Tác phẩm VÕ HỒNG
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 41 bài trong đề mục
hai1957 27.11.2012 10:46:26 (permalink)
3. TRẢ THÙ



Phong liếc mắt vội qua trang nhất của tờ báo. Những chữ lớn in đậm nói về thời cuộc. Hôm nay tình hình thế giới cũng chỉ lục đục bình thường như hôm qua hôm kia. Ba ông hoàng thân nước Lào đánh một ván cờ quá kéo dài khiến những kẻ tò mò đã chán, bỏ cuộc dần dần. Đến nay thì những địa danh Nam Tha, Vạn Tượng, Sanh van na khet, Mương Phin…. Lẫn lộn tất cả, người bàng quan không còn nhớ rõ địa điểm nào thuộc về phe nào nữa. Những cảnh giết chóc đốt phá, những tiếng khóc đau thương trong khói lửa chỉ còn hiện ra mờ nhạt dưới hình dáng lãnh đạm của những chữ in quá quen thuộc. Ở những địa điểm khác nơi mà tình hình chưa ngã ngũ rõ ràng thì nhà báo có một số dụng ngữ lập lại: Tổng trưởng X tỏ ý tin tưởng rằng… Theo giới thạo tin thì… Người ta ước đoán.. Có lẽ.. Nhìn về phía tình hình trong nước thì chỉ một đôi vụ lường gạt nhỏ, một vài cái chết quá mức tầm thường (chẳng hạn bị tình phụ mà chỉ nhảy xuống sông tự tử rồi chết luôn). Những sự việc nhỏ xảy ra trong xã hội như được xếp đặt theo từng mùa. Một vụ tạt át xít lớn bao giờ cũng được nối tiếp nhau bằng một số những vụ tạt át xít nhỏ. Rồi như nhàm với trò chơi này, một loạt những thanh niên mê tốc độ rủ nhau lần lượt gây tai nạn trên xa lộ mới, cung cấp cho báo chí một số những tĩnh tự ghép: khủng khiếp, rùng rợn, chưa từng thấy, quá sức tưởng tượng… Rồi sau đó mọi người nghỉ ngơi và báo chí cũng dường như nghỉ ngơi theo.

Vừa đưa mắt tìm những cái đề, Phong vừa kết luận một cách thất vọng: “Chẳng có gì quan trọng”.

Thật vô lý hết sức nhưng cũng như mọi độc giả khác cả bình dân lẫn trí thức, chàng thấy rằng tờ báo không xứng với giá tiền mua nó khi nó không nói đến những tin tức kinh khủng. Chẳng hạn: Cuộc đảo chính xảy ra ở nước A, xác nhà vua bị phơi giữa chợ… Động đất ở thành phố B nhà sập vùi nửa triệu người… Trong bữa tiệc linh đình của nhà triệu phú C, tất cả quan khách điều bị ngộ độc chết cả… Hoa hậu thế giới D bị tên tướng cướp... vân vân. Không biết có phải bản chất con người thường thấy mình sung sướng hơn lên khi những người xung quanh họ gặp tai ương thất bại không? Có lẽ như thế thật chăng?

Phong vừa lặng lẽ lý luận vừa lật sang trang sau. Đó là trang quảng cáo những cuộc vui, những tuồng hát, tuồng chiếu bóng. Chàng tò mò đọc qua một lượt tên các rạp, tên các tuồng, và tên những tài tử chính. Sự tò mò của chàng giống y như sự tò mò của kẻ đi xem đám cưới, xem người ta ăn tiệc, xem người ta nhảy đầm. Lý do là chàng không ở Sài Gòn mà ở tỉnh nhỏ.

Chàng lật sang trang ruột. Những truyện ngắn, truyện dài, truyện ly kỳ, truyện tò mò, sân khấu kịch trường, vườn thơ, mách luật… không phải là món ăn của kẻ vội vàng. Chàng nhìn xuống mục “Tử Vi”. Bỏ đi những hình con chuột, con trâu, con cọp, con mèo… in lòe nhòe, mắt chàng đậu lại ở ô con chó. Nhà khoa học huyền bí dạy rằng:

“Có tin hay ở xa đến. Tuổi 31 gặp bạn tâm tình. Buổi chiều có hoạnh tài”

Cái điệp khúc “Có tin hay ở xa… Gặp bạn tâm tình… Có hoạnh tài…” chàng đã nghe nhiều lần, hôm nay tự nhiên làm chàng nhíu mày khó chịu. Thường mấy ngày trước những lời tiên tri đều đến làm cho chàng vui, cái vui giễu cợt. Đạo nhân bảo đừng nên ra vốn, bất lợi. Thì chàng có vốn bao giờ đâu mà ra? Đạo nhân bảo “Gặp hoạnh tài”. Hoạnh tài đâu mà gặp? Đã mấy tháng nay chàng không mua vé xổ số nữa. Trước đây, kỳ nào cũng mua ít nhất hai vé. Không phải vì mong ở hoạnh tài nhưng mà vì cô bán vé số có đôi mắt đẹp. Cái thú của người độc thân là mua bán không tính toán. Ngày còn ở Huế, chỉ vì cô bán hàng tạp hóa đẹp mà hộc bàn nhà chàng đầy những viên xà bông thơm. Đứng nói chuyện vẩn vơ gì một lát rồi khi bước ra phải mua một vật gì cầm tay. Chỉ có xà bông thơm là tiện mua nhất. Ngày đổi về Phan Rang thì vì cô thu ngân ở hiệu thuốc tây mà nhà chàng đầy những hộp Kalmine, vì cô hàng sách Thanh Đạm mà phong bì thư gửi hoài không hết. Thật cũng dễ tìm biết tâm hồn của một anh chàng độc thân. Cứ nhìn trong phòng thấy món gì dư một cách khả nghi thì cứ truy nguyên ra là tìm được manh mối. Nhưng từ khi cô hàng bán vé số lấy chồng thì chàng thôi không còn mua vé số nữa. Chàng không có số được hoạnh tài. Mua bao nhiêu vé mà chưa lần nào trúng được một trăm bạc. Thậm chí có vé chàng thử đem dò đến 10 lần xổ mà tuyệt nhiên không lần nào trúng nổi 2 con số sau cùng. Vậy thì chỉ còn có mục “Tâm tình” là hơi có thú vị. Ba mươi mốt tuổi rồi mà chưa có vợ thì lẽ tất nhiên là mục tâm tình phải rất có thú vị. Nhưng đã rất nhiều ần rồi những tâm tình đạo nhân bảo gặp mà vẫn không gặp, tin hay bảo đến mà nào thấy đến.

Phong vất tờ báo xuống giường, hơi bực bội như mình vừa bị ai đùa dai.

Suốt cả buổi ngồi làm việc, chàng tưởng đã quên đi những điều nghĩ ban sáng. Nhưng không. Cứ mỗi lần ngơi công việc một chút, mỗi lần ngồi lắng lại lòng mình một chút là chàng cảm thấy có cái gì khang khác, có cái gì vương vấn trong tâm hồn. Suy nghĩ một tí, chàng nhớ ra ngay mấy điều tiên tri ở mục Tử vi. Và chàng lại nhẩn nha nghĩ đến nó. “Tuổi 31 gặp bạn tâm tình…” chàng thấy lòng gợn một niềm vui nhẹ. Bạn tâm tình? Đó là cô Khánh ở nhà đối diện vẫn mỉm cười kín đáo mỗi lần chàng bất chợt nhìn sang gặp cô đang cầm thau nước tưới hoa? Đó là cô Duyên mà chàng nhất định phải gặp đi xe đạp ngược chiều với chàng vào lúc 7 giờ 15 ở ngang ngã tư Lê Thánh Tôn - Phước Hải? Không, chắc không phải đâu. Đó là những người đã quen quá, quen đến cái độ mình không nghĩ rằng có mặt. Không, có lẽ phải là… là… là… là ai? Tìm mãi không thấy ai có thể là bạn tâm tình, Phong chợt buồn cho cuộc đời cô đơn của mình. Gặp phải trở ngại, óc chàng dừng lại một chút rồi nhẹ lướt qua mục “buổi chiều gặp hoạnh tài” như sẵn theo một cái trớn nhỏ. Nhưng hoạnh tài ở đâu mà gặp? Mình không mua vé số nữa. Mình không hi vọng gặp được của rơi vì mình không bao giờ đi bộ. Thấy mình sắp trở lại những ý nghĩ, những lý luận hồi sáng, chàng dẹp bỏ không nghĩ đến nữa, cúi nhìn xuống bàn. Đặt lên trang giấy trắng, tay chàng vẫn còn cầm bút và đầu ngòi bút cách xa nét chữ vừa viết đúng khoảng cách của một chữ. Chàng viết tiếp dòng chữ viết dở dang.

Chín giờ rưỡi tối, trái với thường lệ Phong lên xe đi phố. Đã hơn ba ngày nay, chàng không đi phố nên có nhiều món cần dùng mà không tiện đi mua chàng đã phải tạm nhịn: cà phê, xà phòng cạo râu, đôi bít tất mới, tờ Paris Mach tuần này.

Tiếng máy xe nổ nhè nhẹ, dòn dòn. Ánh đèn xe lóa xuống đường. Đi cùng chiều và ngược chiều với chàng, những chiếc xe đạp cũng rè rè tiếng nút bình điện xe quay. Tiếng rè rè vui vẻ, ánh sáng lóe ra và chạy vút tới, xuyên sâu vào bóng đêm khiến chàng nghĩ đến một đám côn trùng lượn đùa nhau trên một mặt ao đêm mùa hạ. Ban ngày xe cộ để lộ tính chất lạnh lùng của sắt thép, của máy móc, của khoa học cạnh tranh và tàn bạo. Ban đêm, nhất là ở những quãng đường vắng như đường Yersin này mà ánh điện đường bị bóng cây che khuất, những chiếc xe lướt qua không thấy hình dáng mà chỉ thấy ánh đèn vui vẻ và dịu dàng.

Chàng bỏ con đường vắng, rẽ sang đường Độc Lập. Ánh đèn nê-ông sáng trắng làm nổi những tà áo tươi và tăng vẻ tàn tạ cho những màu áo bẩn, sắc da và khuôn mặt cũ kỹ. Chàng nhìn sang hai bên đường. Những hiệu sách, hiệu máy hát, đồng hồ sáng hơn và tươi hơn cả bên cạnh những hiệu bán đồ sắt, bán gạo sầm uất, những hiệu chạp phô tù mù. Từng chặng có những hiệu cửa sắt kéo kín, khung cửa sẫm lại. Chàng dừng xe ở một hiệu sách. Không phải là vì hiệu sách quen mà chỉ vì tiện đường lề xe đậu. Những bản nhạc trình bày đủ màu treo giăng khắp chiếc phòng hẹp. Sách xếp ở ba dãy tủ kính kê sát mặt tường. Những tạp chí khổ lớn nằm trên dãy bàn giữa nhà. Chàng nhìn một lượt mấy tủ sách, đọc lướt qua tên các sách giáo khoa để cảm thấy thấm thía nỗi sung sướng của người lớn đã thoát khỏi cái nợ phải bận bịu trên trang sách học. Chàng bước lại dãy bàn. Những tạp chí ngoại quốc ấn loát mỹ thuật xếp cạnh những quyển tiểu thuyết bìa mang nhiều hình vẽ quái đản. Sau một hồi xem xét, chàng nhón lấy hai tạp chí thường kỳ chàng vẫn đọc, bước lại quầy hàng. Một người đàn ông ngồi thu ngân.

Phong ngạc nhiên, hơi khó chịu một chút khi nhìn đôi vai vạm vỡ, một cái sơ mi để hở cổ và một khuôn mặt dèn dẹt. Thường ngồi nơi đây là một người đàn bà trẻ tóc uốn cao vẻ mặt hao hao như một cô đào chiếu bóng nào đó mà chàng không nhớ tên. Mỗi lần lại trả tiền chàng thấy vui vui. Quả tình một cô thu ngân đẹp an ủi được đôi phần nỗi xót xa của người sắp mất tiền. Nhất là những khi vào hiệu thuốc Tây giá tiền thuốc có lúc cao gấp ba, gấp bốn giá tiền dự đoán. Vừa lo lắng cho sức khỏe vừa đau xót cho túi tiền không biết sẽ còn hao bao nhiêu nữa, vậy mà gặp một cô thu ngân xấu xí hay thô lỗ thì thật dễ bực mình. Người đàn ông này chắc là chủ hiệu, là chồng của người đàn bà đẹp vắng mặt. Anh ta chậm chạp cầm lấy hai tạp chí của chàng đưa, lật sau lưng nhìn giá tiền, rút tờ giấy bọc màu xanh lặng lẽ bọc lại, lấy một vòng cao su vòng quanh. Tiếp theo đó anh lấy bút chì “nguyên tử” làm con tính cộng. Sự chậm chạp làm tia mắt Phong nhìn anh ta nghiêm khắc lại. Tuy không nhìn xuống bài tín của anh ta làm nhưng chàng không quên làm con tính cộng trong óc: 38 đồng. Chàng đưa tờ giấy trăm. Anh hàng sách cầm lấy, bỏ cẩn thận vào một hộp đựng toàn giấy trăm rồi anh lấy tiền trả lại. Anh lấy một tờ giấy 50 đồng ở hộp đựng toàn giấy 50, lấy 2 đồng lẻ ở hộp tiền lẻ. Sang hộp giấy 10 đồng, Phong thấy anh lục lọi mãi một hồi. Không biết ý anh định tìm gì trong khi hộp đầy ắp những tờ giấy 10 đồng màu nhạt. Lục lọi một lát, anh chàng lấy ra hai tờ giấy 10 đồng đen đỉu nhầu nát chập với tờ 50 và hai tờ một, đưa cho Phong. Chàng giơ tay cầm lấy, đứng tần ngần. Chàng vò tiền nắm trong tay không đếm nhưng biết chắc là 72 đồng. Sao lại đến 72 đồng? 62 đồng mới phải chớ? Trong óc chàng vụt chạy nhanh như một luồng điện, ý nghĩ “Hoạnh tài”. Chàng đưa mắt nhìn sang anh hàng sách. Khuôn mặt vuông và cái hàm hơi bạnh ra. Miệng rộng, môi dưới mỏng, dài hơn môi trên nên uốn cong lại. Cái môi này chàng đã gặp ở đâu một lần rồi, cái môi này đã làm chàng khó chịu ở một nơi nào rồi. Chàng cầm tiền đứng dịch lại dãy bàn bày báo hàng ngày vờ nhìn xuống đọc nhưng trí óc đuổi bắt hình bóng của cái môi cong. Cái môi… Khuôn mặt mai mái… Cái hàm bạnh… Cái môi… Chàng đẩy lui khuôn mặt ấy lần về dĩ vãng. Hôm qua? Tuần trước? Tháng trước? Chàng soát lại ký ức, tìm xem cái môi ấy của ai, chàng gặp nơi nào. Tháng trước? Tháng trước?

Chàng vụt nhớ ra rồi. Một khuôn mặt hiện ra, rõ ràng. Đúng là môi cong đó. Cũng cái hàm bạnh. Hai con mắt giảo hoạt. Một mái tóc mềm nằm an phận, vâng lời. Khuôn mặt này làm chàng khó chịu. Chàng đẩy lui ký ức vào xa hơn trong dĩ vãng để thay khuôn mặt kia bằng một khuôn mặt khác. Một mái tóc uốn cong. Đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Tà áo phất phơ và gót chân uyển chuyển. Mùi nước hoa Tabou. Tâm hồn chàng dừng lại mơn trớn cái hình ảnh đẹp kia, đồng thời cái khung cảnh gặp gỡ cũng như trải rộng ra trước mắt chàng. Đó là khung cảnh của thành phố Quảng Ngãi.

Chừng một tháng trước đây chàng nhận được giấy đi chấm thi ở Quảng Ngãi. Địa điểm này làm chàng thất vọng. Sao không đi Huế hay Đà Lạt mà lại về cái tỉnh nhỏ này? Đi bằng xe lửa thì đoạn đường có nhiều trở ngại mà đi bằng máy bay thì Quảng Ngãi không có phi trường. Hội đồng giám thị ở Trung tâm Quảng Ngãi do đó mà nhận được không biết bao nhiêu những đơn xin vắng mặt kèm theo giấy chứng của Bác sĩ. Thành phố Quảng Ngãi bé quá chỉ có hai con đường buôn bán. Cứ cách chừng năm mươi thước là có một nhà sản xuất kẹo gương mạch nha, đường phổi. Đó là ba món hàng thổ sản. Đặc điểm những thành phố nhỏ là có những sản phẩm đặc biệt của địa phương. Đô thị lớn thường không có bản sắc đặc biệt về mặt sản xuất, ở đây cũng là nhà máy sợi, nhà máy cửa, nhà máy sản xuất dụng cụ. Quảng Ngãi chỉ có một rạp hát nhỏ mà cũng không đủ người xem. Người đi phố mua sắm, mặc cả, chọn lựa một cách cần mẫn chí thú. Thiếu hẳn những người thừa lương đi tản bộ.

Sáng hôm thi Phong nhìn lên hai tấm bảng đen ghi tên các vị giám thị. Có từng mươi tên cô giáo mang nhiều tên hoa, tên chim mỹ miều. Khi người thư ký Hội đồng cầm phấn lại bảng ghi tên phòng trước mặt mỗi tên giám thị, chàng đọc được sự hồi hộp lý thú ở những người ngồi cạnh mình. Sự tò mò của các cô giáo biểu lộ dễ thấy hơn vì họ đứng cạnh nhau nên vừa chỉ chỏ vừa thảo luận nho nhỏ. Các giám thị đàn ông tỏ vẻ lãnh đạm hơn, nhưng đó là một vẻ lãnh đạm cố tạo ra. Vì có một trò rủi may đang diễn ra trên bảng đen kia. Mình sẽ giám thị với ai sáng nay? Chiều nay? Mình sẽ giám thị phòng nào sáng nay? Chiều nay? Từ phòng 1 đến phòng 7 là phòng nữ sinh. Giám thị giờ thi Toán, thi Lý hóa mà được nhằm vào phòng nữ sinh thì đỡ nhọc vì nữ sinh không bạo dạn như nam sinh. Giám thị với một cô giáo bao giờ cũng vẫn thú hơn. Chàng không có ẩn ý gì hết. Người đàn bà đẹp như một bông hoa, ở gần họ như được ngồi trước một bông hoa đẹp, thế thôi. Nhưng sáng hôm đó, cùng nhận phòng 15 với mình là một cái tên đàn ông. Phong lại ôm xấp giấy thi đi thẳng đến phòng mình. Chàng không lưu tâm xem người đàn ông cùng đến với mình là ai. Người đàn ông nào cũng giống nhau. Để bù lại buổi sáng, buổi chiều chàng giám thị với một cô. Cái tên đẹp và vẻ người thua cái tên một chút. Cô làm đầy đủ, nghiêm trang những công việc mà chàng giao cho: phát giấy thi, phát giấy nháp, so phiếu thí sinh và thẻ căn cước để nhận diện. Cô rầy những thí sinh nói chuyện, thu gọn những tờ giấy nháp thí sinh cố ý bày bừa bãi để người bên cạnh liếc xem, kéo về vị trí cũ những thí sinh ngồi sát vào nhau để hỏi bài. Đúng là một cô giáo quen nghề và đã có chồng con. Sáng hôm chàng lại giám thị với một cô. Lần này là một cô giáo quá trẻ, đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Chừng như nàng mới ra trường một hay hai năm. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Mái tóc uốn cao, cắt ngắn hợp thời trang. Tự nhiên chàng nghĩ rằng cô giáo không sung sướng ở cái tỉnh nhỏ này. Nhìn sang tên cô viết và ký ở tờ bìa đựng bài thi chàng đọc: “Lê Thị Hoàng Yến”. Chàng hỏi:

- Cô Hoàng Yến dạy ở trường gần đây?

- Vâng ạ. Em dạy ở trường Nữ tiểu học.

Không phải là giọng Huế như chàng thường gặp ở các cô giáo miền Trung mà là giọng Bắc.

- Cô ra trường đã lâu chưa?

- Dạ, em dạy được ba năm.

Vài thí sinh lợi dụng tình thế bắt đầu rì rào trao đổi ý kiến khiến chàng phải đi xuống góc phòng. Viên giám thị hành lang đi đi lại lại.

- Thành phố Quảng Ngãi nhỏ quá và tẻ quá chắc không phù hợp với tuổi trẻ của cô.

Chàng nói nhưng vẫn đưa mắt nhìn xuống lớp.

- Vâng ạ. Quảng Ngãi buồn lắm nên ba em đã xin đổi về Sài Gòn. Nhưng còn phải đợi bán nhà đã.

- Nhà to lắm?

- Dạ, không to lắm. Trước đây có người trả mười hai vạn. Nhưng nay vì tình hình mà họ trả sụt đi.

Vài ngón tay giơ lên xin thêm giấy thi, nàng cầm giấy đem xuống phát cho họ. Phong nhìn đôi vai tròn, hàng orlon mỏng màu hoa bèo uốn theo thân hình. Gót chân đi thoăn thoắt nhanh nhẹn. Khi nàng trở lại bàn, chàng giao cho việc lập bản danh sách những thí sinh nộp bài. Chàng nói:

- Khi thí sinh nộp bài, cô nhớ xem bài thi có ghi số ký danh không. Nhận bài xong cô bắt họ ký và cô mới giao trả thẻ thí sinh cho họ. Coi chừng kẻo họ chưa nộp bài mà đã ra khỏi phòng. Mất bài là nguy lắm. Cô sẽ được đổi đi, không phải về Sài Gòn như ba cô xin mà về Kontum hay Pleiku đó.

Nàng mỉm cười:

- Ông cũng vậy.

- Đâu có được “cũng vậy”? Khổ nhất là tôi sẽ phải đi Côn Sơn hay Quảng Đức.

Một vài thí sinh lác đác nộp bài. Khi tiếng trống báo hiệu mãn giờ thi cả hai túi bụi vừa thu bài vừa bắt ký vừa tìm thẻ thí sinh để trả lại vừa trông chừng ra cửa kẻo có thí sinh bỏ phòng ra đi. Khi công việc đã yên ổn, khi tất cả thí sinh đã ra khỏi phòng rồi, khi kiểm lại số bài thi thấy đủ, chàng bảo:

- Thế là trót lọt buổi sáng nay. Cô có thể thở ra được rồi.

Trong khi xếp lại bài thi theo thứ tự chàng hỏi:

- Cô dạy lớp Nhất phải không?

- Thưa ông không. Em dạy lớp Ba.

- Sao ít vậy?

- Em có con nhỏ, bà hiệu trưởng cho dạy lớp nhỏ để đỡ nhọc.

Phong quay lại nhìn nàng. Có con nhỏ? Đã có chồng rồi sao? Có chồng? Loáng trong một giây, từ một hình ảnh thiếu nữ mỹ miều, chàng thấy nàng chợt biến thành một thiếu phụ cam chịu.

- Chồng cô làm gì?

- Chồng em buôn bán

- Người Bắc?

- Thưa không. Anh ấy người Huế.

- Sao cô không lấy chồng người Bắc cho gần gũi?

- Thưa ông, khi đã yêu nhau thì…

Phong không muốn nghe tiếng “yêu nhau” thoát từ đôi môi kia. Giá nàng nói “bị bắt buộc phải…” thì chàng sẽ thấy dễ chịu trong lòng hơn. Để giữ vẻ thản nhiên, chàng thấy cần phải nói đùa một câu:

- Ở thành phố nhỏ người ta mau lấy chồng. Vì không có một món tiêu khiển nào có thể bận rộn tâm trí họ được. Ở thành phố nhỏ gia đình nào cũng đông con. Người ta không dùng thì giờ để la cà ở rạp hát, ở phòng trà mà họ chỉ biết tìm thú vui trong gia đình. Có lẽ đây là một định lý: “Khi đóng cửa một giải trí trường thì người ta sẽ mở thêm được một nhà hộ sinh”.

Hoàng Yến mỉm cười:

- Đó là khẩu hiệu hiện nay. Nhưng ở đây cũng còn bao nhiêu cô giáo chưa chồng.

- Chắc vì họ không đẹp bằng cô.

- Không chắc.

- Nhưng có điều này chắc: là những cô giáo chưa chồng bị hai sự thiệt thòi. Chưa chồng là sự thiệt thứ nhất và là thiệt thòi quan trọng. Thứ hai là phải dạy những lớp Nhất nhọc nhằn… Xin lỗi, chồng cô buôn bán gì?

- Nhà em mở tiệm dự trữ thuốc Âu Mỹ.

- Ở đường Phan Bội Châu?

- Thưa ông không. Ở đường Lê Trung Định

Chiều hôm sau khi các môn thi nhiệm ý: vẽ, nữ công, âm nhạc đã thi xong, có cuộc họp kiểm thảo của Hội đồng giám thị. Trên đường đi đến hội nghị chàng gặp Hoàng Yến cùng đi với một người đàn ông. Gặp nhau quá bất ngờ, chạm sát mặt nhau ở một lề đường hẹp, cả hai bên phải đứng dừng lại để chực tránh nhau. Hoàng Yến lúng túng chào chàng và phải giới thiệu người đàn ông đi với mình:

- Xin giới thiệu với ông: nhà tôi

Rồi quay sang chồng:

- Ông Phong giám thị cùng trung tâm với em.

Chàng giơ tay bắt và nhìn kỹ vào mặt người chồng khó chịu vừa thích thú vì anh không xứng với vẻ đẹp của người vợ. Một mái tóc mềm nằm rẽ hai, tuân theo một đường rẽ quá thẳng. Đôi con mắt ranh mãnh đi với cái hàm bạnh, nhiều mưu cơ và có thể tàn bạo. Cái miệng rộng. Môi dưới mỏng và dài hơn môi trên khiến có đoạn phải cong lại mới đủ chỗ. Chàng đưa mắt nhìn sang Hoàng Yến. Vẫn đôi má hồng phúng phính ngây thơ. Chàng có cảm tưởng hơi đau xót như khi nhìn một con cừu non bị vuốt sắt của một con ó hung tợn đe dọa. “Khi yêu nhau thì…”, chàng nhớ lại lời nàng. Sao con cừu kia lại yêu con ó kia được nhỉ? Họ có một đứa con. Lát nữa hai người sẽ cùng nhau châu đầu trên cái nôi hay cùng chuyền tay cho nhau đứa bé mũm mĩm.

Phong thấy bực mình vẩn vơ. Suốt buổi hội nghị chàng chỉ im lặng không nói. Lúc ở nhà ra đi chàng đã chuẩn bị những ý kiến để phê bình cách tổ chức phòng thi, công việc giám thị, công việc chủ khảo… nhưng bây giờ tự nhiên chàng thấy chán không thích nói nữa. Sáng hôm sau, khi xách vali lên tàu vào Qui Nhơn, chàng giã từ không luyến tiếc cái ám ảnh không vui kia.

Hôm nay bất ngờ chàng gặp lại cái môi mỏng dài và cong vêu. Đôi mắt ranh mãnh. Mái tóc dẹt. Sự bực mình kéo nhanh đến làm chàng cơ hồ nghẹt thở. Chàng thấy khó chịu một lần thứ hai về cái khuôn mặt sung sướng không xứng đáng đó. Anh chàng này lại cũng có một người vợ đẹp và thùy mị. Vô lý. Anh chàng này lại bủn xỉn và thất lễ với mình. Chàng nhớ lại lúc nãy anh ta đã lục lọi mãi tìm cho ra 2 tờ giấy bạc bẩn để đưa cho mình. Trên mặt hộp tiền, kìa những tờ giấy mười đồng sạch sẽ, màu trắng và màu hồng minh bạch, bạc mới giấy láng dày cộm nằm xếp chồng chất thế kia. Sao anh ta thô bỉ một cách trắng trợn vậy? Sao anh ta dám coi thường mình, dám ngang nhiên chọn giấy bạc bẩn dành cho mình, chọn trước mũi mình? Anh ta đáng bị mắng. Mất 10 đồng còn quá nhẹ đối với tội vô lễ. Nhân quả cũng rõ ràng ra đó. Đầu óc bủn xỉn suy tính về những tờ giấy bạc mới cũ mà hóa ra tính lẫn tính lộn, cái lợi không thấy đâu mà cái lỗ đã rõ ràng. Nhưng dù nghĩ vậy, chàng cũng mong rằng anh ta chợt tỉnh lại để thấy rằng mình tính lầm 10 đồng và anh ta đến xin lại. Chàng sẽ rất tự nhiên mở nắm tay ra bỏ đống bạc lên bàn cho anh ta tự đếm lấy. Không đếm tiền thối lại là một cử chỉ lịch sự, vậy tiền thối dư hay thiếu không thuộc trách nhiệm của chàng. Nhưng đưa mắt tìm anh hàng sách thì thấy anh đã rời bỏ quầy hàng đi sang đứng cạnh hai thiếu nữ vừa đến. Hai màu áo hồng và hai khuôn mặt xinh xắn. Cạnh đó, cái môi dưới của anh ta cong lại một cách kệch cỡm. Hai con mắt láu lỉnh rình rập. Tất cả khuôn mặt như bị căng ra, đẩy vươn tới, chuẩn bị để vồ vào câu chuyện của hai cô kia.

Tất cả đều bất lợi cho anh ta. Phong chầm chậm bước ra cửa. Mười đồng cầm dư trong tay như gào lên “Trả lại cho anh ta đi. Của phi nghĩa. Danh dự…”. Chàng phải đứng dừng lại trước một tấm quảng cáo lớn rao tên một tờ nguyệt san sắp ra đời. Vừa lơ đãng đọc những chủ trương nghệ thuật, mục đích xã hội của tờ báo, chàng vừa tự nhủ:

- Hay đem tiền vào trả cho anh ta! Nhưng mà… Trễ quá. Chẳng lẽ bây giờ.. Đáng lẽ lúc nãy…

Trong khi suy nghĩ, óc chàng nhớ cẩn thận đến câu tiên tri đọc hồi sáng “buổi chiều có hoạnh tài”. Chàng suýt kêu lên: “Lần đầu tiên Tử vi nói đúng”. Hoạnh tài là đây chứ gì? Vì lần nào cũng vậy, dù người ta đưa dư tiền nhiều hay ít chàng cũng đều trả lại. Có lần về đến nhà đếm lại mới thấy mình cầm dư tiền, phải lục đục đi trở lại để trả cho người ta. Nay sao tự nhiên chàng lại vò nắm trong tay? Cái gì xui vậy? Ưở, sao ngồi ở quầy hàng lại không phải là người vợ dịu dàng của anh hàng sách? sao vẻ mặt anh ta lại gợi chi đến một kỷ niệm khó chịu mà mình chưa hoàn toàn quên? Sao anh ta bủn xỉn thô bỉ đến mức là chọn những tờ giấy bạc mới cũ? đó là lòng ham mê chỉ xứng đáng với những đứa trẻ, với những bà cụ nhà quê lẩn thẩn. Sao anh ta lại vô lễ với chàng? Cho 10 đồng thì có giá trị gì đâu? 10 đồng có nghĩa lý gì cạnh vài trăm bạc chàng trả cho hàng rượu khi vui chân vào ngồi với một hai người bạn. 10 đồng có nghĩa gì cạnh một vé hát chàng đôi lúc mua mà thực tình không muốn đi xem. 10 đồng, đó chỉ là giá của một quả cam nhiều khi chua quá chàng bỏ không ăn. Phải, không ai dám tin rằng chàng tham 10 đồng của anh hàng sách, và sự thật quả là chàng không thèm tham lam thật. Có lẽ đó là “hoạnh tài” nó tự nhiên đến, bắt buộc đến theo cái luật huyền bí của nó mà mình không được biết chăng? Chớ một anh hàng sách bỏ vốn ra hàng bốn, năm chục vạn đồng sao điên rồ gì mà suy tính ham mê chi những tờ giấy bạc mới cũ để đến nỗi hóa ra lẩn thẩn tính cộng có hai con số mà đã tính sai?

Phong thấy lòng mình bớt băn khoăn một chút. Tiếng nói của Luân lý đã bớt phần gay gắt. Tuy vậy chàng vẫn còn áy náy. Trong khi đó thì chân chàng đã bước dần đến chiếc xe ghếch ở lề đường. Để dẹp hẳn sự áy náy, chàng nghĩ tiếp:

- Ta đem mười đồng này về cho thằng con nhỏ của anh coi vườn. Nó sẽ mừng lắm. Mấy hôm nay nó những ước ao đi xem phim Ấn Độ. Nó nghèo lại tàn tật. Nó cần mười đồng đó hơn là anh hàng sách vô duyên kia. Vả lại anh ta đáng bị phạt về tội vô lễ, tội bủn xỉn.

Phong thấy tâm hồn mình đã gần thanh thản. Trước khi nổ máy xe, chàng nhìn xuống đồng hồ tay.

- Mười giờ rưỡi đêm.

Cái ngày hôm nay có thể được coi như đã kết thúc vào giờ này. Những băn khoăn của lương tâm qua đi, chàng thấy lòng lâng lâng một niềm thích thú nhỏ: chàng đã muốn và đã giúp được cho Tử vi nói đúng một lần.
#16
    hai1957 27.11.2012 10:50:04 (permalink)
    4. KHOẢNG TRỐNG SAU LƯNG: Đã có trong TV

    5. MÙA HOA XOAN



    Nha Trang… tháng… năm…

    Chị Hoa,

    Em chán quá chị ơi. Không biết học trò của chị ra thế nào chớ học trò của em sao mà chúng làm em nản lòng đến thế. Đêm đêm mình cặm cụi dưới ánh đèn, soạn bài thật đầy đủ, chấm bài thật kỹ lưỡng và lúc nằm xuống giường sắp đặt trong óc những điều sẽ giảng sáng hôm sau. Chỉ những lúc ấy là vui. Mình nghĩ đến những kiến thức ngày mai sẽ rót vào tâm trí của những đứa em của mình. Thật là phấn khởi biết bao khi mình tưởng tượng rằng sau một giờ nghe giảng dạy các tâm hồn ấy thấm nhuần những tư tưởng mới, giống tựa những mảnh đất hoang khô cằn trong phút chốc đã xanh màu búp non, lá mới, trắng, hồng những nụ hoa đầu. Ấy vậy mà khi vào lớp ngồi giảng bài thì những bực tức ở đâu dồn dập đến đẩy xa cái cảm giác êm đềm của mình như những cánh bướm yếu dù cố sức chống lại vẫn bị ngọn gió mạnh cuốn đi mất.

    Học sinh họ ham chơi nhiều quá. Mình tận tụy ngồi giảng mà có một số cứ nhất định lén nói chuyện. Có lẽ tại em là cô giáo trẻ chăng? Hay tại vì em hiền lành chăng? Nếu thế thì con người quả đáng ghét thật. Họ chỉ chịu phục tùng dưới quyền lực chớ không muốn tự mình quản trị lấy mình. Chị dạy ở trường Nữ Trung học chỉ có toàn nữ sinh nên không khí nhất định là dễ chịu. Em rủi bị đưa về trường này học sinh cả nam lẫn nữ nên…

    Loay hoay nghĩ một lát không biết viết tiếp “nên” gì, Liên bỏ bút xuống bàn, gạt tờ thư sang một bên. Nàng với lấy tập bài cầm bút lên sửa. Những sự bực mình không trút hết trong thư khiến cho những đường gạch đỏ dài thêm, những chữ phê to ra, nét đậm hơn. Có những bài luận chỉ đọc tên người học sinh là đã có thể gặp câu nào cũng phê chữ “bất thành cú” được. Không ai có thể tưởng tượng được sự kém cỏi, sự cẩu thả đi đến chừng mực ấy. Nhiều học sinh không làm nháp nên viết xóa nhòe nhoẹt cả bài làm. Thỉnh thoảng đọc được một bài, chữ viết sạch sẽ lời văn gọn gàng Liên cảm thấy lòng hớn hở vui như được nghe một lời mơn trớn nhẹ.

    Nhìn đồng hồ thấy đã đến giờ dạy, Liên bỏ bút đứng dậy thay áo. Chiều nay nàng có hai giờ ở lớp đệ Thất. Dạy lớp nhỏ nàng thấy dễ chịu hơn cả vì học sinh tuy có ồn ào nhưng ngây thơ, vô hại. Nàng yêu những mái tóc rối, những bộ mặt thật thà phản ảnh trung thành tâm hồn của chúng. Nhiều em áo quần xốc xếch, chân đầy bụi mốc. Tuy vậy, nhìn mỗi cặp mắt mở rộng, những đôi môi hé trễ tràng, nàng có cảm tưởng rằng đó là những hấp khẩu hút tâm hồn chúng bám chặt vào lời giảng của nàng. Những sự ngứa ngáy tay chân cũng đáng tha thứ, đáng yêu. Ngồi một lát thì chợt nhớ phải xin đi tiểu. Cô giáo vừa quay lên bảng thì đã có những cùi chỏ thích vào sườn người bên cạnh. Rồi gãi đùi, rồi quơ chân tìm dép, rồi kiện nhau vì những chuyện vu vơ không dính dáng gì đến đời sống học đường hết. Chúng tưởng cô giáo có thể giải quyết được hết thảy mọi tranh chấp, giải thích được hết thảy mọi hiện tượng. Thằng Minh giọng ề à như một ông già nghiện rượu, chuyên môn đem những việc cãi cọ ở xóm Lò Heo của nó ra chứng minh ở lớp. Chứng minh gì, đố ai hiểu. Có lần nhân dạy về Nhị thập tứ hiếu, Liên hỏi:

    - Các em thấy ở trong phố mình, xóm mình có những người bất hiếu không? Họ bất hiếu như thế nào?

    Tức thì Minh vừa giơ tay, vừa kéo quần đứng dậy vừa lè nhè nói, không kịp đợi lịnh cô giáo.

    - Thưa cô, ở xóm Lò Heo có ông thầy thuốc Bắc có người con ăn chơi “một cây”. Hồi hôm ăn trộm vô cạy tủ, may có người con đi ăn chơi về khuya nghe tiếng động nên ăn trộm thất kinh chạy mất. Thanh niên dân vệ chạy rượt theo đến đền Xương Huân. Con cũng chạy theo mệt quá…

    Liên phải lật đật ra hiệu cho nó ngừng lại rồi hỏi:

    - Em định kể câu chuyện gì đó? Chứng minh điều gì?

    Minh trố mắt nhìn lên, miệng hả ra rồi lắp bắp nói:

    - Thưa cô… không có.

    Rồi mỉm cười lặng lẽ ngồi xuống. Cả lớp thông minh, mau hiểu cười rộ lên. Thằng Vinh thì nhanh nhẹn hoạt bát nên dễ sinh ra ồn ào làm mất trật tự. Nhưng một khi bị điểm xấu về hạnh kiểm là từ một khuôn mặt láu lỉnh thông minh, nó chuyển ngay thành một khuôn mặt vừa đau khổ vừa đần độn. Giọng nói thanh vang lanh lảnh hằng ngày đã trở thành, trong phút chốc, rời rạc mỏi mệt. Với vẻ mặt ấy, giọng nói ấy, nó lên xin cô giáo xóa đi điểm xấu kia, miệng quả quyết là nó bị oan nhiều và hứa chắc chắn là nó sẽ tốt, từ giờ này. Lời hứa ấy Liên cũng chắc chắn là nó sẽ lập lại cho đến cuối năm, nhưng Liên vẫn không thể ghét nó được. Thằng Lai lười biếng, thằng Tú vô lễ, thằng Chuyên ngớ ngẩn… tất cả những em bé học sinh, Liên đều yêu chúng với những tật xấu của chúng. Trong nhiều trường hợp Liên còn cảm thấy rằng chính những tật xấu ấy lại, ngược lại, làm cho Liên yêu chúng hơn. Những tật xấu ấy là kết quả của sự chăm sóc thiếu sót của cha mẹ, sự thiếu sót không cố ý.

    Sang đến lớp Đệ Tứ, Liên ít nhẫn nại được trước vài biểu lộ cá tính của học sinh. Một chị học sinh lớn ngồi giữa lớp che miệng nói chuyện với bạn. Liên cất giọng ôn tồn nói:

    - Chị Lệ, đừng nói chuyện.

    Tức thì người học sinh đứng dậy:

    - Thưa cô, em đâu có nói chuyện?

    Hoàn toàn là vẻ ngơ ngác và giọng nói quả quyết của người thành thật bị oan. Liên tức quá vì việc nhỏ nàng muốn cho qua bằng lời nhắc ôn tồn, không ngờ lại phải sắp mất thì giờ vào đó. Nàng phải nghiêm giọng nói:

    - Chúng ta chỉ có hai người. Hoặc là chị, hoặc là tôi, nhất định phải có một trong hai chúng ta nói dối. Tôi đang giảng bài. Tôi không muốn sinh sự với chị vì tôi không có ác cảm gì với chị hết. Chúng ta không có mâu thuẫn gì với nhau về quyền lợi, về tư tưởng… mà trái lại, chúng ta cùng nhắm chung một mục đích : đó là làm sao cho chị học giỏi. Thôi được, chị ngồi xuống.

    Cả lớp im lặng và Liên nghe tiếng đập của tim mình. Óc nàng rộn ràng mất đi sự bình tĩnh. Nàng cúi xuống tập giấy soạn bài, định tiếp tục giảng lại nhưng cái hứng thú bị ngắt đứt bây giờ không thể tìm lại được. Nàng cho học sinh ghi chép tóm tắt những lời giảng. Trong khi ấy, để quên sự bực bội, nàng lắng nghe tiếng gió reo vi vút ở giữa những chòm phi lao bên kia đường. Hàng bông giấy mọc ở trụ cổng nhà ai kia nở ra những chùm hoa đỏ tươi. Màu hoa đỏ yêu đời tưng bừng điểm rải rác giữa nền lá xanh giúp nàng vui vui trở lại. Mùi tanh nhạt pha vị mặn của gió biển ở ngoài khơi thổi vào, cái cảm giác mát lành lạnh của nước như quạt nhẹ vào đến tận tâm hồn. Nàng tiếp tục giảng lại bài cho đến khi bác Cai xổ kiểng bãi học.

    Mấy hôm nay trời lất phất mưa, học sinh học xuất sau được nhà trường cho phép vào đứng ở sân lợp. Một số nam học sinh lớp Đệ Nhất, Đệ Nhị, lảng vảng đứng ở cửa sổ lớp học giữa lúc nàng giảng bài. Sự có mặt của những người lạ làm các nữ sinh ngồi học không được tự nhiên. Liên đã báo cho ông Giám thị biết và ông đã đến đuổi mấy bận nhưng sau đó học sinh lại trở lại. Có anh thô lỗ đứng phê bình sắc đẹp, có anh huýt sáo nho nhỏ. Những anh học sinh này thường mặc quần áo bó sát vào người trông như những cuốn chả giò, tóc chải tém và đi giày mũi nhọn. Liên đau xót khi nhìn một hai quyển vở bị xếp đôi nhét vào túi quần sau của họ, những quyển vỡ mà lúc đi học nàng trân trọng giữ gìn như những người bạn nhỏ. Mấy nữ sinh ngồi sát cửa sổ nghiêm nét mặt lại nhíu mày chú ý trong một nét đau khổ. Họ như có mặc cảm tội lỗi mặc dù họ không có lỗi gì hết. Vài cô liếc mắt một nửa nhìn xem ngoài kia người ta làm gì. Liên thấy chịu đựng không được nữa nên đi ra ngoài lớp.

    - Mời các anh đi qua sân lợp để cho các em học.

    Một số lớn đi dãn ra. Một số khác vẫn bất động. Có tiếng nói hỗn xược.

    - Trời mưa mà, cô.

    - Nhưng ở sân lợp không ướt.

    Không có tiếng trả lời và cái khối người vẫn bất động. Nàng giận quá nhưng biết làm gì đây? Lại đi gọi ông Giám thị tức là tự nhận không biết đến lần thứ mấy sự bất lực của mình, sự bất lực cụ thể về hình vóc và quyền uy. Nàng nghĩ: chỉ có sức mạnh tàn bạo mới trị được những tâm hồn vũ phu kia. Giữa lúc nàng bối rối thì có tiếng giày ở phòng bên cạnh đi ra. Mấy người học sinh lẳng lặng tản hết. Thầy Phúc - vì tiếng giày vừa rồi là của thầy Phúc - nhìn nàng khẽ cúi chào rồi khiêm tốn bước vào lớp. Nàng muốn nói một lời cám ơn nhưng Phúc đã không đứng đó nữa. Phúc là một bạn đồng nghiệp cũng đổi về dạy ở đây cùng một năm với nàng. Đó là một chàng trai im lặng. Nàng lưu ý đến Phúc nhân một bữa tiệc có mời đủ các giáo chức trường công và trường tư của thành phố. Dãy ghế các cô giáo, nhất là những cô giáo đẹp thu hút được nhiều con mắt hơn hết. Một số thầy giáo trẻ ngồi chụm đầu vào nhau bàn tán ồn ào, thích cánh, vỗ vai với những con mắt ngầm ra hiệu cho nhau. Sau những diễn từ chúc từ mà người ta đoán trước được nội dung đến phần không thể thiếu được trong mọi cuộc ăn uống, - dù vui ăn vài cái bánh ngọt - là yêu cầu hát. Nhóm thầy giáo trẻ náo hoạt lên ngay:

    - Yêu cầu cô Tuyết Thu hát một bài.

    - Yêu cầu.

    - Yêu cầu chị Xuân Anh.

    - Yêu cầu chị Liên hát bài “Nửa đêm ngoài phố”.

    - Yêu cầu cô Yến hát bài Bambino.

    Những lời mời mọc, chối từ, nài nỉ kéo dài. Liên chú ý đến Phúc ngồi im lặng, bơ vơ lạc lõng. Lâu lâu nàng bắt gặp một tia mắt chàng đưa nhìn về dãy cây phượng trước sân.

    Sau đó có những cuộc hội nghị hàng tháng, những cuộc chạm mặt ở hành lang trường. Lần nào Liên cũng lúng túng nhận cái chào lặng lẽ của Phúc. Sau phút lúng túng nàng có cái cảm giác êm ả được gặp một người bạn lễ độ. Im lặng không hẳn là cái thái độ mà nàng yêu thích, nhưng quả tình người im lặng làm nàng nể hơn. Nhiều lần nàng đã phải bảo với những học sinh vừa lười vừa ồn ào rằng:

    - Các anh hãy nhìn một người bạn trong lớp, anh Chúng đó (nàng đợi dịp anh Chúng vắng mặt mới nói). Anh Chúng học không giỏi, không chăm nhưng được cái hay là không nói chuyện. Anh không thuộc bài bao giờ, làm bài thì kém cỏi, nhưng tôi chưa bao giờ nỡ nói nặng anh một lời. Chỉ vì cái vẻ nghiêm nghị lễ độ của anh. Nhác học không phải là ưu điểm, tất nhiên, nhưng đã nhác học mà còn mượn sự liến thoắng ồn ào để gây cho mình cái ảo tưởng là mình thông minh hoạt bát thì nguy hiểm lắm. Khi anh im lặng, người khác không biết là anh nghĩ gì, trong lúc có thể là anh không nghĩ gì hết. Chớ nói ra thì họ hiểu ngay sự dốt nát kém cỏi của mình.

    Mùa hạch tấn ích, như một đe dọa, lững thững đến. Học sinh xuýt xoa lo khi thầy giáo đọc cho chép lịch thi các môn. Nhìn vẻ ngơ ngác của một vài học sinh, nhìn nét mặt uể oải của một số khác, Liên có cảm tưởng rằng tin báo hạch tấn ích vừa nhắc họ nhớ là họ đang đi học, điều mà thường ngày họ cố ý quên. Đối với một số khác thì tin ấy kinh khủng như một lời tuyên án. Riêng thầy giáo thì chuẩn bị để nhận những xấp bài, những xấp bài mỗi ngày một chồng cao trên bàn mình. Nhưng chấm bài nhiều, dẫu là một công việc nặng nhọc, cũng chưa đáng phiền bằng việc giữ sao cho học sinh khỏi lén đem bài theo khi hạch. Có người chịu khó chép đem theo hàng cuộn “phim” chữ nhỏ như kiến, có người xé cả hai ba tờ sách. Có người làm sẵn ba bốn bài ở nhà, những bài mà họ đoán trước thầy giáo sẽ ra. Có người đặt sách ở mặt ghế rồi ngồi. Công thức Toán, công thức Hóa học thì chép ở mặt bàn, ở bàn tay. Không đủ chỗ chép thì họ chép cả ngay lên đùi. Ngày hạch tấn ích thầy giáo phải đóng thêm vai trò Cảnh sát, vai trò nhân viên quan thuế kiểm soát hàng lậu. Thật là xa vời với những ngày ở trường sư phạm nàng tưởng tượng những học sinh lý tưởng của nàng say mê học hiểu, luôn luôn đòi hỏi thầy giáo cung cấp hiểu biết cho họ.

    Một tối thứ bảy, Liên đi xem phim “Les canons de Navarone”. Nàng lấy vé ban công để bớt gặp những người quen. Khi chọn chỗ ngồi ở phòng bán vé, nàng chọn một ghế ở mãi tận góc. Nhưng khi lững thững bước lên lầu thì không ngờ người ngồi gần lại là Phúc. Phúc chào nàng và đứng dậy nhường lối đi. Nàng cũng khẽ gật đầu chào lại. Ngồi im lặng cạnh nhau một lúc, Liên thấy sự im lặng ngượng nghịu thiếu tự nhiên quá. Hai người bạn đồng nghiệp. Ý chừng cũng nghĩ như vậy nên sau một cái tằng hắng Phúc rụt rè quay sang nàng:

    - Cô thỉnh thoảng mới đi xinê?

    - Vâng ạ. Chỉ khi nào có phim hay.

    Im lặng.

    - Hôm đi xem Pépé (1) tôi có thấy cô.

    - Vâng, hôm ấy tôi có đi.

    - Phim khôi hài thì nội dung nghèo nàn dù trong phim có mặt nhiều tài tử hữu danh.

    Im lặng.

    - Sự xuất hiện của 35 tài tử hữu danh ấy, nôn nả, rời rạc, tham lam như những tấm ảnh dán trong album.

    - Tôi chỉ thích có màn vũ.

    Vừa lúc ấy, chuông reo và đèn tắt. Phim đêm nay diễn xuất sắc.

    Cảnh bão tố nhồi đập chiếc tàu nhỏ làm Liên khâm phục sức chịu đựng của những cơ thể mạnh. Nàng tự thấy xấu hổ vì những bước đi nhỏ nhắn của mình, vì sự yếu đuối của cơ thể mình lúc nào cũng đòi hỏi săn sóc nuông chìu. “Mình tự hào vô lối vì một chút ít hiểu biết sách vở. Mình chỉ có giá trị của một cuốn băng nhựa magnétophone. Học thuộc lòng từng đoạn sách rồi viết lại, y nguyên và nói lại cho học trò nghe, ít hơn…”

    … Nghĩ tới đây nàng thấy hối hận nhớ lại đôi lần mình đã khinh khỉnh đối với một vài người học trò quê mùa dốt nát.

    Phim chấm dứt, đèn bật sáng. Khi đứng dậy đợi chờ đoàn người chầm chậm bước ra, Phúc quay sang nàng:

    - Phim hay…

    - Vâng.

    - Cô cũng nhận thấy cô đào Gia Scala đẹp thùy mị…

    - Vâng. Gia Scala có một vẻ đẹp gần với chúng ta, vẻ đẹp Á Đông.

    - Tội nghiệp nhất và đẹp nhất là khi cô ràn rụa nước mắt lại ngồi cạnh Gregory Peck. Tình yêu vô vọng có một vẻ gì đau xót…

    Liên gật đầu nhưng không trả lời.

    - … Có lẽ đẹp hơn và bền hơn những mối tình có kết quả.

    - Vâng, có lẽ vậy.

    Thấm thoát mà niên khóa đã chấm dứt. Mùa nghỉ hè không còn được báo hiệu bằng hoa phượng đỏ, bằng giọng ve sầu mà bằng hoa xoan màu tím nhạt. Trên con đường nhà thờ, một dãy cây xoan chạy dài màu hoa nhũn nhặn nép giữa lá xanh. Đêm tối đi qua đây, thở mùi hoa vương nhẹ trong không khí, Liên nhớ đến những đêm trăng ở nhà quê. Màu phượng đỏ rực rỡ dành cho ngày nhập học của niên khóa mới. Sự phân chia màu hoa theo mùa, tiết kể cũng hợp lý. Màu tím nhạt đơn sơ, hương hoa thoáng đưa man mác phù hợp với nỗi niềm chia ly luyến tiếc biết bao. Còn màu đỏ rực rỡ phải làm khung cảnh cho nhiệt tình của những người bạn xưa nay gặp nhau trở lại, của tâm hồn náo nức học tập, cố gắng tranh đua. Họ xếp đặt sách vở để về quê và Liên cũng bùi ngùi sửa soạn hành lý về sống cạnh cha mẹ ở Huế. Đêm giã từ thành phố nàng đi lại mấy lần trên con đường nhà thờ để nhìn lại màu hoa xoan lấp loáng dưới ánh đèn đường và thở từng hơi dài mùi hoa man mác. Vào những lúc này nàng chợt thấy tha thiết yêu cái thành phố bé nhỏ đã dung dưỡng nàng bấy lâu nay, cái thành phố mà mới ngày nào sơ ngộ nàng thấy chán vì nó bằng phẳng quá.

    … Hoa xoan rụng đi và hoa phượng lác đác nở. Khi hoa mãn khai và thành phố rực đỏ lên là lúc mà các trường khai giảng trở lại. Chín mươi ngày hè đã nối tiếp nhau trôi qua. Tiếng kiểng nhận học ở trường này chen lẫn với tiếng kiểng ở trường kia. Học sinh túa ra khắp các nẻo đường mang lại sinh khí cho các lề đường ba tháng nay vắng lặng. Liên bồi hồi trở lại mái trường xưa nhìn lại cảnh cũ. Nàng cảm thấy một niềm vui nhẹ khi sắp được gặp trở lại người bạn đồng nghiệp lễ độ của mình. Nhưng hôm lễ chào cờ nàng không thấy bóng Phúc. Suốt một tuần sau cũng vậy. Ghé lại vào phòng nhìn bảng phân phối giáo sư chỉ đạo các lớp nàng không thấy tên Phúc. Nàng lấy giọng thản nhiên gợi chuyện ông giám thị.

    - Suýt nữa thì tôi tựu trường trễ. Đi thăm ông chú ở cửa Thuận về nhà bị cảm định lấy giấy chứng của bác sĩ để xin nghỉ một tuần. Nhưng sợ ngày khai giảng phiền nhà trường thành ra phải gắng vào cho đúng kỳ. Chắc thế nào cũng có giáo sư chưa đến kịp ông nhỉ?

    Ông giám thị nheo nheo con mắt mỉm cười xã giao:

    - May quá, năm nay giáo sư đến đủ kịp ngày.

    Nàng thấy xót ở tim mình. Thế còn Phúc? Nàng muốn hỏi ông giám thị nhưng ngại không dám hỏi. Vả lại hỏi để làm gì? Phúc đến hay không đến đâu phải do câu trả lời của ông giám thị? Nàng lặng lẽ bước ra khỏi phòng.

    Nửa tháng sau nhân buổi học tập thường kỳ của các giáo sư, có người vô tình nhắc đến Phúc. Chừng ấy nàng mới biết là Phúc bị đổi đi trường Phan Bội Châu ở Phan Thiết. Chừng nửa năm sau cũng nhân một buổi học tập, nàng nghe tin Phúc cưới vợ. Anh Ninh dạy sử địa bạn thân của Phúc nói:

    - Phúc cưới con Thịnh. Hợp có nhớ con Thịnh không?

    Hợp dạy Anh văn nói:

    - Con Thịnh nào? Có phải con Kim Thịnh, con bà Cả Nghiễm ở chợ An Đông không?

    - Đúng là nó.

    - À, ai chứ Kim Thịnh thì moa biết lắm. Thế là Phúc đào nhằm cái mỏ rồi đấy. Thằng Phúc dạy vạn vật thảo nào giỏi về khoáng chất.

    - Mày nói thế tội nghiệp nó. Nó hiền lành không có dã tâm đâu. Chẳng qua me nó và bà Cả Nghiễm cùng là bạn hồi còn buôn bán ở Nam Định cho đến hồi di cư cùng vào một lượt với nhau. Hai bà cụ hứa hẹn gả bán đâu từ hồi còn ở Nam Định cơ đấy. Chứ tính con Thịnh đua đòi nhảy nhót thằng Phúc không thích. Hôm hè tao có gặp nó mấy bận ở thư viện. Lúc được tin phải đổi về Phan Thiết tao thấy nó buồn lắm nhưng cuối cùng nó nói “Thôi đi như thế cũng được. Có lẽ nên xa Nha Trang càng sớm càng hay”

    Vài khuôn mặt tò mò quay lại.

    - Thế là nghĩa làm sao?

    Giọng Ninh chậm rãi:

    - Có lẽ anh chàng yêu ai ở Nha Trang nhưng mắc bà cụ đã bắt hứa hôn với con Thịnh rồi nên anh chàng cố quên đi, xa đi. Có lần anh chàng ngần ngừ sắp nói cho mình nghe chuyện nhưng rồi anh chàng lại giữ được không nói.

    Liên có cảm tưởng như mọi con mắt đều nhìn về mình. Nhưng may đến đây, ông Hiệu trưởng cắt đứt câu chuyện và cuộc họp bắt đầu. Liên lắng tai nghe lời thuyết trình viên nhưng cứ từng chặp từng chặp nàng đưa mắt nhìn qua cửa sổ.

    Cây keo nơi sân trường đầy hoa trắng. Có một cặp chim cưỡng véo von cất tiếng hát. Một con chuyền lên cành cây, đu mình bám vào một trái keo chín muộn mổ từng hồi. Mình chim đong đưa qua lại và đôi cánh xập xòe để giữ thăng bằng. Một con đi lững thững dưới đất cát, chốc chốc cất tiếng gọi. Chắc đó là con chim trống vì tiếng gọi vang lanh lảnh. Mỗi lần nghe chim trống gọi, chim mái ngừng mổ rồi trả lời bằng một giọng ríu rít nho nhỏ. Yên tâm vì bạn mình còn đó, con chim trống lại thong dong đếm bước rồi một chốc lại gọi. Một lát sau nó vù cánh bay lên cành keo đứng cạnh chim mái và sung sướng cất tiếng hót. Tiếng hót vang lảnh lót ấm áp và mơn trớn ngọt ngào có sức quyến rũ như một tiếng gọi yêu thương. Đôi chim xinh đẹp lông mướt màu trắng nhạt và đôi cánh điểm lông đen.

    Liên vui lây cuộc đời hạnh phúc của đôi chim. Vạn vật vui vẻ dường ấy. Cây keo tưng bừng nở hoa kết trái. Hai con chim quấn quít gọi nhau. Nàng nhớ đến Phúc, nhớ đến lời Phúc nói với mình về cô đào Gia Scala:

    “Tình yêu vô vọng có một vẻ gì đau xót… có lẽ đẹp hơn bền hơn những mối tình có kết quả”. Nàng đâu có ngờ rằng đó là lời thổ lộ tâm sự cuối cùng của Phúc.

    Niên khóa tiếp tục. Cuộc đời của Liên lại được gắn liền với cuộc đời của những học trò của mình. Nàng nhẫn nại làm việc, âm thầm cố gắng. Những tật xấu nhỏ của học sinh một khi đã quen đi, nàng chuyển sang khám phá những ưu điểm của họ.

    Chị Cháu học đến lớp đệ Tứ mà những buổi mai nào không có giờ học là gánh hoa đi chợ bán với mẹ. Một lần nàng đi dạy về thoáng thấy Cháu gánh một cặp giỏ không đi chợ về, đi bên cạnh mẹ. Nàng sợ Cháu ngượng nên tránh xa ra, không ngờ Cháu nhanh mắt thấy nàng rảo bước tới và giới thiệu nàng cho mẹ biết để mẹ chào. Hai mẹ con vui tươi như không hề để ý đến bộ quần áo đen bạc màu của mình, đến những đôi guốc mộc, đến bộ mặt nhễ nhại mồ hôi. Người ngượng, ngược lại, lại chính là Liên. Nàng thấy mình nhàn nhã quá, mình được ưu đãi nhiều quá.

    Trò Út mới học đệ Thất mà đã thay cha đi giữ rẫy. Út cầm rựa đi trong đêm tối, ngủ ở chòi cao, trong khi một số bạn cùng lớp ở giữa phố mà tối không dám đi tiểu một mình. Sự mẫn cán, sức tháo vát của nhiều em học sinh khiến Liên mến phục. Tùy theo nghề nghiệp của cha mẹ mà có em may vá, sửa xe, xay bột, làm bánh, thu hàng, bày hàng. Mỗi người học sinh có một hoàn cảnh đáng cho mình tìm hiểu mà yêu thương và giúp đỡ hơn là trách móc. Dần dần nàng tìm thấy cái vui trong tâm hồn khi ý thức được rằng mình đang làm một việc có ích. Chỉ thỉnh thoảng những lúc ngồi trông chừng học sinh làm bài, đưa mắt nhìn ra cây keo ở sân trường hay giàn hoa ở trước hiên là nàng man mác nhớ đến người bạn đồng nghiệp của mình. Nàng tưởng chừng còn nghe lại ở trong phòng học bên cạnh vang lanh lảnh tiếng giảng bài của Phúc: “Tiền cam gồm có tất cả các địa tầng, có địa khai hay không có địa khai, có nham thạch tinh thể hay không tinh thể, ở dưới tầng cam biên và cách từng này bằng một nghịch diệp”

    Có những buổi tối nàng ngồi một mình ở bãi biển. Nền trời đen sẫm, chi chít sao. Mặt nước cũng đen phản chiếu ánh sáng lung linh. Trước mắt nàng những đèn thuyền câu sắp hàng chạy dài ở mãi tít nơi khơi xa. Theo một nhịp đều đặn, nước biển chao đi, rút ra xa rồi ồ ạt chạy vào bờ, đập vỡ tung vừa làm sủi bọt rì rào. Dù không ai để ý đến, dù không ai biết cho, sóng biển vẫn cứ nhịp nhàng làm cái công việc của mình, không vội vàng mà cũng không trễ nãi. Bắt đầu từ bao giờ và sẽ ngừng lại lúc nào? “Thật y như cái công việc của mình và của những người đồng nghiệp của mình”. Liên nghĩ. Ai nấy đều làm việc, đều đặn chu đáo. Có kẻ để ý biết đến hay không cũng được. Như những đợt sóng kế tiếp nhau mải miết chạy vào bờ, nàng và các bạn của nàng cũng kế tiếp nhau mà dạy dỗ, uốn nắn, lớp học sinh này dạy xong thì trao qua tay người bạn khác tiếp theo không nản, không mỏi, không ngừng.

    Nàng bâng khuâng nghĩ đến Phúc. Ở Phan Thiết cũng có một bãi biển vắng như đây. Không chừng vào giờ này Phúc cũng ra ngồi ở bãi biển nhìn lằn bọt trắng ngầu, nhìn con sóng nhấp nhô mà nhớ đến Nha Trang, nhớ đến nàng cũng nên. Dễ thường Phúc cũng lẩm nhẩm nghĩ như nàng. “Ở Nha Trang cũng có một bãi biển vắng… như đây”.

    (1) Tên một cuốn phim.

    #17
      hai1957 27.11.2012 20:14:36 (permalink)
      6. Con suối mùa xuân Đã có trong TV
      7. Dấu chân sa mạc



      Khi tôi bắt đầu có trí khôn thì trong những khuôn mặt người quen thuộc hoạt động lẫn lộn giữa cái thế giới âm thầm nhỏ bé của tôi, tôi nhận thấy có khuôn mặt của cô Ba Hường. Nhà cô ở sát vách nhà tôi, ngăn cách bởi một bờ thành bằng gạch cao. Dù chưa bao giờ tôi hỏi cha tôi hay một bực trưởng thượng nào, nhưng tôi chắc chắn bức thành đó là do cô bỏ tiền xây cất lấy. Một công trình kiến trúc như vậy thật lạ đối với quê tôi, một làng nghèo mà những hàng rào ngăn cách nhà nọ với nhà kia chỉ là những hàng cây chành rành. Rào qua hai mùa mưa thì cây chành rành đổi sang màu xám xỉn, buồn nản. Những kỳ mưa to gió lớn, từng mảng rào như vậy ngã qua quặt lại khiến sân nhà nào cũng như rộng thêm ra, sáng sủa hẳn lên. Một số hàng rào khác trồng bằng cây xanh: cây táo nhơn, cây keo, cây lưỡi long. Rào như thế này khỏi tốn tiền mà còn có lợi.

      Sang tháng Bảy, tháng Tám, để chuẩn bị đón những trận bão, nhà nào cũng lo chặt cây rào. Nhà có thang phải tuần tự cho hàng mươi nhà khác mượn, thậm chí phải cho mượn cả rựa nữa. Chen vào giữa tiếng rựa chặt chan chát, tiếng người nầy nói chuyện với người kia vang lanh lảnh giữa những chạng cây, lưng chừng mái nhà như những con chim trò chuyện. Cả xóm rộn ràng hoạt động hẳn lên. Trẻ con đứng đợi lượm tổ chim, tổ chào mào tròn trịa như những cái chén, ổ dồng dộc móc đong đưa ở những nhánh keo đầy gai. Cây ngã xuống đường, người ta kéo dồn xếp lại, lôi cả sỏi đá làm bụi bay tung. Lũ trẻ reo hò đi theo sau, mừng như đám rước. Đứa thì đội lên đầu một cái tổ dồng dộc dài ngoẵng, nhọn hoắt, đứa thì lưng cõng em mà hai bàn chân xỏ vào hai cái ổ dồng dộc vừa đi vừa kéo lê lết giả như đi hia. Đó, sinh hoạt của xóm tôi liên quan đến cái hàng rào. Thành ra khi nhìn bờ thành của nhà cô Ba Hường, tôi có cảm tưởng nó là ranh giới cách biệt hẳn chúng tôi với một xã hội nào khác, với một thế giới nào xa lạ hoàn toàn. Cái bờ thành xây bằng gạch tô vôi chạy thẳng tắp của cô không gây nên một sự sinh hoạt nào hết. Qua nhiều năm tháng gió mưa, nó ngả sang màu xám. Rờ vào thấy nhám tay, cứng lỗ chỗ như đầu đinh. Cái sân rộng cũng tô bằng xi măng. Thật là cả một dinh cơ trong đó ẩn chứa nhiều sự phí phạm rõ ràng. Vì rằng ngoại trừ nhà cô Ba còn thì tất cả mọi cái sân trong xóm đều chỉ là những vuông đất tự nhiên. Muốn làm đẹp, người ta trồng vài bụi đồi mồi, vài chậu hoa xin giống đâu đấy hay đơn giản hơn nữa là những chậu hẹ, chậu rau húng.

      Cô Ba Hường góa chồng hình như đâu vào năm cô mới ba mươi tuổi. Chồng cô là người Hoa kiều, khi chết để lại cho cô nhiều ruộng nương. Cô cho tá điền làm rẽ, đến mùa cầm roi đi coi gặt. Khi lúa phơi khô giê sảy sạch sẽ, nhà rẽ chở lúa đến nạp. Sõng chở lúa đậu ở bờ sông, rồi từng người trai lực lưỡng gánh đôi bao đầy ắp no tròn chạy thình thịch vào cổng. Tiếng lúa đổ rào rào trên sân. Bụi bay mù. Nhà rẽ đong lại từng giạ, ống gạt tre gạt phắt lên miệng giạ cứa lên vỏ lúa nghe gọn, sắc làm rợn cả gáy. Tiếng đếm dõng dạc: “một… hai… ba mươi bốn chín… năm mươi… dạ thưa cô một cò (1 )” rồi đếm trở lại: “một… hai…” Sau đám bụi mù, dáng cô Ba Hường đứng chống nạnh dõng dạc, quan trọng. Trong những kỷ niệm ngày thơ, tôi thèm thuồng và kính phục một dáng đứng oai vệ như vậy. Nhà tôi nghèo, lúa lên chỉ vừa đủ ăn. Mỗi lần có hàng bánh bèo, hàng bún, hàng cốm nếp đi qua cất tiếng rao “Ai đổi bánh bèo không?… Cốm nếp đổi lúa đây…” mà tôi lật đật chạy vào giục mẹ đem lúa ra đổi thì mẹ tôi gạt ngay:

      - Lúa đâu mà đổi? Mày làm như nhiều lúa lắm.

      Thấy tôi tiu nghỉu muốn khóc mẹ tôi đưa tay xoa đầu tôi rồi nói:

      - Phải chi nhà mình nhiều lúa như cô Ba thì mẹ đã đổi cho con ăn.

      Cô Ba Hường thật đã tượng trưng cho một nếp sống thong thả phong lưu mà mẹ tôi và tôi đều ao ước. Đã thế, cứ cách vài ngày bên nhà cô có mùi thịt nướng thơm tho đưa sang. Cô ăn thịt nhiều hơn ăn cá ăn rau. Mỗi lần bà hàng thịt đi chợ ghé ngang qua cổng, tôi thấy cô bắt cân hết thịt nạc đến thịt ba chỉ rồi thịt sườn. Lệ ở nhà quê bán thịt có tặng kèm thêm những miếng lòng heo đã luộc chín. Khi nào có tôi đứng đó, cô Ba cũng lựa một miếng gan hoặc một miếng huyết đưa cho. Nhiều khi tôi theo mẹ tôi sang chơi nhà cô, cô cho ăn thả cửa: bánh ít, chuối, mãng cầu… Những món ăn thường thường quá úng hoặc gần thiu. Khi về, mẹ tôi rầy:

      - Con đừng tham ăn, xấu lắm. Đã dặn nhiều lần, ai cho cũng đừng lấy.

      Rồi sau đó mẹ nói với cha tôi:

      - Cho trẻ con mà cứ cho những bánh gần thiu, chuối sắp úng.

      Cha tôi ung dung cười:

      - Chắc cô ta không biết. Ở một mình, mua ăn không hết, thiu úng không hay.

      - Sao lại không biết, không hay. Tại tánh hà tiện.

      - Điều đó thì cũng có.

      Trong câu chuyện giữa mẹ tôi và cô Ba Hường tôi thường nghe mẹ tôi hỏi:

      - Sao cô Ba không bước đi bước nữa? Nhà cô tòa cao lẫm lớn mà ở một mình ngó đơn chiếc quá.

      Cô Ba trả lời chậm rãi ngập ngừng:

      - Bước đi bước nữa thì cũng được, cũng phải phép. Còn ở thế này thì được cái thong thả.

      - Người ta ai cũng vậy, phàm đũa phải có đôi.

      Cô Ba tỏ dáng ít hăng hái bàn đến chuyện lứa đôi. Cô hay nói tới ruộng đất, giá lúa giá nếp cao hay hạ, đập Tam Giang, đập Đồng Cháy, đập Tấn Lương, đập Giá Dện nước lên xuống mực nào, nước về đồng kịp hay không, mương cái, mương con vét sạch hay bị bèo cản… cô nói thông thạo và say mê. Lúa gòn, lúa trắng, lúa ba thóc, lúa móng chim, lúa nhe, lúa Đồng Nai… nếp tượng, nếp lùn… đất nào gieo giống nào, mùa nào sạ thứ nào… miệng cô nói cứ dẻo quánh. Mẹ tôi làm tai nghe. Chỉ có tá điền mới lời qua tiếng lại với cô khi cô vi phạm vào mục chuyên môn của họ. Do đó cứ năm, mười bữa nửa tháng thì nghe bên cô có tiếng cãi cọ. Cô đàn áp tá điền. Họ chịu nhịn nhưng về nhà cứ làm theo ý họ. Cô đòi ruộng lại. Giằng co. Cô hăm đi kiện. Nài nỉ. Cuối cùng thì cô thắng trận. Vùng tôi ruộng đất ít mà người tá điền đông. Có người chiều nịnh cô đưa con gái tới ở cho cô sai vặt.

      Năm tôi lên mười thì mẹ tôi qua đời. Cha tôi tính vốn ít nói càng trở nên lầm lì thêm. Ông hay ngồi trầm ngâm hàng giờ ở trên võng, miệng ngậm điếu thuốc. Một con mắt nheo lại tránh khói thuốc uốn vòng bay lên. Có khi điếu thuốc cầm nơi tay cháy sém cả ngón tay ông mới chợt biết, vội vã ném nhẹ ra sân. Cửa nhà ít khi được ngăn nắp. Chuồng heo không còn vang lên tiếng heo kêu đòi ăn như trước. Nền chuồng đất cứng lại, khô trắng. Qua hai mùa mưa, mái chuồng lủng từng mảng lớn bằng cái bát, bằng cái vung. Cha tôi thuê người dỡ xuống biến chỗ đó thành một khoảng trống làm sáng hẳn căn nhà bếp. Cùng với sự vắng mặt của mẹ tôi, trong nhà, ngoài sân, sau vườn, cũng càng ngày càng vắng thêm. Những bụi sả, bụi ớt ngã xuống mà không được thay thế. Hàng đu đủ trước kia tỏa bóng rợp quanh vại nước nay cứ chỉa mãi ngọn lên trời, nhọn hoắt cắm vài lá cọc còi. Ánh sáng chói chang thay chỗ cho màu xanh. Sự im vắng nhiều hơn tiếng cười nói.

      Bên ngoại tha thiết với cha tôi và tôi hơn bên nội. Cậu Năm cứ mươi ngày thì che cái dù đen ghé lại nhà. Nơi cán dù, cậu móc ba thang thuốc Bắc cột ép vào nhau. Cậu làm thầy thuốc. Số thân chủ ít ỏi rải rác quá nên nơi chiếc áo dài xuyến đen có mụn vá. Cậu chỉ rờ đầu tôi mà không bao giờ đưa cho một món quà. Bàn tay rộng quá, chụp gọn cả cái đầu làm tôi có cảm giác ấm áp như khi đội một cái vỏ bưởi. Tuy vậy tôi vẫn thích cậu cho một trái ổi hay móc túi cho một trái táo. Trong mỗi thang thuốc đó thế nào cũng có ba trái táo đen. Tôi nghĩ: Đáng lẽ cậu lấy thêm một trái táo ở cái thẩu của tiệm thuốc chú Năm Ngâu để dành cho mình.

      (1) năm chục

      Dì Mười lấy chồng xa nên đôi tháng mới ghé thăm một lần. Dì giống mẹ tôi từ khuôn mặt đến vóc dáng, đến cả giọng nói. Trong nhà Ngoại chỉ có mẹ tôi và dì là đẹp hơn cả nên dì lấy chồng trước hơn cả dì Tám, dì Chín. Dượng Mười nhà giàu nhưng xấu trai. Cái gì cũng gượng gạo, cứng nhắc nơi gương mặt, nơi cử chỉ của dượng. Cà Lố - quê dượng - là một miền xa xôi giáp ranh với các buôn Thượng du. Nơi đây trẻ con không hề biết xe đạp là cái gì và những bộ ván đặt ở nhà bếp cũng dày đến một tấc, dài đến bốn thước. Thật là giang sơn của danh mộc. Tay chân ngượng cứng như thân cây, nét mặt thản nhiên như vỏ cây, dượng Mười quả đúng là sản phẩm của miền đất xa xôi này. Ở đây tất cả đều thầm lặng nghiêm trang. Rừng già màu xanh tối đứng bao vây những sườn núi an phận. Rẫy lúa, rẫy bắp, đất thổ trồng đậu xanh đậu phụng. Con trâu con bò. Suối nước chảy qua khe đá. Con chim đứng hát trên cành. Và linh hồn của cả cái khung cảnh hoang sơ này là một sự im lặng rộng lớn bao trùm từ khoảng cao đến miền xa, dượng Mười ít cười đùa, không biết trả lời những câu nói trêu! Chỉ khi nào chạy rượt theo bắt một con bò mộng sổng chuồng bỏ chạy hoặc cầm rựa chẻ cả một thân tre dài đánh lạt buộc rào là dượng có giá trị. Rõ ràng là dì Mười tôi không sung sướng trong cảnh đi lấy chồng. Dì không có tướng mạo của một người cai quản giang sơn. Dì vóc người nhỏ nhắn yếu đuối. Dễ xúc động. Hình như dì có cảm tình với cha tôi nhiều hơn với dượng Mười. Có lần tôi nghe dì khóc giữa một câu chuyện trao đổi với cha tôi và chen vào những tiếng thổn thức tôi nghe được những lời rời rạc của dì:

      - Em cực tâm lắm… chán lắm… chị Tư mất… anh khổ… Phải như em…

      Tôi nghĩ rằng phải như dì chưa lấy chồng thì chắc chắn là dì bằng lòng lấy cha tôi.

      Trái ngược với cậu tôi, bà Ngoại thì chưa thấy mặt đã thấy quà. Chân chưa bước đến cửa ngõ mà miệng đã lanh lảnh cất tiếng gọi:

      - Tiến ơi! Ra lấy gói kẹo đây con.

      Có bà đâu là y như có quà và có nước mắt đó. Bà lột vỏ khoai cho tôi, bà bẻ kẹo cho tôi và bà chăm chăm nhìn tôi như một con chó con. Tôi quàng tay ngang bụng bà, miệng nhai nhách nhách cả buổi và chỉ dừng lại khi nghe bà xì mũi. Ngẩng mặt nhìn lên thấy nước mắt bà chảy ràn rụa, tôi hỏi những câu thật ngu:

      - Sao bà khóc vậy? Ai làm bà khóc vậy bà?

      Bà thường không trả lời mà chỉ cúi xuống hôn tôi, nước mắt dây cả ra mặt.

      Đoạn tang mẹ tôi xong, những người quen thúc cha tôi lấy vợ kế. Cha tôi thường ậm ừ dường như chưa chọn được đám nào. Bà Ngoại thì thỉnh thoảng cách tháng mới ghé và mỗi lần ghé đều ở không lâu. Bà moi tất cả quần áo của tôi ra kiểm soát. Những áo quần nào đứt nút, rách… bà để riêng rồi lấy rổ khâu của mẹ tôi rút kim chỉ ra ngồi vá, đính nút. Tôi hay ngồi bên cạnh xỏ kim cho Ngoại. Lâu lâu tôi thấy nước mắt Ngoại rớt trên mụn vải đang vá. Tôi nói:

      - Bà Ngoại đừng khóc chớ. Ướt cái áo của con.

      Ngoại ngửng mặt lên, đôi mắt đỏ và ướt đầm đìa nước mắt. Ngoại nói:

      - Cha con mày có muốn ở thế này cũng không được. Phải như mày là con gái thì còn giúp đỡ được việc nhà cho cha mày. Con trai phải đi học.

      Tôi thích làm con gái để được “ở thế này” như lời Ngoại nói. Chắc đó là điều Ngoại mong ước.

      Có một hôm chú Giáo, - một người bạn thân của cha tôi, - thân mật nói giữa câu chuyện:

      - Hay là anh đi hỏi cô Ba Hường đi. Trai góa vợ, gái góa chồng, rổ rách cạp vành, chọn lựa chi.

      Tôi đưa mắt nhìn ý kiến của cha tôi, nhưng tôi thấy ông chỉ mỉm cười. Dầu vậy câu nói của chú Giáo in sâu vào óc tôi và từ đó tôi lưu ý đến sự giao thiệp giữa cô Ba và cha tôi nhiều hơn. Tôi thấy rằng từ ngày đoạn tang mẹ tôi, hiển nhiên là cô tỏ ý thương tôi nhiều hơn trước. Chuối cô bẻ cho đều chín tới chớ không còn mang vài vết bầm đen nữa. Mãng cầu thì lành lặn chớ không nứt nẻ chảy tươm mật ra nữa. Có lần cha tôi bị cảm tôi lục tìm ve dầu mà không biết lộn ở đâu, nhà đàn ông góa vợ bao giờ cũng bề bộn, thì có tiếng cô Ba kêu tên tôi ở từ bờ thành:

      - Tiến ơi.

      Tôi “Dạ” chạy lại thì thấy cô giơ cao ve dầu Nhị thiên đưa qua bờ thành:

      - Đem về thoa lên màng tang cho cha. Chấm vào đầu ngón tay rồi thoa dọc theo xương sống.

      Tôi “Dạ”, cầm lấy ve dầu xoay lưng bước đi, thì có tiếng cô dặn với theo:

      - Thoa xong con nhớ đậy nút lại kẻo đổ.

      Lạ nhỉ, sao cô biết là cha tôi đau và tôi đang lục tìm ve dầu? Ở nhà tôi ai cũng ít nói. Con nhỏ ở suýt soát bằng tuổi tôi và vốn là con của một người có họ xa ở mãi chợ Đồn, chợ Thứ, cha tôi đi hàng nửa ngày đường mới dắt về được thì nó còn ít nói hơn cả chúng tôi. Nó chỉ biết nấu cơm, kho cá, luộc rau và ngủ gục bên cạnh ông Táo. Kho cá thì mặn như kho nước mắm tiêu để nuôi đàn bà đẻ. Luộc rau thì nửa xanh nửa đen. Cô Ba không tỏ ra có cảm tình với con nhỏ này. Có lẽ vì con gái hay dòm ngó và bép xép. Mãi sau đó khi thấy nó có mặt cũng như không, ngồi đâu là ngồi lầm lì khiến người ta có thể lầm lẫn nó với cái cối giã hay trái bí đao thì cô mới tỏ lòng chiếu cố nó. Cô sớt những trái chuối sắp úng và những cái bánh ít gần thiu cho nó.

      Từ ve dầu nhỏ nhặt dễ trao đổi cho mượn qua lại, có lần cô Ba gọi tôi đưa một nải chuối tiêu. Ở miền tôi chuối tiêu quí lắm, trái dài và mảnh uốn cong, xếp sát vào nhau nằm đài các như những ngón tay của một cô công chúa. Cô Ba nói:

      - Con đem nải chuối này về cho cha. Thưa với cha: chuối tiêu ăn hiền.

      Cha tôi nhận mà có vẻ miễn cưỡng. Tuy nhiên cái gì rồi cũng quen đi, việc biếu xén trao qua trả lại diễn tiến mỗi ngày một thêm đều đặn êm đềm hơn. Nhưng nhất định là tôi chưa hề thấy cha tôi bước qua ngõ nhà cô Ba. Cha tôi không hẳn là một nhà Nho nhưng ông có cái khí tiết nho sĩ, có lẽ do ở bẩm sinh. Học chữ Nho năm, bảy năm gì đó rồi chuyển sang học Quốc ngữ và chữ Pháp. Được vài năm rồi bỏ. Khi tôi lớn, thỉnh thoảng nghe ông nhắc lại vài câu chữ Pháp học hồi xưa. Chẳng hạn:

      Le boeuf a une bosse sur le dos.

      Je vais avec ma mère à la mare du village (1 )

      Hai mươi năm, ba bốn mươi năm sau, khi có dịp nhắc lại ngày đi học thuở nhỏ, ông đều đọc y nguyên mấy câu trên. Làm như bao nhiêu kiến thức về Pháp ngữ đã thu tóm lại để kết tinh thành mấy câu đó.

      Chú Giáo lâu lâu lại nhắc:

      - Sao? Anh đi cưới cô Ba Hường chớ còn đợi gì nữa?

      Cha tôi chịu chuyện niềm nở hơn trước, đưa ra những thắc mắc rụt rè:

      - Nhà mình nghèo hơn. Nghĩ có bất tiện…

      - Cũng chẳng giàu nghèo hơn thua gì bao nhiêu.

      - Sao lại chẳng bao nhiêu? Đàn ông giàu dung thứ được vợ nghèo. Đàn bà giàu thì không.

      Mối cảm tình của cha tôi đối cô Ba cứ lững chững như thế, như một người đi phải chống gậy. Cho đến một hôm vô tình mà cha tôi và tôi nghe lọt một câu chuyện ở bên kia nhà cô Ba. Hôm ấy tôi theo ngồi cạnh cha tôi để moi lỗ trồng những cây cà chua ở ven rào. Bên kia bờ thành tiếng cô Ba nói chuyện với khách, giọng nói đặc biệt dõng dạc rổn rang. Chẳng biết đó là do thói quen hách dịch của người giàu có hay là biểu hiện của một tướng người đàn bà cô độc. Khách là ông hương kiểm Mót. Khi nhà nước triều đại Pétain phát triển phong trào thanh niên thể thao Ducaroy lập sân vận động An Thổ, hương kiểm Mót có lạc quyên năm mươi đồng và được thưởng hàm Phó tổng dụng. Nhưng dân xóm không mấy ai chịu gọi là ông Phó. Khi vắng mặt ông, họ vẫn gọi xách mé là hương kiểm Mót. Chỉ vì ông xuất thân làm nghề thiến heo, dốt đến nỗi cầm cây viết tập viết bốn chữ “Nguyễn Mót tự ký” mà tay cứ run khựng lên, tập cả tháng mà cầm viết cũng chưa vững. Đã vậy, “Mót” là một chữ Nôm, cách viết rườm rà phức ạp hơn chữ Hán nên người bà con đổi dùm tên ông lại là Nguyễn Thủ, bởi chữ Thủ viết đơn giản chỉ gồm ba nét ngang và một cái sổ móc câu. Sống trong thời đại không cần lập giấy khai sinh, cuộc đời thật đơn giản dễ chịu, muốn thay đổi tên họ thêm bớt tuổi tác gì tùy ý.

      Câu chuyện lọt vào tai cha tôi nhằm vào đoạn hương kiểm Mót nói về một nhân vật nào đó. Giọng ông ta nhỏ lại để tăng thêm không khí tâm sự thân mật. Tôi chỉ nghe lỏng bỏng từng đoạn.

      - … Làm việc ở Huyện… về hưu… giàu… con lớn hết rồi… bao chiếm cái đầm lác ở Hội Phú…

      Tiếng cô Ba vang lên rõ ràng:

      - Chuyện đó tôi có nghe. Cái đầm lác của làng Diêm Điền chớ không phải của làng Hội Phú. Nhưng mà giấy tờ không phân minh. Ông ta làm Lại mục ở Huyện biết rõ tình lý nên đứng giấy xin khẩn. Nhà nước chiếu y phép tắc, cấp giấy cho khai khẩn. Bây giờ ông ta mướn đắp bờ ngăn từng khoảnh, đặt cống tháo nước và cấy được ba giạ giống rồi.

      - Dạ đúng đó… (tiếng nói hạ thấp xuống) tánh tình tử tế bình dân… thương con nhà nghèo… dòng dõi làm quan to ngoài Huế…

      - Chỗ đó sau này thành ruộng thuộc, cấy nếp gòn thì phải thế lắm. Cấy lúa sợ bị rùm… Mấy lần lên hầu quan tôi có gặp thầy Lại đó. Tướng người thanh cảnh.

      - Dạ…

      Tiếng hương kiểm nhỏ hẳn lại, tôi không nghe rõ. Chợt cô Ba cất tiếng cười:

      - Đâu có. Người ta ở không vui miệng đồn chơi…

      - Dạ. Cô nghĩ vậy là phải. Nhà ông Học Mười nghèo (Học là tên người ta dùng để chỉ cha tôi). Thầy Lại người quí phái…

      Tiếng nói nhỏ trở lại. Một lát có tiếng cười dài của cô Ba và của hương kiểm Mót trộn lẫn vào nhau.

      Cha tôi cắm cái xuổng nhỏ đang cầm trên tay xuống đất, đứng dậy. Tôi nhìn lên gương mặt thấy nghiêm trang. Ông nói nhỏ, giọng hơi run:

      - Còn mấy cây, con trồng tiếp đi. Cha vô nhà lấy cái này.

      Tối đó cha tôi ăn ít và sai con nhỏ ở đóng cổng sớm. Ông thắp nhiều nén hương trên bàn thờ mẹ tôi và chong đèn thật khuya. Nằm trên bộ ván, tôi chập chờn đi vào giấc ngủ với trước mắt một khoảng tối rung rinh do bóng ông in hắt lên vách. Một vài ngày sau, ông gọi riêng tôi dặn:

      - Con đừng nhảy qua bên nhà cô Ba Hường nữa. Không được nhận bánh kẹo gì của cô hết.

      Tôi vâng dạ và làm y theo lời. Mấy lần có tiếng cô gọi inh ỏi “Tiến ơi! Tiến ơi! Ra lấy cái này” nhưng tôi nín thinh chạy núp ở trong kẹt cửa. Sau đó cha tôi hay vác dù ra đi, có khi đi cả buổi, có khi đi cả ngày. Và hai tháng sau cha tôi cưới Dì tôi.

      (1) Con bò có một cái bướu trên lưng Tôi đi với mẹ tôi ra ao làng

      Dì tôi mới hai mươi tuổi, thua cha tôi đến mười bốn tuổi. Quê dì ở mãi Triều Sơn, hồi giờ chưa ai biết mặt nên hôm rước dâu cả xóm ồ ạt tới coi mặt. Đàn bà háo hức hơn hết.

      Ý chừng họ trông mong được thấy một con mụ dạ xoa để cho thỏa lòng tự ái và ganh tị. Tiếc thay dì tôi lại xinh xắn. Có điều là con gái miền biển nên nước da không được trắng lắm. Mấy bà có tuổi khen ngay trước mặt cô dâu:

      - Mặt mày sáng sủa. Ông Học Mười cũng khéo kén chọn.

      - Ờ, con người cao ráo dễ thương. Đâu có thua mẹ thằng Tiến.

      Những cô con gái hà tiện lời khen hơn:

      - Ngó cũng được.

      - Nước da không được trắng.

      - Cái áo dài hồ thủy may vụng. Tà không úp.

      Hôm đám cưới tấp nập bên nhà tôi, dường như bên cô Ba không thắp đèn. Trước hàng hiên nhà cô là một dãy lan can, thường thường tối nào chong đèn là đứng ngoài thấy rõ bộ ván gõ nơi cô hay ngồi têm trầu, cái bàn thờ ở giữa và hai bồ lúa lớn quầy chồng lên nhau. Thế mà đêm nay nhìn sang tôi thấy nhà cô chỉ còn là một khối bóng đen đặc sệt.

      Sự đoạn tuyệt giữa cha tôi và cô Ba Hường tôi tin chắc là do hôm trồng cà cha tôi nghe được câu chuyện trao đổi giữa cô và hương kiểm Mót. Cố nhiên là cha tôi giàu hay nghèo không phải đợi đến hôm đó hương kiểm Mót có nói ra cô mới biết. Cô tỏ cảm tình với cha tôi tức là cô đã cân nhắc rồi. Nhưng sao đã cân nhắc, đã chấp nhận mà khi hương kiểm Mót nói chạm đến cha tôi cô không lên tiếng bênh vực mà lại chỉ cười đồng tình và đồng lõa?

      Sau khi cha tôi lấy vợ, nét mặt cô Ba Hường chừng như già đi. Cũng vẫn khuôn mặt đó không gầy ốm suy hao gì nhưng mà nhìn lên thấy mất đi cái phần tinh anh rạng rỡ, như một tấm gương đã mờ mờ nước thủy. Tuy vậy cô vẫn không chểnh mảng trong việc trang điểm ăn mặc. Chân tóc trên trán chạy theo một đường cong đều đặn, bao nhiêu tóc con đều bị nhổ sạch. Ngoại trừ mấy bà quí phái ở thành thị còn chỉ có vợ Huệ kiều và đĩ mới cạo, gọt cho chân tóc thẳng hàng như một đường vẽ như vậy. Cái trán nào cũng trở thành cao lên do ranh giới của tóc mỗi ngày một bị đẩy lui. Đôi lông mày có dấu vết nhíp nhổ. Môi đỏ màu nước cốt trầu. Nước cốt trầu có khi đóng đen cả vành môi, tôi nghĩ rằng cô phải năng mượn miếng trầu để giết nỗi cô đơn. Mỗi khi đi đâu, cô đều cầm gọn trong tay cái hộp trầu bằng thiếc trắng. Nó nguyên là cái hộp đựng xà bông thơm. Cầm hộp trầu, đó là một sự sang trọng. Xung quanh tôi, bà Xã, bà Hương đều bỏ trầu cau rễ thuốc trong cái khăn xéo, cuốn lại, cột gút một vòng, rồi khi đi đâu dắt vào lưng quần bên hông. Cái áo dài mặc phủ ra ngoài. Do cái khăn xéo trầu, do cái túi áo đựng đủ trăm thứ mà thân hình bà nào cũng nổng ra ở khoảng giữa. Cô Ba thường mặc áo dài tơ Thượng Hải màu xanh lục hay màu nâu non và quần lục soạn trắng. Đi dép da. Trong khi mọi người đàn ông và đàn bà đều rập khuôn như nhau trong cái áo dài đen không thay thế được, bóng dáng cô tách hẳn ra ngoài, sáng hơn, mát hơn như một đóa hoa lưu ly vượt qua lùm cỏ tối, mở tung cánh tràng làm sáng rỡ một vùng. Tiếng dép đập chanh chách dưới gót chân.

      Ông Lại mục về hưu có ghé tại nhà cô năm, bảy lần. Đó là một người đàn ông mặt xương xương, cạo gọt nhẵn nhụi. Đôi vai ngang và mỏng trông như cái thẻ ngà. Lúc nào cũng đội khăn đóng mặc áo the đen và đi giày hạ. Cái dù đen cán quang dầu giương ra tròn trặn khác xa với những cái dù đen khác cán mây và mỏng trẹt. Ông đi từng bước ngắn, thận trọng, tính toán. Thật là một phong cách quí phái dịu dàng, khác xa hẳn với lề lối thô lỗ của người vùng tôi. Thuốc lá hút không phải tự tay xé giấy quyến vấn lấy mà đã có người nhà vấn sẵn xếp thứ tự trong một cái hộp bạc dẹp ông bỏ theo túi áo ngực. Người quê tôi gọi đó là thuốc sòi. Cô Ba tiếp đãi trọng thể ở gian phòng trong, nơi có nhiều bóng tối âm u và sự trang nghiêm. Ít ai được đi lọt vào gian này, chỗ cô thờ phụng và kê cái tủ để tiền bạc. Có lần tôi đi vào đây, sợ hãi nhìn lên cái trang lớn nơi thờ ông Quan Công, khiếp đảm nhìn mặt Châu Xương có vằn đen như cọp (thú thật là hồi ấy tôi chưa thấy con cọp chỉ mới nhìn thấy trong hình vẽ) đôi mắt mở trợn trừng. Cô không dám gọi là ông Quan Công, ông Quan Thánh mà chỉ gọi là “Ông”, thờ Ông, vía Ông. Sự cung kính có pha chút ít thân tình, tôi nghĩ. Vì thần thánh trở thành một vị tổ tiên của gia đình, phù trì giúp đỡ.

      Nội dung sự giao tế giữa cô Ba và ông Lại mục diễn biến ra sao, tôi không được rõ. Căn cứ theo lời đồn đãi của người trong xóm thì tình hình rất đỗi bi quan. Họ bảo cô Ba bị mắc bợm. Ông Lại mục có vợ ở Huế. Nhà không quí phái quan quyền gì hết theo ông như lời hương kiểm Mót tán tụng. Bà vợ cờ bạc dông dài và mê đồng bóng, nhất định không chịu theo ông về cái huyện nhiễm sốt rét rừng này. Bao nhiêu lương tiền ông phải gửi về cung phụng cho vợ. Nhà vợ mới là nhà quan. Ông xuất thân thơ lại tầm thường chỉ nhờ tài điếm miệng mà dụ dỗ con quan làm cho có mang rồi mới được gả. Nhà vợ phải lo lót cất nhắc cho ông. Về hưu, nghèo, ông tìm kế xoay xở bằng cách xin khẩn cái đầm lác. Nhưng lấy tiền đâu mà khai khẩn? Bọn thầy cò, thập việc, lính lệ, tổng lý sưu tầm một danh sách đàn bà góa có tiền để chồng chọn. Cân nhắc nhân dạng, tình hình địa lý thuận tiện, ông chọn cô Ba Hường. Thầy cò xã Tám được ủy nhiệm bố trí. Xã Tám sai hương kiểm Mót đi nhặt tin và thả quả bóng thăm dò. Đáng lẽ theo kế hoạch của xã Tám thì công việc phải tiến hành hết sức chậm rãi bởi cô Ba có tiếng là khôn, “khôn nẻ vỏ”. Xã Tám định phải nhiều lần lấy cớ nọ đến nhà để du thuyết. Không ngờ công việc thành tựu mau quá, đốt mấy giai đoạn. Lý do ít ai biết, nhưng tôi thì quyết chắc là bởi cha tôi lấy vợ.

      Ông Lại mục có nghỉ đêm ở nhà cô Ba một lần. Ông ghé lại vào khoảng chín giờ tối. Cô Ba trải chiếu lên bộ ván trước hàng ba, mang gối tai bèo, gối dài và mền dạ để cho khách nghỉ. Rồi cô rút vào nhà giữa, cài cửa cẩn thận. Lệ nhà giàu ở nhà quê cất nhà hay chia ra ngăn trước mặt chạy dài theo mái hiên để tiếp khách gọi là hàng ba. Hàng ba mở ra hiên bằng một hàng song can. Khách nghỉ lại thì nằm ở hàng ba, chủ nhà có thể rút vào nhà trong có cửa nẻo cài kín, ngăn cách. Nửa khuya tôi chợt dậy bởi tiếng chó đủ loại của bên nhà cô sủa inh ỏi. Nhà đàn bà góa phải nuôi chó dữ, cái đó đã đành. Riêng cô Ba thì cô nuôi quá nhiều, một bầy có đến năm, sáu con mà mỗi con mỗi loại. Nhưng tất cả đều là chó cái, có con lùn tịt lông trắng vá nâu, đầu to mặt gãy trông như cái mặt thằng lùn rạp xiếc sinh non tháng. Đó, theo lời cô, là con chó Nhật. Có con mình dài, chân cao, bụng thon loại “chó Tây”. Chó ta thì có cả vàng, vện, mực. Cả bầy chó đó sủa lẫn lộn, tiếng ong ỏng của con chó Tây, tiếng tru của con Vện già, tiếng chóc chóc của con Vàng con Mực và đặc biệt có tiếng léo nhéo như than thở của con chó Nhật. Có ánh đèn chói, tôi dậy đưa mắt qua khung cửa sổ, cái cửa sổ cao nơi đầu giường ngủ của tôi mở thẳng nhìn sang mặt nhà cô. Một quang cảnh lạ lùng hiện ra làm tôi bỡ ngỡ. Cô Ba cầm cái đèn bạch nhĩ trên tay. Chiếc áo cánh lụa bị xé toạc để hở nửa vú. Tóc rơi tung khiến dưới ánh đèn mặt cô trông khác hẳn đi. Cái cổ trắng, cái ngực trắng, một khuôn mặt có từng mảng bóng tối lấp vào những chỗ trũng làm nổi bật vành môi, sống mũi, gò má. Tôi thấy cô đẹp hơn hẳn những lúc cô đài các dưới màu áo tơ Thượng Hải đắt tiền. Áo quần che đậy kỹ quá cũng làm lu mờ đi sức hấp dẫn của một cơ thể. Tay trái cô cầm một cây song gài cửa dựng đứng, lúc mới nhìn vào tôi tưởng đó là bóng đen của một cây song can do ánh đèn phản chiếu. Trước mặt cô, ông Lại mục mặc áo vạt hò. Tóc rơi lòa xòa. Trước trán, một đường máu ri rỉ chảy khiến ông đưa tay từng chặp lên lau. Tiếng cô Ba cố hết sức nói cho nhỏ nhưng ép một lúc thì nó rổn rang trở lại:

      - …thầy là người chức tước mà thầy làm vậy. Tôi kính nể thầy, tiếp đãi trọng vọng, chiếu dài gối cao… Nhà tôi đàn bà góa, nhĩ mục quan chiêm… xóm giềng người ta biết thì còn gì danh giá của tôi…

      Sự giận dữ và sợ hãi làm giọng cô hổn hển đứt quãng nhưng từng lúc cô cũng gắng chêm vào câu nói những thành ngữ, những chữ Nho hoa hòe. Nào là “trong nhà chưa biết, ngoài ngõ chưa hay”… nào là “dạ gian vô cố nhập nhân gia…” Chắc chờ trải qua một thời gian góa bụi dài cô mới có đủ thì giờ sưu tầm được một mớ dụng ngữ phong phú nói đến thân phận của mình. Ông Lại mục thì cứ im miệng đứng đó, chốc chốc đưa tay chặm vào vết thương nơi trán. Cơn buồn ngủ dìu tôi lên giường để mặc cho hai người kết thúc cuộc đàm thoại.

      Sau đêm hôm đó, ông Lại mục không lai vãng đến nhà cô Ba nữa. Cả con đường này cũng không thấy dáng ông đi qua. Muốn đi về Huyện, ông phải theo ngả Bình Chánh men theo con đường tỉnh lộ, tuy phải chịu đi xa hơn và con đường nắng chang chang không có bóng cây. Không biết xuất phát từ cửa miệng nào trước mà mới hai ngày sau, người trong xóm đã chuyền tai nhau câu chuyện ông Lại mục bị cô Ba đánh toét đầu. Thật đúng là “tai vách mạch rừng”. Tôi chắc tin đó phải do ông Thủ Phò người láng giềng bên tay trái của cô phát đi. Thành ra tôi tuy bất ngờ có được chứng kiến tận mắt nhưng những chi tiết ly kỳ thì phải nghe từ miệng của những người ở xa nhà cô Ba nhất, ở tận mãi cuối xóm.

      - Lão đó muốn bòn rút của. Nhưng lật đật mà hư việc. Cá mới ngửi mồi mà đã muốn bắt bỏ giỏ rồi.

      - Chưa cưới hỏi, chưa ăn nằm mà đã hỏi vay tiền khai khẩn đầm lác thì ai không nghi? Cô Ba khôn từ trong trứng khôn ra, đâu có dễ bị lừa.

      - Làm sao biết đã ăn nằm hay chưa? Nghe nói đêm nào cũng ghìm sõng câu ở bờ sông rồi chín giờ khuya thì bò lên.

      - Lão này mở ba mặt trận một lúc. Cô Ba ở đây, bà Xã Bảy Hà Bằng, bà Phó Trạy ở Quán Cau. Bà nào cũng góa cũng giàu. Cô Ba nổi ghen. Nghe nói bữa đó bị đánh nặng quá phải có người nhà khiêng xuống sõng.

      - Cầm dao mà chém xối xả vào mặt vào mũi con người ta, kể thật cũng dạn đó. Nữ kê tác quái, thời bây giờ gà mái lộng quyền.

      Không nghe ai giải thích bằng cách nào mà đang ngủ ở hàng ba, ông Lại mục đã khiến cô mở cửa để ông xúc phạm được thân thể cô.

      Cô Ba sống những ngày âm thầm sau đó. Một ông thầy trợ giáo dạy chữ Nho ở trường nhà nước, đã lớn tuổi, đánh tiếng đi hỏi. Cô không nhận, ông này mê tài bàn và tứ sắc lắm nên cứ đầu tháng lương là đi dạy trễ. Có bữa cai trường phải đến nhà trọ lay thầy dậy rửa mặt để ra lớp. Hễ có tiền là ông thức suốt đêm đánh cho kỳ thua hết nhẵn mới chịu nghỉ. Đó là con bò sữa cho mấy tay cờ bạc chuyên nghiệp sống vất vưởng ở quanh cổng Huyện.

      Cố nhiên là cô Ba không thể thưởng thức một người nghệ sĩ cỡ đó. Chánh tổng An Hải vợ nâng 15 năm không sinh đẻ, Phó tổng An Vinh vợ bỏ đi hoang đều muốn ngấp nghé hỏi cô. Nhưng cái bóng lớn của ông Lại mục bị thảm bại làm họ rụt rè không dám. Dư luận quả thật bất lợi cho cô. Sau đó còn có nhiều người nữa, nhiều nữa. Đó là những người cô gặp trên đường đi, cùng ngồi chung một chuyến xe đò, cùng ngồi ăn một quán, cùng quen lui tới thăm hỏi một nhà… ở Vũng Lấm, ở Tuy Hòa, ở Qui Nhơn… bao nhiêu người đó là đối tượng cho cô cân nhắc, chọn lựa. Cô không tin ai hết. Cố nhiên là người nào cũng nói thương cô lắm nhưng biết lấy gì bảo chứng lời nói. Lòng người ta không phải là cái bánh ít cứ lột trần lần lá là thấy rõ trắng đen. Phải chi nhà cô nghèo thì cô biết chắc là ai thương ai ghét. Người nói thương cô sợ họ chỉ thương những đôi xuyến, những hột vàng đeo nơi cổ tay, chỉ thương mười mấy mẫu ruộng. Cô không tin ai hết. Bà con, hàng xóm tá điền…, tất cả đều muốn cướp của cô càng nhiều càng hay. Bao nhiêu đất thổ trồng mía trồng bắp, trồng bông cô đem bán hết lấy tiền mua ruộng. Hồi còn mẹ tôi, tôi nghe cô giảng cho mẹ tôi rằng:

      - Đám bắp, đám bông, soi mía… nhà rẽ ăn gian chị làm sao biết được? Người ta vô giữa đám bẻ bắp, lặt bông đem về nhà cất trước, liệu chị có biết không? Chẳng lẽ ngày mùa phải đi rảo giữa đám mà kiểm soát? Mà kiểm soát làm sao được? Chớ đám ruộng lúa chín nằm sờ sờ dưới tầm mắt mình. Cắt một vạt nhỏ đã thấy dấu liền. Bữa đi coi gặt cứ rảo một vòng qua bốn bờ ruộng, giỏi lắm thì bò trâu người ta đi qua có liếm vài lượm lúa là cùng. Trái bắp cây mía, đậu phộng, mè… nhà rẽ ăn trước mình.

      Mẹ tôi đem câu chuyện về kể lại cho cha tôi nghe thì cha tôi nói:

      - Khôn lắm thì rồi khổ nhiều. Nước quá trong không cá, người xét nét quá không bạn.

      Tôi suy nghĩ về lời nói của cha tôi mỗi khi nhìn cái hiên nhà vắng tanh, cái sân chỉ có bầy chó gầm ghè hay nằm lì mỗi con một chỗ. Những khi cô lục đục một mình sau bếp hay khi cô đi vắng, tôi hay đứng nhìn sang nhà cô. Thật y như một ngôi miếu cổ. Những cây song can đứng thẳng hàng, màu gỗ vàng đục lạnh lùng, nặng nề làm tôi liên tưởng đến những cây song của một nhà tù. Khi cô đi lại thui thủi trong đó thì cô ta thật giống một tù nhân chung thân cấm cố. Ngồi ăn một mình, nhai nhóp nhép hàng giờ không vội vã bởi chẳng có việc gì làm. Đứng lên ngồi xuống một mình. Ngồi trước ngọn đèn một mình. Khi đêm chuyển sâu dần vào khuya, ánh sao hớn hở trên nền trời, bàn tay cô lần tra ba cây song can vào lỗ ngạch địa, tiếng gỗ khua chạm lục cục nghe buồn nản âm u như chính mình đứng nghe cũng đang chịu một cực hình. Hàng song can dài nhưng cô chỉ rút ba cây vừa đủ để lách mình ra vào. Tấp nập vui vẻ chăng chỉ là những ngày mùa khi có tá điền tới mời đi coi gặt hay khi sõng chở lúa khô lên đăng. Giọng nói của cô lại vang lên lanh lảnh bên cạnh giọng lễ phép trầm trầm của người tá điền. Cô lại bắt khoan bắt nhặt, chê lúa phơi còn ướt, chê lúa giê không sạch lép, bắt đổ ngọn lúa cho đứng thẳng miệng giạ, bắt gạt lúa không được hắt quá mau.

      - Đổ lúa tạt nghiêng thì hột lúa đứng sững, trên mặt đầy mà giữa ruột giạ hổng. Gạt lúa hắt mau thì kết quả cũng như vậy. Có lợi cho người đong. Nhiều khi đong một trăm giạ mà có dư ra được vài giạ.

      Đó là lời cha tôi giảng khi tôi hỏi nguyên do sự khó tính của cô.

      - Thế muốn khỏi bị gian thì cô bắt đổ lúa đứng thẳng ngọn và gạt chậm chậm?

      - Phải đổ ngọn lúa cho chảy thẳng và đổ càng chậm thì giạ lúa càng chặt chịa. Nhưng trai sõng ai dư thì giờ mà làm theo. Thành ra chủ điền buộc tá điền không được lấy lúa đong dư đem về. Đong dư có khi do cách đổ lúa cách gạt lúa, cũng có khi do đếm lầm: mới băm sáu băm bảy rồi nhảy sang băm chín. Đếm lầm - vì cố ý thì phải thừa lúc mọi người nói chuyện ồn ào, một tiếng cười nào đó nổi lên, một tiếng la ở đâu… và người ta đếm vọt lên. Nếu chủ điền bắt được thì cũng chẳng lỗi phải gì. Ai cũng có thể vì vô tình mà lộn được.

      Nghe cha tôi giảng tôi mới cảm thông được những nhọc nhằn của một người đàn bà như cô phải đối phó với mọi mưu mô của người xung quanh. Một con bò sữa trước mặt mọi người và con bò đó phải tự tạo cho mình, một cách bất đắc dĩ, một bộ mặt sư tử, một lớp da cá sấu, những móng vuốt cọp beo. Để bảo vệ tài sản, quyền lợi, con người phải chịu mang một cái vỏ xấu xí dễ tởm như vậy. Bất lợi biết bao nhiêu cho khía cạnh tình cảm yêu đương? Người đàn ông chỉ thấy cô giơ vuốt ra để giữ cửa. Không còn thấy vẻ mặt dịu hiền của con nai, của con thỏ. Sau này khi dì tôi đã quen với cô thì trong câu chuyện cứ mười lần là đã hết chín lần cô đề cập đến việc khôn dại gian ngay ở đời.

      - Chị tính - lời cô nói, - nhà rẽ của tôi như thế này có chịu được không nghe? Lúa cắt ở đồng gánh chạy về sân để đập, nó cho gánh chạy thẳng ra sau bếp nhà nó, đem giấu để riêng. Thế là mất của mình năm, ba gánh lúa.

      - Người cắt lúa phải là bà con của nhà rẽ, - lời dì tôi.

      - Phải rồi. Có khi lúa chất ngoài đồng gánh về chưa hết, nó lấy rạ phủ lên, mình không biết tưởng đã gánh về hết rồi. Lúa đổ đống chưa kịp hạo, nhiều khi nó bày mình đi ra vườn coi cái cây chuối trổ hai buồng, coi một cây cau nứt hai ngọn. Mình vác mặt đi coi, ở trong này nó xúc lúa giấu bớt.

      Dì tôi tính thật thà phì cười nói:

      - Chắc họa lắm mới có một người gian như vậy. Mà cho họ có giấu đi được năm giạ lúa thì cô cũng chỉ mất có ba. Ruộng chia tứ lục mà.

      Cô Ba chăm chăm nhìn dì tôi tỏ ý ngạc nhiên rằng sao dì tôi lại có thể có một ý kiến ngờ nghệch nông nổi như vậy.

      “Làm ăn gì được, người như thế này”, chắc là cô nghĩ vậy.

      - Đành là mình mất có sáu phần, nhưng mỗi thứ mỗi ít thì rốt cuộc còn lúa đâu cho mình ăn nữa. Lúa rơm lúa rạ, lúa chẻn lúa ngọn, lúa bao sân… một trăm thứ lúa một mình nhà rẽ hưởng. Của mình làm ra mồ hôi nước mắt mới mua được đám ruộng.

      Dì tôi không dám phát biểu ý kiến nữa sợ làm mếch lòng cô. Tuy vậy khi về nhà, dường như không thể nín được, dì nói với tôi:

      - Làm cho ra được hột lúa nhà rẽ cũng đổ mồ hôi nước mắt. Mặc kệ, cho họ gian chút ít.

      Nhà tôi không giàu được bởi mẹ tôi trước đây đã hiền bây giờ đến lượt dì tôi lại còn hiền hơn. Lúa ăn may lắm là giáp hạt. Nếp thì phải mua thêm. Mỗi khi nhìn bồ lúa nhà tôi gầy nhom như cái tháp sau chùa, tôi lại liên tưởng đến bồ lúa nhà cô đầy cành hông và quầy cao lên hai lớp.

      Cô Ba mang tiếng là khắc bạc. Kể ra khôn lanh như cô thì vô khối người còn khôn lanh hơn, nhưng người ta không mang tiếng là bởi họ khéo dùng lời lẽ tử tế mà che giấu sự điêu xảo của họ. Cô Ba thì không có mánh khóe che giấu. Cô như lúc nào cũng muốn nhìn rõ sự thật và nói toạc ra sự thật, trắng trợn giơ nanh vuốt ra để đối phó. Cô không tin ở thiện tâm của ai hết. Ai cũng hằm hằm chực xông vào rỉa rói cô như bầy cá trắng rỉa vào một xác chết trôi dọc bờ sông. Những người bạn mà cô còn tỏ ra tin tưởng đôi chút là mấy nhà giàu ở trong vùng. Tin nhất là ông Bang Trưởng Hải Nam, người cố vấn pháp luật của cô. Ông to béo đẫy đà lúc nào cũng mang cặp kính râm màu nâu nhạt. Những việc mua bán ruộng nương, thưa gửi kiện tụng, cô đều nhờ ông Bang Trưởng chỉ dẫn cách thức và làm giấy tờ giùm. Ông Bang Trưởng có liên hệ với người chồng Hoa kiều xấu số của cô. Giọng nói tiếng Việt lơ lớ, cái tay áo và cái ống quần quá rộng, cái cổ áo đứng cao, đó là cái hình ảnh đã ăn nằm âu yếm cô.

      Người Hoa kiều nào cũng thích mặc quần áo có sọc màu lợt chạy dài. Hai người - ông Bang Trưởng và chồng cô, - cùng sinh ra, lớn lên ở một làng nhỏ nào đó ở trong đảo Hải Nam. Làng có nhiều núi ít ruộng. Ngày đói chen với ngày no. Những năm mất mùa phải vào núi đào củ ăn thay cơm. Niền Tô, - tên chồng cô, - di cư sang Việt Nam mang theo tính kiệm ước nơi quê hương, bữa cơm trưa chỉ ăn toàn cháo. Tranh sống với người Việt Nam bắt đầu bằng một chân tài phú sau tiến lên làm chủ một tiệm buôn nhỏ. Đủ mọi món hàng lẩm cẩm trong một tiệm buôn như vậy: nhang đèn, giấy vàng bạc, thùng quẹt, xà bông, mì bún, giấy quyến, rượu thuốc… Trong những thôn xóm rải rác hẻo lánh nhất của đồng quê Việt Nam, người ta thường bất ngờ gặp một tiệm buôn Hoa kiều kiểu đó. Thổ sản trong miền có gì, họ đều mua hết: đậu xanh, đậu phộng, bông, bắp, mật ong, gạc nai, mật gấu. Cho vay đầu mùa cày và tới mùa gặt thì mang bao tới giữa sân gặt đong lúa nợ. Có nhiều tá điền giữa ngày mùa, lúa vừa phơi khô giê sạch xong đã có năm, bảy chủ nợ đứng đợi sẵn với những đôi bao. Lúa nạp cho chủ điền, lúa đổ vào bao chủ nợ, chỉ còn lại trên sân một đống bụi và lúa ép. Và nong nia thúng rổ. Và chổi. Và những thân người cơ cực, chán nản chuẩn bị ngày mai lại đi vay để bắt đầu một cái vòng lẩn quẩn mới.

      Hồi sinh thời Niền Tồ hay bùi ngùi ngồi kể lại những ngày dĩ vãng của mình bên cạnh ly rượu thuốc và dĩa mực nướng:

      - Pen Tồ (bên Tàu) ít có đồ ăn. Con chó sói tên lừng (trên rừng) cũng đói. Con chó sói xuống làng pắc con liếc (bắt con nít) ăn thịt. Người ta lênh tênh lừng (lên trên rừng) hái lá cây mà ăn…

      Rồi Niền Tồ nước mắt rơi lã chã kể lại trường hợp mẹ y bị con chó sói cắn nát mình khi vào rừng đào củ về cho con ăn. Kể đến đây, Niền Tồ ngồi khóc hì hì như cười. Cô Ba lặng lẽ ngồi nhìn Niền Tồ khóc ngon lành như một đứa trẻ con và cô cảm thấy mình yêu mến Niền Tồ bởi cái tính hồn nhiên hơi trẻ con đó. Một người đàn ông Việt vào tuổi Niền Tồ thường không biểu lộ xúc cảm một cách lộ liễu như vậy. Không biết vì họ khô cạn tâm hồn hơn hay vì họ thích làm bộ anh hùng trước mặt người đàn bà. Vợ chồng Việt hiểu nhau quá nhiều nên họ phải cố giấu bớt những nhược điểm, cố gắng dối trá đôi chút. Niền Tồ khóc tự nhiên trước mặt vợ làm như y đang ngồi một mình hoặc như y đang đối diện với một lọ hoa vô tri hay với một con ngỗng. Cô Ba thấy y hạ mình trước mặt cô và đương nhiên là y đang cần một tình bao dung che chở. Niền Tồ làm ăn cần cù, tính toán rành mạch với người ngoài nhưng đối với vợ thì lại xuề xòa tin cẩn. Nhiều khi y ngồi nhìn cô, ngẩng cái mặt ngây ngô như một người không hề có trí khôn. Chắc những lúc ấy y suy nghĩ bằng tiếng Tàu và về những chuyện bên Tàu nên cô không hiểu gì hết trên cái khuôn mặt đó. Niền Tồ có nhiều khuyết điểm mà y không hề che giấu. Chẳng hạn cái trán và cái ống chân đầy những sẹo. Y nói: “Hồi nhỏ bị con Sát bấu gần chết”. Di tích còn lại là vết sẹo to bằng nửa bàn tay nằm vắt ngang màng tang. Da ở vết sẹo láng bóng như có thoa dầu. Vết sẹo ở ống chân thì do chó nhà giàu cắn. Da túm nhăn lại. Cô Ba thấy lòng thương chồng đậm đà của mình xuất phát từ lòng thương những khuyết điểm của chồng. Niền Tồ là loại người để cho người ta thương một cách tự nhiên chớ không muốn buộc người ta kính nể. Lòng cô Ba thoải mái yên ổn hết sức bên cạnh một người chồng như thế. Không cần phải cố gắng, khỏi cần phải đối phó. Thật khó mà tìm lại một người chồng như vậy, sau Niền Tồ. Người Việt như cô đều quá khôn. Cô thấy xung quanh mình dường như mọi người đều tranh giành nhau một cách hối hả để biểu lộ cái khôn của họ, một thứ khôn hời hợt có tính chất tinh ranh bẻm mép và láu vặt. Ăn sâu dưới đáy tâm hồn là sự gian xảo và nói láo. Cô nghĩ: Có lẽ Niền Tồ cũng muốn nói láo nhưng vì số chữ Việt mà y biết quá ít nên y không biết nói láo làm sao cho gọn, cho trôi.

      Trong việc tái giá, cô cũng có đặt mong mỏi nơi giới Hoa kiều. Chắc chắn rằng lấy tiếp một người Hoa kiều nữa là ổn nhất. Người Hoa kiều có một mùi riêng phảng phất nơi quần áo. Đó là tổng hợp của mùi da thuộc, mùi giấy bao gói hàng, mùi thuốc cao đơn đặt trong tủ có bỏ băng phiến. Cô sống quen thuộc với nó khiến cho, mặc dù đã rất nhiều năm góa bụa nhưng khi nghĩ đến là cô có thể mường tượng như được ngửi lại nó phảng phất đâu đây. Ở Chợ Gành, Vĩnh Lâm, chợ Giã đều có rất nhiều Hoa kiều. Họ sống trong những dãy phố có thành cao bao quanh. Trên đầu tường mảnh chai cắm tua tủa. Nhiều người Hoa kiều góa vợ nhưng chỉ chừng một năm đoạn tang là họ đã cưới vợ mới rồi. Họ không chung tình bằng người Việt. Và cưới toàn con gái chớ không chịu lấy đàn bà góa. Con gái Việt khối người thích lấy chồng Hoa kiều. Được mặc áo quần tơ lụa, được ngủ dậy trưa, được ăn thịt trong bữa cơm, được soi gương nhổ lông mày và khỏi làm dâu. Lấy chồng Việt khó có thể làm biếng được. Làm lụng đầu tắt mặt tối mà vẫn thiếu thốn. Những cô con gái có chút nhan sắc mà nhà nghèo đều biết cân nhắc như vậy.

      Sau trận bão năm Dậu, bỗng từ đâu lưu lạc trôi về chợ Thành một chú Hoa kiều khá trai. Chú chải tóc có đường rẽ giữa chớ không chải vuốt lên như những người Hoa kiều khác. Chú đứng làm tài phú cho tiệm thuốc Bắc ông Bang Xuân. Lúc nào cũng mặc sơ-mi màu xanh da trời có cài nút măng-sét bạc chớ không chịu đánh trần một cái may-ô như các chú khác. Dì Hiếng, - tên của chú, - nhìn xoáy vào cô Ba mỗi khi cô ghé lại cân thuốc hay mua bóng đèn, hột vịt, mua dầu cù là. Hai con mắt, quỉ quái! Nó như hai mũi kiếm đâm thẳng vào mắt vào má, vào ngực cô. Mỗi lần bị nhìn như vậy, cô Ba cứ thấy đầu mình chao đi, choáng váng. Dì Hiếng trẻ hơn Niền Tồ nhiều nên nhút nhát. Chỉ có tài nhìn. Tuy vậy, sau đó cuộc đối thoại giữa hai người cũng được xảy ra, tiến lên thân mật và cô đã mường tượng thấy một ngày nào đó Dì Hiếng về chiếm cái khoảng trống nơi giường cô, đầu đặt lên cái gối thêu “Loan Phượng hòa minh” cô đã cất đi từ ngày Niền Tồ mất. Nhưng mùa đông năm đó giữa lúc sự tưởng tượng của cô phong phú mãnh liệt trong chăn ấm, khi ngoài hiên gió bấc thổi vi vút, thì có tin Dì Hiếng lén mở tủ ăn cắp tiền của ông Bang rồi trốn mất biệt. Hình ảnh người yêu bị xóa tan, bị bôi bẩn bởi hình ảnh thằng ăn trộm. Tất cả trở thành ghê tởm: đường rẽ của mái tóc, màu áo da trời, đôi mắt nhìn xoáy. Cô Ba có óc thực tế, thương đồng tiền như con nên ghét kẻ gian mặc dù cô không phải là kẻ bị mất cắp. Kẻ trộm tiền của cô, tên A tên B nào đó bấy lâu nay còn ở trong vòng tưởng tượng, hôm nay đã mượn hình ảnh của Dì Hiếng mà hiện ra rõ ràng mỗi khi cô chợt nghĩ đến. Xua đuổi không được. Thay thế không được. Cô mất hẳn Dì Hiếng.

      Chừng vào năm cô 45, 46 tuổi gì đó, có một nghi vấn bao trùm lấy cô khiến mỗi lần nhìn cô tôi có cảm tưởng đang nhìn một con tằm bị bao vây trong một tổ kén chằng chịt. Người ta đồn rằng cô dan díu với một anh trai sõng vẫn thường gánh lúa đến đăng cho cô. Anh ta tên là Cược, trạc hai mươi tuổi quê ở Xóm Ngựa. Anh có cái cằm vuông, cái mũi thẳng, cái miệng nhỏ. Thật là một khuôn mặt đẹp ít khi gặp nơi những người lao động như anh. Tay chân vạm vỡ, ngực nở bụng thon. Bỏ đi cái áo vải ta đen chua mùi mồ hôi, tôi nghĩ rằng anh xứng đáng với sự dan díu đó, nếu tin đồn là đúng. Thủ Phò, - lại cũng Thủ Phò, - để mắt dòm dỏ nhiều hơn hết nên những tin xấu đều do miệng Thủ Phò phát ra. Tại sao Thủ Phò xấu miệng? Tôi cho rằng lý do là bởi cô Ba giàu còn ông thì nghèo. Chắc chỉ vì lòng ghen ghét. Ghen với sự ăn ở không mà cứ giàu có của cô và với sự may mắn của kẻ nào được cô thương. Thủ Phò toét mắt, râu ria chơm chởm như rễ tre và quần áo thì quanh năm khai mùi nước tiểu. Vợ đi buôn gà ở chợ xa, còn lão thì lãnh việc giữ con. Cả ngày nách con nằm trên võng, miệng quai quái hát câu “một mai con cá hóa rồng” và cứ từng chập thì nước tiểu của con cứ chảy rông vào quần, vào đùi lão, ban đầu âm ấm sau lành lạnh rồi lẹp nhẹp đổ ngứa. Một người như vậy thì đúng là có tài làm mật thám. Lão tin chắc rằng dù thèm khát đàn ông, cô Ba cũng không bao giờ nghĩ đến lão. Không ăn được thì lão phá vậy. Một đêm kia tôi nghe có tiếng la “Ăn trộm! Bớ làng xóm ơi, ăn trộm! Aên trộm!” Tiếp sau là tiếng chân người chạy thình thịch. Chó sủa rầm lên theo dấu chân chạy. Tiếng người la ơi ới tiếp theo. Chỉ một phút sau là cả xóm náo loạn lên. Bóng tối đen mò như đặc sệt những tiếng người và tiếng chó. Vài mồi lửa bật sáng. Thủ Phò tay cầm cây sào tre vạt nhọn chỉ về phía bờ sông:

      - Nó chạy xuống ngả đó. Ngả đó.

      Lão chạy trước, theo ngón tay trỏ của lão chỉ nhưng lại cứ nhằm vào hàng rào trước mặt mà đâm đầu vào. Cặp mắt toét thật tai hại. Người ta bỏ lão đứng đó loay hoay rút cái mũi cây sào bị đâm kẹt vào hàng rào, người ta bỏ chạy theo con đường hẹp dẫn xuống bến sông. Có tiếng dầm chèo khua nước loãng xoãng, vội vàng. Đuổi không kịp. Người ta xắn quần đứng lội ở mép nước nhìn một bóng đen vun vút lướt trên mặt sông. Mái dầm chặt xuống từng mảnh sáng đục. Người ta tụ họp lại quanh lão:

      - “Nó” đi vào nhà cô Ba, - lời lão. Cửa ngõ cô Ba để mở.

      Cử tọa tròn mắt ngạc nhiên. Những đường lông mày nhướn lên, những cái môi trên cong lại như nét vòng của những cái dấu hỏi. Cùng loạt, họ hướng nhìn về nhà cô Ba như cùng tuân theo một mệnh lệnh chỉ huy. Nhà cô sáng ánh đèn nhưng không thấy bóng cô.

      - Sao đã khuya rồi mà còn để mở cửa ngõ? - Một tiếng hỏi.

      - Tôi đâu có biết. Tôi cầm cái cây sào vạt nhọn nhắm đâm nó một cái. Tưởng lòi ruột rồi. Không dè nó vụt bỏ chạy.

      - Có thấy rõ người không?

      - Không thấy rõ nhưng dáng quen quen. Cũng người ở gần vùng đây.

      Câu chuyện bàn tán ở cái vòng người tụ họp trước ngõ nhà cô và có Thủ Phò đứng làm trung tâm điểm dẫu có hăng nhưng lời lẽ vẫn chỉ xa xôi bóng gió. Ở các nhóm rải rác đôi ba người thì câu chuyện tọc mạch trần truồng hơn. Người ta quả quyết rằng không có ăn trộm ăn đạo gì hết mà chính là tên Cược đến thăm cô Ba như thường lệ.

      - Đêm nào thằng Cược cũng ghìm sõng câu ở bến, cột sõng dưới bụi tre.

      - Hèn chi con Vện nhà tôi cứ chong xuống bến sông mà sủa gióng một. Ở nhà cứ chửi là con chó điên. Hai người đi lại với nhau không chừng đã có con rồi, ở trong bụng.

      Không ai bào chữa cho cô hết. Ai cũng cảm thấy thích thú được đoàn kết với nhau để hạ một người có của như cô.

      Anh Cược bỏ nhà đi Lục Tỉnh sau đó. Lại là một cớ để người ta quả quyết rằng câu chuyện dan díu vụng trộm là có thực. Năm, sáu tháng kế theo, người ta ít gặp cô Ba đi ra ngoài. Việc đi chợ mua ăn thì cô hay nhờ dì tôi. Đứa nhỏ ở sai vặt, cô cho về xứ luôn. Ngày tháng bóng dáng cô âm thầm lướt đi từ nhà dưới, nhẹ nhàng như không dám gây tiếng động. Những người đàn bà bắt đầu đặt câu hỏi với dì tôi.

      - Người ta đồn cô Ba có mang phải không?

      - Đâu có? Tôi cũng không biết rõ.

      - Chị còn giấu nữa. Cô ta phải nhờ chị đi chợ dùm.

      - Điều đó thì có. Tôi thấy chỗ láng giềng, cô ấy nhờ thì mình sẵn tay mua dùm cho cô. Có mất công chi. Còn việc có mang có mển thì thật tình tôi không rõ.

      Dì tôi tính thật thà, ít ăn ít nói ai cũng biết nên không ai giận vì không được thỏa mãn tò mò.

      Bước qua mùa thu dường như cô bị bịnh nhiều. Thỉnh thoảng ở bên nhà, tôi nghe tiếng ho và tiếng rên. Một hôm tôi gặp cô đứng cách bức tường nói chuyện với dì tôi. Giọng cô nhọc nhằn và thỉnh thoảng xì mũi như khóc. Đại khái cô nhờ dì tôi ngó chừng dùm nhà, cô phải đi Qui Nhơn một thời gian để uống thuốc một ông thầy Tàu ở đó. Cô nói:

      - Tôi có chứng đau bụng máu. Hồi sinh tiền, Niền Tồ có bài thuốc chữa đau bụng máu hay lắm Niền Tồ mất, cái toa thuốc thất lạc…

      Cô không giữ được tiếng khóc. Dì tôi an ủi, chịu nhận trách nhiệm và cô Ba ra đi lúc nào tôi không hay biết. Có lẽ là đi rất sớm hồi trời còn mờ đất. Một đứa gái nhỏ con nhà tá điền lên ở nơi nhà ngang để coi nhà và cho bầy chó ăn. Những chậu hẹ, chậu tía tô rau húng tha hồ héo rũ. Con nhỏ lùn quá mà chậu hẹ chậu rau lại gác trên mặt bờ thành cao.

      Chừng một tháng sau thì cô về. Da dẻ không tốt hơn trước mà có phần tiều tụy hơn. Đi ra đi vô trong nhà cũng choàng hầu khăn. Tôi không có dịp nghe lời giải thích. Chắc chắn là dì tôi có được nghe và cố nhiên là hàng xóm thì người ta đồng ý với nhau để giải thích cách khác, có nhiều lý thú hơn. Đó là: Cô Ba Hường đi Phan Rang, - chớ không phải đi Qui Nhơn, - để sinh. Đứa con gửi mướn người ta nuôi. Ở miền tôi, câu chuyện nào ly kỳ thì được người ta nghe và truyền đi, không cần xét xem là đúng hay sai sự thật. Chuyện nào hay thì được coi là thật. Nghe chuyện người khác là một lối tiêu khiển. Miền quê nghèo nàn không có hát bội, không có kịch nhạc nên mới chịu một tâm trạng ích kỷ kém lịch sự như vậy.

      Làm sao mà biết được mọi tin tức, kể người trong xóm cũng giỏi. Đứa bé sinh ra là gái hay trai, mặt mũi giống ai, người ta kể vanh vách. Lên được hai tuổi thì nghe đâu bị trái trời chết. Có nhiều sự việc phù hợp với lời đồn: dịch trái trời làm chết nhiều con nít trong năm đó, việc trước đây cô Ba cứ vài tháng đi Qui Nhơn đôi ngày và sau này thì ở lì ở nhà không đi đâu nữa.

      Sau một thời gian đồn đãi, người ta dần dần ít nhắc đến cô Ba như trước. Bởi cô già đi trông thấy. Đôi má xệ xuống mỗi ngày một nặng thêm. Mỡ làm sa bộ ngực và làm tròn cái bụng. Cô bơi trong cái áo dài hàng Thượng Hải cắt rộng phùng phình. Cuộc đời xế chiều ngã xuống vội vàng gấp gáp. Những nếp nhăn cày trên khuôn mặt. Cô chỉ còn tìm cái thú của cuộc đời trong những bữa ăn có nhiều thịt. Mùi thịt nướng ướp hành tiêu, mùi thịt xào trên lò từ bếp cô bay sang nhà Thủ Phò làm khổ y tới tấp. Cô trả thù đời như vậy, bắt đầu là thằng chó săn khốn kiếp.

      Khi lớn lên, tôi đi trọ học ở tỉnh, thường chỉ ngày lễ lớn hay ngày hè mới về nhà. Mỗi khi tôi leo hái ổi cạnh bức tường nhà cô, cô thường ngẩng mặt lên êm đềm hỏi chuyện:

      - Tiến mới đi học về đó hả con?

      Tôi “dạ” lễ phép.

      - Bữa nay con học đỗ bằng gì rồi?

      Tôi nhớ đã khai cho cô nghe từ cái bằng sơ học yếu lược, bằng Ri-me (1 ), bằng Đít-lôm (2 ), bằng…

      Nghe đến tiếng “Đít-lôm” cô cười ngặt nghẽo hỏi lại rằng sao Tây đặt chi cái bằng “đít con tôm”, học cái gì mà có con tôm con cua trong đó. Cô lại hỏi:

      - Con đỗ nhiều bằng như vậy thì làm được ông thông ông phán chưa?

      Tôi thưa rằng được. Cô gật gật đầu nhiều lần:

      - Vậy là nhà có phước. Con làm được thầy Thông nhất, Thông nhì ở Huyện để cha con mừng.

      Tiếng “cha con” tôi nghe cô nói nhẹ. Có một vẻ gì ngập ngừng xa xôi. Tôi nghĩ rằng liền sau tiếng đó, trong lòng cô chắc phải kèm thêm một tiếng thở dài. Giã từ vĩnh viễn những ước vọng. Đã xóa hết, chôn sâu những dự tính. Cô có vẻ lẩm cẩm, nói và nghe đều không còn tinh nhanh như trước. Da mặt đã chuyển sang màu vàng tái như màu da thuộc. Con mắt đưa chậm chạp từ vật này sang vật khác, có lúc nhìn chăm chăm vào khoảng không.

      Vòng xuyến biến mất ở cổ tay. Nơi vành tai không còn kim cương lóe sáng. Cô chuẩn bị tuổi già quá sớm. Cô kêu bán bớt ruộng. Những tiếng trả giá thêm bớt nổi vọt lên trong thứ giọng lè nhè, những đoạn văn tự được dò dẫm đọc to lải nhải, ê a như tiếng đánh vần… “phu thê đồng công tạo mãi điền nhất khoảnh, tọa lạc tại Bạc Má xứ, Hòa Mai thôn… Đông cận tiểu lộ Tây cận Nguyễn Văn Phú điền, Nam cận…” Tôi tưởng tượng một ông Hương, ông Lý năm mươi tuổi nằm dài trên bộ ván, trên mũi ghếch trễ tràng một cái kính lão gọng thiếc với đôi mắt kính hình trái xoan nhỏ bằng ngón chân cái. Cái giọng ề à đó chậm rãi trịnh trọng một cách nhạt nhẽo khó chịu như ngầm giấu nhiều ác ý lừa bịp. Có nó là có kèm theo những ly rượu khề khà, kèm theo mấy câu nói nịnh không ai muốn nghe và vài tờ giấy bạc trả công nhét vội vàng trong túi áo. Nó báo hiệu sự suy sụp của một sản nghiệp như tiếng quạ báo hiệu xác chết. Trong cái đám đông ồn ào đó, tiếng người bán nói nhỏ nhất, lạc lõng, nghẹn ngào bởi vì mình là người thua trận đang cần người khác. Bởi vì bao quanh mình là những kẻ cố xâu xé mình: người mua, anh thày cò, người môi giới. Tôi xót thương cho cô Ba đang đóng vai người bại trận đó, bơ vơ lạc lõng hơn bất cứ người bại trận nào khác, bởi lẽ cô sống cô đơn. Không có ai để thở than sau đó. Không có ai để bàn tính cân nhắc trước đó. Trước mặt, sau lưng bên phải, bên trái đều là sa mạc.

      Cô đi chùa đều đặn hơn trước và chấp nhận mọi điều mà trước kia cô ầm ĩ chê bai. Thực tình thì những ngày còn sung sức, cô khó tính đến mức không chấp nhận được ai hết. Cô chỉ trích thầy trụ trì, nghi thầy bòn rút của chùa để đem về bới sớt cho gia đình. Thực ra thì nhà chùa có giàu gì cho cam. Những năm mất mùa, thầy trụ trì phải ăn cơm ghé bắp. Cô chê ông đăng ông điệu lười biếng, không lo sửa sang chăm sóc vườn chùa sân chùa. Miếng ruộng sạ của chùa nằm sát con đường xóm, mỗi lần đi qua là cô lên tiếng lẩm bẩm chỉ trích, dù có ai nghe hay không. Nào là ông đăng ông điệu bỏ cỏ bỏ rác, nào là thiếu phân thiếu bổi, nào là rào dậu không kỹ. Đối với bổn đạo thì cô hiềm khích. Cô chê lễ vật của bà này ít: hà tiện; lễ vật của bà kia nhiều: nịnh thầy. Cô dò xét xoi mói từng cái bánh, từng gói trà, từng cử chỉ lời nói, từng giờ giấc đến, về. Cô giành phần lễ Phật trước, cô tranh chỗ ngồi khi thụ trai. Cô loay hoay bất mãn, gieo rắc bực dọc, hành hạ người khác và tự hành hạ mình. Con gấu hung tợn đó bây giờ đã nhu mì. Vuốt đã hết bén rồi và khí huyết cũng không còn sung mãn nữa. Con gấu mò về cửa Tam Quan, cúi nhìn xuống thân phận mình và gối đầu lên cái Chết. Tôi nhìn cô đi từng bước, từng bước nhỏ, chậm chạp, áo hàng nhuộm một màu đà. Cửa song can thường đóng kín. Có nhiều buổi xế gió nồm phe phẩy và bóng mát cắt nửa mặt sân, tôi nhìn sang nhà cô vắng lặng, nhìn bầy chó thẩn thơ con đứng con ngồi. Có khi thì chúng ôm nhau từng cặp, cạ vào nhau, mơn trớn nhau, chồm lên lưng nhau. Rồi giận dữ chúng lật nhau xuống, cắn nhau thật đau. Đáng thương bầy chó cô đơn phải bịt tai với tiếng gọi ái tình. Chúng bị ngăn cách với cuộc đời rộn ràng sinh thú ngoài kia bởi bốn bức tường gạch.

      (1) Cerlificat d’études primaires: bằng Tiểu học (2) Diplôme d’études primaires supérieures: bằng Cao đẳng tiểu học

      Khi tôi cưới vợ thì tóc cô đã bạc. Nhằm vào lúc cô đang đau nên cô không có sang dự đám cưới. Tuy vậy, cô cũng tỏ ra biết về vợ tôi khá nhiều chi tiết. Cô bảo:

      - Nghe nói vợ con nó học hành chữ nghĩa giỏi lắm phải không con?

      - Thưa cô, cũng biết vừa vừa vậy thôi, - tôi trả lời.

      - Nó quê ở đâu?

      - Dạ ở Sài Gòn.

      - Cô nghe nói con gái Sài Gòn hay ăn hiếp chồng lắm. Cãi lộn với chồng thường cứ lấy dao đâm.

      Tôi cười:

      - Cũng có người hiền người dữ.

      - Bữa nào con dẫn nó qua bên này chơi.

      Vợ tôi đối với cô có nhiều cảm tình mặc dù bây giờ cô không còn một nét nhỏ nào của người đàn bà có nhan sắc và giàu có của thời xưa. Thỉnh thoảng vợ tôi vá dùm cho cô cái áo, hoặc cầm kéo cắt ngắn bớt mớ tóc bạc phơ. Khi thì gửi biếu cô mấy cái bánh ngọt hay mang sang một bát canh cá. Cô năng đau yếu mà số ruộng thì đã bán hết. Có ba giạ giống cúng cho chùa để lấy huê lợi phụng tự, cô cũng xin lại để bán ăn. Cô già đi nhanh chóng làm như sức khỏe cũng biết chạy xuống dốc. Trên con đường xóm lởm chởm đá và mẻ sành, cô đi lò dò từng bước, thân hình chênh vênh mỗi khi chiếc guốc sắp trượt lên những viên đá rung rinh. Đôi mắt mỏi mệt không còn đủ sức để nhìn thẳng hay ngước nhìn lên mà chỉ chăm chú nhìn vào một khoảng nhỏ dưới bước chân. Miệng lầm bầm nói chuyện một mình, nói với một bóng người tưởng tượng nào đó hoặc với cái quá khứ của chính mình. Gặp người hay gặp bò cũng mặc kệ, người hay bò phải liệu tránh ra để tìm lấy lối đi. Như thế, cô bước đi giữa cuộc đời còn sót lại, lạc lõng mơ hồ như người đi trong giấc mộng. Tất cả đều chập chờn hư ảo. Chặng đường cuối cùng của người lực sĩ đuối sức.

      Cứ cách năm, mười ngày, có người đến khiêng cái tủ, chở bộ ván, cái ghế thờ, cái bàn. Rồi đến cả những cây cột song can. Cô đứng vịn tay vào cây cột trước hiên dõi mắt nhìn theo, nước mắt chảy ròng xuống mắt. Đó là những đứa con. Đó là núm ruột. Đó là cuộc đời. Cô ngồi bệt xuống hiên nhọc mệt thở. Hai chiếc răng nanh ở hàm trên chõi dài ra bên khoảng trống đen ngòm do hàm răng cửa đã rụng hết. Bờm tóc bạc, vàng bẩn. Màu da mai mái của người bị ngộ độc. Những nếp nhăn hỗn loạn. Tôi chua xót và hối hận khi trong óc vụt có ý nghĩ rằng khuôn mặt đó đã khác xa với một khuôn mặt người bình thường. Nhiều khi nhọc mệt quá cô ngồi tựa cửa há miệng ra thở hổn hển, cặp răng nanh chõi ra như dài thêm, khoảng trống của răng đen hơn, những nếp nhăn sâu hơn, chằng chịt hơn. Hình ảnh đau thương và nhục nhã của cuộc đời người. Tôi thấy mình đang tàn nhẫn dẫu mình không phải là nguyên nhân của sự đày đọa ấy. Bất lực đứng nhìn rồi bỏ đi, thế cũng đã là tàn nhẫn rồi. Tôi nhìn xích ra một khoảng trống bên cạnh, dựng lên trong óc tôi một hình ảnh cô Ba khi còn xuân, má đầy đặn màu hồng. Vàng xuyến chói lòa ở cổ tay. Thật khó nhọc hết sức mới xua đuổi được cái hình ảnh tiều tụy của cô hôm nay, nó cứ lấn át, tranh giành, chực đè lên hình ảnh huy hoàng cũ. Bởi vì đã xa quá, những ngày sung sướng.

      Cô Ba từ trần nhằm vào lúc tôi đi vắng nhà. Khi về nghe thuật lại, tôi không ngạc nhiên về những chi tiết của cái chết đó. Người ta gọi cổng mãi mà không thấy cô rục rịch đi ra. Người ta lùa tay mở chốt cửa. Người ta bước vào nhà, thấy cô ngồi bệt xuống đất đầu ghếch lên một góc tường chết cứng hồi nào không biết. Có thể là cô đang đi tìm nước uống. Có thể là cô mò đi tiểu. Không cần luật y khám nghiệm, không cần thân nhân xác nhận, Hội nghĩa táng của thôn lo việc chôn cất. Gò núi ở cuối thôn là nơi an nghỉ của mọi người không phân biệt giàu hay nghèo, không cần phải tranh giành, không cần phải xin phép ai hết. Quả tình là chặng đường đi đến nấm mồ dễ dàng thoải mái hơn nhiều so với những chặng đường nhọc nhằn cam go mà cô đã đi mấy năm gần đây khi già yếu và nghèo nàn, cô đơn và bị đời lạnh lùng hắt hủi. Trong những người mà hồi tuổi nhỏ tôi được biết, nhiều người đã chết, rải rác, êm thấm trong các chặng quá khứ lờ mờ của tôi, lặng lẽ như trong một buổi hoàng hôn dài: ông ngoại bà ngoại, mẹ tôi, bà thím, ông Xã Năm, ông Cửu Hai… nhưng chưa có ai làm tôi xót thương cho bằng cô Ba Hường. Không phải vì họ hàng, không phải vì cô thương tôi mà chỉ vì cái cuộc đời cô đơn lạnh lẽo đó mang nhiều mâu thuẫn: cực khổ bởi vì giàu, dại khờ bởi vì quá khôn ngoan, bị bỏ quên bởi được mến chuộng. Ngoại trừ dùng Số Mệnh để mà giải thích và an phận còn thì, nếu dùng lý trí để mà suy xét cân nhắc thì tôi chắc nhiều người cũng sẽ như tôi xót thương mãi cho thân phận người đàn bà đó không biết nên xử sự như thế nào cho phải trong cái xã hội quá nhiều ác tâm lường gạt.
      #18
        hai1957 29.11.2012 10:18:31 (permalink)
        KHOẢNG MÁT

        NXB An tiêm 1966


        Mục lục :
        1. Mẹ và em
        2. Ðôi chim bồ câu
        3. Ðụng độ
        4. Dốc hiểm nghèo
        5. Con đường gai
        6. Khoảng mát
        7. Chuyện cái răng




        1. MẸ VÀ EM



        Khi bắt tay giã từ, ông quản lý an ủi Lưu:

        - Anh nên vui vẻ. Mỗi tuần anh chỉ phải lên đây có hai buổi. Đi mười cây số thì có nghĩa gì? Đường tráng nhựa tốt…

        Lưu chỉ bắt tay mà không nói. Không phải vì buồn mà vì anh đang bâng khuâng, đang bỡ ngỡ, đang xúc động. Khung cảnh trước mặt anh liệu có phải là một cảnh thực không? Hay đó là một cảnh mà anh đã sống trong quá khứ do một bàn tay huyền diệu nào làm hiển hiện lại trước mắt anh, giờ này? Một bãi cỏ thật rộng. Một dãy cây bàng chạy dọc theo con đường đi, lá non mới nhú trông như những bàn tay chụm lại chổng ngón lên trời. Bên tay mặt: vườn cam mít của nhà ai. Giữa sân rộng nằm bơ vơ một ngôi nhà mái ngói hai gian, diềm và cửa không sơn. Tường màu vàng cũ mang nhiều vết lở loang lổ. Những cửa sổ quá nhỏ. Trông như một ngôi truờng làng hay một kho chứa thuốc lá, chứa bông của Hợp tác xã. Rồi một rặng tre quằn quại trong gió. Một đọt cây măng vòi cong vòng xuống dưới sức nặng của một con chim chèo bẻo. Dãy núi trầm mặc. Bầu trời…

        Lưu quên rằng anh đang đứng trước nhiệm sở mới của anh, với những công việc mới đang chờ đợi. Anh bàng hoàng tưởng như tâm hồn mình đang chập chờn bay về một chặng nào của dĩ vãng. Bác Cai cầm xâu chìa khóa im lặng đứng cạnh, trong khi anh trầm ngâm nhìn ra một góc vại nước nhà bác, khám phá một cuộc sống trầm lặng diễn ra nơi đó. Một dây mùng tơi lá dày xanh mướt bò theo một cành tre khô cắm sát rào. Những lá to ở gần gốc bị ngắt đứt còn trơ cuống. Cạnh đó, hai cây ớt đang ra trái. Vài rãnh rau muống, một cây đu đủ, mấy bụi tía tô… tất cả cái khu lá xanh này dự vào cuộc sống của người chủ nhà một cách mật thiết vô cùng. Mươi chiếc lá mùng tơi góp phần với một nắm rau má, mã đề đủ để làm bữa canh rau. Bụi tía tô dùng làm lá nêm lại vừa làm thuốc ho, thuốc cảm. Còn mấy cây ớt thì được thăm viếng hàng ngày, có khi ngay giữa bữa ăn. Cuộc sống thanh đạm ít phiền lo…

        Lưu chợt quay lại và bác Cai lên tiếng mời anh đi theo bác. Bác tra chìa khóa lọc cọc vào ổ khóa. Tiếng gỉ sét rên lên và cánh cửa hé mở nặng nhọc. Cái bàn giấy dành cho anh phủ một lớp bụi dày. Anh vội vàng lại mở cửa sổ. Anh cần khoảng xanh ở ngoài kia hơn vì bụi mốc và mùi ẩm thì anh đã quen thuộc quá rồi, quen đến độ anh sợ sệt.

        Bác Cai mở tủ lấy từng chồng sổ sách. Lưu biết những việc anh sẽ phải làm nên vội vàng cảm ơn bác. Anh không muốn sự hiện diện của một người nào ở cạnh anh hết. Cho anh trơ trọi với màu xanh kia mà anh bị bắt buộc phải xa cách không biết tự bao nhiêu năm tháng rồi. Dĩ vãng nào của anh cũng được đặt vào một khung cảnh có cây cối làm nền. Anh dễ tưởng tượng lại một khuôn mặt thân yêu, dễ sống lại một tâm trạng êm đềm hay xót xa khi mắt anh bắt gặp một khung cảnh quen thuộc. Một bờ ao. Một ngôi chùa. Một hàng dậu có dây bìm leo nở hoa hình chuông. Một dòng sông. Ký ức của anh, trái lại, rất ít bén nhạŠy khi anh nhìn một dãy phố, một công thự, một kiểu ô tô… Có lẽ vì văn minh không lặp lại còn thiên nhiên thì không đổi thay. Cho anh đẫm tâm hồn vào sự trầm lặng lớn lao kia để cho vơi bớt đi những ưu tư phiền muộn đã từng dày vò khối óc muốn vỡ tung của anh. Người mẹ màu xanh, thiên nhiên trầm tĩnh dịu dàng, anh biết chỉ ở giữa thiên nhiên anh mới cởi bỏ được những xáo trộn của tâm tư mà hòa lòng mình theo nhịp sống thanh thản vô tư của cây cỏ.

        Bảy, tám năm hơn rồi, anh đã xa rời đồng quê để sống ở đô thị. Mắt anh trở nên khô khan vì mãi nhìn những hiên nhà gần giống nhau, những mái lợp ngói hay lợp tôn, những dãy hàng rào thản nhiên, ích kỷ. Đô thị giả dối. Chỉ có thể nhìn bề mặt của nó mà thôi. Dãy nhà đồ sộ đường Tự Do, đường Lê Lợi chỉ thanh lịch mỹ miều ở phía trước mặt. Nơi sân giữa, sân sau thì bẩn thỉu, luộm thuộm. Mái nhà chỗ thì thò ra, chỗ thì thụt vào, vá víu từng tấm tôn tấm thiếc, từng mảng xi măng bất ổn. Giây thép giăng mắc chằng chịt, áo quần, giẻ lau treo phơi ngổn ngang. Những bộ mặt xấu xí thỉnh thoảng chìa ra ở một khung cửa sổ, chới với trên chiều cao nơi những con chim én bay liệng. Thật khác xa với những người ở trước mặt nhà, những người đàn ông tóc chải mượt, giày đen bóng và thắt ca vát, những người đàn bà trang điểm lộng lẫy kéo từng luồng nước hoa trong không khí sau bước chân của họ.

        Nhưng lại cũng có bao nhiêu giả dối trên vẻ đẹp lộng lẫy đó, trên bước đi có vẻ chắc chắn đó, trong tiếng nói nụ cười có vẻ tin tưởng yêu đời đó. Mỗi lần sát cánh đi giữa họ là anh cảm nghe như ai cũng mang nặng thù hằn. Con người tranh sống thái quá như đã vô tình bóp chết mọi tình cảm êm đềm mà chỉ còn giữ lại niềm thù hận. Ai cũng coi người khác là kẻ thù của họ. “Nếu không có mi hiện ra trên bước đường của ta!… Hãy biến mất đi!…” Con người nuôi dưỡng quá nhiều thù hằn và họ tưởng đã khéo che giấu nó được dưới một lớp kính xã giao quá mỏng và trong suốt.

        Lưu mỏi mệt trong cái không khí nóng bỏng những giằn vặt, tranh giành, thù hận đó. Thời đại anh đang sống như quá dễ dãi trong sự chiếm đoạt. Một cô đào chiếu bóng ở truồng dễ nổi danh và do đó dễ làm giàu hơn một nhà bác học. Ngôi nhà đồ sộ, chiếc xe lộng lẫy, bộ quần áo sang trọng không nhất thiết dành cho người có tài trí hơn người mà nhiều khi cho những kẻ gian manh, nhiều thủ đoạn. Nhiều giá trị bị hạ thấp xuống, đảo lộn đi khiến người ta nghi kỵ nhau, khinh thường nhau. Người nào cũng tìm thấy những cớ để cho mình ấm ức. Người ta dễ thù ghét nhau vì đó. Người làm cùng nghề, người sinh cùng lứa tuổi, người ở cùng phố càng thù hằn nhau nặng hơn, tranh giành nhau bẩn thỉu hơn, điều ấy dễ hiểu. Nhưng có những trường hợp người ta gầm gừ nhau một cách vô lý.

        Lưu nhớ đến những tối la cà ở các phòng trà. Có lần sân khấu bị choán bởi một nam ca sĩ. Người anh ta ngốt đi trong bộ com-lê màu đen và ca-vat đen. Anh ta hát những bản man rợ của miền Nam Mỹ với nhiều tiếng rống, tiếng hú và tay anh, chân anh, lưng anh, mông anh, toàn thân anh lắc lư như một người bị động kinh. Cái miệng há rộng gào không nghỉ. Giá bịt tai lại cho khỏi nghe tiếng nhạc và giọng hát, người ta sẽ có cảm tưởng đang nhìn một con cá thu bị bắt đứng trên cạn, ngáp liên hồi và bị khô nước sắp chết. Lưu chú ý nhìn vào đôi mắt của anh ta, đôi mắt chứa đầy cam chịu và tủi nhục khi nhìn xuống từng bàn thính giả anh ta thấy họ đang mê mải bàn chuyện làm ăn với nhau hoặc tán tỉnh ái tình với nhau. Nhưng nếu anh ta hát sai nhịp hay lạc giọng, đứt hơi thì anh biết chắc bầy sói đó sẽ nhao nhao lên huýt sáo sỉ vả anh. Hình như những người thính giả phòng trà thích chứng kiến những sự thất bại như vậy để mà họ hò hét la ó.

        Nữ ca sĩ được chiều đãi hơn vì người thính giả tầm thường nhũn nhặn nhất cũng cứ có thể nghĩ rằng mình được các nàng lưu ý cảm mến. Tia mắt và nụ cười đó chính là dành cho mình dù nàng không hề biết rõ mình là ai. Tuy nhiên, nếu biết nàng đang yêu một người nào trong đám thính giả ấy thì lập tức mọi người khác sẽ nghiêm khắc với nàng ngay. Con người ích kỷ và hẹp hòi. Lưu chán nản khi phải đụng chạm hàng ngày với những khuôn mặt dò xét, nghi kỵ và phản bội đó. Ai cũng làm ra người lịch sự, cũng thích trao đổi nụ cười nhưng khi một tí quyền lợi bị đụng chạm là người ta chuyển sang thù ghét dễ dàng. Dây thần kinh của con người đô thị như bị lột trần. Một chút va chạm nhỏ cũng có thể làm họ mất bình tĩnh. Thế mà đô thị thì quá hẹp bởi con người quá đông. Họ chạm mặt nhau hàng ngày khiến vết thương không kịp lành. Mỗi khuôn mặt gặp đều khơi động một tâm sự, một mặc cảm, một điều ẩn ức, một nỗi buồn riêng.

        Lưu gọi thầm:

        - Ngô ơi!

        Ngô là tên một cô bạn. Người con gái ấy đi chập chờn vào tâm hồn anh bằng những bước rụt rè. Bởi đôi chân nàng hơi gầy, một bờ vai mỏng, cái ngực kín đáo. Nhưng tâm hồn xao xuyến những xúc cảm và tư tưởng. Nàng nói:

        - Ông Lưu ơi, ông có sốt ruột vì cuộc sống quá nhàm không?

        Anh trả lời:

        - Thế nghĩa là hiện giờ cô không có người yêu?

        - Chưa chắc.

        - Chắc chắn lắm chớ. Khi đang yêu, cô không thấy cuộc đời nhàm nữa.

        - Để tôi thí nghiệm lại xem. Chỉ biết hiện giờ tôi thấy chán quá. Cứ nghĩ rằng tôi bị ngăn cách với ngày mai bằng một bữa ăn tối có quanh quẩn những món ăn quen thuộc, bằng một giấc ngủ không thú vị gì hết. Rồi phải đánh răng rửa mặt vội vã sáng hôm sau, phải nhìn mặt mình trong gương, phải ngồi trước bàn giấy… Cuộc đời của tôi bị cắt ngắn đi một cách vô vị như thế mà tôi cứ phải âm thầm cam chịu.

        - Cô đang cần một người yêu.

        Giọng Lưu quả quyết như giọng một ông bác sĩ có tuổi, hà tiện lời nói. Vẻ mặt Ngô đăm chiêu:

        - Tôi cũng có nhiều suy nghĩ đến một người yêu. Tôi cùng người ấy đi thật xa, thật xa vào trong một khu rừng nào rậm rạp, xa hẳn mọi người. Chúng tôi sẽ căng lều mà ở, bắt thú vật và hái quả mà ăn…

        - Nhưng tôi xin phép nhắc chừng là cô phải chọn kỹ càng người mà cô tưởng đã yêu. Vì nguy nhất cho cô là khi đã đi sâu vào rừng già rồi cô mới chợt thấy rằng người ấy không đúng là người yêu lý tưởng của cô. Lúc bấy giờ phải mang nặng lều vải trở về đô thị thật không gì chán bằng.

        Câu chuyện trao đổi vụn vặt ấy đã hé mở cho Lưu thấy một cạnh góc của tâm hồn Ngô. Lưu đã yêu cái tâm hồn khao khát tình yêu lý tưởng ấy. Ngô có một đời sống nội tâm thật, nên những câu nói của nàng không khô khan vô vị như của hầu hết những cô bạn khác. Một hôm Ngô hỏi:

        - Ông Lưu ơi, ông không dám sống sao?

        Câu hỏi bất ngờ làm anh lặng im một phút suy nghĩ. Cuối cùng anh nói:

        - Tôi cũng dám sống lắm. Nhưng chỉ khi nào người đàn bà cho phép, vì tôi không muốn mang tiếng là ích kỷ. Bởi tôi là… đàn ông… Thế con cô, cô có dám sống không?

        Ngô chỉ mỉm cười mà không đáp.

        Mối tình kín đáo nhẹ nhàng ấy lớn lên một cách chậm chạp. Lưu nghĩ đến nàng một cách thường xuyên hơn và trong những hồi mơ mộng tưởng tượng, người đàn bà mà anh ôm trong tay nhiều khi là Ngô. Anh cảm nghe ngực nàng dán chặt vào ngực mình, cái cổ mảnh chuyền sang một hơi nóng bỏng, mùi thơm nồng nồng tỏa nơi mái tóc và xương vai xương sườn của nàng nhún xuống, cong lại như sắp gãy trong vòng tay siết mạnh của anh.

        Người yêu trong tâm tưởng ấy, một chiều, Lưu thấy ngồi sau xe Vespa của một người đàn ông. Nàng nheo mắt cười như mọi người đàn bà vào trường hợp đó. Lưu buồn một đêm, ngồi thầm trong bóng tối. Vài ngôi sao xa ứa những giọt lệ long lanh. Sáng hôm sau, anh nhận lời đi Diên Khánh.

        Tình yêu, đau khổ tranh chấp, thù hằn chạy dài theo đường phố, đóng khung giữa hai dãy nhà cao, len lỏi vào các cửa tiệm, rạp hát, hiệu ăn… Lưu bỏ lui chúng lại đằng sau một khi xe anh vượt quá Cầu Dứa chạy bon bon trên đường Phú Vinh, con đường rải nhựa đen bóng loáng có bóng cây im mát. Hai bên đường, làng xóm kế tiếp với ruộng lúa. Từng chặng, một cái quán nghèo nàn ngồi thu hình dưới một tàn cây. Vườn cam bưởi, vườn mía, vườn chuối nối nhau chạy dọc theo những con mương nước. Một hồ sen hiện ra, hoa màu hồng nở lác đác điểm giữa màu lá xanh tối. Ruộng lúa nằm nép thấp xuống làm con đường thêm cao. Tháng tám lúa chín vàng, đó đây có từng đám ruộng đang gặt. Ngồi trên xe, Lưu nhìn những dáng người vạm vỡ cúi xuống quơ vòng hái, đứng dậy vặn bó lúa, đưa lưỡi liềm cắt ngọt một nhát, tất cả những động tác uyển chuyển nhịp nhàng và dễ dàng như một trò biểu diễn nhẹ. Làm việc cần mẫn, nhu cầu rút hẹp, chính những người nông dân ấy nuôi dưỡng mình mà không hề tự phụ. Lòng Lưu thấy phần khởi vui vẻ. Anh thấy tin tưởng ở sức mạnh cần lao và lòng thiện, trái với khi nhìn những con người ở phố bám víu vào cuộc sống bằng thủ đoạn và sự lười biếng.

        Vòng bánh xe càng lăn sâu vào con đường thiên lý, thành phố ồn ào bụi bặm càng bị bỏ lui đàng sau xa hơn thì tâm hồn anh càng thấy bình tĩnh êm ả hơn. Anh cho xe mình chạy đua với những chiếc xe Lambretta ba bánh, cả với những chiếc xe buýt đầy nhóc khách. Sự đuổi bắt thú vị khi ngồi ở sau xe là một người đàn bà có sắc đẹp. Chàng và họ nhìn nhau rồi xa nhau rồi gặp nhau trở lại, liên tiếp trên con đường dài. Sở dĩ có trò vui đó là vì xe ba bánh chạy mau hơn xe anh, nhưng cứ từng chặng nó phải dừng lại để bỏ khách xuống hoặc đón khách lên.

        Nhiều buổi sáng anh đi sớm quá, lên đến Diên Khánh mới bảy giờ. Lúc bấy giờ anh có cái thú chứng kiến sự thức dậy của một quận lỵ nhỏ. Trung tâm sinh hoạt là cái chợ. Vài hàng xôi cháo, vài sạp bánh mì cung cấp quà sáng cho mấy người dậy sớm. Đường phố xóc đá lởm chởm và vương vải rác, lá cây.

        Có những buổi chiều xong việc sớm anh không muốn dong xe về vội mà cho xe chạy chầm chậm theo hai con đường phố chính. Những tiệm buôn đều nhỏ, hàng hóa xếp lộn xộn. Không có một cô bán hàng trẻ đẹp nào mặc dù anh đã phải đưa mắt tìm ở các sạp vải ngang hông chợ. Cái gì ở đây cũng khiêm tốn, cả ngay sắc đẹp của con người. Khách hàng qua lại đa số là những người nhà quê mặc áo vải đen. Áo phủ trước ngực những người đàn bà có tuổi, nhô ra như những cái mái ngắn. Ở đây các bà còn mặc áo ngắn có túi dưới lớp áo dài (túi đựng tiền, trầu thuốc và đủ mọi món lẩm cẩm) nên thiếu cái eo nơi thắt lưng áo. Không khí quanh chợ thành ra nghiêm trang khắc khổ.

        Những hiệu sách trống trải vắng vẻ khiến người đứng bán mang một vẻ gượng gạo mỏi mệt. Phải rồi, ở đây sự buôn bán không làm nên sức mạnh. Sức mạnh tản mác về các ốc đảo màu xanh trên cánh đồng kia, tiềm tàng dưới mái rạ, sau những đụn rơm.

        Xe anh đi theo con đường Trịnh Minh Thế lở lói vá víu. Trước một ngôi nhà thấp bốn mái phủ rêu đen có tấm bảng ghi “Ty Bưu Điện”. Nếu từ trong ngôi nhà già nua ấy bước ra một ông quan đại thần đội mũ cánh chuồn, mặc áo bào vàng, mang hia cầm cốt, anh sẽ không ngạc nhiên vì ngôi nhà gần gũi với không khí phong kiến âm u hơn là khoa học sáng của nhanh nhẹn.

        Các công sở đều nhỏ, gọn, sạch sẽ. Chúng cho anh cái cảm tưởng đang nhìn những cô gái tỉnh nhỏ làm đỏm, cạo lông mày quá kỹ hay bôi phấn quá nhiều. Người lính đứng canh ở trước công sở biểu lộ một nét nghiêm trang quan trọng. Chắc ít khi có người qua đây để đưa mắt trầm trồ nhìn anh. Nơi đây là cây xanh nhiều hơn mặt người.

        Đi vào cửa Đông của thành Diên Khánh, Lưu có cảm tưởng mình đang đi vào dĩ vãng. Bờ tường dày đến bốn thước khiến cái cửa sâu hun hút. Không khí mát lạnh so với sức nóng ngoài kia. Chiếc vọng lâu ở trên đầu cửa điểm một nét điêu tàn cho cảnh. Vẻ điêu tàn còn bàng bạc nơi những hàng cây gòn đứng xoe từng tàn cây mỏng dọc theo bức tường thành. Không khí của những triều Minh Mạng, Tự Đức lảng vảng đâu đây.

        Một hôm trên đường về Lưu gặp một chiếc Vélosolex chạy trước mặt do một thiếu nữ cầm lái và chở ở đằng sau một thiếu nữ khác. Người ngồi sau mặc một chiếc áo dài màu hạt dẻ. Qua đầu cầu đông đảo xe cộ, anh thả ga cho xe mình chạy vụt lên, vượt qua xe kia nhưng khỏi cầu anh lại để xe mình chạy chậm lại cho xe kia vượt lên. Từ đó, anh giữ cho xe mình chạy sau với khoảng cách năm thước. Cái lưng thon và màu áo hạt dẻ cứ chập chờn rung rinh trước mắt anh, anh thấy đẹp như một hy vọng không bao giờ nắm được trong tay. Như cái bóng dáng hạnh phúc để cho anh luôn luôn ao ước.

        Về đến ngã tư cây xăng, có bốn con đường để xe của hai nàng tự do chọn một: Gia Long, yersin, Độc Lập, Phường Củi. Lưu không ngờ xe trước lầm lũi chạy theo con đường Gia Long, đúng vào con đường của anh. Đến ngã sáu Nhà Thờ lại một lần hồi hộp nữa. Nhưng lại một lần nữa chiếc xe lại lầm lũi chạy theo hành trình của anh: Phước Hải… Huỳnh Thúc Kháng. Cuối cùng xe kia rẽ sang đường Nguyễn Trãi còn anh tách chạy thẳng về con đường Hồng Bàng của anh, không tò mò tìm xem xe hai người kia về đúng nơi đâu.

        Chừng nửa tháng sau anh gặp lại lại màu áo hạt dẻ ở trong một trường Tiểu học. Mùa này là mùa nhập học, cứ mỗi buổi sáng xe anh gặp hàng đàn học sinh đi dọc bờ đường, đều đặn thẳng tắp như một hàng rào thấp. Suốt con đường lên Diên Khánh cứ cách vài cây số là có một trường Tiểu học nằm sát bên đường: trường Vĩnh Điềm, Vĩnh Châu, Phú Vinh, Võ Tánh, Diên Khánh. Người học sinh Tiểu học ở vùng quê, ngây thơ rụt rè, áo mũ nghèo nàn là một hình ảnh đáng yêu. Lưu thấy lòng mình cũng trẻ lại, vô tư hồn nhiên khi nhìn mấy em nhỏ ôm sách vở một cách khó khăn, môi mím chặt, hai mắt nghiêm trang ngó trước mặt để tỏ rằng mình là người lớn. Trên cánh đồng lại có từng dãy học sinh năm bảy đứa đi chầm chậm trên con đường ruộng chênh vênh, rón rén tránh những thân lúa nằm mọp đầu gối lên bờ. Có đứa thấy anh chễm chệ ngồi trên xe liền giở nón chào. Có đứa, ngược lại, vẫy tay chỉ chỏ vừa cười nham nhở.

        Từ khi biết chắc màu áo hạt dẻ là một cô giáo rồi thì mỗi lần đi về anh đều để ý đến giờ khắc hơn. Anh tính cho xe mình chạy đến Bình Cang kịp giờ bãi trường. Nhưng đã hai lần xe anh vừa đến thì thấy ở tít đằng xa trước mặt chiếc VéloSolex chở nàng áo màu hạt dẻ đang vun vút bỏ chạy. Anh mê mải đuổi theo, bất chấp cả xe vận tải, xe nhà binh, bất chấp cả phong cảnh hai bên đường. Nhưng vẫn không đuổi kịp. Anh thất vọng kết luận: Muốn chinh phục một người đàn bà thì ít nhất phương tiện giao thông của mình phải: hơn họ.

        Mùa thu hay có mưa giông, anh đi bằng Lambretta hàng. Ngồi chen chúc với những người hành khách bình dân khác, anh thấy cái thú của sự chung đụng. Người ngồi cạnh anh có khi là những bà bán cá, những chị bán rau, những người xách giỏ đi chợ. Họ gợi chuyện một cách dễ dàng, thẳng thắn. Không cần xã giao, không cần lịch sự, họ vung đòn gánh trúng chân anh mà không cần “xin lỗi”, họ bước ngang trước mặt anh mà không cần khép nép giữ gìn. Hai người xa lạ xưng hô với nhau bằng anh chị như đã quen thân với nhau lâu. Dường như họ không quan tâm tìm đoán xuất xứ của người đang đối diện với họ. Người thị thành đa nghi hơn và cũng khéo biết lợi dụng người đối diện của họ hơn.

        Được khuyến khích bởi tính ăn nói hồn nhiên của họ, Lưu cũng góp chuyện một cách cởi mở. Anh thấy rằng lối sống của mình xưa nay nhiễm nặng tính chất ích kỷ. Đi trên cái xe riêng của mình, tới sở ngồi vào cái ghế của mình, về nhà nằm trên cái giường của mình… tất cả mọi thứ nhu cầu đều riêng biệt không để cho ai được động chạm đến.

        Một hôm chiếc Lambretta chở anh chạy đến Bình Cang thì dừng lại. Người đón xe chính là cô áo màu hạt dẻ cùng đi với một cô khác. Hai cô nhìn vào trong xe thấy khách ngồi đông nên không chịu lên. Họ đón xe khác. Cùng đi với hai cô có một người đàn ông trẻ mà lúc nãy anh không để ý. Người đàn ông mặc quần màu tối nên khi đi với đàn bà họ bị màu áo dài của đàn bà làm lu mờ đi. Cả ba cùng ôm cặp. Chắc họ là đồng nghiệp với nhau. Người đàn ông lăng xăng giữa hai cô bạn. Anh nhọc nhằn trong một hoàn cảnh may mắn cao quá tầm anh vì hai cô đều xinh. Chỉ một cô thôi tưởng cũng đủ cho anh nhọc rồi. Vẻ mặt láu lỉnh ấy, đôi tay đôi chân phong phú cử động ấy dường như sinh ra để phụng sự đàn bà. Anh lái xe lầm bầm vì bị mất ba người khách. Lưu cũng mơ hồ cảm thấy rằng mình vừa mất một cái gì khi xe vụt chạy anh nhìn ra sau thấy cô áo màu hạt dẻ cười vui vẻ với anh bạn đồng hành.

        Tuy vậy, chừng một tháng sau thì Lưu quen cô áo hạt dẻ. Hai tháng sau anh yêu cô áo hạt dẻ. Từ đó cảnh vật hai bên đường không còn quyến rũ tâm hồn anh nhiều như trước nữa. Hai người đợi nhau cùng đi một chuyến xe nên anh hóa thành con người bận rộn. Buổi sáng đi lên sợ trễ giờ đến sở. Buổi trưa đi về sợ trễ giờ nàng đợi. Anh không còn biết mùa này hoa sen có còn nở đỏ trên mặt hồ nữa không, ruộng lúa đang vụ cày hay vụ cấy. Anh chỉ còn để ý đến con đường nhựa đen bị ngốn đi khi anh nhìn ra trước xe, kéo dài ra không dứt khi anh nhìn ra sau xe. Khi có nàng ngồi bên thì anh mê mải nói hay nuốt say sưa những lời nói của nàng. Thỉnh thoảng anh cũng có đưa mắt nhìn ra cảnh vật nhưng mà cái nhìn lơ đãng làm sao! Cảnh vật hiện ra với anh như một người bạn dễ dãi, không thân lắm nhưng sẵn sàng cười với anh một tiếng, khen tặng anh một câu.

        Một hôm Lý, - tên cô áo màu hạt dẻ, - nói:

        - Trước đây em thấy anh ngồi trên xe mà mắt cứ nhìn ở đâu đâu trông bộ lơ đãng dễ ghét lạ.

        - A, tại vì anh mê mải nhìn cảnh vật trên con đường đi. Cảnh vật, thiên nhiên, anh cho rằng đó là người mẹ bảo bọc mình, an ủi mình. Đó là thứ thuốc dấu linh nghiệm để rịt vào những vết thương do loài người gây ra trong lòng mình.

        - Loài người…?

        - … là xã hội, là người quen biết và không quen biết, là bạn mình, là người yêu của mình.

        - Em?

        - Có thể lắm. Nhưng dù biết vậy, anh vẫn yêu em, vẫn làm việc, vẫn hy vọng. Bởi vì chúng ta chưa già và vì thiên nhiên lúc nào cũng còn đó, sẵn sàng để bảo bọc và an ủi người thất bại.




        2. ĐÔI CHIM BỒ CÂU



        Bầy bồ câu của tôi, một số bị mèo vồ ăn thịt, một số bị mèo vồ hụt sợ quá bỏ bay mất hết. Chỉ còn lại một đôi vợ chồng. Có lẽ chỉ vì có hai cái trứng đã đẻ đó không nỡ bỏ đi nên chúng còn lưu lại nơi cái chuồng của tôi. Tôi phải chăng thêm nhiều lớp dây thép gai chung quanh chuồng để bảo vệ cái gia đình còn sót lại này.

        Trong các giống chim nhà, tôi yêu nhất những con bồ câu. Chúng nó cái dáng đẹp đẽ với cái ức trọn trặn và bộ lông mượt. Chúng có cái dáng quí phái với những đôi chân manh mảnh màu hồng. Tôi còn yêu mối tình đằm thắm của chúng đối với nhau. Những buổi nắng đẹp chim đực đi xung quanh người yêu, miệng rầm rì những lời thiết tha. Chim mái nằm yên tĩnh lắng tai nghe. Sự dịu dàng của tình yêu đó thật khác xa với lối biểu lộ tình yêu nông nổi hạ cấp của lũ chim sẻ chẳng hạn, mồm nói choèn choẹt và điệu nhảy lấc cấc, liến thoắng. Lối mổ thóc, lối đi đứng lối bay của bồ câu cũng có cái vẻ gì chững chạc đàng hoàng đặc biệt của những người tự biết mình cao quí, không cần hấp tấp vội vàng. Sự đằm thắm trong tình yêu, con chim đực còn biểu lộ trong cử chỉ tha rác về làm tổ. Rồi khi trứng đẻ ra rồi thì thay phiên với vợ mà ấp. Đến khi con nở thì nhẫn nại đứng sú mồi cho con. Lần đầu tiên thấy chim đực sú mồi, con tôi lật đật chạy đi tìm tôi, miệng gọi ơi ới. Tôi hốt hoảng tưởng có một tai họa nào xảy ra cho nó. Thấy tôi, nó hơ hãi nói:

        - Ba ơi… con chim lớn… cắn con chim con.

        Tôi vội vã chạy ra xem và buồn cười nhìn lại vẻ mặt lo lắng của nó. Tôi bảo:

        - Con chim cha đút mồi cho chim con ăn đấy.

        - Nhưng mà nó mổ ngay giữa cổ họng.

        - Biết làm sao bây giờ? Đó không phải là cử chỉ êm đềm nhất mà nó chọn, chắc vậy, mà chỉ vì nó không có hai tay khéo léo như ta. Hai tay nó đã phải biến thành cánh. Nó phải mổ lấy thóc, để thóc vữa ra trong cái diều rồi mới ựa ra cho con ăn.

        - Nhưng nó không thể làm việc đó dịu dàng hơn sao?

        - Dịu dàng hay không là theo ý xét đoán của mình. Con còn nhớ hôm đi xem phim Misfits, lúc con ngựa mẹ bị trói nằm xuống đất thở phì phò thì con ngựa con chạy lại lấy chân khoèo khoèo vào mặt ngựa mẹ không? Khoèo chân là để tỏ tình âu yếm, y như ta lấy hai tay nựng vào mặt mẹ ta vậy.

        Một tối kia, có tiếng cánh chim rần rật bay hoảng từ lồng bay vút lên đọt dừa. Lại bị mèo quấy phá nữa. Soi đèn ra xem thì thấy một cái trứng bị rơi xuống đất bể, lòng trắng chảy nhầy nhụa xuống cát. Sáng hôm sau đôi chim bỏ ấp, đi thẩn thơ.

        Nỗi căm giận của tôi đối với con mèo hàng xóm đã lên đến cực độ. Nỗi căm giận biến thành thù hằn. Tôi muốn giết con mèo. Tưởng tượng khi bắt được nó tôi sẽ bóp siết vào cổ nó cho thật chặt và tròng mắt của nó sẽ lộ ra và thân hình nó sẽ dãy dụa và cuối cùng nó tắt thở. Nhìn dáng nó đi uyển chuyển trước hiên nhà, nhìn người hàng xóm vuốt ve âu yếm nó, tôi càng tức giận hơn. Thà nó hung bạo, xấu xí và cộc cằn! Tôi sẽ tha thứ nó. Ai nỡ trả thù một người đau khổ, một người đã phải chịu đựng nhiều nỗi bất hạnh và bất công. Đằng nầy nó đi nhởn nhơ ra vẻ một người lương thiện và chủ nó cũng an nhiên bình tĩnh dường như cũng chỉ nghĩ đến điều thiện. Thật là bất công và vô lý. Tôi (và lũ bồ câu của tôi) là nạn nhân, đã bị đau xót lại còn bị dằn vặt bởi những ý nghĩ thù hằn trong khi kẻ ác nhởn nhơ thoải mái.

        Nhưng giết nó đâu phải dễ. Thà bắt gặp nó đang cấu xé con bồ câu của tôi, lúc ấy tôi sẽ có đủ hăng máu để giết. Đằng nầy khi nào gặp nó là y như tôi chỉ thấy nó dịu dàng và uyển chuyển, vẻ mặt hoặc trầm tư hoặc thơ ngây. Tôi không đủ sức bạo tàn để làm hại một kẻ thù giữa lúc nó hiền lành như vậy. Chỉ còn có cách tôi cố bảo vệ lấy kỹ lưỡng hơn nữa đôi bồ câu còn lại.

        Suy nghĩ nhiều ngày, tôi quyết định thuê người lấy lưới thép giăng thành một cái lồng thật lớn và đặt cái chuồng bồ câu vào trong lòng. Thế là chúng vẫn có phòng ăn ở kín đáo, có điều chúng chỉ được bay quanh quẩn trong lồng. Tất cả những tiện nghi tôi đều lo cho có đầy đủ: lúa, bắp, đậu xanh, rau xà lách, nước uống và nước tắm. Cuộc sống tạm gọi là yên ổn. Tuy nhiên để tránh chủ quan, tôi dặn con tôi hãy lưu ý đến dáng điệu của chúng xem chúng có tỏ vẻ buồn bã, ủ rũ không. Vì nỗi lo lắng đó mà khi thấy con đực đứng gù gù bên cạnh chim mái hoặc thấy chim mái lấy mỏ rỉa nhẹ vào lông má chim đực là lòng tôi vui không xiết. Và mươi ngày sau, tôi thấy chim đực tha rác. Thế là tôi thành công. Con tôi vui nhảy hớn hở. Bữa cơm trưa hôm đó của chúng tôi vang lên nhiều tiếng cười nói hơn mọi ngày. Và rất cần mẫn, con tôi cứ lấp ló nhìn xem chim đã đẻ chưa.

        Ngày nó thấy hai cái trứng mới đẻ trên ổ rơm, nó chạy ra tận đầu phố để đón tôi về mà báo tin mừng. Chúng tôi rối rít lo mua thêm đậu, thêm cả mè, để thưởng cho chim. Và chim chia phiên nhau ấp. Tôi bàn với con tôi:

        - Bây giờ chúng đã đẻ trứng rồi thì có lẽ ta nên cho chúng bay tự do một chút.

        Con tôi vội phản đối:

        - Không được. Thả ra sợ chúng bay mất.

        Tôi vừa ngẫm nghĩ vừa nói:

        - Chẳng có lý. Chúng đã đẻ rồi thì thế tất chúng yêu con mà chẳng nỡ bỏ đi. Nhốt chúng trong một cái lồng, tù túng quá cũng tội. Cho bay đây đó một chút thì chúng mới có đủ sức khỏe.

        Con tôi hơi xiêu lòng, chỉ phản đối yếu ớt lấy lệ:

        - Con sợ nó bay mất. Nhưng mà… có lẽ ba nói đúng. Nó thương con, chắc chẳng bay mất đâu.

        Câu chuyện trao đổi chỉ đến đó.

        Hôm sau khi tôi đi làm về, con tôi ra đón ở cổng. Vẻ mặt nó đăm chiêu. Thấy tôi nhìn nó có ý ngờ vực, nó nói giọng rụt rè:

        - Ba ơi! Con chim đực bay mất rồi.

        - Sao vậy? - Tôi vội hỏi.

        - Con nghe lời ba, sáng nay mở cửa lồng. Con bồ câu đực vụt bay ra mất.

        - Còn con mái?

        - Con lật đật đóng cửa lồng lại. Con mái bay không kịp.

        - Bậy chưa! Sao con không hỏi ba mà tự ý thả như vậy? Bây giờ biết làm sao? Nuôi một con thì nó sống thế nào được? Mà nuôi một con thì để làm gì? Chẳng lẽ bắt ăn thịt. Mày thật là vô tích sự. Ở nhà không lo học. Chỉ có tài nhanh nhẩu đoản. Tao chán mày lắm.

        Giọng tôi gằn gằn một lúc một nhanh hơn. Con tôi vừa sợ vừa hối hận, nước mắt lưng tròng, ngước nhìn tôi không nói. Tôi chợt thấy là tôi đã rầy oan nó. Chính tôi đã bàn việc thả cho bồ câu bay tự do một tý, thế mà bây giờ tôi lại đổ tội cho nó. Trong cơn giận, người cha nào cũng hay bất công như vậy. Không dám nhận lỗi mình mà chỉ đổ lỗi cho người khác, cho cả ngay chính con mình. Tôi ngượng, để tay lên vai con tôi:

        - Thôi. Cứ vào rồi sẽ tính sau.

        Con tôi líu ríu đi cạnh tôi, dáng thất vọng rõ rệt. Tôi hỏi:

        - Từ sáng đến giờ con chim đực có bay về không? Con có ngó chừng lên mái nhà không?

        - Có. Con có ngồi đợi cho nó về. Nhưng nó không về.

        - Bội bạc.

        Tôi buông một tiếng. Quả thật tôi không ngờ con chim có thể bỏ vợ con lại nơi giam cầm, - trong óc nó chắc nghĩ vậy, - mà đi tìm tự do một mình. Nỡ đoạn tình vậy sao? Đoạn tình đến mức không hề bay trở lại qua nhà để tìm xem vợ con mình ra thế nào, còn hay mất. Người ta nói bồ câu chung tình và tôi cũng tin như vậy. Nhưng hôm nay không những tôi mất lòng tin nơi chim mà tôi còn mang nặng thêm hoài nghi nơi người. Chung tình có phải là một thái độ tình cảm thành thật đâu? Khi có điều kiện thuận tiện, rất thuận tiện để bạc tình thì người ta liệu có từ chối sự bạc tình không? Tôi mất đi lòng tin nơi thiện tâm của con người, đó là một sự mất mát lớn. Vì trong vài ngày sau đó lòng tôi không được vui.

        Tôi săn sóc con chim mái để bù vào nỗi cô đơn mà nó phải gánh chịu. Nhưng nó bỏ ăn đứng im lìm một mình. Bỏ trứng không ấp nữa. Ai ở vào hoàn cảnh nó cũng sẽ làm như vậy vì cái lồng trống trơn như luôn luôn nhắc nó nhớ đến những kỷ niệm êm đềm với người chồng ra đi. Dưới vẻ mặt trầm tư xa vắng đó, không biết nó nghĩ gì? Nó nhớ chồng? Nó giận chồng? Hay nó giận tôi, thù tôi?

        Buổi chiều, con chim đập cánh phành phạch bay bám vào mắt lưới tìm lối ra. Lông đầu của nó xơ xác. Cánh xệ xuống. Con tôi nói:

        - Hay mình đem thả con mái luôn đi ba.

        Đúng là ý nghĩ của tôi lúc ấy. Nên tôi nổi giận quay lại:

        - Sao lại thả ra? Chưa chi đã chịu thua trận, đó không phải là một tính tốt. Phải tìm mọi cách để nuôi cho kỳ được. Người ta nuôi bồ câu, sinh đẻ hàng bầy, bay đi bay về nườm nượp, chẳng lẽ mình chịu thua sao?

        Con tôi không trả lời được. Tôi tiếp:

        - Chúng ta phải tìm mọi cách để thắng. Chúng ta phải thắng, con hiểu chưa? Con có cách gì không?

        Cố nhiên là con tôi không có cách gì hết, vì cả ngay tôi cũng đang lúng túng. Quả tình việc nuôi bồ câu của tôi gặp nhiều trở ngại quá khiến tôi đã chán muốn bỏ từ lâu, nhưng vì tự ái mà tôi đã nhẫn nại, cố tìm mọi cách để nuôi cho được. Tôi cũng đồng thời muốn gián tiếp dạy cho con tôi một bài học kiên trì, đừng vội nản chí khi gặp thất bại. Nhưng đã tới mức này, tôi không biết giải quyết ra sao. Tôi biết rằng quần chúng có nhiều kinh nghiệm về mọi địa hạt nên tôi đem thảo luận vấn đề với những người mà tôi quen; ông thợ cắt tóc mà tôi gặp mỗi nửa tháng, bà chủ tiệm gạo, ông quản lý sở tôi - người có tuổi và tháo vát, ông liên gia trưởng ba hoa hay nói lạc đề, cả cô thư ký giữ máy điện thoại nữa.

        Mọi ý kiến không giống nhau. Ông quản lý không tán thành việc nuôi bồ câu: chúng ỉa bẩn và đi lại trên mái nhà làm tuột ngói. Nên ông đề nghị: “làm thịt quách con bồ câu còn lại”. Cô thư ký phản đối: “Ai lại nỡ ăn thịt một con bồ câu dịu dàng như vậy? Thà thả nó ra cho nó tìm một người yêu mới”. Ông liên gia trưởng chưa kịp nghe tôi trình bày đầu đuôi câu chuyện đã bắt tôi nghe hơn nửa giờ về phương pháp thu cây rào để rào ấp chiến lược. Bà chủ tiệm gạo siêng năng đi lễ Phật khuyên tôi phóng sanh con chim đi. Chỉ có anh thợ cắt tóc là có vẻ hiểu rõ vấn đề hơn hết. Anh nói:

        - Ông sai người ở đi chợ lựa mua một con bồ câu đực về đem thả chung vào lồng với con mái.

        - Nhưng bồ câu người ta bán cả cặp mà, - tôi nói.

        - Mình có thể trả mua một con cũng được. Cũng có khi người ta bán lẻ riêng từng con.

        - Phải đi xuống chợ Đầm?

        - Cần gì. Chợ Xóm Mới cũng có. Một bà già người Bình Định lâu lâu mang bồ câu vào bán cả giỏ. Tôi mới thấy hôm qua kia đây.

        - Nhưng mua về biết con mái nó có chịu không?

        - Được mà.

        Tôi về, kêu chị ở dặn tìm mua một con bồ câu đực. Vừa ra lệnh mà vừa sợ chị ta hỏi lại. Chẳng hạn nếu chị bảo: “Làm sao tôi biết nó là con bồ câu đực”, thì tôi sẽ lúng túng chẳng biết trả lời sao. May thay, chị cầm tiền đứng ngần ngừ một lát rồi lẳng lặng đi xuống nhà sau. Tôi dặn vói theo:

        - Mua một con cũng to như con mái. Lựa cho cùng một màu trắng đẹp, kẻo con mái nó chê.

        Hai hôm sau, lúc tôi đi làm về, con tôi ra mét:

        - Chị Hai mua được bồ câu rồi ba à.

        Tôi mừng quá, không ngờ công việc được tiến hành nhanh chóng đến thế. Tôi hỏi:

        - Nó đâu?

        - Chị Hai thả vào lồng rồi.

        Tôi bước ra lồng, thấy có con bồ câu mới, hơi nhỏ hơn con mái một chút.

        Chị Hai từ bếp đi ra đứng cạnh tôi.

        - Thưa thầy, bồ câu Tây đó.

        - Nhưng có chắc là con đực không?

        - Bà già bảo đúng là bồ câu đực.

        Con tôi cầm lấy bàn tay tôi, nói chen vào:

        - Hai đứa nó chưa quen nhau, ba nhỉ? Mỗi đứa đứng mỗi nơi.

        Tôi biết con tôi là người sung sướng nhất trong ba người đứng đây. Nỗi lo buồn vì tự mình thả sống con chim đực, chắc đến giây phút này nó mới xóa được. Tôi dắt tay nó vào nhà, vừa nói:

        - Mong cho hai đứa nó thương nhau.

        Nhưng chiều hôm đó từ lồng chim vang lên tiếng vỗ cánh rần rật. Lại con tôi chạy vào hơ hãi nói:

        - Ba ơi chúng nó cắn nhau.

        - Con nào cắn con nào?

        - Con mái cắn con đực.

        Tôi bước ra sân. Con chim mái đang mổ tới tấp vào con chim đực. Chim đực né tránh rồi đứng dịch ra xa hơn. Nhưng chim mái lại sấn tới mổ vào cánh, đôi cánh để lè phè và lông xơ xác không đều đặn. Chim đực kéo lui đôi cánh một cách vụng về lúng túng. Chim mái mổ bốn năm cái liên tiếp vào đầu chim đực khiến chim đực bay bám vào mặt lưới sắt, thò đầu ra mắt lưới tìm chỗ thoát. Làm sao để giải cứu cho con chim đực bị ruồng bỏ kia? Tôi la “ùi ùi” và con chim đực tuồng như tăng thêm sợ sệt. Còn con mái thì cứ tròn xoe đôi mắt không tỏ dáng xúc động. Giá có một khuôn mặt linh động như người thì tôi tin rằng nó sẽ nhíu đôi mày và bặm môi để tỏ sự căm thù con đực và bất cần sự có mặt của tôi. Tôi nói lời dỗ dành như chỉ theo một thói quen:

        - Đừng mổ nó chớ. Mổ nó chi tội nghiệp vậy?

        Lời nói thật vô ích. Chỉ có con tôi nghe mà thôi và cũng như tôi, nó cũng cố ý che lấp sự bất lực của mình bằng những câu nói vô ích như vậy.

        - Con bồ câu mái trông vậy mà hung tợn quá ba nhỉ?

        - Ừ. Khi người ta… ghét thì người ta trở nên hung bạo.

        Ý tôi đang nghĩ rằng: “khi người ta không yêu thì người ta tàn nhẫn”, nhưng nói cho con tôi nghe, tôi phải đổi như vậy. Thật tình là tôi đang chuyển từ phạm vi chim sang địa hạt của người. Tôi nhớ rằng khi yêu, con người có thể hạ mình làm những việc tầm thường, thậm chí có thể làm những ngu si được. Nhưng khi đã không yêu thì họ tàn nhẫn lắm. Họ giả vờ bỏ mất địa chỉ để không viết thư trả lời, họ nói dối là bận lắm để khỏi gặp mặt, họ mong tìm thấy một lỗi nhỏ nơi người kia để lấy cớ mà giận mà tuyệt giao. Con người có trí khôn nên yêu ghét đều cực đoan.

        Nhưng con chim bồ câu, tôi không hiểu nó ghét vì lẽ gì. Theo lời một người bạn tôi kể lại thì anh có đọc trong một trang sách nào đó bảo rằng bồ câu là một giống chim không sống được trong cảnh cô đơn. Phải có cho nó một người bạn, nếu không khác phái thì tạm đồng phái cũng được. Người ta thí nghiệm rằng nếu nuôi nó trong một cái lồng bốn mặt có gương phản chiếu lại thì nó sẽ yên lành mà sống trong đó vì có hình ảnh của nó làm bạn với nó. Một con vật có nhiều thiện ý bằng hữu như vậy sao nỡ hành hạ một người bạn đã được chọn cho mình và xứng đáng với mình? Hay là vì nó thủy chung với người chồng cũ? Ừ nhỉ! Nghĩ đến đây, tôi nhìn nó với đôi mắt trìu mắt. Thì ra chỉ có bồ câu mái mới biết chung tình. Tôi xấu hổ lây cho con bồ câu đực hôm nọ, bỏ người vợ chung tình lại một mình, ra đi không hề ngoái lại. Người vợ đó hôm nay vì anh mà cự tuyệt một người đàn ông khác đẹp đẽ không kém anh. Chung tình với một người bội bạc, trường hợp đó thật cao quí, và chỉ phái yếu mới có. Tôi nghĩ xa hơn một chút và kết luận: đàn ông như mình thật đáng ghét.

        Sau một hồi hưu chiến, con bồ câu mái lại chạy a vào mổ tới tấp vào con bồ câu đực. Ý chừng nó thấy tôi chịu đứng bất lực ngoài lồng không thể viện trợ gì được cho kẻ thủ của nó nên nó mở cuộc tấn công lại. Con bồ câu đực lại né tránh và chạy dài. Đôi cánh kéo lết dưới sàn lồng. Một cái lông măng dính nơi mỏ của chim mái. Với món chiến lợi phẩm nầy dính nơi mỏ, con chim mái trông thật vũ phu.

        Con tôi bỏ chỗ đứng đi lại phía con chim đực, có lẽ để tỏ lòng ưu ái với một chiến sĩ có thừa sức khỏe nhưng không nỡ tay đánh một người đàn bà. Vẻ mặt nó đăm chiêu và ra dáng đau khổ. Hai má nhếch lên vẽ những đường nhăn ở hai khóe mắt. Tôi chắc nó lại nghĩ đến cái lỗi của nó đã trót thả con chim đực bay mất hôm trước. Nếu nó không vụng tính đến nỗi làm cái việc dại khờ đó thì làm gì có cảnh đau khổ hôm nay. Tôi đi lại kéo tay con tôi vào nhà vừa bảo:

        - Thôi, mặc kệ nó.

        - Nhưng con hối hận quá.

        - Đã trót rồi thì đừng nghĩ đến nữa. Vả lại, một con chim thì có giá trị gì. Điều cần nhất là con nên rút từ đó ra một bài học.

        Ngày hôm sau con chim mái bớt vẻ hằn học, do đó con chim đực có đủ bình tĩnh để xếp lại đôi cánh cho gọn gàng hơn. Hai đứa chia nhau đứng mỗi đứa một góc lồng. Mặt chim đực buồn bã. Ngày hôm sau nữa, chúng đứng gần nhau hơn. Đến ngày thứ tư, thứ năm gì đó tôi không nhớ rõ, chúng đứng sát cạnh nhau. Sự thù ghét chấm dứt và được nối liền bằng tình yêu. Dường như không có một khoảng trống nào giữa hai tình cảm bị diệt, mâu thuẫn đó.

        Đến đây, tôi không muốn dễ dàng để trí óc mình suy nghĩ và kết luận về đời sống tình cảm của lũ chim nữa. Chúng ghét đó rồi yêu đó, thủy chung và bạc tình đi cạnh nhau. Nhưng thú thật là tôi rất yên tâm khi thấy chúng không còn gây rắc rối cho tôi nữa. Những mối tình êm đẹp ở loài chim hay ở loài người cũng đều không gây tò mò thích thú nơi kẻ bàng quan. Con tôi lại bình tĩnh đợi chờ ngày mối tình ấy có kết quả. Những cặp trứng màu trắng nho nhỏ xinh xinh được nằm trên nệm rơm êm nhưng lần ấp nào cũng không thành. Đôi lần, ba lần, hy vọng rồi thất vọng liên tiếp, rốt cuộc chúng tôi chỉ nhớ chi tiền mua thóc cho chim ăn, còn thì không để ý gì đến chúng nữa. Cho đến một tối kia thừa lúc cửa chuồng đóng không kỹ, con mèo hàng xóm lẻn vào bắt mất con chim mái. Nhưng tôi đã chán sự thù hằn rồi. Tôi đã chán cả hy vọng rồi. Nhằm lúc đó có một người quen đến chơi ao ước nuôi bồ câu, tôi tặng cho anh ta cái chuồng chim và cả con chim đực cô độc.

        Rút bỏ đi được sự rối rắm trong việc nuôi chim nhưng quả tình lòng tôi chưa thoát được những ấm ức. Tại sao người ta vẫn nuôi được. Ông liên gia trởng hay nói lạc đề của tôi có một chuồng bồ câu lớn với nhiều tiếng gù, tiếng rên rỉ, tiếng vỗ cánh rộn ràng. Nhà ông công chức ở cạnh sở tôi làm vừa dựng thêm một chuồng bồ câu thứ hai. Mỗi khi nhìn qua cửa sổ là mắt tôi bắt gặp lũ chim hớn hở bay lên đậu xuống. Dĩ vãng nuôi chim của tôi bừng sống dậy và tôi cảm nghe trong lòng như có một nỗi buồn dâng lên. Trong khi ấy thì tôi lại gặp được nhiều người cũng chán nản bỏ cuộc như tôi vậy. Thành ra để tự an ủi mình, tôi hay đem câu chuyện nuôi bồ câu ra nói, mong tìm những sự thất bại cụ thể nơi những người kiên nhẫn nhất và có nhiều điều kiện để tích cực hơn tôi.

        Nỗi niềm đó mấy ai hiểu thấu? Chẳng hạn một chiều nọ, một cô bạn mời tôi đến nhà thầy mẹ cô chơi. Khi cô đưa tôi ra sân để giới thiệu những chậu hoa hồng, hoa sói do bàn tay khéo léo của mẹ cô vừa chiết được, tôi lơ đãng nghe và nhìn mà chỉ chú ý đến bầy bồ câu đang bay qua bay lại từ chuồng đến mái nhà. Khi người em trai của cô đi qua, tôi giữ lại hỏi:

        - Anh Vĩnh này, anh nuôi bồ câu có thành công không? Có lợi đích xác làm anh bằng lòng không?

        Vĩnh đang ngẫm nghĩ để xếp đặt một câu trả lời thì cô bạn tôi nói ngay:

        - Sao lại không lợi? Bồ câu đẻ mỗi tháng mỗi lứa…

        Tôi phải xin lỗi ngắt lời cô bạn mà nói:

        - Có lẽ Vĩnh biết rõ vấn đề hơn cô. Lâu lâu cô mới về thăm thầy mẹ, chắc cô không được rõ đâu. Ý tôi muốn hỏi Vĩnh, - chẳng hạn: bồ câu có bị mèo hàng xóm chụp không?

        Vĩnh tươi cười ngay vì câu hỏi chi tiết dễ trả lời hơn câu hỏi tổng quát lúc nãy.

        - Dạ, bị mèo vồ luôn.

        - Có hay bị trẻ con hàng xóm bắn ná cao su không?

        - Dạ, cũng đó xảy ra luôn. Bồ câu đang ấp mới bay xuống đường là bị bắn chết một con. Con còn lại bỏ ổ không ấp nữa.

        - Có phải nhiều khi có một cặp trứng mà ấp chỉ nở có một con?

        - Dạ, có vậy.

        - Bồ câu dễ mắc bệnh lắm?

        - Vâng.

        - Thế thì nuôi chúng chẳng lợi mấy…

        - Vâng ạ. Mấy tháng đầu thì có lợi, ham lắm. Nhưng sau lần lần thì hơi chán…

        - Cám ơn câu trả lời của Vĩnh.

        Vĩnh và cô bạn tôi đều tỏ ra ngạc nhiên không hiểu ý tôi muốn nói gì. Tôi giảng giải:

        - Tôi nuôi chim bồ câu bị thất bại nên bỏ không nuôi nữa. Mặc dù tôi đã kiên nhẫn nhiều nhưng tôi vẫn cho rằng tại mình mau nản lòng nên vẫn có ý ngầm tự trách. Do đó mà tôi muốn nghe người khác nói lên sự thất bại, sự chán nản để tôi được an ủi.

        Vĩnh mỉm cười thú vị vì ngẫu nhiên mà chúng tôi cùng một tâm trạng như nhau. Chắc Vĩnh đang cần một sự an ủi tương tự như tôi vậy. Cô bạn tôi thì dáng không vui. Một người đàn bà đang còn đẹp, ít khi chịu để cho một người đàn ông nói trái ý mình.

        Đích thực là càng ngày tôi càng yên tâm rằng tôi không nên hối tiếc vì sự nuôi chim thất bại. Nhưng lòng yêu chim bồ câu của tôi, tôi thấy vẫn không suy giảm. Tôi sẵn lòng yêu bất cứ chim bồ câu nào của ai mà tôi bắt gặp, mà tuyệt nhiên không có ý tưởng muốn nuôi nó làm riêng của mình. Cái đầu nhỏ, đôi mắt đen láy, cái cổ mảnh, cái ức gọn gàng, tất cả sự dịu dàng ấy ám ảnh tôi, ám ảnh cả vào những lúc mà tôi không ngờ nhất.

        Tôi nhớ có lần tôi đi dự một nhạc hội. Người ca sĩ được giới thiệu, tôi đã nhiều lần nghe giọng hát ở đĩa nhựa và máy thu thanh. Đêm nay cũng giọng hát trầm ấy thổn thức nức nở, như kéo là là xuống mặt đất, như muốn tràn ra mênh mông, như muốn vỡ ra từng mảnh. Tôi nhìn lên tấm thân manh mảnh của nàng trong tà áo màu ngà, với mái tóc buông dài, với đôi má trắng, đôi mắt đen láy. Có những lúc giọng hát trầm quá tôi chợt lo rằng nàng sẽ không giữ được thăng bằng, giọng hát trĩu nặng xuống và nàng sẽ chênh vênh, và nàng sẽ ngã. Nhưng nàng vẫn đứng đó, tà áo màu ngà manh mảnh, đôi má trắng, đôi mắt đen và giọng hát vẫn êm đềm thổn thức. Con chim bồ câu! Thoáng một giây, tôi nghĩ đến con chim bồ câu, con chim bồ câu trắng dịu dàng, con chim bồ câu không phải của riêng tôi nhưng mà tôi sẵn sàng mến yêu bất cứ nơi đâu và chẳng cần biết là của người nào.


        #19
          hai1957 30.11.2012 10:28:32 (permalink)
          3. ĐỤNG ĐỘ


          - Số 508, đừng liếc sang bên cạnh.

          Người thí sinh mang số ký danh 508 thu cái nhìn về. Đôi mắt khép lại trong khoảng hẹp của tờ giấy thi. Nét mặt đăm chiêu.

          - Số 492, đừng nói chuyện.

          Anh thí sinh mang số ký danh 492 thôi nói, miệng nở một nụ cười gượng.

          Phương pháp lập một bản đồ lớp trên tờ giấy, ghi số ký danh của thí sinh theo vị trí ngồi của họ đã giúp Luân giữ trật tự phòng thi một cách có hiệu quả. Có ai rục rịch hoặc hỏi lời giải hoặc tự nhiên cho xem nháp, anh chỉ nhìn vào bản đồ gọi đúng số ký danh của người thí sinh phạm lỗi, thế là trật tự vãn hồi. Nếu cứ gọi vu vơ “Ê, anh kia đừng nói chuyện. Suỵt, suỵt…anh. Anh này, đừng cho xem nháp chớ…” thì cả lớp sẽ bị quấy rầy nhiều quá. Người thí sinh lương thiện nhút nhát thì cứ tưởng giám khảo muốn ám chỉ mình nên giương mắt lên nhìn và đợi, còn người có lỗi thường điềm nhiên tiếp tục, tưởng như giám khảo đang bảo người khác.

          Lá phi lao hát vu vơ trên tầng cao, kéo dài một giọng đều đều, lê thê, buồn ngủ. Lá tối màu rong biển nhọn nhọn, li ti, như thiếu sự bình tĩnh, như lúc nào cũng rối loạn thần kinh, như thiếu sự bao dung. Cành rậm chỉa xiên lên trời. Đó không phải là thái độ ân cần đón mời những đôi chim. Phi lao hay đứng ở sân bệnh viện, công sở và nghĩa trang. Những nơi này không ai thích đến.

          Luân mơ màng nhìn ra dãy phi lao sắp hàng trước sân trường để nghĩ vẩn vơ như vậy. Anh để cho cô giám thị làm nhiệm vụ của cô. Từ đầu giờ đến giờ cô cứ ngồi nơi ghế đặt ở cửa ra vào. Cô giáo cần phải ngồi như vậy mới có vẻ nhu mì. Phải vòng hai tay trước ngực nữa. Thí sinh không phải đều là học sinh. Học sinh không, cũng đã khó điều khiển rồi. Họ xem những cô giáo trẻ và đẹp như chị của họ ở nhà, thậm chí như một người yêu mà họ mơ tưởng. Ở những trường trung học lớn, thỉnh thoảng ở nơi góc trường có những hàng chữ thầm lặng rụt rè mà thiết tha như những tiếng kêu tuyệt vọng. Chẳng hạn “Cô Kim Nhung ơi, cô đẹp lắm”. Cô giáo mang rất nhiều mặc cảm: nhỏ, yếu, bị người ta đánh giá và thưởng thức sắc đẹp. Như một cái hoa thơm, như một cái quả ngon…

          Cô giám thị đi đi lại lại trong phòng. Bước chân nhẹ, ngắn. Ngay ở dãy bàn đầu, những người ngồi thì cũng đã quá cao so với cái bàn, cái băng. Họ như mất thăng bằng. Giống như những lực sĩ ngồi xệp xuống đất để sử dụng đàn tranh. Trong số thí sinh có mấy quân nhân mặc quân phục mang cả phù hiệu cấp bậc. Có những cán bộ nhân viên hành chánh nét mặt đã già. Họ viết chữ đẹp, hay dùng tẩy và thước gạch. Đề luận Việt văn thì chỉ chọn: “Hãy giải thích lời nói sau đây của Tổng Thống…” Cô giáo viên giám thị địa phương mất bình tĩnh với họ. Cả đối với thí sinh - học sinh cũng vậy. Học trò thời nay không coi ai ra gì. Học trò dốt, đi thi để hỏng thì càng hung tợn hơn. Giám thị mang giày đế da có đóng cá sắt bị ghét vì đi lộp cộp làm rộn họ. Mang giày đế cao su êm cũng bị ghét vì họ cho là đi nhẹ để dễ rình. Cô giám thị mang guốc đế nhọn đi lóc cóc thì bị nữ sinh ghét. Ghét! Ghét! Ở cái xã hội học đường thi cử người ta ghét nhau dễ dàng như thở không khí.

          Luân bảo cô giám thị:

          - Cô Tâm này, cô thử đi một vòng xuống dưới cuối lớp. Thí sinh họ nói chuyện hơi nhiều.

          Cô Tâm uốn éo đôi vai, nghiêng cái đầu nhiều lần rồi mới thỏ thẻ nói:

          - Họ không sợ tôi mô. Ông xuống kiểm soát thì họ nể hơn.

          Luân an phận đi xuống cúi lớp. Cô Tâm vẫn vòng tay nhìn ra sân nơi đó mươi ông lính Bảo an vác súng đi đi lại lại.

          Chiều hôm ấy, khi rời trung tâm thi để về phòng trọ, Luân lững thững đi một mình. Gió thổi nhẹ và trời xanh cao vút. Đi qua trường Nữ tiểu học, - nơi đây cũng là một trung tâm thi, - anh để ý đến một đám đông đứng bao quanh cổng trường. Nhiều người đi lảng vảng ở dãy quán bên kia đường. Có những con mắt xoi mói nhìn anh đi qua. Một câu chửi thề:

          - Đù mẹ. Tức không chịu được.

          Một câu khác:

          - Nó bỏ trốn đi đâu mất, chiều nay tao kiếm không ra.

          - Đợi kiếm một lát nữa.

          Chiếc máy phát thanh transistor đeo ở vai một người đứng đó léo nhéo giọng ca vọng cổ như người nghẹt mũi. Chắc là đoạn chót của một vở tuồng cải lương khi nhân vật nữ xuống tóc đi tu vì bị tình phụ. Có tiếng chuông, tiếng mõ và tiếng sư cụ khuyên đệ tử “Nam mô A Di Đà Phật…”. Những người đứng vây quanh cổng trường chăm chú nhìn vào văn phòng nhà trường dường như không để ý đến giọng khuyên dạy ôn tồn của sư cụ nơi máy phát thanh. Một tiếng lại nổi lên:

          - Đù mẹ…

          Không biết “đù mẹ” ai, “đù mẹ” cái gì.

          Về đến phòng trọ Luân thấy ngay một số giám khảo tụ tập trước hiên.

          - Chúng nó lùng kiếm anh Lung suốt cả chiều nay. May mà anh ta nhanh mắt trông thấy.

          - Nếu anh Nghĩa không nhanh trí xếp cho Lung ngồi xe ô-tô của Hội đồng thì không khéo Lung bị chúng nó thịt rồi. Khi xe ra cổng, tôi thấy chúng nó nhớn nhác nhìn vào xe tìm. Bác tài nhấn ga cho chạy vọt tới. Hú vía.

          Ông Du một tay lần vào lưng quần, một tay đong đưa vơ vẩn:

          - Thế này thì loạn mất. Thí sinh uy hiếp giám thị kiểu ấy thì còn thể thống gì nữa? Còn trật tự gì nữa? Ngồi “cóp” ở phòng thi, giám thị cảnh cáo vậy mà về gọi du đãng đến trả thù. Ở nước nào có như vậy không?

          Ông Khuê vừa xoa cằm vừa cung hai ngón tay nhổ những sợi râu!

          - Chính phủ phải có biện pháp chấm dứt tình trạng đó. Năm ngoái, phó chủ khảo trung tâm Phan Rang ngồi trong phòng Hội đồng bị một thí sinh xông vào đánh vọt máu mũi. Có làm biên bản, có khiếu nại nhưng rốt cuộc chả biết hồ sơ đi đến chặng đường nào thì bị bỏ xó. Kẻ có lỗi không bị nghiêm trị thì người khác khinh thường pháp luật là phải.

          Trưa hôm sau, một tin dữ khác được đồn đi thật nhanh: anh Hợi giám thị hành lang ở trung tâm trường Nam tiểu học bị thí sinh lúc bất ngờ đánh vào mặt rồi bỏ chạy. Nguyên nhân là hôm thi Toán người thí sinh này lượm được cái nháp nhưng chưa kịp chép đã bị anh Hợi tịch thu. Hôm thi cuối cùng là thi nhiệm ý, thí sinh này thi vẽ xong, bước ra khỏi lớp gặp anh Hợi và tặng luôn cho anh một thụi vào mặt, món quà giã biệt. Rồi chạy.

          - Biết được tên người thí sinh đó chứ?

          - Biết được.

          - Nghe bảo thí sinh đó là con của một công chức?

          - Vâng, đúng vậy.

          Các giám khảo có hai ngày rảnh trong khi đợi bài thi và các giám khảo ở Hội đồng hai tỉnh lân cận đến nên ngoài những giờ ăn và ngủ họ tụm năm tụm ba bàn tán việc thí sinh hành hung giám khảo.

          - Việc này không thể cho qua được. Phải làm cho ra chuyện. Cụ Chánh chủ khảo đã được báo tin chưa?

          - Được báo cáo đầy đủ với mọi chi tiết. Báo cáo của đương sự nạn nhân và của chủ tịch trung tâm nữa, dường như Cụ đang khổ tâm lắm nên Cụ cứ tháo kính ra lau luôn, cứ năm phút lau kính một lần.

          - Chỉ còn hai năm nữa thì Cụ về hưu nên chuyện rắc rối nhỏ nhặt nào cũng mang những kích thích vĩ đại qua đôi kính lão của Cụ.

          - Những việc này tự nó đã vĩ đại rồi, hay ít nhất nó cũng sẽ mang lại những hậu quả vĩ đại.

          - Mình phải công bằng một chút. Ai chẳng muốn làm ra chuyện, nhất là cụ Chánh thì càng muốn làm ra chuyện hơn ai hết vì Cụ có trách nhiệm với anh em, với Bộ. Có chuyện không hay xảy ra thì Cụ bị khiển trách trước. Nhưng Cụ đâu có quyền nghiêm trị ai? Phải nhờ chính quyền. Phải tùy ở sự sốt sắng của chính quyền.

          Mười giờ tối hôm đó, có tiếng chân chạy rầm rầm ở hành lang trường và tiếng đập cửa thình thình. Đa số giám khảo và cụ Chánh chủ khảo đều ở trọ lại trường nên khi mọi cánh cửa mở tung ra, đèn bật sáng lên là các vị ùa ra đứng chật hành lang trong nháy mắt. Anh Lung, người giám khảo nạn nhân ở Trung tâm trường Nữ mặt hơi xanh, thở hổn hển và nói đứt quãng:

          - Tụi nó bao vây tôi. Có gần chục đứa.

          - Tụi nào?

          - Tụi bữa trước. Theo lời chúng nó bàn với nhau thì chúng nó đi lùng tôi ở hiệu ăn Tứ Hải và tiệm chè Lạc Viên nơi tôi thường tới ăn uống. May hôm nay tôi có hẹn lại ăn cơm ở nhà anh bạn tôi nên vô tình mà đánh lạc đường chúng nó. Vừa về qua đây chúng thấy hút, ào tới bủa vây. May tôi chạy thoát.

          Ngực anh nhấp nhô và hai hàm răng cắn rít lại.

          Một giám khảo cất giọng lè nhè:

          - Nhưng có chắc là chúng định bao vây anh không? Có thể chúng đang đi trả thù một người nào đó rồi anh trông gà hóa cuốc.

          Anh Lung quắc mắc liền:

          - Sao lại không chắc? Chúng nó gọi đích danh tôi.

          Một giám khảo trẻ, tuổi chừng hăm lăm mang một bộ râu mỏng manh nằm vắt dài ở môi trên dớ dẩn hỏi:

          - Sao anh không quay lại giã cho chúng một trận?

          Nhiều con mắt đổ xô vào nhìn bộ râu yếu ớt có tính chất thí nghiệm ấy và người ta phân vân không biết anh nói thật hay nói đùa. Nói thật hay nói đùa cũng đều vô duyên như nhau trong lúc này. Nhất là khi thấy cụ Chánh chủ khảo loay hoay lau kính có đến hàng phút mà vẫn chưa đeo kính lên. Đôi lông mày cụ phải quặm xuống và cụ nhướn đôi mắt lạc lõng nhìn về một khoảng khung trời đen sẫm ngoài kia. Giọng cụ rời rạc, trắng bệch như nói không cốt cho ai nghe, như nói vào khoảng trống.

          - Vào trong này ở với chúng tôi. Anh ở khách sạn phải không?

          - Thưa Cụ vâng ạ. Con ở khách sạn Thiên Sơn.

          - Vào trong này mà ở.

          - Dạ.

          Một giám khảo mình gầy và đen đứng còng lưng trông như một cái dấu ngoặc đơn, cất giọng ồ ồ:

          - Rồi chúng nó sẽ tìm đến đây trả thù. Chẳng phải đầu thì phải tai. Thế nào cũng có anh bị mắc đòn oan.

          - Cụ Chánh phải báo cáo ngay với chính quyền không thể trì hoãn được nữa.

          Nhiều giọng nói họa theo, mạnh mẽ cứng cáp, bởi an ninh đã bị đe dọa thật sự.

          - Chúng tôi yêu cầu Cụ phải can thiệp ngay với Chính quyền.

          Cụ Chánh thong thả đáp:

          - Tôi đã xuống báo cáo trực tiếp với Tỉnh hồi chiều. Công văn thì gửi hôm qua.

          - Thế ông Tỉnh trưởng bảo sao?

          - Ông Tỉnh trưởng đang bận đi về quận thanh tra.

          - Nghĩa là rốt cuộc vẫn thân ai nấy lo. Yêu cầu anh em ai có khí giới nào thì tự phòng thủ bằng khí giới nấy. Dao con chó, dạo cao râu, nịt da, thước kẻ.

          Nhiều người cười và nhân cơ hội đó họ giải tán một cách tự nhiên.

          Xế hôm sau, một người tùy phái mặc đồng phục kaki chễm chệ mang vào một quyển sổ “Tiếp phát công văn” dày cộm bìa bọc vải màu đen. Công văn của tòa Tỉnh đến, Cụ Chánh ký nhận, đọc, lẩm nhẩm nhiều lần, suy nghĩ đến méo cả miệng mà không biết. Cuối cùng, cụ đằng hắng to rồi hai ngón tay bấm vào một góc của tờ giấy pelure, cụ xách nó đi ra hiên tươi vui như người chiến sĩ tay cầm chiến lợi phẩm. Giám khảo tụ họp lại nhanh như học sinh đánh hơi có tin được nghỉ lễ.

          - Có công văn của tòa Tỉnh gởi lên đây.

          Và Cụ đứng ngay ngắn tuyên đọc.

          Qui Nhơn ngày 30 tháng 4 năm 1963

          Tỉnh Trưởng tỉnh Bình Định kính gửi

          Ông Chánh chủ khảo Hội đồng khảo thi THĐNC, Hội đồng Qui Nhơn

          Kính thưa Ông,

          “Tỉnh tôi vừa nhận được báo cáo của ông về việc hai giám khảo Nguyễn Văn Lung và Hồ Sĩ Hợi bị hai thí sinh hành hung ở trung tâm trường Nữ và trường Nam tiểu học. Tỉnh tôi đã ra lệnh cho hiến binh và cảnh sát tăng cường sự bố trí để bảo vệ an ninh hữu hiệu. Kính mong ông tin cho quí vị giám khảo biết để quí vị an tâm thi hành công vụ.

          Kính chào Ông.”

          Cụ Chánh ngừng đọc, đưa mắt nhìn cử tọa miệng phác một nụ cười. Thì trong cử tọa cất lên một giọng nói:

          - Chỉ có tăng cường Cảnh sát và Hiến binh không thôi à? Còn hai tên thí sinh công nhiên hành hung giám khảo thì Tỉnh giải quyết như thế nào? Sao không thấy nói?

          - Chắc họ cũng đang giải quyết, - cụ Chánh ôn tồn trả lời.

          Một giọng cương quyết hơn:

          - Nếu không trừng phạt hai người thí sinh đó thì mọi biện pháp tăng cường bảo vệ đều vô hiệu.

          - Chúng ta nên đi từ từ, - lại lời cụ Chánh - Ông Tỉnh đã hứa rồi thì mình cứ an tâm.

          Vừa lúc ấy có dáng no tròn của anh Hợi từ ngoài cổng xăm xăm đi vào. Tay chân múa thoăn thoắt. Thấy cụ Chánh đứng giữa cử tọa, anh phân bua ngay:

          - Thưa Cụ phải làm thế nào chứ thí sinh láo quá tôi không chịu nổi. Tôi đi đâu chúng cũng sán lại bao vây chỉ chỏ và bàn tán lớn tiếng.

          - Mình nhịn đi một chút, - lời cụ Chánh.

          - Thưa Cụ tôi nhịn nhiều quá rồi chứ không những là một chút. Nhưng càng nhịn chúng càng được thể reo hò, vỗ tay, la lối.

          Một câu hỏi vút lên, nhọn như mũi tên:

          - Thế Cảnh sát và Hiến binh tăng cường ở đâu? Chẳng lẽ họ chọn nơi nào không có mặt giám khảo để tăng cường?

          - Nguy quá. Thế này mà ông Tỉnh khuyên “hãy an tâm thi hành công vụ”. Tôi có cảm tưởng chúng ta đang bị bao vây trong cái thành quách mỏng manh này, thiếu cửa ngõ phòng thủ vừa không biết địch tình.

          - Ngày 2 tháng 5, khi Hội đồng có đủ giám khảo của hai tỉnh Quảng Ngãi và Phú Yên về dự chúng ta sẽ đưa vấn đề này ra thảo luận và làm kiến nghị yêu cầu chính quyền địa phương định rõ biện pháp. Kiến nghị phải đồng thời gửi ra Nha Đại diện giáo dục và Bộ Quốc gia giáo dục.

          - Đúng, phải làm cho ra nhẽ một lần.

          Các cuộc tiếp xúc, bàn tán thảo luận từng nhóm, từng phòng kéo dài suốt cả ngày 1 tháng 5. Cụ Chánh chủ khảo nét mặt đăm chiêu đi đi lại lại, mặt cúi xuống đất. Cụ không muốn có những chuyện rắc rối xảy ra. Làm khó dễ ông Tỉnh trưởng, đó không phải là chuyện chơi. Ông Tỉnh trưởng nào cũng có thế lực, cũng có vai vế, cũng có tay trong. Dù chỉ còn hai năm nữa về hưu nhưng hai năm không phải là ngắn nếu phải đổi về làm Hiệu trưởng một trường Trung học ở gần biên giới. Chính trị có nhiều rắc rối bất ngờ. Đang thắng đổi thành bại, chuyển bại làm ra thắng, đó là chuyện thường, dễ nữa. Nhà giáo mẫu mực, lo xa lúc nào cũng tự vạch cho mình những ranh giới và nhất định chỉ đi trong ranh giới đó. Đối lập với chánh quyền đó là điều cụ không bao giờ nghĩ tới. Nhưng không thể bắt giám khảo im lặng chịu đựng như cụ. Họ đa số còn trẻ, gân cốt và tim phổi đang mạnh. Như những trái banh ten-nít mới đập xuống sân thì bật tung ngay, vọt thật cao. Do đó mà hôm hội nghị mồng 2 tháng 5 cả cử tọa ồn ào như sắp nổi loạn. Tiếng cụ Chánh yếu ớt chìm vào tiếng nói, tiếng xì xào; thân hình cụ Chánh đứng nhỏ nhoi ở giữa phòng như bị chìm đi giữa những lớp sóng người ngồi bao quanh. Cụ vào đề rất ngắn, - một trường hợp ít khi xảy ra, - rồi phân công cho các tiểu ban. Những tiếng ồn ào nổi lên và vấn đề “thí sinh hành hung giám khảo” được đặt ra. Giám khảo nạn nhân được mời ra thuật lại tự sự. Cử tọa lắng nghe. Mấy cô giám khảo thỉnh thoảng trợn mắt ngạc nhiên hoặc lè lưỡi sợ hãi, hoặc rên lên khe khẽ. Có cô lấy tay che cái miệng hả tròn.

          Sau lời tường thuật, cụ Chánh trấn tĩnh ngay cử tọa bằng cách đọc lại bức thư ưu ái của tòa Tỉnh. Những lý luận ở hành lang phòng trọ được lặp lại với lời lẽ mạnh hơn, bởi vì người nói thấy có nhiều người chú ý nghe mình hơn. Một giám khảo đưa ý kiến:

          - Học trò đánh thầy, theo Hoàng Việt Hình Luật là tội đại hình (Cử tọa im thin thít. Té ra quan trọng thế đó). Vài năm nay những vụ thí sinh hành hung giám khảo sở dĩ cứ tái phát là bởi chính quyền không trừng phạt họ, là bởi chúng ta cứ chịu nhịn nhục mãi. Vậy tôi xin đề nghị: Chúng ta không chấm bài thi trước khi chính quyền trừng phạt kẻ có lỗi.

          Mặt cụ Chánh lộ tất cả vẻ bàng hoàng y như chính Cụ là kẻ có lỗi sắp sửa đưa ra trừng phạt. Cụ nói:

          - Như thế là các ông đình công.

          - Đình công thì cũng được chứ sao. Chuyện ức như thế này mà ngậm miệng chịu sao?

          - Các ông.. chúng ta là công chức không có quyền đình công.

          - Nhưng dù có ngồi chấm bài thì cũng đâu còn an tâm mà chấm khi thân mình bị đe dọa.

          - Tôi sẽ gửi thêm công văn xuống Tỉnh.

          - Phải có kiến nghị thì lời nói của mình mới được lưu ý.

          - Nhưng phòng họp này Chính phủ dành cho Hội đồng giám khảo. Muốn lập kiến nghị, các vị nên họp ở một địa điểm nào khác.

          - Họp đông người thì phải xin phép chính quyền và phải đợi chính quyền cho phép mới được họp.

          - Nghĩa là rốt cuộc chúng ta sẽ khỏi phải họp gì hết cho đến ngày chấm xong và tuyên bố kết quả.

          Một giám khảo nói nhỏ như chỉ để mình nghe:

          - Chán thật! Năm ngoái mình giám thị ở Phan Thiết một thí sinh quân nhân rút bao súng lục để lên bàn rồi mới ngồi xuống làm bài. Có thí sinh rút dao găm để dưới hộc bàn. Báo cáo cho chủ tịch Hội đồng thì cũng chỉ nghe ậm ừ vô ích như hôm nay. May nhờ chế độ giám thị cứ thay phòng mỗi buổi nên mỗi anh giám thị chỉ phải nếm mùi một lần.

          Thế là hội nghị bế tắc. Hội nghị uể oải chuyển sang mục phân chia tiểu ban, phân chia bút chì đỏ để chấm bài và phân chia bài để chấm. Như những con tằm trong thời kỳ ăn lên nghiến lá dâu rào rào, các giám khảo chấm bài rào rào, ai lo phần nấy. Một buổi qua. Một ngày qua. Sau đó có một bản kiến nghị đề gửi lên Bộ, lên Nha Đại diện giáo dục được đánh máy và được chuyền cho các giám khảo ký. Có nhiều người ký, ít người không. Ai phụ trách gửi, ai ủy nhiệm gửi, gửi ngày nào, không mấy ai lưu ý đến nữa. Câu chuyện thảo luận sôi nổi hôm nào bây giờ đã nằm xuống im lặng. Khi có người khuấy động lên thì nó trở sang tính chất hài kịch. Một giám khảo gật gù:

          - Theo cái đà này thì đi chấm thi cũng gần như đi sứ sang Tàu hồi xưa. Hay cũng như đi lính thú. Lính thú đời nay! Ngày nhận công lệnh đi chấm thi, vợ con tiễn chân ra phi trường e phải ngâm câu:

          Thùng thùng trống đánh ngũ liên
          Bước lên phi trường nước mắt như mưa


          Luân đã theo dõi câu chuyện từ đầu đến cuối. Như mọi giám khảo thận trọng khác, anh đã thay đổi chiến thuật ngay từ khi thi viết thứ hai. Không còn lớn tiếng khắc khe nữa. Lúc nào cũng chuẩn bị để đón nhận một đòn uy hiếp. Đi qua đám đông thí sinh tụ họp trước sân trường, anh cúi nhìn xuống đất đi chậm rãi như một người tư lự. Như đám đông kia không có quan hệ gì đến mình hết. Làm nghề thầy giáo đã nhiều năm anh biết tạo cho mình một lối đi khiêm tốn khi cần. Người hơi ngã về đằng trước một chút. Mắt lơ đãng không nhìn chắc về một điểm nào. Hai cánh tay khuỳnh ra ôm xấp giấy. Anh tự ngượng với mình về lối đóng kịch đó. Nhưng vì cuộc đời là một tuồng kịch dài nên anh quen đi, an phận giữa những kịch sĩ tài ba khác. Ai cũng mong được yên thân. Người nào cũng gắng giữ sao cho thân mình còn được lành lặn khi về với vợ con. Mình đâu phải là chiến sĩ để hãnh diện về nhà với một cánh tay gãy, một cái môi vêu hay một cặp mắt sưng húp? Các giám khảo ít đi chơi đêm hay đi dạo phố thẩn thơ một mình. Ở một tỉnh lỵ, các giám khảo từ xa đến bao giờ cũng dễ nhận biết, do đó những khi ra hiệu ăn anh phải lưu ý nhìn trước nhìn sau. Điều này động chạm đến tự ái của anh nhất là khi anh nhớ đến hồi nhỏ đi thi mình nhìn các giám khảo với đôi mắt kính nể và thèm muốn. Họ giữ quyền sinh sát và thân phận mình nhỏ nhoi như những con muỗi đực. Bây giờ thời thế đã quá khác xưa, khác đến mức anh không thể nào tưởng tượng được sự thể lại có thể xảy ra như vậy.

          Chiều qua đi từ hiệu ăn phòng trọ anh đang chậm bước mắt nhìn xuống mũi giày mình thì bỗng một chiếc Solex chạy vút tới, sát cạnh. Anh giật mình nhìn lên. Trên xe có hai thanh niên ngồi. Người thanh niên ngồi sau quay lui hỏi anh:

          - Nhìn cái gì? Muốn cái gì? Hả?

          Người thanh niên ngồi trước cũng quay lui nhìn anh và cả hai hô hố cười to. Không khí thù địch, khiêu khích sang sảng trong tiếng cười ngạo mạn. Chắc là hai thí sinh làm bài kém hay là bạn của thí sinh. Anh phải cúi nhìn xuống mũi giày và khiêm tốn đi tiếp.

          Tối hôm ấy trời nóng. Hàng cây so đũa đứng nghiêm trang trước hiên buông từng chùm quả dài so le như dải rút. Không có gió len lỏi giữa cành. Bình nước trà cạn từ hồi chín giờ. Luân chui vào màn cố nhắm mắt ngủ cho qua cơn khát nhưng giấc ngủ bướng bỉnh không đến. Đèn phòng mở sáng và các bạn anh tiêu khiển ồn ào xung quanh. Anh Lợi và anh Long đập cờ tướng chan chát. Các anh Quang, Hữu, Châu, Đức đánh các-tê thỉnh thoảng vỗ đùi la lối om sòm. Anh Trợ, anh Sung rủ rì nói chuyện nhà cửa, người yêu, trường trại, chuyện phát phần thưởng đã qua, chuyện khai giảng niên khóa tới.

          Luân nhìn đồng hồ. Mới mười giờ rưỡi. Anh lăn mình ngồi dậy. Không thể đánh lừa cơn khát được, anh lặng lẽ mặc áo ra đầu phố uống nước.

          Đến đường Hàm Nghi gió mát như thổi tan đi cơn buồn ngủ nặng nề. Anh lại hàng nước mía quen. Họ bán hết hàng, đang thu dọn đồ đạc về nghỉ. Anh đi xa thêm ra hiệu kem. Khách khứa ồn ào. Thuốc lá Kent, Winston phì phèo cháy trên những đôi môi 16, 17 tuổi. Giọng nhạc uốn éo, bập bùng rồi chuyển sang quay cuồng hỗn loạn. Tiếng thìa khuấy trong ly canh cách. Tiếng máy xay quả chạy rè rè. Tiếng gọi, tiếng thưa tréo vào nhau như mắc cửi.

          Anh uống xong một hơi hai ly nước cam, trả tiền rồi bước ra về. Sau anh có dáng một người cũng hấp tấp đứng dậy, bước ra quầy hàng. Anh đi men theo bờ đường, ánh đèn đường không soi sáng đủ lối đi. Có bóng người đi theo sau.

          Anh bước sang con đường ngang. Bóng tối mờ mờ. Sau lưng anh tiếng chân giày vẫn nhẫn nại bước theo. Anh rảo chân thêm. Tiếng chân giày đằng sau gõ mạnh hơn và nhanh hơn. Anh muốn quay nhìn ra sau xem người đi theo mình là ai nhưng ngại không làm. Quay nhìn tức là tỏ ra mình lưu ý đến họ, nghĩa là mình mất tự do, là nể họ, sợ họ. Anh rẽ sang đường khác. Tiếng giày vẫn mải miết đi theo. Nhanh hơn. Dồn dập hơn. Một tiếng đằng hắng. Dấu hiệu mở màn cuộc khởi hấn? Máu chảy dồn dập nơi cổ, nơi thái dương, nơi đôi cánh tay của anh. Vô lý. Mấy hôm nay mình có nghiêm khắc với người thí sinh nào đâu? Hay là khi thu bài, khi phát giấy thi, khi kiểm soát thẻ căn cước mình đã vô tình chạm tự ái họ? Không có lý. Mình đã cố hết sức nhã nhặn với mọi người mà. Hay là vẻ mặt nghiêm nghị của mình làm họ tưởng mình kiêu kỳ nên họ ghét? Có thể. Một luồng lạnh chạy vút qua sống lưng làm tê cóng đến hai bàn tay. Anh mím chặt đôi môi. Đến nước cùng thì đành phải liều mạng mà đánh, may ra. Anh lẩm nhẩm trong óc, hối hận sao mấy lần định học lớp Nhu đạo rồi vì lười biếng mà bỏ trôi qua. Thuyết Helmholtz, phương trình Logarit, hệ thức Chasles không thể dùng để đối phó với những bắp thịt quyết tâm đánh mình. Kiến thức sách vở chỉ dùng để chế ngự học trò được thôi. Tiếng giày lộp cộp. Đúng là tiếng giày có đóng cá sắt, mũi nhọn, rất nguy hiểm cho địch thủ. Ánh điện đường hắt một bóng đen chạy dài dưới chân anh, bóng của người đi sau. Dáng y vạm vỡ. Còn khoảng hai trăm thước nữa mới tới phòng trọ. Anh thu hết sức lực đi cho nhanh. Tiếng giày gần anh. Gần anh thêm. Gần thêm. Một tiếng phát ra:

          - …Ầ - ầy…

          Anh quay phắt trở lại. Hai bàn tay người kia chụp nắm tay anh. Anh rút phắt tay ra, đồng thời một luồng lạnh lại chạy vút theo cột xương sống, tê ở hai bên má, chạy lên mang tai. Người đối diện với anh mở to đôi mắt, để ngửa hai tay.

          - Thầy.

          - Anh là ai? Anh muốn gì?

          - Thầy… thầy không nhớ em sao? Em là Dương Sanh Thọ.

          Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của anh, người kia nói tiếp:

          - Em học đệ Tứ với thầy năm kia mà. Ở trường Lê Qúi Đôn. Em là Dương Sanh Thọ mà thầy cứ kêu lộn với tên hiệu buôn xe Vespa Dương Sanh Phát.

          - À! À! Tôi nhớ rồi.

          Tiếng tim đập rầm rầm làm anh đứng nghỉ một chút.

          - Anh ra đây làm gì?

          - Thưa thầy em đã thôi học. Bây giờ em làm thư ký đánh máy cho ty Thông tin. Chắc thầy ra ngoài này chấm thi.

          - Vâng.

          - Thầy độ rày vẫn mạnh khỏe?

          - Cám ơn anh. Như anh ngó thấy đấy.

          - Thầy vẫn còn ở chỗ cũ?

          - Vẫn ở chỗ cũ.

          - Lúc nãy em thấy thầy ở hiệu kem Khánh Trang. Em định lại chào thầy nhưng thầy đã trả tiền bước ra. Em vội vã đi theo mà thầy đi mau quá.

          - Tôi định về ngủ sớm. Đi chơi khuya, sáng mai mệt, trở ngại cho công việc.

          Tiếp theo sau là những lời thăm hỏi xã giao và trao đổi địa chỉ. Nói chuyện trong mười phút, anh bắt tay giã từ Dương Sanh Thọ. Dương Sanh Thọ tỏ lòng cung kính giơ hai bàn tay nắm chặt tay thầy. Anh suýt bật cười, nhớ lúc nãy anh đã lầm thế bắt tay đầy cung kính này với một thế chưởng “Hàn băng miên chưởng” hay “Giáng long thập bát chưởng” “Phiêu tuyết xuyên vân chưởng” của kẻ thù, tưởng như mình đang sống lại không khí của những cuộc tranh hùng giữa các môn phái Thiếu lâm, Võ đang, Nga mi, Không động… trong tập truyện võ hiệp tràng giang “Cô gái Đồ Long” mà anh vừa đọc xong tuần trước.



          4. DỐC HIỂM NGHÈO


          Tuyên tháo bỏ tấm màn treo ở cửa sổ cho ánh sáng vào nhiều hơn. Nắng vàng rực trên những cánh hoa mai khiến anh có cảm giác rằng chỉ ở trên cánh hoa mới có nắng. Hoa mai nở đầy cành chen lẫn với những nụ xanh mướt bóng loáng to nhỏ đủ cỡ. Nụ làm cho hoa bớt trơ trẽn. Có sự sống từ tốn trầm lặng kế tiếp theo sự háo hức tràn trề.

          Vốn dốt trong việc chọn lựa mặc cả nên khi đi tìm mua cành mai, Tuyên ghé lại khu trại của một ông bán hoa quen. Ít nhất cũng tránh được những bà bán hoa phiêu lưu trong việc thách giá và vô trách nhiệm sau khi đã đếm đủ tiền và cẩn thận nhét vào túi áo trong.

          - Chào ông. Có cành mai nào đẹp không?

          - A! Chào thầy. Có cành này đây. Đẹp quá thầy thấy không.

          Ông ta giơ cao cành hoa đang cầm trên tay.

          - Bao nhiêu đó?

          - Thầy cho ba trăm rưỡi.

          - Đắt hơn năm ngoái…

          Ông tháo cái “pip” đang ngậm với dáng vội vã.

          - Mai năm nay mà, thầy. Ở dưới chợ cành nầy phải bốn trăm rưỡi. Chỗ thầy quen…

          Tuyên mân mê vài cành mai nhỏ, đếm lẩm nhẩm vài nụ rồi nói, hơi rụt rè bởi mình chưa đi chợ, chưa khảo giá:

          - Hoa không được sai.

          Ông bán hoa hít gấp gấp hai hơi thuốc, nhổ một bãi nước bọt rồi chụp ngay tiếng chót của anh:

          - Như thế này là sai “hung” rồi đó. Thầy coi, - ông chỉ tay về một nhánh mai cao đặt đứng cạnh đó, - cành mai kia bà Thiếu tá Sự trả tôi tám trăm mà tôi chưa để. Mai năm nay hiếm lắm, kiếm chặt không ra.

          Ông bán hoa cúi gằm mặt xuống liếc mắt qua khe kính lão, nhìn lên anh:

          - Bị nạn bão lụt mai rừng hư hết…

          - Tôi thấy ở dưới chợ bày bán cũng khá nhiều…

          - Đó là mai Thủy Triều, mai Mỹ Ca, mai biển. Mai biển đâu có sánh nổi mai núi. Lứa này là mai Krong Pha đó. Thầy thấy không, hoa nó kép mà cánh hoa dài thế này.

          Ông hạ giọng nói nhỏ vừa chồm người lại gần anh:

          - Bây giờ đi núi đâu có dễ. Mò vô trong rừng sâu thì sợ gặp mấy… (ông giơ một ngón tay ra dấu) Còn đi rảo ở bìa rừng thì có mai tốt đâu mà chặt. Khổ lắm.

          Ông cất cao giọng trở lại:

          - Thầy lấy cành đó đi, để tôi sai cháu nó vác theo thầy. Lớn ơi! Lớn! Cái thằng hở một chút là chạy chơi đâu mất. Tôi không tính mắc đâu. Chỗ quen lớn mà…

          Tuyên chỉ một cành khác đứng dựa cạnh đó,

          - Còn cành này?

          Ông bán hoa chụp luôn theo:

          - Dạ, cành đó cũng đẹp lắm. Nụ nhiều, chơi đến cuối tháng Giêng. Dạ, thầy lấy cành nào cũng đẹp hết.

          Tuyên không hỏi đến cành thứ ba, cành thứ tư nữa vì anh biết trước là cành nào rồi cũng sẽ đẹp hết. Giọng ông nói ngọt và êm và dẻo khiến anh liên tưởng đến cái ghế có lót nệm.

          Vài người đàn ông ghé tạt lại, chọn lựa hỏi giá rồi lẳng lặng đi rảo qua dãy hoa bày thành hàng, đi thẳng ra ngõ cổng. Có người trả được vài tiếng, nói đôi câu bâng quơ về thời tiết rồi hẹn sẽ trở lại. Ông hàng hoa bình thản nói giá, nói chuyện xã giao vừa chăm chỉ vặn những sợi lạt buộc các nhánh mai cho gần nhau. Tội nghiệp cho những người đàn ông. Mua bán mặc cả không phải là sở trường của họ nên họ dễ ngượng nghịu lúng túng.

          Tuyên chậm rãi đi một lượt qua dãy hoa để có thì giờ suy nghĩ và quyết định. Cành hoa nào cũng khéo có những khuyết điểm. Nếu nụ rậm ở dưới gốc thì phải chịu lác đác ở đầu cành. Ông hàng hoa khôn ngoan không để cho cành nào đẹp hoàn toàn.

          Một người đàn bà dáng hấp tấp từ ngả chợ bước vào.

          - Ông có cành mai nào đẹp đó?

          - Dạ có. Cô lấy cành này. Tám trăm đồng.

          Người đàn bà đứng nhìn những nụ vàng lác đác, đưa ngón tay ngắt vài nụ héo rồi nói:

          - Được rồi. Lát nữa tôi cho chị ở lại lấy. Ông chỉ cành này cho chị ta vác về.

          Người đàn bà nắm trong tay một cuộn giấy bạc, mở tay ra chọn đếm một số rồi trao cho ông:

          - Ông cầm một nghìn đây. Chọn cho tôi thêm một cành nữa giá hai trăm đồng.

          Thấy anh đứng đó, người đàn bà mỉm cười chào:

          - Ông mua hoa?

          - Vâng ạ.

          Tuyên không nhớ đã quen người đàn bà vào dịp nào.

          - Ông đã chọn được cành nào chưa?

          - Ông hàng hoa giới thiệu cho tôi cành này.

          - Đẹp đó. Nhiều nụ và nụ nào cũng mởn. Có thể chơi đến nửa tháng Hai. Họ đòi bao nhiêu tiền?

          - Ba trăm rưỡi.

          - Không đắt đâu. Ông lấy cành đó đi.

          Tuyên nhìn người đàn bà mà không nhìn sang những nụ mơn mởn có thể chơi đến nửa tháng Hai. Khuôn mặt không đẹp lắm nhưng đôi mắt thông minh dịu dàng dễ gây cảm tình.

          - Cành này cô khen đẹp?

          - Vâng.

          - Vậy tôi sẽ mua nó. Cám ơn cô đã chọn hộ. Cô mua hoa nhiều…

          - Cành lớn để biếu chỗ ơn nghĩa. Cành nhỏ cắm ở nhà. Chồng tôi không cho mua hoang phí. Chỗ tiền mua hoa là tiền do các cơ quan thuê chén bát trả.

          - Họ thuê làm gì vậy cô?

          - Các cơ quan ăn liên hoan mừng Tết. Họ thuê chén dĩa của hiệu tôi. Chỗ bổng này được ngót hai nghìn đồng.

          Tuyên cười thú vị: mình vô tình được biết thêm một khía cạnh sinh hoạt những ngày cuối năm.

          Khi thằng Lớn lẽo đẽo vác cành mai đi theo anh về đến nhà, Tuyên nhờ nó đặt vào cái lọ ở phòng khách cạnh cửa sổ. Cành mai trông đẹp hơn hẳn lúc nó đứng lẫn lộn với nhiều cành khác ở trại hàng hoa. Nó độc quyền ở căn phòng này và nó tăng thêm vẻ kiều diễm. Y như những người vợ. Đứng chung với nhiều người khác, người vợ thường bị nuốt mất như nước sông tan vào trong đại dương. Vụng về, tối tăm giữa đám đông, người vợ sẽ tìm lại được trọn vẹn giá trị của mình khi trở về ngôi vị cũ trong gia đình, khỏi cạnh tranh với ai hết. Cành mai quả đã làm chủ căn phòng nhỏ nhắn sáng sủa và những rèm cửa như cũng tỏ cảm tình với nó trong sự hòa hợp màu sắc và đường nét.

          Qua ngày hôm sau và hôm sau nữa, cứ từng ngày một mùa Xuân lặng lẽ nở thành đóa vàng trên mỗi nhánh hoa nhỏ. Tuyên thưởng thức mùa Xuân trên mầu hoa, say mê theo dõi những nụ vừa nở, những nụ mới nhú. Mỗi buổi sáng ngủ dậy, trong phòng có mùi hương thoang thoảng thơm mát, nhẹ quá, thoảng quá làm anh bâng khuâng không biết có phải là mình bị khứu giác đánh lừa không. Hương thơm đó giống một loại hương thơm nào mình đã quen thuộc? Anh đứng lại gần những cánh vàng, bắt tìm mùi hương vừa gạn lọc trí nhớ. Phải năm, mười lần khó khăn như vậy anh mới thấy rõ rằng đó là hương thơm của một thứ trà ngon không ướp hoa. Nhẹ và mát. Trong sạch và thanh tịnh. Đêm đêm chợt dậy, anh hay bật đèn sáng nhìn hoa, cảm thấy niềm cô đơn của mình bớt trống lạnh. Vạn vật thản nhiên trong cuộc sống riêng lẻ, yên lặng, chịu đựng.

          Một buổi sáng có tiếng vù vù trong phòng, một con ong vò vẽ bay lượn giữa cành hoa nhiều vòng rồi sà đậu xuống một cành hoa mới nở. Cánh hoa, nhị hoa quằn quại dưới sức nặng của con vật. Cuống hoa cong hẳn xuống như sắp gãy. Phấn vàng bay lả tả xuống mặt sàn gạch. Ong thay chỗ đậu, bay vụt đến một đóa hoa khác. Lại những cánh vàng mỏng bị tả tơi, vòng nhị đực bị xô lệch.

          Tuyên xót xa nhìn sự dịu dàng bị chà xé tàn bạo như vậy suốt cả buổi mai. Làm cách nào để bảo vệ kẻ yếu đuối? Đóng cửa lại? Tuyên đóng cánh cửa gần đó và con ong bay vào ngã cửa khác. Không thể đóng kín mít cả phòng. Tuyên nhìn xung quanh mình. Sẵn cái thước dẹp đặt ở mặt bàn, tiện tay anh cầm lên, giơ cao. Con ong bay lại giữa chòm hoa và cây thước của anh đập tới, đập nhằm thân cây làm cánh hoa rơi lả tả vàng cả mặt gạch. Con ong vụt bay ra cửa sổ, thẳng như một mũi tên. Cơn giận ùa chiếm lấy Tuyên. Động mạch thái dương làm ù tai. Máu bốc lên mặt nhiều hơn. Trước mắt anh, những cánh hoa tả tơi, phấn hoa nhị hoa chồng lên nhau. Trừng trị kẻ vũ phu không được, trở lại vùi dập người bị hiếp đáp. Một sự tàn bạo vừa xảy ra. Một sự phân ly. Giã từ vĩnh viễn nhựa cây, nhu mô vỏ, giã từ ánh sáng mặt trời. Ngày mai, những cánh mỏng màu vàng như cánh chuồn này, những sợi nhị đực thơm mùi trà này sẽ quằn quại dưới ngọn chổi cứng, lăn dính trong đất, trà trộn theo những vật bẩn ở sân, ở bếp. Rồi đến thùng rác. Xe rác. Ruồi. Nhặng…

          Con ong vụt từ đâu bay trở lại, nhởn nhơ như một người lương thiện. Tuyên quật nó một thước. Tiếng rơi “bịch” xuống góc nhà. Anh đi lại gần. Nó cất mình bay xéo lên. Cây thước đập tiếp xuống. Nó lại rơi bịch. Nó nằm yên. Một lát, cánh đập vù vù trở lại nhưng không thể nhấc nổi mình lên. Nó là là lướt trên mặt gạch. Mình nó cong hẳn sang một bên để cố tạo một thế thăng bằng. Vô hiệu quả. Nó quay chậm chậm theo một con đường cong. Nằm nghỉ một lát. Rồi cánh lại đập vù vù. Cái bụng cong queo hẳn tưởng như sắp tách ra khỏi cái ức. Bộ lông nhung đen mướt ở trên lưng ngã dạt lộn xộn tạo những khoảng trống màu xám. Bụng thở thoi thóp.

          Tuyên cúi gần nhìn nó. Cơn giận đã xua tan từ lúc nào, bây giờ bắt đầu sự thương xót. Số phận của nó sẽ như thế nào? Những cặp chân đen và dẹp kia chỉ biết mềm mại. Nó có lỗi gì? Hoa kia là của nó hay của anh? Ai là kẻ chiếm đoạt? Nó đang quằn quại cong veo mình lại để đi vòng tròn. Sẽ gặp gì ở tâm điểm của vòng tròn đó? Cái chết? Tuyên cúi nhìn gần nó kỹ hơn như nhìn chính thân phận của mình. Nó truyền sự đau đớn và tuyệt vọng sang anh.

          Sự việc xảy ra sáng ba mươi Tết. Mười giờ, Lệ Châu đợi Tuyên ở dưỡng đường bác sĩ Tùng, nhưng anh không đến. Hai giờ chiều, chú gác dan của dưỡng đường đem tới một phong thư của Lệ Châu nhưng anh dặn chị ở trả lời là anh đi vắng… Lệ Châu ơi, tôi xứng đáng với mọi sự giận dỗi nguyền rủa của em nhưng em đâu có biết rằng chính con ong vò vẽ đã giữ tôi không cho đến gặp em trong ngày ba mươi Tết đó, giữ cho chúng ta khỏi tuột xuống một con đường dốc hiểm nghèo.

          Tuyên quen Lệ Châu trong một trường hợp ngẫu nhiên không mấy lý thú: ở nơi phòng mạch của bác sĩ Tùng. Nàng gầy, nước da trắng xanh. Khuôn mặt thon dài. Mí mắt thẫm và hàng lông mi dày làm cặp mắt thêm to, thêm sâu. Vẻ đẹp bệnh hoạn của Marguerite Gauthier(1 ). Nàng hỏi anh về tài nghệ của ông bác sĩ.

          - Cũng như mọi ông khác - Tuyên trả lời - Không có gì đặc biệt.

          - Thế sao ông lại chọn ông ta?

          - Vì ông ta có mặt ở phòng mạch giờ này. Mấy ông bác sĩ khác làm việc nhà nước nên chỉ tiếp khách quá sớm và quá trễ. Còn cô?

          - Tôi ở Huế mới vào. Đối với tôi ông nào cũng như nhau vì tôi chưa được biết ông nào.

          Giọng nói chậm, nhỏ, mỏi mệt nhưng quả tình là có nhiều thông minh trong cách nói.

          Người bệnh nhân vừa được mời vào phòng mang số thứ tự 15. Số của Tuyên đến 40. Còn bao nhiêu là thì giờ rỗng.

          Tuyên hỏi:

          - Xin lỗi. Cô mang số mấy?

          - Băm lăm.

          Tuyên cười lên không giữ được và nàng cũng cười ngon lành. Nàng nói:

          - Đó là một con số có duyên. Vì nó chọc cười được mọi người.

          Nàng cúi xuống đọc một tờ Life bỏ ở bàn xa lông phòng đợi. Tuyên nhìn sang những bệnh nhân khác. Một bà cụ già da mặt nhăn nheo như một vỏ cây nứt nẻ. Những đứa trẻ gầy yếu chân tay khẳng khiu. Những người đàn ông u buồn. Người nào cũng chăm chăm nhìn một khoảng diện tích hẹp trước mặt mình. Người nào cũng nhắc nhở một sự suy yếu nghiêm trọng, một sự khô héo mỏi mệt. Chỉ có cô bệnh nhân làm mát được tâm hồn anh một chút thôi. Ngón tay nàng trắng dài.

          Một tiếng cửa đóng sầm làm nàng ngửng lên nhìn. Rồi đặt tờ báo xuống dài, nàng nói:

          - Chịu. Không thể đọc được nửa trang khi óc mình không có sự bình tĩnh.

          - Đi khám bệnh cũng như đi dự phiên tòa xử án mình. Không án nặng thì án nhẹ, chẳng mấy khi được tha bổng. Còn nguy hiểm hơn dự phiên tòa xử án bởi vì khi ra tòa dẫu sao mình cũng biết được đại khái tội lỗi của mình. Đằng này tới phòng khám bệnh mình phải đối diện với sự bí mật.

          - Tôi bị tension… huyết…

          - Huyết áp…

          - Huyết áp cao. Hay xây xẩm. Tim hồi hộp.

          - Đáng lẽ đó không phải là chứng bệnh dành cho tuổi trẻ của cô.

          Nàng mỉm cười:

          - Thời đại bây giờ đảo lộn hết tất cả mọi qui ước. Mười ba tuổi hút thuốc lá. Mười tám tuổi la cà ở quán rượu, tiệm nhảy. Giám khảo sợ thí sinh. Học trò uy hiếp thầy giáo. Vậy trẻ như tôi mà bị chứng huyết áp cao thì tưởng cũng là thuận lý.

          Câu nói chứa một vị chua chát không phù hợp mấy với vẻ đẹp đài các của nàng. Không có nét ranh mãnh nào trên khuôn mặt đó cả. Cũng không có nét buông tuồng liều lĩnh nào.

          - Bị huyết áp cao - Tuyên nói, - thì không được lo lắng phiền não… Dẹp bỏ mọi sự bất bình. Ăn rau nhiều và uống nước lọc. Tôi chắc vậy.

          Nàng phì cười:

          - Bày vẽ thuốc men mà bảo “tôi chắc vậy” thì còn ai dám tin theo nữa?

          Tuyên cười theo:

          - Để dành cho ông bác sĩ khẳng định “tôi cương quyết bảo thế này”

          Khi tới phiên nàng, Tuyên thấy nàng loạng choạng đứng dậy. Đôi vai mỏng lọt qua khung cửa. Cánh cửa sơn trắng nhẹ nhàng khép ở sau lưng. Không một tiếng động. Tự nhiên anh rùng mình. Bao nhiêu bệnh nhân đã nhẹ nhàng đi qua khung cửa hẹp rồi sau đó đi về một khoảng không gian khác. Sẽ đến lượt nàng?

          Thì giờ trôi qua rất chậm. Tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường nghe rõ mồn một trong sự im vắng của tâm hồn khiến Tuyên có cảm tưởng là thời gian đang rơi từng giọt. Dự thẩm còn đang hoàn tất hồ sơ hay chánh án và phụ thẩm đang nghị án? Huyết áp cao. Chắc còn có gì hơn nữa.

          Nàng bước ra khỏi phòng, môi mím lại, nghiêm trang. Tuyên đứng dậy:

          - Cô… không sao chớ?

          Nàng gật đầu:

          - Cám ơn ông. Lại huyết áp…

          Tuyên tiễn nàng ra đến cổng dưỡng đường. Nàng bước lên xích lô, cúi đầu chào anh và nói cám ơn.

          Sau đó anh gặp lại nàng đôi lần nữa, một lần ở phòng triển lãm họa phẩm của người bạn họa sĩ quen, một lần ở bữa cơm do hội Việt Mỹ địa phương tổ chức. Lần này nàng đi với một người đàn ông. Ban tổ chức giới thiệu: Ông bà Trưởng ty Lê Văn Phúc.

          Sự kiện thật đột ngột, Tuyên đinh ninh là nàng chưa có chồng. Hôm gặp ở phòng triển lãm, nàng nói chuyện nghệ thuật hội họa với anh và chọn bức họa “Một mình” làm bức mà nàng ưng ý nhất. Tuyên nói:

          - Tôi sẽ mua tặng cô bức họa đó nếu cô vui lòng nhận. Về với cô, nó sẽ không còn cô đơn nữa.

          - Cám ơn lòng tốt của ông. Xin hẹn một dịp khác vì hiện giờ tôi còn có… có vài điều… chưa yên.

          Biết rằng anh bị phật ý, nàng đẩy nhẹ anh cùng đi về một góc phòng, chỉ cho anh xem một bức họa thiếu nữ với tay chân dài ngoẵng rồi nói:

          - Tôi tiếc không có được những cánh tay dài như thế kia.

          Tuyên nhìn nàng chưa hiểu. Nàng nhếch một nụ cười làm mấy nếp nhăn vẽ ở khóe miệng:

          - Cố nhiên là tôi muốn nói nghĩa bóng.

          Hôm nay anh mới hiểu ý nghĩa câu đó. Một người đàn bà đã có chồng thì cánh tay không thể dài được. Mình ở quá tầm tay của nàng. Vô lý, một thiếu nữ như vậy lại là người đàn bà có chồng.

          Một anh bạn ngồi cạnh Tuyên thấy anh lưu ý nhìn nàng liền hỏi khẽ:

          - Có quen?

          - Không.

          - Tên là Lệ Châu.

          - Bà Trưởng Ty Lê Văn…

          - Phải. Tên là Lệ Châu. Đẹp đấy nhé. Chỉ hơi gầy một chút. Mới gầy hồi mới lấy chồng.

          - Cặp đó trông xứng…

          - Chớ tưởng bở. Con vợ nát ruột mà phải làm bộ mặt tươi tỉnh ngồi cạnh thằng chồng mà nó không yêu.

          - Anh có thể nói rõ ràng hơn một chút.

          - Lệ Châu đang học ở Văn Khoa thì ông bố bị một vụ vu khống lớn phải ngồi tù và sạt nghiệp. Hồi đó người ta tha hồ sáng chế ra tội trạng. Nàng Kiều thời nay phải bỏ học, phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc tội cho cha. Mã Giám Sinh ngồi lù lù cạnh nàng đó. Sau này phát giác ra thì Mã Giám Sinh chính là một tay em trong bè lũ vu khống.

          - Nhưng tình yêu xóa bỏ thù hận.

          - Nếu được như vậy thì cũng an ủi đôi phần. Đằng này ông chồng là một tay vừa cả ghen vừa vũ phu.

          Lệ Châu tránh tia mắt nhìn của Tuyên. Nàng ngồi thu hẹp hai vai như một người phạm lỗi.

          Ngày hôm sau, nàng nằm dưỡng đường. Cô y tá cho Tuyên biết tin. Tuyên hỏi:

          - Lại chứng huyết áp cao?

          - Vâng. Có thêm tim yếu.

          - Tôi chắc bệnh tình không đến nổi trầm trọng.

          - Thường thôi. Cứ độ vài ba tháng, cô đến nằm ở dưỡng đường mươi ngày. Có lẽ cốt để tìm sự yên tĩnh nghỉ ngơi nhiều hơn là cần thuốc tiêm và thuốc uống.

          - Khung cảnh bệnh viện không có gì êm đềm vui tươi hết.

          - Điều đó còn tùy thuộc ở căn phòng mà mình chiếm. Cô Lệ Châu thì luôn chọn căn phòng cuối cùng ở cánh tả lầu nhất. Phòng đó mở nhìn xuống một bãi cỏ và được bóng râm của một cây trứng cá làm im mát cả ngày. Cứ vào chặng tám giờ sáng lại có một đôi chim vành khuyên ríu rít bay đến lượn giữa cành lá để tìm sâu.

          - Một phòng có nhiều tiện nghi như vậy thì chắc chẳng mấy khi vắng khách.

          - Cũng có lúc. Khi phòng bận có người nằm thì cô dặn bao giờ khách lành mạnh dọn đi thì bảo cô biết để cô đến.

          - Nằm bệnh viện mà y như đi nghỉ mát dặn dành phòng trước.

          - Đối với cô, có lẽ đúng như vậy.

          Tuyên gửi tiền nhờ cô y á mua một bó lai ơn thật đẹp để cắm ở phòng nàng. Liền sau đó cô y tá đến gặp anh:

          - Cô Lệ Châu cảm ơn sự ân cần của ông.

          - Đó chỉ là một chút xã giao thông thường.

          - Cô mời ông, ngày kia có rảnh thì ghé lại phòng cô.

          - Ngày kia? Ngày ba mươi?

          - Vâng. Mười giờ sáng. Cô hẹn như vậy.

          Ngày ba mươi Tuyên đã lỡ tay đập ngã con ong vò vẽ. Anh đã lặng lẽ hối hận ngồi nhìn nó quằn quại trong niềm đau đớn tuyệt vọng. Và anh thẫn thờ tự nói với mình: khi người ta yêu một cái gì thì người ta trở nên độc ác tàn bạo trong việc chiếm giữ độc quyền vật mà người ta yêu. Con ong không có tội gì hết. Hoa mai đó là của nó, của núi rừng sinh sản ra để dành cho nó, làm món ăn, làm nguồn sinh sống cho phần nó. Mình chỉ là kẻ cướp đoạt. Mình không có quyền…

          Lệ Châu ơi, tôi không có quyền, tôi không muốn làm kẻ tước đoạt. Tôi không muốn vì yêu em mà trở thành kẻ bạo tàn. Chiều ba mươi Tết, tôi cầm bức thư của em xót xa bức rức nửa muốn nghe theo tiếng nói của lương tâm, nửa muốn chạy vù đến tìm em rồi mặc cho cuộc đời muốn ra sao thì ra. Tôi thẫn thờ thắt ca vát rồi tháo ca vát, khóa cửa rồi mở cửa, lên xe rồi xuống xe. Tôi đi tới đi lui, ngồi xuống rồi đứng dậy. Tôi biết nếu tôi tới với em lúc này thì chúng ta không thể nào ngăn cản khỏi mắc vào một mối tình tội lỗi. Nhất định là em sẽ ngã vào cánh tay tôi, nhất định là tôi sẽ hôn nhiều lần lên đôi mắt thâm quầng, lên đôi môi nhợt nhạt của em. Nhất định chồng em sẽ là kẻ chiến bại và hắn xứng đáng với cái kết quả mà hắn phải nhận. Nhưng tôi không muốn, không muốn. Tôi không đủ can đảm nhìn lại hình ảnh con ong nạn nhân. Nó vẫn ở góc phòng và cứ chốc chốc lại đập cánh vù vù, uốn cong lưng bay thành vòng tròn là là trên mặt đất.

          Ngày mồng hai Tết, cô y tá bảo Tuyên:

          - Sao hôm ba mươi ông không đến? Cô Lệ Châu đợi ông đến tám giờ tối. Chồng cô đem xe đến giục về từ chiều nhưng cô lấy cớ còn tiêm thuốc, còn thu xếp đồ đạc, còn… Mãi đến khi tiếng pháo cúng tất niên nổ rền ở dãy phố trước mặt, khi biết chắc chắn là ông không đến cô mới chịu lên xe.

          Tuyên đứng tần ngần không trả lời. Trước mắt anh, những người đi du xuân cười nói rộn ràng. Màu áo mới lòe loẹt. Không có Lệ Châu đi trong đó. Anh tưởng thấy nàng ngồi trong xe vặn kính kín mít. Ánh điện sáng ấm áp. Bánh xe lăn nhẹ nhàng và nàng quay lui chăm chăm nhìn lại con đường dẫn tới dưỡng đường nơi đó nàng còn nuôi hy vọng thấy bóng anh hăm hở lao xe vút đến tìm nàng.

          (1) Nhân vật chính của tiểu thuyết Trà Hoa Nữ.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.12.2012 08:54:10 bởi hai1957 >
          #20
            hai1957 01.12.2012 08:57:09 (permalink)
            5. CON ĐƯỜNG GAI


            Con gái mà học ban B là không hợp cách. Ban B đòi hỏi lý luận chính xác, áp dụng công thức, làm cho tâm hồn con người khô khan đi, chỉ chúi mũi vào vẽ, tính, đặt phương trình, giả thiết…

            - Nói chuyện với một cô bạn học ban C thấy câu chuyện đậm đà ý vị. Còn nói với mấy chị ban B…

            - Học ban B sau này đi các ngành kỹ sư mới có lợi. Nhưng con gái làm kỹ sư thì đâu có tiện? Học ban A để đi dược khoa, y khoa.

            Đại khái đó là những ý kiến của các ông bạn ba tôi nói chuyện oang oang ở phòng khách. Tôi ngồi ở bàn học trước quyển Vật lý và tự mình mò mẫm học lấy. Niên khóa bắt đầu quá chậm và chấm dứt quá sớm. Tháng Tám giáo sư còn lo đi chấm thi. Tháng Chín biểu tình xuống đường. Chính phủ độc tài thì biểu tình chống đối. Khi lung lay cho họ ngã được rồi thì lại biểu tình để ủng hộ Chính phủ mới. Nhiều môn học, giáo sư cố gắng dạy đến bốn phần năm chương trình là cùng. Thế cũng là may. Có năm, có món, chương trình in dài đến ba tấc mà giáo sư chỉ thanh toán được chừng tám phần. Nhiều lý do xác đáng đã đẩy trách nhiệm đó về tận Sài Gòn. Đó là cớ thiếu thầy, Bộ Giáo dục bổ dụng giáo sư và điều động giáo sư quá chậm chạp. Niên khóa bắt đầu vào tháng Chín mà có môn mãi đến tháng Mười Một mới có một cô giáo rụt rè đến, nhận lãnh môn dạy một cách miễn cưỡng bởi lẽ cô học ban Lý hóa mà trường bắt dạy Toán hay Văn chương. Hơn nữa, cái thành phố nhỏ này không hấp dẫn được ai hết, nóng như thiêu đốt. Những mặt bàn lát bằng ván ép cong lại như con tôm đất bỏ vào chảo dầu sôi. Phi cảng thì còn nằm trong vòng dự án xây cất. Đường ô tô bị chặt từng đoạn, giao thông với các tỉnh lớn phải nhờ ở các thuyền buồm và ghe máy. Chúng tôi bảo nhau: Hãy nhìn xuống, nhìn xuống nữa để mà tập bằng lòng. Có trường có lớp tại chỗ để mà học vẫn còn hơn là phải đi tỉnh xa ăn ở trọ. Ba tôi thường an ủi tôi bằng cách kể lại những mẩu chuyện hồi nhỏ đi học xa phải ăn cơm trọ:

            - Tao thấy một bộ răng đủ (đủ cả răng cửa, răng nanh và răng hàm), một nha thức gồm 32 cái thật vô ích đối với một học sinh đi ở trọ. Vì lẽ lũ tao có bao giờ nhai đâu? Ít nhất là trong thời gian thanh toán bát cơm thứ nhất, lũ tao chăm chăm vơ đũa thật nhanh chọn gắp miếng ăn thật ngon rồi và lấy và để. Khi mọi đĩa thức ăn đã hết sạch rồi tình hòa hiếu mới tái lập trở lại. Vừa nhai chậm chạp vừa kể chuyện vừa pha trò. Dưa món, nước cá kho, nước mắm… không đòi hỏi phải tranh giành, chiếm đoạt.

            Em tôi nói:

            - Ba nói quá. Học sinh gì mà tệ vậy? Nhất là hồi xưa, hồi thời của Ba người ta “tiên học lễ, hậu học văn…”

            Ba tôi cười:

            - Cố nhiên là tao có nói quá đi. Nhưng nếu tao không dọa cho bay sợ thì bay cứ đòi đi Huế, Đà Nẵng mới học được.

            Tôi chọn ban B vì thích lý luận chính xác, thích những lời giải không ai có thể nói trái lại được. Như thế kết quả đúng hay sai rõ ràng cụ thể ra đó. Không thể nói quanh co dài dòng và quan niệm linh động đến mức mâu thuẫn nhau được. Tuy nhiên, quyết định chọn ban cũng do ảnh hưởng của Ba tôi một phần. Ông kể hồi đi học giáo sư Math (1 ) hay miệt thị học sinh Philo (2 ) Trong lớp Math, nếu có học sinh nào lười hoặc kém là giáo sư hay dọa bằng câu: “Nếu anh không cố gắng thì tôi cho anh xuống lớp Philo”. Sao lại xuống? Sao không nói “qua lớp Philo?” Sao dám chắc rằng bên Philo giáo sư sẽ nhận người học sinh này? Descendre en Philo! Vô lý thật.

            - Nếu thời bây giờ, - Ba tôi tiếp, - thì anh em học sinh ở ban Philo dám xuống đường biểu tình phản đối lắm.

            Nhưng học Toán mà không thể theo học những lớp riêng, những lớp tối thì thật là điều khổ tâm. Học ở trường không đủ. Toán tập làm không hết. Giáo sư hoặc dạy quá chậm hoặc quá mau. Thời gian như cái khung ảnh chật mà chương trình là tấm ảnh quá lớn. Phải cắt xén mọi bề mà vẫn không lồng vào được. Tôi quằn quại một mình với những chương Toán, Lý Hóa còn sót lại. Hỏi bạn thì đứa nào cũng mờ mịt như nhau. Học thêm ở lớp tối thì không tiện vì nhà tôi ở mãi tận ngoại ô, đi về xa xôi. Ba tôi chữ nghĩa không còn rớt lại được bao nhiêu. Mỗi lần mó đến định lý, công thức thì ông loay hoay ngồi nhắm mắt gật gù, tập trung trí nhớ. Những ngày gần thi, ông buôn bán lỗ lã nên hết châm điếu thuốc này đến châm điếu thuốc khác. Nếu không gặp ông ngồi bóp trán trước những dãy con số thì thấy ông nằm lăn trở trên giường. Chiến tranh chặt đứt đường giao thông. Mười lăm chuyến xe chở đầy bắp su, cà rốt từ Đà Lạt xuống đành nằm chết ở Nha Trang, chịu không thuê được tàu thủy chở đi. Ngày nào cũng có điện tín màu xanh đến.

            - Xuống đủ mười lăm xe. Stop. Tàu thủy chưa được. Stop.

            - Gởi gấp hai mươi lăm ngàn.

            - Rau úng bỏ ba mươi phần trăm. Stop. Cho biết quyết định.

            Những bức thư tay ghi rõ chi tiết, đọc lên bi đát hơn. Rau thúi đổ từng đống. Không có kho để chứa. Bán lỗ lã ở các chợ. Nhà vườn thúc tiền. Tài xế thúc tiền. Ba tôi ăn cơm hết được. Ngồi đâu thì ngồi yên một chỗ mặt gục nhìn xuống. Có lần ông nổi cáu la tôi:

            - Tao lo lắng mệt ăn hết nỗi mà tụi bay không đứa nào thèm lưu ý đến tao. Ít nhất bay cũng phải pha sữa bắt tao uống hoặc sai chị bếp nấu cháo nấu mì cho tao. Ngày nào bay cũng bắt tao ăn cơm…

            Tôi đang loay hoay với định luật Berthollet chưa biết hỏi nhờ ai giảng mà ngày thi chỉ còn cách ba bữa, nên quay lại:

            - Ba muốn uống sữa thì ba sai…

            - Muốn, muốn cái gì? - ông ngắt lời tôi. Tao đâu phải là con nít mà muốn uống sữa? Tao mệt không ăn được thì bay liệu săn sóc tao một chút.

            - Chớ ba tưởng con không mệt sao? Người ta học thì có má nấu chè hột sen với đường phèn cho ăn. Hầm bồ câu cho ăn. Ninh chân giò cho ăn. Còn con, chẳng ai lo cho con hết. Ba còn rầy con nữa.

            Ba tôi ngồi lặng im. Rồi chợt cười xòa:

            - À, tao rầy oan. Tụi mình cùng một cảnh ngộ, khổ như nhau, thôi chẳng ai trách ai được hết.

            Tôi hối hận vì câu nói của mình, nhất là khi nghe Ba tôi hồn nhiên nhận lỗi. Săn sóc cái ăn cái uống cho con, người đàn ông đâu có lo chu đáo được, nhất là trong những lúc buôn thua bán lỗ. Ba tôi chỉ biết lo mua sữa mua đường, bánh ngọt, bơ, dầu cá. Thế giới mua sắm của ông là con đường vòng tròn đó. Quả tình có một người mẹ thì sung sướng hơn nhiều. Hôm nọ đến nhà thăm cô Bảy, tôi nghe cô nói về người con của cô:

            - Thằng Ngoạn hắn học cả đêm. Nhiều bữa hắn gục thiếp đi trên bàn. Cô phải đi rón rén nhẹ nhàng đặt ly chè bo bo bên cạnh đó cho hắn.

            Tôi nghĩ thầm: Sung sướng thay là khi học thi mà có người mẹ dịu dàng như vậy. “Gục thiếp đi”, những lời đó nghe mới êm đềm trìu mến làm sao. Bảo rằng “nó ngủ gục trên bàn” thật là tội nghiệp cho người ngủ. Tôi nhớ ba tôi cứ khi nào thức giấc thấy phòng tôi còn mở đèn sáng là ông cất tiếng:

            - Ê! Một giờ khuya rồi. Ngủ đi. Học nhiều bệnh đó bay.

            - Tụi nó học đến ba, bốn giờ sáng.

            - Kệ tụi nó.

            Có nhiều đêm tôi ngủ gục trên bàn nhưng có ai nói rằng tôi “đã mệt quá đến thiếp đi”?

            Cách ngày thi hai hôm, tôi đi tìm số ký danh, số phòng thi và địa chỉ điểm thi. 1892. Con số của Định Mệnh. Nó sẽ gắn liền với tên tôi, mang lại vận may hay số rủi? 1892. Y như mua vé số kiến thiết người ta nhìn những con số đã mà hy vọng. Căn cứ vào đâu để mà hy vọng thì không ai trả lời được, tuy vậy người ta vẫn cứ ngờ ngợ để mà hy vọng. Địa điểm thi và phòng thi không làm tôi an tâm. Thi ở trên lầu thì chẳng trông chờ gì được ở sự viện trợ bên ngoài. Ngày thi Trung học vừa rồi, ở trung tâm trường Nữ, thí sinh tha hồ nghe ở bên ngoài người ta đọc to lời giải bài Toán, bài Sinh ngữ. Thi ở trường Tiểu học, ở từng dưới có nhiều hy vọng hưởng những sự may mắn như vậy. Nhất là ở trường nào có một cái sân hẹp, có nhà đồng bào cất sát bên tường.

            Con Cảnh, một con bạn hỏi tôi:

            - Mày ngồi gần đứa nào? Trai hay gái?

            - Một trai một gái. Trước tao là Lâm Bá Thông và sau tao là Lê Thị Thun.

            - Con gái thì chẳng trông nhờ được gì. Ít đứa giỏi Toán lắm. Mày có thể nhờ ở thằng Thông.

            - Sao biết nó là “thằng” ? Lỡ một ông già thì sao?

            - Ít khi gặp ông già. Ông già thường thì thi ban C. Vả lại thằng Thông tao có quen. Nó học ở bên Trần Quốc Tuấn. Giỏi Toán một cây. Được phần thưởng cuối năm.

            - Mày nói trước với nó, khi nào tao bí nó cho tao coi với.

            - Được. Tao sẽ đi lùng tìm nó.

            Tôi tự thấy xấu hổ khi nghĩ đến sự nhờ vả. Ai có kinh nghiệm thi cử đều trông chờ những người học giỏi ngồi cạnh để nhờ vả đôi chút. Hỏi đáp số bài Toán để được an tâm khỏi phải mò mẫm thử lại. Hỏi một chữ bí. Nếu gặp giám thị tử tế, có thể liếc nhìn cả bài Công dân giáo dục, bài Sử Địa. Có bà con với nhân viên lập danh sách thí sinh không phải là điều vô ích. Thằng Thúc vô tình đã lộ bí mật ấy cho tôi biết. Đỗ Trung học xong, nó đi Sài Gòn học hai năm, đệ Tam và đệ Nhị. Kỳ thi Tú tài nó về đây thi. Hỏi vì sao phải lặn lội gian khổ vậy, nó không nói. Nhưng hôm sau tôi dặn nó hễ làm được bài thì nhớ để cho coi nếu như tôi bí, nó trả lời:

            - Chắc không được đâu.

            - Sao lại không? Mày tên Thúc, tao tên Thu, thế nào cũng ngồi cạnh. Chẳng lẽ có đứa nào tên Thù tên Thú, hay tên Thua, ngồi chen ở giữa. Hay là mày ích kỷ?

            Mặt nó nhăn lại, thiểu não. Nó ngập ngừng một hồi lâu. Tôi dằn giọng:

            - Sao?

            Và nó nói nhỏ:

            - Chú mình nhờ văn phòng xếp cho mình ngồi giữa thằng Thanh và thằng Thuận hai thằng này giỏi Toán lắm. Ba đứa ngồi chung một bàn.

            - Sao lại xếp được? Tao tưởng phải theo thứ tự A, B, C.

            - Có lẽ chỉ theo ở những chữ đầu tên. Còn những chữ ở giữa thì tùy nghi.

            Tùy nghi! Tôi muốn kêu lên như bà Roland: “Hỡi chữ “Tùy nghi!” Người ta phạm bao nhiêu tội lỗi vì mày”.

            Ngày đầu thi Việt văn. Khi tôi ở phòng thi về, Ba tôi hỏi cách bố cục bài Luận. Tôi trả lời mới nửa chừng, mới được nửa phút thì ông đã giơ tay ra hiệu ngăn lại.

            - Được rồi. Con làm đủ điểm trung bình. Lo coi lại Toán đi. Gọi chị bếp múc chè hột sen cho mà ăn. Ba đã dặn chị nấu chè cho con đó.

            Ba tôi cúi xuống nhìn trang giấy viết dở dang. Cạnh đó, bỏ rải rác những điện tín và thư. Ông đang ngụp lặn giữa những sóng gió tài chánh.

            Tối đó, khi sắp chia tay đi ngủ, Ba tôi bùi ngùi nói:

            - Con lo nhất là Toán và Lý Hóa vì hệ số lớn. Con có thể cầu nguyện để má con phù hộ cho con.

            Tôi trả lời:

            - Con có cầu nguyện má mấy lần nhưng má chẳng giúp gì được hết. Hồi thi vào đệ Thất, má để con rớt chổng cẳng.

            Chắc Ba tôi không tin rằng khi cầu nguyện thì linh hồn người thân sẽ về giúp đỡ phù trì mình. Chắc Ba chỉ muốn gợi lên một không khí gia đình để tôi thêm vui, thêm bạo dạn tin tưởng mà vượt chướng ngại, ngày mai.

            Bài Toán và bài Lý Hóa, tôi làm không hoàn toàn. Đáp số bài Toán đáng chia 2 thì lại không chia, đáp số bài Lý Hóa đúng ra không chia thì lại chia 2. Ngồi trong phòng thi thấy không khí ở bên ngoài như loãng hơn, trong hơn, mát hơn. Thằng Thông có tiếng là giỏi Toán ngồi viết vèo vèo. Mặc kệ những người ngồi kề quay mặt sang hỏi, nó làm như không nghe không thấy. Thật là một tên làm ăn chí thú, gương mẫu trong sự ích kỷ. Chắc chắn nó sẽ thành một công dân có phiếu lý lịch số 3 trong sạch, một viên chức nhà nước mẫn cán bởi tính rụt rè nhút nhát.

            Bước ra phòng thi, nghe người ta nói bô bô đáp số, tôi muốn rã rời người ra, đầu óc cơ hồ như đang quay. Tôi lẩm nhẩm tự cho điểm mình: Việt văn 11, Toán 9, Lý Hóa 13. Rồi hạ bớt xuống: Việt văn 10, Toán 8, Lý Hóa 11.

            Ba tôi đi về thấy tôi nằm im thin thít trong giường, liền hỏi:

            - Sao mà xẹp đi vậy? Bộ rớt rồi hả?

            Tôi cự nự:

            - Chắc rớt.

            - Thôi, lo học lại để thi kỳ II, - giọng nói của ông đủng đỉnh.

            - Kỳ này không đỗ thì kỳ II còn hy vọng gì.

            - Thế thì phải hy vọng ở kỳ này. Con còn thi món nào nữa?

            Tôi kể lể:

            - Còn Vạn vật, Sử Địa, Sinh ngữ.

            - Hãy cầu cho thoát loạt I cái đã. Đâu, lấy cuốn Vạn vật ra đây. Bố con cùng học.

            Ba tôi chọn những bài “có vẻ đáng ra” rồi đọc to từng chữ, đọc chậm rãi vừa giảng vừa lặp lại. Tôi lặp lại theo, tối đó hai cha con thức thật khuya cùng học chung những phôi tâm, noãn khổng, thai tòa, dissaccarit, nhu mô, chu luân… Đã bảy năm nay rồi, ba tôi không còn học dùm cho tôi nữa. Ngày tôi còn ở lớp Nhất, lớp đệ Thất, đêm nào Ba cũng phải ngồi học chung với tôi ít nhất nửa giờ. Có Ba học thì mau nhớ. Có tình thương bàng bạc trong giọng nói, trong tia mắt nhìn, trong dáng ngồi che chở bảo vệ của Ba.

            (1) Toán
            (2) Triết học


            Thi xong loạt I và loạt II tôi thấy nhẹ người. Đằng nào thì sự việc cũng đã xảy qua rồi. Có hối tiếc một chút là: nếu như cho mình bình tĩnh làm lại thì bài làm sẽ đúng hơn, hay hơn.

            Hễ cha con có chút thì giờ rảnh là ngồi lại tính toán.

            - Bài luận đó, ba cho mạt lắm cũng 8 điểm trên 12. Cho điểm trên 12 lợi lắm. Giáo sư ở trường thường cho điểm trên 20 nên họ quen tay quen óc, cho theo thói quen. Tính sang điểm trên 12 thì thí sinh có lợi.

            Tôi ầm ừ, chưa tin lắm ở lý luận lạc quan ấy. Ba nhìn sang, thấy vẻ hoài nghi của tôi, liền hỏi:

            - Thôi. Được rồi. Bài Luận cứ cho 6 điểm là ít nhất đi. Câu hỏi Giảng văn con đúng được 6 điểm nữa là 12. Lợi 2 điểm, nhân hệ số 2 thành 4.

            Thấy bộ dạng hăng hái dứt khoát của ông làm như điểm số 12 là một sự có thật nên tôi cười.

            - Sang đến Toán. Con nói có hy vọng được 10 điểm.

            - Đâu có, - giọng tôi lừng khừng.

            - Hôm qua con nói đó.

            - Con hỏi lại bạn bè và thầy giáo, càng hỏi càng thấy con sai nhiều chỗ nữa.

            Gương mặt Ba tôi đăm chiêu. Mấy vết nhăn ngắn cày sâu khoảng giữa hai đường chân mày.

            - Thế bây giờ con đoán được mấy?

            - Chừng 6 điểm.

            - Ít vậy?

            - Nếu họ chấm cẩn thận coi theo cái marche của bài Toán con làm thì có hy vọng được 9 điểm.

            - Theo dõi cái marche thì ít giám khảo nào theo dõi lắm. Năm nào đề thi ra khó, thí sinh rớt nhiều thì họa may họ chấm cẩn thận để cứu vớt. Bài thi năm nay theo dư luận chung thì có khó không?

            - Con nghe người ta nói là vừa phải.

            - Con nghĩ rằng giám khảo có thể cho lên được 7 điểm.

            - 7 điểm thì được.

            - Nếu vậy thì tốt. Con sẽ thiếu 2 điểm. Nhân hệ số 4 thành 8.

            - Thiếu tới 3 điểm chớ, Ba.

            - Ba không nghĩ vậy. Chẳng lẽ Hội đồng không vớt sao? Ít nhất cũng phải vớt 1 phần mười số điểm. Cần đủ 110 điểm mới được chấm loạt II, vớt 1 phần mười tức là còn 99 điểm. Thực ra thì đây chưa gọi hẳn là vớt được. Coi như cho thí sinh mượn 11 điểm để sang loạt II nếu họ đủ điểm thì bắt trả lại. Vớt là khi cộng điểm cuối cùng, ban cho họ dứt khoát một ân huệ.

            Tôi hỏi:

            - Như Hội đồng vớt 1 phần 10 số điểm thì Ba tính xem con còn thiếu mấy?

            - Lúc nãy mình tính Việt văn dư 4 điểm, Toán thiếu 8 điểm, thế là thiếu 4 điểm. Còn Lý Hóa con nói con hy vọng được 12.

            - Có lẽ chỉ còn 9 thôi. Con làm lộn câu hỏi về bậc số oxýt hóa.

            Ba tôi lại loay hoay vá víu. Điểm thi thật giống như cái áo rách. Lấy mụn vải này chụp lên lỗ thủng kia, kéo chằng qua, nhíu hẹp lại thật không thong thả thoải mái một chút nào cả.

            - Bài Công dân giáo dục con thuộc, có thể bù qua bài Lý hóa được. Nhưng mà… (ông trầm ngâm giây lâu) điểm của bài Công dân giáo dục tùy thuộc ở trạng thái vui buồn của giám khảo nhiều lắm. Bài làm dài thườn thượt, chữ viết chi chít, đúng sai khó phân biệt rõ…

            Đến đây, việc “kế toán” bị treo lên bởi trạng thái vui buồn của giám khảo không có cách nào định rõ được. Ba tôi chợt vỗ tay vào trán:

            - Quên!

            Tôi trố mắt đợi ông tuyên bố món bảo bối cứu khổ.

            - Còn điểm lụt.

            Tôi suýt cười to. Điểm lụt thì tôi đã nhớ từ hồi chưa thi. Đứa bạn này nói: Bộ cho thêm 5 điểm lụt. Đứa kia bảo: ít nhất cũng 10 điểm vì nạn lụt năm ngoái là một nạn lụt lịch sử, lớn nhất trong suốt 60 năm. Năm nay nghe trong kỳ thi Tú Tài II vừa rồi điểm lụt được tính là 2 phần 10 số điểm vớt.

            - Con nghe rõ là 2 phần 10 điểm vớt? Như vậy nếu vớt tối đa 11 điểm thì lụt sẽ được…

            - 2 điểm rưỡi.

            Ba tôi gật gật đầu:

            - Cũng vừa. Thực ra thì tụi bay có bị lụt lội gì đâu? Trong khi ở nhiều tỉnh đồng bào chết cả xóm, trâu bò nhà cửa trôi mất tích thì tụi bay xăn quần lội nước đi chơi. Rồi lại cũng được thêm điểm lụt. Thật tụi bay gặp may hết cỡ. Không đỗ năm nay thật là uổng. Nghìn năm một thuở.

            Tôi nói:

            - Ba con còn quên 2 điểm thể thao của con.

            - À! Nhưng lúc này con mới thấy là 1 điểm hay nửa điểm đều có khả năng cứu vớt người lục trầm. Hồi kia ba khuyên con thi thể thao, con chê. Bây giờ có còn chê 2 điểm nữa không?

            Cố nhiên là không, tôi nghĩ. Nhưng đâu phải tôi chỉ thiếu 2 điểm để hòng nhờ thành tích thể thao bù vào.

            - Nhưng tao hỏi này, điểm thể thao và điểm lụt cộng vào kết quả cuối cùng chớ đâu vào kết quả loại I?

            Tôi trả lời chậm rãi bởi vì tôi đã hỏi chắc:

            - Họ cộng vào kết quả loại I.

            - Khó hiểu. Người ta bày ra chấm riêng loại I là cốt để bắt người thí sinh phải giỏi, phải chuyên, phải xứng đáng với một ngành nhất định, hoặc là Toán, hoặc là Văn chương, hoặc là Khoa học. Tao chưa hiểu vì sao việc chạy nhảy, leo giây ném tạ lại có liên hệ với môn Toán của mày. Nhưng chẳng sao miễn là có lợi cho mày thoát qua loạt I.

            Cứ như thế đêm nào ăn xong cha con tôi cũng ngồi bàn tính về điểm. Mỗi ngày số điểm dự tính mỗi gầy dần đi bởi tôi cứ mỗi ngày mỗi phát giác ra thêm những khiếm khuyết, những sai lầm trong bài thi của mình.

            Một ông giám khảo quen cho ba tôi biết:

            - Bộ công điện báo chấm nới điểm giảng văn vì câu hỏi thuộc chương trình ban C. Những bài đã chấm rồi, điểm đã cộng rồi, chỉ còn có cách là vớt tối đa.

            “Vớt tối đa” ba chữ này cứ hiện ra, sắp hàng ngay ngắn trong óc tôi như những khẩu hiệu “Ấp chiến lược là quốc sách” tôi gặp liên miên trước đây khi đi về nhà quê chơi.

            Vừa thi xong hai ngày thì bắt đầu có tin đồn. Người này mách “Ban C vớt 6 điểm. Đỗ loạt I được 25%. Người kia than thở: “Ban B nhiều người bỏ cuộc. Vớt đến 8 điểm mà chỉ đổ được 14%. Tin đồn bao giờ cũng mâu thuẫn nhau. Tôi không tin mà vẫn muốn nghe. Nhưng tin đồn chằng chịt đan dày như mắc lưới và tôi là con cá nạn nhân vùng vẫy trong đó. Nguyệt nó thi ban C nghe loạt I dư đến 25 điểm. Tôi cứ dằn vặt mình: Giá hồi đó mình thi quách ban C như Nguyệt. Ba tôi vỗ về:

            - Con gái có đỗ trước một năm cũng không cần thiết như con trai bởi vì con trai thi đỗ thì để hoãn dịch để tiếp tục học. Con gái không có mối lo quân dịch.

            Những lý luận đó không làm tôi an tâm hơn. Tôi chỉ muốn biết dứt khoát: Tôi có qua được loạt I không?

            Ba ngày sau, tin đồn có vẻ thống nhất hơn. Ban B được vớt tối đa. Điểm đã cộng, đã ghi vào phiếu điểm và Hội đồng đang chọn những phiếu có đủ 99 điểm.

            Ba tôi xách xe ra đi. Nửa giờ sau, ông quay về. Tôi ngồi ở bàn nhìn thẳng ra, nhướng mắt ra dấu hỏi. Ông bặm môi lặng lẽ đi vào. Đi ngang qua tôi ông ném mạnh cái mũ xuống bàn, nói lớn:

            - Đỗ.

            Thật hay dối? Dối? Chẳng có lẽ. Ai nói dối một kẻ thất bại? Nếu đỗ mà nói hỏng thì có thể được. Mặc dù nghĩ vậy, tôi cũng không thể không hỏi:

            - Ba không nói đùa?

            - Nói đùa sao được. Đây là số điểm.

            Ông móc ở túi áo sơ mi một mảnh giấy nhỏ rồi đọc Việt văn 8, Toán 32, Lý hóa 33, Công dân 26, Thể thao 2, lụt 2 rưỡi. Dư điểm đỗ.

            Tôi không biết nên giữ một vẻ mặt như thế nào cho hợp lý, đành cười một cách vô duyên. Và nói một câu cũng vô duyên.

            - Còn loạt II nữa.

            Không kịp biểu lộ cái vui, vội vàng bấu vào cái lo, lúc nào cũng lo, cũng hoài nghi, cũng hồi hộp.

            - Loạt II mà cũng còn sợ nữa? Vậy mà dám bảo thi ban C thì đỗ như không.

            - Ở đời may rủi biết đâu. Lỡ bài của con bị mất. Phiếu điểm của con bị thất lạc. Thư ký cộng lộn…

            Ba tôi nhún vai:

            - Thật y như má mày ngày xưa. Đi nhà thương mổ về, cứ lo ngay ngáy là không biết ông bác sĩ có bỏ quên một cái kéo hay một cái kềm trong bụng không? Rồi hỏi tao xem có lưu ý đến đủ số kéo và số kềm ở trên khay mổ hay không.

            Tôi tin ở hai bài Sinh ngữ. Không thể dưới 14 điểm. Tuy vậy, tôi vẫn cứ đòi hỏi có ba tôi ngồi hí hoáy tính toán đủ thiếu với tôi, tôi mới thấy yên lòng.

            Qua ngày hôm sau thì tin đỗ dứt khoát truyền lan tới tấp. Thằng Hắc đỗ. Con Tùng đỗ. Trinh, Thi, Lan, ba đứa đẩy cửa nhà tôi ùa vào như một ngọn lốc:

            - Mày đỗ rồi. Mày đỗ rồi.

            - Thiệt hả?

            Thi chạy đến đấm thùm thụp vào lưng tôi:

            - Mày còn giả vờ hỏi nữa. Mày có đỗ tao mới đánh. Hễ tao sướng là tao ưa đánh lắm.

            Bốn chúng tôi ngồi nói nhảm với nhau, cười to hơn mọi ngày và ăn đủ thứ quà. Tha hồ đau bụng. Có trúng thực nữa cũng được. Trong bốn ngày thi và ba ngày trước đó, tôi ăn uống kiêng khem cẩn thận, chỉ sợ đau bụng phải bỏ cuộc.

            Tôi báo tin đỗ cho Ba tôi nghe. Bữa ăn tối đặt trước mặt chúng tôi. Ba tôi nhận tin, không cười cũng không nói. Chắc lại có một tin xấu nào vừa đến với ông. Đêm qua ông thức khuya. Sáng nay thằng nhỏ ở mang bốn, năm tờ điện tín đi xuống Bưu điện. Hồi trưa có điện thoại của Việt Nam Thương tín gọi. Hồi xế hãng vận tải Nam Kiều cho tin: hàng hóa ở chành, chưa bốc xuống tàu được. Tôi tiếc sao đã báo tin vui vào một lúc ba tôi không lưu ý đến tôi. Có lẽ ba tôi cũng chưa nghe rõ tôi vừa nói gì nữa. Ông lặng lẽ nhìn cốc bia sủi bọt đặt ngang tầm tay. Rồi thay vì đưa tay ra cầm cốc, ông chõi hai cánh tay tựa lên mép bàn. Ông đằng hắng một tiếng nhỏ chậm rãi nói:

            - Trong một ngày vui lớn như hôm nay mà thiếu mất má con, cái vui không còn trọn vẹn nữa. Đáng lẽ phải có má con hãnh diện nhìn vào công lao bú mớm săn sóc của mình nay có kết quả. Ba lăn lộn với đời nhiều nên cái vui mất đi tính chất hồn nhiên. Chắc chắn là má con mới là kẻ vui nhiều hơn hết khi nghe được tin con đỗ. Và chắc chắn là con cũng sẽ vui nhiều hơn nữa nếu có má con bên cạnh. Má con… má con chỉ nếm được cái cực nhọc của thân phận làm mẹ mà chưa nếm được niềm vui… Từ nay trở đi, bao nhiêu thành công và bao nhiêu thất bại trên đời chỉ có chúng ta lẻ loi chia xẻ cùng nhau.

            Ba tôi ngừng nói, quay nhìn trầm ngâm ra sân. Có phải là ông đang theo dõi hình bóng của má tôi, mới ngày nào vẫn thường hay đi qua lại trước hiên, cái hình bóng dịu dàng mà sau chín năm cách xa, mỗi lần hồi tưởng lại tôi thấy đã mờ đi những đường nét.
            #21
              hai1957 01.12.2012 08:59:46 (permalink)
              6. KHOẢNG MÁT


              Trưa hôm nay, đứa con gái lớn của tôi đi học về mang theo một tờ giấy in roneo. Nó thập thò đợi tôi ở cửa ngõ. Tôi vừa đặt mũ xuống bàn, chưa kịp lau mồ hôi trán thì nó đã lanh lảnh có tiếng hỏi:

              - Ba ơi, Ba làm nghề gì hở Ba? Uở! Sao mặt Ba đỏ vậy? Ba uống rượu hả?

              Tôi quay lại, bất ngờ vì câu hỏi. Lại có chuyện gì mới xảy ra! Tôi hồi hộp lo lắng. Sự bất ngờ, tôi không thích vì hầu như chúng đều bất lợi cho tôi. Nhà tôi hiện đang nghèo và trong họ hàng không hề có một ông cậu một bà cô nào vừa triệu phú vừa không con. Ở Âu Mỹ, thần tài hay gõ cửa một cách đột ngột quá sức tưởng tượng. Không phải chỉ có trúng số độc đắc. Người mua vé số dầu sao cũng còn có hy vọng, cho dù rằng hy vọng chỉ bằng đốm lửa đỏ ở đầu que diêm. Đằng này có người nằm chờ chết, - chết đói, - và bỗng nhiên người chưởng khế gõ cửa báo tin: có một bà cô “gái già” của anh vừa tạ thế để lại một cái gia tài, có chúc thư cho anh thụ hưởng. Tên của bà cô, anh lẫn lộn với tên của một hiệu may y phục phụ nữ. Địa điểm nơi bà cô ở, phải lật tự điển ra tra. Tôi cũng có một bà cô trước đây bỏ nhà ra đi hoang vì mê một ông cai Lục bộ. Cả nhà ai cũng ghét bỏ thù hằn người đàn bà làm điếm nhục gia phong như thế. Chừng bảy, tám năm gì sau đó, có tin bà chết vì bệnh sốt xuất huyết khi theo ông Cai đi phóng đường ở Lộc Ninh. Không ai nói một lời thương xót. Lâu lâu có lần bà nội tôi vô tình nhắc đến, chẳng hạn: “Hồi xưa con Tám nó hay… (cô tôi thứ Tám)… Ngày trước, hồi con Tám nó còn…” nhưng chợt nhìn vẻ mặt lạnh lùng kín mít của những người có mặt, bà nội tôi vội im, bỏ lửng câu nói dở dang.

              Vậy thì chắc chắn như hai lần năm là mười rằng tôi không thể mong có một bất ngờ nào mang lại hoạnh tài cho tôi. Ngược lại, mọi cái bất ngờ đều tốn kém cho tôi hết. Chẳng hạn thằng con leo lên ghế kéo ngã bể cái bình trà. Chẳng hạn vợ tôi làm bếp chặt nhằm ngón tay. Chẳng hạn có thông cáo của Xã mời đồng bào hôm sau tập trung tại sân vận động để dự biểu tình. Tôi nghi kỵ Dịp May và Thần Tài. Trung thành với tôi là những giọt mồ hôi, những suối mồ hôi đổ cay con mắt, đổ ướt vạt áo sơ mi. Là sự mỏi nơi bắp thịt đùi, nơi thắt lưng sau một ngày cong người ngồi trên cái yên xe và hai chân kĩu kịt nặng nhọc đạp. Là những suy nghĩ âu lo cuộn khúc, quằn quại trong khối óc tôi. Tôi không tin ở Dịp May.

              Nhìn con tôi nghếch mặt đợi chờ, tôi nói:

              - Con hỏi làm chi?

              - Cô giáo bắt học trò kê khai tên tuổi… tên cha mẹ…

              Nó ngắt câu nói đến đó vừa trao tờ giấy in roneo cho tôi. Đó là tờ “Phiếu lý lịch của học sinh”. Mọi khoảng trống đều đã được ngòi bút của nó lấp kín: tên họ học sinh, ngày sinh, nơi sinh, tên cha mẹ… Chỉ khoảng nghề nghiệp của cha là con để nguyên.

              Một cảm giác khó chịu ùn ùn dâng lên, hình như từ chặng ngực đổ lên đầu rồi tràn ra bao trùm lấy mặt. Nghề nghiệp của cha. Nghề nghiệp của tôi. Tôi có nghề nghiệp gì đâu? Thu tiền rác không phải là một nghề. Tôi nói, giọng ngập ngừng:

              - Con cứ ghi là… thư ký.

              Thư ký! Tôi tự ngượng với mình khi, lật qua lật lại chữ “thư ký” trong óc, tôi thấy nó vướng víu như thân phận tôi không dung nổi kích thích của nó. “Thư ký” là để dành cho những người đi giày da đen, áo nyl-france và cưỡi Vespa vùn vụt. Người thư ký cạo râu có bôi bọt xà phòng và đổ eau de Cologne xoa giữa hai bàn tay trước khi đi làm. Người thư ký mời nhau hút lá Ruby, - ít nhất là thuốc là Ruby và ngậm kẹo chewing-gum khi nói chuyện với nữ đồng nghiệp. Tôi cách xa người thư ký bằng rất nhiều nghìn bạc. Quần kaki, áo sơ mi popeline nội hóa. Xăng đan cao su trắng. Xe đạp cũ… Tôi…

              - Sao con còn đứng đó?

              - Con biên là thư ký hở Ba?

              - Ừ. Hay là… Con cứ biên là “tư chức”.

              Tôi lẩm nhẩm: “Tư chức”. Thôi việc gì mà thắc mắc. Cô giáo đâu có biết tôi là ai để mà cân nhắc xem danh từ nào mới xứng hợp cho tôi.

              Có tiếng vợ tôi quát to ở sau bếp:

              - Để dành phần cho ba mày. Có miếng nào ngon ngon mày ăn hết.

              Tiếng thằng Đức, thằng con nhỏ của tôi:

              - Con chỉ ăn cái cùi. Có cái cùi thơm mà má cũng không cho.

              - Cùi thơm để bằm trộn với mắm.

              Quả là giọng nói của vợ tôi đã chát đi, đã chua đi như rượu ngon đã biến thành giấm. Hồi mới lấy nhau, giọng ấy ngọt, rót vào tai như tiếng con chim tình tự. Sự túng bấn vô tình đã là thứ vi khuẩn Myco-derma aceti.

              Tôi bước trở vào nhà sau. Thằng Đức, con Thúy Bình chạy ùa ra mừng. Tôi chọn những chữ thật đẹp để đặt tên cho con. Đó là món hàng xa xỉ độc nhất mà tôi có thể sắm cho chúng. Đặt tên đẹp không phải tốn tiền. Chỉ cần tra tự điển. Ít nhất chúng cũng được an ủi khi mang theo người món hàng trang sức đó. Aùo quần, giày dép, bút máy, đồng hồ, thì có thể sắm sau, khi nào có tiền. Tôi nghĩ: công tác làm cha mẹ, mình phải chia ra từng đợt để thực hiện, y như xây cất nhà mà chưa có đủ tiền để làm một lúc. Có người làm nhà ngang trước, còn nhà lớn đợi làm sau. Có người làm nhà bếp nhà tiêu nhà tắm trước. Có người chỉ lo đổ được cái nền. Lựa chọn cái tên cho con, trước tiên, cũng quan trọng như khi xây móng. Lắm người đỗ đạt cao, làm chức vụ lớn mà trót mang một cái tên xấu xí không còn sửa chữa được nữa khiến họ phải ân hận.

              Thằng Đức khoe:

              - Con đã làm được hai bài tính rồi, Ba ơi.

              - Ừ.

              Con Thúy Bình giật giật tay nói:

              - Con đã viết tập đủ một trang. Ba lên xem.

              - Ừ. Ừ. Để tí nữa ba xem.

              Đi thu tiền rác quả thật không phải là một nghề. Ai cũng có thể thay tôi được, vào bất cứ lúc nào. Tranh sống với tôi là mọi người đàn ông đủ sức đạp nổi chiếc xe đạp và viết gẫy gọn một bức thư tình. Nhưng tôi có quyền đòi hỏi chi hơn? Chiến tranh âm ỉ vụt nổi vụt tắt trong suốt ba năm ở quê tôi, nay ào ạt bừng bừng như những ngọn lửa gặp gió. Mọi người chạy tản lạc bỏ cả nhà cửa, ruộng nương. Ông Nhân, thư ký Hội đồng Xã chạy ra Đà Nẵng làm phu khuân vác cho Hãng hàng không Việt Nam. Anh Bá hương sư ăn lương ngân sách Xã thì chạy vào La Gi tá túc nơi họ hàng bên vợ đổ bánh bèo, bánh căng độ nhật. Gia đình rất đông con của ông Phó tổng Vịnh tìm nơi trú ngụ không có, phải liều dựng nhà bên bờ đường với một số đông những gia đình khác đồng cảnh ngộ. Ty Cảnh sát lập biên bản phạt đủ tội: xây cất không có giấy phép, phạm lộ giới, chiếm đất bất hợp pháp… Nhưng những lỗ tai quen với tiếng nổ long trời của bích kích pháo và đạn ca nông 105 ly đâm ra lờn với tiếng nói mực thước của Luật pháp. Phạt tiền không có hiệu quả, phải dùng đến phạt giam. Đàn ông khôn khéo lánh mặt hết để cho đàn bà bế con nít lếch thếch theo Cảnh sát vào trại giam. Đêm đến, đàn ông xuất hiện, dựng cột, dựng vách, lợp mái tôn. Tiếng búa đóng đinh chan chát.

              Như ở trong chuyện cổ tích, cái khu phố bí mật này dựng ra toàn trong đêm đen. Cuối cùng nó cũng thành lập Liên gia đại biểu như ở những khu phố hợp pháp khác và lũ trẻ con đã chạy chơi không chút e sợ trước sân, các bà mẹ đã vạch vú cho trẻ bú trước hiên. Thế là ông Phó tổng Vịnh yên tâm để chuyển sang nghề làm thợ mộc.

              Biết bao nhiêu bà con khác ở quê tôi phân tán đi đến những miền nào tôi chưa biết hết. Giống như những mảnh giấy vụn bị gió lốc cuốn đi, có mảnh bay xa có mảnh tấp gần, trên các chặng đường ra vô lên xuống, họ đều hiện diện. Và xơ xác như những mảnh giấy.

              Vậy đích thực là tôi không có quyền lựa chọn. Tôi bằng lòng với thân phận mình lọc cọc trên một chiếc xe đạp lở lói. Khu hoạt động của tôi là một khu tân lập trước đây là bãi cát hoang và nghĩa địa. Từ ngày có phong trào di cư, người đến đông ở chật thành phố nên chính quyền phân lô cấp những khoảnh đất cát đầy mồ mả và gai ma vương móc ó này cho những tân nghiệp chủ. Nhà mọc lên thay thế những ngôi mộ. Người sống giành chỗ của người chết. Đường cái chỗ lồi chỗ lõm, xe tôi phải nghiến răng ken két để leo lên những cái dốc liên tiếp. Nhiều lần đang xổ dốc ngon trớn bỗng chạm vào một mô đất cao, cả xe và người tôi đánh bật thối lui tưởng như giàn xe và xương sống tôi có thể gãy đi được. Nắng đổ xuống mặt đường hoa cả mắt. Tôi phải nhắm mắt từng chập để tưởng tượng mình đang đi dưới những hàng cây xanh thả bóng mát yên tĩnh xuống lưng người bộ hành. Nắng. Nắng. Nắng quanh năm.

              Thân chủ của tôi không mấy người hòa nhã. Một bà di cư to béo phục phịch tru tréo lên khi nghe tôi tự giới thiệu:

              - Giời thần ơi! Nhà cháu có bỏ rác ra đường đâu mà ông bắt giả tiền rác. Vườn nhà cháu đất trũng thành ao thành hồ, nhà cháu phải đi xin rác của hàng xóm đổ vào cho đầy.

              - Nhưng mà thành phố đã đặt ra lệ thu tiền rác, - tôi ôn tồn ngắt lời.

              - Nhà cháu nghèo ăn uống rau dưa chả có tí đầu tôm xương cá nào vất bỏ cho xe rác cả. Gốc rau, rễ rau nhà cháu để dành băm cho lợn cho vịt ăn. Đây, ông không tin thì xin mời ông bước ra sau…

              Bà kéo tôi đi ngay ra nhà sau, không cần biết tôi có ưng thuận hay không. Tôi phải khó nhọc lắm mới gỡ được bàn tay sức lực và cả quyết đó.

              Một ông công chức thịnh nộ bảo tôi:

              - Đường chưa rải đá thì luật lệ đâu lại bắt trả tiền rác.

              - Dạ, đây là tòa Tỉnh thể theo lời yêu cầu của các Liên gia đại biểu xin phái xe rác đến để dọn rác cho đồng bào.

              - Cả Liên gia tôi chẳng có đại biểu nào yêu cầu hết.

              Ông nhìn thẳng ra sân mà nói, không thèm ngó đến tôi nữa.

              - Dạ, chúng tôi đi thu tiền rác ở xóm này đã được nửa năm nay rồi ạ. Trước đây thì tôi đi thu ở khu Sân Bay còn khu này có người khác đi. Dạ, thế ra từ trước đến giờ ông chưa trả tiền rác tháng nào hết?

              Ông công chức im lặng, đôi lông mày vẫn còn nhíu. Nhưng không còn vẻ giận dữ nữa mà thay vào đó là một sự bối rối, một sự lúng túng. Ông đằng hắng thật to vừa gọi con như quát:

              - Lũ nhỏ đâu. Vào lấy cái ví ra đây cho tao.

              Không có ai tử tế đón tiếp tôi. Ít ai mời ngồi. Lắm khi phải đứng ở hiên kê bút lên chiếc cặp da để viết biên lai. Nhiều nhà hẹn:

              - Mời ông hôm sau đến. Hôm nay mợ cháu đi vắng.

              Hoặc :

              - Ông chủ đi làm không có ở nhà. Mời ông bữa khác tới.

              Tôi thoáng thấy bóng của “người đi vắng” đang lục đục ở trong bếp hoặc nói chuyện ồn ào ở nhà ngang. Nhiều nhà cửa cổng khóa kỹ gọi khan cả tiếng mà không ai mở. Ở xóm Mới nhà nào cũng nuôi chó, nhà ba con, nhà đôi con. Lúc nhỏ đi học tôi trót học thuộc bài Bệnh dại nên cứ thấy chó là sợ. Nhưng biết làm sao? Chỉ còn trông nhờ nơi Số mạng.

              Sau bữa cơm trưa nuốt vội vàng, tôi nằm trên chiếc đi-văng gỗ lơ mơ nghĩ đến Huệ. Sáng nay khi gõ cửa một căn phố ở cuối đường Lê Đại Hành, tôi giật mình khi cửa mở tôi thấy có hai người đang ôm nhau hôn. Người đàn ông là một quân nhân Huê kỳ da mặt đỏ và tóc màu hung như râu bắp. Người đàn bà mặc pyjami đứng cao mới đến ngực người đàn ông. Họ hôn nhau rõ lâu bất chấp có tôi đứng đó. Khi họ rời nhau ra, người quân nhân bước vội ra sân và người đàn bà lanh lảnh nói:

              - Tu nai, nhé Johnny? Ai quây pho iu nhé? Bai bai...(1 )

              Tôi giả như đang mải nhìn một khoảng khung trời xa. Khi chiếc xe rồ máy lao vút đi tôi quay lại. Người đàn bà trân trân nhìn tôi:

              - Ông… Uở, anh Bân.

              Tôi ngạc nhiên:

              - Dạ…

              - Anh không nhìn ra em sao? Em là Huệ đây mà.

              - A! Huệ - tôi reo lên.

              - Có lẽ đến bảy, tám năm rồi em mới gặp lại anh.

              Huệ mời tôi vào nhà. Căn nhà treo quá nhiều rèm, màn thêu hoa vẽ hoa sặc sỡ, kín đáo như một cái hang. Mùi nước hoa thơm ngát. Mặt Huệ bôi nhiều phấn và mi mắt có nét bút chì vẽ xếch lên khiến tôi nghĩ đến đôi mắt của chim bạc má… Huệ đưa thuốc lá mời tôi hút rồi nàng đi vào phòng sau. Tiếng nàng hỏi vọng ra:

              - Anh uống gì để em đem ra? Gin nhé? Hay Whisky?

              Tôi nói:

              - Cám ơn em. Anh không uống được rượu mạnh.

              - Thế thì uống Coca.

              Huệ đẹp và thơm ngồi cạnh tôi.

              Cốc Coca đặt trước mặt.

              - Anh đi đâu vào giờ này mà ngẫu nhiên em lại được gặp?

              - Ơ… Anh đi tìm nhà người quen.

              - Ở địa chỉ này phải không? Chắc hắn ở đây trước em. Em mới dọn về mười ngày.

              - Người Mỹ lúc nãy là…

              - Thằng chồng em đó. Nó làm ở lực lượng đặc biệt. Tử tế lắm. Nó hẹn khi nào về Huê kỳ nó sẽ đem em theo.

              Huệ lấy chồng Huê kỳ! Thật khó ai ngờ được cũng như khó ai ngờ rằng hôm nay tôi là nhân viên đi thu tiền rác. Con của một ông Thông phán, cháu nội của một ông Lãnh binh.

              - Thỉnh thoảng em có về quê không?

              - Biệt! Vả lại, về để làm gì? Quê hương hẹp hòi như cái đáy lờ, như cái vũng nước, con cá quay qua trở lại không có chỗ vẫy vùng.

              - Em cần cả một đại dương?

              - Vâng. Em sẽ vượt Thái bình dương. Với Johnny. Mời anh uống. Em lấy thêm hai chai nữa cho anh.

              Tôi giơ một bàn tay ra ngăn:

              - Thôi, bấy nhiêu đây đủ rồi.

              - Bây giờ anh làm gì?

              Huệ chống một tay lên cằm chìa mắt sát lại gần tôi. Đôi môi đỏ hé như một vết thương.

              - Anh làm… lăng nhăng. Chẳng ra chi. Mình chạy tản cư đến chỗ lạ, may có việc làm ăn là đủ quí rồi.

              - Không ngờ anh mà cũng phong trần. Nhưng anh có chữ nghĩa nhiều nên tìm việc không đến nỗi khó.

              Tôi nuốt vào một nỗi thẹn thùng, một niềm tủi nhục xót xa. Không có nước bọt chạy kèm theo vào thực quản. Huệ tưởng đâu tôi vẫn giữ được phong độ như ngày trước.

              Thấy tôi đưa mắt nhìn những lớp màn, những lớp rèm vây quanh chi chít, nàng nói:

              - Căn nhà hẹp quá phải không anh? Ở không đủ. Thuê mỗi tháng năm ngàn đồng. (Chết! Gấp đôi số lương của mình, tôi nghĩ). Em nhờ người đưa mối tìm thuê một ngôi nhà có vườn chừng mười ngàn mỗi tháng.

              Những con số ngàn như có chiều cao trong trí tưởng tượng của tôi. Những chồng giấy bạc. Những cột giấy bạc. Phần lương tháng của tôi mỏng như một chiếc dép cao su trẻ con vất bỏ nơi những đống rác ở các góc phố. Chưa đếm đã vội hết. Cứ độ hăm lăm mỗi tháng vợ tôi thường lục tung nhà cửa vừa hò hét trẻ con, tưởng chừng có lỗ thủng ở ngăn kéo cất tiền.

              Ngày còn đi học, Huệ yêu tôi. Chúng tôi hôn nhau hai lần và tôi giữ chiếc khăn mùi xoa của nàng. Thầy tôi không muốn tôi cưới Huệ vì mẹ Huệ mê cờ bạc và đồng bóng. Chúng tôi xa cách nhau. Huệ lấy chồng.

              - À, anh ăn cái gì với em nhé? Em chưa kịp ăn sáng. Đêm qua đi nhảy về khuya ngủ mê mệt.

              Huệ đi lại mở tủ buffet đem bày ra bàn đủ thứ lon, đủ thứ lọ. Nàng bắt tôi ăn săng-uých, phó-mát, uống bia đóng hộp, nước nho đóng hộp. Tôi nhìn xuống cánh tay béo lẳn trắng mịn của Huệ. Cái cổ no tròn như nặn bằng mỡ đặc. Viên hồng ngọc ở mặt nhẫn lóe lên làm tôi lưu ý đến những ngón tay béo trắng thon thon.

              Huệ ngừng ăn, trầm ngâm một giây rồi chậm rãi nói:

              - Em nhớ ngày chúng mình lén gặp nhau ở sau rộc rau muống. Từ ngày đó đến nay, em chưa bao giờ thấy có lần nào trời xanh trong và lá xanh mát như buổi chiều hôm ấy. Anh hôn em…

              Nàng im lặng. Khi tôi ngửng nhìn nàng thì thấy mắt nàng lã chã nước mắt. Nàng nhếch một nụ cười:

              - Em bây giờ ăn nói lì lợm, anh đừng cười nhé! Xã hội không coi em ra gì thì em còn ăn nói văn hoa nghiêm chỉnh với ai? Phải văng tục. Phải ẩu tả. Phải hello okay. Phải tiên sư mày phải xưng tao. Phải hôn chùn chụt phải cười đĩ thỏa. Em đâu có thích? Em muốn mơ mộng lãng mạn như hồi xưa, hồi chúng mình yêu nhau lần đầu, hồi anh hôn em rụt rè với đôi bàn tay ngượng nghịu.

              Nàng bỗng bật cười:

              - Anh nhớ lúc bấy giờ anh hôn em như thế nào không?

              Tôi lắc đầu .

              - Anh để mũi vào má em rồi hít dài như người ta hôn trẻ con.

              Tôi cũng bật cười và thấy xốn xang ở nơi mắt của mình. Tôi nhớ lại mùi thơm của cái hôn đầu tiên đó. Lúc bấy giờ chỗ chúng tôi ngồi có mấy bụi é rừng, chúng tôi đứa nào cũng bứt từng nắm lá é vò giữa những ngón tay rồi để lên mũi ngửi. Khi tôi kính cẩn hôn lên má Huệ, tôi nghe mùi thơm cay của é rừng lẫn với mùi da thịt ấm áp nồng nồng.

              Huệ nói:

              - Đời em hỏng rồi. Lấy thằng Huê kỳ hay Huê kiều hay Việt Nam gì rồi cũng lê lết thân tàn cho đến ngày xuống lỗ.

              Nàng hít dài một hơi thuốc lá:

              - Anh với em thì cách biệt nhau quá xa rồi, mỗi người ở mỗi điểm trên một đường thẳng. Khi không được lấy nhau thì chúng mình như hai động tử nghịch chiều cứ mỗi ngày mỗi xa cách thêm. Thật là họa hoằn lắm mới gặp nhau được như hôm nay. Aø, lúc nãy anh bảo anh hiện làm gì?

              Có nên thú thật với Huệ không? Trả lời rằng: Anh đi thu tiền rác? Không được. Huệ vẫn còn giữ tình yêu với tôi, vẫn còn nhìn về khung trời màu xanh với rộc rau muống và cái hôn đượm mùi é rừng. Không. Tôi lắc đầu. Thà tôi thất nghiệp.

              - Sao anh lắc đầu?

              - Ờ! Anh làm việc nhì nhằng. Cũng có thể coi như đang thất nghiệp. Cuộc sống khó khăn, chiến tranh đẩy quá nhiều người về đô thị…

              Tôi nói lảm nhảm rất nhiều để tránh phải nói đúng điều tôi muốn nói.

              Huệ nắm lấy tay tôi :

              - Được rồi. Để em liệu tìm việc cho anh. Sở của Johnny tuyển người luôn luôn, nhưng để em vận động cho anh vào làm ở cơ quan dân sự cho nhàn hơn.

              Cho đến lúc chia tay, Huệ không hỏi một lời nào về gia đình tôi hết. Có phải vì thì giờ eo hẹp, vì có nhiều kỷ niệm ngày xưa cần gợi lại hay vì những lý do tâm lý nào khác? Huệ không muốn có ai xen vào giữa chúng tôi? Có lúc nàng cầm hai tay tôi rõ chặt, rõ lâu rồi nói:

              - Phải chi em có thể nắm chắc hai tay của anh mãi mãi như thế này, khỏi phải bỏ ra. Em không cần ăn. Không cần sung sướng. Không cần sống.

              Tôi đưa mắt tìm một tấm gương soi lớn để ngó xem tôi có xứng đáng không với tấm lòng thiết tha của Huệ. Nhưng đồng thời tôi lại sợ: nếu nhìn vào tấm gương, e tôi phải vội vàng kéo lui đôi tay của mình.

              Tiễn tôi ra đến cổng, Huệ dặn:

              - Hôm nào anh đưa em về nhà quê chơi một ngày. Suốt một ngày. Nhà quê nơi nào cũng được, của ai cũng được.

              Huệ trao tay cho tôi bắt.

              Khi ngồi lên xe đạp, tôi cảm thấy không còn đủ sức để đạp nữa trên những con đường lồi lõm chang chang ánh nắng. Tôi không còn đủ can đảm để tiếp tục đi gõ cửa những nhà còn lại, chìa tập biên lai và đọc câu phù chú: “Xin bà cho tiền rác tháng này”. Tôi chán nản hết: công việc, trách nhiệm, âu lo. Nhưng đồng thời sao lại có một niềm hy vọng mới, một sức mạnh mới len lỏi trong tôi như một giây leo luồn tránh bao nhiêu thân cây rậm rạp để ngoi lên ánh sáng.

              Tôi ghé lại một quán nước, gọi một chai 33 và ngồi suy nghĩ mông lung. Óc tôi thoáng dày đặc, thoáng trống rỗng. Tôi quằn quại trong một hiện tại nhiều biến cố, thong thả trong một quá khứ có những khoảng mát. Tôi nghe phảng phất mùi thơm cay của lá é rừng vò nát trong ngón tay. Và câu nói của Huệ. Tôi lẩm bẩm nói lại với nàng:

              - Huệ ơi! Chúng ta hôm nay không còn ngây thơ nữa. Thân em giang hồ và thân anh đọa đày. Nên anh tin chắc chắn là lần sau anh sẽ hôn em đàng hoàng hơn. Không còn để mũi vào má em rồi hít như người ta hôn trẻ con nữa đâu.
              #22
                hai1957 03.12.2012 10:17:06 (permalink)
                7. CHUYỆN CÁI RĂNG



                Văn có những kỷ niệm không mấy êm đềm về những cái răng của mình. Kỷ niệm xưa nhất lảng vảng vào chặng chàng lên chín, mười tuổi. Lúc bấy giờ, dù nhỏ, chàng đã phải đóng vai một cậu học sinh đi trọ học ở trường Huyện. Mỗi tuần về thăm nhà một lần vào chiều thứ Bảy, chàng đã vừa đi vừa chạy để nuốt cho hết quãng đường dài hơn ba cây số cốt sao cho đến bến đò Cây Dừa mặt trời vừa lặn. Đoạn đường từ xóm Bình Hòa ra đến bến đò là một bãi cát rộng đầy bụi gai xương rồng và mồ mả. Từng chặng nổi lên một cây mù-u hay một bụi tre. Sự có mặt của những chòm cây lớn không giảm bớt cái không khí hoang lạnh ma quái của bãi cát vắng. Thỉnh thoảng một bông vú dẻ đưa hương ngọt ngào nhưng Văn không dám dừng lại hái. Chàng lầm lũi bước, tầm mắt cố khép lại ở ngang hai rìa đường và lưng chàng như tê cứng. Tiếng “rẹt” của con rắn mối chạy vội vã vào bụi rậm đủ làm cho một luồng máu lạnh dâng lên chạy tràn ra khắp lưng. Chàng giữ để khỏi nhìn ra đằng sau lưng. Chàng nghĩ, nếu lỡ nhìn ra sau, chàng sẽ hoặc ù té chạy hoặc ngất đi nên chàng nắm chặt sự can đảm trong hai bàn tay nhỏ, cúi nhìn xuống từng hòn đá dưới chân và chú ý chỉ nghe tiếng chân mình sào sạo trên sỏi. Bé bỏng và nhút nhát chừng ấy mà Văn đã phải một mình chống chọi với một cái răng sâu khi xa nhà. Mỗi lần răng nhức, chàng vào nằm ở bộ ván sát vách cong lưng và co quắp chân lại áp phía có răng sâu xuống gối. Chàng cố gắng ngủ, bỏ những bữa cơm trưa cơm tối. Chủ nhà trọ thấy vắng chàng ở bữa cơm, lơ đãng hỏi:

                - Thằng Văn sao không đi ăn cơm?

                Tiếng một đứa bạn ở trọ trả lời cũng một cách lơ đãng:

                - Thưa thím nó nhức răng.

                - Tội chưa.

                Và tiếp theo là tiếng bát đũa va vào nhau, tiếng húp canh xì xoạt, tiếng cười nói ồn ào. Những buổi tối, Văn nằm im ôm cái má có răng nhức đưa mắt lén nhìn gia đình sum họp của người chủ trọ. Lũ con của nhà chủ quây quần xung quanh cha mẹ. Thằng Tư lên 5 tuổi kéo em nó để đòi má bế. Con Ngọc lên 9 tuổi mà được cha nó vuốt tóc và kiểm soát tai, mũi:

                - Ơ này mình ơi, sao tai con Ngọc có cái mụt gì thế này?

                - Đâu? Đâu nào?

                Bà chủ trọ lật đật bỏ con nhỏ xuống, kéo đứa chị lại gần mình để xem xét cái tai. Đôi mắt nheo nheo đầy tình trìu mến. Xem xét sờ mó một lát, bà mỉm cười:

                - Cái mụt cóc nó có từ hồi 5 tuổi.

                Nói đoạn bà cúi xuống hôn tóc con rồi vội đẩy con ra:

                - Mồ tổ cha mày, cái đầu chua lét. Trưa mai nhắc má gội cho.

                Sự đầm ấm trong gia đình người làm cho Văn tủi thân. Nó mường tượng đến quê hương nó, đến con đường của xóm Lò Gốm đầy đá và mẻ sành, đến cái cổng nhà nó, đến cái bàn cái ghế, con chó, cái giếng, đến cha mẹ và lũ em nó. Ôi! Bao nhiêu là đầm ấm, thế mà nó phải nằm một mình ở đây, ôm một cái răng nhức và chỉ biết đợi cho cái răng tự ý êm đi. Giá ở nhà, nó sẽ đi lại cái bàn kê ở đầu giường lấy lọ dầu Nhị Thiên chấm một giọt nhỏ vào lỗ răng. Thơm, cay và đỡ nhức biết bao! Trong cái khay đặt trên bàn đó sao mà lắm dầu, lắm thuốc dầu chanh, dầu chổi, dầu cù là, dầu bạc hà, an-côn đờ măng (1 ) Nó thèm thuồng mà nghĩ rằng một thứ dầu nào trong số những lọ dầu kia cũng đủ sức để làm mất cơn đau. Ở đây thì không có gì cả, không có món gì dự trữ trong nhà. Nước mắm, dầu hỏa mà cũng sai con xách chai đi mua ở hàng quán. Ở nhà nó, nó không hề nghe đến tiếng “hết”. Không hiểu vì sao mà chai luôn luôn có dầu có nước mắm, tỉn luôn luôn có bột có đường, khạp luôn luôn có gạo. Sự sung túc ấy Văn phải giã từ để sống cuộc đời trọ học thiếu thốn khắc khổ, nhất là những khi ốm đau. Sự suy nghĩ miên man làm nó quên bớt đau và nó ngủ hồi nào không hay.

                Cái răng sâu ấy sau đó không biết do ai nhổ. Có những kỷ niệm rõ ràng nằm ôm răng nhức mà lại không nhớ cái kềm nào đã thò vào để nhổ cái răng ấy đi, thật cũng lạ.

                Bẵng đi một thời gian dài, cuộc sống không bị đánh dấu bởi những cuộc nhức răng nữa. Năm mười chín hai mươi tuổi, rút kinh nghiệm những cái răng sâu thuở nhỏ, Văn nhìn cái răng hàm có chấm đen một cách nghi ngờ. Làm hư răng là những cái chấm có bề ngoài hiền lành vô hại này. Có phương tiện để lo xa, - lúc bấy giờ chàng đang ở Hà Nội, - chàng ghé lại mấy hiệu chữa răng trồng răng, Minh Sinh hay Kim Sinh gì đó. Hiệu nào bề ngoài trông cũng qui mô rực rỡ. Những hình vẽ hàm răng bổ ngang bổ dọc với gân đỏ, gân xanh có vẻ như dọa nạt chủ nhân của những chiếc răng hư. Vừa bước vào hiệu, chàng bị chủ nhân xoắn lấy. Rồi thì miệng ba hoa, tay múa may, chủ nhân giảng cho chàng nghe tất cả những sự hiểm nguy của một vết đen trên răng, những hiểm nguy có thật do khoa học tuyên bố và những hiểm nguy tưởng tượng do chủ nhân tự bày đặt lấy. Tiếp theo, chủ nhân bưng ra một khay đựng đầy những dụng cụ mạ kền trắng tinh trong đó có mọi thứ kềm đủ cỡ. Chủ nhân lấy đưa chàng coi một cái kim mảnh mà dài vừa nói một cách long trọng:

                - Tôi sẽ lấy “ne” (nerf) (1 ) cho ông.

                Sự biểu diễn quá chu đáo khiến Văn đâm ra nghi ngại. Chàng lén nhìn sang cái môi dày của nhà khoa học, - tức chủ nhân, - đôi hàm răng khập khễnh và cặp mắt ti hí. Nhìn rộng ra khuôn mặt, chàng thấy khó lòng có một điểm thông minh nhỏ lạc loài ở một vị trí nào trên khuôn mặt đó. Đưa mắt nhìn rộng hơn, chàng kết luận rằng chỉ có cái áo blouse trắng mà chủ nhân khoác, cái ghế ngồi dành cho nạn nhân và cái khay đựng kềm đủ cỡ là có tính chất khoa học mà thôi. Chàng phải lật đật vừa đứng dậy vừa nói:

                - Hôm nay tôi đến hỏi thăm cách chữa của ông. Sáng mai tôi sẽ lại.

                Chủ nhân cũng lật đật vui vẻ:

                - Vâng. Sáng mai xin mời ông trở lại. Chúng tôi làm việc rất cẩn thận nên rất được tín nhiệm. Vâng. Kính chào ông… Vâng…

                Văn không biết tiếng “vâng” cuối cùng là tiếng nhận lời chào của chàng hay tiếng “vâng” chuyển mạch quen miệng của anh nha sĩ. Nhưng chàng biết chắc chắn là mình vừa thoát nạn.

                Sau đó, một người bạn quen mách chàng:

                -Răng “toa” mới có chấm đen, đừng đến nha sĩ tốn tiền. “Toa” ghé lại phân khoa nha y của trường Thuốc ở ngang góc đường Tràng Tiền Hội Vũ. Ở đấy có giáo sư chuyên môn dạy cho các sinh viên nha khoa. Sinh viên họ chữa cho dưới sự chỉ dẫn của giáo sư.

                Lời đề nghị nghe rất hợp lý, Văn nghe theo. Chàng đến đúng giờ làm việc của phân khoa và sốt ruột ngồi ở phòng đợi, chờ đến phiên mình. Để giải trí, chàng để ý đến mọi chi tiết nhỏ xung quanh. Thú vị nhất có lẽ là khi nhìn cái anh sinh viên mang kính, mỗi lần gọi tên người bệnh thì gọi rất nhỏ và gọi giọng Tây. Gọi giọng Tây nghĩa là đánh vần các tên Việt Nam một cách khó nhọc vì gặp những vần ngớ ngẩn và những dấu giọng kỳ quái. Chẳng hạn vần uyên, oach… dấu hỏi, dấu ngã, dấu nặng. Anh sinh viên chừng đã nhẫn nại hết sức mới giữ cho khỏi phẫn nộ vì những cái tên oái oăm. Ngược lại anh, ông giáo sư người Pháp của anh thì hình như bất cần những băn khoăn hình thức đó. Ông bận sơ mi ngắn, quần tây cụt, mang xăng-đan đi đi lại lại không nhìn ai. Lũ lông lá đen ngòm trên cánh tay, trên ống chân cũng thản nhiên phô bày không ngượng nghịu, không giấu giếm, không kiểu cách. Chị sinh viên áo hoa cà dáng chừng con nhà quí phái nên nhìn cái răng nào của ai cũng tỏ vẻ khó chịu. Tiếc thay người ta lại chỉ đem răng - mà toàn những răng hư hỏng - đến cho chị săn sóc nên chị không biết làm cách nào khác. Cái nhún vai và cái bĩu môi lặp đi lặp lại một cách đều đặn, cuối cùng, Văn coi như là một cử chỉ chào đặc biệt của chị, chào những cái răng mới tới.

                Văn được một chị sinh viên thân hình cục mịch mặt mũi hơi xấu xí mời vào ghế da. Chàng băn khoăn không biết như thế là may hay rủi. Người xấu xí thường làm việc rất tận tâm nhưng cũng có thể rất dễ cáu. Chị bắt chàng há miệng, liếc nhìn cái răng một cách lạnh lùng rồi cho máy khoan vào nạo. Văn sợ sự tàn nhẫn của hai bàn tay trả thù, vì một người không đẹp thì có rất nhiều mối thù, thù những người đẹp, thù ông trời, thù cha mẹ, thù cả những vật, những người không can dự gì đến sắc đẹp của họ hết.

                Sau mười phút hồi hộp, lo lắng, chàng được giải phóng. Về đến nhà trọ chàng lật đật đem gương ra soi xem thì thấy một đường trám trắng tinh nằm giữa răng. Màu trắng tinh sạch có đủ tính chất khoa học làm chàng yên tâm và tin tưởng. Đi giữa phố đông đảo chàng có cái thú hiên ngang của một người lành mạnh.

                Nhưng cái thú ấy hưởng không được lâu. Chừng hai tháng, thứ xi măng trám tuy vẫn giữ y màu trắng nhưng bị mòn đi, trũng xuống. Chàng chưa kịp đưa ra đi trám lại thì chiến tranh bùng nổ phải chạy tản cư về quê. Cuộc chiến kéo dài, cái răng lủng dần, sâu rộng ra, hóa thành cái răng sâu thật sự. Thế là như mười mấy năm trước, sự vui buồn của chàng vốn chịu lệ thuộc ở nhiều điều kiện, nay lại lệ thuộc thêm ở cái răng hoặc êm hoặc nhức. Thật vô lý hết sức là những cái răng sâu.

                (1) alcool de menthe: dầu bạc hà

                Nó nhức bất ngờ cũng như nó êm không hẹn trước. Sáng ngủ dậy cảm thấy rêm rêm mà tìm mãi nhất định không thấy lý do vì đâu. Nhức nhối tưởng có thể vỡ đầu ra được, thế mà nằm ngủ một giấc, - giấc ngủ đầy những mộng mị, cố nhiên, - sáng ra thấy êm ả y như chẳng có việc gì vừa xảy ra hết. Sự bình thản êm đềm ấy có một vẻ gì dối trá giống như một buổi sáng tươi nắng sau một đêm giông tố.

                Văn chịu đựng sự hành hạ độc đoán của cái răng mà không đòi hỏi gì ở nó hết. Nó không còn đủ khả năng để nhai nữa. Nó cũng không đóng vai “có mặt” như những cái răng cửa mà nhiều khi người ta giữ lại với một mục đích là để kín hàm răng. Mặc dù vậy, nó vẫn cứ bể lần, bể lần. Cho đến một ngày nào đó trong cái năm kháng chiến không biết thứ mấy, Văn phải giao nó cho cái kềm của ông bác sĩ. Sự phân khoa học của ngành y học hiện đại chỉ cho phép ông bác sĩ toàn khoa nhổ được răng chớ không chữa được răng. Chàng yên tâm vứt bỏ nó mà không phản kháng gì hết vì sống bấp bênh giữa chiến tranh người ta không có quyền lựa chọn. Vả lại một cái răng thì có nghĩa gì khi cả cuộc đời một người cũng có thể dễ dàng bị xóa bỏ trong một vụ thả bom, trong một cuộc càn quét. Huống chi đời sống kham khổ trong khói lửa đâu để cho người ta có thì giờ và có phương tiện nghĩ đến những bộ phận phụ thuộc của con người như “cái răng cái tóc”.

                Tuy vậy, sau đó khi một cái răng cửa mẻ đi một cạnh, Văn không giữ nổi bình tĩnh nữa. Chàng phải đi Bồng Sơn cậy một người thợ trồng răng người Trung Hoa. Đó là người thợ giỏi nhất, theo như lời nhiều người giới thiệu. Anh ta nạo bỏ cái phần sâu của răng và bịt vàng viền xung quanh. Lần này Văn tin cậy một cách rất tương đối ở lối chữa đó của anh thợ. Nạo lớp sâu mà không có thuốc gì khử được sâu đi thì tai họa chỉ bớt đi, làm cho chậm xảy đến chớ không phải là hoàn toàn rạch bỏ tai họa. Nhưng vì lối chữa đó là độc nhất nên chàng phải tạm bằng lòng. Những lúc này, chàng thấy ước muốn được chữa bởi mấy anh chị sinh viên cẩu thả ngày trước. Vì dẫu sao họ cũng còn phân biệt được thế nào là cẩu thả phản khoa học thế nào là khoa học thật. Nếu họ không làm chu đáo là vì họ không muốn làm chớ không phải là vì họ không biết làm. Còn người thợ này thì chắc chắn là anh ta chỉ nhờ cậy ở trực giác, và nếu may mà có thì giờ ở kinh nghiệm.

                Hai năm… Ba năm trôi qua. Thỉnh thoảng nhìn vào gương chàng dò xét cái răng và ngạc nhiên thấy nó không bị sâu thêm. Mặt răng vẫn một màu ngà trắng. Chàng lạc quan kết luận: Anh thợ Trung Hoa coi vậy mà làm nên việc. Sự luộm thuộm phản khoa học không ngờ lại đem lại kết quả tốt. Nếu không nạo sâu và viền vàng, cái răng dễ đã hư mất từ lâu rồi. Và chàng thầm hẹn: Đừng bao giờ vội kết luận khi vấn đề chưa kinh quá thời gian.

                Sau đó, chiến tranh chấm dứt. Cuộc sống có đủ tiện nghi trở lại. Cái viền vàng của kỹ thuật thời tiền chiến bị xem là lạc hậu so với kỹ thuật răng xương vặn pi-vô, cũng như những mái tóc chải vồng, những mái tóc bỏ vào lưới rất hợp thời thuở tiền chiến đã bị thay đi bằng những mái tóc uốn quăn nhuộm màu. Văn không muốn chạy theo thời trang nhưng mối băn khoăn vì cái răng chưa được chữa kỹ thỉnh thoảng vẫn ám ảnh chàng.

                Một buổi chiều thứ bảy rảnh việc chàng đi rong chơi thành phố. Qua một ngã tư, vì phải đợi một đoàn xe dài chạy nối đuôi nhau, chàng lưu ý đến một tấm bảng Nha sĩ quen quen. Nơi này trước kia lại là một hàng giải khát có khá đông nữ chiêu đãi viên. Chàng tò mò nhìn con đường rãi sỏi dẫn vào nhà, cái giàn hoa ti-gôn màu vàng nhạt. Nhớ tới cái răng hôm qua hơi ê và bực mình vì đoàn xe rầm rộ chạy không dứt, chàng bước vào phòng nha sĩ.

                Khi ngồi vào ghế da, chàng chỉ cái răng và kể tiểu sử của nó. Nha sĩ lắng tai nghe. Đó là một người dong dỏng cao, mắt nhỏ và tròn. Nét mặt có một vẻ nghẹn ngào bằng lòng, dễ dãi và cam chịu. Người này lúc nhỏ đi học chắc thường bị chúng bạn ăn hiếp. Đôi má nhếch lên theo thói quen và nếp nhăn ở đôi mắt như chuẩn bị để nhăn theo một cái cười giải hòa. Hàm rộng khá rậm râu, chân râu vào buổi chiều đâm tua tủa. Nghe chàng trình bày xong nha sĩ thò kềm tháo cái viền vàng, lấy cái châm nhọn do thám kẽ răng rồi đột nhiên nói:

                - Ở dưới nuớu răng của ông có mọc một cái mụt.

                - Vâng, tôi biết.

                - Cái mụt mọc đã bao lâu? Ý tôi muốn nói lần đầu tiên một cái mụt như thế mọc ra, ông nhớ lại xem cách đây bao lâu?

                Văn ngần ngừ tính toán một lát nhưng quả tình chàng không nhớ rõ bao lâu. Chắc đã có từ lâu lắm nhưng nghĩ ngượng ngượng, chàng nói:

                - Chắc chừng 5, 6 tháng.

                Nha sĩ đứng xích ra và nghiêm trọng nói:

                - Ông cần rọi điện và chụp hình hàm răng.

                Văn ngạc nhiên như mình vừa nghe lầm. Nha sĩ chừng quen với những phản ứng im lặng như vậy của bệnh nhân nên điềm tĩnh giảng giải:

                - Cái mụt mọc ở mãi trong này khiến tôi nghi ngại là xương hàm bị có mủ. Sâu răng nó không ăn ra ngoài răng được nên nó ăn vào xương hàm. Phải rọi điện và chụp hình thì mới biết chắc mà chữa.

                Thế là chàng từ phòng nha sĩ đi ra, tay cầm tờ giấy giới thiệu đi rọi điện. Lại vô lý hết sức là cái răng, - chàng bực tức nghĩ. Tưởng nhờ nha sĩ băng thuốc, lấy gân máu rồi cưa tra răng xương vào, công việc dễ dàng và đơn giản như vậy, ai ngờ lại đi tìm thêm sự rắc rối. Mà cái răng có vẻ đòi hỏi gì cho cam!

                Nó vẫn tử tế như thường ngày. Con mắt xoi mói đa nghi của nhà khoa học để vào đâu là y như họ thấy tai nạn có thể xảy ra từng chuỗi. Nhưng đã trót nghe trót biết, chàng phải làm y theo lời nha sĩ vậy.

                Chiều hôm đó chàng đến phòng mạch của bác sĩ rọi điện. Khi xe lái vào dưỡng đường, chàng lưu ý xem trên đường có những người quen nào thấy mình chăng. Chàng ngại bị bắt gặp bước vào một phòng khám bệnh. Chàng lấy dáng mạnh bạo, vẻ mặt vui tươi bình tĩnh bước vào. Y như một người đi thăm người bệnh hoặc mình là bạn đến thăm ông bác sĩ.

                Ở phòng đợi nhiều người đàn bà ngồi. Có người bình tĩnh như ngồi đợi một chuyến tàu. Có lẽ bệnh hoạn đối với họ đã quen thuộc. Một người đàn bà có mang bế một đứa bé gái chừng 2 tuổi. Đứa bé khóc, quấy, đứng dậy ngồi xuống bà người đàn bà nhẫn nại chiều theo mọi cử động của con, miệng không ngớt dỗ dành. Đôi mắt người đàn bà chỉ nhìn xuống con và nhìn xuống đất. Thỉnh thoảng khi con thét lên thì đôi mắt ấy liếc nhanh qua hàng ghế trước mặt như ngầm xin lỗi. Văn thấy quả đáng tội nghiệp là những người đàn bà. Họ nhận hết những phiền phức, những tội lỗi về họ.

                Trước mặt chàng, một người đàn ông cũng đang ngồi đợi. Vẻ mặt buồn và dáng ngồi khép nép nhu mì. Sự cô đơn, dù vậy, vẫn chứa một vẻ gì ích kỷ. Khi đau ốm, người đàn ông thường chỉ lo cho thân mình, còn người đàn bà đa mang hơn. Đó là một vấn đề phân công, chàng biết vậy, nhưng chàng vẫn cảm thấy mình thiếu thốn bổn phận hết sức khi nhìn những người đàn bà bận rộn kia.

                Một tiếng phanh xe xích lô lách cách vang lên. Lại một người đàn bà bế con bước xuống. Bộ quần áo nhầu nát và cái chăn quấn con bẩn thỉu phù hợp với vẻ mặt cằn cỗi tối tăm vì nghèo.

                Đứng một lát thấy mỏi chân, chàng ghé ngồi xuống một đầu chiếc băng gỗ. Vừa ngồi chàng vừa thầm trách mình: trong sự lo lắng vì bệnh tật, mình còn phân biệt sự sang hèn của chỗ ngồi. Ừ, mà thật vậy, những cái băng gỗ sơn xanh như thẹn thùng vì không nhận được những người khách sang trọng. Người đàn ông độc nhất ăn mặc đứng đắn là chàng thì chắp tay sau lưng đi đi lại lại, hết nhìn những tấm phim rọi phổi, rọi xương sống, vỏ não, tử cung…, đến lẩm nhẩm đọc hết mọi chi tiết quảng cáo thuật “đẻ không đau”. Những người đàn bà đẹp và sang trọng không thấy ngồi ở cái băng bình dân ấy. Họ bước xuống xe, đi thẳng lại cửa kính gõ nhẹ vài cái, tức thì cửa kính hé ra, đớp mất họ rồi khép kín, im ỉm. Những người ngồi ngoài càng thấy mình nhẫn nại và cam chịu. Một người đàn bà dáng chừng đanh đá, không chịu thua, bước tới đứng chực sẵn ở cửa. Khi cửa hé nhả ra một bệnh nhân tươi tỉnh thì người đàn bà xông vào không để cô y tá kịp giữ lại. Và cánh cửa lại khép. Vừa đến sau, vừa không phải là người đẹp, Văn đành ngồi tẩn mẩn thương hại vẩn vơ cho con người phải tranh giành nhau cả trong những trường hợp không thích thú gì cho lắm.

                Khi cô y tá lách mình ra mời chàng vào, sự hồi hộp làm chàng hơi choáng váng. Một cái răng, một mảnh xương hàm giá trị thật không bao nhiêu so với những hồi khám phổi khám tim nhưng vì nó có giữ những bí mật nên nó cứ gây ra hy vọng và thất vọng liên tiếp. Sự hồi hộp quá dễ dãi khiến chàng hơi bực mình.

                Khi nằm lên cái bàn dài ở phòng tối, chàng khó chịu nhìn cái máy đồ sộ mà ông bác sĩ cho chạy nhè nhẹ từ trên cao áp gần xuống mặt chàng. Đây là cái máy nói sự thật, những sự thật thường là khiếp đảm, những sự thật phũ phàng phá vỡ hạnh phúc của những đời người. Nhưng niềm lo lắng của Văn vụt nhiên thấy nhẹ đi, như loãng ra khi chàng liên tưởng đến những bệnh nhân mang những bệnh trầm trọng đã từng nằm dưới cái máy này, đã đứng trước cái máy này. Tiếng ông bác sĩ vang nhè nhẹ trong cái khí lạnh âm u:

                - Ông nằm có thấy khó chịu không? Cái gối để như thế có vừa không?

                Tiếng trả lời của chàng như tắt nghẽn:

                - Vâng… Tốt… Được.

                - Ông há miệng to ra. Đúng là cái răng này đấy nhé? Ông để hai ngón tay giữ dùm miếng phim này. Vâng. Vâng. Giữ chặt như thế… Vâng. Ông yên lặng… Xong rồi.

                Mọi việc xong trong nháy mắt. Cái phút quan trọng đã qua rồi. Khi ra bàn giấy để trả tiền, chàng lưu ý nhìn ông bác sĩ và các cô y tá. Những người này tràn đầy sức khỏe giữa bầy bệnh nhân đang vây quanh họ. Chắc họ dễ cảm thấy họ sung sướng và yêu đời khi hàng ngày va chạm với toàn những người đau khổ. Hạnh phúc là một ý niệm tương đối. Vậy làm y tá chắc là dễ bằng lòng hơn làm nhân viên ngân hàng, nhân viên ngân khố chẳng hạn. Lương mỗi tháng vài ngàn bạc mà cứ phải mãi nghe những con số triệu, tiếp xúc hàng ngày với những người mà con số ngàn không được ghi thành chương mục trong óc, mà tâm trí chỉ chịu bận bịu với những con số từ mười vạn trở lên thì thật tủi thân vô cùng. Thật y như một người kém nhan sắc mà cứ phải nhìn mãi bóng mình trong tấm gương soi ở hiệu uốn tóc.

                Cô y tá nhí nhảnh thưa:

                - Thưa ông chiều mai đến lấy phim.

                - Giờ này?

                - Vâng.

                Chàng mở cửa bước ra hiên. Không khí ở ngoài mát mẻ ôm chụp lấy chàng. Những bệnh nhân đang ngồi đợi đều ngẩng mặt lên một loạt nhìn vào chàng để tìm đọc một nét đau khổ. Chàng phải mỉm cười nhè nhẹ vừa cúi nhìn xuống đất.

                Bụi bông giấy mọc ở mé hiên lá xanh dày, sáng rực một màu xanh dịu dàng. Rời bỏ những máy móc vừa nhắc đến nỗi khổ triền miên của loài người, chàng thấy lòng mình êm dịu lại khi tựa vào thiên nhiên vui tươi và lành mạnh.

                Xế hôm sau Văn đến lấy phim. Sự hồi hộp, hy vọng và lo sợ đã quen đi, hôm nay chàng thấy mình rất nhẫn nại, chuẩn bị để nghe những tin xấu về cái răng. Chàng định ăn mặc thật cẩn thận, giày mới và ca-vát tươi màu để tránh cái vẻ dáng thương hại của một người có khuyết điểm, nhưng nghĩ thì hăng hái như vậy mà khi thực hành chàng thấy không đủ hào hứng. Rốt cuộc ca-vát có tươi màu mà đôi giày thì vẫn đôi thường ngày. Cô y tá nhí nhảnh chào chàng:

                - Thưa ông đến lấy phim?

                Lẽ tất nhiên. Sao cô không tìm được một lời chào nào khác hơn? Thấy mặt mũi cô đẹp đẽ dễ yêu, chàng mỉm cười không trả lời, nụ cười giễu cợt nhẹ nhàng. Thông minh, cô đáp lại cũng bằng một nụ cười nhỏ rồi khẽ cúi đầu quay vào.

                Sự tiếp xúc với phòng bệnh hôm nay bắt đầu bằng nụ cười làm chàng hơi vui vui. Ông bác sĩ tiếp chàng và đưa cái phim, chỉ một vết trắng nhỏ ở chỗ xương hàm. Thế là cái răng bị tuyên án. Bao nhiêu nỗi băn khoăn hồi hộp cuối cùng được kết thúc một cách trơ trẽn bằng cái vết trắng ấy trong mảnh phim. Sự có mặt của ông bác sĩ chợt trở nên vô ích và lời nói của ông cũng hóa ra lạt lẽo. Cái gánh nặng của sự âu lo không biết đã rơi đâu mất hay bỗng thành nặng quá, quá sức cảm giác của chàng. Chàng cầm lấy phim giơ lên một cách thất vọng. Cái vết trắng sờ sờ ra đó, chàng không thể mong là một sự huyền hoặc. Chàng cúi chào ông bác sĩ rồi quay gót.

                Cô y tá cầm tay nắm cửa, hé mở vừa mỉm cười chào chàng. Chàng lách mình đi qua. Chợt thấy mình thiếu xã giao một cách vô lý, chàng khẽ mỉm cười trả lại nhưng cô y tá đã ở quá sau lưng, cái mỉm cười nở quá chậm. Giận dỗi, chàng nện mạnh gót giày xuống nền nhà và gọi xe đến phòng nha sĩ.

                Vừa gặp chàng, ông nha sĩ nói ngay:

                - Tôi đã được xem cái phim của ông. Hồi 11 giờ trưa nhân qua đó lấy cái phim của một người quen, tôi có hỏi xem cái phim của ông. Thật đúng như lời tôi đã đoán.

                Hy vọng rằng ông có thể lầm với rằng ai chăng, chàng móc đưa tấm phim. Ông cầm lấy, giơ lên ánh sáng và chỉ cho chàng xem.

                - Cái chân răng này tốt, ông thấy chưa? Còn chỗ chân này bị làm mủ vào xương hàm.

                Chàng hỏi:

                - Thế ông có cách gì chữa?

                - Phải nhổ thôi.

                - Không thể có cách khác?

                - Chỉ có nhổ. Nhổ đi rồi mới làm curetage (2) được.

                Im lặng một phút. Cuối cùng chàng nói một cách chán nản:

                - Nếu không có cách nào khác thì đành phải vậy chớ biết làm sao?

                Chàng tránh không dùng chữ “nhổ”, coi như nói lên chữ ấy là mình đã mạnh bạo đồng ý với nha sĩ. Có thể người nha sĩ sẽ vin vào chữ ấy để xem như chính chàng ra lệnh. Nhưng ông nha sĩ dáng chừng bình tĩnh đến mức độ không cảm xúc. Lập tức ông ra lệnh cho anh phụ lấy ống tiêm, thuốc tê. Ông châm mũi tiêm vào nuớu, châm chỗ này rồi chỗ nọ, cùng khắp vội vàng. Rồi xoi, rồi kềm, ông ta túi bụi nạy, kéo, mắt chăm chăm nhìn vào cái răng như thù hiềm, như sợ nó trốn đi mất. Cuối cùng, một tiếng “xoảng” trên nắp khay cái kềm bỏ xuống, miếng bông thuốc ấp vào và Văn hoàn toàn là một bệnh nhân thiểu não.

                Trên đường về nhà, chàng thầm thương cho mình và cho anh thợ trồng răng hiệu Hồng Phát mà chàng vừa ghé cách đây năm bữa. Bữa ấy chàng còn đinh ninh là răng mình còn tốt và người thợ trồng răng rất đồng ý với chàng về điểm đó. Anh ta đề nghị một cách êm đẹp:

                - tôi lấy gân máu cái răng này rồi tôi sẽ cưa đi. Xong đâu đó, tôi tra pi-vô răng xương vào. Răng xương “mác” bên Tây cẩn thận có bảo đảm và vàng 18 ca-ra chớ không phải răng Nhật đâu.

                - Bao nhiêu tiền?

                - Tôi lấy ba trăm mỗi cái.

                Chưa có kinh nghiệm về giá, nhưng chàng cũng kêu lên theo thói quen của người mua:

                - Đắt vậy?

                - Giá biểu tôi vẫn đề sáu trăm đồng một cái.

                Chàng liếc nhìn lên tấm ghi giá biểu và đồng ý là anh thợ nói thật.

                - Các nha sĩ họ đều tính sáu trăng đồng một cái.

                - Thế cưa đi thì mấy ngày mới tra được răng mới vào?

                - Cũng phải hai ngày.

                Chàng cười to lên, như chế nhạo người thợ nói lẩm cẩm:

                - Anh bắt tôi phải trống hàm răng trong hai ngày! Một ngày thôi. Một ngày chủ nhật.

                Anh thợ lắc đầu:

                - Một ngày thì không kịp vừa lấy dấu răng, vừa đúc thạch cao, vừa đổ vàng, vừa làm cho sắc sảo cạnh góc. Một ngày không được đâu. Hai ngày là nhanh nhất rồi đó.

                Không chịu để cho hàm răng bị trống hai ngày để hôm nay chàng cam nhận một lỗ trống trong một tháng rưỡi. Vì lời ông nha sĩ còn như văng vẳng bên tai:

                - Cái răng nhổ xong, ông phải súc miệng với Septyl trong 10 ngày. Uống Trisulfazine, Tetracycline 10 ngày. Một tháng rưỡi sau nghĩa là (ông dò lên cuốn lịch treo tường để gián tiếp nhắc chàng nhớ rằng việc này quan trọng lắm) 15 tháng Giêng ông mới có thể trồng được răng mới.

                Chàng lặng nghe, không phản kháng không mặc cả ngày tháng như lúc ngồi ở hiệu. Nghĩ đến đây, chàng thầm thương cho mình và cho anh thợ Hồng Phát. Đồng thời, mối lo len lỏi đến. Chàng làm nghề dạy học nên trống một cái răng không phải là việc dễ có thể bỏ qua. Trước nhất là sự xấu xí buồn cười của một hàm răng “trống cửa sổ”. Thầy giáo thường ngày vẫn nghiêm trang xứng đáng với sự tín phục của học sinh, mà tâm lý của người học sinh là không muốn chấp nhận một khuyết điểm nào ở nơi thầy giáo của họ hết. Thế thì bạn làm sao? Chắc chắn là không thể nói tự nhiên như ngày thường để cái lỗ trống làm trò cười cho học sinh khiến trí óc họ xao lãng mà lời giảng của mình cũng kém hứng thú. Nhưng che giấu cũng không được vì sớm chậm gì học sinh họ cũng tìm ra sự thật mà một khi họ đã tự khám phá ra sự thật thì họ sẽ yếu tố hiếp mình dữ lắm. Suy tính đắn đo đủ chiều, cuối cùng chàng quyết định: sẽ vừa nói sự thật vừa giữ cho mình không hóa thành trò cười.

                (2) nạo sạch

                Sáng thứ Hai chàng vào lớp. Sau khi đâu đó im lặng, chàng liếc nhìn cả lớp một cách chững chạc rồi tay trái che miệng, chàng chậm rãi nói:

                - Tôi vừa bị một tai nạn nhỏ làm hỏng một cái răng. Phải trong một tháng rưỡi mới chữa xong. Trong thời gian đó, có những âm lưỡi, âm răng như PH, V tôi không phát âm rõ được. Xin anh chị em chịu phiền và nhất là giữ im lặng hơn ngày thường.

                Vẻ mặt nghiêm trang và giọng nói hơi buồn khiến học sinh kính cẩn nghe. Họ không biết là chàng bị tai nạn gì. Có lẽ ngã xe chăng? Chắc không phải vì mặt mũi chàng lành lặn thế kia. “Còn chữa” nghĩa là thế nào? Nhưng chàng không để cho họ suy nghĩ lâu. Chàng mở sổ gọi đọc bài và như thế là mọi người giũ hết thắc mắc.

                Đối với một vài lớp đầu tiên thì dễ như thế đó. Nhưng có những lớp đến thứ Tư hay thứ Năm thứ Sáu, chàng mới có giờ dạy thì tình hình biến chuyển bi quan hơn. Số là cái tin chàng bị gãy răng đã loan truyền đi và học sinh các lớp sau này cứ lén khúc khích với nhau khi gặp chàng khiến cho câu mở đầu mất vẻ tự nhiên và nghiêm trọng đi. Riêng ở một lớp nọ thì ngẫu nhiên mà có một học sinh cũng bị bẻ răng nên hôm ấy anh ta đi học cứ lấy tay bịt miệng. Oái oăm là chàng kêu nhằm anh ta lên đọc bài. Thế là ở dưới lớp chỗ này chỗ kia có tiếng rúc rích cười. Một chị học sinh chừng thú vị quá phải nói bật thành câu:

                - Hai cha con…

                Chàng nghe, cũng muốn cười theo vì lời có duyên và hợp cảnh. Nhưng chàng phải cố kiềm hãm tiếng cười. Lời pha trò có duyên thật khó làm cho ta giận được. Cũng như ta khó ghét một người đẹp dẫu người ấy có những khuyết điểm. Qua đi giai đoạn nhập đề, đến phần gay go là phần tiếp xúc hàng ngày. Phải tập sao cho bàn tay trái lúc nào cũng kịp thời đưa lên che miệng khi miệng phát ra một tiếng nói. Khi nói cả câu dài, khi giảng bài thì việc này không khó. Nguy nhất là những khi bật ra cười. Cười là cái biểu lộ tức thời có tính chất phản xạ tự nhiên. Đợi có một bàn tay đưa lên che miệng rồi mới cười thì cái cười đâm ra ngượng nghịu tính toán. Khi chưa quen khi chưa tập kiềm chế được, chàng đã vài lần lỡ cười rồi mới chợt nhớ ra mà ngượng nghịu mím miệng lại. Sau vài lần khuyết điểm như thế, chàng giữ thái độ khắc khổ của một người có tâm sự để đối phó với sự quyến rũ của những tiếng cười xung quanh. Đến việc phát âm. Những chữ phụ âm môi răng (consones labio-dentales) lúc nhỏ học văn phạm đọc thuộc lòng một cách khó khăn, bây giờ không cần coi lại sách mà vẫn nhớ. Cứ việc phát âm lên rồi chữ nào xì hơi ở ngay cái chỗ lỗ răng trống là biết ngay nó thuộc phụ âm môi răng. Ví dụ phụ âm V. Thật là phiền phức khi tiếng Việt có người chữ bắt đầu bằng V: vì, và, vâng, vả lại… Nhiều chữ khi gặp phải chàng tránh đi, như thay chữ “vì” bằng “bởi”, “vả lại” bằng “hơn nữa”. Nhưng đó là khi giảng bài, có thể hoặc nói hoặc không, có thể thay chữ này bằng chữ khác, còn khi đọc bài cho ghi chép thì không thể nào trốn tránh được. Có những đoạn oái oăm như:

                Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái.

                Hoa để vàng bởi tại bóng dương

                Hoa vàng hoa rụng quanh tường…

                Mỗi lần đọc chữ Vàng, chàng phải làm ra vẻ lơ đãng lấy một ngón tay ấn khít môi vào chỗ lỗ răng trắng rồi mới phát âm. Chữ “vàng” phát ra nghe nhọc mệt và lờ mờ. Chàng nhớ liền đến lời ông nha sĩ khi chàng tỏ ra băn khoăn:

                - Mất một cái răng trong hơn một tháng thật phiền cho việc phát âm.

                Người nha sĩ trả lời không cần suy nghĩ:

                - Mình sẽ vận dụng môi lưỡi để thay thế.

                Ông ta không nói xem vận dụng như thế nào và chàng cũng không muốn quấy rầy hỏi kỹ, coi như đó là việc nhỏ. Mà quả thật, khi gặp vào việc thì tự nhiên mình tự biết cách xử sự lấy. Và phải gặp lúc mất đi một cái răng chàng mới thấy rằng nói tiếng miền Nam, như mình thật có những sự tiện lợi. Đó là khi, dùng chữ “Và”, một chữ hay trở lại trong câu nói. Nói giọng miền Nam, chàng dùng chữ “Với” và phát âm như “Viới”. Nhưng san phẳng đi được mấy trở ngại đó trong giờ nói tiếng mẹ đẻ thì khi dạy tiếng Pháp chàng không thể tránh những chữ Vous, Voir, Va, Viens… Ở đây thì không phân biệt giọng Nam giọng Bắc nào nữa chỉ còn phương pháp độc nhất là lấy ngón tay ép môi vào lỗ răng thôi. May thay, không người học sinh nào để ý đến cái ngón tay chiến lược của thầy. “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” chàng thầm nghĩ. Và chàng tự an ủi: “Mất đi một cái răng, mình có được biết bao những kinh nghiệm độc đáo về cái răng”.

                Ngày đầu bàn tay trái phải luôn luôn giơ lên che miệng khiến cánh tay mỏi rừ. Những giờ cuối cùng trong ngày, cánh tay mỏi muốn run lên. Ngày hôm sau chàng phải ngồi lại bàn, chống một tay để xa trước miệng vừa nói, y như một diễn giả lấy điệu bộ hoặc như một nhà trí thức đang suy nghĩ. Vừa che giấu được cái xấu lại vừa tô điểm cho dáng dấp thêm đẹp, thật là một cử chỉ đơn giản mà quí giá. Sự phát minh này khiến chàng giảng bài một cách thích thú. Như một nhà nghệ sĩ mê say đi tìm những hình thức phô diễn mới, qua những ngày sau, chàng chỉ dùng một ngón tay trỏ cung lại để ngay trước miệng ngay chỗ cái răng trống. Và không biết vào ngày thứ mấy, chàng lại phát minh ra lối để dựng một quyển sách lên bàn cách xa mình 2 tấc, vừa đủ che miệng. Tuy vậy, những lúc thong thả thoải mái hơn hết vẫn là những lúc đứng ở cuối lớp quay mặt lên để đọc bài cho học sinh chép. Những lúc đó chàng khỏi phải che tay giấu miệng gì hết vì học sinh đều ngồi ngó lên thuận chiều với chàng. Sau chừng ba ngày những cử động quen đi. Biểu diễn thứ tự nhịp nhàng không còn lẫn lộn nữa. Dù vội vã trả lời lại, dù bất chợt bật ra cười, nhưng tay chàng đều kịp thời đưa lên che miệng.

                Cái răng đã thường xuyên ám ảnh khiến lúc nào chàng cũng để ý đến cái răng. Gặp một người, ngồi nói chuyện là y như mắt chàng nhìn thẳng vào đôi hàm răng của họ. Và đến đây chàng mới thấy rằng mình đã sống rất hời hợt, tiếp xúc lâu với một người mà mình không hề nhìn kỹ họ. Lần này có nhìn kỹ mới thấy rằng người bạn mình mất hết một cái răng nanh hàm dưới khiến phía môi ấy móp lại. Một anh bạn khác nghe chàng than phiền về cái răng gây ra tai họa liền tươi cười đáp:

                - Anh tưởng răng của tôi tốt lắm sao? Này…

                Anh bạn há miệng rồi chỉ vào dãy răng hàm hàm trên không còn cái nào.

                - Răng hàm hàm trên nhổ hết. Răng hàm hàm dưới còn vỏn vẹn hai cái. Đó là hàm bên trái. Răng hàm bên tay mặt cũng như vậy. Tôi ăn chỉ nhai lỏn chỏn bằng mấy cái răng cửa nên ăn rất chậm.

                Chàng nói một cách thất vọng:

                - Ai có thể tin được thấy anh béo tốt thế kia.

                - Đâu đã hết? Ruột của tôi lại cũng là thứ ruột bệnh hoạn. Đem rọi kiến chụp hình thì thấy cái kết tràng lên bị a-míp ăn bám dày đi.

                Chàng nhìn bạn và thấy yêu bạn hơn trước. Bệnh tật là một mối liên hệ bạn hữu. Chàng được an ủi khi biết rằng chung quanh mình, những người khác không phải đều hoàn toàn khỏe mạnh, hoàn toàn sung sướng hết. Trong khi đó thì có những người làm chủ những hàm răng tuyệt đẹp. Một cậu học sinh nhà ăn chay trường lên đọc bài để lộ một hàm răng quá đẹp so với dáng dấp lam lũ của anh. Hàm răng trắng tinh, nhỏ và đều. Chàng nhìn hàm răng một cách say mê như khi nhìn một tác phẩm mỹ thuật.

                Chàng thầm nghĩ và tiếc vẩn vơ, có một hàm răng tốt như thế này mà chỉ để ăn rau đậu không thì cũng uổng. Cứ say mê chú ý vào những hàm răng khiến có lúc chàng suýt cười to lên khi tự ví mình với anh lái buôn ngựa. Muốn biết tuổi ngựa, chỉ cứ nhìn hàm răng nên bị méo mó nghề nghiệp, chắc anh ta chỉ thấy những răng là răng. Dễ thường trong giấc mơ anh cũng chỉ thấy toàn răng ngựa!

                Nhân nhìn răng người, chàng chợt nhớ đến răng của con mình. Chàng soát lại răng của con và thấy mình đã thiếu sót phận sự. Thằng Tịnh có 2 cái răng nanh mọc lỗi. Đáng lẽ khi răng sữa lung lay, mình phải đưa đi nhổ ngay để nhường chỗ cho răng vĩnh viễn mọc ngay thẳng. Hết phương cứu chữa cho đứa lớn, chàng kiểm soát đứa nhỏ. Vài cái răng sún nhổ rồi, - do ai nhổ và nhổ bao giờ, chàng không hề nhớ, than ôi - chàng không hiểu có còn kẹt lại chân răng không. “Thôi, để vài bữa mình đến chữa răng, đưa nó đến hỏi thăm luôn nha sĩ”, chàng tự dặn như vậy.

                Đúng hôm hẹn phải đến nha sĩ, chàng bảo người ở:

                - Hôm nay chị Hai khỏi phải đi ra trường đón em. Tôi đi đón lấy.

                Chàng đi ra xe thẳng trường để đón con. Bé Phượng thấy chàng đến đón mừng quá.

                - Hôm nay chị Hai đi đâu không ra đón con, hở Ba? - Bé Phượng lật đật hỏi:

                - Chị Hai bận.

                - Ba chở con ra biển ngồi chơi mát đã rồi hãy về. Ừ, mà thôi, đi ra phố chơi đi Ba.

                Chàng mỉm cười ranh mãnh nhìn con:

                - Chắc ý con muốn nói: rồi chúng muốn ghé lại hiệu kem Tuyết Viên ăn chơi như bữa trước. Có phải vậy không?

                Phượng cười rũ lên như khi chơi cút bắt với bạn, ngồi nấp một xó kín bị bạn tìm bắt được.

                - Kem ở hiệu đó ngon nhất đó Ba à. Thằng Trọng Tâm bảo con vậy.

                - Điều ấy có thể đúng lắm. Nhưng hôm nay chúng ta không có thì giờ. Nào, con leo lên xe đi, Ba chở con ra phố.

                Phượng vui vẻ leo lên ngồi sau chàng, miệng hát vang bài hát vừa tập ở lớp. Xe rẽ qua mấy phố rồi dừng lại trước phòng nha sĩ. Phượng ngạc nhiên:

                - Đây là chỗ nào? Hiệu Tuyết Viên ở mãi đằng kia mà.

                - Vừa mới bảo xong: hôm nay không có thì giờ ăn kem. Ba ghé lại nha sĩ để chữa cái răng. Con vào ngồi đợi một tí.

                Quả tình cái phòng đợi lạnh lẽo này không làm cho bé Phượng phấn khởi chút nào cả. Không có một chú bé bệnh nhân nào ngồi đó cả để cho Phượng nhìn vào và bặm môi nhíu mày với nó. Hai người đàn bà đau răng ngồi hằn học liếc mắt vào người mới đến. Mặc dù ba bảo ngồi, Phượng vẫn ôm cặp sách đứng ngó ra mảnh sân nhỏ trước phòng. Ở đó, một dây nho nhẫn nại bò lẫn vào trụ cột đến mãi sát giàn mới dám đâm lá xanh. Đợi đến lượt mình, Văn bước vào phòng sau khi dặn bé Phượng ngồi chờ. Nha sĩ soát lại vết nhổ bữa trước. Nơi đó một cục máu đọng. Từ màu đỏ bầm, đầu cục máu chuyển sang màu trắng nhợt trông bẩn thỉu. Buổi trưa ở nhà chàng đã lấy lưỡi lay cục máu để đẩy nó đi. Nó không rơi ra. Chàng lấy ngón tay đẩy. Nó chỉ nhích hở một chút. Hơi ngượng vì cái cục máu trông bẩn thỉu, chàng bảo nha sĩ:

                - Tôi đã lay cho ra mà không được. Lấy bông nắm rứt đi mà vẫn…

                - Ấy chết, - nha sĩ la lên, - Ông muốn chết hả? Cứ để y nguyên thế. Bông hút nước bẩn lắm, ông để vào bị sài uốn ván chết.

                Văn thấy đầu mình khẽ choáng váng như vừa nhìn phải một cái chớp giật. Sài uốn ván. Chết. Lúc nào cũng có thể chết được. Nhưng chàng đã tự trấn tĩnh: cũng may mà bông chỉ chạm vào mặt ngoài của cục máu, phần máu chết. Chỗ vết thương phải ở mãi tận trong.

                Nha sĩ bôi thuốc lên. Khi đã xong, chàng ra cửa gọi con vào. Bé Phượng nghiêm trang nhìn những khuôn mặt lạ và những dụng cụ lạ mắt. Chàng nói:

                -Nhờ nha sĩ xem dùm hàm răng cho cháu. Cái nào cần nhổ, cái nào cần chữa…

                Chỉ đảo mắt qua một lượt, nha sĩ đã bảo:

                - Cái chân răng này phải nhổ đi để có chỗ cho răng sau mọc lên.

                Văn nhìn xuống đồng hồ: 6 giờ chiều. Chàng nói:

                - Để hôm nào trở lại.

                - Có thể nhổ ngay liền bây giờ.

                Và thế là cái mũ và cái cặp sách phải rời bé Phượng lại nằm lên bàn giấy ông nha sĩ để bé Phượng được bế lên ngồi trên ghế da, mặt ngơ ngác không biết người ta sắp làm gì mình. Rồi những hiệu lệnh “mang khay… lấy thuốc tiêm…” được truyền đi nhẹ nhàng, mũi tiêm liên tiếp đâm phập vào nớu răng, cái kềm bẻ vẹo theo cánh tay, cái chân răng vất “xoảng” lên khay. Bé Phượng chưa kịp phản kháng, chưa kịp ưng thuận. Một miếng bông đắp thuốc đỏ được nhét vào lỗ răng, hai hàm ngậm chặt. Và chàng chở người nạn nhân bất ngờ này về nhà.

                Từ lần ngộ nạn này, Phượng mừng rỡ một cách rất dè dặt khi thấy Ba đem xe đến đón tại trường, thấy những cuộc chở xe đi dạo phố không chỉ hứa hẹn vui chơi sung sướng như ngày xưa. Hiệu kem Tuyết Viên không được Phượng hăng hái nhắc đến nữa.

                Sự săn sóc răng cỏ cho con đã tam xếp xong, chàng nghĩ đến răng cỏ của những người quen. Dạy học đến bài “giải phẫu bộ máy tiêu hóa” chàng dừng lại khá lâu để giảng về răng. Thôi thì: vệ sinh khi răng lành, khi răng sâu, có nên nhổ ngay khi nhức không, các phương pháp chữa răng trồng răng… Đôi khi giữa những lời giảng say sưa chàng lẩn thẩn nghĩ: Phải chi mỗi trường có nhiều thầy giáo để khi dạy những bệnh tật ghi trong chương trình người ta xếp cho thầy nào đã mắc bệnh gì thì dạy ngay bệnh ấy. Đối với bạn thì chàng hóa ra người cố vấn nhiệt thành.

                - Anh nên làm cua-ron bằng bạch kim cho cái răng đó… Ồ! Ghé lại nha sĩ họ lấy gân máu cho. Đừng tin người thợ cẩu thả đó.

                Bày vẽ cho người ta nhưng rốt cuộc lại bị người bày vẽ lại. Việc ấy xảy ra thế này. Số là từ ngày bị mất cái răng, chàng chỉ che miệng khi nói với học trò và người lạ, còn đối với người quen thì chàng cứ để tự nhiên. Che dấu là một cách tự hạ mình và có thể bị xem là một lối làm dáng quê mùa. Tuy vậy đối với những người đàn bà quen thì chàng không thể cười nói tự nhiên với một cái răng thiếu, thiếu một cách trắng trợn thô lỗ như vậy. Mà thật thế, cái hàm răng trống một lỗ đen trông vừa buồn cười vừa ngu si. Để cho một người đàn bà thấy nó, chàng coi như là một sự khiếm nhã, y như chàng tiếp họ với một cái sơ mi quên cài hột nút. Một hôm nói chuyện với một chị bạn quen, chị bạn nhận xét: Anh coi chừng kẻo mà thành tật đó nghe. Cái tay che miệng đó. Trước đây tôi cũng có một cô bạn quen cũng nhổ răng như anh và cũng phải che miệng như anh suốt thời kỳ chưa trồng răng giả. Sau đó, răng mới đã trồng nhưng tật cũ không bỏ được. Những lúc ngồi nói chuyện, khi chợt cười cô ta vẫn đưa tay lên che miệng.

                - Tật giữ trong bao lâu, chị?

                - Hai năm sau tôi vẫn thấy cô ấy che miệng.

                Quả là một điều khá đáng lo thật vì mới 5, 6 ngày nay mà việc đưa tay che miệng đã hầu thành một cử chỉ tự nhiên. Cả đến khi nói chuyện với những người lớn, những người quen mà chắc chắn mình không cần và không nên giấu giếm gì cả, thế mà chàng cũng quen tay đưa lên che miệng. Khiến một bà cụ quen thân ái bảo:

                - Ông giữ chừng kẻo đưa tay che miệng hóa thành một thói quen đó. Tôi đã biết có mấy người như vậy. Cứ nói như thường, che làm gì?

                Chàng thầm nghĩ: Lẽ tất nhiên là nói chuyện với cụ thì không nên che làm gì thật.

                Nhưng tuy nghĩ vậy mà lúc để tay xuống chàng vẫn mường tượng nghĩ đến cái xấu xí của hàm răng nên chàng cứ thấy ngường ngượng. Bà cụ tiếp:

                - Che miệng là một cử chỉ không đẹp.

                Qua hai lần bị phê bình, chàng thấy người đàn bà chú ý đến cái đẹp hơn đàn ông. Và sự phù hợp của hai điều nhận xét khiến chàng thành thật lo trước cho cái thói quen xấu mà mình sợ sẽ không tước bỏ được.

                Thứ Bảy tuần đó, y hẹn, chàng đến phòng nha sĩ, để nhận sự săn sóc cuối cùng. Chàng hỏi thể thức trồng lại cái răng.

                - Chỗ răng nhổ đi sẽ trồng thay bằng một cái răng xương, nhưng nó phải bám vào 2 cái răng hai bên. Có hai cách trám. Một là bao vàng răng bên cạnh, hai là làm pi-vô. Làm pi-vô, thì phải lấy gân máu và cưa cái răng đi rồi thay răng xương vào.

                - Như thế thì tiếc cho hai cái răng vô tội. Vả lại còn bị đau nữa khi lấy gân máu, khi cưa.

                - Nhưng mà đẹp hơn là bao vàng. Các bà các cô thì đều chịu đau để đẹp. Có người cái răng mọc không đều, các cô đem đến nhờ nhổ đi và thay răng xương vào.

                - Nếu tôi làm răng ở đây thì ông tính bao nhiêu mỗi cái?

                - Sáu trăm đồng. Phải trồng cái giữa và bám hai cái hai bên. Thế là 1800 đồng.

                - Nếu ông lấy gân máu và làm pivô thì mỗi răng thêm hai trăm. Cộng lại là hai nghìn hai.

                Văn suýt bật cười lên vì mình đã đoán đúng. Người nha sĩ tính đúng như lời anh thợ Hồng Phát đã nói còn nhớ thêm hai trăm đồng lấy gân máu cho mỗi cái răng. Chàng nói:

                - Người ta bảo khi chữa răng thì đến nha sĩ nhưng khi trồng răng bịt răng thì có thể nhờ thợ trồng răng. Họ tính rẻ hơn.

                Nha sĩ mỉm cười một cách gượng gạo. Có lẽ ông cũng nhận rằng lối lý luận vừa rồi là đúng. Tuy vậy, ông vẫn nhẹ nhàng nói:

                - Nghĩa là… người thợ răng họ cũng làm cho ông có cái răng.

                Nha sĩ tính tiền chàng phải trả. Khi trả tiền xong, chàng cám ơn người nha sĩ và bắt tay giã từ. Bước qua vuông sân rộng, chàng cảm tưởng mình cũng đồng thời giã từ cái hình ảnh nghèo nàn của người nha sĩ mà mình có khi đầu tiên tiếp xúc với ông. Quả tình lần đầu tiên đến ngồi ở phòng nha sĩ, chàng thấy thương cho thân phận người nha sĩ.

                Trong phòng mạch của bác sĩ, lăng xăng rộn rã bao nhiêu nữ y tá, thế mà ở đây chỉ vỏn vẹn có một anh phụ việc. Anh này lại thật thà, hơi quê mùa nữa, nên cảm tưởng vắng vẻ càng tăng thêm. Có lẽ chỉ cần một cô y tá hoặc đẹp hoặc làm dáng là đủ làm rộn ràng cái không khí của căn phòng, sắc đẹp hùng biện như lời nói có khi hơn lời nói. Không có đôi ba cô y tá nhí nhảnh với nhau để khách hàng vui lây thì sắc đẹp của một cô cũng có thể làm cho họ nghĩ ngợi vẩn vơ mà trong khi đợi chờ đỡ tẻ. Dáng người nha sĩ lại thiếu bệ vệ. Trắng hơn một chút, béo hơn nhiều nữa và đôi mắt nặng nề mỏi mệt hơn thì ông sẽ có vẻ giàu có sung sướng hơn. Thêm vào đó mấy cái ghế ở phòng đợi chàng không thấy có lần nào có khách ngồi đầy. Chàng tự nhiên có cảm tình với ông ta như với một người bạn xấu hổ. Cảm tình đó hôm nay chàng đánh mất. Điều này làm cho chàng không vui vì quả tình chàng như vừa mất một người bạn. Nhưng nếu cảm tình đối với người nha sĩ bị nhạt đi thì trái lại chàng thấy thêm tình yêu mến đối với anh thợ răng Hồng Phát. Khi biết rằng trồng một cái răng với giá 300đ là không hớ một tý nào cả, chàng thấy yên tâm lạ. Chàng không còn nhìn anh thợ Hồng Phát với một ý nghi kỵ nữa. Chàng không còn phải loay hoay để định trả một giá, trả sao cho khỏi bị đắt vừa khỏi quá rẻ. Chàng chỉ cần định điều kiện thôi. Hôm sau chàng đến hiệu Hồng Phát.

                - Anh phải cưa một cái răng?

                - Phải cưa một cái.

                - Còn răng kia thì nhất thiết phải bọc vàng?

                - Phải bọc vàng, không có cách gì khác.

                Tâm hồn chàng rơi thõm vào cái mệt mỏi của những ngày trước đây khi không tìm một giải pháp nào khác hơn, tốt đẹp hơn là phương pháp bọc vàng. Chàng nói thẫn thờ như một lời nuối tiếc:

                - Không thể tránh được…

                Anh vội vàng trấn tĩnh:

                - Nhưng tôi sẽ làm thật cẩn thận và mỹ thuật. Đường chỉ bọc sẽ rất nhỏ. Ông cứ yên tâm.

                Chàng nói:

                - Thôi được. Một tháng rưỡi sau tôi sẽ trở lại. Nha sĩ bảo phải đợi cho hết hạn đó.

                Một tháng rưỡi ngượng nghịu âm thầm qua, tối tăm như giữa mùa mưa gió. Khi kỳ hạn đến, chàng ngoan ngoãn ghé lại hiệu Hồng Phát. Người thợ trình bày rõ ràng hơn về những công việc phải làm trong hai ngày để hoàn thành cái răng. Chàng vẫn cố mặc cả một ngày thôi, ngày chủ nhật, nhưng quả tình người thợ không thể làm được. Chàng đành phải nhẫn nại chịu nhận hai lỗ răng trống trong hai ngày. Thật là quá sức chịu đựng, khi một lỗ răng trống thôi đã đủ làm chàng khó chịu. Khi ngồi lên ghế, chàng đợi nghe tiếng vù vù của bàn cà quay. Và khi bàn cà chạm vào răng, một cảm giác tê buốt chạy rần ở cột xương sống, tỏa một luồng lạnh ra khắp lưng. Hình như bao nhiêu bắp thịt ở lưng co rúm lại. Một mùi bột xương nhàn nhạt hăng hắc bốc lên mũi. Hết bàn cà tiếp đến bàn nạo, bánh xe cưa… thần kinh của chàng như bị những tấn cống dồn dập.

                Khi thân răng gãy nhẹ giữa hai ngón tay của người thợ, chàng quay sang cầm ly nước súc miệng và vội vàng đưa chiếc gương lên soi. Thật bất ngờ, chàng đang đợi một lỗ trống toang ghê tởm thế mà sự thực thì lỗ trống mới không khác với lỗ răng trống bữa trước mấy. Sự bất ngờ có lợi này mang lại cho chàng một thú vị nhỏ khiến chàng vui vui. Căn phòng chữa răng màu trắng, màu của tường và của dụng cụ, chàng thấy bớt vẻ lạnh lẽo. Khi bắt tay từ giã anh Hồng Phát, chàng bắt tay chặt và giữ tay anh ta hơi lâu.

                Tuy vậy suốt hai ngày sau, không lúc nào thôi băn khoăn về cái răng xương mà chàng sắp nhận. Người thợ hết lời cam đoan về nghệ thuật và kinh nghiệm của anh, nhưng nếu chàng có thể sẵn sàng tin ở sự thành thật của anh thì trái lại chàng có nhiều nghi ngờ về trình độ thẩm mỹ của anh lắm. Do đó mà chiều hôm sau, khi đến hiệu, chàng thấy mình hơi hồi hộp. Anh thợ tiếp niềm nở nhưng không khiến chàng yên tâm. Dù cố giữ để không hỏi - chàng biết câu hỏi và câu trả lời đều vô ích, - nhưng rốt cuộc chàng vẫn hỏi:

                - Có đẹp không?

                Người thợ tròn đôi mắt và cái miệng.

                - Thưa…

                - Cái răng làm có đẹp không?

                - A! Đẹp lắm. Để rồi ông xem.

                Ở phòng khách, ngồi đối diện với chàng là một người đàn bà tuổi chừng hơn 40. Người ấy ngồi im, miệng ngậm một cách lúng túng. Chàng nghĩ: có lẽ người đàn bà này bị nhổ răng. Chợt người ấy hỏi người thợ:

                - Sao tôi thấy nó cồm cộm đau đau.

                Người thợ ngắt lời:

                - Không sao đâu. Tôi đã coi kỹ rồi.

                Người đàn bà im lặng nhưng dáng vẫn đăm chiêu. Đôi mày nhíu lại, tia mắt nhìn về người thợ có một vẻ gì bực tức. Cuối cùng người ấy lại rụt rè:

                - Sao tôi thấy nó cứ đau đau.

                Người thợ xẵng giọng:

                - Tôi đã nói rồi mà. Tôi đã xem kỹ rồi.

                Văn hỏi người thợ:

                - Chắc bà kia nhổ răng.

                - Không. Bà ấy trồng răng.

                Như mừng có dịp để phân trần, người thợ vội vã:

                - Bà này trồng cả một hàm răng giả. Phải lựa thứ răng đen hiệu Nhật Bản cho bà ta. Tôi lấy cả hàm có 1.800đ. Vậy mà bà còn kỳ kèo là đau và cộm. Hiệu tôi làm có bảo đảm, ai cũng…

                Khi câu nói chuyển sang mục quảng cáo, Văn không để ý nghe nữa mà chăm chú nhìn hàm răng đen đều đặn mà đôi môi của người đàn bà hé mở cho thấy. Chàng nghĩ đến sự chu đáo của kỹ nghệ, tạo ra loại răng đen đặc biệt của một thiểu số người còn sót lại trên các lãnh thổ vòng quanh Thái bình dương, ít ỏi và đặc biệt như những động vật thời khuyết sử còn lại. Người thợ đứng dậy mời chàng:

                - Xin mời ông vào phòng răng.

                Chàng đi theo người thợ, bỏ lại người đàn bà băn khoăn một mình ở phòng khách với một hàm răng bị hắt hủi.

                Khi chàng ngồi chững chạc lên ghế rồi thì người thợ mở tủ lấy cái răng đã làm xong đưa chàng xem, kèm theo một câu đề bạt:

                - Ông coi xem, đẹp hết sức rồi đó.

                Chàng cầm nhìn. Đường vàng viền nhỏ, có thể gọi là tinh vi so với tác phẩm của anh thợ cũ ở Bồng Sơn. Tuy vậy chàng vẫn tham lam:

                - Anh không thể làm cho nhỏ hơn nữa được sao?

                Người thợ nhún vai la to lên, ngạc nhiên như vừa nghe ai phủ nhận tên mình.

                - Như thế này mà ông còn chê sao? Tôi gò suốt cả một buổi sáng nay mới được đó.

                - Tôi không chê. Phải nói khen thì mới đúng. Nhưng ý tôi muốn hỏi là ông có thể làm tinh hơn nữa không.

                Mặt người thợ dịu xuống, nụ cười hài lòng nở rộng và giọng nói cũng dịu lại.

                - Chịu thôi, như thế là đẹp nhất rồi đó.

                Vừa nói, người thợ vừa lẳng lặng tháo hồ trám, tra pi-vô và tra răng mới vào. Khi ngón tay người thợ đẩy ép chiếc răng mới đi sát vào nướu, chàng thấy đau đau. Nhưng liền sau đó là một cảm giác ấm áp đầy đủ, cảm giác của hàm răng trống trải nay đã chấp nhận một bộ phận mới. Chàng lấy gương soi. Hàm răng đều đặn như tự thuở nào nó vẫn thế. Dù vậy, vẫn có một chút ngượng ngập gì trong cảm giác. Cái răng mới dường như cứng nhắc, nặng nề, thiếu sự thong thả dễ dãi của những cái răng tự nhiên. Chàng nhìn lâu vào bóng hàm răng phản chiếu trong gương, gạt bỏ cái phần cảm xúc chủ quan để nghe lòng vui vui vì hàm răng đều đặn và bóng sáng.

                Trả tiền và lấy giấy bảo kê xong, chàng cám ơn người thợ. Lời cám ơn thành thật, khác với nhiều lúc chàng nói vì xã giao. Đi qua phòng khách chàng chợt nhớ đưa mắt tìm người đàn bà ban nãy, nhưng các ghế trống không. Chắc chán nản người đàn bà đã bỏ ra về. Chàng tưởng chừng cảm thấy được sức cộm của cả một hàm răng mới trồng của người đàn bà. Những giây thần kinh ở nớu, ở má, ở môi… đều như nhất loạt không chấp nhận kẻ ngoại lai là cái hàm răng giả.

                Khi bước ra đến đường phố, sự suy nghĩ của chàng đã vẩn vơ chuyển sang giá trị của những vật giả. Ai biết được hàm răng đen “rưng rức hạt na” của người đàn bà kia là giả? Ai biết được hàm răng trắng bóng, đều đặn của một người thiếu phụ sang trọng nào đó là không thiệt? Đi xa hơn hàm răng, chúng ta gặp những hàng lông mi cong, những nốt ruồi đẹp, những bộ ngực nở nang, nhưng càng thấy đẹp người ta càng đặt vấn đề nghi ngờ. Thực hay giả? Sự giả dối tinh vi làm tổn hại không ít cho sự thật thà. Một người có cái ngực đẹp tự nhiên, có hàm răng đẹp tự nhiên, có chuỗi ngọc trai thật, vòng kim cương thật, dễ bực mình biết bao khi kẻ bàng quan không phân biệt được họ với chủ nhân những món hàng giả. Giá trị con người thật khó định đoạt khi chân giả lẫn lộn xung quanh mình.

                Ý nghĩ của Văn bị ngắt quãng khi đi qua một hiệu tạp hóa quen người chủ hiệu mỉm cười chào chàng.

                - Chào ông. Lâu ngày không thấy ông đi phố.

                - Chào bà. Hơn một tháng nay tôi… bận.

                Chàng ghé vào hiệu mua vài món hàng lặt vặt. Chàng trả lời vui vẻ những câu hỏi của người chủ hiệu. Đến khi bước ra, chàng chợt nhớ rằng lúc nói chuyện mình vẫn còn quen đưa tay che miệng.

                Buổi chiều hôm đó, cứ lúc nào nhớ ra là chàng lại nhìn vào gương để tìm xem cái cảm tưởng tốt đẹp về cái răng mới trồng có phải là một cảm tưởng sai lầm chăng. Lần nào cũng vậy, chàng đều thấy là mình quả không lầm. Thật hiếm hoi hết sức là sự hài lòng về một món hàng mà mình vừa mua hay vừa sắm. Lâu lâu bất chợt nhìn vào gương, chàng sung sướng gặp mặt cái răng mới trồng, đồng thời gặp gỡ luôn niềm vui của những ngày đầu sơ ngộ với nó.

                Bốn tháng sau, một bạn đồng nghiệp của Văn bị tai nạn ô tô được chở về nằm ở bệnh viện. Văn đến thăm. Những đường băng bó chằng chịt ở mặt, ở đầu, ở cánh tay. Sau khi kể những vết thương tích anh mang trên người, anh bạn rên rỉ nói tiếp:

                - Bị gãy hai cái răng cửa nữa.

                Chi tiết chót này suýt làm cho Văn cười lên. Chắc chắn là thương tích không nặng lắm mặc dù băng bó khá bộn bàng nên anh bạn mới đủ tỉnh trí mà nhớ đến hai cái răng.

                Sau khi lành mạnh, người bạn đến văn phòng, miệng toe toét cười hở lỗ trống của hai cái răng gẫy. Văn nhìn bạn giây lâu tìm xem có nét thay đổi nào trên khuôn mặt ấy không, do lỗ trống gây ra. Trái với sự tưởng tượng của chàng, nét mặt không có gì thay đổi lớn. Lỗ răng trống anh không che đậy, mới nhìn thấy một lần mà như là vật cố hữu của anh, không tăng mà cũng không giảm vẻ quen thuộc của khuôn mặt. Chàng lưu ý đến phản ứng của cô thư ký ngồi gần đó. Người đàn bà đẹp bao giờ cũng có những phản ứng tự nhiên không kềm chế kịp khi họ gặp một chi tiết nào phản lại mỹ thuật. Nhưng không, cô thư ký vẫn tươi cười hỏi thăm sức khỏe của người bạn và tỏ ra vui mừng vì người bạn thoát nạn một cách êm đẹp.

                Chàng nghĩ đến một tháng sau người bạn phải đi trồng răng giả, phải chấp nhận hai cái viền vàng bao hai chiếc răng kế cận. Số phận của chiếc răng sẽ trồng chưa được định đoạt. Nó còn tùy thuộc ở người thợ mà anh bạn sẽ nhờ đến. Nó có thể đem lại cho anh ta sự khó chịu hàng ngày. Chàng tự nhủ thầm: May cho mình. Nhưng đồng thời chàng nghĩ: Tiếc thay, mình đã quên đi cái thú của sự hài lòng.

                Thật vậy, chừng một tháng sau khi trồng lại chiếc răng, chàng thấy cái cảm giác sung sướng lúc đầu nhường chỗ dần dần cho cái cảm giác êm ả bình thường cho đến một lúc nào đó chàng nhìn vào gương mà không còn để ý đến chiếc răng trồng đẹp nữa. Trong khi đó, những mối lo thường dồn dập đến, đóng đô ở tâm hồn chàng, vững chãi, thường xuyên. Thật là khờ dại. Con người thích mơn trớn những nỗi băn khoăn, những nỗi khổ của mình, còn các điều toại ý thì họ hưởng một cách vừa dè dặt vừa bủn xỉn. Đáng lẽ nên làm ngược lại. Chàng chợt mong mình có thể bước ra đường, đi từng bước nhỏ, sống hồi hộp trở lại những băn khoăn khi cái răng bị tuyên án, khi cái răng phải nhổ, khi cái lỗ trống gây trở ngại âu lo và cuối cùng là niềm thoải mái khi cái răng mới trồng vừa ý chàng mong. Sự êm ả thoải mái ấy, chàng muốn nuôi dưỡng cho nó kéo dài, thật dài. Thấy lòng háo hức, chàng đứng dậy bắt tay người bạn và chào cô thư ký. Chàng siết chặt tay bạn vừa vui vẻ nói:

                - Một tháng sau anh tìm gặp tôi. Tôi sẽ mách cho anh một người thợ trồng răng hữu hạng.
                #23
                  hai1957 03.12.2012 20:58:24 (permalink)
                  BÊN KIA ĐƯỜNG

                  NXB Mặt trời (1968)


                  1. Những nổi khổ vụn vặt
                  2. Hãy an nghỉ Abdul Rahim
                  3. Mẹ gà con vịt
                  4. Lễ cúng trường
                  5. Cái nhìn người mẹ
                  6. Bên kia đường
                  7. Trở về



                  1. NHỮNG NỖI KHỔ VỤN VẶT


                  Sự vui vẻ khá ồn ào của ông. Chính khi nhận được công lệnh cử đi chấm thi khiến nhiều bạn đồng nghiệp của ông hơi khó chịu. Gặp ai ông cũng vội vàng bắt tay và bô bô hỏi thăm:

                  - Nào, năm nay anh đi chấm ở “centre” nào? Tôi thì phải đi Đà Nẵng.

                  Người đối diện đầu tiên của ông là Thương, một giáo sư trẻ. Thương đang có một nỗi buồn riêng nào đó, - chắc là vì tình, vì khi tuổi chưa quá ba mươi thì chỉ có ái tình mới làm cho người ta buồn lâu, buồn một cách thành thật và nghiêm trang, nên chỉ khẽ nhếch một nụ cười xã giao vừa đủ.

                  - Dạ, cháu đi Phan Thiết.

                  - Được đi Phan Thiết hả? Ố là là! Phan Thiết Tổ sư nước mắm! (Đố ai biết Tổ sư nước mắm nghĩa là gì?) Hôm nào về nhớ mang về một chai nước mắm nhỉ ăn chơi nhé? Ngon tuyệt.

                  - Dạ.

                  Người giáo sư trẻ muốn được yên nên vội “Dạ” một tiếng chấm câu. Không hứa hẹn là sẽ có chai nước mắm nhỉ với tiếng “Dạ” kiểu ấy.

                  Sau một cái bắt tay, ông Chính đi vội vã về phía đầu bên kia hành lang. Đôi chân quá ngắn múa thoăn thoắt dưới một cái bụng khá to. Tính ông lại thích diện com-lê - cả ngày giữa mùa hè - nên cái bụng càng được đề cao, no tròn, bề thế. Ở đầu hành lang, đang đứng vẩn vơ một cô giáo. Áo màu tím nhạt có thêu rải rác những vũ nữ xòe váy bằng chỉ trắng. Cô giáo đang nhìn lên đọt cây phượng cao trước sân trường, trên đó ánh nắng xao động giữa những chòm lá. Ông Chính cất tiếng nói to:

                  - A! Chị Vân Anh.

                  - Dạ, chào bác.

                  - Kỳ này tôi phải đi Đà Nẵng đây. Còn chị về “centre” Huế hả? Thích nhé? Một công hai việc…

                  “Ai bảo với ông ta rằng mình được về Huế?” - Vân Anh nghĩ. Mình phải đi Tuy Hòa cơ mà. Cực chết đi mà. Còn một công hai việc là ngụ ý gì mà có vẻ bất lương thế? Nhưng nể người đồng nghiệp có tuổi, cô Vân Anh nắm hai bàn tay vào nhau trong một tư thế lễ độ, nghiêng mình lí nhí:

                  - Dạ cháu đi Tuy Hòa.

                  Tức thì ông Chính đớp lời ngay và reo to lên như chính ông vừa bảo đúng là Vân Anh được về “centre” Tuy Hòa:

                  - Tuy Hòa! Thú lắm. Thành phố Tuy Hòa đang xây dựng, có sông Đà, có núi Nhạn, có trường Nguyễn Huệ. À, ở Tuy Hòa mùa này có nhiều dưa hấu ngon lắm nhé! Tuy Hòa… (đến chỗ này ông giơ ngón tay chỏ chỉ đúng vào giữa trán và nhíu mày một cái nhưng dường như để lấy điệu bộ chớ không thật phải suy nghĩ gì hết)… Tuy Hòa đi ra Màng Màng, Hòa Đa rồi Tuy An, Chí Thạnh mà. Ồ! Thích quá.

                  - Cháu chán lắm. Đi xe lửa ra Đại Lãnh cháu sợ lắm. Cháu chỉ muốn được đi Đalat.

                  Vân Anh định nói thêm “Lẽ tất nhiên nếu Bộ bỏ quên không bắt cháu đi chấm ở đâu cả thì cháu thích hơn”, nhưng chợt nhớ ra rằng người đối diện với mình không đáng được thưởng thức một câu ý nhị như vậy nên Vân Anh không nói nữa.

                  Giã từ cô giáo Vân Anh, ông Chính đi vào văn phòng ông Hiệu trưởng. Cái lưng ông hơi cong lại một chút khiến cái cổ cũng co rụt bớt vào cổ áo sơ mi. Ông giơ tay ra trước nên phải đưa thêm một tay trái ra theo, mong xóa bớt sự đường đột có phần khiếm lễ đó đối với cấp trên.

                  - Thưa Cụ, năm nay Cụ lại đi chủ khảo ở một Trung tâm?

                  Ông Hiệu trưởng đưa mắt chầm chậm nhìn lên ông. Đôi mắt nheo nheo vì vừa từ giã những hàng chữ quá nhỏ. Ông đã có tuổi nhưng không chịu đeo kính lão. Cái ca-vát màu đỏ sẫm nằm ngay ngắn giữa cổ sơ-mi là cứng như cùng ra sức với ông bám sát lấy những tháng ngày thanh niên gượng gạo còn sót lại. Ông rất ghét tiếng “Cụ” già nua nên không thèm giấu một cái cau mày. Người ta có thể biểu lộ sự tôn kính bằng nhiều cách và người trên không ai chối từ sự tôn kính. Nhưng tôn là “Cụ” không có nghĩa khen tặng mến phục gì cả. Sống lâu không phải là một công tích đáng để hãnh diện mà trái lại, hầu hết người ta đều coi đó là một sự ân hận đáng tiếc. Nhất là ông Hiệu trưởng sau mười lăm năm góa bụa vừa cưới một người vợ vừa trẻ vừa đẹp. Chính do những mặc cảm dồn dập đó mà, sẵn nét mặt sa sầm, ông Hiệu trưởng trầm giọng nói:

                  - Năm nay tôi được nghỉ.

                  - Ồ! Quí hóa quá… Cụ được Bộ cho nghỉ năm nay cũng phải. Năm nào cũng phải chủ khảo hết thì sống thế nào được.

                  Ông Hiệu trưởng cúi mặt xuống một trang giấy đánh máy có đóng dấu son. Biết đó là dấu hiệu cáo từ nhưng ông Chính phải cười xã giao một mình.

                  - Năm nay tôi phải đi Đà Nẵng.

                  - Thế à?

                  Ông Hiệu trưởng hỏi mà không ngẩng mặt lên và đầu bút chì đỏ ông cầm ở tay vẫy không ngừng chạy dài, rất mau, trên những dòng chữ đánh máy.

                  - Thôi xin phép cụ.

                  - Không dám, chào ông.

                  Cái bắt tay lạnh nhạt tiếp theo. Ra khỏi phòng ông Hiệu trưởng, ông Chính gặp bác cai trường. Đó là một anh chàng nhỏ nhắn có khuôn mặt láu lỉnh đặc biệt của những chú lính lệ ngày xưa.

                  Cặp mắt mở thao láo, mi chớp lia lịa nhất là những khi anh đứng trước mặt thượng cấp hoặc những ngày thi cử, ngày nhập học, sân trường, cổng trường đầy những phụ huynh học sinh. Một cái mũi nhỏ nằm trên cái miệng cũng nhỏ. Hình như lúc nào anh cũng bận rộn công vụ. Trên tay luôn luôn có một cái cặp bìa các-tông dày gáy vải và chân bước vội vã, thoăn thoắt từng bước nhỏ. Khi có Thanh tra ở Bộ về khám trường thì anh tăng gia sự mẫn cán trong bộ y phục ka-ki màu xanh dương, kiểu đồng phục Thanh niên. Nhìn anh, người ta tự nhiên phải nghĩ đến một con chim sâu, một cái chong chóng đang quay.

                  Trên đời anh chỉ biết kính trọng có ông Hiệu trưởng trường anh, các ông giám thị và mấy ông giáo đi ô-tô. Mọi người khác anh đều coi là “anh, chị” hết. Ông Chính không đi ô-tô nhưng lại năng nói chuyện, - nào ai biết là nói chuyện gì, - với ông Hiệu trưởng và ông Giám học nên anh tỏ ý nể. Thấy ông ở phòng Hiệu trưởng đi ra, anh vội vã lớn tiếng chào:

                  - Xin chào Cụ. Năm nay cụ có đi chấm…

                  Ông Chính tươi cười liền:

                  - À chào anh. Năm nay tôi đi Đà Nẵng.

                  Ông vỗ vai anh một cái thân mật.

                  - Anh ở lại mạnh khỏe nhé?

                  - Dạ, cám ơn Cụ. Chúc Cụ đi đường sức khỏe.

                  Theo cái đà ấy, chỉ hai hôm là cái tin ông Chính đi chấm thi ở Đà Nẵng ai cũng biết. Những giáo sư trẻ ngầm hỏi nhau.

                  - Ông ấy dở hơi nhỉ? Chấm thi thì thú cái đếch gì? Ba tháng Hè chả được nghỉ.

                  - Ừ. Trẻ và độc thân như chúng mình thì mới còn lý thú đôi chút chứ lớn như ông ta…

                  - Hồi mình chưa cưới vợ thì mỗi kỳ nghỉ Hè mình thích đi chấm thi lắm. Vì có đi như vậy mới mong gặp ngày chuyện lạ, chuyện vui ở dọc đường. Những bạn đồng nghiệp, nhất là nữ đồng nghiệp ở từ các tỉnh tụ họp về sống gần gũi mươi ngày nửa tháng rồi giã từ nhau, hẹn năm sau gặp lại. Vui chứ. Nhưng từ ngày mình cưới vợ rồi thì… Lạ thật, đố ai hiểu ông Chính đang nghĩ gì.

                  Chẳng ai hiểu ông Chính đang nghĩ gì thật. Có người đoán là ông chán ngấy cảnh ngày hai buổi họp mặt với vợ con. Có người bảo là từ nửa năm nay sao thấy bà Chính bỗng già đi một cách đáng chán. Có lẽ do đó mà ông muốn đi tỉnh xa để ăn chơi cho bỏ dăm mười ngày chăng? Có người nghi là ông đang chạy một áp-phe nào đó ở Đà Nẵng. Tính ông tháo vát, lý tài không mấy ai là không biết. Óc lý tài ấy không thể quên việc một người bạn cũ vừa được Chính phủ cử làm một chức vụ hành chánh cao cấp ở đây. Việc ấy chính ông đã bô bô nói cho anh em nghe, một cách lơ đãng thôi nhưng mà với bao nhiêu là cố ý và dàn xếp. Tóm lại mọi ức đoán đều không tốt cho ông Chính. Bởi không ai tin rằng sự hăng hái của ông là do tinh thần trách nhiệm cao cả của một nhà giáo có lương tâm. Trong khi đó thì ông hò hẹn với người này sẽ lên đường ngày ấy tháng ấy, rỉ tai với người kia rằng sẽ cùng thuê một phòng ở khách sạn nọ nhà hàng kia. Ông chạy đi dò hỏi giờ xe lửa đến, xe lửa đi, giờ tàu bay hạ cánh và cất cánh. Vì tất cả là nhà giáo nên không ai bảo ai mà mọi người đều tự nhiên nhớ đến anh chàng Tartarin.

                  Đột nhiên, một ngày trước ngày lên tàu, ông Chính lăn ra bệnh. Bà Chính cầm giấy chứng nhận của bác sĩ đến phòng ông Hiệu trưởng và nhờ ông gởi ra ông Chánh chủ khảo Hội đồng Đà Nẵng. Bà phàn nàn thay chồng:

                  - Thưa cụ, nhà tôi thật tiếc quá. Đến ngày đi thì lại ốm. Nhà tôi đã bao nhiêu lần bảo mặc cứ đi, nhưng bác sĩ cản lại không cho đi. Nhà tôi bảo mỗi năm Chính phủ chỉ nhờ mình một một lần…

                  Ông Hiệu trưởng đằng hắng một tiếng khiến bà ngừng nói, đợi chờ ông ban ý kiến. Nhưng sau cái đằng hắng là tiếng gọi “Bác Cai!”, ông gọi thật to, như quát. Và bà vợ người giáo sư mẫn cán xin phép ra về.

                  Ngày lên tàu, mấy giáo sư tán chuyện gẫu trên sân ga.

                  - Được đi Dalat sướng mê đi, sao mặt mày buồn thiu như đưa đám ma thế kia? Lên gặp Minh Châu tha hồ mà đi hồ Than Thở.

                  - Nói nhảm. Minh Châu đi chấm ở Nha Trang. Mình vừa nhận được điện tín xong.

                  - Còn “bồ” sao cũng không vui?

                  - Chủ nhà nó đòi nhà lại để nó ở. Hết hạn báo thị rồi mà moa chưa tìm được chỗ nào ưng ý. Bây giờ lại phải đi nửa tháng.

                  - Chỉ có ông bô Chính thích đi Đà Nẵng thì lại ốm không đi được. Bô ấy ốm gì nhỉ? Mới vừa thấy béo na béo núc ra ấy mà.

                  - Chả biết ốm gì, nhưng mà để bố ốm cho bỏ ghét. Cái mồm cứ mỏng lèo lèo. Lúc nào cũng tinh thần, xung phong, gương mẫu…

                  Người ta không hiểu ông Chính. Khi phán đoán về ai, người ta thường hoặc quá khắc nghiệt, hoặc quá dễ dãi. Cả hai thái độ đều có chung một nguyên nhân là lòng ích kỷ. Phán người ta nhưng lại vì mình mà phê phán nên ý kiến không đúng với sự thật. Sự thật ở đây chỉ có ông Chính biết mà thôi. Sự thật đó là ông chẳng bệnh tật gì hết mặc dù có giấy chứng của bác sĩ. Sau khi gởi giấy xin phép nghỉ, ông Chính gọi vợ dặn nhỏ:

                  - Thật ra, tôi chả đau ốm gì. Chỉ vì năm nay thằng Liêm nó thi mà sức học của nó còn kém quá. Tôi phải tìm cách ở lại để lo cho nó thi đỗ.

                  Bà Chính há hốc mồm nghe rồi lơ đãng để rơi một tiếng “ờ”.

                  - “Thật vô vị là cái mụ nầy”, ông Chính nhíu mày suy nghĩ. Tưởng vợ tán tụng tài trí và mưu cơ của mình, ai ngờ mụ chỉ đẫn đờ buông thõng một tiếng chán đời ấy. Ông xẵng giọng nói:

                  - Để mọi người không ai đoán được ý định của tôi, tôi đã ông đóng kịch hăng hái hàng tuần lễ trước. Thế mà bà có biết đâu.

                  - Vâng.

                  - Vâng là cái gì?

                  Ông quắc mắc nhìn vợ hỏi.

                  - Nói với bà chán như cơm nếp ấy. Thôi, bà đi xuống.

                  Bà Chính tuân theo lệnh chồng một cách thản nhiên bình tĩnh. Gần hai mươi năm chung sống, mỗi lần nghe chồng bàn tính công việc, bà chỉ biết dùng chữ “vâng” chữ “ờ” như để chấm câu cho chồng nghỉ hơi. Không phải vì bà khờ nhưng mà vì bà biết chồng mình khôn ngoan lanh lợi mình không thể nào bì kịp. Đưa ra ý kiến nào cũng bị chồng chê là non, là vụng, rốt cuộc bà trở thành e dè, gần như thụ động. Sự thụ động trong tâm hồn đã ảnh hưởng mạnh đến thể xác của bà. Bụng và ngực sệ xuống, dường như những sợi đàn hồi trong các mô liên kết không còn đủ ý chí để thắt gọn lên được nữa. Mắt hay nhìn xuống đất và những khi phải ngó lên thì hai tròng đen nhìn lác hẳn đi. Ngày mới lấy ông Chính thì mắt bà đâu có lác nặng như thế? Giọng nói cũng mỗi ngày một uể oải rụt rè, rụt rè cả ngay khi bà sai bảo đầy tớ.

                  Hai ngày trước hôm thi, các giám khảo lục tục đến bằng chuyến tàu suốt từ SaiGon ra và từ Huế vào. Ông Chính cần mẫn lên ga đón. Đối với những người quen ở trong nghề như ông thì việc nhận ra các giám khảo không phải là điều khó. Họ đi từng nhóm ở toa hạng Nhì xuống. Một chiếc va-li nhỏ trên tay. Trừ vài thanh niên láu lỉnh còn thì họ đều có vẻ mặt ngơ ngác lãnh đạm của người tri thức. Ông Chính xông vào một người đứng tuổi nước da mai mái. Bàn tay chìa ra trước khi tiếng nói theo kịp.

                  - Chào bác. Năm nay bác về chấm ở đây.

                  - Vâng ạ, kìa chào bác.

                  Ông Như, một giáo sư ở trường Trung học Duy Tân, vừa đón tay, vừa mỉm cười trả lời. Tới một địa phương gặp một người quen, không mấy ai là không thích.

                  - Thế bác không phải đi đâu cả?

                  - A… Tôi phải đi Đà Nẵng nhưng lại bị ốm hôm lên tàu.

                  - Ồ! Tiếc quá nhỉ? Trông bác có hơi xanh đi đấy.

                  Ông Chính giật nẩy mình. Mình xanh thật hay là ông bạn biết rõ bệnh dối của mình mà nói mỉa? Cả hai sự thật đều đáng ngại cả. Ông quay sang các giám khảo đang đứng vây quanh, vẻ mỏi mệt chờ đợi.

                  - Còn đây là…

                  Ông Như đỡ lời:

                  - Xin giới thiệu với bác, các giám khảo ở Phan Thiết ra… Các bạn này ở Đalat xuống… Còn đây…

                  Ông Chính phá ra cười liền khiến hai con mắt híp lại:

                  - À, biết rồi. Bạn quen cả mà, anh Hỷ, anh Tùng, anh Thuận. Các bạn vừa ở Nha Trang ra. À, có cả chị Ngọc Lan. Sao? Ở trường Nữ Trung học chỉ có một mình chị ra thôi à?

                  Người nữ giáo sư tên là Ngọc Lan trả lời quá nhỏ không ai nghe được. Vả lại người ta đang bận bắt tay, những cái bắt tay không hăng hái vì lặp lại quá nhiều.

                  - Mấy bác đã có chỗ trọ sẵn cả rồi chứ?

                  Nhiều người trả lời một lượt. Đại khái thì kẻ có người không. Nhiều người định ra phố thuê phòng. Một số ít định ghé lại nghỉ tại trường.

                  - Phải đó, - lời ông Chính, - chúng tôi đã cho sắp đặt một phòng học dành cho quý vị. À, xuống ngay trường Cường Để mới nhé? Trường cũ nóng lắm không chịu được. Xích-lô!

                  Mấy bác xích-lô đứng vây quanh các thân chủ tranh nhau lên tiếng.

                  - Dạ… Dạ…

                  - Chở mấy thầy xuống trường Cường Để mới nhé? Biết trường mới không?

                  Các giám khảo đã an vị trên xe xích-lô, ông Chính xoa tay nói:

                  - Thế là các bác đã có nơi chốn an ổn hết rồi. Không có bác nào đến ở với tôi cho vui.

                  Lời mời mọc lộ tính chất hình thức đãi bôi không được ai trả lời. Ông Chính quay lại tìm cô giáo Ngọc Lan. Nhưng lặng lẽ, cô đã lên xích-lô đi đâu mất từ lúc nào.

                  Khi chuyến tàu suốt ở Huế vào, ông Chính cũng lặp lại sự cần mẫn vừa rồi. Lần này ông không còn ngượng miệng như lần đầu, ông bảo: “Chúng tôi đã cho sắp đặt một phòng học dành cho quý vị”. Vì thật ra sự sắp đặt là do bác cai trường theo một lệnh của ông Tổng giám thị. Vả lại, có gì đâu mà gọi là sắp đặt? Cứ hai cái bàn học kê sát nhau làm một giường nằm, trên tường chăng bốn đường dây kẽm để mắc màn, thế thôi. Giám khảo đến ở tại trường thì ít và phần lớn là những người vô tâm. Họ chỉ cần sự tinh khiết của khoảng rộng.

                  Ba ngày thi lần lượt trôi qua. Thằng Liêm làm bài chả ra gì mặc dù ông đã bảo nó cứ nhìn sang bài của hai đứa ngồi cạnh. Nhưng ông tháo vát lanh lẹ bao nhiêu thì thằng Liêm hiền lành đờ đẫn bấy nhiêu. Nó sợ thầy giám thị, cô giám thị, sợ ông giám thị hành lang, sợ chủ khảo, sợ cả mấy ông lính mang súng đi đi lại lại ngoài sân trường nên nó chả dám nhìn ai hết. Bài nháp nào đem về đưa cho ông coi ông cũng la rầm lên làm nó càng sợ hơn. Rốt cuộc ông phải gọi giật bà lên để phân bua:

                  - Đấy, bà xem, nó học dở như thế đó.

                  - Thì nó học dở từ hồi giờ.

                  Bà thủng thỉnh trả lời.

                  - Ai chả biết là nó dở.

                  Ông nói gần như thét lên.

                  - Đã biết thế còn bảo tôi làm gì nữa? Nó bé oắt như con mắm thế kia mà ông cứ bắt nó học.

                  - Thôi dẹp bà đi. Chả bàn bạc được cái gì với bà hết. Nói ngang như cua ấy.

                  - Chả ngang thì…

                  Ông Chính đứng phắt dậy, đưa tay quyết tìm một vật gì ném xuống đất để biểu lộ cơn giận. Nhưng trên bàn chỉ toàn những vật có thể vỡ được, chẳng hạn cái tách, lọ mực, bình hoa. Ông đành phải chọn lấy tập báo ném phịch xuống đất rồi la lên:

                  - Thôi, tôi không nói với bà nữa.

                  Và ông bỏ vào giường nằm.

                  Các hội đồng giám thị ở Tuy Hòa, Quảng Ngãi đã tập trung đầy đủ về Trung tâm Qui Nhơn. Ông bắt gặp được anh Độ, một trong những thư ký hội đồng. Ông nói nhỏ:

                  - Khi rọc phách nhớ coi dùm bài của thằng nhỏ con “moa” một tí nhé? Số ký danh của nó là 612. Phòng 18. Trung tâm Qui Nhơn. Nhớ ghi dùm số phách cho “moa” tí nhé?

                  Độ nhăn mặt:

                  - Chủ khảo gắt như mắm…

                  - Thôi mà - ông Chính vội vỗ vai Độ - giúp dùm cho “moa” một tí mà.

                  Độ định ừ à cho qua chuyện nhưng thấy ông Chính cứ quanh quẩn ở hành lang nên biết là không giúp không xong. Thà giúp một tiếng còn kín nhẹm hơn là để ông cứ thì thầm nhỏ to với mình khiến chủ khảo thêm nghi ngờ. Vả lại ông khéo xếp đặt quá khiến sự hiện diện của ông ở phòng chấm rất đỗi tự nhiên. Ông gọi anh Cai mang thêm ghế ngồi vào cho các thầy. Ông gọi anh Cai pha thêm nước trà. Ông gọi anh Cai xuống đuổi mấy người thí sinh lảng vảng ở trong cổng trường. Đối với chủ khảo thì ông gợi chuyện một cách rất nhã nhặn:

                  - Tôi chắc ông phải khó chịu với những khách sạn ở Qui Nhơn?

                  Ông chủ khảo ngơ ngẩn không biết kẻ đối thoại định nói gì. Nút cà-vạt của ông nằm lệch sang một bên cổ sơ mi. Lưng ông gù hẳn xuống. Sự mệt mỏi đọc dược trên đôi mắt lờ đờ, trên da mặt bóng mồ hôi, trên mái tóc rơi lè phè trước trán. Ông vừa bực mình vì các giám khảo đến phòng họp quá trễ giờ, thích tán chuyện với các cô giáo mà lại muốn công việc chấm thi phải xong trong năm ngày. Họp chấm ngày thứ Hai mà ngót một nửa số giám khảo đã ghi vé máy bay thứ Sáu về. Ông Chính phải lại xoay câu hỏi thăm:

                  - Thưa ông, ông trọ ở khách sạn nào?

                  - Dạ, tôi ở khách sạn Khánh Vân.

                  Vừa trả lời, ông chủ khảo vừa lơ đãng nhìn ra xa. Rồi ông chợt quay lại:

                  - Xin lỗi ông… - ông đưa tay ra bắt, - … Tôi đang bận quá.

                  Ông Chính không bị mếch lòng vì thái độ lạnh nhạt hấp tấp của ông chủ khảo. Người có trách nhiệm điều khiển bao giờ cũng đa nghi. Họ tưởng ai cũng rình rập để lợi dụng họ thành ra họ rất bủn xỉn nụ cười và lời xã giao. Ông Phó chủ khảo cởi mở hơn. Vì trách nhiệm có chủ khảo gánh, công việc có thư ký làm. Ông tươi cười đón lời hỏi thăm của ông Chính và nhún vai một cái:

                  - Khách sạn? Gọi hơi quá, vì chỉ có cái tên là có vẻ khách sạn mà thôi: Bồng Lai, Lan Đình, Đồng Khánh… Đó chỉ là những căn phòng hẹp ở sau những hiệu buôn tạp hóa người ta lợi dụng đem cho thuê…

                  Ông Chính tán đồng ý kiến ngay:

                  - Vâng, đúng thế ạ. Ông nhận xét rất đúng.

                  Gió ở biển phây phẩy thổi vào, mát nhẹ. Ông Phó chủ khảo thích chí nói tiếp:

                  - Người Bình Định sống trong hoàn cảnh chiến tranh mười năm nên họ biết lợi dụng từng tấc đất một. Không quảng canh được thì họ thâm canh.

                  Biến nhà sau thành khách sạn, đó cũng là không bỏ phí một tấc đất, một cách thâm canh vậy.

                  Thú vị vì lời nhận xét, ông Chính cười ha hả và vội giơ tay bắt tay ông Phó chủ khảo trong một thế tán đồng thân mật. Vừa lúc ấy bóng anh Độ đi ra, và ông vội cáo từ đi lảng nhanh về phía anh.

                  Hai người gặp nhau ở cầu thang gác.

                  - Cụ nhớ ghi số phách quốc văn: Am 26.

                  - Am 26.

                  - Pháp văn: Bp 25.

                  - Bp 25. Còn mấy món kia?

                  - Tôi chỉ tìm được có hai món.

                  - Nhờ tìm hết dùm tí, bác (Ông đã thăng Độ lên chức Bác)

                  - Hai món chính, hệ số 6 rồi còn đòi gì nữa? Con cụ ở lớp đứng thứ mấy?

                  - Cháu kém lắm. Đứng thứ 48. Gần chót.

                  Độ vô tình nhún vai tỏ ý chán nản. Nhưng anh vội chữa lại cử chỉ vụng vừa rồi của mình bằng một nụ cười gượng gạo:

                  - Nhưng được hai món hệ số 6 rồi thì có hy vọng.

                  - Tội nghiệp mà. Không đỗ nổi đâu. “Bác” gắng giúp thêm tí nữa.

                  Chợt có tiếng giày ở phòng chủ khảo đi ra, Độ vội vàng bước xuống cầu thang. Bực mình, nhưng anh không thể vô tình với câu khen vuốt đuôi của ông Chính:

                  - Thôi, gắng giúp “moa” (1 ) tí nhé, rồi moa làm mai cho toa(2 ) cô Nhã. Cô Nhã chấm Lý Hóa đó, có mê không? Dạy Cường Để đó. Cả Trung tâm này chỉ có toa là xứng với en (3 ) thôi.

                  Được mấy số phách, ông Chính lân la lại các tiểu ban: tiểu ban Toán, tiểu ban Công dân Giáo dục, tiểu ban Pháp văn… Tìm cho biết được bài thi của con mình thuộc về tay ai chấm, thật không phải là dễ. Nhưng ông Chính là một người chịu khó. Đầu tiên ông gặp được xấp Pháp văn có bài con ông rơi vào tayanh Khoa, một bạn đồng nghiệp đã cùng dạy với ông mấy năm ở trường Trần Hưng Đạo. Ông rỉ tai:

                  - Am 26 là con tôi đó.

                  - A!…

                  Anh Khoa mỉm cười lật tìm số Am 26. Đọc qua một lượt, Khoa vỗ đùi đánh “đẹt” một cái, nói to lên:

                  - Ồ! Kém quá. Kém quá. Làm chả được gì hết. Chia verbe Rendre mà cũng sai.

                  Ông Chính cảm thấy ruột mình quắn lại khi đưa mắt theo dõi cặp mắt chăm chăm của Khoa nhìn xuống bài làm và tim mình chồm lên khi Khoa vỗ vào đùi. Ông nói nho nhỏ:

                  - Vu (4 ) cho cháu nó đủ moi-en (5 )

                  - Cho thế nào được?

                  Khoa quay lại nhìn ông, tròng mắt chao lên nhiều vòng sau lần kính trắng.

                  - Làm sai hết thế này mà.

                  - Vu nói nho nhỏ vậy. Thôi vu bớt đi 1, cho cháu nó 9 điểm.

                  - Không được. Bài đáng 5. Cho thêm 1 là 6.

                  - Chết! Vu giết moa. Thôi cho cháu 7 điểm rưỡi.

                  “Thật tai ác là thằng Khoa”, ông Chính nghĩ. Mình cứ tưởng chỗ quen thì dễ nài, hóa ra không hẳn thế. Chả bù với hai vị giám khảo chấm Sử Địa và Công dân Giáo dục, ông Chính không quen biết lần nào cả nhưng khi kể lể gia cảnh (cần nói láo một chút) và chỉ vào mái tóc có dăm sợi bạc của mình là các vị nới rộng điểm giúp cho ngay. Thật là những người dễ dãi, hào phóng. Cô giáo Lý Hóa, - không phải là cô Nhã, tất nhiên, - trông thế mà cũng nghiệt ra phết. Chỉ “vâng… dạ… đồng ý chấm nới tay…” nhưng nhất định không cho biết là mấy điểm. Chẳng lẽ lại vào ngồi cạnh cô để nài. Bài luận Quốc văn thì biệt tăm không biết do ai chấm. Ông chỉ còn trông chờ ở số vận may. Thằng Liêm lý luận không hay nhưng chữ nó viết đẹp sáng sủa. Ông Chính trông sao cho bài làm của nó rơi vào tay một ông giám khảo nhớ nhà. Ông ta sẽ đọc lại cái nhập đề và cái kết luận. Ông ta sẽ tìm vài lỗi chánh tả để gạch cho đỏ bài nhưng bài không có lỗi chánh tả. Ông Chính thâm hiểu tâm lý của một số giám khảo nên đã dặn con cố viết cái nhập đề và cái kết luận cho thật hay và lưu ý đừng để phạm những lỗi chánh tả. Ông giám khảo nhất định sẽ cho điểm quanh quẩn ở 8, 9, 10. Bài Toán thì vô phúc bị đem ra cho tiểu ban cùng chấm để làm thang điểm. May trúng được hai phần bài. Nhằm bài toán đã làm ở trường rồi thế mà chép lại cũng còn sai lên sai xuống.
                  Cũng như mọi thí sinh, ngày vô phách cộng điểm, ông Chính thấy sao mà dài thế! Thằng Liêm thì cứ lêu nghêu đi dạo biển và đọc tiểu thuyết, làm như chính ông đi thi chứ không phải nó thi. Ông gọi giật nó, hỏi:

                  - Sao tao chả thấy mày lo lắng gì cả thế?

                  - Thì thầy bảo con lo cái gì nữa? Thi đã xong rồi thì chỉ còn đỗ được trượt thôi chứ còn lo gì nữa?

                  - Mầy nói như… cái con chó ấy. Thật là mẹ con mày một lũ.

                  Và ông vào thay áo xuống trường.

                  Phòng họp rộn rịp ồn ào. Chỗ này vô điểm, tiếng rao điểm luân phiên nghe nhịp nhàng như tiếng một cái máy lạ đang chạy. Chỗ kia rầm rì tiếng cộng điểm. Ông Chính lại mượn xem bảng kết quả của phòng 18 trung tâm Qui Nhơn. Những chữ “đậu” ghi rải rác trước những tên thí sinh. Ông lật nhanh đến tên Nguyễn Thanh Liêm số ký danh 612. Ông lặng im đưa mắt nhìn, lẩm nhẩm tính từng cột điểm. Đoạn để tập giấy xuống bàn, ông lặng lẽ bước ra hiên. Nét mặt đăm chiêu, ông nhìn ra bãi bể Gành Ráng. Đôi con mắt nheo lại và môi mím trong vẻ suy nghĩ. Anh Khoa ra uống nước, lại gần hỏi:

                  - Sao buồn thế bác? Cháu Liêm hỏng rồi à?

                  Ông lắc đầu không trả lời.

                  - Tôi cho đủ 7 điểm rưỡi bác yêu cầu mà.

                  - Vâng, tôi nhớ.

                  - Thế thì sao mà hỏng được?

                  - Không. Đâu có hỏng.

                  Nghe tiếng “hỏng”, vài giám khảo đứng gần đó quay lại hỏi:

                  - Sao? Con cụ hỏng rồi à?

                  - Chết chết! Hỏng thật sao?

                  Mấy giám khảo ngồi trong phòng cũng quay mặt ra. Có cả cô giáo chấm Lý Hóa và hai vị chấm Sử Địa và Công dân Giáo dục dễ tính. Người nào cũng lộ vẻ ái ngại cho người đồng nghiệp tốt bụng của mình. Mọi người, nhất loạt, đều cảm thấy lương tâm rỉa mình khe khẽ vì ai cũng nghi rằng bài của con người bạn đã rơi vào nhằm tay mình. Rồi có người chép miệng:

                  - Tội nghiệp. Đứa nào cho điểm ác.

                  - Ông ta có thể xin chủ khảo…

                  - Cụ ấy người có tuổi, dáng đứng đắn chắc không thèm hạ mình xin xỏ lôi thôi.

                  Tiếng xì xào im bặt khi ngoài hành lang ông Chính chẩm rãi mà ưu tư nói:

                  - Thưa các bác, cháu không hỏng ạ.

                  - Chứ sao?

                  - Cháu được đỗ ạ.

                  - Đỗ mà sao cụ buồn thế kia?

                  - Dạ… Cháu được 142 điểm. Chỉ còn thiếu 14 điểm nữa là được Bình thứ. Tức thế. Phải các bác nới tay cho cháu một chút thì cháu đã đỗ Bình thứ rồi. Bậy quá. Tiếc quá.

                  (1) Tôi, phát âm tiếng Pháp
                  (2) Anh, mày (phát âm tiếng Pháp)
                  (3) Cô ấy, chị ấy
                  (4) Vous: anh, ông
                  (5) Moyenne: điểm trung bình


                  #24
                    hai1957 03.12.2012 21:04:55 (permalink)
                    2. HÃY AN NGHỈ ABDUL RAHIM


                    - Doucement méchant! Doucement méchant!

                    Abdul Rahim nhắc lại hai chữ ấy, cười thú vị vừa ôm chầm lấy tôi. Rồi nói sang tiếng Việt:

                    - “Hung bạo một cách dịu dàng”, có thật đó là ý kiến của… you? (1 )

                    (Abdul Rahim nói chuyện với tôi thường bằng tiếng Pháp nhưng đến chữ Vous (2 ) là anh hay quên nói lẫn sang tiếng Anh)

                    - Thật lắm. Tôi cho rằng Abdul Rahim là một người dịu dàng. Chắc chắn mọi người cũng nghĩ như vậy.

                    Abdul Rahim quay lại cô Ái Hoa.

                    - Cô coi, tôi không hung bạo như cô nói, tôi “hung bạo một cách dịu dàng”, - ông Long bảo vậy.

                    Câu chuyện xảy ra một buổi chiều khi tôi ghé lại hiệu Thanh Mỹ. Tôi gặp Abdul Rahim nơi đó. Ý hẳn là anh nói đùa sao đó với cô Ái Hoa, - tên cô bán hàng, - và bị cô tặng cho một chữ méchant (3 ). Thấy tôi bước vào, anh phân bua với tôi ngay và tôi giải hòa bằng chữ “một cách dịu dàng” để làm vừa lòng cả hai người. Ái Hoa đẹp hơn sự đòi hỏi của một chân bán hàng. Không hiểu do những hoàn cảnh nào mà nàng nhận đứng bán cho hiệu này. Ngày nàng chưa đến, hiệu sách này sống uể oải như một con bệnh mắc chứng thiếu máu. Những tủ hàng đứng yên lặng soi bóng vào nhau như ở trong một bức tranh tĩnh vật. Nàng hiện diện ở đấy ngày nào không rõ, chỉ biết là từ ngày đó, thanh niên tỏ ra lưu ý đến sách báo nhiều hơn trước. Thật lịch sự là con người thưởng thức nghệ thuật. Người ta ghé lại nhìn những sản phẩm tinh thần bày la liệt trên mặt tủ, chọn vài ba cuốn và nhã nhặn đưa cho Ái Hoa bọc giấy bóng, gói trong giấy màu. Có đủ thì giờ để Ái Hoa dò hiểu trình độ trí thức của người đối diện qua những cuốn sách gáy dày và chữ in dày đặc. Ái Hoa biết cười nhẹ nhàng với một nhóm sinh viên hải quân, biết nhận lời khen của mấy anh sinh viên không quân. Thanh niên tóc bồng, học sinh tú tài, sĩ quan bộ binh vào ra tấp nập, nhất là những chiều thứ bảy, những sáng chủ nhật. Tóm lại, một người như thế khiến tôi không thể vì Abdul Rahim mà làm phật lòng.

                    Tôi đứng lật xem những tờ Jours de France. Bìa láng in nhiều khuôn mặt tươi cười của những vua và công chúa các nước châu Âu cưới hỏi nhau. Các nước dân chủ giàu có ưa chõ mắt nhìn vào cuộc đời riêng tư của các vua chúa, vua tại vị và phế đế lưu vong. Công chúa và hoàng tử cũng được các ống ảnh trìu mến đặc biệt. Còn xa lắm mới tới cái ngày mà số vua trên thế giới chỉ rút lại còn có năm: vua nước Anh và bốn ông vua trong cỗ bài các-tê.

                    Abdul Rahim chọn tờ Newsweek và tờ Times. Anh đứng cạnh tôi, đẫm thấp nhưng chắc chắn như một tảng đá. Đặc biệt là đôi lông mày dài cắt cạnh nhọn như một lưỡi mác. Da đậm màu, không phân biệt được vùng chân râu.

                    Quen anh trong trường hợp nào, tôi hiện không còn nhớ rõ. Có lẽ nhiều khi ghé vào hiệu Mohammed để mua vải và nghe anh nói tiếng Pháp trả lời mà hóa ra quen chăng. Tiếng Pháp hiện nay heo hút xa vắng như một kỷ niệm. Khắp nơi người người ta nói tiếng Anh. Abdul Rahim đứng bán hàng cho hiệu này và khi tôi quen với anh thì anh cho biết rằng chủ hiệu là người em ruột của anh. Người chủ hiệu mặt mũi khôi ngô béo tốt và cử chỉ nhã nhặn lịch sự. Abdul Rahim không có cái dáng dấp phú hộ đó. Anh đơn giản thô mạt hơn nhưng lại ý vị đậm đà hơn. Nhìn khuôn mặt anh tôi thấy cái chiều sâu của sự suy tưởng. Đó là một khuôn mặt chứa đựng hơi nặng nề, chậm chạp bởi vì không chịu khuôn sáo tầm thường. Giữa nhiều khuôn mặt tinh ranh láu vặt, giữa những cái môi mỏng ba hoa thì sự trì trọng của Abdul Rahim thật có một sức quyến rũ kỳ dị. Abdul Rahim nói chậm rãi bởi vì tiếng Pháp của anh không giàu lắm. Đã vậy, anh lại không bao giờ nói về những đề tài nhảm nhí như thời tiết, vật giá mua bán, nếp sinh hoạt của thành phố, thời sự trên mặt báo. Thường thì chừng sau ba bốn câu xã giao, anh đã nhẹ nhàng kéo tôi về một nẻo suy tư nào đó với anh, về một chân lý, một tư tưởng triết học. Lịch sử Ấn Độ dày quá khứ và quá khứ đó dày tư tưởng.

                    Mỗi năm đến mùa kiết hạ an cư, Abdul Rahim lên chùa ở hẳn hai tháng. Anh đọc sách, ngồi Thiền và lúc hạ san thấy người hơi gầy đi. Tôi có nhiều lần tự hỏi về ý nghĩa của một cuộc sống thánh thiện như vậy. Abdul Rahim không nói chuyện về đàn bà và dường như tránh nói về đàn bà. Anh ăn chay trường. Không uống rượu không hút thuốc. Anh từ khước mọi thú vui vật chất của cuộc đời. Chọn sống thoát ngoài khuôn khổ của xã hội bình thường, chỉ nghĩ đến Quá khứ và Tương lai, một Quá khứ gieo Nhân và một Tương lai gặt Quả. Nghĩ đến tu hành để thoát vòng sinh tử luân hồi, thật là điều không dễ đối với một người có đủ khả năng hưởng thụ.

                    Mùa hè 1960 tôi có việc ra ở Qui Nhơn nửa tháng. Thành phố thấp và nóng, mang nhiều sắc thái của thời kháng chiến vừa qua. Một cái hội trường thành phố kiến trúc giống như cái máy ra-di-ô, nơi lưu diễn của các ban cải lương. Khán giả đa số mặc áo bà ba. Tiếng guốc khua lốc cốc trên đường nhựa. Buổi chiều người ta ùa ra đường ngồi hóng mát. Trên con đường phố buôn bán độc nhất, bước hối hả những người đàn bà da mặt sạm, già trước tuổi. Xe jeep nhà binh, chỗ nào cũng xe jeep nhà binh. Đàn bà mặc áo màu ngồi hãnh diện trên xe Jeep nhà binh. Rải rác mới có một vài chiếc xe du lịch. Tôi gặp Abdul Rahim, bất ngờ, nơi cái thành phố khô cằn này.

                    - Quelle surprise! (4 ) You ra đây hồi nào?

                    - Mới được năm ngày. Còn Abdul?

                    - Bốn tháng.

                    Tôi mời Abdul Rahim vào một hiệu bán nước trái cây và ở đó tôi được biết là Abdul Rahim hiện đang làm việc cho nhà binh Hoa Kỳ. Câu chuyện trao đổi mất đi sự thoải mái (...Kiểm duyệt bỏ...). Hơn nữa, thà Abdul Rahim mặc quân phục để người ta dễ phân biệt được anh, đằng này anh vẫn sơ-mi trắng quần dacron màu tối như mọi người thường dân đi lại nhan nhản ngoài phố.

                    - Sao? Ở nơi thành phố nhỏ của chúng ta có gì thay đổi?

                    Tôi nhún vai.

                    - Mọi người vẫn sống đều đặn, không cần biết đến ai hoặc biết quá nhiều về một vài người liên hệ. Còn Abdul Rahim, cuộc sống của Abdul ở đây có dễ chịu không?

                    - Lúc nào cũng thế.

                    Ừ! Abdul đã gián tiếp nhắc tôi. Anh là một tảng đá chắc chắn, khó lòng mà gió, mưa, nóng, lạnh có thể làm xao xuyến được. Huống chi, bên trong cái cơ thể rắn chắc đó, tinh thần của anh xem ra như cũng kiên cố chẳng kém. Đôi con mắt sáng, bình tĩnh của anh, đó là sự bình tĩnh của mặt nước hồ im lặng phản chiếu vòm trời thêu thùa mây trắng và cành cây lá cỏ mọc ở ven bờ. Đó là sự trang nghiêm đầy khí lực của mặt biển màu tím ngoài khơi, giữa trưa khi nước óng ánh như dầu đặc. Xung quanh tôi, những cặp mắt thường xao xuyến, dao động, mỏi mệt. Cuộc sống khó khăn, nhiều phiền toái, nhiều bất trắc làm con người lo lắng rụt rè. Những cử chỉ không dứt khoát, không đích xác. Cái nhìn lướt lờ đờ trên những mục phiêu di chuyển. Người ta không biết mình muốn gì, mình nên làm gì và cái gì dành cho phần mình.

                    Abdul Rahim nói:

                    - Nước của ông hiện đang trải qua những cơn sốt dân quyền rất đỗi trầm trọng.

                    - … Như mọi nước Á Phi còn thấp kém - tôi tiếp lời. Như một đứa trẻ phải chịu những cơn sốt mọc răng.

                    - Còn nặng hơn cái ví dụ của ông. Còn nặng hơn.

                    Abdul Rahim đưa mắt mơ màng nhìn ra xa.

                    - Tôi đồng ý (...Kiểm duyệt bỏ...) Đã đến lúc quần chúng không chịu nổi nữa cái sức nặng của vị “cứu tinh dân tộc”, của “người thuyền trưởng tài ba” đang đè lên vai họ.

                    Xung quanh chúng tôi có những người lặng lẽ nhấm nháp ly nước mãng cầu tây, nước cà-rốt. Có người mang kính đen ngồi trầm ngâm. Thật không phải là nơi tốt để bày tỏ chính kiến, nhất nữa, đây là một tỉnh nhỏ. Nên tôi nói lừng chừng:

                    - Người ta sẽ gặt những gì mà họ gieo.

                    - Nhưng nếu họ gieo hạt giống tai họa ngay vào mình thì mình khó lòng ngồi bình tĩnh đợi chờ kết quả.

                    Tôi nhìn Abdul Rahim đợi anh giảng giải. Anh nói nhỏ:

                    - Tuần trước tôi bị một bọn người ném đá và xông vào hành hung.

                    - Họ có nói vì cớ gì không?

                    - Không.

                    - Anh có đi thưa nhà chức trách?

                    - Có. Nhưng nhà chức trách chỉ ậm ừ ghi nhận sự việc mà không hứa hẹn can thiệp gì hết. Từ ngày đó, tôi ít đi ra đường, sợ sẽ có những vị hành hung nữa.

                    Tôi lặng yên suy nghĩ. Sự hành hung đang thịnh hành ở khắp nơi. Lẽ phải bị vũ lực áp chế. Rồi vũ lực áp chế vũ lực. Không ai muốn nghe tiếng nói của ai nữa. Đấm, đá, vỏ chai, thanh sắt, gậy gộc hùng biện hơn lời nói. Thời đại của bắp thịt và sự bạo tàn. Tôi bảo Abdul.

                    - Để hôm nào rảnh tôi ghé lại ông Tỉnh trưởng trình bày trường hợp của anh. Có lẽ ông Tỉnh trưởng biết rõ điều đó.

                    - You có quen ông Tỉnh trưởng?

                    - Đó là một người bạn học cũ.

                    Ninh hiện làm Tỉnh trưởng ở đây. Một người bạn làm ở Khu Công chánh bảo tôi:

                    - Ninh hiện làm Tỉnh trưởng Bình Định.

                    - Sao anh biết?

                    - Nó vừa thi lấy bằng lái ô-tô. Tôi vừa đọc hồ sơ xong.

                    (1) Ông, anh (tiếng Anh)
                    (2) Ông, anh (tiếng Pháp)
                    (3) Hung bạo
                    (4) Thật bất ngờ. Anh ra đây…


                    Mấy ngày ở Qui Nhơn tôi có ý muốn ghé lại thăm Ninh. Nhiều người khuyên đừng. Không mấy ai muốn đến thăm một bạn cũ khi người đó có chút ít chức vụ. Nhưng tôi nghĩ khác: Hắn sẽ thủ thế khi mình đến thăm hắn. Chắc chắn là hắn nghĩ rằng mình đến nhờ vả gì đó. Hắn sẽ cố sức giữ khoảng cách với mình và hắn sẽ hối hận khi thấy mình bắt tay thong dong ra về, không đòi hỏi gì khiến hắn phải cố gắng hết.

                    Tôi chọn chiều thứ bảy đến thăm Ninh, thú vị nhìn những người lính gác long trọng xét hỏi giấy tờ, bắt khai lý do vừa kín đáo dò xét. Thật không có gì dễ chịu cho bằng mình đem cái bình thản vô ưu của mình ra đối đãi với cái hoài nghi khắc khoải của kẻ tiếp mình, đem cái thong dong bất cần của mình ra trả lời cái nghiêm trang “quốc gia trọng sự” của kẻ sinh ra với cốt cách chuyên làm thuộc hạ cho người khác.

                    Ninh tiếp tôi ở phòng khách rộng. Hai mươi năm xa cách nhưng đúng là khuôn mặt đó. Chúng tôi gợi những kỷ niệm hồi còn học chung ở lớp Nhì, lớp Nhất. Cảnh vật ngày xưa hiện ra trong óc tôi rõ ràng đến từng kẽ lá, từng cành cây, từng cái lá khô, từng con chim chào mào đong đưa mổ quả keo xanh. Ninh dè dặt khi bắt đầu câu chuyện, thụ động trả lời nhiều hơn là đặt câu hỏi. Nhưng khi thấy tôi cười nói thong thả, anh biết là tôi không nghĩ gì đến cái chức vụ của anh hết, anh khỏi phải lo lắng gì nữa hết và anh bắt đầu nói chuyện tự nhiên. Khi nghe tôi nhắc đến tên mấy cô bạn: Hồ thị Yến, Hồ thị Xê, Nguyễn thị Nhạn… thì anh toe toét ra cười.

                    - Ừ! Mấy cô bạn xinh xắn của mình, chả biết bây giờ chồng con ra thế nào. Anh còn nhớ cáichân có tật của cô Yến không?

                    - Nhớ hoài. Một người có vẻ mặt đẹp đẽ dịu dàng như thế mà chỉ vì cái chân có tật…

                    Anh chợt cười to rồi thủ thỉ tâm sự:

                    - Nè, không chừng hồi đó mình có yêu thầm một trong mấy cô cũng nên.

                    Câu chuyện đang vui thì tôi giã từ Ninh. Anh mời ở lại nhưng tôi không nhận, anh mời năng ghé lại chơi trong thời gian tôi còn ở lại Qui Nhơn nhưng tôi không hứa chắc. Tôi không muốn đến một lần thứ hai vì những gì êm đềm trong sạch đều đã nói rồi. cái đẹp vốn phải hữu hạn. Gặp nhau nhiều, chúng tôi sẽ phải nói đến chính trị, hành chánh… và chắc chắn là trong những địa hạc đó chúng tôi sẽ phải nói dối, nói nhảm và nói khoác. Những người thành công thường no đầy tự mãn. Trạng thái sung túc đó thể hiện nơi Ninh trong cái cười mềm, trong tia mắt nhìn tròn no an ổn.

                    Nhưng hôm nay vì trường hợp Abdul Rahim mà tôi sẽ phải gặp Ninh trở lại. Đúng là một điều khó chịu vì mình sẽ không nói chuyện thong dong và cười to như lần trước. Nhưng chưa gặp Ninh thì tôi nhận được điện tín gọi về gấp. Tôi đành gọi điện thoại cho Ninh, nhờ Ninh coi lại trường hợp của Abdul Rahim.

                    Mãi thật lâu về sau tôi mới gặp lại Abdul Rahim. Có cái gì tươi vui rạng rỡ ánh trong tia mắt của anh. Chúng tôi được ngăn cách với Quá khứ bằng một cuộc đảo chính và có lẽ cuộc đảo chính đó đã lọc bớt những vẩn bụi nặng nề trong cái không khí xã hội chúng tôi sống. Con người đi lại vung tay thoải mái hơn và mắt nhìn cũng chững chạc hơn. Qua nhiều người nói, tôi biết Abdul Rahim đã hoạt động mạnh dạn trong phong trào lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm và có lẽ do đó mà anh bị ném đá và hành hung ở Qui Nhơn. Tôi không nhắc đến chuyện cũ.

                    - Abdul Rahim hiện vẫn còn làm việc cho nhà binh Hoa Kỳ?

                    - Bây giờ làm ở Quân y viện.

                    - Đó là một công việc tương đối tốt. Cố gắng chữa lành những vết thương do chính mình gây ra.

                    - Vâng. Chỉ tương đối tốt. Vì sự sửa chữa không đi kịp sự tàn phá. Con người say sưa tàn phá, để hết tâm lực vào sự tàn phá.

                    - Abdul hiện có những dự định gì trong óc?

                    - Đợi ngày đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ. Hi vọng được học Y khoa cho đến khi tốt nghiệp.

                    - Xin khen ngợi và cầu chúc Abdul thành công.

                    Tôi năng gặp Abdul Rahim trong giai đoạn anh chờ đợi này. Nơi gặp thường là cái lối đi hẹp bao quanh chiếc bàn to xếp đầy những sách báo ngoại quốc. Có nhiều hôm mệt mỏi, tâm hồn đầy ưu tư và đôi mắt thiếu ngủ, tôi bắt tay Abdul Rahim vừa soi bóng mình trong đôi tròng mắt sáng ngời trong nụ cười rộng nở của anh. Tôi thèm thuồng cái sức khỏe vững chãi đó.

                    Mùa Thu năm ngoái một chiếc phi cơ oanh tạc rơi giữa một thị trấn đang yên ổn làm ăn. Năm sáu căn phố bị sập. Những trái bom còn mang theo chưa thả hết rơi nằm theo xác phi cơ rồi rải rác nổ dần. Nhiều người háo kỳ chạy đến xem bị chết trong vụ nổ này. Quân cảnh chận các ngả đường. Xe Hồng thập tự rít còi chạy vùn vụt về ngả bệnh viện. Gia đình nào cũng lật đật kiểm soát con cái mình xem có còn đủ số không. Người ta lo lắng chạy đến trường học xem con mình có ngồi ở đó không. Người ta hồi hộp chờ đến giờ tan sở xem chồng mình có về với đầy đủ chân tay không. Những tin đồn chạy dài khắp các nẻo phố. Số nạn nhân mỗi giờ mỗi tăng thêm. Ngoài những xác người mất đầu mất chân, người ta còn thấy nhiều mảnh xương mảnh thịt vụn không biết của ai. Sáng hôm sau tôi được tin Abdul Rahim đã chết trong tai nạn đó và tìm không ra xác. Nơi xảy ra tai nạn xa chỗ ở của anh. Bốn giờ chiều ngày thứ sáu lại không phải là giờ đi dạo. Nhưng anh được rảnh buổi chiều đó, anh đi đến nhà bạn chơi khác với thường lệ và tai nạn vồ lấy anh.
                    Abdul Rahim không còn nữa. Cái năng lực thể xác và tinh thần đó đã phút chốc không còn nữa. Tôi mường tượng thấy anh đang đi trên lề phố quen thuộc, anh đang đứng vững chãi, đẫm thấp trước một cửa hiệu bán vải và nụ cười của anh nở ra cùng một lúc với bàn tay thân hữu anh đưa ra.

                    - Bonjour Monsieur Long. Comment allezvous? (5 )

                    Rõ ràng là tiếng nói của Abdul Rahim, tiếng nói không lầm-lẫn-với-ai-được của anh và đôi môi chu lại để nói những âm “ou”.

                    Cái chết vội vã của Abdul làm tôi xao xuyến nhiều ngày. Tôi chưa có thêm một người bạn đã vội mất một người bạn. Sự mất đó làm tôi cảm thấy tâm hồn mình chợt nghèo đi, có một khoảng trống làm tôi mất thăng bằng như chiếc phi cơ đang bay chợt gặp một lỗ không khí. Dẫu không tò mò tìm hiểu cuộc đời riêng tư của anh nhưng tôi tin rằng anh có một nhân cách cao hơn mức trung bình.

                    Chừng nửa năm sau ngày anh mất, bỗng một hôm vô tình mà tôi nghe người nhắc đến tên anh. Abdul Rahim và tôi vốn không có bạn chung. Cô Ái Hoa là người độc nhất mà tôi có thể gợi chuyện về anh thì đã bỏ hiệu sách đi lấy chồng rồi. Không thể ngày ngày nhìn bìa những cuốn sách in hình đàn bà khỏa thân, in hình những cặp tình nhân quấn quít ôm nhau hôn mà có thể sống cầm cự trong cảnh gối chiếc. Người gợi chuyện về Abdul Rahim tôi không ngờ lại là một cô bạn nhí nhảnh: Liên. Nàng nói trước:

                    - Cấm có chiều thứ Bảy nào là không gặp anh đi mài gót giày trên vỉa hè.

                    - Để cho xứng với em. Mỗi lần ra phố là y như gặp em nên anh chẳng biết trong hai chúng ta ai đi nhiều hơn. Nào! Hãy báo cáo thành tích tâm tình của em trong tháng này.

                    - Yêu lăng nhăng, lai rai, bình thường. Như gió mậu dịch thổi bình thường trên biển Nam hải. Còn anh?

                    - Tất cả đều ở Điều kiện cách, Conditional. Lên phòng anh ngồi nói chuyện cho đỡ mỏi chân. Anh đi bộ từ bốn giờ đến giờ.

                    Liên bước chân theo sau tôi. Mưa rào xuống một trận hùng hồn khi tôi rót nước cam vào ly mời nàng.

                    - Câu chuyện của em hay của Trang của Dung gì cũng đều giống nhau - tôi nói. Đó là chuyện những nàng con gái thích yên những đàn ông hoàn toàn: đẹp trai, khỏe mạnh, học giỏi, anh hùng và… giàu. Sở thích giống nhau nên họ phải tranh giành nhau những người đàn ông tốt số. Cuối cùng chỉ có một nàng được, còn những nàng kia xông xáo đi mở những chiến dịch khác.

                    - Anh nói quá. Chính tụi đàn ông đi lùng bọn em.

                    - Cả hai giống, đực và cái đều bình đẳng trong sự săn đuổi này. Em có đi xem một ông thầy bói? Hắn ta sẽ cho em những liền thuốc an thần.

                    - Có. Em có rủ con Trang đi coi ông thầy Lò Vôi.

                    - Kết quả?

                    - Cũng theo kiểu Conditional như anh. À, này anh, ông thầy nói rằng em lấy chồng năm nay không được, vì bị linh hồn một người chết ám ảnh. Người đó đã yêu em...

                    Gương mặt Liên trầm ngâm.

                    - Em nghĩ rằng đó là linh hồn Abdul Rahim.

                    - Abdul Rahim?

                    - Em chắc vậy.

                    - Abdul Rahim yêu em?

                    - Em chắc vậy. Yêu thầm thôi. Abdul không dám nói.

                    - Đó không phải là một người đàn ông nhút nhát.

                    - Khi yêu thật tình thì người đàn ông nào cũng nhút nhát rụt rè như nhau. Anh, em nghĩ rằng lúc nào anh cũng có thể nói “anh yêu em” với bất cứ người nào. Bởi vì anh yêu lăng nhăng, yêu vờ vịt, yêu chơi bời. Abdul Rahim thì không.

                    - Abdul Rahim thánh thiện ai cũng…

                    Liên ngắt lời:

                    - Tình yêu không phải là thánh thiện sao? Những bậc Thánh đều yêu. Anh có thấy gỗ, đá thành Thánh bao giờ chưa?

                    - Nhưng Abdul…

                    - Abdul Rahim có những nỗi buồn và anh đều thổ lộ cho em nghe. Ba má anh sinh nhiều con và anh là đứa con ít được thương nhất. Anh lớn lên mang cái mặc cảm…

                    - … của một đứa con bị bạc đãi.

                    - Gần như vậy. Abdul bảo với em rằng khi anh sang Mỹ được rồi thì anh sẽ vận động cho em cũng được sang. Em sẽ học ngành điều dưỡng.

                    - Còn tình yêu?

                    - Tình yêu không nói ra lời nhưng mà em có thể đọc được trong mắt nhìn, trong giọng nói, nhất là trong mắt nhìn.

                    Từng cơn gió mát lùa vào phòng. Nước trên tàng cây me rơi lộp độp xuống mặt đất từng hồi mỗi khi có cơn gió mạnh ào tới. Liên giã từ tôi và tôi lẳng lặng đưa nàng xuống sân.

                    Tôi lẩm nhẩm suy nghĩ:

                    Hãy an nghỉ, Abdul Rahim. Hãy ngủ yên giấc ngủ vĩnh cửu của anh. Cái thân tứ đại vốn là giả hợp, anh đã có lần nói với tôi như vậy và chắc là anh không tiếc. Liên nó đang nghĩ đến anh và nó đang yêu anh đó. Lúc sống, anh không dám hỏi và chắc là nó cũng không trả lời. Nhưng hôm nay anh không còn nữa và do đó nó đang lặng lẽ yêu anh.

                    (5) Xin chào ông Long. Ông mạnh khỏe chứ? (tiếng Pháp)
                    #25
                      hai1957 03.12.2012 21:07:29 (permalink)
                      3. MẸ GÀ CON VỊT


                      Có tiếng la ồn ào ở nhà sau, tiếp tới tiếng cửa đóng sầm và tiếng gà quang quác chạy ngoài sân.

                      Lại con gà mái đen gây tai hại, tôi vừa nghĩ vừa bước lại cửa sổ nhìn ra sân. Quả đúng là con gà mái đen đang te tái chạy, vừa chạy vừa la. Đến cạnh bụi mãng cầu, nó đứng dừng, quay mặt lại rồi cục tác từng tràng dài như than thở, như phân trần, như chửi rủa người vừa rượt đuổi nó. Oang oang ở trong bếp là tiếng của con Bốn, con nhỏ ở, cũng vừa chửi rủa vừa phân trần:

                      - Ngày nào cũng lẻn chun vô bếp. Lật ngã chai, đập bể chén. Bươi cái bếp tro tan tành hết. Chết cha rồi, ngã bể cái chai dầu rồi. Gà gì mà gà quỉ gà quái.

                      Hai bên, gà và người không ai chịu nghe ai, cứ tự do làm ồn phần mình.

                      Con gà mái này do một cô em ở nhà quê đem biếu. Cô em nói:

                      - Gà này thuộc loại gà quạ, ăn thịt mát lắm, bổ hơn gà trắng, gà nổ. Ngày mai con Bốn làm thịt đi, chớ để lạ nước lạ gió nó bệnh đi, nó ốm đi.

                      Con gà bị cột chân bỏ nằm ở sàn nhà sau nghểnh cổ nhìn tôi, nhấp nháy tròng mắt vàng hoe. Tội nghiệp, nó ngây thơ không biết gì về cái số phận mà người chủ cũ của nó vừa phác họa cho nó. Một lưỡi dao cắt tiết. Một chảo nước sôi. Vặt lông. Mổ thịt. Xào nấu. Tôi thương hại, đặt một tay sờ lên mái lông mượt bóng của nó. Con gà “ứ ứ” vừa tránh lui. Tôi cười thầm: “Sắp chết rồi mà vẫn gắng giữ tiết hạnh”.

                      Theo đề nghị của cô em thì sáng hôm sau là ngày thi hành bản án tử hình con gà. Nhưng mới vừa bảnh mắt, một đứa con nhỏ của tôi, thằng Đức đã la lên.

                      - Ba ơi, có cái trứng gà ở đâu đây này.

                      Hai đứa con khác vội nhảy ra khỏi giường không kịp xỏ dép xỏ guốc chạy về phía có tiếng kêu. Dưới chân con gà quả có một cái trứng nằm đó, dính đất cát lem luốc. Con gà mái thì đứng thẳng người mắt nhìn láo liên. Chân nó bị buộc vào một đầu dây và đầu dây kia bị buộc vào một gốc mận.

                      Trang, con lớn của tôi thò tay khoèo cái trứng một cách rụt rè. Con gà “cục cục” khiến nó rụt tay trở lại, sợ bị mổ. Thằng Đức lại vỗ lên lưng gà, miệng an ủi:

                      - Đừng mổ, con. Chớ có dại. Để chị Trang lượm cái trứng của con.

                      Cái trứng được nhặt lên, đem nhúng vào thau nước, kỳ cọ một lát và được chuyền tay giữa ba đứa nhỏ. Con Ngân, con bé nhất nói:

                      - Đẹp quá hở anh Đức? Cái trứng trắng ghê.

                      - Màu hồng nhạt thế này là trứng gà so đây.

                      - Gà so là sao hở anh?

                      - Là con gà này đẻ lần đầu tiên đó.

                      Tiếng cô em ở nhà trên vọng xuống:

                      - Trứng gà so bổ lắm. Con gà này mới kêu ổ từ hôm kia. Ăn thịt vừa mềm.

                      Ba đứa nhỏ đưa mắt cho nhau, im lặng. Vẻ khó chịu. Thằng Đức nhíu đôi môi, ý chừng muốn bảo: “Cứ nói ăn thịt hoài”. Con Ngân không biết rụt rè vì nó nhỏ được tôi chiều hơn hết, nói ngay:

                      - Đừng ăn thịt nó nghe Ba?

                      Có Ngân mở đường, Đức tiếp lời:

                      - Để nó đẻ, Ba à. Ăn thịt nó tội nghiệp.

                      Con Bốn, con nhỏ ở chuyên môn nêu ra những sự khó khăn:

                      - Rồi chuồng đâu mà nhốt nó?

                      - Nhốt ở cái giỏ cũng được.

                      - Lúa đâu cho nó ăn?

                      - Nó ăn cơm không được sao?

                      Tôi để mặc cho ba đứa con và con Bốn đối đáp nhau. Tôi không trả lời, không giải quyết và như thế nghĩa là con gà khỏi bị giết.

                      Con gà hóa thành người bạn mới của ba đứa nhỏ. Buổi sáng đứa nào cũng tranh nhau ném ruột bánh mì cho gà. Buổi trưa, đứa thì ném cơm, đứa thì vất rau cho gà mổ. Con gà cũng dạn dĩ với ba đứa. Khi nó đi bên chân Ngân mà Ngân ngồi xuống ôm nó thì nó đứng yên miệng “ứ ứ” khe khẽ như chỉ phản kháng lấy lệ. Thằng Đức bắt được một con dế dũi béo ngậy cầm giữa hai ngón tay miệng túc túc gọi nó thì nó vội chạy lại rồi nhảy lên đớp ngay. Thấy con gà đã hóa hành bạn chơi của ba đứa con, tôi cũng lần lần thương nó. Ba đứa con của tôi cần một người túc trực ở nhà để chúng thương yêu. Tôi thì đi vắng luôn mà nếu có ở nhà thì chúng khó chơi đùa với tôi như với một người bạn nhỏ. Con gà mái hơn một con búp-bê nhiều. Con bup-bê chỉ im lặng và trẻ con phải bắt nó cảm xúc theo ý chúng. Đằng này con gà linh hoạt hơn, ngồi nhìn nó bới đất mổ sâu, chạy đuổi theo một con cào cào hay đi lưỡn thưỡn trong ánh nắng… lũ trẻ đã thấy vui. Những nỗi vui thay đổi luôn vì con gà có nhiều sáng kiến. Thật cần thiết để lũ trẻ khỏi sống những ngày bằng phẳng, vì thiếu một người mẹ thì cuộc sống trong gia đình không thể không bằng phẳng. Chính người mẹ bày ra cho có việc.

                      - … Hôm nay ăn bún chả, nghe! Ngân lại ngồi với má tập lặt rau. Này, những lá rau vàng vàng úa úa thế này phải vất đi đấy. Trang có thể tỉa ca-rốt củ cải để ngâm giấm đi. Nhanh lên.

                      - … À mùa này có hột sen tươi đây, món tráng miệng sẽ là chè hột sen. Trang lo bóc vỏ này. Thằng Đức lấy cái tăm nhỏ mà đẩy cái ngòi sen đắng ra này. Ừ, có lẽ nên mua thêm một cái liễn to để đựng xà-lách. Lũ nhỏ đã lớn rồi nên chúng đã bắt đầu ăn to.

                      Những tiếng nói êm đềm ấy, cái cảnh mẹ con lăng xăng ấy, đã sáu năm nay không có. Riêng bé Ngân thì chưa bao giờ biết được cái cảnh má con lăng xăng nó ra thế nào. Vì khi má mất Ngân chỉ mới biết đứng nhìn. Sống với cha thật gần như sống trong một ký túc xá. Ăn, ngủ, học có giờ. Ngủ và học thì không cần có sáng kiến và cũng chẳng thú gì mấy. Mọi sự thích thú quây quần xung quanh việc ăn mà Ba thì không nghĩ đến còn con Bốn thì vừa không có óc phát minh vừa không biết đề nghị. Tôi nghĩ tội nghiệp cho con mình. Những món ăn: sữa, ca-cao, chuối, trứng… quả tình không gây thèm thuồng bằng mít, xoài, ổi, mực khô… Nhưng những món này tùy mùa mới có và có ai theo dõi đâu mà biết? Có lần tôi đi làm thấy một người đàn bà bê trên tay một miếng mít vàng mật. Tôi mới chợt nhớ ra rằng hình như không biết đã mấy năm nay rồi, lũ con tôi chưa biết mít là gì. Trưa về tôi hỏi:

                      - Bốn này, sao không mua mít về cho em ăn?

                      Con Bốn trả lời tỉnh táo:

                      - Thầy không dặn con mà.

                      - Tao biết đâu mà dặn? Ra chợ thấy món gì ngon thì mua cho em ăn chớ tao đâu có ra chợ mà biết.

                      Con Bốn “dạ” và sau đó ngày nào nó cũng bắt lũ nhỏ ăn mít. Mấy lần tôi ngồi ở hiệu cắt tóc nhìn ra chợ. Bao nhiêu món ăn thay đổi mà chỉ ngồi ở nhà nghĩ tới, tôi chắc không thể kê ra được quá ba phần mười.

                      Con gà cứ tiếp tục đẻ và lũ trẻ cần mẫn lấy trứng đem cất chỉ để lại một trứng nơi ổ. Cứ đẻ xong một lứa, nghỉ vài mươi ngày nó lại đẻ lại. Nhưng tới một thời kỳ nào đó, nó cứ nhất quyết nằm trên ổ - với một cái trứng - mà không chịu bỏ ổ nhảy xuống. Trẻ con lại gần nó xù lông lên, miệng la lục cục. Con Ngân chạy vào báo cáo.

                      - Ba ơi, con gà cứ nằm hoài trên ổ, không chịu xuống.

                      Con Bốn “xì” lên một tiếng.

                      - Nó ấp mà cũng mét với Ba.

                      - Ấp gì có một trứng mà cũng ấp, - thằng Đức nói.

                      Tôi giảng cho nó:

                      - Con gà nó phản đối chúng mình. Trứng nó đẻ mình lấy hết đi nên nó tỏ ý không bằng lòng.

                      - Mình lấy luôn cái trứng cuối cùng của nó đi xem nó ấp cái gì, - Trang đề nghị.

                      - Dù không có trứng nào, nó vẫn ấp. Đã bảo nó phản đối mà lại.

                      Con gà mái nằm trên ổ suốt ngày, chỉ trưa nhảy xuống kiếm ăn một lát rồi lại lên nằm. Vẻ mặt nó nghiêm trang pha một chút giận dỗi. Sự kiện mới này xáo trộn cuộc sống bình nhật của ba đứa con. Chúng nó thập thò đi lại đứng ở chuồng gà, lúc thì một đứa đơn chiếc, lúc thì cả ba. Khi có hai đứa hay ba đứa cùng đứng thì chúng chỉ trỏ và trao đổi ý kiến với nhau. Có lúc thì một đứa giảng giải, hai đứa lắng nghe, có lúc thì cả ba đứa tranh nhau nói mà chẳng đứa nào nghe cả. Riêng con gà thì cứ nhẫn nại nằm đó như một con mẹ nằm vạ. Một hôm sau thằng Đức hớn hở chạy vào méc với tôi như vừa khám phá ra một sự lạ:

                      - Chị Trang lấy mất cái trứng của con gà rồi.

                      - Để làm gì?

                      - Để cho con gà khỏi ấp nữa. Chị Trang nói: con gà nó ấp nó cứ nhịn đói hoài. Chị ôm nó lên thấy nó nhẹ bổng.

                      Tôi trả lời lơ đãng:

                      - Tùy ý. Nhưng theo kinh nghiệm thì con gà vẫn không bỏ ổ.

                      Quả đúng như vậy, con gà cứ nằm trên cái ổ trứng. Đưa tay lại gần, nó vẫn xù lông cổ ứ ứ như để bảo vệ một bè trứng của nó. Ôm nó ném bỏ xuống đất thì nó xù lông lên vừa đi chậm rãi vừa kêu cúc cúc. Đi một vòng, nó nhảy lên ổ nằm lại. “Thật là một trạng thái bệnh hoạn”, tôi nghĩ.

                      Sau đó, một hôm Trang đề nghị:

                      - Con có ý kiến này: mình mua trứng vịt lộn đem bỏ cho nó ấp.

                      - Được lắm. Con cứ thí nghiệm đi. Mua chừng bảy tám trứng thì vừa đủ cho nó, nhiều quá ấp không hết. Nếu có thất bại thì coi như bỏ ra vài chục bạc để mua một kinh nghiệm. Ngược lại, nếu thành công thì…

                      Tôi mỉm cười chưa nói tiếp thì Đức đã nhảy cỡn lên:

                      - Thì mình có một bầy vịt. Thích lắm, Ngân ơi.

                      Cái ý định mua trứng vịt lộn đem ấp được thực hiện nhưng cả nhà lo lắng không biết con gà có chấp nhận những cái trứng lạ không. Để tránh sự đột nhiên bỡ ngỡ, Trang đứng sau đuôi gà cầm một trứng vịt chùi nhẹ dưới bụng gà. Con gà ứ ứnhích mình lên một chút rồi nằm im. Trang lại chùi vào một trứng thứ hai. Con gà lại ứ ứ lại nhích lên và lại nằm xuống. Khi cái trứng thứ bảy đã chùi xong và con gà nằm yên, ba đứa con cứ đứng nấp sau bức sáo theo dõi từng cử chỉ của nó. Có một lúc nó nhảy ra khỏi ổ rồi đâm đầu chạy quanh sân, miệng kêu quang quác như bị ai đuổi đánh. Sau đó nó nằm xuống cát đập cánh vùng vẫy khiến bụi bay mù lên. Lúc nó trở dậy thì lông cánh mốc xì một lớp bụi. Nó xù lông vẫy tung một lát rồi mới lò dò đi lại tìm cơm nguội ở vại nước. Thấy con gà dường như bỏ quên bè trứng, thằng Đức nóng ruột chạy lại ôm nó bỏ lên chuồng. Nhưng nó chỉ đứng chớ không chịu nằm, Đức lại phải lấy tay ấn nơi lưng bắt nó nằm xuống. Con gà nhẫn nại nghe lời nhưng mặt mày ngó láo liên như chuẩn bị để bỏ chạy nữa. Tuy vậy, qua phút bắt buộc ấy, con gà trở lại say mê trong việc ấp. Lũ nhỏ tỏ ra yên tâm mỗi khi đi học về nhìn ra chuồng gà thấy nó cần mẫn nằm trên ổ. Để thưởng công cho nó, - có lẽ để cho nó khỏi bỏ đi ăn rồi quên về chuồng, - Trang đem một lon gạo một lon nước để cạnh, vừa tầm cho mỏ mổ. Thật là chu đáo.

                      Chừng mươi ngày sau bỗng một hôm có tiếng thằng Đức la lớn từ chuồng gà:

                      - Có tiếng chít chít ở chuồng gà Ngân ơi. Con vịt nở rồi. Ra xem, mau.

                      Trang và Ngân lật đật nhảy xổ ra. Con gà lúng túng trước sự hiện diện ồn ào của ba đứa nhỏ và trong khi nhích mình lên đã để lộ một cặp nhân nhỏ xíu. Đúng là con vịt con rồi. Ngân vội vàng thò tay vào rờ cái chân bé xíu thì bị con gà mẹ mổ cho một cái, vội rụt tay lại. Trang lấy một que nhỏ đẩy vào mình gà khiến nó né tránh và để lộ thân hình một con vịt con màu vàng hoe. Ồ! Con vịt ngây thơ nhìn ngơ ngác xung quanh với đôi con mắt tròn đen nháy. Nó sợ ánh sáng, vội núp dưới cánh gà mẹ. Cái mỏ nhỏ màu hồng nhạt ria rỉa vào lông cánh rồi rỉa cả vào mặt gà mẹ. Gà mẹ nheo nheo con mắt như để tránh đứa con nghịch ngợm. Mà quả nó nghịch ngợm thật. Vì chừng nửa ngày sau là nó đã bạo dạn bước ra khỏi ổ khiến gà mẹ cứ cúc cúc gọi chừng không cho nó đi xa. Cái mỏ tí xíu bạ chỗ nào cũng rỉa, rỉa vào cái mào, rỉa vào cái tích, rỉa vào cái mỏ sắc của mẹ nữa. Lũ nhỏ thật khiếp hãi khi nghĩ rằng cái mỏ kia mà nổi giận lên mổ mạnh một cái là đi đời con vịt con dại dột.

                      Qua hôm sau nở thêm hai con vịt con nữa, một con lông vàng một con nâu đen! Lũ nhỏ vội vàng chia của.

                      - Con vịt Cả phần tao - Trang nói.

                      - Em lãnh con vịt Hai lông vàng, Đức nối lời.

                      Ngân phụng phịu:

                      - Em không chịu con vịt lông đen nâu. Vịt đen xấu lắm. Em lãnh con vịt lông vàng của anh.

                      - Mày là em thì mày phải lãnh con vịt em chớ, - Đức nói.

                      - Nhưng con vịt em xấu lắm, em không chịu.

                      Trang phân giải:

                      - Thôi Ngân nhận con “em” đen đi. Rồi nếu mai nó nở một con nữa thì bù cho Ngân.

                      Ngân biết không cãi lại được vì anh chị đã ngầm về hùa với nhau rồi. Ngân đành phụng phịu nhận lấy, vẻ mặt không vui.

                      Hôm sau nở thêm một con nữa. Con này yếu quá đứng không muốn vững nên cứ nằm cả ngày. Màu lông vàng sẫm.

                      Đức quên cả lời hứa hôm qua, đề nghị liền:

                      - Con vịt này để phần cho Ba.

                      Ngân cãi:

                      - Hôm qua anh với chị Trang nói rằng con này phần của em mà.

                      Đức nghiêm sắc mặt, rầy ngay:

                      - Nhưng mày một mình mà tới hai con. Còn Ba chưa có con nào. Sao mày tham vậy?

                      - Tại hôm qua anh hứa với em rồi.

                      - Hứa cái gì. Tao nói chơi thôi. Bộ mày không cho Ba hả? Tiền của Ba mua trứng chớ tiền của mày à?

                      Ngân nghĩ: Người lớn nói gì cũng có lý, kể cả anh Đức hơn mình chỉ ba tuổi. Nhưng thôi, con vịt út vừa yếu vừa xấu xí để cho Ba cũng được. Vả lại Ba lãnh một con vịt xấu như mình cho mình có bạn.

                      Qua hôm sau, con gà bỏ ổ đứng dậy. Bốn con vịt con lao nhao sợ hãi miệng kêu chíp chíp. Đức bế gà mẹ bỏ xuống đất và lần lượt lùa bốn con vịt vào giữa kẹt ngón tay mà bổ xuống theo. Gà mẹ dõng dạc bước đi, miệng kêu túc túc. Bốn con vịt đi theo, chíp chíp luôn mồm. Bước gà mẹ quá dài khiến vịt con phải chạy theo mới kịp. Nhưng vì chưa biết chạy ra làm sao, chúng cứ nhảy choi choi. Gà mẹ đóng vai một cách tự nhiên gặp chỗ nào nó cũng đứng lại bươi. Đôi chân vạm vỡ hất tung từng búng rác, hất tung cát đất lên phủ đầy mình bốn con vịt con ngơ ngác. Bới một lát gặp một miếng mồi, nó túc vịt con lại nhưng vịt không nghe tiếng gà nên chúng cứ đứng ngẩn ngơ và không ngớt mồm kêu. Sợ chúng đói, mấy đứa nhỏ lấy ruột bánh mì xé nhỏ ra cho chúng ăn. Tuy vậy, chừng hai ngày thì vịt đã quen tiếng mẹ và đi đứng đã có chiều nhanh nhẹn vạm vỡ. Đôi chân nhỏ hoạt động không ngớt. Cái mỏ màu nâu đen mềm và mướt bạ chỗ nào cũng rỉa. Cái thân hình mang lông tơ nõn, nhẹ tưởng chừng một cơn gió mạnh có thể thổi bay đi cũng hoạt động quắn quít theo bước chân và cái mỏ.

                      Trông con vịt con bắng nhắng liu tiu hơn con gà con nhiều. Gà con tuy cũng hoạt động nhưng dường như cử chỉ của chúng một tính toán chừng mực hơn. Cũng chạy,cũng bới đất vẩn vơ nhưng không đến nỗi đuểnh đoảng như vịt con. Nhất là khi vịt lớn chừng một tuần thì quả tình vịt giống như một lũ mất trí. Chúng bắt chước nhau một cách khờ khạo. Con đi đầu chọc mỏ vào cái chậu nước rồi bỏ đi thì ba con đi sau cũng lần lượt chọc mỏ vào chậu nước rồi bỏ đi. Con đi đầu đi vòng quanh qua gốc chùm ruột rẽ sang vại nước, rỉa xuống vũng cát ướt rồi chạy lại mẹ thì ba con sau cũng làm theo đúng từng cử chỉ nhỏ ấy. Dường như chúng rất vui thú trong sự bắt chước nhau làm những việc vô ích đó.

                      Buổi trưa khi gà mẹ nằm dưới gốc cây nghỉ là bốn con vịt con cũng hạ mình nằm xuống kề mẹ. Dáng nằm không gọn gàng tí nào hết, chỉ vì cái mình quá dài và đôi chân quá ngắn. Lúc nào cũng như chực ngã chúi xuống. Cái đuôi thì ngoắt lia lịa. Có lẽ chúng không biết mệt là gì. Nằm xuống là vì bắt chuớc theo thôi chớ nằm nào có yên. Hết quay qua đến xoay lại, rồi nhích tới một chút, rồi ì ạch ngồi dậy, rồi kềnh càng nằm xuống. Gà mẹ làm như đã có nhiều kinh nghiệm nuôi con nên không để ý đến những sự lộn xộn đó. Nó gục đầu nhắm mắt một cách bình tĩnh. Chỉ khi nào gió xao động mạnh lá cây hay có một tiếng kêu to ở đâu quanh đó là nó chợt mở mắt ra và túc túc gọi con. Tức thì bốn con vịt líp chíp nhặng lên và líu tíu đứng dậy chạy lại nằm gần mẹ hơn. Chúng có vẻ mong đợi lời kêu gọi ân cần đó. Khi mẹ đứng dậy bước đi thì chúng vội vã gọi nhau đứng dậy liền. Rồi chạy rồi tỉa. Thực tế thì đó chỉ là những trò chơi thôi vì chẳng có gì ăn trong một cái chậu nước quá trong, thế mà con nào cũng rúc mỏ vào rỉa mãi không thấy chán. Thỉnh thoảng một con ngứa tay chân đứng ưỡn người đập cánh. Trông đôi cánh bé mà tội nghiệp. Chỉ to bằng hai cái lá con và dễ thường cũng chỉ dày như thế. Đập cánh nhiều nhất là khi cho các cậu vào tắm trong một thau nước lớn. Thôi thì đua nhau mà vục đầu xuống, rồi dùng mỏ mà quay lại rỉa vào lông lưng lông nách, còn đôi chân, - những đôi chân màu hồng hay màu đen mướt - thì xòe ra đằng sau để quạt nước mà bơi tới. Nước vung tung tóe xung quanh và mồm ríu ra ríu rít. Thật đúng là những đứa bé năm, sáu, tuổi nghịch nước.

                      Tối lại, bốn con tranh nhau nấp dưới cánh mẹ. Thật chẳng yên với lũ nhỏ láu táu này. Nằm kín trong đôi cánh mà chốc chốc vẫn nghe tiếng líp chíp như còn nói chuyện hay đùa nhau hay cãi nhau trong đó.

                      Một hôm thằng Đức lùa con gà mẹ và bốn con vịt con đi ngao du ở trước sân. Ra đến cổng thì chợt có một lũ trẻ con đi ngang qua. Một đứa đứng dừng lại, vừa chỉ trỏ vừa gọi to lên:

                      - A! Mẹ gà con vịt. Lại xem tụi bay ơi! Mẹ gà con vịt.

                      Cả bọn đứng lại, đi trở lui, nhìn vào sân. Một đứa trông lớn tuổi hơn hết trong bọn hát lên rằng:

                      Mẹ gà con vịt chít chiu

                      Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng

                      Mấy đứa khác vỗ tay reo và hát theo.

                      Đức lộ vẻ khó chịu đóng sầm cửa ngõ lại. Rồi lùa bầy vịt ra vườn sau.

                      Từ ngày đó, câu hát “Mẹ gà con vịt chít chiu” trở lại luôn. Những người hàng xóm, những người đến chơi nhà hễ thấy gà mẹ dẫn bầy vịt con đi ăn là lại đọc lên:

                      Mẹ gà con vịt chít chiu

                      Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng

                      Chừng một tháng sau thì chen vào lông tơ nõn đã có những cuống lông ống mọc so le ở hai cánh và ở đuôi. Màu lông này nhạt hơn. Rồi sau đó những chòm lông mái xuất hiện ở cổ, rải rác ở lưng. Bốn con vịt dáng bụ bẫm nhưng mình vẫn dài lêu nghêu như những đứa trẻ 14, 15 tuổi bắt đầu lớn. Đi giữa bốn vịt con, gà mẹ thật chẳng khác một người đàn bà nhỏ người, chững chàng đi giữa một bầy con tuy cao lớn hơn mình nhưng vẫn còn ngờ nghệch trong nét mặt và cử chỉ.

                      Chợt một hôm có tiếng con Bốn lại la lên ở nhà sau. Và tiếp theo là tiếng rủa sả:

                      - Lại đập phá đồ đạc nữa! Con gà quỉ.

                      Rồi tiếng cửa đóng sầm lại và tiếng gà mẹ cục tác. Con gà mẹ lại lo tìm ổ. Nó sục sạo khắp cả nhà dưới nhà trên. Bầy vịt con ngơ ngác chạy theo mẹ, bơ vơ lạc lõng. Mỗi khi gà mẹ bay lên đứng ở mặt bàn, đứng ở chân giường, mắt dáo dác tìm một chỗ cao hơn để bay lên nữa thì bầy vịt đứng ở dưới đất líu kíu gọi mẹ, hiếng mắt nhìn và chạy vòng quanh. Khi gà mẹ nhảy xuống đất thì chúng mừng rỡ chạy ùa lại sán vào chân mẹ. Nhưng gà mẹ mổ cho một cái và chúng hoảng vía vừa xô nhau chạy trốn vừa té lăn kềnh vừa cất tiếng la. Sau nhiều lần bị mổ như vậy, bốn con vịt con không còn dám líu ríu đi sát theo chân mẹ nữa. Tuy vậy mẹ đi đâu chúng vẫn sắp hàng chạy theo và lúc nào cũng giữ một khoảng cách vừa phải để mẹ có sấn lại mổ thì chúng kịp quay mình chạy trốn.

                      Buổi tối, gà mẹ nhảy lên nằm một mình ở chuồng cao. Bốn con đi vòng quanh dưới đất cất tiếng gọi mẹ nhưng vô hiệu. Cuối cùng, chúng nằm rúc vào nhau để ngủ. Thật tội nghiệp khi nhìn bốn đứa mình nằm kề nhau, con này áp ngực lên con kia, con kia rúc đầu vào cánh con nọ. Một cơn gió thổi qua là chúng xô đẩy vào nhau mạnh con nào con nấy xô, chân đạp vào lưng, mỏ rỉa vào hông, cả cái khối bất ổn đó di chuyển xáo trộn, ngã lăn ra. Rồi lại sắp xếp lại, lộn xộn bất ổn như cũ. Những tiếng kêu líu kíu nho nhỏ, khàn khàn thỉnh thoảng phát ra. Ngủ yên chừng hai phút thì chợt có một con líu kíu nhỏ trong mồm rồi những con khác cũng líu kíu họa theo, thật y như tiếng khóc thút thít của những đứa trẻ khóc giữa giấc mơ.

                      Có đêm gà mẹ không leo lên chuồng nằm mà nằm ngay dưới đất. Tức thì bốn con vịt nằm quây quần xung quanh. Để gà mẹ không chú ý đến sự hiện diện của chúng, chúng đi thật nhẹ và cẩn thận hạ mình cách mẹ chừng bốn tấc. Đuôi xếp về phía mẹ và đầu quay ra ngoài. Chừng như được yên tâm, giấc ngủ của chúng đỡ chập chờn hơn. Mỗi khi giật mình choàng dậy chúng sửa đổi thế nằm thì bao giờ chúng cũng cố nhích vào gần mẹ hơn một chút.

                      Ngày đầu khi gà mẹ mổ con, thằng Đức vừa quát vừa chạy đi tìm roi đánh:

                      - A! Con gà điên! Sao mầy mổ con?

                      Tìm không ra cái roi, nó rượt con gà chạy quanh sân.

                      Tôi đứng nhìn bốn con vịt nghểnh cổ nhìn nhau la và con gà mẹ ba chân bốn cẳng chạy trước mặt Đức. Tôi gọi con lại:

                      - Thôi đừng rượt nó nữa.

                      - Nó cắn vịt con Ba à.

                      - Ba biết rồi.

                      - Phải đánh cho nó một trận.

                      - Đánh vô ích. Nó lẻ con ra để đẻ mà.

                      - Nhưng sao lại mổ mấy con vịt?

                      - Nếu không mổ, lũ con nó sấn lại thì đẻ sao được? Không phải nó ghét vịt con đâu mà dù cho con ruột nó nữa, nó cũng phải mổ. Nó không dùng lời nói để giảng giải được, nó không có bàn tay dịu dàng để vỗ về con được mà nó chỉ có cái mỏ. Đó không phải là lỗi của nó.

                      Không trừng phạt được con gà, lũ nhỏ chăm chút đàn vịt con. Đi học về là ba đứa bế vịt lên tay, áp mặt vịt vào má mình như khi nựng một em bé người ta áp mặt nó vào má mình vậy. Con Trang lo đập ruồi và bốn con vịt lúc thúc đi theo sau để mổ. Con Ngân cầm dao xới vũng cát xung quanh vại nước để tìm trùn. Bốn con vịt chạy lao xao để tìm mổ ngay khi lưỡi dao chưa rút kịp ra khỏi mặt cát. Thằng Đức thì bị con Bốn la luôn vì tội xốc tung những bó rau muống để lựa những cộng non đem xắt cho vịt ăn. Rồi đứa thì lo múc nước tắm vịt, đứa thì đem xới cơm cho vịt, rốt cuộc bốn con vịt được săn sóc như bốn đứa trẻ mồ côi. Ngược lại, bốn con vịt cũng quen với lũ nhỏ hết sức. Hễ lũ nhỏ đi đâu ra vại nước ra sân sau là bốn con vịt đi theo bén gót. Thử ngồi xuống lấy tay nghịch cát là bốn con đã vội chạy lại để hy vọng mổ trùn. Thỉnh thoảng nghe tiếng vịt hàng xóm kêu inh ỏi, bốn con vịt te tái chạy sang nhưng nghe tiếng chân con Trang chạy đuổi theo vừa cất tiếng to “A! Lẻn trốn chạy đó nghe” tức thì bốn con chạy quanh về và thế nào con vịt trắng của nó cũng nằm xuống sát đất đợi nó bế lên. Bốn con vịt và lũ nhỏ đã thành những người bạn thân thiết. Bây giờ chúng đã thay lông hoàn toàn nên trông đẹp đẽ hơn trước nhiều. Hai con lông trắng phau, một con hạt dầu và một con đen. Chúng trở nên những con vịt thành niên hồi nào, lũ nhỏ cũng quên để ý nữa. Đến hồi để ý trông lại thì mới thấy là chúng đã không còn bé bỏng nữa. Thỉnh thoảng giữa trưa khi đã tắm mát, chúng vươn rộng đôi cánh đập phành phạch miệng la quang quác. Con vịt đen không ồn ào hùng biện bằng ba con kia. Con Bốn có kinh nghiệm phân biệt cho lũ nhỏ biết rằng đó là con vịt đực. Không đứa nào tỏ ra mến con vịt đực cả vì lông đen xấu xí mà lại lòi xòi không mướt láng.

                      Trong khi đó, gà mẹ lại lên ổ ấp và lần nầy cũng lại phải ấp một mớ trứng vịt. Nhưng ngày nở chỉ có một con vịt con nở ra mà thôi. Khi xuống ổ, hai mẹ con lúc thúc đi cạnh nhau. Sự săn sóc có phần cẩn thận hơn, nhưng con vịt con quả tình trơ trọi hết sức. Không có anh chị em cùng lứa nó thiếu hẳn những thú vui ngây thơ. Nó kém hoạt động hẳn, đi bên cạnh một bà mẹ cần mẫn đảm đang nhưng nghiêm trang. Đã thế nó lại còn bị con vịt đực đen ăn hiếp nữa. Lừa lúc gà mẹ đi xa, con vịt đực chạy đâm bổ lại để mổ nó. Nó la lít chít vừa tìm đường chạy trốn. Gà mẹ nghe tiếng la vội xù lông chạy đến và chú vịt đực vội vã tháo lui. Có lúc thì lũ trẻ con hay con Bốn phải chạy đến can thiệp để đuổi chú vịt đực. Thành ra cả ngày cứ thỉnh thoảng nghe tiếng vịt con la, tiếng chân lũ nhỏ chạy rầm rập và tiếng quát tháo:

                      - Ùi, ùi! Con vịt quỉ.

                      - Ê! Con vịt anh ăn hiếp. Đánh chết! Đánh chết!

                      Không có đứa nào dành phần con vịt này cả nên nó lớn như thế nào, chẳng mấy ai để ý. Cứ tuần tự theo ngày tháng, nó thay lông để biến thành một chú vịt thanh niên. Nó không có bạn chỉ biết có mẹ. Nên đến tuần mẹ lên ổ nằm, nó cất tiếng kêu thảm đạm và đi quanh quẩn dưới chân chuồng. Nó ngước mặt nhìn mẹ nằm trên ổ, miệng kêu, vừa tìm đường leo lên nhưng không được. Khi kêu chán, nó nằm dưới chân chuồng. Động nghe tiếng mẹ cựa mình ở trên là nó vội đứng dậy, miệng líp chíp kêu tưởng như mẹ sắp xuống cùng mình. Khi mẹ xuống thật thì lòng mừng của nó biểu lộ vội vã quắn quít. Nó cạp cạp luôn mồm vẫy đuôi lia lịa và chìa mỏ lại gần mẹ. Con gà mẹ chừng cũng thương hại nó hơn mấy đứa trước nên không hề mổ mà trái lại, hai mẹ con sóng bước cùng đi tìm mồi. Nhưng những giây phút êm đềm ấy, nó hưởng không được nhiều. Khi gà mẹ ấp lại thì nó gần như bỏ ăn, cứ đi lảng vảng quanh chân chuồng hoặc nằm đó chờ đợi. Nếu buồn chân muốn đi đó đây một chút, hoặc ra vại nước kiếm cái ăn, hoặc ra sân trước thơ thẩn dưới gốc trứng cá, gốc vú sữa thì nó lại phải dòm chừng con vịt đực hung tợn. Khổ nhất cho nó là khi đi quanh góc tường, chợt bước trờ tới thấy ngay con vịt đực ở trước mũi, phải vội chạy ngược lại, có khi vội quá phải ngã lăn ra đất. Những lúc ấy trông nó thật là cô độc, thiếu thốn.

                      Con gà mẹ lần này được ấp chính trứng của nó đẻ. Không phải do một lý luận nhân ái nào của lũ nhỏ mà chỉ do ở tính lười của chúng. Lười hốt trứng, lười mua trứng vịt, rốt cuộc chúng để trứng, mặc kệ cho gà. Kết quả là chín con gà con nở ra, đa số màu lông đen như mẹ. Khi gà mẹ dẫn bầy gà con đi thì chú vịt tháp tùng theo. Bây giờ thì chú đã lớn hẳn rồi, đầu lông ô đen nháy và bụng xệ đi núc ních. Chú chậm chạp bước sau bầy gà con. Thỉnh thoảng chú đi lại gần gà mẹ miệng lạp cạp như có chuyện gì báo cáo cho mẹ nghe. Tối lại, nhốt gà mẹ trong một cái giỏ thì chú nằm sát bên giỏ. Rồi sáng ra khi bầy gà hớn hở đi chải đất tìm mồi thì chú lại nặng nề đi sát theo hộ vệ. Hễ gà mẹ gặp tai nạn gì cất tiếng la lên là chú xông tới. Những tai nạn thường do con chó Tô gây ra. Nguyên nhân hầu hết là giành ăn. Gà mẹ sợ con Tô nhưng chú vịt lại coi thường. Ăn hiếp Tô được đôi lần, chú vịt tỏ ra dể ngươi. Có lần Tô đang nằm hớ hênh ngủ, chú vịt đi qua rỉa mỏ vào bụng Tô rúc mấy cái khiến Tô hoảng hốt đứng vụt dậy. Lắm lúc vịt ta dám lấy mỏ rỉa vào ngay mặt Tô khiến Tô phải lãng bỏ đi xa. Không biết đó là do tính can đảm thiên phú hay là do tính dại dột không biết người biết ta. May thay con Tô đã có tuổi, bắt đầu trầm tư nên lười biếng không thèm chấp nhất. Ai quấy rầy thì nó bỏ đi. Chỉ có miếng ăn mới cần phải, đôi khi, tranh giành mà thôi.

                      Một hôm, Ngân chợt hỏi tôi:

                      - Con gà mẹ là dì ghẻ của con vịt hở Ba?

                      - Không phải. Nó là mẹ nuôi con vịt.

                      - Thế má con vịt đâu?

                      - Má nó ấp không được nên mình phải nhờ con gà ấp.

                      - Sao dì ghẻ lại không nâng niu con chồng hở Ba?

                      - Ai bảo con vậy?

                      - Lũ trẻ nó hát đó.

                      Mẹ gà con vịt chít chiu

                      Mấy đời dì ghẻ nâng niu con chồng

                      - À, đó là vì người đặt ra câu ca dao không nhìn rõ một con gà mẹ nuôi bầy vịt con. Sự âu yếm chăm sóc của nó đâu có kém khi nó chăm sóc chính con nó? Một con vịt chạy ra xa là nó đã vội túc túc gọi về. Ai bắt con vịt lên tay là nó vội chạy tới quang quác cái mồm ra la, xòe rộng hai cánh, xù lông lên và nhào tới đá liền. Con gà coi bầy vịt đều là con nó, không phân biệt rằng chúng có giống hay khác nó như thế nào.

                      - Câu hát nói rằng người dì ghẻ không thương con chồng.

                      - Đó là chuyện đời xưa. Đời xưa có những người đàn bà độc ác không thương lũ trẻ con.

                      - Đời bây giờ cũng vậy. Bác xích lô chở con đi học hay nói với con như vậy.

                      Tôi nhìn con gần hơn vừa ôn tồn hỏi:

                      - Bác ấy nói thế nào?

                      - Bác ấy bảo nay mai con sẽ có dì ghẻ và dì ghẻ đánh con.

                      - Không có đâu. Ai lại nỡ đánh con. Con ngoan và học giỏi mà.

                      - Nhưng mà…

                      Ngân ngừng nói, cầm bàn tay tôi áp vào má.

                      - … Nhưng mà… Ba đừng cưới dì ghẻ nghe Ba?

                      Tôi mỉm cười gật đầu.

                      Chợt tôi nhìn ra xa mông lung suy nghĩ.

                      Chiều hôm qua tôi vừa nhận được bức thư của Diễm trong đó có đoạn nàng viết: “… Em nghĩ rằng em sẽ thương yêu ba đứa con của anh như con của chính em vậy. Đã yêu anh, em không thấy có sự hy sinh nào là quá sức của em hết. Vả lại, có gì đâu mà gọi là hy sinh?…

                      Ngân lay tay tôi:

                      - Ba nhớ nghe?

                      Tôi thẫn thờ cầm tay con, gật đầu mà không trả lời.
                      #26
                        hai1957 03.12.2012 21:10:49 (permalink)
                        4. LỄ CÚNG TRƯỜNG (ĐÃ CÓ TRONG TV)
                        5. CÁI NHÌN NGƯỜI MẸ


                        Chiếc xe Lăm-bết-ta chạy vun vút bấp chấp những lỗ ổ gà lớn bằng cái rổ, bằng cái thúng. Trong xe chỉ có một người thanh niên, một chị đàn bà bế con nhỏ, một chú “ết” và Thuận. Tất cả sức nặng của đám hành khách nhỏ nhoi này không đáng gọi là sức nặng nên bốn người tha hồ nhảy nhót trên hai cái băng. Phải bám hai tay vào thanh sắt lắp dọc theo trần xe. Phải gắng dồn tất cả trọng lượng của mình xuống mông. Nếu không sức vồng sẽ đẩy cả bốn người lọt xuống sàn xe. Thật khác xa với mươi ngày trước đây khi đoàn người xin nước Thánh ùn ùn kéo về Suối Đỗ. Xe Lăm-bết-ta Nha Trang - Thành chạy từ bốn giờ rưỡi sáng khi Ấp chiến lược chưa kịp mở, chạy đến bảy giờ tối. Xe nào cũng đầy ắp người. Số hành khách luật định là sáu người nhưng tài xế xếp đến mười ba, mười bốn. Thùng thiếc đủ cỡ lớn nhỏ, đòn gánh góp nhặt đủ kiểu treo ngổn ngang ở móc, xếp có ngọn trên mui xe, bỏ lổn ngổn dưới sàn xe. Người đi xin nước Thánh có khi là những người đàn bà da vàng như nghệ, những cụ già tê liệt đi phải có người đỡ, những ông nông dân vạm vỡ bắp thịt tỏa ra sức chiến đấu. Có tin chính quyền được lệnh làm khó dễ những người đi xin nước từ ngày Bầu Quyền ở Quảng Nam linh thiêng. Viện Pasteur phân chất nước suối tuyên bố trên báo là nước có nhiều vi trùng. Phóng viên địa phương của một số nhật báo viết những bài phóng sự và lập luận theo thông cáo của chính quyền. Nhưng dân chúng nô nức đi lấy nước bất chấp khoa học và vệ sinh, mặc kệ binh lính cản ngăn, lớp đi bằng xe Lăm-bết-ta, lớp đi bằng xe ngựa, lớp đi bộ. Những chiếc xe “ca” lớn chở đầy khách từ Sài Gòn ra, từ Đà Lạt xuống. Xe Lăm-bết-ta tha hồ chạy. Xe chạy đường Cần Đá, đường Đồng Đế cũng bất chấp luật lệ chở khách chạy thẳng về Suối Đỗ. Thật là thời đại hoàng kim của xe Lăm-bết-ta. Xe chạy ì-ạch, chạy hết nổi, mỏi mệt rã rời. Người ngồi chen nhau, đùi cạ vào nhau không day trở được. Tài xế nói cười như con sáo. Những chuyến về, xe đã ì ạch càng ì ạch thêm. Ngoài những thùng nước đầy ứ, người hành hương còn mang theo về những củ bí kỳ nam quăn quẹo sù sì chất đầy cả sàn xe. Người ta chuyền miệng cho nhau ca tụng về dược tính quí giá của loại củ này. Xắc mỏng ngâm rượu hoặc sấy lấy nước uống thì trừ được chứng tim yếu, hồi hộp, máu xâm, mất ngủ. Người dân địa phương khéo bao trùm xung quanh củ đó một màn sương huyền bí linh thiêng:

                        “Đấy: thì củ bí kỳ nam to bằng cả một trái dừa lửa chớ có nhỏ đâu? Dây của nó leo chằng chịt ở thân cây rừng đó chớ có trốn đi đâu? Vậy mà mắt mình nhìn tới như mù, đố có thấy được củ nào. Trong khi đó thì người đi sau mình lại thấy được, lại hái. “Bà” mình cho ai hái thì chỉ có người đó thấy mà thôi”.

                        Có quyền phép của “Bà” tác dụng đến, mỗi củ bán được một trăm bạc. Với những bà Sài Gòn béo tốt cổ đeo vòng ngọc và ngón tay chật ních những cà rá kim cương thì củ bí kỳ nam lên giá đến hai trăm, ba trăm. Sau mươi ngày tự do đi lại thì có lệnh cấm lấy nước, cấm triệt để. Trên đường quốc lộ, có từng chặng thấy có những thùng thiếc ném ngổn ngang. Chắc là cảnh sát hay quân đội đánh đuổi hung hăng lắm nên người đi xin nước mới sợ hãi đến quăng cả thùng như vậy. Thuận thấy thương hại cho thân phận thăng trầm của những chiếc thùng. Ngày Suối Đỗ linh thiêng giá thùng thiếc ở chợ cao vọt lên. Thùng gì bán cũng được tiền: thùng dầu hỏa hai mươi lít, thùng dầu hột bông Cottonseed do Mỹ viện trợ, thùng Shell cũ đựng dầu máy. Ở khu thợ thiếc, tiếng búa đập loảng xoảng từ tửng mửng sáng đến tối mịt. Có lẽ dưới thời Xuân Thu Chiến quốc khi có lệnh động binh người ta rèn đúc khí giới cũng chỉ nhộn nhịp rộn ràng như vậy là cùng. Ở trong các khu phố, những bà nội trợ được dịp lục lọi các xó xỉnh để lôi ra trăm thứ “đựng được”: thùng, chai, lọ… chúng được súc, rửa, kỳ cọ rồi chụp lên đầu những cây trụ rào. Ánh nắng dọi xuống, bị hắt lên, lóe sáng như cây trụ rào cũng biết nở hoa.

                        Liền sau đó, có tin Bà Thánh thiên về một hồ nước nào đó ở mạn Dalat. Suối Đỗ trở về địa vị thiên nhiên khiêm tốn của nó. Các quán tranh dựng dọc đường lên suối được dỡ đi. Những vỏ bưởi, vỏ chuối, bã mía, lá gói bánh… của khách hành hương dần dần xám đi, mũn đi, ngã theo màu đất, lẫn với rác cỏ. Từng xe cam nhông chở củ bí kỳ nam ở Ban mê thuột đem xuống bán. Tước bỏ giá trị linh thiêng, món hàng thương mại này được lùa về nằm ngổn ngang ở chợ Đầm, chợ Xóm Mới, bằng lòng với giá mười lăm đồng, mười đồng, rồi năm đồng một củ. Trong khi đó thì những bác tài xế Lăm-bết-ta chửi thề trở lại. Thời thế cạnh tranh mật ít ruồi nhiều, chạy một chuyến có được hai chục bạc đã là may lắm. Đậu xe ở đầu chợ Thành để nhặt những bà nội trợ xách giỏ đi chợ về, mỗi bà chỉ trả một đồng để đi hai cây số mà trên xe phải chịu bộn bề những giỏ, những xách, những vịt, những gà, heo con, bầu bí lổn ngổn. Bác tài xế hôm nay vừa định “de” xe vào chợ thì thấy bóng ông cảnh sát đứng lù lù đó, tay lăm le quyển sổ và bút chì chờ biên phạt nên nhấn ga cho xe chạy vút tới. Bao nhiêu tức giận bác trút vào đôi cánh tay cử động hung bạo, và đôi mắt nhìn khoặm xuống, vào cái xương hàm bạnh ra. Thuận hối hả đã đi nhằm cái xe hục hặc này.

                        Chị đàn bà bế con nhỏ thuộc loại hiền lành nhút nhát chắc thường bị mẹ chồng và hàng xóm ăn hiếp nên quen tính rụt rè, không dám lên tiếng bảo xe chạy chậm lại mà chỉ xoay qua quay lại liên tiếp để giữ cho đứa con khỏi bị xốc. Anh thanh niên thì vừa nhịp chân vừa huýt sáo bản nhạc “Cầu sông Kwai”. Thật là khéo chọn nhạc khúc. Ngồi trong xe mà có cảm tưởng như mình đếm bước rộn ràng đi vào rừng chặt gỗ làm cầu thật, Thuận thì đánh đu cả hai tay vào thanh sắt đóng ở mui xe như một con vượn sắp sửa chuyền cành. Chú “ết” người nhỏ thó tuổi chừng mười bốn, mười lăm cứ từng chặp thò miệng ra sau xe nhổ một bãi nước bọt.

                        Xe chạy băng băng. Leo dốc. Qua cua. Vượt lên cầu. Những ông nhà quê đứng tuổi đi xe đạp nai nịt ống quần như lính lệ, luống cuống tránh dạt vào lề đường, ngã chúi trên bờ cỏ, quay mặt lại chửi nói gì đó. Xe vẫn lầm lũi bỏ chạy. Quá ngôi đình xã Diêm An, chợt chú “ết” la lên:

                        - Tốp! Tốp! Có người đón xe. Tốp!

                        Bác tài xế hãm phanh một cách khó nhọc. Mọi người quay lại nhìn ra sau xe. Cách hơn trăm thước một người đàn bà mặc áo dài đen cắp nón hăm hở chạy tới. Bác tài rà rà cho xe chạy lui. Thuận ngạc nhiên thấy người đàn bà có lòng ái mộ một chuyến xe như vậy. Đường này đâu phải thiếu xe? Cứ năm phút là có một chuyến. Việc gì phải te tái chạy đuổi theo hàng trăm thước thế kia? Khi xe lui lại gần thì người đàn bà dường như hết thở nổi. Đó là một bà nhà quê chừng bốn mươi tuổi. Da mặt tuy rám nắng nhưng hồng hào. Hoa tai vàng, quần lĩnh Mỹ A: bà này thuộc hạng khá giả ở thôn quê. Bà không lên xe vội mà đứng dưới đường bảo bác tài:

                        - Nhờ ơn bác cho xe vô con đường rẽ kia. Nhà tôi ở gần đó. Tôi có đứa con nhỏ bị bệnh phải đưa đi nhà thương.

                        - Không được, - bác tài quay ra trước xe vặn vặn tay lái dáng như sắp sửa rồ ga cho xe chạy. - Đợi xe sau mà đón.

                        - Tội nghiệp tôi mà. Đứa nhỏ tôi nó trúng gió nặng quá.

                        - Tôi phải đưa hành khách về Nha Trang. Trễ giờ của người ta sao được?

                        - Nhờ ông làm ơn làm phước. Nhà tôi ở gần kia. Ngay con đường rẽ vô đó. Con tôi nó bị trúng gió…

                        Người tài xế nhíu mày không trả lời. Chị đàn bà bế con tay nắn bóp hai bàn chân nhỏ của đứa bé. Im lặng. Chợt người thanh niên cất tiếng nói:

                        - Trễ năm, mười phút cũng không sao. Bác chịu khó vô chở giúp người ta. Con người ta cũng như con mình.

                        Người đàn bà tươi tỉnh nét mặt, tiếp lời ngay.

                        - Dạ. Tội nghiệp tôi mà, con tôi cũng như con bác.

                        Bác tài xế dáng chừng chỉ đợi một câu nói ưng thuận của một người hành khách và sự im lặng của những người kia để bác quyết định. Bác nói:

                        - Thật phiền quá. Thôi, bà lên xe đi.

                        Xe nổ, chạy vài chục thước rồi rẽ vào con đường làng. Đường đắp đất, nhô lên thụt xuống, xe phải chạy rất chậm. Hai bên đường là vườn, là lũy tre. Xe không đậu ở cổng thứ nhất, cũng không đậu ở cổng thứ nhì. Con đường bỏ xóm nhà ở, đi vào giữa cánh đồng hẹp. Hai bên là ruộng. Lúa thời con gái xanh mướt. Một con mương dẫn thủy nhỏ chạy dọc theo con đường. Xe nhô lên thụt xuống. Tiếng máy rì rì rồi rống lên từng chặp. Từ nãy giờ Thuận im lặng. Anh ngồi đưa mắt nhìn người thanh niên. Nét mặt hiền lành và tâm hồn dễ thường cũng vô tư như bản nhạc vẫn tiếp tục được huýt sáo. Thuận ngượng đến xấu hổ khi nhớ đến lời của anh ta nói lúc nãy:

                        - Con người ta cũng như con mình.

                        Đáng lẽ câu nói đó phải do mình nói - Thuận nghĩ. Người thanh niên chắc chắn là chưa có con. Khuôn mặt non, chân râu mới lờ mờ như lông tay. Trong khi đó mình đã làm cha, đã từng nhiều lần cúi mình xuống giường bệnh của con hồi hộp nghe tiếng thở khò khè hoặc hổn hển, tay rờ trán rờ chân xem nóng lạnh.

                        Mình đã từng chạy quáng quàng đi mời thầy thuốc, đã từng bế con ngồi trong xe để đến phòng mạch bác sĩ. Những đêm thức trắng ôm con trên tay hay ngồi cạnh giường con, những dòng nước mắt lặng lẽ chảy vì lo sợ và vì thương cho con phải một mình chiến đấu với cơn đau. Những kỷ niệm ấy dồn dập về trong óc Thuận và bóp mạnh ở tim.

                        Đáng lẽ câu “Con người ta cũng như con mình” là câu phải do mình nói, - Thuận cứ lặp lại ý nghĩ đó. Mình ích kỷ muốn xe chạy thẳng về nhà cho sớm, bỏ người đàn bà đó lo lắng hồi hộp trên đường. Mà nào sáng nay mình có bận việc gì cho cam? Về đến nhà vào khoảng mười một giờ, rửa mặt nằm nghỉ đến mười hai giờ ăn trưa. Về sớm hay chậm mười lăm phút, nửa giờ, điều đó không có lợi có hại thực tế gì cho mình hết. Nhưng mà chỉ vì mình có quyền, với năm đồng bạc, bắt buộc người lái xe chạy thẳng nên mình thích sử dụng quyền đó thôi. Mình không muốn ai động chạm đến nó. Không hẳn là vì ích kỷ, bởi trên thực tế nó có mang lại ích lợi gì cho mình đâu. Có lẽ đó chỉ là cái lối bủn xỉn vụn vặt của một con người mang nhiều ẩn ức, nhiều bực bội, chịu đựng nhiều thiệt thòi, nhiều sự bất công nên khăng khăng bám giữ những quyền lợi nhỏ nhặt nào còn sót lại.

                        Thuận thở dài nghĩ tiếp. “Có lẽ tại mình phản ứng quá chậm. Mình cũng muốn giúp đỡ người đàn bà đó, nhưng mình chưa kịp nói…”

                        Chợt thấy xe nhảy vồng lên làm Thuận giật mình. Người đàn bà ngồi trước mặt đưa một ngón tay chỉ vào túi áo sơ mi của anh:

                        - Tờ giấy bạc của ông sắp rơi ra kia.

                        Thuận vội cúi xuống, thấy tờ giấy năm đồng nhoi mình lên gần rời khỏi miệng túi. Anh đưa ngón tay đẩy nó rơi sâu xuống đáy túi. Mỗi khi lên xe, bao giờ anh cũng chuẩn bị tờ giấy năm đồng bỏ ở túi áo sơ mi để khỏi lục lọi ví khi xuống xe. Anh nói:

                        - Cám ơn bà.

                        Người đàn bà mỉm cười và quay sang bắt chuyện với chú “ết”:

                        - Trời mới tháng Giêng mà nắng quá.

                        - Bà ở còn xa không?

                        - Lại cái nhà đằng kia. Cái nhà ở đằng đầu đường, đứng đây ngó thấy đó.

                        Thuận vừa nhận sự tử tế của người đàn bà. Điều đó làm anh thêm ngượng. Ai cũng tốt ở xung quanh anh. Người thanh niên. Và bây giờ đến người đàn bà có đứa con bị trúng gió nặng. Đáng lẽ với mối lo phiền to lớn đó, người đàn bà uể oải không muốn nói gì, không muốn giúp đỡ cho ai hết. Có ai bắt buộc bà phải nhìn thấy tờ giấy bạc suýt rơi của anh đâu? Bà có thể thấy nhưng lại bỏ nhìn chỗ khác. Còn cả ba người nữa trong xe mà. Trách nhiệm đáng để dành cho những người rảnh rỗi tâm tư kia. Ấy thế mà bà vẫn ân cần đối với người lầm lì ngồi trước mặt.

                        Thuận tự xét mình và thấy mình dù sao cũng đã xấu tính một cách đáng giận.

                        Con đường hẹp lại. Xe chạy rì rì tránh những mô đất.

                        - Sao lâu tới vậy? Nhà bà ở chỗ nào? Bộ bắt xe tôi chạy tới chân núi Đồng Bò sao? - Tiếng bác tài xế gắt gỏng bực bội.

                        - Nhờ ơn bác cho xe chạy tới cái nhà kia mà. Cái nhà có đứa nhỏ đứng ngoài sân đó.

                        Quả ở đầu xóm có một ngôi nhà ngói cũ kỹ nơi đó một đứa gái nhỏ đứng ở gốc đu đủ chong mắt nhìn ra xe. Chắc nó nôn nóng đợi má nó về để đưa đứa em bệnh đi nhà thương.

                        Xe dừng lại trước cổng. Người đàn bà nhảy phóc xuống, nhưng không đi thẳng vào cổng mà lại te tái đi nhanh về ngả khác. Bác tài hỏi to:

                        - Chớ không phải nhà của bà ở đây sao?

                        - Không phải. Nhà tôi ở… xích xích vô trong xóm kìa.

                        Bác tài dơ hai tay lên trời, nguyền rủa những gì không ai nghe rõ. Chịu không được không khí nóng hừng hực ở mui xe dọi xuống, mọi người nhảy xuống xe. Chỉ có chị đàn bà be con ngồi lì, nét mặt thất vọng rõ rệt. Chị phải lấy nón quạt lia lịa cho đứa nhỏ. Những người đàn ông lợi dụng thì giờ chia nhau đứng tiểu ở các bụi cây. Chú “ết” tiểu loãng xoãng xuống mương nước. Người thanh niên đứng gần bác tài nói chuyện gì đó nhưng dáng chừng câu chuyện rời rạc. Thuận đếm bước dưới bóng cây vú sữa đứng sát bên đường.

                        Gió thổi mát. Nắng vàng rung rinh. Những đứa nhỏ trong xóm tập trung lại đứng bên xe nhớn nhác nhìn, trong khi các con mắt nôn nóng chong chong nhìn về cái ngõ xóm sâu thăm thẳm rồi mất hút sau vòng rẽ. Thuận tưởng tượng thấy một đứa nhỏ nằm quấn trong khăn kín mít và do người mẹ nặng nhọc bế đi ra. Cũng có thể là đứa con lớn hơn nằm trên cái võng, cũng quấn kín trong một chiếc chăn dạ và do hai người khiêng. Người mẹ chạy hơ hãi một bên. Nhưng tha hồ cho anh tưởng tượng, con đường vẫn vắng ngắt, mịt mù. Thỉnh thoảng có những bóng người hiện ra nhưng đều là những bóng con nít hiếu kỳ chạy ra coi một chuyến xe bất thường. Bác tài xế sốt ruột đi cùng cậu “ết” vào thẳng trong xóm.

                        Anh thanh niên đi theo. Thuận không thấy bực mình vì bị mất thì giờ mà thấy lòng mình thanh thản. Có lẽ do anh bớt hối hận khi nhìn người thanh niên không còn giữ vẻ mặt hăng hái như lúc nãy. Bác tài thì chắc chắn là đang hối tiếc vì sự dễ dãi nhẹ dạ của mình. Trễ cả chuyến xe. Thuận đang mê mải nhìn một bầy cá rồng rồng dỡn nước thì có nhiều tiếng người ồn ào làm anh quay lại. Bác tài xế dẫn đầu đi ra. Đến anh thanh niên. Chú “ết”. Người đàn bà lúc nãy. Một cô gái chừng mười bốn tuổi. Một bầy trẻ con. Không thấy cái võng khiêng. Không có một cái chăn dạ xám quần sùm sụp một đứa bé bị trúng gió nặng. Anh sốt ruột cất tiếng hỏi:

                        - Chớ đứa nhỏ trúng gió nặng đâu?

                        Bác tài gượng cười giơ một ngón tay chỉ ra đằng sau. Người thanh niên im lặng. Thuận chẳng hiểu ý họ muốn nói gì. Khi đoàn người đi lại gần xe, anh mới chợt hiểu. Người bị trúng gió nặng là cô bé mười bốn tuổi đó. Cô bé béo người đẫm thấp. Dáng đi vững vàng, không có triệu chứng bệnh hoạn nào cả. Tuy vậy người mẹ vẫn chốc chốc đi lùi lại đằng sau để trông chừng.

                        Mọi người lên xe. Bà mẹ xuýt xoa cầm cánh tay con đẩy lên xe, còn tay kia thì để hờ chuẩn bị bế. Miệng nói nhẹ và cặp mắt dịu:

                        - Con coi chừng. Bước lên rai rải. Con.

                        Cô con gái hẩy cánh tay mẹ vừa lẩm bẩm:

                        - Bà này!

                        Đôi lông mày nhíu lại tỏ dáng không bằng lòng. Rồi cô bước một bước dõng dạc lên xe, xoay người lại, ngồi gọn gàng. Người mẹ bước lên theo, ngồi bên cạnh. Một giỏ mây đặt kề bên đùi để lộ những trái cam mới hái, cuống lá tươi xanh chen với những cái trứng gà. Thực phẩm bổ dưỡng cho bệnh nhân.

                        Xe rồ máy. Lần đi ra thật khó khăn vì phải tránh một bầy trâu. Những con trâu nặng nề ngước cặp mắt hoang dại lên nhìn rồi huơ cặp sừng cong đe dọa. Thân hình chắc nịch đó, cái cổ vững vàng đó, cặp sừng nhọn sắc đó như chỉ cần sấn tới, quất ngang một cái là cỗ xe nhào chổng vó xuống ruộng lầy ngay. Vượt quá được bầy trâu thì lo tránh một lũ học sinh ôm sách vở chạy quáng quàng trên đường về nhà. Nhìn lên cô gái ngồi đó, lũ học trò chỉ trỏ.

                        - A, “bà” Dậu. Bà Dậu đi lăm-bết-ta.

                        - Bà Dậu lũ bay ơi.

                        - Ngon ghê hả? Hôm qua bà Dậu không đi học.

                        - Chết! Tránh… Thầy…

                        Lũ học trò đứng dạt ra sát ven đường. Một người trạc hăm lăm tuổi mặc sơ mi trắng đầu trần đi một chiếc xe đạp sáng loáng. Một chồng vở sách buộc ở sau xe. Lũ học trò cất mũ. Người con gái liếc nhìn qua ông thầy giáo, đỏ mặt cười bẽn lẽn rồi quay vào trong xe. Bà mẹ hỏi:

                        - Ông thầy giáo phải không con?

                        Người con gái ấm ớ:

                        - Ông nào ở đâu…

                        - Tao nhớ ông thầy giáo mà. Chủ nhật tuần trước tao nhớ ông thầy có lại thăm cha mày mà.

                        Người con gái lắc đầu nhíu mày tỏ dáng không muốn nghe nói.

                        Xe khó nhọc vượt ra hết con đường xóm. Đến quốc lộ, Thuận nhìn đồng hồ. Hơn hai mươi phút để đi đón người “bị trúng gió nặng” này.

                        Xe trở về con đường quốc lộ băng băng mở tốc lực như người tù nay được giải phóng, gặp lại bạn cũ gặp lại tình nhân, tha hồ thao thao cười nói. Gió nồm thổi vùn vụt, vùn vụt vào cửa xe. Chị bế con nhỏ xoay trở mọi cách để cầm nón che gió cho con. Cô Dậu thì mặt mày tươi tỉnh hẳn lên, trút bỏ những nét bần thần lúc nãy.

                        Áo bà ba ni-lông mỏng dính sát vào da, in rõ đôi vai tròn và cánh tay vạm vỡ. Da mặt hơi rám nắng một chút và có ửng hồng nơi đôi gò má. Tóc kẹp trễ xuống lưng nên có nhiều sợi bay lòa xòa trước trán. Thuận không giấu được nụ cườikhi nhìn cô Dậu đang ngồi ưởn mặt ra gió, thò đầu ra ngoài cửa xe đón gió, sung sướng tươi tỉnh nhận gió mát tràn trề như một bông chuối nước nở đỏ ở ven bờ lạch, vật vã dưới sức đùa giỡn của gió đồng lồng lộng thổi không dừng.
                        #27
                          hai1957 03.12.2012 21:17:09 (permalink)
                          6. BÊN KIA ĐƯỜNG


                          Tôi bỏ sách xuống giường. Rượu và thuốc lá chỉ còn in dấu lờ mờ, tôi suy nghĩ về trường hợp Chatterley. Nhiều uẩn ức, nhiều bức thúc, nhiều dày vò. Thân phận con người quằn quại trong những đau khổ muôn hình, người này làm khổ người kia, ai cũng là nạn nhân vừa là kẻ tác nhân gây khổ. Người đàn bà quí phái rơi vào vòng tay của anh gác rừng khỏe mạnh, người đàn bà đó có tội lỗi không? Người chồng trí thức sang trọng và phẩm cách cao quí đó có tội lỗi gì trong việc xô đẩy vợ mình phạm tội ngoại tình? Chiến tranh. Chiến tranh không phải là một người có một khuôn mặt và mang một danh tánh để nhận chịu trách nhiệm trực tiếp. Chiến tranh là một tập thể. Chiến tranh đã tàn phá một nửa cơ thể của hầu tước Chatterley biến chàng thành kẻ bất lực. Và người đàn bà lấy chồng không phải để chuyên môn làm y tá suốt đời cho chồng, do đó mà anh gác rừng thành kẻ phản bội và kẻ chiến thắng. Giã từ lâu đài, giậm xéo danh dự chức tước, xóa bỏ hết, đập nát hết, Chatterley phu nhân chỉ cần sống đích thực cho dẫu là sống đơn giản với bánh mì, nước, không khí và tình yêu.

                          Tình yêu. Tôi cảm nghe như có một niềm xót xa, vừa cựa mình chỗi dậy như một con trăn nằm lấp dưới bao từng lá phủ nay đột nhiên thức giấc. Nỗi phiền muộn tôi đã vỗ về cho an ổn từ lâu, nay bất ngờ vì Quỳnh và vì câu chuyện của Chatterley mà hiện hình với mọi ngõ ngách, phiền toái. Quỳnh trẻ và đẹp và khoảng cách giữa tôi và nàng khó có thể nhờ thời gian lấp bớt được. Tôi sắp đi Thủ đức. Thời gian, cuộc đời đâu còn tùy thuộc nơi tôi nữa.

                          Vô lý. Sao mình có thể dễ tin, dễ hy vọng ở Quỳnh?

                          Có phải vì mọi người đàn bà mình gặp đều khôn ngoan và tàn nhẫn nên mình tự nhiên tìm về Quỳnh như một kẻ hành nhân xông pha nắng bụi tìm về một nguồn nước mát? Quỳnh đã hiện ra trong buổi tối nay. Trước kia, Quỳnh mơ hồ, hiện diện phai mờ trong một khung cảnh bất biến: những chồng hồ sơ, hồi chuông điện thoại, những buổi sáng chào cờ, tiếng máy đánh chữ lách cách. Phi cơ ở trên từng cao. (Ừ nhỉ! Không ngờ tiếng ồn lại khó chinh phục đến thế. Khoa học chưa nuốt hết tiếng động cơ). Quỳnh mặc áo màu huyết dụ. Gió lạnh vun vút của một đêm đông làm màu áo chuyển hơi ấm vào người nhìn. Gió thổi tung phần phật tà áo về một phía và dáng quỳnh mảnh mai như một ngọn lửa vươn lên. Tiệc cưới đặt ở tầng lầu hai. Tôi gặp Quỳnh ở tầng dưới giữa lúc tôi đang nói chuyện với những bạn trai. Câu chuyện không có gì đậm đà vì quá đông người và vì có vài khuôn mặt lạ chen trong đó. Lại những chuyện động viên đi Thủ đức. Khóa 18 còn 4 tháng ra trường. Khóa 19 đang gọi. Máy phát thanh đọc tên những người có lệnh nhập ngũ, mà chưa đi trình diện, nhẫn nại đọc, trưa nào và tối nào cũng đọc. Câu chuyện của những người dưới 33 tuổi.

                          - Thằng Diễn vẫn cứ phây phây đi chơi phố. Khóa nó, người ta gọi đã hai tháng nay rồi. Ra-đi-ô kêu đích danh Trần Văn Diễn mà nó vẫn cứ phây phây đi chơi phố.

                          - Coi chừng có ngày quân cảnh hốt. Ðêm nào xe quân cảnh cũng đi rảo.

                          - Dám bỏ vô Quang Trung lắm.

                          Câu chuyện không có gì vui. Màu xám của chiến tranh bao trùm lên khuôn mặt, dáng người và sự vật được gợi ra.

                          Quỳnh bỡ ngỡ đứng nhìn chung quanh. Người đàn bà ngồi ở quầy có đôi môi dày bôi đỏ như máu. Chiếc áo kỳ pủ thật mỏng in hình hoa màu nóng che không hết những mảnh da thịt trắng mát tròn lẳn. Ba quân nhân ngoại quốc ăn ở một góc. Ðến một gia đình người Việt đông con. Ðứa nhỏ mang theo cả quả bóng và chạy luồn sau quả bóng giữa những bàn chân ghế và chân người. Hai thương gia béo phệ chầu hai bên một chai rượu chắc là đắt tiền. Hai điếu xì gà to như hai con mực ống.

                          Trên vách, những người đàn bà đẹp ngậm thuốc lá Capstan, Mélia trong những bức tranh.

                          Quỳnh đi lại gần tôi.

                          - Ông Huy có bận đón ai ở đây không?

                          - Không. Cô có điều chi cần?

                          - Ông đưa tôi lên phòng tiệc đi.

                          Tôi hơi ngạc nhiên vì lời đề nghị và nhớ rằng mình vừa khiếm nhã đối với người đàn bà. Ðứng nói chuyện với nhau để một người đàn bà tự tìm đường đi một mình, người lịch sự không ai như vậy. Nhưng sở dĩ tôi không đưa Quỳnh đi lúc nãy, là tôi sợ người ta hiểu sai cái cử chỉ của tôi, kéo nó ngang hàng với một sự tán tỉnh thô bỉ. Vả lại, có bao nhiêu bạn đồng nghiệp bảnh trai của tôi kia, họ đưa Quỳnh đi thì xứng hợp biết bao. Chàng Thanh hào hoa, đi làm luôn luôn thắt ca vát và thay sơ mi mỗi ngày một kiểu. Chàng Huấn danh ca của đài phát thanh địa phương, có mái tóc ép sấy đúng kiểu. Chàng Thuận chủ nhân của một chiếc 2CV, giáo sư khiêu vũ của các cô bạn chưa chồng. Tôi tự sắp mình vào hàng thứ bảy thứ tám trong bản danh sách những người đàn ông có mặt. Tôi nói:

                          - Nếu cô cho phép. Xin mời cô đi trước.

                          Nhưng Quỳnh không chịu bước trước và chúng tôi thành ra đi cạnh nhau.

                          - Ông đã biết cô dâu chưa?

                          - Tôi có quen.

                          - Ðẹp không ông?

                          - Có lẽ điều ấy cô nên hỏi chú rể.

                          - Lẽ tất nhiên là chú rể khen đẹp. Tôi hỏi ý ông mà.

                          - Tôi biết vậy. Nhưng tôi có cho đẹp hay không thì cũng vô ích thôi. Vả lại, cô sẽ được thấy cô dâu trong mười lăm phút nữa.

                          Những bước thang uốn vòng quanh. Những tấm gương lớn đặt ở lối đi phản chiếu bóng hai người. Thân Quỳnh mảnh mai. Bóng tôi mặc áo quần dạ xám lấp vào những chỗ eo của thân nàng.

                          Lan và Thái, -cô dâu và chú rể- đón chúng tôi ở cầu thang. Áo Lan lóng lánh như kim tuyến, tôi không biết chắc đó là hàng gì. Chưa sống cạnh một tủ áo đàn bà, chưa bị nó hành hạ trong những ngày gần Tết, ngày Nô en, tôi thường lẫn lộn thứ hàng hai trăm đồng một áo với thứ hàng tám trăm đồng. Kim cương hột xoàn cũng vậy. Khi nào võng mô nhức nhối nhận một tia sáng loé thẳng, nhọn và sắc như một mũi kim dài phát xuất từ một mặt nhẫn, một vòng đeo tay, tôi thường giật mình nhìn người đàn bà có phép lạ đó và lẩm bẩm định giá "năm trăm ngàn đồng". Không căn cứ vào tiêu chuẩn nào hết mà chỉ là một con số tượng trưng. Ý hẳn có nhiều lúc tôi đã bị thủy tinh đánh lừa. Nhưng chắc chắn là Lan không đeo thủy tinh đêm nay. Ngày thường đi làm nàng có những thói quen rất đỗi "học trò" là đeo những chiếc vòng tay bằng nhôm, bằng thiếc mỏng mảnh mạ vàng lóng lánh, năm bảy chiếc một lần tréo vào nhau, choàng lẫn nhau rung rinh theo cánh tay đưa. Tôi không tìm thấy giá trị mỹ thuật của món trang sức giá năm bảy đồng một chục như thế. Có phải vì quen mắt vì muốn tránh một nỗi vắng vẻ cô đơn mà con người tìm bè bạn ở nơi vòng cổ tay của mình? Lan đeo đồng hồ đắt tiền cạnh những chiếc vòng nhảm nhí đó.

                          Ðêm nay Lan cài một mảnh vương miện trắng lóng lánh lên mái tóc, dấu hiệu cô dâu. Khuôn mặt thanh tú xứng đáng với một sự trang trọng có đôi chút kiểu cách.

                          Lan tiến đến cầm tay Quỳnh:

                          - Xin mời chị vào.

                          Rồi nàng nghiêng mình chào tôi, tự nhiên như khi chào một người bạn đàn ông trung bình. Không có một chút rụt rè, hồi hộp chút nào. Làm như tôi không phải là người đã từng hôn nhiều lần hôn trên đôi môi tô son đó. Làm như nàng không phải là người đã từng nép trong cánh tay tôi mà thỏ thẻ: "Em muốn chúng mình sẽ có một đứa con gái đầu lòng và em đặt tên là Mai Chi. Sao em yêu cái tên Mai Chi lạ." hoặc "Em thích căn phòng của chúng mình sẽ quét vôi màu xanh nhạt và rèm cửa một màu xám, chũng nhạt. Y như căn phòng của Nữ hoàng Elizabeth". Tôi không biết đích xác màu tường và màu rèm của nữ hoàng và tôi nghĩ rằng nếu một tuần sau nàng đổi ý kiến muốn tường và rèm cửa giống màu của căn phòng Tổng thống Phi luật tân tôi cũng sẽ không phản đối.

                          Lạ thật. Người đàn bà có một loại thuốc tẩy tinh vi có thể xóa hết mọi dấ u vết tình cảm trên tâm não của họ.

                          Nàng nói:

                          - À! Anh Huy. Cám ơn anh đã đến. Anh Thái, đây anh Huy. Làm thơ hay một cây.

                          Làm thơ! Tôi đã thành thật và ngu si, - thành thật có họ hàng với ngu si trong nhiều trường hợp - viết bốn câu thơ để tả nỗi khắc khoải nhớ nàng rồi cặm cụi ngồi chép gởi cho nàng. Nàng đọc thơ, cánh mũi phập phồng. Có thể vì tự ái được mơn trớn, nhưng hôm nay thì rõ ràng là nàng đang chế diễu tôi.

                          Tôi bắt tay Thái, mỉm một nụ cười vừa phải rồi nện mạnh gót giày xuống sàn nhà để bước theo sau Quỳnh. Tôi gửi theo gót giày những lời căn dặn giận dữ: Bận sau đừng dại như thế nữa. Dại lắm. Với đàn bà, chỉ nên dùng tiếng nói để biểu lộ tình cảm mà thôi. Khẩu thuyết vô bằng. Chớ dại mà ghi bằng chữ viết.

                          Quỳnh đi thẳng lại một góc phòng. Tôi kéo ghế mời nàng ngồi rồi đưa mắt tìm chỗ nào có nhiều bạn quen đàn ông để lại ngồi chung với họ. Nàng ngước nhìn tôi rồi chìa tay chỉ cái ghế bên cạnh:

                          - Ông có thể ngồi cạnh tôi. Hôm nay tôi muốn được nghe ông nói chuyện.

                          Tôi ngoan ngoãn ngồi xuống.

                          Câu nói vừa rồi của Lan đã xáo trộn óc tôi làm tôi hơi choáng váng. Ðôi chân vụt nhiên thấy mỏi và tôi cần một chỗ ngồi, chỗ nào cũng được. Tôi vừa chạm phải một người đàn bà và tôi đang coi thường họ. Vậy thì ngồi cạnh Quỳnh hay ngồi cạnh một chậu cây, một cái tủ lạnh thì cũng như nhau. Quỳnh hỏi:

                          - Ông có nghĩ rằng chỗ ngồi này tốt không?

                          - Tốt lắm, tôi tưởng thế. Chúng ta có được cái nhìn bao quát căn phòng.

                          Hoa lai ơn mà trắng và màu tím lịch sự trang nhã ở mọi bàn. Ðó là màu hoa Lan thích. Tôi nghĩ: Lan chu đáo, lo đến cả việc chọn màu hoa trong tiệc cưới của mình. Thật là người sung sướng.

                          Tôi nhìn lên tường. Ảnh của ông Tôn Văn bệ vệ tô màu xanh màu đỏ. Trước đây có treo kèm ảnh của Tổng thống Ngô Ðình Diệm cũng tô màu xanh đỏ. Từ ngày đảo chính, chưa có bức ảnh nào thay thế. Một bài văn chữ Hán nét bút sắc sảo tán tụng nghệ thuật ăn. Tôi lỏng bỏng đọc và nhớ được những chữ "dĩ thực vi tiên". Mỗi lần đọc bài "tán" đó, thực khách cứ muốn gọi bồi mang thêm bồ câu rán, gà rút xương, vây cá nấu măng tây, kim tiền kê và rượu vang. Ðời người như gió thoảng như chiêm bao, lâu đài tàn phế danh vọng phù vân, vậy sống được ngày nào thì cứ ăn cho thích khẩu. Bài "tán" bảo như vậy nhưng hôm nay quả tình là tôi không có thích thú gì để đợi chờ món ăn hết. Thực đơn đặt trên mặt bàn cạnh tôi nhưng tôi không buồn cầm lên đọc. Ði dự đám cưới của Lan chứ đâu phải dự đám cuới của người khác.

                          Quỳnh quay người nhìn tôi:

                          - Lúc nãy ông nói dối tôi. Tôi biết rõ là ông quen nhiều với cô dâu.

                          Tôi lặng im.

                          - Có phải thế không?

                          - Vâng.

                          - Hai người có yêu nhau nữa.

                          Tôi mỉm cười không nói. Hai người có yêu nhau nữa! Người bàng quang thật tò mò và tinh mắt.

                          - Thế tại sao hai người không đi đến hôn nhân?

                          Tôi xoay một chiếc nỉa đặt trước mặt và tôi âm thầm tự giải thích cho tôi: "Phức tạp lắm. Phức tạp lắm". Thực tế thì chả có gì phức tạp hết. Khi tôi được hoãn dịch vì lý do con một thì Lan hăng hái yêu tôi. Khi chính phủ điều chỉnh lại quy chế động viên. Tôi được lệnh phải đi Thủ đức thì Lan chọn Thái thay tôi. Thái vừa được giải ngũ chừng vài tháng nay. Mới thoáng đó mà Thái đã làm xong bốn năm quân dịch. Từ xạ trường Thủ đức lăn đi khắp các nẻo chiến trường. Thái vạm vỡ và bạo dạn không sợ khó nhọc, không sợ đàn bà như hồi còn ở văn phòng. Trước ngày động viên, Thái còn đỏ mặt mỗi lần nói chuyện với đàn bà và hai bàn tay cứ vặn vào nhau. Bây giờ thì Thái có nhiều kinh nghiệm để mà chinh phục họ. Thái hút "píp", đánh xì tẩy và khiêu vũ. Mỗi kỳ nghỉ phép rời mặt trận về đô thị, Thái biết tiêu hết nửa tháng lương để la cà ở các phòng trà và hộp đêm. Ðàn bà thời bây giờ thích những người đàn ông "chịu chơi hết mình" như vậy. Các cô bạn gái thường bao vây Thái bắt tổ chức du ngoạn và nhờ dạy nhảy. Tôi xót xa nhưng không lấy làm lạ khi nhận thiệp báo hỉ của Lan-Thái. Hôn nhân đời nay đi mau với tốc lực siêu thanh của phi cơ phản lực. Khi nghe tiếng nổ thì máy bay đã vượt xa mình rồi.

                          Lan xem thế mà thực tế. Tình yêu và hôn nhân phải trả lời đủ những câu hỏi của một bản trắc nghiệm:

                          - Lương căn bản là bao nhiêu?

                          - Còn mẹ chồng không?

                          - Có nhà riêng hay phải ở nhà thuê?

                          - Ði xe bốn bánh hay hai bánh? Nếu là hai bánh thì Vespa Italy hay xe gắn máy?

                          - Có nằm trong lứa tuổi động viên không?

                          - Có hội đủ những điều kiện được hoãn dịch không?

                          Vân vân.

                          Hai câu hỏi sau được nhiều điểm hơn hết. Thái hơn điểm tôi cũng là nhờ hai câu hỏi sau đó. Trừ trường hợp tổng động viên, còn thì Thái được an nghỉ trở về ngồi đều đặn giữa bốn bức tường ở sở và ở nhà. Tôi thì trái lại tôi sắp rời bỏ sự an ổn để lăn lộn ở chiến trường. Thân phận tôi đang được treo lơ lửng. Cố nhiên là Lan không muốn treo lơ lửng đời nàng vì tôi. Bàn tính tương lai với người chồng ngồi cạnh mình nhất định là dễ chịu hơn phải viết thư ra tiền tuyến. Không mấy ai muốn lấy chồng để được làm chinh phụ.

                          Tiếng Quỳnh khe khẽ bên tai tôi.

                          - Ông Huy, có phải ông không vui vì phải ngồi tiếp tôi không?

                          Tôi quay lại:

                          - Sao cô bảo thế?

                          - Vì ông không muốn trả lời những câu hỏi.

                          Tôi ngập ngừng:

                          - Ðâu có phải tôi không muốn trả lời. Nói rằng tôi chưa tìm được câu trả lời thì phải hơn.

                          Lan thỉnh thoảng đưa mắt nhìn sang tôi và Quỳnh. Tia mắt như xoi mói dò xét. Quỳnh không đẹp bằng nàng nhưng hiện giờ Quỳnh đang tự do và tôi đang cô đơn.

                          Giọng hát của Sylvie Vartan ở từng lầu dưới đưa lên, khắc khoải, hối thúc, nghẹn ngào. Giọng hát phức tạp như tâm hồn con người, vừa mơn trớn dỗ dành tôi, vừa làm khơi động những mạch sầu. Tôi tê đi trong tiếng hát kêu thương đó và tôi cứ muốn nói lảm nhảm một mình, nói chỉ để cho mình nghe hoặc chỉ gật gù nghĩ mà không nói: Lan ơi, tiếng hát nức nở chỉ còn một mình anh nghe thôi. Người có hạnh phúc như em còn tai đâu, còn tâm hồn đâu mà nghe, mà rung động. Em hiện giờ đang tươi cười bắt tay khách vừa lo sao cho ly tách khỏi vỡ trong bữa tiệc, lại vừa hãnh diện vì những người đàn bà có mặt chưa có ai đẹp hơn em. Anh xa em... xa em. Em nhớ không, ngày xưa em nói: Nếu chúng mình không lấy được nhau thì anh đừng lấy ai anh nhé? Em cũng sẽ không lấy chồng đâu. Em sẽ để tang cho anh khi anh chết.

                          Hãy để tang cho anh đi, hôm nay. Nhưng chỉ còn mình Sylvie Vartan khóc than kể lể hộ anh. Và Quỳnh đi đưa.


                          Tôi nhìn sang Quỳnh đang ngồi cạnh. Trước mặt tôi, bát vây cá nấu cua và măng tây. Quỳnh đang trải khăn ăn đặt lên đùi. Ðùi Quỳnh thon thon in hằn dưới mặt áo mỏng. Tôi cũng trải khăn và nhúng muỗng vào bát. Thịt cua ngọt và có mùi thơm mát của biển rộng. Quỳnh suỵt suỵt vào tai tôi:

                          - Chết! Chưa tuyên bố khai mạc.

                          Dây thần kinh của tôi đã rối thành nùi thành cuộn rồi. Tôi nghĩ: Hãy gạch xóa Lan đi. Tạm thay Quỳnh, đêm nay. Mắt tôi nhìn xuống bàn tay Quỳnh, đi dọc theo cánh tay lên ngực, lên cổ. Một nốt ruồi đậu ở cằm.

                          Những cặp vợ chồng an phận, những người đàn bà và đàn ông lẻ loi đưa mắt lục soát mọi người ngồi trước mặt, xung quanh.

                          Họ nhà trai nhà gái, chú rể cô dâu quây quần tiến ra máy vi âm. Diễn văn khai mạc. Vỗ tay. Ðáp từ. Vỗ tay. Tôi chập chờn nhớ những chữ.. "..trai tài gái sắc... bách niên giai lão... loan phụng hòa minh..." Tất cả đều đẹp, toàn vẹn, lý tưởng. Người ta không quên vẽ ra trước mắt một bầy con kháu khỉnh khỏe mạnh để cô dâu chú rể theo đó mà cố gắng sản xuất. Có một đoạn diễn văn nói đến trách nhiệm của đôi tân hôn nhân: xây dựng gia đình để làm nền tảng kiến thiết xã hội. Nhiều trách nhiệm quá nên chắc chắn là đôi vợ chồng mới không thể nhớ hết, làm hết. Ðiều phải nhớ cấp thiết là lo chạy tiền thuê trả trước nửa năm và mua cái giường bề ngang một thước sáu.

                          Cuộc ăn uống vồn vã bắt đầu. Những người hầu bàn đứng canh chừng ở mọi góc phòng. Quỳnh rót whisky mời tôi và nàng nhận một ly coca có pha bia do tôi mời lại.

                          - Ông nên say trong bữa tiệc hôm nay.

                          - Cô cũng vậy. Cô cũng phải say như tôi.

                          Tôi chỉ lên bài văn viết bằng chữ hán trên vách:

                          - Bài văn kia tán tụng sự ăn mà không ca tụng sự say.

                          - Ông hiểu vì sao không?

                          - Có lẽ vì khi say người ta hay nói bậy bạ và hành động bậy, nên chủ tiệm không khuyến khích.

                          Quỳnh gật gù:

                          - Có thể. Người say hay phá phách và gây sự. Cũng cần có thêm một lý do này nữa, lý do quan trọng: "đó là khi hắn say hắn sẽ quên trả tiền, hoặc hắn tưởng là hắn có một nghìn đồng khi trong túi chỉ còn hai trăm."

                          Tôi thú vị cười với Quỳnh.

                          - Ông đã say nhiều lần chưa?

                          - Ít lắm, tôi sống có chừng mực nên không cần đến rượu.

                          - Thế nghĩa là?

                          - Nghĩa là người ta cần nhờ đến rượu khi đã trót say vì một cái gì khác mà không toại nguyện. Say vì tình nhiều nhất. Say trong ảo vọng, trong tuyệt vọng. Tôi mới thất vọng chứ chưa tuyệt vọng.

                          Tròng đen của mắt Quỳnh ngước lên nhìn tôi và tâm hồn tôi chao đi, chết đuối trong hai chấm đen chập chờn đó. Một cảm giác ấm áp choàng lên mặt, lên ngực, tôi nghĩ chắc đó không phải vì rượu.

                          Những món ăn kế tiếp, món nào cũng ngon cũng trình bày lạ và đẹp mắt. Thần kinh lưỡi tha hồ mà báo tin về trung khu cảm giác. Nhiều giọng ca miễn cưỡng. Nhiều giọng ca cố ý làm ra miễn cưỡng nhưng thực tình đã chuẩn bị sẵn và không được hay. Thừa lúc cử tọa nhốn nháo, tôi lẻn ra khỏi phòng, đi thẳng lên sân thượng. Chân không được vững và đầu hơi choáng váng. Gió đêm mát thổi từ mặt sông đen. Ðèn phố chi chít, cuộc sống choàng lấn vào nhau ở dưới chân tôi. Tranh giành. Âu lo. Ðau khổ. Tôi nhìn lên nền trời rộng rãi. Màu đen làm đêm thêm dày. Bí mật. Câm nín. Và con người cảm thấy lẻ loi, bơ vơ. Một mảnh trăng lưỡi liềm úa héo cài lửng lơ. Một năm sau, tôi sẽ đứng ở một bót gác giữa lưng đèo, trên chỏm núi, ven bờ rừng để nhìn lên vòm trời như đêm nay với mảnh trăng úa héo. Và ở nơi đô thị xa này, Lan và Thái an ổn cạnh một bóng đèn điện sáng mát. Những người đàn ông, -Thái và tôi- phải đổi phiên cho nhau. Ðàn bà được ở một chỗ để đón nhận và chọn lựa.

                          Tôi kêu lên những tiếng khoắc khoải: Lan, Lan, Lan.

                          Có tiếng giày bước lên bực thang và mùi nước hoa ngọt ngào. Quỳnh lại gần tôi:

                          - Chị Lan tìm ông để mời ngâm thơ nhưng không ai tìm thấy ông ở đâu. Người ta đoán ông đã đi về trước.

                          - Ở dưới đó người ta đang ở mục nào rồi, cô?

                          - Ðang kể chuyện vui và ngâm thơ. Sao ông lại lên đây?

                          - Thay đổi không khí một chút. Còn cô?

                          - Cũng như ông vậy. Tôi không chịu được khói thuốc lá.

                          Ngừng một giây, Quỳnh nói:

                          - Lúc nãy anh Thái và chị Lan có song ca một bài. Tình tứ lắm. Anh thì: "núi cao anh cũng trèo, sông sâu anh cũng lội, vạn đèo anh cũng qua" còn chị thì "gió lay cành đa, em thương, em thương, em thương anh thật thà...".

                          Tôi bật cười gật gù nhìn Quỳnh.

                          - Khi say, - tôi nói - người ta xông xáo vào đời mà không cần mặc cả. Hôn nhân cũng làm cho người ta say như Johnny Walker.

                          Quỳnh ngắt một đóa hoa lài ở bụi hoa cạnh đó trao cho tôi.

                          - Hình như tháng năm này ông phải đi Thủ đức?

                          - Vâng.

                          - Có phải vì thế mà cuộc hôn nhân của ông với chị Lan không thành?

                          Tôi không muốn dối nữa.

                          - Có lẽ cũng vì đó một phần.

                          - Ông nghĩ rằng chiến tranh có thể cản trở người ta yêu nhau?

                          - Vâng, tôi nghĩ như vậy.

                          - Tôi thì không cho như thế. tôi nghĩ rằng khi người ta yêu nhau rồi thì chiến tranh, tàn phế, chết chóc... không còn mãnh lực nữa.

                          - Ðó phải là một tình yêu lý tuởng chỉ có ở thế kỷ trước.

                          - Ông bi quan. Tôi thấy tôi có thể yêu, đợi chờ và nếu vạn nhất mà người yêu của tôi tử trận, tôi cũng không hối tiếc vì mình đã chọn lựa con đường đó.

                          Tiếng ghế xô đẩy ồn ào ở phòng tiệc. Tôi nhìn đồng hồ và nghĩ rằng người ta đang ra về. Tôi nói:

                          - Tiệc vãn rồi, mời cô xuống trước. Và chúc cô một giấc ngủ êm đềm.

                          - Ông nhớ viết thư cho tôi dù ở Thủ đức hay đi theo đơn vị.

                          Bàn tay nàng vẫn đặt lên trên mép của chậu hoa ở cạnh tôi. Tôi muốn cầm bàn tay đó, giữ chặt giữa lòng bàn tay mình.

                          Nàng chậm rãi bước xuống thang gác, đi lẩn vào đám đông. Tôi đợi một lát sau mới xuống theo...

                          Rượu mạnh và khói thuốc làm tôi trằn trọc trên giường không ngủ được. Tôi bật đèn giường mò lấy quyển sách. Ðó là quyển "Người tình của Chatterley phu nhân" tôi đang đọc dở dang. Chatterley. Chiến tranh. Lan. Quỳnh. Tôi bơ vơ. Quỳnh. "...Tôi có thể yêu, đợi chờ và nếu vạn nhất mà người yêu của tôi..." Chatterley phu nhân cũng định làm như vậy. Cũng muốn hy sinh cuộc đời mình để săn sóc cho người chồng đức hạnh. Nhưng cuộc đời... Cuộc đời...
                          #28
                            hai1957 03.12.2012 21:20:14 (permalink)
                            7. TRỞ VỀ


                            Xe len lỏi giữa những lỗ thủng. Con đường bị đào khoét rậm quá. Số lỗ thủng nhiều đến nỗi đôi cánh tay ôm vô lăng của Luy hết xoay qua đến quay trả lại, quay có cái đến nửa vòng lia lịa như một người lái xe thi đoạt giải ở hội chợ. Bánh xe phải tránh những cái ổ gà chi chít. Luy quay sang tôi:

                            - Hôm trước ở Sài Gòn ra bị kẹt máy bay, phải đi xe đò. Khi xe tới Phan Rang, một bà hành khách hỏi người tài xế: “Đường từ đây ra Nha Trang còn mấy trăm cây số nữa ông?” Tôi đố anh, ông tài xế trả lời thế nào?

                            Tôi ngẫm nghĩ chưa trả lời. Luy hay đặt những câu hỏi bất ngờ, tưởng dễ mà hóa khó và nhiều khi tưởng khó tôi loay hoay moi óc tìm lời giải đáp thì câu trả lời lại quá đơn giản, gần như hiển hiện ra trước mắt. Luy cười xòa, thấy tôi đang nhíu mày.

                            - Thôi, tha cho anh kỳ này. Ông tài xế trả lời rằng: “Đường còn năm mươi cây số nữa”.

                            Tôi phản ứng:

                            - Đường Phan Rang - Nha Trang tới một trăm mười cây số mà.

                            - Đồng ý. Nhưng ổ gà lỗ thủng chiếm mất sáu mươi cây.

                            Luy quay mặt gần tôi cười thú vị và tôi cũng thích thú cười theo. Những nhận xét thông minh kích thích niềm vui của tôi như rượu và thuốc lá. Tôi yêu vẩn vơ anh tài xế thông minh đó.

                            Hồi sáng, khi mang hành lý ra xe, tôi để cái vét-tông ra ngoài, định lên đèo Ngoạn Mục là choàng vào. Luy nói:

                            - Đưa đây tờ báo. Mau lên.

                            - Làm gì? - tôi hỏi.

                            - Gói cái áo này lại. Gói kỹ. Anh không thể tưởng tượng con đường sẽ bụi bặm đến mức nào. Cái sơ mi của anh sẽ vàng. Cái áo vét-tông của anh sẽ mốc. Luy vừa nói vừa gói cái áo, đem bỏ trên nệm xe.

                            Khi đến Mỹ Ca, xe chúng tôi phải nối đuôi một cái xe chở dầu mười bánh dài ngoẵng do một quân nhân Mỹ lái. Mỗi lần phải tránh một chiếc xe đi ngược chiều, chiếc xe Mỹ đi sát vào lề đường và bụi tung lên mù trời. Chiếc xe đi ngược chiều cũng lái sát lề và cũng tung bụi phần nó. Tha hồ tung bụi, chẳng ai cấm ai. Cứ chừng mười phút là gặp một đoàn công-voa. Tiếng còi thét. Những chiếc xe nhà binh cao nghễu nghện mở đèn giữa ban ngày như dọa thân xe nhỏ nhắn của chúng tôi. Qua màn bụi dày, lờ mờ hình dáng những người lính ngồi trầm ngâm nhìn ra hông xe, nhìn ra sau xe, tay khư khư ôm súng.

                            Chiến tranh đã gặm nát đến cả con đường quốc lộ, con đường giao thông chính, đại động mạch của miền đất này. Ở các thôn xóm xa, sau lớp cây xanh lặng yên, sau những dãy núi trùng điệp nằm dán sát chân trời, chiến tranh ra sức tàn phá. Nhìn qua kính xe thấy có ba chiếc phản lực cơ đi thành hàng về một nẻo xa ở chân trời phương Tây. Ba chiếc tách rời ra rồi luân phiên nhào xuống. Chết chóc ở nơi đó. Sự chết từ trên cao rơi xuống, theo chiều ngang tràn xuyên qua, từ dưới đất vọt lên.

                            Có những đoạn đường đang được vá víu lại. Ở mỗi chặng như thế có chừng năm, sáu người phu. (...Kiểm duyệt bỏ…) Những người đàn bà và những đứa con nít đó làm việc chậm chạp âm thầm.

                            Trước mặt chúng tôi, chiếc xe chở dầu vẫn lầm lũi chạy. Luy định lách chạy trước nhưng cứ mỗi lần chuẩn bị thì đều thấy ở đằng trước một chiếc xe lùi lũi chạy lại. Cuối cùng anh nói:

                            - Thây kệ. Để cho nó chạy trước dò đường dùm mình. Cứ nhìn nó là đủ biết đoạn đường nào lồi lõm cần chạy chậm

                            Luy có những sáng kiến bất ngờ như vậy. Có nhiều đoạn chiếc xe chở dầu nhảy chồm chồm lên. Khi chạy lại gần, chúng tôi thấy con đường lở lói dày đặc, không có chỗ tránh. Phải chạy chậm lại. Thân xe rùn rẩy vật vã. Luy lẩm bẩm:

                            - Ổ gà tập trung về đại hội ở đây. Chết chết, chỗ kia nữa. Đại hội ổ gà nữa.

                            Có những đoạn con đường nhựa uốn lên lượn xuống như đợt sóng. Như mặt tôn dợn sóng dùng để lợp nhà. Nhờ chiếc xe chở dầu báo trước, Luy lại cho xe chạy chậm.

                            - Tay lái nào chạy ẩu qua đây thắng không kịp dám gãy sườn xe lắm - tôi nói. Nên mình càng biết ơn chiếc xe nhà binh chở dầu đó.

                            Ba Ngòi. Kinh đô của bụi. Bụi vàng. Bụi đỏ. Gió thổi cuốn bụi xoay thành cột, di chuyển trên cánh đồng. Những trại lính. Những sân máy bay. Xe ủi đất. Xe vận tải, tám bánh, mười bánh. Trên cánh đồng mênh mông khô cháy, cứ chỗ nào có bụi cuốn lên là y như có một chiếc xe nặng nhọc lầm lũi chạy. Quán giải khát chạy thành dãy dài. Kiểu nhà giống nhau, vách dựng bằng tôn màu xanh. Quán nào cũng trống vắng. Tấp nập chỉ dành về đêm, các cô chiêu đãi viên chắc giờ này còn ôm nhau ngủ. Những hộp giấy, những lon nước giải khát màu lòe loẹt bỏ vãi từng đống. Di tích sinh hoạt của những quân nhân Mỹ.

                            Xe phải qua nhiều trạm kiểm soát. Trên bảng đề là “kiểm soát tài nguyên”. Xe du lịch được đi thẳng, xe đò phải ngừng lại trình danh sách hành khách có ghi số thẻ kiểm tra. Thế là chỉ kiểm soát người. Người có thể được coi như là tài nguyên. Trong một nước bị tàn phá thì tài nguyên còn sót lại là con người, con người với hai bàn tay. Thỉnh thoảng có tấm bảng đề: ICE SELL HERE hoặc HERE ICE, hoặc hình vẽ một bàn tay có ngón chỉ về chữ ICE. Một người đàn bà héo hắt ngồi bên cái thùng gỗ cạnh tấm bảng. Có tấm bảng đề VEHICULES WASHING. Một hai người đang xịt vòi nước rửa xe. Người quân nhân Mỹ, - ý hẳn là tài xế, - ngồi hút thuốc bên cạnh. Khói bay lên ở nơi này, nơi kia. Luy nói:

                            - Tụi Mỹ nó có cái tật hay đốt. Chẳng biết đốt cái gì mà cứ ngày nào cũng có chuyện để đốt. Hễ thấy Mỹ là thấy khói đốt.

                            - Giấy bọc, hộp bìa cứng. Chắc chắn không phải là những tài liệu cần hủy bỏ.

                            - Anh có nói tôi mới nhớ. Việc thủ tiêu tài liệu cũng đòi hỏi rất nhiều kỹ thuật khoa học. Hãng thầu của tôi đã có lần được giao phó việc xây những cái hầm tinh vi để đặt lò đốt tài liệu. Tài liệu vừa là giấy, vừa là phim. Hàng tấn tài liệu như vậy, không phải dễ mà đốt cho cháy tiêu, đốt cho thật mau, đốt cháy tan tành không còn chút dấu vết.

                            Xe qua trạm kiểm soát của quân đội Mỹ và quân đội Đại Hàn. Những con mắt dò hỏi. Căn cứ theo tiêu chuẩn nào mà tin để cho qua hay nghi để giữ lại? Những người lương thiện cũng hồi hộp. Nếu người lính canh đó bắt xuống xe, giữ lại chỉ một mình mình ở giữa miền hoang vu này thì mình sẽ đối phó làm sao? Giải thích trình bày bằng thứ ngôn ngữ nào?

                            Tháp Chàm. Đầy dẫy những Snack bar và tiệm giặt. Tên cửa tiệm là những tên Hoa Kỳ: Mickey bar, Melody bar, Ohio laundry service… Chữ viết nhiều kiểu, nhiều màu lòe loẹt chói chang: xanh dương, xanh lá cây, đỏ, da cam, vàng. Mỗi song cửa một màu, mỗi lá sách một màu. Người Mỹ thích màu lòe loẹt hay người Việt ta tưởng vậy? Tôi nghĩ đến những cái chuồng bồ câu sơn phết nhiều màu, vẽ vời rằn ri để dụ những con chim.

                            Đi qua con đường quốc lộ số 11, tâm hồn tôi chợt thấy âm u. Con đường kỷ niệm. Những thôn xóm yên lặng nằm hai bên đường như chưa bao giờ biết đến sự đổi thay. Mái nhà xám đen và vách đất cũng xám đen. Đồng Mé. Luy nói:

                            - Miền này hồi nhỏ tôi có ở, nhưng ở mãi trong xóm sâu kia. Xung quanh là người Thượng. Ở đây đặc biệt có những khoảng đất mọc đầy cà chua. Tha hồ hái, hái không hết. Lại có những khoảng đất mọc đầy ớt. Người Thượng họ không hái trái ớt đem về nhà mà họ nhổ luôn cả cây ớt. Lấy lá ớt làm rau ăn luôn.

                            Thật là những người sung sướng - tôi nghĩ.

                            - Vùng này có nhiều trăn. Hồi đó ông già tôi hay đặt mua trăn để lột da gửi xuống Sài Gòn. Người Thượng bắt trăn đem đến bán. Khi tập trung chừng được mươi con mới mổ một lần.

                            - Mổ lấy da rồi còn thịt làm gì?

                            - Thịt cho đồng bào Thượng. Họ đem về chặt khúc phơi khô ở trụ hàng rào. Tha hồ ruồi và ong đến bâu, đục khoét, xâu xé.

                            Cầu Tân Mỹ. Chòi canh cao bay phất phơ lá cờ. Một người lính ngồi ôm súng nhìn không gian chập chùng đồi núi. Lô cốt. Trại lính. Hai mươi năm trước đi ngang qua đây cũng đã thấy chòi canh, lô-cốt và trại lính. Người dân không có thì giờ nghỉ ngơi. Hai mươi năm đủ để đào tạo một thế hệ. Người lính đang ngồi trên chòi canh đó có thể là con của người lính tôi đã gặp hai mươi năm trước, đứng canh gác cầu này. Các thế hệ kế tiếp nhau đã chuyền cho nhau tiếng nói và cây súng. Nước chảy dưới cầu. Những đồi cát nằm im giữa lòng sông.

                            Luy chợt hỏi:

                            - Đã mấy năm nay anh không lên Đà Lạt bằng đường ô tô?

                            Tôi lẩm nhẩm làm con tính trừ.

                            - Sáu năm.

                            - Sáu năm! - Luy la to lên, ngạc nhiên như anh vụt thấy một con tê giác đi nghênh ngang giữa đường Lê Lợi.

                            Luy sẽ ngạc nhiên đến mức nào nữa nếu tôi nói đúng sự thật? Sự thật là: không phải sáu năm mà đã mười năm rồi. Mười năm là khoảng thời gian đủ để biến đổi một đời người. Từ ngày Bảo mất đi, tôi không muốn trở lại thành phố này. Những con đường, những đồi thông sẽ nhắc đến những ngày cũ. Luy nói:

                            - Sắp đến Krong Pha. Quãng đường này ít bảo đảm hơn hết.

                            Krong Pha. Giang san của củi rừng. Chỗ nào cũng có cành cây. Củi khô nằm ngổn ngang. Tự nhiên thấy thèm một mồi lửa. Những cành củi đó sẽ cháy rần rật tỏa ra một sức mạnh khủng khiếp. Những cây dầu nhỏ mọc rải rác. Lá to như tai voi. Krong Pha, ải địa đầu của ánh nắng nhiệt đới. Từng nhóm ba, bốn người phu lục lộ sửa đường ngồi tụ họp trên những thân cây ngã, trên những đống củi. Màu áo nâu mốc và màu da khô sạm, hòa hợp với màu lá, màu vỏ cây khô. Từng đoàn xe xuôi ngược vút qua và cuộc đời những người ngồi đó như đứng dừng lại một chỗ, buồn và tối. Những vùng đời không có lối chảy tựa hồ những vũng nước tù hãm.

                            Xe leo lên đèo. Những vòng cua liên tiếp. Cuộc leo đèo nhẫn nại trì chậm. Không khí bắt đầu mát ở ngoài xe, tôi giơ cánh tay ra ngoài, thò đầu ra ngoài. Cây thông đầu tiên! Những bụi dương xỉ xanh tươi đầu tiên. Mũi xe uốn lượn theo con đường quanh co. Đèo Ngoạn Mục. Thông mọc dày hơn. Rừng tranh cao. Đơn Dương. Hồ nước Đa Nhim. Thành phố không thay đổi bao nhiêu. Những khu vườn rau nhỏ lắp vào khe thung lũng hẹp. Giàn su-su xanh mát. Con đường này, những ngày đầu kháng chiến tới nay tôi hay đi. Tôi còn nhớ rõ những đoạn đường tắt xuyên qua sườn núi.

                            Trạm Hành. Hiệu buôn của người Hoa kiều vẫn một màu trắng bẩn, cũ kỹ như ngày tôi gặp nó đầu tiên. Chắc chắn cái quầy hàng vẫn nằm im chỗ cũ, vẫn những hộc đựng thuốc Bắc, những ngăn tủ bày cao đan hoàn tán, nhang và giấy tiền vàng bạc, mì bún, xà phòng, bóng đèn, guốc dép… Cảnh và vật chịu đựng với thời gian dai sức hơn người. Nhà bà Bohner! Còn đâu nữa những ngày tôi ngồi ở ban công nhìn xuống rừng núi chập chùng dưới tầm mắt mình. Nơi đây tôi đã sống những ngày buồn. Bao nhiêu năm tháng đã trôi qua. Tôi muốn tìm một cái gương để soi nhìn bóng mình. Tôi muốn nhìn lại bóng dáng mình bước những bước cô đơn trên con đường heo hút này, trên lối đi trải đầy lá ngo rụng này, trong khu vườn nhỏ mọc rải rác những bụi cà phê, những thân hoa anh đào, hoa hương mộc. Xa lạ và cách biệt biết bao giữa hai bức ảnh đó.

                            Cầu Đất. Đồi chè nối tiếp. Những bụi chè tròn trịa xanh mướt nằm khoảng cách đều đặn. Con đường lại lên xuống quanh co. Rừng thông và rừng thông. Những ngôi nhà bằng ván. Má phúng phính màu hồng rám nắng của những cô gái. Áo len choàng trên vai những người đàn bà. Con đường vui vì tấp nập. Nhà liên tiếp và người đông đảo.

                            Trại Mát. Chợ, xe ba bánh, cửa hàng tạp hóa. Nhiều người tập trung trước một hiệu buôn gạo, tay cầm thẻ gia đình. Nếp sống đặc biệt của thành phố. Thành phố đã bắt đầu. Đại lộ Trần Hưng Đạo: Biệt thự. Biệt thự. Dấu vết sáng tạo của người Pháp, khung cảnh của Auvergne, Gascogne. Người Pháp đã kịp thời xây dựng một thành phố Đà Lạt trước khi ra đi. Không một thành phố ở trung châu nào nhắc nhở đến họ mạnh mẽ cho bằng Đà Lạt.

                            Luy có việc phải đi thẳng Sài Gòn. Nhàn mừng rỡ khi tôi gõ cửa bước vào nhà.

                            - Anh mới lên hả? Sao không đánh điện cho cho em biết để em đi đón? Anh đi bằng Air Việt Nam hả?

                            Hoa cắm ở bàn xa-lông, ở bàn ăn. Màu tím của hoa lai ơn gói những nỗi buồn đậm. Nhiều rèm ở khung cửa sổ. Da mặt Nhàn trắng mát khi tôi đứng lại gần cầm bàn tay nàng đưa ra bắt. Nhàn là bạn của tôi và của Bảo.

                            - Trông anh trẻ ra so với hồi em xuống thăm anh năm ngoái.

                            Tôi cười:

                            - Nếu cảm tưởng đó không vì xã giao mà có thì là vì khí hậu của miền cao nguyên. Khí hậu cao nguyên làm cho người ta trẻ đi. Thắt ca-vát và mặc com-lê vào thì con người có hy vọng đẹp thêm vài chục phần trăm.

                            - Em không xã giao đâu. Cái lý do thứ hai có lẽ đúng.

                            Năm ngoái, Nhàn xuống miền nhiệt đới thăm tôi. Mồ hôi và ánh nắng làm mệt nhoài con người, làm tóc râu bơ phờ, làm tia mắt lơ đãng. Tôi hỏi:

                            - Hữu đâu?

                            - Ở với vợ hai. Em cho Hữu tự do ở với vợ hai.

                            - Mấy đứa nhỏ?

                            - Cho ở nội trú hết. Em ở một mình. Thong thả như một con chim.

                            Không phải là một con chim có hạnh phúc, tôi nghĩ vậy. Gia đình này tan rã chỉ vì giàu, giàu gấp ráp, vội vã, bất ngờ. Đang buôn thua bán lỗ, tôn sắt chất đống nghẹt kho thì chợt vật giá lại cao vọt lên, hàng họ khan hiếm. Tha hồ kiếm tiền. Tiếp theo sau, tiền đẻ ra tiền và cặp vợ chồng này trở thành mười lần triệu phú. Hữu chạy theo đàn bà, bao gái nhảy, chiếm đoạt vợ người khác. Khi thành công được trong địa hạt tài chánh, người đàn ông thường tăng thêm tự tin để xông xáo vào các địa hạt khác. Có người thì nhảy ra làm báo. Có người thì chợt thấy mình có nhiều kiến thức chính trị nên nhất định ứng cử vào Hội đồng Tỉnh, vào Quốc hội. Những tấm danh thiếp được lật đật in lại, ghi thêm chức vụ mới. Địa hạt ái tình thì dành chung cho mọi người. Đồng tiền làm cho họ đẹp đẽ và hoạt bát. Đàn bà cũng vậy. Nhàn có mặt trong những buổi tiếp tân, những party và Nhàn có nhiều nhân tình. Họ bình đẳng với nhau trong việc hưởng thụ và đồng ý xé nát gia đình ra làm hai mảnh.

                            Nhàn nhường phòng cho tôi ngủ đêm hôm đó.

                            - Để em ngủ bên phòng kia. Cho anh ngủ trong một phòng đàn bà để lấy hên. Có lẽ anh sẽ mau lấy vợ, nhờ đó.

                            Quả thật tôi đã khó ngủ trong một căn phòng đàn bà, có cái gì dịu ngọt, mê ảo làm xao xuyến tâm hồn tôi. Hàng dãy áo dài treo trên mắt. Thắt lưng, áo eo lại làm tôi nghĩ đến một vòng tay đang siết chặt. Những bộ pyjama màu hồng, màu vàng cổ viền đăng ten hay thêu những cành hoa, đóa hoa trên ngực. Bàn phấn thấp và mặt gương sáng dọi lại hình tôi. Chi chít những lọ nước hoa trên bàn. Tôi mở lọ nước hoa oeillet. Mùi thơm quen thuộc. Ngày trước, trên lối đi trước sân nhà tôi thích nhất là những cành oeillet màu hồng. Oeillet có nhiều màu: trắng, vàng, tím, hồng. Đẹp nhất là hoa màu tím chen từng nét trắng, ở miền trung châu trồng được và được gọi tên là hoa cẩm nhung hay cẩm chướng. Nhưng chỉ có hoa màu hồng là thơm. Một lọ nước hoa nhỏ xíu đã bong mất nhãn hiệu. Mùi thơm cay. Tôi nhớ đến mùi hoa linh lan. Lọ phấn. Thỏi son. Lược và bàn chải tóc. Giày mule màu trắng. Xắc tay.

                            Màn hoa kéo ở khắp cửa sổ. Mùi phấn thơm nơi gối. Đèn giường tỏa ánh sáng ấm. Tôi lắng tai nghe tiếng động xung quanh, ngoài đường. Chỉ có sự im lặng. Những vật gần gũi với tôi: áo, chăn, rèm cửa, lọ nước hoa thì rộn ràng cất tiếng, thứ tiếng nói lặng lẽ, tiếng khơi động, tiếng thúc giục, tiếng an ủi. Tôi lăn qua trở lại trên giường. Tôi nằm úp mặt xuống gối. Những dáng người, những khuôn mặt lẫn lộn quay cuồng trong óc khiến tôi không thể nhắm mắt. Tôi đứng dậy ra đập cửa phòng Nhàn:

                            - Em cho anh ngủ một phòng trần trụi đơn sơ hơn. Anh quen như vậy rồi.

                            Nhàn khoát tay:

                            - Không được. Không được. Thói quen đó đã hại anh. Phải tập cho quen trở lại không khí đàn bà. Anh về phòng đi. Bonne nuit.

                            Nhàn mỉm cười vừa khép cửa. Trong bộ áo ngủ màu vàng, nàng đầy đặn như một đóa hoa thược dược.

                            Sáng hôm sau khi ngồi điểm tâm, tôi hỏi:

                            - Em đề nghị anh đi thăm ai trước?

                            - Quý và Tân.

                            - Tân đổi đi Pleiku rồi mà?

                            - Vừa được cho về Đà Lạt.

                            Tôi đến thì Quý và Tân đi lễ chưa về. Huyền chạy ra mừng:

                            - A! Cậu mới lên. Tháng trước cháu viết thư cho cậu, cậu có nhận được không?

                            - Được.

                            - Sao cậu không trả lời cháu?

                            - Quên mất. Vả lại, cậu định lên Đà Lạt thì viết thư trả lời làm gì cho dư việc?

                            Huyền không kịp đợi tôi hỏi thăm kết quả học hành, đã vội xoắn hỏi tôi về những điều nó thắc mắc trong thư.

                            - Cậu nghĩ xem cháu có nên yêu thằng Ninh như nó đợi chờ không?

                            - Cứ để mặc cho nó đợi chờ, cậu nghĩ vậy.

                            - Nhưng cháu sợ nó không đợi chờ lâu được. Lũ con trai thường không nhẫn nại.

                            - Nếu nó không nhẫn nại được thì càng là một cớ để mình đừng yêu.

                            Câu trả lời xem chừng không làm cho Huyền bằng lòng. Tôi chậm rãi bật diêm đốt thuốc vừa liếc nhìn nó loay hoay ngồi không yên trong chiếc xa-lông rộng.

                            - Huyền chỉ có một mình thằng Ninh?

                            - Không. Cháu có khối thằng. Thằng Đức sinh viên văn khoa. Thằng Tri sinh viên kinh tế. Thằng Duyệt sinh viên trường võ bị. Ba thằng chia nhau những ngày nghỉ lễ của cháu.

                            - Sao lắm thế.

                            - Cháu cũng không biết nữa. Tại tụi nó đó. Cháu không ưa hẳn thằng nào nên cháu phải đi chơi cả ba đứa. Lắm lúc thấy cũng mỏi.

                            - Đã thế lại còn tuyển thêm một thằng thứ tư?

                            - Để thỏa mãn tính kiêu ngạo. Thằng Ninh bảnh trai và nhà giàu. Bố nó có lần làm Tổng trưởng dưới thời ông Nguyễn văn Xuân hay ông Trần văn Hữu gì đó.

                            Nó có nhiếu bồ đẹp và quý phái lắm ở bên Grand Lycée. Đi chơi với nó cũng là một lối trang sức.

                            Câu chuyện không làm tôi thoải mái. Huyền mới học seconde. (1 ) Tôi nghĩ rằng thành phố này phải trí thức hơn cái lối làm tình ái ồn ào đẫm mồ hôi của những đô thị lớn, của những tỉnh miền nóng. Ở những nơi đó người t a mặc áo hở cánh tay, hở, cổ; da lưng, da bụng hiện qua lớp vải mỏng trong suốt và thịt nổi cuồn cuộn làm bật tung những chiếc khuy áo. Ở những thành phố xô bồ đó, không khí sặc mùi da thịt. Người ta sống gần nhau quá, sát vách sát rào, chung chia từng mảnh sân hẹp từng khối không khí đứng theo chiều cao. Đà Lạt không khêu gợi dục vọng. Áo che kín đáo. Da tươi mát không đẫm mồ hôi. Không hiểu bị ám ảnh nào mà tôi có thành kiến rằng mồ hôi hay khơi dậy dục vọng. Tôi xoay mình gián tiếp tỏ một sự mệt mỏi và bảo Huyền:

                            - Còn quá sớm để nói chuyện đó với Huyền. Huyền mới mười sáu tuổi. Phải mọc thêm năm phân chiều cao nữa.

                            - Cậu lạc hậu cũng như ba cháu. Thời bây giờ không thể sống theo quan niệm của ông Khổng tử. Ông Khổng tử có lý vào thời của ông ta. Nửa thế kỷ trước, Maurice Dekobra đã mặc áo pull over cho ông Khổng tử rồi. Nửa thế kỷ! Bao nhiêu là cách biệt. Nhưng được, thôi để nói chuyện về cậu. Má cháu có để dành cho cậu một cô đẹp lắm.

                            - Tên?

                            - Phương Lan.

                            - Nghề?

                            - Tốt nghiệp Quốc gia Hành chánh. Hiện làm ở tòa Đô sảnh.

                            - Tuổi?

                            - Ba mươi hai. Đẹp. Hiền lành.

                            - Cám ơn má cháu, nhưng cậu không tin tưởng lắm. Đây không phải là người đầu tiên mà má cháu để dành cho cậu. Vả lại, tháng Năm không phải là tháng hạp để nói chuyện hôn nhân. Có lẽ chúng ta đi một vòng quanh hồ thì dễ chịu hơn.

                            (1) lớp đệ nhị

                            Hồ hắt từng hơi gió lạnh. Dãy cây bách không lớn hơn bao nhiêu. Lá nhọn hay trái nhọn, cành non bọc vảy chi chít như thế nào, tôi cũng vẫn không lưu ý nhìn kỹ. Tôi chỉ nghĩ rằng chúng đã đứng ở đó ngày xưa và bây giờ chúng vẫn còn đứng đó, xoa dịu một nỗi bồi hồi nào trong hồn tôi và sự hiện diện của chúng làm tôi yên tâm. Những người đã cùng tôi thường đi trên đường này và những người tôi hay nghĩ đến khi đi thơ thẩn trên đường này bây giờ còn ai? Bảo từ trần đã mười năm. Chị Mai theo người yêu tập kết ra Bắc. Phương lấy chồng hiện làm quận trưởng quận… quận gì? Đức Trọng? Khánh Dương?… Những tên quận nhiều quá, lẫn lộn. Thérèse làm cô giáo ở một tu viện. Thời gian bôi những nét xám trên khuôn mặt của họ.

                            Tôi bảo Huyền:

                            - Đây là cầu ông Đạo. Đố Huyền biết vì sao gọi là cầu ông Đạo không?

                            Huyền lắc đầu.

                            - Vì ngày xưa chỗ góc kia là Tòa Quản đạo. Bây giờ Tòa Quản đạo bị phá đi để chỗ làm con đường vào chợ, để chỗ xây những dãy nhà dù đó. Nơi chợ mới, trước kia là vườn rau của đồn lính khố xanh.

                            - Cậu thuộc kỹ lịch sử của thành phố này quá.

                            - Đâu có được như vậy? Đó mới chỉ là một giai đoạn. Thành phố này chỉ già bằng một đời người. May ra còn lại một vài cụ già đã từng lên đây khai phá theo chân ông Yersin.

                            Chợ bày bán nhiều hoa. Trên tầng lầu tấp nập theo kiểu chợ Bến Thành. Những người đi lượn trong đó xa cách với tôi quá. Họ ồn ào, vui vẻ, hoạt động. Họ đang làm chủ cái thành phố này. Và tôi có cảm tưởng lạc lõng giữa họ. Một người đàn bà giẫm lên chân tôi và xuýt xoa xin lỗi. Tôi chỉ mỉm cười vừa phải, thiếu hẳn nhiệt tình mà tôi có thể trao cho một người đàn bà đẹp và lịch sự như thế trong một trường hợp tương tự. Cái cảm tưởng lạc lõng đó không rời tôi khi tôi đi theo những con đường quanh chợ. Các con đường đều đã thay tên. Không còn nữa, những tên đường Thống chế Foch, đường Lacaze, đường Annam, đường Cầu Quẹo. Vài hiệu buôn còn sót lại từ ngày xưa: Vĩnh Chấn, Chic Changhai, Phúc Thái Lai…, nhưng sự rộn rịp và người đứng bán hàng đều đã thay đổi.

                            Huyền cười chào những thanh niên đi ngược chiều. Họ mặc quần chật, tóc lòa xòa và đeo gương lớn. Aùo len thùng thình. Huyền giới thiệu sau khi họ đi qua. “Thằng Hợp sinh viên Văn khoa… Thằng Lý sinh viên Sciences Po… (2 )

                            Đà Lạt có một món trang sức mới: trường Đại học. Chữ “sinh viên” làm đẹp câu đối thoại. Mọi người đều có phương tiện để vươn lên. Ai cũng có, hoặc một người con “sinh viên”, hoặc một người quen “sinh viên”, một người khách hàng “sinh viên”. Bắp sú, xà-lách-xoong, cà-rốt, hoa mõm sói không làm cho người ta hãnh diện.

                            Đêm Đà Lạt mời mọc nghỉ ngơi. Đóng kín cửa lại, cắt đứt mọi giao thiệp với cảnh vật bên ngoài. Tôi mở cửa ra ban-công. Sương xuống ướt sũng sàn xi măng. Sương từng giọt từ mái bếp tôn lộp độp rơi xuống mặt đất. Giọt nước mắt của Đêm. Những người buồn chắc sẽ đỡ cô đơn khi đêm tối cùng chung chia giọt nước mắt với họ.

                            Mười giờ tối đêm trước, khi ngồi uống cà phê ở hiệu Cà phê Tùng, Nhàn hỏi:

                            - Anh không có ý định trở về sống ở Đà Lạt?

                            Tôi gạt tàn thuốc để có thì giờ suy nghĩ.

                            - Ở chỗ nào rồi cũng như nhau, tôi trả lời. Cũng bất tiện như nhau. Anh đã chán ngấy cái thành phố của anh nhưng không vì thế mà dễ lên ở đây được. Những chán ngấy như những lớp bụi. Chúng nó chụp lên ta mỗi ngày một ít, cho đến một ngày nào đó ta sẽ đồng hóa với bụi.

                            Nhàn cười:

                            - Bọn em ở đây thì đồng hóa với sương mù, sương mù làm lạnh con người.

                            - Đó không phải là trường hợp của em. Trong em có một lò lửa dữ dội. Coi chừng những đám cháy.

                            Nhàn đập vào vai tôi và tôi gọi bồi tính tiền. Đi trong đêm lạnh thấy vừa vui vừa buồn. Thành phố như một bức tranh treo trước mắt. Nhà ở từ lũng sâu leo từng bực từng bực lần lên tới đồi cao. Ánh đèn dăng theo, chi chít. Đêm không nghe tiếng súng. Ở dưới miền xuôi khó có thành phố nào mà đêm không nghe đại bác nổ ì ầm và súng máy lạch tạch hàng tràng dài. Con đường uốn cong theo chân đồi. Cây, lá, cỏ. Tôi vụt cười vì một ý nghĩ vừa trở lại trong óc. Nhàn hỏi:

                            - Anh cười gì?

                            - Vì một chuyện nhảm nhí thô tục không tiện nói ra.

                            - Anh cứ làm bộ mãi.

                            - Ừ thì nói. Hồi chiều đi trên đường Hùng Vương anh chợt có ý nghĩ: ở Đà Lạt đi đường nào cũng có thể tiểu bậy được. Sẵn sàng có bụi cây và lá cỏ đồng lõa với mình.

                            Nhàn “xì”:

                            - Đàn ông các anh… Nhảm nhí hết sức.

                            - Đúng. Vừa cao siêu vừa nhảm nhí. Nhưng phải lang thang trên những con đường của các thành phố miền xuôi: Sài Gòn, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng… mới thấy những bụi cây lá cỏ, những khúc quanh liên tiếp của con đường Đà Lạt là quí.
                            Những ngày tiếp theo, tôi lùng tìm các bạn cũ còn sót lại. Chị Ngưỡng tiếp tôi trong một căn phòng ngổn ngang đồ đạc. Câu chuyện không rứt ra khỏi giai đoạn vợ chồng chị bị Pháp lùa bắt ở Karom. Bây giờ chị đã có bốn đứa con lớn, đứa đầu thi Math Elem. Do lời mách của chị, tôi đến tìm thăm anh Năm Hiển. Một cái biệt thự bằng gỗ xám có nhiều cánh cửa sổ mục nát. Cỏ dại mọc rối ngoài sân. Một tấm bảng ghi chữ “coi chừng chó dữ” và hình vẽ một con chó đang nhe răng thè lưỡi. Vài đứa nhỏ đang cãi nhau dưới hiên. Nghe tôi hỏi, một đứa chỉ xuống bờ hồ: “Ổng ngồi câu cá dưới đó”.

                            Năm Hiển gặp tôi không mừng rỡ. Mặt dài và móp lại. Trông mắt lờ đờ như làm bằng thủy tinh. Tình cảm nơi anh chết rồi chăng? Anh không còn mang một chút di tích quá khứ nào cả. Không còn anh Năm Hiển nghệ sĩ của những ngày xưa, cầm đầu ban nhạc và ăn chơi hết mình. Trước mắt tôi là một khuôn mặt mệt mỏi, một thân người chống chọi đã đuối sức. Tôi lỏng lẻo bắt tay anh, hẹn sẽ trở lại nhưng tôi biết chắc là tôi đang nói dối. Tôi không đủ can đảm gặp lại anh.

                            Tôi buồn bã đi ngược lên con đường Rue de France. Có vài ngôi nhà mới cất. Có vài đoàn người đi trên đường này. Ngôi nhà ngày xưa tôi ở bây giờ cho Mỹ kiều thuê. Hàng cây mimosa lớn trội che khuất mái bếp. Không ai thèm hiểu cái gì đang đè nặng trên hồn tôi. Mười năm dĩ vãng có trọng lượng của nó. Tôi đang đi trong sự thờ ơ vô tình của cảnh vật và của người xung quanh. Chỉ còn có Nhàn. Nhàn bảo tôi:

                            - Anh còn nhớ thằng Sách không? Trong đoàn chạy giặc của tụi mình, nó bé nhất bọn đấy.

                            - À, nhớ rồi. Hồi chạy xuống Gò Đền nó cũng phải giã gạo thuê. Tội nghiệp, nó nhỏ người, nặng đâu lối ba bốn mươi ký lô, leo đứng trên cần cối, cần cối chẳng thèm nhúc nhích.

                            Nhàn cười ngon lành.

                            - Bây giờ nó biến đổi ra thế nào?

                            - Vẫn cứ bé oắt như xưa. Có vợ rồi. Hai con. Làm dưới sở Địa dư.

                            - Anh Duy?

                            - Anh Duy thì ngon lành. Làm đến đại tá. Nhưng lại bị liên lụy vào một vụ đảo chính hụt, bị xử tử vắng mặt hay khổ sai chung thân gì đó, em không nhớ rõ. Nhà cửa bị tịch biên.

                            - Chưa đến nỗi nào. Làm chính trị thì cốt giữ sao cho khỏi bị cắt mất cái đầu. Còn tù tội thì cứ tha hồ.

                            - Thằng Đinh tội nghiệp hơn. Nó mới chết ở mặt trận An Lão. Lấy vợ trễ, sáu đứa con còn nhỏ.

                            Chỉ những người chết là bị thiệt thòi hơn hết. Hay ngược lại, là được thong thả hơn hết. Hôm mới lên, người mà tôi lẳng lặng đến thăm đầu tiên là ông Tự. Tôi tìm đến dãy nhà gỗ tối tăm. Ông Tự làm cai Lục lộ chuyên sửa ống nước. Tôi hỏi một em nhỏ đứng chơi gần đó:

                            - Gia đình ông Tự có còn ở đây không em? Em có biết ông Tự không?

                            - Dạ có biết. Nhưng gia đình ông đã dọn đi lâu rồi.

                            - Em biết hiện giờ ông ở đâu không?

                            - Dạ. Dọn về Phi Dàng. Ông Tự chết ba năm nay rồi. Vợ con ông dọn về ở Phi Dàng.

                            Tôi cám ơn em nhỏ và lủi thủi ra về. Bao nhiêu hăng hái rụng xuống khi cuộc đi thăm đầu tiên không có kết quả. Sau chừng mười năm xa cách, câu hỏi thăm có thể được trả lờigọn lỏn bằng chữ “chết”. Tôi đem nỗi buồn đó ra nói với Nhàn. Nhàn bảo:

                            - Ông Tự bị điên phải đem đi Biên Hòa. Tại uống rượu nhiều quá. Bà Tự lại ngoại tình, có con với người khác.

                            - Sau khi ông chết?

                            - Không. Ngay lúc ông còn sống.

                            Tôi nhớ lại khuôn mặt của người đàn bà ấy. Ngoại tình hay chính chuyên, khuôn mặt ấy không mang dấu hiệu rõ rệt. Tôi nhớ bà mê đánh bài tứ sắc, ngày nào cũng có một sòng bài thường trực trong nhà. Có thể con đường ngoại tình xuất phát từ sòng bài. Nhưng cũng không bảo đảm lắm.

                            Những buổi chiều ở Đà Lạt thật buồn. Mùi nhựa ngo cháy thơm trong bếp pha với hơi sương lạnh nhắc tôi nhớ đến những ngày hồi cư, những ngày chạy giặc phiêu lưu ở Cầu Đất. Trạm Hành. Mùi nhựa ngo dính liền với buổi chiều, với sương mờ đục, với hơi lạnh ẩm ướt.

                            Hôm giã từ Đà Lạt, Nhàn ra tận bến xe tiễn. Sương ướt ngọn cỏ.

                            - Anh về gấp quá. Đáng lẽ phải ở chơi cả tháng. Chả mấy khi lên.

                            - Anh sẽ lên, nghỉ Hè sau.

                            - Nghỉ Hè! Một năm nữa.

                            Tôi giật mình. Một năm nữa! Sao tôi có đủ can đảm đợi chờ một năm nữa? Làm như cuộc đời người dài hàng sáu trăm, bảy trăm lần khoảng thời gian đó. Tôi sẽ làmgì trong khoảng thời gian đợi chờ? Sống thật? Sống bơ phờ qua ngày? Tôi nhìn ánh mắt sáng của Nhàn và tự nhiên thấy thêm nghị lực.

                            - Anh sẽ lên, sớm hơn. Vào dịp lễ Quốc khánh, vào dịp Nô en hay vào dịp Tết.

                            Khi tôi ngồi yên trên nệm xe đưa mắt nhìn ra thì thấy Nhàn lau nước mắt.

                            Xe rồ máy, chạy chầm chậm. Nhàn đứng yên đó. Chúng tôi không còn ở tuổi vẫy tay. Dãy cây bách. Bờ hồ. Tôi quay lại nhìn, tôi quay ra xa. Bóng Nhàn nhỏ dần. Loang loáng cảnh vật chạy lui. Biệt thự. Biệt thự. Những bồn hoa. Khi xe vượt quá đầu dốc, khi Đà Lạt khuất khỏi tầm mắt nhìn, tôi ngồi yên như một người cam chịu số phận.

                            Tiếng máy nổ dòn. Nệm xe nhún nhịp nhàng qua những chỗ lồi lõm. Bóng tôi hiện ra trên mặt kính cửa. Áo nỉ màu tối. Nét mặt đăm chiêu. Nghỉ Hè năm sau! Tôi chợt nhớ đến một hình ảnh quen thuộc, một hình ảnh trong cuốn phim Amour d’espionne mà tôi đã xem, cách đây lâu lắm. Chuyện xảy ra trên một toa xe lửa chạy về miền biên giới Pháp - Đức. Một cô nữ sinh được cha đón về quê để nghỉ lễ Pâques (2). Cùng ngồi trong toa, nàng để ý một người đàn ông đứng tuổi nét mặt nghiêm trang ngồi đăm đăm nhìn ra cảnh vật bên ngoài cửa sổ. Tay ông ôm bó hoa huệ trắng bọc trong giấy bóng. Năm nào cũng vậy, cứ đến ngày này, cô lại thấy người đàn ông đó ngồi chung toa xe với mình, ngồi đúng vào chỗ cũ, cũng ôm bó hoa đó, cũng nét mặt nghiêm nghị buồn đó, cũng cái mũ dạ, cũng bộ quần áo nỉ màu tối. Cô gái tò mò hỏi cha ý nghĩa có một sự xuất hiện lặp lại đúng kỳ như vậy. Người cha thì thầm kể chuyện cho con nghe và những hình ảnh quá khứ hiện lên màn ảnh lần lượt theo câu chuyện kể.

                            Người đàn ông đó, trước đây là một sĩ quan do thám người Anh. Ông sang hoạt động tại Đức, cố đánh cắp một bản đồ tham mưu của Hoàng đế Uy-liêm. Một nữ phản gián Đức được chỉ định theo dõi ông ta. Họ lừa nhau, họ dò xét nhau, họ quyết tâm đánh bại nhau. Nhưng đồng thời, bằng những bước nhỏ âm thầm, tình yêu đã đến với họ. Trong những giây phút quyết liệt cuối cùng, người đàn bà phải chọn lựa. Hoặc phải thanh toán người mình yêu, hoặc chịu chết để giúp cho chàng thoát. Nàng đã chọn giải pháp thứ hai.

                            Chiến tranh kết liễu. Hận thù xóa đi. Người đàn ông còn sống sót, hàng năm cứ đến ngày lễ Pâques đáp tàu từ Anh quốc vượt qua bể Manche, lên tàu lửa đi về biên giới đến viếng mộ nàng, một bó huệ trắng trên tay. Bao nhiêu xúc cảm bồi hồi, bao nhiêu êm đềm xót xa đã ghi trên nét mặt u buồn đó khiến cô nữ sinh phải lưu ý.

                            Tôi lên Đà Lạt không mang theo một bó huệ trắng nhưng trong tiếng động cơ êm êm một điệu, qua những cái lắc lư nhịp nhàng trên nệm xe, tôi có cảm tưởng tôi chính là người đàn ông trầm lặng kia hàng năm trở về khung cảnh cũ để âm thầm nhớ lại những kỷ niệm đã cùng sống với một người.

                            (2) Khoa chính trị học
                            (3) Lễ Phục Sinh

                            #29
                              hai1957 04.12.2012 17:06:55 (permalink)
                              NHỮNG GIỌT ĐẮNG

                              NXB Lá bối (1969)


                              1. Như con chim Sơn Ca
                              2. Ðời đáng chán
                              3. Hoa khế lưng đồi
                              4. Gà và Ba tôi
                              5. Bên đập đồng cháy
                              6. Chống biểu tình




                              1. NHƯ CON CHIM SƠN CA



                              Từ khi chị Trúc rời bỏ gia đình chúng tôi để đi ở cho nhà khác, tôi biết là chúng tôi sắp phải trải qua nhiều nỗi khó khăn. Nhưng không có cách nào giữ chị lại được. Tôi chỉ có thể trả lương cho chị hai nghìn đồng mỗi tháng trong khi cô vợ Mỹ trả đến bốn nghìn. Chị ở giúp tôi thấm thoát đã được sáu năm. Ngày ra đi, chị khóc ấm ức như cảnh con gái phải bỏ nhà cha mẹ đi lấy chồng. Nhưng tình cha mẹ không nặng bằng tình chồng, cũng như túi bạc Việt Nam không nặng bằng đô-la vợ Mỹ.

                              Tôi vốn dở trong việc trả giá mua bán bởi có ấn tượng rằng trả giá là một cách tỏ lòng nghi ngờ thành tâm của người bán, một cách miệt thị họ nên ngày chị Trúc đến với tôi, tôi nhớ người giới thiệu đứng trung gian định giá công cho chị. Sau đó, tôi bảo chị:

                              - Thời giá lên xuống không ngừng, ngày nào tiền công người làm có cao lên thì chị nói cho tôi tăng lên. Tôi không muốn trả hẹp cho chị vì nếu tôi làm vậy, chị sẽ tìm nơi khác trả giá cao hơn. Ngược lại, nếu chị lấy công quá đắt thì khi có ai mách người làm công rẻ tôi sẽ muốn tìm tới họ. Gắng giữ công bằng thì tình nghĩa mới bền lâu được.

                              Chị cảm thông chân tình của tôi nên trong suốt sáu năm, chị xin tôi tăng lương bốn lần. Những bước tăng có khi dịu dàng, có khi cũng khá dốc. Lỗi không do ở chị mà do ở vật giá không biết nhờ sáng kiến của ai mà cứ tha hồ lên cao vùn vụt. Nhưng đến lần chót này thì chị biết là tôi đã đuối hơi rồi nên chị không nỡ xin tăng lương mà chỉ lấy cớ là xin về quê. Tôi nài nĩ chị nói sự thật, rằng chị cần tôi tăng lương thêm bao nhiêu, rằng tôi cố gắng trả cho bằng người nào muốn mượn chị…, chị bật khóc không giữ được rồi bệu bạo nói:

                              - Thưa thầy, người ta mượn con tới bốn ngàn đồng một tháng.

                              Đáng lẽ tôi xấu hổ vì lời nói khoa trương của mình “tôi trả cho bằng người nào muốn mượn chị”. Nhưng thời thế nầy đã gặm mòn gần hết tự ái của mọi người lương thiện. Vợ người công chức nhường cam tươi và trứng gà cho những cô mặc jeans mới năm ngoái năm kia còn ở bế con cho mình, lau nhà và sai vặt. Thò tay xuống trả mua món gì cũng bị gạt ra hết. Bấm bụng trả một trăm thì ở đằng sau lưng đã có người trả vọt lên trăm rưỡi. Chẳng lẽ cãi nhau, chửi nhau?

                              Chị Trúc đi được nửa tháng thì nhờ bà con lối xóm mách bảo, tôi thuê được cô Thu Hồng. Lương tháng có một nghìn rưỡi. Thu Hồng chừng mười chín tuổi nhưng cao lớn đẫy đà, mặt mập và mắt nhỏ. Tướng này chắc không siêng năng. Tôi chả biết công việc gì để cắt đặt cho Thu Hồng hết. Ngày còn chị Trúc, tôi cứ giao tiền cho chị rồi tùy ý chị mua sắm nấu nướng. Không có lệ kê khai giá mua từng món, tính toán tiền chợ vì tôi biết đó là một chuyện thừa. Tôi và mấy đứa con chẳng bao giờ biết đến giá cả ngoài chợ nên có bắt tính cũng vô ích. Khúc cá hôm qua tính tám chục bữa nay nói lên chín mươi lăm đồng thì cũng được: cứ lấy cớ là biển động. Thôi thì mình trông cậy hoàn toàn vào tình nghĩa của người đàn bà giúp đỡ mình đó. Tôi rập theo phương pháp đã áp dụng đối với chị Trúc mà bảo Thu Hồng:

                              - Em cầm tiền đi chợ. Mua thịt, cá, trứng, rau gì đó…, xào, nấu canh, kho… Khi dọn cơm, em ước lượng chia làm năm phần, tôi và ba đứa nhỏ là bốn người, và em nữa là năm. Em chia làm năm phần, em giữ lấy một phần cho em, còn bao nhiêu kia em đem dọn lên. Phần ai nấy ăn, tôi không có thì giờ mời mọc xã giao.

                              Mấy cô bạn đến chơi hay tỏ ý thắc mắc là Thu Hồng trùng tên với tôi, như vậy mỗi lần có tiếng gọi “Hồng ơi” thì ai biết kêu ai mà “Dạ”?

                              - Chắc sẽ có trường hợp “Dạ” lầm.

                              Tôi trả lời:

                              - Nhưng những sự bất tiện ở trên đời nầy thì nhiều quá, mình tránh sao cho hết?

                              - Có thể đổi tên nó đi. Gọi nó là con Hường chẳng hạn. “Thu Hường” cũng đẹp chán.

                              - Nhưng như vậy là phạm đến nhân vị của người ta. Vả lại tôi đi dạy học nên rất quen với sự trùng tên. Tôi phải kêu những tên “Hồng” lên bảng và phạt thẳng tay những tên “Hồng” lười biếng. Có những lớp nữ sinh chứa đến bảy, tám cô Hồng: Tuyết Hồng, Lệ Hồng, Hoa Hồng, Thúy Hồng, Huỳnh Thị Hồng, Phạm Thị Hồng và cả Võ Thị Hồng nữa.

                              Thu Hồng không biết nấu nướng. Nhiều bữa chúng tôi bỏ ăn. Áo quần không muốn giặt và giặt không sạch. Điều này cũng là một nỗi phiền vì hồi còn chị Trúc, chị cứ tự ý qui định chu kỳ giặt giũ: mấy tuần thì giặt màn, mấy ngày thì giặt khăn giường, áo sơ-mi mùa hè đổ đồng mấy ngày thì giặt, mùa đông mấy ngày, áo gối, áo ngủ, rèm cửa… chị đều tự ý lo lắng, sắp đặt. Đến triều đại Thu Hồng thì lù bù. Thân ai nấy lo. Không kể rèm cửa, chăn màn là những món hàng coi như xa xỉ - theo quan niệm của Thu Hồng, - cả đến quần áo mặc thường ngày mà mỗi lần gọi Thu Hồng lên lấy giặt, tôi cũng cảm thấy như tôi có lỗi. Tôi có cảm tưởng mình chuyên môn quấy rầy người ta nên có nhiều lúc tôi tự tay ngâm bột giặt rồi hôm sau xả nước luôn. Thu Hồng không bao giờ biết giành lấy làm giúp, cứ ngồi bình yên nơi giường để cắt móng tay hoặc ngồi đàng hoàng nơi bờ giếng cạnh tôi và lấy xà bông kỳ cọ đôi bàn chân. Tôi đành phải tự tìm một thú vui cho công việc giặt giũ: mỗi lần giặt xong, đôi bàn tay mình sạch bong dễ chịu vô cùng và tha hồ vốc nước xả vào mặt.

                              Thu Hồng rửa chân một ngày năm bảy lần. Cứ ngồi kỳ cọ chân ngoài giếng hằng giờ, kỳ cọ dép cao su, chân và dép lúc nào cũng sạch bong. Áo quần thay đổi mỗi ngày một bộ. Có buổi sáng đi chợ hai lần và mỗi lần một sắc áo. Tôi tự nói: chắc là mê anh bán quảng cáo dầu khuynh diệp bác sĩ Tín hay thuốc điều kinh bạch đái hiệu Ông Tiên rồi. Nếu không thì cũng bị mê hoặc bởi anh thầy bói “Đợt sống mới” thắt ca-vát đen, kính trắng ngồi la lết trên chiếc chiếu nơi hông chợ và sau một bộ bài để lật ngửa. Thỉnh thoảng tôi còn thấy những thanh niên chừng mười tám tuổi, mặt gầy quần xanh bó chặt mông và đùi, sơ-mi dài tay cũng màu xanh, tóc để dài xuống cổ, đi đi lại lại không có mục đích. Bao nhiêu là đối tượng để Thu Hồng đi chợ một buổi hai lần và cứ mươi lăm phút là quay lại ngắm nghía gót chân của mình sạch như lau trên một lần dép cũng sạch như lau.

                              Thu Hồng nuôi chúng tôi được ba tháng thì người nào người nấy gầy rạc đi. Tôi không dám có ý kiến gì để quở trách. Người giúp việc bây giờ khó tìm. Vả lại con tôi nó mét:

                              - Chị Thu Hồng nói chị ở chơi vài tháng rồi chị đi lấy chồng. Có một ông giáo viên thương chị lắm. Chắc chị chỉ giúp Ba được vài tháng.

                              Tôi nghĩ thầm: sắp lấy ông giáo viên rồi mà! Chắc là người cùng quê chạy tản cư ra tỉnh với cô ta. Phải là người cùng quê thì tình nghĩa mới mặn mà như vậy, chớ khách quan mà xét thì tướng mạo của Thu Hồng không xứng đáng với bất cứ một ông giáo viên nào, dù là giáo viên hạng kém. Thôi, thế là vài bữa nữa học trò gặp cô sẽ cất nón cúi gập người xuống mà chào “Thưa cô”. Cô sẽ mua vải ni-lông hoa để may rèm treo cửa như mọi cô gái vừa mới lấy chồng. Cô sẽ mua sắm tíu tít, tính toán việc sắp đặt trong nhà sao cho gọn ghẽ mỹ quan. Không có người nào vô dụng hết, bất tài hết, tôi thành thật nghĩ vậy và tôi mừng thầm cho Thu Hồng có hoàn cảnh để vươn lên như vậy. Thỉnh thoảng tôi hỏi:

                              - Chừng nào ông giáo viên đi cưới Thu Hồng?

                              Thu Hồng cười:

                              - Dạ, cũng sắp sửa.

                              Tôi lại phải lo liệu trước nhờ bà con tìm một người khác để thay thế. Lần nầy là một cô gái mảnh khảnh. Khuôn mặt gầy, khá thông minh. Đứa con nhỏ của tôi chạy lên mừng rỡ nói:

                              - Tên chị là chị Lan, ba à.

                              Tôi không hiểu tên Lan thì có gì để làm cho con tôi mừng rỡ. Lan và Thu Hồng nói chuyện gì đó lí nhí sau bếp. Khi tôi ăn trưa xong, ngồi một mình uống nước ở xa-lông thì Thu Hồng dẫn Lan lên giới thiệu:

                              - Dạ, thưa thầy.

                              Tôi quay lại:

                              - À, em mới tới để thay Thu Hồng đó phải không? Em ở đâu đến?

                              - Dạ ở Tuy Hòa vô.

                              - Quê em ở Tuy Hòa?

                              - Dạ không. Con ở tuốt ngoài Phú Vang. Ngoài xã Xuân Sơn đó. Con chạy tản cư vô Tuy Hòa.

                              - Em vô đây có một mình?

                              - Dạ. Có một mình. Cha mẹ con còn ở ngoài Tuy Hòa.

                              Tôi không biết nói gì hơn, đành hỏi một câu nhảm:

                              - Nghe nói em tên là Lan phải không?

                              Thu Hồng trả lời:

                              - Dạ phải. Nó tên là Lan. Nguyễn Thị Lan.

                              Nhưng Lan cướp lời ngay:

                              - Dạ không phải Nguyễn Thị Lan. Con tên là Ái Lan.

                              Tôi không giữ nổi một cái mỉm cười. Không biết Thu Hồng có ác ý gì không khi chỉ giới thiệu một tên Lan trơ trọi kèm với Nguyễn Thị. Và khi cải chính gấp gáp như vậy không biết Ái Lan có giận người bạn đồng nghiệp xấu bụng muốn hạ uy tín của mình không? Tôi cho hai người lui ra và ngồi nghĩ vẩn vơ về những cái tên đẹp. Quả tình là dân tộc ta đang làm một cuộc Cách mạng văn hóa sâu rộng. Cách mạng văn hóa ở học đường chẳng thấm vào đâu. Người học trò năm 1966 vẫn học bài và làm bài như năm 1946, vẫn học khoa học mà không có thí nghiệm, vẫn giải được những bài toán về Điện mà khi công-tơ nổ cầu chì thì phải đạp xe đi tìm ông thợ điện ở cuối phố. Chương trình học có đổi thay chút ít nhưng chỉ là nhích lên nhích xuống mà thôi. Chính phủ trước sắp chương đó học ở đệ Tam thì Chính phủ sau đẩy lên đệ Nhị. Các tác giả Việt Nam chỉ có bấy nhiêu ông ngoài những ông Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương có chỗ đứng chắc chắn, còn những ông khác như Chu Mạnh Trinh, Hồ Huyền Qui, bà Đoàn Thị Điểm thì bị di chuyển liên miên, năm nay ở đệ Ngũ năm sau ở đệ Tứ, năm sau nữa lên đệ Tam, rồi có năm chợt biến mất. Y như người đi thuê nhà giá rẻ cứ bị lãnh giấy tống đạt bắt dọn đồ đi tìm chỗ khác hoài. Cách mạng văn hóa trong các ngành nghệ thuật cũng rất yếu ớt. Cải lương vẫn sáu câu vọng cổ, thỉnh thoảng có pha thêm ít câu tân nhạc cho đúng tiêu chuẩn “kim cổ giao duyên” hay “cổ kim hòa điệu”. Kịch thì in ra để nằm trong giường đắp mền mà đọc. Vân vân. Cuộc cách mạng văn hóa sâu rộng mà tôi nhận thấy rành rành ra đây là sự vươn lên của các tầng lớp quần chúng giành lại cái quyền đặt những tên đẹp cho mình. Ái Lan, Thu Hồng không phải chỉ dành cho các cô nữ sinh Tú tài, cho tiểu thư các vị đường quan, cho ái nữ các ông Tham ông Đốc. Không, bây giờ thì mọi người bình dân đều có quyền sử dụng. Chiều chiều mấy cô sen đi dong chơi trên các nẻo phố vẫn gọi nhau bằng những tên rất đổi thơm tho: Thu Nga… Lệ Thủy… Những ông liên gia trưởng thường ký sổ gia đình, những ông ủy viên nhân thế bộ ở xã khỏi cần mượn Tự điển Hán Việt để tra tìm chữ mà đặt tên cho con. Đầy dẫy những cái tên quý phái mỹ miều người ta dùng hàng ngày, phung phí không biết ngợp. Trong khi đó thì những người ở từng lớp khá giả lại chọn ngược lại. Bỏ hết những chữ lót, họ để trơ trụi cái họ và cái tên: Nguyễn Thị Tuyết… Lê Thị Đoan… Hồ Thị Chi…

                              Thu Hồng ra đi nhường ngôi cho Ái Lan. Thấy cô ta chào từ giã một cách tự nhiên không vui không buồn, mớ quần áo gói trong một tờ giấy báo cặp ở nách, tôi cho rằng người con gái này sung sướng có tình yêu là món quà đặt sẵn trước mặt. Nhưng sau đó một tháng, một hôm Thu Hồng đến thăm tôi nhằm giờ Ái Lan đi chợ. Tôi hỏi:

                              - Chớ chưa làm đám cưới sao?

                              - Dạ, để thong thả.

                              - Thời đại bây giờ giặc giã ầm ầm, thương đâu cưới đó, còn đợi nỗi gì? Đợi lâu, lỡ ông giáo mê gái thì làm sao?

                              Thu Hồng cười hì hì, hai con mắt nhắm kín lại:

                              - Dạ, đâu có vậy? Dạ, để thong thả.

                              Nói lí nhí vẩn vơ gì một lát rồi cuối cùng Thu Hồng hỏi về cách làm ăn của Ái Lan. Tôi nghĩ có than thở cũng vô ích bởi Thu Hồng không thể vì tôi mà dạy dỗ huấn luyện cho Ái Lan thành người giúp việc đắc lực, tôi đành trả lời mơ hồ rằng cũng tạm được, cũng khá.

                              - Em chắc nó làm việc không hay. Nó còn nhà quê. Hay để bữa nào em trở lại giúp thầy.

                              Thấy tôi không mừng rỡ vồ lấy dịp may, Thu Hồng tiếp:

                              - Em bớt tiền lương một chút cũng được. Nhà thầy ít việc, thầy cho một ngàn hai cũng được.

                              - Xin cám ơn, nhưng thôi, để em đi lấy chồng, đừng để cho ông thầy giáo đợi lâu quá.

                              Sau bốn năm tháng gì đó, một hôm vì phải tìm một con đường đúng chiều để thoát ra khỏi một khu phố không quen, tôi chợt thấy Thu Hồng đi lang thang trên hè phố. Áo quần xốc xếch hơn ngày còn ở với tôi. Dường như Thu Hồng có thoáng thấy tôi và cô ta lúng túng đi sát vào lề đường, tay kéo nón che một bên má. Tôi tưởng Thu Hồng đã về quê rồi, đã lấy chồng rồi. Thế ông thầy giáo đâu? Tôi chợt nghĩ: mình u mê, ai nói cái gì cũng tin. Có lẽ Thu Hồng để ý thương thầm một ông giáo viên nào đó rồi ngồi mơ mộng tưởng tượng. Chớ cứ lề lối này thì chắc chắn là Thu Hồng vẫn còn đi ở cho người ta và chắc chắn là với một chủ nhà thạo việc hơn tôi, Thu Hồng phải làm việc nhiều quá đến nỗi đi ra phố mà áo quần xốc xếch như vậy.

                              Ái Lan nấu ăn không hơn Thu Hồng. Món gì cũng mặn. Hỏi: “Sao nêm canh mặn thế này?” thì trả lời tỉnh táo:

                              - Dạ, đâu có mặn?

                              Vừa nói Ái Lan thò muỗng vào bát canh múc vụt một thìa đầy, đặt vào miệng hút đánh chụt một cái vừa chắp chắp. Rồi nói:

                              - Dạ, đâu có mặn?

                              Không có cái máy đo “mặn lạt” để chỉ chính xác mấy độ nên tôi đưa đề nghị:

                              - Từ rày khỏi cần nêm ở dưới bếp. Để lên bàn ăn chúng tôi tự ý nêm lấy.

                              Ái Lan loay hoay bực bội với cái lò nấu bằng dầu lửa. Tim cao, tim thấp, tim hụt, vặn lên, vặn xuống… Ái Lan ưa chẻ củi để nhay vào bếp, đốt cho lửa đỏ bừng bừng, ngọn liếm quanh nồi, tiếng nổ lách tách.

                              - Hồi ở “ngoãi”, con chuyên môn đi củi. Cột theo một mo cơm lên núi chặt một buổi, trưa gánh về một gánh.

                              - Bán được bao nhiêu?

                              - Để dành chụm chớ.

                              - Còn nếu bán thì được bao nhiêu?

                              - Năm chục.

                              Ái Lan lanh lẹ và không biết làm dáng như Thu Hồng. Còn chịu mặc áo vải đen may theo kiểu sơ-mi măng-sết thời kháng chiến. Không ham kỳ cọ chân bằng xà-bông và mỗi lần bước lên thềm giếng là tháo bỏ dép ra. Thu Hồng thì không, đôi dép và bàn chân như dính chặt vào nhau.

                              Trên bàn chân Ái Lan có một mụt bầm tím to bằng đồng bạc Ngô Đình Diệm và hơi sưng lên. Tôi lưu ý đến nó bởi vì có nhiều hôm thấy Ái Lan xuýt xoa ngồi nắm chân. Có hôm thì bước đi hơi khập khễnh. Tôi hỏi:

                              - Cái mụt này ngó bộ chưa thật lành. Ngoài mặt kéo da đã kín nhưng chắc ở trong e còn rỗng. Coi chừng sinh mạch lươn đó.

                              - Dạ, con ấn xuống thấy hơi đau.

                              - Cái mụt sâu lắm sao?

                              Ái Lan lật ngửa gan bàn chân chỉ vào một vết bầm.

                              - Lủng từ dưới lên trên, lủng suốt cả bàn chân.

                              - Sao dữ vậy?

                              - Con đạp trúng bàn chông.

                              - Chắc đi chặt củi trên núi, đạp trúng bàn chông của “ở trển” gài hả?

                              Ái Lan nhoẻn miệng cười:

                              - Dạ không. Bàn chông của con gài.

                              Tôi mở to mắt ngạc nhiên:

                              - Hả?

                              - Con theo thanh niên đi gài chông. Làng con thuộc về ở bển rồi mà. Vô phước trúng bữa đang gài thì được tin lính Đại Hàn dưới Quận càn lên. Lật đật bỏ chạy. Con đạp nhằm bàn chông của con.

                              Câu nói gọn, giọng nói vui, làm như việc gài chông là một trò chơi và dậm chân vào chông cũng là một trò chơi. Cuộc chiến tranh thảm khốc giết chết nhiều sinh mạng, phá vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, thiêu rụi cả làng mạc thôn xóm là kết quả cộng lại của những trò chơi nhỏ của những người tham dự kiểu Ái Lan? Có thể như vậy? Một cái lẩy cò vu vơ, một tràng liên thanh bắn thêm chơi, một cái ấn nút, chết chóc được ban phát ra, ngẫu nhiên và dễ dàng.

                              - Đi gài chông vui lắm thầy ơi. Đi cả đoàn. Thằng con ông hương mục Kiệm làm trưởng đoàn. Nhưng gặp bữa nào tụi nó càn là nhảy, nhảy trối chết.

                              Bây giờ Ái Lan thành người của bên này. Bên này hay bên kia thì Ái Lan hình như coi cũng như nhau. Đứa con gái mười lăm tuổi đó lớn lên như một con chim sơn ca má núm đồng tiền và đôi mắt long lanh sáng. Quơ cỏ trên đồng lúa Phú Hòa đó, chặt củi trên triền núi Hóc Bèn đó, mò ốc ngoài bãi cát Hà Bằng đó. Sau khi chạy tản cư về Tuy Hòa thì lại quơ cỏ trên đồng lúa Hòa Kiến, chặt củi trên triền núi Chóp Chài và mò ốc ngoài bãi cát sông Đà Rằng. Như con chim sơn ca mổ hột lúa và con sâu ở đồng này rồi bay vụt qua đồng kia, lại mổ con sâu hột lúa.

                              Những buổi tối có gió mát, nằm ngoài sân nhìn lên khung trời cao, Ái Lan cất tiếng hát:

                              Nông dân ta hát ca reo vang lừng.

                              Ban đầu hát khe khẽ, một lát thú vị sao đó bỗng nổi hứng hát to lên. Tôi phải ngăn lại:

                              - A! Coi chừng. Muốn xuống Nha An ninh nằm hay sao đó?

                              Ái Lan xuýt xoa:

                              - À quên! À quên!

                              Im lặng một giây rồi tiếp:

                              - Nhà con trung nông đó thầy, chớ không phải bần cố nông đâu. Ông nội con đi thiến heo nữa.

                              - Thiến heo thời này mau giàu lắm đó nghe.

                              - Dạ, thiến heo có tiền lắm. Ông An ngoài con cứ hai tháng thì vô trong này thiến một kỳ. Mỗi ngày được lối tám, chín trăm. Đi một chuyến ăn tiêu rồi còn dư mười lăm ngàn.

                              - Sao ông nội em không vào thiến cho có tiền?

                              - Dạ, muốn vô lắm mà nghiệt không có giấy tờ. Thẻ kiểm tra “ở trên núi” về thu đốt hết, bây giờ phải nằm lỳ ở quận Tuy Hòa không được đi đâu một bước. Không có nhà ở, nhà nước cho phép dân di cư được ở trong mấy cái toa xe lửa chở hàng bỏ không ở khu nhà ga.

                              - Nóng quá chịu gì nổi?

                              - Thì cũng phải ráng chịu chớ biết làm sao? Năm sáu gia đình ở chung một toa. Trưa nắng như thiêu. Nghiệt một nỗi nữa là toa xe nằm ở giữa một bãi cát nóng, càng có gió càng nóng thêm.

                              Ái Lan có tật ghiền trà Tàu. Bình trà bữa nào cũng bỏ đậm đen, lũ nhỏ la đắng uống không nổi. Dặn bao nhiêu lần cũng như không. Bình trà đó mặc dù lũ nhỏ không đứa nào dám mó đến, cũng cứ vơi đi trong nháy mắt. Buổi trưa lại một bình trà mới nữa. Tôi đi vắng gần như cả ngày nên đâu có biết gì đến trà với nước, chỉ khi lon trà hết cạn mới kịp phát giác ra rằng Ái Lan không thể uống nước trà lợt. Thôi rồi, nguyên do cũng vì Ái Lan có lệ phải hầu trà ông nội thiến heo. Tôi biết bản tính của các ông cụ ở nhà quê. Lội bộ giữa nắng suốt giờ này sang giờ khác thì khi về đến nhà phải tu một hơi đến hai, ba bát nước trà thật đậm mới giải nổi cơn khát. Thôi thì mình phải chiều Ái Lan vậy. Một bình trà chỉ vài ba đồng bạc, chẳng bao lăm. Ngoài những bình trà thường lệ, khi nào có khách đến chơi tôi pha trà đãi khách thì khi khách đi tôi đều tặng bình trà đậm đó cho Ái Lan. Ái Lan cười thông cảm, đón nhận không chút ngượng.

                              Ái Lan đến nhằm lúc cái giếng nước nhà tôi bị thuốc giặt của những nhà Mỹ xung quanh làm hôi mùi xà-phồng. Nước ăn phải sang lấy nhờ ở nhà Mỹ bên cạnh. Từ ngày đó, mỗi lần Ái Lan đi qua, tôi nghe có mùi nước hoa. Có hôm Ái Lan lấy kéo ngồi cắt những hình màu lòe loẹt trong một tạp chí Play boy, những hình phụ nữ khỏa thân vú và mông thỗn thện. Tôi lo xa nói dè chừng:

                              - Có qua lấy nước thì xách về ngay, đừng la cà nói chuyện dài dòng. Đừng có ham tiền mà nghe lời dụ dỗ. Nếu muốn có nhiều tiền thì học tiếng Mỹ để đi làm thông ngôn. Em ở nhà quê có được đi học không?

                              - Dạ, con học đến lớp Nhất. Rồi ông thầy giáo bị ở trển xuống bắt đi học tập, trường đóng cửa. Ông thầy giáo Phê, con bà Cửu Thành ở Gò Cà đó. Ông thầy đánh quạu một cây. Bắt nằm dài xuống rồi rút roi mây phết một hồi hai, ba chục.

                              - Đã học lớp Nhất thì bây giờ học tiếp đi. Tối tối lên nhà trên học chung với mấy đứa. Cuối năm thi Tiểu học.

                              - Dạ.

                              Tiếng “dạ” có vẻ yếu ớt.

                              - Sau đó có thể học thêm tiếng Anh để đi làm sở Mỹ hoặc học chữ về làm cô giáo làng, cô mụ hương thôn.

                              - Dạ.

                              Tôi rất thành thật trong việc đề nghị, tôi muốn giúp ích cho Ái Lan để nó có thể giúp đỡ chúng tôi càng dài ngày càng tốt. Bởi lẽ nếu chỉ đi ở lấy công thì chắc chắn là ba, bốn tháng sau nó sẽ bỏ chúng tôi để đi theo một chỗ làm khác bổng lộc cao hơn, hoặc nghe lời dụ dỗ của mấy bà trùm, của mấy anh mách mối. Không thể bắt nó ở nhà đóng kín cổng lại. Mà đã để nó đi chợ thì chẳng sớm thì muộn nó sẽ bị người ta vồ lấy. Mặt mũi nó xinh xắn sáng sủa không thua một cô nữ sinh trung bình, nhất là khi tôi may cho nó mấy bộ áo vải hoa.

                              Tôi gọi nó lên và ra cho một bài toán cộng phân số để thử sức. Nó cầm bút loay hoay, xoay tờ giấy đủ vòng. Tôi hạ thấp trình độ, ra một bài toán nhân có vài con số không. Nó viết lộn bậy những con số méo mó, nguệch ngoạc. Thôi, đích thực là ông thầy Phê chỉ dạy học trò leo lên bàn để nhận lãnh roi mây, còn làm toán nhân và toán phân số là công việc của học trò trường khác.

                              Ái Lan thích đi sang nhà Mỹ lấy nước. Nơi gầm giường của nó tôi thấy chất lổn ngổn những vỏ chai, những lọ, những lon.

                              - Lon nầy thì tập trung làm gì cho dơ nhà? Ở ngoài mấy đống rác kia thiếu gì? Xe hốt rác lượm không hết, bỏ lăn lông lốc giữa đường.

                              - Dạ, con thấy đẹp lượm chơi. Ở ngoài con hồi đó quý lắm. Bây giờ thì thường rồi. Ở Tuy Hòa, Mỹ nó uống nó cũng ném đầy đường. Hồi trước ở ngoài con cứ nhắn mấy người đi buôn bán ở Tuy Hòa lượm lon về cho.

                              - Mấy cái vỏ chai này thì dùng được.

                              - Dạ. Chai lít đó. Đong dầu đong nước mắm thì ngon hết lớn. Ở ngoài nhà quê mỗi lần mua dầu chạy đi mượn chai lít không ai cho mượn. Nghiệt lắm.

                              Ái Lan có tật ngủ trưa, ngày nào cũng đánh một giấc từ một giờ trưa không sai suyển. Có hôm tôi xách xe đi làm, - hai giờ rưỡi chiều, - mà còn thấy Ái Lan nằm há miệng ngủ ngon lành. Chẳng biết định ngủ đến mấy giờ với một dáng điệu tin tưởng như vậy. Tóm lại, một người như Ái Lan không phải là một người giúp việc tốt. Tôi buồn rầu chấp nhận số phận của mình, tôi đâu có quyền đòi hỏi nhiều ở Ái Lan? Nó trẻ dại và quê mùa, chỉ biết giúp đỡ tay cho một người đàn bà. Sai nó lặt rau, giã đậu, băm thịt, thổi lửa, vo gạo…, những công tác rời rạc như vậy thì tốt. Đằng này tôi giao cho nó tiền và nó phải tự chỉ huy lấy. Nhiều bữa đã một giờ trưa mà trên bàn ăn vẫn vắng ngắt. Nó mê mải chí thú nhổ cho sạch lông một con vịt và khi thú vị nhìn công trình của mình hoàn tất viên mãn thì còi mười hai giờ đã hụ lên. Ái Lan là tân binh quân dịch chưa kịp trải qua một khóa huấn luyện để lên cấp bực binh nhì, thế mà bước vào gia đình chúng tôi nó đóng đến lon Trung Tướng Tổng Tham mưu trưởng. Tôi và mấy đứa con phải chấp nhận sự điều khiển tài tử đó mà không có cách gì phản kháng. Chúng tôi đều không dư thì giờ để luôn luôn góp phần hoạch định chương trình với vị chỉ huy đó. Đôi lần chúng tôi có đem nhiều thiện chí ra để bàn bạc, nhưng khi thi hành vị chỉ huy đó làm rối bét ra hết. Món ăn nào cũng vừa sống vừa cháy.

                              Chỉ huy chúng tôi được hai tháng rưỡi thì Ái Lan xin về Tuy Hòa thăm nhà. Tiền lương đã nhận đủ ba tháng, áo quần thì tôi may dành cho cả năm, thế mà bây giờ bỏ đi ngang. Nói:

                              - Thầy cho về thăm một tuần. Rồi con vô. Bây giờ trời còn tốt đi ghe yên ổn, sợ ít ngày nữa mưa gió đi về không bảo đảm.

                              Biết đặt điều kiện gì để buộc Ái Lan phải trở vô? Tất cả những điều kiện đều vô ích. Thời đại này giao kèo còn không đủ bảo đảm thay.

                              - Mực khô ở Tuy Hòa rẻ hơn ở trong này nhiều lắm thầy. Có chín mươi đồng một kí. Thầy có mua thì con mua vài kí.

                              Tôi đưa ba trăm bạc cho Ái Lan như để mua thêm hy vọng rằng Ái Lan sẽ trở lại chớ tôi không tin rằng giá mực khô ở Tuy Hòa chỉ bằng một phần tư giá ở đây.

                              Ái Lan đi biệt tăm không trở lại. Những thời hạn “một tuần” trôi qua liên tiếp. Tôi không ngạc nhiên lắm vì tôi đã chuẩn bị trước là Ái Lan sẽ đi luôn. Ái Lan trở lại đúng hẹn mới là điều làm tôi ngạc nhiên. Chúng tôi lại nhắn nhe nhờ bà con láng giềng tìm cho một người. Trong khi chờ đợi, chúng tôi gọi hàng cơm tháng mang cơm đến. Áo quần thì ngâm bột Tide. Bàn ủi thì dùng thứ INUI nhẹ, mỏng, thứ “for school, traveling”(1 ). Thỉnh thoảng chúng tôi nhắc đến tên Ái Lan và dù không muốn, chúng tôi cũng phải nghĩ đến mấy chữ đi kèm theo cái tên mỹ miều đó: “Ái Lan sắc nước khuynh thành” (2 ). Nhân vật nào đó nhỉ, - Ái Lan, - mà quen thuộc đến thế, mà có văn thơ ca tụng hết mình như thế? Tôi không buồn vì bị Ái Lan lừa, không tiếc số tiền đã mất. Có người trách tôi dại sao không giữ lại những quần áo mình mới may. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ hối hận biết mấy nếu tôi đã giữ số quần áo ấy và Ái Lan đi luôn. Tôi muốn có nhiều phương tiện để làm những cử chỉ đẹp, đẹp hoàn toàn, không vụ lợi. Cuộc tranh sống cam go khiến con người mỗi ngày mỗi bần tiện thêm lên nên mỗi khi có dịp làm một cử chỉ đẹp, ta thấy sung sướng khôn cùng.

                              Một buổi tối buồn, tôi lửng thửng bước vào một tiệm giải khát ở đầu phố. Đèn màu âm u. Âm nhạc rập rình như sóng, trên đó tiếng hát chơi vơi, khắc khoải, tuyệt vọng. Buổi tối cuối tháng, có nhiều ghế trống. Năm sáu người Mỹ không bao nổi hết số chiêu đãi viên. Vài người thanh niên mặc sơ-mi ca-rô ngắn. Ở bàn cạnh tôi, một quân nhân ngồi với một chiêu đãi viên mặc đầm màu đỏ. Họ kề sát đầu vào nhau nói chuyện. Giọng người đàn ông trầm xuống. Giọng người đàn bà lanh lảnh bay qua bàn tôi.

                              -…Mốc xì. Anh nói mới hành quân qua làng của em hả? Dóc tổ. Mới nghe em nói bây giờ nói dựa theo… Thiệt hả? Ừ, đúng… Qua bến đò La Hai. Phải, ở bên kia là Gò Chai… Anh nói cái nhà mái lá ở chỗ bến đò hả? Cháy rụi hết? Chắc là nhà ông Xã Hà Bằng đó… Ờ, hồi xưa nhà đó giàu lắm. Muổng đường, anh biết muổng đường không? Chắc ở ngoài Bắc không có muổng đường đâu. Đường mía người ta đổ vô những cái muổng bằng đất sét để lọc cho thành đường cát đó…, muổng đường xếp chạy dài suốt cả hai chái nhà trên, ở hiên sau, ở nhà ngang. Lúa nữa. Bắp nữa. Đậu phộng đậu xanh nữa… Ờ, phải, miền đó ruộng khô trồng đậu phụng đậu xanh. Hồi đó em hay lùa bò đi qua đám đậu phụng của “ổng” để ra bến đò Gò Chai cho bò uống nước. Có một bữa bò nó băng vô đám đậu, ủi lên ăn rào rạo. Em sợ trối chết, quất bên này nó chạy bên kia. May quá nhờ có thằng Điều nó ra đuổi dùm. Tội nghiệp, em mới nghe tin thằng Điều đã bị máy bay gắp rồi. Nó cứ láng quáng ở “ngoãi” không nỡ bỏ làng, bỏ ruộng, bỏ bến, bỏ bò… Phải, phải rồi, chỗ đó có cái miễu. Chòm cây đó xưa lắm, tên là cây gì em cũng không biết. Hồi nhỏ em hay thả bò cho ăn ở gò đó… Tội nghiệp chưa. Sao anh ác vậy? Đồng bào của mình đó chớ ai. Ờ ờ, em hiểu rồi…

                              Ý chừng người quân nhân kể chuyện mãi không còn thích thú nữa nên thừa lúc nàng vô ý anh lùa hai tay vào nách khiến nàng cười rú lên vừa đập bình bịch vào lưng anh ta:

                              - Anh quỷ này. Nhột nhột. Chơi nghiệt quá.

                              “Nghiệt quá”, chữ dùng quen thuộc của Ái Lan!

                              Câu chuyện hành quân trên kia là câu chuyện của làng Ái Lan đó. Bao nhiêu là biến cố đã dồn dập xảy ra trên mảnh đất đó. Nhà cháy. Trâu bò chết. Đồng ruộng bỏ hoang. Người ta lớp chết lớp chạy bỏ làng. Đường cái trong làng không có dấu chân đi, lần lần cỏ mọc chụp lên, bụi cây trồi lên, đan dày vào nhau, biến thành rừng rậm, biến thành rừng hoang. Cỏ mọc đầy những sân nhà, mọc lấn vào hiên, mọc trùm lên cửa, mọc ngay giữa nền bởi tranh kia rạ kia mỗi ngày một mủn, mưa khoét mỗi ngày một to, mưa phá gãy rui mè, mưa xối giữa nền, ánh nắng và giọt mưa dọi đến đâu là cỏ mọc lan theo đến đó.

                              Cô chiêu đãi viên này cùng một lứa tuổi với Ái Lan. Vóc người nhỏ thó. Cặp đùi đen, da cháy như đã từng bị phơi ra nắng nhiều. Những ngón chân xoạc ra giữa quai guốc cao gót trông như ngón chân của một con ếch. Chắc cô ta là bạn chăn bò của Ái Lan, bạn đi củi, bạn đi chợ. Nếu tôi lại hỏi cô ta về tin tức Ái Lan thì chắc chắn là cô ta sẽ nói rõ. Có thể Ái Lan hiện giờ cũng mặc đầm như vậy, cũng đêm đêm đánh phấn tô son, vẽ khóe mắt xếch ngược lên và bới mái tóc cao bốn tấc. Có thể Ái Lan đã trở về làng mặc sơ-mi măng-sết và đi cắm bàn chông với bạn mỗi buổi chiều. Có thể Ái Lan vẫn đi quơ cỏ lúa ở đồng Hòa Kiến, chặt củi ở núi Chóp Chài và mò ốc trên bãi sông Đà Rằng. Cái gì Ái Lan cũng có thể vui vẻ làm, không bận tâm suy nghĩ băn khoăn, như con chim sơn ca kia không phân biệt hột lúa này và con sâu nọ là của riêng của cánh đồng nào.

                              (1) dùng khi trọ học, khi đi du lịch.
                              (2) Tên một cuốn phim thời danh, kể mối tình nàng Hélene thành Troie.

                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 41 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9