Tác phẩm VÕ HỒNG
Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 41 trên tổng số 41 bài trong đề mục
hai1957 04.12.2012 17:09:24 (permalink)
2. ĐỜI ĐÁNG CHÁN



Người chót cùng mà tôi bắt tay là ông Thừa Nhĩ. Tôi ngồi xuống chiếc ghế mà chủ nhân, ông Sanh Hòa Đường vừa đứng dậy nhường cho. Tối nào nhà ông Sanh Hòa Đường cũng có khách. Hai bộ xa-lông kế tiếp nhau có bữa khách ngồi đầy phải ngồi lấn sang bộ ván ngựa. Ngoài số thân chủ đến hỏi bệnh chứng, đến đặt làm tể (bắt mạch, hốt thuốc thang là công chuyện của ban ngày), ngoài những người có liên hệ đến huê hụi, vay mượn, còn thì đa số là những người thong thả, đêm đến hết việc tới góp chuyện cho vui. Tình thế càng lộn xộn người ta càng ưa tụ họp nhau lại để bàn bạc. Người ta thích nghe những tin không chính thức, những tin đồn, tin trên báo ngoại quốc, tin trên đài phát thanh ngoại quốc. Đêm nay chỉ có hai người: Ông Viện, năm mươi tuổi công chức ty Quan thuế và ông Thừa Nhĩ, nguyên Thừa phái thời Nam triều bị ba, bốn lớp Cách mạng đẩy ra ngoài cuộc sống bàn giấy.

Làm công chức đến năm mươi tuổi như ông Viện thì bắt đầu thong thả. Ở nhà có vợ lo thu dọn phòng khách, phòng ăn. Con cái đã lớn, xe cộ có hư thì con đem ra tiệm coi chừng cho thợ sửa được rồi. Đèn điện, quạt máy, bơm nước có trục trặc thì có thể yên tâm giao cho chúng tự xoay xở lấy. Ai cũng ngầm công nhận là “bố đã già rồi, để cho bố thong thả”. Căn cứ theo cái qui ước ngầm đó, ngoài những đêm lên giường ngủ vào chín giờ tối, còn thì ông Viện cứ thong thả ngậm chiếc tăm xách xe đi tìm chỗ nói chuyện quấy quá cho qua một buổi tối. Để vợ ông ở nhà tha hồ mà mè nheo với vật giá cao vọt và với đồng lương gầy còm của ông. Đồng lương, từ một năm nay, ông ghét không muốn nhìn mặt nó, nói tới nó. Nó bình yên một cách thiểu não, như một ông già bất lực cam chịu số phận, bịt tai với những xôn xao chung quanh. Hôm lãnh lương xong cầm phăng phăng về đưa đủ cho vợ, - không xà xẻo bớt xén mảnh nào như những năm trước đây, - thế mà vợ thản nhiên cứ quay mặt làm việc khác, nói trổng: “Bỏ đó”. Giá trị của người đàn ông trụt đi trông thấy.

Ông Thừa Nhĩ thì bỏ làng tản cư ra thành phố từ bốn năm trước nên đã có cơ sở làm ăn. Quen tiết kiệm, quen chịu đựng kham khổ nên ông chỉ than qua loa về vật giá. Có than lắm cũng chẳng ai cho mình tiền. Giá sinh hoạt cao, đó là tai nạn chung. Mình không đủ sức lực để đạp xích-lô, không thạo tiếng Anh để làm thông ngôn, không phải là đàn bà để lấy Phi luật tân thì phải đành chịu. Mối lo của ông là có hai thằng con hiện đi quân dịch cho nên tình hình chiến trường ông theo dõi cẩn thận hơn tình hình thị trường.

Hễ báo loan tin có trận đánh nào xảy ra ở gần miền đóng quân của con ông, là ông mầy mò đọc từng chữ, theo dõi từng biến chuyển nhỏ. Ghi nhớ từng con số tổn thất, bị chết, bị thương. Lưu ý từ cái dấu phết, dấu chấm. Ông lục tất cả các báo bày ở sạp đọc kỳ hết, đọc luôn cả vài ngày sau đó. Kết quả là sau hai năm mê mãi theo tin tức chiến sự như vậy, ông trở nên con người thành thạo về địa lý và quân sự. Đồn binh X ở quận nào, quận đó thuộc tỉnh nào, tỉnh đó tên cũ là gì, ở miền Đông hay miền Tây, cách Sài Gòn bao nhiêu cây số, ông nói rõ ràng vừa giơ ngón tay chỉ trỏ giữa không khí như đang chỉ vào một bản đồ tham mưu. Súng loại mới, súng kiểu cũ, xe tăng, thiết giáp, máy bay… ông gọi tên, nói rõ đặc tính, ưu điểm hỏa lực, tầm hoạt động… tóm lại, những tay ngang lơ mơ như chúng tôi tha hồ ngồi làm tai nghe và tin răm rắp.

Ông Sanh Hòa Đường phong lưu hơn hết trong ba người. Thân chủ đông, cửa tiệm lớn, có nhà cho thuê và hai vợ. Tính hiền lành, cầu sự an ổn. Thấy có đám đánh lộn là bỏ đi xa. Có lần cảnh sát thổi còi vây bắt một kẻ phạm pháp nào đó, xe cảnh sát chạy rầm rập, xe quân cảnh Mỹ cũng ào ạt chạy tới cả dãy. Súng chĩa mũi ra trước. Mọi người ùn ra xem chật đường, chạy theo xe để xem cho tường tận. Ông Sanh Hòa Đường ở từ phía xảy ra sự việc phóng xe chạy về. Người nhà nhốn nháo hỏi: “Chuyện gì đằng đó hở ông? Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông không trả lời. Gác xe, bước vào nhà. Bỏ mũ. Quạt. Rót nước uống. Rồi thủng thỉnh nói: “Mình nghe còi thổi, bắn súng chỉ thiên thì lo tránh qua ngả khác mà đi về nhà cho rồi. Vui sướng gì mà coi? Biểu diễn không quân, nhào lộn, thả bom, thả roc-ket, nhất định không coi. Sợ rủi ro xảy ra tai nạn. Triển lãm chiến lợi phẩm, súng đạn, mìn, lựu đạn… không coi… Sợ nổ bất ngờ. Ghét bạo lực, ghét đánh đấm… Nghe có đám đánh nhau là tránh. Làm thầy thuốc mà ghê máu. Thấy máu thì lợm giọng. Thích nói chuyện đạo đức”.

Ngồi an vị xong, câu chuyện tiếp tục. Lại chuyện tình hình chính trị, tình hình quân sự.

Ông Viện ngồi chồm người tới, hạ thấp giọng:

- Nghe nói… chết nhiều lắm.

Cái môi dưới xệch méo một chút khiến nét mặt trông thảm thương phù hợp với một câu chuyện trong đó có nhiều người chết.

Ông Thừa Nhĩ lơ đãng mỉm cười:

- Thì làm sao mà khỏi chết nhiều. Bắn cỡ đó thì làm sao mà khỏi chết nhiều.

Giọng nói tự phụ của một người sành điệu biết chọn lọc tin tức, nên tin như thế nào, nên cảm động như thế nào. Con người sành điệu không thể bạ cái gì cũng cảm động, bạ cái gì cũng cho là quan trọng. Hơn nữa, ông Thừa Nhĩ luôn luôn muốn tỏ ra rằng người công chức thời Nam triều như ông dẫu sao cũng thâm thúy hơn người công chức các triều Cách mạng.

Không được tán thành, ông Viện ngồi lui ra sau. Ông nhỏ người nên ngồi lọt thõm vào một góc của chiếc ghế xa-lông rộng, gọn gàng an ổn như chính ông đã thành một bộ phận của chiếc ghế. Cặp đùi gầy đặt song song như một đôi đũa lớn.

Không biết da mặt ông đã có nhiều vết nhăn hay là ông ưa nhăn mặt trong khi nói. Giọng ông lên xuống bổng trầm, nỉ non như người kể lể tâm sự:

- Phàm việc nước cũng như việc nhà. Hồi xưa ông Thánh có nói:

Mưu sự tại nhân

Thành sự tại thiên

Nhân nguyện như thử như thử

Thiên lý vị nhiên vị nhiên.

Nhìn cách nói và nghe giọng nói của ông sao tự nhiên tôi thích không tin và thích nói nghịch lại. Chẳng hạn: “Việc nước đâu có giống như việc nhà… Tây người ta nói. Vouloir e’est pouvoir…” (1 ) Và tôi có cảm tưởng rằng ông sẽ cãi lại, cãi cho đến lạc đề và mọi người sẽ bâu vào cái đề mới lạc tới đó mà thảo luận tiếp. Cho đến giờ giới nghiêm.

Ông Thừa Nhĩ thì bắt qua đầu đề nào cũng tận tình góp ý kiến.

- Tụi Mỹ coi vậy mà chính trị kém. Chỉ có được cái giàu, súng ống đạn dược nhiều.

Ông Viện:

- Chính trị thì làm chi bằng thằng Tây.

Ông Thừa Nhĩ gật gù:

- Thiệt vậy. Chính trị thì làm chi bằng thằng Tây. Thằng Tây nó khôn… khôn…

Ý chừng thằng Tây khôn quá, ông kiếm không ra được chữ nào để nói cho hết cái khôn đó nên ông đành lên giọng chữ “khôn” rồi kéo dài ra, bỏ lửng lơ.

Bảo rằng thằng Tây nó khôn, tôi không chắc ông Viện đã tin thật như vậy. Và bỗng nhiên tôi nghĩ rằng giá ông Viện bảo thằng Tây nó dại thì hai người bạn ông sẽ đồng ý và thấy ra thằng Tây dại thiệt. Thiếu gì chứng cớ. Chiến tranh ở Việt Nam, vụ Tunisie, chiến tranh ở Algérie. Cám ơn lý luận! Nếu không có mày thì nhân loại sẽ buồn. Nếu việc đời rõ ràng như một bài tính cộng biên rõ trên giấy thì nhân loại sẽ dư quá nhiều thì giờ.

Ông Viện lại ngồi chúi người tới, lại hạ giọng:

- Nghe đồn Nhật Bản đứng ra hòa giải…

- Tin đó các báo có nói rồi.

Ông Sanh Hòa Đường lôi tờ Quyết Tiến ở hộc bàn ra, trải rộng trên đùi rồi đẩy một ngón tay trỏ lên dò tìm vừa chậm rãi nói:

- Tờ Quyết Tiến hôm qua có đăng mà. Để kiếm coi chỗ nào.

Ông Viện hơi ngượng một chút vì “các báo đã nói rồi”. Tin tức đã đăng báo mà không biết thì có khác nào bị bắt quả tang là mình kém trí thức. Ông có tật bắt đầu một tin tức bằng chữ “Nghe nói… Nghe đồn…” y như khi làm kiến nghị người ta phải “xét rằng” ít nhất là bốn lần. Người công chức quen tính dè dặt đa nghi. Biết đâu người ngồi trước mặt mình chẳng là mật vụ?

Ông Thừa Nhĩ quay sang hỏi ông Sanh Hòa Đường:

- Hồi nãy ông có nghe đài BBC không?

- Không. Hồi bảy giờ rưỡi mắc khách.

- Nghe đài BBC nói lính nhảy dù đã chiếm chùa Tỉnh Hội và chùa Phổ Đà rồi.

- Còn Huế?

- Không thấy nói. Đài Huế hồi trưa loan tin lực lượng tranh đấu đang chống cự. Buổi tối nghe đài Huế không rõ.

Ông Viện ngồi cúi mặt, hai bàn tay để chảy xuôi trên hai tay ghế. Những ngón tay xương xẩu.

- Tình hình rối ren quá. Đánh hoài.

- Đây rồi còn chết nữa, - lời ông Viện. “Mã đề dương cước anh hùng tận, Thân Dậu niên lai kiến thái bình”. Mã đề là năm nay. Bính Ngọ đó. Phải hết năm Mùi, qua Thân mới yên.

(1) Hễ muốn làm là có thể làm được

Tiếng phi cơ thám thính rề rề. Nhìn ra khung trời đen, thấy ánh đèn trên phi cơ di chuyển chầm chậm. Chợt một tràng tiếng nổ và tiếp theo, hỏa châu sáng rực trời.

Ông Sanh Hòa Đường bần thần nói:

- Tôi không ngủ được, các ông ơi. Cứ khuya nằm trằn trọc. Nghĩ chuyện nước chuyện nhà, buồn thúi ruột.

Tôi pha trò:

- Thì ông sắc vài thang “Bình vị địa du” mà uống. Trường phong hạ huyết mà uống “Bình vị địa du tán” là hợp chứng.

Tôi biết trước là câu pha trò không làm ai cười và quả tình là không ai cười thật. Ông Sanh Hòa Đường chỉ lặng lẽ hì hì lấy lệ.

Thời cuộc đè nặng trên tâm hồn của mọi người.

Ông Viện bùi ngùi:

- Phải như tôi khỏi đi làm ngày hai buổi như ông Thừa Nhĩ thì tôi đi tu liền. Thời thế này, hết muốn sống, hết muốn tranh đua, hết muốn hy vọng.

- Tôi cũng vậy, - lời ông Sanh Hòa Đường.

Mọi người im lặng. Giọng cải lương than thở từ máy phóng thanh của một tiệm may Âu phục bên cạnh. Tuồng diễn lúc cô Cúc Hoa bắt chấy cho con. Khi mẹ biến đi, Tấn Lực cất giọng ồ ồ gọi mẹ rồi hát. Giọng của người ba mươi tuổi. Chắc là dĩa cũ. Thời bây giờ người ta chuộng giống sự thật nên có vô dĩa lại chắc sẽ tìm hai ca sĩ nhi đồng. Tiếng nhạc ngoại quốc ở phòng trà đầu phố. Giọng ca xoáy vào đêm đen, chua và xót. Như tiếng kêu cứu của thân phận làm người. Bản tin tức đọc nghiêm trang phát từ một chiếc máy thu thanh vặn to. Giọng buồn. Tin tức thường nghiêm và buồn. Yếu tố của sự long trọng. Những tiếng ồn đó xáo trộn vào nhau. Mỗi người lắng nghe một giọng mà mình thích, quen thuộc với mình và những tiếng ồn kia trở thành mơ hồ.

Chợt một người đàn ông mặc pyjama bước vào. Tóc uốn quăn, bôi đầy bi-ăng-tin. Ông Sanh Hòa Đường giơ tay bắt.

- A! Ông Thu Trang. Mời ngồi chơi.

Ông Thu Trang là chủ nhân tiệm cắt tóc “Thu Trang” nằm ở dãy phố trước mặt. Những cái bắt tay chiếu lệ.

Ông Thu Trang mở lời:

- Sao thầy đánh lần nầy có bốn chục?

- Tại bữa đó không có tiền lẻ, - ông Sanh Hòa Đường trả lời.

- Bây giờ có muốn thì đánh thêm. À, hồi sẩm tối thấy có con chim én bay xẹt mấy cái bắt muỗi trong nhà. Con én là số mấy?

- Dạ số 00, 21 và 61.

Ông Sanh Hòa Đường móc túi sơ-mi lôi ra một tờ hai trăm.

- Ông biên cho tôi số 00 năm chục, số 21 năm chục và số 61 một trăm.

Ông Thu Trang lật cuốn sổ - à, bây giờ tôi mới để ý là ông có cầm một cuốn sổ dưới tay, - mở nắp bút nguyên tử đỏ rồi hí hoáy biên chép.

Ông Sanh Hòa Đường quay lại chúng tôi:

- Mấy ông đánh chơi cho vui. Đề hai con. Cứ trúng hai con số chót của số độc đắc là mình ăn tiền. Mai thứ ba xổ số rồi. Mười đồng ăn bảy trăm.

Ông Viện:

- Hồi nãy ông nói có con én vô nhà bắt muỗi hả? Ở thành phố này mà có chim én nào bắt muỗi? Có dơi thì có.

- Thiệt à?

Tôi nói:

- Đúng đấy. Dơi chớ không phải chim én đâu.

- Chết cha! Vậy mà tôi cứ đinh ninh là con chim én.

- Thì thầy đánh thêm con dơi, - ông Thu Trang đề nghị liền, không cần nghĩ ngợi.

- Con dơi số mấy, ông Thu Trang?

- Đề thì không có con dơi. Nằm chiêm bao thấy dơi thì ông đánh con chuột. Dơi chuột bà con. Con chuột số 15, 55 và 95. Thôi, thầy đánh luôn một trăm nữa đi. Số 15 ba chục, số 55 ba chục, số 95 bốn chục. Hễ trúng một cái là tứ thất nhì bát, hai ngàn tám bỏ túi gọn. Đâu có lỗ? Nếu không thì cũng tam thất nhì nhất, hai ngàn mốt.

Ông Sanh Hòa Đường móc một tờ giấy trăm vất xuống.

- Đồng ý. Biên luôn số 15 ba chục, số 55 ba chục, số 95 bốn chục.

Rồi ông tươi cười:

- Đề hai con, không đánh thì thôi, đã đánh thì ham. Có nhiều người trì chí, nuôi đề cho tới cùng. Cứ một con số đó, đánh hoài. Thua mười đồng, đánh hai chục. Thua hai chục, đánh ba chục. Cứ đánh tăng lên, tăng lên, có khi tới hai ngàn đồng mới trúng. Mà trúng một cái thì được một trăm bốn chục ngàn.

Ông Thu Trang xé biên lai giao cho ông Sanh Hòa Đường vừa tiếp:

- Họ trúng dữ lắm mấy ông. Vừa rồi đề ra con số 53 nhà cái chung gần sạt nghiệp.

Ông Viện vừa móc ví vừa nháy ông Thừa Nhĩ:

- Đánh chơi ông Thừa.

Rồi quay sang Thu Trang.

- Anh biên cho tôi số 12 và 21. Mỗi số năm chục.

- Dạ… Hễ trúng một cái là ông lãnh sơ sơ ba ngàn rưỡi.

- Sao lại 12? Ông chiêm bao thấy con gì mà đánh số 12? - Ông Sanh Hòa Đường hỏi.

- Đâu có chiêm bao, chiêm bị gì. Gặp đâu đánh đó.

- Nhớ hồi tôi còn nhỏ, - lời ông Sanh Hòa Đường, - người ta cũng mê đánh đề dữ lắm. Sáng nào cũng tụ năm tụ ba đoán điềm chiêm bao. Hồi đó trong xóm tôi có bà già nhà nghèo phải đi làm cỏ mướn cho người ta. Đánh đề hoài thua hoài. Một bữa nằm chiêm bao thấy trái bí. Ra đánh trái bí nhưng đề không có bí. Bà ta lẩm nhẩm đoán: Trái bí - Bí thủ - Thủ kỳ - Kỳ lân. Đánh luôn con kỳ lân. Trúng. Mừng quá chạy la cùng xóm.

Ông Thừa Nhĩ cúi mặt liếc nhìn ông Thu Trang. Môi mím lại. Những nét nhăn cày trên da trán. Khi thấy ông Thu Trang lấy ngón tay xếp đôi tờ giấy, vuốt vuốt, chuẩn bị xé thì ông chợt hỏi:

- Kỳ rồi ra số gì?

- Dạ 53.

-Vậy hả. Anh ghi cho tôi số 35. Cũng năm chục. Ông Sanh Hòa Đường ơi, có tiền lẻ cho tôi mượn năm chục. Kệ nó, thử thời vận coi ra sao.

- Băm lăm thì chắc trúng đó, - ông Viện cười. - Số ông lăm băm là phải.

Tôi đang chuẩn bị. Tôi không thích đánh bạc, không thích cầu may ở số kiến thiết nhưng lần này chắc không thể từ chối nếu có một trong bốn người có mặt nài tôi cùng chơi. Chọn con số nào? Thật là ngớ ngẩn. Con số nào cũng có thể trúng vừa cũng có thể trật. Thôi, lấy con số nhà của mình, lấy con số tuổi của mình. Nếu có sai cũng khỏi ân hận vì những con số đó không do mình chọn. Người Trung Hoa thật khôn, thật sành tâm lý. Đem bốn mươi con đề ra chép vào cuộc đánh số thì quả là tài tình. Người bình dân khó quan niệm một con số vì nó trừu tượng, mà thích thú nghĩ đến một vật cụ thể: con gà, con ốc, con cá, ông Địa, ông cọp… Tha hồ mà gặp, gặp tận mặt và gặp trong chiêm bao.

Bỗng có tiếng gọi “Bố ơi” và thằng con ông Thu Trang chạy băng qua đường, chạy đến nắm cánh tay ông giật giật, miệng la bô bô:

- Bố ơi về ngay. Có bốn, năm ông đến đưa tiền bảo bố ghi số. Bố về ngay.

Ông Thu Trang “ừ ừ”, lật đật đứng dậy mà lưng vẫn còn cúi lom khom để viết cho xong. Ông xé giấy trao vội vã cho ông Thừa Nhĩ rồi lật đật cáo từ, chân bước ra cửa như một ngọn gió.

Đồng hồ điểm mười một tiếng. Chúng tôi đứng dậy.

- 12, 21 nếu tôi trúng thì chiều mai mời ba ông lên Dân Thiên hết. Ăn nhậu xong rồi đi xuống đường Hàm Nghi. Nghe nói có mấy con nhỏ ở Đà Lạt mới xuống.

- Bậy! Hồi nãy đánh lộn con chim én làm con chuột còn có một trăm.

- Năm chục đồng thì trúng được ba ngàn rưỡi hả? Ít quá. Thôi, thây kệ. Nếu trúng, mình mua cái ra-dô Sony nho nhỏ chạy pin nghe chơi.

Ra đến cửa thì một loạt hỏa châu lại vọt lên, sáng rực. Súng nổ ì ầm ở miệt Đồng Bò. Tiếng máy bay thám thính vẫn rề rề.

- “Thời thế lộn xộn, chán quá”, - ông Viện nói lửng lơ. Ông Sanh Hòa Đường và ông Thừa Nhĩ không họa theo. Chắc còn đang băn khoăn về việc lầm lộn con dơi với con én và… nên mua ra-dô hiệu Sony hay National nếu sáng mai trúng số thật.
#31
    hai1957 05.12.2012 09:21:55 (permalink)
    3. HOA KHẾ LƯNG ĐỒI (đã có trong TV)

    4. GÀ VÀ BA TÔI



    Ngày nào cũng vậy, khi tiếng còi 12 giờ vang lên là má tôi cất tiếng dặn con Lời, con nhỏ giúp việc:

    - Lời ơi, coi chừng gà qué đó con ơi. Cậu sắp về rồi đó.

    Tiếp theo lời dặn của má tôi là tiếng la ùi… ùi! Oái… oái! Thật to của con Lời và tiếng vỗ tay của nó. Có bữa nó chạy một vòng quanh nhà và tiếng la, tiếng vỗ tay, tiếng chân dậm sầm sập của nó có kèm theo tiếng gà la quang quác, tiếng vịt cạp cạp inh ỏi.

    Chừng 15 phút sau, ba tôi về. Ông dắt xe đạp kê ở hiên sau rồi đi thanh sát một lượt từ nhà ngang đến nhà bếp, còn đôi mắt thì lục lọi xa hơn, ở mãi đầu giếng, góc rào. Trăm lần như một, câu nói đầu tiên của ông là câu hỏi con Lời:

    - Mày có nhớ coi chừng gà không?

    - Dạ thưa có - Con Lời đáp lại gọn gàng như một tiếng vang.

    - Gà hàng xóm có tới phá không?

    - Dạ thưa không.

    Có lần tôi suýt bật cười to vì để làm chứng cho câu trả lời đầy thiện chí và bảo đảm của con Lời, có một cây ớt bị bươi gần trốc gốc, nằm uể oải nghiêng một bên hông và đầu tai mặt mũi bám đầy những cỏ rác do chân gà bới tung lên. Ba tôi tỏ dáng bằng lòng, tháo cái mũ nhựa trắng (chế tạo tại Đài Loan) ông đội tức thời giao cho em tôi cất rồi lại vục tay vào thau nước rửa mặt. Nước mát mẻ làm mặt ông tươi lại. Lúc bấy giờ ông mới bình tĩnh giảng cho con Lời nghe về sự lợi hại của việc trông chừng gà.

    - Gà hàng xóm nó qua… à hà… vừa bươi trốc gốc gãy đọt… à hà… mấy cây của tao trồng… à hà… vừa giẫm dơ chỗ vại nước. Phải rao cho chủ gà người ta biết để người ta nhốt lại. Chớ sao? Ai lại nuôi gà mà… mà không chịu mua thóc cho nó ăn? (Chỗ này ông bận lên cao giọng để cho hàng xóm nghe nên quên mất tiếng à hà nhật dụng).

    Má tôi ở nhà trên bước xuống “suỵt” một tiếng nhỏ:

    - Thôi mà ông, nói làm chi chuyện nhỏ.

    - Sao? Bà bảo sao?

    Đôi mắt của ba tôi tròn xoe lại. Cái miệng hé mở, sắp tròn lại theo con mắt nhưng chưa kịp.

    - Chỗ hàng xóm láng giềng với nhau… Nhường nhịn nhau.

    Ba tôi đi sấn tới, tay mặt còn cầm cái khăn ướt, vung lên:

    - Thì tôi có bảo bà sao đâu?

    Trông bộ ba tôi sấn sổ mà không nín cười được. Dù cố gắng hết sức để tạo ra một uy thế hùng hậu, sức vóc của ba tôi cũng chỉ gói gọn ở trong bốn mươi lăm kí-lô là cùng. Tay nhỏ, chân ngắn, cơ thể ông là một sự khiêm tốn, một sự an phận. Giá sinh vào một loài chim hay loài thú thì ông sẽ được an ủi nhiều hơn. Khi nổi giận, khi chuẩn bị chiến đấu, con chim xù lông vũ, con thú xù lông mao và đối phương thấy nó tăng thêm tầm vóc, tăng thêm bề thế có thể sợ hãi mà bỏ chạy. Đằng này ba tôi sinh làm người mà là người văn minh nên những cái gì có liên quan đến sự chiến đấu đều bị mài xóa mai một đi hết. Móng chân móng tay đều cắt ngắn. Râu ria bị cạo hàng ngày. Rốt cuộc dường như chỉ có con Lời là còn chịu nghe lời ông thôi.

    Má tôi an ủi:

    - Thôi anh lên thay áo đi rồi ăn cơm. Đi làm cả buổi nhọc mệt, còn lo chi chuyện… nhỏ…

    Chết! Bà định nói “chuyện nhỏ nhặt”. Ba tôi sẽ nổi điên lên vì bị đánh giá quá hạ như thế. Nhưng may, bà giữ lại chữ “nhặt” và nói chữa:

    - … lo chi chuyện ở nhà. Lời ơi, tao cứ phải dặn mày luôn là coi chừng gà cho cậu.

    Tiếng “cậu”, má tôi nói thật ngọt ngào. Ở từ môi một người đẹp như má tôi, tiếng “cậu” thật có giá trị. Ba tôi ngoan ngoãn đi lên phòng thay áo cũng phải.

    Trong bữa ăn, má tôi nói chuyện êm đềm.

    - Tối thứ Bảy cậu định đi xem Đại nhạc hội hay Yến Hương?

    - Yến Hương là cái gì?

    - Là tên gánh hát chớ gì.

    - Gánh hát gì lại tên là Yến Hương

    - Ủa? Tên người ta, người ta có quyền tự do đặt mà.

    - Tự do cái gì lạ vậy? Gánh hát thì phải Kim Chung, Kim Chưởng, Thanh Minh, Thanh Thinh… chớ ai lại Yến Hương?

    Má tôi biết là óc của ba tôi còn bị đầu độc bởi sự bất bình lúc nãy, nên bà gắp thịt bỏ vào bát ba tôi vừa mời:

    - Cậu xơi món thịt bò thui nầy xem. Hàng này ngon nhất chợ đấy.

    Ba tôi gắp thịt chấm vào tương, nhai chầm chậm nghiêm trang như để nghiệm xem lời khen của má tôi có đúng không. Ông im lặng ăn luôn một thôi ba, bốn miếng. Chắc là đang tìm một tĩnh tự nào thật thích đáng để tặng cho món thịt bò này. Chúng tôi nhẫn nại đợi. Chợt ông đằng hắng to như để vội đánh lui một mảnh tương đi lộn qua thanh quản rồi khề khà nói:

    - Mấy con gà hàng xóm…

    Tôi trố mắt lên nhìn em tôi. Em tôi đưa mắt nhìn sang má tôi.

    - …mình không ném đá cho nó sợ thì nó hay dể ngươi lắm. Cũng như người vậy. Nhưng chẳng lẽ đường đường như tao mà lại đi cầm đá ném gà? Chúng mày, - đến đây ông quay nhìn chầm chập vào mặt anh em tôi, - chúng mày ném đá thì phải phép hơn tao. Bởi chúng mày nhỏ.

    Tôi nói:

    - Nhưng gà nhà mình cũng hay sang bươi móc bên vườn nhà láng giềng.

    - Thì bay phải gọi về. Có ai thích để vườn mình bị bươi chải bởi gà hàng xóm đâu?

    - Nhưng súc vật thì chúng nó biết gì? - Má tôi nói.

    - Sao lại không biết? Không biết sao khi đang bươi móc mà thấy bóng tôi là con gà nào cũng vội vã bỏ chạy, mồm la quang quác?

    - Đó không phải là do những cảm tình tốt chúng dành cho cậu.

    - Biết rồi. Nhưng tốt hay xấu tôi không cần, miễn là chúng đừng làm tôi khó chịu.

    Tôi thấy không khí giữa ba má tôi đã có phần căng thẳng. Tôi vội can thiệp:

    - Sao ba lại không thích gà nhỉ? Tính ba hay yêu chim chóc lắm mà. Con còn nhớ câu chuyện ba kể rằng ngày xưa ba đã lỡ bắn chết một con chim đang tha mồi…

    - Tao nói tha rác chớ đâu phải tha mồi.

    - Vâng, thì tha rác. Ba nhắm bắn trúng nó…

    - Mày kể sai rồi. Tao đâu có nhắm?

    - Chớ sao?

    - Tao bắn bậy mà trúng.

    - A! Tài ghê - em tôi nói chen vào - Ba bắn bậy mà trúng, còn con, nhắm hàng giờ mà bắn vẫn sai. Mà nào phải bắn chim nhỏ đâu, nhắm bắn vịt mà vẫn sai đó.

    “Vịt hay gà thì cũng như nhau” tôi nghĩ. Thằng này ngu quá, mình khó khăn lắm mới lái câu chuyện sang một ngõ khác thế mà nó lại kéo đâm sầm trở lại vào sân gà vịt. Đúng y như tôi dự đoán, ba tôi quay sang nó.

    - Bắn vịt mà vẫn không trúng thì dở quá. Con vịt chậm chạp đờ đẫn hơn con gà nhiều.

    Tôi lại phải ra tay can thiệp:

    - Nhưng mà ba này, rồi ba ăn thịt con chim ấy hay ba đem chôn nó?

    - Ba ăn thịt. Và đó mới chính là điều làm ba ân hận mãi.

    - Ba kể lại câu chuyện cho con nghe đi.

    Ba tôi ngần ngừ một lát. Dường như ông tỏ ý nghi ngờ thiện chí của tôi nên cuối cùng ông nói:

    - Tụi bay nghe hàng trăm lần câu chuyện ấy rồi. Vả lại, con gà khác xa con chim lắm. Con chim hiền lành ngây thơ, chớ không như con gà thực tế và đôi khi thô lỗ.

    - Con gà sao lại thô lỗ? - Em tôi hỏi.

    - Chớ sao lại không? Đã lẻn vào ăn vụng trộm ở vại nước nhà người ta vậy mà con gà mẹ vẫn túc con đĩnh đạc đàng hoàng và con cồ vẫn mời mọc ve vãn xung quanh những con mái. Không biết tội của mình, trái lại còn phô trương…

    Ba tôi còn đang tìm chữ để tiếp, thì má tôi nói:

    - Tính con vật nó tự nhiên.

    - Nhưng sao khi thoáng thấy bóng tôi thì nó lại ba chân bốn cẳng mà chạy? Như vậy thì sao gọi là tự nhiên được?

    Thế là má tôi bí. Mỗi lần phải cãi lý với ba tôi là thế nào má tôi cũng vội vã chịu bí. Lần này bà liền trả thù bằng cách gắp một miếng thịt bò thật to, chấm đầy tương rồi bỏ vô chén bà, thay vì đặt vào chén ba tôi. Em tôi nói:

    - Như vậy nghĩa là nếu con gà hàng xóm vừa lấm lét nhìn vừa mổ thức ăn thì ba sẽ bằng lòng?

    - Có lẽ như vậy. Ít nhất nó cũng phải tỏ ra rằng nó biết lỗi.

    - Nhưng ba vẫn thích con Lời ném một viên đá thật to vào con gà phải không?

    Ba tôi cười liền, không dấu diếm:

    - Chính lời mày hợp ý tao. Chỉ cần một viên đá là mọi việc êm thấm hết. Nhưng mà này, sao con Lời nó tiết kiệm những viên đá như vậy hè? Tại sao, tụi bay có biết không? Tao tưởng vào tuổi nó thì ném đá là một cái thích chớ. Tao nhớ hồi nhỏ tao mê ném đá lắm, đụng chỗ nào cũng ném được, ném vào chó vào gà nhà người ta, vào bụi cây, vào mặt sông, vào bờ ao, ném cả lên trời nữa.

    - Tại ba là con trai còn Lời nó là con gái.

    - Thế dễ thường hai đứa bay cũng là con gái hết? Con trai 10 tuổi, 12 tuổi không phải sinh ra để sợ ma, để đứa ở dẫn đi tiểu.

    Chúng tôi rụt cổ lại, ngồi ăn không nói vừa lẻn đưa mắt nhìn nhau cười ngầm. Những con gà thật báo hại. Giá chúng nó chìa mặt ra đúng vào lúc này thì tôi và em tôi sẽ mỗi đứa năm bảy hòn sỏi, ném vung tới, chết thôi.

    Trưa hôm sau vẫn theo lệ thường ba tôi ghếch xe đạp lên hiên và cuộc hội thoại thường kỳ bắt đầu:

    - Lời ơi, mày có nhớ coi gà không ?

    - Dạ thưa có.

    - Gà hàng xóm có tới phá không ?

    - Dạ thưa không.

    Ba tôi bằng lòng, lẳng lặng đứng tháo cái mũ Đài Loan thì chợt có tiếng “kéc ke ke” ở sân sau đưa tới. Thôi nguy rồi. Đúng là con gà cồ nhà thằng Hai vừa chui khe rào qua lúc nãy. Ba tôi thoăn thoắt đi vòng ra sau. Ông bắt gặp con gà sớn sác đứng nhìn ông bỡ ngỡ như nhìn một người khách lạ. Trông bộ nó vừa nghiêm trang oai vệ vừa ngớ ngẩn buồn cười. Cái mào đỏ chóe cắt răng cưa phe phẩy qua lại dịu dàng mỗi khi con gà làm một cử động nhỏ. Mà nó thì cử động không ngừng. Toàn thân là gân, là bắp thịt nên nó không chịu đứng yên. Cặp giò cao hết bới đến rảy. Rồi cái cổ cúi bên này, vục bên kia, cặp mắt láo liên, cái mặt ngẩng qua nghếch lại. Bộ lông màu hung đỏ láng mướt đẹp rực rỡ nhưng lũ thằng Hai vặt hết lông đuôi thành ra đầu đuôi không cân xứng. Nó thiếu thốn, nó ngượng ngập, nó chênh vênh thế nào ấy. Y như một bài luận có cái nhập đề hào hoa (như cái mào của con gà vậy), có cái thân bài vững vàng nhưng thiếu mất phần kết luận. Và trông ngược trông xuôi tôi vẫn có cảm tưởng như đang nhìn một người mặc áo sơ-mi thắt ca-vạt, choàng vét-tông, đội mũ Mossant mà chưa kịp mặc quần.

    Con gà thiếu thốn ấy đang nhìn ba tôi. Chừng như trên mặt ông có tỏa ra đằng đằng sát khí nên con gà vụt bỏ chạy. Ba tôi rượt theo. Nó chạy dọc theo ranh rào. Ba tôi ném một viên đá. Hụt! Con gà hoảng bay vụt trở lại. Ba tôi quay lui theo. Thêm một viên đá ném tới. Lại hụt! Con gà gia tăng vận tốc và vừa chạy vừa ném trả lại sau những tiếng cục tác giận dữ. Chạy đến gần cổng, tôi tưởng nó mừng mà thoát ra nào ngờ nó chạy trở lui. Thật ngu dại một cách đáng giận, tôi nghĩ. Có lẽ màu sáng của một khung đất trống làm nó nghi ngờ. Ba tôi lại ì ạch chạy theo. Ý chừng đã thấm mệt nên chân trái hơi khuỳnh ra. Vừa đuổi đến sân sau thì đầu ông bị ngáng vào dây phơi áo. Cái mũ Đài Loan rớt đánh “bộp” xuống nền xi măng. Ông đứng lại cầm nắn cái mũ vừa xuýt xoa tìm xem có bị vết nứt không. Ở góc rào, con gà cũng đứng lại chờ. Cái mào đỏ lắc lư uyển chuyển.

    Má tôi ở nhà ngang bước ra, vỗ tay mấy cái và la “ùi ùi”. Con gà nhìn nhớn nhác rồi chui lọt vào khe rào, chạy mất. Bà bước lại cầm cái mũ trên tay ba tôi, xem xét một hồi rồi nói:

    - May chưa bể. Thôi, cậu thay áo rồi ra rửa mặt.

    Những ngày tiếp theo, gió Bấc thổi ngược, gà bị dịch nhà nào ở nhà nấy, không còn ham phiêu lưu nữa. Chúng đứng cú rũ, thỉnh thoảng ngã chúi xuống như anh chàng ngủ gục. Lông lá xù ra. Cứt trắng dính bê bết ở lông bụng. Có con đi đếm bước ở ven rào, cổ rụt vai nhô và cánh kéo lè phè trông như ông cụ mặc áo tơi lá. Thế là ba tôi đỡ vất vả trong công việc săn đuổi và con Lời cũng yên tâm khi phải trả lời “Dạ thưa có” và “Dạ thưa không”.

    Sau đó không biết chừng bao lâu, một buổi trưa kia thay vì vào giường nghỉ sau bữa cơm, ba tôi lúi húi kiếm tìm món gì đó ở chái hiên sau. Má tôi nằm ở ghế bố thiu thiu ngủ, tờ báo hàng ngày trải bên cạnh. Hai anh em tôi nằm ở đi-văng học bài chiều. Buổi trưa nồng nực. Nắng vàng như mật ong.

    Chợt có tiếng đá ném đánh “đụi” một cái nặng. Tiếp theo là tiếng gà la “quác”. Rồi một tiếng đá ném “đụi” tiếp nữa. Lại một tiếng “quác” to hơn. Sau đó là tiếng con Lời la lớn:

    - Chết rồi, cậu ơi, cậu ném chết con gà của mình rồi.

    - Con gà nào của mình? - Giọng ba tôi.

    - Con gà của mình chớ của ai? Mợ mới mua hồi sáng. Mợ cột chân nó vào thanh củi để đứng ở bụi chuối.

    Anh em tôi nghe có chuyện lạ vội bỏ sách nhảy ra.

    Ba tôi trên tay còn cầm một cục gạch - à, ném bằng gạch cẩn thận chớ không phải bằng đá như tôi tưởng - và chắc đang chuẩn bị để ném bồi một phát nữa thì bị con Lời làm cụt hứng. Tôi chạy lại bụi chuối.

    Con gà cồ tía nằm dãy đành đạch, cái mỏ ngáp ngáp. Chân nó bị cột bằng một sợi dây vào thanh củi khá lớn. Chắc vì nó đang đứng giữa một đám lá ngải cứu nên ba tôi không phân biệt được một con gà bị tù tội xiềng xích với một con gà tự do. Quả thật vậy, vì liền đó ba tôi giải thích:

    - Tao đâu có thấy cái dây cột chân? Tưởng con gà của ai sang bươi phá. Tao vung tay đuổi, nó không thèm chạy còn nghếch cái mặt nhìn. Có gà ai mà lại tự thị như vậy chưa? Hỏi làm sao mà tao nhịn được ?

    Tôi lại rờ con gà. Nó đập cánh, quơ chân lia lịa để tránh tôi. Ức nó dính bết máu. Tôi nói:

    - Ba ném tài ghê. Trúng ngay cái ức.

    Em tôi họa theo liền:

    - Không ngờ ba cũng là xạ thủ có hạng, anh nhỉ? Chưa học trường Võ bị Liên quân Đà Lạt mà đã…

    - Cú đầu trúng ức, cú sau trúng bụng. Thế là hai bàn trắng không gỡ.

    Má tôi lê dép xềnh xệch bước ra. Bà nói:

    - Đem con gà lại đây cho má coi nào.

    Tôi lật đật bê con gà trên hai tay. Cái cổ nó ngoẹo xuống. Em tôi vội vàng chạy lại bê luôn cái thanh củi đi theo sau. Sợi dây nối liền hai chúng tôi. Trong thâm tâm, chúng tôi cố ý bày vẻ linh đình như vậy để tạo một quang cảnh “bi hài” cốt chế diễu ba tôi. Nhà thiện xạ không may mắn bị chạm tự ái thật. Ông gắt:

    - Tao biết tụi bay mà… Sướng lắm.

    Chúng tôi lén đưa mắt cho nhau, rồi che miệng vào cánh tay cười khúc khích. Má tôi cất tiếng gọi to:

    - Lời ơi! Thôi, bắc nước sôi đi con.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 05.12.2012 09:23:21 bởi hai1957 >
    #32
      hai1957 08.12.2012 16:44:25 (permalink)
      5. BÊN ĐẬP ĐỒNG CHÁY (đã có trong TV)
      6. CHỐNG BIỂU TÌNH



      Vừa thấy ông Bạch bước vào phòng giáo sư, - chưa kịp bỏ mũ, - ông Tuấn hỏi ngay:

      - Sao? Tình hình ra sao?

      Ông Bạch nhún vai:

      - Còn rối lắm. Chưa yên được.

      - Thái độ của ông Tỉnh trưởng?

      - Cũng như của Chính phủ. Chưa có thái độ gì rõ rệt. Muốn biểu tình thì cứ để tự do cho mà biểu tình. Chỉ cần quân đội canh gác ở các công sở quan yếu như tòa Tỉnh trưởng, đài phát thanh, ty Thông tin, ty Bưu điện, ty Ngân khố. Cứ kéo vài vòng dây kẽm gai rồi đặt quân đội đứng chĩa súng nhìn ra. Cắm một tấm bảng chữ đỏ “Ranh giới quân sự, cấm vượt qua”.

      Có tiếng xe gắn máy nổ rầm chạy từ cổng trường vào đến hiên. Rồ ba bốn tiếng điếc tai rồi mới chịu im. Trong tiếng xe nổ như có lẫn lộn sắt vụn xáo trộn. Không ai lầm lẫn tiếng xe của ông Cương.

      - Đợi anh Cương vô hỏi thử. Ảnh hay có những tin đặc biệt, - lời ông Bạch.

      Ông Cương có đủ thì giờ để chụp cái mũ ni lông lên móc. Tháo cái gương đen to như gương phi công bỏ vào cặp. Kéo ghế ngồi chững chạc.

      Ông Bạch và ông Tuấn ngồi im lặng đang nghĩ gì đâu đâu. Làm thầy giáo thì có nhiều điều để lặng yên suy nghĩ lắm. Chẳng hạn sức hút thủy triều của mặt trăng, phải căn cứ theo định luật vật lý nào mà giảng? Chẳng hạn đã cuối tháng rồi mà cột điểm dành cho môn dạy của mình còn trống toang, phải làm sao mà lấp kín trong hai giờ. Chẳng hạn đêm trước mắc khách bài chấm chưa kịp, lát nữa phải giải thích cách nào cho xuôi, chẳng lẽ cứ đỗ thừa hoài cho nạn cúp điện.

      Ông Cương đưa cặp mắt nghi kỵ nhìn hai người bạn. Sao ngồi im như hến thế kia? Ông đâu có ngờ rằng chính ông sắp mắc bẫy. Bạch và Tuấn biết tính ông ba hoa không thể cất giấu một tin tức nào vừa nghe được nên họ làm bộ không lưu ý đến ông. Đợi ông tình nguyện nói ra. Và quả đúng như vậy, như một con cuốc xăm xăm bước trọn hai chân vào bẫy, ông Cương bình tĩnh rơi gọn vào trận đồ của họ:

      - Tình hình lộn xộn quá, hỡ hai anh. Bữa nay sẽ có biểu tình nữa. Tám giờ thì đoàn biểu tình sẽ xuất phát từ trường công lập Trần Hưng Đạo. Hai trung đội biệt động quân đã có lệnh trấn đóng ở góc đường Hoàng Hoa Thám - Bá Đa Lộc và góc Bá Đa Lộc - Tô Hiến Thành.

      Ông Bạch làm bộ không lưu ý lắm:

      - Chắc gì có biểu tình thật.

      - Sao lại không chắc. Tòa Tỉnh đã được báo cáo từ chiều hôm qua.

      - Như vậy là sáng nay mình được nghỉ? - ông Tuấn hỏi.

      - Được nghỉ hay “bị” nghỉ? Mình dạy trường tư mà cứ được nghỉ kiểu này thì coi như nghỉ dài hạn không lương.

      - Coi chừng. Nói nho nhỏ một chút. Ở đây tai vách mạch rừng. Lực lượng biểu tình sẽ hỏi tinh thần cách mạng của anh cao tới đâu? Tới rún hay tới đầu gối.

      Vừa lúc đó ông Đồng, giáo sư Lý Hóa nhẹ nhàng bước vào phòng không ai kịp lưu ý. Ông kéo mạnh chiếc ghế làm ba người giật mình tưởng như mấy tấm vách đang vểnh tai lên.

      - A! Anh Cương - lời của ông Đồng - sao mà đường cái nghẹt cả Biệt động quân và xe Cảnh sát vậy? Có chuyện gì vậy anh?

      - Thì anh hỏi ngay Cảnh sát, sao lại đi hỏi tôi? Tôi cũng như anh, tôi đâu có biết?

      - Thôi mà, làm bộ hoài. Biết gì nói cho anh em nghe với mà.

      Ông Cương cười hì hì.

      Hai cô giáo tới cùng một lượt, cô Nhung, cô Hoa. Hai cô chưa chồng nên thường đi cặp với nhau cho có bạn. Hai cô tháo bỏ găng tay vừa lắng tai nghe ông Cương.

      - … Đoàn biểu tình sẽ xuất phát từ trường Trần Hưng Đạo. Họ sẽ lần lượt dẫn tới trường Việt Anh, rồi trường Trí Đức, trường Nữ Trung học…

      - Họ có tới trường mình không anh? - lời ông Đồng.

      - Không bỏ sót đâu, anh đừng lo.

      Cô Nhung mở to đôi mắt như con nai, ngây thơ hỏi:

      - Vậy mình làm sao hở thầy?

      - Cái đó thuộc thẩm quyền của ông hiệu trưởng. Tôi biết đâu mà dám bày cô?

      Cô Nhung xuýt xoa khe khẽ, rỉ vào tai cô Hoa:

      - Chết chết! Họ kéo tới trường mình. Mình làm sao, chị?

      Cô Hoa bĩu môi “xì” một tiếng.

      - Thì mình cứ tùy cơ ứng biến. Học sinh họ muốn ra thì mình cứ để cho họ tự do ra.

      Nếu cô Hoa là đàn ông thì tưởng cô Nhung khỏi cần đi tìm chồng ở đâu xa, cứ ưng ngay người cùng đi một đường với mình đó. Cô Hoa có cốt cách của một người đàn ông. Mạnh bạo, dứt khoát, quyết liệt. Nhung thì trái lại lúc nào cũng nhẹ nhàng, nhút nhát, run sợ.

      Ông Thành, ông Lâm đi tới trễ, vội ném cặp lên bàn, lại bình trà rót chén trà sớm. Trong khi đó, ông hiệu trưởng lững thững bước vào.

      - A! Có ông hiệu trưởng đây, - ông Cương lớn tiếng nói, gần như la lên. - Lát nữa đoàn biểu tình sẽ đến trường mình.

      Ông hiệu trưởng cười nửa miệng. Ông không có dáng cảm động và điều đó làm ông Cương cụt hứng. Cái nguồn tin tức sốt dẻo đó bị tắt tị bất ngờ.

      Ông hiệu trưởng kéo một hơi thuốc lá dài rồi chậm rãi nói:

      - Tỉnh có điện thoại mời ông hiệu trường và ông giám học trường Trần Hưng Đạo xuống nhận chỉ thị hồi chín giờ tối.

      Hồi chín giờ tối? Nhận chỉ thị hồi chín giờ tối? Chi tiết này quan trọng đây và nó treo mọi cặp mắt chong vào miệng ông hiệu trưởng. Sẽ có chuyện hồi hộp xảy ra.

      Có hai đấu thủ đang gầm gừ trổ những ngón độc để hạ nhau và người bàng quan cảm thấy sự thong thả được đóng vai khán giả. Ít nhất trong giây phút này cũng có người bỗng dưng thấy bằng lòng trọn vẹn số phận của mình, số phận tầm thường của một người có chữ nghĩa đi làm công để sống qua ngày. Không còn có sự so bì giữa một chiếc xe gắn máy nổ to như sắt vụn bị xóc với một chiếc Cadillac sơn đen có tài xế đội mũ cát-két ngồi chểm chệ nơi tay lái.

      Ông Hùng, ông Sinh giáo sư Toán, ông Phương, ông Thịnh, cô Mỹ Hạnh giáo sư Việt văn, cô Tâm, ông Phiên giáo sư Công dân Sử địa cùng đến một lượt, bao vây ông hiệu trưởng ở vòng ngoài.

      - Thế tòa Tỉnh chỉ thị thế nào, thầy có biết không? - Cô Hoa hỏi.

      - Tòa Tỉnh báo tin cho hiệu trưởng và giám học biết chương trình biểu tình sáng hôm nay. Tòa Tỉnh lại chỉ thị cho hiệu trưởng và các giáo sư phải giữ cho học sinh ngồi trong lớp. Không cho học sinh đi ra.

      Ông Thành lắc đầu:

      - Khó lắm! Khó lắm!

      Ông Đồng:

      - Đó là nói trường công. Học trò trường công sợ kỷ luật vì học ở trường công khỏi mất tiền. Còn học trò trường tư phải đóng học phí nên họ đâu có sợ kỷ luật. Trường này có đuổi thì qua học trường khác.

      - Chỉ thị đó được áp dụng cho hết thảy các trường công và trường tư. Ông hiệu trưởng Trần Hưng Đạo đã vội cho công văn hỏa tốc đến các trường tư từ hồi hôm.

      - Thế nghĩa là mình cũng phải giữ cho học sinh ngồi trong lớp? - lời ông Tuấn.

      Ông hiệu trưởng gật đầu và mọi người im lặng. Cô giáo Nhung thở dài. Giữ cho một lớp nam sinh ngồi lại trong lớp giữa tiếng cổ võ thúc giục bên ngoài thì thật là một điều quá khả năng của cô. Sách vở chỉ dạy công thức Toán, công thức Hóa học, phương pháp giải đề thi chớ không hề dạy cách giữ học sinh khỏi đi biểu tình. Đã vậy, sáng nay cô lại rơi nhằm vào lớp đệ Tứ III ồn ào nghịch ngợm, quấy phá nhất trường.

      Ông Cương đăm chiêu suy nghĩ hơn. Vì hôm nay phát bài tập mà bài tập ông chưa chấm xong. Ông cứ đinh ninh như những kỳ trước: hễ có đoàn biểu tình đi qua kêu gọi, cán bộ nhảy vào tuyên truyền là học sinh xếp sách vở đứng dậy bỏ lớp, bỏ thầy giáo và bảng đen ở lại. Thầy giáo chịu bất lực. Vả lại, sống trong một giai đoạn có quá nhiều cuộc cách mạng, quá nhiều cuộc đảo chánh và chỉnh lý, mới đọc bản hiệu triệu của lực lượng biểu tình đó thì đã phải đọc hiệu triệu của lực lượng chống biểu tình, rốt cuộc con người đâm ra dè dặt nghi kỵ. Cứ “để cho người ta làm và đợi xem đã”. Chỉ tội thân cho ông Cương, lần này ông được biết tin biểu tình sớm hơn mọi người, biết đích xác rõ ràng nên để tự thưởng một thành tích hiếm có như vậy ông đã, thay vì ngồi cầy cục chấm bài, hồi hôm rong xe đi phố tìm địa chỉ một người bạn gái vừa bỏ làng di cư ra ở ngoại ô. Thời thế biến chuyển khó lường, chủ trương của chính quyền thay đổi từng giờ một, không thể nào dự đoán được. Mới mềm dẻo hôm qua hôm kia, bỗng nhiên sáng nay trở nên cứng rắn. Làm như chỉ cốt để bắt bí ổng chơi.

      Ông Hùng đưa bàn tay vuốt tém mái tóc ra đằng sau, nói:

      - Nhưng liệu có giữ được học sinh không ? Chính quyền không có chủ trương dứt khoát. Ở trên quân Diên Khánh học sinh mấy trường Trung học cũng biểu tình tự do, quận trưởng chỉ cần cho đóng cửa quận đường lại.

      - Chính phủ trung ương còn đang tìm biện pháp. Còn ở các địa phương thì cứ chờ lệnh của cấp trên. Chính quyền cấp dưới dè dặt như vậy là khôn. Ra tay đàn áp, nếu yên việc thì cũng chưa chắc đã được thăng thưởng mà nếu xảy ra chết chóc thì muôn tội đổ lên đầu mình. Kinh nghiệm của các Chính phủ trước còn đó. Cứ đổ tội cho cấp trên ra lệnh, nhưng lệnh lạc không phải ra bằng miệng mà phải có giấy tờ làm chứng.

      - Mình cũng đã có lệnh của cấp trên rồi đó.

      Ông hiệu trưởng lắc đầu.

      - Chưa có gì rõ ràng. Chỉ thị của tỉnh chỉ ra bằng miệng và chỉ dặn, “cố gắng giữ cho học sinh ở trong lớp”. Nếu cố gắng mà không hiệu quả: học sinh cứ ra thì lúc đó Chính quyền sẽ làm gì? Điều đó không thấy nói.

      - Chính quyền sẽ quở ông hiệu trưởng, khiển trách các giáo sư.

      Ông Phương cười:

      - Như thế thì quá dễ.

      Ông hiệu trưởng nhìn xuống đồng hồ.

      - Mấy ông cố gắng làm theo chỉ thị. Cả mấy cô nữa. Gắng chừng nào không kết quả hãy hay.

      Tiếng kiểng gõ mạnh, khoan thai nhịp nhàng của ông cai. Hoặc là ông chưa biết gì hết về cái số phận của buổi học sáng nay nên ông vẫn còn tin đầy đủ ở hiệu năng tiếng kiểng của mình. Nhà độc tài, cho đến phút chót, còn tưởng quần chúng đến bao vây là cốt để hát bài suy tôn mình. Hoặc là ông đã biết học sinh đang coi nhẹ kỷ luật nên ông cố gắng tạo một vỏ ngoài tràn đầy tin tưởng vào kỷ luật. Những người sợ ma thường dậm mạnh chân, vỗ tay to vừa ca hát khi đi qua những đoạn truông rậm rạp.

      Khi ông cai nặng nhọc mở bẹt cánh cổng ra thì ông ngạc nhiên không thấy lũ học sinh chạy ùa vào như mấy bữa trước. Cả học sinh đệ Thất, đệ Lục mà cũng đứng từng nhóm để bàn tán. Vài nhóm học sinh lớn đứng rải rác ở bên kia đường. Sự hiện diện của hai xe Cảnh sát sơn xanh đậu ở góc tư thu hút sự chú ý. Tuy nhiên sau chừng năm phút nghe ngóng mà không thấy có sự lạ xảy ra thì học sinh lần lượt vào sân.

      - Thầy ơi, sáng nay khỏi đọc bài.

      - Em chưa làm bài tập, lát nửa biểu tình - Hương và Đàn gặp thầy Lâm ôm sổ ở văn phòng đi ra, đã vội chào như vậy. Ông Lâm giả vờ ngạc nhiên:

      - Có biểu tình hả? Không thấy thông cáo mà.

      - Xì, biểu tình mà còn thông cáo. Tám giờ thì đoàn biểu tình tới. Vô lớp thầy kể chuyện trong nửa giờ thì vừa lúc họ tới. Thầy đừng hỏi bài nghe thầy? Thầy kể chuyện cho bọn em nghe.

      Ông Lâm lắc đầu.

      - Không được. Chương trình không có ghi mục “kể chuyện”.

      Cô giáo Tâm bị lũ thằng Vũ, thằng Thọ, thằng Xuân bao vây.

      - Cô ơi, sáng nay có biểu tình. Bọn em phải bỏ học giờ cô, bọn em tiếc quá.

      Cô Tâm không tin là họ nói thật. Thằng Vũ tóc chải tém bôi đầy bi-ăng-tin bóng loáng. Thằng Thọ ngậm thuốc Salem phì phèo vào giờ chơi và không khi nào thuộc bài. Thằng Xuân mang một vết sẹo nằm vắt ngang qua gò má, di tích của một nhát dao do địch thủ tặng. Ba người này phá phách nhất lớp, làm khổ cô nhiều bữa điêu đứng. Nhưng cô cũng phải nói một câu tử tế với họ:

      - Ừ. Cứ phải bỏ học hoài.

      - Thưa cô, bãi khóa vô hạn định mà, - lời thằng Thọ.

      - Sức mấy mà vô hạn định? - Thằng Xuân cãi lại.

      - Đù má… thì tao thấy khẩu hiệu đề như vậy.

      Lừa lúc chúng nó đôi co với nhau không để ý đến mình, cô Tâm len lỏi đi vào văn phòng, uyển chuyển và lặng lẽ như một con lươn.

      Kiểng đánh chào cờ. Học sinh tập họp sắp hàng chậm chạp lòi xòi hơn mọi ngày, nhưng rồi đâu đó vẫn vào lớp có thứ tự.

      Ông Cương bước những bước nặng nhọc vào lớp đệ Ngũ. Học trò nhao nhao lên:

      - Thưa thầy có biểu tình.

      - Biểu tình sắp tới rồi thầy.

      - Thầy cho nghỉ đi thầy.

      Ông giơ tay ra hiệu ngồi xuống.

      Trò Thanh ngồi ở gần bàn ông, chồm lên hỏi:

      - Lát nữa mình có đi biểu tình không thầy?

      - Không, Tỉnh bắt phải ngồi học tử tế.

      Trò Dũng ở cuối lớp đứng dậy.

      - Con nghe bên trường công đi hết. Học sinh trường công cầm đầu tổ chức chớ đâu phải học sinh trường tư?

      Mai và Lệ chen nhau nói:

      - Trường Nữ Trung học lãnh phần cắt khẩu hiệu.

      - Mấy con bạn của con ở đệ Ngũ bên đó quay rô-nê-ô truyền đơn. Lát nữa phát.

      Ông Cương “ờ ờ” lấy lệ, chậm chạp mở sổ. Hà bị kêu lên đọc bài đầu tiên. Không thuộc.

      - Thưa thầy con không có học bài. Con nghe nói hôm nay… nghỉ.

      Dung cũng không thuộc. Ông kêu qua phía con trai. Tịnh, Hành, Mộc đều xuýt xoa đứng lên ngồi xuống. Ông im lặng lấy phấn, bước lại bảng đen. Biên đầu đề bài mới.

      - Thưa thầy hôm “lay” nghỉ.

      Rõ ràng là tiếng la to của thằng Bổng, ở cuối lớp, ông Cương dẫu không quay nhìn xuống nhưng không thể lầm được. Nhưng ông làm như không nghe gì hết, cứ bình tĩnh giảng bài:

      - …Nhiều đường thẳng song song định trên hai cát tuyến các đoạn thẳng đối ứng tỉ lệ. Thí dụ các đường thẳng song song AA’, BB’, CC’ và DD’ gặp các cát tuyến X’X và Y’Y ở các điểm…

      Không khí nghiêm trang được chừng mười phút. Bỗng vang lên từ ở ngoài cổng trường:

      - Mì lạt, mì ngọt. Bánh cam, bánh tiêu, bánh bò. Bi ngon ngon, bi dòn dòn. Mì mì…

      Ba bàn nữ sinh cười rồ lên. Anh hàng bán bánh kẹo này không biết ở từ đâu tới mà có một điệu rao đặc biệt khiến ai cũng chú ý. Rao dài dòng, lảnh lót, lên bổng xuống trầm, như dồn tất cả sinh lực và nghệ thuật và tâm hồn của anh vào tiếng rao. Anh chàng chừng hai mươi tuổi, mắt ti hí, ngồi trên yên xe đạp, ở trước mặt chễm chệ một thùng bánh, và sau lưng cũng chễm chệ một thùng bánh khác. Anh chàng rao luôn miệng, to tiếng không biết mệt, có khi xe khuất dạng qua một phố khác mà tiếng rao vẫn còn lảnh lót. Có một làn hơi thiên phú như vậy mà chỉ để rao bánh kẹo thì thật uổng. Đáng lẽ để làm thầy giáo giảng bài hay làm ca sĩ tân cổ nhạc.

      - Mì lạt, mì ngọt… Bi ngon ngon, bi dòn dòn…

      Lại một tràng tiếng cười to rộ lên.

      - Thằng “bánh mì kẹo bi” nó có duyên với thầy, - trò Nghị nói. - Hễ sáng thứ Năm cứ tới giờ thầy là nó đi qua rao inh ỏi.

      Ông Cương gõ lọc cọc chiếc thước gỗ lên bảng đen rồi nhẫn nại giảng tiếp:

      - Định lý trên không phụ thuộc vào vị trí các đường thẳng song song đối với hai cát tuyến. Trong hình này ta có thể vẽ từ giao điểm C của hai cát tuyến…

      Chợt có tiếng máy phóng thanh từ xa oang oang nói tới. Tiếng nói nghe không rõ, chỉ nghe tiếng máy ho hen rồn rột rồi rú lên từng hồi. Có tiếng hô khẩu hiệu. Ở bên trường Nữ Trung học, nổ lên hai tiếng pháo tống. Học sinh nhao nhao lên. Tiếng giảng bài của ông Cương bị nuốt đi như con suối nhỏ rơi vào đại dương.

      Trò Phong và trò Mừng vỗ vai nhau cười rồi nhìn lên bảng:

      - Đó, con nói có sai đâu. Bên trường Nữ đã đứng dậy rồi đó.

      - Anh chị em yên lặng. Chúng ta phải học cho hết giờ. Tòa Tỉnh bảo học sinh phải ngồi trong lớp học.

      Không còn ai nghe tiếng nói của thầy Cương. Mà chỉ nghe tiếng hô khẩu hiệu mỗi lúc một rõ. Nhiều khuôn mặt lấp ló ở cửa cổng. Nhiều người đứng tụ họp ở đó từ bao giờ. Xe phóng thanh rồ máy dừng lại. Nhiều học sinh ngồi ở bàn sau đứng lên nhìn.

      Ông Cương rời bục đi xuống cuối lớp.

      Chợt cửa cổng trường bị đẩy bật ra. Đoàn biểu tình tràn vào sân. Một người chạy xăm xăm lại cầm dùi sắt xổ kiểng. Tiếng gõ mạnh và hấp tấp quá làm thanh kiểng chao đi, nghiến vào dây cọt kẹt làm người xổ kiểng gõ hụt mấy tiếng. Cọ tre và lon sơn đỏ múa may ở mặt tường. Trong nháy mắt, những dòng chữ to “Bãi khóa! Chúng tôi bãi khóa vô hạn định” hiện ra, màu sơn đỏ ướt lóng lánh như máu.

      Một đoàn người đứng thành vòng trước cửa lớp. Tiếng gõ cửa lộp cộp. Ông Cương bước ra. Một người trong đám tiến đến chào ông và trình bày những gì ông chưa kịp nghe thì đoàn còn lại ùa vào lớp. Ông Cương bị mắc mưu điệu hổ ly sơn rồi. Nên ông chăm chăm nhìn người thuyết trình đang huơ tay nói trước mặt ông mà tai thì lắng nghe những lời cổ võ ở đằng sau lưng ông, trong lớp.

      - Đứng trước tình hình… không thể điềm nhiên ngồi học được… Truyền thống dân tộc… Lê Lợi Quang Trung Bà Trưng Bà Triệu… Truyền thống anh dũng… Tổ quốc Việt Nam…

      Có tiếng lào rào, lách cách, tiếng chân quờ quạng tìm guốc, tiếng vành nón gõ xuống mặt bàn, tiếng cặp sách kéo lê. Rồi tiếng chân người di chuyển. Ông Cương quay lại nhìn vào lớp. Đa số học sinh đã rời bỏ chỗ ngồi của họ. Họ lũ lượt đi ra. Ông Cương nhìn lại mình, thấy mình nhỏ bé như một cọng rạ giữa dòng nước lũ. Không thể dùng lá bùa “Tòa Tỉnh cấm” để trấn áp họ được. Cọng rạ tự dạt mình ra một bên và cái thác người đó tràn ra cửa, chan hòa với những dòng thác khác cũng từ các cửa tràn ra. Đoàn biểu tình tập họp trở lại, đông đảo mập mạp hơn hồi mới tới, ào ào tuôn ra ngõ cổng.

      Còn lại là cửa lớp mở toang, bàn ghế trống vắng. Và những nữ sinh nhút nhát trốn núp ở sân sau, không dám đi vào đoàn biểu tình. Và những thầy giáo bại trận ôm cặp, ôm sổ lững thững đi về văn phòng.

      Cô Mỹ Hạnh hỏi ông Cương:

      - Tôi tưởng chỉ bên tôi mới chịu bất lực. Lo quá. Ai ngờ bên thầy cũng vậy.

      Ông Cương cười khì.

      - Chịu thua họ. Tụi họ khôn quá, mời mình ra ngoài.

      - Uở? Bên lớp anh cũng theo kế hoạch đó sao? - lời ông Thành.

      - Ở đâu cũng một kiểu, - ông Đồng cướp lời.

      Mọi người lại tập họp xung quanh ông hiệu trưởng. Ông đang đứng chắp tay sau lưng nhìn hành lang heo hút.

      - Đoàn cán bộ toàn là học sinh bên Trần Hưng Đạo. Trường công mà họ còn giữ chưa được.

      - Mình không thể bảo hoàng hơn vua được. Quân đội còn phải chịu án binh bất động huống chi là mình chỉ có bút nguyên tử đỏ.

      Cô Hoa hỏi ông hiệu trưởng:

      - Thưa ông, chiều nay vẫn đi dạy như thường lệ?

      - Như thường lệ, - ông hiệu trưởng gục gặc đầu. - Mình cứ làm bổn phận của mình.

      - Bây giờ mình có thể giải tán? - lời ông Bạch.

      - Vâng. Tùy ý mấy ông.

      Tuy ông hiệu trưởng tuyên bố như vậy nhưng không có thầy cô nào về vội. Ai cũng cố ý dềnh dàng nán lại một chút để tránh cái vẻ mừng rỡ lợi dụng. Ít nhất cũng phải tỏ một chút buồn bực vì buổi học bỗng dưng bị cắt mất, một chút xót xa rằng học sinh bị tước đi những kiến thức hay mà mình định truyền cho họ sáng nay, - nhưng mình đành chịu bất lực, - một chút ân hận, một chút bất đắc dĩ… nào đó để xứng đáng là một khuôn mặt mô phạm trước những khuôn mặt mô phạm đang vây quanh… Giữa cảnh dùng dằng ngượng ngập, có thể pha chút ít sung sướng ngấm ngầm đó, chợt cửa cổng mở đánh két một cái. Mọi người quay nhìn ra. Một ông Đội Cảnh sát mũ lưỡi trai có đính phù hiệu rõ ràng, quân phục kaki vàng thẳng nếp dõng dạc bước vào. Khoảng cách cái sân rộng, bị ngốn nhanh bởi những bước đi dài. Có chuyện gì lôi thôi. Cảnh sát là sứ giả của sự rắc rối. Cảnh sát không biết báo tin mừng như nhân viên Bưu điện. Nhưng chuyện gì? Thôi chắc là chuyện học sinh đi biểu tình rồi. Chỉ thị của tòa Tỉnh không được thi hành triệt để. Mọi người tự nhiên đưa mắt nhìn ông hiệu trưởng.

      Ông Đội Cảnh sát được hướng dẫn bởi cái nhìn đó. Ông biết ai là người có trách nhiệm trong số những người đông đảo đang đứng. Ông bước thẳng tới ông hiệu trưởng. Rồi đột nhiên dừng lại, dậm chân đánh “phắt” giơ tay chào ngang mũ. Sự lễ độ nghiêm trang đúng phép tắc càng làm cho mọi người kém an tâm. Ông hiệu trưởng tiến tới một bước và các thầy cô dãn ra vài bước nhường chỗ cho người nhân viên công lực.

      Cuộc đối thoại giữa ông hiệu trưởng và ông Đội Cảnh sát. Tiếng nói nhỏ, các thầy cô không nghe rõ. Họ theo dõi nét mặt của mặt ông hiệu trưởng. Ông nghiêm trang đứng lắng nghe. Rồi chợt mỉm cười. Mỉm cười? Sao lại mỉm cười? Ông này chính trị cao lắm đây. Không thấy ông nói lại gì hết, giãi bày gì hết. Chợt ông đưa bàn tay chỉ về phía văn phòng và ông Đội Cảnh sát nhanh chân bước về phía đó sau khi đưa tay chào một lần nữa.

      Các thầy cô đứng gần lại thật mau.

      - Có chuyện gì vậy ông?

      - Lại có rắc rối?

      Ông hiệu trưởng lắc đầu:

      - Không có gì. Ông Đội đến nạp học phí cho con. Ba thằng Nguyễn Văn Ngộ ở đệ Tam B4 đó. Ông than phiền nó bỏ học đi theo cao bồi và đưa tiền học cho nó đi nạp thì nó đem tiêu bậy hết. Ông quản lý mới gởi giấy đòi học phí hai tháng còn thiếu.

      Những tiếng thở phào không cần dấu diếm. Nhiều nụ cười cởi mở chân thực.

      - Khéo lựa đúng ngày này, giờ này để đi nạp học phí!

      - Bố làm Cảnh sát mà con lại theo cao bồi…

      - Thằng Ngộ nó thông minh mà tính cũng ngoan. Mới hư từ hồi Tết năm ngoái.

      - Nói vậy chớ con nó đã muốn hư thì cha mẹ cũng chịu thua.

      - Lý luận thế không được. Bố mẹ phải chịu trách nhiệm, chớ không thể đổ lỗi vu vơ mà gọi là giải quyết vấn đề.

      Câu chuyện chuyển qua đề mục giáo dục, xa ngàn dặm đối với đề mục biểu tình hôm nay nên tới một lúc nào đó, mọi người đồng im lặng và họ giải tán một cách tự nhiên, thoải mái, khỏi có chút áy náy gì hết.

      Ông Bạch bước vội đến chỗ dựng xe, gài vội cặp xách lên poóc-ba-ga, gài cặp kiếng đen lên mắt, chụp mũ lên đầu rồi leo lên đạp nhiều vòng cho máy nổ. Ông quay sang cô Nhung đứng cạnh đang đeo găng:

      - Sẵn rảnh buổi sáng nay đi xuống chợ lùng mua một cái mền len Anh quốc viện trợ. Viện trợ cho dân bị lụt miền Trung nhưng đi từ Anh quốc sang tới đây thì mền không chịu đi nữa.

      - Mền tốt không bác?

      - Tốt không chê được. Nhẹ mà ấm, lông nó…

      Tiếng máy chợt nổ rồ lên ồn ào điếc tai khiến cô Nhung không nghe được gì được nữa. Nhưng cô cũng phải gật đầu liên tiếp, miệng mỉm cười vừa chăm chăm nhìn ông Bạch, làm như cô đồng ý hết sức về những đức tính, - mà ông tiếp tục kể, - của thứ mền len Anh quốc viện trợ này.
      #33
        hai1957 09.12.2012 17:38:59 (permalink)
        TRẦM MẶC CÂY RỪNG
        NXB Lá bối (1971)
        NXB Văn nghệ (1986)


        Mục lục :
        1. Bọt trắng
        2. Ðôi ngã
        3. Hãy đến chậm hơn nữa
        4. Những bước chân êm đềm
        5. Chuyến về Tuy Hòa
        6. Lương mai TQ
        7. Trầm mặc cây rừng




        1. BỌT TRẮNG



        Mũi tàu rẽ sóng, bọt trắng dạt ra hai bên sườn tàu, tiếng rì rào, tiếng xào xạc, bọt xáo trộn quay cuồng. Sừng sững bất động ở trước mặt là đường chân trời, là những doi núi nằm yên lặng tạo ranh giới cho cái vịnh thiên nhiên này. Ngày mai tôi sẽ rời xa nó. Tôi tham dự cuộc du ngoạn cuối cùng. Lúc nãy ông Huỳnh, trưởng đoàn bảo tôi:

        - Anh được xếp hạng riêng, khỏi ghép ở trong hàng đội, khỏi nghe tiếng còi hiệu lệnh, khỏi điểm số, khỏi báo cáo, khỏi…

        Xung quanh tôi, sáu mươi nữ sinh và gần năm mươi nam sinh, có người vừa đỗ Tú tài 2, có người vừa thi Tú tài 1 xong, có người sắp lên đệ Nhị. Họ ngồi rải rác ở mọi nơi nào có thể ngồi được. Họ đứng ở trên sàn tàu, ở mũi, ở lái, tay nắm thanh sắt vòng theo bao lơn. Minh và Trợ đứng tựa vào khẩu đại bác bốn mươi ly chĩa họng ra đàng trước mũi tàu. Áo quần đủ kiểu đủ màu. Châm, Ký, Hạnh, Nhân mặc mini-jupe (1 ) Dần, Sử, Lan, Chế Phượng mặc sơ mi ngắn bằng chỉ đan với những đường ngang màu xanh màu hồng nhạt. Cô Tống Tử Hoàng người Trung Hoa mặc áo lụa ngắn với cổ áo thêu kiểu Mãn Thanh.

        Tôi không ngờ gặp lại Vân.

        - Em năm nay học ở Nữ Trung học?

        Vân không trả lời ngay. Thấy tôi đang đợi chờ, Vân nói:

        - …

        Tiếng trả lời nhỏ bị gió thổi bay mất. Vân phải nói lại, to hơn:

        - Em thôi học rồi.

        - Để lên xe hoa?

        Vân cười:

        - Không. Em bán ở tiệm thuốc tây.

        - Sao không học tiếp? Đi làm chi sớm vậy?

        Tiếng trả lời bị gió thổi bay đi. Sóng và gió làm phiền những người con gái, bắt họ phải gào to trước mặt người đối thoại. Hả miệng và nói to không phải là nét duyên dáng của họ, mà trái lại, họ cần những nét nhỏ nhoi nhu mì, đi những bước ngắn và chậm, mỉm cười nửa miệng và tiếng nói chỉ khẽ động nửa vành môi.

        Mũi tàu lượn trên những đợt sóng, rẽ nước phăng phăng. Tôi ngồi im thưởng thức cái tài nghệ của anh em Hải quân. Chỉ huy những con tàu theo ý muốn của mình và đặt biển cả, đặt luôn cả địa cầu dưới sự thao túng ngang dọc của mình. Tôi nói thầm với một thủy thủ tưởng tượng:

        - Khoa học tặng cho anh một khí cụ tuyệt hảo là con tàu. Người bạn phi công của anh được khoa học tặng cho những chiếc phi cơ. Các anh có dịp biểu lộ tài nghệ khi sử dụng chúng. Những người yêu của các anh được mời lên con tàu, được mời lên phi cơ và họ sung sướng hãnh diện thưởng thức khả năng của khối óc và của bàn tay của các anh. Lòng kính phục làm tăng thêm tình yêu. Các bạn bộ binh chịu thiệt thòi hơn. Họ chỉ có súng nhỏ súng lớn được tạo ra với một mục đích là hằm hằm bắn tới. Tàu thủy và phi cơ thì không. Đó là những dụng cụ từng được loài người mơ ước từ những ngày hồng hoang sơ khai. Làm sao mà đi được dưới nước như cá, bay được trên trời như chim. Anh bạn quân xa được sử dụng những chiếc xe, nhưng đó không nhằm vào mơ ước của người yêu của anh. Nàng chỉ chịu ngồi Renault 8, Peugeot 404 nếu không ngồi nổi Cadillac, Chrysler. Tệ lắm thì cũng phải là Toyota. Anh bạn Tâm lý chiến thì còn nghèo hơn. Tặng cho người yêu những tập “Thông tin chiến sĩ” nhưng người yêu không thích đọc nhật lệnh và bản kê chiến lợi phẩm. Người yêu của anh khi cần giải trí thì chọn những mục trả lời thư tín, tâm sự bốn phương phụ trách bởi các ca sĩ Kim Cương, Kim Loan… minh tinh màn bạc Thẩm Thúy Hằng, Mộng Tuyền… Thế mà gian lao cực khổ là anh bộ binh. Phải giữ những cái đồn heo hút xa xôi. Phải lọt vào ổ phục kích, trọn vẹn như một bầy cá rơi gọn vào ổ lưới rùng.

        Những chiếc ca-nô sơn xanh trắng hai màu xé nước chạy vùn vụt về một phía. Ngồi trên ca-nô là những người đàn ông ở trần. Cạnh tôi, hai thiếu nữ nói chuyện với một thủy thủ. Giọng miền Nam ngọt ngào:

        - Những hải đảo này mà nghĩa lý gì hở hai cô? Tụi tôi còn đi xa, còn gặp nhiều những hải đảo ở mọi chân trời. Thế nhưng… nhưng người thủy thủ chúng tôi có một hải đảo trung thành với mình, lưu luyến không rời, đó là…

        Người thủy thủ ngừng nói, chăm chăm nhìn hai nàng:

        -… đó là hải đảo cô đơn. Chúng tôi cô đơn như những hòn hải đảo.

        Một cô, mặc áo mông-ta-gu (2 ) màu lúa chín mỉm cười:

        - Mấy anh mà cô đơn! Hễ lên bờ là quấy phá ra gì.

        Người thủy thủ:

        - Tùy từng người đó cô. Như tôi thì tiêm nhiễm sự im lặng của biển cả nên tôi trầm ngâm hơn là vui nhộn.

        Mây trắng đục dán chặt lên nền trời khiến cái nắng cũng nhàn nhạt. Gió thổi ngược với mũi tàu. Lịch vừa nhai mía vừa nói chuyện thi cử với Tâm:

        - Vừa thi xong chiều thứ Sáu. Ở Trung tâm Nữ Tiểu học nghe có giám thị đóng cửa lại để nhắc cho thí sinh.

        - Đã chắc nhắc đúng chưa? Nhiều giám thị nhắc sai. Tĩnh từ của “matin” (3 ) mà dám bày là “matinée”

        - Con An đỗ bình thứ là cái chắc. Nó đang học lớp đệ Tứ mà chẳng biết tạo được giấy tờ ở đâu để đi thi. Anh nó làm hết mọi bài rồi nhờ giám thị phòng đem trao giùm.

        - Ở phòng con Kim Chi có một thí sinh mặc quân phục đi thi. Túi quần chứa tài liệu. Súng cối, đại bác còn không sợ, sợ gì mấy cô giám thị. Những con nhện, những con chuột cũng đủ làm cho các cô ù té chạy và xanh máu mặt rồi. Vả lại, không ai ganh tị với các quân nhân.

        Từ nãy đến giờ tôi để ý đến Dung Nghi mặc mini-jupe màu light turkey (4 ) Màu áo làm cho da tay da chân thêm trắng. Dung Nghi ít nói chuyện với các bạn mà hay đứng một mình tựa tay lên thành tàu nhìn xuống sóng nước. Lúc nãy đứng đợi tàu ở Cầu Đá, tôi thấy nàng đi lang thang cạnh những chiếc cần trục. Tiếng máy nổ rì rì, cần trục cúi xuống gầm tàu rồi ngửng lên, mang những bao gạo có buộc dây sẵn vào lưỡi móc, xoay nửa vòng, lại cúi xuống từ từ bỏ gạo vào lòng chiếc xe vận tải. Những cử động chậm rãi và bền bỉ nhịp nhàng đó có cái vẻ gì giống những cử động tay chân của người lao động. Người lao động không bao giờ làm việc hối hả. Sức lực được tiết kiệm cho sự lao động kéo dài ngày này qua ngày khác. Một dãy bảy, tám cái cần trục như vậy cứ nhẫn nại hoạt động theo nhịp bình thường của chúng, nơi kia trục những bao bột, nơi khác trục những thùng gỗ to. Có một lần một bao gạo bị sút ra khỏi dây, dính lỏng lẻo chỉ ở một đầu mút. Khi cần trục xoay, bao gạo đi ngang đỉnh đầu của Dung Nghi, tôi thấy nàng vẫn bình tĩnh ngước lên nhìn. Và bây giờ đây nàng mê mải nhìn những bọt trắng bị vẹt ra hai bên sườn tàu.

        Đại úy Bá, thuyền trưởng, đứng ở đài chỉ huy lớn tiếng:

        - Xin các cô đừng nhìn xuống nước. Một lát sẽ say sóng.

        Nhiều cô rời thành tàu lại ngồi ở giữa sàn nhưng Dung Nghi vẫn đứng đó. Gió biển mát làm cho hơi thở nhẹ nhàng. Đại úy thuyền trưởng lại bàn hải trình với trưởng đoàn:

        - Gió này thì không dám cho tàu ra khơi. Các cô các cậu sẽ say sóng mửa hết.

        - Đại úy cho ra đó để họ được xem hải đăng.

        - Tôi biết họ không chịu nổi sóng đâu. Những người quen với sóng gió như chúng tôi mà cũng có kỳ say sóng bỏ ăn hàng đôi ba ngày. Khạc ra máu nữa.

        - Vậy đại úy cho tàu ghé vào đâu?

        - Có cái bãi này khá hay. Chúng ta ghé vào đây.

        Tàu quay mũi vào bãi. Các thủy thủ chạy lăng xăng, đeo ống nghe, nhận lệnh, báo cáo, lo neo, chuẩn bị dây neo. Những tiêu lệnh: cho chiều sâu… thả 30 thước… neo hướng 2 giờ… 45 độ…

        Trung úy Trang, thuyền phó bảo tôi:

        - Chúng ta đang ở một mặt biển khá lý tưởng, biển dầu. Có sóng gió hơn, chúng ta sẽ được biển 1, biển 2, biển 3, biển 4…

        - Trung úy đã gặp nhiều cơn bão lớn?

        - Nhiều.

        Giọng Phương Thảo chen hỏi:

        - Phải lật đật cho tàu chạy vào vịnh trốn phải không Trung úy?

        Trung úy Trang lắc đầu:

        - Trái lại. Những khi đài thiên văn báo tin có bão thì bao nhiêu tàu bè đang đậu đều kéo neo cho chạy ra khỏi hết.

        Phương Thảo la lên:

        - Trời ơi! Thế thì chết.

        Đại úy Bá:

        - Cô an tâm. Kinh nghiệm hàng hải dạy vậy mà. Chúng tôi phải đối phó với những trận bão ghê gớm, những con sóng 15 thước cao. Sóng mạnh quá có thể làm gãy hai con tàu.

        - Nguy hiểm vậy?

        - Có những trường hợp con tàu của mình lọt dúng vào giữa tâm bão, nghĩa là một vùng yên tĩnh hoàn toàn trong khi xung quanh sóng gió kinh khủng.

        - Thế thì tuyệt rồi. An toàn bảo đảm, - Hoa nói.

        - Không phải vậy. Phải tìm cách đưa con tàu ta khỏi ngay tâm bão. Nếu không thì nó sẽ bị cuốn hút theo cái tâm bão đó, - cô nhớ rằng cái tâm bão đó nó di chuyển, - và con tàu sẽ chạy lên đất liền luôn.

        Lài, Xỉu và Thái thích thú cười, tay quàng vào cổ nhau mà cười bởi đang tưởng tượng thấy con tàu thủy lên bờ hóa thành chiếc tàu hỏa.

        Tàu bỏ neo. Nghiệm hỏi to:

        - Đậu xa thế này thì làm sao mà vào bãi?

        Tôi nói:

        - Việc đó có ông thuyền trưởng lo.

        Còi tàu thổi “toe” lên một tiếng. Rồi một tiếng. Chẳng ai biết là hiệu lệnh gì, chỉ thấy những người đứng ngồi trước đài chỉ huy lật đật bịt tai nhăn mặt. Trước mặt chúng tôi, một ca-nô rẽ sóng phăng phăng chạy. Còi tàu lại toe lên một tiếng nữa. Rồi một tiếng súng nổ đánh “chác” trên đầu. Chiếc ca-nô trở mũi chạy về hướng con tàu. Một hạ sĩ giải thích cho Châu đứng gần đó:

        - Tàu của tụi tôi là tuần duyên đỉnh PGM, gọi nôm na là tàu tuần. Hễ nghe còi tụi tôi là ghe cộ nào cũng phải dừng lại, quay mũi lại gần để tụi tôi kiểm soát.

        - Tiếng súng bắn chỉ thiên vừa rồi chắc là lời cảnh cáo giận dữ? - Châu nói.

        Người hạ sĩ cười:

        - Đúng như lời cô. Ở trên đất liền, các cảnh sát viên dùng tu-huýt và súng bắn chỉ thiên.

        Chiếc ca-nô xăm xăm chạy lại gần. Một người Mỹ ở trần đội mũ lác ngồi bên cạnh người nhân tình địa phương của anh mặc áo tắm màu xanh lá cây. Bốn người thanh niên Việt ngồi sau lái. Có tiếng ở tàu tuần hỏi xuống:

        - Nhờ chở giùm ít chuyến vào bãi được không?

        Tiếng người đàn bà:

        - Thưa quí ông, ca-nô chúng tôi thuê giờ.

        Người đàn bà quay lại nói gì đó với người Mỹ nhưng anh ta mặt lầm lì không đáp. Tiếng ở trên tàu:

        - Thôi cho chạy.

        Tài công nổ máy. Người đàn bà cám ơn và nói gì đó với người Mỹ nhưng anh vẫn mặt lầm lì im lặng. Tôi đoán biết anh nghĩ gì. Những chiếc tàu do chính phủ nước anh viện trợ, những sĩ quan nhờ phương tiện của nước anh mà được huấn luyện và công tác… thế mà giờ đây anh bị ăn hiếp. Ở trên đất liền, anh không chịu ngồi thu hình nhu mì như vậy đâu.

        Tàu nằm đợi một lát rồi lại toe toe mấy tiếng. Hai chiếc ghe câu ghé sát lại. Thương thuyết. Móc thang sắt xuống. Lần lượt di chuyển hành lý và người xuống. Ghe nổ máy.

        Bẵng đi bao nhiêu năm tôi không được thấy một thân người nằm ngã trên tay chèo, đôi chân nhịp nhàng rún tới kéo lui. Người dân chài hôm nay có thế đứng uy nghi với đôi mắt nhìn đăm đăm của một vị Thủy sư đô đốc. Chỉ thiếu cái ống nhòm đeo nơi cổ và cái mũ lưỡi trai có nhiều vòng vàng.

        Ghe tôi đến gần bãi thì ghe trước đã đổ bộ xuống rồi. Các cô mặc áo nhiều màu và che dù cũng nhiều màu, đi thành hàng dọc trông xa như một đám cưới. Đẹp nữa là bóng của họ in ngã xuống mặt nước. Lúc họ đứng quây quần quanh tôi, tôi không để ý bao nhiêu đến màu sắc. Có lẽ tại vì mình quen thấy điều đó. Con mắt chúng ta không bao giờ thấy hết những điều có thể thấy. Tôi nói:

        - Những màu áo lòe loẹt đi trên thuyền và bước xuống thuyền giống như một đám cưới nhà quê.

        Cô Duệ cãi lại:

        - Bây giờ ở nhà quê đám cưới người ta cũng dùng ô tô rồi. Nói chuyện đời xưa thì có.

        Tôi đồng ý là cái quang cảnh đám cưới mà tôi liên tưởng là một đám cưới cách đây mươi, mười hai năm. Nhưng tôi cũng không muốn cải chính bởi vì giọng nói của Duệ không được dịu dàng. Chắc cô ta ở nhà quê và cô có nuôi những thành kiến, những mặc cảm.

        Cùng đi một chuyến thuyền với chúng tôi có hai tu sĩ Nguyên Đạt và Nhật Quang. Nhật Quang đang cầm một cây sào chống cho ghe vào bờ. Tôi nghĩ đến một hình ảnh: “Mượn chiếc thuyền Từ qua bể Ái”. Nhưng khi nhìn Thoa ngồi ở mũi thuyền quay nhìn lại tôi thì tôi thấy bể Aùi đã ở ngay trong lòng con thuyền rồi. Còn chạy trốn qua mặt biển nào nữa? Thoa đội một cái mũ cát-két (5 ) bằng nhung dày màu tím nhạt. Cái cát-két và khuôn mặt tròn trĩnh làm tôi nghĩ đến một nữ cán bộ Hồng quân Trung Hoa. Do một tấm hình nào đã xem trên báo ghi sâu một ấn tượng.

        Thuyền cập bến chòng chành. Nhiều bàn chân trắng nõn trượt trên những tảng đá rêu trơn. Có người thấy nước còn sâu rụt rè không dám bước xuống. Ông lái nói:

        - Coi chừng giậm trúng hàu.

        Mấy cái đùi thò xuống nước vội co lại. Tôi đứng chuyền những cái giỏ xách nặng. Linh vừa trao xắc cho tôi vừa nói:

        - Đi với mấy thầy mà sợ gì. Có chìm ghe cũng chả lo. Thầy đưa mình qua luôn Tây phương cực lạc.

        Lên bờ. Những tảng đá nằm kề những tảng đá, nằm chồng lên những tảng đá. Cây đước, cây mắm, cây bần… Dưới bóng một cây bần có tàn rộng đứng trơ trọi giữa bãi, Nguyên Đạt ngồi xếp bằng như Phật ngồi dưới gốc bồ đề.

        Chuyến ghe chót vừa đến thì đã nghe tiếng còi tu tu của trưởng đoàn, tập họp theo tiểu đội, đi hàng một vào xóm. Xóm đây chỉ gồm một ngôi nhà, một gia đình. Trưởng đoàn cho lệnh: ăn, nghỉ, tắm rồi sẽ nghe thuyết trình của ông chúa đảo, nghĩa là ông gia trưởng độc nhất của đảo.

        Bữa ăn đặt trên những tấm giấy nhật trình lớn. Bánh mì, cá hộp, pa-tê, phó mát nhà binh, phó mát “con bò cười”. Không còn ai dỡ cơm đem theo và đem theo những chai nước trà. Bàn ăn nào cũng đựng đầy những lon coca-cola, pepsi-cola. Kiều Nhiệm và Kiều Ly mang cả tráng miệng bằng bánh đông sương. Những gia đình Việt Nam hãy cố gắng một chút để giữ cho con gái làm được những món bánh mứt như vậy, thêu cho được một cái khăn và may cho được một cái áo ngắn. Không phải cốt để tiết kiệm tiền so với việc mua bánh ngoài tiệm, mua khăn ngoài hiệu. Mà cốt để tập đức nhẫn nại. Ngồi hấp cho được từng ấy cái bánh phải tốn hàng bốn, năm giờ và để tiêu diệt chúng chỉ cần mười lăm phút. Con người thời đại không mấy nhẫn nại. Hung bạo do đó mà sinh ra. Người ta yêu cuồng, sống vội và chết cũng dễ dàng. Có súng lục, súng trường đó. Cám ơn cô Kiều Nhiệm và Kiều Ly, tôi học được bài học nhẫn nại trong dĩa bánh đông sương này.

        Nguyệt mời tôi những cái bánh in.

        - Bánh của thầy trụ trì cho em.

        Tôi chợt nhớ: lễ Vu lan vừa qua được mấy ngày.

        Nhung đứng tựa vào thân dừa cắn một quả táo. Vỏ táo màu hồng giống như da mặt nàng bị rám nắng. Thịt táo trắng lẫn với hàm răng trắng của nàng.

        Bữa ăn không kéo dài bởi vì vườn dừa nắng dọi. Những người ăn xong tản ra bãi nơi đó có hai con diều giấy do anh Đường và anh Phú vừa thả. Có lẽ đó là những con diều đầu tiên lượn nhấp nhô dưới bầu trời hoang vu này. Mấy người con của ông chúa đảo bị cắt đứt liên lạc với đồng bào trong đất liền chắc chỉ biết làm được những cử động sinh hoạt gần gũi tối thiểu: ăn, ngủ, khóc, cãi nhau…

        Ba tiếng còi cho phép tắm. Cả bọn mừng rỡ ôm quần áo ù té chạy. Thật là một lũ điên. Làm như ở Nha Trang không có biển. Nước cạn quá nên tôi tìm một bóng cây ngồi nghĩ vẩn vơ. Thuận, Chấn, Lưu hăm hở mang theo kiếng lặn, ống thở, chân vịt, súng bắn cá đều tiu nghỉu đứng nhìn một vùng nước cạn mênh mông. Bùn làm đục nước ở mỗi bước chân. Khánh và Thư đã thay áo hồi nào làm tôi bỡ ngỡ nhận không ra. Buổi sáng áo một màu, bây giờ thì rằn ri xanh đỏ loạn xạ. Vâng, phải dẫn dụ bằng màu sắc và bằng hương thơm như những con bướm.

        Dung Nghi đi một một mình trên những gộp đá. Màu áo xám nhạt thu hút đôi con mắt tôi. Ngọt ngào và mơn trớn. Lúc nãy đi trên bãi, tôi để ý thấy nàng đi hơi cong lưng một chút. Đó là dáng đi của người khiêm tốn nhu mì. Sao lại có sự mâu thuẫn nơi Dung Nghi? Khuôn mặt, mái tóc, màu áo đều rực rỡ và kiêu kỳ. Một nốt ruồi dưới khóe mắt. Tôi nghe những nhà tướng số đều chê tất cả mọi nốt ruồi trên khuôn mặt, nốt ruồi càng lớn càng xấu. Thế nhưng tôi vẫn yêu cả cái nốt ruồi của Dung Nghi. Hãy để cho tôi nhận lãnh hết, nhận lãnh tất cả những ảnh hưởng xấu của cái nốt ruồi của em, hỡi Nghi ơi!

        Ngày mai tôi sẽ rời bỏ thành phố để làm dân miền Cao nguyên, về ở thị trấn Buồn Muôn Thuở. Quân vụ lệnh nằm ở trong túi bên ngực trái. Theo đơn vị trấn đóng ở đây đã hai năm nhưng Nha Trang với tôi vẫn xa cách cô liêu.

        Cử sà lại ngồi gần tôi.

        - Sao em không tắm?

        Cử trả lời:

        - Hôm nay em không thích tắm. Ngày kia em về Sài Gòn rồi. Phải gắng thi cho đỗ vào Y vào Dược, nếu không thì em phải đi lính. Hết hạn tuổi rồi, không có con đường thứ ba. Nhưng em sợ là không đỗ nổi. Học hai tháng luyện thi phải trả bốn nghìn. Ba em không giàu…

        Tôi nghe ngày xưa các cụ đồ dạy học trò chỉ nhận đủ gạo ăn. Trong một xã hội ai cũng nghèo nên ai cũng giữ được đạo đức một cách thong thả. Ngày nay thì gái giang hồ là kẻ ăn tiêu sang trọng nhất trong xã hội nên người trí thức cũng phải chạy đua theo. Nhưng còn lâu mới gặp. Không thể trách người dạy học mở lớp luyện thi hốt bạc ăn to bởi vì có những kẻ dốt và ngồi không còn ăn to gấp mười gấp trăm. Ba của Cử làm công chức ở tòa Tỉnh sắp về hưu mà lương tháng chỉ có mười lăm ngàn đồng. Nghe những người nhà giàu nói chuyện về cách tiêu tiền mà say mê như nghe kể chuyện thần tiên, chuyện cổ tích. Ông Lợi Hưng mời người dạy kèm cho một đứa con học Toán đệ Tam, cứ mỗi giờ trả bốn trăm đồng. Thường dân nghèo trả học phí cho con lớp đệ Ngũ mỗi tháng bốn trăm đồng mà có tháng chạy tiền không ra. Nghe nói thằng Cương được một cái học bổng đi Tây Đức nhưng đành phải bỏ vì nhà không có đủ tiền mua vé máy bay. Một người quen của tôi đang làm thủ tục cho đứa con đi du học Bỉ. Mỗi tháng chạy gởi cho con mười tám nghìn đồng. Mỗi năm chính phủ cho phép gởi thêm sáu mươi ngàn đồng để chi phí bất ngờ, như vậy là trung bình mỗi tháng hăm ba ngàn đồng. Nhưng đợt đầu thì đòi hỏi phải có đủ năm trăm ngàn đồng. Tiền vé máy bay hết một trăm ngàn. Tiền gởi đợt đầu ba tháng: một trăm ngàn. Tiền may sắm một trăm năm chục ngàn.

        Tôi hỏi:

        - Thế còn tiền gì nữa? Mới có ba trăm rưỡi ngàn.

        Ông bạn quen trả lời là những chi phí linh tinh. Ơn nghĩa cho người làm thủ tục giấy tờ, tiền vô ra ba, bốn lần lo làm thủ tục, tiền phòng khách sạn. “Ít nhất cũng một nghìn hai trăm đồng, tiền thuê một phòng khách sạn một ngày”.

        Tôi nghĩ: Lương của tôi chỉ đủ để thuê một phòng khách sạn trong tám ngày. Không có tiền ăn. Cả gia đình của Cử chỉ tiêu trong số mười lăm ngàn đồng lương. Chẳng lẽ phải mua vé số kiến thiết để cầu mong trúng số độc đắc cho Cử đi du học.

        Hai cánh chim hải âu lượn nhẹ nhàng gần sát mặt nước. Màu lông trắng và đôi cánh dài. Thanh Bình mặc bikini (6 ) đi khập khễnh về phía tôi.

        - Sao vậy?

        - Em bị hàu cắt.

        - Xem nào.

        Nàng lật gan bàn chân và tôi đưa hai ngón tay vạch thấy một đường cắt dài ba phân. Không có máu chảy. Bàn chân thật quí giá khi nó là bàn chân của người khác. Những giọt nước biển còn đọng trên da cánh tay của Thanh Bình. Nàng khập khễnh đi tiếp về phía trạm thuốc cấp cứu để nhờ anh Tâm băng bó.

        Ba giờ chiều. Lại thổi còi tập họp. Nhiều anh ôm quần áo chạy, chưa kịp mặc.

        - Đoàn trưởng có nói rồi. Hễ nghe còi là chạy, dù đang mặc quần cũng bỏ quần mà chạy.

        Lý Văn Xuân nhắc lò cò, bàn chân trái băng bó dày cộm. Lại một nạn nhân của hàu. Tòng và Cát mặc quần tây ngắn ca-rô chặt đùi và dài tới đầu gối. Lập cột gút vạt áo sơ mi ở trước bụng.

        Lệnh thu dọn hết tất cả đồ đạc. Quét chôn những rác rưởi. Rồi lên nhà chúa đảo. Đó là một người trạc năm mươi tuổi, béo phục phịch bụng to. Sau khi trại sinh ngồi dàn hai bên, trưởng đoàn giới thiệu bằng những lời bay bướm:

        - … Nhờ sóng gió trùng dương bất ngờ đưa đẩy mà chúng ta cập bến vào hải đảo cô liêu này… chúng ta sẽ rời xa nó để trở về đô thị như ánh mây phiêu lãng kia không hẹn dừng chân ở lâu ở một bến bờ nào… các bạn sẽ nghe con người vĩ đại này kể lại cuộc phiêu lưu của mình… một cuộc đời vĩ đại… một cuộc dấn thân vĩ đại…

        Những cô nữ sinh đẹp và vẻ mặt thông minh đã bắt đầu mỉm cười khi nghe đến tiếng “vĩ đại” thứ năm. Phụ nữ tinh tế hơn đàn ông và có tinh thần hài hước hơn đàn ông chăng? Hay họ ít che giấu được những ý nghĩ của họ? Tôi lo lắng cho vị chúa đảo bởi mỗi lần trưởng đoàn nói đến chữ “vĩ đại” là mọi con mắt chăm nhìn vào cái bụng của ông. Ông sẽ cất lời như thế nào đây? Lời giới thiệu của trưởng đoàn như một thứ vương miện đúc bằng vàng đặc có gắn quá nhiều hạt kim cương. Tôi sợ nó sẽ quá nặng.

        Khi được trao lời, chúa đảo cười lên một hồi, phủ nhận chữ “vĩ đại” và bằng một giọng bình thường, tự nhiên và khiêm tốn, ông nói:

        - Tôi tên là Lê Sơn. Tôi học ít lắm, trình độ ngang bậc tiểu học hồi xưa. Thua xa các anh chị em ở đây, các anh chị em có người đỗ Tú tài 1, có người đỗ Tú tài 2. Vậy những lời lẽ thô lậu chơn thiệt của tôi chỉ dám mong nhắc lại những kinh nghiệm sống của tôi để cầu ước anh chị em cùng lập chí sau này, đừng thèm cuộc đời an nhàn nơi bàn giấy mà nên góp tay khai thác tài nguyên xứ sở.

        Đại khái, ông kể rằng ông xuất thân là chủ xe đò và chủ ghe lưới cá. Năm 1957 ông nảy ra ý định khai thác đảo này. Dự định xuất vốn nửa triệu nhưng bị bạn hàng lường gạt vỡ nợ. Khi lên đảo, chỉ mang theo thức ăn và tiền mặt tám ngàn đồng. Che một cái chòi bằng lá dừa. Xung quanh toàn là rừng, chín đứa con sợ quá chỉ khóc không dám ngủ. Vợ chồng chặt cây phá rừng cuốc đất.

        - Anh chị em chắc biết rằng bàn tay không quen cầm cuốc thì cầm ba bữa là phồng. Mụt nào mụt nấy trông bóng phát sợ. Phải vắt cơm nóng cho da chai đi. Rồi tiếp tục chặt cây, cuốc đất. Thú thiệt với anh chị em là nhiều lúc tôi đã nản chí muốn bỏ cuộc. Thì lúc đó người thúc đẩy tôi can đảm chính là vợ tôi, người đàn bà mặc áo xanh mà lúc nãy anh chị em gặp đó. Căn nhà đầu tiên mà chúng tôi dựng lên, vợ tôi phải chở đất chở cát suốt bốn tháng tròn. Phải về trong đất liền mời hai người thợ mộc và trả công đặc biệt cho họ.

        Một tiếng hỏi:

        - Xin bác cho biết kết quả đã thâu lượm được cho đến hôm nay.

        Ông Lê Sơn quay mặt ra bãi biển, đưa tay chỉ một vòng:

        - Kết quả chưa được bao nhiêu. Anh chị em đã hỏi thì tôi phải thưa thiệt. Hiện bầy bò của tôi ngót một trăm con. Một bầy cừu cũng chừng một trăm con. Một bầy heo, một vườn dừa, một vườn mãng cầu chừng vài trăm cây, một vườn lựu…

        - Thời giá một con bò bao nhiêu vậy bác?

        - Bò nuôi đến ba tuổi thì giá chừng ba mươi ngàn. Bò cày thì tới sáu mươi ngàn.

        Có tiếng nói:

        - Như vậy là chỉ riêng bầy bò trị giá đã hơn bốn, năm triệu bạc rồi.

        Ông Lê Sơn cười nhũn nhặn:

        - Thiệt ra, khi làm công việc khai khẩn này, tôi nghĩ đến vấn đề khai thác tài nguyên nhiều hơn là nghĩ cách kiếm lợi. Nếu mục đích là kiếm lợi thì đi làm tôi làm tớ, nịnh bợ kẻ lớn dễ kiếm được lợi người mà khỏe hơn.

        Trong câu chuyện kể, nhiều lần ông phải dùng một chữ Pháp sau khi đã lúng túng tìm một tiếng Việt mà không ra. Chẳng hạn chữ parasite (7) , chữ conscience.

        Tôi nhìn một lượt trang trại của ông. Tất cả đều mọc lên từ đám rừng hoang. Bàn tay xây dựng đó đã khảo đất ra trái ra cây, làm phát triển những bầy bò bầy cừu. Xuất phát từ con số không, từ một cái mầm nhỏ yếu ớt, các phẩm vật đó sinh sôi nầy nở góp phần làm thực phẩm nuôi dưỡng con người. Ai đã va chạm nhiều với đô thị, tiếp xúc nhiều với cuộc sống đô thị cũng đều cảm thấy chán nản bởi có rất nhiều người không hề làm lụng sản xuất gì hết mà lại hưởng thụ mọi thứ tiện nghi. Trên bàn ăn chất đầy thịt cá rau quả. Nếu ai cũng tự đặt nhiệm vụ sản xuất, cố gắng sản xuất trong phạm vi khả năng của mình!

        Thủy thủ chạy lên báo tin phải xuống tàu gấp kẻo sợ tối. Chào giã từ. Ông Lê Sơn đưa tiễn ra đến bãi. Dọc đường tôi hỏi:

        - Sao ông không nuôi dê để lấy sữa lại nuôi cừu?

        - À, nguyên do nó thế này. Con dê nó hay đẻ bậy, đẻ trên núi trên non rồi bỏ đó. Cừu thì chỉ đẻ ở nhà.

        - Mỗi con cừu, ăn thịt bác bán được bao nhiêu?

        - Bốn ngàn đồng. Trước đây tôi chuyên bán cho viện Pasteur để họ chế thuốc trị chó dại. Sau này vật giá cao mà họ trả rẻ quá nên tôi thường bán cho tư nhân ăn thịt. Người Việt mình ít thích thịt cừu vì nó hôi mùi bơ. Còn Ấn Độ ăn thịt cừu mà không nghe mùi bơ thì họ chê.

        - Còn lông của nó, bác cắt đi rồi có xe thành sợi len không?

        - Đành phải bỏ. Đó là một điều phí phạm mà tôi không làm sao giải quyết được.

        - Có lẽ tại lông cừu của mình ngắn quá nên khó xe sợi.

        - Nhưng mình lại không thể để dài. Lông dài quá sinh dòi.

        Ra đến bãi. Những chuyến ghe lần lượt chở khách du ngoạn về tàu. Nhiều khuôn mặt rám nắng hồng. Buổi chiều không khí dịu lại làm cho khuôn mặt người và màu áo nổi bật lên trên nền núi rừng thâm u xanh thẫm. Người ngồi rải rác trên bãi. Có người nằm ngửa mặt nhìn trời. Thu và Thục đi sục sạo vào bụi cây tìm bẻ những cành cam sành. Tôi lặng lẽ nhìn ông Lê Sơn. Lúc nãy ông nói:

        - Tôi mập mạp, bụng to như vầy (cả cử tọa cười rộ lên) không phải bởi tôi ăn nhiều chất bổ. Không đâu. Tôi ăn cơm rau, trái cây trong vườn. Mập mạp là nhờ tinh thần không phiền lo. Chớ như ông trưởng đoàn của quý anh chị (ông chỉ về trưởng đoàn) không chừng ăn gấp đôi tôi, ăn bơ ăn thịt, uống whiskey coca thế mà gầy chỉ bằng nửa tôi thôi (lại cười rộ). Là bởi ông ta đâu có thong thả tâm hồn bằng tôi…

        Cả tôi cũng vậy, tôi muốn nói. Chúng tôi, con người thị thành không hề biết đến sự an lạc là gì.

        Dung Nghi đi đi lại lại trên bãi cát. Dưới chân nàng, san hô và vỏ ốc rải rác nằm. Tôi nhìn những dấu chân nàng trên cát. Tôi muốn bước đúng vào những dấu chân ấy, đi theo những dấu chân ấy. Thật vậy, tâm hồn tôi không an lạc. Tôi muốn được sống trên một hải đảo như nơi đây. Cuộc sống thường nhật tầm thường không đòi hỏi sự hiện diện tiếp cận của những người khác. Chỉ cần loài người trong những khi đau bệnh. Tôi có đọc một quyển sách tác giả kể lại trường hợp vợ chồng ông ta mua một hải đảo rồi ra ở ngoài đó, xa cách nhân gian đến sáu giờ ca-nô. Một ngày nào đó người vợ bị sưng cuống ruột thừa. Đem đến bác sĩ bệnh viện gần nhất thì vừa đúng vào thời hạn chót nhất có thể cứu sống. Tôi đem nỗi băn khoăn đó để nói với ông Lê Sơn.

        Ông trả lời:

        - Chúng tôi đã từng ngã bệnh cả nhà một lượt. Mười một người. Tôi nghi là bởi mình đi rừng hít nhằm thuốc khai quang. Sốt, nhức đầu, ù tai trong một buổi sáng là chiều đó rũ gối đi hết nổi. Cả nhà bị hết, bị y một chứng. Phải mời một ông thầy thuốc Bắc.

        Ông chỉ vào tròng mắt:

        - Hãy nhìn đây, dấu vết của chứng bệnh. Tôi bị vảy cá ở tròng mắt, thấy rõ chưa? Bị sưng khớp xương nữa. Khớp xương cổ chân, đầu gối, khớp xương mông.

        Những chuyến ghe kế tiếp làm gầy dần số người còn sót lại trên bãi. Tôi đi theo chuyến chót hết. Oâng Lê Sơn bắt tay từng người, lăp lại lời chúc: ai sắp thi thì thi đỗ, ai sắp vào quân đội thì mau lên chức lên lon. Rồi sau đó về khai khẩn như ông.

        Người lái ghe dặn:

        - Coi chừng, đừng lội xa quá, nhum nó đâm.

        Những con nhum bò từng đám, gai nhọn đen tuyền chĩa tứ tung, có gai dài đến ba tấc. Oâng Lê Sơn nói vói theo:

        - Nhum đen chích đâu có mùi mằn gì. Nhum bàng mới ghê. Gai nó màu sắc đẹp dịu dàng mà hễ chích đâu là nằm liệt đó, đi không nổi.

        Anh em thanh niên liên tưởng ngay đến tình yêu. Thức vỗ vai Phỉ:

        - Những người đàn bà đẹp cũng vậy.

        Quyền hỏi:

        - Mày đã có kinh nghiệm chưa mà dám nói?

        - Tơi bời hoa lá như thế này, mà mày còn dám nghi ngờ.

        Khi nghe nổ máy xình xịch, chúng tôi giơ tay vẫy và ông Lê Sơn cũng vẫy tay theo. Chúng tôi đồng thanh hát bài tiễn biệt:

        Vì đâu anh em chúng ta giờ đây sắp cùng

        bùi ngùi xa cách

        Cớ sao ta không cầu mong rồi đây có ngày

        còn hòng gặp nhau.

        Xong hết một điệp khúc, chúng tôi hùng hổ hát lại. Đứng lẻ loi một mình trên bãi, ông vẫn giơ một cánh tay lên vẫy, như một con hải quỳ, như một con bạch đầu ông ở dưới đáy bể ngo ngoe những giác tu dài, không cần ai xem, không cần ai biết, ngo ngoe theo triều sóng nhấp nhô.

        Chúng tôi bỏ ghe leo lên tàu. Những tiếng hoan hô đón chuyến ghe chót. Người thanh niên vô tư gặp gì cũng có thể vui được, mừng được. Ở nơi bãi vắng, dáng ông Lê Sơn vẫn đứng đó, màu áo quần trắng nổi rõ trong một buổi chiều màu xám.

        Tàu nhổ neo. Tiếng hát tạm biệt lại được cất lên:

        Cách xa nhưng ta hằng vui vì nay ta biết

        còn ngày sung sướng

        Cách xa nhưng ta hằng mong rồi đây có ngày

        mình còn gặp nhau.

        Tôi lẩm nhẩm một con số, một cái tên. 607. Nam Du. Chắc không có nghĩa là đi chơi về phương Nam như trường hợp chúng tôi mà nghe nói là tên một hòn đảo nào ở gần Phú Quốc. Tôi nhớ hai câu thơ kể tích thầy Tử Lộ:

        Đỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc

        Lối Nam du nhẹ bước tang bồng

        Tuyết giật cái ống dòm từ tay Hoa:

        - Đưa tao dòm ông ta một chút.

        Tuyết đặt ống dòm lên mắt.

        - Sao trông không rõ?

        Cúc nói:

        - Vặn cái bánh xe điều tiết này.

        - À! À! Rõ rồi.

        Ngọc Dung hỏi:

        - Mày thấy ông ấy cười hay khóc?

        Nghĩa đứng tựa vào bao lơn tàu:

        - Chắc là khóc. Chắc đang nhớ đến tụi mình kinh khủng.

        Diệu gật gù:

        - Bữa cơm chiều nay tao cam đoan là ông ấy bỏ ăn. Ngày mai ngày kia và những ngày sau nữa ông chỉ thấy có rừng dừa, hàng cây lựu và bầy heo của ông.

        - Lúc nãy có đứa mô để địa chỉ lại cho ông ấy không? - lời Mỹ. Nếu mình ở vào trường hợp ông ấy mình dám bỏ đảo bỏ dừa đi tìm…

        - Tìm ai?

        - Tìm mi, tìm tau, tìm hắn, tìm chúng ta…

        Chinh đang dõi nhìn theo bãi biển hoang vu chợt quay lại:

        - Đứa nào nói đùa ông ấy chi tội nghiệp bay. Rõ ràng là một nghệ sĩ, con người có bề ngoài thô kệch đó. Một người tầm thường không hơi đâu đứng trên bãi đó để nhìn mãi chúng mình. Họ đã quay lưng khi chúng ta xuống núi. Nếu thêm xã giao nữa thì khi ra tới con rạch lội. Lịch sự nhất nữa là lúc chuyến ghe chót rời bến. Từ lúc đó đến bây giờ ông hành động không vì chúng ta nữa mà vì tâm hồn của ông, cho tâm hồn của ông.

        Buổi chiều xám đậm hơn. Thân tàu lướt tới, tạo một con đường phẳng chạy dài trên mặt nước. Bọt nước trắng ngầu quay cuồng xáo trộn. Ánh nói:

        - Trông bọt nước trắng xốp đẹp hơn hàng Bangkok. May một cái áo dài như vậy mà mặc thì tuyệt.

        Trưởng đoàn chạy ra sau lái thôi thúc mọi người:

        - Hãy dồn ra trước mũi.

        - Để làm gì vậy?

        - Chụp ảnh. Chụp chiếc ảnh chót.

        - Chụp hoài. Chiều rơi, ánh sáng đâu mà chụp?

        Trưởng đoàn to tiếng:

        - Phải nghe theo lệnh thôi. Không nói một hai. Tất cả dồn ra trước mũi tàu tức khắc.

        Những thân hình di chuyển uể oải. Gió tạt nước lên mạn tàu. Máy ảnh bấm lách tách. Tôi ngồi luôn ở trước mũi tàu.

        Buổi chiều đã chuyển sang màu tím nhạt. Những doi núi gần xa mang màu sắc khác nhau. Ban nhạc gồm Hùng, Linh, Chín, Kình. Đường đàn ghi-ta ầm ĩ. Châu, Hảo, Thanh Tú và Trinh cùng hát những bài tâm ca. Trinh vui vẻ như một con chim.

        Dung Nghi đứng tựa bao lơn tàu nhìn xuống sóng nước. Mái tóc cắt ngắn vừa mới uốn để lộ một đoạn cổ trắng như mỡ đặc. Nét mặt nghiêm trang và kiêu kỳ. Cái nốt ruồi dưới khóe mắt. Ngày mai tôi sẽ xa Dung Nghi nhưng nàng đâu có biết. Tình yêu của tôi vụng dại và âm thầm. Tôi không đẹp trai, không có tài đặc biệt và không giàu. Một hoa mai vàng gắn trên quân phục kaki không đủ sức mời mọc những cái nhìn và làm nở những nụ cười. Những người tôi có thể yêu dường như đều hướng nhìn về một nẻo khác. Xã hội đếm rất nhiều triệu phú trong ba năm trở lại đây và đàn bà đẹp càng ngày càng hiếm. Giã từ Dung Nghi! Vài ba tháng sau nàng sẽ đi dự những cuộc du ngoạn khác như hôm nay, ra thăm Bãi Miếu, Bích Đầm, hòn Yến. Nàng đẹp và dáng nàng đứng tựa bao lơn tàu đẹp rực rỡ như trong một huyền thoại. Như một hành khách quí phái đi chuyến viễn du trên những hàng hải thương thuyền hạng sang chạy đường Nữu Ước sang Luân Đôn.

        Chiều nay tôi biết có hai người buồn: ông Lê Sơn đang chậm rãi bước những bước nặng nề ưu tư trên bãi biển hoang vu và tôi ngồi lắc lư trên con tàu vượt sóng đi về thành phố vắng lặng mênh mông. Bởi khi tàu cập bến chân bước lên bờ là Dung Nghi sẽ vĩnh viễn xa tôi.

        (1) một loại áo đầm ngắn
        (2) một nhãn hiệu sơ mi đan ngoại quốc
        (3) tiếng Pháp matin = buổi sáng
        (4) màu xám nhạt
        (5) Áo tắm hai mảnh
        (6) mũ lưỡi trai
        (7) Parasite: ăn bám; conscience: lương tâm
        #34
          hai1957 10.12.2012 08:25:19 (permalink)
          2. ĐÔI NGÃ



          Sau vụ tổng công kích đầu năm Mậu Thân, một hôm tôi vào lớp thấy có một nữ sinh mới ngồi ở ngay bàn đầu. Tôi hỏi:

          - Em ở từ đâu lại?

          Giọng nói nhỏ:

          - Dạ em ở Huế mới vô.

          Huế trong những ngày gần đây là tượng trưng cho những tàn phá, những chết chóc, những rên siết. Bao nhiêu nét thơ mộng êm đềm bị xóa nhòa để thay thế bằng những hình ảnh tang tóc. Đói. Lạnh. Đạn rốc-kết. Bom.

          Thật khác xa với những hình ảnh mà tôi vẫn giữ về Huế. Những thiếu nữ thân hình mảnh dẻ tóc xõa trên vai, e thẹn giấu mặt dưới vành nón bài thơ. Những thiếu phụ bán đậu bán chè môi thoa son, má đánh phấn nụ, mặc áo dài vá quàng, hai vạt áo màu tím mà đôi vai đôi tay thay bằng vải phin trắng mỏng. Nhánh sông An cựu một màu xanh rợn người: bờ giậu xanh, nền lá cỏ xanh, tàng cây xanh trên đầu và mặt nước xanh im lặng. Thôn Vĩ dạ nằm mơ những ngày loan xa phượng liễn ngày xưa, những mái nhà rêu phong, những mảnh sân rêu phong nơi đó thấp thoáng một bóng cựu thần tóc bạc.

          Tôi hỏi người học sinh.

          - Em ở tại khu phố nào? Thành nội?

          Tôi hy vọng được nghe một lời cải chính. Bởi chỉ đọc trên báo cũng đủ biết rằng Thành nội là nơi bị nặng nhất. Khó có đủ may mắn để thoát an toàn tử cảnh tàn phá đó. Thành ra tôi rất đỗi bất ngờ khi nghe đôi môi nhỏ đó trả lời:

          - Dạ. Em ở Thành nội.

          - Thành nội?

          - Dạ.

          - Đường nào?

          - Dạ, đường Hàn Thuyên.

          - Có nghe nhiều tiếng đạn đại bác, AK 47, AK 50 không?

          - Dạ có.

          - Có nằm dưới hầm nhịn đói đến vài ngày không?

          - Dạ có.

          Tôi mở sổ điểm danh tìm cái tên mới nhất ghi ở hàng gạch cuối cùng: Nguyễn Thị Tuyết Trân.

          Trân có khuôn mặt xinh xắn. Đôi mắt đen mở rộng. Mái tóc bỏ xõa, áo dài bằng vải trắng dày dặn ủi thẳng nếp để lộ đôi bàn tay nhỏ ngón thon. Tôi nhìn xuống đôi bàn chân nằm nhu mì giữa quai guốc trắng. Tất cả nơi em đều ngăn nắp nề nếp, điểm một chút lịch sự quí phái. Thỉnh thoảng giữa lúc suy nghĩ làm bài, em chậm rãi nghiêng đầu, đôi môi mím lại trong một thế cách làm dáng tự nhiên. Mỗi cái ngước mắt ngó lên, mỗi cái nụ cười nửa miệng, mỗi cái khẽ quay mặt qua hay đưa tay nhẹ vuốt mái tóc đều xinh xắn dễ thương, y như khi ta nhìn một đứa nhỏ nằm ngủ trong nôi, nét mặt nét môi làm những cử chỉ nũng nịu. Những nét làm dáng nho nhỏ của Trân có một vẻ gì tự nhiên và kín đáo quá kiến tôi sẵn sàng nghĩ rằng đó là cốt cách cố hữu của em hơn là do một sự luyện tập công phu và có tính toán. Sự làm dáng thường dễ bị lộ liễu bởi vì những phương thức làm dáng hay lặp lại do người này bắt chước người kia. Những người đàn bà đẹp Âu Mỹ ở trong các phim chiếu bóng thường hay chầm chậm ngước mặt lên vừa lim dim đôi mắt uể oải, và cử chỉ đó tôi thường gặp lại nơi nhiều cô bạn gái của tôi. Sự biểu diễn trang trọng ngang tầm một nghi thức đó khiến lắm lúc tôi thấy khó chịu và thương hại.

          Tôi chú ý tìm một vài khuyết điểm trong việc học hành của Trân, chẳng hạn vở chép thiếu bài chừa giấy trắng, chẳng hạn chữ viết nguệch ngoạc, chẳng hạn quên đem theo thước kẻ, tẩy, com-pa. Một sự lệch lạc như thế sẽ phá vỡ cái thăng bằng tự nhiên, - tự nhiên đến độ biến thành công thức, - và tôi có cảm tưởng tôi thích được thấy một sự nghịch thường như vậy. Công thức làm cuộc đời nhàm đi, làm trí tuệ nhụt đi và tôi muốn nhìn một ông Thanh tra Tiểu học bị mắc lừa. Ông ta sẽ cả quyết với các giáo sinh sư phạm rằng ăn mặc chỉnh tề, tay chân sạch sẽ, mặt mày vui tươi thì tinh thần sáng suốt, trí óc thông minh, bài học bài làm đầy đủ, cư xử với thầy với bạn lễ độ thân ái. Tôi không muốn ông thắng trận dễ dàng như vậy. Tôi ghét sự khôn ngoan già cỗi. Tôi khoái sự hung hăng của con nước vỡ bờ không hẹn sẽ chảy về hướng nào. Tôi muốn Tạo hóa cũng phản loạn, tôi muốn nhìn những mâu thuẫn chia nhau giằng xé con người. Tôi muốn…

          Tôi cầm quyển vở của Trân lên. Những trang giấy được lấp kín bởi những nét chữ viết đều đặn. Đường gạch bằng bút chì hai màu. Hình vẽ nhiều hơn sự đòi hỏi của tôi. Trang chót trắng tinh, không có vết xé rách, làm nháp hay chơi cờ ca-rô. Tôi trả vở lại cho em. “Càng hay - tôi thầm nghĩ, - không ai bị mếch lòng vì một đóa hoa vừa đẹp vừa thơm”.

          Sau chừng một tuần, tôi thấy những bạn gái trong lớp hay quây quần nói chuyện với Trân. Nam sinh dường như cũng tỏ nhiều cảm tình với người bạn gái mới này. Nhiều lúc học sinh đang chép bài hay làm bài, tôi ngồi ở bàn nhìn xuống và Trân hiện ra như một đóa hoa màu trắng kín đáo dịu dàng. Khuôn mặt đó, bàn tay đó kèm với giọng nói nhỏ nhẹ thanh tao đó sẽ làm cho không khí trong một gia đình im mát lại, như giữa mùa hè nắng cháy nhức nhối võng mô mà ta bước vào một phòng khách rộng đóng kín cửa âm u trong đó có một lọ cắm đầy hoa huệ. Nhiều lần tôi kiểm soát lại xem cái cảm giác đó có phải là một huyễn hoặc nhất thời không và lần nào tôi cũng thấy là tôi không lầm. Lắm khi đang bực tức vì một học sinh hỗn láo ở một lớp dạy trước, tôi bước vào phòng này và khi tôi nhìn xuống khuôn mặt dịu dàng của Trân thì y như những nỗi bực tức được xóa tan dần hết. Như bầu trời vần vũ mây dông chợt sáng rực lại và có gió nồm phe phẩy thổi.

          Một hôm lớp đệ Ngũ 2 tôi có một giờ dạy được bất ngờ đổi sang học ở phòng 1 là phòng vốn dành cho các lớp nhỏ. Đệ Ngũ 2 là lớp chót cùng của trường học sinh ngữ Pháp văn nên sĩ số chỉ có 26 em, do đó mỗi buổi sáng thứ Ba trường bị kẹt phòng thì Ngũ 2 học ở phòng Giáo sư. Hai mươi sáu học sinh ngồi ghế dựa bao quanh một dãy bàn dài trong một căn phòng có lavabo(1 ) có gương soi, có bình trà…, không khí y như trong một cuộc hội nghị. Kể từ niên khóa này, đệ Lục đệ Thất không còn có lớp chọn sinh ngữ Pháp văn nữa. Ai cũng chọn Anh văn, ai cũng nghĩ đến việc lợi dụng gấp rút kết quả của sự học, đến ích lợi thiết thực và mau chóng của Anh ngữ khi cần tìm một chỗ làm ăn sinh sống.

          Khi học sinh ngồi yên vị vào những bộ băng bàn quá thấp so với tầm vóc của họ, tôi để ý đến năm, bảy đóa hoa me tây màu hồng bỏ rải rác trên mặt bàn. Nhị đực của hoa mảnh mai dài như cọng chỉ, xòe tròn ra như cái húp phấn. Tôi đưa mắt tìm xuất xứ. Nơi góc nhà ông Tổng giám thị, một cây hoa đang nở những húp phấn màu hồng đó. Và xa hơn một chút, một hàng cây chạy dài dọc theo các lớp của trường Nữ Trung học, cũng đang nở hoa màu hồng. Trên nền lá xanh thẳm chập chồng, những đóa hoa nổi bập bềnh như nổi trên mặt nước. Trời tháng Năm nắng tựa hắt lửa vào mắt. Nền trời xanh, cao vút. Cây keo khoác một lượt lá mới xanh nõn dày kín trông như người khoác áo len dày. Thảo mộc đang ở vào thời kỳ hồi xuân vĩ đại trong khi tâm hồn tôi đang man mác buồn. Bởi vì những đóa hoa me tây kia nhắc tôi nhớ rằng đã ngót hai mươi năm nay tôi mới gặp lại chúng. Hai mươi năm! Ký ức tôi nhảy những bước nhảy vô hình rồi ngẫu nhiên dừng lại ở một khuôn mặt người, ở một khung cảnh bất ngờ, không hẹn. Tại sao tôi chợt nhớ đến thằng Vịnh, bạn tôi, chết cách đây đã ba mươi năm? Tôi thấy rõ tấm ảnh lớn chụp lúc ngôi trường Tiểu học Thiện Đức làm lễ khánh thành, có quan Công sứ, quan Tuần vũ ở tỉnh về dự lễ. Học trò đứng ở sân, các quan khách đứng ở bực thềm, ở mái hiên. Ông Xã Kỷ, ông Phó Mân, ông Phó Tùng, ông Cửu Noãn và tất cả ngũ hương đương cựu tạo ra lớp trí thức phú hào của thôn Thiện Đức đều áo dài khăn đống chen nhau đứng vòng tay trước ngực hay chắp tay trước bụng. Ông Đực phu trường cúi gằm mặt xuống đất, nghiêm trang buồn bã như nghe đọc văn tế. Trong khi tất cả học sinh đều nheo mắt tránh ánh nắng vừa chăm chăm nhìn vào cái máy chụp hình và ông thợ đang loay hoay trong tấm vải đen lớn phủ đầu thì thằng Vịnh ngờ nghệch quay mặt lại ngó quan Công sứ và ông thợ chụp ảnh bấm máy đúng vào lúc đó. Cái ảnh được rửa ra, phóng đại lên, các lý hương mỗi người mua một bức lồng kính treo ở vách nhà gian giữa, thành ra đi đến đâu tôi cũng thấy thằng Vịnh ngờ nghệch quay đầu. Mỗi lần có dịp châu đầu nhìn vào bức ảnh là mỗi lần chúng tôi lôi thằng Vịnh ra để hành hạ.

          - Nhà quê chúa! Nó làm như nó là dân ở Đồng Tre, Eo Gió. Làm như hồi giờ nó chưa thấy mặt ông Tây.

          - Trời hành nó mà! Có bữa mới vừa ngủ dậy, tao bất đồ nhìn lên tấm hình đã thấy nó quay lui ngó ông Công sứ từ hồi nào. Chắc cả đêm nó không ngủ.

          Thằng Vịnh học chưa hết lớp Tư thì bệnh chết. À, mà không nghe ai nói nó bệnh gì. Tính nó hiền lành, có lẽ nó chưa biết yêu. Hình ảnh chót nhất mà tôi có về nó là một buổi xế chiều nó đứng giữa sân kéo một cành khế xuống hái. Những trái khế rung rinh như cũng biết sợ hãi. Nắng dọi nghiêng từ một bức rào, in hình những trụ cây rào xuống mặt sân. Nắng sáng lóe hắt lên từ một cái cối đựng nước ai bỏ lăn lóc đâu đó…

          …Ở nhà ông Hương bản Kham cũng có những cành khế rung rinh từng chùm trái. Nữ sinh trường Trung học Trương Vĩnh Ký đến rủ con gái ông Hương bản đi học và chúng hay hái đem theo những trái khế mọng nước. Da trái khế mỏng, láng mướt như da nơi ngón tay của Thanh Phương. Thanh Phương! Tôi chợt nhìn xuống Trân. Tôi xót xa nhìn Trân. Bởi khuôn mặt của Trân giống y như khuôn mặt Thanh Phương. Bởi Trân là hình ảnh của Thanh Phương cách đây gần hai mươi năm.

          Hồi đó Thanh Phương là con của một thương gia lớn bỏ cơ nghiệp ở thành phố chạy tản cư về miền tự do để theo kháng chiến. Thanh Phương có những nét đẹp của Trân hôm nay. Cũng khuôn mặt tròn, cũng đôi mắt đen, cũng đôi mày thanh tú, cũng đôi môi xinh xắn. Cũng tay chân thon nhỏ và nhất là những nét làm duyên tự nhiên kín đáo khi liếm nhẹ cho ướt vành môi, khi đưa mắt chầm chậm nhìn lên. Những nữ sinh mặt mũi xinh đẹp và thuộc gia đình sang trọng đều kết làm bạn chơi với Thanh Phương: hai chị em cô Tuyết cô Hà con của ông Ty trưởng Công chánh, Huỳnh Anh con ông bác sĩ Hiệp, Mộng Liên con của bà Huyện Đào. Họ tạo thành một nhóm riêng, rủ rỉ tâm sự với nhau như những con bồ câu và tuy tôi không lưu ý đến sinh hoạt riêng tư của họ, tôi cũng có cảm tưởng rằng Thanh Phương là thủ lãnh của nhóm. Lâu lâu họ giận nhau, họ hờn nhau, họ viết cho nhau những bức thư trách cứ nhẹ nhàng, họ than thở với nhau về một đối xử vụng về nhỏ nhặt nào đó của một người bạn. Thật là khác xa với cái đại đa số nữ sinh khác xuất thân từ đồng quê, cười to nói lớn, chạy đùa nhau ầm ầm ngoài sân trường như người ta chạy đuổi một đàn bò. Tôi lúc ấy thuộc thành phần giáo sư trẻ nhưng bởi tính tình bộc trực ăn nói không biết làm duyên, cử chỉ không biết làm dáng nên không được cái nhóm ấy lân la gần gũi. Anh Phát dạy Việt văn và anh Minh dạy Lý Hóa được họ tỏ cảm tình nhiều hơn. Tôi nghĩ rằng đem ngâm những câu ca dao phong tình trong đó toàn gợi lên cảnh những người con gái thương nhớ người con trai, trao khăn trao nón, cởi cả áo mà trao rồi hẹn nhau “nhà em có bụi mía gừng” rồi quyết tâm “thương anh tam tứ núi cũng trèo” thì ông thầy giáo đôi khi biến thành đối tượng của sự hèn họ, sự trao đổi, sự quyết tâm. Huống chi, anh Phát lại khéo có một giọng nói ngọt ngào vừa được thiên phú một khuôn mặt điển trai. Minh dạy Lý Hóa, rõ ràng có ít lợi thế thua Phát vì ống nghiệm, chậu thủy ngân, hýt-rô, clorua natri không có gì êm đềm, không chắp được cánh cho trí tưởng tượng, không gợi được những tiếng vang nào cho sâu xa hơn trong tâm tư người nghe. Đã thế lại nghe học sinh đồn thầy sắp cưới một cô vợ nhà quê giàu. Nhưng Minh là người tích cực và tôi nhớ rõ rằng anh đã tìm cách bắt buộc các cô mơ mộng này đi coi đá banh - mà anh là thủ quân, - và dạy họ vỗ tay. Nhưng cho dù là văn hay võ thì kẻ ái mộ cũng làm người được ái mộ sung sướng và hãnh diện và tôi đã chân thực nghĩ rằng Thanh Phương quả là một người được số mệnh chiêu đãi hết sức.

          Sau hai năm dạy ở Trương Vĩnh Ký, tôi hồi cư về thành. Tiếp tới hiệp định đình chiến Genève và một hôm nào đó ngẫu nhiên tôi gặp Thanh Phương đi ngoài phố.

          - Cô Thanh Phương! Tôi không ngờ gặp cô ở đây. Sao? Nhà cô có ở gần đây không?

          - Dạ gần đây. Mời thầy đi với em. Chắc ba má em gặp thầy mừng lắm.

          Đi quanh quẩn vài phố, tôi đứng trước một căn nhà ba tầng. Mặt tiền đắp toàn bằng đá mài nhiều màu rực rỡ mang nhiều hình vẽ giao tréo vào nhau khiến ngôi nhà tươi sáng như một món đồ chơi lớn. Thanh Phương bấm chuông. Tiếng chó bec-giê sủa ồm ồm tiếp theo. Tiếng chìa khóa tra vào ổ mở lách cách. Tôi có ý nghĩ: mỗi cuộc sống có cái nghi thức đặc biệt của nó. Y như bấm nút ra-đi-ô 49 thước vào hai mươi giờ thì sẽ được nghe bốn tiếng “tét tét”, tiếp tới tiếng rao hai mươi giờ, tiếng mời nghe tin tức và liền đó một mẫu âm nhạc liến láu vô duyên.

          Ông Cự Quang tiếp tôi trong một phòng khách bày biện hợp thời. Có quạt Mỹ thổi gió ào ào như bão, có Tivi Denon cửa đóng, có tủ lạnh Sanyo. Trên tường treo đến bốn năm cuốn lịch, - loại 700 đến 1000 đồng một tập, - ngoài những bức tranh sơn dầu. Mặt ông hồng hào khác xa với màu da tái xanh của người sốt rét kinh niên hồi kháng chiến. Tôi bắt đầu hỏi thăm sức khỏe và tình hình làm ăn thì bà Cự Quang ở từ nhà sau mang cơi trầu ra toe tét chào tôi:

          - A! Xin chào thầy. Lâu lắm mới được gặp thầy. Dễ thường mười năm rồi… Kìa, hơn chứ… hơn mười năm rồi hả ông? Dễ đã mười lăm năm rồi. Thầy dạo này trông thế mà không già hơn ngày trước bao nhiêu.

          Tôi lúng túng nhận lời khen. Đang không mà phải mang ơn một lời khen. Ông Cự Quang nhẫn nại đợi cho bà vợ cạn hết nguồn xúc cảm hàn huyên rồi mới chậm rãi cho tôi biết rằng hiện cửa hàng ông đã nhường lại cho người cháu và ông bà lui về nghỉ ngơi an hưởng tuổi già.

          - Hết muốn bay nhảy rồi, thầy ạ. Mười năm kháng chiến, bây giờ mình bắt đầu yếu. Ăn ít được, ngủ không ngon. Ngày xưa kháng chiến khổ thế nhưng mà lại thèm ăn thèm ngủ.

          Tôi không có một câu chuyện thâm thúy nào để nói mà chỉ nhớ gì nói nấy, bạ đâu nói đó, đề cập vu vơ đến những cảnh những người của thời xa xôi ấy.

          - Thầy có còn nhớ ông Liệu không? Hồi đó ông cất cái quán ở gần cổng xe lửa trước chùa Phật học. Bây giờ giàu lắm. Thầu nước cơm của Sư đoàn Bạch mã Đại Hàn.

          - Tôi tưởng thầu xây cất: cất vi la, buyn-đinh, làm cầu mới giàu to được. Chớ thầu nước cơm…

          - Cái đó còn tùy cách làm ăn khôn khéo của mình. Phải có thỏa hiệp ngầm với đầu bếp nên trong thùng nước cơm, đầu bếp cứ quăng hàng chục lon đồ hộp, vài ba cái jăm-bông gói kỹ trong túi ni-lông, hàng tá lê táo. Lọt qua cổng gác, chở về nhà rồi thì moi lên, dội nước kỳ cọ rồi đem ra bày bán ở chợ.

          - Cũng thì tản cư hồi cư một lượt mà ông Năm Lùn dường như làm ăn không được phát đạt bằng. Tôi thấy ông ta có vẻ túng.

          - Ông Năm Lùn ở đường Nguyễn Trường Tộ phải không? Làm bộ đấy. Cả dãy nhà sau ông ngăn thành phòng, mỗi phòng vuông vắn ba thước làm nhà chứa. Ông đứng làm ông trùm. Hôm nào khách tới đông quá thì ông đích thân phóng mobylette (2 ) đi mượn gái ở các động khác. Ông lại đích thân chở gái ở yên sau.

          Tôi tưởng tượng thấy một ông Năm Lùn lễ mễ chở cô Mary béo tròn ngồi sau lưng ông, vẻ mặt đăm chiêu quan trọng như khi ông viết một tờ sớ để cúng Sao cúng Hạn giải ách cho thân chủ. Bởi vì trong nhiều năm ông Năm Lùn đã làm nghề phù thủy, thầy bói tướng nham độn.

          - Túng bấn thiệt là ông Đốc Dương, - lời ông Cự Quang. Bây giờ ông đã có tuổi mắc chứng đi tiểu đường còn bà vợ thì tê bại. Nghĩ con người giàu nghèo sang hèn không ai lường trước được. Hồi Pháp thuộc, ông là công chức ngạch Tây. Thời kháng chiến ông còn làm Thanh tra. Về đây ông sướng được hai năm, kế bà vợ phát bệnh. Rồi tới ông. Mấy đứa con ở kẹt bên Tây cưới vợ đầm, chẳng nghĩ gì đến cha mẹ… Hồi Pháp thuộc, ổng hách lắm. Đi thanh tra các tỉnh, các kiểm học sợ một phép. Dân Tây mà. Đâu có thèm tới chào hỏi xã giao ông Tuần Vũ hay ông Tổng đốc.

          Tôi nhìn xuống đồng hồ. Buổi sáng còn có mấy việc phải lo nên tôi xin cáo từ ông bà Cự Quang và cô Thanh Phương, hẹn sẽ thỉnh thoảng lại chơi nhưng lời hẹn thiếu nhiệt tình. Có lẽ không còn chuyện gì để nói nữa. Sáu mươi phút gặp gỡ hôm nay đã tiêu thụ hết mọi tin tức mà tôi có thể có về những người quen cảnh cũ.

          Sau đó có những dịp đi ngang qua nhà tôi, Thanh Phương hay ghé lại thăm. Đó là những ngày đầu tháng cô đi thu tiền nhà. Oâng bà Cự Quang có một cái vi-la cho Mỹ thuê ở xế cạnh nhà tôi ở. Ban đầu còn dè dặt, dần dần cởi mở chân thành hơn, nên câu chuyện không đến nỗi gò bó. Tôi hỏi Thanh Phương:

          - Cô nghĩ sao về vấn đề hôn nhân? Tôi có cảm tưởng rằng không phải là sớm lắm đâu nếu cô nghĩ đến việc chọn một người yêu và lập gia đình với họ.

          - Thưa thầy em đâu có còn ai yêu nữa? Em đã già rồi.

          - Già? Ý cô muốn tôi phải cải chính giùm cho cô chắc?

          - Dạ đâu có. Em nói thật mà.

          - Già hay trẻ, đó là ý chủ quan của cô. Khách quan, người khác có thể nhìn khác. Có điều tôi nghĩ rằng cho dù ở tuổi nào, ở hoàn cảnh nào ta cũng tìm thấy… tìm thấy… người…

          - Chắc ý thầy muốn nói nồi tròn úp vung tròn, nồi méo úp vung méo…

          Tôi lật đật cải chính mặc dù câu giải thích của Thanh Phương không sai với ý nghĩ của tôi. Nhưng mà nó tàn bạo thô lỗ, nó có khả năng làm đỏ mặt một người nhũn nhặt nhất.

          - Tôi không định nói như vậy. Ý tôi nghĩ rằng khi cô có một số kinh nghiệm ở đời thì tự nhiên cô chọn người bạn đường trong giới những người cũng đồng quan điểm như cô.

          - Hầu như không còn ai cùng quan điểm như em nữa. Em già nua giữa xã hội quá trẻ, trẻ con. Người ta hời hợt, người ta bộp chộp… Em khôn quá sớm. Mười ba tuổi đã đọc Nửa Chừng Xuân, Đôi Bạn, đã biết suy nghĩ về tình yêu lý tưởng và ý nghĩa của cuộc đời. Em hay mơ mộng và kết quả là học hành dở dang. Em hay lý luận và mấy đứa bạn thân hay hỏi ý kiến của em khi chúng phải quyết định một điều quan trọng. Chẳng hạn lúc lấy chồng. Em cân nhắc hay dở nên hư cho bạn em nó thấy. Tụi nó tin em lắm. Kết quả đều tốt. Chỉ có trường hợp con Bích Ngọc.

          - Sao vậy?

          - Nó nghe lời em bỏ rơi thằng Thìn để lấy thằng Diễm. Kết quả là hiện tại nó khổ với thằng Diễm lắm. Nó tự tử mấy lần mà đều có người cứu kịp. Em thật ân hận về vụ này. Em không ngờ thằng Diễm nhu mì chăm chỉ như vậy mà lớn lên đổ đốn. Cờ bạc, mê đĩ, hành hạ vợ. Trong khi thằng Thìn làm ăn chí thú, có xe, có nhà. Rạp xi-nê Tân Tiến và hãng nước đá Đức Thanh ở đường Hoàng Hoa Thám là của nó đó.

          - Còn phần cô?

          - Em ấy à? Số em long đong lắm. Yêu nhằm những người không thể cưới mình được. Người yêu mình thì mình không yêu lại nổi.

          - Hãy hạ thấp tiêu chuẩn xuống. Hãy đo tầm vóc của người đến với mình bằng một cái thước non hơn.

          - Em có áp dụng lời thầy vừa khuyên đó. Lúc bấy giờ em đứng trông hàng cho ba má em. Nhiều sinh viên sĩ quan, chuẩn úy, thiếu úy, làm quen với em. Nhiều người non, vài người nói chuyện được, một người em có cảm tình. Anh ta là một người trầm lặng, ít nói, yêu nhạc Bach như em, yêu Pier Angeli như em. Sau mỗi chuyến hải hành, nơi anh đến đầu tiên khi đặt chân lên bờ là tiệm em. Nhưng đến để nhìn lặng lẽ, chào một cái khẽ, nói một tiếng nhỏ vừa đủ cho em nghe: “Manila” hay “Hong Kong”. Rồi chào em về. Qua ngày hôm sau anh mới đem một món quà nhỏ đến tặng em.

          Thật là lãng mạn, - tôi nghĩ. Man mác không khí Hồn Bướm Mơ Tiên, Roméo và Juliet, Tố tâm… trong khi chúng tôi đang ở thời đại của chú Tư Cầu. Cũng là duyên may của Thanh Phương. Giá đặt vào chặng 1940-1945 thì người đàn ông hoặc người đàn bà đã sẵn sàng ngâm rằng “Ta đã hẹn nhau từ muôn kiếp trước”. Bởi rõ ràng họ là hai con bướm lạ bị lạc loài giữa bụi bặm và tiếng còi xe của thị thành. Thời nay người ta yêu ào ạt theo thể cách của loài thú có máu nóng. Thanh Phương và người tình của cô yêu nhau kiểu côn trùng.

          - Thế rồi?

          - Rồi cũng chẳng được chi, cũng chẳng đi đến đâu. Ba má anh bắt về Vĩnh Long cưới vợ, người vợ anh không yêu nhưng mà môn đăng hộ đối với gia đình anh. Ba anh làm biện lý tòa án và ba cô kia là dược sĩ.

          Tôi muốn thốt ra một tiếng phẫn nộ. Sự tiêu cực của người đàn ông yêu rụt rè và chủ bại bao giờ cũng dễ ghét. Đó là loại người hay vẽ vời hình thức: làm thơ, chôn những cánh hoa, cắt giữ một lọn tóc.

          - Mùa Nô-en cuối cùng, - một tháng sau thì anh cưới vợ, - anh đến thăm em. Anh xin phép tắt điện để đốt nến nơi cây thông Sinh nhật. Anh kể cho em nghe chuyện nàng Graziella…

          Tôi nhẫn nại nghe câu chuyện Thanh Phương kể, chốc chốc gật đầu và ứ hự làm như mình rất được thích thú, nhưng càng thấy Thanh Phương trân trọng đối với kỷ niệm tôi càng thấy người tình của cô là đáng ghét.

          Đích thực là việc khó lòng tìm được một tình yêu trong thời đại hỗn tạp trâng tráo ngày nay. Năm 1966 một tờ tuần báo văn học có phỏng vấn độc giả của họ, yêu cầu mỗi người chọn mười nhà văn mà họ thích đọc. Kết quả là trong năm mươi người trả lời chỉ một người còn thích Tự lực Văn đoàn. Giá Thanh Phương biết được kết quả này thì chắc cô buồn lắm. Hào quang của cô trùng hợp với hào quang Tự lực Văn đoàn và tôi nhớ có lần cô phàn nàn sao ông Nhất Linh xuất bản chi tập Văn hóa Ngày nay. Ý cô muốn dừng lại ở Bướm Trắng và Đôi Bạn và tôi hiểu rằng với quan niệm này hẳn cô cho rằng những ngày thơ mộng êm đềm của cô là thuộc về quá khứ, rằng hiện tại cô chỉ sống uể oải qua ngày thôi, mang cái kiêu kỳ của kẻ không ai hiểu được mình. Trong khi đó, thản nhiên vô tình những năm tháng chồng chất lên năm tháng, gặm mẻ lần lần cái kiêu kỳ vừa tô bồi cái mặc cảm thua sút. Nhan sắc như một đóa hoa, không thể tươi mãi và có nhiều hôm tôi thốt nhiên bàng hoàng khi nhìn thấy những nét mỏi mệt nơi đôi mắt, nơi đôi môi, nơi bàn tay của Thanh Phương.

          Bẵng một thời gian dài tôi không gặp Thanh Phương. Dường như cái vi-la Mỹ đã trả lại không thuê nữa. Nghe có lệnh binh sĩ Mỹ từ bốn gạch trở xuống phải vào trại ở. Ông Cự Quang hùn với một bà bạn đem mở snack-bar có ban nhạc sống do thằng em trai của Thanh Phương tên là Tony Út thành lập với lũ bạn chuyên môn trốn học của nó. Tôi đã có lần chạm trán với vị nhạc trưởng này, mặt mày ốm nhom, tóc để dài vừa uốn như tóc đàn bà. Nếu không nhìn ngay xuống cặp đùi tong teo dài ngoẵng và cái ngực mỏng như tấm bìa lịch thì tôi có thể tưởng lầm đó là một người đàn bà già và xấu.

          Chợt một hôm Thanh Phương đến thăm tôi.

          - Thầy có bận gì không? Hôm nay em có nhiều chuyện để kể cho thầy nghe. Lâu lắm em không lên thăm, chắc thầy tưởng em chết đâu mất rồi.

          - Đâu đến nỗi bi quan vậy? Người ta có nhiều cớ để vắng mặt mà. Gặp nhau hằng ngày chưa hẳn đã là một điều đáng mong ước.

          - Ý thầy muốn nói?

          - Rằng tôi cầu mong trong thời gian đi xa cô đã gặp được hạnh phúc.

          Thanh Phương cười:

          - Thầy nhớ kỹ đến hoàn cảnh cô đơn của em ghê. Đố thầy biết em đi đâu trong thời gian đó không?

          Nét mặt tươi tỉnh, giọng nói nhanh nhẹn của Thanh Phương biểu lộ một niềm vui tràn trề và tôi chịu không đoán được Thanh Phương đang sung sướng bởi thứ hạnh phúc nào. Tôi lắc đầu nói:

          - Chịu thua.

          - Em đi tu.

          Tôi đang rút điếu Winston chưa ra khỏi miệng gói thuốc thì ngừng lại đó, ngẩng lên nhìn cô, ngạc nhiên. Cô vẫn nét mặt tươi cười:

          - Em đi tu thiệt mà. Thầy đốt thuốc đi đã rồi em sẽ nói.

          Trong khi tôi bật diêm, Thanh Phương nói:

          - Thầy đừng nghĩ là em mơ mộng. Em không chịu ảnh hưởng Hồn Bươm Mơ Tiên đâu. Bây giờ mà mơ mộng kiểu đó thì quê lắm. Em quyết đi tu thiệt. Em không cho gia đình biết. Một buổi sáng, em lẻn ôm một gói quần áo ra bến xe đò. Không biết nên đi đâu, đi về phía nào. Em mua ào một cái vé đi Qui Nhơn. Thật là hồi hộp khi mình đang làm một hành động bất thường. Em hơi tủi thân khi nghĩ rằng những người hành khách ngồi cạnh mình kia đang sung sướng bởi họ sắp được gặp gỡ những người thân yêu xa cách. Còn em thì ngược lại. Em hiện không có gia đình, em hiện bị chối bỏ. Những cánh đồng lúa nằm yên lặng nhẫn nhục ở hai bên đường. Những con sông chảy uể oải. Những đèo núi thâm u vang tiếng ve sầu. Em ghé lại Qui Nhơn một tối rồi sáng hôm sau ra bến xe ngựa. Tìm hỏi một ngôi chùa sư nữ.

          Tôi ngắt lời:

          - Công việc đang đi tới phần tế nhị đó. Phải hỏi sao cho khéo để khỏi bị mời về Ty Công an điều tra.

          Thanh Phương cười:

          - Em đã nghĩ một kế để dọ hỏi. Cứ nói láo rằng có người chị bỏ nhà đi tu và mình được gia đình phái đi tìm. Người nào cũng ái ngại nghe và tranh nhau mách tên những ngôi chùa. Em lên xe ngựa ra An Nhơn và tìm đúng ngôi chùa mà các người ở bến xe ngựa mách.

          - Tên là chùa?

          - Dạ, chùa Tịnh Liên. Em vào xin yết kiến sư bà kể hết sự duyên. Sư bà nhận cho em thí nghiệm việc tu tập, làm quen với đời sống cần lao và cam khổ. Trong mọi sự cam khổ, em sợ nhất là đi cấy ruộng chùa. Phải cúi lom khom hàng giờ, chân giẫm xuống bùn, đỉa đeo ngang dọc. Phải đứng giữa nắng chang chang, ánh nắt xoáy vòng làm đầu óc mình lảo đảo.

          - Nếu không do miệng cô kể thì tôi không tin rằng đó là chuyện có thực.

          - Dạ, chính em cũng không ngờ sao em có đủ sức chịu đựng như vậy. Hồi đi học, hễ động đi nắng một bữa là nhức đầu. Nỗi khổ thứ hai là những buổi chạng vạng nghe ếch kêu. Tiếng ếch gào thê thảm, khắc khoải, rã giọng, gợi nỗi nhớ nhà.

          - Còn kinh kệ? Đi tu mà chẳng lẽ chỉ lo cấy lúa và nghe tiếng ếch kêu.

          Thanh Phương cười:

          - Dạ, có học kinh kệ. Công việc thuần túy tu hành thì gồm có hai thời công phu chính yếu bốn giờ sáng, năm giờ chiều và một khóa tụng tối gọi là Tịnh độ lúc tám giờ. Vì còn mới sơ tâm cầu đạo nên trước khi học giới luật em lo học quyển “Nhị thời công phu”.

          - Thử đọc một đoạn kinh cô đã thuộc xem nào.

          Thanh Phương không từ chối.

          - “Nam mô tát đát tha tô, dà đa gia a ra ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa, tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam…”. Đó là Thần chú Lăng Nghiêm. Đây là kinh Di đà, Hồng danh và Thí thực: “Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá vệ quốc kỳ thọ cấp cô độc viên dữ đại tỳ kheo tăng, thiên nhị bách ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A la hán”. Trong hai thời công phu, kinh công phu khuya là khó học nhất, do đó tiền nhân thường nói “Đi lính sợ trèo ải, làm sãi sợ chú Lăng Nghiêm” bởi mới nghe qua như tiếng Miên tiếng Lào.

          Thanh Phương dốc tâm đi tu thực, tôi nghĩ. Ăn cơm với tương rau, cấy lúa còng lưng dưới nắng, thức dậy hồi bốn giờ để gõ mõ… bao nhiêu cực nhọc đó không phải là trò chơi của kẻ hiếu kỳ. Không phải là những màn trình diễn như các ông lớn cuốc phát cuốc tượng trưng, đập nhát búa tượng trưng để cho thợ chụp hình, thợ quay phim ghi vào băng nhựa.

          - Rồi… sao cô lại ngồi đây?

          - Giặc giã ùn ùn tràn tới. Đại bác, rốc-kết, bom lửa, tiểu liên, đại liên, cạc-bin, bích kích pháo. Chùa sập. Tượng cháy. Làng xóm tan hoang. Dân chúng tị nạn. Sư bà dẫn ni chúng chạy về chùa Tỉnh hội. Xa lìa cơ sở, cả đoàn phải sống chen chúc, thiếu thốn và luôn luôn mang mặc cảm của kẻ đi quấy rầy. Có còn được an ổn tinh thần nữa không, trong hoàn cảnh đó? Sau hai tháng chịu đựng không lối thoát, em đành xin sư bà cho về nhà đã, hẹn sẽ tái ngộ khi có cơ hội thuận tiện.

          - Theo lời cô trình bày thì rõ ràng là việc đi tu của cô bị ngăn ngại. Thế nhưng dường như cô không tỏ ra phiền não mà trái lại, tôi thấy cô có vẻ an vui hơn những ngày tôi gặp cô trước đây.

          - Dạ thực tế có đúng như vậy. Em chợt tin rằng có một định mệnh dành cho mỗi người và tự nhiên em không thấy buồn nữa. Em cứ chấp nhận cái gì đó đến cho em.

          Sau lần nói chuyện và trong một thời gian dài, tôi không gặp Thanh Phương. Lý do là mùa Hè năm đó tôi xa rời thành phố lên ở chơi suốt ba tháng trong đồn điền của một người bạn ở Tùng Nghĩa. Có thể là Thanh Phương có đến thăm tôi trong thời gian tôi vắng mặt và bởi tôi đi mà không để lại địa chỉ nên Thanh Phương bặt hẳn tin tức với tôi.

          Sau đó không biết bao lâu, chợt một hôm tôi gặp Tony Út, vị nhạc trưởng tóc dài. Tony Út chào tôi và khoe liền ban nhạc của hắn.

          - Em vừa tuyển được một tay trống cừ lắm. Đêm qua bọn em mới trình diễn dưới câu lạc bộ Neptune.

          - À, khá quá nhỉ, - tôi nói vẩn vơ.

          - Em đổi tên ban nhạc lại rồi. The Blinds, - những thằng mù, - thầy nghe có được không?

          - Được lắm. Chỉ sợ người ta lầm tưởng là ban nhạc của trường mù. Chị Thanh Phương độ rày mạnh khỏe?

          - Chị đi tuốt mất rồi. Thầy chưa biết à?

          - Đi đâu?

          - Đi hoang. Bỏ nhà đi hoang.

          - Chưa kiếm ra?

          - Đi đâu mặc kệ, hơi đâu mà kiếm. Đi chán rồi thì lò mò về. Tối mai ban The Blinds của em trình diễn ở vũ trường Kiều Oanh, mời thầy ghé lại thưởng thức. Để em đưa giấy mời thầy.

          - Để coi thử có rảnh không.

          Bỏ nhà đi hoang! Đi đâu và đi theo tiếng gọi của loại Định mệnh nào? Để mong tìm gặp đối tượng nào? Một sự buông thả liều lĩnh? Hay tiếng gọi thanh khiết của một am tự như đã có một lần?

          Cho đến nay, tôi chưa gặp lại Thanh Phương. Và bất ngờ mà hôm nay một Thanh Phương ngây thơ trong sáng của những ngày thơ mộng êm đềm cũ bỗng hiện đến trước mặt tôi qua hình dáng của Trân đang ngồi trước mặt tôi kia. Cũng đôi môi nhỏ chỉ biết nói những lời dịu dàng. Cũng đôi mắt đen thông minh linh hoạt. Cũng những nét duyên dáng kín đáo trong một cái ngước mặt, một cái quay đầu, bàn tay có ngón trắng thon đưa lên vén mái tóc. Tôi chợt tràn trề xót thương nhìn lâu vào khuôn mặt Trân. Cầu mong cho em gặp một Hạnh Phúc bình ổn sau này để em có dịp mang cái dịu dàng làm im mát không khí một gia đình. Tôi lắc đầu cố đuổi xa cái hình ảnh chập chờn cứ muốn sà xuống bao trùm lấy tâm hồn tôi, cái hình ảnh một con bướm lạc loài giữa đô thành bụi bặm, một con buớm tả tơi đôi cánh giữa gió mưa vô tình của cuộc đời.

          (1) chậu rửa mặt bằng sứ
          (2) xe gắn máy

          #35
            hai1957 11.12.2012 14:56:29 (permalink)
            3. HÃY ĐẾN CHẬM HƠN NỮA



            Mỗi năm có khoảng chừng mười lần tôi nhớ đến Hoạt. Số lần nhớ tăng theo tỷ lệ thuận với số tuổi. Rõ ràng là càng lớn tuổi người ta càng hay nhìn về quá khứ, không phải vì thích nhìn mà dường như vì người ta bắt buộc phải nhìn.

            Hoạt học chung lớp vỡ lòng với tôi. Trải qua một niên khóa, anh không có đặc điểm gì khiến tôi lưu ý. Có lẽ chỉ cái tên của anh là có đôi chút đặc biệt. Chúng tôi gọi là Quạt và liền trong óc hiện hình cụ thể ra một cái quạt. Thật tiện lợi và tự nhiên. Hồi đó người ta dùng cái quạt bằng giấy phất lên trên những cái nan tre xòe ra xếp lại gọn gàng. Những kép hát bội đóng vai nịnh thần sử dụng quạt nhiều nhất, hầu như thường xuyên có cái quạt trên tay. Cái quạt biến thành vũ khí tùy thân như thời nay cái súng đánh đai trên vai người lính. Khi cần bắt khán giả lưu ý đến câu nói của mình, tên nịnh thần thường vừa nói vừa duỗi tay mặt xòe cái quạt ra, còn tay trái thì vuốt râu. Mấy cô công chúa cũng hay cầm quạt. Khi đợi người tình lang phùng gân cổ vừa trợn mắt lên hát cho hết đoạn Nam đoạn Bắc của hắn, thì nàng công chúa lợi dụng cây quạt đang cầm tay để quạt cho đỡ nực. Khán giả đâu có lưu ý chê trách một cử chỉ phản nghệ thuật như vậy bởi chính nhiều khi có thấy nàng công chúa quạt mát trên sân khấu, khán giả mới bỗng chợt nhớ đến cây quạt cầm tay của mình và thế là cả rạp hát phấn phới những cánh quạt màu trắng như những cánh bướm hoạt động. Chúng tôi đứa nào cũng có những kinh nghiệm đi coi hát bội như vậy.

            Ở nhà vườn người ta dùng mo cau để cắt thành quạt. Đó là thứ quạt bền nhất, khi ngủ quên tha hồ nằm lăn lên trên và khi giận con thì trở cán mà vụt, vụt chết thôi, không sợ rách, không sợ gãy. Những người nghèo không có cây cau mọc trong vườn, không có cái vườn để cây cau mọc thì qua mùa Hè khi gió Nam tạt hơi nóng vào mặt, họ đi lượm những bẹ tre ở các bờ tre làng. Lúc bấy giờ những cây măng đã mọc cao và đốt nào vừa già đủ sức chịu đựng nắng gió thì vội cổi bỏ cái bẹ bấy lâu nay vẫn che chở nó. Các cái bẹ rớt lang thang trên mặt đường đi, được lượm lên, đem về nhà dùng dao vanh cắt thành hình quạt.

            Cả một hệ thống quạt như thế dành cho sự liên tưởng của tôi.

            Sau này khi lên đến lớp Tư, Hoạt dẫn một đứa em của anh đến xin học. Tên nó là Bác. Chúng tôi sắp sửa liên tưởng đến “cái chén”, - chúng tôi là dân miền Nam nên chuyên môn đọc sai những chữ tận cùng bằng T, C, có G và không G, - thì thầy giáo gật gù bảo Hoạt:

            - Ai bày cha mày đặt tên là “Hoạt bát”?

            Hoạt lí nhí:

            - Dạ thưa thầy con không biết.

            Thầy quay lại chúng tôi:

            - Đố các trò “Hoạt bát” là gì?

            Nhiều đứa rúc rích cười thích thú nhưng không dám giơ tay xin nói. Chắc đứa nào cũng có một lối giảng nghĩa như nhau. Đợi lâu không thấy đứa nào xung phong, thầy chỉ ngay thằng Lăng.

            Lăng đứng dậy:

            - Dạ thưa thầy là mình quạt cho Bác mình, là trời nóng Bác mình sai mình quạt cho ổng mát…

            Cách giải thích thật bất ngờ, và “ông Bác” thì cũng cụ thể dễ tưởng tượng như “cái chén” nên cả lớp cười rộ lên. Thầy cũng cười theo.

            - Các trò dốt. “Hoạt bát” là chữ Nho. Nghĩa là ăn nói trôi chảy, ai hỏi đâu trả lời đó.

            Hoạt không ăn nói trôi chảy, thông thạo như y nghĩa của cái tên anh. Thầy kêu lên đọc bài thì anh cà kê chỉ một câu đầu, lặp lại mỗi chữ đến năm, bảy lần rồi đứng khựng. Lúc bấy giờ ngón tay cái của anh làm việc tay cái lưỡi. Anh thọc ngón tay vào lỗ bàn chỗ dành gài gô-đê (1 ) mực và cứ thọc vô rút ra. Thầy hỏi:

            - Ai biểu mày nạo lỗ gô-đê?

            Anh ngước mặt lên ngớ ngẩn hỏi:

            - Dạ? Dạ thầy sai con nạo cái gì?

            Trời ơi! Ngu ơi là ngu! Đến giờ chơi chúng tôi bao vây anh để hành hạ tiếp.

            - Hồi nãy thầy sai anh nạo cái gì vậy?

            - Tao đâu có biết? Ổng nói tao không nghe, tao hỏi lại ổng không nói.

            - Chiều nay mà anh không nạo xong thì chết anh.

            - Tao biết nạo cái gì?

            - Sao không hỏi lại cho rõ?

            - Hỏi rồi mà không nói.

            - Kệ anh. Chiều nay bị đòn kệ xác anh.

            Chiều đó Hoạt trốn học. Thầy sai bốn anh sức vóc lực lưỡng đến nhà bắt. Tìm khắp nhà trên tìm xuống nhà bếp. Mẹ anh nói:

            - Uở lạ. Nó có ôm sách vở đội mũ xách ve mực đi học rõ ràng mà. Chớ đi đâu mà không tới trường?

            Cha anh chậm rãi nói từng tiếng:

            - Thằng nhỏ giấu vở đi chơi ở đâu rồi be. Chắc theo lũ thằng Bạch thằng Trinh đi đánh trổng hay đi bắt chim.

            - Ông mới đánh nứt đít hôm kia, chắc bữa nay không dám, - lời mẹ anh.

            - Nó sợ ai mà không dám?

            Xem chừng cuộc đối thoại dài nhằm không giúp ích gì cho cuộc sưu sách phạm nhân, bốn vệ sĩ đi lần ra sân sau, lục lọi từng bụi chuối, từng đống củi. Vẫn không tung tích. Bốn người thả bộ về chuồng bò. Con Xe con Pháo nghểnh cái mặt dài đuỗng lên ngó, miệng ngồm ngoàm nhai, đuôi quất lia lịa lên sườn lên lưng.

            - Thằng này coi vậy mà biến hóa như thần, - một đứa nói.

            - Nó dám biến làm con ruồi lắm. Hồi hôm dượng Năm tao đọc truyện Tây Du cho bà Nội tao nghe có đoạn ông Tề Thiên biến làm con muỗi, - một đứa trả lời.

            - Biến làm con bò chắc ăn hơn. Biến làm con ruồi con muỗi, lỡ con bò nó quất đuôi trúng một cái chết nhăn răng.

            Miệng nói mắt dòm, tay cầm cây củi đập vu vơ lên cây róng chuồng bò, lên đống rơm để dành bỏ cho bò ăn.

            Chợt đống rơm vùng dậy. Một bóng đen vụt trồi lên. Anh Hoạt. Rơm dính đầy đầu, rơm ghim đầy áo, anh phóng một sải rồi chạy u một mạch vượt vuông sân, vượt luôn đám đất xanh um những vồng khoai lang, nhảy thoát qua bờ rào, biến mất. Những cọng rơm bị phủi bay còn lượn lững lờ trước khi rơi xuống đất. Anh Khóa, một vệ sĩ giật mình đứng khựng.

            - May thằng này không có võ. Nếu không thì nó đã cho tao một đá, bể bong bóng để chạy thoát thân.

            - Mày dở quá. Chớ cây củi cầm trên tay làm chi? Phang cho nó một đòn.

            Đại để đó là những kỷ niệm Hoạt đã gởi lại trong trí nhớ của tôi.

            Sau khi học xong hết lớp Tư thì chúng tôi xa cách nhau. Tôi lên trên trường Phủ, trường Tỉnh học tiếp còn Hoạt thì trở về nhà thừa kế công việc của cha anh để sau này tiến lên thay thế.

            Sau đó chừng bốn, năm năm, một hôm không nhớ đang nói chuyện gì bỗng một người bạn nhắc đến Hoạt. Giọng nói đang to chợt nhỏ đi, thì thầm như một tâm sự.

            - … nó bị phung.

            Không ai được chuẩn bị để nghe tin đó nên ai nấy đều có cảm tưởng mình vừa rùng mình. Chừng như người ta có quyền mắc một trăm thứ bệnh khác, điều đó không khiến ai ngạc nhiên, chứ bệnh phung thì không thể tưởng tượng được.

            - Cha nó phải dựng một cái chòi ở giữa đám dưa hấu ngoài soi để giấu nó ngoài đó, - lời người bạn kể. Nhưng lâu ngày rồi cũng bị lộ. Có người đâm đơn xuống Huyện. Nhà nước tới bắt chở đi…

            Không ai tìm hỏi xem “Nhà nước” là cơ quan nào và anh bị chở đi đâu. Cái tai họa lớn quá, quá tầm lo lắng của sức người nên ai cũng chỉ nghe rồi chép miệng rồi thôi. Y như khi nghe tin một người đã từ trần. Chắc chắn không ai hỏi xem linh hồn người đó đang đi về hướng nào, Thiên đường hay Địa ngục. Sức người dừng lại ở hơi thở hắt ra, bất lực đầu hàng và tiếp sau đó là phần việc của Phật, của Chúa, của Allah. Coi như là chúng tôi đã trao việc vào tay của Thượng đế rồi vậy.

            Năm tháng dần trôi, những người bạn của tôi và tôi đều lớn lên, đứa nào cũng được quây quần bởi một gia đình, như cây keo, cây me, cây sầu đông khi đứng tuổi sức vóc vững vàng thì bao giờ cũng có nhiều cây con đứng xúm xít xung quanh. Có những cây con mơn mởn vượt cao ngang tầm ngực của cây mẹ, - mười tám, hai mươi tuổi rồi đó, - có những cây mảnh mai yếu đuối rụt rè chìa được đôi cành, - chín, mười tuổi, - và có những cây mới nhú từ mặt đất, nhỏ nhoi ngơ ngác. Tôi thấy đứa bạn nào cũng trở nên nghiêm trang và nhiều đứa nghiêm trang một cách thái quá đến độ buồn cười. Đứa nào cũng đột nhiên tăng giá trị, thứ giá trị được dán thêm do những đứa con mang lại. Thằng Phong có đứa con đầu lòng làm tới Đại úy công binh. Nó không cần phải tham nhũng mà nhà đầy xi măng, đầy sắt. Đứa con út của nó khi mặc quần đùi thì để lộ cặp chân to và đen, vạm vỡ như cặp chân voi. Thằng Lào có hai người rể, một tên làm Quận trưởng, một tên làm Thiếu úy Trợ y. Vân vân. Được “Dạ” bởi những sĩ quan và cán bộ Hành chánh như thế, được nể nang bởi những bắp thịt hùng hậu như vậy, được đặt lên trên đầu của lũ cháu nội cháu ngoại, các người bạn may mắn của tôi thật có dư lý lẽ để hãnh diện. Những lúc đó tôi nhớ đến Hoạt. Sao bao nhiêu khổ đau lại chỉ dành cho anh? Bao nhiêu nhức nhối vật chất, giá lạnh tâm hồn lại dành tặng cho riêng một anh? Bây giờ anh ở nơi nào? Còn sống hay đã chết? Tôi có ý nghĩ là anh đã chết rồi, quằn quại nhiều ngày trên giường bệnh, cô đơn hơn bất cứ một người hấp hối nào. Sự xót thương và những ý nghĩ đó in sâu vào óc tôi đến nỗi có lần gặp cha mẹ anh mà tôi không hề dám hỏi tin tức anh. Thậm chí gặp bạn bè mà tôi cũng không dám hỏi nữa. Tôi sợ phải nghe một câu trẻ lời, chẳng hạn: “Nó chết hơn hai mươi năm nay rồi mà mày chưa biết!” Lúc đó tôi sẽ thấy mình là tên vô nghĩa bạc tình và tôi đành tìm một lẽ để bào chữa: Có biết được sự thực hay không cũng vô ích. Nó không giúp đỡ cho anh được chút nào. Còn đối với cha mẹ anh thì chỉ khơi một mối buồn. Tốt hơn hết là để cho quên đi.

            Vì quả thật vậy, mỗi lần gặp mẹ anh, tôi có cảm tưởng như bà đang âm thầm nghĩ đến đứa con bất hạnh của bà. Trên vai bà thường có một gánh nặng, lúc thì một gánh bông, lúc thì anh gánh đường và bà lầm lũi bước, mắt nhìn xuống đất. Tôi không lần nào gặp bà đứng nói chuyện với ai để được nhìn một nụ cười làm tươi ánh mắt. Mà dường như thường trực đó là một khuôn mặt đăm chiêu, cằn cỗi, đối thoại âm thầm với mặt đường sỏi đá, xơ xác cỏ khô.

            Anh có một người em gái nước da ngâm đen nhưng có sắc đẹp mặn mà. Hai đường chân mày dài và cong che một đôi mắt đen mở rộng. Cái mũi thẳng và đôi mắt sắc sảo. Vài đứa bạn của tôi mê người em gái anh và tôi không hiểu khi ngồi kề cái khuôn mặt xinh xắn đó, cầm hai bàn tay mảnh mai đó, họ có liên tưởng đến khuôn mặt và bàn tay của anh chăng? Riêng tôi thì sau khi xa cách anh chừng năm, bảy năm tôi quên dần những nét trên khuôn mặt anh để dần dần thay vào đó bằng những nét của cô em. Dường như có một sự tranh giành nào đó, một sự thỏa nhượng nào đó, một sự xê dịch lặng lẽ của hai khuôn mặt nhằm thay thế và phản ứng lại sự thay thế. Có khi hai khuôn mặt hiện ra chập chờn và cuối cùng bao giờ tôi cũng nghiêng về cô em của anh hơn, đôi con mắt đen và hai đường chân mày dài thu hút dần tâm hồn của tôi.

            Gần đây do một ngẫu nhiên mà tôi được tiếp xúc với một sư huynh quản đốc một viện bài cùi.

            - Bệnh cùi, - lời vị sư huynh, - chúng tôi chữa lành được. Có nhiều bằng chứng cụ thể, có những tấm ảnh chúng tôi còn giữ lại để làm tài liệu, tấm ảnh chụp người bệnh khi nhập viện và khi xuất viện.

            Tôi dè dặt trong cuộc đối thoại:

            - Người ta nói rằng thuốc Sulfon chỉ giữ cho bệnh không tăng thêm chứ chưa thể…

            - Không phải vậy. Tôi lấy mấy trường hợp này coi như là cụ thể nhất: có mấy sĩ quan đang chiến đấu thì bị phát giác là mắc bệnh. Thử máu, đúng là có vi trùng. Cho nhập viện để chúng tôi chữa. Sau sáu tháng hay một năm, hay hai năm, tùy bệnh nặng nhẹ, họ lành mạnh trở lại. Thử máu, thấy hết vi trùng, chúng tôi trả họ lại cho đơn vị và hiện họ đang tiếp tục đánh giặc.

            - Chắc phải thử máu rất nhiều lần mới có thể kết luận…

            - Tôi hiểu sự hoài nghi của ông. Cố nhiên là khoa học có nhiệm vụ và có khả năng đi tới không ngừng và như vậy nghĩa là ở chặng đường nào chúng ta cũng chỉ biết được sự thật tương đối. Thôi, tôi xin đưa những trường hợp khác, những sự thật nó nhảy thẳng vào mắt mình không cần viện dẫn đến kiểm chứng khoa học. Có một nữ bệnh nhân khi nhập viện thì bệnh đã tàn phá cơ thể, lở lói cả lưng và trạng thái suy nhược đến nỗi chị ta đã xin dọn mình để chết. Chúng tôi nhẫn nại chữa. Kết quả là hôm nay chị đã khỏe mạnh và hiện chị gánh đôi thùng nước chạy vù vù. Hôm nào mời ông qua Viện, tôi xin giới thiệu cho ông gặp:

            - Nếu được biết sự công hiệu của thuốc chữa như vậy thì chắc những người mới mắc bệnh không đến nỗi vừa trốn tránh vừa tuyệt vọng như chúng ta vẫn nghe nói.

            - Vâng, họ trốn tránh vì họ không biết là chúng tôi chữa lành được bệnh. Có người mắc bệnh cứ nằm trốn trên lầu. Tôi tới tìm gặp khuyên nên đến với chúng tôi để chúng tôi lo chạy chữa săn sóc cho thì tôi bị mắng tơi bời. Bệnh nhân nói rằng chúng tôi vu khống để làm hại uy tín của họ, rằng những vết sần sùi trên mặt trên tay chỉ là kết quả của chứng đau gan mà họ đang chữa. Cố nhiên là chúng tôi phải hết sức nhẫn nại trong việc thuyết phục.

            - Trong khi đó thì có những bệnh nhân lén bỏ Viện trốn đi…

            - Số đó vẫn có. Ngoài những nguyên nhân tâm lý dị biệt còn có nguyên nhân này dễ giải thích: đó là thuốc Sulfon khi mới uống thì nó hành hạ bệnh nhân dữ lắm. Phải trì chí, phải chịu khó… Nhiều người sau khi chữa lành bệnh không muốn dời viện về nhà. Họ ở lại giúp tay chúng tôi, xây dựng gia đình và họ sinh những đứa con khỏe mạnh xinh xắn.

            - Những thành công tốt đẹp trong việc chữa bệnh cùi như vậy, đáng lẽ phải được phổ biến rộng rãi cho nhiều người biết, cho những người lỡ mắc bệnh biết mà tin tưởng, cho những người chưa mắc bệnh biết mà an tâm. Cổ nhân ta bảo rằng “Phong, lao, cổ, lại tứ chứng nan y”. Tuy nói là “nan y” nhưng có thể coi như là “tuyệt vọng”.

            - Chúng tôi có một nguyệt san để phổ biến những kinh nghiệm và những thành quả chữa bệnh của Viện chúng tôi. Có một buổi phát thanh ở đài Vô tuyến truyền thanh địa phương.

            - Tuy vậy nhưng dường như sự phổ biến không được rộng bao nhiêu. Người ta vẫn còn giữ những ngộ nhận về bệnh cùi, nhất là cái số phận bi thảm dành cho những bệnh nhân vào thời Trung cổ mà các cuốn sử Tây phương đã chép lại. Tôi nhớ hình như các bệnh nhân thời đó phải che trại ở trên núi và mỗi lần cần phải di chuyển thì tự họ phải rung chuông đánh kiểng cho những ai vô tình ở gần đó phải chạy lánh đi. Hãy tưởng tượng bao nhiêu nỗi cô đơn, bao nhiêu khổ đau tinh thần họ phải nếm hàng ngày ngoài những khổ đau vật chất.

            - Vì vậy cho nên việc tập trung sống vào một nơi, cạnh những người đồng cảnh ngộ và cạnh những người chạy chữa và giúp đỡ họ, việc đó an ủi tinh thần của họ nhiều lắm. Thỉnh thoảng có những cá nhân đồng bào hay đoàn thể tư nhân tới thăm và giúp đỡ bằng tiền bạc hay phẩm vật. Có những đoàn thanh niên du ca tới trình diễn ca nhạc để cho họ giải trí.

            - Tôi tưởng người ta có thể làm hơn…

            - Có vậy. Ông Raoul Follerau đã nhiều lần kêu gọi lương tâm nhân loại. Chỉ cần tiết giảm chiến tranh là có dư tiền để biến cải cuộc đời những người cùi trên thế giới, những người mắc các chứng bệnh hiểm nghèo khác, những người nghèo nàn. Ông kêu gọi các nước hãy góp số tiền chiến phí một ngày để cứu bệnh, cứu đói và cứu khổ. Một ngày chiến phí tối thiểu là năm trăm triệu đô la. Để tiền mua một hàng không mẫu hạm, người ta có thể nuôi sống 400.000 người trong một năm. Để tiền sắm một chiếc tàu ngầm, người ta có thể mua 50.000 tấn thịt phát cho người đói. Để tiền trang bị cho một sư đoàn thiết giáp, người ta có thể xây 32.000 căn nhà, mỗi căn có 4 phòng.

            - Lời kêu gọi đó đã được hưởng ứng?

            - Hiện đã có một triệu rưỡi chữ ký của thanh niên 105 nước ủng hộ, mười ba vị quốc trưởng, 29 chính phủ tán thành. Không sớm thì muộn, nhân loại cũng sẽ có ngày chợt tỉnh.

            - Công cuộc của Viện ông phải được quảng đại quần chúng biết và góp phần giúp đỡ. Ai cũng có thể mắc bệnh cùi. Tưởng tượng rằng một ngày kia mình lỡ mắc phải bệnh và những người xung quanh mình sẽ đãi ngộ mình với con mắt nào, cho dù là những người thân yêu nhất của mình! Tôi nghĩ rằng ai cũng mềm lòng trước những đồng bào ít may mắn đang gánh chịu những tai họa thay cho mình.

            Vị Tu sĩ cười:

            - Ông còn ngây thơ. Cũng có người biết trực tiếp lợi dụng chúng tôi. Những phẩm vật, những máy móc do các cơ quan từ thiện quốc tế viện trợ…

            Tôi không đủ can đảm nghe hết câu. Cái điệp khúc đó quen thuộc quá như những hành khúc buổi sáng có “Tiến lên nào! Nào vùng lên! Hăng hái xông pha! Anh em ta cùng tiến lên!” Tôi không muốn câu chuyện lại sang mục tham nhũng. Đã có chính phủ, báo chí và đài phát thanh nói tới nhiều rồi. Tôi đang vui vẻ vì loài người có những Raoul Follereau, những Fromm, Wittmann đã khổ công tìm ra DDS… Tôi đang vui vì có những mùa xuân học sinh bỏ lệ ăn liên hoan để lấy tiền giúp đồng bào bệnh nhân ở viện bài cùi. Tôi nghĩ đến vô số những trừng Tiểu học, những trường Trung học trong toàn quốc. Nếu các em đều dẹp bỏ những cuộc ăn uống không cần thiết như vậy! Nếu những người lớn cũng dẹp bỏ những món xài phí vô ích, những cành đào cành mai giá đến mười ngàn đồng, những vé thượng hạng một ngàn năm trăm đồng đi xem Đại nhạc hội có vũ khúc sexy, có trình bày Hoa hậu thời trang.

            - Nhân loại rồi sẽ có ngày chợt tỉnh, - vị tu sĩ lẩm nhẩm nói.

            Tôi nghĩ đến Hoạt liền ngay lúc đó và những ngày sau đó. Sao anh sinh ra đời chi sớm những ba mươi năm? Có gì đâu để mà vội vàng? Anh đã hưởng được gì ở cuộc đời? Nghe một tiếng chim tu hú vào đầu mùa Hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa… những niềm vui đó quá nhỏ so với nỗi khổ đè nặng của anh. Giá cứ thong thả, giá cứ đến chậm chậm một chút để kịp cho nhân loại dọn dẹp bớt những khổ não. Giá anh sống lùi lại ba mươi năm, năm mươi năm thì anh sẽ cởi bỏ được dễ dàng niềm đau thân xác, chận đứng và xóa đi những vết tàn phá. Dẫu hết sức lạc quan, tôi cũng không mảy may hy vọng anh sống sót đến ngày hôm nay, cho nên mặc dù tôi có thể nhờ tra cứu sổ bộ xem anh đã sống ở viện bài cùi nào, bệnh chứng của anh tăng giảm như thế nào trong những năm xa xôi của dĩ vãng, tôi cũng thấy tôi nên tự ngăn cản mình đừng quấy rầy những cuốn sổ đã nằm im dưới nhiều lớp bụi. Trong cuộc sống trần gian, giữa những đau đớn vật chất và tinh thần, chắc chắn anh không thể nào nghĩ rằng tôi lại có nhiều hồi ngồi nhớ đến anh. Anh tưởng mọi người đã quên anh rồi, trừ cha mẹ và cô em gái, trừ những người bà con và láng giềng trực tiếp của anh. Anh có ngờ đâu rằng anh vẫn hiện diện đó trong tâm hồn tôi, lúc thì nhường chỗ cho những hình bóng khác, lúc thì độc chiếm trọn vẹn, anh, cái dáng ngây thơ âu sầu của những ngày nhỏ dại chừng như không thay đổi, không hề thay đổi bởi bệnh tật và thời gian.

            (1) Cái lọ mực có vành miệng lớn (tiếng Pháp: godet)
            #36
              hai1957 13.12.2012 16:29:16 (permalink)
              4. NHỮNG BƯỚC CHÂN ÊM ĐỀM



              Tôi là một tên chuyên môn bị đàn bà ăn hiếp, nhất là đàn bà bán hàng. Mua món gì cũng đắt hơn người ta. Một lần tôi mang về đến bốn cái áo may-ô, tôi khoe với lũ con:

              - Ê! Ra đây coi tụi bây. Ba mới mua được loại may-ô này là loại tốt nhất xứ. Hiệu “Hoa hồng”. Xem này, sợi chỉ của nó mịn như lụa thấy không? Ngó mỏng vậy mà mặc chắc lắm.

              Con Trang hỏi:

              - Bao nhiêu một cái vậy Ba?

              - Có một trăm chín. Cô bán hàng nói Ba là chỗ khách quen nên cô bán rẻ. Ở hiệu khác phải hai trăm hay hai trăm hai. Cô nói người sành điệu mới biết chọn hiệu này. Tuy giá hơi cao nhưng mặc một cái bền bằng ba bằng bốn cái của hiệu khác. Cô nói người Tàu họ khôn lắm, họ chỉ mặc hiệu này. Đã bền mà mặc lại mát.

              Thằng Đức khẽ vò mặt vải giữa hai ngón tay rồi nói:

              - Ừ! Nó mềm nõn hơn cái may-ô của con.

              Con Diễm mân mê cái nhãn áo có vẽ đóa hồng màu đỏ:

              - Tên Ba là Hồng mà mặc may-ô “Hoa hồng” thì phải quá. Như vậy chị ở khỏi lẫn lộn với may-ô của người khác, khỏi cần làm dấu.

              Tôi đắc ý nhớ đến cái lối làm dấu của lũ nhỏ. Cái khăn tắm của tôi, chúng nó viết một con số 3 vào một chéo rồi chúng gọi chị ở:

              - Nhớ nghe chưa? Cái khăn này của Ba. Tụi tôi viết con số 3 cho chị dễ nhìn.

              Niềm sung sướng tôi không ích kỷ giữ cho riêng mình. Hôm sau ở giữa sở, trong giờ nghỉ tay, tôi đem khoe cái hiệu may-ô “Hoa hồng”. Khi tôi nói giá xong, anh Kinh bạn tôi ngạc nhiên:

              - Moa mua có một trăm tám.

              Anh Duy:

              - Mình mua ở hiệu Công Tuấn có một trăm sáu.

              - Hay là có loại tốt loại vừa? - tôi nói.

              Duy cười:

              - Có một loại thôi, cậu ơi! Con mẹ bán hàng nó lừa cậu đó.

              Lần sau là một con dao. Lại cũng một người đàn bà. Tôi phân trần:

              - Cô bán cho tôi một con dao. Có đủ cái mở nút chai, cái mở nắp bia, cái dùi…

              Khi cô lại mở tủ gương, tôi vội vã thêm:

              - Tôi chọn cái dao ngoại quốc cho tôi nghe? Tôi không thích thứ dao made in Chợ Lớn(1 ).

              Cô loay hoay một lát rồi đem lại đưa cho tôi một con. Trên thân nó có in dấu một chữ Thập đỏ, trong như lá cờ Thụy sĩ. Tôi bật tung mọi thứ phụ tùng của nó ra, lưỡi lớn, lưỡi nhỏ, ruột gà mở nút, dài nhọn phủng tay vân vân. Trông nó quều quào như một con tôm, có càng có vây, có râu có mắt, có ngàm kẹ, có chân bơi, có chân vây…

              Thấy mặt cái vỏ không được sáng lắm, tôi nói:

              - Cô có chắc nó là đồ ngoại?

              Giọng cô thanh tao như giọng một loài chim:

              - Vâng ạ. Đồ ngoại đấy ạ.

              - Họ không khắc nơi xuất xứ của nó?

              - Ở trên con dao họ không bao giờ khắc cả đấy ạ. Ông cứ lấy dùng. Thứ dao này sắc lắm cơ ạ.

              Thấy tôi ngần ngừ, cô mỉm cười:

              - Ông an tâm mà, chúng tôi không nói dối ông đâu. Đồ ngoại chính cống đó ạ.

              Tôi hỏi giá, trả tiền rồi bỏ túi về nhà.

              Lần này thì tôi không khoe với ai hết. Chẳng lẽ phải mang nó theo để mà giới thiệu, còn gọi tên thì nó không có nhãn hiệu sản xuất. Tôi dùng nó được hai ngày, để rọc giấy hay để nằm không đó nhìn chơi. Chứ cũng không dùng để gọt bút chì được. Gọt bút chì phải dùng lưỡi dao cạo. Sang ngày thứ ba, tôi dùng nó để cắt một đoạn dây. Nhưng khi đè nặng mũi dao xuống đoạn dây thì, bất ngờ chưa; lưỡi dao bỗng bật ngửa lên trời. Mảnh sắt đè nó không chịu giữ nó lại, mà cả hai rủ nhau cùng ngước lên hết. Chẳng lẽ chửi thề với cô bán hàng vắng mặt? Tôi giận quá, ném vụt con dao ra sân. Chạy xuống bếp lấy con dao thái rau, cứa một cái là đoạn dây đứt sựt làm hai. Không cần phải hỏi ai tôi cũng biết rõ con dao không phải đồ ngoại. Cái kiểu ngước cổ lên trời đó thì không thể không made in Chợ Lớn.

              Tôi sợ các cô bán hàng từ đó. Hễ đi ngang qua một tiệm mà thấy có đàn bà đứng bán là tôi không dám vào.

              Một hôm tôi đi tìm mua một cái nồi nấu cơm hiệu National. Thấy có người đàn ông đứng ở tiệm, tôi bước vào. Ông chủ tiệm cười chào:

              - Chào ông. Lâu quá không thấy ông đi phố. Hôm nay ông muốn mua món gì đó?

              - Tôi tìm mua cái nồi National.

              - A! Còn mấy cái đây. Để tôi lấy ông lựa.

              Ông bắc ghế với lên cao, lễ mễ bê ba cái nồi bày trước mặt tôi. Vừa lúc đó bà vợ ở nhà sau bước tới. Bà nói gì đó với chồng và ông chồng xin lỗi tôi để chạy ra sau một chút. Bà vợ cười với tôi:

              - Chà! Ông mà cũng đi mua nồi! Sao không lấy vợ đi để bà ấy lo cho?

              Tôi mỉm cười trả:

              - Lấy vợ đâu có dễ như đi mua nồi?

              - À, tại ông kén…

              - Vâng. Đúng. Cũng như mua nồi thì phải lựa hiệu National.

              - Có thế ạ. Các loại nồi National này là tốt nhất đây. Tôi buôn về bao nhiêu hết bấy nhiêu. May ông đến sớm còn mất cái, chừng ngày mai ông đến là hết. Nào, ông thích cái nào? Cái này bốn người ăn, cái này sáu người ăn, cái này tám người ăn.

              - Nhà tôi năm người.

              - Thế thì ông lấy cái sáu người ăn. Bây giờ rẻ rồi mà. Đâu có ba nghìn hai. Trước đây một tháng, đắt lắm. Đến những ba nghìn rưỡi cơ.

              Tôi phải đánh lạc câu chuyện cái nồi cốt ý đợi ông chồng lên. Có kinh nghiệm về đàn bà rồi mà. Tôi nói:

              - Bà độ rày trông béo và trắng ra.

              Người đàn bà cười:

              - Ông nói thế chứ. Tôi vừa mới ốm xong.

              - Vậy thì chừng nửa tháng nữa bà sẽ còn đẹp hơn hôm nay.

              - Thôi thôi, tôi già rồi. Ông khen làm tôi phát ngượng.

              - Cháu bà ngoan chứ?

              - Cám ơn ông, cháu ngoan ạ.

              - Học đến lớp mấy rồi?

              - Dạ đệ Lục ạ.

              Trời ơi! Sao ông chủ làm gì ở dưới đó mà lâu vậy? Lên mau đi chớ! Tôi sắp cạn chuyện nói rồi.

              - Cháu học Anh văn hay Pháp văn?

              - Thưa ông, Anh văn ạ.

              - Thế ngoài giờ học ở trường, bà có cho cháu học thêm ở mấy lớp tối không?

              - Dạ tôi có nhờ một cậu học đệ Nhị tối tối đến kèm cho cháu ạ.

              - Thế thì tốt lắm. Ờ… ờ… Thế cháu đứng thứ mấy hàng tháng?

              - Dạ, có tháng thứ năm, có tháng thứ nhì.

              - Giỏi quá! Thế… à… à… cháu có ham đi chơi không?

              - Dạ không ạ. Hết giờ học là cháu xăm xăm về nhà. Chả biết rủ rê đùa nghịch với ai hết ạ.

              - Cũng nên cho cháu đi chơi cho giải trí. Đi… tắm biển chẳng hạn. Cháu có đi tắm biển chớ?

              - Dạ có đấy ạ. Sáng chủ nhật cậu cháu vẫn dắt cho đi tắm “biển” đấy. Cháu bơi giỏi lắm đấy ạ.

              - Tốt quá. Học giỏi lại ngoan. Lại bơi giỏi. Bà thật có phúc quá.

              Tôi chợt thấy tôi cũng có phúc nữa. Bởi vì kìa, ông chủ đang vội vã lê dép từ nhà sau bước lên. Người đàn bà giao nhiệm vụ tiếp chuyện tôi cho chồng và xin lỗi tôi để ra nhà sau.

              Tôi đi vào vấn đề cái nồi liền. Ông chồng nói:

              - Tính ông hai nghìn rưỡi.

              Tôi vội vã móc túi đếm tiền, trao tiền.

              - Ông thong thả để cho tôi gói lại cẩn thận.

              - Được lắm.

              Khi ông chủ tiệm bỏ tiền gọn vào ngăn kéo rồi thì tôi đâu còn sợ sự xuất hiện của bà vợ nữa?

              Trải qua nhiều lần được đãi ngộ kiểu như trên, tôi đâm ra sợ hãi đi mua. Nhiều hôm vật dụng trong nhà đã hết, đã hư mà tôi vẫn cứ lần lữa bỏ liều, thây kệ, cam chịu. Các cô bán hàng đều ưa phiêu lưu trên những con số, mà mình trả giá thì ngượng miệng. Vả lại, có nhiều món mình không biết giá thì trả làm sao? Chẳng lẽ muốn mua một cái bàn ủi y như vậy để hỏi giá? Rồi còn vật giá leo thang nữa! Từ một bát phở năm đồng, sau sáu năm nó đã lên tới bảy mươi đồng. Các vật dụng khác có thứ leo mau hơn có thư leo chậm hơn so với các tốc độ tiêu chuẩn đó. Tất cả tạo thành một mớ rối rắm khiến tôi càng thêm nhút nhát, chỉ chực tránh cho xa, càng xa càng tốt sự đi mua sắm.

              Hồi ông Nguyễn Ngọc Thơ làm Phó Tổng thống cai quản luôn Bộ Kinh tế, ông có ký một nghị định có đăng báo rao rằng các nhà hàng và chợ búa phải bán giá nhất định, cấm nhặt không được thách. Tôi mừng quá, thương luôn ông Phó Tổng thống. Ít nhất trong đời làm chính trị của ông cũng phải để lại một dấu vết gì chớ. Để lại cái bùa đó trấn ếm lũ ma quỉ buôn bán xảo trá tức là trực tiếp làm cho cuộc sống dễ chịu hơn, là gián tiếp nâng cao trình độ văn hóa của Dân tộc, - tôi chân thành nghĩ vậy. Vì không có gì bẩn thỉu lạc hậu cho bằng cả một nước công khai hóa, hợp pháp hóa sự lừa bịp gian xảo.

              Cái nghị định đúng là một lá bùa! Lá bùa của loại thầy gồng thầy ngải “dày công nghiên cứu mười lăm hai mươi năm ở Thái Lan huyền bí… có luyện bùa yêu nước tượng…”. Chẳng ai nghe theo ông Phó Tổng thống hết. Vợ ông Cảnh sát ở cái quán đầu đường, thách giá cao hơn mọi hàng khác và bán mắc hơn. Thôi, chịu khó ngồi nhà, đừng có lơ mơ đi mua sắm. Ngồi yên đó để đợi đọc những cuốn “Thành tích ba năm chấp chánh… năm năm chấp chánh”.

              Sau nhiều cuộc Cách mạng, vài cuộc Chỉnh lý, tình hình kinh tế và tài chánh càng không được sáng sủa hơn. Chữ “Vật giá leo thang” chuyền trên môi mọi người, thường xuyên hơn những khẩu hiệu Nhà nước trước đây bắt mua treo ở trước cửa. Tình thế mới, nhu cầu mới, công thức Siêu thị được tung ra.

              Mỗi buổi chiều tôi thấy một dãy người nối đuôi nhau đi vào Siêu thị và một dãy đi ra. Những ngày đầu Siêu thị mới mở, học sinh lớn hay cúp cua để đi Siêu thị. Lạ mà. Con gái mặc áo đẹp mà phải đợi đến chợ Tết mới có nhiều người nhìn thì chán chết. Lễ Nô-en thì cử hành buổi tối, chỉ nhìn rõ cái mặt. Lễ Phật đản thì đông những ông già bà cả hơn thanh niên. May quá, hãy tạm mượn Siêu thị. Nhiều cô khoe với tôi:

              - Đi học xong, mình ghé lại Siêu thị. Giao luôn cặp sách cho họ giữ rồi vào lượn chơi một tua. Không mua gì cũng được, ai cấm. Bước ra, nhận lại cặp rồi đi về.

              Ở Siêu thị bán giá nhất định, bán đủ mặt hàng, người ta mách với tôi vậy nhưng tôi vẫn chưa cởi hết những lo sợ khi nhìn một cái chợ và những người đàn bà. Ba bốn tháng như vậy, cho tới một hôm, - tôi nhớ rõ là gần Tết hăm sáu tháng Chạp, Vinh Thao một cô bạn hỏi tôi:

              - Anh đi sắm mứt sen, kẹo, hạt dưa chưa?

              - Chưa.

              - Ở Siêu thị hạt dưa hai trăm sáu mươi đồng một kí.

              - Thế hả?

              - Anh chưa vào Siêu thị à?

              - Chưa.

              - Ở ngoài chợ đắt hơn. Anh mua thì chắc còn đắt nữa.

              - Chắc chắn.

              Thấy tôi ngờ nguệch, Vinh Thao chừng như thích thú và nàng tỏ vẻ săn sóc đến tôi nhiều. Đàn bà vẫn vậy. Ưa che chở.

              - Đến bữa nay mà chưa lo mua mấy món đó?

              Tôi lẩm nhẩm tính rồi nói:

              - Còn bốn ngày.

              - Đâu tới. Còn có ba thôi. Ba mươi tháng Chạp đâu có kể.

              Tôi gật gật đầu công nhận. Những tán thán từ biểu diễn sự đồng ý không dễ mà tìm ra ngay được. Thôi, dùng cái cổ cho nó mau.

              - Anh đi với em! - Nàng ra lệnh.

              Câu nói bất ngờ làm tôi ngạc nhiên. Tôi có thể nghi là tôi đã nghe lầm nếu nhìn sang vẻ mặt của nàng tôi không đọc rõ những nét nghiêm trang và cương quyết. Nàng sẽ dẫn tôi đi đâu?

              Tôi chậc lưỡi tự nói:

              - Thây kệ. Đi đâu cũng được, mình là đàn ông mà.

              Vinh Thao mặc áo dài màu hồng phấn. Đôi mắt đen và khi cười má có núm đồng tiền. Tôi không chắc người con trai hôm nay có yêu một cái núm đồng tiền như vậy không. Họ học theo công thức yêu của người Mỹ cũng như học theo công thức làm kẹo sô-cô-la. Tôi chưa được nghe người Mỹ ca ngợi cái “má núm đồng tiền”. Vậy có thể là đôi má núm đồng tiền đi cạnh tôi đó chỉ dành riêng cho tôi thưởng thức thôi.

              Nhiều người đi ngược chiều chăm chăm nhìn Vinh Thao. Có người đi quá rồi còn quay ngó lại. Tôi nói:

              - Nhiều người đang nhìn cô.

              - Đâu chắc. Có thể là họ nhìn một người nào đi sau em. Anh ngó ra sau xem thử, có cô nào đi sau mà đẹp không?

              Tôi quay lại:

              - Có đến bốn, năm cô.

              - Đẹp? - Vinh Thao lật đật hỏi.

              - Không. Chỉ đẹp trong con mắt người yêu của họ.

              - So với em?

              - Cô đẹp hơn.

              Vinh Thao chợt đi chậm lại. Tôi hỏi:

              - Cô mỏi chân rồi?

              Nàng lặng lẽ nhìn tôi lắc đầu. Tia mắt thật êm đềm. Thật đúng là thằng ngu. Liền một phút sau tôi biết tôi là thằng ngu.

              Vinh Thao bỏ bờ lề đi vào cửa Siêu thị. Nàng thành thạo bước đúng trên “lối vào”, còn tôi vì giữ lịch sự đi xa cách nàng một chút nên tôi thành ra đi trên “lối ra”. Nàng kéo ngược tôi lại.

              - Anh chưa vào Siêu thị lần nào à?

              - Đã trả lời hồi nãy rồi. Chưa.

              - Vô lý. Người nào biết mang giày cũng đều đã đi vào đây ít nhất năm lần.

              Qua hàng quần áo. Aùo trẻ con. Sơ mi đàn bà. Aùo len. Aùo thun. Bít tất. Những cặp xú-chiêng bò lổm ngổm như những ngọn đồi nhỏ. Khăn mùi xoa. Tôi nhớ đến hiệu may-ô “Hoa hồng” của tôi. Tôi đi gần lại quầy:

              - Cô cho tôi một may-ô hiệu Hoa hồng.

              - Ông lấy số mấy?

              Tôi đứng đực ra đó. Biết mặc may-ô đã hơn hai mươi năm trời rồi, mỗi năm mua may-ô có đến bốn, năm lần thế mà đố có nhớ số mấy. May quá, cô nàng gật gật đầu:

              - Thôi được, ông thì phải số 34.

              Cô nhìn lên giá hàng:

              - Một trăm năm mươi lăm đồng. Ông trả tiền liền.

              Tôi móc ví trả tiền. Lách tách máy tính, một mảnh giấy nhỏ ghi giá tiền đã trả được bấm dính vào bao đựng áo. Vinh Thao giải thích:

              - Lát nữa đi ra họ kiểm soát cái mảnh giấy đó. Hồi Siêu thị mới mở cửa thì cứ mua rồi ra cửa tính tiền. Bị lợi dụng tức khắc. Có người mua giò chả, kẹo bánh… rồi cứ việc đi du ngoạn hết quầy nầy đến quầy khác, vừa đi vừa ăn, ăn cho kỳ hết rồi mới ra. Có người vô lựa giày rồi bỏ đôi giày cũ, mang đôi giày mới đi ra. Đâu có cầm dư trên tay mà tính tiền?

              Trong khi Vinh Thao giải thích thì chúng tôi đi qua hàng bánh ngọt, biscuit (2 ), rượu. Nàng kéo tôi đi qua quầy hàng bán bánh mứt nội hóa. Những túi ni lông cột túm một đầu trông nghèo nàn tội nghiệp so với những hộp bánh, hộp kẹo Nhật Bản.

              Sang hàng kim châm, củ cải, nấm đông cô, hạt dưa. Tôi phải tỏ ra rằng mình không đến nỗi dốt. Tôi nói:

              - Đây là hàng bán đồ để nấu cỗ.

              - Và để ăn cỗ, - Vinh Thao tiếp liền. Thấy không? Có những bó đũa và bó muỗng.

              - A kìa! Hàng đồ chơi.

              Chúng tôi quay sang bên trái. Không phải hàng đồ chơi mà là hàng thau, ca, ly, chén… bằng nhựa. Tôi bị lừa bởi màu sắc của lũ chúng nó.

              Sau cái quầy có lưới kẽm bao giăng, mấy cô hàng thịt ngồi. Phảng phất một triết lý nhân sinh nơi đây. Nếu không thì thịt heo và thịt bò đã không được bảo vệ kỹ lưỡng hơn những món hàng khác như vậy.

              Hàng bắp cải, xà lách, cà rốt, su su ít người viếng thăm. Có lẽ để mua chúng người ta không phải cất công đi Siêu thị.

              Vinh Thao kéo tôi về hàng nấu cỗ.

              - Anh mua hạt dưa nghe?

              - Vâng.

              - Bao nhiêu thì vừa?

              - Một kí.

              - Cô cho một kí hạt dưa. Đâu, cô đưa tôi coi thử hạt dưa có tốt không… Ừ, được đó.

              Nàng đảo mắt nhìn lên quầy rồi ra lệnh, không cần hỏi tôi nữa:

              - Cô cho một trăm gram nấm đông cô.

              Cô hàng lại lấy túi nấm đông cô.

              - Đưa luôn ba túi kim châm. Một túi mấy gram vậy cô?

              - Dạ năm mươi gram.

              - Thế thì cô cho năm túi.

              Sang trở lại hàng mứt, Vinh Thao cầm những túi mứt lên xem xét rồi đặt bỏ xuống. Liên tiếp. Một cuộc thi loại. Các thí sinh: mứt khoai lang, mứt bí, mứt dừa tô màu, mứt thập cẩm, mứt gừng… dần dần bị loại hết. Nàng xách hai túi mứt hạt sen trao cho tôi.

              Quay ra hàng bánh kẹo ngoại quốc. Nàng cầm lên một hộp kẹo Nhật to bằng cái khay, trên mặt có in hình một con mèo ngồi, cổ thắt nơ đỏ. Tôi đang lúng túng với một bầy gói lớn gói nhỏ lục cục trên tay nên vội đằng hắng một tiếng mong nàng quay lại nhìn dùm. Nhưng nàng quả thật là một người đàn bà thông minh, không cần quay lại đã biết tôi muốn nói gì.

              - Không sao đâu. Lát nữa ra kia mình sẽ lấy một cái túi để đựng. Em cầm hộp kẹo này cho anh. Lấy luôn chai rượu Martell này. Uống Whiskey trong thời này, người ta tưởng mình xin lại của tụi Mỹ.

              Khi nàng tuyên bố “Thôi tạm đủ. Mình về”, tôi mừng vì ý nghĩ sắp có được một cái túi để ký thác lũ gói của tôi. Nhưng chưa được đâu. Một đoàn ba bốn cô ăn mặc lộng lẫy bước vào, toe toét cười chạy lại bao vây lấy Vinh Thao.

              - Ái chà! Mua sắm Tết hùng hậu quá ta.

              - Uống được cả rượu Martell nữa! Ngày mồng Một mình phải ghé lại để xem con này uống Martell mới được.

              - Ồ! Con mèo thắt nơ đỏ xinh ghê. Giá bao nhiêu đó? Xem nào.

              v.v...

              Tôi đứng lùi xa một chút đợi cho năm ngọn thác ngôn ngữ đó đổ ồn ào cho kỳ đến giọt chót.

              Sau lần đi Siêu thị đó với Vinh Thao, mỗi lần có cần món chi là tôi ra thẳng Siêu thị. Tôi không còn bị các cô bán hàng ngoài phố ăn hiếp nữa. Lắm bữa tôi đứng chen chúc với nhiều người đàn bà vẻ mặt lanh lợi và giọng nói đanh đá. Những người đó đi chợ hay vào các tiệm buôn thì phải biết! Trả từng đồng và xem xét món hàng kỹ hơn người đàn bà nhà quê vạch tóc bắt chấy. Thế mà vào Siêu thị họ chỉ nhũn nhặn như tôi. Chúng tôi cùng mua bằng một giá và rõ ràng là tôi cảm thấy sung sướng khi được mua bằng một giá với họ. Tôi cám ơn Siêu thị đã phục hồi giá trị cho tôi. Siêu thị nâng tôi lên, cái thằng tôi ngớ ngẩn chuyên môn bị đàn bà ăn hiếp, nâng lên ngang hàng với những người đàn bà đanh đá nhất.

              Cũng phải cám ơn Vinh Thao nữa. Nàng đã dạy tôi bài học vỡ lòng về Siêu thị. Không có nàng dìu dắt thì chưa dễ cho đến nay tôi đã dám đi Siêu thị một mình.

              Cũng như một nhà xuất bản “đưa những bước đầu cho các tác giả mới bước vào làng văn”, Vinh Thao đã đưa những bước đầu của tôi đi vào đường Siêu thị. Những bước thật êm đềm bởi có nàng yêu kiều đi cạnh bên tôi.

              (1) sản xuất tại Chợ Lớn
              (2) bánh bích quy



              #37
                hai1957 19.12.2012 17:15:29 (permalink)
                5. CHUYẾN VỀ TUY HÒA



                Tôi quyết định việc đi Tuy Hòa một cách gấp gáp bất ngờ, bất ngờ đến nỗi trong túi không mang theo hơn mười đồng bạc. Lê Bá Tại bảo tôi:

                - Anh nên đi thẳng ra Tuy Hòa đi. Chỉ cần một ngày vừa đi vừa về. Nếu anh giải quyết công việc nhanh chóng thì sáng chủ nhật đi, anh có thể về đây trong chiều chủ nhật. Chậm lắm thì sáng thứ Hai về.

                Vấn đề đối với tôi không phải là thì giờ nhanh chậm mà là những trở ngại trên đường. Sống cuộc đời định cư lâu ngày, tôi như bị tê cóng giữa cái thành phố nhỏ này, như con cầy hương hôn thụy suốt ba tháng mùa Đông trong cái hang của nó. Mùa Hè tôi có di chuyển một đôi lần thì đều đường máy bay, phương tiện tương đối an toàn để tránh mìn và mũi súng. Tôi nói:

                - Đường ô-tô ra đó…

                Tại ngắt lời:

                - Bữa nay sửa chữa lại tốt lắm. Rộng như xa lộ rồi, chỉ có đoạn Đèo Cả còn đang sửa sang.

                Tôi ngồi lặng yên cân nhắc. Đêm xuống êm đềm ở khu Mê Linh này và tôi cảm thấy rằng sung sướng thay là những kẻ khỏi phải cân nhắc gì hết trong cuộc sống. Mười phút nữa họ sẽ ngồi lại bàn ăn. Rồi sau đó vừa tráng miệng uống trà vừa đọc tờ báo mới nhận hồi chiều. Nghe tin tức và thông cáo của đài phát thanh địa phương để biết bác sĩ thường trực hôm nay là ai, ngày nào mua đường và mua ở tiệm nào! Chui vào giường. Kiểm soát xem có con mỗi nào lọt vào trong màn không và sự an toàn dìu chân giấc ngủ…

                Tôi hỏi:

                - Đi xe hiệu nào? Phải ra mãi ở bến xe Sinh Trung?

                - Không cần, cứ ra bến xe Xóm Mới. Tiện quá mà, đi bộ một trăm thước thì tới, mua vé xe Thuận Thành mà đi.

                - Giá tiền?

                - Đâu hai trăm bạc.

                Tôi mượn Tại ba trăm, đi thẳng ra bến xe. Bảy giờ tối rồi. Chắc con tôi đang ngồi đợi cơm, chắc nó đang tính xem tối nay tôi với nó sẽ rủ nhau đi xem phim ở rạp nào. Nó không thể nào đoán rằng tôi đang bắt đầu một cuộc phiêu lưu riêng lẻ.

                Sau bàn giấy của hãng xe, một người thư ký ngồi tì tay trên một xấp giấy.

                - …Vâng, ông đi chuyến sáu giờ thì khỏe hơn. Ở đây chúng tôi có chuyến chạy sớm nhất vào năm giờ. Ông ra tới Tuy Hòa vào chín giờ sáng.

                Tôi lẩm nhẩm tính và nghĩ: Phải ba giờ mới đi được một trăm rưỡi cây số. Tôi quen với tốc độ tám mươi cây số / giờ mỗi khi ngồi ô-tô, quen tới độ khi nghĩ đến ô-tô là tôi thấy cái kim đỏ tạo một góc sáu mươi độ ở phía tay phải của mặt đồng hồ tốc độ. Tôi hỏi mua một vé Tuy Hòa.

                - Đi Tuy Hòa thì ông phải chịu khó ngồi ở dãy ghế sau. Những dãy ghế trước dành cho hành khách đi Qui Nhơn. Xe này chạy thẳng Qui Nhơn. Nếu ông muốn ngồi ghế trước thì ông phải mua vé Qui Nhơn. Ba trăm đồng. Giá đi Tuy Hòa có một trăm rưỡi.

                Lại phải suy nghĩ! Sao cuộc đời không chịu giản tiện, không chỉ vạch có một con đường mà lại bày chi đến ba, bốn ngả? Ngồi ghế trước thì được gì? Những người đàn bà đẹp thích ngồi cạnh tài xế để phô diễn sắc đẹp của mình cho mọi con mắt dòm vào chiêm ngưỡng. Tôi không phải đàn bà đẹp. Những người thể chất văn nhược mà ngồi nhìn ra hông xe thường bị chóng mặt nôn mửa. Ngồi nhìn ra con đường trước mặt thì không sao. Tôi dẫu không được cương cường nhưng cũng không đến nỗi nhược chất. Ngồi dưới ghe bị sóng nhồi mà chớ hề ụa mửa lần nào.

                Tôi cũng muốn thử xem ngồi ở dãy ghế sau nó ra làm sao. Nhưng lại có một chút tự ái vẩn vơ. Thì vừa lúc ấy một thanh niên bước tới:

                - Ông cho tôi một chỗ đi Tuy Hòa.

                Người bán vé đọc thuộc lòng những điều kiện mà anh ta vừa đọc cho tôi nghe. Người thanh niên xem chừng rất thành thạo trong việc đi xe đò nên chỉ liền ngón tay mình xuống một dãy ô vuông có mang chữ số:

                - Ông cho tôi một ghế ở dãy này.

                Người bán vé suy nghĩ một giây như để lấy lệ. Đối phương của anh không tỏ vẻ rụt rè ngớ ngẩn nhớ tôi. Hắn biết việc gì hắn phải làm. Vì vậy anh ta gật đầu:

                - Anh lấy ghế nào?

                - Bốn mươi.

                Trả tiền… thối tiền… hẹn giờ… Người thanh niên thoăn thoắt bỏ đi. Tôi thấy mình không có cớ gì để mà lưỡng lự nữa. Ít nhất tôi cũng phải tỏ ra không thua người thanh niên kia bao nhiêu. Tôi móc túi lấy ra tờ giấy hai trăm.

                - Ông ghi cho tôi số ghế Bốn mươi mốt.

                Và thế là tôi đã nhập cuộc vào chuyến hành trình ngày mai.

                Nhưng vẫn chưa yên! Bích Thủy, cô bạn của tôi vụt đến thăm khi tôi đang loay hoay xếp quần áo khăn mặt xà-phòng vào chiếc xắc. Khi nghe tôi nói ngày mai sẽ đi đò Thuận Thành, nàng la lên:

                - Sao lại chọn thứ xe đó? Sao không ra bến Sinh Trung để đi thứ xe Thuận Thành ngắn đòn? Loại xe dài đòn hay nằm đường lắm. Đố ngày mai anh về được tới Tuy Hòa.

                - Tôi nghĩ rằng xe dài đòn chạy vững vàng hơn, ít bị tai nạn hơn loại xe ngắn nên tôi chọn nó.

                - Lầm to! Lầm to! Xe ngắn đòn nó lách chạy lanh lẹ mới dễ tránh được tai nạn chớ. Xe dài cồng kềnh tiến thoái chậm chạp, hễ trở tay không kịp là chổng gọng.

                Tôi lặng im hết biết ngõ cãi.

                - Em đi xe đò hoài, cái xe nào tốt, cái xe nào chuyên môn nằm đường, em thuộc lòng hết. Đã có mấy kỳ đi nhằm cái xe cũ mười đời, máy cũ mà giàn xe sơn phết như mới. Ra tới Lương Sơn thì liệt máy. Sửa tới xế chiều bò trở lại về Nha Trang. Bắt hành khách sáng hôm sau lại đi tiếp chớ không chịu trả tiền lui để người ta tự do chọn xe khác. Phải anh hỏi trước thì em đã bày cho anh rồi. Cứ ra bến Sinh Trung, giờ nào cũng có xe chạy, hễ thấy xe nào sắp chạy là mình mua vé leo lên. Tội gì phải mua vé trước.

                Tôi tiu nghỉu ngồi nhìn đống quần áo, cảm thấy mình là kẻ có lỗi. Chừng như mỗi khi phải chọn một trong hai giải pháp thì tôi cứ luôn luôn chọn nhằm cái giải pháp dở nhất. Vừa chọn xong là y như có người tới chê, tới dạy khôn, tới trách cứ.

                Thấy tôi xụ mặt, Bích Thủy an ủi:

                - Thôi, đã lỡ rồi… mà anh mua ghế số mấy?

                Cực chẳng đã tôi phải nói nho nhỏ:

                - Số bốn mươi mốt.

                - Trời ơi! Ngồi dưới đó chịu sao nổi? Xe nó chạy vồng như ngồi trên một cái nia sảy gạo, anh chịu không được đâu.

                - Chắc cũng chịu được. Mọi người chịu được mà. Nếu không thì người ta lắp chi tới hai dãy ghế chót?

                - Người ta mạnh thì nói gì, dẫu xe vồng hắt họ rớt xuống đường họ cũng không chết.

                - Mình cũng vậy. Hy vọng rằng mình cũng vậy.

                Bích Thủy đăm đăm nhìn tôi, lộ vẻ khó hiểu. Chắc nàng nghĩ rằng tôi dễ vỡ như một cái trứng và cái trứng đang ngu si sắp tự đem mình ra thí nghiệm với sỏi đá. Tôi nói:

                - Thôi, đã lỡ rồi, đã trót mua vé rồi. Vả lại, cứ coi như mình đi khám sức khỏe. Lâu lâu phải đi khám lại một lần coi sức khỏe của mình có giảm sút không.

                - Đi khám ở đâu?

                - Trên xe Thuận Thành đó. Hễ đi về song suốt tức là sức khỏe còn dồi dào, còn nếu về chưa tới nhà mà đã nằm bệnh tức là sức khỏe có suy yếu. Phải lo đi nằm nhà thương.

                Sự lúng túng của con cầy hương đông miên bắt đầu vào sáu giờ hai mươi phút sáng chủ nhật. Tôi xách xắc hối hả bước tới bến xe thì vừa lúc một chiếc Thuận Thành lừ lừ bò ra khỏi bến. Trên xe đầy nhóc người, đèn thắp sáng trưng. Tôi hoảng lên, “trễ giờ mất rồi” và lưỡng lự không biết có nên giơ tay để gọi xe dừng lại cho mình leo lên không. Thời gian lưỡng lự đủ để xe chạy xa bỏ tôi lại sau lưng. Thật rắc rối. Một người không quen đi xe đò thì không bao giờ đúng giờ được. Cả đêm cứ sợ trễ giờ nên mới ba giờ sáng đã lò mò đứng dậy bật đèn nhìn đồng hồ. Thấy còn sớm quá nên phải tắt đèn ngủ lại. Nhưng đố có ngủ được. Nhắm mắt một hồi rồi bật đèn xem lại đồng hồ. Mới bốn giờ. Lại tắt đèn. Bật đèn tắt đèn chừng ba lần thì chợt vào một lúc bất ngờ nhất, một giấc ngủ lừa dối nhất len lén dẫn linh hồn tôi chu du biệt tích. Khi giật mình choàng dậy bật đèn thì kim đồng hồ chỉ sáu giờ mười phút. Hối hả rửa mặt mặc quần áo quơ xắc ra đi. Ra đến đường mới mò túi quần xem có bỏ quên ví tiền ở nhà không, rờ túi áo xem có bỏ quên giấy tờ không. Và đến bến xe thì cái xe bỏ mình lại.

                Lò dò đi tới phòng bán vé. Con đường ngập bùn, phải rón rén tìm những viên gạch bỏ rải rác để đặt chân.

                - Xe Thuận Thành hả? Chuyến sáu giờ? Ờ, ông đi ra bến. Hành khách đương lên xe ngoài đó… Không phải chiếc vừa chạy đâu, đó là chuyến năm giờ… Số xe của ông là 27016. Vâng, ông đi thẳng ra đó.

                - 27016… 27016. Lạy Chúa, rõ ràng có chiếc xe Thuận Thành nằm dài kia mang đúng con số thần diệu 27016. May quá. Tôi chưa trúng số kiến thiết lần nào nên chưa có kinh nghiệm về cảm xúc mạnh. Vả lại không có lô nào trúng một trăm rưỡi đồng như trường hợp của tôi hôm nay.

                Xe còn trống, mới lác đác có chừng sáu, bảy người ngồi. Tôi chậm chạp bước lên. Thật dễ chịu khi mình có dư thời giờ trước mặt. Người lơ xe thu những cái thẻ căn cước. Hành khách lên xe đông lần. Đông cho tới đầy. Cho tới dư. Tài xế cho kê thêm ghế phụ, những ghế phụ. Hết chỗ đặt ghế phụ thì tới loại hành khách đứng. Hành khách dẫu sao cũng chỉ có hai chân, cái ghế giản tiện nhất cũng đòi hỏi đến ba cái chân mới đủ để đứng được.

                Khi mọi người bắt đầu ngộp thở, khi tài xế và “lơ” thuyết phục hết sức mà những hành khách mới đến không ai chịu đứng bằng một chân thì xe chạy. Những người có đeo đồng hồ tay đều nhìn xuống xem giờ. Bảy giờ mười lăm phút. Chỉ chậm hơn lời hứa có một giờ mười lăm phút.

                Xe chạy trên những đường phố còn ngái ngủ, những con đường quen thuộc của tôi. Trông chúng dễ thương như những người bạn. Tạm biệt các ngươi nhé? Ngày mai chúng ta sẽ gặp lại.

                Xe lướt qua những chỗ lồi lõm, những hố, những vũng, người tôi nhún nhẩy nhẹ nhàng. “Không đến nỗi gì”, tôi vừa nghĩ thì sau lưng tôi đã có người vội vã nói, làm như sợ người khác nói tranh trước mất:

                - Trời ơi, đi cái xe này nó vồng chịu gì thấu?

                Giọng đàn bà. Một giọng khác cũng đàn bà:

                - Tui biết rứa mà cũng không tránh được. Tôi mua xe Châu Thành, dãy ghế đầu, rứa mà cuối cùng xe Châu Thành không chạy được. Tụi nó sang hành khách qua xe này, thành ra tui trả đủ ba trăm mà phải ngồi hàng ghế chót.

                À, thế là tôi được may mắn hơn người đó. Tôi được ngồi hàng ghế trước, cách ba ta đến năm tấc.

                Một giọng đàn ông:

                - Ngồi sau đít xe tuy vậy mà đỡ vồng hơn ngồi ở ngay trên nhíp xe. Ngồi chỗ cái nhíp, nó vồng tới trời xanh.

                Có hai ba tiếng hỏi cùng một lúc:

                - Cái nhíp xe ở chỗ nào vậy?

                - Ngay trên cái bánh xe đó.

                Nhiều người ở dãy ghế tôi, ở hai dãy ghế trước vội vã cúi nhìn xuống sàn xe tìm vị trí cái bánh xe. Có người phải di chuyển hành lý, di chuyển những cặp chân của kẻ khác mới tìm được chỗ trống dành cho con mắt nhìn.

                Tôi lại gặp may một lần thứ ba: bánh xe nằm ở dãy ghế trước.

                Những công trường nằm rải rác dọc đường. Xe ủi đất, xe cán đường, máy nghiền đá… nằm ngổn ngang, thân hình nặng nề như những quái vật thời Tiền Sử. Đất bị xẻ, bị ủi, bị nghiền phơi màu đỏ của máu. Chặng đường nào cũng có công việc bộn bề, dở dang.

                Qua đèo Rù Rì. Qua Lương Sơn. Những hố vũng trên đường bắt đầu to và những cái vồng của xe bắt đầu xứng đáng. Xe xóc mạnh khiến người lao đao chao qua chao lại rồi chợt “rầm” lên một tiếng, thân người bật cao khỏi mặt ghế hơn hai tấc. Rồi lại xóc, lại sàng sảy liên tiếp. Nhiều tiếng la oai oái, - cũng ở dãy ghế sau:

                - Chạy chậm chậm vậy chớ, ông tài xế.

                - Chạy cái kiểu gì lạ vậy? Qua chỗ đường xấu mà không hãm bớt.

                - Đồ quỉ sứ! May chút nữa cụng đầu lên trần xe.

                Lại liên tiếp đánh “rầm” lên nhiều cái nữa. Người đàn bà bế con ngồi cạnh tôi làm tôi cứ phải giữ chừng né tránh một bên bởi vì khi xe nhảy chồm lên hồi nãy, đầu đứa bé tống mạnh vào cằm tôi. May mà tôi có tật hay ngậm miệng. Nếu đang nói như những người ở dãy ghế sau thì hai hàm răng có thể nghiến đứt cái lưỡi. Hú vía! Tôi lại gặp may lần thứ tư.

                Một chị sen trông chừng ba đứa nhỏ ở dãy ghế trước đã ụa mửa ra ghế. Lúc mới lên xe, miệng nói như sáo, bây giờ cái mặt trông đờ đẫn như người bệnh. Đã thế, bốn người lại phải ngồi xích lại để tránh cái ghế bị nhiễm uế.

                Tôi biết rồi, giá trị của những cái vồng, cái xóc. Chúng nó làm Bích Thủy kinh sợ cũng phải.

                Tục ngữ Việt Nam không chịu tạo thêm những hình ảnh ví von mới. Chẳng hạn một cái bụng ăn không biết no là “cái bụng của xe đò”. Bởi vì đi đến chặng đường nào có người đứng đón nó cũng ân cần ngừng lại. Chặng ngừng lâu nhất ở Ninh Hòa. Một bà Qui Nhơn đón đi, đứng giữa năm, bảy giỏ cần xé chất đầy bí ngô, chuối, dưa leo. Hai bên mặc cả giá. Hành khách ngồi trên xe nguyền rủa inh ỏi. Hăng hái nhất cũng lại là mấy người ngồi ở dãy ghế sau.

                - Xe đầy nghẹt rồi mà còn ham chở. Chở cho khẳm đi rồi nằm đường.

                - Chạy mau đi trời ơi. Xe chạy có gió còn mát chút ít, ngừng lại một đỗi nực thấu trời.

                - Đồ cái xe quỉ quái. Biết vầy có cho thêm tiền cũng không đi. Ngừng kiểu này, tới đèo Cả chắc quá mười hai giờ trưa. Phải nằm lại đợi chớ khỏi đâu.

                Nhiều câu nói được chuyền cho nhau nghe, tan loãng trong không khí, không tới tai người tài xế. Y vẫn ngồi điềm nhiên ở tay lái hoặc tham dự nhiệt tình vào việc cò kè trả giá.

                Phải hai mươi phút để chuyển những giỏ nặng đó lên mui xe. Người đàn bước lên, được tiếp đón bằng những tia mắt hằn học. Và bây giờ đến lượt bà ta lên tiếng:

                - Bắt đứng vầy hẽ? Hai ngàn bạc từ đây ra Qui Nhơn. Có mấy cái giỏ cần xé đó chớ bao nhiêu, ăn mắc tổ cha lại còn bắt người ta đứng. Đứng sao cho nổi từ đây ra Qui Nhơn… Ngồi xích lại bà con, cho tui ngồi ké:

                Một giọng nói:

                - Ghế xe có số, ngồi xích sao được?

                - Biết vậy chớ sao. Mà… Tui nghĩ tức cái lũ con ở nhà. Đã biểu không chở không chuyên, không dưa không bí gì hết mà nó cũng nài một nài hai. Hai ngàn đồng bạc chớ phải…

                Bỗng “rầm” lên một tiếng, mọi người chụp tay xuống ghế, người đàn bà chụp vào cái kệ gác hành lý mắc ở trần xe và câu nói chấm dứt nửa chừng.

                Những ruộng lúa của đồng Vạn Ninh đang bắt đầu chín. Bốn năm năm rồi tôi không được nhìn một cánh đồng lúa chín. Ở một khoảng ruộng thật xa có lô nhô nhiều dáng người mặc áo đen đội nón trắng. Họ bất động trong một khoảng hẹp. Đó là một thửa ruộng đang gặt, tôi biết chắc vậy và tự nhiên tôi cảm như có mùi lá lúa, mùi cọng rạ phảng phất thơm nhẹ đâu đây. Tiếng lưỡi liềm cắt soạt thân lúa, tiếng chân dậm oành oạch dưới bùn, tiếng nghê nga của một con trâu mẹ gọi con và trên lưng chừng trời một con chim sơn ca thả rơi những giọt tiếng.

                Lòng tôi xúc động nghẹn ngào bởi cái không khí thanh bình của nếp sống quê mùa, của thiên nhiên không hề thay đổi. Bỏ tôi giữa cảnh ấy, tôi sẽ tìm thấy lại trọn vẹn cái quá khứ êm đềm của những ngày thơ ấu, cũng bờ ruộng cỏ ướt sương đêm, cũng dòng nước mương chảy róc rách trên đó những con nhện nước rún rẩy trên bộ chân gầy. Tôi biết rằng bụi rau chóc không thể không nở những chùm hoa màu thiên thanh và không biết bao nhiêu là cánh hoa nhỏ màu vàng, không tên, nở rải rác giữa những lùm cỏ cũng không tên. Trong khi đó thì não trạng của tôi, của những người ngồi trên xe đã thay đổi biết bao nhiêu. Cái gương mặt thản nhiên bình tĩnh của chúng tôi phát xuất từ lòng can đảm không sợ một quả mìn nào sắp nổ dưới mặt đường hay chỉ từ một sự cam chịu số phận, trông chờ Định Mệnh? Những chiếc xe hàng phiêu lưu trên Định Mệnh, những người hành khách không dám quả quyết rằng mình sẽ trở về bến xe khởi hành. Bởi vì chỉ cần một tiếng nổ là họ nhẹ nhàng chuyển từ xe này sang một chuyến xe khác, vô hình, đi về một cõi khác vô hình.

                Dãy ghế tôi ngồi nhìn thẳng ra cửa xe nên khi bất chợt đưa mắt nhìn sang, tôi không ngờ số “hành khách phụ” lịu địu đứng ngồi chen chúc lại có thể đông đến mức đó. Và những tư thế đứng ngồi lại có thể đa dạng đến mức đó. Người thì ngồi ghé một bên mông nên phải chõi hai tay xuống hai đầu gối. Cặp giò của y đóng vai cặp chân ghế và ba phần tư cái mông kiêm nhiệm phận sự mặt ghế. Một người quân nhân Đại Hàn đứng cong người như một cái dấu ngoặc, tay vịn vào trần xe. Anh ta có vẻ mặt khó hiểu của một người Trung Hoa với dáng cao và gầy ít gặp nơi một người lính Đại Hàn. Tôi nghĩ thầm: “Chuyến xe này khéo tìm những hành khách bất thường để cho trọn vẹn cái hoàn cảnh bất ổn của nó. Thiếu chi những quân nhân Đại Hàn đẫm thấp, lại đi tìm cho được người lính cao lêu nghêu ít gặp này?”

                Một người đàn bà chừng bốn mươi lăm tuổi mập mạp, mặc áo cụt ni lông màu tím nhạt đứng cạnh anh ta, hơi cong người một chút để nhường chỗ cho hai khuỷu tay của anh. Bà im lặng nhìn mọi người. Bộ ngực căng đầy nhưng lương thiện bởi vẻ mặt của bà nghiêm trang tư lự. Bà có dáng dấp một thương gia. Qua khe cổ áo để mở, tôi thấy nấp dưới xú-chiêng có nhiều tờ giấy bạc năm trăm màu xanh. Đàn bà đi đường xa hay cất tiền trong xú-chiêng.

                Có một chị hành khách ngồi ở dãy ghế trước tôi, không biết lên xe ở chặng nào. Chị ngồi xoay mặt ra sau và nói chuyện không ngớt. Phải ba bốn người có chỗ ngồi yên ổn thay phiên nhau mới đối đáp kịp với chị. Và sau chừng nửa giờ đối đáp như vậy, tôi thấy mọi người đều bị loại ra khỏi vòng chiến, chỉ còn sót lại một anh lính là chiến đấu trường kỳ được với chị.

                - Chồng tui ảnh chết - lời chị - mà tui cũng đâu có được thấy mặt? Ở trên tiểu đoàn họ lo chôn cất. Tui được tin lên tới nơi thì đâu đó đã xong.

                Giọng chị tỉnh táo không có chút chi xúc động. Không có dấu vết tang chế trên cái áo bà ba trắng của chị. Đôi lông mày còn in rõ dấu dao cạo xén thành mũi mác thật bén.

                - Ảnh đi lính chính quy hay… - người đàn bà ngồi cạnh tôi ái ngại hỏi.

                - Dạ ảnh là địa phương quân.

                - Nhà nước trợ cấp khá chớ?

                - Dạ ảnh bị bệnh chết nên không được trợ cấp mười hai tháng lương như chết trận. Nhưng may nhờ ông Tiểu đoàn trưởng thương tình ổng ghi là chết tại chiến trường nên được hưởng trợ cấp để nuôi con.

                - Con được mấy đứa?

                - Dạ năm.

                Chị vò đầu một đứa con trai chừng bốn tuổi ngồi cạnh. Chị nói:

                - Thằng này là áp út. Phải gởi mấy đứa nhỏ qua bên bà ngoại nó coi chừng dùm. Thằng này nó đòi quá phải cho đi. Nó nói nó lên thăm ba nó. Nói ba chết rồi, nó không tin. Lén trốn đi mà nó cũng chạy theo cho được.

                Đứa nhỏ nghe mẹ nói về mình, ngồi cong lưng lại và trố đôi mắt nhìn khắp mọi người. Người lính:

                - Mày lên trên đó tha hồ ba mày mừng. Oång mua kẹo cho ăn thả cửa.

                Câu nói đùa không khiến ai cười. Đứa bé vẫn trố mắt nhìn, không đáng tin hay hoài nghi. Chị đàn bà tiếp lời:

                - Hồi ảnh còn sống, ảnh cưng nó hơn hết. Nội mấy đứa con, có nó là mặt giống ảnh.

                Tôi nhìn kỹ mặt đứa nhỏ, cô tưởng tượng khuôn mặt của cha nó. Đôi môi dày, loe ra, không che kín hàm răng trên. Cái trán thấp và đôi chân mày mọc lan, tua tủa như hai tàu lá dừa. Nó sẽ thay cha nó để hiện diện nơi cái xóm nhỏ có hàng tre tỏa bóng mát và có lá tre rơi trên mặt đường. Nó sẽ có nhiều ngày ngồi cầm đũa và cơm bên cạnh cái nồi cái trã đen sì để lớn lên làm địa phương quân như cha nó. Nhưng xin đừng cho vợ nó sẽ đóng vai của mẹ nó hôm nay!

                Người lính:

                - Úi zào! Đời lính mà, sống chết là thường. Như tui đây, chết hụt cả mười lần. Tui theo trực thăng tiếp tế chiến trường. Mấy lần ở dưới đất tụi nó bắn lên hoảng quá, vụt cha nó mấy túi ni lông gạo xuống rồi bay vọt lên cho thoát tầm đạn.

                - Lỡ gạo rớt trong tay họ thì sao?

                - Thì họ ăn chớ biết làm sao?

                Người đàn bà cười giòn:

                - Như vậy là anh có tội tiếp tế cho địch. Đáng đem xử ở tòa án Mặt trận.

                - Chị giỏi ra ngoài đó mà điều tra lập biên bản. Nó bắn té đái trong quần. Tui là một thằng “chì”, nói cho chị biết. Không hề biết né chỉ huy trưởng đâu. Hễ ra lệnh đúng thì thằng này thi hành mà ra lệnh lơ mơ là đừng có trông.

                - Bộ anh làm sao?

                - Đây chỉ biết làm theo lẽ phải. Hôm tháng trước tui mới cự nự với Đại đội trưởng đó. Ra lệnh cho tiểu đội của tôi tiến lên, nhưng tui nhất định không tiến. Tiến ẩu kiểu đó, chết đội viên của mình. Chỉ huy là phải sáng suốt. Tui bị điệu về Sài Gòn, lãnh phạt trọng cấm mười ngày. Mới hết hạn, tui mới đi máy bay quân sự ra Nha Trang hôm kia.

                Cử tọa im lặng. Chừng như mỗi người đều đắn đo cân nhắc xem mình nên chêm vào một câu gì cho hợp cảnh.

                - Hồi tui ở Trung đoàn 45 cũng vậy. Tui cãi tuốt hết, kể từ Trung tá tuốt xuống Chuẩn úy. Mình làm lính mà, chớ phải sĩ quan đâu mà sợ. Làm lính đơ dèm cùi bắp (1 ) thì muốn đổi đi chiến trường nào cũng được. Đụng độ nhiều trận ác liệt quá rồi, chiến thương khắp mình mẩy, chỉ có Chết là mình chưa nếm thôi.

                - Anh còn chân lính hả? - lời chị đàn bà.

                Người lính cười hề hề:

                - Nói chơi chớ. Tui, trung sĩ nhứt.

                Tính tôi không thích những người đàn ông ba hoa, nói hết chuyện này bắt sang chuyện khác, nhất là nói về mình. Từ khi tôi để tai lắng nghe câu chuyện của anh, tôi chỉ nghe toàn những lời anh ca tụng anh. Thế nhưng nghe được một lát thì tôi lại dần dần có cảm tình với anh. Giọng anh nói cười tự nhiên, như xuất phát thẳng từ tâm cam chân thực mà khỏi qua phần lý trí cân nhắc nào. Giọng ấy đôn hậu trong sáng nghe như giọng lá cây xào xạc khi có gió. Nó không khiến tôi phải suy nghĩ. Vừa nghe vừa buông thả tâm tư. Tôi chợt có một chút tự trách: sao mình đã có hơi ghét anh ta lúc đầu?

                Như để ngầm tạ lỗi, tôi quay nhìn chăm chú khuôn mặt anh. Khuôn mặt rám đen có nhiều mụn sần sùi. Khuôn mặt có thể gọi là xấu nhưng tôi chắc tôi không nghĩ như vậy. Có lẽ người đàn bà cũng đồng ý với tôi. Câu chuyện trao đổi tự nhiên đã tạo một nét duyên dáng bất ngờ cho anh, nét duyên dáng không tập trung vào một điểm nào trên khuôn mặt, - chẳng hạn nơi mụt ruồi, nơi đôi môi,đôi mắt, - mà bàng bạc ra khắp cùng khuôn mặt, còn đi quá cả khuôn mặt. Cái cảm tình tôi dành cho anh khiến tôi yêu luôn màu áo kaki bạc thếch, cặp đùi quá ngắn, mái tóc dài lởm chởm nơi ót.

                Xe qua một căn cứ Đại Hàn, dừng lại để bỏ người lính Đại Hàn xuống. Rồi xe tới chân Đèo Cả. Những người có đeo đồng hồ vội vã xem giờ bởi từ mười hai giờ trưa đến ba giờ chiều cấm lưu thông trên đoạn đường này. Công trường bắn đá vào khoảng thời gian đó để mở rộng thêm đường.

                Xe hùng hổ leo đèo. Những tảng đá to nằm dọc đường được khoan lỗ. Vết thương đó sẽ được rịt đầy thuốc nổ và thân xác đó sẽ tan tành. Tôi lướt mắt nhìn những tảng đá bị lên án tử hình. Ngày sinh của chúng nhằm vào một chặng xa xôi thuở Trái Đất còn ngổn ngang nguyên dung chất nóng bỏng và ngày chết là một ngày tháng Mười năm 1969. Không biết sẽ có ai sau này ngồi thương nhớ một tảng đá nào đó đã ghi dấu những kỷ niệm của mình?

                Cảnh trí Đèo Cả là những cảnh đẹp. Thân cây, lá cây, tảng đá, nước biển, bãi cát… phối hợp nhau nhiều cách để tạo ra nhiều vẻ đẹp khác nhau. Sự hoang vu vắng lạnh của núi rừng đè nặng trên môi mọi người. Ai nấy đều im lặng đưa mắt nhìn, có người chồm ra ngoài cửa xe.

                Nhưng người lính và người đàn bà vẫn tiếp tục nói chuyện. Giọng người đàn bà tỉ tê:

                - Tôi dự trù ra Qui Nhơn nghỉ lại một đêm rồi sáng mai đi xe lên Kontum. Nghe nói phải nghỉ đêm lại Kontum rồi bữa sau mới đi Phú Bổn. Đường sá xa xuôi quá mà chẳng biết lãnh tiền tử tuất được bao nhiêu.

                - Cái đó thì tui cũng không biết rõ.

                - Nhờ Trời được lãnh kha khá để đem về buôn bán nuôi con.

                - Nhiều chị lãnh tiền tử tuất chưa về tới nhà đã thua bạc ráo trọi.

                Chị đàn bà cười ngả nghiêng:

                - Anh nói sao trúng quá. Ở xóm tui cũng có ba bốn đứa như vậy. Không đến nỗi thua cạn một ngày mà về nhà cứ thua lần thua mòn. Tụi nó đánh xóc dĩa ẩu một cây. Bổn lợi nhập một, có bao nhiêu đánh hết. Nhà cái phải sợ.

                - Chuyện gì mà sợ? Nữ kê tác quái, gà mái ăn hiếp gà cồ…

                - Tụi nó vét túi nhà cái mấy lần rồi đó anh. Phàm làm cái xóc dĩa thì trông ăn nơi mấy nhà con đánh nhỏ. Cứ gặm lần gặm lần. Tới tay mấy con này thì một ăn một thua, phủi áo đứng dậy.

                - …

                - Thành ra mấy nhà cái họ đồn với nhau “Hễ trải chiếu ra mà có mấy con đàn bà góa ngồi xuống là coi như có quỉ ám. Thế nào cũng giũ chiếu về không”.

                - Nhưng đánh ẩu kiểu đó thì có ngày cũng nướng hết.

                - Chớ sao. Aên chơi năm bảy sòng rồi xuống nướng hết. Của Thiên trả Địa, hết tiền tử tuất thì đi làm mướn trở lại.

                - Rồi đi lấy chồng trở lại.

                - Khó lắm anh. Đàn ông bây giờ họ khôn lắm. Tới chàng ràng chơi thì được, còn biểu họ cưới mình thì họ lãng xa hết. Không có thằng cha nào chịu lãnh bốn, năm đứa con của mình đem về nuôi báo cô. Một thân của nó, nuôi đà không nổi.

                Làm thân phận góa phụ mới có vài tháng mà chị đã có kinh nghiệm như vậy, - tôi nghĩ. Rồi cuộc đời của chị sẽ tiếp tục như thế nào? Đôi lông mày có vết dao cạo sắc lẻm đó không hứa hẹn một tương lai vừa thắt lưng buộc bụng nuôi con vừa bịt tai đối với những lời ong bướm. Mà trái lại, tôi có cảm tưởng ong bướm đã bay lượn dập dìu cả khi người chồng còn tại thế, khi anh cầm súng trấn đóng ở một phòng tuyến xa xôi và cả ngay khi anh còn ở nhà cạnh chị.

                Xe nhẹ nhàng xuống đèo. Đây là Phú Yên rồi. Núi, đá, lá cỏ, bụi cây như có khoác bên ngoài một màu sắc, một vóc dáng đặc biệt nào, bởi chưng chúng là Phú Yên. Dễ thương hơn. Nhu mì hơn. Cần cù và mơ mộng hơn. Tôi bỏ rơi câu chuyện của người đàn bà để cho tâm hồn tràn ngập những hình ảnh đang hiện ra ngoài khung cửa xe.

                Xe đang chạy trên đồng Hiếu Xương. Những đụn rơm. Những bụi chuối. Những ruộng lúa xanh. Chợ Xéo. Bàn Thạch. Phú Lâm. Hơn hai mươi lăm năm những cuộc hành quân liên tiếp tràn qua bừa lại trên thân thể những làng xóm này như những làn gió tràn trên thân lá. Phú Lâm có cái dáng làm đỏm của một công tử quận lỵ. Những cửa hiệu tạp hóa nho nhỏ được trang sức lòe loẹt nhờ mấy chồng thau, lon, chén bát bằng nhựa dẻo. Hàng bán gương và sửa đồng hồ với người thợ lúi húi sau một cái bàn dựng thủy tinh bao quanh. Một tiệm mì, hủ tiếu dài và hẹp như một cái hành lang đen chạy hun hút. Thanh niên ngồi trịnh trọng trên Honda và Yamaha.

                Tôi nghe tên Phú Lâm đầu tiên vào năm 1943 khi phong trào thể thao Ducoroy tạo nên những cơn lốc nhỏ ở các thị trấn nhỏ. Hồi đó Sông Cầu là tỉnh lỵ nhưng phần đất xương xẩu đó của huyện Đồng Xuân chỉ đủ sức tạo nên một thành phố sạch sẽ, ngay ngắn, yên tĩnh và thơ mộng. Sự sạch sẽ ngay ngắn và yên tĩnh đã khiến thành phố giống y một mô hình triển lãm, y như một cái bàn cờ đặt cạnh bờ biển, dưới những rặng dừa. Có lẽ để tạo một cảm tưởng phồn vinh giả dối người Pháp phóng nhiều con đường không cần thiết. Từ trường Tiểu học và đồn Khố xanh đến ty Bưu điện, ty Công chánh, tòa Kho hạc, tòa Sứ nằm sát biển chỉ có một khoảng đất đầy cỏ xanh và cây keo cây bàng rộng không tới bốn trăm thước, thế mà họ phóng rất nhiều con đường ngang dọc, kẻ thành ô vuông bàn cờ. Phủ Tuy Hòa không có nét đẹp thanh lịch đó nhưng có nhiều ruộng nên dân đông và dân giàu. Các xã đua nhau lập sân vận động, lập hội bóng tròn và trong kỳ tranh giải túc cầu toàn Tỉnh năm đó, tôi thấy một hàng cầu thủ đứng sau lá cờ màu xanh lá cây thêm hàng chữ PHÚ LÂM SPORTS bao quanh một ngôi sao đỏ. Sự chú ý của tôi đối với đội cầu này là do hôm đó viên Giám binh Khố xanh Faugére đóng vai trưởng ban tổ chức cứ phát loa kêu gọi nhiều lần thủ quân của Phú lâm Sports ra sân cỏ trình diện đoàn cầu của mình.

                Phú Lâm - Phú Lâm - Cái tên đó tự nhiên quen thuộc và hôm nay tôi nhìn bộ mặt của Phú Lâm kéo dài trên một quãng đường vài trăm thước của Quốc lộ số Một.

                Cầu Đà Rằng một màu đen nghiêm nghị. Những doi cát nằm rải rác giữa mặt sông, xanh màu lá dưa hấu lá mướp, điểm những đóa hoa màu vàng. Những người lính gác ở đầu cầu trang bị súng ống đứng sau những ụ cát chong đôi con mắt nghi ngờ. Có những đống sắt, những trụ bê tông đang xây cất dở dang để chuẩn bị làm chiếc cầu mới. Tháng Ba năm 1945 tôi đã có lần đi qua con sông này. Lúc đó cầu bị máy bay Mỹ thả bom sập hai dày và xe ô tô phải qua sông trên những chiếc phà. Bây giờ thì người Mỹ lo xây cầu giữ cầu. Chiến tranh là một con quái vật thèm sắt và bê tông và thịt người.

                Khi xe bò qua hết cầu, những hành khách của ba dãy ghế chót xôn xao sửa lại giỏ xách, gài lại thắt lưng, quơ cây tìm nón, mò chân tìm guốc dép. Những người đang đứng lom khom, lăm le tới chiếm một trong những chiếc ghế sẽ bỏ không. Chắc bây giờ họ đang âm thầm chọn lựa. Đầu cầu xe cộ và người đông nên chiếc Thuận Thành phải chạy chậm lại. Tức thì một đoàn năm sáu đứa trẻ, tuổi trạc mười hai mười ba tay cầm gói bánh mè, tay cầm túi nước ngọt nhảy vọt lên xe mời khách inh ỏi:

                - Mời bà mua gói bánh mè.

                - Nước ngọt đây! Nước ngọt sinh tố đây! Năm đồng một túi, hai túi mười đồng.

                Mấy đứa nhỏ ngồi cạnh tôi chong mắt nhìn về mẹ chúng. Người mẹ nhận ám hiệu và thi hành ám hiệu. Tức thì có tiếng trả lời:

                - Dạ mười đồng một miếng, một gói mười miếng… Dạ thôi, cháu bớt cho bà, hai chục đồng ba miếng… Dạ thôi cũng được, để rẻ cho bà năm đồng một miếng. Dạ mời bà lấy luôn hai gói để đem về cho các em mừng.

                Một người cầm lên một túi nước ngọt sinh tố vừa đặt lên miệng định cắn đứt một góc túi thì chợt đằng sau có tiếng nói:

                - Đồ nước lạt xạch mà chua lét. Uống vô thêm đau bụng.

                Xe qua một khúc quanh, bò vào bến đậu. Xe đứng dừng lại, nghiêm chỉnh như một lực sĩ còn dư sức. Có một chút hiên ngang tự phụ nữa, bởi nó đã đến bến bình an. Mười hai giờ tám phút trên mặt đồng hồ của tôi, cách xa lời hứa của người bán vé đến ba giờ đồng hồ nhưng tôi vẫn coi anh ta là người lương thiện. trong xã hội, nhiều người nói dối và lừa bịp khủng khiếp trắng trợn hơn. Cứ đọc lại những cái tít lớn trên mặt báo hằng ngày ở ngay trang nhất thì thấy.

                Tôi xách xắc đứng dậy vừa tránh dạt một bên để nhường bước cho những người luôn luôn vội vàng. Khi không còn ai tranh giành và ganh tị với tôi, tôi chậm rãi bước xuống. Thật sung sướng là người có đủ thanh thản trong tâm hồn để được bước những bước chậm rãi. Cả anh lính và chị đàn bà cũng đóng vai kẻ vội vàng nữa. Anh bế đứa con của chị đàn bà và rủ chị:

                - Mình xuống đất nghỉ ăn uống đã. Xe chưa chạy liền đâu.

                Nắng gay gắt hắt lửa vào mặt tôi. Xích lô đậu thành dãy và những phu xích lô ào tới tranh giành tám chín người hành khách ngơ ngác. Tôi xách xắc nhẹ nhàng bước lui lại phòng bán vé, đứng nhìn quang cảnh đầu tiên của thành phố.

                Đất sỏi nện cứng dưới mắt tôi. Những cây phi lao vi vút hát trên mái ngói đỏ của Chi Cảnh sát. Tôi lướt nhìn từng khuôn mặt của mấy người phu xích lô, hy vọng tìm một khuôn mặt quen. Làng tôi nằm cách Tuy Hòa ba mươi cây số về hướng Bắc và chiến tranh đã tàn phá nhà cửa, phân tán dân làng đi di cư ở khắp mọi thị trấn miền Nam. Tuy Hòa thu lượm được đông đảo bà con quê tôi hơn hết. Họ nghèo đi bởi giặc giã và kế sinh sống tạm bợ là cái thúng cái mẹt, buôn gánh bán bưng và cái xích lô, cái xe ba gác. Có nhiều người làm ăn khá hơn, có nhiều người làm giàu nữa, nhưng đó không phải là những người tôi muốn tìm gặp đầu tiên. Tôi muốn nghe những tiếng mừng rỡ bi bô, cái giọng nói quê mùa quen thuộc không pha chế. Những người giàu không mấy khi còn giữ lại được giọng nói và điệu bộ thuần túy thuở hàn vi. Đồng tiền ảnh hưởng trên mọi nếp sinh hoạt của họ và cái mừng cũng rập theo công thức thời trang. Nhưng soát đi soát lại vài lần, tôi tuyệt nhiên không tìm thấy một khuôn mặt quen. Thất vọng, tôi ra hiệu gọi một chiếc xích lô nào đó thì liền có một chiếc Honda vọt tới:

                - Ông đi Honda cho mau. Dạ… tui cũng công chức, ngày chủ nhật nghỉ, rước khách kiếm thêm tiền phụ nuôi gia đình.

                - Quê anh ở…?

                - Dạ ở Long Hòa.

                Long Hòa kề sát làng tôi. Tôi leo lên ngồi sau lưng anh vì liên hệ đó.

                Đường phố ban trưa trông thật buồn. Thấp và uể oải. Nhưng tôi đâu có quyền đòi hỏi hơn? Mười lăm năm tái tạo, tái tạo trong sự đe dọa thường xuyên của chiến tranh, là cả một nỗ lực lớn, một kiên nhẫn có thể so sánh với loài chim làm tổ. Tôi lẩn thẩn nghĩ tới những bày ong gom sát xây tầng sau khi cái tổ bị phá, những bầy kiến tiếp tục khiêng gạo sau khi vài trăm đồng đội bị một ngón chân tinh nghịch dí nát.

                Phái vui mừng bắt tay tôi. Anh phải tháo kính ra lau nhiều lần để được nhìn kỹ tôi hơn, để tin rằng tôi hiện diện thật trước mặt anh.

                - Có thể tin được không? Có chuyện chi cần sao?

                Tôi nhún vai:

                - Một chút việc. Nghe nói quốc lộ đã được sửa lại nên mình đi thử. Nghe nói xe chỉ cần chạy ba giờ, chạy vèo vèo trên xa lộ bằng phẳng nên mình thêm hăng hái đi.

                - Kết quả thực tế có đúng vậy không?

                - Đúng năm mươi phần trăm.

                Bữa ăn trưa ở Tuy Hòa giống y như những bữa ăn ở các thành phố khác. Thịt bò. Cải súp-lơ. Hành tây. Giò lụa. Thịt gà Mỹ. Tôi nhớ ngày xưa được ăn bát canh cá liệt nơi đây khiến trong ký ức của tôi luôn luôn con cá liệt đi kèm thành phố Tuy Hòa. Một món thứ hai nữa là bánh bèo rắc nhân đậu xanh. Từ nhỏ tôi chỉ quen mắt với bánh bèo nhân tôm màu đỏ nên nhìn cái bánh nhân đậu xanh đầu tiên trông lạ và quí.

                Buổi chiều chạy lo mấy việc cần. Phái lái xe đưa tôi đi. Mọi con đường đều lạ, mọi khuôn mặt đều lạ. Tôi có cảm tưởng mình không trách nhiệm gì hết đối với những người mình đang gặp, không liên hệ tình cảm và quá khứ và tôi thấy thoải mái, một sự thoải mái đi gần tới cái Chân Không. Trước ngày kháng chiến, có một con đường nào đó của thành phố Tuy Hòa mà các ngôi nhà đều xây trên một nền cao, cao tới đầu người. Và nó chạy cong quẹo như tùy sáng kiến của nó. Phái bảo tôi:

                - Trung tâm điểm sinh hoạt của Tuy Hòa là Ngã Năm. Công chức đón xe đi làm ở Ngã Năm, xe chở trả công chức về ở Ngã Năm. Các hiệu buôn xúm xít ở Ngã Năm. Place de I’Etoile của tụi moa đó.

                Phái chợt ngừng nói lật đật hãm phanh vì một chiếc xe đạp đâm bổ ra từ một ngõ hẻm. Anh không cau mày cũng không chửi thề. Xe lại nhẹ nhàng bước tới và anh bình thản tiếp tục.

                - Nhưng cái khải hoàn môn được thay bằng lô cốt xây bằng bao cát. Mà nói thật, cho dù mình muốn cũng khó mà xây được một cái công trường rộng. Không có nhiều người và người xe cộ đi lại thì một cái công trường rộng quá sẽ biến thành một bãi sa mạc.

                - Khi ở bến xe tìm đến nhà anh, tôi đi theo con đường Tản Đà. Thành phố này dành cho thi sĩ một con đường rộng rãi sạch sẽ, đó là một ưu điểm. Tôi nhớ năm 1942 lúc còn ở Hà Nội đã đi trên con đường Nguyễn Du và đố anh con đường đó có đặc điểm gì?

                Phái không quay lại nhìn tôi mà cứ chong mắt nhìn ra trước xe. Anh vừa nở một nụ cười suy nghĩ:

                - Chắc có nhiều cây, có vườn hoa…

                Tôi lắc đầu:

                - Không. Có rất nhiều nước tiểu. Người nào đi dạo trên đường phố lớn mà mót tiểu thì đều rẽ sang đường Nguyễn Du.

                Phái cười ngon lành. Im lặng một giây, anh nói:

                - Những thành phố nhỏ thường có một con đường chạy dài từ đầu trên xuống đầu dưới, y như cái cây lụi xiên qua mình một con gà đặt trên lò quay, xuyên qua một xâu thịt đặt trên lò nướng. Cái cây lụi của Tuy Hòa là đường Trần Hưng Đạo. Cây lụi của Qui Nhơn là đường Gia Long. Cây lụi của Phan Rang là đường Thống Nhất.

                Công việc tôi lo xong vào lúc năm giờ chiều. Phái rủ tôi đi chùa Khánh Sơn:

                - Đó là một địa điểm du ngoạn hợp thời trang của bạn trẻ hôm nay. Chiều thứ Bảy họ đi xe Lam hay đèo Suzuki ra đó ngoạn cảnh. Hoặc là họ đi Đông Tác ngồi dưới gốc cây si. Thơ mộng lắm.

                Tôi từ chối vì chiếc xe Thuận Thành đã làm thân thể tôi mỏi nhừ. Tôi nói:

                - Có lẽ là một cái ghế bố đặt ở sân thượng nhà anh hợp với tôi hơn lúc này.

                Nằm ở sân thượng nhà Phái, tôi đưa mắt nhìn về núi Nhạn. Hỡi ngọn núi cô đơn, chứng nhân của bao nhiêu triều hưng phế! Mi đã nhìn biết mấy lớp người nối tiếp nhau quần tụ dưới chân mi, từ những thiếu nữ Chàm áo dài xanh lòe loẹt đến những thương gia sơ mi Montagut ngồi sau tay lái của những chiếc Toyota sơn trắng. Những người giàu hôm trước đã ngã xuống nhường sân khấu cho người giàu hôm nay. Rạp hát Bang Hưng rộn rịp tiếng kèn trống hồi nào, nay nhường chỗ cho những hí viện Diên Hồng, hí viện Đại Nam. Phủ đường cũ, một dãy nhà ngói thấp và mỏng, với đoàn Tổng Lý khăn đen áo dài, bài đồng lủng lẳng nơi khuy áo… ngày nay được một số người nhắc đến với chút hoài niệm người ta vẫn dành cho loài khổng tượng. Đó là thời của những Thủ Sáu Mọi, Dũ Ký, Bầu Nụi. Thời của những tri phủ Nguyễn Khoa Phong, Nguyễn Văn Thơ, của ông Tây sở đường Đồng Bò Huguenoltz, của ông Ấn kiều bao thầu mua bông vải Kitchanassami. Đó là thời của những người đàn bà nhổ tóc con tạo thành đường chân tóc thẳng nơi trán, thời của những chiếc áo dài trang đầm rồi tiếp theo là áo dài lụa màu mỡ gà, áo dài màu xanh hồ thủy. Tôi mường tượng thấy hai dãy phố cũ nặng nề một kiểu kiến trúc cổ Trung Hoa, những dãy mái hiên, những tên hiệu viết bằng chữ Nho lớn phết vàng, những bức tường cao trên cắm tua tủa mẻ chai. Một khuôn mặt đàn bà hiện ra trong óc tôi, nét đẹp dịu dàng, mái tóc chải mượt, giọng nói êm và chậm, một người quen của cha tôi. Tôi còn nhớ rõ nụ cười làm lóe một chiếc răng bịt vàng xinh xắn.

                “Ông Hội Năm! Ở ngoãi mới vô chơi hả? Đi bằng xe STACA hay bằng xe Năm Mầu?”

                Những hình ảnh như những bóng ma! Bởi vì người đàn bà đó, cha tôi, cái xe STACA và ông Năm Mầu, và căn phố đồ sộ, và cả cái thành phố cổ kính nặng nề đều đã ngã xuống tan vụn hết rồi. Cái thành phố rộn rịp hôm nay và những người khỏe mạnh đang hơn hở làm chủ nó hôm nay là những cái cây đang tơ, là những cành hoa đang nở, mọc vạm vỡ trên những cành lá ủ mục của những thân cây đã ngã xuống.

                Tôi nhớ đến Hoàng Anh, cô bạn tôi hiện làm công chức ở Bình Tuy. Quê nàng ở Tuy Hòa và trong một bức thư tôi nhận đầu năm, nàng viết:

                “… Tết này em không về Tuy Hòa. Có lẽ cả những Tết sau này. Mấy năm trước em phải về là vì còn Ba em ngoài đó. Nay Ba em đã mất rồi và đã đoạn tang rồi thì em cũng muốn đoạn tuyệt luôn. Về để làm gì? Chiến tranh tàn phá cơ nghiệp nhà em. Ngày xưa nhà em giàu, Ba em có địa vị. Bây giờ em không có một cái nhà để ở. Chỗ sở nhà và khu vườn của Ba em ngày xưa bây giờ thuộc quyền sở hữu của người khác. Họ lập tiệm thuốc tây, tiệm vàng, phòng mạch bác sĩ, văn phòng giao dịch thương mại. Những người xuất thân tầm thường nhất hồi đó, hôm nay khinh khỉnh nhìn em. Em không đủ can đảm nhận những cái nhìn như vậy…”

                Giá có Hoàng Anh ở đây, tôi sẽ bảo nàng:

                “Em đừng nhìn xuống những tòa nhà dưới phố. Mà hãy cùng anh ngước nhìn lên ngôi tháp Chàm ở đầu núi Nhạn kia. Nó sẽ âm thầm giảng giải cho em bài học hưng phế ở đời và em sẽ được thanh thản trong tâm”.

                Buổi tối có gió biển thổi mát. Cả gia đình Phái quây quần trước máy Tivi. Chương trình “Người dân muốn biết”. Chương trình Cải lương. Qui Nhơn và Tuy Hòa bắt được chương trình vô tuyến truyền hình Việt Nam ở Sài Gòn nên những trụ ăng ten đâm tua tủa trên nóc nhà dày hơn ở Nha Trang. Ở Nha Trang chỉ được xem Tivi Mỹ, phải vừa xem vừa đoán nên nhiều người bỏ cuộc.

                Phái rủ tôi ghé lại hiệu ăn Thành Tín để thăm một người bạn cũ. Người bạn cùng làng với tôi nên qua anh tôi được biết rằng ngoài làng chẳng còn mấy người ở lại. Mọi người đều sống qua loa, sống một nửa, sống khắc khoải mong chờ ngày bình yên.

                - Thằng Toàn bây giờ nhảy qua nghề trồng cây kiểng, trồng hoa thược dược để bán Tết (trước kia Toàn là giáo viên Tiểu học)

                - Thằng Diện?

                - Nó nhảy vô đây chín mười năm nay rồi. Làm sở Mỹ bên phi trường Đông Tác.

                - Thằng Hợi?

                - Nhảy lên núi.

                Hỏi về ba người bạn thì người nào cũng “nhảy” hết, mỗi người “nhảy” một cách. Chiến tranh kéo dài thêm chừng mười năm nữa thì có lẽ không còn ai biết “đi” nữa.

                Chúng tôi cùng tới “cafe Thảo”. Nghe nói khung cảnh nơi đây mộc mạc đơn sơ và những người trầm lặng suy tư hay tìm tới đây. Chúng tôi không hẳn là những người có đặc điểm quí báu đó, riêng tôi thì chỉ vì tò mò mà thôi. Đến thành phố nào, những người ít tiền cũng hay tìm một chỗ ngồi nơi một quán cafe. Ít tốn kém. Một lối trang sức tinh thần. Ở đây có cà phê Mây Hồng, cà phê Tùng, cà phê Hoài Bắc, cà phê “Chỗ chúng ta”. Một cô thâu ngân có khuôn mặt học trò hay có mái tóc Liêu trai thường thay thế cho hương vị của cà phê bởi rất nhiều khi người ta tới để “nhìn” hơn là để “uống”. Đến một thành phố, người ta cũng hay tìm để bước vào những hiệu sách. Có cái gì thân mật nơi đó, người ta bắt gặp những khuôn mặt quen của tờ nhật báo quen đọc, những tập nguyệt san, tuần san quen được lật trên tay. Nhạn Đà, Vạn Kim, Đà Giang, Hùng Cường. Sinh hoạt tinh thần được chuyển về trọn vẹn từ thủ đô, được bày trên các ngăn tủ, được kẹp trên các sợi dây thép chăng ngang dọc.

                Mười giờ hơn khi chúng tôi về nhà. Lúc nãy đi ngang cô nhi viện Mằng Lăng tôi cảm thấy bùi ngùi. Mằng Lăng là một địa điểm của xã hội, nổi danh vì ngôi nhà lớn, họ đạo đông và giàu. Họ đạo di cư vào Tuy Hòa, nhà mồ côi di chuyển theo, được xây cất cao rộng kiên cố và mang tên cũ. Như là một hoài niệm không nguôi, như tấm lòng người Do Thái lang thang lúc nào cũng nghĩ về Đất Thánh của mình. Ngót một nửa số ruộng phì nhiêu của cánh đồng quận Tuy An thuộc quyền sở hữu của nhà thờ Mằng Lăng. Ngày Chúa nhật các họ đạo ở Gò Chung, ở Đồng Đất, ở Lò Giấy, ở Long Hòa, ở Diêm Điền… đều tụ hội về nhà thờ lớn Mằng Lăng xem lễ. Người ta đi thành từng đoàn dài trên những con đường nhỏ quanh co. Những đoàn người mặc áo dài đen nghiêm chỉnh đi thành hàng một hướng về ngôi nhà thờ lớn như những chân dài ngoẵng của một loài nhện khổng lộ.

                Khi nghe tôi về Tuy Hòa, một người bạn dặn:

                - Đi Tuy Hòa thì đừng quên con đường xuống Tòa Hành chánh, một con đường đẹp lý tưởng. Đường rộng trồng toàn cây dương mát. Hai bên đường có một đoạn có ruộng lúa. Lâu ngày sống xa ruộng lúa nay được ngửi mùi bùn, mùi nước, mùi lá lúa thật không gì êm mát bằng.

                Khi tôi chợt nhớ đến lời người bạn thì đã trễ. Buổi tối đoạn đường đó cấm đi lại.

                Ngày mai tôi sẽ trở lại Nha Trang bằng chuyến xe sớm. Cầu mong cho đêm nay yên tĩnh đừng có những cuộc pháo kích, những trận tấn công. Tôi muốn ở lại dài ngày giờ hơn để đi thăm những bạn quen, những người mà tôi xa cách đã mười lăm năm nay. Mười lăm năm, đó không phải là một thời gian ngắn. Cứ chồng nó lên ba lần là đủ để thành một đời người. Tôi cũng muốn đi thăm lại những cơ sở quen thuộc: trường Trung học Nguyễn Huệ, chùa Bảo Tịnh, nhà thờ Thiên Chúa giáo, trường Nữ Tiểu học, nhà thờ Tin Lành, cô nhi viện Phật giáo…

                Gió từ biển thổi vào những luồng mát lạnh. Dưới mắt tôi, những mái nhà nằm úp xuống, che chở mỏng manh. Những trụ ăng ten Tivi rộn ràng khoe nếp sống phong lưu. Những trụ đèn chong mắt nhìn vào đêm. Tôi vào giường sớm để chuẩn bị sáng mai dậy sớm, nhưng những ý nghĩ vẩn vơ cứ quây cuồng trong óc. Nửa ngày thật quá ngắn để tôi có thể tình tự với thành phố này. Tôi chưa kịp làm quen với nó. Tôi chưa được đặt chân bước từng bước ngắn trên những con đường, tò mò nhìn từng bảng hiệu, đọc từng hàng chữ tô xanh đỏ trên những mặt tường.

                Ở dưới nhà có tiếng nhạc dạo nhẹ rồi chợt giọng Khánh Ly lanh lảnh vang lên.

                Tôi có người yêu chết trận Pleime
                Tôi có người yêu ở chiến khu Đ chết trận Đồng Xoài.
                Chết ngoài Hà Nội, chết vội vàng dọc theo biên giới.
                Tôi có người yêu chết trận Chu Prong

                ……….”

                Điệu nhạc tức tưởi, lời ca nghẹn ngào dồn dập như tiếng xé ruột, như tiếng nức nở vội vàng không cầm nén được. Tôi nhớ đến băng nhạc của con tôi cũng có thâu bài hát đó, tiếp theo đó là những bài Gia Tài Của Mẹ, Cát Bụi, Gọi Tên Bốn Mùa… và mỗi buổi tối hai chiếc loa mắc trên vách nghẹn ngào than thở cho thân phận làm người. Cùng trong một giờ đó và trong những giờ khác, cũng trong một thành phố của tôi và trong mọi thành phố khác, những tiếng than thở đó cùng trổi lên khiến tâm hồn của người ngồi nghe sa sầm tối lại, chùng xuống.

                Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn
                Thừa đôi tay dư làn môi. Từ nay tôi quên hết tiếng người

                …….”

                Tôi có cảm tưởng mơ hồ rằng tôi không đang ở giữa Tuy Hòa. Một căn phòng vách trắng với giọng nhạc kia, với tiếng máy xe jeep phóng chạy ồn ào nơi một đường phố vắng xa, với một ánh lửa hỏa châu treo lửng lơ trên bầu trời đen… tôi thấy tôi có thể gọi bằng tên thành phố nào cũng được. Cần Thơ, Huế, Vĩnh Long, Phan Rang, Biên Hòa, Sa đéc… không có gì khác nhau bởi cùng chung một thân phận.

                Tôi vói tay kéo cánh cửa sổ đóng sập lại. Tiếng hát bị cắt đứt dừng lại nơi bên ngoài song cửa. Tôi muốn nghĩ rằng đây là Tuy Hòa. Cái không khí tôi đang thở, khoảng đất tôi đang có dưới chân, những người bao quanh tôi đang chìm trong giấc ngủ hiền lành, tất cả đều mang chung một tên: Tuy Hòa. Tôi nhìn lên vách nhà Phái, cố tìm một dấu vết gì cụ thể của cái thành phố tôi đang ở. Mắt tôi lướt qua và bỏ rơi liên tiếp những vật mà nó gặp: cái rèm cửa bằng vải hoa, tấm ảnh cô đào Faye Dunaway, cái nút của chiếc quạt trần, tấm lịch Đại Hàn với trang tháng Mười in hình một thiếu nữ đứng nơi hành lang dài một ngôi đền, một đoạn cành cây khô trên bám một thân phong lan nở từng chùm hoa vàng… và cuối cùng một tấm lịch bìa đỏ trên có những hàng chữ vàng rực:

                TỊNH THỦY
                Hãng sản xuất nước đá
                611 Trần Hưng Đạo Tuy Hòa

                Tôi nhìn tấm bìa lịch và dòng chữ, lòng vui như vừa gặp một người bạn. Tôi nhắm mắt lại, êm đềm đợi giấc ngủ. Trên môi phác một nụ cười bình an.

                (1) lính hơn lính hạng chót
                #38
                  hai1957 20.12.2012 16:29:23 (permalink)
                  6. LƯƠNG MAI (Đã có trong TV)

                  7. TRẦM MẶC CÂY RỪNG




                  Trong suốt mười năm tham gia kháng chiến, tôi đã lang thang đi khắp mọi miền của tỉnh Phú Yên, in dấu chân ở gần khắp mọi xã mọi thôn, từ vùng rừng núi An Lĩnh Xuân Quang đến bãi cát vàng Đa Ngư Phú Hiệp. Những người tôi quen thuộc rất nhiều, từ anh cán bộ dân quân lưng gài lựu đạn đến nhà địa chủ hào phú vườn rộng nhà cao, từ người nông dân chất phác cần cù đến những công chức mũ ka-ki rộng vành vai đeo muy-zét. Nhưng vượt lên trên hết mọi khuôn mặt và mọi dáng người là khuôn mặt dịu dàng thùy mị của Thịnh, người con gái của thôn Diêu Viên quê mùa mà giờ đây mỗi lần âm thầm nghĩ đến là tâm hồn tôi chợt thấy man mác nhớ và buồn, như một bầu trời đang nắng rỡ ràng bỗng có một áng mây trôi qua tạo thành một bóng râm âm u.

                  Năm đó tôi đang làm việc ở Phân ban Cực nam thì có chủ trương biên chế tổ chức mới. Tôi bị để ra ngoài biên chế. Trong khi đợi chờ học một nghề lao động mới để làm kế sinh nhai, tôi được một gia đình học sinh cũ của tôi mời về tá túc. Trước khi làm việc ở Phân ban Cực nam, tôi có đi dạy vài năm ở một trường Trung học.

                  Thân phụ của người học sinh là một nhà hào phú trước kia làm Chánh tổng nên người thầy vẫn quen miệng gọi là ông Chánh. Phùng, người học trò cũ của tôi thì đã gia nhập bộ đội và hiện đang chiến đấu ở Đông Mèn, Hạ Lào gì đó. Quê hương của Phùng là một miền quê xa xôi hẻo lánh, cách con đường ô-tô độ mươi cây số theo đường chim bay nhưng muốn đi tới nơi thì phải lượn vòng theo những triền núi, vừa đi vừa chạy tụt xuống những khe suối rồi nhẫn nại vừa leo vừa thở hổn hển lên những bờ khe suối khác. Tôi chọn miền đó để ẩn cư vì một nơi sằn dã hẻo lánh như vậy ít có hi vọng bị máy bay oanh tạc chiếu cố hay bị một trận đổ bộ càn quét tràn qua. Lại nữa, tôi còn chọn ở những miền đồng bằng thị tứ làm chi, tôi, một kẻ thất nghiệp mà mỗi ngày trôi qua mỗi gặm mẻ lần số tiền ít ỏi dành dụm được bấy lâu.

                  Xem cốt cách sinh hoạt và dinh cơ đồ sộ của ông Chánh, tôi đoán biết ông đã từng là lãnh chúa của vùng này, một thứ lãnh chúa cha truyền con nối. Nhà lớn, nhà ngang, nhà cầu, nhà việc, lẫm lúa, nhà sau… bao nhiêu ngôi nhà nằm chi chít bao vây nhiều vuông sân. Những cây cột tròn to, bóng loáng đứng vững chãi có treo những câu liễn cẩn xà cừ. Những bộ ván gõ đều dày hàng tấc, nhiều bộ dài có đến bốn thước. Bàn ghế, tràng kỷ chạm trổ tinh vi.

                  Ông Chánh tiếp đãi tôi tử tế vì tình sư đệ đối với con ông mà cũng vì ông coi tôi như người bạn đồng cảnh ngộ với ông. Tôi bị Chính quyền gạt bỏ ra ngoài thì cũng như ông biện bị cô lập, bị cán bộ Thôn bao vây để triệt hạ ưu thế chính trị.

                  Ông để cho tôi ở trọn một căn nhà Đông, căn nhà xưa kia dùng làm nơi tiếp các hương lý, nơi xử kiện và tính toán thuế khóa. Nhờ tính chất “công sở” đó mà căn nhà sáng sủa, bày biện ít đồ đạc. Cửa sổ mở dưới một cây nhàu cành sum sê và màu lá xanh mướt óng ánh như thoa mỡ gây cho tôi một niềm yêu đời can đảm.

                  Ông Chánh bảo tôi:

                  - Thầy ở đây chơi, bao lâu cũng được. Chỗ này quê mùa, ăn tiêu ít tốn kém. Chỉ cần có gạo. Và mắm.

                  - Tôi còn đủ sức để mua được gạo.

                  - Thầy ăn mỗi tháng cho mạnh nhất là bốn giạ lúa. Nhiều lắm thì sợ tôi không kham nổi chớ bốn giạ thì tôi có thể giúp thầy.

                  - Cám ơn ông, nhưng xin để tôi tự lo liệu phần gạo mắm.

                  - Trước ngày Cách mạng thì tha hồ, nhà tôi có thể cung phụng cho vài mươi người một lúc cũng không nao núng. Nhưng bây giờ thì phần lúa giảm tô, phần ruộng bỏ hoang vì nông dân ly khai gia nhập bộ đội thiếu người canh tác. Mắm thì không tốn bao nhiêu. Chúng tôi ở đây cứ mỗi năm vào mùa tháng Ba thì mua mắm của dân biển gánh lên bán. Cho đầy vào mọi tỉn mọi vò rồi để dành đó ăn lần, ăn quanh năm. Rau cỏ thì dễ. Miền này nhiều mít nhiều thơm, nhiều nhà xắt trái mít non trộn với gạo để nấu cơm cho đỡ tốn gạo.

                  - Đó cũng là một cách ăn trở bữa.

                  - Nhưng ăn mau đói. Người thầy thường dùng củ mì hay khoai lang nấu ghé với cơm. Có ăn ghé như vậy một thời gian rồi được ăn bữa cơm mùa - nghĩa là cơm nấu toàn gạo, - mới thấy ngon.

                  - Tôi đã ở Quảng Ngãi một thời gian và tôi đã từng ăn cơm ghé liên miên suốt tháng này sang tháng nọ.

                  Thật vậy, gian khổ tôi đã từng nên tôi không còn sợ nữa. Không có thứ gian khổ nào đóng vai giọt nước chót làm tràn cái ly. Tôi gởi tiền nhờ ông Chánh mua giùm hai mươi giạ lúa và mặc dù ông nằng nặc từ chối không nhận tiền, tôi cũng nài cho ông phải cầm. Ông đành nói:

                  - Thôi, cũng như tôi cất giùm tiền cho thầy. Khi nào thầy cần thì tôi sẽ hoàn lại.

                  Lợi dụng những ngày nghỉ ngơi tôi lôi những quyển sách ra đọc. Buổi trưa được ngủ một giấc ngon lành và chiều lại tôi đi thơ thẩn vào trong xóm.

                  Những ngôi nhà nằm rải rác trong cái thung lũng hẹp này. Xung quanh núi cao chớn chở đứng bao vây, những ngọn núi màu xanh chàm sừng sững bất động. Những thân cây bồ-lời cao vút đứng rải rác trên con đường vắng vẻ một cách man rợ nhất là thỉnh thoảng trên những tàng cây cao chót vót đó có những tổ quạ tổ ác là lót sơ sài bằng những chà cây lòi xòi. Những buổi chiều đi cô đơn như vậy thật buồn. Nhớ quê hương xa cách, nhớ những kỷ niệm của tuổi thơ và lo âu vì tương lai không biết mình sẽ như thế nào. Nhiều hôm tôi cảm thấy đôi chân mỏi rã cơ hồ như không còn mang nổi nỗi buồn quá nặng của tôi, tôi chọn ngồi lên một tảng đá ở vệ đường rồi chăm chăm nhìn về một lùm cây, một bụi cỏ, một con đường mòn vắt vẻo lưng đèo hay chỉ nhìn vu vơ một nền trời óng ánh tựa xà cừ.

                  Một hôm tôi đang ngồi im lìm bất động như vậy trên một tảng đá mặt phẳng và rộng dưới gốc một cây bồ-lời cao, tâm tư phiêu diêu bay bổng thì chợt một tiếng gọi “thầy” làm tôi giật nẩy mình. Tôi qua lại.

                  - Thầy ngồi làm gì một mình ở đây?

                  Thấy tôi ngơ ngác không nhận ra, người con gái nói tiếp:

                  - Em là con của bà Chức Bảy.

                  Tôi “à” lên một tiếng mừng rỡ:

                  - Thịnh đấy hả? Bây giờ em lớn trông khác. Má em vẫn mạnh?

                  - Dạ, cám ơn thầy. Sao lâu thầy không lại chơi?

                  Đáng lẽ Thịnh gọi tôi bằng “anh” như những người bạn gái của nàng hay gọi, nhưng bởi năm trước tôi có dạy kèm giùm cho một người em trai kề của nàng học hè nên nàng xưng hô với tôi lễ độ như vậy.

                  Thịnh có khuôn mặt thùy mị. Lông mày dài và mọc đều như được vẽ bằng nét bút. Màu da trắng ngà. Tôi không hiểu tại sao nàng lại có một vẻ đẹp đài các như vậy, khác xa với vẻ cục mịch của mẹ nàng và những nét thô trên khuôn mặt của người em trai. Những sợ tóc mai, những sợ tóc mọc sau ót được vuốt lên, chân tóc làm cho màu ngà của da êm mát như mơn trớn. Tôi nhớ đến những bức họa mỹ nhân Nhật Bản, Trung Hoa. Chân tóc mai và cái ót khêu gợi dịu dàng. Tôi trả lời:

                  - Định lại mà chưa có dịp.

                  - Chắc thầy chê nhà em nghèo không muốn tới.

                  - Đâu có. Nếu xét tài sản thì tôi nghèo hơn cô nhiều, nghèo hơn bất cứ một người nào trong thôn xóm này. Bởi vì ở đây người nào cũng có ít nhất một ngôi nhà dù bằng tranh rạ, một khu vườn nhỏ trong có mọc bụi ớt bụi hành, những cây bồ-lời đứng dọc theo con đường đi rẽ vào sân.

                  - Vậy thì sao thầy lại không tới?

                  - Để hôm nào tôi tới.

                  Hôm tới thăm Thịnh thì nhằm lúc mẹ nàng ra đồng vắng. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn trồng đầy những cây xoài, cây mít, cây bưởi. Có cây xoài quì ở trước sân, trái thòng xuống ngang tầm tay hái. Tôi nói:

                  - Cô ở giữa một khung cảnh êm ái hiền hòa như thế này nên tâm hồn của cô lúc nào cũng dịu dàng.

                  Thịnh cười:

                  - Thầy tưởng vậy. Em phải đi cuốc cỏ và khi lưỡi cuốc cắt đứt rễ cỏ, bụi cỏ được vun thành từng đống chết khô ở bờ ruộng thì lúc ấy chắc chắn là bàn tay em không còn dịu dàng nữa và tâm hồn em cũng không còn hiền hòa nữa.

                  Tôi hơi lúng túng vì bị lý luận của Thịnh bao vây một cách bất ngờ như vậy. Nhưng quả tình là tôi cảm thấy dễ chịu khi được đối diện với sự thông minh của nàng. Tôi nói:

                  - Cây cỏ làm hại lúa thì nó xứng đáng phải chịu sự đối xử tàn bạo của lưỡi cuốc.

                  - Thầy lý luận như người Hoa kỳ khi họ đem súng ống tiêu diệt dân Da đỏ.

                  - Tôi không hung bạo như vậy.

                  - Em xin lỗi, em cũng không định nói thầy như vậy.

                  Tôi ngồi ở cái bàn nước và Thịnh xin phép chạy ra vườn. Căn nhà ngăn nắp và sạch sẽ. Hơn tám năm tôi xa cách nếp sống thị thành, đôi mắt quen nhìn những bức tường vàng màu được trét nên tôi thấy nó có vẻ đẹp của nó. Nền nhà cũng một màu vàng xám của đất nện. Không có tranh ảnh treo trên tường.

                  Thịnh đi vào với ba cam chín trên tay. Tôi đón nàng bằng nụ cười:

                  - Vì tôi mà cô thành người tàn bạo.

                  Nàng cắt cam mời tôi:

                  - Cả vườn nhà em có cây cam này ngọt nhất.

                  - Xin cảm tạ lòng ân cần của cô… Hòa năm nay học lớp mấy?

                  - Dạ, lên lớp tám. Mẹ em nói thôi học bấy nhiêu đó cũng đủ, nhưng em muốn cho nó học thêm. Ra Bình Định học, tốn kém lắm mà nhà mẹ em không giàu.

                  Tôi được biết là cả tỉnh Phú Yên có được ba trường Trung học và chỉ dạy đến lớp Bảy. Muốn học lên lớp Tám, lớp Chín thì phải ra Bình Định và sau khi học hết lớp Chín rồi thì đành ngồi đó nghỉ đợi đã. Ít ai có đủ tham vọng và tinh thần mạo hiểm và sức khỏe để trèo đèo lội suối ra mãi Liên khu Tư để học tiếp thêm.

                  - Phần em học dở dang cũng được bởi em là phụ nữ. Chớ nó là con trai thì không thể bằng lòng với trình độ lớp Bảy.

                  - Cô học tới đâu rồi nghỉ?

                  - Em học hết lớp Bảy.

                  - Ngang với bằng Trung học rồi. Cô có thể xin bổ làm cô giáo Tiểu học.

                  - Em thấy mình còn dốt lắm. Muốn học thêm mà không đủ phương tiện, muốn tự học mà không có sách. Làm cô giáo không được đâu. Cuốc cỏ và gặt lúa thì được hơn, bởi điều đó không đòi hỏi kiến thức.

                  - Tôi không tin là cô có thể gặt lúa như một người thôn nữ chính hiệu khác. Cuốc cỏ thì được. Người thầy cầm cái cuốc nhỏ, cán dài, đứng thẳng lưng gãi nhe nhẹ lưỡi cuốc lên mặt đất là những bụi cỏ đã đủ đứt rễ rồi.

                  Thịnh cười:

                  - Rõ ràng thầy là một người thị thành nên mới có những ý nghĩ thần tiên như vậy. Gặp bụi cỏ gấu, thầy cứ thử “gãi nhè nhẹ” coi nó có “đủ đứt rễ” không. Vả lại, dù có “gãi nhe nhẹ” mà phải gãi hoài từ sáng sớm tới trưa rồi từ trưa tới chiều, gãi dưới ánh nắng mặt trời gay gắt, thì liệu thầy có còn thấy việc ấy nhẹ nhàng nữa không? Có còn “đứng thẳng lưng” nổi nữa không?

                  Tôi vừa cắn vào miếng cam vừa nói:

                  - Tôi chưa thí nghiệm nên chưa trả lời được. Ít nhất cũng cho tôi thí nghiệm một lần.

                  - Hôm nào thầy thí nghiệm xem thử.

                  Sau đó chừng nửa tháng, một hôm tôi có việc phải xuống trụ sở Xã kê khai giấy tờ lý lịch. Trên đường về trời nắng chang chang, tôi bất ngờ gặp Thịnh ở từ xa đang gánh một gánh đọt mía nặng. Thoáng thấy tôi, nàng lúng túng cúi nhìn xuống đất, thoăn thoắt bước đi. Nhưng tôi gọi giật lại: “Cô Thịnh”. Nàng đặt gánh đọt mía xuống đợi tôi.

                  - Mùa này sắp trồng mía rồi sao? - tôi hỏi.

                  - Dạ không. Em đi này ngọn để dặm vào vạt mía bị rầy áp.

                  Da mặt nàng ướt đẫm mồ hôi, những giọt mồ hôi đậu chi chít trên mũi và trên môi. Quần đen xăn lên để lộ nửa ống chân. Cái áo cánh cụt tay có một đường rách nơi vai để lộ một mảnh da trắng. Thịnh bắt gặp tôi đang nhìn vào chỗ vai áo rách của nàng và nàng ngượng đỏ đôi má. Tôi nói:

                  - Tôi không ngờ cô giỏi giang tháo vát như vậy. Thật khó mà tưởng tượng một cô giáo có thể gánh nặng dường đó.

                  - Em đâu phải là cô giáo?

                  - Ý tôi muốn nói đến cái kiến thức của cô.

                  - Làm việc lâu rồi quen đi.

                  Tôi không muốn giữ nàng nói chuyện lâu hơn bởi chỗ chúng tôi đứng không có một bóng cây. Vả lại rõ ràng là nàng không được thoải mái khi tôi thấy những ngón tay cứ mân mê tìm cách che giấu chỗ rách nơi vai áo. Tôi chào giã từ và hẹn sẽ đến nhà thăm.

                  Một hôm mẹ nàng hỏi tôi:

                  - Lâu nay thầy có tin tức gì trong gia đình không?

                  Tôi đáp:

                  - Dạ thỉnh thoảng năm, bảy tháng thì có liên lạc được một lần. Kỳ này lâu được tin, cả năm rồi mà không nhận được thư từ và đồ tiếp tế.

                  - Vậy thầy ở không lấy gì mà tiêu?

                  - Cháu mới bán cái đồng hồ đeo tay hiệu Pritania. Cái đồng hồ đó vợ cháu gởi ra cho kỳ trước.

                  - Ở đây ai có tiền mà mua nổi?

                  - Dạ phải gởi nhờ bạn quen đem xuống Tuy Hòa bán.

                  - Được bao nhiêu?

                  - Dạ hai trăm năm mươi ngàn đồng.

                  - Như vậy cũng còn sướng. Nhà nông bán hết hoa lợi một năm chưa có được số tiền đó.

                  - Nhưng miệng ăn núi lở, ngồi ăn không thì chẳng mấy chốc mà hết veo. Để cháu phải kiếm một nghề lao động.

                  - Thầy không quen kham khổ, chịu đựng lao động cực nhọc không nổi đâu.

                  Im lặng giây lâu chợt bà nói:

                  - Mà sao thầy không làm đơn xin phép hồi cư?

                  - Cháu cũng đang vận động xin.

                  Hôm sau gặp tôi, Thịnh không tươi cười chào như thường lệ. Tôi hỏi gì nàng cũng chỉ trả lời vừa đủ. Tôi nói:

                  - Hôm nay cô có điều gì buồn?

                  - Dạ không.

                  - Không buồn sao cô ít nói hơn thường ngày?

                  - Dạ không.

                  Tiếng bước chân của chúng tôi sào sạo trên mặt đường sỏi đá gồ ghề. Khi đến ngã rẽ vào nhà nàng, Thịnh chợt đứng lại quay nhìn tôi:

                  - Chừng nào thầy hồi cư?

                  Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

                  - Ai bảo với cô?

                  - Hôm qua thầy nói với mẹ em.

                  - Đó là mới dự định.

                  - Thầy nói thầy đã vận động xin hồi cư rồi mà.

                  - Tôi chỉ mới vận động. Còn được phép hay không thì chưa chắc.

                  Thịnh dùng mũi dép mân mê một hòn sỏi dưới chân. Nàng không nhìn lên tôi.

                  - Chắc thầy trông đợi cho mau đến ngày hồi cư…

                  - Ơ… vâng… không… nhưng mà…

                  Quả tình là tôi đã rất lúng túng. Tôi không biết nói dối và thái độ của Thịnh bất ngờ đối với tôi lúc đó, tôi không kịp chuẩn bị. Tôi như một tên đại đội trưởng bị lọt vào ổ phục kích và thụ địch hai đầu.

                  Tết năm đó Pháp mở chiến dịch lớn tấn công tỉnh Phú Yên cả hai mặt, mặt Đèo Cả và mặt Tây Nguyên. Quê hương của Thịnh náo loạn chạy giặc bởi tiếng đại bác của địch ở miệt Suối Cối nổ ì ầm cả ngày đêm. Tôi gùi ba lô lên vai chạy theo đoàn cán bộ xã tìm đường lọt ra ngã Phước Lãnh để tránh con đường liên tỉnh số Sáu. Ai cũng lo xa rằng địch có thể chọt một mũi dùi thứ ba từ cửa bể Tiên Châu tiến lên chiếm Liên tỉnh lộ số Sáu, bao vây bộ đội và cơ quan hành chánh của ta. Nhiều ức đoán còn cho rằng cánh đồng Phú Long rộng và phẳng có thể là nơi bộ đội Pháp sẽ chọn để nhảy dù. Tất cả mọi dự phỏng đều a tòng với nhau để thúc đẩy chúng tôi chạy, càng mau càng tốt. Tôi không kịp giã từ Thịnh và mẹ nàng. Tôi còn lý luận rằng cho dẫu có mạo hiểm phí thì giờ đi tới tìm thì cũng không chắc đã gặp. Những người dân trong xóm đều lật đật tản cư tài sản vào những khe núi hốc núi, những xóm rải rác năm ba nóc gia nằm kẹt trong những thung lũng hẹp.

                  Từ lần ra đi vội vã đó, tôi cứ từng bước từng bước lầm lũi đi tới, bỏ xa lần sau lưng cái xóm nhỏ hiền hòa của Thịnh. Tôi hồi cư về thành khi chiến dịch Atlante vừa chấm dứt. Tôi gặp lại vợ con. Đứa con ngày mới ra đi còn nằm trong nôi, bây giờ đã học tới lớp Nhì và nó bỡ ngỡ không muốn gọi tôi bằng ba bởi nó không tưởng tượng nổi rằng bằng cách nào mà một người áo quần xốc xếch, dáng dấp thiểu não hơn anh tài xế ở nhà lại có thể là ba nó được. Sau vài tháng nghỉ ngơi và chữa dứt bệnh sốt rét kinh niên, tôi gia nhập vào cuộc sống ào ạt của miền Quốc Gia. Những hưởng thụ vật chất và những bận rộn tinh thần đã choán hết thì giờ của tôi khiến tôi ít có dịp để ngoái nhìn lại quá khứ, để tưởng tượng xem cái xóm nhỏ của Thịnh hiện sinh hoạt như thế nào. Chỉ thỉnh thoảng những lúc đi ra ngoại ô, đôi mắt chợt gặp một chòm cây cao có tàng um tùm trên đầu là tôi bồi hồi nhớ đến cảnh cũ. Nhất là khi đôi tai chợt nghe một tiếng chim vang lanh lảnh từ trên tàn lá cây đó. Những ngày quá khứ của tôi ở xóm Diêu Viên như đầy những tiếng chim và đầy sự im lặng cao cả, man rợ.

                  Có một lần ông Chánh đi vào Sài Gòn đưa một người bà con bên vợ vào chữa bệnh ở nhà thường Grall. Ông tìm ghé lại thăm tôi. Tôi mừng quá bắt ông ở lại nhà tôi. Qua đi những câu chuyện hàn huyên, tôi vội vàng hỏi thăm tin tức về gia đình Thịnh.

                  - Thằng Hòa đi tập kết.

                  - Nó không phải là cán bộ mà.

                  - Tôi không được rõ. Không thấy nó về và trong xóm xầm xì là nó theo ra Bắc luôn.

                  - Còn bà già?

                  - Cũng còn sức khỏe. Làm ruộng làm nương như hồi xưa, cũng một nắng hai sương, có điều khỏi chạy tàu bay như hồi kháng chiến.

                  Tôi không dám hỏi về Thịnh. Tôi đang hồi hộp đợi chờ. Tôi sợ rằng nếu tôi cất tiếng hỏi thì giọng nói của tôi sẽ không còn bình thường nữa. Tim tôi đang đập rộn ràng và nhất định là nó ảnh hưởng đến nhịp thở và giọng nói. Sự hồi hộp của tôi xuất phát từ những nghi vấn: Không biết Thịnh có còn ở chỗ cũ không? Một tháng cách xa đủ để mang lại cho ta một tin bất ngờ. Một tin buồn. Thế mà Thịnh thì đang ở cái tuổi có nhiều biến cố.

                  Ông Chánh nhấp chén trà rồi nhìn ra ngoài đường. Nói nhanh đi! Đừng bắt tôi đợi nữa! Cả tâm hồn tôi đang xoay quanh một người, một khuôn mặt, ông không biết sao? Hay là ông đã đoán biết hết rồi? Ừ nhỉ, ông đã sống một thời thanh niên như tôi, ông cũng đã đam mê, đã yêu, đã mơ mộng. Ông định đùa nghịch tôi chăng? Tôi van xin ông đó.

                  - À, còn con Thịnh…

                  Tôi giật mình. Cầu cho những tin tức đều tốt lành. Tôi không đủ sức chong mắt nhìn lên mặt ông Chánh nữa. Đôi mắt mỏi mệt.

                  - Năm ngoái thằng con Xã Lựu đi hỏi nó…

                  Tôi nín thở.

                  - … nhưng nó không chịu.

                  Cảm tạ Thượng đế. Thằng con Xã Lựu thì tôi biết. Nó xấu xí như một con dơi.

                  - Nhà Xã Lựu giàu mà nó là con độc đinh. Má con Thịnh thì đã khứng rồi nhưng con nhỏ nhất định không chịu.

                  - Ép quá rồi cũng phải chịu.

                  Ông Chánh lắc đầu:

                  - Dứt khoát rồi. Thằng con Xã Lựu đã xuống Háo Danh cưới con gái Hương kiểm Xân rồi.

                  Cảm tạ Thượng đế! Tôi không chịu đựng nổi ý nghĩ Thịnh phải sống cạnh một con dơi xấu xí như vậy. Tôi ghê rợn như khi nhìn một con sâu rọm bò trên những cánh hoa hồng.

                  Sau hai ngày ở chơi, ông Chánh cáo biệt chúng tôi. Tôi mua quà biếu ông, biếu bà Chánh và nhờ ông mang dùm một gói quà tôi gởi biếu mẹ Thịnh và Thịnh. Tôi không viết thư mà chỉ nhắn miệng mời có dịp nào tiện xin vào ghé chơi với chúng tôi. Vợ tôi hỏi số tuổi của Thịnh rồi gởi thêm một hộp lớn trong đựng những xấp hàng may áo dài, gương lược đắt tiền và nhiều lọ nước hoa.

                  - Ông trao dùm cho cô Thịnh. Nói đây là phần của riêng tôi biếu cô.

                  Tôi thầm trách sự thật thà của ông Chánh. Đáng lẽ ông thông minh nói sụt bớt năm ba tuổi để vợ tôi nhẩm tính thấy rằng khi tôi gặp Thịnh thì nàng mới chỉ là một cô bé. Đằng này rõ ràng là vợ tôi có điều để có thể suy nghĩ. Một cô gái quê có học và bắt tôi phải nhớ, có đủ bản lĩnh để chê thẳng con một ông Xã nhà giàu, thì dù chưa gặp lần nào vợ tôi cũng không thể nghĩ rằng nàng xấu xí và đần độn.

                  Mùa hè năm sau, vợ tôi bị chứng hoại huyết phải vào nằm ở dưỡng đường Saint Paul. Nàng từ trần sau ba tháng chống chọi với bệnh. Khoa học chịu bất lực và sự cầu nguyện chỉ là liều thuốc dành cho người sống. Tôi trở lại cuộc đời cô đơn, lần này còn cực nhọc gấp mấy lần những ngày kháng chiến bởi tôi không còn mơ mộng vô tư như xưa nữa. Cố nhiên là sau ngày đoạn tang vợ tôi, các bạn bè và họ hàng giới thiệu cho tôi những người thiếu nữ, những người đàn bà. Riêng phần tôi, những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên cũng nhiều nhưng quả tình là tôi không gặp được người nào tôi có thể thương yêu một cách an ổn. Người phụ nữ thời nay sống vội vàng như những chiếc đồng hồ. Tình cảm xoay chiều, cử chỉ hối hả, tâm trạng bực dọc. Xoay chiều theo màu áo dài của họ thay đổi hằng ngày. Có những người mà sắc đẹp và tính tình làm tôi tin cậy, nhưng hầu như họ đều đã có chồng rồi. Tôi bao giờ cũng là kẻ đến quá chậm hoặc quá sớm. Sớm đối với những cô còn trẻ.

                  Chiến tranh Nam Bắc bùng nổ trở lại mỗi ngày mỗi ác liệt trong những năm hoang mang dao động đó của tôi. Ấp chiến lược, dồn dân, dồn làng, phục kích, biểu tình tranh đấu, đàn áp, xử tử, treo bản án, trại tập trung, trại cải huấn, trại học tập… liên miên, dồn dập, thường xuyên. Dân quê chạy tán loạn vào thành phố. Không thẻ căn cước, không thẻ gia đình, hành quân Cảnh sát hốt chất đầy xe. Bao nhiêu những biến cố dồn dập đó có kết quả là xóa mờ đi trong óc tôi những hình ảnh của vật của người mà tôi đã gặp, đã quen nơi những miền thôn dã xa xôi của tỉnh Phú Yên. Khi óc tôi dựng lên một cảnh thì y như liền đó nó bị bẻ gãy làm đôi làm ba. Con đường cái không thể chạy dài được đúng theo phận sự của nó. Nó phải bị chặt bị đào, bị khoét thành hố thành vũng bởi mìn bởi bom. Vườn tược không còn xanh màu lá, trắng màu hoa và hồng màu trái chín mà chỉ có màu vàng thê lương của cành cây chết khô, màu đen của thân cây bị cháy sém. Những ngôi nhà ngã sập xuống hay cháy tan hoang chỉ còn trơ lại những nền cao. Xóm nhỏ của Thịnh chắc cũng cùng chung một số phận. Không biết hai mẹ con hiện xiêu lạc về phương nào.

                  Trong những hồi cô đơn, tôi hay nghĩ đến Thịnh. Tôi còn nhớ tâm hồn tươi mát của nàng, yêu lao động và không đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Nàng sống hiền hòa thanh thản và tôi muốn đem những tiện nghi hiện tôi có được để chia sớt cùng nàng. Tôi cảm thấy cuộc đời của tôi sẽ được bình ổn hơn. Tâm hồn trong sáng yêu đời mang lại cho nàng một năng lực tự tại khó lay chuyển. Tôi chưa hề thấy nàng nuôi thành kiến, chạy bừa theo một phong trào hay vội vã đối phó một dư luận. Nàng phản ứng chậm chạp, cử động khoan thai như lúc nào cũng phải nghĩ chín chắn đã rồi mới làm. Sống giữa một vùng rừng núi xa xôi, tôi có cảm tưởng nàng chịu ảnh hưởng cái vóc dáng uy nghi của thiên nhiên hoang dã và nét uy nghi đó in dấu trên mọi cử chỉ nhỏ của nàng. Tôi yêu quí sự nghiêm cẩn trì trọng đó của loài đá tảng, của thân cây rừng hơn là sự bén nhạy linh hoạt của giống lau sậy. Thịnh có cốt cách của một người chị, của một người mẹ, của một người em. Tôi muốn được hưởng thụ một tình yêu loại đó hơn thứ tình nóng bỏng của một người yêu đơn thuần.

                  Giữa lúc tâm hồn tôi hướng về Thịnh như con tàu trong cơn bão táp hướng về ánh sáng của ngọn hải đăng xa xôi thì chợt tôi gặp một người đàn bà ở cùng xóm với nàng, bà Mừng. Tôi hỏi:

                  - Ông Chánh hiện tản cư về đâu?

                  - Dạ, dọn vô Tuy Hòa.

                  - Mẹ con cô Thịnh?

                  - Dạ, tập trung về Quận.

                  - Bà có chắc không.

                  - Dạ chắc chớ.

                  Tôi tặng bà một số tiền và nhờ bà đem về trao cho Thịnh một gói quà và một bức thư. Tôi căn dặn phải đưa thư đó tận tay Thịnh, bằng mọi cách. Trong thư tôi buồn rầu báo tin cho nàng biết là vợ tôi đã từ trần hơn bốn năm rồi và cuối thư là lời mời mẹ nàng và nàng tìm dịp đi vào thăm tôi. Thư viết với lời lẽ nghiêm trang bởi tôi biết nó sẽ được nhiều người khác đọc trước nàng.

                  Nhưng một tháng rồi hai tháng lặng lẽ trôi qua. Tôi viết tiếp hai cái thư nữa. Vẫn không có hồi âm. Trong khi đó thì tôi không còn gặp ai quen để hỏi xem hiện nàng ở đâu, hiện nàng như thế nào. Cho đến một sáng chủ nhật.

                  Tôi đang ngồi một mình trong phòng thì nghe tiếng chuông reo ở cổng. Nhìn qua cửa sổ thấy một người mặc quân phục đứng thập thò sau cánh cửa. Tôi đi ra mở cổng. Người quân nhân chào tôi:

                  - Thưa thầy.

                  Tôi bỡ ngỡ.

                  - Thầy không còn nhớ em? Em là Nhẫn, học trò cũ của thầy.

                  Ký ức của tôi lờ mờ trước cái tên và khuôn mặt đó nhưng tôi tươi cười:

                  - Xin mời anh vào chơi. Lâu ngày quá.

                  Người quân nhân đứng nhích sang một bước rồi quay lại giới thiệu người đi với anh ta.

                  - Dạ, còn đây là vợ em.

                  Tôi nhìn sang người đàn bà mà lúc nãy ngồi trong phòng nhìn ra tôi không thấy. Có lẽ lúc đó nàng đứng lấp sau trụ cổng.

                  Chợt cơ thể tôi phút chốc như rã rời từng mảnh vụn. Thịnh. Nàng đăm đăm nhìn tôi. Đôi con mắt màu đen.

                  - Mời anh chị vào.

                  Chân tôi run run và giọng nói cũng run theo. Tôi hướng dẫn hai người vào xa lông. Mời ngồi. Người ở mang nước. Tiếng xe chạy trên con đường trước nhà, những Suzuki, Yamah, Jeep, GMC… ào ạt, rầm rộ, nhét đầy vào óc tôi, tràn nghẹt đến mang tai. Tôi như người mất cảm giác. Mất thăng bằng.

                  Áo của Thịnh phơn phớt màu hoa tím. Đôi bàn tay no tròn đặt lên vạt áo. Ngày xưa đôi bàn tay này cắt những quả cam. Không phải cho người quân nhân ngồi bên cạnh.

                  - Em đang dạy ở trường tiểu học Mỹ Phú thì có lệnh động viên từng phần. Em học lớp Hạ sĩ quan bên Đồng Đế.

                  - Vâng.

                  - Còn một tháng nữa thì mãn khóa. Khóa sinh sẽ được phân phối về các đơn vị. Em muốn được về Tiểu khu Phú Yên nhưng sợ bộ chỉ huy đưa đến đơn vị khác.

                  - Chắc họ cố gắng phân phối hợp lý, ai đến từ tỉnh nào thì cho về tỉnh nấy.

                  - Dạ, nguyên tắc là vậy nhưng mà còn phải tùy nhu cầu. Em nghe thầy quen lớn nhiều nên em nhờ thầy xin giùm. Miễn họ cho em được về Tiểu khu Phú Yên, ở đó em có người quen.

                  - Tôi sẽ gắng xin giùm anh nhưng kết quả thì tôi không dám bảo đảm.

                  - Dạ, miễn thầy nói giùm cho em một tiếng.

                  Mục đích chính của cuộc hội kiến đã đạt rồi, Nhẫn quay sang giới thiệu vợ:

                  - Thịnh, chắc thầy còn nhớ?

                  - Vâng.

                  - Hồi trước Thịnh cũng có học thầy.

                  - Hình như không.

                  Nhẫn uống cạn tách nước.

                  - Em hỏi mãi mới tìm được địa chỉ của thầy. Xa thầy hàng mười mấy năm mà trông thầy không thay đổi bao nhiêu.

                  - Tôi chắc phải già đi…

                  - Dạ không bao nhiêu. Gặp thầy em nhận ra được ngay.

                  Những câu trao đổi đều vô vị. Tâm hồn tôi mục ruỗng, hoang vắng, tiêu điều. Tôi đang sống hai thế giới: thế giới xã giao nhạt nhẽo với Nhẫn và thế giới tâm tình u uất nghẹn ngào với Thịnh. Nàng vẫn ngồi đó bất động. Tôi cắt đứt sự im lặng.

                  - Má cô vẫn sức khỏe?

                  - Cám ơn thầy. Bây giờ có tuổi cũng siêng đau vặt.

                  - Vào ở chung với cô hay ở ngoài quê?

                  - Dạ vào ở với chúng em.

                  - Cô ở nhà lo việc gia đình hay có đi làm?

                  Nhẫn đỡ lời:

                  - Dạ nhà em được bổ dụng giáo viên Ấp, niên khóa này. Dạ, dạy lớp Tư. Chúng em mới cưới nhau năm ngoái.

                  Tôi thẫn thờ nhắc lại trong óc: “Mới cưới nhau năm ngoái”.

                  - Chị cũng dạy ở trường Mỹ Phú?

                  - Dạ.

                  Im lặng một giây. Bỗng Thịnh rụt rè hỏi tôi:

                  - Cô đi đâu vắng?

                  Có phải là tôi nghe lầm? “Cô” là ai? Tôi đợi Thịnh hỏi tiếp hoặc nhắc lại câu hỏi.

                  - Thầy cho phép em vào chào cô.

                  Tôi bàng hoàng. Câu hỏi đi thẳng vào trái tim tôi như một mũi tên. Té ra Thịnh vẫn chưa biết. Cái thư gởi nhờ bà Mừng trao lại? Những bức thư tôi gởi tiếp theo? Thịnh vẫn tưởng rằng…

                  Nhẫn cầm tách nước trên tay không uống vội, đợi tôi trả lời. Tôi cúi nhìn xuống tấm thảm vải chân.

                  - Nhà tôi mất cách đây sáu năm.

                  Thịnh đang lơ đãng đưa mắt trên những gáy bìa sách óng ánh màu chữ vàng, chợt quay phắt lại nhìn tôi. Đôi con mắt ngạc nhiên mở rộng.

                  - Rồi thầy vẫn ở vậy? - Nhẫn hỏi.

                  - Vâng. Hãy cứ ở vậy đã.

                  - Chắc thầy không muốn chớ ở vào hoàn cảnh thầy thì thiếu gì người.

                  - Anh có lòng tốt nói vậy chớ thực tế không dễ có nhiều người như anh nghĩ đâu.

                  - Thầy ở một mình như thế này tự do hơn.

                  - Có nhiều thứ tự do. Ở với một người mình yêu thì tuy có thiệt thòi đôi chút về mặt tự do nhưng ngược lại mình có được những tiện nghi khác bù đắp. Cố nhiên là phải được ở với một người yêu mình và mình yêu.

                  - Thầy chưa gặp được một người như vậy sao?

                  Tôi nghẹn ngào:

                  - Hình như tôi có gặp được một người.

                  - Sao thầy không cưới?

                  Tôi lắc đầu:

                  - Nhưng… rốt cuộc không thành.

                  Nhẫn đứng dậy xin phép đi lại đầu phố mua một xấp giấy quyến để vấn thuốc.

                  - Thuốc lá thơm, lạt quá em hút không được. Đi đâu cũng mang theo thuốc lá ở nhà trồng. Mỗi lần đi hội nghị ở lâu là phải xắt đem theo cả kí-lô.

                  - Tiêu thụ nhiều vậy?

                  Nhẫn cười:

                  - Em hút thuốc lá như đồng bào Thượng. Vô trong này có hồi hết thuốc, bí quá em phải mua thuốc Cẩm lệ hút đỡ. Đắng, nặng chớ không ngọt giọng như thuốc ngoài em. Vợ em vô thăm kỳ này mới đem cho một kí thuốc xắc nữa đó. À mà quên, xin lỗi thầy, sáng nay thầy có bận phải đi đâu không? Bọn em tới quấy rầy làm tốn thì giờ thầy.

                  Tôi vừa đứng dậy đưa Nhẫn ra cổng vừa nói:

                  - Tôi rảnh cả buổi sáng.

                  Sau khi chỉ đường cho Nhẫn đi tới tiệm thuốc lá gần nhất, tôi trở vào phòng khách. Thịnh không còn ngồi ở ghế mà đang đứng ở bàn viết của tôi. Tôi bước nhẹ lại gần nàng.

                  - Thịnh, - tôi gọi nhỏ.

                  Nàng quay lại nhìn tôi. Hai hàng nước mắt chảy dài trên má.

                  - Cô có nhận một bức thư của tôi gởi nhờ bà Mừng chuyển?

                  Nàng lắc đầu.

                  - Sau đó tôi có viết cho cô hai bức thư nữa. Cô cũng không nhận được?

                  Nàng lắc đầu.

                  - Lâu lắm, hồi xưa, ông Chánh có trao cho cô hộp quà do nhà tôi gửi biếu cô? Tôi nhớ dường như đó là hàng áo dài, lọ nước hoa…

                  Nàng gật đầu.

                  Sự im lặng bao vây lấy chúng tôi. Những giọt nước mắt kế tiếp nhau chảy, rơi trên mặt bàn. Thịnh mím môi như cô giữ chẹn những tiếng khóc.

                  - Tôi đã nghĩ đến cô trong những hồi cô chiếc. Tôi không quên được nét dịu dàng trên gương mặt, trong cử chỉ và nơi tâm hồn của cô. Tôi mong thư cô từng ngày từng giờ, tôi mong sự hiện diện của cô, nơi đây. Một năm. Rồi hai năm. Cuối cùng, tôi đã tuyệt vọng trong sự mong chờ. Cô không hề biết tin rằng nhà tôi đã mất?

                  Nàng lắc đầu.

                  - Nếu biết tin nhà tôi đã mất thì dù không nhận được thư tôi, cô cũng tìm vào thăm tôi, phải không? Bởi cô hiểu rằng tôi có nhiều cảm tình với cô. Có phải là cô sẽ vào thăm tôi không?

                  Nàng lặng lẽ nhìn tôi.

                  - Có phải vậy không?

                  Nàng lắc đầu.

                  - Sao vậy? Cô có điều gì giận tôi chăng? Cô ghét tôi sao? Trong khi tôi vẫn yêu cô âm thầm, yêu cô âm thầm. Tôi nghĩ đến cô như một người đi đường trường giữa trưa nắng nghĩ đến một dòng suối mát. Cô là dòng suối của tôi. Thế mà cô quên tôi, cô… Tại sao cô ghét tôi? Tại sao?

                  Thịnh ngẩng mặt lên đăm đăm nhìn tôi. Nước mắt đầy cả hai khóe mắt.

                  - Cô có ghét tôi không?

                  Nàng im lặng nhìn tôi không nói.

                  - Thế sao cô không vào?

                  Nàng lắc đầu và giọng nói nghẹn ngào, đứt quãng.

                  - Bởi em không có hy vọng… Em nghèo.

                  Nàng bật lên tiếng khóc.

                  Vừa lúc ấy tiếng giày của Nhẫn gõ vang ở hè đường trước nhà. Tôi đưa Thịnh vào phòng rửa mặt.


                  Tôi thù hằn sự giàu kể từ ngày đó. Tôi sai tháo hết những rèm cửa, cuốn dẹp tấm thảm ở phòng khách, khiêng cất cái tủ gương trong chưng những cổ ngoạn quí giá đắt tiền. Tôi thù ghét bộ xa lông đồ sộ bọc nỉ đỏ, thù ghét cái giường gọng vàng, thù ghét mọi tiện nghi mà khoa học Tây phương đang ra sức cung phụng tôi. Trong nỗi niềm cô đơn vắng lặng của tâm hồn tôi, chúng không mang lại cho tôi chút an ủi nào mà hiển nhiên chính chúng là nguyên nhân gây ra nỗi cô đơn hiện tại. Tôi muốn đổi hết tất cả để lấy một căn nhà tranh sơ sài có bức tường bằng đất trét màu vàng, có vuông sân nơi đó mọc một cây xoài qúi, có người yêu dịu dàng là Thịnh, dòng suối mát của tôi, niềm an ủi của tôi, bàn tay Thiên thần nơi tôi gục vầng trán nhầu nát ưu tư.

                  Tôi đưa ngón tay vặn chiếc máy thu thanh. Nhạc rơi thánh thót và tiếp theo là giọng hát Giao Linh:

                  Em biết thân em phận gái nghèo hèn
                  Mà lỡ yêu thương ai rồi
                  …”

                  Điệu nhạc và lời ca tầm thường nhưng phù hợp với hoàn cảnh của chúng tôi. Giọng hát u trầm hay là tiếng nức nở của Thịnh?

                  “Em không có hy vọng… Em nghèo.
                  Em biết thân em phận gái nghèo hèn”.

                  Giọng hát nức nở hay tiếng kêu tuyệt vọng của Thịnh bên cạnh nấm mộ của tình yêu lỡ làng? Tiếng ca khắc khoải trỗi lên, mỗi đêm ở từ phòng trà, từ rạp chiếu bóng, từ chiếc pick-up gia đình, tôi nghe đã nhiều nhưng xúc cảm u hoài theo thì chỉ từ ngày Thịnh cùng chồng tìm đến thăm tôi. Và cũng từ ngày đó, cuộn băng nhựa có giọng hát Giao Linh lúc nào cũng thường trực ở đầu giường. Những buổi chiều cô đơn, những giấc khuya vắng lặng, tôi ngồi hồi tưởng đến những ngày kháng chiến xa xôi, đến một khuôn mặt, đến một dáng người, đến miếng rách nơi vai áo, đến dòng nước mắt lã chã rơi trên mặt bàn, trong khi ngón tay tôi vặn nhẹ để từ từ âm thanh của nhạc rơi nhẹ vào không khí, để tiếng hát lại nỉ non thổn thức:

                  Cho kẻ yêu anh không tủi phận mình
                  Còn lóe trên môi nụ cười… dù rằng trong giấc mơ thôi
                  .”
                  #39
                    Ct.Ly 31.12.2012 03:18:10 (permalink)
                    #40
                      hai1957 31.12.2012 08:31:46 (permalink)
                      Cảm ơn Ct.Ly nhé...
                      Chúc năm mới bình an và hạnh phúc
                      hai1957
                      #41
                        Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 41 trên tổng số 41 bài trong đề mục
                        Chuyển nhanh đến:

                        Thống kê hiện tại

                        Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                        Kiểu:
                        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9