Viễn Phương
Con thuyền định mệnh
Chương 1
Sáng nay bầu trời bỗng dưng có vẻ như buồn bã ủ rũ không vui , khí trời lành lạnh , mặt trời như còn rã rượi say ngủ sau những hàng mây xám dăng dăng từng lớp mỏng , đã hơn 9 giờ sáng rồi mà ánh bình minh vẫn chưa lố dạng , tôi thì cũng đã quá mệt mỏi suốt bao ngày mong đợi, nhất là tối qua , tôi không thể nào chợp mắt vì cứ mãi hồi hộp âu lo , chỉ cầu mong cho đêm chóng qua và mau đến giờ tôi đang mỏi đợi .
Theo sự ước hẹn thì sáng hôm nay ngày 18 tháng 11 năm 1984 , khoảng 11 giờ sẽ có người đến nhà để đưa tôi đi vượt biên được phát xuất từ Bà Rịa Vũng Tàu , mọi thứ tôi đã chuẩn bị xong , nói thế chứ thật ra chỉ có vài gói thuốc lá , vài viên thuốc say sóng và khoảng hơn mười ngàn đồng để phòng hờ khi có rủi ro gì đó thì có chút tiền để lo lắng và đi xe về nhà , đã có hơn một lần đi vượt biên không thành , nên tôi cũng có chút ít kinh nghiệm để đối đầu với sự việc không may , nếu có xẩy ra .
Còn hơn mười phút nữa là 11 giờ thì Quân người dẫn đường đến , tôi và Quân không còn xa lạ gì vì chúng tôi đã quen biết nhau qua những lần trước , tôi đón Quân vào nhà rồi cẩn thận đóng cửa
-Chuẩn bị xong chưa (Quân hỏi)
-Chỉ có vầy thôi,có gì nữa đâu mà chuẩn bị
-Bận thêm áo khoát đi ,nếu không sẻ bị lạnh đó
-Tôi có mặc áo lót bên trong rồi,xóm nầy họ tai mắt
lắm,đánh mùi cũng hay nữa,cẩn thận là hơn
-Vậy mình lên đường nha
-Ừ
Tôi cùng Quân bước ra ngoài , Quân có vào nhà tôi vài lần nên cũng không làm cho hàng xóm chú ý lắm , dân Sài Gòn lúc nầy là thế đó cứ thấy có người lạï vào thì hay nhìn một cách soi mói rồi bàn tán , chẳng qua chỉ vì họ không có việc chi để làm , ra tới ngã ba đường Quân gọi một chiếc Honda ôm vừa chạy trờ tới
-Ra bến xe Văn Thánh , chở hai người được không ?
-Ðược , ba ngàn nghe ( người xe ôm nói)
-Gì dử vậy cha nội, ngàn rưởi đi không ? (Quân nói)
-Rồi lên đi
Từ Bến Chương Dương ra đến bến xe Văn Thánh cũng không lâu lắm , nhưng tôi phải ở đây hơn nửa tiếng nữa vì phải chờ thêm vài người khác , đến khi Quân kêu lên xe , tuy rằng không ngồi chung nhau nhưng tôi đoán có khoảng 6 người đi cùng chuyến . Tới chợ mới BàRịa khoảng hơn 3 giờ chiều Quân đưa chúng tôi vào quán ăn cơm , nhưng chia ra ngồi hai bàn và xem như là không quen biết nhau , quán ăn gần đồn công an số 1 Bà Rịa nên bọn công an cứ đi tới lui làm tôi cũng chói mắt , ăn uống xong Quân đưa bọn tôi vòng qua rạp hát Bà Rịa rồi vào một xóm nhỏ , nhà cửa san sát cây cối um tùm (sau nầy tôi hỏi thì người ta cho biết đó là xóm đình chợ mới Bà Rịa) . Khi đồng ý giá cả phải trả cho chuyến đi vượt biển nầy , tôi được Quân cho biết là có mua bãi bến hết rồi , chỉ là cẩn thận thôi cho nên tôi cũng an tâm , Quân đưa bọn tôi vào một căn nhà lá thấp lè tè phía sau căn nhà lớn ( hình như là nhà của Quân tôi nghĩ) nhà có vẻ vắng và yên tịnh , Quân nói giọng nho nhỏ
-Bây giờ ở đây nghĩ , khoảng 8 giờ tối mình xuống bến ghe
Sáu người chúng tôi không ai trả lời chỉ im lặng đưa mắt nhìn nhau , rồi mỗi người một nơi tìm chỗ nghỉ lưng , tôi đến một lu nước bằng đất cạnh gốc nhà , lấy cái lon sữa bò để bên trên múc chút nước uống , cho thắm cái cuống họng của tôi đang bị khô cháy , người nhắm mắt để đó , kẻ mỏi mắt trông chờ, mỗi người như đang thả dòng tư tưởng vào một cõi xa mơ nào đó , thời gian thấp thỏm trôi qua , bầu trời đà sụp tối , được thay bằng những bóng đèn đường vàng ói , leo lét , ánh sáng chỉ đủ để soi những bóng đời mờ mịt trong một xã hội đầy đen tối nầy , có tiếng chân bước vào , tôi nghe tiếng nói của Quân giọng xù xì nho nhỏ
-Chuẩn bị đi nghe bà con
Sau Quân còn có hai người khác theo vào , họ im lặng không nói gì , Quân mang cho mỗi người chúng tôi mỗi ổ bánh mì rồi bảo
-Ăn bánh mì đi rồi xuống bến , nếu không thì bị đói đó
Tôi không thấy đói bụng chỉ thấy tâm hồn cứ lâng lâng lo lắng sợ sệt , tim thì cứ đập thình thịch , tôi cũng ráng nuốt ổ bánh mì khô khan mà không có một chút cảm giác ngon hay dở , ăn uống xong đâu đấy sáu người chúng tôi được chia ra làm hai đi theo hai người Quân vừa dẫn đến , đường đi khá xa , sáu người chúng tôi sau cùng cũng được đưa vào một điểm . Vẫn lại là khu nhà lá nghèo nàn ẩm thấp (sau nầy tôi được biết đó là xóm lò than Bà Rịa) trời tối đen mù mịt nơi đây không có đèn đường vì là khu vực rừng sác , có chăng chỉ là những ngọn đèn dầu leo lét , trong những căn nhà lá thấp lè tè thưa thớt cạnh bờ sông và có thêm một loại ánh sáng bàn bạc nhấp nhô từ những lọn sóng nhỏ lăn tăn trên mặt nước của con sông , tạo nên một vẻ mờ mờ ảo ảo giữa đêm trường tịch mịch đầy đen tối . Căn nhà lá chúng tôi vào , nằm cạnh bờ sông , cho nên tôi nghe được tiếng nước đập lách tách bên bờ , trong số sáu người chúng tôi , được kêu bốn người trong đó có tôi , ra sau nhà rồi xuống một chiếc ghe nhỏ nhắn nằm sát cạnh bờ sông , chúng tôi phải nằm sát trên ghe và được phủ lên người bằng những tấm lưới tanh hôi mùi tôm cá , hòa lẫn mùi bùn sình nước mặn , hăng hăng đến độ muốn buồn nôn , rồi có người chèo thuyền đưa chúng tôi ra khu rừng sác phía ngoài cầu mới Bà Rịa .
Ði một khoảng lâu , sau đó người chèo thuyền dừng lại ở một gốc của con sông nhỏ có vài gốc cây đước già nua bên cạnh một cây bần to lớn rồi nói với chúng tôi
-Nằm im nghe ,chờ tới giờ thì qua tàu lớn
Tôi nằm im chờ đợi , mình mẩy như có con gì đó đâm chích vào , làm ngứa ngáy cảm giác thật khó chịu nhưng không làm cách nào khác hơn là cứ nằm im chịu đựng,tôi vạch nhẹ tấm lưới trên mặt , nhìn lên vòm trời cao thanh thỏa với lưa thưa vài chiếc sao đơn trong vòm trời vắng , chiếc ghe thì cứ lắc lư nhè nhẹ , tiếng nước vỗ vào mạn ghe nghe lách tách ,vài tiếng côn trùng hòa lẫn tiếng tim đập thình thịch trong lòng ngực tôi , tạo nên một loại âm thanh kỳ lạ nào đó văng vẳng vang vang mà cả đời tôi chưa một lần nào nghe được . Thời gian thoi đưa , tôi chợt nghe có một tiếng là lạ như là để báo hiệu gì đó , thì chợt tiếng động lụp cụp trên ghe vang động và tiếng chèo khua nước một cách mạnh mẽ , tôi có cảm giác chiếc ghe nhỏ tôi đang nằm , được lướt trên sông với một tốc độ thật nhanh , rồi những tiếng rì rào của nhiều người to dần to dần , thì ra chúng tôi đã đến thuyền lớn , tiếng la ó ồn ào , tiếng kêu réo gọi nhau , tiếng thét gào rên rỉ , gây ra một âm vang hỗn độn trên giữa dòng sông vắng , tôi được lên thuyền lớn sau khi đưa ra một tín hiệu riêng mà người ta đã trao cho tôi lúc tôi giao vàng để đi vượt biển, càng lúc càng đông người hơn , nhiều tiếng kêu la hơn
-Mấy thằng canh me , dm/ tụi bây đi xuống
-Anh là khách của ai ?
-Ai đưa anh tới ?
-Mầy canh me hả ?
-Leo xuống
-Anh ba ơi
-Anh Bẩy ơi
-dm/tao đập bể đầu tụi bây bây giờ
-Nhổ neo đi,khẩm quá rồi
-Tàu chìm bây giờ
-. . v . v . . . .tiếng la hét ,chưởi bới vẫn tiếp tục vang vang ,tiếng của người trên thuyền xua đuổi những người canh me đi hôi và đang gây hỗn loạn .
Tôi bị nhét dưới hầm thuyền áo quần đã bị thấm ướt , chẳng những không lạnh mà còn ngộp thở bởi hơi người bốc ra nồng nực , thuyền lớn rồi cũng từ từ lướt sóng , tôi nhìn đồng hồ lúc nầy là 0 giờ 16 phút ngày 19 tháng 11 năm 1984 , tôi nghe tiếng nổ ròn tan của máy tàu ,tiếng nổ như để tạo một sức mạnh phi thường , để đưa con thuyền viễn xứ từ từ lướt sóng ra khơi . Bỏ lại tất cả yêu thương của cuộc đời , bỏ lại một quê hương đang quằn quại trong sầu đau khổ hận , bỏ lại người cha kính mến, anh chị em những tình thân ruột thịt và người mẹ vô cùng thương yêu , người mẹ đã từng gánh chịu biết bao gian khổ , cưu mang sinh dưỡng để tạo nên hình hài vốc thể nầy . Tôi không khóc nhưng hình như những giọt lệ thương yêu đang tức tưởi lăn tròn trên má , lúc nầy tôi không còn nghe tiếng động nào ngoài tiếng máy nổ của con thuyền , hòa với nhịp đập của tim tôi , mọi vật đều im lặng , im lặng một cách tự nhiên không cần ai nhắc nhỡ , sau một thời gian ngắn lắng dịu ,con thuyền bềnh bồng mỗi lúc mỗi mạnh hơn
-Chắc là thuyền đã ra cửa biển Vũng Tàu cho nên bị sóng biển nhồi khá mạnh (tôi nghĩ)
và đúng vậy , con thuyền đang bắt đầu cho cuộc hành trình mà chắc rằng sẻ gian nan vất vả và những sự đau thương , sống chết đang chực chờ trên vùng biển đông xa thẳm để áp đổ xuống đầu những thuyền nhân khốn khổ trên đường vượt biển , sau khi trải qua một cuộc dun rủi dưới những đoạn đường lo âu hồi hộp trên mặt đất .
Mệt mỏi vì có chút say sóng , tôi ngồi vùi dưới khoang thuyền mãi đến xế chiều tôi mới được lên trên khoang thuyền để nhìn trời mây nước , thuyền đang lướt sóng bỗng đâu biển trời giận dữ , những cơn gió hung bạo , những đợt sóng to cuồng nộ nổi lên , thuyền không còn lướt sóng được nữa và cứ bấp bênh , bềnh bồng xoay vòng một chỗ , mọi người phải vào bên trong và xuống dưới khoang thuyền để tránh cơn sóng dữ cũng như để cho con thuyền đừng bị chao đảo với những con sóng to hung bạo , cuốn chồm lên và sẵn sàng nhận chìm con thuyền ở bất cứ lúc nào , tiếng la sợ , tiếng nguyện cầu , tiếng lạy phật , tiếng lạy chúa và những câu kinh cầu nguyện nho nhỏ chứa đựng một niềm tin hy vọng bao la của con người trước một cảnh tình cực kỳ nguy hiểm cho mạng sống . Bây giờ thì con thuyền có ra thế nào và mạng sống của bao nhiêu người chỉ còn trông nhờ vào sự kinh nghiệm lèo lái con thuyền trước cơn bão dử của người tài công , cứ như thế con thuyền phải chịu đựng cho đến ngày thứ hai thì biển trời lắng dịu và con thuyền mới tiếp tục được cuộc hành trình như đã định . Nhưng thuyền phải trả giá hết một mạng người lúc giữa đêm bão ngày thứ nhất , bão đã đánh rớt một người xuống biển và cuốn trôi mất trong lòng biển sâu mà không ai làm sao cứu kịp dưới trời đêm bão nổi
Trời êm gió lặng tôi lên mũi thuyền hướng mắt về bốn chân trời xa thẳm chỉ thấy toàn mây nước, và chợt thấy con thuyền thật mong manh trên biển cả , từ dòng nước xanh lơ rồi đậm dần, đậm dần cho đến khi thuyền đến một đường nước xanh đen thăm thẳm thì một số người trên khoang thuyền reo lên
-Ra tới hải phận rồi , ra tới hải phận rồi bà con ơi
Mọi người như quên đi cảnh tượng hãi hùng của cơn bão vừa qua , niềm vui rộn rã hiện lên từng nét mặt xanh xao mòn mỏi , tôi cũng rất vui mừng trong lòng nhưng lúc nào cũng cầu nguyện cho thuyền đừng gặp hải tặc , đó là một bọn cướp biển hung hăng tàn bạo hơn cơn bão táp , thế là thuyền vui lướt sóng , trên thuyền thức ăn thức uống cũng như dầu để chạy máy vẫn còn đầy đủ , đến chiều ngày thứ 3 của cuộc hành trình thuyền chúng tôi đến được một giàn khoan dầu của Malaysia , sau khi bàn tính thì có người tình nguyện lội vào giàn khoan để nói chuyện và xin họ cứu vớt , nhưng những người nhân viên nầy nói họ không có phương tiện để cứu vớt trong lúc nầy , sau đó họ cho thêm dầu chạy máy , bánh để ăn và sửa để uống , cuối cùng họ chỉ cho hướng đi vào đất liền và nói
-Chạy khoảng hơn mười tiếng đồng hồ nữa là đến nơi Và kèm theo một câu để trấn an mọi người
-Nơi đây đã thuộc lãnh hải của Malaysia rồi không bị cộng sản bắt lại đâu
Theo hướng chỉ của người chuyên gia dầu hỏa , thuyền chạy đến xế trưa hôm sau (tức ngày thứ tư của cuộc hành trình) khoảng 1:15 ngày 23 tháng 11 năm 1984 thì thuyền đến được bờ biển của Kuala Trengganu , Malaysia , tôi thấy có hai chiếc ca nô của cảnh sát biên phòng Malaysia chạy ra cập hai bên hong chiếc thuyền và ra dấu bảo tài công chạy đâm thẳng lên bờ , tài công nghe lời và kéo hết ga , thuyền rướn lên bờ biển một phần ba con thuyền , chúng tôi người bò, người lết, người đi quờ quạng lảo đảo , kẻ cười người khóc , quần áo sốc sếch dơ bẩn , chúng tôi dìu dắt , đỡ đần nhau trong tình yêu thương của người đồng cảnh ngộ , từ từ rời bỏ con thuyền nằm bơ vơ một mình trên bãi vắng , rồi gôm lại lanh quanh trên bãi cát vàng tươi thắm mọi người như có chút an bình trong tâm hồn và đang được hít thở một thứ không khí có hai chữ tự do , nhưng dù khóc hay cười , trong từng khuôn mặt của mọi người vẫn hiện lên rõ ràng những nét rạng rỡ , tươi vui trên vùng đất tự do nầy , tất cả lần lượt đến khu vực được qui định của cảnh sát và được cấp phát ngay những gói mì gói thơm tho cũng như bánh và sửa để uống , khoảng hai tiếng đồng hồ sau tôi thấy họ làm hai bàn giấy ngoài trời và hai phòng khám xét dã chiến với bốn tấm vải bao quanh , rồi họ kêu mọi người ra đứng xếp hàng và nói
-Ai là quân nhân , công chức làm việc trong chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì qua đây
-Tất cả còn lại thì qua bên kia
-Có ai là cộng sản không ?
Mọi người đều im lặng , vì là cựu quân nhân tôi đi qua hướng người ta chỉ đến phòng khám xét trước , sau đó qua bàn giấy khai sơ qua tên họ ,tuổi , số quân ,đơn vị ,nơi đóng quân ,. .v.v.. rồi trở lại điểm qui định để tiếp tục chờ đợi , khoảng 5:50 chiều cùng ngày chúng tôi được xe chở khách của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc thuê , đến đón và đưa về một trại chuyển tiếp Marrang thuộc Kuala Trengganu , nhìn lại con thuyền lần cuối trước khi bỏ lại sau lưng , lòng tôi thật có nhiều lưu luyến và thương mến vì nó đã mang chúng tôi ra khỏi bàn tay của tử thần trên vùng biển xa xôi , đã gồng gánh chúng tôi trong suốt cuộc hành trình gian khổ trên biển đông , cũng như trước đây bốn ngày tôi đã bỏ lại sau lưng một quê hương đầy thương yêu của cuộc đời , để bắt đầu cho những bước chân đơn học đòi làm viễn khách trên những đoạn đường tha phương cầu thực
Ðến trại chuyển tiếp Marrang , sau khi ổn định chỗ nấu ăn , chỗ ngủ , nơi tắm giặc ..vv., tôi đi một vòng và biết được có một số người từ ngoài đảo Pulau Bidong được chuyển vào trại Sungei Besi để lên bàn bốn tuyên thệ đi hoa kỳ và một vài quốc gia khác , nghe người ta nói gởi thư bên nầy nhanh hơn ngoài đảo , tôi cũng vội xin giấy mượn bút của người đi trước viết vội vàng lá thư gởi về cho mẹ tôi , chính là để báo tin cho gia đình tôi rằng tôi đã đến được Malaysia và đang hít thở một mùi không khí tự do mà tôi đã đánh mất tự hôm nào , những người được chuyển qua trại Sungei Besi rất nhiệt tình , người nào cũng giành lấy thư gởi giùm , tôi cảm thấy thật an ủi trong tâm hồn và thấy được tình người cho nhau trên bước đường tị nạn thật nồng thắm , chuyện đâu vào đó thì đã nửa đêm , chợt cơn mưa bão lại ồ ạt tới và kéo dài suốt bốn ngày , trong những ngày nầy nhân viên cao ủy tị nạn liên hiệp quốc cấp phát cho chúng tôi quần áo, thức ăn, thức uống thuốc men cho người yếu bệnh và có nói cho chúng tôi biết
-Các bạn may mắn lắm đó, nếu các bạn đến trễ một ngày thôi là thuyền của các bạn có thể bị chìm với con bão cấp sáu nầy rồi
Thật hú hồn cho tất cả mọi người , nhưng dù thế nào tôi cũng không quên cảm ơn thượng đế đã ban đến cho chúng tôi những tột cùng may mắn cũng như đã ban đến cho chúng tôi thật nhiều hồng ân trong cuộc hành trình vượt biển đông nầy , sau cơn bão dử , trời biển trở lại êm đềm chúng tôi được chuyển ra đảo Pulau Bidong , cũng thuộc Kuala Trengganu , để ổn định nơi tạm trú , thiết lập hồ sơ và chờ gặp phái đoàn của các đệ tam quốc gia vào phỏng vấn để được đi định cư nếu quốc gia đó nhận .
Những ngày lênh đênh trên biển đã qua, giờ chúng tôi lại bắt đầu cho cuộc hành trình mới , những đoạn đường đang chờ đợi kế tiếp nầy có lẻ cũng không kém phần vất vả , tôi chỉ mong sao cho cá nhân tôi cũng như tất cả những thuyền nhân khác , đang gánh chịu những tột cùng khốn khổ còn có được nhiều may mắn hơn nữa trên bước đường đi tìm tự do cho cuộc sống , cũng như được đến một đệ tam quốc gia thật bình yên trong tâm hồn , riêng cá nhân tôi thì trên đoạn đường còn lại của cuộc đời , dù trong bất cứ hoàn cảnh nào chăng nữa , thì những cảnh tượng hãi hùng đã đưa đến cho tôi cũng như muôn ngàn thuyền nhân khác trên biển đông vẫn luôn mãi là một bức tranh kinh hoàng của cuộc đời và trong tâm hồn tôi mãi mãi khắc ghi hình bóng con thuyền viễn xứ mang tên DN-1071/TS đã cưu mang 84 người chúng tôi vượt thoát đến bến bờ tự do , sau khi giành được chúng tôi từ đôi tay của tử thần trên vùng biển đông xa vắng , nhưng cũng đã bỏ lại trong lòng biển sâu một người dưới cơn giông bão và được chính thức trở thành con thuyền mang số MB 268 thuộc đảo Pulau Bidong , Kuala Trengganu , Malaysia ngày 23 tháng 11 năm 1984 .
Thuyền DN 1071/TS - Bà Rịa , Phước-Tuy , Việt Nam
Thuyền MB 268 - Pulau Bidong , Kuala Trengganu , Malaysia
****
Con thuyền định mệnh
chương 2
Bidong đang bước vào mùa xuân , mùa xuân của những tâm hồn viễn khách tha hương , của những người Việt Nam tị nạn cộng sản , đang ở rải rác đó đây cũng như hàng chục ngàn người trên đảo Pulau Bidong nầy , đang hướng về quê hương cố quốc , để hồi tưởng những ấm êm hạnh phúc trong mái ấm gia đình và đắng cay với những khốn khổ đau thương ngoài xã hội , hồi tưởng những làn khói la đà hương ngát trong giờ phút giao mùa , của cuối đông lạnh giá và chào đón bóng dáng rạng rỡ của nàng xuân đang mang đến những ấm êm và tươi vui cho muôn người , nhưng cái ấm êm tươi vui ấy đã không còn nữa , kể từ lúc đảng cộng đã giết chết đi nàng xuân thuở nọ .
Ngày tết sắp đến , tôi không được thấy gì ngoài những dòng nước mắt , những thao thức suy tư của hầu hết mọi người , nhưng bên cạnh đó củng có một số người có vẻ như hớn hở vui tươi như không có chút gì để vấn vương vương vấn , có lẻ họ đã quen rồi cái kiếp sống của cuộc đời lữ thứ tha phương , họ tìm đủ mọi cách để sinh nhai , như câu cá đưa ra chợ bán , đi hái củi bán cho mọi người hay làm công cho những cửa hàng mua bán trên đảo . Tôi đến Pulau Bidong đã hơn tháng rồi mà vẫn chưa gặp được phái đoàn nào của đệ tam quốc gia vào phỏng vấn , hình như mệnh số của những người vượt thoát tị nạn cộng sản là thế đó , chỉ biết sống trong chờ đợi lo âu và buồn tủi , những ngày đầu vừa mới đến Bidong , tôi được biết có những thuyền nhân đến và ở đây trên đảo Pulau Bidong nầy hằng những bốn,năm năm trời , nhưng vẫn chưa được quốc gia nào chịu cưu mang họ , vì thế cuộc sống của những người ấy có vẻ như đã bất cần , và họ cũng không màng nghĩ đến tương lai , cuộc đời đôi lúc cũng có lắm những bất công . Tôi lần bước xuống khu A , nơi đây cũng được có một chợ xổm do một số người sống trên đảo khá lâu tổ chức , đại khái những hàng bún rêu , bánh khọt ăn sáng , rau cải thịt cá và những gian hàng buôn bán quần áo cùng một số vật dụng khác do người Malaysia làm chủ .
Song song với những sinh hoạt nầy cũng không thiếu những cảnh trộm cướp , ấu đả hà hiếp nhau , những cảnh làm tiền trắng trợn từ những người đến trước đang làm việc đâu đó và có một chút hơi hám thế lực , họ tạo ra nhửng cớ nầy cớ kia để bắt người mới đến đưa vàng cho họ trong lúc tâm hồn những người nầy còn đang trong khủng hoảng sau cuộc hành trình trên biển đông cũng như còn bỡ ngỡ chưa biết một chút gì trên đảo Pulau Bidong nầy, cay đắng thay cho những thuyền nhân vừa vượt thoát được cộng sản , vừa bước qua được đôi tay tử thần giữa biển khơi , vừa thoát được bọn hung tàn hải tặc Thái Lan thì lại gặp ngay những tên cáo già vô nhân tính nầy , nhưng nơi đây nào có pháp luật gì đâu mà thưa gởi , chỉ là một sự lặng thinh để mang thêm một những uất hận trong lòng.
Pulau Bidong được chia ra làm sáu khu bắt đầu là khu A đến khu F , nơi đây cũng có một ngôi chùa khá lớn , có một gia đình phật tử thường xuyên tổ chức sinh hoạt , một giáo đường khang trang cũng như một đội thiếu nhi thánh thể , trong hoàn cảnh nầy , người người có thể đến nhà giáo đường hay chùa để thờ phượng cúng bái theo sự tín ngưỡng của riêng mình , ngoài xã hội thì cũng có một liên đoàn hướng đạo Vượt Sóng , trước kia nơi quê nhà tôi cũng là một hướng đạo cho nên tôi cũng tham gia sinh hoạt trong liên đoàn Vượt Sống để cùng siết chặt tay nhau , trao cho nhau những yêu thương của con người và con người .
Rải rác đó đây vòng quanh đảo tôi còn thấy được những chiếc thuyền con nhỏ bé nằm lưa thưa trên bãi biển bị bỏ lại đó chơ vơ trong hoang tàn bể nát , cạnh cầu Jetty có một chiếc tàu lớn mà theo người đi trước kể lại cho tôi nghe hình như trên tàu có khoảng bốn năm trăm người , chiếc tàu nầy do cộng sản tổ chức để thâu góp vàng của nhân dân rồi cho đi tự do , không biết vì sao vào đến gần đảo Pulau Bidong thì bị chìm , hình như không còn ai sống sót . Chiếc tàu nầy được chính quyền Malaysia cho kéo vào đặt trước khu vực cửa ra vào đảo Pulau Bidong , bên cạnh Cầu Jetty , coi như là một di tích của những thuyền nhân bỏ nước ra đi tìm tự do trên vùng biển đông xa thẳm .
Hàng tuần có những chiếc sà lan đưa thực phẩm từ đất liền ra để cấp phát cho người tị nạn , như trứng , thịt , cá , mì gói , rau cải cũng như nước uống và tắm nhưng rất hạn chế , chúng tôi phải dùng thêm nước giếng mới đủ cho việc tắm giặc , quần áo thì do những cơ quan thiện nguyện cung cấp , những bộ quần áo tuy không được mới nhưng đã ấp ủ chúng tôi những nồng ấm trong tình người .
Thường những buổi trưa buồn trên đảo vắng , tôi hay đong đưa trên chiếc võng cũ rích từ những người đi trước để lại , chiếc võng đã từng ru tôi những giấc ngủ cô đơn với nhiều mộng mị , bầu trời Bidong thay đổi rất bất thường , khi mưa , khi nắng , những cơn nắng dịu dàng êm ả những cơn nắng chói chang , gay gắt , những cơn mưa mây nhẹ nhàng rải rác đó đây , những cơn mưa tầm tả đến vài ngày , như để trút xuống đầu những người thuyền nhân tị nạn một nỗi hờn câm mà ai đó đã gây ra , đang thả hồn vào những suy tư không dứt tôi bổng nghe thoang thoảng trong làn gió
" Ngày mai em đi , biển nhớ tên em gọi về
Gọi hồn liễu rũ lê thê gọi bờ cát trắng .. .. .."
Ðúng vậy , đó là bản nhạc "Ngày mai em đi" được ban phát thanh của khối thông tin phát , tôi vội xuống võng và đi ra ngoài hướng về phía bãi biển của khu A , bà con cũng tấp nập tuông ra , nơi đây không ai còn xa lạ gì khi nghe bản nhạc đó , thật vậy , vì cứ mỗi lần có thuyền nhân tị nạn đến đảo hay được cao ủy tị nạn chuyển đến từ những nơi khác , thì ban phát thanh phát ngay bài hát nầy và rồi nó đã trở thành quen thuộc . Cũng như mỗi khi có người được rời đảo vào đất liền để đi định cư ở đệ tam quốc gia nào đó hay được vào trại Sugei Besi để chờ tuyên thệ với bàn 4 ( nếu đi Mỹ ) Thì ban phát thanh cho đồng bào nơi đây nghe ngay bài hát
"Nghìn trùng xa cách"
" Nghìn trùng xa cách , người đã đi rồi
Còn gì đâu nữa mà khóc với cười . . . ."
Bài nhạc nào cũng làm tôi rướm lệ , như có gì đó đau nhói trong tim , như có gì đó làm cho nức nở nghẹn ngào mà không làm sao diễn đạt.
Tôi đến nơi , thì khoảng gần hai mươi người dưới một chiếc thuyền mong manh đã được đưa lên khối R.B ( Record Branch ) , những thân hình gầy đét , đầu cổ phất phơ , quần áo xốc xếch , có vài người phải đưa ngay vào bệnh viện để cấp cứu trong đó có một thiếu nữ đang quằn quại chóng đỡ với tử thần sau bao ngày đói khát và những lần bị hải tặc hãm hiếp giữa trời biển mênh mông , nhìn cô , nhìn mọi người hốc hác tiều tụy đôi mắt bơ phờ , lòng tôi bổng ngập tràn những đắng cay đau xót , trong tôi như có một niềm uất hận dâng lên , tôi nghe man mác hình như đang có những giọt lệ thương đau đang lăn tròn trên má , thù hận ai đây ? oán trách ai đây ? Cộng sản ? Hay loài quỷ dữ hải tặc thái lan ? , đang hoành hành dã man hung bạo với những thuyền nhân khốn khổ đang dun rủi cho cuộc hành trình đi tìm tự do trên biển đông . Tôi mường tượng đến một bức tượng " Tình Thương" mà ai đó trong những người đi trước đã dựng lên trước bãi biển khu C , một bức tượng với một người đàn bà tay yếu chân mềm , một tay đang bồng em bé ,một tay đang níu kéo một người đàn ông già cả yếu đuối trên bãi biển , tôi nghĩ tôi sẽ không thể hình dung được cảnh tượng nầy nếu tôi không là một thuyền nhân đang đứng bên lề đường viễn xứ sau cuộc hành trình với nhiều rủi ít may , nhưng dù sao thì thuyền của tôi đi cũng có nhiêu may mắn hơn những thuyền vượt biển khác , chúng tôi không bị đói khát , không bị cướp biển và chỉ có bốn ngày lên đênh trên biển đông cho cuộc hành trình vượt thoát .
Tôi được vào bên trong , vì tôi làm việc cho khối an ninh trại , nên không bị ai cản trở , những người khác không có trách nhiệm thì không được vào vì để cho có trật tự , với lại để cho bên khối " R.B " làm việc sơ khởi trước , xem có ai là cộng sản tổ chức đến đây để hội nhập hầu phà rối người tị nạn đi tìm tự do không , trước khi cho ổn định nơi ăn ở , sau đó phải trở lại khối anh ninh để chúng tôi làm hồ sơ sưu tra rồi bắt đầu cho những sinh hoạt kế tiếp , như đi ghi tên lớp học anh ngữ , ghi tên học nghề , ghi tên làm việc xã hội ,. .v. v. . . . , để cho mọi người nơi đây có những giờ giấc bận bịu với việc làm việc học , để bớt đi giờ phút rỗi rảnh , để đầu óc không bị cuống cuồng trong những suy tư cũng là điều rất nên với mọi người .
Tôi trở về , ngang qua một nghĩa địa thuộc khu F , những ngôi mồ lớn nhỏ nằm san sát bên nhau , có những nấm mồ đã sụp đổ hoang tàn theo bóng thời gian và chủ nhân của những ngôi mồ nầy có lẻ đã rời đảo đi định cư và cũng có thể là những ngôi mồ vô chủ , thật cay đắng thay khi vượt thoát được bàn tay nanh vuốt của cộng sản , vượt thoát được đôi tay tử thần giữa trời biển mênh mông , vượt thoát được bàn tay hung hãn của loài quỷ hải tặc Thái Lan , để rồi phải trút hơi thở cuối cùng và được chôn vùi trên vùng đảo xa xôi hoang vắng nầy . Nhưng dù có bị chôn vùi trên vùng đảo hoang vắng có lẻ họ cũng được vui cười nhắm mắt , vì dù sao đi nữa thì cũng được chôn vùi trên vùng đất của tự do , nơi đây mỗi năm đến mùa lể thanh minh có những tổ chức như hướng đạo , gia đình phật tử hay thiếu nhi thánh thể tổ chức đi tảo mộ cũng an ủi phần nào cho những cho những hồn đơn hoang lạnh nầy , rồi ai cũng một lần nhắm mắt ra đi về cõi hư vô , nhưng nhắm mắt ra đi khi đã được hoàn thành một ý nguyện nào đó của riêng mình thì có lẻ cũng không còn gì để mà nuối tiếc .
Tôi vào đến căn nhà dài (Long house) thì trời chiều vừa phủ xuống , bóng hoàng hôn còn vương víu đâu đó từ tận cuối chân trời , những đám mây đen lần lần kéo đến , rồi bỗng dưng một cơn mưa mây vội vàng đổ xuống , trong cơn đảo lộn của tâm hồn tôi , mưa ngoài trời,mưa trên đảo Pulau Bidong, hay trong lòng những thuyền nhân khốn khổ đang sùi sụt một cơn bão , một cơn mưa sẻ triền miên ray rức , bắt đầu từ lúc khởi sự cuộc hành trình vượt biển đông và có lẻ lòng người sẻ còn mưa mãi cho đến hết quãng đường còn lại trong kiếp sống tha hương viễn xứ nầy .
Buồn viễn xứ
( Kính dâng mẹ trong muôn ngàn nỗi nhớ thương )
Ðêm thanh vắng âm thầm con đếm bước
Lặn lội đường sình nước lạnh chân đơn
Lệ tuông rơi , rơi rải suốt canh trường
Trên bến vắng lên thuyền con vượt biển
Thuyền viễn xứ bềnh bồng trong nguy biến
Sóng nộ cuồng kinh khiếp cả thuyền nhân
Loài dã man hải tặc lắm hung tàn
Người đói khát dật dờ cơn sinh tử
Rồi từ đó bước phong trần lữ thứ
Nợ giang hồ lãng tử vội cưu mang
Thương quê hương mòn mỏi phía trời Nam
Dòng dư lệ tuông tràn , ôi !-mặn đắng
Thường những buổi hoàng hôn trên đảo vắng
Con ngồi buồn lặng ngắm áng mây trôi
Thả hồn đơn theo gió cuối chân trời
Tìm quê mẹ !- Ðâu rồi quê của mẹ ?
Chợt đâu đó những lời than khe khẻ
Mẹ yêu ơi con trẻ quá bơ vơ . . .
Con xa xôi trong kiếp sống mong chờ
Ngày mai sẻ thanh bình vui tương hội
Pulau Bidong , Kuala Trengganu , Malaysia
Ngày 22 tháng 2 năm 1985
Thuyền DN 1071/TS Bà Rịa , Phước Tuy , Việt Nam
Thuyền MB 268/Pulau Bidong,Kuala Trengganu Malaysia
*******
Con Thuyền Ðịnh Mệnh
( chương 1 + chương 2 đã được đưa vào thư viện) Chương 3 Từ trên đỉnh đồi khu F/Pulau Bidong , có thể nhìn thấy cả một biển trời bao la bát ngát, lúc nào cũng lồng lộng gió và những con sóng biển cứ lần lượt cuốn cuồn gào thét dâng cao, trời chiều chầm chậm xuống, bóng hoàng hôn dần dần mờ nhạt ở một góc trời xa xôi vạn dặm, một vài tia nắng yếu ớt còn vương víu giữa không gian mờ ảo, từ tận cuối chân trời.
Trong căn nhà dài ( Long House) được bao bọc bằng những tầm thiết như để hong thêm cái nóng của mùa hè oi bức và tăng cái lạnh se thắt với mùa đông mưa bão, tôi hướng mặt về miền biển xa xăm dưới vùng trời quê mẹ để luân hồi những yêu thương hạnh phúc trong mái ấm gia đình và cái lênh đênh xuôi ngược đầy bạc bẽo ngoài xã hội, đang miên man thả hồn về phía chân trời xa nhớ thì có tiếng kêu từ phía dưới vang lên,
-Anh Q, xuống văn phòng an ninh trại có chuyện cần, anh B đang chờ anh đó.
Ðó là tiếng kêu vội vã của Lành, là phụ tá hành chánh cho tôi, anh B là trưởng khối an ninh trại.
-Anh B đợi tôi lâu chưa, ( tôi hỏi)
-Ảnh vừa nói là tôi chạy lên anh liền đó ( Lành trả lời)
-Có gì cần gắp lắm không ?(tôi hỏi)
-Hình như có chuyện cần gấp đó, (Lành nói)
Vừa nói vừa đi Lành đã tới bàn nước, tôi mời Lành dùng trà rồi đi thay thay vội bộ quần áo xong tôi trở ra ,
-Thôi mình đi anh Lành,...
Tôi đến đảo Pulau Bidong nầy thật may mắn , chỉ sau bốn ngày lênh đênh trên biển cả, cũng giống như mọi người khác, sau khi ổn định nơi ăn chổ ở thì được Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc cho thiết lập hồ sơ cá nhân để chuẩn bị gặp phái đoàn phỏng vấn của đệ tam quốc gia tiếp nhận. Tôi trước kia là cưu quân nhân QL/VNCH, là diện được Hoa Kỳ tiếp nhận nên tôi chỉ chờ phái đoàn Hoa Kỳ , tuy vậy vì tôi không có giấy tờ gì để chứng minh cho nên tôi phải chờ phái đoàn phỏng vấn đặc biệt , tôi chờ không lâu lắm thì được thông báo là có tên trong danh sách phỏng vấn và sau khi được xác nhận đúng là quân nhân QL/VNCH thì an tâm chờ ngày chuyển vào trại Sungei Besi,Kula Lumbur để thêm lần nữa phỏng vấn và tuyên thệ bàn bốn mới được chính thức vào Hoa Kỳ định cư. Ðảo Pulau Bidong thuộc thị trấn Trenganu, Malaysia, Pulau Bidong được chia làm 6 khu từ khu A đền khu F và một khu dành riêng Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ cùng với một trường huấn nghệ cũng như khu làm việc của đội cảnh sát Malaysia, tôi chọn khu F để ở vì khu nầy nằm trên ngọn đồi và nơi đây , có thể nhìn ra vùng biển xa xôi từ quê mẹ và cái thích nhất của tôi là yên tĩnh, khu F vắng vẻ hơn những khu khác, vì khu F nầy không những nằm trên đồi mà còn được chọn làm nghĩa trang để chôn cất những người kém may mắn và từ trần trên bước đường rong ruổi, cho nên ít người thích ở khu F nầy. Mãi miên man suy nghĩ, tôi và Lành đã đến văn phóng an ninh trại lừ lúc naò cũng không hay, chợt nghe tiếng anh B và qua cái bắt tay thân mật anh B liền nói.
-Có chuyện nầy nhờ Q giúp nè
-Chuyện gì vậy anh (tôi hỏi)
Vừa hỏi anh B vừa nhìn người phụ nữ trạc tuổi 30 đang ngồi đối diện với anh B, trông dáng vẻ buồn rầu như có ít nhiều lo sợ, sau đó anh trưởng khối an ninh mời và0 phòng bên trong rồi bắt đầu câu chuyện.
-Ðây là cô L (anh B giới thiệu)
Tôi tỏ vẽ lịch sự,
-Chào chị
Anh B tiếp,
-Ðây là anh Q trưởng ban sưu tra và hồ sơ cá nhân, có thể giúp cô tìm lại số vàng bị mất
Rồi anh B kể tiếp, tối qua thừa lúc mọi người đi vắng có 2 người vào nhà hành hung cô L cướp của cô một số ít tiền và vàng , rồi chúng hăm nếu cô L khai báo chúng sẽ giết cô ấy.
Tôi hướng về phía cô L và hỏi.
-Sao chúng biết cô có vàng ?
Cô L vừa khóc vừa trả lời
-Có lẻ vì sơ ý nên mấy người ở chung nhà biết rồi đồn ra ngoài, nên bọn chúng biết, cũng có thể chúng có quen biết với mấy người ở chung.
-Chúng còn nói gì nữa không ?, anh B hỏi
-Dạ chúng không nói gì ngoài việc hăm he không cho tôi tố cáo, tôi sợ lắm vì chung quanh tôi không có người quen thân nào cả.
Tiếng anh B trầm trầm
-Q có ý kiến gì không ?
-Mình có thể tìm ra thủ phạm nhưng không chắc sẽ lấy lại được số đồ bị mất, anh cũng biết đó, nơi đây đôi lúc luật pháp cũng bó tay, vì mình là người tỵ nạn nên họ không quan tâm cho chúng ta nhiều đâu, nhưng tôi sẽ cố gắng .
Bắt đầu từ hôm đó, tôi âm thầm là việc, cố gắng tìm ra thủ phạm thật sớm, vì tôi sợ sẽ có tên đi vào Sungei Besi sớm hơn . Thời gian ở đảo Pulau Bidong và làm việc cho khối an ninh trại, tôi có quen nhiều với cảnh sát trên đảo, tôi cũng có vài người bạn thân làm thông dịch cho văn phòng cảnh sát, nhất là ông cảnh sát trưởng rất thương mến tôi vì ông xuất thân là một huynh trưởng hướng đạo mà tôi thì đang là liên đoàn phó phó nội vụ Liên Ðoàn Vượt Sóng trên đảo Pulau Bidong(1984), cho nên có nhiều thân thiết cũng như dể dàng thông cảm cho nhau, nhờ thế nên tôi dể dàng tìm ra thủ phạm.
Thế là tôi mời Chị L đến khối an ninh dĩ nhiện là có anh B và thông báo cho họ biết.
Tôi nói với anh B cà chị L,
-Tôi đã tìm ra thủ phạm rồi, nhưng chúng tôi không làm gì được, vì nhóm người nầy đến đây đã lâu lắm rồi, nhưng không được đi định cư vì chúng là thành phần bất hảo, bất trị và cũng được bao che từ mấy người cảnh sát Mã Lai, để tránh những điều không tốt sẩy ra cho chúng ta trên bước đường đi định cư , thôi thì cũng đành bỏ qua chị nhỉ .
Có tiếng của anh B
-Như Q vừa nói thì tôi đã biết ai rồi, thôi thì bỏ qua nha cô L, mong rằng chúng ta sẽ được bình yên cho đến ngày đi định cư ở đệ tam quốc gia.
-Tôi rất cảm ơn các anh qua sự việc nầy, ( chị L nói)
Tôi tiếp lời,
-Không có gì đâu chị, giúp nhau là việc phải làm, với lại chúng tôi làm việc ở đây cũng chỉ là để giúp đồng bào mình thôi.
Từ đó không ai còn nhắc nhở đến chuyện ấy nữa và đêm đêm tôi thường thấy anh B, chị L hai người bên nhau thả bộ dọc theo bờ biển khu C, dọc theo bờ biển khu C nầy có vài quán cafe nên đêm xuống cũng rất tình tứ cho những đôi tình nhân lãng mạn, có lẻ qua sự việc trên mà anh B và chị L đã tâm đầu ý hợp và đang hòa quyện nhau trên bước đường tình Pulau Bidong, làm tôi chợt nhớ ai đó đã sáng tác câu ( Tình Bidong , tình dông muôn nẻo ). Nghĩ đên câu thơ nầy đã làm tôi tự mĩm cười trong bóng đời cô đơn lạnh vắng nầy. Những chiều buồn tôi cũng hay qua phía bờ biển nầy , nhưng không phải để uống cafe , mà tôi đến để ngắm tác phẩm mà người đi trước đã tạo nên, đó là bức tượng tạc với người đàn bà tay bồng đứa bé, tay kéo ông lão già nua từ mặt biển nước mênh mông nhìn cảnh tượng cứu vớt nhau, một bức tượng đã khơi dòng nước mắt lăn dài trên má tôi, từ cõi lòng thương yêu giữa con người và con người,
bên khu nầy cũng có một nhà thờ và một ngôi chùa do những người đến trước lập nên, để giải quyết nhu cầu tín ngưởng thờ phượng cho mọi người.
Cái gì đến cũng đến, tôi được có tên trong danh sách rời đảo một cách bất ngờ đến độ không kịp chuẩn bị, đây là chuẩn bị tinh thần thôi chứ nào phải của cải vật chất tình yêu gì đâu, nói thế chứ thật ra tôi có rất nhiều thương yêu từ Liên Ðoàn Hướng Ðạo Vượt Sóng, nơi đây tôi đã có nhiều sinh hoạt gắn bó mật thiếtcùng anh chị em trong liên đoàn với cương vị là liên đoàn phó nội vụ, tôi đ4 đem hết tâm trí của mình để phát huy tinh thần hướng đạo trong tinh thần Sắp Sẳn, tôi rất thương yêu đàn Sói nhỏ của tôi những chú Sói thơ ngây lạ lùng và tôi đã phải khóc , khóc từ trong tận cõi lòng trong ngày mọi người tiễn đưa tôi trên bước đường đi đến đệ tam quốc gia.
Từ ngoài đảo Pulau Bidong vào tới đất liền, trại Sungei Besi, Kuala Lumpur, trời đã xế trưa và cũng tự sắp sếp cho mình chổ ở, tôi về ở chung với vài anh em cựu quân nhân, hầu hết mọi người, ai cũng mang chung một nỗi niềm lo âu , hồi hộp khi nghĩ đến phỏng vấn tuyên thệ bàn 4 và nhất là với cái tên ( Ba Gà đá ) . Ðúng vậy , vì nơi đây đã có biết bao cảnh khóc cười, buồn vui lẩn lộn, có người đã phải điên loạn và cũng có người đã đi vào cõi chết trong cơn tuyệt vọng. Trong khi chờ đợi gặp phái đoàn bàn 4, ai cũng phải ghi danh đi học huấn nghệ, hoặc đi làm công tác thiện nguyện, để tham gia vào công tác xã hội, tôi nhận lời mời của anh Hoàng hiệu trưởng trường huấn nghệ trong trại Sungei Besi dạy một khóa đánh máy chữ, thời gian lặng lẻ thoi đưa, tôi được văn phòng cao uỷ tỵ nạn thông báo cho biết ngày đi gặp phái đoàn tuyên thệ, ngày lên bàn bốn đã đến, nỗi lo âu hồi hộp cứ thấp thổm trong lòng, tôi vào phòng đợi cúng với nhiều khuôn mặt nặng trĩu lo âu, bên ngoài thì đã có nhiều người vui cười hớn hở và cũng không ít người trong trạng thái thất vọng như kẻ mất hồn. Ðến lượt tôi, như đã được học cái thuần thục xã giao khi gặp phái đoàn phỏng vấn, vừa bước tới bàn làm việc và với giọng anh ngữ non kém.
-Good affternoon sir.
Người phụ trách phỏng vấn tuyên thệ cho tôi , không một tiếng trả lời, không một cái ngước mặt để nhìn tôi, ông ta chỉ lặng im, châm châm đọc hồ sơ của tôivà tay thì cứ viết vẽ, người thư ký ngồi kế bên ông ra hiệu cho tôi và nói bằng tiếng Việt Nam ( người thông dịch là người Việt Nam)
-Mờ anh ngồi
Dạ
Tôi dạ một tiếng nhỏ nhẹ rồi ngồi xuống một cách thật khiên nhường và rất hồi hộp đối diện với người phỏng vấn, mãi một lúc sau ngẩng đầu lên vẫn không có cái nhìn về tôi và nói với người thư ký gì đó và rồi cô thư ký mĩm cười nhìn tôi rồi nói.
-Anh đưa tay phải lên tuyên thệ.
Tôi làm theo lời cô thư ký và nói theo lời cô nói, chỉ những câu hỏi thì phải trả lời có hoặc không, tai thì nghe, hành động thì theo lời cô thư ký, mà tâm hồn thì cứ mãi lo âu hồi hộp, rồi trong phút giây lắng đọng ấy, tôi thấy ông đưa tập hồ sơ qua bên cô thư ký, rồi nghe giọng cô thư .
-Anh ra ngoài đi, xong rồi
Chỉ có thế ngoài ra tôi không còn nghe lời gì khác, tôi lặng lẻ bước ra ngoài với một sự cố gắng bình thản, chung quanh thì bao nhiêu câu hỏi vang lên.
-Ðược không ?
-Ðậu không ?
Và bao nhiêu câu hỏi khác cứ dồn dập bên tai, cho đến khi một người nhân viên khác đem hồ sơ ra và nói với tôi,
-Anh đậu rồi,...
Mộ thoáng chốc vui mừng chợt tóe lên, như tôi vẫn giữ thái độ bình thường không dám để lộ quá nhiều niềm vui ra mặt vì sợ làm tủi lòng những người không may mắn, tôi bước ra khỏi phòng tuyên thệ với một nỗi lòng thật thanh thản về căn nhà dài ( long house)với bao lời vui chúc.
Tôi có tên rời trại Sungei Besi cùng với một số người đến Bataan,Philippine để học anh ngữ trước khi đến Hoa Kỳ, vì không có được sự trợ giúp nào và vì lo lắng cho việc đói no của mình, tôi chắt chiu từng gói mì khô để mang đi cùng với vài bộ quần aó được cấp phát từ Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc. Ngày đến cũng đến, chúng tôi được chuyển đến một trại chuyển tiếp và ở lại nơi nầy một đêm trước khi ra phi trường Kuala Lumpur để đi Manila Philippine, đến Manila chúng tôi được xe bus chở đến trại Bataan trong suốt mấy tiếng đồng hồ trên lộ trình nầy.
Bataan có vẻ hoang vắng hơn so với Sungei Besi, vì đây là một vùng núi non hẻo lánh và cách xa thành phố, với những con đường đất lầy lội và nhữ cơn mưa giông thất thường, khí hậu thật ôi bức, đồi núi chập chùng, biển rộng mênh mông, màu đất đỏ thắm . Ðến nơi đây tôi vào làm việc cho ban trật tự liên vùng, Bataan rất rộng và được chia làm 9 vùng , rổi rảnh tôi thường đi dạy khiêu vũ để kiếm tiền nuôi sống mình và nơi đây tôi cũng được rất nhiều anh em bạn hữu thương mến và có một người con gái rất thương yêu tôi. Phụng, đến từ trại tỵ nạn HongKong, Phụng lo lắng cho tôi thật nhiều, từ chút ăn, chút uống, với tôi thì đâu có gì nữa để mơ ước, chỉ mong sớm có ngày đi định cư và mong rằng hai đứa sẽ được sống bên nhau trong khoảng đời còn lại.
Tôi học xong khóa học anh ngữ 4 tháng rưởi ngày lên đường đi định cư tại Hoa Kỳ cũng đã đến, tiễn đưa tôi có thật đông đảo bạn bè thân thương duy có Phụng là không đến cho tôi một cảm giác đau buồn khôn xiết, từ trại 1, đoàn xe bus 4 chiếc nằm chờ đợi chúng tôi, tôi và các bạn chụp hình với nhau để làm kỹ niệm, mỗi người tặng tôi một món quà thật nhỏ nhưng chứa đựng một sự quí baó vô biên, se bus chuyển chúng tôi đến một trại chuyển tiếp và ở lại đây một đêm, sau khi có một nơi tựa lưng nghĩ ngơi, tôi phát hiện một gói quà của Phụng mà không biết ai đã bỏ vào đấy tự lúc nào, tôi vội mở ra xem, một lá thư, một kem đánh răng, một bàn chải đánh răng và 2 quần lót, Phụng cho tôi biết, nàng không ra tiễn tôi vì sợ sẽ khóc nhòa trước bạn bè và xin lỗi tôi thật nhiều.
Chúng tôi được chuyển ra phi trường Manila và máy bay cất cánh khoảng 11 giờ đêm, qua thời gian dài dong ruổi, chúng tôi đến phi trường ở Nhật đợi nơi đây khoảng 2 tiếng rồi tiếp tục lên phi cơ đi qua Mỹ.
Ðến Hoa Kỳ tôi và Phụng vẫn thường xuyên liên lạc với nhau, đến một ngày kia tôi thật buồn bả khi đọc lá thư cuối cùng của Phụng, nàng cho biết rằng hồ sơ của gia đình nàng bị phái đoàn Hoa Kỳ cho là hồ sơ giả, không được xếp vào diện tỵ nạn và sẽ bị gởi trả về HongKong, chỉ khi nào có thân nhân ở Mỹ hay ở nước khác bảo lảnh thì sẽ được cứu xét lại, rồi cũng từ đó, tôi không còn nhận được tin tức gì về Phụng và tôi cũng đã cố công tìm kiếm thăm hỏi. Một cuộc tình như thoáng qua, những nghĩa ân của đoạn đường tỵ nạn, giờ đây có còn lại trong tâm hồn thì cũng chỉ lả những dư âm đang đọng lại và rồi trong một khoảng thời gian không gian nào đó cũng lắng chìm trong tận cõi lòng kẻ ngóng trông. Tôi người trai trẻ với tuổi đời thánh thoát hồn nhiên cũng đã trưởng thành trong muôn ngàn xót xa cùng cực và cũng trở thành một kẻ trầm lặngtrong muôn ngàn hoàn cảnh của cuộc đời.
Nhưng hình ảnh một cây kem đánh răng, một bàn chaỉ đánh răng, hai quần lót , một là thư với những dòng chữ thân yêu luôn nằm trong tiềm thức của tôivà mãi mãi không quên bóng dáng yêu thương của người con gái tha phương đã khắc sâu trong tâm tưởng tôi trên bước đường dun ruổi, cũng như hình dáng con thuyền viễn xứ DN 1071/TS được đổi thành con tàu MB268 ngày 23 tháng 11 năm 1984 luôn được ngự trị trong tâm hồn tôi, mãi mãi và mãi mãi trong tôi tôi trên bước đường còn lại của cuộc đời.
Tình Bidong* tình dông muôn nẻo
Sống đợi chờ thắt thẻo trại Besi**
Bataan tình vương ý đợi
Mưu sinh đơn bóng đất Hoa Kỳ
* Pulau Bidong, Kuala Trenganu, Malaysia
**Sungei Besi, Kuala Lumpur, Malaysia
***Bataan,Philippine
Huntington Beach , Ngày 24 tháng 01 năm 1985
Viễn Phương
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.12.2012 23:26:24 bởi Ct.Ly >