏ chỉ ở nhà thương mới có trồng và hoa tigôn tôi thấy bò chung giàn với dây thiên lý ở giàn hoa quan phủ. Nhưng dù có lòng mến Lý, tôi cũng không khi nào nói chuyện riêng thân mật với Lý. Chúng tôi chỉ thỉnh thoảng, khi cần, trao đổi với nhau vài câu về việc học.

Hết niên khóa, tôi lên lớp Nhì, phải ra trường tỉnh ở tận Sông Cầu để học. Mỗi lần lên lớp phải dời trường, như thế là hầu hết các bạn tôi đều nghỉ học. Vả lại, lúc bấy giờ sự học còn quí nên mãn lớp Ba có cấp bằng Sơ học yếu lược là các anh đã dư sức làm ông Lý trưởng hay ông Chánh, Phó tổng rồi.

Ra Sông Cầu tôi không ngờ được gặp lại Lý. Tôi nhớ mãi một hôm tôi ghé lại thăm anh ở nhà trọ, anh mời tôi một bát bánh canh hai xu. Từ đó, thỉnh thoảng hai chúng tôi rủ nhau đi tắm biển. Vì khờ nên có lần hai đứa đều bị hàu cắt đứt da ngón chân. Những chiều chủ nhật, hai đứa lấy đá đập trái bàng khô để lấy nhân ăn. Có bữa rủ nhau đi khèo trái keo hay hái trái tra.

Hết năm lớp Nhì A (còn gọi là lớp Nhì đệ nhất niên hay lớp Nhì nhỏ), bỗng không thấy Lý đi học nữa. Dù ngày hè tôi vẫn về nghỉ ở quê cả ba tháng, dù nhà Lý cách nhà tôi không quá bốn cây số, nhưng tôi không thân với Lý đến mức phải háo hức đi tìm thăm bạn.

Cứ như thế, tôi học cho hết năm lớp Nhì B, hết năm lớp Nhất ở Sông Cầu. Đỗ Tiểu học xong, tôi cùng một người bạn ra học ở trường Cao đẳng tiểu học Qui Nhơn. Thế là tôi không hề gặp Lý nữa.

Lâu lâu, chợt nghe trong câu chuyện với bạn bè ở quê nhà, tôi được nghe người ta nhắc đến Lý. Thoạt đầu là tin Lý thôi không đi học để về học chữ Nho. Tôi nghĩ cũng phải, vì ông của Lý là một cử nhân Hán học (ngớ ngẩn thay lý luận). Nhưng người kể chuyện giải thích:

- Lý có một người cô lấy chồng giàu ở Thạch Thành. Nhà buôn thuốc Bắc. Lý học chữ Nho để ngồi bán thuốc Bắc.

Tôi ngây thơ hỏi:

- Đi học hơn chớ? Còn nhỏ mà đi làm công?

- Không phải làm công. Cô Lý cưng Lý lắm.

Tôi ờ… ờ, không nghĩ sâu sắc thêm, không lý luận thêm. Bẵng đi một độ không biết bao lâu, chợt tôi lại ngẫu nhiên được nghe tin tức về Lý.

- Lý đi học…

- Tôi biết rồi. Lý đi học chữ Nho để bán thuốc Bắc cho nhà cô Lý ở Thạch Thành.

Người bạn tôi mỉm cười có vẻ như thương hại.

- Ai nói vậy? Lý thôi bán thuốc Bắc lâu rồi. Cô Lý cho đi học lại.

- Học ở đâu? Quá tuổi rồi.

- Lý xuống Tuy Hòa, học ở trường tư thục Bình Minh.

- À… à… Ở Tuy Hòa mà cũng có trường tư thục à?

- Có chớ. Nhưng này…

Tôi đang sắp lơ đãng thì cái giọng “nhưng này…” hơi bí mật bắt tôi lưu ý.

- Sao?

- Lý và một cô bạn học thương nhau ghê lắm.

- Cô nào vậy?

- Cô Xuân, con ông chủ khách sạn Đồng Nhơn.

- Ông Đồng Nhơn ở Sông Cầu mà!

- Ờ, nhưng đã dời về Tuy Hòa năm kia. Ở Tuy Hòa buôn bán phồn thịnh hơn.

- Chắc họ nói thêm đấy. Còn nhỏ mà!

- Họ khóc lóc với nhau. Họ thề với nhau nữa mà!

- Khóc? Thề? Chắc không có đâu!

- Mày ngu lắm.

- Kệ tao.

Câu chuyện đã kết thúc một cách hết sức ngớ ngẩn. Lý yêu và được yêu lại là một điều tự nhiên, tôi có thể tin được, vì Lý trắng trẻo xinh trai, nhưng tôi vẫn cho là người ngoài họ phóng đại. Khóc với nhau? Thề nguyền với nhau? Hơi khó tin.

Sau đó mấy năm, ngẫu nhiên tôi nhận được bức thư của một anh bạn cũ, anh Dưỡng ở từ Tuy Hòa gởi tới. Lúc bấy giờ tôi đang học ở Hà Nội. Trong thư Dưỡng nói rằng hiện đang dạy học cho trường Bình Minh ở Tuy Hòa. Bình Minh? Hừ, cái tên nghe quen quen. Trong thư trả lời, tôi bắt Dưỡng viết rõ ràng hơn về cái trường anh hiện đang dạy. Dưỡng làm theo lời tôi. Thì ngẫu nhiên thay, trường Bình Minh chính là nơi khởi đầu mối tình Xuân-Lý. Tôi nhân dịp, bắt Dưỡng kể rõ ràng hơn về mối tình này.

Sau đây là đại lược những điều Dưỡng kể:

Vào Sơn Hòa được một năm, cô Lý cho Lý học lại. Vì quá tuổi, không xin vào trường Nhà nước, nên Lý phải xuống Tuy Hòa học ở trường Bình Minh. Cùng học một lớp có Xuân, con gái ông Đồng Nhơn. Hai người yêu nhau. Ông Đồng Nhơn biết được, đánh mắng con nhiều lần, rồi ông giao cho vợ kiểm soát con. Tính ông nghiêm khắc, vợ sợ lắm, tuân lời răm rắp. Nhưng vì quá sợ mà bả trở lại che chở cho con, sợ ông đánh con nặng tay. Rốt cuộc, họ ở trong cái vòng luẩn quẩn.

Hết năm lớp nhất, Xuân ra trường Đồng Khánh ở Huế học. Lý vào Nha Trang. Họ vẫn thư từ khắng khít với nhau luôn. Hai năm sau, Lý bỏ Nha Trang ra Huế học luôn, hai người có dịp gặp lại nhau.

Trong giai đoạn này, có lần Dưỡng viết cho tôi:

- Ông Đồng Nhơn tức tối lắm khi nghĩ rằng con mình không thuộc quyền điều khiển của mình nữa. Ông định rút con về, không cho đi học nữa, nhưng bạn bè khuyên giải lại thôi. Ông có đến nhà bà cô Lý ở Thạch Thành, yêu cầu rầy la ngăn cản Lý. Bà cô chỉ hứa ậm ừ. Hai bên có cãi nhau. Tức quá ông thề không bao giờ gả Xuân cho Lý. Nhiều điều kiện “độc địa” được kèm theo để đảm bảo lời thề ấy.

Ở một căn gác trọ xa xôi giữa phố Ngõ Trạm, tôi đọc bức thư của Dưỡng, vừa ngồi vẩn vơ nghĩ đến Lý. Tôi tưởng tượng một anh chàng trắng trẻo xinh trai, hơi rụt rè. Ừ, bản chất của Lý hình như là dè dặt rụt rè lắm mà! Thế mà khi yêu thì lại cuồng nhiệt đến thế? Tiếp theo, tôi thương hại Lý vì mối tình ngang trái của anh ta. Ông Đồng Nhơn, theo lời Dưỡng, theo những sự việc nhiều người thuật lại, quả rất nghiêm khắc. Vả lại, vào trường hợp ông, ai cũng dư điều kiện để nghiêm khắc vì kẻ phải đối phó chỉ là con mình và nghiêm khắc chỉ có lợi cho mình. Tương lại của Lý chưa có gì đảm bảo là sáng sủa hơn tương lai của Xuân cả. Gia đình của Lý thì lại không hơn gia cảnh ông. Lý luận một lát, tôi thấy quả Lý đã gặp trở ngại trong tình yêu. Nhưng lạ chưa, đồng thời vẩn vơ thương hại Lý, đồng thời tôi thấy rằng Lý sung sướng. Được yêu người, được người yêu, chẳng thú vị sao? Trở lực bên ngoài chỉ làm tăng giá trị của tình yêu. Họ càng thêm sung sướng vì thấy mình thêm xứng đáng với người yêu của mình. Thật mâu thuẫn. Tôi quay ra thương hại ông Đồng Nhơn hùng hổ nhưng bất lực. Và, lạ chưa, tôi lại quay ra ghen với Lý, vì tôi chưa được hưởng một mối tình cay đắng, đậm đà như thế.

Biết được những uẩn khúc của mối tình ấy nên tôi không tin rằng Lý sẽ ra Hà Nội, mặc dù chính anh gặp tôi và nhờ tìm chỗ trọ giùm. Học ở Huế chẳng thích sao? Ngày nghỉ được gặp chị Xuân chẳng êm đềm sao. Nhưng thực tế là bức điện tín hiện nằm trong túi áo sơ mi tôi đây và tôi đang lên ga Hà Nội đón Lý đây. Tôi tự nhủ:
- Lại có những biến chuyển mới.

Tàu tới. Từ toa hạng nhì, Lý nhanh nhẹn nhảy xuống. Anh mặc sơ-mi chẽn, quần short trắng. Đôi bít tất thể thao trắng bó ống chân. Tôi ngạc nhiên thấy đôi chân vạm vỡ, trái ngược với khuôn mặt mảnh mai. Chúng tôi bắt tay nhau. Lý nói trước:

- Tôi cứ sợ anh không nhận được điện tín. Thấy anh lên đón, mừng quá!

Tôi không biết nên nói lại lời gì. Tôi cứ bị ám ảnh vì mối tình của anh, nên tự nhiên tôi coi anh như khác với mọi người; do đó, tôi có cảm tưởng rằng phải tìm những lời gì đặc biệt để trao đổi cùng anh. Túng quá, tôi phá tan sự im lặng bằng một câu nhảm:

- Ở Huế nóng lắm phải không anh?

- Tôi không biết rõ. Tôi ở Tuy An ra thẳng đây.

- A! Anh không ghé lại Huế?

- Không.

Ngừng một giây, tôi tiếp:

- Nguyễn Đức Tâm làm gì rồi? (Tâm là bạn cũ của chúng tôi)

- Làm thư ký ở Sở Đạc điền, Sông Cầu.

- Nguyễn Chín?

- Ở nhà. Nay đã đổi tên lại: Nguyễn Duy Minh.

Tôi mỉm cười một mình. Đổi tên cũng là một công việc.

Hai chiếc xe cao-su đưa chúng tôi về nhà trọ ở phố Sinh Từ. Lý bàn ngay đến việc học. Anh quyết định xin vào học lớp Seconde (1 ) trường Thăng Long. Chiếc bàn nhỏ dành cho phần anh, sáng hôm sau đã đầy những sách vở, chồng xếp tươm tất. Có lẽ, đồng thời anh cũng đã quyết định đoạn tuyệt với cái quá khứ mơ mộng thiết tha để xây dựng lại một cuộc đời cần mẫn, trong sạch. Tôi lắng nghe anh đọc những định luật hình học, những công thức hóa học mà lòng vui vẻ bâng khuâng. Phải, bâng khuâng vì nhìn anh, tôi có cảm tưởng như nhìn một con chim nhỏ vừa thoát khỏi nanh vuốt của một con ó dữ tợn. Phải, bâng khuâng vì tôi nghĩ, không biết ở ký túc xá trường Đồng Khánh, cô Xuân cũng ngồi nhẩm học công thức hóa học tươi tỉnh như anh hay úp mặt vào gối mà thổn thức? Thật rắc rối là anh Lý. Anh đem lại cho tôi không biết bao nhiêu ý nghĩ vẩn vơ. May thay, không lúc nào tôi phải suy nghĩ vẩn vơ lâu. Hoặc có lúc thì anh Hòe vụt thích thú ngâm lên hai câu Kiều, hoặc có lúc thì anh Tuy ở phòng bên chạy sang hỏi vớ vẩn. Anh Hòe ở chung phòng với chúng tôi, học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật. Anh quê ở Sơn Tây, có đặc tài ngâm Kiều. Khi anh bắt giọng lên ngâm thì dù mải mê làm toán hay mầy mò tìm một chữ Anh làm bài dịch, chúng tôi cũng đều phải lắng tai nghe. Nghe xong chưa đủ, thế nào sau đó, khoái trá, chúng tôi cũng ba hoa bàn tán về thơ hay văn. Nếu có người này biết quí thì giờ thì bao giờ cũng có một hay hai người khác quên khuấy mất điều đó để gợi ra vấn đề mà bàn nhảm. Tức quá, chúng tôi sửa lại câu Kiều anh hay ngâm:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

ra:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi gậm giường.

cho có vẻ tồi. Anh bình tĩnh ngâm câu thơ tồi đó. Thế mà chúng tôi vẫn lắng tai say mê nghe.

Anh Tuy ở phòng bên hình như chỉ ở nhà chơi không chịu đi học đâu cả. Ngồi buồn, anh hay sang phòng khác để kiếm chuyện nói nhảm. Anh làm ra bộ lừng khừng, như người mất trí. Có lẽ anh đã đọc ở một cuốn sách nào người ta tả một nhân vật có tài nhưng suy nghĩ quá thành ra lừng khừng. Nhà bác học lừng khừng trông chắc sang trọng nên anh ta cũng bắt chước cái vẻ lừng khừng ấy. Anh xăm xăm đi tới phòng chúng tôi, dừng lại, hỏi trỏng vào:

- Buồn không?

Hồ Văn Nghĩa, người Sa Đéc, nhỏ nhất trong bọn chúng tôi hay trả lời lại:

- Buồn. Đi đâu đó?

- Đi phiêu lưu.

- Nơi đâu?

- Một nơi vô định.

Thường đến đây thì Lý can thiệp:

- Nghĩa! Học đi. Đừng nói nhảm.

Có phải Lý đã lành bệnh rồi chăng?

Điều xét đoán của tôi sẽ không lầm nếu thỉnh thoảng chừng dăm ngày anh không nhận một lá thư phong bì xanh nhạt mà anh đọc một cách tha thiết say mê. Đọc xong, anh bỏ mọi công việc để ngồi trả lời ngay. Rồi vội vã thay quần áo, anh đi ra đầu ngõ để bỏ vào thùng thư. Suốt ngày hôm đó, tôi thấy anh hút thuốc nhiều hơn thường lệ, anh quen tay gạt tàn thuốc lá mặc dù ở đầu ngọn lửa không kịp có một ngọn khói thuốc lá nữa. Nhưng qua một đêm, sáng ngày hôm sau, anh lại bận bịu bên sách vở.

Một hôm nhìn thấy Nghĩa ngồi mạng một miếng rách ở vai áo. Lý nói:

- Ném nó đi. Mạng làm gì?

Nghĩa nhìn anh:

- Uổng anh. Mình chịu khó ngồi mạng một chút, mặc đỡ được vài tháng nữa.

- Làm trai phải lo những việc lớn. Ngồi tủn mủn những việc nhỏ mọn, tốn thì giờ.

Có đêm, Hòe thấy Lý ngồi châm điếu thuốc này nối theo điếu thuốc khác. Hòe bảo:

- Lý bỏ thuốc lá đi. Hút tốn lắm. Anh xem, mỗi ngày đêm một bao hết hai cắc.

- Hai cắc hay hơn, điều ấy không cần. Vấn đề là thuốc lá có đem lại cái thích gì hay không? Với tôi, thuốc là kích thích sự suy nghĩ. Hút thuốc, tôi thấy thú. Tôi không nghĩ đến hai cắc đó nữa. Mua được cái thú, hai cắc nghĩa lý gì?

Một hôm, cả phòng đi vắng chỉ còn mình tôi. Lý tâm sự:

- Có lẽ tôi thôi học anh ạ.

Tôi ngạc nhiên hỏi vội:

- Sao thế? Còn bốn tháng nữa thi. Mà anh học khá, có hy vọng đỗ lắm.

- Tôi biết vậy, nhưng sốt ruột lắm. Ngồi học bình tĩnh sao được trong khi tình hình biến chuyển bốn bên.

Tình hình biến chuyển? Quả tình hình có biến chuyển, nhưng có quan hệ gì đến lũ học sinh chúng tôi, đến anh Lý? Lúc bấy giờ chúng tôi đang ở vào khoảng đầu năm 1942. Nước Pháp bại trận ở Âu châu đã mở đường cho Nhật tràn vào Đông Dương. Nhân tâm xao xuyến. Những giá trị cũ lung lay trong không khí mới. Những cô đầm cong cớn không còn nghênh ngang ở trên phố Tràng Tiền mà được thay bằng những anh lính Nhật lùn, đi lạch bạch với vỏ gươm dài lê thê. Người ta hay bàn tán đến thời sự. Nhiều người vì không ưa Pháp nên hóa ra ưa Đức và Nhật. Thật hết sức là đơn giản. Họ không cần biết Đức thế nào, Nhật thế nào. Mặc dù vậy, họ vẫn lý luận rất hăng, thương ghét ra mặt.

Lý hay vắng nhà. Nhiều bữa để phần cơm cho anh đến mãi muời giờ đêm mà vẫn không thấy anh về ăn. Tôi không muốn dò xét cử chỉ Lý, nhưng tôi vẫn thấy có bổn phận phải hỏi thăm. Nếu để mặc thì có vẻ vô tình quá. Tôi hỏi:

- Độ rày bận gì mà thấy anh hay về trễ?

Lý ấp úng:

- Có mấy vấn đề ở trường.

Tôi thường bỏ lửng không hỏi tiếp, hoặc bằng cách giả như bận việc gì, hoặc bằng cách lật đật chạy đi đâu đấy.

Nghỉ Tết năm ấy, Lý và tôi về quê ăn Tết. Tàu hỏa chạy gần tới Huế, Lý bảo tôi:

- Lát nữa tàu đậu ở Huế, tôi xuống ga có chút việc. Anh coi chừng dùm mấy cái va-li của tôi.

Tôi gật đầu, biết ngay chút việc đó là việc gì. Khi tàu chạy chầm chậm qua mặt ga Huế để sắp sửa dừng lại, tôi đưa mắt qua cửa sổ nhìn những người đứng đợi ở sân ga, đoán xem cô Xuân là ai. Người nào cũng có thể là cô Xuân vừa có thể không phải là cô Xuân. Khi tàu dừng hẳn, đưa mắt qua lại vài vòng, tôi thấy chỗ Lý đứng là một thiếu nữ mặc toàn đồ trắng. Chiếc nón lá che mặt chỉ lộ từ nửa má xuống cằm. Khi tàu huýt tiếng báo hiệu khởi hành, khi Lý đã nhảy lên tàu rồi, tôi có phương tiện để nhìn nàng kỹ hơn. Đó là một thiếu nữ chừng mười chín tuổi, gương mặt tròn. Nước da trắng phù hợp với đôi mắt hiền dịu. Màu áo, màu guốc đều trắng. Cả cái quai nón cũng trắng.

Tết xong, vào học lại chừng được nửa tháng thì một tối Lý bảo tôi:

- Tôi đã xin thôi học rồi. Ngày mai tôi vào làm ở Tòa Đại sứ Nhật Bản, phòng quân sự.

Tôi gật gù suy nghĩ một giây rồi mới nói:

- Cũng được. Anh đã nghĩ kỹ?

- Đã.

- Có đi làm anh cũng vẫn còn ở trọ tại đây?

- Chắc thế. Cũng có thể tôi sẽ không được ở đây với các anh nữa. Nhưng đó là việc sau này. Hiện giờ chưa biết.

Nửa tháng sau, nhằm bữa tối tôi đi xi-nê về khuya, - có lẽ lúc bấy giờ đã 11 giờ rưỡi, - mở căn phòng, tôi thấy Lý ăn mặc tươm tất ngồi bên cạnh một cái rương và một cái va-li lớn. Bao nhiêu sách vở trên bàn đều dọn sạch, chăn màn cũng thu xếp đâu mất.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Anh chuẩn bị đi đâu đấy?

- Tôi đợi anh từ tối đến giờ. Tôi đã phải giã từ chủ trọ và giã từ khắp các bạn bè rồi. Chỉ còn anh. Nội đêm nay tôi phải dọn sang Sở Hiến binh.

- Sao lại ở Sở Hiến binh? Anh làm ở Tòa Đại sứ chớ có làm ở Sở Hiến binh đâu?

- Họ chuyển tôi sang đó.

- Đừng chịu! Làm ở đó khổ cực.

- Tôi thấy rằng làm ở đâu cũng vậy. Miễn là họ có thể giúp đỡ mình.

- Giúp cái gì? Anh cần gì phải ai giúp?

- Có.

Nói đến đấy, Lý ngập ngừng rồi thôi. Tôi nói tiếp:

- Làm ở Sở Hiến binh đi khuya về sớm không có giờ giấc nhất định, nhọc lắm. Vả lại, còn nguy hiểm nữa.

- Điều đó tôi biết.

- Thế sao anh không từ chối? Toyo Menka, Showa Tsusho, Mitsubishi Kaisha, Yokohama Speciebank… bao nhiêu chỗ cần người. Sức như anh vào làm ở những chỗ đó thong thả, điên dại gì lại đi làm Hiến binh.

Lý lầm lỳ không trả lời. Cuối cùng, anh đứng dậy giơ tay cho tôi.

- Thôi tạm biệt anh. Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Tôi cám ơn anh đã giúp đỡ tôi trong những ngày đầu bơ vơ ở Hà Nội.

- Điều đó không đáng kể.

Lý vội vã nói tiếp, như sợ tôi nói thêm:

- Tôi sẽ thỉnh thoảng ghé thăm anh. Khi có việc gì cần hỏi tôi, anh cứ lại Sở Hiến binh ở cuối đường Gambetta hoặc viết thư cũng được. À… nhưng nhớ rằng hỏi Hoàng Gia Lý thì không ai biết được đâu đấy. Bây giờ tôi là Hô-ka-Li.

- Là cái gì?

- Hô-ka-Li.

- Hô-ka-Li là cái gì?

- Là Hoàng Gia Lý, phát âm theo Nhật ngữ.

- Hô-ka-Li.

Tôi đưa tay cầm lấy tay anh mà trong óc lật qua lật lại mấy chữ Hô-ka-Li. Cái tên đã đổi rồi thì không biết cuộc đời và mối tình của anh có còn giữ vẹn như xưa không?

Từ đó, thỉnh thoảng đi phố, tôi có gặp Lý. Những khi nhìn Lý đi ô-tô hòm tôi thấy vui vui, nhưng mỗi khi thấy anh đứng trên xe nhà binh mui trần với một tốp lính là lòng tôi thấy bùi ngùi, ái ngại. Tôi cứ băn khoăn tìm hỏi không hiểu vì sao Lý lại bỏ đi làm như vậy.

Vì yêu nước? - Có thể lắm.

Vì danh vọng sự nghiệp? Cũng rất có thể?

Vì tình duyên có sự trở ngại? - Sao lại không?

Lâu lâu, Lý ghé lại nhà trọ thăm lũ chúng tôi. Anh hay đem theo quà. Có lần là những tập sách tuyên truyền về Đại Đông Á với những hình đẹp. Hồ Văn Nghĩa thích ảnh đẹp nên vồ lấy ngay. Có lần anh chỉ cho chúng tôi xem ảnh của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và ông Chandra Bose rồi giảng cho chúng tôi nghe những bài báo viết bằng tiếng Nhật ca tụng tinh thần Quốc gia của các nhà ái quốc này. Có lần anh đem đến một cái bánh tổ làm tại Nhật Bản do quân bưu đưa sang. Anh em phòng tôi và các phòng khác chia nhau mỗi người một miếng nếm thử. Có lần anh không đem đến gì cả mà chỉ uể oải tìm chỗ nằm rồi nói:

- Mệt quá.

Chúng tôi ái ngại nhìn anh gầy đi. Nước da xanh và hố mắt sâu xuống. Nhưng sợ anh buồn nên chúng tôi không ai nỡ nói. Chỉ có Nghĩa nhỏ nhất nên hay hấp tấp nhất, nói không kịp nghĩ:

- Anh Lý ơi! Sao anh ốm dữ quá vậy? Bộ ở trong quân đội nhịn đói sao anh?

- Nói bậy mày. Lý đạp lại.

- A!… nói vậy thì chắc là tại anh ăn ngọt không được chớ gì. Tôi nghe lính của họ ăn món gì cũng ngọt lịm hết. Kho cá mà ngọt quá chè đa…

- Ăn ngọt mạnh chớ sao. Mà, tao đâu có ốm, Nghĩa?

Vừa nói, Lý vừa xắn tay áo lên đưa ra đưa vào cho nổi bắp thịt.

Gặp bữa ăn, Lý hay ở lại ăn chung với chúng tôi. Nhìn anh ăn uống vui vẻ, pha trò vui vẻ mà cảm động. Anh gắp thịt luộc chấm mắm tép cặp với rau rồi vừa bỏ vào miệng vừa nói:

- Đúng là tinh thần Việt Nam.

Hòe đùa:

- Việt Nam banzai (vạn tuế)

Tôi bùi ngùi bảo Lý:

- Thế thì chiều nay anh ở lại đây ăn cơm. Chiều nay có giả cầy nấu với mẻ đấy. Nhằm vào món anh thích.

Lý vui cười:

- Đúng lắm, tôi thích giả cầy lắm. Nhưng chiều nay không ở lại được. Thôi xin hẹn lần sau.

Ăn chưa xong bữa, chợt Nghĩa đứng dậy lấy áo khoác vào người (Nghĩa có tật ăn cơm phải ở trần) rồi lật đật chạy xuống cầu thang. Một lát sau nó rầm rập chạy lên, mở vội gói cầm tay, bày ra mấy phong bánh in.

Lý khen:

- Sang quá ta! Tráng miệng bằng bánh in đậu xanh mỡ.

Hòe giảng giải:

- Không đâu. Hôm nay thằng Nghĩa nó thết anh đấy. Ngày thường thì tráng miệng bằng thèo lèo thôi. Đêm qua nó lại đánh cò quay ăn một hơi được hai mươi tám bao Cotab đó anh Lý ơi!

- À!…

Nghĩa “à” to một tiếng như chợt nhớ ra, vội lại ngăn tủ lấy năm bao Cotab đưa cho Lý.

- À, suýt nữa tôi quên. Anh cầm năm bao thuốc về hút.

Lý mỉm cười:

- Cái món “tương tư thảo” này, mày cho bao nhiêu tao cũng nhận.

Thăm chơi xong, Lý giã từ chúng tôi. Tiếng giày anh gõ lộp cộp trên sàn gỗ, quá hiên ngang mạnh bạo so với cái thân hình mảnh khảnh. Trọng tâm người anh như đã rơi thấp xuống ngang đế giày. Đôi vai cong cong. Cái đầu hơi chồm ra trước. Tôi nhớ một bữa nào trước đây, Nghĩa nó nói với tôi:

- Anh ơi, tôi coi cái tướng anh Lý ngó lao đao quá.

Một ngày tháng Năm, tôi nhận được một bức thư của Dưỡng, trong đó có một đoạn Dưỡng viết:

“Anh có biết hiện giờ Lý ở đâu không? Xuân có gởi thư hỏi tôi, nhờ tôi viết thư hỏi thăm anh. Xuân bảo chỉ có anh là biết địa chỉ của Lý thôi. Xuân đã viết năm cái thư cho Lý rồi mà không thấy trả lời. Không biết Lý có nhận được không? Hay Lý hiện không còn ở đấy…”

Tôi dè dặt không trả lời ngay cho Dưỡng. Đợi hôm nào gặp Lý hỏi lại đã. Nếu Xuân không được tin chắc chắn là tại Lý không muốn viết đó thôi. Tựu trung, hẳn có một uẩn khúc gì đây.

Hôm Lý ghé thăm, tôi đưa đoạn thư của Dưỡng cho Lý đọc. Anh lướt qua thật nhanh, trầm ngâm một giây rồi chậm rãi nói:

- Anh đừng cho biết địa chỉ của tôi. Cứ lờ đi đừng trả lời. Nếu Dưỡng cứ nhắc đi nhắc lại thì anh cứ nói rằng lâu ngày không gặp tôi. Tôi nhờ anh điều đó.

Nói xong, anh kêu xe tay rồi vội vã chào tôi:

- Tôi cần về sở gấp để sang Gia Lâm. Lúc nãy bom ném ở Gia Lâm. Thiệt hại khá nặng.

Chiến tranh mỗi ngày mỗi tràn lấn sang Việt Nam, đã đến giai đoạn phi đội Mỹ chiếu cố đến các căn cứ quân sự Nhật ở Việt Nam, thả bom trúng đích hơn và thường xuyên hơn. Sài Gòn bị ném bom. Hà Nội bị ném bom. Tháng Mười năm 1943, tôi nghỉ học chạy tản cư về quê.

Lý tiễn chân tôi ra tận sân ga. Anh bùi ngùi nói:

- Thế là tôi bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh. Tôi không còn được cái thú vô tư của người đứng ngoại cuộc như các anh để thản nhiên xem người khác chém giết nhau.

- Đã chắc gì thản nhiên.

- Nhưng cũng gần vậy.

Khi tàu gần chạy, anh đưa cho tôi một phong thư và nói:

- Khi nào gặp Dưỡng, nhờ anh trao dùm thư này cho Dưỡng, để Dưỡng đưa lại cho Xuân. Có lẽ đây là cái thư cuối cùng của chúng tôi.

Khi tàu chạy, anh đứng lẫn sau những cột trụ, sau những người đi lại.

Về quê chừng được một tuần, tôi đi Tuy Hòa, thăm anh Dưỡng. Tuy rằng Tuy Hòa chỉ cách Tuy An có ba mươi cây số, nhưng đã bốn, năm năm rồi tôi chưa hề đi tới. Tôi bồi hồi nhìn nhà ga khá đồ sộ, dãy bungalow tươm tất, hai hàng phố chính kiến trúc theo kiểu cổ của người Trung Hoa, nghĩa là vừa thâm nghiêm vừa nặng nề. Dưỡng ở một cái nhà nhỏ ở bên chân núi Nhạn Tháp. Đó là nhà của mẹ vợ anh. Vợ anh buôn bán. Anh dạy lớp Nhất ở trường Bình Minh. Qua lời anh nói thì học trò rất mến anh vì anh dạy giỏi, phụ huynh mến anh vì học trò đi thi đỗ nhiều. Tóm lại, nghĩa là anh bằng lòng cái công việc của anh lắm. Tuy không nghe anh nói ra nhưng tôi cũng biết rằng anh bằng lòng cả cái vị trí hiện tại của anh lắm, vị trí làm rể một người đàn bà góa tần tảo đã đến ngày muốn nghỉ ngơi, vị trí làm chồng của người vợ đảm đang mà mẫu mực là bà mẹ siêng năng, vị trí làm cha một đứa con trai mặt giống mình. Nghỉ lại nhà anh một đêm, tôi thở được cái không khí bằng lòng đơn giản của cái gia đình nhỏ này. Cái gì cũng nho nhỏ, vừa phải, thanh đạm. Không ai muốn vươn cao lên một chút, không ai dám mơ tưởng xa thêm một tí. Tôi so sánh với những tình cảm cuồng nhiệt, mâu thuẫn, xâu xé, giằng co mà tôi sắp đem ra kể với anh. Tôi cố lùi lại cái giây phút mỏi mệt ấy. Khi biết rằng không thể lùi lại hơn, tôi bắt đầu:

- Chị Xuân thôi không học ở Đồng Khánh nữa?

- Về được ba tháng nay. Bác sĩ bảo yếu cần nghỉ thêm một thời gian.

- Ở nhà làm gì?

- Trông hàng cho mẹ.

- Ba chị có thay đổi ý kiến không?

Thấy Dưỡng có vẻ không hiểu ý tôi muốn nói, tôi phải giải thích rõ ràng hơn:

- Nghĩa là đối với việc Lý-Xuân ấy, ông hiện nay thế nào?

- Như xưa và chắc mãi mãi như xưa.

Anh hít một hơi thuốc lá rồi chậm rãi tiếp:

- Ông không có ác cảm với Lý. Lý hiền lành chí thú, hình như ông cũng thương. Mâu thuẫn bắt nguồn từ hai gia đình.

- Chúng ta đang nói chuyện về Roméo và Juliette rồi.

Thấy Dưỡng không nói tiếp, tôi lấy cái thư đưa cho anh.

- Đây là bức thư Lý nhờ anh đưa cho chị Xuân. Lát nữa đi dạy học, anh ghé tạt đưa dùm cho chị ấy.

Vì mãi mười giờ mới có chuyến tàu hỏa ra Chí Thạnh, nên Dưỡng cứ đi dạy, còn tôi ngồi ở bàn đọc sách đợi đến giờ ra ga. Chừng mười một giờ, thoáng có một bóng áo trắng đi vào. Một lát, vợ anh Dưỡng ra bảo tôi:

- Có chị Xuân muốn gặp anh.

Câu báo tin đã thay lời giới thiệu vì chị Xuân đứng liền sau lưng vợ anh Dưỡng. Tôi mời chị ngồi. Chị không ngồi mà đưa liền cho tôi bức thư của Lý viết cho chị, vừa bảo:

- Anh đọc dùm bức thư này, Lý nói có lạ không?

Tôi cầm lên xem. Đại để có những ý quan trọng:

“Em quên anh đi… Một khi không yêu nhau được, cản trở đủ đường thì đeo đuổi làm chi cho khổ cả hai, khổ cả gia đình… Nhất là bây giờ anh đã tàn tật…”

Không giấu được ngạc nhiên, tôi nói to lên:

- Tàn tật?

Chị hỏi lại liền:

- Anh Lý bị tàn tật thiệt hở anh?

Tôi ấp úng không biết trả lời sao. Thì bằng một giọng tin tưởng, giọng tin tưởng đặc biệt của những người yêu nhiệt thành muôn thuở, chị nói luôn:

- Tàn tật có nghĩa là gì đối với tôi? Tôi đâu có yêu Lý vì Lý không tàn tật?

Tôi nhẹ người vì chị đã khéo tránh cho tôi khỏi phải nói dối. Tôi cúi xuống đọc tiếp. Không biết có phải vì thư viết bằng bút chì khó đọc hay vì Lý bối rối hay vì chính tôi không bình tĩnh, nên tôi đọc mà không hiểu Lý dứt khoát muốn gì. Nhưng tôi cũng không bận tâm tìm hiểu thêm vì tôi biết đại để, những bức thư tình đều hay loanh quanh như thế. Ý của người viết không chắc đã phô diễn trung thành trong những chữ. Nhiều khi còn nên hiểu trái lại. Tôi quay sang chị:

- Ý chị thế nào?

Chị không đáp lại câu hỏi của tôi. Chị nhìn thẳng vào mặt tôi mà nói:

- Anh nên khuyên giùm Lý. Tôi biết Lý mến anh và nể anh. Anh nên khuyên giùm Lý.

Ánh sáng như đọng lại nhiều hơn ở mắt chị. Thì ra nước mắt đã lưng tròng. Tôi an ủi:

- Để tôi viết thư cho Lý thử xem.

- Tôi nhờ anh. Tôi chỉ biết nhờ anh.

Lúc ấy có tiếng còi tàu huýt lên. Tôi nhìn xuống đồng hồ thì vừa đúng lúc để tôi ra ga. Chị Xuân biết ý nên đứng dậy trước:

- Thôi anh ra ga kẻo trễ tàu. Tôi cám ơn anh và xin lỗi vì đã quấy rầy anh.

Viết thư khuyên Lý? Tôi không thể làm việc thừa ấy được, mặc dầu mỗi lần nghĩ đến chị Xuân là trí nhớ của tôi quy tụ về đôi mắt ứa lệ của chị. Lý đâu có ngây thơ để cần phải được khuyên? Tôi đâu có hiểu rõ hoàn cảnh, hoàn cảnh chủ quan và khách quan của Lý để mà khuyên Lý? Lời khuyên sẽ dễ làm giảm giá trị của người khuyên nếu nó làm không đúng lúc. Tôi bình tĩnh đợi sự giải quyết của người trong chuyện.

Một ngày kia, tôi nhận được một bức thư. Nét chữ mềm mại. Tôi hồi hộp mở ra, lật đọc dòng chót để tìm tên người viết. Chị Xuân. Đại ý cũng như bữa nọ chị nói với tôi, có tha thiết thêm là ở chỗ chị đã thêm mấy đêm suy nghĩ. Không phải chỉ mấy đêm ấy thôi, tôi biết, mà chị đã từng suy nghĩ hằng mấy trăm đêm về trước rồi, có điều chị không nhớ hết đấy thôi. Chị lại khẩn thiết nhờ tôi khuyên Lý. Lạ thật! Người nào cũng chủ quan thấy điều gì mình nghĩ cũng phải là đúng và buộc người khác phải làm y theo ý mình mới gọi là đúng. Tôi hơi bực mình, không biết làm sao để vừa giúp chị, đồng thời lại vừa khỏi mang tiếng là khờ trước mặt anh Lý. Khó hết sức.

Tôi đang loay hoay thì có tin anh đã đổi vào Sở Hiến binh Sài Gòn. Sài Gòn gần Tuy Hòa hơn Hà Nội, nên tôi cho như đó là một sự may mắn. Rồi bỗng một buổi sáng kia, anh lầm lũi đi vào nhà tôi.

- Kìa, anh Lý.

- Tôi vừa về, ghé sang thăm anh.

- Anh vẫn còn làm việc ở Sài Gòn?

- Vâng, còn. Tôi xin nghỉ một tháng.

- Thú nhỉ? Tha hồ nghỉ ngơi: Độ rày trông anh khá hơn những ngày ở Hà Nội.

Câu chuyện hàn huyên qua hết phần thủ tục, chuyển sang nội dung. Lý nói:

- Người Nhật họ không thực tình đối với ta.

- Điều đó tôi đã nói với anh ngay từ hồi chúng ta còn ở Hà Nội.

- Nhưng bây giờ tôi mới biết rõ ràng đích xác.

- Thế bây giờ anh tính sao?

- Khó quá.

Tôi không muốn anh tâm sự thêm nữa để khỏi phải góp những ý kiến về chính trị mà mình không biết chắc và mình không tin chắc là đúng. Nói chuyện với Lý, tôi không muốn dùng những câu xã giao thông thường hay những lối uyển từ nói nhiều và nói hăng hái để tựu trung không nói một cái gì hết. Tôi lái câu chuyện cho chuyển sang một khía cạnh nhẹ nhàng cởi mở hơn.

- Anh em thằng Nghĩa về Sa Đéc rồi?

- Về sau anh nửa tháng.

- Ồ! Thế mà tôi cứ tưởng chúng nó gan lì lắm.

- Tụi Hòe, Xoang cũng đều về quê hết. Hà Nội độ sau này vắng vẻ lắm, buồn lắm.

Nói chuyện chừng một giờ, anh chợt ngần ngừ hỏi nhỏ tôi.

- Cái chăn hôm nọ ở Hà Nội đem về, anh có còn giữ lại đó không?

Cái chăn? Tôi hiểu rồi. Đó là cái chăn dạ của Lý hôm đi tản cư tôi dùng để gói đồ đạc đem theo. Tôi trả lời:

- Còn đó.

- Anh cho tôi xin lại. Vài bữa nữa đám cưới mà thiếu cái chăn.

Tôi ngẩn ngơ:

- Đám cưới…

Lý nói lúng túng, có vẻ ngượng ngập:

- Đám cưới của chúng tôi.

Khi tiễn anh ra cổng, tôi cứ nghĩ mãi đến “đám cưới” và “cái chăn”. Oái oăm hết sức là hôm anh sang thăm tôi lại mặc bộ nỉ màu xanh rêu mà cách đây hai năm chính tôi đưa anh đến hiệu may Hàng Trống chọn hàng và đặt may cho anh. Cái cà-vạt màu xanh lục anh thắt khéo hòa hợp với màu áo. Tự nhiên tôi nhìn sang cái chăn dạ màu nâu đã cũ. Một chút nghẹn ngào dâng lên làm tôi hơi khó thở. Hạnh phúc một cuộc đời, cuộc đời của một người say mê khao khát, ôm ấp nhiều hy vọng và hứa hẹn nhiều triển vọng, hạnh phúc đó cuối cùng chịu bằng lòng xây dựng bên cạnh màu chăn dạ cũ kỹ kia sao?

Cảm tưởng của tôi đối với cuộc hôn nhân thành tựu này thật hết sức là lẫn lộn, mâu thuẫn. Vui không hoàn toàn, mừng rỡ không rõ ràng, có cái gì ngượng ngập ở đây. Tôi hỏi một vài người biết rõ nội vụ hơn hết để tin rằng việc cưới hỏi Lý nói với tôi hôm nọ là việc cưới hỏi của chính anh. Người ta đều xác nhận rằng cả hai gia đình đã bỏ mọi hiềm khích, đã hy sinh tự ái để hai người trẻ khỏi đau khổ. Mặc dù nghe rõ vậy nhưng sao tôi vẫn ngờ vực rằng sự thật sẽ không diễn ra êm đẹp dễ dàng như thế đâu, như kết cuộc của một phim chiếu bóng đâu. Cho đến khi có người láng giềng - người này là một người nhà quê biết gia đình Lý chớ không thương không ghét - kể cho tôi nghe đám rước dâu, tôi mới yên tâm mà tin. Ông ta nói rõ ràng:

- Họ gái đi ô-tô ở Tuy Hòa ra. Xuống Phố Thoại chuyển sang xe ngựa. Xe ngựa có cắm bông.

- Mấy cỗ xe ngựa?

- Bốn cỗ.

- Cắm bông gì?

- Đủ thứ: bông đào, đông điệp, bông giấy… Tôi thấy rõ ràng mà.

- Thì ai nói rằng ông không thấy? Kể tiếp đi.

- Họ gái mang giày cườm và cầm dù.

- Còn họ trai?

Ông hít một hơi thuốc lá rồi mơ màng tiếp:

- Còn thằng rể và con dâu bận áo rộng.

Đó là chi tiết mà tôi đã vô tình mong đợi.

Câu chuyện tình đã kết thúc một cách êm đẹp nên không còn ai nhắc đến nhân vật nữa. Người ta bỏ quên họ để chuẩn bị cho tâm trí vấn vương về những thắc mắc khác.

Sau nửa tháng, Lý đi Sài Gòn. Xuân ở nhà quê với mẹ chồng. Dù xa nhau nhưng chắc Xuân không buồn vì mẹ Lý tốt và các em của Lý đều tốt. Vả lại, chị còn đòi hỏi gì thêm khi trong suốt năm sáu năm thương yêu chị đã chỉ dám dự trù chia ly hơn là sum họp. Chắc Lý cũng nghĩ thế.

Sau đó, tôi nghe Lý được đổi về Nha Trang. Những người trong vùng trở lại nhắc đến Lý, nhưng lần này bằng một giọng thán phục. Số là lúc bấy giờ quân Nhật kiểm soát Đông Dương chặt chẽ hơn nên xe cộ của họ qua lại luôn. Lẽ tất nhiên Lý cùng đi với các sĩ quan Nhật, hoặc ghé lại Tuy Hòa, hoặc ghé lại Chí Thạnh, hai trung tâm thu nhặt tin tức về Lý.

Vụt đến ngày Nhật đảo chính, Lý hầu như thành nhân vật trong một thiên anh hùng ca cho cả vùng đó. Người ta truyền miệng cho nhau không biết bao nhiêu là truyền kỳ về Lý. Nào Lý bận binh phục có đeo gươm rất dài. Nào Lý đeo một hàng mề đay vàng rực cả ngực. Nào Lý đội một cái mũ nhung đỏ chói. Nào xe hơi của Lý đậu kít ở trước nhà người cô của Lý, một tên lính chạy ra mở cửa xe, Lý bước xuống lẫm liệt… đi vào.

Có người cả quyết rằng chính mình đã thấy Lý cầm gươm châm xuống đất, nói một tràng tiếng Nhật rồi trong năm phút, một đoàn tàu bay Nhật vù vù bay ra đảo lộn trên nền trời Tuy Hòa. Người khác bảo đảm là không phải tàu bay mà là một đoàn ô-tô nhà binh rầm rộ chạy ra, đậu suốt một dãy để đợi lệnh.

Có lẽ chỉ có mình tôi là hiểu nỗi khổ tâm của Lý thôi. Nhưng rồi tôi cũng lây cái vui, cái hào hứng của mọi người. Tôi thầm bảo mình:

- Dù sao, những giây phút này cũng đền bù một đôi phần những nỗi lao tâm khổ trí của Lý. Dù sao cũng vẫn còn hơn là lúc viết thư cho người yêu anh bảo hãy quên đi, quên đi vì mình đã thành người tàn tật.

Ngày khởi nghĩa, tôi đang ở Đà Lạt. Ở Đà Lạt không có việc cướp chính quyền mà chỉ là chuyển giao quyền hành chánh, nhưng nghe nói ở mấy tỉnh miền Trung châu, sự xung đột có xảy ra, nhiều nơi khá dữ dội. Tôi lo cho số phận của Lý. Khi cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, ăn lan dần ra khắp miền Nam Việt Nam, tôi tản cư lận đận trên con đường Lâm Viên-Ninh Thuận. Thỉnh thoảng mỗi lần nghĩ đến thời cuộc là tôi nghĩ đến Lý, một nạn nhân tiêu biểu của thời cuộc, của thời đại.

Ngót một năm sau, khi về đến Phú Yên, tôi được nghe tin Lý vẫn còn an lành. Anh về nằm ở quê nhà. Tôi lựa một bữa rảnh rỗi ghé sang thăm. Hai vợ chồng tươi cười ra đón. Anh siết chặt tay tôi, còn chị thì miệng cười như hoa. Chị đẩy cái xe đan bằng mây, trong đó có cháu bé ngồi và dạy:

- Bé Thảo chào bác đi.

Tôi liền nói:

- “Xuân du phương thảo địa”. Con này chắc là Phương Thảo đây.

Chị đỏ mặt thẹn. Anh mời tôi ngồi. Những cử chỉ: rót nước, mời nước, gạt tàn thuốc, đứng dậy, ngồi xuống hơi chậm chạp. Có lẽ đó là di tích của chiến bại. Anh không kể lại những sự việc đã xảy ra, tưởng như tôi đã biết hết rồi, anh chỉ nói đến một cách rất đơn giản vài nét của cuộc sống đơn giản hiện tại của anh. Những sự việc đã xảy ra cho anh, tôi có nghe qua, chúng không khác mấy với những điều tôi đã dự tưởng.

Rốt cuộc, tôi cảm ơn số mệnh đã cho anh sống nguyên vẹn để về ở bên vợ con. Khi anh nói chuyện với tôi, cứ một lát anh lại giật mình vì cháu Thảo hoặc đứng chồm quá trước xe, hoặc ngồi xuống hơi nặng. Có lúc miệng anh vừa nói, mắt anh vừa nhìn tôi, mà tay giơ ngang bé Thảo như che chở.

Mùa đông năm 1948, tôi ghé lại một lần ở Tuy Hòa thăm anh. Lúc bấy giờ anh lãnh một chức nhỏ phụ giúp ở Ty Cứu tế Xã hội. Anh bảo tôi:

- Cứu giúp những người khổ, đó là cái việc rõ ràng khỏi phải cân nhắc lý luận lôi thôi. Tôi tiếc không đủ năng lực để làm một y sĩ. Kẻ thù của một y sĩ có lương tâm là bệnh tật, là chết chóc, là cái chân bị sâu quảng, cái nhọt bị nung mủ, khúc ruột thừa bị sưng. Ông ta cứ cắt, cứ mổ, cứ tiêm. Lương tâm để ông ngủ yên. Lương tâm, tôi có.

Tôi nhìn quanh cái gác trọ của anh. Cũng lại những đống quần áo mắc lên thành ghế, những chồng sách để bừa bãi dưới sàn gỗ và cái gạt tàn thuốc cố hữu. Đặt anh vào cái khung cảnh này như dễ trông hơn. Có lẽ vì quen mắt hơn. Tôi thấy tội nghiệp anh.

Mùa đông năm 1949, tôi vụt nghe tin anh chết. Tin hãi hùng, tôi nghe rõ ràng mà có cảm tưởng như mình nghe lầm. Trước đây nửa tháng, có tin anh đi thăm trại tế bần rồi bị sốt dọc đường. Anh gắng lội qua sông. Đến nơi, anh nằm vùi. Gia đình được báo tin đến võng anh về, chữa thuốc Bắc nhưng mãi không mạnh. Anh được võng đi nhà thương cho bác sĩ khám. Rồi không hiểu vì bác sĩ bảo bệnh đã quá nặng hay vì thiếu thuốc, anh lại được võng tới ông thầy thuốc Bắc có tiếng chữa bệnh thương hàn. Anh chết ngay tại nhà ông thầy.

Tôi đến thăm di hài anh. Những ngón tay cong lại trông rõ đốt xương. Tôi thân ái mở tấm giấy phủ mặt. Mắt anh nhắm nghiền. Da mặt xám sậm. Tôi nghe nóng nơi mắt mình. Tôi phủ lại tấm giấy. Trên bụng anh đắp ngang cái chăn, cái chăn dạ màu nâu.

Chị Xuân và cháu Thảo ở Tuy Hòa, chưa biết tin anh chết. Có lẽ chứng kiến ngay cái chết của anh, chị sẽ ít đau khổ hơn, vì chị khỏi bị người ta thương hại thêm. Tôi dự luôn cuộc đưa đám anh. Anh yên nghỉ ở khoảng đất đầu xóm. Ngày trước, mỗi lần đến thăm anh, tôi thản nhiên đi qua khoảnh đất này. Vì không lưu ý, tôi chỉ mang máng nhớ nơi đây có lá xanh, có cây phượng cao hoa đỏ, có vài con trâu gặm cỏ mơ màng. Đi vài trăm thước nữa thì tới nhà anh. Hôm nay, anh rời nhà, ra vĩnh viễn nằm nơi đây. Giã từ Huế, Sài Gòn, Hà Nội. Giã từ người yêu, kẻ thù, giã từ đau khổ, sự nghiệp, hạnh phúc…!

Chiến tranh tàn phá con đường ô-tô, sự đi lại hoàn toàn bằng đôi chân. Lâu lâu chị Xuân bế cháu hoặc từ Long Uyên (quê anh Lý) về Tuy Hòa (quê chị) hoặc từ Tuy Hòa ra Long Uyên. Vì con đường đi bộ ngang qua nhà tôi, nên không bao giờ chị quên ghé lại nghỉ chân. Cháu Thảo trắng mũm mĩm, giống ba ở cái miệng, giống má ở đôi mắt. Cháu bụ bẫm nhưng yếu, chậm biết đi, chậm biết nói. Tôi hay bế cháu vào lòng, siết cháu thật chặt. Mỗi lần làm như vậy, tôi có cảm tưởng như ngày nào siết chặt tay ba cháu. Có nhiều lần bế cháu đến nhà tôi là cháu đã ngủ khì trên tay chị. Chị đặt cháu xuống võng.

Tôi nhìn vẻ mặt ngây thơ của cháu, nhìn bàn chân thon của chị. Bao nhiêu là trách nhiệm nặng nề Lý đã giao lại cho chị. Một quá khứ nặng đau khổ chỉ được đền bù bằng bốn năm Hạnh phúc - mà nào có hoàn toàn, - để rồi bây giờ chị lại đau khổ, cái đau khổ còn nặng gấp mấy hồi xưa vì chỉ có mình chị chịu đựng. Nỗi khổ khi con người chung chịu, ta không thấy nặng nữa. Tội nghiệp cho chị, cô đơn biết bao! Không muốn chị buồn nên không bao giờ tôi nhắc đến Lý. Chị cũng vậy. Chị nói chuyện hồn nhiên như hồi xưa, thật thà như một người em. Có lần chị dạy cháu chào tôi:

- Thảo ngoan, vòng tay chào bác nào.

Bé Thảo vòng tay lại, nhưng không cúi đầu được. Chị khuyến khích:

- Thảo cúi đầu xuống đi, ngoan đi.

Bé Thảo cố gắng nghiêng được cái đầu một tí. Chị thân mật bảo tôi:

- Cháu thấy anh lạ nên nhút nhát đấy. Ở nhà, cháu ham tập nói lắm. Cứ chiều chiều, hai mẹ con dẫn nhau ra sau vườn nhà, nhìn ra cánh đồng xa. Hai mẹ con ở đó hàng giờ…

Chị thôi không nói nữa, mi mắt chớp mau. Chợt chị mỉm cười, “à” lên một tiếng như chợt nhớ ra. Chị bế Thảo rồi cầm tay chỉ ra sân, chị nói:

- À, Thảo hát cái bài hát “Chiều chiều” cho bác nghe nào. Nào:

- Cò ơi…

Bé Thảo bập bẹ:

- bay về…

- bay về…

- phương nao…

- phương nao…

Chị vỗ tay khen. Bé Thảo vỗ tay reo. Tôi cũng vỗ tay theo như một cái máy.

Cò ơi, bay về phương nao…

Câu hát không lẽ dứt ở đó. Tôi chắc chị đã tiếp thêm bằng một câu nữa, bằng vài câu nữa buồn hơn.

Chiến tranh mỗi năm một quyết liệt, việc làm ăn mỗi ngày một khó khăn. Chị mở một ngôi trường nhỏ dạy học nuôi con, nhưng vì Tuy Hòa bị báo động tản cư luôn nên sự dạy dỗ không kết quả mấy. Thỉnh thoảng trong những ngày hội nghị giáo dục tôi gặp chị, vẫn một màu áo trắng, đôi mắt dìu dịu, buồn buồn. Nhưng đôi môi vẫn tươi, nụ cười hiền lành kín đáo. Trên khuôn mặt đó có một vẻ gì khiến người ta muốn đến gần nhưng giữ người ta lại không cho đến gần quá.

Có lần, tôi nghe tin một số thanh niên có cảm tình với chị. Điều này tất nhiên phải xảy ra, tôi không lấy làm lạ. Các thanh niên ấy đều không phải là người địa phương. Điều này cũng dễ hiểu. Những người địa phương ai cũng biết mối tình thắm thiết giữa chị và anh Lý. Ít ai muốn, hoặc có can đảm, yêu một người khi người ấy là tượng trưng cho mối tình với một người khác. Ai cũng muốn hoàn toàn chiếm tâm hồn của người mình yêu. Người ta không chỉ ghen với một người thật, người ta còn ghen với một cái bóng, một kỷ niệm. Sau đó, tôi được nghe thêm những tin tương đối đích xác hơn về người đã yêu chị. Anh ta khẩn thiết xin cưới. Tôi bâng khuâng, hơi đau đớn một chút.

Rồi tiếp theo, chiến tranh kết liễu. Tôi giã từ Phú Yên.

Một ngày kia, giữa giờ dạy Hán văn, tôi giảng về chữ Xuân. Khi phân tích cách viết, tôi nhớ đến cái con dấu mà anh Lý hay dùng đóng vào ở mọi quyển sách của anh. Con dấu tròn khắc sáu chữ Nho:

Tam nhân nhật

Hoài cố nhân

Dù không hỏi Lý nhưng tôi biết chắc “Tam nhân nhật” là chữ Xuân phân tích ra. “Hoài cố nhân” thì ai cũng hiểu là “Nhớ người xưa”. Tôi bảo học sinh:

- Để dễ nhớ cách viết chữ Xuân, tôi kể nhanh cho các anh chị em nghe một mẩu chuyện này. Tôi có một người bạn. Anh ta quen một người tên Xuân. Để nhớ mãi người này, anh thuê khắc một con dấu trên ghi mấy chữ “Tam nhân nhật, Hoài cố nhân”. Anh đóng con dấu ấy vào mọi quyển sách của anh. Tam, nhân, nhật, ghép lại thành chữ Xuân…

Tôi lên bảng viết từng chữ đơn rồi ghép lại.

Học sinh, vì lớp lớn, lao nhao hỏi:

- Rồi sao nữa thầy?

Tôi cắt ngang câu chuyện bằng cách bảo:

- Anh bạn tôi chết rồi.

Mọi người tự nhiên im lặng.

Khi Lý chết. Tôi còn giữ một quyển sách nhỏ của Lý. Tôi không đưa trả lại cho gia đình Lý vì quyển sách mang đầy những con dấu “Tam nhân nhật, Hoài cố nhân”, tôi muốn giữ làm kỷ niệm của Lý, của cả chị Xuân nữa. Quyển sách ấy Lý mua hồi còn ở Hà Nội. Có lẽ lúc bấy giờ xa người yêu anh càng nhớ nhiều nên cứ cách mười trang là anh đóng một con dấu.

Tôi đâu có nhiều thì giờ để năng nhớ đến Lý. Chỉ thỉnh thoảng khi nào mở sách ra là lòng lại bồi hồi nhớ đến người bạn xưa.

Một hôm, tôi ghé lại thăm anh Lợi, một bạn cũ ở Tuy Hòa vào, vừa cất một cái nhà xinh ở xóm Đồng Dưa. Câu chuyện bắt đầu bằng sự xây cất nhà cửa. Với những chuyển mạch rất tự nhiên và vô tình, câu chuyện đưa về thành phố Tuy Hòa. Tôi vụt hỏi:

Chị Xuân bây giờ làm gì ngoài đó?

- Xuân nào?

- Xuân-Lý đấy.

Bạn tôi cười to:

- Anh này mê ngủ hả? Chị Xuân nào còn ở Tuy Hòa?

- Chớ đi đâu?

Thấy tôi nghiêm trang hỏi, anh thôi không mỉm cười chế nhạo nữa. Anh thân mật nói:

- Lấy chồng rồi. Lấy chồng năm 1953 rồi.

Tôi không cười được mà cũng không buồn được. Hình như tôi đã chuẩn bị từ lâu để nghe câu trả lời ấy.

Chớ sao? Cuộc đời cực nhọc trong khói lửa chiến tranh đâu phải là một dạ hội có rượu ngon, thuốc lá, âm nhạc, đối với những người đàn bà góa trẻ, đẹp, yếu, có học thức như chị? Không ai trách chị được, chị chỉ đáng thương mà thôi. Đáng thương nữa là Lý, tôi nghĩ tiếp, nhưng tôi kịp thấy tôi đã nghĩ sai. Lý không có gì để đau khổ. Anh đã chết rồi nghĩa là đã giải thoát rồi. Nếu tôi có một ý nghĩ đau đớn về anh, chung qui cũng chỉ vì cái con dấu với hàng chữ Nho kia. “Tam nhân nhật, Hoài cố nhân”

Số mệnh oái oăm sắp đặt để người hoài cố nhân không phải là anh mà là chị Xuân. Đáng lẽ chị Xuân mới là người đóng cái con dấu “hoài cố nhân” trên những trang sách của chị đọc.

Óc tôi như vụt lóe sáng vì tôi chợt thấy rằng chữ Lý tên của anh cũng có thể phân tích ra thành những đơn tự. Đó là: Thập bát tử. Tự nhiên tôi như thấy cái con dấu lồ lộ mấy chữ:

Thập bát tử

Hoài cố nhân

Nhưng than ôi, cũng lại số mệnh oái oăm đã cản tay chị Xuân không cho chị đóng con dấu ấy nữa. Chị có thể âm thầm nghĩ đến anh giữa hai cái mỉm cười với người hiện tại, nhưng nào chị có quyền ghi bằng một nét cụ thể trên trang giấy trắng.

Còn lại người thứ ba. Là tôi. Tôi không khắc một con dấu bằng đồng mà bằng câu chuyện tình nhỏ này. Ở một nơi xa xôi nào, nếu có vô tình chị đọc đến, chị cũng không nỡ trách tôi.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:15:42 bởi hai1957 >
#1
    hai1957 17.11.2012 10:48:36 (permalink)
    2. NGÀY XƯA


    Tiếng còi tàu thét lên. Tôi nắm tay ông Vũ.

    - Thôi, xin ông bà ở lại mạnh giỏi. Tôi …

    Tôi nghẹn ngào không thể nói tiếp. Tôi quay nhìn bên cạnh: bà Vũ nước mắt ràn rụa gượng mỉm cười nhìn tôi. Cạnh bà, Bảo Loan đứng im lặng. Tay nàng nắm chặt chiếc mùi soa trắng. Tôi nhìn vào đôi mắt nàng long lanh dưới ánh sáng mờ của những bóng điện sân ga.

    Ông Vũ bình tĩnh cầm tay tôi siết mạnh:

    - Anh về quê tạm lánh một thời gian, chừng nào tình hình yên ổn thì lại ra. Có lẽ tôi cũng sắp đặt cho nhà tôi và con Loan nó vào Hà Đông…

    Bà Vũ như sợ tôi quên, nên nhắc lại một lời mà mấy hôm nay bà căn dặn tôi mãi:

    - Anh nhớ xem báo, thấy tình hình hơi yên ổn thì ra ngay. Nhớ viết thư cho chúng tôi luôn.

    Tôi chỉ biết vâng dạ vì không có lời gì có thể diễn được tấm lòng của tôi lúc bấy giờ. Lòng tôi đang tràn ngập hình ảnh của Bảo Loan và ý nghĩ về Bảo Loan mà tôi có dám nói ra đâu? Ít nhất tôi cũng muốn nói rằng “Thôi em về…” để nghe nàng thẫn thờ đáp lại “Anh đi…” và tiếp theo là một tiếng thổn thức.

    Nhưng thế mà tôi đành im lặng.

    Quanh chúng tôi, những người chạy loạn hấp tấp, hối hả mang vác giỏ, xách va-ly, gồng gánh đùn nhau lên toa. Thỉnh thoảng tiếng hành khách kêu hú nhau làm chúng tôi giật mình tưởng như nghe tiếng còi báo động ban đêm. Thật chỉ mới một tuần nay thôi, mới qua hai lần bị bom nổ mà người dân Hà Nội như đã nếm từ lâu lắm mùi vị thật của chiến tranh chết chóc.

    Chợt tiếng còi tàu thét, rồi tiếng kèn sếp-ga tu tu. Tôi vội vã cúi chào một lượt ba người thân yêu rồi lùi lại, bước chân lên bàn đạp toa tàu. Tàu xình xịch chạy.

    Không có ai vẫy tay trên sân ga. Không có những kẻ nhàn tản chứng kiến cảnh đón đưa của những người thiên hạ.

    Xình xịch… xình xịch… Tàu chạy chậm lướt qua mặt ba người thân yêu của tôi kia. Bóng họ ngã xuống đường, gãy ngoằn ngoèo qua những chỗ cao thấp, lồi lõm của sân ga và đường tàu nối tiếp. Bóng những trụ đèn cao cũng ngã xuống, cũng gãy ngoằn ngoèo. Tôi lo sợ rằng tương lai của tôi và mối tình giữa tôi và Bảo Loan cũng đang ngã xuống, cũng gãy ngoằn ngoèo như thế.

    Điều tôi lo sợ không phải là không căn cứ. Những người chạy loạn, tạm chia tay nhau để đợi ngày trở lại. Tôi thì khác hơn, tôi ra đi mà không mong ngày trở về. Đối với đa số người khác, tản cư, chạy loạn chỉ là một giai đoạn bất trắc đến xáo trộn cuộc sống của họ trong một thời gian, với tôi, hình thức chạy loạn, là tản cư nhưng nội dung làm tôi đau đớn làm sự đổ vỡ của tương lai mình dự định.

    Độ ấy tôi có mộng đi du học Nhật Bản. Lúc bấy giờ tổ chức trao đổi sinh viên giữa Đông Dương và Nhật Bản bắt đầu phát triển, Viện Văn hóa Nhật Bản ở Hà Nội đang sửa soạn gởi tiếp một số sinh viên trao đổi Việt Nam sang Nhật tiếp theo chuyến trước đã đến Nhật rồi. Tôi đang vận động để được lựa đi chuyến này. Có nhiều hy vọng được lựa nên tôi đã chuẩn bị chuyến đi.

    Trong khi chờ đợi, chiến tranh Mỹ Nhật đột nhiên đi vào độ quyết liệt. Tàu chiến Hoa Kỳ đã xuất hiện ở ven bể Trung Hoa, đánh đắm nhiều tàu Nhật Bản. Từng loạt phi cơ phóng tháo Hoa Kỳ liên tiếp thả bom xuống ngay thành phố Tokyo. Từ thế công, quân đội Nhật đã phải chuyển sang thế cầm cự. Sự giao thông giữa Đông Dương và Nhật Bản đã gặp nhiều trở ngại, việc gởi tiếp một đoàn sinh viên trao đổi sang Nhật và một đoàn sinh viên Nhật sang Đông Dương đã thành khó khăn. Viện Văn hóa Nhật thu hẹp bớt phạm vi. Tôi bắt đầu mất hy vọng.

    Ngày 10 và 14 tháng 10 năm 1943, phi cơ Mỹ thả bom xuống Hà Nội. Lệnh tản cư đưa ra. Những chuyến tàu chở người tản cư kéo hàng hai mươi toa rầm rộ chạy suốt đêm. Tôi không thể còn ở lại Hà Nội nữa. Gởi lại tất cả đồ đạc, gởi lại cả một hy vọng rộng rãi về tương lai, tôi xách va-ly nhỏ lên ga Hà Nội, lên tàu xuôi Nam.

    Tôi nhớ rõ, ngày 16 tháng 10, một buổi chiều xám, lạnh. Xung quanh mọi vật đen và buồn. Dãy bóng đèn trong toa hạng nhì cũng sợ, cũng buồn không chịu sáng.

    Tôi về quê làm gì đây? Để tránh cái chết, nhưng tôi tiên giác rằng chính về quê là để chết, để chết dần tâm hồn của mình. Mấy năm hao phí tâm lực, tiền tài, kết quả chỉ là một cái mộng không thành. Trong khi ấy xung quanh tôi, những người bạn thực tế hơn đã thành ít nhất là những ông phán trẻ. Họ đã thuê được những căn nhà sáng sủa, có đèn điện, có xa-lông, có bàn viết, có những người vợ rất quê và rất giàu nên dáng dấp làm ra vẻ quí phái điểm trang. Những đám cưới linh đình có nhiều tiếng dội. Những ông láng giềng của tôi đã bắt đầu nói chuyện so sánh. Mỗi lần phải nghe những câu chuyện giàu sang, chức tước ấy, tôi thấy thương cho gia đình tôi. Gia đình những người bạn thực tế của tôi kia, họ hả hê, vinh hiến biết bao nhiêu. Gia đình tôi không chừng cũng buồn vì thấy tôi sao chỉ dự định những chuyện viễn vông gì mà không làm một ông phán danh giá như vậy. Tôi buồn nữa vì điều dự định về tương lai của tôi đã thất bại thì mối lương duyên của tôi ở Hà Nội cũng không thành. Tôi đã nghĩ khi nào có địa vị hẳn hoi tôi sẽ cưới Bảo Loan mà tôi yêu và đã yêu tôi. Nhưng hôm nay tương lai còn dành phần gì cho tôi nữa? Cả những nỗi buồn dồn dập ấy lại kèm thêm những mối lo. Tôi lo không biết người Pháp sẽ làm phiền tôi ngày nào. Lúc ấy người Pháp săn lùng ráo riết những người có cảm tình với Nhật Bản. Họ sợ những sự hoạt động về chính trị. Tôi không có khuynh hướng chính trị, nhưng biết người Pháp có hiểu rõ như thế không? Tôi có thể bị tình nghi lắm. Ngày ở Hà Nội tôi đã bị Mật thám vào nhà trọ dò la. Thành ra tôi không buồn đi đâu cả, không muốn tin ở một ngày mai nào. Tôi còn lo cho gia đình tôi nữa, vì nếu tôi có bề gì thì gia đình tôi sẽ bị liên lụy theo. Tôi lo từng ngày một, buồn từng giờ một. Đôi lúc tôi giận mình sao có chi những cái mộng ngông cuồng như vậy để hại cho sự an nhàn của tâm tư. Tôi có cảm tưởng rằng sống mười năm lo lắng buồn phiền như thế ấy, tôi có thể giảm bớt đi một vài tuổi thọ. Tôi không bao giờ yên tâm, tôi luôn luôn lo lắng, tôi giật mình vì từng tiếng chó sủa trong đêm, vì từng tiếng người ồn ào ban ngày. Tôi sống trong sự khủng hoảng lớn về tinh thần. Giữa lúc đảo điên ấy, cuộc đời xui tôi gặp Vân. Thu Vân.

    Một buổi xế mát không nhớ rõ là ngày nào, tôi đến nhà anh Thái chơi như thường lệ. Thái là bạn học cũ. Ở quê nhà, tôi còn được ngót mười người bạn cũ, bạn học từ hồi mới ê a chữ Quốc ngữ. Hầu hết những người bạn này bỏ học sớm, chỉ có Thái cùng tôi đeo đuổi học lâu hơn. Thái hiểu tôi, đồng ý với tôi ở nhiều điểm trong quan niệm sống nên chúng tôi thường nói chuyện với nhau. Nhà Thái lại ở giữa xóm, sát con đường giao thông qua lại nên là nơi tôi thường lui tới để giết thì giờ. Do sự thuận tiện ấy mà rất nhiều lần Thái biến thành vật hy sinh của tôi. Mỗi lúc tôi buồn, giận hoặc thắc mắc về một vấn đề gì tạp nhạp hay quan trọng, tôi đều đến để bắt Thái nghe.

    Lần này đến chơi nhà Thái, tôi không đem theo một sự thắc mắc nào cả. Tôi vui vẻ theo con đường mòn giữa hai dậu hoa bìm rồi bước vào cổng sau.

    Tôi lên tiếng gọi to trước khi vào cửa:

    - Thái ơi, Thái có nhà không?

    Không nghe tiếng trả lời. Tôi gọi to hơn rồi ngang nhiên bước vào phòng khách. Không có ai cả. Thì chợt ở nhà ngang có tiếng mẹ Thái nói sang:

    - Anh Diệp qua chơi. Mời anh vô đây.

    Tôi bước vào cửa vừa sắp nói một câu ba hoa theo thường lệ - mẹ Thái vốn vui tính - thì chợt ngạc nhiên im lặng: ngồi ở tràng kỷ đối diện với tôi kia là một thiếu nữ mặc áo hồng. Tôi thấy ngượng, mất bình tĩnh. Người thiếu nữ chừng cũng ngượng và mất bình tĩnh như tôi. Nàng loay hoay không biết có nên chào tôi hay không. Tôi giúp nàng thoát cơn bối rối bằng cách quay sang hỏi mẹ Thái:

    - Thái đi vắng hở thím?

    - Nó vừa đi coi nhổ mạ để sáng mai cấy đám ruộng Cây Duối.

    - Thái làm ruộng? Thư sinh hôm nay nhất định làm ruộng?

    - Kìa, bữa trước anh có hứa chắc là phen này anh cũng về quê nhà làm ruộng như thằng Thái kia mà.

    Tôi đành cười xí xóa. Quả thật, bữa nọ tôi và Thái có ngồi bàn tính với nhau cả hai về làm ruộng thử xem sao.

    Bên kia, người thiếu nữ lại loay hoay như định nói gì. Nàng đứng dậy. Mẹ Thái quay sang:

    - Con cứ ngồi chơi. Anh Diệp đây mà, chắc con biết…

    - Dạ…

    Ba người lại im lặng, không ai biết nên nối tiếp câu chuyện như thế nào cho không khí đỡ ngượng. Mẹ Thái mới giới thiệu tôi với nàng mà quên không giới thiệu nàng cho tôi, thành ra tôi không biết nàng là ai. Ở quê nhà, sự giới thiệu là việc thừa. Trong cái vòng giao thiệp hàng ngày vừa eo hẹp vừa thân mật của mỗi người, người ta có bổn phận phải biết nhau. Nhưng vào trường hợp tôi, tôi không biết nàng. Dễ thường nàng cũng không biết tôi. Tiếng “dạ” của nàng kéo dài không nhất thiết có nghĩa là “dạ, con có biết” mà rất có thể là “dạ, con không hề biết”. Nhưng mẹ Thái đâu có tìm hiểu chi xa xôi, vơ vẩn như tôi!

    Cuối cùng, tôi thấy nàng rụt rè đứng dậy:

    - Thưa dì, cho con ra xe.

    Mẹ Thái nhìn ra khung cửa:

    - Mặt trời còn kia, còn sớm con về làm gì lật đật?

    - Nhưng chần chừ một lát sợ không còn xe.

    - Chẳng thiếu gì. Từ nửa tháng nay tàu bay Mỹ thả bom hụt cầu Ngân Sơn, bắn cháy xe Nhật Bổn ở Chí Thạnh thì xe đò phải chạy thâm về đêm. Con ngồi chơi lát nữa cũng chẳng muộn.

    - Giờ này đi là vừa.

    - Ừ thôi, tùy ý con. Kẻo lỡ xe, con lại đỗ tại dì.

    Nàng cười:

    - Dì cứ nói vậy, con đâu dám. Thôi con chào dì.

    Tôi chợt lo rằng nàng sẽ lại chào tôi. Tôi nhút nhát, vội nhìn xuống tập sách mà lúc nãy ngồi lại bàn tôi đã tiện tay cầm lên. Tôi làm như đang chăm chú đọc. Tim đập hồi hộp. Tôi mong rằng nàng cũng hồi hộp, cũng nhút nhát như tôi để cuối cùng nàng lẳng lặng bước đi đừng chào tôi nữa. Thật tội nghiệp! Tôi đã 23 tuổi rồi, đã từng yêu mà vẫn rụt rè như cậu học sinh 16 tuổi.

    Nhưng tiếng dép ngần ngừ rồi tiếng dép mạnh bạo tiến về phía tôi. Và tiếng nàng dịu dàng:

    - Xin chào anh.

    Tôi ngẩng lên nhìn nàng, luống cuống đứng dậy, lẩm bẩm:

    - Không dám, chào cô.

    Sự chạm mặt tưởng rằng đầy bỡ ngỡ khó chịu, không ngờ đã xảy ra dễ dàng tự nhiên đến thế. Tôi thấy tôi sẽ hối tiếc biết bao nếu nàng đi thẳng không chào tôi như tôi vừa mong.

    Và bây giờ đến lượt tôi tiếc rằng đã không nhìn nàng kỹ hơn. Nàng như cũng thẹn nên vừa chào tôi xong đã lật đật quay đi. Thành ra tôi chỉ kịp nhận thấy đôi mắt đen trên khuôn mặt trắng xinh. Vòng quanh khuôn mặt là nền tóc nàng bỏ lửng xuống vai. Đôi vai mảnh và dáng nàng thon. Thật là hình ảnh của một nữ sinh trong trắng tin yêu cuộc đời trước mặt.

    Khi nàng đi khỏi, tôi hỏi ngay mẹ Thái:

    - Ai vậy thím?

    - Vân, con bà tham Quế ở Sông Cầu.

    - Con bà tham Quế à? Thế cô ấy là em anh Nhân?

    - Ờ.

    Sau một giây im lặng, mẹ Thái nói:

    - Hay anh Diệp… đi hỏi con Vân đi. Nó năm nay 19 tuổi.

    Tôi chỉ mỉm cười mà không trả lời khi nghe nói đến việc cưới hỏi, cưới hỏi cho mình. Đó là việc tôi đã từng nghe nhiều rồi, từ hồi còn mới 12, 13 tuổi. Những gia đình khá giả trong làng, trong hạt, hay nhìn con của nhau rồi hứa hẹn cưới gả cho nhau. Tính đến nay tôi đã trải qua khoảng sáu bảy nơi, nhưng rồi người con gái nào cũng chồng con tử tế cả, chỉ duy tôi là vẫn còn như xưa. Hôm nay lại nghe lại việc cưới hỏi! Tôi không muốn, không cố ý dự định xếp đặt một việc tương lai chắc chắn, nhưng sự êm đềm hiện tôi đang thâm cảm trong lòng xui tôi vui vẻ nói luôn:

    - Vân đẹp quá, hở thím?

    - Đẹp mà lại giỏi. Bánh trái khéo. May vá, đan thêu thạo. Công việc trong nhà mình nó lo, bà tham khỏi phải thò tay vô một việc gì cả.

    Nghe nàng quán xuyến được tất cả những công việc phiền phức vô vị trong nhà, lòng tôi thấy tin yêu, cảm động. Tôi đã nhọc mệt với những sự lộng lẫy của cuộc đời phù hoa ngầm chứa giả dối và đốn hèn, nên hôm nay gặp một thiếu nữ có cái sắc thái của người thanh lịch mà lại ấp đượm tinh thần thuần hậu, chịu khó của các bậc mẹ hiền ngày xưa, tôi bỗng thấy lòng rào rạt một niềm mến thương ấm áp. Hôm nay đây, tôi hồi tưởng lại lúc bắt đầu gặp nàng, tôi còn cảm thấy sự êm ả vô cùng khi tưởng thấy nàng nhanh nhẹn, vui vẻ và nhẫn nại làm các công việc trong bếp núc, trong vườn tược, trong cửa nhà.
    Mẹ Thái cho tôi biết thêm rằng nàng học hành giỏi và tánh nết dịu dàng. Bà tỏ ra rất tán thành việc tôi đi hỏi nàng. Người đàn bà hiền lành muốn mọi việc đều thu xếp một cách hiền lành. Ý bà muốn tôi nói ngay rằng tôi yêu nàng lắm. Tôi nói:

    - Thím xem thử, cháu đi hỏi chị Vân thì bà tham có chịu không?

    Bà cười ngay:

    - Chắc chịu. Tôi làm mối cho.

    Tôi lại cười. Quả thật, tôi chưa có một quan niệm rõ rệt gì về tương lai của tôi, quả thật, tôi chưa định thu xếp cuộc đời của tôi như thế nào cả. Tôi còn phải sống vô định vì tôi chưa biết mình phải làm cuộc đời của mình như thế nào. Bảo Loan hiện còn ở Hà Nội hay tản cư về một vùng quê nào ở Hà Đông? Ngày tôi sắp lên tàu, nàng muốn khóc mà không thể khóc được, muốn nói mà không biết nói sao. Ngồi giữa gia đình, chúng tôi chỉ nhìn nhau im lặng. Trong cái nhìn ấy, tôi thấy như nàng muốn nhủ tôi nhớ ngày về và đợi cho tới cái ngày về. Tôi cũng trả lời và nhủ lại như thế bằng mắt nhìn. Bảo Loan yêu tôi, trong sạch và tin tưởng bằng mối tình đầu của nàng. Cho đến ngày chia tay, nàng chưa hơn 17 xuân xanh. Trong khi thế sự chưa rõ như thế nào, tôi không có quyền dứt tình trước. Suốt trong buổi nói chuyện, nghĩ đến Vân là tôi thấy Bảo Loan. Tôi thấy tôi bối rối. Mặc dù cái không khí êm đềm do Vân mang lại cho tôi lúc ấy. Tôi vẫn cảm thấy là rất hiền hòa, tươi mát. Tôi không thể nghĩ ngợi gì cho sâu sắc hơn. Tôi giã từ mẹ Thái vui vẻ một cách thành thực.

    - Thím nhớ làm mối dùm cho cháu? Cháu thế nào cũng đi hỏi cưới chị Vân.

    Những ngày tiếp theo, tôi hay nghĩ đến Vân. Tôi có đủ thì giờ để nghĩ đến nàng vì lúc ấy tôi không phải làm một việc gì cả. Tôi nghĩ vẩn vơ, chắp nối những hình ảnh êm đềm trong ấy có nàng sống cạnh bên tôi. Tôi nghĩ đến một đôi vợ chồng trẻ đi ô-tô về Sông Cầu thăm quê ngoại. Tôi tưởng tượng thấy từng quãng đường ô-tô sẽ đi qua, nào đường phố Thoại chạy ra chân núi Đá Trắng, dài và thẳng, lát toàn đá trắng, nào đèo Dốc Găng xe phải nhấn ga ba bận mới leo nổi con đường dốc đứng dựng ngược như lên trời. Nào dốc đường uốn cong hình chữ S bẻ trẹo người, ngồi trên xe thấy thành phố Sông Cầu nằm dưới chân núi ẩn dưới dừa xanh và thân ái tiếp nước bể xanh! Tôi nghĩ đến Vân để ru lòng mình. Tôi yêu nàng như yêu một bóng hình nào trong tiểu thuyết. Vân đối với tôi còn xa quá. Nàng ở tận Sông Cầu! Mấy khi nàng vào Tuy An để thăm dì nàng? Vào Tuy An tôi còn không biết tìm dịp nào để gặp nàng, để kết thân với nàng, huống chi là ở tận Sông Cầu xa cách! Tính tôi vừa hay e dè, vừa lại không chịu khó. Tình thì chỉ nhàn nhạt, thanh thanh. Tìm mọi dịp để gặp một người, yêu nồng nàn say đắm một người là điều tôi chưa hề làm và chắc là suốt đời tôi không bao giờ làm. Như vậy tôi linh cảm Vân chỉ là một cái bóng đẹp đi qua thôi. Không chắc có một dịp nào để chúng tôi yêu nhau. Tôi tự hỏi sao không có một ai đứng ra giúp chúng tôi kết chặt mối thương yêu. Nhưng tôi lại tự hỏi thế tôi có chắc chắn rằng mối thương yêu đó là điều sở vọng suốt đời của tôi chăng? Tôi không tin tôi nữa, tôi lẫn lộn quá khứ với hiện tại, tôi ngờ vực tương lai. Tôi trở nên rụt rè. Tôi đặt Vân vào địa vị cũ của nàng: “Một bóng đẹp đi qua, còn lưu hương lại”.

    Chừng nửa tháng sau.

    Có một buổi mai, người phu trạm ghé đưa cho tôi một bưu kiện. Không thấy ghi địa chỉ người gởi, nhưng nhìn nét chữ tôi biết là của Bảo Loan. Từ ngày xa cách, chưa bao giờ Bảo Loan viết thư cho tôi. Kể cả từ ngày yêu nhau, Bảo Loan cũng chưa bao giờ viết một mảnh thư nào cho tôi cả. Bảo Loan ngây thơ, nàng cầm tay tôi, nàng ôm mặt khóc, nàng thề yêu tôi suốt đời… mọi biểu hiện tình yêu đều chân thực và hồn nhiên như lá cây đong đưa theo gió, như chùm hoa rực rỡ đầu cành.

    Tôi lần xé phong bì.

    Đó là quyển Bướm Trắng của Nhất Linh. Không phải sách mới, Bảo Loan mua tặng, mà là quyển sách cũ tôi mua từ năm ngoái vẫn xếp trong rương sách. Lúc tản cư về quê, bao nhiêu va-ly, rương sách, chăn màn và một số quần áo tôi đều gởi lại hết.

    Cầm lên quyển sách, tôi tự hỏi vì sao Bảo Loan lại gởi cho tôi. Bình thường, dù sách hay báo, nàng cũng đều chọn thứ mới xuất bản để gởi. Một cách để báo tin là nàng vẫn khỏe mạnh và đang nghĩ đến tôi.

    - Hay là nàng tự ví lòng nàng như lòng yêu của Thu, yêu đau đớn và thấy cái thú được đau đớn khi yêu?

    - Hay là nàng muốn dặn mình đừng chán nản đau khổ như anh chàng Trương, đừng quá suy nghĩ…

    - Hay là…

    Tôi đang sắp sửa đưa ra một chuỗi “Hay là…” nữa thì có tiếng chó sủa ngoài hiên. Nhìn ra thì, ngạc nhiên chưa, Vân và mẹ Thái lững thững đi vào.

    Em gái tôi tiếp ở phòng khách, tôi không bị quấy rầy. Chắc em tôi đã trả lời theo thường lệ:

    - Dạ anh tôi vừa mới chạy đâu đấy thì phải…

    Chúng tôi đã giao hẹn trước với nhau: có ai hỏi tôi thì em cứ trả lời vu vơ một mực như trên. Nếu là khách tôi muốn nói chuyện thì tôi ra tiếp, đồng thời giải thích sự mâu thuẫn vừa rồi một cách tự nhiên:

    - Vừa chạy sang hàng xóm có tí việc. Về rồi mà em tôi nó tưởng chưa. Xin lỗi ông…

    Như vậy, đỡ bị quấy rầy vì những ông khách nhàn nhã. Nhưng khách hôm nay là cô Vân, tôi muốn ra tiếp lắm. Nhưng tự nhiên bỗng thấy rụt rè. Tôi đã lén nghĩ về Vân, đã có những tưởng tượng không đoan trang về nàng. Nếu tôi chìa mặt ra chào thì thế nào mẹ Thái và Vân cũng đọc được những ý nghĩ thầm kín của tôi. Không, ngượng lắm, tôi không thể ra tiếp được.

    Óc đang bối rối, tôi mở quyển Bướm Trắng đưa mắt nhìn đọc:

    “…Trương hiểu ý:

    - Em không sợ, anh không dám xúc phạm đến em, anh chỉ xin em cho phép anh cầm lấy bàn tay em một lúc, một lúc thôi



    Thu vẫn để yên chiếc khăn tay che miệng, nàng như người bị thôi miên, thong thả giơ bàn tay phải cho ra cho Trương nắm lấy. Trương nắm rất nhẹ lấy bàn tay Thu, bàn tay mà trước kia chàng chỉ nhìn trộm trên nền chăn trắng”.



    A, đây rồi, tôi nhớ lại rồi, anh chàng Trương băn khoăn đau khổ của tôi, sống không hy vọng, yêu trong tuyệt vọng, tìm quên và tự dối mình. Tôi lại đọc tiếp:

    “Thu khẽ nói:

    - Thôi, em đi về thôi.

    Khi Thu đi ngang qua, chàng đã toan cầm lấy tay một lần nữa rồi hôn Thu, nhưng chàng cố giữ được. Chàng nói:

    - Em cho anh xin chiếc khăn tay của em.

    Thu không đưa truyền tay chiếc khăn cho Trương, nàng đặt vội chiếc khăn trên mặt ghế rồi ra đi.



    Nghĩ đến chiếc khăn của Thu, Trương với cầm lấy vò nát trong hai bàn tay rồi đưa lên miệng. Chàng vừa cắn mạnh vào chiếc khăn vừa thầm nói với Thu, rưng rưng muốn khóc:

    - Em Thu, em còn yêu anh làm gì. Khổ anh lắm”.

    Đau xót như thế sao? Thật có khác chi mối tình đau xót của tôi?

    Tôi lại mải mê đọc tiếp.

    Một lát sau, có tiếng guốc dép va xuống nền gạch, tiếng nón lá chạm lộp cộp vào vách. Tôi biết rằng khách ra về. Tôi lại đứng ở khung cửa sổ nhìn ra. Mẹ Thái và em tôi đi trước. Vân nhẹ nhàng đi sau. Đến đầu cổng, nàng quay đầu đảo nhìn một vòng qua sân, qua hiên. Ánh nắng tràn chiếm lấy mặt nàng, khiến cho vẻ mặt sáng rỡ lên. Nàng nhíu một mắt như nũng nịu với ai. Tôi say sưa nhìn theo gót chân uyển chuyển lòng vụt xôn xao, rào rạt như đang nghe tiếng nhạc trổi vang lúc đèn chiếu bóng bật sáng, phim vừa dứt. Tự nhiên háo hức, tôi khe khẽ hát lại điệu hát quen thuộc tôi thường hát ba năm trước:



    Điệp khúc đẹp nhất của cuộc đời

    Là điệp khúc ta hát lúc hai mươi tuổi

    Là điệp khúc ta không bao giờ quên

    Vì cuộc đời chỉ có một mùa xuân.

    Từ đó, tôi thường đến chơi nhà Thái hơn, mong vẩn vơ rằng sẽ gặp lại nàng ở nhà Thái. Nhưng nàng không thấy đến. Lần nào tôi cũng nói chuyện về nàng. Mẹ Thái bao giờ cũng khuyến khích tôi đi hỏi nàng ngay, còn tôi thì chỉ nói và dự định.

    Một hôm, mẹ Thái cho tôi hay rằng bà Tham Quế có ý định muốn gả nàng cho một cậu lục sự Tòa án Phú Yên. Cậu lục sự trẻ, nhà giàu, quê ở Nha Trang. Nghe đến đây tôi thấy như nàng đã là vợ của cậu lục sự ấy rồi. Một lục sự Tòa án là cả một danh vọng đối với người đàn bà như bà Tham. Ngoài danh vọng ra, còn có sự giàu có. Trẻ tuổi là để dành phần Vân. Tôi thấy đã đủ cả rồi. Thấy Vân đã là vợ của cậu lục sự ấy rồi. Tôi hỏi:

    - Thế ý chị Vân thế nào, hở thím?

    - Nghe nói nó không bằng lòng. Nó không thích anh Nhã - tên cậu lục sự, mà anh Nhã thì yêu nó lắm.

    - Thế còn bà Tham?

    - Bà Tham thì muốn gả. Bà cố ép. Bà rất chiều chuộng anh Nhã. Nó thì tỏ hẳn là không thích. Mỗi lần anh Nhã đến nhà thăm là nó bỏ đi chơi hoặc gắt đứa ở, rầy la em, làm phiền trong nhà.

    - Nhưng anh Nhã nhất định không vì thế mà thôi yêu chị?

    - Anh có biết anh Nhã?

    - Dạ không, đó là cháu đoán vậy thôi.

    Im một hồi, mẹ Thái tiếp:

    - Anh không hỏi ngay thì mất.

    Tôi cười.

    - Nhưng bà Tham có gả cho cháu đâu?

    Mẹ Thái định nói gì, nhưng nghĩ sao lại thôi.

    Suốt ngày hôm đó, tôi cứ loay hoay về việc Vân. Nàng sắp đi lấy chồng rồi. Vội vã lấy chồng sao? Tôi lo nghĩ quá, miên man nghĩ đến việc tương lai của tôi.

    Từ ngày yêu Bảo Loan, tôi chưa dám chắc chắn rằng một ngày kia thế nào chúng tôi cũng lấy nhau. Tôi thấy tôi chỉ lấy được nàng khi nào tôi có một địa vị rực rỡ giữa xã hội. Không phải rằng nàng tham danh vọng. Cũng không phải rằng ông bà Vũ, thầy mẹ nàng bắt buộc. Nàng thành thật yêu tôi và thường tỏ ý muốn cùng tôi sống giữa quê nhà. Nhưng tôi không thể không nghĩ đến tuổi trẻ của nàng. Nàng có thể sau này thấy các bạn bè sung sướng sang trọng mà thay dần ý nghĩ, như vậy rất có hại cho sự sống yên vui. Tôi không thể không nghĩ đến đại gia đình của nàng. Gia đình có nhiều cánh sang trọng, xa hoa, nếu tôi không sang trọng xa hoa bằng thì tôi làm sao chịu được? Mặc dù Bảo Loan yêu tôi và chỉ muốn lấy tôi, mặc dù thầy mẹ Bảo Loan đã xem tôi như con, tôi cảm thấy là phải có điều kiện mới lấy nàng được. Bảo Loan nói lấy nhau rồi về quê tôi mà ở, nhưng Bảo Loan, nàng liệu có thể ở được không? Nàng còn trẻ non thế kia, công việc ở quê nhà không thành thạo, tính không thể chịu khó, như vậy sống sao được giữa quê nhà. Nghĩ rằng nàng sẽ vụng về, nàng sẽ bỡ ngỡ, sẽ khó chịu với những công việc, với cái hoàn cảnh lạ mà nàng phải sống, tôi thấy tôi không thể lấy nàng được. Nàng quả khó mà tìm được hạnh phúc với tôi. Cuộc du học dự định đã chắc chắn là không thành, mối hy vọng về tương lai đã chắc chắn là không đạt được, giữa tôi và Bảo Loan đã có một hố xa cách. Hiện nay đường giao thông lại bị nghẽn, sự đi lại bất tiện, cuộc thế giới chiến tranh chưa biết đến bao giờ mới dứt. Tôi thấy tôi càng ngày càng xa dần Bảo Loan của tôi.

    Trong khi ấy thì tôi càng ngày đi dần đến sự quyết định phải lập gia đình. Bấy lâu nay lấy cớ còn đi học, tôi đã đẩy lùi sự quyết định, nhưng nay thì không còn cớ gì nữa rồi. Tôi phải nghiêm chỉnh nghĩ đến việc lập thân, nghĩ đến một cách rất thiết thực, trong cái cảnh huống thất bại hiện tại của tôi. Tôi phải trở lại sống êm đềm, hiền hòa trong một nơi nào của quê nhà, với một người vợ hiền thảo, dịu dàng, coi sóc mươi mẫu ruộng, dăm sào vườn. Vui vẻ cùng vườn ruộng là cái kế cuối cùng của tôi. Tôi thoảng nhớ đến cuốn tiểu thuyết LA MAISON của Henry Bordeaux đến CON ĐƯỜNG SÁNG của Hoàng Đạo. Tôi nhớ đến tâm trạng của vai chính trong hai chuyện ấy, cái tâm trạng gần giống tâm trạng tôi hiện tại. Nhưng cô Thơ của tôi là ai? Tìm người bạn tri kỷ hiểu mình ở giữa quê nhà là điều khó. Người hiểu mình ấy phải gồm có cả dáng điệu thanh lịch và tính hạnh thuần mỹ, như vậy càng khó tìm hơn. Tôi tiên cảm một cách lo lắng rằng không bao giờ có cả.

    Vụt nhiên, tôi gặp Vân. Tôi không bao giờ ngờ rằng có một người như thế giữa quê nhà khô khan, không thể ngờ rằng tôi gặp được nàng giữa lúc hoàn cảnh tôi đang cần một người như nàng. Vân thích ứng hoàn toàn với mọi điều sở vọng của tôi. Nhà nàng có nề nếp, nàng khéo léo và chăm chỉ, quán xuyến mọi việc trong nhà. Nàng có học, có thể hiểu những ý tôi nghĩ, những điều tôi làm. Nàng thanh lịch và dịu dàng, nàng là người độc nhất tôi có thể yêu, có thể cưới trong hoàn cảnh hiện tại. Nàng có thể đem lại cho tôi mối hạnh phúc đơn giản mà tôi còn có thể mong mỏi sau những đổ vỡ, thất bại. Chỉ có nàng, chỉ có thể là nàng, tôi đã xét rõ, đã nhận rõ như thế rồi.

    Nhưng cưới Vân? Phải cưới nàng ngay? Phải quyết định một việc quan trọng cho suốt cả cuộc đời? Trong khi tôi chưa có thì giờ để quen nàng. Để hiểu nàng. Để yêu nàng. Không, tôi phải tìm hiểu nàng để quyết định một điều quan trọng. Tôi phải gặp nàng, phải hỏi ý kiến nàng. Nhưng lạ kìa, sao tôi càng thúc giục tôi đi đến sự quyết định chừng nào thì lòng tôi càng như muốn lưỡng lự chừng ấy. Tôi có tin chắc rằng hy vọng của tôi đến đây là cùng không? Tôi có nhất quyết rằng Bảo Loan đến đây là đã chia rẽ cùng tôi không? Tôi không muốn nghĩ vậy, tôi sợ cái ý nghĩ đau đớn ấy. Dù rằng tôi đã lo nghĩ và buồn phiền nhiều về việc chung thân của tôi và Bảo Loan, tôi cũng muốn bấu víu vào cái ý nghĩ êm đềm rằng chúng tôi chưa hẳn là tuyệt vọng. Nhưng tôi lại không thể không nghĩ đến Vân bởi đã đến lúc phải nhìn vào sự thật. Tôi chỉ có thể tìm ở nàng, người vợ thích hợp nhất trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi phải gấp tìm hiểu nàng, chung chia ý kiến cùng nàng. Tôi phải gặp nàng và yêu nàng. Sợ lại phải cố gạt bỏ cái ý nghĩ ấy để không nỡ quên Bảo Loan, không muốn quên Bảo Loan, tôi đứng dậy đi ra ngoài trời. Tôi nhìn lên trời rộng và cao. Tôi nói thầm trong thâm tâm tôi:

    “Cô Vân ơi! Cô vào Tuy An đi để tôi có dịp gặp cô và hiểu cô. Để cô yêu tôi và tôi yêu cô, để chúng ta kết thành một đôi vợ chồng xứng đôi, đẹp lứa”.

    Vân không vào Tuy An bao giờ cả.

    Nửa tháng sau, vụt nghe tin nàng đã đi lấy chồng. Mẹ Thái nói:

    - Cả nhà không ai chịu cả, không ai nỡ ép. Chỉ một mình bà Tham quyết định. Hôm nay thì lễ cưới xong rồi.

    Tôi bàng hoàng. Vân lấy chồng nhanh như vậy sao? Trong lòng tôi, tôi muốn nói một câu gì, muốn nói một điều gì, phải nói cho hả một ý nghĩ gì đang quay cuồng trong óc, đang vươn lên chặn lấy cổ họng. Tôi nói:

    - Vân đi lấy chồng rồi. Ừ, Vân vậy mà đã lấy chồng rồi.

    Nói xong, tôi không hiểu tại sao tôi lại nói chi vậy, nói vậy để làm gì, nói vậy có ý nghĩa gì. Câu nói rơi vào cái im lặng của ngoại cảnh, và cái trống không của lòng tôi. Vì lòng tôi lúc ấy tự nhiên bỗng trống không một cách tiêu điều lạ. Tôi thấy mình thiếu quá, trơ trọi quá, tôi không biết mình đang cần một sự đầm ấm gì và mình đã làm mất một cái gì. Có cái gì bỗng nhiên thiếu mất trong tôi.

    Thấy tôi lặng im đột ngột, mẹ Thái nhìn tôi giây lâu rồi tiếp:

    - Vân hay nói đến anh, làm bà Tham tưởng rằng hai người đã quen nhau lắm. Vân nói với người này người nọ về anh. Hình như anh có viết thư từ gì cho Vân?

    Tôi trả lời ngay :

    - Không có gì hết. Cháu chỉ gặp Vân một lần ở ngay nhà thím…

    - Anh Nhã như cũng có biết việc này, việc Vân biết anh.

    Tôi mỉm cười:

    - Có biết hay không thì cũng… vô ích. Vì chẳng có gì hết.

    Tôi đổi câu chuyện, không muốn nói về Vân nữa vì quả thật tôi không biết mình nói gì. Sau một hồi ba hoa về việc này, việc nọ, tôi cáo từ mẹ Thái ra về. Tôi để dành việc Vân cho riêng tôi, tôi phải một mình nghĩ ngợi về nàng.

    Vân đi lấy chồng rồi.

    Tôi gợi lên hình ảnh của nàng. Tôi thấy ngay màu áo hồng nhạt, đôi vai nhỏ và mái tóc cặp lửng lơ bỏ trễ bên vai. Tôi nhìn lên mặt nàng nhưng không thấy một nét rõ ràng nào cả. Tôi ái ngại nói trong lòng:

    - Ta cùng nàng còn chưa rõ mặt.

    Ý nghĩ này làm tôi thêm buồn. Tôi tưởng tượng hiện giờ nàng như thế nào. Tôi thấy nàng trong vô cùng hình ảnh lộn xộn, thấy nàng quay cuồng trong một hoàn cảnh gì rối loạn, buồn não, trong ấy có một ngôi nhà cổ cột to và nặng, có những bàn thờ đầy ắp vẻ nghiêm trang, có những người bằng lòng, vui vẻ hời hợt đến vô tư. Tôi bắt chợt gặp ngay hai chữ “Gia phong” và hả lòng thấy rằng, chữ ấy diễn tả đúng cái cảm giác lạnh và nặng mà tôi đang cảm về nàng, về cái hoàn cảnh của nàng.

    Tôi không biết mình phải buồn như thế nào, không biết mình đang nghĩ gì và nghĩ như thế nào, mà chỉ thấy là tôi buồn một cách ngẩn ngơ. Nhưng tôi lại tự nhủ ngay: “Xong rồi, việc ấy đã xong rồi”

    Tôi tìm cách tự khuyên mình. Tôi có chắc sẽ đi cưới Vân đâu? Tôi có điều kiện gì để đi cưới nàng? Tôi chưa làm một công việc gì để sống tự lập cả, tôi còn là một người học trò sống ghép theo gia đình. Như vậy thì tôi cưới nàng làm sao được? Cưới nàng thì tôi có cách gì để tạo hạnh phúc cho nàng? Tôi không có gì hết. Chồng Vân hơn tôi, đủ điều kiện hơn tôi. Anh ta làm ông lục sự, nghĩa là đã chắc chắn một cuộc sống đầy đủ trong một căn nhà riêng biệt thuê tại tỉnh. Hai người có thể hợp sức lại mà gây dựng, hai gia đình chung sức lại mà gầy dựng cho đôi vợ chồng son. Nhà Nhã giàu, nghe nói vậy. Bà Tham thì chiều chàng rể. Cái hạnh phúc phải có, nó đang chờ để ấp ủ hai tâm hồn đang rủ rỉ cạnh nhau. Hạnh phúc ấy đáng lẽ là của tôi. Nhưng tôi vội lắc đầu không muốn nghĩ tiếp. Tôi muốn tưởng tượng cho thấy Nhã dễ tưởng tượng thêm rằng hai bạn trẻ hiện đang làm gì. Tôi không thể tưởng tượng được. Vì tôi chưa hề biết Nhã. Tôi cảm thấy xa xôi rằng không biết mặt Nhã cũng đỡ nhiều cho sự đau đớn của tôi vì nó đã tránh được cho tôi những sự tưởng tượng tàn nhẫn.

    Tôi nhớ đến lời nói của mẹ Thái:

    - Vân buồn, khóc nhiều và nhiều lúc nói muốn chết!

    Tôi thương cho nàng, nhưng lại tự nhủ ngay: “Rồi nàng lại quên đi những việc ấy. Đám cưới nào cũng có xảy ra những việc tâm tình cay đắng. Cuộc đời dàn xếp tất cả. Mối buồn có bao giờ vĩnh viễn đâu”.

    Tôi lại bình tâm. Chợt tôi thấy lòng mình lành lạnh, nhàn nhạt: tôi thấy Vân không bao giờ là của tôi đã đành, tôi còn thấy rằng nàng sẽ vui vẻ sung sướng. Có khó chi? Nàng sẽ sinh con, sẽ làm một bà lục sự oai vệ để rồi làm một bà Tham tương lai, cũng tính toán, cũng thu xếp có nề nếp, khôn ngoan như mẹ nàng hiện tại. Tôi muốn quên nàng ngay. Muốn vậy, tôi nghĩ đến Bảo Loan. Bảo Loan hiện đang nghĩ đến tôi vào giờ này cũng nên. Bảo Loan cùng tôi còn có tương lai. Chúng tôi còn có thể yêu nhau mãi, lấy nhau được. Tại sao tôi lại thất vọng ngay? Không, tôi còn Bảo Loan của tôi. Chớ Vân… tôi lại nghĩ đến Vân, rồi lại trở về cái ý nghĩ êm đềm và chua xót. Tôi thấy tôi mất Vân, điều này vô lý vì nàng có phải của tôi đâu mà gọi rằng mất, nhưng sao, tôi cứ cảm chân thật rằng tôi đã mất nàng, đã mất một niềm hạnh phúc, một người vợ xứng đáng với hoàn cảnh và tâm trạng của tôi hiện tại. Tôi lo cho ngày mai hậu. Còn ai?

    Chợt nghĩ rằng Vân đi lấy chồng là một việc dĩ vãng, một việc nhất định, rằng tôi có nghĩ đến nữa cũng không có ích gì, tôi lắc đầu, lắc đầu: “Quên đi”. Tôi nói trong óc tôi rằng: “Quên đi. Quên Vân đi”. Nhưng cùng trong lúc ấy, tôi cảm rằng còn nằm lại, nép chặt cái ý nghĩ man mác: “nhưng quên Vân… buồn lắm”.

    Tôi khó mà quên Vân thật, nhất là trong lúc ấy tôi không phải bận bịu về một công việc gì cả. Thỉnh thoảng dì nàng lại nói chuyện nàng với tôi, và tôi cứ mê mải nghe chuyện nàng để thoang thoáng biết rằng nàng đã yêu tôi thật. Tôi muốn tìm gặp nàng một lần ở một nơi nào, nhưng không có dịp nào cả. Tôi muốn ra Sông Cầu để gặp mặt nàng, nhưng rồi tôi lại không đi. Đôi khi, tôi lại tự hỏi: “Thế tôi có chắc chắn rằng nàng đã yêu tôi thật không?”. Cứ như thế, tôi sống trong những ý nghĩ tương phản với một mục đích vô định kèm theo những bất an về chính trị, những dày vò về thân phận. Tôi không biết phải đợi một cái gì sẽ đến cho đời mình. Tôi để ý xét từng mảnh tâm trạng của tôi, tôi ghi những tâm trạng phức tạp đó dưới dạng những trang nhật ký. Tránh chữ “Nhật ký” quá nhàm tôi pha thêm một chút mơ mộng để gọi đó là tập NGÔI SAO NHỎ.

    Sau ngày đảo chánh 9-3-45, tôi ra nhà thương Sông Cầu dưỡng bệnh. Bệnh không nặng, nhưng cứ đi. Thường chỉ vào giờ khám bệnh và tiêm thuốc, tôi mới ở nhà thương, còn ngoài ra, tôi đi chơi ở các nhà quen. Lâu lắm mới trở lại Sông Cầu thành ra yêu Sông Cầu quá! Yêu từ con đường nhỏ thanh tịnh có cây bàng xanh và hàng dãy cây keo cao tít. Yêu bãi bể Sông Cầu có những cây dừa cong cong, cây me đồ sộ, cây tra trái xanh vừa chát vừa chua. Sông Cầu đã ấp ủ ba năm ngây thơ của tôi, khi tôi còn là một cậu học trò bé nhỏ ngây thơ, học hai năm lớp Nhì và một năm lớp Nhất. Ở Sông Cầu, có những người tôi quen miệng gọi bằng cậu bằng mợ, bằng chú bác, bằng anh em.

    Ngoài những buổi chiều ngồi ở bãi biển một mình, tôi thường ở chơi nhà Huyền Đáng, lúc đó độ mười bốn tuổi, tôi xem như cô em nhỏ. Nhà Huyền Đáng ở trước mặt chợ, tôi thường ra đứng ở hiên xem chợ đông. Ngày nhỏ tôi đã ở dãy nhà đối diện cũng nhìn ra chợ, cũng đứng xem chợ đông. Bây giờ xem chợ là như xem lại một kỷ niệm êm đềm của ngày còn thơ.

    Trong những bóng áo tha thiết, tôi còn mong tìm thấy bóng áo của Vân. Nhưng bóng áo màu hồng, mình tìm mà không thấy. Nghĩ ra, mới biết là mình ngơ ngẩn thật. Một năm rồi có lẽ, bóng hồng còn đâu nữa mà tìm? Áo hồng đơn sơ ngày nào dễ thương nay đã rách rồi, đã quăng vào một xó nào trong tủ áo, trong rổ may. Vân đã thay bao nhiêu cái áo khác, màu đẹp hơn, hàng quý hơn, nàng đâu còn nhớ, còn giữ lại làm chi cái áo màu ngày xưa. Cũng như lòng nàng! Và cũng như tấm thân của nàng.

    Tôi không tìm thấy màu áo cố hữu, vừa lại phải nghĩ đến sự thật chua chát kia, lòng buồn mấy ngày hơn.

    Nhưng một buổi chiều, khi đi chợt đến góc đường nhà buôn Chấn Thạnh, bạn tôi chỉ một người mặc áo trắng đi từ ngã biển lên chợ, đi thoăn thoắt mà bảo khẽ tôi.

    - Chị Vân kia.

    Tôi thấy lạnh trong tim.

    Vân mặc áo trắng. Không kịp nghĩ ngợi xa xôi, tôi lại nhà Huyền Đáng, nhìn ra chợ. Bóng người áo trắng là Vân đi lượn qua chợ mấy vòng rồi mất hút. Không biết nàng có thấy tôi không. Chắc có thấy.

    Lúc lên đèn, tôi nói chuyện thân mật cùng Huyền Đáng:

    - Ngày xưa, đã có một lần anh suýt cưới cô Vân đấy Huyền Đáng ạ. Nhưng chưa kịp thì anh Nhã cưới trước mất. Không biết bây giờ cô Vân, à không, chị Vân có sung sướng lắm không? Giá hôm nào chị ấy lại nhà Huyền Đáng chơi thì anh sẽ nói rằng anh chúc chị sống thật vui vẻ. Chị ấy có quen với em?

    Huyền Đáng ngây thơ trả lời:

    - Có. Có quen.

    Nhưng Vân không đến nhà Huyền Đáng.

    Tôi trở lại Sông Cầu sống những ý nghĩ êm đềm về ngày thơ ấu, nhưng lại phải sống thêm những ý nghĩ chua xót của ngày thành niên. Tôi tự hẹn hôm nào thật khỏe, sẽ lên nhà bà Tham thăm. Thăm Nhân - anh Vân - vì tôi quen Nhân hồi còn nhỏ ở Sông Cầu này và sau này khi Nhân đi Hà Nội. Nhưng cũng là một dịp để bà Tham biết tôi là ai, tôi, người đã làm bà giận, dễ thường là ghét trong những ngày bà ép Vân lấy chồng, và nghi nàng đã yêu “phải” tôi.

    Tôi cũng muốn nhìn thấy mặt nàng nữa. Lạ thật! Biết rằng gặp cũng vô ích, việc đã xảy qua, ván đã ghép thành thuyền, thế mà cũng vẫn mong gặp!

    Điều dự định nhỏ nhoi, hiền lành ấy vẫn lại không thành. Bệnh tôi chưa lành hẳn thì có tin tôi cần đi Đà Lạt. Tôi không muốn đi, quyết định ở Sông Cầu, nhưng thầy thuốc khuyên rằng bệnh tôi ở khí hậu nóng khó chữa. Nếu đổi khí hậu thì không chữa cũng khỏi, mà khí hậu tốt nhất thì không đâu bằng Đà Lạt. Nghe lời khuyên, tôi mới thuận đi.

    Trước khi lên đường, tôi đến nhắn cùng Huyền Đáng:

    - Hôm nào gặp, em nói với Vân rằng anh tiếc chưa có dịp để gặp Vân. Nhưng mong Vân sẽ luôn luôn vui vẻ để sống bên cạnh người chồng mà mẹ Vân đã chọn cho Vân.

    Tôi căn dặn mãi để Huyền Đáng nhớ nhắc lại lời ấy cùng nàng.

    Một buổi chiều tôi lên ô-tô đi, xe từ thành chầm chậm chạy trên đường sỏi xuống phố. Hai bên đường là ruộng lúa. Tôi nhìn sang bên tay mặt. Nhà Vân ở trong vườn dừa xanh kia. Sau cái cống bằng gỗ sáo, qua bờ dậu bằng keo xanh xén thẳng, tôi tự hỏi không biết nàng đang làm gì, không biết nàng có ngờ rằng tôi đang nghĩ đến nàng mà từ giã nàng chăng?

    Những ngày ở Đà Lạt khiến tôi bớt nghĩ đến Vân. Tôi trở lại say mê với công việc và hứng thú của riêng mình. Cuộc sống đã theo một nhịp điệu khác.

    Một buổi chiều cuối tháng Năm, mưa giông vừa tạnh. Mặt trời hé nắng vàng vàng, không khí nhẹ và trong, mát rười rượi, kích thích đến tim óc. Tôi mở cửa ra ban công nhìn sang rừng thông. Tôi để ý nhìn những thân cây thông cao, vỏ nứt nẻ, cành sần sùi, cong quẹo một cách mỹ thuật không ngờ. Dưới chân cây, cỏ dại mọc dày, cao, lá thon thon vươn lên quá đầu gối. Thân cây đứng song song nhau, cành chìa dọc ngang, lá đan dày um tùm. Tôi nhìn ra xa hơn. Hồ Đà Lạt nằm im, mặt nước xanh phản chiếu đồi núi và rừng thông xanh. Màu xanh và sự im lặng, cảnh bao la của núi rừng và không khí mát mẻ như kim châm vào da, tất cả đã nhẹ nhàng đưa óc tôi liên tưởng đến phong cảnh xứ Phần Lan tôi đã nhiều lần tưởng tượng thấy qua trang sách mở. Vấn vương trên phong cảnh, tôi còn nghe phảng phất giọng nhạc của Jean Sibélius, người nhạc sĩ đã như hô hấp được cái hương vị của rừng thông âm u liên tiếp, của hồ nước lặng màu ngọc bích, của cảnh sắc đặc biệt xứ Phần Lan.

    Tôi đang mơ màng tưởng tượng thì chợt vang lên tiếng chim hoàng oanh hót. Tôi đưa mắt tìm xem chim đậu ở đâu. Mỗi lần nghe tiếng chim hoàng oanh là tôi phải nghĩ đến những cây bàng lá xanh mướt. Vòm trời xanh có mây trắng nhẹ như bông. Đà Lạt có chim hoàng oanh là điều tôi không bao giờ ngờ. Nhưng kìa, trên một cành thông gãy, có một chiếc hoàng oanh nhỏ đang mổ vỏ thông tìm mồi. Mổ nhanh nhanh một hồi rồi lại nhảy sang cành khác, hót véo von. Mình chim thon thon, lông mướt, màu vàng nghệ, thật hòa hợp với giọng hót ấm áp.

    Óc tôi vụt nhiên thấy êm ả lạ lùng: tôi nhớ đến Huyền Đáng. Lúc ở Sông Cầu, mỗi lần nghe Huyền Đáng nói tiếng Nhật Bản - tiếng “Masu và Desu” mỗi lần nhìn đôi môi của Huyền Đáng nói lên tiếng ấy là tôi nghĩ ngay đến con chim hoàng oanh. Nhiều lần rồi, tôi nhắc lại cái cảm tưởng đó:

    - Huyền Đáng ạ, đi đâu cho xa bao nhiêu… hễ nghe hoàng oanh hót là anh nhớ đến em liền.

    Hôm nay nghe hoàng oanh hót, tôi nhớ ngay đến Huyền Đáng thật. Tôi vào mở ngăn kéo tìm một món quà gì để gởi cho em. Tôi lấy tập bưu ảnh, ghi vào lưng tờ đầu: “Gởi em Huyền Đáng. Con chim hoàng oanh của anh” rồi ký tên.

    Từ nãy giờ nghĩ đến Huyền Đáng, nhưng trong lớp sâu thẳm của tâm tư, tôi có nghĩ đến Vân. Vì hoàng oanh nhắc Huyền Đáng, Huyền Đáng nhắc Sông Cầu và Sông Cầu nhắc tôi nhớ đến Vân. Huống chi, điều tôi nhờ Huyền Đáng nhắn thăm nàng hộ, biết Huyền Đáng đã nói chưa. Biết nàng đã rõ rằng tôi cũng yêu nàng như nàng đã yêu tôi chưa? Nhưng sợ lại phải trở lại những ý nghĩ tôi hằng nghĩ về nàng, tôi cầm bút lên viết thêm ở lưng tấm ảnh.

    - Em nhớ nói lời thăm chị Vân khỏe mạnh và vui vẻ hộ anh.

    Sự sống rộn rịp ở Đà Lạt quả đã xua tôi bớt nghĩ về Vân. Hơn nữa, tôi thấy có nghĩ cũng vô ích, nàng đã có chồng rồi. Lúc đầu nàng tỏ ra không thuận lấy Nhã, nhưng đã cưới nhau rồi, nghĩa là nàng đã thuận rồi. Huống chi, đã mấy tháng ăn ở cùng nhau, xấu hay tốt cũng đã thành quen, thành thuận. Thêm vào đó, sự rủi may không chừng đã tạo ra một đứa con. Nó trưởng thành để vài dăm tháng nó ra đời. Cây đã lỡ trồng xuống đất rồi thì càng ngày rễ càng đâm nhiều, càng bám chặt xuống đất. Tôi không nên, không có quyền nghĩ đến Vân nữa.

    Thỉnh thoảng một tuần hay nữa tháng, hoặc có việc hoặc không, tôi đi Phan Rang hoặc Phan Thiết, Djiring, Sài Gòn. Cách sống luôn luôn thay đổi thành ra thú vị, không chán. Lần cuối cùng đi Sài Gòn, vào khoảng tháng bảy, tôi ghé lại nhà hàng Charner mua sắm một ít đồ đạc. Lúc ra về, đi qua dãy tủ kính hàng lụa, chợt thấy một xấp lụa Bom Bay (1 ) màu hồng nhạt. Tôi nhớ ngay màu áo của Vân mặc hôm gặp tôi lần đầu. Tần ngần một lúc, tôi lại bảo cắt ba thước rồi vội vã ra xe. Ngồi lên xe, tôi tự hỏi không biết nên dùng ba thước lụa hồng ấy để làm gì.

    Ba thước lụa ấy, lúc về Đà Lạt, tôi xếp vào một góc va-ly. Khi Đà Lạt tản cư, tôi đi với chiếc va-ly ấy xuống Trạm Hành, Dran. Ngày Pháp tấn công, phá vỡ phòng tuyến, tràn ùa vào nội địa lâm viên thì tôi ở Cầu Đất đi thẳng Tháp Chàm, không đủ thì giờ dừng lại Dran trong năm phút để mang va-ly theo.

    Chiếc va-ly mất. Ba thước lụa hồng không biết về tay ai. Thành ra dù có tìm hỏi suốt đời, tôi cũng không thể hiểu được tôi đã mua ba thước lụa ấy định để làm gì.

    Tôi đã sống với lý trí. Tôi đã làm trọn cái bổn phận là không nghĩ đến Vân nữa. Trong tầm mắt nhìn, và tầm suy nghĩ của trí óc tôi lúc ấy, lẫn lộn quay cuồng nhiều hình bóng người, nhưng tuyệt nhiên không có hình bóng của Vân. Trang sách đã lật qua rồi. Bao nhiêu rạo rực đã lắng xuống. Tôi thong thả lật sang trang khác của đời tôi.

    Tháng 4 năm 1946, sau ngót nửa năm lận đận trong vùng chiến địa Lâm Viên - Ninh Thuận, tôi đáp ghe về Phú Yên. Ngày 11 tháng 6 năm 1947, tôi cưới vợ, vợ tôi là người bạn thân của tôi, người có cùng những ý nghĩ cảm xúc giống tôi, người đã cùng tôi chia xẻ những đau khổ hiểm nguy trên bước đường tản cư lận đận. Chiến tranh như đã một ngọn lốc thổi, nàng phiêu lưu trong một cuộc hành trình không định hướng.

    Mới như ngày hôm qua, phòng học sáng sủa của trường Couvent des Oiseaux còn vang tiếng gót giày của nàng. Cuộc đời êm đềm biết bao giữa những lời văn đẹp, những tưởng tượng uyên thâm của Descartes, Shakespeare hay César, giữa những đáp số của bài toán, những công thức của hóa học. Những giờ nhãn rỗi, nàng cho trôi theo điệu nhạc cổ điển, những bản thánh ca, trên chiếc dương cầm mà nàng âu yếm như một người em.

    Thế rồi Nhật đảo chính, trường học đóng cửa.

    Thế rồi cuộc Cách mạng Tháng 8 bùng nổ, cuộc chiến tranh trường kỳ bắt đầu. Đà Lạt bị phong tỏa, Đà Lạt phải tản cư, gia đình nàng cũng bắt đầu phân tán, người già được ở lại, người trẻ phải ra đi. Ban đầu ra đi là cái thú, cái thú được nếm chút ít gian khổ, hiểm nguy, cái thú của người ngồi mãi trong ô-tô muốn được đi bộ, của người phải mang giày cả ngày được đi chân đất, thong thả, nhẹ nhõm trong mười phút đầu. Cũng y như thế, trong vài tháng đầu chiến tranh đã quyến rũ mọi người như một tình nhân mới. Quả thật, chiến tranh có đem lại cho người ta cái thú vị say sưa, người nhỏ thì thấy mình bỗng lớn hẳn lên, người lớn tuổi thấy mình trẻ lại. Những bộ quân phục gabardine màu phân ngựa, những đôi ghết đen quá rộng hoặc quá dài, những thanh gươm Nhật đẹp nhưng vô ích và hơi vướng, những khẩu súng lục lủng lẳng ngang sườn… đó là hình ảnh quen thuộc trong những ngày ấu trĩ của chiến tranh. Giữa màu xanh, giữa màu đen nghiêm nghị và đầy sát khí ấy, len lỏi màu trắng của những chiếc áo blouse (2 ) của những chiếc mũ vải trắng điểm tươi một chữ thập đỏ. Chàng chỉ huy mặt trận, nàng băng bó thương binh, thật còn sự hòa hợp nào bằng? Còn lý tưởng nào hơn nữa? Tình yêu cổ điển - vì còn gì cổ điển hơn sự sống và tình yêu - được tinh thần mạo hiểm và lòng hy sinh tô điểm thêm, đã như men rượu mạnh làm say mọi người. Với một số học sinh bấy lâu học hiểu văn minh Hy La kỹ hơn lịch sử cuộc Nam tiến, với một số lớn thanh niên, trung niên bấy lâu coi tình yêu và tiền bạc là mục đích của cuộc đời thì chiến tranh lần này đã mở những cánh cửa mới cho căn phòng tù hãm mà bấy lâu nay đôi mắt họ đã phải quen nhìn. Đối với một số khác, lòng yêu nước trở thành một món trang sức hợp thời và giá rẻ.

    Tội nghiệp cho người bạn gái của tôi!

    Chiến tranh càng kéo dài, nàng càng đi xa dần, xa dần thành phố Đà Lạt thân yêu của nàng. Hết hy vọng trở về cuộc sống êm đềm với gia đình, nàng phải phó thân cho số mệnh. Một mình bơ vơ giữa súng đạn, nàng vẫn cam chịu đựng, vừa tìm mọi lẽ để vui sống. Nhưng dù can đảm, vui sống, nàng cũng đau đớn lòng thấy rằng những mối hy vọng tương lai của mình đã bị chiến tranh tàn phá mất rồi.

    Có khác chi tôi?

    Sau mấy đêm trắng suy nghĩ cân nhắc, tôi quyết định cưới nàng.

    Không phải trong những hồi trằn trọc, tôi không nghĩ đến Bảo Loan. Không, tôi đã nghĩ đến Bảo Loan nhiều lắm. Cho đến ngày chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, tôi còn viết thư được cho Bảo Loan. Những ngày ở Đà Lạt, cuộc đời tươi lại, tôi đã chuẩn bị một cuộc viễn du ra Hà Nội để xin thầy mẹ Bảo Loan cho cưới. Tôi giấu không cho Bảo Loan biết dự định ấy để dành cho nàng một sự bất ngờ êm đềm. Nhưng thời cuộc lại diễn biến tới tấp, bao nhiêu biến cố lại liên tiếp xảy ra. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, cuộc chiến tranh bộ phận kéo dài, cắt đứt con đường giao thông Nam Bắc. Thư từ không đến tay chúng tôi nữa. Cuộc sống bị xáo trộn nhiều hơn trước nữa. Những sự suy nghĩ, buồn phiền lại trở lại dày vò tôi.

    Không! Tôi đã nghĩ đến Bảo Loan nhiều lắm!

    Bảo Loan là đối tượng quan trọng trong sự cân nhắc cuối cùng của tôi. Trên bàn cờ giữa giờ chung cuộc, Bảo Loan là con xe, con pháo quyết định. Nhưng tôi phải đau đớn mà phụ lòng Bảo Loan thôi vì trong tình thế hiện tại tôi không thể nào tạo hạnh phúc cho Bảo Loan được, tạo thứ hạnh phúc mà Bảo Loan đang cần. Tôi đành phụ lòng Bảo Loan vậy!

    Tâm hồn tôi đã yên ổn trong nếp sống hiền hòa. Cùng vợ tôi, tôi đã đóng hẹp lại cái khung hy vọng của đời chúng tôi. Chúng tôi đã xây lưng lại Dĩ Vãng.

    Chừng nửa năm sau, khi đã chan hòa cuộc sống của mình vào nhịp sống chung của mọi người xung quanh, tôi lần lượt được nghe những tin tức về Vân. Tin do bạn gái hoặc bạn trai, người lạ hoặc người quen nói mà tin nào cũng không làm cho tôi vui lòng. Tin Vân và chồng không thuận nhau. Tin Nhã về Nha Trang. Tin Vân được người này yêu, người kia yêu. Tin Vân yêu người này, người nọ, người kia. Tôi không biết có nên tin hẳn những tin ấy không, nhưng dù không biết, tôi cũng cứ giận sao nàng lại có những hành vi như vậy. Tôi ghét nàng. Tôi không muốn nghĩ đến nàng nữa.

    Có một buổi chiều ở trường Lục quân Trung học Ngân Sơn ra, tôi gặp Vân đi cùng hai bạn gái, gặp mà tôi không biết vì tôi không nhớ mặt nàng. Lúc về trường, bạn cũ của tôi, anh Đông nói cho tôi biết rằng người đi qua trường lúc nãy là Vân. Tôi nghe nói tên Vân, nhớ lại rằng mình vừa gặp, mà lòng buồn buồn. Tôi nhớ buổi gặp nàng, những điều dự định của tôi đối với nàng. Tôi nhớ lại ngày hôm nay tôi đã có vợ rồi, tôi với nàng thành ra ngày càng xa, xa xôi đến nỗi gặp nhau mà không hề nhớ mặt.

    Cuối thu, có những ngày gió lạnh và trời xám. Tôi bỗng thấy bâng khuâng nhớ nhung. Tôi nhớ bài “Cảm tưởng thu” của Anatole France tôi đã học năm thứ hai, thứ ba, tôi còn nghe lại cả tiếng hạt mưa rơi đập vào cửa kính, còn thấy lại cả trận lá vàng rụng trên mình các ngôi tượng trắng. Tôi nhớ Anatole France, nhớ chuyện Clémentine ông viết về người yêu xưa bỏ ông để lấy một chủ nhà băng giàu có. Còn ông tóc bạc dính sát mái đầu, ngày ngày lục lọi xếp đặt sách vở trong thư viện lạnh lẽo, không vợ con. Một đêm tối trời, ông nhìn lên các ngôi sao nhớ nàng Clémentine và chúc cho nàng sung sướng bên chồng bên con. Tôi yêu câu chuyện này và muốn viết một truyện như vậy. Nhưng Clémentine của tôi là ai? Tôi soát lại xem mình có mối tình nào tương tự như thế không. Tôi đắn đo, e dè. Không có sách để xem lại, tôi moi óc cố nhớ, nhưng càng cố nhớ tôi lại càng lẫn lộn hơn. Tôi nói cùng vợ tôi:

    - Em đã đọc Clémentine rồi?

    - Rồi.

    - Ý em thế nào?

    - Chắc cũng như ý anh. Anh thích lối viết của Anatole France, em cũng vậy. Theo em, Anatole France là Chopin trong văn và Chopin là Anatole France trong nhạc.

    Ngẫm nghĩ giây lâu, tôi tiếp:

    - Mấy ngày nay, anh bỗng nhiên nhớ đến chuyện Clémentine quá. Anh phải viết ngay một chuyện tương tự. Nhưng nghĩ mãi chưa ra. Tuy chưa ra nhưng rồi cũng phải ra. Em giúp ý cho anh đi!

    Vợ tôi mỉm cười. Một lát sau, nàng chậm rãi nói:

    - Phải đấy, anh gắng viết đi. Viết được có lẽ anh sẽ vui…

    Đến đây, nàng ngần ngừ một giây:

    - Tính anh nhút nhát lắm, không dám nhìn thẳng vào thực tế của cuộc đời mà chỉ thích sống tưởng tượng. Anh xem, anh còn thua em xa… Nhưng thôi, chẳng sao, anh cứ viết đi. Có lẽ sống êm đềm với những nhân vật của anh, anh sẽ vui hơn.

    Nàng nhìn lơ đãng ra sân rồi nghẹn ngào tiếp:

    - Một năm nay, em thấy anh hơi buồn, hay cáu, dễ nóng giận. Hồi ở Đà Lạt, gặp em, anh đâu có như vậy. Anh vui vẻ pha trò với chúng em. Em nhớ, em yêu đôi bàn tay anh trắng, với những ngón thon… Bây giờ, bây giờ ngón tay nổi gân, trán hay nhăn lại… Em thương hại anh…

    Nàng bỗng giật mạnh hai bàn tay tôi, úp mặt vào khóc thổn thức. Tôi vỗ vai nàng dỗ:

    - Kìa! Em mới chính là người đáng thương hại, chính em mới là người bỗng dưng đến chia cái khổ của anh. Em có nhiều tương lai hơn anh, thế mà…

    Nàng ngẩng mặt lên:

    - Nói bậy! Anh nói bậy! Em đâu có khổ?

    Và nàng lại mỉm cười, tròng đen long lanh sau màn nước mắt.

    (1) Hàng tơ lụa mỏng thượng hạng, sản xuất tại Ấn Độ (2) Áo choàng trắng

    Câu chuyện trao đổi giữa chúng tôi bắt đầu bằng chuyện Clémentine ai ngờ đã kết thúc bằng một cuộc tự xét, tự vấn. Thật đúng như lời vợ tôi nói, tính tôi đã trở nên cau có, gắt gỏng lạ. Tôi sốt ruột thấy đời mình và đời của những người xung quanh mình diễn đi, lập lại trong cái nhịp đơn điệu, vô vị, bị đầu độc bởi những mưu mô tham lam, nhỏ nhen, độc ác.

    Thấy tôi cựa quậy, bực dọc, vợ tôi đã hiểu, đã thương hại, đã tìm mọi cách xoa dịu những vết xây xát trong hồn tôi khi tôi va chạm với cuộc đời… Nàng hiểu tôi lắm. Khuyên tôi viết để quên bớt thực tại, coi thường thực tại, nàng đã hiểu tôi và quên mình mà giúp tôi một cách thông minh.

    Trong khi ấy, mùa thu như a tùng theo mà đến ám ảnh tôi không thôi. Trời đông kéo dài. Gió cứ thổi hắt hiu hắt mà mặt trời cứ ủ dột khiến tôi lại cứ loay hoay với câu chuyện tình lý tưởng của Anatole France. Sau nhiều ngày suy nghĩ, một hôm tôi nói với vợ một cách trang trọng:

    - Ngày hôm nay, em xếp lại bàn viết cho thật ngăn nắp, sẵn sàng. Để anh sẵn sàng viết những câu chuyện tình của anh.

    Vợ tôi đã làm đúng theo như ý tôi muốn. Bàn viết rất tươm tất. Đèn lau sạch, tra tim mới, như đang mong một que diêm xòe ra là bật sáng lên ngay. Cán bút gác yên lên bình mực, nhưng tôi vẫn còn sục sạo trong tâm trí, cố tìm lại nàng Clémentine âu yếm của tôi.

    Một ngày kia, tôi và anh Uyển, một bạn thân, đi Hòa Đa. Dọc đường, chúng tôi nói chuyện về nghệ thuật sống. Chúng tôi tán dương lối sống thoải mái, thú vị, không đặt chủ đích vào một hướng nào, một việc gì. Có lẽ tại vì chúng tôi suốt tháng ngày ứ với cái nhiệm vụ kháng chiến của mình nên trong một đôi giờ tự do cố nói cho hả, dự định cho hả. Dễ thường chỉ nói và dự định rồi thôi. Uyển dường như đang thắc mắc một điều gì. Mấy hôm nay anh cứ hẹn sẽ đưa cho tôi xem một quyển truyện của anh đã viết. Tôi hỏi truyện dài hay ngắn, tiểu thuyết hay ký sự… thì anh diễn ra lời một cách khó khăn lối viết của anh. Tôi thoáng hiểu. Chắc lại là một truyện mà anh đã sống, pha lẫn nghệ thuật cốt để giấu một phần sự thật. Sau một hồi im lặng đi cạnh nhau, chợt Uyển hỏi tôi:

    - Diệp có biết chị Vân?

    Tôi trả lời ngay:

    - Biết. Vân ở Sông Cầu chớ gì?

    - Ờ.

    Thấy Uyển im bặt, tôi hỏi lại:

    - Thế nào, có chuyện gì không?

    Uyển im không nói. Tôi lại giục:

    - Kìa, sao lại im đi?

    Ngần ngừ giây lâu, Uyển chậm rãi:

    - Có chuyện này, nói riêng cho Diệp nghe. Nhưng Diệp hứa là không nói lại với ai cả.

    Tôi cười xòa.

    - Lại phải dặn. Chuyện của chị Vân tức như chuyện của tôi, anh không phải lo. Nào, nói đi.

    - Chuyện này do một người bạn gái tin mình lắm nói riêng cho mình nghe. Người bạn gái ấy là bạn thân của Vân. Vào khoảng cuối năm 1946, lúc mà đó đây người ta bàn tán về Vân, nhiều người tìm cách chiếm đoạt lòng Vân, thì Vân nói chuyện cùng người bạn gái mình rằng: Ngày xưa đã yêu một lần, tình yêu bị dở dang, hy vọng trót không thành, nên bây giờ mọi việc đều coi thường, không để tâm làm gì nữa. Bạn mình hỏi yêu ai thì Vân trả lời: Yêu anh Diệp, anh Diệp ở Tuy An.

    Giọng nói của Uyển bình thản khách quan, nhưng tôi có cảm tưởng một tia chớp vừa lóe. Từ trước đến nay tôi biết những cảm tình của Vân qua các anh chị em quen, họ hàng, bà con. Nay tin tức đến từ một người hoàn toàn lạ, và Uyển là một nhân cách đứng đắn, cao hơn mức trung bình. Cô bạn của Uyển, dẫu anh không nói tên, tôi cũng đoán biết là ai, và cũng là một nhân cách cao hơn mức trung bình. Tôi xúc động bàng hoàng và khốn khổ không biết làm cách nào để thâm tạ tấm lòng của Vân.

    Đêm ấy, chúng tôi đi xem kịch, nhưng từng hồi, từng hồi, tôi chợt quên kịch mà nghĩ đến Vân. Lúc ra về, trăng khuya sáng, lạnh. Thật phù hợp với tâm trạng tôi lúc bấy giờ đang mang mang nhớ đến nàng. Chân tôi bước nhanh nhanh, lòng tôi thấy êm êm nhè nhẹ và nơi tâm hồn tôi nhẹ nhàng hình thành câu chuyện Clémentine tha thiết của tôi.

    Một hôm tôi êm đềm nói cùng vợ tôi.

    - Em ơi, hình như anh đã tìm thấy nàng Clémentine rồi. Để thí nghiệm đôi ngày rồi anh sẽ bắt đầu viết.

    Truyện chưa kịp bắt đầu thì tôi được tin Vân hay ghé nhà bà Thừa, cô nàng. Hôm gặp ông Sách - rể bà Thừa - tôi vui vẻ nói:

    - Hôm nào chị Vân ở Sông Cầu vào, nhờ ông nói rằng tôi gởi lời thăm chị khỏe mạnh. Ông nhớ nghe?

    Ông Sách gật đầu cười. Vài ngày sau, ông gặp tôi, nói riêng:

    - Nghe ra mới biết rõ là cô Vân đã yêu ông thật. Vậy ông có muốn thì sang gặp.

    Sợ ông Sách có ý nghi ngờ gì khi đề nghị tôi sang tìm gặp, tôi nghiêm trang đáp:

    - Tôi có bổn phận phải gặp Vân. Nghe chị ấy hiện sống vô định lắm, người này yêu, người nọ, người kia yêu. Chị ấy thì, theo người ta nói, cũng lang mang vô cùng, không biết nên đặt lòng mình vào đâu, hy vọng vào đâu, cứ tự để cho ngoại cảnh muốn dắt mình đi đâu thì dắt. Người ta cho là chị ấy báo thù đời.

    Ngẫm nghĩ một giây, tôi lại tiếp:

    - Tôi có cảm tưởng xa xôi rằng chính tôi đã dự một phần vào việc gây ra nguyên nhân sự trạng này. Tôi có một phần trách nhiệm đối với cuộc đời hay, hay dở của Vân hiện tại và sau này. Tôi thấy tôi có bổn phận phải khuyên nhủ nàng. Ông nghĩ sao?

    - Phải đấy. Cô ấy lại đang đưa đơn kiện ly dị chồng. Ông thử tìm cách khuyên bảo cô ấy xem.

    Một sáng chủ nhật, tôi đến nhà bà Thừa. Ngồi trong nhà, nhìn ra sân, thấy có ai mặc áo cánh lụa màu nâu đang phơi áo ngoài dây. Tôi tin chắc là Vân. Mãi sau, nghe tiếng bà Thừa nói sang sảng:

    - Con Vân đâu? Anh Diệp sang chơi kìa, lên nói chuyện cho vui. Anh chị em cả.

    Giọng nói và cách nói của bà Thừa làm tôi tự nhiên thấy buồn thấm thía. Tôi có cảm tưởng như tôi và Vân đã cùng sống một dĩ vãng thân thiết dưới sự chở che âu yếm của mọi người trong họ, rồi bị một nghịch cảnh gì xui phải xa nhau, để hôm nay tình cờ gặp mặt lại nhau, gặp lại mà phải bỡ ngỡ, ngại ngùng, gặp dưới sự che chở âu yếm của họ hàng như ngày xưa.

    Vân ở nhà sau đi lên. Tôi đưa mắt nhìn nàng, nhìn thẳng nàng giây lâu, lòng rào rạt một tình thương xót. Vân như thế đấy sao? Ra hôm nay tôi mới biết nàng là như thế. Tóc nàng cặp vén lên cao rồi bỏ trễ xuống. Vòng lông mày cong lên vươn dài, áp đôi mắt mở rộng, rất đen, sâu thẳm. Thấy tôi, nàng hỏi rất tự nhiên.

    - Anh Diệp qua chơi.

    Tôi chỉ ngẩng mắt nhìn mà cổ nghẹn không sao nói được. Nàng lại hỏi mau:

    - Chị đã sinh chưa, anh?

    Tôi trả lời:

    - Chưa!

    Hỏi lên câu ấy, tôi biết ngay là nàng đã hồi hộp cảm động lắm. Nàng ngồi xuống võng. Thấy sự im lặng nặng nề, tôi bắt đầu nói cùng nàng lời hỏi thăm thường lệ. Nàng trả lời tôi một cách thân ái, dịu dàng. Tôi chợt xoay hẳn câu chuyện:

    - Tôi nghe ông Sách nói chị nhờ đưa đơn ra Tòa xin ly dị anh Nhã. Tôi thấy đó là một việc quan trọng. Có lẽ vì sự quan trọng ấy nên tôi tìm gặp chị sớm, ngay hôm nay. Tôi không biết là chị nghĩ kỹ chưa…

    Nàng mỉm cười trả lời:

    - Việc gì chớ việc ấy thì tôi nghĩ kỹ rồi.

    Tôi ngắt ngay:

    - Tôi rất nghi ở sự đã nghĩ kỹ của chị. Lúc bằng lòng lấy Nhã, chắc chắn là chị cũng đã nghĩ kỹ rồi. Chớ sao? Má chị ép, chị không bằng lòng nhưng có nghĩ sao, nghĩ rằng chị nên làm vui lòng má, hoặc nghĩ rằng anh Nhã không xấu đâu, hoặc vì gì… gì chẳng hạn, chắc chắn là đã có nghĩ kỹ rồi. Chị nhớ lại xem. Chị sẽ thấy rằng ngày xưa chị cũng đã từng nghĩ kỹ, nghĩ kỹ… để hôm nay đời chị dở dang. Chị có tin chắc rằng điều nghĩ kỹ của chị là đúng không?

    Vân đăm đăm nhìn tôi giây lâu, không nói.

    - Tôi lo sợ thấy chị đang làm một việc nó định đoạt cả một tương lai. Tôi tự biết tôi không thể hiểu rõ tâm trạng và hoàn cảnh của chị hơn chị được, hiểu mình thì còn ai hơn mình, cho nên tôi không dám cản ngăn. Có điều tôi xin chị dè dặt một chút đối với một việc nó quá quan trọng.

    Nàng nói, chậm rãi và lạnh lùng:

    - Anh chưa hiểu. Đơn ly dị tôi đã gởi Tòa ba tháng trước rồi. Tòa hỏi thêm hồ sơ, hỏi giấy trích lục và địa chỉ của Nhã. Hôm nay nhờ ông Sách đưa là đưa hai món đó.

    - Tôi hiểu. Và tôi đã nói là tôi không sáng suốt hơn chị trong việc này để mà khuyên bảo chị. Có điều tôi cần nói rất thật cho chị nghe là hình như dư luận không được tốt đối với chị…

    Nàng mỉm cười.

    - Tôi biết. Nhưng …

    Nàng bĩu môi, không nói tiếp.

    - Người đàn bà quý nhất ở cái tư cách. Tôi rất buồn phải nghe những dư luận, vì thế tôi muốn biết chị kiện ly dị để định làm gì?

    - Không định làm gì hết. Bây giờ thì cứ sống như thế này nuôi mẹ, nuôi em; nuôi mẹ cho đến ngày mẹ chết, nuôi em, gây dựng cho em. Khi nào bổn phận hoàn toàn rồi thì sung vào một nhà dục anh, một viện mồ côi…

    Ngừng một giây, nàng nhè nhẹ tiếp:

    - Có người tưởng tôi muốn ly dị để đi lấy chồng.

    Thấy nàng lại im, tôi đáp:

    - Ý của chị tốt quá. Vì tốt quá nên tôi sợ không thành. Chị nhớ chuyện xưa có những người vợ quá trẻ muốn thủ tiết để nuôi con, để tránh bướm ong qua lại, có nàng đã phải lấy dao rạch mặt mình trăm vết. Tôi xin lỗi nếu sự thật nói ra sẽ làm phật lòng chị, nhưng dù chị giận tôi, ghét tôi, bổn phận bắt tôi phải nói: Chị e rồi cũng phải dùng đến con dao của người xưa, nếu chị quả quyết làm theo ý định tốt đẹp của chị…

    Tôi nói xong, nhìn sang nàng, xem nàng tỏ ý khó chịu như thế nào. Tôi thấy nàng ngẫm nghĩ giây lâu, ngẫm nghĩ lắm. Nhìn lên thấy tôi đang nhìn nàng, nàng nói:

    - Ai cũng nói ra toàn những sự khó khăn cả.

    - Thì khó, khó hẳn đi.

    Thấy câu chuyện đã nhuộm một màu đen nặng nề, tôi im lặng giây lâu. Chợt nàng ngẩng lên hỏi tôi:

    - Anh có gặp Huyền Đáng không?

    - Chưa. Hôm đi Hà Trung, định ghé thăm Huyền Đáng, nhưng bận quá, ghé chưa được. Huyền Đáng bây giờ thế nào?

    - Bây giờ lớn rồi.

    Tôi ngẫm nghĩ, chắc Huyền Đáng đã có nói gì với nàng nên nàng nhắc đến Huyền Đáng. Tôi hỏi:

    - Lúc tôi từ giã Sông Cầu, chắc Huyền Đáng có nói gì với chị?

    Nàng đưa mắt nhìn xuống đất, vẻ bối rối không trả lời. Tôi hỏi tiếp:

    - Nhờ trời Huyền Đáng chưa được biết đau khổ…

    Nàng mỉm cười:

    - Biết đâu!…

    - Biết đâu nghĩa là đã. Tội nghiệp. Những cô em nhí nhảnh hiền lành của tôi ở Sông Cầu, sao ai nỡ nhuộm đau khổ vào làm chi cho tội nghiệp. Lộc vừa lấy chồng ở Sơn Hòa, tôi định tìm thăm nhưng chưa kịp.

    - Lộc cũng đã là nạn nhân của đau khổ, cũng đã khóc, cũng đã phải đã quên.

    Tôi nhún vai tỏ vẻ ngán ngẩm đối với một việc nó diễn đi diễn lại đã quá cũ rồi. Tôi hỏi tiếp:

    - Còn Mộng Thúy, Mộng Thúy vừa lấy chồng ở gần đây. Đám này tôi không ngờ lại thành. Mộng Thúy nghe tân tiến dữ: kịch, nhạc, biểu diễn v.v… thế mà đánh đùng bằng lòng lấy một anh chồng chắc chắn là không tân tiến bằng mình, nếu không nỡ nói là quê hơn.

    - Mộng Thúy có vậy mà thực tế.

    - Có lẽ vì cô ta chưa nghĩ đến ai.

    Nàng phì cười:

    - Anh lầm to. Đã nghĩ rồi, đã yêu rồi, đã yêu như bất cứ ai.

    - Yêu ai?

    - Khanh.

    - Khanh nào?

    - Khanh ở Nha Trang.

    Tôi dằn mạnh giọng:

    - Nha Trang, sao lại Nha Trang?

    Vân nhìn tôi mỉm cười chua chát:

    - Thì Nha Trang chớ sao? Nha Trang thì cũng như Hà Nội, Đà Lạt có khác chi đâu?

    Nhưng sao Nha Trang lại hay làm khổ, làm phiền Sông Cầu quá vậy?

    Trầm ngâm một giây, nàng chậm rãi nói:

    - Tháng Năm năm ngoái, nghe tin anh cưới vợ. Sau này, được nghe người ta nói chị học giỏi và hiền lành, tôi rất mừng cho anh.

    Nghe Vân nhắc đến gia đình tôi, tôi suy nghĩ ngay đến hiện cảnh rất buồn của nàng. Suy nghĩ một giây, tôi chợt hỏi:

    - Nếu độ ấy tôi cứ ở mãi Sông Cầu mà không đi Đà Lạt thì sự thể sẽ xảy ra như thế nào nhỉ? Có lẽ chúng ta đã không như bây giờ. Có lẽ cuộc đời đã khác. Có lẽ chúng ta đã…

    Vân mở to mắt nhìn tôi, trách:

    - Anh cứ nghĩ đến ngày xưa, nói đến ngày xưa làm gì. Cái gì nó đã qua, cho qua luôn.

    - Như thế là tàn nhẫn, nhất là bây giờ, chị đang ở trong một cảnh buồn vô cùng. Tôi nghe tháng nào anh Nhã về Sông Cầu đem chị đi Nha Trang. Chị bằng lòng đi. Ghé vào Đa Ngư, chị viết thư cho má, vĩnh biệt má và cả gia đình, chị nói chị chắc một ra đi là gởi xương quê người không còn mong về nữa. Thư ấy Nhã biết. Nhã lại có dọa một khi đem chị vào được đến Nha Trang, Nhã sẽ hành hạ cho điêu đứng.

    - Không phải chỉ lần này Nhã mới dọa, dọa cho người khác nghe. Nhã có lần nói trước mặt tôi.

    Ngập ngừng một hồi, nàng tiếp:

    - Cưới xong một ngày, tôi nói ngay với Nhã: “Anh cưới tôi, nhưng tôi không yêu anh”. Nhã ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?” Tôi trả lời: “Tại vì tôi đã yêu anh Diệp rồi”. Nhã lặng người, không ngờ tôi có thể nói vậy. Thấy tôi điềm nhiên, Nhã biết tôi nói thiệt. Anh giận dữ gằn giọng:

    - Biết rồi. Biết rõ, nên quyết cưới cho được để đem về hành hạ cho biết tay.

    - Thế là từ đó trở đi, liên tiếp toàn những hành hạ và hành hạ?

    Vân im lặng không nói. Tôi lại hỏi:

    - Thế tại sao biết đi theo vào Nha Trang là chết mà vẫn cứ đi?

    - Vì muốn chết.

    - Muốn chết thế sao khi ở Đa Ngư nghe Nhã dọa thì lại không chịu theo Nhã nữa mà lại để Nhã về Nha Trang một mình?

    - Vì nghĩ lại, chết như vậy uổng nên không muốn chết nữa.

    Giọng nói gọn, trầm trầm làm tôi biết Vân đã chán nản lắm.

    Sau bữa cơm trưa, Vân lại nằm ở giường, gần bộ ván rộng tôi ngồi. Qua khe rèm tôi thấy nàng nằm vắt tay lên trán. Chốc chốc thấy nàng trằn trọc và thở dài. Tôi im lặng không biết nói gì. Trong khi quay cuồng lẫn lộn, óc tôi lại đẫm trong một sự êm ái man mác. Tôi nhìn về dĩ vãng, nhớ lại ngày gặp nàng, nhớ lại ngày nàng lấy chồng, nhất là những ý nghĩ âu yếm nàng đã dành cho tôi trong những ngày nàng lấy chồng. Nhớ lại những ngày cuối cùng ở Sông Cầu, tôi lên tiếng hỏi:

    - Ngày tôi nằm nhà thương, tôi nghe người ta hay nhắc đến tôi mỗi lần nói đến chị và Nhã. Hình như Nhã nghi ngờ tôi lắm?

    Vân quay sang nhìn tôi:

    - Nhã có tính rất lạ, cứ nghi tôi với anh. Có hôm tôi vào Tuy Hòa, xuống Ngọc Lãng rồi về. Nhã nghe tôi vào Tuy Hòa, đinh ninh là cốt để gặp anh nên giận dỗi, tra hỏi. Thấy Nhã vô lý, tôi bực mình ngồi đặt chuyện gặp anh, thăm anh v.v… nói với em gái tôi. Nhã về tra hỏi em tôi. Nó không nói. Anh điên lên, rượt đánh cả nó nữa.

    - Tôi nhiều khi thấy cuộc đời cũng oái oăm quá. Tôi gặp chị một lần không hề nhớ mặt, chỉ hôm nay mới thấy rõ ràng, thế mà ai ở Sông Cầu cũng đinh ninh là tôi với chị đã gì… ghê lắm. Tôi thì chưa hề hiểu chị, thành ra chỉ một mình nghĩ, một mình biết, có lẽ suốt cả đời sẽ cũng chỉ vậy, nếu hôm vừa rồi Uyển không tình cờ nói cho tôi biết.

    Vân hỏi Uyển nói gì, tôi thuật lại các điều Uyển đã nói cùng tôi. Cuối cùng tôi hỏi nàng:

    - Có phải chị đã nói như vậy không?

    Nàng không trả lời. Sau một hồi ngần ngừ, nàng mở to mắt nhìn thẳng tôi:

    - Nhưng thôi, việc đã qua rồi. Mình không có quyền nghĩ đến nữa.

    - Nhưng còn cả cái hiện tại và cái tương lai của chị?

    Nàng nói mau, vội vàng:

    - Cũng mặc, mặc tôi. Anh không phải nghĩ. Anh không có quyền nghĩ đến nữa.

    Thấy tôi nhìn nàng, nàng cũng nhìn tôi thật lâu rồi buồn rầu nói:

    - Anh không có quyền nghĩ đến thật vì anh có bổn phận phải nghĩ đến chị đang có mang, phải nghĩ đến cháu sắp sinh. Bổn phận của anh nặng lắm. Chị bao giờ thì sinh hở anh?

    - Có lẽ cuối tháng Một, chưa biết chắc.

    - Anh có bổn phận phải lo cho chị thật chu đáo. Chị xa gia đình, xa quê hương, đi cùng anh về đây là chị yêu anh lắm. Anh có nhớ không?

    - Nhớ lắm. Nên tôi bao giờ cũng lo cho nhà tôi. Chỉ có bây giờ thấy chị như đang đi vẩn vơ trên một con đường không có đích nên tôi không yên tâm.

    Vân nhíu mày:

    - Tôi đã nói, anh cứ yên tâm.

    - Nhưng yên tâm thế nào được?

    Thấy tôi mạnh giọng hỏi, Vân tròn mắt nhìn tôi rồi nghẹn ngào nói:

    - Quên đi.

    - Quên đi là một điều không phải dễ!

    - Đành rằng thế, nhưng đã nhớ bốn năm hơn rồi. Bây giờ dù quên mà phải khổ cũng phải cố quên. Bốn năm khổ còn chịu đựng được thay!

    Tôi không biết nói sao, chỉ nhìn nàng thôi. Nàng xem chừng như băn khoăn đau đớn trong lòng lắm nên nhìn thẳng tôi không chớp mắt.

    - Quên đi.

    Mặt trời ngã chiều. Tôi sắp sửa đi về. Tôi đứng lại gần nàng, cầm tay nàng nói.

    - Em phải thu xếp cuộc đời cho nó quy củ, cho có phương châm nhất định. Anh đã nói, anh không hiểu rõ hoàn cảnh em cho bằng em được, nên anh không dám thu xếp dùm em. Anh chỉ xin em nhớ kỹ rằng ngày nào em còn vẩn vơ vô định như thế này là ngày ấy anh còn phải lo phiền về em, em nhớ chưa?

    Nàng chỉ nhìn tôi mà không nói. Tôi nhìn xuống bàn tay nàng thon thả nằm gọn trong bàn tay tôi. Ngón tay dài, trắng và mảnh mai. Mắt tôi chạm phải chiếc nhẫn cưới nàng đeo ở ngón tay kề. Một ý nghĩ chua xót vương lấy óc tôi. Tôi chầm chậm đưa bàn tay lên môi. Rồi tôi nói khẽ:

    - Thôi anh về!

    Suốt ngày hôm sau, tôi cứ bị đôi mắt mở rộng, đen và sâu thẳm của Vân nhìn thẳng tôi, thật lâu, thật êm và thật buồn. Tôi cứ thấy mãi đôi môi của Vân nhếch một nếp nhăn đau đớn, thẫn thờ khuyên tôi: “Quên đi”. Tôi lại nghĩ miên man về nàng. Tôi không biết nàng đang đi đến đâu và đi như thế nào. Xét lại cuộc gặp gỡ hôm qua, tôi thấy tôi vẫn chưa hiểu nàng, chưa cùng nàng định rõ một thái độ nào, một lối xử thế nào cho rõ ràng cả. Tôi đâm ra lo lắng vì nàng, cho nàng. Những điều dự định khuyên lơn và an ủi chưa nói hết và chưa nói đủ. Tôi phải gặp lại nàng, chúng tôi phải thỏa hiệp với nhau về đường lối sống và nghĩ duy nhất dành cho nàng. Để tôi được yên tâm hơn.

    Chiều đó tôi nhờ người tin cho nàng biết tôi cần gặp riêng nàng để bàn bạc thấu đáo hơn. Sau nhiều hồi lưỡng lự, nàng thuận theo lời tôi.

    Đêm mát, lành lạnh. Sao sáng đầy trời. Chúng tôi ngồi bên cạnh nhau. Tiếng nước chảy rì rào ở đập nước bên cạnh làm tăng sự im lặng của cảnh vật xung quanh. Tôi bắt đầu xin lỗi nàng vì bắt buộc phải gặp nhau trong một hoàn cảnh không được đường hoàng như thế này, nhưng có thế này mới dễ nói, dễ hiểu, dễ thấu, để dễ quyết định. Tôi nhắc lại ngày gặp nàng lần đầu, mối cảm động nàng đã gây cho tôi và ý định tốt đẹp tôi đã dành cho nàng. Vân lẳng lặng nghe, thỉnh thoảng nhắc lại:

    - Lạ quá. Hai người cùng một ý nghĩ mà hai người cùng không nói cho nhau nghe.

    Nàng hỏi tôi:

    - Tại sao cả hai người đều nghĩ giống nhau như vậy?

    Tôi lắc đầu, không biết trả lời sao. Tôi nhắc đến những ngày nhớ nàng ở Đà Lạt, ở Sài Gòn rồi tôi kết luận:

    - Như thế nghĩa là từ ngày xưa anh đã có yêu em. Bây giờ anh còn thêm cái nghĩa, nghĩa cũ đối với em nữa. Em tin anh là phải. Em nghĩ kỹ xem, em có tin anh không?

    Nàng tựa đầu vào vai tôi, nói:

    - Có.

    - Em nhắc lại đi, em có hoàn toàn tin anh không?

    - Có.

    - Được rồi. Có được đức tin ấy là công việc đã giải quyết được một phần rất lớn rồi. Từ lâu, anh lo rằng em không có một người nào để tin cả. Nay em đã tin anh thì anh bảo em nghe. Em hiện có bốn mươi năm, năm mươi năm, sáu bảy mươi năm để sống nữa. Em cầm hằng mấy mươi năm dài dằng dặc ấy trong tay, em đã thấy quan trọng chưa.

    - …

    Định đoạt một việc gì, nhất là việc quan hệ đến đời mình, không phải dễ. Riêng đối với em càng khó hơn. Anh không muốn nhắc lại vì sao. Nên em cần phải nghĩ thật kỹ, và tham hiệp ý kiến với những người hiểu em và thật lòng thương em. Em nghĩ sao?

    Nàng ngoan ngoãn nói:

    - Nghĩ kỹ thì bao giờ em cũng nghĩ kỹ. Bây giờ có anh, em sẽ hỏi ý kiến anh mỗi lần phải định đoạt một việc gì khó khăn.

    Tôi siết chặt tay nàng rõ lâu, tỏ tấm lòng thương yêu vô hạn đối với nàng. Tôi nói:

    - Anh tin ở lời em. Mỗi lần phải định đoạt một việc gì quan trọng, em nhớ cho anh biết. Anh sẽ giải quyết cùng em. Anh sẽ xem em như em của anh. Anh lo cho em, em mà có thể nào, anh sẽ khổ tâm lắm.

    Vân cầm tay tôi mân mê rồi nói:

    - Anh không lo. Em cũng xem anh như anh của em vậy.

    Nỗi êm đềm do tấm lòng thành thật của chúng tôi đã dành cho nhau khiến lòng tôi yên tĩnh lại. Tôi nhìn lên trời thăm thẳm sâu. Sao dày chi chít. Tôi nâng cằm nàng, chỉ về một ngôi sao sáng. Tôi nói:

    - Anh gởi em cho ngôi sao sáng kia.

    Đêm đã khuya, nàng giục về. Chúng tôi đứng dậy, đi song song nhau.

    Vai nàng kề sát vai tôi.

    Đường nhỏ gập ghềnh. Thỉnh thoảng, những bụi tre đứng vững chãi, bóng đen vươn cao.

    Vai nàng kề sát vai tôi.

    Tiếp theo, tôi có nhiều dịp để hiểu nàng qua những thư nàng viết. Lần nào nàng cũng khuyên tôi nên cố quên nàng đi để lo cho vợ tôi, cho đứa con sắp sinh của tôi. Muốn cho tôi yên tâm nàng nhắc đi nhắc lại rằng dù không gần tôi, nhưng mỗi khi nghĩ đến tôi, nàng có thể chống chọi lại tất cả những khó khăn ở đời. Tôi không dám tin rằng tôi đã có thể gây được cho nàng một ý chí vững chắc như thế.

    Lâu lâu, tôi lại nghe một dư luận không tốt về nàng. Dư luận thường không do đàn ông chuyền đi. Có lẽ sắc đẹp đã làm bức thành bảo vệ cho nàng. Người đàn ông nào cũng ích kỷ, cũng yêu cái đẹp. Đàn bà hay nhắc đến nàng hơn. Đàn bà cũng lại ích kỷ như đàn ông, muốn mình đẹp hơn nữa và được bảo đảm chồng mình là của riêng mình. Tội nghiệp cho Vân, nàng hiện đang đẹp và đang không chồng!

    Người ta đều như cho rằng Vân hiện đang say sưa chinh phục. Điều này nghe có vẻ đúng. Tôi thường nghe người ta, - những đàn ông - tả và so sánh sắc đẹp của nàng mà chưa hề nghe ai nói đến tâm hồn nàng cả. Không ai nghĩ rằng nàng có một tâm hồn, tâm hồn đặc biệt của riêng nàng, tinh tế, tế toái, phân biệt sâu sắc, ý thức rõ ràng những rung động muôn mặt của tình cảm.

    Nàng viết cho tôi:

    “…Hình như đã nhiều lần rồi, em viết và nói với anh rằng anh cứ thương em như em của anh vậy. Nhưng anh ơi, em đã dối lòng em nhiều quá. Ngoài miệng thì em bảo:

    Coi em như em của anh đi! Nhưng lòng em nó không muốn thế đâu. Thôi, chúng ta xa nhau hẳn thôi. Thà xa nhau còn hơn là giả dối với nhau như thế. Một là được anh yêu, hai là xa cách hẳn đi, chớ cứ đóng kịch như thế mãi, khổ tâm em lắm…”

    Không! Vân không ác tâm chinh phục ai. Lũ thiêu thân bị cháy cánh, đâu phải lỗi của ngọn đèn. Trong khi ấy, thỉnh thoảng nàng lại cho tôi nghe một vài nỗi thắc mắc: nàng muốn vào Nha Trang thăm Nhã bị bệnh nặng… rồi muốn vào Nha Trang vì nghe tin thầy Nhã mất. Độ một tháng sau, nàng tỏ ý muốn đi Bồng Sơn buôn. Rồi không hiểu tại sao bỗng cho tôi biết rằng đã đổi ý định, muốn rút đơn xin ly dị. Nàng hỏi ý kiến tôi. Tôi không biết nên trả lời như thế nào mà chỉ bối rối theo sự quay cuồng hỗn độn của tâm hồn nàng. Tôi phải gợi lên vẻ mặt sáng rỡ của nàng, tươi tỉnh như chỉ biết ở nụ cười. Tôi phải nhè nhẹ gợi lên tên nàng để tưởng nghe một sự êm đềm thoang thoảng: Thu Vân. Tôi tự hỏi sao tên nàng lại là Thu Vân. Mây mùa xuân có sáng sủa, nhẹ nhàng hơn không? Mây mùa hạ có rực rỡ huy hoàng hơn không? Sao nàng lại là mây mùa Thu, mùa Thu túc sái, mùa Thu sương giăng lá rụng, mùa Thu nghiêm nghị, trầm, buồn?

    Cứ như thế, ngày tháng lặng lẽ trôi.

    Vợ tôi sinh đứa con gái đầu lòng.

    Vào một buổi bất ngờ, Vân đến thăm vợ tôi mà không cho tôi biết trước. Nàng đã lừa dịp tôi vắng nhà. Không biết hai người đàn bà đã tự giới thiệu với nhau như thế nào, nhưng chắc chắn là họ bỡ ngỡ không lâu. Vân thì biết rõ vợ tôi lắm. Không hiểu do đâu nàng biết vanh vách về thân thế vợ tôi, về tâm tính, về sở thích… biết nhiều hơn tôi nữa vì có cả những điều, hình như không có thật. Vợ tôi thì cũng đã quen với nàng qua những lời tôi kể lại và câu chuyện Clémentine tôi đang viết dở dang.

    Chiều hôm ấy, vợ tôi báo tin cho tôi biết:

    - Xế hôm nay có khách.

    - ……?

    - Cô Vân.

    Đôi môi tôi nhíu lại vì việc xảy ra hơi đột ngột, tôi không kịp chuẩn bị.

    - Em thấy thế nào?

    - Đẹp… dễ yêu lắm.

    Tôi lo lắng hỏi:

    - Cô ấy đến nhằm lúc em đang làm gì?

    - Em đang hái hoa bí.

    Ngập ngừng một giây, vợ tôi tiếp:

    - Em ngượng quá vì mình đang mặc cái áo cánh nâu. Và mời vào nhà thì lại để xem con mình nằm trong cái nôi bằng tre đan.

    Tôi ái ngại nhìn kỹ vợ tôi.

    Ba năm lam lũ trong hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi đã trót quen đi với sự bần hàn. Thói quen bắt đầu từ lúc nào, tôi cũng không có dịp nhận xét kỹ. Thoát được vòng vây của Pháp mà về đến đây, vợ tôi không còn mang theo được một tí đồ dùng gì thuộc thời đại văn minh cơ khí hết. Những cái áo cánh bằng vải thô tự tay vợ tôi may và nhuộm lấy. Chẳng khó gì: giã hột cau già để nhuộm màu nâu, giã than bếp để nhuộm màu xám. Đi đâu thì mặc quần lĩnh - mà ít có dịp đi đâu lắm - còn ở nhà thì mặc quần vải nhuộm chàm xanh rồi phủ bùn đen. Giặt dăm nước thì bùn đen bay đi, còn lỗ chỗ xanh. Tội nghiệp là vợ tôi tiếp Vân với bộ y phục nghèo nàn ấy.

    Mà lại nhằm lúc đang hái hoa bí.

    Tôi nghĩ đến cái giàn bí ngô của chúng tôi.

    Đầu mùa thu, tôi gieo hột bí, chăm sóc để trông ngày ra trái. Nhưng lạ quá, giây bí không chịu kết trái mà cứ bò thật dài, bò mãi, cái giàn bí được nối dài, nối thêm, ba lần, năm bận, vẫn chưa đủ sức cho bí bò. Và cứ độc ra hoa đực! Vợ tôi lại sáng sáng cầm rổ ra ngắt hoa bí đực để luộc làm rau. Đời sống thanh đạm thật quá sức tưởng tượng. Nhưng thấy xung quanh ai cũng khổ nên chúng tôi không quên rằng mình đang khổ. Mùa đông, không còn được mặc áo len, áo choàng, áo nĩ, vợ tôi đành mặc một lần ba, bốn cái áo cánh vải.

    Nhưng điều khiến cho vợ tôi đau khổ nhất là phải nuôi con trong sự thiếu thốn. Không có nôi, không có xe, không có màn tuyn, không có bình thủy để pha sữa và không có sữa, không có búp bê… không có gì cả! Vợ tôi tủi thân khi nghĩ rằng mới bốn năm năm trước, mình còn may áo đẹp cho búp bê, đặt trên xe, để ở phòng học…

    Mười ngày sau, Vân gởi sang cho vợ tôi một người vú. Nàng phải về tận Sông Cầu để tìm thuê giúp. Vợ tôi cám ơn lắm vì vào lúc bấy giờ tìm thuê được một người vú khó hơn tìm bắn được một con voi. Cuộc giao thiệp giữa hai người đàn bà bắt đầu dưới dấu hiệu của sự thân ái.

    Nhưng với tôi, Vân không ngớt là một nguồn gây bối rối. Vào hạ bán niên 1948, nàng vào làm việc ở Tòa Hành chánh tỉnh. Tôi có dịp để gặp nàng nhiều hơn, nhưng chỉ thấy và gặp chớ chúng tôi ít trò chuyện với nhau. Tính tôi thành thật quá, thành thật đến ngây thơ, cứ tưởng điều mình nghĩ là ai cũng biết rõ hết. Do đó mà chẳng lúc nào tôi tìm gặp nàng, hoặc nếu muốn sắp đặt một cuộc gặp thì phải có một chủ đích, với một ý nghĩa, một nội dung. Thật là công thức, thật là nguyên tắc! Tôi đã lý tưởng hóa một mối tình. Mối tình bắt đầu quá trong sạch, làm tôi e sợ không dám vẩn đục một tý. Cuộc sống tâm tình thành ra bị bức thúc đến ngạt thở.

    Thảng hoặc mới có một sự cởi mở. Đó là những lúc tôi nhận được thư Vân. Xen giữa những đoạn hỏi thăm, thỉnh thoảng nàng để hé một mảnh lòng:

    “…Nhìn ra ngoài trăng sáng… Cánh đồng Phú Long dải ánh trăng lạnh… Em tưởng tượng được đi cạnh anh… Nhưng thôi, nói nhảm anh đừng tin nhé!…

    …Khuya, chợt tỉnh giấc, em nằm thao thức. Vụt mong: ước gì có cánh bay qua nhà anh, nhìn xem con anh ngủ. Chắc môi nó nở nụ cười giống anh…”

    Sau những đoạn thư êm đềm như thế thì thường là những đoạn hối hận:

    “…Đọc xong, anh đốt những thư em đi… Nhớ nhé. Và nhất thiết từ giờ em không gửi thư cho anh nữa. Em không gặp anh nữa đâu. Ghét em đi. Yêu chị cho rõ nhiều. Yêu bao nhiêu cũng chưa đủ. Ghét em đi. Đừng nói chuyện gì về em với chị. Anh nhớ nhé? Chị tốt lắm, tốt lắm… Nhưng làm đàn bà, em hiểu…”

    Tôi đưa mắt nhìn ra xa lẩm bẩm nhắc lại:

    - Nhưng làm đàn bà, em hiểu…

    Tôi bắt đầu hiểu.

    Vài bức thư của Vân, tôi xem xong, bỏ quên ở túi áo. Vợ tôi lúc đưa giặt, nhặt được, đem cài ở tập Clémentine đang viết dở. Mỗi lần như vậy, tôi lại nghĩ đến câu Vân viết:

    Nhưng làm đàn bà, em hiểu…

    Tuy vậy, tôi không thấy vợ tôi tỏ thái độ nào cả. Vẫn hiền lành, kín đáo. Thỉnh thoảng tôi nhắc đến Vân thì vợ tôi vẫn êm đềm nói đến nàng và không ngớt cám ơn nàng. Dù vậy, tôi không khỏi bị ám ảnh vì câu nói của Vân:

    Nhưng làm đàn bà, em hiểu…

    Tôi đi sâu thêm vào lý luận. Tôi đặt thêm giả thiết. Tôi tự hứa không nên chủ quan để đến nỗi nhìn lệch, nhìn cận thị. Tôi phải tinh tế hơn.

    Thường thường những khi ru con ngủ, vợ tôi hay hát ru khe khẽ những điệu Valses của Strauss. Giọng nhạc nhí nhảnh, đầy tràn nhựa sống, say sưa, đầy ánh sáng, đầy màu xanh của bầu trời Áo quốc và sông Đa-nuýp thường làm cho vợ tôi quên bớt thực tại thiếu thốn để trở về với sự êm đềm hồi còn trẻ tuổi. Nhưng từ lúc nào không rõ, có lẽ chừng một hai tháng nay, thỉnh thoảng tôi nghe xen vào những điệu lạ, hơi buồn hơn. Hỏi, thì vợ tôi bảo:

    - Bài Berceuse của Chopin.

    - Bài Ave Maria của Schubert.

    Tôi bắt đầu thoáng hiểu.

    Tôi kính trọng đạo đức của vợ tôi, đã đành, nhưng tôi không có quyền làm nàng cô đơn hơn. Ngoài tôi và đứa con yêu dấu đầu lòng, vợ tôi yêu tha thiết những gì ở gần cạnh chúng tôi: con gà mái tơ vừa nhảy ổ, giàn bí đầy hoa vàng, bờ tre gần cửa sổ với những chùm lá nhọn rũ xuống, trông như những bàn tay và lóng lánh qua lũy tre là con sông xanh loang loáng nước. Vợ tôi cố yêu cái hoàn cảnh mới mẻ và thiếu thốn này, vừa cố quên đi dĩ vãng. Nhưng thỉnh thoảng dĩ vãng sống dậy mãnh liệt trong lòng nàng những khi nàng cô đơn. Tôi nhớ có đôi lần tôi đi đâu về, nhè nhẹ bước vào phòng, thấy nàng ngồi trước bàn viết, mười ngón tay thoăn thoắt chạy trên mép bàn, miệng lẩm nhẩm một điệu nhạc cổ điển và mắt nhìn thẫn thờ ra cửa sổ. Tôi đứng yên lặng, cảm động muốn rơi nước mắt. Như vậy, lẽ nào tôi còn muốn đem thiếu thốn cộng thêm vào thiếu thốn? Không, không được. Vợ tôi đã nghe theo bổn phận mà dập tắt đi những tiếng nói tình cảm. Tôi không hẳn làm trái lại nhưng tôi đã dễ dãi với tôi hơn. Như thế là không công bình. Phải, như thế là không công bình. Tôi phải công bình hơn.

    Tôi nghĩ đến Vân. Và tôi gặp lại cái ý nghĩ tôi đã nhiều lần có về nàng: nàng đối với tôi như không có thật, như cái bóng, có lẽ không là cái bóng nữa mà chỉ là mùi hương thoang thoảng. Xung quanh tôi, mùi súng đạn, thực tại chiến tranh nhọc nhằn, nguy hiểm, những nhiệm vụ khắc khổ dồn dập như đè nặng lấy chúng tôi. Thỉnh thoảng gợi lên được một sự êm đềm, nghe một lời âu yếm thoáng qua, tôi có cảm tưởng như đang ở trong căn nhà hẹp mà được cửa sổ nhìn ra vườn hoa lá, thở một luồng không khí mát, ngợp vì một ít ánh sáng rung rinh và thoáng xa có tiếng chim ca.

    Nhưng mùa qua chim dần lơi tiếng ca.

    Tôi đã vì vợ tôi mà nghiêm khắc xét vấn đề thì cũng đã đến lúc tôi phải vì Vân mà sáng suốt giải quyết lối cư xử.

    Vân hiện thời có thể không phải hoàn toàn là của anh Nhã, nhưng hoàn toàn không phải của tôi. Vân là của rủi may, của ngẫu nhiên, của định mệnh. Điều này chắc chắn lắm vì nàng trẻ và đẹp thế kia!

    Hết những người này yêu nàng đến những người khác yêu và chuẩn bị yêu. Nàng quả là con chim đẹp đang dè dặt chọn cành mà đậu. Cuộc đời là vậy. Cuộc đời, tuy như con đường trăm ngã, nhưng ngã nào cũng rốt cuộc quy về một hướng. Ta hay tự phụ, không muốn đi theo con đường cũ của tối đại đa số những người khác đã đi. Ta tin rằng ta có thể khác người, ta mở những kỷ nguyên mới. Hão huyền cả! Phá xiềng xích, đạp vỡ thành kính, ta đi con đường của ta, say sưa, tin tưởng… Nhưng, nhẫn nại hơn và mạnh mẽ chắc chắn hơn, cuộc đời thường khéo sắp xếp thế nào cho ta trở lại con đường cũ của mọi người lúc nào ta không biết.

    Vân cũng sẽ như mọi người, nghĩa là phải sắp đặt để tìm người cùng xây dựng cuộc đời. Tôi phải nhìn vấn đề một cách thực tế. Tôi không được ích kỷ. Hạnh phúc của nàng - phải là cứu cánh của mọi sự giải quyết. Tôi có nhiệm vụ phải xa nàng, nhường con đường rộng rãi cho một người khác sẽ tiến đến để cùng nàng song song bước.

    Suy nghĩ kỹ, một chiều chúa nhật tôi ngồi đọc những thư nàng viết, sống lại từng mẫu tâm trạng kể từ lúc chúng tôi gặp nhau. Trí óc tôi lần lượt trở về với bốn năm dĩ vãng. Ngồi trước đống thư, tôi tưởng tượng như đang cầm tay nàng cùng đi trở về thăm lại cảnh cũ, những kỷ niệm ngày xưa, sống trọn một ngày bên nhau trước khi phải từ giã nhau mãi mãi, mỗi người đi theo một con đường, một định mệnh. Giờ từ giã đã đến.

    Xóa hết dĩ vãng!

    Tôi cầm diêm bật xòe lên châm vào đống lá thư.

    Nhưng xóa hết dĩ vãng? Xóa hết? Liệu có xóa được không? Tiếng “xóa hết” nghe như giả dối và cái cử chỉ đốt cũng giả dối như vậy.

    Tôi vứt que diêm xuống đất.

    - Người ta không xóa được cái gì ở trong lòng, chỉ có thể gắn chôn chặt đi mà thôi, tôi lắc đầu lẩm bẩm.

    Tôi xếp gọn các tờ thư lại, bỏ vào một phong bì lớn. Tôi dán lại cẩn thận, niêm lại thật kín. Tôi chôn những lời lẽ của nàng trong phong bì kín này, tự nguyện không mở ra đọc nữa cũng như tôi chôn mối tình của nàng trong lớp sâu thẳm của hồn tôi, tự nguyện không khơi vẩn lên nữa.

    Phong bì đặt trước mặt tôi kia, những lời tâm tình đã chôn kín trong đó. Một sự cách trở đã xảy ra để mắt tôi không còn nhìn được nét chữ của nàng, để hồn tôi không còn rung động theo nhịp điệu của tâm hồn nàng rung động trong lời thư. Sự cách trở mỏng manh bằng sức mỏng manh của tờ giấy, nhưng lòng tôi đã nguyện thì giấy cũng đủ chắc, đủ bền, đủ gây một sự cách trở khó vượt.

    Tôi ngồi lặng đi hồi lâu. Xung quanh tôi, cảnh vật hình như cũng lặng lẽ. Trong sự êm ả cô tịch, tôi lắng nghe có một vị đắng từ đâu đưa lên thấm nhẹ ở đầu lưỡi, vừa thoáng nghe một tiếng thổn thức, một tiếng thở dài…
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:12:46 bởi hai1957 >
    #2
      hai1957 17.11.2012 16:43:59 (permalink)
      LÁ VẪN XANH

      NXB: Thời mới 1962


      1. Trận đòn hòa giải

      2. Xuất hành năm mới

      3. Ngày xuân êm đềm

      4. Lá vẫn xanh

      5. Niềm tin chưa mất

      6. Tia nắng rớt




      1. TRẬN ĐÒN HÒA GIẢI(đã có trong TV)

      2. XUẤT HÀNH NĂM MỚI (đã có trong TV)

      3. NGÀY XUÂN ÊM ĐỀM



      Chiều hôm ấy khi đi học về, An thấy trên ven mép sân vừa trồng một hàng cúc vạn thọ. Mừng quá, An không kịp bỏ mũ sách, nhảy tuốt ra nhà sau tìm chú Ba.

      - Chú Ba ơi! Chú Ba! Chú trồng vạn thọ hả chú? Gần tới Tết rồi hả chú Ba?

      Câu trả lời của chú, An đoán trước được nhưng An vẫn thích hỏi. Còn ai vào đây trồng hoa nữa? Ba, bốn năm nay từ khi An có trí khôn, An thấy cứ gần Tết là chú Ba đi xin cây vạn thọ hoặc ở chùa Châu Lâm hoặc ở vườn thằng Kiết về trồng một hàng quanh mép sân. An không biết xem lịch vì lịch in bằng chữ nho, cuốn lịch cha nó treo ở khung cửa sổ bên cạnh cái bàn toán. An cũng không lưu ý tìm xem tháng này là tháng mấy. Đối với tâm hồn ngây thơ của nó, cảnh và vật nói nhiều hơn tháng ngày. Nghe con tu hú kêu nó nghĩ đến những chùm trái vú dẻ chín vàng ngọt lịm và nó nghĩ: “Tháng Ba. Mùa gặt tới”. Nhìn bà hàng gánh đôi thúng xếp đầy những trái bắp nếp luộc hơi nóng lên nghi ngút, nó cảm nghe mùi ngọt thơm của hột bắp dẻo nghiền tan dưới răng và nó nói thầm: “Tháng Tám rồi. Sắp mưa lụt”. Còn ngày Tết thì luôn luôn được báo hiệu bằng dãy cúc vạn thọ.

      An nhìn trìu mến dãy hoa vừa trồng. Mỗi cây đứng trong một cái lỗ khoét to bằng cái bát sứ. Cây cao hơn mặt đất không quá hai tấc và đứng gục đầu xuống, lá buông ủ rũ. An có cảm tưởng chúng nhớ đàn nhớ bầy, nhớ cái vạt đất nhỏ nơi đó người ta gieo chúng, nơi đó chúng lớn lên cạnh những anh em của chúng cùng một hoa mẹ sinh ra. Có đôi cây yếu quá tưởng như chúng không thể sống qua đêm nay. Sự lo lắng thương hại của An khiến nó thấy cái thái độ lầm lì lạnh nhạt của chú Ba là đáng ghét. Người lớn trông họ vô tâm đến tàn ác. Mấy cây hoa đau đớn ủ rũ thế kia mà họ vẫn có thể thản nhiên bỏ đứng bơ vơ một mình không săn sóc đến. Đêm đến, khi leo lên bộ ván gõ nằm ngủ, An cứ loay hoay nghĩ về mấy cây hoa đáng thương. Và mới sáng tinh sương khi bừng mắt dậy, nó đã nhảy vội ra sân thăm từng cây hoa. Mừng quá! Dù có cây thân còn cong lại chưa đứng thẳng nổi nhưng cây nào đọt cũng xanh tươi, chỉ những lá gần gốc là héo sẫm lại mà thôi. Dăm ngày sau, cây bén rễ và tới một độ nào đó An không nhớ nữa, những cây hoa lớn vụt thật mau, đâm chồi thật nhiều. Những khoảng cách giữa các cây hoa trước kia trống trải mênh mông, giờ đã bị che mất bởi tàng lá.

      Cùng với sự phát triển của dãy cúc vạn thọ, cái Tết như cũng lớn dần. Manh nha từ đầu tháng Mười một với những cơn mưa nhẹ, mưa gieo cải, cái Tết thấp thoáng mơ hồ với những rò cải, ngò, xà lách, tàn ô nằm vuông vắn ở hầu hết mọi sân nhà. Cái Tết lớn lần lên với những bụi hoa, vạn thọ, cúc đại đóa, thược dược phát chồi sum suê và bắt đầu ra nụ. Càng đi sâu vào ngày tháng, cái Tết càng hiện rõ thêm, in dấu vết trên mọi cảnh mọi vật và mọi hoạt động của con người. Chữ Tết được nhắc đi nhắc lại một cách thân mến êm đềm trong mọi trường hợp sinh hoạt ở gia đình. Cha nói: “Mấy dây dưa leo chắc ra trái không kịp Tết. Bậy quá. Bị mưa làm thúi giống gieo kỳ trước”. Mẹ nói: “Thằng Ba coi chừng mấy con gà thiến. Để qua nhà lão Dần chó cắn chết thì nghỉ ăn Tết đó nghe?” Ở lớp học bạn khoe với nhau: “Tết này tao được đi thăm cô tao ở Phước Lãnh… Bà ngoại vừa gởi cho mẹ tao một trái bí đao to để làm mứt Tết.” Ở ngoài đường, chữ Tết len lỏi trong những câu chuyện: “Chợ Tết mà ế quá, tháng Chạp thiếu, hăm Chín lấy làm Ba mươi, chạy Tết cũng mệt… Tết năm nay ở Phú Mỹ có bài chòi…”

      Thôn Quảng Đức đa số làm nghề gốm và buôn vôi thế mà sự sinh hoạt cũng hối hả theo cái đà của ngày Tết cứ sừng sững đến gần. Đồ gốm sản xuất ra, chở đò dọc đem bán ở các chợ xa: chợ Đèo, chợ Đồng dài, chợ Gò chai, chợ Gành, chợ Thứ… tiếng ốc tù-và của chủ đò thúc khách quá giang chuyển hàng cho gấp xuống đò vang lên trong đêm khuya. Càng gần Tết sự mua bán càng hối hả rộn rịp nên chợ nào cũng vãn chậm. Đò xuôi chở khách về cũng mãi khuya mới tới bến. Bến đò thành ra ồn ào rộn rịp suốt đêm. Những cây đèn chai làm bằng một đoạn tre trong tẩm dầu, cháy rực sáng cả bực sông, in ngược bóng xuống nước rung rinh, lóe đỏ cả một vùng.

      Trên con đường đi xuyên qua xóm, những dáng người gánh gồng vội vã đi chập choạng theo ngọn đèn chai cầm lắc lư dưới tay. Đèn chai ở đây là một cái đèn dầu nhỏ được một nửa cái chai ụp lên để chắn gió. Tiếng chuyện trò lanh lảnh vang trong đêm, hối hả theo bước chân chuyển từ đầu xóm sang cuối xóm. Trong đêm tối mà mọi vật như xóa nhòa hết cả hình nét để tan vào bóng đen, mà mọi sinh vật đều như mỏi mệt, tiếng nói chuyện tỉnh táo rõ ràng dường giữ đủ cả sắc cạnh. Ở dưới bước chân, bóng người in đen được phóng đại ra, nằm trải xuống mặt đường, nằm vắt qua bờ rào, chập chờn di chuyển theo bước đi.

      Một bữa An thấy chú Ba hí hoáy nắn một vật gì trông tựa cái lưỡi cày mà bằng đất sét. Chú lấy mũi dao liếc thật nhẵn mặt. Chỗ tay cầm cũng được gọt thật đều. An hỏi:

      - Chú làm cái gì vậy?

      - Tao làm cái bàn ủi.

      - Làm bàn ủi để chi vậy chú?

      - Để ủi quần áo chớ chi.

      Giọng nói của chú lơ đãng. Trong giọng ấy còn có vẻ tự phụ vì chú nheo mắt ngắm nghía ra dáng bằng lòng lắm. Rồi chú nói chậm rãi tiếp theo, như nói với cái bàn ủi chứ không phải nói với An:

      - Mốt tới phiên lò ông Hương Lạc đem gởi nung. Chín rồi lấy ra đem ngâm nước. Thế là giặt quần áo để sẵn đó. Đem đặt bàn ủi lên lò than nóng rồi cứ vậy mà ủi lên mặt quần áo. Quần áo dầu cũ mà trông như mới.

      Cũ mà trông như mới! Thật là kỳ diệu, An nghĩ. Nó nhìn xuống cái áo cũ nó đang mặc, tưởng tượng rằng cái áo ấy sẽ mới và nó ngó sang cái bàn ủi một cách khâm phục. Cái bàn ủi ấy được mang đi nung, điều ấy quả có thật. Chính mắt An nhìn nó chuyển từ màu xám của đất phơ sang màu hồng nhạt của đất nung. Cũng lại chính tai An lắng nghe tiếng “boong boong” khi cầm nó lên để gần tai, cung ngón tay gõ nghe thử. Nhưng chắc chắn là An chưa hề thấy chú Ba dùng nó để ủi cái áo của chú cho từ cũ hóa “như mới”. Có lẽ chú đã lén thí nghiệm nhưng bị thất bại nên sau đó chú không tuyên bố gì ráo.

      Ngày hăm sáu tháng chạp phiên chợ Hôm, mẹ nói:

      - Hôm nay An có đi chợ Tết không con?

      An vội vàng như sợ ai kịp phản đối.

      - Dạ có. Lát nữa thằng Tòng lại rủ con đi.

      Tòng là bạn học lớp Tư của An. Vì sao mà quen thân nhau, An cũng không nhớ rõ vì nhà Tòng ở mãi tận Hội Tín đi học khác đường mà tính tình thì hai đứa không giống nhau. Cha Tòng làm thầy phù thủy. Có lần nó rủ An đến nhà chơi thấy gian nhà giữa đầy những tượng, những hình ông thần, ông tướng, những cờ những đèn, trống chiêng, thanh la, não bạt khiến An sợ khép nép không dám vào. Cha Tòng có một cái trán quá cao. Nhìn gần thấy chân tóc mọc nên An biết trán cao là vì tóc bị cạo. Sau này lớn lên được biết nhà Tòng vừa làm phù thủy vừa hát bội, - hai nghề này có họ hàng với nhau vì hò hét điều động âm binh cũng là một cách hát bội, - nên cha Tòng phải để trán cao mà đội cái mão. Lúc Tòng lớn, Tòng nghỉ học sớm và kế nghiệp cha. Cái trán của Tòng cũng được cạo lên thật cao và chân đi chữ bát. Lúc nói chuyện là hai tay vung vẩy như múa. Đó là kết quả của nghệ thuật tiêm nhiễm vào cuộc đời.

      An thay quần áo xong thì Tòng đến. Tòng mặc quần trắng và áo cụt lụa màu hồ thủy. Những nếp gấp làm hai ống quần lép lại và gãy ra làm ba. Tòng đội một cái khăn lông màu vàng nghệ có chạy sọc xanh đỏ. Úp lên trên khăn lông là cái mũ kaki. Trông Tòng nửa giống như một chú nhỏ ở trong tranh vẽ, nửa giống như một tên lính Tàu thời cổ. Chắc Tòng chịu ảnh hưởng của những tấm tranh màu treo la liệt trên tường nhà nó.

      Đường xuống chợ có nhiều chỗ lõm thấp xuống, đó là khi con đường đi sát cạnh những cái bàu nước. Mỗi bàu nước mang một tên bí mật: bàu ông Chì, bàu ông Lôi. Mỗi lần đi qua một cái bàu, An khép nép đi sát vào Tòng vừa liếc mắt xuống mặt nước đầy rong, ấu xanh um. Những gốc tre già xám đen, những thân cây sung cong vẹo in bóng xuống mặt nước làm cho các tên ông Chì, ông Lôi được trùm trong một không khí rùng rợn. Người đi và người về tránh nhau trên con đường hẹp. Lũ trẻ con đi chợ về trên tay thế nào cũng có những món đồ chơi, hoặc con gà cồ bằng đất, khi thổi ở lỗ khoét ngang hông thì cất tiếng gáy “côô…côô” hoặc con “chút chít” khi kéo ra đẩy vào thì phát ra tiếng kêu chút chít. Nhiều đứa hãnh diện cầm những ghim pháo tre, những bó pháo thăng thiên đi cạnh mẹ.

      Đến gần chợ thì nghe tiếng mua bán xì xào vang lên. Thỉnh thoảng có tiếng pháo tre nổ “đùng” khiến trái tim của hai đứa như nhảy cởn lên. Không ai bảo ai mà cả hai đều rảo bước.

      Đến đây rồi, chợ Hôm! Những dãy lều mái bằng tranh rạ cột tre yếu ớt sắp chạy từng dãy. Có nhiều hàng bày bán ở giữa trời, như hàng trái cây, cá mắm. Hai cây đa to tỏa bóng mát cả một khu chợ. Lá đa dày san sát ở trên từng cao làm thành một vòm xanh lao xao cử động. Tiếng rì rào vừa phát tự dưới đất nơi người ta buôn bán trao đổi vừa phát tự trên cao do gió lay cành lá. An gặp chị Thắm bày bán đồ gốm ở gần gốc đa. Chị Thắm ở cạnh nhà An, hàng ngày vẫn sang giếng nhà An xách nước nhưng sao hôm nay trông chị lạ hẳn đi. Có lẽ vì chị mặc áo dài và đi guốc chăng? Hay vì đặt chị giữa cái khung cảnh lạ mà người chị trông cũng lạ đi. Những đồ gốm: ấm, chậu, hỏa lò, lon, vò, cây đèn, v.v… hàng ngày vì quá quen mắt An coi như không có giá trị gì nữa, coi như những đồ chơi vô nghĩa, thế mà người đến xem xét trả giá tấp nập. Chị Thắm đóng vai trò một cách rất nghiêm trang, từ chối rất quyết liệt, thách giá rất chắc chắn. Cái ấm cái chậu bỏ lăn lóc ở xung quanh hè nhà chị Thắm, thỉnh thoàng An lỡ đi vô ý đá phải ngã lăn, nay thấy người mua mặc cả giá từng đồng, móc túi đếm từng tờ bạc để trả và cuối cùng nâng niu xếp lên rổ bưng đi. Tòng nói:

      - Tụi mình ra hàng pháo coi.

      Hai đứa cầm tay nhau đi. Hàng pháo ồn ào nhất nên không mất công tìm. Nó ở cách biệt ra một góc chợ xa những hàng khác vì tiếng nổ không ai ưa, nhất là những người đi chợ hầu hết là đàn bà. Bác bán pháo là một người đàn ông vạm vỡ. Chỉ bán có pháo tre và pháo thăng thiên, bác đựng trong một cặp bồ lớn. Một số pháo bày làm mẫu được dàn trên một chiếc chiếu nhỏ. Người mua pháo bắt đốt thử. Bác tháo ở gắp tre lấy một chiếc pháo, bóc giấy (miếng giấy xanh đỏ dán đè lên ngòi) rồi đặt lên một tấm gạch cách xa bác một sải tay. Bác cầm cây hương cháy châm lên ngòi. Ngòi pháo xì khói, bác quay mặt sang một bên và một tiếng nổ “đùng” rền lên, chát tai. Xác pháo là một vòng nan tre bị cháy xém bay tung lên cao rồi rớt xuống.

      Hàng hoa quả không hấp dẫn bằng ngày thường vì không có những miếng mít múi vàng óng ả, những trái mãng cầu nứt gai chảy mật, những quả ổi thơm, những trái xay, trái sim, trái đát. Hôm nay người ta chỉ bày bán những nải chuối xanh mà chuối xanh thì trẻ con không thích vì không ăn ngay được. Trẻ con không có tính kiên nhẫn đợi chờ. Ngày thường mẹ đi chợ về An lật rổ ra coi mà thấy bí thấy rau thấy cá là An ghét lắm. Kẹo, mít, bánh rán… mới là những món An hoan nghênh. An và Tòng đưa nhau sang hàng thịt cá. Thật đáng thương hại cho những bà hàng này quanh năm phải bán y một món không thay đổi. Áo quần thì đen đủi, món hàng thì tanh tưởi, thật không có một vẻ Tết vẻ xuân nào cả. Chẳng bù với hàng bánh mứt họ bày bán trong những cái quả sơn quang dầu đỏ thắm trông vui như những đám cưới. Các cô bán mứt đều xinh, tóc vấn trần chải dầu dừa láng mượt, áo dài vải trang đầm bó sát người.

      Kề ngang hông chợ là dãy phố Hoa kiều. Đó là tiệm chú Năm Heo và tiệm ông Ngâu. Khách vào ra đa số là đàn ông đi mua rượu, tranh sơn thủy, chén bát, nho táo. Tiệm chú Năm Heo bán thuốc bắc. Những người đến cân thuốc xách đu đưa những gói thuốc bước ra khỏi tiệm, mặt trông buồn giữa cái khung cảnh nhộn nhịp của ngày xuân vui. Chọn ngày Tết để đau bệnh thật là không phải lúc.

      Đi loanh quanh một lát hai đứa đã bắt đầu chán. Chợ ngày Tết khi chưa tới xem thì thấy háo hức là thế nhưng đi lại đôi vòng chúng đã khám phá hết mọi bí mật. Sự thỏa mãn có pha một ít chán chường như khi đọc một cuốn truyện cổ tích được người ta quảng cáo là hấp dẫn nhưng đọc xong một lượt thấy không còn thèm thuồng nữa. An nhìn trở lại khung cảnh chợ. Những dáng người đi lại chen lấn, cúi xuống lựa chọn mặc cả, những tiếng xì xào, ngay cả đến bóng rợp của cây đa cao An đều thấy quen thuộc hết.

      Ngày hăm bảy tháng Chạp chú Ba đi hái lá me và trái me về giã nhỏ ngâm nước chùi đồng. Công việc thật nặng nhọc vì những bộ lư đèn ở ba bàn thờ tổ đều to lớn bề bộn. An cũng xen vào công việc cho vui nhưng chỉ chùi được những cái hộp thau mặt nhẵn. Nắp lư hương có hình con lân con phụng bị chú Ba hắt hủi nhất vì những kẹt khó chùi. Người đầy tớ phải lau dọn săn sóc thật khó có thể đồng quan điểm với người thợ đúc khéo tay và người chủ nhà yêu mỹ thuật. Việc quét nhà cuối năm cũng không kém nặng nhọc. Chú Ba bắc thang leo lên rầm cao, cầm cái chổi có cán dài để quét bụi và mạng nhện ở mái nhà. Chú bịt đầu bằng một cái áo đen cũ. Lúc bước xuống thang, mặt chú mốc thếch vì bụi trông lạ hẳn và như già đi.

      Mẹ lo rim mứt. Hết chảo này đến chảo khác, mẹ ngồi trở mứt, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt dừa… mà không hề la mỏi. Có đêm An mơ màng ngủ mà hễ chợt dậy là vẫn thấy mẹ ngồi cạnh chảo mứt cầm đũa đảo qua đảo lại. Tiếng nước đường sóng sánh. Hình như cả đêm mẹ không ngủ. An nghĩ: chỉ có mình là sung sướng nhất, chẳng phải làm gì hết. Thế mà lại được ăn nhiều nhất. Những miếng mứt vụn An ăn từ hồi còn dẻo. Khi mứt khô vớt ra nia phơi thì An vét chảo ăn đường. Chỗ nào có An là có cặp tay phá khuấy và cái miệng ăn không ngớt.

      Ngày hăm chín gói bánh tét. Lại cũng chỉ mẹ và chú Ba là bận rộn. Những đòn bánh to bằng bắp vế thế mà cũng do mẹ thoăn thoắt sắp lá, đong nếp, đổ đậu xếp nhân thịt, gói, buộc lạt. Chú Ba ngồi cạnh phụ tay. Cha trông vậy mà cũng dở. Cứ đi lên đi xuống ngó chừng và nói vô ích làm mẹ mất công trả lời. Chẳng hạn:

      - Đừng buộc chặt tay quá kẻo bánh không chín đều. Hôm đám giỗ ông nội bánh bị sống …

      Cha bỏ lửng câu thì mẹ nói:

      - Nhớ rồi.

      Chẳng hạn:

      - Còn dư nếp đủ gói một đòn nữa. Thế là một, hai, ba, bốn… đúng mười hai đòn cả thảy.

      Mẹ nghe cha nói, miệng vừa cắn một đầu sợi lạt một tay cầm đầu kia xiết cho chặt vừa đưa mắt nhìn xuống số đòn bánh tét mà cha vừa đếm. Quả cha đếm không sai, nhưng số bánh không nhờ cha đếm mà tăng thêm. Cha chỉ làm được một việc mà An thích: đó là chôn một cột trụ giữa sân để chong cây đèn gương. Có lẽ cha cũng sẽ sai chú Ba đào lỗ chôn nếu chú Ba không bận tay. Cái đèn hình lục lăng, tối thắp lên sáng cả sân, đứng làm bạn với An khi nó phải trèo lên nằm ngủ trên chiếc ván gõ rộng ở nhà trên.

      Những ngày mùa đông, gió mưa lạnh trời tối đen như mực mà một mình nằm ở nhà trên rộng mênh mông thật là cô đơn. Lắm lúc An có cảm giác rờn rợn rằng thân mình đã tan ra để lẫn mất vào bóng đêm. Khổ nhất cho An là khuya chợt thức buồn đi tiểu mà lò mò mãi trong bóng tối không biết cửa ở về phía nào để mở. Trẻ nhỏ nằm ngủ trên bộ ván rộng thì tha hồ mà quay. Đến chừng tỉnh giấc nhắm chừng mò ra cửa nhưng lại cứ đi xông ngược vào bàn thờ. Rờ chỗ nào cũng thấy những bàn những ghế. Sao mà lắm bàn lắm ghế vậy? Đêm nay nằm nhìn ra cửa sổ thấy ánh đèn sáng. An vui quá không muốn ngủ nữa. Ở dưới nhà ngang còn nghe tiếng lục cục của mẹ làm việc. Hồi chiều chú Ba làm thịt một lần hai con gà cồ thiến và ba con vịt. An lẽo đẽo theo đứng một bên để nhìn, An hỏi:

      - Sao giết gà vịt một lần nhiều vậy chú?

      - Chớ mày muốn để sáng mồng Một sát sinh hả? Làm thịt bữa nay để cúng hai bữa.

      An nhìn dòng máu đỏ chảy từ cái vết cắt ở cổ chảy ròng ròng xuống cái bát, nhìn những cặp mắt mở to rồi mờ dần yếu dần cho tới lúc nhắm hẳn. Cái chết đến im lặng, nhẹ nhàng như một trò chơi dễ. An thấy thương hại cho con gà cồ oai vệ, cho con vịt hiền lành. An chép miệng:

      - Tội nghiệp mấy con gà, con vịt hở chú? Chú giết nó không sợ nó báo oán sao?

      Chú Ba quay phắt lại liền:

      - Thằng này dóc tổ. Tao thấy xào nướng bưng lên là mày gắp liền tay. Mày ăn thì nó báo oán mày chớ mắc gì đến tao?

      An thấy chú Ba nói cũng có lý nên định bụng thôi lần này không ăn thịt gà thịt vịt nữa. Nhưng ý định đó An quên ngay khi chú Ba rửa ráy xong bưng rổ gà vịt đi mất và nó thẩn thơ đi tìm xem chuyện khác.

      Sáng mồng Một tiếng pháo nổ rầm rầm làm An choàng tỉnh dậy. Hỏi chú Ba thì là pháo ở tiệm khách Tụn. Nhìn vào bàn thờ thấy đèn sáp thắp sáng trưng và cha đã khoác áo chỉnh tề đứng khấn rì rầm. Trông cha uy nghiêm thật phù hợp với cái không khí nghiêm trang nơi đây. Để tăng thêm vẻ đường bệ, mọi cử chỉ của cha đều chậm chạp: rót rượu, châm nước, đốt hương, sửa nến. Cha đọc từng hàng chữ nho: “Đại Nam quốc, Phú Yên tỉnh, Tuy An phủ, An Sơn tổng…” chú Ba đem pháo tre ra đốt. Chú thích pháo nhưng nhát không dám cầm cây hương đốt mà phải cầm một thanh củi dài có đầu lửa đỏ. Mười tiếng nổ đùng liên tiếp, tiếng nào tiếng nấy bưng tai. Mẹ nói:

      - Pháo năm nay hay.

      An ngạc nhiên. Trông bộ mẹ lục đục suốt ngày như chỉ biết chú ý đến công việc làm thế mà không ngờ mẹ cũng lưu ý đến tiếng pháo vui chơi. Cha tươi cười vì câu nói của mẹ ngầm ý bảo: năm nay làm ăn có hy vọng khá vì pháo nổ chắc tiếng. Cả thôn Quảng Đức chỉ có chú khách Tụn đốt pháo dây còn thì các nhà khác chỉ đốt pháo tre, có nhà mươi tiếng, có nhà ba tiếng, năm tiếng.

      Vừa bảnh mắt đã có mấy tay cầm cái xóc dĩa chia nhau từng chặng trải chiếu trên con đường xóm. Lũ trẻ con bâu quanh liền. Chú Ba bôn chôn ra mặt khi nghe tiếng bốn đồng tiền rủng rẻng của hàng xóc dĩa tổ chức ngay ở góc rào nhà. Chú ham đánh xóc dĩa và ích-xì hơn ăn mứt ăn bánh. Chú cứ đi ra đi vô như người mất hồn. Khổ cho chú hơn nữa là ở ngoài góc rào tiếng lũ nhỏ cứ reo lên :

      - Bán chẵn này.

      - Lạy trời ra cái lẻ nữa đi.

      - Đặt bên chẵn một tiền rưỡi.

      - Lẻ! Lẻ! Coi chừng nhà cái chạy làng.

      Đường cái vang lên tiếng guốc. Nghe tiếng guốc có thể đoán biết được người mang. Tiếng guốc lỏng cỏng gõ vội vàng là tiếng chân của một đứa bé mới tập đi guốc lần đầu. Tiếng guốc chậm chạp thỉnh thỏang dừng lại là tiếng guốc của người mẹ, người chị đi kèm lũ trẻ. Tiếng gõ chắc chắn nện mạnh trên nền sỏi là tiếng guốc của người đàn ông. Con đường sỏi đá gập gềnh làm nhiều đứa nhỏ đi trượt guốc cứ phải tụt lại đằng sau đứng sửa. Lắm đứa đã chán với cái trò chơi đi guốc rồi nên cặp guốc lại cầm ở tay và đi chân đất như thường ngày. Lối đi này thoải mái dễ chịu hơn cả.

      Đường cái rộn rịp nhưng nhà cửa thì vắng vì cửa ngõ cửa ra vào nhà ai cũng đóng im ỉm hoặc mở he hé. Xóm làng thành ra mang một vẻ uể oải giả dối. Vì ở đằng sau cánh cửa đóng là cả một sự hoạt động rộn rịp.

      Gần trưa, cha An tiếp những ông khách lễ mễ trịnh trọng trong những cái áo dài đen và cái quần trắng. Những ông nhà nông mà thường ngày mặt mày không lúc nào khỏi đầy bụi bặm, râu ria tua tủa, áo vải to dày cộm thấm đầy mồ hôi, hôm nay mặc áo quần mới trông trẻ và đẹp ra. Nhưng An không thích nghe tiếng chân ghế kéo chạm vào mặt đất khi khách sắp ngồi và khi khách đứng dậy sửa soạn ra về. Những câu chuyện trao đổi giữa cha mẹ và các người khách cũng vậy. Toàn nói những thứ gì An không hiểu, thế mà họ cũng cười với nhau một cách thích thú thành thật. Những lúc này An tỉ tê theo gợi chuyện với chú Ba. Những điều An hỏi, chú Ba đều trả lời được hết:

      - Sao đánh xóc dĩa, chị Lượm đặt tiền lại quay thành một vòng ở dưới chiếu hở chú? Sao không đặt một ụ như người ta?

      - Hễ nó ngồi bên phía chiếu lẻ mà nó muốn đặt chẵn thì nó đặt tiền quay thành một vòng. Nếu nó để thành ụ, thành đống thì tức là nó đánh lẻ.

      - Sao chị ấy không đặt sang bên chiếu chẵn cho nó tiện?

      - Tại ngồi xa nó với tay không tới.

      - Họ chúc Tết “bách niên dai lão” là sao hở chú?

      Chú Ba vừa nhai miếng cốm vừa nói:

      - “Dai” lão là sống dai.

      An hết thắc mắc, vói tay vào dĩa lấy một miếng cốm ăn theo chú. Đây là phần bánh mứt mẹ sớt vào một dĩa lớn dành cho chú. Trong số những vò, hũ, chum… bỏ trống ở nhà bếp, chú chọn một cái vò để cất dĩa bánh mứt vào đó. Khi đi chơi về, hoặc vào trưa, hoặc lúc khuya, chú mở vò bưng dĩa ra lấy ăn. An chia phần với chú và ăn thấy ngon hơn là khi ăn chung với cha mẹ.

      Ngày mồng Hai cha nói:

      - An có muốn theo cha xuống núi Một thăm ông Cửu Nghiệp không?

      An mừng quýnh trả lời vội vàng:

      - Có.

      Ông Cửu Nghiệp giàu nhất vùng và nhà ông xây hai từng. Suốt một phủ Tuy An chỉ có bà Cửu Phần và ông Cửu Nghiệp là ở nhà lầu mà thôi. Ông là chỗ bạn thân của cha nên mỗi khi đi ra tỉnh tiện đường ông đều ghé nhà. Cha tiếp ở nhà trên, ngay gian giữa. Hôm nay theo cha, An mặc áo dài đen cẩm nhung. Sự trịnh trọng này do một ngẫu nhiên may mắn mà có được. Số là xấp hàng cẩm nhung cha đưa may cắt thế nào mà rốt cuộc còn dư lỡ cỡ một đoạn. Tính toán đủ lối vẫn không có cách nào dùng được cả nên cuối cùng mẹ đề nghị: để may cho thằng An cái áo dài. Đó là cái áo dài đầu tiên của nó. Bước ra đường, An được lũ trẻ trầm trồ nhìn. Hơi ngượng một chút nhưng mà thầm thích thú. Con đường hôm nay không chỉ có những người đi rong chơi mà còn có nhiều người đi làm ruộng. Người ta đã cởi bỏ bộ quần áo mới như còn nuối tiếc nên vẫn cố giữ hoặc một cái quần hoặc một cái áo vải mới. Thân người nửa mới nửa cũ hóa ra màu cũ trông tàn tạ thêm. Cày cuốc ngự trên vai.

      Đi qua khỏi xóm thì tới cánh đồng Hòa Mai. Ruộng đang mùa cày bừa trông thấp hẳn xuống. Vài đám mới cấy, bụi lúa cắm như chân hương vàng vọt. An thường quen mắt với đồng lúa mướt màu xanh, lá lúa gợn sóng hoặc cánh đồng lúa chín vàng hạt lúa nặng làm gục đầu thân lúa nên trông cánh đồng hôm nay có vẻ trần truồng. Con đường ruộng, từng chặng, nhầy nhụa những khối bùn do các cô thợ cấy ném lên khiến An phải đi rón rén cẩn thận. Đưa mắt nhìn quanh sang các xóm làng bao quanh cánh đồng, An thấy chỗ này chỗ kia có từng đoàn người đi, màu áo đen trên điểm nón trắng. Thỉnh thoảng nhô lên cái ô đen. Nó lẩm nhẩm lẫn lộn không biết đó là Hòa Tú hay Hòa Chiểu, phía kia là Hà Yến hay Trường Xuân. Cha chỉ một xóm trước mặt, nói:

      - Núi Một kìa.

      Đó là ngọn núi thấp nằm dài, mình mang đầy cây cối xanh um. Dưới chân núi các nông trại chia nằm rải rác từng nhóm. Theo tay cha chỉ, An chú ý nhìn vào khu vườn nhà ông Cửu Nghiệp xanh um màu tàu chuối tàu cau. Thân cau trắng mốc đứng vươn lên thành hàng song song. Nỗi vui được thấy cảnh lạ làm An quên nghĩ đến con đường còn lại phải đi. Thoáng mới đó mà đã giã từ con đường ruộng để bước lên con đường đá đánh vòng đai núi Một. Những bụi gai thấp, những chùm táo nhơn thưa, những thân chuối rậm rạp xanh mướt trông quen thuộc.

      Bước vào vườn chuối, An thấy êm mát vì ánh sáng lọc qua lá chuối non đổ xuống xanh xanh. Thân chuối bụ bẫm đứng cao vút như muốn vượt theo thân cau. Ở vườn nhà, chuối thấp hơn và thân cau cũng gầy hơn. An nghĩ thầm: “Cái gì của ông Cửu Nghiệp cũng oai”. Những cây mít mang trên mình đầy trái. Trái lớn quây quần dưới gốc còn rải rác trên thân cây là những trái hạng vừa nằm thưỡn dài trông như những cái vú chảy. Bưởi cam cũng không thiếu. An thèm thuồng cái địa vị của người con ông Cửu Nghiệp được sống giữa những món ăn ngon này. Sao ở nhà nó lại chỉ có toàn những lúa và nếp thế? Có lần nó thỏ thẻ so bì với mẹ:

      - Nhà con Bông làm kẹo nên nó sướng hơn con. Kẹo bể là nó ăn. Véo chỗ kẹo dẻo nào cũng bỏ vào miệng được. Nhà mình thì chỉ toàn lúa nếp. Lúa ăn không ngon. Sao mẹ không làm nghề kẹo có sướng hơn không.

      Mẹ cười mà không trả lời.

      Tiếng chó sủa ồ ồ làm An giật mình. Tiếp theo, tiếng sang sảng vang trong nhà:

      - Có đứa nào ra coi chó, bay.

      Đúng là tiếng của ông Cửu Nghiệp, giọng chậm rải của người giàu không cần vội vàng. Người ở là một anh lực điền ra mở cổng. Ba con chó cao to như ba con bê nhảy xồ ra khiến An bấu vào áo cha. Cha vẫn đứng yên nhìn vào anh lực điền đang lấy tay gãi sau ót lí nhí thưa:

      - Dạ thưa thầy xuống dưới này.

      - Ờ! Có ông Cửu ở nhà không?

      - Dạ có.

      Cha ung dung bước vào khiến ba con chó đứng dạt ra. An bước theo, lây cái can đảm của cha. Ông Cửu Nghiệp ra đứng trước hiên vái chào. Ông đội khăn nhiễu đen, mặc áo xa-tanh màu lam dệt bông to, chân đi giày Gia Định. Cha cúi xuống chắp tay vái trả lại. Ông Cửu quay lại xoa đầu An và nói:

      - Con đi xa có mỏi chân không? Để bác mừng tuổi cho con.

      Ông móc túi lấy một cắc bạc trắng tinh đặt vào lòng bàn tay An. An lúng túng không biết nên làm sao. Chợt nhớ tới cha và ông Cửu chào nhau lúc nãy, nó chắp tay cúi xuống vái. Lát sau khi đã bình tĩnh lại nó thấy ngượng vì cái vái vô duyên. Đáng lẽ phải nói “Con cám ơn bác”.

      Cha và ông Cửu ngồi ở một cái bàn tròn trên xếp đầy những đồ dùng mà thoáng nhìn An đoán là rất quí, rất đắt tiền. Bộ bình trà có chạm rồng nổi mạ vàng. Ve rượu bằng thủy tinh trong suốt có một cái bầu rất thon và cái vòi nhỏ uốn cong dịu dàng. Ly rượu toàn viền vàng. Cái điếu thuốc lào khảm xà cừ với cần trúc uốn dài cong vút. Hộp trầu, khay kỷ, dĩa bánh mứt, tất cả đều choáng lộn hoặc màu xanh đỏ óng ánh xà cừ hoặc màu vàng quí phái hoặc màu trắng muốt nõn nà. An ngồi ở cái trường kỷ tay mân mê những chỗ chạm trổ hình rồng hình phụng. Quả hồng tàu ông Cửu cho, nó nắm mà không ăn. Nó cứ đưa mắt nhìn cái nhà rộng thênh thang với cái trần cao trong bày biện toàn những đôn, lọ, sạp, ghế. Nó nhìn lại ông Cửu thấy ông bé quá so với cái nhà. Để che nắng che mưa chắc chắn ông Cửu không cần một cái nhà to như vậy. Nó chợt thấy khâm phục con người nhỏ nhắn mà có thể tạo tác ra một công trình to lớn dường ấy. Ở đằng bàn tròn, ông Cửu và cha chuyện trò tương đắc. Khói thuốc tỏa ra bao vây chỗ hai người khiến trông họ như ngồi sau đám sương mờ mờ đục.

      Khi cha đứng dậy cáo từ, ông Cửu nài ở lại nhưng cha lấy cớ ngày Tết có khách đợi ở nhà nên không chịu. An lãnh thêm hai trái cam ông Cửu cho, cúi đầu chào và theo bén gót cha. Ông Cửu đi tiễn đến mãi đầu đường mới trở lại. Khi còn lại hai cha con, An nói:

      - Cha hẹn cho con coi lầu ông Cửu Nghiệp mà con không thấy lầu đâu cả.

      - Thì nhà lầu đó.

      - Nhà lầu gì vậy? Phải leo lên trên lầu mới gọi là lầu.

      - À quên! Tao tưởng mày biết rồi. Nhưng mà… cũng vậy đó thôi, cũng như hai cái nhà chồng lên nhau.

      Về đến nhà đôi chân An mỏi nhừ. Tuy vậy nằm nghỉ một lát rồi An lại nhập bọn với lũ trẻ và như thế là ngày mồng Hai nhẹ nhàng trôi qua. Mồng Ba cũng vậy. Ngày mồng Bốn cúng tiễn ông bà. Giấy tiền, giấy vàng bạc chất đầy nia to, chú Ba vừa đốt vừa nheo mắt tránh khói khiến cái miệng méo xệch. Chú lấy một xấp giấy vàng bạc phết hồ lên lưng từng tờ đem dán vào cái cối xay, cái cối giã, mấy cái chày, cái thúng, cái giếng, cái ngõ, cây mít… không biết có qui chế nào ghi rõ món nào phải dán không nhưng cứ xem vẻ mặt của chú khi cầm tờ giấy vàng bạc dính đầy hồ đứng lưỡng lự trước chuồng heo và cây ổi là An đâm nghi. Hình như chú phải kiếm cho ra món để dán kỳ hết xấp giấy vàng bạc. Được tờ giấy vàng bạc dán lên mình, mấy đồ vật tầm thường như có thêm linh hồn và đang dự vào một cuộc sống huyền bí. Trong lễ cúng tiễn, bao nhiêu pháo còn lại đều đốt hết. Bảy, tám đòn bánh tét cũng đem chất đầy ghế. An nhìn ánh lửa thiêu vàng mà bùi ngùi. Phải một năm sau mới gặp trở lại, một năm trọn vẹn vì cuộc hành trình mới vừa khởi đầu. An thấy buồn chán nản.

      Tuy vậy, tháng ngày cứ nhẫn nại và lặng lẽ đi qua, như một lũ nhỏ cầm tay nhau đi vòng, đi mãi rồi thế nào cũng gặp lại chỗ cũ. An lớn lên dần và cái thôn Quảng Đức cũng già nua dần đi. Những ngày Tết nối tiếp nhau theo cái tốc độ chậm chạp của nó nhưng khi ngoái nhìn trở lại trong dĩ vãng, tính nhẩm số tuổi thì An lại thấy chúng đi mau. Mỗi lần Tết đến hoa cúc vạn thọ lại nở trước sân nhà, tiếng đồng tiền xóc dĩa lại rủng rẻng khắp ngõ xóm. Ngồi lần lại ký ức, An thấy yêu mến hết sức cái Tết năm đó An theo cha xuống thăm nhà ông Cửu Nghiệp. Ông Cửu Nghiệp là hình ảnh của sự sung túc, của cuộc đời an nhàn lý tưởng trong những ngày bé thơ của An. Sau đó chừng mười năm khi An lớn lên và phải đi học xa. An sống xa dần cái khung cảnh êm đềm ngày xưa và những người quen thuộc cũ. Một lần đột nhiên hỏi về ông Cửu Nghiệp, An nghe cha nói một cách bùi ngùi:

      - Ông Cửu về ở trên Đồng Tranh từ năm kia. Nghe nói bây giờ túng lắm. Bà Cửu phải làm hàng xáo.

      An tự xét:

      - Ông Cửu giàu như vậy mà sao lại nghèo mau vậy?

      - Vì mấy vụ kiện vẩn vơ, chuyện tranh giành ruộng hương hỏa tuyệt tự đáng lẽ có thể thu xếp ổn thỏa nhưng vì tức khí lại bị hương lý và lũ nha lại xui nguyên giục bị nên cứ theo kiện mà sạt nghiệp.

      - Còn cái nhà lầu?

      - Sở vườn đem thục để chạy kiện rồi đoạn mãi luôn. Cái nhà lầu bán cho chú khách Lê ở Hàng Dao. Ông Cửu phải về ở trên Đồng Tranh là quê của bà Cửu.

      An buồn như nghe tin chẳng lành xảy đến cho người thân thích của mình.

      Ngày chiến tranh bùng nổ, cái nhà lầu của ông Cửu Nghiệp bị phá hoại. Vôi gạch đổ xuống từng đống. Nền xi măng chú khách Lê cho người ta gặt nhờ để đạp lúa. Mỗi ngày gặt, được một giạ lúa cho thuê sân. An ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời ấu thơ êm đềm nay không còn nữa, có còn chăng cũng chỉ ở trong cái ký ức bề bộn của chàng thôi. Lâu lâu khi có dịp, An ra đầu xóm đứng nhìn về chân núi Một. Chòm lá chuối lá cau xanh ngắt của vườn ông Cửu Nghiệp còn đó. Những thân cau vẫn một màu trắng mốc đứng vươn lên từng hàng song song. An tưởng tượng thấy ở nơi cái vườn sum sê hoa lá ấy những con chim sẻ vẫn say mê mổ thóc rụng, những con chích chòe vẫn nhí nhảnh chuyền trên cành lá lục lọi tìm sâu, những con chiền chiện vẫn mải miết tước lá cau lấy sợi về làm tổ. Ở dưới các con mương nhỏ mọc đầy khoai môn khoai sáp, lũ cá sặt cá rô vẫn tinh nghịch đớp mồi và lũ châu chấu cào cào vẫn xòe cánh mỏng màu lúa non mà bay sè sè trong nắng. Sự sinh hoạt của cảnh vật vẫn bình thản êm đềm, nhưng còn đâu nữa ông Cửu hào hoa và ngôi nhà lộng lẫy?
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:09:47 bởi hai1957 >
      #3
        hai1957 18.11.2012 09:13:30 (permalink)
        4. LÁ VẪN XANH


        Ngày này sang ngày nọ túi bụi vì công việc, chỉ thỉnh thoảng có một ngày chủ nhật rảnh, gặp một vài người bạn quen nói chuyện bâng quơ, thế mà cũng đủ để Phương phải nghe một tin không chút gì lý thú: tin tận thế.

        Tin phát ra từ cuối năm 1959 và được nhiều người biết là vào dịp Tết Canh Tý 1960. Tết là dịp người ta chúc nhau khỏe mạnh, giàu sang và sinh đẻ sai. Tiếp theo là uống rượu mùi, hút thuốc lá thơm và nhá hạt dưa. Nhưng nếu chỉ làm có bấy nhiêu việc đó thì phiền lắm, phiền cho chủ nhân cứ phải nhìn mãi ảnh mình treo trên vách, phiền cho khách cứ từng chặp lén ngó đồng hồ tay. Không, người ta phải kiếm chuyện nói cho đầy ít nhất là mười lăm phút xã giao. Mọi câu chuyện hợp thời được bới ra, trong đó có câu chuyện bức thư ở Pha-ti-ma (Fatima) tiên đoán vận mệnh của trái đất, của nhân loại. Người đầu tiên nói cho Phương nghe tin này là một ông bạn có tuổi:

        - Không khéo chúng ta nguy cả.

        Vốn không có tính tò mò nên Phương chỉ mở to mắt ngồi đợi ông bạn tự ý nói tiếp câu khai mào bỏ dở:

        - Năm 1959 đúng là năm Giáo hội mở bức thư tiên tri ở Pha-ti-ma.

        Phương nhìn lên tấm lịch treo tường.

        - Chúng ta hiện ở vào tháng Giêng 1960 rồi. Chắc bức thư đã được mở rồi.

        - Chắc đã mở rồi nhưng chưa thấy công bố nội dung. Chắc hẳn có những sự đáng lo ngại cho vận mệnh nhân loại.

        - Chắc hẳn.

        Phương đáp lại như một tiếng vang. Thấy chàng không có ý sốt sắng dự đoán và tưởng tượng, ông bạn già lặng lẽ nhấp nước trà và lặng lẽ hút thuốc.

        Ấy thế mà sang ngày Tết lại chính Phương là người hay nhắc đến bức thư tiên tri này nhất. Chàng còn hăng hái lý luận dự đoán nữa. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học nguyên tử, sự chạy đua vũ trang của thế giới, những cuộc biểu tình, những bản kiến nghị yêu cầu đình chỉ thí nghiệm nguyên tử của các nhà khoa học và của các dân tộc văn minh khiến Phương nghĩ đến vận mệnh của thế giới một cách bi quan và thế là chàng tự ý giải thích bức thư tiên tri theo quan điểm bi quan của chàng. Những người nghe đều gật đầu suy ngẫm. Ít có vấn đề nào lại khéo gây sự đồng ý bằng vấn đề này. Không ai phản đối hết. Vì tận thế là chết cả, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn tất cả đều chết một cách bình đẳng. Không còn ai được quyền thương hại ai và lẽ tất nhiên là khỏi có ai phải bực mình vì bị người khác thương hại dùm. Thật là bình đẳng đến mức lý tưởng. Khi biết chắc không có ai được hưởng đặc quyền sống sót, mọi người cam chịu tận thế một cách bình tĩnh, bằng lòng. Nhưng... may thay, đó chỉ là những ức đoán vừa có vẻ thật, vừa có vẻ không, có điều là vừa đủ để vui câu chuyện trong ngày xuân. Chứng cớ là khi bắt tay giã từ, chủ và khách vẫn long trọng chúc nhau một lần nữa:

        - Ngồi nói chuyện với bác thế mà đã lâu rồi, không dám quấy thì giờ bác nhiều hơn. Thôi thì lại xin kính chúc bác một năm đại phát tài, thăng quan tiến chức…

        - Dạ, cảm ơn bác. Cũng xin kính chúc bác và quí quyến một năm mới thọ phúc khang an.

        Quả thật vậy, câu chuyện tận thế, cuối cùng vẫn chỉ là câu chuyện.

        Những ngày xuân êm đềm và thong thả qua đi, mang theo đi luôn những ước mong, những niềm tin dễ dãi. Cuộc sống bận rộn lại lôi kéo Phương vào một nhịp quay cuồng khiến chàng nhiều hôm quên cả bóc tờ lịch trên tường. Lặn hụp trong sự sống, quay cuồng theo sự sống, sống theo thói quen, nhiều lúc sống một cách vô ý thức khiến đôi khi ngồi bình tĩnh nghĩ lại chàng đau xót thấy rằng mình đã quên là mình đang sống. Và như thế là cái tin tận thế đã được đẩy lui vào dĩ vãng nếu một buổi chiều kia, chàng không tiện chân ghé vào nhà một chị bạn, chị Dung. Chính chị Dung ra mở cổng. Vừa bước trở vào phòng khách thì một mâm cơm ăn nửa chừng làm chàng hoảng hốt dừng lại. Dù là gia đình quen, quen đến cái độ coi như bà con, Phương cũng thấy ngượng vì mình đến thăm không nhằm lúc. Bữa cơm ăn dở dang trông hỗn độn như một bãi chiến trường, nhất là bãi chiến trường ấy lại diễn ra ở trên chiếu, giữa phòng khách. Thật vô tình mà đến ba, bốn tầng bất ổn đã kết hợp lại trong sự tổ chức cuộc ăn chiều này, ăn quá sớm so với thường lệ. Bà cụ má chị Dung giục chàng bước vào:

        - Cậu Phương vào tự nhiên. Mời cậu ngồi ở xa-lông nói chuyện.

        Chị Dung cũng tươi cười mời:

        - Anh ngồi chơi. Bà con ở trong nhà mà. Trời nóng quá, bà má bày đặt ăn cơm trên chiếu.

        Phương lật đật an ủi chị:

        - Đó cũng là một cách trở bữa chị Dung ơi! Thay đổi chỗ ngồi cũng làm cho mình ngon miệng như là thay đổi món ăn vậy.

        Bà cụ không muốn dài dòng, đâm ngang câu chuyện một cách thực tế:

        - Lũ nhỏ này, - cụ chỉ sáu đứa cháu nội ngồi la liệt trên chiếu, - chúng nó ồn ào quá. Ngồi vào bàn ăn thì đứa kéo ghé, đứa giựt khăn bàn, đứa chồm lên, đứa làm đổ canh, đứa hụt chân ngã, phiền mình, khổ mình. Đem dọn “cha” nó xuống đất cho rảnh việc.

        Phương cười to, cười ngon lành vì lối nói không kiểu cách của bà cụ. Lũ nhỏ lây cái không khí cởi mở tự nhiên, đã trở lại ồn ào, nhai cơm, húp nước canh gõ đũa vào chén, hít mũi, nói chuyện. Nhưng chị Dung thì hình như vẫn chưa tìm lại được sự tự nhiên. Chị và một miếng cơm quá nhỏ, nhai cơm mà không gắp thức ăn. Chị nhìn ra sân nheo nheo mắt. Một tay cầm đôi đũa chống hững hờ vào giữa bát cơm. Như chợt nghĩ ra một điều gì vừa ý, chị quay sang Phương:

        - Lũ nhỏ này lộn xộn quá, anh thấy không? Thật là điềm tận thế mà.

        Thằng cháu Thạnh chừng chín tuổi, lè nhè cướp lời:

        - Cô giáo con cũng mới bảo là sắp tận thế đó, cô Năm ơi. Ghê lắm.

        Chị của Thạnh, bé Điềm góp ý liền:

        - Mấy đứa bạn của tao, con Gái, con Nga, thằng Ánh cũng nói sắp tận thế.

        Bé Tuyết ngậm một miệng cơm đầy, lúng búng nói:

        - Thầy giáo con…

        Thằng Căn, đũa còn khuấy trong bát canh chưa quơ được một miếng thịt vừa ý, ngửng mặt lên:

        - Bà nội à, anh xích-lô chở con đi học nói rằng tới ngày tận thế thì…

        Bà cụ nạt lên một tiếng:

        - Thôi im đi, tụi bay nhỏ.

        Nghe tiếng nạt, lũ nhỏ gác bỏ thắc mắc cúi xuống lầm lũi ăn. Bà cụ quay lại phía Phương:

        - Ai cũng nói đến ngày tận thế. Cậu Phương có sợ tận thế không?

        Thật là khó trả lời vì chàng chưa hề cân nhắc kỹ xem bên sợ và bên không sợ bên nào nặng nhẹ hơn.

        Chị Dung đỡ lời:

        - Bà già hỏi ngộ quá. Sao lại không sợ?

        Phương thấy rằng chị Dung có lý. Ừ, sợ chớ sao không sợ. Nói quách như chị Dung có phải tiện không và có phải thật thà hơn không? Sao lại tránh nói sợ khi ít nhiều mình cũng sợ thật?

        Chị Dung tiếp:

        - Kinh Thánh có dạy rằng khi Quỷ Vương ngự trị, khi dân Do Thái lập quốc, khi trên trời có những điềm lạ, đó là lúc tận thế.

        - Tận thế nghĩa là hết sống. Chết thì càng khỏe chớ sao. Khỏi phải bận tìm kế sinh nhai.

        - Nhưng chết đâu có êm ái như anh tưởng. Thiên tai xảy dồn dập. Nơi này núi lửa phun lên, nơi kia sóng thần cuồn cuộn tràn vào thành phố, nơi khác động đất…

        Như được khơi nhằm mạch, óc Phương nghĩ ngay đến những thiên tai chàng đã thuộc lòng lúc đi học, những quang cảnh chàng đã từng tưởng tượng thấy: trái đất nứt ra, người vật nhà cửa đổ nhào xuống rồi đất khép lại…hỏa sơn phun khói phun tro đầy trời và tro rơi ngập cả thành phố làm chết ngạt người trong đó. Rồi sét đánh, rồi mưa lũ, gió to, nước dâng vân vân… Khắp nơi, tiếng người rú lên kinh khủng, tiếng kêu gào đau xót, tiếng khóc thảm thương trong khi Tạo hóa hoặc như vô tình, hoặc như phẫn nộ, lần lượt gieo các tai họa xuống. Các tai họa lúc thì diễn ra một mình, lúc thì đồng diễn phụ họa, lúc thì theo nhịp thong thả, lúc thì rộn rã tới tấp, nhân loại sẽ có cảm tưởng như đang dự một cuộc đại hợp tấu mà các mục trong chương trình được tuần tự trình bày.

        Lúc giã từ chị Dung và bà cụ, Phương nhận những lời chào mời mà hơi thẫn thờ không để ý. Những tiếng thưa của lũ nhỏ “Thưa chú đi về…Dạ thưa chú…Chú đi về ạ…” ồn ào và có pha nghịch ngợm chỉ được chàng trả lời bằng giọng “ừ…ừ, chào mấy cháu” hết sức là hình thức. Vì ra đến ngoài đường mà những tiếng gào khóc, tiếng sét nổ, tiếng gió rít và tiếng nhà đổ, cây ngã, tiếng nước réo như vẫn quay cuồng trong óc chàng. Đến góc phố Nguyễn Hoàng - Lê quý Đôn, xe chàng suýt đâm vào hai chiếc xe đạp đi ngược chiều. Sắp sửa cáu vì mình đi đúng luật lệ, chàng chợt mỉm cười khi người đi xe đạp trái luật quay lại chào chàng. Đó là hai thiếu nữ lạ mặt nhưng đẹp. Hai màu áo đỏ giống nhau. Hai mái tóc ngắn giống nhau. Thế là từ đó trên đường về, chàng không còn nghe tiếng gào khóc, tiếng sấm sét nữa mà chỉ còn văng vẳng tiếng nũng nịu. “Xin lỗi ông, ông có làm sao không ạ”. Và thay vì những ánh sáng của chớp giật, ánh trăng đỏ máu hay bóng tối ngập trời, chàng thấy màu răng trắng giữa hai khuôn môi tươi và ánh mắt long lanh ướt.

        Một lần nữa, câu chuyện tận thế vẫn chỉ là một câu chuyện.

        Thì bỗng một buổi trưa nọ ngồi giở tờ báo hàng ngày, Phương đọc nhằm một tin vặt:

        “Sáng 7-7 tại hẻm nhỏ ngang đường Mạnh Tử (Chợ Lớn) có bà lão bán guốc vì nghe người ở nhà đọc báo bàn luận về tin một nhóm thiên văn gia Ý đại lợi tiên đoán vào ngày 14-7 là ngày tận thế nên nghe xong bà lão bỗng tái mặt rồi té bất tỉnh tại chỗ”.

        Chàng quay lại hỏi con:

        - Hôm nay mấy tây rồi bay?

        Thằng Đức nhanh nhẩu đáp:

        - Mùng chín.

        Bé Ngân tụt xuống ghế đi lên phòng khách. Rồi từ trên ấy tiếng Ngân vang lên:

        - Mùng chín ba à, mùng chín.

        Đức hỏi:

        - Chi vậy ba? Ba hỏi chi vậy?

        Phương quay lại nhìn con. Trên nét mặt con chàng thấy có một vẻ gì háo hức. Hình như chúng đợi một tin gì vui, chẳng hạn chúng sắp được dẫn đi xi-nê, chàng sắp đưa chúng đi mua áo hay mua dép, hoặc có tin ông bà chúng ở Lò Gốm sắp vào thăm. Chàng nhìn con giây lâu, so sánh cái tin dữ dội kia với những cặp mắt hiền lành, với tâm hồn tin tưởng ngây thơ của con. Chàng ấp úng:

        - Ba hỏi cho biết vậy thôi.

        - Không phải. Ba nói dối con. - Đức phụng phịu.

        - Không, ba nói thật đấy.

        Để tránh khỏi nói dối con nhiều nữa, chàng giục:

        - Thôi, mấy đứa con học bài đi.

        Chàng chăm chăm nhìn con, óc loay hoay với cái tin vừa rồi. Tận thế. Chàng lẩm nhẩm: Còn năm ngày nữa. Ừ, thật không ngờ cái tin kinh khủng này lại đến mau vậy. Từ hồi còn nhỏ đi học, chàng đã nghe người ta chuyền miệng cho nhau rằng năm 2000 sẽ tận thế. Có đại hồng thủy. Và trước sau không biết đến mấy lần chàng đã nhẩm tính xem đến năm 2000 mình được bao nhiêu tuổi. Thấy lúc ấy mình đã không còn trẻ nữa, chàng yên tâm không băn khoăn, không tiếc rẻ. Nay bỗng nhiên án tử hình được tuyên bố đột ngột. Đang làm ăn lương thiện, con người chợt được tin mình phải tội chết và chỉ trong năm ngày nữa là bị đem ra hành hình. May thay, tin đó có nhiều hi vọng là tin thất thiệt. Nhưng biết đâu? Ừ nhỉ, nhưng biết đâu? Trái đất chỉ là một hạt bụi bay lửng lơ trong vũ trụ cơ mà. Mà hạt bụi thì đâu có thể đòi hỏi cái quyền tự mình viết lịch sử cho mình? Huống chi là con người, quá nhỏ so với cái hạt bụi đó. Ồ, chúng ta thật y như là một bầy kiến cận thị, vui vẻ, ồ ạt, tin tưởng, lục cục mang những mẩu cơm, mẩu bánh, cánh dế, chân sâu để về cất trong tổ. Lũ kiến, chúng hẳn đã thảo luận cùng nhau những chương trình xây dựng tổ, chương trình tiết kiệm để qua mùa đông, chương trình phòng vệ. Chúng hẳn đang sung sướng vì nếm trước hạnh phúc ở đầu kia chương trình. Chúng đâu có ngờ đến cái bàn chân của một đứa bé tinh nghịch đứng gần đó sắp sửa giáng xuống, chà qua chà lại, biến chúng và cả họ hàng chúng thành một cục nhầy nhụa viên tròn, biến lịch sử của chúng - sao lại không gọi như thế được, - thành một chuyện huyền hoặc. Ôi! Lịch sử của con người sau ngày tận thế cũng vậy. Ai có thể tin rằng trái đất hoang vu kia đã từng là cái nôi và là ngôi mộ của hằng hà sa số con người? Rằng nơi đó con người đã xây dựng hạnh phúc và nuôi dưỡng thù hằn? Còn ai tranh giành nhau nữa không, một rẻo đất, một góc vườn? Đất rộng mênh mông đầy dẫy ra đó. Còn ai tự hào hay ganh tị vì sự chiếm hữu của mình hoặc của người khác nữa không? Xe cộ bỏ không đó, lâu đài hoang lạnh đó, vàng ngọc vung vãi ra đó bên cạnh đá sỏi. Những con gà, con vịt, nói chung là chim chóc, những con bò con cừu, nói chung là gia súc, sinh sôi nẩy nở không hạn chế đi lang thang tự do, không còn là đối tượng thèm muốn, tranh giành, cướp giấu của con người nữa. Và cây cối! Cây cối không bị hạn chế sức phát triển, sẽ khỏi phải tuân theo trật tự do ai định hết. Những cây cỏ dại được dịp để lấn áp những cây kiểng, những cây xưa nay được loài người chăm sóc nâng niu. À, nhưng rồi sẽ diễn ra một cuộc trả thù ghê gớm đây. Những con vật, những cây cối được loài người bảo vệ sẽ bị các con vật, cây cối mà loài người vốn thù ghét, hành hạ trở lại. Ồ! Những con gà, vịt, bồ câu… sẽ không được tự do sung sướng nữa đâu mà chúng bị mèo, chồn sát hại. Bụi tùng bụi cúc không bị cắt xén, uốn theo hình phượng hình lân nhưng sẽ không kịp hớn hở mà đâm chồi tự ý vì những bụi gai bụi cỏ tràn lên ăn hiếp. Phương không ngờ rằng sự lý luận, sự tưởng tượng lại mau dẫn chàng đến một ngõ kiệt như vậy. Té ra sau cuộc tận thế, thoát khỏi bàn tay và khối óc chinh phục của con người, các sinh vật vẫn không tìm thấy tự do, tự do triệt để. Chàng thất vọng. Như một chiếc phi tiễn muốn vượt không gian mà vẫn bị sức hút của trái đất kéo lại, trái đất to lớn luôn luôn có mặt để nhất định không buông thả một ý chí nào muốn vượt khỏi quyền hạn của nó, chàng thất vọng. Sự thất vọng to lớn và thành thật đến nỗi tới đây, chàng không còn biết rằng mình đã suy tư bắt đầu từ điểm nào. Khi nhớ lại rằng mình đang phải đối diện với cái Chết, cái Chết rùng rợn mặc dù là đại đồng, cái Chết sẻ đến đúng kỳ hạn, chàng tự trách là mình nghĩ vẩn vơ vô ích hết sức. Điều đáng cho chàng phải lo nghĩ là nên có thái độ như thế nào. Chàng vừa loay hoay tìm thái độ thì con chàng đã nhẹ nhàng nhắc:

        - Một giờ rưỡi rồi đó ba. Sao ba chưa đi nghỉ?

        Chàng vâng lời chức năng, bỏ tờ báo xuống bàn bước vào phòng riêng.

        - “Còn năm ngày nữa - chàng vừa lê dép vừa tự nhủ - chưa gấp phải định thái độ”.

        Những ngày sau, chàng hay lưu ý xem phản ứng của những người chung quanh đối với tin tận thế đã loan trên báo. Mặc dù bản tin chỉ chiếm nhu mì có mấy dòng và được xếp bằng chữ nhỏ nhưng chàng chắc chắn rằng nhiều người đã loan truyền đi rồi. Mấy khi tờ báo đăng một tin có liên quan đến nhiều người như vậy? Nhưng sao sự sinh hoạt hình như không có gì thay đổi. Người nào cũng chăm chăm đi về cái hướng của mình định đến, vượt lên những kẻ chậm chạp hơn họ. Các hiệu ăn vẫn đông khách hàng. Cả đến những hiệu uốn tóc. Xe đạp vẫn trôi cuồn cuộn trước các trường học. Những chiếc xe nhà binh vẫn gầm thét hiên ngang. Chàng không biết nên thương hại những người vô tư kia không? HoÏ có giống những con kiến mà mình đã lẩn thẩn nghĩ bữa trước không? Hay là họ khinh ngay cái nhóm tiên tri ngớ ngẩn của xứ Ý-đại-lợi mà không thèm tin? Thật là nát óc khi muốn tìm một câu trả lời thỏa đáng. Chàng đành chỉ xét đến trường hợp của riêng mình. Nếu có tận thế thật thì trước hết mình cũng không tiếc gì lắm. Cuộc đời sướng khổ đã nếm qua, chàng không thấy háo hức nữa. Có bốn ngàn bạc nợ bà Ngọc chàng chưa trả. Chết khỏi trả nợ không phải là điều mừng vì trước hay sau gì chàng cũng định trả đầy đủ cho người ta. Bạn chàng vay hai ngàn bạc đã hơn một năm nay, muốn vỗ nợ nên cố tránh mặt, lì không trả. Chàng đã mấy lần muốn viết thư mắng cho một trận rồi bỏ luôn nhưng may là rốt cuộc chàng đều nhịn không viết thư. May lắm, vì nếu viết thư mắng thì được gì? Có điều đáng để tiếc nhất là dành dụm được ba trăm ngàn đồng bạc mà bây giờ sắp không dùng đến được. Đó quả là một sự ân hận. Đáng lẽ mình đã tiêu pha cho hết, mắc nợ thêm vài trăm ngàn rồi hãy tận thế. Làm ăn chí thú và lương thiện quả không phải là thượng sách trong cuộc sống có hi vọng kết thúc bằng tận thế. Chàng muốn chuộc lại sự lầm lẫn của mình. Phải sống bất lương! Chàng có trước mặt hai ngày nữa. Thật chả bõ. Tuy vậy chàng cũng thử tìm xem mình có thể sống bất lương như thế nào. Lừa đảo? Nhưng lừa đảo để làm gì nữa trừ phi để muốn được chết cạnh một triệu bạc chẳng hạn như một thằng khùng. Ăn chơi phóng túng? Không chắc đã sung sướng khi óc mình không thoát sự ám ảnh của cái Chết. Nhưng xét cho kỹ, ăn chơi phóng túng có nghĩa là làm gì? Là cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện và đĩ thõa. Bảo rằng phải vội vã đi đánh bạc cho thỏa thích để mà chết là một chuyện ngớ ngẩn không ai có thể nhịn cười được. Còn uống rượu thì được bao nhiêu? Tửu lượng của chàng không quá một chai bia mỗi lần, sự hoang phí không quá mười lăm đồng bạc thì nói đến rượu chè chỉ là một sự mỉa mai lớn. Thuốc phiện thì chàng chưa tập hút. Những món say sưa gây được bệnh ghiền mà chàng từng nếm như rượu, thuốc lá, cà-phê, lúc mới tập đều cho ta cảm giác khó chịu hơn là thích thú. Thuốc phiện chắc cũng thế. Vậy không điên rồ gì mà đi mua những cảm giác khó chịu khi không chắc sẽ được nếm những thích thú sẽ đến sau. Đĩ thõa có lẽ là cái thú dễ dàng hơn hết. Nhưng cũng chưa chắc. Tìm một người đẹp vừa ý mình mà lại bảo là dễ dàng? Tiền dễ tạo hơn là tình nhiều. Đồng tiền không hề chọn người tạo ra nó. Xấu hay đẹp, ngay hay gian, thông minh hay ngu xuẩn không phải là tiêu chuẩn mà đồng tiền nhắm. Chớ tình yêu có con mắt hơn, đòi hỏi nhiều điều kiện hơn. Ồ! Té ra muốn chơi bời phóng túng cũng không phải là một việc dễ dàng. Sống cuộc đời đạo hạnh ai cũng khen vì ai cũng cho là khó, nhưng sống trái lại, sống trụy lạc, sống bê tha, sống điêu xảo nào đã dễ chi?

        Tóm lại, cứ theo cái đà lý luận này, Phương đã sống cuộc đời rất bình thường cho đến ngày mười ba tháng bảy. Trưa hôm đó, chàng nhìn lũ con ăn uống ngon lành mà thương hại. Có lẽ nên cho chúng biết rằng ngày mai là tận thế đi. Để chúng tùy nghi mà sửa soạn lấy. Có thể lắm chớ, trẻ con cũng có những băn khoăn riêng của chúng, những nếp tâm tư mà người lớn không hiểu được. Nhưng nên nói thế nào cho chúng đừng sợ hãi đây. Thằng Đức nhút nhát hơn cả, cứ mỗi lần nghe xe chữa lửa rú lên là nó cứ xanh mặt lại. Sét nổ cũng là một mối lo âu của nó. Cả chị Hai, chị bếp nữa. Cũng cần cho chị ấy biết kẻo lỡ cuộc tận thế kéo dài chị ấy có đủ thì giờ để trách mình sao không cho biết trước. Riêng đối với chị này thì phải cho biết khéo léo thế nào để chị đừng rối trí đến nỗi bỏ quên bếp núc, bỏ đói cha con chàng. Ý đã quyết, chàng đợi lúc chị Hai lại bàn xới thêm cơm, chàng lấy giọng điềm nhiên hết sức bảo con:

        - Tụi bay biết không? Có ông tiên tri Ý-đại-lợi nói rằng ngày mai tận thế.

        - Tận thế là sao hở ba?

        - Nghĩa là mọi người đều chết hết.

        Thằng Đức reo lên:

        - Thế thì sướng, khỏi phải đi học.

        Sợ rằng con còn hiểu lầm giá trị của sự “tận thế” nên mới có thái độ có vẻ đùa nghịch dễ dàng, chàng cẩn thận giảng tiếp:

        - Tận thế nghĩa là chết hết cả đó, không còn ai sống nữa.

        Bé Ngân đang ngậm miếng cơm, mở mắt nhìn chàng giây lâu, nhìn ra chuồng bồ câu ở ngoài sân rồi hỏi:

        - Thế mấy con bồ câu cũng chết hết hở ba?

        Chàng không trả lời để giữ vẻ nghiêm trọng của vấn đề. Chàng đợi phản ứng của Lý vì Lý lớn hơn cả. Chàng thấy Lý vừa nhai cơm vừa suy nghĩ. Cuối cùng, nó nhìn lên chàng, nói:

        - Trưa nay ba có rảnh không? Ba giảng cho con bài ngữ pháp.

        Chàng nhìn ba đứa con, thất vọng như một anh hề pha trò mà không ai cười. Chàng dự trù nghe những tiếng rú kinh ngạc và sợ sệt. Chàng đã chuẩn bị sẵn những lý để trấn tĩnh, để an ủi. Hão huyền cả. Tin tận thế rơi vào trống không, không ai phụ họa. Chị Hai thì lặng lẽ lại ngồi chùi nắp soong. Nếu chị tin rằng ngày mai tận thế thì chắc chắn chị không huy động cả hàng tá nắp soong ra mà chùi cẩn thận thế kia. Tâm hồn bơ vơ, chàng đành bắt chước mọi người mà trở lại cái nhịp sống hàng ngày. Chàng nhẫn nại ngồi giảng bài ngữ pháp cho con. Chừng mười phút sau, nguồn vui trở lại. Chàng thấy rằng thái độ vô tư của lũ con mình, bình tĩnh của chị Hai mới chính là thái độ mình muốn có.

        Dầu vậy, chàng cũng không thể không bắt đầu ngày mười bốn tháng bảy một cách long trọng. Lúc cầm cái bàn chải răng, chàng nói:

        - “Mười bốn tháng bảy là hôm nay đây”.

        Và khi ngồi ở sở làm, chàng vẫn nghĩ phòng xa: Có thể có một tiếng nổ rầm rồi tất cả tối sầm lại. Hoặc nhanh hơn nữa, tiếng nổ chưa nghe mà bỗng nhiên không ai còn biết gì hết. Y như người bị sét đánh không kịp thấy chớp, không kịp nghe tiếng nổ, không kịp biết là mình như thế nào. Và thế là cáo chung lịch sử của nhân loại. Thật chưa bao giờ con người sắp dự một cuộc biến chuyển vĩ đại mà khỏi phải sắp đặt gì hết. Phương quay nhìn những người bạn ngồi cùng phòng với mình kia. Anh Sinh lách tách gõ máy chữ, chăm chỉ nghiêm trang coi như việc gõ máy là việc quan trọng nhất trong nhân loại. Chị Trang cộng một hàng số mà bôi đi xóa lại. Phải rồi, chị cứ mỉm cười thế kia còn tay trái thì cứ mân mê mái tóc: quả là chị mới uốn tóc chiều qua. Con người mâu thuẫn thật. Giá mà nổ ầm lên một tiếng rồi có ai la “Tận thế rồi, trời ơi!” thì anh Sinh sẽ không còn thấy đánh máy chữ là quan trọng nữa và chị Trang sẽ quên rằng mình mới vừa uốn tóc. Phương vừa buồn cười vừa thương hại cho con người nhỏ nhoi yếu đuối. Và chàng cũng cúi xuống trang sổ như những người bạn của mình. Nhờ công việc như vậy mà rồi giờ khắc qua như thế nào chàng cũng quên không để ý. Mãi cho đến chiều tối, lúc nằm ở ghế dài đặt trước hiên chàng mới đủ thì giờ mà nghĩ và nói:

        - Có lẽ không có tận thế.

        Nhưng chàng còn nghi rằng tận thế có thể để dành cho đêm nay. Ồ! Như vậy thì rùng rợn lắm. Thà để cho con người thấy rõ vận mệnh dành cho nó, giữa ban ngày. Tận thế xảy ra ban ngày sẽ có nhiều tiếng khóc, tiếng gào nhưng bớt được tiếng kêu gọi nhau, tìm kiếm nhau. Ban đêm!… Nhưng thành thật mà nghĩ, Phương thấy rằng mấy anh chàng tiên tri Ý-đại-lợi đã thua cuộc rồi. Ba phần tư thì giờ đã trôi qua, trái đất và mặt trời vẫn hòa thuận với nhau như hàng triệu triệu năm trước. Xung quanh, tiếng trẻ con đọc bài vang vang, tiếng đọc kinh tối ở nhà bên cạnh đều đều một giọng. Những bản nhạc vẫn trầm bổng phát từ chiếc máy thu thanh. Những giọng ca lả lướt yêu đương, những bức thông cáo trịnh trọng, những bản tin tức rộn ràng như nhắc chàng nhớ rằng trên mọi địa điểm của trái đất, con người đang sống, đang tiêu khiển, đang làm việc và đang hy vọng. Cái cảm giác về sự sống chung đụng này giữa mọi người trên thế giới không biết vì sao lại làm cho chàng thêm tin tưởng rằng loài người còn tồn tại. Sự tin tưởng làm chàng phấn khởi, nhất là khi nhìn bé Ngân nằm ngủ say sưa, đầu đặt trên gối, hơi thở nhịp nhàng. Nhìn một đứa bé ngủ, người ta quả có thêm sự yên tĩnh trong tâm hồn.

        Lúc chàng lên giường thì những câu chuyện nhảm nhí ở một trang báo Nhi đồng choán khoảng thì giờ còn lại ngăn cách chàng với giấc ngủ. Và khi chàng chìa tay ra ngoài màn bấm vào cái nút của chiếc đèn giường, óc chàng trống rỗng, không có một ý nghĩ gì ám ảnh hết. Thật quả là không xứng với những giờ quyết liệt còn sót lại. Điều đó, lẽ tất nhiên sau này chàng mới nghiệm thấy.

        Sáng hôm sau chàng chỗi dậy theo mặt trời. Chị Hai quét vườn, tiếng chổi lê sạt sạt. Hai con vịt hàng xóm lẻn chui rào tự lúc nào đã bắt đầu cuộc tảo thanh xung quanh vại nước. Gió thổi lao xao lay động tàu lá dừa, và cành lá na, lá mận. Màu lá xanh chứa sức sống dồi dào. Chàng ngẩng lên nhìn trời. Những vảy mây bạc viền màu hồng cũng tưng bừng sự sống. Tất cả mọi vật xung quanh chàng như cùng ca ngợi cuộc đời một cách mãnh liệt, vui say. Chàng nói lên như một lời giã từ:

        - Thế là hết tận thế.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:04:15 bởi hai1957 >
        #4
          hai1957 18.11.2012 11:00:47 (permalink)
          5. NIỀM TIN CHƯA MẤT



          Thằng con tôi ở trần và dang nắng cả ngày. Hỏi lý do vì sao, nó không chịu nói. Tôi phải ôn tồn giảng cho nó nghe rằng dang nắng lắm nhiều khi cũng nguy hiểm: có thể bị nhức đầu, bị cảm nắng sinh bệnh.

          - Con đừng nên làm phiền Ba. Ba đi làm vắng cả ngày thế mà lỡ con bệnh thì ai săn sóc cho con? Những lần con đau con có nhớ rằng Ba phải thức suốt đêm bên giường con không?

          Thấy tôi thật tình lo lắng, nó nói:

          - Nhưng mà… lũ học trò cứ gọi con là heo luộc.

          - “Heo luộc” là cái gì?

          Tôi ngơ ngác hỏi.

          - Tụi nó nói da con trắng như heo luộc.

          Không thể nín được, tôi bật cười to một tràng dài. À ra con heo luộc phải dang nắng để thành con heo quay đây mà! Thời đại đổi thay, ngày xưa người ta yêu màu da trắng trẻo còn ngày nay người ta chuộng màu da rám nắng. Quả tình có nghe con tôi nói tôi mới để ý thấy rằng độ này da dẻ nó có rám đen đi phần nào. Ngày còn má nó, da nó trắng như con gái. Tôi nhớ đến những buổi trưa mười giờ, bãi biển đầy những cô gái nằm phơi nắng. Họ đội mũ lác rộng vành và đeo kính râm. Những chàng trai da nâu hãnh diện đi đi lại lại. Quan niệm đẹp có thay đổi nhiều thật nhưng tôi không ngờ nó lại ăn sâu cả vào lớp trẻ con mới mười tuổi. Hồi tôi còn nhỏ đi học thầy giáo yêu nhất những học trò mặt mũi trắng trẻo đã đành, cả đến chúng tôi cũng chỉ thích chơi với những đứa bạn mặt mày trắng trẻo. Những đứa đen đủi nhiều khi bị chế giễu một cách tàn nhẫn.

          Tôi nhìn kỹ lại con tôi hơn. Nó chỉ đánh một cái quần đùi màu đỏ, - mãi đến bây giờ tôi mới tự hỏi tại sao chị ở lại cứ bắt nó mặc quần đùi đỏ, mua chi mà một lần đến ba, bốn cái quần đùi đỏ, - còn thì mình trần cả ngày. Tôi tưởng tượng đến một lúc nào mình nó sẽ đen như một con heo quay. Và tự nhiên tôi nghĩ đến một hình ảnh, không phải trong tương lai mà chính ngay trong quá khứ tôi đã sống. Tôi nhớ đến anh Tộc, người bạn học của tôi hồi còn lớp Tư. Lúc bấy giờ chúng tôi vào khoảng mười, mười một tuổi. Mình Tộc gầy đét, hai chân như hai cái que. Đã thế lại chuyên môn mặc quần đùi khiến chúng tôi mỗi lần gặp anh là phải để ý ngay đến cặp chân que tăm. Không biết anh ta khéo xếp thế nào mà cái quần đùi nào anh mặc cũng cũ, cũng sờn đít hoặc rách đít. Tôi chưa hề thấy anh mặc một cái quần đùi mới. Không mới mà có cũ, thế có lạ không? Anh không bao giờ mặc áo. Đi từ đầu làng đến cuối làng mà cũng để mình trần. Đánh bi đánh đáo cả ngày, hết bắt dế đến câu cá, lúc nào anh cũng phơi mình dưới nắng khiến da cứ tím sậm lại. Người lại gầy, xương sống chạy một hàng dài gồ lên, còn xương sườn thì đếm đủ mười hai đôi. Hai núm vú thâm dán sát vào da như đầu của hai chiếc đinh bảy phân ai đã đóng vào ngực. Ngực lép và bụng lép nhưng cái rún lại béo bở. Rún của ai cũng thõm vào, hoặc tròn như lỗ đáo, hoặc méo xệch như cái miệng cười mỉm, chỉ riêng rún của Tộc thì lồi ra một đoạn dài gần hai phân, trông như cái núm vung. Rờ tay vào thấy mềm mềm những thịt. Lúc bấy giờ ở xóm tôi có một gánh hát bội đến trình diễn thường xuyên, chúng tôi cứ đợi đến chín giờ khuya rạp thả giàn là ùa vào coi khỏi mất tiền. Rạp hát lấy tên rạp là Thạnh Xương. Thấy Tộc mình chỉ toàn những da và xương, một người bạn có nhiều sáng kiến bỗng đặt tên cho Tộc là thằng Thạnh Xương. Tộc không phản đối mà nhận cái biệt hiệu mới một cách vui vẻ. Do đó mỗi khi đùa nghịch chúng tôi có thể gọi tên Tộc hay tên Thạnh Xương cũng được.

          - Ê Tộc, thách mày lặn một hơi cho qua bờ sông bên kia đó.

          - Thạnh Xương, Thạnh Xương, leo lên cây bàng gỡ dùm con diều cho tao một tí mày.

          Tộc không chịu thua một cuộc thách đố nào, không từ chối một sự nhờ vả nào. Kết quả của những cuộc mạo hiểm là mình Tộc mang đầy những vết sẹo. Anh em ai cũng mến Tộc vì Tộc chấp nhận mọi sự đùa nghịch của anh em. Tộc không bao giờ cáu vặt. Hoặc là thách đánh nhau hoặc là tha thứ không thèm chấp, thế thôi. Không thèm trả thù ngầm, không thèm nói láo.

          Tộc ham chơi đáo đến nỗi có hôm mê mải ăn thua mà đứa nào giấu áo không biết. Đến lúc trống đánh, chạy đi tìm áo, hỏi ai cũng bảo không biết, lạy ai cũng không chịu chỉ giùm khiến Tộc òa ra khóc. Tộc sợ thầy lắm. Nhưng mà cái tật ở trần cởi áo vắt vai, Tộc vẫn không thể bỏ. Đến sân trường thì bỏ sách vở xuống cỏ, đặt áo đè lên trên rồi thì chơi mải chơi mê không còn biết trời đất gì nữa. Mãi đến khi trống đánh vào lớp mới lật đật bỏ trò chơi mà vội vã mặc áo vào. Có lần vừa cãi vã ăn thua vừa hẹn hò tái đấu, anh cài hột nút này sang khuy áo kia mà không biết. Khi sắp hàng vào lớp, ai nấy đã ngồi an vị rồi thì thầy Nghĩa, thầy giáo chúng tôi, đi soát qua lớp một lượt. Thầy chỉ tay sang Tộc, gọi:

          - Tộc, lên bảng.

          Tộc vụt đứng dậy, nhanh quá, như một cái gân bị giật. Có lẽ người anh chỉ có gân và xương nên sự phản ứng mới lẹ như thế. Anh thoăn thoắt bước lên bảng, vô tư như khi đi nhặt một hòn bi. Đứng cụng nhằm bảng đen mới dừng lại. Rồi im lặng, một ngón tay bôi lên bảng vẽ hình con cua con quạ gì đó. Thầy Nghĩa quát:

          - Quay mặt trở lại!

          Anh vâng lời quay mặt trở lại và cả lớp cười rộ lên vì hai cái vạt áo gài khuy so le. Anh ngơ ngác không biết vì sao các bạn cười mình, thầy hỏi:

          - Hồi trưa mày làm gì?

          Tộc trả lời ngay, không phải suy nghĩ:

          - Dạ thưa thầy hồi trưa con ăn cơm xong thì mẹ con sai con gánh nước mắm qua nhà bà Chức Ba. Kỳ nước mắm trước bị thiếu nắng, dang không kỹ nên mới để nửa tháng mà đã trở, thúi quá…

          Lũ học trò cười rộ lên, to hơn trước, thế mà Tộc vẫn điềm nhiên nói tiếp. Nhưng tiếng ồn ào lớn quá, chắc cả lớp không nghe được gì, duy chỉ có những đứa ngồi bàn đầu như tôi là nghe rõ tiếng Tộc chậm rãi tiếp:

          - … Bà Chức Ba bắt đền nói mẹ con mà không đổi nước mắm khác cho bà ta thì bà ta…

          Đến đây thầy Nghĩa đập mạnh thước gạch vào mặt bàn một tràng dài và cả người nói lẫn người cười đều im lặng, Thầy giận dữ nói:

          - Ý tao muốn hỏi mày hồi trưa mày làm gì mà đi học mặc áo xốc xếch như vậy. Chớ mày gánh nước mắm cho bà Chức Ba hay bà Chức Tư gì thì tao đâu cần biết, nước mắm của mẹ mày thúi hay thơm cũng thây kệ mày.

          Tộc cúi xuống nhìn vạt áo của mình và lặng lẽ cởi nút ra rồi gài lại, vẻ thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Thầy nói:

          - Thôi cho đi xuống.

          Tộc “dạ” một tiếng, lủi thủi đi xuống nhưng khi đến dãy bàn thứ tư không quên nháy mắt sang một đứa bạn bên cạnh. Chúng tôi ai cũng biết thầy Nghĩa không có cảm tình với Tộc, nhưng Tộc, hình như anh lại không để ý đến điều đó. Tính thầy Nghĩa cẩn thận, ưa sắp đặt trang hoàng cho lớp đẹp đẽ. Những khẩu hiệu “Tiên học lễ hậu học văn, Trọng thầy mới được làm thầy, Chăm chỉ sạch sẽ…”, được thầy cắt bằng giấy màu treo cân đối. Những hình vớ vẩn xanh đỏ lòe loẹt như hình Phúc Lộc Thọ, Sư tử hí cầu thầy cắt ở nhãn pháo hay nhãn hương, những tấm bưu thiếp hình chợ hình phố, thậm chí có những ảnh ả xẩm thầy cũng lồng giấy bóng treo khắp tường, chi chít, rộn ràng bên cạnh những tấm địa đồ, bản đồ nghiêm trang, đứng đắn. Thầy coi chừng tóc tai và quần áo của học sinh luôn. Không phải với mục đích bảo vệ sức khỏe, chắc thế, mà chỉ vì sợ đốc học hay thanh tra bất chợt tới. Sách vở bút mực thì khỏi phải nói. Mỗi lần sắp có thanh tra tới khám trường thì chúng tôi thật là khổ sở với thầy. Thầy tập đứng dậy, tập ngồi xuống, thầy bắt bao lại sách vở, bắt cắt tóc, bắt cắt móng tay, bắt mặc bộ quần áo nào đẹp nhất. Sợ lũ chúng tôi quên đi những lễ nghi tối thiểu, thầy bắt chép và học thuộc lòng một bài nhan đề “Lời khuyên học trò”. Bắt đầu như thế này:

          Trống trường vừa đánh mau mau,
          Sắp hàng ngay ngắn trước sau đàng hoàng.
          Đừng nói chuyện chớ làm ồn
          Học trò như vậy mẹ cha vui mừng.

          Sau này tôi mới biết rằng đó là một bài thơ dở, sai âm luật. Chắc do thầy sáng tác. Vì lâu lâu thầy lại cho phép thêm một đoạn ám chỉ khuyết điểm nào đó mà thầy vừa khám phá ra. Ví dụ hôm thầy đè cổ thằng Hùng đánh ba roi vì tội hái trộm dưa leo bị bà Tang lên mét giữa lớp thì chiều đó thầy bắt chép thêm một đoạn “Lời khuyên học trò” (tiếp theo):

          Dưa cà là của người ta
          Mình đừng khuấy phá hái mà không nên.
          Bắt được đã phải chịu đòn
          Lại làm xấu hổ tổ tiên ông bà.

          Tôi không biết bao giờ bản trường ca này mới chấm hết. Chỉ biết mỗi lần thầy dạy dư giờ hay những chiều mùa đông chưa tan học mà trời tối quá không thấy mặt chữ thì thầy bắt cả lớp ê a đọc bài “Lời khuyên…” như những tín đồ tụng niệm giáo điều. Tất nhiên là với một thầy giáo cẩn thận dường ấy và nhất là sợ thanh tra tới mức ấy thì Tộc không phải là một cái hoa đẹp đáng để cho lớp và cho thầy hãnh diện. Tóc thì dễ thường đến hai tháng mới cạo một lần, - cạo chớ không phải cúp, - thành ra tóc mọc lấn xuống trán, tóc mai chỉa nhọn xuống nửa má. Cái mặt trở nên quắt lại bằng bàn tay. Áo quần thì như trên đã nói. Thành ra thầy có nhiều thành kiến đối với Tộc, những thành kiến khiến có lần Tộc bị mắng oan. Một hôm giữa lúc sắp hàng, thầy khám sạch sẽ. Thầy kéo hẳn Tộc ra khỏi hàng, chỉ vào cặp chân đen:

          - Mày ở dơ thế kia?

          Tộc thưa liền:

          - Thưa thầy con mới tắm ạ.

          - Mới tắm cái gì? - Thầy sừng sộ nói - Cái cổ đầy những đất thế này.

          Thầy vừa nói vừa lùa ngón tay kỳ cọ nơi cổ của Tộc. Nhưng quả không có một lằn đất nào dính nơi tay thầy cả. Thầy hoi ngượng, đứng im nhìn kỹ Tộc từ đầu đến chân. Rồi thầy chỉ xuống hai cái mụt Tộc mang ở cổ chân:

          - Ở dơ - ghẻ chốc thế kia mà nó còn cãi tao nữa.

          Tộc vẫn trả lời tỉnh bơ:

          - Dạ, thưa thầy không phải ghẻ ạ. Đây là vết đỉa cắn. Hôm chủ nhật con đi mót lúa đám ruộng ông Thuận bị đỉa bâu cắn. Con rịt thuốc mãi mà chưa lành. Mẹ con nói đỉa mén nó cắn là độc lắm.

          Thầy không trả lời, nhún vai một cái rồi ra lệnh cho vào lớp. Ở trong lớp có ai làm quấy, ví dụ làm đổ mực xuống nền xi măng, bôi tay dơ lên vách, ném đá bể ngói… mà thầy chưa tìm ra thủ phạm là y như thầy nghi cho Tộc. Chúng tôi cứ tưởng Tộc thù thầy, nhưng tuyệt nhiên không. Đi cùng chúng tôi đến nhà thầy nộp bài, Tộc hay đảo mắt nhìn khắp đó đây rồi liên tiếp đề nghị:

          - Thưa thầy cây cau ở ngang chái bếp của thầy đã có buồng đầy rồi đó. Để con leo bẻ cho thầy. Hai hôm nữa thì già mất.

          Thầy hỏi:

          - Mày leo gì được?

          Thì Tộc vồn vã ngay:

          - Ồ! Con leo giỏi lắm. Để con leo thầy coi. Con leo không cần “nài” mà.

          Thế là từng thót một, Tộc thoăn thoắt leo lên bám ở trên đọt cau, nhanh nhẹn bẻ cả một buồng rồi tuột xuống. Lần khác đến thăm thầy, sau khi cả bọn chia tay nhau vục gáo vào vò nước lã uống lấy uống để, Tộc bỗng nhăn mặt nói:

          - Nước hôi bùn quá!

          Chúng tôi đưa mắt lừ Tộc, có ý bảo: “Chết! Sao mày ăn nói hỗn vậy? Nước nhà thầy mà mày chê hôi”.

          Nhưng Tộc thản nhiên nói bô bô:

          - Muốn hết hôi thì phải đảo. Ở dưới đáy giếng thiếu gì bùn non rồi những dây gàu đứt, đồng xu, mẻ sành, cắc bạc.

          Thế rồi bỏ chúng tôi, Tộc chạy lên nhà trên thảo luận gì với thầy không biết. Lúc ra về, Tộc nói:

          - Chủ nhật tới, tao lại đào giếng giùm cho thầy.

          Tộc sống tự nhiên quá, thấy việc thì làm không câu nệ, nghĩ gì nói nấy không giấu giếm. Hình như anh không có mặc cảm. Nhà nghèo, mặt mũi không đẹp, áo quần xốc xếch, nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh ngượng ngập rụt rè. Tôi có cảm tưởng tâm hồn anh hiền lành như một cây xanh, cây ổi cây bàng nào đó đang sức lớn. Đâm chồi, ra lá, nứt hoa… Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của các cây đứng xung quanh nó. Không thấy cây xấu hổ vì những lá héo, giấu giếm những cành gãy, mà cũng không thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay hoa nở đầy cành. Tộc cũng giống như vậy. Nhưng tội nghiệp cho Tộc là Tộc không hoàn toàn được là một cái cây. Cái cây không phải học bài và làm bài. Còn Tộc thì phải khổ sở rất nhiều mỗi khi phải mó vào sách vở. Tộc học rất dốt, không mấy khi thuộc bài. Tính thầy Nghĩa lại thích lái cho học sinh không thuộc bài nói bậy mà Tộc thì nói bậy một cách tín cẩn. Đủ biết anh chẳng hề ngó qua bài một lần. Mỗi khi thầy nhắc sai và anh dò dẫm nói theo là cả lớp im phăng phắc để đợi nghe những sự bất ngờ lý thú. Chẳng hạn bà Trưng thù ông Thi Sách đã giết chồng bà là Tô Định…, hoặc nước Việt Nam đông giáp vịnh Thái Lan, tây giáp bể Nam Hải v.v… Đến giờ đọc tiếng Pháp thì thật là không thể nín cười được. Anh không phân biệt được chữ nào đọc là “ơ” chữ nào đọc “e”, chữ z, w, ch anh đọc cứ lộn phèo cả lên rồi thêm dấu huyền dấu nặng, rồi ậm ừ, rồi cà lăm nữa. Một người pha trò khéo cũng không thể làm cho lớp học náo hoạt hơn anh. Tật cà lăm sau này gần thành một cố tật của anh. Tôi cho rằng đó là do những giờ học Pháp văn mà ra. Mới đầu năm khi còn học bài một bài hai thì anh cà lăm ít, đến chừng sang bài hăm bảy, hăm tám thì anh cà lăm nặng hơn, cuối cùng thì anh chỉ “cà” chứ không nói nữa. Mà mỗi lần “cà” như vậy thì trông anh khổ lắm. Mắt cứ nhắm tít đi còn cái lưỡi và hai hàm răng thì run bấn lên. Thầy giáo chịu thua phải cho anh về chỗ.

          Lẽ cố nhiên là học hành như vậy anh không đỗ nổi bằng sơ học yếu lược. Và cuối niên khóa anh phải nghỉ học. Khi chúng tôi, vài đứa, mang sách đi học ở trường huyện, chúng tôi thỉnh thoảng gặp anh ở bến đò đầu làng. Vẫn gầy, vẫn đen, tưởng chừng nếu xòe một cây diêm châm vào là anh bốc cháy thành ngọn lửa ngay. Gặp chúng tôi, anh toe toét cười:

          - Đố tụi mày “la ma-rơ” là cái gì? (1 )

          Rồi không đợi chúng tôi trả lời, anh nói luôn:

          - Tao ngồi buồn mở cuốn sách Langue Francaise đọc lại mà hóa ra giỏi tụi mày ơi. Té ra bây giờ tao mới biết chữ Tây là gì. Nè, tao đọc cho tụi mày nghe, nghe không: la lame, la lac, papa a vu kilo, à Hanoi il y a un pont…(1 )

          Anh đọc hàng tràng dài, đọc sai âm sai giọng nhiều lắm nhưng trông chừng hỉ hả và không còn ngọng khổ ngọng sở như ngày xưa nữa.

          Tôi hỏi:

          - Bây giờ mày ở nhà làm gì?

          - Tao đi củi.

          - Có còn đánh đáo nữa không?

          - Tao đánh ách-xì, bài cào, không thèm đánh đáo nữa. À, bữa nào tao cho mày một cái ná cao su. Tao đi củi kiếm được nhiều cái chạng “ngon” lắm.

          Sau đó, tôi càng ngày càng ít gặp Tộc dần. Có một độ nào tôi nghe Tộc mê con gái ông xã Chín nhưng bị cô này chê. Tộc thất tình bỏ ăn bỏ uống và đâm ra lừng khừng như người sắp điên. Người ta tưởng Tộc có thể nhào xuống Bầu Di hay cầu Ông Chừ để tự tử vì vụ thất tình này nặng lắm. Người nhà phải canh gác dòm chừng Tộc luôn. Nhưng bỗng một hôm Tộc mất tích. Cả nhà đổ xô đi tìm. Mẹ Tộc khóc mếu máo. Tự tử thật chăng? Nhưng tự tử sao lại mang hết quần áo, nịt, mũ và cái bi-đông nước theo làm gì? Tuy vậy mẹ Tộc vẫn khóc mếu máo đi tìm. Chợt nghe tin ở xóm Long Hòa con Lành, con ông Câu Hò, cũng mất tích đúng vào đêm đó. Ông Câu không khóc mếu máo mà chỉ chửi. Ông nốc rươu vào thật nhiều, - nhà ông nấu rượu lậu nên tha hồ cho ông nốc, - khiến mặt đỏ tía như một con gà đá rồi oang oang kể tội con gái ra mà chửi. Ông bảo con ông mê ngu mê dại một thằng chỉ có cái rựa và đôi dép cao su. Ông bảo cái nhà thằng đó không bằng cái chuồng heo nhà ông. Ông bảo con mẹ nó không đáng xách giày xách dép cho ông. (Say rượu rồi nói khoác vậy thôi chớ thực tế ông không bao giờ mang giày mang dép, chỉ thỉnh thoảng lắm mới mang guốc). Người ta đồn rằng hai đứa, Tộc và con Lành, rủ nhau bỏ đi hoang nhưng người ta không biết hai đứa đi đâu. Nhà Tộc nghèo không có phương tiện đi tìm xa còn nhà ông Câu đông con nên bỏ đi một đứa cũng không thiếu. Đi đâu thì đi, hết muốn đi thì về, chẳng ai thèm tìm. Tôi không phải là bà con của hai người nên tôi càng có lý do để không biết rõ hành tung của hai người sau đó.

          Lẽ ra thì sự quan hệ giữa tôi và Tộc chỉ có thế, chỉ dừng lại ở mức đó mà thôi. Nếu không vì một thằng con thích ở trần và dang nắng thì tôi đã quên hẳn người bạn ngày xưa của tôi rồi. Cuộc sống bon chen bận rộn đâu có cho phép tôi năng nhìn về dĩ vãng để tìm gặp lại những dáng người quen? Vả lại, mỗi khi có dịp hồi ức tôi cũng ít khi chịu khó vẹt đám người đông đảo lẫn lộn ngày xưa để tìm cho ra đúng cái dáng gầy gò đen đủi của anh. Thế mà, ngược với ý muốn của tôi, sự việc đến đây vẫn chưa chịu chấm dứt. Trong khi tôi ngồi mơ màng nhớ đến anh, đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời anh mà tôi biết, giai đoạn bỏ nhà ra đi với đủ cả dây nịt và bi-đông nước, có thể với con gái ông Câu Hò vì đó chỉ mới là dư luận, ức đoán, thì có bất ngờ không, - ở một nơi xa xôi kia anh cũng nghĩ đến tôi. Một bức thư không mong đợi đem đến cho tôi sự khám phá êm đềm này. Số là cách đây chừng nửa tháng tôi nhận được một bức thư. Nhìn nét chữ lạ viết ở phong bì, nhìn con dấu nhà bưu điện Ban Mê Thuột, tôi rất hồi hộp. Tôi không thích những bức thư của người lạ vì nó hay làm cho tôi bồi hồi lo lắng. Ở Ban Mê Thuột tôi không chắc có người quen nào. Hay có ai gửi lầm chăng? Nhưng nhìn lại địa chỉ người nhận thư thì quả là tên tôi. Tôi lật đật xé toẹt phong bì, không kịp lấy kéo cắt. Nội dung bức thư như sau:

          Ban Mê Thuột, ngày.... tháng.......

          Thưa anh, tôi là Trần Văn Tộc. Anh có còn nhớ Trần Văn Tộc không, Tộc “Thạnh Xương” của các anh đó mà. Riêng tôi vẫn còn nhớ anh rõ lắm, anh học trò trắng trẻo mà tôi thường gọi đùa là “con chuột rụt rè”. Anh còn nhớ không, anh tức mình gọi lại tôi là “con mèo khiêu khích” nhưng thay vì con mèo mun (vì tôi đen) anh lại gọi ác là con “Bạch Tuyết”. Nhưng con mèo không vồ con chuột mà yêu con chuột lắm. Đến bây giờ xa cách vài mươi năm rồi mà vẫn nhớ đến con chuột đây.

          Tôi có đọc mấy truyện của anh viết về những ngày thơ ấu của chúng ta khi còn học ở trường Ngân Sơn. Tôi cảm động nhớ lại những ngày xưa, nhớ lại ông Cai Tròn, nhớ lại thầy Nghĩa mà trong truyện anh đổi tên lại là thầy Hiền. Thầy Nghĩa đã chết rồi, chắc anh đã biết. Bây giờ ngồi nhớ lại thầy, tôi thấy tôi thương thầy hết sức. Đành rằng tôi học hành chẳng đỗ đạt được gì, nhưng đó toàn là lỗi của tôi. Tôi học dốt mà lại lười quá. Giá vào tay một thầy giáo khác thì tôi đã bị đuổi học lâu rồi. Thế mà thầy vẫn chịu đựng, vẫn chấp nhận tôi, vẫn cố dạy cho tôi biết rằng la mare là cái ao, le kilo là quả cân… những kiến thức đó, ra đời tôi không dùng được gì, nhưng chúng cho tôi một cảm tưởng êm đềm là ngày thơ ấu của tôi không đến nỗi bị bạc đãi. Lớn lên khi được biết rằng những người học trò tệ lậu như tôi dễ làm cho thầy giáo bị ghi điểm xấu, bị chậm tăng lương, chậm thăng ngạch trật, tôi thấy áy náy trong lòng vì tôi cho rằng sở dĩ thầy phải già đời ngồi dạy ở một xó nhà quê này, biết đâu chẳng phải vì tôi. Năm 1959 tôi và nhà tôi cùng mấy cháu có về quê thăm. Lúc bấy giờ tôi mới được biết rằng ngôi trường cũ của chúng ta ở đầu núi đã bị phá hoại vào những năm kháng chiến. Cây cà-te cao to, trụ sở của lũ ma quỉ mà ngày nhỏ các anh sợ, đã bị chặt mất rồi. Tất cả chỗ ấy bây giờ còn là khoảng không. Hình ảnh của chúng chỉ còn lại trong tâm hồn của chúng ta thôi.

          Anh bây giờ đã được mấy cháu rồi? Tôi thì được năm cháu. Ba cháu lớn học ở Lycée Yersin. Vợ tôi cũng thường ở Đà Lạt hơn ở Ban Mê Thuột, chúng tôi có tậu được một vi-la ở cité Saint Benoit. Tôi bây giờ nhờ trời làm ăn cũng khá dư đủ. Có được hai nhà máy cưa và một rạp hát. Anh có biết tôi đặt tên cho rạp hát của tôi là rạp gì không? Chắc anh không đoán được đâu. Tôi đặt là rạp Thạnh Xương. Để nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa.

          Thôi, giấy ngắn tình dài, chúc anh và quý quyến sức khỏe. Nghỉ hè rảnh rỗi mời anh lên Ban Mê Thuột chơi nghe? Tụi mình gặp nhau mới nói hết chuyện.

          Nhớ ghi địa chỉ là:

          Ông Trần Minh Thạnh
          4I, đường Ama Trang Long
          Ban-mê-thuột.

          Đọc xong thư Tộc, - bây giờ là Trần Minh Thạnh, - tôi vui vẻ như chính tôi đã làm giàu, đã làm chủ hai nhà máy cưa và một rạp hát Thạnh Xương. Tộc không nói rõ về người vợ Tộc, tưởng như ai cũng đã biết rồi, nhưng tôi đinh ninh rằng đó là cô Lành con ông Câu Hò. Tôi tưởng tượng thấy một chiếc ô-tô sang trọng chở Tộc và cô Lành đỗ xịch trước cái quán của bà mẹ Tộc ở đầu làng. Bao nhiêu người hàng xóm bâu lại xem, trầm trồ bàn tán. Những đứa trẻ con ở trần và đen đỉu như Tộc ngày xưa đứng vây quanh chỉ trỏ, sờ mó. Chiếc xe ấy lại đỗ xịch trước nhà ông Câu Hò. Ông Câu Hò hẳn là thôi không chửi nữa. Nghĩ đến ông Câu tôi chợt cười thành tiếng. Tôi nhớ đến những đôi giày đôi dép tưởng tượng của ông ngày xưa khi ông cất tiếng chửi “thằng” Tộc đi hoang đã dụ dỗ con Lành ngu dại của ông. Niềm vui khi đọc thư Tộc tôi giữ cho đến suốt ngày. Tôi cảm thấy bớt đơn chiếc và cuộc đời dễ sống hơn. Tộc đại diện cho một loại nhân cách miễn nhiễm, không tà khí. Lúc nào cũng nghĩ tốt cho người, không ác ý, không đối phó, không bị lôi cuốn, và sẵn sàng làm điều tốt cho người, không mưu tính, không mặc cả. Tôi tin chắc sự làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng thương yêu thầy mà Tộc nói trong thư chắc chắn là thành thật chớ không phải là một lời sáo, một công thức xã giao. Những mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn đi học chắc chắn là không chịu sự chi phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển-lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời.



          (1) la mare = cái ao
          (2) lưỡi dao, cái hồ, cha đã thấy quả cân một ký, ở Hà nội có một cái cầu
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:01:58 bởi hai1957 >
          #5
            hai1957 19.11.2012 12:10:06 (permalink)
            6. TIA NẮNG RỚT



            Tiếng con Tô sủa kéo dài báo tin có khách đến. Người ở lục cục ra mở cổng. Có tiếng nói xì xào rồi tiếp đến tiếng giày sào sạo trên sỏi. Sơn ngẩng nhìn ra khung cửa. Ánh đèn chiếu ra vẽ một khung ánh sáng hình chữ nhật gãy đôi ở bực thềm. Chàng hơi bực mình vì có khách vào giờ này. Tám giờ rưỡi tối là giờ riêng tư, là giờ người ta bắt đầu sống cho riêng mình. Chàng chờ xem ai sắp quấy rầy mình.

            Ở khung cửa hiện ra một người đàn ông tay xách va-li. Người ấy thấy Sơn, vội la lên:

            - Anh Sơn! Vậy mà tôi cứ sợ lầm nhà.

            - A, anh… anh Lộc!

            Sơn mừng rằng mình đã nhớ kịp tên người bạn. Chậm một chút sẽ mang tiếng là vô tình biết bao. Lộc còn bỡ ngỡ, phần vì ánh đèn chói, phần vì con Tô hung tợn cứ án ngữ ở cửa nên chưa bước vào, còn Sơn thì còn lò mò chân tìm dép thì một người đàn bà hiện ra đứng bên cạnh Lộc. Sơn reo lên:

            - A, có cả chị Thúy nữa. Chào chị. Hôm nay hai vợ chồng anh chị đi hưởng tuần trăng mật chắc.

            Thúy cười:

            - Chào anh. Lâu ngày quá bọn em mới xuống thăm anh.

            Đôi dép đã tìm được rồi, Sơn vừa nhìn bạn vừa đứng dậy ra đón thì lại một người đàn bà khác hiện ra thêm.

            Sơn lúng túng:

            - A, còn…

            Thúy đỡ lời:

            - Có hai cô bạn nữa cũng…

            Trong khi Thúy còn tìm chữ để nói tiếp thì Sơn đã ra đến hiên. Quả vậy, không phải chỉ một cô mà đến hai cô. Một cô đứng nép sau bồn hoa hoàng anh, tay mân mê một cành hoa nở. Sơn vội mời:

            - Xin mời anh chị và hai cô vào nhà.

            Một cái bắt tay, một nụ cười thân mật và hai cái nghiêng mình khe khẽ. Cả đoàn người vào nhà. Thấy những người mới đến không thù hằn với chủ mình, con Tô ngoắt đuôi mừng. Lộc và Thúy bỏ va-li lại ngồi ở xa-lông với Sơn. Hai cô bạn ngồi ở đi-văng.

            Lộc nói:

            - Bọn em ở Đà Lạt xuống. Nhân nghỉ lễ Khổng tử, tòa thị chính tổ chức cho anh chị em nhân viên xuống chơi Nha Trang ba ngày. Cả đoàn ăn nghỉ tại khách sạn Liên Mai. Bọn em muốn nhân tiện ghé lại ở chơi nhà anh. Hai cô bạn… à quên, quên chưa giới thiệu với anh hai cô bạn.

            Lộc chìa bàn tay ngửa về phía từng cô:

            - Cô Oanh thư ký tòa thị chính.

            - Cô Trúc Đào, sinh viên.

            Sơn cúi chào rồi giải bày trường hợp mình:

            - Anh chị Lộc và hai cô ghé ở chơi, đối với tôi là một sự vui vẻ. Tôi chỉ sợ nhà tôi đơn chiếc, không có ai tiếp đãi chu đáo mọi người. Tôi sống độc thân với một người ở nhỏ.

            Lộc ngắt lời:

            - Anh khỏi phải lo, vì mọi người đều biết rõ hoàn cảnh của anh. Anh đừng bận rộn gì về chúng tôi hết. Anh cứ coi như không có chúng tôi ở đây.

            - Và ngược lại, các bạn cứ tự do như chính ở nhà các bạn. Các bạn cứ coi như không có tôi ở đây.

            Cả chủ lẫn khách cùng cười. Qua một câu thực tình mà tan hết giá băng của sự bỡ ngỡ. Câu chuyện hàn huyên tiếp theo liền. Những người quen ở Đà Lạt được nhắc đến cẩn thận. Như tra ở một quyển tự điển, tên của họ tuần tự được Sơn đọc lên. Lộc, Thúy làm nhiệm vụ giải thích.

            - Vợ chồng anh Tân hả? Độ rày phát tài lắm. Vừa tậu thêm hai cái vi-la.

            - Chị Bê giã từ Đà Lạt hơn một năm nay rồi. Sau khi anh ấy mất chừng sáu tháng, chị về Huế luôn.

            - Cụ Sang ở bưu điện? Về hưu. Thằng Ngợi, - anh còn nhớ thằng Ngợi ngọng con cụ Sang không? - thằng Ngợi năm nay thi ra dược sư… Cô Oanh và Trúc Đào ngồi đó để nhắc chừng về những tin tức mới nhất của các nhân vật Sơn hỏi mà vợ chồng Lộc Thúy không nắm chắc tình hình.

            Sau nửa giờ, câu chuyện uể oải. Những cái ngáp được khéo léo nuốt đi. Sơn đề nghị mọi người thay áo quần rồi rửa mặt đi nghỉ. Sắp đặt chỗ ngồi cho bốn người khách không phải là một việc dễ dàng. Sơn đưa chìa khóa tủ áo cho Thúy vừa bảo:

            - Chị Thúy và hai cô tùy tiện sắp đặt chỗ ngủ. Con ở nhà tôi nhỏ, chỉ quen săn sóc một mình tôi thôi nên tôi chắc nó sẽ không làm vừa lòng các chị. Nó sẽ mau rối trí và nhất định thiếu sáng kiến. Các chị cứ mở tủ tự nhiên.

            Một lát sau, ở bên phòng ngủ vang lên những tiếng cười vui vẻ. Họ pha trò với nhau, họ nghịch nhau khiến Sơn ngồi nói chuyện với Lộc ở phòng khách cũng thấy vui lây. Mười một giờ, Sơn và Lộc cùng sang phòng ngủ thì phòng ngủ đã được sắp đặt tươm tất. Ba người đàn bà mặc áo ngủ màu sặc sỡ trông như những cái hoa. Màu trắng của ba chiếc mùng đổ dài xuống, ánh đèn nê-ông lạnh, càng khiến cho vẻ mặt và màu áo của họ gây không khí ấm áp. Lộc chung giường với Sơn. Hai cô Oanh và Trúc Đào nằm một giường. Thúy nằm ở đi-văng. Vì Sơn vào giường trước nên bị Lộc đẩy vào nằm trong. Thành giường phía Sơn nằm hóa ra kề với thành giường bên cạnh. Không biết ai nằm ở kề mình chừng năm tấc kia. Sơn lắng nghe tiếng thở đều đặn, nhè nhẹ. Chàng nghe tiếng trở mình. Chàng khẽ nhìn sang; qua ánh sáng dịu của chiếc đèn giường, có một đôi mắt đen mở rộng nhìn mình.

            Sáng hôm sau là ngày lễ. Mọi người đều ngầm cho phép mình dậy trễ như những nhà quí phái. Đến tám giờ thì nhà Sơn rộn hẳn lên. Những dáng người lướt qua, lộn lại từ phòng ngủ sang phòng rửa mặt làm Sơn hoa mắt. Chàng cứ lầm người này với người nọ. Bữa điểm tâm được thu xếp mau. Vì chỉ có một cái lọc cà phê cá nhân nên cô Oanh nhanh nhẹn đưa sáng kiến:

            - Em sẽ có cách để hầu cà phê mọi người.

            Nàng chạy tìm ở “xắc” một vuông vải mới rồi mở tủ lấy một cái bát sứ. Nàng trải vuông vải. Đổ cà phê vào. Nước sôi đổ tiếp theo. Nàng cầm thìa khuấy một lát rồi túm vuông vải bỏ ra một bên. Một bát cà phê đậm, thơm được chia ra năm tách.

            Sơn khen:

            - Cô Oanh nhanh trí quá.

            Lộc nói:

            - Anh chả phải khen. Huynh trưởng gia đình Phật tử đấy.

            Sơn quay sang Trúc Đào:

            - Còn cô?

            Trúc Đào thẹn, má ửng hồng:

            - Em kém lắm.

            Sau bữa ăn sáng, cả năm người đi biển. Aùnh nắng gay gắt của Nha Trang làm cho hai cô Oanh và Trúc Đào bỡ ngỡ. Cứ đi một lát, họ lại nhìn mặt trời và nhìn xuống cánh tay mình. Có lúc họ đứng dừng lại, đưa tay kéo má của bạn lại xem màu má ửng hồng rồi khen:

            - Ồ, chị đẹp quá.

            Xuống biển, chỉ Lộc và Oanh tắm. Trúc Đào, Thúy và Sơn thuê ba cái ghế xếp nằm nhìn ra biển. Chín giờ bắt đầu có gió ngoài khơi hây hây thổi vào. Người tắm đông. Trúc Đào chỉ vào đám đông đang tắm, bảo Thúy:

            - Chị Thúy này, sự cách biệt về tuổi tác, về tiền tài được giảm nhẹ hết sức giữa những người tắm biển. Chị thấy không, bỏ đi những vật bám theo như quần áo, đồ trang sức, ô-tô, con người ở trần và đứng trước vũ trụ có vẻ bình đẳng với nhau.

            Sơn quay sang Trúc Đào:

            - Cô triết lý…

            Trúc Đào cười:

            - Thưa ông, chỉ là một ý nghĩ vẩn vơ.

            Sơn nhìn vẻ mặt của Trúc Đào. Đôi mắt dịu, mơ màng và do đó rụt rè. Môi có duyên nhưng hơi lạnh. Khuôn mặt của cô Oanh ấm áp hơn. Màu da ngăm ngăm và tròng đen của đôi mắt đen láy. Nụ cười tươi hơn, vui hơn. Sơn đang miên man suy nghĩ thì Thúy chỉ tay gọi:

            - Kìa, anh xem bà kia. Đôi bắp chân no tròn và ngắn như hai củ hành.

            Trúc Đào sắp sửa cười, bỗng giơ “xắc” che mặt. Nàng quay sang thân mật bảo Sơn:

            - Mấy ông mãnh ở ghế bố bên kia cứ đặt ống dòm nhìn sang.

            Thúy bảo:

            - Nhìn sang Trúc Đào đấy.

            - Không phải.

            - Không phải sao Trúc Đào giấu mặt?

            Sơn đỡ lời:

            - Thật không phải đâu. Họ nhìn sang bà “củ hành” đấy mà.

            Thúy và Trúc Đào phá ra cười.

            Sau giấc nghỉ trưa, Lộc giục:

            - Mời các bà các cô dậy đi thôi. Hai giờ rồi.

            Tiếng Oanh hỏi:

            - Thế hồi sáng họ hẹn với mình mấy giờ cùng đi hòn Chồng?

            - Hai giờ.

            - Chết chưa. Thế thì trễ mất rồi còn gì?

            - Thì trễ mất rồi chứ sao!

            Giọng Lộc đắc thắng. Trúc Đào vừa ngồi dậy xong, liền nằm xuống trở lại:

            - Đã lỡ trễ rồi thì thôi, nằm ngủ luôn.

            Lộc la lên:

            - Không được đâu. Dậy đi thôi, các bà ơi. Tôi nói thế chứ thật ra mới có hai giờ kém mười lăm. Các bà trang điểm mau lên thì vừa.

            Các bà dậy trang điểm theo lời Lộc yêu cầu nhưng nhất định không mau lên tí nào hết. Họ vừa cười đùa, vừa nghịch nhau, vừa chải đầu. Họ khen nhau tóc mịn, chê nhau tóc rụng, rồi từ đó chuyển sang hàng uốn tóc lạnh, rồi kiểu tóc Lý Lệ Hoa. Với Lý Lệ Hoa, họ xâm nhập vào địa hạt điện ảnh quốc tế với Deborah Kerr, James Stewart… Đến một lúc hăng tiết, họ bỏ cả lược, bỏ cả thỏi son, bỏ cả “húp” phấn để hùng biện. Lộc lại thúc giục:

            - Hai giờ đúng rồi, trời ơi!

            Họ cười xòa nhận lỗi rồi lại tiếp tục chải, bôi môi, thoa phấn. Tay dịu dàng, mắt mê mãi, họ đắm đuối nhìn bóng mình trong gương. Sắc đẹp làm cho họ thận trọng tay. Họ chầm chậm quay qua, chầm chậm nhìn lại, chầm chầm ngước mắt lên, chầm chậm nhếch mắt một tí, mỉm cười một chút. Thật đúng là những con hổ uyển chuyển, không vội vàng vì tin chắc ở sức mạnh của mình. Tiếng giày sốt ruột, tiếng giày hậm hực của Lộc cứ tha hồ nện. Lúc mặc áo xong, bôi nước hoa xong, lũ lượt bước ra đến cổng thì đồng hồ vừa chỉ đúng hai giờ rưỡi.

            Trên giường, bỏ ngổn ngang những đống quần áo. Ở mắc áo đầy ắp những chiếc áo dài màu sặc sỡ. Sơn nhìn giây lâu những chiếc áo dài, tưởng tượng thấy những thân hình uyển chuyển mà chiếc áo đã ôm ấp. Vải ni-lông mịn láng như da thịt. Chàng bước lại gần một chiếc áo ai mắc ở cây trụ màn. Một mùi nước hoa nhẹ thoang thoảng, mùi nước hoa tử-la-lan thầm kín. Và cũng thầm kín, có thoáng mùi thơm của da thịt. Lòng Sơn xúc động. Chàng bỗng thấy người đàn bà quí giá hết sức đối với cuộc sống của một người đàn ông như chàng. Nét tươi đẹp của giọng nói, mùi thơm của đôi má, đôi môi… bẳn đi từ lâu lắm rồi, chàng đã quên nghĩ đến một người đàn bà. Cuộc sống tạm đầy đủ với ăn, ngủ, đọc sách, đi dạo và làm việc. Bấy nhiêu công việc choán hết thì giờ của chàng khiến chàng quen dần với nếp sống bình lặng, thản nhiên. Bóng dáng một người đàn bà dịu dàng thỉnh thoảng cũng có lướt nhẹ qua tâm trí chàng nhưng chàng đều cố gạt đi. Chàng nghĩ đến những sự phiền phức do người đàn bà đem đến để khỏi phải suy nghĩ lâu. Không ngờ hôm nay…

            Có tiếng gót giày gõ nhẹ ở ngoài hiên. Sơn bước ra phòng khách thì thấy Trúc Đào.

            - Sao cô về sớm thế?

            - Em không thích đi.

            - Mấy người kia đâu?

            - Thưa ông, họ đi hòn Chồng.

            Ngần ngừ một giây. Trúc Đào tiếp:

            - Vợ chồng anh Lộc chị Thúy động một tý là cãi nhau. Em bực mình nên bỏ về.

            Sơn nhún vai:

            - Cãi nhau theo kiểu Lộc Thúy, đó là một hình thái yêu nhau khi vợ chồng đã bắt đầu có tuổi. Dĩ nhiên đó không phải là hình thái duy nhất… chắc cô hiểu thế.

            Trúc Đào lắc đầu:

            - Em không hiểu.

            Sơn cười:

            - Thế thì để rồi sau này cô sẽ hiểu.

            Trúc Đào cũng cười vì câu trả lời ngộ nghĩnh trái với điều nàng mong đợi. Điều nàng mong là được nghe Sơn kể những hình thái yêu đương mà chàng biết và nàng tò mò muốn biết.

            Một luồng gió nhẹ nhàng qua. Trúc Đào thở hít vào một hơi dài, ngẩng một lát như suy nghĩ rồi hỏi:

            - Mùi hương của hoa gì mà thơm quá?

            Sơn hỏi lại:

            - Cô không biết là hoa gì sao? Hoa trúc đào đấy.

            - Trúc đào?

            - Vâng. Đúng vào tên cô.

            - Em chưa biết có thứ hoa ấy.

            - Dĩ nhiên. Ở Đà Lạt làm gì có trúc đào. Cô ra đây mà xem.

            Trúc Đào bước theo Sơn. Chàng chỉ một bụi hoa màu hồng rồi nói:

            - Đây là một bụi trúc đào. Lá dài thon như lá trúc, chắc vì thế mà người ta gọi là trúc đào. Hương hoa thơm đậm lắm.

            Sơn đi sang một bụi hoa màu trắng:

            - Đây cũng là trúc đào nhưng hoa trắng. Cánh hoa màu trắng. Màu lá cũng xanh nhạt hơn. Cô thấy không?

            - Vâng. Và mùi hương cũng nhạt hơn. Em thích mùi hương này quá. Ở Đà Lạt có trồng được hoa này không hở ông?

            - Tôi chưa thí nghiệm, nhưng chắc được.

            - Thế thì em phải trồng ở vườn nhà em mới được. Người ta trồng bằng cách nào hở ông?

            - Cắt cành mà giâm.

            - Thế ông giâm cho em nhé? Em xin ông mỗi thứ một cành giâm.

            - Tôi sẵn sàng mỗi thứ hai cành cũng được, nhưng làm sao gởi lên Đà Lạt cho cô?

            - Điều đó ông không lo. Nghỉ No-en em sẽ xuống Nha Trang để bứng về.

            Sơn gật gù:

            - Tôi tưởng tượng thấy vườn nhà cô đầy những hoa trúc đào và cô sẽ ghi ở trụ cổng: “Biệt thự Trúc Đào”. Người khách qua đường sẽ tự hỏi không biết Trúc Đào là tên hoa hay tên chủ nhân.

            Trúc Đào mỉm cười. Chợt nàng kêu to lên vừa đi nhanh về một dãy chậu hoa hồng:

            - Ô! Ông trồng nhiều hoa hồng như thế này cơ à. Em tưởng ở Đà Lạt mới trồng được hoa hồng đẹp.

            Nàng áp một đóa hồng nhung vào má mình và kéo một đóa hồng sen để lại gần mũi:

            - Mùi thơm ngọt quá. Mà…

            Nàng quay sang Sơn lúc bấy giờ đã lại đứng gần nàng:

            - Mà sao ông trồng nhiều hoa hồng thế? Hay là… ông yêu một cô Hồng nào đó?

            Sơn cười:

            - Không chắc. Hình như tôi chưa yêu một người nào có tên như thế. Tôi không hay rắc rối. Trồng hoa là một việc mà yêu là một việc khác, hai việc có can hệ gì đến nhau đâu?

            - Nhưng em vẫn có cái thắc mắc này là… sao ông chưa có vợ. Hay là ông không yêu ai?

            - Có chớ! Có chớ! Nhưng yêu và cưới vợ là hai việc khác nhau cũng như yêu và trồng hoa vậy?

            Trúc Đào ngần ngừ:

            - Trước khi xuống Nha Trang, anh chị Lộc có cho em biết về ông. Biết đại khái thôi, tất nhiên, nhưng trong những nét đại khái ấy có việc ông mãi không lấy vợ. Xin lỗi là em đã tưởng tượng ông dưới những vẻ không đúng với sự thật chút nào hết, những vẻ mà mỗi lúc nghĩ đến thấy em có lỗi với ông hết sức.

            Sơn lắc đầu:

            - Chẳng sao. Những người lạ bao giờ cũng dễ bị ghét một cách bất công. Nhưng anh chị Lộc cho cô biết một cách đại khái về tôi như thế nào?

            - Dạ… anh chị ấy nói rằng ngày xưa ông có yêu một người nhưng sắp lấy nhau thì chiến tranh xảy ra, mỗi người lạc một phương. Ông đợi suốt mười năm cho đến ngày đình chiến. Trở lại cảnh cũ thì người yêu đã lấy chồng. Từ ấy đến nay sáu năm đã trôi qua, ông cứ ở mãi vậy. Có phải đúng thế không?

            Sơn chỉ mỉm cười không đáp.

            - Anh Lộc nói từ lần thất bại đó ông không còn cảm tình với đàn bà nữa. Nay được nghe ông nói chuyện mới biết là anh Lộc đã lầm. Nhưng đã không mất cảm tình với người đàn bà thì đáng lẽ ông đã cưới vợ rồi chứ?

            Thấy Sơn vẫn không trả lời, nàng giục:

            - Sao? ông có thể cho em biết vì sao ông mãi không lấy vợ không?

            Sơn nhíu mày nhìn Trúc Đào một cách ranh mãnh:

            - Nhưng tại sao cô lại muốn tò mò hỏi kỷ thế?

            Trúc Đào cười tự nhiên:

            - Đó là câu hỏi vốn ám ảnh em và một số những bạn thân của em. Đó là một vấn đề xã hội, có thể nói là vấn đề của chúng em cũng không sai. Người đàn ông là đồng minh của người đàn bà, vậy hiểu rõ đồng minh của mình là một điều cần thiết.

            - Nhưng…

            Trúc Đào giơ tay ngăn lại;

            - Ông chiều em một tí đi. Oâng thử nói xem vì lý do gì…

            - Có lẽ…- Sơn ngần ngừ,- vì tôi tham lam quá.

            - Không có vợ vì tham lam? - Trúc Đào mở to mắt ngạc nhiên.

            - Hình như vậy. Tôi muốn được hết mà không mất một chút gì. Yêu bao giờ cũng có lãi. Cưới vợ thì… chưa chắc

            Sơn cười và Trúc Đào cũng thích thú cười theo. Thấy ánh nắng chiếu vào chỗ nàng đứng, Sơn bảo:

            - Mời cô vào nhà.

            Trúc Đào đi vào và chàng cũng chậm rãi bước theo. Nàng lại ngồi ở ghế xa-lông và Sơn ngồi đối diện.

            - Thế ông có nhiều người yêu không? - Trúc Đào đột ngột hỏi

            - Tôi không biết từ bao nhiêu mới được gọi là nhiều. Nhưng chủ quan mà nói thì hình như ít lắm.

            Khi Sơn dứt lời nàng chậm rãi nói:

            - Nhiều lúc em cũng nghĩ như ông vậy. Khi yêu người ta chỉ biết đến quyền lợi mà khỏi có bổn phận. Khi lấy chồng thì hình như chỉ bổn phận là chắc chắn có mà thôi. Còn quyền lợi… Nàng vung nhẹ bàn tay vừa bĩu môi tỏ vẻ hoài nghi.

            - Sáng nay ngẫu nhiên em cầm một quyển sách ở bàn viết của ông mở ra xem. Bìa đóng gáy da, em tưởng là sách, không ngờ mở ra thấy là một quyển vở. Em tò mò đọc một vài trang. Xin lỗi ông, - chỗ này nàng đổi giọng, nói nhỏ hơn nên thân mật hơn, - nếu anh Lộc chị Thúy không nói về ông thì em đã không tò mò như thế.

            - Thế cô đọc được gì?

            - Đoạn ông nói về cô… gì ấy, em không đọc được tên. Tên cô ấy ông viết bằng chữ Tàu thì phải.

            Sơn gật đầu:

            - Đúng rồi. Tôi viết bằng chữ Hán.

            - Người yêu của ông là một cô gái Trung Hoa?

            - Không phải, cô ấy là người Việt như cô vậy. Nhưng để tránh những con mắt tò mò, - xin lỗi cô, không phải tôi dám ám chỉ cô đâu, - để tránh những con mắt tò mò, tôi viết tên cô ấy bằng chữ Hán.

            - A! Ngộ nhĩ!

            - Không phải đó là phương pháp độc nhất. Tôi có thể viết bằng một tên Pháp hay tên Anh. Chẳng hạn nếu người đẹp của tôi giống một nhân vật nào trong một quyển tiểu thuyết Pháp hay Anh mà tôi đã đọc thì tôi có thể lấy tên nhân vật trong truyện mà gọi nàng. Cũng có khi tôi biên đúng tên nàng nhưng đảo ngược vị trí các chữ. Ví dụ tên Hòa, sẽ biến thành Hào, Mai thành Mia.

            Trúc Đào gật gù lý thú:

            - Nếu tên em thì ông viết chữ Tàu như thế nào?

            Sơn rút cây bút máy và kéo ở bàn xa lông ra một tờ báo.

            Chàng xích lại gần nàng, viết ngoằn ngoèo một chữ Hán lên lưng tờ báo rồi nói:

            - Đó, tên cô đó.

            Chàng viết lại hai lần chữ “Đào” và Trúc Đào xuýt xoa thấy tên mình hiện ra dưới một hình thức quái dị nhưng có vẻ cổ kính trang nghiêm.

            - Tôi cũng có thể viết tên cô bằng cách đảo lộn vị trí các chữ. Tôi viết thế này chẳng hạn “Sáng chủ nhật 20 tháng 9. Đóa hỏi: Sao ông không lấy vợ?”

            Trúc Đào cười lên:

            - Đóa hỏi sao ông không lấy vợ. Đóa, cái tên nghe hay đấy ông nhỉ? Còn nếu ông muốn viết tên em bằng chữ Pháp?

            Sơn giơ một ngón tay ngắt lời ngay như chàng đã có sẵn ý kiến.

            - Không khó. Tôi đã chuẩn bị rồi. Khi vừa gặp cô, tôi thấy cô có những vẻ gì hao hao giống nàng Dominique trong phim “Nụ cười xuân”. Ừ, tôi thấy rồi. Khi cô ngẩng mặt lên đợi chờ, đợi chờ một câu trả lời, đợi chờ một ý mà cô đang tìm thì quả cô giống cô đào Christine Carrère đóng vai Dominique hết sức. Vậy thì khi cần viết tên cô, tôi có thể thay bằng Dominique.

            Trúc Đào gật gật đầu:

            - Sáng kiến này của ông hay lắm đó vì ông sẽ nhớ kỹ những người mà ông đã gặp. So sánh để tìm nét giống nhau giữa một người với người khác, như thế là gián tiếp ông đã ghi nhận những nét độc đáo của người ấy.

            Vừa lúc ấy có tiếng cười nói của Thúy, Oanh vang lanh lảnh ở trước cổng. Ba người bạn đã đi du ngoạn về. Thấy Trúc Đào ngồi đối diện với Sơn ở xa lông, Oanh tru tréo lên:

            - Thế mà làm người ta chạy tìm sáng mắt. Cứ tưởng mẹ mìn nó dỗ đi đâu mất rồi.

            Lộc nhìn Sơn, nói giễu cợt:

            - Mẹ mìn này hiền lành nên chỉ lo cô Trúc Đào dỗ mẹ mìn đi thì có.

            Sơn nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng đang tinh nghịch nhìn chàng.

            Trúc Đào hỏi:

            - Đi hòn Chồng có vui lắm không?

            Nhưng không đợi cho Oanh trả lời, nàng đứng dậy đi ra giếng nước. Đi qua trước mặt Sơn, nàng thấy Sơn giơ tay ra hiệu giữ lại. chàng lấy giọng tự nhiên nói:

            - Lúc nãy tôi bảo cô rằng tôi không lấy vợ vì tham lam quá. Điều đó chưa chắc đúng. Có lẽ đó chỉ là một lý do trong rất nhiều lý do phức tạp, chẳng hạn tâm tính sở thích… Nhưng thôi, phải đợi một dịp khác có nhiều thì giờ hơn chúng ta mới có thể thỏa thuận về điểm khúc mắc này.

            Dịp ấy, Trúc Đào tưởng là hôm sau, khi Sơn đề nghị với nàng đi lên Ngọc Hội xem lò gốm. Đêm đó, trước khi ngủ, dù vẫn ậm ừ chịu chuyện với Thúy và Oanh, nàng vẫn không thể không để óc mình vấn vương vì Sơn. Chàng có những vẻ gì khác với những người bạn trai cùng lứa với nàng. Cố phân tích cho rõ, nàng thấy Sơn một sự điềm đạm cuốn hút, một sự lễ độ bề ngoài lạnh nhạt nhưng chứa đầy nhiệt tình. Những bạn của nàng họ vội vàng quá, họ trắng trợn quá, họ say đắm quá, khiến họ như lúc nào cũng bị men rượu làm choáng váng… Thế mà nàng thì nàng yêu một cái gì nhẹ nhàng hơn, một tiếng thoáng qua, một màu sắc nhạt. Nàng sợ sự tàn bạo. Yêu vồ vập thì chóng quên chóng nhạt. Aø, nàng thấy ra rồi, sự cuốn hút nơi Sơn còn do ở tấm lòng chân thành chàng đối với người yêu cũ, ở sự thận trọng chàng đối với những tình yêu mới. Trước mắt nàng Sơn như một con chim lạ. Nàng thấy mơ hồ một sự cảm mến đối với chàng, đồng thời như có sự tò mò giục nàng thử khám phá xem sao. Người trầm lặng dễ làm đích cho nhiều sự khám phá. Nàng đã chán vì nhiều bạn của nàng sống hời hợt quá nên chưa kịp có một cá tính, có một nội dung. Họ như những quyển sách dở chỉ khác nhau ở cái bìa cái tên sách còn nội dung thì na ná như nhau. Mặc áo và cạo râu, sáng trưa đi làm, ăn uống, tiêu khiển.. bấy nhiêu công việc lặp lại đều đặn ở người này cũng như ở người kia, giống y như những tình tiết yêu đương, trắc trở, nước mắt, nụ cười… trong những quyển tiểu thuyết dở. Dù chưa nếm nhiều nhưng quả tình nàng thấy chán. Theo nàng, Sơn có đời sống nội tâm khác hơn những bạn mà nàng biết. Những nếp cảm xúc tinh vi của chàng chắc chắn sẽ dành cho sự khám phá của người đàn bà những thích thú bất ngờ. Khám phá! Nhưng nàng vụt nghĩ: Khám phá để làm gì? Ừ, khám phá để làm gì? Câu hỏi đến với nàng đúng lúc như một tiếng vang. Để làm gì? Nàng sắp lấy chồng. Ý nghĩ về Khiêm, người chồng sắp cưới của nàng dồn dập đến, vồ lấy tâm hồn nàng khiến nàng khó chịu. Nàng lắc đầu, muốn xua đuổi không nghĩ đến. Nàng quay sang lay Oanh:

            - Chị Oanh ơi! Dậy nói chuyện với em đi. Sao ngủ chóng thế.

            Tâm trạng ấy của Trúc Đào, Sơn không hay biết gì hết. Khi chàng đề nghị cùng nàng lên thăm lò gốm, chàng vui vẻ thấy nàng vội vàng bằng lòng và từ chối không đi với đoàn ra thăm Ba Hồ. Nhưng Oanh, khi nghe Sơn đề nghị lên thăm lò gốm thì Oanh cũng reo lên:

            - Em cũng đi với. Từ nhỏ đến giờ em chưa bao giờ được xem người ta làm đồ gốm. Em đi với có được không, ông Sơn?

            - Được lắm chớ. Hoan nghênh là khác.

            Ba chiếc xích lô đi theo hàng một đưa ba người lên Ngọc Hội. Đoạn đường này không vui vì Trúc Đào không có dịp để nói chuyện vui vẻ cùng Sơn, mặc dù nàng đã khéo xếp đặt để xe nàng đi sát gần xe Sơn. Muốn thế, khi ra xe nàng đi chần chừ đợi cho Oanh ra trước để Oanh bước lên xe trước. Nàng đi xe giữa và Sơn vì bận phải khóa cửa nên ngồi xe sau. Ngồi nhìn ra trước, mắt Sơn chạm phải cái ót trắng của Trúc Đào với mớ tóc nâu uốn vắt lên cao. Lâu lâu, Trúc Đào lấy cớ nhìn theo một ngôi nhà, một cây dừa nước, một cái xe ngựa chạy ngược chiều để quay lại. Và mỗi lần như vậy nàng không quên câu trả lời cái nhìn của Sơn bằng một nụ cười lặng lẽ.

            Đến đầu con đường rẽ vào xóm thì xe dừng lại. Ba người xuống đi bộ. Đoạn đường này rải đá nhưng lâu ngày không tu bổ nên đất trôi đi hết còn lởm chởm đá. Hai nàng nhón bước trên những mũi đá dăm, tinh nghịch cười khi có viên đá lăn tròn dưới gót giày. Sơn thấy lây cái vui hồn nhiên của họ.

            Những vườn dừa chạy dài liên tiếp rải bóng mát xuống mặt đường. Từng chặng, lá dừa đan kín trên đầu, nhìn không thấy trời. Hai bên đường, nhà cất san sát nhưng cái lòi ra, cái thụt vào, cái nhìn thẳng ra đường, cái quay hông nhìn sang hướng khác. Nhà lợp lá dừa và vách trát đất nên thuần một màu xám đậm. Cách khoảng, chen vào một ngôi nhà gạch nhỏ nhắn với cửa sơn xanh lá cây, vách quét vôi xanh nhạt trông như một cô gái quê làm đỏm. Oanh nói:

            - Ở đây sự sống yên tĩnh dễ chịu quá. Có lẽ được sống ở đây quanh năm thì tim em chỉ còn đập sáu mươi nhịp trong một phút.

            - Ai cấm chị không được sống ở đây? - Trúc Đào hỏi.

            - Sự lười biếng, sự rụt rè không dám thay đổi một nếp sống cố hữu. - Oanh mơ màng trả lời.

            Sơn chỉ một bà cụ già ngồi trước hiên một ngôi nhà xiêu vẹo đang nheo mắt vá áo. Chàng nói:

            - Đó là hình ảnh của hạnh Phúc theo cô Oanh quan niệm đó. Tim của bà cụ này chỉ còn năm mươi lăm nhịp đập trong một phút thôi.

            Oanh và Trúc Đào cùng phá ra cười ầm ĩ khiến những khuôn mặt ló ra ở các khung cửa sổ. Vài người bước hẳn ra hiên nhìn đăm đăm vào hai nàng.

            Quá chợ Mới con đường nhỏ lại và nện đất. Nhà nối tiếp thưa thớt hơn. Thỉnh thoảng đôi mắt được nghỉ ngơi trên những cánh đồng mía lá xanh rờn rợn. Tiếng bàn chuốc rập rình ở một cái trại nhỏ vang ra. Sơn giảng:

            - Đã tới xóm lò gốm rồi đó. Tiếng rập rình mà hai cô vừa nghe là tiếng bàn chuốc.

            Oanh định hỏi “bàn chuốc là cái gì?” nhưng nàng dừng lại không hỏi. Nàng nghĩ: Trúc Đào nhất định cũng không biết bàn chuốc là cái gì nên thế nào Trúc Đào cũng hỏi. Nhưng Trúc Đào đang lơ đãng nhìn một ánh nắng đang chiếu vàng trên đọt dừa cao. Nàng bảo Sơn:

            - Ông Sơn ơi, ông xem kìa, ánh nắng chiếu trên đọt dừa kia. Từ sáng đến giờ trời âm u mình cứ lo đi chơi mắc mưa.

            Sơn đưa mắt nhìn rồi nói:

            - Nhưng không nắng lâu được đâu. Lóe một chút rồi tắt ngay. Nhưng được cái là vẫn tốt hơn mưa.

            Chàng đưa hai người bạn vào một trại lò gốm. Trước sân, những miếng gạch vừa đổ ra được sắp hàng để phơi khô. Ở bàn chuốc, một người đàn bà dùng chân đẩy cho cái bàn xoay còn một người đàn bà khác đưa hai tay kéo một con đất cho thành hình cái chậu. Oanh thấy lạ, đứng chăm chú nhìn rồi hỏi tíu tít người đàn bà:

            - Bà đẩy bàn có nặng không? sao bà chuốc không méo? Lỡ méo thì bà làm sao? Mấy ngày thì cho vào lò? Mỗi ngày bà làm được bao nhiêu tiền? Bà có ở gần đây không? Bà được mấy con?…vân vân…

            Hai người đàn bà chia nhau trả lời. Họ không tỏ ra khó chịu vì những câu hỏi của Oanh mà họ cho là ngây thơ. Sơn để cho Oanh và Trúc Đào say mê với những phát kiến mới của họ. Chàng bước ra sân, đi men ra vườn, đứng nhìn xuống một con lạch nhỏ. Nước đứng im sừng sững in bóng những bè rau muống, những khóm bèo lục bình đơm hoa tím. Một con chim bói cá đậu trên một cành tre nhỏ sát mặt nước, phải nhìn kỹ lắm chàng mới trông thấy. Chàng cúi nhặt một miếng mẻ ngói giơ tay định ném con chim thì có tiếng chân bước lại gần và một tiếng “suỵt” khe khẽ. Chàng quay lại: Trúc Đào. Nàng giơ một ngón tay lên miệng, mở to mắt:

            - Ông sắp ném chim hả? Sao ông ác thế?

            - Tôi ném trăm lần trật cả trăm. Cô đừng lo.

            - Con đường nầy đi về đâu thế ông?

            - Đường này xuống ngõ Phương Câu.

            - Phương Câu, - nàng mím môi suy nghĩ, - Phương câu chắc là giống Bích Câu ông nhỉ? Cảnh đẹp như thế này mà.

            Nàng bước ra đường và tự nhiên Sơn cũng bước theo. Những cây ô mai, cây khế, cây mít ở các vườn nhà người ta đều làm cho nàng xuýt xoa. Mấy đứa bé thấy nàng mặc áo sơ mi ngắn quần tây dài bó đùi, đi sát theo tò mò nhìn. Một đứa chạy ù ra trước vói tay gọi mấy đứa khác:

            - Ra coi vợ chồng ông bà này bay ơi! Bà vợ bận quần tây.

            Sơn hơi ngượng vì sự hiểu lầm của đứa bé. Chàng đưa mắt nhìn sang Trúc Đào nhưng không thấy nàng tỏ vẻ khó chịu nào cả. Nàng tươi cười trỏ một ngón tay về phía đứa bé, ra dấu dọa nạt:

            - Nói nhảm đấy nhé? Đánh chết.

            Rồi quay sang Sơn, nàng nói, miệng vẫn giữ nụ cười:

            - Lũ nhỏ quan niệm rằng một người đàn bà và một người đàn ông đi với nhau thì phải là hai vợ chồng.

            - Cả người lớn cũng quan niệm như vậy.

            - Tội nghiệp - Trúc Đào chép miệng.

            Nàng định nói thêm thì chợt nhìn xuống một vũng nước rộng nằm trải suốt mặt đường.

            Mấy ngày trước trời mưa nên mặt đường lỗ chỗ những vũng nước. Sơn đã nhún chân nhảy qua đứng ở bên kia vũng đợi. Trúc Đào ngắm nghía vũng nước nhún chân mấy lần nhưng không dám nhảy qua. Nàng đưa mắt tìm một lối đi ven hai bên bờ đường nhưng không có lối. Sơn đưa thẳng bàn tay ra nói:

            - Cô nắm bàn tay tôi mà nhảy qua. Như vậy chắc khỏi ngã.

            Trúc Đào tươi cười ngay:

            - A! Phải đấy. Thế mà em không nghĩ ra được.

            Nàng giơ tay cầm lấy bàn tay Sơn, nhún chân nhảy. Đà nhảy mạnh đẩy nàng sát vào người Sơn. Chàng nhìn vào đôi má hồng của nàng mơn mởn lông tơ. Đôi mắt đen nháy long lanh sáng. Mùi nước hoa ở mái tóc thoang thoảng. Chàng nhìn xuống bàn tay mà chàng còn giữ lại: ngón trắng thon và cổ tay tròn trĩnh, Trúc Đào chầm chậm rút tay ra khỏi lòng bàn tay của chàng. Sự việc xảy đến nhanh quá khiến nàng có cái thú ngây ngất của sự bất ngờ. Im lặng một giây, nàng khẽ bảo:

            - Chết! Chúng ta bỏ quên chị Oanh ở lò gạch. Phải trở lại kẻo chị trách.

            Sơn không trả lời. Hai người nhảy trở lại vũng nước nhưng lần này nàng không nắm tay Sơn nữa. Tuy vậy, để phòng xa đường trơn, nàng nhảy ngay vào chỗ Sơn đang đứng đợi.

            Đi chừng vài mươi bước, Sơn cảm thấy buồn. Có lẽ Trúc Đào cũng nghĩ như vậy chăng nên liếc nhìn sang nàng, Sơn thấy nàng cắn môi. Con đường về không có gì lạ. Cuộc phiêu lưu đã chấm dứt ở từ cái vũng nước ngang đường. Đến ngã tư thì hai người thấy Oanh đang ngơ ngác đưa mắt tìm. Đón trước trước lời trách của Oanh, Trúc Đào bước nhanh đến vừa tươi cười nói:

            - Em đi lạc đường…may có ông Sơn…

            Hơi ngượng vì lời nói dối nên Trúc Đào ngần ngừ không nói hết câu. Sơn tự hỏi: Trúc Đào nói dối làm gì? Nhìn sang Oanh thấy Oanh không tỏ vẻ nghi ngờ gì hết, Sơn bảo:

            - Nếu chúng tôi không đến kịp thì cô cũng sắp đi lạc đường rồi đó. Tôi tưởng cô đang say mê với lũ chum, vại, gạch, ngói của hàng lò gốm.

            Oanh reo lên:

            - Ồ! Thích quá khi được nhìn hai bàn tay dịu dàng của người thợ chuốc biến con đất sù sì ra cái chậu, cái vung. Thật không ngờ một người đàn bà cục mịch như thế lại khéo tay như vậy. Hay quá. Thật là một cuộc đi chơi đầy thú vị.

            Trúc Đào đưa mắt nhìn sang Sơn thì bắt gặp tia mắt của Sơn nhìn mình. Cả hai như cùng muốn nói: chúng tôi cũng vừa thấy như vậy.

            Con đường về như ngắn hơn lúc đi. Cảnh nhà cửa cảnh cây cối trên đường và những khuôn mặt, mới gặp một lần mà như đã quen lâu rồi. Oanh và Trúc Đào không tò mò nhìn nữa nên bước chân đi mau hơn. Tuy vậy, có những chi tiết lúc đi không lưu ý, đến chừng về hai người mới thấy. Chẳng hạn cái cầu đá uốn vòng như lưng mèo với cái vòm cong ở dưới hình bán nguyệt. Nước đục mang những bè rác chảy lờ đờ. Chẳng hạn cái lều chợ bằng ngói nằm giữa những bức tường thành cao của mấy ngôi nhà xung quanh. Oanh nói:

            - Đi xem cảnh phải xem một lần đi và một lần về mới thấy hết, nhớ hết. Cũng như học bài vậy. Phải học ôn thì mới khỏi quên.

            - Đúng thế, - Sơn trả lời. - Nhưng chỉ tiếc là điều nhớ hôm nay, ta sẽ quên ngày mai, ngày kia.

            Ba người im lặng bước. Một lát sau, Trúc Đào chậm rãi nói:

            - Quên là một bắt buộc của cuộc đời chứ bản tâm con người thì muốn nhớ hết, nhớ hết.

            Câu nói của Trúc Đào khiến Oanh quay nhìn sang Sơn có ý dò hỏi. Sơn cất tiếng cười để lấy vẻ tự nhiên:

            - Khi mỏi chân thì cô Trúc Đào có những tư tưởng rất thâm thúy.

            Trúc Đào cười và Oanh cũng cười theo.

            Vui chân, ba người đi bộ mãi đến Phật học viện mới gọi xích lô về nhà. Đến ngã Sáu Nhà Thờ, những tấm vải quảng cáo tuồng chiếu bóng chữ viết xanh đỏ bắt mọi người lưu ý.

            Trúc Đào kêu lên:

            - Ô! Tối nay rạp Tân Tân chiếu phim Gidget. Phim này hôm chiếu ở Đà Lạt em trật xem. Vậy tối nay phải đi xem mới được. Ông Sơn đã xem chưa?

            - Chưa

            - Vậy tối nay mời ông đi với em nhé?

            - Đồng ý. Mời cô Oanh cùng đi luôn.

            - Cám ơn ông. Em đã xem rồi.

            Tiếng phát lách cách của ba chiếc xích lô làm con Tô sủa vang lên. Con bé ở ra mở cổng. Khi bước vào sân, Trúc Đào vui vẻ nói:

            - Em rất thích Sandre Dee. Để rồi tối nay ông cũng sẽ yêu Sandra Dee như em.

            Vừa lúc ấy con bé ở lại đi gần nàng.

            - Thưa cô, lúc nãy có người đến hỏi cô.

            - Người ấy ra thế nào? đàn ông hay đàn bà?

            - Thưa cô đàn ông.

            - Nhưng người ấy hỏi cô nào? Cô Oanh hay tôi?

            - Thưa cô người ấy hỏi: Cô Trúc Đào có ở nhà không? con thưa rằng cô đi vắng thì ông ấy bảo về thưa lại với cô tối nay ông ấy đến.

            - Ông ấy người ra thế nào?

            Con ở lúng túng không biết nên tả ra thế nào. Rồi như chợt nhớ ra, nó vui vẻ nói:

            - Ông ấy đi bằng ô tô.

            - Bằng ô tô?- Trúc Đào chau mày lật đật hỏi.- Ô tô nhỏ?

            - Thưa cô, vâng. Ô tô nhỏ màu vàng nhạt.

            Nét mặt của Trúc Đào sa sầm xuống.

            - Cô có điều gì không bằng lòng?

            Sơn hỏi nhỏ:

            Trúc Đào lắc đầu:

            - Thưa ông không.

            Rồi nàng lẳng lặng vào phòng.

            Vợ chồng Lộc Thúy đã đi xuống khách sạn để ăn chung với đoàn du lịch. Đã trễ giờ nên Sơn mời Oanh và Trúc Đào cùng ăn với mình. Mặc cho những lời vui đùa của Sơn và của Oanh, Trúc Đào có vẻ không vui.

            Ăn tối xong, nàng giục Sơn:

            - Chúng ta chuẩn bị đi xi-nê đi.

            Sơn nhìn vào đồng hồ tay:

            - Còn sớm quá, chín giờ mới chiếu mà bây giờ mới tám giờ kém hai mươi.

            - Chúng ta có thể đi một vòng ở phố Độc Lập rồi vào rạp sau.

            - Nếu cô muốn.

            Sơn đứng dậy vào phòng thay áo và Trúc Đào cũng lại chải tóc trước gương. Thấy Oanh mở xắc lấy son bôi môi, Sơn hỏi:

            - Còn cô Oanh?

            - Em ghé lại thăm chị Bích. Xuống Nha Trang mà không ghé thăm chị, lúc chị biết được thế nào chị cũng trách.

            Ba người đang mê mải chuẩn bị thì có tiếng còi ô tô trước cổng.

            Tiếp theo sau, tiếng mở khóa lách cách và tiếng giày đi vào xa-lông.

            Oanh chạy ra và reo lên.

            - Anh Khiêm! Anh Khiêm, chị Trúc Đào ơi.

            Sơn đưa mắt nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng bỏ mạnh cái húp phấn xuống bàn rồi đứng dậy.

            Khi Oanh giới thiệu Khiêm với chàng, Sơn nhận cái bắt tay rất chặt và một nụ cười thân mật. Oanh hỏi:

            - Anh vừa ở Đà Lạt xuống?

            - Xuống hồi bốn giờ chiều. Tôi phải làm việc sáng thứ bẩy. Ăn trưa xong, nghỉ một lát rồi phóng xe xuống đây.

            - À !- Oanh vui vẻ như vừa khám phá ra sự lạ. - Hồi chiều anh có ghé lại đây hỏi chị Trúc Đào phải không? Lúc bấy giờ chúng em đi Ngọc Hội xem lò gốm.

            Khiêm gật đầu rồi mỉm cười lặng lẽ. Ba người ngồi im lặng khá lâu. Sơn tinh nghịch đợi xem ai sẽ phá tan sự im lặng ngượng nghịu ấy. Khiêm thì ngồi thẳng ở ghế xa-lông, những ngón tay đan tréo vào nhau và mắt hết nhìn xuống lọ hoa lan đặt ở bàn nước đến đưa ra nhìn giàn hoa hoàng anh trước cửa. Oanh thì thập thò nhìn vào cửa phòng như đợi Trúc Đào ra. Một lát có tiếng giày của Trúc Đào. Khi nàng hiện ra ở khung cửa, Khiêm đứng dậy:

            - Anh đợi em từ chiều đến giờ.

            Trúc Đào mỉm cười uể oải.

            - Em sắp đi phố hả? Để anh đưa xe em đi. Nhưng trước hết chúng ta phải ghé lại nhà chào chú thím đã. Nhà chú ở số… chết chết, ở số mấy anh quên mất…

            Chàng móc túi lấy ra một cái ví đầy ắp những giấy tờ, lục lọi một lát rồi reo mừng:

            - Phải rồi! Số 57 Duy Tân. Còn chị Oanh đi chơi với chúng tôi? À quên, chúng tôi còn phải đi xuống Duy Tân.

            Oanh nhanh nhẩu đáp:

            - Em cũng phải đi lại thăm chị Bích ở gần đây.

            - Thế để tôi đưa xe chị đi luôn. Nào, chúng ta cùng đi.

            Khiêm bước ra trước. Trúc Đào mắt nhìn sang Sơn nói nhỏ:

            - Xin lỗi ông…

            Sơn vừa bắt tay Khiêm vừa nói:

            - Không có gì. Xin chúc ông… bà vui vẻ.

            Tiếng “bà” chàng nói khẽ để dò xem tình thế. Không ai tỏ vẻ khó chịu. Chỉ riêng Trúc Đào hơi bĩu môi rồi quay nhìn ra sân.

            Mười một giờ khuya vợ chồng Lộc Thúy và Oanh về.

            Sơn lắng nghe tiếng họ bàn cãi khi bước vào nhà. Đầu tiên là tiếng của Thúy:

            - Trúc Đào nó không yêu mà bắt nó vui vẻ sao được?

            Tiếng Lộc cãi lại:

            - Không yêu sao lại bằng lòng lấy người ta?

            Tiếng Oanh bình tĩnh hơn:

            - Hai gia đình thân với nhau từ xưa. Vả lại, anh Khiêm đâu có thua kém ai. Công chức cao cấp, lương to. Chỉ tiếc anh ta có hơi thô.

            Sơn vụt nhớ đến mái tóc bàn chải và cặp mắt nhỏ, đến cái mặt hay nghếch lên, vừa tự phụ vừa quê mùa.

            - Nhưng người đàn ông sinh ra đâu phải với mục đích mỹ thuật? Giọng chống chế của Lộc.- Có lẽ Trúc Đào không thích tính của Khiêm vì tính anh ta hơi “gấu” thế nào ấy. Con người ấy thật mâu thuẫn. Ăn chơi mà lại thô.

            Có tiếng vỗ tay và tiếng cười to:

            - Đúng rồi, đúng chữ ấy đấy. “Gấu”. Phải, anh Khiêm “gấu” lắm.

            Tiếng “suỵt suỵt” có lẽ của Thúy.

            - Im! Im! Cười nho nhỏ thôi để anh Sơn ngủ.

            - Tội nghiệp. Hình như lúc nãy chị Trúc Đào khóc. Phải không anh Lộc? Em thấy mắt chị ấy đỏ.

            - Trông dáng Khiêm ngượng ngập khi gặp chúng mình và dáng Trúc Đào quay mặt không trả lời câu hỏi của chị thì hiểu ngay.

            Ba người lặng lẽ thay áo rồi vào giường nằm. Những tiếng rủ rỉ trao đổi với nhau lần lần thưa dần, uể oải dần. Cuối cùng đâu đó im lặng. Sơn mở mắt nhìn lên đình màn. Trí óc chàng liên man nghĩ đến Trúc Đào, nghĩ đến cuộc du ngoạn hồi chiều. Tiếng chuông đồng hồ nhà bên cạnh đổ lên mười hai tiếng. Một chặp sau tiếng ô tô dừng trước cổng, tiếng giày sào sạo trên sỏi. Tiếp theo, tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Sơn trở dậy ra bật đèn mở cửa. Trúc Đào ngạc nhiên thấy Sơn mở cửa cho mình. Nàng nói:

            - Em làm phiền ông. Sao ông thức khuya thế?

            Giọng nàng không trong trẻo như hồi chiều. Nghe như đặc lại.

            Chàng trả lời:

            - Nhắm mắt mà mãi giấc ngủ không đến.

            - Em lại tưởng ông đi xi-nê.

            - Không có cô thì không đi.

            Trúc Đào im lặng.

            - Em xin lỗi đã thất hứa với ông. Xin ông hiểu cho rằng em rất tiếc. Ngày mai em phải về Đà Lạt rồi.

            Sơn chép miệng:

            - Những ngày vui đã chấm dứt.

            - Em mong có dịp ông lên Đà Lạt chơi.

            Sơn xòe hai bàn tay và bĩu nhẹ môi vẻ thất vọng:

            - Để làm gì?

            Chàng muốn Trúc Đào hiểu rằng chàng đang nghĩ đến cuộc đời của nàng bên cạnh Khiêm. Riêng Trúc Đào, nàng cũng muốn nói: “Có lẽ ông nghĩ đúng” nhưng nàng không dám nói.

            Khi bước vào phòng, giọng Oanh ngái ngủ:

            - Trúc Đào về đấy à? Sao khuya thế? Tối nay Khiêm nghỉ ở đâu?

            - Anh ấy ở khách sạn. Sáng mai anh ấy phải đi Qui Nhơn sớm.

            Lại một đêm nữa Trúc Đào trằn trọc không ngủ được. Nàng hồi tưởng lại lần đầu tiên người được nghe Lộc nhắc đến tên Sơn. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, nàng nhớ kỹ là một ngày chủ nhật đầu tháng Năm, nàng ghé lại thăm Lộc Thúy. Nàng như còn thấy rõ trước mắt, lọ hoa lớn ở phòng khách hôm ấy cắm toàn hoa cúc trắng. Câu chuyện rất vui vẻ, bắt đầu nói về ngày lễ nghỉ, đến hoa trắng tháng Năm, đến những chuyện tình vẩn vơ rồi quay sang sự học hành của Trúc Đào. Chợt Lộc nói:

            - À! Thúy này! Trúc Đào có fiancé rồi, tiếc quá em nhỉ! Nếu chưa thì mình giới thiệu anh Sơn cho Trúc Đào.

            Thúy tán thành ngay, một điều mà Trúc Đào ít khi thấy xảy ra vì cặp vợ chồng này lúc nào cũng tìm những ý kiến mâu thuẫn để chống nhau:

            - Ờ! Phải đấy. Anh Sơn là người bạn tốt của chúng em. Chị với anh Sơn… Ờ, phải đấy!

            Trúc Đào chỉ mỉm cười không trả lời. Lộc kể những tính tốt của Sơn và theo ý kiến của Lộc thì Sơn và nàng sẽ thành một đôi vợ chồng hợp tính nhau. Trúc Đào lắng tai nghe, lý thú nhưng không tin tưởng lắm, Lộc thuộc hạng người có tâm hồn đơn giản, làm viên chức tốt và làm chủ gia đình hoàn toàn. Lộc làm ăn cần kiệm, chơi huê chơi hụi chắc chắn, giao thiệp mua bán lanh lẹ tháo vát. Nhà cửa sắp đặt ngăn nắp, sổ chi tiêu không ghi sót một món chi hai đồng, tờ lịch luôn luôn được bóc vào chín giờ tối hôm trước… Tính tình dễ dãi như vậy nên Lộc không có một mối băn khoăn siêu hình nào. Giải trí của anh, cho đến chừng này tuổi vẫn là những phim phi ngựa bắn súng và những tập tiểu thuyết đường rừng. Nàng thầm trách, - nhưng không biết trách ai, - rằng sao người giới thiệu Sơn cho nàng lại là Lộc. Những bạn của Lộc thường là những nhà buôn cần xin giấy tờ ở tòa thị chính, những người mới giàu lo chọn mua vi-la, những người cần mai mối để tìm cưới một cô vợ có vốn. Nàng tưởng Sơn cũng đại khái như vậy. Nàng nghe chuyện một cách lý thú chỉ vì óc chinh phục đặc biệt của người đàn bà mà thôi. Nghe chuyện về một người đàn ông sắp được bạn giới thiệu để yêu mình là một điều thích thú. Thích hơn nữa vì người đàn ông đó là vai chính của một câu chuyện tình khá cao thượng. Nên khi Lộc nói xong quay lại hỏi: “Đấy, chị Trúc Đào thấy một người như vậy có đáng yêu không?” thì nàng trả lời ngay, vui vẻ nhưng hời hợt: “Có. Đáng yêu lắm.”. Tức thì Lộc nói liền:

            - Hôm nào chị cùng đi xuống Nha Trang với tôi. Tôi giới thiệu cho.

            Trúc Đào không ngờ lời hứa đó hôm nay đã thành sự thật, một sự thật đẹp hơn nàng tưởng tượng nhiều. Vì sau đó nàng lại nhiều lần được nghe Lộc hay Thúy nói về Sơn và cứ sau mỗi lần như vậy, nàng có cảm tình với Sơn hơn trước. Nay được gặp Sơn, nàng sung sướng và đau xót mà thấy rằng tâm hồn Sơn có những điểm phù hợp với tâm hồn nàng. Nàng quay ra giận Lộc sao trước kia không nói kỹ về Sơn hơn nữa cho nàng biết, nhưng nàng kịp thời thấy mình vô lý vì Lộc làm sao mà nói hết được. Nàng trở sang trách Sơn sao lại chỉ quen với Lộc mà không quen với Phượng, với Tuyết chẳng hạn là những bạn thân của nàng, những người tế nhị như nàng và hiểu rõ tâm hồn nàng như chính nàng vậy. Nhưng rồi nàng cũng lại thấy là mình vô lý.

            Đồng hồ nhà ai thong thả gõ hai tiếng. Nàng nghĩ đến ngày mai giã từ Nha Trang, giã từ vĩnh viễn cái bóng dáng Hạnh Phúc mà nàng tưởng như vừa hình dung được. Nàng đưa mắt nhìn lần vải mùng, nhìn lên tường. Tường nhà Sơn không mang một bức tranh ảnh nhỏ nào cả mà chỉ toàn một màu xanh nhạt. Phòng ngủ chỉ để một ít bàn ghế giường tủ cần thiết. Ánh sáng và khoảng rộng chiếm nhiều chỗ hơn. Nàng nhớ đến nhà mình bề bộn vì những đồ trưng bày hơn là cần dùng. Nàng nghĩ lại: mình thích lối sống này hơn.

            Quả thật nàng thấy Sơn say sưa yêu đời mà vẫn có dáng đạm bạc với đời. Đó là một sự mâu thuẫn kỳ thú. Sơn có những ý kiến của chàng, không như Khiêm thường chỉ nhắc lại những điều vừa đọc trên báo, vừa nghe ở đài phát thanh hay vừa nghe của ai. Khiêm bàn về mọi vấn đề và về vấn đề nào cũng đưa những ý hời hợt nhất, sáo nhất. Khiêm luôn luôn... Những ý nghĩ về Khiêm làm tâm hồn Trúc Đào u tối lại khiến nàng nhắm mắt và ngủ lúc nào không biết nữa, bỏ dở dang những ý nghĩ không có đoạn kết.

            Sáng hôm sau, đoàn công chức về Đà Lạt. Vali, giỏ, xách trên tay Lộc, Thúy, Oanh, Trúc Đào đứng thành hàng trước mặt Sơn. Sơn không để đợi khách nói, chàng nói trước.

            - Xin cám ơn anh chị và hai cô đã đến làm vui cái không khí của nhà tôi. Tôi rất tiếc là không đủ phương tiện để làm cho những ngày các bạn lưu trú được êm đềm hơn.

            Lộc ấp úng:

            - Tôi sắp cám ơn anh thì anh chận đầu mất rồi. Chúng tôi mới phải cám ơn anh và xin lỗi đã quấy rầy anh mấy hôm nay.

            - Quấy rầy? … Ừ, cũng có quấy rầy đôi chút đó, nhưng tôi thích vì các bạn đã xáo trộn cuộc đời của tôi cho thêm vui một tí.

            Lúc tiễn mọi người lên xe. Sơn nhận cái chào của từng người. Đến lượt Trúc Đào, chàng nói:

            - Riêng trúc đào của cô, cô sẽ có.

            Trúc Đào mỉm cười:

            - Lễ Nô-en em xuống.

            - Tôi đợi.

            Chàng êm đềm nhìn nàng giây lâu. Những câu muốn nói mà không tiện nói ra chàng gửi vào cái nhìn âu yếm ấy. Trúc Đào cũng nhìn chàng mà không chớp mắt. Nàng nghĩ gì mà không chớp mắt thế kia? Đến những kỷ niệm dưới gốc bụi trúc đào, ở bên cạnh vũng nước hay đến buổi chiều bóng lỗi hẹn đêm qua?

            Xe rồ máy. Sơn vẫy tay âu yếm nhìn theo cho đến khi xe mất hút ở cuối đường Bạch Đằng.



            Những ngày ở Đà Lạt không khiến Trúc Đào ít nghĩ về Sơn nhất là những khi nàng va chạm với Khiêm. Từ ngày gặp Sơn, nàng mới thấy rõ sự tầm thường của Khiêm, sự tầm thường mà trước đây nàng tưởng là trạng thái bình thường của con người thời đại. Thậm chí đã có nhiều lúc nàng đâm ra nghi ngờ tự hỏi: hay chính mình mới là người bất thường? Nàng nhớ lại những trang nhật ký của Sơn mà nàng đã đọc. Không phải chỉ đoạn cô gái Trung Hoa nàng đưa ra hỏi Sơn hôm trước đâu mà nàng đã đọc nhiều hơn thế nữa. Chính có đọc nàng mới thấy Sơn có một đời sống nội tâm giống nàng, mới thấy rằng nàng không phải là một người bất thường. Thật ra, những sự va chạm với Khiêm không có gì quan trọng. Đó chỉ là những sự bực bội lặp lại khi nàng phải nghe những ý kiến phi cá tính của Khiêm, những ý kiến phát biểu về một kiểu ô tô, về một màu sơn cửa, về một vấn đề thời sự trên báo. Mỗi lần bực bội như vậy nàng thường đến nhà Lộc Thúy để quên đi và nơi đây ba người lại mê mải nói chuyện về Nha Trang, về Sơn. Ba người đều mâu thuẫn như nhau: họ vẫn ngầm công nhận cuộc hôn nhân giữa Trúc Đào và Khiêm mà vẫn tìm mọi dịp để khám phá một cách thích thú rằng giữa Trúc Đào với Sơn có những sự hòa hợp.

            Ngày tháng trôi qua. Xấp lịch treo tường đã thấy mỏng lần, mỏng lần. Rặng anh đào chạy dọc theo con đường Yersin đã thấy lấm tấm ra nụ. Gió lạnh thổi từng cơn vi vút, reo giữa cành lá thông cao. Tháng chạp rồi. Lễ Nô-en đã được báo trước bằng những bộ quần áo nỉ màu sẫm với những chiếc khăn len che mũi, bằng những kiểu măng tô, bằng những chiếc áo nhung mềm mại uyển chuyển. Trúc Đào vui vẻ nghĩ đến ngày lễ Nô-en, nghĩ đến lời hứa xuống Nha Trang. Xuống Nha Trang, nàng sẽ đem theo món quà gì? Hoa thì nhất định phải có rồi vì đó là thổ sản của Đà lạt. Nàng sẽ chọn một bó lai ơn màu tím đậm, màu tím phù hợp với nỗi cô đơn của Sơn. Nhưng chỉ có hoa không thì ít quá. Hoa dẫu đẹp nhưng mau tàn, phải có thêm món quà gì bền chắc hơn. Đang khi băn khoăn không biết chọn món quà nào thì Khiêm lại. Sau vài câu chuyện nắng mưa, chuyện cách mạng Đại Hàn, chuyện chiến tranh Congo mà Trúc Đào lơ đãng đối đáp. Khiêm đổi giọng nghiêm trang hơn:

            - Thằng Minh vừa đổi cái xe cũ, bù tám mươi ngàn đồng bạc lấy được chiếc Consul đời NBJ nên cứ vênh cái mặt lái chạy khắp phố.

            Trúc Đào thật thà:

            - Cái Consul kiểu đẹp đấy chứ.

            - Kiểu thì cũng trông được đấy nhưng màu xanh quê chết.

            - Đó là sở thích của mỗi người.

            - Sở thích gì? Nó là một thằng nhà quê. Nhìn con vợ nó không thấy sao?

            Tính Trúc Đào không thích tranh biện nhưng nàng thấy thèn thẹn coi như mình thiếu thành thực nếu không bào chữa cho Minh, coi như mình đồng lõa với Khiêm nếu nàng im lặng.

            - Chị Minh bản chất thực thà nên không diêm dúa lòe loẹt đó thôi, chứ em tưởng uốn tóc, vẽ mi mắt và mặc áo ni lông thì đâu có khó. Em có quen chị ấy nên em biết rõ. Chị tốt lắm.

            - Anh thì chúa ghét thằng Minh. Nó bắng nhắng…

            Trúc Đào khó chịu ngắt lời:

            - Sao anh nuôi chi những ý nghĩ xấu về người khác vậy? Nghĩ tốt về người ta, lỡ có lầm cũng không sao vì không hại cho ai hết. Chứ nghĩ xấu cho họ thì khi biết mình lầm, hối lại không kịp.

            Hai người im lặng. Không khí có hơi ngột ngạt. Đã nhiều lần như vậy, Trúc Đào cãi với Khiêm mỗi khi thấy Khiêm đả kích người vắng mặt. Khiêm không dung cho một người nào có ưu điểm. Những lúc đầu nàng thấy vô hại vì sự đả kích mượn hình thức châm biếm nhẹ nhàng, nhưng lần lần nàng thấy Khiêm đi sâu vào sự nhỏ nhen, ưa tìm tì vết của người ta.

            Khiêm lặng lẽ đưa tay ngắt một đóa thược dược ở lọ hoa đặt trước mặt. Trúc Đào nghĩ rằng chàng ngượng nên có hơi hối hận. Chợt Khiêm bảo:

            - Nô-en năm nay anh tổ chức tiệc nửa đêm có khiêu vũ.

            Thấy Trúc Đào không reo mừng như chàng dự tưởng, Khiêm hỏi:

            - Nào, em có thích không? Năm ngoái lũ thằng Như thằng Duệ ở sở Địa dư, thằng Cang ở Thuế vụ tổ chức những tiệc nửa đêm có khiêu vũ. Chúng nó tổ chức xoàng thôi mà cũng được lũ bạn khen ầm lên…

            “Lại chê bai người ta!” Trúc Đào nghĩ. Cổ họng nàng như nghẽn lại do hơi ở đâu đưa ứ tắc. Thế ra mình vừa hối hận lầm. Nàng giận không muốn nghe Khiêm nói nữa thế mà bên tai nàng, tiếng của Khiêm vẫn hào hứng nói tiếp:

            - Năm nay anh tổ chức phải hơn tụi nó. Anh nhờ có em làm linh hồn cho đêm khiêu vũ. Em phải trang điểm cho thật đẹp, tiếp đãi cho thật bặt thiệp...

            Trúc Đào ngắt lời:

            - Em chịu thôi. Em nhảy dở lắm.

            - Đó là cái lỗi của em. Em muốn lạc hậu…

            Bị chạm tự ái bất ngờ, mắt nàng sáng lên:

            - Vả lại Nô-en này em không ở Đà Lạt.

            - Chứ em đi đâu? - Khiêm trố mắt ngạc nhiên hỏi.

            - Em đi…

            - Đi đâu?

            - Đi Nha Trang.

            - Đi Nha Trang… Sao em không hỏi anh trước? Em xuống Nha Trang để làm gì?

            Nghe giọng Khiêm hỏi gặng, Trúc Đào đứng dậy:

            - Em có quyền không trả lờøi.

            Khiêm giơ tay ra hiệu giữ lại:

            - Em phải trả lời.

            - Anh lầm! Anh không có quyền gì bắt em phải trả lời hết.

            - Có! Anh có quyền! Anh là hôn phu của em.

            - Pháp luật không qui định điều đó.

            Mặt Khiêm đỏ lên:

            - Anh không cần biết đến pháp luật. Anh chỉ cần biết rằng em phải theo lời anh.

            - Em không nghe.

            Nàng vừa nói vừa bước nhanh ra khỏi phòng khách chạy lên phòng mình rồi đóng sầm cửa lại. Nàng ngồi xuống giường lưng tựa vào tường, mím môi giận và tim đập hồi hộp. Qua cửa sổ, nàng nghe tiếng giày của Khiêm bước vội trên sỏi, tiếp đến tiếng cửa xe đóng sập mạnh và tiếng xe rồ máy chạy vút. Cơn tức vồ lấy nàng. Khiêm bỏ ra đi không lên xin lỗi nàng thế nghĩa là Khiêm tự cho mình có lý. Khiêm chiều nàng nhưng vẫn muốn coi nàng như một người nô lệ. Có lẽ vì Khiêm giao thiệp với nhiều đàn bà, được nhiều đàn bà chiều đãi nên Khiêm quen tính đi. Đã khỏe thế…, nàng sẽ không phải đợi đến ngày Nô-en mới đi Nha Trang, nàng sẽ đi ngay bây giờ để cho Khiêm biết rằng chàng không quyền gì bắt buộc nàng hết. Hôm nay mới mười sáu tháng chạp nhưng có cần gì. Xuống sớm, xuống bất ngờ sẽ làm cho Sơn ngạc nhiên, sung sướng. Bây giờ đã năm giờ chiều rồi, đi chuyến xe lửa năm giờ mười lăm xuống Nha Trang thì không kịp nữa, xe đò sợ cũng hết chuyến, nhưng ý đã quyết, nàng sẽ tự lái lấy chiếc Simca nhỏ của ba nàng. Ba má nàng đi Sài Gòn hai hôm nay, đi bằng xe lửa và sẽ ở dưới đó một tuần. Lái chiếc Simca, chậm nhất là tám giờ tối nay nàng sẽ tới Nha Trang.

            Trúc Đào đứng dậy gỡ tóc, bôi sáp môi, thay áo. Phải quyết định ngay. Nàng biết rằng nếu để óc mình thanh thản suy nghĩ, tính tới tính lui thì thế nào cuối cùng nàng cũng nằm vật mình xuống giường bấm cái nút ra-đi-ô để tìm một tiếng nói, một giọng nhạc, trốn tránh cái cô đơn và xua đuổi sự băn khoăn. Ra-đi-ô là cái máy dung dưỡng sự do dự. Nàng mở tủ xếp đặt hành lý một cách vội vã. Một ít quần áo bỏ vào chiếc va-li con. Một ít tiền bỏ vào xắc. Nàng khóa cửa phòng, ra gọi chị vú:

            - Vú bảo bác tài đánh xe ra để trước cổng cho tôi. Vú coi nhà nhé? Tôi đi Nha Trang liền bây giờ. Chiều mai về. Vú nhớ coi chừng cửa nẻo.

            Vú “Vâng vâng dạ dạ” rồi chạy đi. Tiếng xe từ ga-ra chạy ra, nghiến sỏi sào sạo rồi đậu lại trước cổng. Nàng xách va-li đi vội ra theo. Bác tài bước ra nhường tay lái cho nàng.

            - Cô có cần em theo lái?

            - Cám ơn chú. Tôi lái một mình được.

            Nàng vô số, đạp ga và mũi xe chồm lên nuốt vội con đường. Qua cầu ông Đạo mặc dù cố ôm cua nhưng xe vẫn chạy lết ra đến giữa đường khiến một chiếc xe ngựa chạy ngược chiều vùng lên, hốt hoảng. Những người ngồi trong xe chồm ra la oai oái. Trí óc không bình tĩnh, bàn tay đặt lên tay lái nàng thấy ngón run run. Nàng cho xe chạy chậm lại. Tuy vậy mỗi lần qua một đoạn đường cong là nàng lại thấy mình xao xuyến. Nàng hối hận sao lúc nãy không để cho bác tài theo lái. Nàng lái non, lại bỏ lâu không cầm đến tay lái nên lúng túng vụng về. Đã vậy, tâm hồn lại xáo trộn nên ngay cả ở những đoạn đường thẳng, xe nàng cũng vụt nhiên chạy trờ ra, phải vội vã lái nép vào. Những chiếc xe vận tải lù lù đến, sừng sững như muốn đè bẹp lấy thân chiếc Simca nhỏ. Xuống Trại Mát, nàng tránh một chiếc GMC nhà binh một cách tài tình, gần như là do một phép lạ. Người tài xế nhà binh tưởng đâu nàng đâm sầm vào xe anh ta và anh ta sắp nhắm mắt để khỏi nhìn một tai nạn. Mỗi khi thoát khỏi cơn nguy hiểm là nàng cố xếp đặt cho trí óc có thứ tự trở lại, nhưng rốt cuộc những ý nghĩ về Sơn, về Khiêm, những cảm giác tức giận mến thương lại dày vò lấy nàng.

            Đến gần Cầu Đất, một chiếc xe du lịch chạy ngược chiều phóng nhanh tới. Xe chạy nghênh ngang giữa đường. Nàng đã cho xe mình chạy bám sát lề nhưng mũi xe trước mặt cứ lao vụt tới như muốn đâm sầm vào nàng. Nàng run tay. Chợt xe kia kề sát lại xe nàng, tiếng phanh rú to lên rùng rợn khiến nàng vội bẻ ngoặt tay lái sang bên mặt. Mũi xe nhủi xuống, bánh lọt xuống rãnh tháo nước ở lề đường. Nàng vội thắng xe lại nhưng bánh sau lọt xuống luôn, xe nghiêng một bên. Trống ngực đập liên thinh và đầu nàng choáng váng cơ hồ muốn ngất đi. Chiếc xe du lịch cũng đậu lại cách nàng mười thước. Trên xe bước xuống một người Âu cao lớn. Người ấy đi lại gần nàng hỏi bằng tiếng Pháp:

            - Xin lỗi cô, có sao không?

            Giọng lơ lớ với những chữ R rung nhiều. Nhìn mái tóc và lông tay vàng hoe, nghe giọng nói, Trúc Đào đoán chắc là người Mỹ. Nàng trả lời:

            - Cám ơn ông. Tôi chỉ… như thế này.

            - Rãnh này sâu không thể cho xe chạy lui lên được. Phải cần xe trục. Vậy… À, xin lỗi, cô đi...

            - Nha Trang.

            - Cần gấp lắm?

            Trúc Đào hơi nhún vai:

            - Không lắm.

            - Vậy cô định thế nào?

            Trúc Đào lắc đầu:

            - Tôi chưa biết nên định thế nào cả

            Người Âu nhíu mày suy nghĩ một phút rồi nói:

            - Tôi đề nghị như thế này: Cô trở lại Đà Lạt và ghé ga-ra thuê xe xuống trục đem về. Như thế có lẽ tiện nhất.

            - Có lẽ… - nàng gật đầu. Ông về Đà Lạt?

            - Vâng. Và nếu không có gì phiền thì xin mời cô lên xe tôi.

            - Cám ơn ông.

            Trúc Đào với ra sau lấy vali rồi mở cửa xe bước ra. Nàng khóa máy, quay kín kính chắn gió và khóa luôn cửa xe. Người Âu đưa nàng lại xe của mình và mở cửa. Nàng bước lên. Khi xe mở máy chạy, nàng quay sang hỏi :

            - Chắc ông là người Mỹ?

            - Vâng, thưa cô.

            - Ông vừa ở Phan Rang lên?

            - Không. Tôi ở Nha Trang tới.

            “Nha Trang, lại Nha Trang”. Trúc Đào thầm nghĩ. Dự tính tám giờ tối nay có mặt ở Nha Trang thế là hỏng. Tiếng máy xe chạy êm êm, tay lái đưa nhẹ nhàng và mũi xe uốn vòng theo các đường cong một cách dịu dàng. Gió mát thổi vùn vụt vào khe cửa kính và phong cảnh hai bên đường lùi nhanh lại ra đằng sau. Chạy qua những chỗ vòng, xe nhún mình như vừa lướt qua một lượn sóng. Sự thoải mái của nàng giờ này thật khác xa với trạng thái hồi hộp của mười lăm phút trước. Nàng để cho óc êm êm nghĩ đến Sơn lúc này đang làm gì. Nàng tưởng tượng vẻ mặt ngạc nhiên của Sơn nếu thấy nàng xuống. Nàng định lấy cớ xuống trông chừng mấy bụi trúc đào chàng cắt giâm, có thể lấy cớ là nhân xuống Phan Rang có tí việc, sẵn ghé lại thăm. Cớ thì có rất nhiều cớ nhưng mục đích để làm gì thì thật là nàng chưa tìm ra mục đích. Để làm gì? Nàng đã yêu Sơn chưa? Sơn có yêu nàng không? Nếu có yêu, yêu rồi thì liệu tình yêu ấy sẽ đưa đến đâu? Nàng có quyết ý từ hôn Khiêm không? Nàng thấy mình lờ mờ không trả lời dứt khoát một câu hỏi nào cả. Cũng may mà xe mình đi không tới chốn, nàng nghĩ. Nếu xuống Nha Trang mà cứ lưỡng lự như thế này!

            Những biệt thự đầu tiên đã rủ nhau lần lượt vút ra sau xe. Mặt hồ loang loáng màu trắng thiếc. Người Mỹ hỏi:

            - Tôi phải đưa cô đến địa chỉ nào?

            - Tôi ở mười bốn Yagut, thưa ông.

            - Yagut?

            - Ông cứ lái xe đến chợ Đà Lạt rồi tôi sẽ chỉ chừng.

            Thế là lễ Nô-en âm thầm trôi qua. Trúc Đào không dự tiệc khiêu vũ ở nhà Khiêm, cũng không xuống Nha Trang nữa. Nghĩ rằng Sơn đợi mình, nàng viết một bức thư lấy cớ bị cảm nên không xuống được hôm Nô-en và xin hẹn sẽ xuống một dịp gần đây. Thư chưa gửi đi thì một hôm Thúy ghé lại tìm nàng. Thúy mang lại cho nàng một tin bất ngờ.

            - Anh Khiêm hình như nghi chị…

            - Nghi gì?

            - Nghi chị có cảm tình với anh Sơn .

            Trúc Đào mở to mắt, ngạc nhiên:

            - Vô lý. Ai bảo chị vậy?

            - Hai ba hôm gì đó sau đêm Nô-en, anh có đến nhà chúng em chơi. Anh nói xa xa nhưng chúng em mau hiểu chúng em đoán biết.

            Tiễn Thúy về rồi, Trúc Đào vào giường nằm suy nghĩ. Nàng thấy khó chịu khi mối tình thầm kín của mình đối với Sơn bị Khiêm mang máng dò biết. Nàng không cần Khiêm, không sợ Khiêm mà chỉ bực tức vì những mối cảm xúc êm đềm mong manh giữa nàng và Sơn thế nào cũng bị Khiêm hiểu một cách thô bỉ. Aùi tình chỉ đẹp cho hai người. Nó không đẹp đối với người thứ ba. Nhưng thà là giữa nàng và Sơn đã có ái tình, đằng này chỉ là những cảm tình sơ khởi mà thôi. Dù vậy nàng vẫn có cái cảm giác trơ trẽn giống như mình đang ở trong một phòng khiêu vũ ánh sáng mờ ảo, âm nhạc dịu dàng, với màu áo màu phấn, với ánh mắt long lanh, tất cả đượm trong mùi hương ngây ngất, thế mà bỗng nhiên ánh đèn màu vụt đổi sang ánh sáng trắng sỗ sàng và thay vào giọng nhạc êm là tiếng tính tiền nong, kiểm soát sổ sách. Khiêm đã phá một giấc mộng của nàng. Đừng ai biết hết, nàng có cái thú của con người phiêu lưu, không cố ý đi tìm Bồng đảo mà bất ngờ gặp được. Nay có con mắt tò mò theo dõi, nàng thấy không đủ thích thú nữa. Nàng còn có cái cảm giác ngượng của con người bị bắt gặp đang làm một việc lén lút.

            Bực mình, Trúc Đào đập mạnh tay xuống giường. Thành giường va vào chiếc nhẫn nàng đeo ở ngón tay kề, chiếc nhẫn hứa hôn. Nàng chợt nhớ tới hồi ở đại học xá, các chị em bạn sinh viên của nàng có thói quen nhìn vào ngón tay của các bạn để tìm xem ai đã hứa hôn rồi. Được hứa hôn là một hãnh diện. Đó là chứng tích của sắc đẹp, của gia thế. Những bàn tay trần truồng không có một vòng khâu vàng bao quanh ngón kề hóa ra thanh bạch một cách cô đơn đáng lo sợ. Người nữ sinh viên cũng phải nghĩ đến việc lấy chồng. Do cái tâm trạng đó mà khi Khiêm nhờ người đến hỏi, Trúc Đào bằng lòng ngay. Lúc bấy giờ nàng chỉ đơn giản nghĩ đến cái thú luồn chiếc nhẫn hứa hôn vào ngón tay mình, chiếc nhẫn nhỏ như một đường kẻ đậm, màu vàng lóng lánh làm nổi bật màu ngón tay trắng muốt. Nàng nghĩ đến những cuộc đi dạo phố, nghiêm trang tin tưởng bên cạnh người đàn ông của mình, đến chiếc xe hơi của hai người mỹ miều như một món trang sức, đến căn phòng sẽ do nàng tự tay bày biện trang hoàng lấy. Nhưng những mộng tưởng đẹp đẽ êm đềm một lần nghĩ thấy thú, nhiều lần nghĩ hóa quen đi, việc hôn nhân với Khiêm cuối cùng được coi như là một việc nhất định sẽ đến, không vui lắm, không gây nhiều hào hứng. Vì một khi cái xao xuyến huyền ảo của những buổi đầu đã lắng xuống, nàng bắt đầu nhận thấy những nhược điểm nơi Khiêm. Sự khác biệt về cá tính, về quan niệm sống, quan niệm đạo đức khiến hai người cứ như đi xa nhau dần và Trúc Đào đã bắt đầu cô đơn âm thầm. Tuy vậy, phải đến lúc gặp Sơn, hiểu Sơn nàng mới thấy rõ rằng Khiêm không phải là người đàn ông phù hợp với lòng nàng. Nhưng đã chậm. Chiếc nhẫn đã đeo trong vòng tay. Chiếc nhẫn hạnh phúc của ngày nào, hôm nay trở thành cái vòng khóa cột nàng trong tù hãm của hôn nhân. Thật vô lý. Nàng biết có những người tự khóa mình trong một khuôn khổ và sung sướng với sự trói buộc ấy. Có những người đàn ông động mở miệng là than thở “Mắc vợ con cùm chân, đâu còn chơi bời tự do nữa!” Nhưng lời than lại ngầm biểu lộ một sự bằng lòng. Than như vậy, họ tỏ ra rằng mình an phận nghĩa là có hạnh phúc và bảo đảm về đạo đức. Nhiều chị bạn mới có một đứa con nhỏ cũng than lên một cách hãnh diện “Phần chồng, phần con. Thôi, mình già rồi, chả dám bì với các cô”. Thật là những người dễ bằng lòng, dễ sung sướng! Không, nàng không dễ dãi như thế được. Nhưng… Không dễ dãi thì được gì? Không dễ dãi thì chỉ còn cách tự mình làm khổ cho mình thôi, vì nàng đâu có thể dễ gặp Sơn được? Để cho Khiêm nghĩ rằng mình bị Sơn mê hoặc, bị Sơn quyến rũ, điều đó động chạm đến tự ái của nàng. Mà Khiêm thì chỉ có thể nghĩ tầm thường như vậy mà thôi. Nàng khinh Khiêm thì được nhưng nhất định nàng không để cho Khiêm có thể khinh mình.

            Trúc Đào uể oải ngồi dậy lại bàn viết. Bức thư gởi cho Sơn đặt đứng tựa vào lưng quyển tự điển. Địa chị đã viết rồi, tem đã dán đủ, chỉ có nàng chưa dán phong bì. Nàng vốn tính thận trọng, chỉ khi nào sắp đem đi bỏ thư mới dán phong bì, phòng có ý nào cần sửa cần thêm. Nàng rút bức thư viết gửi cho Sơn, mở ra trải lên bàn đọc lại. Từng dòng chữ chạy nhanh dưới mắt và trong sự im lặng cô đơn, nàng tưởng chừng như đồng thời nghe luôn tiếng nói, giọng quen thuộc âu yếm, giọng hứa hẹn kín đáo, giọng của chính nàng nói với Sơn, chỉ còn nói một lần này nữa thôi. Đọc xong, nàng thẫn thờ xé vụn tờ giấy ra từng mảnh nhỏ. Dù cố giữ vẻ mặt lãnh đạm nàng cũng thấy buồn khi nghe tiếng giấy xé nát dưới ngón tay, khi nhìn những lời âu yếm của nàng đứt đoạn, nát vụn không bao giờ Sơn còn nghe được nữa.

            Nàng lại nằm vật xuống giường, úp mặt vào gối. Nàng muốn khóc, khóc thật nhiều, thật ngon lành, nhưng dù cố gắng, nước mắt cũng chỉ chảy ươn ướt nơi khóe mắt, nàng biết chỉ có nước mắt mới có thể an ủi nàng vào nàng vào những lúc này thôi.

            Nỗi lòng của nàng, chỉ có nàng biết. Ở Nha Trang, Sơn cứ êm đềm nghĩ đến ngày Nô-en và lòng chàng vui vẻ tưng bừng khi chỉ còn một tờ lịch mỏng màu hồng ngăn cách chàng với ngày hai mươi lăm tháng chạp. Bốn bụi trúc đào chàng tự tay cắt cành giâm ở bên thềm giếng nay đã đơm lá xanh. Sơn tưởng tượng vẻ mặt vui mừng của Trúc Đào khi nàng thấy bốn bụi hoa dành cho phần nàng. Người thiếu nữ này có duyên kín đáo khiến cho mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của nàng đều gây cảm tình nơi lòng người đối diện.

            Lễ Nô-en trang trọng đến, mang theo gió lạnh, mưa lất phất bay và bầu trời xám. Cả thành phố nhộn nhịp vì đèn lồng, vì đồ chơi trẻ con và hoa quả. Sơn chung chia niềm vui của mọi người. Khi có mang hình ảnh một người đàn bà ở trong tâm hồn, con người ta yêu đời không mặc cả.

            Nhưng Nô-en đến và Nô-en đi, Trúc Đào không thấy đến. Sơn đợi một bức thư giải thích mà người đưa thư cứ lặng lẽ đạp xe qua cổng không dừng lại. Một tuần qua… một tháng qua… trong những bức thư đến địa chỉ mình, Sơn chán nản gặp những nét bút quen thuộc, tịnh không thấy nét chữ lạ nào cả. Vốn có kinh nghiệm, đợi chờ và thất vọng, chàng lặng im chịu đựng. Lại một con chim đã bay.

            Sau đó không biết bao lâu, một hôm nhân viết thư thăm Lộc, chàng hỏi thăm tin tức của Trúc Đào. Sau đây là đoạn thư trả lời của Lộc.

            “…Về Đà Lạt được bốn năm tháng gì đó thì anh Khiêm được chính phủ cho đi Pháp tu nghiệp hai năm. Chị Trúc Đào cùng đi với anh ấy. Mấy độ gần đây bọn em cũng không được tin tức gì của chị hết. Em có chuyển lời chào của anh cho chị Oanh. Chị vui vẻ nhắc đến anh và hẹn sẽ thăm lại Nha Trang…”

            Sơn bỏ thư xuống bàn không đọc tiếp. Chàng đưa mắt nhìn lên khung trời xanh rồi chầm chậm gợi ra vẻ mặt của Trúc Đào: đôi má thon thon… đôi mắt dịu.. đôi môi tươi và giọng nói ngập ngừng. Khi tâm hồn đã chìm đắm vào hình bóng cũ thì chàng ngồi đó mà quên cả không gian, quên cả thời gian.

            Chừng một năm sau, một buổi chiều kia Sơn tiếp một thiếu nữ trạc hăm lăm tuổi, vẻ mặt đẹp đẽ thanh tú và ăn mặc sang trọng. Người ấy dò số nhà một cách kỹ lưỡng rồi mới bấm chuông. Người ở đi vắng, Sơn ra mở cổng. Người thiếu nữ cúi chào rồi lễ phép hỏi:

            - Xin lỗi ông, có phải đây là nhà ông Sơn?

            - Vâng, đúng là nhà ông Sơn.

            - Thưa ông, không biết ông Sơn có ở nhà không?

            - Thưa cô, Sơn là tôi.

            Người thiếu nữ lúng túng xin lỗi và theo lời mời của Sơn nàng bước vào nhà. Khi đã ngồi yên ở ghế, nàng nói:

            - Thưa ông, tôi đến theo lời nhờ của chị Trúc Đào.

            Tên Trúc Đào làm Sơn ngạc nhiên đưa mắt nhìn thẳng vào mặt người thiếu nữ.

            - Tôi là bạn thân của Trúc Đào. Tôi ở Pháp vừa mới về được một tuần nay, Trúc Đào có nhờ tôi ghé lại ông trao tặng hộ cho chị ấy bộ sách Stendhal toàn tập loại ấn phẩm đặc biệt.

            Nàng đưa gói sách nàng cầm trên tay từ nãy đến giờ mà Sơn không để ý đến. Chàng đưa tay ra đón và tháo lần tờ giấy bọc. Ba quyển bìa sách dày khổ lớn bìa da màu nâu đen. Chàng lật bìa sách để tìm nét bút của Trúc Đào. Nàng ghi:

            “Xin nhận tia nắng nhạt này ở phương xa gửi về. Tia nắng Ngọc Hội, nhớ mãi”

            Trúc Đào.

            Nét chữ run run, Sơn nhìn mãi nét chữ, âu yếm như đang nhìn nét mặt Trúc Đào. Trên tờ giấy trắng của trang sách mở lần lần hiện ra khung cảnh xinh tươi của làng Ngọc Hội. Trên đọt dừa cao, tia nắng vàng còn rớt lại. Tiếng nói dịu dàng của Trúc Đào: “Ông xem, tia nắng…” chàng ngước mắt nhìn lên, gặp đôi mắt của người thiếu nữ đang đăm đăm nhìn mình. Nàng nói:

            - Trúc Đào có kể cho tôi nghe cuộc du ngoạn ở Ngọc Hội, buổi đi xi-nê đã hẹn với ông mà chị ấy lỡ hẹn, ngày Nô-en mà chị hứa sẽ xuống Nha Trang để bứng về mấy bụi trúc đào.

            Nàng im lặng đợi Sơn phát biểu ý kiến nhưng Sơn không nói. Chàng chỉ muốn nghe, muốn người thiếu nữ nói mãi, nói rõ nỗi lòng của Trúc Đào.

            - Chị có bảo tôi, chắc hôm Nô-en đến, ông giận chị lắm. Chắc trong Nhật ký của ông, ông ghi không biết bao nhiêu lần rằng Dominique thất hứa, Dominique đáng ghét…

            Sơn mỉm cười, không ngờ cái kỷ niệm nhỏ nhoi về câu chuyện chép nhật ký, Trúc Đào vẫn nhớ kỹ như vậy.

            - Chị ấy cũng muốn biết ông đã lấy vợ chưa.

            Sơn đưa mắt sang người thiếu nữ và chìa tay chỉ một vòng xung quanh mình. Người thiếu nữ mỉm cười:

            - Chị ấy cũng đoán đúng như vậy. Chị nói: chắc ông chưa lấy vợ.

            Khi người thiếu nữ dừng lại, Sơn không biết mình nên nói gì. Hỏi kỹ lưỡng về sinh hoạt của Trúc Đào thì chàng sợ phải nghe những chi tiết về Khiêm. Cuộc đời của Trúc Đào hiện giờ đã ghép chung vào cuộc đời của Khiêm rồi. Vui buồn khó lòng mà riêng biệt được. Thế mà chàng, chàng chỉ muốn biết riêng về Trúc Đào thôi. Và đặc biệt mong được biết là những cảm tình Trúc Đào dành cho mình ngày trước và bây giờ.

            - Trúc Đào chắc sống trong hạnh phúc?

            - Vâng. Về đời sống vật chất thì đúng như vậy. Nhưng về tình cảm thì chị có những nỗi buồn. Nhưng mà… quên, tôi lỡ nói với ông mất rồi. Khi tôi về chị ấy dặn tôi gắng giữ đừng để ông biết nhiều về chị ấy, nhất là về những sự không vui của chị.

            Sơn đưa mắt nhìn ra xa. Chàng nghe nhói một cái như có ngón tay nào chạm vào tim mình. Người thiếu nữ kín đáo nhìn xuống đồng hồ rồi đứng dậy:

            - Bây giờ tôi xin phép cáo từ ông.

            Sơn cũng đứng dậy.

            - Chừng nào cô về Đà Lạt.

            - Sáng mai.

            - Khi nào cô viết thư sang cho Trúc Đào xin nói dùm rằng tôi vui vẻ nhận món quà của Trúc Đào tặng. Cũng như Trúc Đào, tôi nhớ mãi những kỷ niệm…

            Chàng để lửng lơ câu nói vì không muốn tiếp bằng chữ “êm đềm” quá sáo, bằng chữ “ở Ngọc Hội” quá tầm thường và có vẻ lợi dụng.

            Còn lại một mình, chàng chầm chậm đi theo con đường nhỏ vòng quanh ra bờ giếng. Mắt chàng êm đềm dừng lại ở những chòm lá xanh. Đây, cây chùm ruột đứng ở bên song cửa, kể từ ngày chia tay cùng Trúc Đào, đã bao nhiêu lần thay lá và bốn bụi trúc đào giâm cho nàng hôm nay đã cao quá thềm giếng và lần lượt trổ hoa. Hoa trắng chen lẫn hoa hồng, lả lướt theo gió và đã ngập ngừng đưa hương theo gió. Sơn không buồn bứng ra trồng chỗ khác mà cứ để bốn bụi mọc quấn quít bên nhau. Chàng cũng muốn để mãi đó để kỷ niệm mấy tháng êm đềm chàng đã thiết tha mong đợi một người.

            #6
              hai1957 21.11.2012 18:37:14 (permalink)
              VẾT HẰN NĂM THÁNG

              NXB Lá bối 1965
              NXB Trẻ 1997
              1. Những bí mật của anh Ðỗ Cúc

              2. Người thứ ba

              3. Tình yêu đất

              4. Lạnh tuổi thơ

              5. Vết hằn năm tháng

              6. Thế giới của Năm Nhiều




              1. NHỮNG BÍ MẬT CỦA ANH ĐỖ CÚC


              Chừng như không giữ được nhẫn nại nữa, thầy Tri nghiêng đầu nhìn tôi rồi giơ hai tay lên trời:

              - Sao trò ngu thế? Làm luận như trò thì đi thi đỗ thế …chó nào được? Văn chương gì mà khô như bã mía thế?

              Thấy thầy ngừng lại không nói tiếp, hai tay vẫn giơ lên và cái đầu vẫn nghiêng, tôi ấp úng:

              - Dạ!

              Tiếng “Dạ” ngu si chỉ được tôi nói khẽ hết sức cũng làm cho cả lớp bật cười lên. Tôi đưa mắt nhìn xuống lớp. Hai hàng nữ sinh ngồi ở hai bàn đầu rúc rích cười làm tôi ngượng quá. Tôi cảm thấy máu rần rần chạy lên hai tai. Thầy Tri cúi gần tôi ôn tồn giảng:

              - Muốn cho bài luận hay thì mình phải thêm thắt vào. Ai chẳng biết cây phượng trước trường trò rụng lá trơ cành? Nhưng trong bài luận trò phải nói, chẳng hạn: “Cây phượng trước trường sum xê lá xanh và hoa đỏ. Từng đàn chim đậu trên cành cất giọng hót véo von”

              Tôi lại “dạ” và cả lớp lại “ồ” lên cười.

              - Có phải trò nghe chim hót véo von không?

              Tôi nặn óc để cố nhớ lại xem có lần nào tôi nghe chim hót véo von không, nhưng tuyệt nhiên không nhớ. Hình như mỗi lần ra chơi tôi chỉ nghe học trò la ồn ào mà thôi, mà bài luận thầy lại ra “Tả cảnh sân trường vào giờ ra chơi”. Tôi nghĩ: Giá có con chim nào đậu ở trên cành phượng - thực tế thì khó có thể vì cậy phượng bị lũ học trò trèo phá bẻ gãy cành, tước rụi cả lá thế kia thì có chim nào thèm đến đậu - mà cho rằng có chức năng chim nào đậu nhằm trên cành phượng mà muốn véo von hót thì lũ học trò nô đùa cũng đủ cho nó sợ hãi mà bay đi. Nếu không bay thì thế nào nó cũng bị lũ học trò tranh nhau lấy đá ném hoặc lấy ná cao su bắn. Lũ học trò cứ mươi đứa là đã có vài đứa thủ ná cao su đi học. Chúng đến trường sớm rồi rủ nhau đi lang thang ở dãy cây rậm gần nhà dây thép (1 ) để tìm bắn trái keo, bắn trái bàn, bắn trái me. Hết mùa trái thì gặp gì chúng cũng bắn không gặp gì chúng cũng bắn: bắn vào trụ đèn, bắn vào cổng nhà người ta, bắn vào lề đường. Khổ thân tôi, tôi biết tìm đâu cho ra một tiếng chim “véo von” trên cây phượng “cành lá sum sê” tưởng tượng này?

              Tiếng thầy Tri giục:

              - Sao? Trò trả lời đi.

              - Thưa thầy … dạ.. con chim không có hót ạ.

              Cả lớp lại cười lên một lần nữa. Thầy nhìn chằm chặp vào tôi, nhìn sát vào mặt tôi như tôi là con vật lạ. Tôi lo lắng đứng đợi và tôi chợt có cảm tưởng rằng hai tai tôi đang dài ra, dài ra như hai tai của con bò. Chợt thầy đứng dậy kéo cánh tay tôi lôi ra đứng trước cửa lớp rồi chỉ ra trước mặt:

              - Đó, trò thử nhìn ra bể đi. Rồi trò tả cho tôi một câu xem trò có trông thấy gì không.

              Chao ôi, thấy thì tôi thấy đủ thứ. Nào là những rặng cây me, cây keo, cây bàng… nào là nhà ông Phó Sứ, ông Lục Lộ, lại là sân ten-nít… Xa hơn là bãi cát, là biển, là núi, là trời.

              - Thưa thầy con có phải tả mấy cây keo và nhà ông Phó Sứ không ạ?

              - Không cần. Trò chỉ tả biển thôi.

              Tầm mắt tôi giã từ những hàng cây xanh và dãy nhà ngói đỏ mà đóng hẹp lại ở mặt biển. Tôi nhìn thật kỹ, còn óc thì loay hoay xếp chữ này cạnh chữ kia cho thành một câu. Cuối cùng tôi thưa:

              - Biển nằm im lặng, màu xanh lợt hơn màu xanh của núi.

              Thầy nghe, bĩu môi ngẫm nghĩ rồi vừa kéo tôi vào ra hiệu cho lại chỗ ngồi vừa nói:

              - Thôi, cũng tạm được. Nhưng chưa hay.

              Thầy quay mặt nhìn xuống lớp, hỏi:

              - Trò nào tả hay hơn?

              Đỗ Cúc giơ tay, đứng dậy. Không đợi thầy cho phép, anh đằng hắng giọng hai lần rồi nói:

              - Xa xa những làn sóng biếc nhấp nhô lượn trên bãi cát vàng. Tiếng gió rì rào thổi trên ngọn lá thùy dương như một bản nhạc êm êm bất tuyệt.

              Những anh lớn ngồi ở mấy bàn sau xuýt xoa ầm lên như có ai dí lửa vào chân. Tiếng xuýt xoa chạy nhanh đến mấy bàn đầu. Thấy thầy giáo mỉm cười, cả lớp thừa cơ để ồn ào lên ngay:

              - Hay quá

              - Hay quá thầy ạ.

              - Văn sĩ đấy.

              Tôi cũng nhận thấy anh Cúc tả hay thật, nhưng tôi cứ băn khoăn là không biết anh tìm ở đâu ra được những cây thùy dương mà tả vậy. Và thùy dương là cây quái gì? Ở bãi bể tôi chỉ thấy có mấy cây keo xương xẩu và mấy bụi tre lá dày một cách thô tục mà thôi. Còn “bản nhạc êm êm bất tuyệt” anh nghe ở đâu vậy?

              Nhưng khi anh Cúc đắc thắng ngồi xuống thì quả tình tôi cảm thấy tương lai về văn chương của tôi mờ mịt một cách tuyệt vọng. Sao tôi dốt thế kia? Và tôi thẹn thùng hết sức khi nghĩ đến câu tả cảnh của tôi vừa rồi “biển nằm im… màu lợt hơn màu núi…”. Giá lúc nãy tôi đừng nói ra câu ấy vẫn hơn. Thà chịu để cho thầy Tri cốc một cái vào đầu còn hơn đem câu văn dở của mình ra để các bạn đem so sánh với câu hay của anh Cúc. Tôi đưa mắt nhìn sang Đỗ Cúc.

              Thành thật mà nói thì anh không có vẻ gì thông minh xuất chúng cả. Trái lại thì có. Anh chậm chạp, chậm chạp đến mức nặng nề. Anh cao hơn tôi một cái đầu. Đôi bàn tay to, dài ngoẵng vì tay áo vừa chật vừa ngắn. Lúc bấy giờ chúng tôi đi học đều mặc áo bà ba ngắn, quần và áo đồng màu, riêng anh Cúc thì lúc nào cũng mặc áo rằn quần trắng. Cổ áo không phải thứ cổ kiềng như chúng tôi mà là cổ cao, giống như cổ áo dài. Trông anh thành ra ngây ngô, nhất là với cái đầu tóc cắt đơ mi cua.

              Đỗ Cúc học giỏi đủ các môn, nhưng giỏi nhất là môn luận. Lắm lúc tôi thành thật đau khổ vì không tự giải thích được nổi do đâu mà con người ấy lại ăn nói văn hoa được đến thế. Tả đêm trăng thì anh có “hàng trăm hàng ngàn con rắn vàng bò lượn trên mặt nước”. Tả ngôi chùa làng thì anh khéo xếp thế nào cho có một khóm trúc mọc ngay ở hông chùa để anh viết: “Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ”. Có lần thầy ra: “Tả chị đầy tớ gái nhà anh”. Chúng tôi mừng rằng Đỗ Cúc phen này hết đường mà văn hoa. Một chị đầy tớ chớ đâu phải là một cô tiểu thư, một nàng công chúa? Nét mặt thế nào cũng không đẹp, áo quần thì không thể sang, và cử chỉ lời nói chắc chắn là không thể uyển chuyển, dịu dàng, ngon ngọt. Chúng tôi hí hửng đợi sự thất bại của anh. Ấy thế mà hôm trả bài, Cúc vẫn đứng đầu với điểm 8 và thầy lại gọi anh lên đọc bài của mình. Thì ra sau khi tả những nét xấu xí của chị, Cúc khéo đặt chuyện rằng chị ấy chết chồng. Và để cảm thương cho nàng “tiết phụ” này, anh kết luận “Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu”. Lúc anh đọc đến đó, tôi liếc nhanh sang thầy Tri thì thấy thầy gật gật đầu mỉm cười ra dáng thích thú lắm. Hỡi ôi! tôi biết đào đâu cho ra những dòng văn chương êm đềm như thế để làm vui lòng thầy Tri, để làm bằng lòng các vị giám khảo trong cuộc thi tiểu học sắp tới? Tôi chán nản nhìn ra khung cửa sổ, nhìn mảnh trời xanh cao vút. Hy vọng về văn chương đối với tôi xa quá, khó vươn tới như mảnh trời xanh sáng đẹp kia.

              Tôi cố bắt chước Đỗ Cúc nhưng không biết nên bắt đầu như thế nào. Tôi lưu ý đến Đỗ Cúc, đến từng cử chỉ nhỏ nhặt của anh, hóa ra tôi được biết nhiều chi tiết về anh, những chi tiết có lẽ không dính dáng gì hết đến tài văn chương của anh. Ví dụ cái lọ mực được cột vòng một sợi dây thép. Sợi ây uốn khoanh lò xo và tận cùng ở đầu bằng cái nút. Khi anh mở nút mực, cái lò xo rún rẩy làm rung rinh cái nút, trông nhí nhảnh như những đóa hoa ở mũ các ông kép hát bội. Tôi xấu hổ nhìn cái nút mực bằng giấy cuốn tròn lại của tôi. Đó không biết là cái nút giả thứ mấy sau khi cái nút thật bị lạc mất. Ví dụ cây bút chì anh cột bằng sợi dây nhợ dài dính vào nút áo. Khi viết, sợi dây kéo lằng nhằng. Có lần thầy bất chợt kêu anh lên bảng. Anh vội vàng không kịp bỏ bút vào túi áo khiến nó nhảy tung tăng theo bước chân của anh. Tôi cũng bắt chước anh cột cái bút chì vào một sợi dây và tròng vào khuy áo. Tôi bắt chước nhiều thứ nữa của anh, chẳng hạn lấy giấy cuộn xung quanh một đoạn tre ngắn để làm cái bút mực, chẳng hạn lấy nhiều giấy bản bồi cứng để làm cái bìa đóng ra ngoài mọi quyển sách, chẳng hạn sưu tầm những con tem thư để dành trong một cái hộp. Nhưng về phương diện văn chương thì tuyện nhiên tôi vẫn chẳng tiến bộ chút nào hết.

              Nửa năm lớp Nhất tôi thay nhà trọ đến ở chung với anh Nên cùng học lớp Nhất với tôi. Anh Nên có một người chị năm ấy chừng 20 tuổi. Chị Cẩm - tên người chị của anh Nên - cả ngày cứ nằm trong phòng đọc tiểu thuyết và đợi người phu trạm, cứ chừng một tuần ghé lại trao cho chị một bức thư. Nhận được thư, chị vội vã vào phòng đóng kín cửa lại. Khi lũ em gõ cửa mời ăn cơm, chị uể oải bước ra, xì mũi liên tiếp vào khăn mùi xoa và hai mắt đỏ. Thấy nhiều lần như vậy, tôi hỏi u già. U bảo:

              - Cô Cẩm nhận thư của cậu Khang đấy.

              - Thế sao nhận thư chị Cẩm lại khóc?

              - Vì cậu Khang hiện ở bên Tàu. Xa lắm.

              Nhìn tôi ngẩn ngơ chưa hiểu, u hạ giọng, nói nhỏ:

              - Cậu Khang thương cô Cẩm, nhưng tía cậu không chịu đi hỏi cô Cẩm cho cậu. Tía cậu bắt cậu về Tàu để cho hai bên xa nhau. Tía cậu Khang là ông Bang Chín, hiệu Đồng Thạnh ở xế cửa nhà mình đấy. Tôi gật đầu ra dáng hiểu và u già cũng thôi không nói nữa. Ngoài những lúc sụt sùi khóc khi đọc thư - và khi viết thư trả lời, tất nhiên, chị Cẩm còn khóc khi đọc tiểu thuyết nữa. Nhiều lần tôi thấy chị nước mắt ròng ròng ngồi trước một trang sách mở. Tay chị luôn luôn vò một chiếc mùi soa nát nhàu. Tôi lý luận rằng những quyển tiểu thuyết kia hẳn có liên hệ bà con gì với những bức thư gửi đến và gửi đi của chị. Một hôm tôi cầm một quyển tiểu thuyết chị vô tình đặt ở bàn học của tôi, mở ra xem. Đó là một tập gồm những đoản thiên tiểu thuyết bìa đã gãy nhàu và mực in đã nhòe vì mồ hôi tay. Truyện đầu tiên nhan đề là “Thu sang lá rụng người về bơ vơ”. Tôi tưởng chừng vừa nghe lại một giọng nhạc quen thuộc. Giọng nào nhỉ? Con người thô lỗ văn chương là tôi, đâu có lý tôi đã được hân hạnh có nhiều kỷ niệm về văn chương đến thế? Trong khi óc loay hoay tìm kiếm, tôi lật vội để tìm tên của cái truyện thứ hai “Lệ ai tầm tã bến Giang Châu”. Tôi lật tiếp. Những cái tên truyện vang lên du dương: “Em ơi! Hẹn nhau mùa lá rụng…”, “Tóc xanh ai nỡ nhuộm mái sầu…”.. “Duyên em trao trọn về chàng”… Bên cạnh những tên truyện êm đềm ấy, tên các tác giả cũng êm đềm chẳng kém. Những là Lệ Thùy, Mộng Hoàng, Huyền Thao, Hoài Giang Thủy … y như những tiếng nhạc đệm nhỏ, vang nhè nhẹ bên cạnh bản nhạc chính. Chợt tôi vùng la to lên: “Đỗ Cúc!”. Phải rồi, cái giọng nhạc quen thuộc đó là giọng của người anh hùng văn chương của lớp tôi, anh Đỗ Cúc vậy. Bên tai tôi như văng vẳng vang lên giọng đọc của anh: “…Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ… nàng từ chiếc bóng song the… Gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu…”

              Thế là từ đó tôi bắt đầu làm quen với thứ văn chương loại Đỗ Cúc. Tôi đã tìm ra được bí mật của anh rồi. Cái nguồn văn chương lâm ly của anh là những quyển tiểu thuyết đượm nhiều nước mắt này. Tôi lật nhìn những bức tranh vẽ. Hầu hết là những hình thiếu nữ mắt mơ màng, tóc chải theo lối kỹ nữ Trung Hoa, có cài trâm và xiêm y dài thườn thượt. Các cô hoặc đứng tựa cành mai, cành liễu hoặc ngồi trước án thư, nhưng dù ở cảnh nào người họa sĩ cũng không quên vẽ một mặt trăng vào đó. Những bức hình này chắc đã an ủi chị Cẩm nhiều lắm vì dễ thường đã nhiều lần chị tưởng tượng rằng chính đó là hình ảnh của chị, cô gái Trung Hoa đau khổ. Sao lại không? Yêu một người Trung Hoa, người ấy hiện giờ ngồi nhớ chị tại xứ Trung Hoa, xứ Trung Hoa với những địa danh đẹp như Tô Châu, Hàng Châu, Dương Tử.. thì chị đã, một nửa là cô gái sầu mộng của Trung Hoa rồi còn gì nữa? Thật chị có đủ yếu tố để đẫm mình vào những trang sử lâm ly này vậy.

              Từ ngày biết được xuất xứ những câu văn êm đềm của Đỗ Cúc, tôi nhìn anh bằng con mắt ít khâm phục hơn. Mỗi lần thầy Tri gọi anh lên đọc một đoạn văn của anh mà thầy thích là tôi mường tượng thấy tập tiểu thuyết của chị Cẩm với những chữ nhòe mực vì mồ hôi tay, với những hình cô gái Trung Hoa. Nhưng Đỗ Cúc, anh dường như không bao giờ có thể tin rằng bí mật của anh đã bị tôi khám phá ra rồi. Chứng cớ là mỗi lần thầy kêu anh đọc bài luận, anh vẫn bước đi một cách dõng dạc, cố ý ngừng lại từng đoạn để đợi nghe chúng tôi xuýt xoa khen. Chứng cứ nữa là anh đã dùng thứ văn chương ấy để viết một bức thư tình, các bạn có thể tin được không?

              Việc xảy ra như thế này:

              Sáng hôm ấy trước giờ vào lớp, thằng Tiến nhặt được một bức thư của ai đánh rơi ở gần bục thầy ngồi. Chúng tôi chạy ùa lại xem. Thằng Chút ồn ào và quấy nhất lớp giật lấy bức thư vừa lo to:

              - Để tao đọc cho tụi bây nghe.

              Cả lớp nhao nhao lên: “Phải đó. Phải đó. Để nó đọc”.Và Chút mặt hí hửng, dõng dạc đọc:

              Gác vọng nguyệt, một ngày Mạnh Đông.

              Kính thưa Quý nương

              Tiếng thằng Hy ồn ào chận lại:

              - Cha chả! Văn chương mùi mẫn thế!

              - Mạnh Đông là cái thá gì thế bay? Tao chẳng hiểu.

              - Quý nương là đứa nào vậy?

              - Im! Im! Để nó đọc tiếp.

              Cánh thư trước kính gửi Quý nương, đến nay vẫn chưa có hồi âm, lòng vãn sinh thật muôn phần đòi đoạn. Ôi! một ngày mong đợi coi bằng ba thu. Chùm hoa bên rèm cũng như nhớ nhung ai mà từng cánh tả tơi theo gió”

              Một tiếng “huýt” thét lên và thằng Phin la theo:

              - Úi dào! Hay quá! Ai viết mà hay thế bay?

              - Ai viết thế nhỉ? Đỗ Cúc hở?

              Chợt tiếng một anh la lên “Thầy đến! Thầy đến!”. Chúng tôi lật đật chạy ùa theo của sau, tháo ra sân. Sự điều tra tác giả bức thư được tiến hành âm thầm. Tác giả không ký tên mình, không ghi tên của người nhận thư, nhưng cứ so cái giọng văn trong thư thì anh em đều chắc mười mươi là Đỗ Cúc. Ngoài Cúc ra, chúng tôi không đứa nào có thể sản xuất được một phần năm bức thư văn hoa ấy. So nét bút thì cũng đúng là Đỗ Cúc. Anh có nét chữ đều đặn, nét đậm, nét lợt phân minh, khuôn chữ dài và nằm nghiêng. Thằng Sự nói giọng quả quyết.

              - Chắc chắn là thằng Cúc. Lúc Chút đọc thư nó cứ ngồi ỳ ra đó không chạy lên ồn ào với tụi mình.

              - Thằng Cúc đứt đuôi đi rồi. Văn nó chớ còn ai vào đây nữa.

              - Nhưng còn quý nương là ai?

              Mọi khuôn mặt trầm ngâm lại suy nghĩ.

              - Chẳng lẽ lại con Nga - thằng Đạo nói. Con Nga đẹp quá, chắc Cúc chẳng dám đâu.

              - Thế thì Minh Ngọc - thằng Gương ngắt lời.

              - Vô lý. Tao nghi là con Trâm.

              - Trâm là con ông Án sát. Nó sợ tù không dám rớ vào đâu.

              - Thế thì chị Tám vậy.

              Nghe đến tên chị Tám chúng tôi đều cười ồ lên. Chị Tám là một chị bạn cũng lớn xác và cũng vụng về như Cúc vậy. Chị đen và có cặp mắt lé. Không ai bảo ai mà chúng tôi cùng ngầm đồng ý rằng quý nương của Cúc là chị Tám. Chúng tôi kể cũng khá ích kỷ. Dù trong ký ức đoán, chúng tôi cũng không cho phép Cúc được động chạm đến những cô bạn xin đẹp của lớp chúng tôi như Trâm, Minh Ngọc, Nga.

              Câu chuyện bức thư tình quả có làm cho chúng tôi thích thú vì được chế giễu Cúc - len lén thôi vì chúng tôi sợ Cúc đánh - nhưng không vì thế mà Cúc suy giảm tài văn chương. Những bài luận của anh cứ tiếp tục được thầy khen. Anh cứ đều đặn lên đọc văn anh cho chúng tôi nghe, những đoạn văn có đủ mây trôi lững lờ, trăng soi huyền ảo, có khóm trúc, có hoa xưa, có chim có bướm. Và cuối năm, Cúc đỗ đầu ở kỳ thi tiểu học. Ngày lễ xướng danh, ông Công Sứ trao tặng thủ khoa một cuốn tự điển Larousse nặng. Thủ khoa Cúc cong lưng, cúi đầu, giơ hai tay lên đón nhận. Ông Công Sứ giơ tay bắt. Anh túng lúng đưa hai tay ra nắm tay ông, khiến quyển tự điển rơi đánh “rầm” xuống thềm. Chúng tôi bất giác cười rộ lên, nhưng vừa lúc ấy bắt gặp đôi mắt lườm của thầy Tri, chúng tôi vội vàng vỗ tay thật mạnh theo lời thầy đã dặn trước.

              Đỗ tiểu học xong, chúng tôi phân tán mỗi người một nơi. Lên trung học, văn tôi cũng không tiến bộ chút nào nhưng được cái may là trong lớp không ai có tài như anh Cúc nên tôi đỡ bị khổ. Thế rồi cuộc đời cứ lặng lẽ chuyển vần, tôi lớn lên, tôi đi làm, tôi cưới vợ. Vợ tôi là một cô bạn gái cùng lớp nhất với tôi năm đó, cô Trâm con gái ông Án sát. Chúng tôi ngẫu nhiên gặp lại nhau ở Huế và nhiều sự ngẫu nhiên khác tiếp theo, cộng lại, đưa đến kết quả là chúng tôi cưới nhau. Ba năm sau, lại một ngẫu nhiên nữa đến với tôi, đó là tôi gặp lại anh Đỗ Cúc. Lúc bấy giờ tôi được đổi về làm việc ở thành phố Đà Nẵng. Một chiều thứ bảy rỗi rãi tôi thả bộ đi dọc theo đại lộ Quang Trung. Một người đàn ông lùi lũi đi ngược chiều lại tôi. Trông dáng đi quen quen và vẻ mặt thì không lạ. Tôi moi óc cố nhớ. Cuộc đời đã đẩy tôi vào giữa nhiều khuôn mặt quá khiến tôi lẫn lộn khi bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi đứng dừng lại để giúp cho trí nhớ dễ tập trung. Người đàn ông ấy lại đi gần tôi, ngước nhìn lên, nhìn hơi lâu và dáng ngập ngừng như cũng nhớ ra tôi. Óc tôi chợt như có một tia sáng lóe ra và miệng tôi vụt kêu lên không kịp giữ lại:

              - Đỗ Cúc !

              Người đàn ông ấy đứng dừng ngay lại và miệng cười.

              - Anh Vinh, nếu tôi không lầm.

              Cái giọng nói khàn khàn, cái cách nói hoa hòe, đúng là Đỗ Cúc thật. Hai bàn tay siết chặt và tự nhiên tôi quay ngược chiều trở lại, đi theo chiều của anh Cúc.

              - Lâu quá mới gặp lại anh - tôi nói. Nhà anh ở đường nào?

              - Cũng gần đây thôi. Đường Phan Đình Phùng. Tiện thể mời anh ghé lại tệ xá chơi cho biết. Bây giờ anh đã vợ con chưa?

              - Đã

              - Tôi cũng vậy. Mà chắc hơn anh ở chỗ nhiều con. Sáu đứa. Nuôi con mệt ngất ngư.

              Tôi lẻn đưa mắt sang anh. Áo quần hơi cẩu thả. Chắc là vì anh nuôi mệt “ngất ngư” nên không có thì giờ săn sóc cho mình. Tóc vẫn cúp đơ mi cua.

              Đi qua hai phố thì tới nhà anh. Anh tháo chốt cổng đợi tôi bước vào, liền đóng lại.

              - Để mấy đứa khỏi chạy ra đường.

              Anh nói một cách thản nhiên như không cốt cho tôi nghe. Tôi cười thầm, ngầm nhủ: con người cẩn thận. Không hẹn mà cái nút mực có đính lò xo và cây bút chì buộc dây của anh hiện ra trong óc tôi. Hai đứa con nhỏ của anh ở trong cửa chạy xổ ra ôm lấy chân anh. Rồi hai đứa khác nghe tiếng reo cũng chạy vụt ra. Lấp ló trong nhà là hai người con lớn. Thật là trật tự, quy củ. Anh vui vẻ bảo:

              - Mấy con chào chú đi.

              - Lạy chú ạ

              - Lạy chú ạ

              Loáng một giây, anh đã đứng giữa bầy con sáu đứa của anh. Người con lớn đã đứng cao bằng anh và giống anh như đúc. Cũng vẻ mặt hơi nặng nề và, lạ chưa, cũng cái đầu cắt đơ mi cua. Tôi hỏi:

              - Cháu lớn đã được mấy tuổi rồi?

              - Mười tám.

              - Hử? Mười tám tuổi?

              Anh lúng túng giảng giải:

              - Tôi đỗ tiểu học xong thì thầy tôi bắt cưới vợ ngay. Thành ra đã có con lớn.

              Tôi lật đật tìm một câu nói cho anh đỡ ngượng vừa để xí xóa vẻ ngạc nhiên vụng về của tôi vừa rồi.

              - Có con sớm được nhờ. Anh vậy mà sung sướng.

              Một người đàn bà ở dưới bếp đi lên. Anh giới thiệu:

              - Nhà tôi.

              Chị Cúc trông già hơn anh nhiều mặc dù anh cũng đã khá già. Thân mình chị to gấp đôi anh. Có đặc biệt là hai cổ tay của chị đeo đầy vàng. Tôi nghĩ liền: Chắc chị này là con một ông Chánh tổng, phó tổng gì đó, nhà giàu. Có vậy thì thầy anh mới bắt anh cưới vợ sớm.

              Từ giã đoàn thê tử bề bộn của anh, tôi đưa mắt nhìn gian phòng. Đồ đạc bày biện quá đầy đủ. Có cả xa lông đệm lò xo, có cả ghế bàn mặt đá, sập gụ, tủ chè, tủ rượu. Những vật nhỏ anh đều sắp đặt đủ đôi. Bên này cái lọ thì bên kia đối diện lại cũng phải là cái lọ, đối, phúng, trướng dàn khắp mặt tường, đa số là những bức người ta đi khao ông cụ thân sinh anh khi được vinh thăng cửu phẩm, bát phẩm. Một cái ná Thượng du và một túi tên lạc loài giữa rừng câu đối. Sự hoang dã của non cao, sự tàn bạo của chém giết không ăn nhịp với những dòng chữ nho hòa nhã ca tụng tài đức của chủ nhân. Thấy tôi quan sát, anh nói:

              - Tôi mới đặt mua cái tủ lạnh. Vài bữa họ chở tới.

              - Nhà anh có nhiều tiện nghi quá.

              - Ồ! Có gì đâu

              Anh nhũn nhặn mỉm cười. Nhũn nhặn thật sự, vì tôi thấy mọi vật bày biện ở đây đều thở ra một cách mệt nhọc, cái không khí sung túc no đủ.

              Bắt đầu là anh. Anh trông béo ra, đôi má phúng phính khiến đôi mắt càng nhỏ lại. Tới đây tôi thấy cần được giải thích thêm về sự sung túc hiện tại của anh. Tôi hỏi:

              - Gặp anh mừng quá quên hỏi điều này: Bây giờ anh làm ở đâu?

              Anh lại lúng túng, khiến tôi thấy mình vụng về lần nữa. Cuối cùng anh nói:

              - Vì tôi chỉ có bằng tiểu học nên tôi phải dạy một lớp tiểu học ở cách đây mười cây số. Trước đây vài mươi năm, bằng tiểu học có giá trị, bây giờ thì gần như vô nghĩa. Tiếc quá, thầy tôi lúc bấy giờ không cho tôi học thêm.

              Tôi an ủi anh:

              - Làm sao mà các cụ ngờ được. Nhưng anh như thế này là sung sướng lắm rồi.

              Anh tươi nét mặt trở lại và đưa mắt nhìn vào một góc phòng. Tôi đoán chắc anh đang tưởng tượng vài hôm nữa anh kê tủ lạnh ở chỗ ấy. Ngồi nói chuyện với tôi mà hai tay anh không để yên. Hết nghiêng đầu soi lên mặt bàn để tì gạt một vết bụi, đến sửa lại cái gạt tàn thuốc đặt hơi lệch. Có lúc anh chợt đứng dậy vội vã khiến tôi giật mình, tưởng chừng có đứa con nào suýt ngã, anh vội chạy đến đỡ. Nhưng không. Anh chỉ đi lại chỗ tủ chè xếp lại mấy cành hoa giả mà một cơn gió nào đó đã xô lệch. Thật là sự chi ly cẩn thận của Đỗ Cúc. Bỏ đi sự chi ly này thì không chắc anh còn là anh nữa.

              Nhìn xuống đồng hồ thấy đã trễ giờ cơm, tôi đứng dậy xin cáo từ anh. Tôi cho anh biết địa chỉ của tôi và anh hẹn chủ nhật sau sẽ dến thăm. Sáu tiếng “lạy chú ạ” vang lên, lẫn lộn, tiễn tôi ra cổng. Anh tươi cười giữa khúc “nhạc” quen thuộc ấy, vẻ hãnh diện, chừng như bằng lòng về sự sản xuất phong phú của mình. Anh nói:

              - Nuôi con đông mệt ngất ngư thật, nhưng nhiều lúc cũng vui.

              Lúc vui đó chắc là lúc này đây. Bước ra khỏi cổng, tôi tiện tay đóng cửa lại và móc chốt dùm anh. Tôi nói:

              - Để lũ nhỏ khỏi chạy ra đường.

              Anh thú vị siết chặt tay tôi qua song cửa và đôi mắt cười híp lại.

              Tối hôm ấy ăn cơm xong, tôi bảo vợ tôi:

              - Chiều nay anh vừa gặp một sự ngạc nhiên. Đố em đoán xem sự ngạc nhiên gì.

              Vợ tôi vờ suy nghĩ rồi hỏi ngay:

              - Ngạc nhiên gì vậy?

              - Anh gặp Đỗ Cúc

              - Đỗ Cúc là cái gì?

              - Em không nhớ Đỗ Cúc sao? Đỗ Cúc là người bạn học hồi lớp nhất với chúng mình đó.

              Vợ tôi nhíu mày suy nghĩ. Tôi giúp nàng mau nhớ ra bằng cách giảng giải rõ thêm:

              - Đỗ Cúc là người bạn làm luận hay ở lớp mình đó, anh bạn áo rằn, anh bạn…

              Vợ tôi “à” lên một tiếng to, ngắt đứt câu nói của tôi:

              - À, em nhớ ra rồi, cái anh học trò dở hơi đó phải không?

              Dở hơi? Sợ vợ tôi lầm với một người nào khác, tôi lại nhẫn nại giảng giải nữa:

              - Cái anh mà thầy Tri hay bắt đọc văn cho chúng mình nghe đấy. “Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ” và “Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia…”

              - Biết rồi, em biết rồi mà. Thì cái anh chàng dở hơi đấy chớ còn ai vào nữa. Cái anh chàng mỗi lần đi lên bảng là hai tay đong đưa như đàn bà đi chợ ấy, em còn lạ gì.

              Thì ra mỗi người nhìn anh Cúc với một con mắt khác, nhận ở anh Cúc một nét đặc biệt khác. Vợ tôi lưu ý đến đôi tay đong đưa của anh.

              - Thế anh ta bây giờ ra thế nào ?

              - Oai lắm. Những sáu đứa con. Và xem chừng giàu.

              - Anh gặp anh ta ở đâu?

              - Ngay giữa phố, anh có ghé lại cho biết nhà và anh ta hứa chủ nhật tuần sau đến thăm chúng mình.

              Tôi kể lại những điều nghe thấy buổi chiều ở nhà anh Cúc. Nhân chuyện anh Cúc, chúng tôi nhẩn nha nhắc lại những kỷ niệm vui vẻ ngày cùng học ở trường Sông Cầu. Vợ tôi nhảy từ chị bạn này sang chị bạn kia, từ thầy giáo sang bác cai trường, từ cầu Thị Thạc sang phố lầu chú Chấn Thạnh. Tôi đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi một cách mệt nhọc. Nàng đúng là con chim non nhí nhảnh như đã nhiều lần tôi phê bình. Nhưng lần này sở dĩ tôi không muốn đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi là vì tôi còn đang vấn vương với anh bạn Cúc mà tôi vừa gặp. Khi những cảnh dĩ vãng đã chuyển hết rồi, con chim nhỏ là vợ tôi đã đứng yên, tôi đột ngột hỏi:

              - Em còn nhớ bức thư tình của anh Đỗ Cúc mà thằng Chút đã đọc to trong lớp không?

              - Có nhớ

              - Không biết anh ta viết bức thư ấy định gửi cho ai. Lúc bấy giờ bọn anh cố khám phá mà chịu không đoán ra được ai. Anh ta khôn, chỉ viết “Thưa quý nương” thì đố ai mà biết được.

              Vợ tôi ngồi ngẫm nghĩ giây lâu rồi bỗng phá ra cười. Tôi hỏi:

              - Em cười gì vậy?

              - Đố anh biết Đỗ Cúc viết cho ai?

              - Đã bảo rằng bọn anh chịu, đoán không ra. Bọn anh nghĩ là anh ta viết cho chị Tám.

              - Lầm. Anh ta viết cho em đấy.

              Tôi ngạc nhiên:

              - Thật sao?

              - Em đâu có nói đùa?

              - Thế anh ta không sợ ba em à?

              - Nào em có biết. Hôm thầy Tri giao cho anh ta phát vở luận, em vắng mặt. Anh ta giữ vở em lại. Hôm sau anh ta trả vở cho em kèm theo một phong bì. Anh ta bảo: “Chị Nhạn ở lớp nhì nhờ đưa giùm phong thư cho chị”. Nhạn là bạn của em nên em nhận. Về đến nhà mở ra mới biết là thư của anh ta. Thư bắt đầu bằng “Thưa quý nương”. Em đọc mà chẳng hiểu gì hết. Em chỉ nhớ mấy câu hay hay…

              - Ồ! Đỗ Cúc thì viết hay phải biết - Tôi ngắt lời - Em còn nhớ mấy câu hay ấy chứ?

              - Lâu quá, có hơi quên. Hình như là “đài gương soi đến dấu bèo”… và... “những khi trăng soi bóng lẻ gió rít đầu cành…” hay là cái quỷ quái gì đó. Em sợ quá về đưa ngay cho ba xem.

              - Chết Đỗ Cúc mất rồi!

              - Ba đọc xong, xé đi, rồi bảo em từ giờ anh ta có đưa giấy tờ gì thì vất trả lại. Nếu anh ta không nghe thì lên mách thầy giáo.

              - Em có mách lần nào chưa?

              - Chưa. Lần sau anh đưa một cái thư nữa, cũng bảo là của chị Nhạn nhờ đưa, nhưng em nghe lời ba, ném lại. Cái thư lọt vào kẽ bục bàn thầy. Anh ta lật đật cúi xuống moi lấy nhưng không được. Sàn gạch hoa thì trơn mà em vất mạnh nên không ngờ cái thư chạy qua mãi phía bên kia bục. Anh ấy hì hục đẩy bục đi, nhưng bục nặng không xê dịch được. Đôi tai và mặt anh ta đỏ như lên, bộ điệu lúng túng trông cũng tội. Vừa lúc ấy các anh ồn ào đến nên Cúc lật đật đi xuống chỗ ngồi. Và thế là anh Tiếp bắt được cái thư và anh Chút mới đọc oang oang giữa lớp.

              - Tội nghiệp cho Đỗ Cúc - tôi chép miệng

              - Nhưng may cho em. Hôm làm bài luận “Tả nỗi buồn khi xa nhà ra tỉnh trọ học” em nhớ câu văn của Đỗ Cúc trong thư nên viết ngay vào bài: “… những khi trăng soi bóng lẻ, gió rít đầu cành…”, thầy Tri khen, cho 8 điểm. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót em được 8 điểm luận.

              Hai chúng tôi cười to vì sự thành công bất ngờ về văn chương này.

              - Lúc nãy anh bảo rằng chủ nhật anh ấy đến thăm chúng mình?

              - Ừ

              - Anh ấy đã biết rằng anh có vợ rồi?

              - Biết rồi, chính anh nói. Anh còn cho biết rõ ràng vợ anh là cô Trâm xinh tươi cùng học lớp nhất ngày xưa.

              Vợ tôi không tỏ ra quan tâm đến lời nói nịnh của tôi mà vẫn điềm nhiên hỏi:

              - Anh ta có ngạc nhiên không ?

              - Hình như cũng… có hơi ngạc nhiên.

              Vợ tôi nheo mắt nhìn ra sân một hồi rồi quay sang tôi:

              - Em chắc chủ nhật này anh ấy không đến đâu.

              - Vô lý. Việc gì mà không đến? Tôi vội vã hỏi lại.

              - Em chắc anh ấy ngượng.

              - Có gì mà ngượng. Chuyện trẻ con mà. Bây giờ ai nấy cũng đều lớn cả rồi, mà anh ấy có những sáu đứa con. Em cứ chuẩn bị nhà cửa cho đẹp đẽ hơn một chút nữa đi, để chủ nhật chúng ta đón anh ấy. Nhà anh ta giàu lắm, em nhớ cho, chớ không nghèo như chúng mình đâu.

              Ngày chủ nhật đến, tôi không dám đi đâu hết. Trái với thường lệ, tôi dậy sớm và ăn điểm tâm vội vàng như những ngày đi làm. Tôi mặc áo quần cẩn thận và ra ngồi ở phòng khách đợi. Tôi biết tính Cúc siêng năng, chu đáo, nên tôi cho rằng anh ta sẽ đến sớm lắm. Nhưng 9 giờ.. rồi 10 giờ. Có tiếng bánh xe ô tô rít lên, rẽ vào con đường xóm tôi, nhưng xe chạy thẳng. Có tiếng phanh xe xích lô lách cách, nhưng xe đậu ở nhà đối diện. 11 giờ… 12 giờ. Vợ tôi thỉnh thoảng ở nhà ngang đi lên, bảo tôi:

              - Đó, em nói có sai đâu.

              Tôi chịu không biết nên trả lời thế nào cho phải.

              Buổi chiều, tôi không ra ngồi ở phòng khách nữa, nhưng tôi vẫn không dám đi đâu xa. Tôi chỉ lảng vảng hoặc ở nhà ngang hoặc nằm ở phòng đọc sách. Mỗi một tiếng giày sạo sạo ở cổng, tiếng còi ô tô, tiếng xe gắn máy nổ đều làm tôi lắng tai ngóng chờ.

              Khi điện đường bật sáng, khi tiếng đũa bát vang lên ở phòng ăn, tôi biết rằng tôi không còn hy vọng đón anh Đỗ Cúc nữa. Quả anh không đến thật như lời vợ tôi đã đoán. Tôi uể oải đứng dậy thay áo thì chợt có tiếng chuông reo ở cổng và tiếp theo, tiếng con Nu sửa ầm lên, anh Cúc đến. Không những anh đến một mình đủ để trái với dự đoán của vợ tôi - mà có cả chị Cúc và một đoàn sáu người con . Hôm nay anh mặc bộ tuýt xo vàng và thắt cà vạt. Những nếp gấp lộn xộn nhất hằn lên áo, và hai vai xệ xuống. Đôi tay và lưng cứ ngọ ngoạy trong chiếc áo hơi rộng. Nhìn anh không có vẻ thoải mái, tôi có cảm tưởng rằng chiếc áo đấy xa lạ với anh. Với một chút son ở đôi môi và mái tóc chải ngăn nắp, chị Cúc trông được mắt hơn bữa đầu tôi gặp. Tuy vậy, đôi chân mày nhổ chừa lại còn quá nhỏ khiến mắt chị thành ra to thêm.

              Tôi vừa ra đón thì anh chị đã vội vã chào trước:

              - Chào bác ạ - Chào bác ạ. Hôm nay chúng tôi đến hầu thăm hai bác.

              Mấy đứa con, như sáu cái máy, phụ họa theo:

              - Lạy bác ạ, lạy bác ạ.

              Tôi lúng túng khi nhận tiếng xưng hô lễ mễ. “Bác”, tiếng gọi mới già nua làm sao! Vì thành thật mà nói thì nhìn lại anh Cúc, tôi cứ tưởng chừng tôi xa anh không quá 5-7 năm, nhất là nhìn cái đầu tóc đờ mi cua, tôi thấy anh không khác mấy với những ngày đi học. Thế mà thay vì tiếng “anh” nhẹ nhàng đơn sơ, anh đã gọi tôi bằng “bác”. Chắc là do anh chịu ảnh hưởng của vợ anh thôi. Chắc là đứng bên cạnh người đàn bà bệ vệ ấy, anh bị bắt buộc thấy mình già đi, đứng đắn lại, chớ hôm một mình gặp tôi giữa phố anh vẫn gọi là “anh”

              Khi vợ tôi ở nhà ngang bước lên thì một loạt những tiếng “chào bác, lạy bác”, lại hòa tấu một lần nữa. Vợ tôi tỏ ra lúng túng gấp đôi tôi vì sự trịnh trọng mà gia đình anh Cúc đã dành cho mình.

              Khi anh chị Cúc đã ngồi yên ở ghế và lũ con xếp một hàng ngay ngắn ở đi văng thì cuộc đàm thoại xã giao bắt đầu. Chị Cúc nói trước:

              - Cái phòng khách của hai bác chắc một bề 4 thước một bề 7 thước.

              Vợ tôi trả lời, giọng không quả quyết lắm:

              - Vâng, hình như thế ạ.

              - Bác nên cho xây thêm một tấm “đan” ở đằng trước cho mát. Tấm “đan” chạy dài suốt cả mặt tiền.

              - Vâng ạ. Xây thêm được một tấm “đan” thì mát hơn nhiều.

              Chị Cúc nhìn một lượt phòng khách của tôi rồi giơ một ngón tay - đến đây tôi mới kịp để ý rằng bàn tay chị đeo đến ba, bốn chiếc nhẫn mà chiếc nào mặt cũng to, cũng đồ sộ - chỉ vào một góc phòng.

              - Bác cho đắp hai cái trụ chỗ này. Đặt hai chậu hoa thược dược hay hoa cúc vào đấy thì đẹp.

              - Vâng ạ - Vợ tôi khẽ gật đầu tuân lệnh.

              - Chẳng tốn bao nhiêu đâu.

              - Vâng ạ.

              - Mà trông đẹp ra.

              - Vâng.

              - Vậy để hôm nào em đưa đến giới thiệu cho bác một người thợ nề quen. Anh ta làm việc cẩn thận mà tính công lại rẻ.

              - Vâng ạ. Cám ơn … bác.

              Đã đến lúc tôi phải giải nguy cho vợ tôi. Con chim non cứ “vâng ạ, vâng ạ”, chịu nhận mọi sự xây cất trong khi nhà này là nhà thuê. Tôi đằng hắng to:

              - Xin mời hai.. bác xơi nước.

              Dù cố gắng nói thật to, thế mà tiếng “bác” như cũng ngượng ngùng, chỉ vang lên nhè nhẹ yếu ớt. Vợ tôi lại chỗ tủ ăn lấy sáu trái cam phân phát cho sáu người con anh Cúc. Tôi mời:

              - Các cháu ăn cam đi.

              Rồi quay sang anh Cúc:

              - Cháu lớn học đến lớp mấy rồi?

              - Dạ thưa bác, cháu “hược” ở lớp đệ tam.

              Chị Cúc tiếp lời:

              - Thưa bác, cháu lớn thế mà “hược” kém lắm ạ, “thiềng” ra ba cháu cứ tối tối kèm cho cháu.

              Theo cái đà ấy, câu chuyện xã giao kéo dài một cách nhọc mệt vì chúng tôi cứ sợ nói nhằm vào những tiếng mà vợ chồng anh kiêng. Đầu đề câu chuyện thì quanh quẩn ở việc sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc, chơi huê chơi hụi, tăng lương, tăng thưởng ngạch trật. Trong khi nói chuyện, vợ anh Cúc cứ chăm chăm nhìn vợ tôi, còn anh Cúc hết nhìn xuống sàn nhà lại nhìn lên tường. Ý chừng anh không thể chịu được tại sao tôi lại không treo những bức trướng liễn, câu đối, hoành phi lên bốn bức tường như ở nhà anh vậy. Có một lúc vợ tôi quên mất phép xưng hô trịnh trọng, quay sang hỏi:

              - À, anh Cúc, tôi nghe anh Vinh nói anh bây giờ giàu lắm.

              Cúc nặng nề nhìn sang phía vợ tôi, chậm chạp nói:

              - Thưa bác, bác trai bảo vậy thôi chứ tôi làm ăn cũng chỉ gọi là mát mặt.

              Cách nói, lối nhìn của Cúc thật khác xa với điều vợ tôi đã dự đoán và tôi đã ngầm biểu đồng tình. Anh có ngượng gì đâu? Hình như người ngồi trước mặt anh không phải là người mà anh đã hai lần cặm cụi viết hai bức thư nồng nàn ái mộ. Nhìn anh giây lâu rồi nhìn sang vợ anh, tôi chợt nghĩ rằng anh dã được rập khuôn theo mẫu người mà tiếp xúc, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời. Anh dường như lúc nào cũng đã tự quên mình, tự xóa mình đi. Những áng văn chương lâm ly hồi đi học là ảnh hưởng của những quyển tiểu thuyết đương thời. Lớn lên đi làm, anh chịu ảnh hưởng của thầy anh, cũng rộn ràng những chức tước, phẩm hàm, hoành phi câu đối. Khi lập gia đình thì anh là hình ảnh được thu nhỏ lại của vợ anh : cũng chăm lo nhà cửa, bỏ vốn gây lời và kiêng kỵ những tên húy của tổ tiên. Không có một anh Đỗ Cúc thật ở chỗ nào hết, mà đó chỉ là tiếng vang trung thành của những tiếng động ngẫu nhiên ở đâu đây.

              Buổi tối trước khi đi ngủ, tôi nằm nghĩ vẫn vơ về cuộc đời của anh Cúc với những bí mật nhỏ của nó. Những bí mật ấy tình cờ mà tôi khám phá ra được hết: nguồn văn chương lâm ly của anh và bức thư tình không may mắn. Nhưng còn một bí mật cuối cùng nữa do nghề nghiệp của anh bắt tôi suy nghĩ. Đó là: không biết khi dạy học trò, anh có bắt chúng du dương theo loại “Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ.. Nàng từ chiếc bóng song the..” như anh, hai mươi năm trước không?
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.11.2012 18:38:17 bởi hai1957 >
              #7
                hai1957 22.11.2012 14:51:20 (permalink)
                2. NGƯỜI THỨ BA



                Từ ngày Phú đau, Long đến thăm lần này là lần thứ hai. Anh không ngờ bệnh Phú có thể phát triển đến mức trầm trọng nhanh như vậy. Lần đầu tiên đến thăm Phú, cách đây chừng nửa tháng. Phú còn ngồi tiếp anh ở giường. Vẻ măït có vẻ xanh xao, hốc hác, nhưng Phú còn mời anh một điếu thuốc và chính Phú cũng tự tay chăm thuốc hút, hít từng hơi khói ngon lành. Hai người bạn còn trao đổi với nhau những tin tức xa gần về tình hình trong nước. Khi bắt tay giã từ. Long chúc Phú chóng bình phục và Phú tươi cười nhận lời chúc. Không ngờ hôm nay đến thăm thì Phú chỉ nằm ẹp trên giường, nằm dán sát xuống nệm như không còn chiều dầy nữa. Một cái chăn mỏng đắp ngang thân mình. Đầu đặt nghiêng trên gối. Treo ở đỉnh màn là một chai serum được nối liền bằng một dây cao su vào mũi tiêm cắm thủng vào da đùi. Sérum chảy rất chậm làm phồng mảng đất nơi mũi tiêm. Nhìn phương pháp trị liệu rắc rối, tự nhiên Long thấy choáng váng: bệnh tình Phú đã trầm trọng như vậy sao? Anh đứng yên ở đầu giường. Nguyệt, vợ Phú cất tiếng nói khẽ vào tai chồng.

                - Anh Long đến thăm mình.

                Phú chỉ gật đầu. Vừa lúc ấy chị Sen bưng lên một ly mà anh đoán là nước cam, trong đó có cắm một ống hút. Nguyệt đưa tay đón lấy, rồi vừa nâng đầu chồng vừa đặt một đầu ống vào miệng. Mực nước ở ly vơi đi rất chậm. Chợt Phú sặc lên mấy tiếng. Nguyệt vội vã bỏ ly nước ra, rồi bằng cả hai tay vuốt ngực cho chồng. Tiếng ho sặc nhẹ như tiếng nấc của một đứa trẻ. Khi Phú nằm im trở lại, nàng lấy khăn lau miệng cho chồng, rồi cầm khăn khe khẽ chặm vào mắt. Có lẽ Phú đã khóc, nhưng vì đứng ở sau thành giường, Long không nhìn thấy. Nguyệt chặm nước mắt nhiều lần như vậy.

                Từ nãy giờ, Nguyệt chỉ nhìn anh có một lần khi anh bước vào nhà. Vì bận lo lắng cho chồng, điều ấy đúng rồi, nhưng Long còn nghĩ rằng có lẽ vì nàng tự thấy mình tiều tụy. Chưa bao giờ anh gặp Nguyệt trong bộ áo quần nhàu nát như hôm nay. Tóc không chải kỹ, lòa xòa trước trán. Da mặt xanh mướt và mắt sâu xuống. Môi không tô son, nhợt nhạt.

                Đứa con gái của Nguyệt lên bốn tuổi bước lại gần giường. Nó đưa bàn tay bụ bẫm lên cầm tay ba. Nguyệt nói:

                - Con xuống nhà chơi với chị Sen, để ba nghỉ.

                - Sao ba cứ nghỉ hoài rứa?

                Giọng Huế nhè nhẹ thốt ra từ đôi môi nhỏ, nghe ngộ nghĩnh như tiếng nói riêng của búp bê. Nguyệt không trả lời con, với tay lấy ly nước cam rồi lại đặt một đầu ống hút vào miệng chồng. Long đưa mắt nhìn cảnh âu yếm đó mà xót xa nghĩ đến thân phận mình. Anh cũng có đau bệnh nhiều bận, nhưng chỉ tự mình săn sóc cho mình. Người làm của anh chỉ biết nấu cháo và pha sữa. Nếu cần ăn cam thì cũng tự tay anh bóc vỏ lấy. Tiêm thuốc đã có y tá. Lạ thật, thế mà không hiểu sao anh đã lành bệnh được. Có ai đoán trước ý muốn của anh để chiêu đãi anh như thế kia đâu? Ai chọn bác sĩ, ai chọn thức ăn, ai đoán là anh đang lạnh, đang nóng để mà tùy nghi đắp chăn hay vặn quạt? Khi đau nặng sợ chết, anh cũng có khóc đôi lần, nhưng rồi cũng phải tự mình đưa tay lên lau nước mắt. Thế mà anh vẫn sống được, lạ thật!

                Có nhìn cách Nguyệt săn sóc chồng, anh mới chợt thấy rằng anh đã sống liều lĩnh mà không biết “Đáng lẽ mình đã phải chết từ lâu rồi, từ lâu rồi”. Ý nghĩ này lại làm anh xót xa thương cho thân phận mình, nhất là vì Nguyệt, chính Nguyệt sinh ra để săn sóc âu yếm anh chứ đâu phải để săn sóc Phú? Đáng lẽ anh và Nguyệt đã cưới nhau, nếu không có Phú chen vào. Phú là người tình địch của anh, người tình địch thắng trận. Phú có địa vị hơn anh, nên gia đình Nguyệt chọn Phú. Như mọi người con gái Huế khác, Nguyệt chỉ khóc. Và nói với người yêu chiến bại:

                - Em không bao giờ quên anh.

                Ồ, một người con trai, cho dù mới hai mươi lăm tuổi cũng đâu có dễ tin ở một lời hứa hẹn không bảo đảm như vậy. Nhưng vì không có cách nào khác, anh đành tạm nhận lời an ủi và nói lại, không quả quyết lắm:

                - Anh cũng thế.

                Nguyệt lấy chồng vào mùa hè. Hai cây phượng trước cổng nhà nàng hoa nở đầy cành, trông xa như những cánh tay quằn quại dưới sức nặng của những lễ vật màu đỏ. Chúng như cùng vào hùa với gia đình Nguyệt để tưng bừng đón mừng ngày cưới. Long ghét những cây phượng từ đó. Ngày xưa khi yêu nhau, hai người thường đi dưới bóng phượng. Phượng và ve thì ở Huế không thiếu. Nhìn những xác phượng rơi đầy ở sân một ngôi trường vắng lặng giữa mùa nghỉ hè, cả hai cùng nghĩ đến xác pháo của ngày cưới. Ngày cưới của hai người cố nhiên, vì con đường đi đến hạnh phúc bằng phẳng, rộng rãi, nhiều bóng mát như con đường Phan Chu Trinh, trên đó hai người đang chầm chậm đi. Thế mà Phú đã hiện đến, bất ngờ. Và Phú được chọn là người ở lại.

                Ngày cưới Nguyệt, Long đáp tàu lửa bỏ thành phố. Anh tránh nghe tiếng pháo, tránh chứng kiến một cuộc rước dâu long trọng. Con tàu lùi lũi chạy và đôi đường sắt sau đuôi tàu như kéo dài theo mãi nỗi buồn không dứt của anh. Đôi đường sắt vẫn nối anh với Huế như tâm hồn anh vẫn nối liền với Nguyệt bằng những ý nghĩ vừa mãnh liệt vừa nhọc nhằn. Anh thấy lại Nguyệt dưới mọi khuôn mặt. Nũng nịu âu yếm, khi anh bẻ tặng nàng một đóa ngọc lan có con sâu nằm nấp dưới đài hoa. Rạng rỡ tươi vui, khi nàng vươn vai hai tay chèo thuyền thoi lướt vùn vụt trên sông An Cựu. Mơ mộng êm đềm, khi ngồi bên anh nàng phác họa những dự tính tương lai.

                Tàu chạy sâu vào đêm tối. Đến đây anh có cảm tưởng mình bị cắt đứt với dĩ vãng. Đêm tối là hình ảnh của cuộc đời mà anh đang đi tới. Ở Huế như chỉ có ban ngày với hoa phượng, với nắng với tình yêu.

                Tàu qua đèo Cả vào mười hai giờ khuya. Long đau đớn nghĩ rằng giờ này là giờ hợp cẩn. Nguyệt nằm trong cánh tay của Phú, kết thúc giai đoạn hạnh phúc mà anh đã bắt đầu. Anh sẽ ít đau khổ nếu Phú là một người lạ mà một không hề quen biết. Đằng này không, Phú là bạn học của anh. Biết quá rõ về một người bạn để phải tưởng tượng rằng Nguyệt nằm trong tay người bạn ấy, anh thấy định mệnh đối với mình thật tàn ác. Anh muốn hét to lên, phẫn nộ, nhưng sợ ngượng, không dám. Anh nghĩ: nếu mình nhảy ra khung cửa tàu, lao xuống triền núi để cho nát tan khối óc, nơi đó những hình ảnh tưởng tượng cứ hiện ra, nối tiếp một cách tàn nhẫn. Nhưng anh vẫn ngồi im lặng. Sách vở bảo rằng tự tử là hèn nhát. Khi tàu dừng lại ở ga Ninh Hòa, anh thở dài tự nói với mình:

                - Thực tế thì phải có can đảm lắm mới tự tử được. Thành thật mà nói thì sau đó anh đã quên được Nguyệt. Anh yêu vẩn vơ người này người khác. Tình yêu như một món ăn chớ ai bảo rằng họ chỉ ăn được một món này mà nhất thiết không thể ăn món kia. Chỉ khi nào tâm hồn cô đơn, khi một tình yêu cũ chấm dứt mà chưa có tình yêu mới bắt đầu, khi làm ăn thất bại.. là anh nhớ tới Nguyệt để mong tìm một hình ảnh êm đềm mà an ủi.

                Hai năm sau, anh trở về thăm Huế. Cảnh vật như xưa, nhẫn nại trong sự bất biến. Dòng sông vẫn trôi lặng lẽ, những mái tóc vẫn chảy dài trên vai áo những cô gái. Long bắt gặp tâm hồn mình yêu thương man mác, buồn vui nhẹ nhàng như hai năm trước. Nhìn lại cảnh cũ, anh quên mất hiện tại. Những kỷ niệm êm đềm ngày xưa như có năng lực xóa mòn những cạnh góc gồ ghề nơi tâm hồn anh hôm nay. Anh tìm thăm Nguyệt. Phải chọn một giờ mà anh tin chắc là Phú đi làm vắng.

                Người u già ra mở cổng. Anh vào ngồi ở xa lông, sau khi nói tên mình cho u già. Mươi phút sau cửa phòng mở. Không phải Nguyệt đi ra mừng rỡ chào anh mà Nguyệt nằm trên giường. Khuôn mặt nàng quá trắng, trên đó đôi mắt đen trông càng thêm đen. Môi chợt hé một nụ cười. Tóc xõa trên gối. Nguyệt nói:

                - Anh lại ngồi cái ghế xa lông này cho em nhìn rõ mặt anh. Em không đi ra được. Em vừa sinh được một tuần. U già ơi, vén cao giùm cái màn cho tôi.

                Long đổi ghế xa lông. Bức màn đã vén cao, anh nhìn thấy một cái nôi nhỏ đặt ở góc phòng. Bên cạnh là cái bàn thấp, trên sắp rất nhiều lon, lọ thủy tinh, chai sữa, bình thủy. Một tấm chăn hoa trải trên giường Nguyệt. Nguyệt nói: Hai năm rồi, chóng quá. Anh vẫn không thay đổi. Chỉ có em…

                Nàng im lặng. Long thấy đôi mắt nàng sáng long lanh và liền đó hai giọt nước mắt lăn trên gò má.

                - … Em tìm địa chỉ anh để viết thư cho anh nhưng hỏi không ra. Em biết anh giận em lắm. Nhưng em làm gì được? Em chỉ biết nhớ anh và cầu mong cho anh gặp một người yêu đẹp hơn em, giỏi hơn em. Anh đã cưới vợ chưa?

                - Chưa.

                Long phải đằng hắng to mới nói được một tiếng “chưa” ngột ngạt.

                - Anh có giận em nhiều lắm không?

                - Có

                Nguyệt khóc thành tiếng

                - Phải. Thà anh nói thật như thế để em yên tâm. Người con gái nào cũng phụ tình khi đi lấy chồng.

                Long loay hoay sắp sửa đứng dậy. Nguyệt vội nói:

                - Anh đi sao? Hai năm đằng đẵng mới gặp, anh ngồi với em thêm một lát. Anh có việc gì bận không?

                - Không

                Long lắc đầu.

                - Vậy anh ngồi với em cho đến mười một giờ. Anh bây giờ đen hơn xưa một chút. Công việc làm ăn của anh ra thế nào?

                - Tầm thường. Chắc thua xa chồng em.

                - Anh đừng mỉa mai em, tội nghiệp. Em thật lòng với anh mà.

                Long cũng tự thấy mình tàn nhẫn. Anh chọn một câu nói êm đềm hơn:

                - Anh vẫn mong em được sống trong hạnh phúc

                - Thực tế thì không được như vậy đâu. Nhưng mà thôi, mỗi người có một số mệnh.

                Khi Long đứng dậy cáo từ, Nguyệt nói:

                - Anh cho em biết địa chỉ của anh.

                - 54 Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.

                Nguyệt gật đầu:

                - Em nhớ rồi. Số nhà của anh gấp đôi số nhà của em.

                Long bước ra đến bên hiên thì Nguyệt gọi giật lại:

                - Anh ơi.

                Long quay lại, đứng đợi nàng hỏi, nhưng nàng chỉ nhìn chăm chăm mà không nói. Một lát nàng bảo:

                - Thôi, anh đi. Nhớ viết thư cho em.

                Bức thư trao đổi sau đó, tuy vậy, do Nguyệt viết. Nàng có mặc cảm rằng mình phạm lỗi nên thư viết rất thiết tha. Long trả lời ngắn hơn vì tự ái, nhưng trong thâm tâm anh vẫn tính nhẩm mong ngày thư của nàng đến. Anh cũng tham lam về tình cảm như mọi người khác. Dù vô vọng cũng muốn được yêu. Vả lại có gì đáng gọi là vô vọng đâu? Cuộc đời dành cho con người nhiều sự bất ngờ. Một ngẫu nhiên nhỏ có thể định đoạt trở lại một cuộc dàn xếp tưởng như là bất di dịch. Long nghĩ vẩn vơ đến đó rồi thôi. Cuộc đời bận rộn vì công việc mưu sinh, anh chỉ dành chừng hai giờ mỗi khi có thư Nguyệt đến để đọc thư và viết trả lời. Cho đến một ngày cách đây nửa năm, bỗng nhiên Phú được lệnh đổi vào Sài Gòn. Hai người đàn ông gặp nhau, vui vẻ một cách cố gắng. Họ thỉnh thoảng rủ nhau đi dạo phố, mời mọc nhau ăn uống. Cả hai dùng nhiều tiếng cuời, nhiều lời pha trò ồn ào để cố đánh tan tiếng nói của sự bất bình âm ỉ nơi lòng họ. Cả hai đều muốn tỏ ra độ lượng. Dần dần quen di, sự cố gắng không còn thấy khó khăn nữa. Họ gần trở về với thái độ bằng hữu vô tư ngày nhỏ thì chợt xảy ra căn bệnh hiểm nghèo của Phú hôm nay.

                Long ái ngại nhìn bạn mình nằm thiếp đi. Trước hôm đau, Phú chạy lo giúp cho anh được hai sở thầu quan trọng. Phú nói:

                - Xong hai sở này, cậu phải nghỉ một thời gian để lo việc vợ con. Không có vợ trong nhà thì làm được bao nhiêu cậu tiêu vung hết bấy nhiêu.

                Giọng Long trầm trầm:

                - Mình cũng biết vậy.

                - Đã biết thì phải lo giải quyết chớ

                - Nhưng giải quyết đâu phải dễ?

                - Nhưng sao cậu cứ cho là khó? Tôi đã giới thiệu cô Mỹ cho cậu, cậu đã bằng lòng, thế mà cậu không chịu xúc tiến gì hết.

                - Ờ thì mình bằng lòng, nhưng biết cô ấy có chịu không, ông cụ có chịu không?

                Phú “xì” một tiếng, nhíu mày rồi gật đầu:

                - Thôi được rồi. Chủ nhật mình đến thưa giùm với ông cụ cho.

                Chủ nhật chưa đến thì Phú ngã bệnh.

                ]

                ] ]

                Một người bạn đến báo tin “Phú đã mất hồi ba giờ khuya hôm qua”, Long bàng hoàng như vừa bị say sóng. Anh không ngờ rằng Phú có thể chết nhanh như vậy, mặc dù vài hôm trước anh cũng đã từng nghĩ: “Nếu Phú chết?”

                Tâm hồn anh như chao đi, bị tràn ngập trong khoảnh khắc bởi những cảm giác gì rất đỗi mơ hồ. Có phải đó là cảm giác buồn? Không rõ ràng. Phải nói rằng đó là những cảm giác rất phức tạp mà anh sợ không dám phân tích rõ. Có len lỏi một chút gì bằng lòng chăng? Long lắc đầu cố xua đi cái ý nghĩ xấu xa vừa chớm nở đó. Không, anh phải buồn thành thật. Anh nhớ lại những cử chỉ tốt bụng Phú đã từng đối với anh. Phú thành thật và cởi mở. Phú không có ác ý. Phú vẫn coi anh là một người bạn và tìm mọi cách để giúp anh. Riêng anh, anh phải tự khinh mình về những ý nghĩ thù hằn, ghen tỵ mà anh đã từng có. Đứng trước một người chết, lòng tự ái không có tiếng nói nữa. Đối với người đã giã từ cuộc sống để ra đi mãi mãi, giũ hết mọi ghét thương, lo âu, mừng giận, anh thấy lòng thương tràn đầy. Phải, đến giờ này Phú không còn nữa. Phú bị xóa đi khỏi cuộc sống, Phú chỉ còn trong kỷ niệm, mơ hồ như vừa có vừa không. Phú thất bại trong cuộc đấu lớn, cuộc chiến đấu cuối cùng, chiến đấu chống sự chết. Nghĩ đến một ngày nào đó mình cũng sẽ chung một số phận như vậy, Long hết lòng thương người bạn chiến bại của mình.

                Anh muốn đến thăm Nguyệt ngay để an ủi nàng và để giúp nàng một tay trong việc tang ma, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, rồi thôi. Gặp lại Nguyệt trong giờ này thật không nên. Thật khó mà giữ được vẻ tự nhiên khi cả hai cùng cảm thấy quá khứ của hai người dễ hiện lên lẫn lộn với hiện tại. Anh muốn tôn trọng sự thuần khiết của niềm đau xót Nguyệt dành cho chồng. Anh đợi sang ngày hôm sau, khi đã phát tang mới mang lễ đến phúng viếng. Nguyệt và Phú có nhiều họ hàng ở Sài Gòn, nên anh không làm Nguyệt sẽ lúng túng trong việc ma chay.

                Khi anh đỗ xe bước vào nhà thì tiếng nhạc cử ai vang lên. Phường bát âm ngồi ở trước hiên gồm lúc nhúc những kèn, nhị và trống. Anh hồi hộp không phân biệt được ai. Tiếng nhạc báo hiệu cho gia chủ biết rằng có khách đến viếng. Tức thì ở sau bức màn trắng lao xao có tiếng người di chuyển. Một người nhận lễ vật của anh đặt vào khay bưng để lên bàn thờ. Quan tài của Phú kê trên bộ ngựa cao đặt giữa nhà. Vòng hoa dựng chung quanh. Trên tường treo la liệt liễn đối, nét chữ màu đen buồn bã. Anh nhìn giây lâu chiếc quan tài đựng thi thể của bạn. Giã từ tất cả những khuôn mặt người, những đồ vật quen thuộc và ánh sáng mặt trời. Phú đã đi vào màu đen của đôi mi mắt nhắm của nắp ván thiên đậy lại, rồi mai này và vĩnh viễn, của lòng đất âm u.

                Giọng kèn, giọng nhị kể lể bên tai, nức nở sụt sùi. Trước mặt anh, xế bên tay phải quan tài, Nguyệt ngồi bệt xuống đất để chuẩn bị đáp lễ. Áo tang trắng lụng thụng. Một cái mấn trắng chụp trên đầu. Long chầm chậm quỳ xuống lễ. Rập theo nhịp của anh, Nguyệt cũng thong thả cúi đầu lễ trả. Anh hồi hộp không dám nhìn Nguyệt. Anh cảm thấy bao nhiêu con mắt tò mò của lũ người đến xem đám và sau lưng mình, làm nóng cả tai và cổ.

                Lúc anh đứng dậy để bước ra khỏi chiếu, Nguyệt tiến đến theo lệ để cảm tạ. Nàng nói gì anh không nghe rõ. Anh chỉ thoáng nhìn qua, chợt bắt gặp đôi mắt đen của nàng và dưới cái ấn trắng, da nàng trắng rực rỡ như sáng hẳn lên. Long bàng hoàng như mình vừa qua một giấc mơ ngắn. Màu da mặt ấy bên cạnh màu vải trắng kia chính là màu quen thuộc của Nguyệt khi nàng còn là học trò, mặc áo dài trắng và xõa tóc bên vai. Chính Nguyệt đã yêu anh với màu trắng đơn sơ ấy. Mấy năm nay anh toàn gặp nàng trong những hàng áo ni lông màu hoa sặc sỡ khiến nàng vẫn gần anh mà không hiểu vì sao anh vẫn thấy cách xa. Nay đột nhiên anh thấy lại nàng mộc mạc như xưa, anh xúc động như mình vừa bắt gặp lại tuổi thơ của mình. Anh muốn hỏi lên: “Thế mà đã sáu năm rồi sao?”

                Nhưng tuổi thơ, có thật là mình bắt gặp lại được tuổi thơ hay đó chỉ là một ảo ảnh thoáng qua, anh chua xót nghĩ. Thực tế thì sáu năm đã ghi lại những nét quá đậm trong tâm hồn của Nguyệt, của anh. Lấy gì mà xóa được? Tình yêu đâu còn hồn nhiên trong suốt? Khi gặp trở ngại, anh thấy mình yêu thật nhiều, yêu đến độ mình sẵn sàng đạp phăng tất cả để chinh phục tình yêu đó. Nay trở ngại đã mất thì anh bắt đầu lúng túng và hoài nghi. Có lẽ Nguyệt cũng nghĩ như anh vậy. Nhìn kỹ vào đôi mắt của nàng, anh thấy có hai dòng nước mắt đang chảy từ từ xuống má. Đúng rồi, nàng đang hoài nghi như mình.

                Nàng đang xót xa nghĩ rằng nàng sắp nhận một nỗi khổ mới, nỗi khổ âm ỉ, khác xa với nghĩ của nàng trong một đoạn thư nàng viết cho anh, trước đây:

                “- Được biết anh quen với Ngãi, em vui lắm. Ngãi là bạn học của em ở Đồng Khánh đó. Anh cưới Ngãi đi nhé. Rồi ngày hè em sẽ vào thăm anh, thăm Ngãi. Bộ ba chúng ta sẽ đi phố, đi biển, tha hồ vui. Bộ ba! Anh ơi, sao anh với em cứ phải đóng vai bộ ba mãi vậy anh? Sao số chúng ta lại khổ vậy? lúc nào giữa anh và em cũng hoặc chồng em hoặc vợ anh. Sao số chúng ta lại khổ vậy?

                Hôm nay, một sự hiện diện bộ ba không còn nữa, nhưng không đơn giản như hai người từng nghĩ, thoáng trong một phút, anh chợt nhận thấy giá trị không ngờ của nó. Khi đóng vai nạn nhân, Nguyệt và anh đều cảm thấy mình có giá trị nhiều hơn, mặc dù bị trở ngại mà vẫn được yêu, điều ấy không phải dành cho mọi người bình thường.

                Có pha thêm một chút đắng, vị ngọt của tình yêu mới làm cho người ta đam mê như khi đam mê hương vị của cà phê. Từ hôm nay, hai người đột nhiên rơi vào một mối tình dễ dàng, tầm thường, anh thấy mình nhẹ nhõm một cách chán ngắt khi không còn phải vận dụng trí óc để đối phó. Trước mắt anh không còn một đối thủ xứng đáng để cho anh phải gắng sức mà chỉ còn phảng phất một cái bóng, một cái bóng không mất, không bao giờ mất.
                #8
                  hai1957 23.11.2012 18:59:01 (permalink)
                  3. TÌNH YÊU ĐẤT (đã có trong TV)
                  4. LẠNH TUỔI THƠ



                  Xe Giang vừa từ đường Nguyễn Hoàng rẽ sang đường Hồng Bàng thì đã có tiếng reo to của hai đứa con: Hào và Thủy. Như phục binh nằm nấp sẵn, vừa thoáng thấy bóng chàng là thằng Hào nhảy ra vồ, rồi chạy rượt theo xe. Và như đã có ám hiệu trước, bé Thủy nghe tiếng xe nổ lạch bạch và tiếng vồ thì lật đật chạy vù một mạch từ nhà ra đón chàng, chạy bất kể những chỗ lồi lõm của chức năng đường cát. Khi xe dừng lại ở sân thì hai đứa con đã chạy theo kịp, đứng hai bên, thở hổn hển. Câu chàng hỏi đầu tiên bao giờ cũng là:

                  - Chị Hằng đi học về chưa?

                  Thủy đáp liền:

                  - Rồi.

                  Hào thì nói loanh quanh dài dòng hơn. Chỉ vì chị Hằng bao giờ cũng có chuyện ăn hiếp nó nên hễ hỏi tới Hằng là lúc nào nó cũng phải cố tìm để kèm theo câu trả lời, một câu than phiền nào:

                  - Chị về rồi. Chị ăn hết trái cam rồi. Chị không cho con.

                  Thủy phụ họa theo:

                  - Chỉ cho con có một tép.

                  - Chỉ cho con có một tép.

                  - Chị cốc vào đầu con. Giang dắt hai con đi vào nhà. Chàng không lưu ý lắm đến những chuyện bi bô của hai con. Chàng vui mừng vì cả gia đình họp mặt đầy đủ. Tạm gọi là đầy đủ vậy thôi vì đầy đủ thế nào được khi gia đình thiếu mất một người vợ, một người mẹ. Từ ngày Bảo mất đi, gia đình của chàng bỗng thấy thu nhỏ lại hết sức. Cái gia đình bốn cha con này xúm quanh nhau, đều đặn như bốn cái chân của một chiếc ghế, bốn cái ghế của một bộ xa lông. Trừ những giờ đi làm, đi học, còn thì bốn cha con cứ quây quần bên nhau…. Buổi sáng, họ chia nhau bốn cái bàn chải đánh răng, chuyền tay cho nhau hộp perlon, thay phiên nhau sì sụp trong hai thau nước và lau mặt bằng bốn cái khăn mặt treo thành một dãy. Tiếp theo là bốn mẩu bánh mì đặt cạnh bốn tách sữa.

                  7 giờ kém 10 phút, Giang xách xe đi làm, Hằng đạp xe đi học, Hào và Thủy còn nhỏ phải ở nhà tự học vừa coi chừng nhà. Hào làm toán và tập chép bài. Thủy tập đánh vần. Trưa 11 giờ, chiều 5 giờ, Giang kiểm điểm lại cái gia đình nhỏ của mình, vui mừng được sum họp. Những buổi Hằng đi học về chậm là chàng lo lắng vì sợ xe cộ. Những bữa chàng đi làm lỡ phải về chậm thì chắc khỏi ai lo. Vì Hằng mê mải đọc truyện, Hào mê mải chơi. Chỉ có Thủy là thẫn thờ đứng ở cửa đợi ba về. Vẻ mặt buồn vì cô đơn. Chàng nhớ lại mới ngày nào, Bảo cũng hay đứng ở cửa đợi chàng như thế.

                  Ngồi vào bàn ăn, Hào hỏi:

                  - Đố ba biết hôm nay ăn món gì?

                  Thủy nhanh miệng trả lời:

                  - Cốt lét nấu với cà.

                  Hằng tiếp theo:

                  - Đúng, cốt-lết nấu với cà.

                  Ba chị em phá ra cười ầm ĩ.

                  Số là bà nấu bếp vụng về, cứ lần nào Giang quên dặn đi chợ mua món gì, nấu món gì là bà trở về món cố hữu của bà: cốt lết nấu với cà. Lâu thành thói quen, nên mỗi khi nhắc tới cái tài của bà bếp là ba chị em tranh nhau la lên:

                  - Cốt lết nấu với cà.

                  Bốn cha con đã ngồi vào bốn ghế mà bàn ăn vẫn mới chỉ có khăn bàn, 12 giờ rồi. Thủy lãnh ngồi ở ghế cạnh ba để ba vuốt ve cho. Má mất hồi Thủy mới lên ba, Thủy thiếu những cái vuốt ve của má nên mỗi lần được ba vuốt tóc, vuốt lưng, nắm tay thì Thủy mỉm cười sung sướng lắm. Thủy sợ chị Hằng và anh Hào ganh tỵ nên thỉnh thoảng hay liếc nhình về hai người

                  Bà bếp dọn bàn. Những món ăn không thay đổi. Hằng than phiền:

                  - Con chán quá. Con không muốn ăn nữa.

                  Hào cũng bắt chước:

                  - Con cũng chán quá, con không muốn ăn nữa.

                  Thủy nhìn sang ba, ngầm ý hỏi không biết nên bỏ chén đũa xuống bàn để “chán quá” như chị và anh hay nên cứ cầm bát đũa như ba. Giang bảo:

                  - Các con chịu khó ăn đi. Aên cốt cho bổ chớ đâu chỉ cốt cho ngon. Này, có thịt bò này, rất bổ. Có tôm này, cũng rất bổ… Ồ! Có cả rau nữa, đại bổ, đại bổ.

                  Thủy nói:

                  - Thôi ăn đi chị Hằng, ba nó bổ mà.

                  Hằng nhíu mày, nạt:

                  - Mày biết cái gì!

                  Thủy mở to mắt nhìn ba, miệng mếu xệu. Ba phải ôm lấy đầu Thủy, hôn vào tóc mà nói:

                  - Chị Hằng giỡn đấy. Thủy biết chớ sao không biết.

                  Hào chêm vào:

                  - Nó mà biết cái gì. Có ba ở nhà, nó làm nũng đó. Khi ba chưa về, chị Hằng nạt nó và đánh nó, nó không dám khóc.

                  - Đừng nạt và đánh em. Em có làm cái gì sai thì dạy em. Các con cũng biết nếu còn má thì em đâu có khổ. Hồi hai đứa con bằng nó, má còn sống, má săn sóc cho hai đứa con.

                  Không biết trả lời sao, Hằng “xì” một tiếng và Hào “xịt” một tiếng. Giang và cơm, nhai ngon lành rồi mời:

                  - Thôi, mời các bạn ăn đi.

                  - Con không ăn

                  - Con không ăn

                  Giang vừa nhai cơm vừa chậm rãi nói:

                  - Bà Thứ (tên bà nấu bếp) không phải là bếp chuyên môn thì nấu món ăn làm sao cho thật khéo được. Nhà không có má, không ai coi chừng nhà, ba phải mượn bà Thứ vì bà thật thà, hiền lành. Ba có thể thuê người nấu ăn khéo hơn, nhưng khi cha con ta đi vắng hết, lỡ phải kẻ gian họ dọn đồ đạc đi mất hết thì làm sao?

                  Nhưng Hằng đã không nghe mà đang cầm lên tập truyện để coi tiếp. Hào cũng không nghe mà đang lắp lại cái bánh xe cao su. Thấy con lơ đãng hết, Giang hỏi to:

                  - Nghe chưa?

                  Cả ba giật mình.

                  - Các con muốn ăn ngon thì các con phải chịu khó đi kiếm về đây một bà dì ghẻ. Bà dì ghẻ sẽ coi sóc sự nấu nướng cho thật ngon cho các con ăn.

                  - Nhưng bà dì ghẻ hay đánh lắm - Hằng vội vã nói.

                  Thủy ngây thơ tiếp:

                  - Bà dì ghẻ có ghẻ.

                  Ba cha con cười ầm lên vì lời nói ngớ ngẩn của Thủy

                  - Thì các con phải lựa lấy. Một là chịu ăn không ngon, hai là tìm về một bà dì ghẻ để được ăn ngon. Ai thích ăn ngon?

                  Hào giơ tay:

                  - Con.

                  Thủy giơ tay theo:

                  - Con

                  Hằng lắc đầu:

                  - Thôi, thà con chịu ăn không ngon. Con không muốn có dì ghẻ.

                  Thủy cũng nói:

                  - Con không muốn có dì ghẻ.

                  Hằng dõng dạc ra lệnh:

                  - Thôi ăn đi bay. Kệ nó, ăn không ngon cũng được.

                  Hào nói theo :

                  - Ăn đi bay.

                  Thủy cũng nói:

                  - Ăn đi bay.

                  Cả ba hăng hái ăn. Món ăn không đến nỗi dở, khi ba chị em ăn hăng hái.

                  Ăn tráng miệng xong, Giang bắt ba con vào phòng, xếp mỗi đứa một giường cho chúng nghỉ trưa với mình. Nhưng Hào và Thủy không thể nghiêm trang nằm đợi ngủ mà phải chính giấc ngủ lôi cuốn chúng bằng một sức mạnh chúng không thể cưỡng lại được. Ví dụ ngủ đang giữa bữa cơm. Ví dụ ngủ giữa hai trang sách mở, ngủ khi bị rầy, ngồi thút thít một mình ở góc giường. Nhưng bảo nằm song song mỗi đứa mỗi giường thì nhất định chúng lén quay mặt đối nhau rồi khúc khích cười với nhau. Sợ bị rầy, thế nào cũng có một đứa lên tiếng giả bộ rầy đứa kia:

                  - Im đi, để ba ngủ.

                  Rồi chính đứa đó lại nằm còng queo lại rúc rích cười. Đứa kia không chịu thua cũng vội nằm sấp xuống giường, úp mặt vào gối mà lưng và bụng thì rung lên vì những trận cười không dám cho thoát ra miệng nên phải đẩy lui vào ngực vào bụng. Không nỡ rầy con, Giang cứ để mặc, gắng nhắm mắt ngủ. Nhưng vừa mơ màng thì chàng chợt bị giật mình vì một tiếng “éc” không biết của đứa nào không kìm giữ được phải bật lên. Thế là hai đứa bị đuổi ra phòng khách và chàng phải khóa trái cửa lại. Những điều này, khi còn Bảo, chàng không thấy bao giờ xảy ra. Bây giờ có xảy ra chàng mới để ý rằng trước kia đã không hề có. Tìm hiểu một chút, chàng thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà sự thể lại xảy ra khác nhau, ngày trước và bây giờ. Không, phải có một sự xếp đặt kín đáo và dịu dàng của Bảo, lũ con mới “biến đi đâu mất” không quấy rầy giấc ngủ trưa của chàng. Tự nhiên, cũng như mỗi lần nghĩ đến người vợ hiền ngày xưa, chàng thoáng nghe như có một tiếng thở dài nhẹ đâu đây, như có một bóng mát đổ xuống mau, như mơ hồ có một tiếng giã từ, như có một giọt nước mắt sắp rưng rưng. Có thật hay tưởng tượng. Mông lung man mác quá, chàng không tìm hiểu nữa.

                  Buổi tối ăn xong, Giang lại nằm im ở đi văng và gọi Hào lại nằm một bên, Thủy nằm một bên. Ba cha con nói chuyện bâng quơ. Giang hỏi con về những trò chơi trong ngày. Thế là không biết để tai mà nghe ai nữa. Hào tranh phần nói và Thủy cũng không kém. Có điều Giang hỏi đứa nào chơi cái gì thì bao giờ chúng cũng báo cáo công việc của đứa kia. Thủy nói:

                  - Ba ơi, anh Hào chạy ra đường chơi cả buổi không chịu học… Anh chơi với thằng Ngọc. Hai đứa cởi trần ra rồi chạy rượt nhau. Hào vừa cười vừa cướp lời:

                  - Ba ơi, còn con Thủy xé lá dừa nhà mình buôn bán với lũ con Cúc, con An, rồi xả rác ngoài sân.

                  - Ba ơi, còn anh Hào…

                  Cuộc “hội báo” biến thành cuộc cãi vã nhau. Hằng, cả hai đá nhau, thụi nhau, và đá nhằm cả vào sườn của người cha nằm giữa. Người cha bị bắt buộc phải hiền lành hết sức, trở lại đóng vai trò hòa giải như thường lệ:

                  - Không được đánh.

                  - Nó đánh con trước.

                  - Mày đánh tao trước.

                  - Thôi, tao đứng dậy để chúng bây đánh nhau cho rộng chỗ.

                  Vừa nói, Giang vừa ngồi dậy. Thủy đu vào tay níu theo. Hào cũng quàng hai tay kéo cổ Giang xuống vừa thét lên: Không cho đi. Không cho đi. Cột con bò này lại”

                  Hằng đang ngồi may áo đầm cho búp bê ở bàn, quắc mắt sang đi văng:

                  - Thằng Hào hỗn đấy hả? Mày nói ba là con bò hả?

                  Giang cười:

                  - Tao là con bò thiệt, tụi bay ơi. Mà là con bò cái.

                  Câu khôi hài bất ngờ và có vẻ ngộ nghĩnh khiến ba đứa con cười ồ lên một loạt.

                  - Chớ sao. Ba là con bò cái, còn ba đứa bay là ba con bò con. Ba đi làm nuôi mấy đứa con thì cũng như con bò cái cho mấy con bò bú sữa.

                  Hào hỏi:

                  - Nhưng mà ba đâu có sữa?

                  - Ba đâu có vú giống con bò? Thủy tiếp theo.

                  - Là ba nói ví dụ như vậy.

                  - Ví dụ là cái gì, hở ba? Là cái vú hả?

                  Nghe câu hỏi ngớ ngẩn của Thủy, Hằng phá ra cười. Thấy chị cười, Thủy cười theo rồi sục vào ngực Giang như một con bò con sục vào vú mẹ.

                  Tám giờ, Giang ngồi dậy, lại bàn viết. Chợt ở ngoài cổng có tiếng chó sủa và tiếng giày dép lê trên đường, cạnh rào. Tiếng một đứa trẻ:

                  - Nhé, mợ nhé, mợ nhớ mua cho con một cái xe đạp trẻ con đấy nhé?

                  - Ờ.

                  Tiếng một đứa trẻ khác:

                  - Còn mợ mua cho con một cái nón có bao ni lông vẽ hoa nhé. Cái nón cũ con xơ cả vành rồi.

                  - Ờ.

                  Tiếng nói im lặng nhường cho tiếng guốc dép, tiếp theo là tiếng người đàn bà giục:

                  - Bước nhanh lên một tí, các con. Họ sắp hát rồi đấy.

                  Giang hỏi các con:

                  - Lũ con Vinh, con Chi nó đi đâu với mợ nó?

                  - Đi coi cải lương - Hằng trả lời.

                  Hào nhăn mặt, vẻ nài nỉ:

                  - Ba không cho lũ con đi cải lương lần nào hết. Lũ con Chi, con Vinh đi luôn với mợ nó.

                  - Chúng nó có mợ chúng nó dẫn đi.

                  Thủy chen vào:

                  - Con biết rồi. Mợ nghĩa là má.

                  - Thủy giỏi, biết mợ là má. Các con không có má thì ai dẫn đi. Ba bận luôn, các con thấy đó, dẫn đi gì được.

                  Hằng ngừng tay khâu, ngẩng lên hỏi:

                  - Thế chị Hương đâu có má mà chị đi coi hát luôn. Chị đến rủ con hoài.

                  - Có dì ghẻ nó dẫn đi.

                  Hào phân bì.

                  - Sướng hơn lũ con.

                  Hằng nhún vai:

                  - Thôi đi mày ơi. Dù có cho đi đi nữa thì lúc mặc quần áo vào ba cũng nổi xung mà la lên.

                  Giang phì cười:

                  - Ai không nổi xung cho được. Con coi, trong ba đứa, chỉ có mình con là biết tự lo mặc quần áo lấy, còn ông Hào thì thôi, áo đứt nút, quần mất nịt, giày mỗi thứ chỉ còn một chiếc.

                  - Tại bà Thứ không đính nút cho con.

                  - Thì tại bà Thứ chớ ba đâu có nói tại con. Bà ta vụng và chậm mà lại. Đặt trước quên sau, đặt sau quên trước mà lại. Hằng nhắc:

                  - Ba quên chưa kể phần con Thủy.

                  - À, còn phần con Thủy. Aùo đầm cả ba cái đều dơ, nhét vào một xó nào không đưa giặt, đến hồi đi, mở toang mấy va-li, lục tung mấy tủ mà kiếm không ra áo. Rồi may ô của nó, bà Thứ bỏ lộn sang của ba. Rồi…

                  Thủy tiếp lời, thú vị như khi đọc một bài học thuộc lòng:

                  - ... Rồi móng tay chưa cắt.. Rồi tóc chưa kịp chải.

                  - Đúng lắm. Đúng lắm.

                  Giọng Hằng hơi dỗi:

                  - Nói theo ba thì ở Nha Trang đây không có đứa nhỏ nào đi coi hát hết.

                  - Nhưng những đưa đi coi hát, chúng đều có má dẫn đi.

                  - Chị Hương đâu có má?

                  - Kìa! Ba vừa nói rằng nó có dì ghẻ. Dì nó lo mua quần mua áo, mua giầy mua dép, dẫn đi uốn tóc, chỉ bảo cho người ở sắp dọn ngăn nắp. Khi đi đâu, có dì nó săn sóc cho. Ba nó chỉ có việc đưa tiền. Còn ba, cực chưa! Con có nhớ mấy lần ba phải dẫn con đi len lỏi vào giữa chợ Đầm để lựa mua áo cho con và cho mấy em không? Con có còn nhớ lần ba mua pyjama cho con Thủy, ba đã nói rõ ràng là mua cho con gái, thế mà cô hàng cứ đưa pyjama con trai, rồi nằng nặc nói rằng đó là của con gái và ba không biết cứ mua lầm đó sao.

                  Hào hỏi mau:

                  - Thế sao ba không kiếm dì ghẻ như ba chị Hương?

                  - Ủa! Hồi trưa ăn cơm, mấy người nói không muốn có dì ghẻ cơ mà!

                  Hào “à.. à” vừa gật đầu chữa thẹn. Mọi người im lặng. Chợt Hào nhảy bám vào lưng ba, kề miệng vào tai ba nói nhỏ. Ba lắng tai nghe một lát rồi cười to lên. Hằng và Thủy đồng thanh hỏi:

                  - Nó nói cái gì thế ba?

                  - Cái gì hở ba?

                  Ba vẫn cười to:

                  - Tụi bây biết nói cái gì không? Nó nói: Ba ơi, kệ nó, dì ghẻ cũng được.

                  #9
                    hai1957 23.11.2012 19:02:49 (permalink)
                    5. VẾT HẰN NĂM THÁNG



                    Mình về có nhớ ta chăng?
                    Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

                    (Ca dao)

                    Biên bản hội đồng đánh làm năm bản, đặt trên bàn. Các giám khảo lần lượt ký vào chỗ trống trước tên mình. Tên các giám khảo xếp thẳng hàng, thản nhiên, vô nghĩa. Những họ Nguyễn, họ Trần lặp lại, những chữ lót Văn, Đình, Trọng, Đức… không “nói” một cái gì hết. Chữ chỉ tên cũng vậy. (Thật bất lực là những danh từ). Doãn nghĩ. Người đọc không biết nên tưởng tượng một vẻ mặt như thế nào cho thích ứng với một tên Cẩm Vân, tên Kính, tên Lệ Hoa.

                    Doãn đặt bút ký xuống tập biên bản và chàng cảm nghe nỗi buồn nản của sự tàn tạ. Mười lăm ngày làm việc đã trôi qua. Sự hoạt động náo nhiệt rộn ràng đến nay đã kết thúc. Nhanh như vậy sao? Chừng như mới hôm qua hôm kia, chàng bước từ bụng phi cơ xuống đất, rồi chiếc vali nằm bên đùi chàng trên sàn một chiếc xe xích lô chạy phiêu lưu giữa thành phố. Những bất tiện trong việc ăn ở, những bất như ý trong khi làm việc, tất cả đứng trỗi dậy như những cây chông làm chàng bực mình, nhưng cuối cùng cũng được dàn xếp êm nhẹm xuôi chiều, do thói quen. Những khuôn mặt xa lạ, kín mít, nghi kỵ mỗi ngày một cởi mở hơn để biến thành bạn bè. Và khi cuộc sống trở nên dễ chịu thì chàng lại phải từ giã nó… Căn phòng họp hội đồng rộng thênh thang, bàn kê dài theo bốn cạnh của hình chữ nhật. Ngày đầu họp đông đủ, người ngồi phải chen nhau. Càng vào những ngày chót, số người dự càng vắng bớt. Cho đến hôm nay, khi hội đồng coi như đã làm xong nhiệm vụ, khi biên bản đã ký thì số giám khảo có mặt trong phòng họp quá đỗi rải rác.

                    Người ta đến để ký biên bản, ký vào bản chiết tính số bài chấm, lấy giấy lộ trình. Có người đến tìm một khuôn mặt quen, nói vài câu chuyện bâng quơ để ngày mai lên tàu giã biệt. Đó đây từng nhóm giám khảo độ năm, bảy người tụ họp lại theo trung tâm để làm giấy chứng chỉ cho thí sinh đậu. Sự sống còn nhen nhúm thành từng ổ nhỏ như vậy qua tiếng rao tên họ, ngày và nơi sinh của người thí sinh may mắn. Sự sống còn biểu lộ bằng tiếng cười, bằng những tia mắt nhìn trao đổi, bởi ở mỗi nhóm như thế thường có một vài nữ giám khảo. Những chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký trung tâm làm việc khắc khổ hơn với những nét mặt đăm chiêu. Ông chánh chủ khảo đi đi lại lại, nghiêm khắc với mọi người và nghi ngờ mọi người

                    Doãn bước sang phòng học bên cạnh, định dùng thì giờ rỗi để viết mấy cái thư cho bạn. Đi đến chỗ lạ, viết thư gởi bạn để phong bì thư mang dấu của nhà bưu điện địa phương, để người bạn ngồi tưởng tượng thấy một khung cảnh địa dư mới, chàng cho là không có gì thú vị bằng. Một số địa chỉ của bạn, chàng đã mang theo sẵn đó, nhất là địa chỉ của những người đàn bà mà vì lẽ này hay lẽ khác chàng đã không thể viết thư thường xuyên. Lần này chàng mượn cớ là vì đi xa mà có bức thư thăm hỏi, bức thư sẽ được nhận một cách tự nhiên, nối lại dây tình cảm bị buông lỏng, tô đậm một nét cảm tình còn quá mơ hồ. Viết thư cho đàn bà cũng như mua vé xổ số. đừng mong đợi thư trả lời của họ cũng như đừng mong mỏi ngày mở số. Có thể nó sẽ đến đúng ngày, có thể chậm đôi ba ngày, một tuần, một tháng, năm bảy tháng, cũng có thể không nhận gì hết. Nhưng mà lúc nào cũng nuôi một hy vọng sẽ nhận được thư và có những cái thư đến rất đỗi bất ngờ.

                    Chàng nhớ lời của một cô bạn đồng nghiệp bảo, khi thấy chàng trao một xấp thư nhờ người tùy phái đi bỏ giùm:

                    - Ông Doãn này, chắc ông viết thư hay lắm.

                    - Chưa ai khen điều đó.

                    - Nhưng tôi biết là ông viết thư phải hay. Tôi mong được đổi đi một tỉnh xa để được đọc thư của ông.

                    Chàng không biết nên hiểu lời khen ấy như thế nào.

                    Khen hay chê? Người đàn bà đẹp và thông minh bao giờ cũng nói khó hiểu. Lúc nào cũng muốn bắt người đàn ông loay hoay tìm đáp số về mình. Tươi cười vồn vã đó rồi nghiêm trang lạnh lùng đó, người đàn bà thật kỳ ảo trong việc bắt người đàn ông hồi hộp.

                    Chàng nheo mắt nhìn giây lâu mà không nói. Quả tình một nụ cười nhỏ làm hé vành môi hồng nhạt và đôi mắt linh động ranh mãnh làm cho câu nói vừa rồi thêm duyên.

                    Chàng đi lại bàn thầy giáo, ngồi xuống ghế, rồi mở cái cặp xách tay lấy giấy bút. Sau khi biên địa danh và ngày tháng, chàng không biết nên xưng hô như thế nào và không biết nên viết cho ai trước. Lạ nhỉ? Sao tự nhiên những người bạn gái và những người yêu của mình đó bỗng nhiên xa lạ với mình hết sức, và giờ này? Mặc dù nghĩ đến Duyên chàng thấy ngay đôi mày cong của nàng, đôi mắt mở rộng và đôi môi lúc nào cũng như chuẩn bị để làm dỗi. Trong thư chót nàng viết:

                    “… thỉnh thoảng anh viết cho em ít dòng..”. Bây giờ có thể là một lúc “thỉnh thoảng” đây. Thốt nhiên, chàng nhớ kỹ đến mùi nước hoa đặc biệt của nàng thoang thoảng thoát ra từ đôi má láng mịn, từ chân tóc nâu nâu và một niềm xót xa như bấm mạnh vào một nơi nào đó của tim chàng. Với niềm đau và tình yêu pha lẫn, chàng định viết “Em Duyên” nhưng chàng nghĩ ngay đến người chồng của Duyên. Người đàn ông lớn tuổi, cam phận đó, như còng lưng thêm xuống mỗi lần thấy vợ mình đẹp và mỗi lần phải tiếp những người bạn cũ của vợ. Anh có mọi nhược điểm của một người chồng: xấu trai, ăn nói vô duyên và cũng những hai vợ. Chỉ có một ưu điểm: giàu. Anh biết Duyên đã yêu trước khi Duyên gặp anh. Anh cũng biết Duyên bằng lòng lấy anh vì anh trả lời đúng cho một hoàn cảnh chớ tuyệt nhiên không vì tình yêu.

                    Doãn thấy thương hại con người đàn ông thành công nửa chừng đó. Đến đây, bổn phận - bổn phận của một người ngoại cuộc và tình yêu giằng co nhau trong khối óc của chàng. Và một sự bắt đầu có nhiều trở ngại nguyên nhân khiến cho khi nghĩ đến việc viết cho Ngọc Yến, chàng cũng lẩn thẩn nghĩ tiếp: “Liệu Ngọc Yến có còn nhớ mình không? Một thiếu nữ cỡ như nàng, ở ngay giữa Sài Gòn, đâu có rỗi thì giờ để ngồi mong một bức thư xa của mình. Nàng có nhiều mối tình. Không chừng thư mình đến nhằm vào lúc nàng đi ăn kem… Với người yêu ở đường Lê Lợi”.

                    Chàng chuyển ý nghĩ sang Minh Tuyết, một cô bạn hiện ở Pháp. Người đàn bà tha hương này trong mọi bức thư đều nài chàng nhắc đến quê hương

                    “ …Anh hãy tả cho Minh Tuyết nghe cây mận, cây ổi ở nhà anh đi. Tả cho thật tỷ mỷ, tả sao cho Minh Tuyết cảm nghe thèm thuồng mùi thơm của quả, cho Minh Tuyết tưởng như đang kề răng cắn và vị chua vị ngọt thắm tràn vào mọi vi thể của vị giác...”

                    “ …Rằm tháng bảy anh được đi lễ chùa nhỉ, sướng quá. Anh lại còn nhớ gửi tặng Minh Tuyết một lá bồ đề. Minh Tuyết cám ơn lắm. Minh Tuyết nhớ nhà quá, nhớ từng con kênh, con rạch, từng tảng đá, bờ ruộng, con cò, dến một cái chòi giữ bắp ở một triền núi nào mà có một lần Minh Tuyết ngó thấy. Xa quê hơn mười năm rồi, bây giờ hình ảnh nào gợi lên, Minh Tuyết cũng thấy đẹp hết...”

                    “ …Đôi guốc anh gởi sang, Minh Tuyết không mang đâu. Minh Tuyết đặt trên bàn để mà nhìn thôi. Rồi Minh Tuyết tưởng như nghe rộn rã bên tai tiếng guốc của lũ học trò nhỏ lốc cốc đi đến trường...”

                    Doãn nghĩ: Có lẽ chỉ có Minh Tuyết là cần một bức thư của mình. Bút chàng vòng một chữ M để bắt đầu. Nhưng chàng chợt đứng dậy, lẩm bẩm một mình.

                    - Hão huyền. Hôm nay mới thượng tuần tháng năm. Phải nửa tháng nữa Minh Tuyết mới từ St Tropé về.

                    Thế là bức thư nào cũng không viết được. Không có ai tha thiết mong một cái thư của chàng cả. “Như vậy thì sao chàng lại cặm cụi dùng những giờ úa héo của buổi chiều tàn này mà viết cho họ?” Ý nghĩ này làm tê cóng khối óc và những chữ viết như tắt nghẽn ở cổ họng cán bút. Chàng chán nản đưa mắt nhìn khắp phòng.

                    Bàn ghế xếp đều đặn, trên mặt bàn còn lờ mờ dấu phấn trắng ghi sổ ký danh của thí sinh. Đó đây còn rải rác vài tờ giấy nháp màu xanh, màu hồng, màu vàng nằm nấp ở dưới chân bàn, chân ghế. Từng cơn gió mạnh ở mặt bể thổi vào, thổi những tờ giấy chạy vòng quanh ở góc phòng. Tiếng giấy chạy xiết vào mặt sàn khô khan, xót xa như tiếng lá tre khô, lá chuối khô chạm vào nhau trong những trưa hè ỏ miền quê nghèo nàn. Aâm thanh xào xạc ấy thật dễ làm cho người ta chán nản. Trên một ô cửa kính còn dán tờ giấy đánh máy mang tên những thí sinh của phòng này. Ngày đầu của cuộc thi, những cái tên vang lên xa lạ. Những khuôn mặt bỡ ngỡ tiến đến nhận lấy cái tên ấy làm của mình. Rồi họ làm quen nhau trong khi người giám khảo đi lướt qua, mỗi buổi tiếp xúc với một phòng thi. Trong ngót bốn mươi thí sinh đó, chỉ một số ít đỗ. Đa số kém, bài làm của họ mang chằng chịt những dấu gạch đỏ, những dấu gạch không tiếc tay. Qua cuộc chấm điểm, họ như những tờ giấy bị vò nhàu.

                    Ở từ chiếc loa phóng thanh mắc ở tường một công sở gần đó, vang lại một bản nhạc vá chắp. Giọng lên xuống đều đặn đến có thể đoán trước được nhịp nhàng một cách buồn nản như một tiếng võng đưa. Thật hỏng cả buổi chiều. Chàng xếp cặp giấy, lững thững đi trở lại phòng họp, tiến đến một nhóm bạn đang viết giấy chứng chỉ. Cô Kim Toàn dừng lại giữa hai giòng chữ, ngẩng đầu hỏi:

                    - Ông viết hộ cho tôi một lát đi. Tôi mỏi lắm.

                    Nàng vừa nhăn mặt vừa uốn vẹo cánh tay. Chàng nhìn xuống nét chữ của nàng, rồi nói:

                    - Cô viết đẹp thế kia, tôi đâu dám thay?

                    Kim Toàn không nài, cúi xuống viết tiếp, môi nở nụ cười. Nàng cúi xuống gần mặt giấy và nghiêng hẳn một bên. Thật y như một nữ sinh đang chép bài. Nét chữ dịu dàng và thật thà với những chữ H, chữ G uốn cong bầu bĩnh, chữ A, chữ O, hở đầu. Doãn quen Kim Toàn nhân một buổi đi chơi picnic ngày chủ nhật. Nàng có đôi mắt đen ngơ ngác và dáng người manh mảnh đặc biệt thường gặp nơi các cô gái Huế.

                    Chàng hỏi:

                    - Cô ghi chứng chỉ cho trung tâm nào đó?

                    Kim Toàn vừa viết vừa nói:

                    - Trung tâm Tuy Hòa.

                    - Cô cho phép tôi xem xấp phiếu thí sinh cô đã viết rồi.

                    Xấp phiếu màu đỏ, Doãn cầm lên đọc từng tờ một. Lại những cái tên lặp lại quá cũ, vô nghĩa, ngẫu nhiên!… Trần Xuân Hùng, Nguyễn Văn Hưng… Đinh Hường… Bên góc trái của mỗi phiếu có dán ảnh. Những khuôn mặt, khi chưa quen trên thực tế, cũng vô nghĩa như cái tên vậy. Chàng tẩn mẩn đọc cả những dòng chữ ghi sinh quán, trú quán, tên cha mẹ. Mỗi một địa danh mở rộng trong ký ức chàng một phong cảnh. “Xuân Lộc - Đồng Xuân”: những bụi duối chạy dài giữa cánh đồng mía. Rừng dừa xanh ngút ngàn rải bóng mát trên những mái nhà màu xám tối. “Phú Vang- Xuân Sơn”: con đường độc đạo bò vắt ngang qua những ngọn đồi trọc. Rải rác có ngôi miếu cổ hiện ra, âm u, tàn phế, nấp dưới cánh tay che chở của những cây đa, cây cốc, “An Mỹ-Hòa Đa”: rặng tre mỏi mệt trong ánh nắng, nơi đó tiếng chim gáy rời rạc đổ hồi. Đất da tây đen nhánh, cứng nhọn ở dưới gan bàn chân. “Phong Niên Hòa Thắng”: ruộng lúa chạy dài hai bên bờ mương dẫn thủy. Tiếng cần vọt kẽo kẹt trong các thôn xóm, tụ tập thành từng ốc đảo màu xanh.

                    Một tên phụ huynh học sinh làm chàng bàng hoàng: “Trương Kỳ Phùng”. Chàng nhìn nơi sinh, trú quán: An Thạch, Tuy An. Đúng là tên của người bạn học ngày xưa. Cả một quá khứ bừng sống mạnh mẽ, thoáng chốc như một cây cổ thụ bị chặt ngã nay vụt đứng dậy cả lá cành. Chàng thấy rõ ràng Trương Kỳ Phùng ôm sách đi học lớp năm, lớp tư, mặt gầy gầy với hàng lông mi rất dài. Nhà anh làm hàng xáo, tráng bánh tráng. Cả một xóm Thiện Đức chỉ có hai nghề: dệt tơ lụa và tráng bánh tráng. Trưa trưa, nghe tiếng giũ tơ lụa đập bành bạch trên sông. Cả ngày, nghe tiếng cối xay kẽo kẹt, cối giã thập thình. Cứ mỗi chiều, khi ôm sách đi học về là đã thấy mẹ của Phùng ngồi sa một quầy hàng xén vụn vặt: dầu phộng, nước mắm, thuốc giấy, kẹo đường, ớt tỏi….bà ngồi trong một cái lều nhỏ, dựng ngay trước cổng nhà Phùng. Cha Phùng đu đưa trên một cái võng, cột vào hai gốc tre, nằm lui đàng sau. Trước lều, phía bên kia đường cái, lúc nào cũng có năm bảy người ngồi chồm hổm nói chuyện. Câu chuyện thường lấy những người đi chợ vừa bước qua làm chủ đề, nên quanh năm không hết chuyện. Câu chuyện lại dễ nhảy từ mục này sang mục khác không cần chuyển tiếp, nên ngồi ở đây là có thể biết hầu hết tình hình trong xóm. Ở vùng này lại có bảy, tám tay cờ bạc chuyên nghiệp nên tin tức lại càng thêm dồi dào. Những người cờ bạc chuyên nghiệp không mấy ai là không lém miệng. Có lẽ vì sống quen trong khung cảnh đó, nên Phùng ăn nói hoạt bát và có óc lý tài. Lúc nào gặp anh là y như thấy anh đang dự vào một cuộc mua bán đổi chác nào đó. Có lần anh đổi cái cán viết mới của anh để lấy cái cán viết cũ của một người bạn và bắt bù ba cắc. Rồi cũng cái cán viết cũ đó, nhưng anh đem thay ngòi mới vào, rồi đem xuống lớp Đồng ấu gạ bán cho một đứa khác lấy hai cắc. Sách vở cũng là món hàng buôn. Đổi sách mới lấy sách cũ, bán sách cũ mua sách mới, rồi bắt bù tiền, nạp tiền cọc, nài thêm, rút bớt, trừ hoa hồng, ăn lãi hai phân, năm phân vân vân, anh tung hoành trong các chương mục thương mại như một võ tướng hữu đột tả xung.

                    Trương Kỳ Phùng chỉ có một nỗi khổ lớn: đó là anh ta có một người chị. Người chị này đã được các bạn luân phiên nhau hết “gả” cho đứa này đến “gả” cho đứa khác.

                    - Ê, Phùng. Anh rể mày đây.

                    - Tổ mẹ mày.

                    Phùng đỏ mặt chửi liền.

                    - Thằng này hỗn quá bay. Bộ thằng Thừa làm anh rể mày không được sao?

                    - Làm anh rể cái… ông nội cha mày.

                    Mỗi cuộc gả bán đều được kết thúc bằng một trận chửi gọn gàng như vậy.

                    Đỗ xong bằng tiểu học, Phùng xin bổ làm hương sư, đúng theo cái nề nếp sinh hoạt bình thường của xóm Thiện Đức này. Nhà nào có con cho đi học cũng chỉ mong đỗ cho được bằng tiểu học để ra làm hương sư. Cùng một khóa với Trương Kỳ Phùng, có mươi hai cậu hương sư xuất thân tự xóm Thiện Đức được bổ đi dạy ở các trường xã. Như cùng do một cái máy đúc ra, họ ăn mặc giống nhau: áo dài bằng xuyến đen, quần vải tàu bay trắng, tóc chải rẽ, đi xăng đan, xách cặp da và đeo gương đen. Riêng Trương Kỳ Phùng thì trong cái cặp da, ngoài những quyển vở soạn bài còn có mấy cây lãnh, cây lụa, anh đem theo để dạm mối buôn bán nữa!

                    Qua thời kỳ kháng chiến, Trương Kỳ Phùng đi buôn thuốc Tây, đá lửa và dép cao su. Lúc nào trông anh cũng té tát ngược xuôi. Cái cặp da chứa nặng hàng, ôm không nổi, anh phải luồn một sợi dây vải rồi tròng vào vai mà mang. Sau đó, anh mang muy zét vải rồi cuối cùng là gùi ba lô sau lưng. Anh hóa ra thành một tay buôn chánh hiệu.

                    Trong giai đoạn này, Doãn nhớ có gặp Trương Kỳ Phùng một lần ở một quán nước chặng An Chấn, anh than thở từ đầu đến cuối câu chuyện. Mang tiếng là tiêu cực lừng khừng, anh bỏ làng đi phiêu lưu ở chiến khu 1, chiến khu 2, buôn bán đủ món và gá nghĩa với bất cứ người đàn bà nào xét ra cần thiết để tìm chỗ trú chân. Anh cuới vợ rất sớm, rồi ly dị, rồi cưới vợ khác, rồi chết vợ… cả cái giai đoạn này của cuộc đời anh lộn xộn rối nhằng vì việc vợ con, y như một chiến cuộc thắng bại không phân mà ta không có thì giờ theo dõi từng chi tiết. Rốt cuộc, mãi đến hôm nay, có ngẫu nhiên gặp một phiếu thí sinh mang tên họ anh, mới biết là anh đã có con lớn dường ấy, và anh sắp được biết tin mừng là con anh thi đỗ.

                    Một phiếu thí sinh khác mang hai dòng chữ: “Tên cha: Hồ Đình Chiến (c). Tên mẹ: Nguyễn Thị Ngọc Cẩm”. Lại cũng là tên một bạn quen. Tên người vợ xác định tên người chồng, vì có thể có nhiều Hồ Đình Chiến, nhưng không thể có nhiều Ngọc Cẩm ở một miền nhà quê. Ở nhà quê, người đàn ông chuộng trang sức cho cái tên của mình hơn đàn bà. Vào thời đại của Ngọc Cẩm, hầu như không có một người đàn bà nào dám ngang nhiên mang một tên kép trên thẻ căn cước. Chỉ có Ngọc Cẩm. Chị không đẹp nhưng nhà giàu, quanh năm chỉ đi đến nhà tá điền thu lúa, đậu, thu đường, thu bông. Chị được đọc báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn và tiểu thuyết của Lê Văn Trương. Chị thuộc lòng mười bài “Khuê phụ thán” của Thượng Tân Thị và nhiều bài Đường Luật trong “Vườn thơ phụ nữ”. Và chị cũng cảm tác ra thơ nữa. Giữa một miền ruộng sạ, đất thổ khô cằn của xứ Đồng Tranh, Đồng Nghệ mà người dân chỉ biết vui với hạt đậu phộng, đậu xanh, tai bông, lóng mía, muỗng đường, chị chỉ biết sống mơ màng một mình với “Vườn thơ phụ nữ”. Người văn minh ở thị thành, ở phương xa lạc bước tới có thể hiểu được tâm hồn chị chỉ là mấy anh phắc tơ nhà ga và vài giáo viên trường Tiểu học La Hai. Họ nghe tiếng chị, đến nói chuyện với chị vài lần, được ăn vài bữa cơm ngon có tráng miệng kẹo đậu phộng, rồi rút êm đi cưới vợ nơi khác hết. Chị không đẹp. Khi quá lứa, chị đành phải lấy anh Hồ Đình Chiến người làng, nhà trung lưu, có học khá, nhưng xấu trai và không biết nói chuyện văn thơ. Như những đám lúa thổ, hết mùa lúa sạ lại chen mùa rắc đậu, cuộc đời của hai vợ chồng lẳng lặng cho trôi theo mùa tiết, đều đặn, nhịp nhàng và chán nản bằng phẳng như cánh đồng rộng trước nhà. Chiến thay mặt vợ đi thu lúa gặt, đi đòi lúa thiếu. Những chuyện vặt vãnh như cho vay lúa non, cho nuôi heo rẻ mà bình thường vợ anh và bố mẹ vợ anh vẫn làm một cách thong thả dễ dàng, nay sang đến tay anh thì chúng ngang nhiên mang một tính chất khoa học hợp lý rất đỗi chi li lẩm cẩm. Cái gì anh cũng ghi cũng chép, cũng chiết tính, cũng phỏng trù. Cuốn sổ nào cũng đầy ắp những chữ những số, khiến nhiều lúc anh sa lầy lúng túng trong đó.

                    Ngày Nhật đảo chánh, anh sung vào ban Tuyên truyền cho Đại Đông Á. Thật là một cuộc vận động đầy hào hứng, vì Đại Đông Á là một cái gì rất vĩ đại mà người nói lẫn người nghe đều không biết rõ là cái gì, có điều chắc chắn là nó phải to lắm. Ban Tuyên truyền gồm ba người: trợ Chước mặt vàng như một lá dưa cải còn non, xu Tiên - một một cai lục lộ thật nghiệp có bộ râu rễ tre (ông giống Nhật ở điểm này) và Chiến. Cả ba mặc áo dài đen chững chạc và đi xe đạp. Mỗi xe cắm một lá cờ Nhật Bản. Xe họ hùng hổ đi về trụ sở các xã Phước Long, Phước Huệ, Phước Lãnh thuộc miền sơn cước huyện Đồng Xuân, rồi đổ về từng thôn nhỏ. Lũ trẻ con chạy theo sau hoan hô hoặc bâu quanh họ trầm trồ chỉ chỏ, y như chính họ vừa hạ thành Singapore hay bắt giam Đô đốc Decoux

                    Lý do vì đâu Chiến được tuyển sung vào ban này thì chính Chiến cũng không ngờ được. Từ nhỏ đến lớn, Chiến có biết gì nước Nhật đâu? Chẳng qua vì muốn sanh lợi chút ít, anh đã trữ bán mấy món thuốc Nhật Bản: thuốc cảm Jin-tan, thuốc đau dạ dày Oâôda, thuốc nhỏ mắt Oâtôsan bên cạnh mấy món thuốc xổ Nhành mai, thuốc dán Hồng Nhật, dầu cù là Oâng Cọp và cả thuốc dịch heo nữa. Rồi tiếp theo có mấy tấm hình quảng cáo của các hãng buôn Mitsui, Mitsubishi, Dainan Koosi có in hình đàn bà Nhật và phong cảnh Nhật, Hồ Đình Chiến tiếc của xin đem về dán cho kín vách. Và thế là anh hóa thành một người có chính kiến.

                    May thay nước Nhật đã bại trận một cách quá mau lẹ giải thoát dùm cho anh và cho ban Tuyên truyền khỏi tình trạng cạn tài liệu. Vì để nói về nước Nhật, anh chỉ biết quanh quẩn có những truyền thuyết hết sức nhảm nhí. Chẳng hạn chuyện người bán cám cho ngựa nhà binh Nhật đã lấy mạt cưa thay cám. Ngựa ăn mạt cưa chết, lính Nhật mổ ruột ra xem, chưa biết rõ căn nguyên, liền đem người buôn cám tham lam khâu vào bụng ngựa rồi đem chôn. Một cuộc quả báo nhãn tiền và sòng phẳng như vậy rất hợp với tâm hồn bình dân của người nghe, nên cử tọa hả hê một cách ồn ào. Hồ Đình Chiến không ngờ mình nói chuyện có duyên đến thế. Nhưng chừng nửa tháng thì câu chuyện hết mầu nhiệm. Vì người nào quen với Chiến đều đã phải nghe nó đến lần thứ chín, thứ mười; anh phải kể sang những chuyện tai hại cho chủ nghĩa Đại Đông Á mà anh đang cổ xúy (thế mới biết cảnh giác chính trị của anh rất trì độn). Anh kể chuyện người Nhật cai trị nước Cao Ly chỉ cho phép năm nhà dùng chung một con dao phay, rằng con dao ấy được cột vào một dây xích sắt và nhà nào cần thái món thịt món cá gì thì phải mang đồ vật đến “nhiệm sở” của cái dao. Câu chuyện ấy nhiều người biết. Chỉ độc sáng là lối thêm thắt chi tiết của Chiến. Câu chuyện lại dễ gợi trí tưởng tượng của người nghe, nên ít ai không bàn cãi, không đưa ý kiến.

                    Vào tháng 7 tháng 8 năm 1945, câu chuyện anh nói có mang nhiều danh từ tương đối chuẩn xác hơn, chuyên môn hơn: quân đội Thiên Hoàng, Chính phủ Nippon, Thủ tướng Tôjô, hải chiến đảo San hô, Phi đội Thần Phong... Kiến thức của anh đi lên, ngược với khí thế của quân đội Nhật đang đi xuống. Tiếp tới, Nhật Bản đầu hàng. Cách mạng tháng Tám nổ. Cách mạng nổi lên, anh đương nhiên bị coi là người của chế độ cũ. Danh hiệu này là một vinh dự quá to đối với anh. Tuy vậy, nó làm cho anh lo sợ mất ăn ngủ, vì vào những ngày đầu Cách mạng, ai nấy đều vũ trang dao găm và lựu đạn. Sau đó, theo chính sách tận dụng khả năng dân chúng, không phí phạm nhân tài, vật lực, anh được sung vào làm thủ quỹ cho Hội giúp binh sĩ bị nạn. Công việc thật quá phù hợp với anh. Tha hồ cho anh đàm đạo một mình với những con số chi, số thu, tổng chi, tổng thu, với những chứng từ thanh toán, với những cái kim găm. Anh chìm vào giữa những con số cũng như anh chìm vào giữa cuộc đời. Anh bám vào cuộc đời như một thân tầm gửi, vô ích nhưng mà vẫn hiện diện, sống tầm thường cái cuộc sống của mình không khiến cho ai phải nghĩ tới.

                    Thế mà nay Hồ Đình Chiến đã chết!

                    Sao nhanh vậy? Con người chậm chạp, núc ních với vẻ mặt u tối tầm thường đó như sinh ra để sống lâu, để ăn tiêu tặn tiện và để sinh nhiều con. Thế mà anh ta lại chết rồi. Cái chết đó có ý nghĩa gì? Chết vì một tai nạn phi thường hay vì một chứng bệnh tầm thường, vô lý như những người xung quanh anh? Nhưng dù có vì gì đi chăng nữa thì chữ cũng viết giữa vòng đơn sau tên Hồ Đình Chiến cũng mở ra một vực sâu tăm tối trong tâm hồn của Doãn chiều hôm nay. Những người bạn của chàng đi nhanh quá. Con họ lớn để thấy họ già và có người vội vàng đi quá tuổi già: họ chết. Như người ngồi trên chuyến xe chỉ thấy mình di chuyển khi nhìn mọi vật di chuyển xung quanh. Doãn chợt thấy năm tháng bỏ lui mình đằng sau, khi vô tình chàng nhìn sang những người bạn. Thật là chán nản. Trước mắt chàng, cô Kim Toàn xinh xắn với dáng ngồi viết ngây thơ liệu sẽ giữ vẻ tươi mát của làn má, của ánh mắt trong bao lâu? Nàng đang có những ước mơ gì? Nàng có tin rằng những sẽ thực hiện những ước mơ một cách dễ dàng trước khi năm tháng đuổi kịp nàng chăng?

                    Doãn uể oải đứng dậy đi về phòng trọ. Phòng trọ là một phòng học được nhân viên ở trường xếp đặt khá chu đáo với giường bố và màn nhà binh. Có bốn phòng học được xếp thành phòng trọ. Ngày mới đến, đi lại ở hành lang phải tránh nhau một cách chật vật. Hôm nay số người đã vắng đi nhiều. Nhóm anh em Đà Nẵng đã về trưa nay. Nhiều chiếc giường bỏ trống, chăn màn xếp cẩn thận đặt ở đầu giường. Khi có chủ, không chiếc giường nào được ngăn nắp tươm tất như vậy. Những anh em còn lại cảm thấy cô đơn. Họ quây quần với nhau thành từng nhóm. Nhóm anh Ngộ năm người ngồi rút ích xì để tiêu khiển. Trông Ngộ có duyên, cởi mở và lịch sự khi bắt con bài, khi nặn con tẩy, khi suy nghĩ để tính nước, cả khi vất gọn tờ giấy bạc xuống bàn để tố hay để theo. Những cử chỉ vơ lấy gói thuốc, đặt một điếu lên môi, bật que diêm, kéo một hơi để trấn tỉnh thần kinh… những cử chỉ ấy đều gọn gàng, biểu lộ một phong thái khả ái, khác xa với khi anh mặt khó đăm đăm, phân phối công việc cho các giám khảo ở trung tâm. Cái duyên dáng của con người cũng biểu lộ và được ghi nhận ở những cử chỉ và trong những trường hợp rất đỗi bất ngờ. Nằm bên cạnh sòng bạc khá ồn ào này, anh Dật bình tĩnh lật từng trang của một quyển sách triết học dày cộm. Nhóm anh Đàm, anh Cang dùng ngày giờ còn lại để đi bát phố liên miên. Có dư khí lực mà không biết dùng vào việc gì, các anh đặt dấu chân mình ở mọi con đường, khám phá nhiều sự vớ vẩn ngộ nghĩnh. Anh Lộc, anh Bang vừa mới cưới vợ nên hết trao đổi với nhau những kinh nghiệm có vợ mang đến bàn việc mua quà cho vợ. Câu chuyện kéo dài sang mục chữa hậu sản, chữa bệnh đẹn và bệnh tướt cho hài nhi. Anh Bửu thì hát luôn miệng câu:

                    Người ơi một mai nếu tôi đi rồi

                    Là la là la lá la là la

                    Đó là câu hát độc nhất Bửu hát từ ngày anh đến chiếm cái giường sát cạnh. Không thuộc quá ba câu của một bài hát, hình như người thầy giáo nào cũng vậy. Đó có thể là một mặc cảm trí thức. Nhưng do tâm trạng nào mà Bửu chỉ hát câu “người ơi nếu một mai...” thì Doãn không tìm hiểu. Vì anh hát vào những lúc bất ngờ và rất mâu thuẫn: khi đi về cởi áo sơ mi, khi cột dây giày, khi ngủ trưa dậy mà chưa muốn bước xuống giường, khi uống xong 15 giọt thuốc chữa đau gan. Dường như anh không bận tâm rung cảm theo ý nghĩa của câu hát. Có lẽ câu hát chỉ có giá trị làm cho mồm đỡ nhạt, cũng như khi người ta không nghiện mà hút thuốc. Câu hát cũng làm sạch hơi thở như khi người ta nhai kẹo cao su. Nhưng chiều hôm nay giọng hát trầm trầm uể oải và sai giọng ấy, mỗi lần nghe đến là Doãn tưởng như mình đang dự vào buổi chiều cuối cùng của trái đất khi nhân loại bị phóng xạ nguyên tử đang cầu kinh. Buổi tối, ánh đèn nê ông sáng không làm cho không khí đỡ cô đơn hơn. Phòng số 1 do các giám khảo có tuổi chiếm đóng nên tắt đèn sớm. Họ chỉ biết làm việc ăn ngủ điều độ rồi về với gia đình. Những chiếc vali lớn nai nịt sẵn sàng xếp cạnh giường nằm. Đi 15 ngày, nhưng cụ bị đầy đủ như phải viễn du liên lục địa. Quà mua đem theo về cũng vừa chu đáo vừa cồng kềnh: những lọ mắm cá thu lổn ngổn, những tảng miếng song thần to bằng bức tranh sơn dầu. Phòng II đa số là thanh niên. Hành lý rất gọn. Có người chỉ mang một cái xắc kiểu PAA hay Air France. Y như đi dự một cuộc tranh giải thể thao liên tỉnh. Tâm hồn cũng gọn như hành lý. Không có nhiều quá khứ lôi kéo, họ thong dong đi lại như một con chim chuyền cành. Trái lại, đối với những người như Doãn thì quá khứ chen lẫn với hiện tại. Trong những ngày lưu lại đây, kỷ niệm thường dồn dập trở về. Ngẫu nhiên mà ngôi trường chàng nghỉ trọ hôm nay là ngôi trường Trung học mà mười lăm năm trước chàng đã học, thỉnh thoảng ngồi nhìn vẩn vơ qua từng khung cửa kính, chàng thấy lại gương mặt và dáng đi đứng của từng vị thầy cũ của mình: thầy Lê với bộ râu bướng bỉnh, thầy Thái với đôi kính trắng, thầy Cảnh mỗi lần cười thì mặt đỏ và mắt nhắm tít lại, thầy Trường nhanh nhẹn như một con sóc. Cuộc đời chảy êm đềm trong một xã hội quá trật tự. Giáo sư Cao đẳng tiểu học là một địa vị đáng được thèm ước. Suốt cả mười tỉnh miền đông bằng chỉ có một trường Cao đẳng tiểu học công lập này thôi. Sự học hiếm hoi, quý giá như vậy, nên nếp sinh hoạt ở thành phố xoay quanh việc buôn bán. Các vị giáo sư gần như độc tôn trên thị trường chữ nghĩa. Giới trí thức còn lại là mấy ông phán tòa Sứ, trán và gò má bóng nhẵn mỗi buổi chiều tụ họp ở nhà xéc để đọc báo, thọc bida hay đánh ten nít. Tách rời ra khỏi giới doanh thương thực tế, ồn ào, thủ đoạn, những người trí thức ở tỉnh nhỏ sống lẻ loi, uể oải như những cây còm nằm yên vị trong từng chiếc chậu kiểng. Không ai cạnh tranh với họ hết, nên họ khỏi phải lo cạnh tranh với ai.

                    Chợt chiến tranh xảy đến, bắt gặp họ giữa một lúc họ không chuẩn bị. Chiến tranh xáo trộn hết. Ông Huy, nguyên là thư ký đánh máy của trường, quanh năm thủ phận trong bộ áo dài trắng và đôi giày da trắng đế nhựa rất dày, đột nhiên biến thành một giáo sư triết học có nhiều uy thế. Ông Văn, giáo sư khoa học, trái lại bị chê là lạc hậu, nên được rút về ngồi ở không ở phòng chuyên môn. Trong cảnh nhàn bất đắc dĩ, ông nảy ra làm thơ. Ông Cảnh lao đao vì một bầy con quá đông và một người vợ yếu đuối. Đồng lương eo hẹp làm cho những bộ quần áo của ông lúc nào cũng cũ kỹ, sờn cổ, sờn cùi chỏ.

                    Qua cuộc chiến tranh, ngôi trường cũ đã bị phá hoại. Hiện nay nền trường vẫn còn y nguyên đó và chàng cứ nhìn theo nền xi măng long lở mà thấy lại trong óc dãy trường nguy nga hồi xưa với cả ký túc xá, sân chơi, văn phòng, nhà ông hiệu trưởng, nhà ông giám thị, nhân viên… Trên dãy hành lang này, chàng đã đi bách bộ nói chuyện với bạn sau bữa ăn tối. Góc rào kia, cả bọn lén nhảy qua để trốn ra phố xem xi nê. Dưới bóng cây keo này, ngày xưa mấy cô con gái ông giám thị đi thơ thẩn. Bây giờ chắc mấy cô đã có lắm con rồi, chắc họ chỉ còn đi thơ thẩn được trong ký ức. Dễ thường có cô đã chết trong chiến tranh, cũng như một số khá lớn những người bạn chàng vậy. Còn lại như xưa, dễ chỉ có những hàng me tây đứng thản nhiên ở sân trường. Chắc chắn là chúng có già đi, nhưng sự đổi thay ít nhận thấy rõ. Tuy vậy, theo một đà ý nghĩ quen thuộc, trong một bức thư gửi cho bạn hôm mới đến đây, chàng đã viết: “Tôi về trọ nơi đây. Ngôi trường cũ mà tôi đã xa mười lăm năm hơn. Cảnh vật tàn phế hết. Chỉ còn dãy me tây. Nhưng chúng đã thành cổ thụ. Cũng như tôi, mai kia…”

                    Từ buổi chiều, mùi hoa thơm hăng hắc, bóng tối lẩn quất ở gốc cây. Chàng nhớ có một buổi sáng, mở cửa sổ nhìn ra, chàng để ý đến một cây me tây non trẻ mọc lạc loài ở gần cửa sổ. Chàng nghĩ đến những thế hệ lặng lẽ nối tiếp nhau. Liên tưởng đến các giám khảo thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều thế hệ có mặt nơi đây, Doãn cảm sâu xa dòng đời chuyển đi tới (hay đi lui).

                    Còn một đêm này nữa.

                    Phù hợp với ý nghĩ của chàng, anh Nhẫn đứng cạnh vừa tháo cà vạt vừa hát:

                    Còn một đêm nay

                    Rồi mai lên đường…

                    Đêm chót bao giờ cũng gây nhiều lưu luyến. Cả những người bạn ít thân thiết, trong giờ phút này cũng trở nên mến thân. Anh Long ở phòng IV sang hỏi địa chỉ của nhóm thầy giáo Nguyễn Hoàng Quảng Trị. Anh Tây đưa tay tắt cái máy thu thanh chạy pin để cất giọng ngâm mấy câu ca dao:

                    “Còn đêm nay nữa mai đi.

                    Lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.

                    Còn đêm nay nữa mai về.

                    Lạng vàng không tiếc, tiếc kề má xuân...”

                    Doãn tự so sánh mình với nhân vật trong câu ca dao. Anh chàng quả có buồn, nhưng còn được an ủi có người yêu để mà xa cách. Còn mình? Người yêu là ai? Doãn thấy mình lửng lơ giữa hai khoảng chân không. Những cô bạn xinh tươi sáng mai sẽ về Huế hết, cũng như những cô bạn Đà Nẵng đã bỏ chàng về Đà Nẵng trưa nay. Họ đông lắm, nhưng chàng chỉ cần có một người, mà một người thì khó có. Không thể đi theo họ như một nghệ sĩ phiêu lưu, mà trở về thành phố cũ của mình thì cũng không có ai tha thiết mong đợi mình. Thằng nhỏ ở sẽ chỉ “à” lên một tiếng vừa đủ để tỏ một sự ngạc nhiên có mức độ, khi xe chở chàng lách cách dừng ở cổng. Con chó trắng sẽ vẫy đuôi mừng (À! May ra thì được có con chó mừng một cách thật thà và trọn vẹn). Bà chủ phố sẽ chuẩn bị để chiều mai sai con đưa biên lai sang thu tiền nhà. Ai cũng lãnh dạm với chàng hết. Nhìn tới, nhìn lui, quả là lửng lơ giữa hai khoảng chân không.

                    Doãn thấy tâm hồn chán nản, mỏi mệt. Chàng phải cố gắng tạo cho được một khoảng chân không trong trí óc mình, để dỗ một giấc ngủ nặng nhọc và bướng bỉnh.

                    Chàng dành bữa ăn sáng cuối cùng để ăn cùng Lễ. Chàng giục Lễ ăn thật nhiều.

                    - Ăn nhiều đi, ăn thêm nữa đi. Đường về Huế xa xôi.

                    - Nhưng đi bằng máy bay thì có xa bao nhiêu ?

                    - Ừ nhỉ! Anh lên tàu 10 giờ sáng và ăn trưa ở Huế, giữa vợ con. Tôi còn giữ những kỷ niệm quá lạc hậu về ý thức giao thông. Ngày nhỏ đi học, mỗi lần nghỉ lễ về thăm quê là người chủ trọ bắt tôi phải ăn cơm thật no để lên tàu hỏa. Mà nào đường đất có xa, chỉ khoảng một trăm cây số thôi. Ông chủ trọ ngồi canh chừng cho chúng tôi ăn và lặp lại không biết bao nhiêu lần rằng “có hột ngọc trong bụng thì cản phong cản gió dọc đường…” Bát cơm tầm thường vụt nhiên khoát một giá trị thiêng liêng, thần bí, khi hột gạo được suy tôn là hột ngọc…

                    Chàng mơ màng nhớ đến thời xưa khi tâm hồn con người sáng tươi trong niềm tin chất phác.

                    - Còn anh? Hai giờ mới lên máy bay?

                    - Vâng. Chúng tôi là những người chót hết giã từ nơi đây.

                    - Sang năm chúng ta gặp lại.

                    - Nhưng đừng chọn thành phố này nữa. Hai lần rồi. Tôi mong sẽ gặp anh ở Huế hay ở Đà Lạt.

                    Mười giờ, phòng đợi phi cảng chật chội, nóng bức, khiến những câu chuyện trao đổi cuối cùng bị gò bó. Người ta không thể buông người bạn này để bắt người bạn kia một cách tự nhiên khi thiếu những hành lang rộng, những khóm cây xanh. Những cô bạn Huế đành đứng bên cạnh nhau nói những câu chuyện chắc là rời rạc. Có cô ngồi nhìn ra sân nắng, có cô phe phẩy quạt. Những người bạn đàn ông ngồi ở chỗ của mình, chăm chăm nhìn một khoảng nhỏ ở trước mặt mình, y như những nhà chân tu chỉ biết nghĩ đến đạo đức.

                    Chàng bắt tay Lễ một lần chót, mỉm cười chào mấy cô bạn khi họ đi ngang qua mặt. Khi cửa phi cơ đóng sập lại, phi cơ nổ máy, những bàn tay hiện ra vẫy ở khung cửa kính tròn nhỏ. Ơû dưới đất, Doãn cũng như nhiều người cũng vẫy tay. Chẳng ai biết được bàn tay kia dành cho ai. Có thể có những bàn tay không có ai để mà dành cả. Màu áo đỏ của cô Phương Lan trông rõ ràng qua khung cửa kính mờ. Đi máy bay nên chọn một màu áo đặc biệt không thể lầm lẫn như vậy.

                    Từ bữa ăn trưa đến hai giờ chiều, Doãn không làm được gì hết. Ý nghĩ cũng bị cắt vụn từng mẩu rời rạc. Ông Cai trường xếp chăn màn, bó giường và quét tước phòng học. Những tờ giấy báo vất ngổn ngang; những mẩu tàn thuốc, di tích cuối cùng của sự sinh hoạt rộn ràng của bao nhiêu giám khảo giờ bị dồn vào một góc. Dãy thùng nước, chậu thau đặt dài dọc hành lang cũng đã thu dọn mất. Sự gọn gàng có pha chút ít tàn nhẫn. Giá ông cai thẫn thờ uể oải bỏ bê công việc mà ngồi nhớ đến sự ồn ào vui vẻ của mấy người trước so với niềm cô đơn im lặng hôm nay!

                    Sân phi cảng chiều nay vắng hơn buổi sáng. Toàn là người quen cả nên không còn vấn đề khi cần bắt chuyện. Chàng phải tìm thú vị mới cho nửa giờ còn sót lại. Chàng chọn Thu Hà. Thu Hà là người nữ giám khảo đẹp của trung tâm, cùng giám thị chung với chàng ở trường Tân Bình và hôm nay cùng về một chuyến bay với chàng, cùng xuống một phi cảng.

                    - Cô không về Đà Nẵng thăm ba má?

                    - Tôi về trường có mấy việc cần, vả lại còn trông chừng cho em tôi thi tú tài.

                    - Cô có đồng ý một với tôi rằng cô Hải đẹp không? Cô Hải cùng chấm Pháp văn với cô đó.

                    Thu Hà nheo mắt một cái rồi mở to mắt:

                    - Đẹp. Đẹp thật!

                    Nàng vừa nói vừa gật gật đầu.

                    - Ông có quen với chị ấy?

                    - Em của người bạn tôi đó.

                    - Thích nhỉ? Quen với một người đẹp bao giờ cũng thích.

                    - Đó phải là ý kiến của người đàn ông.

                    - Đâu phải chỉ riêng đàn ông? Đàn bà cũng thích những người đàn bà đẹp.

                    - Huống chi là đàn ông!

                    Thu Hà và Doãn cùng cười .

                    Thu Hà có đôi mắt đen thăm thẳm và sáng long lanh như có chất dẻo làm dính tâm hồn những người nhìn. Mắt trái nhỏ hơn mắt phải một chút, làm tăng thêm sự mơ màng. Được biết Doãn và nàng ở cùng tỉnh, các giám khảo quen bao quanh lấy Doãn:

                    - Chấm xong, tôi đi vào Phan Rang với anh nhé? Nhà anh có gần nhà cô Thu Hà không?

                    - Anh Doãn ơi, anh nhớ ghi địa chỉ rõ ràng đi. Thế nào hè này tôi cũng đi Phan Rang một chuyến. Nhưng mà anh phải hứa giới thiệu tôi cho Thu Hà nhé?

                    - Tiếc quá không đi vào với anh được lần này. Nhưng thế nào kỳ chấm tú tài tôi cũng có mặt ở Phan Rang. Cô Thu Hà đẹp quá anh nhỉ?

                    Doãn mỉm cười với mọi người, hò hẹn với mọi người. Chàng biết sự vui vẻ bồng bột chỉ nhất thời, rồi sau đó trở lại cuộc sống quen thuộc bình thường, họ sẽ như con ngựa của anh đánh xe đi lại thuộc lòng trên con đường mòn, trên lối cũ. Dự định cho hả, mơ mộng cho hả, vì họ biết rằng chỉ đến bấy nhiên đó rồi hết. Cuộc đời sẽ kéo họ lại đúng vào con đường bình nhật của họ. Anh chàng Hòa hẹn hò liến thoắng đó, dăm ngày nữa sẽ ngoan ngoãn đi bên cạnh vợ về thăm mụ thăm mệ ở Kim Long, Văn Xá. Anh chàng Hàm ham nhìn các cô đến nhân lộn cả điểm sẽ cặm cụi trên trang giấy viết thư cho vị hôn thê. Anh chàng Đổ nhanh nhẹn, anh chàng Thiện mơ màng rồi sẽ lao mình vào những tình yêu nơi thành phố nhỏ của họ, những tình yêu, đóa hoa và cũng là nấm độc của cuộc đời. Như một chuyến đò dọc đến bến nước nào cũng vui vẻ quyến luyến tưởng không thể dứt áo ra đi, nhưng khi đã đến một bến mới rồi thì quang cảnh nơi bến cũ chỉ còn mờ trong kỷ niệm. Cứ như thế, mỗi mùa thi đến làm xáo trộn tâm hồn của họ, trong 15 ngày; gặp gỡ mơ mộng, nhớ nhung, chia ly… Rồi sau đó, ngày tháng chồng chất lên ngày tháng, kỷ niệm bị phủ bụi ngày một dày thêm, cho đến hè năm sau những cuộc gặp gỡ khác, mơ mộng nhớ nhung ly biệt khác sẽ tiếp diễn, cũng sâu đậm, tha thiết, xót xa.

                    Tiếng loa phóng thanh mời hành khách ra phi đạo. Thu Hà xách chiếc giỏ đi cạnh Doãn. Mái tóc bồng trong gió. Màu áo tối làm cho vai nàng thêm mảnh. Doãn xót xa nghĩ: “Giã từ Thu Hà! Ngày này năm sau, cô còn đi cạnh tôi nữa đâu.”

                    #10
                      hai1957 24.11.2012 11:44:09 (permalink)
                      6. THẾ GIỚI CỦA NĂM NHIỀU



                      Không biết trong bảng tử vi của anh Năm Nhiều có phải “Mệnh thân có tử vị cư Mão Dậu gặp Kiếp Không” hay sao mà đời anh lại gắn liền quá mật thiết với sự cung kính dường đó. Phải chứng kiến sự sắp đặt quy mô của bàn thờ nhà anh mới thông cảm được phần nào sự an bài bất khả kháng của Hóa công. Nhà nhỏ lợp tranh đã cũ mèm, gần nát vụn ra và vách đất. Nền nện đất, nứt thủng ở nhiều chỗ. Hai cái cửa sổ lùa và một cửa ra vào bị mái che thấp xuống nên ánh sáng vào quá ít. Nhà thành ra tối hùm hụp suốt ngày. Tôi chưa hề nghe một ngọn gió nào thổi ngang qua đây nên ngồi trong nhà thì phải ngửi mùi hôi thối cố hữu của ngôi nhà, mùi hôi lưu lại từ ngày mẹ anh còn bán nước mắm, dầu lửa, dầu phộng, cốm kẹo, thuốc hút… Mùi hôi ấy như phát xuất từ nền nhà, từ xó kẹt ghế bàn, từ vách đất. Những bàn tay dính nước mắm, dính mồ hôi đã bôi quẹt qua lại lên vách nhiều lần trong nhiều năm, nên vách cứ láng bóng lên nhất là ở những chỗ thường qua lại. Cả gian nhà chính chỉ kê một bộ ván, còn bao nhiêu chỗ dành cho ghế thờ. Ghế lớn đặt ở dòng giữa. Một bộ lư đèn ngự ở đây, toàn bằng gỗ trắc đánh bóng lên nước. Trước ghế kê cái bàn. Ngày thường, đó là nơi đặt kỷ trà để tiếp khách. Đến ngày giỗ chạ thì trên sắp bày những xôi chè, canh thịt… Một cái ghế tương đối nhỏ hơn kê ở bên tay phải, sau bộ ván. Cũng lại một bộ lư đèn bằng gỗ. Trên đầu thêm một cái khám thờ ông táo. Hai mẹ con dường như chưa đồng ý về điểm này. Tính Năm Nhiều ít nói và hay nhường nhịn. Vả lại, ông Táo thì cũng đáng sợ như ông Địa nên anh chưa dám cả tiếng truất phế.

                      Thôi thì thờ ai cũng được. Hơn nữa, nhà có lắm trẻ nhỏ mà theo lời truyền thì ông Táo lại thích quở trẻ con, hay bắt chúng nóng vặt. Thấy mẹ và anh nhân nhượng nhau, chị Của em út của anh Năm Nhiều mượn ngay nơi đó để thờ “các đẳng”. Chị buôn bán dang, mây, hom nứa từ chợ Lùng chở về nên phải luôn luôn vái các đẳng phù hộ. Không có chỗ nào dành cho chị hết nên chị phải mượn tạm cái khám. Vả lại đặt vẻn vẹn một nải chuối và cắm một cây hương thì chỉ có chỗ ấy là tiện lợi hơn hết. Đã tránh được sự chỏn vẻn, trơ trọi mà được nơi kín đáo cần thiết cho nải chuối kịp chín. Đặt ở ghế dưới thì không yên được với lũ trẻ nhỏ. Chúng nó đòi ăn và có gan dám bẻ trộm lắm.

                      Khi đã đặt vấn đề chiếm hữu nơi cái khám thì lẽ tất nhiên là hai dòng bàn thờ cũng phải quy định thuộc phần ai. Mẹ anh phụ trách việc cúng kính từ hồi cha anh mất. Lúc bấy giờ anh mới lên năm. Tính bà xuề xòa nên bà nghĩ rằng ai cũng xuề xòa như bà, kể cả các vị tổ tiên khuất mặt cũng vậy. Thành ra dù giỗ ông nội, bà nội, ông cố, bà cố hay cha Năm Nhiều, bà cũng chỉ sắp đồ cúng ở bàn thờ lớn. Vừa rộng rãi, vừa dễ đi lại. Bàn thờ nhỏ do đó mà chịu ế sốt cả thời kỳ bà cầm quyền. Kịp đến khi Năm Nhiều thay bà giữ quyền tế tục thì Năm Nhiều tổ chức có lề lối hơn. Bàn thờ nhỏ dành riêng cho cha anh. Bàn thờ lớn dành cho tất cả các vị tổ tiên khác. Để phòng ngừa mẹ lộn xộn, anh lấy khuôn hình của cha anh vốn treo trên vách đem dựng vĩnh viễn trên ghế nhỏ. Hình chụp cha anh đội mũ chào mào, áo quần lính tập thắt nịt da to và bắp chân quấn xà cạp. Để tỏ sự tột độ nghiêm trang, ông cụ giơ tay mặt lên ngang trán chào theo kiểu nhà binh.

                      Ông cụ đi lính mộ và hình như chết ở Mac xây, bên Pháp (chi tiết này tôi nghe cha tôi kể lại). Mẹ Năm Nhiều thì chỉ nhớ chắc chắn là ông cụ chết ở bên Tây, còn địa danh đích xác thì cứ vài năm bà lại đổi một lần. Trí nhớ của bà không được mẫn nhuệ. Ngay cái tên làng Định Trung, ấp Phong Nhiêu là nơi bà sống trên năm mươi năm rồi mà đố bà có nhớ nỗi. Ai hỏi bà ở đâu thì chắc chắn là bà chỉ trả lời được rằng “Ở Soi giữa”. Vậy thì cứ chừng vài năm ông cụ Năm Nhiều lại phải vì bà mà thay đổi chỗ chết một lần. Ban đầu thì đúng là Mac xây rồi, rồi Mặt xây, rồi Xây mặt… cho đến một hồi nào đó sáng kiến của người chinh phụ này cùn đi, năng lực biến chế của bà cạn đi và bà nói liều: “Chẳng biết chết ở cái xứ Xây xây gì đó. Có cái hình của ổng kia kìa”. Cái hình ấy nay đã vàng và bong đi mất nhiều mảng ở quanh rìa. Và theo sự phối trí mới của Năm Nhiều thì bây giờ nó được ngự trị trên bàn nhỏ. Quả tình Năm Nhiều có năng lực tổ chức thật. Mọi sự cúng kính được điều hành có trật tự, ngoại trừ cái khám còn đang ở dưới chế độ cộng đồng tương đối bất ổn.

                      Vừa hoàn thành tổ chức quản trị mới thì Tết đến . Đây là dịp thử thách tài của Năm Nhiều. Ngày 24 tháng chạp sau khi sang dẫy mả giùm cho nhà tôi xong, anh vay mẹ tôi hai giạ nếp và năm mươi đồng. Hẹn sang mùa tháng ba trả. Hăm chín tháng chạp nhằm chợ Phiên Thành, anh mua vác về một tấm bức thờ bằng giấy trên viết một chữ thọ thật to ở giữa và hai bên viết hai câu đối. Bức đó để treo trên vách nơi bàn thờ tổ tiên. Bốn bức khác nhỏ hơn vẽ hình chim hạc, chim phượng, hoa sen, hoa mẫu đơn.. treo ở bàn thờ cha anh. Với mấy bức vẽ màu chói chang lòe loẹt, ngôi nhà anh sáng hẳn ra tươi vui như có hội. Mấy đứa cháu, con chị Của cứ thập thò đứng nhìn làm quẩn cả chân anh.

                      Khi cắm những cành bông điệp vào lọ độc bình, bông điệp hai màu vàng và đỏ, anh xin ở nhà Trùm Diếc, thì anh vừa lẩm bẩm trong miệng “Đông hoa, Tây quả…”. Đông hoa, Tây quả thì tôi hiểu rồi. Đã có lần anh giảng cho tôi nghe rằng cái lọ cắm hoa và cái cỗ bồng sắp chuối không phải muốn đặt ở chỗ nào trên bàn thờ cũng được, mà đã có kinh điển quy định rồi. Lọ hoa thì phải đặt ở hướng Đông và cỗ bồng chuối thì ở hướng Tây. Hỏi: còn “Đông bình Tây hộp hương” nghĩa là sao thì anh đánh trống lãng không trả lời. Tôi thật không ngờ việc xếp mấy món đồ thờ nói chi đến việc tế tự to lớn mà cũng khó khăn bí hiểm đến có thể làm cho Năm Nhiều lúng túng. Đã vậy mà lại không có một quyển tự điển nào về nghi lễ để tra cứu, nên trên bàn thờ của Năm Nhiều đành thiếu một bình và một hộp hương. Tuy vậy, tôi cho rằng anh đã cố ý đền bù chỗ thiếu sót này bằng một cỗ bồng rất đỗi phong phú, xếp đến bốn, năm tầng nải chuối, hai tầng trái quýt, một trái bưởi to và mấy chùm mận, thế mà vẫn giữ được thăng bằng, kể cũng đã khéo tay.

                      Tối 30 và ngày mùng một, mùng hai, bàn thờ đầy ắp những lễ vật, đèn nến sáng choang. Cái khoảng trống còn lại trước dãy ghế, đầy những người: bà mẹ Năm Nhiều, Năm Nhiều, chị Của và bốn đứa con chị Của. May mà Năm Nhiều chưa lấy vợ nên trong cái khoảng hẹp ấy còn có chỗ để tránh nhau. Tôi thấy không khí nơi đây quả thật là ấm cúng đặc biệt. Mà nào có cần phải đẹp đẽ sang trọng? Mẹ anh thì già lẩm cẩm, gầy mỏng như cái lá sả và đôi mắt lèm nhèm. Một cái miệng quá rộng trên khuôn mặt quá dài. Miệng đó không phải là dấu hiệu của sự hòa mục. Chị Của thì lùn và đen. Đôi con mắt nhỏ, loại tinh ranh vặt. Mấy đứa con của chị thì mặt mũi chẳng mấy khi sạch sẽ. Ngoại trừ con Lượm tám tuổi có đủ áo quần, còn thì thằng Khá sáu tuổi, con Khen năm tuổi, con Mùi hai tuổi đều chỉ mặc một cái áo còn quần thì mẹ chúng hẹn để sang năm. Đó là vào những ngày tự ngày Tết, những ngày lạnh mùa đông. Còn thì quanh năm, ba đứa ở trần như ba con heo nhỏ.

                      Sự lẩn quẩn của từng ấy người trong khoảng quá hẹp, dù vậy, vẫn không bực mình ông thầy tế tự là Năm Nhiều. Một người cậu nào khác sẽ ghét hết sức bốn đứa nhỏ đang lườm lườm hoặc lén lút nhìn mấy dĩa thức ăn bày trên bàn. Chúng không có kỹ thuật ngụy trang nên sự thèm ăn được biểu hiện một cách lộ liễu, có thể gọi là trắng trợn nữa. Năm Nhiều làm như không để ý đến sự biểu diễn khiếm nhã đó. Anh xoa đầu một đứa và cất giọng ôn tồn nói:

                      - Đi xuống dưới chơi. Đừng có hỗn. Để lát nữa dọn xuống đã.

                      Đứa bé được xoa đầu lặp lại lời anh, rủ ba đứa kia cùng đi xuống, nhưng rốt cục chẳng đứa nào đi xuống hết. Và thế là cả bảy người lại lộn vào trong cái khoảng hẹp.

                      Đã nhiều lần tôi đứng ở cửa sổ nhìn vào cái khung cảnh ấm áp bề bộn đó và tôi so sánh với nhà tôi. Nhà tôi quá rộng có từng ngăn từng phòng thành ra dù trên bàn thờ có chưng bộ tam sơn ngũ sự đồ sộ, đèn nến sáng choang, hương trầm nghi ngút mà tôi vẫn cảm thấy lạnh lẽo trang nghiêm làm sao. Ngày Tết, mẹ tôi mua sắm bận rộn đủ thứ nhưng vì thứ nào cũng có chỗ cất dọn ngăn nắp thành ra tôi vẫn không thấy vui mắt bằng căn nhà của Năm Nhiều. Ơû nhà anh thấy thứ gì cũng bày trong một khoảng hẹp. Có bao nhiêu mứt, bao nhiêu cốm, bánh in, mấy thẩu dưa món, mấy đòn bánh tét là biết hết. Ngồi đánh tam cúc chơi mà mắt vẫn có thể lượn trên những miếng mứt bí dày cộm đường, trên những miếng nhân thịt của đòn bánh tét đang cắt dở. Mắt no những màu sắc, tai no những âm thanh, mũi no những hương vị, quả cái tiểu thế giới của anh có nhiều sức hấp dẫn thiệt. Mà không chỉ ngày Tết mới vậy. Quanh năm, hình như không lúc nào là nhà không có khách. Khách tầm thường thôi và là những người ở quanh quẩn gần nhà anh. Chẳng là bình trà nhà anh luôn có bỏ trà ngon và những người khách kia chiếu cố đến bình trà nhiều hơn đến anh. Ngoài những chén trà đầu do anh mời còn thì những chén trà sau đều do khách tự tay rót lấy. Họ chọn những lúc nào anh nói chuyện hăng hái nhất và họ đã tán thành một cách nồng nhiệt nhất. Lúc bấy giờ chủ khách đều hỉ hả thông cảm với nhau, và làm như vô tình, tay họ nghiêng cái bình cho người trà lặng lẽ chảy vào tách. Thật tội nghiệp, những người bạn nghèo của Năm Nhiều! anh không giàu gì hơn họ, nhưng được cái anh không so đo. Có đường, có kẹo, có chuối anh mời mọc thiệt tình. Riêng phần anh, anh luôn luôn nhịn miệng đãi khách. Chỉ khổ cho bà mẹ anh khát nước, lại cầm bình lên thấy nhẹ bỗng. Thế là bà nổi tam bành.

                      - Đồ quỷ ! Uống cái gì mà cạn ráo không còn để phần cho ai một giọt. Uống gì mà như rồng hút nước. Cũng phải biết…

                      Câu chửi, dù nhẹ nhàng cũng bị Năm Nhiều cắt ngang. Anh chỉ xịu mặt bung ra năm tiếng “Bà này thiệt… sao mà..” thế là bà cụ im. La lắm chỉ tổ khát mà bà thì có tật không uống được nước lạnh.

                      Những bữa có giỗ thì nhà Năm Nhiều tấp nập khỏi phải nói. Anh lục đục nấu nướng đầu tắt mặt tối cho dù nhà anh có dư đàn bà để lo việc ấy. Một người chị lấy chồng ở mãi Thái Long dẫn về ba đứa con. Một người em lấy chồng ở xóm Đường dẫn về bốn đứa. Một đứa cháu gái rọi bằng cậu lấy chồng ở Xuân Đài cũng cố nách hai đứa con về. Cộng với mẹ anh và nhà chị Của thì quả nhà này dư đàn bà để làm một bữa cỗ linh đình. Nhưng họ chỉ được sai bảo vặt. Việc nấu nước, xắt thịt, đơm dĩa, anh đều tự đảm nhiệm hết. Xong, lại cũng chính anh lo sắp dọn bàn. Rồi rửa mặt thay áo dài, đội khăn, anh châm hương, châm đèn đứng lầm thầm khấn vái. Về điểm này, anh có khác mẹ anh. Bà cụ thì khấn to như đang nói chuyện với khách. Mà bà cụ nói chuyện thật. Lúc giỗ chồng thì bà kể lể những hồi ông ra đi binh cách “Anh ra đi, thong thả hơn tui ở nhà. Một mình nuôi bốn đứa con nhỏ. Thằng Nhiều thì ghẻ chốc. Dán hết mụn này trổ sang mụn khác. Con Của thì đái dầm. Hết đứa này ấm đầu tới đứa khác ỉa chảy… Cửa nhà đơn chiếc, mời hương hồn anh về uống chén rượu, ăn miếng chả….”

                      Năm Nhiều nghe đến đoạn mình bị ghẻ chốc mà cảm thấy thương mẹ. Mấy đứa con chị Của nghe hồi nhỏ mẹ chúng đái dầm thì cười rộ lên. Bà cụ đang khấn cũng cười theo rồi xì mũi và lau nước mắt. Năm nào đến ngày giỗ là cụ cũng kể lể thuộc lòng từng đoạn như vậy khiến Năm Nhiều thấy mình như nhỏ lại. Tuy khấn khứa lẩm cẩm vậy nhưng cũng phải công nhận giữa bà và người chết có sự cảm thông mật thiết…

                      Đến bữa cúng “các đẳng” thì bà cụ quả có nhiều trí tưởng tượng. Bà mời “…những vị chết sông chết suối, chết lửa chết củi, chết chém, chết đâm, chết đường, chết sá, chết gió, chết máy, quá giang chìm đò, đẻ rơi bóp mũi, ăn mày xó chợ…” Những năm sau này khi đường ô tô chạy qua đầu xóm và con đường xe lửa băng qua cánh đồng Chí Đức thì bà thêm một số nạn nhân nữa: “… những người xe cán dẹp mình, tàu nghiến đứt ruột, những người sẩy chân lọt xuống đường rầy, những người...”. Số người thụ hưởng thật quá nhiều đối với một mâm cháo, con gà bằng bắp tay và một nải chuối còn xanh.

                      Năm Nhiều khấn nhỏ hơn với một vẻ mặt nghiêm trang hơn. Thật đúng là cái dáng dấp khả kính của một ông thầy tế tự biết tự trọng. Anh lim di đôi mắt và hai bàn tay kẹp một nắm hương lớn để ngang trán rất lâu. Lũ cháu tỏ dáng sợ hãi len lén nhìn cái tư thế trầm mặc ấy của cậu chúng rồi lảng bỏ xuống bếp. Ừ mà thật vậy, vẻ mặt của Năm Nhiều chỉ có giá trị khi Năm Nhiều nghiêm trang trong ánh nến và khói hương. Bình thường, đó chỉ là một cái mặt bèn bẹt với đôi mắt nhỏ và cái mũi hếch. Nước da mái mái, da nơi hai gò má bóng lên một cách vô duyên. Răng lại mọc khập khễnh, mọc thành đôi ba hàng lộn xộn. Cái khuôn mặt ấy nói cười đều không gây niềm kính nể.

                      Tại sao Năm Nhiều lại có duyên với sự cúng bái làm vậy, đó là câu hỏi tôi đã đặt ra từ lâu. Lúc tôi còn nhỏ, anh được mẹ tôi cậy đến ở nhà bế tôi. Khi tôi biết chạy chơi thì anh chuyên lấy đất sét nắn hình long đình, bộ lư, đỉnh, cây đèn. Anh hái những trái mảnh bát già, cắm bốn cọng nhang ngắn vào giả làm con heo. Anh cắt ngang cổ trái mảnh bát rồi bày riêng ra làm đầu heo (ruộng mảnh bát già màu đỏ như máu). Anh lấy những lon, những khay bày một hàng trước bàn thờ giả rồi gõ nhịp lên rồi tụng niệm ê a. Anh bắt tôi chắp tay vái lạy. Thế là tôi học tiếp xúc với thần linh do sự môi giới của anh Năm Nhiều vậy.

                      Ngày nào anh cũng bày cỗ cúng một vài lần. Khi có đông lũ trẻ nhỏ đến chơi thì anh tổ chức thành đám rước. Đứa thì thổi kèn, những cái kèn cuộn bằng lá chuối, đứa thì đánh trống đánh chiêng bằng miệng, nhưng tuy bằng miệng mà vẫn có trật tự, tiếng bầm, tiếng beng xeng nhau. Anh Năm Nhiều làm tổng chỉ huy. Mẹ anh mỗi lần gặp thấy anh cao lêu nghêu đi “rước sắc” giữa bầy trẻ con còn ở truồng như vậy là bà chửi liền:

                      - Mồ tổ mày, to đầu mà còn chơi chuyện con nít. Mày coi, mày đã cao bằng cây cau kia rồi.

                      Và thế là đám rước rối loạn hàng ngũ, trống chiêng bỏ chạy hết.

                      Sau đó, anh thôi không cúng giả nữa mà anh vái ông Táo, ông Địa thật, với đồ cúng thật. Mỗi khi quên đóng chuồng gà để gà đi lạc, sợ cha tôi rầy, mỗi khi đánh mẹ, đánh lú bị thua liểng xiểng là anh mua một cái bánh nướng và một miếng đường để vái ông Địa. Không dám đốt đèn sáp sợ tỏ ra quá lễ mễ, anh chỉ đốt một cây đèn hột vịt nhỏ. Cũng không dám đốt hương nữa vì sợ mẹ anh bắt hơi mùi hương mà lên hỏi lôi thôi. Sự cúng vái do đó mang tính chất du kích, nghĩa là nếu nghe tiếng guốc của mẹ anh lẹt xẹt đi lên thì anh thổi phụt ngay ngọn đèn, thế là xong. Cái bánh tráng và miếng đường trở lại vị trí cũ là món ăn xoàng xĩnh ngang tầm của anh, mẹ anh không có cớ gì để nghi ngờ nữa. Nhưng phải đợi đến năm anh chấp chưởng quyền gia trưởng thay mẹ thì năng khiếu cúng bái của anh mới phát triển toàn vẹn. Thôi thì nhà anh cứ phảng phất mùi khói hương quanh năm. Anh giỗ cha, ông nội, bà nội, ông cố, bà cố. Anh giỗ ông chú bà thím, cô Hai, cô Ba là những người tuyệt tự. Anh giỗ ông ngoại, bà ngoại, vì lòng hiếu với mẹ. Ngày rằm, mùng một, ngày vía Phật, ngày vía Quan Thánh.. anh nhớ không sót. Nếu không vì nghèo thì tôi chắc cái gian giữa nhà anh phải là nơi gặp gỡ của còn nhiều các vị thần linh nữa. Gặp trường hợp nào anh cũng kêu cầu sự phù hộ

                      Nhưng bảo rằng sự cung kính thái quá của anh là một lối hối lộ thần linh thì sợ có oan cho anh không? Chớ riêng tôi thấy thì hình như sự nghiêm trang xuýt xoa của anh là một thái độ hạ mình để kêu gọi lòng trắc ẩn. Trong khi cúng vái, tôi thấy anh hay hít mũi mà không hề nghe có tiếng nước mũi chạy lên. Như vậy, thì sự hít mũi đúng là một lối trang bị hơn là một sự cần thiết sinh lý. Anh muốn nhún mình, hạ mình, muốn tỏ rằng mình khổ, mình cần sự giúp đỡ che chở. Những người khổ, những người muốn chứng tỏ rằng mình khổ đều có những phép trang bị tương tự. Chẳng hạn họ cố ý đi khòm lưng xuống. Chẳng hạn họ hay thở dài. Chẳng hạn họ hay thốt ra những thán từ tỏ sự ngạc nhiên, sự sợ hãi: “Trời ơi! Trời ơi! Mô Phật! Chúa ơi!”

                      Đúng là Năm Nhiều đang đi trên con đường xây dựng mặc cảm đó. Tôi có thể chứng minh điều này bằng lối bẻ bánh tráng của anh. Số là mỗi lần có cúng giỗ thì cỗ đầu tiên, cỗ ngon nhất anh dùng để mời khách. Khách đó trước tiên là cha tôi mà anh nài nỉ hết sức để mời đến cho được. Thứ đến là ông xã Tám, một người hào phú đương kim lý trưởng. Rồi đến hương kiểm Bán và câu Hai Dần. Tôi cũng được anh và mẹ anh trì kéo cho vào ngồi chung bàn “vì cảm tình riêng”, anh nói. Ngồi ăn như vậy, tôi đóng vai trẻ con hay nhìn người lớn khề khà uống rượu. Tôi mới để ý đến tia mắt khinh bỉ mà ông xã Tám dành cho câu Dần. Nhiều câu nói của câu Dần, ông xã làm như lảng tai không nghe, để không trả lời. Yù ông xã chê câu Dần chức vị quá nhỏ không xứng được chung bàn với ông. Thực tế thì quả có như vậy. Ơû trong thôn xóm, trừ những người u mê thậm tệ, còn thì ai cũng được nhận một chức vị nhỏ. Chẳng lẽ trong suốt một đời người mà không có dịp nào sao. Những chức câu, trùm, kim tri.. đâu phải món hàng có nhiều người đầu cơ mà trái lại, thừa thãi ra đó, ai muốn xin lãnh cũng được. Vậy mỗi người sẽ đến lượt mình. Câu Dần, trùm Sáu, kim Hai đã thay hẳn những cái tên riêng. Nhưng mặc dù vậy, cho đến ba mươi mấy tuổi, anh Năm Nhiều vẫn chỉ là Năm Nhiều chớ không hề được gọi là trùm Năm, câu Năm.. và do đó mới xảy ra việc nể nang một ông câu thư như câu Dần mà ông xã Tám, xem là thái quá.

                      Khi bữa ăn giỗ bắt đầu, anh Năm cầm những cái bánh tráng nướng để bẻ. Nhưng thay vì bẻ trên tay, anh lại để bánh tráng trên đầu. Hai tay anh kéo hai bờ vành bánh xuống cho bánh bể một tiếng gọn trong khi cổ anh rụt xuống. Thái độ khúm núm này chắc là làm vui lòng cha tôi và ông xã Tám lắm. Nhưng giá anh Năm đừng lặp lại cử chỉ ấy với cái bánh tráng đặt trước mặt câu Dần. Khi rót rượu, anh cũng lễ độ đúng mực. Tay mặt cầm bình rượu chúc xuống, còn tay trái vòng ngang để giữ vạt áo dài.

                      Những năm chiến tranh, Năm Nhiều làm không đủ ăn, nhưng trong cảnh nghèo, anh vẫn không bớt mẫn cán trong việc tế tự. Tội thân anh, đã phải chạy đồ cúng một cách chật vật mà nhiều khi còn phải che giấu bớt sự cúng kính quá thường xuyên của mình. Trong khi xung quanh ai nấy phải khó khăn lắm trong sự sinh sống mà mình cứ thắp hương một cách thừa thãi thì quả là vô ý thức. Vả lại lúc bấy giờ còn có phong trào bài trừ mê tín, nên anh cần phải thận trọng nhiều lắm. Nhớ có lần toàn huyện thi đua bắt chuột, bảo vệ mùa màng, ai nấy mang cuốc xẻng ra đồng đào hang chuột, mang rơm un khói chuột, mang chó theo săn chuột, mang lưới căng bẫy chuột, thế mà riêng Năm Nhiều thì biện một mâm cỗ lén mang ra miếng ruộng nhà để cúng vái ông Tý. Thì ra anh Năm quan niệm rằng mọi sự vật trên đời này đều có một sự cảm thông huyền bí với nhau, kể cả những việc nhỏ nhất. Mỗi gốc cây, mỗi phiến đá cũng có thần linh trong đó. Chớ sao? Trong khắp xóm chỗ này chỗ kia người ta vẽ những hình tượng và bùa chú lên mặt những viên đá để trấn áp những góc rào. Những thanh tre cũng được bôi vôi trắng và vẽ bùa chú lên để đặt trên sườn nhà. Hèn chi anh chẳng lúc nào chẳng trầm tư. Dễ thường anh đang lắng nghe tiếng nói thần linh của mọi vật xung quanh anh. Những đêm tối trời, anh ngồi chơi với tôi mà thấy một vì sao đổi ngôi là anh im lặng cắt đứt câu chuyện. Sau đó anh thì thầm nói:

                      - “Bà” mới bay. Chắc “bà” bay về miếu.

                      Bà nào, tên gì, anh không trả lời được, nhưng nhất định là “bà” vừa bay. Bình vôi cũ, ông táo bể, anh xếp cẩn thận ở gốc mít và cấm ngặt lũ cháu không cho đến gần. Rồi hễ đứa nào ấm đầu, đi tướt là anh đổ riệt rằng nó đã quấy phá ông táo và ông bình vôi. Đứa cháu có cam đoan mười mươi là không bao giờ bước đến đó cũng không tin. Lập tức một lễ nhỏ được bày biện ra và anh xuýt xoa tạ lỗi.

                      Ngày tôi lên bảy tuổi, mẹ tôi sắp đặt cho tôi đi học A.B.C. Anh Năm Nhiều tỏ ra xao xuyến hết sức đối với cái giây phút long trọng mà tâm hồn tôi sắp giã từ những vật tầm thường xung quanh mình để tiếp xúc với cái cao siêu của chữ nghĩa. Anh trầm ngâm hỏi mẹ tôi:

                      - Cô định bữa nào cúng khai tâm cho thằng Thiết?

                      Mẹ tôi ngạc nhiên quay lại hỏi:

                      - Cũng phải cúng khai tâm nữa sao?

                      - Có chớ. Nó bắt đầu đi học thì phải cúng khai tâm cho nó.

                      - Cô tưởng ngày xưa đi học chữ Nho thì mới cúng khai tâm, chớ thời bây giờ học chữ quốc ngữ thì có thần thánh đâu mà phải cúng?

                      - Xưa nay gì cũng vậy. Phàm đã có chữ nghĩa thì có thánh, không có thánh thì lấy ai bày ra chữ nghĩa. Phải cúng khai tâm thì mới sáng dạ, học mau thuộc. Mẹ tôi lưỡng lự một lát rồi nói:

                      - Ừ thôi thì cúng cũng được. Mà cúng món gì bây giờ?

                      - Cô đưa tiền con đi kiếm mua một con gà cồ trắng, thứ gà non chưa hề đạp mái. Phải đi chợ Đèo mới có nhiều gà mà lựa. Rồi cô nấu một nồi xôi.

                      Mẹ tôi y theo lời anh và anh bươn bả đi tìm mua về được một con gà cồ trắng thiệt. Quả là một thành tích hy hữu đáng phục, vì gà cồ trắng không phải là một vật dễ tìm. Anh sung sướng ra mặt khi về khoe với mẹ tôi:

                      - Con đi rảo suốt cả chợ mà không tìm ra gà trắng. Chỉ có gà cồ chuối thôi. Con định mua đỡ một con gà cồ chuối thì may thay có bà đem tới con gà này.

                      Vừa nói anh vừa vuốt ve cái mào mới nhú đỏ chóe của con gà và con gà ngây thơ nhắm con mắt lại, sung sướng và tin cậy nơi anh.

                      Tối hôm trước ngày ra trường là buổi cúng khai tâm. Con gà luộc nằm trong cái dĩa lớn ngửng mặt nhìn trời. Mình nó vàng bóng loáng những mỡ. Hai bên là hai dĩa xôi trắng. Anh Năm tắm cho tôi, rồi bắt mặc quần áo mới. Anh đẩy tôi lại gần con gà, nơi cha tôi đang đứng lầm rầm khấn. Cha tôi vốn không nhiệt thành mấy về điểm cúng bái, nhất là đối với môn cúng khai tâm này, nên ông để yên cho Năm Nhiều ra lệnh bắt tôi lạy ba lạy. Tôi hồi hộp làm đầy đủ nghi thức, nhưng mỗi khi quỳ xuống đứng lên, mắt đăm đăm nhìn vào con gà là lòng thắc mắc tự hỏi không biết con gà kia có quan hệ gì đến chữ quốc ngữ mà mình sắp đi học. Khi con gà được dọn xuống thì cũng chính Năm Nhiều ra lệnh cho tôi phải ăn cái đầu gà. Anh ngồi nhìn tôi ăn với một vẻ vừa sung sướng vừa cung kính, khiến tôi áy náy mà quên mất rằng mình đang ăn thịt gà. Có lẽ lúc ấy tôi tưởng rằng tôi đang làm một nghi lễ gì nghiêm trang, hệ trọng lắm, còn anh thì chắc anh đang hài lòng vì nghĩ đến một ngày kia tôi sẽ học hành thông minh, kết quả của bao công phu của anh: tìm gà cồ trắng, bắt lạy, bắt ăn đầu gà.

                      Một người sống quá khăng khít với những linh hồn của tổ tiên, của thánh thần, của đủ loại ma quỷ như vậy, chắc chắn là rất kém trong việc làm ăn thực tế. Anh nghèo luôn luôn và mắc nợ mẹ tôi không biết mấy lớp. Đối với đàn bà con gái, anh cũng không thành công gì hơn. Dù là con gái nhà quê, người ta cũng muốn có một ông chồng lanh lẹ thực tế. Chớ ngồi nói chuyện tâm tình với một người quá lễ mễ mà đôi tay lúc nào cũng nhu chuẩn bị kẹp bó nhang hay vừa giữ vạ áo vừa rót rượu thì chán chết. Cũng như đôi mắt, bàn tay là tiếng nói của ái tình. Thế mà bàn tay của Năm Nhiều thì đúng là bàn tay câm. Thành ra cho đến bốn mươi tuổi vẫn chưa có một người đàn bà nào. Thật ra thì nói như vậy cũng chưa thật hoàn toàn đúng. Hình như anh đã có yêu một người: đó là chị Gần. Chị Gần không đẹp, nhưng mặt mày cũng dễ coi. Có điều cặp môi hơi dày. Cái kho ca dao tục ngữ là mẹ anh đã vô tình sớt cho anh một mớ kinh nghiệm về tướng người, than ôi, lại nhằm điểm bất lợi của chị Gần.

                      Mỏng môi nói láo đã xong.
                      Dày môi ăn vụng, môi cong ăn hàng.


                      Nhưng nghèo như anh mà lại không đẹp trai thì anh không mong gặp một cô hằng nga. Vậy chắc là anh đã chọn chị Gần. Chị là bạn thân của chị Của, cùng đi về một chợ, cùng ngồi một chỗ nhỏ to bàn tính tiền công, giá cả, hàng giờ ở ngạch cửa nhà anh. Cứ cách một ngày là có chị bên cạnh chị Của. Mỗi lần đứng gần chị, anh hay đưa tay vuốt tóc, những sợi tóc cứng đứng sừng sững bướng bỉnh. Đó là lối làm dáng độc nhất của anh, biểu lộ một sự bối rối mực thước. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa đẩy vài câu chuyện nhưng mà khó nhọc biết bao! Anh phải đằng hắng nhiều lần để nuốt một miếng đờm tưởng tượng nào đó rồi mới nói được những câu rất đỗi vô duyên.

                      - Chị Gần… à… à.. cúng mồng năm có lớn không?

                      Chị Gần cũng không hoạt bát gì hơn. Đôi môi dày chuyển động một cách chậm chạp. Thành ra hai người sắp sửa thành tình nhân ấy chỉ còn biết chăm chăm nhìn xuống hai bàn chân của mình như chưa bao giờ thấy chúng. Sự tỏ tình mặc dầu đạm bạc, gần như tiêu cực đó, cũng không lọt khỏi mắt người anh rể của chị Gần. Người anh rể này bấy lâu đã ngầm coi chị như người vợ dự khuyết của anh ta. Vợ anh đau ốm hom hem, nên anh phải lo xa một cách phũ phàng như vậy. Nhưng từ ngày chị Gần tới nhà Năm Nhiều hơi nhiều, thường xuyên và với những lý do không chính đáng lắm thì anh khởi sự lo. Anh thấy phải vội vàng thực hiện cái ý định của anh. Anh bắt đầu chửi vợ. Để sự chửi bới không trở thành trắng trợn, để đỡ ngượng với hàng xóm, anh uống rượu trước khi chửi. Chửi vợ chán, anh chửi luôn em vợ và mẹ vợ. Cuối cùng, không biết bằng cách dàn xếp nào mà chị đã trở thành vợ anh ta. Thế là chai rượu và cái ly không còn cần thiết nữa. Chỉ có tiếng chửi là vẫn còn, nhưng lần này lại là tiếng chửi the thé, nhọc mệt, tiếng rủa kèm theo tiếng khóc của vợ anh. Chị chửi chồng, chửi em gái mình. Chị chửi trời, chửi đất. Cho đến một buổi tối kia, chị Gần cuốn áo quần đi mất biệt. Ở lại cái xóm nghèo nàn này có hai người đàn ông đau khổ vì chị: người anh rể và Năm Nhiều.

                      Năm Nhiều có buồn không, buồn bao nhiêu lâu thì không ai biết. Vì có bao giờ anh vui vẻ đâu? Anh lúc nào cũng mơ mơ màng màng, đi dưới đất mà tưởng chừng như đang bay theo các “bà” ở giữa không trung. Chỉ biết là từ ngày đó anh hay ngồi tẩn mẩn hàng giờ trước chiếc gương soi, có lẽ để tìm xem vì những khuyết điểm nào ở trên mặt mình mà mình phải chịu một sự thất bại lớn về tình ái dường ấy.

                      Thói thường thì khi nhìn vào gương người nào cũng thấy mình không đến nỗi xấu. Chỉ có khuôn mặt phản chiếu ra thấy hơi là lạ, ngường ngượng là vì trên thực tế mình chưa hề gặp một con người như vậy lần nào. Đôi mắt anh quả có nhỏ thật đó nhưng nhìn vào gương thì tự nhiên anh phải mở to mắt rồi. Đôi hàm răng có vụng về đó, nhưng có bao giờ người ta há miệng để soi gương đâu mà biết? cái mũi, đôi mày gò má đều được anh soát xét cẩn thận nhưng vì ranh giới mơ hồ nên anh rất yên tâm mà thấy mình cũng “ngó được”

                      Qua những lần thám hiểm như vậy, anh mới có dịp để ý đến những mụn tàn nhang có rất nhiều trên mặt mình. Anh dùng hai ngón tay cái để nặn và cái mụn trồi ra chầm chậm, dễ dàng, đúng lúc, như chính nó cũng cùng chia sự thích thú với anh. Đầu mụn mang một vết thâm đen. Chính những vết thâm này làm từng chấm trên khuôn mặt. Khi nặn xong một mụn thì chỗ cái mụn vừa ly khai có một lỗ chân kim nhỏ màu hồng, trông đẹp hơn cái chấm đen trước nhiều. Đến đây, một sự hối tiếc lặng lẽ gặm nhấm tâm hồn anh. Anh tự trách mình đã bỏ qua bao nhiêu năm mà không hề để ý đến những vết mụn thù nghịch kia. Bây giờ đã có quá nhiều mụn đã già rồi, vết đầu đen đã nhẵn sát xuống da mặt, khiến trên khuôn mặt rải rác như có rắc những hột mè đen hay những hột hoa mồng gà. Ái tình đến quá chậm nên mới có những sự bất lợi như vậy. Khi yêu người ta mới hay làm dáng. Năm Nhiều thì vừa chậm yêu vừa ý thức sự làm dáng quá chậm chạp. Ít ai như anh, thất bại trong tình trường rồi mới chợt để ý đến những mụn tàn nhang.

                      Từ lúc phát kiến ra cái lối làm đẹp không tốn kém mà khéo gây thích thú này, Năm Nhiều có khi ngồi suốt giờ cạnh chiếc gương soi, chơi một mình với những mụn tàn nhang. Những khi bạn đến chơi nhà, anh không ham nói chuyện như trước mà chỉ thích tìm những mụn tàn nhang nơi mặt bạn. Có khi anh bắt người bạn xoay mặt đủ chiều để anh tìm vết mụn. Vì trong nhà tối nên anh kéo bạn ra ngồi ở cạnh cửa, nơi đó dưới ánh sáng của mặt trời, những cái mụn sẽ không lẩn trốn đi đâu được. Rồi với đôi ngón tay thành thạo, anh đã nặn vết mụn ra, sau khi tám ngón tay còn lại kẹp cứng khuôn mặt của người bạn để không cựa quậy được. Sự say mê ma quái này làm khổ những người bạn của anh không ít. Đôi khi những người bạn này la “ái” lên, nước mắt ràn rụa, nhưng anh cũng không tha. Anh phải suỵt suỵt nho nhỏ: “Im, im sắp ra rồi”, làm như nếu nói to thì cái mụn sẽ nghe được và nó sẽ chạy trốn mất.

                      Nhưng số lượng những cái mụn có thể nặn được thì có hạn mà sự say mê của anh thì khôn cùng, nên khi những cái mụn đã hết rồi thì anh lại rơi vào sự im lặng cô đơn. Anh đành phải rời bỏ khuôn mặt mình mà đưa mắt chậm chạp, uể oải nhìn xung quanh. Đúng vào lúc ấy, anh thấy chị Ba Răng Vàng. Chị này ở Tuy Hòa tản cư ra. Ngoài ba cái răng cửa bọc vàng tây, chị có hai con mắt sắc hay liếc và một cái miệng hay nói hay cười. Đôi hàng lông mày in rành rành vết dao cạo xén và môi có bôi một lớp son đỏ lợt. Tóc bới vồng lên, ở trước như hai cái sừng mới nhú và trên mái tóc mang rất nhiều kẹp. Lọn tóc bới lỏng bỏ rơi xuống dưới ót trông tựa cái bụng của một con tò vò. Vóc người chị thon nên khi đi, đôi tay đưa đẩy dịu dàng, một sự dịu dàng dường như cố ý, có sắp đặt trước. Tất cả đều trái hẳn với chị Gần chậm chạp nặng nề. Chị Ba Răng Vàng ở trọ nhà ông Cống, cách nhà Năm Nhiều chừng vài trăm thước. Chị bán xôi chè và cơm rượu. Miệng con nhà buôn gặp ai cũng mời cười, nhưng Năm Nhiều ngây thơ cứ tưởng nụ cười đó, nhất là con mắt liếc chỉ dành cho anh. Thành ra anh hăng hái tuyên bố rằng anh đã ghiền món chè “bột lọc bọc đậu phộng” của chị. Những bữa ế hàng, nồi chè còn đầy thì chị Ba càng phung phí mắt liếc và nụ cười với anh. Chị dám nắm tay anh mà kéo - bàn tay tinh khiết chỉ quen cầm nắm nhang - bắt lại ngồi ăn giùm cho chị một chén chè. Anh đau khổ từ chối, bảo rằng không có tiền thì chị cuời:

                      - Ăn đi rồi bữa nào có trả cho em.

                      Tiếng “em” ngọt ngào làm nhột sau ót anh. Từ xưa đến giờ chưa ai xưng hô với anh như vậy, kể cả lũ em gái. Đứa nào cũng xưng “tui” một cách lạt lẽo cộc lốc. Anh lợi dụng tình thế liếc trả lại chị một cái rồi uể oải lại ngồi húp chén chè. Uể oải, vì nghĩ đến đồng bạc lát nữa không biết phải mượn của ai để trả.

                      Có lần chị Ba Răng Vàng hỏi:

                      - Sao anh Năm không lấy vợ?

                      Năm Nhiều thầm nghĩ: “Đàn bà con gái ở thành phố bạo dạn quá trời. Dám hỏi đàn ông điều đó”. Anh mỉm cười lấy giọng nửa đùa nửa thiệt.

                      - Tôi nghèo mà ai thèm lấy.

                      - Xì! Có anh hà tiện thì có. Cưới vợ về sợ nó ăn hết gạo chớ gì!

                      Đó không phải là sự thật, vừa không phải là câu nói mà anh mong đợi. Anh muốn chị Ba nói rằng “Tôi thương anh lắm. Tôi muốn lấy anh”. Nhưng chị Ba chỉ mê mải ngồi rửa cái chén và sau cùng cầm lấy đồng bạc anh đưa bỏ kỹ vào túi, cài kim băng cẩn thận.

                      Một hôm chị Ba gánh chè vào sân nhà anh nhằm lúc có những người bạn nhàn tản của anh đang ngồi nói chuyện trời trăng. Aên vặt là một tính hay lây nên một người ăn chơi rồi tất cả bọn cùng ăn. Gặp được bữa bán mau tay, chị ba cười nói vui vẻ. Một một bạn hỏi:

                      - Chị Ba sống một mình không biết buồn à?

                      - Buồn chớ. Nhưng biết sống với ai cho có hai mình?

                      - Để tôi làm mối anh Năm Nhiều cho chị.

                      Chị cười:

                      - Em nghèo, lại tản cư mà. Anh Nhiều đâu có thèm em.

                      Năm Nhiều cười híp hai con mắt, không biết nói sao. Tối đó anh trằn trọc không ngủ được. Hôm sau bần thần không làm gì được. Cứ hay mỉm cười một mình và lát lát nhìn vào chiếc gương soi. Mẹ anh thấy chị Ba năng ghé bán chè thì tỏ ý không bằng lòng, nhất là bà tiếc những đồng bạc anh đã trả cho chị. Bà lên tiếng chỉ trích:

                      - Cái con cười cười, liếc liếc, ngó như con đĩ.

                      Bị chạm tự ái, anh cãi ngay:

                      - Bà này nói lạ, chuyện của người ta..

                      - Chuyện của người ta tao nói không được sao? Ai biểu mày bênh?

                      - Bênh cái gì? Năm Nhiều sừng sộ.

                      - Vậy mà mày nói không bênh hả? Nó là mẹ mày đó.

                      Rồi không cần chuyển tiếp, bà khóc bù lu bù loa:

                      - Mày bênh con đĩ, mày chửi lại mẹ mày. Bớ làng xóm ơi, thằng Nhiều nó chửi tui. Bớ làng xóm ơi, thằng Nhiều nó muốn giết tui. Nó cắt cổ tui đây, bớ làng xóm ơi!

                      Năm Nhiều tức quá mà không làm gì được, sẵn chân, đá luôn cái ấm ăn lông lốc ra chái bếp. Nước văng vãi tung tóe ra đầy đất. Thế là hai mẹ con giận nhau, tránh mặt nhau. Bà mẹ bỏ cơm. Anh ngồi ăn mà không nói một lời. Không khí tràn đầy thù hằn. Nhưng oái oăm thay, ngày hôm sau lại nhằm vào ngày giỗ. Phải mua sắm, nấu nướng, phải sắp dọn bàn thờ, phải mời mọc họ hàng... Hai mẹ con đành phải hòa với nhau để chung lo việc cúng kính.

                      Mối u tình anh dành ch chị Ba Răng Vàng nung nấu trong lòng anh cho đến một tối kia anh cầm cây gậy đi canh ở xích hậu. Đi qua đám bắp ông chánh Bát, anh nghe có tiếng nhỏ to rì rầm lấy tư cách là tuần phiên, anh dõng dạc hỏi to:

                      - Ai đó?

                      Có tiếng trả lời yếu ớt:

                      - Dạ tôi.

                      - Tôi là ai?

                      Anh bước trờ tới: chị Ba Răng Vàng.

                      - Còn ai kia?

                      Anh nổi giận quát lớn.

                      - Tôi

                      - Tôi là ai? Nói mau.

                      - Tao.

                      Một người đàn ông đứng dậy, bước lại gần anh. Nhìn vào mặt thấy rõ là xã Tám, anh vội vàng bước lui một bước, đưa tay trái lên gãi đầu theo thói quen, lí nhí nói:

                      - Dạ thưa cậu.

                      - Mày đi canh hả?

                      - Dạ.

                      - Ừ thôi đi đi.

                      Năm Nhiều lê cái gậy nặng nề bước. Quả đúng như lời mẹ anh nói, con đó là con đĩ. Nhưng quên một con đĩ không phải là điều dễ, nhất là khi người ta không có người đàn bà đứng đắn nào để mà nhớ như anh Năm. Có thể anh ngồi nhớ đến đến đôi môi dày của chị Gần và tự trách mình đã quá bạc tình đối với người yêu cũ (cứ tạm nhận là như vậy). Những người rụt rè như anh thường có ý nghĩ tẩn mẩn quanh co như vậy. Không đi tới mà cũng không bước lui, không có cái gì dứt khoát hết. Trong khi đó thì những người đàn bà dứt khoát hơn anh. Chị Gần chọn con đường phiêu lưu thay người anh rể. Dễ thường hôm nay chị đã có người chồng mới rồi. Chị Ba Răng Vàng thì chọn ông xã Tám và vài người khác bạo dạn, thực tế hơn anh. Người ta trả lại anh cho cái bàn thờ uy nghiêm và khoảng hẹp trước bàn thờ. Anh khỏi phải chọn. Như một cái bóng mờ, anh cứ chập chờn trong cái khung cảnh âm u của khói hương và ánh đèn sáp.

                      Người thất vọng vì tình đều khó ngủ, anh Năm Nhiều không thoát khỏi thông lệ đó. Nhưng khác với những người văn minh uống thuốc ngủ vào trường hợp tương tự, anh Năm Nhiều chỉ biết lăn qua trở lại trên bộ ván. Cái gối bị dày vò một cách tàn nhẫn như tâm hồn của anh vậy. Khi trằn trọc đã chán, anh chợt thiếp đi thì chợt anh bàng hoàng tỉnh giấc mơ quái đản, trong đó anh vụt một gậy vào đầu chị Ba Răng Vàng hay vào hông ông xã Tám, gây nên một vụ án tình đẫm máu mà chỉ vì mấy con chó hầm hè ầm ĩ trước nhà. Chúng cãi nhau vì tình, tranh giành nhau, cấu xé nhau mãnh liệt, ồn ào chớ không chịu bại trận thầm lặng như anh. Trong đêm tối, anh lắng nghe tiếng từng con một và anh cố gắng phân biệt tâm tính của mỗi con. Gầm gừ hàng tràng dài trước mái hiên nhà để đe dọa ai là tiếng của con Vàng nhà anh. Đúng là anh chàng nhút nhát, nhút nhát như chính anh vậy. Tiếng sủa ông ổng, mạnh dạn là tiếng một con chó lạ, anh không biết của ai. Con này có vẻ thách thức, sẵn sàng lao mình vào chiến đấu, nếu có con nào muốn. Một tiếng sủa rời rạc, bàng quan xuất phát từ sân nhà ở xế trước mặt. Đó là con Mực của bà Từ. Nó đã có tuổi, thận thủy kém suy, nên giọng sủa có vẻ là một kẻ đã nếm đủ mùi đời, bây giờ muốn xuất thế, muốn người ta để mình ngủ yên. Xa xa hơn là một số những tiếng gầm ghè lẫn lộn. Rồi vụt nhiên nổi lên những tiếng cấu xé, tiếng những thân hình quần nhau lăn lết trên mặt đường, tiếng “căng cẳng” của một anh chàng bại trận bị cắn đau.

                      Năm Nhiều giận vì bị phá giấc ngủ, anh mở cửa bước ra.

                      Anh rón rén lại góc rào lượm một viên đá, nhắm ném mạnh vào một con chó khá đẫy đà. Bị trúng đá, nó kêu ăng ẳng mấy tiếng bỏ chạy, nhưng cách đó không xa, nó đứng dừng lại. Mấy con chó khác im lặng lảng dần. Chỉ có con chó bà Từ vẫn rời rạc sủa những tiếng uể oải.

                      Nhìn chuỗi sao Bắc đẩu đuôi chổng ngược lên cao, anh bần thần bước vào nhà, đóng chốt cửa lại. Nhưng vừa đặt mình xuống ván thì những tiếng sủa lại nổi lên, hợp tấu trở lại. Anh chợt nhớ rằng tháng này là Mười và hình như anh đã có nghe ai nói rằng những con chó hoạt động mạnh về ái tình trong tháng này. Ngày anh xin con Vàng về nuôi, nó đau ruột bỏ ăn và đi tiêu lỏng, tưởng chết mất. Một ông cụ láng giềng sang chơi bày nấu canh rau diếp cá cho nó ăn, rồi cụ dặn:

                      - Chó tháng Năm. Khó nuôi lắm.

                      Anh không hỏi “chó tháng Năm” nghĩ là thế nào, nhưng anh đinh ninh rằng chắc hẳn mẹ nó thụ thai vào tháng Năm. Vậy thì tháng Năm và tháng Muời là hai tháng ái tình mạnh nhất của loài chó. A! Phải có những đêm trằn trọc vì tình, anh Năm Nhiều mới phát kiến được mối tình có định kỳ của loài chó. Không phải việc này mới xảy ra lần đầu nhưng mà đúng là lần đầu anh để ý đến điều đó. Người ta kể chuyện rằng nhà độc tài Hitler vì một đêm mất ngủ mà nghĩ ra được phương pháp phòng thủ một đảo nào đó - tôi quên mất tên - khiến các chiến lược gia đại tài nào cũng phải phục là kỳ diệu. Năm Nhiều là một người tầm thường. Nhưng đó chẳng phải là cũng nhờ ái tình mà anh đã tìm hiểu cuộc đời xảy ra xung quanh anh một cách đầy đủ hơn xưa đó sao? Những sự phát kiến vụn vặt đó, tiếc thay, người bàng quan là mẹ anh không hề biết đến. Bà chỉ, một cách thiển cận, tính nhẩm số tuổi của anh mỗi năm mỗi cao, nhìn mái tóc của bà trong gương mỗi ngày mỗi thêm bạc mà lo lắng tìm vợ cho anh.

                      - Con Mừng đó, mày coi được không? Nó xấu người mà cấy hái giỏi. Của tư riêng của nó nghe đâu được tới ba chục giạ lúa.

                      Nhưng Năm Nhiều chỉ ậm ừ rồi bắt sang chuyện khác.

                      - Hay là con Tỵ? Tuổi nó cũng ngang với tuổi mày đấy. Mày sanh tháng hai, còn nó sanh tháng mười một. Mẹ nó cũng hiền lành như tao. Ý tao ưng đám này hơn.

                      Nhưng Năm Nhiều cũng lại im lặng. Đối với người con gái nào anh cũng không phản đối mà cũng không tán thành. Nếu bị hỏi riết lắm thì anh trả lời “để con coi đã”. Để bao lâu, anh không nói rõ. Thật ra thì anh có “coi” gì đâu? Anh chỉ thản nhiên nhìn những người con gái tuần tự lấy chồng. anh trang trọng đến giúp gia đình họ nấu cỗ cúng - lại cúng! - và nấu cỗ dọn hai họ. Phải nhìn anh vin nhẹ vào cành cây bông điệp để lựa bẻ từng cành, xếp tỉ mỉ vào lọ hoa đặt thận trọng lên bàn thờ, phải nhìn anh mặt đỏ rực lấm tấm mồ hôi xào nấu nếm ngửi trong bếp, nghiêm trang và say mê như một nhà khoa học đứng trước bầu thủy tinh và ống nghiệm thì mới hiểu rõ cái lòng chí thành của anh đối với tục lệ, cái lòng vị tha của anh đối với những con con gái. Tâm hồn anh như một bãi sa mạc, trên đó họa chăng chỉ còn dấu chân của hai người đàn bà đã đi qua. Mẹ anh lấy đó làm một điều phiền lòng. Đã gần đất xa trời mà không có lấy nổi một đứa cháu nội để ẵm. Nhưng làm sao bây giờ. Bạn của anh quanh quẩn chỉ có mấy người đàn ông biết lợi dụng bình trà và chiếu cố tận tình những bữa giỗ. Nước trà, đó không phải là sở thích của những người đàn bà đang rộ yêu đương. Tóm lại, cứ như thế, Năm Nhiều đi sâu mãi vào cuộc đời, chật vật trong cái diện tích hẹp của khoảng trống trước bàn thờ.

                      Lâu lâu ghé về thăm quê hương, tôi không quên tạt lại thăm anh, tìm một vài thay đổi nơi anh. Làn da nơi gò má bớt bóng đi, cái miệng móp thêm vì vài cái răng đã gãy, hàng râu thưa đâm tua tủa vì lười biếng cạo và đôi mắt mỏi mệt thêm. Ngược lại, hai bàn thờ và cái khám thấy phong phú hơn xưa vì chiến tranh chấm dứt, anh có phương tiện để bổ túc thêm món thiếu sót.

                      Đó là một dãy bóng đèn điện đứt râu anh sưu tầm ở đâu về và đựng đầy nước có pha màu xanh, vàng, đỏ, tím. Đó là những nhánh hoa bằng giấy rẻ tiền màu úa bị bụi bám. Đó là những cái cỗ bồng bằng đất, trên đắp đầy ụ những nải chuối, trái quýt, trái bưởi cũng bằng đất nung có tráng men và pha màu lòe loẹt. Những món hàng giả này choán nhiều chỗ trên bàn thờ. Nếu một ngày kia anh sắm thêm một mớ dĩa xôi giả, đĩa bánh tét, bánh in giả, đĩa thịt gà, thịt heo giả - cũng bằng đất có tráng men và pha màu - thì không biết còn chỗ đâu để sắp những món ăn thiệt. Tôi mời anh có dịp vào Nha Trang chơi với tôi. Mắt anh sáng lên.

                      - Ừ! Tôi cũng kiếm dịp vào Nha Trang chơi. Nghe nói chùa hội trong đó to lắm, ngày lễ vía, ngày rằm mùng một, khách thập phương đến cúng dường hàng trăm người. Hôm Phật đản nghe có cộ đèn và phóng sanh đăng.

                      Thôi đúng rồi, đúng sở thích của anh Năm rồi. Ngày tôi còn nhỏ, tôi nhớ anh không bỏ sót một bữa làm chay nào. Chùa ở xa làng đến hai cây số mà lúc bấy giờ anh đang ở giúp việc cho nhà tôi nên không thể tự do muốn đi đâu thì đi. Muốn được đi coi làm chay, anh bày tôi vào khóc với mẹ tôi đòi đi cho được. Anh nói:

                      - Mày cứ khóc rồi nằm lăn xuống đất. Má mày có nói đi xuống chùa xa không đi được thì mày trả lời là có tao cõng.

                      Tôi làm theo lời anh, vào năn nỉ mẹ cho đi chùa. Mẹ tôi đang bận tay chưa kịp nghe hết câu thì tôi đã nằm dài xuống đất lăn hai vòng, rồi vừa cào cấu vừa khóc rùm lên. Thật tình là tôi đã đóng kịch quá dở. Tuồng lớp anh bày ra, tôi đã lật đật thực hiện, hơi vội vàng, nên kém vẻ tự nhiên. May mà mẹ tôi tính hay mủi lòng nên chỉ nhìn tôi một giây, mẹ tôi đã hỏi:

                      - Nhưng mà chùa xa con làm sao đi được?

                      Tôi trả lời ngay:

                      - Anh Năm Nhiều cõng con.

                      Không ngờ rằng mưu mô do anh bày ra nên mẹ tôi hối lộ cho anh năm xu và nhẹ nhàng phủ dụ:

                      - Chịu khó cõng em nó xuống chùa chơi một lát. Đây cô cho năm xu để dành bỏ bùng binh. Nhớ về sớm kẻo em nó buồn ngủ.

                      Thế là con ngựa hai chân ấy cõng tôi như sao chạy tế.

                      Hôm nay con ngựa đã khá già rồi nhưng dáng chừng còn ham coi làm chay cộ đèn. Tôi nói:

                      - Nha Trang thì còn nhiều thú vui lắm. Anh vào, tôi mời anh đi coi chiếu bóng, đi tắm biển, đi coi sở cá. Phố xá to lớn hơn Tuy Hòa nhiều. Có mấy khu Xóm Mới, Phước Hải cất biệt thự trông cũng đẹp.

                      Nhưng anh lơ đãng đối với những thú vui tôi vừa phác họa. Anh đợi tôi dứt lời, chậm rãi tiếp:

                      - Nghe nói Nha Trang nấu cỗ chay vừa khéo vừa ngon. Chẳng là ngờ có nhiều “la ghim” ở Đà Lạt chở xuống. Có cà rốt, khoai tây, xúp lơ thì dễ nấu. Ở ngoài mình quanh quẩn có mấy món thường: bí ngô, bí chanh, đỗ phộng, bầu, mướp…

                      Tôi phải đi vào nội dung câu chuyện của anh để anh vui lòng. Tôi hỏi:

                      - Anh nấu chay có ngon như nấu mặn không?

                      - Cũng vậy. Có dầu nhiều, có đỗ nành nhiều thì phải ngon. Nấu chay khéo thì đâu có thua nấu mặn. Cũng đủ giò, chả, nem, gỏi… cũng đủ thịt gà, thịt heo, tôm, cá… có điều này cũng là rau cỏ mà nấu giả như thiệt.

                      - Ở nhà quê có đám chay nào lớn chắc là họ phải “thỉnh” anh.

                      - Ờ, chỗ nào quen họ cũng “thỉnh”.

                      Anh nói chậm rãi, tin tưởng như một ông thầy thuốc Nam tự phụ. “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, câu này có thể đem áp dụng vào anh, nhưng có lẽ chỉ đúng nửa câu, phần trên. Vì thân anh vẫn cứ nghèo và đôi mắt càng nuốt khói bếp nhiều càng mờ đục thêm và còn mang thêm một tật nheo nheo. Một ngày tháng Bảy, con chó nhà tôi sủa ai trước cổng, rồi sủa dẫn đến nhà sau. Người làm lên thưa rằng có một người khách lạ. Tôi ra phòng khách, không thấy anh, bước ra nhà sau thì thấy anh đứng ngơ ngác nhìn. Anh mặc bà ba đen và chân đi dép cao su lốp ô tô. Tôi vui vẻ mời anh lên nhà trên. Anh rờ từng chiếc ghế, từng chiếc cộng hoa cắm ở chiếc lọ đặt ở bàn nước. Anh nhìn lên trần nhà, mắt ngừng lại rất lâu ở chiếc đèn nê ông dài. Tôi mời anh ngồi và anh ngồi rất khẽ, đít chỉ chiếm một phần tư mặt ghế. Lưng thẳng đứng, rồi mắt lại đậu ở cái quạt máy, ở cái radio. Tôi hỏi:

                      - Lâu quá anh mới vô thăm chơi. Ở ngoài nhà làm ăn ra sao?

                      Anh đằng hắng ba cái liên tiếp rồi mới nói:

                      - Cũng chẳng ra sao. Mùa màng mất mát, làm ăn cứ mỗi ngày một lụn. Tôi định vô trong này kiếm việc làm.

                      - Đã có chỗ làm chưa?

                      - Ông hương Kính ở ngoài làng vô trong này được nửa tháng. Vừa rồi mới về quê và rủ tụi này vô làm ăn

                      - Hương Kính làm việc gì ở đây?

                      - Làm phu đổ đá ở sân bay.

                      - Lúc nãy anh nói đi vào cả tụi. Vậy còn ai nữa?

                      - Thằng Đực con bà Lý, thằng Thành móm và anh trùm Sáu.

                      Hiện giờ họ ở đâu?

                      - Dưới xóm chợ, chỗ nhà bà con của hương Kính.

                      Tôi mời nước và thuốc lá. Tiện có đĩa chuối đặt ở tủ ăn, tôi lấy mời nhưng anh từ chối.

                      - Tôi ít ăn thứ này lắm.

                      Tôi ngạc nhiên

                      - Kìa, ngoài nhà thấy anh cúng chuối luôn mà.

                      - À, vậy mà ít ăn. Cúng thì cúng chớ rồi lũ trẻ nó chia nhau.

                      - Thế thì ăn kẹo vậy.

                      Tôi vừa nói vừa vội vã đứng dậy lại mở tủ lấy kẹo. Nhưng anh đưa tay ngăn:

                      - Thôi đừng phiền. Tôi không ăn đâu. Buổi sáng chỉ uống miếng nước trà.

                      A! không ngờ cuộc sống của anh thanh đạm dường đó. Tôi nhìn đôi vai gầy và nói:

                      - Anh ăn ít nên gầy.

                      - Hồi giờ tôi vẫn ăn ít vậy. Mỗi bữa chỉ có ba sét chén.

                      Tôi tìm trong dĩ vãng xem anh có nói thật không. Nhưng lạ, sao tôi không còn nhớ một kỷ niệm nào về việc ăn uống của anh hết. Anh sống ở nhà tôi có đến bốn năm năm, thế mà hồi tưởng lại, tôi không thể nào hình dung ra anh cầm chén cơm hay gắp miếng thịt hay nhai nhồm nhoàm ra sao. Tôi có thể thấy như hiện ra trước mắt, anh vấn điếu thuốc và ghé vào chiếc đèn dầu lửa để đốt, hoặc anh đứng ở bàn ăn - ăn đứng chớ không ngồi bao giờ - một chân chõi ngang vào chân đứng thẳng, y như cái chùa Một Cột còn thì tuyệt nhiên không nhớ cái miệng anh nhai ra làm sao. Lẽ cố nhiên là hình dung ra anh hai tay nâng bó hương nghi ngút khói, đứng khấn vái trước bàn thờ thì càng dễ hơn nhiều.

                      Sau vài câu chuyện, anh đứng dậy cáo từ. Tôi hỏi đi đâu thì anh bảo xuống ở chung nhà với hương Kính để mai đi làm. Tôi nói:

                      - Anh cứ ở đây với tôi rồi ngày ngày đi làm cũng được. Nhà tôi rộng rãi mà.

                      Nhưng anh không chịu.

                      - Để xuống ở chung cả tụi cho dễ. Ngày ngày có xe đưa đến công trường.

                      - Thế anh đã biết là anh sẽ làm công việc gì chưa?

                      - Chưa, đợi đến mai sẽ hay.

                      Khi anh bước theo tôi ra cửa, anh chợt dừng lại, đứng sờ mó vào những quyển sách dày dựng ở kệ sách. Anh nhón lấy hai quyển, âu yếm nhìn vào gáy da rồi lật xem vài tờ. Anh mỉm cười (à, lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp nụ cười của anh) nhìn tôi nói:

                      - Bây giờ chú học hành giỏi. Có nhớ ngày cúng khai tâm chú ăn cái đầu gà không?

                      Kỷ niệm ăn đầu gà làm tôi yêu mến anh nhiều. Chắc anh đang hãnh diện mà nghĩ rằng những cuốn sách chữ Tây đó (chữ gì hay ho khó hiểu khiến cho con người ta giỏi được cũng là chữ Tây hết, theo anh quan niệm) làm món trang sức cho trí óc của tôi, làm phương tiện cho tôi sinh sống khá đầy đủ cũng nhờ anh mà có. Nếu không có sự chăm sóc chu đáo của thì bữa cúng khai tâm đã không có và tôi cũng sẽ chỉ u mê tầm thường, lớn lên đủ để làm ông hương, ông giáo là cùng. Tóm lại, cái tôi hiện tại chính là tác phẩm của anh, cái tác phẩm mà anh cho là đã thành công quá sức mong mỏi và đáng để anh hãnh diện. Tôi êm đềm đặt một tay lên vai anh, nơi cái xương quai xanh gồ ra dưới lần áo mỏng rồi nói:

                      - Tôi học được là cũng nhờ ba cái lạy và cái đầu gà của anh đó.

                      Đưa anh ra khỏi cổng, đi với anh một quãng đường, rồi tôi gọi xe và trả tiền trước, bảo xe đạp xuống xóm chợ. Tôi dặn anh thỉnh thoảng có thì giờ rảnh thì ghé lại cho biết tình hình công ăn việc làm.

                      Mười ngày sau anh mới trở lại. Anh cho biết là anh đã đi làm từ sáng hôm đó và anh chuyên môn làm phu hồ.

                      - Sao anh lại làm phu hồ? Tôi hỏi. Phu hồ là công việc của đàn bà mà.

                      - Tôi yếu sức, không đổ đá, rải đá được. Phải làm phu hồ vậy.

                      - Mỗi ngày công được bao nhiêu ?

                      - Ba mươi lăm đồng.

                      Tôi tự nhiên nhìn xuống đôi bàn tay của anh. Thật là lam lũ phong trần, nhưng tôi cũng ngầm mong một cách yếu ớt rằng đôi bàn tay ấy, lần này, không đến nỗi chịu câm nữa bên cạnh những cô phụ hồ nhí nhảnh lẫn lộn xung quanh anh. Chợt anh ấp úng ngỏ lời mượn tôi hai trăm đồng.

                      - Ngày kia nhằm bữa giỗ ông già tôi mà chưa tới kỳ lãnh phơi. Chú cho tôi mượn đỡ hai trăm đồng, mai về quê, rồi hôm sau vô tôi lãnh lương sẽ trả lại.

                      Tôi nhẩm tính tiền lương của anh mỗi ngày, trừ đi tiền ăn tiêu và tôi thấy hai trăm đồng là một số tiền không nhỏ. Tôi hỏi:

                      - Về tốn kém như vậy mà anh cũng về sao? Thôi tạm ở trong này, chừng nào để dành dư giả hãy về một lượt.

                      Anh lắc đầu.

                      - Tốn thì tốn mà không về không được. Chẳng lẽ ngày kỵ, ngày giỗ mà lại…

                      Tôi lấy tiền đưa cho anh và anh vội vàng cáo lui:

                      - Để kịp ra phố mua vài lạng bún bắc thảo, da heo, kim châm và ghé chợ mua ít cái bắp sú.

                      Sau đó không biết bao lâu anh mới lại nhà tôi. Hỏi anh đã để dành tiền khá chưa thì anh thản nhiên nói:

                      - Đi làm chẳng được mấy ngày. Bữa trước về đám giỗ rồi kế tiếp mấy bữa sau khuôn hội Quảng Đức nhờ ở lại để nấu chay giùm cho chùa nhân ngày lễ Vu Lan. Nhân dịp lễ, chùa khánh thành cái đại hồng chung mới đúc và có gia đình Phật tử toàn quận cắm trại. Thức ba bốn đêm ròng nên bị bẻ mình đến bốn năm bữa. Mới vô hôm kia. Vẻ thản nhiên của anh khiến tôi nghĩ đến thái độ sống của anh mà tôi đã có lần ao ước. Tôi nhớ một buổi chiều chủ nhật kia, tôi ghé thăm một người bạn. Ở nơi giếng nước nhà anh bạn, một người đầy tớ gái đang xát vỏ đậu xanh. Trong khi chờ đợi anh bạn thay áo để cùng đi thăm một người bạn khác, tôi bước ra sân nhìn dãy nhà trước mặt.

                      Đó là một dãy nhà tôn vách ván kề sát nhau, chạy dài dọc theo cái đầm nước. Trong một gian nhà kia, một người đàn bà đang tắm hai trái đu đủ. Một dĩa quýt và một dĩa chuối đã đặt trên một cái bàn nhỏ kê sát mái hiên đặt trước sân, tôi nghĩ rằng nhà này là một cái quán.

                      Nhưng chợt có mùi nhang thơm ở đâu bay đến. Tôi liên tưởng đến cái rá đậu xanh vừa rồi và tôi nghĩ rằng mình đã lầm: nhà kia không phải là cái quán đâu, mà chắc là họ đang sắp đặt một bữa cúng gì đây. Tôi nhớ đến đêm nay có trăng sáng. Thôi đúng rồi, có lẽ ngày rằm rồi. Hỏi lại người bạn thì anh ta nói: “Ừ, hôm nay rằm tháng Mười”. Tôi chợt buồn, nghĩ đến những bữa cúng êm đềm mà mình cứ thản nhiên quên. Những ngày cúng rằm, cúng mùng một chỉ có chị giúp việc nhà tôi là nhớ kỹ. Chị giữ tiền chợ nên liệu nhớ mà mua sắm món gì đó tùy ý chị. Khi cỗ bàn đã đặt lên, chị giao cho tôi nhiệm vụ đốt hương và khấn vái. Nhưng sao tôi vẫn nhọc nhằn hết sức để mà tin rằng mình hiện đang hâm hưởng sự chở che ấy. Vào những lúc ấy tôi nhớ đến vẻ mặt rạng rỡ của anh Năm Nhiều, tin tuởng say sưa vào sự phù hộ của vị thần mà anh đang hướng tâm nghĩ tới. Có một lòng tin như thế thật quý giá biết bao trong một cuộc sống đầy cam go bất trắc, đầy những sự phi lý như người ta thường nói.

                      Như vậy, thì liệu tôi có sung sướng gì hơn anh đâu, tôi, con người bận rộn khôn cùng, lo lắng khôn cùng giữa vài tiện nghi nhỏ: cái xe để đi, cái quạt cho ngày hè, cái máy hát để đỡ cô đơn và bữa cơm trưa có thịt.

                      Bẵng đi vài tháng tôi không gặp lại Năm Nhiều. Có lẽ nhớ nhà, nhớ xóm, nhớ cái bàn thờ, nhớ chùa, nhớ khuôn hội, anh đã bỏ về quê rồi cũng nên. Nhưng một sáng chủ nhật, dạo quanh chợ, tôi chợt gặp hương Kính đi với trùmg Sáu và Thành. Thật là dễ nhận ra họ: quần áo bà ba, đội mũ và mắt lơ lơ láo láo gặp gì cũng ngó. Tôi lên tiếng trước

                      - Ông Hương! mấy tháng nay làm ăn ra sao?

                      Hương Kính thấy tôi, mừng rỡ, giơ tay ra, tỏ ý muốn bắt.

                      - Làm ăn cũng thường. Có điều dang nắng rát cổ rát mặt quá.

                      - Còn anh Thành và ông trùm?

                      Hai người cùng trả lời một lượt, ý không khác nhau mấy.

                      - Cũng tàm tạm. Làm được tiền mà để dành chẳng được bao nhiêu.

                      - Làm bao nhiêu ăn hết bấy nhiêu.

                      - Còn anh Năm Nhiều? Tôi hỏi: Có còn ở làm trong này không? Sao không thấy đi chơi với mấy ông ?

                      Hương Kính trả lời:

                      - Anh Năm vẫn còn ở làm trong này, nhưng không còn ở chung với lũ tôi nữa.

                      - Vậy chớ anh ấy ở đâu?

                      Thành móm toe toét miệng cười:

                      - Ồ! Bây giờ anh Năm Nhiều “ngon” lắm. Ở nhà vợ mà.

                      - Vợ nào? Ở đâu?

                      Tôi vội vàng hỏi, nhưng hương Kính vẫn một giọng ôn tồn chậm rãi:

                      - Anh Năm có gặp một chị bán đồ vặt ở đầu chợ. Hai người quen nhau, rồi bây giờ anh về ở nhà chị ta.

                      Thật là chi tiết bất ngờ, quá sức ước đoán của tôi. Năm Nhiều có vợ?

                      Sao đợi đến chừng này tuổi mới có vợ mà vợ ra thế nào? Người đàn bà nào mà lại khéo thích ứng với ông thầy tế tự có thành tích khả kính đó? Nếu do miệng Thành móm nói thì tôi sẽ hồ nghi, cho là anh ta nói giỡn. Đằng này lại do hương Kính nói. Tôi phải hỏi lại hương Kính kỹ hơn.

                      - Người vợ của anh Năm Nhiều ra thế nào?

                      - Nghe nói chị ta góa chồng, được bốn đứa con. Chị buôn bán hàng vặt, nước mắm, dầu, bánh kẹo, thuốc lá ở đầu đường Bến Cá. Anh Năm hay qua lại mua thuốc hút. Rồi hai người cảm tình với nhau.

                      - Họ cưới hỏi rồi sao?

                      - Cũng chẳng cưới xin gì. Thì… phàm trai không vợ, gái không chồng gặp nhau. Anh Năm về ở đó cũng nhàn. Ngày ngày đi làm với lũ tôi, trưa tối về nghỉ…

                      Thế thì hai năm rõ mười là Năm Nhiều đã có ý trung nhân rồi. Thành vợ chồng hay không thì đó chỉ là hình thức đi sau. Như vậy cũng đã là một biến cố quá lớn đối với một người thánh thiện như anh. Nhân ngày chủ nhật rảnh, tôi muốn đi tìm để nhìn thấy tận mắt cái hoàn cảnh mới của anh. Tôi nhờ hương Kính chỉ đường.

                      Sau mười phút đi quanh qua quẹo lại, bỏ con đường này bắt con đường khác, tôi đứng trước mặt nhà anh. Đó là căn nhà gỗ mái tôn, hơi thấp. Trước hiên bày một cái kê ván nhiều ngăn, sắp lộn xộn những cục xà bông chai nước cam, gói thuốc. Mỗi thứ một ít, như là mẫu hàng để quảng cáo. Nằm dưới là vò nước mắm, hũ dầu, là đống than, là những bó củi… Một cái lò than tắt xếp giấu cạnh đó: chắc là buổi tối quán này bán thêm bắp nướng.

                      Ngồi giữ quán là một người đàn bà đẫm thấp, nước da ngăm đen, đôi má bánh đúc. Hàm răng vồ và cái miệng rộng, khiến tôi liên tưởng đến một cái miệng cá sấu nếu nhìn người ấy cười. Nhưng lòng quý mến đối với anh Năm Nhiều mà tôi coi như người thân trong nhà, khiến tôi nhìn người đàn bà với một con mắt không nghiêm khắc. Hình như tôi đã chấp nhận chị là một người quen rồi, mặc dù tôi vừa gặp chị lần đầu. Anh Năm Nhiều đã sống với tôi quá nhiều quá khứ nên cái gì anh mến là tôi sẵn lòng mến theo.

                      Người đàn bà thấy tôi đứng dừng trước quán liền đứng dậy đon đả mời:

                      - Thưa ông cần thuốc lá? Salem hay Ruby?

                      Mặc dù không muốn, tôi cũng phải nhận thấy một vẻ gì láu lỉnh trong giọng nói và lời đón trước ý khách hàng quá lanh lẹ của chị. Tôi không ưa tính khôn ranh, liến thoắng ấy nơi người đàn bà. Trong óc tôi đang xây dựng cho anh một người đàn bà hiền lành, biết thưởng thức những cử chỉ đầy lễ nghi mực độ của anh. Tôi nói:

                      - Tôi muốn hỏi anh Năm Nhiều.

                      - A, dạ có. Dạ để tôi kêu

                      Chị quay miệng vô nhà:

                      - Anh Năm ơi! Có khách hỏi anh. Anh Năm!

                      Rồi chị quay sang tôi :

                      - Mời ông vào nhà. Tôi chần chừ không bước vội, đợi nghe một tiếng đằng hắng, một tiếng guốc, một tiếng trả lời chứng tỏ sự hiện diện thực của anh. Nhưng sao căn nhà im lặng quá. Rồi chợt giữa khung cửa anh hiện ra, trọn vẹn là khuôn mặt và khổ người của anh, lặng lẽ và nhẹ nhàng như một con mèo. Tôi buột miệng:

                      - Anh Năm

                      Anh Năm cười:

                      - A, chú.

                      Tôi bước vào, ngồi ở cái bàn nước.

                      Căn phòng hẹp, bị choán bởi những món hàng tạp hóa vặt vãnh dự trữ: thùng dầu, tỉn nước mắm, thạp gạo, bịch thuốc…. Một cái đi văng gỗ, trên đặt một cái gối sẫm màu mồ hôi, với một chỗ thõm ở giữa, dấu vết của cái đầu anh vừa đặt lên đó. Kê giữa nhà là một cái bàn thờ khá bề bộn: bộ lư đèn đồng, bát hương, cỗ bồng chuối, bình hoa huệ trắng. Một tấm hình lồng kính đặt ở giữa, có phủ tấm vải đỏ. Một cái khám đóng ở trên cao, cũng với bộ lư đèn nhưng nhỏ hơn. Ở dưới ghế lại có một cái thùng để thờ ông thần tài. Chữ “tài thần” viết bằng chữ nho trên giấy hồng đơn, dán lên mặt trong thùng. Một cái đèn hột vịt vặn nhỏ và một cây hương đang cháy.

                      Sao quang cảnh nơi đây giống cảnh nhà anh vậy? Sao anh khéo chọn được cái không khí âm u cố hữu của anh ở ngay giữa thành phố náo nhiệt này? Một đường khói mảnh từ đầu cây hương uốn mình nặng nhọc vươn lên. Mùi hương pha lẫn với mùi thơm của hoa huệ hơi úa tạo cho cái không khí đang bao quanh tôi một vẻ huyền bí, nhất là căn phòng hơi tối. Tôi hỏi anh:

                      - Anh về đây được bao lâu?

                      - Được hơn tháng nay.

                      Không biết nên hỏi gì nữa - thật ra thì có nhiều câu hỏi quá nhưng đều không tiện nói ra tôi đành hỏi đỡ một câu mà tôi đã một trước câu trả lời.

                      - Anh vẫn còn đi làm?

                      - Vẫn làm ở chỗ cũ. Bữa nay chủ nhật, nghỉ.

                      Vừa lúc ấy có tiếng chị ở ngoài hiên nói với vào:

                      - Mình ngó chừng giùm hàng một tí nghe. Tôi chạy lại bà Ba già một chút.

                      Anh ừ và tôi mừng rằng không có mặt chị tôi sẽ được nói chuyện với anh thong thả hơn. Tôi vào đề liền:

                      - Chị buôn bán có khá không ?

                      Anh gật đầu:

                      - Cũng khá. Má con Liễu (Liễu chắc là tên đứa con đầu lòng của chị) được cái tính chịu khó. Nó buôn bán đủ thứ, bỏ món này bắt món khác. Cái quán này chỉ là phụ.

                      - Nghe nói chị được bốn đứa con.

                      - Phải, bốn đứa. Con Liễu, con Lý, thằng Sự, con Lùn. Chồng nó đi lính, bị chết trận bốn năm nay.

                      - Làm sao quen nhau rồi lại hợp ý nhau?

                      - Nó bán quán, mình năng tới lui mua thuốc, mua thùng quẹt rồi sinh quen. Tính tôi ít oi, mua chỗ nào quen một chỗ để tránh nói thách nói bớt. Có một bữa ghé lại thấy con Lý nó nóng li bì rồi đổ nói xàm. Má nó chạy lăng xăng kiếm thuốc kiếm thầy. Uống mấy ve tiêu ban lộ vẫn như không đã lo cuống lên, mếu khóc… tôi thấy tội nghiệp, lễ cho nó mấy huyệt rồi sẵn hương đèn đó, vái ông Táo cho nó. Sáng ra ghé lại thấy nó mát. Má nó cảm cái ơn…

                      Aø! Thế là tôi hiểu rồi. Môi giới bắt đầu là ném hương, là cái bàn thờ, là ông táo. Đúng vào sở trường của anh. Tôi có thể tự mình chắp nối để hiểu mạch lạc câu chuyện. Kể cũng không khó lắm. Một người đàn bà đơn chiếc và một người đàn ông cũng đơn chiếc gặp nhau. Sự giúp đỡ xảy đến quá tự nhiên, vì như trước kia ta đã biết: khi Năm Nhiều nghiêm trang khấn vái trước bàn thờ thì vẻ mặt anh có một cái duyên đậm đà mà trung hậu. Khi yêu vẩn vơ, người đàn bà không từ chối người đàn ông liến láu, nhưng để làm chồng thì họ chọn người trung hậu. Đức tính ấy, anh Năm Nhiều có dư.

                      Tôi đó lấy ly nước anh đưa mời, nhấm nháp vài ngụm rồi hỏi:

                      - Thế anh không định về quê nữa sao?

                      - Có chớ. Đi đi về về chớ sao đâu? Hăm bốn tháng này tôi phải về nhà đây. Hăm bốn là ngày kỵ bà ngoại tôi. chú có nhắn gì thì nhắn, tôi về ngoài nói lại.

                      - Cám ơn anh, tôi vừa gởi thư xong.

                      Như vậy là Năm Nhiều đã gặp được một người đàn bà. Quả tình có chậm chạp thật đó, nhưng anh có dám đòi hỏi gì hơn. Cái khung cảnh này thích hợp với anh biết bao! Đặt anh ở vào nơi đây, giữa những bàn thờ trang nghiêm thật đúng cách hết sức, như khi ta đặt con gà mái lên trên ổ trứng của nó.

                      Sau khi giã từ anh, trên đường về, tôi nghĩ đến sự thành công chót cùng này của anh. Như thế cũng đủ đền bù cho bao nhiêu thất bại anh đã nếm phải trong cuộc đời tình ái, chỉ vì tấm lòng quá kính mộ tổ tiên và thần linh. Tôi chợt nhớ đến một đoạn phụ trong câu ghi ở sách tử vi… “Mệnh thân có tử vi cư Mão Dậu gặp Kiếp Không”, mười người thì chín người đi tu. Bằng vào thực tại hôm nay thì chắc đó là số của anh rồi, và may mắn thay, anh lại là người thứ mười nên số đã run rủi cho anh, cuối cùng gặp được má con Liễu.
                      #11
                        Ct.Ly 24.11.2012 21:52:05 (permalink)
                        #12
                          hai1957 26.11.2012 10:34:35 (permalink)
                          Ghi chú: Các tác phẩm của nhà văn Võ Hồng trích đăng trong topic này theo thứ tự thời gian xuất bản của từng tác phẩm. Cụ thể là Hoài cố nhân có 2 truyện (Hoài cố nhân, Ngày xưa); Lá vẫn xanh có 6 truyện (Trận đòn hòa giải, Xuất hành năm mới, Ngày xuân êm đềm, Lá vẫn xanh, Niềm tin chưa mất, Tia nắng rớt); Vết hằn năm tháng có 6 truyện (Những bí mật của anh Ðỗ Cúc, Người thứ ba, Tình yêu đất, Lạnh tuổi thơ, Vết hằn năm tháng, Thế giới của Năm Nhiều); Con suối mùa xuân có 7 truyện (Tháng năm sương mù, Hai người đàn ông, Trả thù, Khoảng trống sau lưng, Mùa hoa xoan, Con suối mùa xuân, Dấu chân sa mạc); Khoảng mát có 7 truyện (Mẹ và em, Ðôi chim bồ câu, Ðụng độ, Dốc hiểm nghèo, Con đường gai, Khoảng mát, Chuyện cái răng); Bên kia đường có 7 truyện (Những nổi khổ vụn vặt, Hãy an nghỉ Abdul Rahim, Mẹ gà con vịt, Lễ cúng trường, Cái nhìn người mẹ, Bên kia đường, Trở về).
                          Toàn bộ tác phẩm được tham khảo và trích từ http://www.vohong.de nên độ tin cậy là rất lớn. Ngoài ra khi giới thiệu, người thực hiện có tham khảo danh mục tác phẩm đã có trên Thư viện của VNTQ để tránh sự trùng lặp. Cảm ơn mọi sự ủng hộ và điều kiện giúp đỡ. hai1957


                          #13
                            hai1957 26.11.2012 10:41:47 (permalink)
                            CON SUỐI MÙA XUÂN

                            NXB Lá Bối (1966)

                            1. Tháng năm sương mù
                            2. Hai người đàn ông
                            3. Trả thù
                            4. Khoảng trống sau lưng TQ
                            5. Mùa hoa xoan
                            6. Con suối mùa xuân TQ
                            7. Dấu chân sa mạc




                            1. THÁNG NĂM SƯƠNG MÙ


                            Tôi cầm lên phong bì thư đề tên tôi. Những chữ O không vòng kín, những chữ G bụng to è ạch như bụng của những con mối chửa đang thời kỳ đẻ. Đúng là thư của chị Hiền, chị họ tôi. Bì thư dày cộm có chỗ cứng gồ lên. Tôi hồi hộp. Bức ảnh của Thọ, người đàn ông mà chị Hiền hứa giới thiệu cho tôi. Tôi chưa gặp Thọ. Thọ làm việc cùng tỉnh với chị Hiền. Tốt nghiệp trường Quốc gia Hành chánh. Làm Ty trưởng tài chánh. Chỉ số lương 430. Khỏi bị động viên đi Thủ Đức. Đi làm bằng xe Jeep của chính phủ. Siêng đọc tạp chí Quê Hương và có chân trong Tỉnh hội Khổng học. Tự sửa lấy quạt máy và bàn ủi điện. Thật là một người chồng hoàn toàn. “Như một hạt ngọc..”, chị Hiền kết luận như vậy.

                            Tay tôi run run khi xé phong bì. Không kịp chạy đi lấy kéo cắt. Tháo vội vàng những tờ giấy pơ-luya đầy chi chít tâm tình của chị Hiền, tôi lôi bức ảnh ra. Mặt trái. Tôi để ảnh xuống bàn, dỗ cho lòng mình bình tĩnh lại. Vội vàng để làm gì? đằng nào sự thật cũng rõ ràng ra đó, chối chạy đâu được, đổi thay gì được? Chỉ cần lật bề mặt lên là thấy ngay.

                            Tôi đã 32 tuổi rồi, đã biết thế nào là hy vọng quá cao và thất vọng xót xa. Tôi tập hạn chế hi vọng, lúc nào cũng chuẩn bị đón nhận những sự bất như ý thật lớn, chịu đựng những sự thiệt thòi quá mức để mong rằng sự thật không đến nỗi tồi tệ như vậy. Tôi tưởng tượng Thọ xấu như thế này, xấu như thế nọ. Bộ mặt dã thú nặng nề của Anthony Quinn. Cái trán thấp của Clark Gable. Cái môi dưới dài ra như lúc nào cũng hờm sẵn một đĩa thịt bít tết hoặc một bát phở tái gầu rắc đầy ớt, hành đặt trước mặt. Đôi tai nhỏ và mỏng nắn tròn như cái nấm mộc nhỉ, loại láu vặt.

                            Tôi duyệt qua một lượt những khuôn mặt người đàn ông xấu trai mà tôi đã có dịp gặp. Cố nhiên là vô tình đã chỉ chọn nhằm những người đàn ông xấu trai mà có vợ đẹp. Cũng là một lối tự khuyến khích mình, tự an ủi mình. Ngày còn đi học tôi mê sắc đẹp của cô Chi, cô con gái ông chủ nhà hàng Phương Mai. Màu da ngà không sáng lắm nhưng phù hợp với đôi mắt đen dịu dàng, đôi môi hồng nho nhỏ. Cô không bao giờ đánh phấn và bôi son. Tóc cũng chỉ vén cao lên, không uốn. Vẻ đẹp cố ý để mộc mạc làm tôi yêu mến say sưa như khi tôi say mê nhìn một búp sen trắng vươn lên giữa hồ cạnh những tàn lá màu xanh thẫm. Ngày cô lấy chồng, tôi thất vọng khi phải nhìn một người đàn ông tầm thường như hàng trăm hàng ngàn người đàn ông khác tôi cũng gặp trên đường phố mà không buồn để tâm lưu ý. Mỗi lần gặp hai vợ chồng đi phố, tôi mong tìm một nét bất mãn trên vẻ mặt, một sự phũ phàng ghẻ lạnh trong cử chỉ của cô Chi, nhưng ngược lại lòng mong của tôi, cô đi cạnh chồng tươi vui và nói chuyện với chồng âu yếm. Tôi đau xót ngấm ngầm và ghen tức như chính mình là người đàn ông bị tình phụ. Lấy một người chồng xấu xí và tầm thường, thật là một điều bất hạnh, tôi cứ nghĩ thế. Nhưng mà quanh tôi người ta vẫn cứ xây dựng hạnh phúc vững chãi trong những hoàn cảnh bất ổn như vậy. Sắc đẹp để dành cho phần đàn bà. Người đàn ông chỉ cần có tài. Nếu không có tài thì phải làm ra nhiều tiền. Tuy nghĩ vậy nhưng tôi vẫn hy vọng rằng Thọ được trên điểm trung bình.

                            Tôi thong thả lật tấm ảnh, nhìn vào. Người tôi chùn hẳn lại. Bao nhiêu không khí như thoát ra cùng một lúc, tôi xẹp xuống, Thọ không giống một người đàn ông xấu nào mà tôi đã nghĩ. Anh chia mỗi cái xấu một ít. Thực tế thì có gì xấu hẳn đâu? Mắt? Tai? Mũi? Miệng? Tôi không chọn được dễ dàng mỗi tĩnh từ dành cho mỗi bộ phận của khuôn mặt. Lờ mờ hết sức. Trung bình hết sức. Nhàm hết sức như hầu hết những khuôn mặt. Nhưng ghép chung chúng vào nhau thì chắc chắn là tôi không có cảm tình với một khuôn mặt như vậy.

                            Tôi bình tĩnh trở lại, không buồn lắm, không thất vọng nhiều. Tôi can đảm nhìn tấm ảnh thật lâu, nhìn thẳng vào những chỗ kém cỏi, khuyết điểm. Đôi con mắt không tinh thần. Môi dày. Ngoại trừ một khuôn mặt quá đẹp hay quá xấu còn thì người ta chấp nhận nhau vì quen mắt. Có những khuôn mặt mới gặp lần đầu tiên ta ghét lắm. Gặp mãi thì thấy không đến nỗi. Gần lâu thì thấy cũng thương được. Nguy hiểm hết sức là thói quen. Nó mài dũa mọi cạnh gồ ghề của cá tính con người. Rồi cái gì cũng được hết.

                            Tôi nhìn thật lâu khuôn mặt của Thọ, nhìn đến nỗi con mắt tôi hoa lên. Tôi lồng ảnh đó dưới mặt kính bàn viết. Phải cố gắng tập cho quen đi. Đàn ông, đâu có phải đàn ông sinh ra chỉ cốt để trang hoàng quảng cáo cho mấy tiệm chụp hình?

                            Tôi 32 tuổi rồi. Chưa sợ ế chồng nhưng cũng không phải là quá sớm để nghĩ đến việc hôn nhân. Lấy chồng không giống như đi mua một cái bàn chải đánh răng, đợi lúc nào cần là cứ đi ngay ra tiệm tạp hóa gần nhất. Chọn lựa. Chọn lựa. Chọn lựa. Khi đã chán chê chọn lựa, khi mình tự nhủ mình: “Thôi, lần này không chọn lựa nữa” thì lại đến lúc đàn ông không đến với mình. Xe hơi chạy vụt trước cổng, xăm xăm chạy về một cổng nào khác. Vespa, xe gắn máy không thả bớt tay ga, không bóp còi, không ngập ngừng dừng lại. Đàn ông thời bây giờ khan hiếm. Như sữa Hòn Núi thỉnh thoảng phải mua giá chợ đen. Chiến trường nuốt nhiều đàn ông. Mỗi lần mở tờ báo hàng ngày, lật sang trang tư tôi tìm những khung cáo phó. Trung úy Nguyễn Văn X… đã đền nợ nước. Thiếu úy Trần Ngọc Y… đã hy sinh. Chuẩn úy Lê Đình Z… bị tử thương. Tôi lưu ý đến những tên thân nhân của người “anh hùng” ghi ở dưới. Cha, mẹ, anh, em. Chưa có vợ. Tôi tưởng tượng một khuôn mặt rụt rè, tóc cắt cao, đường rẽ thẳng, bôi đầy bi-ăng-tin Miss Dahlia mới kéo cho tóc nằm ngoan ngoãn. Áo kaki là thẳng nếp và khi đi ngang qua nghe mùi xà phòng Evening in Shanghai. Hành quân tảo thanh mà trí óc phảng phất giọng ca Lệ Thanh, Connie Francis. Ngồi làm báo cáo giữa hai khói thuốc mơ màng nghĩ đến Blaise Cendrars, Nơbokov. Chưa có người con gái nào chít khăn để tang anh. Người yêu của anh chưa thành đàn bà . Thế là nàng còn nguyên vẹn để xông vào vòng cạnh tranh với tôi. Trong vài đoạn cáo phó, có tên những người vợ đọc lên nghe êm đềm ghi sau tên người quá cố, những là Nguyễn Thị Lệ Thu, Trần Kiều Nga,… không có tên con ghi ở sau. Địch thủ nguy hiểm! Thiếu nữ không dễ ăn qua góa phụ trẻ chưa con. Người đàn ông khó thoát lưới của những đàn bà trẻ có kinh nghiệm về tình ái. Thân hình nở nang làm mát những cặp mắt và vỗ về, nuôi dưỡng trí tưởng tượng. Đàn bà bạo dạn hơn thiếu nữ. Không biết đi lui, chẳng cần chạy chốn. Đàn ông thời bây giờ ít kiên nhẫn. Được hay không, họ nóng biết kết quả để kịp xoay sang chiến trường khác. Lối viết thư tình tẩm nước hoa và gửi đều đặn cho “nàng”, lối ấy chỉ còn dành cho những cậu con trai có tật nơi mắt hoặc mắc bệnh suyễn kinh niên, bệnh hắc lào. Đàn ông bây giờ đớp đàn bà nhanh như lũ ăn cắp ở Đô thành đi Vespa giật xắc của người đi đường rồi rồ ga bỏ chạy. Góa phụ có từ ba con không đáng sợ. Họ chỉ bị đàn ông lợi dụng thôi. Khi đã tìm được một cô vợ trẻ đẹp, giàu rồi thì người đàn ông khéo đưa ông thầy bói ra để đoạn tuyệt. Chẳng hạn:

                            - Ông thầy Huyền linh Tử bảo anh tuổi Tý sinh tháng Giêng là phạm tháng Cô Thần. Còn em tuổi Dậu sinh tháng Sáu thì nhằm Quả Tú.

                            Nam phạm Cô Thần thê ly biệt.

                            Nữ phùng Quả Tú độc phòng trung

                            Thế là hết lý lẽ để bào chữa. Đàn bà chớ dại cho đàn ông biết ngày giờ sinh của mình. Để phòng khi bị phản bội.

                            Tóm lại, dù có tính đi tính lại thì số đàn bà vẫn thừa. Đã thế, lũ đàn ông còn sống lại nhát lấy vợ. Luật gia đình làm cho họ sợ. Từ ngày có luật ấy người con trai nào cũng nghĩ rằng mình sẽ bị cắm sừng, phải chạy tiền cấp dưỡng vợ mình và đứa con của vợ mình. Nó trở thành một ám ảnh. Bên cạnh những công thức Toán học, Hóa học, trong óc người con trai lởn vởn thêm những đẳng thức mới: vợ = cặp sừng; ly thân = năm ngàn đồng trợ cấp mỗi tháng. Hại uy tín của phụ nữ ghê lắm mà người làm luật đâu có biết. Cuộc đời quân ngũ còn làm người con trai coi thường đàn bà. Anh hùng mà! Ngày chưa đi Thủ Đức, anh Trần quanh quẩn cạnh mấy cô bạn, hết chép nhạc tặng, đến vẽ hộ kiểu gối thêu mặc dù chẳng cô nào thêu gối. Áo gối thêu máy tám chục đồng một cặp, mua bao nhiêu cũng có. Sau chín tháng ở Thủ Đức về, sau một năm lăn lộn ở chiến trường miền Tây, anh già từ da mặt đến tâm hồn. Lúc nào cũng như toan tính xuất quân ra trận, thu dọn chiến trường, ân thưởng Bảo quốc huân chương, vinh thăng Thống tướng. Quên cả đàn bà!

                            Tôi 32 tuổi rồi. Phải lấy chồng để chỗ cho con em kề tôi nó làm người lớn. Em Huệ đã 25 tuổi. Người giáo sư dạy nó năm kia vừa đánh tiếng đi hỏi nó. Đột nhiên tôi thành ra già đi, vì nó. Thương em, yêu em mà không khỏi có chút ít ganh tị với em. Người con gái Tây phương lấy chồng nhiều khi vì phòng tắm ở nhà quá hẹp mà chị em thì đông. Đợi hàng giờ mới đến lượt mình tắm táp, đánh răng, chải tóc. Mong lấy chồng cho xong để có được một phòng tắm rộng, sử dụng một mình. Người con gái Đông phương lấy chồng nhiều khi chỉ cốt để tránh cảnh phải ngủ chung một giường đến ba chị em. Đứa này lăn qua cạ vào lưng đứa kia, làm mất giấc ngủ lẫn nhau. Đứa nằm ngoài thò tay thò chân ra ngoài màn khiến muỗi chui vào từng bầy đốt lấm tấm cả mặt. Đập muỗi suốt đêm. Cha mẹ tôi khá giả, mỗi đứa được nằm riêng mỗi giường có nệm mút, chỉ phiền cái lược mỗi khi tìm đến để gỡ tóc là cứ biến đâu mất. Cây bút chì nguyên tử xanh để viết thư cũng vậy. Con gái lớn bốn đứa, mỗi người sản xuất trung bình bốn cái thư. Bút chì BIC lên giá hai mươi đồng một cây, mới mua đó đã thấy cạn mực, mực chảy ra từng vũng nhầy nhụa. Có lúc viết được nửa cái thư rồi vừa rảy vừa cào, chỉ thấy dấu bi hằn lên giấy. Cãi nhau rồi đổ lỗi cho nhau:

                            - Em mới thấy con Lan viết thư hồi nãy, viết gì đến bốn tờ giấy manh đặc sệt cả chữ. Phải dán bốn đồng bạc tem mới đủ.

                            - Đâu phải vì bốn tờ giấy manh đó mà hết mực? Hồi sáng chị Huệ ngồi viết hàng nửa giờ. Viết thư mà phải viết nháp trước mới tốn mực đến vậy.

                            - Viết nháp trước hay không là tùy đối tượng. Nếu viết cho một anh thơ ký công nhật thì tội gì tao phải viết nháp?

                            - Em biết rồi, chị khỏi cần nói mỉa em. Nhưng một chứng chỉ thì cũng đến làm thư ký công nhật là cùng nếu chưa bị động viên đi Thủ Đức. Chị quên rằng năm kia Công quản Chuyên chở Đô Thành cần bốn người bán vé xe mà có đến hàng chục anh tú tài đâm đơn xin.

                            Một cái gối ném vung tới. Một cái gối ném trả lại. Tôi phải đóng vai hòa giải. Rồi cuối cùng lại phải tự mình đạp xe ra đầu phố mua cái bút nguyên tử mới.

                            Quả tình là Thọ không những không đẹp mà còn thua xa mức trung bình. Mỗi lần bất chợt nhìn vào ảnh Thọ tôi đều mỏi mệt mà kết luận như vậy. Nhưng sự chán nản của tôi không đến nỗi to lớn như khi tôi nhìn bức ảnh lần đầu. Cái gì rồi cũng quen đi. Tôi còn hy vọng rằng ngoài thực tế Thọ có thể có duyên hơn ở trong ảnh. Trường hợp này ít khi xảy ra. Thường thì người nào cũng chỉ đẹp bằng bảy phần mười so với bức ảnh chụp bán thân của họ. Chỉ trừ bức ảnh trong thẻ kiểm tra bọc nhựa là mới thật sự khiêm tốn mà thôi. Tuy vậy tôi cũng phải mong rằng ngoài thực tế Thọ có thể có duyên hơn. Con người ngoài thực tế với giọng nói với nụ cười, với tia mắt nhìn, với cách đưa tay, với tư thế ngồi… thường dễ gây mỹ cảm nơi người đối diện. Tôi có một tật xất là mỗi khi nhìn những tấm ảnh quảng cáo trích ở cuốn phim đang chiếu thì không còn thích xem phim nữa. Bức ảnh khô khan, vô duyên, nhiều khi trơ trẽn nữa nếu nhìn lâu. Khi xem thẳng trong phim thì thấy cũng hình ảnh đó nhưng mà nó dịu dàng linh hoạt dễ thương làm sao. Đọc trước truyện phim, dẫu đã lo xa để dành đoạn chót không đọc đến nhưng vẫn mất hứng thú không muốn đi xem nữa. Truyện nào thì đại khái cũng như nhau, có cái khác nhau thì lại không nói được. Chẳng hạn một lời đối thoại. Chẳng hạn một cánh bướm vụt bay lên từ cái lá cỏ. Chẳng hạn một tiếng thổn thức xảy ra đúng lúc. Vâng, tôi đợi gặp mặt Thọ như đợi lúc trực tiếp ngồi trong phòng tối đem trọn tâm hồn mình thưởng thức cuốn phim lần lượt chiếu trên màn ảnh.

                            Tôi dành hai giờ để viết trả lời chị Hiền một bức thư không dài quá một trang. Lời lẽ thật hết sức hòa nhã vui vẻ. Ngôn từ dùng mãi biến tính đi nhiều, rốt cuộc nó không còn biểu diễn đúng cái ý nghĩa nguyên thủy của nó nữa. Nhất là những tĩnh từ và trạng từ. Tôi chọn một số chữ biến tính ấy để sự tìm hiểu của chị Hiền trượt lên chúng.

                            Ngày lễ Phục sinh, chị Hiền đưa Thọ đến gặp tôi. Ba tôi tiếp chị Hiền và Thọ ở phòng khách đợi tôi có đủ thì giờ trang điểm rồi lấy cớ rút lui nhường chỗ cho tôi. Ba tôi ít nói. Nhìn vẻ ngoài thì ông như không để ý đến việc gì, vật gì xung quanh ông cả, nhưng mà động hỏi cái gì ông cũng biết. Dường như chẳng có gì lọt qua được mắt ông.

                            Thọ ngồi không yên chỗ. Hay quay qua quay lại. Có lẽ số tuổi trên đầu còn ít chưa đủ sức nặng để làm thân Thọ đằm xuống. Như một chiếc ghe chở ít hàng hóa, cứ chao đi chao lại trên sóng. Tôi thích một người đàn ông có dáng ngồi chững chạc hơn. Má biết tính tôi nên hay nói đùa:

                            - Mày đúng là “con nhà lính mà tính nhà quan”. Nhà nghèo mà muốn lấy chồng Tổng trưởng.

                            Tôi cười trả lời:

                            - Đâu có phải ông Tổng trưởng nào cũng có dáng ngồi chững chạc?

                            Có cái gì thừa nơi khuôn mặt của Thọ. Chắc là đôi môi quá dầy. Màu da tối. Tôi tưởng tượng ngay, một cách tự nhiên là khuôn mặt ấy sẽ kề sát mặt tôi và đôi môi ấy hôn tôi. Tôi rùng mình. Phải chấp nhận tình yêu với miễn cưỡng vậy sao?

                            Sau khi được chị Hiền giới thiệu, Thọ mở lời:

                            - Lễ Phục sinh cô Loan không đi nghỉ mát.

                            - Dạ thưa không

                            - Ở đây nóng.

                            Thọ chứng minh rằng ở đây nóng bằng cách giật giật nhiều lần vạt áo sơ mi. Tôi lại mở quạt trần. Tôi nhìn bóng tôi trong chiếc gương lớn, so sánh với bóng chị Hiền. Tôi đẹp hơn chị Hiền. Điều này làm tôi vững lòng tin tưởng vì anh Doãn chồng chị Hiền khá trai và có địa vị. Ít nhất tôi cũng hy vọng lấy một người chồng như anh Doãn.

                            Thọ nói chuyện thời cuộc năm châu. Loại chuyện này dễ thành nhàm và sáo như tách nước trà tôi đón nhận mỗi lần đến thăm nhà ai, tách nước do người ở bưng từ nhà sau lên. Nhàm nhưng vẫn cần phải có. Chán hết sức là những công thức. Tôi ít trả lời được gì bởi vì những điều tôi sắp nói tôi tưởng như người ta đã biết hết rồi. Mỗi ngày phải nghe nhiều lần những điều đó ở tờ báo hàng ngày, ở phần tin tức của đài phát thanh Trung ương, ở phần bình luận và câu chuyện buổi trưa, buổi tối, ở đài phát thanh địa phương. May mà ba má tôi không gặp lại giữa bữa ăn.

                            Chị Hiền đối thoại với Thọ chu đáo hơn tôi, do đó tôi có thể ngồi nhìn Thọ một cách tự nhiên. Tôi cố vỗ về cho mắt tôi quen với gương mặt Thọ. Chấp nhận Thọ. Người ta hay nói “Yêu nhau là cùng nhau nhìn về một hướng”. Nhìn về một hướng thì có lợi là khỏi nhìn lẫn nhau, quên tìm những khuyết điểm của nhau. Nghe tiếng trẻ bán báo rao báo mới, Thọ xin phép ra cổng gọi mua tờ báo quen của anh. Còn lại trong phòng có chị Hiền và tôi, một lọ hoa lay ơn trắng, mặt ghế xa lông phủ vải hoa, rèm treo cửa màu nhạt. Và sự thoải mái dễ chịu. Tâm hồn tôi suýt chao đi, xót xa như vừa mang những vết cắt vô hình. Sự vắng mặt bất ngờ của Thọ trong giây lát làm tôi thấy nhẹ nhàng. Tôi đã ngẫu nhiên nhìn rõ được trong nếp sâu của tâm tư tôi. Tôi nên trả Thọ cho cái thành phố của chị Hiền. Phải dành lại cho tôi cái không khí thoải mái hiền hòa của căn phòng khách nhỏ này.

                            Sau ngày chị Hiền và Thọ đến thăm, tôi sợ người đưa thư. Tôi sợ phải gặp nét bút của chị Hiền hỏi ý kiến dứt khoát của tôi về Thọ. Tôi sợ nói sự thật, còn nói dối thì không quen. Ở nhà má không sai tôi đi chợ đi phố, khỏi phải mặc cả mua bán nên không thường nói dối. Tôi trông mong sự việc qua đi, như chưa hề có một sự gặp gỡ, chưa có một sự dự định nào hết. Tuy vậy, tôi vẫn không ngớt lẩm nhẩm sắp xếp trong óc những đoạn thư để trả lời cho chị Hiền. Thật là khó tìm cớ. Không thể bảo rằng má cứ khóc không muốn xa con. Bốn cô gái ở tuổi lấy chồng chớ đâu phải chỉ có một. Nhiều con gái ở tuổi lấy chồng, đó không phải là thứ huân chương để người mẹ hãnh diện. Lo thì lo nhưng mà vẫn chưa tìm được cớ gì để chuẩn bị. Thỉnh thoảng tôi nhớ lại cuộc hội diện với Thọ. Tức thì một không khí nặng nề ùa đến, đâm sầm bao vây lấy tôi, những bứt rứt rỉa rói như có hàng vạn mũi kim châm tới. Tôi phải vội lẩn tránh bằng cách mở đọc một đoạn truyện nào đó ở trang 3 của tờ báo hàng ngày hoặc vặn nút ra đi ô để nghe cái gì cũng được: cổ nhạc Trung phần, phụ nữ với gia đình, tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển…

                            Suốt ba tháng không có thư của chị Hiền. Rồi bỗng vào một lúc không ngờ hơn hết, tôi nhận được thư chị. Bức thư khá dày làm tôi hồi hộp. Mắt tôi chạy nhanh qua những đoạn thăm hỏi nhớ nhung, những đoạn nói về khí hậu và tả cảnh. Đây rồi, chủ điểm của bức thư:

                            …….

                            “À, Loan còn nhớ cái thằng khỉ Thọ không nhỉ? Nó về rồi cút luôn không đến nói gì với mình hết. Sau đó nghe nói nó đi hỏi cô Tuyết con gái ông chủ Kho Bạc ở cùng phố với mình. Cô này đẹp lắm, đỗ chứng chỉ Cử nhân Luật năm thứ hai và tính nết rất dễ thương. Chả biết tại sao cô ấy lại thương được thằng Thọ. Tháng sau đám cưới.”

                            …..

                            Quả tình là con trai khan hiếm. Trên thị trường giá đàn ông con trai có thể lấy vợ tăng lên nhiều. Tôi đang lo không biết nên từ chối Thọ như thế nào thì không ngờ chính Thọ từ chối tôi trước. Người ta tranh giành nhau cả những người đàn ông xấu trai. Trên chiến trường, họng súng đen ngòm lăm lăm nhả đạn vào sọ, vào óc những người đàn ông khỏe mạnh. Ở đô thị, đàn bà nối đuôi đi vào hiệu uốn tóc, sửa da mặt, tẩy vết tàn nhang. Phải tranh giành những người đàn ông còn sót lại.

                            Cuộc đời chỉ đẹp trong người ngày còn cắp sách đi học. Không bận tâm lo nghĩ. Lòng tin tưởng cứ vụt phóng tới trước như con ngựa sung sức không chịu dừng chân. Thi đỗ. Làm việc nhiều tiền. Có người chồng xuất chúng. Sinh những đứa con đẹp như trong tranh vẽ. Nhưng con ngựa bất kham không chịu dừng lại ở lằn mức đó. Tôi còn tưởng tượng tôi say mê trong phòng thí nghiệm, nghiên cứu, tìm tòi. Phát minh ra những công thức mới. Điều chế ra những hợp chất mới. Phải chinh phục. Phải luôn vượt lên, tiến tới. Tôi còn tưởng tượng tôi là một họa sĩ hữu danh. Một văn sĩ có tài. Một nhạc sĩ. Trí tưởng tượng chắp những đôi cánh rộng, bay mãi không biết mệt. Nhưng lần lần cuộc đời nặng nhọc và tầm thường níu kéo tôi trở lại, đè bẹp tôi xuống. Tôi không thoát khỏi nanh vuốt của nó. Phải âu lo và chỉ còn hy vọng trong một chu vi hữu hạn. Chu vi ấy càng ngày càng thu hẹp kích thước. Tôi có thi đỗ thật nhưng đỗ không cao lắm. Tôi đi làm thật nhưng công việc chỉ tầm thường ở một bàn giấy vô nghĩa. Người ta vạch sẵn những con đường cho tôi đi. Những nghị định, những qui chế, những thể lệ bao phủ tôi mỗi ngày một đầy thêm và tôi loay hoay động chạm vào chúng thường xuyên như đi giữa khu rừng rậm phải chạm vào những thân cây. Chúng tạo thành bầu trời, thành vũ trụ của tôi. Thật là thảm thương khi tâm hồn con người không bay thoát ra được cái bầu trời, cái vũ trụ bé nhỏ nghẹt thở ấy. Con đường đã vạch sẵn! Con đường đó dẫn tôi đi gặp người phát ngân viên mỗi cuối tháng, đi đến quỹ hưu bổng khi những vết nhăn chân ngỗng cày đậm lên hai khóe mắt. Con đường bất dịch. Những ước mơ, cuộc đời lý tưởng đang bỏ rơi tôi, bất lực, bơ vơ như ánh nắng mặt trời sắp bỏ lại cho đêm tối cái vũng nước hồ mọc đầy lau lác. Xa rồi buổi bình minh có ánh nắng đùa trên gợn nước, hoa dại rung rinh và lảnh lót chim ca. Tôi đã cố gắng hết sức mình. Tôi đã vội vàng. Nhưng cuộc đời dẫu của tôi mà không phải hoàn toàn tùy thuộc nơi tôi và trái đất xoay chuyển nhịp nhàng theo quỹ đạo không vì tôi mà quay chậm một ngày. Tôi đã 32 tuổi rồi. Bắt đầu ghét quyển lịch năm 30 tuổi. Lịch Paramount, lịch Toshiba, lịch Esso, lịch Chợ Lớn… tất cả đều a tòng vào nhau để vò xé tâm hồn người đàn bà. Không thể lầm lẫn được thời gian khi ở mọi bức tường, những tờ lịch mang chung một con số.

                            Một hôm trên đường đi làm về tôi gặp chị Trường. Từ ngày vị hôn phu của chị bị đạn chết trong cuộc hành quân Bình Lâm, tâm hồn của chị đắng lại. Chị không đi dạo phố, ít đi xi-nê. Mái tóc bin-đinh cao nghễu kiểu cách đã dỡ xuống, trở lại là mái tóc bẹt bình thường. Ba mươi sáu tuổi mới yêu được một người thì vội vã chiến trường cướp mất người yêu. Bây giờ, ngoài thì giờ trông hàng cho mẹ, chị đọc tiểu thuyết đủ loại và viết thư cho đài phát thanh yêu cầu nhạc và nghe nhạc yêu cầu. Chị nói:

                            - Ngày trước, mình không thích những giờ nhạc yêu cầu. Mỗi lần nghe xướng ngôn viên đọc một tràng tên thính giả yêu cầu kéo dài hàng phút đồng hồ mình phải lật đật vặn nhỏ máy phát thanh lại. Mình chỉ cần nghe nhạc. Viết thư yêu cầu nhạc mình cho là chỉ có những cô nữ sinh 15,16 tuổi ăn ở không và thỉnh thoảng là những ai muốn nhắc người yêu nhớ đến tên mình.

                            - Tại chị bi quan nên mới nghĩ vậy - tôi nói.

                            - Bi quan thì trước sau mình vẫn bi quan. Có điều từ ngày anh Nghiêm mất, mình đã thay đổi quan niệm. Ngày xưa anh Nghiêm mỗi lần gọi tên mình đều gọi cả chữ lót: Xuân Trường. Anh nói giọng Bắc. Cô xướng ngôn viên ở đài, giờ “Nhạc yêu cầu” cũng nói giọng Bắc, giọng nói ấm áp có điểm gì giống giọng của anh Nghiêm. Mình thường xuyên viết thư yêu cầu nhạc để mỗi tối thứ ba nghe một giọng nói nhắc đến tên Xuân Trường, mình tưởng tượng nghe lại giọng nói của anh Nghiêm.

                            Chị mơ màng đưa mắt nhìn ra xa. Một lát chị tiếp:

                            - Mình tuyệt vọng…

                            Tôi làm một cử chỉ gượng níu. Như đứa trẻ sắp trượt xuống dốc nên níu một chòm cỏ, một cành cây. Vì tôi cảm nghe như tiếng đó, tiếng “tuyệt vọng” của chị Trường vang lên trong tôi như tiếng dội nơi một hang núi thẳm sâu. Tôi đã ba mươi hai tuổi.
                            #14
                              hai1957 26.11.2012 17:01:35 (permalink)
                              2. HAI NGƯỜI ĐÀN ÔNG



                              Sài gòn ngày 7 tháng 6 năm 1965

                              Em

                              Chiều hôm nay trời ráng đỏ suốt cả một vùng rộng lớn ở phương Tây. Màu đỏ chói rực rỡ vào phòng tưởng như đâu đây có một đám cháy lớn. Anh đưa mắt nhìn ra sân, nhìn lên từng mảnh da trời cắt vụn bởi những cành cây và lá cây. Hàng khuynh diệp đứng lặng yên cam phận trong vị trí dành cho mình và thản nhiên không tỏ ra một chút xao xuyến. Anh thu mắt nhìn về căn phòng của mình. Mấy nhân viên chú ý vào công việc, thu hẹp không gian sinh hoạt của họ trong một khoảng rất nhỏ: tập hồ sơ dưới tay, cái máy đánh chữ trước mặt. Như những hàng cây, họ cũng thản nhiên không tỏ ra một chút xao xuyến. Một hiện tượng thiên nhiên như vậy thật quá đỗi thường, không xúc động được ai hết. Nhưng mà anh thì xót xa cơ hồ như ngón tay nào chạm nhẹ vào một sợi thần kinh của mình. Anh nhớ đến em.

                              Lần chót em đến thăm anh, em còn nhớ không, chúng ta ngồi cạnh nhau ở dưới giàn nho trên sân thượng. Em nói:

                              - Chúng ta đang ngồi gần trời. Và xa cách hẳn với mọi người xung quanh. Khi nào dư tiền, anh gắng xây thêm một từng lầu nữa, một từng lầu nữa và chúng ta sẽ ngồi cao hơn, cao hơn, cho gần trời hơn. Em có cảm tưởng càng ngồi ở trên cao, tình yêu sẽ càng trong trẻo và trọn vẹn. Như không khí ở trên từng cao không còn vẩn đục vì bụi bặm, thán khí và tiếng ồn.

                              Anh trả lời:

                              - Như vậy, tình yêu đòi hỏi quá nhiều tiền và tiền sẽ làm ta càng bị ràng buộc quá mật thiết với nhân loại xung quanh. Sao em không nghĩ đến một giải pháp đơn giản hơn? Là chúng ta lên ngồi ở trên một chỏm núi chẳng hạn.

                              Em đưa mắt tìm về một chỏm núi và anh cũng làm theo. Chính lúc đó chúng ta mới cùng để ý rằng da trời chiều nay rực rỡ một màu vàng chói lọi. Lá cây, tường nhà, mặt đường cho đến da mặt em cũng được phết lên một lớp ánh sáng vàng. Em “ồ” lên ngạc nhiên. (Em có một lối biểu diễn cảm xúc, nhanh nhẹn và háo hức, em có biết không? Tâm hồn em như một cây kim nhỏ dễ dàng rung động mà mọi sự vật xung quanh là những viên đá nam châm có hấp lực mạnh, em có biết không?) Đôi mắt mở rộng và đôi hàng lông mày dài vòng cung lên. Em nói:

                              - Đẹp quá anh nhỉ? Nhân loại buổi sơ khai hẳn phải chắp tay run trước một hiện tượng huy hoàng như thế này. Đêm tối lạnh lẽo hãi hùng sắp chụp lên con người và ở nơi nước Thiên đàng, Cực lạc đó đèn nến thắp lên sáng trưng rực rỡ.

                              Em đang bước trước anh, bỗng ngừng lại:

                              - Ráng này mà anh bảo nắng sao? đó là ráng mưa đó. Không ngày mai thì ngày kia, trời sẽ mưa.

                              - Chắc không?

                              - Chắc chắn lắm. Để rồi anh xem.

                              Thật khó có thể tưởng tượng rằng trời đang nắng to như thế mà chỉ một ngày sau là tưới xuống cơn mưa âm u ướt át. Nhưng thực tế lại đúng như lời em tiên đoán. Đêm đó nóng ngốt hết sức. Sáng hôm sau mặt trời ngủ dậy trễ. Mây đóng từng lớp dầy khiến không khí đục lại. Bầu trời thấp và buồn. Buổi trưa gió chuyển mát, mang theo hơi nước. Buổi chiều có sấm. Mưa bắt đầu từ khuya như để trốn tránh sự dò xét của người và để đủ thì giờ chuẩn bị chu đáo. Mưa đổ ào ào trên mái ngói đánh thức anh dậy. Anh đi sang phòng em, gọi em để chỉ nói có mấy tiếng:

                              - Trời mưa thật rồi em ạ.

                              Ba năm đã qua, kể từ ngày đó. Em xa cách anh, mỗi ngày mỗi xa thêm nhưng anh quyết chắc rằng cho dẫu xa cách đến mức nào thì ít nhất mỗi năm đôi lần anh phải nhớ đến em. Đó là vào những khi có ráng đỏ rực ở chân trời. Lần nào cũng vậy, có ráng đỏ là y như có mưa, cơn mưa rơi xuống quen thuộc thân tình, y như là cơn mưa của mình, do mình mà có. Bao nhiêu lần đoán đều không sai nên vào những trường hợp như vậy anh liền nhớ đến em, người đã dạy anh bài học thực nghiệm về khí tượng đó. Kỷ niệm giữa hai người thân quả là thiên hình vạn trạng: có khi là một màu hoa, một mùi hương, có khi là một giọng nói. Em ao ước chúng ta được ngồi cạnh nhau ở gần trời. Cuộc đời chỉ cho phép chúng ta thực hiện được một trong hai điều mong thôi: đó là anh cảm thấy gần trời với em trong những buổi chiều như thế nào, nhưng vĩnh viễn không chắc là có thể ngồi cạnh em được.

                              Hồi tưởng lại ngày chúng ta bắt liên lạc được với nhau sau rất nhiều năm xa cách, anh thấy như sự việc vừa xảy ra gần đây thôi. Ngẫu nhiêu trong một câu chuyện trao đổi với bạn quen cũ mà anh được biết rằng em hiện làm việc ở Quảng tín. Anh lại được biết rằng em đã lấy chồng và góa chồng bốn tháng sau ngày cưới. Lấy chồng thời chinh chiến thường khó lòng mà thực hiện được lời cầu chúc ghi trong danh thiếp hay trong điện tín gửi mừng “Bách niên giai lão… Loan phượng hòa minh” là tiêu chuẩn của thời bình. Chiến tranh dai dẳng tạo điều kiện cho con người bình đẳng với nhau trong niềm đau khổ. Gia đình nào cũng có những lỗ thủng lớn: hoặc là người chồng, người cha, hay người con ra đi không về. Những người đàn bà chơ vơ trong cuộc tranh đấu cam go với cuộc đời. Chiến tranh lan rộng, đời sống đắt đỏ, đi lại khó khăn, an ninh không bảo đảm… đó, những chặng cam go khúc khuỷu trên đoạn đường còn lại phải đi.

                              Anh được địa chỉ của em, vội vàng viết thư cho em. Em mừng rỡ trả lời. Chúng ta bấu víu vào mọi cây cọc may mắn gặp được trên dòng sông chảy xiết. Sống giữa chiến tranh là đi thuyền nan trên một dòng sông chảy xiết, có nhiều hẻm vực và đá ngầm. Thừa dịp nghĩ lễ em đến thăm anh. Chiếc ô tô nhà đậu ở trước cổng và em bước xuống. Cháu Cường cầm tay em. Em gầy đi so với ngày chúng ta chia tay. Da mặt mất đi màu trắng mát. Em vội vã giải thích khi anh ra đón trước sân:

                              - Xe nhà của anh Quyền, Phó tỉnh trưởng. Quyền bảo tài xế đưa em đi tìm địa chỉ của anh.

                              Trong ngót một giờ đầu tiên gặp gỡ, em chỉ toàn nói đến anh Quyền, về sự sang trọng của anh Quyền.

                              - Anh Quyền là bạn cùng khóa với nhà em. Hồi còn làm chung ở Hiến binh Gia Định, chúng em và gia đình anh Quyền ở sát cạnh nhau.

                              Tất cả những chi tiết về quá khứ, về cái chết của Lãm (chồng em), em lật đật kể cho anh nghe chỉ vì cần chứng minh rằng Quyền không hơn gì chồng em hết. Thế mà bây giờ Quyền sung sướng dường đó.

                              - Nếu nhà em đừng bị tai nạn ô tô thì bây giờ nhà em cũng làm lớn như Quyền, lớn hơn cả Quyền nữa vì nhà em có bằng cấp cao hơn.

                              Anh thấy tội nghiệp cho em hết sức. Nhắc đến chồng không phải vì thương xót u hoài mà chỉ vì một nỗi ấm ức không nuốt trôi được. Ấm ức mà vẫn phải ghé lại nơi gợi ra ấm ức, hỏi còn có hình phạt nào nặng hơn không?

                              - Nhà em vừa nhận được nghị định thăng cấp bậc đại úy thì bị tai nạn. Thật vô lý. Trời mưa… đường trơn… thắng không ăn… Chỉ có vậy. Trong giờ hấp hối, nhà em vẫn tức là sao mình không chết ngay hồi còn ở mặt trận, lại để chết chi bởi một tai nạn lưu thông tầm thường. Anh có thấy thế không?

                              Thành thật mà nói thì anh không thấy thế nhưng anh không nỡ trả lời vậy. Anh chỉ vừa gật đầu vừa đẩy tách trà lại gần em.

                              Em lại mê mải nói về vợ chồng Quyền.

                              - Chị Quyền bây giờ béo trắng ra. Ở đây khí hậu tốt, ăn uống sung túc lại có nhiều kẻ hầu người hạ. Chị vừa mua cái vi la ở đường Duy Tân giá tiền một triệu hai trăm ngàn.

                              - Chóng giàu nhỉ?

                              - Gặp được thời thì mau giàu lắm. Bốn đứa con của chị đều học ở trường Pháp hết.

                              Dù không muốn, anh cũng mệt theo câu chuyện của em. Đầu anh xoay vòng theo ba chị đầy tớ gái lúi húi lau nhà suốt cả buổi sáng. Tai anh rộn lên vì những hiệu lệnh chị Quyền ban phát cho đủ cấp gia nhân của chị.

                              - Bác tài đi đón em Hùng em Tuấn ở Lycée (1 ) em Trang ở trường Soeur (2 ), ghé lại Air Việt Nam (3 ) để nhận hoa tươi rồi lại rước bà Bác sĩ Thọ để cùng đi dự hội nghị ban chấp hành hội Từ thiện… Chị vú nhớ bôi thuốc đỏ cho em… chị bếp nhớ chiều mua thêm bơ… thằng nhỏ nhớ đi gọi bác thợ đến sửa lại cái cửa tủ lạnh…

                              Chị Quyền quả thật đang bơi trong sự sung túc như em nói nhưng còn em, anh muốn em được bơi trong một sự thoải mái tâm hồn. Em quên không nói chuyện về cháu Cường nếu anh không nhắc. Anh hỏi Cường đã được mấy tuổi rồi và em chợt nhớ ra là em đến đây không phải một mình. Nhưng em lại kể lể:

                              - Cường lên bốn rồi đó anh. Nếu còn ba cháu thì em đã cho cháu vào vườn trẻ của mấy bà Charité. Con không cha thì phải chịu thua kém người ta…

                              Cường không giống em một nét nhỏ nào, đó là điều thiệt thòi cho cháu. Có một người mẹ đẹp mà Cường không thừa hưởng được gì. Mấy lần em đi phố một mình gửi Cường ở nhà với anh, anh thẩn thơ dắt Cường đi trong vườn và êm đềm gợi chuyện. Có bận anh hỏi:

                              - Cường năm nay mấy tuổi?

                              - Cường bốn tuổi

                              - Tuổi con gì, Cường có biết không?

                              - Tuổi tý, con chuột

                              - Cường có thương má không?

                              - Có

                              - Thương ba không?

                              - Có

                              - Cường còn thương ai nữa?

                              - Cường thương cậu Hòa, cậu Thịnh, cậu Cang, cậu Tân…

                              Đứa trẻ mồ côi cha bao giờ cũng có nhiều cậu. Đó là những người có cảm tình với má nó và má nó có cảm tình. Cường cũng gọi anh bằng cậu. Chính em viết thư khoe với anh:

                              “Cường cứ đòi mẹ dẫn về Sài Gòn thăm cậu Thái. Lâu lâu Cường hỏi: cậu Thái có viết thư cho mẹ không?”

                              Anh nghĩ mông lung đến sự dối trá của những danh từ. Đến một ngày nào Cường bắt đầu hiểu biết thì cháu sẽ nghĩ sao về những chữ “cậu” mà cháu đã ban phát cho nhiều khuôn mặt. Cháu sẽ mất người mẹ của cháu cho một trong số các “cậu” đó. Cháu sẽ thù người “cậu” thắng trận và những người cậu bại trận cũng bị thù lây. Như trong việc tổng kết phân loại về kế hoạch, các vật có chung đặc tính được xếp chung vào một bộ, nhiều bộ có chung đặc tính được xếp chung vào một lớp, nhiều lớp vào một ngành.. vân vân.. họ “cậu” biến thành thù nghịch vì có chung đặc tính với người cậu thành công.

                              Nghĩ đến đây, anh bỗng thấy thương hại cho Cường vừa không an tâm cho mình. Đứa bé ngây thơ dịu dàng trước mặt anh đó, đứa bé vâng lời kề mũi lại gần để hôn lên má anh, đứa bé ấy một ngày kia sẽ thành chàng trai vạm vỡ tóc bỏ lòa xòa trước trán, đi giày đơ-mi-bốt và lăn xả vào đấm đá với kẻ khác để dành người yêu. Người mẹ xa cách nó, chỉ còn “mẹ” có một nửa vì một nửa tâm hồn đã dành cho “cậu”.


                              (1) Trường Trung học Pháp.
                              (2) Trường của các nữ tu Thiên Chúa.
                              (3) Hàng Không Việt Nam



                              Cường đang chạy đuổi theo một con dế. Con dế nhảy từng nhảy tới tấp, chui trốn xuống hang. Cường vạch lá, bới cỏ sục sạo tìm cho được. Khi anh đi lại can thiệp thì một càng dế đã nằm giữa hai ngón tay của cháu. Sự việc xảy ra buổi chiều làm tối đó anh không được vui. Anh đưa em đi xi-nê mà tâm hồn để đâu đâu, thậm chí quên cả việc mua theo gói kẹo mặc dù cô hàng kẹo ngồi ngay ở cửa rạp. Chúng ta đã chọn một phim ca vũ nhạc với tình tiết và lối bố cục nhảm nhí rẻ tiền. Cái gì cũng được giải quyết êm thấm, toàn hảo; những dịp may rủ nhau đến theo kiểu “trúng số độc đắc cá cặp”. Cuộc đời thật nhất định không thể giống cái xã hội tô màu hồng lòe loẹt này. Anh mới thử bước một chân tới gần em mà khó khăn đã vội vàng do dự tưởng dựng lên. Dự tưởng và thực tế chắc còn cách nhau xa. Dự tưởng chắc chỉ trù liệu được một phần tư, một phần năm thực tế.

                              Sau khi mãn tuồng, anh đưa em đi ăn khuya ở Lạc Cảnh. Em vừa khuấy thìa vào bát cháo vừa nhắc đến những ngày kháng chiến chúng ta ăn cơm pô-pốt (4 ) ở Phú Hòa, cơm gạo đỏ và canh “toàn quốc” (nghĩa là canh chỉ toàn những nước, quơ đũa mãi mà không tìm ra được miếng thịt). Em hỏi:

                              - Sao lúc ấy anh thờ ơ với em thế?

                              Anh trả lời là tại lúc bấy giờ em đẹp và có nhiều người con trai chu tuần xung quanh em. Anh không muốn rằng trong tình yêu cũng phải lao mình vào vòng chiến đấu như trên chiến trận. Đánh giặc lớn đã mệt rồi, còn tạo thêm chi một trận giặc nhỏ cho mình.

                              Em cười hỏi:

                              - Thế sao bây giờ anh không thờ ơ với em nữa?

                              Anh nhìn em giây lâu không nói. Câu trả lời không thể biểu diễn bằng tiếng nói vì tiếng nói bất lực và dùng mãi hóa nhàm. Nếu không có người ngồi xung quanh thì anh đã hôn lên đôi môi em để thay câu trả lời, để cho xứng đáng với câu em hỏi, với tấm lòng tràn trề tin tưởng của em gửi trong câu hỏi. Tình yêu quả có năng lực biến đổi con người cho trở nên ngây thơ đến độ vụng khờ. Em đoán trước anh sẽ trả lời như thế nào, thế mà em vẫn cứ hỏi. Anh bâng khuâng lo lắng trước niềm tin tưởng đó của em.

                              Cường nó sẽ lớn. Sẽ có hai người đàn ông giành nhau xâu xé em. Em không thể bênh một người nào và lẽ phải không giống như một cái bánh có thể dùng con dao cắt chia đôi, giao cho mỗi người một nửa. Em cần tình yêu của cả hai người và em muốn giữ trọn họ trong hai vòng cánh tay của em. Nhưng em đâu có biết rằng người đàn ông cũng ích kỷ.

                              Về đến nhà, anh chúc em ngủ ngon rồi vào phòng mình đốt thuốc ngồi trước bàn. Anh nghĩ đến sự phi lý của đời em. Lấy chồng bốn tháng, chồng chết, với cái bào thai trong bụng. Thật vội vàng, một sự vội vàng không cần thiết và không sửa chữa lại được. Hồi còn con gái, em hay vui đùa và hay làm nũng. Bạn bè chế em.

                              - Đứa nào lấy mày sau này sẽ tha hồ mà khổ vì mày. Tha hồ cho mày làm nũng, bắt chồng mang nước cho mày rửa chân và cõng mày đi tiểu.

                              Thực tế không ngờ lại trái ngược quá xa như vậy. Cháu Cường sẽ thành đàn ông. Nó sẽ, vì danh dự mà giành em với một người đàn ông khác. Không hẳn vì tình thương mà chỉ vì danh dự.

                              Anh châm đến điếu thuốc thứ năm thì nghe cửa phòng xịch mở. Em hỏi:

                              - Sao anh chưa đi nghỉ? Khuya lắm rồi.

                              Anh chưa tìm ra câu trả lời. Em đi lại gần bàn. Bộ pyjama bằng tơ Thượng Hải nền đen có vẽ những đường vòng chi chít màu tím màu vàng khiến người em sặc sỡ như một loài bướm. Mùi nước hoa ngọt ngào toát ra từ quần áo. Đôi mắt đen long lanh dưới ánh đèn. Anh cầm lấy bàn tay em, trắng muốt và êm mát. Anh ôm em vào lòng. Mùi nước hoa ở mái tóc, ở cổ, ở đôi má. Đêm mùa hạ mềm và óng ả chảy vào cửa sổ bằng những gợn gió mỏi mệt. Anh hôn lên cổ em, vai em và siết chặt vòng tay. Em thở nhọc nhằn và giọng nói đứt quãng: “đừng anh… đừng…”. Giọng nói mơ hồ như vừa có vừa không. Đầu anh choáng váng và đêm nghiêng nghiêng. Chúng ta quay cuồng, dần dần bay bổng lên từng cao và thoát ra ngoài hấp lực của thực thể xung quanh. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ hối hả chạy đuổi theo. Bên tai anh, tiếng em thở, tiếng đập rộn ràng của tim em. Da thịt em mềm, vội vàng nhường chỗ cho ngón tay anh chạm đến. Quên hết. Đảo lộn. Quay cuồng. Trong sự điên dại lãng quên đó, chợt tiếng gọi “Me” của Cường ở phòng bên vang lên. “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” và tiếp theo là tiếng khóc. Em gỡ tay anh chạy về với con. Anh ngồi bàng hoàng, cầm lấy cái gương soi để nhìn lại mặt mình. Thật chưa bao giờ anh thấy một khuôn mặt tầm thường dễ ghét như vậy.

                              Hôm nay em lên phi cơ để trở về thành phố nhỏ của em. Chúng ta lẫn lộn ở giữa những người đưa đón và nhiều lúc anh quên mất lý do sự có mặt của anh ở nơi phi cảng này. Chúng ta phê bình những người đi lại xung quanh như những tên mất dạy. Một ông bụng bự bước vội vàng bên cạnh một cô vợ trẻ (chắc phải là loại V4, V5) mảnh mai nhanh nhẹn. Cô vợ có dáng thẹn khi phòng đợi có nhiều gương mặt trẻ dáng chừng là sinh viên. Cô đi từng bước thật nhanh và dài để tăng khoảng cách giữa chồng và mình. Anh bảo em:

                              - Cô vợ trẻ ấy đang hạ quyết tâm: sẽ về xin ly dị ngay với ông chồng lắm mỡ. Nhưng…

                              -…?

                              - … Nhưng về đến nhà thì quyết tâm bị hạ. Cái tủ lạnh, cái máy điều hòa không khí, cái ô tô, cái biệt thự…

                              Em gật đầu và kéo tay anh chỉ về một người thanh niên ngồi lẻ loi ở một góc phòng.

                              - Anh đó.

                              Anh chưa kịp hiểu ý em, và em mỉm cười giải thích:

                              - Anh không soi thấy bóng anh khi nhìn vào người thanh niên ấy sao? Con người cô độc nhìn kẻ khác sung sướng xung quanh mình.

                              Em lại bắt anh lục soát thân phận và hoàn cảnh mình. Không có thú vị gì hết. Từ nãy giờ anh thấy thoải mái bởi được quên mình, khỏi phải nặn ra một khuôn mặt buồn và làm nháp một số lời lẽ xót xa cho hợp với hoàn cảnh. May thay, phi cơ hôm nay không bị trễ. Anh nói:

                              - Thôi, em đi đường khỏe mạnh.

                              Anh bế Cường lên:

                              - Cường về ngoan với me nhé?

                              Cường hôn lên má anh theo lời em bảo. Nhưng giữa hai người đàn ông... Có hai người đàn ông mà chỉ một mình em. Em sẽ mất một. Ai?

                              Em bước lên phi cơ, mảnh dẻ như một lá cỏ. Tà áo màu vàng phất phơ. Hình ảnh của một thân bướm sặc sỡ thuộc về đêm qua. Cánh cửa phi cơ đóng sập lại. Phi cơ chầm chậm quay đầu trên piste. Chong chóng quay tít mù. Và anh xa cách em.

                              Vâng, cuộc đời thật nghiệt ngã và tâm hồn con người phức tạp. Chúng ta vẫn viết thư cho nhau nhưng quả tình là anh không còn giữ được niềm háo hức của buổi đầu. Phong thư mỗi ngày một nhẹ đi và trên những trang giấy chừa lề trắng mênh mông, chúng ta cứ mỗi ngày mỗi thêm lưu ý đến cảnh vật, thời tiết, nếp sinh hoạt, cả ngay đến tình hình chính trị trong nước. Em lại tha con đi từ tỉnh lỵ này sang tỉnh lỵ khác, đổi từ ngành này sang ngành kia. Anh thì cầm chân một chỗ như con đò đã gác cao mái chèo, buộc dây vào cọc.

                              Một hôm anh gặp thằng Hưng, một thằng bạn, ở ngay giữa quán giải khát.

                              - Ê! Mày vẫn còn ở Pleiku chớ?

                              - Vẫn ở đó như thường. Đâu có dễ mà moa rời xa nó.

                              - Cuộc sống vẫn thú vị?

                              - Rất. Moa vẫn sống hết mình, cho dù Chánh phủ bắt moa đi Côn Sơn hay về hẳn Thủ đô.

                              Anh nhìn thằng Hưng: mái tóc đen, rậm, cắt cao. Đôi mắt tinh nhanh có nhiều lửa. Đôi vai dày và cánh tay vạm vỡ. Miệng nói ngọt và nói không ngớt.

                              - Ở Pleiku moa chả buồn tí nào cả. Về đây là chỉ để thay đổi không khí chơi thôi, chớ không phải là vì moa đói.

                              - Đã sắp báo hỉ chưa?

                              - Dại gì. Moa còn phải phá làng phá xóm một thời gian dài nữa.

                              - Nhiều của ngon chớ?

                              - Không chê được.

                              - Mày kể tao nghe thử đi.

                              Hưng bắt đầu bằng hai cô bạn đồng sở. Đến một phụ nữ bán quân sự. Một dược tá. Sau đó, hắn chỉ tả sắc đẹp, nói về tuổi tác, trường hợp gặp gỡ, trình độ giao hảo mà không nói xuất xứ. Bởi vì nhiều quá, hắn lẫn lộn như người ta vẫn thường xếp lộn hồ sơ. Chợt hắn vỗ vai anh:

                              - À này, moa vừa “thông cảm” với một trường hợp này. Ngon lắm. Góa chồng. Còn trẻ. Đẹp. Có một đứa con nhỏ.

                              - Mày thông cảm đến độ nào? Dẫn đi píc níc với nhau chưa.

                              - Đi píc níc thì có nghĩa lý gì. Không quen nhau vẫn có thể cùng đi píc níc được. Đằng này thì còn hơn thế nhiều. À, moa có cái ảnh của “en” tặng đây.

                              Hưng móc ví ở túi quần và anh chợt hồi hộp lo sợ. Có phải người đàn bà đó là em không? Pleiku chính là cái thành phố nhỏ của em hiện tại. Sao anh cứ tin rằng người đàn bà đó là em. Góa chồng. Trẻ. Đẹp. Có một con nhỏ.

                              - Người Trung hay người Bắc? - Anh hỏi.

                              Mắt Hưng đang nheo lại vì hắn đang lục vào những ngăn ví chật. Đủ thứ giấy tờ làm bụng ví căng phồng lên. Thẻ căn cước bọc nhựa. Thẻ cử tri bầu Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp. Giấy chứng nhận đã tiêm ngừa dịch hạch. Một tờ biên lai gửi thư bảo đảm. Những tờ giấy bạc nhầu bẩn. Mấy tấm danh thiếp…

                              Hắn quay mặt lại nghếch mắt hỏi:

                              - Toa vừa bảo gì?

                              - Tao hỏi cô ấy người Bắc hay người Trung.

                              - À. Nghe giọng nói miền Nam.

                              Hắn nhét lại tất cả giấy tờ vào ví.

                              - Moa bỏ quên ở đâu. Chắc để trong cái ví kia. Đẹp lắm.

                              Hú vía. Ít nhất anh cũng còn có được một thời gian để mà nửa tin nửa nghi. Ít nhất anh cũng còn được một chút hi vọng rằng em chưa rơi vào tay một thằng đàn ông tàn bạo có kinh nghiệm như thằng Hưng. Hắn có đôi cánh tay không biết mỏi của một con bạch tuộc và đôi môi háo hức như hấp khẩu của một con sao biển. Sau khi từ giã Hưng, anh chợt thấy mình đã tối trí hết sức. Sao không dò hỏi hắn thêm vài chi tiết nữa. Chẳng hạn “en” mập hay ốm? Chừng mấy tuổi? Chồng trước làm gì? Chồng chết vào trường hợp nào? đứa con trai hay con gái? tên là gì? v.v… Nhưng dẫu cố hết sức níu vào những thoáng hy vọng, anh cũng lờ mờ cảm thấy rằng mình không thể an tâm được. Pleiku không phải là thủ đô có nhiều đàn bà góa, trẻ, đẹp, một con… thay em. Và những thằng Hưng thì phát triển nhiều trong một xã hội mỗi ngày mỗi thèm nhiều chinh phụ và góa phụ.

                              Em,

                              Thư này anh viết, có thể cuối anh sẽ không gửi cho em. Xuất phát từ những cảm xúc do một kỷ niệm ngồi nhìn ráng đỏ với em, anh nhân dịp soát lại tâm tư và thấy vẫn còn rất đỗi rụt rè trong sự dự phóng về tương lai. Anh với em không thể mãi mãi là hai con đường chạy song song mà phải như hai tia sáng hoặc là hội tụ hoặc là phân kỳ. Lấy tất cả chân tình mà nói thì anh vẫn yêu em như ngày xưa, sung sướng và khổ sở trong tình yêu đó. Gặp gỡ sum họp hay xa cách nhau dứt khoát, điều đó hiện thoát ra ngoài tầm tay quyết định của anh. Anh đang lần mò tìm đường và anh hi vọng rằng rồi sẽ được gặp em, chính em, trọn vẹn là em trên con đường mà anh đang dọ dẫm bước tới.

                              Anh.


                              (4) popote : ăn cơm tập thể.
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 41 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9