Tác phẩm VÕ HỒNG

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 41 bài trong đề mục
Tác giả Bài
hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
Tác phẩm VÕ HỒNG - 16.11.2012 11:47:29
HOÀI CỐ NHÂN

1. Hoài cố nhân

2. Ngày xưa

NXB:
Ban mai (1959)
Lá bối (1969)
Trẻ (1996)



1. HOÀI CỐ NHÂN


Một ngày đầu tháng chín năm 1942, tôi nhận được bức điện tín: “12 tháng 9 tới ga Hà Nội Stop Tìm dùm chỗ trọ Stop Hoàng Gia Lý”.

Tôi cầm bức điện tín, lòng rộn ràng vì bất ngờ. Hoàng Gia Lý là bạn tôi. Vào dịp hè, tôi về quê ở Ngân Sơn. Lý ghé lại nhà thăm và ngỏ ý sang niên khóa mới theo tôi ra Hà Nội học. Ba năm nay anh học ở Huế. Tôi tưởng rằng đó chỉ là một dự định nông nổi. Người ta ai cũng có thể dự tính nhiều điều, dự tính cả những điều mà họ biết trước hơn ai là không bao giờ thực hiện được.

Tôi học chung lớp với Lý khi tôi bắt đầu học lớp Ba trường phủ. Tôi bồi hồi nhớ lại cái cảm giác lo sợ rộn ràng khi đặt bước chân đầu tiên vào trường phủ. Từ nhỏ tôi phải học ở trường xã, một cái trường bằng ngói ở mỏm đầu núi. Muốn lên đến trường phải trèo một cái dốc dựng đứng. Người chọn địa điểm này để cất trường ý chừng đã quan niệm rằng trường giáo phải ở một nơi thật thanh tịnh, cách biệt hẳn với sự sinh hoạt của mọi người xung quanh. Đây là lần đầu tiên mà làng tôi, - nói rằng cả vùng tôi thì mới đúng, - có được một cái trường Nhà nước. Trước đó, người ta học chữ Nho. Trong khi chúng tôi cắp sách đến trường học vần B ba cái trứng, L quả lê, T quay tơ… v.v… thì trong xóm vẫn có nhiều đứa nhỏ như tôi và lớn hơn, ôm sách chữ Nho và mang cả nghiên cả mực đến học các thầy đồ. Hình như bất chấp cả bánh xe tiến hóa, bất chấp cả sự thế đã đổi thay, thầy đồ vẫn sang sảng giảng Tam tự kinh, vẫn dùng roi mây, vẫn bắt quì vỏ mít và vẫn bắt học trò tưới vườn chuối cho thầy, nấu nước pha trà hầu thầy. Thầy giáo trường Nhà nước thì như vẫn còn mang nặng tàn tích của thời kỳ Khổng Mạnh xưa kia mà chưa hoàn toàn biến đổi. Thầy là cái dấu nối giữa hai thời đại, thầy mặc áo dài và mang guốc. Vì quen mắt với bàn chân dơ nên được nhìn hai bàn chân sạch của thầy, sạch đến thấy được cả gân xanh và móng chân trắng nằm gọn trên đôi guốc mộc nép giữa quai guốc da, chúng tôi có cảm tưởng rằng đó là biểu hiện đầu tiên của văn minh. Lâu lâu, vào dịp Tết, thầy đi đôi giày vải trắng thì chúng tôi mừng như chính mình được ăn diện sang trọng. Khi ông Thanh tra tới thì thầy đội thêm cái khăn đóng đen. Trông thầy thật quả là sang trọng nhất vùng.

Lúc tiễn chân ông Thanh tra xuống khỏi cái dốc ngược, lúc nghe tiếng xe ô-tô của ông Thanh tra rồ máy, lúc thấy thầy và ông cai trường hổn hển leo lên hết bực chót của cái dốc, mặt đỏ kè, mồ hôi ướt vã đầy mặt và thấm qua áo, chúng tôi thấy thương thầy hết sức. Sau này, chúng tôi được biết rằng thầy và ông cai trường sở dĩ mệt như vậy không phải là vì leo lên leo xuống cái dốc mà vì phải đẩy xe cho ông Thanh tra. Cái xe ô-tô chết tiệt phải quay mới nổ và thường thì quay mà không nổ.Ông cai trường có nhiệm vụ quay. Ông Thanh tra ngồi cầm tay lái. Quay mươi vòng không nổ thì ông cai bỏ tay quay rồi cùng thầy giáo ra sau đẩy. Thật tội nghiệp cho cái thời xa xôi mà lũ nhỏ chúng tôi mới bắt đầu tiếp xúc với văn minh cơ khí. Nhiều đứa mỗi lần nghe còi xe vang lên ở đầu cầu là rủ nhau vội vã chạy xuống dốc trường. Khi xe chạy vụt qua, các anh nhảy xổ ra giữa đường, hít lấy hít để đám bụi mù sặc mùi ét-xăng, rồi khen rối rít: Thơm quá! Thơm quá!

Sở dĩ có hiện tượng đó là vì học trò của trường đa số là lũ trẻ góp nhặt ở năm, bảy làng lân cận. Nhiều anh từ nhỏ đến giờ cha mẹ bắt chuyên môn chăn bò, anh đến trường đem theo sự u mê (danh từ thầy giáo dùng để mắng chúng tôi) và sự bướng bỉnh. Nhưng rất phong phú về trò chơi: u mê, lên đồng, nhảy lò cò, đánh mạng, đánh đáo. Có nhiều chị chuyên môn đi hái củi đến nỗi tóc cháy vàng hoe. Đi học, họ làm như đi củi, mang theo muối vò chung với lá é để giờ ra chơi chạy vào bụi bờ bứt lá dang chấm muối ngồi ăn. Một số khác vốn quen với ruộng rẫy nên mỗi khi người ta dỡ khoai, đào sắn thì họ chạy tới cả đoàn để mót, để xin. Những củ khoai lang sống nhỏ bằng ngón tay út được nhai giòn tan và nuốt ngon lành. Chúng tôi ngây thơ hơn cứ nhìn rồi bắt chước lần lần. Ngây thơ thật, vì tuy là lớp Đồng Ấu song bạn của chúng tôi có nhiều anh tuổi có đến hai mươi và lực lưỡng thì y như những nhà nông thực thụ. Đến giờ ra chơi, họ vật tay suýt làm gãy cả chân bàn. Chúng tôi thành kính nhìn những bắp thịt nổi cuồn cuộn ở cánh tay, ở cổ, nhìn màu đỏ hừng hực ở mặt, ở vành tai và ở tròng mắt. Sự quê mùa còn đọc được ở quần áo nữa. Quần thì vừa ngắn vừa chật. Áo cũng vậy. Quần áo toàn bằng vải to thế mà mẹ mua cũng không đủ nên thường may ghép đến hai màu. Nhiều khi áo xanh mà hai túi trắng. Có lúc cả áo trắng mà một tay áo lại màu xanh. Đi học thì cột một mo cơm, kèm đùm mắm.

Với cái quá khứ chung chạ bất ổn ấy, khi bước chân vào trường phủ, tôi thấy không khí trang trọng hết sức. Trường cất cạnh phủ đường, ở mãi cuối một cái sân rộng. Trên sân có trồng nhiều bồn hoa huệ sắp đặt thành những hình cân đối. Những thân cây bàng cao che rợp cả sân, trường học thành có vẻ oai nghiêm xa cách. Nhất là muốn đến trường, chúng tôi phải đi qua một trong bốn cửa thành: cửa tiền, cửa hậu, cửa tả, cửa hữu, xây cất theo kiểu cổ bằng gạch dày hàng bốn, năm thước, trên có vọng môn cao. Đi ngang qua mặt phủ đường, chúng tôi còn bị choáng ngợp vì màu trắng của cái sân rộng sạch như lau, vì hai chú lính lệ gác cửa, vì mấy khẩu súng thần công há miệng đe dọa.

Trường chia làm hai phòng học, có hai thầy, thầy Tài dạy lớp Sơ đẳng, mặc âu phục; thầy Tùng dạy hai lớp, lớp Đồng Ấu và Dự bị, luôn luôn vận áo sa đen, nhưng rất chải chuốt tươm tất. Thầy ít nói nhưng hay mỉm cười. Mắt thầy cũng cười nữa. Học trò hay thì thầm với nhau:

- Cô cháu, em họ bà Lại mê thầy Tùng.

Hoặc:

- Thầy Tùng viết thơ cho chị Dung, cháu ông thông Nhất.

Có lần tin tức ly kỳ hơn:

- Thầy Tùng đi coi hát trường ở Phú Mỹ với cô Cẩm em thầy thông Ba. Chị Oanh cháu thầy đội Lệ, nghe nói nổi ghen nên ra sông tự tử.

Có chuyện tự tử ly kỳ nên chúng tôi càng chăm chú nghe. Nhiều cái miệng tròn lại. Nhiều vẻ mặt nghiêm trang một cách khôi hài. Chúng tôi tò mò nhìn thầy Tùng: thầy vẫn ăn diện chững chạc, vẫn mỉm cười bằng mắt và bằng môi. Thành ra chúng tôi bán tín bán nghi, không biết chuyện vừa rồi là đúng hay bịa. Nhưng có điều chắc chắn là thầy Tùng hay cười, vì thầy sung sướng, thỏa mãn. Sau này, mỗi lần nghĩ đến, tôi hay trở về cái kết luận: ái tình làm cho con người tươi vui, bồng bột.

Ngoài những chuyện tình do thầy Tùng đóng vai chính, còn rất nhiều chuyện tình khác nữa mà vai chính bên nữ là các cô em hay cháu của các thầy Lại mục, thông Nhất, thông Nhì, thông Ba, đội Lệ, v.v… Tội nghiệp cho các tiểu thư phải sống ẻo lả ở một phủ lỵ quê mùa. Tâm hồn đa cảm đa sầu của các cô đẹp như những dây hoa bị cỏ mọc lây lất ở một vùng đất cát khô cằn. Nhưng quả các cô đã làm đẹp cho cái phủ lỵ quê mùa này thật. Ngày chợ phiên Thành, bên cạnh màu đen cố hữu của áo và quần của người mua bán, thỉnh thoảng lướt qua một tà áo xanh lục, một màu áo tím. Đó là hai màu mà lúc bấy giờ các cô thích mặc hơn cả. Hai màu này đã làm tươi lên những khung cảnh trong ngày thơ ấu của tôi ở phủ lỵ Tuy An.

Bạn học của tôi lẽ tất nhiên là sang trọng hơn hồi ở Ngân Sơn. Tên cũng đẹp hơn. Không còn những: Hồ Văn Láu, Ngô Đột, Trần Lía. Không còn một xâu anh em ruột cách nhau hàng năm, sáu tuổi mà vẫn cùng học chung một lớp (vì trường mới mở lần đầu) và tên của họ nối tiếp nhau như một tràng chuỗi: Nguyễn Tao, Nguyễn Tui, Nguyễn May, Nguyễn Mắn hoặc Lê Lãnh, Lê Lụa, Lê Tơ, Lê Thao. Lần đầu nghe những cái tên đẹp khiến cho mỗi lúc thầy giáo kêu đến, tôi có cảm tưởng như nghe một tiếng đàn: Lê Hoàng Mai, Ngô Gia Lưu, Trần Thị Kiều Thư, Bùi Thị Niệm Nhi. Giờ tập thể thao, thầy Tài bắt mặc đồng phục: áo sơ mi ngắn, quần đùi bằng vải tám trắng - thực ra thì vàng vàng - cổ áo, vành tay áo, vành ống quần viền đỏ (!). Lại có hai đường đỏ chạy dọc ở hai ống quần nữa. Bữa mặc biểu diễn đầu tiên, sân tập như đông thêm. Lạ mắt vì mấy cái viền đỏ cứ chạy loanh quanh trước mặt, chúng tôi thấy ngượng ngượng một cách lý thú. Giữa cái rừng trăng trắng đo đỏ ấy có riêng một anh mặc một bộ cùng kiểu nhưng lại màu đen viền trắng. Vải trang đầm đen nhánh, vải tàu bay trắng tinh, đường may cẩn thận. Thầy Tài gọi:

- Hoàng Gia Lý, sao không mặc một màu cho giống anh em?

- Thưa thầy, bà nội con mới may bộ này cho con. Bà con bảo đẹp.

- Ồ, thôi cũng được.

Tôi ngạc nhiên cho mãi đến sau này: thầy là một nhân cách bao dung khó có. Chúng tôi nhìn anh Hoàng Gia Lý. Anh mặc bộ đồ quả thật đẹp, nhất là da anh trắng. Đôi mắt sáng và nét mặt rạng rỡ, thông minh. Thân Lý mảnh khảnh. Tôi lưu ý đến Hoàng Gia Lý từ đấy. Anh có một vết sẹo dài chạy dọc theo cằm… sau này quen anh, tôi thấy nó không xấu mà hình như hơi có duyên là khác. Vì khi nghĩ rằng cái sẹo ấy mất đi, tôi sẽ thấy vẻ mặt ấy không phải là vẻ mặt của Lý nữa. Nó sẽ trơ trẽn, thiếu sự đậm đà.

Hỏi anh con ai, anh trả lời:

- Cháu bà Cử Hai.

Nhà anh là một căn phố buôn bán ở con đường chính. Bà anh buôn hàng vải, khá to. Anh lại cũng có một căn nhà ở cửa Đông, nằm mé ở đồng ruộng. Nhà có vườn trồng cây mát mẻ. Lần đầu tiên đi qua nhà anh thấy ở ngõ có trồng cây bông giấy màu đỏ và có hoa tigôn bò khắp mặt rào, tôi cho là nhà anh sang trọng. Vì hoa giấy đỏ chỉ ở nhà thương mới có trồng và hoa tigôn tôi thấy bò chung giàn với dây thiên lý ở giàn hoa quan phủ. Nhưng dù có lòng mến Lý, tôi cũng không khi nào nói chuyện riêng thân mật với Lý. Chúng tôi chỉ thỉnh thoảng, khi cần, trao đổi với nhau vài câu về việc học.

Hết niên khóa, tôi lên lớp Nhì, phải ra trường tỉnh ở tận Sông Cầu để học. Mỗi lần lên lớp phải dời trường, như thế là hầu hết các bạn tôi đều nghỉ học. Vả lại, lúc bấy giờ sự học còn quí nên mãn lớp Ba có cấp bằng Sơ học yếu lược là các anh đã dư sức làm ông Lý trưởng hay ông Chánh, Phó tổng rồi.

Ra Sông Cầu tôi không ngờ được gặp lại Lý. Tôi nhớ mãi một hôm tôi ghé lại thăm anh ở nhà trọ, anh mời tôi một bát bánh canh hai xu. Từ đó, thỉnh thoảng hai chúng tôi rủ nhau đi tắm biển. Vì khờ nên có lần hai đứa đều bị hàu cắt đứt da ngón chân. Những chiều chủ nhật, hai đứa lấy đá đập trái bàng khô để lấy nhân ăn. Có bữa rủ nhau đi khèo trái keo hay hái trái tra.

Hết năm lớp Nhì A (còn gọi là lớp Nhì đệ nhất niên hay lớp Nhì nhỏ), bỗng không thấy Lý đi học nữa. Dù ngày hè tôi vẫn về nghỉ ở quê cả ba tháng, dù nhà Lý cách nhà tôi không quá bốn cây số, nhưng tôi không thân với Lý đến mức phải háo hức đi tìm thăm bạn.

Cứ như thế, tôi học cho hết năm lớp Nhì B, hết năm lớp Nhất ở Sông Cầu. Đỗ Tiểu học xong, tôi cùng một người bạn ra học ở trường Cao đẳng tiểu học Qui Nhơn. Thế là tôi không hề gặp Lý nữa.

Lâu lâu, chợt nghe trong câu chuyện với bạn bè ở quê nhà, tôi được nghe người ta nhắc đến Lý. Thoạt đầu là tin Lý thôi không đi học để về học chữ Nho. Tôi nghĩ cũng phải, vì ông của Lý là một cử nhân Hán học (ngớ ngẩn thay lý luận). Nhưng người kể chuyện giải thích:

- Lý có một người cô lấy chồng giàu ở Thạch Thành. Nhà buôn thuốc Bắc. Lý học chữ Nho để ngồi bán thuốc Bắc.

Tôi ngây thơ hỏi:

- Đi học hơn chớ? Còn nhỏ mà đi làm công?

- Không phải làm công. Cô Lý cưng Lý lắm.

Tôi ờ… ờ, không nghĩ sâu sắc thêm, không lý luận thêm. Bẵng đi một độ không biết bao lâu, chợt tôi lại ngẫu nhiên được nghe tin tức về Lý.

- Lý đi học…

- Tôi biết rồi. Lý đi học chữ Nho để bán thuốc Bắc cho nhà cô Lý ở Thạch Thành.

Người bạn tôi mỉm cười có vẻ như thương hại.

- Ai nói vậy? Lý thôi bán thuốc Bắc lâu rồi. Cô Lý cho đi học lại.

- Học ở đâu? Quá tuổi rồi.

- Lý xuống Tuy Hòa, học ở trường tư thục Bình Minh.

- À… à… Ở Tuy Hòa mà cũng có trường tư thục à?

- Có chớ. Nhưng này…

Tôi đang sắp lơ đãng thì cái giọng “nhưng này…” hơi bí mật bắt tôi lưu ý.

- Sao?

- Lý và một cô bạn học thương nhau ghê lắm.

- Cô nào vậy?

- Cô Xuân, con ông chủ khách sạn Đồng Nhơn.

- Ông Đồng Nhơn ở Sông Cầu mà!

- Ờ, nhưng đã dời về Tuy Hòa năm kia. Ở Tuy Hòa buôn bán phồn thịnh hơn.

- Chắc họ nói thêm đấy. Còn nhỏ mà!

- Họ khóc lóc với nhau. Họ thề với nhau nữa mà!

- Khóc? Thề? Chắc không có đâu!

- Mày ngu lắm.

- Kệ tao.

Câu chuyện đã kết thúc một cách hết sức ngớ ngẩn. Lý yêu và được yêu lại là một điều tự nhiên, tôi có thể tin được, vì Lý trắng trẻo xinh trai, nhưng tôi vẫn cho là người ngoài họ phóng đại. Khóc với nhau? Thề nguyền với nhau? Hơi khó tin.

Sau đó mấy năm, ngẫu nhiên tôi nhận được bức thư của một anh bạn cũ, anh Dưỡng ở từ Tuy Hòa gởi tới. Lúc bấy giờ tôi đang học ở Hà Nội. Trong thư Dưỡng nói rằng hiện đang dạy học cho trường Bình Minh ở Tuy Hòa. Bình Minh? Hừ, cái tên nghe quen quen. Trong thư trả lời, tôi bắt Dưỡng viết rõ ràng hơn về cái trường anh hiện đang dạy. Dưỡng làm theo lời tôi. Thì ngẫu nhiên thay, trường Bình Minh chính là nơi khởi đầu mối tình Xuân-Lý. Tôi nhân dịp, bắt Dưỡng kể rõ ràng hơn về mối tình này.

Sau đây là đại lược những điều Dưỡng kể:

Vào Sơn Hòa được một năm, cô Lý cho Lý học lại. Vì quá tuổi, không xin vào trường Nhà nước, nên Lý phải xuống Tuy Hòa học ở trường Bình Minh. Cùng học một lớp có Xuân, con gái ông Đồng Nhơn. Hai người yêu nhau. Ông Đồng Nhơn biết được, đánh mắng con nhiều lần, rồi ông giao cho vợ kiểm soát con. Tính ông nghiêm khắc, vợ sợ lắm, tuân lời răm rắp. Nhưng vì quá sợ mà bả trở lại che chở cho con, sợ ông đánh con nặng tay. Rốt cuộc, họ ở trong cái vòng luẩn quẩn.

Hết năm lớp nhất, Xuân ra trường Đồng Khánh ở Huế học. Lý vào Nha Trang. Họ vẫn thư từ khắng khít với nhau luôn. Hai năm sau, Lý bỏ Nha Trang ra Huế học luôn, hai người có dịp gặp lại nhau.

Trong giai đoạn này, có lần Dưỡng viết cho tôi:

- Ông Đồng Nhơn tức tối lắm khi nghĩ rằng con mình không thuộc quyền điều khiển của mình nữa. Ông định rút con về, không cho đi học nữa, nhưng bạn bè khuyên giải lại thôi. Ông có đến nhà bà cô Lý ở Thạch Thành, yêu cầu rầy la ngăn cản Lý. Bà cô chỉ hứa ậm ừ. Hai bên có cãi nhau. Tức quá ông thề không bao giờ gả Xuân cho Lý. Nhiều điều kiện “độc địa” được kèm theo để đảm bảo lời thề ấy.

Ở một căn gác trọ xa xôi giữa phố Ngõ Trạm, tôi đọc bức thư của Dưỡng, vừa ngồi vẩn vơ nghĩ đến Lý. Tôi tưởng tượng một anh chàng trắng trẻo xinh trai, hơi rụt rè. Ừ, bản chất của Lý hình như là dè dặt rụt rè lắm mà! Thế mà khi yêu thì lại cuồng nhiệt đến thế? Tiếp theo, tôi thương hại Lý vì mối tình ngang trái của anh ta. Ông Đồng Nhơn, theo lời Dưỡng, theo những sự việc nhiều người thuật lại, quả rất nghiêm khắc. Vả lại, vào trường hợp ông, ai cũng dư điều kiện để nghiêm khắc vì kẻ phải đối phó chỉ là con mình và nghiêm khắc chỉ có lợi cho mình. Tương lại của Lý chưa có gì đảm bảo là sáng sủa hơn tương lai của Xuân cả. Gia đình của Lý thì lại không hơn gia cảnh ông. Lý luận một lát, tôi thấy quả Lý đã gặp trở ngại trong tình yêu. Nhưng lạ chưa, đồng thời vẩn vơ thương hại Lý, đồng thời tôi thấy rằng Lý sung sướng. Được yêu người, được người yêu, chẳng thú vị sao? Trở lực bên ngoài chỉ làm tăng giá trị của tình yêu. Họ càng thêm sung sướng vì thấy mình thêm xứng đáng với người yêu của mình. Thật mâu thuẫn. Tôi quay ra thương hại ông Đồng Nhơn hùng hổ nhưng bất lực. Và, lạ chưa, tôi lại quay ra ghen với Lý, vì tôi chưa được hưởng một mối tình cay đắng, đậm đà như thế.

Biết được những uẩn khúc của mối tình ấy nên tôi không tin rằng Lý sẽ ra Hà Nội, mặc dù chính anh gặp tôi và nhờ tìm chỗ trọ giùm. Học ở Huế chẳng thích sao? Ngày nghỉ được gặp chị Xuân chẳng êm đềm sao. Nhưng thực tế là bức điện tín hiện nằm trong túi áo sơ mi tôi đây và tôi đang lên ga Hà Nội đón Lý đây. Tôi tự nhủ:
- Lại có những biến chuyển mới.

Tàu tới. Từ toa hạng nhì, Lý nhanh nhẹn nhảy xuống. Anh mặc sơ-mi chẽn, quần short trắng. Đôi bít tất thể thao trắng bó ống chân. Tôi ngạc nhiên thấy đôi chân vạm vỡ, trái ngược với khuôn mặt mảnh mai. Chúng tôi bắt tay nhau. Lý nói trước:

- Tôi cứ sợ anh không nhận được điện tín. Thấy anh lên đón, mừng quá!

Tôi không biết nên nói lại lời gì. Tôi cứ bị ám ảnh vì mối tình của anh, nên tự nhiên tôi coi anh như khác với mọi người; do đó, tôi có cảm tưởng rằng phải tìm những lời gì đặc biệt để trao đổi cùng anh. Túng quá, tôi phá tan sự im lặng bằng một câu nhảm:

- Ở Huế nóng lắm phải không anh?

- Tôi không biết rõ. Tôi ở Tuy An ra thẳng đây.

- A! Anh không ghé lại Huế?

- Không.

Ngừng một giây, tôi tiếp:

- Nguyễn Đức Tâm làm gì rồi? (Tâm là bạn cũ của chúng tôi)

- Làm thư ký ở Sở Đạc điền, Sông Cầu.

- Nguyễn Chín?

- Ở nhà. Nay đã đổi tên lại: Nguyễn Duy Minh.

Tôi mỉm cười một mình. Đổi tên cũng là một công việc.

Hai chiếc xe cao-su đưa chúng tôi về nhà trọ ở phố Sinh Từ. Lý bàn ngay đến việc học. Anh quyết định xin vào học lớp Seconde (1 ) trường Thăng Long. Chiếc bàn nhỏ dành cho phần anh, sáng hôm sau đã đầy những sách vở, chồng xếp tươm tất. Có lẽ, đồng thời anh cũng đã quyết định đoạn tuyệt với cái quá khứ mơ mộng thiết tha để xây dựng lại một cuộc đời cần mẫn, trong sạch. Tôi lắng nghe anh đọc những định luật hình học, những công thức hóa học mà lòng vui vẻ bâng khuâng. Phải, bâng khuâng vì nhìn anh, tôi có cảm tưởng như nhìn một con chim nhỏ vừa thoát khỏi nanh vuốt của một con ó dữ tợn. Phải, bâng khuâng vì tôi nghĩ, không biết ở ký túc xá trường Đồng Khánh, cô Xuân cũng ngồi nhẩm học công thức hóa học tươi tỉnh như anh hay úp mặt vào gối mà thổn thức? Thật rắc rối là anh Lý. Anh đem lại cho tôi không biết bao nhiêu ý nghĩ vẩn vơ. May thay, không lúc nào tôi phải suy nghĩ vẩn vơ lâu. Hoặc có lúc thì anh Hòe vụt thích thú ngâm lên hai câu Kiều, hoặc có lúc thì anh Tuy ở phòng bên chạy sang hỏi vớ vẩn. Anh Hòe ở chung phòng với chúng tôi, học ở trường Cao đẳng Mỹ thuật. Anh quê ở Sơn Tây, có đặc tài ngâm Kiều. Khi anh bắt giọng lên ngâm thì dù mải mê làm toán hay mầy mò tìm một chữ Anh làm bài dịch, chúng tôi cũng đều phải lắng tai nghe. Nghe xong chưa đủ, thế nào sau đó, khoái trá, chúng tôi cũng ba hoa bàn tán về thơ hay văn. Nếu có người này biết quí thì giờ thì bao giờ cũng có một hay hai người khác quên khuấy mất điều đó để gợi ra vấn đề mà bàn nhảm. Tức quá, chúng tôi sửa lại câu Kiều anh hay ngâm:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

ra:

Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi gậm giường.

cho có vẻ tồi. Anh bình tĩnh ngâm câu thơ tồi đó. Thế mà chúng tôi vẫn lắng tai say mê nghe.

Anh Tuy ở phòng bên hình như chỉ ở nhà chơi không chịu đi học đâu cả. Ngồi buồn, anh hay sang phòng khác để kiếm chuyện nói nhảm. Anh làm ra bộ lừng khừng, như người mất trí. Có lẽ anh đã đọc ở một cuốn sách nào người ta tả một nhân vật có tài nhưng suy nghĩ quá thành ra lừng khừng. Nhà bác học lừng khừng trông chắc sang trọng nên anh ta cũng bắt chước cái vẻ lừng khừng ấy. Anh xăm xăm đi tới phòng chúng tôi, dừng lại, hỏi trỏng vào:

- Buồn không?

Hồ Văn Nghĩa, người Sa Đéc, nhỏ nhất trong bọn chúng tôi hay trả lời lại:

- Buồn. Đi đâu đó?

- Đi phiêu lưu.

- Nơi đâu?

- Một nơi vô định.

Thường đến đây thì Lý can thiệp:

- Nghĩa! Học đi. Đừng nói nhảm.

Có phải Lý đã lành bệnh rồi chăng?

Điều xét đoán của tôi sẽ không lầm nếu thỉnh thoảng chừng dăm ngày anh không nhận một lá thư phong bì xanh nhạt mà anh đọc một cách tha thiết say mê. Đọc xong, anh bỏ mọi công việc để ngồi trả lời ngay. Rồi vội vã thay quần áo, anh đi ra đầu ngõ để bỏ vào thùng thư. Suốt ngày hôm đó, tôi thấy anh hút thuốc nhiều hơn thường lệ, anh quen tay gạt tàn thuốc lá mặc dù ở đầu ngọn lửa không kịp có một ngọn khói thuốc lá nữa. Nhưng qua một đêm, sáng ngày hôm sau, anh lại bận bịu bên sách vở.

Một hôm nhìn thấy Nghĩa ngồi mạng một miếng rách ở vai áo. Lý nói:

- Ném nó đi. Mạng làm gì?

Nghĩa nhìn anh:

- Uổng anh. Mình chịu khó ngồi mạng một chút, mặc đỡ được vài tháng nữa.

- Làm trai phải lo những việc lớn. Ngồi tủn mủn những việc nhỏ mọn, tốn thì giờ.

Có đêm, Hòe thấy Lý ngồi châm điếu thuốc này nối theo điếu thuốc khác. Hòe bảo:

- Lý bỏ thuốc lá đi. Hút tốn lắm. Anh xem, mỗi ngày đêm một bao hết hai cắc.

- Hai cắc hay hơn, điều ấy không cần. Vấn đề là thuốc lá có đem lại cái thích gì hay không? Với tôi, thuốc là kích thích sự suy nghĩ. Hút thuốc, tôi thấy thú. Tôi không nghĩ đến hai cắc đó nữa. Mua được cái thú, hai cắc nghĩa lý gì?

Một hôm, cả phòng đi vắng chỉ còn mình tôi. Lý tâm sự:

- Có lẽ tôi thôi học anh ạ.

Tôi ngạc nhiên hỏi vội:

- Sao thế? Còn bốn tháng nữa thi. Mà anh học khá, có hy vọng đỗ lắm.

- Tôi biết vậy, nhưng sốt ruột lắm. Ngồi học bình tĩnh sao được trong khi tình hình biến chuyển bốn bên.

Tình hình biến chuyển? Quả tình hình có biến chuyển, nhưng có quan hệ gì đến lũ học sinh chúng tôi, đến anh Lý? Lúc bấy giờ chúng tôi đang ở vào khoảng đầu năm 1942. Nước Pháp bại trận ở Âu châu đã mở đường cho Nhật tràn vào Đông Dương. Nhân tâm xao xuyến. Những giá trị cũ lung lay trong không khí mới. Những cô đầm cong cớn không còn nghênh ngang ở trên phố Tràng Tiền mà được thay bằng những anh lính Nhật lùn, đi lạch bạch với vỏ gươm dài lê thê. Người ta hay bàn tán đến thời sự. Nhiều người vì không ưa Pháp nên hóa ra ưa Đức và Nhật. Thật hết sức là đơn giản. Họ không cần biết Đức thế nào, Nhật thế nào. Mặc dù vậy, họ vẫn lý luận rất hăng, thương ghét ra mặt.

Lý hay vắng nhà. Nhiều bữa để phần cơm cho anh đến mãi muời giờ đêm mà vẫn không thấy anh về ăn. Tôi không muốn dò xét cử chỉ Lý, nhưng tôi vẫn thấy có bổn phận phải hỏi thăm. Nếu để mặc thì có vẻ vô tình quá. Tôi hỏi:

- Độ rày bận gì mà thấy anh hay về trễ?

Lý ấp úng:

- Có mấy vấn đề ở trường.

Tôi thường bỏ lửng không hỏi tiếp, hoặc bằng cách giả như bận việc gì, hoặc bằng cách lật đật chạy đi đâu đấy.

Nghỉ Tết năm ấy, Lý và tôi về quê ăn Tết. Tàu hỏa chạy gần tới Huế, Lý bảo tôi:

- Lát nữa tàu đậu ở Huế, tôi xuống ga có chút việc. Anh coi chừng dùm mấy cái va-li của tôi.

Tôi gật đầu, biết ngay chút việc đó là việc gì. Khi tàu chạy chầm chậm qua mặt ga Huế để sắp sửa dừng lại, tôi đưa mắt qua cửa sổ nhìn những người đứng đợi ở sân ga, đoán xem cô Xuân là ai. Người nào cũng có thể là cô Xuân vừa có thể không phải là cô Xuân. Khi tàu dừng hẳn, đưa mắt qua lại vài vòng, tôi thấy chỗ Lý đứng là một thiếu nữ mặc toàn đồ trắng. Chiếc nón lá che mặt chỉ lộ từ nửa má xuống cằm. Khi tàu huýt tiếng báo hiệu khởi hành, khi Lý đã nhảy lên tàu rồi, tôi có phương tiện để nhìn nàng kỹ hơn. Đó là một thiếu nữ chừng mười chín tuổi, gương mặt tròn. Nước da trắng phù hợp với đôi mắt hiền dịu. Màu áo, màu guốc đều trắng. Cả cái quai nón cũng trắng.

Tết xong, vào học lại chừng được nửa tháng thì một tối Lý bảo tôi:

- Tôi đã xin thôi học rồi. Ngày mai tôi vào làm ở Tòa Đại sứ Nhật Bản, phòng quân sự.

Tôi gật gù suy nghĩ một giây rồi mới nói:

- Cũng được. Anh đã nghĩ kỹ?

- Đã.

- Có đi làm anh cũng vẫn còn ở trọ tại đây?

- Chắc thế. Cũng có thể tôi sẽ không được ở đây với các anh nữa. Nhưng đó là việc sau này. Hiện giờ chưa biết.

Nửa tháng sau, nhằm bữa tối tôi đi xi-nê về khuya, - có lẽ lúc bấy giờ đã 11 giờ rưỡi, - mở căn phòng, tôi thấy Lý ăn mặc tươm tất ngồi bên cạnh một cái rương và một cái va-li lớn. Bao nhiêu sách vở trên bàn đều dọn sạch, chăn màn cũng thu xếp đâu mất.

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Anh chuẩn bị đi đâu đấy?

- Tôi đợi anh từ tối đến giờ. Tôi đã phải giã từ chủ trọ và giã từ khắp các bạn bè rồi. Chỉ còn anh. Nội đêm nay tôi phải dọn sang Sở Hiến binh.

- Sao lại ở Sở Hiến binh? Anh làm ở Tòa Đại sứ chớ có làm ở Sở Hiến binh đâu?

- Họ chuyển tôi sang đó.

- Đừng chịu! Làm ở đó khổ cực.

- Tôi thấy rằng làm ở đâu cũng vậy. Miễn là họ có thể giúp đỡ mình.

- Giúp cái gì? Anh cần gì phải ai giúp?

- Có.

Nói đến đấy, Lý ngập ngừng rồi thôi. Tôi nói tiếp:

- Làm ở Sở Hiến binh đi khuya về sớm không có giờ giấc nhất định, nhọc lắm. Vả lại, còn nguy hiểm nữa.

- Điều đó tôi biết.

- Thế sao anh không từ chối? Toyo Menka, Showa Tsusho, Mitsubishi Kaisha, Yokohama Speciebank… bao nhiêu chỗ cần người. Sức như anh vào làm ở những chỗ đó thong thả, điên dại gì lại đi làm Hiến binh.

Lý lầm lỳ không trả lời. Cuối cùng, anh đứng dậy giơ tay cho tôi.

- Thôi tạm biệt anh. Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Tôi cám ơn anh đã giúp đỡ tôi trong những ngày đầu bơ vơ ở Hà Nội.

- Điều đó không đáng kể.

Lý vội vã nói tiếp, như sợ tôi nói thêm:

- Tôi sẽ thỉnh thoảng ghé thăm anh. Khi có việc gì cần hỏi tôi, anh cứ lại Sở Hiến binh ở cuối đường Gambetta hoặc viết thư cũng được. À… nhưng nhớ rằng hỏi Hoàng Gia Lý thì không ai biết được đâu đấy. Bây giờ tôi là Hô-ka-Li.

- Là cái gì?

- Hô-ka-Li.

- Hô-ka-Li là cái gì?

- Là Hoàng Gia Lý, phát âm theo Nhật ngữ.

- Hô-ka-Li.

Tôi đưa tay cầm lấy tay anh mà trong óc lật qua lật lại mấy chữ Hô-ka-Li. Cái tên đã đổi rồi thì không biết cuộc đời và mối tình của anh có còn giữ vẹn như xưa không?

Từ đó, thỉnh thoảng đi phố, tôi có gặp Lý. Những khi nhìn Lý đi ô-tô hòm tôi thấy vui vui, nhưng mỗi khi thấy anh đứng trên xe nhà binh mui trần với một tốp lính là lòng tôi thấy bùi ngùi, ái ngại. Tôi cứ băn khoăn tìm hỏi không hiểu vì sao Lý lại bỏ đi làm như vậy.

Vì yêu nước? - Có thể lắm.

Vì danh vọng sự nghiệp? Cũng rất có thể?

Vì tình duyên có sự trở ngại? - Sao lại không?

Lâu lâu, Lý ghé lại nhà trọ thăm lũ chúng tôi. Anh hay đem theo quà. Có lần là những tập sách tuyên truyền về Đại Đông Á với những hình đẹp. Hồ Văn Nghĩa thích ảnh đẹp nên vồ lấy ngay. Có lần anh chỉ cho chúng tôi xem ảnh của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và ông Chandra Bose rồi giảng cho chúng tôi nghe những bài báo viết bằng tiếng Nhật ca tụng tinh thần Quốc gia của các nhà ái quốc này. Có lần anh đem đến một cái bánh tổ làm tại Nhật Bản do quân bưu đưa sang. Anh em phòng tôi và các phòng khác chia nhau mỗi người một miếng nếm thử. Có lần anh không đem đến gì cả mà chỉ uể oải tìm chỗ nằm rồi nói:

- Mệt quá.

Chúng tôi ái ngại nhìn anh gầy đi. Nước da xanh và hố mắt sâu xuống. Nhưng sợ anh buồn nên chúng tôi không ai nỡ nói. Chỉ có Nghĩa nhỏ nhất nên hay hấp tấp nhất, nói không kịp nghĩ:

- Anh Lý ơi! Sao anh ốm dữ quá vậy? Bộ ở trong quân đội nhịn đói sao anh?

- Nói bậy mày. Lý đạp lại.

- A!… nói vậy thì chắc là tại anh ăn ngọt không được chớ gì. Tôi nghe lính của họ ăn món gì cũng ngọt lịm hết. Kho cá mà ngọt quá chè đa…

- Ăn ngọt mạnh chớ sao. Mà, tao đâu có ốm, Nghĩa?

Vừa nói, Lý vừa xắn tay áo lên đưa ra đưa vào cho nổi bắp thịt.

Gặp bữa ăn, Lý hay ở lại ăn chung với chúng tôi. Nhìn anh ăn uống vui vẻ, pha trò vui vẻ mà cảm động. Anh gắp thịt luộc chấm mắm tép cặp với rau rồi vừa bỏ vào miệng vừa nói:

- Đúng là tinh thần Việt Nam.

Hòe đùa:

- Việt Nam banzai (vạn tuế)

Tôi bùi ngùi bảo Lý:

- Thế thì chiều nay anh ở lại đây ăn cơm. Chiều nay có giả cầy nấu với mẻ đấy. Nhằm vào món anh thích.

Lý vui cười:

- Đúng lắm, tôi thích giả cầy lắm. Nhưng chiều nay không ở lại được. Thôi xin hẹn lần sau.

Ăn chưa xong bữa, chợt Nghĩa đứng dậy lấy áo khoác vào người (Nghĩa có tật ăn cơm phải ở trần) rồi lật đật chạy xuống cầu thang. Một lát sau nó rầm rập chạy lên, mở vội gói cầm tay, bày ra mấy phong bánh in.

Lý khen:

- Sang quá ta! Tráng miệng bằng bánh in đậu xanh mỡ.

Hòe giảng giải:

- Không đâu. Hôm nay thằng Nghĩa nó thết anh đấy. Ngày thường thì tráng miệng bằng thèo lèo thôi. Đêm qua nó lại đánh cò quay ăn một hơi được hai mươi tám bao Cotab đó anh Lý ơi!

- À!…

Nghĩa “à” to một tiếng như chợt nhớ ra, vội lại ngăn tủ lấy năm bao Cotab đưa cho Lý.

- À, suýt nữa tôi quên. Anh cầm năm bao thuốc về hút.

Lý mỉm cười:

- Cái món “tương tư thảo” này, mày cho bao nhiêu tao cũng nhận.

Thăm chơi xong, Lý giã từ chúng tôi. Tiếng giày anh gõ lộp cộp trên sàn gỗ, quá hiên ngang mạnh bạo so với cái thân hình mảnh khảnh. Trọng tâm người anh như đã rơi thấp xuống ngang đế giày. Đôi vai cong cong. Cái đầu hơi chồm ra trước. Tôi nhớ một bữa nào trước đây, Nghĩa nó nói với tôi:

- Anh ơi, tôi coi cái tướng anh Lý ngó lao đao quá.

Một ngày tháng Năm, tôi nhận được một bức thư của Dưỡng, trong đó có một đoạn Dưỡng viết:

“Anh có biết hiện giờ Lý ở đâu không? Xuân có gởi thư hỏi tôi, nhờ tôi viết thư hỏi thăm anh. Xuân bảo chỉ có anh là biết địa chỉ của Lý thôi. Xuân đã viết năm cái thư cho Lý rồi mà không thấy trả lời. Không biết Lý có nhận được không? Hay Lý hiện không còn ở đấy…”

Tôi dè dặt không trả lời ngay cho Dưỡng. Đợi hôm nào gặp Lý hỏi lại đã. Nếu Xuân không được tin chắc chắn là tại Lý không muốn viết đó thôi. Tựu trung, hẳn có một uẩn khúc gì đây.

Hôm Lý ghé thăm, tôi đưa đoạn thư của Dưỡng cho Lý đọc. Anh lướt qua thật nhanh, trầm ngâm một giây rồi chậm rãi nói:

- Anh đừng cho biết địa chỉ của tôi. Cứ lờ đi đừng trả lời. Nếu Dưỡng cứ nhắc đi nhắc lại thì anh cứ nói rằng lâu ngày không gặp tôi. Tôi nhờ anh điều đó.

Nói xong, anh kêu xe tay rồi vội vã chào tôi:

- Tôi cần về sở gấp để sang Gia Lâm. Lúc nãy bom ném ở Gia Lâm. Thiệt hại khá nặng.

Chiến tranh mỗi ngày mỗi tràn lấn sang Việt Nam, đã đến giai đoạn phi đội Mỹ chiếu cố đến các căn cứ quân sự Nhật ở Việt Nam, thả bom trúng đích hơn và thường xuyên hơn. Sài Gòn bị ném bom. Hà Nội bị ném bom. Tháng Mười năm 1943, tôi nghỉ học chạy tản cư về quê.

Lý tiễn chân tôi ra tận sân ga. Anh bùi ngùi nói:

- Thế là tôi bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh. Tôi không còn được cái thú vô tư của người đứng ngoại cuộc như các anh để thản nhiên xem người khác chém giết nhau.

- Đã chắc gì thản nhiên.

- Nhưng cũng gần vậy.

Khi tàu gần chạy, anh đưa cho tôi một phong thư và nói:

- Khi nào gặp Dưỡng, nhờ anh trao dùm thư này cho Dưỡng, để Dưỡng đưa lại cho Xuân. Có lẽ đây là cái thư cuối cùng của chúng tôi.

Khi tàu chạy, anh đứng lẫn sau những cột trụ, sau những người đi lại.

Về quê chừng được một tuần, tôi đi Tuy Hòa, thăm anh Dưỡng. Tuy rằng Tuy Hòa chỉ cách Tuy An có ba mươi cây số, nhưng đã bốn, năm năm rồi tôi chưa hề đi tới. Tôi bồi hồi nhìn nhà ga khá đồ sộ, dãy bungalow tươm tất, hai hàng phố chính kiến trúc theo kiểu cổ của người Trung Hoa, nghĩa là vừa thâm nghiêm vừa nặng nề. Dưỡng ở một cái nhà nhỏ ở bên chân núi Nhạn Tháp. Đó là nhà của mẹ vợ anh. Vợ anh buôn bán. Anh dạy lớp Nhất ở trường Bình Minh. Qua lời anh nói thì học trò rất mến anh vì anh dạy giỏi, phụ huynh mến anh vì học trò đi thi đỗ nhiều. Tóm lại, nghĩa là anh bằng lòng cái công việc của anh lắm. Tuy không nghe anh nói ra nhưng tôi cũng biết rằng anh bằng lòng cả cái vị trí hiện tại của anh lắm, vị trí làm rể một người đàn bà góa tần tảo đã đến ngày muốn nghỉ ngơi, vị trí làm chồng của người vợ đảm đang mà mẫu mực là bà mẹ siêng năng, vị trí làm cha một đứa con trai mặt giống mình. Nghỉ lại nhà anh một đêm, tôi thở được cái không khí bằng lòng đơn giản của cái gia đình nhỏ này. Cái gì cũng nho nhỏ, vừa phải, thanh đạm. Không ai muốn vươn cao lên một chút, không ai dám mơ tưởng xa thêm một tí. Tôi so sánh với những tình cảm cuồng nhiệt, mâu thuẫn, xâu xé, giằng co mà tôi sắp đem ra kể với anh. Tôi cố lùi lại cái giây phút mỏi mệt ấy. Khi biết rằng không thể lùi lại hơn, tôi bắt đầu:

- Chị Xuân thôi không học ở Đồng Khánh nữa?

- Về được ba tháng nay. Bác sĩ bảo yếu cần nghỉ thêm một thời gian.

- Ở nhà làm gì?

- Trông hàng cho mẹ.

- Ba chị có thay đổi ý kiến không?

Thấy Dưỡng có vẻ không hiểu ý tôi muốn nói, tôi phải giải thích rõ ràng hơn:

- Nghĩa là đối với việc Lý-Xuân ấy, ông hiện nay thế nào?

- Như xưa và chắc mãi mãi như xưa.

Anh hít một hơi thuốc lá rồi chậm rãi tiếp:

- Ông không có ác cảm với Lý. Lý hiền lành chí thú, hình như ông cũng thương. Mâu thuẫn bắt nguồn từ hai gia đình.

- Chúng ta đang nói chuyện về Roméo và Juliette rồi.

Thấy Dưỡng không nói tiếp, tôi lấy cái thư đưa cho anh.

- Đây là bức thư Lý nhờ anh đưa cho chị Xuân. Lát nữa đi dạy học, anh ghé tạt đưa dùm cho chị ấy.

Vì mãi mười giờ mới có chuyến tàu hỏa ra Chí Thạnh, nên Dưỡng cứ đi dạy, còn tôi ngồi ở bàn đọc sách đợi đến giờ ra ga. Chừng mười một giờ, thoáng có một bóng áo trắng đi vào. Một lát, vợ anh Dưỡng ra bảo tôi:

- Có chị Xuân muốn gặp anh.

Câu báo tin đã thay lời giới thiệu vì chị Xuân đứng liền sau lưng vợ anh Dưỡng. Tôi mời chị ngồi. Chị không ngồi mà đưa liền cho tôi bức thư của Lý viết cho chị, vừa bảo:

- Anh đọc dùm bức thư này, Lý nói có lạ không?

Tôi cầm lên xem. Đại để có những ý quan trọng:

“Em quên anh đi… Một khi không yêu nhau được, cản trở đủ đường thì đeo đuổi làm chi cho khổ cả hai, khổ cả gia đình… Nhất là bây giờ anh đã tàn tật…”

Không giấu được ngạc nhiên, tôi nói to lên:

- Tàn tật?

Chị hỏi lại liền:

- Anh Lý bị tàn tật thiệt hở anh?

Tôi ấp úng không biết trả lời sao. Thì bằng một giọng tin tưởng, giọng tin tưởng đặc biệt của những người yêu nhiệt thành muôn thuở, chị nói luôn:

- Tàn tật có nghĩa là gì đối với tôi? Tôi đâu có yêu Lý vì Lý không tàn tật?

Tôi nhẹ người vì chị đã khéo tránh cho tôi khỏi phải nói dối. Tôi cúi xuống đọc tiếp. Không biết có phải vì thư viết bằng bút chì khó đọc hay vì Lý bối rối hay vì chính tôi không bình tĩnh, nên tôi đọc mà không hiểu Lý dứt khoát muốn gì. Nhưng tôi cũng không bận tâm tìm hiểu thêm vì tôi biết đại để, những bức thư tình đều hay loanh quanh như thế. Ý của người viết không chắc đã phô diễn trung thành trong những chữ. Nhiều khi còn nên hiểu trái lại. Tôi quay sang chị:

- Ý chị thế nào?

Chị không đáp lại câu hỏi của tôi. Chị nhìn thẳng vào mặt tôi mà nói:

- Anh nên khuyên giùm Lý. Tôi biết Lý mến anh và nể anh. Anh nên khuyên giùm Lý.

Ánh sáng như đọng lại nhiều hơn ở mắt chị. Thì ra nước mắt đã lưng tròng. Tôi an ủi:

- Để tôi viết thư cho Lý thử xem.

- Tôi nhờ anh. Tôi chỉ biết nhờ anh.

Lúc ấy có tiếng còi tàu huýt lên. Tôi nhìn xuống đồng hồ thì vừa đúng lúc để tôi ra ga. Chị Xuân biết ý nên đứng dậy trước:

- Thôi anh ra ga kẻo trễ tàu. Tôi cám ơn anh và xin lỗi vì đã quấy rầy anh.

Viết thư khuyên Lý? Tôi không thể làm việc thừa ấy được, mặc dầu mỗi lần nghĩ đến chị Xuân là trí nhớ của tôi quy tụ về đôi mắt ứa lệ của chị. Lý đâu có ngây thơ để cần phải được khuyên? Tôi đâu có hiểu rõ hoàn cảnh, hoàn cảnh chủ quan và khách quan của Lý để mà khuyên Lý? Lời khuyên sẽ dễ làm giảm giá trị của người khuyên nếu nó làm không đúng lúc. Tôi bình tĩnh đợi sự giải quyết của người trong chuyện.

Một ngày kia, tôi nhận được một bức thư. Nét chữ mềm mại. Tôi hồi hộp mở ra, lật đọc dòng chót để tìm tên người viết. Chị Xuân. Đại ý cũng như bữa nọ chị nói với tôi, có tha thiết thêm là ở chỗ chị đã thêm mấy đêm suy nghĩ. Không phải chỉ mấy đêm ấy thôi, tôi biết, mà chị đã từng suy nghĩ hằng mấy trăm đêm về trước rồi, có điều chị không nhớ hết đấy thôi. Chị lại khẩn thiết nhờ tôi khuyên Lý. Lạ thật! Người nào cũng chủ quan thấy điều gì mình nghĩ cũng phải là đúng và buộc người khác phải làm y theo ý mình mới gọi là đúng. Tôi hơi bực mình, không biết làm sao để vừa giúp chị, đồng thời lại vừa khỏi mang tiếng là khờ trước mặt anh Lý. Khó hết sức.

Tôi đang loay hoay thì có tin anh đã đổi vào Sở Hiến binh Sài Gòn. Sài Gòn gần Tuy Hòa hơn Hà Nội, nên tôi cho như đó là một sự may mắn. Rồi bỗng một buổi sáng kia, anh lầm lũi đi vào nhà tôi.

- Kìa, anh Lý.

- Tôi vừa về, ghé sang thăm anh.

- Anh vẫn còn làm việc ở Sài Gòn?

- Vâng, còn. Tôi xin nghỉ một tháng.

- Thú nhỉ? Tha hồ nghỉ ngơi: Độ rày trông anh khá hơn những ngày ở Hà Nội.

Câu chuyện hàn huyên qua hết phần thủ tục, chuyển sang nội dung. Lý nói:

- Người Nhật họ không thực tình đối với ta.

- Điều đó tôi đã nói với anh ngay từ hồi chúng ta còn ở Hà Nội.

- Nhưng bây giờ tôi mới biết rõ ràng đích xác.

- Thế bây giờ anh tính sao?

- Khó quá.

Tôi không muốn anh tâm sự thêm nữa để khỏi phải góp những ý kiến về chính trị mà mình không biết chắc và mình không tin chắc là đúng. Nói chuyện với Lý, tôi không muốn dùng những câu xã giao thông thường hay những lối uyển từ nói nhiều và nói hăng hái để tựu trung không nói một cái gì hết. Tôi lái câu chuyện cho chuyển sang một khía cạnh nhẹ nhàng cởi mở hơn.

- Anh em thằng Nghĩa về Sa Đéc rồi?

- Về sau anh nửa tháng.

- Ồ! Thế mà tôi cứ tưởng chúng nó gan lì lắm.

- Tụi Hòe, Xoang cũng đều về quê hết. Hà Nội độ sau này vắng vẻ lắm, buồn lắm.

Nói chuyện chừng một giờ, anh chợt ngần ngừ hỏi nhỏ tôi.

- Cái chăn hôm nọ ở Hà Nội đem về, anh có còn giữ lại đó không?

Cái chăn? Tôi hiểu rồi. Đó là cái chăn dạ của Lý hôm đi tản cư tôi dùng để gói đồ đạc đem theo. Tôi trả lời:

- Còn đó.

- Anh cho tôi xin lại. Vài bữa nữa đám cưới mà thiếu cái chăn.

Tôi ngẩn ngơ:

- Đám cưới…

Lý nói lúng túng, có vẻ ngượng ngập:

- Đám cưới của chúng tôi.

Khi tiễn anh ra cổng, tôi cứ nghĩ mãi đến “đám cưới” và “cái chăn”. Oái oăm hết sức là hôm anh sang thăm tôi lại mặc bộ nỉ màu xanh rêu mà cách đây hai năm chính tôi đưa anh đến hiệu may Hàng Trống chọn hàng và đặt may cho anh. Cái cà-vạt màu xanh lục anh thắt khéo hòa hợp với màu áo. Tự nhiên tôi nhìn sang cái chăn dạ màu nâu đã cũ. Một chút nghẹn ngào dâng lên làm tôi hơi khó thở. Hạnh phúc một cuộc đời, cuộc đời của một người say mê khao khát, ôm ấp nhiều hy vọng và hứa hẹn nhiều triển vọng, hạnh phúc đó cuối cùng chịu bằng lòng xây dựng bên cạnh màu chăn dạ cũ kỹ kia sao?

Cảm tưởng của tôi đối với cuộc hôn nhân thành tựu này thật hết sức là lẫn lộn, mâu thuẫn. Vui không hoàn toàn, mừng rỡ không rõ ràng, có cái gì ngượng ngập ở đây. Tôi hỏi một vài người biết rõ nội vụ hơn hết để tin rằng việc cưới hỏi Lý nói với tôi hôm nọ là việc cưới hỏi của chính anh. Người ta đều xác nhận rằng cả hai gia đình đã bỏ mọi hiềm khích, đã hy sinh tự ái để hai người trẻ khỏi đau khổ. Mặc dù nghe rõ vậy nhưng sao tôi vẫn ngờ vực rằng sự thật sẽ không diễn ra êm đẹp dễ dàng như thế đâu, như kết cuộc của một phim chiếu bóng đâu. Cho đến khi có người láng giềng - người này là một người nhà quê biết gia đình Lý chớ không thương không ghét - kể cho tôi nghe đám rước dâu, tôi mới yên tâm mà tin. Ông ta nói rõ ràng:

- Họ gái đi ô-tô ở Tuy Hòa ra. Xuống Phố Thoại chuyển sang xe ngựa. Xe ngựa có cắm bông.

- Mấy cỗ xe ngựa?

- Bốn cỗ.

- Cắm bông gì?

- Đủ thứ: bông đào, đông điệp, bông giấy… Tôi thấy rõ ràng mà.

- Thì ai nói rằng ông không thấy? Kể tiếp đi.

- Họ gái mang giày cườm và cầm dù.

- Còn họ trai?

Ông hít một hơi thuốc lá rồi mơ màng tiếp:

- Còn thằng rể và con dâu bận áo rộng.

Đó là chi tiết mà tôi đã vô tình mong đợi.

Câu chuyện tình đã kết thúc một cách êm đẹp nên không còn ai nhắc đến nhân vật nữa. Người ta bỏ quên họ để chuẩn bị cho tâm trí vấn vương về những thắc mắc khác.

Sau nửa tháng, Lý đi Sài Gòn. Xuân ở nhà quê với mẹ chồng. Dù xa nhau nhưng chắc Xuân không buồn vì mẹ Lý tốt và các em của Lý đều tốt. Vả lại, chị còn đòi hỏi gì thêm khi trong suốt năm sáu năm thương yêu chị đã chỉ dám dự trù chia ly hơn là sum họp. Chắc Lý cũng nghĩ thế.

Sau đó, tôi nghe Lý được đổi về Nha Trang. Những người trong vùng trở lại nhắc đến Lý, nhưng lần này bằng một giọng thán phục. Số là lúc bấy giờ quân Nhật kiểm soát Đông Dương chặt chẽ hơn nên xe cộ của họ qua lại luôn. Lẽ tất nhiên Lý cùng đi với các sĩ quan Nhật, hoặc ghé lại Tuy Hòa, hoặc ghé lại Chí Thạnh, hai trung tâm thu nhặt tin tức về Lý.

Vụt đến ngày Nhật đảo chính, Lý hầu như thành nhân vật trong một thiên anh hùng ca cho cả vùng đó. Người ta truyền miệng cho nhau không biết bao nhiêu là truyền kỳ về Lý. Nào Lý bận binh phục có đeo gươm rất dài. Nào Lý đeo một hàng mề đay vàng rực cả ngực. Nào Lý đội một cái mũ nhung đỏ chói. Nào xe hơi của Lý đậu kít ở trước nhà người cô của Lý, một tên lính chạy ra mở cửa xe, Lý bước xuống lẫm liệt… đi vào.

Có người cả quyết rằng chính mình đã thấy Lý cầm gươm châm xuống đất, nói một tràng tiếng Nhật rồi trong năm phút, một đoàn tàu bay Nhật vù vù bay ra đảo lộn trên nền trời Tuy Hòa. Người khác bảo đảm là không phải tàu bay mà là một đoàn ô-tô nhà binh rầm rộ chạy ra, đậu suốt một dãy để đợi lệnh.

Có lẽ chỉ có mình tôi là hiểu nỗi khổ tâm của Lý thôi. Nhưng rồi tôi cũng lây cái vui, cái hào hứng của mọi người. Tôi thầm bảo mình:

- Dù sao, những giây phút này cũng đền bù một đôi phần những nỗi lao tâm khổ trí của Lý. Dù sao cũng vẫn còn hơn là lúc viết thư cho người yêu anh bảo hãy quên đi, quên đi vì mình đã thành người tàn tật.

Ngày khởi nghĩa, tôi đang ở Đà Lạt. Ở Đà Lạt không có việc cướp chính quyền mà chỉ là chuyển giao quyền hành chánh, nhưng nghe nói ở mấy tỉnh miền Trung châu, sự xung đột có xảy ra, nhiều nơi khá dữ dội. Tôi lo cho số phận của Lý. Khi cuộc chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ, ăn lan dần ra khắp miền Nam Việt Nam, tôi tản cư lận đận trên con đường Lâm Viên-Ninh Thuận. Thỉnh thoảng mỗi lần nghĩ đến thời cuộc là tôi nghĩ đến Lý, một nạn nhân tiêu biểu của thời cuộc, của thời đại.

Ngót một năm sau, khi về đến Phú Yên, tôi được nghe tin Lý vẫn còn an lành. Anh về nằm ở quê nhà. Tôi lựa một bữa rảnh rỗi ghé sang thăm. Hai vợ chồng tươi cười ra đón. Anh siết chặt tay tôi, còn chị thì miệng cười như hoa. Chị đẩy cái xe đan bằng mây, trong đó có cháu bé ngồi và dạy:

- Bé Thảo chào bác đi.

Tôi liền nói:

- “Xuân du phương thảo địa”. Con này chắc là Phương Thảo đây.

Chị đỏ mặt thẹn. Anh mời tôi ngồi. Những cử chỉ: rót nước, mời nước, gạt tàn thuốc, đứng dậy, ngồi xuống hơi chậm chạp. Có lẽ đó là di tích của chiến bại. Anh không kể lại những sự việc đã xảy ra, tưởng như tôi đã biết hết rồi, anh chỉ nói đến một cách rất đơn giản vài nét của cuộc sống đơn giản hiện tại của anh. Những sự việc đã xảy ra cho anh, tôi có nghe qua, chúng không khác mấy với những điều tôi đã dự tưởng.

Rốt cuộc, tôi cảm ơn số mệnh đã cho anh sống nguyên vẹn để về ở bên vợ con. Khi anh nói chuyện với tôi, cứ một lát anh lại giật mình vì cháu Thảo hoặc đứng chồm quá trước xe, hoặc ngồi xuống hơi nặng. Có lúc miệng anh vừa nói, mắt anh vừa nhìn tôi, mà tay giơ ngang bé Thảo như che chở.

Mùa đông năm 1948, tôi ghé lại một lần ở Tuy Hòa thăm anh. Lúc bấy giờ anh lãnh một chức nhỏ phụ giúp ở Ty Cứu tế Xã hội. Anh bảo tôi:

- Cứu giúp những người khổ, đó là cái việc rõ ràng khỏi phải cân nhắc lý luận lôi thôi. Tôi tiếc không đủ năng lực để làm một y sĩ. Kẻ thù của một y sĩ có lương tâm là bệnh tật, là chết chóc, là cái chân bị sâu quảng, cái nhọt bị nung mủ, khúc ruột thừa bị sưng. Ông ta cứ cắt, cứ mổ, cứ tiêm. Lương tâm để ông ngủ yên. Lương tâm, tôi có.

Tôi nhìn quanh cái gác trọ của anh. Cũng lại những đống quần áo mắc lên thành ghế, những chồng sách để bừa bãi dưới sàn gỗ và cái gạt tàn thuốc cố hữu. Đặt anh vào cái khung cảnh này như dễ trông hơn. Có lẽ vì quen mắt hơn. Tôi thấy tội nghiệp anh.

Mùa đông năm 1949, tôi vụt nghe tin anh chết. Tin hãi hùng, tôi nghe rõ ràng mà có cảm tưởng như mình nghe lầm. Trước đây nửa tháng, có tin anh đi thăm trại tế bần rồi bị sốt dọc đường. Anh gắng lội qua sông. Đến nơi, anh nằm vùi. Gia đình được báo tin đến võng anh về, chữa thuốc Bắc nhưng mãi không mạnh. Anh được võng đi nhà thương cho bác sĩ khám. Rồi không hiểu vì bác sĩ bảo bệnh đã quá nặng hay vì thiếu thuốc, anh lại được võng tới ông thầy thuốc Bắc có tiếng chữa bệnh thương hàn. Anh chết ngay tại nhà ông thầy.

Tôi đến thăm di hài anh. Những ngón tay cong lại trông rõ đốt xương. Tôi thân ái mở tấm giấy phủ mặt. Mắt anh nhắm nghiền. Da mặt xám sậm. Tôi nghe nóng nơi mắt mình. Tôi phủ lại tấm giấy. Trên bụng anh đắp ngang cái chăn, cái chăn dạ màu nâu.

Chị Xuân và cháu Thảo ở Tuy Hòa, chưa biết tin anh chết. Có lẽ chứng kiến ngay cái chết của anh, chị sẽ ít đau khổ hơn, vì chị khỏi bị người ta thương hại thêm. Tôi dự luôn cuộc đưa đám anh. Anh yên nghỉ ở khoảng đất đầu xóm. Ngày trước, mỗi lần đến thăm anh, tôi thản nhiên đi qua khoảnh đất này. Vì không lưu ý, tôi chỉ mang máng nhớ nơi đây có lá xanh, có cây phượng cao hoa đỏ, có vài con trâu gặm cỏ mơ màng. Đi vài trăm thước nữa thì tới nhà anh. Hôm nay, anh rời nhà, ra vĩnh viễn nằm nơi đây. Giã từ Huế, Sài Gòn, Hà Nội. Giã từ người yêu, kẻ thù, giã từ đau khổ, sự nghiệp, hạnh phúc…!

Chiến tranh tàn phá con đường ô-tô, sự đi lại hoàn toàn bằng đôi chân. Lâu lâu chị Xuân bế cháu hoặc từ Long Uyên (quê anh Lý) về Tuy Hòa (quê chị) hoặc từ Tuy Hòa ra Long Uyên. Vì con đường đi bộ ngang qua nhà tôi, nên không bao giờ chị quên ghé lại nghỉ chân. Cháu Thảo trắng mũm mĩm, giống ba ở cái miệng, giống má ở đôi mắt. Cháu bụ bẫm nhưng yếu, chậm biết đi, chậm biết nói. Tôi hay bế cháu vào lòng, siết cháu thật chặt. Mỗi lần làm như vậy, tôi có cảm tưởng như ngày nào siết chặt tay ba cháu. Có nhiều lần bế cháu đến nhà tôi là cháu đã ngủ khì trên tay chị. Chị đặt cháu xuống võng.

Tôi nhìn vẻ mặt ngây thơ của cháu, nhìn bàn chân thon của chị. Bao nhiêu là trách nhiệm nặng nề Lý đã giao lại cho chị. Một quá khứ nặng đau khổ chỉ được đền bù bằng bốn năm Hạnh phúc - mà nào có hoàn toàn, - để rồi bây giờ chị lại đau khổ, cái đau khổ còn nặng gấp mấy hồi xưa vì chỉ có mình chị chịu đựng. Nỗi khổ khi con người chung chịu, ta không thấy nặng nữa. Tội nghiệp cho chị, cô đơn biết bao! Không muốn chị buồn nên không bao giờ tôi nhắc đến Lý. Chị cũng vậy. Chị nói chuyện hồn nhiên như hồi xưa, thật thà như một người em. Có lần chị dạy cháu chào tôi:

- Thảo ngoan, vòng tay chào bác nào.

Bé Thảo vòng tay lại, nhưng không cúi đầu được. Chị khuyến khích:

- Thảo cúi đầu xuống đi, ngoan đi.

Bé Thảo cố gắng nghiêng được cái đầu một tí. Chị thân mật bảo tôi:

- Cháu thấy anh lạ nên nhút nhát đấy. Ở nhà, cháu ham tập nói lắm. Cứ chiều chiều, hai mẹ con dẫn nhau ra sau vườn nhà, nhìn ra cánh đồng xa. Hai mẹ con ở đó hàng giờ…

Chị thôi không nói nữa, mi mắt chớp mau. Chợt chị mỉm cười, “à” lên một tiếng như chợt nhớ ra. Chị bế Thảo rồi cầm tay chỉ ra sân, chị nói:

- À, Thảo hát cái bài hát “Chiều chiều” cho bác nghe nào. Nào:

- Cò ơi…

Bé Thảo bập bẹ:

- bay về…

- bay về…

- phương nao…

- phương nao…

Chị vỗ tay khen. Bé Thảo vỗ tay reo. Tôi cũng vỗ tay theo như một cái máy.

Cò ơi, bay về phương nao…

Câu hát không lẽ dứt ở đó. Tôi chắc chị đã tiếp thêm bằng một câu nữa, bằng vài câu nữa buồn hơn.

Chiến tranh mỗi năm một quyết liệt, việc làm ăn mỗi ngày một khó khăn. Chị mở một ngôi trường nhỏ dạy học nuôi con, nhưng vì Tuy Hòa bị báo động tản cư luôn nên sự dạy dỗ không kết quả mấy. Thỉnh thoảng trong những ngày hội nghị giáo dục tôi gặp chị, vẫn một màu áo trắng, đôi mắt dìu dịu, buồn buồn. Nhưng đôi môi vẫn tươi, nụ cười hiền lành kín đáo. Trên khuôn mặt đó có một vẻ gì khiến người ta muốn đến gần nhưng giữ người ta lại không cho đến gần quá.

Có lần, tôi nghe tin một số thanh niên có cảm tình với chị. Điều này tất nhiên phải xảy ra, tôi không lấy làm lạ. Các thanh niên ấy đều không phải là người địa phương. Điều này cũng dễ hiểu. Những người địa phương ai cũng biết mối tình thắm thiết giữa chị và anh Lý. Ít ai muốn, hoặc có can đảm, yêu một người khi người ấy là tượng trưng cho mối tình với một người khác. Ai cũng muốn hoàn toàn chiếm tâm hồn của người mình yêu. Người ta không chỉ ghen với một người thật, người ta còn ghen với một cái bóng, một kỷ niệm. Sau đó, tôi được nghe thêm những tin tương đối đích xác hơn về người đã yêu chị. Anh ta khẩn thiết xin cưới. Tôi bâng khuâng, hơi đau đớn một chút.

Rồi tiếp theo, chiến tranh kết liễu. Tôi giã từ Phú Yên.

Một ngày kia, giữa giờ dạy Hán văn, tôi giảng về chữ Xuân. Khi phân tích cách viết, tôi nhớ đến cái con dấu mà anh Lý hay dùng đóng vào ở mọi quyển sách của anh. Con dấu tròn khắc sáu chữ Nho:

Tam nhân nhật

Hoài cố nhân

Dù không hỏi Lý nhưng tôi biết chắc “Tam nhân nhật” là chữ Xuân phân tích ra. “Hoài cố nhân” thì ai cũng hiểu là “Nhớ người xưa”. Tôi bảo học sinh:

- Để dễ nhớ cách viết chữ Xuân, tôi kể nhanh cho các anh chị em nghe một mẩu chuyện này. Tôi có một người bạn. Anh ta quen một người tên Xuân. Để nhớ mãi người này, anh thuê khắc một con dấu trên ghi mấy chữ “Tam nhân nhật, Hoài cố nhân”. Anh đóng con dấu ấy vào mọi quyển sách của anh. Tam, nhân, nhật, ghép lại thành chữ Xuân…

Tôi lên bảng viết từng chữ đơn rồi ghép lại.

Học sinh, vì lớp lớn, lao nhao hỏi:

- Rồi sao nữa thầy?

Tôi cắt ngang câu chuyện bằng cách bảo:

- Anh bạn tôi chết rồi.

Mọi người tự nhiên im lặng.

Khi Lý chết. Tôi còn giữ một quyển sách nhỏ của Lý. Tôi không đưa trả lại cho gia đình Lý vì quyển sách mang đầy những con dấu “Tam nhân nhật, Hoài cố nhân”, tôi muốn giữ làm kỷ niệm của Lý, của cả chị Xuân nữa. Quyển sách ấy Lý mua hồi còn ở Hà Nội. Có lẽ lúc bấy giờ xa người yêu anh càng nhớ nhiều nên cứ cách mười trang là anh đóng một con dấu.

Tôi đâu có nhiều thì giờ để năng nhớ đến Lý. Chỉ thỉnh thoảng khi nào mở sách ra là lòng lại bồi hồi nhớ đến người bạn xưa.

Một hôm, tôi ghé lại thăm anh Lợi, một bạn cũ ở Tuy Hòa vào, vừa cất một cái nhà xinh ở xóm Đồng Dưa. Câu chuyện bắt đầu bằng sự xây cất nhà cửa. Với những chuyển mạch rất tự nhiên và vô tình, câu chuyện đưa về thành phố Tuy Hòa. Tôi vụt hỏi:

Chị Xuân bây giờ làm gì ngoài đó?

- Xuân nào?

- Xuân-Lý đấy.

Bạn tôi cười to:

- Anh này mê ngủ hả? Chị Xuân nào còn ở Tuy Hòa?

- Chớ đi đâu?

Thấy tôi nghiêm trang hỏi, anh thôi không mỉm cười chế nhạo nữa. Anh thân mật nói:

- Lấy chồng rồi. Lấy chồng năm 1953 rồi.

Tôi không cười được mà cũng không buồn được. Hình như tôi đã chuẩn bị từ lâu để nghe câu trả lời ấy.

Chớ sao? Cuộc đời cực nhọc trong khói lửa chiến tranh đâu phải là một dạ hội có rượu ngon, thuốc lá, âm nhạc, đối với những người đàn bà góa trẻ, đẹp, yếu, có học thức như chị? Không ai trách chị được, chị chỉ đáng thương mà thôi. Đáng thương nữa là Lý, tôi nghĩ tiếp, nhưng tôi kịp thấy tôi đã nghĩ sai. Lý không có gì để đau khổ. Anh đã chết rồi nghĩa là đã giải thoát rồi. Nếu tôi có một ý nghĩ đau đớn về anh, chung qui cũng chỉ vì cái con dấu với hàng chữ Nho kia. “Tam nhân nhật, Hoài cố nhân”

Số mệnh oái oăm sắp đặt để người hoài cố nhân không phải là anh mà là chị Xuân. Đáng lẽ chị Xuân mới là người đóng cái con dấu “hoài cố nhân” trên những trang sách của chị đọc.

Óc tôi như vụt lóe sáng vì tôi chợt thấy rằng chữ Lý tên của anh cũng có thể phân tích ra thành những đơn tự. Đó là: Thập bát tử. Tự nhiên tôi như thấy cái con dấu lồ lộ mấy chữ:

Thập bát tử

Hoài cố nhân

Nhưng than ôi, cũng lại số mệnh oái oăm đã cản tay chị Xuân không cho chị đóng con dấu ấy nữa. Chị có thể âm thầm nghĩ đến anh giữa hai cái mỉm cười với người hiện tại, nhưng nào chị có quyền ghi bằng một nét cụ thể trên trang giấy trắng.

Còn lại người thứ ba. Là tôi. Tôi không khắc một con dấu bằng đồng mà bằng câu chuyện tình nhỏ này. Ở một nơi xa xôi nào, nếu có vô tình chị đọc đến, chị cũng không nỡ trách tôi.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:15:42 bởi hai1957 >

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 17.11.2012 10:48:36
2. NGÀY XƯA


Tiếng còi tàu thét lên. Tôi nắm tay ông Vũ.

- Thôi, xin ông bà ở lại mạnh giỏi. Tôi …

Tôi nghẹn ngào không thể nói tiếp. Tôi quay nhìn bên cạnh: bà Vũ nước mắt ràn rụa gượng mỉm cười nhìn tôi. Cạnh bà, Bảo Loan đứng im lặng. Tay nàng nắm chặt chiếc mùi soa trắng. Tôi nhìn vào đôi mắt nàng long lanh dưới ánh sáng mờ của những bóng điện sân ga.

Ông Vũ bình tĩnh cầm tay tôi siết mạnh:

- Anh về quê tạm lánh một thời gian, chừng nào tình hình yên ổn thì lại ra. Có lẽ tôi cũng sắp đặt cho nhà tôi và con Loan nó vào Hà Đông…

Bà Vũ như sợ tôi quên, nên nhắc lại một lời mà mấy hôm nay bà căn dặn tôi mãi:

- Anh nhớ xem báo, thấy tình hình hơi yên ổn thì ra ngay. Nhớ viết thư cho chúng tôi luôn.

Tôi chỉ biết vâng dạ vì không có lời gì có thể diễn được tấm lòng của tôi lúc bấy giờ. Lòng tôi đang tràn ngập hình ảnh của Bảo Loan và ý nghĩ về Bảo Loan mà tôi có dám nói ra đâu? Ít nhất tôi cũng muốn nói rằng “Thôi em về…” để nghe nàng thẫn thờ đáp lại “Anh đi…” và tiếp theo là một tiếng thổn thức.

Nhưng thế mà tôi đành im lặng.

Quanh chúng tôi, những người chạy loạn hấp tấp, hối hả mang vác giỏ, xách va-ly, gồng gánh đùn nhau lên toa. Thỉnh thoảng tiếng hành khách kêu hú nhau làm chúng tôi giật mình tưởng như nghe tiếng còi báo động ban đêm. Thật chỉ mới một tuần nay thôi, mới qua hai lần bị bom nổ mà người dân Hà Nội như đã nếm từ lâu lắm mùi vị thật của chiến tranh chết chóc.

Chợt tiếng còi tàu thét, rồi tiếng kèn sếp-ga tu tu. Tôi vội vã cúi chào một lượt ba người thân yêu rồi lùi lại, bước chân lên bàn đạp toa tàu. Tàu xình xịch chạy.

Không có ai vẫy tay trên sân ga. Không có những kẻ nhàn tản chứng kiến cảnh đón đưa của những người thiên hạ.

Xình xịch… xình xịch… Tàu chạy chậm lướt qua mặt ba người thân yêu của tôi kia. Bóng họ ngã xuống đường, gãy ngoằn ngoèo qua những chỗ cao thấp, lồi lõm của sân ga và đường tàu nối tiếp. Bóng những trụ đèn cao cũng ngã xuống, cũng gãy ngoằn ngoèo. Tôi lo sợ rằng tương lai của tôi và mối tình giữa tôi và Bảo Loan cũng đang ngã xuống, cũng gãy ngoằn ngoèo như thế.

Điều tôi lo sợ không phải là không căn cứ. Những người chạy loạn, tạm chia tay nhau để đợi ngày trở lại. Tôi thì khác hơn, tôi ra đi mà không mong ngày trở về. Đối với đa số người khác, tản cư, chạy loạn chỉ là một giai đoạn bất trắc đến xáo trộn cuộc sống của họ trong một thời gian, với tôi, hình thức chạy loạn, là tản cư nhưng nội dung làm tôi đau đớn làm sự đổ vỡ của tương lai mình dự định.

Độ ấy tôi có mộng đi du học Nhật Bản. Lúc bấy giờ tổ chức trao đổi sinh viên giữa Đông Dương và Nhật Bản bắt đầu phát triển, Viện Văn hóa Nhật Bản ở Hà Nội đang sửa soạn gởi tiếp một số sinh viên trao đổi Việt Nam sang Nhật tiếp theo chuyến trước đã đến Nhật rồi. Tôi đang vận động để được lựa đi chuyến này. Có nhiều hy vọng được lựa nên tôi đã chuẩn bị chuyến đi.

Trong khi chờ đợi, chiến tranh Mỹ Nhật đột nhiên đi vào độ quyết liệt. Tàu chiến Hoa Kỳ đã xuất hiện ở ven bể Trung Hoa, đánh đắm nhiều tàu Nhật Bản. Từng loạt phi cơ phóng tháo Hoa Kỳ liên tiếp thả bom xuống ngay thành phố Tokyo. Từ thế công, quân đội Nhật đã phải chuyển sang thế cầm cự. Sự giao thông giữa Đông Dương và Nhật Bản đã gặp nhiều trở ngại, việc gởi tiếp một đoàn sinh viên trao đổi sang Nhật và một đoàn sinh viên Nhật sang Đông Dương đã thành khó khăn. Viện Văn hóa Nhật thu hẹp bớt phạm vi. Tôi bắt đầu mất hy vọng.

Ngày 10 và 14 tháng 10 năm 1943, phi cơ Mỹ thả bom xuống Hà Nội. Lệnh tản cư đưa ra. Những chuyến tàu chở người tản cư kéo hàng hai mươi toa rầm rộ chạy suốt đêm. Tôi không thể còn ở lại Hà Nội nữa. Gởi lại tất cả đồ đạc, gởi lại cả một hy vọng rộng rãi về tương lai, tôi xách va-ly nhỏ lên ga Hà Nội, lên tàu xuôi Nam.

Tôi nhớ rõ, ngày 16 tháng 10, một buổi chiều xám, lạnh. Xung quanh mọi vật đen và buồn. Dãy bóng đèn trong toa hạng nhì cũng sợ, cũng buồn không chịu sáng.

Tôi về quê làm gì đây? Để tránh cái chết, nhưng tôi tiên giác rằng chính về quê là để chết, để chết dần tâm hồn của mình. Mấy năm hao phí tâm lực, tiền tài, kết quả chỉ là một cái mộng không thành. Trong khi ấy xung quanh tôi, những người bạn thực tế hơn đã thành ít nhất là những ông phán trẻ. Họ đã thuê được những căn nhà sáng sủa, có đèn điện, có xa-lông, có bàn viết, có những người vợ rất quê và rất giàu nên dáng dấp làm ra vẻ quí phái điểm trang. Những đám cưới linh đình có nhiều tiếng dội. Những ông láng giềng của tôi đã bắt đầu nói chuyện so sánh. Mỗi lần phải nghe những câu chuyện giàu sang, chức tước ấy, tôi thấy thương cho gia đình tôi. Gia đình những người bạn thực tế của tôi kia, họ hả hê, vinh hiến biết bao nhiêu. Gia đình tôi không chừng cũng buồn vì thấy tôi sao chỉ dự định những chuyện viễn vông gì mà không làm một ông phán danh giá như vậy. Tôi buồn nữa vì điều dự định về tương lai của tôi đã thất bại thì mối lương duyên của tôi ở Hà Nội cũng không thành. Tôi đã nghĩ khi nào có địa vị hẳn hoi tôi sẽ cưới Bảo Loan mà tôi yêu và đã yêu tôi. Nhưng hôm nay tương lai còn dành phần gì cho tôi nữa? Cả những nỗi buồn dồn dập ấy lại kèm thêm những mối lo. Tôi lo không biết người Pháp sẽ làm phiền tôi ngày nào. Lúc ấy người Pháp săn lùng ráo riết những người có cảm tình với Nhật Bản. Họ sợ những sự hoạt động về chính trị. Tôi không có khuynh hướng chính trị, nhưng biết người Pháp có hiểu rõ như thế không? Tôi có thể bị tình nghi lắm. Ngày ở Hà Nội tôi đã bị Mật thám vào nhà trọ dò la. Thành ra tôi không buồn đi đâu cả, không muốn tin ở một ngày mai nào. Tôi còn lo cho gia đình tôi nữa, vì nếu tôi có bề gì thì gia đình tôi sẽ bị liên lụy theo. Tôi lo từng ngày một, buồn từng giờ một. Đôi lúc tôi giận mình sao có chi những cái mộng ngông cuồng như vậy để hại cho sự an nhàn của tâm tư. Tôi có cảm tưởng rằng sống mười năm lo lắng buồn phiền như thế ấy, tôi có thể giảm bớt đi một vài tuổi thọ. Tôi không bao giờ yên tâm, tôi luôn luôn lo lắng, tôi giật mình vì từng tiếng chó sủa trong đêm, vì từng tiếng người ồn ào ban ngày. Tôi sống trong sự khủng hoảng lớn về tinh thần. Giữa lúc đảo điên ấy, cuộc đời xui tôi gặp Vân. Thu Vân.

Một buổi xế mát không nhớ rõ là ngày nào, tôi đến nhà anh Thái chơi như thường lệ. Thái là bạn học cũ. Ở quê nhà, tôi còn được ngót mười người bạn cũ, bạn học từ hồi mới ê a chữ Quốc ngữ. Hầu hết những người bạn này bỏ học sớm, chỉ có Thái cùng tôi đeo đuổi học lâu hơn. Thái hiểu tôi, đồng ý với tôi ở nhiều điểm trong quan niệm sống nên chúng tôi thường nói chuyện với nhau. Nhà Thái lại ở giữa xóm, sát con đường giao thông qua lại nên là nơi tôi thường lui tới để giết thì giờ. Do sự thuận tiện ấy mà rất nhiều lần Thái biến thành vật hy sinh của tôi. Mỗi lúc tôi buồn, giận hoặc thắc mắc về một vấn đề gì tạp nhạp hay quan trọng, tôi đều đến để bắt Thái nghe.

Lần này đến chơi nhà Thái, tôi không đem theo một sự thắc mắc nào cả. Tôi vui vẻ theo con đường mòn giữa hai dậu hoa bìm rồi bước vào cổng sau.

Tôi lên tiếng gọi to trước khi vào cửa:

- Thái ơi, Thái có nhà không?

Không nghe tiếng trả lời. Tôi gọi to hơn rồi ngang nhiên bước vào phòng khách. Không có ai cả. Thì chợt ở nhà ngang có tiếng mẹ Thái nói sang:

- Anh Diệp qua chơi. Mời anh vô đây.

Tôi bước vào cửa vừa sắp nói một câu ba hoa theo thường lệ - mẹ Thái vốn vui tính - thì chợt ngạc nhiên im lặng: ngồi ở tràng kỷ đối diện với tôi kia là một thiếu nữ mặc áo hồng. Tôi thấy ngượng, mất bình tĩnh. Người thiếu nữ chừng cũng ngượng và mất bình tĩnh như tôi. Nàng loay hoay không biết có nên chào tôi hay không. Tôi giúp nàng thoát cơn bối rối bằng cách quay sang hỏi mẹ Thái:

- Thái đi vắng hở thím?

- Nó vừa đi coi nhổ mạ để sáng mai cấy đám ruộng Cây Duối.

- Thái làm ruộng? Thư sinh hôm nay nhất định làm ruộng?

- Kìa, bữa trước anh có hứa chắc là phen này anh cũng về quê nhà làm ruộng như thằng Thái kia mà.

Tôi đành cười xí xóa. Quả thật, bữa nọ tôi và Thái có ngồi bàn tính với nhau cả hai về làm ruộng thử xem sao.

Bên kia, người thiếu nữ lại loay hoay như định nói gì. Nàng đứng dậy. Mẹ Thái quay sang:

- Con cứ ngồi chơi. Anh Diệp đây mà, chắc con biết…

- Dạ…

Ba người lại im lặng, không ai biết nên nối tiếp câu chuyện như thế nào cho không khí đỡ ngượng. Mẹ Thái mới giới thiệu tôi với nàng mà quên không giới thiệu nàng cho tôi, thành ra tôi không biết nàng là ai. Ở quê nhà, sự giới thiệu là việc thừa. Trong cái vòng giao thiệp hàng ngày vừa eo hẹp vừa thân mật của mỗi người, người ta có bổn phận phải biết nhau. Nhưng vào trường hợp tôi, tôi không biết nàng. Dễ thường nàng cũng không biết tôi. Tiếng “dạ” của nàng kéo dài không nhất thiết có nghĩa là “dạ, con có biết” mà rất có thể là “dạ, con không hề biết”. Nhưng mẹ Thái đâu có tìm hiểu chi xa xôi, vơ vẩn như tôi!

Cuối cùng, tôi thấy nàng rụt rè đứng dậy:

- Thưa dì, cho con ra xe.

Mẹ Thái nhìn ra khung cửa:

- Mặt trời còn kia, còn sớm con về làm gì lật đật?

- Nhưng chần chừ một lát sợ không còn xe.

- Chẳng thiếu gì. Từ nửa tháng nay tàu bay Mỹ thả bom hụt cầu Ngân Sơn, bắn cháy xe Nhật Bổn ở Chí Thạnh thì xe đò phải chạy thâm về đêm. Con ngồi chơi lát nữa cũng chẳng muộn.

- Giờ này đi là vừa.

- Ừ thôi, tùy ý con. Kẻo lỡ xe, con lại đỗ tại dì.

Nàng cười:

- Dì cứ nói vậy, con đâu dám. Thôi con chào dì.

Tôi chợt lo rằng nàng sẽ lại chào tôi. Tôi nhút nhát, vội nhìn xuống tập sách mà lúc nãy ngồi lại bàn tôi đã tiện tay cầm lên. Tôi làm như đang chăm chú đọc. Tim đập hồi hộp. Tôi mong rằng nàng cũng hồi hộp, cũng nhút nhát như tôi để cuối cùng nàng lẳng lặng bước đi đừng chào tôi nữa. Thật tội nghiệp! Tôi đã 23 tuổi rồi, đã từng yêu mà vẫn rụt rè như cậu học sinh 16 tuổi.

Nhưng tiếng dép ngần ngừ rồi tiếng dép mạnh bạo tiến về phía tôi. Và tiếng nàng dịu dàng:

- Xin chào anh.

Tôi ngẩng lên nhìn nàng, luống cuống đứng dậy, lẩm bẩm:

- Không dám, chào cô.

Sự chạm mặt tưởng rằng đầy bỡ ngỡ khó chịu, không ngờ đã xảy ra dễ dàng tự nhiên đến thế. Tôi thấy tôi sẽ hối tiếc biết bao nếu nàng đi thẳng không chào tôi như tôi vừa mong.

Và bây giờ đến lượt tôi tiếc rằng đã không nhìn nàng kỹ hơn. Nàng như cũng thẹn nên vừa chào tôi xong đã lật đật quay đi. Thành ra tôi chỉ kịp nhận thấy đôi mắt đen trên khuôn mặt trắng xinh. Vòng quanh khuôn mặt là nền tóc nàng bỏ lửng xuống vai. Đôi vai mảnh và dáng nàng thon. Thật là hình ảnh của một nữ sinh trong trắng tin yêu cuộc đời trước mặt.

Khi nàng đi khỏi, tôi hỏi ngay mẹ Thái:

- Ai vậy thím?

- Vân, con bà tham Quế ở Sông Cầu.

- Con bà tham Quế à? Thế cô ấy là em anh Nhân?

- Ờ.

Sau một giây im lặng, mẹ Thái nói:

- Hay anh Diệp… đi hỏi con Vân đi. Nó năm nay 19 tuổi.

Tôi chỉ mỉm cười mà không trả lời khi nghe nói đến việc cưới hỏi, cưới hỏi cho mình. Đó là việc tôi đã từng nghe nhiều rồi, từ hồi còn mới 12, 13 tuổi. Những gia đình khá giả trong làng, trong hạt, hay nhìn con của nhau rồi hứa hẹn cưới gả cho nhau. Tính đến nay tôi đã trải qua khoảng sáu bảy nơi, nhưng rồi người con gái nào cũng chồng con tử tế cả, chỉ duy tôi là vẫn còn như xưa. Hôm nay lại nghe lại việc cưới hỏi! Tôi không muốn, không cố ý dự định xếp đặt một việc tương lai chắc chắn, nhưng sự êm đềm hiện tôi đang thâm cảm trong lòng xui tôi vui vẻ nói luôn:

- Vân đẹp quá, hở thím?

- Đẹp mà lại giỏi. Bánh trái khéo. May vá, đan thêu thạo. Công việc trong nhà mình nó lo, bà tham khỏi phải thò tay vô một việc gì cả.

Nghe nàng quán xuyến được tất cả những công việc phiền phức vô vị trong nhà, lòng tôi thấy tin yêu, cảm động. Tôi đã nhọc mệt với những sự lộng lẫy của cuộc đời phù hoa ngầm chứa giả dối và đốn hèn, nên hôm nay gặp một thiếu nữ có cái sắc thái của người thanh lịch mà lại ấp đượm tinh thần thuần hậu, chịu khó của các bậc mẹ hiền ngày xưa, tôi bỗng thấy lòng rào rạt một niềm mến thương ấm áp. Hôm nay đây, tôi hồi tưởng lại lúc bắt đầu gặp nàng, tôi còn cảm thấy sự êm ả vô cùng khi tưởng thấy nàng nhanh nhẹn, vui vẻ và nhẫn nại làm các công việc trong bếp núc, trong vườn tược, trong cửa nhà.
Mẹ Thái cho tôi biết thêm rằng nàng học hành giỏi và tánh nết dịu dàng. Bà tỏ ra rất tán thành việc tôi đi hỏi nàng. Người đàn bà hiền lành muốn mọi việc đều thu xếp một cách hiền lành. Ý bà muốn tôi nói ngay rằng tôi yêu nàng lắm. Tôi nói:

- Thím xem thử, cháu đi hỏi chị Vân thì bà tham có chịu không?

Bà cười ngay:

- Chắc chịu. Tôi làm mối cho.

Tôi lại cười. Quả thật, tôi chưa có một quan niệm rõ rệt gì về tương lai của tôi, quả thật, tôi chưa định thu xếp cuộc đời của tôi như thế nào cả. Tôi còn phải sống vô định vì tôi chưa biết mình phải làm cuộc đời của mình như thế nào. Bảo Loan hiện còn ở Hà Nội hay tản cư về một vùng quê nào ở Hà Đông? Ngày tôi sắp lên tàu, nàng muốn khóc mà không thể khóc được, muốn nói mà không biết nói sao. Ngồi giữa gia đình, chúng tôi chỉ nhìn nhau im lặng. Trong cái nhìn ấy, tôi thấy như nàng muốn nhủ tôi nhớ ngày về và đợi cho tới cái ngày về. Tôi cũng trả lời và nhủ lại như thế bằng mắt nhìn. Bảo Loan yêu tôi, trong sạch và tin tưởng bằng mối tình đầu của nàng. Cho đến ngày chia tay, nàng chưa hơn 17 xuân xanh. Trong khi thế sự chưa rõ như thế nào, tôi không có quyền dứt tình trước. Suốt trong buổi nói chuyện, nghĩ đến Vân là tôi thấy Bảo Loan. Tôi thấy tôi bối rối. Mặc dù cái không khí êm đềm do Vân mang lại cho tôi lúc ấy. Tôi vẫn cảm thấy là rất hiền hòa, tươi mát. Tôi không thể nghĩ ngợi gì cho sâu sắc hơn. Tôi giã từ mẹ Thái vui vẻ một cách thành thực.

- Thím nhớ làm mối dùm cho cháu? Cháu thế nào cũng đi hỏi cưới chị Vân.

Những ngày tiếp theo, tôi hay nghĩ đến Vân. Tôi có đủ thì giờ để nghĩ đến nàng vì lúc ấy tôi không phải làm một việc gì cả. Tôi nghĩ vẩn vơ, chắp nối những hình ảnh êm đềm trong ấy có nàng sống cạnh bên tôi. Tôi nghĩ đến một đôi vợ chồng trẻ đi ô-tô về Sông Cầu thăm quê ngoại. Tôi tưởng tượng thấy từng quãng đường ô-tô sẽ đi qua, nào đường phố Thoại chạy ra chân núi Đá Trắng, dài và thẳng, lát toàn đá trắng, nào đèo Dốc Găng xe phải nhấn ga ba bận mới leo nổi con đường dốc đứng dựng ngược như lên trời. Nào dốc đường uốn cong hình chữ S bẻ trẹo người, ngồi trên xe thấy thành phố Sông Cầu nằm dưới chân núi ẩn dưới dừa xanh và thân ái tiếp nước bể xanh! Tôi nghĩ đến Vân để ru lòng mình. Tôi yêu nàng như yêu một bóng hình nào trong tiểu thuyết. Vân đối với tôi còn xa quá. Nàng ở tận Sông Cầu! Mấy khi nàng vào Tuy An để thăm dì nàng? Vào Tuy An tôi còn không biết tìm dịp nào để gặp nàng, để kết thân với nàng, huống chi là ở tận Sông Cầu xa cách! Tính tôi vừa hay e dè, vừa lại không chịu khó. Tình thì chỉ nhàn nhạt, thanh thanh. Tìm mọi dịp để gặp một người, yêu nồng nàn say đắm một người là điều tôi chưa hề làm và chắc là suốt đời tôi không bao giờ làm. Như vậy tôi linh cảm Vân chỉ là một cái bóng đẹp đi qua thôi. Không chắc có một dịp nào để chúng tôi yêu nhau. Tôi tự hỏi sao không có một ai đứng ra giúp chúng tôi kết chặt mối thương yêu. Nhưng tôi lại tự hỏi thế tôi có chắc chắn rằng mối thương yêu đó là điều sở vọng suốt đời của tôi chăng? Tôi không tin tôi nữa, tôi lẫn lộn quá khứ với hiện tại, tôi ngờ vực tương lai. Tôi trở nên rụt rè. Tôi đặt Vân vào địa vị cũ của nàng: “Một bóng đẹp đi qua, còn lưu hương lại”.

Chừng nửa tháng sau.

Có một buổi mai, người phu trạm ghé đưa cho tôi một bưu kiện. Không thấy ghi địa chỉ người gởi, nhưng nhìn nét chữ tôi biết là của Bảo Loan. Từ ngày xa cách, chưa bao giờ Bảo Loan viết thư cho tôi. Kể cả từ ngày yêu nhau, Bảo Loan cũng chưa bao giờ viết một mảnh thư nào cho tôi cả. Bảo Loan ngây thơ, nàng cầm tay tôi, nàng ôm mặt khóc, nàng thề yêu tôi suốt đời… mọi biểu hiện tình yêu đều chân thực và hồn nhiên như lá cây đong đưa theo gió, như chùm hoa rực rỡ đầu cành.

Tôi lần xé phong bì.

Đó là quyển Bướm Trắng của Nhất Linh. Không phải sách mới, Bảo Loan mua tặng, mà là quyển sách cũ tôi mua từ năm ngoái vẫn xếp trong rương sách. Lúc tản cư về quê, bao nhiêu va-ly, rương sách, chăn màn và một số quần áo tôi đều gởi lại hết.

Cầm lên quyển sách, tôi tự hỏi vì sao Bảo Loan lại gởi cho tôi. Bình thường, dù sách hay báo, nàng cũng đều chọn thứ mới xuất bản để gởi. Một cách để báo tin là nàng vẫn khỏe mạnh và đang nghĩ đến tôi.

- Hay là nàng tự ví lòng nàng như lòng yêu của Thu, yêu đau đớn và thấy cái thú được đau đớn khi yêu?

- Hay là nàng muốn dặn mình đừng chán nản đau khổ như anh chàng Trương, đừng quá suy nghĩ…

- Hay là…

Tôi đang sắp sửa đưa ra một chuỗi “Hay là…” nữa thì có tiếng chó sủa ngoài hiên. Nhìn ra thì, ngạc nhiên chưa, Vân và mẹ Thái lững thững đi vào.

Em gái tôi tiếp ở phòng khách, tôi không bị quấy rầy. Chắc em tôi đã trả lời theo thường lệ:

- Dạ anh tôi vừa mới chạy đâu đấy thì phải…

Chúng tôi đã giao hẹn trước với nhau: có ai hỏi tôi thì em cứ trả lời vu vơ một mực như trên. Nếu là khách tôi muốn nói chuyện thì tôi ra tiếp, đồng thời giải thích sự mâu thuẫn vừa rồi một cách tự nhiên:

- Vừa chạy sang hàng xóm có tí việc. Về rồi mà em tôi nó tưởng chưa. Xin lỗi ông…

Như vậy, đỡ bị quấy rầy vì những ông khách nhàn nhã. Nhưng khách hôm nay là cô Vân, tôi muốn ra tiếp lắm. Nhưng tự nhiên bỗng thấy rụt rè. Tôi đã lén nghĩ về Vân, đã có những tưởng tượng không đoan trang về nàng. Nếu tôi chìa mặt ra chào thì thế nào mẹ Thái và Vân cũng đọc được những ý nghĩ thầm kín của tôi. Không, ngượng lắm, tôi không thể ra tiếp được.

Óc đang bối rối, tôi mở quyển Bướm Trắng đưa mắt nhìn đọc:

“…Trương hiểu ý:

- Em không sợ, anh không dám xúc phạm đến em, anh chỉ xin em cho phép anh cầm lấy bàn tay em một lúc, một lúc thôi



Thu vẫn để yên chiếc khăn tay che miệng, nàng như người bị thôi miên, thong thả giơ bàn tay phải cho ra cho Trương nắm lấy. Trương nắm rất nhẹ lấy bàn tay Thu, bàn tay mà trước kia chàng chỉ nhìn trộm trên nền chăn trắng”.



A, đây rồi, tôi nhớ lại rồi, anh chàng Trương băn khoăn đau khổ của tôi, sống không hy vọng, yêu trong tuyệt vọng, tìm quên và tự dối mình. Tôi lại đọc tiếp:

“Thu khẽ nói:

- Thôi, em đi về thôi.

Khi Thu đi ngang qua, chàng đã toan cầm lấy tay một lần nữa rồi hôn Thu, nhưng chàng cố giữ được. Chàng nói:

- Em cho anh xin chiếc khăn tay của em.

Thu không đưa truyền tay chiếc khăn cho Trương, nàng đặt vội chiếc khăn trên mặt ghế rồi ra đi.



Nghĩ đến chiếc khăn của Thu, Trương với cầm lấy vò nát trong hai bàn tay rồi đưa lên miệng. Chàng vừa cắn mạnh vào chiếc khăn vừa thầm nói với Thu, rưng rưng muốn khóc:

- Em Thu, em còn yêu anh làm gì. Khổ anh lắm”.

Đau xót như thế sao? Thật có khác chi mối tình đau xót của tôi?

Tôi lại mải mê đọc tiếp.

Một lát sau, có tiếng guốc dép va xuống nền gạch, tiếng nón lá chạm lộp cộp vào vách. Tôi biết rằng khách ra về. Tôi lại đứng ở khung cửa sổ nhìn ra. Mẹ Thái và em tôi đi trước. Vân nhẹ nhàng đi sau. Đến đầu cổng, nàng quay đầu đảo nhìn một vòng qua sân, qua hiên. Ánh nắng tràn chiếm lấy mặt nàng, khiến cho vẻ mặt sáng rỡ lên. Nàng nhíu một mắt như nũng nịu với ai. Tôi say sưa nhìn theo gót chân uyển chuyển lòng vụt xôn xao, rào rạt như đang nghe tiếng nhạc trổi vang lúc đèn chiếu bóng bật sáng, phim vừa dứt. Tự nhiên háo hức, tôi khe khẽ hát lại điệu hát quen thuộc tôi thường hát ba năm trước:



Điệp khúc đẹp nhất của cuộc đời

Là điệp khúc ta hát lúc hai mươi tuổi

Là điệp khúc ta không bao giờ quên

Vì cuộc đời chỉ có một mùa xuân.

Từ đó, tôi thường đến chơi nhà Thái hơn, mong vẩn vơ rằng sẽ gặp lại nàng ở nhà Thái. Nhưng nàng không thấy đến. Lần nào tôi cũng nói chuyện về nàng. Mẹ Thái bao giờ cũng khuyến khích tôi đi hỏi nàng ngay, còn tôi thì chỉ nói và dự định.

Một hôm, mẹ Thái cho tôi hay rằng bà Tham Quế có ý định muốn gả nàng cho một cậu lục sự Tòa án Phú Yên. Cậu lục sự trẻ, nhà giàu, quê ở Nha Trang. Nghe đến đây tôi thấy như nàng đã là vợ của cậu lục sự ấy rồi. Một lục sự Tòa án là cả một danh vọng đối với người đàn bà như bà Tham. Ngoài danh vọng ra, còn có sự giàu có. Trẻ tuổi là để dành phần Vân. Tôi thấy đã đủ cả rồi. Thấy Vân đã là vợ của cậu lục sự ấy rồi. Tôi hỏi:

- Thế ý chị Vân thế nào, hở thím?

- Nghe nói nó không bằng lòng. Nó không thích anh Nhã - tên cậu lục sự, mà anh Nhã thì yêu nó lắm.

- Thế còn bà Tham?

- Bà Tham thì muốn gả. Bà cố ép. Bà rất chiều chuộng anh Nhã. Nó thì tỏ hẳn là không thích. Mỗi lần anh Nhã đến nhà thăm là nó bỏ đi chơi hoặc gắt đứa ở, rầy la em, làm phiền trong nhà.

- Nhưng anh Nhã nhất định không vì thế mà thôi yêu chị?

- Anh có biết anh Nhã?

- Dạ không, đó là cháu đoán vậy thôi.

Im một hồi, mẹ Thái tiếp:

- Anh không hỏi ngay thì mất.

Tôi cười.

- Nhưng bà Tham có gả cho cháu đâu?

Mẹ Thái định nói gì, nhưng nghĩ sao lại thôi.

Suốt ngày hôm đó, tôi cứ loay hoay về việc Vân. Nàng sắp đi lấy chồng rồi. Vội vã lấy chồng sao? Tôi lo nghĩ quá, miên man nghĩ đến việc tương lai của tôi.

Từ ngày yêu Bảo Loan, tôi chưa dám chắc chắn rằng một ngày kia thế nào chúng tôi cũng lấy nhau. Tôi thấy tôi chỉ lấy được nàng khi nào tôi có một địa vị rực rỡ giữa xã hội. Không phải rằng nàng tham danh vọng. Cũng không phải rằng ông bà Vũ, thầy mẹ nàng bắt buộc. Nàng thành thật yêu tôi và thường tỏ ý muốn cùng tôi sống giữa quê nhà. Nhưng tôi không thể không nghĩ đến tuổi trẻ của nàng. Nàng có thể sau này thấy các bạn bè sung sướng sang trọng mà thay dần ý nghĩ, như vậy rất có hại cho sự sống yên vui. Tôi không thể không nghĩ đến đại gia đình của nàng. Gia đình có nhiều cánh sang trọng, xa hoa, nếu tôi không sang trọng xa hoa bằng thì tôi làm sao chịu được? Mặc dù Bảo Loan yêu tôi và chỉ muốn lấy tôi, mặc dù thầy mẹ Bảo Loan đã xem tôi như con, tôi cảm thấy là phải có điều kiện mới lấy nàng được. Bảo Loan nói lấy nhau rồi về quê tôi mà ở, nhưng Bảo Loan, nàng liệu có thể ở được không? Nàng còn trẻ non thế kia, công việc ở quê nhà không thành thạo, tính không thể chịu khó, như vậy sống sao được giữa quê nhà. Nghĩ rằng nàng sẽ vụng về, nàng sẽ bỡ ngỡ, sẽ khó chịu với những công việc, với cái hoàn cảnh lạ mà nàng phải sống, tôi thấy tôi không thể lấy nàng được. Nàng quả khó mà tìm được hạnh phúc với tôi. Cuộc du học dự định đã chắc chắn là không thành, mối hy vọng về tương lai đã chắc chắn là không đạt được, giữa tôi và Bảo Loan đã có một hố xa cách. Hiện nay đường giao thông lại bị nghẽn, sự đi lại bất tiện, cuộc thế giới chiến tranh chưa biết đến bao giờ mới dứt. Tôi thấy tôi càng ngày càng xa dần Bảo Loan của tôi.

Trong khi ấy thì tôi càng ngày đi dần đến sự quyết định phải lập gia đình. Bấy lâu nay lấy cớ còn đi học, tôi đã đẩy lùi sự quyết định, nhưng nay thì không còn cớ gì nữa rồi. Tôi phải nghiêm chỉnh nghĩ đến việc lập thân, nghĩ đến một cách rất thiết thực, trong cái cảnh huống thất bại hiện tại của tôi. Tôi phải trở lại sống êm đềm, hiền hòa trong một nơi nào của quê nhà, với một người vợ hiền thảo, dịu dàng, coi sóc mươi mẫu ruộng, dăm sào vườn. Vui vẻ cùng vườn ruộng là cái kế cuối cùng của tôi. Tôi thoảng nhớ đến cuốn tiểu thuyết LA MAISON của Henry Bordeaux đến CON ĐƯỜNG SÁNG của Hoàng Đạo. Tôi nhớ đến tâm trạng của vai chính trong hai chuyện ấy, cái tâm trạng gần giống tâm trạng tôi hiện tại. Nhưng cô Thơ của tôi là ai? Tìm người bạn tri kỷ hiểu mình ở giữa quê nhà là điều khó. Người hiểu mình ấy phải gồm có cả dáng điệu thanh lịch và tính hạnh thuần mỹ, như vậy càng khó tìm hơn. Tôi tiên cảm một cách lo lắng rằng không bao giờ có cả.

Vụt nhiên, tôi gặp Vân. Tôi không bao giờ ngờ rằng có một người như thế giữa quê nhà khô khan, không thể ngờ rằng tôi gặp được nàng giữa lúc hoàn cảnh tôi đang cần một người như nàng. Vân thích ứng hoàn toàn với mọi điều sở vọng của tôi. Nhà nàng có nề nếp, nàng khéo léo và chăm chỉ, quán xuyến mọi việc trong nhà. Nàng có học, có thể hiểu những ý tôi nghĩ, những điều tôi làm. Nàng thanh lịch và dịu dàng, nàng là người độc nhất tôi có thể yêu, có thể cưới trong hoàn cảnh hiện tại. Nàng có thể đem lại cho tôi mối hạnh phúc đơn giản mà tôi còn có thể mong mỏi sau những đổ vỡ, thất bại. Chỉ có nàng, chỉ có thể là nàng, tôi đã xét rõ, đã nhận rõ như thế rồi.

Nhưng cưới Vân? Phải cưới nàng ngay? Phải quyết định một việc quan trọng cho suốt cả cuộc đời? Trong khi tôi chưa có thì giờ để quen nàng. Để hiểu nàng. Để yêu nàng. Không, tôi phải tìm hiểu nàng để quyết định một điều quan trọng. Tôi phải gặp nàng, phải hỏi ý kiến nàng. Nhưng lạ kìa, sao tôi càng thúc giục tôi đi đến sự quyết định chừng nào thì lòng tôi càng như muốn lưỡng lự chừng ấy. Tôi có tin chắc rằng hy vọng của tôi đến đây là cùng không? Tôi có nhất quyết rằng Bảo Loan đến đây là đã chia rẽ cùng tôi không? Tôi không muốn nghĩ vậy, tôi sợ cái ý nghĩ đau đớn ấy. Dù rằng tôi đã lo nghĩ và buồn phiền nhiều về việc chung thân của tôi và Bảo Loan, tôi cũng muốn bấu víu vào cái ý nghĩ êm đềm rằng chúng tôi chưa hẳn là tuyệt vọng. Nhưng tôi lại không thể không nghĩ đến Vân bởi đã đến lúc phải nhìn vào sự thật. Tôi chỉ có thể tìm ở nàng, người vợ thích hợp nhất trong hoàn cảnh hiện tại của tôi. Tôi phải gấp tìm hiểu nàng, chung chia ý kiến cùng nàng. Tôi phải gặp nàng và yêu nàng. Sợ lại phải cố gạt bỏ cái ý nghĩ ấy để không nỡ quên Bảo Loan, không muốn quên Bảo Loan, tôi đứng dậy đi ra ngoài trời. Tôi nhìn lên trời rộng và cao. Tôi nói thầm trong thâm tâm tôi:

“Cô Vân ơi! Cô vào Tuy An đi để tôi có dịp gặp cô và hiểu cô. Để cô yêu tôi và tôi yêu cô, để chúng ta kết thành một đôi vợ chồng xứng đôi, đẹp lứa”.

Vân không vào Tuy An bao giờ cả.

Nửa tháng sau, vụt nghe tin nàng đã đi lấy chồng. Mẹ Thái nói:

- Cả nhà không ai chịu cả, không ai nỡ ép. Chỉ một mình bà Tham quyết định. Hôm nay thì lễ cưới xong rồi.

Tôi bàng hoàng. Vân lấy chồng nhanh như vậy sao? Trong lòng tôi, tôi muốn nói một câu gì, muốn nói một điều gì, phải nói cho hả một ý nghĩ gì đang quay cuồng trong óc, đang vươn lên chặn lấy cổ họng. Tôi nói:

- Vân đi lấy chồng rồi. Ừ, Vân vậy mà đã lấy chồng rồi.

Nói xong, tôi không hiểu tại sao tôi lại nói chi vậy, nói vậy để làm gì, nói vậy có ý nghĩa gì. Câu nói rơi vào cái im lặng của ngoại cảnh, và cái trống không của lòng tôi. Vì lòng tôi lúc ấy tự nhiên bỗng trống không một cách tiêu điều lạ. Tôi thấy mình thiếu quá, trơ trọi quá, tôi không biết mình đang cần một sự đầm ấm gì và mình đã làm mất một cái gì. Có cái gì bỗng nhiên thiếu mất trong tôi.

Thấy tôi lặng im đột ngột, mẹ Thái nhìn tôi giây lâu rồi tiếp:

- Vân hay nói đến anh, làm bà Tham tưởng rằng hai người đã quen nhau lắm. Vân nói với người này người nọ về anh. Hình như anh có viết thư từ gì cho Vân?

Tôi trả lời ngay :

- Không có gì hết. Cháu chỉ gặp Vân một lần ở ngay nhà thím…

- Anh Nhã như cũng có biết việc này, việc Vân biết anh.

Tôi mỉm cười:

- Có biết hay không thì cũng… vô ích. Vì chẳng có gì hết.

Tôi đổi câu chuyện, không muốn nói về Vân nữa vì quả thật tôi không biết mình nói gì. Sau một hồi ba hoa về việc này, việc nọ, tôi cáo từ mẹ Thái ra về. Tôi để dành việc Vân cho riêng tôi, tôi phải một mình nghĩ ngợi về nàng.

Vân đi lấy chồng rồi.

Tôi gợi lên hình ảnh của nàng. Tôi thấy ngay màu áo hồng nhạt, đôi vai nhỏ và mái tóc cặp lửng lơ bỏ trễ bên vai. Tôi nhìn lên mặt nàng nhưng không thấy một nét rõ ràng nào cả. Tôi ái ngại nói trong lòng:

- Ta cùng nàng còn chưa rõ mặt.

Ý nghĩ này làm tôi thêm buồn. Tôi tưởng tượng hiện giờ nàng như thế nào. Tôi thấy nàng trong vô cùng hình ảnh lộn xộn, thấy nàng quay cuồng trong một hoàn cảnh gì rối loạn, buồn não, trong ấy có một ngôi nhà cổ cột to và nặng, có những bàn thờ đầy ắp vẻ nghiêm trang, có những người bằng lòng, vui vẻ hời hợt đến vô tư. Tôi bắt chợt gặp ngay hai chữ “Gia phong” và hả lòng thấy rằng, chữ ấy diễn tả đúng cái cảm giác lạnh và nặng mà tôi đang cảm về nàng, về cái hoàn cảnh của nàng.

Tôi không biết mình phải buồn như thế nào, không biết mình đang nghĩ gì và nghĩ như thế nào, mà chỉ thấy là tôi buồn một cách ngẩn ngơ. Nhưng tôi lại tự nhủ ngay: “Xong rồi, việc ấy đã xong rồi”

Tôi tìm cách tự khuyên mình. Tôi có chắc sẽ đi cưới Vân đâu? Tôi có điều kiện gì để đi cưới nàng? Tôi chưa làm một công việc gì để sống tự lập cả, tôi còn là một người học trò sống ghép theo gia đình. Như vậy thì tôi cưới nàng làm sao được? Cưới nàng thì tôi có cách gì để tạo hạnh phúc cho nàng? Tôi không có gì hết. Chồng Vân hơn tôi, đủ điều kiện hơn tôi. Anh ta làm ông lục sự, nghĩa là đã chắc chắn một cuộc sống đầy đủ trong một căn nhà riêng biệt thuê tại tỉnh. Hai người có thể hợp sức lại mà gây dựng, hai gia đình chung sức lại mà gầy dựng cho đôi vợ chồng son. Nhà Nhã giàu, nghe nói vậy. Bà Tham thì chiều chàng rể. Cái hạnh phúc phải có, nó đang chờ để ấp ủ hai tâm hồn đang rủ rỉ cạnh nhau. Hạnh phúc ấy đáng lẽ là của tôi. Nhưng tôi vội lắc đầu không muốn nghĩ tiếp. Tôi muốn tưởng tượng cho thấy Nhã dễ tưởng tượng thêm rằng hai bạn trẻ hiện đang làm gì. Tôi không thể tưởng tượng được. Vì tôi chưa hề biết Nhã. Tôi cảm thấy xa xôi rằng không biết mặt Nhã cũng đỡ nhiều cho sự đau đớn của tôi vì nó đã tránh được cho tôi những sự tưởng tượng tàn nhẫn.

Tôi nhớ đến lời nói của mẹ Thái:

- Vân buồn, khóc nhiều và nhiều lúc nói muốn chết!

Tôi thương cho nàng, nhưng lại tự nhủ ngay: “Rồi nàng lại quên đi những việc ấy. Đám cưới nào cũng có xảy ra những việc tâm tình cay đắng. Cuộc đời dàn xếp tất cả. Mối buồn có bao giờ vĩnh viễn đâu”.

Tôi lại bình tâm. Chợt tôi thấy lòng mình lành lạnh, nhàn nhạt: tôi thấy Vân không bao giờ là của tôi đã đành, tôi còn thấy rằng nàng sẽ vui vẻ sung sướng. Có khó chi? Nàng sẽ sinh con, sẽ làm một bà lục sự oai vệ để rồi làm một bà Tham tương lai, cũng tính toán, cũng thu xếp có nề nếp, khôn ngoan như mẹ nàng hiện tại. Tôi muốn quên nàng ngay. Muốn vậy, tôi nghĩ đến Bảo Loan. Bảo Loan hiện đang nghĩ đến tôi vào giờ này cũng nên. Bảo Loan cùng tôi còn có tương lai. Chúng tôi còn có thể yêu nhau mãi, lấy nhau được. Tại sao tôi lại thất vọng ngay? Không, tôi còn Bảo Loan của tôi. Chớ Vân… tôi lại nghĩ đến Vân, rồi lại trở về cái ý nghĩ êm đềm và chua xót. Tôi thấy tôi mất Vân, điều này vô lý vì nàng có phải của tôi đâu mà gọi rằng mất, nhưng sao, tôi cứ cảm chân thật rằng tôi đã mất nàng, đã mất một niềm hạnh phúc, một người vợ xứng đáng với hoàn cảnh và tâm trạng của tôi hiện tại. Tôi lo cho ngày mai hậu. Còn ai?

Chợt nghĩ rằng Vân đi lấy chồng là một việc dĩ vãng, một việc nhất định, rằng tôi có nghĩ đến nữa cũng không có ích gì, tôi lắc đầu, lắc đầu: “Quên đi”. Tôi nói trong óc tôi rằng: “Quên đi. Quên Vân đi”. Nhưng cùng trong lúc ấy, tôi cảm rằng còn nằm lại, nép chặt cái ý nghĩ man mác: “nhưng quên Vân… buồn lắm”.

Tôi khó mà quên Vân thật, nhất là trong lúc ấy tôi không phải bận bịu về một công việc gì cả. Thỉnh thoảng dì nàng lại nói chuyện nàng với tôi, và tôi cứ mê mải nghe chuyện nàng để thoang thoáng biết rằng nàng đã yêu tôi thật. Tôi muốn tìm gặp nàng một lần ở một nơi nào, nhưng không có dịp nào cả. Tôi muốn ra Sông Cầu để gặp mặt nàng, nhưng rồi tôi lại không đi. Đôi khi, tôi lại tự hỏi: “Thế tôi có chắc chắn rằng nàng đã yêu tôi thật không?”. Cứ như thế, tôi sống trong những ý nghĩ tương phản với một mục đích vô định kèm theo những bất an về chính trị, những dày vò về thân phận. Tôi không biết phải đợi một cái gì sẽ đến cho đời mình. Tôi để ý xét từng mảnh tâm trạng của tôi, tôi ghi những tâm trạng phức tạp đó dưới dạng những trang nhật ký. Tránh chữ “Nhật ký” quá nhàm tôi pha thêm một chút mơ mộng để gọi đó là tập NGÔI SAO NHỎ.

Sau ngày đảo chánh 9-3-45, tôi ra nhà thương Sông Cầu dưỡng bệnh. Bệnh không nặng, nhưng cứ đi. Thường chỉ vào giờ khám bệnh và tiêm thuốc, tôi mới ở nhà thương, còn ngoài ra, tôi đi chơi ở các nhà quen. Lâu lắm mới trở lại Sông Cầu thành ra yêu Sông Cầu quá! Yêu từ con đường nhỏ thanh tịnh có cây bàng xanh và hàng dãy cây keo cao tít. Yêu bãi bể Sông Cầu có những cây dừa cong cong, cây me đồ sộ, cây tra trái xanh vừa chát vừa chua. Sông Cầu đã ấp ủ ba năm ngây thơ của tôi, khi tôi còn là một cậu học trò bé nhỏ ngây thơ, học hai năm lớp Nhì và một năm lớp Nhất. Ở Sông Cầu, có những người tôi quen miệng gọi bằng cậu bằng mợ, bằng chú bác, bằng anh em.

Ngoài những buổi chiều ngồi ở bãi biển một mình, tôi thường ở chơi nhà Huyền Đáng, lúc đó độ mười bốn tuổi, tôi xem như cô em nhỏ. Nhà Huyền Đáng ở trước mặt chợ, tôi thường ra đứng ở hiên xem chợ đông. Ngày nhỏ tôi đã ở dãy nhà đối diện cũng nhìn ra chợ, cũng đứng xem chợ đông. Bây giờ xem chợ là như xem lại một kỷ niệm êm đềm của ngày còn thơ.

Trong những bóng áo tha thiết, tôi còn mong tìm thấy bóng áo của Vân. Nhưng bóng áo màu hồng, mình tìm mà không thấy. Nghĩ ra, mới biết là mình ngơ ngẩn thật. Một năm rồi có lẽ, bóng hồng còn đâu nữa mà tìm? Áo hồng đơn sơ ngày nào dễ thương nay đã rách rồi, đã quăng vào một xó nào trong tủ áo, trong rổ may. Vân đã thay bao nhiêu cái áo khác, màu đẹp hơn, hàng quý hơn, nàng đâu còn nhớ, còn giữ lại làm chi cái áo màu ngày xưa. Cũng như lòng nàng! Và cũng như tấm thân của nàng.

Tôi không tìm thấy màu áo cố hữu, vừa lại phải nghĩ đến sự thật chua chát kia, lòng buồn mấy ngày hơn.

Nhưng một buổi chiều, khi đi chợt đến góc đường nhà buôn Chấn Thạnh, bạn tôi chỉ một người mặc áo trắng đi từ ngã biển lên chợ, đi thoăn thoắt mà bảo khẽ tôi.

- Chị Vân kia.

Tôi thấy lạnh trong tim.

Vân mặc áo trắng. Không kịp nghĩ ngợi xa xôi, tôi lại nhà Huyền Đáng, nhìn ra chợ. Bóng người áo trắng là Vân đi lượn qua chợ mấy vòng rồi mất hút. Không biết nàng có thấy tôi không. Chắc có thấy.

Lúc lên đèn, tôi nói chuyện thân mật cùng Huyền Đáng:

- Ngày xưa, đã có một lần anh suýt cưới cô Vân đấy Huyền Đáng ạ. Nhưng chưa kịp thì anh Nhã cưới trước mất. Không biết bây giờ cô Vân, à không, chị Vân có sung sướng lắm không? Giá hôm nào chị ấy lại nhà Huyền Đáng chơi thì anh sẽ nói rằng anh chúc chị sống thật vui vẻ. Chị ấy có quen với em?

Huyền Đáng ngây thơ trả lời:

- Có. Có quen.

Nhưng Vân không đến nhà Huyền Đáng.

Tôi trở lại Sông Cầu sống những ý nghĩ êm đềm về ngày thơ ấu, nhưng lại phải sống thêm những ý nghĩ chua xót của ngày thành niên. Tôi tự hẹn hôm nào thật khỏe, sẽ lên nhà bà Tham thăm. Thăm Nhân - anh Vân - vì tôi quen Nhân hồi còn nhỏ ở Sông Cầu này và sau này khi Nhân đi Hà Nội. Nhưng cũng là một dịp để bà Tham biết tôi là ai, tôi, người đã làm bà giận, dễ thường là ghét trong những ngày bà ép Vân lấy chồng, và nghi nàng đã yêu “phải” tôi.

Tôi cũng muốn nhìn thấy mặt nàng nữa. Lạ thật! Biết rằng gặp cũng vô ích, việc đã xảy qua, ván đã ghép thành thuyền, thế mà cũng vẫn mong gặp!

Điều dự định nhỏ nhoi, hiền lành ấy vẫn lại không thành. Bệnh tôi chưa lành hẳn thì có tin tôi cần đi Đà Lạt. Tôi không muốn đi, quyết định ở Sông Cầu, nhưng thầy thuốc khuyên rằng bệnh tôi ở khí hậu nóng khó chữa. Nếu đổi khí hậu thì không chữa cũng khỏi, mà khí hậu tốt nhất thì không đâu bằng Đà Lạt. Nghe lời khuyên, tôi mới thuận đi.

Trước khi lên đường, tôi đến nhắn cùng Huyền Đáng:

- Hôm nào gặp, em nói với Vân rằng anh tiếc chưa có dịp để gặp Vân. Nhưng mong Vân sẽ luôn luôn vui vẻ để sống bên cạnh người chồng mà mẹ Vân đã chọn cho Vân.

Tôi căn dặn mãi để Huyền Đáng nhớ nhắc lại lời ấy cùng nàng.

Một buổi chiều tôi lên ô-tô đi, xe từ thành chầm chậm chạy trên đường sỏi xuống phố. Hai bên đường là ruộng lúa. Tôi nhìn sang bên tay mặt. Nhà Vân ở trong vườn dừa xanh kia. Sau cái cống bằng gỗ sáo, qua bờ dậu bằng keo xanh xén thẳng, tôi tự hỏi không biết nàng đang làm gì, không biết nàng có ngờ rằng tôi đang nghĩ đến nàng mà từ giã nàng chăng?

Những ngày ở Đà Lạt khiến tôi bớt nghĩ đến Vân. Tôi trở lại say mê với công việc và hứng thú của riêng mình. Cuộc sống đã theo một nhịp điệu khác.

Một buổi chiều cuối tháng Năm, mưa giông vừa tạnh. Mặt trời hé nắng vàng vàng, không khí nhẹ và trong, mát rười rượi, kích thích đến tim óc. Tôi mở cửa ra ban công nhìn sang rừng thông. Tôi để ý nhìn những thân cây thông cao, vỏ nứt nẻ, cành sần sùi, cong quẹo một cách mỹ thuật không ngờ. Dưới chân cây, cỏ dại mọc dày, cao, lá thon thon vươn lên quá đầu gối. Thân cây đứng song song nhau, cành chìa dọc ngang, lá đan dày um tùm. Tôi nhìn ra xa hơn. Hồ Đà Lạt nằm im, mặt nước xanh phản chiếu đồi núi và rừng thông xanh. Màu xanh và sự im lặng, cảnh bao la của núi rừng và không khí mát mẻ như kim châm vào da, tất cả đã nhẹ nhàng đưa óc tôi liên tưởng đến phong cảnh xứ Phần Lan tôi đã nhiều lần tưởng tượng thấy qua trang sách mở. Vấn vương trên phong cảnh, tôi còn nghe phảng phất giọng nhạc của Jean Sibélius, người nhạc sĩ đã như hô hấp được cái hương vị của rừng thông âm u liên tiếp, của hồ nước lặng màu ngọc bích, của cảnh sắc đặc biệt xứ Phần Lan.

Tôi đang mơ màng tưởng tượng thì chợt vang lên tiếng chim hoàng oanh hót. Tôi đưa mắt tìm xem chim đậu ở đâu. Mỗi lần nghe tiếng chim hoàng oanh là tôi phải nghĩ đến những cây bàng lá xanh mướt. Vòm trời xanh có mây trắng nhẹ như bông. Đà Lạt có chim hoàng oanh là điều tôi không bao giờ ngờ. Nhưng kìa, trên một cành thông gãy, có một chiếc hoàng oanh nhỏ đang mổ vỏ thông tìm mồi. Mổ nhanh nhanh một hồi rồi lại nhảy sang cành khác, hót véo von. Mình chim thon thon, lông mướt, màu vàng nghệ, thật hòa hợp với giọng hót ấm áp.

Óc tôi vụt nhiên thấy êm ả lạ lùng: tôi nhớ đến Huyền Đáng. Lúc ở Sông Cầu, mỗi lần nghe Huyền Đáng nói tiếng Nhật Bản - tiếng “Masu và Desu” mỗi lần nhìn đôi môi của Huyền Đáng nói lên tiếng ấy là tôi nghĩ ngay đến con chim hoàng oanh. Nhiều lần rồi, tôi nhắc lại cái cảm tưởng đó:

- Huyền Đáng ạ, đi đâu cho xa bao nhiêu… hễ nghe hoàng oanh hót là anh nhớ đến em liền.

Hôm nay nghe hoàng oanh hót, tôi nhớ ngay đến Huyền Đáng thật. Tôi vào mở ngăn kéo tìm một món quà gì để gởi cho em. Tôi lấy tập bưu ảnh, ghi vào lưng tờ đầu: “Gởi em Huyền Đáng. Con chim hoàng oanh của anh” rồi ký tên.

Từ nãy giờ nghĩ đến Huyền Đáng, nhưng trong lớp sâu thẳm của tâm tư, tôi có nghĩ đến Vân. Vì hoàng oanh nhắc Huyền Đáng, Huyền Đáng nhắc Sông Cầu và Sông Cầu nhắc tôi nhớ đến Vân. Huống chi, điều tôi nhờ Huyền Đáng nhắn thăm nàng hộ, biết Huyền Đáng đã nói chưa. Biết nàng đã rõ rằng tôi cũng yêu nàng như nàng đã yêu tôi chưa? Nhưng sợ lại phải trở lại những ý nghĩ tôi hằng nghĩ về nàng, tôi cầm bút lên viết thêm ở lưng tấm ảnh.

- Em nhớ nói lời thăm chị Vân khỏe mạnh và vui vẻ hộ anh.

Sự sống rộn rịp ở Đà Lạt quả đã xua tôi bớt nghĩ về Vân. Hơn nữa, tôi thấy có nghĩ cũng vô ích, nàng đã có chồng rồi. Lúc đầu nàng tỏ ra không thuận lấy Nhã, nhưng đã cưới nhau rồi, nghĩa là nàng đã thuận rồi. Huống chi, đã mấy tháng ăn ở cùng nhau, xấu hay tốt cũng đã thành quen, thành thuận. Thêm vào đó, sự rủi may không chừng đã tạo ra một đứa con. Nó trưởng thành để vài dăm tháng nó ra đời. Cây đã lỡ trồng xuống đất rồi thì càng ngày rễ càng đâm nhiều, càng bám chặt xuống đất. Tôi không nên, không có quyền nghĩ đến Vân nữa.

Thỉnh thoảng một tuần hay nữa tháng, hoặc có việc hoặc không, tôi đi Phan Rang hoặc Phan Thiết, Djiring, Sài Gòn. Cách sống luôn luôn thay đổi thành ra thú vị, không chán. Lần cuối cùng đi Sài Gòn, vào khoảng tháng bảy, tôi ghé lại nhà hàng Charner mua sắm một ít đồ đạc. Lúc ra về, đi qua dãy tủ kính hàng lụa, chợt thấy một xấp lụa Bom Bay (1 ) màu hồng nhạt. Tôi nhớ ngay màu áo của Vân mặc hôm gặp tôi lần đầu. Tần ngần một lúc, tôi lại bảo cắt ba thước rồi vội vã ra xe. Ngồi lên xe, tôi tự hỏi không biết nên dùng ba thước lụa hồng ấy để làm gì.

Ba thước lụa ấy, lúc về Đà Lạt, tôi xếp vào một góc va-ly. Khi Đà Lạt tản cư, tôi đi với chiếc va-ly ấy xuống Trạm Hành, Dran. Ngày Pháp tấn công, phá vỡ phòng tuyến, tràn ùa vào nội địa lâm viên thì tôi ở Cầu Đất đi thẳng Tháp Chàm, không đủ thì giờ dừng lại Dran trong năm phút để mang va-ly theo.

Chiếc va-ly mất. Ba thước lụa hồng không biết về tay ai. Thành ra dù có tìm hỏi suốt đời, tôi cũng không thể hiểu được tôi đã mua ba thước lụa ấy định để làm gì.

Tôi đã sống với lý trí. Tôi đã làm trọn cái bổn phận là không nghĩ đến Vân nữa. Trong tầm mắt nhìn, và tầm suy nghĩ của trí óc tôi lúc ấy, lẫn lộn quay cuồng nhiều hình bóng người, nhưng tuyệt nhiên không có hình bóng của Vân. Trang sách đã lật qua rồi. Bao nhiêu rạo rực đã lắng xuống. Tôi thong thả lật sang trang khác của đời tôi.

Tháng 4 năm 1946, sau ngót nửa năm lận đận trong vùng chiến địa Lâm Viên - Ninh Thuận, tôi đáp ghe về Phú Yên. Ngày 11 tháng 6 năm 1947, tôi cưới vợ, vợ tôi là người bạn thân của tôi, người có cùng những ý nghĩ cảm xúc giống tôi, người đã cùng tôi chia xẻ những đau khổ hiểm nguy trên bước đường tản cư lận đận. Chiến tranh như đã một ngọn lốc thổi, nàng phiêu lưu trong một cuộc hành trình không định hướng.

Mới như ngày hôm qua, phòng học sáng sủa của trường Couvent des Oiseaux còn vang tiếng gót giày của nàng. Cuộc đời êm đềm biết bao giữa những lời văn đẹp, những tưởng tượng uyên thâm của Descartes, Shakespeare hay César, giữa những đáp số của bài toán, những công thức của hóa học. Những giờ nhãn rỗi, nàng cho trôi theo điệu nhạc cổ điển, những bản thánh ca, trên chiếc dương cầm mà nàng âu yếm như một người em.

Thế rồi Nhật đảo chính, trường học đóng cửa.

Thế rồi cuộc Cách mạng Tháng 8 bùng nổ, cuộc chiến tranh trường kỳ bắt đầu. Đà Lạt bị phong tỏa, Đà Lạt phải tản cư, gia đình nàng cũng bắt đầu phân tán, người già được ở lại, người trẻ phải ra đi. Ban đầu ra đi là cái thú, cái thú được nếm chút ít gian khổ, hiểm nguy, cái thú của người ngồi mãi trong ô-tô muốn được đi bộ, của người phải mang giày cả ngày được đi chân đất, thong thả, nhẹ nhõm trong mười phút đầu. Cũng y như thế, trong vài tháng đầu chiến tranh đã quyến rũ mọi người như một tình nhân mới. Quả thật, chiến tranh có đem lại cho người ta cái thú vị say sưa, người nhỏ thì thấy mình bỗng lớn hẳn lên, người lớn tuổi thấy mình trẻ lại. Những bộ quân phục gabardine màu phân ngựa, những đôi ghết đen quá rộng hoặc quá dài, những thanh gươm Nhật đẹp nhưng vô ích và hơi vướng, những khẩu súng lục lủng lẳng ngang sườn… đó là hình ảnh quen thuộc trong những ngày ấu trĩ của chiến tranh. Giữa màu xanh, giữa màu đen nghiêm nghị và đầy sát khí ấy, len lỏi màu trắng của những chiếc áo blouse (2 ) của những chiếc mũ vải trắng điểm tươi một chữ thập đỏ. Chàng chỉ huy mặt trận, nàng băng bó thương binh, thật còn sự hòa hợp nào bằng? Còn lý tưởng nào hơn nữa? Tình yêu cổ điển - vì còn gì cổ điển hơn sự sống và tình yêu - được tinh thần mạo hiểm và lòng hy sinh tô điểm thêm, đã như men rượu mạnh làm say mọi người. Với một số học sinh bấy lâu học hiểu văn minh Hy La kỹ hơn lịch sử cuộc Nam tiến, với một số lớn thanh niên, trung niên bấy lâu coi tình yêu và tiền bạc là mục đích của cuộc đời thì chiến tranh lần này đã mở những cánh cửa mới cho căn phòng tù hãm mà bấy lâu nay đôi mắt họ đã phải quen nhìn. Đối với một số khác, lòng yêu nước trở thành một món trang sức hợp thời và giá rẻ.

Tội nghiệp cho người bạn gái của tôi!

Chiến tranh càng kéo dài, nàng càng đi xa dần, xa dần thành phố Đà Lạt thân yêu của nàng. Hết hy vọng trở về cuộc sống êm đềm với gia đình, nàng phải phó thân cho số mệnh. Một mình bơ vơ giữa súng đạn, nàng vẫn cam chịu đựng, vừa tìm mọi lẽ để vui sống. Nhưng dù can đảm, vui sống, nàng cũng đau đớn lòng thấy rằng những mối hy vọng tương lai của mình đã bị chiến tranh tàn phá mất rồi.

Có khác chi tôi?

Sau mấy đêm trắng suy nghĩ cân nhắc, tôi quyết định cưới nàng.

Không phải trong những hồi trằn trọc, tôi không nghĩ đến Bảo Loan. Không, tôi đã nghĩ đến Bảo Loan nhiều lắm. Cho đến ngày chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, tôi còn viết thư được cho Bảo Loan. Những ngày ở Đà Lạt, cuộc đời tươi lại, tôi đã chuẩn bị một cuộc viễn du ra Hà Nội để xin thầy mẹ Bảo Loan cho cưới. Tôi giấu không cho Bảo Loan biết dự định ấy để dành cho nàng một sự bất ngờ êm đềm. Nhưng thời cuộc lại diễn biến tới tấp, bao nhiêu biến cố lại liên tiếp xảy ra. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, cuộc chiến tranh bộ phận kéo dài, cắt đứt con đường giao thông Nam Bắc. Thư từ không đến tay chúng tôi nữa. Cuộc sống bị xáo trộn nhiều hơn trước nữa. Những sự suy nghĩ, buồn phiền lại trở lại dày vò tôi.

Không! Tôi đã nghĩ đến Bảo Loan nhiều lắm!

Bảo Loan là đối tượng quan trọng trong sự cân nhắc cuối cùng của tôi. Trên bàn cờ giữa giờ chung cuộc, Bảo Loan là con xe, con pháo quyết định. Nhưng tôi phải đau đớn mà phụ lòng Bảo Loan thôi vì trong tình thế hiện tại tôi không thể nào tạo hạnh phúc cho Bảo Loan được, tạo thứ hạnh phúc mà Bảo Loan đang cần. Tôi đành phụ lòng Bảo Loan vậy!

Tâm hồn tôi đã yên ổn trong nếp sống hiền hòa. Cùng vợ tôi, tôi đã đóng hẹp lại cái khung hy vọng của đời chúng tôi. Chúng tôi đã xây lưng lại Dĩ Vãng.

Chừng nửa năm sau, khi đã chan hòa cuộc sống của mình vào nhịp sống chung của mọi người xung quanh, tôi lần lượt được nghe những tin tức về Vân. Tin do bạn gái hoặc bạn trai, người lạ hoặc người quen nói mà tin nào cũng không làm cho tôi vui lòng. Tin Vân và chồng không thuận nhau. Tin Nhã về Nha Trang. Tin Vân được người này yêu, người kia yêu. Tin Vân yêu người này, người nọ, người kia. Tôi không biết có nên tin hẳn những tin ấy không, nhưng dù không biết, tôi cũng cứ giận sao nàng lại có những hành vi như vậy. Tôi ghét nàng. Tôi không muốn nghĩ đến nàng nữa.

Có một buổi chiều ở trường Lục quân Trung học Ngân Sơn ra, tôi gặp Vân đi cùng hai bạn gái, gặp mà tôi không biết vì tôi không nhớ mặt nàng. Lúc về trường, bạn cũ của tôi, anh Đông nói cho tôi biết rằng người đi qua trường lúc nãy là Vân. Tôi nghe nói tên Vân, nhớ lại rằng mình vừa gặp, mà lòng buồn buồn. Tôi nhớ buổi gặp nàng, những điều dự định của tôi đối với nàng. Tôi nhớ lại ngày hôm nay tôi đã có vợ rồi, tôi với nàng thành ra ngày càng xa, xa xôi đến nỗi gặp nhau mà không hề nhớ mặt.

Cuối thu, có những ngày gió lạnh và trời xám. Tôi bỗng thấy bâng khuâng nhớ nhung. Tôi nhớ bài “Cảm tưởng thu” của Anatole France tôi đã học năm thứ hai, thứ ba, tôi còn nghe lại cả tiếng hạt mưa rơi đập vào cửa kính, còn thấy lại cả trận lá vàng rụng trên mình các ngôi tượng trắng. Tôi nhớ Anatole France, nhớ chuyện Clémentine ông viết về người yêu xưa bỏ ông để lấy một chủ nhà băng giàu có. Còn ông tóc bạc dính sát mái đầu, ngày ngày lục lọi xếp đặt sách vở trong thư viện lạnh lẽo, không vợ con. Một đêm tối trời, ông nhìn lên các ngôi sao nhớ nàng Clémentine và chúc cho nàng sung sướng bên chồng bên con. Tôi yêu câu chuyện này và muốn viết một truyện như vậy. Nhưng Clémentine của tôi là ai? Tôi soát lại xem mình có mối tình nào tương tự như thế không. Tôi đắn đo, e dè. Không có sách để xem lại, tôi moi óc cố nhớ, nhưng càng cố nhớ tôi lại càng lẫn lộn hơn. Tôi nói cùng vợ tôi:

- Em đã đọc Clémentine rồi?

- Rồi.

- Ý em thế nào?

- Chắc cũng như ý anh. Anh thích lối viết của Anatole France, em cũng vậy. Theo em, Anatole France là Chopin trong văn và Chopin là Anatole France trong nhạc.

Ngẫm nghĩ giây lâu, tôi tiếp:

- Mấy ngày nay, anh bỗng nhiên nhớ đến chuyện Clémentine quá. Anh phải viết ngay một chuyện tương tự. Nhưng nghĩ mãi chưa ra. Tuy chưa ra nhưng rồi cũng phải ra. Em giúp ý cho anh đi!

Vợ tôi mỉm cười. Một lát sau, nàng chậm rãi nói:

- Phải đấy, anh gắng viết đi. Viết được có lẽ anh sẽ vui…

Đến đây, nàng ngần ngừ một giây:

- Tính anh nhút nhát lắm, không dám nhìn thẳng vào thực tế của cuộc đời mà chỉ thích sống tưởng tượng. Anh xem, anh còn thua em xa… Nhưng thôi, chẳng sao, anh cứ viết đi. Có lẽ sống êm đềm với những nhân vật của anh, anh sẽ vui hơn.

Nàng nhìn lơ đãng ra sân rồi nghẹn ngào tiếp:

- Một năm nay, em thấy anh hơi buồn, hay cáu, dễ nóng giận. Hồi ở Đà Lạt, gặp em, anh đâu có như vậy. Anh vui vẻ pha trò với chúng em. Em nhớ, em yêu đôi bàn tay anh trắng, với những ngón thon… Bây giờ, bây giờ ngón tay nổi gân, trán hay nhăn lại… Em thương hại anh…

Nàng bỗng giật mạnh hai bàn tay tôi, úp mặt vào khóc thổn thức. Tôi vỗ vai nàng dỗ:

- Kìa! Em mới chính là người đáng thương hại, chính em mới là người bỗng dưng đến chia cái khổ của anh. Em có nhiều tương lai hơn anh, thế mà…

Nàng ngẩng mặt lên:

- Nói bậy! Anh nói bậy! Em đâu có khổ?

Và nàng lại mỉm cười, tròng đen long lanh sau màn nước mắt.

(1) Hàng tơ lụa mỏng thượng hạng, sản xuất tại Ấn Độ (2) Áo choàng trắng

Câu chuyện trao đổi giữa chúng tôi bắt đầu bằng chuyện Clémentine ai ngờ đã kết thúc bằng một cuộc tự xét, tự vấn. Thật đúng như lời vợ tôi nói, tính tôi đã trở nên cau có, gắt gỏng lạ. Tôi sốt ruột thấy đời mình và đời của những người xung quanh mình diễn đi, lập lại trong cái nhịp đơn điệu, vô vị, bị đầu độc bởi những mưu mô tham lam, nhỏ nhen, độc ác.

Thấy tôi cựa quậy, bực dọc, vợ tôi đã hiểu, đã thương hại, đã tìm mọi cách xoa dịu những vết xây xát trong hồn tôi khi tôi va chạm với cuộc đời… Nàng hiểu tôi lắm. Khuyên tôi viết để quên bớt thực tại, coi thường thực tại, nàng đã hiểu tôi và quên mình mà giúp tôi một cách thông minh.

Trong khi ấy, mùa thu như a tùng theo mà đến ám ảnh tôi không thôi. Trời đông kéo dài. Gió cứ thổi hắt hiu hắt mà mặt trời cứ ủ dột khiến tôi lại cứ loay hoay với câu chuyện tình lý tưởng của Anatole France. Sau nhiều ngày suy nghĩ, một hôm tôi nói với vợ một cách trang trọng:

- Ngày hôm nay, em xếp lại bàn viết cho thật ngăn nắp, sẵn sàng. Để anh sẵn sàng viết những câu chuyện tình của anh.

Vợ tôi đã làm đúng theo như ý tôi muốn. Bàn viết rất tươm tất. Đèn lau sạch, tra tim mới, như đang mong một que diêm xòe ra là bật sáng lên ngay. Cán bút gác yên lên bình mực, nhưng tôi vẫn còn sục sạo trong tâm trí, cố tìm lại nàng Clémentine âu yếm của tôi.

Một ngày kia, tôi và anh Uyển, một bạn thân, đi Hòa Đa. Dọc đường, chúng tôi nói chuyện về nghệ thuật sống. Chúng tôi tán dương lối sống thoải mái, thú vị, không đặt chủ đích vào một hướng nào, một việc gì. Có lẽ tại vì chúng tôi suốt tháng ngày ứ với cái nhiệm vụ kháng chiến của mình nên trong một đôi giờ tự do cố nói cho hả, dự định cho hả. Dễ thường chỉ nói và dự định rồi thôi. Uyển dường như đang thắc mắc một điều gì. Mấy hôm nay anh cứ hẹn sẽ đưa cho tôi xem một quyển truyện của anh đã viết. Tôi hỏi truyện dài hay ngắn, tiểu thuyết hay ký sự… thì anh diễn ra lời một cách khó khăn lối viết của anh. Tôi thoáng hiểu. Chắc lại là một truyện mà anh đã sống, pha lẫn nghệ thuật cốt để giấu một phần sự thật. Sau một hồi im lặng đi cạnh nhau, chợt Uyển hỏi tôi:

- Diệp có biết chị Vân?

Tôi trả lời ngay:

- Biết. Vân ở Sông Cầu chớ gì?

- Ờ.

Thấy Uyển im bặt, tôi hỏi lại:

- Thế nào, có chuyện gì không?

Uyển im không nói. Tôi lại giục:

- Kìa, sao lại im đi?

Ngần ngừ giây lâu, Uyển chậm rãi:

- Có chuyện này, nói riêng cho Diệp nghe. Nhưng Diệp hứa là không nói lại với ai cả.

Tôi cười xòa.

- Lại phải dặn. Chuyện của chị Vân tức như chuyện của tôi, anh không phải lo. Nào, nói đi.

- Chuyện này do một người bạn gái tin mình lắm nói riêng cho mình nghe. Người bạn gái ấy là bạn thân của Vân. Vào khoảng cuối năm 1946, lúc mà đó đây người ta bàn tán về Vân, nhiều người tìm cách chiếm đoạt lòng Vân, thì Vân nói chuyện cùng người bạn gái mình rằng: Ngày xưa đã yêu một lần, tình yêu bị dở dang, hy vọng trót không thành, nên bây giờ mọi việc đều coi thường, không để tâm làm gì nữa. Bạn mình hỏi yêu ai thì Vân trả lời: Yêu anh Diệp, anh Diệp ở Tuy An.

Giọng nói của Uyển bình thản khách quan, nhưng tôi có cảm tưởng một tia chớp vừa lóe. Từ trước đến nay tôi biết những cảm tình của Vân qua các anh chị em quen, họ hàng, bà con. Nay tin tức đến từ một người hoàn toàn lạ, và Uyển là một nhân cách đứng đắn, cao hơn mức trung bình. Cô bạn của Uyển, dẫu anh không nói tên, tôi cũng đoán biết là ai, và cũng là một nhân cách cao hơn mức trung bình. Tôi xúc động bàng hoàng và khốn khổ không biết làm cách nào để thâm tạ tấm lòng của Vân.

Đêm ấy, chúng tôi đi xem kịch, nhưng từng hồi, từng hồi, tôi chợt quên kịch mà nghĩ đến Vân. Lúc ra về, trăng khuya sáng, lạnh. Thật phù hợp với tâm trạng tôi lúc bấy giờ đang mang mang nhớ đến nàng. Chân tôi bước nhanh nhanh, lòng tôi thấy êm êm nhè nhẹ và nơi tâm hồn tôi nhẹ nhàng hình thành câu chuyện Clémentine tha thiết của tôi.

Một hôm tôi êm đềm nói cùng vợ tôi.

- Em ơi, hình như anh đã tìm thấy nàng Clémentine rồi. Để thí nghiệm đôi ngày rồi anh sẽ bắt đầu viết.

Truyện chưa kịp bắt đầu thì tôi được tin Vân hay ghé nhà bà Thừa, cô nàng. Hôm gặp ông Sách - rể bà Thừa - tôi vui vẻ nói:

- Hôm nào chị Vân ở Sông Cầu vào, nhờ ông nói rằng tôi gởi lời thăm chị khỏe mạnh. Ông nhớ nghe?

Ông Sách gật đầu cười. Vài ngày sau, ông gặp tôi, nói riêng:

- Nghe ra mới biết rõ là cô Vân đã yêu ông thật. Vậy ông có muốn thì sang gặp.

Sợ ông Sách có ý nghi ngờ gì khi đề nghị tôi sang tìm gặp, tôi nghiêm trang đáp:

- Tôi có bổn phận phải gặp Vân. Nghe chị ấy hiện sống vô định lắm, người này yêu, người nọ, người kia yêu. Chị ấy thì, theo người ta nói, cũng lang mang vô cùng, không biết nên đặt lòng mình vào đâu, hy vọng vào đâu, cứ tự để cho ngoại cảnh muốn dắt mình đi đâu thì dắt. Người ta cho là chị ấy báo thù đời.

Ngẫm nghĩ một giây, tôi lại tiếp:

- Tôi có cảm tưởng xa xôi rằng chính tôi đã dự một phần vào việc gây ra nguyên nhân sự trạng này. Tôi có một phần trách nhiệm đối với cuộc đời hay, hay dở của Vân hiện tại và sau này. Tôi thấy tôi có bổn phận phải khuyên nhủ nàng. Ông nghĩ sao?

- Phải đấy. Cô ấy lại đang đưa đơn kiện ly dị chồng. Ông thử tìm cách khuyên bảo cô ấy xem.

Một sáng chủ nhật, tôi đến nhà bà Thừa. Ngồi trong nhà, nhìn ra sân, thấy có ai mặc áo cánh lụa màu nâu đang phơi áo ngoài dây. Tôi tin chắc là Vân. Mãi sau, nghe tiếng bà Thừa nói sang sảng:

- Con Vân đâu? Anh Diệp sang chơi kìa, lên nói chuyện cho vui. Anh chị em cả.

Giọng nói và cách nói của bà Thừa làm tôi tự nhiên thấy buồn thấm thía. Tôi có cảm tưởng như tôi và Vân đã cùng sống một dĩ vãng thân thiết dưới sự chở che âu yếm của mọi người trong họ, rồi bị một nghịch cảnh gì xui phải xa nhau, để hôm nay tình cờ gặp mặt lại nhau, gặp lại mà phải bỡ ngỡ, ngại ngùng, gặp dưới sự che chở âu yếm của họ hàng như ngày xưa.

Vân ở nhà sau đi lên. Tôi đưa mắt nhìn nàng, nhìn thẳng nàng giây lâu, lòng rào rạt một tình thương xót. Vân như thế đấy sao? Ra hôm nay tôi mới biết nàng là như thế. Tóc nàng cặp vén lên cao rồi bỏ trễ xuống. Vòng lông mày cong lên vươn dài, áp đôi mắt mở rộng, rất đen, sâu thẳm. Thấy tôi, nàng hỏi rất tự nhiên.

- Anh Diệp qua chơi.

Tôi chỉ ngẩng mắt nhìn mà cổ nghẹn không sao nói được. Nàng lại hỏi mau:

- Chị đã sinh chưa, anh?

Tôi trả lời:

- Chưa!

Hỏi lên câu ấy, tôi biết ngay là nàng đã hồi hộp cảm động lắm. Nàng ngồi xuống võng. Thấy sự im lặng nặng nề, tôi bắt đầu nói cùng nàng lời hỏi thăm thường lệ. Nàng trả lời tôi một cách thân ái, dịu dàng. Tôi chợt xoay hẳn câu chuyện:

- Tôi nghe ông Sách nói chị nhờ đưa đơn ra Tòa xin ly dị anh Nhã. Tôi thấy đó là một việc quan trọng. Có lẽ vì sự quan trọng ấy nên tôi tìm gặp chị sớm, ngay hôm nay. Tôi không biết là chị nghĩ kỹ chưa…

Nàng mỉm cười trả lời:

- Việc gì chớ việc ấy thì tôi nghĩ kỹ rồi.

Tôi ngắt ngay:

- Tôi rất nghi ở sự đã nghĩ kỹ của chị. Lúc bằng lòng lấy Nhã, chắc chắn là chị cũng đã nghĩ kỹ rồi. Chớ sao? Má chị ép, chị không bằng lòng nhưng có nghĩ sao, nghĩ rằng chị nên làm vui lòng má, hoặc nghĩ rằng anh Nhã không xấu đâu, hoặc vì gì… gì chẳng hạn, chắc chắn là đã có nghĩ kỹ rồi. Chị nhớ lại xem. Chị sẽ thấy rằng ngày xưa chị cũng đã từng nghĩ kỹ, nghĩ kỹ… để hôm nay đời chị dở dang. Chị có tin chắc rằng điều nghĩ kỹ của chị là đúng không?

Vân đăm đăm nhìn tôi giây lâu, không nói.

- Tôi lo sợ thấy chị đang làm một việc nó định đoạt cả một tương lai. Tôi tự biết tôi không thể hiểu rõ tâm trạng và hoàn cảnh của chị hơn chị được, hiểu mình thì còn ai hơn mình, cho nên tôi không dám cản ngăn. Có điều tôi xin chị dè dặt một chút đối với một việc nó quá quan trọng.

Nàng nói, chậm rãi và lạnh lùng:

- Anh chưa hiểu. Đơn ly dị tôi đã gởi Tòa ba tháng trước rồi. Tòa hỏi thêm hồ sơ, hỏi giấy trích lục và địa chỉ của Nhã. Hôm nay nhờ ông Sách đưa là đưa hai món đó.

- Tôi hiểu. Và tôi đã nói là tôi không sáng suốt hơn chị trong việc này để mà khuyên bảo chị. Có điều tôi cần nói rất thật cho chị nghe là hình như dư luận không được tốt đối với chị…

Nàng mỉm cười.

- Tôi biết. Nhưng …

Nàng bĩu môi, không nói tiếp.

- Người đàn bà quý nhất ở cái tư cách. Tôi rất buồn phải nghe những dư luận, vì thế tôi muốn biết chị kiện ly dị để định làm gì?

- Không định làm gì hết. Bây giờ thì cứ sống như thế này nuôi mẹ, nuôi em; nuôi mẹ cho đến ngày mẹ chết, nuôi em, gây dựng cho em. Khi nào bổn phận hoàn toàn rồi thì sung vào một nhà dục anh, một viện mồ côi…

Ngừng một giây, nàng nhè nhẹ tiếp:

- Có người tưởng tôi muốn ly dị để đi lấy chồng.

Thấy nàng lại im, tôi đáp:

- Ý của chị tốt quá. Vì tốt quá nên tôi sợ không thành. Chị nhớ chuyện xưa có những người vợ quá trẻ muốn thủ tiết để nuôi con, để tránh bướm ong qua lại, có nàng đã phải lấy dao rạch mặt mình trăm vết. Tôi xin lỗi nếu sự thật nói ra sẽ làm phật lòng chị, nhưng dù chị giận tôi, ghét tôi, bổn phận bắt tôi phải nói: Chị e rồi cũng phải dùng đến con dao của người xưa, nếu chị quả quyết làm theo ý định tốt đẹp của chị…

Tôi nói xong, nhìn sang nàng, xem nàng tỏ ý khó chịu như thế nào. Tôi thấy nàng ngẫm nghĩ giây lâu, ngẫm nghĩ lắm. Nhìn lên thấy tôi đang nhìn nàng, nàng nói:

- Ai cũng nói ra toàn những sự khó khăn cả.

- Thì khó, khó hẳn đi.

Thấy câu chuyện đã nhuộm một màu đen nặng nề, tôi im lặng giây lâu. Chợt nàng ngẩng lên hỏi tôi:

- Anh có gặp Huyền Đáng không?

- Chưa. Hôm đi Hà Trung, định ghé thăm Huyền Đáng, nhưng bận quá, ghé chưa được. Huyền Đáng bây giờ thế nào?

- Bây giờ lớn rồi.

Tôi ngẫm nghĩ, chắc Huyền Đáng đã có nói gì với nàng nên nàng nhắc đến Huyền Đáng. Tôi hỏi:

- Lúc tôi từ giã Sông Cầu, chắc Huyền Đáng có nói gì với chị?

Nàng đưa mắt nhìn xuống đất, vẻ bối rối không trả lời. Tôi hỏi tiếp:

- Nhờ trời Huyền Đáng chưa được biết đau khổ…

Nàng mỉm cười:

- Biết đâu!…

- Biết đâu nghĩa là đã. Tội nghiệp. Những cô em nhí nhảnh hiền lành của tôi ở Sông Cầu, sao ai nỡ nhuộm đau khổ vào làm chi cho tội nghiệp. Lộc vừa lấy chồng ở Sơn Hòa, tôi định tìm thăm nhưng chưa kịp.

- Lộc cũng đã là nạn nhân của đau khổ, cũng đã khóc, cũng đã phải đã quên.

Tôi nhún vai tỏ vẻ ngán ngẩm đối với một việc nó diễn đi diễn lại đã quá cũ rồi. Tôi hỏi tiếp:

- Còn Mộng Thúy, Mộng Thúy vừa lấy chồng ở gần đây. Đám này tôi không ngờ lại thành. Mộng Thúy nghe tân tiến dữ: kịch, nhạc, biểu diễn v.v… thế mà đánh đùng bằng lòng lấy một anh chồng chắc chắn là không tân tiến bằng mình, nếu không nỡ nói là quê hơn.

- Mộng Thúy có vậy mà thực tế.

- Có lẽ vì cô ta chưa nghĩ đến ai.

Nàng phì cười:

- Anh lầm to. Đã nghĩ rồi, đã yêu rồi, đã yêu như bất cứ ai.

- Yêu ai?

- Khanh.

- Khanh nào?

- Khanh ở Nha Trang.

Tôi dằn mạnh giọng:

- Nha Trang, sao lại Nha Trang?

Vân nhìn tôi mỉm cười chua chát:

- Thì Nha Trang chớ sao? Nha Trang thì cũng như Hà Nội, Đà Lạt có khác chi đâu?

Nhưng sao Nha Trang lại hay làm khổ, làm phiền Sông Cầu quá vậy?

Trầm ngâm một giây, nàng chậm rãi nói:

- Tháng Năm năm ngoái, nghe tin anh cưới vợ. Sau này, được nghe người ta nói chị học giỏi và hiền lành, tôi rất mừng cho anh.

Nghe Vân nhắc đến gia đình tôi, tôi suy nghĩ ngay đến hiện cảnh rất buồn của nàng. Suy nghĩ một giây, tôi chợt hỏi:

- Nếu độ ấy tôi cứ ở mãi Sông Cầu mà không đi Đà Lạt thì sự thể sẽ xảy ra như thế nào nhỉ? Có lẽ chúng ta đã không như bây giờ. Có lẽ cuộc đời đã khác. Có lẽ chúng ta đã…

Vân mở to mắt nhìn tôi, trách:

- Anh cứ nghĩ đến ngày xưa, nói đến ngày xưa làm gì. Cái gì nó đã qua, cho qua luôn.

- Như thế là tàn nhẫn, nhất là bây giờ, chị đang ở trong một cảnh buồn vô cùng. Tôi nghe tháng nào anh Nhã về Sông Cầu đem chị đi Nha Trang. Chị bằng lòng đi. Ghé vào Đa Ngư, chị viết thư cho má, vĩnh biệt má và cả gia đình, chị nói chị chắc một ra đi là gởi xương quê người không còn mong về nữa. Thư ấy Nhã biết. Nhã lại có dọa một khi đem chị vào được đến Nha Trang, Nhã sẽ hành hạ cho điêu đứng.

- Không phải chỉ lần này Nhã mới dọa, dọa cho người khác nghe. Nhã có lần nói trước mặt tôi.

Ngập ngừng một hồi, nàng tiếp:

- Cưới xong một ngày, tôi nói ngay với Nhã: “Anh cưới tôi, nhưng tôi không yêu anh”. Nhã ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?” Tôi trả lời: “Tại vì tôi đã yêu anh Diệp rồi”. Nhã lặng người, không ngờ tôi có thể nói vậy. Thấy tôi điềm nhiên, Nhã biết tôi nói thiệt. Anh giận dữ gằn giọng:

- Biết rồi. Biết rõ, nên quyết cưới cho được để đem về hành hạ cho biết tay.

- Thế là từ đó trở đi, liên tiếp toàn những hành hạ và hành hạ?

Vân im lặng không nói. Tôi lại hỏi:

- Thế tại sao biết đi theo vào Nha Trang là chết mà vẫn cứ đi?

- Vì muốn chết.

- Muốn chết thế sao khi ở Đa Ngư nghe Nhã dọa thì lại không chịu theo Nhã nữa mà lại để Nhã về Nha Trang một mình?

- Vì nghĩ lại, chết như vậy uổng nên không muốn chết nữa.

Giọng nói gọn, trầm trầm làm tôi biết Vân đã chán nản lắm.

Sau bữa cơm trưa, Vân lại nằm ở giường, gần bộ ván rộng tôi ngồi. Qua khe rèm tôi thấy nàng nằm vắt tay lên trán. Chốc chốc thấy nàng trằn trọc và thở dài. Tôi im lặng không biết nói gì. Trong khi quay cuồng lẫn lộn, óc tôi lại đẫm trong một sự êm ái man mác. Tôi nhìn về dĩ vãng, nhớ lại ngày gặp nàng, nhớ lại ngày nàng lấy chồng, nhất là những ý nghĩ âu yếm nàng đã dành cho tôi trong những ngày nàng lấy chồng. Nhớ lại những ngày cuối cùng ở Sông Cầu, tôi lên tiếng hỏi:

- Ngày tôi nằm nhà thương, tôi nghe người ta hay nhắc đến tôi mỗi lần nói đến chị và Nhã. Hình như Nhã nghi ngờ tôi lắm?

Vân quay sang nhìn tôi:

- Nhã có tính rất lạ, cứ nghi tôi với anh. Có hôm tôi vào Tuy Hòa, xuống Ngọc Lãng rồi về. Nhã nghe tôi vào Tuy Hòa, đinh ninh là cốt để gặp anh nên giận dỗi, tra hỏi. Thấy Nhã vô lý, tôi bực mình ngồi đặt chuyện gặp anh, thăm anh v.v… nói với em gái tôi. Nhã về tra hỏi em tôi. Nó không nói. Anh điên lên, rượt đánh cả nó nữa.

- Tôi nhiều khi thấy cuộc đời cũng oái oăm quá. Tôi gặp chị một lần không hề nhớ mặt, chỉ hôm nay mới thấy rõ ràng, thế mà ai ở Sông Cầu cũng đinh ninh là tôi với chị đã gì… ghê lắm. Tôi thì chưa hề hiểu chị, thành ra chỉ một mình nghĩ, một mình biết, có lẽ suốt cả đời sẽ cũng chỉ vậy, nếu hôm vừa rồi Uyển không tình cờ nói cho tôi biết.

Vân hỏi Uyển nói gì, tôi thuật lại các điều Uyển đã nói cùng tôi. Cuối cùng tôi hỏi nàng:

- Có phải chị đã nói như vậy không?

Nàng không trả lời. Sau một hồi ngần ngừ, nàng mở to mắt nhìn thẳng tôi:

- Nhưng thôi, việc đã qua rồi. Mình không có quyền nghĩ đến nữa.

- Nhưng còn cả cái hiện tại và cái tương lai của chị?

Nàng nói mau, vội vàng:

- Cũng mặc, mặc tôi. Anh không phải nghĩ. Anh không có quyền nghĩ đến nữa.

Thấy tôi nhìn nàng, nàng cũng nhìn tôi thật lâu rồi buồn rầu nói:

- Anh không có quyền nghĩ đến thật vì anh có bổn phận phải nghĩ đến chị đang có mang, phải nghĩ đến cháu sắp sinh. Bổn phận của anh nặng lắm. Chị bao giờ thì sinh hở anh?

- Có lẽ cuối tháng Một, chưa biết chắc.

- Anh có bổn phận phải lo cho chị thật chu đáo. Chị xa gia đình, xa quê hương, đi cùng anh về đây là chị yêu anh lắm. Anh có nhớ không?

- Nhớ lắm. Nên tôi bao giờ cũng lo cho nhà tôi. Chỉ có bây giờ thấy chị như đang đi vẩn vơ trên một con đường không có đích nên tôi không yên tâm.

Vân nhíu mày:

- Tôi đã nói, anh cứ yên tâm.

- Nhưng yên tâm thế nào được?

Thấy tôi mạnh giọng hỏi, Vân tròn mắt nhìn tôi rồi nghẹn ngào nói:

- Quên đi.

- Quên đi là một điều không phải dễ!

- Đành rằng thế, nhưng đã nhớ bốn năm hơn rồi. Bây giờ dù quên mà phải khổ cũng phải cố quên. Bốn năm khổ còn chịu đựng được thay!

Tôi không biết nói sao, chỉ nhìn nàng thôi. Nàng xem chừng như băn khoăn đau đớn trong lòng lắm nên nhìn thẳng tôi không chớp mắt.

- Quên đi.

Mặt trời ngã chiều. Tôi sắp sửa đi về. Tôi đứng lại gần nàng, cầm tay nàng nói.

- Em phải thu xếp cuộc đời cho nó quy củ, cho có phương châm nhất định. Anh đã nói, anh không hiểu rõ hoàn cảnh em cho bằng em được, nên anh không dám thu xếp dùm em. Anh chỉ xin em nhớ kỹ rằng ngày nào em còn vẩn vơ vô định như thế này là ngày ấy anh còn phải lo phiền về em, em nhớ chưa?

Nàng chỉ nhìn tôi mà không nói. Tôi nhìn xuống bàn tay nàng thon thả nằm gọn trong bàn tay tôi. Ngón tay dài, trắng và mảnh mai. Mắt tôi chạm phải chiếc nhẫn cưới nàng đeo ở ngón tay kề. Một ý nghĩ chua xót vương lấy óc tôi. Tôi chầm chậm đưa bàn tay lên môi. Rồi tôi nói khẽ:

- Thôi anh về!

Suốt ngày hôm sau, tôi cứ bị đôi mắt mở rộng, đen và sâu thẳm của Vân nhìn thẳng tôi, thật lâu, thật êm và thật buồn. Tôi cứ thấy mãi đôi môi của Vân nhếch một nếp nhăn đau đớn, thẫn thờ khuyên tôi: “Quên đi”. Tôi lại nghĩ miên man về nàng. Tôi không biết nàng đang đi đến đâu và đi như thế nào. Xét lại cuộc gặp gỡ hôm qua, tôi thấy tôi vẫn chưa hiểu nàng, chưa cùng nàng định rõ một thái độ nào, một lối xử thế nào cho rõ ràng cả. Tôi đâm ra lo lắng vì nàng, cho nàng. Những điều dự định khuyên lơn và an ủi chưa nói hết và chưa nói đủ. Tôi phải gặp lại nàng, chúng tôi phải thỏa hiệp với nhau về đường lối sống và nghĩ duy nhất dành cho nàng. Để tôi được yên tâm hơn.

Chiều đó tôi nhờ người tin cho nàng biết tôi cần gặp riêng nàng để bàn bạc thấu đáo hơn. Sau nhiều hồi lưỡng lự, nàng thuận theo lời tôi.

Đêm mát, lành lạnh. Sao sáng đầy trời. Chúng tôi ngồi bên cạnh nhau. Tiếng nước chảy rì rào ở đập nước bên cạnh làm tăng sự im lặng của cảnh vật xung quanh. Tôi bắt đầu xin lỗi nàng vì bắt buộc phải gặp nhau trong một hoàn cảnh không được đường hoàng như thế này, nhưng có thế này mới dễ nói, dễ hiểu, dễ thấu, để dễ quyết định. Tôi nhắc lại ngày gặp nàng lần đầu, mối cảm động nàng đã gây cho tôi và ý định tốt đẹp tôi đã dành cho nàng. Vân lẳng lặng nghe, thỉnh thoảng nhắc lại:

- Lạ quá. Hai người cùng một ý nghĩ mà hai người cùng không nói cho nhau nghe.

Nàng hỏi tôi:

- Tại sao cả hai người đều nghĩ giống nhau như vậy?

Tôi lắc đầu, không biết trả lời sao. Tôi nhắc đến những ngày nhớ nàng ở Đà Lạt, ở Sài Gòn rồi tôi kết luận:

- Như thế nghĩa là từ ngày xưa anh đã có yêu em. Bây giờ anh còn thêm cái nghĩa, nghĩa cũ đối với em nữa. Em tin anh là phải. Em nghĩ kỹ xem, em có tin anh không?

Nàng tựa đầu vào vai tôi, nói:

- Có.

- Em nhắc lại đi, em có hoàn toàn tin anh không?

- Có.

- Được rồi. Có được đức tin ấy là công việc đã giải quyết được một phần rất lớn rồi. Từ lâu, anh lo rằng em không có một người nào để tin cả. Nay em đã tin anh thì anh bảo em nghe. Em hiện có bốn mươi năm, năm mươi năm, sáu bảy mươi năm để sống nữa. Em cầm hằng mấy mươi năm dài dằng dặc ấy trong tay, em đã thấy quan trọng chưa.

- …

Định đoạt một việc gì, nhất là việc quan hệ đến đời mình, không phải dễ. Riêng đối với em càng khó hơn. Anh không muốn nhắc lại vì sao. Nên em cần phải nghĩ thật kỹ, và tham hiệp ý kiến với những người hiểu em và thật lòng thương em. Em nghĩ sao?

Nàng ngoan ngoãn nói:

- Nghĩ kỹ thì bao giờ em cũng nghĩ kỹ. Bây giờ có anh, em sẽ hỏi ý kiến anh mỗi lần phải định đoạt một việc gì khó khăn.

Tôi siết chặt tay nàng rõ lâu, tỏ tấm lòng thương yêu vô hạn đối với nàng. Tôi nói:

- Anh tin ở lời em. Mỗi lần phải định đoạt một việc gì quan trọng, em nhớ cho anh biết. Anh sẽ giải quyết cùng em. Anh sẽ xem em như em của anh. Anh lo cho em, em mà có thể nào, anh sẽ khổ tâm lắm.

Vân cầm tay tôi mân mê rồi nói:

- Anh không lo. Em cũng xem anh như anh của em vậy.

Nỗi êm đềm do tấm lòng thành thật của chúng tôi đã dành cho nhau khiến lòng tôi yên tĩnh lại. Tôi nhìn lên trời thăm thẳm sâu. Sao dày chi chít. Tôi nâng cằm nàng, chỉ về một ngôi sao sáng. Tôi nói:

- Anh gởi em cho ngôi sao sáng kia.

Đêm đã khuya, nàng giục về. Chúng tôi đứng dậy, đi song song nhau.

Vai nàng kề sát vai tôi.

Đường nhỏ gập ghềnh. Thỉnh thoảng, những bụi tre đứng vững chãi, bóng đen vươn cao.

Vai nàng kề sát vai tôi.

Tiếp theo, tôi có nhiều dịp để hiểu nàng qua những thư nàng viết. Lần nào nàng cũng khuyên tôi nên cố quên nàng đi để lo cho vợ tôi, cho đứa con sắp sinh của tôi. Muốn cho tôi yên tâm nàng nhắc đi nhắc lại rằng dù không gần tôi, nhưng mỗi khi nghĩ đến tôi, nàng có thể chống chọi lại tất cả những khó khăn ở đời. Tôi không dám tin rằng tôi đã có thể gây được cho nàng một ý chí vững chắc như thế.

Lâu lâu, tôi lại nghe một dư luận không tốt về nàng. Dư luận thường không do đàn ông chuyền đi. Có lẽ sắc đẹp đã làm bức thành bảo vệ cho nàng. Người đàn ông nào cũng ích kỷ, cũng yêu cái đẹp. Đàn bà hay nhắc đến nàng hơn. Đàn bà cũng lại ích kỷ như đàn ông, muốn mình đẹp hơn nữa và được bảo đảm chồng mình là của riêng mình. Tội nghiệp cho Vân, nàng hiện đang đẹp và đang không chồng!

Người ta đều như cho rằng Vân hiện đang say sưa chinh phục. Điều này nghe có vẻ đúng. Tôi thường nghe người ta, - những đàn ông - tả và so sánh sắc đẹp của nàng mà chưa hề nghe ai nói đến tâm hồn nàng cả. Không ai nghĩ rằng nàng có một tâm hồn, tâm hồn đặc biệt của riêng nàng, tinh tế, tế toái, phân biệt sâu sắc, ý thức rõ ràng những rung động muôn mặt của tình cảm.

Nàng viết cho tôi:

“…Hình như đã nhiều lần rồi, em viết và nói với anh rằng anh cứ thương em như em của anh vậy. Nhưng anh ơi, em đã dối lòng em nhiều quá. Ngoài miệng thì em bảo:

Coi em như em của anh đi! Nhưng lòng em nó không muốn thế đâu. Thôi, chúng ta xa nhau hẳn thôi. Thà xa nhau còn hơn là giả dối với nhau như thế. Một là được anh yêu, hai là xa cách hẳn đi, chớ cứ đóng kịch như thế mãi, khổ tâm em lắm…”

Không! Vân không ác tâm chinh phục ai. Lũ thiêu thân bị cháy cánh, đâu phải lỗi của ngọn đèn. Trong khi ấy, thỉnh thoảng nàng lại cho tôi nghe một vài nỗi thắc mắc: nàng muốn vào Nha Trang thăm Nhã bị bệnh nặng… rồi muốn vào Nha Trang vì nghe tin thầy Nhã mất. Độ một tháng sau, nàng tỏ ý muốn đi Bồng Sơn buôn. Rồi không hiểu tại sao bỗng cho tôi biết rằng đã đổi ý định, muốn rút đơn xin ly dị. Nàng hỏi ý kiến tôi. Tôi không biết nên trả lời như thế nào mà chỉ bối rối theo sự quay cuồng hỗn độn của tâm hồn nàng. Tôi phải gợi lên vẻ mặt sáng rỡ của nàng, tươi tỉnh như chỉ biết ở nụ cười. Tôi phải nhè nhẹ gợi lên tên nàng để tưởng nghe một sự êm đềm thoang thoảng: Thu Vân. Tôi tự hỏi sao tên nàng lại là Thu Vân. Mây mùa xuân có sáng sủa, nhẹ nhàng hơn không? Mây mùa hạ có rực rỡ huy hoàng hơn không? Sao nàng lại là mây mùa Thu, mùa Thu túc sái, mùa Thu sương giăng lá rụng, mùa Thu nghiêm nghị, trầm, buồn?

Cứ như thế, ngày tháng lặng lẽ trôi.

Vợ tôi sinh đứa con gái đầu lòng.

Vào một buổi bất ngờ, Vân đến thăm vợ tôi mà không cho tôi biết trước. Nàng đã lừa dịp tôi vắng nhà. Không biết hai người đàn bà đã tự giới thiệu với nhau như thế nào, nhưng chắc chắn là họ bỡ ngỡ không lâu. Vân thì biết rõ vợ tôi lắm. Không hiểu do đâu nàng biết vanh vách về thân thế vợ tôi, về tâm tính, về sở thích… biết nhiều hơn tôi nữa vì có cả những điều, hình như không có thật. Vợ tôi thì cũng đã quen với nàng qua những lời tôi kể lại và câu chuyện Clémentine tôi đang viết dở dang.

Chiều hôm ấy, vợ tôi báo tin cho tôi biết:

- Xế hôm nay có khách.

- ……?

- Cô Vân.

Đôi môi tôi nhíu lại vì việc xảy ra hơi đột ngột, tôi không kịp chuẩn bị.

- Em thấy thế nào?

- Đẹp… dễ yêu lắm.

Tôi lo lắng hỏi:

- Cô ấy đến nhằm lúc em đang làm gì?

- Em đang hái hoa bí.

Ngập ngừng một giây, vợ tôi tiếp:

- Em ngượng quá vì mình đang mặc cái áo cánh nâu. Và mời vào nhà thì lại để xem con mình nằm trong cái nôi bằng tre đan.

Tôi ái ngại nhìn kỹ vợ tôi.

Ba năm lam lũ trong hoàn cảnh chiến tranh, chúng tôi đã trót quen đi với sự bần hàn. Thói quen bắt đầu từ lúc nào, tôi cũng không có dịp nhận xét kỹ. Thoát được vòng vây của Pháp mà về đến đây, vợ tôi không còn mang theo được một tí đồ dùng gì thuộc thời đại văn minh cơ khí hết. Những cái áo cánh bằng vải thô tự tay vợ tôi may và nhuộm lấy. Chẳng khó gì: giã hột cau già để nhuộm màu nâu, giã than bếp để nhuộm màu xám. Đi đâu thì mặc quần lĩnh - mà ít có dịp đi đâu lắm - còn ở nhà thì mặc quần vải nhuộm chàm xanh rồi phủ bùn đen. Giặt dăm nước thì bùn đen bay đi, còn lỗ chỗ xanh. Tội nghiệp là vợ tôi tiếp Vân với bộ y phục nghèo nàn ấy.

Mà lại nhằm lúc đang hái hoa bí.

Tôi nghĩ đến cái giàn bí ngô của chúng tôi.

Đầu mùa thu, tôi gieo hột bí, chăm sóc để trông ngày ra trái. Nhưng lạ quá, giây bí không chịu kết trái mà cứ bò thật dài, bò mãi, cái giàn bí được nối dài, nối thêm, ba lần, năm bận, vẫn chưa đủ sức cho bí bò. Và cứ độc ra hoa đực! Vợ tôi lại sáng sáng cầm rổ ra ngắt hoa bí đực để luộc làm rau. Đời sống thanh đạm thật quá sức tưởng tượng. Nhưng thấy xung quanh ai cũng khổ nên chúng tôi không quên rằng mình đang khổ. Mùa đông, không còn được mặc áo len, áo choàng, áo nĩ, vợ tôi đành mặc một lần ba, bốn cái áo cánh vải.

Nhưng điều khiến cho vợ tôi đau khổ nhất là phải nuôi con trong sự thiếu thốn. Không có nôi, không có xe, không có màn tuyn, không có bình thủy để pha sữa và không có sữa, không có búp bê… không có gì cả! Vợ tôi tủi thân khi nghĩ rằng mới bốn năm năm trước, mình còn may áo đẹp cho búp bê, đặt trên xe, để ở phòng học…

Mười ngày sau, Vân gởi sang cho vợ tôi một người vú. Nàng phải về tận Sông Cầu để tìm thuê giúp. Vợ tôi cám ơn lắm vì vào lúc bấy giờ tìm thuê được một người vú khó hơn tìm bắn được một con voi. Cuộc giao thiệp giữa hai người đàn bà bắt đầu dưới dấu hiệu của sự thân ái.

Nhưng với tôi, Vân không ngớt là một nguồn gây bối rối. Vào hạ bán niên 1948, nàng vào làm việc ở Tòa Hành chánh tỉnh. Tôi có dịp để gặp nàng nhiều hơn, nhưng chỉ thấy và gặp chớ chúng tôi ít trò chuyện với nhau. Tính tôi thành thật quá, thành thật đến ngây thơ, cứ tưởng điều mình nghĩ là ai cũng biết rõ hết. Do đó mà chẳng lúc nào tôi tìm gặp nàng, hoặc nếu muốn sắp đặt một cuộc gặp thì phải có một chủ đích, với một ý nghĩa, một nội dung. Thật là công thức, thật là nguyên tắc! Tôi đã lý tưởng hóa một mối tình. Mối tình bắt đầu quá trong sạch, làm tôi e sợ không dám vẩn đục một tý. Cuộc sống tâm tình thành ra bị bức thúc đến ngạt thở.

Thảng hoặc mới có một sự cởi mở. Đó là những lúc tôi nhận được thư Vân. Xen giữa những đoạn hỏi thăm, thỉnh thoảng nàng để hé một mảnh lòng:

“…Nhìn ra ngoài trăng sáng… Cánh đồng Phú Long dải ánh trăng lạnh… Em tưởng tượng được đi cạnh anh… Nhưng thôi, nói nhảm anh đừng tin nhé!…

…Khuya, chợt tỉnh giấc, em nằm thao thức. Vụt mong: ước gì có cánh bay qua nhà anh, nhìn xem con anh ngủ. Chắc môi nó nở nụ cười giống anh…”

Sau những đoạn thư êm đềm như thế thì thường là những đoạn hối hận:

“…Đọc xong, anh đốt những thư em đi… Nhớ nhé. Và nhất thiết từ giờ em không gửi thư cho anh nữa. Em không gặp anh nữa đâu. Ghét em đi. Yêu chị cho rõ nhiều. Yêu bao nhiêu cũng chưa đủ. Ghét em đi. Đừng nói chuyện gì về em với chị. Anh nhớ nhé? Chị tốt lắm, tốt lắm… Nhưng làm đàn bà, em hiểu…”

Tôi đưa mắt nhìn ra xa lẩm bẩm nhắc lại:

- Nhưng làm đàn bà, em hiểu…

Tôi bắt đầu hiểu.

Vài bức thư của Vân, tôi xem xong, bỏ quên ở túi áo. Vợ tôi lúc đưa giặt, nhặt được, đem cài ở tập Clémentine đang viết dở. Mỗi lần như vậy, tôi lại nghĩ đến câu Vân viết:

Nhưng làm đàn bà, em hiểu…

Tuy vậy, tôi không thấy vợ tôi tỏ thái độ nào cả. Vẫn hiền lành, kín đáo. Thỉnh thoảng tôi nhắc đến Vân thì vợ tôi vẫn êm đềm nói đến nàng và không ngớt cám ơn nàng. Dù vậy, tôi không khỏi bị ám ảnh vì câu nói của Vân:

Nhưng làm đàn bà, em hiểu…

Tôi đi sâu thêm vào lý luận. Tôi đặt thêm giả thiết. Tôi tự hứa không nên chủ quan để đến nỗi nhìn lệch, nhìn cận thị. Tôi phải tinh tế hơn.

Thường thường những khi ru con ngủ, vợ tôi hay hát ru khe khẽ những điệu Valses của Strauss. Giọng nhạc nhí nhảnh, đầy tràn nhựa sống, say sưa, đầy ánh sáng, đầy màu xanh của bầu trời Áo quốc và sông Đa-nuýp thường làm cho vợ tôi quên bớt thực tại thiếu thốn để trở về với sự êm đềm hồi còn trẻ tuổi. Nhưng từ lúc nào không rõ, có lẽ chừng một hai tháng nay, thỉnh thoảng tôi nghe xen vào những điệu lạ, hơi buồn hơn. Hỏi, thì vợ tôi bảo:

- Bài Berceuse của Chopin.

- Bài Ave Maria của Schubert.

Tôi bắt đầu thoáng hiểu.

Tôi kính trọng đạo đức của vợ tôi, đã đành, nhưng tôi không có quyền làm nàng cô đơn hơn. Ngoài tôi và đứa con yêu dấu đầu lòng, vợ tôi yêu tha thiết những gì ở gần cạnh chúng tôi: con gà mái tơ vừa nhảy ổ, giàn bí đầy hoa vàng, bờ tre gần cửa sổ với những chùm lá nhọn rũ xuống, trông như những bàn tay và lóng lánh qua lũy tre là con sông xanh loang loáng nước. Vợ tôi cố yêu cái hoàn cảnh mới mẻ và thiếu thốn này, vừa cố quên đi dĩ vãng. Nhưng thỉnh thoảng dĩ vãng sống dậy mãnh liệt trong lòng nàng những khi nàng cô đơn. Tôi nhớ có đôi lần tôi đi đâu về, nhè nhẹ bước vào phòng, thấy nàng ngồi trước bàn viết, mười ngón tay thoăn thoắt chạy trên mép bàn, miệng lẩm nhẩm một điệu nhạc cổ điển và mắt nhìn thẫn thờ ra cửa sổ. Tôi đứng yên lặng, cảm động muốn rơi nước mắt. Như vậy, lẽ nào tôi còn muốn đem thiếu thốn cộng thêm vào thiếu thốn? Không, không được. Vợ tôi đã nghe theo bổn phận mà dập tắt đi những tiếng nói tình cảm. Tôi không hẳn làm trái lại nhưng tôi đã dễ dãi với tôi hơn. Như thế là không công bình. Phải, như thế là không công bình. Tôi phải công bình hơn.

Tôi nghĩ đến Vân. Và tôi gặp lại cái ý nghĩ tôi đã nhiều lần có về nàng: nàng đối với tôi như không có thật, như cái bóng, có lẽ không là cái bóng nữa mà chỉ là mùi hương thoang thoảng. Xung quanh tôi, mùi súng đạn, thực tại chiến tranh nhọc nhằn, nguy hiểm, những nhiệm vụ khắc khổ dồn dập như đè nặng lấy chúng tôi. Thỉnh thoảng gợi lên được một sự êm đềm, nghe một lời âu yếm thoáng qua, tôi có cảm tưởng như đang ở trong căn nhà hẹp mà được cửa sổ nhìn ra vườn hoa lá, thở một luồng không khí mát, ngợp vì một ít ánh sáng rung rinh và thoáng xa có tiếng chim ca.

Nhưng mùa qua chim dần lơi tiếng ca.

Tôi đã vì vợ tôi mà nghiêm khắc xét vấn đề thì cũng đã đến lúc tôi phải vì Vân mà sáng suốt giải quyết lối cư xử.

Vân hiện thời có thể không phải hoàn toàn là của anh Nhã, nhưng hoàn toàn không phải của tôi. Vân là của rủi may, của ngẫu nhiên, của định mệnh. Điều này chắc chắn lắm vì nàng trẻ và đẹp thế kia!

Hết những người này yêu nàng đến những người khác yêu và chuẩn bị yêu. Nàng quả là con chim đẹp đang dè dặt chọn cành mà đậu. Cuộc đời là vậy. Cuộc đời, tuy như con đường trăm ngã, nhưng ngã nào cũng rốt cuộc quy về một hướng. Ta hay tự phụ, không muốn đi theo con đường cũ của tối đại đa số những người khác đã đi. Ta tin rằng ta có thể khác người, ta mở những kỷ nguyên mới. Hão huyền cả! Phá xiềng xích, đạp vỡ thành kính, ta đi con đường của ta, say sưa, tin tưởng… Nhưng, nhẫn nại hơn và mạnh mẽ chắc chắn hơn, cuộc đời thường khéo sắp xếp thế nào cho ta trở lại con đường cũ của mọi người lúc nào ta không biết.

Vân cũng sẽ như mọi người, nghĩa là phải sắp đặt để tìm người cùng xây dựng cuộc đời. Tôi phải nhìn vấn đề một cách thực tế. Tôi không được ích kỷ. Hạnh phúc của nàng - phải là cứu cánh của mọi sự giải quyết. Tôi có nhiệm vụ phải xa nàng, nhường con đường rộng rãi cho một người khác sẽ tiến đến để cùng nàng song song bước.

Suy nghĩ kỹ, một chiều chúa nhật tôi ngồi đọc những thư nàng viết, sống lại từng mẫu tâm trạng kể từ lúc chúng tôi gặp nhau. Trí óc tôi lần lượt trở về với bốn năm dĩ vãng. Ngồi trước đống thư, tôi tưởng tượng như đang cầm tay nàng cùng đi trở về thăm lại cảnh cũ, những kỷ niệm ngày xưa, sống trọn một ngày bên nhau trước khi phải từ giã nhau mãi mãi, mỗi người đi theo một con đường, một định mệnh. Giờ từ giã đã đến.

Xóa hết dĩ vãng!

Tôi cầm diêm bật xòe lên châm vào đống lá thư.

Nhưng xóa hết dĩ vãng? Xóa hết? Liệu có xóa được không? Tiếng “xóa hết” nghe như giả dối và cái cử chỉ đốt cũng giả dối như vậy.

Tôi vứt que diêm xuống đất.

- Người ta không xóa được cái gì ở trong lòng, chỉ có thể gắn chôn chặt đi mà thôi, tôi lắc đầu lẩm bẩm.

Tôi xếp gọn các tờ thư lại, bỏ vào một phong bì lớn. Tôi dán lại cẩn thận, niêm lại thật kín. Tôi chôn những lời lẽ của nàng trong phong bì kín này, tự nguyện không mở ra đọc nữa cũng như tôi chôn mối tình của nàng trong lớp sâu thẳm của hồn tôi, tự nguyện không khơi vẩn lên nữa.

Phong bì đặt trước mặt tôi kia, những lời tâm tình đã chôn kín trong đó. Một sự cách trở đã xảy ra để mắt tôi không còn nhìn được nét chữ của nàng, để hồn tôi không còn rung động theo nhịp điệu của tâm hồn nàng rung động trong lời thư. Sự cách trở mỏng manh bằng sức mỏng manh của tờ giấy, nhưng lòng tôi đã nguyện thì giấy cũng đủ chắc, đủ bền, đủ gây một sự cách trở khó vượt.

Tôi ngồi lặng đi hồi lâu. Xung quanh tôi, cảnh vật hình như cũng lặng lẽ. Trong sự êm ả cô tịch, tôi lắng nghe có một vị đắng từ đâu đưa lên thấm nhẹ ở đầu lưỡi, vừa thoáng nghe một tiếng thổn thức, một tiếng thở dài…
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:12:46 bởi hai1957 >

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 17.11.2012 16:43:59
LÁ VẪN XANH

NXB: Thời mới 1962


1. Trận đòn hòa giải

2. Xuất hành năm mới

3. Ngày xuân êm đềm

4. Lá vẫn xanh

5. Niềm tin chưa mất

6. Tia nắng rớt




1. TRẬN ĐÒN HÒA GIẢI(đã có trong TV)

2. XUẤT HÀNH NĂM MỚI (đã có trong TV)

3. NGÀY XUÂN ÊM ĐỀM



Chiều hôm ấy khi đi học về, An thấy trên ven mép sân vừa trồng một hàng cúc vạn thọ. Mừng quá, An không kịp bỏ mũ sách, nhảy tuốt ra nhà sau tìm chú Ba.

- Chú Ba ơi! Chú Ba! Chú trồng vạn thọ hả chú? Gần tới Tết rồi hả chú Ba?

Câu trả lời của chú, An đoán trước được nhưng An vẫn thích hỏi. Còn ai vào đây trồng hoa nữa? Ba, bốn năm nay từ khi An có trí khôn, An thấy cứ gần Tết là chú Ba đi xin cây vạn thọ hoặc ở chùa Châu Lâm hoặc ở vườn thằng Kiết về trồng một hàng quanh mép sân. An không biết xem lịch vì lịch in bằng chữ nho, cuốn lịch cha nó treo ở khung cửa sổ bên cạnh cái bàn toán. An cũng không lưu ý tìm xem tháng này là tháng mấy. Đối với tâm hồn ngây thơ của nó, cảnh và vật nói nhiều hơn tháng ngày. Nghe con tu hú kêu nó nghĩ đến những chùm trái vú dẻ chín vàng ngọt lịm và nó nghĩ: “Tháng Ba. Mùa gặt tới”. Nhìn bà hàng gánh đôi thúng xếp đầy những trái bắp nếp luộc hơi nóng lên nghi ngút, nó cảm nghe mùi ngọt thơm của hột bắp dẻo nghiền tan dưới răng và nó nói thầm: “Tháng Tám rồi. Sắp mưa lụt”. Còn ngày Tết thì luôn luôn được báo hiệu bằng dãy cúc vạn thọ.

An nhìn trìu mến dãy hoa vừa trồng. Mỗi cây đứng trong một cái lỗ khoét to bằng cái bát sứ. Cây cao hơn mặt đất không quá hai tấc và đứng gục đầu xuống, lá buông ủ rũ. An có cảm tưởng chúng nhớ đàn nhớ bầy, nhớ cái vạt đất nhỏ nơi đó người ta gieo chúng, nơi đó chúng lớn lên cạnh những anh em của chúng cùng một hoa mẹ sinh ra. Có đôi cây yếu quá tưởng như chúng không thể sống qua đêm nay. Sự lo lắng thương hại của An khiến nó thấy cái thái độ lầm lì lạnh nhạt của chú Ba là đáng ghét. Người lớn trông họ vô tâm đến tàn ác. Mấy cây hoa đau đớn ủ rũ thế kia mà họ vẫn có thể thản nhiên bỏ đứng bơ vơ một mình không săn sóc đến. Đêm đến, khi leo lên bộ ván gõ nằm ngủ, An cứ loay hoay nghĩ về mấy cây hoa đáng thương. Và mới sáng tinh sương khi bừng mắt dậy, nó đã nhảy vội ra sân thăm từng cây hoa. Mừng quá! Dù có cây thân còn cong lại chưa đứng thẳng nổi nhưng cây nào đọt cũng xanh tươi, chỉ những lá gần gốc là héo sẫm lại mà thôi. Dăm ngày sau, cây bén rễ và tới một độ nào đó An không nhớ nữa, những cây hoa lớn vụt thật mau, đâm chồi thật nhiều. Những khoảng cách giữa các cây hoa trước kia trống trải mênh mông, giờ đã bị che mất bởi tàng lá.

Cùng với sự phát triển của dãy cúc vạn thọ, cái Tết như cũng lớn dần. Manh nha từ đầu tháng Mười một với những cơn mưa nhẹ, mưa gieo cải, cái Tết thấp thoáng mơ hồ với những rò cải, ngò, xà lách, tàn ô nằm vuông vắn ở hầu hết mọi sân nhà. Cái Tết lớn lần lên với những bụi hoa, vạn thọ, cúc đại đóa, thược dược phát chồi sum suê và bắt đầu ra nụ. Càng đi sâu vào ngày tháng, cái Tết càng hiện rõ thêm, in dấu vết trên mọi cảnh mọi vật và mọi hoạt động của con người. Chữ Tết được nhắc đi nhắc lại một cách thân mến êm đềm trong mọi trường hợp sinh hoạt ở gia đình. Cha nói: “Mấy dây dưa leo chắc ra trái không kịp Tết. Bậy quá. Bị mưa làm thúi giống gieo kỳ trước”. Mẹ nói: “Thằng Ba coi chừng mấy con gà thiến. Để qua nhà lão Dần chó cắn chết thì nghỉ ăn Tết đó nghe?” Ở lớp học bạn khoe với nhau: “Tết này tao được đi thăm cô tao ở Phước Lãnh… Bà ngoại vừa gởi cho mẹ tao một trái bí đao to để làm mứt Tết.” Ở ngoài đường, chữ Tết len lỏi trong những câu chuyện: “Chợ Tết mà ế quá, tháng Chạp thiếu, hăm Chín lấy làm Ba mươi, chạy Tết cũng mệt… Tết năm nay ở Phú Mỹ có bài chòi…”

Thôn Quảng Đức đa số làm nghề gốm và buôn vôi thế mà sự sinh hoạt cũng hối hả theo cái đà của ngày Tết cứ sừng sững đến gần. Đồ gốm sản xuất ra, chở đò dọc đem bán ở các chợ xa: chợ Đèo, chợ Đồng dài, chợ Gò chai, chợ Gành, chợ Thứ… tiếng ốc tù-và của chủ đò thúc khách quá giang chuyển hàng cho gấp xuống đò vang lên trong đêm khuya. Càng gần Tết sự mua bán càng hối hả rộn rịp nên chợ nào cũng vãn chậm. Đò xuôi chở khách về cũng mãi khuya mới tới bến. Bến đò thành ra ồn ào rộn rịp suốt đêm. Những cây đèn chai làm bằng một đoạn tre trong tẩm dầu, cháy rực sáng cả bực sông, in ngược bóng xuống nước rung rinh, lóe đỏ cả một vùng.

Trên con đường đi xuyên qua xóm, những dáng người gánh gồng vội vã đi chập choạng theo ngọn đèn chai cầm lắc lư dưới tay. Đèn chai ở đây là một cái đèn dầu nhỏ được một nửa cái chai ụp lên để chắn gió. Tiếng chuyện trò lanh lảnh vang trong đêm, hối hả theo bước chân chuyển từ đầu xóm sang cuối xóm. Trong đêm tối mà mọi vật như xóa nhòa hết cả hình nét để tan vào bóng đen, mà mọi sinh vật đều như mỏi mệt, tiếng nói chuyện tỉnh táo rõ ràng dường giữ đủ cả sắc cạnh. Ở dưới bước chân, bóng người in đen được phóng đại ra, nằm trải xuống mặt đường, nằm vắt qua bờ rào, chập chờn di chuyển theo bước đi.

Một bữa An thấy chú Ba hí hoáy nắn một vật gì trông tựa cái lưỡi cày mà bằng đất sét. Chú lấy mũi dao liếc thật nhẵn mặt. Chỗ tay cầm cũng được gọt thật đều. An hỏi:

- Chú làm cái gì vậy?

- Tao làm cái bàn ủi.

- Làm bàn ủi để chi vậy chú?

- Để ủi quần áo chớ chi.

Giọng nói của chú lơ đãng. Trong giọng ấy còn có vẻ tự phụ vì chú nheo mắt ngắm nghía ra dáng bằng lòng lắm. Rồi chú nói chậm rãi tiếp theo, như nói với cái bàn ủi chứ không phải nói với An:

- Mốt tới phiên lò ông Hương Lạc đem gởi nung. Chín rồi lấy ra đem ngâm nước. Thế là giặt quần áo để sẵn đó. Đem đặt bàn ủi lên lò than nóng rồi cứ vậy mà ủi lên mặt quần áo. Quần áo dầu cũ mà trông như mới.

Cũ mà trông như mới! Thật là kỳ diệu, An nghĩ. Nó nhìn xuống cái áo cũ nó đang mặc, tưởng tượng rằng cái áo ấy sẽ mới và nó ngó sang cái bàn ủi một cách khâm phục. Cái bàn ủi ấy được mang đi nung, điều ấy quả có thật. Chính mắt An nhìn nó chuyển từ màu xám của đất phơ sang màu hồng nhạt của đất nung. Cũng lại chính tai An lắng nghe tiếng “boong boong” khi cầm nó lên để gần tai, cung ngón tay gõ nghe thử. Nhưng chắc chắn là An chưa hề thấy chú Ba dùng nó để ủi cái áo của chú cho từ cũ hóa “như mới”. Có lẽ chú đã lén thí nghiệm nhưng bị thất bại nên sau đó chú không tuyên bố gì ráo.

Ngày hăm sáu tháng chạp phiên chợ Hôm, mẹ nói:

- Hôm nay An có đi chợ Tết không con?

An vội vàng như sợ ai kịp phản đối.

- Dạ có. Lát nữa thằng Tòng lại rủ con đi.

Tòng là bạn học lớp Tư của An. Vì sao mà quen thân nhau, An cũng không nhớ rõ vì nhà Tòng ở mãi tận Hội Tín đi học khác đường mà tính tình thì hai đứa không giống nhau. Cha Tòng làm thầy phù thủy. Có lần nó rủ An đến nhà chơi thấy gian nhà giữa đầy những tượng, những hình ông thần, ông tướng, những cờ những đèn, trống chiêng, thanh la, não bạt khiến An sợ khép nép không dám vào. Cha Tòng có một cái trán quá cao. Nhìn gần thấy chân tóc mọc nên An biết trán cao là vì tóc bị cạo. Sau này lớn lên được biết nhà Tòng vừa làm phù thủy vừa hát bội, - hai nghề này có họ hàng với nhau vì hò hét điều động âm binh cũng là một cách hát bội, - nên cha Tòng phải để trán cao mà đội cái mão. Lúc Tòng lớn, Tòng nghỉ học sớm và kế nghiệp cha. Cái trán của Tòng cũng được cạo lên thật cao và chân đi chữ bát. Lúc nói chuyện là hai tay vung vẩy như múa. Đó là kết quả của nghệ thuật tiêm nhiễm vào cuộc đời.

An thay quần áo xong thì Tòng đến. Tòng mặc quần trắng và áo cụt lụa màu hồ thủy. Những nếp gấp làm hai ống quần lép lại và gãy ra làm ba. Tòng đội một cái khăn lông màu vàng nghệ có chạy sọc xanh đỏ. Úp lên trên khăn lông là cái mũ kaki. Trông Tòng nửa giống như một chú nhỏ ở trong tranh vẽ, nửa giống như một tên lính Tàu thời cổ. Chắc Tòng chịu ảnh hưởng của những tấm tranh màu treo la liệt trên tường nhà nó.

Đường xuống chợ có nhiều chỗ lõm thấp xuống, đó là khi con đường đi sát cạnh những cái bàu nước. Mỗi bàu nước mang một tên bí mật: bàu ông Chì, bàu ông Lôi. Mỗi lần đi qua một cái bàu, An khép nép đi sát vào Tòng vừa liếc mắt xuống mặt nước đầy rong, ấu xanh um. Những gốc tre già xám đen, những thân cây sung cong vẹo in bóng xuống mặt nước làm cho các tên ông Chì, ông Lôi được trùm trong một không khí rùng rợn. Người đi và người về tránh nhau trên con đường hẹp. Lũ trẻ con đi chợ về trên tay thế nào cũng có những món đồ chơi, hoặc con gà cồ bằng đất, khi thổi ở lỗ khoét ngang hông thì cất tiếng gáy “côô…côô” hoặc con “chút chít” khi kéo ra đẩy vào thì phát ra tiếng kêu chút chít. Nhiều đứa hãnh diện cầm những ghim pháo tre, những bó pháo thăng thiên đi cạnh mẹ.

Đến gần chợ thì nghe tiếng mua bán xì xào vang lên. Thỉnh thoảng có tiếng pháo tre nổ “đùng” khiến trái tim của hai đứa như nhảy cởn lên. Không ai bảo ai mà cả hai đều rảo bước.

Đến đây rồi, chợ Hôm! Những dãy lều mái bằng tranh rạ cột tre yếu ớt sắp chạy từng dãy. Có nhiều hàng bày bán ở giữa trời, như hàng trái cây, cá mắm. Hai cây đa to tỏa bóng mát cả một khu chợ. Lá đa dày san sát ở trên từng cao làm thành một vòm xanh lao xao cử động. Tiếng rì rào vừa phát tự dưới đất nơi người ta buôn bán trao đổi vừa phát tự trên cao do gió lay cành lá. An gặp chị Thắm bày bán đồ gốm ở gần gốc đa. Chị Thắm ở cạnh nhà An, hàng ngày vẫn sang giếng nhà An xách nước nhưng sao hôm nay trông chị lạ hẳn đi. Có lẽ vì chị mặc áo dài và đi guốc chăng? Hay vì đặt chị giữa cái khung cảnh lạ mà người chị trông cũng lạ đi. Những đồ gốm: ấm, chậu, hỏa lò, lon, vò, cây đèn, v.v… hàng ngày vì quá quen mắt An coi như không có giá trị gì nữa, coi như những đồ chơi vô nghĩa, thế mà người đến xem xét trả giá tấp nập. Chị Thắm đóng vai trò một cách rất nghiêm trang, từ chối rất quyết liệt, thách giá rất chắc chắn. Cái ấm cái chậu bỏ lăn lóc ở xung quanh hè nhà chị Thắm, thỉnh thoàng An lỡ đi vô ý đá phải ngã lăn, nay thấy người mua mặc cả giá từng đồng, móc túi đếm từng tờ bạc để trả và cuối cùng nâng niu xếp lên rổ bưng đi. Tòng nói:

- Tụi mình ra hàng pháo coi.

Hai đứa cầm tay nhau đi. Hàng pháo ồn ào nhất nên không mất công tìm. Nó ở cách biệt ra một góc chợ xa những hàng khác vì tiếng nổ không ai ưa, nhất là những người đi chợ hầu hết là đàn bà. Bác bán pháo là một người đàn ông vạm vỡ. Chỉ bán có pháo tre và pháo thăng thiên, bác đựng trong một cặp bồ lớn. Một số pháo bày làm mẫu được dàn trên một chiếc chiếu nhỏ. Người mua pháo bắt đốt thử. Bác tháo ở gắp tre lấy một chiếc pháo, bóc giấy (miếng giấy xanh đỏ dán đè lên ngòi) rồi đặt lên một tấm gạch cách xa bác một sải tay. Bác cầm cây hương cháy châm lên ngòi. Ngòi pháo xì khói, bác quay mặt sang một bên và một tiếng nổ “đùng” rền lên, chát tai. Xác pháo là một vòng nan tre bị cháy xém bay tung lên cao rồi rớt xuống.

Hàng hoa quả không hấp dẫn bằng ngày thường vì không có những miếng mít múi vàng óng ả, những trái mãng cầu nứt gai chảy mật, những quả ổi thơm, những trái xay, trái sim, trái đát. Hôm nay người ta chỉ bày bán những nải chuối xanh mà chuối xanh thì trẻ con không thích vì không ăn ngay được. Trẻ con không có tính kiên nhẫn đợi chờ. Ngày thường mẹ đi chợ về An lật rổ ra coi mà thấy bí thấy rau thấy cá là An ghét lắm. Kẹo, mít, bánh rán… mới là những món An hoan nghênh. An và Tòng đưa nhau sang hàng thịt cá. Thật đáng thương hại cho những bà hàng này quanh năm phải bán y một món không thay đổi. Áo quần thì đen đủi, món hàng thì tanh tưởi, thật không có một vẻ Tết vẻ xuân nào cả. Chẳng bù với hàng bánh mứt họ bày bán trong những cái quả sơn quang dầu đỏ thắm trông vui như những đám cưới. Các cô bán mứt đều xinh, tóc vấn trần chải dầu dừa láng mượt, áo dài vải trang đầm bó sát người.

Kề ngang hông chợ là dãy phố Hoa kiều. Đó là tiệm chú Năm Heo và tiệm ông Ngâu. Khách vào ra đa số là đàn ông đi mua rượu, tranh sơn thủy, chén bát, nho táo. Tiệm chú Năm Heo bán thuốc bắc. Những người đến cân thuốc xách đu đưa những gói thuốc bước ra khỏi tiệm, mặt trông buồn giữa cái khung cảnh nhộn nhịp của ngày xuân vui. Chọn ngày Tết để đau bệnh thật là không phải lúc.

Đi loanh quanh một lát hai đứa đã bắt đầu chán. Chợ ngày Tết khi chưa tới xem thì thấy háo hức là thế nhưng đi lại đôi vòng chúng đã khám phá hết mọi bí mật. Sự thỏa mãn có pha một ít chán chường như khi đọc một cuốn truyện cổ tích được người ta quảng cáo là hấp dẫn nhưng đọc xong một lượt thấy không còn thèm thuồng nữa. An nhìn trở lại khung cảnh chợ. Những dáng người đi lại chen lấn, cúi xuống lựa chọn mặc cả, những tiếng xì xào, ngay cả đến bóng rợp của cây đa cao An đều thấy quen thuộc hết.

Ngày hăm bảy tháng Chạp chú Ba đi hái lá me và trái me về giã nhỏ ngâm nước chùi đồng. Công việc thật nặng nhọc vì những bộ lư đèn ở ba bàn thờ tổ đều to lớn bề bộn. An cũng xen vào công việc cho vui nhưng chỉ chùi được những cái hộp thau mặt nhẵn. Nắp lư hương có hình con lân con phụng bị chú Ba hắt hủi nhất vì những kẹt khó chùi. Người đầy tớ phải lau dọn săn sóc thật khó có thể đồng quan điểm với người thợ đúc khéo tay và người chủ nhà yêu mỹ thuật. Việc quét nhà cuối năm cũng không kém nặng nhọc. Chú Ba bắc thang leo lên rầm cao, cầm cái chổi có cán dài để quét bụi và mạng nhện ở mái nhà. Chú bịt đầu bằng một cái áo đen cũ. Lúc bước xuống thang, mặt chú mốc thếch vì bụi trông lạ hẳn và như già đi.

Mẹ lo rim mứt. Hết chảo này đến chảo khác, mẹ ngồi trở mứt, mứt bí, mứt gừng, mứt chanh, mứt dừa… mà không hề la mỏi. Có đêm An mơ màng ngủ mà hễ chợt dậy là vẫn thấy mẹ ngồi cạnh chảo mứt cầm đũa đảo qua đảo lại. Tiếng nước đường sóng sánh. Hình như cả đêm mẹ không ngủ. An nghĩ: chỉ có mình là sung sướng nhất, chẳng phải làm gì hết. Thế mà lại được ăn nhiều nhất. Những miếng mứt vụn An ăn từ hồi còn dẻo. Khi mứt khô vớt ra nia phơi thì An vét chảo ăn đường. Chỗ nào có An là có cặp tay phá khuấy và cái miệng ăn không ngớt.

Ngày hăm chín gói bánh tét. Lại cũng chỉ mẹ và chú Ba là bận rộn. Những đòn bánh to bằng bắp vế thế mà cũng do mẹ thoăn thoắt sắp lá, đong nếp, đổ đậu xếp nhân thịt, gói, buộc lạt. Chú Ba ngồi cạnh phụ tay. Cha trông vậy mà cũng dở. Cứ đi lên đi xuống ngó chừng và nói vô ích làm mẹ mất công trả lời. Chẳng hạn:

- Đừng buộc chặt tay quá kẻo bánh không chín đều. Hôm đám giỗ ông nội bánh bị sống …

Cha bỏ lửng câu thì mẹ nói:

- Nhớ rồi.

Chẳng hạn:

- Còn dư nếp đủ gói một đòn nữa. Thế là một, hai, ba, bốn… đúng mười hai đòn cả thảy.

Mẹ nghe cha nói, miệng vừa cắn một đầu sợi lạt một tay cầm đầu kia xiết cho chặt vừa đưa mắt nhìn xuống số đòn bánh tét mà cha vừa đếm. Quả cha đếm không sai, nhưng số bánh không nhờ cha đếm mà tăng thêm. Cha chỉ làm được một việc mà An thích: đó là chôn một cột trụ giữa sân để chong cây đèn gương. Có lẽ cha cũng sẽ sai chú Ba đào lỗ chôn nếu chú Ba không bận tay. Cái đèn hình lục lăng, tối thắp lên sáng cả sân, đứng làm bạn với An khi nó phải trèo lên nằm ngủ trên chiếc ván gõ rộng ở nhà trên.

Những ngày mùa đông, gió mưa lạnh trời tối đen như mực mà một mình nằm ở nhà trên rộng mênh mông thật là cô đơn. Lắm lúc An có cảm giác rờn rợn rằng thân mình đã tan ra để lẫn mất vào bóng đêm. Khổ nhất cho An là khuya chợt thức buồn đi tiểu mà lò mò mãi trong bóng tối không biết cửa ở về phía nào để mở. Trẻ nhỏ nằm ngủ trên bộ ván rộng thì tha hồ mà quay. Đến chừng tỉnh giấc nhắm chừng mò ra cửa nhưng lại cứ đi xông ngược vào bàn thờ. Rờ chỗ nào cũng thấy những bàn những ghế. Sao mà lắm bàn lắm ghế vậy? Đêm nay nằm nhìn ra cửa sổ thấy ánh đèn sáng. An vui quá không muốn ngủ nữa. Ở dưới nhà ngang còn nghe tiếng lục cục của mẹ làm việc. Hồi chiều chú Ba làm thịt một lần hai con gà cồ thiến và ba con vịt. An lẽo đẽo theo đứng một bên để nhìn, An hỏi:

- Sao giết gà vịt một lần nhiều vậy chú?

- Chớ mày muốn để sáng mồng Một sát sinh hả? Làm thịt bữa nay để cúng hai bữa.

An nhìn dòng máu đỏ chảy từ cái vết cắt ở cổ chảy ròng ròng xuống cái bát, nhìn những cặp mắt mở to rồi mờ dần yếu dần cho tới lúc nhắm hẳn. Cái chết đến im lặng, nhẹ nhàng như một trò chơi dễ. An thấy thương hại cho con gà cồ oai vệ, cho con vịt hiền lành. An chép miệng:

- Tội nghiệp mấy con gà, con vịt hở chú? Chú giết nó không sợ nó báo oán sao?

Chú Ba quay phắt lại liền:

- Thằng này dóc tổ. Tao thấy xào nướng bưng lên là mày gắp liền tay. Mày ăn thì nó báo oán mày chớ mắc gì đến tao?

An thấy chú Ba nói cũng có lý nên định bụng thôi lần này không ăn thịt gà thịt vịt nữa. Nhưng ý định đó An quên ngay khi chú Ba rửa ráy xong bưng rổ gà vịt đi mất và nó thẩn thơ đi tìm xem chuyện khác.

Sáng mồng Một tiếng pháo nổ rầm rầm làm An choàng tỉnh dậy. Hỏi chú Ba thì là pháo ở tiệm khách Tụn. Nhìn vào bàn thờ thấy đèn sáp thắp sáng trưng và cha đã khoác áo chỉnh tề đứng khấn rì rầm. Trông cha uy nghiêm thật phù hợp với cái không khí nghiêm trang nơi đây. Để tăng thêm vẻ đường bệ, mọi cử chỉ của cha đều chậm chạp: rót rượu, châm nước, đốt hương, sửa nến. Cha đọc từng hàng chữ nho: “Đại Nam quốc, Phú Yên tỉnh, Tuy An phủ, An Sơn tổng…” chú Ba đem pháo tre ra đốt. Chú thích pháo nhưng nhát không dám cầm cây hương đốt mà phải cầm một thanh củi dài có đầu lửa đỏ. Mười tiếng nổ đùng liên tiếp, tiếng nào tiếng nấy bưng tai. Mẹ nói:

- Pháo năm nay hay.

An ngạc nhiên. Trông bộ mẹ lục đục suốt ngày như chỉ biết chú ý đến công việc làm thế mà không ngờ mẹ cũng lưu ý đến tiếng pháo vui chơi. Cha tươi cười vì câu nói của mẹ ngầm ý bảo: năm nay làm ăn có hy vọng khá vì pháo nổ chắc tiếng. Cả thôn Quảng Đức chỉ có chú khách Tụn đốt pháo dây còn thì các nhà khác chỉ đốt pháo tre, có nhà mươi tiếng, có nhà ba tiếng, năm tiếng.

Vừa bảnh mắt đã có mấy tay cầm cái xóc dĩa chia nhau từng chặng trải chiếu trên con đường xóm. Lũ trẻ con bâu quanh liền. Chú Ba bôn chôn ra mặt khi nghe tiếng bốn đồng tiền rủng rẻng của hàng xóc dĩa tổ chức ngay ở góc rào nhà. Chú ham đánh xóc dĩa và ích-xì hơn ăn mứt ăn bánh. Chú cứ đi ra đi vô như người mất hồn. Khổ cho chú hơn nữa là ở ngoài góc rào tiếng lũ nhỏ cứ reo lên :

- Bán chẵn này.

- Lạy trời ra cái lẻ nữa đi.

- Đặt bên chẵn một tiền rưỡi.

- Lẻ! Lẻ! Coi chừng nhà cái chạy làng.

Đường cái vang lên tiếng guốc. Nghe tiếng guốc có thể đoán biết được người mang. Tiếng guốc lỏng cỏng gõ vội vàng là tiếng chân của một đứa bé mới tập đi guốc lần đầu. Tiếng guốc chậm chạp thỉnh thỏang dừng lại là tiếng guốc của người mẹ, người chị đi kèm lũ trẻ. Tiếng gõ chắc chắn nện mạnh trên nền sỏi là tiếng guốc của người đàn ông. Con đường sỏi đá gập gềnh làm nhiều đứa nhỏ đi trượt guốc cứ phải tụt lại đằng sau đứng sửa. Lắm đứa đã chán với cái trò chơi đi guốc rồi nên cặp guốc lại cầm ở tay và đi chân đất như thường ngày. Lối đi này thoải mái dễ chịu hơn cả.

Đường cái rộn rịp nhưng nhà cửa thì vắng vì cửa ngõ cửa ra vào nhà ai cũng đóng im ỉm hoặc mở he hé. Xóm làng thành ra mang một vẻ uể oải giả dối. Vì ở đằng sau cánh cửa đóng là cả một sự hoạt động rộn rịp.

Gần trưa, cha An tiếp những ông khách lễ mễ trịnh trọng trong những cái áo dài đen và cái quần trắng. Những ông nhà nông mà thường ngày mặt mày không lúc nào khỏi đầy bụi bặm, râu ria tua tủa, áo vải to dày cộm thấm đầy mồ hôi, hôm nay mặc áo quần mới trông trẻ và đẹp ra. Nhưng An không thích nghe tiếng chân ghế kéo chạm vào mặt đất khi khách sắp ngồi và khi khách đứng dậy sửa soạn ra về. Những câu chuyện trao đổi giữa cha mẹ và các người khách cũng vậy. Toàn nói những thứ gì An không hiểu, thế mà họ cũng cười với nhau một cách thích thú thành thật. Những lúc này An tỉ tê theo gợi chuyện với chú Ba. Những điều An hỏi, chú Ba đều trả lời được hết:

- Sao đánh xóc dĩa, chị Lượm đặt tiền lại quay thành một vòng ở dưới chiếu hở chú? Sao không đặt một ụ như người ta?

- Hễ nó ngồi bên phía chiếu lẻ mà nó muốn đặt chẵn thì nó đặt tiền quay thành một vòng. Nếu nó để thành ụ, thành đống thì tức là nó đánh lẻ.

- Sao chị ấy không đặt sang bên chiếu chẵn cho nó tiện?

- Tại ngồi xa nó với tay không tới.

- Họ chúc Tết “bách niên dai lão” là sao hở chú?

Chú Ba vừa nhai miếng cốm vừa nói:

- “Dai” lão là sống dai.

An hết thắc mắc, vói tay vào dĩa lấy một miếng cốm ăn theo chú. Đây là phần bánh mứt mẹ sớt vào một dĩa lớn dành cho chú. Trong số những vò, hũ, chum… bỏ trống ở nhà bếp, chú chọn một cái vò để cất dĩa bánh mứt vào đó. Khi đi chơi về, hoặc vào trưa, hoặc lúc khuya, chú mở vò bưng dĩa ra lấy ăn. An chia phần với chú và ăn thấy ngon hơn là khi ăn chung với cha mẹ.

Ngày mồng Hai cha nói:

- An có muốn theo cha xuống núi Một thăm ông Cửu Nghiệp không?

An mừng quýnh trả lời vội vàng:

- Có.

Ông Cửu Nghiệp giàu nhất vùng và nhà ông xây hai từng. Suốt một phủ Tuy An chỉ có bà Cửu Phần và ông Cửu Nghiệp là ở nhà lầu mà thôi. Ông là chỗ bạn thân của cha nên mỗi khi đi ra tỉnh tiện đường ông đều ghé nhà. Cha tiếp ở nhà trên, ngay gian giữa. Hôm nay theo cha, An mặc áo dài đen cẩm nhung. Sự trịnh trọng này do một ngẫu nhiên may mắn mà có được. Số là xấp hàng cẩm nhung cha đưa may cắt thế nào mà rốt cuộc còn dư lỡ cỡ một đoạn. Tính toán đủ lối vẫn không có cách nào dùng được cả nên cuối cùng mẹ đề nghị: để may cho thằng An cái áo dài. Đó là cái áo dài đầu tiên của nó. Bước ra đường, An được lũ trẻ trầm trồ nhìn. Hơi ngượng một chút nhưng mà thầm thích thú. Con đường hôm nay không chỉ có những người đi rong chơi mà còn có nhiều người đi làm ruộng. Người ta đã cởi bỏ bộ quần áo mới như còn nuối tiếc nên vẫn cố giữ hoặc một cái quần hoặc một cái áo vải mới. Thân người nửa mới nửa cũ hóa ra màu cũ trông tàn tạ thêm. Cày cuốc ngự trên vai.

Đi qua khỏi xóm thì tới cánh đồng Hòa Mai. Ruộng đang mùa cày bừa trông thấp hẳn xuống. Vài đám mới cấy, bụi lúa cắm như chân hương vàng vọt. An thường quen mắt với đồng lúa mướt màu xanh, lá lúa gợn sóng hoặc cánh đồng lúa chín vàng hạt lúa nặng làm gục đầu thân lúa nên trông cánh đồng hôm nay có vẻ trần truồng. Con đường ruộng, từng chặng, nhầy nhụa những khối bùn do các cô thợ cấy ném lên khiến An phải đi rón rén cẩn thận. Đưa mắt nhìn quanh sang các xóm làng bao quanh cánh đồng, An thấy chỗ này chỗ kia có từng đoàn người đi, màu áo đen trên điểm nón trắng. Thỉnh thoảng nhô lên cái ô đen. Nó lẩm nhẩm lẫn lộn không biết đó là Hòa Tú hay Hòa Chiểu, phía kia là Hà Yến hay Trường Xuân. Cha chỉ một xóm trước mặt, nói:

- Núi Một kìa.

Đó là ngọn núi thấp nằm dài, mình mang đầy cây cối xanh um. Dưới chân núi các nông trại chia nằm rải rác từng nhóm. Theo tay cha chỉ, An chú ý nhìn vào khu vườn nhà ông Cửu Nghiệp xanh um màu tàu chuối tàu cau. Thân cau trắng mốc đứng vươn lên thành hàng song song. Nỗi vui được thấy cảnh lạ làm An quên nghĩ đến con đường còn lại phải đi. Thoáng mới đó mà đã giã từ con đường ruộng để bước lên con đường đá đánh vòng đai núi Một. Những bụi gai thấp, những chùm táo nhơn thưa, những thân chuối rậm rạp xanh mướt trông quen thuộc.

Bước vào vườn chuối, An thấy êm mát vì ánh sáng lọc qua lá chuối non đổ xuống xanh xanh. Thân chuối bụ bẫm đứng cao vút như muốn vượt theo thân cau. Ở vườn nhà, chuối thấp hơn và thân cau cũng gầy hơn. An nghĩ thầm: “Cái gì của ông Cửu Nghiệp cũng oai”. Những cây mít mang trên mình đầy trái. Trái lớn quây quần dưới gốc còn rải rác trên thân cây là những trái hạng vừa nằm thưỡn dài trông như những cái vú chảy. Bưởi cam cũng không thiếu. An thèm thuồng cái địa vị của người con ông Cửu Nghiệp được sống giữa những món ăn ngon này. Sao ở nhà nó lại chỉ có toàn những lúa và nếp thế? Có lần nó thỏ thẻ so bì với mẹ:

- Nhà con Bông làm kẹo nên nó sướng hơn con. Kẹo bể là nó ăn. Véo chỗ kẹo dẻo nào cũng bỏ vào miệng được. Nhà mình thì chỉ toàn lúa nếp. Lúa ăn không ngon. Sao mẹ không làm nghề kẹo có sướng hơn không.

Mẹ cười mà không trả lời.

Tiếng chó sủa ồ ồ làm An giật mình. Tiếp theo, tiếng sang sảng vang trong nhà:

- Có đứa nào ra coi chó, bay.

Đúng là tiếng của ông Cửu Nghiệp, giọng chậm rải của người giàu không cần vội vàng. Người ở là một anh lực điền ra mở cổng. Ba con chó cao to như ba con bê nhảy xồ ra khiến An bấu vào áo cha. Cha vẫn đứng yên nhìn vào anh lực điền đang lấy tay gãi sau ót lí nhí thưa:

- Dạ thưa thầy xuống dưới này.

- Ờ! Có ông Cửu ở nhà không?

- Dạ có.

Cha ung dung bước vào khiến ba con chó đứng dạt ra. An bước theo, lây cái can đảm của cha. Ông Cửu Nghiệp ra đứng trước hiên vái chào. Ông đội khăn nhiễu đen, mặc áo xa-tanh màu lam dệt bông to, chân đi giày Gia Định. Cha cúi xuống chắp tay vái trả lại. Ông Cửu quay lại xoa đầu An và nói:

- Con đi xa có mỏi chân không? Để bác mừng tuổi cho con.

Ông móc túi lấy một cắc bạc trắng tinh đặt vào lòng bàn tay An. An lúng túng không biết nên làm sao. Chợt nhớ tới cha và ông Cửu chào nhau lúc nãy, nó chắp tay cúi xuống vái. Lát sau khi đã bình tĩnh lại nó thấy ngượng vì cái vái vô duyên. Đáng lẽ phải nói “Con cám ơn bác”.

Cha và ông Cửu ngồi ở một cái bàn tròn trên xếp đầy những đồ dùng mà thoáng nhìn An đoán là rất quí, rất đắt tiền. Bộ bình trà có chạm rồng nổi mạ vàng. Ve rượu bằng thủy tinh trong suốt có một cái bầu rất thon và cái vòi nhỏ uốn cong dịu dàng. Ly rượu toàn viền vàng. Cái điếu thuốc lào khảm xà cừ với cần trúc uốn dài cong vút. Hộp trầu, khay kỷ, dĩa bánh mứt, tất cả đều choáng lộn hoặc màu xanh đỏ óng ánh xà cừ hoặc màu vàng quí phái hoặc màu trắng muốt nõn nà. An ngồi ở cái trường kỷ tay mân mê những chỗ chạm trổ hình rồng hình phụng. Quả hồng tàu ông Cửu cho, nó nắm mà không ăn. Nó cứ đưa mắt nhìn cái nhà rộng thênh thang với cái trần cao trong bày biện toàn những đôn, lọ, sạp, ghế. Nó nhìn lại ông Cửu thấy ông bé quá so với cái nhà. Để che nắng che mưa chắc chắn ông Cửu không cần một cái nhà to như vậy. Nó chợt thấy khâm phục con người nhỏ nhắn mà có thể tạo tác ra một công trình to lớn dường ấy. Ở đằng bàn tròn, ông Cửu và cha chuyện trò tương đắc. Khói thuốc tỏa ra bao vây chỗ hai người khiến trông họ như ngồi sau đám sương mờ mờ đục.

Khi cha đứng dậy cáo từ, ông Cửu nài ở lại nhưng cha lấy cớ ngày Tết có khách đợi ở nhà nên không chịu. An lãnh thêm hai trái cam ông Cửu cho, cúi đầu chào và theo bén gót cha. Ông Cửu đi tiễn đến mãi đầu đường mới trở lại. Khi còn lại hai cha con, An nói:

- Cha hẹn cho con coi lầu ông Cửu Nghiệp mà con không thấy lầu đâu cả.

- Thì nhà lầu đó.

- Nhà lầu gì vậy? Phải leo lên trên lầu mới gọi là lầu.

- À quên! Tao tưởng mày biết rồi. Nhưng mà… cũng vậy đó thôi, cũng như hai cái nhà chồng lên nhau.

Về đến nhà đôi chân An mỏi nhừ. Tuy vậy nằm nghỉ một lát rồi An lại nhập bọn với lũ trẻ và như thế là ngày mồng Hai nhẹ nhàng trôi qua. Mồng Ba cũng vậy. Ngày mồng Bốn cúng tiễn ông bà. Giấy tiền, giấy vàng bạc chất đầy nia to, chú Ba vừa đốt vừa nheo mắt tránh khói khiến cái miệng méo xệch. Chú lấy một xấp giấy vàng bạc phết hồ lên lưng từng tờ đem dán vào cái cối xay, cái cối giã, mấy cái chày, cái thúng, cái giếng, cái ngõ, cây mít… không biết có qui chế nào ghi rõ món nào phải dán không nhưng cứ xem vẻ mặt của chú khi cầm tờ giấy vàng bạc dính đầy hồ đứng lưỡng lự trước chuồng heo và cây ổi là An đâm nghi. Hình như chú phải kiếm cho ra món để dán kỳ hết xấp giấy vàng bạc. Được tờ giấy vàng bạc dán lên mình, mấy đồ vật tầm thường như có thêm linh hồn và đang dự vào một cuộc sống huyền bí. Trong lễ cúng tiễn, bao nhiêu pháo còn lại đều đốt hết. Bảy, tám đòn bánh tét cũng đem chất đầy ghế. An nhìn ánh lửa thiêu vàng mà bùi ngùi. Phải một năm sau mới gặp trở lại, một năm trọn vẹn vì cuộc hành trình mới vừa khởi đầu. An thấy buồn chán nản.

Tuy vậy, tháng ngày cứ nhẫn nại và lặng lẽ đi qua, như một lũ nhỏ cầm tay nhau đi vòng, đi mãi rồi thế nào cũng gặp lại chỗ cũ. An lớn lên dần và cái thôn Quảng Đức cũng già nua dần đi. Những ngày Tết nối tiếp nhau theo cái tốc độ chậm chạp của nó nhưng khi ngoái nhìn trở lại trong dĩ vãng, tính nhẩm số tuổi thì An lại thấy chúng đi mau. Mỗi lần Tết đến hoa cúc vạn thọ lại nở trước sân nhà, tiếng đồng tiền xóc dĩa lại rủng rẻng khắp ngõ xóm. Ngồi lần lại ký ức, An thấy yêu mến hết sức cái Tết năm đó An theo cha xuống thăm nhà ông Cửu Nghiệp. Ông Cửu Nghiệp là hình ảnh của sự sung túc, của cuộc đời an nhàn lý tưởng trong những ngày bé thơ của An. Sau đó chừng mười năm khi An lớn lên và phải đi học xa. An sống xa dần cái khung cảnh êm đềm ngày xưa và những người quen thuộc cũ. Một lần đột nhiên hỏi về ông Cửu Nghiệp, An nghe cha nói một cách bùi ngùi:

- Ông Cửu về ở trên Đồng Tranh từ năm kia. Nghe nói bây giờ túng lắm. Bà Cửu phải làm hàng xáo.

An tự xét:

- Ông Cửu giàu như vậy mà sao lại nghèo mau vậy?

- Vì mấy vụ kiện vẩn vơ, chuyện tranh giành ruộng hương hỏa tuyệt tự đáng lẽ có thể thu xếp ổn thỏa nhưng vì tức khí lại bị hương lý và lũ nha lại xui nguyên giục bị nên cứ theo kiện mà sạt nghiệp.

- Còn cái nhà lầu?

- Sở vườn đem thục để chạy kiện rồi đoạn mãi luôn. Cái nhà lầu bán cho chú khách Lê ở Hàng Dao. Ông Cửu phải về ở trên Đồng Tranh là quê của bà Cửu.

An buồn như nghe tin chẳng lành xảy đến cho người thân thích của mình.

Ngày chiến tranh bùng nổ, cái nhà lầu của ông Cửu Nghiệp bị phá hoại. Vôi gạch đổ xuống từng đống. Nền xi măng chú khách Lê cho người ta gặt nhờ để đạp lúa. Mỗi ngày gặt, được một giạ lúa cho thuê sân. An ngậm ngùi nhìn cái di tích của thời ấu thơ êm đềm nay không còn nữa, có còn chăng cũng chỉ ở trong cái ký ức bề bộn của chàng thôi. Lâu lâu khi có dịp, An ra đầu xóm đứng nhìn về chân núi Một. Chòm lá chuối lá cau xanh ngắt của vườn ông Cửu Nghiệp còn đó. Những thân cau vẫn một màu trắng mốc đứng vươn lên từng hàng song song. An tưởng tượng thấy ở nơi cái vườn sum sê hoa lá ấy những con chim sẻ vẫn say mê mổ thóc rụng, những con chích chòe vẫn nhí nhảnh chuyền trên cành lá lục lọi tìm sâu, những con chiền chiện vẫn mải miết tước lá cau lấy sợi về làm tổ. Ở dưới các con mương nhỏ mọc đầy khoai môn khoai sáp, lũ cá sặt cá rô vẫn tinh nghịch đớp mồi và lũ châu chấu cào cào vẫn xòe cánh mỏng màu lúa non mà bay sè sè trong nắng. Sự sinh hoạt của cảnh vật vẫn bình thản êm đềm, nhưng còn đâu nữa ông Cửu hào hoa và ngôi nhà lộng lẫy?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:09:47 bởi hai1957 >

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 18.11.2012 09:13:30
4. LÁ VẪN XANH


Ngày này sang ngày nọ túi bụi vì công việc, chỉ thỉnh thoảng có một ngày chủ nhật rảnh, gặp một vài người bạn quen nói chuyện bâng quơ, thế mà cũng đủ để Phương phải nghe một tin không chút gì lý thú: tin tận thế.

Tin phát ra từ cuối năm 1959 và được nhiều người biết là vào dịp Tết Canh Tý 1960. Tết là dịp người ta chúc nhau khỏe mạnh, giàu sang và sinh đẻ sai. Tiếp theo là uống rượu mùi, hút thuốc lá thơm và nhá hạt dưa. Nhưng nếu chỉ làm có bấy nhiêu việc đó thì phiền lắm, phiền cho chủ nhân cứ phải nhìn mãi ảnh mình treo trên vách, phiền cho khách cứ từng chặp lén ngó đồng hồ tay. Không, người ta phải kiếm chuyện nói cho đầy ít nhất là mười lăm phút xã giao. Mọi câu chuyện hợp thời được bới ra, trong đó có câu chuyện bức thư ở Pha-ti-ma (Fatima) tiên đoán vận mệnh của trái đất, của nhân loại. Người đầu tiên nói cho Phương nghe tin này là một ông bạn có tuổi:

- Không khéo chúng ta nguy cả.

Vốn không có tính tò mò nên Phương chỉ mở to mắt ngồi đợi ông bạn tự ý nói tiếp câu khai mào bỏ dở:

- Năm 1959 đúng là năm Giáo hội mở bức thư tiên tri ở Pha-ti-ma.

Phương nhìn lên tấm lịch treo tường.

- Chúng ta hiện ở vào tháng Giêng 1960 rồi. Chắc bức thư đã được mở rồi.

- Chắc đã mở rồi nhưng chưa thấy công bố nội dung. Chắc hẳn có những sự đáng lo ngại cho vận mệnh nhân loại.

- Chắc hẳn.

Phương đáp lại như một tiếng vang. Thấy chàng không có ý sốt sắng dự đoán và tưởng tượng, ông bạn già lặng lẽ nhấp nước trà và lặng lẽ hút thuốc.

Ấy thế mà sang ngày Tết lại chính Phương là người hay nhắc đến bức thư tiên tri này nhất. Chàng còn hăng hái lý luận dự đoán nữa. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học nguyên tử, sự chạy đua vũ trang của thế giới, những cuộc biểu tình, những bản kiến nghị yêu cầu đình chỉ thí nghiệm nguyên tử của các nhà khoa học và của các dân tộc văn minh khiến Phương nghĩ đến vận mệnh của thế giới một cách bi quan và thế là chàng tự ý giải thích bức thư tiên tri theo quan điểm bi quan của chàng. Những người nghe đều gật đầu suy ngẫm. Ít có vấn đề nào lại khéo gây sự đồng ý bằng vấn đề này. Không ai phản đối hết. Vì tận thế là chết cả, người giàu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn tất cả đều chết một cách bình đẳng. Không còn ai được quyền thương hại ai và lẽ tất nhiên là khỏi có ai phải bực mình vì bị người khác thương hại dùm. Thật là bình đẳng đến mức lý tưởng. Khi biết chắc không có ai được hưởng đặc quyền sống sót, mọi người cam chịu tận thế một cách bình tĩnh, bằng lòng. Nhưng... may thay, đó chỉ là những ức đoán vừa có vẻ thật, vừa có vẻ không, có điều là vừa đủ để vui câu chuyện trong ngày xuân. Chứng cớ là khi bắt tay giã từ, chủ và khách vẫn long trọng chúc nhau một lần nữa:

- Ngồi nói chuyện với bác thế mà đã lâu rồi, không dám quấy thì giờ bác nhiều hơn. Thôi thì lại xin kính chúc bác một năm đại phát tài, thăng quan tiến chức…

- Dạ, cảm ơn bác. Cũng xin kính chúc bác và quí quyến một năm mới thọ phúc khang an.

Quả thật vậy, câu chuyện tận thế, cuối cùng vẫn chỉ là câu chuyện.

Những ngày xuân êm đềm và thong thả qua đi, mang theo đi luôn những ước mong, những niềm tin dễ dãi. Cuộc sống bận rộn lại lôi kéo Phương vào một nhịp quay cuồng khiến chàng nhiều hôm quên cả bóc tờ lịch trên tường. Lặn hụp trong sự sống, quay cuồng theo sự sống, sống theo thói quen, nhiều lúc sống một cách vô ý thức khiến đôi khi ngồi bình tĩnh nghĩ lại chàng đau xót thấy rằng mình đã quên là mình đang sống. Và như thế là cái tin tận thế đã được đẩy lui vào dĩ vãng nếu một buổi chiều kia, chàng không tiện chân ghé vào nhà một chị bạn, chị Dung. Chính chị Dung ra mở cổng. Vừa bước trở vào phòng khách thì một mâm cơm ăn nửa chừng làm chàng hoảng hốt dừng lại. Dù là gia đình quen, quen đến cái độ coi như bà con, Phương cũng thấy ngượng vì mình đến thăm không nhằm lúc. Bữa cơm ăn dở dang trông hỗn độn như một bãi chiến trường, nhất là bãi chiến trường ấy lại diễn ra ở trên chiếu, giữa phòng khách. Thật vô tình mà đến ba, bốn tầng bất ổn đã kết hợp lại trong sự tổ chức cuộc ăn chiều này, ăn quá sớm so với thường lệ. Bà cụ má chị Dung giục chàng bước vào:

- Cậu Phương vào tự nhiên. Mời cậu ngồi ở xa-lông nói chuyện.

Chị Dung cũng tươi cười mời:

- Anh ngồi chơi. Bà con ở trong nhà mà. Trời nóng quá, bà má bày đặt ăn cơm trên chiếu.

Phương lật đật an ủi chị:

- Đó cũng là một cách trở bữa chị Dung ơi! Thay đổi chỗ ngồi cũng làm cho mình ngon miệng như là thay đổi món ăn vậy.

Bà cụ không muốn dài dòng, đâm ngang câu chuyện một cách thực tế:

- Lũ nhỏ này, - cụ chỉ sáu đứa cháu nội ngồi la liệt trên chiếu, - chúng nó ồn ào quá. Ngồi vào bàn ăn thì đứa kéo ghé, đứa giựt khăn bàn, đứa chồm lên, đứa làm đổ canh, đứa hụt chân ngã, phiền mình, khổ mình. Đem dọn “cha” nó xuống đất cho rảnh việc.

Phương cười to, cười ngon lành vì lối nói không kiểu cách của bà cụ. Lũ nhỏ lây cái không khí cởi mở tự nhiên, đã trở lại ồn ào, nhai cơm, húp nước canh gõ đũa vào chén, hít mũi, nói chuyện. Nhưng chị Dung thì hình như vẫn chưa tìm lại được sự tự nhiên. Chị và một miếng cơm quá nhỏ, nhai cơm mà không gắp thức ăn. Chị nhìn ra sân nheo nheo mắt. Một tay cầm đôi đũa chống hững hờ vào giữa bát cơm. Như chợt nghĩ ra một điều gì vừa ý, chị quay sang Phương:

- Lũ nhỏ này lộn xộn quá, anh thấy không? Thật là điềm tận thế mà.

Thằng cháu Thạnh chừng chín tuổi, lè nhè cướp lời:

- Cô giáo con cũng mới bảo là sắp tận thế đó, cô Năm ơi. Ghê lắm.

Chị của Thạnh, bé Điềm góp ý liền:

- Mấy đứa bạn của tao, con Gái, con Nga, thằng Ánh cũng nói sắp tận thế.

Bé Tuyết ngậm một miệng cơm đầy, lúng búng nói:

- Thầy giáo con…

Thằng Căn, đũa còn khuấy trong bát canh chưa quơ được một miếng thịt vừa ý, ngửng mặt lên:

- Bà nội à, anh xích-lô chở con đi học nói rằng tới ngày tận thế thì…

Bà cụ nạt lên một tiếng:

- Thôi im đi, tụi bay nhỏ.

Nghe tiếng nạt, lũ nhỏ gác bỏ thắc mắc cúi xuống lầm lũi ăn. Bà cụ quay lại phía Phương:

- Ai cũng nói đến ngày tận thế. Cậu Phương có sợ tận thế không?

Thật là khó trả lời vì chàng chưa hề cân nhắc kỹ xem bên sợ và bên không sợ bên nào nặng nhẹ hơn.

Chị Dung đỡ lời:

- Bà già hỏi ngộ quá. Sao lại không sợ?

Phương thấy rằng chị Dung có lý. Ừ, sợ chớ sao không sợ. Nói quách như chị Dung có phải tiện không và có phải thật thà hơn không? Sao lại tránh nói sợ khi ít nhiều mình cũng sợ thật?

Chị Dung tiếp:

- Kinh Thánh có dạy rằng khi Quỷ Vương ngự trị, khi dân Do Thái lập quốc, khi trên trời có những điềm lạ, đó là lúc tận thế.

- Tận thế nghĩa là hết sống. Chết thì càng khỏe chớ sao. Khỏi phải bận tìm kế sinh nhai.

- Nhưng chết đâu có êm ái như anh tưởng. Thiên tai xảy dồn dập. Nơi này núi lửa phun lên, nơi kia sóng thần cuồn cuộn tràn vào thành phố, nơi khác động đất…

Như được khơi nhằm mạch, óc Phương nghĩ ngay đến những thiên tai chàng đã thuộc lòng lúc đi học, những quang cảnh chàng đã từng tưởng tượng thấy: trái đất nứt ra, người vật nhà cửa đổ nhào xuống rồi đất khép lại…hỏa sơn phun khói phun tro đầy trời và tro rơi ngập cả thành phố làm chết ngạt người trong đó. Rồi sét đánh, rồi mưa lũ, gió to, nước dâng vân vân… Khắp nơi, tiếng người rú lên kinh khủng, tiếng kêu gào đau xót, tiếng khóc thảm thương trong khi Tạo hóa hoặc như vô tình, hoặc như phẫn nộ, lần lượt gieo các tai họa xuống. Các tai họa lúc thì diễn ra một mình, lúc thì đồng diễn phụ họa, lúc thì theo nhịp thong thả, lúc thì rộn rã tới tấp, nhân loại sẽ có cảm tưởng như đang dự một cuộc đại hợp tấu mà các mục trong chương trình được tuần tự trình bày.

Lúc giã từ chị Dung và bà cụ, Phương nhận những lời chào mời mà hơi thẫn thờ không để ý. Những tiếng thưa của lũ nhỏ “Thưa chú đi về…Dạ thưa chú…Chú đi về ạ…” ồn ào và có pha nghịch ngợm chỉ được chàng trả lời bằng giọng “ừ…ừ, chào mấy cháu” hết sức là hình thức. Vì ra đến ngoài đường mà những tiếng gào khóc, tiếng sét nổ, tiếng gió rít và tiếng nhà đổ, cây ngã, tiếng nước réo như vẫn quay cuồng trong óc chàng. Đến góc phố Nguyễn Hoàng - Lê quý Đôn, xe chàng suýt đâm vào hai chiếc xe đạp đi ngược chiều. Sắp sửa cáu vì mình đi đúng luật lệ, chàng chợt mỉm cười khi người đi xe đạp trái luật quay lại chào chàng. Đó là hai thiếu nữ lạ mặt nhưng đẹp. Hai màu áo đỏ giống nhau. Hai mái tóc ngắn giống nhau. Thế là từ đó trên đường về, chàng không còn nghe tiếng gào khóc, tiếng sấm sét nữa mà chỉ còn văng vẳng tiếng nũng nịu. “Xin lỗi ông, ông có làm sao không ạ”. Và thay vì những ánh sáng của chớp giật, ánh trăng đỏ máu hay bóng tối ngập trời, chàng thấy màu răng trắng giữa hai khuôn môi tươi và ánh mắt long lanh ướt.

Một lần nữa, câu chuyện tận thế vẫn chỉ là một câu chuyện.

Thì bỗng một buổi trưa nọ ngồi giở tờ báo hàng ngày, Phương đọc nhằm một tin vặt:

“Sáng 7-7 tại hẻm nhỏ ngang đường Mạnh Tử (Chợ Lớn) có bà lão bán guốc vì nghe người ở nhà đọc báo bàn luận về tin một nhóm thiên văn gia Ý đại lợi tiên đoán vào ngày 14-7 là ngày tận thế nên nghe xong bà lão bỗng tái mặt rồi té bất tỉnh tại chỗ”.

Chàng quay lại hỏi con:

- Hôm nay mấy tây rồi bay?

Thằng Đức nhanh nhẩu đáp:

- Mùng chín.

Bé Ngân tụt xuống ghế đi lên phòng khách. Rồi từ trên ấy tiếng Ngân vang lên:

- Mùng chín ba à, mùng chín.

Đức hỏi:

- Chi vậy ba? Ba hỏi chi vậy?

Phương quay lại nhìn con. Trên nét mặt con chàng thấy có một vẻ gì háo hức. Hình như chúng đợi một tin gì vui, chẳng hạn chúng sắp được dẫn đi xi-nê, chàng sắp đưa chúng đi mua áo hay mua dép, hoặc có tin ông bà chúng ở Lò Gốm sắp vào thăm. Chàng nhìn con giây lâu, so sánh cái tin dữ dội kia với những cặp mắt hiền lành, với tâm hồn tin tưởng ngây thơ của con. Chàng ấp úng:

- Ba hỏi cho biết vậy thôi.

- Không phải. Ba nói dối con. - Đức phụng phịu.

- Không, ba nói thật đấy.

Để tránh khỏi nói dối con nhiều nữa, chàng giục:

- Thôi, mấy đứa con học bài đi.

Chàng chăm chăm nhìn con, óc loay hoay với cái tin vừa rồi. Tận thế. Chàng lẩm nhẩm: Còn năm ngày nữa. Ừ, thật không ngờ cái tin kinh khủng này lại đến mau vậy. Từ hồi còn nhỏ đi học, chàng đã nghe người ta chuyền miệng cho nhau rằng năm 2000 sẽ tận thế. Có đại hồng thủy. Và trước sau không biết đến mấy lần chàng đã nhẩm tính xem đến năm 2000 mình được bao nhiêu tuổi. Thấy lúc ấy mình đã không còn trẻ nữa, chàng yên tâm không băn khoăn, không tiếc rẻ. Nay bỗng nhiên án tử hình được tuyên bố đột ngột. Đang làm ăn lương thiện, con người chợt được tin mình phải tội chết và chỉ trong năm ngày nữa là bị đem ra hành hình. May thay, tin đó có nhiều hi vọng là tin thất thiệt. Nhưng biết đâu? Ừ nhỉ, nhưng biết đâu? Trái đất chỉ là một hạt bụi bay lửng lơ trong vũ trụ cơ mà. Mà hạt bụi thì đâu có thể đòi hỏi cái quyền tự mình viết lịch sử cho mình? Huống chi là con người, quá nhỏ so với cái hạt bụi đó. Ồ, chúng ta thật y như là một bầy kiến cận thị, vui vẻ, ồ ạt, tin tưởng, lục cục mang những mẩu cơm, mẩu bánh, cánh dế, chân sâu để về cất trong tổ. Lũ kiến, chúng hẳn đã thảo luận cùng nhau những chương trình xây dựng tổ, chương trình tiết kiệm để qua mùa đông, chương trình phòng vệ. Chúng hẳn đang sung sướng vì nếm trước hạnh phúc ở đầu kia chương trình. Chúng đâu có ngờ đến cái bàn chân của một đứa bé tinh nghịch đứng gần đó sắp sửa giáng xuống, chà qua chà lại, biến chúng và cả họ hàng chúng thành một cục nhầy nhụa viên tròn, biến lịch sử của chúng - sao lại không gọi như thế được, - thành một chuyện huyền hoặc. Ôi! Lịch sử của con người sau ngày tận thế cũng vậy. Ai có thể tin rằng trái đất hoang vu kia đã từng là cái nôi và là ngôi mộ của hằng hà sa số con người? Rằng nơi đó con người đã xây dựng hạnh phúc và nuôi dưỡng thù hằn? Còn ai tranh giành nhau nữa không, một rẻo đất, một góc vườn? Đất rộng mênh mông đầy dẫy ra đó. Còn ai tự hào hay ganh tị vì sự chiếm hữu của mình hoặc của người khác nữa không? Xe cộ bỏ không đó, lâu đài hoang lạnh đó, vàng ngọc vung vãi ra đó bên cạnh đá sỏi. Những con gà, con vịt, nói chung là chim chóc, những con bò con cừu, nói chung là gia súc, sinh sôi nẩy nở không hạn chế đi lang thang tự do, không còn là đối tượng thèm muốn, tranh giành, cướp giấu của con người nữa. Và cây cối! Cây cối không bị hạn chế sức phát triển, sẽ khỏi phải tuân theo trật tự do ai định hết. Những cây cỏ dại được dịp để lấn áp những cây kiểng, những cây xưa nay được loài người chăm sóc nâng niu. À, nhưng rồi sẽ diễn ra một cuộc trả thù ghê gớm đây. Những con vật, những cây cối được loài người bảo vệ sẽ bị các con vật, cây cối mà loài người vốn thù ghét, hành hạ trở lại. Ồ! Những con gà, vịt, bồ câu… sẽ không được tự do sung sướng nữa đâu mà chúng bị mèo, chồn sát hại. Bụi tùng bụi cúc không bị cắt xén, uốn theo hình phượng hình lân nhưng sẽ không kịp hớn hở mà đâm chồi tự ý vì những bụi gai bụi cỏ tràn lên ăn hiếp. Phương không ngờ rằng sự lý luận, sự tưởng tượng lại mau dẫn chàng đến một ngõ kiệt như vậy. Té ra sau cuộc tận thế, thoát khỏi bàn tay và khối óc chinh phục của con người, các sinh vật vẫn không tìm thấy tự do, tự do triệt để. Chàng thất vọng. Như một chiếc phi tiễn muốn vượt không gian mà vẫn bị sức hút của trái đất kéo lại, trái đất to lớn luôn luôn có mặt để nhất định không buông thả một ý chí nào muốn vượt khỏi quyền hạn của nó, chàng thất vọng. Sự thất vọng to lớn và thành thật đến nỗi tới đây, chàng không còn biết rằng mình đã suy tư bắt đầu từ điểm nào. Khi nhớ lại rằng mình đang phải đối diện với cái Chết, cái Chết rùng rợn mặc dù là đại đồng, cái Chết sẻ đến đúng kỳ hạn, chàng tự trách là mình nghĩ vẩn vơ vô ích hết sức. Điều đáng cho chàng phải lo nghĩ là nên có thái độ như thế nào. Chàng vừa loay hoay tìm thái độ thì con chàng đã nhẹ nhàng nhắc:

- Một giờ rưỡi rồi đó ba. Sao ba chưa đi nghỉ?

Chàng vâng lời chức năng, bỏ tờ báo xuống bàn bước vào phòng riêng.

- “Còn năm ngày nữa - chàng vừa lê dép vừa tự nhủ - chưa gấp phải định thái độ”.

Những ngày sau, chàng hay lưu ý xem phản ứng của những người chung quanh đối với tin tận thế đã loan trên báo. Mặc dù bản tin chỉ chiếm nhu mì có mấy dòng và được xếp bằng chữ nhỏ nhưng chàng chắc chắn rằng nhiều người đã loan truyền đi rồi. Mấy khi tờ báo đăng một tin có liên quan đến nhiều người như vậy? Nhưng sao sự sinh hoạt hình như không có gì thay đổi. Người nào cũng chăm chăm đi về cái hướng của mình định đến, vượt lên những kẻ chậm chạp hơn họ. Các hiệu ăn vẫn đông khách hàng. Cả đến những hiệu uốn tóc. Xe đạp vẫn trôi cuồn cuộn trước các trường học. Những chiếc xe nhà binh vẫn gầm thét hiên ngang. Chàng không biết nên thương hại những người vô tư kia không? HoÏ có giống những con kiến mà mình đã lẩn thẩn nghĩ bữa trước không? Hay là họ khinh ngay cái nhóm tiên tri ngớ ngẩn của xứ Ý-đại-lợi mà không thèm tin? Thật là nát óc khi muốn tìm một câu trả lời thỏa đáng. Chàng đành chỉ xét đến trường hợp của riêng mình. Nếu có tận thế thật thì trước hết mình cũng không tiếc gì lắm. Cuộc đời sướng khổ đã nếm qua, chàng không thấy háo hức nữa. Có bốn ngàn bạc nợ bà Ngọc chàng chưa trả. Chết khỏi trả nợ không phải là điều mừng vì trước hay sau gì chàng cũng định trả đầy đủ cho người ta. Bạn chàng vay hai ngàn bạc đã hơn một năm nay, muốn vỗ nợ nên cố tránh mặt, lì không trả. Chàng đã mấy lần muốn viết thư mắng cho một trận rồi bỏ luôn nhưng may là rốt cuộc chàng đều nhịn không viết thư. May lắm, vì nếu viết thư mắng thì được gì? Có điều đáng để tiếc nhất là dành dụm được ba trăm ngàn đồng bạc mà bây giờ sắp không dùng đến được. Đó quả là một sự ân hận. Đáng lẽ mình đã tiêu pha cho hết, mắc nợ thêm vài trăm ngàn rồi hãy tận thế. Làm ăn chí thú và lương thiện quả không phải là thượng sách trong cuộc sống có hi vọng kết thúc bằng tận thế. Chàng muốn chuộc lại sự lầm lẫn của mình. Phải sống bất lương! Chàng có trước mặt hai ngày nữa. Thật chả bõ. Tuy vậy chàng cũng thử tìm xem mình có thể sống bất lương như thế nào. Lừa đảo? Nhưng lừa đảo để làm gì nữa trừ phi để muốn được chết cạnh một triệu bạc chẳng hạn như một thằng khùng. Ăn chơi phóng túng? Không chắc đã sung sướng khi óc mình không thoát sự ám ảnh của cái Chết. Nhưng xét cho kỹ, ăn chơi phóng túng có nghĩa là làm gì? Là cờ bạc, rượu chè, thuốc phiện và đĩ thõa. Bảo rằng phải vội vã đi đánh bạc cho thỏa thích để mà chết là một chuyện ngớ ngẩn không ai có thể nhịn cười được. Còn uống rượu thì được bao nhiêu? Tửu lượng của chàng không quá một chai bia mỗi lần, sự hoang phí không quá mười lăm đồng bạc thì nói đến rượu chè chỉ là một sự mỉa mai lớn. Thuốc phiện thì chàng chưa tập hút. Những món say sưa gây được bệnh ghiền mà chàng từng nếm như rượu, thuốc lá, cà-phê, lúc mới tập đều cho ta cảm giác khó chịu hơn là thích thú. Thuốc phiện chắc cũng thế. Vậy không điên rồ gì mà đi mua những cảm giác khó chịu khi không chắc sẽ được nếm những thích thú sẽ đến sau. Đĩ thõa có lẽ là cái thú dễ dàng hơn hết. Nhưng cũng chưa chắc. Tìm một người đẹp vừa ý mình mà lại bảo là dễ dàng? Tiền dễ tạo hơn là tình nhiều. Đồng tiền không hề chọn người tạo ra nó. Xấu hay đẹp, ngay hay gian, thông minh hay ngu xuẩn không phải là tiêu chuẩn mà đồng tiền nhắm. Chớ tình yêu có con mắt hơn, đòi hỏi nhiều điều kiện hơn. Ồ! Té ra muốn chơi bời phóng túng cũng không phải là một việc dễ dàng. Sống cuộc đời đạo hạnh ai cũng khen vì ai cũng cho là khó, nhưng sống trái lại, sống trụy lạc, sống bê tha, sống điêu xảo nào đã dễ chi?

Tóm lại, cứ theo cái đà lý luận này, Phương đã sống cuộc đời rất bình thường cho đến ngày mười ba tháng bảy. Trưa hôm đó, chàng nhìn lũ con ăn uống ngon lành mà thương hại. Có lẽ nên cho chúng biết rằng ngày mai là tận thế đi. Để chúng tùy nghi mà sửa soạn lấy. Có thể lắm chớ, trẻ con cũng có những băn khoăn riêng của chúng, những nếp tâm tư mà người lớn không hiểu được. Nhưng nên nói thế nào cho chúng đừng sợ hãi đây. Thằng Đức nhút nhát hơn cả, cứ mỗi lần nghe xe chữa lửa rú lên là nó cứ xanh mặt lại. Sét nổ cũng là một mối lo âu của nó. Cả chị Hai, chị bếp nữa. Cũng cần cho chị ấy biết kẻo lỡ cuộc tận thế kéo dài chị ấy có đủ thì giờ để trách mình sao không cho biết trước. Riêng đối với chị này thì phải cho biết khéo léo thế nào để chị đừng rối trí đến nỗi bỏ quên bếp núc, bỏ đói cha con chàng. Ý đã quyết, chàng đợi lúc chị Hai lại bàn xới thêm cơm, chàng lấy giọng điềm nhiên hết sức bảo con:

- Tụi bay biết không? Có ông tiên tri Ý-đại-lợi nói rằng ngày mai tận thế.

- Tận thế là sao hở ba?

- Nghĩa là mọi người đều chết hết.

Thằng Đức reo lên:

- Thế thì sướng, khỏi phải đi học.

Sợ rằng con còn hiểu lầm giá trị của sự “tận thế” nên mới có thái độ có vẻ đùa nghịch dễ dàng, chàng cẩn thận giảng tiếp:

- Tận thế nghĩa là chết hết cả đó, không còn ai sống nữa.

Bé Ngân đang ngậm miếng cơm, mở mắt nhìn chàng giây lâu, nhìn ra chuồng bồ câu ở ngoài sân rồi hỏi:

- Thế mấy con bồ câu cũng chết hết hở ba?

Chàng không trả lời để giữ vẻ nghiêm trọng của vấn đề. Chàng đợi phản ứng của Lý vì Lý lớn hơn cả. Chàng thấy Lý vừa nhai cơm vừa suy nghĩ. Cuối cùng, nó nhìn lên chàng, nói:

- Trưa nay ba có rảnh không? Ba giảng cho con bài ngữ pháp.

Chàng nhìn ba đứa con, thất vọng như một anh hề pha trò mà không ai cười. Chàng dự trù nghe những tiếng rú kinh ngạc và sợ sệt. Chàng đã chuẩn bị sẵn những lý để trấn tĩnh, để an ủi. Hão huyền cả. Tin tận thế rơi vào trống không, không ai phụ họa. Chị Hai thì lặng lẽ lại ngồi chùi nắp soong. Nếu chị tin rằng ngày mai tận thế thì chắc chắn chị không huy động cả hàng tá nắp soong ra mà chùi cẩn thận thế kia. Tâm hồn bơ vơ, chàng đành bắt chước mọi người mà trở lại cái nhịp sống hàng ngày. Chàng nhẫn nại ngồi giảng bài ngữ pháp cho con. Chừng mười phút sau, nguồn vui trở lại. Chàng thấy rằng thái độ vô tư của lũ con mình, bình tĩnh của chị Hai mới chính là thái độ mình muốn có.

Dầu vậy, chàng cũng không thể không bắt đầu ngày mười bốn tháng bảy một cách long trọng. Lúc cầm cái bàn chải răng, chàng nói:

- “Mười bốn tháng bảy là hôm nay đây”.

Và khi ngồi ở sở làm, chàng vẫn nghĩ phòng xa: Có thể có một tiếng nổ rầm rồi tất cả tối sầm lại. Hoặc nhanh hơn nữa, tiếng nổ chưa nghe mà bỗng nhiên không ai còn biết gì hết. Y như người bị sét đánh không kịp thấy chớp, không kịp nghe tiếng nổ, không kịp biết là mình như thế nào. Và thế là cáo chung lịch sử của nhân loại. Thật chưa bao giờ con người sắp dự một cuộc biến chuyển vĩ đại mà khỏi phải sắp đặt gì hết. Phương quay nhìn những người bạn ngồi cùng phòng với mình kia. Anh Sinh lách tách gõ máy chữ, chăm chỉ nghiêm trang coi như việc gõ máy là việc quan trọng nhất trong nhân loại. Chị Trang cộng một hàng số mà bôi đi xóa lại. Phải rồi, chị cứ mỉm cười thế kia còn tay trái thì cứ mân mê mái tóc: quả là chị mới uốn tóc chiều qua. Con người mâu thuẫn thật. Giá mà nổ ầm lên một tiếng rồi có ai la “Tận thế rồi, trời ơi!” thì anh Sinh sẽ không còn thấy đánh máy chữ là quan trọng nữa và chị Trang sẽ quên rằng mình mới vừa uốn tóc. Phương vừa buồn cười vừa thương hại cho con người nhỏ nhoi yếu đuối. Và chàng cũng cúi xuống trang sổ như những người bạn của mình. Nhờ công việc như vậy mà rồi giờ khắc qua như thế nào chàng cũng quên không để ý. Mãi cho đến chiều tối, lúc nằm ở ghế dài đặt trước hiên chàng mới đủ thì giờ mà nghĩ và nói:

- Có lẽ không có tận thế.

Nhưng chàng còn nghi rằng tận thế có thể để dành cho đêm nay. Ồ! Như vậy thì rùng rợn lắm. Thà để cho con người thấy rõ vận mệnh dành cho nó, giữa ban ngày. Tận thế xảy ra ban ngày sẽ có nhiều tiếng khóc, tiếng gào nhưng bớt được tiếng kêu gọi nhau, tìm kiếm nhau. Ban đêm!… Nhưng thành thật mà nghĩ, Phương thấy rằng mấy anh chàng tiên tri Ý-đại-lợi đã thua cuộc rồi. Ba phần tư thì giờ đã trôi qua, trái đất và mặt trời vẫn hòa thuận với nhau như hàng triệu triệu năm trước. Xung quanh, tiếng trẻ con đọc bài vang vang, tiếng đọc kinh tối ở nhà bên cạnh đều đều một giọng. Những bản nhạc vẫn trầm bổng phát từ chiếc máy thu thanh. Những giọng ca lả lướt yêu đương, những bức thông cáo trịnh trọng, những bản tin tức rộn ràng như nhắc chàng nhớ rằng trên mọi địa điểm của trái đất, con người đang sống, đang tiêu khiển, đang làm việc và đang hy vọng. Cái cảm giác về sự sống chung đụng này giữa mọi người trên thế giới không biết vì sao lại làm cho chàng thêm tin tưởng rằng loài người còn tồn tại. Sự tin tưởng làm chàng phấn khởi, nhất là khi nhìn bé Ngân nằm ngủ say sưa, đầu đặt trên gối, hơi thở nhịp nhàng. Nhìn một đứa bé ngủ, người ta quả có thêm sự yên tĩnh trong tâm hồn.

Lúc chàng lên giường thì những câu chuyện nhảm nhí ở một trang báo Nhi đồng choán khoảng thì giờ còn lại ngăn cách chàng với giấc ngủ. Và khi chàng chìa tay ra ngoài màn bấm vào cái nút của chiếc đèn giường, óc chàng trống rỗng, không có một ý nghĩ gì ám ảnh hết. Thật quả là không xứng với những giờ quyết liệt còn sót lại. Điều đó, lẽ tất nhiên sau này chàng mới nghiệm thấy.

Sáng hôm sau chàng chỗi dậy theo mặt trời. Chị Hai quét vườn, tiếng chổi lê sạt sạt. Hai con vịt hàng xóm lẻn chui rào tự lúc nào đã bắt đầu cuộc tảo thanh xung quanh vại nước. Gió thổi lao xao lay động tàu lá dừa, và cành lá na, lá mận. Màu lá xanh chứa sức sống dồi dào. Chàng ngẩng lên nhìn trời. Những vảy mây bạc viền màu hồng cũng tưng bừng sự sống. Tất cả mọi vật xung quanh chàng như cùng ca ngợi cuộc đời một cách mãnh liệt, vui say. Chàng nói lên như một lời giã từ:

- Thế là hết tận thế.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:04:15 bởi hai1957 >

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 18.11.2012 11:00:47
5. NIỀM TIN CHƯA MẤT



Thằng con tôi ở trần và dang nắng cả ngày. Hỏi lý do vì sao, nó không chịu nói. Tôi phải ôn tồn giảng cho nó nghe rằng dang nắng lắm nhiều khi cũng nguy hiểm: có thể bị nhức đầu, bị cảm nắng sinh bệnh.

- Con đừng nên làm phiền Ba. Ba đi làm vắng cả ngày thế mà lỡ con bệnh thì ai săn sóc cho con? Những lần con đau con có nhớ rằng Ba phải thức suốt đêm bên giường con không?

Thấy tôi thật tình lo lắng, nó nói:

- Nhưng mà… lũ học trò cứ gọi con là heo luộc.

- “Heo luộc” là cái gì?

Tôi ngơ ngác hỏi.

- Tụi nó nói da con trắng như heo luộc.

Không thể nín được, tôi bật cười to một tràng dài. À ra con heo luộc phải dang nắng để thành con heo quay đây mà! Thời đại đổi thay, ngày xưa người ta yêu màu da trắng trẻo còn ngày nay người ta chuộng màu da rám nắng. Quả tình có nghe con tôi nói tôi mới để ý thấy rằng độ này da dẻ nó có rám đen đi phần nào. Ngày còn má nó, da nó trắng như con gái. Tôi nhớ đến những buổi trưa mười giờ, bãi biển đầy những cô gái nằm phơi nắng. Họ đội mũ lác rộng vành và đeo kính râm. Những chàng trai da nâu hãnh diện đi đi lại lại. Quan niệm đẹp có thay đổi nhiều thật nhưng tôi không ngờ nó lại ăn sâu cả vào lớp trẻ con mới mười tuổi. Hồi tôi còn nhỏ đi học thầy giáo yêu nhất những học trò mặt mũi trắng trẻo đã đành, cả đến chúng tôi cũng chỉ thích chơi với những đứa bạn mặt mày trắng trẻo. Những đứa đen đủi nhiều khi bị chế giễu một cách tàn nhẫn.

Tôi nhìn kỹ lại con tôi hơn. Nó chỉ đánh một cái quần đùi màu đỏ, - mãi đến bây giờ tôi mới tự hỏi tại sao chị ở lại cứ bắt nó mặc quần đùi đỏ, mua chi mà một lần đến ba, bốn cái quần đùi đỏ, - còn thì mình trần cả ngày. Tôi tưởng tượng đến một lúc nào mình nó sẽ đen như một con heo quay. Và tự nhiên tôi nghĩ đến một hình ảnh, không phải trong tương lai mà chính ngay trong quá khứ tôi đã sống. Tôi nhớ đến anh Tộc, người bạn học của tôi hồi còn lớp Tư. Lúc bấy giờ chúng tôi vào khoảng mười, mười một tuổi. Mình Tộc gầy đét, hai chân như hai cái que. Đã thế lại chuyên môn mặc quần đùi khiến chúng tôi mỗi lần gặp anh là phải để ý ngay đến cặp chân que tăm. Không biết anh ta khéo xếp thế nào mà cái quần đùi nào anh mặc cũng cũ, cũng sờn đít hoặc rách đít. Tôi chưa hề thấy anh mặc một cái quần đùi mới. Không mới mà có cũ, thế có lạ không? Anh không bao giờ mặc áo. Đi từ đầu làng đến cuối làng mà cũng để mình trần. Đánh bi đánh đáo cả ngày, hết bắt dế đến câu cá, lúc nào anh cũng phơi mình dưới nắng khiến da cứ tím sậm lại. Người lại gầy, xương sống chạy một hàng dài gồ lên, còn xương sườn thì đếm đủ mười hai đôi. Hai núm vú thâm dán sát vào da như đầu của hai chiếc đinh bảy phân ai đã đóng vào ngực. Ngực lép và bụng lép nhưng cái rún lại béo bở. Rún của ai cũng thõm vào, hoặc tròn như lỗ đáo, hoặc méo xệch như cái miệng cười mỉm, chỉ riêng rún của Tộc thì lồi ra một đoạn dài gần hai phân, trông như cái núm vung. Rờ tay vào thấy mềm mềm những thịt. Lúc bấy giờ ở xóm tôi có một gánh hát bội đến trình diễn thường xuyên, chúng tôi cứ đợi đến chín giờ khuya rạp thả giàn là ùa vào coi khỏi mất tiền. Rạp hát lấy tên rạp là Thạnh Xương. Thấy Tộc mình chỉ toàn những da và xương, một người bạn có nhiều sáng kiến bỗng đặt tên cho Tộc là thằng Thạnh Xương. Tộc không phản đối mà nhận cái biệt hiệu mới một cách vui vẻ. Do đó mỗi khi đùa nghịch chúng tôi có thể gọi tên Tộc hay tên Thạnh Xương cũng được.

- Ê Tộc, thách mày lặn một hơi cho qua bờ sông bên kia đó.

- Thạnh Xương, Thạnh Xương, leo lên cây bàng gỡ dùm con diều cho tao một tí mày.

Tộc không chịu thua một cuộc thách đố nào, không từ chối một sự nhờ vả nào. Kết quả của những cuộc mạo hiểm là mình Tộc mang đầy những vết sẹo. Anh em ai cũng mến Tộc vì Tộc chấp nhận mọi sự đùa nghịch của anh em. Tộc không bao giờ cáu vặt. Hoặc là thách đánh nhau hoặc là tha thứ không thèm chấp, thế thôi. Không thèm trả thù ngầm, không thèm nói láo.

Tộc ham chơi đáo đến nỗi có hôm mê mải ăn thua mà đứa nào giấu áo không biết. Đến lúc trống đánh, chạy đi tìm áo, hỏi ai cũng bảo không biết, lạy ai cũng không chịu chỉ giùm khiến Tộc òa ra khóc. Tộc sợ thầy lắm. Nhưng mà cái tật ở trần cởi áo vắt vai, Tộc vẫn không thể bỏ. Đến sân trường thì bỏ sách vở xuống cỏ, đặt áo đè lên trên rồi thì chơi mải chơi mê không còn biết trời đất gì nữa. Mãi đến khi trống đánh vào lớp mới lật đật bỏ trò chơi mà vội vã mặc áo vào. Có lần vừa cãi vã ăn thua vừa hẹn hò tái đấu, anh cài hột nút này sang khuy áo kia mà không biết. Khi sắp hàng vào lớp, ai nấy đã ngồi an vị rồi thì thầy Nghĩa, thầy giáo chúng tôi, đi soát qua lớp một lượt. Thầy chỉ tay sang Tộc, gọi:

- Tộc, lên bảng.

Tộc vụt đứng dậy, nhanh quá, như một cái gân bị giật. Có lẽ người anh chỉ có gân và xương nên sự phản ứng mới lẹ như thế. Anh thoăn thoắt bước lên bảng, vô tư như khi đi nhặt một hòn bi. Đứng cụng nhằm bảng đen mới dừng lại. Rồi im lặng, một ngón tay bôi lên bảng vẽ hình con cua con quạ gì đó. Thầy Nghĩa quát:

- Quay mặt trở lại!

Anh vâng lời quay mặt trở lại và cả lớp cười rộ lên vì hai cái vạt áo gài khuy so le. Anh ngơ ngác không biết vì sao các bạn cười mình, thầy hỏi:

- Hồi trưa mày làm gì?

Tộc trả lời ngay, không phải suy nghĩ:

- Dạ thưa thầy hồi trưa con ăn cơm xong thì mẹ con sai con gánh nước mắm qua nhà bà Chức Ba. Kỳ nước mắm trước bị thiếu nắng, dang không kỹ nên mới để nửa tháng mà đã trở, thúi quá…

Lũ học trò cười rộ lên, to hơn trước, thế mà Tộc vẫn điềm nhiên nói tiếp. Nhưng tiếng ồn ào lớn quá, chắc cả lớp không nghe được gì, duy chỉ có những đứa ngồi bàn đầu như tôi là nghe rõ tiếng Tộc chậm rãi tiếp:

- … Bà Chức Ba bắt đền nói mẹ con mà không đổi nước mắm khác cho bà ta thì bà ta…

Đến đây thầy Nghĩa đập mạnh thước gạch vào mặt bàn một tràng dài và cả người nói lẫn người cười đều im lặng, Thầy giận dữ nói:

- Ý tao muốn hỏi mày hồi trưa mày làm gì mà đi học mặc áo xốc xếch như vậy. Chớ mày gánh nước mắm cho bà Chức Ba hay bà Chức Tư gì thì tao đâu cần biết, nước mắm của mẹ mày thúi hay thơm cũng thây kệ mày.

Tộc cúi xuống nhìn vạt áo của mình và lặng lẽ cởi nút ra rồi gài lại, vẻ thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Thầy nói:

- Thôi cho đi xuống.

Tộc “dạ” một tiếng, lủi thủi đi xuống nhưng khi đến dãy bàn thứ tư không quên nháy mắt sang một đứa bạn bên cạnh. Chúng tôi ai cũng biết thầy Nghĩa không có cảm tình với Tộc, nhưng Tộc, hình như anh lại không để ý đến điều đó. Tính thầy Nghĩa cẩn thận, ưa sắp đặt trang hoàng cho lớp đẹp đẽ. Những khẩu hiệu “Tiên học lễ hậu học văn, Trọng thầy mới được làm thầy, Chăm chỉ sạch sẽ…”, được thầy cắt bằng giấy màu treo cân đối. Những hình vớ vẩn xanh đỏ lòe loẹt như hình Phúc Lộc Thọ, Sư tử hí cầu thầy cắt ở nhãn pháo hay nhãn hương, những tấm bưu thiếp hình chợ hình phố, thậm chí có những ảnh ả xẩm thầy cũng lồng giấy bóng treo khắp tường, chi chít, rộn ràng bên cạnh những tấm địa đồ, bản đồ nghiêm trang, đứng đắn. Thầy coi chừng tóc tai và quần áo của học sinh luôn. Không phải với mục đích bảo vệ sức khỏe, chắc thế, mà chỉ vì sợ đốc học hay thanh tra bất chợt tới. Sách vở bút mực thì khỏi phải nói. Mỗi lần sắp có thanh tra tới khám trường thì chúng tôi thật là khổ sở với thầy. Thầy tập đứng dậy, tập ngồi xuống, thầy bắt bao lại sách vở, bắt cắt tóc, bắt cắt móng tay, bắt mặc bộ quần áo nào đẹp nhất. Sợ lũ chúng tôi quên đi những lễ nghi tối thiểu, thầy bắt chép và học thuộc lòng một bài nhan đề “Lời khuyên học trò”. Bắt đầu như thế này:

Trống trường vừa đánh mau mau,
Sắp hàng ngay ngắn trước sau đàng hoàng.
Đừng nói chuyện chớ làm ồn
Học trò như vậy mẹ cha vui mừng.

Sau này tôi mới biết rằng đó là một bài thơ dở, sai âm luật. Chắc do thầy sáng tác. Vì lâu lâu thầy lại cho phép thêm một đoạn ám chỉ khuyết điểm nào đó mà thầy vừa khám phá ra. Ví dụ hôm thầy đè cổ thằng Hùng đánh ba roi vì tội hái trộm dưa leo bị bà Tang lên mét giữa lớp thì chiều đó thầy bắt chép thêm một đoạn “Lời khuyên học trò” (tiếp theo):

Dưa cà là của người ta
Mình đừng khuấy phá hái mà không nên.
Bắt được đã phải chịu đòn
Lại làm xấu hổ tổ tiên ông bà.

Tôi không biết bao giờ bản trường ca này mới chấm hết. Chỉ biết mỗi lần thầy dạy dư giờ hay những chiều mùa đông chưa tan học mà trời tối quá không thấy mặt chữ thì thầy bắt cả lớp ê a đọc bài “Lời khuyên…” như những tín đồ tụng niệm giáo điều. Tất nhiên là với một thầy giáo cẩn thận dường ấy và nhất là sợ thanh tra tới mức ấy thì Tộc không phải là một cái hoa đẹp đáng để cho lớp và cho thầy hãnh diện. Tóc thì dễ thường đến hai tháng mới cạo một lần, - cạo chớ không phải cúp, - thành ra tóc mọc lấn xuống trán, tóc mai chỉa nhọn xuống nửa má. Cái mặt trở nên quắt lại bằng bàn tay. Áo quần thì như trên đã nói. Thành ra thầy có nhiều thành kiến đối với Tộc, những thành kiến khiến có lần Tộc bị mắng oan. Một hôm giữa lúc sắp hàng, thầy khám sạch sẽ. Thầy kéo hẳn Tộc ra khỏi hàng, chỉ vào cặp chân đen:

- Mày ở dơ thế kia?

Tộc thưa liền:

- Thưa thầy con mới tắm ạ.

- Mới tắm cái gì? - Thầy sừng sộ nói - Cái cổ đầy những đất thế này.

Thầy vừa nói vừa lùa ngón tay kỳ cọ nơi cổ của Tộc. Nhưng quả không có một lằn đất nào dính nơi tay thầy cả. Thầy hoi ngượng, đứng im nhìn kỹ Tộc từ đầu đến chân. Rồi thầy chỉ xuống hai cái mụt Tộc mang ở cổ chân:

- Ở dơ - ghẻ chốc thế kia mà nó còn cãi tao nữa.

Tộc vẫn trả lời tỉnh bơ:

- Dạ, thưa thầy không phải ghẻ ạ. Đây là vết đỉa cắn. Hôm chủ nhật con đi mót lúa đám ruộng ông Thuận bị đỉa bâu cắn. Con rịt thuốc mãi mà chưa lành. Mẹ con nói đỉa mén nó cắn là độc lắm.

Thầy không trả lời, nhún vai một cái rồi ra lệnh cho vào lớp. Ở trong lớp có ai làm quấy, ví dụ làm đổ mực xuống nền xi măng, bôi tay dơ lên vách, ném đá bể ngói… mà thầy chưa tìm ra thủ phạm là y như thầy nghi cho Tộc. Chúng tôi cứ tưởng Tộc thù thầy, nhưng tuyệt nhiên không. Đi cùng chúng tôi đến nhà thầy nộp bài, Tộc hay đảo mắt nhìn khắp đó đây rồi liên tiếp đề nghị:

- Thưa thầy cây cau ở ngang chái bếp của thầy đã có buồng đầy rồi đó. Để con leo bẻ cho thầy. Hai hôm nữa thì già mất.

Thầy hỏi:

- Mày leo gì được?

Thì Tộc vồn vã ngay:

- Ồ! Con leo giỏi lắm. Để con leo thầy coi. Con leo không cần “nài” mà.

Thế là từng thót một, Tộc thoăn thoắt leo lên bám ở trên đọt cau, nhanh nhẹn bẻ cả một buồng rồi tuột xuống. Lần khác đến thăm thầy, sau khi cả bọn chia tay nhau vục gáo vào vò nước lã uống lấy uống để, Tộc bỗng nhăn mặt nói:

- Nước hôi bùn quá!

Chúng tôi đưa mắt lừ Tộc, có ý bảo: “Chết! Sao mày ăn nói hỗn vậy? Nước nhà thầy mà mày chê hôi”.

Nhưng Tộc thản nhiên nói bô bô:

- Muốn hết hôi thì phải đảo. Ở dưới đáy giếng thiếu gì bùn non rồi những dây gàu đứt, đồng xu, mẻ sành, cắc bạc.

Thế rồi bỏ chúng tôi, Tộc chạy lên nhà trên thảo luận gì với thầy không biết. Lúc ra về, Tộc nói:

- Chủ nhật tới, tao lại đào giếng giùm cho thầy.

Tộc sống tự nhiên quá, thấy việc thì làm không câu nệ, nghĩ gì nói nấy không giấu giếm. Hình như anh không có mặc cảm. Nhà nghèo, mặt mũi không đẹp, áo quần xốc xếch, nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh ngượng ngập rụt rè. Tôi có cảm tưởng tâm hồn anh hiền lành như một cây xanh, cây ổi cây bàng nào đó đang sức lớn. Đâm chồi, ra lá, nứt hoa… Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của các cây đứng xung quanh nó. Không thấy cây xấu hổ vì những lá héo, giấu giếm những cành gãy, mà cũng không thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay hoa nở đầy cành. Tộc cũng giống như vậy. Nhưng tội nghiệp cho Tộc là Tộc không hoàn toàn được là một cái cây. Cái cây không phải học bài và làm bài. Còn Tộc thì phải khổ sở rất nhiều mỗi khi phải mó vào sách vở. Tộc học rất dốt, không mấy khi thuộc bài. Tính thầy Nghĩa lại thích lái cho học sinh không thuộc bài nói bậy mà Tộc thì nói bậy một cách tín cẩn. Đủ biết anh chẳng hề ngó qua bài một lần. Mỗi khi thầy nhắc sai và anh dò dẫm nói theo là cả lớp im phăng phắc để đợi nghe những sự bất ngờ lý thú. Chẳng hạn bà Trưng thù ông Thi Sách đã giết chồng bà là Tô Định…, hoặc nước Việt Nam đông giáp vịnh Thái Lan, tây giáp bể Nam Hải v.v… Đến giờ đọc tiếng Pháp thì thật là không thể nín cười được. Anh không phân biệt được chữ nào đọc là “ơ” chữ nào đọc “e”, chữ z, w, ch anh đọc cứ lộn phèo cả lên rồi thêm dấu huyền dấu nặng, rồi ậm ừ, rồi cà lăm nữa. Một người pha trò khéo cũng không thể làm cho lớp học náo hoạt hơn anh. Tật cà lăm sau này gần thành một cố tật của anh. Tôi cho rằng đó là do những giờ học Pháp văn mà ra. Mới đầu năm khi còn học bài một bài hai thì anh cà lăm ít, đến chừng sang bài hăm bảy, hăm tám thì anh cà lăm nặng hơn, cuối cùng thì anh chỉ “cà” chứ không nói nữa. Mà mỗi lần “cà” như vậy thì trông anh khổ lắm. Mắt cứ nhắm tít đi còn cái lưỡi và hai hàm răng thì run bấn lên. Thầy giáo chịu thua phải cho anh về chỗ.

Lẽ cố nhiên là học hành như vậy anh không đỗ nổi bằng sơ học yếu lược. Và cuối niên khóa anh phải nghỉ học. Khi chúng tôi, vài đứa, mang sách đi học ở trường huyện, chúng tôi thỉnh thoảng gặp anh ở bến đò đầu làng. Vẫn gầy, vẫn đen, tưởng chừng nếu xòe một cây diêm châm vào là anh bốc cháy thành ngọn lửa ngay. Gặp chúng tôi, anh toe toét cười:

- Đố tụi mày “la ma-rơ” là cái gì? (1 )

Rồi không đợi chúng tôi trả lời, anh nói luôn:

- Tao ngồi buồn mở cuốn sách Langue Francaise đọc lại mà hóa ra giỏi tụi mày ơi. Té ra bây giờ tao mới biết chữ Tây là gì. Nè, tao đọc cho tụi mày nghe, nghe không: la lame, la lac, papa a vu kilo, à Hanoi il y a un pont…(1 )

Anh đọc hàng tràng dài, đọc sai âm sai giọng nhiều lắm nhưng trông chừng hỉ hả và không còn ngọng khổ ngọng sở như ngày xưa nữa.

Tôi hỏi:

- Bây giờ mày ở nhà làm gì?

- Tao đi củi.

- Có còn đánh đáo nữa không?

- Tao đánh ách-xì, bài cào, không thèm đánh đáo nữa. À, bữa nào tao cho mày một cái ná cao su. Tao đi củi kiếm được nhiều cái chạng “ngon” lắm.

Sau đó, tôi càng ngày càng ít gặp Tộc dần. Có một độ nào tôi nghe Tộc mê con gái ông xã Chín nhưng bị cô này chê. Tộc thất tình bỏ ăn bỏ uống và đâm ra lừng khừng như người sắp điên. Người ta tưởng Tộc có thể nhào xuống Bầu Di hay cầu Ông Chừ để tự tử vì vụ thất tình này nặng lắm. Người nhà phải canh gác dòm chừng Tộc luôn. Nhưng bỗng một hôm Tộc mất tích. Cả nhà đổ xô đi tìm. Mẹ Tộc khóc mếu máo. Tự tử thật chăng? Nhưng tự tử sao lại mang hết quần áo, nịt, mũ và cái bi-đông nước theo làm gì? Tuy vậy mẹ Tộc vẫn khóc mếu máo đi tìm. Chợt nghe tin ở xóm Long Hòa con Lành, con ông Câu Hò, cũng mất tích đúng vào đêm đó. Ông Câu không khóc mếu máo mà chỉ chửi. Ông nốc rươu vào thật nhiều, - nhà ông nấu rượu lậu nên tha hồ cho ông nốc, - khiến mặt đỏ tía như một con gà đá rồi oang oang kể tội con gái ra mà chửi. Ông bảo con ông mê ngu mê dại một thằng chỉ có cái rựa và đôi dép cao su. Ông bảo cái nhà thằng đó không bằng cái chuồng heo nhà ông. Ông bảo con mẹ nó không đáng xách giày xách dép cho ông. (Say rượu rồi nói khoác vậy thôi chớ thực tế ông không bao giờ mang giày mang dép, chỉ thỉnh thoảng lắm mới mang guốc). Người ta đồn rằng hai đứa, Tộc và con Lành, rủ nhau bỏ đi hoang nhưng người ta không biết hai đứa đi đâu. Nhà Tộc nghèo không có phương tiện đi tìm xa còn nhà ông Câu đông con nên bỏ đi một đứa cũng không thiếu. Đi đâu thì đi, hết muốn đi thì về, chẳng ai thèm tìm. Tôi không phải là bà con của hai người nên tôi càng có lý do để không biết rõ hành tung của hai người sau đó.

Lẽ ra thì sự quan hệ giữa tôi và Tộc chỉ có thế, chỉ dừng lại ở mức đó mà thôi. Nếu không vì một thằng con thích ở trần và dang nắng thì tôi đã quên hẳn người bạn ngày xưa của tôi rồi. Cuộc sống bon chen bận rộn đâu có cho phép tôi năng nhìn về dĩ vãng để tìm gặp lại những dáng người quen? Vả lại, mỗi khi có dịp hồi ức tôi cũng ít khi chịu khó vẹt đám người đông đảo lẫn lộn ngày xưa để tìm cho ra đúng cái dáng gầy gò đen đủi của anh. Thế mà, ngược với ý muốn của tôi, sự việc đến đây vẫn chưa chịu chấm dứt. Trong khi tôi ngồi mơ màng nhớ đến anh, đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời anh mà tôi biết, giai đoạn bỏ nhà ra đi với đủ cả dây nịt và bi-đông nước, có thể với con gái ông Câu Hò vì đó chỉ mới là dư luận, ức đoán, thì có bất ngờ không, - ở một nơi xa xôi kia anh cũng nghĩ đến tôi. Một bức thư không mong đợi đem đến cho tôi sự khám phá êm đềm này. Số là cách đây chừng nửa tháng tôi nhận được một bức thư. Nhìn nét chữ lạ viết ở phong bì, nhìn con dấu nhà bưu điện Ban Mê Thuột, tôi rất hồi hộp. Tôi không thích những bức thư của người lạ vì nó hay làm cho tôi bồi hồi lo lắng. Ở Ban Mê Thuột tôi không chắc có người quen nào. Hay có ai gửi lầm chăng? Nhưng nhìn lại địa chỉ người nhận thư thì quả là tên tôi. Tôi lật đật xé toẹt phong bì, không kịp lấy kéo cắt. Nội dung bức thư như sau:

Ban Mê Thuột, ngày.... tháng.......

Thưa anh, tôi là Trần Văn Tộc. Anh có còn nhớ Trần Văn Tộc không, Tộc “Thạnh Xương” của các anh đó mà. Riêng tôi vẫn còn nhớ anh rõ lắm, anh học trò trắng trẻo mà tôi thường gọi đùa là “con chuột rụt rè”. Anh còn nhớ không, anh tức mình gọi lại tôi là “con mèo khiêu khích” nhưng thay vì con mèo mun (vì tôi đen) anh lại gọi ác là con “Bạch Tuyết”. Nhưng con mèo không vồ con chuột mà yêu con chuột lắm. Đến bây giờ xa cách vài mươi năm rồi mà vẫn nhớ đến con chuột đây.

Tôi có đọc mấy truyện của anh viết về những ngày thơ ấu của chúng ta khi còn học ở trường Ngân Sơn. Tôi cảm động nhớ lại những ngày xưa, nhớ lại ông Cai Tròn, nhớ lại thầy Nghĩa mà trong truyện anh đổi tên lại là thầy Hiền. Thầy Nghĩa đã chết rồi, chắc anh đã biết. Bây giờ ngồi nhớ lại thầy, tôi thấy tôi thương thầy hết sức. Đành rằng tôi học hành chẳng đỗ đạt được gì, nhưng đó toàn là lỗi của tôi. Tôi học dốt mà lại lười quá. Giá vào tay một thầy giáo khác thì tôi đã bị đuổi học lâu rồi. Thế mà thầy vẫn chịu đựng, vẫn chấp nhận tôi, vẫn cố dạy cho tôi biết rằng la mare là cái ao, le kilo là quả cân… những kiến thức đó, ra đời tôi không dùng được gì, nhưng chúng cho tôi một cảm tưởng êm đềm là ngày thơ ấu của tôi không đến nỗi bị bạc đãi. Lớn lên khi được biết rằng những người học trò tệ lậu như tôi dễ làm cho thầy giáo bị ghi điểm xấu, bị chậm tăng lương, chậm thăng ngạch trật, tôi thấy áy náy trong lòng vì tôi cho rằng sở dĩ thầy phải già đời ngồi dạy ở một xó nhà quê này, biết đâu chẳng phải vì tôi. Năm 1959 tôi và nhà tôi cùng mấy cháu có về quê thăm. Lúc bấy giờ tôi mới được biết rằng ngôi trường cũ của chúng ta ở đầu núi đã bị phá hoại vào những năm kháng chiến. Cây cà-te cao to, trụ sở của lũ ma quỉ mà ngày nhỏ các anh sợ, đã bị chặt mất rồi. Tất cả chỗ ấy bây giờ còn là khoảng không. Hình ảnh của chúng chỉ còn lại trong tâm hồn của chúng ta thôi.

Anh bây giờ đã được mấy cháu rồi? Tôi thì được năm cháu. Ba cháu lớn học ở Lycée Yersin. Vợ tôi cũng thường ở Đà Lạt hơn ở Ban Mê Thuột, chúng tôi có tậu được một vi-la ở cité Saint Benoit. Tôi bây giờ nhờ trời làm ăn cũng khá dư đủ. Có được hai nhà máy cưa và một rạp hát. Anh có biết tôi đặt tên cho rạp hát của tôi là rạp gì không? Chắc anh không đoán được đâu. Tôi đặt là rạp Thạnh Xương. Để nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa.

Thôi, giấy ngắn tình dài, chúc anh và quý quyến sức khỏe. Nghỉ hè rảnh rỗi mời anh lên Ban Mê Thuột chơi nghe? Tụi mình gặp nhau mới nói hết chuyện.

Nhớ ghi địa chỉ là:

Ông Trần Minh Thạnh
4I, đường Ama Trang Long
Ban-mê-thuột.

Đọc xong thư Tộc, - bây giờ là Trần Minh Thạnh, - tôi vui vẻ như chính tôi đã làm giàu, đã làm chủ hai nhà máy cưa và một rạp hát Thạnh Xương. Tộc không nói rõ về người vợ Tộc, tưởng như ai cũng đã biết rồi, nhưng tôi đinh ninh rằng đó là cô Lành con ông Câu Hò. Tôi tưởng tượng thấy một chiếc ô-tô sang trọng chở Tộc và cô Lành đỗ xịch trước cái quán của bà mẹ Tộc ở đầu làng. Bao nhiêu người hàng xóm bâu lại xem, trầm trồ bàn tán. Những đứa trẻ con ở trần và đen đỉu như Tộc ngày xưa đứng vây quanh chỉ trỏ, sờ mó. Chiếc xe ấy lại đỗ xịch trước nhà ông Câu Hò. Ông Câu Hò hẳn là thôi không chửi nữa. Nghĩ đến ông Câu tôi chợt cười thành tiếng. Tôi nhớ đến những đôi giày đôi dép tưởng tượng của ông ngày xưa khi ông cất tiếng chửi “thằng” Tộc đi hoang đã dụ dỗ con Lành ngu dại của ông. Niềm vui khi đọc thư Tộc tôi giữ cho đến suốt ngày. Tôi cảm thấy bớt đơn chiếc và cuộc đời dễ sống hơn. Tộc đại diện cho một loại nhân cách miễn nhiễm, không tà khí. Lúc nào cũng nghĩ tốt cho người, không ác ý, không đối phó, không bị lôi cuốn, và sẵn sàng làm điều tốt cho người, không mưu tính, không mặc cả. Tôi tin chắc sự làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng thương yêu thầy mà Tộc nói trong thư chắc chắn là thành thật chớ không phải là một lời sáo, một công thức xã giao. Những mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn đi học chắc chắn là không chịu sự chi phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển-lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời.



(1) la mare = cái ao
(2) lưỡi dao, cái hồ, cha đã thấy quả cân một ký, ở Hà nội có một cái cầu
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2012 11:01:58 bởi hai1957 >

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 19.11.2012 12:10:06
6. TIA NẮNG RỚT



Tiếng con Tô sủa kéo dài báo tin có khách đến. Người ở lục cục ra mở cổng. Có tiếng nói xì xào rồi tiếp đến tiếng giày sào sạo trên sỏi. Sơn ngẩng nhìn ra khung cửa. Ánh đèn chiếu ra vẽ một khung ánh sáng hình chữ nhật gãy đôi ở bực thềm. Chàng hơi bực mình vì có khách vào giờ này. Tám giờ rưỡi tối là giờ riêng tư, là giờ người ta bắt đầu sống cho riêng mình. Chàng chờ xem ai sắp quấy rầy mình.

Ở khung cửa hiện ra một người đàn ông tay xách va-li. Người ấy thấy Sơn, vội la lên:

- Anh Sơn! Vậy mà tôi cứ sợ lầm nhà.

- A, anh… anh Lộc!

Sơn mừng rằng mình đã nhớ kịp tên người bạn. Chậm một chút sẽ mang tiếng là vô tình biết bao. Lộc còn bỡ ngỡ, phần vì ánh đèn chói, phần vì con Tô hung tợn cứ án ngữ ở cửa nên chưa bước vào, còn Sơn thì còn lò mò chân tìm dép thì một người đàn bà hiện ra đứng bên cạnh Lộc. Sơn reo lên:

- A, có cả chị Thúy nữa. Chào chị. Hôm nay hai vợ chồng anh chị đi hưởng tuần trăng mật chắc.

Thúy cười:

- Chào anh. Lâu ngày quá bọn em mới xuống thăm anh.

Đôi dép đã tìm được rồi, Sơn vừa nhìn bạn vừa đứng dậy ra đón thì lại một người đàn bà khác hiện ra thêm.

Sơn lúng túng:

- A, còn…

Thúy đỡ lời:

- Có hai cô bạn nữa cũng…

Trong khi Thúy còn tìm chữ để nói tiếp thì Sơn đã ra đến hiên. Quả vậy, không phải chỉ một cô mà đến hai cô. Một cô đứng nép sau bồn hoa hoàng anh, tay mân mê một cành hoa nở. Sơn vội mời:

- Xin mời anh chị và hai cô vào nhà.

Một cái bắt tay, một nụ cười thân mật và hai cái nghiêng mình khe khẽ. Cả đoàn người vào nhà. Thấy những người mới đến không thù hằn với chủ mình, con Tô ngoắt đuôi mừng. Lộc và Thúy bỏ va-li lại ngồi ở xa-lông với Sơn. Hai cô bạn ngồi ở đi-văng.

Lộc nói:

- Bọn em ở Đà Lạt xuống. Nhân nghỉ lễ Khổng tử, tòa thị chính tổ chức cho anh chị em nhân viên xuống chơi Nha Trang ba ngày. Cả đoàn ăn nghỉ tại khách sạn Liên Mai. Bọn em muốn nhân tiện ghé lại ở chơi nhà anh. Hai cô bạn… à quên, quên chưa giới thiệu với anh hai cô bạn.

Lộc chìa bàn tay ngửa về phía từng cô:

- Cô Oanh thư ký tòa thị chính.

- Cô Trúc Đào, sinh viên.

Sơn cúi chào rồi giải bày trường hợp mình:

- Anh chị Lộc và hai cô ghé ở chơi, đối với tôi là một sự vui vẻ. Tôi chỉ sợ nhà tôi đơn chiếc, không có ai tiếp đãi chu đáo mọi người. Tôi sống độc thân với một người ở nhỏ.

Lộc ngắt lời:

- Anh khỏi phải lo, vì mọi người đều biết rõ hoàn cảnh của anh. Anh đừng bận rộn gì về chúng tôi hết. Anh cứ coi như không có chúng tôi ở đây.

- Và ngược lại, các bạn cứ tự do như chính ở nhà các bạn. Các bạn cứ coi như không có tôi ở đây.

Cả chủ lẫn khách cùng cười. Qua một câu thực tình mà tan hết giá băng của sự bỡ ngỡ. Câu chuyện hàn huyên tiếp theo liền. Những người quen ở Đà Lạt được nhắc đến cẩn thận. Như tra ở một quyển tự điển, tên của họ tuần tự được Sơn đọc lên. Lộc, Thúy làm nhiệm vụ giải thích.

- Vợ chồng anh Tân hả? Độ rày phát tài lắm. Vừa tậu thêm hai cái vi-la.

- Chị Bê giã từ Đà Lạt hơn một năm nay rồi. Sau khi anh ấy mất chừng sáu tháng, chị về Huế luôn.

- Cụ Sang ở bưu điện? Về hưu. Thằng Ngợi, - anh còn nhớ thằng Ngợi ngọng con cụ Sang không? - thằng Ngợi năm nay thi ra dược sư… Cô Oanh và Trúc Đào ngồi đó để nhắc chừng về những tin tức mới nhất của các nhân vật Sơn hỏi mà vợ chồng Lộc Thúy không nắm chắc tình hình.

Sau nửa giờ, câu chuyện uể oải. Những cái ngáp được khéo léo nuốt đi. Sơn đề nghị mọi người thay áo quần rồi rửa mặt đi nghỉ. Sắp đặt chỗ ngồi cho bốn người khách không phải là một việc dễ dàng. Sơn đưa chìa khóa tủ áo cho Thúy vừa bảo:

- Chị Thúy và hai cô tùy tiện sắp đặt chỗ ngủ. Con ở nhà tôi nhỏ, chỉ quen săn sóc một mình tôi thôi nên tôi chắc nó sẽ không làm vừa lòng các chị. Nó sẽ mau rối trí và nhất định thiếu sáng kiến. Các chị cứ mở tủ tự nhiên.

Một lát sau, ở bên phòng ngủ vang lên những tiếng cười vui vẻ. Họ pha trò với nhau, họ nghịch nhau khiến Sơn ngồi nói chuyện với Lộc ở phòng khách cũng thấy vui lây. Mười một giờ, Sơn và Lộc cùng sang phòng ngủ thì phòng ngủ đã được sắp đặt tươm tất. Ba người đàn bà mặc áo ngủ màu sặc sỡ trông như những cái hoa. Màu trắng của ba chiếc mùng đổ dài xuống, ánh đèn nê-ông lạnh, càng khiến cho vẻ mặt và màu áo của họ gây không khí ấm áp. Lộc chung giường với Sơn. Hai cô Oanh và Trúc Đào nằm một giường. Thúy nằm ở đi-văng. Vì Sơn vào giường trước nên bị Lộc đẩy vào nằm trong. Thành giường phía Sơn nằm hóa ra kề với thành giường bên cạnh. Không biết ai nằm ở kề mình chừng năm tấc kia. Sơn lắng nghe tiếng thở đều đặn, nhè nhẹ. Chàng nghe tiếng trở mình. Chàng khẽ nhìn sang; qua ánh sáng dịu của chiếc đèn giường, có một đôi mắt đen mở rộng nhìn mình.

Sáng hôm sau là ngày lễ. Mọi người đều ngầm cho phép mình dậy trễ như những nhà quí phái. Đến tám giờ thì nhà Sơn rộn hẳn lên. Những dáng người lướt qua, lộn lại từ phòng ngủ sang phòng rửa mặt làm Sơn hoa mắt. Chàng cứ lầm người này với người nọ. Bữa điểm tâm được thu xếp mau. Vì chỉ có một cái lọc cà phê cá nhân nên cô Oanh nhanh nhẹn đưa sáng kiến:

- Em sẽ có cách để hầu cà phê mọi người.

Nàng chạy tìm ở “xắc” một vuông vải mới rồi mở tủ lấy một cái bát sứ. Nàng trải vuông vải. Đổ cà phê vào. Nước sôi đổ tiếp theo. Nàng cầm thìa khuấy một lát rồi túm vuông vải bỏ ra một bên. Một bát cà phê đậm, thơm được chia ra năm tách.

Sơn khen:

- Cô Oanh nhanh trí quá.

Lộc nói:

- Anh chả phải khen. Huynh trưởng gia đình Phật tử đấy.

Sơn quay sang Trúc Đào:

- Còn cô?

Trúc Đào thẹn, má ửng hồng:

- Em kém lắm.

Sau bữa ăn sáng, cả năm người đi biển. Aùnh nắng gay gắt của Nha Trang làm cho hai cô Oanh và Trúc Đào bỡ ngỡ. Cứ đi một lát, họ lại nhìn mặt trời và nhìn xuống cánh tay mình. Có lúc họ đứng dừng lại, đưa tay kéo má của bạn lại xem màu má ửng hồng rồi khen:

- Ồ, chị đẹp quá.

Xuống biển, chỉ Lộc và Oanh tắm. Trúc Đào, Thúy và Sơn thuê ba cái ghế xếp nằm nhìn ra biển. Chín giờ bắt đầu có gió ngoài khơi hây hây thổi vào. Người tắm đông. Trúc Đào chỉ vào đám đông đang tắm, bảo Thúy:

- Chị Thúy này, sự cách biệt về tuổi tác, về tiền tài được giảm nhẹ hết sức giữa những người tắm biển. Chị thấy không, bỏ đi những vật bám theo như quần áo, đồ trang sức, ô-tô, con người ở trần và đứng trước vũ trụ có vẻ bình đẳng với nhau.

Sơn quay sang Trúc Đào:

- Cô triết lý…

Trúc Đào cười:

- Thưa ông, chỉ là một ý nghĩ vẩn vơ.

Sơn nhìn vẻ mặt của Trúc Đào. Đôi mắt dịu, mơ màng và do đó rụt rè. Môi có duyên nhưng hơi lạnh. Khuôn mặt của cô Oanh ấm áp hơn. Màu da ngăm ngăm và tròng đen của đôi mắt đen láy. Nụ cười tươi hơn, vui hơn. Sơn đang miên man suy nghĩ thì Thúy chỉ tay gọi:

- Kìa, anh xem bà kia. Đôi bắp chân no tròn và ngắn như hai củ hành.

Trúc Đào sắp sửa cười, bỗng giơ “xắc” che mặt. Nàng quay sang thân mật bảo Sơn:

- Mấy ông mãnh ở ghế bố bên kia cứ đặt ống dòm nhìn sang.

Thúy bảo:

- Nhìn sang Trúc Đào đấy.

- Không phải.

- Không phải sao Trúc Đào giấu mặt?

Sơn đỡ lời:

- Thật không phải đâu. Họ nhìn sang bà “củ hành” đấy mà.

Thúy và Trúc Đào phá ra cười.

Sau giấc nghỉ trưa, Lộc giục:

- Mời các bà các cô dậy đi thôi. Hai giờ rồi.

Tiếng Oanh hỏi:

- Thế hồi sáng họ hẹn với mình mấy giờ cùng đi hòn Chồng?

- Hai giờ.

- Chết chưa. Thế thì trễ mất rồi còn gì?

- Thì trễ mất rồi chứ sao!

Giọng Lộc đắc thắng. Trúc Đào vừa ngồi dậy xong, liền nằm xuống trở lại:

- Đã lỡ trễ rồi thì thôi, nằm ngủ luôn.

Lộc la lên:

- Không được đâu. Dậy đi thôi, các bà ơi. Tôi nói thế chứ thật ra mới có hai giờ kém mười lăm. Các bà trang điểm mau lên thì vừa.

Các bà dậy trang điểm theo lời Lộc yêu cầu nhưng nhất định không mau lên tí nào hết. Họ vừa cười đùa, vừa nghịch nhau, vừa chải đầu. Họ khen nhau tóc mịn, chê nhau tóc rụng, rồi từ đó chuyển sang hàng uốn tóc lạnh, rồi kiểu tóc Lý Lệ Hoa. Với Lý Lệ Hoa, họ xâm nhập vào địa hạt điện ảnh quốc tế với Deborah Kerr, James Stewart… Đến một lúc hăng tiết, họ bỏ cả lược, bỏ cả thỏi son, bỏ cả “húp” phấn để hùng biện. Lộc lại thúc giục:

- Hai giờ đúng rồi, trời ơi!

Họ cười xòa nhận lỗi rồi lại tiếp tục chải, bôi môi, thoa phấn. Tay dịu dàng, mắt mê mãi, họ đắm đuối nhìn bóng mình trong gương. Sắc đẹp làm cho họ thận trọng tay. Họ chầm chậm quay qua, chầm chậm nhìn lại, chầm chầm ngước mắt lên, chầm chậm nhếch mắt một tí, mỉm cười một chút. Thật đúng là những con hổ uyển chuyển, không vội vàng vì tin chắc ở sức mạnh của mình. Tiếng giày sốt ruột, tiếng giày hậm hực của Lộc cứ tha hồ nện. Lúc mặc áo xong, bôi nước hoa xong, lũ lượt bước ra đến cổng thì đồng hồ vừa chỉ đúng hai giờ rưỡi.

Trên giường, bỏ ngổn ngang những đống quần áo. Ở mắc áo đầy ắp những chiếc áo dài màu sặc sỡ. Sơn nhìn giây lâu những chiếc áo dài, tưởng tượng thấy những thân hình uyển chuyển mà chiếc áo đã ôm ấp. Vải ni-lông mịn láng như da thịt. Chàng bước lại gần một chiếc áo ai mắc ở cây trụ màn. Một mùi nước hoa nhẹ thoang thoảng, mùi nước hoa tử-la-lan thầm kín. Và cũng thầm kín, có thoáng mùi thơm của da thịt. Lòng Sơn xúc động. Chàng bỗng thấy người đàn bà quí giá hết sức đối với cuộc sống của một người đàn ông như chàng. Nét tươi đẹp của giọng nói, mùi thơm của đôi má, đôi môi… bẳn đi từ lâu lắm rồi, chàng đã quên nghĩ đến một người đàn bà. Cuộc sống tạm đầy đủ với ăn, ngủ, đọc sách, đi dạo và làm việc. Bấy nhiêu công việc choán hết thì giờ của chàng khiến chàng quen dần với nếp sống bình lặng, thản nhiên. Bóng dáng một người đàn bà dịu dàng thỉnh thoảng cũng có lướt nhẹ qua tâm trí chàng nhưng chàng đều cố gạt đi. Chàng nghĩ đến những sự phiền phức do người đàn bà đem đến để khỏi phải suy nghĩ lâu. Không ngờ hôm nay…

Có tiếng gót giày gõ nhẹ ở ngoài hiên. Sơn bước ra phòng khách thì thấy Trúc Đào.

- Sao cô về sớm thế?

- Em không thích đi.

- Mấy người kia đâu?

- Thưa ông, họ đi hòn Chồng.

Ngần ngừ một giây. Trúc Đào tiếp:

- Vợ chồng anh Lộc chị Thúy động một tý là cãi nhau. Em bực mình nên bỏ về.

Sơn nhún vai:

- Cãi nhau theo kiểu Lộc Thúy, đó là một hình thái yêu nhau khi vợ chồng đã bắt đầu có tuổi. Dĩ nhiên đó không phải là hình thái duy nhất… chắc cô hiểu thế.

Trúc Đào lắc đầu:

- Em không hiểu.

Sơn cười:

- Thế thì để rồi sau này cô sẽ hiểu.

Trúc Đào cũng cười vì câu trả lời ngộ nghĩnh trái với điều nàng mong đợi. Điều nàng mong là được nghe Sơn kể những hình thái yêu đương mà chàng biết và nàng tò mò muốn biết.

Một luồng gió nhẹ nhàng qua. Trúc Đào thở hít vào một hơi dài, ngẩng một lát như suy nghĩ rồi hỏi:

- Mùi hương của hoa gì mà thơm quá?

Sơn hỏi lại:

- Cô không biết là hoa gì sao? Hoa trúc đào đấy.

- Trúc đào?

- Vâng. Đúng vào tên cô.

- Em chưa biết có thứ hoa ấy.

- Dĩ nhiên. Ở Đà Lạt làm gì có trúc đào. Cô ra đây mà xem.

Trúc Đào bước theo Sơn. Chàng chỉ một bụi hoa màu hồng rồi nói:

- Đây là một bụi trúc đào. Lá dài thon như lá trúc, chắc vì thế mà người ta gọi là trúc đào. Hương hoa thơm đậm lắm.

Sơn đi sang một bụi hoa màu trắng:

- Đây cũng là trúc đào nhưng hoa trắng. Cánh hoa màu trắng. Màu lá cũng xanh nhạt hơn. Cô thấy không?

- Vâng. Và mùi hương cũng nhạt hơn. Em thích mùi hương này quá. Ở Đà Lạt có trồng được hoa này không hở ông?

- Tôi chưa thí nghiệm, nhưng chắc được.

- Thế thì em phải trồng ở vườn nhà em mới được. Người ta trồng bằng cách nào hở ông?

- Cắt cành mà giâm.

- Thế ông giâm cho em nhé? Em xin ông mỗi thứ một cành giâm.

- Tôi sẵn sàng mỗi thứ hai cành cũng được, nhưng làm sao gởi lên Đà Lạt cho cô?

- Điều đó ông không lo. Nghỉ No-en em sẽ xuống Nha Trang để bứng về.

Sơn gật gù:

- Tôi tưởng tượng thấy vườn nhà cô đầy những hoa trúc đào và cô sẽ ghi ở trụ cổng: “Biệt thự Trúc Đào”. Người khách qua đường sẽ tự hỏi không biết Trúc Đào là tên hoa hay tên chủ nhân.

Trúc Đào mỉm cười. Chợt nàng kêu to lên vừa đi nhanh về một dãy chậu hoa hồng:

- Ô! Ông trồng nhiều hoa hồng như thế này cơ à. Em tưởng ở Đà Lạt mới trồng được hoa hồng đẹp.

Nàng áp một đóa hồng nhung vào má mình và kéo một đóa hồng sen để lại gần mũi:

- Mùi thơm ngọt quá. Mà…

Nàng quay sang Sơn lúc bấy giờ đã lại đứng gần nàng:

- Mà sao ông trồng nhiều hoa hồng thế? Hay là… ông yêu một cô Hồng nào đó?

Sơn cười:

- Không chắc. Hình như tôi chưa yêu một người nào có tên như thế. Tôi không hay rắc rối. Trồng hoa là một việc mà yêu là một việc khác, hai việc có can hệ gì đến nhau đâu?

- Nhưng em vẫn có cái thắc mắc này là… sao ông chưa có vợ. Hay là ông không yêu ai?

- Có chớ! Có chớ! Nhưng yêu và cưới vợ là hai việc khác nhau cũng như yêu và trồng hoa vậy?

Trúc Đào ngần ngừ:

- Trước khi xuống Nha Trang, anh chị Lộc có cho em biết về ông. Biết đại khái thôi, tất nhiên, nhưng trong những nét đại khái ấy có việc ông mãi không lấy vợ. Xin lỗi là em đã tưởng tượng ông dưới những vẻ không đúng với sự thật chút nào hết, những vẻ mà mỗi lúc nghĩ đến thấy em có lỗi với ông hết sức.

Sơn lắc đầu:

- Chẳng sao. Những người lạ bao giờ cũng dễ bị ghét một cách bất công. Nhưng anh chị Lộc cho cô biết một cách đại khái về tôi như thế nào?

- Dạ… anh chị ấy nói rằng ngày xưa ông có yêu một người nhưng sắp lấy nhau thì chiến tranh xảy ra, mỗi người lạc một phương. Ông đợi suốt mười năm cho đến ngày đình chiến. Trở lại cảnh cũ thì người yêu đã lấy chồng. Từ ấy đến nay sáu năm đã trôi qua, ông cứ ở mãi vậy. Có phải đúng thế không?

Sơn chỉ mỉm cười không đáp.

- Anh Lộc nói từ lần thất bại đó ông không còn cảm tình với đàn bà nữa. Nay được nghe ông nói chuyện mới biết là anh Lộc đã lầm. Nhưng đã không mất cảm tình với người đàn bà thì đáng lẽ ông đã cưới vợ rồi chứ?

Thấy Sơn vẫn không trả lời, nàng giục:

- Sao? ông có thể cho em biết vì sao ông mãi không lấy vợ không?

Sơn nhíu mày nhìn Trúc Đào một cách ranh mãnh:

- Nhưng tại sao cô lại muốn tò mò hỏi kỷ thế?

Trúc Đào cười tự nhiên:

- Đó là câu hỏi vốn ám ảnh em và một số những bạn thân của em. Đó là một vấn đề xã hội, có thể nói là vấn đề của chúng em cũng không sai. Người đàn ông là đồng minh của người đàn bà, vậy hiểu rõ đồng minh của mình là một điều cần thiết.

- Nhưng…

Trúc Đào giơ tay ngăn lại;

- Ông chiều em một tí đi. Oâng thử nói xem vì lý do gì…

- Có lẽ…- Sơn ngần ngừ,- vì tôi tham lam quá.

- Không có vợ vì tham lam? - Trúc Đào mở to mắt ngạc nhiên.

- Hình như vậy. Tôi muốn được hết mà không mất một chút gì. Yêu bao giờ cũng có lãi. Cưới vợ thì… chưa chắc

Sơn cười và Trúc Đào cũng thích thú cười theo. Thấy ánh nắng chiếu vào chỗ nàng đứng, Sơn bảo:

- Mời cô vào nhà.

Trúc Đào đi vào và chàng cũng chậm rãi bước theo. Nàng lại ngồi ở ghế xa-lông và Sơn ngồi đối diện.

- Thế ông có nhiều người yêu không? - Trúc Đào đột ngột hỏi

- Tôi không biết từ bao nhiêu mới được gọi là nhiều. Nhưng chủ quan mà nói thì hình như ít lắm.

Khi Sơn dứt lời nàng chậm rãi nói:

- Nhiều lúc em cũng nghĩ như ông vậy. Khi yêu người ta chỉ biết đến quyền lợi mà khỏi có bổn phận. Khi lấy chồng thì hình như chỉ bổn phận là chắc chắn có mà thôi. Còn quyền lợi… Nàng vung nhẹ bàn tay vừa bĩu môi tỏ vẻ hoài nghi.

- Sáng nay ngẫu nhiên em cầm một quyển sách ở bàn viết của ông mở ra xem. Bìa đóng gáy da, em tưởng là sách, không ngờ mở ra thấy là một quyển vở. Em tò mò đọc một vài trang. Xin lỗi ông, - chỗ này nàng đổi giọng, nói nhỏ hơn nên thân mật hơn, - nếu anh Lộc chị Thúy không nói về ông thì em đã không tò mò như thế.

- Thế cô đọc được gì?

- Đoạn ông nói về cô… gì ấy, em không đọc được tên. Tên cô ấy ông viết bằng chữ Tàu thì phải.

Sơn gật đầu:

- Đúng rồi. Tôi viết bằng chữ Hán.

- Người yêu của ông là một cô gái Trung Hoa?

- Không phải, cô ấy là người Việt như cô vậy. Nhưng để tránh những con mắt tò mò, - xin lỗi cô, không phải tôi dám ám chỉ cô đâu, - để tránh những con mắt tò mò, tôi viết tên cô ấy bằng chữ Hán.

- A! Ngộ nhĩ!

- Không phải đó là phương pháp độc nhất. Tôi có thể viết bằng một tên Pháp hay tên Anh. Chẳng hạn nếu người đẹp của tôi giống một nhân vật nào trong một quyển tiểu thuyết Pháp hay Anh mà tôi đã đọc thì tôi có thể lấy tên nhân vật trong truyện mà gọi nàng. Cũng có khi tôi biên đúng tên nàng nhưng đảo ngược vị trí các chữ. Ví dụ tên Hòa, sẽ biến thành Hào, Mai thành Mia.

Trúc Đào gật gù lý thú:

- Nếu tên em thì ông viết chữ Tàu như thế nào?

Sơn rút cây bút máy và kéo ở bàn xa lông ra một tờ báo.

Chàng xích lại gần nàng, viết ngoằn ngoèo một chữ Hán lên lưng tờ báo rồi nói:

- Đó, tên cô đó.

Chàng viết lại hai lần chữ “Đào” và Trúc Đào xuýt xoa thấy tên mình hiện ra dưới một hình thức quái dị nhưng có vẻ cổ kính trang nghiêm.

- Tôi cũng có thể viết tên cô bằng cách đảo lộn vị trí các chữ. Tôi viết thế này chẳng hạn “Sáng chủ nhật 20 tháng 9. Đóa hỏi: Sao ông không lấy vợ?”

Trúc Đào cười lên:

- Đóa hỏi sao ông không lấy vợ. Đóa, cái tên nghe hay đấy ông nhỉ? Còn nếu ông muốn viết tên em bằng chữ Pháp?

Sơn giơ một ngón tay ngắt lời ngay như chàng đã có sẵn ý kiến.

- Không khó. Tôi đã chuẩn bị rồi. Khi vừa gặp cô, tôi thấy cô có những vẻ gì hao hao giống nàng Dominique trong phim “Nụ cười xuân”. Ừ, tôi thấy rồi. Khi cô ngẩng mặt lên đợi chờ, đợi chờ một câu trả lời, đợi chờ một ý mà cô đang tìm thì quả cô giống cô đào Christine Carrère đóng vai Dominique hết sức. Vậy thì khi cần viết tên cô, tôi có thể thay bằng Dominique.

Trúc Đào gật gật đầu:

- Sáng kiến này của ông hay lắm đó vì ông sẽ nhớ kỹ những người mà ông đã gặp. So sánh để tìm nét giống nhau giữa một người với người khác, như thế là gián tiếp ông đã ghi nhận những nét độc đáo của người ấy.

Vừa lúc ấy có tiếng cười nói của Thúy, Oanh vang lanh lảnh ở trước cổng. Ba người bạn đã đi du ngoạn về. Thấy Trúc Đào ngồi đối diện với Sơn ở xa lông, Oanh tru tréo lên:

- Thế mà làm người ta chạy tìm sáng mắt. Cứ tưởng mẹ mìn nó dỗ đi đâu mất rồi.

Lộc nhìn Sơn, nói giễu cợt:

- Mẹ mìn này hiền lành nên chỉ lo cô Trúc Đào dỗ mẹ mìn đi thì có.

Sơn nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng đang tinh nghịch nhìn chàng.

Trúc Đào hỏi:

- Đi hòn Chồng có vui lắm không?

Nhưng không đợi cho Oanh trả lời, nàng đứng dậy đi ra giếng nước. Đi qua trước mặt Sơn, nàng thấy Sơn giơ tay ra hiệu giữ lại. chàng lấy giọng tự nhiên nói:

- Lúc nãy tôi bảo cô rằng tôi không lấy vợ vì tham lam quá. Điều đó chưa chắc đúng. Có lẽ đó chỉ là một lý do trong rất nhiều lý do phức tạp, chẳng hạn tâm tính sở thích… Nhưng thôi, phải đợi một dịp khác có nhiều thì giờ hơn chúng ta mới có thể thỏa thuận về điểm khúc mắc này.

Dịp ấy, Trúc Đào tưởng là hôm sau, khi Sơn đề nghị với nàng đi lên Ngọc Hội xem lò gốm. Đêm đó, trước khi ngủ, dù vẫn ậm ừ chịu chuyện với Thúy và Oanh, nàng vẫn không thể không để óc mình vấn vương vì Sơn. Chàng có những vẻ gì khác với những người bạn trai cùng lứa với nàng. Cố phân tích cho rõ, nàng thấy Sơn một sự điềm đạm cuốn hút, một sự lễ độ bề ngoài lạnh nhạt nhưng chứa đầy nhiệt tình. Những bạn của nàng họ vội vàng quá, họ trắng trợn quá, họ say đắm quá, khiến họ như lúc nào cũng bị men rượu làm choáng váng… Thế mà nàng thì nàng yêu một cái gì nhẹ nhàng hơn, một tiếng thoáng qua, một màu sắc nhạt. Nàng sợ sự tàn bạo. Yêu vồ vập thì chóng quên chóng nhạt. Aø, nàng thấy ra rồi, sự cuốn hút nơi Sơn còn do ở tấm lòng chân thành chàng đối với người yêu cũ, ở sự thận trọng chàng đối với những tình yêu mới. Trước mắt nàng Sơn như một con chim lạ. Nàng thấy mơ hồ một sự cảm mến đối với chàng, đồng thời như có sự tò mò giục nàng thử khám phá xem sao. Người trầm lặng dễ làm đích cho nhiều sự khám phá. Nàng đã chán vì nhiều bạn của nàng sống hời hợt quá nên chưa kịp có một cá tính, có một nội dung. Họ như những quyển sách dở chỉ khác nhau ở cái bìa cái tên sách còn nội dung thì na ná như nhau. Mặc áo và cạo râu, sáng trưa đi làm, ăn uống, tiêu khiển.. bấy nhiêu công việc lặp lại đều đặn ở người này cũng như ở người kia, giống y như những tình tiết yêu đương, trắc trở, nước mắt, nụ cười… trong những quyển tiểu thuyết dở. Dù chưa nếm nhiều nhưng quả tình nàng thấy chán. Theo nàng, Sơn có đời sống nội tâm khác hơn những bạn mà nàng biết. Những nếp cảm xúc tinh vi của chàng chắc chắn sẽ dành cho sự khám phá của người đàn bà những thích thú bất ngờ. Khám phá! Nhưng nàng vụt nghĩ: Khám phá để làm gì? Ừ, khám phá để làm gì? Câu hỏi đến với nàng đúng lúc như một tiếng vang. Để làm gì? Nàng sắp lấy chồng. Ý nghĩ về Khiêm, người chồng sắp cưới của nàng dồn dập đến, vồ lấy tâm hồn nàng khiến nàng khó chịu. Nàng lắc đầu, muốn xua đuổi không nghĩ đến. Nàng quay sang lay Oanh:

- Chị Oanh ơi! Dậy nói chuyện với em đi. Sao ngủ chóng thế.

Tâm trạng ấy của Trúc Đào, Sơn không hay biết gì hết. Khi chàng đề nghị cùng nàng lên thăm lò gốm, chàng vui vẻ thấy nàng vội vàng bằng lòng và từ chối không đi với đoàn ra thăm Ba Hồ. Nhưng Oanh, khi nghe Sơn đề nghị lên thăm lò gốm thì Oanh cũng reo lên:

- Em cũng đi với. Từ nhỏ đến giờ em chưa bao giờ được xem người ta làm đồ gốm. Em đi với có được không, ông Sơn?

- Được lắm chớ. Hoan nghênh là khác.

Ba chiếc xích lô đi theo hàng một đưa ba người lên Ngọc Hội. Đoạn đường này không vui vì Trúc Đào không có dịp để nói chuyện vui vẻ cùng Sơn, mặc dù nàng đã khéo xếp đặt để xe nàng đi sát gần xe Sơn. Muốn thế, khi ra xe nàng đi chần chừ đợi cho Oanh ra trước để Oanh bước lên xe trước. Nàng đi xe giữa và Sơn vì bận phải khóa cửa nên ngồi xe sau. Ngồi nhìn ra trước, mắt Sơn chạm phải cái ót trắng của Trúc Đào với mớ tóc nâu uốn vắt lên cao. Lâu lâu, Trúc Đào lấy cớ nhìn theo một ngôi nhà, một cây dừa nước, một cái xe ngựa chạy ngược chiều để quay lại. Và mỗi lần như vậy nàng không quên câu trả lời cái nhìn của Sơn bằng một nụ cười lặng lẽ.

Đến đầu con đường rẽ vào xóm thì xe dừng lại. Ba người xuống đi bộ. Đoạn đường này rải đá nhưng lâu ngày không tu bổ nên đất trôi đi hết còn lởm chởm đá. Hai nàng nhón bước trên những mũi đá dăm, tinh nghịch cười khi có viên đá lăn tròn dưới gót giày. Sơn thấy lây cái vui hồn nhiên của họ.

Những vườn dừa chạy dài liên tiếp rải bóng mát xuống mặt đường. Từng chặng, lá dừa đan kín trên đầu, nhìn không thấy trời. Hai bên đường, nhà cất san sát nhưng cái lòi ra, cái thụt vào, cái nhìn thẳng ra đường, cái quay hông nhìn sang hướng khác. Nhà lợp lá dừa và vách trát đất nên thuần một màu xám đậm. Cách khoảng, chen vào một ngôi nhà gạch nhỏ nhắn với cửa sơn xanh lá cây, vách quét vôi xanh nhạt trông như một cô gái quê làm đỏm. Oanh nói:

- Ở đây sự sống yên tĩnh dễ chịu quá. Có lẽ được sống ở đây quanh năm thì tim em chỉ còn đập sáu mươi nhịp trong một phút.

- Ai cấm chị không được sống ở đây? - Trúc Đào hỏi.

- Sự lười biếng, sự rụt rè không dám thay đổi một nếp sống cố hữu. - Oanh mơ màng trả lời.

Sơn chỉ một bà cụ già ngồi trước hiên một ngôi nhà xiêu vẹo đang nheo mắt vá áo. Chàng nói:

- Đó là hình ảnh của hạnh Phúc theo cô Oanh quan niệm đó. Tim của bà cụ này chỉ còn năm mươi lăm nhịp đập trong một phút thôi.

Oanh và Trúc Đào cùng phá ra cười ầm ĩ khiến những khuôn mặt ló ra ở các khung cửa sổ. Vài người bước hẳn ra hiên nhìn đăm đăm vào hai nàng.

Quá chợ Mới con đường nhỏ lại và nện đất. Nhà nối tiếp thưa thớt hơn. Thỉnh thoảng đôi mắt được nghỉ ngơi trên những cánh đồng mía lá xanh rờn rợn. Tiếng bàn chuốc rập rình ở một cái trại nhỏ vang ra. Sơn giảng:

- Đã tới xóm lò gốm rồi đó. Tiếng rập rình mà hai cô vừa nghe là tiếng bàn chuốc.

Oanh định hỏi “bàn chuốc là cái gì?” nhưng nàng dừng lại không hỏi. Nàng nghĩ: Trúc Đào nhất định cũng không biết bàn chuốc là cái gì nên thế nào Trúc Đào cũng hỏi. Nhưng Trúc Đào đang lơ đãng nhìn một ánh nắng đang chiếu vàng trên đọt dừa cao. Nàng bảo Sơn:

- Ông Sơn ơi, ông xem kìa, ánh nắng chiếu trên đọt dừa kia. Từ sáng đến giờ trời âm u mình cứ lo đi chơi mắc mưa.

Sơn đưa mắt nhìn rồi nói:

- Nhưng không nắng lâu được đâu. Lóe một chút rồi tắt ngay. Nhưng được cái là vẫn tốt hơn mưa.

Chàng đưa hai người bạn vào một trại lò gốm. Trước sân, những miếng gạch vừa đổ ra được sắp hàng để phơi khô. Ở bàn chuốc, một người đàn bà dùng chân đẩy cho cái bàn xoay còn một người đàn bà khác đưa hai tay kéo một con đất cho thành hình cái chậu. Oanh thấy lạ, đứng chăm chú nhìn rồi hỏi tíu tít người đàn bà:

- Bà đẩy bàn có nặng không? sao bà chuốc không méo? Lỡ méo thì bà làm sao? Mấy ngày thì cho vào lò? Mỗi ngày bà làm được bao nhiêu tiền? Bà có ở gần đây không? Bà được mấy con?…vân vân…

Hai người đàn bà chia nhau trả lời. Họ không tỏ ra khó chịu vì những câu hỏi của Oanh mà họ cho là ngây thơ. Sơn để cho Oanh và Trúc Đào say mê với những phát kiến mới của họ. Chàng bước ra sân, đi men ra vườn, đứng nhìn xuống một con lạch nhỏ. Nước đứng im sừng sững in bóng những bè rau muống, những khóm bèo lục bình đơm hoa tím. Một con chim bói cá đậu trên một cành tre nhỏ sát mặt nước, phải nhìn kỹ lắm chàng mới trông thấy. Chàng cúi nhặt một miếng mẻ ngói giơ tay định ném con chim thì có tiếng chân bước lại gần và một tiếng “suỵt” khe khẽ. Chàng quay lại: Trúc Đào. Nàng giơ một ngón tay lên miệng, mở to mắt:

- Ông sắp ném chim hả? Sao ông ác thế?

- Tôi ném trăm lần trật cả trăm. Cô đừng lo.

- Con đường nầy đi về đâu thế ông?

- Đường này xuống ngõ Phương Câu.

- Phương Câu, - nàng mím môi suy nghĩ, - Phương câu chắc là giống Bích Câu ông nhỉ? Cảnh đẹp như thế này mà.

Nàng bước ra đường và tự nhiên Sơn cũng bước theo. Những cây ô mai, cây khế, cây mít ở các vườn nhà người ta đều làm cho nàng xuýt xoa. Mấy đứa bé thấy nàng mặc áo sơ mi ngắn quần tây dài bó đùi, đi sát theo tò mò nhìn. Một đứa chạy ù ra trước vói tay gọi mấy đứa khác:

- Ra coi vợ chồng ông bà này bay ơi! Bà vợ bận quần tây.

Sơn hơi ngượng vì sự hiểu lầm của đứa bé. Chàng đưa mắt nhìn sang Trúc Đào nhưng không thấy nàng tỏ vẻ khó chịu nào cả. Nàng tươi cười trỏ một ngón tay về phía đứa bé, ra dấu dọa nạt:

- Nói nhảm đấy nhé? Đánh chết.

Rồi quay sang Sơn, nàng nói, miệng vẫn giữ nụ cười:

- Lũ nhỏ quan niệm rằng một người đàn bà và một người đàn ông đi với nhau thì phải là hai vợ chồng.

- Cả người lớn cũng quan niệm như vậy.

- Tội nghiệp - Trúc Đào chép miệng.

Nàng định nói thêm thì chợt nhìn xuống một vũng nước rộng nằm trải suốt mặt đường.

Mấy ngày trước trời mưa nên mặt đường lỗ chỗ những vũng nước. Sơn đã nhún chân nhảy qua đứng ở bên kia vũng đợi. Trúc Đào ngắm nghía vũng nước nhún chân mấy lần nhưng không dám nhảy qua. Nàng đưa mắt tìm một lối đi ven hai bên bờ đường nhưng không có lối. Sơn đưa thẳng bàn tay ra nói:

- Cô nắm bàn tay tôi mà nhảy qua. Như vậy chắc khỏi ngã.

Trúc Đào tươi cười ngay:

- A! Phải đấy. Thế mà em không nghĩ ra được.

Nàng giơ tay cầm lấy bàn tay Sơn, nhún chân nhảy. Đà nhảy mạnh đẩy nàng sát vào người Sơn. Chàng nhìn vào đôi má hồng của nàng mơn mởn lông tơ. Đôi mắt đen nháy long lanh sáng. Mùi nước hoa ở mái tóc thoang thoảng. Chàng nhìn xuống bàn tay mà chàng còn giữ lại: ngón trắng thon và cổ tay tròn trĩnh, Trúc Đào chầm chậm rút tay ra khỏi lòng bàn tay của chàng. Sự việc xảy đến nhanh quá khiến nàng có cái thú ngây ngất của sự bất ngờ. Im lặng một giây, nàng khẽ bảo:

- Chết! Chúng ta bỏ quên chị Oanh ở lò gạch. Phải trở lại kẻo chị trách.

Sơn không trả lời. Hai người nhảy trở lại vũng nước nhưng lần này nàng không nắm tay Sơn nữa. Tuy vậy, để phòng xa đường trơn, nàng nhảy ngay vào chỗ Sơn đang đứng đợi.

Đi chừng vài mươi bước, Sơn cảm thấy buồn. Có lẽ Trúc Đào cũng nghĩ như vậy chăng nên liếc nhìn sang nàng, Sơn thấy nàng cắn môi. Con đường về không có gì lạ. Cuộc phiêu lưu đã chấm dứt ở từ cái vũng nước ngang đường. Đến ngã tư thì hai người thấy Oanh đang ngơ ngác đưa mắt tìm. Đón trước trước lời trách của Oanh, Trúc Đào bước nhanh đến vừa tươi cười nói:

- Em đi lạc đường…may có ông Sơn…

Hơi ngượng vì lời nói dối nên Trúc Đào ngần ngừ không nói hết câu. Sơn tự hỏi: Trúc Đào nói dối làm gì? Nhìn sang Oanh thấy Oanh không tỏ vẻ nghi ngờ gì hết, Sơn bảo:

- Nếu chúng tôi không đến kịp thì cô cũng sắp đi lạc đường rồi đó. Tôi tưởng cô đang say mê với lũ chum, vại, gạch, ngói của hàng lò gốm.

Oanh reo lên:

- Ồ! Thích quá khi được nhìn hai bàn tay dịu dàng của người thợ chuốc biến con đất sù sì ra cái chậu, cái vung. Thật không ngờ một người đàn bà cục mịch như thế lại khéo tay như vậy. Hay quá. Thật là một cuộc đi chơi đầy thú vị.

Trúc Đào đưa mắt nhìn sang Sơn thì bắt gặp tia mắt của Sơn nhìn mình. Cả hai như cùng muốn nói: chúng tôi cũng vừa thấy như vậy.

Con đường về như ngắn hơn lúc đi. Cảnh nhà cửa cảnh cây cối trên đường và những khuôn mặt, mới gặp một lần mà như đã quen lâu rồi. Oanh và Trúc Đào không tò mò nhìn nữa nên bước chân đi mau hơn. Tuy vậy, có những chi tiết lúc đi không lưu ý, đến chừng về hai người mới thấy. Chẳng hạn cái cầu đá uốn vòng như lưng mèo với cái vòm cong ở dưới hình bán nguyệt. Nước đục mang những bè rác chảy lờ đờ. Chẳng hạn cái lều chợ bằng ngói nằm giữa những bức tường thành cao của mấy ngôi nhà xung quanh. Oanh nói:

- Đi xem cảnh phải xem một lần đi và một lần về mới thấy hết, nhớ hết. Cũng như học bài vậy. Phải học ôn thì mới khỏi quên.

- Đúng thế, - Sơn trả lời. - Nhưng chỉ tiếc là điều nhớ hôm nay, ta sẽ quên ngày mai, ngày kia.

Ba người im lặng bước. Một lát sau, Trúc Đào chậm rãi nói:

- Quên là một bắt buộc của cuộc đời chứ bản tâm con người thì muốn nhớ hết, nhớ hết.

Câu nói của Trúc Đào khiến Oanh quay nhìn sang Sơn có ý dò hỏi. Sơn cất tiếng cười để lấy vẻ tự nhiên:

- Khi mỏi chân thì cô Trúc Đào có những tư tưởng rất thâm thúy.

Trúc Đào cười và Oanh cũng cười theo.

Vui chân, ba người đi bộ mãi đến Phật học viện mới gọi xích lô về nhà. Đến ngã Sáu Nhà Thờ, những tấm vải quảng cáo tuồng chiếu bóng chữ viết xanh đỏ bắt mọi người lưu ý.

Trúc Đào kêu lên:

- Ô! Tối nay rạp Tân Tân chiếu phim Gidget. Phim này hôm chiếu ở Đà Lạt em trật xem. Vậy tối nay phải đi xem mới được. Ông Sơn đã xem chưa?

- Chưa

- Vậy tối nay mời ông đi với em nhé?

- Đồng ý. Mời cô Oanh cùng đi luôn.

- Cám ơn ông. Em đã xem rồi.

Tiếng phát lách cách của ba chiếc xích lô làm con Tô sủa vang lên. Con bé ở ra mở cổng. Khi bước vào sân, Trúc Đào vui vẻ nói:

- Em rất thích Sandre Dee. Để rồi tối nay ông cũng sẽ yêu Sandra Dee như em.

Vừa lúc ấy con bé ở lại đi gần nàng.

- Thưa cô, lúc nãy có người đến hỏi cô.

- Người ấy ra thế nào? đàn ông hay đàn bà?

- Thưa cô đàn ông.

- Nhưng người ấy hỏi cô nào? Cô Oanh hay tôi?

- Thưa cô người ấy hỏi: Cô Trúc Đào có ở nhà không? con thưa rằng cô đi vắng thì ông ấy bảo về thưa lại với cô tối nay ông ấy đến.

- Ông ấy người ra thế nào?

Con ở lúng túng không biết nên tả ra thế nào. Rồi như chợt nhớ ra, nó vui vẻ nói:

- Ông ấy đi bằng ô tô.

- Bằng ô tô?- Trúc Đào chau mày lật đật hỏi.- Ô tô nhỏ?

- Thưa cô, vâng. Ô tô nhỏ màu vàng nhạt.

Nét mặt của Trúc Đào sa sầm xuống.

- Cô có điều gì không bằng lòng?

Sơn hỏi nhỏ:

Trúc Đào lắc đầu:

- Thưa ông không.

Rồi nàng lẳng lặng vào phòng.

Vợ chồng Lộc Thúy đã đi xuống khách sạn để ăn chung với đoàn du lịch. Đã trễ giờ nên Sơn mời Oanh và Trúc Đào cùng ăn với mình. Mặc cho những lời vui đùa của Sơn và của Oanh, Trúc Đào có vẻ không vui.

Ăn tối xong, nàng giục Sơn:

- Chúng ta chuẩn bị đi xi-nê đi.

Sơn nhìn vào đồng hồ tay:

- Còn sớm quá, chín giờ mới chiếu mà bây giờ mới tám giờ kém hai mươi.

- Chúng ta có thể đi một vòng ở phố Độc Lập rồi vào rạp sau.

- Nếu cô muốn.

Sơn đứng dậy vào phòng thay áo và Trúc Đào cũng lại chải tóc trước gương. Thấy Oanh mở xắc lấy son bôi môi, Sơn hỏi:

- Còn cô Oanh?

- Em ghé lại thăm chị Bích. Xuống Nha Trang mà không ghé thăm chị, lúc chị biết được thế nào chị cũng trách.

Ba người đang mê mải chuẩn bị thì có tiếng còi ô tô trước cổng.

Tiếp theo sau, tiếng mở khóa lách cách và tiếng giày đi vào xa-lông.

Oanh chạy ra và reo lên.

- Anh Khiêm! Anh Khiêm, chị Trúc Đào ơi.

Sơn đưa mắt nhìn sang Trúc Đào thì thấy nàng bỏ mạnh cái húp phấn xuống bàn rồi đứng dậy.

Khi Oanh giới thiệu Khiêm với chàng, Sơn nhận cái bắt tay rất chặt và một nụ cười thân mật. Oanh hỏi:

- Anh vừa ở Đà Lạt xuống?

- Xuống hồi bốn giờ chiều. Tôi phải làm việc sáng thứ bẩy. Ăn trưa xong, nghỉ một lát rồi phóng xe xuống đây.

- À !- Oanh vui vẻ như vừa khám phá ra sự lạ. - Hồi chiều anh có ghé lại đây hỏi chị Trúc Đào phải không? Lúc bấy giờ chúng em đi Ngọc Hội xem lò gốm.

Khiêm gật đầu rồi mỉm cười lặng lẽ. Ba người ngồi im lặng khá lâu. Sơn tinh nghịch đợi xem ai sẽ phá tan sự im lặng ngượng nghịu ấy. Khiêm thì ngồi thẳng ở ghế xa-lông, những ngón tay đan tréo vào nhau và mắt hết nhìn xuống lọ hoa lan đặt ở bàn nước đến đưa ra nhìn giàn hoa hoàng anh trước cửa. Oanh thì thập thò nhìn vào cửa phòng như đợi Trúc Đào ra. Một lát có tiếng giày của Trúc Đào. Khi nàng hiện ra ở khung cửa, Khiêm đứng dậy:

- Anh đợi em từ chiều đến giờ.

Trúc Đào mỉm cười uể oải.

- Em sắp đi phố hả? Để anh đưa xe em đi. Nhưng trước hết chúng ta phải ghé lại nhà chào chú thím đã. Nhà chú ở số… chết chết, ở số mấy anh quên mất…

Chàng móc túi lấy ra một cái ví đầy ắp những giấy tờ, lục lọi một lát rồi reo mừng:

- Phải rồi! Số 57 Duy Tân. Còn chị Oanh đi chơi với chúng tôi? À quên, chúng tôi còn phải đi xuống Duy Tân.

Oanh nhanh nhẩu đáp:

- Em cũng phải đi lại thăm chị Bích ở gần đây.

- Thế để tôi đưa xe chị đi luôn. Nào, chúng ta cùng đi.

Khiêm bước ra trước. Trúc Đào mắt nhìn sang Sơn nói nhỏ:

- Xin lỗi ông…

Sơn vừa bắt tay Khiêm vừa nói:

- Không có gì. Xin chúc ông… bà vui vẻ.

Tiếng “bà” chàng nói khẽ để dò xem tình thế. Không ai tỏ vẻ khó chịu. Chỉ riêng Trúc Đào hơi bĩu môi rồi quay nhìn ra sân.

Mười một giờ khuya vợ chồng Lộc Thúy và Oanh về.

Sơn lắng nghe tiếng họ bàn cãi khi bước vào nhà. Đầu tiên là tiếng của Thúy:

- Trúc Đào nó không yêu mà bắt nó vui vẻ sao được?

Tiếng Lộc cãi lại:

- Không yêu sao lại bằng lòng lấy người ta?

Tiếng Oanh bình tĩnh hơn:

- Hai gia đình thân với nhau từ xưa. Vả lại, anh Khiêm đâu có thua kém ai. Công chức cao cấp, lương to. Chỉ tiếc anh ta có hơi thô.

Sơn vụt nhớ đến mái tóc bàn chải và cặp mắt nhỏ, đến cái mặt hay nghếch lên, vừa tự phụ vừa quê mùa.

- Nhưng người đàn ông sinh ra đâu phải với mục đích mỹ thuật? Giọng chống chế của Lộc.- Có lẽ Trúc Đào không thích tính của Khiêm vì tính anh ta hơi “gấu” thế nào ấy. Con người ấy thật mâu thuẫn. Ăn chơi mà lại thô.

Có tiếng vỗ tay và tiếng cười to:

- Đúng rồi, đúng chữ ấy đấy. “Gấu”. Phải, anh Khiêm “gấu” lắm.

Tiếng “suỵt suỵt” có lẽ của Thúy.

- Im! Im! Cười nho nhỏ thôi để anh Sơn ngủ.

- Tội nghiệp. Hình như lúc nãy chị Trúc Đào khóc. Phải không anh Lộc? Em thấy mắt chị ấy đỏ.

- Trông dáng Khiêm ngượng ngập khi gặp chúng mình và dáng Trúc Đào quay mặt không trả lời câu hỏi của chị thì hiểu ngay.

Ba người lặng lẽ thay áo rồi vào giường nằm. Những tiếng rủ rỉ trao đổi với nhau lần lần thưa dần, uể oải dần. Cuối cùng đâu đó im lặng. Sơn mở mắt nhìn lên đình màn. Trí óc chàng liên man nghĩ đến Trúc Đào, nghĩ đến cuộc du ngoạn hồi chiều. Tiếng chuông đồng hồ nhà bên cạnh đổ lên mười hai tiếng. Một chặp sau tiếng ô tô dừng trước cổng, tiếng giày sào sạo trên sỏi. Tiếp theo, tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Sơn trở dậy ra bật đèn mở cửa. Trúc Đào ngạc nhiên thấy Sơn mở cửa cho mình. Nàng nói:

- Em làm phiền ông. Sao ông thức khuya thế?

Giọng nàng không trong trẻo như hồi chiều. Nghe như đặc lại.

Chàng trả lời:

- Nhắm mắt mà mãi giấc ngủ không đến.

- Em lại tưởng ông đi xi-nê.

- Không có cô thì không đi.

Trúc Đào im lặng.

- Em xin lỗi đã thất hứa với ông. Xin ông hiểu cho rằng em rất tiếc. Ngày mai em phải về Đà Lạt rồi.

Sơn chép miệng:

- Những ngày vui đã chấm dứt.

- Em mong có dịp ông lên Đà Lạt chơi.

Sơn xòe hai bàn tay và bĩu nhẹ môi vẻ thất vọng:

- Để làm gì?

Chàng muốn Trúc Đào hiểu rằng chàng đang nghĩ đến cuộc đời của nàng bên cạnh Khiêm. Riêng Trúc Đào, nàng cũng muốn nói: “Có lẽ ông nghĩ đúng” nhưng nàng không dám nói.

Khi bước vào phòng, giọng Oanh ngái ngủ:

- Trúc Đào về đấy à? Sao khuya thế? Tối nay Khiêm nghỉ ở đâu?

- Anh ấy ở khách sạn. Sáng mai anh ấy phải đi Qui Nhơn sớm.

Lại một đêm nữa Trúc Đào trằn trọc không ngủ được. Nàng hồi tưởng lại lần đầu tiên người được nghe Lộc nhắc đến tên Sơn. Hôm ấy nhằm ngày chủ nhật, nàng nhớ kỹ là một ngày chủ nhật đầu tháng Năm, nàng ghé lại thăm Lộc Thúy. Nàng như còn thấy rõ trước mắt, lọ hoa lớn ở phòng khách hôm ấy cắm toàn hoa cúc trắng. Câu chuyện rất vui vẻ, bắt đầu nói về ngày lễ nghỉ, đến hoa trắng tháng Năm, đến những chuyện tình vẩn vơ rồi quay sang sự học hành của Trúc Đào. Chợt Lộc nói:

- À! Thúy này! Trúc Đào có fiancé rồi, tiếc quá em nhỉ! Nếu chưa thì mình giới thiệu anh Sơn cho Trúc Đào.

Thúy tán thành ngay, một điều mà Trúc Đào ít khi thấy xảy ra vì cặp vợ chồng này lúc nào cũng tìm những ý kiến mâu thuẫn để chống nhau:

- Ờ! Phải đấy. Anh Sơn là người bạn tốt của chúng em. Chị với anh Sơn… Ờ, phải đấy!

Trúc Đào chỉ mỉm cười không trả lời. Lộc kể những tính tốt của Sơn và theo ý kiến của Lộc thì Sơn và nàng sẽ thành một đôi vợ chồng hợp tính nhau. Trúc Đào lắng tai nghe, lý thú nhưng không tin tưởng lắm, Lộc thuộc hạng người có tâm hồn đơn giản, làm viên chức tốt và làm chủ gia đình hoàn toàn. Lộc làm ăn cần kiệm, chơi huê chơi hụi chắc chắn, giao thiệp mua bán lanh lẹ tháo vát. Nhà cửa sắp đặt ngăn nắp, sổ chi tiêu không ghi sót một món chi hai đồng, tờ lịch luôn luôn được bóc vào chín giờ tối hôm trước… Tính tình dễ dãi như vậy nên Lộc không có một mối băn khoăn siêu hình nào. Giải trí của anh, cho đến chừng này tuổi vẫn là những phim phi ngựa bắn súng và những tập tiểu thuyết đường rừng. Nàng thầm trách, - nhưng không biết trách ai, - rằng sao người giới thiệu Sơn cho nàng lại là Lộc. Những bạn của Lộc thường là những nhà buôn cần xin giấy tờ ở tòa thị chính, những người mới giàu lo chọn mua vi-la, những người cần mai mối để tìm cưới một cô vợ có vốn. Nàng tưởng Sơn cũng đại khái như vậy. Nàng nghe chuyện một cách lý thú chỉ vì óc chinh phục đặc biệt của người đàn bà mà thôi. Nghe chuyện về một người đàn ông sắp được bạn giới thiệu để yêu mình là một điều thích thú. Thích hơn nữa vì người đàn ông đó là vai chính của một câu chuyện tình khá cao thượng. Nên khi Lộc nói xong quay lại hỏi: “Đấy, chị Trúc Đào thấy một người như vậy có đáng yêu không?” thì nàng trả lời ngay, vui vẻ nhưng hời hợt: “Có. Đáng yêu lắm.”. Tức thì Lộc nói liền:

- Hôm nào chị cùng đi xuống Nha Trang với tôi. Tôi giới thiệu cho.

Trúc Đào không ngờ lời hứa đó hôm nay đã thành sự thật, một sự thật đẹp hơn nàng tưởng tượng nhiều. Vì sau đó nàng lại nhiều lần được nghe Lộc hay Thúy nói về Sơn và cứ sau mỗi lần như vậy, nàng có cảm tình với Sơn hơn trước. Nay được gặp Sơn, nàng sung sướng và đau xót mà thấy rằng tâm hồn Sơn có những điểm phù hợp với tâm hồn nàng. Nàng quay ra giận Lộc sao trước kia không nói kỹ về Sơn hơn nữa cho nàng biết, nhưng nàng kịp thời thấy mình vô lý vì Lộc làm sao mà nói hết được. Nàng trở sang trách Sơn sao lại chỉ quen với Lộc mà không quen với Phượng, với Tuyết chẳng hạn là những bạn thân của nàng, những người tế nhị như nàng và hiểu rõ tâm hồn nàng như chính nàng vậy. Nhưng rồi nàng cũng lại thấy là mình vô lý.

Đồng hồ nhà ai thong thả gõ hai tiếng. Nàng nghĩ đến ngày mai giã từ Nha Trang, giã từ vĩnh viễn cái bóng dáng Hạnh Phúc mà nàng tưởng như vừa hình dung được. Nàng đưa mắt nhìn lần vải mùng, nhìn lên tường. Tường nhà Sơn không mang một bức tranh ảnh nhỏ nào cả mà chỉ toàn một màu xanh nhạt. Phòng ngủ chỉ để một ít bàn ghế giường tủ cần thiết. Ánh sáng và khoảng rộng chiếm nhiều chỗ hơn. Nàng nhớ đến nhà mình bề bộn vì những đồ trưng bày hơn là cần dùng. Nàng nghĩ lại: mình thích lối sống này hơn.

Quả thật nàng thấy Sơn say sưa yêu đời mà vẫn có dáng đạm bạc với đời. Đó là một sự mâu thuẫn kỳ thú. Sơn có những ý kiến của chàng, không như Khiêm thường chỉ nhắc lại những điều vừa đọc trên báo, vừa nghe ở đài phát thanh hay vừa nghe của ai. Khiêm bàn về mọi vấn đề và về vấn đề nào cũng đưa những ý hời hợt nhất, sáo nhất. Khiêm luôn luôn... Những ý nghĩ về Khiêm làm tâm hồn Trúc Đào u tối lại khiến nàng nhắm mắt và ngủ lúc nào không biết nữa, bỏ dở dang những ý nghĩ không có đoạn kết.

Sáng hôm sau, đoàn công chức về Đà Lạt. Vali, giỏ, xách trên tay Lộc, Thúy, Oanh, Trúc Đào đứng thành hàng trước mặt Sơn. Sơn không để đợi khách nói, chàng nói trước.

- Xin cám ơn anh chị và hai cô đã đến làm vui cái không khí của nhà tôi. Tôi rất tiếc là không đủ phương tiện để làm cho những ngày các bạn lưu trú được êm đềm hơn.

Lộc ấp úng:

- Tôi sắp cám ơn anh thì anh chận đầu mất rồi. Chúng tôi mới phải cám ơn anh và xin lỗi đã quấy rầy anh mấy hôm nay.

- Quấy rầy? … Ừ, cũng có quấy rầy đôi chút đó, nhưng tôi thích vì các bạn đã xáo trộn cuộc đời của tôi cho thêm vui một tí.

Lúc tiễn mọi người lên xe. Sơn nhận cái chào của từng người. Đến lượt Trúc Đào, chàng nói:

- Riêng trúc đào của cô, cô sẽ có.

Trúc Đào mỉm cười:

- Lễ Nô-en em xuống.

- Tôi đợi.

Chàng êm đềm nhìn nàng giây lâu. Những câu muốn nói mà không tiện nói ra chàng gửi vào cái nhìn âu yếm ấy. Trúc Đào cũng nhìn chàng mà không chớp mắt. Nàng nghĩ gì mà không chớp mắt thế kia? Đến những kỷ niệm dưới gốc bụi trúc đào, ở bên cạnh vũng nước hay đến buổi chiều bóng lỗi hẹn đêm qua?

Xe rồ máy. Sơn vẫy tay âu yếm nhìn theo cho đến khi xe mất hút ở cuối đường Bạch Đằng.



Những ngày ở Đà Lạt không khiến Trúc Đào ít nghĩ về Sơn nhất là những khi nàng va chạm với Khiêm. Từ ngày gặp Sơn, nàng mới thấy rõ sự tầm thường của Khiêm, sự tầm thường mà trước đây nàng tưởng là trạng thái bình thường của con người thời đại. Thậm chí đã có nhiều lúc nàng đâm ra nghi ngờ tự hỏi: hay chính mình mới là người bất thường? Nàng nhớ lại những trang nhật ký của Sơn mà nàng đã đọc. Không phải chỉ đoạn cô gái Trung Hoa nàng đưa ra hỏi Sơn hôm trước đâu mà nàng đã đọc nhiều hơn thế nữa. Chính có đọc nàng mới thấy Sơn có một đời sống nội tâm giống nàng, mới thấy rằng nàng không phải là một người bất thường. Thật ra, những sự va chạm với Khiêm không có gì quan trọng. Đó chỉ là những sự bực bội lặp lại khi nàng phải nghe những ý kiến phi cá tính của Khiêm, những ý kiến phát biểu về một kiểu ô tô, về một màu sơn cửa, về một vấn đề thời sự trên báo. Mỗi lần bực bội như vậy nàng thường đến nhà Lộc Thúy để quên đi và nơi đây ba người lại mê mải nói chuyện về Nha Trang, về Sơn. Ba người đều mâu thuẫn như nhau: họ vẫn ngầm công nhận cuộc hôn nhân giữa Trúc Đào và Khiêm mà vẫn tìm mọi dịp để khám phá một cách thích thú rằng giữa Trúc Đào với Sơn có những sự hòa hợp.

Ngày tháng trôi qua. Xấp lịch treo tường đã thấy mỏng lần, mỏng lần. Rặng anh đào chạy dọc theo con đường Yersin đã thấy lấm tấm ra nụ. Gió lạnh thổi từng cơn vi vút, reo giữa cành lá thông cao. Tháng chạp rồi. Lễ Nô-en đã được báo trước bằng những bộ quần áo nỉ màu sẫm với những chiếc khăn len che mũi, bằng những kiểu măng tô, bằng những chiếc áo nhung mềm mại uyển chuyển. Trúc Đào vui vẻ nghĩ đến ngày lễ Nô-en, nghĩ đến lời hứa xuống Nha Trang. Xuống Nha Trang, nàng sẽ đem theo món quà gì? Hoa thì nhất định phải có rồi vì đó là thổ sản của Đà lạt. Nàng sẽ chọn một bó lai ơn màu tím đậm, màu tím phù hợp với nỗi cô đơn của Sơn. Nhưng chỉ có hoa không thì ít quá. Hoa dẫu đẹp nhưng mau tàn, phải có thêm món quà gì bền chắc hơn. Đang khi băn khoăn không biết chọn món quà nào thì Khiêm lại. Sau vài câu chuyện nắng mưa, chuyện cách mạng Đại Hàn, chuyện chiến tranh Congo mà Trúc Đào lơ đãng đối đáp. Khiêm đổi giọng nghiêm trang hơn:

- Thằng Minh vừa đổi cái xe cũ, bù tám mươi ngàn đồng bạc lấy được chiếc Consul đời NBJ nên cứ vênh cái mặt lái chạy khắp phố.

Trúc Đào thật thà:

- Cái Consul kiểu đẹp đấy chứ.

- Kiểu thì cũng trông được đấy nhưng màu xanh quê chết.

- Đó là sở thích của mỗi người.

- Sở thích gì? Nó là một thằng nhà quê. Nhìn con vợ nó không thấy sao?

Tính Trúc Đào không thích tranh biện nhưng nàng thấy thèn thẹn coi như mình thiếu thành thực nếu không bào chữa cho Minh, coi như mình đồng lõa với Khiêm nếu nàng im lặng.

- Chị Minh bản chất thực thà nên không diêm dúa lòe loẹt đó thôi, chứ em tưởng uốn tóc, vẽ mi mắt và mặc áo ni lông thì đâu có khó. Em có quen chị ấy nên em biết rõ. Chị tốt lắm.

- Anh thì chúa ghét thằng Minh. Nó bắng nhắng…

Trúc Đào khó chịu ngắt lời:

- Sao anh nuôi chi những ý nghĩ xấu về người khác vậy? Nghĩ tốt về người ta, lỡ có lầm cũng không sao vì không hại cho ai hết. Chứ nghĩ xấu cho họ thì khi biết mình lầm, hối lại không kịp.

Hai người im lặng. Không khí có hơi ngột ngạt. Đã nhiều lần như vậy, Trúc Đào cãi với Khiêm mỗi khi thấy Khiêm đả kích người vắng mặt. Khiêm không dung cho một người nào có ưu điểm. Những lúc đầu nàng thấy vô hại vì sự đả kích mượn hình thức châm biếm nhẹ nhàng, nhưng lần lần nàng thấy Khiêm đi sâu vào sự nhỏ nhen, ưa tìm tì vết của người ta.

Khiêm lặng lẽ đưa tay ngắt một đóa thược dược ở lọ hoa đặt trước mặt. Trúc Đào nghĩ rằng chàng ngượng nên có hơi hối hận. Chợt Khiêm bảo:

- Nô-en năm nay anh tổ chức tiệc nửa đêm có khiêu vũ.

Thấy Trúc Đào không reo mừng như chàng dự tưởng, Khiêm hỏi:

- Nào, em có thích không? Năm ngoái lũ thằng Như thằng Duệ ở sở Địa dư, thằng Cang ở Thuế vụ tổ chức những tiệc nửa đêm có khiêu vũ. Chúng nó tổ chức xoàng thôi mà cũng được lũ bạn khen ầm lên…

“Lại chê bai người ta!” Trúc Đào nghĩ. Cổ họng nàng như nghẽn lại do hơi ở đâu đưa ứ tắc. Thế ra mình vừa hối hận lầm. Nàng giận không muốn nghe Khiêm nói nữa thế mà bên tai nàng, tiếng của Khiêm vẫn hào hứng nói tiếp:

- Năm nay anh tổ chức phải hơn tụi nó. Anh nhờ có em làm linh hồn cho đêm khiêu vũ. Em phải trang điểm cho thật đẹp, tiếp đãi cho thật bặt thiệp...

Trúc Đào ngắt lời:

- Em chịu thôi. Em nhảy dở lắm.

- Đó là cái lỗi của em. Em muốn lạc hậu…

Bị chạm tự ái bất ngờ, mắt nàng sáng lên:

- Vả lại Nô-en này em không ở Đà Lạt.

- Chứ em đi đâu? - Khiêm trố mắt ngạc nhiên hỏi.

- Em đi…

- Đi đâu?

- Đi Nha Trang.

- Đi Nha Trang… Sao em không hỏi anh trước? Em xuống Nha Trang để làm gì?

Nghe giọng Khiêm hỏi gặng, Trúc Đào đứng dậy:

- Em có quyền không trả lờøi.

Khiêm giơ tay ra hiệu giữ lại:

- Em phải trả lời.

- Anh lầm! Anh không có quyền gì bắt em phải trả lời hết.

- Có! Anh có quyền! Anh là hôn phu của em.

- Pháp luật không qui định điều đó.

Mặt Khiêm đỏ lên:

- Anh không cần biết đến pháp luật. Anh chỉ cần biết rằng em phải theo lời anh.

- Em không nghe.

Nàng vừa nói vừa bước nhanh ra khỏi phòng khách chạy lên phòng mình rồi đóng sầm cửa lại. Nàng ngồi xuống giường lưng tựa vào tường, mím môi giận và tim đập hồi hộp. Qua cửa sổ, nàng nghe tiếng giày của Khiêm bước vội trên sỏi, tiếp đến tiếng cửa xe đóng sập mạnh và tiếng xe rồ máy chạy vút. Cơn tức vồ lấy nàng. Khiêm bỏ ra đi không lên xin lỗi nàng thế nghĩa là Khiêm tự cho mình có lý. Khiêm chiều nàng nhưng vẫn muốn coi nàng như một người nô lệ. Có lẽ vì Khiêm giao thiệp với nhiều đàn bà, được nhiều đàn bà chiều đãi nên Khiêm quen tính đi. Đã khỏe thế…, nàng sẽ không phải đợi đến ngày Nô-en mới đi Nha Trang, nàng sẽ đi ngay bây giờ để cho Khiêm biết rằng chàng không quyền gì bắt buộc nàng hết. Hôm nay mới mười sáu tháng chạp nhưng có cần gì. Xuống sớm, xuống bất ngờ sẽ làm cho Sơn ngạc nhiên, sung sướng. Bây giờ đã năm giờ chiều rồi, đi chuyến xe lửa năm giờ mười lăm xuống Nha Trang thì không kịp nữa, xe đò sợ cũng hết chuyến, nhưng ý đã quyết, nàng sẽ tự lái lấy chiếc Simca nhỏ của ba nàng. Ba má nàng đi Sài Gòn hai hôm nay, đi bằng xe lửa và sẽ ở dưới đó một tuần. Lái chiếc Simca, chậm nhất là tám giờ tối nay nàng sẽ tới Nha Trang.

Trúc Đào đứng dậy gỡ tóc, bôi sáp môi, thay áo. Phải quyết định ngay. Nàng biết rằng nếu để óc mình thanh thản suy nghĩ, tính tới tính lui thì thế nào cuối cùng nàng cũng nằm vật mình xuống giường bấm cái nút ra-đi-ô để tìm một tiếng nói, một giọng nhạc, trốn tránh cái cô đơn và xua đuổi sự băn khoăn. Ra-đi-ô là cái máy dung dưỡng sự do dự. Nàng mở tủ xếp đặt hành lý một cách vội vã. Một ít quần áo bỏ vào chiếc va-li con. Một ít tiền bỏ vào xắc. Nàng khóa cửa phòng, ra gọi chị vú:

- Vú bảo bác tài đánh xe ra để trước cổng cho tôi. Vú coi nhà nhé? Tôi đi Nha Trang liền bây giờ. Chiều mai về. Vú nhớ coi chừng cửa nẻo.

Vú “Vâng vâng dạ dạ” rồi chạy đi. Tiếng xe từ ga-ra chạy ra, nghiến sỏi sào sạo rồi đậu lại trước cổng. Nàng xách va-li đi vội ra theo. Bác tài bước ra nhường tay lái cho nàng.

- Cô có cần em theo lái?

- Cám ơn chú. Tôi lái một mình được.

Nàng vô số, đạp ga và mũi xe chồm lên nuốt vội con đường. Qua cầu ông Đạo mặc dù cố ôm cua nhưng xe vẫn chạy lết ra đến giữa đường khiến một chiếc xe ngựa chạy ngược chiều vùng lên, hốt hoảng. Những người ngồi trong xe chồm ra la oai oái. Trí óc không bình tĩnh, bàn tay đặt lên tay lái nàng thấy ngón run run. Nàng cho xe chạy chậm lại. Tuy vậy mỗi lần qua một đoạn đường cong là nàng lại thấy mình xao xuyến. Nàng hối hận sao lúc nãy không để cho bác tài theo lái. Nàng lái non, lại bỏ lâu không cầm đến tay lái nên lúng túng vụng về. Đã vậy, tâm hồn lại xáo trộn nên ngay cả ở những đoạn đường thẳng, xe nàng cũng vụt nhiên chạy trờ ra, phải vội vã lái nép vào. Những chiếc xe vận tải lù lù đến, sừng sững như muốn đè bẹp lấy thân chiếc Simca nhỏ. Xuống Trại Mát, nàng tránh một chiếc GMC nhà binh một cách tài tình, gần như là do một phép lạ. Người tài xế nhà binh tưởng đâu nàng đâm sầm vào xe anh ta và anh ta sắp nhắm mắt để khỏi nhìn một tai nạn. Mỗi khi thoát khỏi cơn nguy hiểm là nàng cố xếp đặt cho trí óc có thứ tự trở lại, nhưng rốt cuộc những ý nghĩ về Sơn, về Khiêm, những cảm giác tức giận mến thương lại dày vò lấy nàng.

Đến gần Cầu Đất, một chiếc xe du lịch chạy ngược chiều phóng nhanh tới. Xe chạy nghênh ngang giữa đường. Nàng đã cho xe mình chạy bám sát lề nhưng mũi xe trước mặt cứ lao vụt tới như muốn đâm sầm vào nàng. Nàng run tay. Chợt xe kia kề sát lại xe nàng, tiếng phanh rú to lên rùng rợn khiến nàng vội bẻ ngoặt tay lái sang bên mặt. Mũi xe nhủi xuống, bánh lọt xuống rãnh tháo nước ở lề đường. Nàng vội thắng xe lại nhưng bánh sau lọt xuống luôn, xe nghiêng một bên. Trống ngực đập liên thinh và đầu nàng choáng váng cơ hồ muốn ngất đi. Chiếc xe du lịch cũng đậu lại cách nàng mười thước. Trên xe bước xuống một người Âu cao lớn. Người ấy đi lại gần nàng hỏi bằng tiếng Pháp:

- Xin lỗi cô, có sao không?

Giọng lơ lớ với những chữ R rung nhiều. Nhìn mái tóc và lông tay vàng hoe, nghe giọng nói, Trúc Đào đoán chắc là người Mỹ. Nàng trả lời:

- Cám ơn ông. Tôi chỉ… như thế này.

- Rãnh này sâu không thể cho xe chạy lui lên được. Phải cần xe trục. Vậy… À, xin lỗi, cô đi...

- Nha Trang.

- Cần gấp lắm?

Trúc Đào hơi nhún vai:

- Không lắm.

- Vậy cô định thế nào?

Trúc Đào lắc đầu:

- Tôi chưa biết nên định thế nào cả

Người Âu nhíu mày suy nghĩ một phút rồi nói:

- Tôi đề nghị như thế này: Cô trở lại Đà Lạt và ghé ga-ra thuê xe xuống trục đem về. Như thế có lẽ tiện nhất.

- Có lẽ… - nàng gật đầu. Ông về Đà Lạt?

- Vâng. Và nếu không có gì phiền thì xin mời cô lên xe tôi.

- Cám ơn ông.

Trúc Đào với ra sau lấy vali rồi mở cửa xe bước ra. Nàng khóa máy, quay kín kính chắn gió và khóa luôn cửa xe. Người Âu đưa nàng lại xe của mình và mở cửa. Nàng bước lên. Khi xe mở máy chạy, nàng quay sang hỏi :

- Chắc ông là người Mỹ?

- Vâng, thưa cô.

- Ông vừa ở Phan Rang lên?

- Không. Tôi ở Nha Trang tới.

“Nha Trang, lại Nha Trang”. Trúc Đào thầm nghĩ. Dự tính tám giờ tối nay có mặt ở Nha Trang thế là hỏng. Tiếng máy xe chạy êm êm, tay lái đưa nhẹ nhàng và mũi xe uốn vòng theo các đường cong một cách dịu dàng. Gió mát thổi vùn vụt vào khe cửa kính và phong cảnh hai bên đường lùi nhanh lại ra đằng sau. Chạy qua những chỗ vòng, xe nhún mình như vừa lướt qua một lượn sóng. Sự thoải mái của nàng giờ này thật khác xa với trạng thái hồi hộp của mười lăm phút trước. Nàng để cho óc êm êm nghĩ đến Sơn lúc này đang làm gì. Nàng tưởng tượng vẻ mặt ngạc nhiên của Sơn nếu thấy nàng xuống. Nàng định lấy cớ xuống trông chừng mấy bụi trúc đào chàng cắt giâm, có thể lấy cớ là nhân xuống Phan Rang có tí việc, sẵn ghé lại thăm. Cớ thì có rất nhiều cớ nhưng mục đích để làm gì thì thật là nàng chưa tìm ra mục đích. Để làm gì? Nàng đã yêu Sơn chưa? Sơn có yêu nàng không? Nếu có yêu, yêu rồi thì liệu tình yêu ấy sẽ đưa đến đâu? Nàng có quyết ý từ hôn Khiêm không? Nàng thấy mình lờ mờ không trả lời dứt khoát một câu hỏi nào cả. Cũng may mà xe mình đi không tới chốn, nàng nghĩ. Nếu xuống Nha Trang mà cứ lưỡng lự như thế này!

Những biệt thự đầu tiên đã rủ nhau lần lượt vút ra sau xe. Mặt hồ loang loáng màu trắng thiếc. Người Mỹ hỏi:

- Tôi phải đưa cô đến địa chỉ nào?

- Tôi ở mười bốn Yagut, thưa ông.

- Yagut?

- Ông cứ lái xe đến chợ Đà Lạt rồi tôi sẽ chỉ chừng.

Thế là lễ Nô-en âm thầm trôi qua. Trúc Đào không dự tiệc khiêu vũ ở nhà Khiêm, cũng không xuống Nha Trang nữa. Nghĩ rằng Sơn đợi mình, nàng viết một bức thư lấy cớ bị cảm nên không xuống được hôm Nô-en và xin hẹn sẽ xuống một dịp gần đây. Thư chưa gửi đi thì một hôm Thúy ghé lại tìm nàng. Thúy mang lại cho nàng một tin bất ngờ.

- Anh Khiêm hình như nghi chị…

- Nghi gì?

- Nghi chị có cảm tình với anh Sơn .

Trúc Đào mở to mắt, ngạc nhiên:

- Vô lý. Ai bảo chị vậy?

- Hai ba hôm gì đó sau đêm Nô-en, anh có đến nhà chúng em chơi. Anh nói xa xa nhưng chúng em mau hiểu chúng em đoán biết.

Tiễn Thúy về rồi, Trúc Đào vào giường nằm suy nghĩ. Nàng thấy khó chịu khi mối tình thầm kín của mình đối với Sơn bị Khiêm mang máng dò biết. Nàng không cần Khiêm, không sợ Khiêm mà chỉ bực tức vì những mối cảm xúc êm đềm mong manh giữa nàng và Sơn thế nào cũng bị Khiêm hiểu một cách thô bỉ. Aùi tình chỉ đẹp cho hai người. Nó không đẹp đối với người thứ ba. Nhưng thà là giữa nàng và Sơn đã có ái tình, đằng này chỉ là những cảm tình sơ khởi mà thôi. Dù vậy nàng vẫn có cái cảm giác trơ trẽn giống như mình đang ở trong một phòng khiêu vũ ánh sáng mờ ảo, âm nhạc dịu dàng, với màu áo màu phấn, với ánh mắt long lanh, tất cả đượm trong mùi hương ngây ngất, thế mà bỗng nhiên ánh đèn màu vụt đổi sang ánh sáng trắng sỗ sàng và thay vào giọng nhạc êm là tiếng tính tiền nong, kiểm soát sổ sách. Khiêm đã phá một giấc mộng của nàng. Đừng ai biết hết, nàng có cái thú của con người phiêu lưu, không cố ý đi tìm Bồng đảo mà bất ngờ gặp được. Nay có con mắt tò mò theo dõi, nàng thấy không đủ thích thú nữa. Nàng còn có cái cảm giác ngượng của con người bị bắt gặp đang làm một việc lén lút.

Bực mình, Trúc Đào đập mạnh tay xuống giường. Thành giường va vào chiếc nhẫn nàng đeo ở ngón tay kề, chiếc nhẫn hứa hôn. Nàng chợt nhớ tới hồi ở đại học xá, các chị em bạn sinh viên của nàng có thói quen nhìn vào ngón tay của các bạn để tìm xem ai đã hứa hôn rồi. Được hứa hôn là một hãnh diện. Đó là chứng tích của sắc đẹp, của gia thế. Những bàn tay trần truồng không có một vòng khâu vàng bao quanh ngón kề hóa ra thanh bạch một cách cô đơn đáng lo sợ. Người nữ sinh viên cũng phải nghĩ đến việc lấy chồng. Do cái tâm trạng đó mà khi Khiêm nhờ người đến hỏi, Trúc Đào bằng lòng ngay. Lúc bấy giờ nàng chỉ đơn giản nghĩ đến cái thú luồn chiếc nhẫn hứa hôn vào ngón tay mình, chiếc nhẫn nhỏ như một đường kẻ đậm, màu vàng lóng lánh làm nổi bật màu ngón tay trắng muốt. Nàng nghĩ đến những cuộc đi dạo phố, nghiêm trang tin tưởng bên cạnh người đàn ông của mình, đến chiếc xe hơi của hai người mỹ miều như một món trang sức, đến căn phòng sẽ do nàng tự tay bày biện trang hoàng lấy. Nhưng những mộng tưởng đẹp đẽ êm đềm một lần nghĩ thấy thú, nhiều lần nghĩ hóa quen đi, việc hôn nhân với Khiêm cuối cùng được coi như là một việc nhất định sẽ đến, không vui lắm, không gây nhiều hào hứng. Vì một khi cái xao xuyến huyền ảo của những buổi đầu đã lắng xuống, nàng bắt đầu nhận thấy những nhược điểm nơi Khiêm. Sự khác biệt về cá tính, về quan niệm sống, quan niệm đạo đức khiến hai người cứ như đi xa nhau dần và Trúc Đào đã bắt đầu cô đơn âm thầm. Tuy vậy, phải đến lúc gặp Sơn, hiểu Sơn nàng mới thấy rõ rằng Khiêm không phải là người đàn ông phù hợp với lòng nàng. Nhưng đã chậm. Chiếc nhẫn đã đeo trong vòng tay. Chiếc nhẫn hạnh phúc của ngày nào, hôm nay trở thành cái vòng khóa cột nàng trong tù hãm của hôn nhân. Thật vô lý. Nàng biết có những người tự khóa mình trong một khuôn khổ và sung sướng với sự trói buộc ấy. Có những người đàn ông động mở miệng là than thở “Mắc vợ con cùm chân, đâu còn chơi bời tự do nữa!” Nhưng lời than lại ngầm biểu lộ một sự bằng lòng. Than như vậy, họ tỏ ra rằng mình an phận nghĩa là có hạnh phúc và bảo đảm về đạo đức. Nhiều chị bạn mới có một đứa con nhỏ cũng than lên một cách hãnh diện “Phần chồng, phần con. Thôi, mình già rồi, chả dám bì với các cô”. Thật là những người dễ bằng lòng, dễ sung sướng! Không, nàng không dễ dãi như thế được. Nhưng… Không dễ dãi thì được gì? Không dễ dãi thì chỉ còn cách tự mình làm khổ cho mình thôi, vì nàng đâu có thể dễ gặp Sơn được? Để cho Khiêm nghĩ rằng mình bị Sơn mê hoặc, bị Sơn quyến rũ, điều đó động chạm đến tự ái của nàng. Mà Khiêm thì chỉ có thể nghĩ tầm thường như vậy mà thôi. Nàng khinh Khiêm thì được nhưng nhất định nàng không để cho Khiêm có thể khinh mình.

Trúc Đào uể oải ngồi dậy lại bàn viết. Bức thư gởi cho Sơn đặt đứng tựa vào lưng quyển tự điển. Địa chị đã viết rồi, tem đã dán đủ, chỉ có nàng chưa dán phong bì. Nàng vốn tính thận trọng, chỉ khi nào sắp đem đi bỏ thư mới dán phong bì, phòng có ý nào cần sửa cần thêm. Nàng rút bức thư viết gửi cho Sơn, mở ra trải lên bàn đọc lại. Từng dòng chữ chạy nhanh dưới mắt và trong sự im lặng cô đơn, nàng tưởng chừng như đồng thời nghe luôn tiếng nói, giọng quen thuộc âu yếm, giọng hứa hẹn kín đáo, giọng của chính nàng nói với Sơn, chỉ còn nói một lần này nữa thôi. Đọc xong, nàng thẫn thờ xé vụn tờ giấy ra từng mảnh nhỏ. Dù cố giữ vẻ mặt lãnh đạm nàng cũng thấy buồn khi nghe tiếng giấy xé nát dưới ngón tay, khi nhìn những lời âu yếm của nàng đứt đoạn, nát vụn không bao giờ Sơn còn nghe được nữa.

Nàng lại nằm vật xuống giường, úp mặt vào gối. Nàng muốn khóc, khóc thật nhiều, thật ngon lành, nhưng dù cố gắng, nước mắt cũng chỉ chảy ươn ướt nơi khóe mắt, nàng biết chỉ có nước mắt mới có thể an ủi nàng vào nàng vào những lúc này thôi.

Nỗi lòng của nàng, chỉ có nàng biết. Ở Nha Trang, Sơn cứ êm đềm nghĩ đến ngày Nô-en và lòng chàng vui vẻ tưng bừng khi chỉ còn một tờ lịch mỏng màu hồng ngăn cách chàng với ngày hai mươi lăm tháng chạp. Bốn bụi trúc đào chàng tự tay cắt cành giâm ở bên thềm giếng nay đã đơm lá xanh. Sơn tưởng tượng vẻ mặt vui mừng của Trúc Đào khi nàng thấy bốn bụi hoa dành cho phần nàng. Người thiếu nữ này có duyên kín đáo khiến cho mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của nàng đều gây cảm tình nơi lòng người đối diện.

Lễ Nô-en trang trọng đến, mang theo gió lạnh, mưa lất phất bay và bầu trời xám. Cả thành phố nhộn nhịp vì đèn lồng, vì đồ chơi trẻ con và hoa quả. Sơn chung chia niềm vui của mọi người. Khi có mang hình ảnh một người đàn bà ở trong tâm hồn, con người ta yêu đời không mặc cả.

Nhưng Nô-en đến và Nô-en đi, Trúc Đào không thấy đến. Sơn đợi một bức thư giải thích mà người đưa thư cứ lặng lẽ đạp xe qua cổng không dừng lại. Một tuần qua… một tháng qua… trong những bức thư đến địa chỉ mình, Sơn chán nản gặp những nét bút quen thuộc, tịnh không thấy nét chữ lạ nào cả. Vốn có kinh nghiệm, đợi chờ và thất vọng, chàng lặng im chịu đựng. Lại một con chim đã bay.

Sau đó không biết bao lâu, một hôm nhân viết thư thăm Lộc, chàng hỏi thăm tin tức của Trúc Đào. Sau đây là đoạn thư trả lời của Lộc.

“…Về Đà Lạt được bốn năm tháng gì đó thì anh Khiêm được chính phủ cho đi Pháp tu nghiệp hai năm. Chị Trúc Đào cùng đi với anh ấy. Mấy độ gần đây bọn em cũng không được tin tức gì của chị hết. Em có chuyển lời chào của anh cho chị Oanh. Chị vui vẻ nhắc đến anh và hẹn sẽ thăm lại Nha Trang…”

Sơn bỏ thư xuống bàn không đọc tiếp. Chàng đưa mắt nhìn lên khung trời xanh rồi chầm chậm gợi ra vẻ mặt của Trúc Đào: đôi má thon thon… đôi mắt dịu.. đôi môi tươi và giọng nói ngập ngừng. Khi tâm hồn đã chìm đắm vào hình bóng cũ thì chàng ngồi đó mà quên cả không gian, quên cả thời gian.

Chừng một năm sau, một buổi chiều kia Sơn tiếp một thiếu nữ trạc hăm lăm tuổi, vẻ mặt đẹp đẽ thanh tú và ăn mặc sang trọng. Người ấy dò số nhà một cách kỹ lưỡng rồi mới bấm chuông. Người ở đi vắng, Sơn ra mở cổng. Người thiếu nữ cúi chào rồi lễ phép hỏi:

- Xin lỗi ông, có phải đây là nhà ông Sơn?

- Vâng, đúng là nhà ông Sơn.

- Thưa ông, không biết ông Sơn có ở nhà không?

- Thưa cô, Sơn là tôi.

Người thiếu nữ lúng túng xin lỗi và theo lời mời của Sơn nàng bước vào nhà. Khi đã ngồi yên ở ghế, nàng nói:

- Thưa ông, tôi đến theo lời nhờ của chị Trúc Đào.

Tên Trúc Đào làm Sơn ngạc nhiên đưa mắt nhìn thẳng vào mặt người thiếu nữ.

- Tôi là bạn thân của Trúc Đào. Tôi ở Pháp vừa mới về được một tuần nay, Trúc Đào có nhờ tôi ghé lại ông trao tặng hộ cho chị ấy bộ sách Stendhal toàn tập loại ấn phẩm đặc biệt.

Nàng đưa gói sách nàng cầm trên tay từ nãy đến giờ mà Sơn không để ý đến. Chàng đưa tay ra đón và tháo lần tờ giấy bọc. Ba quyển bìa sách dày khổ lớn bìa da màu nâu đen. Chàng lật bìa sách để tìm nét bút của Trúc Đào. Nàng ghi:

“Xin nhận tia nắng nhạt này ở phương xa gửi về. Tia nắng Ngọc Hội, nhớ mãi”

Trúc Đào.

Nét chữ run run, Sơn nhìn mãi nét chữ, âu yếm như đang nhìn nét mặt Trúc Đào. Trên tờ giấy trắng của trang sách mở lần lần hiện ra khung cảnh xinh tươi của làng Ngọc Hội. Trên đọt dừa cao, tia nắng vàng còn rớt lại. Tiếng nói dịu dàng của Trúc Đào: “Ông xem, tia nắng…” chàng ngước mắt nhìn lên, gặp đôi mắt của người thiếu nữ đang đăm đăm nhìn mình. Nàng nói:

- Trúc Đào có kể cho tôi nghe cuộc du ngoạn ở Ngọc Hội, buổi đi xi-nê đã hẹn với ông mà chị ấy lỡ hẹn, ngày Nô-en mà chị hứa sẽ xuống Nha Trang để bứng về mấy bụi trúc đào.

Nàng im lặng đợi Sơn phát biểu ý kiến nhưng Sơn không nói. Chàng chỉ muốn nghe, muốn người thiếu nữ nói mãi, nói rõ nỗi lòng của Trúc Đào.

- Chị có bảo tôi, chắc hôm Nô-en đến, ông giận chị lắm. Chắc trong Nhật ký của ông, ông ghi không biết bao nhiêu lần rằng Dominique thất hứa, Dominique đáng ghét…

Sơn mỉm cười, không ngờ cái kỷ niệm nhỏ nhoi về câu chuyện chép nhật ký, Trúc Đào vẫn nhớ kỹ như vậy.

- Chị ấy cũng muốn biết ông đã lấy vợ chưa.

Sơn đưa mắt sang người thiếu nữ và chìa tay chỉ một vòng xung quanh mình. Người thiếu nữ mỉm cười:

- Chị ấy cũng đoán đúng như vậy. Chị nói: chắc ông chưa lấy vợ.

Khi người thiếu nữ dừng lại, Sơn không biết mình nên nói gì. Hỏi kỹ lưỡng về sinh hoạt của Trúc Đào thì chàng sợ phải nghe những chi tiết về Khiêm. Cuộc đời của Trúc Đào hiện giờ đã ghép chung vào cuộc đời của Khiêm rồi. Vui buồn khó lòng mà riêng biệt được. Thế mà chàng, chàng chỉ muốn biết riêng về Trúc Đào thôi. Và đặc biệt mong được biết là những cảm tình Trúc Đào dành cho mình ngày trước và bây giờ.

- Trúc Đào chắc sống trong hạnh phúc?

- Vâng. Về đời sống vật chất thì đúng như vậy. Nhưng về tình cảm thì chị có những nỗi buồn. Nhưng mà… quên, tôi lỡ nói với ông mất rồi. Khi tôi về chị ấy dặn tôi gắng giữ đừng để ông biết nhiều về chị ấy, nhất là về những sự không vui của chị.

Sơn đưa mắt nhìn ra xa. Chàng nghe nhói một cái như có ngón tay nào chạm vào tim mình. Người thiếu nữ kín đáo nhìn xuống đồng hồ rồi đứng dậy:

- Bây giờ tôi xin phép cáo từ ông.

Sơn cũng đứng dậy.

- Chừng nào cô về Đà Lạt.

- Sáng mai.

- Khi nào cô viết thư sang cho Trúc Đào xin nói dùm rằng tôi vui vẻ nhận món quà của Trúc Đào tặng. Cũng như Trúc Đào, tôi nhớ mãi những kỷ niệm…

Chàng để lửng lơ câu nói vì không muốn tiếp bằng chữ “êm đềm” quá sáo, bằng chữ “ở Ngọc Hội” quá tầm thường và có vẻ lợi dụng.

Còn lại một mình, chàng chầm chậm đi theo con đường nhỏ vòng quanh ra bờ giếng. Mắt chàng êm đềm dừng lại ở những chòm lá xanh. Đây, cây chùm ruột đứng ở bên song cửa, kể từ ngày chia tay cùng Trúc Đào, đã bao nhiêu lần thay lá và bốn bụi trúc đào giâm cho nàng hôm nay đã cao quá thềm giếng và lần lượt trổ hoa. Hoa trắng chen lẫn hoa hồng, lả lướt theo gió và đã ngập ngừng đưa hương theo gió. Sơn không buồn bứng ra trồng chỗ khác mà cứ để bốn bụi mọc quấn quít bên nhau. Chàng cũng muốn để mãi đó để kỷ niệm mấy tháng êm đềm chàng đã thiết tha mong đợi một người.


hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 21.11.2012 18:37:14
VẾT HẰN NĂM THÁNG

NXB Lá bối 1965
NXB Trẻ 1997
1. Những bí mật của anh Ðỗ Cúc

2. Người thứ ba

3. Tình yêu đất

4. Lạnh tuổi thơ

5. Vết hằn năm tháng

6. Thế giới của Năm Nhiều




1. NHỮNG BÍ MẬT CỦA ANH ĐỖ CÚC


Chừng như không giữ được nhẫn nại nữa, thầy Tri nghiêng đầu nhìn tôi rồi giơ hai tay lên trời:

- Sao trò ngu thế? Làm luận như trò thì đi thi đỗ thế …chó nào được? Văn chương gì mà khô như bã mía thế?

Thấy thầy ngừng lại không nói tiếp, hai tay vẫn giơ lên và cái đầu vẫn nghiêng, tôi ấp úng:

- Dạ!

Tiếng “Dạ” ngu si chỉ được tôi nói khẽ hết sức cũng làm cho cả lớp bật cười lên. Tôi đưa mắt nhìn xuống lớp. Hai hàng nữ sinh ngồi ở hai bàn đầu rúc rích cười làm tôi ngượng quá. Tôi cảm thấy máu rần rần chạy lên hai tai. Thầy Tri cúi gần tôi ôn tồn giảng:

- Muốn cho bài luận hay thì mình phải thêm thắt vào. Ai chẳng biết cây phượng trước trường trò rụng lá trơ cành? Nhưng trong bài luận trò phải nói, chẳng hạn: “Cây phượng trước trường sum xê lá xanh và hoa đỏ. Từng đàn chim đậu trên cành cất giọng hót véo von”

Tôi lại “dạ” và cả lớp lại “ồ” lên cười.

- Có phải trò nghe chim hót véo von không?

Tôi nặn óc để cố nhớ lại xem có lần nào tôi nghe chim hót véo von không, nhưng tuyệt nhiên không nhớ. Hình như mỗi lần ra chơi tôi chỉ nghe học trò la ồn ào mà thôi, mà bài luận thầy lại ra “Tả cảnh sân trường vào giờ ra chơi”. Tôi nghĩ: Giá có con chim nào đậu ở trên cành phượng - thực tế thì khó có thể vì cậy phượng bị lũ học trò trèo phá bẻ gãy cành, tước rụi cả lá thế kia thì có chim nào thèm đến đậu - mà cho rằng có chức năng chim nào đậu nhằm trên cành phượng mà muốn véo von hót thì lũ học trò nô đùa cũng đủ cho nó sợ hãi mà bay đi. Nếu không bay thì thế nào nó cũng bị lũ học trò tranh nhau lấy đá ném hoặc lấy ná cao su bắn. Lũ học trò cứ mươi đứa là đã có vài đứa thủ ná cao su đi học. Chúng đến trường sớm rồi rủ nhau đi lang thang ở dãy cây rậm gần nhà dây thép (1 ) để tìm bắn trái keo, bắn trái bàn, bắn trái me. Hết mùa trái thì gặp gì chúng cũng bắn không gặp gì chúng cũng bắn: bắn vào trụ đèn, bắn vào cổng nhà người ta, bắn vào lề đường. Khổ thân tôi, tôi biết tìm đâu cho ra một tiếng chim “véo von” trên cây phượng “cành lá sum sê” tưởng tượng này?

Tiếng thầy Tri giục:

- Sao? Trò trả lời đi.

- Thưa thầy … dạ.. con chim không có hót ạ.

Cả lớp lại cười lên một lần nữa. Thầy nhìn chằm chặp vào tôi, nhìn sát vào mặt tôi như tôi là con vật lạ. Tôi lo lắng đứng đợi và tôi chợt có cảm tưởng rằng hai tai tôi đang dài ra, dài ra như hai tai của con bò. Chợt thầy đứng dậy kéo cánh tay tôi lôi ra đứng trước cửa lớp rồi chỉ ra trước mặt:

- Đó, trò thử nhìn ra bể đi. Rồi trò tả cho tôi một câu xem trò có trông thấy gì không.

Chao ôi, thấy thì tôi thấy đủ thứ. Nào là những rặng cây me, cây keo, cây bàng… nào là nhà ông Phó Sứ, ông Lục Lộ, lại là sân ten-nít… Xa hơn là bãi cát, là biển, là núi, là trời.

- Thưa thầy con có phải tả mấy cây keo và nhà ông Phó Sứ không ạ?

- Không cần. Trò chỉ tả biển thôi.

Tầm mắt tôi giã từ những hàng cây xanh và dãy nhà ngói đỏ mà đóng hẹp lại ở mặt biển. Tôi nhìn thật kỹ, còn óc thì loay hoay xếp chữ này cạnh chữ kia cho thành một câu. Cuối cùng tôi thưa:

- Biển nằm im lặng, màu xanh lợt hơn màu xanh của núi.

Thầy nghe, bĩu môi ngẫm nghĩ rồi vừa kéo tôi vào ra hiệu cho lại chỗ ngồi vừa nói:

- Thôi, cũng tạm được. Nhưng chưa hay.

Thầy quay mặt nhìn xuống lớp, hỏi:

- Trò nào tả hay hơn?

Đỗ Cúc giơ tay, đứng dậy. Không đợi thầy cho phép, anh đằng hắng giọng hai lần rồi nói:

- Xa xa những làn sóng biếc nhấp nhô lượn trên bãi cát vàng. Tiếng gió rì rào thổi trên ngọn lá thùy dương như một bản nhạc êm êm bất tuyệt.

Những anh lớn ngồi ở mấy bàn sau xuýt xoa ầm lên như có ai dí lửa vào chân. Tiếng xuýt xoa chạy nhanh đến mấy bàn đầu. Thấy thầy giáo mỉm cười, cả lớp thừa cơ để ồn ào lên ngay:

- Hay quá

- Hay quá thầy ạ.

- Văn sĩ đấy.

Tôi cũng nhận thấy anh Cúc tả hay thật, nhưng tôi cứ băn khoăn là không biết anh tìm ở đâu ra được những cây thùy dương mà tả vậy. Và thùy dương là cây quái gì? Ở bãi bể tôi chỉ thấy có mấy cây keo xương xẩu và mấy bụi tre lá dày một cách thô tục mà thôi. Còn “bản nhạc êm êm bất tuyệt” anh nghe ở đâu vậy?

Nhưng khi anh Cúc đắc thắng ngồi xuống thì quả tình tôi cảm thấy tương lai về văn chương của tôi mờ mịt một cách tuyệt vọng. Sao tôi dốt thế kia? Và tôi thẹn thùng hết sức khi nghĩ đến câu tả cảnh của tôi vừa rồi “biển nằm im… màu lợt hơn màu núi…”. Giá lúc nãy tôi đừng nói ra câu ấy vẫn hơn. Thà chịu để cho thầy Tri cốc một cái vào đầu còn hơn đem câu văn dở của mình ra để các bạn đem so sánh với câu hay của anh Cúc. Tôi đưa mắt nhìn sang Đỗ Cúc.

Thành thật mà nói thì anh không có vẻ gì thông minh xuất chúng cả. Trái lại thì có. Anh chậm chạp, chậm chạp đến mức nặng nề. Anh cao hơn tôi một cái đầu. Đôi bàn tay to, dài ngoẵng vì tay áo vừa chật vừa ngắn. Lúc bấy giờ chúng tôi đi học đều mặc áo bà ba ngắn, quần và áo đồng màu, riêng anh Cúc thì lúc nào cũng mặc áo rằn quần trắng. Cổ áo không phải thứ cổ kiềng như chúng tôi mà là cổ cao, giống như cổ áo dài. Trông anh thành ra ngây ngô, nhất là với cái đầu tóc cắt đơ mi cua.

Đỗ Cúc học giỏi đủ các môn, nhưng giỏi nhất là môn luận. Lắm lúc tôi thành thật đau khổ vì không tự giải thích được nổi do đâu mà con người ấy lại ăn nói văn hoa được đến thế. Tả đêm trăng thì anh có “hàng trăm hàng ngàn con rắn vàng bò lượn trên mặt nước”. Tả ngôi chùa làng thì anh khéo xếp thế nào cho có một khóm trúc mọc ngay ở hông chùa để anh viết: “Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ”. Có lần thầy ra: “Tả chị đầy tớ gái nhà anh”. Chúng tôi mừng rằng Đỗ Cúc phen này hết đường mà văn hoa. Một chị đầy tớ chớ đâu phải là một cô tiểu thư, một nàng công chúa? Nét mặt thế nào cũng không đẹp, áo quần thì không thể sang, và cử chỉ lời nói chắc chắn là không thể uyển chuyển, dịu dàng, ngon ngọt. Chúng tôi hí hửng đợi sự thất bại của anh. Ấy thế mà hôm trả bài, Cúc vẫn đứng đầu với điểm 8 và thầy lại gọi anh lên đọc bài của mình. Thì ra sau khi tả những nét xấu xí của chị, Cúc khéo đặt chuyện rằng chị ấy chết chồng. Và để cảm thương cho nàng “tiết phụ” này, anh kết luận “Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu”. Lúc anh đọc đến đó, tôi liếc nhanh sang thầy Tri thì thấy thầy gật gật đầu mỉm cười ra dáng thích thú lắm. Hỡi ôi! tôi biết đào đâu cho ra những dòng văn chương êm đềm như thế để làm vui lòng thầy Tri, để làm bằng lòng các vị giám khảo trong cuộc thi tiểu học sắp tới? Tôi chán nản nhìn ra khung cửa sổ, nhìn mảnh trời xanh cao vút. Hy vọng về văn chương đối với tôi xa quá, khó vươn tới như mảnh trời xanh sáng đẹp kia.

Tôi cố bắt chước Đỗ Cúc nhưng không biết nên bắt đầu như thế nào. Tôi lưu ý đến Đỗ Cúc, đến từng cử chỉ nhỏ nhặt của anh, hóa ra tôi được biết nhiều chi tiết về anh, những chi tiết có lẽ không dính dáng gì hết đến tài văn chương của anh. Ví dụ cái lọ mực được cột vòng một sợi dây thép. Sợi ây uốn khoanh lò xo và tận cùng ở đầu bằng cái nút. Khi anh mở nút mực, cái lò xo rún rẩy làm rung rinh cái nút, trông nhí nhảnh như những đóa hoa ở mũ các ông kép hát bội. Tôi xấu hổ nhìn cái nút mực bằng giấy cuốn tròn lại của tôi. Đó không biết là cái nút giả thứ mấy sau khi cái nút thật bị lạc mất. Ví dụ cây bút chì anh cột bằng sợi dây nhợ dài dính vào nút áo. Khi viết, sợi dây kéo lằng nhằng. Có lần thầy bất chợt kêu anh lên bảng. Anh vội vàng không kịp bỏ bút vào túi áo khiến nó nhảy tung tăng theo bước chân của anh. Tôi cũng bắt chước anh cột cái bút chì vào một sợi dây và tròng vào khuy áo. Tôi bắt chước nhiều thứ nữa của anh, chẳng hạn lấy giấy cuộn xung quanh một đoạn tre ngắn để làm cái bút mực, chẳng hạn lấy nhiều giấy bản bồi cứng để làm cái bìa đóng ra ngoài mọi quyển sách, chẳng hạn sưu tầm những con tem thư để dành trong một cái hộp. Nhưng về phương diện văn chương thì tuyện nhiên tôi vẫn chẳng tiến bộ chút nào hết.

Nửa năm lớp Nhất tôi thay nhà trọ đến ở chung với anh Nên cùng học lớp Nhất với tôi. Anh Nên có một người chị năm ấy chừng 20 tuổi. Chị Cẩm - tên người chị của anh Nên - cả ngày cứ nằm trong phòng đọc tiểu thuyết và đợi người phu trạm, cứ chừng một tuần ghé lại trao cho chị một bức thư. Nhận được thư, chị vội vã vào phòng đóng kín cửa lại. Khi lũ em gõ cửa mời ăn cơm, chị uể oải bước ra, xì mũi liên tiếp vào khăn mùi xoa và hai mắt đỏ. Thấy nhiều lần như vậy, tôi hỏi u già. U bảo:

- Cô Cẩm nhận thư của cậu Khang đấy.

- Thế sao nhận thư chị Cẩm lại khóc?

- Vì cậu Khang hiện ở bên Tàu. Xa lắm.

Nhìn tôi ngẩn ngơ chưa hiểu, u hạ giọng, nói nhỏ:

- Cậu Khang thương cô Cẩm, nhưng tía cậu không chịu đi hỏi cô Cẩm cho cậu. Tía cậu bắt cậu về Tàu để cho hai bên xa nhau. Tía cậu Khang là ông Bang Chín, hiệu Đồng Thạnh ở xế cửa nhà mình đấy. Tôi gật đầu ra dáng hiểu và u già cũng thôi không nói nữa. Ngoài những lúc sụt sùi khóc khi đọc thư - và khi viết thư trả lời, tất nhiên, chị Cẩm còn khóc khi đọc tiểu thuyết nữa. Nhiều lần tôi thấy chị nước mắt ròng ròng ngồi trước một trang sách mở. Tay chị luôn luôn vò một chiếc mùi soa nát nhàu. Tôi lý luận rằng những quyển tiểu thuyết kia hẳn có liên hệ bà con gì với những bức thư gửi đến và gửi đi của chị. Một hôm tôi cầm một quyển tiểu thuyết chị vô tình đặt ở bàn học của tôi, mở ra xem. Đó là một tập gồm những đoản thiên tiểu thuyết bìa đã gãy nhàu và mực in đã nhòe vì mồ hôi tay. Truyện đầu tiên nhan đề là “Thu sang lá rụng người về bơ vơ”. Tôi tưởng chừng vừa nghe lại một giọng nhạc quen thuộc. Giọng nào nhỉ? Con người thô lỗ văn chương là tôi, đâu có lý tôi đã được hân hạnh có nhiều kỷ niệm về văn chương đến thế? Trong khi óc loay hoay tìm kiếm, tôi lật vội để tìm tên của cái truyện thứ hai “Lệ ai tầm tã bến Giang Châu”. Tôi lật tiếp. Những cái tên truyện vang lên du dương: “Em ơi! Hẹn nhau mùa lá rụng…”, “Tóc xanh ai nỡ nhuộm mái sầu…”.. “Duyên em trao trọn về chàng”… Bên cạnh những tên truyện êm đềm ấy, tên các tác giả cũng êm đềm chẳng kém. Những là Lệ Thùy, Mộng Hoàng, Huyền Thao, Hoài Giang Thủy … y như những tiếng nhạc đệm nhỏ, vang nhè nhẹ bên cạnh bản nhạc chính. Chợt tôi vùng la to lên: “Đỗ Cúc!”. Phải rồi, cái giọng nhạc quen thuộc đó là giọng của người anh hùng văn chương của lớp tôi, anh Đỗ Cúc vậy. Bên tai tôi như văng vẳng vang lên giọng đọc của anh: “…Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ… nàng từ chiếc bóng song the… Gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu…”

Thế là từ đó tôi bắt đầu làm quen với thứ văn chương loại Đỗ Cúc. Tôi đã tìm ra được bí mật của anh rồi. Cái nguồn văn chương lâm ly của anh là những quyển tiểu thuyết đượm nhiều nước mắt này. Tôi lật nhìn những bức tranh vẽ. Hầu hết là những hình thiếu nữ mắt mơ màng, tóc chải theo lối kỹ nữ Trung Hoa, có cài trâm và xiêm y dài thườn thượt. Các cô hoặc đứng tựa cành mai, cành liễu hoặc ngồi trước án thư, nhưng dù ở cảnh nào người họa sĩ cũng không quên vẽ một mặt trăng vào đó. Những bức hình này chắc đã an ủi chị Cẩm nhiều lắm vì dễ thường đã nhiều lần chị tưởng tượng rằng chính đó là hình ảnh của chị, cô gái Trung Hoa đau khổ. Sao lại không? Yêu một người Trung Hoa, người ấy hiện giờ ngồi nhớ chị tại xứ Trung Hoa, xứ Trung Hoa với những địa danh đẹp như Tô Châu, Hàng Châu, Dương Tử.. thì chị đã, một nửa là cô gái sầu mộng của Trung Hoa rồi còn gì nữa? Thật chị có đủ yếu tố để đẫm mình vào những trang sử lâm ly này vậy.

Từ ngày biết được xuất xứ những câu văn êm đềm của Đỗ Cúc, tôi nhìn anh bằng con mắt ít khâm phục hơn. Mỗi lần thầy Tri gọi anh lên đọc một đoạn văn của anh mà thầy thích là tôi mường tượng thấy tập tiểu thuyết của chị Cẩm với những chữ nhòe mực vì mồ hôi tay, với những hình cô gái Trung Hoa. Nhưng Đỗ Cúc, anh dường như không bao giờ có thể tin rằng bí mật của anh đã bị tôi khám phá ra rồi. Chứng cớ là mỗi lần thầy kêu anh đọc bài luận, anh vẫn bước đi một cách dõng dạc, cố ý ngừng lại từng đoạn để đợi nghe chúng tôi xuýt xoa khen. Chứng cứ nữa là anh đã dùng thứ văn chương ấy để viết một bức thư tình, các bạn có thể tin được không?

Việc xảy ra như thế này:

Sáng hôm ấy trước giờ vào lớp, thằng Tiến nhặt được một bức thư của ai đánh rơi ở gần bục thầy ngồi. Chúng tôi chạy ùa lại xem. Thằng Chút ồn ào và quấy nhất lớp giật lấy bức thư vừa lo to:

- Để tao đọc cho tụi bây nghe.

Cả lớp nhao nhao lên: “Phải đó. Phải đó. Để nó đọc”.Và Chút mặt hí hửng, dõng dạc đọc:

Gác vọng nguyệt, một ngày Mạnh Đông.

Kính thưa Quý nương

Tiếng thằng Hy ồn ào chận lại:

- Cha chả! Văn chương mùi mẫn thế!

- Mạnh Đông là cái thá gì thế bay? Tao chẳng hiểu.

- Quý nương là đứa nào vậy?

- Im! Im! Để nó đọc tiếp.

Cánh thư trước kính gửi Quý nương, đến nay vẫn chưa có hồi âm, lòng vãn sinh thật muôn phần đòi đoạn. Ôi! một ngày mong đợi coi bằng ba thu. Chùm hoa bên rèm cũng như nhớ nhung ai mà từng cánh tả tơi theo gió”

Một tiếng “huýt” thét lên và thằng Phin la theo:

- Úi dào! Hay quá! Ai viết mà hay thế bay?

- Ai viết thế nhỉ? Đỗ Cúc hở?

Chợt tiếng một anh la lên “Thầy đến! Thầy đến!”. Chúng tôi lật đật chạy ùa theo của sau, tháo ra sân. Sự điều tra tác giả bức thư được tiến hành âm thầm. Tác giả không ký tên mình, không ghi tên của người nhận thư, nhưng cứ so cái giọng văn trong thư thì anh em đều chắc mười mươi là Đỗ Cúc. Ngoài Cúc ra, chúng tôi không đứa nào có thể sản xuất được một phần năm bức thư văn hoa ấy. So nét bút thì cũng đúng là Đỗ Cúc. Anh có nét chữ đều đặn, nét đậm, nét lợt phân minh, khuôn chữ dài và nằm nghiêng. Thằng Sự nói giọng quả quyết.

- Chắc chắn là thằng Cúc. Lúc Chút đọc thư nó cứ ngồi ỳ ra đó không chạy lên ồn ào với tụi mình.

- Thằng Cúc đứt đuôi đi rồi. Văn nó chớ còn ai vào đây nữa.

- Nhưng còn quý nương là ai?

Mọi khuôn mặt trầm ngâm lại suy nghĩ.

- Chẳng lẽ lại con Nga - thằng Đạo nói. Con Nga đẹp quá, chắc Cúc chẳng dám đâu.

- Thế thì Minh Ngọc - thằng Gương ngắt lời.

- Vô lý. Tao nghi là con Trâm.

- Trâm là con ông Án sát. Nó sợ tù không dám rớ vào đâu.

- Thế thì chị Tám vậy.

Nghe đến tên chị Tám chúng tôi đều cười ồ lên. Chị Tám là một chị bạn cũng lớn xác và cũng vụng về như Cúc vậy. Chị đen và có cặp mắt lé. Không ai bảo ai mà chúng tôi cùng ngầm đồng ý rằng quý nương của Cúc là chị Tám. Chúng tôi kể cũng khá ích kỷ. Dù trong ký ức đoán, chúng tôi cũng không cho phép Cúc được động chạm đến những cô bạn xin đẹp của lớp chúng tôi như Trâm, Minh Ngọc, Nga.

Câu chuyện bức thư tình quả có làm cho chúng tôi thích thú vì được chế giễu Cúc - len lén thôi vì chúng tôi sợ Cúc đánh - nhưng không vì thế mà Cúc suy giảm tài văn chương. Những bài luận của anh cứ tiếp tục được thầy khen. Anh cứ đều đặn lên đọc văn anh cho chúng tôi nghe, những đoạn văn có đủ mây trôi lững lờ, trăng soi huyền ảo, có khóm trúc, có hoa xưa, có chim có bướm. Và cuối năm, Cúc đỗ đầu ở kỳ thi tiểu học. Ngày lễ xướng danh, ông Công Sứ trao tặng thủ khoa một cuốn tự điển Larousse nặng. Thủ khoa Cúc cong lưng, cúi đầu, giơ hai tay lên đón nhận. Ông Công Sứ giơ tay bắt. Anh túng lúng đưa hai tay ra nắm tay ông, khiến quyển tự điển rơi đánh “rầm” xuống thềm. Chúng tôi bất giác cười rộ lên, nhưng vừa lúc ấy bắt gặp đôi mắt lườm của thầy Tri, chúng tôi vội vàng vỗ tay thật mạnh theo lời thầy đã dặn trước.

Đỗ tiểu học xong, chúng tôi phân tán mỗi người một nơi. Lên trung học, văn tôi cũng không tiến bộ chút nào nhưng được cái may là trong lớp không ai có tài như anh Cúc nên tôi đỡ bị khổ. Thế rồi cuộc đời cứ lặng lẽ chuyển vần, tôi lớn lên, tôi đi làm, tôi cưới vợ. Vợ tôi là một cô bạn gái cùng lớp nhất với tôi năm đó, cô Trâm con gái ông Án sát. Chúng tôi ngẫu nhiên gặp lại nhau ở Huế và nhiều sự ngẫu nhiên khác tiếp theo, cộng lại, đưa đến kết quả là chúng tôi cưới nhau. Ba năm sau, lại một ngẫu nhiên nữa đến với tôi, đó là tôi gặp lại anh Đỗ Cúc. Lúc bấy giờ tôi được đổi về làm việc ở thành phố Đà Nẵng. Một chiều thứ bảy rỗi rãi tôi thả bộ đi dọc theo đại lộ Quang Trung. Một người đàn ông lùi lũi đi ngược chiều lại tôi. Trông dáng đi quen quen và vẻ mặt thì không lạ. Tôi moi óc cố nhớ. Cuộc đời đã đẩy tôi vào giữa nhiều khuôn mặt quá khiến tôi lẫn lộn khi bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi đứng dừng lại để giúp cho trí nhớ dễ tập trung. Người đàn ông ấy lại đi gần tôi, ngước nhìn lên, nhìn hơi lâu và dáng ngập ngừng như cũng nhớ ra tôi. Óc tôi chợt như có một tia sáng lóe ra và miệng tôi vụt kêu lên không kịp giữ lại:

- Đỗ Cúc !

Người đàn ông ấy đứng dừng ngay lại và miệng cười.

- Anh Vinh, nếu tôi không lầm.

Cái giọng nói khàn khàn, cái cách nói hoa hòe, đúng là Đỗ Cúc thật. Hai bàn tay siết chặt và tự nhiên tôi quay ngược chiều trở lại, đi theo chiều của anh Cúc.

- Lâu quá mới gặp lại anh - tôi nói. Nhà anh ở đường nào?

- Cũng gần đây thôi. Đường Phan Đình Phùng. Tiện thể mời anh ghé lại tệ xá chơi cho biết. Bây giờ anh đã vợ con chưa?

- Đã

- Tôi cũng vậy. Mà chắc hơn anh ở chỗ nhiều con. Sáu đứa. Nuôi con mệt ngất ngư.

Tôi lẻn đưa mắt sang anh. Áo quần hơi cẩu thả. Chắc là vì anh nuôi mệt “ngất ngư” nên không có thì giờ săn sóc cho mình. Tóc vẫn cúp đơ mi cua.

Đi qua hai phố thì tới nhà anh. Anh tháo chốt cổng đợi tôi bước vào, liền đóng lại.

- Để mấy đứa khỏi chạy ra đường.

Anh nói một cách thản nhiên như không cốt cho tôi nghe. Tôi cười thầm, ngầm nhủ: con người cẩn thận. Không hẹn mà cái nút mực có đính lò xo và cây bút chì buộc dây của anh hiện ra trong óc tôi. Hai đứa con nhỏ của anh ở trong cửa chạy xổ ra ôm lấy chân anh. Rồi hai đứa khác nghe tiếng reo cũng chạy vụt ra. Lấp ló trong nhà là hai người con lớn. Thật là trật tự, quy củ. Anh vui vẻ bảo:

- Mấy con chào chú đi.

- Lạy chú ạ

- Lạy chú ạ

Loáng một giây, anh đã đứng giữa bầy con sáu đứa của anh. Người con lớn đã đứng cao bằng anh và giống anh như đúc. Cũng vẻ mặt hơi nặng nề và, lạ chưa, cũng cái đầu cắt đơ mi cua. Tôi hỏi:

- Cháu lớn đã được mấy tuổi rồi?

- Mười tám.

- Hử? Mười tám tuổi?

Anh lúng túng giảng giải:

- Tôi đỗ tiểu học xong thì thầy tôi bắt cưới vợ ngay. Thành ra đã có con lớn.

Tôi lật đật tìm một câu nói cho anh đỡ ngượng vừa để xí xóa vẻ ngạc nhiên vụng về của tôi vừa rồi.

- Có con sớm được nhờ. Anh vậy mà sung sướng.

Một người đàn bà ở dưới bếp đi lên. Anh giới thiệu:

- Nhà tôi.

Chị Cúc trông già hơn anh nhiều mặc dù anh cũng đã khá già. Thân mình chị to gấp đôi anh. Có đặc biệt là hai cổ tay của chị đeo đầy vàng. Tôi nghĩ liền: Chắc chị này là con một ông Chánh tổng, phó tổng gì đó, nhà giàu. Có vậy thì thầy anh mới bắt anh cưới vợ sớm.

Từ giã đoàn thê tử bề bộn của anh, tôi đưa mắt nhìn gian phòng. Đồ đạc bày biện quá đầy đủ. Có cả xa lông đệm lò xo, có cả ghế bàn mặt đá, sập gụ, tủ chè, tủ rượu. Những vật nhỏ anh đều sắp đặt đủ đôi. Bên này cái lọ thì bên kia đối diện lại cũng phải là cái lọ, đối, phúng, trướng dàn khắp mặt tường, đa số là những bức người ta đi khao ông cụ thân sinh anh khi được vinh thăng cửu phẩm, bát phẩm. Một cái ná Thượng du và một túi tên lạc loài giữa rừng câu đối. Sự hoang dã của non cao, sự tàn bạo của chém giết không ăn nhịp với những dòng chữ nho hòa nhã ca tụng tài đức của chủ nhân. Thấy tôi quan sát, anh nói:

- Tôi mới đặt mua cái tủ lạnh. Vài bữa họ chở tới.

- Nhà anh có nhiều tiện nghi quá.

- Ồ! Có gì đâu

Anh nhũn nhặn mỉm cười. Nhũn nhặn thật sự, vì tôi thấy mọi vật bày biện ở đây đều thở ra một cách mệt nhọc, cái không khí sung túc no đủ.

Bắt đầu là anh. Anh trông béo ra, đôi má phúng phính khiến đôi mắt càng nhỏ lại. Tới đây tôi thấy cần được giải thích thêm về sự sung túc hiện tại của anh. Tôi hỏi:

- Gặp anh mừng quá quên hỏi điều này: Bây giờ anh làm ở đâu?

Anh lại lúng túng, khiến tôi thấy mình vụng về lần nữa. Cuối cùng anh nói:

- Vì tôi chỉ có bằng tiểu học nên tôi phải dạy một lớp tiểu học ở cách đây mười cây số. Trước đây vài mươi năm, bằng tiểu học có giá trị, bây giờ thì gần như vô nghĩa. Tiếc quá, thầy tôi lúc bấy giờ không cho tôi học thêm.

Tôi an ủi anh:

- Làm sao mà các cụ ngờ được. Nhưng anh như thế này là sung sướng lắm rồi.

Anh tươi nét mặt trở lại và đưa mắt nhìn vào một góc phòng. Tôi đoán chắc anh đang tưởng tượng vài hôm nữa anh kê tủ lạnh ở chỗ ấy. Ngồi nói chuyện với tôi mà hai tay anh không để yên. Hết nghiêng đầu soi lên mặt bàn để tì gạt một vết bụi, đến sửa lại cái gạt tàn thuốc đặt hơi lệch. Có lúc anh chợt đứng dậy vội vã khiến tôi giật mình, tưởng chừng có đứa con nào suýt ngã, anh vội chạy đến đỡ. Nhưng không. Anh chỉ đi lại chỗ tủ chè xếp lại mấy cành hoa giả mà một cơn gió nào đó đã xô lệch. Thật là sự chi ly cẩn thận của Đỗ Cúc. Bỏ đi sự chi ly này thì không chắc anh còn là anh nữa.

Nhìn xuống đồng hồ thấy đã trễ giờ cơm, tôi đứng dậy xin cáo từ anh. Tôi cho anh biết địa chỉ của tôi và anh hẹn chủ nhật sau sẽ dến thăm. Sáu tiếng “lạy chú ạ” vang lên, lẫn lộn, tiễn tôi ra cổng. Anh tươi cười giữa khúc “nhạc” quen thuộc ấy, vẻ hãnh diện, chừng như bằng lòng về sự sản xuất phong phú của mình. Anh nói:

- Nuôi con đông mệt ngất ngư thật, nhưng nhiều lúc cũng vui.

Lúc vui đó chắc là lúc này đây. Bước ra khỏi cổng, tôi tiện tay đóng cửa lại và móc chốt dùm anh. Tôi nói:

- Để lũ nhỏ khỏi chạy ra đường.

Anh thú vị siết chặt tay tôi qua song cửa và đôi mắt cười híp lại.

Tối hôm ấy ăn cơm xong, tôi bảo vợ tôi:

- Chiều nay anh vừa gặp một sự ngạc nhiên. Đố em đoán xem sự ngạc nhiên gì.

Vợ tôi vờ suy nghĩ rồi hỏi ngay:

- Ngạc nhiên gì vậy?

- Anh gặp Đỗ Cúc

- Đỗ Cúc là cái gì?

- Em không nhớ Đỗ Cúc sao? Đỗ Cúc là người bạn học hồi lớp nhất với chúng mình đó.

Vợ tôi nhíu mày suy nghĩ. Tôi giúp nàng mau nhớ ra bằng cách giảng giải rõ thêm:

- Đỗ Cúc là người bạn làm luận hay ở lớp mình đó, anh bạn áo rằn, anh bạn…

Vợ tôi “à” lên một tiếng to, ngắt đứt câu nói của tôi:

- À, em nhớ ra rồi, cái anh học trò dở hơi đó phải không?

Dở hơi? Sợ vợ tôi lầm với một người nào khác, tôi lại nhẫn nại giảng giải nữa:

- Cái anh mà thầy Tri hay bắt đọc văn cho chúng mình nghe đấy. “Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ” và “Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia…”

- Biết rồi, em biết rồi mà. Thì cái anh chàng dở hơi đấy chớ còn ai vào nữa. Cái anh chàng mỗi lần đi lên bảng là hai tay đong đưa như đàn bà đi chợ ấy, em còn lạ gì.

Thì ra mỗi người nhìn anh Cúc với một con mắt khác, nhận ở anh Cúc một nét đặc biệt khác. Vợ tôi lưu ý đến đôi tay đong đưa của anh.

- Thế anh ta bây giờ ra thế nào ?

- Oai lắm. Những sáu đứa con. Và xem chừng giàu.

- Anh gặp anh ta ở đâu?

- Ngay giữa phố, anh có ghé lại cho biết nhà và anh ta hứa chủ nhật tuần sau đến thăm chúng mình.

Tôi kể lại những điều nghe thấy buổi chiều ở nhà anh Cúc. Nhân chuyện anh Cúc, chúng tôi nhẩn nha nhắc lại những kỷ niệm vui vẻ ngày cùng học ở trường Sông Cầu. Vợ tôi nhảy từ chị bạn này sang chị bạn kia, từ thầy giáo sang bác cai trường, từ cầu Thị Thạc sang phố lầu chú Chấn Thạnh. Tôi đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi một cách mệt nhọc. Nàng đúng là con chim non nhí nhảnh như đã nhiều lần tôi phê bình. Nhưng lần này sở dĩ tôi không muốn đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi là vì tôi còn đang vấn vương với anh bạn Cúc mà tôi vừa gặp. Khi những cảnh dĩ vãng đã chuyển hết rồi, con chim nhỏ là vợ tôi đã đứng yên, tôi đột ngột hỏi:

- Em còn nhớ bức thư tình của anh Đỗ Cúc mà thằng Chút đã đọc to trong lớp không?

- Có nhớ

- Không biết anh ta viết bức thư ấy định gửi cho ai. Lúc bấy giờ bọn anh cố khám phá mà chịu không đoán ra được ai. Anh ta khôn, chỉ viết “Thưa quý nương” thì đố ai mà biết được.

Vợ tôi ngồi ngẫm nghĩ giây lâu rồi bỗng phá ra cười. Tôi hỏi:

- Em cười gì vậy?

- Đố anh biết Đỗ Cúc viết cho ai?

- Đã bảo rằng bọn anh chịu, đoán không ra. Bọn anh nghĩ là anh ta viết cho chị Tám.

- Lầm. Anh ta viết cho em đấy.

Tôi ngạc nhiên:

- Thật sao?

- Em đâu có nói đùa?

- Thế anh ta không sợ ba em à?

- Nào em có biết. Hôm thầy Tri giao cho anh ta phát vở luận, em vắng mặt. Anh ta giữ vở em lại. Hôm sau anh ta trả vở cho em kèm theo một phong bì. Anh ta bảo: “Chị Nhạn ở lớp nhì nhờ đưa giùm phong thư cho chị”. Nhạn là bạn của em nên em nhận. Về đến nhà mở ra mới biết là thư của anh ta. Thư bắt đầu bằng “Thưa quý nương”. Em đọc mà chẳng hiểu gì hết. Em chỉ nhớ mấy câu hay hay…

- Ồ! Đỗ Cúc thì viết hay phải biết - Tôi ngắt lời - Em còn nhớ mấy câu hay ấy chứ?

- Lâu quá, có hơi quên. Hình như là “đài gương soi đến dấu bèo”… và... “những khi trăng soi bóng lẻ gió rít đầu cành…” hay là cái quỷ quái gì đó. Em sợ quá về đưa ngay cho ba xem.

- Chết Đỗ Cúc mất rồi!

- Ba đọc xong, xé đi, rồi bảo em từ giờ anh ta có đưa giấy tờ gì thì vất trả lại. Nếu anh ta không nghe thì lên mách thầy giáo.

- Em có mách lần nào chưa?

- Chưa. Lần sau anh đưa một cái thư nữa, cũng bảo là của chị Nhạn nhờ đưa, nhưng em nghe lời ba, ném lại. Cái thư lọt vào kẽ bục bàn thầy. Anh ta lật đật cúi xuống moi lấy nhưng không được. Sàn gạch hoa thì trơn mà em vất mạnh nên không ngờ cái thư chạy qua mãi phía bên kia bục. Anh ấy hì hục đẩy bục đi, nhưng bục nặng không xê dịch được. Đôi tai và mặt anh ta đỏ như lên, bộ điệu lúng túng trông cũng tội. Vừa lúc ấy các anh ồn ào đến nên Cúc lật đật đi xuống chỗ ngồi. Và thế là anh Tiếp bắt được cái thư và anh Chút mới đọc oang oang giữa lớp.

- Tội nghiệp cho Đỗ Cúc - tôi chép miệng

- Nhưng may cho em. Hôm làm bài luận “Tả nỗi buồn khi xa nhà ra tỉnh trọ học” em nhớ câu văn của Đỗ Cúc trong thư nên viết ngay vào bài: “… những khi trăng soi bóng lẻ, gió rít đầu cành…”, thầy Tri khen, cho 8 điểm. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót em được 8 điểm luận.

Hai chúng tôi cười to vì sự thành công bất ngờ về văn chương này.

- Lúc nãy anh bảo rằng chủ nhật anh ấy đến thăm chúng mình?

- Ừ

- Anh ấy đã biết rằng anh có vợ rồi?

- Biết rồi, chính anh nói. Anh còn cho biết rõ ràng vợ anh là cô Trâm xinh tươi cùng học lớp nhất ngày xưa.

Vợ tôi không tỏ ra quan tâm đến lời nói nịnh của tôi mà vẫn điềm nhiên hỏi:

- Anh ta có ngạc nhiên không ?

- Hình như cũng… có hơi ngạc nhiên.

Vợ tôi nheo mắt nhìn ra sân một hồi rồi quay sang tôi:

- Em chắc chủ nhật này anh ấy không đến đâu.

- Vô lý. Việc gì mà không đến? Tôi vội vã hỏi lại.

- Em chắc anh ấy ngượng.

- Có gì mà ngượng. Chuyện trẻ con mà. Bây giờ ai nấy cũng đều lớn cả rồi, mà anh ấy có những sáu đứa con. Em cứ chuẩn bị nhà cửa cho đẹp đẽ hơn một chút nữa đi, để chủ nhật chúng ta đón anh ấy. Nhà anh ta giàu lắm, em nhớ cho, chớ không nghèo như chúng mình đâu.

Ngày chủ nhật đến, tôi không dám đi đâu hết. Trái với thường lệ, tôi dậy sớm và ăn điểm tâm vội vàng như những ngày đi làm. Tôi mặc áo quần cẩn thận và ra ngồi ở phòng khách đợi. Tôi biết tính Cúc siêng năng, chu đáo, nên tôi cho rằng anh ta sẽ đến sớm lắm. Nhưng 9 giờ.. rồi 10 giờ. Có tiếng bánh xe ô tô rít lên, rẽ vào con đường xóm tôi, nhưng xe chạy thẳng. Có tiếng phanh xe xích lô lách cách, nhưng xe đậu ở nhà đối diện. 11 giờ… 12 giờ. Vợ tôi thỉnh thoảng ở nhà ngang đi lên, bảo tôi:

- Đó, em nói có sai đâu.

Tôi chịu không biết nên trả lời thế nào cho phải.

Buổi chiều, tôi không ra ngồi ở phòng khách nữa, nhưng tôi vẫn không dám đi đâu xa. Tôi chỉ lảng vảng hoặc ở nhà ngang hoặc nằm ở phòng đọc sách. Mỗi một tiếng giày sạo sạo ở cổng, tiếng còi ô tô, tiếng xe gắn máy nổ đều làm tôi lắng tai ngóng chờ.

Khi điện đường bật sáng, khi tiếng đũa bát vang lên ở phòng ăn, tôi biết rằng tôi không còn hy vọng đón anh Đỗ Cúc nữa. Quả anh không đến thật như lời vợ tôi đã đoán. Tôi uể oải đứng dậy thay áo thì chợt có tiếng chuông reo ở cổng và tiếp theo, tiếng con Nu sửa ầm lên, anh Cúc đến. Không những anh đến một mình đủ để trái với dự đoán của vợ tôi - mà có cả chị Cúc và một đoàn sáu người con . Hôm nay anh mặc bộ tuýt xo vàng và thắt cà vạt. Những nếp gấp lộn xộn nhất hằn lên áo, và hai vai xệ xuống. Đôi tay và lưng cứ ngọ ngoạy trong chiếc áo hơi rộng. Nhìn anh không có vẻ thoải mái, tôi có cảm tưởng rằng chiếc áo đấy xa lạ với anh. Với một chút son ở đôi môi và mái tóc chải ngăn nắp, chị Cúc trông được mắt hơn bữa đầu tôi gặp. Tuy vậy, đôi chân mày nhổ chừa lại còn quá nhỏ khiến mắt chị thành ra to thêm.

Tôi vừa ra đón thì anh chị đã vội vã chào trước:

- Chào bác ạ - Chào bác ạ. Hôm nay chúng tôi đến hầu thăm hai bác.

Mấy đứa con, như sáu cái máy, phụ họa theo:

- Lạy bác ạ, lạy bác ạ.

Tôi lúng túng khi nhận tiếng xưng hô lễ mễ. “Bác”, tiếng gọi mới già nua làm sao! Vì thành thật mà nói thì nhìn lại anh Cúc, tôi cứ tưởng chừng tôi xa anh không quá 5-7 năm, nhất là nhìn cái đầu tóc đờ mi cua, tôi thấy anh không khác mấy với những ngày đi học. Thế mà thay vì tiếng “anh” nhẹ nhàng đơn sơ, anh đã gọi tôi bằng “bác”. Chắc là do anh chịu ảnh hưởng của vợ anh thôi. Chắc là đứng bên cạnh người đàn bà bệ vệ ấy, anh bị bắt buộc thấy mình già đi, đứng đắn lại, chớ hôm một mình gặp tôi giữa phố anh vẫn gọi là “anh”

Khi vợ tôi ở nhà ngang bước lên thì một loạt những tiếng “chào bác, lạy bác”, lại hòa tấu một lần nữa. Vợ tôi tỏ ra lúng túng gấp đôi tôi vì sự trịnh trọng mà gia đình anh Cúc đã dành cho mình.

Khi anh chị Cúc đã ngồi yên ở ghế và lũ con xếp một hàng ngay ngắn ở đi văng thì cuộc đàm thoại xã giao bắt đầu. Chị Cúc nói trước:

- Cái phòng khách của hai bác chắc một bề 4 thước một bề 7 thước.

Vợ tôi trả lời, giọng không quả quyết lắm:

- Vâng, hình như thế ạ.

- Bác nên cho xây thêm một tấm “đan” ở đằng trước cho mát. Tấm “đan” chạy dài suốt cả mặt tiền.

- Vâng ạ. Xây thêm được một tấm “đan” thì mát hơn nhiều.

Chị Cúc nhìn một lượt phòng khách của tôi rồi giơ một ngón tay - đến đây tôi mới kịp để ý rằng bàn tay chị đeo đến ba, bốn chiếc nhẫn mà chiếc nào mặt cũng to, cũng đồ sộ - chỉ vào một góc phòng.

- Bác cho đắp hai cái trụ chỗ này. Đặt hai chậu hoa thược dược hay hoa cúc vào đấy thì đẹp.

- Vâng ạ - Vợ tôi khẽ gật đầu tuân lệnh.

- Chẳng tốn bao nhiêu đâu.

- Vâng ạ.

- Mà trông đẹp ra.

- Vâng.

- Vậy để hôm nào em đưa đến giới thiệu cho bác một người thợ nề quen. Anh ta làm việc cẩn thận mà tính công lại rẻ.

- Vâng ạ. Cám ơn … bác.

Đã đến lúc tôi phải giải nguy cho vợ tôi. Con chim non cứ “vâng ạ, vâng ạ”, chịu nhận mọi sự xây cất trong khi nhà này là nhà thuê. Tôi đằng hắng to:

- Xin mời hai.. bác xơi nước.

Dù cố gắng nói thật to, thế mà tiếng “bác” như cũng ngượng ngùng, chỉ vang lên nhè nhẹ yếu ớt. Vợ tôi lại chỗ tủ ăn lấy sáu trái cam phân phát cho sáu người con anh Cúc. Tôi mời:

- Các cháu ăn cam đi.

Rồi quay sang anh Cúc:

- Cháu lớn học đến lớp mấy rồi?

- Dạ thưa bác, cháu “hược” ở lớp đệ tam.

Chị Cúc tiếp lời:

- Thưa bác, cháu lớn thế mà “hược” kém lắm ạ, “thiềng” ra ba cháu cứ tối tối kèm cho cháu.

Theo cái đà ấy, câu chuyện xã giao kéo dài một cách nhọc mệt vì chúng tôi cứ sợ nói nhằm vào những tiếng mà vợ chồng anh kiêng. Đầu đề câu chuyện thì quanh quẩn ở việc sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc, chơi huê chơi hụi, tăng lương, tăng thưởng ngạch trật. Trong khi nói chuyện, vợ anh Cúc cứ chăm chăm nhìn vợ tôi, còn anh Cúc hết nhìn xuống sàn nhà lại nhìn lên tường. Ý chừng anh không thể chịu được tại sao tôi lại không treo những bức trướng liễn, câu đối, hoành phi lên bốn bức tường như ở nhà anh vậy. Có một lúc vợ tôi quên mất phép xưng hô trịnh trọng, quay sang hỏi:

- À, anh Cúc, tôi nghe anh Vinh nói anh bây giờ giàu lắm.

Cúc nặng nề nhìn sang phía vợ tôi, chậm chạp nói:

- Thưa bác, bác trai bảo vậy thôi chứ tôi làm ăn cũng chỉ gọi là mát mặt.

Cách nói, lối nhìn của Cúc thật khác xa với điều vợ tôi đã dự đoán và tôi đã ngầm biểu đồng tình. Anh có ngượng gì đâu? Hình như người ngồi trước mặt anh không phải là người mà anh đã hai lần cặm cụi viết hai bức thư nồng nàn ái mộ. Nhìn anh giây lâu rồi nhìn sang vợ anh, tôi chợt nghĩ rằng anh dã được rập khuôn theo mẫu người mà tiếp xúc, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời. Anh dường như lúc nào cũng đã tự quên mình, tự xóa mình đi. Những áng văn chương lâm ly hồi đi học là ảnh hưởng của những quyển tiểu thuyết đương thời. Lớn lên đi làm, anh chịu ảnh hưởng của thầy anh, cũng rộn ràng những chức tước, phẩm hàm, hoành phi câu đối. Khi lập gia đình thì anh là hình ảnh được thu nhỏ lại của vợ anh : cũng chăm lo nhà cửa, bỏ vốn gây lời và kiêng kỵ những tên húy của tổ tiên. Không có một anh Đỗ Cúc thật ở chỗ nào hết, mà đó chỉ là tiếng vang trung thành của những tiếng động ngẫu nhiên ở đâu đây.

Buổi tối trước khi đi ngủ, tôi nằm nghĩ vẫn vơ về cuộc đời của anh Cúc với những bí mật nhỏ của nó. Những bí mật ấy tình cờ mà tôi khám phá ra được hết: nguồn văn chương lâm ly của anh và bức thư tình không may mắn. Nhưng còn một bí mật cuối cùng nữa do nghề nghiệp của anh bắt tôi suy nghĩ. Đó là: không biết khi dạy học trò, anh có bắt chúng du dương theo loại “Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ.. Nàng từ chiếc bóng song the..” như anh, hai mươi năm trước không?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.11.2012 18:38:17 bởi hai1957 >

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 22.11.2012 14:51:20
2. NGƯỜI THỨ BA



Từ ngày Phú đau, Long đến thăm lần này là lần thứ hai. Anh không ngờ bệnh Phú có thể phát triển đến mức trầm trọng nhanh như vậy. Lần đầu tiên đến thăm Phú, cách đây chừng nửa tháng. Phú còn ngồi tiếp anh ở giường. Vẻ măït có vẻ xanh xao, hốc hác, nhưng Phú còn mời anh một điếu thuốc và chính Phú cũng tự tay chăm thuốc hút, hít từng hơi khói ngon lành. Hai người bạn còn trao đổi với nhau những tin tức xa gần về tình hình trong nước. Khi bắt tay giã từ. Long chúc Phú chóng bình phục và Phú tươi cười nhận lời chúc. Không ngờ hôm nay đến thăm thì Phú chỉ nằm ẹp trên giường, nằm dán sát xuống nệm như không còn chiều dầy nữa. Một cái chăn mỏng đắp ngang thân mình. Đầu đặt nghiêng trên gối. Treo ở đỉnh màn là một chai serum được nối liền bằng một dây cao su vào mũi tiêm cắm thủng vào da đùi. Sérum chảy rất chậm làm phồng mảng đất nơi mũi tiêm. Nhìn phương pháp trị liệu rắc rối, tự nhiên Long thấy choáng váng: bệnh tình Phú đã trầm trọng như vậy sao? Anh đứng yên ở đầu giường. Nguyệt, vợ Phú cất tiếng nói khẽ vào tai chồng.

- Anh Long đến thăm mình.

Phú chỉ gật đầu. Vừa lúc ấy chị Sen bưng lên một ly mà anh đoán là nước cam, trong đó có cắm một ống hút. Nguyệt đưa tay đón lấy, rồi vừa nâng đầu chồng vừa đặt một đầu ống vào miệng. Mực nước ở ly vơi đi rất chậm. Chợt Phú sặc lên mấy tiếng. Nguyệt vội vã bỏ ly nước ra, rồi bằng cả hai tay vuốt ngực cho chồng. Tiếng ho sặc nhẹ như tiếng nấc của một đứa trẻ. Khi Phú nằm im trở lại, nàng lấy khăn lau miệng cho chồng, rồi cầm khăn khe khẽ chặm vào mắt. Có lẽ Phú đã khóc, nhưng vì đứng ở sau thành giường, Long không nhìn thấy. Nguyệt chặm nước mắt nhiều lần như vậy.

Từ nãy giờ, Nguyệt chỉ nhìn anh có một lần khi anh bước vào nhà. Vì bận lo lắng cho chồng, điều ấy đúng rồi, nhưng Long còn nghĩ rằng có lẽ vì nàng tự thấy mình tiều tụy. Chưa bao giờ anh gặp Nguyệt trong bộ áo quần nhàu nát như hôm nay. Tóc không chải kỹ, lòa xòa trước trán. Da mặt xanh mướt và mắt sâu xuống. Môi không tô son, nhợt nhạt.

Đứa con gái của Nguyệt lên bốn tuổi bước lại gần giường. Nó đưa bàn tay bụ bẫm lên cầm tay ba. Nguyệt nói:

- Con xuống nhà chơi với chị Sen, để ba nghỉ.

- Sao ba cứ nghỉ hoài rứa?

Giọng Huế nhè nhẹ thốt ra từ đôi môi nhỏ, nghe ngộ nghĩnh như tiếng nói riêng của búp bê. Nguyệt không trả lời con, với tay lấy ly nước cam rồi lại đặt một đầu ống hút vào miệng chồng. Long đưa mắt nhìn cảnh âu yếm đó mà xót xa nghĩ đến thân phận mình. Anh cũng có đau bệnh nhiều bận, nhưng chỉ tự mình săn sóc cho mình. Người làm của anh chỉ biết nấu cháo và pha sữa. Nếu cần ăn cam thì cũng tự tay anh bóc vỏ lấy. Tiêm thuốc đã có y tá. Lạ thật, thế mà không hiểu sao anh đã lành bệnh được. Có ai đoán trước ý muốn của anh để chiêu đãi anh như thế kia đâu? Ai chọn bác sĩ, ai chọn thức ăn, ai đoán là anh đang lạnh, đang nóng để mà tùy nghi đắp chăn hay vặn quạt? Khi đau nặng sợ chết, anh cũng có khóc đôi lần, nhưng rồi cũng phải tự mình đưa tay lên lau nước mắt. Thế mà anh vẫn sống được, lạ thật!

Có nhìn cách Nguyệt săn sóc chồng, anh mới chợt thấy rằng anh đã sống liều lĩnh mà không biết “Đáng lẽ mình đã phải chết từ lâu rồi, từ lâu rồi”. Ý nghĩ này lại làm anh xót xa thương cho thân phận mình, nhất là vì Nguyệt, chính Nguyệt sinh ra để săn sóc âu yếm anh chứ đâu phải để săn sóc Phú? Đáng lẽ anh và Nguyệt đã cưới nhau, nếu không có Phú chen vào. Phú là người tình địch của anh, người tình địch thắng trận. Phú có địa vị hơn anh, nên gia đình Nguyệt chọn Phú. Như mọi người con gái Huế khác, Nguyệt chỉ khóc. Và nói với người yêu chiến bại:

- Em không bao giờ quên anh.

Ồ, một người con trai, cho dù mới hai mươi lăm tuổi cũng đâu có dễ tin ở một lời hứa hẹn không bảo đảm như vậy. Nhưng vì không có cách nào khác, anh đành tạm nhận lời an ủi và nói lại, không quả quyết lắm:

- Anh cũng thế.

Nguyệt lấy chồng vào mùa hè. Hai cây phượng trước cổng nhà nàng hoa nở đầy cành, trông xa như những cánh tay quằn quại dưới sức nặng của những lễ vật màu đỏ. Chúng như cùng vào hùa với gia đình Nguyệt để tưng bừng đón mừng ngày cưới. Long ghét những cây phượng từ đó. Ngày xưa khi yêu nhau, hai người thường đi dưới bóng phượng. Phượng và ve thì ở Huế không thiếu. Nhìn những xác phượng rơi đầy ở sân một ngôi trường vắng lặng giữa mùa nghỉ hè, cả hai cùng nghĩ đến xác pháo của ngày cưới. Ngày cưới của hai người cố nhiên, vì con đường đi đến hạnh phúc bằng phẳng, rộng rãi, nhiều bóng mát như con đường Phan Chu Trinh, trên đó hai người đang chầm chậm đi. Thế mà Phú đã hiện đến, bất ngờ. Và Phú được chọn là người ở lại.

Ngày cưới Nguyệt, Long đáp tàu lửa bỏ thành phố. Anh tránh nghe tiếng pháo, tránh chứng kiến một cuộc rước dâu long trọng. Con tàu lùi lũi chạy và đôi đường sắt sau đuôi tàu như kéo dài theo mãi nỗi buồn không dứt của anh. Đôi đường sắt vẫn nối anh với Huế như tâm hồn anh vẫn nối liền với Nguyệt bằng những ý nghĩ vừa mãnh liệt vừa nhọc nhằn. Anh thấy lại Nguyệt dưới mọi khuôn mặt. Nũng nịu âu yếm, khi anh bẻ tặng nàng một đóa ngọc lan có con sâu nằm nấp dưới đài hoa. Rạng rỡ tươi vui, khi nàng vươn vai hai tay chèo thuyền thoi lướt vùn vụt trên sông An Cựu. Mơ mộng êm đềm, khi ngồi bên anh nàng phác họa những dự tính tương lai.

Tàu chạy sâu vào đêm tối. Đến đây anh có cảm tưởng mình bị cắt đứt với dĩ vãng. Đêm tối là hình ảnh của cuộc đời mà anh đang đi tới. Ở Huế như chỉ có ban ngày với hoa phượng, với nắng với tình yêu.

Tàu qua đèo Cả vào mười hai giờ khuya. Long đau đớn nghĩ rằng giờ này là giờ hợp cẩn. Nguyệt nằm trong cánh tay của Phú, kết thúc giai đoạn hạnh phúc mà anh đã bắt đầu. Anh sẽ ít đau khổ nếu Phú là một người lạ mà một không hề quen biết. Đằng này không, Phú là bạn học của anh. Biết quá rõ về một người bạn để phải tưởng tượng rằng Nguyệt nằm trong tay người bạn ấy, anh thấy định mệnh đối với mình thật tàn ác. Anh muốn hét to lên, phẫn nộ, nhưng sợ ngượng, không dám. Anh nghĩ: nếu mình nhảy ra khung cửa tàu, lao xuống triền núi để cho nát tan khối óc, nơi đó những hình ảnh tưởng tượng cứ hiện ra, nối tiếp một cách tàn nhẫn. Nhưng anh vẫn ngồi im lặng. Sách vở bảo rằng tự tử là hèn nhát. Khi tàu dừng lại ở ga Ninh Hòa, anh thở dài tự nói với mình:

- Thực tế thì phải có can đảm lắm mới tự tử được. Thành thật mà nói thì sau đó anh đã quên được Nguyệt. Anh yêu vẩn vơ người này người khác. Tình yêu như một món ăn chớ ai bảo rằng họ chỉ ăn được một món này mà nhất thiết không thể ăn món kia. Chỉ khi nào tâm hồn cô đơn, khi một tình yêu cũ chấm dứt mà chưa có tình yêu mới bắt đầu, khi làm ăn thất bại.. là anh nhớ tới Nguyệt để mong tìm một hình ảnh êm đềm mà an ủi.

Hai năm sau, anh trở về thăm Huế. Cảnh vật như xưa, nhẫn nại trong sự bất biến. Dòng sông vẫn trôi lặng lẽ, những mái tóc vẫn chảy dài trên vai áo những cô gái. Long bắt gặp tâm hồn mình yêu thương man mác, buồn vui nhẹ nhàng như hai năm trước. Nhìn lại cảnh cũ, anh quên mất hiện tại. Những kỷ niệm êm đềm ngày xưa như có năng lực xóa mòn những cạnh góc gồ ghề nơi tâm hồn anh hôm nay. Anh tìm thăm Nguyệt. Phải chọn một giờ mà anh tin chắc là Phú đi làm vắng.

Người u già ra mở cổng. Anh vào ngồi ở xa lông, sau khi nói tên mình cho u già. Mươi phút sau cửa phòng mở. Không phải Nguyệt đi ra mừng rỡ chào anh mà Nguyệt nằm trên giường. Khuôn mặt nàng quá trắng, trên đó đôi mắt đen trông càng thêm đen. Môi chợt hé một nụ cười. Tóc xõa trên gối. Nguyệt nói:

- Anh lại ngồi cái ghế xa lông này cho em nhìn rõ mặt anh. Em không đi ra được. Em vừa sinh được một tuần. U già ơi, vén cao giùm cái màn cho tôi.

Long đổi ghế xa lông. Bức màn đã vén cao, anh nhìn thấy một cái nôi nhỏ đặt ở góc phòng. Bên cạnh là cái bàn thấp, trên sắp rất nhiều lon, lọ thủy tinh, chai sữa, bình thủy. Một tấm chăn hoa trải trên giường Nguyệt. Nguyệt nói: Hai năm rồi, chóng quá. Anh vẫn không thay đổi. Chỉ có em…

Nàng im lặng. Long thấy đôi mắt nàng sáng long lanh và liền đó hai giọt nước mắt lăn trên gò má.

- … Em tìm địa chỉ anh để viết thư cho anh nhưng hỏi không ra. Em biết anh giận em lắm. Nhưng em làm gì được? Em chỉ biết nhớ anh và cầu mong cho anh gặp một người yêu đẹp hơn em, giỏi hơn em. Anh đã cưới vợ chưa?

- Chưa.

Long phải đằng hắng to mới nói được một tiếng “chưa” ngột ngạt.

- Anh có giận em nhiều lắm không?

- Có

Nguyệt khóc thành tiếng

- Phải. Thà anh nói thật như thế để em yên tâm. Người con gái nào cũng phụ tình khi đi lấy chồng.

Long loay hoay sắp sửa đứng dậy. Nguyệt vội nói:

- Anh đi sao? Hai năm đằng đẵng mới gặp, anh ngồi với em thêm một lát. Anh có việc gì bận không?

- Không

Long lắc đầu.

- Vậy anh ngồi với em cho đến mười một giờ. Anh bây giờ đen hơn xưa một chút. Công việc làm ăn của anh ra thế nào?

- Tầm thường. Chắc thua xa chồng em.

- Anh đừng mỉa mai em, tội nghiệp. Em thật lòng với anh mà.

Long cũng tự thấy mình tàn nhẫn. Anh chọn một câu nói êm đềm hơn:

- Anh vẫn mong em được sống trong hạnh phúc

- Thực tế thì không được như vậy đâu. Nhưng mà thôi, mỗi người có một số mệnh.

Khi Long đứng dậy cáo từ, Nguyệt nói:

- Anh cho em biết địa chỉ của anh.

- 54 Nguyễn Trung Trực, Sài Gòn.

Nguyệt gật đầu:

- Em nhớ rồi. Số nhà của anh gấp đôi số nhà của em.

Long bước ra đến bên hiên thì Nguyệt gọi giật lại:

- Anh ơi.

Long quay lại, đứng đợi nàng hỏi, nhưng nàng chỉ nhìn chăm chăm mà không nói. Một lát nàng bảo:

- Thôi, anh đi. Nhớ viết thư cho em.

Bức thư trao đổi sau đó, tuy vậy, do Nguyệt viết. Nàng có mặc cảm rằng mình phạm lỗi nên thư viết rất thiết tha. Long trả lời ngắn hơn vì tự ái, nhưng trong thâm tâm anh vẫn tính nhẩm mong ngày thư của nàng đến. Anh cũng tham lam về tình cảm như mọi người khác. Dù vô vọng cũng muốn được yêu. Vả lại có gì đáng gọi là vô vọng đâu? Cuộc đời dành cho con người nhiều sự bất ngờ. Một ngẫu nhiên nhỏ có thể định đoạt trở lại một cuộc dàn xếp tưởng như là bất di dịch. Long nghĩ vẩn vơ đến đó rồi thôi. Cuộc đời bận rộn vì công việc mưu sinh, anh chỉ dành chừng hai giờ mỗi khi có thư Nguyệt đến để đọc thư và viết trả lời. Cho đến một ngày cách đây nửa năm, bỗng nhiên Phú được lệnh đổi vào Sài Gòn. Hai người đàn ông gặp nhau, vui vẻ một cách cố gắng. Họ thỉnh thoảng rủ nhau đi dạo phố, mời mọc nhau ăn uống. Cả hai dùng nhiều tiếng cuời, nhiều lời pha trò ồn ào để cố đánh tan tiếng nói của sự bất bình âm ỉ nơi lòng họ. Cả hai đều muốn tỏ ra độ lượng. Dần dần quen di, sự cố gắng không còn thấy khó khăn nữa. Họ gần trở về với thái độ bằng hữu vô tư ngày nhỏ thì chợt xảy ra căn bệnh hiểm nghèo của Phú hôm nay.

Long ái ngại nhìn bạn mình nằm thiếp đi. Trước hôm đau, Phú chạy lo giúp cho anh được hai sở thầu quan trọng. Phú nói:

- Xong hai sở này, cậu phải nghỉ một thời gian để lo việc vợ con. Không có vợ trong nhà thì làm được bao nhiêu cậu tiêu vung hết bấy nhiêu.

Giọng Long trầm trầm:

- Mình cũng biết vậy.

- Đã biết thì phải lo giải quyết chớ

- Nhưng giải quyết đâu phải dễ?

- Nhưng sao cậu cứ cho là khó? Tôi đã giới thiệu cô Mỹ cho cậu, cậu đã bằng lòng, thế mà cậu không chịu xúc tiến gì hết.

- Ờ thì mình bằng lòng, nhưng biết cô ấy có chịu không, ông cụ có chịu không?

Phú “xì” một tiếng, nhíu mày rồi gật đầu:

- Thôi được rồi. Chủ nhật mình đến thưa giùm với ông cụ cho.

Chủ nhật chưa đến thì Phú ngã bệnh.

]

] ]

Một người bạn đến báo tin “Phú đã mất hồi ba giờ khuya hôm qua”, Long bàng hoàng như vừa bị say sóng. Anh không ngờ rằng Phú có thể chết nhanh như vậy, mặc dù vài hôm trước anh cũng đã từng nghĩ: “Nếu Phú chết?”

Tâm hồn anh như chao đi, bị tràn ngập trong khoảnh khắc bởi những cảm giác gì rất đỗi mơ hồ. Có phải đó là cảm giác buồn? Không rõ ràng. Phải nói rằng đó là những cảm giác rất phức tạp mà anh sợ không dám phân tích rõ. Có len lỏi một chút gì bằng lòng chăng? Long lắc đầu cố xua đi cái ý nghĩ xấu xa vừa chớm nở đó. Không, anh phải buồn thành thật. Anh nhớ lại những cử chỉ tốt bụng Phú đã từng đối với anh. Phú thành thật và cởi mở. Phú không có ác ý. Phú vẫn coi anh là một người bạn và tìm mọi cách để giúp anh. Riêng anh, anh phải tự khinh mình về những ý nghĩ thù hằn, ghen tỵ mà anh đã từng có. Đứng trước một người chết, lòng tự ái không có tiếng nói nữa. Đối với người đã giã từ cuộc sống để ra đi mãi mãi, giũ hết mọi ghét thương, lo âu, mừng giận, anh thấy lòng thương tràn đầy. Phải, đến giờ này Phú không còn nữa. Phú bị xóa đi khỏi cuộc sống, Phú chỉ còn trong kỷ niệm, mơ hồ như vừa có vừa không. Phú thất bại trong cuộc đấu lớn, cuộc chiến đấu cuối cùng, chiến đấu chống sự chết. Nghĩ đến một ngày nào đó mình cũng sẽ chung một số phận như vậy, Long hết lòng thương người bạn chiến bại của mình.

Anh muốn đến thăm Nguyệt ngay để an ủi nàng và để giúp nàng một tay trong việc tang ma, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, rồi thôi. Gặp lại Nguyệt trong giờ này thật không nên. Thật khó mà giữ được vẻ tự nhiên khi cả hai cùng cảm thấy quá khứ của hai người dễ hiện lên lẫn lộn với hiện tại. Anh muốn tôn trọng sự thuần khiết của niềm đau xót Nguyệt dành cho chồng. Anh đợi sang ngày hôm sau, khi đã phát tang mới mang lễ đến phúng viếng. Nguyệt và Phú có nhiều họ hàng ở Sài Gòn, nên anh không làm Nguyệt sẽ lúng túng trong việc ma chay.

Khi anh đỗ xe bước vào nhà thì tiếng nhạc cử ai vang lên. Phường bát âm ngồi ở trước hiên gồm lúc nhúc những kèn, nhị và trống. Anh hồi hộp không phân biệt được ai. Tiếng nhạc báo hiệu cho gia chủ biết rằng có khách đến viếng. Tức thì ở sau bức màn trắng lao xao có tiếng người di chuyển. Một người nhận lễ vật của anh đặt vào khay bưng để lên bàn thờ. Quan tài của Phú kê trên bộ ngựa cao đặt giữa nhà. Vòng hoa dựng chung quanh. Trên tường treo la liệt liễn đối, nét chữ màu đen buồn bã. Anh nhìn giây lâu chiếc quan tài đựng thi thể của bạn. Giã từ tất cả những khuôn mặt người, những đồ vật quen thuộc và ánh sáng mặt trời. Phú đã đi vào màu đen của đôi mi mắt nhắm của nắp ván thiên đậy lại, rồi mai này và vĩnh viễn, của lòng đất âm u.

Giọng kèn, giọng nhị kể lể bên tai, nức nở sụt sùi. Trước mặt anh, xế bên tay phải quan tài, Nguyệt ngồi bệt xuống đất để chuẩn bị đáp lễ. Áo tang trắng lụng thụng. Một cái mấn trắng chụp trên đầu. Long chầm chậm quỳ xuống lễ. Rập theo nhịp của anh, Nguyệt cũng thong thả cúi đầu lễ trả. Anh hồi hộp không dám nhìn Nguyệt. Anh cảm thấy bao nhiêu con mắt tò mò của lũ người đến xem đám và sau lưng mình, làm nóng cả tai và cổ.

Lúc anh đứng dậy để bước ra khỏi chiếu, Nguyệt tiến đến theo lệ để cảm tạ. Nàng nói gì anh không nghe rõ. Anh chỉ thoáng nhìn qua, chợt bắt gặp đôi mắt đen của nàng và dưới cái ấn trắng, da nàng trắng rực rỡ như sáng hẳn lên. Long bàng hoàng như mình vừa qua một giấc mơ ngắn. Màu da mặt ấy bên cạnh màu vải trắng kia chính là màu quen thuộc của Nguyệt khi nàng còn là học trò, mặc áo dài trắng và xõa tóc bên vai. Chính Nguyệt đã yêu anh với màu trắng đơn sơ ấy. Mấy năm nay anh toàn gặp nàng trong những hàng áo ni lông màu hoa sặc sỡ khiến nàng vẫn gần anh mà không hiểu vì sao anh vẫn thấy cách xa. Nay đột nhiên anh thấy lại nàng mộc mạc như xưa, anh xúc động như mình vừa bắt gặp lại tuổi thơ của mình. Anh muốn hỏi lên: “Thế mà đã sáu năm rồi sao?”

Nhưng tuổi thơ, có thật là mình bắt gặp lại được tuổi thơ hay đó chỉ là một ảo ảnh thoáng qua, anh chua xót nghĩ. Thực tế thì sáu năm đã ghi lại những nét quá đậm trong tâm hồn của Nguyệt, của anh. Lấy gì mà xóa được? Tình yêu đâu còn hồn nhiên trong suốt? Khi gặp trở ngại, anh thấy mình yêu thật nhiều, yêu đến độ mình sẵn sàng đạp phăng tất cả để chinh phục tình yêu đó. Nay trở ngại đã mất thì anh bắt đầu lúng túng và hoài nghi. Có lẽ Nguyệt cũng nghĩ như anh vậy. Nhìn kỹ vào đôi mắt của nàng, anh thấy có hai dòng nước mắt đang chảy từ từ xuống má. Đúng rồi, nàng đang hoài nghi như mình.

Nàng đang xót xa nghĩ rằng nàng sắp nhận một nỗi khổ mới, nỗi khổ âm ỉ, khác xa với nghĩ của nàng trong một đoạn thư nàng viết cho anh, trước đây:

“- Được biết anh quen với Ngãi, em vui lắm. Ngãi là bạn học của em ở Đồng Khánh đó. Anh cưới Ngãi đi nhé. Rồi ngày hè em sẽ vào thăm anh, thăm Ngãi. Bộ ba chúng ta sẽ đi phố, đi biển, tha hồ vui. Bộ ba! Anh ơi, sao anh với em cứ phải đóng vai bộ ba mãi vậy anh? Sao số chúng ta lại khổ vậy? lúc nào giữa anh và em cũng hoặc chồng em hoặc vợ anh. Sao số chúng ta lại khổ vậy?

Hôm nay, một sự hiện diện bộ ba không còn nữa, nhưng không đơn giản như hai người từng nghĩ, thoáng trong một phút, anh chợt nhận thấy giá trị không ngờ của nó. Khi đóng vai nạn nhân, Nguyệt và anh đều cảm thấy mình có giá trị nhiều hơn, mặc dù bị trở ngại mà vẫn được yêu, điều ấy không phải dành cho mọi người bình thường.

Có pha thêm một chút đắng, vị ngọt của tình yêu mới làm cho người ta đam mê như khi đam mê hương vị của cà phê. Từ hôm nay, hai người đột nhiên rơi vào một mối tình dễ dàng, tầm thường, anh thấy mình nhẹ nhõm một cách chán ngắt khi không còn phải vận dụng trí óc để đối phó. Trước mắt anh không còn một đối thủ xứng đáng để cho anh phải gắng sức mà chỉ còn phảng phất một cái bóng, một cái bóng không mất, không bao giờ mất.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 23.11.2012 18:59:01
3. TÌNH YÊU ĐẤT (đã có trong TV)
4. LẠNH TUỔI THƠ



Xe Giang vừa từ đường Nguyễn Hoàng rẽ sang đường Hồng Bàng thì đã có tiếng reo to của hai đứa con: Hào và Thủy. Như phục binh nằm nấp sẵn, vừa thoáng thấy bóng chàng là thằng Hào nhảy ra vồ, rồi chạy rượt theo xe. Và như đã có ám hiệu trước, bé Thủy nghe tiếng xe nổ lạch bạch và tiếng vồ thì lật đật chạy vù một mạch từ nhà ra đón chàng, chạy bất kể những chỗ lồi lõm của chức năng đường cát. Khi xe dừng lại ở sân thì hai đứa con đã chạy theo kịp, đứng hai bên, thở hổn hển. Câu chàng hỏi đầu tiên bao giờ cũng là:

- Chị Hằng đi học về chưa?

Thủy đáp liền:

- Rồi.

Hào thì nói loanh quanh dài dòng hơn. Chỉ vì chị Hằng bao giờ cũng có chuyện ăn hiếp nó nên hễ hỏi tới Hằng là lúc nào nó cũng phải cố tìm để kèm theo câu trả lời, một câu than phiền nào:

- Chị về rồi. Chị ăn hết trái cam rồi. Chị không cho con.

Thủy phụ họa theo:

- Chỉ cho con có một tép.

- Chỉ cho con có một tép.

- Chị cốc vào đầu con. Giang dắt hai con đi vào nhà. Chàng không lưu ý lắm đến những chuyện bi bô của hai con. Chàng vui mừng vì cả gia đình họp mặt đầy đủ. Tạm gọi là đầy đủ vậy thôi vì đầy đủ thế nào được khi gia đình thiếu mất một người vợ, một người mẹ. Từ ngày Bảo mất đi, gia đình của chàng bỗng thấy thu nhỏ lại hết sức. Cái gia đình bốn cha con này xúm quanh nhau, đều đặn như bốn cái chân của một chiếc ghế, bốn cái ghế của một bộ xa lông. Trừ những giờ đi làm, đi học, còn thì bốn cha con cứ quây quần bên nhau…. Buổi sáng, họ chia nhau bốn cái bàn chải đánh răng, chuyền tay cho nhau hộp perlon, thay phiên nhau sì sụp trong hai thau nước và lau mặt bằng bốn cái khăn mặt treo thành một dãy. Tiếp theo là bốn mẩu bánh mì đặt cạnh bốn tách sữa.

7 giờ kém 10 phút, Giang xách xe đi làm, Hằng đạp xe đi học, Hào và Thủy còn nhỏ phải ở nhà tự học vừa coi chừng nhà. Hào làm toán và tập chép bài. Thủy tập đánh vần. Trưa 11 giờ, chiều 5 giờ, Giang kiểm điểm lại cái gia đình nhỏ của mình, vui mừng được sum họp. Những buổi Hằng đi học về chậm là chàng lo lắng vì sợ xe cộ. Những bữa chàng đi làm lỡ phải về chậm thì chắc khỏi ai lo. Vì Hằng mê mải đọc truyện, Hào mê mải chơi. Chỉ có Thủy là thẫn thờ đứng ở cửa đợi ba về. Vẻ mặt buồn vì cô đơn. Chàng nhớ lại mới ngày nào, Bảo cũng hay đứng ở cửa đợi chàng như thế.

Ngồi vào bàn ăn, Hào hỏi:

- Đố ba biết hôm nay ăn món gì?

Thủy nhanh miệng trả lời:

- Cốt lét nấu với cà.

Hằng tiếp theo:

- Đúng, cốt-lết nấu với cà.

Ba chị em phá ra cười ầm ĩ.

Số là bà nấu bếp vụng về, cứ lần nào Giang quên dặn đi chợ mua món gì, nấu món gì là bà trở về món cố hữu của bà: cốt lết nấu với cà. Lâu thành thói quen, nên mỗi khi nhắc tới cái tài của bà bếp là ba chị em tranh nhau la lên:

- Cốt lết nấu với cà.

Bốn cha con đã ngồi vào bốn ghế mà bàn ăn vẫn mới chỉ có khăn bàn, 12 giờ rồi. Thủy lãnh ngồi ở ghế cạnh ba để ba vuốt ve cho. Má mất hồi Thủy mới lên ba, Thủy thiếu những cái vuốt ve của má nên mỗi lần được ba vuốt tóc, vuốt lưng, nắm tay thì Thủy mỉm cười sung sướng lắm. Thủy sợ chị Hằng và anh Hào ganh tỵ nên thỉnh thoảng hay liếc nhình về hai người

Bà bếp dọn bàn. Những món ăn không thay đổi. Hằng than phiền:

- Con chán quá. Con không muốn ăn nữa.

Hào cũng bắt chước:

- Con cũng chán quá, con không muốn ăn nữa.

Thủy nhìn sang ba, ngầm ý hỏi không biết nên bỏ chén đũa xuống bàn để “chán quá” như chị và anh hay nên cứ cầm bát đũa như ba. Giang bảo:

- Các con chịu khó ăn đi. Aên cốt cho bổ chớ đâu chỉ cốt cho ngon. Này, có thịt bò này, rất bổ. Có tôm này, cũng rất bổ… Ồ! Có cả rau nữa, đại bổ, đại bổ.

Thủy nói:

- Thôi ăn đi chị Hằng, ba nó bổ mà.

Hằng nhíu mày, nạt:

- Mày biết cái gì!

Thủy mở to mắt nhìn ba, miệng mếu xệu. Ba phải ôm lấy đầu Thủy, hôn vào tóc mà nói:

- Chị Hằng giỡn đấy. Thủy biết chớ sao không biết.

Hào chêm vào:

- Nó mà biết cái gì. Có ba ở nhà, nó làm nũng đó. Khi ba chưa về, chị Hằng nạt nó và đánh nó, nó không dám khóc.

- Đừng nạt và đánh em. Em có làm cái gì sai thì dạy em. Các con cũng biết nếu còn má thì em đâu có khổ. Hồi hai đứa con bằng nó, má còn sống, má săn sóc cho hai đứa con.

Không biết trả lời sao, Hằng “xì” một tiếng và Hào “xịt” một tiếng. Giang và cơm, nhai ngon lành rồi mời:

- Thôi, mời các bạn ăn đi.

- Con không ăn

- Con không ăn

Giang vừa nhai cơm vừa chậm rãi nói:

- Bà Thứ (tên bà nấu bếp) không phải là bếp chuyên môn thì nấu món ăn làm sao cho thật khéo được. Nhà không có má, không ai coi chừng nhà, ba phải mượn bà Thứ vì bà thật thà, hiền lành. Ba có thể thuê người nấu ăn khéo hơn, nhưng khi cha con ta đi vắng hết, lỡ phải kẻ gian họ dọn đồ đạc đi mất hết thì làm sao?

Nhưng Hằng đã không nghe mà đang cầm lên tập truyện để coi tiếp. Hào cũng không nghe mà đang lắp lại cái bánh xe cao su. Thấy con lơ đãng hết, Giang hỏi to:

- Nghe chưa?

Cả ba giật mình.

- Các con muốn ăn ngon thì các con phải chịu khó đi kiếm về đây một bà dì ghẻ. Bà dì ghẻ sẽ coi sóc sự nấu nướng cho thật ngon cho các con ăn.

- Nhưng bà dì ghẻ hay đánh lắm - Hằng vội vã nói.

Thủy ngây thơ tiếp:

- Bà dì ghẻ có ghẻ.

Ba cha con cười ầm lên vì lời nói ngớ ngẩn của Thủy

- Thì các con phải lựa lấy. Một là chịu ăn không ngon, hai là tìm về một bà dì ghẻ để được ăn ngon. Ai thích ăn ngon?

Hào giơ tay:

- Con.

Thủy giơ tay theo:

- Con

Hằng lắc đầu:

- Thôi, thà con chịu ăn không ngon. Con không muốn có dì ghẻ.

Thủy cũng nói:

- Con không muốn có dì ghẻ.

Hằng dõng dạc ra lệnh:

- Thôi ăn đi bay. Kệ nó, ăn không ngon cũng được.

Hào nói theo :

- Ăn đi bay.

Thủy cũng nói:

- Ăn đi bay.

Cả ba hăng hái ăn. Món ăn không đến nỗi dở, khi ba chị em ăn hăng hái.

Ăn tráng miệng xong, Giang bắt ba con vào phòng, xếp mỗi đứa một giường cho chúng nghỉ trưa với mình. Nhưng Hào và Thủy không thể nghiêm trang nằm đợi ngủ mà phải chính giấc ngủ lôi cuốn chúng bằng một sức mạnh chúng không thể cưỡng lại được. Ví dụ ngủ đang giữa bữa cơm. Ví dụ ngủ giữa hai trang sách mở, ngủ khi bị rầy, ngồi thút thít một mình ở góc giường. Nhưng bảo nằm song song mỗi đứa mỗi giường thì nhất định chúng lén quay mặt đối nhau rồi khúc khích cười với nhau. Sợ bị rầy, thế nào cũng có một đứa lên tiếng giả bộ rầy đứa kia:

- Im đi, để ba ngủ.

Rồi chính đứa đó lại nằm còng queo lại rúc rích cười. Đứa kia không chịu thua cũng vội nằm sấp xuống giường, úp mặt vào gối mà lưng và bụng thì rung lên vì những trận cười không dám cho thoát ra miệng nên phải đẩy lui vào ngực vào bụng. Không nỡ rầy con, Giang cứ để mặc, gắng nhắm mắt ngủ. Nhưng vừa mơ màng thì chàng chợt bị giật mình vì một tiếng “éc” không biết của đứa nào không kìm giữ được phải bật lên. Thế là hai đứa bị đuổi ra phòng khách và chàng phải khóa trái cửa lại. Những điều này, khi còn Bảo, chàng không thấy bao giờ xảy ra. Bây giờ có xảy ra chàng mới để ý rằng trước kia đã không hề có. Tìm hiểu một chút, chàng thấy rằng không phải ngẫu nhiên mà sự thể lại xảy ra khác nhau, ngày trước và bây giờ. Không, phải có một sự xếp đặt kín đáo và dịu dàng của Bảo, lũ con mới “biến đi đâu mất” không quấy rầy giấc ngủ trưa của chàng. Tự nhiên, cũng như mỗi lần nghĩ đến người vợ hiền ngày xưa, chàng thoáng nghe như có một tiếng thở dài nhẹ đâu đây, như có một bóng mát đổ xuống mau, như mơ hồ có một tiếng giã từ, như có một giọt nước mắt sắp rưng rưng. Có thật hay tưởng tượng. Mông lung man mác quá, chàng không tìm hiểu nữa.

Buổi tối ăn xong, Giang lại nằm im ở đi văng và gọi Hào lại nằm một bên, Thủy nằm một bên. Ba cha con nói chuyện bâng quơ. Giang hỏi con về những trò chơi trong ngày. Thế là không biết để tai mà nghe ai nữa. Hào tranh phần nói và Thủy cũng không kém. Có điều Giang hỏi đứa nào chơi cái gì thì bao giờ chúng cũng báo cáo công việc của đứa kia. Thủy nói:

- Ba ơi, anh Hào chạy ra đường chơi cả buổi không chịu học… Anh chơi với thằng Ngọc. Hai đứa cởi trần ra rồi chạy rượt nhau. Hào vừa cười vừa cướp lời:

- Ba ơi, còn con Thủy xé lá dừa nhà mình buôn bán với lũ con Cúc, con An, rồi xả rác ngoài sân.

- Ba ơi, còn anh Hào…

Cuộc “hội báo” biến thành cuộc cãi vã nhau. Hằng, cả hai đá nhau, thụi nhau, và đá nhằm cả vào sườn của người cha nằm giữa. Người cha bị bắt buộc phải hiền lành hết sức, trở lại đóng vai trò hòa giải như thường lệ:

- Không được đánh.

- Nó đánh con trước.

- Mày đánh tao trước.

- Thôi, tao đứng dậy để chúng bây đánh nhau cho rộng chỗ.

Vừa nói, Giang vừa ngồi dậy. Thủy đu vào tay níu theo. Hào cũng quàng hai tay kéo cổ Giang xuống vừa thét lên: Không cho đi. Không cho đi. Cột con bò này lại”

Hằng đang ngồi may áo đầm cho búp bê ở bàn, quắc mắt sang đi văng:

- Thằng Hào hỗn đấy hả? Mày nói ba là con bò hả?

Giang cười:

- Tao là con bò thiệt, tụi bay ơi. Mà là con bò cái.

Câu khôi hài bất ngờ và có vẻ ngộ nghĩnh khiến ba đứa con cười ồ lên một loạt.

- Chớ sao. Ba là con bò cái, còn ba đứa bay là ba con bò con. Ba đi làm nuôi mấy đứa con thì cũng như con bò cái cho mấy con bò bú sữa.

Hào hỏi:

- Nhưng mà ba đâu có sữa?

- Ba đâu có vú giống con bò? Thủy tiếp theo.

- Là ba nói ví dụ như vậy.

- Ví dụ là cái gì, hở ba? Là cái vú hả?

Nghe câu hỏi ngớ ngẩn của Thủy, Hằng phá ra cười. Thấy chị cười, Thủy cười theo rồi sục vào ngực Giang như một con bò con sục vào vú mẹ.

Tám giờ, Giang ngồi dậy, lại bàn viết. Chợt ở ngoài cổng có tiếng chó sủa và tiếng giày dép lê trên đường, cạnh rào. Tiếng một đứa trẻ:

- Nhé, mợ nhé, mợ nhớ mua cho con một cái xe đạp trẻ con đấy nhé?

- Ờ.

Tiếng một đứa trẻ khác:

- Còn mợ mua cho con một cái nón có bao ni lông vẽ hoa nhé. Cái nón cũ con xơ cả vành rồi.

- Ờ.

Tiếng nói im lặng nhường cho tiếng guốc dép, tiếp theo là tiếng người đàn bà giục:

- Bước nhanh lên một tí, các con. Họ sắp hát rồi đấy.

Giang hỏi các con:

- Lũ con Vinh, con Chi nó đi đâu với mợ nó?

- Đi coi cải lương - Hằng trả lời.

Hào nhăn mặt, vẻ nài nỉ:

- Ba không cho lũ con đi cải lương lần nào hết. Lũ con Chi, con Vinh đi luôn với mợ nó.

- Chúng nó có mợ chúng nó dẫn đi.

Thủy chen vào:

- Con biết rồi. Mợ nghĩa là má.

- Thủy giỏi, biết mợ là má. Các con không có má thì ai dẫn đi. Ba bận luôn, các con thấy đó, dẫn đi gì được.

Hằng ngừng tay khâu, ngẩng lên hỏi:

- Thế chị Hương đâu có má mà chị đi coi hát luôn. Chị đến rủ con hoài.

- Có dì ghẻ nó dẫn đi.

Hào phân bì.

- Sướng hơn lũ con.

Hằng nhún vai:

- Thôi đi mày ơi. Dù có cho đi đi nữa thì lúc mặc quần áo vào ba cũng nổi xung mà la lên.

Giang phì cười:

- Ai không nổi xung cho được. Con coi, trong ba đứa, chỉ có mình con là biết tự lo mặc quần áo lấy, còn ông Hào thì thôi, áo đứt nút, quần mất nịt, giày mỗi thứ chỉ còn một chiếc.

- Tại bà Thứ không đính nút cho con.

- Thì tại bà Thứ chớ ba đâu có nói tại con. Bà ta vụng và chậm mà lại. Đặt trước quên sau, đặt sau quên trước mà lại. Hằng nhắc:

- Ba quên chưa kể phần con Thủy.

- À, còn phần con Thủy. Aùo đầm cả ba cái đều dơ, nhét vào một xó nào không đưa giặt, đến hồi đi, mở toang mấy va-li, lục tung mấy tủ mà kiếm không ra áo. Rồi may ô của nó, bà Thứ bỏ lộn sang của ba. Rồi…

Thủy tiếp lời, thú vị như khi đọc một bài học thuộc lòng:

- ... Rồi móng tay chưa cắt.. Rồi tóc chưa kịp chải.

- Đúng lắm. Đúng lắm.

Giọng Hằng hơi dỗi:

- Nói theo ba thì ở Nha Trang đây không có đứa nhỏ nào đi coi hát hết.

- Nhưng những đưa đi coi hát, chúng đều có má dẫn đi.

- Chị Hương đâu có má?

- Kìa! Ba vừa nói rằng nó có dì ghẻ. Dì nó lo mua quần mua áo, mua giầy mua dép, dẫn đi uốn tóc, chỉ bảo cho người ở sắp dọn ngăn nắp. Khi đi đâu, có dì nó săn sóc cho. Ba nó chỉ có việc đưa tiền. Còn ba, cực chưa! Con có nhớ mấy lần ba phải dẫn con đi len lỏi vào giữa chợ Đầm để lựa mua áo cho con và cho mấy em không? Con có còn nhớ lần ba mua pyjama cho con Thủy, ba đã nói rõ ràng là mua cho con gái, thế mà cô hàng cứ đưa pyjama con trai, rồi nằng nặc nói rằng đó là của con gái và ba không biết cứ mua lầm đó sao.

Hào hỏi mau:

- Thế sao ba không kiếm dì ghẻ như ba chị Hương?

- Ủa! Hồi trưa ăn cơm, mấy người nói không muốn có dì ghẻ cơ mà!

Hào “à.. à” vừa gật đầu chữa thẹn. Mọi người im lặng. Chợt Hào nhảy bám vào lưng ba, kề miệng vào tai ba nói nhỏ. Ba lắng tai nghe một lát rồi cười to lên. Hằng và Thủy đồng thanh hỏi:

- Nó nói cái gì thế ba?

- Cái gì hở ba?

Ba vẫn cười to:

- Tụi bây biết nói cái gì không? Nó nói: Ba ơi, kệ nó, dì ghẻ cũng được.


hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 23.11.2012 19:02:49
5. VẾT HẰN NĂM THÁNG



Mình về có nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

(Ca dao)

Biên bản hội đồng đánh làm năm bản, đặt trên bàn. Các giám khảo lần lượt ký vào chỗ trống trước tên mình. Tên các giám khảo xếp thẳng hàng, thản nhiên, vô nghĩa. Những họ Nguyễn, họ Trần lặp lại, những chữ lót Văn, Đình, Trọng, Đức… không “nói” một cái gì hết. Chữ chỉ tên cũng vậy. (Thật bất lực là những danh từ). Doãn nghĩ. Người đọc không biết nên tưởng tượng một vẻ mặt như thế nào cho thích ứng với một tên Cẩm Vân, tên Kính, tên Lệ Hoa.

Doãn đặt bút ký xuống tập biên bản và chàng cảm nghe nỗi buồn nản của sự tàn tạ. Mười lăm ngày làm việc đã trôi qua. Sự hoạt động náo nhiệt rộn ràng đến nay đã kết thúc. Nhanh như vậy sao? Chừng như mới hôm qua hôm kia, chàng bước từ bụng phi cơ xuống đất, rồi chiếc vali nằm bên đùi chàng trên sàn một chiếc xe xích lô chạy phiêu lưu giữa thành phố. Những bất tiện trong việc ăn ở, những bất như ý trong khi làm việc, tất cả đứng trỗi dậy như những cây chông làm chàng bực mình, nhưng cuối cùng cũng được dàn xếp êm nhẹm xuôi chiều, do thói quen. Những khuôn mặt xa lạ, kín mít, nghi kỵ mỗi ngày một cởi mở hơn để biến thành bạn bè. Và khi cuộc sống trở nên dễ chịu thì chàng lại phải từ giã nó… Căn phòng họp hội đồng rộng thênh thang, bàn kê dài theo bốn cạnh của hình chữ nhật. Ngày đầu họp đông đủ, người ngồi phải chen nhau. Càng vào những ngày chót, số người dự càng vắng bớt. Cho đến hôm nay, khi hội đồng coi như đã làm xong nhiệm vụ, khi biên bản đã ký thì số giám khảo có mặt trong phòng họp quá đỗi rải rác.

Người ta đến để ký biên bản, ký vào bản chiết tính số bài chấm, lấy giấy lộ trình. Có người đến tìm một khuôn mặt quen, nói vài câu chuyện bâng quơ để ngày mai lên tàu giã biệt. Đó đây từng nhóm giám khảo độ năm, bảy người tụ họp lại theo trung tâm để làm giấy chứng chỉ cho thí sinh đậu. Sự sống còn nhen nhúm thành từng ổ nhỏ như vậy qua tiếng rao tên họ, ngày và nơi sinh của người thí sinh may mắn. Sự sống còn biểu lộ bằng tiếng cười, bằng những tia mắt nhìn trao đổi, bởi ở mỗi nhóm như thế thường có một vài nữ giám khảo. Những chủ tịch, phó chủ tịch, thư ký trung tâm làm việc khắc khổ hơn với những nét mặt đăm chiêu. Ông chánh chủ khảo đi đi lại lại, nghiêm khắc với mọi người và nghi ngờ mọi người

Doãn bước sang phòng học bên cạnh, định dùng thì giờ rỗi để viết mấy cái thư cho bạn. Đi đến chỗ lạ, viết thư gởi bạn để phong bì thư mang dấu của nhà bưu điện địa phương, để người bạn ngồi tưởng tượng thấy một khung cảnh địa dư mới, chàng cho là không có gì thú vị bằng. Một số địa chỉ của bạn, chàng đã mang theo sẵn đó, nhất là địa chỉ của những người đàn bà mà vì lẽ này hay lẽ khác chàng đã không thể viết thư thường xuyên. Lần này chàng mượn cớ là vì đi xa mà có bức thư thăm hỏi, bức thư sẽ được nhận một cách tự nhiên, nối lại dây tình cảm bị buông lỏng, tô đậm một nét cảm tình còn quá mơ hồ. Viết thư cho đàn bà cũng như mua vé xổ số. đừng mong đợi thư trả lời của họ cũng như đừng mong mỏi ngày mở số. Có thể nó sẽ đến đúng ngày, có thể chậm đôi ba ngày, một tuần, một tháng, năm bảy tháng, cũng có thể không nhận gì hết. Nhưng mà lúc nào cũng nuôi một hy vọng sẽ nhận được thư và có những cái thư đến rất đỗi bất ngờ.

Chàng nhớ lời của một cô bạn đồng nghiệp bảo, khi thấy chàng trao một xấp thư nhờ người tùy phái đi bỏ giùm:

- Ông Doãn này, chắc ông viết thư hay lắm.

- Chưa ai khen điều đó.

- Nhưng tôi biết là ông viết thư phải hay. Tôi mong được đổi đi một tỉnh xa để được đọc thư của ông.

Chàng không biết nên hiểu lời khen ấy như thế nào.

Khen hay chê? Người đàn bà đẹp và thông minh bao giờ cũng nói khó hiểu. Lúc nào cũng muốn bắt người đàn ông loay hoay tìm đáp số về mình. Tươi cười vồn vã đó rồi nghiêm trang lạnh lùng đó, người đàn bà thật kỳ ảo trong việc bắt người đàn ông hồi hộp.

Chàng nheo mắt nhìn giây lâu mà không nói. Quả tình một nụ cười nhỏ làm hé vành môi hồng nhạt và đôi mắt linh động ranh mãnh làm cho câu nói vừa rồi thêm duyên.

Chàng đi lại bàn thầy giáo, ngồi xuống ghế, rồi mở cái cặp xách tay lấy giấy bút. Sau khi biên địa danh và ngày tháng, chàng không biết nên xưng hô như thế nào và không biết nên viết cho ai trước. Lạ nhỉ? Sao tự nhiên những người bạn gái và những người yêu của mình đó bỗng nhiên xa lạ với mình hết sức, và giờ này? Mặc dù nghĩ đến Duyên chàng thấy ngay đôi mày cong của nàng, đôi mắt mở rộng và đôi môi lúc nào cũng như chuẩn bị để làm dỗi. Trong thư chót nàng viết:

“… thỉnh thoảng anh viết cho em ít dòng..”. Bây giờ có thể là một lúc “thỉnh thoảng” đây. Thốt nhiên, chàng nhớ kỹ đến mùi nước hoa đặc biệt của nàng thoang thoảng thoát ra từ đôi má láng mịn, từ chân tóc nâu nâu và một niềm xót xa như bấm mạnh vào một nơi nào đó của tim chàng. Với niềm đau và tình yêu pha lẫn, chàng định viết “Em Duyên” nhưng chàng nghĩ ngay đến người chồng của Duyên. Người đàn ông lớn tuổi, cam phận đó, như còng lưng thêm xuống mỗi lần thấy vợ mình đẹp và mỗi lần phải tiếp những người bạn cũ của vợ. Anh có mọi nhược điểm của một người chồng: xấu trai, ăn nói vô duyên và cũng những hai vợ. Chỉ có một ưu điểm: giàu. Anh biết Duyên đã yêu trước khi Duyên gặp anh. Anh cũng biết Duyên bằng lòng lấy anh vì anh trả lời đúng cho một hoàn cảnh chớ tuyệt nhiên không vì tình yêu.

Doãn thấy thương hại con người đàn ông thành công nửa chừng đó. Đến đây, bổn phận - bổn phận của một người ngoại cuộc và tình yêu giằng co nhau trong khối óc của chàng. Và một sự bắt đầu có nhiều trở ngại nguyên nhân khiến cho khi nghĩ đến việc viết cho Ngọc Yến, chàng cũng lẩn thẩn nghĩ tiếp: “Liệu Ngọc Yến có còn nhớ mình không? Một thiếu nữ cỡ như nàng, ở ngay giữa Sài Gòn, đâu có rỗi thì giờ để ngồi mong một bức thư xa của mình. Nàng có nhiều mối tình. Không chừng thư mình đến nhằm vào lúc nàng đi ăn kem… Với người yêu ở đường Lê Lợi”.

Chàng chuyển ý nghĩ sang Minh Tuyết, một cô bạn hiện ở Pháp. Người đàn bà tha hương này trong mọi bức thư đều nài chàng nhắc đến quê hương

“ …Anh hãy tả cho Minh Tuyết nghe cây mận, cây ổi ở nhà anh đi. Tả cho thật tỷ mỷ, tả sao cho Minh Tuyết cảm nghe thèm thuồng mùi thơm của quả, cho Minh Tuyết tưởng như đang kề răng cắn và vị chua vị ngọt thắm tràn vào mọi vi thể của vị giác...”

“ …Rằm tháng bảy anh được đi lễ chùa nhỉ, sướng quá. Anh lại còn nhớ gửi tặng Minh Tuyết một lá bồ đề. Minh Tuyết cám ơn lắm. Minh Tuyết nhớ nhà quá, nhớ từng con kênh, con rạch, từng tảng đá, bờ ruộng, con cò, dến một cái chòi giữ bắp ở một triền núi nào mà có một lần Minh Tuyết ngó thấy. Xa quê hơn mười năm rồi, bây giờ hình ảnh nào gợi lên, Minh Tuyết cũng thấy đẹp hết...”

“ …Đôi guốc anh gởi sang, Minh Tuyết không mang đâu. Minh Tuyết đặt trên bàn để mà nhìn thôi. Rồi Minh Tuyết tưởng như nghe rộn rã bên tai tiếng guốc của lũ học trò nhỏ lốc cốc đi đến trường...”

Doãn nghĩ: Có lẽ chỉ có Minh Tuyết là cần một bức thư của mình. Bút chàng vòng một chữ M để bắt đầu. Nhưng chàng chợt đứng dậy, lẩm bẩm một mình.

- Hão huyền. Hôm nay mới thượng tuần tháng năm. Phải nửa tháng nữa Minh Tuyết mới từ St Tropé về.

Thế là bức thư nào cũng không viết được. Không có ai tha thiết mong một cái thư của chàng cả. “Như vậy thì sao chàng lại cặm cụi dùng những giờ úa héo của buổi chiều tàn này mà viết cho họ?” Ý nghĩ này làm tê cóng khối óc và những chữ viết như tắt nghẽn ở cổ họng cán bút. Chàng chán nản đưa mắt nhìn khắp phòng.

Bàn ghế xếp đều đặn, trên mặt bàn còn lờ mờ dấu phấn trắng ghi sổ ký danh của thí sinh. Đó đây còn rải rác vài tờ giấy nháp màu xanh, màu hồng, màu vàng nằm nấp ở dưới chân bàn, chân ghế. Từng cơn gió mạnh ở mặt bể thổi vào, thổi những tờ giấy chạy vòng quanh ở góc phòng. Tiếng giấy chạy xiết vào mặt sàn khô khan, xót xa như tiếng lá tre khô, lá chuối khô chạm vào nhau trong những trưa hè ỏ miền quê nghèo nàn. Aâm thanh xào xạc ấy thật dễ làm cho người ta chán nản. Trên một ô cửa kính còn dán tờ giấy đánh máy mang tên những thí sinh của phòng này. Ngày đầu của cuộc thi, những cái tên vang lên xa lạ. Những khuôn mặt bỡ ngỡ tiến đến nhận lấy cái tên ấy làm của mình. Rồi họ làm quen nhau trong khi người giám khảo đi lướt qua, mỗi buổi tiếp xúc với một phòng thi. Trong ngót bốn mươi thí sinh đó, chỉ một số ít đỗ. Đa số kém, bài làm của họ mang chằng chịt những dấu gạch đỏ, những dấu gạch không tiếc tay. Qua cuộc chấm điểm, họ như những tờ giấy bị vò nhàu.

Ở từ chiếc loa phóng thanh mắc ở tường một công sở gần đó, vang lại một bản nhạc vá chắp. Giọng lên xuống đều đặn đến có thể đoán trước được nhịp nhàng một cách buồn nản như một tiếng võng đưa. Thật hỏng cả buổi chiều. Chàng xếp cặp giấy, lững thững đi trở lại phòng họp, tiến đến một nhóm bạn đang viết giấy chứng chỉ. Cô Kim Toàn dừng lại giữa hai giòng chữ, ngẩng đầu hỏi:

- Ông viết hộ cho tôi một lát đi. Tôi mỏi lắm.

Nàng vừa nhăn mặt vừa uốn vẹo cánh tay. Chàng nhìn xuống nét chữ của nàng, rồi nói:

- Cô viết đẹp thế kia, tôi đâu dám thay?

Kim Toàn không nài, cúi xuống viết tiếp, môi nở nụ cười. Nàng cúi xuống gần mặt giấy và nghiêng hẳn một bên. Thật y như một nữ sinh đang chép bài. Nét chữ dịu dàng và thật thà với những chữ H, chữ G uốn cong bầu bĩnh, chữ A, chữ O, hở đầu. Doãn quen Kim Toàn nhân một buổi đi chơi picnic ngày chủ nhật. Nàng có đôi mắt đen ngơ ngác và dáng người manh mảnh đặc biệt thường gặp nơi các cô gái Huế.

Chàng hỏi:

- Cô ghi chứng chỉ cho trung tâm nào đó?

Kim Toàn vừa viết vừa nói:

- Trung tâm Tuy Hòa.

- Cô cho phép tôi xem xấp phiếu thí sinh cô đã viết rồi.

Xấp phiếu màu đỏ, Doãn cầm lên đọc từng tờ một. Lại những cái tên lặp lại quá cũ, vô nghĩa, ngẫu nhiên!… Trần Xuân Hùng, Nguyễn Văn Hưng… Đinh Hường… Bên góc trái của mỗi phiếu có dán ảnh. Những khuôn mặt, khi chưa quen trên thực tế, cũng vô nghĩa như cái tên vậy. Chàng tẩn mẩn đọc cả những dòng chữ ghi sinh quán, trú quán, tên cha mẹ. Mỗi một địa danh mở rộng trong ký ức chàng một phong cảnh. “Xuân Lộc - Đồng Xuân”: những bụi duối chạy dài giữa cánh đồng mía. Rừng dừa xanh ngút ngàn rải bóng mát trên những mái nhà màu xám tối. “Phú Vang- Xuân Sơn”: con đường độc đạo bò vắt ngang qua những ngọn đồi trọc. Rải rác có ngôi miếu cổ hiện ra, âm u, tàn phế, nấp dưới cánh tay che chở của những cây đa, cây cốc, “An Mỹ-Hòa Đa”: rặng tre mỏi mệt trong ánh nắng, nơi đó tiếng chim gáy rời rạc đổ hồi. Đất da tây đen nhánh, cứng nhọn ở dưới gan bàn chân. “Phong Niên Hòa Thắng”: ruộng lúa chạy dài hai bên bờ mương dẫn thủy. Tiếng cần vọt kẽo kẹt trong các thôn xóm, tụ tập thành từng ốc đảo màu xanh.

Một tên phụ huynh học sinh làm chàng bàng hoàng: “Trương Kỳ Phùng”. Chàng nhìn nơi sinh, trú quán: An Thạch, Tuy An. Đúng là tên của người bạn học ngày xưa. Cả một quá khứ bừng sống mạnh mẽ, thoáng chốc như một cây cổ thụ bị chặt ngã nay vụt đứng dậy cả lá cành. Chàng thấy rõ ràng Trương Kỳ Phùng ôm sách đi học lớp năm, lớp tư, mặt gầy gầy với hàng lông mi rất dài. Nhà anh làm hàng xáo, tráng bánh tráng. Cả một xóm Thiện Đức chỉ có hai nghề: dệt tơ lụa và tráng bánh tráng. Trưa trưa, nghe tiếng giũ tơ lụa đập bành bạch trên sông. Cả ngày, nghe tiếng cối xay kẽo kẹt, cối giã thập thình. Cứ mỗi chiều, khi ôm sách đi học về là đã thấy mẹ của Phùng ngồi sa một quầy hàng xén vụn vặt: dầu phộng, nước mắm, thuốc giấy, kẹo đường, ớt tỏi….bà ngồi trong một cái lều nhỏ, dựng ngay trước cổng nhà Phùng. Cha Phùng đu đưa trên một cái võng, cột vào hai gốc tre, nằm lui đàng sau. Trước lều, phía bên kia đường cái, lúc nào cũng có năm bảy người ngồi chồm hổm nói chuyện. Câu chuyện thường lấy những người đi chợ vừa bước qua làm chủ đề, nên quanh năm không hết chuyện. Câu chuyện lại dễ nhảy từ mục này sang mục khác không cần chuyển tiếp, nên ngồi ở đây là có thể biết hầu hết tình hình trong xóm. Ở vùng này lại có bảy, tám tay cờ bạc chuyên nghiệp nên tin tức lại càng thêm dồi dào. Những người cờ bạc chuyên nghiệp không mấy ai là không lém miệng. Có lẽ vì sống quen trong khung cảnh đó, nên Phùng ăn nói hoạt bát và có óc lý tài. Lúc nào gặp anh là y như thấy anh đang dự vào một cuộc mua bán đổi chác nào đó. Có lần anh đổi cái cán viết mới của anh để lấy cái cán viết cũ của một người bạn và bắt bù ba cắc. Rồi cũng cái cán viết cũ đó, nhưng anh đem thay ngòi mới vào, rồi đem xuống lớp Đồng ấu gạ bán cho một đứa khác lấy hai cắc. Sách vở cũng là món hàng buôn. Đổi sách mới lấy sách cũ, bán sách cũ mua sách mới, rồi bắt bù tiền, nạp tiền cọc, nài thêm, rút bớt, trừ hoa hồng, ăn lãi hai phân, năm phân vân vân, anh tung hoành trong các chương mục thương mại như một võ tướng hữu đột tả xung.

Trương Kỳ Phùng chỉ có một nỗi khổ lớn: đó là anh ta có một người chị. Người chị này đã được các bạn luân phiên nhau hết “gả” cho đứa này đến “gả” cho đứa khác.

- Ê, Phùng. Anh rể mày đây.

- Tổ mẹ mày.

Phùng đỏ mặt chửi liền.

- Thằng này hỗn quá bay. Bộ thằng Thừa làm anh rể mày không được sao?

- Làm anh rể cái… ông nội cha mày.

Mỗi cuộc gả bán đều được kết thúc bằng một trận chửi gọn gàng như vậy.

Đỗ xong bằng tiểu học, Phùng xin bổ làm hương sư, đúng theo cái nề nếp sinh hoạt bình thường của xóm Thiện Đức này. Nhà nào có con cho đi học cũng chỉ mong đỗ cho được bằng tiểu học để ra làm hương sư. Cùng một khóa với Trương Kỳ Phùng, có mươi hai cậu hương sư xuất thân tự xóm Thiện Đức được bổ đi dạy ở các trường xã. Như cùng do một cái máy đúc ra, họ ăn mặc giống nhau: áo dài bằng xuyến đen, quần vải tàu bay trắng, tóc chải rẽ, đi xăng đan, xách cặp da và đeo gương đen. Riêng Trương Kỳ Phùng thì trong cái cặp da, ngoài những quyển vở soạn bài còn có mấy cây lãnh, cây lụa, anh đem theo để dạm mối buôn bán nữa!

Qua thời kỳ kháng chiến, Trương Kỳ Phùng đi buôn thuốc Tây, đá lửa và dép cao su. Lúc nào trông anh cũng té tát ngược xuôi. Cái cặp da chứa nặng hàng, ôm không nổi, anh phải luồn một sợi dây vải rồi tròng vào vai mà mang. Sau đó, anh mang muy zét vải rồi cuối cùng là gùi ba lô sau lưng. Anh hóa ra thành một tay buôn chánh hiệu.

Trong giai đoạn này, Doãn nhớ có gặp Trương Kỳ Phùng một lần ở một quán nước chặng An Chấn, anh than thở từ đầu đến cuối câu chuyện. Mang tiếng là tiêu cực lừng khừng, anh bỏ làng đi phiêu lưu ở chiến khu 1, chiến khu 2, buôn bán đủ món và gá nghĩa với bất cứ người đàn bà nào xét ra cần thiết để tìm chỗ trú chân. Anh cuới vợ rất sớm, rồi ly dị, rồi cưới vợ khác, rồi chết vợ… cả cái giai đoạn này của cuộc đời anh lộn xộn rối nhằng vì việc vợ con, y như một chiến cuộc thắng bại không phân mà ta không có thì giờ theo dõi từng chi tiết. Rốt cuộc, mãi đến hôm nay, có ngẫu nhiên gặp một phiếu thí sinh mang tên họ anh, mới biết là anh đã có con lớn dường ấy, và anh sắp được biết tin mừng là con anh thi đỗ.

Một phiếu thí sinh khác mang hai dòng chữ: “Tên cha: Hồ Đình Chiến (c). Tên mẹ: Nguyễn Thị Ngọc Cẩm”. Lại cũng là tên một bạn quen. Tên người vợ xác định tên người chồng, vì có thể có nhiều Hồ Đình Chiến, nhưng không thể có nhiều Ngọc Cẩm ở một miền nhà quê. Ở nhà quê, người đàn ông chuộng trang sức cho cái tên của mình hơn đàn bà. Vào thời đại của Ngọc Cẩm, hầu như không có một người đàn bà nào dám ngang nhiên mang một tên kép trên thẻ căn cước. Chỉ có Ngọc Cẩm. Chị không đẹp nhưng nhà giàu, quanh năm chỉ đi đến nhà tá điền thu lúa, đậu, thu đường, thu bông. Chị được đọc báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn và tiểu thuyết của Lê Văn Trương. Chị thuộc lòng mười bài “Khuê phụ thán” của Thượng Tân Thị và nhiều bài Đường Luật trong “Vườn thơ phụ nữ”. Và chị cũng cảm tác ra thơ nữa. Giữa một miền ruộng sạ, đất thổ khô cằn của xứ Đồng Tranh, Đồng Nghệ mà người dân chỉ biết vui với hạt đậu phộng, đậu xanh, tai bông, lóng mía, muỗng đường, chị chỉ biết sống mơ màng một mình với “Vườn thơ phụ nữ”. Người văn minh ở thị thành, ở phương xa lạc bước tới có thể hiểu được tâm hồn chị chỉ là mấy anh phắc tơ nhà ga và vài giáo viên trường Tiểu học La Hai. Họ nghe tiếng chị, đến nói chuyện với chị vài lần, được ăn vài bữa cơm ngon có tráng miệng kẹo đậu phộng, rồi rút êm đi cưới vợ nơi khác hết. Chị không đẹp. Khi quá lứa, chị đành phải lấy anh Hồ Đình Chiến người làng, nhà trung lưu, có học khá, nhưng xấu trai và không biết nói chuyện văn thơ. Như những đám lúa thổ, hết mùa lúa sạ lại chen mùa rắc đậu, cuộc đời của hai vợ chồng lẳng lặng cho trôi theo mùa tiết, đều đặn, nhịp nhàng và chán nản bằng phẳng như cánh đồng rộng trước nhà. Chiến thay mặt vợ đi thu lúa gặt, đi đòi lúa thiếu. Những chuyện vặt vãnh như cho vay lúa non, cho nuôi heo rẻ mà bình thường vợ anh và bố mẹ vợ anh vẫn làm một cách thong thả dễ dàng, nay sang đến tay anh thì chúng ngang nhiên mang một tính chất khoa học hợp lý rất đỗi chi li lẩm cẩm. Cái gì anh cũng ghi cũng chép, cũng chiết tính, cũng phỏng trù. Cuốn sổ nào cũng đầy ắp những chữ những số, khiến nhiều lúc anh sa lầy lúng túng trong đó.

Ngày Nhật đảo chánh, anh sung vào ban Tuyên truyền cho Đại Đông Á. Thật là một cuộc vận động đầy hào hứng, vì Đại Đông Á là một cái gì rất vĩ đại mà người nói lẫn người nghe đều không biết rõ là cái gì, có điều chắc chắn là nó phải to lắm. Ban Tuyên truyền gồm ba người: trợ Chước mặt vàng như một lá dưa cải còn non, xu Tiên - một một cai lục lộ thật nghiệp có bộ râu rễ tre (ông giống Nhật ở điểm này) và Chiến. Cả ba mặc áo dài đen chững chạc và đi xe đạp. Mỗi xe cắm một lá cờ Nhật Bản. Xe họ hùng hổ đi về trụ sở các xã Phước Long, Phước Huệ, Phước Lãnh thuộc miền sơn cước huyện Đồng Xuân, rồi đổ về từng thôn nhỏ. Lũ trẻ con chạy theo sau hoan hô hoặc bâu quanh họ trầm trồ chỉ chỏ, y như chính họ vừa hạ thành Singapore hay bắt giam Đô đốc Decoux

Lý do vì đâu Chiến được tuyển sung vào ban này thì chính Chiến cũng không ngờ được. Từ nhỏ đến lớn, Chiến có biết gì nước Nhật đâu? Chẳng qua vì muốn sanh lợi chút ít, anh đã trữ bán mấy món thuốc Nhật Bản: thuốc cảm Jin-tan, thuốc đau dạ dày Oâôda, thuốc nhỏ mắt Oâtôsan bên cạnh mấy món thuốc xổ Nhành mai, thuốc dán Hồng Nhật, dầu cù là Oâng Cọp và cả thuốc dịch heo nữa. Rồi tiếp theo có mấy tấm hình quảng cáo của các hãng buôn Mitsui, Mitsubishi, Dainan Koosi có in hình đàn bà Nhật và phong cảnh Nhật, Hồ Đình Chiến tiếc của xin đem về dán cho kín vách. Và thế là anh hóa thành một người có chính kiến.

May thay nước Nhật đã bại trận một cách quá mau lẹ giải thoát dùm cho anh và cho ban Tuyên truyền khỏi tình trạng cạn tài liệu. Vì để nói về nước Nhật, anh chỉ biết quanh quẩn có những truyền thuyết hết sức nhảm nhí. Chẳng hạn chuyện người bán cám cho ngựa nhà binh Nhật đã lấy mạt cưa thay cám. Ngựa ăn mạt cưa chết, lính Nhật mổ ruột ra xem, chưa biết rõ căn nguyên, liền đem người buôn cám tham lam khâu vào bụng ngựa rồi đem chôn. Một cuộc quả báo nhãn tiền và sòng phẳng như vậy rất hợp với tâm hồn bình dân của người nghe, nên cử tọa hả hê một cách ồn ào. Hồ Đình Chiến không ngờ mình nói chuyện có duyên đến thế. Nhưng chừng nửa tháng thì câu chuyện hết mầu nhiệm. Vì người nào quen với Chiến đều đã phải nghe nó đến lần thứ chín, thứ mười; anh phải kể sang những chuyện tai hại cho chủ nghĩa Đại Đông Á mà anh đang cổ xúy (thế mới biết cảnh giác chính trị của anh rất trì độn). Anh kể chuyện người Nhật cai trị nước Cao Ly chỉ cho phép năm nhà dùng chung một con dao phay, rằng con dao ấy được cột vào một dây xích sắt và nhà nào cần thái món thịt món cá gì thì phải mang đồ vật đến “nhiệm sở” của cái dao. Câu chuyện ấy nhiều người biết. Chỉ độc sáng là lối thêm thắt chi tiết của Chiến. Câu chuyện lại dễ gợi trí tưởng tượng của người nghe, nên ít ai không bàn cãi, không đưa ý kiến.

Vào tháng 7 tháng 8 năm 1945, câu chuyện anh nói có mang nhiều danh từ tương đối chuẩn xác hơn, chuyên môn hơn: quân đội Thiên Hoàng, Chính phủ Nippon, Thủ tướng Tôjô, hải chiến đảo San hô, Phi đội Thần Phong... Kiến thức của anh đi lên, ngược với khí thế của quân đội Nhật đang đi xuống. Tiếp tới, Nhật Bản đầu hàng. Cách mạng tháng Tám nổ. Cách mạng nổi lên, anh đương nhiên bị coi là người của chế độ cũ. Danh hiệu này là một vinh dự quá to đối với anh. Tuy vậy, nó làm cho anh lo sợ mất ăn ngủ, vì vào những ngày đầu Cách mạng, ai nấy đều vũ trang dao găm và lựu đạn. Sau đó, theo chính sách tận dụng khả năng dân chúng, không phí phạm nhân tài, vật lực, anh được sung vào làm thủ quỹ cho Hội giúp binh sĩ bị nạn. Công việc thật quá phù hợp với anh. Tha hồ cho anh đàm đạo một mình với những con số chi, số thu, tổng chi, tổng thu, với những chứng từ thanh toán, với những cái kim găm. Anh chìm vào giữa những con số cũng như anh chìm vào giữa cuộc đời. Anh bám vào cuộc đời như một thân tầm gửi, vô ích nhưng mà vẫn hiện diện, sống tầm thường cái cuộc sống của mình không khiến cho ai phải nghĩ tới.

Thế mà nay Hồ Đình Chiến đã chết!

Sao nhanh vậy? Con người chậm chạp, núc ních với vẻ mặt u tối tầm thường đó như sinh ra để sống lâu, để ăn tiêu tặn tiện và để sinh nhiều con. Thế mà anh ta lại chết rồi. Cái chết đó có ý nghĩa gì? Chết vì một tai nạn phi thường hay vì một chứng bệnh tầm thường, vô lý như những người xung quanh anh? Nhưng dù có vì gì đi chăng nữa thì chữ cũng viết giữa vòng đơn sau tên Hồ Đình Chiến cũng mở ra một vực sâu tăm tối trong tâm hồn của Doãn chiều hôm nay. Những người bạn của chàng đi nhanh quá. Con họ lớn để thấy họ già và có người vội vàng đi quá tuổi già: họ chết. Như người ngồi trên chuyến xe chỉ thấy mình di chuyển khi nhìn mọi vật di chuyển xung quanh. Doãn chợt thấy năm tháng bỏ lui mình đằng sau, khi vô tình chàng nhìn sang những người bạn. Thật là chán nản. Trước mắt chàng, cô Kim Toàn xinh xắn với dáng ngồi viết ngây thơ liệu sẽ giữ vẻ tươi mát của làn má, của ánh mắt trong bao lâu? Nàng đang có những ước mơ gì? Nàng có tin rằng những sẽ thực hiện những ước mơ một cách dễ dàng trước khi năm tháng đuổi kịp nàng chăng?

Doãn uể oải đứng dậy đi về phòng trọ. Phòng trọ là một phòng học được nhân viên ở trường xếp đặt khá chu đáo với giường bố và màn nhà binh. Có bốn phòng học được xếp thành phòng trọ. Ngày mới đến, đi lại ở hành lang phải tránh nhau một cách chật vật. Hôm nay số người đã vắng đi nhiều. Nhóm anh em Đà Nẵng đã về trưa nay. Nhiều chiếc giường bỏ trống, chăn màn xếp cẩn thận đặt ở đầu giường. Khi có chủ, không chiếc giường nào được ngăn nắp tươm tất như vậy. Những anh em còn lại cảm thấy cô đơn. Họ quây quần với nhau thành từng nhóm. Nhóm anh Ngộ năm người ngồi rút ích xì để tiêu khiển. Trông Ngộ có duyên, cởi mở và lịch sự khi bắt con bài, khi nặn con tẩy, khi suy nghĩ để tính nước, cả khi vất gọn tờ giấy bạc xuống bàn để tố hay để theo. Những cử chỉ vơ lấy gói thuốc, đặt một điếu lên môi, bật que diêm, kéo một hơi để trấn tỉnh thần kinh… những cử chỉ ấy đều gọn gàng, biểu lộ một phong thái khả ái, khác xa với khi anh mặt khó đăm đăm, phân phối công việc cho các giám khảo ở trung tâm. Cái duyên dáng của con người cũng biểu lộ và được ghi nhận ở những cử chỉ và trong những trường hợp rất đỗi bất ngờ. Nằm bên cạnh sòng bạc khá ồn ào này, anh Dật bình tĩnh lật từng trang của một quyển sách triết học dày cộm. Nhóm anh Đàm, anh Cang dùng ngày giờ còn lại để đi bát phố liên miên. Có dư khí lực mà không biết dùng vào việc gì, các anh đặt dấu chân mình ở mọi con đường, khám phá nhiều sự vớ vẩn ngộ nghĩnh. Anh Lộc, anh Bang vừa mới cưới vợ nên hết trao đổi với nhau những kinh nghiệm có vợ mang đến bàn việc mua quà cho vợ. Câu chuyện kéo dài sang mục chữa hậu sản, chữa bệnh đẹn và bệnh tướt cho hài nhi. Anh Bửu thì hát luôn miệng câu:

Người ơi một mai nếu tôi đi rồi

Là la là la lá la là la

Đó là câu hát độc nhất Bửu hát từ ngày anh đến chiếm cái giường sát cạnh. Không thuộc quá ba câu của một bài hát, hình như người thầy giáo nào cũng vậy. Đó có thể là một mặc cảm trí thức. Nhưng do tâm trạng nào mà Bửu chỉ hát câu “người ơi nếu một mai...” thì Doãn không tìm hiểu. Vì anh hát vào những lúc bất ngờ và rất mâu thuẫn: khi đi về cởi áo sơ mi, khi cột dây giày, khi ngủ trưa dậy mà chưa muốn bước xuống giường, khi uống xong 15 giọt thuốc chữa đau gan. Dường như anh không bận tâm rung cảm theo ý nghĩa của câu hát. Có lẽ câu hát chỉ có giá trị làm cho mồm đỡ nhạt, cũng như khi người ta không nghiện mà hút thuốc. Câu hát cũng làm sạch hơi thở như khi người ta nhai kẹo cao su. Nhưng chiều hôm nay giọng hát trầm trầm uể oải và sai giọng ấy, mỗi lần nghe đến là Doãn tưởng như mình đang dự vào buổi chiều cuối cùng của trái đất khi nhân loại bị phóng xạ nguyên tử đang cầu kinh. Buổi tối, ánh đèn nê ông sáng không làm cho không khí đỡ cô đơn hơn. Phòng số 1 do các giám khảo có tuổi chiếm đóng nên tắt đèn sớm. Họ chỉ biết làm việc ăn ngủ điều độ rồi về với gia đình. Những chiếc vali lớn nai nịt sẵn sàng xếp cạnh giường nằm. Đi 15 ngày, nhưng cụ bị đầy đủ như phải viễn du liên lục địa. Quà mua đem theo về cũng vừa chu đáo vừa cồng kềnh: những lọ mắm cá thu lổn ngổn, những tảng miếng song thần to bằng bức tranh sơn dầu. Phòng II đa số là thanh niên. Hành lý rất gọn. Có người chỉ mang một cái xắc kiểu PAA hay Air France. Y như đi dự một cuộc tranh giải thể thao liên tỉnh. Tâm hồn cũng gọn như hành lý. Không có nhiều quá khứ lôi kéo, họ thong dong đi lại như một con chim chuyền cành. Trái lại, đối với những người như Doãn thì quá khứ chen lẫn với hiện tại. Trong những ngày lưu lại đây, kỷ niệm thường dồn dập trở về. Ngẫu nhiên mà ngôi trường chàng nghỉ trọ hôm nay là ngôi trường Trung học mà mười lăm năm trước chàng đã học, thỉnh thoảng ngồi nhìn vẩn vơ qua từng khung cửa kính, chàng thấy lại gương mặt và dáng đi đứng của từng vị thầy cũ của mình: thầy Lê với bộ râu bướng bỉnh, thầy Thái với đôi kính trắng, thầy Cảnh mỗi lần cười thì mặt đỏ và mắt nhắm tít lại, thầy Trường nhanh nhẹn như một con sóc. Cuộc đời chảy êm đềm trong một xã hội quá trật tự. Giáo sư Cao đẳng tiểu học là một địa vị đáng được thèm ước. Suốt cả mười tỉnh miền đông bằng chỉ có một trường Cao đẳng tiểu học công lập này thôi. Sự học hiếm hoi, quý giá như vậy, nên nếp sinh hoạt ở thành phố xoay quanh việc buôn bán. Các vị giáo sư gần như độc tôn trên thị trường chữ nghĩa. Giới trí thức còn lại là mấy ông phán tòa Sứ, trán và gò má bóng nhẵn mỗi buổi chiều tụ họp ở nhà xéc để đọc báo, thọc bida hay đánh ten nít. Tách rời ra khỏi giới doanh thương thực tế, ồn ào, thủ đoạn, những người trí thức ở tỉnh nhỏ sống lẻ loi, uể oải như những cây còm nằm yên vị trong từng chiếc chậu kiểng. Không ai cạnh tranh với họ hết, nên họ khỏi phải lo cạnh tranh với ai.

Chợt chiến tranh xảy đến, bắt gặp họ giữa một lúc họ không chuẩn bị. Chiến tranh xáo trộn hết. Ông Huy, nguyên là thư ký đánh máy của trường, quanh năm thủ phận trong bộ áo dài trắng và đôi giày da trắng đế nhựa rất dày, đột nhiên biến thành một giáo sư triết học có nhiều uy thế. Ông Văn, giáo sư khoa học, trái lại bị chê là lạc hậu, nên được rút về ngồi ở không ở phòng chuyên môn. Trong cảnh nhàn bất đắc dĩ, ông nảy ra làm thơ. Ông Cảnh lao đao vì một bầy con quá đông và một người vợ yếu đuối. Đồng lương eo hẹp làm cho những bộ quần áo của ông lúc nào cũng cũ kỹ, sờn cổ, sờn cùi chỏ.

Qua cuộc chiến tranh, ngôi trường cũ đã bị phá hoại. Hiện nay nền trường vẫn còn y nguyên đó và chàng cứ nhìn theo nền xi măng long lở mà thấy lại trong óc dãy trường nguy nga hồi xưa với cả ký túc xá, sân chơi, văn phòng, nhà ông hiệu trưởng, nhà ông giám thị, nhân viên… Trên dãy hành lang này, chàng đã đi bách bộ nói chuyện với bạn sau bữa ăn tối. Góc rào kia, cả bọn lén nhảy qua để trốn ra phố xem xi nê. Dưới bóng cây keo này, ngày xưa mấy cô con gái ông giám thị đi thơ thẩn. Bây giờ chắc mấy cô đã có lắm con rồi, chắc họ chỉ còn đi thơ thẩn được trong ký ức. Dễ thường có cô đã chết trong chiến tranh, cũng như một số khá lớn những người bạn chàng vậy. Còn lại như xưa, dễ chỉ có những hàng me tây đứng thản nhiên ở sân trường. Chắc chắn là chúng có già đi, nhưng sự đổi thay ít nhận thấy rõ. Tuy vậy, theo một đà ý nghĩ quen thuộc, trong một bức thư gửi cho bạn hôm mới đến đây, chàng đã viết: “Tôi về trọ nơi đây. Ngôi trường cũ mà tôi đã xa mười lăm năm hơn. Cảnh vật tàn phế hết. Chỉ còn dãy me tây. Nhưng chúng đã thành cổ thụ. Cũng như tôi, mai kia…”

Từ buổi chiều, mùi hoa thơm hăng hắc, bóng tối lẩn quất ở gốc cây. Chàng nhớ có một buổi sáng, mở cửa sổ nhìn ra, chàng để ý đến một cây me tây non trẻ mọc lạc loài ở gần cửa sổ. Chàng nghĩ đến những thế hệ lặng lẽ nối tiếp nhau. Liên tưởng đến các giám khảo thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều thế hệ có mặt nơi đây, Doãn cảm sâu xa dòng đời chuyển đi tới (hay đi lui).

Còn một đêm này nữa.

Phù hợp với ý nghĩ của chàng, anh Nhẫn đứng cạnh vừa tháo cà vạt vừa hát:

Còn một đêm nay

Rồi mai lên đường…

Đêm chót bao giờ cũng gây nhiều lưu luyến. Cả những người bạn ít thân thiết, trong giờ phút này cũng trở nên mến thân. Anh Long ở phòng IV sang hỏi địa chỉ của nhóm thầy giáo Nguyễn Hoàng Quảng Trị. Anh Tây đưa tay tắt cái máy thu thanh chạy pin để cất giọng ngâm mấy câu ca dao:

“Còn đêm nay nữa mai đi.

Lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề.

Còn đêm nay nữa mai về.

Lạng vàng không tiếc, tiếc kề má xuân...”

Doãn tự so sánh mình với nhân vật trong câu ca dao. Anh chàng quả có buồn, nhưng còn được an ủi có người yêu để mà xa cách. Còn mình? Người yêu là ai? Doãn thấy mình lửng lơ giữa hai khoảng chân không. Những cô bạn xinh tươi sáng mai sẽ về Huế hết, cũng như những cô bạn Đà Nẵng đã bỏ chàng về Đà Nẵng trưa nay. Họ đông lắm, nhưng chàng chỉ cần có một người, mà một người thì khó có. Không thể đi theo họ như một nghệ sĩ phiêu lưu, mà trở về thành phố cũ của mình thì cũng không có ai tha thiết mong đợi mình. Thằng nhỏ ở sẽ chỉ “à” lên một tiếng vừa đủ để tỏ một sự ngạc nhiên có mức độ, khi xe chở chàng lách cách dừng ở cổng. Con chó trắng sẽ vẫy đuôi mừng (À! May ra thì được có con chó mừng một cách thật thà và trọn vẹn). Bà chủ phố sẽ chuẩn bị để chiều mai sai con đưa biên lai sang thu tiền nhà. Ai cũng lãnh dạm với chàng hết. Nhìn tới, nhìn lui, quả là lửng lơ giữa hai khoảng chân không.

Doãn thấy tâm hồn chán nản, mỏi mệt. Chàng phải cố gắng tạo cho được một khoảng chân không trong trí óc mình, để dỗ một giấc ngủ nặng nhọc và bướng bỉnh.

Chàng dành bữa ăn sáng cuối cùng để ăn cùng Lễ. Chàng giục Lễ ăn thật nhiều.

- Ăn nhiều đi, ăn thêm nữa đi. Đường về Huế xa xôi.

- Nhưng đi bằng máy bay thì có xa bao nhiêu ?

- Ừ nhỉ! Anh lên tàu 10 giờ sáng và ăn trưa ở Huế, giữa vợ con. Tôi còn giữ những kỷ niệm quá lạc hậu về ý thức giao thông. Ngày nhỏ đi học, mỗi lần nghỉ lễ về thăm quê là người chủ trọ bắt tôi phải ăn cơm thật no để lên tàu hỏa. Mà nào đường đất có xa, chỉ khoảng một trăm cây số thôi. Ông chủ trọ ngồi canh chừng cho chúng tôi ăn và lặp lại không biết bao nhiêu lần rằng “có hột ngọc trong bụng thì cản phong cản gió dọc đường…” Bát cơm tầm thường vụt nhiên khoát một giá trị thiêng liêng, thần bí, khi hột gạo được suy tôn là hột ngọc…

Chàng mơ màng nhớ đến thời xưa khi tâm hồn con người sáng tươi trong niềm tin chất phác.

- Còn anh? Hai giờ mới lên máy bay?

- Vâng. Chúng tôi là những người chót hết giã từ nơi đây.

- Sang năm chúng ta gặp lại.

- Nhưng đừng chọn thành phố này nữa. Hai lần rồi. Tôi mong sẽ gặp anh ở Huế hay ở Đà Lạt.

Mười giờ, phòng đợi phi cảng chật chội, nóng bức, khiến những câu chuyện trao đổi cuối cùng bị gò bó. Người ta không thể buông người bạn này để bắt người bạn kia một cách tự nhiên khi thiếu những hành lang rộng, những khóm cây xanh. Những cô bạn Huế đành đứng bên cạnh nhau nói những câu chuyện chắc là rời rạc. Có cô ngồi nhìn ra sân nắng, có cô phe phẩy quạt. Những người bạn đàn ông ngồi ở chỗ của mình, chăm chăm nhìn một khoảng nhỏ ở trước mặt mình, y như những nhà chân tu chỉ biết nghĩ đến đạo đức.

Chàng bắt tay Lễ một lần chót, mỉm cười chào mấy cô bạn khi họ đi ngang qua mặt. Khi cửa phi cơ đóng sập lại, phi cơ nổ máy, những bàn tay hiện ra vẫy ở khung cửa kính tròn nhỏ. Ơû dưới đất, Doãn cũng như nhiều người cũng vẫy tay. Chẳng ai biết được bàn tay kia dành cho ai. Có thể có những bàn tay không có ai để mà dành cả. Màu áo đỏ của cô Phương Lan trông rõ ràng qua khung cửa kính mờ. Đi máy bay nên chọn một màu áo đặc biệt không thể lầm lẫn như vậy.

Từ bữa ăn trưa đến hai giờ chiều, Doãn không làm được gì hết. Ý nghĩ cũng bị cắt vụn từng mẩu rời rạc. Ông Cai trường xếp chăn màn, bó giường và quét tước phòng học. Những tờ giấy báo vất ngổn ngang; những mẩu tàn thuốc, di tích cuối cùng của sự sinh hoạt rộn ràng của bao nhiêu giám khảo giờ bị dồn vào một góc. Dãy thùng nước, chậu thau đặt dài dọc hành lang cũng đã thu dọn mất. Sự gọn gàng có pha chút ít tàn nhẫn. Giá ông cai thẫn thờ uể oải bỏ bê công việc mà ngồi nhớ đến sự ồn ào vui vẻ của mấy người trước so với niềm cô đơn im lặng hôm nay!

Sân phi cảng chiều nay vắng hơn buổi sáng. Toàn là người quen cả nên không còn vấn đề khi cần bắt chuyện. Chàng phải tìm thú vị mới cho nửa giờ còn sót lại. Chàng chọn Thu Hà. Thu Hà là người nữ giám khảo đẹp của trung tâm, cùng giám thị chung với chàng ở trường Tân Bình và hôm nay cùng về một chuyến bay với chàng, cùng xuống một phi cảng.

- Cô không về Đà Nẵng thăm ba má?

- Tôi về trường có mấy việc cần, vả lại còn trông chừng cho em tôi thi tú tài.

- Cô có đồng ý một với tôi rằng cô Hải đẹp không? Cô Hải cùng chấm Pháp văn với cô đó.

Thu Hà nheo mắt một cái rồi mở to mắt:

- Đẹp. Đẹp thật!

Nàng vừa nói vừa gật gật đầu.

- Ông có quen với chị ấy?

- Em của người bạn tôi đó.

- Thích nhỉ? Quen với một người đẹp bao giờ cũng thích.

- Đó phải là ý kiến của người đàn ông.

- Đâu phải chỉ riêng đàn ông? Đàn bà cũng thích những người đàn bà đẹp.

- Huống chi là đàn ông!

Thu Hà và Doãn cùng cười .

Thu Hà có đôi mắt đen thăm thẳm và sáng long lanh như có chất dẻo làm dính tâm hồn những người nhìn. Mắt trái nhỏ hơn mắt phải một chút, làm tăng thêm sự mơ màng. Được biết Doãn và nàng ở cùng tỉnh, các giám khảo quen bao quanh lấy Doãn:

- Chấm xong, tôi đi vào Phan Rang với anh nhé? Nhà anh có gần nhà cô Thu Hà không?

- Anh Doãn ơi, anh nhớ ghi địa chỉ rõ ràng đi. Thế nào hè này tôi cũng đi Phan Rang một chuyến. Nhưng mà anh phải hứa giới thiệu tôi cho Thu Hà nhé?

- Tiếc quá không đi vào với anh được lần này. Nhưng thế nào kỳ chấm tú tài tôi cũng có mặt ở Phan Rang. Cô Thu Hà đẹp quá anh nhỉ?

Doãn mỉm cười với mọi người, hò hẹn với mọi người. Chàng biết sự vui vẻ bồng bột chỉ nhất thời, rồi sau đó trở lại cuộc sống quen thuộc bình thường, họ sẽ như con ngựa của anh đánh xe đi lại thuộc lòng trên con đường mòn, trên lối cũ. Dự định cho hả, mơ mộng cho hả, vì họ biết rằng chỉ đến bấy nhiên đó rồi hết. Cuộc đời sẽ kéo họ lại đúng vào con đường bình nhật của họ. Anh chàng Hòa hẹn hò liến thoắng đó, dăm ngày nữa sẽ ngoan ngoãn đi bên cạnh vợ về thăm mụ thăm mệ ở Kim Long, Văn Xá. Anh chàng Hàm ham nhìn các cô đến nhân lộn cả điểm sẽ cặm cụi trên trang giấy viết thư cho vị hôn thê. Anh chàng Đổ nhanh nhẹn, anh chàng Thiện mơ màng rồi sẽ lao mình vào những tình yêu nơi thành phố nhỏ của họ, những tình yêu, đóa hoa và cũng là nấm độc của cuộc đời. Như một chuyến đò dọc đến bến nước nào cũng vui vẻ quyến luyến tưởng không thể dứt áo ra đi, nhưng khi đã đến một bến mới rồi thì quang cảnh nơi bến cũ chỉ còn mờ trong kỷ niệm. Cứ như thế, mỗi mùa thi đến làm xáo trộn tâm hồn của họ, trong 15 ngày; gặp gỡ mơ mộng, nhớ nhung, chia ly… Rồi sau đó, ngày tháng chồng chất lên ngày tháng, kỷ niệm bị phủ bụi ngày một dày thêm, cho đến hè năm sau những cuộc gặp gỡ khác, mơ mộng nhớ nhung ly biệt khác sẽ tiếp diễn, cũng sâu đậm, tha thiết, xót xa.

Tiếng loa phóng thanh mời hành khách ra phi đạo. Thu Hà xách chiếc giỏ đi cạnh Doãn. Mái tóc bồng trong gió. Màu áo tối làm cho vai nàng thêm mảnh. Doãn xót xa nghĩ: “Giã từ Thu Hà! Ngày này năm sau, cô còn đi cạnh tôi nữa đâu.”


hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 24.11.2012 11:44:09
6. THẾ GIỚI CỦA NĂM NHIỀU



Không biết trong bảng tử vi của anh Năm Nhiều có phải “Mệnh thân có tử vị cư Mão Dậu gặp Kiếp Không” hay sao mà đời anh lại gắn liền quá mật thiết với sự cung kính dường đó. Phải chứng kiến sự sắp đặt quy mô của bàn thờ nhà anh mới thông cảm được phần nào sự an bài bất khả kháng của Hóa công. Nhà nhỏ lợp tranh đã cũ mèm, gần nát vụn ra và vách đất. Nền nện đất, nứt thủng ở nhiều chỗ. Hai cái cửa sổ lùa và một cửa ra vào bị mái che thấp xuống nên ánh sáng vào quá ít. Nhà thành ra tối hùm hụp suốt ngày. Tôi chưa hề nghe một ngọn gió nào thổi ngang qua đây nên ngồi trong nhà thì phải ngửi mùi hôi thối cố hữu của ngôi nhà, mùi hôi lưu lại từ ngày mẹ anh còn bán nước mắm, dầu lửa, dầu phộng, cốm kẹo, thuốc hút… Mùi hôi ấy như phát xuất từ nền nhà, từ xó kẹt ghế bàn, từ vách đất. Những bàn tay dính nước mắm, dính mồ hôi đã bôi quẹt qua lại lên vách nhiều lần trong nhiều năm, nên vách cứ láng bóng lên nhất là ở những chỗ thường qua lại. Cả gian nhà chính chỉ kê một bộ ván, còn bao nhiêu chỗ dành cho ghế thờ. Ghế lớn đặt ở dòng giữa. Một bộ lư đèn ngự ở đây, toàn bằng gỗ trắc đánh bóng lên nước. Trước ghế kê cái bàn. Ngày thường, đó là nơi đặt kỷ trà để tiếp khách. Đến ngày giỗ chạ thì trên sắp bày những xôi chè, canh thịt… Một cái ghế tương đối nhỏ hơn kê ở bên tay phải, sau bộ ván. Cũng lại một bộ lư đèn bằng gỗ. Trên đầu thêm một cái khám thờ ông táo. Hai mẹ con dường như chưa đồng ý về điểm này. Tính Năm Nhiều ít nói và hay nhường nhịn. Vả lại, ông Táo thì cũng đáng sợ như ông Địa nên anh chưa dám cả tiếng truất phế.

Thôi thì thờ ai cũng được. Hơn nữa, nhà có lắm trẻ nhỏ mà theo lời truyền thì ông Táo lại thích quở trẻ con, hay bắt chúng nóng vặt. Thấy mẹ và anh nhân nhượng nhau, chị Của em út của anh Năm Nhiều mượn ngay nơi đó để thờ “các đẳng”. Chị buôn bán dang, mây, hom nứa từ chợ Lùng chở về nên phải luôn luôn vái các đẳng phù hộ. Không có chỗ nào dành cho chị hết nên chị phải mượn tạm cái khám. Vả lại đặt vẻn vẹn một nải chuối và cắm một cây hương thì chỉ có chỗ ấy là tiện lợi hơn hết. Đã tránh được sự chỏn vẻn, trơ trọi mà được nơi kín đáo cần thiết cho nải chuối kịp chín. Đặt ở ghế dưới thì không yên được với lũ trẻ nhỏ. Chúng nó đòi ăn và có gan dám bẻ trộm lắm.

Khi đã đặt vấn đề chiếm hữu nơi cái khám thì lẽ tất nhiên là hai dòng bàn thờ cũng phải quy định thuộc phần ai. Mẹ anh phụ trách việc cúng kính từ hồi cha anh mất. Lúc bấy giờ anh mới lên năm. Tính bà xuề xòa nên bà nghĩ rằng ai cũng xuề xòa như bà, kể cả các vị tổ tiên khuất mặt cũng vậy. Thành ra dù giỗ ông nội, bà nội, ông cố, bà cố hay cha Năm Nhiều, bà cũng chỉ sắp đồ cúng ở bàn thờ lớn. Vừa rộng rãi, vừa dễ đi lại. Bàn thờ nhỏ do đó mà chịu ế sốt cả thời kỳ bà cầm quyền. Kịp đến khi Năm Nhiều thay bà giữ quyền tế tục thì Năm Nhiều tổ chức có lề lối hơn. Bàn thờ nhỏ dành riêng cho cha anh. Bàn thờ lớn dành cho tất cả các vị tổ tiên khác. Để phòng ngừa mẹ lộn xộn, anh lấy khuôn hình của cha anh vốn treo trên vách đem dựng vĩnh viễn trên ghế nhỏ. Hình chụp cha anh đội mũ chào mào, áo quần lính tập thắt nịt da to và bắp chân quấn xà cạp. Để tỏ sự tột độ nghiêm trang, ông cụ giơ tay mặt lên ngang trán chào theo kiểu nhà binh.

Ông cụ đi lính mộ và hình như chết ở Mac xây, bên Pháp (chi tiết này tôi nghe cha tôi kể lại). Mẹ Năm Nhiều thì chỉ nhớ chắc chắn là ông cụ chết ở bên Tây, còn địa danh đích xác thì cứ vài năm bà lại đổi một lần. Trí nhớ của bà không được mẫn nhuệ. Ngay cái tên làng Định Trung, ấp Phong Nhiêu là nơi bà sống trên năm mươi năm rồi mà đố bà có nhớ nỗi. Ai hỏi bà ở đâu thì chắc chắn là bà chỉ trả lời được rằng “Ở Soi giữa”. Vậy thì cứ chừng vài năm ông cụ Năm Nhiều lại phải vì bà mà thay đổi chỗ chết một lần. Ban đầu thì đúng là Mac xây rồi, rồi Mặt xây, rồi Xây mặt… cho đến một hồi nào đó sáng kiến của người chinh phụ này cùn đi, năng lực biến chế của bà cạn đi và bà nói liều: “Chẳng biết chết ở cái xứ Xây xây gì đó. Có cái hình của ổng kia kìa”. Cái hình ấy nay đã vàng và bong đi mất nhiều mảng ở quanh rìa. Và theo sự phối trí mới của Năm Nhiều thì bây giờ nó được ngự trị trên bàn nhỏ. Quả tình Năm Nhiều có năng lực tổ chức thật. Mọi sự cúng kính được điều hành có trật tự, ngoại trừ cái khám còn đang ở dưới chế độ cộng đồng tương đối bất ổn.

Vừa hoàn thành tổ chức quản trị mới thì Tết đến . Đây là dịp thử thách tài của Năm Nhiều. Ngày 24 tháng chạp sau khi sang dẫy mả giùm cho nhà tôi xong, anh vay mẹ tôi hai giạ nếp và năm mươi đồng. Hẹn sang mùa tháng ba trả. Hăm chín tháng chạp nhằm chợ Phiên Thành, anh mua vác về một tấm bức thờ bằng giấy trên viết một chữ thọ thật to ở giữa và hai bên viết hai câu đối. Bức đó để treo trên vách nơi bàn thờ tổ tiên. Bốn bức khác nhỏ hơn vẽ hình chim hạc, chim phượng, hoa sen, hoa mẫu đơn.. treo ở bàn thờ cha anh. Với mấy bức vẽ màu chói chang lòe loẹt, ngôi nhà anh sáng hẳn ra tươi vui như có hội. Mấy đứa cháu, con chị Của cứ thập thò đứng nhìn làm quẩn cả chân anh.

Khi cắm những cành bông điệp vào lọ độc bình, bông điệp hai màu vàng và đỏ, anh xin ở nhà Trùm Diếc, thì anh vừa lẩm bẩm trong miệng “Đông hoa, Tây quả…”. Đông hoa, Tây quả thì tôi hiểu rồi. Đã có lần anh giảng cho tôi nghe rằng cái lọ cắm hoa và cái cỗ bồng sắp chuối không phải muốn đặt ở chỗ nào trên bàn thờ cũng được, mà đã có kinh điển quy định rồi. Lọ hoa thì phải đặt ở hướng Đông và cỗ bồng chuối thì ở hướng Tây. Hỏi: còn “Đông bình Tây hộp hương” nghĩa là sao thì anh đánh trống lãng không trả lời. Tôi thật không ngờ việc xếp mấy món đồ thờ nói chi đến việc tế tự to lớn mà cũng khó khăn bí hiểm đến có thể làm cho Năm Nhiều lúng túng. Đã vậy mà lại không có một quyển tự điển nào về nghi lễ để tra cứu, nên trên bàn thờ của Năm Nhiều đành thiếu một bình và một hộp hương. Tuy vậy, tôi cho rằng anh đã cố ý đền bù chỗ thiếu sót này bằng một cỗ bồng rất đỗi phong phú, xếp đến bốn, năm tầng nải chuối, hai tầng trái quýt, một trái bưởi to và mấy chùm mận, thế mà vẫn giữ được thăng bằng, kể cũng đã khéo tay.

Tối 30 và ngày mùng một, mùng hai, bàn thờ đầy ắp những lễ vật, đèn nến sáng choang. Cái khoảng trống còn lại trước dãy ghế, đầy những người: bà mẹ Năm Nhiều, Năm Nhiều, chị Của và bốn đứa con chị Của. May mà Năm Nhiều chưa lấy vợ nên trong cái khoảng hẹp ấy còn có chỗ để tránh nhau. Tôi thấy không khí nơi đây quả thật là ấm cúng đặc biệt. Mà nào có cần phải đẹp đẽ sang trọng? Mẹ anh thì già lẩm cẩm, gầy mỏng như cái lá sả và đôi mắt lèm nhèm. Một cái miệng quá rộng trên khuôn mặt quá dài. Miệng đó không phải là dấu hiệu của sự hòa mục. Chị Của thì lùn và đen. Đôi con mắt nhỏ, loại tinh ranh vặt. Mấy đứa con của chị thì mặt mũi chẳng mấy khi sạch sẽ. Ngoại trừ con Lượm tám tuổi có đủ áo quần, còn thì thằng Khá sáu tuổi, con Khen năm tuổi, con Mùi hai tuổi đều chỉ mặc một cái áo còn quần thì mẹ chúng hẹn để sang năm. Đó là vào những ngày tự ngày Tết, những ngày lạnh mùa đông. Còn thì quanh năm, ba đứa ở trần như ba con heo nhỏ.

Sự lẩn quẩn của từng ấy người trong khoảng quá hẹp, dù vậy, vẫn không bực mình ông thầy tế tự là Năm Nhiều. Một người cậu nào khác sẽ ghét hết sức bốn đứa nhỏ đang lườm lườm hoặc lén lút nhìn mấy dĩa thức ăn bày trên bàn. Chúng không có kỹ thuật ngụy trang nên sự thèm ăn được biểu hiện một cách lộ liễu, có thể gọi là trắng trợn nữa. Năm Nhiều làm như không để ý đến sự biểu diễn khiếm nhã đó. Anh xoa đầu một đứa và cất giọng ôn tồn nói:

- Đi xuống dưới chơi. Đừng có hỗn. Để lát nữa dọn xuống đã.

Đứa bé được xoa đầu lặp lại lời anh, rủ ba đứa kia cùng đi xuống, nhưng rốt cục chẳng đứa nào đi xuống hết. Và thế là cả bảy người lại lộn vào trong cái khoảng hẹp.

Đã nhiều lần tôi đứng ở cửa sổ nhìn vào cái khung cảnh ấm áp bề bộn đó và tôi so sánh với nhà tôi. Nhà tôi quá rộng có từng ngăn từng phòng thành ra dù trên bàn thờ có chưng bộ tam sơn ngũ sự đồ sộ, đèn nến sáng choang, hương trầm nghi ngút mà tôi vẫn cảm thấy lạnh lẽo trang nghiêm làm sao. Ngày Tết, mẹ tôi mua sắm bận rộn đủ thứ nhưng vì thứ nào cũng có chỗ cất dọn ngăn nắp thành ra tôi vẫn không thấy vui mắt bằng căn nhà của Năm Nhiều. Ơû nhà anh thấy thứ gì cũng bày trong một khoảng hẹp. Có bao nhiêu mứt, bao nhiêu cốm, bánh in, mấy thẩu dưa món, mấy đòn bánh tét là biết hết. Ngồi đánh tam cúc chơi mà mắt vẫn có thể lượn trên những miếng mứt bí dày cộm đường, trên những miếng nhân thịt của đòn bánh tét đang cắt dở. Mắt no những màu sắc, tai no những âm thanh, mũi no những hương vị, quả cái tiểu thế giới của anh có nhiều sức hấp dẫn thiệt. Mà không chỉ ngày Tết mới vậy. Quanh năm, hình như không lúc nào là nhà không có khách. Khách tầm thường thôi và là những người ở quanh quẩn gần nhà anh. Chẳng là bình trà nhà anh luôn có bỏ trà ngon và những người khách kia chiếu cố đến bình trà nhiều hơn đến anh. Ngoài những chén trà đầu do anh mời còn thì những chén trà sau đều do khách tự tay rót lấy. Họ chọn những lúc nào anh nói chuyện hăng hái nhất và họ đã tán thành một cách nồng nhiệt nhất. Lúc bấy giờ chủ khách đều hỉ hả thông cảm với nhau, và làm như vô tình, tay họ nghiêng cái bình cho người trà lặng lẽ chảy vào tách. Thật tội nghiệp, những người bạn nghèo của Năm Nhiều! anh không giàu gì hơn họ, nhưng được cái anh không so đo. Có đường, có kẹo, có chuối anh mời mọc thiệt tình. Riêng phần anh, anh luôn luôn nhịn miệng đãi khách. Chỉ khổ cho bà mẹ anh khát nước, lại cầm bình lên thấy nhẹ bỗng. Thế là bà nổi tam bành.

- Đồ quỷ ! Uống cái gì mà cạn ráo không còn để phần cho ai một giọt. Uống gì mà như rồng hút nước. Cũng phải biết…

Câu chửi, dù nhẹ nhàng cũng bị Năm Nhiều cắt ngang. Anh chỉ xịu mặt bung ra năm tiếng “Bà này thiệt… sao mà..” thế là bà cụ im. La lắm chỉ tổ khát mà bà thì có tật không uống được nước lạnh.

Những bữa có giỗ thì nhà Năm Nhiều tấp nập khỏi phải nói. Anh lục đục nấu nướng đầu tắt mặt tối cho dù nhà anh có dư đàn bà để lo việc ấy. Một người chị lấy chồng ở mãi Thái Long dẫn về ba đứa con. Một người em lấy chồng ở xóm Đường dẫn về bốn đứa. Một đứa cháu gái rọi bằng cậu lấy chồng ở Xuân Đài cũng cố nách hai đứa con về. Cộng với mẹ anh và nhà chị Của thì quả nhà này dư đàn bà để làm một bữa cỗ linh đình. Nhưng họ chỉ được sai bảo vặt. Việc nấu nước, xắt thịt, đơm dĩa, anh đều tự đảm nhiệm hết. Xong, lại cũng chính anh lo sắp dọn bàn. Rồi rửa mặt thay áo dài, đội khăn, anh châm hương, châm đèn đứng lầm thầm khấn vái. Về điểm này, anh có khác mẹ anh. Bà cụ thì khấn to như đang nói chuyện với khách. Mà bà cụ nói chuyện thật. Lúc giỗ chồng thì bà kể lể những hồi ông ra đi binh cách “Anh ra đi, thong thả hơn tui ở nhà. Một mình nuôi bốn đứa con nhỏ. Thằng Nhiều thì ghẻ chốc. Dán hết mụn này trổ sang mụn khác. Con Của thì đái dầm. Hết đứa này ấm đầu tới đứa khác ỉa chảy… Cửa nhà đơn chiếc, mời hương hồn anh về uống chén rượu, ăn miếng chả….”

Năm Nhiều nghe đến đoạn mình bị ghẻ chốc mà cảm thấy thương mẹ. Mấy đứa con chị Của nghe hồi nhỏ mẹ chúng đái dầm thì cười rộ lên. Bà cụ đang khấn cũng cười theo rồi xì mũi và lau nước mắt. Năm nào đến ngày giỗ là cụ cũng kể lể thuộc lòng từng đoạn như vậy khiến Năm Nhiều thấy mình như nhỏ lại. Tuy khấn khứa lẩm cẩm vậy nhưng cũng phải công nhận giữa bà và người chết có sự cảm thông mật thiết…

Đến bữa cúng “các đẳng” thì bà cụ quả có nhiều trí tưởng tượng. Bà mời “…những vị chết sông chết suối, chết lửa chết củi, chết chém, chết đâm, chết đường, chết sá, chết gió, chết máy, quá giang chìm đò, đẻ rơi bóp mũi, ăn mày xó chợ…” Những năm sau này khi đường ô tô chạy qua đầu xóm và con đường xe lửa băng qua cánh đồng Chí Đức thì bà thêm một số nạn nhân nữa: “… những người xe cán dẹp mình, tàu nghiến đứt ruột, những người sẩy chân lọt xuống đường rầy, những người...”. Số người thụ hưởng thật quá nhiều đối với một mâm cháo, con gà bằng bắp tay và một nải chuối còn xanh.

Năm Nhiều khấn nhỏ hơn với một vẻ mặt nghiêm trang hơn. Thật đúng là cái dáng dấp khả kính của một ông thầy tế tự biết tự trọng. Anh lim di đôi mắt và hai bàn tay kẹp một nắm hương lớn để ngang trán rất lâu. Lũ cháu tỏ dáng sợ hãi len lén nhìn cái tư thế trầm mặc ấy của cậu chúng rồi lảng bỏ xuống bếp. Ừ mà thật vậy, vẻ mặt của Năm Nhiều chỉ có giá trị khi Năm Nhiều nghiêm trang trong ánh nến và khói hương. Bình thường, đó chỉ là một cái mặt bèn bẹt với đôi mắt nhỏ và cái mũi hếch. Nước da mái mái, da nơi hai gò má bóng lên một cách vô duyên. Răng lại mọc khập khễnh, mọc thành đôi ba hàng lộn xộn. Cái khuôn mặt ấy nói cười đều không gây niềm kính nể.

Tại sao Năm Nhiều lại có duyên với sự cúng bái làm vậy, đó là câu hỏi tôi đã đặt ra từ lâu. Lúc tôi còn nhỏ, anh được mẹ tôi cậy đến ở nhà bế tôi. Khi tôi biết chạy chơi thì anh chuyên lấy đất sét nắn hình long đình, bộ lư, đỉnh, cây đèn. Anh hái những trái mảnh bát già, cắm bốn cọng nhang ngắn vào giả làm con heo. Anh cắt ngang cổ trái mảnh bát rồi bày riêng ra làm đầu heo (ruộng mảnh bát già màu đỏ như máu). Anh lấy những lon, những khay bày một hàng trước bàn thờ giả rồi gõ nhịp lên rồi tụng niệm ê a. Anh bắt tôi chắp tay vái lạy. Thế là tôi học tiếp xúc với thần linh do sự môi giới của anh Năm Nhiều vậy.

Ngày nào anh cũng bày cỗ cúng một vài lần. Khi có đông lũ trẻ nhỏ đến chơi thì anh tổ chức thành đám rước. Đứa thì thổi kèn, những cái kèn cuộn bằng lá chuối, đứa thì đánh trống đánh chiêng bằng miệng, nhưng tuy bằng miệng mà vẫn có trật tự, tiếng bầm, tiếng beng xeng nhau. Anh Năm Nhiều làm tổng chỉ huy. Mẹ anh mỗi lần gặp thấy anh cao lêu nghêu đi “rước sắc” giữa bầy trẻ con còn ở truồng như vậy là bà chửi liền:

- Mồ tổ mày, to đầu mà còn chơi chuyện con nít. Mày coi, mày đã cao bằng cây cau kia rồi.

Và thế là đám rước rối loạn hàng ngũ, trống chiêng bỏ chạy hết.

Sau đó, anh thôi không cúng giả nữa mà anh vái ông Táo, ông Địa thật, với đồ cúng thật. Mỗi khi quên đóng chuồng gà để gà đi lạc, sợ cha tôi rầy, mỗi khi đánh mẹ, đánh lú bị thua liểng xiểng là anh mua một cái bánh nướng và một miếng đường để vái ông Địa. Không dám đốt đèn sáp sợ tỏ ra quá lễ mễ, anh chỉ đốt một cây đèn hột vịt nhỏ. Cũng không dám đốt hương nữa vì sợ mẹ anh bắt hơi mùi hương mà lên hỏi lôi thôi. Sự cúng vái do đó mang tính chất du kích, nghĩa là nếu nghe tiếng guốc của mẹ anh lẹt xẹt đi lên thì anh thổi phụt ngay ngọn đèn, thế là xong. Cái bánh tráng và miếng đường trở lại vị trí cũ là món ăn xoàng xĩnh ngang tầm của anh, mẹ anh không có cớ gì để nghi ngờ nữa. Nhưng phải đợi đến năm anh chấp chưởng quyền gia trưởng thay mẹ thì năng khiếu cúng bái của anh mới phát triển toàn vẹn. Thôi thì nhà anh cứ phảng phất mùi khói hương quanh năm. Anh giỗ cha, ông nội, bà nội, ông cố, bà cố. Anh giỗ ông chú bà thím, cô Hai, cô Ba là những người tuyệt tự. Anh giỗ ông ngoại, bà ngoại, vì lòng hiếu với mẹ. Ngày rằm, mùng một, ngày vía Phật, ngày vía Quan Thánh.. anh nhớ không sót. Nếu không vì nghèo thì tôi chắc cái gian giữa nhà anh phải là nơi gặp gỡ của còn nhiều các vị thần linh nữa. Gặp trường hợp nào anh cũng kêu cầu sự phù hộ

Nhưng bảo rằng sự cung kính thái quá của anh là một lối hối lộ thần linh thì sợ có oan cho anh không? Chớ riêng tôi thấy thì hình như sự nghiêm trang xuýt xoa của anh là một thái độ hạ mình để kêu gọi lòng trắc ẩn. Trong khi cúng vái, tôi thấy anh hay hít mũi mà không hề nghe có tiếng nước mũi chạy lên. Như vậy, thì sự hít mũi đúng là một lối trang bị hơn là một sự cần thiết sinh lý. Anh muốn nhún mình, hạ mình, muốn tỏ rằng mình khổ, mình cần sự giúp đỡ che chở. Những người khổ, những người muốn chứng tỏ rằng mình khổ đều có những phép trang bị tương tự. Chẳng hạn họ cố ý đi khòm lưng xuống. Chẳng hạn họ hay thở dài. Chẳng hạn họ hay thốt ra những thán từ tỏ sự ngạc nhiên, sự sợ hãi: “Trời ơi! Trời ơi! Mô Phật! Chúa ơi!”

Đúng là Năm Nhiều đang đi trên con đường xây dựng mặc cảm đó. Tôi có thể chứng minh điều này bằng lối bẻ bánh tráng của anh. Số là mỗi lần có cúng giỗ thì cỗ đầu tiên, cỗ ngon nhất anh dùng để mời khách. Khách đó trước tiên là cha tôi mà anh nài nỉ hết sức để mời đến cho được. Thứ đến là ông xã Tám, một người hào phú đương kim lý trưởng. Rồi đến hương kiểm Bán và câu Hai Dần. Tôi cũng được anh và mẹ anh trì kéo cho vào ngồi chung bàn “vì cảm tình riêng”, anh nói. Ngồi ăn như vậy, tôi đóng vai trẻ con hay nhìn người lớn khề khà uống rượu. Tôi mới để ý đến tia mắt khinh bỉ mà ông xã Tám dành cho câu Dần. Nhiều câu nói của câu Dần, ông xã làm như lảng tai không nghe, để không trả lời. Yù ông xã chê câu Dần chức vị quá nhỏ không xứng được chung bàn với ông. Thực tế thì quả có như vậy. Ơû trong thôn xóm, trừ những người u mê thậm tệ, còn thì ai cũng được nhận một chức vị nhỏ. Chẳng lẽ trong suốt một đời người mà không có dịp nào sao. Những chức câu, trùm, kim tri.. đâu phải món hàng có nhiều người đầu cơ mà trái lại, thừa thãi ra đó, ai muốn xin lãnh cũng được. Vậy mỗi người sẽ đến lượt mình. Câu Dần, trùm Sáu, kim Hai đã thay hẳn những cái tên riêng. Nhưng mặc dù vậy, cho đến ba mươi mấy tuổi, anh Năm Nhiều vẫn chỉ là Năm Nhiều chớ không hề được gọi là trùm Năm, câu Năm.. và do đó mới xảy ra việc nể nang một ông câu thư như câu Dần mà ông xã Tám, xem là thái quá.

Khi bữa ăn giỗ bắt đầu, anh Năm cầm những cái bánh tráng nướng để bẻ. Nhưng thay vì bẻ trên tay, anh lại để bánh tráng trên đầu. Hai tay anh kéo hai bờ vành bánh xuống cho bánh bể một tiếng gọn trong khi cổ anh rụt xuống. Thái độ khúm núm này chắc là làm vui lòng cha tôi và ông xã Tám lắm. Nhưng giá anh Năm đừng lặp lại cử chỉ ấy với cái bánh tráng đặt trước mặt câu Dần. Khi rót rượu, anh cũng lễ độ đúng mực. Tay mặt cầm bình rượu chúc xuống, còn tay trái vòng ngang để giữ vạt áo dài.

Những năm chiến tranh, Năm Nhiều làm không đủ ăn, nhưng trong cảnh nghèo, anh vẫn không bớt mẫn cán trong việc tế tự. Tội thân anh, đã phải chạy đồ cúng một cách chật vật mà nhiều khi còn phải che giấu bớt sự cúng kính quá thường xuyên của mình. Trong khi xung quanh ai nấy phải khó khăn lắm trong sự sinh sống mà mình cứ thắp hương một cách thừa thãi thì quả là vô ý thức. Vả lại lúc bấy giờ còn có phong trào bài trừ mê tín, nên anh cần phải thận trọng nhiều lắm. Nhớ có lần toàn huyện thi đua bắt chuột, bảo vệ mùa màng, ai nấy mang cuốc xẻng ra đồng đào hang chuột, mang rơm un khói chuột, mang chó theo săn chuột, mang lưới căng bẫy chuột, thế mà riêng Năm Nhiều thì biện một mâm cỗ lén mang ra miếng ruộng nhà để cúng vái ông Tý. Thì ra anh Năm quan niệm rằng mọi sự vật trên đời này đều có một sự cảm thông huyền bí với nhau, kể cả những việc nhỏ nhất. Mỗi gốc cây, mỗi phiến đá cũng có thần linh trong đó. Chớ sao? Trong khắp xóm chỗ này chỗ kia người ta vẽ những hình tượng và bùa chú lên mặt những viên đá để trấn áp những góc rào. Những thanh tre cũng được bôi vôi trắng và vẽ bùa chú lên để đặt trên sườn nhà. Hèn chi anh chẳng lúc nào chẳng trầm tư. Dễ thường anh đang lắng nghe tiếng nói thần linh của mọi vật xung quanh anh. Những đêm tối trời, anh ngồi chơi với tôi mà thấy một vì sao đổi ngôi là anh im lặng cắt đứt câu chuyện. Sau đó anh thì thầm nói:

- “Bà” mới bay. Chắc “bà” bay về miếu.

Bà nào, tên gì, anh không trả lời được, nhưng nhất định là “bà” vừa bay. Bình vôi cũ, ông táo bể, anh xếp cẩn thận ở gốc mít và cấm ngặt lũ cháu không cho đến gần. Rồi hễ đứa nào ấm đầu, đi tướt là anh đổ riệt rằng nó đã quấy phá ông táo và ông bình vôi. Đứa cháu có cam đoan mười mươi là không bao giờ bước đến đó cũng không tin. Lập tức một lễ nhỏ được bày biện ra và anh xuýt xoa tạ lỗi.

Ngày tôi lên bảy tuổi, mẹ tôi sắp đặt cho tôi đi học A.B.C. Anh Năm Nhiều tỏ ra xao xuyến hết sức đối với cái giây phút long trọng mà tâm hồn tôi sắp giã từ những vật tầm thường xung quanh mình để tiếp xúc với cái cao siêu của chữ nghĩa. Anh trầm ngâm hỏi mẹ tôi:

- Cô định bữa nào cúng khai tâm cho thằng Thiết?

Mẹ tôi ngạc nhiên quay lại hỏi:

- Cũng phải cúng khai tâm nữa sao?

- Có chớ. Nó bắt đầu đi học thì phải cúng khai tâm cho nó.

- Cô tưởng ngày xưa đi học chữ Nho thì mới cúng khai tâm, chớ thời bây giờ học chữ quốc ngữ thì có thần thánh đâu mà phải cúng?

- Xưa nay gì cũng vậy. Phàm đã có chữ nghĩa thì có thánh, không có thánh thì lấy ai bày ra chữ nghĩa. Phải cúng khai tâm thì mới sáng dạ, học mau thuộc. Mẹ tôi lưỡng lự một lát rồi nói:

- Ừ thôi thì cúng cũng được. Mà cúng món gì bây giờ?

- Cô đưa tiền con đi kiếm mua một con gà cồ trắng, thứ gà non chưa hề đạp mái. Phải đi chợ Đèo mới có nhiều gà mà lựa. Rồi cô nấu một nồi xôi.

Mẹ tôi y theo lời anh và anh bươn bả đi tìm mua về được một con gà cồ trắng thiệt. Quả là một thành tích hy hữu đáng phục, vì gà cồ trắng không phải là một vật dễ tìm. Anh sung sướng ra mặt khi về khoe với mẹ tôi:

- Con đi rảo suốt cả chợ mà không tìm ra gà trắng. Chỉ có gà cồ chuối thôi. Con định mua đỡ một con gà cồ chuối thì may thay có bà đem tới con gà này.

Vừa nói anh vừa vuốt ve cái mào mới nhú đỏ chóe của con gà và con gà ngây thơ nhắm con mắt lại, sung sướng và tin cậy nơi anh.

Tối hôm trước ngày ra trường là buổi cúng khai tâm. Con gà luộc nằm trong cái dĩa lớn ngửng mặt nhìn trời. Mình nó vàng bóng loáng những mỡ. Hai bên là hai dĩa xôi trắng. Anh Năm tắm cho tôi, rồi bắt mặc quần áo mới. Anh đẩy tôi lại gần con gà, nơi cha tôi đang đứng lầm rầm khấn. Cha tôi vốn không nhiệt thành mấy về điểm cúng bái, nhất là đối với môn cúng khai tâm này, nên ông để yên cho Năm Nhiều ra lệnh bắt tôi lạy ba lạy. Tôi hồi hộp làm đầy đủ nghi thức, nhưng mỗi khi quỳ xuống đứng lên, mắt đăm đăm nhìn vào con gà là lòng thắc mắc tự hỏi không biết con gà kia có quan hệ gì đến chữ quốc ngữ mà mình sắp đi học. Khi con gà được dọn xuống thì cũng chính Năm Nhiều ra lệnh cho tôi phải ăn cái đầu gà. Anh ngồi nhìn tôi ăn với một vẻ vừa sung sướng vừa cung kính, khiến tôi áy náy mà quên mất rằng mình đang ăn thịt gà. Có lẽ lúc ấy tôi tưởng rằng tôi đang làm một nghi lễ gì nghiêm trang, hệ trọng lắm, còn anh thì chắc anh đang hài lòng vì nghĩ đến một ngày kia tôi sẽ học hành thông minh, kết quả của bao công phu của anh: tìm gà cồ trắng, bắt lạy, bắt ăn đầu gà.

Một người sống quá khăng khít với những linh hồn của tổ tiên, của thánh thần, của đủ loại ma quỷ như vậy, chắc chắn là rất kém trong việc làm ăn thực tế. Anh nghèo luôn luôn và mắc nợ mẹ tôi không biết mấy lớp. Đối với đàn bà con gái, anh cũng không thành công gì hơn. Dù là con gái nhà quê, người ta cũng muốn có một ông chồng lanh lẹ thực tế. Chớ ngồi nói chuyện tâm tình với một người quá lễ mễ mà đôi tay lúc nào cũng nhu chuẩn bị kẹp bó nhang hay vừa giữ vạ áo vừa rót rượu thì chán chết. Cũng như đôi mắt, bàn tay là tiếng nói của ái tình. Thế mà bàn tay của Năm Nhiều thì đúng là bàn tay câm. Thành ra cho đến bốn mươi tuổi vẫn chưa có một người đàn bà nào. Thật ra thì nói như vậy cũng chưa thật hoàn toàn đúng. Hình như anh đã có yêu một người: đó là chị Gần. Chị Gần không đẹp, nhưng mặt mày cũng dễ coi. Có điều cặp môi hơi dày. Cái kho ca dao tục ngữ là mẹ anh đã vô tình sớt cho anh một mớ kinh nghiệm về tướng người, than ôi, lại nhằm điểm bất lợi của chị Gần.

Mỏng môi nói láo đã xong.
Dày môi ăn vụng, môi cong ăn hàng.


Nhưng nghèo như anh mà lại không đẹp trai thì anh không mong gặp một cô hằng nga. Vậy chắc là anh đã chọn chị Gần. Chị là bạn thân của chị Của, cùng đi về một chợ, cùng ngồi một chỗ nhỏ to bàn tính tiền công, giá cả, hàng giờ ở ngạch cửa nhà anh. Cứ cách một ngày là có chị bên cạnh chị Của. Mỗi lần đứng gần chị, anh hay đưa tay vuốt tóc, những sợi tóc cứng đứng sừng sững bướng bỉnh. Đó là lối làm dáng độc nhất của anh, biểu lộ một sự bối rối mực thước. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa đẩy vài câu chuyện nhưng mà khó nhọc biết bao! Anh phải đằng hắng nhiều lần để nuốt một miếng đờm tưởng tượng nào đó rồi mới nói được những câu rất đỗi vô duyên.

- Chị Gần… à… à.. cúng mồng năm có lớn không?

Chị Gần cũng không hoạt bát gì hơn. Đôi môi dày chuyển động một cách chậm chạp. Thành ra hai người sắp sửa thành tình nhân ấy chỉ còn biết chăm chăm nhìn xuống hai bàn chân của mình như chưa bao giờ thấy chúng. Sự tỏ tình mặc dầu đạm bạc, gần như tiêu cực đó, cũng không lọt khỏi mắt người anh rể của chị Gần. Người anh rể này bấy lâu đã ngầm coi chị như người vợ dự khuyết của anh ta. Vợ anh đau ốm hom hem, nên anh phải lo xa một cách phũ phàng như vậy. Nhưng từ ngày chị Gần tới nhà Năm Nhiều hơi nhiều, thường xuyên và với những lý do không chính đáng lắm thì anh khởi sự lo. Anh thấy phải vội vàng thực hiện cái ý định của anh. Anh bắt đầu chửi vợ. Để sự chửi bới không trở thành trắng trợn, để đỡ ngượng với hàng xóm, anh uống rượu trước khi chửi. Chửi vợ chán, anh chửi luôn em vợ và mẹ vợ. Cuối cùng, không biết bằng cách dàn xếp nào mà chị đã trở thành vợ anh ta. Thế là chai rượu và cái ly không còn cần thiết nữa. Chỉ có tiếng chửi là vẫn còn, nhưng lần này lại là tiếng chửi the thé, nhọc mệt, tiếng rủa kèm theo tiếng khóc của vợ anh. Chị chửi chồng, chửi em gái mình. Chị chửi trời, chửi đất. Cho đến một buổi tối kia, chị Gần cuốn áo quần đi mất biệt. Ở lại cái xóm nghèo nàn này có hai người đàn ông đau khổ vì chị: người anh rể và Năm Nhiều.

Năm Nhiều có buồn không, buồn bao nhiêu lâu thì không ai biết. Vì có bao giờ anh vui vẻ đâu? Anh lúc nào cũng mơ mơ màng màng, đi dưới đất mà tưởng chừng như đang bay theo các “bà” ở giữa không trung. Chỉ biết là từ ngày đó anh hay ngồi tẩn mẩn hàng giờ trước chiếc gương soi, có lẽ để tìm xem vì những khuyết điểm nào ở trên mặt mình mà mình phải chịu một sự thất bại lớn về tình ái dường ấy.

Thói thường thì khi nhìn vào gương người nào cũng thấy mình không đến nỗi xấu. Chỉ có khuôn mặt phản chiếu ra thấy hơi là lạ, ngường ngượng là vì trên thực tế mình chưa hề gặp một con người như vậy lần nào. Đôi mắt anh quả có nhỏ thật đó nhưng nhìn vào gương thì tự nhiên anh phải mở to mắt rồi. Đôi hàm răng có vụng về đó, nhưng có bao giờ người ta há miệng để soi gương đâu mà biết? cái mũi, đôi mày gò má đều được anh soát xét cẩn thận nhưng vì ranh giới mơ hồ nên anh rất yên tâm mà thấy mình cũng “ngó được”

Qua những lần thám hiểm như vậy, anh mới có dịp để ý đến những mụn tàn nhang có rất nhiều trên mặt mình. Anh dùng hai ngón tay cái để nặn và cái mụn trồi ra chầm chậm, dễ dàng, đúng lúc, như chính nó cũng cùng chia sự thích thú với anh. Đầu mụn mang một vết thâm đen. Chính những vết thâm này làm từng chấm trên khuôn mặt. Khi nặn xong một mụn thì chỗ cái mụn vừa ly khai có một lỗ chân kim nhỏ màu hồng, trông đẹp hơn cái chấm đen trước nhiều. Đến đây, một sự hối tiếc lặng lẽ gặm nhấm tâm hồn anh. Anh tự trách mình đã bỏ qua bao nhiêu năm mà không hề để ý đến những vết mụn thù nghịch kia. Bây giờ đã có quá nhiều mụn đã già rồi, vết đầu đen đã nhẵn sát xuống da mặt, khiến trên khuôn mặt rải rác như có rắc những hột mè đen hay những hột hoa mồng gà. Ái tình đến quá chậm nên mới có những sự bất lợi như vậy. Khi yêu người ta mới hay làm dáng. Năm Nhiều thì vừa chậm yêu vừa ý thức sự làm dáng quá chậm chạp. Ít ai như anh, thất bại trong tình trường rồi mới chợt để ý đến những mụn tàn nhang.

Từ lúc phát kiến ra cái lối làm đẹp không tốn kém mà khéo gây thích thú này, Năm Nhiều có khi ngồi suốt giờ cạnh chiếc gương soi, chơi một mình với những mụn tàn nhang. Những khi bạn đến chơi nhà, anh không ham nói chuyện như trước mà chỉ thích tìm những mụn tàn nhang nơi mặt bạn. Có khi anh bắt người bạn xoay mặt đủ chiều để anh tìm vết mụn. Vì trong nhà tối nên anh kéo bạn ra ngồi ở cạnh cửa, nơi đó dưới ánh sáng của mặt trời, những cái mụn sẽ không lẩn trốn đi đâu được. Rồi với đôi ngón tay thành thạo, anh đã nặn vết mụn ra, sau khi tám ngón tay còn lại kẹp cứng khuôn mặt của người bạn để không cựa quậy được. Sự say mê ma quái này làm khổ những người bạn của anh không ít. Đôi khi những người bạn này la “ái” lên, nước mắt ràn rụa, nhưng anh cũng không tha. Anh phải suỵt suỵt nho nhỏ: “Im, im sắp ra rồi”, làm như nếu nói to thì cái mụn sẽ nghe được và nó sẽ chạy trốn mất.

Nhưng số lượng những cái mụn có thể nặn được thì có hạn mà sự say mê của anh thì khôn cùng, nên khi những cái mụn đã hết rồi thì anh lại rơi vào sự im lặng cô đơn. Anh đành phải rời bỏ khuôn mặt mình mà đưa mắt chậm chạp, uể oải nhìn xung quanh. Đúng vào lúc ấy, anh thấy chị Ba Răng Vàng. Chị này ở Tuy Hòa tản cư ra. Ngoài ba cái răng cửa bọc vàng tây, chị có hai con mắt sắc hay liếc và một cái miệng hay nói hay cười. Đôi hàng lông mày in rành rành vết dao cạo xén và môi có bôi một lớp son đỏ lợt. Tóc bới vồng lên, ở trước như hai cái sừng mới nhú và trên mái tóc mang rất nhiều kẹp. Lọn tóc bới lỏng bỏ rơi xuống dưới ót trông tựa cái bụng của một con tò vò. Vóc người chị thon nên khi đi, đôi tay đưa đẩy dịu dàng, một sự dịu dàng dường như cố ý, có sắp đặt trước. Tất cả đều trái hẳn với chị Gần chậm chạp nặng nề. Chị Ba Răng Vàng ở trọ nhà ông Cống, cách nhà Năm Nhiều chừng vài trăm thước. Chị bán xôi chè và cơm rượu. Miệng con nhà buôn gặp ai cũng mời cười, nhưng Năm Nhiều ngây thơ cứ tưởng nụ cười đó, nhất là con mắt liếc chỉ dành cho anh. Thành ra anh hăng hái tuyên bố rằng anh đã ghiền món chè “bột lọc bọc đậu phộng” của chị. Những bữa ế hàng, nồi chè còn đầy thì chị Ba càng phung phí mắt liếc và nụ cười với anh. Chị dám nắm tay anh mà kéo - bàn tay tinh khiết chỉ quen cầm nắm nhang - bắt lại ngồi ăn giùm cho chị một chén chè. Anh đau khổ từ chối, bảo rằng không có tiền thì chị cuời:

- Ăn đi rồi bữa nào có trả cho em.

Tiếng “em” ngọt ngào làm nhột sau ót anh. Từ xưa đến giờ chưa ai xưng hô với anh như vậy, kể cả lũ em gái. Đứa nào cũng xưng “tui” một cách lạt lẽo cộc lốc. Anh lợi dụng tình thế liếc trả lại chị một cái rồi uể oải lại ngồi húp chén chè. Uể oải, vì nghĩ đến đồng bạc lát nữa không biết phải mượn của ai để trả.

Có lần chị Ba Răng Vàng hỏi:

- Sao anh Năm không lấy vợ?

Năm Nhiều thầm nghĩ: “Đàn bà con gái ở thành phố bạo dạn quá trời. Dám hỏi đàn ông điều đó”. Anh mỉm cười lấy giọng nửa đùa nửa thiệt.

- Tôi nghèo mà ai thèm lấy.

- Xì! Có anh hà tiện thì có. Cưới vợ về sợ nó ăn hết gạo chớ gì!

Đó không phải là sự thật, vừa không phải là câu nói mà anh mong đợi. Anh muốn chị Ba nói rằng “Tôi thương anh lắm. Tôi muốn lấy anh”. Nhưng chị Ba chỉ mê mải ngồi rửa cái chén và sau cùng cầm lấy đồng bạc anh đưa bỏ kỹ vào túi, cài kim băng cẩn thận.

Một hôm chị Ba gánh chè vào sân nhà anh nhằm lúc có những người bạn nhàn tản của anh đang ngồi nói chuyện trời trăng. Aên vặt là một tính hay lây nên một người ăn chơi rồi tất cả bọn cùng ăn. Gặp được bữa bán mau tay, chị ba cười nói vui vẻ. Một một bạn hỏi:

- Chị Ba sống một mình không biết buồn à?

- Buồn chớ. Nhưng biết sống với ai cho có hai mình?

- Để tôi làm mối anh Năm Nhiều cho chị.

Chị cười:

- Em nghèo, lại tản cư mà. Anh Nhiều đâu có thèm em.

Năm Nhiều cười híp hai con mắt, không biết nói sao. Tối đó anh trằn trọc không ngủ được. Hôm sau bần thần không làm gì được. Cứ hay mỉm cười một mình và lát lát nhìn vào chiếc gương soi. Mẹ anh thấy chị Ba năng ghé bán chè thì tỏ ý không bằng lòng, nhất là bà tiếc những đồng bạc anh đã trả cho chị. Bà lên tiếng chỉ trích:

- Cái con cười cười, liếc liếc, ngó như con đĩ.

Bị chạm tự ái, anh cãi ngay:

- Bà này nói lạ, chuyện của người ta..

- Chuyện của người ta tao nói không được sao? Ai biểu mày bênh?

- Bênh cái gì? Năm Nhiều sừng sộ.

- Vậy mà mày nói không bênh hả? Nó là mẹ mày đó.

Rồi không cần chuyển tiếp, bà khóc bù lu bù loa:

- Mày bênh con đĩ, mày chửi lại mẹ mày. Bớ làng xóm ơi, thằng Nhiều nó chửi tui. Bớ làng xóm ơi, thằng Nhiều nó muốn giết tui. Nó cắt cổ tui đây, bớ làng xóm ơi!

Năm Nhiều tức quá mà không làm gì được, sẵn chân, đá luôn cái ấm ăn lông lốc ra chái bếp. Nước văng vãi tung tóe ra đầy đất. Thế là hai mẹ con giận nhau, tránh mặt nhau. Bà mẹ bỏ cơm. Anh ngồi ăn mà không nói một lời. Không khí tràn đầy thù hằn. Nhưng oái oăm thay, ngày hôm sau lại nhằm vào ngày giỗ. Phải mua sắm, nấu nướng, phải sắp dọn bàn thờ, phải mời mọc họ hàng... Hai mẹ con đành phải hòa với nhau để chung lo việc cúng kính.

Mối u tình anh dành ch chị Ba Răng Vàng nung nấu trong lòng anh cho đến một tối kia anh cầm cây gậy đi canh ở xích hậu. Đi qua đám bắp ông chánh Bát, anh nghe có tiếng nhỏ to rì rầm lấy tư cách là tuần phiên, anh dõng dạc hỏi to:

- Ai đó?

Có tiếng trả lời yếu ớt:

- Dạ tôi.

- Tôi là ai?

Anh bước trờ tới: chị Ba Răng Vàng.

- Còn ai kia?

Anh nổi giận quát lớn.

- Tôi

- Tôi là ai? Nói mau.

- Tao.

Một người đàn ông đứng dậy, bước lại gần anh. Nhìn vào mặt thấy rõ là xã Tám, anh vội vàng bước lui một bước, đưa tay trái lên gãi đầu theo thói quen, lí nhí nói:

- Dạ thưa cậu.

- Mày đi canh hả?

- Dạ.

- Ừ thôi đi đi.

Năm Nhiều lê cái gậy nặng nề bước. Quả đúng như lời mẹ anh nói, con đó là con đĩ. Nhưng quên một con đĩ không phải là điều dễ, nhất là khi người ta không có người đàn bà đứng đắn nào để mà nhớ như anh Năm. Có thể anh ngồi nhớ đến đến đôi môi dày của chị Gần và tự trách mình đã quá bạc tình đối với người yêu cũ (cứ tạm nhận là như vậy). Những người rụt rè như anh thường có ý nghĩ tẩn mẩn quanh co như vậy. Không đi tới mà cũng không bước lui, không có cái gì dứt khoát hết. Trong khi đó thì những người đàn bà dứt khoát hơn anh. Chị Gần chọn con đường phiêu lưu thay người anh rể. Dễ thường hôm nay chị đã có người chồng mới rồi. Chị Ba Răng Vàng thì chọn ông xã Tám và vài người khác bạo dạn, thực tế hơn anh. Người ta trả lại anh cho cái bàn thờ uy nghiêm và khoảng hẹp trước bàn thờ. Anh khỏi phải chọn. Như một cái bóng mờ, anh cứ chập chờn trong cái khung cảnh âm u của khói hương và ánh đèn sáp.

Người thất vọng vì tình đều khó ngủ, anh Năm Nhiều không thoát khỏi thông lệ đó. Nhưng khác với những người văn minh uống thuốc ngủ vào trường hợp tương tự, anh Năm Nhiều chỉ biết lăn qua trở lại trên bộ ván. Cái gối bị dày vò một cách tàn nhẫn như tâm hồn của anh vậy. Khi trằn trọc đã chán, anh chợt thiếp đi thì chợt anh bàng hoàng tỉnh giấc mơ quái đản, trong đó anh vụt một gậy vào đầu chị Ba Răng Vàng hay vào hông ông xã Tám, gây nên một vụ án tình đẫm máu mà chỉ vì mấy con chó hầm hè ầm ĩ trước nhà. Chúng cãi nhau vì tình, tranh giành nhau, cấu xé nhau mãnh liệt, ồn ào chớ không chịu bại trận thầm lặng như anh. Trong đêm tối, anh lắng nghe tiếng từng con một và anh cố gắng phân biệt tâm tính của mỗi con. Gầm gừ hàng tràng dài trước mái hiên nhà để đe dọa ai là tiếng của con Vàng nhà anh. Đúng là anh chàng nhút nhát, nhút nhát như chính anh vậy. Tiếng sủa ông ổng, mạnh dạn là tiếng một con chó lạ, anh không biết của ai. Con này có vẻ thách thức, sẵn sàng lao mình vào chiến đấu, nếu có con nào muốn. Một tiếng sủa rời rạc, bàng quan xuất phát từ sân nhà ở xế trước mặt. Đó là con Mực của bà Từ. Nó đã có tuổi, thận thủy kém suy, nên giọng sủa có vẻ là một kẻ đã nếm đủ mùi đời, bây giờ muốn xuất thế, muốn người ta để mình ngủ yên. Xa xa hơn là một số những tiếng gầm ghè lẫn lộn. Rồi vụt nhiên nổi lên những tiếng cấu xé, tiếng những thân hình quần nhau lăn lết trên mặt đường, tiếng “căng cẳng” của một anh chàng bại trận bị cắn đau.

Năm Nhiều giận vì bị phá giấc ngủ, anh mở cửa bước ra.

Anh rón rén lại góc rào lượm một viên đá, nhắm ném mạnh vào một con chó khá đẫy đà. Bị trúng đá, nó kêu ăng ẳng mấy tiếng bỏ chạy, nhưng cách đó không xa, nó đứng dừng lại. Mấy con chó khác im lặng lảng dần. Chỉ có con chó bà Từ vẫn rời rạc sủa những tiếng uể oải.

Nhìn chuỗi sao Bắc đẩu đuôi chổng ngược lên cao, anh bần thần bước vào nhà, đóng chốt cửa lại. Nhưng vừa đặt mình xuống ván thì những tiếng sủa lại nổi lên, hợp tấu trở lại. Anh chợt nhớ rằng tháng này là Mười và hình như anh đã có nghe ai nói rằng những con chó hoạt động mạnh về ái tình trong tháng này. Ngày anh xin con Vàng về nuôi, nó đau ruột bỏ ăn và đi tiêu lỏng, tưởng chết mất. Một ông cụ láng giềng sang chơi bày nấu canh rau diếp cá cho nó ăn, rồi cụ dặn:

- Chó tháng Năm. Khó nuôi lắm.

Anh không hỏi “chó tháng Năm” nghĩ là thế nào, nhưng anh đinh ninh rằng chắc hẳn mẹ nó thụ thai vào tháng Năm. Vậy thì tháng Năm và tháng Muời là hai tháng ái tình mạnh nhất của loài chó. A! Phải có những đêm trằn trọc vì tình, anh Năm Nhiều mới phát kiến được mối tình có định kỳ của loài chó. Không phải việc này mới xảy ra lần đầu nhưng mà đúng là lần đầu anh để ý đến điều đó. Người ta kể chuyện rằng nhà độc tài Hitler vì một đêm mất ngủ mà nghĩ ra được phương pháp phòng thủ một đảo nào đó - tôi quên mất tên - khiến các chiến lược gia đại tài nào cũng phải phục là kỳ diệu. Năm Nhiều là một người tầm thường. Nhưng đó chẳng phải là cũng nhờ ái tình mà anh đã tìm hiểu cuộc đời xảy ra xung quanh anh một cách đầy đủ hơn xưa đó sao? Những sự phát kiến vụn vặt đó, tiếc thay, người bàng quan là mẹ anh không hề biết đến. Bà chỉ, một cách thiển cận, tính nhẩm số tuổi của anh mỗi năm mỗi cao, nhìn mái tóc của bà trong gương mỗi ngày mỗi thêm bạc mà lo lắng tìm vợ cho anh.

- Con Mừng đó, mày coi được không? Nó xấu người mà cấy hái giỏi. Của tư riêng của nó nghe đâu được tới ba chục giạ lúa.

Nhưng Năm Nhiều chỉ ậm ừ rồi bắt sang chuyện khác.

- Hay là con Tỵ? Tuổi nó cũng ngang với tuổi mày đấy. Mày sanh tháng hai, còn nó sanh tháng mười một. Mẹ nó cũng hiền lành như tao. Ý tao ưng đám này hơn.

Nhưng Năm Nhiều cũng lại im lặng. Đối với người con gái nào anh cũng không phản đối mà cũng không tán thành. Nếu bị hỏi riết lắm thì anh trả lời “để con coi đã”. Để bao lâu, anh không nói rõ. Thật ra thì anh có “coi” gì đâu? Anh chỉ thản nhiên nhìn những người con gái tuần tự lấy chồng. anh trang trọng đến giúp gia đình họ nấu cỗ cúng - lại cúng! - và nấu cỗ dọn hai họ. Phải nhìn anh vin nhẹ vào cành cây bông điệp để lựa bẻ từng cành, xếp tỉ mỉ vào lọ hoa đặt thận trọng lên bàn thờ, phải nhìn anh mặt đỏ rực lấm tấm mồ hôi xào nấu nếm ngửi trong bếp, nghiêm trang và say mê như một nhà khoa học đứng trước bầu thủy tinh và ống nghiệm thì mới hiểu rõ cái lòng chí thành của anh đối với tục lệ, cái lòng vị tha của anh đối với những con con gái. Tâm hồn anh như một bãi sa mạc, trên đó họa chăng chỉ còn dấu chân của hai người đàn bà đã đi qua. Mẹ anh lấy đó làm một điều phiền lòng. Đã gần đất xa trời mà không có lấy nổi một đứa cháu nội để ẵm. Nhưng làm sao bây giờ. Bạn của anh quanh quẩn chỉ có mấy người đàn ông biết lợi dụng bình trà và chiếu cố tận tình những bữa giỗ. Nước trà, đó không phải là sở thích của những người đàn bà đang rộ yêu đương. Tóm lại, cứ như thế, Năm Nhiều đi sâu mãi vào cuộc đời, chật vật trong cái diện tích hẹp của khoảng trống trước bàn thờ.

Lâu lâu ghé về thăm quê hương, tôi không quên tạt lại thăm anh, tìm một vài thay đổi nơi anh. Làn da nơi gò má bớt bóng đi, cái miệng móp thêm vì vài cái răng đã gãy, hàng râu thưa đâm tua tủa vì lười biếng cạo và đôi mắt mỏi mệt thêm. Ngược lại, hai bàn thờ và cái khám thấy phong phú hơn xưa vì chiến tranh chấm dứt, anh có phương tiện để bổ túc thêm món thiếu sót.

Đó là một dãy bóng đèn điện đứt râu anh sưu tầm ở đâu về và đựng đầy nước có pha màu xanh, vàng, đỏ, tím. Đó là những nhánh hoa bằng giấy rẻ tiền màu úa bị bụi bám. Đó là những cái cỗ bồng bằng đất, trên đắp đầy ụ những nải chuối, trái quýt, trái bưởi cũng bằng đất nung có tráng men và pha màu lòe loẹt. Những món hàng giả này choán nhiều chỗ trên bàn thờ. Nếu một ngày kia anh sắm thêm một mớ dĩa xôi giả, đĩa bánh tét, bánh in giả, đĩa thịt gà, thịt heo giả - cũng bằng đất có tráng men và pha màu - thì không biết còn chỗ đâu để sắp những món ăn thiệt. Tôi mời anh có dịp vào Nha Trang chơi với tôi. Mắt anh sáng lên.

- Ừ! Tôi cũng kiếm dịp vào Nha Trang chơi. Nghe nói chùa hội trong đó to lắm, ngày lễ vía, ngày rằm mùng một, khách thập phương đến cúng dường hàng trăm người. Hôm Phật đản nghe có cộ đèn và phóng sanh đăng.

Thôi đúng rồi, đúng sở thích của anh Năm rồi. Ngày tôi còn nhỏ, tôi nhớ anh không bỏ sót một bữa làm chay nào. Chùa ở xa làng đến hai cây số mà lúc bấy giờ anh đang ở giúp việc cho nhà tôi nên không thể tự do muốn đi đâu thì đi. Muốn được đi coi làm chay, anh bày tôi vào khóc với mẹ tôi đòi đi cho được. Anh nói:

- Mày cứ khóc rồi nằm lăn xuống đất. Má mày có nói đi xuống chùa xa không đi được thì mày trả lời là có tao cõng.

Tôi làm theo lời anh, vào năn nỉ mẹ cho đi chùa. Mẹ tôi đang bận tay chưa kịp nghe hết câu thì tôi đã nằm dài xuống đất lăn hai vòng, rồi vừa cào cấu vừa khóc rùm lên. Thật tình là tôi đã đóng kịch quá dở. Tuồng lớp anh bày ra, tôi đã lật đật thực hiện, hơi vội vàng, nên kém vẻ tự nhiên. May mà mẹ tôi tính hay mủi lòng nên chỉ nhìn tôi một giây, mẹ tôi đã hỏi:

- Nhưng mà chùa xa con làm sao đi được?

Tôi trả lời ngay:

- Anh Năm Nhiều cõng con.

Không ngờ rằng mưu mô do anh bày ra nên mẹ tôi hối lộ cho anh năm xu và nhẹ nhàng phủ dụ:

- Chịu khó cõng em nó xuống chùa chơi một lát. Đây cô cho năm xu để dành bỏ bùng binh. Nhớ về sớm kẻo em nó buồn ngủ.

Thế là con ngựa hai chân ấy cõng tôi như sao chạy tế.

Hôm nay con ngựa đã khá già rồi nhưng dáng chừng còn ham coi làm chay cộ đèn. Tôi nói:

- Nha Trang thì còn nhiều thú vui lắm. Anh vào, tôi mời anh đi coi chiếu bóng, đi tắm biển, đi coi sở cá. Phố xá to lớn hơn Tuy Hòa nhiều. Có mấy khu Xóm Mới, Phước Hải cất biệt thự trông cũng đẹp.

Nhưng anh lơ đãng đối với những thú vui tôi vừa phác họa. Anh đợi tôi dứt lời, chậm rãi tiếp:

- Nghe nói Nha Trang nấu cỗ chay vừa khéo vừa ngon. Chẳng là ngờ có nhiều “la ghim” ở Đà Lạt chở xuống. Có cà rốt, khoai tây, xúp lơ thì dễ nấu. Ở ngoài mình quanh quẩn có mấy món thường: bí ngô, bí chanh, đỗ phộng, bầu, mướp…

Tôi phải đi vào nội dung câu chuyện của anh để anh vui lòng. Tôi hỏi:

- Anh nấu chay có ngon như nấu mặn không?

- Cũng vậy. Có dầu nhiều, có đỗ nành nhiều thì phải ngon. Nấu chay khéo thì đâu có thua nấu mặn. Cũng đủ giò, chả, nem, gỏi… cũng đủ thịt gà, thịt heo, tôm, cá… có điều này cũng là rau cỏ mà nấu giả như thiệt.

- Ở nhà quê có đám chay nào lớn chắc là họ phải “thỉnh” anh.

- Ờ, chỗ nào quen họ cũng “thỉnh”.

Anh nói chậm rãi, tin tưởng như một ông thầy thuốc Nam tự phụ. “Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”, câu này có thể đem áp dụng vào anh, nhưng có lẽ chỉ đúng nửa câu, phần trên. Vì thân anh vẫn cứ nghèo và đôi mắt càng nuốt khói bếp nhiều càng mờ đục thêm và còn mang thêm một tật nheo nheo. Một ngày tháng Bảy, con chó nhà tôi sủa ai trước cổng, rồi sủa dẫn đến nhà sau. Người làm lên thưa rằng có một người khách lạ. Tôi ra phòng khách, không thấy anh, bước ra nhà sau thì thấy anh đứng ngơ ngác nhìn. Anh mặc bà ba đen và chân đi dép cao su lốp ô tô. Tôi vui vẻ mời anh lên nhà trên. Anh rờ từng chiếc ghế, từng chiếc cộng hoa cắm ở chiếc lọ đặt ở bàn nước. Anh nhìn lên trần nhà, mắt ngừng lại rất lâu ở chiếc đèn nê ông dài. Tôi mời anh ngồi và anh ngồi rất khẽ, đít chỉ chiếm một phần tư mặt ghế. Lưng thẳng đứng, rồi mắt lại đậu ở cái quạt máy, ở cái radio. Tôi hỏi:

- Lâu quá anh mới vô thăm chơi. Ở ngoài nhà làm ăn ra sao?

Anh đằng hắng ba cái liên tiếp rồi mới nói:

- Cũng chẳng ra sao. Mùa màng mất mát, làm ăn cứ mỗi ngày một lụn. Tôi định vô trong này kiếm việc làm.

- Đã có chỗ làm chưa?

- Ông hương Kính ở ngoài làng vô trong này được nửa tháng. Vừa rồi mới về quê và rủ tụi này vô làm ăn

- Hương Kính làm việc gì ở đây?

- Làm phu đổ đá ở sân bay.

- Lúc nãy anh nói đi vào cả tụi. Vậy còn ai nữa?

- Thằng Đực con bà Lý, thằng Thành móm và anh trùm Sáu.

Hiện giờ họ ở đâu?

- Dưới xóm chợ, chỗ nhà bà con của hương Kính.

Tôi mời nước và thuốc lá. Tiện có đĩa chuối đặt ở tủ ăn, tôi lấy mời nhưng anh từ chối.

- Tôi ít ăn thứ này lắm.

Tôi ngạc nhiên

- Kìa, ngoài nhà thấy anh cúng chuối luôn mà.

- À, vậy mà ít ăn. Cúng thì cúng chớ rồi lũ trẻ nó chia nhau.

- Thế thì ăn kẹo vậy.

Tôi vừa nói vừa vội vã đứng dậy lại mở tủ lấy kẹo. Nhưng anh đưa tay ngăn:

- Thôi đừng phiền. Tôi không ăn đâu. Buổi sáng chỉ uống miếng nước trà.

A! không ngờ cuộc sống của anh thanh đạm dường đó. Tôi nhìn đôi vai gầy và nói:

- Anh ăn ít nên gầy.

- Hồi giờ tôi vẫn ăn ít vậy. Mỗi bữa chỉ có ba sét chén.

Tôi tìm trong dĩ vãng xem anh có nói thật không. Nhưng lạ, sao tôi không còn nhớ một kỷ niệm nào về việc ăn uống của anh hết. Anh sống ở nhà tôi có đến bốn năm năm, thế mà hồi tưởng lại, tôi không thể nào hình dung ra anh cầm chén cơm hay gắp miếng thịt hay nhai nhồm nhoàm ra sao. Tôi có thể thấy như hiện ra trước mắt, anh vấn điếu thuốc và ghé vào chiếc đèn dầu lửa để đốt, hoặc anh đứng ở bàn ăn - ăn đứng chớ không ngồi bao giờ - một chân chõi ngang vào chân đứng thẳng, y như cái chùa Một Cột còn thì tuyệt nhiên không nhớ cái miệng anh nhai ra làm sao. Lẽ cố nhiên là hình dung ra anh hai tay nâng bó hương nghi ngút khói, đứng khấn vái trước bàn thờ thì càng dễ hơn nhiều.

Sau vài câu chuyện, anh đứng dậy cáo từ. Tôi hỏi đi đâu thì anh bảo xuống ở chung nhà với hương Kính để mai đi làm. Tôi nói:

- Anh cứ ở đây với tôi rồi ngày ngày đi làm cũng được. Nhà tôi rộng rãi mà.

Nhưng anh không chịu.

- Để xuống ở chung cả tụi cho dễ. Ngày ngày có xe đưa đến công trường.

- Thế anh đã biết là anh sẽ làm công việc gì chưa?

- Chưa, đợi đến mai sẽ hay.

Khi anh bước theo tôi ra cửa, anh chợt dừng lại, đứng sờ mó vào những quyển sách dày dựng ở kệ sách. Anh nhón lấy hai quyển, âu yếm nhìn vào gáy da rồi lật xem vài tờ. Anh mỉm cười (à, lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp nụ cười của anh) nhìn tôi nói:

- Bây giờ chú học hành giỏi. Có nhớ ngày cúng khai tâm chú ăn cái đầu gà không?

Kỷ niệm ăn đầu gà làm tôi yêu mến anh nhiều. Chắc anh đang hãnh diện mà nghĩ rằng những cuốn sách chữ Tây đó (chữ gì hay ho khó hiểu khiến cho con người ta giỏi được cũng là chữ Tây hết, theo anh quan niệm) làm món trang sức cho trí óc của tôi, làm phương tiện cho tôi sinh sống khá đầy đủ cũng nhờ anh mà có. Nếu không có sự chăm sóc chu đáo của thì bữa cúng khai tâm đã không có và tôi cũng sẽ chỉ u mê tầm thường, lớn lên đủ để làm ông hương, ông giáo là cùng. Tóm lại, cái tôi hiện tại chính là tác phẩm của anh, cái tác phẩm mà anh cho là đã thành công quá sức mong mỏi và đáng để anh hãnh diện. Tôi êm đềm đặt một tay lên vai anh, nơi cái xương quai xanh gồ ra dưới lần áo mỏng rồi nói:

- Tôi học được là cũng nhờ ba cái lạy và cái đầu gà của anh đó.

Đưa anh ra khỏi cổng, đi với anh một quãng đường, rồi tôi gọi xe và trả tiền trước, bảo xe đạp xuống xóm chợ. Tôi dặn anh thỉnh thoảng có thì giờ rảnh thì ghé lại cho biết tình hình công ăn việc làm.

Mười ngày sau anh mới trở lại. Anh cho biết là anh đã đi làm từ sáng hôm đó và anh chuyên môn làm phu hồ.

- Sao anh lại làm phu hồ? Tôi hỏi. Phu hồ là công việc của đàn bà mà.

- Tôi yếu sức, không đổ đá, rải đá được. Phải làm phu hồ vậy.

- Mỗi ngày công được bao nhiêu ?

- Ba mươi lăm đồng.

Tôi tự nhiên nhìn xuống đôi bàn tay của anh. Thật là lam lũ phong trần, nhưng tôi cũng ngầm mong một cách yếu ớt rằng đôi bàn tay ấy, lần này, không đến nỗi chịu câm nữa bên cạnh những cô phụ hồ nhí nhảnh lẫn lộn xung quanh anh. Chợt anh ấp úng ngỏ lời mượn tôi hai trăm đồng.

- Ngày kia nhằm bữa giỗ ông già tôi mà chưa tới kỳ lãnh phơi. Chú cho tôi mượn đỡ hai trăm đồng, mai về quê, rồi hôm sau vô tôi lãnh lương sẽ trả lại.

Tôi nhẩm tính tiền lương của anh mỗi ngày, trừ đi tiền ăn tiêu và tôi thấy hai trăm đồng là một số tiền không nhỏ. Tôi hỏi:

- Về tốn kém như vậy mà anh cũng về sao? Thôi tạm ở trong này, chừng nào để dành dư giả hãy về một lượt.

Anh lắc đầu.

- Tốn thì tốn mà không về không được. Chẳng lẽ ngày kỵ, ngày giỗ mà lại…

Tôi lấy tiền đưa cho anh và anh vội vàng cáo lui:

- Để kịp ra phố mua vài lạng bún bắc thảo, da heo, kim châm và ghé chợ mua ít cái bắp sú.

Sau đó không biết bao lâu anh mới lại nhà tôi. Hỏi anh đã để dành tiền khá chưa thì anh thản nhiên nói:

- Đi làm chẳng được mấy ngày. Bữa trước về đám giỗ rồi kế tiếp mấy bữa sau khuôn hội Quảng Đức nhờ ở lại để nấu chay giùm cho chùa nhân ngày lễ Vu Lan. Nhân dịp lễ, chùa khánh thành cái đại hồng chung mới đúc và có gia đình Phật tử toàn quận cắm trại. Thức ba bốn đêm ròng nên bị bẻ mình đến bốn năm bữa. Mới vô hôm kia. Vẻ thản nhiên của anh khiến tôi nghĩ đến thái độ sống của anh mà tôi đã có lần ao ước. Tôi nhớ một buổi chiều chủ nhật kia, tôi ghé thăm một người bạn. Ở nơi giếng nước nhà anh bạn, một người đầy tớ gái đang xát vỏ đậu xanh. Trong khi chờ đợi anh bạn thay áo để cùng đi thăm một người bạn khác, tôi bước ra sân nhìn dãy nhà trước mặt.

Đó là một dãy nhà tôn vách ván kề sát nhau, chạy dài dọc theo cái đầm nước. Trong một gian nhà kia, một người đàn bà đang tắm hai trái đu đủ. Một dĩa quýt và một dĩa chuối đã đặt trên một cái bàn nhỏ kê sát mái hiên đặt trước sân, tôi nghĩ rằng nhà này là một cái quán.

Nhưng chợt có mùi nhang thơm ở đâu bay đến. Tôi liên tưởng đến cái rá đậu xanh vừa rồi và tôi nghĩ rằng mình đã lầm: nhà kia không phải là cái quán đâu, mà chắc là họ đang sắp đặt một bữa cúng gì đây. Tôi nhớ đến đêm nay có trăng sáng. Thôi đúng rồi, có lẽ ngày rằm rồi. Hỏi lại người bạn thì anh ta nói: “Ừ, hôm nay rằm tháng Mười”. Tôi chợt buồn, nghĩ đến những bữa cúng êm đềm mà mình cứ thản nhiên quên. Những ngày cúng rằm, cúng mùng một chỉ có chị giúp việc nhà tôi là nhớ kỹ. Chị giữ tiền chợ nên liệu nhớ mà mua sắm món gì đó tùy ý chị. Khi cỗ bàn đã đặt lên, chị giao cho tôi nhiệm vụ đốt hương và khấn vái. Nhưng sao tôi vẫn nhọc nhằn hết sức để mà tin rằng mình hiện đang hâm hưởng sự chở che ấy. Vào những lúc ấy tôi nhớ đến vẻ mặt rạng rỡ của anh Năm Nhiều, tin tuởng say sưa vào sự phù hộ của vị thần mà anh đang hướng tâm nghĩ tới. Có một lòng tin như thế thật quý giá biết bao trong một cuộc sống đầy cam go bất trắc, đầy những sự phi lý như người ta thường nói.

Như vậy, thì liệu tôi có sung sướng gì hơn anh đâu, tôi, con người bận rộn khôn cùng, lo lắng khôn cùng giữa vài tiện nghi nhỏ: cái xe để đi, cái quạt cho ngày hè, cái máy hát để đỡ cô đơn và bữa cơm trưa có thịt.

Bẵng đi vài tháng tôi không gặp lại Năm Nhiều. Có lẽ nhớ nhà, nhớ xóm, nhớ cái bàn thờ, nhớ chùa, nhớ khuôn hội, anh đã bỏ về quê rồi cũng nên. Nhưng một sáng chủ nhật, dạo quanh chợ, tôi chợt gặp hương Kính đi với trùmg Sáu và Thành. Thật là dễ nhận ra họ: quần áo bà ba, đội mũ và mắt lơ lơ láo láo gặp gì cũng ngó. Tôi lên tiếng trước

- Ông Hương! mấy tháng nay làm ăn ra sao?

Hương Kính thấy tôi, mừng rỡ, giơ tay ra, tỏ ý muốn bắt.

- Làm ăn cũng thường. Có điều dang nắng rát cổ rát mặt quá.

- Còn anh Thành và ông trùm?

Hai người cùng trả lời một lượt, ý không khác nhau mấy.

- Cũng tàm tạm. Làm được tiền mà để dành chẳng được bao nhiêu.

- Làm bao nhiêu ăn hết bấy nhiêu.

- Còn anh Năm Nhiều? Tôi hỏi: Có còn ở làm trong này không? Sao không thấy đi chơi với mấy ông ?

Hương Kính trả lời:

- Anh Năm vẫn còn ở làm trong này, nhưng không còn ở chung với lũ tôi nữa.

- Vậy chớ anh ấy ở đâu?

Thành móm toe toét miệng cười:

- Ồ! Bây giờ anh Năm Nhiều “ngon” lắm. Ở nhà vợ mà.

- Vợ nào? Ở đâu?

Tôi vội vàng hỏi, nhưng hương Kính vẫn một giọng ôn tồn chậm rãi:

- Anh Năm có gặp một chị bán đồ vặt ở đầu chợ. Hai người quen nhau, rồi bây giờ anh về ở nhà chị ta.

Thật là chi tiết bất ngờ, quá sức ước đoán của tôi. Năm Nhiều có vợ?

Sao đợi đến chừng này tuổi mới có vợ mà vợ ra thế nào? Người đàn bà nào mà lại khéo thích ứng với ông thầy tế tự có thành tích khả kính đó? Nếu do miệng Thành móm nói thì tôi sẽ hồ nghi, cho là anh ta nói giỡn. Đằng này lại do hương Kính nói. Tôi phải hỏi lại hương Kính kỹ hơn.

- Người vợ của anh Năm Nhiều ra thế nào?

- Nghe nói chị ta góa chồng, được bốn đứa con. Chị buôn bán hàng vặt, nước mắm, dầu, bánh kẹo, thuốc lá ở đầu đường Bến Cá. Anh Năm hay qua lại mua thuốc hút. Rồi hai người cảm tình với nhau.

- Họ cưới hỏi rồi sao?

- Cũng chẳng cưới xin gì. Thì… phàm trai không vợ, gái không chồng gặp nhau. Anh Năm về ở đó cũng nhàn. Ngày ngày đi làm với lũ tôi, trưa tối về nghỉ…

Thế thì hai năm rõ mười là Năm Nhiều đã có ý trung nhân rồi. Thành vợ chồng hay không thì đó chỉ là hình thức đi sau. Như vậy cũng đã là một biến cố quá lớn đối với một người thánh thiện như anh. Nhân ngày chủ nhật rảnh, tôi muốn đi tìm để nhìn thấy tận mắt cái hoàn cảnh mới của anh. Tôi nhờ hương Kính chỉ đường.

Sau mười phút đi quanh qua quẹo lại, bỏ con đường này bắt con đường khác, tôi đứng trước mặt nhà anh. Đó là căn nhà gỗ mái tôn, hơi thấp. Trước hiên bày một cái kê ván nhiều ngăn, sắp lộn xộn những cục xà bông chai nước cam, gói thuốc. Mỗi thứ một ít, như là mẫu hàng để quảng cáo. Nằm dưới là vò nước mắm, hũ dầu, là đống than, là những bó củi… Một cái lò than tắt xếp giấu cạnh đó: chắc là buổi tối quán này bán thêm bắp nướng.

Ngồi giữ quán là một người đàn bà đẫm thấp, nước da ngăm đen, đôi má bánh đúc. Hàm răng vồ và cái miệng rộng, khiến tôi liên tưởng đến một cái miệng cá sấu nếu nhìn người ấy cười. Nhưng lòng quý mến đối với anh Năm Nhiều mà tôi coi như người thân trong nhà, khiến tôi nhìn người đàn bà với một con mắt không nghiêm khắc. Hình như tôi đã chấp nhận chị là một người quen rồi, mặc dù tôi vừa gặp chị lần đầu. Anh Năm Nhiều đã sống với tôi quá nhiều quá khứ nên cái gì anh mến là tôi sẵn lòng mến theo.

Người đàn bà thấy tôi đứng dừng trước quán liền đứng dậy đon đả mời:

- Thưa ông cần thuốc lá? Salem hay Ruby?

Mặc dù không muốn, tôi cũng phải nhận thấy một vẻ gì láu lỉnh trong giọng nói và lời đón trước ý khách hàng quá lanh lẹ của chị. Tôi không ưa tính khôn ranh, liến thoắng ấy nơi người đàn bà. Trong óc tôi đang xây dựng cho anh một người đàn bà hiền lành, biết thưởng thức những cử chỉ đầy lễ nghi mực độ của anh. Tôi nói:

- Tôi muốn hỏi anh Năm Nhiều.

- A, dạ có. Dạ để tôi kêu

Chị quay miệng vô nhà:

- Anh Năm ơi! Có khách hỏi anh. Anh Năm!

Rồi chị quay sang tôi :

- Mời ông vào nhà. Tôi chần chừ không bước vội, đợi nghe một tiếng đằng hắng, một tiếng guốc, một tiếng trả lời chứng tỏ sự hiện diện thực của anh. Nhưng sao căn nhà im lặng quá. Rồi chợt giữa khung cửa anh hiện ra, trọn vẹn là khuôn mặt và khổ người của anh, lặng lẽ và nhẹ nhàng như một con mèo. Tôi buột miệng:

- Anh Năm

Anh Năm cười:

- A, chú.

Tôi bước vào, ngồi ở cái bàn nước.

Căn phòng hẹp, bị choán bởi những món hàng tạp hóa vặt vãnh dự trữ: thùng dầu, tỉn nước mắm, thạp gạo, bịch thuốc…. Một cái đi văng gỗ, trên đặt một cái gối sẫm màu mồ hôi, với một chỗ thõm ở giữa, dấu vết của cái đầu anh vừa đặt lên đó. Kê giữa nhà là một cái bàn thờ khá bề bộn: bộ lư đèn đồng, bát hương, cỗ bồng chuối, bình hoa huệ trắng. Một tấm hình lồng kính đặt ở giữa, có phủ tấm vải đỏ. Một cái khám đóng ở trên cao, cũng với bộ lư đèn nhưng nhỏ hơn. Ở dưới ghế lại có một cái thùng để thờ ông thần tài. Chữ “tài thần” viết bằng chữ nho trên giấy hồng đơn, dán lên mặt trong thùng. Một cái đèn hột vịt vặn nhỏ và một cây hương đang cháy.

Sao quang cảnh nơi đây giống cảnh nhà anh vậy? Sao anh khéo chọn được cái không khí âm u cố hữu của anh ở ngay giữa thành phố náo nhiệt này? Một đường khói mảnh từ đầu cây hương uốn mình nặng nhọc vươn lên. Mùi hương pha lẫn với mùi thơm của hoa huệ hơi úa tạo cho cái không khí đang bao quanh tôi một vẻ huyền bí, nhất là căn phòng hơi tối. Tôi hỏi anh:

- Anh về đây được bao lâu?

- Được hơn tháng nay.

Không biết nên hỏi gì nữa - thật ra thì có nhiều câu hỏi quá nhưng đều không tiện nói ra tôi đành hỏi đỡ một câu mà tôi đã một trước câu trả lời.

- Anh vẫn còn đi làm?

- Vẫn làm ở chỗ cũ. Bữa nay chủ nhật, nghỉ.

Vừa lúc ấy có tiếng chị ở ngoài hiên nói với vào:

- Mình ngó chừng giùm hàng một tí nghe. Tôi chạy lại bà Ba già một chút.

Anh ừ và tôi mừng rằng không có mặt chị tôi sẽ được nói chuyện với anh thong thả hơn. Tôi vào đề liền:

- Chị buôn bán có khá không ?

Anh gật đầu:

- Cũng khá. Má con Liễu (Liễu chắc là tên đứa con đầu lòng của chị) được cái tính chịu khó. Nó buôn bán đủ thứ, bỏ món này bắt món khác. Cái quán này chỉ là phụ.

- Nghe nói chị được bốn đứa con.

- Phải, bốn đứa. Con Liễu, con Lý, thằng Sự, con Lùn. Chồng nó đi lính, bị chết trận bốn năm nay.

- Làm sao quen nhau rồi lại hợp ý nhau?

- Nó bán quán, mình năng tới lui mua thuốc, mua thùng quẹt rồi sinh quen. Tính tôi ít oi, mua chỗ nào quen một chỗ để tránh nói thách nói bớt. Có một bữa ghé lại thấy con Lý nó nóng li bì rồi đổ nói xàm. Má nó chạy lăng xăng kiếm thuốc kiếm thầy. Uống mấy ve tiêu ban lộ vẫn như không đã lo cuống lên, mếu khóc… tôi thấy tội nghiệp, lễ cho nó mấy huyệt rồi sẵn hương đèn đó, vái ông Táo cho nó. Sáng ra ghé lại thấy nó mát. Má nó cảm cái ơn…

Aø! Thế là tôi hiểu rồi. Môi giới bắt đầu là ném hương, là cái bàn thờ, là ông táo. Đúng vào sở trường của anh. Tôi có thể tự mình chắp nối để hiểu mạch lạc câu chuyện. Kể cũng không khó lắm. Một người đàn bà đơn chiếc và một người đàn ông cũng đơn chiếc gặp nhau. Sự giúp đỡ xảy đến quá tự nhiên, vì như trước kia ta đã biết: khi Năm Nhiều nghiêm trang khấn vái trước bàn thờ thì vẻ mặt anh có một cái duyên đậm đà mà trung hậu. Khi yêu vẩn vơ, người đàn bà không từ chối người đàn ông liến láu, nhưng để làm chồng thì họ chọn người trung hậu. Đức tính ấy, anh Năm Nhiều có dư.

Tôi đó lấy ly nước anh đưa mời, nhấm nháp vài ngụm rồi hỏi:

- Thế anh không định về quê nữa sao?

- Có chớ. Đi đi về về chớ sao đâu? Hăm bốn tháng này tôi phải về nhà đây. Hăm bốn là ngày kỵ bà ngoại tôi. chú có nhắn gì thì nhắn, tôi về ngoài nói lại.

- Cám ơn anh, tôi vừa gởi thư xong.

Như vậy là Năm Nhiều đã gặp được một người đàn bà. Quả tình có chậm chạp thật đó, nhưng anh có dám đòi hỏi gì hơn. Cái khung cảnh này thích hợp với anh biết bao! Đặt anh ở vào nơi đây, giữa những bàn thờ trang nghiêm thật đúng cách hết sức, như khi ta đặt con gà mái lên trên ổ trứng của nó.

Sau khi giã từ anh, trên đường về, tôi nghĩ đến sự thành công chót cùng này của anh. Như thế cũng đủ đền bù cho bao nhiêu thất bại anh đã nếm phải trong cuộc đời tình ái, chỉ vì tấm lòng quá kính mộ tổ tiên và thần linh. Tôi chợt nhớ đến một đoạn phụ trong câu ghi ở sách tử vi… “Mệnh thân có tử vi cư Mão Dậu gặp Kiếp Không”, mười người thì chín người đi tu. Bằng vào thực tại hôm nay thì chắc đó là số của anh rồi, và may mắn thay, anh lại là người thứ mười nên số đã run rủi cho anh, cuối cùng gặp được má con Liễu.

Ct.Ly

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 26.11.2012 10:34:35
Ghi chú: Các tác phẩm của nhà văn Võ Hồng trích đăng trong topic này theo thứ tự thời gian xuất bản của từng tác phẩm. Cụ thể là Hoài cố nhân có 2 truyện (Hoài cố nhân, Ngày xưa); Lá vẫn xanh có 6 truyện (Trận đòn hòa giải, Xuất hành năm mới, Ngày xuân êm đềm, Lá vẫn xanh, Niềm tin chưa mất, Tia nắng rớt); Vết hằn năm tháng có 6 truyện (Những bí mật của anh Ðỗ Cúc, Người thứ ba, Tình yêu đất, Lạnh tuổi thơ, Vết hằn năm tháng, Thế giới của Năm Nhiều); Con suối mùa xuân có 7 truyện (Tháng năm sương mù, Hai người đàn ông, Trả thù, Khoảng trống sau lưng, Mùa hoa xoan, Con suối mùa xuân, Dấu chân sa mạc); Khoảng mát có 7 truyện (Mẹ và em, Ðôi chim bồ câu, Ðụng độ, Dốc hiểm nghèo, Con đường gai, Khoảng mát, Chuyện cái răng); Bên kia đường có 7 truyện (Những nổi khổ vụn vặt, Hãy an nghỉ Abdul Rahim, Mẹ gà con vịt, Lễ cúng trường, Cái nhìn người mẹ, Bên kia đường, Trở về).
Toàn bộ tác phẩm được tham khảo và trích từ http://www.vohong.de nên độ tin cậy là rất lớn. Ngoài ra khi giới thiệu, người thực hiện có tham khảo danh mục tác phẩm đã có trên Thư viện của VNTQ để tránh sự trùng lặp. Cảm ơn mọi sự ủng hộ và điều kiện giúp đỡ. hai1957



hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 26.11.2012 10:41:47
CON SUỐI MÙA XUÂN

NXB Lá Bối (1966)

1. Tháng năm sương mù
2. Hai người đàn ông
3. Trả thù
4. Khoảng trống sau lưng TQ
5. Mùa hoa xoan
6. Con suối mùa xuân TQ
7. Dấu chân sa mạc




1. THÁNG NĂM SƯƠNG MÙ


Tôi cầm lên phong bì thư đề tên tôi. Những chữ O không vòng kín, những chữ G bụng to è ạch như bụng của những con mối chửa đang thời kỳ đẻ. Đúng là thư của chị Hiền, chị họ tôi. Bì thư dày cộm có chỗ cứng gồ lên. Tôi hồi hộp. Bức ảnh của Thọ, người đàn ông mà chị Hiền hứa giới thiệu cho tôi. Tôi chưa gặp Thọ. Thọ làm việc cùng tỉnh với chị Hiền. Tốt nghiệp trường Quốc gia Hành chánh. Làm Ty trưởng tài chánh. Chỉ số lương 430. Khỏi bị động viên đi Thủ Đức. Đi làm bằng xe Jeep của chính phủ. Siêng đọc tạp chí Quê Hương và có chân trong Tỉnh hội Khổng học. Tự sửa lấy quạt máy và bàn ủi điện. Thật là một người chồng hoàn toàn. “Như một hạt ngọc..”, chị Hiền kết luận như vậy.

Tay tôi run run khi xé phong bì. Không kịp chạy đi lấy kéo cắt. Tháo vội vàng những tờ giấy pơ-luya đầy chi chít tâm tình của chị Hiền, tôi lôi bức ảnh ra. Mặt trái. Tôi để ảnh xuống bàn, dỗ cho lòng mình bình tĩnh lại. Vội vàng để làm gì? đằng nào sự thật cũng rõ ràng ra đó, chối chạy đâu được, đổi thay gì được? Chỉ cần lật bề mặt lên là thấy ngay.

Tôi đã 32 tuổi rồi, đã biết thế nào là hy vọng quá cao và thất vọng xót xa. Tôi tập hạn chế hi vọng, lúc nào cũng chuẩn bị đón nhận những sự bất như ý thật lớn, chịu đựng những sự thiệt thòi quá mức để mong rằng sự thật không đến nỗi tồi tệ như vậy. Tôi tưởng tượng Thọ xấu như thế này, xấu như thế nọ. Bộ mặt dã thú nặng nề của Anthony Quinn. Cái trán thấp của Clark Gable. Cái môi dưới dài ra như lúc nào cũng hờm sẵn một đĩa thịt bít tết hoặc một bát phở tái gầu rắc đầy ớt, hành đặt trước mặt. Đôi tai nhỏ và mỏng nắn tròn như cái nấm mộc nhỉ, loại láu vặt.

Tôi duyệt qua một lượt những khuôn mặt người đàn ông xấu trai mà tôi đã có dịp gặp. Cố nhiên là vô tình đã chỉ chọn nhằm những người đàn ông xấu trai mà có vợ đẹp. Cũng là một lối tự khuyến khích mình, tự an ủi mình. Ngày còn đi học tôi mê sắc đẹp của cô Chi, cô con gái ông chủ nhà hàng Phương Mai. Màu da ngà không sáng lắm nhưng phù hợp với đôi mắt đen dịu dàng, đôi môi hồng nho nhỏ. Cô không bao giờ đánh phấn và bôi son. Tóc cũng chỉ vén cao lên, không uốn. Vẻ đẹp cố ý để mộc mạc làm tôi yêu mến say sưa như khi tôi say mê nhìn một búp sen trắng vươn lên giữa hồ cạnh những tàn lá màu xanh thẫm. Ngày cô lấy chồng, tôi thất vọng khi phải nhìn một người đàn ông tầm thường như hàng trăm hàng ngàn người đàn ông khác tôi cũng gặp trên đường phố mà không buồn để tâm lưu ý. Mỗi lần gặp hai vợ chồng đi phố, tôi mong tìm một nét bất mãn trên vẻ mặt, một sự phũ phàng ghẻ lạnh trong cử chỉ của cô Chi, nhưng ngược lại lòng mong của tôi, cô đi cạnh chồng tươi vui và nói chuyện với chồng âu yếm. Tôi đau xót ngấm ngầm và ghen tức như chính mình là người đàn ông bị tình phụ. Lấy một người chồng xấu xí và tầm thường, thật là một điều bất hạnh, tôi cứ nghĩ thế. Nhưng mà quanh tôi người ta vẫn cứ xây dựng hạnh phúc vững chãi trong những hoàn cảnh bất ổn như vậy. Sắc đẹp để dành cho phần đàn bà. Người đàn ông chỉ cần có tài. Nếu không có tài thì phải làm ra nhiều tiền. Tuy nghĩ vậy nhưng tôi vẫn hy vọng rằng Thọ được trên điểm trung bình.

Tôi thong thả lật tấm ảnh, nhìn vào. Người tôi chùn hẳn lại. Bao nhiêu không khí như thoát ra cùng một lúc, tôi xẹp xuống, Thọ không giống một người đàn ông xấu nào mà tôi đã nghĩ. Anh chia mỗi cái xấu một ít. Thực tế thì có gì xấu hẳn đâu? Mắt? Tai? Mũi? Miệng? Tôi không chọn được dễ dàng mỗi tĩnh từ dành cho mỗi bộ phận của khuôn mặt. Lờ mờ hết sức. Trung bình hết sức. Nhàm hết sức như hầu hết những khuôn mặt. Nhưng ghép chung chúng vào nhau thì chắc chắn là tôi không có cảm tình với một khuôn mặt như vậy.

Tôi bình tĩnh trở lại, không buồn lắm, không thất vọng nhiều. Tôi can đảm nhìn tấm ảnh thật lâu, nhìn thẳng vào những chỗ kém cỏi, khuyết điểm. Đôi con mắt không tinh thần. Môi dày. Ngoại trừ một khuôn mặt quá đẹp hay quá xấu còn thì người ta chấp nhận nhau vì quen mắt. Có những khuôn mặt mới gặp lần đầu tiên ta ghét lắm. Gặp mãi thì thấy không đến nỗi. Gần lâu thì thấy cũng thương được. Nguy hiểm hết sức là thói quen. Nó mài dũa mọi cạnh gồ ghề của cá tính con người. Rồi cái gì cũng được hết.

Tôi nhìn thật lâu khuôn mặt của Thọ, nhìn đến nỗi con mắt tôi hoa lên. Tôi lồng ảnh đó dưới mặt kính bàn viết. Phải cố gắng tập cho quen đi. Đàn ông, đâu có phải đàn ông sinh ra chỉ cốt để trang hoàng quảng cáo cho mấy tiệm chụp hình?

Tôi 32 tuổi rồi. Chưa sợ ế chồng nhưng cũng không phải là quá sớm để nghĩ đến việc hôn nhân. Lấy chồng không giống như đi mua một cái bàn chải đánh răng, đợi lúc nào cần là cứ đi ngay ra tiệm tạp hóa gần nhất. Chọn lựa. Chọn lựa. Chọn lựa. Khi đã chán chê chọn lựa, khi mình tự nhủ mình: “Thôi, lần này không chọn lựa nữa” thì lại đến lúc đàn ông không đến với mình. Xe hơi chạy vụt trước cổng, xăm xăm chạy về một cổng nào khác. Vespa, xe gắn máy không thả bớt tay ga, không bóp còi, không ngập ngừng dừng lại. Đàn ông thời bây giờ khan hiếm. Như sữa Hòn Núi thỉnh thoảng phải mua giá chợ đen. Chiến trường nuốt nhiều đàn ông. Mỗi lần mở tờ báo hàng ngày, lật sang trang tư tôi tìm những khung cáo phó. Trung úy Nguyễn Văn X… đã đền nợ nước. Thiếu úy Trần Ngọc Y… đã hy sinh. Chuẩn úy Lê Đình Z… bị tử thương. Tôi lưu ý đến những tên thân nhân của người “anh hùng” ghi ở dưới. Cha, mẹ, anh, em. Chưa có vợ. Tôi tưởng tượng một khuôn mặt rụt rè, tóc cắt cao, đường rẽ thẳng, bôi đầy bi-ăng-tin Miss Dahlia mới kéo cho tóc nằm ngoan ngoãn. Áo kaki là thẳng nếp và khi đi ngang qua nghe mùi xà phòng Evening in Shanghai. Hành quân tảo thanh mà trí óc phảng phất giọng ca Lệ Thanh, Connie Francis. Ngồi làm báo cáo giữa hai khói thuốc mơ màng nghĩ đến Blaise Cendrars, Nơbokov. Chưa có người con gái nào chít khăn để tang anh. Người yêu của anh chưa thành đàn bà . Thế là nàng còn nguyên vẹn để xông vào vòng cạnh tranh với tôi. Trong vài đoạn cáo phó, có tên những người vợ đọc lên nghe êm đềm ghi sau tên người quá cố, những là Nguyễn Thị Lệ Thu, Trần Kiều Nga,… không có tên con ghi ở sau. Địch thủ nguy hiểm! Thiếu nữ không dễ ăn qua góa phụ trẻ chưa con. Người đàn ông khó thoát lưới của những đàn bà trẻ có kinh nghiệm về tình ái. Thân hình nở nang làm mát những cặp mắt và vỗ về, nuôi dưỡng trí tưởng tượng. Đàn bà bạo dạn hơn thiếu nữ. Không biết đi lui, chẳng cần chạy chốn. Đàn ông thời bây giờ ít kiên nhẫn. Được hay không, họ nóng biết kết quả để kịp xoay sang chiến trường khác. Lối viết thư tình tẩm nước hoa và gửi đều đặn cho “nàng”, lối ấy chỉ còn dành cho những cậu con trai có tật nơi mắt hoặc mắc bệnh suyễn kinh niên, bệnh hắc lào. Đàn ông bây giờ đớp đàn bà nhanh như lũ ăn cắp ở Đô thành đi Vespa giật xắc của người đi đường rồi rồ ga bỏ chạy. Góa phụ có từ ba con không đáng sợ. Họ chỉ bị đàn ông lợi dụng thôi. Khi đã tìm được một cô vợ trẻ đẹp, giàu rồi thì người đàn ông khéo đưa ông thầy bói ra để đoạn tuyệt. Chẳng hạn:

- Ông thầy Huyền linh Tử bảo anh tuổi Tý sinh tháng Giêng là phạm tháng Cô Thần. Còn em tuổi Dậu sinh tháng Sáu thì nhằm Quả Tú.

Nam phạm Cô Thần thê ly biệt.

Nữ phùng Quả Tú độc phòng trung

Thế là hết lý lẽ để bào chữa. Đàn bà chớ dại cho đàn ông biết ngày giờ sinh của mình. Để phòng khi bị phản bội.

Tóm lại, dù có tính đi tính lại thì số đàn bà vẫn thừa. Đã thế, lũ đàn ông còn sống lại nhát lấy vợ. Luật gia đình làm cho họ sợ. Từ ngày có luật ấy người con trai nào cũng nghĩ rằng mình sẽ bị cắm sừng, phải chạy tiền cấp dưỡng vợ mình và đứa con của vợ mình. Nó trở thành một ám ảnh. Bên cạnh những công thức Toán học, Hóa học, trong óc người con trai lởn vởn thêm những đẳng thức mới: vợ = cặp sừng; ly thân = năm ngàn đồng trợ cấp mỗi tháng. Hại uy tín của phụ nữ ghê lắm mà người làm luật đâu có biết. Cuộc đời quân ngũ còn làm người con trai coi thường đàn bà. Anh hùng mà! Ngày chưa đi Thủ Đức, anh Trần quanh quẩn cạnh mấy cô bạn, hết chép nhạc tặng, đến vẽ hộ kiểu gối thêu mặc dù chẳng cô nào thêu gối. Áo gối thêu máy tám chục đồng một cặp, mua bao nhiêu cũng có. Sau chín tháng ở Thủ Đức về, sau một năm lăn lộn ở chiến trường miền Tây, anh già từ da mặt đến tâm hồn. Lúc nào cũng như toan tính xuất quân ra trận, thu dọn chiến trường, ân thưởng Bảo quốc huân chương, vinh thăng Thống tướng. Quên cả đàn bà!

Tôi 32 tuổi rồi. Phải lấy chồng để chỗ cho con em kề tôi nó làm người lớn. Em Huệ đã 25 tuổi. Người giáo sư dạy nó năm kia vừa đánh tiếng đi hỏi nó. Đột nhiên tôi thành ra già đi, vì nó. Thương em, yêu em mà không khỏi có chút ít ganh tị với em. Người con gái Tây phương lấy chồng nhiều khi vì phòng tắm ở nhà quá hẹp mà chị em thì đông. Đợi hàng giờ mới đến lượt mình tắm táp, đánh răng, chải tóc. Mong lấy chồng cho xong để có được một phòng tắm rộng, sử dụng một mình. Người con gái Đông phương lấy chồng nhiều khi chỉ cốt để tránh cảnh phải ngủ chung một giường đến ba chị em. Đứa này lăn qua cạ vào lưng đứa kia, làm mất giấc ngủ lẫn nhau. Đứa nằm ngoài thò tay thò chân ra ngoài màn khiến muỗi chui vào từng bầy đốt lấm tấm cả mặt. Đập muỗi suốt đêm. Cha mẹ tôi khá giả, mỗi đứa được nằm riêng mỗi giường có nệm mút, chỉ phiền cái lược mỗi khi tìm đến để gỡ tóc là cứ biến đâu mất. Cây bút chì nguyên tử xanh để viết thư cũng vậy. Con gái lớn bốn đứa, mỗi người sản xuất trung bình bốn cái thư. Bút chì BIC lên giá hai mươi đồng một cây, mới mua đó đã thấy cạn mực, mực chảy ra từng vũng nhầy nhụa. Có lúc viết được nửa cái thư rồi vừa rảy vừa cào, chỉ thấy dấu bi hằn lên giấy. Cãi nhau rồi đổ lỗi cho nhau:

- Em mới thấy con Lan viết thư hồi nãy, viết gì đến bốn tờ giấy manh đặc sệt cả chữ. Phải dán bốn đồng bạc tem mới đủ.

- Đâu phải vì bốn tờ giấy manh đó mà hết mực? Hồi sáng chị Huệ ngồi viết hàng nửa giờ. Viết thư mà phải viết nháp trước mới tốn mực đến vậy.

- Viết nháp trước hay không là tùy đối tượng. Nếu viết cho một anh thơ ký công nhật thì tội gì tao phải viết nháp?

- Em biết rồi, chị khỏi cần nói mỉa em. Nhưng một chứng chỉ thì cũng đến làm thư ký công nhật là cùng nếu chưa bị động viên đi Thủ Đức. Chị quên rằng năm kia Công quản Chuyên chở Đô Thành cần bốn người bán vé xe mà có đến hàng chục anh tú tài đâm đơn xin.

Một cái gối ném vung tới. Một cái gối ném trả lại. Tôi phải đóng vai hòa giải. Rồi cuối cùng lại phải tự mình đạp xe ra đầu phố mua cái bút nguyên tử mới.

Quả tình là Thọ không những không đẹp mà còn thua xa mức trung bình. Mỗi lần bất chợt nhìn vào ảnh Thọ tôi đều mỏi mệt mà kết luận như vậy. Nhưng sự chán nản của tôi không đến nỗi to lớn như khi tôi nhìn bức ảnh lần đầu. Cái gì rồi cũng quen đi. Tôi còn hy vọng rằng ngoài thực tế Thọ có thể có duyên hơn ở trong ảnh. Trường hợp này ít khi xảy ra. Thường thì người nào cũng chỉ đẹp bằng bảy phần mười so với bức ảnh chụp bán thân của họ. Chỉ trừ bức ảnh trong thẻ kiểm tra bọc nhựa là mới thật sự khiêm tốn mà thôi. Tuy vậy tôi cũng phải mong rằng ngoài thực tế Thọ có thể có duyên hơn. Con người ngoài thực tế với giọng nói với nụ cười, với tia mắt nhìn, với cách đưa tay, với tư thế ngồi… thường dễ gây mỹ cảm nơi người đối diện. Tôi có một tật xất là mỗi khi nhìn những tấm ảnh quảng cáo trích ở cuốn phim đang chiếu thì không còn thích xem phim nữa. Bức ảnh khô khan, vô duyên, nhiều khi trơ trẽn nữa nếu nhìn lâu. Khi xem thẳng trong phim thì thấy cũng hình ảnh đó nhưng mà nó dịu dàng linh hoạt dễ thương làm sao. Đọc trước truyện phim, dẫu đã lo xa để dành đoạn chót không đọc đến nhưng vẫn mất hứng thú không muốn đi xem nữa. Truyện nào thì đại khái cũng như nhau, có cái khác nhau thì lại không nói được. Chẳng hạn một lời đối thoại. Chẳng hạn một cánh bướm vụt bay lên từ cái lá cỏ. Chẳng hạn một tiếng thổn thức xảy ra đúng lúc. Vâng, tôi đợi gặp mặt Thọ như đợi lúc trực tiếp ngồi trong phòng tối đem trọn tâm hồn mình thưởng thức cuốn phim lần lượt chiếu trên màn ảnh.

Tôi dành hai giờ để viết trả lời chị Hiền một bức thư không dài quá một trang. Lời lẽ thật hết sức hòa nhã vui vẻ. Ngôn từ dùng mãi biến tính đi nhiều, rốt cuộc nó không còn biểu diễn đúng cái ý nghĩa nguyên thủy của nó nữa. Nhất là những tĩnh từ và trạng từ. Tôi chọn một số chữ biến tính ấy để sự tìm hiểu của chị Hiền trượt lên chúng.

Ngày lễ Phục sinh, chị Hiền đưa Thọ đến gặp tôi. Ba tôi tiếp chị Hiền và Thọ ở phòng khách đợi tôi có đủ thì giờ trang điểm rồi lấy cớ rút lui nhường chỗ cho tôi. Ba tôi ít nói. Nhìn vẻ ngoài thì ông như không để ý đến việc gì, vật gì xung quanh ông cả, nhưng mà động hỏi cái gì ông cũng biết. Dường như chẳng có gì lọt qua được mắt ông.

Thọ ngồi không yên chỗ. Hay quay qua quay lại. Có lẽ số tuổi trên đầu còn ít chưa đủ sức nặng để làm thân Thọ đằm xuống. Như một chiếc ghe chở ít hàng hóa, cứ chao đi chao lại trên sóng. Tôi thích một người đàn ông có dáng ngồi chững chạc hơn. Má biết tính tôi nên hay nói đùa:

- Mày đúng là “con nhà lính mà tính nhà quan”. Nhà nghèo mà muốn lấy chồng Tổng trưởng.

Tôi cười trả lời:

- Đâu có phải ông Tổng trưởng nào cũng có dáng ngồi chững chạc?

Có cái gì thừa nơi khuôn mặt của Thọ. Chắc là đôi môi quá dầy. Màu da tối. Tôi tưởng tượng ngay, một cách tự nhiên là khuôn mặt ấy sẽ kề sát mặt tôi và đôi môi ấy hôn tôi. Tôi rùng mình. Phải chấp nhận tình yêu với miễn cưỡng vậy sao?

Sau khi được chị Hiền giới thiệu, Thọ mở lời:

- Lễ Phục sinh cô Loan không đi nghỉ mát.

- Dạ thưa không

- Ở đây nóng.

Thọ chứng minh rằng ở đây nóng bằng cách giật giật nhiều lần vạt áo sơ mi. Tôi lại mở quạt trần. Tôi nhìn bóng tôi trong chiếc gương lớn, so sánh với bóng chị Hiền. Tôi đẹp hơn chị Hiền. Điều này làm tôi vững lòng tin tưởng vì anh Doãn chồng chị Hiền khá trai và có địa vị. Ít nhất tôi cũng hy vọng lấy một người chồng như anh Doãn.

Thọ nói chuyện thời cuộc năm châu. Loại chuyện này dễ thành nhàm và sáo như tách nước trà tôi đón nhận mỗi lần đến thăm nhà ai, tách nước do người ở bưng từ nhà sau lên. Nhàm nhưng vẫn cần phải có. Chán hết sức là những công thức. Tôi ít trả lời được gì bởi vì những điều tôi sắp nói tôi tưởng như người ta đã biết hết rồi. Mỗi ngày phải nghe nhiều lần những điều đó ở tờ báo hàng ngày, ở phần tin tức của đài phát thanh Trung ương, ở phần bình luận và câu chuyện buổi trưa, buổi tối, ở đài phát thanh địa phương. May mà ba má tôi không gặp lại giữa bữa ăn.

Chị Hiền đối thoại với Thọ chu đáo hơn tôi, do đó tôi có thể ngồi nhìn Thọ một cách tự nhiên. Tôi cố vỗ về cho mắt tôi quen với gương mặt Thọ. Chấp nhận Thọ. Người ta hay nói “Yêu nhau là cùng nhau nhìn về một hướng”. Nhìn về một hướng thì có lợi là khỏi nhìn lẫn nhau, quên tìm những khuyết điểm của nhau. Nghe tiếng trẻ bán báo rao báo mới, Thọ xin phép ra cổng gọi mua tờ báo quen của anh. Còn lại trong phòng có chị Hiền và tôi, một lọ hoa lay ơn trắng, mặt ghế xa lông phủ vải hoa, rèm treo cửa màu nhạt. Và sự thoải mái dễ chịu. Tâm hồn tôi suýt chao đi, xót xa như vừa mang những vết cắt vô hình. Sự vắng mặt bất ngờ của Thọ trong giây lát làm tôi thấy nhẹ nhàng. Tôi đã ngẫu nhiên nhìn rõ được trong nếp sâu của tâm tư tôi. Tôi nên trả Thọ cho cái thành phố của chị Hiền. Phải dành lại cho tôi cái không khí thoải mái hiền hòa của căn phòng khách nhỏ này.

Sau ngày chị Hiền và Thọ đến thăm, tôi sợ người đưa thư. Tôi sợ phải gặp nét bút của chị Hiền hỏi ý kiến dứt khoát của tôi về Thọ. Tôi sợ nói sự thật, còn nói dối thì không quen. Ở nhà má không sai tôi đi chợ đi phố, khỏi phải mặc cả mua bán nên không thường nói dối. Tôi trông mong sự việc qua đi, như chưa hề có một sự gặp gỡ, chưa có một sự dự định nào hết. Tuy vậy, tôi vẫn không ngớt lẩm nhẩm sắp xếp trong óc những đoạn thư để trả lời cho chị Hiền. Thật là khó tìm cớ. Không thể bảo rằng má cứ khóc không muốn xa con. Bốn cô gái ở tuổi lấy chồng chớ đâu phải chỉ có một. Nhiều con gái ở tuổi lấy chồng, đó không phải là thứ huân chương để người mẹ hãnh diện. Lo thì lo nhưng mà vẫn chưa tìm được cớ gì để chuẩn bị. Thỉnh thoảng tôi nhớ lại cuộc hội diện với Thọ. Tức thì một không khí nặng nề ùa đến, đâm sầm bao vây lấy tôi, những bứt rứt rỉa rói như có hàng vạn mũi kim châm tới. Tôi phải vội lẩn tránh bằng cách mở đọc một đoạn truyện nào đó ở trang 3 của tờ báo hàng ngày hoặc vặn nút ra đi ô để nghe cái gì cũng được: cổ nhạc Trung phần, phụ nữ với gia đình, tin tức khí tượng cho tàu chạy ven biển…

Suốt ba tháng không có thư của chị Hiền. Rồi bỗng vào một lúc không ngờ hơn hết, tôi nhận được thư chị. Bức thư khá dày làm tôi hồi hộp. Mắt tôi chạy nhanh qua những đoạn thăm hỏi nhớ nhung, những đoạn nói về khí hậu và tả cảnh. Đây rồi, chủ điểm của bức thư:

…….

“À, Loan còn nhớ cái thằng khỉ Thọ không nhỉ? Nó về rồi cút luôn không đến nói gì với mình hết. Sau đó nghe nói nó đi hỏi cô Tuyết con gái ông chủ Kho Bạc ở cùng phố với mình. Cô này đẹp lắm, đỗ chứng chỉ Cử nhân Luật năm thứ hai và tính nết rất dễ thương. Chả biết tại sao cô ấy lại thương được thằng Thọ. Tháng sau đám cưới.”

…..

Quả tình là con trai khan hiếm. Trên thị trường giá đàn ông con trai có thể lấy vợ tăng lên nhiều. Tôi đang lo không biết nên từ chối Thọ như thế nào thì không ngờ chính Thọ từ chối tôi trước. Người ta tranh giành nhau cả những người đàn ông xấu trai. Trên chiến trường, họng súng đen ngòm lăm lăm nhả đạn vào sọ, vào óc những người đàn ông khỏe mạnh. Ở đô thị, đàn bà nối đuôi đi vào hiệu uốn tóc, sửa da mặt, tẩy vết tàn nhang. Phải tranh giành những người đàn ông còn sót lại.

Cuộc đời chỉ đẹp trong người ngày còn cắp sách đi học. Không bận tâm lo nghĩ. Lòng tin tưởng cứ vụt phóng tới trước như con ngựa sung sức không chịu dừng chân. Thi đỗ. Làm việc nhiều tiền. Có người chồng xuất chúng. Sinh những đứa con đẹp như trong tranh vẽ. Nhưng con ngựa bất kham không chịu dừng lại ở lằn mức đó. Tôi còn tưởng tượng tôi say mê trong phòng thí nghiệm, nghiên cứu, tìm tòi. Phát minh ra những công thức mới. Điều chế ra những hợp chất mới. Phải chinh phục. Phải luôn vượt lên, tiến tới. Tôi còn tưởng tượng tôi là một họa sĩ hữu danh. Một văn sĩ có tài. Một nhạc sĩ. Trí tưởng tượng chắp những đôi cánh rộng, bay mãi không biết mệt. Nhưng lần lần cuộc đời nặng nhọc và tầm thường níu kéo tôi trở lại, đè bẹp tôi xuống. Tôi không thoát khỏi nanh vuốt của nó. Phải âu lo và chỉ còn hy vọng trong một chu vi hữu hạn. Chu vi ấy càng ngày càng thu hẹp kích thước. Tôi có thi đỗ thật nhưng đỗ không cao lắm. Tôi đi làm thật nhưng công việc chỉ tầm thường ở một bàn giấy vô nghĩa. Người ta vạch sẵn những con đường cho tôi đi. Những nghị định, những qui chế, những thể lệ bao phủ tôi mỗi ngày một đầy thêm và tôi loay hoay động chạm vào chúng thường xuyên như đi giữa khu rừng rậm phải chạm vào những thân cây. Chúng tạo thành bầu trời, thành vũ trụ của tôi. Thật là thảm thương khi tâm hồn con người không bay thoát ra được cái bầu trời, cái vũ trụ bé nhỏ nghẹt thở ấy. Con đường đã vạch sẵn! Con đường đó dẫn tôi đi gặp người phát ngân viên mỗi cuối tháng, đi đến quỹ hưu bổng khi những vết nhăn chân ngỗng cày đậm lên hai khóe mắt. Con đường bất dịch. Những ước mơ, cuộc đời lý tưởng đang bỏ rơi tôi, bất lực, bơ vơ như ánh nắng mặt trời sắp bỏ lại cho đêm tối cái vũng nước hồ mọc đầy lau lác. Xa rồi buổi bình minh có ánh nắng đùa trên gợn nước, hoa dại rung rinh và lảnh lót chim ca. Tôi đã cố gắng hết sức mình. Tôi đã vội vàng. Nhưng cuộc đời dẫu của tôi mà không phải hoàn toàn tùy thuộc nơi tôi và trái đất xoay chuyển nhịp nhàng theo quỹ đạo không vì tôi mà quay chậm một ngày. Tôi đã 32 tuổi rồi. Bắt đầu ghét quyển lịch năm 30 tuổi. Lịch Paramount, lịch Toshiba, lịch Esso, lịch Chợ Lớn… tất cả đều a tòng vào nhau để vò xé tâm hồn người đàn bà. Không thể lầm lẫn được thời gian khi ở mọi bức tường, những tờ lịch mang chung một con số.

Một hôm trên đường đi làm về tôi gặp chị Trường. Từ ngày vị hôn phu của chị bị đạn chết trong cuộc hành quân Bình Lâm, tâm hồn của chị đắng lại. Chị không đi dạo phố, ít đi xi-nê. Mái tóc bin-đinh cao nghễu kiểu cách đã dỡ xuống, trở lại là mái tóc bẹt bình thường. Ba mươi sáu tuổi mới yêu được một người thì vội vã chiến trường cướp mất người yêu. Bây giờ, ngoài thì giờ trông hàng cho mẹ, chị đọc tiểu thuyết đủ loại và viết thư cho đài phát thanh yêu cầu nhạc và nghe nhạc yêu cầu. Chị nói:

- Ngày trước, mình không thích những giờ nhạc yêu cầu. Mỗi lần nghe xướng ngôn viên đọc một tràng tên thính giả yêu cầu kéo dài hàng phút đồng hồ mình phải lật đật vặn nhỏ máy phát thanh lại. Mình chỉ cần nghe nhạc. Viết thư yêu cầu nhạc mình cho là chỉ có những cô nữ sinh 15,16 tuổi ăn ở không và thỉnh thoảng là những ai muốn nhắc người yêu nhớ đến tên mình.

- Tại chị bi quan nên mới nghĩ vậy - tôi nói.

- Bi quan thì trước sau mình vẫn bi quan. Có điều từ ngày anh Nghiêm mất, mình đã thay đổi quan niệm. Ngày xưa anh Nghiêm mỗi lần gọi tên mình đều gọi cả chữ lót: Xuân Trường. Anh nói giọng Bắc. Cô xướng ngôn viên ở đài, giờ “Nhạc yêu cầu” cũng nói giọng Bắc, giọng nói ấm áp có điểm gì giống giọng của anh Nghiêm. Mình thường xuyên viết thư yêu cầu nhạc để mỗi tối thứ ba nghe một giọng nói nhắc đến tên Xuân Trường, mình tưởng tượng nghe lại giọng nói của anh Nghiêm.

Chị mơ màng đưa mắt nhìn ra xa. Một lát chị tiếp:

- Mình tuyệt vọng…

Tôi làm một cử chỉ gượng níu. Như đứa trẻ sắp trượt xuống dốc nên níu một chòm cỏ, một cành cây. Vì tôi cảm nghe như tiếng đó, tiếng “tuyệt vọng” của chị Trường vang lên trong tôi như tiếng dội nơi một hang núi thẳm sâu. Tôi đã ba mươi hai tuổi.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 26.11.2012 17:01:35
2. HAI NGƯỜI ĐÀN ÔNG



Sài gòn ngày 7 tháng 6 năm 1965

Em

Chiều hôm nay trời ráng đỏ suốt cả một vùng rộng lớn ở phương Tây. Màu đỏ chói rực rỡ vào phòng tưởng như đâu đây có một đám cháy lớn. Anh đưa mắt nhìn ra sân, nhìn lên từng mảnh da trời cắt vụn bởi những cành cây và lá cây. Hàng khuynh diệp đứng lặng yên cam phận trong vị trí dành cho mình và thản nhiên không tỏ ra một chút xao xuyến. Anh thu mắt nhìn về căn phòng của mình. Mấy nhân viên chú ý vào công việc, thu hẹp không gian sinh hoạt của họ trong một khoảng rất nhỏ: tập hồ sơ dưới tay, cái máy đánh chữ trước mặt. Như những hàng cây, họ cũng thản nhiên không tỏ ra một chút xao xuyến. Một hiện tượng thiên nhiên như vậy thật quá đỗi thường, không xúc động được ai hết. Nhưng mà anh thì xót xa cơ hồ như ngón tay nào chạm nhẹ vào một sợi thần kinh của mình. Anh nhớ đến em.

Lần chót em đến thăm anh, em còn nhớ không, chúng ta ngồi cạnh nhau ở dưới giàn nho trên sân thượng. Em nói:

- Chúng ta đang ngồi gần trời. Và xa cách hẳn với mọi người xung quanh. Khi nào dư tiền, anh gắng xây thêm một từng lầu nữa, một từng lầu nữa và chúng ta sẽ ngồi cao hơn, cao hơn, cho gần trời hơn. Em có cảm tưởng càng ngồi ở trên cao, tình yêu sẽ càng trong trẻo và trọn vẹn. Như không khí ở trên từng cao không còn vẩn đục vì bụi bặm, thán khí và tiếng ồn.

Anh trả lời:

- Như vậy, tình yêu đòi hỏi quá nhiều tiền và tiền sẽ làm ta càng bị ràng buộc quá mật thiết với nhân loại xung quanh. Sao em không nghĩ đến một giải pháp đơn giản hơn? Là chúng ta lên ngồi ở trên một chỏm núi chẳng hạn.

Em đưa mắt tìm về một chỏm núi và anh cũng làm theo. Chính lúc đó chúng ta mới cùng để ý rằng da trời chiều nay rực rỡ một màu vàng chói lọi. Lá cây, tường nhà, mặt đường cho đến da mặt em cũng được phết lên một lớp ánh sáng vàng. Em “ồ” lên ngạc nhiên. (Em có một lối biểu diễn cảm xúc, nhanh nhẹn và háo hức, em có biết không? Tâm hồn em như một cây kim nhỏ dễ dàng rung động mà mọi sự vật xung quanh là những viên đá nam châm có hấp lực mạnh, em có biết không?) Đôi mắt mở rộng và đôi hàng lông mày dài vòng cung lên. Em nói:

- Đẹp quá anh nhỉ? Nhân loại buổi sơ khai hẳn phải chắp tay run trước một hiện tượng huy hoàng như thế này. Đêm tối lạnh lẽo hãi hùng sắp chụp lên con người và ở nơi nước Thiên đàng, Cực lạc đó đèn nến thắp lên sáng trưng rực rỡ.

Em đang bước trước anh, bỗng ngừng lại:

- Ráng này mà anh bảo nắng sao? đó là ráng mưa đó. Không ngày mai thì ngày kia, trời sẽ mưa.

- Chắc không?

- Chắc chắn lắm. Để rồi anh xem.

Thật khó có thể tưởng tượng rằng trời đang nắng to như thế mà chỉ một ngày sau là tưới xuống cơn mưa âm u ướt át. Nhưng thực tế lại đúng như lời em tiên đoán. Đêm đó nóng ngốt hết sức. Sáng hôm sau mặt trời ngủ dậy trễ. Mây đóng từng lớp dầy khiến không khí đục lại. Bầu trời thấp và buồn. Buổi trưa gió chuyển mát, mang theo hơi nước. Buổi chiều có sấm. Mưa bắt đầu từ khuya như để trốn tránh sự dò xét của người và để đủ thì giờ chuẩn bị chu đáo. Mưa đổ ào ào trên mái ngói đánh thức anh dậy. Anh đi sang phòng em, gọi em để chỉ nói có mấy tiếng:

- Trời mưa thật rồi em ạ.

Ba năm đã qua, kể từ ngày đó. Em xa cách anh, mỗi ngày mỗi xa thêm nhưng anh quyết chắc rằng cho dẫu xa cách đến mức nào thì ít nhất mỗi năm đôi lần anh phải nhớ đến em. Đó là vào những khi có ráng đỏ rực ở chân trời. Lần nào cũng vậy, có ráng đỏ là y như có mưa, cơn mưa rơi xuống quen thuộc thân tình, y như là cơn mưa của mình, do mình mà có. Bao nhiêu lần đoán đều không sai nên vào những trường hợp như vậy anh liền nhớ đến em, người đã dạy anh bài học thực nghiệm về khí tượng đó. Kỷ niệm giữa hai người thân quả là thiên hình vạn trạng: có khi là một màu hoa, một mùi hương, có khi là một giọng nói. Em ao ước chúng ta được ngồi cạnh nhau ở gần trời. Cuộc đời chỉ cho phép chúng ta thực hiện được một trong hai điều mong thôi: đó là anh cảm thấy gần trời với em trong những buổi chiều như thế nào, nhưng vĩnh viễn không chắc là có thể ngồi cạnh em được.

Hồi tưởng lại ngày chúng ta bắt liên lạc được với nhau sau rất nhiều năm xa cách, anh thấy như sự việc vừa xảy ra gần đây thôi. Ngẫu nhiêu trong một câu chuyện trao đổi với bạn quen cũ mà anh được biết rằng em hiện làm việc ở Quảng tín. Anh lại được biết rằng em đã lấy chồng và góa chồng bốn tháng sau ngày cưới. Lấy chồng thời chinh chiến thường khó lòng mà thực hiện được lời cầu chúc ghi trong danh thiếp hay trong điện tín gửi mừng “Bách niên giai lão… Loan phượng hòa minh” là tiêu chuẩn của thời bình. Chiến tranh dai dẳng tạo điều kiện cho con người bình đẳng với nhau trong niềm đau khổ. Gia đình nào cũng có những lỗ thủng lớn: hoặc là người chồng, người cha, hay người con ra đi không về. Những người đàn bà chơ vơ trong cuộc tranh đấu cam go với cuộc đời. Chiến tranh lan rộng, đời sống đắt đỏ, đi lại khó khăn, an ninh không bảo đảm… đó, những chặng cam go khúc khuỷu trên đoạn đường còn lại phải đi.

Anh được địa chỉ của em, vội vàng viết thư cho em. Em mừng rỡ trả lời. Chúng ta bấu víu vào mọi cây cọc may mắn gặp được trên dòng sông chảy xiết. Sống giữa chiến tranh là đi thuyền nan trên một dòng sông chảy xiết, có nhiều hẻm vực và đá ngầm. Thừa dịp nghĩ lễ em đến thăm anh. Chiếc ô tô nhà đậu ở trước cổng và em bước xuống. Cháu Cường cầm tay em. Em gầy đi so với ngày chúng ta chia tay. Da mặt mất đi màu trắng mát. Em vội vã giải thích khi anh ra đón trước sân:

- Xe nhà của anh Quyền, Phó tỉnh trưởng. Quyền bảo tài xế đưa em đi tìm địa chỉ của anh.

Trong ngót một giờ đầu tiên gặp gỡ, em chỉ toàn nói đến anh Quyền, về sự sang trọng của anh Quyền.

- Anh Quyền là bạn cùng khóa với nhà em. Hồi còn làm chung ở Hiến binh Gia Định, chúng em và gia đình anh Quyền ở sát cạnh nhau.

Tất cả những chi tiết về quá khứ, về cái chết của Lãm (chồng em), em lật đật kể cho anh nghe chỉ vì cần chứng minh rằng Quyền không hơn gì chồng em hết. Thế mà bây giờ Quyền sung sướng dường đó.

- Nếu nhà em đừng bị tai nạn ô tô thì bây giờ nhà em cũng làm lớn như Quyền, lớn hơn cả Quyền nữa vì nhà em có bằng cấp cao hơn.

Anh thấy tội nghiệp cho em hết sức. Nhắc đến chồng không phải vì thương xót u hoài mà chỉ vì một nỗi ấm ức không nuốt trôi được. Ấm ức mà vẫn phải ghé lại nơi gợi ra ấm ức, hỏi còn có hình phạt nào nặng hơn không?

- Nhà em vừa nhận được nghị định thăng cấp bậc đại úy thì bị tai nạn. Thật vô lý. Trời mưa… đường trơn… thắng không ăn… Chỉ có vậy. Trong giờ hấp hối, nhà em vẫn tức là sao mình không chết ngay hồi còn ở mặt trận, lại để chết chi bởi một tai nạn lưu thông tầm thường. Anh có thấy thế không?

Thành thật mà nói thì anh không thấy thế nhưng anh không nỡ trả lời vậy. Anh chỉ vừa gật đầu vừa đẩy tách trà lại gần em.

Em lại mê mải nói về vợ chồng Quyền.

- Chị Quyền bây giờ béo trắng ra. Ở đây khí hậu tốt, ăn uống sung túc lại có nhiều kẻ hầu người hạ. Chị vừa mua cái vi la ở đường Duy Tân giá tiền một triệu hai trăm ngàn.

- Chóng giàu nhỉ?

- Gặp được thời thì mau giàu lắm. Bốn đứa con của chị đều học ở trường Pháp hết.

Dù không muốn, anh cũng mệt theo câu chuyện của em. Đầu anh xoay vòng theo ba chị đầy tớ gái lúi húi lau nhà suốt cả buổi sáng. Tai anh rộn lên vì những hiệu lệnh chị Quyền ban phát cho đủ cấp gia nhân của chị.

- Bác tài đi đón em Hùng em Tuấn ở Lycée (1 ) em Trang ở trường Soeur (2 ), ghé lại Air Việt Nam (3 ) để nhận hoa tươi rồi lại rước bà Bác sĩ Thọ để cùng đi dự hội nghị ban chấp hành hội Từ thiện… Chị vú nhớ bôi thuốc đỏ cho em… chị bếp nhớ chiều mua thêm bơ… thằng nhỏ nhớ đi gọi bác thợ đến sửa lại cái cửa tủ lạnh…

Chị Quyền quả thật đang bơi trong sự sung túc như em nói nhưng còn em, anh muốn em được bơi trong một sự thoải mái tâm hồn. Em quên không nói chuyện về cháu Cường nếu anh không nhắc. Anh hỏi Cường đã được mấy tuổi rồi và em chợt nhớ ra là em đến đây không phải một mình. Nhưng em lại kể lể:

- Cường lên bốn rồi đó anh. Nếu còn ba cháu thì em đã cho cháu vào vườn trẻ của mấy bà Charité. Con không cha thì phải chịu thua kém người ta…

Cường không giống em một nét nhỏ nào, đó là điều thiệt thòi cho cháu. Có một người mẹ đẹp mà Cường không thừa hưởng được gì. Mấy lần em đi phố một mình gửi Cường ở nhà với anh, anh thẩn thơ dắt Cường đi trong vườn và êm đềm gợi chuyện. Có bận anh hỏi:

- Cường năm nay mấy tuổi?

- Cường bốn tuổi

- Tuổi con gì, Cường có biết không?

- Tuổi tý, con chuột

- Cường có thương má không?

- Có

- Thương ba không?

- Có

- Cường còn thương ai nữa?

- Cường thương cậu Hòa, cậu Thịnh, cậu Cang, cậu Tân…

Đứa trẻ mồ côi cha bao giờ cũng có nhiều cậu. Đó là những người có cảm tình với má nó và má nó có cảm tình. Cường cũng gọi anh bằng cậu. Chính em viết thư khoe với anh:

“Cường cứ đòi mẹ dẫn về Sài Gòn thăm cậu Thái. Lâu lâu Cường hỏi: cậu Thái có viết thư cho mẹ không?”

Anh nghĩ mông lung đến sự dối trá của những danh từ. Đến một ngày nào Cường bắt đầu hiểu biết thì cháu sẽ nghĩ sao về những chữ “cậu” mà cháu đã ban phát cho nhiều khuôn mặt. Cháu sẽ mất người mẹ của cháu cho một trong số các “cậu” đó. Cháu sẽ thù người “cậu” thắng trận và những người cậu bại trận cũng bị thù lây. Như trong việc tổng kết phân loại về kế hoạch, các vật có chung đặc tính được xếp chung vào một bộ, nhiều bộ có chung đặc tính được xếp chung vào một lớp, nhiều lớp vào một ngành.. vân vân.. họ “cậu” biến thành thù nghịch vì có chung đặc tính với người cậu thành công.

Nghĩ đến đây, anh bỗng thấy thương hại cho Cường vừa không an tâm cho mình. Đứa bé ngây thơ dịu dàng trước mặt anh đó, đứa bé vâng lời kề mũi lại gần để hôn lên má anh, đứa bé ấy một ngày kia sẽ thành chàng trai vạm vỡ tóc bỏ lòa xòa trước trán, đi giày đơ-mi-bốt và lăn xả vào đấm đá với kẻ khác để dành người yêu. Người mẹ xa cách nó, chỉ còn “mẹ” có một nửa vì một nửa tâm hồn đã dành cho “cậu”.


(1) Trường Trung học Pháp.
(2) Trường của các nữ tu Thiên Chúa.
(3) Hàng Không Việt Nam



Cường đang chạy đuổi theo một con dế. Con dế nhảy từng nhảy tới tấp, chui trốn xuống hang. Cường vạch lá, bới cỏ sục sạo tìm cho được. Khi anh đi lại can thiệp thì một càng dế đã nằm giữa hai ngón tay của cháu. Sự việc xảy ra buổi chiều làm tối đó anh không được vui. Anh đưa em đi xi-nê mà tâm hồn để đâu đâu, thậm chí quên cả việc mua theo gói kẹo mặc dù cô hàng kẹo ngồi ngay ở cửa rạp. Chúng ta đã chọn một phim ca vũ nhạc với tình tiết và lối bố cục nhảm nhí rẻ tiền. Cái gì cũng được giải quyết êm thấm, toàn hảo; những dịp may rủ nhau đến theo kiểu “trúng số độc đắc cá cặp”. Cuộc đời thật nhất định không thể giống cái xã hội tô màu hồng lòe loẹt này. Anh mới thử bước một chân tới gần em mà khó khăn đã vội vàng do dự tưởng dựng lên. Dự tưởng và thực tế chắc còn cách nhau xa. Dự tưởng chắc chỉ trù liệu được một phần tư, một phần năm thực tế.

Sau khi mãn tuồng, anh đưa em đi ăn khuya ở Lạc Cảnh. Em vừa khuấy thìa vào bát cháo vừa nhắc đến những ngày kháng chiến chúng ta ăn cơm pô-pốt (4 ) ở Phú Hòa, cơm gạo đỏ và canh “toàn quốc” (nghĩa là canh chỉ toàn những nước, quơ đũa mãi mà không tìm ra được miếng thịt). Em hỏi:

- Sao lúc ấy anh thờ ơ với em thế?

Anh trả lời là tại lúc bấy giờ em đẹp và có nhiều người con trai chu tuần xung quanh em. Anh không muốn rằng trong tình yêu cũng phải lao mình vào vòng chiến đấu như trên chiến trận. Đánh giặc lớn đã mệt rồi, còn tạo thêm chi một trận giặc nhỏ cho mình.

Em cười hỏi:

- Thế sao bây giờ anh không thờ ơ với em nữa?

Anh nhìn em giây lâu không nói. Câu trả lời không thể biểu diễn bằng tiếng nói vì tiếng nói bất lực và dùng mãi hóa nhàm. Nếu không có người ngồi xung quanh thì anh đã hôn lên đôi môi em để thay câu trả lời, để cho xứng đáng với câu em hỏi, với tấm lòng tràn trề tin tưởng của em gửi trong câu hỏi. Tình yêu quả có năng lực biến đổi con người cho trở nên ngây thơ đến độ vụng khờ. Em đoán trước anh sẽ trả lời như thế nào, thế mà em vẫn cứ hỏi. Anh bâng khuâng lo lắng trước niềm tin tưởng đó của em.

Cường nó sẽ lớn. Sẽ có hai người đàn ông giành nhau xâu xé em. Em không thể bênh một người nào và lẽ phải không giống như một cái bánh có thể dùng con dao cắt chia đôi, giao cho mỗi người một nửa. Em cần tình yêu của cả hai người và em muốn giữ trọn họ trong hai vòng cánh tay của em. Nhưng em đâu có biết rằng người đàn ông cũng ích kỷ.

Về đến nhà, anh chúc em ngủ ngon rồi vào phòng mình đốt thuốc ngồi trước bàn. Anh nghĩ đến sự phi lý của đời em. Lấy chồng bốn tháng, chồng chết, với cái bào thai trong bụng. Thật vội vàng, một sự vội vàng không cần thiết và không sửa chữa lại được. Hồi còn con gái, em hay vui đùa và hay làm nũng. Bạn bè chế em.

- Đứa nào lấy mày sau này sẽ tha hồ mà khổ vì mày. Tha hồ cho mày làm nũng, bắt chồng mang nước cho mày rửa chân và cõng mày đi tiểu.

Thực tế không ngờ lại trái ngược quá xa như vậy. Cháu Cường sẽ thành đàn ông. Nó sẽ, vì danh dự mà giành em với một người đàn ông khác. Không hẳn vì tình thương mà chỉ vì danh dự.

Anh châm đến điếu thuốc thứ năm thì nghe cửa phòng xịch mở. Em hỏi:

- Sao anh chưa đi nghỉ? Khuya lắm rồi.

Anh chưa tìm ra câu trả lời. Em đi lại gần bàn. Bộ pyjama bằng tơ Thượng Hải nền đen có vẽ những đường vòng chi chít màu tím màu vàng khiến người em sặc sỡ như một loài bướm. Mùi nước hoa ngọt ngào toát ra từ quần áo. Đôi mắt đen long lanh dưới ánh đèn. Anh cầm lấy bàn tay em, trắng muốt và êm mát. Anh ôm em vào lòng. Mùi nước hoa ở mái tóc, ở cổ, ở đôi má. Đêm mùa hạ mềm và óng ả chảy vào cửa sổ bằng những gợn gió mỏi mệt. Anh hôn lên cổ em, vai em và siết chặt vòng tay. Em thở nhọc nhằn và giọng nói đứt quãng: “đừng anh… đừng…”. Giọng nói mơ hồ như vừa có vừa không. Đầu anh choáng váng và đêm nghiêng nghiêng. Chúng ta quay cuồng, dần dần bay bổng lên từng cao và thoát ra ngoài hấp lực của thực thể xung quanh. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ hối hả chạy đuổi theo. Bên tai anh, tiếng em thở, tiếng đập rộn ràng của tim em. Da thịt em mềm, vội vàng nhường chỗ cho ngón tay anh chạm đến. Quên hết. Đảo lộn. Quay cuồng. Trong sự điên dại lãng quên đó, chợt tiếng gọi “Me” của Cường ở phòng bên vang lên. “Mẹ ơi! Mẹ ơi!” và tiếp theo là tiếng khóc. Em gỡ tay anh chạy về với con. Anh ngồi bàng hoàng, cầm lấy cái gương soi để nhìn lại mặt mình. Thật chưa bao giờ anh thấy một khuôn mặt tầm thường dễ ghét như vậy.

Hôm nay em lên phi cơ để trở về thành phố nhỏ của em. Chúng ta lẫn lộn ở giữa những người đưa đón và nhiều lúc anh quên mất lý do sự có mặt của anh ở nơi phi cảng này. Chúng ta phê bình những người đi lại xung quanh như những tên mất dạy. Một ông bụng bự bước vội vàng bên cạnh một cô vợ trẻ (chắc phải là loại V4, V5) mảnh mai nhanh nhẹn. Cô vợ có dáng thẹn khi phòng đợi có nhiều gương mặt trẻ dáng chừng là sinh viên. Cô đi từng bước thật nhanh và dài để tăng khoảng cách giữa chồng và mình. Anh bảo em:

- Cô vợ trẻ ấy đang hạ quyết tâm: sẽ về xin ly dị ngay với ông chồng lắm mỡ. Nhưng…

-…?

- … Nhưng về đến nhà thì quyết tâm bị hạ. Cái tủ lạnh, cái máy điều hòa không khí, cái ô tô, cái biệt thự…

Em gật đầu và kéo tay anh chỉ về một người thanh niên ngồi lẻ loi ở một góc phòng.

- Anh đó.

Anh chưa kịp hiểu ý em, và em mỉm cười giải thích:

- Anh không soi thấy bóng anh khi nhìn vào người thanh niên ấy sao? Con người cô độc nhìn kẻ khác sung sướng xung quanh mình.

Em lại bắt anh lục soát thân phận và hoàn cảnh mình. Không có thú vị gì hết. Từ nãy giờ anh thấy thoải mái bởi được quên mình, khỏi phải nặn ra một khuôn mặt buồn và làm nháp một số lời lẽ xót xa cho hợp với hoàn cảnh. May thay, phi cơ hôm nay không bị trễ. Anh nói:

- Thôi, em đi đường khỏe mạnh.

Anh bế Cường lên:

- Cường về ngoan với me nhé?

Cường hôn lên má anh theo lời em bảo. Nhưng giữa hai người đàn ông... Có hai người đàn ông mà chỉ một mình em. Em sẽ mất một. Ai?

Em bước lên phi cơ, mảnh dẻ như một lá cỏ. Tà áo màu vàng phất phơ. Hình ảnh của một thân bướm sặc sỡ thuộc về đêm qua. Cánh cửa phi cơ đóng sập lại. Phi cơ chầm chậm quay đầu trên piste. Chong chóng quay tít mù. Và anh xa cách em.

Vâng, cuộc đời thật nghiệt ngã và tâm hồn con người phức tạp. Chúng ta vẫn viết thư cho nhau nhưng quả tình là anh không còn giữ được niềm háo hức của buổi đầu. Phong thư mỗi ngày một nhẹ đi và trên những trang giấy chừa lề trắng mênh mông, chúng ta cứ mỗi ngày mỗi thêm lưu ý đến cảnh vật, thời tiết, nếp sinh hoạt, cả ngay đến tình hình chính trị trong nước. Em lại tha con đi từ tỉnh lỵ này sang tỉnh lỵ khác, đổi từ ngành này sang ngành kia. Anh thì cầm chân một chỗ như con đò đã gác cao mái chèo, buộc dây vào cọc.

Một hôm anh gặp thằng Hưng, một thằng bạn, ở ngay giữa quán giải khát.

- Ê! Mày vẫn còn ở Pleiku chớ?

- Vẫn ở đó như thường. Đâu có dễ mà moa rời xa nó.

- Cuộc sống vẫn thú vị?

- Rất. Moa vẫn sống hết mình, cho dù Chánh phủ bắt moa đi Côn Sơn hay về hẳn Thủ đô.

Anh nhìn thằng Hưng: mái tóc đen, rậm, cắt cao. Đôi mắt tinh nhanh có nhiều lửa. Đôi vai dày và cánh tay vạm vỡ. Miệng nói ngọt và nói không ngớt.

- Ở Pleiku moa chả buồn tí nào cả. Về đây là chỉ để thay đổi không khí chơi thôi, chớ không phải là vì moa đói.

- Đã sắp báo hỉ chưa?

- Dại gì. Moa còn phải phá làng phá xóm một thời gian dài nữa.

- Nhiều của ngon chớ?

- Không chê được.

- Mày kể tao nghe thử đi.

Hưng bắt đầu bằng hai cô bạn đồng sở. Đến một phụ nữ bán quân sự. Một dược tá. Sau đó, hắn chỉ tả sắc đẹp, nói về tuổi tác, trường hợp gặp gỡ, trình độ giao hảo mà không nói xuất xứ. Bởi vì nhiều quá, hắn lẫn lộn như người ta vẫn thường xếp lộn hồ sơ. Chợt hắn vỗ vai anh:

- À này, moa vừa “thông cảm” với một trường hợp này. Ngon lắm. Góa chồng. Còn trẻ. Đẹp. Có một đứa con nhỏ.

- Mày thông cảm đến độ nào? Dẫn đi píc níc với nhau chưa.

- Đi píc níc thì có nghĩa lý gì. Không quen nhau vẫn có thể cùng đi píc níc được. Đằng này thì còn hơn thế nhiều. À, moa có cái ảnh của “en” tặng đây.

Hưng móc ví ở túi quần và anh chợt hồi hộp lo sợ. Có phải người đàn bà đó là em không? Pleiku chính là cái thành phố nhỏ của em hiện tại. Sao anh cứ tin rằng người đàn bà đó là em. Góa chồng. Trẻ. Đẹp. Có một con nhỏ.

- Người Trung hay người Bắc? - Anh hỏi.

Mắt Hưng đang nheo lại vì hắn đang lục vào những ngăn ví chật. Đủ thứ giấy tờ làm bụng ví căng phồng lên. Thẻ căn cước bọc nhựa. Thẻ cử tri bầu Quốc hội lập hiến, Quốc hội lập pháp. Giấy chứng nhận đã tiêm ngừa dịch hạch. Một tờ biên lai gửi thư bảo đảm. Những tờ giấy bạc nhầu bẩn. Mấy tấm danh thiếp…

Hắn quay mặt lại nghếch mắt hỏi:

- Toa vừa bảo gì?

- Tao hỏi cô ấy người Bắc hay người Trung.

- À. Nghe giọng nói miền Nam.

Hắn nhét lại tất cả giấy tờ vào ví.

- Moa bỏ quên ở đâu. Chắc để trong cái ví kia. Đẹp lắm.

Hú vía. Ít nhất anh cũng còn có được một thời gian để mà nửa tin nửa nghi. Ít nhất anh cũng còn được một chút hi vọng rằng em chưa rơi vào tay một thằng đàn ông tàn bạo có kinh nghiệm như thằng Hưng. Hắn có đôi cánh tay không biết mỏi của một con bạch tuộc và đôi môi háo hức như hấp khẩu của một con sao biển. Sau khi từ giã Hưng, anh chợt thấy mình đã tối trí hết sức. Sao không dò hỏi hắn thêm vài chi tiết nữa. Chẳng hạn “en” mập hay ốm? Chừng mấy tuổi? Chồng trước làm gì? Chồng chết vào trường hợp nào? đứa con trai hay con gái? tên là gì? v.v… Nhưng dẫu cố hết sức níu vào những thoáng hy vọng, anh cũng lờ mờ cảm thấy rằng mình không thể an tâm được. Pleiku không phải là thủ đô có nhiều đàn bà góa, trẻ, đẹp, một con… thay em. Và những thằng Hưng thì phát triển nhiều trong một xã hội mỗi ngày mỗi thèm nhiều chinh phụ và góa phụ.

Em,

Thư này anh viết, có thể cuối anh sẽ không gửi cho em. Xuất phát từ những cảm xúc do một kỷ niệm ngồi nhìn ráng đỏ với em, anh nhân dịp soát lại tâm tư và thấy vẫn còn rất đỗi rụt rè trong sự dự phóng về tương lai. Anh với em không thể mãi mãi là hai con đường chạy song song mà phải như hai tia sáng hoặc là hội tụ hoặc là phân kỳ. Lấy tất cả chân tình mà nói thì anh vẫn yêu em như ngày xưa, sung sướng và khổ sở trong tình yêu đó. Gặp gỡ sum họp hay xa cách nhau dứt khoát, điều đó hiện thoát ra ngoài tầm tay quyết định của anh. Anh đang lần mò tìm đường và anh hi vọng rằng rồi sẽ được gặp em, chính em, trọn vẹn là em trên con đường mà anh đang dọ dẫm bước tới.

Anh.


(4) popote : ăn cơm tập thể.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 27.11.2012 10:46:26
3. TRẢ THÙ



Phong liếc mắt vội qua trang nhất của tờ báo. Những chữ lớn in đậm nói về thời cuộc. Hôm nay tình hình thế giới cũng chỉ lục đục bình thường như hôm qua hôm kia. Ba ông hoàng thân nước Lào đánh một ván cờ quá kéo dài khiến những kẻ tò mò đã chán, bỏ cuộc dần dần. Đến nay thì những địa danh Nam Tha, Vạn Tượng, Sanh van na khet, Mương Phin…. Lẫn lộn tất cả, người bàng quan không còn nhớ rõ địa điểm nào thuộc về phe nào nữa. Những cảnh giết chóc đốt phá, những tiếng khóc đau thương trong khói lửa chỉ còn hiện ra mờ nhạt dưới hình dáng lãnh đạm của những chữ in quá quen thuộc. Ở những địa điểm khác nơi mà tình hình chưa ngã ngũ rõ ràng thì nhà báo có một số dụng ngữ lập lại: Tổng trưởng X tỏ ý tin tưởng rằng… Theo giới thạo tin thì… Người ta ước đoán.. Có lẽ.. Nhìn về phía tình hình trong nước thì chỉ một đôi vụ lường gạt nhỏ, một vài cái chết quá mức tầm thường (chẳng hạn bị tình phụ mà chỉ nhảy xuống sông tự tử rồi chết luôn). Những sự việc nhỏ xảy ra trong xã hội như được xếp đặt theo từng mùa. Một vụ tạt át xít lớn bao giờ cũng được nối tiếp nhau bằng một số những vụ tạt át xít nhỏ. Rồi như nhàm với trò chơi này, một loạt những thanh niên mê tốc độ rủ nhau lần lượt gây tai nạn trên xa lộ mới, cung cấp cho báo chí một số những tĩnh tự ghép: khủng khiếp, rùng rợn, chưa từng thấy, quá sức tưởng tượng… Rồi sau đó mọi người nghỉ ngơi và báo chí cũng dường như nghỉ ngơi theo.

Vừa đưa mắt tìm những cái đề, Phong vừa kết luận một cách thất vọng: “Chẳng có gì quan trọng”.

Thật vô lý hết sức nhưng cũng như mọi độc giả khác cả bình dân lẫn trí thức, chàng thấy rằng tờ báo không xứng với giá tiền mua nó khi nó không nói đến những tin tức kinh khủng. Chẳng hạn: Cuộc đảo chính xảy ra ở nước A, xác nhà vua bị phơi giữa chợ… Động đất ở thành phố B nhà sập vùi nửa triệu người… Trong bữa tiệc linh đình của nhà triệu phú C, tất cả quan khách điều bị ngộ độc chết cả… Hoa hậu thế giới D bị tên tướng cướp... vân vân. Không biết có phải bản chất con người thường thấy mình sung sướng hơn lên khi những người xung quanh họ gặp tai ương thất bại không? Có lẽ như thế thật chăng?

Phong vừa lặng lẽ lý luận vừa lật sang trang sau. Đó là trang quảng cáo những cuộc vui, những tuồng hát, tuồng chiếu bóng. Chàng tò mò đọc qua một lượt tên các rạp, tên các tuồng, và tên những tài tử chính. Sự tò mò của chàng giống y như sự tò mò của kẻ đi xem đám cưới, xem người ta ăn tiệc, xem người ta nhảy đầm. Lý do là chàng không ở Sài Gòn mà ở tỉnh nhỏ.

Chàng lật sang trang ruột. Những truyện ngắn, truyện dài, truyện ly kỳ, truyện tò mò, sân khấu kịch trường, vườn thơ, mách luật… không phải là món ăn của kẻ vội vàng. Chàng nhìn xuống mục “Tử Vi”. Bỏ đi những hình con chuột, con trâu, con cọp, con mèo… in lòe nhòe, mắt chàng đậu lại ở ô con chó. Nhà khoa học huyền bí dạy rằng:

“Có tin hay ở xa đến. Tuổi 31 gặp bạn tâm tình. Buổi chiều có hoạnh tài”

Cái điệp khúc “Có tin hay ở xa… Gặp bạn tâm tình… Có hoạnh tài…” chàng đã nghe nhiều lần, hôm nay tự nhiên làm chàng nhíu mày khó chịu. Thường mấy ngày trước những lời tiên tri đều đến làm cho chàng vui, cái vui giễu cợt. Đạo nhân bảo đừng nên ra vốn, bất lợi. Thì chàng có vốn bao giờ đâu mà ra? Đạo nhân bảo “Gặp hoạnh tài”. Hoạnh tài đâu mà gặp? Đã mấy tháng nay chàng không mua vé xổ số nữa. Trước đây, kỳ nào cũng mua ít nhất hai vé. Không phải vì mong ở hoạnh tài nhưng mà vì cô bán vé số có đôi mắt đẹp. Cái thú của người độc thân là mua bán không tính toán. Ngày còn ở Huế, chỉ vì cô bán hàng tạp hóa đẹp mà hộc bàn nhà chàng đầy những viên xà bông thơm. Đứng nói chuyện vẩn vơ gì một lát rồi khi bước ra phải mua một vật gì cầm tay. Chỉ có xà bông thơm là tiện mua nhất. Ngày đổi về Phan Rang thì vì cô thu ngân ở hiệu thuốc tây mà nhà chàng đầy những hộp Kalmine, vì cô hàng sách Thanh Đạm mà phong bì thư gửi hoài không hết. Thật cũng dễ tìm biết tâm hồn của một anh chàng độc thân. Cứ nhìn trong phòng thấy món gì dư một cách khả nghi thì cứ truy nguyên ra là tìm được manh mối. Nhưng từ khi cô hàng bán vé số lấy chồng thì chàng thôi không còn mua vé số nữa. Chàng không có số được hoạnh tài. Mua bao nhiêu vé mà chưa lần nào trúng được một trăm bạc. Thậm chí có vé chàng thử đem dò đến 10 lần xổ mà tuyệt nhiên không lần nào trúng nổi 2 con số sau cùng. Vậy thì chỉ còn có mục “Tâm tình” là hơi có thú vị. Ba mươi mốt tuổi rồi mà chưa có vợ thì lẽ tất nhiên là mục tâm tình phải rất có thú vị. Nhưng đã rất nhiều ần rồi những tâm tình đạo nhân bảo gặp mà vẫn không gặp, tin hay bảo đến mà nào thấy đến.

Phong vất tờ báo xuống giường, hơi bực bội như mình vừa bị ai đùa dai.

Suốt cả buổi ngồi làm việc, chàng tưởng đã quên đi những điều nghĩ ban sáng. Nhưng không. Cứ mỗi lần ngơi công việc một chút, mỗi lần ngồi lắng lại lòng mình một chút là chàng cảm thấy có cái gì khang khác, có cái gì vương vấn trong tâm hồn. Suy nghĩ một tí, chàng nhớ ra ngay mấy điều tiên tri ở mục Tử vi. Và chàng lại nhẩn nha nghĩ đến nó. “Tuổi 31 gặp bạn tâm tình…” chàng thấy lòng gợn một niềm vui nhẹ. Bạn tâm tình? Đó là cô Khánh ở nhà đối diện vẫn mỉm cười kín đáo mỗi lần chàng bất chợt nhìn sang gặp cô đang cầm thau nước tưới hoa? Đó là cô Duyên mà chàng nhất định phải gặp đi xe đạp ngược chiều với chàng vào lúc 7 giờ 15 ở ngang ngã tư Lê Thánh Tôn - Phước Hải? Không, chắc không phải đâu. Đó là những người đã quen quá, quen đến cái độ mình không nghĩ rằng có mặt. Không, có lẽ phải là… là… là… là ai? Tìm mãi không thấy ai có thể là bạn tâm tình, Phong chợt buồn cho cuộc đời cô đơn của mình. Gặp phải trở ngại, óc chàng dừng lại một chút rồi nhẹ lướt qua mục “buổi chiều gặp hoạnh tài” như sẵn theo một cái trớn nhỏ. Nhưng hoạnh tài ở đâu mà gặp? Mình không mua vé số nữa. Mình không hi vọng gặp được của rơi vì mình không bao giờ đi bộ. Thấy mình sắp trở lại những ý nghĩ, những lý luận hồi sáng, chàng dẹp bỏ không nghĩ đến nữa, cúi nhìn xuống bàn. Đặt lên trang giấy trắng, tay chàng vẫn còn cầm bút và đầu ngòi bút cách xa nét chữ vừa viết đúng khoảng cách của một chữ. Chàng viết tiếp dòng chữ viết dở dang.

Chín giờ rưỡi tối, trái với thường lệ Phong lên xe đi phố. Đã hơn ba ngày nay, chàng không đi phố nên có nhiều món cần dùng mà không tiện đi mua chàng đã phải tạm nhịn: cà phê, xà phòng cạo râu, đôi bít tất mới, tờ Paris Mach tuần này.

Tiếng máy xe nổ nhè nhẹ, dòn dòn. Ánh đèn xe lóa xuống đường. Đi cùng chiều và ngược chiều với chàng, những chiếc xe đạp cũng rè rè tiếng nút bình điện xe quay. Tiếng rè rè vui vẻ, ánh sáng lóe ra và chạy vút tới, xuyên sâu vào bóng đêm khiến chàng nghĩ đến một đám côn trùng lượn đùa nhau trên một mặt ao đêm mùa hạ. Ban ngày xe cộ để lộ tính chất lạnh lùng của sắt thép, của máy móc, của khoa học cạnh tranh và tàn bạo. Ban đêm, nhất là ở những quãng đường vắng như đường Yersin này mà ánh điện đường bị bóng cây che khuất, những chiếc xe lướt qua không thấy hình dáng mà chỉ thấy ánh đèn vui vẻ và dịu dàng.

Chàng bỏ con đường vắng, rẽ sang đường Độc Lập. Ánh đèn nê-ông sáng trắng làm nổi những tà áo tươi và tăng vẻ tàn tạ cho những màu áo bẩn, sắc da và khuôn mặt cũ kỹ. Chàng nhìn sang hai bên đường. Những hiệu sách, hiệu máy hát, đồng hồ sáng hơn và tươi hơn cả bên cạnh những hiệu bán đồ sắt, bán gạo sầm uất, những hiệu chạp phô tù mù. Từng chặng có những hiệu cửa sắt kéo kín, khung cửa sẫm lại. Chàng dừng xe ở một hiệu sách. Không phải là vì hiệu sách quen mà chỉ vì tiện đường lề xe đậu. Những bản nhạc trình bày đủ màu treo giăng khắp chiếc phòng hẹp. Sách xếp ở ba dãy tủ kính kê sát mặt tường. Những tạp chí khổ lớn nằm trên dãy bàn giữa nhà. Chàng nhìn một lượt mấy tủ sách, đọc lướt qua tên các sách giáo khoa để cảm thấy thấm thía nỗi sung sướng của người lớn đã thoát khỏi cái nợ phải bận bịu trên trang sách học. Chàng bước lại dãy bàn. Những tạp chí ngoại quốc ấn loát mỹ thuật xếp cạnh những quyển tiểu thuyết bìa mang nhiều hình vẽ quái đản. Sau một hồi xem xét, chàng nhón lấy hai tạp chí thường kỳ chàng vẫn đọc, bước lại quầy hàng. Một người đàn ông ngồi thu ngân.

Phong ngạc nhiên, hơi khó chịu một chút khi nhìn đôi vai vạm vỡ, một cái sơ mi để hở cổ và một khuôn mặt dèn dẹt. Thường ngồi nơi đây là một người đàn bà trẻ tóc uốn cao vẻ mặt hao hao như một cô đào chiếu bóng nào đó mà chàng không nhớ tên. Mỗi lần lại trả tiền chàng thấy vui vui. Quả tình một cô thu ngân đẹp an ủi được đôi phần nỗi xót xa của người sắp mất tiền. Nhất là những khi vào hiệu thuốc Tây giá tiền thuốc có lúc cao gấp ba, gấp bốn giá tiền dự đoán. Vừa lo lắng cho sức khỏe vừa đau xót cho túi tiền không biết sẽ còn hao bao nhiêu nữa, vậy mà gặp một cô thu ngân xấu xí hay thô lỗ thì thật dễ bực mình. Người đàn ông này chắc là chủ hiệu, là chồng của người đàn bà đẹp vắng mặt. Anh ta chậm chạp cầm lấy hai tạp chí của chàng đưa, lật sau lưng nhìn giá tiền, rút tờ giấy bọc màu xanh lặng lẽ bọc lại, lấy một vòng cao su vòng quanh. Tiếp theo đó anh lấy bút chì “nguyên tử” làm con tính cộng. Sự chậm chạp làm tia mắt Phong nhìn anh ta nghiêm khắc lại. Tuy không nhìn xuống bài tín của anh ta làm nhưng chàng không quên làm con tính cộng trong óc: 38 đồng. Chàng đưa tờ giấy trăm. Anh hàng sách cầm lấy, bỏ cẩn thận vào một hộp đựng toàn giấy trăm rồi anh lấy tiền trả lại. Anh lấy một tờ giấy 50 đồng ở hộp đựng toàn giấy 50, lấy 2 đồng lẻ ở hộp tiền lẻ. Sang hộp giấy 10 đồng, Phong thấy anh lục lọi mãi một hồi. Không biết ý anh định tìm gì trong khi hộp đầy ắp những tờ giấy 10 đồng màu nhạt. Lục lọi một lát, anh chàng lấy ra hai tờ giấy 10 đồng đen đỉu nhầu nát chập với tờ 50 và hai tờ một, đưa cho Phong. Chàng giơ tay cầm lấy, đứng tần ngần. Chàng vò tiền nắm trong tay không đếm nhưng biết chắc là 72 đồng. Sao lại đến 72 đồng? 62 đồng mới phải chớ? Trong óc chàng vụt chạy nhanh như một luồng điện, ý nghĩ “Hoạnh tài”. Chàng đưa mắt nhìn sang anh hàng sách. Khuôn mặt vuông và cái hàm hơi bạnh ra. Miệng rộng, môi dưới mỏng, dài hơn môi trên nên uốn cong lại. Cái môi này chàng đã gặp ở đâu một lần rồi, cái môi này đã làm chàng khó chịu ở một nơi nào rồi. Chàng cầm tiền đứng dịch lại dãy bàn bày báo hàng ngày vờ nhìn xuống đọc nhưng trí óc đuổi bắt hình bóng của cái môi cong. Cái môi… Khuôn mặt mai mái… Cái hàm bạnh… Cái môi… Chàng đẩy lui khuôn mặt ấy lần về dĩ vãng. Hôm qua? Tuần trước? Tháng trước? Chàng soát lại ký ức, tìm xem cái môi ấy của ai, chàng gặp nơi nào. Tháng trước? Tháng trước?

Chàng vụt nhớ ra rồi. Một khuôn mặt hiện ra, rõ ràng. Đúng là môi cong đó. Cũng cái hàm bạnh. Hai con mắt giảo hoạt. Một mái tóc mềm nằm an phận, vâng lời. Khuôn mặt này làm chàng khó chịu. Chàng đẩy lui ký ức vào xa hơn trong dĩ vãng để thay khuôn mặt kia bằng một khuôn mặt khác. Một mái tóc uốn cong. Đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Tà áo phất phơ và gót chân uyển chuyển. Mùi nước hoa Tabou. Tâm hồn chàng dừng lại mơn trớn cái hình ảnh đẹp kia, đồng thời cái khung cảnh gặp gỡ cũng như trải rộng ra trước mắt chàng. Đó là khung cảnh của thành phố Quảng Ngãi.

Chừng một tháng trước đây chàng nhận được giấy đi chấm thi ở Quảng Ngãi. Địa điểm này làm chàng thất vọng. Sao không đi Huế hay Đà Lạt mà lại về cái tỉnh nhỏ này? Đi bằng xe lửa thì đoạn đường có nhiều trở ngại mà đi bằng máy bay thì Quảng Ngãi không có phi trường. Hội đồng giám thị ở Trung tâm Quảng Ngãi do đó mà nhận được không biết bao nhiêu những đơn xin vắng mặt kèm theo giấy chứng của Bác sĩ. Thành phố Quảng Ngãi bé quá chỉ có hai con đường buôn bán. Cứ cách chừng năm mươi thước là có một nhà sản xuất kẹo gương mạch nha, đường phổi. Đó là ba món hàng thổ sản. Đặc điểm những thành phố nhỏ là có những sản phẩm đặc biệt của địa phương. Đô thị lớn thường không có bản sắc đặc biệt về mặt sản xuất, ở đây cũng là nhà máy sợi, nhà máy cửa, nhà máy sản xuất dụng cụ. Quảng Ngãi chỉ có một rạp hát nhỏ mà cũng không đủ người xem. Người đi phố mua sắm, mặc cả, chọn lựa một cách cần mẫn chí thú. Thiếu hẳn những người thừa lương đi tản bộ.

Sáng hôm thi Phong nhìn lên hai tấm bảng đen ghi tên các vị giám thị. Có từng mươi tên cô giáo mang nhiều tên hoa, tên chim mỹ miều. Khi người thư ký Hội đồng cầm phấn lại bảng ghi tên phòng trước mặt mỗi tên giám thị, chàng đọc được sự hồi hộp lý thú ở những người ngồi cạnh mình. Sự tò mò của các cô giáo biểu lộ dễ thấy hơn vì họ đứng cạnh nhau nên vừa chỉ chỏ vừa thảo luận nho nhỏ. Các giám thị đàn ông tỏ vẻ lãnh đạm hơn, nhưng đó là một vẻ lãnh đạm cố tạo ra. Vì có một trò rủi may đang diễn ra trên bảng đen kia. Mình sẽ giám thị với ai sáng nay? Chiều nay? Mình sẽ giám thị phòng nào sáng nay? Chiều nay? Từ phòng 1 đến phòng 7 là phòng nữ sinh. Giám thị giờ thi Toán, thi Lý hóa mà được nhằm vào phòng nữ sinh thì đỡ nhọc vì nữ sinh không bạo dạn như nam sinh. Giám thị với một cô giáo bao giờ cũng vẫn thú hơn. Chàng không có ẩn ý gì hết. Người đàn bà đẹp như một bông hoa, ở gần họ như được ngồi trước một bông hoa đẹp, thế thôi. Nhưng sáng hôm đó, cùng nhận phòng 15 với mình là một cái tên đàn ông. Phong lại ôm xấp giấy thi đi thẳng đến phòng mình. Chàng không lưu tâm xem người đàn ông cùng đến với mình là ai. Người đàn ông nào cũng giống nhau. Để bù lại buổi sáng, buổi chiều chàng giám thị với một cô. Cái tên đẹp và vẻ người thua cái tên một chút. Cô làm đầy đủ, nghiêm trang những công việc mà chàng giao cho: phát giấy thi, phát giấy nháp, so phiếu thí sinh và thẻ căn cước để nhận diện. Cô rầy những thí sinh nói chuyện, thu gọn những tờ giấy nháp thí sinh cố ý bày bừa bãi để người bên cạnh liếc xem, kéo về vị trí cũ những thí sinh ngồi sát vào nhau để hỏi bài. Đúng là một cô giáo quen nghề và đã có chồng con. Sáng hôm chàng lại giám thị với một cô. Lần này là một cô giáo quá trẻ, đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Chừng như nàng mới ra trường một hay hai năm. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Mái tóc uốn cao, cắt ngắn hợp thời trang. Tự nhiên chàng nghĩ rằng cô giáo không sung sướng ở cái tỉnh nhỏ này. Nhìn sang tên cô viết và ký ở tờ bìa đựng bài thi chàng đọc: “Lê Thị Hoàng Yến”. Chàng hỏi:

- Cô Hoàng Yến dạy ở trường gần đây?

- Vâng ạ. Em dạy ở trường Nữ tiểu học.

Không phải là giọng Huế như chàng thường gặp ở các cô giáo miền Trung mà là giọng Bắc.

- Cô ra trường đã lâu chưa?

- Dạ, em dạy được ba năm.

Vài thí sinh lợi dụng tình thế bắt đầu rì rào trao đổi ý kiến khiến chàng phải đi xuống góc phòng. Viên giám thị hành lang đi đi lại lại.

- Thành phố Quảng Ngãi nhỏ quá và tẻ quá chắc không phù hợp với tuổi trẻ của cô.

Chàng nói nhưng vẫn đưa mắt nhìn xuống lớp.

- Vâng ạ. Quảng Ngãi buồn lắm nên ba em đã xin đổi về Sài Gòn. Nhưng còn phải đợi bán nhà đã.

- Nhà to lắm?

- Dạ, không to lắm. Trước đây có người trả mười hai vạn. Nhưng nay vì tình hình mà họ trả sụt đi.

Vài ngón tay giơ lên xin thêm giấy thi, nàng cầm giấy đem xuống phát cho họ. Phong nhìn đôi vai tròn, hàng orlon mỏng màu hoa bèo uốn theo thân hình. Gót chân đi thoăn thoắt nhanh nhẹn. Khi nàng trở lại bàn, chàng giao cho việc lập bản danh sách những thí sinh nộp bài. Chàng nói:

- Khi thí sinh nộp bài, cô nhớ xem bài thi có ghi số ký danh không. Nhận bài xong cô bắt họ ký và cô mới giao trả thẻ thí sinh cho họ. Coi chừng kẻo họ chưa nộp bài mà đã ra khỏi phòng. Mất bài là nguy lắm. Cô sẽ được đổi đi, không phải về Sài Gòn như ba cô xin mà về Kontum hay Pleiku đó.

Nàng mỉm cười:

- Ông cũng vậy.

- Đâu có được “cũng vậy”? Khổ nhất là tôi sẽ phải đi Côn Sơn hay Quảng Đức.

Một vài thí sinh lác đác nộp bài. Khi tiếng trống báo hiệu mãn giờ thi cả hai túi bụi vừa thu bài vừa bắt ký vừa tìm thẻ thí sinh để trả lại vừa trông chừng ra cửa kẻo có thí sinh bỏ phòng ra đi. Khi công việc đã yên ổn, khi tất cả thí sinh đã ra khỏi phòng rồi, khi kiểm lại số bài thi thấy đủ, chàng bảo:

- Thế là trót lọt buổi sáng nay. Cô có thể thở ra được rồi.

Trong khi xếp lại bài thi theo thứ tự chàng hỏi:

- Cô dạy lớp Nhất phải không?

- Thưa ông không. Em dạy lớp Ba.

- Sao ít vậy?

- Em có con nhỏ, bà hiệu trưởng cho dạy lớp nhỏ để đỡ nhọc.

Phong quay lại nhìn nàng. Có con nhỏ? Đã có chồng rồi sao? Có chồng? Loáng trong một giây, từ một hình ảnh thiếu nữ mỹ miều, chàng thấy nàng chợt biến thành một thiếu phụ cam chịu.

- Chồng cô làm gì?

- Chồng em buôn bán

- Người Bắc?

- Thưa không. Anh ấy người Huế.

- Sao cô không lấy chồng người Bắc cho gần gũi?

- Thưa ông, khi đã yêu nhau thì…

Phong không muốn nghe tiếng “yêu nhau” thoát từ đôi môi kia. Giá nàng nói “bị bắt buộc phải…” thì chàng sẽ thấy dễ chịu trong lòng hơn. Để giữ vẻ thản nhiên, chàng thấy cần phải nói đùa một câu:

- Ở thành phố nhỏ người ta mau lấy chồng. Vì không có một món tiêu khiển nào có thể bận rộn tâm trí họ được. Ở thành phố nhỏ gia đình nào cũng đông con. Người ta không dùng thì giờ để la cà ở rạp hát, ở phòng trà mà họ chỉ biết tìm thú vui trong gia đình. Có lẽ đây là một định lý: “Khi đóng cửa một giải trí trường thì người ta sẽ mở thêm được một nhà hộ sinh”.

Hoàng Yến mỉm cười:

- Đó là khẩu hiệu hiện nay. Nhưng ở đây cũng còn bao nhiêu cô giáo chưa chồng.

- Chắc vì họ không đẹp bằng cô.

- Không chắc.

- Nhưng có điều này chắc: là những cô giáo chưa chồng bị hai sự thiệt thòi. Chưa chồng là sự thiệt thứ nhất và là thiệt thòi quan trọng. Thứ hai là phải dạy những lớp Nhất nhọc nhằn… Xin lỗi, chồng cô buôn bán gì?

- Nhà em mở tiệm dự trữ thuốc Âu Mỹ.

- Ở đường Phan Bội Châu?

- Thưa ông không. Ở đường Lê Trung Định

Chiều hôm sau khi các môn thi nhiệm ý: vẽ, nữ công, âm nhạc đã thi xong, có cuộc họp kiểm thảo của Hội đồng giám thị. Trên đường đi đến hội nghị chàng gặp Hoàng Yến cùng đi với một người đàn ông. Gặp nhau quá bất ngờ, chạm sát mặt nhau ở một lề đường hẹp, cả hai bên phải đứng dừng lại để chực tránh nhau. Hoàng Yến lúng túng chào chàng và phải giới thiệu người đàn ông đi với mình:

- Xin giới thiệu với ông: nhà tôi

Rồi quay sang chồng:

- Ông Phong giám thị cùng trung tâm với em.

Chàng giơ tay bắt và nhìn kỹ vào mặt người chồng khó chịu vừa thích thú vì anh không xứng với vẻ đẹp của người vợ. Một mái tóc mềm nằm rẽ hai, tuân theo một đường rẽ quá thẳng. Đôi con mắt ranh mãnh đi với cái hàm bạnh, nhiều mưu cơ và có thể tàn bạo. Cái miệng rộng. Môi dưới mỏng và dài hơn môi trên khiến có đoạn phải cong lại mới đủ chỗ. Chàng đưa mắt nhìn sang Hoàng Yến. Vẫn đôi má hồng phúng phính ngây thơ. Chàng có cảm tưởng hơi đau xót như khi nhìn một con cừu non bị vuốt sắt của một con ó hung tợn đe dọa. “Khi yêu nhau thì…”, chàng nhớ lại lời nàng. Sao con cừu kia lại yêu con ó kia được nhỉ? Họ có một đứa con. Lát nữa hai người sẽ cùng nhau châu đầu trên cái nôi hay cùng chuyền tay cho nhau đứa bé mũm mĩm.

Phong thấy bực mình vẩn vơ. Suốt buổi hội nghị chàng chỉ im lặng không nói. Lúc ở nhà ra đi chàng đã chuẩn bị những ý kiến để phê bình cách tổ chức phòng thi, công việc giám thị, công việc chủ khảo… nhưng bây giờ tự nhiên chàng thấy chán không thích nói nữa. Sáng hôm sau, khi xách vali lên tàu vào Qui Nhơn, chàng giã từ không luyến tiếc cái ám ảnh không vui kia.

Hôm nay bất ngờ chàng gặp lại cái môi mỏng dài và cong vêu. Đôi mắt ranh mãnh. Mái tóc dẹt. Sự bực mình kéo nhanh đến làm chàng cơ hồ nghẹt thở. Chàng thấy khó chịu một lần thứ hai về cái khuôn mặt sung sướng không xứng đáng đó. Anh chàng này lại cũng có một người vợ đẹp và thùy mị. Vô lý. Anh chàng này lại bủn xỉn và thất lễ với mình. Chàng nhớ lại lúc nãy anh ta đã lục lọi mãi tìm cho ra 2 tờ giấy bạc bẩn để đưa cho mình. Trên mặt hộp tiền, kìa những tờ giấy mười đồng sạch sẽ, màu trắng và màu hồng minh bạch, bạc mới giấy láng dày cộm nằm xếp chồng chất thế kia. Sao anh ta thô bỉ một cách trắng trợn vậy? Sao anh ta dám coi thường mình, dám ngang nhiên chọn giấy bạc bẩn dành cho mình, chọn trước mũi mình? Anh ta đáng bị mắng. Mất 10 đồng còn quá nhẹ đối với tội vô lễ. Nhân quả cũng rõ ràng ra đó. Đầu óc bủn xỉn suy tính về những tờ giấy bạc mới cũ mà hóa ra tính lẫn tính lộn, cái lợi không thấy đâu mà cái lỗ đã rõ ràng. Nhưng dù nghĩ vậy, chàng cũng mong rằng anh ta chợt tỉnh lại để thấy rằng mình tính lầm 10 đồng và anh ta đến xin lại. Chàng sẽ rất tự nhiên mở nắm tay ra bỏ đống bạc lên bàn cho anh ta tự đếm lấy. Không đếm tiền thối lại là một cử chỉ lịch sự, vậy tiền thối dư hay thiếu không thuộc trách nhiệm của chàng. Nhưng đưa mắt tìm anh hàng sách thì thấy anh đã rời bỏ quầy hàng đi sang đứng cạnh hai thiếu nữ vừa đến. Hai màu áo hồng và hai khuôn mặt xinh xắn. Cạnh đó, cái môi dưới của anh ta cong lại một cách kệch cỡm. Hai con mắt láu lỉnh rình rập. Tất cả khuôn mặt như bị căng ra, đẩy vươn tới, chuẩn bị để vồ vào câu chuyện của hai cô kia.

Tất cả đều bất lợi cho anh ta. Phong chầm chậm bước ra cửa. Mười đồng cầm dư trong tay như gào lên “Trả lại cho anh ta đi. Của phi nghĩa. Danh dự…”. Chàng phải đứng dừng lại trước một tấm quảng cáo lớn rao tên một tờ nguyệt san sắp ra đời. Vừa lơ đãng đọc những chủ trương nghệ thuật, mục đích xã hội của tờ báo, chàng vừa tự nhủ:

- Hay đem tiền vào trả cho anh ta! Nhưng mà… Trễ quá. Chẳng lẽ bây giờ.. Đáng lẽ lúc nãy…

Trong khi suy nghĩ, óc chàng nhớ cẩn thận đến câu tiên tri đọc hồi sáng “buổi chiều có hoạnh tài”. Chàng suýt kêu lên: “Lần đầu tiên Tử vi nói đúng”. Hoạnh tài là đây chứ gì? Vì lần nào cũng vậy, dù người ta đưa dư tiền nhiều hay ít chàng cũng đều trả lại. Có lần về đến nhà đếm lại mới thấy mình cầm dư tiền, phải lục đục đi trở lại để trả cho người ta. Nay sao tự nhiên chàng lại vò nắm trong tay? Cái gì xui vậy? Ưở, sao ngồi ở quầy hàng lại không phải là người vợ dịu dàng của anh hàng sách? sao vẻ mặt anh ta lại gợi chi đến một kỷ niệm khó chịu mà mình chưa hoàn toàn quên? Sao anh ta bủn xỉn thô bỉ đến mức là chọn những tờ giấy bạc mới cũ? đó là lòng ham mê chỉ xứng đáng với những đứa trẻ, với những bà cụ nhà quê lẩn thẩn. Sao anh ta lại vô lễ với chàng? Cho 10 đồng thì có giá trị gì đâu? 10 đồng có nghĩa lý gì cạnh vài trăm bạc chàng trả cho hàng rượu khi vui chân vào ngồi với một hai người bạn. 10 đồng có nghĩa gì cạnh một vé hát chàng đôi lúc mua mà thực tình không muốn đi xem. 10 đồng, đó chỉ là giá của một quả cam nhiều khi chua quá chàng bỏ không ăn. Phải, không ai dám tin rằng chàng tham 10 đồng của anh hàng sách, và sự thật quả là chàng không thèm tham lam thật. Có lẽ đó là “hoạnh tài” nó tự nhiên đến, bắt buộc đến theo cái luật huyền bí của nó mà mình không được biết chăng? Chớ một anh hàng sách bỏ vốn ra hàng bốn, năm chục vạn đồng sao điên rồ gì mà suy tính ham mê chi những tờ giấy bạc mới cũ để đến nỗi hóa ra lẩn thẩn tính cộng có hai con số mà đã tính sai?

Phong thấy lòng mình bớt băn khoăn một chút. Tiếng nói của Luân lý đã bớt phần gay gắt. Tuy vậy chàng vẫn còn áy náy. Trong khi đó thì chân chàng đã bước dần đến chiếc xe ghếch ở lề đường. Để dẹp hẳn sự áy náy, chàng nghĩ tiếp:

- Ta đem mười đồng này về cho thằng con nhỏ của anh coi vườn. Nó sẽ mừng lắm. Mấy hôm nay nó những ước ao đi xem phim Ấn Độ. Nó nghèo lại tàn tật. Nó cần mười đồng đó hơn là anh hàng sách vô duyên kia. Vả lại anh ta đáng bị phạt về tội vô lễ, tội bủn xỉn.

Phong thấy tâm hồn mình đã gần thanh thản. Trước khi nổ máy xe, chàng nhìn xuống đồng hồ tay.

- Mười giờ rưỡi đêm.

Cái ngày hôm nay có thể được coi như đã kết thúc vào giờ này. Những băn khoăn của lương tâm qua đi, chàng thấy lòng lâng lâng một niềm thích thú nhỏ: chàng đã muốn và đã giúp được cho Tử vi nói đúng một lần.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 27.11.2012 10:50:04
4. KHOẢNG TRỐNG SAU LƯNG: Đã có trong TV

5. MÙA HOA XOAN



Nha Trang… tháng… năm…

Chị Hoa,

Em chán quá chị ơi. Không biết học trò của chị ra thế nào chớ học trò của em sao mà chúng làm em nản lòng đến thế. Đêm đêm mình cặm cụi dưới ánh đèn, soạn bài thật đầy đủ, chấm bài thật kỹ lưỡng và lúc nằm xuống giường sắp đặt trong óc những điều sẽ giảng sáng hôm sau. Chỉ những lúc ấy là vui. Mình nghĩ đến những kiến thức ngày mai sẽ rót vào tâm trí của những đứa em của mình. Thật là phấn khởi biết bao khi mình tưởng tượng rằng sau một giờ nghe giảng dạy các tâm hồn ấy thấm nhuần những tư tưởng mới, giống tựa những mảnh đất hoang khô cằn trong phút chốc đã xanh màu búp non, lá mới, trắng, hồng những nụ hoa đầu. Ấy vậy mà khi vào lớp ngồi giảng bài thì những bực tức ở đâu dồn dập đến đẩy xa cái cảm giác êm đềm của mình như những cánh bướm yếu dù cố sức chống lại vẫn bị ngọn gió mạnh cuốn đi mất.

Học sinh họ ham chơi nhiều quá. Mình tận tụy ngồi giảng mà có một số cứ nhất định lén nói chuyện. Có lẽ tại em là cô giáo trẻ chăng? Hay tại vì em hiền lành chăng? Nếu thế thì con người quả đáng ghét thật. Họ chỉ chịu phục tùng dưới quyền lực chớ không muốn tự mình quản trị lấy mình. Chị dạy ở trường Nữ Trung học chỉ có toàn nữ sinh nên không khí nhất định là dễ chịu. Em rủi bị đưa về trường này học sinh cả nam lẫn nữ nên…

Loay hoay nghĩ một lát không biết viết tiếp “nên” gì, Liên bỏ bút xuống bàn, gạt tờ thư sang một bên. Nàng với lấy tập bài cầm bút lên sửa. Những sự bực mình không trút hết trong thư khiến cho những đường gạch đỏ dài thêm, những chữ phê to ra, nét đậm hơn. Có những bài luận chỉ đọc tên người học sinh là đã có thể gặp câu nào cũng phê chữ “bất thành cú” được. Không ai có thể tưởng tượng được sự kém cỏi, sự cẩu thả đi đến chừng mực ấy. Nhiều học sinh không làm nháp nên viết xóa nhòe nhoẹt cả bài làm. Thỉnh thoảng đọc được một bài, chữ viết sạch sẽ lời văn gọn gàng Liên cảm thấy lòng hớn hở vui như được nghe một lời mơn trớn nhẹ.

Nhìn đồng hồ thấy đã đến giờ dạy, Liên bỏ bút đứng dậy thay áo. Chiều nay nàng có hai giờ ở lớp đệ Thất. Dạy lớp nhỏ nàng thấy dễ chịu hơn cả vì học sinh tuy có ồn ào nhưng ngây thơ, vô hại. Nàng yêu những mái tóc rối, những bộ mặt thật thà phản ảnh trung thành tâm hồn của chúng. Nhiều em áo quần xốc xếch, chân đầy bụi mốc. Tuy vậy, nhìn mỗi cặp mắt mở rộng, những đôi môi hé trễ tràng, nàng có cảm tưởng rằng đó là những hấp khẩu hút tâm hồn chúng bám chặt vào lời giảng của nàng. Những sự ngứa ngáy tay chân cũng đáng tha thứ, đáng yêu. Ngồi một lát thì chợt nhớ phải xin đi tiểu. Cô giáo vừa quay lên bảng thì đã có những cùi chỏ thích vào sườn người bên cạnh. Rồi gãi đùi, rồi quơ chân tìm dép, rồi kiện nhau vì những chuyện vu vơ không dính dáng gì đến đời sống học đường hết. Chúng tưởng cô giáo có thể giải quyết được hết thảy mọi tranh chấp, giải thích được hết thảy mọi hiện tượng. Thằng Minh giọng ề à như một ông già nghiện rượu, chuyên môn đem những việc cãi cọ ở xóm Lò Heo của nó ra chứng minh ở lớp. Chứng minh gì, đố ai hiểu. Có lần nhân dạy về Nhị thập tứ hiếu, Liên hỏi:

- Các em thấy ở trong phố mình, xóm mình có những người bất hiếu không? Họ bất hiếu như thế nào?

Tức thì Minh vừa giơ tay, vừa kéo quần đứng dậy vừa lè nhè nói, không kịp đợi lịnh cô giáo.

- Thưa cô, ở xóm Lò Heo có ông thầy thuốc Bắc có người con ăn chơi “một cây”. Hồi hôm ăn trộm vô cạy tủ, may có người con đi ăn chơi về khuya nghe tiếng động nên ăn trộm thất kinh chạy mất. Thanh niên dân vệ chạy rượt theo đến đền Xương Huân. Con cũng chạy theo mệt quá…

Liên phải lật đật ra hiệu cho nó ngừng lại rồi hỏi:

- Em định kể câu chuyện gì đó? Chứng minh điều gì?

Minh trố mắt nhìn lên, miệng hả ra rồi lắp bắp nói:

- Thưa cô… không có.

Rồi mỉm cười lặng lẽ ngồi xuống. Cả lớp thông minh, mau hiểu cười rộ lên. Thằng Vinh thì nhanh nhẹn hoạt bát nên dễ sinh ra ồn ào làm mất trật tự. Nhưng một khi bị điểm xấu về hạnh kiểm là từ một khuôn mặt láu lỉnh thông minh, nó chuyển ngay thành một khuôn mặt vừa đau khổ vừa đần độn. Giọng nói thanh vang lanh lảnh hằng ngày đã trở thành, trong phút chốc, rời rạc mỏi mệt. Với vẻ mặt ấy, giọng nói ấy, nó lên xin cô giáo xóa đi điểm xấu kia, miệng quả quyết là nó bị oan nhiều và hứa chắc chắn là nó sẽ tốt, từ giờ này. Lời hứa ấy Liên cũng chắc chắn là nó sẽ lập lại cho đến cuối năm, nhưng Liên vẫn không thể ghét nó được. Thằng Lai lười biếng, thằng Tú vô lễ, thằng Chuyên ngớ ngẩn… tất cả những em bé học sinh, Liên đều yêu chúng với những tật xấu của chúng. Trong nhiều trường hợp Liên còn cảm thấy rằng chính những tật xấu ấy lại, ngược lại, làm cho Liên yêu chúng hơn. Những tật xấu ấy là kết quả của sự chăm sóc thiếu sót của cha mẹ, sự thiếu sót không cố ý.

Sang đến lớp Đệ Tứ, Liên ít nhẫn nại được trước vài biểu lộ cá tính của học sinh. Một chị học sinh lớn ngồi giữa lớp che miệng nói chuyện với bạn. Liên cất giọng ôn tồn nói:

- Chị Lệ, đừng nói chuyện.

Tức thì người học sinh đứng dậy:

- Thưa cô, em đâu có nói chuyện?

Hoàn toàn là vẻ ngơ ngác và giọng nói quả quyết của người thành thật bị oan. Liên tức quá vì việc nhỏ nàng muốn cho qua bằng lời nhắc ôn tồn, không ngờ lại phải sắp mất thì giờ vào đó. Nàng phải nghiêm giọng nói:

- Chúng ta chỉ có hai người. Hoặc là chị, hoặc là tôi, nhất định phải có một trong hai chúng ta nói dối. Tôi đang giảng bài. Tôi không muốn sinh sự với chị vì tôi không có ác cảm gì với chị hết. Chúng ta không có mâu thuẫn gì với nhau về quyền lợi, về tư tưởng… mà trái lại, chúng ta cùng nhắm chung một mục đích : đó là làm sao cho chị học giỏi. Thôi được, chị ngồi xuống.

Cả lớp im lặng và Liên nghe tiếng đập của tim mình. Óc nàng rộn ràng mất đi sự bình tĩnh. Nàng cúi xuống tập giấy soạn bài, định tiếp tục giảng lại nhưng cái hứng thú bị ngắt đứt bây giờ không thể tìm lại được. Nàng cho học sinh ghi chép tóm tắt những lời giảng. Trong khi ấy, để quên sự bực bội, nàng lắng nghe tiếng gió reo vi vút ở giữa những chòm phi lao bên kia đường. Hàng bông giấy mọc ở trụ cổng nhà ai kia nở ra những chùm hoa đỏ tươi. Màu hoa đỏ yêu đời tưng bừng điểm rải rác giữa nền lá xanh giúp nàng vui vui trở lại. Mùi tanh nhạt pha vị mặn của gió biển ở ngoài khơi thổi vào, cái cảm giác mát lành lạnh của nước như quạt nhẹ vào đến tận tâm hồn. Nàng tiếp tục giảng lại bài cho đến khi bác Cai xổ kiểng bãi học.

Mấy hôm nay trời lất phất mưa, học sinh học xuất sau được nhà trường cho phép vào đứng ở sân lợp. Một số nam học sinh lớp Đệ Nhất, Đệ Nhị, lảng vảng đứng ở cửa sổ lớp học giữa lúc nàng giảng bài. Sự có mặt của những người lạ làm các nữ sinh ngồi học không được tự nhiên. Liên đã báo cho ông Giám thị biết và ông đã đến đuổi mấy bận nhưng sau đó học sinh lại trở lại. Có anh thô lỗ đứng phê bình sắc đẹp, có anh huýt sáo nho nhỏ. Những anh học sinh này thường mặc quần áo bó sát vào người trông như những cuốn chả giò, tóc chải tém và đi giày mũi nhọn. Liên đau xót khi nhìn một hai quyển vở bị xếp đôi nhét vào túi quần sau của họ, những quyển vỡ mà lúc đi học nàng trân trọng giữ gìn như những người bạn nhỏ. Mấy nữ sinh ngồi sát cửa sổ nghiêm nét mặt lại nhíu mày chú ý trong một nét đau khổ. Họ như có mặc cảm tội lỗi mặc dù họ không có lỗi gì hết. Vài cô liếc mắt một nửa nhìn xem ngoài kia người ta làm gì. Liên thấy chịu đựng không được nữa nên đi ra ngoài lớp.

- Mời các anh đi qua sân lợp để cho các em học.

Một số lớn đi dãn ra. Một số khác vẫn bất động. Có tiếng nói hỗn xược.

- Trời mưa mà, cô.

- Nhưng ở sân lợp không ướt.

Không có tiếng trả lời và cái khối người vẫn bất động. Nàng giận quá nhưng biết làm gì đây? Lại đi gọi ông Giám thị tức là tự nhận không biết đến lần thứ mấy sự bất lực của mình, sự bất lực cụ thể về hình vóc và quyền uy. Nàng nghĩ: chỉ có sức mạnh tàn bạo mới trị được những tâm hồn vũ phu kia. Giữa lúc nàng bối rối thì có tiếng giày ở phòng bên cạnh đi ra. Mấy người học sinh lẳng lặng tản hết. Thầy Phúc - vì tiếng giày vừa rồi là của thầy Phúc - nhìn nàng khẽ cúi chào rồi khiêm tốn bước vào lớp. Nàng muốn nói một lời cám ơn nhưng Phúc đã không đứng đó nữa. Phúc là một bạn đồng nghiệp cũng đổi về dạy ở đây cùng một năm với nàng. Đó là một chàng trai im lặng. Nàng lưu ý đến Phúc nhân một bữa tiệc có mời đủ các giáo chức trường công và trường tư của thành phố. Dãy ghế các cô giáo, nhất là những cô giáo đẹp thu hút được nhiều con mắt hơn hết. Một số thầy giáo trẻ ngồi chụm đầu vào nhau bàn tán ồn ào, thích cánh, vỗ vai với những con mắt ngầm ra hiệu cho nhau. Sau những diễn từ chúc từ mà người ta đoán trước được nội dung đến phần không thể thiếu được trong mọi cuộc ăn uống, - dù vui ăn vài cái bánh ngọt - là yêu cầu hát. Nhóm thầy giáo trẻ náo hoạt lên ngay:

- Yêu cầu cô Tuyết Thu hát một bài.

- Yêu cầu.

- Yêu cầu chị Xuân Anh.

- Yêu cầu chị Liên hát bài “Nửa đêm ngoài phố”.

- Yêu cầu cô Yến hát bài Bambino.

Những lời mời mọc, chối từ, nài nỉ kéo dài. Liên chú ý đến Phúc ngồi im lặng, bơ vơ lạc lõng. Lâu lâu nàng bắt gặp một tia mắt chàng đưa nhìn về dãy cây phượng trước sân.

Sau đó có những cuộc hội nghị hàng tháng, những cuộc chạm mặt ở hành lang trường. Lần nào Liên cũng lúng túng nhận cái chào lặng lẽ của Phúc. Sau phút lúng túng nàng có cái cảm giác êm ả được gặp một người bạn lễ độ. Im lặng không hẳn là cái thái độ mà nàng yêu thích, nhưng quả tình người im lặng làm nàng nể hơn. Nhiều lần nàng đã phải bảo với những học sinh vừa lười vừa ồn ào rằng:

- Các anh hãy nhìn một người bạn trong lớp, anh Chúng đó (nàng đợi dịp anh Chúng vắng mặt mới nói). Anh Chúng học không giỏi, không chăm nhưng được cái hay là không nói chuyện. Anh không thuộc bài bao giờ, làm bài thì kém cỏi, nhưng tôi chưa bao giờ nỡ nói nặng anh một lời. Chỉ vì cái vẻ nghiêm nghị lễ độ của anh. Nhác học không phải là ưu điểm, tất nhiên, nhưng đã nhác học mà còn mượn sự liến thoắng ồn ào để gây cho mình cái ảo tưởng là mình thông minh hoạt bát thì nguy hiểm lắm. Khi anh im lặng, người khác không biết là anh nghĩ gì, trong lúc có thể là anh không nghĩ gì hết. Chớ nói ra thì họ hiểu ngay sự dốt nát kém cỏi của mình.

Mùa hạch tấn ích, như một đe dọa, lững thững đến. Học sinh xuýt xoa lo khi thầy giáo đọc cho chép lịch thi các môn. Nhìn vẻ ngơ ngác của một vài học sinh, nhìn nét mặt uể oải của một số khác, Liên có cảm tưởng rằng tin báo hạch tấn ích vừa nhắc họ nhớ là họ đang đi học, điều mà thường ngày họ cố ý quên. Đối với một số khác thì tin ấy kinh khủng như một lời tuyên án. Riêng thầy giáo thì chuẩn bị để nhận những xấp bài, những xấp bài mỗi ngày một chồng cao trên bàn mình. Nhưng chấm bài nhiều, dẫu là một công việc nặng nhọc, cũng chưa đáng phiền bằng việc giữ sao cho học sinh khỏi lén đem bài theo khi hạch. Có người chịu khó chép đem theo hàng cuộn “phim” chữ nhỏ như kiến, có người xé cả hai ba tờ sách. Có người làm sẵn ba bốn bài ở nhà, những bài mà họ đoán trước thầy giáo sẽ ra. Có người đặt sách ở mặt ghế rồi ngồi. Công thức Toán, công thức Hóa học thì chép ở mặt bàn, ở bàn tay. Không đủ chỗ chép thì họ chép cả ngay lên đùi. Ngày hạch tấn ích thầy giáo phải đóng thêm vai trò Cảnh sát, vai trò nhân viên quan thuế kiểm soát hàng lậu. Thật là xa vời với những ngày ở trường sư phạm nàng tưởng tượng những học sinh lý tưởng của nàng say mê học hiểu, luôn luôn đòi hỏi thầy giáo cung cấp hiểu biết cho họ.

Một tối thứ bảy, Liên đi xem phim “Les canons de Navarone”. Nàng lấy vé ban công để bớt gặp những người quen. Khi chọn chỗ ngồi ở phòng bán vé, nàng chọn một ghế ở mãi tận góc. Nhưng khi lững thững bước lên lầu thì không ngờ người ngồi gần lại là Phúc. Phúc chào nàng và đứng dậy nhường lối đi. Nàng cũng khẽ gật đầu chào lại. Ngồi im lặng cạnh nhau một lúc, Liên thấy sự im lặng ngượng nghịu thiếu tự nhiên quá. Hai người bạn đồng nghiệp. Ý chừng cũng nghĩ như vậy nên sau một cái tằng hắng Phúc rụt rè quay sang nàng:

- Cô thỉnh thoảng mới đi xinê?

- Vâng ạ. Chỉ khi nào có phim hay.

Im lặng.

- Hôm đi xem Pépé (1) tôi có thấy cô.

- Vâng, hôm ấy tôi có đi.

- Phim khôi hài thì nội dung nghèo nàn dù trong phim có mặt nhiều tài tử hữu danh.

Im lặng.

- Sự xuất hiện của 35 tài tử hữu danh ấy, nôn nả, rời rạc, tham lam như những tấm ảnh dán trong album.

- Tôi chỉ thích có màn vũ.

Vừa lúc ấy, chuông reo và đèn tắt. Phim đêm nay diễn xuất sắc.

Cảnh bão tố nhồi đập chiếc tàu nhỏ làm Liên khâm phục sức chịu đựng của những cơ thể mạnh. Nàng tự thấy xấu hổ vì những bước đi nhỏ nhắn của mình, vì sự yếu đuối của cơ thể mình lúc nào cũng đòi hỏi săn sóc nuông chìu. “Mình tự hào vô lối vì một chút ít hiểu biết sách vở. Mình chỉ có giá trị của một cuốn băng nhựa magnétophone. Học thuộc lòng từng đoạn sách rồi viết lại, y nguyên và nói lại cho học trò nghe, ít hơn…”

… Nghĩ tới đây nàng thấy hối hận nhớ lại đôi lần mình đã khinh khỉnh đối với một vài người học trò quê mùa dốt nát.

Phim chấm dứt, đèn bật sáng. Khi đứng dậy đợi chờ đoàn người chầm chậm bước ra, Phúc quay sang nàng:

- Phim hay…

- Vâng.

- Cô cũng nhận thấy cô đào Gia Scala đẹp thùy mị…

- Vâng. Gia Scala có một vẻ đẹp gần với chúng ta, vẻ đẹp Á Đông.

- Tội nghiệp nhất và đẹp nhất là khi cô ràn rụa nước mắt lại ngồi cạnh Gregory Peck. Tình yêu vô vọng có một vẻ gì đau xót…

Liên gật đầu nhưng không trả lời.

- … Có lẽ đẹp hơn và bền hơn những mối tình có kết quả.

- Vâng, có lẽ vậy.

Thấm thoát mà niên khóa đã chấm dứt. Mùa nghỉ hè không còn được báo hiệu bằng hoa phượng đỏ, bằng giọng ve sầu mà bằng hoa xoan màu tím nhạt. Trên con đường nhà thờ, một dãy cây xoan chạy dài màu hoa nhũn nhặn nép giữa lá xanh. Đêm tối đi qua đây, thở mùi hoa vương nhẹ trong không khí, Liên nhớ đến những đêm trăng ở nhà quê. Màu phượng đỏ rực rỡ dành cho ngày nhập học của niên khóa mới. Sự phân chia màu hoa theo mùa, tiết kể cũng hợp lý. Màu tím nhạt đơn sơ, hương hoa thoáng đưa man mác phù hợp với nỗi niềm chia ly luyến tiếc biết bao. Còn màu đỏ rực rỡ phải làm khung cảnh cho nhiệt tình của những người bạn xưa nay gặp nhau trở lại, của tâm hồn náo nức học tập, cố gắng tranh đua. Họ xếp đặt sách vở để về quê và Liên cũng bùi ngùi sửa soạn hành lý về sống cạnh cha mẹ ở Huế. Đêm giã từ thành phố nàng đi lại mấy lần trên con đường nhà thờ để nhìn lại màu hoa xoan lấp loáng dưới ánh đèn đường và thở từng hơi dài mùi hoa man mác. Vào những lúc này nàng chợt thấy tha thiết yêu cái thành phố bé nhỏ đã dung dưỡng nàng bấy lâu nay, cái thành phố mà mới ngày nào sơ ngộ nàng thấy chán vì nó bằng phẳng quá.

… Hoa xoan rụng đi và hoa phượng lác đác nở. Khi hoa mãn khai và thành phố rực đỏ lên là lúc mà các trường khai giảng trở lại. Chín mươi ngày hè đã nối tiếp nhau trôi qua. Tiếng kiểng nhận học ở trường này chen lẫn với tiếng kiểng ở trường kia. Học sinh túa ra khắp các nẻo đường mang lại sinh khí cho các lề đường ba tháng nay vắng lặng. Liên bồi hồi trở lại mái trường xưa nhìn lại cảnh cũ. Nàng cảm thấy một niềm vui nhẹ khi sắp được gặp trở lại người bạn đồng nghiệp lễ độ của mình. Nhưng hôm lễ chào cờ nàng không thấy bóng Phúc. Suốt một tuần sau cũng vậy. Ghé lại vào phòng nhìn bảng phân phối giáo sư chỉ đạo các lớp nàng không thấy tên Phúc. Nàng lấy giọng thản nhiên gợi chuyện ông giám thị.

- Suýt nữa thì tôi tựu trường trễ. Đi thăm ông chú ở cửa Thuận về nhà bị cảm định lấy giấy chứng của bác sĩ để xin nghỉ một tuần. Nhưng sợ ngày khai giảng phiền nhà trường thành ra phải gắng vào cho đúng kỳ. Chắc thế nào cũng có giáo sư chưa đến kịp ông nhỉ?

Ông giám thị nheo nheo con mắt mỉm cười xã giao:

- May quá, năm nay giáo sư đến đủ kịp ngày.

Nàng thấy xót ở tim mình. Thế còn Phúc? Nàng muốn hỏi ông giám thị nhưng ngại không dám hỏi. Vả lại hỏi để làm gì? Phúc đến hay không đến đâu phải do câu trả lời của ông giám thị? Nàng lặng lẽ bước ra khỏi phòng.

Nửa tháng sau nhân buổi học tập thường kỳ của các giáo sư, có người vô tình nhắc đến Phúc. Chừng ấy nàng mới biết là Phúc bị đổi đi trường Phan Bội Châu ở Phan Thiết. Chừng nửa năm sau cũng nhân một buổi học tập, nàng nghe tin Phúc cưới vợ. Anh Ninh dạy sử địa bạn thân của Phúc nói:

- Phúc cưới con Thịnh. Hợp có nhớ con Thịnh không?

Hợp dạy Anh văn nói:

- Con Thịnh nào? Có phải con Kim Thịnh, con bà Cả Nghiễm ở chợ An Đông không?

- Đúng là nó.

- À, ai chứ Kim Thịnh thì moa biết lắm. Thế là Phúc đào nhằm cái mỏ rồi đấy. Thằng Phúc dạy vạn vật thảo nào giỏi về khoáng chất.

- Mày nói thế tội nghiệp nó. Nó hiền lành không có dã tâm đâu. Chẳng qua me nó và bà Cả Nghiễm cùng là bạn hồi còn buôn bán ở Nam Định cho đến hồi di cư cùng vào một lượt với nhau. Hai bà cụ hứa hẹn gả bán đâu từ hồi còn ở Nam Định cơ đấy. Chứ tính con Thịnh đua đòi nhảy nhót thằng Phúc không thích. Hôm hè tao có gặp nó mấy bận ở thư viện. Lúc được tin phải đổi về Phan Thiết tao thấy nó buồn lắm nhưng cuối cùng nó nói “Thôi đi như thế cũng được. Có lẽ nên xa Nha Trang càng sớm càng hay”

Vài khuôn mặt tò mò quay lại.

- Thế là nghĩa làm sao?

Giọng Ninh chậm rãi:

- Có lẽ anh chàng yêu ai ở Nha Trang nhưng mắc bà cụ đã bắt hứa hôn với con Thịnh rồi nên anh chàng cố quên đi, xa đi. Có lần anh chàng ngần ngừ sắp nói cho mình nghe chuyện nhưng rồi anh chàng lại giữ được không nói.

Liên có cảm tưởng như mọi con mắt đều nhìn về mình. Nhưng may đến đây, ông Hiệu trưởng cắt đứt câu chuyện và cuộc họp bắt đầu. Liên lắng tai nghe lời thuyết trình viên nhưng cứ từng chặp từng chặp nàng đưa mắt nhìn qua cửa sổ.

Cây keo nơi sân trường đầy hoa trắng. Có một cặp chim cưỡng véo von cất tiếng hát. Một con chuyền lên cành cây, đu mình bám vào một trái keo chín muộn mổ từng hồi. Mình chim đong đưa qua lại và đôi cánh xập xòe để giữ thăng bằng. Một con đi lững thững dưới đất cát, chốc chốc cất tiếng gọi. Chắc đó là con chim trống vì tiếng gọi vang lanh lảnh. Mỗi lần nghe chim trống gọi, chim mái ngừng mổ rồi trả lời bằng một giọng ríu rít nho nhỏ. Yên tâm vì bạn mình còn đó, con chim trống lại thong dong đếm bước rồi một chốc lại gọi. Một lát sau nó vù cánh bay lên cành keo đứng cạnh chim mái và sung sướng cất tiếng hót. Tiếng hót vang lảnh lót ấm áp và mơn trớn ngọt ngào có sức quyến rũ như một tiếng gọi yêu thương. Đôi chim xinh đẹp lông mướt màu trắng nhạt và đôi cánh điểm lông đen.

Liên vui lây cuộc đời hạnh phúc của đôi chim. Vạn vật vui vẻ dường ấy. Cây keo tưng bừng nở hoa kết trái. Hai con chim quấn quít gọi nhau. Nàng nhớ đến Phúc, nhớ đến lời Phúc nói với mình về cô đào Gia Scala:

“Tình yêu vô vọng có một vẻ gì đau xót… có lẽ đẹp hơn bền hơn những mối tình có kết quả”. Nàng đâu có ngờ rằng đó là lời thổ lộ tâm sự cuối cùng của Phúc.

Niên khóa tiếp tục. Cuộc đời của Liên lại được gắn liền với cuộc đời của những học trò của mình. Nàng nhẫn nại làm việc, âm thầm cố gắng. Những tật xấu nhỏ của học sinh một khi đã quen đi, nàng chuyển sang khám phá những ưu điểm của họ.

Chị Cháu học đến lớp đệ Tứ mà những buổi mai nào không có giờ học là gánh hoa đi chợ bán với mẹ. Một lần nàng đi dạy về thoáng thấy Cháu gánh một cặp giỏ không đi chợ về, đi bên cạnh mẹ. Nàng sợ Cháu ngượng nên tránh xa ra, không ngờ Cháu nhanh mắt thấy nàng rảo bước tới và giới thiệu nàng cho mẹ biết để mẹ chào. Hai mẹ con vui tươi như không hề để ý đến bộ quần áo đen bạc màu của mình, đến những đôi guốc mộc, đến bộ mặt nhễ nhại mồ hôi. Người ngượng, ngược lại, lại chính là Liên. Nàng thấy mình nhàn nhã quá, mình được ưu đãi nhiều quá.

Trò Út mới học đệ Thất mà đã thay cha đi giữ rẫy. Út cầm rựa đi trong đêm tối, ngủ ở chòi cao, trong khi một số bạn cùng lớp ở giữa phố mà tối không dám đi tiểu một mình. Sự mẫn cán, sức tháo vát của nhiều em học sinh khiến Liên mến phục. Tùy theo nghề nghiệp của cha mẹ mà có em may vá, sửa xe, xay bột, làm bánh, thu hàng, bày hàng. Mỗi người học sinh có một hoàn cảnh đáng cho mình tìm hiểu mà yêu thương và giúp đỡ hơn là trách móc. Dần dần nàng tìm thấy cái vui trong tâm hồn khi ý thức được rằng mình đang làm một việc có ích. Chỉ thỉnh thoảng những lúc ngồi trông chừng học sinh làm bài, đưa mắt nhìn ra cây keo ở sân trường hay giàn hoa ở trước hiên là nàng man mác nhớ đến người bạn đồng nghiệp của mình. Nàng tưởng chừng còn nghe lại ở trong phòng học bên cạnh vang lanh lảnh tiếng giảng bài của Phúc: “Tiền cam gồm có tất cả các địa tầng, có địa khai hay không có địa khai, có nham thạch tinh thể hay không tinh thể, ở dưới tầng cam biên và cách từng này bằng một nghịch diệp”

Có những buổi tối nàng ngồi một mình ở bãi biển. Nền trời đen sẫm, chi chít sao. Mặt nước cũng đen phản chiếu ánh sáng lung linh. Trước mắt nàng những đèn thuyền câu sắp hàng chạy dài ở mãi tít nơi khơi xa. Theo một nhịp đều đặn, nước biển chao đi, rút ra xa rồi ồ ạt chạy vào bờ, đập vỡ tung vừa làm sủi bọt rì rào. Dù không ai để ý đến, dù không ai biết cho, sóng biển vẫn cứ nhịp nhàng làm cái công việc của mình, không vội vàng mà cũng không trễ nãi. Bắt đầu từ bao giờ và sẽ ngừng lại lúc nào? “Thật y như cái công việc của mình và của những người đồng nghiệp của mình”. Liên nghĩ. Ai nấy đều làm việc, đều đặn chu đáo. Có kẻ để ý biết đến hay không cũng được. Như những đợt sóng kế tiếp nhau mải miết chạy vào bờ, nàng và các bạn của nàng cũng kế tiếp nhau mà dạy dỗ, uốn nắn, lớp học sinh này dạy xong thì trao qua tay người bạn khác tiếp theo không nản, không mỏi, không ngừng.

Nàng bâng khuâng nghĩ đến Phúc. Ở Phan Thiết cũng có một bãi biển vắng như đây. Không chừng vào giờ này Phúc cũng ra ngồi ở bãi biển nhìn lằn bọt trắng ngầu, nhìn con sóng nhấp nhô mà nhớ đến Nha Trang, nhớ đến nàng cũng nên. Dễ thường Phúc cũng lẩm nhẩm nghĩ như nàng. “Ở Nha Trang cũng có một bãi biển vắng… như đây”.

(1) Tên một cuốn phim.


hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 27.11.2012 20:14:36
6. Con suối mùa xuân Đã có trong TV
7. Dấu chân sa mạc



Khi tôi bắt đầu có trí khôn thì trong những khuôn mặt người quen thuộc hoạt động lẫn lộn giữa cái thế giới âm thầm nhỏ bé của tôi, tôi nhận thấy có khuôn mặt của cô Ba Hường. Nhà cô ở sát vách nhà tôi, ngăn cách bởi một bờ thành bằng gạch cao. Dù chưa bao giờ tôi hỏi cha tôi hay một bực trưởng thượng nào, nhưng tôi chắc chắn bức thành đó là do cô bỏ tiền xây cất lấy. Một công trình kiến trúc như vậy thật lạ đối với quê tôi, một làng nghèo mà những hàng rào ngăn cách nhà nọ với nhà kia chỉ là những hàng cây chành rành. Rào qua hai mùa mưa thì cây chành rành đổi sang màu xám xỉn, buồn nản. Những kỳ mưa to gió lớn, từng mảng rào như vậy ngã qua quặt lại khiến sân nhà nào cũng như rộng thêm ra, sáng sủa hẳn lên. Một số hàng rào khác trồng bằng cây xanh: cây táo nhơn, cây keo, cây lưỡi long. Rào như thế này khỏi tốn tiền mà còn có lợi.

Sang tháng Bảy, tháng Tám, để chuẩn bị đón những trận bão, nhà nào cũng lo chặt cây rào. Nhà có thang phải tuần tự cho hàng mươi nhà khác mượn, thậm chí phải cho mượn cả rựa nữa. Chen vào giữa tiếng rựa chặt chan chát, tiếng người nầy nói chuyện với người kia vang lanh lảnh giữa những chạng cây, lưng chừng mái nhà như những con chim trò chuyện. Cả xóm rộn ràng hoạt động hẳn lên. Trẻ con đứng đợi lượm tổ chim, tổ chào mào tròn trịa như những cái chén, ổ dồng dộc móc đong đưa ở những nhánh keo đầy gai. Cây ngã xuống đường, người ta kéo dồn xếp lại, lôi cả sỏi đá làm bụi bay tung. Lũ trẻ reo hò đi theo sau, mừng như đám rước. Đứa thì đội lên đầu một cái tổ dồng dộc dài ngoẵng, nhọn hoắt, đứa thì lưng cõng em mà hai bàn chân xỏ vào hai cái ổ dồng dộc vừa đi vừa kéo lê lết giả như đi hia. Đó, sinh hoạt của xóm tôi liên quan đến cái hàng rào. Thành ra khi nhìn bờ thành của nhà cô Ba Hường, tôi có cảm tưởng nó là ranh giới cách biệt hẳn chúng tôi với một xã hội nào khác, với một thế giới nào xa lạ hoàn toàn. Cái bờ thành xây bằng gạch tô vôi chạy thẳng tắp của cô không gây nên một sự sinh hoạt nào hết. Qua nhiều năm tháng gió mưa, nó ngả sang màu xám. Rờ vào thấy nhám tay, cứng lỗ chỗ như đầu đinh. Cái sân rộng cũng tô bằng xi măng. Thật là cả một dinh cơ trong đó ẩn chứa nhiều sự phí phạm rõ ràng. Vì rằng ngoại trừ nhà cô Ba còn thì tất cả mọi cái sân trong xóm đều chỉ là những vuông đất tự nhiên. Muốn làm đẹp, người ta trồng vài bụi đồi mồi, vài chậu hoa xin giống đâu đấy hay đơn giản hơn nữa là những chậu hẹ, chậu rau húng.

Cô Ba Hường góa chồng hình như đâu vào năm cô mới ba mươi tuổi. Chồng cô là người Hoa kiều, khi chết để lại cho cô nhiều ruộng nương. Cô cho tá điền làm rẽ, đến mùa cầm roi đi coi gặt. Khi lúa phơi khô giê sảy sạch sẽ, nhà rẽ chở lúa đến nạp. Sõng chở lúa đậu ở bờ sông, rồi từng người trai lực lưỡng gánh đôi bao đầy ắp no tròn chạy thình thịch vào cổng. Tiếng lúa đổ rào rào trên sân. Bụi bay mù. Nhà rẽ đong lại từng giạ, ống gạt tre gạt phắt lên miệng giạ cứa lên vỏ lúa nghe gọn, sắc làm rợn cả gáy. Tiếng đếm dõng dạc: “một… hai… ba mươi bốn chín… năm mươi… dạ thưa cô một cò (1 )” rồi đếm trở lại: “một… hai…” Sau đám bụi mù, dáng cô Ba Hường đứng chống nạnh dõng dạc, quan trọng. Trong những kỷ niệm ngày thơ, tôi thèm thuồng và kính phục một dáng đứng oai vệ như vậy. Nhà tôi nghèo, lúa lên chỉ vừa đủ ăn. Mỗi lần có hàng bánh bèo, hàng bún, hàng cốm nếp đi qua cất tiếng rao “Ai đổi bánh bèo không?… Cốm nếp đổi lúa đây…” mà tôi lật đật chạy vào giục mẹ đem lúa ra đổi thì mẹ tôi gạt ngay:

- Lúa đâu mà đổi? Mày làm như nhiều lúa lắm.

Thấy tôi tiu nghỉu muốn khóc mẹ tôi đưa tay xoa đầu tôi rồi nói:

- Phải chi nhà mình nhiều lúa như cô Ba thì mẹ đã đổi cho con ăn.

Cô Ba Hường thật đã tượng trưng cho một nếp sống thong thả phong lưu mà mẹ tôi và tôi đều ao ước. Đã thế, cứ cách vài ngày bên nhà cô có mùi thịt nướng thơm tho đưa sang. Cô ăn thịt nhiều hơn ăn cá ăn rau. Mỗi lần bà hàng thịt đi chợ ghé ngang qua cổng, tôi thấy cô bắt cân hết thịt nạc đến thịt ba chỉ rồi thịt sườn. Lệ ở nhà quê bán thịt có tặng kèm thêm những miếng lòng heo đã luộc chín. Khi nào có tôi đứng đó, cô Ba cũng lựa một miếng gan hoặc một miếng huyết đưa cho. Nhiều khi tôi theo mẹ tôi sang chơi nhà cô, cô cho ăn thả cửa: bánh ít, chuối, mãng cầu… Những món ăn thường thường quá úng hoặc gần thiu. Khi về, mẹ tôi rầy:

- Con đừng tham ăn, xấu lắm. Đã dặn nhiều lần, ai cho cũng đừng lấy.

Rồi sau đó mẹ nói với cha tôi:

- Cho trẻ con mà cứ cho những bánh gần thiu, chuối sắp úng.

Cha tôi ung dung cười:

- Chắc cô ta không biết. Ở một mình, mua ăn không hết, thiu úng không hay.

- Sao lại không biết, không hay. Tại tánh hà tiện.

- Điều đó thì cũng có.

Trong câu chuyện giữa mẹ tôi và cô Ba Hường tôi thường nghe mẹ tôi hỏi:

- Sao cô Ba không bước đi bước nữa? Nhà cô tòa cao lẫm lớn mà ở một mình ngó đơn chiếc quá.

Cô Ba trả lời chậm rãi ngập ngừng:

- Bước đi bước nữa thì cũng được, cũng phải phép. Còn ở thế này thì được cái thong thả.

- Người ta ai cũng vậy, phàm đũa phải có đôi.

Cô Ba tỏ dáng ít hăng hái bàn đến chuyện lứa đôi. Cô hay nói tới ruộng đất, giá lúa giá nếp cao hay hạ, đập Tam Giang, đập Đồng Cháy, đập Tấn Lương, đập Giá Dện nước lên xuống mực nào, nước về đồng kịp hay không, mương cái, mương con vét sạch hay bị bèo cản… cô nói thông thạo và say mê. Lúa gòn, lúa trắng, lúa ba thóc, lúa móng chim, lúa nhe, lúa Đồng Nai… nếp tượng, nếp lùn… đất nào gieo giống nào, mùa nào sạ thứ nào… miệng cô nói cứ dẻo quánh. Mẹ tôi làm tai nghe. Chỉ có tá điền mới lời qua tiếng lại với cô khi cô vi phạm vào mục chuyên môn của họ. Do đó cứ năm, mười bữa nửa tháng thì nghe bên cô có tiếng cãi cọ. Cô đàn áp tá điền. Họ chịu nhịn nhưng về nhà cứ làm theo ý họ. Cô đòi ruộng lại. Giằng co. Cô hăm đi kiện. Nài nỉ. Cuối cùng thì cô thắng trận. Vùng tôi ruộng đất ít mà người tá điền đông. Có người chiều nịnh cô đưa con gái tới ở cho cô sai vặt.

Năm tôi lên mười thì mẹ tôi qua đời. Cha tôi tính vốn ít nói càng trở nên lầm lì thêm. Ông hay ngồi trầm ngâm hàng giờ ở trên võng, miệng ngậm điếu thuốc. Một con mắt nheo lại tránh khói thuốc uốn vòng bay lên. Có khi điếu thuốc cầm nơi tay cháy sém cả ngón tay ông mới chợt biết, vội vã ném nhẹ ra sân. Cửa nhà ít khi được ngăn nắp. Chuồng heo không còn vang lên tiếng heo kêu đòi ăn như trước. Nền chuồng đất cứng lại, khô trắng. Qua hai mùa mưa, mái chuồng lủng từng mảng lớn bằng cái bát, bằng cái vung. Cha tôi thuê người dỡ xuống biến chỗ đó thành một khoảng trống làm sáng hẳn căn nhà bếp. Cùng với sự vắng mặt của mẹ tôi, trong nhà, ngoài sân, sau vườn, cũng càng ngày càng vắng thêm. Những bụi sả, bụi ớt ngã xuống mà không được thay thế. Hàng đu đủ trước kia tỏa bóng rợp quanh vại nước nay cứ chỉa mãi ngọn lên trời, nhọn hoắt cắm vài lá cọc còi. Ánh sáng chói chang thay chỗ cho màu xanh. Sự im vắng nhiều hơn tiếng cười nói.

Bên ngoại tha thiết với cha tôi và tôi hơn bên nội. Cậu Năm cứ mươi ngày thì che cái dù đen ghé lại nhà. Nơi cán dù, cậu móc ba thang thuốc Bắc cột ép vào nhau. Cậu làm thầy thuốc. Số thân chủ ít ỏi rải rác quá nên nơi chiếc áo dài xuyến đen có mụn vá. Cậu chỉ rờ đầu tôi mà không bao giờ đưa cho một món quà. Bàn tay rộng quá, chụp gọn cả cái đầu làm tôi có cảm giác ấm áp như khi đội một cái vỏ bưởi. Tuy vậy tôi vẫn thích cậu cho một trái ổi hay móc túi cho một trái táo. Trong mỗi thang thuốc đó thế nào cũng có ba trái táo đen. Tôi nghĩ: Đáng lẽ cậu lấy thêm một trái táo ở cái thẩu của tiệm thuốc chú Năm Ngâu để dành cho mình.

(1) năm chục

Dì Mười lấy chồng xa nên đôi tháng mới ghé thăm một lần. Dì giống mẹ tôi từ khuôn mặt đến vóc dáng, đến cả giọng nói. Trong nhà Ngoại chỉ có mẹ tôi và dì là đẹp hơn cả nên dì lấy chồng trước hơn cả dì Tám, dì Chín. Dượng Mười nhà giàu nhưng xấu trai. Cái gì cũng gượng gạo, cứng nhắc nơi gương mặt, nơi cử chỉ của dượng. Cà Lố - quê dượng - là một miền xa xôi giáp ranh với các buôn Thượng du. Nơi đây trẻ con không hề biết xe đạp là cái gì và những bộ ván đặt ở nhà bếp cũng dày đến một tấc, dài đến bốn thước. Thật là giang sơn của danh mộc. Tay chân ngượng cứng như thân cây, nét mặt thản nhiên như vỏ cây, dượng Mười quả đúng là sản phẩm của miền đất xa xôi này. Ở đây tất cả đều thầm lặng nghiêm trang. Rừng già màu xanh tối đứng bao vây những sườn núi an phận. Rẫy lúa, rẫy bắp, đất thổ trồng đậu xanh đậu phụng. Con trâu con bò. Suối nước chảy qua khe đá. Con chim đứng hát trên cành. Và linh hồn của cả cái khung cảnh hoang sơ này là một sự im lặng rộng lớn bao trùm từ khoảng cao đến miền xa, dượng Mười ít cười đùa, không biết trả lời những câu nói trêu! Chỉ khi nào chạy rượt theo bắt một con bò mộng sổng chuồng bỏ chạy hoặc cầm rựa chẻ cả một thân tre dài đánh lạt buộc rào là dượng có giá trị. Rõ ràng là dì Mười tôi không sung sướng trong cảnh đi lấy chồng. Dì không có tướng mạo của một người cai quản giang sơn. Dì vóc người nhỏ nhắn yếu đuối. Dễ xúc động. Hình như dì có cảm tình với cha tôi nhiều hơn với dượng Mười. Có lần tôi nghe dì khóc giữa một câu chuyện trao đổi với cha tôi và chen vào những tiếng thổn thức tôi nghe được những lời rời rạc của dì:

- Em cực tâm lắm… chán lắm… chị Tư mất… anh khổ… Phải như em…

Tôi nghĩ rằng phải như dì chưa lấy chồng thì chắc chắn là dì bằng lòng lấy cha tôi.

Trái ngược với cậu tôi, bà Ngoại thì chưa thấy mặt đã thấy quà. Chân chưa bước đến cửa ngõ mà miệng đã lanh lảnh cất tiếng gọi:

- Tiến ơi! Ra lấy gói kẹo đây con.

Có bà đâu là y như có quà và có nước mắt đó. Bà lột vỏ khoai cho tôi, bà bẻ kẹo cho tôi và bà chăm chăm nhìn tôi như một con chó con. Tôi quàng tay ngang bụng bà, miệng nhai nhách nhách cả buổi và chỉ dừng lại khi nghe bà xì mũi. Ngẩng mặt nhìn lên thấy nước mắt bà chảy ràn rụa, tôi hỏi những câu thật ngu:

- Sao bà khóc vậy? Ai làm bà khóc vậy bà?

Bà thường không trả lời mà chỉ cúi xuống hôn tôi, nước mắt dây cả ra mặt.

Đoạn tang mẹ tôi xong, những người quen thúc cha tôi lấy vợ kế. Cha tôi thường ậm ừ dường như chưa chọn được đám nào. Bà Ngoại thì thỉnh thoảng cách tháng mới ghé và mỗi lần ghé đều ở không lâu. Bà moi tất cả quần áo của tôi ra kiểm soát. Những áo quần nào đứt nút, rách… bà để riêng rồi lấy rổ khâu của mẹ tôi rút kim chỉ ra ngồi vá, đính nút. Tôi hay ngồi bên cạnh xỏ kim cho Ngoại. Lâu lâu tôi thấy nước mắt Ngoại rớt trên mụn vải đang vá. Tôi nói:

- Bà Ngoại đừng khóc chớ. Ướt cái áo của con.

Ngoại ngửng mặt lên, đôi mắt đỏ và ướt đầm đìa nước mắt. Ngoại nói:

- Cha con mày có muốn ở thế này cũng không được. Phải như mày là con gái thì còn giúp đỡ được việc nhà cho cha mày. Con trai phải đi học.

Tôi thích làm con gái để được “ở thế này” như lời Ngoại nói. Chắc đó là điều Ngoại mong ước.

Có một hôm chú Giáo, - một người bạn thân của cha tôi, - thân mật nói giữa câu chuyện:

- Hay là anh đi hỏi cô Ba Hường đi. Trai góa vợ, gái góa chồng, rổ rách cạp vành, chọn lựa chi.

Tôi đưa mắt nhìn ý kiến của cha tôi, nhưng tôi thấy ông chỉ mỉm cười. Dầu vậy câu nói của chú Giáo in sâu vào óc tôi và từ đó tôi lưu ý đến sự giao thiệp giữa cô Ba và cha tôi nhiều hơn. Tôi thấy rằng từ ngày đoạn tang mẹ tôi, hiển nhiên là cô tỏ ý thương tôi nhiều hơn trước. Chuối cô bẻ cho đều chín tới chớ không còn mang vài vết bầm đen nữa. Mãng cầu thì lành lặn chớ không nứt nẻ chảy tươm mật ra nữa. Có lần cha tôi bị cảm tôi lục tìm ve dầu mà không biết lộn ở đâu, nhà đàn ông góa vợ bao giờ cũng bề bộn, thì có tiếng cô Ba kêu tên tôi ở từ bờ thành:

- Tiến ơi.

Tôi “Dạ” chạy lại thì thấy cô giơ cao ve dầu Nhị thiên đưa qua bờ thành:

- Đem về thoa lên màng tang cho cha. Chấm vào đầu ngón tay rồi thoa dọc theo xương sống.

Tôi “Dạ”, cầm lấy ve dầu xoay lưng bước đi, thì có tiếng cô dặn với theo:

- Thoa xong con nhớ đậy nút lại kẻo đổ.

Lạ nhỉ, sao cô biết là cha tôi đau và tôi đang lục tìm ve dầu? Ở nhà tôi ai cũng ít nói. Con nhỏ ở suýt soát bằng tuổi tôi và vốn là con của một người có họ xa ở mãi chợ Đồn, chợ Thứ, cha tôi đi hàng nửa ngày đường mới dắt về được thì nó còn ít nói hơn cả chúng tôi. Nó chỉ biết nấu cơm, kho cá, luộc rau và ngủ gục bên cạnh ông Táo. Kho cá thì mặn như kho nước mắm tiêu để nuôi đàn bà đẻ. Luộc rau thì nửa xanh nửa đen. Cô Ba không tỏ ra có cảm tình với con nhỏ này. Có lẽ vì con gái hay dòm ngó và bép xép. Mãi sau đó khi thấy nó có mặt cũng như không, ngồi đâu là ngồi lầm lì khiến người ta có thể lầm lẫn nó với cái cối giã hay trái bí đao thì cô mới tỏ lòng chiếu cố nó. Cô sớt những trái chuối sắp úng và những cái bánh ít gần thiu cho nó.

Từ ve dầu nhỏ nhặt dễ trao đổi cho mượn qua lại, có lần cô Ba gọi tôi đưa một nải chuối tiêu. Ở miền tôi chuối tiêu quí lắm, trái dài và mảnh uốn cong, xếp sát vào nhau nằm đài các như những ngón tay của một cô công chúa. Cô Ba nói:

- Con đem nải chuối này về cho cha. Thưa với cha: chuối tiêu ăn hiền.

Cha tôi nhận mà có vẻ miễn cưỡng. Tuy nhiên cái gì rồi cũng quen đi, việc biếu xén trao qua trả lại diễn tiến mỗi ngày một thêm đều đặn êm đềm hơn. Nhưng nhất định là tôi chưa hề thấy cha tôi bước qua ngõ nhà cô Ba. Cha tôi không hẳn là một nhà Nho nhưng ông có cái khí tiết nho sĩ, có lẽ do ở bẩm sinh. Học chữ Nho năm, bảy năm gì đó rồi chuyển sang học Quốc ngữ và chữ Pháp. Được vài năm rồi bỏ. Khi tôi lớn, thỉnh thoảng nghe ông nhắc lại vài câu chữ Pháp học hồi xưa. Chẳng hạn:

Le boeuf a une bosse sur le dos.

Je vais avec ma mère à la mare du village (1 )

Hai mươi năm, ba bốn mươi năm sau, khi có dịp nhắc lại ngày đi học thuở nhỏ, ông đều đọc y nguyên mấy câu trên. Làm như bao nhiêu kiến thức về Pháp ngữ đã thu tóm lại để kết tinh thành mấy câu đó.

Chú Giáo lâu lâu lại nhắc:

- Sao? Anh đi cưới cô Ba Hường chớ còn đợi gì nữa?

Cha tôi chịu chuyện niềm nở hơn trước, đưa ra những thắc mắc rụt rè:

- Nhà mình nghèo hơn. Nghĩ có bất tiện…

- Cũng chẳng giàu nghèo hơn thua gì bao nhiêu.

- Sao lại chẳng bao nhiêu? Đàn ông giàu dung thứ được vợ nghèo. Đàn bà giàu thì không.

Mối cảm tình của cha tôi đối cô Ba cứ lững chững như thế, như một người đi phải chống gậy. Cho đến một hôm vô tình mà cha tôi và tôi nghe lọt một câu chuyện ở bên kia nhà cô Ba. Hôm ấy tôi theo ngồi cạnh cha tôi để moi lỗ trồng những cây cà chua ở ven rào. Bên kia bờ thành tiếng cô Ba nói chuyện với khách, giọng nói đặc biệt dõng dạc rổn rang. Chẳng biết đó là do thói quen hách dịch của người giàu có hay là biểu hiện của một tướng người đàn bà cô độc. Khách là ông hương kiểm Mót. Khi nhà nước triều đại Pétain phát triển phong trào thanh niên thể thao Ducaroy lập sân vận động An Thổ, hương kiểm Mót có lạc quyên năm mươi đồng và được thưởng hàm Phó tổng dụng. Nhưng dân xóm không mấy ai chịu gọi là ông Phó. Khi vắng mặt ông, họ vẫn gọi xách mé là hương kiểm Mót. Chỉ vì ông xuất thân làm nghề thiến heo, dốt đến nỗi cầm cây viết tập viết bốn chữ “Nguyễn Mót tự ký” mà tay cứ run khựng lên, tập cả tháng mà cầm viết cũng chưa vững. Đã vậy, “Mót” là một chữ Nôm, cách viết rườm rà phức ạp hơn chữ Hán nên người bà con đổi dùm tên ông lại là Nguyễn Thủ, bởi chữ Thủ viết đơn giản chỉ gồm ba nét ngang và một cái sổ móc câu. Sống trong thời đại không cần lập giấy khai sinh, cuộc đời thật đơn giản dễ chịu, muốn thay đổi tên họ thêm bớt tuổi tác gì tùy ý.

Câu chuyện lọt vào tai cha tôi nhằm vào đoạn hương kiểm Mót nói về một nhân vật nào đó. Giọng ông ta nhỏ lại để tăng thêm không khí tâm sự thân mật. Tôi chỉ nghe lỏng bỏng từng đoạn.

- … Làm việc ở Huyện… về hưu… giàu… con lớn hết rồi… bao chiếm cái đầm lác ở Hội Phú…

Tiếng cô Ba vang lên rõ ràng:

- Chuyện đó tôi có nghe. Cái đầm lác của làng Diêm Điền chớ không phải của làng Hội Phú. Nhưng mà giấy tờ không phân minh. Ông ta làm Lại mục ở Huyện biết rõ tình lý nên đứng giấy xin khẩn. Nhà nước chiếu y phép tắc, cấp giấy cho khai khẩn. Bây giờ ông ta mướn đắp bờ ngăn từng khoảnh, đặt cống tháo nước và cấy được ba giạ giống rồi.

- Dạ đúng đó… (tiếng nói hạ thấp xuống) tánh tình tử tế bình dân… thương con nhà nghèo… dòng dõi làm quan to ngoài Huế…

- Chỗ đó sau này thành ruộng thuộc, cấy nếp gòn thì phải thế lắm. Cấy lúa sợ bị rùm… Mấy lần lên hầu quan tôi có gặp thầy Lại đó. Tướng người thanh cảnh.

- Dạ…

Tiếng hương kiểm nhỏ hẳn lại, tôi không nghe rõ. Chợt cô Ba cất tiếng cười:

- Đâu có. Người ta ở không vui miệng đồn chơi…

- Dạ. Cô nghĩ vậy là phải. Nhà ông Học Mười nghèo (Học là tên người ta dùng để chỉ cha tôi). Thầy Lại người quí phái…

Tiếng nói nhỏ trở lại. Một lát có tiếng cười dài của cô Ba và của hương kiểm Mót trộn lẫn vào nhau.

Cha tôi cắm cái xuổng nhỏ đang cầm trên tay xuống đất, đứng dậy. Tôi nhìn lên gương mặt thấy nghiêm trang. Ông nói nhỏ, giọng hơi run:

- Còn mấy cây, con trồng tiếp đi. Cha vô nhà lấy cái này.

Tối đó cha tôi ăn ít và sai con nhỏ ở đóng cổng sớm. Ông thắp nhiều nén hương trên bàn thờ mẹ tôi và chong đèn thật khuya. Nằm trên bộ ván, tôi chập chờn đi vào giấc ngủ với trước mắt một khoảng tối rung rinh do bóng ông in hắt lên vách. Một vài ngày sau, ông gọi riêng tôi dặn:

- Con đừng nhảy qua bên nhà cô Ba Hường nữa. Không được nhận bánh kẹo gì của cô hết.

Tôi vâng dạ và làm y theo lời. Mấy lần có tiếng cô gọi inh ỏi “Tiến ơi! Tiến ơi! Ra lấy cái này” nhưng tôi nín thinh chạy núp ở trong kẹt cửa. Sau đó cha tôi hay vác dù ra đi, có khi đi cả buổi, có khi đi cả ngày. Và hai tháng sau cha tôi cưới Dì tôi.

(1) Con bò có một cái bướu trên lưng Tôi đi với mẹ tôi ra ao làng

Dì tôi mới hai mươi tuổi, thua cha tôi đến mười bốn tuổi. Quê dì ở mãi Triều Sơn, hồi giờ chưa ai biết mặt nên hôm rước dâu cả xóm ồ ạt tới coi mặt. Đàn bà háo hức hơn hết.

Ý chừng họ trông mong được thấy một con mụ dạ xoa để cho thỏa lòng tự ái và ganh tị. Tiếc thay dì tôi lại xinh xắn. Có điều là con gái miền biển nên nước da không được trắng lắm. Mấy bà có tuổi khen ngay trước mặt cô dâu:

- Mặt mày sáng sủa. Ông Học Mười cũng khéo kén chọn.

- Ờ, con người cao ráo dễ thương. Đâu có thua mẹ thằng Tiến.

Những cô con gái hà tiện lời khen hơn:

- Ngó cũng được.

- Nước da không được trắng.

- Cái áo dài hồ thủy may vụng. Tà không úp.

Hôm đám cưới tấp nập bên nhà tôi, dường như bên cô Ba không thắp đèn. Trước hàng hiên nhà cô là một dãy lan can, thường thường tối nào chong đèn là đứng ngoài thấy rõ bộ ván gõ nơi cô hay ngồi têm trầu, cái bàn thờ ở giữa và hai bồ lúa lớn quầy chồng lên nhau. Thế mà đêm nay nhìn sang tôi thấy nhà cô chỉ còn là một khối bóng đen đặc sệt.

Sự đoạn tuyệt giữa cha tôi và cô Ba Hường tôi tin chắc là do hôm trồng cà cha tôi nghe được câu chuyện trao đổi giữa cô và hương kiểm Mót. Cố nhiên là cha tôi giàu hay nghèo không phải đợi đến hôm đó hương kiểm Mót có nói ra cô mới biết. Cô tỏ cảm tình với cha tôi tức là cô đã cân nhắc rồi. Nhưng sao đã cân nhắc, đã chấp nhận mà khi hương kiểm Mót nói chạm đến cha tôi cô không lên tiếng bênh vực mà lại chỉ cười đồng tình và đồng lõa?

Sau khi cha tôi lấy vợ, nét mặt cô Ba Hường chừng như già đi. Cũng vẫn khuôn mặt đó không gầy ốm suy hao gì nhưng mà nhìn lên thấy mất đi cái phần tinh anh rạng rỡ, như một tấm gương đã mờ mờ nước thủy. Tuy vậy cô vẫn không chểnh mảng trong việc trang điểm ăn mặc. Chân tóc trên trán chạy theo một đường cong đều đặn, bao nhiêu tóc con đều bị nhổ sạch. Ngoại trừ mấy bà quí phái ở thành thị còn chỉ có vợ Huệ kiều và đĩ mới cạo, gọt cho chân tóc thẳng hàng như một đường vẽ như vậy. Cái trán nào cũng trở thành cao lên do ranh giới của tóc mỗi ngày một bị đẩy lui. Đôi lông mày có dấu vết nhíp nhổ. Môi đỏ màu nước cốt trầu. Nước cốt trầu có khi đóng đen cả vành môi, tôi nghĩ rằng cô phải năng mượn miếng trầu để giết nỗi cô đơn. Mỗi khi đi đâu, cô đều cầm gọn trong tay cái hộp trầu bằng thiếc trắng. Nó nguyên là cái hộp đựng xà bông thơm. Cầm hộp trầu, đó là một sự sang trọng. Xung quanh tôi, bà Xã, bà Hương đều bỏ trầu cau rễ thuốc trong cái khăn xéo, cuốn lại, cột gút một vòng, rồi khi đi đâu dắt vào lưng quần bên hông. Cái áo dài mặc phủ ra ngoài. Do cái khăn xéo trầu, do cái túi áo đựng đủ trăm thứ mà thân hình bà nào cũng nổng ra ở khoảng giữa. Cô Ba thường mặc áo dài tơ Thượng Hải màu xanh lục hay màu nâu non và quần lục soạn trắng. Đi dép da. Trong khi mọi người đàn ông và đàn bà đều rập khuôn như nhau trong cái áo dài đen không thay thế được, bóng dáng cô tách hẳn ra ngoài, sáng hơn, mát hơn như một đóa hoa lưu ly vượt qua lùm cỏ tối, mở tung cánh tràng làm sáng rỡ một vùng. Tiếng dép đập chanh chách dưới gót chân.

Ông Lại mục về hưu có ghé tại nhà cô năm, bảy lần. Đó là một người đàn ông mặt xương xương, cạo gọt nhẵn nhụi. Đôi vai ngang và mỏng trông như cái thẻ ngà. Lúc nào cũng đội khăn đóng mặc áo the đen và đi giày hạ. Cái dù đen cán quang dầu giương ra tròn trặn khác xa với những cái dù đen khác cán mây và mỏng trẹt. Ông đi từng bước ngắn, thận trọng, tính toán. Thật là một phong cách quí phái dịu dàng, khác xa hẳn với lề lối thô lỗ của người vùng tôi. Thuốc lá hút không phải tự tay xé giấy quyến vấn lấy mà đã có người nhà vấn sẵn xếp thứ tự trong một cái hộp bạc dẹp ông bỏ theo túi áo ngực. Người quê tôi gọi đó là thuốc sòi. Cô Ba tiếp đãi trọng thể ở gian phòng trong, nơi có nhiều bóng tối âm u và sự trang nghiêm. Ít ai được đi lọt vào gian này, chỗ cô thờ phụng và kê cái tủ để tiền bạc. Có lần tôi đi vào đây, sợ hãi nhìn lên cái trang lớn nơi thờ ông Quan Công, khiếp đảm nhìn mặt Châu Xương có vằn đen như cọp (thú thật là hồi ấy tôi chưa thấy con cọp chỉ mới nhìn thấy trong hình vẽ) đôi mắt mở trợn trừng. Cô không dám gọi là ông Quan Công, ông Quan Thánh mà chỉ gọi là “Ông”, thờ Ông, vía Ông. Sự cung kính có pha chút ít thân tình, tôi nghĩ. Vì thần thánh trở thành một vị tổ tiên của gia đình, phù trì giúp đỡ.

Nội dung sự giao tế giữa cô Ba và ông Lại mục diễn biến ra sao, tôi không được rõ. Căn cứ theo lời đồn đãi của người trong xóm thì tình hình rất đỗi bi quan. Họ bảo cô Ba bị mắc bợm. Ông Lại mục có vợ ở Huế. Nhà không quí phái quan quyền gì hết theo ông như lời hương kiểm Mót tán tụng. Bà vợ cờ bạc dông dài và mê đồng bóng, nhất định không chịu theo ông về cái huyện nhiễm sốt rét rừng này. Bao nhiêu lương tiền ông phải gửi về cung phụng cho vợ. Nhà vợ mới là nhà quan. Ông xuất thân thơ lại tầm thường chỉ nhờ tài điếm miệng mà dụ dỗ con quan làm cho có mang rồi mới được gả. Nhà vợ phải lo lót cất nhắc cho ông. Về hưu, nghèo, ông tìm kế xoay xở bằng cách xin khẩn cái đầm lác. Nhưng lấy tiền đâu mà khai khẩn? Bọn thầy cò, thập việc, lính lệ, tổng lý sưu tầm một danh sách đàn bà góa có tiền để chồng chọn. Cân nhắc nhân dạng, tình hình địa lý thuận tiện, ông chọn cô Ba Hường. Thầy cò xã Tám được ủy nhiệm bố trí. Xã Tám sai hương kiểm Mót đi nhặt tin và thả quả bóng thăm dò. Đáng lẽ theo kế hoạch của xã Tám thì công việc phải tiến hành hết sức chậm rãi bởi cô Ba có tiếng là khôn, “khôn nẻ vỏ”. Xã Tám định phải nhiều lần lấy cớ nọ đến nhà để du thuyết. Không ngờ công việc thành tựu mau quá, đốt mấy giai đoạn. Lý do ít ai biết, nhưng tôi thì quyết chắc là bởi cha tôi lấy vợ.

Ông Lại mục có nghỉ đêm ở nhà cô Ba một lần. Ông ghé lại vào khoảng chín giờ tối. Cô Ba trải chiếu lên bộ ván trước hàng ba, mang gối tai bèo, gối dài và mền dạ để cho khách nghỉ. Rồi cô rút vào nhà giữa, cài cửa cẩn thận. Lệ nhà giàu ở nhà quê cất nhà hay chia ra ngăn trước mặt chạy dài theo mái hiên để tiếp khách gọi là hàng ba. Hàng ba mở ra hiên bằng một hàng song can. Khách nghỉ lại thì nằm ở hàng ba, chủ nhà có thể rút vào nhà trong có cửa nẻo cài kín, ngăn cách. Nửa khuya tôi chợt dậy bởi tiếng chó đủ loại của bên nhà cô sủa inh ỏi. Nhà đàn bà góa phải nuôi chó dữ, cái đó đã đành. Riêng cô Ba thì cô nuôi quá nhiều, một bầy có đến năm, sáu con mà mỗi con mỗi loại. Nhưng tất cả đều là chó cái, có con lùn tịt lông trắng vá nâu, đầu to mặt gãy trông như cái mặt thằng lùn rạp xiếc sinh non tháng. Đó, theo lời cô, là con chó Nhật. Có con mình dài, chân cao, bụng thon loại “chó Tây”. Chó ta thì có cả vàng, vện, mực. Cả bầy chó đó sủa lẫn lộn, tiếng ong ỏng của con chó Tây, tiếng tru của con Vện già, tiếng chóc chóc của con Vàng con Mực và đặc biệt có tiếng léo nhéo như than thở của con chó Nhật. Có ánh đèn chói, tôi dậy đưa mắt qua khung cửa sổ, cái cửa sổ cao nơi đầu giường ngủ của tôi mở thẳng nhìn sang mặt nhà cô. Một quang cảnh lạ lùng hiện ra làm tôi bỡ ngỡ. Cô Ba cầm cái đèn bạch nhĩ trên tay. Chiếc áo cánh lụa bị xé toạc để hở nửa vú. Tóc rơi tung khiến dưới ánh đèn mặt cô trông khác hẳn đi. Cái cổ trắng, cái ngực trắng, một khuôn mặt có từng mảng bóng tối lấp vào những chỗ trũng làm nổi bật vành môi, sống mũi, gò má. Tôi thấy cô đẹp hơn hẳn những lúc cô đài các dưới màu áo tơ Thượng Hải đắt tiền. Áo quần che đậy kỹ quá cũng làm lu mờ đi sức hấp dẫn của một cơ thể. Tay trái cô cầm một cây song gài cửa dựng đứng, lúc mới nhìn vào tôi tưởng đó là bóng đen của một cây song can do ánh đèn phản chiếu. Trước mặt cô, ông Lại mục mặc áo vạt hò. Tóc rơi lòa xòa. Trước trán, một đường máu ri rỉ chảy khiến ông đưa tay từng chặp lên lau. Tiếng cô Ba cố hết sức nói cho nhỏ nhưng ép một lúc thì nó rổn rang trở lại:

- …thầy là người chức tước mà thầy làm vậy. Tôi kính nể thầy, tiếp đãi trọng vọng, chiếu dài gối cao… Nhà tôi đàn bà góa, nhĩ mục quan chiêm… xóm giềng người ta biết thì còn gì danh giá của tôi…

Sự giận dữ và sợ hãi làm giọng cô hổn hển đứt quãng nhưng từng lúc cô cũng gắng chêm vào câu nói những thành ngữ, những chữ Nho hoa hòe. Nào là “trong nhà chưa biết, ngoài ngõ chưa hay”… nào là “dạ gian vô cố nhập nhân gia…” Chắc chờ trải qua một thời gian góa bụi dài cô mới có đủ thì giờ sưu tầm được một mớ dụng ngữ phong phú nói đến thân phận của mình. Ông Lại mục thì cứ im miệng đứng đó, chốc chốc đưa tay chặm vào vết thương nơi trán. Cơn buồn ngủ dìu tôi lên giường để mặc cho hai người kết thúc cuộc đàm thoại.

Sau đêm hôm đó, ông Lại mục không lai vãng đến nhà cô Ba nữa. Cả con đường này cũng không thấy dáng ông đi qua. Muốn đi về Huyện, ông phải theo ngả Bình Chánh men theo con đường tỉnh lộ, tuy phải chịu đi xa hơn và con đường nắng chang chang không có bóng cây. Không biết xuất phát từ cửa miệng nào trước mà mới hai ngày sau, người trong xóm đã chuyền tai nhau câu chuyện ông Lại mục bị cô Ba đánh toét đầu. Thật đúng là “tai vách mạch rừng”. Tôi chắc tin đó phải do ông Thủ Phò người láng giềng bên tay trái của cô phát đi. Thành ra tôi tuy bất ngờ có được chứng kiến tận mắt nhưng những chi tiết ly kỳ thì phải nghe từ miệng của những người ở xa nhà cô Ba nhất, ở tận mãi cuối xóm.

- Lão đó muốn bòn rút của. Nhưng lật đật mà hư việc. Cá mới ngửi mồi mà đã muốn bắt bỏ giỏ rồi.

- Chưa cưới hỏi, chưa ăn nằm mà đã hỏi vay tiền khai khẩn đầm lác thì ai không nghi? Cô Ba khôn từ trong trứng khôn ra, đâu có dễ bị lừa.

- Làm sao biết đã ăn nằm hay chưa? Nghe nói đêm nào cũng ghìm sõng câu ở bờ sông rồi chín giờ khuya thì bò lên.

- Lão này mở ba mặt trận một lúc. Cô Ba ở đây, bà Xã Bảy Hà Bằng, bà Phó Trạy ở Quán Cau. Bà nào cũng góa cũng giàu. Cô Ba nổi ghen. Nghe nói bữa đó bị đánh nặng quá phải có người nhà khiêng xuống sõng.

- Cầm dao mà chém xối xả vào mặt vào mũi con người ta, kể thật cũng dạn đó. Nữ kê tác quái, thời bây giờ gà mái lộng quyền.

Không nghe ai giải thích bằng cách nào mà đang ngủ ở hàng ba, ông Lại mục đã khiến cô mở cửa để ông xúc phạm được thân thể cô.

Cô Ba sống những ngày âm thầm sau đó. Một ông thầy trợ giáo dạy chữ Nho ở trường nhà nước, đã lớn tuổi, đánh tiếng đi hỏi. Cô không nhận, ông này mê tài bàn và tứ sắc lắm nên cứ đầu tháng lương là đi dạy trễ. Có bữa cai trường phải đến nhà trọ lay thầy dậy rửa mặt để ra lớp. Hễ có tiền là ông thức suốt đêm đánh cho kỳ thua hết nhẵn mới chịu nghỉ. Đó là con bò sữa cho mấy tay cờ bạc chuyên nghiệp sống vất vưởng ở quanh cổng Huyện.

Cố nhiên là cô Ba không thể thưởng thức một người nghệ sĩ cỡ đó. Chánh tổng An Hải vợ nâng 15 năm không sinh đẻ, Phó tổng An Vinh vợ bỏ đi hoang đều muốn ngấp nghé hỏi cô. Nhưng cái bóng lớn của ông Lại mục bị thảm bại làm họ rụt rè không dám. Dư luận quả thật bất lợi cho cô. Sau đó còn có nhiều người nữa, nhiều nữa. Đó là những người cô gặp trên đường đi, cùng ngồi chung một chuyến xe đò, cùng ngồi ăn một quán, cùng quen lui tới thăm hỏi một nhà… ở Vũng Lấm, ở Tuy Hòa, ở Qui Nhơn… bao nhiêu người đó là đối tượng cho cô cân nhắc, chọn lựa. Cô không tin ai hết. Cố nhiên là người nào cũng nói thương cô lắm nhưng biết lấy gì bảo chứng lời nói. Lòng người ta không phải là cái bánh ít cứ lột trần lần lá là thấy rõ trắng đen. Phải chi nhà cô nghèo thì cô biết chắc là ai thương ai ghét. Người nói thương cô sợ họ chỉ thương những đôi xuyến, những hột vàng đeo nơi cổ tay, chỉ thương mười mấy mẫu ruộng. Cô không tin ai hết. Bà con, hàng xóm tá điền…, tất cả đều muốn cướp của cô càng nhiều càng hay. Bao nhiêu đất thổ trồng mía trồng bắp, trồng bông cô đem bán hết lấy tiền mua ruộng. Hồi còn mẹ tôi, tôi nghe cô giảng cho mẹ tôi rằng:

- Đám bắp, đám bông, soi mía… nhà rẽ ăn gian chị làm sao biết được? Người ta vô giữa đám bẻ bắp, lặt bông đem về nhà cất trước, liệu chị có biết không? Chẳng lẽ ngày mùa phải đi rảo giữa đám mà kiểm soát? Mà kiểm soát làm sao được? Chớ đám ruộng lúa chín nằm sờ sờ dưới tầm mắt mình. Cắt một vạt nhỏ đã thấy dấu liền. Bữa đi coi gặt cứ rảo một vòng qua bốn bờ ruộng, giỏi lắm thì bò trâu người ta đi qua có liếm vài lượm lúa là cùng. Trái bắp cây mía, đậu phộng, mè… nhà rẽ ăn trước mình.

Mẹ tôi đem câu chuyện về kể lại cho cha tôi nghe thì cha tôi nói:

- Khôn lắm thì rồi khổ nhiều. Nước quá trong không cá, người xét nét quá không bạn.

Tôi suy nghĩ về lời nói của cha tôi mỗi khi nhìn cái hiên nhà vắng tanh, cái sân chỉ có bầy chó gầm ghè hay nằm lì mỗi con một chỗ. Những khi cô lục đục một mình sau bếp hay khi cô đi vắng, tôi hay đứng nhìn sang nhà cô. Thật y như một ngôi miếu cổ. Những cây song can đứng thẳng hàng, màu gỗ vàng đục lạnh lùng, nặng nề làm tôi liên tưởng đến những cây song của một nhà tù. Khi cô đi lại thui thủi trong đó thì cô ta thật giống một tù nhân chung thân cấm cố. Ngồi ăn một mình, nhai nhóp nhép hàng giờ không vội vã bởi chẳng có việc gì làm. Đứng lên ngồi xuống một mình. Ngồi trước ngọn đèn một mình. Khi đêm chuyển sâu dần vào khuya, ánh sao hớn hở trên nền trời, bàn tay cô lần tra ba cây song can vào lỗ ngạch địa, tiếng gỗ khua chạm lục cục nghe buồn nản âm u như chính mình đứng nghe cũng đang chịu một cực hình. Hàng song can dài nhưng cô chỉ rút ba cây vừa đủ để lách mình ra vào. Tấp nập vui vẻ chăng chỉ là những ngày mùa khi có tá điền tới mời đi coi gặt hay khi sõng chở lúa khô lên đăng. Giọng nói của cô lại vang lên lanh lảnh bên cạnh giọng lễ phép trầm trầm của người tá điền. Cô lại bắt khoan bắt nhặt, chê lúa phơi còn ướt, chê lúa giê không sạch lép, bắt đổ ngọn lúa cho đứng thẳng miệng giạ, bắt gạt lúa không được hắt quá mau.

- Đổ lúa tạt nghiêng thì hột lúa đứng sững, trên mặt đầy mà giữa ruột giạ hổng. Gạt lúa hắt mau thì kết quả cũng như vậy. Có lợi cho người đong. Nhiều khi đong một trăm giạ mà có dư ra được vài giạ.

Đó là lời cha tôi giảng khi tôi hỏi nguyên do sự khó tính của cô.

- Thế muốn khỏi bị gian thì cô bắt đổ lúa đứng thẳng ngọn và gạt chậm chậm?

- Phải đổ ngọn lúa cho chảy thẳng và đổ càng chậm thì giạ lúa càng chặt chịa. Nhưng trai sõng ai dư thì giờ mà làm theo. Thành ra chủ điền buộc tá điền không được lấy lúa đong dư đem về. Đong dư có khi do cách đổ lúa cách gạt lúa, cũng có khi do đếm lầm: mới băm sáu băm bảy rồi nhảy sang băm chín. Đếm lầm - vì cố ý thì phải thừa lúc mọi người nói chuyện ồn ào, một tiếng cười nào đó nổi lên, một tiếng la ở đâu… và người ta đếm vọt lên. Nếu chủ điền bắt được thì cũng chẳng lỗi phải gì. Ai cũng có thể vì vô tình mà lộn được.

Nghe cha tôi giảng tôi mới cảm thông được những nhọc nhằn của một người đàn bà như cô phải đối phó với mọi mưu mô của người xung quanh. Một con bò sữa trước mặt mọi người và con bò đó phải tự tạo cho mình, một cách bất đắc dĩ, một bộ mặt sư tử, một lớp da cá sấu, những móng vuốt cọp beo. Để bảo vệ tài sản, quyền lợi, con người phải chịu mang một cái vỏ xấu xí dễ tởm như vậy. Bất lợi biết bao nhiêu cho khía cạnh tình cảm yêu đương? Người đàn ông chỉ thấy cô giơ vuốt ra để giữ cửa. Không còn thấy vẻ mặt dịu hiền của con nai, của con thỏ. Sau này khi dì tôi đã quen với cô thì trong câu chuyện cứ mười lần là đã hết chín lần cô đề cập đến việc khôn dại gian ngay ở đời.

- Chị tính - lời cô nói, - nhà rẽ của tôi như thế này có chịu được không nghe? Lúa cắt ở đồng gánh chạy về sân để đập, nó cho gánh chạy thẳng ra sau bếp nhà nó, đem giấu để riêng. Thế là mất của mình năm, ba gánh lúa.

- Người cắt lúa phải là bà con của nhà rẽ, - lời dì tôi.

- Phải rồi. Có khi lúa chất ngoài đồng gánh về chưa hết, nó lấy rạ phủ lên, mình không biết tưởng đã gánh về hết rồi. Lúa đổ đống chưa kịp hạo, nhiều khi nó bày mình đi ra vườn coi cái cây chuối trổ hai buồng, coi một cây cau nứt hai ngọn. Mình vác mặt đi coi, ở trong này nó xúc lúa giấu bớt.

Dì tôi tính thật thà phì cười nói:

- Chắc họa lắm mới có một người gian như vậy. Mà cho họ có giấu đi được năm giạ lúa thì cô cũng chỉ mất có ba. Ruộng chia tứ lục mà.

Cô Ba chăm chăm nhìn dì tôi tỏ ý ngạc nhiên rằng sao dì tôi lại có thể có một ý kiến ngờ nghệch nông nổi như vậy.

“Làm ăn gì được, người như thế này”, chắc là cô nghĩ vậy.

- Đành là mình mất có sáu phần, nhưng mỗi thứ mỗi ít thì rốt cuộc còn lúa đâu cho mình ăn nữa. Lúa rơm lúa rạ, lúa chẻn lúa ngọn, lúa bao sân… một trăm thứ lúa một mình nhà rẽ hưởng. Của mình làm ra mồ hôi nước mắt mới mua được đám ruộng.

Dì tôi không dám phát biểu ý kiến nữa sợ làm mếch lòng cô. Tuy vậy khi về nhà, dường như không thể nín được, dì nói với tôi:

- Làm cho ra được hột lúa nhà rẽ cũng đổ mồ hôi nước mắt. Mặc kệ, cho họ gian chút ít.

Nhà tôi không giàu được bởi mẹ tôi trước đây đã hiền bây giờ đến lượt dì tôi lại còn hiền hơn. Lúa ăn may lắm là giáp hạt. Nếp thì phải mua thêm. Mỗi khi nhìn bồ lúa nhà tôi gầy nhom như cái tháp sau chùa, tôi lại liên tưởng đến bồ lúa nhà cô đầy cành hông và quầy cao lên hai lớp.

Cô Ba mang tiếng là khắc bạc. Kể ra khôn lanh như cô thì vô khối người còn khôn lanh hơn, nhưng người ta không mang tiếng là bởi họ khéo dùng lời lẽ tử tế mà che giấu sự điêu xảo của họ. Cô Ba thì không có mánh khóe che giấu. Cô như lúc nào cũng muốn nhìn rõ sự thật và nói toạc ra sự thật, trắng trợn giơ nanh vuốt ra để đối phó. Cô không tin ở thiện tâm của ai hết. Ai cũng hằm hằm chực xông vào rỉa rói cô như bầy cá trắng rỉa vào một xác chết trôi dọc bờ sông. Những người bạn mà cô còn tỏ ra tin tưởng đôi chút là mấy nhà giàu ở trong vùng. Tin nhất là ông Bang Trưởng Hải Nam, người cố vấn pháp luật của cô. Ông to béo đẫy đà lúc nào cũng mang cặp kính râm màu nâu nhạt. Những việc mua bán ruộng nương, thưa gửi kiện tụng, cô đều nhờ ông Bang Trưởng chỉ dẫn cách thức và làm giấy tờ giùm. Ông Bang Trưởng có liên hệ với người chồng Hoa kiều xấu số của cô. Giọng nói tiếng Việt lơ lớ, cái tay áo và cái ống quần quá rộng, cái cổ áo đứng cao, đó là cái hình ảnh đã ăn nằm âu yếm cô.

Người Hoa kiều nào cũng thích mặc quần áo có sọc màu lợt chạy dài. Hai người - ông Bang Trưởng và chồng cô, - cùng sinh ra, lớn lên ở một làng nhỏ nào đó ở trong đảo Hải Nam. Làng có nhiều núi ít ruộng. Ngày đói chen với ngày no. Những năm mất mùa phải vào núi đào củ ăn thay cơm. Niền Tô, - tên chồng cô, - di cư sang Việt Nam mang theo tính kiệm ước nơi quê hương, bữa cơm trưa chỉ ăn toàn cháo. Tranh sống với người Việt Nam bắt đầu bằng một chân tài phú sau tiến lên làm chủ một tiệm buôn nhỏ. Đủ mọi món hàng lẩm cẩm trong một tiệm buôn như vậy: nhang đèn, giấy vàng bạc, thùng quẹt, xà bông, mì bún, giấy quyến, rượu thuốc… Trong những thôn xóm rải rác hẻo lánh nhất của đồng quê Việt Nam, người ta thường bất ngờ gặp một tiệm buôn Hoa kiều kiểu đó. Thổ sản trong miền có gì, họ đều mua hết: đậu xanh, đậu phộng, bông, bắp, mật ong, gạc nai, mật gấu. Cho vay đầu mùa cày và tới mùa gặt thì mang bao tới giữa sân gặt đong lúa nợ. Có nhiều tá điền giữa ngày mùa, lúa vừa phơi khô giê sạch xong đã có năm, bảy chủ nợ đứng đợi sẵn với những đôi bao. Lúa nạp cho chủ điền, lúa đổ vào bao chủ nợ, chỉ còn lại trên sân một đống bụi và lúa ép. Và nong nia thúng rổ. Và chổi. Và những thân người cơ cực, chán nản chuẩn bị ngày mai lại đi vay để bắt đầu một cái vòng lẩn quẩn mới.

Hồi sinh thời Niền Tồ hay bùi ngùi ngồi kể lại những ngày dĩ vãng của mình bên cạnh ly rượu thuốc và dĩa mực nướng:

- Pen Tồ (bên Tàu) ít có đồ ăn. Con chó sói tên lừng (trên rừng) cũng đói. Con chó sói xuống làng pắc con liếc (bắt con nít) ăn thịt. Người ta lênh tênh lừng (lên trên rừng) hái lá cây mà ăn…

Rồi Niền Tồ nước mắt rơi lã chã kể lại trường hợp mẹ y bị con chó sói cắn nát mình khi vào rừng đào củ về cho con ăn. Kể đến đây, Niền Tồ ngồi khóc hì hì như cười. Cô Ba lặng lẽ ngồi nhìn Niền Tồ khóc ngon lành như một đứa trẻ con và cô cảm thấy mình yêu mến Niền Tồ bởi cái tính hồn nhiên hơi trẻ con đó. Một người đàn ông Việt vào tuổi Niền Tồ thường không biểu lộ xúc cảm một cách lộ liễu như vậy. Không biết vì họ khô cạn tâm hồn hơn hay vì họ thích làm bộ anh hùng trước mặt người đàn bà. Vợ chồng Việt hiểu nhau quá nhiều nên họ phải cố giấu bớt những nhược điểm, cố gắng dối trá đôi chút. Niền Tồ khóc tự nhiên trước mặt vợ làm như y đang ngồi một mình hoặc như y đang đối diện với một lọ hoa vô tri hay với một con ngỗng. Cô Ba thấy y hạ mình trước mặt cô và đương nhiên là y đang cần một tình bao dung che chở. Niền Tồ làm ăn cần cù, tính toán rành mạch với người ngoài nhưng đối với vợ thì lại xuề xòa tin cẩn. Nhiều khi y ngồi nhìn cô, ngẩng cái mặt ngây ngô như một người không hề có trí khôn. Chắc những lúc ấy y suy nghĩ bằng tiếng Tàu và về những chuyện bên Tàu nên cô không hiểu gì hết trên cái khuôn mặt đó. Niền Tồ có nhiều khuyết điểm mà y không hề che giấu. Chẳng hạn cái trán và cái ống chân đầy những sẹo. Y nói: “Hồi nhỏ bị con Sát bấu gần chết”. Di tích còn lại là vết sẹo to bằng nửa bàn tay nằm vắt ngang màng tang. Da ở vết sẹo láng bóng như có thoa dầu. Vết sẹo ở ống chân thì do chó nhà giàu cắn. Da túm nhăn lại. Cô Ba thấy lòng thương chồng đậm đà của mình xuất phát từ lòng thương những khuyết điểm của chồng. Niền Tồ là loại người để cho người ta thương một cách tự nhiên chớ không muốn buộc người ta kính nể. Lòng cô Ba thoải mái yên ổn hết sức bên cạnh một người chồng như thế. Không cần phải cố gắng, khỏi cần phải đối phó. Thật khó mà tìm lại một người chồng như vậy, sau Niền Tồ. Người Việt như cô đều quá khôn. Cô thấy xung quanh mình dường như mọi người đều tranh giành nhau một cách hối hả để biểu lộ cái khôn của họ, một thứ khôn hời hợt có tính chất tinh ranh bẻm mép và láu vặt. Ăn sâu dưới đáy tâm hồn là sự gian xảo và nói láo. Cô nghĩ: Có lẽ Niền Tồ cũng muốn nói láo nhưng vì số chữ Việt mà y biết quá ít nên y không biết nói láo làm sao cho gọn, cho trôi.

Trong việc tái giá, cô cũng có đặt mong mỏi nơi giới Hoa kiều. Chắc chắn rằng lấy tiếp một người Hoa kiều nữa là ổn nhất. Người Hoa kiều có một mùi riêng phảng phất nơi quần áo. Đó là tổng hợp của mùi da thuộc, mùi giấy bao gói hàng, mùi thuốc cao đơn đặt trong tủ có bỏ băng phiến. Cô sống quen thuộc với nó khiến cho, mặc dù đã rất nhiều năm góa bụa nhưng khi nghĩ đến là cô có thể mường tượng như được ngửi lại nó phảng phất đâu đây. Ở Chợ Gành, Vĩnh Lâm, chợ Giã đều có rất nhiều Hoa kiều. Họ sống trong những dãy phố có thành cao bao quanh. Trên đầu tường mảnh chai cắm tua tủa. Nhiều người Hoa kiều góa vợ nhưng chỉ chừng một năm đoạn tang là họ đã cưới vợ mới rồi. Họ không chung tình bằng người Việt. Và cưới toàn con gái chớ không chịu lấy đàn bà góa. Con gái Việt khối người thích lấy chồng Hoa kiều. Được mặc áo quần tơ lụa, được ngủ dậy trưa, được ăn thịt trong bữa cơm, được soi gương nhổ lông mày và khỏi làm dâu. Lấy chồng Việt khó có thể làm biếng được. Làm lụng đầu tắt mặt tối mà vẫn thiếu thốn. Những cô con gái có chút nhan sắc mà nhà nghèo đều biết cân nhắc như vậy.

Sau trận bão năm Dậu, bỗng từ đâu lưu lạc trôi về chợ Thành một chú Hoa kiều khá trai. Chú chải tóc có đường rẽ giữa chớ không chải vuốt lên như những người Hoa kiều khác. Chú đứng làm tài phú cho tiệm thuốc Bắc ông Bang Xuân. Lúc nào cũng mặc sơ-mi màu xanh da trời có cài nút măng-sét bạc chớ không chịu đánh trần một cái may-ô như các chú khác. Dì Hiếng, - tên của chú, - nhìn xoáy vào cô Ba mỗi khi cô ghé lại cân thuốc hay mua bóng đèn, hột vịt, mua dầu cù là. Hai con mắt, quỉ quái! Nó như hai mũi kiếm đâm thẳng vào mắt vào má, vào ngực cô. Mỗi lần bị nhìn như vậy, cô Ba cứ thấy đầu mình chao đi, choáng váng. Dì Hiếng trẻ hơn Niền Tồ nhiều nên nhút nhát. Chỉ có tài nhìn. Tuy vậy, sau đó cuộc đối thoại giữa hai người cũng được xảy ra, tiến lên thân mật và cô đã mường tượng thấy một ngày nào đó Dì Hiếng về chiếm cái khoảng trống nơi giường cô, đầu đặt lên cái gối thêu “Loan Phượng hòa minh” cô đã cất đi từ ngày Niền Tồ mất. Nhưng mùa đông năm đó giữa lúc sự tưởng tượng của cô phong phú mãnh liệt trong chăn ấm, khi ngoài hiên gió bấc thổi vi vút, thì có tin Dì Hiếng lén mở tủ ăn cắp tiền của ông Bang rồi trốn mất biệt. Hình ảnh người yêu bị xóa tan, bị bôi bẩn bởi hình ảnh thằng ăn trộm. Tất cả trở thành ghê tởm: đường rẽ của mái tóc, màu áo da trời, đôi mắt nhìn xoáy. Cô Ba có óc thực tế, thương đồng tiền như con nên ghét kẻ gian mặc dù cô không phải là kẻ bị mất cắp. Kẻ trộm tiền của cô, tên A tên B nào đó bấy lâu nay còn ở trong vòng tưởng tượng, hôm nay đã mượn hình ảnh của Dì Hiếng mà hiện ra rõ ràng mỗi khi cô chợt nghĩ đến. Xua đuổi không được. Thay thế không được. Cô mất hẳn Dì Hiếng.

Chừng vào năm cô 45, 46 tuổi gì đó, có một nghi vấn bao trùm lấy cô khiến mỗi lần nhìn cô tôi có cảm tưởng đang nhìn một con tằm bị bao vây trong một tổ kén chằng chịt. Người ta đồn rằng cô dan díu với một anh trai sõng vẫn thường gánh lúa đến đăng cho cô. Anh ta tên là Cược, trạc hai mươi tuổi quê ở Xóm Ngựa. Anh có cái cằm vuông, cái mũi thẳng, cái miệng nhỏ. Thật là một khuôn mặt đẹp ít khi gặp nơi những người lao động như anh. Tay chân vạm vỡ, ngực nở bụng thon. Bỏ đi cái áo vải ta đen chua mùi mồ hôi, tôi nghĩ rằng anh xứng đáng với sự dan díu đó, nếu tin đồn là đúng. Thủ Phò, - lại cũng Thủ Phò, - để mắt dòm dỏ nhiều hơn hết nên những tin xấu đều do miệng Thủ Phò phát ra. Tại sao Thủ Phò xấu miệng? Tôi cho rằng lý do là bởi cô Ba giàu còn ông thì nghèo. Chắc chỉ vì lòng ghen ghét. Ghen với sự ăn ở không mà cứ giàu có của cô và với sự may mắn của kẻ nào được cô thương. Thủ Phò toét mắt, râu ria chơm chởm như rễ tre và quần áo thì quanh năm khai mùi nước tiểu. Vợ đi buôn gà ở chợ xa, còn lão thì lãnh việc giữ con. Cả ngày nách con nằm trên võng, miệng quai quái hát câu “một mai con cá hóa rồng” và cứ từng chập thì nước tiểu của con cứ chảy rông vào quần, vào đùi lão, ban đầu âm ấm sau lành lạnh rồi lẹp nhẹp đổ ngứa. Một người như vậy thì đúng là có tài làm mật thám. Lão tin chắc rằng dù thèm khát đàn ông, cô Ba cũng không bao giờ nghĩ đến lão. Không ăn được thì lão phá vậy. Một đêm kia tôi nghe có tiếng la “Ăn trộm! Bớ làng xóm ơi, ăn trộm! Aên trộm!” Tiếp sau là tiếng chân người chạy thình thịch. Chó sủa rầm lên theo dấu chân chạy. Tiếng người la ơi ới tiếp theo. Chỉ một phút sau là cả xóm náo loạn lên. Bóng tối đen mò như đặc sệt những tiếng người và tiếng chó. Vài mồi lửa bật sáng. Thủ Phò tay cầm cây sào tre vạt nhọn chỉ về phía bờ sông:

- Nó chạy xuống ngả đó. Ngả đó.

Lão chạy trước, theo ngón tay trỏ của lão chỉ nhưng lại cứ nhằm vào hàng rào trước mặt mà đâm đầu vào. Cặp mắt toét thật tai hại. Người ta bỏ lão đứng đó loay hoay rút cái mũi cây sào bị đâm kẹt vào hàng rào, người ta bỏ chạy theo con đường hẹp dẫn xuống bến sông. Có tiếng dầm chèo khua nước loãng xoãng, vội vàng. Đuổi không kịp. Người ta xắn quần đứng lội ở mép nước nhìn một bóng đen vun vút lướt trên mặt sông. Mái dầm chặt xuống từng mảnh sáng đục. Người ta tụ họp lại quanh lão:

- “Nó” đi vào nhà cô Ba, - lời lão. Cửa ngõ cô Ba để mở.

Cử tọa tròn mắt ngạc nhiên. Những đường lông mày nhướn lên, những cái môi trên cong lại như nét vòng của những cái dấu hỏi. Cùng loạt, họ hướng nhìn về nhà cô Ba như cùng tuân theo một mệnh lệnh chỉ huy. Nhà cô sáng ánh đèn nhưng không thấy bóng cô.

- Sao đã khuya rồi mà còn để mở cửa ngõ? - Một tiếng hỏi.

- Tôi đâu có biết. Tôi cầm cái cây sào vạt nhọn nhắm đâm nó một cái. Tưởng lòi ruột rồi. Không dè nó vụt bỏ chạy.

- Có thấy rõ người không?

- Không thấy rõ nhưng dáng quen quen. Cũng người ở gần vùng đây.

Câu chuyện bàn tán ở cái vòng người tụ họp trước ngõ nhà cô và có Thủ Phò đứng làm trung tâm điểm dẫu có hăng nhưng lời lẽ vẫn chỉ xa xôi bóng gió. Ở các nhóm rải rác đôi ba người thì câu chuyện tọc mạch trần truồng hơn. Người ta quả quyết rằng không có ăn trộm ăn đạo gì hết mà chính là tên Cược đến thăm cô Ba như thường lệ.

- Đêm nào thằng Cược cũng ghìm sõng câu ở bến, cột sõng dưới bụi tre.

- Hèn chi con Vện nhà tôi cứ chong xuống bến sông mà sủa gióng một. Ở nhà cứ chửi là con chó điên. Hai người đi lại với nhau không chừng đã có con rồi, ở trong bụng.

Không ai bào chữa cho cô hết. Ai cũng cảm thấy thích thú được đoàn kết với nhau để hạ một người có của như cô.

Anh Cược bỏ nhà đi Lục Tỉnh sau đó. Lại là một cớ để người ta quả quyết rằng câu chuyện dan díu vụng trộm là có thực. Năm, sáu tháng kế theo, người ta ít gặp cô Ba đi ra ngoài. Việc đi chợ mua ăn thì cô hay nhờ dì tôi. Đứa nhỏ ở sai vặt, cô cho về xứ luôn. Ngày tháng bóng dáng cô âm thầm lướt đi từ nhà dưới, nhẹ nhàng như không dám gây tiếng động. Những người đàn bà bắt đầu đặt câu hỏi với dì tôi.

- Người ta đồn cô Ba có mang phải không?

- Đâu có? Tôi cũng không biết rõ.

- Chị còn giấu nữa. Cô ta phải nhờ chị đi chợ dùm.

- Điều đó thì có. Tôi thấy chỗ láng giềng, cô ấy nhờ thì mình sẵn tay mua dùm cho cô. Có mất công chi. Còn việc có mang có mển thì thật tình tôi không rõ.

Dì tôi tính thật thà, ít ăn ít nói ai cũng biết nên không ai giận vì không được thỏa mãn tò mò.

Bước qua mùa thu dường như cô bị bịnh nhiều. Thỉnh thoảng ở bên nhà, tôi nghe tiếng ho và tiếng rên. Một hôm tôi gặp cô đứng cách bức tường nói chuyện với dì tôi. Giọng cô nhọc nhằn và thỉnh thoảng xì mũi như khóc. Đại khái cô nhờ dì tôi ngó chừng dùm nhà, cô phải đi Qui Nhơn một thời gian để uống thuốc một ông thầy Tàu ở đó. Cô nói:

- Tôi có chứng đau bụng máu. Hồi sinh tiền, Niền Tồ có bài thuốc chữa đau bụng máu hay lắm Niền Tồ mất, cái toa thuốc thất lạc…

Cô không giữ được tiếng khóc. Dì tôi an ủi, chịu nhận trách nhiệm và cô Ba ra đi lúc nào tôi không hay biết. Có lẽ là đi rất sớm hồi trời còn mờ đất. Một đứa gái nhỏ con nhà tá điền lên ở nơi nhà ngang để coi nhà và cho bầy chó ăn. Những chậu hẹ, chậu tía tô rau húng tha hồ héo rũ. Con nhỏ lùn quá mà chậu hẹ chậu rau lại gác trên mặt bờ thành cao.

Chừng một tháng sau thì cô về. Da dẻ không tốt hơn trước mà có phần tiều tụy hơn. Đi ra đi vô trong nhà cũng choàng hầu khăn. Tôi không có dịp nghe lời giải thích. Chắc chắn là dì tôi có được nghe và cố nhiên là hàng xóm thì người ta đồng ý với nhau để giải thích cách khác, có nhiều lý thú hơn. Đó là: Cô Ba Hường đi Phan Rang, - chớ không phải đi Qui Nhơn, - để sinh. Đứa con gửi mướn người ta nuôi. Ở miền tôi, câu chuyện nào ly kỳ thì được người ta nghe và truyền đi, không cần xét xem là đúng hay sai sự thật. Chuyện nào hay thì được coi là thật. Nghe chuyện người khác là một lối tiêu khiển. Miền quê nghèo nàn không có hát bội, không có kịch nhạc nên mới chịu một tâm trạng ích kỷ kém lịch sự như vậy.

Làm sao mà biết được mọi tin tức, kể người trong xóm cũng giỏi. Đứa bé sinh ra là gái hay trai, mặt mũi giống ai, người ta kể vanh vách. Lên được hai tuổi thì nghe đâu bị trái trời chết. Có nhiều sự việc phù hợp với lời đồn: dịch trái trời làm chết nhiều con nít trong năm đó, việc trước đây cô Ba cứ vài tháng đi Qui Nhơn đôi ngày và sau này thì ở lì ở nhà không đi đâu nữa.

Sau một thời gian đồn đãi, người ta dần dần ít nhắc đến cô Ba như trước. Bởi cô già đi trông thấy. Đôi má xệ xuống mỗi ngày một nặng thêm. Mỡ làm sa bộ ngực và làm tròn cái bụng. Cô bơi trong cái áo dài hàng Thượng Hải cắt rộng phùng phình. Cuộc đời xế chiều ngã xuống vội vàng gấp gáp. Những nếp nhăn cày trên khuôn mặt. Cô chỉ còn tìm cái thú của cuộc đời trong những bữa ăn có nhiều thịt. Mùi thịt nướng ướp hành tiêu, mùi thịt xào trên lò từ bếp cô bay sang nhà Thủ Phò làm khổ y tới tấp. Cô trả thù đời như vậy, bắt đầu là thằng chó săn khốn kiếp.

Khi lớn lên, tôi đi trọ học ở tỉnh, thường chỉ ngày lễ lớn hay ngày hè mới về nhà. Mỗi khi tôi leo hái ổi cạnh bức tường nhà cô, cô thường ngẩng mặt lên êm đềm hỏi chuyện:

- Tiến mới đi học về đó hả con?

Tôi “dạ” lễ phép.

- Bữa nay con học đỗ bằng gì rồi?

Tôi nhớ đã khai cho cô nghe từ cái bằng sơ học yếu lược, bằng Ri-me (1 ), bằng Đít-lôm (2 ), bằng…

Nghe đến tiếng “Đít-lôm” cô cười ngặt nghẽo hỏi lại rằng sao Tây đặt chi cái bằng “đít con tôm”, học cái gì mà có con tôm con cua trong đó. Cô lại hỏi:

- Con đỗ nhiều bằng như vậy thì làm được ông thông ông phán chưa?

Tôi thưa rằng được. Cô gật gật đầu nhiều lần:

- Vậy là nhà có phước. Con làm được thầy Thông nhất, Thông nhì ở Huyện để cha con mừng.

Tiếng “cha con” tôi nghe cô nói nhẹ. Có một vẻ gì ngập ngừng xa xôi. Tôi nghĩ rằng liền sau tiếng đó, trong lòng cô chắc phải kèm thêm một tiếng thở dài. Giã từ vĩnh viễn những ước vọng. Đã xóa hết, chôn sâu những dự tính. Cô có vẻ lẩm cẩm, nói và nghe đều không còn tinh nhanh như trước. Da mặt đã chuyển sang màu vàng tái như màu da thuộc. Con mắt đưa chậm chạp từ vật này sang vật khác, có lúc nhìn chăm chăm vào khoảng không.

Vòng xuyến biến mất ở cổ tay. Nơi vành tai không còn kim cương lóe sáng. Cô chuẩn bị tuổi già quá sớm. Cô kêu bán bớt ruộng. Những tiếng trả giá thêm bớt nổi vọt lên trong thứ giọng lè nhè, những đoạn văn tự được dò dẫm đọc to lải nhải, ê a như tiếng đánh vần… “phu thê đồng công tạo mãi điền nhất khoảnh, tọa lạc tại Bạc Má xứ, Hòa Mai thôn… Đông cận tiểu lộ Tây cận Nguyễn Văn Phú điền, Nam cận…” Tôi tưởng tượng một ông Hương, ông Lý năm mươi tuổi nằm dài trên bộ ván, trên mũi ghếch trễ tràng một cái kính lão gọng thiếc với đôi mắt kính hình trái xoan nhỏ bằng ngón chân cái. Cái giọng ề à đó chậm rãi trịnh trọng một cách nhạt nhẽo khó chịu như ngầm giấu nhiều ác ý lừa bịp. Có nó là có kèm theo những ly rượu khề khà, kèm theo mấy câu nói nịnh không ai muốn nghe và vài tờ giấy bạc trả công nhét vội vàng trong túi áo. Nó báo hiệu sự suy sụp của một sản nghiệp như tiếng quạ báo hiệu xác chết. Trong cái đám đông ồn ào đó, tiếng người bán nói nhỏ nhất, lạc lõng, nghẹn ngào bởi vì mình là người thua trận đang cần người khác. Bởi vì bao quanh mình là những kẻ cố xâu xé mình: người mua, anh thày cò, người môi giới. Tôi xót thương cho cô Ba đang đóng vai người bại trận đó, bơ vơ lạc lõng hơn bất cứ người bại trận nào khác, bởi lẽ cô sống cô đơn. Không có ai để thở than sau đó. Không có ai để bàn tính cân nhắc trước đó. Trước mặt, sau lưng bên phải, bên trái đều là sa mạc.

Cô đi chùa đều đặn hơn trước và chấp nhận mọi điều mà trước kia cô ầm ĩ chê bai. Thực tình thì những ngày còn sung sức, cô khó tính đến mức không chấp nhận được ai hết. Cô chỉ trích thầy trụ trì, nghi thầy bòn rút của chùa để đem về bới sớt cho gia đình. Thực ra thì nhà chùa có giàu gì cho cam. Những năm mất mùa, thầy trụ trì phải ăn cơm ghé bắp. Cô chê ông đăng ông điệu lười biếng, không lo sửa sang chăm sóc vườn chùa sân chùa. Miếng ruộng sạ của chùa nằm sát con đường xóm, mỗi lần đi qua là cô lên tiếng lẩm bẩm chỉ trích, dù có ai nghe hay không. Nào là ông đăng ông điệu bỏ cỏ bỏ rác, nào là thiếu phân thiếu bổi, nào là rào dậu không kỹ. Đối với bổn đạo thì cô hiềm khích. Cô chê lễ vật của bà này ít: hà tiện; lễ vật của bà kia nhiều: nịnh thầy. Cô dò xét xoi mói từng cái bánh, từng gói trà, từng cử chỉ lời nói, từng giờ giấc đến, về. Cô giành phần lễ Phật trước, cô tranh chỗ ngồi khi thụ trai. Cô loay hoay bất mãn, gieo rắc bực dọc, hành hạ người khác và tự hành hạ mình. Con gấu hung tợn đó bây giờ đã nhu mì. Vuốt đã hết bén rồi và khí huyết cũng không còn sung mãn nữa. Con gấu mò về cửa Tam Quan, cúi nhìn xuống thân phận mình và gối đầu lên cái Chết. Tôi nhìn cô đi từng bước, từng bước nhỏ, chậm chạp, áo hàng nhuộm một màu đà. Cửa song can thường đóng kín. Có nhiều buổi xế gió nồm phe phẩy và bóng mát cắt nửa mặt sân, tôi nhìn sang nhà cô vắng lặng, nhìn bầy chó thẩn thơ con đứng con ngồi. Có khi thì chúng ôm nhau từng cặp, cạ vào nhau, mơn trớn nhau, chồm lên lưng nhau. Rồi giận dữ chúng lật nhau xuống, cắn nhau thật đau. Đáng thương bầy chó cô đơn phải bịt tai với tiếng gọi ái tình. Chúng bị ngăn cách với cuộc đời rộn ràng sinh thú ngoài kia bởi bốn bức tường gạch.

(1) Cerlificat d’études primaires: bằng Tiểu học (2) Diplôme d’études primaires supérieures: bằng Cao đẳng tiểu học

Khi tôi cưới vợ thì tóc cô đã bạc. Nhằm vào lúc cô đang đau nên cô không có sang dự đám cưới. Tuy vậy, cô cũng tỏ ra biết về vợ tôi khá nhiều chi tiết. Cô bảo:

- Nghe nói vợ con nó học hành chữ nghĩa giỏi lắm phải không con?

- Thưa cô, cũng biết vừa vừa vậy thôi, - tôi trả lời.

- Nó quê ở đâu?

- Dạ ở Sài Gòn.

- Cô nghe nói con gái Sài Gòn hay ăn hiếp chồng lắm. Cãi lộn với chồng thường cứ lấy dao đâm.

Tôi cười:

- Cũng có người hiền người dữ.

- Bữa nào con dẫn nó qua bên này chơi.

Vợ tôi đối với cô có nhiều cảm tình mặc dù bây giờ cô không còn một nét nhỏ nào của người đàn bà có nhan sắc và giàu có của thời xưa. Thỉnh thoảng vợ tôi vá dùm cho cô cái áo, hoặc cầm kéo cắt ngắn bớt mớ tóc bạc phơ. Khi thì gửi biếu cô mấy cái bánh ngọt hay mang sang một bát canh cá. Cô năng đau yếu mà số ruộng thì đã bán hết. Có ba giạ giống cúng cho chùa để lấy huê lợi phụng tự, cô cũng xin lại để bán ăn. Cô già đi nhanh chóng làm như sức khỏe cũng biết chạy xuống dốc. Trên con đường xóm lởm chởm đá và mẻ sành, cô đi lò dò từng bước, thân hình chênh vênh mỗi khi chiếc guốc sắp trượt lên những viên đá rung rinh. Đôi mắt mỏi mệt không còn đủ sức để nhìn thẳng hay ngước nhìn lên mà chỉ chăm chú nhìn vào một khoảng nhỏ dưới bước chân. Miệng lầm bầm nói chuyện một mình, nói với một bóng người tưởng tượng nào đó hoặc với cái quá khứ của chính mình. Gặp người hay gặp bò cũng mặc kệ, người hay bò phải liệu tránh ra để tìm lấy lối đi. Như thế, cô bước đi giữa cuộc đời còn sót lại, lạc lõng mơ hồ như người đi trong giấc mộng. Tất cả đều chập chờn hư ảo. Chặng đường cuối cùng của người lực sĩ đuối sức.

Cứ cách năm, mười ngày, có người đến khiêng cái tủ, chở bộ ván, cái ghế thờ, cái bàn. Rồi đến cả những cây cột song can. Cô đứng vịn tay vào cây cột trước hiên dõi mắt nhìn theo, nước mắt chảy ròng xuống mắt. Đó là những đứa con. Đó là núm ruột. Đó là cuộc đời. Cô ngồi bệt xuống hiên nhọc mệt thở. Hai chiếc răng nanh ở hàm trên chõi dài ra bên khoảng trống đen ngòm do hàm răng cửa đã rụng hết. Bờm tóc bạc, vàng bẩn. Màu da mai mái của người bị ngộ độc. Những nếp nhăn hỗn loạn. Tôi chua xót và hối hận khi trong óc vụt có ý nghĩ rằng khuôn mặt đó đã khác xa với một khuôn mặt người bình thường. Nhiều khi nhọc mệt quá cô ngồi tựa cửa há miệng ra thở hổn hển, cặp răng nanh chõi ra như dài thêm, khoảng trống của răng đen hơn, những nếp nhăn sâu hơn, chằng chịt hơn. Hình ảnh đau thương và nhục nhã của cuộc đời người. Tôi thấy mình đang tàn nhẫn dẫu mình không phải là nguyên nhân của sự đày đọa ấy. Bất lực đứng nhìn rồi bỏ đi, thế cũng đã là tàn nhẫn rồi. Tôi nhìn xích ra một khoảng trống bên cạnh, dựng lên trong óc tôi một hình ảnh cô Ba khi còn xuân, má đầy đặn màu hồng. Vàng xuyến chói lòa ở cổ tay. Thật khó nhọc hết sức mới xua đuổi được cái hình ảnh tiều tụy của cô hôm nay, nó cứ lấn át, tranh giành, chực đè lên hình ảnh huy hoàng cũ. Bởi vì đã xa quá, những ngày sung sướng.

Cô Ba từ trần nhằm vào lúc tôi đi vắng nhà. Khi về nghe thuật lại, tôi không ngạc nhiên về những chi tiết của cái chết đó. Người ta gọi cổng mãi mà không thấy cô rục rịch đi ra. Người ta lùa tay mở chốt cửa. Người ta bước vào nhà, thấy cô ngồi bệt xuống đất đầu ghếch lên một góc tường chết cứng hồi nào không biết. Có thể là cô đang đi tìm nước uống. Có thể là cô mò đi tiểu. Không cần luật y khám nghiệm, không cần thân nhân xác nhận, Hội nghĩa táng của thôn lo việc chôn cất. Gò núi ở cuối thôn là nơi an nghỉ của mọi người không phân biệt giàu hay nghèo, không cần phải tranh giành, không cần phải xin phép ai hết. Quả tình là chặng đường đi đến nấm mồ dễ dàng thoải mái hơn nhiều so với những chặng đường nhọc nhằn cam go mà cô đã đi mấy năm gần đây khi già yếu và nghèo nàn, cô đơn và bị đời lạnh lùng hắt hủi. Trong những người mà hồi tuổi nhỏ tôi được biết, nhiều người đã chết, rải rác, êm thấm trong các chặng quá khứ lờ mờ của tôi, lặng lẽ như trong một buổi hoàng hôn dài: ông ngoại bà ngoại, mẹ tôi, bà thím, ông Xã Năm, ông Cửu Hai… nhưng chưa có ai làm tôi xót thương cho bằng cô Ba Hường. Không phải vì họ hàng, không phải vì cô thương tôi mà chỉ vì cái cuộc đời cô đơn lạnh lẽo đó mang nhiều mâu thuẫn: cực khổ bởi vì giàu, dại khờ bởi vì quá khôn ngoan, bị bỏ quên bởi được mến chuộng. Ngoại trừ dùng Số Mệnh để mà giải thích và an phận còn thì, nếu dùng lý trí để mà suy xét cân nhắc thì tôi chắc nhiều người cũng sẽ như tôi xót thương mãi cho thân phận người đàn bà đó không biết nên xử sự như thế nào cho phải trong cái xã hội quá nhiều ác tâm lường gạt.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 29.11.2012 10:18:31
KHOẢNG MÁT

NXB An tiêm 1966


Mục lục :
1. Mẹ và em
2. Ðôi chim bồ câu
3. Ðụng độ
4. Dốc hiểm nghèo
5. Con đường gai
6. Khoảng mát
7. Chuyện cái răng




1. MẸ VÀ EM



Khi bắt tay giã từ, ông quản lý an ủi Lưu:

- Anh nên vui vẻ. Mỗi tuần anh chỉ phải lên đây có hai buổi. Đi mười cây số thì có nghĩa gì? Đường tráng nhựa tốt…

Lưu chỉ bắt tay mà không nói. Không phải vì buồn mà vì anh đang bâng khuâng, đang bỡ ngỡ, đang xúc động. Khung cảnh trước mặt anh liệu có phải là một cảnh thực không? Hay đó là một cảnh mà anh đã sống trong quá khứ do một bàn tay huyền diệu nào làm hiển hiện lại trước mắt anh, giờ này? Một bãi cỏ thật rộng. Một dãy cây bàng chạy dọc theo con đường đi, lá non mới nhú trông như những bàn tay chụm lại chổng ngón lên trời. Bên tay mặt: vườn cam mít của nhà ai. Giữa sân rộng nằm bơ vơ một ngôi nhà mái ngói hai gian, diềm và cửa không sơn. Tường màu vàng cũ mang nhiều vết lở loang lổ. Những cửa sổ quá nhỏ. Trông như một ngôi truờng làng hay một kho chứa thuốc lá, chứa bông của Hợp tác xã. Rồi một rặng tre quằn quại trong gió. Một đọt cây măng vòi cong vòng xuống dưới sức nặng của một con chim chèo bẻo. Dãy núi trầm mặc. Bầu trời…

Lưu quên rằng anh đang đứng trước nhiệm sở mới của anh, với những công việc mới đang chờ đợi. Anh bàng hoàng tưởng như tâm hồn mình đang chập chờn bay về một chặng nào của dĩ vãng. Bác Cai cầm xâu chìa khóa im lặng đứng cạnh, trong khi anh trầm ngâm nhìn ra một góc vại nước nhà bác, khám phá một cuộc sống trầm lặng diễn ra nơi đó. Một dây mùng tơi lá dày xanh mướt bò theo một cành tre khô cắm sát rào. Những lá to ở gần gốc bị ngắt đứt còn trơ cuống. Cạnh đó, hai cây ớt đang ra trái. Vài rãnh rau muống, một cây đu đủ, mấy bụi tía tô… tất cả cái khu lá xanh này dự vào cuộc sống của người chủ nhà một cách mật thiết vô cùng. Mươi chiếc lá mùng tơi góp phần với một nắm rau má, mã đề đủ để làm bữa canh rau. Bụi tía tô dùng làm lá nêm lại vừa làm thuốc ho, thuốc cảm. Còn mấy cây ớt thì được thăm viếng hàng ngày, có khi ngay giữa bữa ăn. Cuộc sống thanh đạm ít phiền lo…

Lưu chợt quay lại và bác Cai lên tiếng mời anh đi theo bác. Bác tra chìa khóa lọc cọc vào ổ khóa. Tiếng gỉ sét rên lên và cánh cửa hé mở nặng nhọc. Cái bàn giấy dành cho anh phủ một lớp bụi dày. Anh vội vàng lại mở cửa sổ. Anh cần khoảng xanh ở ngoài kia hơn vì bụi mốc và mùi ẩm thì anh đã quen thuộc quá rồi, quen đến độ anh sợ sệt.

Bác Cai mở tủ lấy từng chồng sổ sách. Lưu biết những việc anh sẽ phải làm nên vội vàng cảm ơn bác. Anh không muốn sự hiện diện của một người nào ở cạnh anh hết. Cho anh trơ trọi với màu xanh kia mà anh bị bắt buộc phải xa cách không biết tự bao nhiêu năm tháng rồi. Dĩ vãng nào của anh cũng được đặt vào một khung cảnh có cây cối làm nền. Anh dễ tưởng tượng lại một khuôn mặt thân yêu, dễ sống lại một tâm trạng êm đềm hay xót xa khi mắt anh bắt gặp một khung cảnh quen thuộc. Một bờ ao. Một ngôi chùa. Một hàng dậu có dây bìm leo nở hoa hình chuông. Một dòng sông. Ký ức của anh, trái lại, rất ít bén nhạŠy khi anh nhìn một dãy phố, một công thự, một kiểu ô tô… Có lẽ vì văn minh không lặp lại còn thiên nhiên thì không đổi thay. Cho anh đẫm tâm hồn vào sự trầm lặng lớn lao kia để cho vơi bớt đi những ưu tư phiền muộn đã từng dày vò khối óc muốn vỡ tung của anh. Người mẹ màu xanh, thiên nhiên trầm tĩnh dịu dàng, anh biết chỉ ở giữa thiên nhiên anh mới cởi bỏ được những xáo trộn của tâm tư mà hòa lòng mình theo nhịp sống thanh thản vô tư của cây cỏ.

Bảy, tám năm hơn rồi, anh đã xa rời đồng quê để sống ở đô thị. Mắt anh trở nên khô khan vì mãi nhìn những hiên nhà gần giống nhau, những mái lợp ngói hay lợp tôn, những dãy hàng rào thản nhiên, ích kỷ. Đô thị giả dối. Chỉ có thể nhìn bề mặt của nó mà thôi. Dãy nhà đồ sộ đường Tự Do, đường Lê Lợi chỉ thanh lịch mỹ miều ở phía trước mặt. Nơi sân giữa, sân sau thì bẩn thỉu, luộm thuộm. Mái nhà chỗ thì thò ra, chỗ thì thụt vào, vá víu từng tấm tôn tấm thiếc, từng mảng xi măng bất ổn. Giây thép giăng mắc chằng chịt, áo quần, giẻ lau treo phơi ngổn ngang. Những bộ mặt xấu xí thỉnh thoảng chìa ra ở một khung cửa sổ, chới với trên chiều cao nơi những con chim én bay liệng. Thật khác xa với những người ở trước mặt nhà, những người đàn ông tóc chải mượt, giày đen bóng và thắt ca vát, những người đàn bà trang điểm lộng lẫy kéo từng luồng nước hoa trong không khí sau bước chân của họ.

Nhưng lại cũng có bao nhiêu giả dối trên vẻ đẹp lộng lẫy đó, trên bước đi có vẻ chắc chắn đó, trong tiếng nói nụ cười có vẻ tin tưởng yêu đời đó. Mỗi lần sát cánh đi giữa họ là anh cảm nghe như ai cũng mang nặng thù hằn. Con người tranh sống thái quá như đã vô tình bóp chết mọi tình cảm êm đềm mà chỉ còn giữ lại niềm thù hận. Ai cũng coi người khác là kẻ thù của họ. “Nếu không có mi hiện ra trên bước đường của ta!… Hãy biến mất đi!…” Con người nuôi dưỡng quá nhiều thù hằn và họ tưởng đã khéo che giấu nó được dưới một lớp kính xã giao quá mỏng và trong suốt.

Lưu mỏi mệt trong cái không khí nóng bỏng những giằn vặt, tranh giành, thù hận đó. Thời đại anh đang sống như quá dễ dãi trong sự chiếm đoạt. Một cô đào chiếu bóng ở truồng dễ nổi danh và do đó dễ làm giàu hơn một nhà bác học. Ngôi nhà đồ sộ, chiếc xe lộng lẫy, bộ quần áo sang trọng không nhất thiết dành cho người có tài trí hơn người mà nhiều khi cho những kẻ gian manh, nhiều thủ đoạn. Nhiều giá trị bị hạ thấp xuống, đảo lộn đi khiến người ta nghi kỵ nhau, khinh thường nhau. Người nào cũng tìm thấy những cớ để cho mình ấm ức. Người ta dễ thù ghét nhau vì đó. Người làm cùng nghề, người sinh cùng lứa tuổi, người ở cùng phố càng thù hằn nhau nặng hơn, tranh giành nhau bẩn thỉu hơn, điều ấy dễ hiểu. Nhưng có những trường hợp người ta gầm gừ nhau một cách vô lý.

Lưu nhớ đến những tối la cà ở các phòng trà. Có lần sân khấu bị choán bởi một nam ca sĩ. Người anh ta ngốt đi trong bộ com-lê màu đen và ca-vat đen. Anh ta hát những bản man rợ của miền Nam Mỹ với nhiều tiếng rống, tiếng hú và tay anh, chân anh, lưng anh, mông anh, toàn thân anh lắc lư như một người bị động kinh. Cái miệng há rộng gào không nghỉ. Giá bịt tai lại cho khỏi nghe tiếng nhạc và giọng hát, người ta sẽ có cảm tưởng đang nhìn một con cá thu bị bắt đứng trên cạn, ngáp liên hồi và bị khô nước sắp chết. Lưu chú ý nhìn vào đôi mắt của anh ta, đôi mắt chứa đầy cam chịu và tủi nhục khi nhìn xuống từng bàn thính giả anh ta thấy họ đang mê mải bàn chuyện làm ăn với nhau hoặc tán tỉnh ái tình với nhau. Nhưng nếu anh ta hát sai nhịp hay lạc giọng, đứt hơi thì anh biết chắc bầy sói đó sẽ nhao nhao lên huýt sáo sỉ vả anh. Hình như những người thính giả phòng trà thích chứng kiến những sự thất bại như vậy để mà họ hò hét la ó.

Nữ ca sĩ được chiều đãi hơn vì người thính giả tầm thường nhũn nhặn nhất cũng cứ có thể nghĩ rằng mình được các nàng lưu ý cảm mến. Tia mắt và nụ cười đó chính là dành cho mình dù nàng không hề biết rõ mình là ai. Tuy nhiên, nếu biết nàng đang yêu một người nào trong đám thính giả ấy thì lập tức mọi người khác sẽ nghiêm khắc với nàng ngay. Con người ích kỷ và hẹp hòi. Lưu chán nản khi phải đụng chạm hàng ngày với những khuôn mặt dò xét, nghi kỵ và phản bội đó. Ai cũng làm ra người lịch sự, cũng thích trao đổi nụ cười nhưng khi một tí quyền lợi bị đụng chạm là người ta chuyển sang thù ghét dễ dàng. Dây thần kinh của con người đô thị như bị lột trần. Một chút va chạm nhỏ cũng có thể làm họ mất bình tĩnh. Thế mà đô thị thì quá hẹp bởi con người quá đông. Họ chạm mặt nhau hàng ngày khiến vết thương không kịp lành. Mỗi khuôn mặt gặp đều khơi động một tâm sự, một mặc cảm, một điều ẩn ức, một nỗi buồn riêng.

Lưu gọi thầm:

- Ngô ơi!

Ngô là tên một cô bạn. Người con gái ấy đi chập chờn vào tâm hồn anh bằng những bước rụt rè. Bởi đôi chân nàng hơi gầy, một bờ vai mỏng, cái ngực kín đáo. Nhưng tâm hồn xao xuyến những xúc cảm và tư tưởng. Nàng nói:

- Ông Lưu ơi, ông có sốt ruột vì cuộc sống quá nhàm không?

Anh trả lời:

- Thế nghĩa là hiện giờ cô không có người yêu?

- Chưa chắc.

- Chắc chắn lắm chớ. Khi đang yêu, cô không thấy cuộc đời nhàm nữa.

- Để tôi thí nghiệm lại xem. Chỉ biết hiện giờ tôi thấy chán quá. Cứ nghĩ rằng tôi bị ngăn cách với ngày mai bằng một bữa ăn tối có quanh quẩn những món ăn quen thuộc, bằng một giấc ngủ không thú vị gì hết. Rồi phải đánh răng rửa mặt vội vã sáng hôm sau, phải nhìn mặt mình trong gương, phải ngồi trước bàn giấy… Cuộc đời của tôi bị cắt ngắn đi một cách vô vị như thế mà tôi cứ phải âm thầm cam chịu.

- Cô đang cần một người yêu.

Giọng Lưu quả quyết như giọng một ông bác sĩ có tuổi, hà tiện lời nói. Vẻ mặt Ngô đăm chiêu:

- Tôi cũng có nhiều suy nghĩ đến một người yêu. Tôi cùng người ấy đi thật xa, thật xa vào trong một khu rừng nào rậm rạp, xa hẳn mọi người. Chúng tôi sẽ căng lều mà ở, bắt thú vật và hái quả mà ăn…

- Nhưng tôi xin phép nhắc chừng là cô phải chọn kỹ càng người mà cô tưởng đã yêu. Vì nguy nhất cho cô là khi đã đi sâu vào rừng già rồi cô mới chợt thấy rằng người ấy không đúng là người yêu lý tưởng của cô. Lúc bấy giờ phải mang nặng lều vải trở về đô thị thật không gì chán bằng.

Câu chuyện trao đổi vụn vặt ấy đã hé mở cho Lưu thấy một cạnh góc của tâm hồn Ngô. Lưu đã yêu cái tâm hồn khao khát tình yêu lý tưởng ấy. Ngô có một đời sống nội tâm thật, nên những câu nói của nàng không khô khan vô vị như của hầu hết những cô bạn khác. Một hôm Ngô hỏi:

- Ông Lưu ơi, ông không dám sống sao?

Câu hỏi bất ngờ làm anh lặng im một phút suy nghĩ. Cuối cùng anh nói:

- Tôi cũng dám sống lắm. Nhưng chỉ khi nào người đàn bà cho phép, vì tôi không muốn mang tiếng là ích kỷ. Bởi tôi là… đàn ông… Thế con cô, cô có dám sống không?

Ngô chỉ mỉm cười mà không đáp.

Mối tình kín đáo nhẹ nhàng ấy lớn lên một cách chậm chạp. Lưu nghĩ đến nàng một cách thường xuyên hơn và trong những hồi mơ mộng tưởng tượng, người đàn bà mà anh ôm trong tay nhiều khi là Ngô. Anh cảm nghe ngực nàng dán chặt vào ngực mình, cái cổ mảnh chuyền sang một hơi nóng bỏng, mùi thơm nồng nồng tỏa nơi mái tóc và xương vai xương sườn của nàng nhún xuống, cong lại như sắp gãy trong vòng tay siết mạnh của anh.

Người yêu trong tâm tưởng ấy, một chiều, Lưu thấy ngồi sau xe Vespa của một người đàn ông. Nàng nheo mắt cười như mọi người đàn bà vào trường hợp đó. Lưu buồn một đêm, ngồi thầm trong bóng tối. Vài ngôi sao xa ứa những giọt lệ long lanh. Sáng hôm sau, anh nhận lời đi Diên Khánh.

Tình yêu, đau khổ tranh chấp, thù hằn chạy dài theo đường phố, đóng khung giữa hai dãy nhà cao, len lỏi vào các cửa tiệm, rạp hát, hiệu ăn… Lưu bỏ lui chúng lại đằng sau một khi xe anh vượt quá Cầu Dứa chạy bon bon trên đường Phú Vinh, con đường rải nhựa đen bóng loáng có bóng cây im mát. Hai bên đường, làng xóm kế tiếp với ruộng lúa. Từng chặng, một cái quán nghèo nàn ngồi thu hình dưới một tàn cây. Vườn cam bưởi, vườn mía, vườn chuối nối nhau chạy dọc theo những con mương nước. Một hồ sen hiện ra, hoa màu hồng nở lác đác điểm giữa màu lá xanh tối. Ruộng lúa nằm nép thấp xuống làm con đường thêm cao. Tháng tám lúa chín vàng, đó đây có từng đám ruộng đang gặt. Ngồi trên xe, Lưu nhìn những dáng người vạm vỡ cúi xuống quơ vòng hái, đứng dậy vặn bó lúa, đưa lưỡi liềm cắt ngọt một nhát, tất cả những động tác uyển chuyển nhịp nhàng và dễ dàng như một trò biểu diễn nhẹ. Làm việc cần mẫn, nhu cầu rút hẹp, chính những người nông dân ấy nuôi dưỡng mình mà không hề tự phụ. Lòng Lưu thấy phần khởi vui vẻ. Anh thấy tin tưởng ở sức mạnh cần lao và lòng thiện, trái với khi nhìn những con người ở phố bám víu vào cuộc sống bằng thủ đoạn và sự lười biếng.

Vòng bánh xe càng lăn sâu vào con đường thiên lý, thành phố ồn ào bụi bặm càng bị bỏ lui đàng sau xa hơn thì tâm hồn anh càng thấy bình tĩnh êm ả hơn. Anh cho xe mình chạy đua với những chiếc xe Lambretta ba bánh, cả với những chiếc xe buýt đầy nhóc khách. Sự đuổi bắt thú vị khi ngồi ở sau xe là một người đàn bà có sắc đẹp. Chàng và họ nhìn nhau rồi xa nhau rồi gặp nhau trở lại, liên tiếp trên con đường dài. Sở dĩ có trò vui đó là vì xe ba bánh chạy mau hơn xe anh, nhưng cứ từng chặng nó phải dừng lại để bỏ khách xuống hoặc đón khách lên.

Nhiều buổi sáng anh đi sớm quá, lên đến Diên Khánh mới bảy giờ. Lúc bấy giờ anh có cái thú chứng kiến sự thức dậy của một quận lỵ nhỏ. Trung tâm sinh hoạt là cái chợ. Vài hàng xôi cháo, vài sạp bánh mì cung cấp quà sáng cho mấy người dậy sớm. Đường phố xóc đá lởm chởm và vương vải rác, lá cây.

Có những buổi chiều xong việc sớm anh không muốn dong xe về vội mà cho xe chạy chầm chậm theo hai con đường phố chính. Những tiệm buôn đều nhỏ, hàng hóa xếp lộn xộn. Không có một cô bán hàng trẻ đẹp nào mặc dù anh đã phải đưa mắt tìm ở các sạp vải ngang hông chợ. Cái gì ở đây cũng khiêm tốn, cả ngay sắc đẹp của con người. Khách hàng qua lại đa số là những người nhà quê mặc áo vải đen. Áo phủ trước ngực những người đàn bà có tuổi, nhô ra như những cái mái ngắn. Ở đây các bà còn mặc áo ngắn có túi dưới lớp áo dài (túi đựng tiền, trầu thuốc và đủ mọi món lẩm cẩm) nên thiếu cái eo nơi thắt lưng áo. Không khí quanh chợ thành ra nghiêm trang khắc khổ.

Những hiệu sách trống trải vắng vẻ khiến người đứng bán mang một vẻ gượng gạo mỏi mệt. Phải rồi, ở đây sự buôn bán không làm nên sức mạnh. Sức mạnh tản mác về các ốc đảo màu xanh trên cánh đồng kia, tiềm tàng dưới mái rạ, sau những đụn rơm.

Xe anh đi theo con đường Trịnh Minh Thế lở lói vá víu. Trước một ngôi nhà thấp bốn mái phủ rêu đen có tấm bảng ghi “Ty Bưu Điện”. Nếu từ trong ngôi nhà già nua ấy bước ra một ông quan đại thần đội mũ cánh chuồn, mặc áo bào vàng, mang hia cầm cốt, anh sẽ không ngạc nhiên vì ngôi nhà gần gũi với không khí phong kiến âm u hơn là khoa học sáng của nhanh nhẹn.

Các công sở đều nhỏ, gọn, sạch sẽ. Chúng cho anh cái cảm tưởng đang nhìn những cô gái tỉnh nhỏ làm đỏm, cạo lông mày quá kỹ hay bôi phấn quá nhiều. Người lính đứng canh ở trước công sở biểu lộ một nét nghiêm trang quan trọng. Chắc ít khi có người qua đây để đưa mắt trầm trồ nhìn anh. Nơi đây là cây xanh nhiều hơn mặt người.

Đi vào cửa Đông của thành Diên Khánh, Lưu có cảm tưởng mình đang đi vào dĩ vãng. Bờ tường dày đến bốn thước khiến cái cửa sâu hun hút. Không khí mát lạnh so với sức nóng ngoài kia. Chiếc vọng lâu ở trên đầu cửa điểm một nét điêu tàn cho cảnh. Vẻ điêu tàn còn bàng bạc nơi những hàng cây gòn đứng xoe từng tàn cây mỏng dọc theo bức tường thành. Không khí của những triều Minh Mạng, Tự Đức lảng vảng đâu đây.

Một hôm trên đường về Lưu gặp một chiếc Vélosolex chạy trước mặt do một thiếu nữ cầm lái và chở ở đằng sau một thiếu nữ khác. Người ngồi sau mặc một chiếc áo dài màu hạt dẻ. Qua đầu cầu đông đảo xe cộ, anh thả ga cho xe mình chạy vụt lên, vượt qua xe kia nhưng khỏi cầu anh lại để xe mình chạy chậm lại cho xe kia vượt lên. Từ đó, anh giữ cho xe mình chạy sau với khoảng cách năm thước. Cái lưng thon và màu áo hạt dẻ cứ chập chờn rung rinh trước mắt anh, anh thấy đẹp như một hy vọng không bao giờ nắm được trong tay. Như cái bóng dáng hạnh phúc để cho anh luôn luôn ao ước.

Về đến ngã tư cây xăng, có bốn con đường để xe của hai nàng tự do chọn một: Gia Long, yersin, Độc Lập, Phường Củi. Lưu không ngờ xe trước lầm lũi chạy theo con đường Gia Long, đúng vào con đường của anh. Đến ngã sáu Nhà Thờ lại một lần hồi hộp nữa. Nhưng lại một lần nữa chiếc xe lại lầm lũi chạy theo hành trình của anh: Phước Hải… Huỳnh Thúc Kháng. Cuối cùng xe kia rẽ sang đường Nguyễn Trãi còn anh tách chạy thẳng về con đường Hồng Bàng của anh, không tò mò tìm xem xe hai người kia về đúng nơi đâu.

Chừng nửa tháng sau anh gặp lại lại màu áo hạt dẻ ở trong một trường Tiểu học. Mùa này là mùa nhập học, cứ mỗi buổi sáng xe anh gặp hàng đàn học sinh đi dọc bờ đường, đều đặn thẳng tắp như một hàng rào thấp. Suốt con đường lên Diên Khánh cứ cách vài cây số là có một trường Tiểu học nằm sát bên đường: trường Vĩnh Điềm, Vĩnh Châu, Phú Vinh, Võ Tánh, Diên Khánh. Người học sinh Tiểu học ở vùng quê, ngây thơ rụt rè, áo mũ nghèo nàn là một hình ảnh đáng yêu. Lưu thấy lòng mình cũng trẻ lại, vô tư hồn nhiên khi nhìn mấy em nhỏ ôm sách vở một cách khó khăn, môi mím chặt, hai mắt nghiêm trang ngó trước mặt để tỏ rằng mình là người lớn. Trên cánh đồng lại có từng dãy học sinh năm bảy đứa đi chầm chậm trên con đường ruộng chênh vênh, rón rén tránh những thân lúa nằm mọp đầu gối lên bờ. Có đứa thấy anh chễm chệ ngồi trên xe liền giở nón chào. Có đứa, ngược lại, vẫy tay chỉ chỏ vừa cười nham nhở.

Từ khi biết chắc màu áo hạt dẻ là một cô giáo rồi thì mỗi lần đi về anh đều để ý đến giờ khắc hơn. Anh tính cho xe mình chạy đến Bình Cang kịp giờ bãi trường. Nhưng đã hai lần xe anh vừa đến thì thấy ở tít đằng xa trước mặt chiếc VéloSolex chở nàng áo màu hạt dẻ đang vun vút bỏ chạy. Anh mê mải đuổi theo, bất chấp cả xe vận tải, xe nhà binh, bất chấp cả phong cảnh hai bên đường. Nhưng vẫn không đuổi kịp. Anh thất vọng kết luận: Muốn chinh phục một người đàn bà thì ít nhất phương tiện giao thông của mình phải: hơn họ.

Mùa thu hay có mưa giông, anh đi bằng Lambretta hàng. Ngồi chen chúc với những người hành khách bình dân khác, anh thấy cái thú của sự chung đụng. Người ngồi cạnh anh có khi là những bà bán cá, những chị bán rau, những người xách giỏ đi chợ. Họ gợi chuyện một cách dễ dàng, thẳng thắn. Không cần xã giao, không cần lịch sự, họ vung đòn gánh trúng chân anh mà không cần “xin lỗi”, họ bước ngang trước mặt anh mà không cần khép nép giữ gìn. Hai người xa lạ xưng hô với nhau bằng anh chị như đã quen thân với nhau lâu. Dường như họ không quan tâm tìm đoán xuất xứ của người đang đối diện với họ. Người thị thành đa nghi hơn và cũng khéo biết lợi dụng người đối diện của họ hơn.

Được khuyến khích bởi tính ăn nói hồn nhiên của họ, Lưu cũng góp chuyện một cách cởi mở. Anh thấy rằng lối sống của mình xưa nay nhiễm nặng tính chất ích kỷ. Đi trên cái xe riêng của mình, tới sở ngồi vào cái ghế của mình, về nhà nằm trên cái giường của mình… tất cả mọi thứ nhu cầu đều riêng biệt không để cho ai được động chạm đến.

Một hôm chiếc Lambretta chở anh chạy đến Bình Cang thì dừng lại. Người đón xe chính là cô áo màu hạt dẻ cùng đi với một cô khác. Hai cô nhìn vào trong xe thấy khách ngồi đông nên không chịu lên. Họ đón xe khác. Cùng đi với hai cô có một người đàn ông trẻ mà lúc nãy anh không để ý. Người đàn ông mặc quần màu tối nên khi đi với đàn bà họ bị màu áo dài của đàn bà làm lu mờ đi. Cả ba cùng ôm cặp. Chắc họ là đồng nghiệp với nhau. Người đàn ông lăng xăng giữa hai cô bạn. Anh nhọc nhằn trong một hoàn cảnh may mắn cao quá tầm anh vì hai cô đều xinh. Chỉ một cô thôi tưởng cũng đủ cho anh nhọc rồi. Vẻ mặt láu lỉnh ấy, đôi tay đôi chân phong phú cử động ấy dường như sinh ra để phụng sự đàn bà. Anh lái xe lầm bầm vì bị mất ba người khách. Lưu cũng mơ hồ cảm thấy rằng mình vừa mất một cái gì khi xe vụt chạy anh nhìn ra sau thấy cô áo màu hạt dẻ cười vui vẻ với anh bạn đồng hành.

Tuy vậy, chừng một tháng sau thì Lưu quen cô áo hạt dẻ. Hai tháng sau anh yêu cô áo hạt dẻ. Từ đó cảnh vật hai bên đường không còn quyến rũ tâm hồn anh nhiều như trước nữa. Hai người đợi nhau cùng đi một chuyến xe nên anh hóa thành con người bận rộn. Buổi sáng đi lên sợ trễ giờ đến sở. Buổi trưa đi về sợ trễ giờ nàng đợi. Anh không còn biết mùa này hoa sen có còn nở đỏ trên mặt hồ nữa không, ruộng lúa đang vụ cày hay vụ cấy. Anh chỉ còn để ý đến con đường nhựa đen bị ngốn đi khi anh nhìn ra trước xe, kéo dài ra không dứt khi anh nhìn ra sau xe. Khi có nàng ngồi bên thì anh mê mải nói hay nuốt say sưa những lời nói của nàng. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa mắt nhìn ra cảnh vật nhưng mà cái nhìn lơ đãng làm sao! Cảnh vật hiện ra với anh như một người bạn dễ dãi, không thân lắm nhưng sẵn sàng cười với anh một tiếng, khen tặng anh một câu.

Một hôm Lý, - tên cô áo màu hạt dẻ, - nói:

- Trước đây em thấy anh ngồi trên xe mà mắt cứ nhìn ở đâu đâu trông bộ lơ đãng dễ ghét lạ.

- A, tại vì anh mê mải nhìn cảnh vật trên con đường đi. Cảnh vật, thiên nhiên, anh cho rằng đó là người mẹ bảo bọc mình, an ủi mình. Đó là thứ thuốc dấu linh nghiệm để rịt vào những vết thương do loài người gây ra trong lòng mình.

- Loài người…?

- … là xã hội, là người quen biết và không quen biết, là bạn mình, là người yêu của mình.

- Em?

- Có thể lắm. Nhưng dù biết vậy, anh vẫn yêu em, vẫn làm việc, vẫn hy vọng. Bởi vì chúng ta chưa già và vì thiên nhiên lúc nào cũng còn đó, sẵn sàng để bảo bọc và an ủi người thất bại.




2. ĐÔI CHIM BỒ CÂU



Bầy bồ câu của tôi, một số bị mèo vồ ăn thịt, một số bị mèo vồ hụt sợ quá bỏ bay mất hết. Chỉ còn lại một đôi vợ chồng. Có lẽ chỉ vì có hai cái trứng đã đẻ đó không nỡ bỏ đi nên chúng còn lưu lại nơi cái chuồng của tôi. Tôi phải chăng thêm nhiều lớp dây thép gai chung quanh chuồng để bảo vệ cái gia đình còn sót lại này.

Trong các giống chim nhà, tôi yêu nhất những con bồ câu. Chúng nó cái dáng đẹp đẽ với cái ức trọn trặn và bộ lông mượt. Chúng có cái dáng quí phái với những đôi chân manh mảnh màu hồng. Tôi còn yêu mối tình đằm thắm của chúng đối với nhau. Những buổi nắng đẹp chim đực đi xung quanh người yêu, miệng rầm rì những lời thiết tha. Chim mái nằm yên tĩnh lắng tai nghe. Sự dịu dàng của tình yêu đó thật khác xa với lối biểu lộ tình yêu nông nổi hạ cấp của lũ chim sẻ chẳng hạn, mồm nói choèn choẹt và điệu nhảy lấc cấc, liến thoắng. Lối mổ thóc, lối đi đứng lối bay của bồ câu cũng có cái vẻ gì chững chạc đàng hoàng đặc biệt của những người tự biết mình cao quí, không cần hấp tấp vội vàng. Sự đằm thắm trong tình yêu, con chim đực còn biểu lộ trong cử chỉ tha rác về làm tổ. Rồi khi trứng đẻ ra rồi thì thay phiên với vợ mà ấp. Đến khi con nở thì nhẫn nại đứng sú mồi cho con. Lần đầu tiên thấy chim đực sú mồi, con tôi lật đật chạy đi tìm tôi, miệng gọi ơi ới. Tôi hốt hoảng tưởng có một tai họa nào xảy ra cho nó. Thấy tôi, nó hơ hãi nói:

- Ba ơi… con chim lớn… cắn con chim con.

Tôi vội vã chạy ra xem và buồn cười nhìn lại vẻ mặt lo lắng của nó. Tôi bảo:

- Con chim cha đút mồi cho chim con ăn đấy.

- Nhưng mà nó mổ ngay giữa cổ họng.

- Biết làm sao bây giờ? Đó không phải là cử chỉ êm đềm nhất mà nó chọn, chắc vậy, mà chỉ vì nó không có hai tay khéo léo như ta. Hai tay nó đã phải biến thành cánh. Nó phải mổ lấy thóc, để thóc vữa ra trong cái diều rồi mới ựa ra cho con ăn.

- Nhưng nó không thể làm việc đó dịu dàng hơn sao?

- Dịu dàng hay không là theo ý xét đoán của mình. Con còn nhớ hôm đi xem phim Misfits, lúc con ngựa mẹ bị trói nằm xuống đất thở phì phò thì con ngựa con chạy lại lấy chân khoèo khoèo vào mặt ngựa mẹ không? Khoèo chân là để tỏ tình âu yếm, y như ta lấy hai tay nựng vào mặt mẹ ta vậy.

Một tối kia, có tiếng cánh chim rần rật bay hoảng từ lồng bay vút lên đọt dừa. Lại bị mèo quấy phá nữa. Soi đèn ra xem thì thấy một cái trứng bị rơi xuống đất bể, lòng trắng chảy nhầy nhụa xuống cát. Sáng hôm sau đôi chim bỏ ấp, đi thẩn thơ.

Nỗi căm giận của tôi đối với con mèo hàng xóm đã lên đến cực độ. Nỗi căm giận biến thành thù hằn. Tôi muốn giết con mèo. Tưởng tượng khi bắt được nó tôi sẽ bóp siết vào cổ nó cho thật chặt và tròng mắt của nó sẽ lộ ra và thân hình nó sẽ dãy dụa và cuối cùng nó tắt thở. Nhìn dáng nó đi uyển chuyển trước hiên nhà, nhìn người hàng xóm vuốt ve âu yếm nó, tôi càng tức giận hơn. Thà nó hung bạo, xấu xí và cộc cằn! Tôi sẽ tha thứ nó. Ai nỡ trả thù một người đau khổ, một người đã phải chịu đựng nhiều nỗi bất hạnh và bất công. Đằng nầy nó đi nhởn nhơ ra vẻ một người lương thiện và chủ nó cũng an nhiên bình tĩnh dường như cũng chỉ nghĩ đến điều thiện. Thật là bất công và vô lý. Tôi (và lũ bồ câu của tôi) là nạn nhân, đã bị đau xót lại còn bị dằn vặt bởi những ý nghĩ thù hằn trong khi kẻ ác nhởn nhơ thoải mái.

Nhưng giết nó đâu phải dễ. Thà bắt gặp nó đang cấu xé con bồ câu của tôi, lúc ấy tôi sẽ có đủ hăng máu để giết. Đằng nầy khi nào gặp nó là y như tôi chỉ thấy nó dịu dàng và uyển chuyển, vẻ mặt hoặc trầm tư hoặc thơ ngây. Tôi không đủ sức bạo tàn để làm hại một kẻ thù giữa lúc nó hiền lành như vậy. Chỉ còn có cách tôi cố bảo vệ lấy kỹ lưỡng hơn nữa đôi bồ câu còn lại.

Suy nghĩ nhiều ngày, tôi quyết định thuê người lấy lưới thép giăng thành một cái lồng thật lớn và đặt cái chuồng bồ câu vào trong lòng. Thế là chúng vẫn có phòng ăn ở kín đáo, có điều chúng chỉ được bay quanh quẩn trong lồng. Tất cả những tiện nghi tôi đều lo cho có đầy đủ: lúa, bắp, đậu xanh, rau xà lách, nước uống và nước tắm. Cuộc sống tạm gọi là yên ổn. Tuy nhiên để tránh chủ quan, tôi dặn con tôi hãy lưu ý đến dáng điệu của chúng xem chúng có tỏ vẻ buồn bã, ủ rũ không. Vì nỗi lo lắng đó mà khi thấy con đực đứng gù gù bên cạnh chim mái hoặc thấy chim mái lấy mỏ rỉa nhẹ vào lông má chim đực là lòng tôi vui không xiết. Và mươi ngày sau, tôi thấy chim đực tha rác. Thế là tôi thành công. Con tôi vui nhảy hớn hở. Bữa cơm trưa hôm đó của chúng tôi vang lên nhiều tiếng cười nói hơn mọi ngày. Và rất cần mẫn, con tôi cứ lấp ló nhìn xem chim đã đẻ chưa.

Ngày nó thấy hai cái trứng mới đẻ trên ổ rơm, nó chạy ra tận đầu phố để đón tôi về mà báo tin mừng. Chúng tôi rối rít lo mua thêm đậu, thêm cả mè, để thưởng cho chim. Và chim chia phiên nhau ấp. Tôi bàn với con tôi:

- Bây giờ chúng đã đẻ trứng rồi thì có lẽ ta nên cho chúng bay tự do một chút.

Con tôi vội phản đối:

- Không được. Thả ra sợ chúng bay mất.

Tôi vừa ngẫm nghĩ vừa nói:

- Chẳng có lý. Chúng đã đẻ rồi thì thế tất chúng yêu con mà chẳng nỡ bỏ đi. Nhốt chúng trong một cái lồng, tù túng quá cũng tội. Cho bay đây đó một chút thì chúng mới có đủ sức khỏe.

Con tôi hơi xiêu lòng, chỉ phản đối yếu ớt lấy lệ:

- Con sợ nó bay mất. Nhưng mà… có lẽ ba nói đúng. Nó thương con, chắc chẳng bay mất đâu.

Câu chuyện trao đổi chỉ đến đó.

Hôm sau khi tôi đi làm về, con tôi ra đón ở cổng. Vẻ mặt nó đăm chiêu. Thấy tôi nhìn nó có ý ngờ vực, nó nói giọng rụt rè:

- Ba ơi! Con chim đực bay mất rồi.

- Sao vậy? - Tôi vội hỏi.

- Con nghe lời ba, sáng nay mở cửa lồng. Con bồ câu đực vụt bay ra mất.

- Còn con mái?

- Con lật đật đóng cửa lồng lại. Con mái bay không kịp.

- Bậy chưa! Sao con không hỏi ba mà tự ý thả như vậy? Bây giờ biết làm sao? Nuôi một con thì nó sống thế nào được? Mà nuôi một con thì để làm gì? Chẳng lẽ bắt ăn thịt. Mày thật là vô tích sự. Ở nhà không lo học. Chỉ có tài nhanh nhẩu đoản. Tao chán mày lắm.

Giọng tôi gằn gằn một lúc một nhanh hơn. Con tôi vừa sợ vừa hối hận, nước mắt lưng tròng, ngước nhìn tôi không nói. Tôi chợt thấy là tôi đã rầy oan nó. Chính tôi đã bàn việc thả cho bồ câu bay tự do một tý, thế mà bây giờ tôi lại đổ tội cho nó. Trong cơn giận, người cha nào cũng hay bất công như vậy. Không dám nhận lỗi mình mà chỉ đổ lỗi cho người khác, cho cả ngay chính con mình. Tôi ngượng, để tay lên vai con tôi:

- Thôi. Cứ vào rồi sẽ tính sau.

Con tôi líu ríu đi cạnh tôi, dáng thất vọng rõ rệt. Tôi hỏi:

- Từ sáng đến giờ con chim đực có bay về không? Con có ngó chừng lên mái nhà không?

- Có. Con có ngồi đợi cho nó về. Nhưng nó không về.

- Bội bạc.

Tôi buông một tiếng. Quả thật tôi không ngờ con chim có thể bỏ vợ con lại nơi giam cầm, - trong óc nó chắc nghĩ vậy, - mà đi tìm tự do một mình. Nỡ đoạn tình vậy sao? Đoạn tình đến mức không hề bay trở lại qua nhà để tìm xem vợ con mình ra thế nào, còn hay mất. Người ta nói bồ câu chung tình và tôi cũng tin như vậy. Nhưng hôm nay không những tôi mất lòng tin nơi chim mà tôi còn mang nặng thêm hoài nghi nơi người. Chung tình có phải là một thái độ tình cảm thành thật đâu? Khi có điều kiện thuận tiện, rất thuận tiện để bạc tình thì người ta liệu có từ chối sự bạc tình không? Tôi mất đi lòng tin nơi thiện tâm của con người, đó là một sự mất mát lớn. Vì trong vài ngày sau đó lòng tôi không được vui.

Tôi săn sóc con chim mái để bù vào nỗi cô đơn mà nó phải gánh chịu. Nhưng nó bỏ ăn đứng im lìm một mình. Bỏ trứng không ấp nữa. Ai ở vào hoàn cảnh nó cũng sẽ làm như vậy vì cái lồng trống trơn như luôn luôn nhắc nó nhớ đến những kỷ niệm êm đềm với người chồng ra đi. Dưới vẻ mặt trầm tư xa vắng đó, không biết nó nghĩ gì? Nó nhớ chồng? Nó giận chồng? Hay nó giận tôi, thù tôi?

Buổi chiều, con chim đập cánh phành phạch bay bám vào mắt lưới tìm lối ra. Lông đầu của nó xơ xác. Cánh xệ xuống. Con tôi nói:

- Hay mình đem thả con mái luôn đi ba.

Đúng là ý nghĩ của tôi lúc ấy. Nên tôi nổi giận quay lại:

- Sao lại thả ra? Chưa chi đã chịu thua trận, đó không phải là một tính tốt. Phải tìm mọi cách để nuôi cho kỳ được. Người ta nuôi bồ câu, sinh đẻ hàng bầy, bay đi bay về nườm nượp, chẳng lẽ mình chịu thua sao?

Con tôi không trả lời được. Tôi tiếp:

- Chúng ta phải tìm mọi cách để thắng. Chúng ta phải thắng, con hiểu chưa? Con có cách gì không?

Cố nhiên là con tôi không có cách gì hết, vì cả ngay tôi cũng đang lúng túng. Quả tình việc nuôi bồ câu của tôi gặp nhiều trở ngại quá khiến tôi đã chán muốn bỏ từ lâu, nhưng vì tự ái mà tôi đã nhẫn nại, cố tìm mọi cách để nuôi cho được. Tôi cũng đồng thời muốn gián tiếp dạy cho con tôi một bài học kiên trì, đừng vội nản chí khi gặp thất bại. Nhưng đã tới mức này, tôi không biết giải quyết ra sao. Tôi biết rằng quần chúng có nhiều kinh nghiệm về mọi địa hạt nên tôi đem thảo luận vấn đề với những người mà tôi quen; ông thợ cắt tóc mà tôi gặp mỗi nửa tháng, bà chủ tiệm gạo, ông quản lý sở tôi - người có tuổi và tháo vát, ông liên gia trưởng ba hoa hay nói lạc đề, cả cô thư ký giữ máy điện thoại nữa.

Mọi ý kiến không giống nhau. Ông quản lý không tán thành việc nuôi bồ câu: chúng ỉa bẩn và đi lại trên mái nhà làm tuột ngói. Nên ông đề nghị: “làm thịt quách con bồ câu còn lại”. Cô thư ký phản đối: “Ai lại nỡ ăn thịt một con bồ câu dịu dàng như vậy? Thà thả nó ra cho nó tìm một người yêu mới”. Ông liên gia trưởng chưa kịp nghe tôi trình bày đầu đuôi câu chuyện đã bắt tôi nghe hơn nửa giờ về phương pháp thu cây rào để rào ấp chiến lược. Bà chủ tiệm gạo siêng năng đi lễ Phật khuyên tôi phóng sanh con chim đi. Chỉ có anh thợ cắt tóc là có vẻ hiểu rõ vấn đề hơn hết. Anh nói:

- Ông sai người ở đi chợ lựa mua một con bồ câu đực về đem thả chung vào lồng với con mái.

- Nhưng bồ câu người ta bán cả cặp mà, - tôi nói.

- Mình có thể trả mua một con cũng được. Cũng có khi người ta bán lẻ riêng từng con.

- Phải đi xuống chợ Đầm?

- Cần gì. Chợ Xóm Mới cũng có. Một bà già người Bình Định lâu lâu mang bồ câu vào bán cả giỏ. Tôi mới thấy hôm qua kia đây.

- Nhưng mua về biết con mái nó có chịu không?

- Được mà.

Tôi về, kêu chị ở dặn tìm mua một con bồ câu đực. Vừa ra lệnh mà vừa sợ chị ta hỏi lại. Chẳng hạn nếu chị bảo: “Làm sao tôi biết nó là con bồ câu đực”, thì tôi sẽ lúng túng chẳng biết trả lời sao. May thay, chị cầm tiền đứng ngần ngừ một lát rồi lẳng lặng đi xuống nhà sau. Tôi dặn vói theo:

- Mua một con cũng to như con mái. Lựa cho cùng một màu trắng đẹp, kẻo con mái nó chê.

Hai hôm sau, lúc tôi đi làm về, con tôi ra mét:

- Chị Hai mua được bồ câu rồi ba à.

Tôi mừng quá, không ngờ công việc được tiến hành nhanh chóng đến thế. Tôi hỏi:

- Nó đâu?

- Chị Hai thả vào lồng rồi.

Tôi bước ra lồng, thấy có con bồ câu mới, hơi nhỏ hơn con mái một chút.

Chị Hai từ bếp đi ra đứng cạnh tôi.

- Thưa thầy, bồ câu Tây đó.

- Nhưng có chắc là con đực không?

- Bà già bảo đúng là bồ câu đực.

Con tôi cầm lấy bàn tay tôi, nói chen vào:

- Hai đứa nó chưa quen nhau, ba nhỉ? Mỗi đứa đứng mỗi nơi.

Tôi biết con tôi là người sung sướng nhất trong ba người đứng đây. Nỗi lo buồn vì tự mình thả sống con chim đực, chắc đến giây phút này nó mới xóa được. Tôi dắt tay nó vào nhà, vừa nói:

- Mong cho hai đứa nó thương nhau.

Nhưng chiều hôm đó từ lồng chim vang lên tiếng vỗ cánh rần rật. Lại con tôi chạy vào hơ hãi nói:

- Ba ơi chúng nó cắn nhau.

- Con nào cắn con nào?

- Con mái cắn con đực.

Tôi bước ra sân. Con chim mái đang mổ tới tấp vào con chim đực. Chim đực né tránh rồi đứng dịch ra xa hơn. Nhưng chim mái lại sấn tới mổ vào cánh, đôi cánh để lè phè và lông xơ xác không đều đặn. Chim đực kéo lui đôi cánh một cách vụng về lúng túng. Chim mái mổ bốn năm cái liên tiếp vào đầu chim đực khiến chim đực bay bám vào mặt lưới sắt, thò đầu ra mắt lưới tìm chỗ thoát. Làm sao để giải cứu cho con chim đực bị ruồng bỏ kia? Tôi la “ùi ùi” và con chim đực tuồng như tăng thêm sợ sệt. Còn con mái thì cứ tròn xoe đôi mắt không tỏ dáng xúc động. Giá có một khuôn mặt linh động như người thì tôi tin rằng nó sẽ nhíu đôi mày và bặm môi để tỏ sự căm thù con đực và bất cần sự có mặt của tôi. Tôi nói lời dỗ dành như chỉ theo một thói quen:

- Đừng mổ nó chớ. Mổ nó chi tội nghiệp vậy?

Lời nói thật vô ích. Chỉ có con tôi nghe mà thôi và cũng như tôi, nó cũng cố ý che lấp sự bất lực của mình bằng những câu nói vô ích như vậy.

- Con bồ câu mái trông vậy mà hung tợn quá ba nhỉ?

- Ừ. Khi người ta… ghét thì người ta trở nên hung bạo.

Ý tôi đang nghĩ rằng: “khi người ta không yêu thì người ta tàn nhẫn”, nhưng nói cho con tôi nghe, tôi phải đổi như vậy. Thật tình là tôi đang chuyển từ phạm vi chim sang địa hạt của người. Tôi nhớ rằng khi yêu, con người có thể hạ mình làm những việc tầm thường, thậm chí có thể làm những ngu si được. Nhưng khi đã không yêu thì họ tàn nhẫn lắm. Họ giả vờ bỏ mất địa chỉ để không viết thư trả lời, họ nói dối là bận lắm để khỏi gặp mặt, họ mong tìm thấy một lỗi nhỏ nơi người kia để lấy cớ mà giận mà tuyệt giao. Con người có trí khôn nên yêu ghét đều cực đoan.

Nhưng con chim bồ câu, tôi không hiểu nó ghét vì lẽ gì. Theo lời một người bạn tôi kể lại thì anh có đọc trong một trang sách nào đó bảo rằng bồ câu là một giống chim không sống được trong cảnh cô đơn. Phải có cho nó một người bạn, nếu không khác phái thì tạm đồng phái cũng được. Người ta thí nghiệm rằng nếu nuôi nó trong một cái lồng bốn mặt có gương phản chiếu lại thì nó sẽ yên lành mà sống trong đó vì có hình ảnh của nó làm bạn với nó. Một con vật có nhiều thiện ý bằng hữu như vậy sao nỡ hành hạ một người bạn đã được chọn cho mình và xứng đáng với mình? Hay là vì nó thủy chung với người chồng cũ? Ừ nhỉ! Nghĩ đến đây, tôi nhìn nó với đôi mắt trìu mắt. Thì ra chỉ có bồ câu mái mới biết chung tình. Tôi xấu hổ lây cho con bồ câu đực hôm nọ, bỏ người vợ chung tình lại một mình, ra đi không hề ngoái lại. Người vợ đó hôm nay vì anh mà cự tuyệt một người đàn ông khác đẹp đẽ không kém anh. Chung tình với một người bội bạc, trường hợp đó thật cao quí, và chỉ phái yếu mới có. Tôi nghĩ xa hơn một chút và kết luận: đàn ông như mình thật đáng ghét.

Sau một hồi hưu chiến, con bồ câu mái lại chạy a vào mổ tới tấp vào con bồ câu đực. Ý chừng nó thấy tôi chịu đứng bất lực ngoài lồng không thể viện trợ gì được cho kẻ thủ của nó nên nó mở cuộc tấn công lại. Con bồ câu đực lại né tránh và chạy dài. Đôi cánh kéo lết dưới sàn lồng. Một cái lông măng dính nơi mỏ của chim mái. Với món chiến lợi phẩm nầy dính nơi mỏ, con chim mái trông thật vũ phu.

Con tôi bỏ chỗ đứng đi lại phía con chim đực, có lẽ để tỏ lòng ưu ái với một chiến sĩ có thừa sức khỏe nhưng không nỡ tay đánh một người đàn bà. Vẻ mặt nó đăm chiêu và ra dáng đau khổ. Hai má nhếch lên vẽ những đường nhăn ở hai khóe mắt. Tôi chắc nó lại nghĩ đến cái lỗi của nó đã trót thả con chim đực bay mất hôm trước. Nếu nó không vụng tính đến nỗi làm cái việc dại khờ đó thì làm gì có cảnh đau khổ hôm nay. Tôi đi lại kéo tay con tôi vào nhà vừa bảo:

- Thôi, mặc kệ nó.

- Nhưng con hối hận quá.

- Đã trót rồi thì đừng nghĩ đến nữa. Vả lại, một con chim thì có giá trị gì. Điều cần nhất là con nên rút từ đó ra một bài học.

Ngày hôm sau con chim mái bớt vẻ hằn học, do đó con chim đực có đủ bình tĩnh để xếp lại đôi cánh cho gọn gàng hơn. Hai đứa chia nhau đứng mỗi đứa một góc lồng. Mặt chim đực buồn bã. Ngày hôm sau nữa, chúng đứng gần nhau hơn. Đến ngày thứ tư, thứ năm gì đó tôi không nhớ rõ, chúng đứng sát cạnh nhau. Sự thù ghét chấm dứt và được nối liền bằng tình yêu. Dường như không có một khoảng trống nào giữa hai tình cảm bị diệt, mâu thuẫn đó.

Đến đây, tôi không muốn dễ dàng để trí óc mình suy nghĩ và kết luận về đời sống tình cảm của lũ chim nữa. Chúng ghét đó rồi yêu đó, thủy chung và bạc tình đi cạnh nhau. Nhưng thú thật là tôi rất yên tâm khi thấy chúng không còn gây rắc rối cho tôi nữa. Những mối tình êm đẹp ở loài chim hay ở loài người cũng đều không gây tò mò thích thú nơi kẻ bàng quan. Con tôi lại bình tĩnh đợi chờ ngày mối tình ấy có kết quả. Những cặp trứng màu trắng nho nhỏ xinh xinh được nằm trên nệm rơm êm nhưng lần ấp nào cũng không thành. Đôi lần, ba lần, hy vọng rồi thất vọng liên tiếp, rốt cuộc chúng tôi chỉ nhớ chi tiền mua thóc cho chim ăn, còn thì không để ý gì đến chúng nữa. Cho đến một tối kia thừa lúc cửa chuồng đóng không kỹ, con mèo hàng xóm lẻn vào bắt mất con chim mái. Nhưng tôi đã chán sự thù hằn rồi. Tôi đã chán cả hy vọng rồi. Nhằm lúc đó có một người quen đến chơi ao ước nuôi bồ câu, tôi tặng cho anh ta cái chuồng chim và cả con chim đực cô độc.

Rút bỏ đi được sự rối rắm trong việc nuôi chim nhưng quả tình lòng tôi chưa thoát được những ấm ức. Tại sao người ta vẫn nuôi được. Ông liên gia trởng hay nói lạc đề của tôi có một chuồng bồ câu lớn với nhiều tiếng gù, tiếng rên rỉ, tiếng vỗ cánh rộn ràng. Nhà ông công chức ở cạnh sở tôi làm vừa dựng thêm một chuồng bồ câu thứ hai. Mỗi khi nhìn qua cửa sổ là mắt tôi bắt gặp lũ chim hớn hở bay lên đậu xuống. Dĩ vãng nuôi chim của tôi bừng sống dậy và tôi cảm nghe trong lòng như có một nỗi buồn dâng lên. Trong khi ấy thì tôi lại gặp được nhiều người cũng chán nản bỏ cuộc như tôi vậy. Thành ra để tự an ủi mình, tôi hay đem câu chuyện nuôi bồ câu ra nói, mong tìm những sự thất bại cụ thể nơi những người kiên nhẫn nhất và có nhiều điều kiện để tích cực hơn tôi.

Nỗi niềm đó mấy ai hiểu thấu? Chẳng hạn một chiều nọ, một cô bạn mời tôi đến nhà thầy mẹ cô chơi. Khi cô đưa tôi ra sân để giới thiệu những chậu hoa hồng, hoa sói do bàn tay khéo léo của mẹ cô vừa chiết được, tôi lơ đãng nghe và nhìn mà chỉ chú ý đến bầy bồ câu đang bay qua bay lại từ chuồng đến mái nhà. Khi người em trai của cô đi qua, tôi giữ lại hỏi:

- Anh Vĩnh này, anh nuôi bồ câu có thành công không? Có lợi đích xác làm anh bằng lòng không?

Vĩnh đang ngẫm nghĩ để xếp đặt một câu trả lời thì cô bạn tôi nói ngay:

- Sao lại không lợi? Bồ câu đẻ mỗi tháng mỗi lứa…

Tôi phải xin lỗi ngắt lời cô bạn mà nói:

- Có lẽ Vĩnh biết rõ vấn đề hơn cô. Lâu lâu cô mới về thăm thầy mẹ, chắc cô không được rõ đâu. Ý tôi muốn hỏi Vĩnh, - chẳng hạn: bồ câu có bị mèo hàng xóm chụp không?

Vĩnh tươi cười ngay vì câu hỏi chi tiết dễ trả lời hơn câu hỏi tổng quát lúc nãy.

- Dạ, bị mèo vồ luôn.

- Có hay bị trẻ con hàng xóm bắn ná cao su không?

- Dạ, cũng đó xảy ra luôn. Bồ câu đang ấp mới bay xuống đường là bị bắn chết một con. Con còn lại bỏ ổ không ấp nữa.

- Có phải nhiều khi có một cặp trứng mà ấp chỉ nở có một con?

- Dạ, có vậy.

- Bồ câu dễ mắc bệnh lắm?

- Vâng.

- Thế thì nuôi chúng chẳng lợi mấy…

- Vâng ạ. Mấy tháng đầu thì có lợi, ham lắm. Nhưng sau lần lần thì hơi chán…

- Cám ơn câu trả lời của Vĩnh.

Vĩnh và cô bạn tôi đều tỏ ra ngạc nhiên không hiểu ý tôi muốn nói gì. Tôi giảng giải:

- Tôi nuôi chim bồ câu bị thất bại nên bỏ không nuôi nữa. Mặc dù tôi đã kiên nhẫn nhiều nhưng tôi vẫn cho rằng tại mình mau nản lòng nên vẫn có ý ngầm tự trách. Do đó mà tôi muốn nghe người khác nói lên sự thất bại, sự chán nản để tôi được an ủi.

Vĩnh mỉm cười thú vị vì ngẫu nhiên mà chúng tôi cùng một tâm trạng như nhau. Chắc Vĩnh đang cần một sự an ủi tương tự như tôi vậy. Cô bạn tôi thì dáng không vui. Một người đàn bà đang còn đẹp, ít khi chịu để cho một người đàn ông nói trái ý mình.

Đích thực là càng ngày tôi càng yên tâm rằng tôi không nên hối tiếc vì sự nuôi chim thất bại. Nhưng lòng yêu chim bồ câu của tôi, tôi thấy vẫn không suy giảm. Tôi sẵn lòng yêu bất cứ chim bồ câu nào của ai mà tôi bắt gặp, mà tuyệt nhiên không có ý tưởng muốn nuôi nó làm riêng của mình. Cái đầu nhỏ, đôi mắt đen láy, cái cổ mảnh, cái ức gọn gàng, tất cả sự dịu dàng ấy ám ảnh tôi, ám ảnh cả vào những lúc mà tôi không ngờ nhất.

Tôi nhớ có lần tôi đi dự một nhạc hội. Người ca sĩ được giới thiệu, tôi đã nhiều lần nghe giọng hát ở đĩa nhựa và máy thu thanh. Đêm nay cũng giọng hát trầm ấy thổn thức nức nở, như kéo là là xuống mặt đất, như muốn tràn ra mênh mông, như muốn vỡ ra từng mảnh. Tôi nhìn lên tấm thân manh mảnh của nàng trong tà áo màu ngà, với mái tóc buông dài, với đôi má trắng, đôi mắt đen láy. Có những lúc giọng hát trầm quá tôi chợt lo rằng nàng sẽ không giữ được thăng bằng, giọng hát trĩu nặng xuống và nàng sẽ chênh vênh, và nàng sẽ ngã. Nhưng nàng vẫn đứng đó, tà áo màu ngà manh mảnh, đôi má trắng, đôi mắt đen và giọng hát vẫn êm đềm thổn thức. Con chim bồ câu! Thoáng một giây, tôi nghĩ đến con chim bồ câu, con chim bồ câu trắng dịu dàng, con chim bồ câu không phải của riêng tôi nhưng mà tôi sẵn sàng mến yêu bất cứ nơi đâu và chẳng cần biết là của người nào.



hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 30.11.2012 10:28:32
3. ĐỤNG ĐỘ


- Số 508, đừng liếc sang bên cạnh.

Người thí sinh mang số ký danh 508 thu cái nhìn về. Đôi mắt khép lại trong khoảng hẹp của tờ giấy thi. Nét mặt đăm chiêu.

- Số 492, đừng nói chuyện.

Anh thí sinh mang số ký danh 492 thôi nói, miệng nở một nụ cười gượng.

Phương pháp lập một bản đồ lớp trên tờ giấy, ghi số ký danh của thí sinh theo vị trí ngồi của họ đã giúp Luân giữ trật tự phòng thi một cách có hiệu quả. Có ai rục rịch hoặc hỏi lời giải hoặc tự nhiên cho xem nháp, anh chỉ nhìn vào bản đồ gọi đúng số ký danh của người thí sinh phạm lỗi, thế là trật tự vãn hồi. Nếu cứ gọi vu vơ “Ê, anh kia đừng nói chuyện. Suỵt, suỵt…anh. Anh này, đừng cho xem nháp chớ…” thì cả lớp sẽ bị quấy rầy nhiều quá. Người thí sinh lương thiện nhút nhát thì cứ tưởng giám khảo muốn ám chỉ mình nên giương mắt lên nhìn và đợi, còn người có lỗi thường điềm nhiên tiếp tục, tưởng như giám khảo đang bảo người khác.

Lá phi lao hát vu vơ trên tầng cao, kéo dài một giọng đều đều, lê thê, buồn ngủ. Lá tối màu rong biển nhọn nhọn, li ti, như thiếu sự bình tĩnh, như lúc nào cũng rối loạn thần kinh, như thiếu sự bao dung. Cành rậm chỉa xiên lên trời. Đó không phải là thái độ ân cần đón mời những đôi chim. Phi lao hay đứng ở sân bệnh viện, công sở và nghĩa trang. Những nơi này không ai thích đến.

Luân mơ màng nhìn ra dãy phi lao sắp hàng trước sân trường để nghĩ vẩn vơ như vậy. Anh để cho cô giám thị làm nhiệm vụ của cô. Từ đầu giờ đến giờ cô cứ ngồi nơi ghế đặt ở cửa ra vào. Cô giáo cần phải ngồi như vậy mới có vẻ nhu mì. Phải vòng hai tay trước ngực nữa. Thí sinh không phải đều là học sinh. Học sinh không, cũng đã khó điều khiển rồi. Họ xem những cô giáo trẻ và đẹp như chị của họ ở nhà, thậm chí như một người yêu mà họ mơ tưởng. Ở những trường trung học lớn, thỉnh thoảng ở nơi góc trường có những hàng chữ thầm lặng rụt rè mà thiết tha như những tiếng kêu tuyệt vọng. Chẳng hạn “Cô Kim Nhung ơi, cô đẹp lắm”. Cô giáo mang rất nhiều mặc cảm: nhỏ, yếu, bị người ta đánh giá và thưởng thức sắc đẹp. Như một cái hoa thơm, như một cái quả ngon…

Cô giám thị đi đi lại lại trong phòng. Bước chân nhẹ, ngắn. Ngay ở dãy bàn đầu, những người ngồi thì cũng đã quá cao so với cái bàn, cái băng. Họ như mất thăng bằng. Giống như những lực sĩ ngồi xệp xuống đất để sử dụng đàn tranh. Trong số thí sinh có mấy quân nhân mặc quân phục mang cả phù hiệu cấp bậc. Có những cán bộ nhân viên hành chánh nét mặt đã già. Họ viết chữ đẹp, hay dùng tẩy và thước gạch. Đề luận Việt văn thì chỉ chọn: “Hãy giải thích lời nói sau đây của Tổng Thống…” Cô giáo viên giám thị địa phương mất bình tĩnh với họ. Cả đối với thí sinh - học sinh cũng vậy. Học trò thời nay không coi ai ra gì. Học trò dốt, đi thi để hỏng thì càng hung tợn hơn. Giám thị mang giày đế da có đóng cá sắt bị ghét vì đi lộp cộp làm rộn họ. Mang giày đế cao su êm cũng bị ghét vì họ cho là đi nhẹ để dễ rình. Cô giám thị mang guốc đế nhọn đi lóc cóc thì bị nữ sinh ghét. Ghét! Ghét! Ở cái xã hội học đường thi cử người ta ghét nhau dễ dàng như thở không khí.

Luân bảo cô giám thị:

- Cô Tâm này, cô thử đi một vòng xuống dưới cuối lớp. Thí sinh họ nói chuyện hơi nhiều.

Cô Tâm uốn éo đôi vai, nghiêng cái đầu nhiều lần rồi mới thỏ thẻ nói:

- Họ không sợ tôi mô. Ông xuống kiểm soát thì họ nể hơn.

Luân an phận đi xuống cúi lớp. Cô Tâm vẫn vòng tay nhìn ra sân nơi đó mươi ông lính Bảo an vác súng đi đi lại lại.

Chiều hôm ấy, khi rời trung tâm thi để về phòng trọ, Luân lững thững đi một mình. Gió thổi nhẹ và trời xanh cao vút. Đi qua trường Nữ tiểu học, - nơi đây cũng là một trung tâm thi, - anh để ý đến một đám đông đứng bao quanh cổng trường. Nhiều người đi lảng vảng ở dãy quán bên kia đường. Có những con mắt xoi mói nhìn anh đi qua. Một câu chửi thề:

- Đù mẹ. Tức không chịu được.

Một câu khác:

- Nó bỏ trốn đi đâu mất, chiều nay tao kiếm không ra.

- Đợi kiếm một lát nữa.

Chiếc máy phát thanh transistor đeo ở vai một người đứng đó léo nhéo giọng ca vọng cổ như người nghẹt mũi. Chắc là đoạn chót của một vở tuồng cải lương khi nhân vật nữ xuống tóc đi tu vì bị tình phụ. Có tiếng chuông, tiếng mõ và tiếng sư cụ khuyên đệ tử “Nam mô A Di Đà Phật…”. Những người đứng vây quanh cổng trường chăm chú nhìn vào văn phòng nhà trường dường như không để ý đến giọng khuyên dạy ôn tồn của sư cụ nơi máy phát thanh. Một tiếng lại nổi lên:

- Đù mẹ…

Không biết “đù mẹ” ai, “đù mẹ” cái gì.

Về đến phòng trọ Luân thấy ngay một số giám khảo tụ tập trước hiên.

- Chúng nó lùng kiếm anh Lung suốt cả chiều nay. May mà anh ta nhanh mắt trông thấy.

- Nếu anh Nghĩa không nhanh trí xếp cho Lung ngồi xe ô-tô của Hội đồng thì không khéo Lung bị chúng nó thịt rồi. Khi xe ra cổng, tôi thấy chúng nó nhớn nhác nhìn vào xe tìm. Bác tài nhấn ga cho chạy vọt tới. Hú vía.

Ông Du một tay lần vào lưng quần, một tay đong đưa vơ vẩn:

- Thế này thì loạn mất. Thí sinh uy hiếp giám thị kiểu ấy thì còn thể thống gì nữa? Còn trật tự gì nữa? Ngồi “cóp” ở phòng thi, giám thị cảnh cáo vậy mà về gọi du đãng đến trả thù. Ở nước nào có như vậy không?

Ông Khuê vừa xoa cằm vừa cung hai ngón tay nhổ những sợi râu!

- Chính phủ phải có biện pháp chấm dứt tình trạng đó. Năm ngoái, phó chủ khảo trung tâm Phan Rang ngồi trong phòng Hội đồng bị một thí sinh xông vào đánh vọt máu mũi. Có làm biên bản, có khiếu nại nhưng rốt cuộc chả biết hồ sơ đi đến chặng đường nào thì bị bỏ xó. Kẻ có lỗi không bị nghiêm trị thì người khác khinh thường pháp luật là phải.

Trưa hôm sau, một tin dữ khác được đồn đi thật nhanh: anh Hợi giám thị hành lang ở trung tâm trường Nam tiểu học bị thí sinh lúc bất ngờ đánh vào mặt rồi bỏ chạy. Nguyên nhân là hôm thi Toán người thí sinh này lượm được cái nháp nhưng chưa kịp chép đã bị anh Hợi tịch thu. Hôm thi cuối cùng là thi nhiệm ý, thí sinh này thi vẽ xong, bước ra khỏi lớp gặp anh Hợi và tặng luôn cho anh một thụi vào mặt, món quà giã biệt. Rồi chạy.

- Biết được tên người thí sinh đó chứ?

- Biết được.

- Nghe bảo thí sinh đó là con của một công chức?

- Vâng, đúng vậy.

Các giám khảo có hai ngày rảnh trong khi đợi bài thi và các giám khảo ở Hội đồng hai tỉnh lân cận đến nên ngoài những giờ ăn và ngủ họ tụm năm tụm ba bàn tán việc thí sinh hành hung giám khảo.

- Việc này không thể cho qua được. Phải làm cho ra chuyện. Cụ Chánh chủ khảo đã được báo tin chưa?

- Được báo cáo đầy đủ với mọi chi tiết. Báo cáo của đương sự nạn nhân và của chủ tịch trung tâm nữa, dường như Cụ đang khổ tâm lắm nên Cụ cứ tháo kính ra lau luôn, cứ năm phút lau kính một lần.

- Chỉ còn hai năm nữa thì Cụ về hưu nên chuyện rắc rối nhỏ nhặt nào cũng mang những kích thích vĩ đại qua đôi kính lão của Cụ.

- Những việc này tự nó đã vĩ đại rồi, hay ít nhất nó cũng sẽ mang lại những hậu quả vĩ đại.

- Mình phải công bằng một chút. Ai chẳng muốn làm ra chuyện, nhất là cụ Chánh thì càng muốn làm ra chuyện hơn ai hết vì Cụ có trách nhiệm với anh em, với Bộ. Có chuyện không hay xảy ra thì Cụ bị khiển trách trước. Nhưng Cụ đâu có quyền nghiêm trị ai? Phải nhờ chính quyền. Phải tùy ở sự sốt sắng của chính quyền.

Mười giờ tối hôm đó, có tiếng chân chạy rầm rầm ở hành lang trường và tiếng đập cửa thình thình. Đa số giám khảo và cụ Chánh chủ khảo đều ở trọ lại trường nên khi mọi cánh cửa mở tung ra, đèn bật sáng lên là các vị ùa ra đứng chật hành lang trong nháy mắt. Anh Lung, người giám khảo nạn nhân ở Trung tâm trường Nữ mặt hơi xanh, thở hổn hển và nói đứt quãng:

- Tụi nó bao vây tôi. Có gần chục đứa.

- Tụi nào?

- Tụi bữa trước. Theo lời chúng nó bàn với nhau thì chúng nó đi lùng tôi ở hiệu ăn Tứ Hải và tiệm chè Lạc Viên nơi tôi thường tới ăn uống. May hôm nay tôi có hẹn lại ăn cơm ở nhà anh bạn tôi nên vô tình mà đánh lạc đường chúng nó. Vừa về qua đây chúng thấy hút, ào tới bủa vây. May tôi chạy thoát.

Ngực anh nhấp nhô và hai hàm răng cắn rít lại.

Một giám khảo cất giọng lè nhè:

- Nhưng có chắc là chúng định bao vây anh không? Có thể chúng đang đi trả thù một người nào đó rồi anh trông gà hóa cuốc.

Anh Lung quắc mắc liền:

- Sao lại không chắc? Chúng nó gọi đích danh tôi.

Một giám khảo trẻ, tuổi chừng hăm lăm mang một bộ râu mỏng manh nằm vắt dài ở môi trên dớ dẩn hỏi:

- Sao anh không quay lại giã cho chúng một trận?

Nhiều con mắt đổ xô vào nhìn bộ râu yếu ớt có tính chất thí nghiệm ấy và người ta phân vân không biết anh nói thật hay nói đùa. Nói thật hay nói đùa cũng đều vô duyên như nhau trong lúc này. Nhất là khi thấy cụ Chánh chủ khảo loay hoay lau kính có đến hàng phút mà vẫn chưa đeo kính lên. Đôi lông mày cụ phải quặm xuống và cụ nhướn đôi mắt lạc lõng nhìn về một khoảng khung trời đen sẫm ngoài kia. Giọng cụ rời rạc, trắng bệch như nói không cốt cho ai nghe, như nói vào khoảng trống.

- Vào trong này ở với chúng tôi. Anh ở khách sạn phải không?

- Thưa Cụ vâng ạ. Con ở khách sạn Thiên Sơn.

- Vào trong này mà ở.

- Dạ.

Một giám khảo mình gầy và đen đứng còng lưng trông như một cái dấu ngoặc đơn, cất giọng ồ ồ:

- Rồi chúng nó sẽ tìm đến đây trả thù. Chẳng phải đầu thì phải tai. Thế nào cũng có anh bị mắc đòn oan.

- Cụ Chánh phải báo cáo ngay với chính quyền không thể trì hoãn được nữa.

Nhiều giọng nói họa theo, mạnh mẽ cứng cáp, bởi an ninh đã bị đe dọa thật sự.

- Chúng tôi yêu cầu Cụ phải can thiệp ngay với Chính quyền.

Cụ Chánh thong thả đáp:

- Tôi đã xuống báo cáo trực tiếp với Tỉnh hồi chiều. Công văn thì gửi hôm qua.

- Thế ông Tỉnh trưởng bảo sao?

- Ông Tỉnh trưởng đang bận đi về quận thanh tra.

- Nghĩa là rốt cuộc vẫn thân ai nấy lo. Yêu cầu anh em ai có khí giới nào thì tự phòng thủ bằng khí giới nấy. Dao con chó, dạo cao râu, nịt da, thước kẻ.

Nhiều người cười và nhân cơ hội đó họ giải tán một cách tự nhiên.

Xế hôm sau, một người tùy phái mặc đồng phục kaki chễm chệ mang vào một quyển sổ “Tiếp phát công văn” dày cộm bìa bọc vải màu đen. Công văn của tòa Tỉnh đến, Cụ Chánh ký nhận, đọc, lẩm nhẩm nhiều lần, suy nghĩ đến méo cả miệng mà không biết. Cuối cùng, cụ đằng hắng to rồi hai ngón tay bấm vào một góc của tờ giấy pelure, cụ xách nó đi ra hiên tươi vui như người chiến sĩ tay cầm chiến lợi phẩm. Giám khảo tụ họp lại nhanh như học sinh đánh hơi có tin được nghỉ lễ.

- Có công văn của tòa Tỉnh gởi lên đây.

Và Cụ đứng ngay ngắn tuyên đọc.

Qui Nhơn ngày 30 tháng 4 năm 1963

Tỉnh Trưởng tỉnh Bình Định kính gửi

Ông Chánh chủ khảo Hội đồng khảo thi THĐNC, Hội đồng Qui Nhơn

Kính thưa Ông,

“Tỉnh tôi vừa nhận được báo cáo của ông về việc hai giám khảo Nguyễn Văn Lung và Hồ Sĩ Hợi bị hai thí sinh hành hung ở trung tâm trường Nữ và trường Nam tiểu học. Tỉnh tôi đã ra lệnh cho hiến binh và cảnh sát tăng cường sự bố trí để bảo vệ an ninh hữu hiệu. Kính mong ông tin cho quí vị giám khảo biết để quí vị an tâm thi hành công vụ.

Kính chào Ông.”

Cụ Chánh ngừng đọc, đưa mắt nhìn cử tọa miệng phác một nụ cười. Thì trong cử tọa cất lên một giọng nói:

- Chỉ có tăng cường Cảnh sát và Hiến binh không thôi à? Còn hai tên thí sinh công nhiên hành hung giám khảo thì Tỉnh giải quyết như thế nào? Sao không thấy nói?

- Chắc họ cũng đang giải quyết, - cụ Chánh ôn tồn trả lời.

Một giọng cương quyết hơn:

- Nếu không trừng phạt hai người thí sinh đó thì mọi biện pháp tăng cường bảo vệ đều vô hiệu.

- Chúng ta nên đi từ từ, - lại lời cụ Chánh - Ông Tỉnh đã hứa rồi thì mình cứ an tâm.

Vừa lúc ấy có dáng no tròn của anh Hợi từ ngoài cổng xăm xăm đi vào. Tay chân múa thoăn thoắt. Thấy cụ Chánh đứng giữa cử tọa, anh phân bua ngay:

- Thưa Cụ phải làm thế nào chứ thí sinh láo quá tôi không chịu nổi. Tôi đi đâu chúng cũng sán lại bao vây chỉ chỏ và bàn tán lớn tiếng.

- Mình nhịn đi một chút, - lời cụ Chánh.

- Thưa Cụ tôi nhịn nhiều quá rồi chứ không những là một chút. Nhưng càng nhịn chúng càng được thể reo hò, vỗ tay, la lối.

Một câu hỏi vút lên, nhọn như mũi tên:

- Thế Cảnh sát và Hiến binh tăng cường ở đâu? Chẳng lẽ họ chọn nơi nào không có mặt giám khảo để tăng cường?

- Nguy quá. Thế này mà ông Tỉnh khuyên “hãy an tâm thi hành công vụ”. Tôi có cảm tưởng chúng ta đang bị bao vây trong cái thành quách mỏng manh này, thiếu cửa ngõ phòng thủ vừa không biết địch tình.

- Ngày 2 tháng 5, khi Hội đồng có đủ giám khảo của hai tỉnh Quảng Ngãi và Phú Yên về dự chúng ta sẽ đưa vấn đề này ra thảo luận và làm kiến nghị yêu cầu chính quyền địa phương định rõ biện pháp. Kiến nghị phải đồng thời gửi ra Nha Đại diện giáo dục và Bộ Quốc gia giáo dục.

- Đúng, phải làm cho ra nhẽ một lần.

Các cuộc tiếp xúc, bàn tán thảo luận từng nhóm, từng phòng kéo dài suốt cả ngày 1 tháng 5. Cụ Chánh chủ khảo nét mặt đăm chiêu đi đi lại lại, mặt cúi xuống đất. Cụ không muốn có những chuyện rắc rối xảy ra. Làm khó dễ ông Tỉnh trưởng, đó không phải là chuyện chơi. Ông Tỉnh trưởng nào cũng có thế lực, cũng có vai vế, cũng có tay trong. Dù chỉ còn hai năm nữa về hưu nhưng hai năm không phải là ngắn nếu phải đổi về làm Hiệu trưởng một trường Trung học ở gần biên giới. Chính trị có nhiều rắc rối bất ngờ. Đang thắng đổi thành bại, chuyển bại làm ra thắng, đó là chuyện thường, dễ nữa. Nhà giáo mẫu mực, lo xa lúc nào cũng tự vạch cho mình những ranh giới và nhất định chỉ đi trong ranh giới đó. Đối lập với chánh quyền đó là điều cụ không bao giờ nghĩ tới. Nhưng không thể bắt giám khảo im lặng chịu đựng như cụ. Họ đa số còn trẻ, gân cốt và tim phổi đang mạnh. Như những trái banh ten-nít mới đập xuống sân thì bật tung ngay, vọt thật cao. Do đó mà hôm hội nghị mồng 2 tháng 5 cả cử tọa ồn ào như sắp nổi loạn. Tiếng cụ Chánh yếu ớt chìm vào tiếng nói, tiếng xì xào; thân hình cụ Chánh đứng nhỏ nhoi ở giữa phòng như bị chìm đi giữa những lớp sóng người ngồi bao quanh. Cụ vào đề rất ngắn, - một trường hợp ít khi xảy ra, - rồi phân công cho các tiểu ban. Những tiếng ồn ào nổi lên và vấn đề “thí sinh hành hung giám khảo” được đặt ra. Giám khảo nạn nhân được mời ra thuật lại tự sự. Cử tọa lắng nghe. Mấy cô giám khảo thỉnh thoảng trợn mắt ngạc nhiên hoặc lè lưỡi sợ hãi, hoặc rên lên khe khẽ. Có cô lấy tay che cái miệng hả tròn.

Sau lời tường thuật, cụ Chánh trấn tĩnh ngay cử tọa bằng cách đọc lại bức thư ưu ái của tòa Tỉnh. Những lý luận ở hành lang phòng trọ được lặp lại với lời lẽ mạnh hơn, bởi vì người nói thấy có nhiều người chú ý nghe mình hơn. Một giám khảo đưa ý kiến:

- Học trò đánh thầy, theo Hoàng Việt Hình Luật là tội đại hình (Cử tọa im thin thít. Té ra quan trọng thế đó). Vài năm nay những vụ thí sinh hành hung giám khảo sở dĩ cứ tái phát là bởi chính quyền không trừng phạt họ, là bởi chúng ta cứ chịu nhịn nhục mãi. Vậy tôi xin đề nghị: Chúng ta không chấm bài thi trước khi chính quyền trừng phạt kẻ có lỗi.

Mặt cụ Chánh lộ tất cả vẻ bàng hoàng y như chính Cụ là kẻ có lỗi sắp sửa đưa ra trừng phạt. Cụ nói:

- Như thế là các ông đình công.

- Đình công thì cũng được chứ sao. Chuyện ức như thế này mà ngậm miệng chịu sao?

- Các ông.. chúng ta là công chức không có quyền đình công.

- Nhưng dù có ngồi chấm bài thì cũng đâu còn an tâm mà chấm khi thân mình bị đe dọa.

- Tôi sẽ gửi thêm công văn xuống Tỉnh.

- Phải có kiến nghị thì lời nói của mình mới được lưu ý.

- Nhưng phòng họp này Chính phủ dành cho Hội đồng giám khảo. Muốn lập kiến nghị, các vị nên họp ở một địa điểm nào khác.

- Họp đông người thì phải xin phép chính quyền và phải đợi chính quyền cho phép mới được họp.

- Nghĩa là rốt cuộc chúng ta sẽ khỏi phải họp gì hết cho đến ngày chấm xong và tuyên bố kết quả.

Một giám khảo nói nhỏ như chỉ để mình nghe:

- Chán thật! Năm ngoái mình giám thị ở Phan Thiết một thí sinh quân nhân rút bao súng lục để lên bàn rồi mới ngồi xuống làm bài. Có thí sinh rút dao găm để dưới hộc bàn. Báo cáo cho chủ tịch Hội đồng thì cũng chỉ nghe ậm ừ vô ích như hôm nay. May nhờ chế độ giám thị cứ thay phòng mỗi buổi nên mỗi anh giám thị chỉ phải nếm mùi một lần.

Thế là hội nghị bế tắc. Hội nghị uể oải chuyển sang mục phân chia tiểu ban, phân chia bút chì đỏ để chấm bài và phân chia bài để chấm. Như những con tằm trong thời kỳ ăn lên nghiến lá dâu rào rào, các giám khảo chấm bài rào rào, ai lo phần nấy. Một buổi qua. Một ngày qua. Sau đó có một bản kiến nghị đề gửi lên Bộ, lên Nha Đại diện giáo dục được đánh máy và được chuyền cho các giám khảo ký. Có nhiều người ký, ít người không. Ai phụ trách gửi, ai ủy nhiệm gửi, gửi ngày nào, không mấy ai lưu ý đến nữa. Câu chuyện thảo luận sôi nổi hôm nào bây giờ đã nằm xuống im lặng. Khi có người khuấy động lên thì nó trở sang tính chất hài kịch. Một giám khảo gật gù:

- Theo cái đà này thì đi chấm thi cũng gần như đi sứ sang Tàu hồi xưa. Hay cũng như đi lính thú. Lính thú đời nay! Ngày nhận công lệnh đi chấm thi, vợ con tiễn chân ra phi trường e phải ngâm câu:

Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước lên phi trường nước mắt như mưa


Luân đã theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối. Như mọi giám khảo thận trọng khác, anh đã thay đổi chiến thuật ngay từ khi thi viết thứ hai. Không còn lớn tiếng khắc khe nữa. Lúc nào cũng chuẩn bị để đón nhận một đòn uy hiếp. Đi qua đám đông thí sinh tụ họp trước sân trường, anh cúi nhìn xuống đất đi chậm rãi như một người tư lự. Như đám đông kia không có quan hệ gì đến mình hết. Làm nghề thầy giáo đã nhiều năm anh biết tạo cho mình một lối đi khiêm tốn khi cần. Người hơi ngã về đằng trước một chút. Mắt lơ đãng không nhìn chắc về một điểm nào. Hai cánh tay khuỳnh ra ôm xấp giấy. Anh tự ngượng với mình về lối đóng kịch đó. Nhưng vì cuộc đời là một tuồng kịch dài nên anh quen đi, an phận giữa những kịch sĩ tài ba khác. Ai cũng mong được yên thân. Người nào cũng gắng giữ sao cho thân mình còn được lành lặn khi về với vợ con. Mình đâu phải là chiến sĩ để hãnh diện về nhà với một cánh tay gãy, một cái môi vêu hay một cặp mắt sưng húp? Các giám khảo ít đi chơi đêm hay đi dạo phố thẩn thơ một mình. Ở một tỉnh lỵ, các giám khảo từ xa đến bao giờ cũng dễ nhận biết, do đó những khi ra hiệu ăn anh phải lưu ý nhìn trước nhìn sau. Điều này động chạm đến tự ái của anh nhất là khi anh nhớ đến hồi nhỏ đi thi mình nhìn các giám khảo với đôi mắt kính nể và thèm muốn. Họ giữ quyền sinh sát và thân phận mình nhỏ nhoi như những con muỗi đực. Bây giờ thời thế đã quá khác xưa, khác đến mức anh không thể nào tưởng tượng được sự thể lại có thể xảy ra như vậy.

Chiều qua đi từ hiệu ăn phòng trọ anh đang chậm bước mắt nhìn xuống mũi giày mình thì bỗng một chiếc Solex chạy vút tới, sát cạnh. Anh giật mình nhìn lên. Trên xe có hai thanh niên ngồi. Người thanh niên ngồi sau quay lui hỏi anh:

- Nhìn cái gì? Muốn cái gì? Hả?

Người thanh niên ngồi trước cũng quay lui nhìn anh và cả hai hô hố cười to. Không khí thù địch, khiêu khích sang sảng trong tiếng cười ngạo mạn. Chắc là hai thí sinh làm bài kém hay là bạn của thí sinh. Anh phải cúi nhìn xuống mũi giày và khiêm tốn đi tiếp.

Tối hôm ấy trời nóng. Hàng cây so đũa đứng nghiêm trang trước hiên buông từng chùm quả dài so le như dải rút. Không có gió len lỏi giữa cành. Bình nước trà cạn từ hồi chín giờ. Luân chui vào màn cố nhắm mắt ngủ cho qua cơn khát nhưng giấc ngủ bướng bỉnh không đến. Đèn phòng mở sáng và các bạn anh tiêu khiển ồn ào xung quanh. Anh Lợi và anh Long đập cờ tướng chan chát. Các anh Quang, Hữu, Châu, Đức đánh các-tê thỉnh thoảng vỗ đùi la lối om sòm. Anh Trợ, anh Sung rủ rì nói chuyện nhà cửa, người yêu, trường trại, chuyện phát phần thưởng đã qua, chuyện khai giảng niên khóa tới.

Luân nhìn đồng hồ. Mới mười giờ rưỡi. Anh lăn mình ngồi dậy. Không thể đánh lừa cơn khát được, anh lặng lẽ mặc áo ra đầu phố uống nước.

Đến đường Hàm Nghi gió mát như thổi tan đi cơn buồn ngủ nặng nề. Anh lại hàng nước mía quen. Họ bán hết hàng, đang thu dọn đồ đạc về nghỉ. Anh đi xa thêm ra hiệu kem. Khách khứa ồn ào. Thuốc lá Kent, Winston phì phèo cháy trên những đôi môi 16, 17 tuổi. Giọng nhạc uốn éo, bập bùng rồi chuyển sang quay cuồng hỗn loạn. Tiếng thìa khuấy trong ly canh cách. Tiếng máy xay quả chạy rè rè. Tiếng gọi, tiếng thưa tréo vào nhau như mắc cửi.

Anh uống xong một hơi hai ly nước cam, trả tiền rồi bước ra về. Sau anh có dáng một người cũng hấp tấp đứng dậy, bước ra quầy hàng. Anh đi men theo bờ đường, ánh đèn đường không soi sáng đủ lối đi. Có bóng người đi theo sau.

Anh bước sang con đường ngang. Bóng tối mờ mờ. Sau lưng anh tiếng chân giày vẫn nhẫn nại bước theo. Anh rảo chân thêm. Tiếng chân giày đằng sau gõ mạnh hơn và nhanh hơn. Anh muốn quay nhìn ra sau xem người đi theo mình là ai nhưng ngại không làm. Quay nhìn tức là tỏ ra mình lưu ý đến họ, nghĩa là mình mất tự do, là nể họ, sợ họ. Anh rẽ sang đường khác. Tiếng giày vẫn mải miết đi theo. Nhanh hơn. Dồn dập hơn. Một tiếng đằng hắng. Dấu hiệu mở màn cuộc khởi hấn? Máu chảy dồn dập nơi cổ, nơi thái dương, nơi đôi cánh tay của anh. Vô lý. Mấy hôm nay mình có nghiêm khắc với người thí sinh nào đâu? Hay là khi thu bài, khi phát giấy thi, khi kiểm soát thẻ căn cước mình đã vô tình chạm tự ái họ? Không có lý. Mình đã cố hết sức nhã nhặn với mọi người mà. Hay là vẻ mặt nghiêm nghị của mình làm họ tưởng mình kiêu kỳ nên họ ghét? Có thể. Một luồng lạnh chạy vút qua sống lưng làm tê cóng đến hai bàn tay. Anh mím chặt đôi môi. Đến nước cùng thì đành phải liều mạng mà đánh, may ra. Anh lẩm nhẩm trong óc, hối hận sao mấy lần định học lớp Nhu đạo rồi vì lười biếng mà bỏ trôi qua. Thuyết Helmholtz, phương trình Logarit, hệ thức Chasles không thể dùng để đối phó với những bắp thịt quyết tâm đánh mình. Kiến thức sách vở chỉ dùng để chế ngự học trò được thôi. Tiếng giày lộp cộp. Đúng là tiếng giày có đóng cá sắt, mũi nhọn, rất nguy hiểm cho địch thủ. Ánh điện đường hắt một bóng đen chạy dài dưới chân anh, bóng của người đi sau. Dáng y vạm vỡ. Còn khoảng hai trăm thước nữa mới tới phòng trọ. Anh thu hết sức lực đi cho nhanh. Tiếng giày gần anh. Gần anh thêm. Gần thêm. Một tiếng phát ra:

- …Ầ - ầy…

Anh quay phắt trở lại. Hai bàn tay người kia chụp nắm tay anh. Anh rút phắt tay ra, đồng thời một luồng lạnh lại chạy vút theo cột xương sống, tê ở hai bên má, chạy lên mang tai. Người đối diện với anh mở to đôi mắt, để ngửa hai tay.

- Thầy.

- Anh là ai? Anh muốn gì?

- Thầy… thầy không nhớ em sao? Em là Dương Sanh Thọ.

Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của anh, người kia nói tiếp:

- Em học đệ Tứ với thầy năm kia mà. Ở trường Lê Qúi Đôn. Em là Dương Sanh Thọ mà thầy cứ kêu lộn với tên hiệu buôn xe Vespa Dương Sanh Phát.

- À! À! Tôi nhớ rồi.

Tiếng tim đập rầm rầm làm anh đứng nghỉ một chút.

- Anh ra đây làm gì?

- Thưa thầy em đã thôi học. Bây giờ em làm thư ký đánh máy cho ty Thông tin. Chắc thầy ra ngoài này chấm thi.

- Vâng.

- Thầy độ rày vẫn mạnh khỏe?

- Cám ơn anh. Như anh ngó thấy đấy.

- Thầy vẫn còn ở chỗ cũ?

- Vẫn ở chỗ cũ.

- Lúc nãy em thấy thầy ở hiệu kem Khánh Trang. Em định lại chào thầy nhưng thầy đã trả tiền bước ra. Em vội vã đi theo mà thầy đi mau quá.

- Tôi định về ngủ sớm. Đi chơi khuya, sáng mai mệt, trở ngại cho công việc.

Tiếp theo sau là những lời thăm hỏi xã giao và trao đổi địa chỉ. Nói chuyện trong mười phút, anh bắt tay giã từ Dương Sanh Thọ. Dương Sanh Thọ tỏ lòng cung kính giơ hai bàn tay nắm chặt tay thầy. Anh suýt bật cười, nhớ lúc nãy anh đã lầm thế bắt tay đầy cung kính này với một thế chưởng “Hàn băng miên chưởng” hay “Giáng long thập bát chưởng” “Phiêu tuyết xuyên vân chưởng” của kẻ thù, tưởng như mình đang sống lại không khí của những cuộc tranh hùng giữa các môn phái Thiếu lâm, Võ đang, Nga mi, Không động… trong tập truyện võ hiệp tràng giang “Cô gái Đồ Long” mà anh vừa đọc xong tuần trước.



4. DỐC HIỂM NGHÈO


Tuyên tháo bỏ tấm màn treo ở cửa sổ cho ánh sáng vào nhiều hơn. Nắng vàng rực trên những cánh hoa mai khiến anh có cảm giác rằng chỉ ở trên cánh hoa mới có nắng. Hoa mai nở đầy cành chen lẫn với những nụ xanh mướt bóng loáng to nhỏ đủ cỡ. Nụ làm cho hoa bớt trơ trẽn. Có sự sống từ tốn trầm lặng kế tiếp theo sự háo hức tràn trề.

Vốn dốt trong việc chọn lựa mặc cả nên khi đi tìm mua cành mai, Tuyên ghé lại khu trại của một ông bán hoa quen. Ít nhất cũng tránh được những bà bán hoa phiêu lưu trong việc thách giá và vô trách nhiệm sau khi đã đếm đủ tiền và cẩn thận nhét vào túi áo trong.

- Chào ông. Có cành mai nào đẹp không?

- A! Chào thầy. Có cành này đây. Đẹp quá thầy thấy không.

Ông ta giơ cao cành hoa đang cầm trên tay.

- Bao nhiêu đó?

- Thầy cho ba trăm rưỡi.

- Đắt hơn năm ngoái…

Ông tháo cái “pip” đang ngậm với dáng vội vã.

- Mai năm nay mà, thầy. Ở dưới chợ cành nầy phải bốn trăm rưỡi. Chỗ thầy quen…

Tuyên mân mê vài cành mai nhỏ, đếm lẩm nhẩm vài nụ rồi nói, hơi rụt rè bởi mình chưa đi chợ, chưa khảo giá:

- Hoa không được sai.

Ông bán hoa hít gấp gấp hai hơi thuốc, nhổ một bãi nước bọt rồi chụp ngay tiếng chót của anh:

- Như thế này là sai “hung” rồi đó. Thầy coi, - ông chỉ tay về một nhánh mai cao đặt đứng cạnh đó, - cành mai kia bà Thiếu tá Sự trả tôi tám trăm mà tôi chưa để. Mai năm nay hiếm lắm, kiếm chặt không ra.

Ông bán hoa cúi gằm mặt xuống liếc mắt qua khe kính lão, nhìn lên anh:

- Bị nạn bão lụt mai rừng hư hết…

- Tôi thấy ở dưới chợ bày bán cũng khá nhiều…

- Đó là mai Thủy Triều, mai Mỹ Ca, mai biển. Mai biển đâu có sánh nổi mai núi. Lứa này là mai Krong Pha đó. Thầy thấy không, hoa nó kép mà cánh hoa dài thế này.

Ông hạ giọng nói nhỏ vừa chồm người lại gần anh:

- Bây giờ đi núi đâu có dễ. Mò vô trong rừng sâu thì sợ gặp mấy… (ông giơ một ngón tay ra dấu) Còn đi rảo ở bìa rừng thì có mai tốt đâu mà chặt. Khổ lắm.

Ông cất cao giọng trở lại:

- Thầy lấy cành đó đi, để tôi sai cháu nó vác theo thầy. Lớn ơi! Lớn! Cái thằng hở một chút là chạy chơi đâu mất. Tôi không tính mắc đâu. Chỗ quen lớn mà…

Tuyên chỉ một cành khác đứng dựa cạnh đó,

- Còn cành này?

Ông bán hoa chụp luôn theo:

- Dạ, cành đó cũng đẹp lắm. Nụ nhiều, chơi đến cuối tháng Giêng. Dạ, thầy lấy cành nào cũng đẹp hết.

Tuyên không hỏi đến cành thứ ba, cành thứ tư nữa vì anh biết trước là cành nào rồi cũng sẽ đẹp hết. Giọng ông nói ngọt và êm và dẻo khiến anh liên tưởng đến cái ghế có lót nệm.

Vài người đàn ông ghé tạt lại, chọn lựa hỏi giá rồi lẳng lặng đi rảo qua dãy hoa bày thành hàng, đi thẳng ra ngõ cổng. Có người trả được vài tiếng, nói đôi câu bâng quơ về thời tiết rồi hẹn sẽ trở lại. Ông hàng hoa bình thản nói giá, nói chuyện xã giao vừa chăm chỉ vặn những sợi lạt buộc các nhánh mai cho gần nhau. Tội nghiệp cho những người đàn ông. Mua bán mặc cả không phải là sở trường của họ nên họ dễ ngượng nghịu lúng túng.

Tuyên chậm rãi đi một lượt qua dãy hoa để có thì giờ suy nghĩ và quyết định. Cành hoa nào cũng khéo có những khuyết điểm. Nếu nụ rậm ở dưới gốc thì phải chịu lác đác ở đầu cành. Ông hàng hoa khôn ngoan không để cho cành nào đẹp hoàn toàn.

Một người đàn bà dáng hấp tấp từ ngả chợ bước vào.

- Ông có cành mai nào đẹp đó?

- Dạ có. Cô lấy cành này. Tám trăm đồng.

Người đàn bà đứng nhìn những nụ vàng lác đác, đưa ngón tay ngắt vài nụ héo rồi nói:

- Được rồi. Lát nữa tôi cho chị ở lại lấy. Ông chỉ cành này cho chị ta vác về.

Người đàn bà nắm trong tay một cuộn giấy bạc, mở tay ra chọn đếm một số rồi trao cho ông:

- Ông cầm một nghìn đây. Chọn cho tôi thêm một cành nữa giá hai trăm đồng.

Thấy anh đứng đó, người đàn bà mỉm cười chào:

- Ông mua hoa?

- Vâng ạ.

Tuyên không nhớ đã quen người đàn bà vào dịp nào.

- Ông đã chọn được cành nào chưa?

- Ông hàng hoa giới thiệu cho tôi cành này.

- Đẹp đó. Nhiều nụ và nụ nào cũng mởn. Có thể chơi đến nửa tháng Hai. Họ đòi bao nhiêu tiền?

- Ba trăm rưỡi.

- Không đắt đâu. Ông lấy cành đó đi.

Tuyên nhìn người đàn bà mà không nhìn sang những nụ mơn mởn có thể chơi đến nửa tháng Hai. Khuôn mặt không đẹp lắm nhưng đôi mắt thông minh dịu dàng dễ gây cảm tình.

- Cành này cô khen đẹp?

- Vâng.

- Vậy tôi sẽ mua nó. Cám ơn cô đã chọn hộ. Cô mua hoa nhiều…

- Cành lớn để biếu chỗ ơn nghĩa. Cành nhỏ cắm ở nhà. Chồng tôi không cho mua hoang phí. Chỗ tiền mua hoa là tiền do các cơ quan thuê chén bát trả.

- Họ thuê làm gì vậy cô?

- Các cơ quan ăn liên hoan mừng Tết. Họ thuê chén dĩa của hiệu tôi. Chỗ bổng này được ngót hai nghìn đồng.

Tuyên cười thú vị: mình vô tình được biết thêm một khía cạnh sinh hoạt những ngày cuối năm.

Khi thằng Lớn lẽo đẽo vác cành mai đi theo anh về đến nhà, Tuyên nhờ nó đặt vào cái lọ ở phòng khách cạnh cửa sổ. Cành mai trông đẹp hơn hẳn lúc nó đứng lẫn lộn với nhiều cành khác ở trại hàng hoa. Nó độc quyền ở căn phòng này và nó tăng thêm vẻ kiều diễm. Y như những người vợ. Đứng chung với nhiều người khác, người vợ thường bị nuốt mất như nước sông tan vào trong đại dương. Vụng về, tối tăm giữa đám đông, người vợ sẽ tìm lại được trọn vẹn giá trị của mình khi trở về ngôi vị cũ trong gia đình, khỏi cạnh tranh với ai hết. Cành mai quả đã làm chủ căn phòng nhỏ nhắn sáng sủa và những rèm cửa như cũng tỏ cảm tình với nó trong sự hòa hợp màu sắc và đường nét.

Qua ngày hôm sau và hôm sau nữa, cứ từng ngày một mùa Xuân lặng lẽ nở thành đóa vàng trên mỗi nhánh hoa nhỏ. Tuyên thưởng thức mùa Xuân trên mầu hoa, say mê theo dõi những nụ vừa nở, những nụ mới nhú. Mỗi buổi sáng ngủ dậy, trong phòng có mùi hương thoang thoảng thơm mát, nhẹ quá, thoảng quá làm anh bâng khuâng không biết có phải là mình bị khứu giác đánh lừa không. Hương thơm đó giống một loại hương thơm nào mình đã quen thuộc? Anh đứng lại gần những cánh vàng, bắt tìm mùi hương vừa gạn lọc trí nhớ. Phải năm, mười lần khó khăn như vậy anh mới thấy rõ rằng đó là hương thơm của một thứ trà ngon không ướp hoa. Nhẹ và mát. Trong sạch và thanh tịnh. Đêm đêm chợt dậy, anh hay bật đèn sáng nhìn hoa, cảm thấy niềm cô đơn của mình bớt trống lạnh. Vạn vật thản nhiên trong cuộc sống riêng lẻ, yên lặng, chịu đựng.

Một buổi sáng có tiếng vù vù trong phòng, một con ong vò vẽ bay lượn giữa cành hoa nhiều vòng rồi sà đậu xuống một cành hoa mới nở. Cánh hoa, nhị hoa quằn quại dưới sức nặng của con vật. Cuống hoa cong hẳn xuống như sắp gãy. Phấn vàng bay lả tả xuống mặt sàn gạch. Ong thay chỗ đậu, bay vụt đến một đóa hoa khác. Lại những cánh vàng mỏng bị tả tơi, vòng nhị đực bị xô lệch.

Tuyên xót xa nhìn sự dịu dàng bị chà xé tàn bạo như vậy suốt cả buổi mai. Làm cách nào để bảo vệ kẻ yếu đuối? Đóng cửa lại? Tuyên đóng cánh cửa gần đó và con ong bay vào ngã cửa khác. Không thể đóng kín mít cả phòng. Tuyên nhìn xung quanh mình. Sẵn cái thước dẹp đặt ở mặt bàn, tiện tay anh cầm lên, giơ cao. Con ong bay lại giữa chòm hoa và cây thước của anh đập tới, đập nhằm thân cây làm cánh hoa rơi lả tả vàng cả mặt gạch. Con ong vụt bay ra cửa sổ, thẳng như một mũi tên. Cơn giận ùa chiếm lấy Tuyên. Động mạch thái dương làm ù tai. Máu bốc lên mặt nhiều hơn. Trước mắt anh, những cánh hoa tả tơi, phấn hoa nhị hoa chồng lên nhau. Trừng trị kẻ vũ phu không được, trở lại vùi dập người bị hiếp đáp. Một sự tàn bạo vừa xảy ra. Một sự phân ly. Giã từ vĩnh viễn nhựa cây, nhu mô vỏ, giã từ ánh sáng mặt trời. Ngày mai, những cánh mỏng màu vàng như cánh chuồn này, những sợi nhị đực thơm mùi trà này sẽ quằn quại dưới ngọn chổi cứng, lăn dính trong đất, trà trộn theo những vật bẩn ở sân, ở bếp. Rồi đến thùng rác. Xe rác. Ruồi. Nhặng…

Con ong vụt từ đâu bay trở lại, nhởn nhơ như một người lương thiện. Tuyên quật nó một thước. Tiếng rơi “bịch” xuống góc nhà. Anh đi lại gần. Nó cất mình bay xéo lên. Cây thước đập tiếp xuống. Nó lại rơi bịch. Nó nằm yên. Một lát, cánh đập vù vù trở lại nhưng không thể nhấc nổi mình lên. Nó là là lướt trên mặt gạch. Mình nó cong hẳn sang một bên để cố tạo một thế thăng bằng. Vô hiệu quả. Nó quay chậm chậm theo một con đường cong. Nằm nghỉ một lát. Rồi cánh lại đập vù vù. Cái bụng cong queo hẳn tưởng như sắp tách ra khỏi cái ức. Bộ lông nhung đen mướt ở trên lưng ngã dạt lộn xộn tạo những khoảng trống màu xám. Bụng thở thoi thóp.

Tuyên cúi gần nhìn nó. Cơn giận đã xua tan từ lúc nào, bây giờ bắt đầu sự thương xót. Số phận của nó sẽ như thế nào? Những cặp chân đen và dẹp kia chỉ biết mềm mại. Nó có lỗi gì? Hoa kia là của nó hay của anh? Ai là kẻ chiếm đoạt? Nó đang quằn quại cong veo mình lại để đi vòng tròn. Sẽ gặp gì ở tâm điểm của vòng tròn đó? Cái chết? Tuyên cúi nhìn gần nó kỹ hơn như nhìn chính thân phận của mình. Nó truyền sự đau đớn và tuyệt vọng sang anh.

Sự việc xảy ra sáng ba mươi Tết. Mười giờ, Lệ Châu đợi Tuyên ở dưỡng đường bác sĩ Tùng, nhưng anh không đến. Hai giờ chiều, chú gác dan của dưỡng đường đem tới một phong thư của Lệ Châu nhưng anh dặn chị ở trả lời là anh đi vắng… Lệ Châu ơi, tôi xứng đáng với mọi sự giận dỗi nguyền rủa của em nhưng em đâu có biết rằng chính con ong vò vẽ đã giữ tôi không cho đến gặp em trong ngày ba mươi Tết đó, giữ cho chúng ta khỏi tuột xuống một con đường dốc hiểm nghèo.

Tuyên quen Lệ Châu trong một trường hợp ngẫu nhiên không mấy lý thú: ở nơi phòng mạch của bác sĩ Tùng. Nàng gầy, nước da trắng xanh. Khuôn mặt thon dài. Mí mắt thẫm và hàng lông mi dày làm cặp mắt thêm to, thêm sâu. Vẻ đẹp bệnh hoạn của Marguerite Gauthier(1 ). Nàng hỏi anh về tài nghệ của ông bác sĩ.

- Cũng như mọi ông khác - Tuyên trả lời - Không có gì đặc biệt.

- Thế sao ông lại chọn ông ta?

- Vì ông ta có mặt ở phòng mạch giờ này. Mấy ông bác sĩ khác làm việc nhà nước nên chỉ tiếp khách quá sớm và quá trễ. Còn cô?

- Tôi ở Huế mới vào. Đối với tôi ông nào cũng như nhau vì tôi chưa được biết ông nào.

Giọng nói chậm, nhỏ, mỏi mệt nhưng quả tình là có nhiều thông minh trong cách nói.

Người bệnh nhân vừa được mời vào phòng mang số thứ tự 15. Số của Tuyên đến 40. Còn bao nhiêu là thì giờ rỗng.

Tuyên hỏi:

- Xin lỗi. Cô mang số mấy?

- Băm lăm.

Tuyên cười lên không giữ được và nàng cũng cười ngon lành. Nàng nói:

- Đó là một con số có duyên. Vì nó chọc cười được mọi người.

Nàng cúi xuống đọc một tờ Life bỏ ở bàn xa lông phòng đợi. Tuyên nhìn sang những bệnh nhân khác. Một bà cụ già da mặt nhăn nheo như một vỏ cây nứt nẻ. Những đứa trẻ gầy yếu chân tay khẳng khiu. Những người đàn ông u buồn. Người nào cũng chăm chăm nhìn một khoảng diện tích hẹp trước mặt mình. Người nào cũng nhắc nhở một sự suy yếu nghiêm trọng, một sự khô héo mỏi mệt. Chỉ có cô bệnh nhân làm mát được tâm hồn anh một chút thôi. Ngón tay nàng trắng dài.

Một tiếng cửa đóng sầm làm nàng ngửng lên nhìn. Rồi đặt tờ báo xuống dài, nàng nói:

- Chịu. Không thể đọc được nửa trang khi óc mình không có sự bình tĩnh.

- Đi khám bệnh cũng như đi dự phiên tòa xử án mình. Không án nặng thì án nhẹ, chẳng mấy khi được tha bổng. Còn nguy hiểm hơn dự phiên tòa xử án bởi vì khi ra tòa dẫu sao mình cũng biết được đại khái tội lỗi của mình. Đằng này tới phòng khám bệnh mình phải đối diện với sự bí mật.

- Tôi bị tension… huyết…

- Huyết áp…

- Huyết áp cao. Hay xây xẩm. Tim hồi hộp.

- Đáng lẽ đó không phải là chứng bệnh dành cho tuổi trẻ của cô.

Nàng mỉm cười:

- Thời đại bây giờ đảo lộn hết tất cả mọi qui ước. Mười ba tuổi hút thuốc lá. Mười tám tuổi la cà ở quán rượu, tiệm nhảy. Giám khảo sợ thí sinh. Học trò uy hiếp thầy giáo. Vậy trẻ như tôi mà bị chứng huyết áp cao thì tưởng cũng là thuận lý.

Câu nói chứa một vị chua chát không phù hợp mấy với vẻ đẹp đài các của nàng. Không có nét ranh mãnh nào trên khuôn mặt đó cả. Cũng không có nét buông tuồng liều lĩnh nào.

- Bị huyết áp cao - Tuyên nói, - thì không được lo lắng phiền não… Dẹp bỏ mọi sự bất bình. Ăn rau nhiều và uống nước lọc. Tôi chắc vậy.

Nàng phì cười:

- Bày vẽ thuốc men mà bảo “tôi chắc vậy” thì còn ai dám tin theo nữa?

Tuyên cười theo:

- Để dành cho ông bác sĩ khẳng định “tôi cương quyết bảo thế này”

Khi tới phiên nàng, Tuyên thấy nàng loạng choạng đứng dậy. Đôi vai mỏng lọt qua khung cửa. Cánh cửa sơn trắng nhẹ nhàng khép ở sau lưng. Không một tiếng động. Tự nhiên anh rùng mình. Bao nhiêu bệnh nhân đã nhẹ nhàng đi qua khung cửa hẹp rồi sau đó đi về một khoảng không gian khác. Sẽ đến lượt nàng?

Thì giờ trôi qua rất chậm. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường nghe rõ mồn một trong sự im vắng của tâm hồn khiến Tuyên có cảm tưởng là thời gian đang rơi từng giọt. Dự thẩm còn đang hoàn tất hồ sơ hay chánh án và phụ thẩm đang nghị án? Huyết áp cao. Chắc còn có gì hơn nữa.

Nàng bước ra khỏi phòng, môi mím lại, nghiêm trang. Tuyên đứng dậy:

- Cô… không sao chớ?

Nàng gật đầu:

- Cám ơn ông. Lại huyết áp…

Tuyên tiễn nàng ra đến cổng dưỡng đường. Nàng bước lên xích lô, cúi đầu chào anh và nói cám ơn.

Sau đó anh gặp lại nàng đôi lần nữa, một lần ở phòng triển lãm họa phẩm của người bạn họa sĩ quen, một lần ở bữa cơm do hội Việt Mỹ địa phương tổ chức. Lần này nàng đi với một người đàn ông. Ban tổ chức giới thiệu: Ông bà Trưởng ty Lê Văn Phúc.

Sự kiện thật đột ngột, Tuyên đinh ninh là nàng chưa có chồng. Hôm gặp ở phòng triển lãm, nàng nói chuyện nghệ thuật hội họa với anh và chọn bức họa “Một mình” làm bức mà nàng ưng ý nhất. Tuyên nói:

- Tôi sẽ mua tặng cô bức họa đó nếu cô vui lòng nhận. Về với cô, nó sẽ không còn cô đơn nữa.

- Cám ơn lòng tốt của ông. Xin hẹn một dịp khác vì hiện giờ tôi còn có… có vài điều… chưa yên.

Biết rằng anh bị phật ý, nàng đẩy nhẹ anh cùng đi về một góc phòng, chỉ cho anh xem một bức họa thiếu nữ với tay chân dài ngoẵng rồi nói:

- Tôi tiếc không có được những cánh tay dài như thế kia.

Tuyên nhìn nàng chưa hiểu. Nàng nhếch một nụ cười làm mấy nếp nhăn vẽ ở khóe miệng:

- Cố nhiên là tôi muốn nói nghĩa bóng.

Hôm nay anh mới hiểu ý nghĩa câu đó. Một người đàn bà đã có chồng thì cánh tay không thể dài được. Mình ở quá tầm tay của nàng. Vô lý, một thiếu nữ như vậy lại là người đàn bà có chồng.

Một anh bạn ngồi cạnh Tuyên thấy anh lưu ý nhìn nàng liền hỏi khẽ:

- Có quen?

- Không.

- Tên là Lệ Châu.

- Bà Trưởng Ty Lê Văn…

- Phải. Tên là Lệ Châu. Đẹp đấy nhé. Chỉ hơi gầy một chút. Mới gầy hồi mới lấy chồng.

- Cặp đó trông xứng…

- Chớ tưởng bở. Con vợ nát ruột mà phải làm bộ mặt tươi tỉnh ngồi cạnh thằng chồng mà nó không yêu.

- Anh có thể nói rõ ràng hơn một chút.

- Lệ Châu đang học ở Văn Khoa thì ông bố bị một vụ vu khống lớn phải ngồi tù và sạt nghiệp. Hồi đó người ta tha hồ sáng chế ra tội trạng. Nàng Kiều thời nay phải bỏ học, phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc tội cho cha. Mã Giám Sinh ngồi lù lù cạnh nàng đó. Sau này phát giác ra thì Mã Giám Sinh chính là một tay em trong bè lũ vu khống.

- Nhưng tình yêu xóa bỏ thù hận.

- Nếu được như vậy thì cũng an ủi đôi phần. Đằng này ông chồng là một tay vừa cả ghen vừa vũ phu.

Lệ Châu tránh tia mắt nhìn của Tuyên. Nàng ngồi thu hẹp hai vai như một người phạm lỗi.

Ngày hôm sau, nàng nằm dưỡng đường. Cô y tá cho Tuyên biết tin. Tuyên hỏi:

- Lại chứng huyết áp cao?

- Vâng. Có thêm tim yếu.

- Tôi chắc bệnh tình không đến nổi trầm trọng.

- Thường thôi. Cứ độ vài ba tháng, cô đến nằm ở dưỡng đường mươi ngày. Có lẽ cốt để tìm sự yên tĩnh nghỉ ngơi nhiều hơn là cần thuốc tiêm và thuốc uống.

- Khung cảnh bệnh viện không có gì êm đềm vui tươi hết.

- Điều đó còn tùy thuộc ở căn phòng mà mình chiếm. Cô Lệ Châu thì luôn chọn căn phòng cuối cùng ở cánh tả lầu nhất. Phòng đó mở nhìn xuống một bãi cỏ và được bóng râm của một cây trứng cá làm im mát cả ngày. Cứ vào chặng tám giờ sáng lại có một đôi chim vành khuyên ríu rít bay đến lượn giữa cành lá để tìm sâu.

- Một phòng có nhiều tiện nghi như vậy thì chắc chẳng mấy khi vắng khách.

- Cũng có lúc. Khi phòng bận có người nằm thì cô dặn bao giờ khách lành mạnh dọn đi thì bảo cô biết để cô đến.

- Nằm bệnh viện mà y như đi nghỉ mát dặn dành phòng trước.

- Đối với cô, có lẽ đúng như vậy.

Tuyên gửi tiền nhờ cô y á mua một bó lai ơn thật đẹp để cắm ở phòng nàng. Liền sau đó cô y tá đến gặp anh:

- Cô Lệ Châu cảm ơn sự ân cần của ông.

- Đó chỉ là một chút xã giao thông thường.

- Cô mời ông, ngày kia có rảnh thì ghé lại phòng cô.

- Ngày kia? Ngày ba mươi?

- Vâng. Mười giờ sáng. Cô hẹn như vậy.

Ngày ba mươi Tuyên đã lỡ tay đập ngã con ong vò vẽ. Anh đã lặng lẽ hối hận ngồi nhìn nó quằn quại trong niềm đau đớn tuyệt vọng. Và anh thẫn thờ tự nói với mình: khi người ta yêu một cái gì thì người ta trở nên độc ác tàn bạo trong việc chiếm giữ độc quyền vật mà người ta yêu. Con ong không có tội gì hết. Hoa mai đó là của nó, của núi rừng sinh sản ra để dành cho nó, làm món ăn, làm nguồn sinh sống cho phần nó. Mình chỉ là kẻ cướp đoạt. Mình không có quyền…

Lệ Châu ơi, tôi không có quyền, tôi không muốn làm kẻ tước đoạt. Tôi không muốn vì yêu em mà trở thành kẻ bạo tàn. Chiều ba mươi Tết, tôi cầm bức thư của em xót xa bức rức nửa muốn nghe theo tiếng nói của lương tâm, nửa muốn chạy vù đến tìm em rồi mặc cho cuộc đời muốn ra sao thì ra. Tôi thẫn thờ thắt ca vát rồi tháo ca vát, khóa cửa rồi mở cửa, lên xe rồi xuống xe. Tôi đi tới đi lui, ngồi xuống rồi đứng dậy. Tôi biết nếu tôi tới với em lúc này thì chúng ta không thể nào ngăn cản khỏi mắc vào một mối tình tội lỗi. Nhất định là em sẽ ngã vào cánh tay tôi, nhất định là tôi sẽ hôn nhiều lần lên đôi mắt thâm quầng, lên đôi môi nhợt nhạt của em. Nhất định chồng em sẽ là kẻ chiến bại và hắn xứng đáng với cái kết quả mà hắn phải nhận. Nhưng tôi không muốn, không muốn. Tôi không đủ can đảm nhìn lại hình ảnh con ong nạn nhân. Nó vẫn ở góc phòng và cứ chốc chốc lại đập cánh vù vù, uốn cong lưng bay thành vòng tròn là là trên mặt đất.

Ngày mồng hai Tết, cô y tá bảo Tuyên:

- Sao hôm ba mươi ông không đến? Cô Lệ Châu đợi ông đến tám giờ tối. Chồng cô đem xe đến giục về từ chiều nhưng cô lấy cớ còn tiêm thuốc, còn thu xếp đồ đạc, còn… Mãi đến khi tiếng pháo cúng tất niên nổ rền ở dãy phố trước mặt, khi biết chắc chắn là ông không đến cô mới chịu lên xe.

Tuyên đứng tần ngần không trả lời. Trước mắt anh, những người đi du xuân cười nói rộn ràng. Màu áo mới lòe loẹt. Không có Lệ Châu đi trong đó. Anh tưởng thấy nàng ngồi trong xe vặn kính kín mít. Ánh điện sáng ấm áp. Bánh xe lăn nhẹ nhàng và nàng quay lui chăm chăm nhìn lại con đường dẫn tới dưỡng đường nơi đó nàng còn nuôi hy vọng thấy bóng anh hăm hở lao xe vút đến tìm nàng.

(1) Nhân vật chính của tiểu thuyết Trà Hoa Nữ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.12.2012 08:54:10 bởi hai1957 >

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 01.12.2012 08:57:09
5. CON ĐƯỜNG GAI


Con gái mà học ban B là không hợp cách. Ban B đòi hỏi lý luận chính xác, áp dụng công thức, làm cho tâm hồn con người khô khan đi, chỉ chúi mũi vào vẽ, tính, đặt phương trình, giả thiết…

- Nói chuyện với một cô bạn học ban C thấy câu chuyện đậm đà ý vị. Còn nói với mấy chị ban B…

- Học ban B sau này đi các ngành kỹ sư mới có lợi. Nhưng con gái làm kỹ sư thì đâu có tiện? Học ban A để đi dược khoa, y khoa.

Đại khái đó là những ý kiến của các ông bạn ba tôi nói chuyện oang oang ở phòng khách. Tôi ngồi ở bàn học trước quyển Vật lý và tự mình mò mẫm học lấy. Niên khóa bắt đầu quá chậm và chấm dứt quá sớm. Tháng Tám giáo sư còn lo đi chấm thi. Tháng Chín biểu tình xuống đường. Chính phủ độc tài thì biểu tình chống đối. Khi lung lay cho họ ngã được rồi thì lại biểu tình để ủng hộ Chính phủ mới. Nhiều môn học, giáo sư cố gắng dạy đến bốn phần năm chương trình là cùng. Thế cũng là may. Có năm, có món, chương trình in dài đến ba tấc mà giáo sư chỉ thanh toán được chừng tám phần. Nhiều lý do xác đáng đã đẩy trách nhiệm đó về tận Sài Gòn. Đó là cớ thiếu thầy, Bộ Giáo dục bổ dụng giáo sư và điều động giáo sư quá chậm chạp. Niên khóa bắt đầu vào tháng Chín mà có môn mãi đến tháng Mười Một mới có một cô giáo rụt rè đến, nhận lãnh môn dạy một cách miễn cưỡng bởi lẽ cô học ban Lý hóa mà trường bắt dạy Toán hay Văn chương. Hơn nữa, cái thành phố nhỏ này không hấp dẫn được ai hết, nóng như thiêu đốt. Những mặt bàn lát bằng ván ép cong lại như con tôm đất bỏ vào chảo dầu sôi. Phi cảng thì còn nằm trong vòng dự án xây cất. Đường ô tô bị chặt từng đoạn, giao thông với các tỉnh lớn phải nhờ ở các thuyền buồm và ghe máy. Chúng tôi bảo nhau: Hãy nhìn xuống, nhìn xuống nữa để mà tập bằng lòng. Có trường có lớp tại chỗ để mà học vẫn còn hơn là phải đi tỉnh xa ăn ở trọ. Ba tôi thường an ủi tôi bằng cách kể lại những mẩu chuyện hồi nhỏ đi học xa phải ăn cơm trọ:

- Tao thấy một bộ răng đủ (đủ cả răng cửa, răng nanh và răng hàm), một nha thức gồm 32 cái thật vô ích đối với một học sinh đi ở trọ. Vì lẽ lũ tao có bao giờ nhai đâu? Ít nhất là trong thời gian thanh toán bát cơm thứ nhất, lũ tao chăm chăm vơ đũa thật nhanh chọn gắp miếng ăn thật ngon rồi và lấy và để. Khi mọi đĩa thức ăn đã hết sạch rồi tình hòa hiếu mới tái lập trở lại. Vừa nhai chậm chạp vừa kể chuyện vừa pha trò. Dưa món, nước cá kho, nước mắm… không đòi hỏi phải tranh giành, chiếm đoạt.

Em tôi nói:

- Ba nói quá. Học sinh gì mà tệ vậy? Nhất là hồi xưa, hồi thời của Ba người ta “tiên học lễ, hậu học văn…”

Ba tôi cười:

- Cố nhiên là tao có nói quá đi. Nhưng nếu tao không dọa cho bay sợ thì bay cứ đòi đi Huế, Đà Nẵng mới học được.

Tôi chọn ban B vì thích lý luận chính xác, thích những lời giải không ai có thể nói trái lại được. Như thế kết quả đúng hay sai rõ ràng cụ thể ra đó. Không thể nói quanh co dài dòng và quan niệm linh động đến mức mâu thuẫn nhau được. Tuy nhiên, quyết định chọn ban cũng do ảnh hưởng của Ba tôi một phần. Ông kể hồi đi học giáo sư Math (1 ) hay miệt thị học sinh Philo (2 ) Trong lớp Math, nếu có học sinh nào lười hoặc kém là giáo sư hay dọa bằng câu: “Nếu anh không cố gắng thì tôi cho anh xuống lớp Philo”. Sao lại xuống? Sao không nói “qua lớp Philo?” Sao dám chắc rằng bên Philo giáo sư sẽ nhận người học sinh này? Descendre en Philo! Vô lý thật.

- Nếu thời bây giờ, - Ba tôi tiếp, - thì anh em học sinh ở ban Philo dám xuống đường biểu tình phản đối lắm.

Nhưng học Toán mà không thể theo học những lớp riêng, những lớp tối thì thật là điều khổ tâm. Học ở trường không đủ. Toán tập làm không hết. Giáo sư hoặc dạy quá chậm hoặc quá mau. Thời gian như cái khung ảnh chật mà chương trình là tấm ảnh quá lớn. Phải cắt xén mọi bề mà vẫn không lồng vào được. Tôi quằn quại một mình với những chương Toán, Lý Hóa còn sót lại. Hỏi bạn thì đứa nào cũng mờ mịt như nhau. Học thêm ở lớp tối thì không tiện vì nhà tôi ở mãi tận ngoại ô, đi về xa xôi. Ba tôi chữ nghĩa không còn rớt lại được bao nhiêu. Mỗi lần mó đến định lý, công thức thì ông loay hoay ngồi nhắm mắt gật gù, tập trung trí nhớ. Những ngày gần thi, ông buôn bán lỗ lã nên hết châm điếu thuốc này đến châm điếu thuốc khác. Nếu không gặp ông ngồi bóp trán trước những dãy con số thì thấy ông nằm lăn trở trên giường. Chiến tranh chặt đứt đường giao thông. Mười lăm chuyến xe chở đầy bắp su, cà rốt từ Đà Lạt xuống đành nằm chết ở Nha Trang, chịu không thuê được tàu thủy chở đi. Ngày nào cũng có điện tín màu xanh đến.

- Xuống đủ mười lăm xe. Stop. Tàu thủy chưa được. Stop.

- Gởi gấp hai mươi lăm ngàn.

- Rau úng bỏ ba mươi phần trăm. Stop. Cho biết quyết định.

Những bức thư tay ghi rõ chi tiết, đọc lên bi đát hơn. Rau thúi đổ từng đống. Không có kho để chứa. Bán lỗ lã ở các chợ. Nhà vườn thúc tiền. Tài xế thúc tiền. Ba tôi ăn cơm hết được. Ngồi đâu thì ngồi yên một chỗ mặt gục nhìn xuống. Có lần ông nổi cáu la tôi:

- Tao lo lắng mệt ăn hết nỗi mà tụi bay không đứa nào thèm lưu ý đến tao. Ít nhất bay cũng phải pha sữa bắt tao uống hoặc sai chị bếp nấu cháo nấu mì cho tao. Ngày nào bay cũng bắt tao ăn cơm…

Tôi đang loay hoay với định luật Berthollet chưa biết hỏi nhờ ai giảng mà ngày thi chỉ còn cách ba bữa, nên quay lại:

- Ba muốn uống sữa thì ba sai…

- Muốn, muốn cái gì? - ông ngắt lời tôi. Tao đâu phải là con nít mà muốn uống sữa? Tao mệt không ăn được thì bay liệu săn sóc tao một chút.

- Chớ ba tưởng con không mệt sao? Người ta học thì có má nấu chè hột sen với đường phèn cho ăn. Hầm bồ câu cho ăn. Ninh chân giò cho ăn. Còn con, chẳng ai lo cho con hết. Ba còn rầy con nữa.

Ba tôi ngồi lặng im. Rồi chợt cười xòa:

- À, tao rầy oan. Tụi mình cùng một cảnh ngộ, khổ như nhau, thôi chẳng ai trách ai được hết.

Tôi hối hận vì câu nói của mình, nhất là khi nghe Ba tôi hồn nhiên nhận lỗi. Săn sóc cái ăn cái uống cho con, người đàn ông đâu có lo chu đáo được, nhất là trong những lúc buôn thua bán lỗ. Ba tôi chỉ biết lo mua sữa mua đường, bánh ngọt, bơ, dầu cá. Thế giới mua sắm của ông là con đường vòng tròn đó. Quả tình có một người mẹ thì sung sướng hơn nhiều. Hôm nọ đến nhà thăm cô Bảy, tôi nghe cô nói về người con của cô:

- Thằng Ngoạn hắn học cả đêm. Nhiều bữa hắn gục thiếp đi trên bàn. Cô phải đi rón rén nhẹ nhàng đặt ly chè bo bo bên cạnh đó cho hắn.

Tôi nghĩ thầm: Sung sướng thay là khi học thi mà có người mẹ dịu dàng như vậy. “Gục thiếp đi”, những lời đó nghe mới êm đềm trìu mến làm sao. Bảo rằng “nó ngủ gục trên bàn” thật là tội nghiệp cho người ngủ. Tôi nhớ ba tôi cứ khi nào thức giấc thấy phòng tôi còn mở đèn sáng là ông cất tiếng:

- Ê! Một giờ khuya rồi. Ngủ đi. Học nhiều bệnh đó bay.

- Tụi nó học đến ba, bốn giờ sáng.

- Kệ tụi nó.

Có nhiều đêm tôi ngủ gục trên bàn nhưng có ai nói rằng tôi “đã mệt quá đến thiếp đi”?

Cách ngày thi hai hôm, tôi đi tìm số ký danh, số phòng thi và địa chỉ điểm thi. 1892. Con số của Định Mệnh. Nó sẽ gắn liền với tên tôi, mang lại vận may hay số rủi? 1892. Y như mua vé số kiến thiết người ta nhìn những con số đã mà hy vọng. Căn cứ vào đâu để mà hy vọng thì không ai trả lời được, tuy vậy người ta vẫn cứ ngờ ngợ để mà hy vọng. Địa điểm thi và phòng thi không làm tôi an tâm. Thi ở trên lầu thì chẳng trông chờ gì được ở sự viện trợ bên ngoài. Ngày thi Trung học vừa rồi, ở trung tâm trường Nữ, thí sinh tha hồ nghe ở bên ngoài người ta đọc to lời giải bài Toán, bài Sinh ngữ. Thi ở trường Tiểu học, ở từng dưới có nhiều hy vọng hưởng những sự may mắn như vậy. Nhất là ở trường nào có một cái sân hẹp, có nhà đồng bào cất sát bên tường.

Con Cảnh, một con bạn hỏi tôi:

- Mày ngồi gần đứa nào? Trai hay gái?

- Một trai một gái. Trước tao là Lâm Bá Thông và sau tao là Lê Thị Thun.

- Con gái thì chẳng trông nhờ được gì. Ít đứa giỏi Toán lắm. Mày có thể nhờ ở thằng Thông.

- Sao biết nó là “thằng” ? Lỡ một ông già thì sao?

- Ít khi gặp ông già. Ông già thường thì thi ban C. Vả lại thằng Thông tao có quen. Nó học ở bên Trần Quốc Tuấn. Giỏi Toán một cây. Được phần thưởng cuối năm.

- Mày nói trước với nó, khi nào tao bí nó cho tao coi với.

- Được. Tao sẽ đi lùng tìm nó.

Tôi tự thấy xấu hổ khi nghĩ đến sự nhờ vả. Ai có kinh nghiệm thi cử đều trông chờ những người học giỏi ngồi cạnh để nhờ vả đôi chút. Hỏi đáp số bài Toán để được an tâm khỏi phải mò mẫm thử lại. Hỏi một chữ bí. Nếu gặp giám thị tử tế, có thể liếc nhìn cả bài Công dân giáo dục, bài Sử Địa. Có bà con với nhân viên lập danh sách thí sinh không phải là điều vô ích. Thằng Thúc vô tình đã lộ bí mật ấy cho tôi biết. Đỗ Trung học xong, nó đi Sài Gòn học hai năm, đệ Tam và đệ Nhị. Kỳ thi Tú tài nó về đây thi. Hỏi vì sao phải lặn lội gian khổ vậy, nó không nói. Nhưng hôm sau tôi dặn nó hễ làm được bài thì nhớ để cho coi nếu như tôi bí, nó trả lời:

- Chắc không được đâu.

- Sao lại không? Mày tên Thúc, tao tên Thu, thế nào cũng ngồi cạnh. Chẳng lẽ có đứa nào tên Thù tên Thú, hay tên Thua, ngồi chen ở giữa. Hay là mày ích kỷ?

Mặt nó nhăn lại, thiểu não. Nó ngập ngừng một hồi lâu. Tôi dằn giọng:

- Sao?

Và nó nói nhỏ:

- Chú mình nhờ văn phòng xếp cho mình ngồi giữa thằng Thanh và thằng Thuận hai thằng này giỏi Toán lắm. Ba đứa ngồi chung một bàn.

- Sao lại xếp được? Tao tưởng phải theo thứ tự A, B, C.

- Có lẽ chỉ theo ở những chữ đầu tên. Còn những chữ ở giữa thì tùy nghi.

Tùy nghi! Tôi muốn kêu lên như bà Roland: “Hỡi chữ “Tùy nghi!” Người ta phạm bao nhiêu tội lỗi vì mày”.

Ngày đầu thi Việt văn. Khi tôi ở phòng thi về, Ba tôi hỏi cách bố cục bài Luận. Tôi trả lời mới nửa chừng, mới được nửa phút thì ông đã giơ tay ra hiệu ngăn lại.

- Được rồi. Con làm đủ điểm trung bình. Lo coi lại Toán đi. Gọi chị bếp múc chè hột sen cho mà ăn. Ba đã dặn chị nấu chè cho con đó.

Ba tôi cúi xuống nhìn trang giấy viết dở dang. Cạnh đó, bỏ rải rác những điện tín và thư. Ông đang ngụp lặn giữa những sóng gió tài chánh.

Tối đó, khi sắp chia tay đi ngủ, Ba tôi bùi ngùi nói:

- Con lo nhất là Toán và Lý Hóa vì hệ số lớn. Con có thể cầu nguyện để má con phù hộ cho con.

Tôi trả lời:

- Con có cầu nguyện má mấy lần nhưng má chẳng giúp gì được hết. Hồi thi vào đệ Thất, má để con rớt chổng cẳng.

Chắc Ba tôi không tin rằng khi cầu nguyện thì linh hồn người thân sẽ về giúp đỡ phù trì mình. Chắc Ba chỉ muốn gợi lên một không khí gia đình để tôi thêm vui, thêm bạo dạn tin tưởng mà vượt chướng ngại, ngày mai.

Bài Toán và bài Lý Hóa, tôi làm không hoàn toàn. Đáp số bài Toán đáng chia 2 thì lại không chia, đáp số bài Lý Hóa đúng ra không chia thì lại chia 2. Ngồi trong phòng thi thấy không khí ở bên ngoài như loãng hơn, trong hơn, mát hơn. Thằng Thông có tiếng là giỏi Toán ngồi viết vèo vèo. Mặc kệ những người ngồi kề quay mặt sang hỏi, nó làm như không nghe không thấy. Thật là một tên làm ăn chí thú, gương mẫu trong sự ích kỷ. Chắc chắn nó sẽ thành một công dân có phiếu lý lịch số 3 trong sạch, một viên chức nhà nước mẫn cán bởi tính rụt rè nhút nhát.

Bước ra phòng thi, nghe người ta nói bô bô đáp số, tôi muốn rã rời người ra, đầu óc cơ hồ như đang quay. Tôi lẩm nhẩm tự cho điểm mình: Việt văn 11, Toán 9, Lý Hóa 13. Rồi hạ bớt xuống: Việt văn 10, Toán 8, Lý Hóa 11.

Ba tôi đi về thấy tôi nằm im thin thít trong giường, liền hỏi:

- Sao mà xẹp đi vậy? Bộ rớt rồi hả?

Tôi cự nự:

- Chắc rớt.

- Thôi, lo học lại để thi kỳ II, - giọng nói của ông đủng đỉnh.

- Kỳ này không đỗ thì kỳ II còn hy vọng gì.

- Thế thì phải hy vọng ở kỳ này. Con còn thi món nào nữa?

Tôi kể lể:

- Còn Vạn vật, Sử Địa, Sinh ngữ.

- Hãy cầu cho thoát loạt I cái đã. Đâu, lấy cuốn Vạn vật ra đây. Bố con cùng học.

Ba tôi chọn những bài “có vẻ đáng ra” rồi đọc to từng chữ, đọc chậm rãi vừa giảng vừa lặp lại. Tôi lặp lại theo, tối đó hai cha con thức thật khuya cùng học chung những phôi tâm, noãn khổng, thai tòa, dissaccarit, nhu mô, chu luân… Đã bảy năm nay rồi, ba tôi không còn học dùm cho tôi nữa. Ngày tôi còn ở lớp Nhất, lớp đệ Thất, đêm nào Ba cũng phải ngồi học chung với tôi ít nhất nửa giờ. Có Ba học thì mau nhớ. Có tình thương bàng bạc trong giọng nói, trong tia mắt nhìn, trong dáng ngồi che chở bảo vệ của Ba.

(1) Toán
(2) Triết học


Thi xong loạt I và loạt II tôi thấy nhẹ người. Đằng nào thì sự việc cũng đã xảy qua rồi. Có hối tiếc một chút là: nếu như cho mình bình tĩnh làm lại thì bài làm sẽ đúng hơn, hay hơn.

Hễ cha con có chút thì giờ rảnh là ngồi lại tính toán.

- Bài luận đó, ba cho mạt lắm cũng 8 điểm trên 12. Cho điểm trên 12 lợi lắm. Giáo sư ở trường thường cho điểm trên 20 nên họ quen tay quen óc, cho theo thói quen. Tính sang điểm trên 12 thì thí sinh có lợi.

Tôi ầm ừ, chưa tin lắm ở lý luận lạc quan ấy. Ba nhìn sang, thấy vẻ hoài nghi của tôi, liền hỏi:

- Thôi. Được rồi. Bài Luận cứ cho 6 điểm là ít nhất đi. Câu hỏi Giảng văn con đúng được 6 điểm nữa là 12. Lợi 2 điểm, nhân hệ số 2 thành 4.

Thấy bộ dạng hăng hái dứt khoát của ông làm như điểm số 12 là một sự có thật nên tôi cười.

- Sang đến Toán. Con nói có hy vọng được 10 điểm.

- Đâu có, - giọng tôi lừng khừng.

- Hôm qua con nói đó.

- Con hỏi lại bạn bè và thầy giáo, càng hỏi càng thấy con sai nhiều chỗ nữa.

Gương mặt Ba tôi đăm chiêu. Mấy vết nhăn ngắn cày sâu khoảng giữa hai đường chân mày.

- Thế bây giờ con đoán được mấy?

- Chừng 6 điểm.

- Ít vậy?

- Nếu họ chấm cẩn thận coi theo cái marche của bài Toán con làm thì có hy vọng được 9 điểm.

- Theo dõi cái marche thì ít giám khảo nào theo dõi lắm. Năm nào đề thi ra khó, thí sinh rớt nhiều thì họa may họ chấm cẩn thận để cứu vớt. Bài thi năm nay theo dư luận chung thì có khó không?

- Con nghe người ta nói là vừa phải.

- Con nghĩ rằng giám khảo có thể cho lên được 7 điểm.

- 7 điểm thì được.

- Nếu vậy thì tốt. Con sẽ thiếu 2 điểm. Nhân hệ số 4 thành 8.

- Thiếu tới 3 điểm chớ, Ba.

- Ba không nghĩ vậy. Chẳng lẽ Hội đồng không vớt sao? Ít nhất cũng phải vớt 1 phần mười số điểm. Cần đủ 110 điểm mới được chấm loạt II, vớt 1 phần mười tức là còn 99 điểm. Thực ra thì đây chưa gọi hẳn là vớt được. Coi như cho thí sinh mượn 11 điểm để sang loạt II nếu họ đủ điểm thì bắt trả lại. Vớt là khi cộng điểm cuối cùng, ban cho họ dứt khoát một ân huệ.

Tôi hỏi:

- Như Hội đồng vớt 1 phần 10 số điểm thì Ba tính xem con còn thiếu mấy?

- Lúc nãy mình tính Việt văn dư 4 điểm, Toán thiếu 8 điểm, thế là thiếu 4 điểm. Còn Lý Hóa con nói con hy vọng được 12.

- Có lẽ chỉ còn 9 thôi. Con làm lộn câu hỏi về bậc số oxýt hóa.

Ba tôi lại loay hoay vá víu. Điểm thi thật giống như cái áo rách. Lấy mụn vải này chụp lên lỗ thủng kia, kéo chằng qua, nhíu hẹp lại thật không thong thả thoải mái một chút nào cả.

- Bài Công dân giáo dục con thuộc, có thể bù qua bài Lý hóa được. Nhưng mà… (ông trầm ngâm giây lâu) điểm của bài Công dân giáo dục tùy thuộc ở trạng thái vui buồn của giám khảo nhiều lắm. Bài làm dài thườn thượt, chữ viết chi chít, đúng sai khó phân biệt rõ…

Đến đây, việc “kế toán” bị treo lên bởi trạng thái vui buồn của giám khảo không có cách nào định rõ được. Ba tôi chợt vỗ tay vào trán:

- Quên!

Tôi trố mắt đợi ông tuyên bố món bảo bối cứu khổ.

- Còn điểm lụt.

Tôi suýt cười to. Điểm lụt thì tôi đã nhớ từ hồi chưa thi. Đứa bạn này nói: Bộ cho thêm 5 điểm lụt. Đứa kia bảo: ít nhất cũng 10 điểm vì nạn lụt năm ngoái là một nạn lụt lịch sử, lớn nhất trong suốt 60 năm. Năm nay nghe trong kỳ thi Tú Tài II vừa rồi điểm lụt được tính là 2 phần 10 số điểm vớt.

- Con nghe rõ là 2 phần 10 điểm vớt? Như vậy nếu vớt tối đa 11 điểm thì lụt sẽ được…

- 2 điểm rưỡi.

Ba tôi gật gật đầu:

- Cũng vừa. Thực ra thì tụi bay có bị lụt lội gì đâu? Trong khi ở nhiều tỉnh đồng bào chết cả xóm, trâu bò nhà cửa trôi mất tích thì tụi bay xăn quần lội nước đi chơi. Rồi lại cũng được thêm điểm lụt. Thật tụi bay gặp may hết cỡ. Không đỗ năm nay thật là uổng. Nghìn năm một thuở.

Tôi nói:

- Ba con còn quên 2 điểm thể thao của con.

- À! Nhưng lúc này con mới thấy là 1 điểm hay nửa điểm đều có khả năng cứu vớt người lục trầm. Hồi kia ba khuyên con thi thể thao, con chê. Bây giờ có còn chê 2 điểm nữa không?

Cố nhiên là không, tôi nghĩ. Nhưng đâu phải tôi chỉ thiếu 2 điểm để hòng nhờ thành tích thể thao bù vào.

- Nhưng tao hỏi này, điểm thể thao và điểm lụt cộng vào kết quả cuối cùng chớ đâu vào kết quả loại I?

Tôi trả lời chậm rãi bởi vì tôi đã hỏi chắc:

- Họ cộng vào kết quả loại I.

- Khó hiểu. Người ta bày ra chấm riêng loại I là cốt để bắt người thí sinh phải giỏi, phải chuyên, phải xứng đáng với một ngành nhất định, hoặc là Toán, hoặc là Văn chương, hoặc là Khoa học. Tao chưa hiểu vì sao việc chạy nhảy, leo giây ném tạ lại có liên hệ với môn Toán của mày. Nhưng chẳng sao miễn là có lợi cho mày thoát qua loạt I.

Cứ như thế đêm nào ăn xong cha con tôi cũng ngồi bàn tính về điểm. Mỗi ngày số điểm dự tính mỗi gầy dần đi bởi tôi cứ mỗi ngày mỗi phát giác ra thêm những khiếm khuyết, những sai lầm trong bài thi của mình.

Một ông giám khảo quen cho ba tôi biết:

- Bộ công điện báo chấm nới điểm giảng văn vì câu hỏi thuộc chương trình ban C. Những bài đã chấm rồi, điểm đã cộng rồi, chỉ còn có cách là vớt tối đa.

“Vớt tối đa” ba chữ này cứ hiện ra, sắp hàng ngay ngắn trong óc tôi như những khẩu hiệu “Ấp chiến lược là quốc sách” tôi gặp liên miên trước đây khi đi về nhà quê chơi.

Vừa thi xong hai ngày thì bắt đầu có tin đồn. Người này mách “Ban C vớt 6 điểm. Đỗ loạt I được 25%. Người kia than thở: “Ban B nhiều người bỏ cuộc. Vớt đến 8 điểm mà chỉ đổ được 14%. Tin đồn bao giờ cũng mâu thuẫn nhau. Tôi không tin mà vẫn muốn nghe. Nhưng tin đồn chằng chịt đan dày như mắc lưới và tôi là con cá nạn nhân vùng vẫy trong đó. Nguyệt nó thi ban C nghe loạt I dư đến 25 điểm. Tôi cứ dằn vặt mình: Giá hồi đó mình thi quách ban C như Nguyệt. Ba tôi vỗ về:

- Con gái có đỗ trước một năm cũng không cần thiết như con trai bởi vì con trai thi đỗ thì để hoãn dịch để tiếp tục học. Con gái không có mối lo quân dịch.

Những lý luận đó không làm tôi an tâm hơn. Tôi chỉ muốn biết dứt khoát: Tôi có qua được loạt I không?

Ba ngày sau, tin đồn có vẻ thống nhất hơn. Ban B được vớt tối đa. Điểm đã cộng, đã ghi vào phiếu điểm và Hội đồng đang chọn những phiếu có đủ 99 điểm.

Ba tôi xách xe ra đi. Nửa giờ sau, ông quay về. Tôi ngồi ở bàn nhìn thẳng ra, nhướng mắt ra dấu hỏi. Ông bặm môi lặng lẽ đi vào. Đi ngang qua tôi ông ném mạnh cái mũ xuống bàn, nói lớn:

- Đỗ.

Thật hay dối? Dối? Chẳng có lẽ. Ai nói dối một kẻ thất bại? Nếu đỗ mà nói hỏng thì có thể được. Mặc dù nghĩ vậy, tôi cũng không thể không hỏi:

- Ba không nói đùa?

- Nói đùa sao được. Đây là số điểm.

Ông móc ở túi áo sơ mi một mảnh giấy nhỏ rồi đọc Việt văn 8, Toán 32, Lý hóa 33, Công dân 26, Thể thao 2, lụt 2 rưỡi. Dư điểm đỗ.

Tôi không biết nên giữ một vẻ mặt như thế nào cho hợp lý, đành cười một cách vô duyên. Và nói một câu cũng vô duyên.

- Còn loạt II nữa.

Không kịp biểu lộ cái vui, vội vàng bấu vào cái lo, lúc nào cũng lo, cũng hoài nghi, cũng hồi hộp.

- Loạt II mà cũng còn sợ nữa? Vậy mà dám bảo thi ban C thì đỗ như không.

- Ở đời may rủi biết đâu. Lỡ bài của con bị mất. Phiếu điểm của con bị thất lạc. Thư ký cộng lộn…

Ba tôi nhún vai:

- Thật y như má mày ngày xưa. Đi nhà thương mổ về, cứ lo ngay ngáy là không biết ông bác sĩ có bỏ quên một cái kéo hay một cái kềm trong bụng không? Rồi hỏi tao xem có lưu ý đến đủ số kéo và số kềm ở trên khay mổ hay không.

Tôi tin ở hai bài Sinh ngữ. Không thể dưới 14 điểm. Tuy vậy, tôi vẫn cứ đòi hỏi có ba tôi ngồi hí hoáy tính toán đủ thiếu với tôi, tôi mới thấy yên lòng.

Qua ngày hôm sau thì tin đỗ dứt khoát truyền lan tới tấp. Thằng Hắc đỗ. Con Tùng đỗ. Trinh, Thi, Lan, ba đứa đẩy cửa nhà tôi ùa vào như một ngọn lốc:

- Mày đỗ rồi. Mày đỗ rồi.

- Thiệt hả?

Thi chạy đến đấm thùm thụp vào lưng tôi:

- Mày còn giả vờ hỏi nữa. Mày có đỗ tao mới đánh. Hễ tao sướng là tao ưa đánh lắm.

Bốn chúng tôi ngồi nói nhảm với nhau, cười to hơn mọi ngày và ăn đủ thứ quà. Tha hồ đau bụng. Có trúng thực nữa cũng được. Trong bốn ngày thi và ba ngày trước đó, tôi ăn uống kiêng khem cẩn thận, chỉ sợ đau bụng phải bỏ cuộc.

Tôi báo tin đỗ cho Ba tôi nghe. Bữa ăn tối đặt trước mặt chúng tôi. Ba tôi nhận tin, không cười cũng không nói. Chắc lại có một tin xấu nào vừa đến với ông. Đêm qua ông thức khuya. Sáng nay thằng nhỏ ở mang bốn, năm tờ điện tín đi xuống Bưu điện. Hồi trưa có điện thoại của Việt Nam Thương tín gọi. Hồi xế hãng vận tải Nam Kiều cho tin: hàng hóa ở chành, chưa bốc xuống tàu được. Tôi tiếc sao đã báo tin vui vào một lúc ba tôi không lưu ý đến tôi. Có lẽ ba tôi cũng chưa nghe rõ tôi vừa nói gì nữa. Ông lặng lẽ nhìn cốc bia sủi bọt đặt ngang tầm tay. Rồi thay vì đưa tay ra cầm cốc, ông chõi hai cánh tay tựa lên mép bàn. Ông đằng hắng một tiếng nhỏ chậm rãi nói:

- Trong một ngày vui lớn như hôm nay mà thiếu mất má con, cái vui không còn trọn vẹn nữa. Đáng lẽ phải có má con hãnh diện nhìn vào công lao bú mớm săn sóc của mình nay có kết quả. Ba lăn lộn với đời nhiều nên cái vui mất đi tính chất hồn nhiên. Chắc chắn là má con mới là kẻ vui nhiều hơn hết khi nghe được tin con đỗ. Và chắc chắn là con cũng sẽ vui nhiều hơn nữa nếu có má con bên cạnh. Má con… má con chỉ nếm được cái cực nhọc của thân phận làm mẹ mà chưa nếm được niềm vui… Từ nay trở đi, bao nhiêu thành công và bao nhiêu thất bại trên đời chỉ có chúng ta lẻ loi chia xẻ cùng nhau.

Ba tôi ngừng nói, quay nhìn trầm ngâm ra sân. Có phải là ông đang theo dõi hình bóng của má tôi, mới ngày nào vẫn thường hay đi qua lại trước hiên, cái hình bóng dịu dàng mà sau chín năm cách xa, mỗi lần hồi tưởng lại tôi thấy đã mờ đi những đường nét.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 01.12.2012 08:59:46
6. KHOẢNG MÁT


Trưa hôm nay, đứa con gái lớn của tôi đi học về mang theo một tờ giấy in roneo. Nó thập thò đợi tôi ở cửa ngõ. Tôi vừa đặt mũ xuống bàn, chưa kịp lau mồ hôi trán thì nó đã lanh lảnh có tiếng hỏi:

- Ba ơi, Ba làm nghề gì hở Ba? Uở! Sao mặt Ba đỏ vậy? Ba uống rượu hả?

Tôi quay lại, bất ngờ vì câu hỏi. Lại có chuyện gì mới xảy ra! Tôi hồi hộp lo lắng. Sự bất ngờ, tôi không thích vì hầu như chúng đều bất lợi cho tôi. Nhà tôi hiện đang nghèo và trong họ hàng không hề có một ông cậu một bà cô nào vừa triệu phú vừa không con. Ở Âu Mỹ, thần tài hay gõ cửa một cách đột ngột quá sức tưởng tượng. Không phải chỉ có trúng số độc đắc. Người mua vé số dầu sao cũng còn có hy vọng, cho dù rằng hy vọng chỉ bằng đốm lửa đỏ ở đầu que diêm. Đằng này có người nằm chờ chết, - chết đói, - và bỗng nhiên người chưởng khế gõ cửa báo tin: có một bà cô “gái già” của anh vừa tạ thế để lại một cái gia tài, có chúc thư cho anh thụ hưởng. Tên của bà cô, anh lẫn lộn với tên của một hiệu may y phục phụ nữ. Địa điểm nơi bà cô ở, phải lật tự điển ra tra. Tôi cũng có một bà cô trước đây bỏ nhà ra đi hoang vì mê một ông cai Lục bộ. Cả nhà ai cũng ghét bỏ thù hằn người đàn bà làm điếm nhục gia phong như thế. Chừng bảy, tám năm gì sau đó, có tin bà chết vì bệnh sốt xuất huyết khi theo ông Cai đi phóng đường ở Lộc Ninh. Không ai nói một lời thương xót. Lâu lâu có lần bà nội tôi vô tình nhắc đến, chẳng hạn: “Hồi xưa con Tám nó hay… (cô tôi thứ Tám)… Ngày trước, hồi con Tám nó còn…” nhưng chợt nhìn vẻ mặt lạnh lùng kín mít của những người có mặt, bà nội tôi vội im, bỏ lửng câu nói dở dang.

Vậy thì chắc chắn như hai lần năm là mười rằng tôi không thể mong có một bất ngờ nào mang lại hoạnh tài cho tôi. Ngược lại, mọi cái bất ngờ đều tốn kém cho tôi hết. Chẳng hạn thằng con leo lên ghế kéo ngã bể cái bình trà. Chẳng hạn vợ tôi làm bếp chặt nhằm ngón tay. Chẳng hạn có thông cáo của Xã mời đồng bào hôm sau tập trung tại sân vận động để dự biểu tình. Tôi nghi kỵ Dịp May và Thần Tài. Trung thành với tôi là những giọt mồ hôi, những suối mồ hôi đổ cay con mắt, đổ ướt vạt áo sơ mi. Là sự mỏi nơi bắp thịt đùi, nơi thắt lưng sau một ngày cong người ngồi trên cái yên xe và hai chân kĩu kịt nặng nhọc đạp. Là những suy nghĩ âu lo cuộn khúc, quằn quại trong khối óc tôi. Tôi không tin ở Dịp May.

Nhìn con tôi nghếch mặt đợi chờ, tôi nói:

- Con hỏi làm chi?

- Cô giáo bắt học trò kê khai tên tuổi… tên cha mẹ…

Nó ngắt câu nói đến đó vừa trao tờ giấy in roneo cho tôi. Đó là tờ “Phiếu lý lịch của học sinh”. Mọi khoảng trống đều đã được ngòi bút của nó lấp kín: tên họ học sinh, ngày sinh, nơi sinh, tên cha mẹ… Chỉ khoảng nghề nghiệp của cha là con để nguyên.

Một cảm giác khó chịu ùn ùn dâng lên, hình như từ chặng ngực đổ lên đầu rồi tràn ra bao trùm lấy mặt. Nghề nghiệp của cha. Nghề nghiệp của tôi. Tôi có nghề nghiệp gì đâu? Thu tiền rác không phải là một nghề. Tôi nói, giọng ngập ngừng:

- Con cứ ghi là… thư ký.

Thư ký! Tôi tự ngượng với mình khi, lật qua lật lại chữ “thư ký” trong óc, tôi thấy nó vướng víu như thân phận tôi không dung nổi kích thích của nó. “Thư ký” là để dành cho những người đi giày da đen, áo nyl-france và cưỡi Vespa vùn vụt. Người thư ký cạo râu có bôi bọt xà phòng và đổ eau de Cologne xoa giữa hai bàn tay trước khi đi làm. Người thư ký mời nhau hút lá Ruby, - ít nhất là thuốc là Ruby và ngậm kẹo chewing-gum khi nói chuyện với nữ đồng nghiệp. Tôi cách xa người thư ký bằng rất nhiều nghìn bạc. Quần kaki, áo sơ mi popeline nội hóa. Xăng đan cao su trắng. Xe đạp cũ… Tôi…

- Sao con còn đứng đó?

- Con biên là thư ký hở Ba?

- Ừ. Hay là… Con cứ biên là “tư chức”.

Tôi lẩm nhẩm: “Tư chức”. Thôi việc gì mà thắc mắc. Cô giáo đâu có biết tôi là ai để mà cân nhắc xem danh từ nào mới xứng hợp cho tôi.

Có tiếng vợ tôi quát to ở sau bếp:

- Để dành phần cho ba mày. Có miếng nào ngon ngon mày ăn hết.

Tiếng thằng Đức, thằng con nhỏ của tôi:

- Con chỉ ăn cái cùi. Có cái cùi thơm mà má cũng không cho.

- Cùi thơm để bằm trộn với mắm.

Quả là giọng nói của vợ tôi đã chát đi, đã chua đi như rượu ngon đã biến thành giấm. Hồi mới lấy nhau, giọng ấy ngọt, rót vào tai như tiếng con chim tình tự. Sự túng bấn vô tình đã là thứ vi khuẩn Myco-derma aceti.

Tôi bước trở vào nhà sau. Thằng Đức, con Thúy Bình chạy ùa ra mừng. Tôi chọn những chữ thật đẹp để đặt tên cho con. Đó là món hàng xa xỉ độc nhất mà tôi có thể sắm cho chúng. Đặt tên đẹp không phải tốn tiền. Chỉ cần tra tự điển. Ít nhất chúng cũng được an ủi khi mang theo người món hàng trang sức đó. Aùo quần, giày dép, bút máy, đồng hồ, thì có thể sắm sau, khi nào có tiền. Tôi nghĩ: công tác làm cha mẹ, mình phải chia ra từng đợt để thực hiện, y như xây cất nhà mà chưa có đủ tiền để làm một lúc. Có người làm nhà ngang trước, còn nhà lớn đợi làm sau. Có người làm nhà bếp nhà tiêu nhà tắm trước. Có người chỉ lo đổ được cái nền. Lựa chọn cái tên cho con, trước tiên, cũng quan trọng như khi xây móng. Lắm người đỗ đạt cao, làm chức vụ lớn mà trót mang một cái tên xấu xí không còn sửa chữa được nữa khiến họ phải ân hận.

Thằng Đức khoe:

- Con đã làm được hai bài tính rồi, Ba ơi.

- Ừ.

Con Thúy Bình giật giật tay nói:

- Con đã viết tập đủ một trang. Ba lên xem.

- Ừ. Ừ. Để tí nữa ba xem.

Đi thu tiền rác quả thật không phải là một nghề. Ai cũng có thể thay tôi được, vào bất cứ lúc nào. Tranh sống với tôi là mọi người đàn ông đủ sức đạp nổi chiếc xe đạp và viết gẫy gọn một bức thư tình. Nhưng tôi có quyền đòi hỏi chi hơn? Chiến tranh âm ỉ vụt nổi vụt tắt trong suốt ba năm ở quê tôi, nay ào ạt bừng bừng như những ngọn lửa gặp gió. Mọi người chạy tản lạc bỏ cả nhà cửa, ruộng nương. Ông Nhân, thư ký Hội đồng Xã chạy ra Đà Nẵng làm phu khuân vác cho Hãng hàng không Việt Nam. Anh Bá hương sư ăn lương ngân sách Xã thì chạy vào La Gi tá túc nơi họ hàng bên vợ đổ bánh bèo, bánh căng độ nhật. Gia đình rất đông con của ông Phó tổng Vịnh tìm nơi trú ngụ không có, phải liều dựng nhà bên bờ đường với một số đông những gia đình khác đồng cảnh ngộ. Ty Cảnh sát lập biên bản phạt đủ tội: xây cất không có giấy phép, phạm lộ giới, chiếm đất bất hợp pháp… Nhưng những lỗ tai quen với tiếng nổ long trời của bích kích pháo và đạn ca nông 105 ly đâm ra lờn với tiếng nói mực thước của Luật pháp. Phạt tiền không có hiệu quả, phải dùng đến phạt giam. Đàn ông khôn khéo lánh mặt hết để cho đàn bà bế con nít lếch thếch theo Cảnh sát vào trại giam. Đêm đến, đàn ông xuất hiện, dựng cột, dựng vách, lợp mái tôn. Tiếng búa đóng đinh chan chát.

Như ở trong chuyện cổ tích, cái khu phố bí mật này dựng ra toàn trong đêm đen. Cuối cùng nó cũng thành lập Liên gia đại biểu như ở những khu phố hợp pháp khác và lũ trẻ con đã chạy chơi không chút e sợ trước sân, các bà mẹ đã vạch vú cho trẻ bú trước hiên. Thế là ông Phó tổng Vịnh yên tâm để chuyển sang nghề làm thợ mộc.

Biết bao nhiêu bà con khác ở quê tôi phân tán đi đến những miền nào tôi chưa biết hết. Giống như những mảnh giấy vụn bị gió lốc cuốn đi, có mảnh bay xa có mảnh tấp gần, trên các chặng đường ra vô lên xuống, họ đều hiện diện. Và xơ xác như những mảnh giấy.

Vậy đích thực là tôi không có quyền lựa chọn. Tôi bằng lòng với thân phận mình lọc cọc trên một chiếc xe đạp lở lói. Khu hoạt động của tôi là một khu tân lập trước đây là bãi cát hoang và nghĩa địa. Từ ngày có phong trào di cư, người đến đông ở chật thành phố nên chính quyền phân lô cấp những khoảnh đất cát đầy mồ mả và gai ma vương móc ó này cho những tân nghiệp chủ. Nhà mọc lên thay thế những ngôi mộ. Người sống giành chỗ của người chết. Đường cái chỗ lồi chỗ lõm, xe tôi phải nghiến răng ken két để leo lên những cái dốc liên tiếp. Nhiều lần đang xổ dốc ngon trớn bỗng chạm vào một mô đất cao, cả xe và người tôi đánh bật thối lui tưởng như giàn xe và xương sống tôi có thể gãy đi được. Nắng đổ xuống mặt đường hoa cả mắt. Tôi phải nhắm mắt từng chập để tưởng tượng mình đang đi dưới những hàng cây xanh thả bóng mát yên tĩnh xuống lưng người bộ hành. Nắng. Nắng. Nắng quanh năm.

Thân chủ của tôi không mấy người hòa nhã. Một bà di cư to béo phục phịch tru tréo lên khi nghe tôi tự giới thiệu:

- Giời thần ơi! Nhà cháu có bỏ rác ra đường đâu mà ông bắt giả tiền rác. Vườn nhà cháu đất trũng thành ao thành hồ, nhà cháu phải đi xin rác của hàng xóm đổ vào cho đầy.

- Nhưng mà thành phố đã đặt ra lệ thu tiền rác, - tôi ôn tồn ngắt lời.

- Nhà cháu nghèo ăn uống rau dưa chả có tí đầu tôm xương cá nào vất bỏ cho xe rác cả. Gốc rau, rễ rau nhà cháu để dành băm cho lợn cho vịt ăn. Đây, ông không tin thì xin mời ông bước ra sau…

Bà kéo tôi đi ngay ra nhà sau, không cần biết tôi có ưng thuận hay không. Tôi phải khó nhọc lắm mới gỡ được bàn tay sức lực và cả quyết đó.

Một ông công chức thịnh nộ bảo tôi:

- Đường chưa rải đá thì luật lệ đâu lại bắt trả tiền rác.

- Dạ, đây là tòa Tỉnh thể theo lời yêu cầu của các Liên gia đại biểu xin phái xe rác đến để dọn rác cho đồng bào.

- Cả Liên gia tôi chẳng có đại biểu nào yêu cầu hết.

Ông nhìn thẳng ra sân mà nói, không thèm ngó đến tôi nữa.

- Dạ, chúng tôi đi thu tiền rác ở xóm này đã được nửa năm nay rồi ạ. Trước đây thì tôi đi thu ở khu Sân Bay còn khu này có người khác đi. Dạ, thế ra từ trước đến giờ ông chưa trả tiền rác tháng nào hết?

Ông công chức im lặng, đôi lông mày vẫn còn nhíu. Nhưng không còn vẻ giận dữ nữa mà thay vào đó là một sự bối rối, một sự lúng túng. Ông đằng hắng thật to vừa gọi con như quát:

- Lũ nhỏ đâu. Vào lấy cái ví ra đây cho tao.

Không có ai tử tế đón tiếp tôi. Ít ai mời ngồi. Lắm khi phải đứng ở hiên kê bút lên chiếc cặp da để viết biên lai. Nhiều nhà hẹn:

- Mời ông hôm sau đến. Hôm nay mợ cháu đi vắng.

Hoặc :

- Ông chủ đi làm không có ở nhà. Mời ông bữa khác tới.

Tôi thoáng thấy bóng của “người đi vắng” đang lục đục ở trong bếp hoặc nói chuyện ồn ào ở nhà ngang. Nhiều nhà cửa cổng khóa kỹ gọi khan cả tiếng mà không ai mở. Ở xóm Mới nhà nào cũng nuôi chó, nhà ba con, nhà đôi con. Lúc nhỏ đi học tôi trót học thuộc bài Bệnh dại nên cứ thấy chó là sợ. Nhưng biết làm sao? Chỉ còn trông nhờ nơi Số mạng.

Sau bữa cơm trưa nuốt vội vàng, tôi nằm trên chiếc đi-văng gỗ lơ mơ nghĩ đến Huệ. Sáng nay khi gõ cửa một căn phố ở cuối đường Lê Đại Hành, tôi giật mình khi cửa mở tôi thấy có hai người đang ôm nhau hôn. Người đàn ông là một quân nhân Huê kỳ da mặt đỏ và tóc màu hung như râu bắp. Người đàn bà mặc pyjami đứng cao mới đến ngực người đàn ông. Họ hôn nhau rõ lâu bất chấp có tôi đứng đó. Khi họ rời nhau ra, người quân nhân bước vội ra sân và người đàn bà lanh lảnh nói:

- Tu nai, nhé Johnny? Ai quây pho iu nhé? Bai bai...(1 )

Tôi giả như đang mải nhìn một khoảng khung trời xa. Khi chiếc xe rồ máy lao vút đi tôi quay lại. Người đàn bà trân trân nhìn tôi:

- Ông… Uở, anh Bân.

Tôi ngạc nhiên:

- Dạ…

- Anh không nhìn ra em sao? Em là Huệ đây mà.

- A! Huệ - tôi reo lên.

- Có lẽ đến bảy, tám năm rồi em mới gặp lại anh.

Huệ mời tôi vào nhà. Căn nhà treo quá nhiều rèm, màn thêu hoa vẽ hoa sặc sỡ, kín đáo như một cái hang. Mùi nước hoa thơm ngát. Mặt Huệ bôi nhiều phấn và mi mắt có nét bút chì vẽ xếch lên khiến tôi nghĩ đến đôi mắt của chim bạc má… Huệ đưa thuốc lá mời tôi hút rồi nàng đi vào phòng sau. Tiếng nàng hỏi vọng ra:

- Anh uống gì để em đem ra? Gin nhé? Hay Whisky?

Tôi nói:

- Cám ơn em. Anh không uống được rượu mạnh.

- Thế thì uống Coca.

Huệ đẹp và thơm ngồi cạnh tôi.

Cốc Coca đặt trước mặt.

- Anh đi đâu vào giờ này mà ngẫu nhiên em lại được gặp?

- Ơ… Anh đi tìm nhà người quen.

- Ở địa chỉ này phải không? Chắc hắn ở đây trước em. Em mới dọn về mười ngày.

- Người Mỹ lúc nãy là…

- Thằng chồng em đó. Nó làm ở lực lượng đặc biệt. Tử tế lắm. Nó hẹn khi nào về Huê kỳ nó sẽ đem em theo.

Huệ lấy chồng Huê kỳ! Thật khó ai ngờ được cũng như khó ai ngờ rằng hôm nay tôi là nhân viên đi thu tiền rác. Con của một ông Thông phán, cháu nội của một ông Lãnh binh.

- Thỉnh thoảng em có về quê không?

- Biệt! Vả lại, về để làm gì? Quê hương hẹp hòi như cái đáy lờ, như cái vũng nước, con cá quay qua trở lại không có chỗ vẫy vùng.

- Em cần cả một đại dương?

- Vâng. Em sẽ vượt Thái bình dương. Với Johnny. Mời anh uống. Em lấy thêm hai chai nữa cho anh.

Tôi giơ một bàn tay ra ngăn:

- Thôi, bấy nhiêu đây đủ rồi.

- Bây giờ anh làm gì?

Huệ chống một tay lên cằm chìa mắt sát lại gần tôi. Đôi môi đỏ hé như một vết thương.

- Anh làm… lăng nhăng. Chẳng ra chi. Mình chạy tản cư đến chỗ lạ, may có việc làm ăn là đủ quí rồi.

- Không ngờ anh mà cũng phong trần. Nhưng anh có chữ nghĩa nhiều nên tìm việc không đến nỗi khó.

Tôi nuốt vào một nỗi thẹn thùng, một niềm tủi nhục xót xa. Không có nước bọt chạy kèm theo vào thực quản. Huệ tưởng đâu tôi vẫn giữ được phong độ như ngày trước.

Thấy tôi đưa mắt nhìn những lớp màn, những lớp rèm vây quanh chi chít, nàng nói:

- Căn nhà hẹp quá phải không anh? Ở không đủ. Thuê mỗi tháng năm ngàn đồng. (Chết! Gấp đôi số lương của mình, tôi nghĩ). Em nhờ người đưa mối tìm thuê một ngôi nhà có vườn chừng mười ngàn mỗi tháng.

Những con số ngàn như có chiều cao trong trí tưởng tượng của tôi. Những chồng giấy bạc. Những cột giấy bạc. Phần lương tháng của tôi mỏng như một chiếc dép cao su trẻ con vất bỏ nơi những đống rác ở các góc phố. Chưa đếm đã vội hết. Cứ độ hăm lăm mỗi tháng vợ tôi thường lục tung nhà cửa vừa hò hét trẻ con, tưởng chừng có lỗ thủng ở ngăn kéo cất tiền.

Ngày còn đi học, Huệ yêu tôi. Chúng tôi hôn nhau hai lần và tôi giữ chiếc khăn mùi xoa của nàng. Thầy tôi không muốn tôi cưới Huệ vì mẹ Huệ mê cờ bạc và đồng bóng. Chúng tôi xa cách nhau. Huệ lấy chồng.

- À, anh ăn cái gì với em nhé? Em chưa kịp ăn sáng. Đêm qua đi nhảy về khuya ngủ mê mệt.

Huệ đi lại mở tủ buffet đem bày ra bàn đủ thứ lon, đủ thứ lọ. Nàng bắt tôi ăn săng-uých, phó-mát, uống bia đóng hộp, nước nho đóng hộp. Tôi nhìn xuống cánh tay béo lẳn trắng mịn của Huệ. Cái cổ no tròn như nặn bằng mỡ đặc. Viên hồng ngọc ở mặt nhẫn lóe lên làm tôi lưu ý đến những ngón tay béo trắng thon thon.

Huệ ngừng ăn, trầm ngâm một giây rồi chậm rãi nói:

- Em nhớ ngày chúng mình lén gặp nhau ở sau rộc rau muống. Từ ngày đó đến nay, em chưa bao giờ thấy có lần nào trời xanh trong và lá xanh mát như buổi chiều hôm ấy. Anh hôn em…

Nàng im lặng. Khi tôi ngửng nhìn nàng thì thấy mắt nàng lã chã nước mắt. Nàng nhếch một nụ cười:

- Em bây giờ ăn nói lì lợm, anh đừng cười nhé! Xã hội không coi em ra gì thì em còn ăn nói văn hoa nghiêm chỉnh với ai? Phải văng tục. Phải ẩu tả. Phải hello okay. Phải tiên sư mày phải xưng tao. Phải hôn chùn chụt phải cười đĩ thỏa. Em đâu có thích? Em muốn mơ mộng lãng mạn như hồi xưa, hồi chúng mình yêu nhau lần đầu, hồi anh hôn em rụt rè với đôi bàn tay ngượng nghịu.

Nàng bỗng bật cười:

- Anh nhớ lúc bấy giờ anh hôn em như thế nào không?

Tôi lắc đầu .

- Anh để mũi vào má em rồi hít dài như người ta hôn trẻ con.

Tôi cũng bật cười và thấy xốn xang ở nơi mắt của mình. Tôi nhớ lại mùi thơm của cái hôn đầu tiên đó. Lúc bấy giờ chỗ chúng tôi ngồi có mấy bụi é rừng, chúng tôi đứa nào cũng bứt từng nắm lá é vò giữa những ngón tay rồi để lên mũi ngửi. Khi tôi kính cẩn hôn lên má Huệ, tôi nghe mùi thơm cay của é rừng lẫn với mùi da thịt ấm áp nồng nồng.

Huệ nói:

- Đời em hỏng rồi. Lấy thằng Huê kỳ hay Huê kiều hay Việt Nam gì rồi cũng lê lết thân tàn cho đến ngày xuống lỗ.

Nàng hít dài một hơi thuốc lá:

- Anh với em thì cách biệt nhau quá xa rồi, mỗi người ở mỗi điểm trên một đường thẳng. Khi không được lấy nhau thì chúng mình như hai động tử nghịch chiều cứ mỗi ngày mỗi xa cách thêm. Thật là họa hoằn lắm mới gặp nhau được như hôm nay. Aø, lúc nãy anh bảo anh hiện làm gì?

Có nên thú thật với Huệ không? Trả lời rằng: Anh đi thu tiền rác? Không được. Huệ vẫn còn giữ tình yêu với tôi, vẫn còn nhìn về khung trời màu xanh với rộc rau muống và cái hôn đượm mùi é rừng. Không. Tôi lắc đầu. Thà tôi thất nghiệp.

- Sao anh lắc đầu?

- Ờ! Anh làm việc nhì nhằng. Cũng có thể coi như đang thất nghiệp. Cuộc sống khó khăn, chiến tranh đẩy quá nhiều người về đô thị…

Tôi nói lảm nhảm rất nhiều để tránh phải nói đúng điều tôi muốn nói.

Huệ nắm lấy tay tôi :

- Được rồi. Để em liệu tìm việc cho anh. Sở của Johnny tuyển người luôn luôn, nhưng để em vận động cho anh vào làm ở cơ quan dân sự cho nhàn hơn.

Cho đến lúc chia tay, Huệ không hỏi một lời nào về gia đình tôi hết. Có phải vì thì giờ eo hẹp, vì có nhiều kỷ niệm ngày xưa cần gợi lại hay vì những lý do tâm lý nào khác? Huệ không muốn có ai xen vào giữa chúng tôi? Có lúc nàng cầm hai tay tôi rõ chặt, rõ lâu rồi nói:

- Phải chi em có thể nắm chắc hai tay của anh mãi mãi như thế này, khỏi phải bỏ ra. Em không cần ăn. Không cần sung sướng. Không cần sống.

Tôi đưa mắt tìm một tấm gương soi lớn để ngó xem tôi có xứng đáng không với tấm lòng thiết tha của Huệ. Nhưng đồng thời tôi lại sợ: nếu nhìn vào tấm gương, e tôi phải vội vàng kéo lui đôi tay của mình.

Tiễn tôi ra đến cổng, Huệ dặn:

- Hôm nào anh đưa em về nhà quê chơi một ngày. Suốt một ngày. Nhà quê nơi nào cũng được, của ai cũng được.

Huệ trao tay cho tôi bắt.

Khi ngồi lên xe đạp, tôi cảm thấy không còn đủ sức để đạp nữa trên những con đường lồi lõm chang chang ánh nắng. Tôi không còn đủ can đảm để tiếp tục đi gõ cửa những nhà còn lại, chìa tập biên lai và đọc câu phù chú: “Xin bà cho tiền rác tháng này”. Tôi chán nản hết: công việc, trách nhiệm, âu lo. Nhưng đồng thời sao lại có một niềm hy vọng mới, một sức mạnh mới len lỏi trong tôi như một giây leo luồn tránh bao nhiêu thân cây rậm rạp để ngoi lên ánh sáng.

Tôi ghé lại một quán nước, gọi một chai 33 và ngồi suy nghĩ mông lung. Óc tôi thoáng dày đặc, thoáng trống rỗng. Tôi quằn quại trong một hiện tại nhiều biến cố, thong thả trong một quá khứ có những khoảng mát. Tôi nghe phảng phất mùi thơm cay của lá é rừng vò nát trong ngón tay. Và câu nói của Huệ. Tôi lẩm bẩm nói lại với nàng:

- Huệ ơi! Chúng ta hôm nay không còn ngây thơ nữa. Thân em giang hồ và thân anh đọa đày. Nên anh tin chắc chắn là lần sau anh sẽ hôn em đàng hoàng hơn. Không còn để mũi vào má em rồi hít như người ta hôn trẻ con nữa đâu.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 03.12.2012 10:17:06
7. CHUYỆN CÁI RĂNG



Văn có những kỷ niệm không mấy êm đềm về những cái răng của mình. Kỷ niệm xưa nhất lảng vảng vào chặng chàng lên chín, mười tuổi. Lúc bấy giờ, dù nhỏ, chàng đã phải đóng vai một cậu học sinh đi trọ học ở trường Huyện. Mỗi tuần về thăm nhà một lần vào chiều thứ Bảy, chàng đã vừa đi vừa chạy để nuốt cho hết quãng đường dài hơn ba cây số cốt sao cho đến bến đò Cây Dừa mặt trời vừa lặn. Đoạn đường từ xóm Bình Hòa ra đến bến đò là một bãi cát rộng đầy bụi gai xương rồng và mồ mả. Từng chặng nổi lên một cây mù-u hay một bụi tre. Sự có mặt của những chòm cây lớn không giảm bớt cái không khí hoang lạnh ma quái của bãi cát vắng. Thỉnh thoảng một bông vú dẻ đưa hương ngọt ngào nhưng Văn không dám dừng lại hái. Chàng lầm lũi bước, tầm mắt cố khép lại ở ngang hai rìa đường và lưng chàng như tê cứng. Tiếng “rẹt” của con rắn mối chạy vội vã vào bụi rậm đủ làm cho một luồng máu lạnh dâng lên chạy tràn ra khắp lưng. Chàng giữ để khỏi nhìn ra đằng sau lưng. Chàng nghĩ, nếu lỡ nhìn ra sau, chàng sẽ hoặc ù té chạy hoặc ngất đi nên chàng nắm chặt sự can đảm trong hai bàn tay nhỏ, cúi nhìn xuống từng hòn đá dưới chân và chú ý chỉ nghe tiếng chân mình sào sạo trên sỏi. Bé bỏng và nhút nhát chừng ấy mà Văn đã phải một mình chống chọi với một cái răng sâu khi xa nhà. Mỗi lần răng nhức, chàng vào nằm ở bộ ván sát vách cong lưng và co quắp chân lại áp phía có răng sâu xuống gối. Chàng cố gắng ngủ, bỏ những bữa cơm trưa cơm tối. Chủ nhà trọ thấy vắng chàng ở bữa cơm, lơ đãng hỏi:

- Thằng Văn sao không đi ăn cơm?

Tiếng một đứa bạn ở trọ trả lời cũng một cách lơ đãng:

- Thưa thím nó nhức răng.

- Tội chưa.

Và tiếp theo là tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng húp canh xì xoạt, tiếng cười nói ồn ào. Những buổi tối, Văn nằm im ôm cái má có răng nhức đưa mắt lén nhìn gia đình sum họp của người chủ trọ. Lũ con của nhà chủ quây quần xung quanh cha mẹ. Thằng Tư lên 5 tuổi kéo em nó để đòi má bế. Con Ngọc lên 9 tuổi mà được cha nó vuốt tóc và kiểm soát tai, mũi:

- Ơ này mình ơi, sao tai con Ngọc có cái mụt gì thế này?

- Đâu? Đâu nào?

Bà chủ trọ lật đật bỏ con nhỏ xuống, kéo đứa chị lại gần mình để xem xét cái tai. Đôi mắt nheo nheo đầy tình trìu mến. Xem xét sờ mó một lát, bà mỉm cười:

- Cái mụt cóc nó có từ hồi 5 tuổi.

Nói đoạn bà cúi xuống hôn tóc con rồi vội đẩy con ra:

- Mồ tổ cha mày, cái đầu chua lét. Trưa mai nhắc má gội cho.

Sự đầm ấm trong gia đình người làm cho Văn tủi thân. Nó mường tượng đến quê hương nó, đến con đường của xóm Lò Gốm đầy đá và mẻ sành, đến cái cổng nhà nó, đến cái bàn cái ghế, con chó, cái giếng, đến cha mẹ và lũ em nó. Ôi! Bao nhiêu là đầm ấm, thế mà nó phải nằm một mình ở đây, ôm một cái răng nhức và chỉ biết đợi cho cái răng tự ý êm đi. Giá ở nhà, nó sẽ đi lại cái bàn kê ở đầu giường lấy lọ dầu Nhị Thiên chấm một giọt nhỏ vào lỗ răng. Thơm, cay và đỡ nhức biết bao! Trong cái khay đặt trên bàn đó sao mà lắm dầu, lắm thuốc dầu chanh, dầu chổi, dầu cù là, dầu bạc hà, an-côn đờ măng (1 ) Nó thèm thuồng mà nghĩ rằng một thứ dầu nào trong số những lọ dầu kia cũng đủ sức để làm mất cơn đau. Ở đây thì không có gì cả, không có món gì dự trữ trong nhà. Nước mắm, dầu hỏa mà cũng sai con xách chai đi mua ở hàng quán. Ở nhà nó, nó không hề nghe đến tiếng “hết”. Không hiểu vì sao mà chai luôn luôn có dầu có nước mắm, tỉn luôn luôn có bột có đường, khạp luôn luôn có gạo. Sự sung túc ấy Văn phải giã từ để sống cuộc đời trọ học thiếu thốn khắc khổ, nhất là những khi ốm đau. Sự suy nghĩ miên man làm nó quên bớt đau và nó ngủ hồi nào không hay.

Cái răng sâu ấy sau đó không biết do ai nhổ. Có những kỷ niệm rõ ràng nằm ôm răng nhức mà lại không nhớ cái kềm nào đã thò vào để nhổ cái răng ấy đi, thật cũng lạ.

Bẵng đi một thời gian dài, cuộc sống không bị đánh dấu bởi những cuộc nhức răng nữa. Năm mười chín hai mươi tuổi, rút kinh nghiệm những cái răng sâu thuở nhỏ, Văn nhìn cái răng hàm có chấm đen một cách nghi ngờ. Làm hư răng là những cái chấm có bề ngoài hiền lành vô hại này. Có phương tiện để lo xa, - lúc bấy giờ chàng đang ở Hà Nội, - chàng ghé lại mấy hiệu chữa răng trồng răng, Minh Sinh hay Kim Sinh gì đó. Hiệu nào bề ngoài trông cũng qui mô rực rỡ. Những hình vẽ hàm răng bổ ngang bổ dọc với gân đỏ, gân xanh có vẻ như dọa nạt chủ nhân của những chiếc răng hư. Vừa bước vào hiệu, chàng bị chủ nhân xoắn lấy. Rồi thì miệng ba hoa, tay múa may, chủ nhân giảng cho chàng nghe tất cả những sự hiểm nguy của một vết đen trên răng, những hiểm nguy có thật do khoa học tuyên bố và những hiểm nguy tưởng tượng do chủ nhân tự bày đặt lấy. Tiếp theo, chủ nhân bưng ra một khay đựng đầy những dụng cụ mạ kền trắng tinh trong đó có mọi thứ kềm đủ cỡ. Chủ nhân lấy đưa chàng coi một cái kim mảnh mà dài vừa nói một cách long trọng:

- Tôi sẽ lấy “ne” (nerf) (1 ) cho ông.

Sự biểu diễn quá chu đáo khiến Văn đâm ra nghi ngại. Chàng lén nhìn sang cái môi dày của nhà khoa học, - tức chủ nhân, - đôi hàm răng khập khễnh và cặp mắt ti hí. Nhìn rộng ra khuôn mặt, chàng thấy khó lòng có một điểm thông minh nhỏ lạc loài ở một vị trí nào trên khuôn mặt đó. Đưa mắt nhìn rộng hơn, chàng kết luận rằng chỉ có cái áo blouse trắng mà chủ nhân khoác, cái ghế ngồi dành cho nạn nhân và cái khay đựng kềm đủ cỡ là có tính chất khoa học mà thôi. Chàng phải lật đật vừa đứng dậy vừa nói:

- Hôm nay tôi đến hỏi thăm cách chữa của ông. Sáng mai tôi sẽ lại.

Chủ nhân cũng lật đật vui vẻ:

- Vâng. Sáng mai xin mời ông trở lại. Chúng tôi làm việc rất cẩn thận nên rất được tín nhiệm. Vâng. Kính chào ông… Vâng…

Văn không biết tiếng “vâng” cuối cùng là tiếng nhận lời chào của chàng hay tiếng “vâng” chuyển mạch quen miệng của anh nha sĩ. Nhưng chàng biết chắc chắn là mình vừa thoát nạn.

Sau đó, một người bạn quen mách chàng:

-Răng “toa” mới có chấm đen, đừng đến nha sĩ tốn tiền. “Toa” ghé lại phân khoa nha y của trường Thuốc ở ngang góc đường Tràng Tiền Hội Vũ. Ở đấy có giáo sư chuyên môn dạy cho các sinh viên nha khoa. Sinh viên họ chữa cho dưới sự chỉ dẫn của giáo sư.

Lời đề nghị nghe rất hợp lý, Văn nghe theo. Chàng đến đúng giờ làm việc của phân khoa và sốt ruột ngồi ở phòng đợi, chờ đến phiên mình. Để giải trí, chàng để ý đến mọi chi tiết nhỏ xung quanh. Thú vị nhất có lẽ là khi nhìn cái anh sinh viên mang kính, mỗi lần gọi tên người bệnh thì gọi rất nhỏ và gọi giọng Tây. Gọi giọng Tây nghĩa là đánh vần các tên Việt Nam một cách khó nhọc vì gặp những vần ngớ ngẩn và những dấu giọng kỳ quái. Chẳng hạn vần uyên, oach… dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng. Anh sinh viên chừng đã nhẫn nại hết sức mới giữ cho khỏi phẫn nộ vì những cái tên oái oăm. Ngược lại anh, ông giáo sư người Pháp của anh thì hình như bất cần những băn khoăn hình thức đó. Ông bận sơ mi ngắn, quần tây cụt, mang xăng-đan đi đi lại lại không nhìn ai. Lũ lông lá đen ngòm trên cánh tay, trên ống chân cũng thản nhiên phô bày không ngượng nghịu, không giấu giếm, không kiểu cách. Chị sinh viên áo hoa cà dáng chừng con nhà quí phái nên nhìn cái răng nào của ai cũng tỏ vẻ khó chịu. Tiếc thay người ta lại chỉ đem răng - mà toàn những răng hư hỏng - đến cho chị săn sóc nên chị không biết làm cách nào khác. Cái nhún vai và cái bĩu môi lặp đi lặp lại một cách đều đặn, cuối cùng, Văn coi như là một cử chỉ chào đặc biệt của chị, chào những cái răng mới tới.

Văn được một chị sinh viên thân hình cục mịch mặt mũi hơi xấu xí mời vào ghế da. Chàng băn khoăn không biết như thế là may hay rủi. Người xấu xí thường làm việc rất tận tâm nhưng cũng có thể rất dễ cáu. Chị bắt chàng há miệng, liếc nhìn cái răng một cách lạnh lùng rồi cho máy khoan vào nạo. Văn sợ sự tàn nhẫn của hai bàn tay trả thù, vì một người không đẹp thì có rất nhiều mối thù, thù những người đẹp, thù ông trời, thù cha mẹ, thù cả những vật, những người không can dự gì đến sắc đẹp của họ hết.

Sau mười phút hồi hộp, lo lắng, chàng được giải phóng. Về đến nhà trọ chàng lật đật đem gương ra soi xem thì thấy một đường trám trắng tinh nằm giữa răng. Màu trắng tinh sạch có đủ tính chất khoa học làm chàng yên tâm và tin tưởng. Đi giữa phố đông đảo chàng có cái thú hiên ngang của một người lành mạnh.

Nhưng cái thú ấy hưởng không được lâu. Chừng hai tháng, thứ xi măng trám tuy vẫn giữ y màu trắng nhưng bị mòn đi, trũng xuống. Chàng chưa kịp đưa ra đi trám lại thì chiến tranh bùng nổ phải chạy tản cư về quê. Cuộc chiến kéo dài, cái răng lủng dần, sâu rộng ra, hóa thành cái răng sâu thật sự. Thế là như mười mấy năm trước, sự vui buồn của chàng vốn chịu lệ thuộc ở nhiều điều kiện, nay lại lệ thuộc thêm ở cái răng hoặc êm hoặc nhức. Thật vô lý hết sức là những cái răng sâu.

(1) alcool de menthe: dầu bạc hà

Nó nhức bất ngờ cũng như nó êm không hẹn trước. Sáng ngủ dậy cảm thấy rêm rêm mà tìm mãi nhất định không thấy lý do vì đâu. Nhức nhối tưởng có thể vỡ đầu ra được, thế mà nằm ngủ một giấc, - giấc ngủ đầy những mộng mị, cố nhiên, - sáng ra thấy êm ả y như chẳng có việc gì vừa xảy ra hết. Sự bình thản êm đềm ấy có một vẻ gì dối trá giống như một buổi sáng tươi nắng sau một đêm giông tố.

Văn chịu đựng sự hành hạ độc đoán của cái răng mà không đòi hỏi gì ở nó hết. Nó không còn đủ khả năng để nhai nữa. Nó cũng không đóng vai “có mặt” như những cái răng cửa mà nhiều khi người ta giữ lại với một mục đích là để kín hàm răng. Mặc dù vậy, nó vẫn cứ bể lần, bể lần. Cho đến một ngày nào đó trong cái năm kháng chiến không biết thứ mấy, Văn phải giao nó cho cái kềm của ông bác sĩ. Sự phân khoa học của ngành y học hiện đại chỉ cho phép ông bác sĩ toàn khoa nhổ được răng chớ không chữa được răng. Chàng yên tâm vứt bỏ nó mà không phản kháng gì hết vì sống bấp bênh giữa chiến tranh người ta không có quyền lựa chọn. Vả lại một cái răng thì có nghĩa gì khi cả cuộc đời một người cũng có thể dễ dàng bị xóa bỏ trong một vụ thả bom, trong một cuộc càn quét. Huống chi đời sống kham khổ trong khói lửa đâu để cho người ta có thì giờ và có phương tiện nghĩ đến những bộ phận phụ thuộc của con người như “cái răng cái tóc”.

Tuy vậy, sau đó khi một cái răng cửa mẻ đi một cạnh, Văn không giữ nổi bình tĩnh nữa. Chàng phải đi Bồng Sơn cậy một người thợ trồng răng người Trung Hoa. Đó là người thợ giỏi nhất, theo như lời nhiều người giới thiệu. Anh ta nạo bỏ cái phần sâu của răng và bịt vàng viền xung quanh. Lần này Văn tin cậy một cách rất tương đối ở lối chữa đó của anh thợ. Nạo lớp sâu mà không có thuốc gì khử được sâu đi thì tai họa chỉ bớt đi, làm cho chậm xảy đến chớ không phải là hoàn toàn rạch bỏ tai họa. Nhưng vì lối chữa đó là độc nhất nên chàng phải tạm bằng lòng. Những lúc này, chàng thấy ước muốn được chữa bởi mấy anh chị sinh viên cẩu thả ngày trước. Vì dẫu sao họ cũng còn phân biệt được thế nào là cẩu thả phản khoa học thế nào là khoa học thật. Nếu họ không làm chu đáo là vì họ không muốn làm chớ không phải là vì họ không biết làm. Còn người thợ này thì chắc chắn là anh ta chỉ nhờ cậy ở trực giác, và nếu may mà có thì giờ ở kinh nghiệm.

Hai năm… Ba năm trôi qua. Thỉnh thoảng nhìn vào gương chàng dò xét cái răng và ngạc nhiên thấy nó không bị sâu thêm. Mặt răng vẫn một màu ngà trắng. Chàng lạc quan kết luận: Anh thợ Trung Hoa coi vậy mà làm nên việc. Sự luộm thuộm phản khoa học không ngờ lại đem lại kết quả tốt. Nếu không nạo sâu và viền vàng, cái răng dễ đã hư mất từ lâu rồi. Và chàng thầm hẹn: Đừng bao giờ vội kết luận khi vấn đề chưa kinh quá thời gian.

Sau đó, chiến tranh chấm dứt. Cuộc sống có đủ tiện nghi trở lại. Cái viền vàng của kỹ thuật thời tiền chiến bị xem là lạc hậu so với kỹ thuật răng xương vặn pi-vô, cũng như những mái tóc chải vồng, những mái tóc bỏ vào lưới rất hợp thời thuở tiền chiến đã bị thay đi bằng những mái tóc uốn quăn nhuộm màu. Văn không muốn chạy theo thời trang nhưng mối băn khoăn vì cái răng chưa được chữa kỹ thỉnh thoảng vẫn ám ảnh chàng.

Một buổi chiều thứ bảy rảnh việc chàng đi rong chơi thành phố. Qua một ngã tư, vì phải đợi một đoàn xe dài chạy nối đuôi nhau, chàng lưu ý đến một tấm bảng Nha sĩ quen quen. Nơi này trước kia lại là một hàng giải khát có khá đông nữ chiêu đãi viên. Chàng tò mò nhìn con đường rãi sỏi dẫn vào nhà, cái giàn hoa ti-gôn màu vàng nhạt. Nhớ tới cái răng hôm qua hơi ê và bực mình vì đoàn xe rầm rộ chạy không dứt, chàng bước vào phòng nha sĩ.

Khi ngồi vào ghế da, chàng chỉ cái răng và kể tiểu sử của nó. Nha sĩ lắng tai nghe. Đó là một người dong dỏng cao, mắt nhỏ và tròn. Nét mặt có một vẻ nghẹn ngào bằng lòng, dễ dãi và cam chịu. Người này lúc nhỏ đi học chắc thường bị chúng bạn ăn hiếp. Đôi má nhếch lên theo thói quen và nếp nhăn ở đôi mắt như chuẩn bị để nhăn theo một cái cười giải hòa. Hàm rộng khá rậm râu, chân râu vào buổi chiều đâm tua tủa. Nghe chàng trình bày xong nha sĩ thò kềm tháo cái viền vàng, lấy cái châm nhọn do thám kẽ răng rồi đột nhiên nói:

- Ở dưới nuớu răng của ông có mọc một cái mụt.

- Vâng, tôi biết.

- Cái mụt mọc đã bao lâu? Ý tôi muốn nói lần đầu tiên một cái mụt như thế mọc ra, ông nhớ lại xem cách đây bao lâu?

Văn ngần ngừ tính toán một lát nhưng quả tình chàng không nhớ rõ bao lâu. Chắc đã có từ lâu lắm nhưng nghĩ ngượng ngượng, chàng nói:

- Chắc chừng 5, 6 tháng.

Nha sĩ đứng xích ra và nghiêm trọng nói:

- Ông cần rọi điện và chụp hình hàm răng.

Văn ngạc nhiên như mình vừa nghe lầm. Nha sĩ chừng quen với những phản ứng im lặng như vậy của bệnh nhân nên điềm tĩnh giảng giải:

- Cái mụt mọc ở mãi trong này khiến tôi nghi ngại là xương hàm bị có mủ. Sâu răng nó không ăn ra ngoài răng được nên nó ăn vào xương hàm. Phải rọi điện và chụp hình thì mới biết chắc mà chữa.

Thế là chàng từ phòng nha sĩ đi ra, tay cầm tờ giấy giới thiệu đi rọi điện. Lại vô lý hết sức là cái răng, - chàng bực tức nghĩ. Tưởng nhờ nha sĩ băng thuốc, lấy gân máu rồi cưa tra răng xương vào, công việc dễ dàng và đơn giản như vậy, ai ngờ lại đi tìm thêm sự rắc rối. Mà cái răng có vẻ đòi hỏi gì cho cam!

Nó vẫn tử tế như thường ngày. Con mắt xoi mói đa nghi của nhà khoa học để vào đâu là y như họ thấy tai nạn có thể xảy ra từng chuỗi. Nhưng đã trót nghe trót biết, chàng phải làm y theo lời nha sĩ vậy.

Chiều hôm đó chàng đến phòng mạch của bác sĩ rọi điện. Khi xe lái vào dưỡng đường, chàng lưu ý xem trên đường có những người quen nào thấy mình chăng. Chàng ngại bị bắt gặp bước vào một phòng khám bệnh. Chàng lấy dáng mạnh bạo, vẻ mặt vui tươi bình tĩnh bước vào. Y như một người đi thăm người bệnh hoặc mình là bạn đến thăm ông bác sĩ.

Ở phòng đợi nhiều người đàn bà ngồi. Có người bình tĩnh như ngồi đợi một chuyến tàu. Có lẽ bệnh hoạn đối với họ đã quen thuộc. Một người đàn bà có mang bế một đứa bé gái chừng 2 tuổi. Đứa bé khóc, quấy, đứng dậy ngồi xuống bà người đàn bà nhẫn nại chiều theo mọi cử động của con, miệng không ngớt dỗ dành. Đôi mắt người đàn bà chỉ nhìn xuống con và nhìn xuống đất. Thỉnh thoảng khi con thét lên thì đôi mắt ấy liếc nhanh qua hàng ghế trước mặt như ngầm xin lỗi. Văn thấy quả đáng tội nghiệp là những người đàn bà. Họ nhận hết những phiền phức, những tội lỗi về họ.

Trước mặt chàng, một người đàn ông cũng đang ngồi đợi. Vẻ mặt buồn và dáng ngồi khép nép nhu mì. Sự cô đơn, dù vậy, vẫn chứa một vẻ gì ích kỷ. Khi đau ốm, người đàn ông thường chỉ lo cho thân mình, còn người đàn bà đa mang hơn. Đó là một vấn đề phân công, chàng biết vậy, nhưng chàng vẫn cảm thấy mình thiếu thốn bổn phận hết sức khi nhìn những người đàn bà bận rộn kia.

Một tiếng phanh xe xích lô lách cách vang lên. Lại một người đàn bà bế con bước xuống. Bộ quần áo nhầu nát và cái chăn quấn con bẩn thỉu phù hợp với vẻ mặt cằn cỗi tối tăm vì nghèo.

Đứng một lát thấy mỏi chân, chàng ghé ngồi xuống một đầu chiếc băng gỗ. Vừa ngồi chàng vừa thầm trách mình: trong sự lo lắng vì bệnh tật, mình còn phân biệt sự sang hèn của chỗ ngồi. Ừ, mà thật vậy, những cái băng gỗ sơn xanh như thẹn thùng vì không nhận được những người khách sang trọng. Người đàn ông độc nhất ăn mặc đứng đắn là chàng thì chắp tay sau lưng đi đi lại lại, hết nhìn những tấm phim rọi phổi, rọi xương sống, vỏ não, tử cung…, đến lẩm nhẩm đọc hết mọi chi tiết quảng cáo thuật “đẻ không đau”. Những người đàn bà đẹp và sang trọng không thấy ngồi ở cái băng bình dân ấy. Họ bước xuống xe, đi thẳng lại cửa kính gõ nhẹ vài cái, tức thì cửa kính hé ra, đớp mất họ rồi khép kín, im ỉm. Những người ngồi ngoài càng thấy mình nhẫn nại và cam chịu. Một người đàn bà dáng chừng đanh đá, không chịu thua, bước tới đứng chực sẵn ở cửa. Khi cửa hé nhả ra một bệnh nhân tươi tỉnh thì người đàn bà xông vào không để cô y tá kịp giữ lại. Và cánh cửa lại khép. Vừa đến sau, vừa không phải là người đẹp, Văn đành ngồi tẩn mẩn thương hại vẩn vơ cho con người phải tranh giành nhau cả trong những trường hợp không thích thú gì cho lắm.

Khi cô y tá lách mình ra mời chàng vào, sự hồi hộp làm chàng hơi choáng váng. Một cái răng, một mảnh xương hàm giá trị thật không bao nhiêu so với những hồi khám phổi khám tim nhưng vì nó có giữ những bí mật nên nó cứ gây ra hy vọng và thất vọng liên tiếp. Sự hồi hộp quá dễ dãi khiến chàng hơi bực mình.

Khi nằm lên cái bàn dài ở phòng tối, chàng khó chịu nhìn cái máy đồ sộ mà ông bác sĩ cho chạy nhè nhẹ từ trên cao áp gần xuống mặt chàng. Đây là cái máy nói sự thật, những sự thật thường là khiếp đảm, những sự thật phũ phàng phá vỡ hạnh phúc của những đời người. Nhưng niềm lo lắng của Văn vụt nhiên thấy nhẹ đi, như loãng ra khi chàng liên tưởng đến những bệnh nhân mang những bệnh trầm trọng đã từng nằm dưới cái máy này, đã đứng trước cái máy này. Tiếng ông bác sĩ vang nhè nhẹ trong cái khí lạnh âm u:

- Ông nằm có thấy khó chịu không? Cái gối để như thế có vừa không?

Tiếng trả lời của chàng như tắt nghẽn:

- Vâng… Tốt… Được.

- Ông há miệng to ra. Đúng là cái răng này đấy nhé? Ông để hai ngón tay giữ dùm miếng phim này. Vâng. Vâng. Giữ chặt như thế… Vâng. Ông yên lặng… Xong rồi.

Mọi việc xong trong nháy mắt. Cái phút quan trọng đã qua rồi. Khi ra bàn giấy để trả tiền, chàng lưu ý nhìn ông bác sĩ và các cô y tá. Những người này tràn đầy sức khỏe giữa bầy bệnh nhân đang vây quanh họ. Chắc họ dễ cảm thấy họ sung sướng và yêu đời khi hàng ngày va chạm với toàn những người đau khổ. Hạnh phúc là một ý niệm tương đối. Vậy làm y tá chắc là dễ bằng lòng hơn làm nhân viên ngân hàng, nhân viên ngân khố chẳng hạn. Lương mỗi tháng vài ngàn bạc mà cứ phải mãi nghe những con số triệu, tiếp xúc hàng ngày với những người mà con số ngàn không được ghi thành chương mục trong óc, mà tâm trí chỉ chịu bận bịu với những con số từ mười vạn trở lên thì thật tủi thân vô cùng. Thật y như một người kém nhan sắc mà cứ phải nhìn mãi bóng mình trong tấm gương soi ở hiệu uốn tóc.

Cô y tá nhí nhảnh thưa:

- Thưa ông chiều mai đến lấy phim.

- Giờ này?

- Vâng.

Chàng mở cửa bước ra hiên. Không khí ở ngoài mát mẻ ôm chụp lấy chàng. Những bệnh nhân đang ngồi đợi đều ngẩng mặt lên một loạt nhìn vào chàng để tìm đọc một nét đau khổ. Chàng phải mỉm cười nhè nhẹ vừa cúi nhìn xuống đất.

Bụi bông giấy mọc ở mé hiên lá xanh dày, sáng rực một màu xanh dịu dàng. Rời bỏ những máy móc vừa nhắc đến nỗi khổ triền miên của loài người, chàng thấy lòng mình êm dịu lại khi tựa vào thiên nhiên vui tươi và lành mạnh.

Xế hôm sau Văn đến lấy phim. Sự hồi hộp, hy vọng và lo sợ đã quen đi, hôm nay chàng thấy mình rất nhẫn nại, chuẩn bị để nghe những tin xấu về cái răng. Chàng định ăn mặc thật cẩn thận, giày mới và ca-vát tươi màu để tránh cái vẻ dáng thương hại của một người có khuyết điểm, nhưng nghĩ thì hăng hái như vậy mà khi thực hành chàng thấy không đủ hào hứng. Rốt cuộc ca-vát có tươi màu mà đôi giày thì vẫn đôi thường ngày. Cô y tá nhí nhảnh chào chàng:

- Thưa ông đến lấy phim?

Lẽ tất nhiên. Sao cô không tìm được một lời chào nào khác hơn? Thấy mặt mũi cô đẹp đẽ dễ yêu, chàng mỉm cười không trả lời, nụ cười giễu cợt nhẹ nhàng. Thông minh, cô đáp lại cũng bằng một nụ cười nhỏ rồi khẽ cúi đầu quay vào.

Sự tiếp xúc với phòng bệnh hôm nay bắt đầu bằng nụ cười làm chàng hơi vui vui. Ông bác sĩ tiếp chàng và đưa cái phim, chỉ một vết trắng nhỏ ở chỗ xương hàm. Thế là cái răng bị tuyên án. Bao nhiêu nỗi băn khoăn hồi hộp cuối cùng được kết thúc một cách trơ trẽn bằng cái vết trắng ấy trong mảnh phim. Sự có mặt của ông bác sĩ chợt trở nên vô ích và lời nói của ông cũng hóa ra lạt lẽo. Cái gánh nặng của sự âu lo không biết đã rơi đâu mất hay bỗng thành nặng quá, quá sức cảm giác của chàng. Chàng cầm lấy phim giơ lên một cách thất vọng. Cái vết trắng sờ sờ ra đó, chàng không thể mong là một sự huyền hoặc. Chàng cúi chào ông bác sĩ rồi quay gót.

Cô y tá cầm tay nắm cửa, hé mở vừa mỉm cười chào chàng. Chàng lách mình đi qua. Chợt thấy mình thiếu xã giao một cách vô lý, chàng khẽ mỉm cười trả lại nhưng cô y tá đã ở quá sau lưng, cái mỉm cười nở quá chậm. Giận dỗi, chàng nện mạnh gót giày xuống nền nhà và gọi xe đến phòng nha sĩ.

Vừa gặp chàng, ông nha sĩ nói ngay:

- Tôi đã được xem cái phim của ông. Hồi 11 giờ trưa nhân qua đó lấy cái phim của một người quen, tôi có hỏi xem cái phim của ông. Thật đúng như lời tôi đã đoán.

Hy vọng rằng ông có thể lầm với rằng ai chăng, chàng móc đưa tấm phim. Ông cầm lấy, giơ lên ánh sáng và chỉ cho chàng xem.

- Cái chân răng này tốt, ông thấy chưa? Còn chỗ chân này bị làm mủ vào xương hàm.

Chàng hỏi:

- Thế ông có cách gì chữa?

- Phải nhổ thôi.

- Không thể có cách khác?

- Chỉ có nhổ. Nhổ đi rồi mới làm curetage (2) được.

Im lặng một phút. Cuối cùng chàng nói một cách chán nản:

- Nếu không có cách nào khác thì đành phải vậy chớ biết làm sao?

Chàng tránh không dùng chữ “nhổ”, coi như nói lên chữ ấy là mình đã mạnh bạo đồng ý với nha sĩ. Có thể người nha sĩ sẽ vin vào chữ ấy để xem như chính chàng ra lệnh. Nhưng ông nha sĩ dáng chừng bình tĩnh đến mức độ không cảm xúc. Lập tức ông ra lệnh cho anh phụ lấy ống tiêm, thuốc tê. Ông châm mũi tiêm vào nuớu, châm chỗ này rồi chỗ nọ, cùng khắp vội vàng. Rồi xoi, rồi kềm, ông ta túi bụi nạy, kéo, mắt chăm chăm nhìn vào cái răng như thù hiềm, như sợ nó trốn đi mất. Cuối cùng, một tiếng “xoảng” trên nắp khay cái kềm bỏ xuống, miếng bông thuốc ấp vào và Văn hoàn toàn là một bệnh nhân thiểu não.

Trên đường về nhà, chàng thầm thương cho mình và cho anh thợ trồng răng hiệu Hồng Phát mà chàng vừa ghé cách đây năm bữa. Bữa ấy chàng còn đinh ninh là răng mình còn tốt và người thợ trồng răng rất đồng ý với chàng về điểm đó. Anh ta đề nghị một cách êm đẹp:

- tôi lấy gân máu cái răng này rồi tôi sẽ cưa đi. Xong đâu đó, tôi tra pi-vô răng xương vào. Răng xương “mác” bên Tây cẩn thận có bảo đảm và vàng 18 ca-ra chớ không phải răng Nhật đâu.

- Bao nhiêu tiền?

- Tôi lấy ba trăm mỗi cái.

Chưa có kinh nghiệm về giá, nhưng chàng cũng kêu lên theo thói quen của người mua:

- Đắt vậy?

- Giá biểu tôi vẫn đề sáu trăm đồng một cái.

Chàng liếc nhìn lên tấm ghi giá biểu và đồng ý là anh thợ nói thật.

- Các nha sĩ họ đều tính sáu trăng đồng một cái.

- Thế cưa đi thì mấy ngày mới tra được răng mới vào?

- Cũng phải hai ngày.

Chàng cười to lên, như chế nhạo người thợ nói lẩm cẩm:

- Anh bắt tôi phải trống hàm răng trong hai ngày! Một ngày thôi. Một ngày chủ nhật.

Anh thợ lắc đầu:

- Một ngày thì không kịp vừa lấy dấu răng, vừa đúc thạch cao, vừa đổ vàng, vừa làm cho sắc sảo cạnh góc. Một ngày không được đâu. Hai ngày là nhanh nhất rồi đó.

Không chịu để cho hàm răng bị trống hai ngày để hôm nay chàng cam nhận một lỗ trống trong một tháng rưỡi. Vì lời ông nha sĩ còn như văng vẳng bên tai:

- Cái răng nhổ xong, ông phải súc miệng với Septyl trong 10 ngày. Uống Trisulfazine, Tetracycline 10 ngày. Một tháng rưỡi sau nghĩa là (ông dò lên cuốn lịch treo tường để gián tiếp nhắc chàng nhớ rằng việc này quan trọng lắm) 15 tháng Giêng ông mới có thể trồng được răng mới.

Chàng lặng nghe, không phản kháng không mặc cả ngày tháng như lúc ngồi ở hiệu. Nghĩ đến đây, chàng thầm thương cho mình và cho anh thợ Hồng Phát. Đồng thời, mối lo len lỏi đến. Chàng làm nghề dạy học nên trống một cái răng không phải là việc dễ có thể bỏ qua. Trước nhất là sự xấu xí buồn cười của một hàm răng “trống cửa sổ”. Thầy giáo thường ngày vẫn nghiêm trang xứng đáng với sự tín phục của học sinh, mà tâm lý của người học sinh là không muốn chấp nhận một khuyết điểm nào ở nơi thầy giáo của họ hết. Thế thì bạn làm sao? Chắc chắn là không thể nói tự nhiên như ngày thường để cái lỗ trống làm trò cười cho học sinh khiến trí óc họ xao lãng mà lời giảng của mình cũng kém hứng thú. Nhưng che giấu cũng không được vì sớm chậm gì học sinh họ cũng tìm ra sự thật mà một khi họ đã tự khám phá ra sự thật thì họ sẽ yếu tố hiếp mình dữ lắm. Suy tính đắn đo đủ chiều, cuối cùng chàng quyết định: sẽ vừa nói sự thật vừa giữ cho mình không hóa thành trò cười.

(2) nạo sạch

Sáng thứ Hai chàng vào lớp. Sau khi đâu đó im lặng, chàng liếc nhìn cả lớp một cách chững chạc rồi tay trái che miệng, chàng chậm rãi nói:

- Tôi vừa bị một tai nạn nhỏ làm hỏng một cái răng. Phải trong một tháng rưỡi mới chữa xong. Trong thời gian đó, có những âm lưỡi, âm răng như PH, V tôi không phát âm rõ được. Xin anh chị em chịu phiền và nhất là giữ im lặng hơn ngày thường.

Vẻ mặt nghiêm trang và giọng nói hơi buồn khiến học sinh kính cẩn nghe. Họ không biết là chàng bị tai nạn gì. Có lẽ ngã xe chăng? Chắc không phải vì mặt mũi chàng lành lặn thế kia. “Còn chữa” nghĩa là thế nào? Nhưng chàng không để cho họ suy nghĩ lâu. Chàng mở sổ gọi đọc bài và như thế là mọi người giũ hết thắc mắc.

Đối với một vài lớp đầu tiên thì dễ như thế đó. Nhưng có những lớp đến thứ Tư hay thứ Năm thứ Sáu, chàng mới có giờ dạy thì tình hình biến chuyển bi quan hơn. Số là cái tin chàng bị gãy răng đã loan truyền đi và học sinh các lớp sau này cứ lén khúc khích với nhau khi gặp chàng khiến cho câu mở đầu mất vẻ tự nhiên và nghiêm trọng đi. Riêng ở một lớp nọ thì ngẫu nhiên mà có một học sinh cũng bị bẻ răng nên hôm ấy anh ta đi học cứ lấy tay bịt miệng. Oái oăm là chàng kêu nhằm anh ta lên đọc bài. Thế là ở dưới lớp chỗ này chỗ kia có tiếng rúc rích cười. Một chị học sinh chừng thú vị quá phải nói bật thành câu:

- Hai cha con…

Chàng nghe, cũng muốn cười theo vì lời có duyên và hợp cảnh. Nhưng chàng phải cố kiềm hãm tiếng cười. Lời pha trò có duyên thật khó làm cho ta giận được. Cũng như ta khó ghét một người đẹp dẫu người ấy có những khuyết điểm. Qua đi giai đoạn nhập đề, đến phần gay go là phần tiếp xúc hàng ngày. Phải tập sao cho bàn tay trái lúc nào cũng kịp thời đưa lên che miệng khi miệng phát ra một tiếng nói. Khi nói cả câu dài, khi giảng bài thì việc này không khó. Nguy nhất là những khi bật ra cười. Cười là cái biểu lộ tức thời có tính chất phản xạ tự nhiên. Đợi có một bàn tay đưa lên che miệng rồi mới cười thì cái cười đâm ra ngượng nghịu tính toán. Khi chưa quen khi chưa tập kiềm chế được, chàng đã vài lần lỡ cười rồi mới chợt nhớ ra mà ngượng nghịu mím miệng lại. Sau vài lần khuyết điểm như thế, chàng giữ thái độ khắc khổ của một người có tâm sự để đối phó với sự quyến rũ của những tiếng cười xung quanh. Đến việc phát âm. Những chữ phụ âm môi răng (consones labio-dentales) lúc nhỏ học văn phạm đọc thuộc lòng một cách khó khăn, bây giờ không cần coi lại sách mà vẫn nhớ. Cứ việc phát âm lên rồi chữ nào xì hơi ở ngay cái chỗ lỗ răng trống là biết ngay nó thuộc phụ âm môi răng. Ví dụ phụ âm V. Thật là phiền phức khi tiếng Việt có người chữ bắt đầu bằng V: vì, và, vâng, vả lại… Nhiều chữ khi gặp phải chàng tránh đi, như thay chữ “vì” bằng “bởi”, “vả lại” bằng “hơn nữa”. Nhưng đó là khi giảng bài, có thể hoặc nói hoặc không, có thể thay chữ này bằng chữ khác, còn khi đọc bài cho ghi chép thì không thể nào trốn tránh được. Có những đoạn oái oăm như:

Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái.

Hoa để vàng bởi tại bóng dương

Hoa vàng hoa rụng quanh tường…

Mỗi lần đọc chữ Vàng, chàng phải làm ra vẻ lơ đãng lấy một ngón tay ấn khít môi vào chỗ lỗ răng trắng rồi mới phát âm. Chữ “vàng” phát ra nghe nhọc mệt và lờ mờ. Chàng nhớ liền đến lời ông nha sĩ khi chàng tỏ ra băn khoăn:

- Mất một cái răng trong hơn một tháng thật phiền cho việc phát âm.

Người nha sĩ trả lời không cần suy nghĩ:

- Mình sẽ vận dụng môi lưỡi để thay thế.

Ông ta không nói xem vận dụng như thế nào và chàng cũng không muốn quấy rầy hỏi kỹ, coi như đó là việc nhỏ. Mà quả thật, khi gặp vào việc thì tự nhiên mình tự biết cách xử sự lấy. Và phải gặp lúc mất đi một cái răng chàng mới thấy rằng nói tiếng miền Nam, như mình thật có những sự tiện lợi. Đó là khi, dùng chữ “Và”, một chữ hay trở lại trong câu nói. Nói giọng miền Nam, chàng dùng chữ “Với” và phát âm như “Viới”. Nhưng san phẳng đi được mấy trở ngại đó trong giờ nói tiếng mẹ đẻ thì khi dạy tiếng Pháp chàng không thể tránh những chữ Vous, Voir, Va, Viens… Ở đây thì không phân biệt giọng Nam giọng Bắc nào nữa chỉ còn phương pháp độc nhất là lấy ngón tay ép môi vào lỗ răng thôi. May thay, không người học sinh nào để ý đến cái ngón tay chiến lược của thầy. “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” chàng thầm nghĩ. Và chàng tự an ủi: “Mất đi một cái răng, mình có được biết bao những kinh nghiệm độc đáo về cái răng”.

Ngày đầu bàn tay trái phải luôn luôn giơ lên che miệng khiến cánh tay mỏi rừ. Những giờ cuối cùng trong ngày, cánh tay mỏi muốn run lên. Ngày hôm sau chàng phải ngồi lại bàn, chống một tay để xa trước miệng vừa nói, y như một diễn giả lấy điệu bộ hoặc như một nhà trí thức đang suy nghĩ. Vừa che giấu được cái xấu lại vừa tô điểm cho dáng dấp thêm đẹp, thật là một cử chỉ đơn giản mà quí giá. Sự phát minh này khiến chàng giảng bài một cách thích thú. Như một nhà nghệ sĩ mê say đi tìm những hình thức phô diễn mới, qua những ngày sau, chàng chỉ dùng một ngón tay trỏ cung lại để ngay trước miệng ngay chỗ cái răng trống. Và không biết vào ngày thứ mấy, chàng lại phát minh ra lối để dựng một quyển sách lên bàn cách xa mình 2 tấc, vừa đủ che miệng. Tuy vậy, những lúc thong thả thoải mái hơn hết vẫn là những lúc đứng ở cuối lớp quay mặt lên để đọc bài cho học sinh chép. Những lúc đó chàng khỏi phải che tay giấu miệng gì hết vì học sinh đều ngồi ngó lên thuận chiều với chàng. Sau chừng ba ngày những cử động quen đi. Biểu diễn thứ tự nhịp nhàng không còn lẫn lộn nữa. Dù vội vã trả lời lại, dù bất chợt bật ra cười, nhưng tay chàng đều kịp thời đưa lên che miệng.

Cái răng đã thường xuyên ám ảnh khiến lúc nào chàng cũng để ý đến cái răng. Gặp một người, ngồi nói chuyện là y như mắt chàng nhìn thẳng vào đôi hàm răng của họ. Và đến đây chàng mới thấy rằng mình đã sống rất hời hợt, tiếp xúc lâu với một người mà mình không hề nhìn kỹ họ. Lần này có nhìn kỹ mới thấy rằng người bạn mình mất hết một cái răng nanh hàm dưới khiến phía môi ấy móp lại. Một anh bạn khác nghe chàng than phiền về cái răng gây ra tai họa liền tươi cười đáp:

- Anh tưởng răng của tôi tốt lắm sao? Này…

Anh bạn há miệng rồi chỉ vào dãy răng hàm hàm trên không còn cái nào.

- Răng hàm hàm trên nhổ hết. Răng hàm hàm dưới còn vỏn vẹn hai cái. Đó là hàm bên trái. Răng hàm bên tay mặt cũng như vậy. Tôi ăn chỉ nhai lỏn chỏn bằng mấy cái răng cửa nên ăn rất chậm.

Chàng nói một cách thất vọng:

- Ai có thể tin được thấy anh béo tốt thế kia.

- Đâu đã hết? Ruột của tôi lại cũng là thứ ruột bệnh hoạn. Đem rọi kiến chụp hình thì thấy cái kết tràng lên bị a-míp ăn bám dày đi.

Chàng nhìn bạn và thấy yêu bạn hơn trước. Bệnh tật là một mối liên hệ bạn hữu. Chàng được an ủi khi biết rằng chung quanh mình, những người khác không phải đều hoàn toàn khỏe mạnh, hoàn toàn sung sướng hết. Trong khi đó thì có những người làm chủ những hàm răng tuyệt đẹp. Một cậu học sinh nhà ăn chay trường lên đọc bài để lộ một hàm răng quá đẹp so với dáng dấp lam lũ của anh. Hàm răng trắng tinh, nhỏ và đều. Chàng nhìn hàm răng một cách say mê như khi nhìn một tác phẩm mỹ thuật.

Chàng thầm nghĩ và tiếc vẩn vơ, có một hàm răng tốt như thế này mà chỉ để ăn rau đậu không thì cũng uổng. Cứ say mê chú ý vào những hàm răng khiến có lúc chàng suýt cười to lên khi tự ví mình với anh lái buôn ngựa. Muốn biết tuổi ngựa, chỉ cứ nhìn hàm răng nên bị méo mó nghề nghiệp, chắc anh ta chỉ thấy những răng là răng. Dễ thường trong giấc mơ anh cũng chỉ thấy toàn răng ngựa!

Nhân nhìn răng người, chàng chợt nhớ đến răng của con mình. Chàng soát lại răng của con và thấy mình đã thiếu sót phận sự. Thằng Tịnh có 2 cái răng nanh mọc lỗi. Đáng lẽ khi răng sữa lung lay, mình phải đưa đi nhổ ngay để nhường chỗ cho răng vĩnh viễn mọc ngay thẳng. Hết phương cứu chữa cho đứa lớn, chàng kiểm soát đứa nhỏ. Vài cái răng sún nhổ rồi, - do ai nhổ và nhổ bao giờ, chàng không hề nhớ, than ôi - chàng không hiểu có còn kẹt lại chân răng không. “Thôi, để vài bữa mình đến chữa răng, đưa nó đến hỏi thăm luôn nha sĩ”, chàng tự dặn như vậy.

Đúng hôm hẹn phải đến nha sĩ, chàng bảo người ở:

- Hôm nay chị Hai khỏi phải đi ra trường đón em. Tôi đi đón lấy.

Chàng đi ra xe thẳng trường để đón con. Bé Phượng thấy chàng đến đón mừng quá.

- Hôm nay chị Hai đi đâu không ra đón con, hở Ba? - Bé Phượng lật đật hỏi:

- Chị Hai bận.

- Ba chở con ra biển ngồi chơi mát đã rồi hãy về. Ừ, mà thôi, đi ra phố chơi đi Ba.

Chàng mỉm cười ranh mãnh nhìn con:

- Chắc ý con muốn nói: rồi chúng muốn ghé lại hiệu kem Tuyết Viên ăn chơi như bữa trước. Có phải vậy không?

Phượng cười rũ lên như khi chơi cút bắt với bạn, ngồi nấp một xó kín bị bạn tìm bắt được.

- Kem ở hiệu đó ngon nhất đó Ba à. Thằng Trọng Tâm bảo con vậy.

- Điều ấy có thể đúng lắm. Nhưng hôm nay chúng ta không có thì giờ. Nào, con leo lên xe đi, Ba chở con ra phố.

Phượng vui vẻ leo lên ngồi sau chàng, miệng hát vang bài hát vừa tập ở lớp. Xe rẽ qua mấy phố rồi dừng lại trước phòng nha sĩ. Phượng ngạc nhiên:

- Đây là chỗ nào? Hiệu Tuyết Viên ở mãi đằng kia mà.

- Vừa mới bảo xong: hôm nay không có thì giờ ăn kem. Ba ghé lại nha sĩ để chữa cái răng. Con vào ngồi đợi một tí.

Quả tình cái phòng đợi lạnh lẽo này không làm cho bé Phượng phấn khởi chút nào cả. Không có một chú bé bệnh nhân nào ngồi đó cả để cho Phượng nhìn vào và bặm môi nhíu mày với nó. Hai người đàn bà đau răng ngồi hằn học liếc mắt vào người mới đến. Mặc dù ba bảo ngồi, Phượng vẫn ôm cặp sách đứng ngó ra mảnh sân nhỏ trước phòng. Ở đó, một dây nho nhẫn nại bò lẫn vào trụ cột đến mãi sát giàn mới dám đâm lá xanh. Đợi đến lượt mình, Văn bước vào phòng sau khi dặn bé Phượng ngồi chờ. Nha sĩ soát lại vết nhổ bữa trước. Nơi đó một cục máu đọng. Từ màu đỏ bầm, đầu cục máu chuyển sang màu trắng nhợt trông bẩn thỉu. Buổi trưa ở nhà chàng đã lấy lưỡi lay cục máu để đẩy nó đi. Nó không rơi ra. Chàng lấy ngón tay đẩy. Nó chỉ nhích hở một chút. Hơi ngượng vì cái cục máu trông bẩn thỉu, chàng bảo nha sĩ:

- Tôi đã lay cho ra mà không được. Lấy bông nắm rứt đi mà vẫn…

- Ấy chết, - nha sĩ la lên, - Ông muốn chết hả? Cứ để y nguyên thế. Bông hút nước bẩn lắm, ông để vào bị sài uốn ván chết.

Văn thấy đầu mình khẽ choáng váng như vừa nhìn phải một cái chớp giật. Sài uốn ván. Chết. Lúc nào cũng có thể chết được. Nhưng chàng đã tự trấn tĩnh: cũng may mà bông chỉ chạm vào mặt ngoài của cục máu, phần máu chết. Chỗ vết thương phải ở mãi tận trong.

Nha sĩ bôi thuốc lên. Khi đã xong, chàng ra cửa gọi con vào. Bé Phượng nghiêm trang nhìn những khuôn mặt lạ và những dụng cụ lạ mắt. Chàng nói:

-Nhờ nha sĩ xem dùm hàm răng cho cháu. Cái nào cần nhổ, cái nào cần chữa…

Chỉ đảo mắt qua một lượt, nha sĩ đã bảo:

- Cái chân răng này phải nhổ đi để có chỗ cho răng sau mọc lên.

Văn nhìn xuống đồng hồ: 6 giờ chiều. Chàng nói:

- Để hôm nào trở lại.

- Có thể nhổ ngay liền bây giờ.

Và thế là cái mũ và cái cặp sách phải rời bé Phượng lại nằm lên bàn giấy ông nha sĩ để bé Phượng được bế lên ngồi trên ghế da, mặt ngơ ngác không biết người ta sắp làm gì mình. Rồi những hiệu lệnh “mang khay… lấy thuốc tiêm…” được truyền đi nhẹ nhàng, mũi tiêm liên tiếp đâm phập vào nớu răng, cái kềm bẻ vẹo theo cánh tay, cái chân răng vất “xoảng” lên khay. Bé Phượng chưa kịp phản kháng, chưa kịp ưng thuận. Một miếng bông đắp thuốc đỏ được nhét vào lỗ răng, hai hàm ngậm chặt. Và chàng chở người nạn nhân bất ngờ này về nhà.

Từ lần ngộ nạn này, Phượng mừng rỡ một cách rất dè dặt khi thấy Ba đem xe đến đón tại trường, thấy những cuộc chở xe đi dạo phố không chỉ hứa hẹn vui chơi sung sướng như ngày xưa. Hiệu kem Tuyết Viên không được Phượng hăng hái nhắc đến nữa.

Sự săn sóc răng cỏ cho con đã tam xếp xong, chàng nghĩ đến răng cỏ của những người quen. Dạy học đến bài “giải phẫu bộ máy tiêu hóa” chàng dừng lại khá lâu để giảng về răng. Thôi thì: vệ sinh khi răng lành, khi răng sâu, có nên nhổ ngay khi nhức không, các phương pháp chữa răng trồng răng… Đôi khi giữa những lời giảng say sưa chàng lẩn thẩn nghĩ: Phải chi mỗi trường có nhiều thầy giáo để khi dạy những bệnh tật ghi trong chương trình người ta xếp cho thầy nào đã mắc bệnh gì thì dạy ngay bệnh ấy. Đối với bạn thì chàng hóa ra người cố vấn nhiệt thành.

- Anh nên làm cua-ron bằng bạch kim cho cái răng đó… Ồ! Ghé lại nha sĩ họ lấy gân máu cho. Đừng tin người thợ cẩu thả đó.

Bày vẽ cho người ta nhưng rốt cuộc lại bị người bày vẽ lại. Việc ấy xảy ra thế này. Số là từ ngày bị mất cái răng, chàng chỉ che miệng khi nói với học trò và người lạ, còn đối với người quen thì chàng cứ để tự nhiên. Che dấu là một cách tự hạ mình và có thể bị xem là một lối làm dáng quê mùa. Tuy vậy đối với những người đàn bà quen thì chàng không thể cười nói tự nhiên với một cái răng thiếu, thiếu một cách trắng trợn thô lỗ như vậy. Mà thật thế, cái hàm răng trống một lỗ đen trông vừa buồn cười vừa ngu si. Để cho một người đàn bà thấy nó, chàng coi như là một sự khiếm nhã, y như chàng tiếp họ với một cái sơ mi quên cài hột nút. Một hôm nói chuyện với một chị bạn quen, chị bạn nhận xét: Anh coi chừng kẻo mà thành tật đó nghe. Cái tay che miệng đó. Trước đây tôi cũng có một cô bạn quen cũng nhổ răng như anh và cũng phải che miệng như anh suốt thời kỳ chưa trồng răng giả. Sau đó, răng mới đã trồng nhưng tật cũ không bỏ được. Những lúc ngồi nói chuyện, khi chợt cười cô ta vẫn đưa tay lên che miệng.

- Tật giữ trong bao lâu, chị?

- Hai năm sau tôi vẫn thấy cô ấy che miệng.

Quả là một điều khá đáng lo thật vì mới 5, 6 ngày nay mà việc đưa tay che miệng đã hầu thành một cử chỉ tự nhiên. Cả đến khi nói chuyện với những người lớn, những người quen mà chắc chắn mình không cần và không nên giấu giếm gì cả, thế mà chàng cũng quen tay đưa lên che miệng. Khiến một bà cụ quen thân ái bảo:

- Ông giữ chừng kẻo đưa tay che miệng hóa thành một thói quen đó. Tôi đã biết có mấy người như vậy. Cứ nói như thường, che làm gì?

Chàng thầm nghĩ: Lẽ tất nhiên là nói chuyện với cụ thì không nên che làm gì thật.

Nhưng tuy nghĩ vậy mà lúc để tay xuống chàng vẫn mường tượng nghĩ đến cái xấu xí của hàm răng nên chàng cứ thấy ngường ngượng. Bà cụ tiếp:

- Che miệng là một cử chỉ không đẹp.

Qua hai lần bị phê bình, chàng thấy người đàn bà chú ý đến cái đẹp hơn đàn ông. Và sự phù hợp của hai điều nhận xét khiến chàng thành thật lo trước cho cái thói quen xấu mà mình sợ sẽ không tước bỏ được.

Thứ Bảy tuần đó, y hẹn, chàng đến phòng nha sĩ, để nhận sự săn sóc cuối cùng. Chàng hỏi thể thức trồng lại cái răng.

- Chỗ răng nhổ đi sẽ trồng thay bằng một cái răng xương, nhưng nó phải bám vào 2 cái răng hai bên. Có hai cách trám. Một là bao vàng răng bên cạnh, hai là làm pi-vô. Làm pi-vô, thì phải lấy gân máu và cưa cái răng đi rồi thay răng xương vào.

- Như thế thì tiếc cho hai cái răng vô tội. Vả lại còn bị đau nữa khi lấy gân máu, khi cưa.

- Nhưng mà đẹp hơn là bao vàng. Các bà các cô thì đều chịu đau để đẹp. Có người cái răng mọc không đều, các cô đem đến nhờ nhổ đi và thay răng xương vào.

- Nếu tôi làm răng ở đây thì ông tính bao nhiêu mỗi cái?

- Sáu trăm đồng. Phải trồng cái giữa và bám hai cái hai bên. Thế là 1800 đồng.

- Nếu ông lấy gân máu và làm pivô thì mỗi răng thêm hai trăm. Cộng lại là hai nghìn hai.

Văn suýt bật cười lên vì mình đã đoán đúng. Người nha sĩ tính đúng như lời anh thợ Hồng Phát đã nói còn nhớ thêm hai trăm đồng lấy gân máu cho mỗi cái răng. Chàng nói:

- Người ta bảo khi chữa răng thì đến nha sĩ nhưng khi trồng răng bịt răng thì có thể nhờ thợ trồng răng. Họ tính rẻ hơn.

Nha sĩ mỉm cười một cách gượng gạo. Có lẽ ông cũng nhận rằng lối lý luận vừa rồi là đúng. Tuy vậy, ông vẫn nhẹ nhàng nói:

- Nghĩa là… người thợ răng họ cũng làm cho ông có cái răng.

Nha sĩ tính tiền chàng phải trả. Khi trả tiền xong, chàng cám ơn người nha sĩ và bắt tay giã từ. Bước qua vuông sân rộng, chàng cảm tưởng mình cũng đồng thời giã từ cái hình ảnh nghèo nàn của người nha sĩ mà mình có khi đầu tiên tiếp xúc với ông. Quả tình lần đầu tiên đến ngồi ở phòng nha sĩ, chàng thấy thương cho thân phận người nha sĩ.

Trong phòng mạch của bác sĩ, lăng xăng rộn rã bao nhiêu nữ y tá, thế mà ở đây chỉ vỏn vẹn có một anh phụ việc. Anh này lại thật thà, hơi quê mùa nữa, nên cảm tưởng vắng vẻ càng tăng thêm. Có lẽ chỉ cần một cô y tá hoặc đẹp hoặc làm dáng là đủ làm rộn ràng cái không khí của căn phòng, sắc đẹp hùng biện như lời nói có khi hơn lời nói. Không có đôi ba cô y tá nhí nhảnh với nhau để khách hàng vui lây thì sắc đẹp của một cô cũng có thể làm cho họ nghĩ ngợi vẩn vơ mà trong khi đợi chờ đỡ tẻ. Dáng người nha sĩ lại thiếu bệ vệ. Trắng hơn một chút, béo hơn nhiều nữa và đôi mắt nặng nề mỏi mệt hơn thì ông sẽ có vẻ giàu có sung sướng hơn. Thêm vào đó mấy cái ghế ở phòng đợi chàng không thấy có lần nào có khách ngồi đầy. Chàng tự nhiên có cảm tình với ông ta như với một người bạn xấu hổ. Cảm tình đó hôm nay chàng đánh mất. Điều này làm cho chàng không vui vì quả tình chàng như vừa mất một người bạn. Nhưng nếu cảm tình đối với người nha sĩ bị nhạt đi thì trái lại chàng thấy thêm tình yêu mến đối với anh thợ răng Hồng Phát. Khi biết rằng trồng một cái răng với giá 300đ là không hớ một tý nào cả, chàng thấy yên tâm lạ. Chàng không còn nhìn anh thợ Hồng Phát với một ý nghi kỵ nữa. Chàng không còn phải loay hoay để định trả một giá, trả sao cho khỏi bị đắt vừa khỏi quá rẻ. Chàng chỉ cần định điều kiện thôi. Hôm sau chàng đến hiệu Hồng Phát.

- Anh phải cưa một cái răng?

- Phải cưa một cái.

- Còn răng kia thì nhất thiết phải bọc vàng?

- Phải bọc vàng, không có cách gì khác.

Tâm hồn chàng rơi thõm vào cái mệt mỏi của những ngày trước đây khi không tìm một giải pháp nào khác hơn, tốt đẹp hơn là phương pháp bọc vàng. Chàng nói thẫn thờ như một lời nuối tiếc:

- Không thể tránh được…

Anh vội vàng trấn tĩnh:

- Nhưng tôi sẽ làm thật cẩn thận và mỹ thuật. Đường chỉ bọc sẽ rất nhỏ. Ông cứ yên tâm.

Chàng nói:

- Thôi được. Một tháng rưỡi sau tôi sẽ trở lại. Nha sĩ bảo phải đợi cho hết hạn đó.

Một tháng rưỡi ngượng nghịu âm thầm qua, tối tăm như giữa mùa mưa gió. Khi kỳ hạn đến, chàng ngoan ngoãn ghé lại hiệu Hồng Phát. Người thợ trình bày rõ ràng hơn về những công việc phải làm trong hai ngày để hoàn thành cái răng. Chàng vẫn cố mặc cả một ngày thôi, ngày chủ nhật, nhưng quả tình người thợ không thể làm được. Chàng đành phải nhẫn nại chịu nhận hai lỗ răng trống trong hai ngày. Thật là quá sức chịu đựng, khi một lỗ răng trống thôi đã đủ làm chàng khó chịu. Khi ngồi lên ghế, chàng đợi nghe tiếng vù vù của bàn cà quay. Và khi bàn cà chạm vào răng, một cảm giác tê buốt chạy rần ở cột xương sống, tỏa một luồng lạnh ra khắp lưng. Hình như bao nhiêu bắp thịt ở lưng co rúm lại. Một mùi bột xương nhàn nhạt hăng hắc bốc lên mũi. Hết bàn cà tiếp đến bàn nạo, bánh xe cưa… thần kinh của chàng như bị những tấn cống dồn dập.

Khi thân răng gãy nhẹ giữa hai ngón tay của người thợ, chàng quay sang cầm ly nước súc miệng và vội vàng đưa chiếc gương lên soi. Thật bất ngờ, chàng đang đợi một lỗ trống toang ghê tởm thế mà sự thực thì lỗ trống mới không khác với lỗ răng trống bữa trước mấy. Sự bất ngờ có lợi này mang lại cho chàng một thú vị nhỏ khiến chàng vui vui. Căn phòng chữa răng màu trắng, màu của tường và của dụng cụ, chàng thấy bớt vẻ lạnh lẽo. Khi bắt tay từ giã anh Hồng Phát, chàng bắt tay chặt và giữ tay anh ta hơi lâu.

Tuy vậy suốt hai ngày sau, không lúc nào thôi băn khoăn về cái răng xương mà chàng sắp nhận. Người thợ hết lời cam đoan về nghệ thuật và kinh nghiệm của anh, nhưng nếu chàng có thể sẵn sàng tin ở sự thành thật của anh thì trái lại chàng có nhiều nghi ngờ về trình độ thẩm mỹ của anh lắm. Do đó mà chiều hôm sau, khi đến hiệu, chàng thấy mình hơi hồi hộp. Anh thợ tiếp niềm nở nhưng không khiến chàng yên tâm. Dù cố giữ để không hỏi - chàng biết câu hỏi và câu trả lời đều vô ích, - nhưng rốt cuộc chàng vẫn hỏi:

- Có đẹp không?

Người thợ tròn đôi mắt và cái miệng.

- Thưa…

- Cái răng làm có đẹp không?

- A! Đẹp lắm. Để rồi ông xem.

Ở phòng khách, ngồi đối diện với chàng là một người đàn bà tuổi chừng hơn 40. Người ấy ngồi im, miệng ngậm một cách lúng túng. Chàng nghĩ: có lẽ người đàn bà này bị nhổ răng. Chợt người ấy hỏi người thợ:

- Sao tôi thấy nó cồm cộm đau đau.

Người thợ ngắt lời:

- Không sao đâu. Tôi đã coi kỹ rồi.

Người đàn bà im lặng nhưng dáng vẫn đăm chiêu. Đôi mày nhíu lại, tia mắt nhìn về người thợ có một vẻ gì bực tức. Cuối cùng người ấy lại rụt rè:

- Sao tôi thấy nó cứ đau đau.

Người thợ xẵng giọng:

- Tôi đã nói rồi mà. Tôi đã xem kỹ rồi.

Văn hỏi người thợ:

- Chắc bà kia nhổ răng.

- Không. Bà ấy trồng răng.

Như mừng có dịp để phân trần, người thợ vội vã:

- Bà này trồng cả một hàm răng giả. Phải lựa thứ răng đen hiệu Nhật Bản cho bà ta. Tôi lấy cả hàm có 1.800đ. Vậy mà bà còn kỳ kèo là đau và cộm. Hiệu tôi làm có bảo đảm, ai cũng…

Khi câu nói chuyển sang mục quảng cáo, Văn không để ý nghe nữa mà chăm chú nhìn hàm răng đen đều đặn mà đôi môi của người đàn bà hé mở cho thấy. Chàng nghĩ đến sự chu đáo của kỹ nghệ, tạo ra loại răng đen đặc biệt của một thiểu số người còn sót lại trên các lãnh thổ vòng quanh Thái bình dương, ít ỏi và đặc biệt như những động vật thời khuyết sử còn lại. Người thợ đứng dậy mời chàng:

- Xin mời ông vào phòng răng.

Chàng đi theo người thợ, bỏ lại người đàn bà băn khoăn một mình ở phòng khách với một hàm răng bị hắt hủi.

Khi chàng ngồi chững chạc lên ghế rồi thì người thợ mở tủ lấy cái răng đã làm xong đưa chàng xem, kèm theo một câu đề bạt:

- Ông coi xem, đẹp hết sức rồi đó.

Chàng cầm nhìn. Đường vàng viền nhỏ, có thể gọi là tinh vi so với tác phẩm của anh thợ cũ ở Bồng Sơn. Tuy vậy chàng vẫn tham lam:

- Anh không thể làm cho nhỏ hơn nữa được sao?

Người thợ nhún vai la to lên, ngạc nhiên như vừa nghe ai phủ nhận tên mình.

- Như thế này mà ông còn chê sao? Tôi gò suốt cả một buổi sáng nay mới được đó.

- Tôi không chê. Phải nói khen thì mới đúng. Nhưng ý tôi muốn hỏi là ông có thể làm tinh hơn nữa không.

Mặt người thợ dịu xuống, nụ cười hài lòng nở rộng và giọng nói cũng dịu lại.

- Chịu thôi, như thế là đẹp nhất rồi đó.

Vừa nói, người thợ vừa lẳng lặng tháo hồ trám, tra pi-vô và tra răng mới vào. Khi ngón tay người thợ đẩy ép chiếc răng mới đi sát vào nướu, chàng thấy đau đau. Nhưng liền sau đó là một cảm giác ấm áp đầy đủ, cảm giác của hàm răng trống trải nay đã chấp nhận một bộ phận mới. Chàng lấy gương soi. Hàm răng đều đặn như tự thuở nào nó vẫn thế. Dù vậy, vẫn có một chút ngượng ngập gì trong cảm giác. Cái răng mới dường như cứng nhắc, nặng nề, thiếu sự thong thả dễ dãi của những cái răng tự nhiên. Chàng nhìn lâu vào bóng hàm răng phản chiếu trong gương, gạt bỏ cái phần cảm xúc chủ quan để nghe lòng vui vui vì hàm răng đều đặn và bóng sáng.

Trả tiền và lấy giấy bảo kê xong, chàng cám ơn người thợ. Lời cám ơn thành thật, khác với nhiều lúc chàng nói vì xã giao. Đi qua phòng khách chàng chợt nhớ đưa mắt tìm người đàn bà ban nãy, nhưng các ghế trống không. Chắc chán nản người đàn bà đã bỏ ra về. Chàng tưởng chừng cảm thấy được sức cộm của cả một hàm răng mới trồng của người đàn bà. Những giây thần kinh ở nớu, ở má, ở môi… đều như nhất loạt không chấp nhận kẻ ngoại lai là cái hàm răng giả.

Khi bước ra đến đường phố, sự suy nghĩ của chàng đã vẩn vơ chuyển sang giá trị của những vật giả. Ai biết được hàm răng đen “rưng rức hạt na” của người đàn bà kia là giả? Ai biết được hàm răng trắng bóng, đều đặn của một người thiếu phụ sang trọng nào đó là không thiệt? Đi xa hơn hàm răng, chúng ta gặp những hàng lông mi cong, những nốt ruồi đẹp, những bộ ngực nở nang, nhưng càng thấy đẹp người ta càng đặt vấn đề nghi ngờ. Thực hay giả? Sự giả dối tinh vi làm tổn hại không ít cho sự thật thà. Một người có cái ngực đẹp tự nhiên, có hàm răng đẹp tự nhiên, có chuỗi ngọc trai thật, vòng kim cương thật, dễ bực mình biết bao khi kẻ bàng quan không phân biệt được họ với chủ nhân những món hàng giả. Giá trị con người thật khó định đoạt khi chân giả lẫn lộn xung quanh mình.

Ý nghĩ của Văn bị ngắt quãng khi đi qua một hiệu tạp hóa quen người chủ hiệu mỉm cười chào chàng.

- Chào ông. Lâu ngày không thấy ông đi phố.

- Chào bà. Hơn một tháng nay tôi… bận.

Chàng ghé vào hiệu mua vài món hàng lặt vặt. Chàng trả lời vui vẻ những câu hỏi của người chủ hiệu. Đến khi bước ra, chàng chợt nhớ rằng lúc nói chuyện mình vẫn còn quen đưa tay che miệng.

Buổi chiều hôm đó, cứ lúc nào nhớ ra là chàng lại nhìn vào gương để tìm xem cái cảm tưởng tốt đẹp về cái răng mới trồng có phải là một cảm tưởng sai lầm chăng. Lần nào cũng vậy, chàng đều thấy là mình quả không lầm. Thật hiếm hoi hết sức là sự hài lòng về một món hàng mà mình vừa mua hay vừa sắm. Lâu lâu bất chợt nhìn vào gương, chàng sung sướng gặp mặt cái răng mới trồng, đồng thời gặp gỡ luôn niềm vui của những ngày đầu sơ ngộ với nó.

Bốn tháng sau, một bạn đồng nghiệp của Văn bị tai nạn ô tô được chở về nằm ở bệnh viện. Văn đến thăm. Những đường băng bó chằng chịt ở mặt, ở đầu, ở cánh tay. Sau khi kể những vết thương tích anh mang trên người, anh bạn rên rỉ nói tiếp:

- Bị gãy hai cái răng cửa nữa.

Chi tiết chót này suýt làm cho Văn cười lên. Chắc chắn là thương tích không nặng lắm mặc dù băng bó khá bộn bàng nên anh bạn mới đủ tỉnh trí mà nhớ đến hai cái răng.

Sau khi lành mạnh, người bạn đến văn phòng, miệng toe toét cười hở lỗ trống của hai cái răng gẫy. Văn nhìn bạn giây lâu tìm xem có nét thay đổi nào trên khuôn mặt ấy không, do lỗ trống gây ra. Trái với sự tưởng tượng của chàng, nét mặt không có gì thay đổi lớn. Lỗ răng trống anh không che đậy, mới nhìn thấy một lần mà như là vật cố hữu của anh, không tăng mà cũng không giảm vẻ quen thuộc của khuôn mặt. Chàng lưu ý đến phản ứng của cô thư ký ngồi gần đó. Người đàn bà đẹp bao giờ cũng có những phản ứng tự nhiên không kềm chế kịp khi họ gặp một chi tiết nào phản lại mỹ thuật. Nhưng không, cô thư ký vẫn tươi cười hỏi thăm sức khỏe của người bạn và tỏ ra vui mừng vì người bạn thoát nạn một cách êm đẹp.

Chàng nghĩ đến một tháng sau người bạn phải đi trồng răng giả, phải chấp nhận hai cái viền vàng bao hai chiếc răng kế cận. Số phận của chiếc răng sẽ trồng chưa được định đoạt. Nó còn tùy thuộc ở người thợ mà anh bạn sẽ nhờ đến. Nó có thể đem lại cho anh ta sự khó chịu hàng ngày. Chàng tự nhủ thầm: May cho mình. Nhưng đồng thời chàng nghĩ: Tiếc thay, mình đã quên đi cái thú của sự hài lòng.

Thật vậy, chừng một tháng sau khi trồng lại chiếc răng, chàng thấy cái cảm giác sung sướng lúc đầu nhường chỗ dần dần cho cái cảm giác êm ả bình thường cho đến một lúc nào đó chàng nhìn vào gương mà không còn để ý đến chiếc răng trồng đẹp nữa. Trong khi đó, những mối lo thường dồn dập đến, đóng đô ở tâm hồn chàng, vững chãi, thường xuyên. Thật là khờ dại. Con người thích mơn trớn những nỗi băn khoăn, những nỗi khổ của mình, còn các điều toại ý thì họ hưởng một cách vừa dè dặt vừa bủn xỉn. Đáng lẽ nên làm ngược lại. Chàng chợt mong mình có thể bước ra đường, đi từng bước nhỏ, sống hồi hộp trở lại những băn khoăn khi cái răng bị tuyên án, khi cái răng phải nhổ, khi cái lỗ trống gây trở ngại âu lo và cuối cùng là niềm thoải mái khi cái răng mới trồng vừa ý chàng mong. Sự êm ả thoải mái ấy, chàng muốn nuôi dưỡng cho nó kéo dài, thật dài. Thấy lòng háo hức, chàng đứng dậy bắt tay người bạn và chào cô thư ký. Chàng siết chặt tay bạn vừa vui vẻ nói:

- Một tháng sau anh tìm gặp tôi. Tôi sẽ mách cho anh một người thợ trồng răng hữu hạng.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 03.12.2012 20:58:24
BÊN KIA ĐƯỜNG

NXB Mặt trời (1968)


1. Những nổi khổ vụn vặt
2. Hãy an nghỉ Abdul Rahim
3. Mẹ gà con vịt
4. Lễ cúng trường
5. Cái nhìn người mẹ
6. Bên kia đường
7. Trở về



1. NHỮNG NỖI KHỔ VỤN VẶT


Sự vui vẻ khá ồn ào của ông. Chính khi nhận được công lệnh cử đi chấm thi khiến nhiều bạn đồng nghiệp của ông hơi khó chịu. Gặp ai ông cũng vội vàng bắt tay và bô bô hỏi thăm:

- Nào, năm nay anh đi chấm ở “centre” nào? Tôi thì phải đi Đà Nẵng.

Người đối diện đầu tiên của ông là Thương, một giáo sư trẻ. Thương đang có một nỗi buồn riêng nào đó, - chắc là vì tình, vì khi tuổi chưa quá ba mươi thì chỉ có ái tình mới làm cho người ta buồn lâu, buồn một cách thành thật và nghiêm trang, nên chỉ khẽ nhếch một nụ cười xã giao vừa đủ.

- Dạ, cháu đi Phan Thiết.

- Được đi Phan Thiết hả? Ố là là! Phan Thiết Tổ sư nước mắm! (Đố ai biết Tổ sư nước mắm nghĩa là gì?) Hôm nào về nhớ mang về một chai nước mắm nhỉ ăn chơi nhé? Ngon tuyệt.

- Dạ.

Người giáo sư trẻ muốn được yên nên vội “Dạ” một tiếng chấm câu. Không hứa hẹn là sẽ có chai nước mắm nhỉ với tiếng “Dạ” kiểu ấy.

Sau một cái bắt tay, ông Chính đi vội vã về phía đầu bên kia hành lang. Đôi chân quá ngắn múa thoăn thoắt dưới một cái bụng khá to. Tính ông lại thích diện com-lê - cả ngày giữa mùa hè - nên cái bụng càng được đề cao, no tròn, bề thế. Ở đầu hành lang, đang đứng vẩn vơ một cô giáo. Áo màu tím nhạt có thêu rải rác những vũ nữ xòe váy bằng chỉ trắng. Cô giáo đang nhìn lên đọt cây phượng cao trước sân trường, trên đó ánh nắng xao động giữa những chòm lá. Ông Chính cất tiếng nói to:

- A! Chị Vân Anh.

- Dạ, chào bác.

- Kỳ này tôi phải đi Đà Nẵng đây. Còn chị về “centre” Huế hả? Thích nhé? Một công hai việc…

“Ai bảo với ông ta rằng mình được về Huế?” - Vân Anh nghĩ. Mình phải đi Tuy Hòa cơ mà. Cực chết đi mà. Còn một công hai việc là ngụ ý gì mà có vẻ bất lương thế? Nhưng nể người đồng nghiệp có tuổi, cô Vân Anh nắm hai bàn tay vào nhau trong một tư thế lễ độ, nghiêng mình lí nhí:

- Dạ cháu đi Tuy Hòa.

Tức thì ông Chính đớp lời ngay và reo to lên như chính ông vừa bảo đúng là Vân Anh được về “centre” Tuy Hòa:

- Tuy Hòa! Thú lắm. Thành phố Tuy Hòa đang xây dựng, có sông Đà, có núi Nhạn, có trường Nguyễn Huệ. À, ở Tuy Hòa mùa này có nhiều dưa hấu ngon lắm nhé! Tuy Hòa… (đến chỗ này ông giơ ngón tay chỏ chỉ đúng vào giữa trán và nhíu mày một cái nhưng dường như để lấy điệu bộ chớ không thật phải suy nghĩ gì hết)… Tuy Hòa đi ra Màng Màng, Hòa Đa rồi Tuy An, Chí Thạnh mà. Ồ! Thích quá.

- Cháu chán lắm. Đi xe lửa ra Đại Lãnh cháu sợ lắm. Cháu chỉ muốn được đi Đalat.

Vân Anh định nói thêm “Lẽ tất nhiên nếu Bộ bỏ quên không bắt cháu đi chấm ở đâu cả thì cháu thích hơn”, nhưng chợt nhớ ra rằng người đối diện với mình không đáng được thưởng thức một câu ý nhị như vậy nên Vân Anh không nói nữa.

Giã từ cô giáo Vân Anh, ông Chính đi vào văn phòng ông Hiệu trưởng. Cái lưng ông hơi cong lại một chút khiến cái cổ cũng co rụt bớt vào cổ áo sơ mi. Ông giơ tay ra trước nên phải đưa thêm một tay trái ra theo, mong xóa bớt sự đường đột có phần khiếm lễ đó đối với cấp trên.

- Thưa Cụ, năm nay Cụ lại đi chủ khảo ở một Trung tâm?

Ông Hiệu trưởng đưa mắt chầm chậm nhìn lên ông. Đôi mắt nheo nheo vì vừa từ giã những hàng chữ quá nhỏ. Ông đã có tuổi nhưng không chịu đeo kính lão. Cái ca-vát màu đỏ sẫm nằm ngay ngắn giữa cổ sơ-mi là cứng như cùng ra sức với ông bám sát lấy những tháng ngày thanh niên gượng gạo còn sót lại. Ông rất ghét tiếng “Cụ” già nua nên không thèm giấu một cái cau mày. Người ta có thể biểu lộ sự tôn kính bằng nhiều cách và người trên không ai chối từ sự tôn kính. Nhưng tôn là “Cụ” không có nghĩa khen tặng mến phục gì cả. Sống lâu không phải là một công tích đáng để hãnh diện mà trái lại, hầu hết người ta đều coi đó là một sự ân hận đáng tiếc. Nhất là ông Hiệu trưởng sau mười lăm năm góa bụa vừa cưới một người vợ vừa trẻ vừa đẹp. Chính do những mặc cảm dồn dập đó mà, sẵn nét mặt sa sầm, ông Hiệu trưởng trầm giọng nói:

- Năm nay tôi được nghỉ.

- Ồ! Quí hóa quá… Cụ được Bộ cho nghỉ năm nay cũng phải. Năm nào cũng phải chủ khảo hết thì sống thế nào được.

Ông Hiệu trưởng cúi mặt xuống một trang giấy đánh máy có đóng dấu son. Biết đó là dấu hiệu cáo từ nhưng ông Chính phải cười xã giao một mình.

- Năm nay tôi phải đi Đà Nẵng.

- Thế à?

Ông Hiệu trưởng hỏi mà không ngẩng mặt lên và đầu bút chì đỏ ông cầm ở tay vẫy không ngừng chạy dài, rất mau, trên những dòng chữ đánh máy.

- Thôi xin phép cụ.

- Không dám, chào ông.

Cái bắt tay lạnh nhạt tiếp theo. Ra khỏi phòng ông Hiệu trưởng, ông Chính gặp bác cai trường. Đó là một anh chàng nhỏ nhắn có khuôn mặt láu lỉnh đặc biệt của những chú lính lệ ngày xưa.

Cặp mắt mở thao láo, mi chớp lia lịa nhất là những khi anh đứng trước mặt thượng cấp hoặc những ngày thi cử, ngày nhập học, sân trường, cổng trường đầy những phụ huynh học sinh. Một cái mũi nhỏ nằm trên cái miệng cũng nhỏ. Hình như lúc nào anh cũng bận rộn công vụ. Trên tay luôn luôn có một cái cặp bìa các-tông dày gáy vải và chân bước vội vã, thoăn thoắt từng bước nhỏ. Khi có Thanh tra ở Bộ về khám trường thì anh tăng gia sự mẫn cán trong bộ y phục ka-ki màu xanh dương, kiểu đồng phục Thanh niên. Nhìn anh, người ta tự nhiên phải nghĩ đến một con chim sâu, một cái chong chóng đang quay.

Trên đời anh chỉ biết kính trọng có ông Hiệu trưởng trường anh, các ông giám thị và mấy ông giáo đi ô-tô. Mọi người khác anh đều coi là “anh, chị” hết. Ông Chính không đi ô-tô nhưng lại năng nói chuyện, - nào ai biết là nói chuyện gì, - với ông Hiệu trưởng và ông Giám học nên anh tỏ ý nể. Thấy ông ở phòng Hiệu trưởng đi ra, anh vội vã lớn tiếng chào:

- Xin chào Cụ. Năm nay cụ có đi chấm…

Ông Chính tươi cười liền:

- À chào anh. Năm nay tôi đi Đà Nẵng.

Ông vỗ vai anh một cái thân mật.

- Anh ở lại mạnh khỏe nhé?

- Dạ, cám ơn Cụ. Chúc Cụ đi đường sức khỏe.

Theo cái đà ấy, chỉ hai hôm là cái tin ông Chính đi chấm thi ở Đà Nẵng ai cũng biết. Những giáo sư trẻ ngầm hỏi nhau.

- Ông ấy dở hơi nhỉ? Chấm thi thì thú cái đếch gì? Ba tháng Hè chả được nghỉ.

- Ừ. Trẻ và độc thân như chúng mình thì mới còn lý thú đôi chút chứ lớn như ông ta…

- Hồi mình chưa cưới vợ thì mỗi kỳ nghỉ Hè mình thích đi chấm thi lắm. Vì có đi như vậy mới mong gặp ngày chuyện lạ, chuyện vui ở dọc đường. Những bạn đồng nghiệp, nhất là nữ đồng nghiệp ở từ các tỉnh tụ họp về sống gần gũi mươi ngày nửa tháng rồi giã từ nhau, hẹn năm sau gặp lại. Vui chứ. Nhưng từ ngày mình cưới vợ rồi thì… Lạ thật, đố ai hiểu ông Chính đang nghĩ gì.

Chẳng ai hiểu ông Chính đang nghĩ gì thật. Có người đoán là ông chán ngấy cảnh ngày hai buổi họp mặt với vợ con. Có người bảo là từ nửa năm nay sao thấy bà Chính bỗng già đi một cách đáng chán. Có lẽ do đó mà ông muốn đi tỉnh xa để ăn chơi cho bỏ dăm mười ngày chăng? Có người nghi là ông đang chạy một áp-phe nào đó ở Đà Nẵng. Tính ông tháo vát, lý tài không mấy ai là không biết. Óc lý tài ấy không thể quên việc một người bạn cũ vừa được Chính phủ cử làm một chức vụ hành chánh cao cấp ở đây. Việc ấy chính ông đã bô bô nói cho anh em nghe, một cách lơ đãng thôi nhưng mà với bao nhiêu là cố ý và dàn xếp. Tóm lại mọi ức đoán đều không tốt cho ông Chính. Bởi không ai tin rằng sự hăng hái của ông là do tinh thần trách nhiệm cao cả của một nhà giáo có lương tâm. Trong khi đó thì ông hò hẹn với người này sẽ lên đường ngày ấy tháng ấy, rỉ tai với người kia rằng sẽ cùng thuê một phòng ở khách sạn nọ nhà hàng kia. Ông chạy đi dò hỏi giờ xe lửa đến, xe lửa đi, giờ tàu bay hạ cánh và cất cánh. Vì tất cả là nhà giáo nên không ai bảo ai mà mọi người đều tự nhiên nhớ đến anh chàng Tartarin.

Đột nhiên, một ngày trước ngày lên tàu, ông Chính lăn ra bệnh. Bà Chính cầm giấy chứng nhận của bác sĩ đến phòng ông Hiệu trưởng và nhờ ông gởi ra ông Chánh chủ khảo Hội đồng Đà Nẵng. Bà phàn nàn thay chồng:

- Thưa cụ, nhà tôi thật tiếc quá. Đến ngày đi thì lại ốm. Nhà tôi đã bao nhiêu lần bảo mặc cứ đi, nhưng bác sĩ cản lại không cho đi. Nhà tôi bảo mỗi năm Chính phủ chỉ nhờ mình một một lần…

Ông Hiệu trưởng đằng hắng một tiếng khiến bà ngừng nói, đợi chờ ông ban ý kiến. Nhưng sau cái đằng hắng là tiếng gọi “Bác Cai!”, ông gọi thật to, như quát. Và bà vợ người giáo sư mẫn cán xin phép ra về.

Ngày lên tàu, mấy giáo sư tán chuyện gẫu trên sân ga.

- Được đi Dalat sướng mê đi, sao mặt mày buồn thiu như đưa đám ma thế kia? Lên gặp Minh Châu tha hồ mà đi hồ Than Thở.

- Nói nhảm. Minh Châu đi chấm ở Nha Trang. Mình vừa nhận được điện tín xong.

- Còn “bồ” sao cũng không vui?

- Chủ nhà nó đòi nhà lại để nó ở. Hết hạn báo thị rồi mà moa chưa tìm được chỗ nào ưng ý. Bây giờ lại phải đi nửa tháng.

- Chỉ có ông bô Chính thích đi Đà Nẵng thì lại ốm không đi được. Bô ấy ốm gì nhỉ? Mới vừa thấy béo na béo núc ra ấy mà.

- Chả biết ốm gì, nhưng mà để bố ốm cho bỏ ghét. Cái mồm cứ mỏng lèo lèo. Lúc nào cũng tinh thần, xung phong, gương mẫu…

Người ta không hiểu ông Chính. Khi phán đoán về ai, người ta thường hoặc quá khắc nghiệt, hoặc quá dễ dãi. Cả hai thái độ đều có chung một nguyên nhân là lòng ích kỷ. Phán người ta nhưng lại vì mình mà phê phán nên ý kiến không đúng với sự thật. Sự thật ở đây chỉ có ông Chính biết mà thôi. Sự thật đó là ông chẳng bệnh tật gì hết mặc dù có giấy chứng của bác sĩ. Sau khi gởi giấy xin phép nghỉ, ông Chính gọi vợ dặn nhỏ:

- Thật ra, tôi chả đau ốm gì. Chỉ vì năm nay thằng Liêm nó thi mà sức học của nó còn kém quá. Tôi phải tìm cách ở lại để lo cho nó thi đỗ.

Bà Chính há hốc mồm nghe rồi lơ đãng để rơi một tiếng “ờ”.

- “Thật vô vị là cái mụ nầy”, ông Chính nhíu mày suy nghĩ. Tưởng vợ tán tụng tài trí và mưu cơ của mình, ai ngờ mụ chỉ đẫn đờ buông thõng một tiếng chán đời ấy. Ông xẵng giọng nói:

- Để mọi người không ai đoán được ý định của tôi, tôi đã ông đóng kịch hăng hái hàng tuần lễ trước. Thế mà bà có biết đâu.

- Vâng.

- Vâng là cái gì?

Ông quắc mắc nhìn vợ hỏi.

- Nói với bà chán như cơm nếp ấy. Thôi, bà đi xuống.

Bà Chính tuân theo lệnh chồng một cách thản nhiên bình tĩnh. Gần hai mươi năm chung sống, mỗi lần nghe chồng bàn tính công việc, bà chỉ biết dùng chữ “vâng” chữ “ờ” như để chấm câu cho chồng nghỉ hơi. Không phải vì bà khờ nhưng mà vì bà biết chồng mình khôn ngoan lanh lợi mình không thể nào bì kịp. Đưa ra ý kiến nào cũng bị chồng chê là non, là vụng, rốt cuộc bà trở thành e dè, gần như thụ động. Sự thụ động trong tâm hồn đã ảnh hưởng mạnh đến thể xác của bà. Bụng và ngực sệ xuống, dường như những sợi đàn hồi trong các mô liên kết không còn đủ ý chí để thắt gọn lên được nữa. Mắt hay nhìn xuống đất và những khi phải ngó lên thì hai tròng đen nhìn lác hẳn đi. Ngày mới lấy ông Chính thì mắt bà đâu có lác nặng như thế? Giọng nói cũng mỗi ngày một uể oải rụt rè, rụt rè cả ngay khi bà sai bảo đầy tớ.

Hai ngày trước hôm thi, các giám khảo lục tục đến bằng chuyến tàu suốt từ SaiGon ra và từ Huế vào. Ông Chính cần mẫn lên ga đón. Đối với những người quen ở trong nghề như ông thì việc nhận ra các giám khảo không phải là điều khó. Họ đi từng nhóm ở toa hạng Nhì xuống. Một chiếc va-li nhỏ trên tay. Trừ vài thanh niên láu lỉnh còn thì họ đều có vẻ mặt ngơ ngác lãnh đạm của người tri thức. Ông Chính xông vào một người đứng tuổi nước da mai mái. Bàn tay chìa ra trước khi tiếng nói theo kịp.

- Chào bác. Năm nay bác về chấm ở đây.

- Vâng ạ, kìa chào bác.

Ông Như, một giáo sư ở trường Trung học Duy Tân, vừa đón tay, vừa mỉm cười trả lời. Tới một địa phương gặp một người quen, không mấy ai là không thích.

- Thế bác không phải đi đâu cả?

- A… Tôi phải đi Đà Nẵng nhưng lại bị ốm hôm lên tàu.

- Ồ! Tiếc quá nhỉ? Trông bác có hơi xanh đi đấy.

Ông Chính giật nẩy mình. Mình xanh thật hay là ông bạn biết rõ bệnh dối của mình mà nói mỉa? Cả hai sự thật đều đáng ngại cả. Ông quay sang các giám khảo đang đứng vây quanh, vẻ mỏi mệt chờ đợi.

- Còn đây là…

Ông Như đỡ lời:

- Xin giới thiệu với bác, các giám khảo ở Phan Thiết ra… Các bạn này ở Đalat xuống… Còn đây…

Ông Chính phá ra cười liền khiến hai con mắt híp lại:

- À, biết rồi. Bạn quen cả mà, anh Hỷ, anh Tùng, anh Thuận. Các bạn vừa ở Nha Trang ra. À, có cả chị Ngọc Lan. Sao? Ở trường Nữ Trung học chỉ có một mình chị ra thôi à?

Người nữ giáo sư tên là Ngọc Lan trả lời quá nhỏ không ai nghe được. Vả lại người ta đang bận bắt tay, những cái bắt tay không hăng hái vì lặp lại quá nhiều.

- Mấy bác đã có chỗ trọ sẵn cả rồi chứ?

Nhiều người trả lời một lượt. Đại khái thì kẻ có người không. Nhiều người định ra phố thuê phòng. Một số ít định ghé lại nghỉ tại trường.

- Phải đó, - lời ông Chính, - chúng tôi đã cho sắp đặt một phòng học dành cho quý vị. À, xuống ngay trường Cường Để mới nhé? Trường cũ nóng lắm không chịu được. Xích-lô!

Mấy bác xích-lô đứng vây quanh các thân chủ tranh nhau lên tiếng.

- Dạ… Dạ…

- Chở mấy thầy xuống trường Cường Để mới nhé? Biết trường mới không?

Các giám khảo đã an vị trên xe xích-lô, ông Chính xoa tay nói:

- Thế là các bác đã có nơi chốn an ổn hết rồi. Không có bác nào đến ở với tôi cho vui.

Lời mời mọc lộ tính chất hình thức đãi bôi không được ai trả lời. Ông Chính quay lại tìm cô giáo Ngọc Lan. Nhưng lặng lẽ, cô đã lên xích-lô đi đâu mất từ lúc nào.

Khi chuyến tàu suốt ở Huế vào, ông Chính cũng lặp lại sự cần mẫn vừa rồi. Lần này ông không còn ngượng miệng như lần đầu, ông bảo: “Chúng tôi đã cho sắp đặt một phòng học dành cho quý vị”. Vì thật ra sự sắp đặt là do bác cai trường theo một lệnh của ông Tổng giám thị. Vả lại, có gì đâu mà gọi là sắp đặt? Cứ hai cái bàn học kê sát nhau làm một giường nằm, trên tường chăng bốn đường dây kẽm để mắc màn, thế thôi. Giám khảo đến ở tại trường thì ít và phần lớn là những người vô tâm. Họ chỉ cần sự tinh khiết của khoảng rộng.

Ba ngày thi lần lượt trôi qua. Thằng Liêm làm bài chả ra gì mặc dù ông đã bảo nó cứ nhìn sang bài của hai đứa ngồi cạnh. Nhưng ông tháo vát lanh lẹ bao nhiêu thì thằng Liêm hiền lành đờ đẫn bấy nhiêu. Nó sợ thầy giám thị, cô giám thị, sợ ông giám thị hành lang, sợ chủ khảo, sợ cả mấy ông lính mang súng đi đi lại lại ngoài sân trường nên nó chả dám nhìn ai hết. Bài nháp nào đem về đưa cho ông coi ông cũng la rầm lên làm nó càng sợ hơn. Rốt cuộc ông phải gọi giật bà lên để phân bua:

- Đấy, bà xem, nó học dở như thế đó.

- Thì nó học dở từ hồi giờ.

Bà thủng thỉnh trả lời.

- Ai chả biết là nó dở.

Ông nói gần như thét lên.

- Đã biết thế còn bảo tôi làm gì nữa? Nó bé oắt như con mắm thế kia mà ông cứ bắt nó học.

- Thôi dẹp bà đi. Chả bàn bạc được cái gì với bà hết. Nói ngang như cua ấy.

- Chả ngang thì…

Ông Chính đứng phắt dậy, đưa tay quyết tìm một vật gì ném xuống đất để biểu lộ cơn giận. Nhưng trên bàn chỉ toàn những vật có thể vỡ được, chẳng hạn cái tách, lọ mực, bình hoa. Ông đành phải chọn lấy tập báo ném phịch xuống đất rồi la lên:

- Thôi, tôi không nói với bà nữa.

Và ông bỏ vào giường nằm.

Các hội đồng giám thị ở Tuy Hòa, Quảng Ngãi đã tập trung đầy đủ về Trung tâm Qui Nhơn. Ông bắt gặp được anh Độ, một trong những thư ký hội đồng. Ông nói nhỏ:

- Khi rọc phách nhớ coi dùm bài của thằng nhỏ con “moa” một tí nhé? Số ký danh của nó là 612. Phòng 18. Trung tâm Qui Nhơn. Nhớ ghi dùm số phách cho “moa” tí nhé?

Độ nhăn mặt:

- Chủ khảo gắt như mắm…

- Thôi mà - ông Chính vội vỗ vai Độ - giúp dùm cho “moa” một tí mà.

Độ định ừ à cho qua chuyện nhưng thấy ông Chính cứ quanh quẩn ở hành lang nên biết là không giúp không xong. Thà giúp một tiếng còn kín nhẹm hơn là để ông cứ thì thầm nhỏ to với mình khiến chủ khảo thêm nghi ngờ. Vả lại ông khéo xếp đặt quá khiến sự hiện diện của ông ở phòng chấm rất đỗi tự nhiên. Ông gọi anh Cai mang thêm ghế ngồi vào cho các thầy. Ông gọi anh Cai pha thêm nước trà. Ông gọi anh Cai xuống đuổi mấy người thí sinh lảng vảng ở trong cổng trường. Đối với chủ khảo thì ông gợi chuyện một cách rất nhã nhặn:

- Tôi chắc ông phải khó chịu với những khách sạn ở Qui Nhơn?

Ông chủ khảo ngơ ngẩn không biết kẻ đối thoại định nói gì. Nút cà-vạt của ông nằm lệch sang một bên cổ sơ mi. Lưng ông gù hẳn xuống. Sự mệt mỏi đọc dược trên đôi mắt lờ đờ, trên da mặt bóng mồ hôi, trên mái tóc rơi lè phè trước trán. Ông vừa bực mình vì các giám khảo đến phòng họp quá trễ giờ, thích tán chuyện với các cô giáo mà lại muốn công việc chấm thi phải xong trong năm ngày. Họp chấm ngày thứ Hai mà ngót một nửa số giám khảo đã ghi vé máy bay thứ Sáu về. Ông Chính phải lại xoay câu hỏi thăm:

- Thưa ông, ông trọ ở khách sạn nào?

- Dạ, tôi ở khách sạn Khánh Vân.

Vừa trả lời, ông chủ khảo vừa lơ đãng nhìn ra xa. Rồi ông chợt quay lại:

- Xin lỗi ông… - ông đưa tay ra bắt, - … Tôi đang bận quá.

Ông Chính không bị mếch lòng vì thái độ lạnh nhạt hấp tấp của ông chủ khảo. Người có trách nhiệm điều khiển bao giờ cũng đa nghi. Họ tưởng ai cũng rình rập để lợi dụng họ thành ra họ rất bủn xỉn nụ cười và lời xã giao. Ông Phó chủ khảo cởi mở hơn. Vì trách nhiệm có chủ khảo gánh, công việc có thư ký làm. Ông tươi cười đón lời hỏi thăm của ông Chính và nhún vai một cái:

- Khách sạn? Gọi hơi quá, vì chỉ có cái tên là có vẻ khách sạn mà thôi: Bồng Lai, Lan Đình, Đồng Khánh… Đó chỉ là những căn phòng hẹp ở sau những hiệu buôn tạp hóa người ta lợi dụng đem cho thuê…

Ông Chính tán đồng ý kiến ngay:

- Vâng, đúng thế ạ. Ông nhận xét rất đúng.

Gió ở biển phây phẩy thổi vào, mát nhẹ. Ông Phó chủ khảo thích chí nói tiếp:

- Người Bình Định sống trong hoàn cảnh chiến tranh mười năm nên họ biết lợi dụng từng tấc đất một. Không quảng canh được thì họ thâm canh.

Biến nhà sau thành khách sạn, đó cũng là không bỏ phí một tấc đất, một cách thâm canh vậy.

Thú vị vì lời nhận xét, ông Chính cười ha hả và vội giơ tay bắt tay ông Phó chủ khảo trong một thế tán đồng thân mật. Vừa lúc ấy bóng anh Độ đi ra, và ông vội cáo từ đi lảng nhanh về phía anh.

Hai người gặp nhau ở cầu thang gác.

- Cụ nhớ ghi số phách quốc văn: Am 26.

- Am 26.

- Pháp văn: Bp 25.

- Bp 25. Còn mấy món kia?

- Tôi chỉ tìm được có hai món.

- Nhờ tìm hết dùm tí, bác (Ông đã thăng Độ lên chức Bác)

- Hai món chính, hệ số 6 rồi còn đòi gì nữa? Con cụ ở lớp đứng thứ mấy?

- Cháu kém lắm. Đứng thứ 48. Gần chót.

Độ vô tình nhún vai tỏ ý chán nản. Nhưng anh vội chữa lại cử chỉ vụng vừa rồi của mình bằng một nụ cười gượng gạo:

- Nhưng được hai món hệ số 6 rồi thì có hy vọng.

- Tội nghiệp mà. Không đỗ nổi đâu. “Bác” gắng giúp thêm tí nữa.

Chợt có tiếng giày ở phòng chủ khảo đi ra, Độ vội vàng bước xuống cầu thang. Bực mình, nhưng anh không thể vô tình với câu khen vuốt đuôi của ông Chính:

- Thôi, gắng giúp “moa” (1 ) tí nhé, rồi moa làm mai cho toa(2 ) cô Nhã. Cô Nhã chấm Lý Hóa đó, có mê không? Dạy Cường Để đó. Cả Trung tâm này chỉ có toa là xứng với en (3 ) thôi.

Được mấy số phách, ông Chính lân la lại các tiểu ban: tiểu ban Toán, tiểu ban Công dân Giáo dục, tiểu ban Pháp văn… Tìm cho biết được bài thi của con mình thuộc về tay ai chấm, thật không phải là dễ. Nhưng ông Chính là một người chịu khó. Đầu tiên ông gặp được xấp Pháp văn có bài con ông rơi vào tayanh Khoa, một bạn đồng nghiệp đã cùng dạy với ông mấy năm ở trường Trần Hưng Đạo. Ông rỉ tai:

- Am 26 là con tôi đó.

- A!…

Anh Khoa mỉm cười lật tìm số Am 26. Đọc qua một lượt, Khoa vỗ đùi đánh “đẹt” một cái, nói to lên:

- Ồ! Kém quá. Kém quá. Làm chả được gì hết. Chia verbe Rendre mà cũng sai.

Ông Chính cảm thấy ruột mình quắn lại khi đưa mắt theo dõi cặp mắt chăm chăm của Khoa nhìn xuống bài làm và tim mình chồm lên khi Khoa vỗ vào đùi. Ông nói nho nhỏ:

- Vu (4 ) cho cháu nó đủ moi-en (5 )

- Cho thế nào được?

Khoa quay lại nhìn ông, tròng mắt chao lên nhiều vòng sau lần kính trắng.

- Làm sai hết thế này mà.

- Vu nói nho nhỏ vậy. Thôi vu bớt đi 1, cho cháu nó 9 điểm.

- Không được. Bài đáng 5. Cho thêm 1 là 6.

- Chết! Vu giết moa. Thôi cho cháu 7 điểm rưỡi.

“Thật tai ác là thằng Khoa”, ông Chính nghĩ. Mình cứ tưởng chỗ quen thì dễ nài, hóa ra không hẳn thế. Chả bù với hai vị giám khảo chấm Sử Địa và Công dân Giáo dục, ông Chính không quen biết lần nào cả nhưng khi kể lể gia cảnh (cần nói láo một chút) và chỉ vào mái tóc có dăm sợi bạc của mình là các vị nới rộng điểm giúp cho ngay. Thật là những người dễ dãi, hào phóng. Cô giáo Lý Hóa, - không phải là cô Nhã, tất nhiên, - trông thế mà cũng nghiệt ra phết. Chỉ “vâng… dạ… đồng ý chấm nới tay…” nhưng nhất định không cho biết là mấy điểm. Chẳng lẽ lại vào ngồi cạnh cô để nài. Bài luận Quốc văn thì biệt tăm không biết do ai chấm. Ông chỉ còn trông chờ ở số vận may. Thằng Liêm lý luận không hay nhưng chữ nó viết đẹp sáng sủa. Ông Chính trông sao cho bài làm của nó rơi vào tay một ông giám khảo nhớ nhà. Ông ta sẽ đọc lại cái nhập đề và cái kết luận. Ông ta sẽ tìm vài lỗi chánh tả để gạch cho đỏ bài nhưng bài không có lỗi chánh tả. Ông Chính thâm hiểu tâm lý của một số giám khảo nên đã dặn con cố viết cái nhập đề và cái kết luận cho thật hay và lưu ý đừng để phạm những lỗi chánh tả. Ông giám khảo nhất định sẽ cho điểm quanh quẩn ở 8, 9, 10. Bài Toán thì vô phúc bị đem ra cho tiểu ban cùng chấm để làm thang điểm. May trúng được hai phần bài. Nhằm bài toán đã làm ở trường rồi thế mà chép lại cũng còn sai lên sai xuống.
Cũng như mọi thí sinh, ngày vô phách cộng điểm, ông Chính thấy sao mà dài thế! Thằng Liêm thì cứ lêu nghêu đi dạo biển và đọc tiểu thuyết, làm như chính ông đi thi chứ không phải nó thi. Ông gọi giật nó, hỏi:

- Sao tao chả thấy mày lo lắng gì cả thế?

- Thì thầy bảo con lo cái gì nữa? Thi đã xong rồi thì chỉ còn đỗ được trượt thôi chứ còn lo gì nữa?

- Mầy nói như… cái con chó ấy. Thật là mẹ con mày một lũ.

Và ông vào thay áo xuống trường.

Phòng họp rộn rịp ồn ào. Chỗ này vô điểm, tiếng rao điểm luân phiên nghe nhịp nhàng như tiếng một cái máy lạ đang chạy. Chỗ kia rầm rì tiếng cộng điểm. Ông Chính lại mượn xem bảng kết quả của phòng 18 trung tâm Qui Nhơn. Những chữ “đậu” ghi rải rác trước những tên thí sinh. Ông lật nhanh đến tên Nguyễn Thanh Liêm số ký danh 612. Ông lặng im đưa mắt nhìn, lẩm nhẩm tính từng cột điểm. Đoạn để tập giấy xuống bàn, ông lặng lẽ bước ra hiên. Nét mặt đăm chiêu, ông nhìn ra bãi bể Gành Ráng. Đôi con mắt nheo lại và môi mím trong vẻ suy nghĩ. Anh Khoa ra uống nước, lại gần hỏi:

- Sao buồn thế bác? Cháu Liêm hỏng rồi à?

Ông lắc đầu không trả lời.

- Tôi cho đủ 7 điểm rưỡi bác yêu cầu mà.

- Vâng, tôi nhớ.

- Thế thì sao mà hỏng được?

- Không. Đâu có hỏng.

Nghe tiếng “hỏng”, vài giám khảo đứng gần đó quay lại hỏi:

- Sao? Con cụ hỏng rồi à?

- Chết chết! Hỏng thật sao?

Mấy giám khảo ngồi trong phòng cũng quay mặt ra. Có cả cô giáo chấm Lý Hóa và hai vị chấm Sử Địa và Công dân Giáo dục dễ tính. Người nào cũng lộ vẻ ái ngại cho người đồng nghiệp tốt bụng của mình. Mọi người, nhất loạt, đều cảm thấy lương tâm rỉa mình khe khẽ vì ai cũng nghi rằng bài của con người bạn đã rơi vào nhằm tay mình. Rồi có người chép miệng:

- Tội nghiệp. Đứa nào cho điểm ác.

- Ông ta có thể xin chủ khảo…

- Cụ ấy người có tuổi, dáng đứng đắn chắc không thèm hạ mình xin xỏ lôi thôi.

Tiếng xì xào im bặt khi ngoài hành lang ông Chính chẩm rãi mà ưu tư nói:

- Thưa các bác, cháu không hỏng ạ.

- Chứ sao?

- Cháu được đỗ ạ.

- Đỗ mà sao cụ buồn thế kia?

- Dạ… Cháu được 142 điểm. Chỉ còn thiếu 14 điểm nữa là được Bình thứ. Tức thế. Phải các bác nới tay cho cháu một chút thì cháu đã đỗ Bình thứ rồi. Bậy quá. Tiếc quá.

(1) Tôi, phát âm tiếng Pháp
(2) Anh, mày (phát âm tiếng Pháp)
(3) Cô ấy, chị ấy
(4) Vous: anh, ông
(5) Moyenne: điểm trung bình



hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 03.12.2012 21:04:55
2. HÃY AN NGHỈ ABDUL RAHIM


- Doucement méchant! Doucement méchant!

Abdul Rahim nhắc lại hai chữ ấy, cười thú vị vừa ôm chầm lấy tôi. Rồi nói sang tiếng Việt:

- “Hung bạo một cách dịu dàng”, có thật đó là ý kiến của… you? (1 )

(Abdul Rahim nói chuyện với tôi thường bằng tiếng Pháp nhưng đến chữ Vous (2 ) là anh hay quên nói lẫn sang tiếng Anh)

- Thật lắm. Tôi cho rằng Abdul Rahim là một người dịu dàng. Chắc chắn mọi người cũng nghĩ như vậy.

Abdul Rahim quay lại cô Ái Hoa.

- Cô coi, tôi không hung bạo như cô nói, tôi “hung bạo một cách dịu dàng”, - ông Long bảo vậy.

Câu chuyện xảy ra một buổi chiều khi tôi ghé lại hiệu Thanh Mỹ. Tôi gặp Abdul Rahim nơi đó. Ý hẳn là anh nói đùa sao đó với cô Ái Hoa, - tên cô bán hàng, - và bị cô tặng cho một chữ méchant (3 ). Thấy tôi bước vào, anh phân bua với tôi ngay và tôi giải hòa bằng chữ “một cách dịu dàng” để làm vừa lòng cả hai người. Ái Hoa đẹp hơn sự đòi hỏi của một chân bán hàng. Không hiểu do những hoàn cảnh nào mà nàng nhận đứng bán cho hiệu này. Ngày nàng chưa đến, hiệu sách này sống uể oải như một con bệnh mắc chứng thiếu máu. Những tủ hàng đứng yên lặng soi bóng vào nhau như ở trong một bức tranh tĩnh vật. Nàng hiện diện ở đấy ngày nào không rõ, chỉ biết là từ ngày đó, thanh niên tỏ ra lưu ý đến sách báo nhiều hơn trước. Thật lịch sự là con người thưởng thức nghệ thuật. Người ta ghé lại nhìn những sản phẩm tinh thần bày la liệt trên mặt tủ, chọn vài ba cuốn và nhã nhặn đưa cho Ái Hoa bọc giấy bóng, gói trong giấy màu. Có đủ thì giờ để Ái Hoa dò hiểu trình độ trí thức của người đối diện qua những cuốn sách gáy dày và chữ in dày đặc. Ái Hoa biết cười nhẹ nhàng với một nhóm sinh viên hải quân, biết nhận lời khen của mấy anh sinh viên không quân. Thanh niên tóc bồng, học sinh tú tài, sĩ quan bộ binh vào ra tấp nập, nhất là những chiều thứ bảy, những sáng chủ nhật. Tóm lại, một người như thế khiến tôi không thể vì Abdul Rahim mà làm phật lòng.

Tôi đứng lật xem những tờ Jours de France. Bìa láng in nhiều khuôn mặt tươi cười của những vua và công chúa các nước châu Âu cưới hỏi nhau. Các nước dân chủ giàu có ưa chõ mắt nhìn vào cuộc đời riêng tư của các vua chúa, vua tại vị và phế đế lưu vong. Công chúa và hoàng tử cũng được các ống ảnh trìu mến đặc biệt. Còn xa lắm mới tới cái ngày mà số vua trên thế giới chỉ rút lại còn có năm: vua nước Anh và bốn ông vua trong cỗ bài các-tê.

Abdul Rahim chọn tờ Newsweek và tờ Times. Anh đứng cạnh tôi, đẫm thấp nhưng chắc chắn như một tảng đá. Đặc biệt là đôi lông mày dài cắt cạnh nhọn như một lưỡi mác. Da đậm màu, không phân biệt được vùng chân râu.

Quen anh trong trường hợp nào, tôi hiện không còn nhớ rõ. Có lẽ nhiều khi ghé vào hiệu Mohammed để mua vải và nghe anh nói tiếng Pháp trả lời mà hóa ra quen chăng. Tiếng Pháp hiện nay heo hút xa vắng như một kỷ niệm. Khắp nơi người người ta nói tiếng Anh. Abdul Rahim đứng bán hàng cho hiệu này và khi tôi quen với anh thì anh cho biết rằng chủ hiệu là người em ruột của anh. Người chủ hiệu mặt mũi khôi ngô béo tốt và cử chỉ nhã nhặn lịch sự. Abdul Rahim không có cái dáng dấp phú hộ đó. Anh đơn giản thô mạt hơn nhưng lại ý vị đậm đà hơn. Nhìn khuôn mặt anh tôi thấy cái chiều sâu của sự suy tưởng. Đó là một khuôn mặt chứa đựng hơi nặng nề, chậm chạp bởi vì không chịu khuôn sáo tầm thường. Giữa nhiều khuôn mặt tinh ranh láu vặt, giữa những cái môi mỏng ba hoa thì sự trì trọng của Abdul Rahim thật có một sức quyến rũ kỳ dị. Abdul Rahim nói chậm rãi bởi vì tiếng Pháp của anh không giàu lắm. Đã vậy, anh lại không bao giờ nói về những đề tài nhảm nhí như thời tiết, vật giá mua bán, nếp sinh hoạt của thành phố, thời sự trên mặt báo. Thường thì chừng sau ba bốn câu xã giao, anh đã nhẹ nhàng kéo tôi về một nẻo suy tư nào đó với anh, về một chân lý, một tư tưởng triết học. Lịch sử Ấn Độ dày quá khứ và quá khứ đó dày tư tưởng.

Mỗi năm đến mùa kiết hạ an cư, Abdul Rahim lên chùa ở hẳn hai tháng. Anh đọc sách, ngồi Thiền và lúc hạ san thấy người hơi gầy đi. Tôi có nhiều lần tự hỏi về ý nghĩa của một cuộc sống thánh thiện như vậy. Abdul Rahim không nói chuyện về đàn bà và dường như tránh nói về đàn bà. Anh ăn chay trường. Không uống rượu không hút thuốc. Anh từ khước mọi thú vui vật chất của cuộc đời. Chọn sống thoát ngoài khuôn khổ của xã hội bình thường, chỉ nghĩ đến Quá khứ và Tương lai, một Quá khứ gieo Nhân và một Tương lai gặt Quả. Nghĩ đến tu hành để thoát vòng sinh tử luân hồi, thật là điều không dễ đối với một người có đủ khả năng hưởng thụ.

Mùa hè 1960 tôi có việc ra ở Qui Nhơn nửa tháng. Thành phố thấp và nóng, mang nhiều sắc thái của thời kháng chiến vừa qua. Một cái hội trường thành phố kiến trúc giống như cái máy ra-di-ô, nơi lưu diễn của các ban cải lương. Khán giả đa số mặc áo bà ba. Tiếng guốc khua lốc cốc trên đường nhựa. Buổi chiều người ta ùa ra đường ngồi hóng mát. Trên con đường phố buôn bán độc nhất, bước hối hả những người đàn bà da mặt sạm, già trước tuổi. Xe jeep nhà binh, chỗ nào cũng xe jeep nhà binh. Đàn bà mặc áo màu ngồi hãnh diện trên xe Jeep nhà binh. Rải rác mới có một vài chiếc xe du lịch. Tôi gặp Abdul Rahim, bất ngờ, nơi cái thành phố khô cằn này.

- Quelle surprise! (4 ) You ra đây hồi nào?

- Mới được năm ngày. Còn Abdul?

- Bốn tháng.

Tôi mời Abdul Rahim vào một hiệu bán nước trái cây và ở đó tôi được biết là Abdul Rahim hiện đang làm việc cho nhà binh Hoa Kỳ. Câu chuyện trao đổi mất đi sự thoải mái (...Kiểm duyệt bỏ...). Hơn nữa, thà Abdul Rahim mặc quân phục để người ta dễ phân biệt được anh, đằng này anh vẫn sơ-mi trắng quần dacron màu tối như mọi người thường dân đi lại nhan nhản ngoài phố.

- Sao? Ở nơi thành phố nhỏ của chúng ta có gì thay đổi?

Tôi nhún vai.

- Mọi người vẫn sống đều đặn, không cần biết đến ai hoặc biết quá nhiều về một vài người liên hệ. Còn Abdul Rahim, cuộc sống của Abdul ở đây có dễ chịu không?

- Lúc nào cũng thế.

Ừ! Abdul đã gián tiếp nhắc tôi. Anh là một tảng đá chắc chắn, khó lòng mà gió, mưa, nóng, lạnh có thể làm xao xuyến được. Huống chi, bên trong cái cơ thể rắn chắc đó, tinh thần của anh xem ra như cũng kiên cố chẳng kém. Đôi con mắt sáng, bình tĩnh của anh, đó là sự bình tĩnh của mặt nước hồ im lặng phản chiếu vòm trời thêu thùa mây trắng và cành cây lá cỏ mọc ở ven bờ. Đó là sự trang nghiêm đầy khí lực của mặt biển màu tím ngoài khơi, giữa trưa khi nước óng ánh như dầu đặc. Xung quanh tôi, những cặp mắt thường xao xuyến, dao động, mỏi mệt. Cuộc sống khó khăn, nhiều phiền toái, nhiều bất trắc làm con người lo lắng rụt rè. Những cử chỉ không dứt khoát, không đích xác. Cái nhìn lướt lờ đờ trên những mục phiêu di chuyển. Người ta không biết mình muốn gì, mình nên làm gì và cái gì dành cho phần mình.

Abdul Rahim nói:

- Nước của ông hiện đang trải qua những cơn sốt dân quyền rất đỗi trầm trọng.

- … Như mọi nước Á Phi còn thấp kém - tôi tiếp lời. Như một đứa trẻ phải chịu những cơn sốt mọc răng.

- Còn nặng hơn cái ví dụ của ông. Còn nặng hơn.

Abdul Rahim đưa mắt mơ màng nhìn ra xa.

- Tôi đồng ý (...Kiểm duyệt bỏ...) Đã đến lúc quần chúng không chịu nổi nữa cái sức nặng của vị “cứu tinh dân tộc”, của “người thuyền trưởng tài ba” đang đè lên vai họ.

Xung quanh chúng tôi có những người lặng lẽ nhấm nháp ly nước mãng cầu tây, nước cà-rốt. Có người mang kính đen ngồi trầm ngâm. Thật không phải là nơi tốt để bày tỏ chính kiến, nhất nữa, đây là một tỉnh nhỏ. Nên tôi nói lừng chừng:

- Người ta sẽ gặt những gì mà họ gieo.

- Nhưng nếu họ gieo hạt giống tai họa ngay vào mình thì mình khó lòng ngồi bình tĩnh đợi chờ kết quả.

Tôi nhìn Abdul Rahim đợi anh giảng giải. Anh nói nhỏ:

- Tuần trước tôi bị một bọn người ném đá và xông vào hành hung.

- Họ có nói vì cớ gì không?

- Không.

- Anh có đi thưa nhà chức trách?

- Có. Nhưng nhà chức trách chỉ ậm ừ ghi nhận sự việc mà không hứa hẹn can thiệp gì hết. Từ ngày đó, tôi ít đi ra đường, sợ sẽ có những vị hành hung nữa.

Tôi lặng yên suy nghĩ. Sự hành hung đang thịnh hành ở khắp nơi. Lẽ phải bị vũ lực áp chế. Rồi vũ lực áp chế vũ lực. Không ai muốn nghe tiếng nói của ai nữa. Đấm, đá, vỏ chai, thanh sắt, gậy gộc hùng biện hơn lời nói. Thời đại của bắp thịt và sự bạo tàn. Tôi bảo Abdul.

- Để hôm nào rảnh tôi ghé lại ông Tỉnh trưởng trình bày trường hợp của anh. Có lẽ ông Tỉnh trưởng biết rõ điều đó.

- You có quen ông Tỉnh trưởng?

- Đó là một người bạn học cũ.

Ninh hiện làm Tỉnh trưởng ở đây. Một người bạn làm ở Khu Công chánh bảo tôi:

- Ninh hiện làm Tỉnh trưởng Bình Định.

- Sao anh biết?

- Nó vừa thi lấy bằng lái ô-tô. Tôi vừa đọc hồ sơ xong.

(1) Ông, anh (tiếng Anh)
(2) Ông, anh (tiếng Pháp)
(3) Hung bạo
(4) Thật bất ngờ. Anh ra đây…


Mấy ngày ở Qui Nhơn tôi có ý muốn ghé lại thăm Ninh. Nhiều người khuyên đừng. Không mấy ai muốn đến thăm một bạn cũ khi người đó có chút ít chức vụ. Nhưng tôi nghĩ khác: Hắn sẽ thủ thế khi mình đến thăm hắn. Chắc chắn là hắn nghĩ rằng mình đến nhờ vả gì đó. Hắn sẽ cố sức giữ khoảng cách với mình và hắn sẽ hối hận khi thấy mình bắt tay thong dong ra về, không đòi hỏi gì khiến hắn phải cố gắng hết.

Tôi chọn chiều thứ bảy đến thăm Ninh, thú vị nhìn những người lính gác long trọng xét hỏi giấy tờ, bắt khai lý do vừa kín đáo dò xét. Thật không có gì dễ chịu cho bằng mình đem cái bình thản vô ưu của mình ra đối đãi với cái hoài nghi khắc khoải của kẻ tiếp mình, đem cái thong dong bất cần của mình ra trả lời cái nghiêm trang “quốc gia trọng sự” của kẻ sinh ra với cốt cách chuyên làm thuộc hạ cho người khác.

Ninh tiếp tôi ở phòng khách rộng. Hai mươi năm xa cách nhưng đúng là khuôn mặt đó. Chúng tôi gợi những kỷ niệm hồi còn học chung ở lớp Nhì, lớp Nhất. Cảnh vật ngày xưa hiện ra trong óc tôi rõ ràng đến từng kẽ lá, từng cành cây, từng cái lá khô, từng con chim chào mào đong đưa mổ quả keo xanh. Ninh dè dặt khi bắt đầu câu chuyện, thụ động trả lời nhiều hơn là đặt câu hỏi. Nhưng khi thấy tôi cười nói thong thả, anh biết là tôi không nghĩ gì đến cái chức vụ của anh hết, anh khỏi phải lo lắng gì nữa hết và anh bắt đầu nói chuyện tự nhiên. Khi nghe tôi nhắc đến tên mấy cô bạn: Hồ thị Yến, Hồ thị Xê, Nguyễn thị Nhạn… thì anh toe toét ra cười.

- Ừ! Mấy cô bạn xinh xắn của mình, chả biết bây giờ chồng con ra thế nào. Anh còn nhớ cáichân có tật của cô Yến không?

- Nhớ hoài. Một người có vẻ mặt đẹp đẽ dịu dàng như thế mà chỉ vì cái chân có tật…

Anh chợt cười to rồi thủ thỉ tâm sự:

- Nè, không chừng hồi đó mình có yêu thầm một trong mấy cô cũng nên.

Câu chuyện đang vui thì tôi giã từ Ninh. Anh mời ở lại nhưng tôi không nhận, anh mời năng ghé lại chơi trong thời gian tôi còn ở lại Qui Nhơn nhưng tôi không hứa chắc. Tôi không muốn đến một lần thứ hai vì những gì êm đềm trong sạch đều đã nói rồi. cái đẹp vốn phải hữu hạn. Gặp nhau nhiều, chúng tôi sẽ phải nói đến chính trị, hành chánh… và chắc chắn là trong những địa hạc đó chúng tôi sẽ phải nói dối, nói nhảm và nói khoác. Những người thành công thường no đầy tự mãn. Trạng thái sung túc đó thể hiện nơi Ninh trong cái cười mềm, trong tia mắt nhìn tròn no an ổn.

Nhưng hôm nay vì trường hợp Abdul Rahim mà tôi sẽ phải gặp Ninh trở lại. Đúng là một điều khó chịu vì mình sẽ không nói chuyện thong dong và cười to như lần trước. Nhưng chưa gặp Ninh thì tôi nhận được điện tín gọi về gấp. Tôi đành gọi điện thoại cho Ninh, nhờ Ninh coi lại trường hợp của Abdul Rahim.

Mãi thật lâu về sau tôi mới gặp lại Abdul Rahim. Có cái gì tươi vui rạng rỡ ánh trong tia mắt của anh. Chúng tôi được ngăn cách với Quá khứ bằng một cuộc đảo chính và có lẽ cuộc đảo chính đó đã lọc bớt những vẩn bụi nặng nề trong cái không khí xã hội chúng tôi sống. Con người đi lại vung tay thoải mái hơn và mắt nhìn cũng chững chạc hơn. Qua nhiều người nói, tôi biết Abdul Rahim đã hoạt động mạnh dạn trong phong trào lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm và có lẽ do đó mà anh bị ném đá và hành hung ở Qui Nhơn. Tôi không nhắc đến chuyện cũ.

- Abdul Rahim hiện vẫn còn làm việc cho nhà binh Hoa Kỳ?

- Bây giờ làm ở Quân y viện.

- Đó là một công việc tương đối tốt. Cố gắng chữa lành những vết thương do chính mình gây ra.

- Vâng. Chỉ tương đối tốt. Vì sự sửa chữa không đi kịp sự tàn phá. Con người say sưa tàn phá, để hết tâm lực vào sự tàn phá.

- Abdul hiện có những dự định gì trong óc?

- Đợi ngày đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ. Hi vọng được học Y khoa cho đến khi tốt nghiệp.

- Xin khen ngợi và cầu chúc Abdul thành công.

Tôi năng gặp Abdul Rahim trong giai đoạn anh chờ đợi này. Nơi gặp thường là cái lối đi hẹp bao quanh chiếc bàn to xếp đầy những sách báo ngoại quốc. Có nhiều hôm mệt mỏi, tâm hồn đầy ưu tư và đôi mắt thiếu ngủ, tôi bắt tay Abdul Rahim vừa soi bóng mình trong đôi tròng mắt sáng ngời trong nụ cười rộng nở của anh. Tôi thèm thuồng cái sức khỏe vững chãi đó.

Mùa Thu năm ngoái một chiếc phi cơ oanh tạc rơi giữa một thị trấn đang yên ổn làm ăn. Năm sáu căn phố bị sập. Những trái bom còn mang theo chưa thả hết rơi nằm theo xác phi cơ rồi rải rác nổ dần. Nhiều người háo kỳ chạy đến xem bị chết trong vụ nổ này. Quân cảnh chận các ngả đường. Xe Hồng thập tự rít còi chạy vùn vụt về ngả bệnh viện. Gia đình nào cũng lật đật kiểm soát con cái mình xem có còn đủ số không. Người ta lo lắng chạy đến trường học xem con mình có ngồi ở đó không. Người ta hồi hộp chờ đến giờ tan sở xem chồng mình có về với đầy đủ chân tay không. Những tin đồn chạy dài khắp các nẻo phố. Số nạn nhân mỗi giờ mỗi tăng thêm. Ngoài những xác người mất đầu mất chân, người ta còn thấy nhiều mảnh xương mảnh thịt vụn không biết của ai. Sáng hôm sau tôi được tin Abdul Rahim đã chết trong tai nạn đó và tìm không ra xác. Nơi xảy ra tai nạn xa chỗ ở của anh. Bốn giờ chiều ngày thứ sáu lại không phải là giờ đi dạo. Nhưng anh được rảnh buổi chiều đó, anh đi đến nhà bạn chơi khác với thường lệ và tai nạn vồ lấy anh.
Abdul Rahim không còn nữa. Cái năng lực thể xác và tinh thần đó đã phút chốc không còn nữa. Tôi mường tượng thấy anh đang đi trên lề phố quen thuộc, anh đang đứng vững chãi, đẫm thấp trước một cửa hiệu bán vải và nụ cười của anh nở ra cùng một lúc với bàn tay thân hữu anh đưa ra.

- Bonjour Monsieur Long. Comment allezvous? (5 )

Rõ ràng là tiếng nói của Abdul Rahim, tiếng nói không lầm-lẫn-với-ai-được của anh và đôi môi chu lại để nói những âm “ou”.

Cái chết vội vã của Abdul làm tôi xao xuyến nhiều ngày. Tôi chưa có thêm một người bạn đã vội mất một người bạn. Sự mất đó làm tôi cảm thấy tâm hồn mình chợt nghèo đi, có một khoảng trống làm tôi mất thăng bằng như chiếc phi cơ đang bay chợt gặp một lỗ không khí. Dẫu không tò mò tìm hiểu cuộc đời riêng tư của anh nhưng tôi tin rằng anh có một nhân cách cao hơn mức trung bình.

Chừng nửa năm sau ngày anh mất, bỗng một hôm vô tình mà tôi nghe người nhắc đến tên anh. Abdul Rahim và tôi vốn không có bạn chung. Cô Ái Hoa là người độc nhất mà tôi có thể gợi chuyện về anh thì đã bỏ hiệu sách đi lấy chồng rồi. Không thể ngày ngày nhìn bìa những cuốn sách in hình đàn bà khỏa thân, in hình những cặp tình nhân quấn quít ôm nhau hôn mà có thể sống cầm cự trong cảnh gối chiếc. Người gợi chuyện về Abdul Rahim tôi không ngờ lại là một cô bạn nhí nhảnh: Liên. Nàng nói trước:

- Cấm có chiều thứ Bảy nào là không gặp anh đi mài gót giày trên vỉa hè.

- Để cho xứng với em. Mỗi lần ra phố là y như gặp em nên anh chẳng biết trong hai chúng ta ai đi nhiều hơn. Nào! Hãy báo cáo thành tích tâm tình của em trong tháng này.

- Yêu lăng nhăng, lai rai, bình thường. Như gió mậu dịch thổi bình thường trên biển Nam hải. Còn anh?

- Tất cả đều ở Điều kiện cách, Conditional. Lên phòng anh ngồi nói chuyện cho đỡ mỏi chân. Anh đi bộ từ bốn giờ đến giờ.

Liên bước chân theo sau tôi. Mưa rào xuống một trận hùng hồn khi tôi rót nước cam vào ly mời nàng.

- Câu chuyện của em hay của Trang của Dung gì cũng đều giống nhau - tôi nói. Đó là chuyện những nàng con gái thích yên những đàn ông hoàn toàn: đẹp trai, khỏe mạnh, học giỏi, anh hùng và… giàu. Sở thích giống nhau nên họ phải tranh giành nhau những người đàn ông tốt số. Cuối cùng chỉ có một nàng được, còn những nàng kia xông xáo đi mở những chiến dịch khác.

- Anh nói quá. Chính tụi đàn ông đi lùng bọn em.

- Cả hai giống, đực và cái đều bình đẳng trong sự săn đuổi này. Em có đi xem một ông thầy bói? Hắn ta sẽ cho em những liền thuốc an thần.

- Có. Em có rủ con Trang đi coi ông thầy Lò Vôi.

- Kết quả?

- Cũng theo kiểu Conditional như anh. À, này anh, ông thầy nói rằng em lấy chồng năm nay không được, vì bị linh hồn một người chết ám ảnh. Người đó đã yêu em...

Gương mặt Liên trầm ngâm.

- Em nghĩ rằng đó là linh hồn Abdul Rahim.

- Abdul Rahim?

- Em chắc vậy.

- Abdul Rahim yêu em?

- Em chắc vậy. Yêu thầm thôi. Abdul không dám nói.

- Đó không phải là một người đàn ông nhút nhát.

- Khi yêu thật tình thì người đàn ông nào cũng nhút nhát rụt rè như nhau. Anh, em nghĩ rằng lúc nào anh cũng có thể nói “anh yêu em” với bất cứ người nào. Bởi vì anh yêu lăng nhăng, yêu vờ vịt, yêu chơi bời. Abdul Rahim thì không.

- Abdul Rahim thánh thiện ai cũng…

Liên ngắt lời:

- Tình yêu không phải là thánh thiện sao? Những bậc Thánh đều yêu. Anh có thấy gỗ, đá thành Thánh bao giờ chưa?

- Nhưng Abdul…

- Abdul Rahim có những nỗi buồn và anh đều thổ lộ cho em nghe. Ba má anh sinh nhiều con và anh là đứa con ít được thương nhất. Anh lớn lên mang cái mặc cảm…

- … của một đứa con bị bạc đãi.

- Gần như vậy. Abdul bảo với em rằng khi anh sang Mỹ được rồi thì anh sẽ vận động cho em cũng được sang. Em sẽ học ngành điều dưỡng.

- Còn tình yêu?

- Tình yêu không nói ra lời nhưng mà em có thể đọc được trong mắt nhìn, trong giọng nói, nhất là trong mắt nhìn.

Từng cơn gió mát lùa vào phòng. Nước trên tàng cây me rơi lộp độp xuống mặt đất từng hồi mỗi khi có cơn gió mạnh ào tới. Liên giã từ tôi và tôi lẳng lặng đưa nàng xuống sân.

Tôi lẩm nhẩm suy nghĩ:

Hãy an nghỉ, Abdul Rahim. Hãy ngủ yên giấc ngủ vĩnh cửu của anh. Cái thân tứ đại vốn là giả hợp, anh đã có lần nói với tôi như vậy và chắc là anh không tiếc. Liên nó đang nghĩ đến anh và nó đang yêu anh đó. Lúc sống, anh không dám hỏi và chắc là nó cũng không trả lời. Nhưng hôm nay anh không còn nữa và do đó nó đang lặng lẽ yêu anh.

(5) Xin chào ông Long. Ông mạnh khỏe chứ? (tiếng Pháp)

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 03.12.2012 21:07:29
3. MẸ GÀ CON VỊT


Có tiếng la ồn ào ở nhà sau, tiếp tới tiếng cửa đóng sầm và tiếng gà quang quác chạy ngoài sân.

Lại con gà mái đen gây tai hại, tôi vừa nghĩ vừa bước lại cửa sổ nhìn ra sân. Quả đúng là con gà mái đen đang te tái chạy, vừa chạy vừa la. Đến cạnh bụi mãng cầu, nó đứng dừng, quay mặt lại rồi cục tác từng tràng dài như than thở, như phân trần, như chửi rủa người vừa rượt đuổi nó. Oang oang ở trong bếp là tiếng của con Bốn, con nhỏ ở, cũng vừa chửi rủa vừa phân trần:

- Ngày nào cũng lẻn chun vô bếp. Lật ngã chai, đập bể chén. Bươi cái bếp tro tan tành hết. Chết cha rồi, ngã bể cái chai dầu rồi. Gà gì mà gà quỉ gà quái.

Hai bên, gà và người không ai chịu nghe ai, cứ tự do làm ồn phần mình.

Con gà mái này do một cô em ở nhà quê đem biếu. Cô em nói:

- Gà này thuộc loại gà quạ, ăn thịt mát lắm, bổ hơn gà trắng, gà nổ. Ngày mai con Bốn làm thịt đi, chớ để lạ nước lạ gió nó bệnh đi, nó ốm đi.

Con gà bị cột chân bỏ nằm ở sàn nhà sau nghểnh cổ nhìn tôi, nhấp nháy tròng mắt vàng hoe. Tội nghiệp, nó ngây thơ không biết gì về cái số phận mà người chủ cũ của nó vừa phác họa cho nó. Một lưỡi dao cắt tiết. Một chảo nước sôi. Vặt lông. Mổ thịt. Xào nấu. Tôi thương hại, đặt một tay sờ lên mái lông mượt bóng của nó. Con gà “ứ ứ” vừa tránh lui. Tôi cười thầm: “Sắp chết rồi mà vẫn gắng giữ tiết hạnh”.

Theo đề nghị của cô em thì sáng hôm sau là ngày thi hành bản án tử hình con gà. Nhưng mới vừa bảnh mắt, một đứa con nhỏ của tôi, thằng Đức đã la lên.

- Ba ơi, có cái trứng gà ở đâu đây này.

Hai đứa con khác vội nhảy ra khỏi giường không kịp xỏ dép xỏ guốc chạy về phía có tiếng kêu. Dưới chân con gà quả có một cái trứng nằm đó, dính đất cát lem luốc. Con gà mái thì đứng thẳng người mắt nhìn láo liên. Chân nó bị buộc vào một đầu dây và đầu dây kia bị buộc vào một gốc mận.

Trang, con lớn của tôi thò tay khoèo cái trứng một cách rụt rè. Con gà “cục cục” khiến nó rụt tay trở lại, sợ bị mổ. Thằng Đức lại vỗ lên lưng gà, miệng an ủi:

- Đừng mổ, con. Chớ có dại. Để chị Trang lượm cái trứng của con.

Cái trứng được nhặt lên, đem nhúng vào thau nước, kỳ cọ một lát và được chuyền tay giữa ba đứa nhỏ. Con Ngân, con bé nhất nói:

- Đẹp quá hở anh Đức? Cái trứng trắng ghê.

- Màu hồng nhạt thế này là trứng gà so đây.

- Gà so là sao hở anh?

- Là con gà này đẻ lần đầu tiên đó.

Tiếng cô em ở nhà trên vọng xuống:

- Trứng gà so bổ lắm. Con gà này mới kêu ổ từ hôm kia. Ăn thịt vừa mềm.

Ba đứa nhỏ đưa mắt cho nhau, im lặng. Vẻ khó chịu. Thằng Đức nhíu đôi môi, ý chừng muốn bảo: “Cứ nói ăn thịt hoài”. Con Ngân không biết rụt rè vì nó nhỏ được tôi chiều hơn hết, nói ngay:

- Đừng ăn thịt nó nghe Ba?

Có Ngân mở đường, Đức tiếp lời:

- Để nó đẻ, Ba à. Ăn thịt nó tội nghiệp.

Con Bốn, con nhỏ ở chuyên môn nêu ra những sự khó khăn:

- Rồi chuồng đâu mà nhốt nó?

- Nhốt ở cái giỏ cũng được.

- Lúa đâu cho nó ăn?

- Nó ăn cơm không được sao?

Tôi để mặc cho ba đứa con và con Bốn đối đáp nhau. Tôi không trả lời, không giải quyết và như thế nghĩa là con gà khỏi bị giết.

Con gà hóa thành người bạn mới của ba đứa nhỏ. Buổi sáng đứa nào cũng tranh nhau ném ruột bánh mì cho gà. Buổi trưa, đứa thì ném cơm, đứa thì vất rau cho gà mổ. Con gà cũng dạn dĩ với ba đứa. Khi nó đi bên chân Ngân mà Ngân ngồi xuống ôm nó thì nó đứng yên miệng “ứ ứ” khe khẽ như chỉ phản kháng lấy lệ. Thằng Đức bắt được một con dế dũi béo ngậy cầm giữa hai ngón tay miệng túc túc gọi nó thì nó vội chạy lại rồi nhảy lên đớp ngay. Thấy con gà đã hóa hành bạn chơi của ba đứa con, tôi cũng lần lần thương nó. Ba đứa con của tôi cần một người túc trực ở nhà để chúng thương yêu. Tôi thì đi vắng luôn mà nếu có ở nhà thì chúng khó chơi đùa với tôi như với một người bạn nhỏ. Con gà mái hơn một con búp-bê nhiều. Con bup-bê chỉ im lặng và trẻ con phải bắt nó cảm xúc theo ý chúng. Đằng này con gà linh hoạt hơn, ngồi nhìn nó bới đất mổ sâu, chạy đuổi theo một con cào cào hay đi lưỡn thưỡn trong ánh nắng… lũ trẻ đã thấy vui. Những nỗi vui thay đổi luôn vì con gà có nhiều sáng kiến. Thật cần thiết để lũ trẻ khỏi sống những ngày bằng phẳng, vì thiếu một người mẹ thì cuộc sống trong gia đình không thể không bằng phẳng. Chính người mẹ bày ra cho có việc.

- … Hôm nay ăn bún chả, nghe! Ngân lại ngồi với má tập lặt rau. Này, những lá rau vàng vàng úa úa thế này phải vất đi đấy. Trang có thể tỉa ca-rốt củ cải để ngâm giấm đi. Nhanh lên.

- … À mùa này có hột sen tươi đây, món tráng miệng sẽ là chè hột sen. Trang lo bóc vỏ này. Thằng Đức lấy cái tăm nhỏ mà đẩy cái ngòi sen đắng ra này. Ừ, có lẽ nên mua thêm một cái liễn to để đựng xà-lách. Lũ nhỏ đã lớn rồi nên chúng đã bắt đầu ăn to.

Những tiếng nói êm đềm ấy, cái cảnh mẹ con lăng xăng ấy, đã sáu năm nay không có. Riêng bé Ngân thì chưa bao giờ biết được cái cảnh má con lăng xăng nó ra thế nào. Vì khi má mất Ngân chỉ mới biết đứng nhìn. Sống với cha thật gần như sống trong một ký túc xá. Ăn, ngủ, học có giờ. Ngủ và học thì không cần có sáng kiến và cũng chẳng thú gì mấy. Mọi sự thích thú quây quần xung quanh việc ăn mà Ba thì không nghĩ đến còn con Bốn thì vừa không có óc phát minh vừa không biết đề nghị. Tôi nghĩ tội nghiệp cho con mình. Những món ăn: sữa, ca-cao, chuối, trứng… quả tình không gây thèm thuồng bằng mít, xoài, ổi, mực khô… Nhưng những món này tùy mùa mới có và có ai theo dõi đâu mà biết? Có lần tôi đi làm thấy một người đàn bà bê trên tay một miếng mít vàng mật. Tôi mới chợt nhớ ra rằng hình như không biết đã mấy năm nay rồi, lũ con tôi chưa biết mít là gì. Trưa về tôi hỏi:

- Bốn này, sao không mua mít về cho em ăn?

Con Bốn trả lời tỉnh táo:

- Thầy không dặn con mà.

- Tao biết đâu mà dặn? Ra chợ thấy món gì ngon thì mua cho em ăn chớ tao đâu có ra chợ mà biết.

Con Bốn “dạ” và sau đó ngày nào nó cũng bắt lũ nhỏ ăn mít. Mấy lần tôi ngồi ở hiệu cắt tóc nhìn ra chợ. Bao nhiêu món ăn thay đổi mà chỉ ngồi ở nhà nghĩ tới, tôi chắc không thể kê ra được quá ba phần mười.

Con gà cứ tiếp tục đẻ và lũ trẻ cần mẫn lấy trứng đem cất chỉ để lại một trứng nơi ổ. Cứ đẻ xong một lứa, nghỉ vài mươi ngày nó lại đẻ lại. Nhưng tới một thời kỳ nào đó, nó cứ nhất quyết nằm trên ổ - với một cái trứng - mà không chịu bỏ ổ nhảy xuống. Trẻ con lại gần nó xù lông lên, miệng la lục cục. Con Ngân chạy vào báo cáo.

- Ba ơi, con gà cứ nằm hoài trên ổ, không chịu xuống.

Con Bốn “xì” lên một tiếng.

- Nó ấp mà cũng mét với Ba.

- Ấp gì có một trứng mà cũng ấp, - thằng Đức nói.

Tôi giảng cho nó:

- Con gà nó phản đối chúng mình. Trứng nó đẻ mình lấy hết đi nên nó tỏ ý không bằng lòng.

- Mình lấy luôn cái trứng cuối cùng của nó đi xem nó ấp cái gì, - Trang đề nghị.

- Dù không có trứng nào, nó vẫn ấp. Đã bảo nó phản đối mà lại.

Con gà mái nằm trên ổ suốt ngày, chỉ trưa nhảy xuống kiếm ăn một lát rồi lại lên nằm. Vẻ mặt nó nghiêm trang pha một chút giận dỗi. Sự kiện mới này xáo trộn cuộc sống bình nhật của ba đứa con. Chúng nó thập thò đi lại đứng ở chuồng gà, lúc thì một đứa đơn chiếc, lúc thì cả ba. Khi có hai đứa hay ba đứa cùng đứng thì chúng chỉ trỏ và trao đổi ý kiến với nhau. Có lúc thì một đứa giảng giải, hai đứa lắng nghe, có lúc thì cả ba đứa tranh nhau nói mà chẳng đứa nào nghe cả. Riêng con gà thì cứ nhẫn nại nằm đó như một con mẹ nằm vạ. Một hôm sau thằng Đức hớn hở chạy vào méc với tôi như vừa khám phá ra một sự lạ:

- Chị Trang lấy mất cái trứng của con gà rồi.

- Để làm gì?

- Để cho con gà khỏi ấp nữa. Chị Trang nói: con gà nó ấp nó cứ nhịn đói hoài. Chị ôm nó lên thấy nó nhẹ bổng.

Tôi trả lời lơ đãng:

- Tùy ý. Nhưng theo kinh nghiệm thì con gà vẫn không bỏ ổ.

Quả đúng như vậy, con gà cứ nằm trên cái ổ trứng. Đưa tay lại gần, nó vẫn xù lông cổ ứ ứ như để bảo vệ một bè trứng của nó. Ôm nó ném bỏ xuống đất thì nó xù lông lên vừa đi chậm rãi vừa kêu cúc cúc. Đi một vòng, nó nhảy lên ổ nằm lại. “Thật là một trạng thái bệnh hoạn”, tôi nghĩ.

Sau đó, một hôm Trang đề nghị:

- Con có ý kiến này: mình mua trứng vịt lộn đem bỏ cho nó ấp.

- Được lắm. Con cứ thí nghiệm đi. Mua chừng bảy tám trứng thì vừa đủ cho nó, nhiều quá ấp không hết. Nếu có thất bại thì coi như bỏ ra vài chục bạc để mua một kinh nghiệm. Ngược lại, nếu thành công thì…

Tôi mỉm cười chưa nói tiếp thì Đức đã nhảy cỡn lên:

- Thì mình có một bầy vịt. Thích lắm, Ngân ơi.

Cái ý định mua trứng vịt lộn đem ấp được thực hiện nhưng cả nhà lo lắng không biết con gà có chấp nhận những cái trứng lạ không. Để tránh sự đột nhiên bỡ ngỡ, Trang đứng sau đuôi gà cầm một trứng vịt chùi nhẹ dưới bụng gà. Con gà ứ ứnhích mình lên một chút rồi nằm im. Trang lại chùi vào một trứng thứ hai. Con gà lại ứ ứ lại nhích lên và lại nằm xuống. Khi cái trứng thứ bảy đã chùi xong và con gà nằm yên, ba đứa con cứ đứng nấp sau bức sáo theo dõi từng cử chỉ của nó. Có một lúc nó nhảy ra khỏi ổ rồi đâm đầu chạy quanh sân, miệng kêu quang quác như bị ai đuổi đánh. Sau đó nó nằm xuống cát đập cánh vùng vẫy khiến bụi bay mù lên. Lúc nó trở dậy thì lông cánh mốc xì một lớp bụi. Nó xù lông vẫy tung một lát rồi mới lò dò đi lại tìm cơm nguội ở vại nước. Thấy con gà dường như bỏ quên bè trứng, thằng Đức nóng ruột chạy lại ôm nó bỏ lên chuồng. Nhưng nó chỉ đứng chớ không chịu nằm, Đức lại phải lấy tay ấn nơi lưng bắt nó nằm xuống. Con gà nhẫn nại nghe lời nhưng mặt mày ngó láo liên như chuẩn bị để bỏ chạy nữa. Tuy vậy, qua phút bắt buộc ấy, con gà trở lại say mê trong việc ấp. Lũ nhỏ tỏ ra yên tâm mỗi khi đi học về nhìn ra chuồng gà thấy nó cần mẫn nằm trên ổ. Để thưởng công cho nó, - có lẽ để cho nó khỏi bỏ đi ăn rồi quên về chuồng, - Trang đem một lon gạo một lon nước để cạnh, vừa tầm cho mỏ mổ. Thật là chu đáo.

Chừng mươi ngày sau bỗng một hôm có tiếng thằng Đức la lớn từ chuồng gà:

- Có tiếng chít chít ở chuồng gà Ngân ơi. Con vịt nở rồi. Ra xem, mau.

Trang và Ngân lật đật nhảy xổ ra. Con gà lúng túng trước sự hiện diện ồn ào của ba đứa nhỏ và trong khi nhích mình lên đã để lộ một cặp nhân nhỏ xíu. Đúng là con vịt con rồi. Ngân vội vàng thò tay vào rờ cái chân bé xíu thì bị con gà mẹ mổ cho một cái, vội rụt tay lại. Trang lấy một que nhỏ đẩy vào mình gà khiến nó né tránh và để lộ thân hình một con vịt con màu vàng hoe. Ồ! Con vịt ngây thơ nhìn ngơ ngác xung quanh với đôi con mắt tròn đen nháy. Nó sợ ánh sáng, vội núp dưới cánh gà mẹ. Cái mỏ nhỏ màu hồng nhạt ria rỉa vào lông cánh rồi rỉa cả vào mặt gà mẹ. Gà mẹ nheo nheo con mắt như để tránh đứa con nghịch ngợm. Mà quả nó nghịch ngợm thật. Vì chừng nửa ngày sau là nó đã bạo dạn bước ra khỏi ổ khiến gà mẹ cứ cúc cúc gọi chừng không cho nó đi xa. Cái mỏ tí xíu bạ chỗ nào cũng rỉa, rỉa vào cái mào, rỉa vào cái tích, rỉa vào cái mỏ sắc của mẹ nữa. Lũ nhỏ thật khiếp hãi khi nghĩ rằng cái mỏ kia mà nổi giận lên mổ mạnh một cái là đi đời con vịt con dại dột.

Qua hôm sau nở thêm hai con vịt con nữa, một con lông vàng một con nâu đen! Lũ nhỏ vội vàng chia của.

- Con vịt Cả phần tao - Trang nói.

- Em lãnh con vịt Hai lông vàng, Đức nối lời.

Ngân phụng phịu:

- Em không chịu con vịt lông đen nâu. Vịt đen xấu lắm. Em lãnh con vịt lông vàng của anh.

- Mày là em thì mày phải lãnh con vịt em chớ, - Đức nói.

- Nhưng con vịt em xấu lắm, em không chịu.

Trang phân giải:

- Thôi Ngân nhận con “em” đen đi. Rồi nếu mai nó nở một con nữa thì bù cho Ngân.

Ngân biết không cãi lại được vì anh chị đã ngầm về hùa với nhau rồi. Ngân đành phụng phịu nhận lấy, vẻ mặt không vui.

Hôm sau nở thêm một con nữa. Con này yếu quá đứng không muốn vững nên cứ nằm cả ngày. Màu lông vàng sẫm.

Đức quên cả lời hứa hôm qua, đề nghị liền:

- Con vịt này để phần cho Ba.

Ngân cãi:

- Hôm qua anh với chị Trang nói rằng con này phần của em mà.

Đức nghiêm sắc mặt, rầy ngay:

- Nhưng mày một mình mà tới hai con. Còn Ba chưa có con nào. Sao mày tham vậy?

- Tại hôm qua anh hứa với em rồi.

- Hứa cái gì. Tao nói chơi thôi. Bộ mày không cho Ba hả? Tiền của Ba mua trứng chớ tiền của mày à?

Ngân nghĩ: Người lớn nói gì cũng có lý, kể cả anh Đức hơn mình chỉ ba tuổi. Nhưng thôi, con vịt út vừa yếu vừa xấu xí để cho Ba cũng được. Vả lại Ba lãnh một con vịt xấu như mình cho mình có bạn.

Qua hôm sau, con gà bỏ ổ đứng dậy. Bốn con vịt con lao nhao sợ hãi miệng kêu chíp chíp. Đức bế gà mẹ bỏ xuống đất và lần lượt lùa bốn con vịt vào giữa kẹt ngón tay mà bổ xuống theo. Gà mẹ dõng dạc bước đi, miệng kêu túc túc. Bốn con vịt đi theo, chíp chíp luôn mồm. Bước gà mẹ quá dài khiến vịt con phải chạy theo mới kịp. Nhưng vì chưa biết chạy ra làm sao, chúng cứ nhảy choi choi. Gà mẹ đóng vai một cách tự nhiên gặp chỗ nào nó cũng đứng lại bươi. Đôi chân vạm vỡ hất tung từng búng rác, hất tung cát đất lên phủ đầy mình bốn con vịt con ngơ ngác. Bới một lát gặp một miếng mồi, nó túc vịt con lại nhưng vịt không nghe tiếng gà nên chúng cứ đứng ngẩn ngơ và không ngớt mồm kêu. Sợ chúng đói, mấy đứa nhỏ lấy ruột bánh mì xé nhỏ ra cho chúng ăn. Tuy vậy, chừng hai ngày thì vịt đã quen tiếng mẹ và đi đứng đã có chiều nhanh nhẹn vạm vỡ. Đôi chân nhỏ hoạt động không ngớt. Cái mỏ màu nâu đen mềm và mướt bạ chỗ nào cũng rỉa. Cái thân hình mang lông tơ nõn, nhẹ tưởng chừng một cơn gió mạnh có thể thổi bay đi cũng hoạt động quắn quít theo bước chân và cái mỏ.

Trông con vịt con bắng nhắng liu tiu hơn con gà con nhiều. Gà con tuy cũng hoạt động nhưng dường như cử chỉ của chúng một tính toán chừng mực hơn. Cũng chạy,cũng bới đất vẩn vơ nhưng không đến nỗi đuểnh đoảng như vịt con. Nhất là khi vịt lớn chừng một tuần thì quả tình vịt giống như một lũ mất trí. Chúng bắt chước nhau một cách khờ khạo. Con đi đầu chọc mỏ vào cái chậu nước rồi bỏ đi thì ba con đi sau cũng lần lượt chọc mỏ vào chậu nước rồi bỏ đi. Con đi đầu đi vòng quanh qua gốc chùm ruột rẽ sang vại nước, rỉa xuống vũng cát ướt rồi chạy lại mẹ thì ba con sau cũng làm theo đúng từng cử chỉ nhỏ ấy. Dường như chúng rất vui thú trong sự bắt chước nhau làm những việc vô ích đó.

Buổi trưa khi gà mẹ nằm dưới gốc cây nghỉ là bốn con vịt con cũng hạ mình nằm xuống kề mẹ. Dáng nằm không gọn gàng tí nào hết, chỉ vì cái mình quá dài và đôi chân quá ngắn. Lúc nào cũng như chực ngã chúi xuống. Cái đuôi thì ngoắt lia lịa. Có lẽ chúng không biết mệt là gì. Nằm xuống là vì bắt chuớc theo thôi chớ nằm nào có yên. Hết quay qua đến xoay lại, rồi nhích tới một chút, rồi ì ạch ngồi dậy, rồi kềnh càng nằm xuống. Gà mẹ làm như đã có nhiều kinh nghiệm nuôi con nên không để ý đến những sự lộn xộn đó. Nó gục đầu nhắm mắt một cách bình tĩnh. Chỉ khi nào gió xao động mạnh lá cây hay có một tiếng kêu to ở đâu quanh đó là nó chợt mở mắt ra và túc túc gọi con. Tức thì bốn con vịt líp chíp nhặng lên và líu tíu đứng dậy chạy lại nằm gần mẹ hơn. Chúng có vẻ mong đợi lời kêu gọi ân cần đó. Khi mẹ đứng dậy bước đi thì chúng vội vã gọi nhau đứng dậy liền. Rồi chạy rồi tỉa. Thực tế thì đó chỉ là những trò chơi thôi vì chẳng có gì ăn trong một cái chậu nước quá trong, thế mà con nào cũng rúc mỏ vào rỉa mãi không thấy chán. Thỉnh thoảng một con ngứa tay chân đứng ưỡn người đập cánh. Trông đôi cánh bé mà tội nghiệp. Chỉ to bằng hai cái lá con và dễ thường cũng chỉ dày như thế. Đập cánh nhiều nhất là khi cho các cậu vào tắm trong một thau nước lớn. Thôi thì đua nhau mà vục đầu xuống, rồi dùng mỏ mà quay lại rỉa vào lông lưng lông nách, còn đôi chân, - những đôi chân màu hồng hay màu đen mướt - thì xòe ra đằng sau để quạt nước mà bơi tới. Nước vung tung tóe xung quanh và mồm ríu ra ríu rít. Thật đúng là những đứa bé năm, sáu, tuổi nghịch nước.

Tối lại, bốn con tranh nhau nấp dưới cánh mẹ. Thật chẳng yên với lũ nhỏ láu táu này. Nằm kín trong đôi cánh mà chốc chốc vẫn nghe tiếng líp chíp như còn nói chuyện hay đùa nhau hay cãi nhau trong đó.

Một hôm thằng Đức lùa con gà mẹ và bốn con vịt con đi ngao du ở trước sân. Ra đến cổng thì chợt có một lũ trẻ con đi ngang qua. Một đứa đứng dừng lại, vừa chỉ trỏ vừa gọi to lên:

- A! Mẹ gà con vịt. Lại xem tụi bay ơi! Mẹ gà con vịt.

Cả bọn đứng lại, đi trở lui, nhìn vào sân. Một đứa trông lớn tuổi hơn hết trong bọn hát lên rằng:

Mẹ gà con vịt chít chiu

Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng

Mấy đứa khác vỗ tay reo và hát theo.

Đức lộ vẻ khó chịu đóng sầm cửa ngõ lại. Rồi lùa bầy vịt ra vườn sau.

Từ ngày đó, câu hát “Mẹ gà con vịt chít chiu” trở lại luôn. Những người hàng xóm, những người đến chơi nhà hễ thấy gà mẹ dẫn bầy vịt con đi ăn là lại đọc lên:

Mẹ gà con vịt chít chiu

Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng

Chừng một tháng sau thì chen vào lông tơ nõn đã có những cuống lông ống mọc so le ở hai cánh và ở đuôi. Màu lông này nhạt hơn. Rồi sau đó những chòm lông mái xuất hiện ở cổ, rải rác ở lưng. Bốn con vịt dáng bụ bẫm nhưng mình vẫn dài lêu nghêu như những đứa trẻ 14, 15 tuổi bắt đầu lớn. Đi giữa bốn vịt con, gà mẹ thật chẳng khác một người đàn bà nhỏ người, chững chàng đi giữa một bầy con tuy cao lớn hơn mình nhưng vẫn còn ngờ nghệch trong nét mặt và cử chỉ.

Chợt một hôm có tiếng con Bốn lại la lên ở nhà sau. Và tiếp theo là tiếng rủa sả:

- Lại đập phá đồ đạc nữa! Con gà quỉ.

Rồi tiếng cửa đóng sầm lại và tiếng gà mẹ cục tác. Con gà mẹ lại lo tìm ổ. Nó sục sạo khắp cả nhà dưới nhà trên. Bầy vịt con ngơ ngác chạy theo mẹ, bơ vơ lạc lõng. Mỗi khi gà mẹ bay lên đứng ở mặt bàn, đứng ở chân giường, mắt dáo dác tìm một chỗ cao hơn để bay lên nữa thì bầy vịt đứng ở dưới đất líu kíu gọi mẹ, hiếng mắt nhìn và chạy vòng quanh. Khi gà mẹ nhảy xuống đất thì chúng mừng rỡ chạy ùa lại sán vào chân mẹ. Nhưng gà mẹ mổ cho một cái và chúng hoảng vía vừa xô nhau chạy trốn vừa té lăn kềnh vừa cất tiếng la. Sau nhiều lần bị mổ như vậy, bốn con vịt con không còn dám líu ríu đi sát theo chân mẹ nữa. Tuy vậy mẹ đi đâu chúng vẫn sắp hàng chạy theo và lúc nào cũng giữ một khoảng cách vừa phải để mẹ có sấn lại mổ thì chúng kịp quay mình chạy trốn.

Buổi tối, gà mẹ nhảy lên nằm một mình ở chuồng cao. Bốn con đi vòng quanh dưới đất cất tiếng gọi mẹ nhưng vô hiệu. Cuối cùng, chúng nằm rúc vào nhau để ngủ. Thật tội nghiệp khi nhìn bốn đứa mình nằm kề nhau, con này áp ngực lên con kia, con kia rúc đầu vào cánh con nọ. Một cơn gió thổi qua là chúng xô đẩy vào nhau mạnh con nào con nấy xô, chân đạp vào lưng, mỏ rỉa vào hông, cả cái khối bất ổn đó di chuyển xáo trộn, ngã lăn ra. Rồi lại sắp xếp lại, lộn xộn bất ổn như cũ. Những tiếng kêu líu kíu nho nhỏ, khàn khàn thỉnh thoảng phát ra. Ngủ yên chừng hai phút thì chợt có một con líu kíu nhỏ trong mồm rồi những con khác cũng líu kíu họa theo, thật y như tiếng khóc thút thít của những đứa trẻ khóc giữa giấc mơ.

Có đêm gà mẹ không leo lên chuồng nằm mà nằm ngay dưới đất. Tức thì bốn con vịt nằm quây quần xung quanh. Để gà mẹ không chú ý đến sự hiện diện của chúng, chúng đi thật nhẹ và cẩn thận hạ mình cách mẹ chừng bốn tấc. Đuôi xếp về phía mẹ và đầu quay ra ngoài. Chừng như được yên tâm, giấc ngủ của chúng đỡ chập chờn hơn. Mỗi khi giật mình choàng dậy chúng sửa đổi thế nằm thì bao giờ chúng cũng cố nhích vào gần mẹ hơn một chút.

Ngày đầu khi gà mẹ mổ con, thằng Đức vừa quát vừa chạy đi tìm roi đánh:

- A! Con gà điên! Sao mầy mổ con?

Tìm không ra cái roi, nó rượt con gà chạy quanh sân.

Tôi đứng nhìn bốn con vịt nghểnh cổ nhìn nhau la và con gà mẹ ba chân bốn cẳng chạy trước mặt Đức. Tôi gọi con lại:

- Thôi đừng rượt nó nữa.

- Nó cắn vịt con Ba à.

- Ba biết rồi.

- Phải đánh cho nó một trận.

- Đánh vô ích. Nó lẻ con ra để đẻ mà.

- Nhưng sao lại mổ mấy con vịt?

- Nếu không mổ, lũ con nó sấn lại thì đẻ sao được? Không phải nó ghét vịt con đâu mà dù cho con ruột nó nữa, nó cũng phải mổ. Nó không dùng lời nói để giảng giải được, nó không có bàn tay dịu dàng để vỗ về con được mà nó chỉ có cái mỏ. Đó không phải là lỗi của nó.

Không trừng phạt được con gà, lũ nhỏ chăm chút đàn vịt con. Đi học về là ba đứa bế vịt lên tay, áp mặt vịt vào má mình như khi nựng một em bé người ta áp mặt nó vào má mình vậy. Con Trang lo đập ruồi và bốn con vịt lúc thúc đi theo sau để mổ. Con Ngân cầm dao xới vũng cát xung quanh vại nước để tìm trùn. Bốn con vịt chạy lao xao để tìm mổ ngay khi lưỡi dao chưa rút kịp ra khỏi mặt cát. Thằng Đức thì bị con Bốn la luôn vì tội xốc tung những bó rau muống để lựa những cộng non đem xắt cho vịt ăn. Rồi đứa thì lo múc nước tắm vịt, đứa thì đem xới cơm cho vịt, rốt cuộc bốn con vịt được săn sóc như bốn đứa trẻ mồ côi. Ngược lại, bốn con vịt cũng quen với lũ nhỏ hết sức. Hễ lũ nhỏ đi đâu ra vại nước ra sân sau là bốn con vịt đi theo bén gót. Thử ngồi xuống lấy tay nghịch cát là bốn con đã vội chạy lại để hy vọng mổ trùn. Thỉnh thoảng nghe tiếng vịt hàng xóm kêu inh ỏi, bốn con vịt te tái chạy sang nhưng nghe tiếng chân con Trang chạy đuổi theo vừa cất tiếng to “A! Lẻn trốn chạy đó nghe” tức thì bốn con chạy quanh về và thế nào con vịt trắng của nó cũng nằm xuống sát đất đợi nó bế lên. Bốn con vịt và lũ nhỏ đã thành những người bạn thân thiết. Bây giờ chúng đã thay lông hoàn toàn nên trông đẹp đẽ hơn trước nhiều. Hai con lông trắng phau, một con hạt dầu và một con đen. Chúng trở nên những con vịt thành niên hồi nào, lũ nhỏ cũng quên để ý nữa. Đến hồi để ý trông lại thì mới thấy là chúng đã không còn bé bỏng nữa. Thỉnh thoảng giữa trưa khi đã tắm mát, chúng vươn rộng đôi cánh đập phành phạch miệng la quang quác. Con vịt đen không ồn ào hùng biện bằng ba con kia. Con Bốn có kinh nghiệm phân biệt cho lũ nhỏ biết rằng đó là con vịt đực. Không đứa nào tỏ ra mến con vịt đực cả vì lông đen xấu xí mà lại lòi xòi không mướt láng.

Trong khi đó, gà mẹ lại lên ổ ấp và lần nầy cũng lại phải ấp một mớ trứng vịt. Nhưng ngày nở chỉ có một con vịt con nở ra mà thôi. Khi xuống ổ, hai mẹ con lúc thúc đi cạnh nhau. Sự săn sóc có phần cẩn thận hơn, nhưng con vịt con quả tình trơ trọi hết sức. Không có anh chị em cùng lứa nó thiếu hẳn những thú vui ngây thơ. Nó kém hoạt động hẳn, đi bên cạnh một bà mẹ cần mẫn đảm đang nhưng nghiêm trang. Đã thế nó lại còn bị con vịt đực đen ăn hiếp nữa. Lừa lúc gà mẹ đi xa, con vịt đực chạy đâm bổ lại để mổ nó. Nó la lít chít vừa tìm đường chạy trốn. Gà mẹ nghe tiếng la vội xù lông chạy đến và chú vịt đực vội vã tháo lui. Có lúc thì lũ trẻ con hay con Bốn phải chạy đến can thiệp để đuổi chú vịt đực. Thành ra cả ngày cứ thỉnh thoảng nghe tiếng vịt con la, tiếng chân lũ nhỏ chạy rầm rập và tiếng quát tháo:

- Ùi, ùi! Con vịt quỉ.

- Ê! Con vịt anh ăn hiếp. Đánh chết! Đánh chết!

Không có đứa nào dành phần con vịt này cả nên nó lớn như thế nào, chẳng mấy ai để ý. Cứ tuần tự theo ngày tháng, nó thay lông để biến thành một chú vịt thanh niên. Nó không có bạn chỉ biết có mẹ. Nên đến tuần mẹ lên ổ nằm, nó cất tiếng kêu thảm đạm và đi quanh quẩn dưới chân chuồng. Nó ngước mặt nhìn mẹ nằm trên ổ, miệng kêu, vừa tìm đường leo lên nhưng không được. Khi kêu chán, nó nằm dưới chân chuồng. Động nghe tiếng mẹ cựa mình ở trên là nó vội đứng dậy, miệng líp chíp kêu tưởng như mẹ sắp xuống cùng mình. Khi mẹ xuống thật thì lòng mừng của nó biểu lộ vội vã quắn quít. Nó cạp cạp luôn mồm vẫy đuôi lia lịa và chìa mỏ lại gần mẹ. Con gà mẹ chừng cũng thương hại nó hơn mấy đứa trước nên không hề mổ mà trái lại, hai mẹ con sóng bước cùng đi tìm mồi. Nhưng những giây phút êm đềm ấy, nó hưởng không được nhiều. Khi gà mẹ ấp lại thì nó gần như bỏ ăn, cứ đi lảng vảng quanh chân chuồng hoặc nằm đó chờ đợi. Nếu buồn chân muốn đi đó đây một chút, hoặc ra vại nước kiếm cái ăn, hoặc ra sân trước thơ thẩn dưới gốc trứng cá, gốc vú sữa thì nó lại phải dòm chừng con vịt đực hung tợn. Khổ nhất cho nó là khi đi quanh góc tường, chợt bước trờ tới thấy ngay con vịt đực ở trước mũi, phải vội chạy ngược lại, có khi vội quá phải ngã lăn ra đất. Những lúc ấy trông nó thật là cô độc, thiếu thốn.

Con gà mẹ lần này được ấp chính trứng của nó đẻ. Không phải do một lý luận nhân ái nào của lũ nhỏ mà chỉ do ở tính lười của chúng. Lười hốt trứng, lười mua trứng vịt, rốt cuộc chúng để trứng, mặc kệ cho gà. Kết quả là chín con gà con nở ra, đa số màu lông đen như mẹ. Khi gà mẹ dẫn bầy gà con đi thì chú vịt tháp tùng theo. Bây giờ thì chú đã lớn hẳn rồi, đầu lông ô đen nháy và bụng xệ đi núc ních. Chú chậm chạp bước sau bầy gà con. Thỉnh thoảng chú đi lại gần gà mẹ miệng lạp cạp như có chuyện gì báo cáo cho mẹ nghe. Tối lại, nhốt gà mẹ trong một cái giỏ thì chú nằm sát bên giỏ. Rồi sáng ra khi bầy gà hớn hở đi chải đất tìm mồi thì chú lại nặng nề đi sát theo hộ vệ. Hễ gà mẹ gặp tai nạn gì cất tiếng la lên là chú xông tới. Những tai nạn thường do con chó Tô gây ra. Nguyên nhân hầu hết là giành ăn. Gà mẹ sợ con Tô nhưng chú vịt lại coi thường. Ăn hiếp Tô được đôi lần, chú vịt tỏ ra dể ngươi. Có lần Tô đang nằm hớ hênh ngủ, chú vịt đi qua rỉa mỏ vào bụng Tô rúc mấy cái khiến Tô hoảng hốt đứng vụt dậy. Lắm lúc vịt ta dám lấy mỏ rỉa vào ngay mặt Tô khiến Tô phải lãng bỏ đi xa. Không biết đó là do tính can đảm thiên phú hay là do tính dại dột không biết người biết ta. May thay con Tô đã có tuổi, bắt đầu trầm tư nên lười biếng không thèm chấp nhất. Ai quấy rầy thì nó bỏ đi. Chỉ có miếng ăn mới cần phải, đôi khi, tranh giành mà thôi.

Một hôm, Ngân chợt hỏi tôi:

- Con gà mẹ là dì ghẻ của con vịt hở Ba?

- Không phải. Nó là mẹ nuôi con vịt.

- Thế má con vịt đâu?

- Má nó ấp không được nên mình phải nhờ con gà ấp.

- Sao dì ghẻ lại không nâng niu con chồng hở Ba?

- Ai bảo con vậy?

- Lũ trẻ nó hát đó.

Mẹ gà con vịt chít chiu

Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng

- À, đó là vì người đặt ra câu ca dao không nhìn rõ một con gà mẹ nuôi bầy vịt con. Sự âu yếm chăm sóc của nó đâu có kém khi nó chăm sóc chính con nó? Một con vịt chạy ra xa là nó đã vội túc túc gọi về. Ai bắt con vịt lên tay là nó vội chạy tới quang quác cái mồm ra la, xòe rộng hai cánh, xù lông lên và nhào tới đá liền. Con gà coi bầy vịt đều là con nó, không phân biệt rằng chúng có giống hay khác nó như thế nào.

- Câu hát nói rằng người dì ghẻ không thương con chồng.

- Đó là chuyện đời xưa. Đời xưa có những người đàn bà độc ác không thương lũ trẻ con.

- Đời bây giờ cũng vậy. Bác xích lô chở con đi học hay nói với con như vậy.

Tôi nhìn con gần hơn vừa ôn tồn hỏi:

- Bác ấy nói thế nào?

- Bác ấy bảo nay mai con sẽ có dì ghẻ và dì ghẻ đánh con.

- Không có đâu. Ai lại nỡ đánh con. Con ngoan và học giỏi mà.

- Nhưng mà…

Ngân ngừng nói, cầm bàn tay tôi áp vào má.

- … Nhưng mà… Ba đừng cưới dì ghẻ nghe Ba?

Tôi mỉm cười gật đầu.

Chợt tôi nhìn ra xa mông lung suy nghĩ.

Chiều hôm qua tôi vừa nhận được bức thư của Diễm trong đó có đoạn nàng viết: “… Em nghĩ rằng em sẽ thương yêu ba đứa con của anh như con của chính em vậy. Đã yêu anh, em không thấy có sự hy sinh nào là quá sức của em hết. Vả lại, có gì đâu mà gọi là hy sinh?…

Ngân lay tay tôi:

- Ba nhớ nghe?

Tôi thẫn thờ cầm tay con, gật đầu mà không trả lời.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 03.12.2012 21:10:49
4. LỄ CÚNG TRƯỜNG (ĐÃ CÓ TRONG TV)
5. CÁI NHÌN NGƯỜI MẸ


Chiếc xe Lăm-bết-ta chạy vun vút bấp chấp những lỗ ổ gà lớn bằng cái rổ, bằng cái thúng. Trong xe chỉ có một người thanh niên, một chị đàn bà bế con nhỏ, một chú “ết” và Thuận. Tất cả sức nặng của đám hành khách nhỏ nhoi này không đáng gọi là sức nặng nên bốn người tha hồ nhảy nhót trên hai cái băng. Phải bám hai tay vào thanh sắt lắp dọc theo trần xe. Phải gắng dồn tất cả trọng lượng của mình xuống mông. Nếu không sức vồng sẽ đẩy cả bốn người lọt xuống sàn xe. Thật khác xa với mươi ngày trước đây khi đoàn người xin nước Thánh ùn ùn kéo về Suối Đỗ. Xe Lăm-bết-ta Nha Trang - Thành chạy từ bốn giờ rưỡi sáng khi Ấp chiến lược chưa kịp mở, chạy đến bảy giờ tối. Xe nào cũng đầy ắp người. Số hành khách luật định là sáu người nhưng tài xế xếp đến mười ba, mười bốn. Thùng thiếc đủ cỡ lớn nhỏ, đòn gánh góp nhặt đủ kiểu treo ngổn ngang ở móc, xếp có ngọn trên mui xe, bỏ lổn ngổn dưới sàn xe. Người đi xin nước Thánh có khi là những người đàn bà da vàng như nghệ, những cụ già tê liệt đi phải có người đỡ, những ông nông dân vạm vỡ bắp thịt tỏa ra sức chiến đấu. Có tin chính quyền được lệnh làm khó dễ những người đi xin nước từ ngày Bầu Quyền ở Quảng Nam linh thiêng. Viện Pasteur phân chất nước suối tuyên bố trên báo là nước có nhiều vi trùng. Phóng viên địa phương của một số nhật báo viết những bài phóng sự và lập luận theo thông cáo của chính quyền. Nhưng dân chúng nô nức đi lấy nước bất chấp khoa học và vệ sinh, mặc kệ binh lính cản ngăn, lớp đi bằng xe Lăm-bết-ta, lớp đi bằng xe ngựa, lớp đi bộ. Những chiếc xe “ca” lớn chở đầy khách từ Sài Gòn ra, từ Đà Lạt xuống. Xe Lăm-bết-ta tha hồ chạy. Xe chạy đường Cần Đá, đường Đồng Đế cũng bất chấp luật lệ chở khách chạy thẳng về Suối Đỗ. Thật là thời đại hoàng kim của xe Lăm-bết-ta. Xe chạy ì-ạch, chạy hết nổi, mỏi mệt rã rời. Người ngồi chen nhau, đùi cạ vào nhau không day trở được. Tài xế nói cười như con sáo. Những chuyến về, xe đã ì ạch càng ì ạch thêm. Ngoài những thùng nước đầy ứ, người hành hương còn mang theo về những củ bí kỳ nam quăn quẹo sù sì chất đầy cả sàn xe. Người ta chuyền miệng cho nhau ca tụng về dược tính quí giá của loại củ này. Xắc mỏng ngâm rượu hoặc sấy lấy nước uống thì trừ được chứng tim yếu, hồi hộp, máu xâm, mất ngủ. Người dân địa phương khéo bao trùm xung quanh củ đó một màn sương huyền bí linh thiêng:

“Đấy: thì củ bí kỳ nam to bằng cả một trái dừa lửa chớ có nhỏ đâu? Dây của nó leo chằng chịt ở thân cây rừng đó chớ có trốn đi đâu? Vậy mà mắt mình nhìn tới như mù, đố có thấy được củ nào. Trong khi đó thì người đi sau mình lại thấy được, lại hái. “Bà” mình cho ai hái thì chỉ có người đó thấy mà thôi”.

Có quyền phép của “Bà” tác dụng đến, mỗi củ bán được một trăm bạc. Với những bà Sài Gòn béo tốt cổ đeo vòng ngọc và ngón tay chật ních những cà rá kim cương thì củ bí kỳ nam lên giá đến hai trăm, ba trăm. Sau mươi ngày tự do đi lại thì có lệnh cấm lấy nước, cấm triệt để. Trên đường quốc lộ, có từng chặng thấy có những thùng thiếc ném ngổn ngang. Chắc là cảnh sát hay quân đội đánh đuổi hung hăng lắm nên người đi xin nước mới sợ hãi đến quăng cả thùng như vậy. Thuận thấy thương hại cho thân phận thăng trầm của những chiếc thùng. Ngày Suối Đỗ linh thiêng giá thùng thiếc ở chợ cao vọt lên. Thùng gì bán cũng được tiền: thùng dầu hỏa hai mươi lít, thùng dầu hột bông Cottonseed do Mỹ viện trợ, thùng Shell cũ đựng dầu máy. Ở khu thợ thiếc, tiếng búa đập loảng xoảng từ tửng mửng sáng đến tối mịt. Có lẽ dưới thời Xuân Thu Chiến quốc khi có lệnh động binh người ta rèn đúc khí giới cũng chỉ nhộn nhịp rộn ràng như vậy là cùng. Ở trong các khu phố, những bà nội trợ được dịp lục lọi các xó xỉnh để lôi ra trăm thứ “đựng được”: thùng, chai, lọ… chúng được súc, rửa, kỳ cọ rồi chụp lên đầu những cây trụ rào. Ánh nắng dọi xuống, bị hắt lên, lóe sáng như cây trụ rào cũng biết nở hoa.

Liền sau đó, có tin Bà Thánh thiên về một hồ nước nào đó ở mạn Dalat. Suối Đỗ trở về địa vị thiên nhiên khiêm tốn của nó. Các quán tranh dựng dọc đường lên suối được dỡ đi. Những vỏ bưởi, vỏ chuối, bã mía, lá gói bánh… của khách hành hương dần dần xám đi, mũn đi, ngã theo màu đất, lẫn với rác cỏ. Từng xe cam nhông chở củ bí kỳ nam ở Ban mê thuột đem xuống bán. Tước bỏ giá trị linh thiêng, món hàng thương mại này được lùa về nằm ngổn ngang ở chợ Đầm, chợ Xóm Mới, bằng lòng với giá mười lăm đồng, mười đồng, rồi năm đồng một củ. Trong khi đó thì những bác tài xế Lăm-bết-ta chửi thề trở lại. Thời thế cạnh tranh mật ít ruồi nhiều, chạy một chuyến có được hai chục bạc đã là may lắm. Đậu xe ở đầu chợ Thành để nhặt những bà nội trợ xách giỏ đi chợ về, mỗi bà chỉ trả một đồng để đi hai cây số mà trên xe phải chịu bộn bề những giỏ, những xách, những vịt, những gà, heo con, bầu bí lổn ngổn. Bác tài xế hôm nay vừa định “de” xe vào chợ thì thấy bóng ông cảnh sát đứng lù lù đó, tay lăm le quyển sổ và bút chì chờ biên phạt nên nhấn ga cho xe chạy vút tới. Bao nhiêu tức giận bác trút vào đôi cánh tay cử động hung bạo, và đôi mắt nhìn khoặm xuống, vào cái xương hàm bạnh ra. Thuận hối hả đã đi nhằm cái xe hục hặc này.

Chị đàn bà bế con nhỏ thuộc loại hiền lành nhút nhát chắc thường bị mẹ chồng và hàng xóm ăn hiếp nên quen tính rụt rè, không dám lên tiếng bảo xe chạy chậm lại mà chỉ xoay qua quay lại liên tiếp để giữ cho đứa con khỏi bị xốc. Anh thanh niên thì vừa nhịp chân vừa huýt sáo bản nhạc “Cầu sông Kwai”. Thật là khéo chọn nhạc khúc. Ngồi trong xe mà có cảm tưởng như mình đếm bước rộn ràng đi vào rừng chặt gỗ làm cầu thật, Thuận thì đánh đu cả hai tay vào thanh sắt đóng ở mui xe như một con vượn sắp sửa chuyền cành. Chú “ết” người nhỏ thó tuổi chừng mười bốn, mười lăm cứ từng chặp thò miệng ra sau xe nhổ một bãi nước bọt.

Xe chạy băng băng. Leo dốc. Qua cua. Vượt lên cầu. Những ông nhà quê đứng tuổi đi xe đạp nai nịt ống quần như lính lệ, luống cuống tránh dạt vào lề đường, ngã chúi trên bờ cỏ, quay mặt lại chửi nói gì đó. Xe vẫn lầm lũi bỏ chạy. Quá ngôi đình xã Diêm An, chợt chú “ết” la lên:

- Tốp! Tốp! Có người đón xe. Tốp!

Bác tài xế hãm phanh một cách khó nhọc. Mọi người quay lại nhìn ra sau xe. Cách hơn trăm thước một người đàn bà mặc áo dài đen cắp nón hăm hở chạy tới. Bác tài rà rà cho xe chạy lui. Thuận ngạc nhiên thấy người đàn bà có lòng ái mộ một chuyến xe như vậy. Đường này đâu phải thiếu xe? Cứ năm phút là có một chuyến. Việc gì phải te tái chạy đuổi theo hàng trăm thước thế kia? Khi xe lui lại gần thì người đàn bà dường như hết thở nổi. Đó là một bà nhà quê chừng bốn mươi tuổi. Da mặt tuy rám nắng nhưng hồng hào. Hoa tai vàng, quần lĩnh Mỹ A: bà này thuộc hạng khá giả ở thôn quê. Bà không lên xe vội mà đứng dưới đường bảo bác tài:

- Nhờ ơn bác cho xe vô con đường rẽ kia. Nhà tôi ở gần đó. Tôi có đứa con nhỏ bị bệnh phải đưa đi nhà thương.

- Không được, - bác tài quay ra trước xe vặn vặn tay lái dáng như sắp sửa rồ ga cho xe chạy. - Đợi xe sau mà đón.

- Tội nghiệp tôi mà. Đứa nhỏ tôi nó trúng gió nặng quá.

- Tôi phải đưa hành khách về Nha Trang. Trễ giờ của người ta sao được?

- Nhờ ông làm ơn làm phước. Nhà tôi ở gần kia. Ngay con đường rẽ vô đó. Con tôi nó bị trúng gió…

Người tài xế nhíu mày không trả lời. Chị đàn bà bế con tay nắn bóp hai bàn chân nhỏ của đứa bé. Im lặng. Chợt người thanh niên cất tiếng nói:

- Trễ năm, mười phút cũng không sao. Bác chịu khó vô chở giúp người ta. Con người ta cũng như con mình.

Người đàn bà tươi tỉnh nét mặt, tiếp lời ngay.

- Dạ. Tội nghiệp tôi mà, con tôi cũng như con bác.

Bác tài xế dáng chừng chỉ đợi một câu nói ưng thuận của một người hành khách và sự im lặng của những người kia để bác quyết định. Bác nói:

- Thật phiền quá. Thôi, bà lên xe đi.

Xe nổ, chạy vài chục thước rồi rẽ vào con đường làng. Đường đắp đất, nhô lên thụt xuống, xe phải chạy rất chậm. Hai bên đường là vườn, là lũy tre. Xe không đậu ở cổng thứ nhất, cũng không đậu ở cổng thứ nhì. Con đường bỏ xóm nhà ở, đi vào giữa cánh đồng hẹp. Hai bên là ruộng. Lúa thời con gái xanh mướt. Một con mương dẫn thủy nhỏ chạy dọc theo con đường. Xe nhô lên thụt xuống. Tiếng máy rì rì rồi rống lên từng chặp. Từ nãy giờ Thuận im lặng. Anh ngồi đưa mắt nhìn người thanh niên. Nét mặt hiền lành và tâm hồn dễ thường cũng vô tư như bản nhạc vẫn tiếp tục được huýt sáo. Thuận ngượng đến xấu hổ khi nhớ đến lời của anh ta nói lúc nãy:

- Con người ta cũng như con mình.

Đáng lẽ câu nói đó phải do mình nói - Thuận nghĩ. Người thanh niên chắc chắn là chưa có con. Khuôn mặt non, chân râu mới lờ mờ như lông tay. Trong khi đó mình đã làm cha, đã từng nhiều lần cúi mình xuống giường bệnh của con hồi hộp nghe tiếng thở khò khè hoặc hổn hển, tay rờ trán rờ chân xem nóng lạnh.

Mình đã từng chạy quáng quàng đi mời thầy thuốc, đã từng bế con ngồi trong xe để đến phòng mạch bác sĩ. Những đêm thức trắng ôm con trên tay hay ngồi cạnh giường con, những dòng nước mắt lặng lẽ chảy vì lo sợ và vì thương cho con phải một mình chiến đấu với cơn đau. Những kỷ niệm ấy dồn dập về trong óc Thuận và bóp mạnh ở tim.

Đáng lẽ câu “Con người ta cũng như con mình” là câu phải do mình nói, - Thuận cứ lặp lại ý nghĩ đó. Mình ích kỷ muốn xe chạy thẳng về nhà cho sớm, bỏ người đàn bà đó lo lắng hồi hộp trên đường. Mà nào sáng nay mình có bận việc gì cho cam? Về đến nhà vào khoảng mười một giờ, rửa mặt nằm nghỉ đến mười hai giờ ăn trưa. Về sớm hay chậm mười lăm phút, nửa giờ, điều đó không có lợi có hại thực tế gì cho mình hết. Nhưng mà chỉ vì mình có quyền, với năm đồng bạc, bắt buộc người lái xe chạy thẳng nên mình thích sử dụng quyền đó thôi. Mình không muốn ai động chạm đến nó. Không hẳn là vì ích kỷ, bởi trên thực tế nó có mang lại ích lợi gì cho mình đâu. Có lẽ đó chỉ là cái lối bủn xỉn vụn vặt của một con người mang nhiều ẩn ức, nhiều bực bội, chịu đựng nhiều thiệt thòi, nhiều sự bất công nên khăng khăng bám giữ những quyền lợi nhỏ nhặt nào còn sót lại.

Thuận thở dài nghĩ tiếp. “Có lẽ tại mình phản ứng quá chậm. Mình cũng muốn giúp đỡ người đàn bà đó, nhưng mình chưa kịp nói…”

Chợt thấy xe nhảy vồng lên làm Thuận giật mình. Người đàn bà ngồi trước mặt đưa một ngón tay chỉ vào túi áo sơ mi của anh:

- Tờ giấy bạc của ông sắp rơi ra kia.

Thuận vội cúi xuống, thấy tờ giấy năm đồng nhoi mình lên gần rời khỏi miệng túi. Anh đưa ngón tay đẩy nó rơi sâu xuống đáy túi. Mỗi khi lên xe, bao giờ anh cũng chuẩn bị tờ giấy năm đồng bỏ ở túi áo sơ mi để khỏi lục lọi ví khi xuống xe. Anh nói:

- Cám ơn bà.

Người đàn bà mỉm cười và quay sang bắt chuyện với chú “ết”:

- Trời mới tháng Giêng mà nắng quá.

- Bà ở còn xa không?

- Lại cái nhà đằng kia. Cái nhà ở đằng đầu đường, đứng đây ngó thấy đó.

Thuận vừa nhận sự tử tế của người đàn bà. Điều đó làm anh thêm ngượng. Ai cũng tốt ở xung quanh anh. Người thanh niên. Và bây giờ đến người đàn bà có đứa con bị trúng gió nặng. Đáng lẽ với mối lo phiền to lớn đó, người đàn bà uể oải không muốn nói gì, không muốn giúp đỡ cho ai hết. Có ai bắt buộc bà phải nhìn thấy tờ giấy bạc suýt rơi của anh đâu? Bà có thể thấy nhưng lại bỏ nhìn chỗ khác. Còn cả ba người nữa trong xe mà. Trách nhiệm đáng để dành cho những người rảnh rỗi tâm tư kia. Ấy thế mà bà vẫn ân cần đối với người lầm lì ngồi trước mặt.

Thuận tự xét mình và thấy mình dù sao cũng đã xấu tính một cách đáng giận.

Con đường hẹp lại. Xe chạy rì rì tránh những mô đất.

- Sao lâu tới vậy? Nhà bà ở chỗ nào? Bộ bắt xe tôi chạy tới chân núi Đồng Bò sao? - Tiếng bác tài xế gắt gỏng bực bội.

- Nhờ ơn bác cho xe chạy tới cái nhà kia mà. Cái nhà có đứa nhỏ đứng ngoài sân đó.

Quả ở đầu xóm có một ngôi nhà ngói cũ kỹ nơi đó một đứa gái nhỏ đứng ở gốc đu đủ chong mắt nhìn ra xe. Chắc nó nôn nóng đợi má nó về để đưa đứa em bệnh đi nhà thương.

Xe dừng lại trước cổng. Người đàn bà nhảy phóc xuống, nhưng không đi thẳng vào cổng mà lại te tái đi nhanh về ngả khác. Bác tài hỏi to:

- Chớ không phải nhà của bà ở đây sao?

- Không phải. Nhà tôi ở… xích xích vô trong xóm kìa.

Bác tài dơ hai tay lên trời, nguyền rủa những gì không ai nghe rõ. Chịu không được không khí nóng hừng hực ở mui xe dọi xuống, mọi người nhảy xuống xe. Chỉ có chị đàn bà be con ngồi lì, nét mặt thất vọng rõ rệt. Chị phải lấy nón quạt lia lịa cho đứa nhỏ. Những người đàn ông lợi dụng thì giờ chia nhau đứng tiểu ở các bụi cây. Chú “ết” tiểu loãng xoãng xuống mương nước. Người thanh niên đứng gần bác tài nói chuyện gì đó nhưng dáng chừng câu chuyện rời rạc. Thuận đếm bước dưới bóng cây vú sữa đứng sát bên đường.

Gió thổi mát. Nắng vàng rung rinh. Những đứa nhỏ trong xóm tập trung lại đứng bên xe nhớn nhác nhìn, trong khi các con mắt nôn nóng chong chong nhìn về cái ngõ xóm sâu thăm thẳm rồi mất hút sau vòng rẽ. Thuận tưởng tượng thấy một đứa nhỏ nằm quấn trong khăn kín mít và do người mẹ nặng nhọc bế đi ra. Cũng có thể là đứa con lớn hơn nằm trên cái võng, cũng quấn kín trong một chiếc chăn dạ và do hai người khiêng. Người mẹ chạy hơ hãi một bên. Nhưng tha hồ cho anh tưởng tượng, con đường vẫn vắng ngắt, mịt mù. Thỉnh thoảng có những bóng người hiện ra nhưng đều là những bóng con nít hiếu kỳ chạy ra coi một chuyến xe bất thường. Bác tài xế sốt ruột đi cùng cậu “ết” vào thẳng trong xóm.

Anh thanh niên đi theo. Thuận không thấy bực mình vì bị mất thì giờ mà thấy lòng mình thanh thản. Có lẽ do anh bớt hối hận khi nhìn người thanh niên không còn giữ vẻ mặt hăng hái như lúc nãy. Bác tài thì chắc chắn là đang hối tiếc vì sự dễ dãi nhẹ dạ của mình. Trễ cả chuyến xe. Thuận đang mê mải nhìn một bầy cá rồng rồng dỡn nước thì có nhiều tiếng người ồn ào làm anh quay lại. Bác tài xế dẫn đầu đi ra. Đến anh thanh niên. Chú “ết”. Người đàn bà lúc nãy. Một cô gái chừng mười bốn tuổi. Một bầy trẻ con. Không thấy cái võng khiêng. Không có một cái chăn dạ xám quần sùm sụp một đứa bé bị trúng gió nặng. Anh sốt ruột cất tiếng hỏi:

- Chớ đứa nhỏ trúng gió nặng đâu?

Bác tài gượng cười giơ một ngón tay chỉ ra đằng sau. Người thanh niên im lặng. Thuận chẳng hiểu ý họ muốn nói gì. Khi đoàn người đi lại gần xe, anh mới chợt hiểu. Người bị trúng gió nặng là cô bé mười bốn tuổi đó. Cô bé béo người đẫm thấp. Dáng đi vững vàng, không có triệu chứng bệnh hoạn nào cả. Tuy vậy người mẹ vẫn chốc chốc đi lùi lại đằng sau để trông chừng.

Mọi người lên xe. Bà mẹ xuýt xoa cầm cánh tay con đẩy lên xe, còn tay kia thì để hờ chuẩn bị bế. Miệng nói nhẹ và cặp mắt dịu:

- Con coi chừng. Bước lên rai rải. Con.

Cô con gái hẩy cánh tay mẹ vừa lẩm bẩm:

- Bà này!

Đôi lông mày nhíu lại tỏ dáng không bằng lòng. Rồi cô bước một bước dõng dạc lên xe, xoay người lại, ngồi gọn gàng. Người mẹ bước lên theo, ngồi bên cạnh. Một giỏ mây đặt kề bên đùi để lộ những trái cam mới hái, cuống lá tươi xanh chen với những cái trứng gà. Thực phẩm bổ dưỡng cho bệnh nhân.

Xe rồ máy. Lần đi ra thật khó khăn vì phải tránh một bầy trâu. Những con trâu nặng nề ngước cặp mắt hoang dại lên nhìn rồi huơ cặp sừng cong đe dọa. Thân hình chắc nịch đó, cái cổ vững vàng đó, cặp sừng nhọn sắc đó như chỉ cần sấn tới, quất ngang một cái là cỗ xe nhào chổng vó xuống ruộng lầy ngay. Vượt quá được bầy trâu thì lo tránh một lũ học sinh ôm sách vở chạy quáng quàng trên đường về nhà. Nhìn lên cô gái ngồi đó, lũ học trò chỉ trỏ.

- A, “bà” Dậu. Bà Dậu đi lăm-bết-ta.

- Bà Dậu lũ bay ơi.

- Ngon ghê hả? Hôm qua bà Dậu không đi học.

- Chết! Tránh… Thầy…

Lũ học trò đứng dạt ra sát ven đường. Một người trạc hăm lăm tuổi mặc sơ mi trắng đầu trần đi một chiếc xe đạp sáng loáng. Một chồng vở sách buộc ở sau xe. Lũ học trò cất mũ. Người con gái liếc nhìn qua ông thầy giáo, đỏ mặt cười bẽn lẽn rồi quay vào trong xe. Bà mẹ hỏi:

- Ông thầy giáo phải không con?

Người con gái ấm ớ:

- Ông nào ở đâu…

- Tao nhớ ông thầy giáo mà. Chủ nhật tuần trước tao nhớ ông thầy có lại thăm cha mày mà.

Người con gái lắc đầu nhíu mày tỏ dáng không muốn nghe nói.

Xe khó nhọc vượt ra hết con đường xóm. Đến quốc lộ, Thuận nhìn đồng hồ. Hơn hai mươi phút để đi đón người “bị trúng gió nặng” này.

Xe trở về con đường quốc lộ băng băng mở tốc lực như người tù nay được giải phóng, gặp lại bạn cũ gặp lại tình nhân, tha hồ thao thao cười nói. Gió nồm thổi vùn vụt, vùn vụt vào cửa xe. Chị bế con nhỏ xoay trở mọi cách để cầm nón che gió cho con. Cô Dậu thì mặt mày tươi tỉnh hẳn lên, trút bỏ những nét bần thần lúc nãy.

Áo bà ba ni-lông mỏng dính sát vào da, in rõ đôi vai tròn và cánh tay vạm vỡ. Da mặt hơi rám nắng một chút và có ửng hồng nơi đôi gò má. Tóc kẹp trễ xuống lưng nên có nhiều sợi bay lòa xòa trước trán. Thuận không giấu được nụ cườikhi nhìn cô Dậu đang ngồi ưởn mặt ra gió, thò đầu ra ngoài cửa xe đón gió, sung sướng tươi tỉnh nhận gió mát tràn trề như một bông chuối nước nở đỏ ở ven bờ lạch, vật vã dưới sức đùa giỡn của gió đồng lồng lộng thổi không dừng.

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 03.12.2012 21:17:09
6. BÊN KIA ĐƯỜNG


Tôi bỏ sách xuống giường. Rượu và thuốc lá chỉ còn in dấu lờ mờ, tôi suy nghĩ về trường hợp Chatterley. Nhiều uẩn ức, nhiều bức thúc, nhiều dày vò. Thân phận con người quằn quại trong những đau khổ muôn hình, người này làm khổ người kia, ai cũng là nạn nhân vừa là kẻ tác nhân gây khổ. Người đàn bà quí phái rơi vào vòng tay của anh gác rừng khỏe mạnh, người đàn bà đó có tội lỗi không? Người chồng trí thức sang trọng và phẩm cách cao quí đó có tội lỗi gì trong việc xô đẩy vợ mình phạm tội ngoại tình? Chiến tranh. Chiến tranh không phải là một người có một khuôn mặt và mang một danh tánh để nhận chịu trách nhiệm trực tiếp. Chiến tranh là một tập thể. Chiến tranh đã tàn phá một nửa cơ thể của hầu tước Chatterley biến chàng thành kẻ bất lực. Và người đàn bà lấy chồng không phải để chuyên môn làm y tá suốt đời cho chồng, do đó mà anh gác rừng thành kẻ phản bội và kẻ chiến thắng. Giã từ lâu đài, giậm xéo danh dự chức tước, xóa bỏ hết, đập nát hết, Chatterley phu nhân chỉ cần sống đích thực cho dẫu là sống đơn giản với bánh mì, nước, không khí và tình yêu.

Tình yêu. Tôi cảm nghe như có một niềm xót xa, vừa cựa mình chỗi dậy như một con trăn nằm lấp dưới bao từng lá phủ nay đột nhiên thức giấc. Nỗi phiền muộn tôi đã vỗ về cho an ổn từ lâu, nay bất ngờ vì Quỳnh và vì câu chuyện của Chatterley mà hiện hình với mọi ngõ ngách, phiền toái. Quỳnh trẻ và đẹp và khoảng cách giữa tôi và nàng khó có thể nhờ thời gian lấp bớt được. Tôi sắp đi Thủ đức. Thời gian, cuộc đời đâu còn tùy thuộc nơi tôi nữa.

Vô lý. Sao mình có thể dễ tin, dễ hy vọng ở Quỳnh?

Có phải vì mọi người đàn bà mình gặp đều khôn ngoan và tàn nhẫn nên mình tự nhiên tìm về Quỳnh như một kẻ hành nhân xông pha nắng bụi tìm về một nguồn nước mát? Quỳnh đã hiện ra trong buổi tối nay. Trước kia, Quỳnh mơ hồ, hiện diện phai mờ trong một khung cảnh bất biến: những chồng hồ sơ, hồi chuông điện thoại, những buổi sáng chào cờ, tiếng máy đánh chữ lách cách. Phi cơ ở trên từng cao. (Ừ nhỉ! Không ngờ tiếng ồn lại khó chinh phục đến thế. Khoa học chưa nuốt hết tiếng động cơ). Quỳnh mặc áo màu huyết dụ. Gió lạnh vun vút của một đêm đông làm màu áo chuyển hơi ấm vào người nhìn. Gió thổi tung phần phật tà áo về một phía và dáng quỳnh mảnh mai như một ngọn lửa vươn lên. Tiệc cưới đặt ở tầng lầu hai. Tôi gặp Quỳnh ở tầng dưới giữa lúc tôi đang nói chuyện với những bạn trai. Câu chuyện không có gì đậm đà vì quá đông người và vì có vài khuôn mặt lạ chen trong đó. Lại những chuyện động viên đi Thủ đức. Khóa 18 còn 4 tháng ra trường. Khóa 19 đang gọi. Máy phát thanh đọc tên những người có lệnh nhập ngũ, mà chưa đi trình diện, nhẫn nại đọc, trưa nào và tối nào cũng đọc. Câu chuyện của những người dưới 33 tuổi.

- Thằng Diễn vẫn cứ phây phây đi chơi phố. Khóa nó, người ta gọi đã hai tháng nay rồi. Ra-đi-ô kêu đích danh Trần Văn Diễn mà nó vẫn cứ phây phây đi chơi phố.

- Coi chừng có ngày quân cảnh hốt. Ðêm nào xe quân cảnh cũng đi rảo.

- Dám bỏ vô Quang Trung lắm.

Câu chuyện không có gì vui. Màu xám của chiến tranh bao trùm lên khuôn mặt, dáng người và sự vật được gợi ra.

Quỳnh bỡ ngỡ đứng nhìn chung quanh. Người đàn bà ngồi ở quầy có đôi môi dày bôi đỏ như máu. Chiếc áo kỳ pủ thật mỏng in hình hoa màu nóng che không hết những mảnh da thịt trắng mát tròn lẳn. Ba quân nhân ngoại quốc ăn ở một góc. Ðến một gia đình người Việt đông con. Ðứa nhỏ mang theo cả quả bóng và chạy luồn sau quả bóng giữa những bàn chân ghế và chân người. Hai thương gia béo phệ chầu hai bên một chai rượu chắc là đắt tiền. Hai điếu xì gà to như hai con mực ống.

Trên vách, những người đàn bà đẹp ngậm thuốc lá Capstan, Mélia trong những bức tranh.

Quỳnh đi lại gần tôi.

- Ông Huy có bận đón ai ở đây không?

- Không. Cô có điều chi cần?

- Ông đưa tôi lên phòng tiệc đi.

Tôi hơi ngạc nhiên vì lời đề nghị và nhớ rằng mình vừa khiếm nhã đối với người đàn bà. Ðứng nói chuyện với nhau để một người đàn bà tự tìm đường đi một mình, người lịch sự không ai như vậy. Nhưng sở dĩ tôi không đưa Quỳnh đi lúc nãy, là tôi sợ người ta hiểu sai cái cử chỉ của tôi, kéo nó ngang hàng với một sự tán tỉnh thô bỉ. Vả lại, có bao nhiêu bạn đồng nghiệp bảnh trai của tôi kia, họ đưa Quỳnh đi thì xứng hợp biết bao. Chàng Thanh hào hoa, đi làm luôn luôn thắt ca vát và thay sơ mi mỗi ngày một kiểu. Chàng Huấn danh ca của đài phát thanh địa phương, có mái tóc ép sấy đúng kiểu. Chàng Thuận chủ nhân của một chiếc 2CV, giáo sư khiêu vũ của các cô bạn chưa chồng. Tôi tự sắp mình vào hàng thứ bảy thứ tám trong bản danh sách những người đàn ông có mặt. Tôi nói:

- Nếu cô cho phép. Xin mời cô đi trước.

Nhưng Quỳnh không chịu bước trước và chúng tôi thành ra đi cạnh nhau.

- Ông đã biết cô dâu chưa?

- Tôi có quen.

- Ðẹp không ông?

- Có lẽ điều ấy cô nên hỏi chú rể.

- Lẽ tất nhiên là chú rể khen đẹp. Tôi hỏi ý ông mà.

- Tôi biết vậy. Nhưng tôi có cho đẹp hay không thì cũng vô ích thôi. Vả lại, cô sẽ được thấy cô dâu trong mười lăm phút nữa.

Những bước thang uốn vòng quanh. Những tấm gương lớn đặt ở lối đi phản chiếu bóng hai người. Thân Quỳnh mảnh mai. Bóng tôi mặc áo quần dạ xám lấp vào những chỗ eo của thân nàng.

Lan và Thái, -cô dâu và chú rể- đón chúng tôi ở cầu thang. Áo Lan lóng lánh như kim tuyến, tôi không biết chắc đó là hàng gì. Chưa sống cạnh một tủ áo đàn bà, chưa bị nó hành hạ trong những ngày gần Tết, ngày Nô en, tôi thường lẫn lộn thứ hàng hai trăm đồng một áo với thứ hàng tám trăm đồng. Kim cương hột xoàn cũng vậy. Khi nào võng mô nhức nhối nhận một tia sáng loé thẳng, nhọn và sắc như một mũi kim dài phát xuất từ một mặt nhẫn, một vòng đeo tay, tôi thường giật mình nhìn người đàn bà có phép lạ đó và lẩm bẩm định giá "năm trăm ngàn đồng". Không căn cứ vào tiêu chuẩn nào hết mà chỉ là một con số tượng trưng. Ý hẳn có nhiều lúc tôi đã bị thủy tinh đánh lừa. Nhưng chắc chắn là Lan không đeo thủy tinh đêm nay. Ngày thường đi làm nàng có những thói quen rất đỗi "học trò" là đeo những chiếc vòng tay bằng nhôm, bằng thiếc mỏng mảnh mạ vàng lóng lánh, năm bảy chiếc một lần tréo vào nhau, choàng lẫn nhau rung rinh theo cánh tay đưa. Tôi không tìm thấy giá trị mỹ thuật của món trang sức giá năm bảy đồng một chục như thế. Có phải vì quen mắt vì muốn tránh một nỗi vắng vẻ cô đơn mà con người tìm bè bạn ở nơi vòng cổ tay của mình? Lan đeo đồng hồ đắt tiền cạnh những chiếc vòng nhảm nhí đó.

Ðêm nay Lan cài một mảnh vương miện trắng lóng lánh lên mái tóc, dấu hiệu cô dâu. Khuôn mặt thanh tú xứng đáng với một sự trang trọng có đôi chút kiểu cách.

Lan tiến đến cầm tay Quỳnh:

- Xin mời chị vào.

Rồi nàng nghiêng mình chào tôi, tự nhiên như khi chào một người bạn đàn ông trung bình. Không có một chút rụt rè, hồi hộp chút nào. Làm như tôi không phải là người đã từng hôn nhiều lần hôn trên đôi môi tô son đó. Làm như nàng không phải là người đã từng nép trong cánh tay tôi mà thỏ thẻ: "Em muốn chúng mình sẽ có một đứa con gái đầu lòng và em đặt tên là Mai Chi. Sao em yêu cái tên Mai Chi lạ." hoặc "Em thích căn phòng của chúng mình sẽ quét vôi màu xanh nhạt và rèm cửa một màu xám, chũng nhạt. Y như căn phòng của Nữ hoàng Elizabeth". Tôi không biết đích xác màu tường và màu rèm của nữ hoàng và tôi nghĩ rằng nếu một tuần sau nàng đổi ý kiến muốn tường và rèm cửa giống màu của căn phòng Tổng thống Phi luật tân tôi cũng sẽ không phản đối.

Lạ thật. Người đàn bà có một loại thuốc tẩy tinh vi có thể xóa hết mọi dấ u vết tình cảm trên tâm não của họ.

Nàng nói:

- À! Anh Huy. Cám ơn anh đã đến. Anh Thái, đây anh Huy. Làm thơ hay một cây.

Làm thơ! Tôi đã thành thật và ngu si, - thành thật có họ hàng với ngu si trong nhiều trường hợp - viết bốn câu thơ để tả nỗi khắc khoải nhớ nàng rồi cặm cụi ngồi chép gởi cho nàng. Nàng đọc thơ, cánh mũi phập phồng. Có thể vì tự ái được mơn trớn, nhưng hôm nay thì rõ ràng là nàng đang chế diễu tôi.

Tôi bắt tay Thái, mỉm một nụ cười vừa phải rồi nện mạnh gót giày xuống sàn nhà để bước theo sau Quỳnh. Tôi gửi theo gót giày những lời căn dặn giận dữ: Bận sau đừng dại như thế nữa. Dại lắm. Với đàn bà, chỉ nên dùng tiếng nói để biểu lộ tình cảm mà thôi. Khẩu thuyết vô bằng. Chớ dại mà ghi bằng chữ viết.

Quỳnh đi thẳng lại một góc phòng. Tôi kéo ghế mời nàng ngồi rồi đưa mắt tìm chỗ nào có nhiều bạn quen đàn ông để lại ngồi chung với họ. Nàng ngước nhìn tôi rồi chìa tay chỉ cái ghế bên cạnh:

- Ông có thể ngồi cạnh tôi. Hôm nay tôi muốn được nghe ông nói chuyện.

Tôi ngoan ngoãn ngồi xuống.

Câu nói vừa rồi của Lan đã xáo trộn óc tôi làm tôi hơi choáng váng. Ðôi chân vụt nhiên thấy mỏi và tôi cần một chỗ ngồi, chỗ nào cũng được. Tôi vừa chạm phải một người đàn bà và tôi đang coi thường họ. Vậy thì ngồi cạnh Quỳnh hay ngồi cạnh một chậu cây, một cái tủ lạnh thì cũng như nhau. Quỳnh hỏi:

- Ông có nghĩ rằng chỗ ngồi này tốt không?

- Tốt lắm, tôi tưởng thế. Chúng ta có được cái nhìn bao quát căn phòng.

Hoa lai ơn mà trắng và màu tím lịch sự trang nhã ở mọi bàn. Ðó là màu hoa Lan thích. Tôi nghĩ: Lan chu đáo, lo đến cả việc chọn màu hoa trong tiệc cưới của mình. Thật là người sung sướng.

Tôi nhìn lên tường. Ảnh của ông Tôn Văn bệ vệ tô màu xanh màu đỏ. Trước đây có treo kèm ảnh của Tổng thống Ngô Ðình Diệm cũng tô màu xanh đỏ. Từ ngày đảo chính, chưa có bức ảnh nào thay thế. Một bài văn chữ Hán nét bút sắc sảo tán tụng nghệ thuật ăn. Tôi lỏng bỏng đọc và nhớ được những chữ "dĩ thực vi tiên". Mỗi lần đọc bài "tán" đó, thực khách cứ muốn gọi bồi mang thêm bồ câu rán, gà rút xương, vây cá nấu măng tây, kim tiền kê và rượu vang. Ðời người như gió thoảng như chiêm bao, lâu đài tàn phế danh vọng phù vân, vậy sống được ngày nào thì cứ ăn cho thích khẩu. Bài "tán" bảo như vậy nhưng hôm nay quả tình là tôi không có thích thú gì để đợi chờ món ăn hết. Thực đơn đặt trên mặt bàn cạnh tôi nhưng tôi không buồn cầm lên đọc. Ði dự đám cưới của Lan chứ đâu phải dự đám cuới của người khác.

Quỳnh quay người nhìn tôi:

- Lúc nãy ông nói dối tôi. Tôi biết rõ là ông quen nhiều với cô dâu.

Tôi lặng im.

- Có phải thế không?

- Vâng.

- Hai người có yêu nhau nữa.

Tôi mỉm cười không nói. Hai người có yêu nhau nữa! Người bàng quang thật tò mò và tinh mắt.

- Thế tại sao hai người không đi đến hôn nhân?

Tôi xoay một chiếc nỉa đặt trước mặt và tôi âm thầm tự giải thích cho tôi: "Phức tạp lắm. Phức tạp lắm". Thực tế thì chả có gì phức tạp hết. Khi tôi được hoãn dịch vì lý do con một thì Lan hăng hái yêu tôi. Khi chính phủ điều chỉnh lại quy chế động viên. Tôi được lệnh phải đi Thủ đức thì Lan chọn Thái thay tôi. Thái vừa được giải ngũ chừng vài tháng nay. Mới thoáng đó mà Thái đã làm xong bốn năm quân dịch. Từ xạ trường Thủ đức lăn đi khắp các nẻo chiến trường. Thái vạm vỡ và bạo dạn không sợ khó nhọc, không sợ đàn bà như hồi còn ở văn phòng. Trước ngày động viên, Thái còn đỏ mặt mỗi lần nói chuyện với đàn bà và hai bàn tay cứ vặn vào nhau. Bây giờ thì Thái có nhiều kinh nghiệm để mà chinh phục họ. Thái hút "píp", đánh xì tẩy và khiêu vũ. Mỗi kỳ nghỉ phép rời mặt trận về đô thị, Thái biết tiêu hết nửa tháng lương để la cà ở các phòng trà và hộp đêm. Ðàn bà thời bây giờ thích những người đàn ông "chịu chơi hết mình" như vậy. Các cô bạn gái thường bao vây Thái bắt tổ chức du ngoạn và nhờ dạy nhảy. Tôi xót xa nhưng không lấy làm lạ khi nhận thiệp báo hỉ của Lan-Thái. Hôn nhân đời nay đi mau với tốc lực siêu thanh của phi cơ phản lực. Khi nghe tiếng nổ thì máy bay đã vượt xa mình rồi.

Lan xem thế mà thực tế. Tình yêu và hôn nhân phải trả lời đủ những câu hỏi của một bản trắc nghiệm:

- Lương căn bản là bao nhiêu?

- Còn mẹ chồng không?

- Có nhà riêng hay phải ở nhà thuê?

- Ði xe bốn bánh hay hai bánh? Nếu là hai bánh thì Vespa Italy hay xe gắn máy?

- Có nằm trong lứa tuổi động viên không?

- Có hội đủ những điều kiện được hoãn dịch không?

Vân vân.

Hai câu hỏi sau được nhiều điểm hơn hết. Thái hơn điểm tôi cũng là nhờ hai câu hỏi sau đó. Trừ trường hợp tổng động viên, còn thì Thái được an nghỉ trở về ngồi đều đặn giữa bốn bức tường ở sở và ở nhà. Tôi thì trái lại tôi sắp rời bỏ sự an ổn để lăn lộn ở chiến trường. Thân phận tôi đang được treo lơ lửng. Cố nhiên là Lan không muốn treo lơ lửng đời nàng vì tôi. Bàn tính tương lai với người chồng ngồi cạnh mình nhất định là dễ chịu hơn phải viết thư ra tiền tuyến. Không mấy ai muốn lấy chồng để được làm chinh phụ.

Tiếng Quỳnh khe khẽ bên tai tôi.

- Ông Huy, có phải ông không vui vì phải ngồi tiếp tôi không?

Tôi quay lại:

- Sao cô bảo thế?

- Vì ông không muốn trả lời những câu hỏi.

Tôi ngập ngừng:

- Ðâu có phải tôi không muốn trả lời. Nói rằng tôi chưa tìm được câu trả lời thì phải hơn.

Lan thỉnh thoảng đưa mắt nhìn sang tôi và Quỳnh. Tia mắt như xoi mói dò xét. Quỳnh không đẹp bằng nàng nhưng hiện giờ Quỳnh đang tự do và tôi đang cô đơn.

Giọng hát của Sylvie Vartan ở từng lầu dưới đưa lên, khắc khoải, hối thúc, nghẹn ngào. Giọng hát phức tạp như tâm hồn con người, vừa mơn trớn dỗ dành tôi, vừa làm khơi động những mạch sầu. Tôi tê đi trong tiếng hát kêu thương đó và tôi cứ muốn nói lảm nhảm một mình, nói chỉ để cho mình nghe hoặc chỉ gật gù nghĩ mà không nói: Lan ơi, tiếng hát nức nở chỉ còn một mình anh nghe thôi. Người có hạnh phúc như em còn tai đâu, còn tâm hồn đâu mà nghe, mà rung động. Em hiện giờ đang tươi cười bắt tay khách vừa lo sao cho ly tách khỏi vỡ trong bữa tiệc, lại vừa hãnh diện vì những người đàn bà có mặt chưa có ai đẹp hơn em. Anh xa em... xa em. Em nhớ không, ngày xưa em nói: Nếu chúng mình không lấy được nhau thì anh đừng lấy ai anh nhé? Em cũng sẽ không lấy chồng đâu. Em sẽ để tang cho anh khi anh chết.

Hãy để tang cho anh đi, hôm nay. Nhưng chỉ còn mình Sylvie Vartan khóc than kể lể hộ anh. Và Quỳnh đi đưa.


Tôi nhìn sang Quỳnh đang ngồi cạnh. Trước mặt tôi, bát vây cá nấu cua và măng tây. Quỳnh đang trải khăn ăn đặt lên đùi. Ðùi Quỳnh thon thon in hằn dưới mặt áo mỏng. Tôi cũng trải khăn và nhúng muỗng vào bát. Thịt cua ngọt và có mùi thơm mát của biển rộng. Quỳnh suỵt suỵt vào tai tôi:

- Chết! Chưa tuyên bố khai mạc.

Dây thần kinh của tôi đã rối thành nùi thành cuộn rồi. Tôi nghĩ: Hãy gạch xóa Lan đi. Tạm thay Quỳnh, đêm nay. Mắt tôi nhìn xuống bàn tay Quỳnh, đi dọc theo cánh tay lên ngực, lên cổ. Một nốt ruồi đậu ở cằm.

Những cặp vợ chồng an phận, những người đàn bà và đàn ông lẻ loi đưa mắt lục soát mọi người ngồi trước mặt, xung quanh.

Họ nhà trai nhà gái, chú rể cô dâu quây quần tiến ra máy vi âm. Diễn văn khai mạc. Vỗ tay. Ðáp từ. Vỗ tay. Tôi chập chờn nhớ những chữ.. "..trai tài gái sắc... bách niên giai lão... loan phụng hòa minh..." Tất cả đều đẹp, toàn vẹn, lý tưởng. Người ta không quên vẽ ra trước mắt một bầy con kháu khỉnh khỏe mạnh để cô dâu chú rể theo đó mà cố gắng sản xuất. Có một đoạn diễn văn nói đến trách nhiệm của đôi tân hôn nhân: xây dựng gia đình để làm nền tảng kiến thiết xã hội. Nhiều trách nhiệm quá nên chắc chắn là đôi vợ chồng mới không thể nhớ hết, làm hết. Ðiều phải nhớ cấp thiết là lo chạy tiền thuê trả trước nửa năm và mua cái giường bề ngang một thước sáu.

Cuộc ăn uống vồn vã bắt đầu. Những người hầu bàn đứng canh chừng ở mọi góc phòng. Quỳnh rót whisky mời tôi và nàng nhận một ly coca có pha bia do tôi mời lại.

- Ông nên say trong bữa tiệc hôm nay.

- Cô cũng vậy. Cô cũng phải say như tôi.

Tôi chỉ lên bài văn viết bằng chữ hán trên vách:

- Bài văn kia tán tụng sự ăn mà không ca tụng sự say.

- Ông hiểu vì sao không?

- Có lẽ vì khi say người ta hay nói bậy bạ và hành động bậy, nên chủ tiệm không khuyến khích.

Quỳnh gật gù:

- Có thể. Người say hay phá phách và gây sự. Cũng cần có thêm một lý do này nữa, lý do quan trọng: "đó là khi hắn say hắn sẽ quên trả tiền, hoặc hắn tưởng là hắn có một nghìn đồng khi trong túi chỉ còn hai trăm."

Tôi thú vị cười với Quỳnh.

- Ông đã say nhiều lần chưa?

- Ít lắm, tôi sống có chừng mực nên không cần đến rượu.

- Thế nghĩa là?

- Nghĩa là người ta cần nhờ đến rượu khi đã trót say vì một cái gì khác mà không toại nguyện. Say vì tình nhiều nhất. Say trong ảo vọng, trong tuyệt vọng. Tôi mới thất vọng chứ chưa tuyệt vọng.

Tròng đen của mắt Quỳnh ngước lên nhìn tôi và tâm hồn tôi chao đi, chết đuối trong hai chấm đen chập chờn đó. Một cảm giác ấm áp choàng lên mặt, lên ngực, tôi nghĩ chắc đó không phải vì rượu.

Những món ăn kế tiếp, món nào cũng ngon cũng trình bày lạ và đẹp mắt. Thần kinh lưỡi tha hồ mà báo tin về trung khu cảm giác. Nhiều giọng ca miễn cưỡng. Nhiều giọng ca cố ý làm ra miễn cưỡng nhưng thực tình đã chuẩn bị sẵn và không được hay. Thừa lúc cử tọa nhốn nháo, tôi lẻn ra khỏi phòng, đi thẳng lên sân thượng. Chân không được vững và đầu hơi choáng váng. Gió đêm mát thổi từ mặt sông đen. Ðèn phố chi chít, cuộc sống choàng lấn vào nhau ở dưới chân tôi. Tranh giành. Âu lo. Ðau khổ. Tôi nhìn lên nền trời rộng rãi. Màu đen làm đêm thêm dày. Bí mật. Câm nín. Và con người cảm thấy lẻ loi, bơ vơ. Một mảnh trăng lưỡi liềm úa héo cài lửng lơ. Một năm sau, tôi sẽ đứng ở một bót gác giữa lưng đèo, trên chỏm núi, ven bờ rừng để nhìn lên vòm trời như đêm nay với mảnh trăng úa héo. Và ở nơi đô thị xa này, Lan và Thái an ổn cạnh một bóng đèn điện sáng mát. Những người đàn ông, -Thái và tôi- phải đổi phiên cho nhau. Ðàn bà được ở một chỗ để đón nhận và chọn lựa.

Tôi kêu lên những tiếng khoắc khoải: Lan, Lan, Lan.

Có tiếng giày bước lên bực thang và mùi nước hoa ngọt ngào. Quỳnh lại gần tôi:

- Chị Lan tìm ông để mời ngâm thơ nhưng không ai tìm thấy ông ở đâu. Người ta đoán ông đã đi về trước.

- Ở dưới đó người ta đang ở mục nào rồi, cô?

- Ðang kể chuyện vui và ngâm thơ. Sao ông lại lên đây?

- Thay đổi không khí một chút. Còn cô?

- Cũng như ông vậy. Tôi không chịu được khói thuốc lá.

Ngừng một giây, Quỳnh nói:

- Lúc nãy anh Thái và chị Lan có song ca một bài. Tình tứ lắm. Anh thì: "núi cao anh cũng trèo, sông sâu anh cũng lội, vạn đèo anh cũng qua" còn chị thì "gió lay cành đa, em thương, em thương, em thương anh thật thà...".

Tôi bật cười gật gù nhìn Quỳnh.

- Khi say, - tôi nói - người ta xông xáo vào đời mà không cần mặc cả. Hôn nhân cũng làm cho người ta say như Johnny Walker.

Quỳnh ngắt một đóa hoa lài ở bụi hoa cạnh đó trao cho tôi.

- Hình như tháng năm này ông phải đi Thủ đức?

- Vâng.

- Có phải vì thế mà cuộc hôn nhân của ông với chị Lan không thành?

Tôi không muốn dối nữa.

- Có lẽ cũng vì đó một phần.

- Ông nghĩ rằng chiến tranh có thể cản trở người ta yêu nhau?

- Vâng, tôi nghĩ như vậy.

- Tôi thì không cho như thế. tôi nghĩ rằng khi người ta yêu nhau rồi thì chiến tranh, tàn phế, chết chóc... không còn mãnh lực nữa.

- Ðó phải là một tình yêu lý tuởng chỉ có ở thế kỷ trước.

- Ông bi quan. Tôi thấy tôi có thể yêu, đợi chờ và nếu vạn nhất mà người yêu của tôi tử trận, tôi cũng không hối tiếc vì mình đã chọn lựa con đường đó.

Tiếng ghế xô đẩy ồn ào ở phòng tiệc. Tôi nhìn đồng hồ và nghĩ rằng người ta đang ra về. Tôi nói:

- Tiệc vãn rồi, mời cô xuống trước. Và chúc cô một giấc ngủ êm đềm.

- Ông nhớ viết thư cho tôi dù ở Thủ đức hay đi theo đơn vị.

Bàn tay nàng vẫn đặt lên trên mép của chậu hoa ở cạnh tôi. Tôi muốn cầm bàn tay đó, giữ chặt giữa lòng bàn tay mình.

Nàng chậm rãi bước xuống thang gác, đi lẩn vào đám đông. Tôi đợi một lát sau mới xuống theo...

Rượu mạnh và khói thuốc làm tôi trằn trọc trên giường không ngủ được. Tôi bật đèn giường mò lấy quyển sách. Ðó là quyển "Người tình của Chatterley phu nhân" tôi đang đọc dở dang. Chatterley. Chiến tranh. Lan. Quỳnh. Tôi bơ vơ. Quỳnh. "...Tôi có thể yêu, đợi chờ và nếu vạn nhất mà người yêu của tôi..." Chatterley phu nhân cũng định làm như vậy. Cũng muốn hy sinh cuộc đời mình để săn sóc cho người chồng đức hạnh. Nhưng cuộc đời... Cuộc đời...

hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 03.12.2012 21:20:14
7. TRỞ VỀ


Xe len lỏi giữa những lỗ thủng. Con đường bị đào khoét rậm quá. Số lỗ thủng nhiều đến nỗi đôi cánh tay ôm vô lăng của Luy hết xoay qua đến quay trả lại, quay có cái đến nửa vòng lia lịa như một người lái xe thi đoạt giải ở hội chợ. Bánh xe phải tránh những cái ổ gà chi chít. Luy quay sang tôi:

- Hôm trước ở Sài Gòn ra bị kẹt máy bay, phải đi xe đò. Khi xe tới Phan Rang, một bà hành khách hỏi người tài xế: “Đường từ đây ra Nha Trang còn mấy trăm cây số nữa ông?” Tôi đố anh, ông tài xế trả lời thế nào?

Tôi ngẫm nghĩ chưa trả lời. Luy hay đặt những câu hỏi bất ngờ, tưởng dễ mà hóa khó và nhiều khi tưởng khó tôi loay hoay moi óc tìm lời giải đáp thì câu trả lời lại quá đơn giản, gần như hiển hiện ra trước mắt. Luy cười xòa, thấy tôi đang nhíu mày.

- Thôi, tha cho anh kỳ này. Ông tài xế trả lời rằng: “Đường còn năm mươi cây số nữa”.

Tôi phản ứng:

- Đường Phan Rang - Nha Trang tới một trăm mười cây số mà.

- Đồng ý. Nhưng ổ gà lỗ thủng chiếm mất sáu mươi cây.

Luy quay mặt gần tôi cười thú vị và tôi cũng thích thú cười theo. Những nhận xét thông minh kích thích niềm vui của tôi như rượu và thuốc lá. Tôi yêu vẩn vơ anh tài xế thông minh đó.

Hồi sáng, khi mang hành lý ra xe, tôi để cái vét-tông ra ngoài, định lên đèo Ngoạn Mục là choàng vào. Luy nói:

- Đưa đây tờ báo. Mau lên.

- Làm gì? - tôi hỏi.

- Gói cái áo này lại. Gói kỹ. Anh không thể tưởng tượng con đường sẽ bụi bặm đến mức nào. Cái sơ mi của anh sẽ vàng. Cái áo vét-tông của anh sẽ mốc. Luy vừa nói vừa gói cái áo, đem bỏ trên nệm xe.

Khi đến Mỹ Ca, xe chúng tôi phải nối đuôi một cái xe chở dầu mười bánh dài ngoẵng do một quân nhân Mỹ lái. Mỗi lần phải tránh một chiếc xe đi ngược chiều, chiếc xe Mỹ đi sát vào lề đường và bụi tung lên mù trời. Chiếc xe đi ngược chiều cũng lái sát lề và cũng tung bụi phần nó. Tha hồ tung bụi, chẳng ai cấm ai. Cứ chừng mười phút là gặp một đoàn công-voa. Tiếng còi thét. Những chiếc xe nhà binh cao nghễu nghện mở đèn giữa ban ngày như dọa thân xe nhỏ nhắn của chúng tôi. Qua màn bụi dày, lờ mờ hình dáng những người lính ngồi trầm ngâm nhìn ra hông xe, nhìn ra sau xe, tay khư khư ôm súng.

Chiến tranh đã gặm nát đến cả con đường quốc lộ, con đường giao thông chính, đại động mạch của miền đất này. Ở các thôn xóm xa, sau lớp cây xanh lặng yên, sau những dãy núi trùng điệp nằm dán sát chân trời, chiến tranh ra sức tàn phá. Nhìn qua kính xe thấy có ba chiếc phản lực cơ đi thành hàng về một nẻo xa ở chân trời phương Tây. Ba chiếc tách rời ra rồi luân phiên nhào xuống. Chết chóc ở nơi đó. Sự chết từ trên cao rơi xuống, theo chiều ngang tràn xuyên qua, từ dưới đất vọt lên.

Có những đoạn đường đang được vá víu lại. Ở mỗi chặng như thế có chừng năm, sáu người phu. (...Kiểm duyệt bỏ…) Những người đàn bà và những đứa con nít đó làm việc chậm chạp âm thầm.

Trước mặt chúng tôi, chiếc xe chở dầu vẫn lầm lũi chạy. Luy định lách chạy trước nhưng cứ mỗi lần chuẩn bị thì đều thấy ở đằng trước một chiếc xe lùi lũi chạy lại. Cuối cùng anh nói:

- Thây kệ. Để cho nó chạy trước dò đường dùm mình. Cứ nhìn nó là đủ biết đoạn đường nào lồi lõm cần chạy chậm

Luy có những sáng kiến bất ngờ như vậy. Có nhiều đoạn chiếc xe chở dầu nhảy chồm chồm lên. Khi chạy lại gần, chúng tôi thấy con đường lở lói dày đặc, không có chỗ tránh. Phải chạy chậm lại. Thân xe rùn rẩy vật vã. Luy lẩm bẩm:

- Ổ gà tập trung về đại hội ở đây. Chết chết, chỗ kia nữa. Đại hội ổ gà nữa.

Có những đoạn con đường nhựa uốn lên lượn xuống như đợt sóng. Như mặt tôn dợn sóng dùng để lợp nhà. Nhờ chiếc xe chở dầu báo trước, Luy lại cho xe chạy chậm.

- Tay lái nào chạy ẩu qua đây thắng không kịp dám gãy sườn xe lắm - tôi nói. Nên mình càng biết ơn chiếc xe nhà binh chở dầu đó.

Ba Ngòi. Kinh đô của bụi. Bụi vàng. Bụi đỏ. Gió thổi cuốn bụi xoay thành cột, di chuyển trên cánh đồng. Những trại lính. Những sân máy bay. Xe ủi đất. Xe vận tải, tám bánh, mười bánh. Trên cánh đồng mênh mông khô cháy, cứ chỗ nào có bụi cuốn lên là y như có một chiếc xe nặng nhọc lầm lũi chạy. Quán giải khát chạy thành dãy dài. Kiểu nhà giống nhau, vách dựng bằng tôn màu xanh. Quán nào cũng trống vắng. Tấp nập chỉ dành về đêm, các cô chiêu đãi viên chắc giờ này còn ôm nhau ngủ. Những hộp giấy, những lon nước giải khát màu lòe loẹt bỏ vãi từng đống. Di tích sinh hoạt của những quân nhân Mỹ.

Xe phải qua nhiều trạm kiểm soát. Trên bảng đề là “kiểm soát tài nguyên”. Xe du lịch được đi thẳng, xe đò phải ngừng lại trình danh sách hành khách có ghi số thẻ kiểm tra. Thế là chỉ kiểm soát người. Người có thể được coi như là tài nguyên. Trong một nước bị tàn phá thì tài nguyên còn sót lại là con người, con người với hai bàn tay. Thỉnh thoảng có tấm bảng đề: ICE SELL HERE hoặc HERE ICE, hoặc hình vẽ một bàn tay có ngón chỉ về chữ ICE. Một người đàn bà héo hắt ngồi bên cái thùng gỗ cạnh tấm bảng. Có tấm bảng đề VEHICULES WASHING. Một hai người đang xịt vòi nước rửa xe. Người quân nhân Mỹ, - ý hẳn là tài xế, - ngồi hút thuốc bên cạnh. Khói bay lên ở nơi này, nơi kia. Luy nói:

- Tụi Mỹ nó có cái tật hay đốt. Chẳng biết đốt cái gì mà cứ ngày nào cũng có chuyện để đốt. Hễ thấy Mỹ là thấy khói đốt.

- Giấy bọc, hộp bìa cứng. Chắc chắn không phải là những tài liệu cần hủy bỏ.

- Anh có nói tôi mới nhớ. Việc thủ tiêu tài liệu cũng đòi hỏi rất nhiều kỹ thuật khoa học. Hãng thầu của tôi đã có lần được giao phó việc xây những cái hầm tinh vi để đặt lò đốt tài liệu. Tài liệu vừa là giấy, vừa là phim. Hàng tấn tài liệu như vậy, không phải dễ mà đốt cho cháy tiêu, đốt cho thật mau, đốt cháy tan tành không còn chút dấu vết.

Xe qua trạm kiểm soát của quân đội Mỹ và quân đội Đại Hàn. Những con mắt dò hỏi. Căn cứ theo tiêu chuẩn nào mà tin để cho qua hay nghi để giữ lại? Những người lương thiện cũng hồi hộp. Nếu người lính canh đó bắt xuống xe, giữ lại chỉ một mình mình ở giữa miền hoang vu này thì mình sẽ đối phó làm sao? Giải thích trình bày bằng thứ ngôn ngữ nào?

Tháp Chàm. Đầy dẫy những Snack bar và tiệm giặt. Tên cửa tiệm là những tên Hoa Kỳ: Mickey bar, Melody bar, Ohio laundry service… Chữ viết nhiều kiểu, nhiều màu lòe loẹt chói chang: xanh dương, xanh lá cây, đỏ, da cam, vàng. Mỗi song cửa một màu, mỗi lá sách một màu. Người Mỹ thích màu lòe loẹt hay người Việt ta tưởng vậy? Tôi nghĩ đến những cái chuồng bồ câu sơn phết nhiều màu, vẽ vời rằn ri để dụ những con chim.

Đi qua con đường quốc lộ số 11, tâm hồn tôi chợt thấy âm u. Con đường kỷ niệm. Những thôn xóm yên lặng nằm hai bên đường như chưa bao giờ biết đến sự đổi thay. Mái nhà xám đen và vách đất cũng xám đen. Đồng Mé. Luy nói:

- Miền này hồi nhỏ tôi có ở, nhưng ở mãi trong xóm sâu kia. Xung quanh là người Thượng. Ở đây đặc biệt có những khoảng đất mọc đầy cà chua. Tha hồ hái, hái không hết. Lại có những khoảng đất mọc đầy ớt. Người Thượng họ không hái trái ớt đem về nhà mà họ nhổ luôn cả cây ớt. Lấy lá ớt làm rau ăn luôn.

Thật là những người sung sướng - tôi nghĩ.

- Vùng này có nhiều trăn. Hồi đó ông già tôi hay đặt mua trăn để lột da gửi xuống Sài Gòn. Người Thượng bắt trăn đem đến bán. Khi tập trung chừng được mươi con mới mổ một lần.

- Mổ lấy da rồi còn thịt làm gì?

- Thịt cho đồng bào Thượng. Họ đem về chặt khúc phơi khô ở trụ hàng rào. Tha hồ ruồi và ong đến bâu, đục khoét, xâu xé.

Cầu Tân Mỹ. Chòi canh cao bay phất phơ lá cờ. Một người lính ngồi ôm súng nhìn không gian chập chùng đồi núi. Lô cốt. Trại lính. Hai mươi năm trước đi ngang qua đây cũng đã thấy chòi canh, lô-cốt và trại lính. Người dân không có thì giờ nghỉ ngơi. Hai mươi năm đủ để đào tạo một thế hệ. Người lính đang ngồi trên chòi canh đó có thể là con của người lính tôi đã gặp hai mươi năm trước, đứng canh gác cầu này. Các thế hệ kế tiếp nhau đã chuyền cho nhau tiếng nói và cây súng. Nước chảy dưới cầu. Những đồi cát nằm im giữa lòng sông.

Luy chợt hỏi:

- Đã mấy năm nay anh không lên Đà Lạt bằng đường ô tô?

Tôi lẩm nhẩm làm con tính trừ.

- Sáu năm.

- Sáu năm! - Luy la to lên, ngạc nhiên như anh vụt thấy một con tê giác đi nghênh ngang giữa đường Lê Lợi.

Luy sẽ ngạc nhiên đến mức nào nữa nếu tôi nói đúng sự thật? Sự thật là: không phải sáu năm mà đã mười năm rồi. Mười năm là khoảng thời gian đủ để biến đổi một đời người. Từ ngày Bảo mất đi, tôi không muốn trở lại thành phố này. Những con đường, những đồi thông sẽ nhắc đến những ngày cũ. Luy nói:

- Sắp đến Krong Pha. Quãng đường này ít bảo đảm hơn hết.

Krong Pha. Giang san của củi rừng. Chỗ nào cũng có cành cây. Củi khô nằm ngổn ngang. Tự nhiên thấy thèm một mồi lửa. Những cành củi đó sẽ cháy rần rật tỏa ra một sức mạnh khủng khiếp. Những cây dầu nhỏ mọc rải rác. Lá to như tai voi. Krong Pha, ải địa đầu của ánh nắng nhiệt đới. Từng nhóm ba, bốn người phu lục lộ sửa đường ngồi tụ họp trên những thân cây ngã, trên những đống củi. Màu áo nâu mốc và màu da khô sạm, hòa hợp với màu lá, màu vỏ cây khô. Từng đoàn xe xuôi ngược vút qua và cuộc đời những người ngồi đó như đứng dừng lại một chỗ, buồn và tối. Những vùng đời không có lối chảy tựa hồ những vũng nước tù hãm.

Xe leo lên đèo. Những vòng cua liên tiếp. Cuộc leo đèo nhẫn nại trì chậm. Không khí bắt đầu mát ở ngoài xe, tôi giơ cánh tay ra ngoài, thò đầu ra ngoài. Cây thông đầu tiên! Những bụi dương xỉ xanh tươi đầu tiên. Mũi xe uốn lượn theo con đường quanh co. Đèo Ngoạn Mục. Thông mọc dày hơn. Rừng tranh cao. Đơn Dương. Hồ nước Đa Nhim. Thành phố không thay đổi bao nhiêu. Những khu vườn rau nhỏ lắp vào khe thung lũng hẹp. Giàn su-su xanh mát. Con đường này, những ngày đầu kháng chiến tới nay tôi hay đi. Tôi còn nhớ rõ những đoạn đường tắt xuyên qua sườn núi.

Trạm Hành. Hiệu buôn của người Hoa kiều vẫn một màu trắng bẩn, cũ kỹ như ngày tôi gặp nó đầu tiên. Chắc chắn cái quầy hàng vẫn nằm im chỗ cũ, vẫn những hộc đựng thuốc Bắc, những ngăn tủ bày cao đan hoàn tán, nhang và giấy tiền vàng bạc, mì bún, xà phòng, bóng đèn, guốc dép… Cảnh và vật chịu đựng với thời gian dai sức hơn người. Nhà bà Bohner! Còn đâu nữa những ngày tôi ngồi ở ban công nhìn xuống rừng núi chập chùng dưới tầm mắt mình. Nơi đây tôi đã sống những ngày buồn. Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua. Tôi muốn tìm một cái gương để soi nhìn bóng mình. Tôi muốn nhìn lại bóng dáng mình bước những bước cô đơn trên con đường heo hút này, trên lối đi trải đầy lá ngo rụng này, trong khu vườn nhỏ mọc rải rác những bụi cà phê, những thân hoa anh đào, hoa hương mộc. Xa lạ và cách biệt biết bao giữa hai bức ảnh đó.

Cầu Đất. Đồi chè nối tiếp. Những bụi chè tròn trịa xanh mướt nằm khoảng cách đều đặn. Con đường lại lên xuống quanh co. Rừng thông và rừng thông. Những ngôi nhà bằng ván. Má phúng phính màu hồng rám nắng của những cô gái. Áo len choàng trên vai những người đàn bà. Con đường vui vì tấp nập. Nhà liên tiếp và người đông đảo.

Trại Mát. Chợ, xe ba bánh, cửa hàng tạp hóa. Nhiều người tập trung trước một hiệu buôn gạo, tay cầm thẻ gia đình. Nếp sống đặc biệt của thành phố. Thành phố đã bắt đầu. Đại lộ Trần Hưng Đạo: Biệt thự. Biệt thự. Dấu vết sáng tạo của người Pháp, khung cảnh của Auvergne, Gascogne. Người Pháp đã kịp thời xây dựng một thành phố Đà Lạt trước khi ra đi. Không một thành phố ở trung châu nào nhắc nhở đến họ mạnh mẽ cho bằng Đà Lạt.

Luy có việc phải đi thẳng Sài Gòn. Nhàn mừng rỡ khi tôi gõ cửa bước vào nhà.

- Anh mới lên hả? Sao không đánh điện cho cho em biết để em đi đón? Anh đi bằng Air Việt Nam hả?

Hoa cắm ở bàn xa-lông, ở bàn ăn. Màu tím của hoa lai ơn gói những nỗi buồn đậm. Nhiều rèm ở khung cửa sổ. Da mặt Nhàn trắng mát khi tôi đứng lại gần cầm bàn tay nàng đưa ra bắt. Nhàn là bạn của tôi và của Bảo.

- Trông anh trẻ ra so với hồi em xuống thăm anh năm ngoái.

Tôi cười:

- Nếu cảm tưởng đó không vì xã giao mà có thì là vì khí hậu của miền cao nguyên. Khí hậu cao nguyên làm cho người ta trẻ đi. Thắt ca-vát và mặc com-lê vào thì con người có hy vọng đẹp thêm vài chục phần trăm.

- Em không xã giao đâu. Cái lý do thứ hai có lẽ đúng.

Năm ngoái, Nhàn xuống miền nhiệt đới thăm tôi. Mồ hôi và ánh nắng làm mệt nhoài con người, làm tóc râu bơ phờ, làm tia mắt lơ đãng. Tôi hỏi:

- Hữu đâu?

- Ở với vợ hai. Em cho Hữu tự do ở với vợ hai.

- Mấy đứa nhỏ?

- Cho ở nội trú hết. Em ở một mình. Thong thả như một con chim.

Không phải là một con chim có hạnh phúc, tôi nghĩ vậy. Gia đình này tan rã chỉ vì giàu, giàu gấp ráp, vội vã, bất ngờ. Đang buôn thua bán lỗ, tôn sắt chất đống nghẹt kho thì chợt vật giá lại cao vọt lên, hàng họ khan hiếm. Tha hồ kiếm tiền. Tiếp theo sau, tiền đẻ ra tiền và cặp vợ chồng này trở thành mười lần triệu phú. Hữu chạy theo đàn bà, bao gái nhảy, chiếm đoạt vợ người khác. Khi thành công được trong địa hạt tài chánh, người đàn ông thường tăng thêm tự tin để xông xáo vào các địa hạt khác. Có người thì nhảy ra làm báo. Có người thì chợt thấy mình có nhiều kiến thức chính trị nên nhất định ứng cử vào Hội đồng Tỉnh, vào Quốc hội. Những tấm danh thiếp được lật đật in lại, ghi thêm chức vụ mới. Địa hạt ái tình thì dành chung cho mọi người. Đồng tiền làm cho họ đẹp đẽ và hoạt bát. Đàn bà cũng vậy. Nhàn có mặt trong những buổi tiếp tân, những party và Nhàn có nhiều nhân tình. Họ bình đẳng với nhau trong việc hưởng thụ và đồng ý xé nát gia đình ra làm hai mảnh.

Nhàn nhường phòng cho tôi ngủ đêm hôm đó.

- Để em ngủ bên phòng kia. Cho anh ngủ trong một phòng đàn bà để lấy hên. Có lẽ anh sẽ mau lấy vợ, nhờ đó.

Quả thật tôi đã khó ngủ trong một căn phòng đàn bà, có cái gì dịu ngọt, mê ảo làm xao xuyến tâm hồn tôi. Hàng dãy áo dài treo trên mắt. Thắt lưng, áo eo lại làm tôi nghĩ đến một vòng tay đang siết chặt. Những bộ pyjama màu hồng, màu vàng cổ viền đăng ten hay thêu những cành hoa, đóa hoa trên ngực. Bàn phấn thấp và mặt gương sáng dọi lại hình tôi. Chi chít những lọ nước hoa trên bàn. Tôi mở lọ nước hoa oeillet. Mùi thơm quen thuộc. Ngày trước, trên lối đi trước sân nhà tôi thích nhất là những cành oeillet màu hồng. Oeillet có nhiều màu: trắng, vàng, tím, hồng. Đẹp nhất là hoa màu tím chen từng nét trắng, ở miền trung châu trồng được và được gọi tên là hoa cẩm nhung hay cẩm chướng. Nhưng chỉ có hoa màu hồng là thơm. Một lọ nước hoa nhỏ xíu đã bong mất nhãn hiệu. Mùi thơm cay. Tôi nhớ đến mùi hoa linh lan. Lọ phấn. Thỏi son. Lược và bàn chải tóc. Giày mule màu trắng. Xắc tay.

Màn hoa kéo ở khắp cửa sổ. Mùi phấn thơm nơi gối. Đèn giường tỏa ánh sáng ấm. Tôi lắng tai nghe tiếng động xung quanh, ngoài đường. Chỉ có sự im lặng. Những vật gần gũi với tôi: áo, chăn, rèm cửa, lọ nước hoa thì rộn ràng cất tiếng, thứ tiếng nói lặng lẽ, tiếng khơi động, tiếng thúc giục, tiếng an ủi. Tôi lăn qua trở lại trên giường. Tôi nằm úp mặt xuống gối. Những dáng người, những khuôn mặt lẫn lộn quay cuồng trong óc khiến tôi không thể nhắm mắt. Tôi đứng dậy ra đập cửa phòng Nhàn:

- Em cho anh ngủ một phòng trần trụi đơn sơ hơn. Anh quen như vậy rồi.

Nhàn khoát tay:

- Không được. Không được. Thói quen đó đã hại anh. Phải tập cho quen trở lại không khí đàn bà. Anh về phòng đi. Bonne nuit.

Nhàn mỉm cười vừa khép cửa. Trong bộ áo ngủ màu vàng, nàng đầy đặn như một đóa hoa thược dược.

Sáng hôm sau khi ngồi điểm tâm, tôi hỏi:

- Em đề nghị anh đi thăm ai trước?

- Quý và Tân.

- Tân đổi đi Pleiku rồi mà?

- Vừa được cho về Đà Lạt.

Tôi đến thì Quý và Tân đi lễ chưa về. Huyền chạy ra mừng:

- A! Cậu mới lên. Tháng trước cháu viết thư cho cậu, cậu có nhận được không?

- Được.

- Sao cậu không trả lời cháu?

- Quên mất. Vả lại, cậu định lên Đà Lạt thì viết thư trả lời làm gì cho dư việc?

Huyền không kịp đợi tôi hỏi thăm kết quả học hành, đã vội xoắn hỏi tôi về những điều nó thắc mắc trong thư.

- Cậu nghĩ xem cháu có nên yêu thằng Ninh như nó đợi chờ không?

- Cứ để mặc cho nó đợi chờ, cậu nghĩ vậy.

- Nhưng cháu sợ nó không đợi chờ lâu được. Lũ con trai thường không nhẫn nại.

- Nếu nó không nhẫn nại được thì càng là một cớ để mình đừng yêu.

Câu trả lời xem chừng không làm cho Huyền bằng lòng. Tôi chậm rãi bật diêm đốt thuốc vừa liếc nhìn nó loay hoay ngồi không yên trong chiếc xa-lông rộng.

- Huyền chỉ có một mình thằng Ninh?

- Không. Cháu có khối thằng. Thằng Đức sinh viên văn khoa. Thằng Tri sinh viên kinh tế. Thằng Duyệt sinh viên trường võ bị. Ba thằng chia nhau những ngày nghỉ lễ của cháu.

- Sao lắm thế.

- Cháu cũng không biết nữa. Tại tụi nó đó. Cháu không ưa hẳn thằng nào nên cháu phải đi chơi cả ba đứa. Lắm lúc thấy cũng mỏi.

- Đã thế lại còn tuyển thêm một thằng thứ tư?

- Để thỏa mãn tính kiêu ngạo. Thằng Ninh bảnh trai và nhà giàu. Bố nó có lần làm Tổng trưởng dưới thời ông Nguyễn văn Xuân hay ông Trần văn Hữu gì đó.

Nó có nhiếu bồ đẹp và quý phái lắm ở bên Grand Lycée. Đi chơi với nó cũng là một lối trang sức.

Câu chuyện không làm tôi thoải mái. Huyền mới học seconde. (1 ) Tôi nghĩ rằng thành phố này phải trí thức hơn cái lối làm tình ái ồn ào đẫm mồ hôi của những đô thị lớn, của những tỉnh miền nóng. Ở những nơi đó người t a mặc áo hở cánh tay, hở, cổ; da lưng, da bụng hiện qua lớp vải mỏng trong suốt và thịt nổi cuồn cuộn làm bật tung những chiếc khuy áo. Ở những thành phố xô bồ đó, không khí sặc mùi da thịt. Người ta sống gần nhau quá, sát vách sát rào, chung chia từng mảnh sân hẹp từng khối không khí đứng theo chiều cao. Đà Lạt không khêu gợi dục vọng. Áo che kín đáo. Da tươi mát không đẫm mồ hôi. Không hiểu bị ám ảnh nào mà tôi có thành kiến rằng mồ hôi hay khơi dậy dục vọng. Tôi xoay mình gián tiếp tỏ một sự mệt mỏi và bảo Huyền:

- Còn quá sớm để nói chuyện đó với Huyền. Huyền mới mười sáu tuổi. Phải mọc thêm năm phân chiều cao nữa.

- Cậu lạc hậu cũng như ba cháu. Thời bây giờ không thể sống theo quan niệm của ông Khổng tử. Ông Khổng tử có lý vào thời của ông ta. Nửa thế kỷ trước, Maurice Dekobra đã mặc áo pull over cho ông Khổng tử rồi. Nửa thế kỷ! Bao nhiêu là cách biệt. Nhưng được, thôi để nói chuyện về cậu. Má cháu có để dành cho cậu một cô đẹp lắm.

- Tên?

- Phương Lan.

- Nghề?

- Tốt nghiệp Quốc gia Hành chánh. Hiện làm ở tòa Đô sảnh.

- Tuổi?

- Ba mươi hai. Đẹp. Hiền lành.

- Cám ơn má cháu, nhưng cậu không tin tưởng lắm. Đây không phải là người đầu tiên mà má cháu để dành cho cậu. Vả lại, tháng Năm không phải là tháng hạp để nói chuyện hôn nhân. Có lẽ chúng ta đi một vòng quanh hồ thì dễ chịu hơn.

(1) lớp đệ nhị

Hồ hắt từng hơi gió lạnh. Dãy cây bách không lớn hơn bao nhiêu. Lá nhọn hay trái nhọn, cành non bọc vảy chi chít như thế nào, tôi cũng vẫn không lưu ý nhìn kỹ. Tôi chỉ nghĩ rằng chúng đã đứng ở đó ngày xưa và bây giờ chúng vẫn còn đứng đó, xoa dịu một nỗi bồi hồi nào trong hồn tôi và sự hiện diện của chúng làm tôi yên tâm. Những người đã cùng tôi thường đi trên đường này và những người tôi hay nghĩ đến khi đi thơ thẩn trên đường này bây giờ còn ai? Bảo từ trần đã mười năm. Chị Mai theo người yêu tập kết ra Bắc. Phương lấy chồng hiện làm quận trưởng quận… quận gì? Đức Trọng? Khánh Dương?… Những tên quận nhiều quá, lẫn lộn. Thérèse làm cô giáo ở một tu viện. Thời gian bôi những nét xám trên khuôn mặt của họ.

Tôi bảo Huyền:

- Đây là cầu ông Đạo. Đố Huyền biết vì sao gọi là cầu ông Đạo không?

Huyền lắc đầu.

- Vì ngày xưa chỗ góc kia là Tòa Quản đạo. Bây giờ Tòa Quản đạo bị phá đi để chỗ làm con đường vào chợ, để chỗ xây những dãy nhà dù đó. Nơi chợ mới, trước kia là vườn rau của đồn lính khố xanh.

- Cậu thuộc kỹ lịch sử của thành phố này quá.

- Đâu có được như vậy? Đó mới chỉ là một giai đoạn. Thành phố này chỉ già bằng một đời người. May ra còn lại một vài cụ già đã từng lên đây khai phá theo chân ông Yersin.

Chợ bày bán nhiều hoa. Trên tầng lầu tấp nập theo kiểu chợ Bến Thành. Những người đi lượn trong đó xa cách với tôi quá. Họ ồn ào, vui vẻ, hoạt động. Họ đang làm chủ cái thành phố này. Và tôi có cảm tưởng lạc lõng giữa họ. Một người đàn bà giẫm lên chân tôi và xuýt xoa xin lỗi. Tôi chỉ mỉm cười vừa phải, thiếu hẳn nhiệt tình mà tôi có thể trao cho một người đàn bà đẹp và lịch sự như thế trong một trường hợp tương tự. Cái cảm tưởng lạc lõng đó không rời tôi khi tôi đi theo những con đường quanh chợ. Các con đường đều đã thay tên. Không còn nữa, những tên đường Thống chế Foch, đường Lacaze, đường Annam, đường Cầu Quẹo. Vài hiệu buôn còn sót lại từ ngày xưa: Vĩnh Chấn, Chic Changhai, Phúc Thái Lai…, nhưng sự rộn rịp và người đứng bán hàng đều đã thay đổi.

Huyền cười chào những thanh niên đi ngược chiều. Họ mặc quần chật, tóc lòa xòa và đeo gương lớn. Aùo len thùng thình. Huyền giới thiệu sau khi họ đi qua. “Thằng Hợp sinh viên Văn khoa… Thằng Lý sinh viên Sciences Po… (2 )

Đà Lạt có một món trang sức mới: trường Đại học. Chữ “sinh viên” làm đẹp câu đối thoại. Mọi người đều có phương tiện để vươn lên. Ai cũng có, hoặc một người con “sinh viên”, hoặc một người quen “sinh viên”, một người khách hàng “sinh viên”. Bắp sú, xà-lách-xoong, cà-rốt, hoa mõm sói không làm cho người ta hãnh diện.

Đêm Đà Lạt mời mọc nghỉ ngơi. Đóng kín cửa lại, cắt đứt mọi giao thiệp với cảnh vật bên ngoài. Tôi mở cửa ra ban-công. Sương xuống ướt sũng sàn xi măng. Sương từng giọt từ mái bếp tôn lộp độp rơi xuống mặt đất. Giọt nước mắt của Đêm. Những người buồn chắc sẽ đỡ cô đơn khi đêm tối cùng chung chia giọt nước mắt với họ.

Mười giờ tối đêm trước, khi ngồi uống cà phê ở hiệu Cà phê Tùng, Nhàn hỏi:

- Anh không có ý định trở về sống ở Đà Lạt?

Tôi gạt tàn thuốc để có thì giờ suy nghĩ.

- Ở chỗ nào rồi cũng như nhau, tôi trả lời. Cũng bất tiện như nhau. Anh đã chán ngấy cái thành phố của anh nhưng không vì thế mà dễ lên ở đây được. Những chán ngấy như những lớp bụi. Chúng nó chụp lên ta mỗi ngày một ít, cho đến một ngày nào đó ta sẽ đồng hóa với bụi.

Nhàn cười:

- Bọn em ở đây thì đồng hóa với sương mù, sương mù làm lạnh con người.

- Đó không phải là trường hợp của em. Trong em có một lò lửa dữ dội. Coi chừng những đám cháy.

Nhàn đập vào vai tôi và tôi gọi bồi tính tiền. Đi trong đêm lạnh thấy vừa vui vừa buồn. Thành phố như một bức tranh treo trước mắt. Nhà ở từ lũng sâu leo từng bực từng bực lần lên tới đồi cao. Ánh đèn dăng theo, chi chít. Đêm không nghe tiếng súng. Ở dưới miền xuôi khó có thành phố nào mà đêm không nghe đại bác nổ ì ầm và súng máy lạch tạch hàng tràng dài. Con đường uốn cong theo chân đồi. Cây, lá, cỏ. Tôi vụt cười vì một ý nghĩ vừa trở lại trong óc. Nhàn hỏi:

- Anh cười gì?

- Vì một chuyện nhảm nhí thô tục không tiện nói ra.

- Anh cứ làm bộ mãi.

- Ừ thì nói. Hồi chiều đi trên đường Hùng Vương anh chợt có ý nghĩ: ở Đà Lạt đi đường nào cũng có thể tiểu bậy được. Sẵn sàng có bụi cây và lá cỏ đồng lõa với mình.

Nhàn “xì”:

- Đàn ông các anh… Nhảm nhí hết sức.

- Đúng. Vừa cao siêu vừa nhảm nhí. Nhưng phải lang thang trên những con đường của các thành phố miền xuôi: Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng… mới thấy những bụi cây lá cỏ, những khúc quanh liên tiếp của con đường Đà Lạt là quí.
Những ngày tiếp theo, tôi lùng tìm các bạn cũ còn sót lại. Chị Ngưỡng tiếp tôi trong một căn phòng ngổn ngang đồ đạc. Câu chuyện không rứt ra khỏi giai đoạn vợ chồng chị bị Pháp lùa bắt ở Karom. Bây giờ chị đã có bốn đứa con lớn, đứa đầu thi Math Elem. Do lời mách của chị, tôi đến tìm thăm anh Năm Hiển. Một cái biệt thự bằng gỗ xám có nhiều cánh cửa sổ mục nát. Cỏ dại mọc rối ngoài sân. Một tấm bảng ghi chữ “coi chừng chó dữ” và hình vẽ một con chó đang nhe răng thè lưỡi. Vài đứa nhỏ đang cãi nhau dưới hiên. Nghe tôi hỏi, một đứa chỉ xuống bờ hồ: “Ổng ngồi câu cá dưới đó”.

Năm Hiển gặp tôi không mừng rỡ. Mặt dài và móp lại. Trông mắt lờ đờ như làm bằng thủy tinh. Tình cảm nơi anh chết rồi chăng? Anh không còn mang một chút di tích quá khứ nào cả. Không còn anh Năm Hiển nghệ sĩ của những ngày xưa, cầm đầu ban nhạc và ăn chơi hết mình. Trước mắt tôi là một khuôn mặt mệt mỏi, một thân người chống chọi đã đuối sức. Tôi lỏng lẻo bắt tay anh, hẹn sẽ trở lại nhưng tôi biết chắc là tôi đang nói dối. Tôi không đủ can đảm gặp lại anh.

Tôi buồn bã đi ngược lên con đường Rue de France. Có vài ngôi nhà mới cất. Có vài đoàn người đi trên đường này. Ngôi nhà ngày xưa tôi ở bây giờ cho Mỹ kiều thuê. Hàng cây mimosa lớn trội che khuất mái bếp. Không ai thèm hiểu cái gì đang đè nặng trên hồn tôi. Mười năm dĩ vãng có trọng lượng của nó. Tôi đang đi trong sự thờ ơ vô tình của cảnh vật và của người xung quanh. Chỉ còn có Nhàn. Nhàn bảo tôi:

- Anh còn nhớ thằng Sách không? Trong đoàn chạy giặc của tụi mình, nó bé nhất bọn đấy.

- À, nhớ rồi. Hồi chạy xuống Gò Đền nó cũng phải giã gạo thuê. Tội nghiệp, nó nhỏ người, nặng đâu lối ba bốn mươi ký lô, leo đứng trên cần cối, cần cối chẳng thèm nhúc nhích.

Nhàn cười ngon lành.

- Bây giờ nó biến đổi ra thế nào?

- Vẫn cứ bé oắt như xưa. Có vợ rồi. Hai con. Làm dưới sở Địa dư.

- Anh Duy?

- Anh Duy thì ngon lành. Làm đến đại tá. Nhưng lại bị liên lụy vào một vụ đảo chính hụt, bị xử tử vắng mặt hay khổ sai chung thân gì đó, em không nhớ rõ. Nhà cửa bị tịch biên.

- Chưa đến nỗi nào. Làm chính trị thì cốt giữ sao cho khỏi bị cắt mất cái đầu. Còn tù tội thì cứ tha hồ.

- Thằng Đinh tội nghiệp hơn. Nó mới chết ở mặt trận An Lão. Lấy vợ trễ, sáu đứa con còn nhỏ.

Chỉ những người chết là bị thiệt thòi hơn hết. Hay ngược lại, là được thong thả hơn hết. Hôm mới lên, người mà tôi lẳng lặng đến thăm đầu tiên là ông Tự. Tôi tìm đến dãy nhà gỗ tối tăm. Ông Tự làm cai Lục lộ chuyên sửa ống nước. Tôi hỏi một em nhỏ đứng chơi gần đó:

- Gia đình ông Tự có còn ở đây không em? Em có biết ông Tự không?

- Dạ có biết. Nhưng gia đình ông đã dọn đi lâu rồi.

- Em biết hiện giờ ông ở đâu không?

- Dạ. Dọn về Phi Dàng. Ông Tự chết ba năm nay rồi. Vợ con ông dọn về ở Phi Dàng.

Tôi cám ơn em nhỏ và lủi thủi ra về. Bao nhiêu hăng hái rụng xuống khi cuộc đi thăm đầu tiên không có kết quả. Sau chừng mười năm xa cách, câu hỏi thăm có thể được trả lờigọn lỏn bằng chữ “chết”. Tôi đem nỗi buồn đó ra nói với Nhàn. Nhàn bảo:

- Ông Tự bị điên phải đem đi Biên Hòa. Tại uống rượu nhiều quá. Bà Tự lại ngoại tình, có con với người khác.

- Sau khi ông chết?

- Không. Ngay lúc ông còn sống.

Tôi nhớ lại khuôn mặt của người đàn bà ấy. Ngoại tình hay chính chuyên, khuôn mặt ấy không mang dấu hiệu rõ rệt. Tôi nhớ bà mê đánh bài tứ sắc, ngày nào cũng có một sòng bài thường trực trong nhà. Có thể con đường ngoại tình xuất phát từ sòng bài. Nhưng cũng không bảo đảm lắm.

Những buổi chiều ở Đà Lạt thật buồn. Mùi nhựa ngo cháy thơm trong bếp pha với hơi sương lạnh nhắc tôi nhớ đến những ngày hồi cư, những ngày chạy giặc phiêu lưu ở Cầu Đất. Trạm Hành. Mùi nhựa ngo dính liền với buổi chiều, với sương mờ đục, với hơi lạnh ẩm ướt.

Hôm giã từ Đà Lạt, Nhàn ra tận bến xe tiễn. Sương ướt ngọn cỏ.

- Anh về gấp quá. Đáng lẽ phải ở chơi cả tháng. Chả mấy khi lên.

- Anh sẽ lên, nghỉ Hè sau.

- Nghỉ Hè! Một năm nữa.

Tôi giật mình. Một năm nữa! Sao tôi có đủ can đảm đợi chờ một năm nữa? Làm như cuộc đời người dài hàng sáu trăm, bảy trăm lần khoảng thời gian đó. Tôi sẽ làmgì trong khoảng thời gian đợi chờ? Sống thật? Sống bơ phờ qua ngày? Tôi nhìn ánh mắt sáng của Nhàn và tự nhiên thấy thêm nghị lực.

- Anh sẽ lên, sớm hơn. Vào dịp lễ Quốc khánh, vào dịp Nô en hay vào dịp Tết.

Khi tôi ngồi yên trên nệm xe đưa mắt nhìn ra thì thấy Nhàn lau nước mắt.

Xe rồ máy, chạy chầm chậm. Nhàn đứng yên đó. Chúng tôi không còn ở tuổi vẫy tay. Dãy cây bách. Bờ hồ. Tôi quay lại nhìn, tôi quay ra xa. Bóng Nhàn nhỏ dần. Loang loáng cảnh vật chạy lui. Biệt thự. Biệt thự. Những bồn hoa. Khi xe vượt quá đầu dốc, khi Đà Lạt khuất khỏi tầm mắt nhìn, tôi ngồi yên như một người cam chịu số phận.

Tiếng máy nổ dòn. Nệm xe nhún nhịp nhàng qua những chỗ lồi lõm. Bóng tôi hiện ra trên mặt kính cửa. Áo nỉ màu tối. Nét mặt đăm chiêu. Nghỉ Hè năm sau! Tôi chợt nhớ đến một hình ảnh quen thuộc, một hình ảnh trong cuốn phim Amour d’espionne mà tôi đã xem, cách đây lâu lắm. Chuyện xảy ra trên một toa xe lửa chạy về miền biên giới Pháp - Đức. Một cô nữ sinh được cha đón về quê để nghỉ lễ Pâques (2). Cùng ngồi trong toa, nàng để ý một người đàn ông đứng tuổi nét mặt nghiêm trang ngồi đăm đăm nhìn ra cảnh vật bên ngoài cửa sổ. Tay ông ôm bó hoa huệ trắng bọc trong giấy bóng. Năm nào cũng vậy, cứ đến ngày này, cô lại thấy người đàn ông đó ngồi chung toa xe với mình, ngồi đúng vào chỗ cũ, cũng ôm bó hoa đó, cũng nét mặt nghiêm nghị buồn đó, cũng cái mũ dạ, cũng bộ quần áo nỉ màu tối. Cô gái tò mò hỏi cha ý nghĩa có một sự xuất hiện lặp lại đúng kỳ như vậy. Người cha thì thầm kể chuyện cho con nghe và những hình ảnh quá khứ hiện lên màn ảnh lần lượt theo câu chuyện kể.

Người đàn ông đó, trước đây là một sĩ quan do thám người Anh. Ông sang hoạt động tại Đức, cố đánh cắp một bản đồ tham mưu của Hoàng đế Uy-liêm. Một nữ phản gián Đức được chỉ định theo dõi ông ta. Họ lừa nhau, họ dò xét nhau, họ quyết tâm đánh bại nhau. Nhưng đồng thời, bằng những bước nhỏ âm thầm, tình yêu đã đến với họ. Trong những giây phút quyết liệt cuối cùng, người đàn bà phải chọn lựa. Hoặc phải thanh toán người mình yêu, hoặc chịu chết để giúp cho chàng thoát. Nàng đã chọn giải pháp thứ hai.

Chiến tranh kết liễu. Hận thù xóa đi. Người đàn ông còn sống sót, hàng năm cứ đến ngày lễ Pâques đáp tàu từ Anh quốc vượt qua bể Manche, lên tàu lửa đi về biên giới đến viếng mộ nàng, một bó huệ trắng trên tay. Bao nhiêu xúc cảm bồi hồi, bao nhiêu êm đềm xót xa đã ghi trên nét mặt u buồn đó khiến cô nữ sinh phải lưu ý.

Tôi lên Đà Lạt không mang theo một bó huệ trắng nhưng trong tiếng động cơ êm êm một điệu, qua những cái lắc lư nhịp nhàng trên nệm xe, tôi có cảm tưởng tôi chính là người đàn ông trầm lặng kia hàng năm trở về khung cảnh cũ để âm thầm nhớ lại những kỷ niệm đã cùng sống với một người.

(2) Khoa chính trị học
(3) Lễ Phục Sinh


hai1957
  • Số bài : 2063
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 12.04.2011
  • Nơi: South VN
RE: Tác phẩm VÕ HỒNG - 04.12.2012 17:06:55
NHỮNG GIỌT ĐẮNG

NXB Lá bối (1969)


1. Như con chim Sơn Ca
2. Ðời đáng chán
3. Hoa khế lưng đồi
4. Gà và Ba tôi
5. Bên đập đồng cháy
6. Chống biểu tình




1. NHƯ CON CHIM SƠN CA



Từ khi chị Trúc rời bỏ gia đình chúng tôi để đi ở cho nhà khác, tôi biết là chúng tôi sắp phải trải qua nhiều nỗi khó khăn. Nhưng không có cách nào giữ chị lại được. Tôi chỉ có thể trả lương cho chị hai nghìn đồng mỗi tháng trong khi cô vợ Mỹ trả đến bốn nghìn. Chị ở giúp tôi thấm thoát đã được sáu năm. Ngày ra đi, chị khóc ấm ức như cảnh con gái phải bỏ nhà cha mẹ đi lấy chồng. Nhưng tình cha mẹ không nặng bằng tình chồng, cũng như túi bạc Việt Nam không nặng bằng đô-la vợ Mỹ.

Tôi vốn dở trong việc trả giá mua bán bởi có ấn tượng rằng trả giá là một cách tỏ lòng nghi ngờ thành tâm của người bán, một cách miệt thị họ nên ngày chị Trúc đến với tôi, tôi nhớ người giới thiệu đứng trung gian định giá công cho chị. Sau đó, tôi bảo chị:

- Thời giá lên xuống không ngừng, ngày nào tiền công người làm có cao lên thì chị nói cho tôi tăng lên. Tôi không muốn trả hẹp cho chị vì nếu tôi làm vậy, chị sẽ tìm nơi khác trả giá cao hơn. Ngược lại, nếu chị lấy công quá đắt thì khi có ai mách người làm công rẻ tôi sẽ muốn tìm tới họ. Gắng giữ công bằng thì tình nghĩa mới bền lâu được.

Chị cảm thông chân tình của tôi nên trong suốt sáu năm, chị xin tôi tăng lương bốn lần. Những bước tăng có khi dịu dàng, có khi cũng khá dốc. Lỗi không do ở chị mà do ở vật giá không biết nhờ sáng kiến của ai mà cứ tha hồ lên cao vùn vụt. Nhưng đến lần chót này thì chị biết là tôi đã đuối hơi rồi nên chị không nỡ xin tăng lương mà chỉ lấy cớ là xin về quê. Tôi nài nĩ chị nói sự thật, rằng chị cần tôi tăng lương thêm bao nhiêu, rằng tôi cố gắng trả cho bằng người nào muốn mượn chị…, chị bật khóc không giữ được rồi bệu bạo nói:

- Thưa thầy, người ta mượn con tới bốn ngàn đồng một tháng.

Đáng lẽ tôi xấu hổ vì lời nói khoa trương của mình “tôi trả cho bằng người nào muốn mượn chị”. Nhưng thời thế nầy đã gặm mòn gần hết tự ái của mọi người lương thiện. Vợ người công chức nhường cam tươi và trứng gà cho những cô mặc jeans mới năm ngoái năm kia còn ở bế con cho mình, lau nhà và sai vặt. Thò tay xuống trả mua món gì cũng bị gạt ra hết. Bấm bụng trả một trăm thì ở đằng sau lưng đã có người trả vọt lên trăm rưỡi. Chẳng lẽ cãi nhau, chửi nhau?

Chị Trúc đi được nửa tháng thì nhờ bà con lối xóm mách bảo, tôi thuê được cô Thu Hồng. Lương tháng có một nghìn rưỡi. Thu Hồng chừng mười chín tuổi nhưng cao lớn đẫy đà, mặt mập và mắt nhỏ. Tướng này chắc không siêng năng. Tôi chả biết công việc gì để cắt đặt cho Thu Hồng hết. Ngày còn chị Trúc, tôi cứ giao tiền cho chị rồi tùy ý chị mua sắm nấu nướng. Không có lệ kê khai giá mua từng món, tính toán tiền chợ vì tôi biết đó là một chuyện thừa. Tôi và mấy đứa con chẳng bao giờ biết đến giá cả ngoài chợ nên có bắt tính cũng vô ích. Khúc cá hôm qua tính tám chục bữa nay nói lên chín mươi lăm đồng thì cũng được: cứ lấy cớ là biển động. Thôi thì mình trông cậy hoàn toàn vào tình nghĩa của người đàn bà giúp đỡ mình đó. Tôi rập theo phương pháp đã áp dụng đối với chị Trúc mà bảo Thu Hồng:

- Em cầm tiền đi chợ. Mua thịt, cá, trứng, rau gì đó…, xào, nấu canh, kho… Khi dọn cơm, em ước lượng chia làm năm phần, tôi và ba đứa nhỏ là bốn người, và em nữa là năm. Em chia làm năm phần, em giữ lấy một phần cho em, còn bao nhiêu kia em đem dọn lên. Phần ai nấy ăn, tôi không có thì giờ mời mọc xã giao.

Mấy cô bạn đến chơi hay tỏ ý thắc mắc là Thu Hồng trùng tên với tôi, như vậy mỗi lần có tiếng gọi “Hồng ơi” thì ai biết kêu ai mà “Dạ”?

- Chắc sẽ có trường hợp “Dạ” lầm.

Tôi trả lời:

- Nhưng những sự bất tiện ở trên đời nầy thì nhiều quá, mình tránh sao cho hết?

- Có thể đổi tên nó đi. Gọi nó là con Hường chẳng hạn. “Thu Hường” cũng đẹp chán.

- Nhưng như vậy là phạm đến nhân vị của người ta. Vả lại tôi đi dạy học nên rất quen với sự trùng tên. Tôi phải kêu những tên “Hồng” lên bảng và phạt thẳng tay những tên “Hồng” lười biếng. Có những lớp nữ sinh chứa đến bảy, tám cô Hồng: Tuyết Hồng, Lệ Hồng, Hoa Hồng, Thúy Hồng, Huỳnh Thị Hồng, Phạm Thị Hồng và cả Võ Thị Hồng nữa.

Thu Hồng không biết nấu nướng. Nhiều bữa chúng tôi bỏ ăn. Áo quần không muốn giặt và giặt không sạch. Điều này cũng là một nỗi phiền vì hồi còn chị Trúc, chị cứ tự ý qui định chu kỳ giặt giũ: mấy tuần thì giặt màn, mấy ngày thì giặt khăn giường, áo sơ-mi mùa hè đổ đồng mấy ngày thì giặt, mùa đông mấy ngày, áo gối, áo ngủ, rèm cửa… chị đều tự ý lo lắng, sắp đặt. Đến triều đại Thu Hồng thì lù bù. Thân ai nấy lo. Không kể rèm cửa, chăn màn là những món hàng coi như xa xỉ - theo quan niệm của Thu Hồng, - cả đến quần áo mặc thường ngày mà mỗi lần gọi Thu Hồng lên lấy giặt, tôi cũng cảm thấy như tôi có lỗi. Tôi có cảm tưởng mình chuyên môn quấy rầy người ta nên có nhiều lúc tôi tự tay ngâm bột giặt rồi hôm sau xả nước luôn. Thu Hồng không bao giờ biết giành lấy làm giúp, cứ ngồi bình yên nơi giường để cắt móng tay hoặc ngồi đàng hoàng nơi bờ giếng cạnh tôi và lấy xà bông kỳ cọ đôi bàn chân. Tôi đành phải tự tìm một thú vui cho công việc giặt giũ: mỗi lần giặt xong, đôi bàn tay mình sạch bong dễ chịu vô cùng và tha hồ vốc nước xả vào mặt.

Thu Hồng rửa chân một ngày năm bảy lần. Cứ ngồi kỳ cọ chân ngoài giếng hằng giờ, kỳ cọ dép cao su, chân và dép lúc nào cũng sạch bong. Áo quần thay đổi mỗi ngày một bộ. Có buổi sáng đi chợ hai lần và mỗi lần một sắc áo. Tôi tự nói: chắc là mê anh bán quảng cáo dầu khuynh diệp bác sĩ Tín hay thuốc điều kinh bạch đái hiệu Ông Tiên rồi. Nếu không thì cũng bị mê hoặc bởi anh thầy bói “Đợt sống mới” thắt ca-vát đen, kính trắng ngồi la lết trên chiếc chiếu nơi hông chợ và sau một bộ bài để lật ngửa. Thỉnh thoảng tôi còn thấy những thanh niên chừng mười tám tuổi, mặt gầy quần xanh bó chặt mông và đùi, sơ-mi dài tay cũng màu xanh, tóc để dài xuống cổ, đi đi lại lại không có mục đích. Bao nhiêu là đối tượng để Thu Hồng đi chợ một buổi hai lần và cứ mươi lăm phút là quay lại ngắm nghía gót chân của mình sạch như lau trên một lần dép cũng sạch như lau.

Thu Hồng nuôi chúng tôi được ba tháng thì người nào người nấy gầy rạc đi. Tôi không dám có ý kiến gì để quở trách. Người giúp việc bây giờ khó tìm. Vả lại con tôi nó mét:

- Chị Thu Hồng nói chị ở chơi vài tháng rồi chị đi lấy chồng. Có một ông giáo viên thương chị lắm. Chắc chị chỉ giúp Ba được vài tháng.

Tôi nghĩ thầm: sắp lấy ông giáo viên rồi mà! Chắc là người cùng quê chạy tản cư ra tỉnh với cô ta. Phải là người cùng quê thì tình nghĩa mới mặn mà như vậy, chớ khách quan mà xét thì tướng mạo của Thu Hồng không xứng đáng với bất cứ một ông giáo viên nào, dù là giáo viên hạng kém. Thôi, thế là vài bữa nữa học trò gặp cô sẽ cất nón cúi gập người xuống mà chào “Thưa cô”. Cô sẽ mua vải ni-lông hoa để may rèm treo cửa như mọi cô gái vừa mới lấy chồng. Cô sẽ mua sắm tíu tít, tính toán việc sắp đặt trong nhà sao cho gọn ghẽ mỹ quan. Không có người nào vô dụng hết, bất tài hết, tôi thành thật nghĩ vậy và tôi mừng thầm cho Thu Hồng có hoàn cảnh để vươn lên như vậy. Thỉnh thoảng tôi hỏi:

- Chừng nào ông giáo viên đi cưới Thu Hồng?

Thu Hồng cười:

- Dạ, cũng sắp sửa.

Tôi lại phải lo liệu trước nhờ bà con tìm một người khác để thay thế. Lần nầy là một cô gái mảnh khảnh. Khuôn mặt gầy, khá thông minh. Đứa con nhỏ của tôi chạy lên mừng rỡ nói:

- Tên chị là chị Lan, ba à.

Tôi không hiểu tên Lan thì có gì để làm cho con tôi mừng rỡ. Lan và Thu Hồng nói chuyện gì đó lí nhí sau bếp. Khi tôi ăn trưa xong, ngồi một mình uống nước ở xa-lông thì Thu Hồng dẫn Lan lên giới thiệu:

- Dạ, thưa thầy.

Tôi quay lại:

- À, em mới tới để thay Thu Hồng đó phải không? Em ở đâu đến?

- Dạ ở Tuy Hòa vô.

- Quê em ở Tuy Hòa?

- Dạ không. Con ở tuốt ngoài Phú Vang. Ngoài xã Xuân Sơn đó. Con chạy tản cư vô Tuy Hòa.

- Em vô đây có một mình?

- Dạ. Có một mình. Cha mẹ con còn ở ngoài Tuy Hòa.

Tôi không biết nói gì hơn, đành hỏi một câu nhảm:

- Nghe nói em tên là Lan phải không?

Thu Hồng trả lời:

- Dạ phải. Nó tên là Lan. Nguyễn Thị Lan.

Nhưng Lan cướp lời ngay:

- Dạ không phải Nguyễn Thị Lan. Con tên là Ái Lan.

Tôi không giữ nổi một cái mỉm cười. Không biết Thu Hồng có ác ý gì không khi chỉ giới thiệu một tên Lan trơ trọi kèm với Nguyễn Thị. Và khi cải chính gấp gáp như vậy không biết Ái Lan có giận người bạn đồng nghiệp xấu bụng muốn hạ uy tín của mình không? Tôi cho hai người lui ra và ngồi nghĩ vẩn vơ về những cái tên đẹp. Quả tình là dân tộc ta đang làm một cuộc Cách mạng văn hóa sâu rộng. Cách mạng văn hóa ở học đường chẳng thấm vào đâu. Người học trò năm 1966 vẫn học bài và làm bài như năm 1946, vẫn học khoa học mà không có thí nghiệm, vẫn giải được những bài toán về Điện mà khi công-tơ nổ cầu chì thì phải đạp xe đi tìm ông thợ điện ở cuối phố. Chương trình học có đổi thay chút ít nhưng chỉ là nhích lên nhích xuống mà thôi. Chính phủ trước sắp chương đó học ở đệ Tam thì Chính phủ sau đẩy lên đệ Nhị. Các tác giả Việt Nam chỉ có bấy nhiêu ông ngoài những ông Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương có chỗ đứng chắc chắn, còn những ông khác như Chu Mạnh Trinh, Hồ Huyền Qui, bà Đoàn Thị Điểm thì bị di chuyển liên miên, năm nay ở đệ Ngũ năm sau ở đệ Tứ, năm sau nữa lên đệ Tam, rồi có năm chợt biến mất. Y như người đi thuê nhà giá rẻ cứ bị lãnh giấy tống đạt bắt dọn đồ đi tìm chỗ khác hoài. Cách mạng văn hóa trong các ngành nghệ thuật cũng rất yếu ớt. Cải lương vẫn sáu câu vọng cổ, thỉnh thoảng có pha thêm ít câu tân nhạc cho đúng tiêu chuẩn “kim cổ giao duyên” hay “cổ kim hòa điệu”. Kịch thì in ra để nằm trong giường đắp mền mà đọc. Vân vân. Cuộc cách mạng văn hóa sâu rộng mà tôi nhận thấy rành rành ra đây là sự vươn lên của các tầng lớp quần chúng giành lại cái quyền đặt những tên đẹp cho mình. Ái Lan, Thu Hồng không phải chỉ dành cho các cô nữ sinh Tú tài, cho tiểu thư các vị đường quan, cho ái nữ các ông Tham ông Đốc. Không, bây giờ thì mọi người bình dân đều có quyền sử dụng. Chiều chiều mấy cô sen đi dong chơi trên các nẻo phố vẫn gọi nhau bằng những tên rất đổi thơm tho: Thu Nga… Lệ Thủy… Những ông liên gia trưởng thường ký sổ gia đình, những ông ủy viên nhân thế bộ ở xã khỏi cần mượn Tự điển Hán Việt để tra tìm chữ mà đặt tên cho con. Đầy dẫy những cái tên quý phái mỹ miều người ta dùng hàng ngày, phung phí không biết ngợp. Trong khi đó thì những người ở từng lớp khá giả lại chọn ngược lại. Bỏ hết những chữ lót, họ để trơ trụi cái họ và cái tên: Nguyễn Thị Tuyết… Lê Thị Đoan… Hồ Thị Chi…

Thu Hồng ra đi nhường ngôi cho Ái Lan. Thấy cô ta chào từ giã một cách tự nhiên không vui không buồn, mớ quần áo gói trong một tờ giấy báo cặp ở nách, tôi cho rằng người con gái này sung sướng có tình yêu là món quà đặt sẵn trước mặt. Nhưng sau đó một tháng, một hôm Thu Hồng đến thăm tôi nhằm giờ Ái Lan đi chợ. Tôi hỏi:

- Chớ chưa làm đám cưới sao?

- Dạ, để thong thả.

- Thời đại bây giờ giặc giã ầm ầm, thương đâu cưới đó, còn đợi nỗi gì? Đợi lâu, lỡ ông giáo mê gái thì làm sao?

Thu Hồng cười hì hì, hai con mắt nhắm kín lại:

- Dạ, đâu có vậy? Dạ, để thong thả.

Nói lí nhí vẩn vơ gì một lát rồi cuối cùng Thu Hồng hỏi về cách làm ăn của Ái Lan. Tôi nghĩ có than thở cũng vô ích bởi Thu Hồng không thể vì tôi mà dạy dỗ huấn luyện cho Ái Lan thành người giúp việc đắc lực, tôi đành trả lời mơ hồ rằng cũng tạm được, cũng khá.

- Em chắc nó làm việc không hay. Nó còn nhà quê. Hay để bữa nào em trở lại giúp thầy.

Thấy tôi không mừng rỡ vồ lấy dịp may, Thu Hồng tiếp:

- Em bớt tiền lương một chút cũng được. Nhà thầy ít việc, thầy cho một ngàn hai cũng được.

- Xin cám ơn, nhưng thôi, để em đi lấy chồng, đừng để cho ông thầy giáo đợi lâu quá.

Sau bốn năm tháng gì đó, một hôm vì phải tìm một con đường đúng chiều để thoát ra khỏi một khu phố không quen, tôi chợt thấy Thu Hồng đi lang thang trên hè phố. Áo quần xốc xếch hơn ngày còn ở với tôi. Dường như Thu Hồng có thoáng thấy tôi và cô ta lúng túng đi sát vào lề đường, tay kéo nón che một bên má. Tôi tưởng Thu Hồng đã về quê rồi, đã lấy chồng rồi. Thế ông thầy giáo đâu? Tôi chợt nghĩ: mình u mê, ai nói cái gì cũng tin. Có lẽ Thu Hồng để ý thương thầm một ông giáo viên nào đó rồi ngồi mơ mộng tưởng tượng. Chớ cứ lề lối này thì chắc chắn là Thu Hồng vẫn còn đi ở cho người ta và chắc chắn là với một chủ nhà thạo việc hơn tôi, Thu Hồng phải làm việc nhiều quá đến nỗi đi ra phố mà áo quần xốc xếch như vậy.

Ái Lan nấu ăn không hơn Thu Hồng. Món gì cũng mặn. Hỏi: “Sao nêm canh mặn thế này?” thì trả lời tỉnh táo:

- Dạ, đâu có mặn?

Vừa nói Ái Lan thò muỗng vào bát canh múc vụt một thìa đầy, đặt vào miệng hút đánh chụt một cái vừa chắp chắp. Rồi nói:

- Dạ, đâu có mặn?

Không có cái máy đo “mặn lạt” để chỉ chính xác mấy độ nên tôi đưa đề nghị:

- Từ rày khỏi cần nêm ở dưới bếp. Để lên bàn ăn chúng tôi tự ý nêm lấy.

Ái Lan loay hoay bực bội với cái lò nấu bằng dầu lửa. Tim cao, tim thấp, tim hụt, vặn lên, vặn xuống… Ái Lan ưa chẻ củi để nhay vào bếp, đốt cho lửa đỏ bừng bừng, ngọn liếm quanh nồi, tiếng nổ lách tách.

- Hồi ở “ngoãi”, con chuyên môn đi củi. Cột theo một mo cơm lên núi chặt một buổi, trưa gánh về một gánh.

- Bán được bao nhiêu?

- Để dành chụm chớ.

- Còn nếu bán thì được bao nhiêu?

- Năm chục.

Ái Lan lanh lẹ và không biết làm dáng như Thu Hồng. Còn chịu mặc áo vải đen may theo kiểu sơ-mi măng-sết thời kháng chiến. Không ham kỳ cọ chân bằng xà-bông và mỗi lần bước lên thềm giếng là tháo bỏ dép ra. Thu Hồng thì không, đôi dép và bàn chân như dính chặt vào nhau.

Trên bàn chân Ái Lan có một mụt bầm tím to bằng đồng bạc Ngô Đình Diệm và hơi sưng lên. Tôi lưu ý đến nó bởi vì có nhiều hôm thấy Ái Lan xuýt xoa ngồi nắm chân. Có hôm thì bước đi hơi khập khễnh. Tôi hỏi:

- Cái mụt này ngó bộ chưa thật lành. Ngoài mặt kéo da đã kín nhưng chắc ở trong e còn rỗng. Coi chừng sinh mạch lươn đó.

- Dạ, con ấn xuống thấy hơi đau.

- Cái mụt sâu lắm sao?

Ái Lan lật ngửa gan bàn chân chỉ vào một vết bầm.

- Lủng từ dưới lên trên, lủng suốt cả bàn chân.

- Sao dữ vậy?

- Con đạp trúng bàn chông.

- Chắc đi chặt củi trên núi, đạp trúng bàn chông của “ở trển” gài hả?

Ái Lan nhoẻn miệng cười:

- Dạ không. Bàn chông của con gài.

Tôi mở to mắt ngạc nhiên:

- Hả?

- Con theo thanh niên đi gài chông. Làng con thuộc về ở bển rồi mà. Vô phước trúng bữa đang gài thì được tin lính Đại Hàn dưới Quận càn lên. Lật đật bỏ chạy. Con đạp nhằm bàn chông của con.

Câu nói gọn, giọng nói vui, làm như việc gài chông là một trò chơi và dậm chân vào chông cũng là một trò chơi. Cuộc chiến tranh thảm khốc giết chết nhiều sinh mạng, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, thiêu rụi cả làng mạc thôn xóm là kết quả cộng lại của những trò chơi nhỏ của những người tham dự kiểu Ái Lan? Có thể như vậy? Một cái lẩy cò vu vơ, một tràng liên thanh bắn thêm chơi, một cái ấn nút, chết chóc được ban phát ra, ngẫu nhiên và dễ dàng.

- Đi gài chông vui lắm thầy ơi. Đi cả đoàn. Thằng con ông hương mục Kiệm làm trưởng đoàn. Nhưng gặp bữa nào tụi nó càn là nhảy, nhảy trối chết.

Bây giờ Ái Lan thành người của bên này. Bên này hay bên kia thì Ái Lan hình như coi cũng như nhau. Đứa con gái mười lăm tuổi đó lớn lên như một con chim sơn ca má núm đồng tiền và đôi mắt long lanh sáng. Quơ cỏ trên đồng lúa Phú Hòa đó, chặt củi trên triền núi Hóc Bèn đó, mò ốc ngoài bãi cát Hà Bằng đó. Sau khi chạy tản cư về Tuy Hòa thì lại quơ cỏ trên đồng lúa Hòa Kiến, chặt củi trên triền núi Chóp Chài và mò ốc ngoài bãi cát sông Đà Rằng. Như con chim sơn ca mổ hột lúa và con sâu ở đồng này rồi bay vụt qua đồng kia, lại mổ con sâu hột lúa.

Những buổi tối có gió mát, nằm ngoài sân nhìn lên khung trời cao, Ái Lan cất tiếng hát:

Nông dân ta hát ca reo vang lừng.

Ban đầu hát khe khẽ, một lát thú vị sao đó bỗng nổi hứng hát to lên. Tôi phải ngăn lại:

- A! Coi chừng. Muốn xuống Nha An ninh nằm hay sao đó?

Ái Lan xuýt xoa:

- À quên! À quên!

Im lặng một giây rồi tiếp:

- Nhà con trung nông đó thầy, chớ không phải bần cố nông đâu. Ông nội con đi thiến heo nữa.

- Thiến heo thời này mau giàu lắm đó nghe.

- Dạ, thiến heo có tiền lắm. Ông An ngoài con cứ hai tháng thì vô trong này thiến một kỳ. Mỗi ngày được lối tám, chín trăm. Đi một chuyến ăn tiêu rồi còn dư mười lăm ngàn.

- Sao ông nội em không vào thiến cho có tiền?

- Dạ, muốn vô lắm mà nghiệt không có giấy tờ. Thẻ kiểm tra “ở trên núi” về thu đốt hết, bây giờ phải nằm lỳ ở quận Tuy Hòa không được đi đâu một bước. Không có nhà ở, nhà nước cho phép dân di cư được ở trong mấy cái toa xe lửa chở hàng bỏ không ở khu nhà ga.

- Nóng quá chịu gì nổi?

- Thì cũng phải ráng chịu chớ biết làm sao? Năm sáu gia đình ở chung một toa. Trưa nắng như thiêu. Nghiệt một nỗi nữa là toa xe nằm ở giữa một bãi cát nóng, càng có gió càng nóng thêm.

Ái Lan có tật ghiền trà Tàu. Bình trà bữa nào cũng bỏ đậm đen, lũ nhỏ la đắng uống không nổi. Dặn bao nhiêu lần cũng như không. Bình trà đó mặc dù lũ nhỏ không đứa nào dám mó đến, cũng cứ vơi đi trong nháy mắt. Buổi trưa lại một bình trà mới nữa. Tôi đi vắng gần như cả ngày nên đâu có biết gì đến trà với nước, chỉ khi lon trà hết cạn mới kịp phát giác ra rằng Ái Lan không thể uống nước trà lợt. Thôi rồi, nguyên do cũng vì Ái Lan có lệ phải hầu trà ông nội thiến heo. Tôi biết bản tính của các ông cụ ở nhà quê. Lội bộ giữa nắng suốt giờ này sang giờ khác thì khi về đến nhà phải tu một hơi đến hai, ba bát nước trà thật đậm mới giải nổi cơn khát. Thôi thì mình phải chiều Ái Lan vậy. Một bình trà chỉ vài ba đồng bạc, chẳng bao lăm. Ngoài những bình trà thường lệ, khi nào có khách đến chơi tôi pha trà đãi khách thì khi khách đi tôi đều tặng bình trà đậm đó cho Ái Lan. Ái Lan cười thông cảm, đón nhận không chút ngượng.

Ái Lan đến nhằm lúc cái giếng nước nhà tôi bị thuốc giặt của những nhà Mỹ xung quanh làm hôi mùi xà-phồng. Nước ăn phải sang lấy nhờ ở nhà Mỹ bên cạnh. Từ ngày đó, mỗi lần Ái Lan đi qua, tôi nghe có mùi nước hoa. Có hôm Ái Lan lấy kéo ngồi cắt những hình màu lòe loẹt trong một tạp chí Play boy, những hình phụ nữ khỏa thân vú và mông thỗn thện. Tôi lo xa nói dè chừng:

- Có qua lấy nước thì xách về ngay, đừng la cà nói chuyện dài dòng. Đừng có ham tiền mà nghe lời dụ dỗ. Nếu muốn có nhiều tiền thì học tiếng Mỹ để đi làm thông ngôn. Em ở nhà quê có được đi học không?

- Dạ, con học đến lớp Nhất. Rồi ông thầy giáo bị ở trển xuống bắt đi học tập, trường đóng cửa. Ông thầy giáo Phê, con bà Cửu Thành ở Gò Cà đó. Ông thầy đánh quạu một cây. Bắt nằm dài xuống rồi rút roi mây phết một hồi hai, ba chục.

- Đã học lớp Nhất thì bây giờ học tiếp đi. Tối tối lên nhà trên học chung với mấy đứa. Cuối năm thi Tiểu học.

- Dạ.

Tiếng “dạ” có vẻ yếu ớt.

- Sau đó có thể học thêm tiếng Anh để đi làm sở Mỹ hoặc học chữ về làm cô giáo làng, cô mụ hương thôn.

- Dạ.

Tôi rất thành thật trong việc đề nghị, tôi muốn giúp ích cho Ái Lan để nó có thể giúp đỡ chúng tôi càng dài ngày càng tốt. Bởi lẽ nếu chỉ đi ở lấy công thì chắc chắn là ba, bốn tháng sau nó sẽ bỏ chúng tôi để đi theo một chỗ làm khác bổng lộc cao hơn, hoặc nghe lời dụ dỗ của mấy bà trùm, của mấy anh mách mối. Không thể bắt nó ở nhà đóng kín cổng lại. Mà đã để nó đi chợ thì chẳng sớm thì muộn nó sẽ bị người ta vồ lấy. Mặt mũi nó xinh xắn sáng sủa không thua một cô nữ sinh trung bình, nhất là khi tôi may cho nó mấy bộ áo vải hoa.

Tôi gọi nó lên và ra cho một bài toán cộng phân số để thử sức. Nó cầm bút loay hoay, xoay tờ giấy đủ vòng. Tôi hạ thấp trình độ, ra một bài toán nhân có vài con số không. Nó viết lộn bậy những con số méo mó, nguệch ngoạc. Thôi, đích thực là ông thầy Phê chỉ dạy học trò leo lên bàn để nhận lãnh roi mây, còn làm toán nhân và toán phân số là công việc của học trò trường khác.

Ái Lan thích đi sang nhà Mỹ lấy nước. Nơi gầm giường của nó tôi thấy chất lổn ngổn những vỏ chai, những lọ, những lon.

- Lon nầy thì tập trung làm gì cho dơ nhà? Ở ngoài mấy đống rác kia thiếu gì? Xe hốt rác lượm không hết, bỏ lăn lông lốc giữa đường.

- Dạ, con thấy đẹp lượm chơi. Ở ngoài con hồi đó quý lắm. Bây giờ thì thường rồi. Ở Tuy Hòa, Mỹ nó uống nó cũng ném đầy đường. Hồi trước ở ngoài con cứ nhắn mấy người đi buôn bán ở Tuy Hòa lượm lon về cho.

- Mấy cái vỏ chai này thì dùng được.

- Dạ. Chai lít đó. Đong dầu đong nước mắm thì ngon hết lớn. Ở ngoài nhà quê mỗi lần mua dầu chạy đi mượn chai lít không ai cho mượn. Nghiệt lắm.

Ái Lan có tật ngủ trưa, ngày nào cũng đánh một giấc từ một giờ trưa không sai suyển. Có hôm tôi xách xe đi làm, - hai giờ rưỡi chiều, - mà còn thấy Ái Lan nằm há miệng ngủ ngon lành. Chẳng biết định ngủ đến mấy giờ với một dáng điệu tin tưởng như vậy. Tóm lại, một người như Ái Lan không phải là một người giúp việc tốt. Tôi buồn rầu chấp nhận số phận của mình, tôi đâu có quyền đòi hỏi nhiều ở Ái Lan? Nó trẻ dại và quê mùa, chỉ biết giúp đỡ tay cho một người đàn bà. Sai nó lặt rau, giã đậu, băm thịt, thổi lửa, vo gạo…, những công tác rời rạc như vậy thì tốt. Đằng này tôi giao cho nó tiền và nó phải tự chỉ huy lấy. Nhiều bữa đã một giờ trưa mà trên bàn ăn vẫn vắng ngắt. Nó mê mải chí thú nhổ cho sạch lông một con vịt và khi thú vị nhìn công trình của mình hoàn tất viên mãn thì còi mười hai giờ đã hụ lên. Ái Lan là tân binh quân dịch chưa kịp trải qua một khóa huấn luyện để lên cấp bực binh nhì, thế mà bước vào gia đình chúng tôi nó đóng đến lon Trung Tướng Tổng Tham mưu trưởng. Tôi và mấy đứa con phải chấp nhận sự điều khiển tài tử đó mà không có cách gì phản kháng. Chúng tôi đều không dư thì giờ để luôn luôn góp phần hoạch định chương trình với vị chỉ huy đó. Đôi lần chúng tôi có đem nhiều thiện chí ra để bàn bạc, nhưng khi thi hành vị chỉ huy đó làm rối bét ra hết. Món ăn nào cũng vừa sống vừa cháy.

Chỉ huy chúng tôi được hai tháng rưỡi thì Ái Lan xin về Tuy Hòa thăm nhà. Tiền lương đã nhận đủ ba tháng, áo quần thì tôi may dành cho cả năm, thế mà bây giờ bỏ đi ngang. Nói:

- Thầy cho về thăm một tuần. Rồi con vô. Bây giờ trời còn tốt đi ghe yên ổn, sợ ít ngày nữa mưa gió đi về không bảo đảm.

Biết đặt điều kiện gì để buộc Ái Lan phải trở vô? Tất cả những điều kiện đều vô ích. Thời đại này giao kèo còn không đủ bảo đảm thay.

- Mực khô ở Tuy Hòa rẻ hơn ở trong này nhiều lắm thầy. Có chín mươi đồng một kí. Thầy có mua thì con mua vài kí.

Tôi đưa ba trăm bạc cho Ái Lan như để mua thêm hy vọng rằng Ái Lan sẽ trở lại chớ tôi không tin rằng giá mực khô ở Tuy Hòa chỉ bằng một phần tư giá ở đây.

Ái Lan đi biệt tăm không trở lại. Những thời hạn “một tuần” trôi qua liên tiếp. Tôi không ngạc nhiên lắm vì tôi đã chuẩn bị trước là Ái Lan sẽ đi luôn. Ái Lan trở lại đúng hẹn mới là điều làm tôi ngạc nhiên. Chúng tôi lại nhắn nhe nhờ bà con láng giềng tìm cho một người. Trong khi chờ đợi, chúng tôi gọi hàng cơm tháng mang cơm đến. Áo quần thì ngâm bột Tide. Bàn ủi thì dùng thứ INUI nhẹ, mỏng, thứ “for school, traveling”(1 ). Thỉnh thoảng chúng tôi nhắc đến tên Ái Lan và dù không muốn, chúng tôi cũng phải nghĩ đến mấy chữ đi kèm theo cái tên mỹ miều đó: “Ái Lan sắc nước khuynh thành” (2 ). Nhân vật nào đó nhỉ, - Ái Lan, - mà quen thuộc đến thế, mà có văn thơ ca tụng hết mình như thế? Tôi không buồn vì bị Ái Lan lừa, không tiếc số tiền đã mất. Có người trách tôi dại sao không giữ lại những quần áo mình mới may. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ hối hận biết mấy nếu tôi đã giữ số quần áo ấy và Ái Lan đi luôn. Tôi muốn có nhiều phương tiện để làm những cử chỉ đẹp, đẹp hoàn toàn, không vụ lợi. Cuộc tranh sống cam go khiến con người mỗi ngày mỗi bần tiện thêm lên nên mỗi khi có dịp làm một cử chỉ đẹp, ta thấy sung sướng khôn cùng.

Một buổi tối buồn, tôi lửng thửng bước vào một tiệm giải khát ở đầu phố. Đèn màu âm u. Âm nhạc rập rình như sóng, trên đó tiếng hát chơi vơi, khắc khoải, tuyệt vọng. Buổi tối cuối tháng, có nhiều ghế trống. Năm sáu người Mỹ không bao nổi hết số chiêu đãi viên. Vài người thanh niên mặc sơ-mi ca-rô ngắn. Ở bàn cạnh tôi, một quân nhân ngồi với một chiêu đãi viên mặc đầm màu đỏ. Họ kề sát đầu vào nhau nói chuyện. Giọng người đàn ông trầm xuống. Giọng người đàn bà lanh lảnh bay qua bàn tôi.

-…Mốc xì. Anh nói mới hành quân qua làng của em hả? Dóc tổ. Mới nghe em nói bây giờ nói dựa theo… Thiệt hả? Ừ, đúng… Qua bến đò La Hai. Phải, ở bên kia là Gò Chai… Anh nói cái nhà mái lá ở chỗ bến đò hả? Cháy rụi hết? Chắc là nhà ông Xã Hà Bằng đó… Ờ, hồi xưa nhà đó giàu lắm. Muổng đường, anh biết muổng đường không? Chắc ở ngoài Bắc không có muổng đường đâu. Đường mía người ta đổ vô những cái muổng bằng đất sét để lọc cho thành đường cát đó…, muổng đường xếp chạy dài suốt cả hai chái nhà trên, ở hiên sau, ở nhà ngang. Lúa nữa. Bắp nữa. Đậu phộng đậu xanh nữa… Ờ, phải, miền đó ruộng khô trồng đậu phụng đậu xanh. Hồi đó em hay lùa bò đi qua đám đậu phụng của “ổng” để ra bến đò Gò Chai cho bò uống nước. Có một bữa bò nó băng vô đám đậu, ủi lên ăn rào rạo. Em sợ trối chết, quất bên này nó chạy bên kia. May quá nhờ có thằng Điều nó ra đuổi dùm. Tội nghiệp, em mới nghe tin thằng Điều đã bị máy bay gắp rồi. Nó cứ láng quáng ở “ngoãi” không nỡ bỏ làng, bỏ ruộng, bỏ bến, bỏ bò… Phải, phải rồi, chỗ đó có cái miễu. Chòm cây đó xưa lắm, tên là cây gì em cũng không biết. Hồi nhỏ em hay thả bò cho ăn ở gò đó… Tội nghiệp chưa. Sao anh ác vậy? Đồng bào của mình đó chớ ai. Ờ ờ, em hiểu rồi…

Ý chừng người quân nhân kể chuyện mãi không còn thích thú nữa nên thừa lúc nàng vô ý anh lùa hai tay vào nách khiến nàng cười rú lên vừa đập bình bịch vào lưng anh ta:

- Anh quỷ này. Nhột nhột. Chơi nghiệt quá.

“Nghiệt quá”, chữ dùng quen thuộc của Ái Lan!

Câu chuyện hành quân trên kia là câu chuyện của làng Ái Lan đó. Bao nhiêu là biến cố đã dồn dập xảy ra trên mảnh đất đó. Nhà cháy. Trâu bò chết. Đồng ruộng bỏ hoang. Người ta lớp chết lớp chạy bỏ làng. Đường cái trong làng không có dấu chân đi, lần lần cỏ mọc chụp lên, bụi cây trồi lên, đan dày vào nhau, biến thành rừng rậm, biến thành rừng hoang. Cỏ mọc đầy những sân nhà, mọc lấn vào hiên, mọc trùm lên cửa, mọc ngay giữa nền bởi tranh kia rạ kia mỗi ngày một mủn, mưa khoét mỗi ngày một to, mưa phá gãy rui mè, mưa xối giữa nền, ánh nắng và giọt mưa dọi đến đâu là cỏ mọc lan theo đến đó.

Cô chiêu đãi viên này cùng một lứa tuổi với Ái Lan. Vóc người nhỏ thó. Cặp đùi đen, da cháy như đã từng bị phơi ra nắng nhiều. Những ngón chân xoạc ra giữa quai guốc cao gót trông như ngón chân của một con ếch. Chắc cô ta là bạn chăn bò của Ái Lan, bạn đi củi, bạn đi chợ. Nếu tôi lại hỏi cô ta về tin tức Ái Lan thì chắc chắn là cô ta sẽ nói rõ. Có thể Ái Lan hiện giờ cũng mặc đầm như vậy, cũng đêm đêm đánh phấn tô son, vẽ khóe mắt xếch ngược lên và bới mái tóc cao bốn tấc. Có thể Ái Lan đã trở về làng mặc sơ-mi măng-sết và đi cắm bàn chông với bạn mỗi buổi chiều. Có thể Ái Lan vẫn đi quơ cỏ lúa ở đồng Hòa Kiến, chặt củi ở núi Chóp Chài và mò ốc trên bãi sông Đà Rằng. Cái gì Ái Lan cũng có thể vui vẻ làm, không bận tâm suy nghĩ băn khoăn, như con chim sơn ca kia không phân biệt hột lúa này và con sâu nọ là của riêng của cánh đồng nào.

(1) dùng khi trọ học, khi đi du lịch.
(2) Tên một cuốn phim thời danh, kể mối tình nàng Hélene thành Troie.


Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 41 bài trong đề mục