BÊN THẮNG CUỘC - Huy Đức
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 19 bài trong đề mục
hai1957 02.01.2013 17:11:22 (permalink)
BÊN THẮNG CUỘC
Tập I. Giải Phóng
Huy Đức
Smashwords Edition


*****
Published by
OsinBook∘2012
Copyright 2012 by Huy Đức & OsinBook∘2012
ISBN: 978-1-4675-5790-0
Huy Đức & OsinBook∘2012 giữ bản quyền
Thiết kế bìa và trình bày:
Phùng Văn Vinh & Trần Minh Triết
Bản giấy in tại California, USA
ISBN: 978-1-4675-5791-7
Phát hành toàn cầu



All rights reserved. Without limiting the rights under copyright reserved above, no part of this publication may be reproduced, stored in or introduced into a retrieval system, or transmitted, in any form, or by any means (electronic, mechanical, photocopying, recording, or otherwise) without the prior written permission of both the copyright owner and the above publisher of this book.

Bảo lưu toàn bản quyền. Không in lại, sao chép, tái bản, phân phát, một phần
hay toàn bộ cuốn sách, dưới dạng điện tử hay giấy, khi chưa có sự đồng ý bằng văn
bản của tác giả và nhà xuất bản.


Smashwords Edition License Notes

This ebook is licensed for your personal use only. This ebook may not be re-sold
or given away to other people. If you would like to share this book with another
person, please purchase an additional copy for each person you share it with. If you
are reading this book and did not purchase it, or it was not purchased for your use
only, then you should return to Smashwords.com and purchase your own copy.
Thank you for respecting the author’s work.

Chỉ được phép sử dụng sách điện tử này cho mục đích cá nhân. Không được bán lại hay chuyển cho người khác. Nếu bạn đọc muốn chia sẻ cuốn sách này cho người khác, xin mua thêm một ấn bản cho từng người bạn muốn chia sẻ với. Nếu bạn đọc cuốn sách này và không mua nó, hoặc không mua cho riêng bạn, thì bạn nên trở lại Smashwords để mua ấn bản của mình. Chân thành cám ơn bạn đọc đã tôn trọng quyền sở hữu bản quyền của tác giả.

xxx

Bên Thắng Cuộc của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết.” – Trần Hữu Dũng, Đại học Wright, Ohio, USA

Cuốn sách này nói về những sự thật khốc liệt, nhưng vì rất trung thực nên nó khiến ta bình tĩnh hơn trong thế giới và giữa đất nước khốc liệt ngày nay.” - Nguyên Ngọc, Đại học Phan Châu Trinh, Hội An, Việt Nam

Bên Thắng Cuộc là tác phẩm ‘thực’ nhất, cho đến thời điểm này, ghi lại một giai đoạn lịch sử khốc liệt, thông qua tư liệu, của dân tộc từ biến cố 1975 đến nay.” – Đinh Quang Anh Thái, Nhật báo Người Việt, California, USA

Cuốn sách phân tích tình hình Việt Nam từ năm 1975 - của một nhà báo sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản - một cách chuyên nghiệp và công bằng hiếm có. Nó là một kho tàng dữ liệu quý báu, có thể làm ngạc nhiên cả những chuyên viên theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập niên qua.” – Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George Mason, Virginia, USA

"Huy Đức viết công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước. Có công minh lịch sử mới có hòa giải dân tộc thưc sự" – Chu Hảo, Nhà Xuất bản Tri Thức, Hà Nội, Việt Nam

#1
    hai1957 02.01.2013 17:26:29 (permalink)
    Thương yêu tặng Mỹ Đức
    và hai con Thạch Thảo, Đức Trung



    Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
    Bên nào thắng thì nhân dân đều bại

    Nguyễn Duy



    Mục lục

    Mấy lời của tác giả
    Lời cám ơn

    Phần I: Miền Nam

    Chương I: Ba Mươi Tháng Tư
    Đi từ bưng biền
    Xuân Lộc
    Tướng Big Minh
    Trại Davis
    Nguyễn Hữu Hạnh
    Sài Gòn trong vòng vây
    Xe tăng 390
    Đầu hàng
    Tuẫn tiết

    Chương II: Cải tạo
    Những ngày đầu
    “Ngụy Quyền”
    “Ngụy Quân”
    “Đoàn tụ”
    “Phản động”
    Tù và cải tạo
    “Thăm Nuôi”
    “Học Tập”

    Chương III: Đánh tư sản
    “Chiến dịch X-2”
    Đổi tiền
    “Gian thương”
    “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”
    Hai gia đình tư sản
    Kinh tế mới

    Chương IV: Nạn Kiều
    Đội quân thứ năm
    Hiệp định Geneva
    “Chổi ngắn không quét xa”
    Hoàng Sa
    Sợ “con ngựa thành Troy”
    “Nạn Kiều”
    “Phương án II”
    “Ban 69”
    Vụ Cát Lái

    Chương V: Chiến tranh
    Biên giới Tây Nam
    Pol Pot
    Đi dây
    Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ
    “Kẻ Thù Lịch Sử”
    Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)
    “Nhất Biên Đảo”
    “Áo lính lại khoác vào ngay”

    Chương VI: Vượt biên
    “Vượt biên”
    Từ “trí thức yêu nước”
    Đến “thường dân”
    Trước khi tới biển
    Đường tới các trại tị nạn

    Chương VII: “Giải Phóng”
    Sài Gòn thay đổi
    Kinh tế mới
    Đốt sách
    Cạo râu
    “Cách mạng là đảo lộn”
    Lòng người
    Những người được sinh ra không đúng cửa
    “Cánh cửa” Thanh niên Xung phong
    “Nổi loạn”
    “Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở”

    Phần II: Thời Lê Duẩn

    Chương VIII: Thống nhất
    Nước Việt Nam là một
    “Bắc hóa”
    Chủ nghĩa xã hội
    “Con đường của Bác”
    “Mỗi người làm việc bằng hai”
    Lê Duẩn và mối tình miền Nam
    Chấp chính và chuyên chính

    Chương IX: Xé Rào
    Bế tắc
    Mậu dịch quốc doanh
    Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng
    Tháo gỡ
    Nghị quyết Trung ương 6
    Bù giá vào lương
    Cắm cờ xé rào
    Khoán chui
    Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn
    “Ai thắng ai”

    Chương X: Đổi mới
    Hội nghị Đà Lạt
    Nhóm giúp việc mới
    Người của những khúc quanh lịch sử
    Từ chính sách Kinh Tế Mới
    Đến chọc thủng thành trì bao cấp
    Giá-Lương-Tiền
    Nã pháo vào bộ tổng
    Khép lại trang sử Lê Duẩn
    Vai trò của Mikhail Gorbachev
    Tuyên ngôn đổi mới
    Bàn tay Lê Đức Thọ
    Phút 89

    Chương XI: Campuchia
    “Pot ở đầu phum ta cuối phum”
    “Xuất khẩu cách mạng”
    Tư tưởng nước lớn
    Bị cô lập
    Phương Bắc
    Hội nghị Thành Đô
    Campuchia thời hậu Việt Nam

    Phụ lục 1. Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384
    Phụ lục 2. Tướng Big Minh sau 1975
    Tác giả
    Danh mục sách tham khảo


    xxx

    Mấy lời của tác giả:

    Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm. Cuốn sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra. Miền Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “hai mươi năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối. Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy, thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu
    hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.

    Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn. Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày1, Thép Đã Tôi Thế Đấy2. Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của
    chúng tôi.

    Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, chứng kiến khát vọng “thay trời, đổi đất, sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam, rồi chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.

    Năm 1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong3, một người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù đã kiệt quệ sau tám năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy.

    Mùa hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ, gồm Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Nguyễn Tuấn Khanh, Huỳnh Thanh Diệu, Huy Đức. Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Phan Xuân Loan... Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích. Chúng tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Không ai để ý đến câu nói này của Tuấn Khanh, nhưng tôi lại bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi
    kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách.

    Rất nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975 đã trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình. Không chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay
    đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”4, như “Z30”5 cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ Chính trị cũng không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm. Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975 - ngày nhiều người tin là miền Bắc
    đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế, chính trị học, và xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này.

    Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ kể lại những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo, đánh tư sản, đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, và về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.

    Tư liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm. Trong vòng ba năm, từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012, tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có năm nhà sử học uy tín của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến tay bạn đọc.

    Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, và sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản sau. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra, và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.

    Sài Gòn – Boston, 2009-2012
    #2
      hai1957 02.01.2013 17:36:19 (permalink)
      Lời cám ơn


      Trong quá trình thu thập tư liệu để viết cuốn sách này, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ chí tình của nhiều nhân vật lịch sử, sự hợp tác của các nhân chứng, sự đóng góp của các đồng nghiệp, và sự ủng hộ của rất nhiều bè bạn.

      Tác giả đặc biệt cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời phỏng vấn trực tiếp cho cuốn sách này: Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Thủ tướng Phan Văn Khải, Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch Nước Lê Đức Anh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Ủy viên Thường trực Thường vụ Bộ chính trị Phạm Thế Duyệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm, Phó Thủ tướng Vũ Khoan, Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn, Bí thư Trung ương Đảng Hoàng Tùng, các Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nguyễn Đình Liệu, Trần Phương, Đoàn Duy Thành, Ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Hà Phan, Bí thư Trung ương Đảng Phan Minh Tánh, Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Trung tướng Võ Viết Thanh…

      Xin cám ơn các nhà lãnh đạo đã trả lời các cuộc phỏng vấn của tác giả với tư cách là một nhà báo mà một phần nội dung được sử dụng trong cuốn sách này: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Bộ trưởng Công an Lê Minh Hương, Đại tướng Đoàn Khuê, Đại tướng Phạm Văn Trà, Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, Ủy viên Thường trực Bộ Chính trị Phan Diễn…

      Cuốn sách không thể hoàn thành nếu không có sự giúp đỡ, hợp tác và tư vấn của những người giúp việc, những người có nhiều năm gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng như ông Trần Việt Phương, ông Vũ Kỳ…; của nhóm giúp việc Tổng Bí thư Lê Duẩn: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Phương, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư Đậu Ngọc Xuân, thư ký tổng bí thư, ông Đống Ngạc; của nhóm giúp việc và chuyên gia tư vấn của Tổng Bí thư Trường Chinh: Tiến sỹ Hà Nghiệp, Giáo sư Trần Nhâm, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, Giáo sư
      Dương Phú Hiệp, Giáo sư Đào Xuân Sâm, ông Trần Đức Nguyên…; của những người giúp việc Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh: ông Trần Văn Giao, ông Hồng Đăng, ông Dương Đình Thảo, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh; của những người giúp việc Tổng Bí thư Đỗ Mười: Thống đốc Lê Đức Thúy, Tiến sỹ Nguyễn Văn Nam; của những người giúp việc Thủ tướng Võ Văn Kiệt: Trợ lý Vũ Quốc Tuấn, Trợ lý Nguyễn Trung, Trợ lý Vũ Đức Đam, ông Phạm Văn Hùng, ông Nguyễn Văn Huấn, Bác sỹ Đinh Trần Nhưng, Thư ký Nguyễn Văn Trịnh…; của những người giúp việc Thủ tướng Phan Văn Khải: Trợ lý Nguyễn Thái Nguyên, Trợ lý Nguyễn Đức Hòa, Thư ký Nguyễn Văn Kích; của người viết tự truyện cho Đại tướng Lê Đức Anh, Đại tá Khuất Biên Hòa.

      Xin chân thành cảm ơn bà Nguyễn Thụy Nga, phu nhân Tổng Bí thư Lê Duẩn, bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, bà Phan Lương Cầm, phu nhân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã trả lời phỏng vấn và cung cấp thông tin, tư liệu. Xin cám ơn sự giúp đỡ của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, con rể, và Tiến sỹ Lê Kiên Thành, con trai Tổng Bí thư Lê Duẩn; bà Võ Hiếu Dân, con gái, và ông Phan Thanh Nam, con trai Thủ tướng Võ Văn Kiệt; Giáo sư Đặng Xuân Kỳ, con trai Tổng Bí thư Trường Chinh.

      Cuốn sách cũng nhận được sự cộng tác rất tận tình của các vị từng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành chính sách ở các giai đoạn khác nhau của Việt Nam như Bộ trưởng Tư pháp Vũ Đình Hòe (1946-1960), Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc (1992-2002), Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Trần Xuân Giá, Tổng Cục trưởng Địa Chính Tôn Gia Huyên, các đời chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Đoàn Trọng Truyến, Lê Xuân Trinh, Lại Văn Cử, Đoàn Mạnh Giao, Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Vũ Mão, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương Trần Trọng Tân, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương Hữu Thọ…

      Đặc biệt cám ơn các tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam từng đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh như Cục trưởng Tác chiến, Trung tướng Lê Hữu Đức, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Lê Phi Long, Cục phó Tác chiến Thiếu tướng Phan Hàm, những người trong gia đình Đại tướng Lê Trọng Tấn, Cục trưởng Tình báo Quân đội Đại tá Lê Trọng Nghĩa, Chánh Văn phòng Quân ủy Trung ương Đại tá Nguyễn Văn Hiếu, Chánh Văn phòng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tá Nguyễn Văn Huyên…

      Xin chân thành cám ơn các nhà cách mạng lão thành đã cung cấp cho tác giả hơn năm mươi cuốn hồi ký, phần lớn chưa từng xuất bản. Có những cuốn có giá trị tham khảo đặc biệt quan trọng, như các tập hồi ký của Bí thư Trung ương Đảng Trần Quốc Hương, một người từng gần gũi với Tổng Bí thư Trường Chinh, từng chỉ huy mạng lưới tình báo miền Bắc ở miền Nam và từng là trưởng Ban Bảo vệ Trung ương Đảng. Có những cuốn rất thẳng thắn của Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV Nguyễn Thành Thơ, người từng chỉ đạo kinh tế mới và hợp tác hóa ở miền Nam. Có những cuốn tiết lộ xung đột đảng phái thời kỳ ngay sau 1945 của Đại tá Công an Trần Tấn Nghĩa, người nhận lệnh trực tiếp ám sát và bắt giữ các thành viên đảng
      phái không cộng sản trong các năm 1945, 1946. Có những cuốn nói về thời kỳ “giúp bạn” Campuchia của Đại sứ Ngô Điền, Đại sứ Trần Huy Chương. Cũng có những cuốn rất thú vị, giúp tiếp cận với những góc độ khác của các nhà lãnh đạo tối cao như tự truyện của bà Ngô Thị Huệ, phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, hồi ký của bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của Tổng Bí thư Lê Duẩn.

      Tác giả xin chân thành cám ơn các sỹ quan Quân đội Việt Nam Cộng hòa: Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Chuẩn Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, người chỉ huy trận hải chiến Hoàng Sa tháng 1-1974; cám ơn Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Hảo, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận, Dân biểu Ngô Công Đức; cám ơn nhà văn PhanNhật Nam, các nhà thơ Tô Thùy Yên, Trần Dạ Từ, nhà văn Uyên Thao; cám ơn Giáo sư Lê Xuân Khoa, bà Khúc Minh Thơ, những người đã giúp tác giả hiểu thêm về những nỗ lực của cộng đồng để giúp những người tù cải tạo được định cư tại Mỹ.

      Tác giả cũng chân thành cám ơn Giáo sư Thomas Bass (Đại học Albany-SUNY), người đã thu xếp cuộc phỏng vấn cựu ngoại trưởng Henry Kissinger tại Boston vào tháng 2-2006; chân thành cám ơn các nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, Yên Ba, Nguyễn Khoa Diệu An, Trần Chí Hùng, Nguyễn Giang, Đinh Quang Anh Thái, Nguyễn Khanh, Lê Thiệp, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, nhà ngoại giao Đinh Hoàng Thắng, nhà nghiên cứu Lưu Thu Hương, Tiến sỹ Trần Tố Loan đã giúp tác giả tiếp cận với nhiều nhân vật và nhiều tài liệu lịch sử quan trọng.

      Tác giả cũng xin chân thành cám ơn hàng trăm chính khách, sỹ quan, nhà tư sản, nhà báo, thường dân, các thuyền nhân và nạn nhân của những biến động sau năm 1975, những
      người đã giúp tác giả có được những câu chuyện sinh động. Những trích dẫn không có chú thích trong cuốn sách này được lấy từ những cuộc trò chuyện do tác giả thực hiện trực tiếp với các nhân chứng.

      Xin cảm ơn nhà thơ Bùi Khương Hà, người đã đọc những chương đầu tiên trong bản thảo đầu tiên và có những ý kiến xác đáng giúp tác giả điều chỉnh nội dung và cấu trúc cuốn sách.

      Tác giả cũng xin chân thành cám ơn nhà văn Nguyên Ngọc, nhà sử học Dương Trung Quốc, Tiến sỹ Nguyễn Thị Hậu, Giáo sư Trần Hữu Dũng (Đại học Wright, Ohio), Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason, Virginia), nhà sử học Sophie Quinn Judge (Đại học Temple), Giáo sư Shawn McHale (Đại học George Washington), Giáo sư Hồ Huệ Tâm (Đại học Harvard), Giáo sư Peter Zinoman (Đại học UC Berkeley), Giáo sư Ngô Thanh Nhàn (Đại học New York) đã đọc và tận tình góp ý để tác giả hoàn chỉnh bản thảo cuốn sách này.

      Cuốn sách cũng không thể hoàn thành nếu không có nhóm giúp việc gồm một số trí thức trẻ, một số sinh viên mà trong lần xuất bản này tác giả chưa thể nêu tên họ. Trong quá trình thực hiện cuốn sách tác giả đã luôn nhận được sự động viên, giúp đỡ của những người bạn như Nguyễn Thanh Toại, Đặng Cao Thắng, Lê Hải, Đỗ Trung Quân, Hà Tân Cương, Nguyễn Quang Lập, Đặng Tâm Chánh, Bùi Nguyên Cẩm Ly, Trần Minh Khôi, Võ Văn Điểm, Huỳnh Kim Phụng, Đào Ngọc Lâm, Bùi Đức Thịnh, Nguyễn Văn Diễn, B.V.D, N.T.H, Nguyễn Đức Quang, Trần Ngọc Phong, Mai Kỳ, Xuân Bình, Nguyễn Hải Phong, Lê Thị Hoàng Anh, Phùng Văn Vinh, Trần Minh Triết …

      Tác giả hy vọng tiếp tục nhận được sự góp ý chân thành để hoàn chỉnh cuốn sách này trong những lần xuất bản tới.
      #3
        hai1957 02.01.2013 17:44:59 (permalink)
        Phần I: Miền Nam



        Chương I: Ba Mươi Tháng Tư

        Ba mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vứt đi là sẽ có hòa bình.

        Đi từ bưng biền

        Sáng sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời” thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh6, đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối hợp với quân chủ lực.

        Từ R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa biên giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời chiếc radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục phát Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi thúc: “Từ Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng, cùng tiến lên thời cơ đã đến rồi”.
        Thời cơ đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần này chắc ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông, tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước ém quân ở đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu, mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền lãnh đạo Sài Gòn - Hòn Ngọc Viễn Đông.

        Sáng hôm sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía bên kia cánh đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”. Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới biết đó là
        thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày 29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.

        Trưa 29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu cơm. Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở không làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với ông Mai Chí Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép anh em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.

        Tới khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh chiếc radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sỹ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng
        bào”.

        Lời Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ quân phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách, sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn. Quân Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của chế độ Sài Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và Chín Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí tìm cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.

        Chín Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía Sài Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi tôi vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng vô Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu GMC mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn một lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai “chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái chiếc xe quay lại. "Đại quân" lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên.
        Chín Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ Giải phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có lính Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho chiếc xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến vào Sài Gòn.

        Ông Võ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người đã suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe, mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.
        #4
          hai1957 02.01.2013 21:32:19 (permalink)
          Xuân Lộc


          Trong khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành, chính những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối cùng của một trang sử. Kế hoạch “bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư đoàn tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc thủng tuyến phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm. Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.

          Cho đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn đã được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.
          Hãng UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.

          Theo Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt, e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các anh đều đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng trên bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà kết luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng ngự, nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm ưu thế so
          với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững luôn… thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.

          Để chuẩn bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều từ miền Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển. Tướng Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi nhưng xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh. Cán bộ tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần ngày thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.
          Ngày 18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch duyệt lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đã bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng sáng ngày 21-4, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng hòa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng máy bay lên thẳng.

          Đầu tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên đặt vấn đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nói chuyện với Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không tin là tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời nhiệm sở”12. Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger đều đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin nói bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.
          Nhà Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với miền Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ với Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những gì tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày 21-4-1975, khi không còn Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là ông từ chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công khai quyết định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.

          Lúc 3 giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của quần chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ thực hiện trong quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định giành toàn thắng”14.

          Ngày 26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà di chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng tới. Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn toàn bị vây hãm. Phía Tây, Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên đến Cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung đoàn đặc công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai Lậy. Cũng từ ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngã ba Trung Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn Cái Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long bị băm nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn cứ
          huấn luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị xã Bà Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công 116 bắt đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước Khánh đến ngã ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị bắn phá bằng pháo 130 ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với tòa lãnh sự Mỹ ở thị xã Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.
          #5
            hai1957 02.01.2013 21:40:06 (permalink)
            Tướng Big Minh


            Đầu tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương án Big Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”16. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong Ủy ban Kiểm soát Bốn bên nói Hà Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị loại thì Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự của Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô Đình Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng
            chấp chính.

            Đại tướng Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ Dương Văn Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết” ra Bắc năm 1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách mạng tháng Tám đã từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lãnh đạo bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã yêu cầu Cục trưởng Cục Địch vận Võ Văn Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn Minh. Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền Nam, và tới tháng 8-1962 thì móc nối được với cậu ruột và vợ là Sử Thị Hương.

            Ngày 1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân danh chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống. Năm 1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty qua Paris; trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn Minh, nhưng cả hai lần đều không gặp18.

            Giữa tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm trong rừng cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương Văn Minh tổ chức họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng thay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình cho miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã đến Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo chí Sài Gòn bình luận là cố tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai lập trường của Pháp đối với tình hình chính trị miền Nam.

            Sau khi từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đình vẫn sống trong Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài Gòn là “Chính phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và Tướng Big Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt công khai, chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là “công cán”.

            Buổi chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của một sỹ quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu dinh”, nơi ở của gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư gia. Sau đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói “Tổng thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi nào Tổng thống họp xong thì trình. Theo ông Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết: “Thưa cụ, theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các quốc gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá Diên, Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà Tướng Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong, Tướng
            Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên Bộ Tổng. Khi họ quay lại thì bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ tục cho chuyến bay. Khoảng 9 giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường bằng ba chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu, thay vì rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua trường đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt, không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng tới cầu thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ đưa tiễn. Đêm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.

            Những ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh với ông Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như vô tận”. Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử thủ dù Sài Gòn có phải tắm máu”. Tướng Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó thì làm, nếu ông Hương cứ kéo dài hoài thì moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận hiểu đại từ tiếng Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói “moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới giờ đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ: “Ông Tướng đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống chén đắng cho tới cặn sao”20.

            Sau đó, trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên Tướng Big Minh “thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa còn nói đâm bang!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương Văn Ba sau đó theo lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận, người ta sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt động của chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi không muốn đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể từ đó, ông Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho dù nhiều người muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là một
            dân biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô trưởng”.

            Ngày 27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên tổng số 219 của lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra nước ngoài. Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã đến để thuyết trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các nghị sỹ mới biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu hòa bình cho dân tộc”.

            Ngày 28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ: Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống; luật sư Vũ Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm một thành viên chính thức nữa là Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.

            Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT “mật - hỏa tốc” với nội dung: "Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.

            #6
              hai1957 02.01.2013 21:44:08 (permalink)
              Trại Davis



              Sáng 29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp ông Huyền hỏi: “Chính quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để hòa giải dân tộc, vậy các anh đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định Paris.

              Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.

              Phái đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Đình Đầu, Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ gặp rất nhiều trở ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng tiếp họ nhưng nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao đổi không chính thức, vị cán bộ này gợi ý: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố ngày 26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”22.

              Trở về từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền. Sau khi có tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn Đình Đầu về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và ngay sau đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền trình lên Tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đã công bố bản này trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975.

              Cũng trong ngày 29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong lực lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Liễng, một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn pháo của quân Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận không chống cự thì tôi lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào Sài Gòn, tránh cho nhân dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng đi đi”. Khoảng 15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách mạng Võ Đông Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không chống cự” từ ông Liễng. Do tình hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới khi quân Giải phóng vào đến Sài Gòn.

              Trước đó, một người trong nhóm của Luật sư Trần Ngọc Liễng đã được tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm vào chức giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia Định, một “đảng viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã kịp thi hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.
              #7
                hai1957 02.01.2013 21:49:16 (permalink)
                Nguyễn Hữu Hạnh



                Trong khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo dõi tình hình, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách mạng gần chục năm qua mang về kết quả. Ông Hạnh với ông Minh đã có hơn ba mươi năm biết nhau trên nghĩa thầy trò. Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được người Pháp đưa vào một đơn vị nơi
                ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó. Sau ba tháng huấn luyện với sự dìu dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được phong trung sỹ. Trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm 1956, ông Minh bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.

                Ông Hạnh có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành - thường gọi là Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi con trai của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực và các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng, ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông Tám Vô Tư, đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24, phụ trách.

                Tướng Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề nghị “ra căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham gia lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu; ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo Cách mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông thầy Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định nắm lấy cơ hội cuối cùng. Ông kể: "Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng khi ấy vẫn còn ở nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ nói với tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là một con người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ suy nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang phòng bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của Đại sứ Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội về vấn đề thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.

                Hai ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về. Họ quyết định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không đi xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng không nắm nổi tình hình mà còn phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ trách mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ huy quân đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói: ‘Tôi về hưu rồi đi coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’. Ngay lúc đó ông Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”. Ông Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra nước ngoài. Trung tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm Văn Phát giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc đầu, chửi thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.

                Tình hình ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi ông Minh gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, thì Tướng Vĩnh Lộc từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi còn thấy nó ở Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng ý. Nhân khi ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục Vĩnh Lộc chấp nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia đình chuẩn bị “di tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đã phải giành giật nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.
                #8
                  hai1957 03.01.2013 13:47:32 (permalink)
                  Sài Gòn trong vòng vây


                  Theo Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần lớn việc di tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đã cộng tác với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã “chấp thuận yêu cầu” của Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend parole) cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000 người thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).

                  Từ ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên tục cất cánh từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000 người Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện khác”. Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân Giải phóng tấn công bằng tên lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam và 400 người Mỹ vẫn còn đang tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã phải tạm ngưng vì đám đông hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến những đợt rút chạy cuối cùng của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới
                  đất bắn lên, tức giận.

                  Ba giờ chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham mưu Sài Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá thất thủ vào chiều 28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa, Trung tướng Toàn cho biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút Biên Hoà bị bao vây ba mặt.

                  Tối 29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông đang bị bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh thì giọng Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5 trấn giữ đã bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.

                  Khi quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập tuyến phòng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của quân Giải phóng từ phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cho biết đã lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài sự phòng thủ thì cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn với Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không được di chuyển quân để chờ ông thương thuyết”. Trước khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình quân sự với Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân của Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng phải chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt
                  trận phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ. Tôi e trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh: “Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại báo cáo với ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay cuối cùng”. Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi hoàng tộc này đã cùng gia đình “di tản” bằng đường thủy.

                  Ông Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm xe, tài xế đã bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe riêng đón chúng tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh, Tướng Có trình bày lại toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói. Ông Minh trầm ngâm. Tôi nói thêm: ‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định gấp’. Ông Minh quay lại hỏi: ‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng về quân sự thì Đại tướng phải giải quyết, tình hình quá nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi đi bàn với ông Huyền và ông Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị được đi theo,
                  ông Minh đồng ý”. Ông Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại tòa đại sứ
                  Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58 phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán 129 lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở tòa Đại sứ.

                  Ông Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của tổng thống đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền. Ông Đầu thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông Đầu một câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).

                  Tình hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là đơn phương tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9 giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên bố này được phát đi trên sóng. Những người như ông Võ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài Gòn. Vào khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi âm, trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong phòng khách với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu tướng người Pháp đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ Mỹ đi với Bắc Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với Hà Nội để ngưng chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi Vannuxem về rồi, ông Dương Văn Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng sao”.

                  Theo kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7 Thống Nhất thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số họ đã di chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi. Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi
                  Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác. Trước thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
                  Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu. Viên thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu cầu nói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu chuyện chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng đã vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.

                  #9
                    hai1957 03.01.2013 13:53:07 (permalink)
                    Xe tăng 390


                    Lúc đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của Trung tá Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843 đi theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa cuối cùng của cuộc chiến.

                    Vào lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh “giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn tăng 203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà ông luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu An, luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được chiến thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối cùng.

                    Đêm 29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung tá Bùi Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy chiếc tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận đặc công của 116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội hình của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới Sài Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành khẩn trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh Tổng
                    thống - Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung ương tình báo./An”.

                    Trước đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu, anh Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”25.

                    Rạng sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy đến căn cứ Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng xe 390, vẫn chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn còn gang tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số hai của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su, bắn cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc
                    tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.

                    Trước đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng Nguyễn Hữu An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng tại một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn 203: “Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô, cậu Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên Xô khi kết thúc Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt cuối cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”.
                    Ngay sau đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng Nguyễn Hữu An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng theo đường Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến Dinh Độc lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp qua bên trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của Lê Văn Phượng tiến lên. Thiếu úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi vào cổng chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát cánh cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng nhô lên nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau, Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh
                    không có thời gian để tìm xem chị ở đâu. Đến thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi Quang Thận thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ, loại cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng nào lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn một phát đạn nào26.
                    Khi chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống, chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm Dinh trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh đã hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể vì quá căng thẳng và có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ, Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời vào. Bùi Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không biết phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ
                    cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng27.

                    Khi ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi công Nguyễn Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài Gòn, ném bom làm hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện mà đối với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. Bùi Quang Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy giống như... cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi nghe Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy. Phải mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc
                    vàng xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận”28.
                    #10
                      hai1957 03.01.2013 13:58:54 (permalink)
                      Đầu hàng


                      Khi Bùi Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng Toàn ở lại tầng hai. Trung úy Toàn viết: "Tôi dồn toàn bộ nội các Dương Văn Minh vào một chỗ. Dồn xong thì ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương Văn Minh ra chào. Khi ông Minh vừa ra thì anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ lý đến. Anh Thệ nói: 'Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66'”. Borries Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng hòa Liên bang Đức, người châu Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó, tường thuật:
                      “Tay Thệ cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả. Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi Văn Tùng, xuất hiện”29.

                      Ở cửa Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đã nghe báo cáo: “Có Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng thống cơ à!”. Tổng thống Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao lớn, bước vào, thì lịch sự chào: “Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đã lâu rồi để bàn giao chính quyền”. Ông Bùi Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có gì để bàn giao cả mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh: “Đường giây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư hết rồi”. Ông Tùng quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài phát thanh.

                      Khi xe tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập, lái xe 390, cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm ngoảnh lại thấy vắng quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe mình thì sao?”, bèn quay lại nhảy vào ghế lái ngồi thò đầu ra ngoài. Chỉ một lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội các Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh Tập chỉ nhận ra thủ trưởng của mình là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có lẽ liên hệ đến bức ảnh của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du kích nhỏ dương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên: “Thủ trưởng ơi, thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn Tùng nói: “Việc ấy là
                      của tớ”.

                      Chiếc xe Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến trường Đại Lộc, Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng để chở Tổng thống Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc Vận30 kể: “Tôi thấy Trung đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770 mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một người ngồi hàng ghế phía trên, người kia ngồi phía dưới, cùng Trung úy Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai chiến sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Mãi sau này tôi mới biết người to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên cạnh mình là Tổng thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi
                      trắng ngồi phía sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.

                      Nhà báo Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi chạy giữa thành phố lúc ấy - một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên được làm dịu đi - qua Tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài Phát thanh nằm trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển sách. Tổng thống Dương Văn Minh và Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu
                      hàng trên một mảnh giấy màu xanh”31.

                      Trung tá Bùi Văn Tùng nhớ lại: "Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng một băng ghế dài. Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt rã người. Nhưng một ý nghĩ chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh thì chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra như tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”. Tổng thống Dương Văn Minh nói: “Ông muốn gì hãy ghi ra”. Trung tá Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”. Tướng Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy ghi âm: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng
                      không điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”32.

                      Thủ tướng Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để phát biểu và đây, có lẽ, mới là “chính kiến” của nhóm ông: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi - giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng - kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền cách mạng”33.

                      Ông Võ Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đã được tiếp quản bởi một lực lượng của Quân đoàn IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt Nam đầu tiên đến Dinh Độc Lập. Ông Kiệt nắm thêm tình hình quân sự và nhắc nhở chỉ huy các đơn vị chiếm đóng đối xử tốt với những người trong chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ lệnh. Ông Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự “đứng đầu” ở Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất hiện trong vai trò đứng đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày 1-5-1975, khi đang ở Sở chỉ huy tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà được ông Lê Đức Thọ và ông Phạm Hùng thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói Bộ Chính trị quyết định cậu làm chủ tịch
                      Uỷ Ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định. Đi ngay cho kịp”.

                      Ông Võ Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lý. Sài Gòn mới tiếp quản cần một quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ với dân chúng. Tướng Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi Hiệp định Paris. Năm 1973, ông đã có một thời gian khá lâu ở Sài Gòn, và đã từng được báo chí Sài Gòn nhắc đến.

                      Ngày 2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể 34: “Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà từ hôm giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở đây. Tôi chỉ gặp những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống, Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền, giải thích cho họ chính sách của cách mạng là quang minh, chính đại, độ lượng, khoan hồng. Tôi đã nhấn mạnh: Tất cả những việc làm đã qua chúng tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào thái độ và hành động từ ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng lợi vĩ đại của dân tộc vừa rồi mà tự hào rằng mình cũng là người Việt Nam. Có vẻ họ tỏ ra xúc động. Dương Văn Minh đã phát biểu: Tôi vui mừng được là công dân của một
                      nước Việt Nam độc lập”35.
                      #11
                        hai1957 03.01.2013 14:04:47 (permalink)
                        Tuẫn tiết


                        Với năm cánh quân Giải phóng áp sát Sài Gòn trong sáng 30-4, không ai có thể đủ sức cưỡng lại chiến thắng của quân đội miền Bắc. Tuy nhiên, ‘Việt cộng” chỉ thực sự nắm được miền Tây vào chiều tối 30-4-1975.

                        Vào thời điểm ấy, không chỉ có sỹ quan chỉ huy hai tiểu đoàn Lôi Hổ xộc vào Dinh Độc Lập chất vấn tổng thống về quyết định buông súng. Từ mấy ngày trước, các sư đoàn không quân còn lại của Việt Nam Cộng hòa đã di chuyển xuống Trà Nóc và các sân bay lân cận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng bay xuống, nhóm họp với các tướng lãnh, các tỉnh trưởng của Vùng IV với sự tham gia của Phó đề đốc Hải quân Hoàng Cơ Minh, người khi ấy đang làm tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bố trí Đoàn 232 của Tướng Lê Đức Anh ở hướng Long An nhằm phòng ngừa khả năng lực lượng của Tướng Nguyễn Khoa Nam từ Cần Thơ lên ứng cứu là có cơ sở. Tuy nhiên, ngay trong đêm 29-4-1975, gần như tất cả lực lượng hải quân đều bỏ trốn.

                        Theo Thiếu úy Dương Đức Dũng, phóng viên mặt trận của Sư 21 không quân: “Tướng Nguyễn Khoa Nam ra lệnh oanh tạc những kẻ đào ngũ nhưng anh em không quân không chấp hành”. Sáng 30-4-1975 vẫn còn lệnh bay. Máy bay bắt đầu trút hết bom vào đồng trống. Một số phi công nói với Thiếu úy Dũng: “Tụi tao được lệnh di tản sang U-Tapao (Thái Lan), mày có đi thì lên”. Dũng đã ở lại. Bầu trời Cần Thơ từ lúc ấy không một phút yên tĩnh. Đầu tiên là các khu trục A1E, A1H, sau đó là A37 rồi C123. Trực thăng túa lên trời như châu chấu.

                        Bảy giờ sáng ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân đoàn IV báo cáo về Bộ Tổng Tham mưu bằng điện thoại: “Tôi bị tấn công mạnh ở ba nơi: Vĩnh Bình, Bạc Liêu và một nơi cách sân bay Trà Nóc ba cây số. Nhưng tôi đã đẩy lùi được cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ giữ các vị trí còn lại. Các lực lượng Quân đoàn và Quân khu IV, mặc dầu có bị tấn công vài nơi, nhưng vẫn còn nguyên vẹn”36. Phó tướng của Nguyễn Khoa Nam khi đó là Chuẩn tướng Lê Văn Hưng, người mà năm 1972 đã từng tử thủ ở An Lộc. Từ Bộ Tổng Tham mưu, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhắc Tướng Nam: “Anh cố gắng thi hành lệnh của Tổng
                        thống”.

                        Năm giờ 30 phút chiều 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng rời Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV, về Bộ Chỉ huy phụ. Khi đại diện bộ đội miền Bắc vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu “đầu hàng”, Tướng Nam và Tướng Hưng chỉ chấp nhận “bàn giao”. Khi vị đại diện miền Bắc này qua khỏi cầu Cái Răng, Tướng Hưng liên hệ với Tướng Mạch Văn Trường và ra lệnh điều động hai chi đội thiết giáp ra án ngữ cầu Cái Răng và chiếm lại đài phát thanh rồi cho mời Mạch Văn Trường và chỉ huy các đơn vị đóng xung quanh vành đai thị xã Cần Thơ về họp. Sáu giờ 30 phút chiều, khi các vị sĩ quan về tới cổng Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng, một nhóm nhân sĩ Cần Thơ đến gặp Tướng Hưng, xin ông đừng phản công để tránh bị “Việt Cộng pháo kích vào thị xã”.

                        Tại Vĩnh Long, các lực lượng của miền Nam vẫn không thôi kháng cự. Theo ông Phạm Văn Trà37: “Chiều ngày 30-4, sau khi bộ phận trinh sát kỹ thuật của Bộ Tư lệnh tiền phương quân khu bắt được sóng đài của địch, anh Ba Trung đã sử dụng điện đài tuyên bố với viên tỉnh trưởng Vĩnh Long rằng tính mạng của y đã nằm trong tay quân Giải phóng. Nếu đầu hàng, cách mạng sẽ khoan hồng, tha thứ lỗi lầm trước đây, tính mạng, tài sản của bản thân và gia đình, vợ con được bảo toàn; bằng không, y sẽ phải đền tội và vợ con, gia đình cũng khó bề bảo toàn tính mạng, mặc dù Cách mạng không muốn điều đó. Sau 30 phút suy tính, vào lúc 17 giờ ngày 30-4, tỉnh trưởng Vĩnh Long chấp nhận đầu hàng và xin anh Ba Trung giữ lời hứa
                        bảo toàn tính mạng”38.

                        Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc39.

                        Sáu giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến lúc ấy vẫn định phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều biết là quá trễ. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày càng mạnh, các Trung đoàn 31, 32, 33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ huy sư đoàn ngụy đã tự động vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ áo lính trở về nhà. Chỉ còn một số sĩ quan ngụy cao cấp ở lại để xin đầu hàng ta vào lúc 20 giờ cùng ngày”40.

                        Bảy giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

                        Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-4- 1975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.

                        Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

                        Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.
                        #12
                          hai1957 03.01.2013 14:12:25 (permalink)
                          Chú thích chương I

                          1Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
                          2 Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
                          3 Đạo diễn điện ảnh.
                          4 Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
                          5 Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).
                          6 Ngày 14-4-1975.
                          7 Trước năm 1973, Daisy Cutler và CBU vẫn được dùng để dọn bãi cho trực thăng.
                          8 Trần Văn Trà, 1982, trang 254.
                          9 Trần Văn Trà, 1982, trang 255.
                          10Sđd, trang 258.
                          11Sđd. Trang 261.
                          12Kissinger, 2003, trang 536.
                          13Kissinger, 2003, trang 543.
                          14Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 167.
                          15Trần Văn Trà, 1982, trang 281-282.
                          16Larry Berman, 2001.
                          17Năm 1964 khi bị "chỉnh lý" bởi Tướng Nguyễn Khánh, "Quốc trưởng" Nguyễn Khánh phong cho ông hàm đại tướng, nhưng ông Minh và những người của ông không thừa nhận nên về sau có người gọi ông là đại tướng có người vẫn gọi ông là trung tướng.
                          18Sau khi ông Dương Văn Minh rời Việt Nam, Mười Ty đã có những báo cáo với tư cách là Đại tá Dương Thanh Nhựt, nói rằng anh mình đã biến chuyển rất nhiều bởi “binh vận”.
                          19Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, mất tại Boston, Mỹ.
                          20Trong cuốn Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, Tướng Trần Văn Trà đánh giá: “Còn Minh, có lẽ do bản chất có phần thật thà, tin vào phù phép của tả phò Martin và hữu trợ Mérillon, nên đã bị chúng gạt ra rìa từ lâu mà đến giờ chót còn cố vươn vai gánh chịu cái đầu hàng vô điều kiện”(trang 283).
                          21Là một nhà nghiên cứu lịch sử có nhiều công trình khảo cứu hết sức giá trị, ông Nguyễn Đình Đầu cho đến tận cuối đời vẫn giữ được tờ Sự Vụ lệnh do cụ Hồ Chí Minh ký, cử ông vào Nam mua gạo cứu đói năm 1945. Về sau, ông theo những người Công giáo di cư vào Nam. Hành động gợi ý và nhận lãnh vai trò “đi sứ” vào trại Davis của ông có lẽ nhờ sự mẫn cảm
                          thời cuộc hơn là được giao nhiệm vụ. Về sau khi có tờ báo nói ông là tình báo viên của miền Bắc, ông Nguyễn Đình Đầu nói ông cảm thấy như là bị xúc phạm.
                          22Tuyên bố ngày 26-4 gồm hai nội dung chính: “Mỹ phải thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris (ngừng bắn), tôn trọng quyền dân tộc căn bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xóa bỏ bộ máy chiến tranh và bộ máy kìm kẹp, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam”.
                          23Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X, Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
                          24Sau 1975 là phó giám đốc Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh.
                          25Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 176.
                          26Xem Phụ lục 1: Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384.
                          27Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng, sinh viên Nguyễn Hữu Thái và nhà báo Cung Văn đến Dinh Độc Lập sau khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố ngừng bắn trên đài phát thanh. Họ là những người hoạt động bí mật hoặc hoạt động trong các phong trào do phía Cách Mạng lập ra trước năm 1975.
                          28Theo Đại tá Bùi Văn Tùng: “Những ngày đầu đài báo của mình không nói rõ ai là người cắm cờ, nên đã xảy ra tranh chấp giữa Bùi Quang Thận và đại úy Phạm Xuân Thệ. Trung tá Lữ đoàn trưởng 203 Nguyễn Tất Tài, lúc này đã trở thành Phó Bảo Tàng Quân đội, hỏi anh Thệ: ‘Vậy anh có giữ lá cờ Ba que không?’. Anh Thệ đưa ra một lá, anh Thận đưa ra một lá, cả
                          hai cùng rách diềm. Ông Tài, trong ngày 30-4 đã cẩn thận leo lên nóc Dinh, gỡ diềm ‘cờ Ba Que’ còn vướng lại rồi lặng lẽ cất đi. Ông Tài cho trải cả hai lá cờ ra, ráp diềm vào mới xác nhận được lá cờ anh Thận giữ là lá cờ cuối cùng được Chính quyền Sài Gòn treo trên nóc Dinh Độc Lập”.
                          29Tạp chí Xưa & Nay, số 258, tháng 4-2006, và số 264 tháng 7-2006
                          30Sau chiến tranh là công nhân Phòng Thị chính, Thị xã Thanh Hóa.
                          31Xưa & Nay, số 258 và 264, 2006.
                          32Giữa năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ, lúc này đã đeo quân hàm thiếu tướng lên tiếng trên báo Quân đội Nhân dân nhận rằng chính ông là người bắt sống nội các Dương Văn Minh và tự tay thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh đọc.
                          Ngày 19-10-2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Quân sự đã tổ chức “Tọa đàm khoa học xung quanh sự kiện đánh chiếm Dinh Độc lập ngày 30-4-1975" nhưng không mời các nhân chứng có mặt trong Dinh và Đài phát thanh tại thời điểm trưa 30-4-1975; không mời các cán bộ, chiến sỹ của Lữ 203 và đơn vị đặc công 116. Để rồi, ngày 17-1-2006, Viện Lịch sử Quân sự đã ra kết luận cho rằng “Tại Đài phát thanh đồng chí Phạm Xuân Thệ cùng các cán bộ, chiến sỹ Trung đoàn 66 tổ chức soạn thảo lời Tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh. Văn bản đang được soạn thảo thì trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn tăng 203 xuất hiện, Từ đó, bộ phận cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 dưới sự chỉ đạo của đồng chí Bùi Văn Tùng tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh lời Tuyên bố đầu hàng”. Ngay sau khi công bố, Kết luận của Viện Lịch sử Quân sử đã bị ông Bùi Văn Tùng, các các sỹ quan, chiến sỹ trên xe tăng 390 và kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, người có mặt tại Đài phát thanh trưa 30-4-1975, phản đối (nhiều ý kiến đăng trên hai số báo Xưa & Nay, 258- tháng 4-2006, và 264 tháng 7-2006).
                          33Người ghi âm những tuyên bố lịch sử này là ông Nguyễn Nhã. Lúc bấy bấy giờ, ông Nguyễn Nhã là giáo sư sử địa Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, thuộc Đại học Sư phạm Sài Gòn, chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san Sử Địa, Đại học Sư phạm.
                          34Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 1996, có tham khảo hồi ký “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” của Thượng tướng Trần Văn Trà.
                          35Xem Phụ lục 2: Tướng Big Minh sau 1975.
                          36Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
                          37Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đơn vị đánh vào Cần Thơ, Vĩnh Long trong ngày 30-4-1975.
                          38Phạm Văn Trà, 2009, trang 237-238.
                          39Theo Văn Tiến Dũng: “Chán nản và tuyệt vọng, Trần Văn Hai tự sát vào lúc 3 giờ sáng ngày 1-5-1975”, tuy nhiên những người thân cận Tướng Trần Văn Hai nói ông tự sát vào chiều 30-4.
                          40Văn Tiến Dũng, 1976, 305.
                          #13
                            hai1957 04.01.2013 11:32:04 (permalink)
                            Chương II: Cải tạo


                            Sau hai mươi năm chia cắt, lịch sử đã đặt nhiều gia đình miền Nam vào những tình huống vô cùng nghiệt ngã. Có những gia đình trong khi vui mừng đón đứa con “nhảy núi” trở về thì đứa con “nguỵ” đang phấp phỏng nằm chờ trên gác; có những cán bộ cao cấp từ Hà Nội vô mới biết đứa con mà khi tập kết mình để lại đã trở thành “lính nguỵ”. Dù 175 nghìn khẩu súng các loại đã được giao nộp ngay trong mấy ngày đầu tiên sau 30-4, nhưng hơn nửa triệu sỹ quan, binh lính Việt Nam Cộng Hòa tan rã thì vẫn đang nhà ai nấy ở. Tất cả đều căng ra chờ đợi.


                            Những ngày đầu

                            Lữ đoàn 203 được lệnh rút về Long Bình lúc 5 giờ chiều ngày 30-4, nhường công việc chiếm đóng Dinh và bảo vệ Sài Gòn cho Quân đoàn IV. Nhưng, theo ông Bùi Văn Tùng, gần một trăm chiếc tăng của ông đã không thể di chuyển, vì giờ đó người dân Sài Gòn bắt đầu đổ ra đường. Sau những giờ phút căng thẳng nhất, như sợi dây căng hết cỡ đã đứt tung ra, mọi người Việt Nam, kể cả những người lính, cho dù ở phía nào, đều cảm thấy chiến tranh kết thúc!

                            Chiến tranh kết thúc. Cái cảm giác ấy, thoạt tiên cũng im ắng như thành phố lúc vừa thôi tiếng súng, đột nhiên vỡ tung. Dòng người òa ra, tràn ngập đường phố. Một vài thanh niên, học sinh mạnh dạn tiến vào vườn hoa trước Dinh Độc Lập, sờ vào những chiếc tăng T54, những chiến xa bấy giờ đã không còn phải bắn, đang nằm lặng lẽ. “Việt Cộng” trên những chiếc xe tăng vừa húc đổ cánh cổng cuối cùng, giờ đây, vừa có cái cảm giác viên mãn của những người chiến thắng, vừa có cái nhẹ nhõm của những người lính đã bước qua ngưỡng của sự khốc liệt, trở nên độ lượng, hiền lành. Thái độ này của các “chú bộ đội” đã kéo đoàn người đến với những chiếc T54 đông dần lên. Họ bắt đầu tìm hiểu những khái niệm về “Việt Cộng”, nhiều người “tiến lên”, hỏi thêm về “miền Bắc”. Chưa ai thực sự biết điều gì sẽ xảy ra cho thành phố, cho mình, nhưng vẫn thấy nhẹ nhõm và có không ít người còn cảm thấy mừng.

                            Đêm 30-4, ở khu vực trường Petrus Ký mất điện một lúc. Một vài chiếc tăng của Quân Giải phóng được lệnh chạy ra đường để “thị uy”. Sáng 1-5, mới khoảng 7 giờ, công chức, giáo viên Petrus Ký thấy “Cách mạng” đóng trong trường, lục tục ra “trình diện”. “Quân quản” lúc bấy giờ ai nấy vẫn còn bận đồ bà ba đen, tỏ ra rất lúng túng. Ông Kiệt giao cho ông Dương Minh Hồ, cán bộ Văn phòng Thành ủy, đi kiếm bộ đồ “coi được” ra tiếp các thầy cô giáo.
                            Ngay trong đêm 30-4, những cán bộ của Đài Phát thanh Giải Phóng từ trên R về đã tiếp quản Đài Phát thanh Sài Gòn và phát sóng những mệnh lệnh đầu tiên của Ủy ban Quân quản về trật tự, an ninh, về thu nạp vũ khí chất nổ. Đa số các “lệnh” đã được ông Hà Phú Thuận, chánh Văn phòng Trung ương Cục, “soạn thảo” theo chỉ đạo của Đảng Uỷ Đặc biệt từ khi còn ở trên R.

                            Không chỉ có niềm vui của những người đi từ trong rừng ra. Trong những ngày đầu, một số quan chức của Chính quyền Sài Gòn cũng nuôi hy vọng. Tiến sỹ Nguyễn Văn Hảo là một trong số đó. Trưa ngày 30-4-1975, ông Hảo có mặt ở Dinh Độc Lập vì cho đến khi chiếc tăng 390 cán lên thềm Dinh, Chính phủ của Tổng thống Dương Văn Minh vẫn chưa kịp nhận bàn giao. Khi ấy, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã di tản. Ông Hảo, Phó thủ tướng, trở thành người còn lại có cương vị cao nhất trong Chính quyền Trần Văn Hương.

                            Trước đó ít hôm, ông Hảo có kêu ông Hồ Ngọc Nhuận. Khi ông Nhuận tới nhà, ông Hảo bỏ bữa cơm tối, đưa ông Nhuận lên lầu và nói: “Tôi có việc muốn nhờ ông truyền đạt đến Cách mạng. Một là về mười sáu tấn vàng, người ta nói ông Nguyễn Văn Thiệu mang đi, nhưng thật sự là tôi đã giữ lại được 41. Hai là về nạn thất thoát chất xám. Tôi đã thuyết phục được một số anh em chuyên viên, trí thức ở lại, nhưng không xuể. Cách mạng phải làm gì đó, phải nói cái gì đó càng sớm càng tốt”.

                            Sáng 3-5-1975, Ủy ban Quân quản ra thông báo: “Cuộc tổng tiến công nổi dậy của quân dân miền Nam ta nhằm đập tan ngụy quyền tay sai Mỹ đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã hoàn toàn giải phóng. Để nhanh chóng ổn định trật tự an ninh trong thành phố, xây dựng trật tự cách mạng mới, củng cố và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để nhanh chóng khôi phục và ổn định đời sống bình thường của các giới đồng bào trong thành phố Sài Gòn - Gia Định. Căn cứ quyết định của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, chúng tôi xin thông báo danh sách Uỷ ban Quân Quản thành phố Sài Gòn - Gia Định”.

                            Ủy ban Quân quản lúc ấy gồm chủ tịch - Thượng tướng Trần Văn Trà, và các phó chủ tịch - Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Thiếu tướng Hoàng Cầm, Thiếu tướng Trần Văn Danh và ông Cao Đăng Chiếm. Khi chiến dịch bắt đầu, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam đã tuyên truyền
                            về việc sẽ lập ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần”. Tuy nhiên, khi cờ đã được cắm trên Dinh Độc Lập, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định dẹp bỏ ý tưởng này. Ngày 1-5-1975, Tố Hữu đã chuyển “lệnh” tới Trung ương Cục: “Gửi anh Tám, anh Bảy [Nhờ Trung ương Cục chuyển anh Tám]. Xin báo để các anh biết: Theo ý kiến anh Ba42, về Chính phủ, không còn vấn đề ba thành phần. Cấu tạo Chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho quần chúng thấy rõ sức mạnh, thế mạnh của cách mạng; ta vừa phát động quần chúng lại vừa buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược. Chính phủ thể hiện tinh thần đó phải gồm ta và những người yêu nước, thật sự tán thành lập trường hoà bình độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc, thống nhất Tổ quốc của ta. Bộ Chính trị chủ trương đối với những người đã đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn thì không bắt, nhưng cần có cách quản lý, giám sát, ta chỉ trừng trị bọn phá hoại hiện hành… trong khi phát động phong trào quần chúng hành động cách mạng, chú ý chọn lọc, bồi dưỡng cốt cán trong quần chúng. Để có đủ cán bộ kịp tung ra phát động quần chúng, nên chọn một số cán bộ của Đảng, đoàn thể và cán bộ quân đội, huấn luyện ngắn ngày về chính sách, về phương pháp công tác, về kỷ luật. Khi tổ
                            chức lễ mừng trong cả nước, theo ý kiến Bộ Chính trị, nên có đoàn đại biểu miền Nam ra dự mít tin ở Hà Nội và có đoàn Miền Bắc vào dự ở Sài Gòn. LÀNH43”.

                            Ngày 6-5-1975, ông Võ Văn Kiệt đi cắt tóc chuẩn bị lễ ra mắt Ủy Ban Quân quản. Người thợ cắt tóc thấy một ông đứng tuổi đi xe U-oát tới, trong khi cắt tóc có bộ đội đứng chờ, tuy không biết rõ ông là ai, nhưng cắt tóc cho ông xong, đã lễ phép cúi chào, ông trả tiền thế nào cũng không chịu lấy. Xe U-oát của ông Kiệt đi tới đâu, người dân tránh ra nhường chỗ rộng rãi cho đi. Những xe khác của “Quân Giải Phóng” cũng được cư xử như vậy. Nhiều tuần sau đó, “các chú bộ đội” đi xe buýt không phải trả tiền và người dân bắt đầu làm quen với những chiếc xe quân sự chạy vô đường cấm. Ông Võ Văn Kiệt nhớ lại: “Lúc đó, uy thế của cách mạng trùm lên tất cả”. Ngay cả những “tên ác ôn”, kẻ cướp giật, các băng nhóm cũng chỉ lo giữ thân hoặc xem xét, theo dõi. Nhưng cũng có những người quá hăng hái. Hầu hết đàn ông trong cư xá Ngân hàng tại An Phú, Thủ Đức nơi ông Huỳnh Bửu Sơn cư ngụ giờ đó đã di tản hoặc bị đưa đi cải tạo. Một người gác-dan, lâu nay vẫn được gọi là “thằng Vàng”, bỗng dưng
                            xưng một cái danh rất kêu, nhảy ra nắm lấy chức Trưởng ban Quản trị Cư xá. Những phụ nữ còn lại trong Cư xá, vốn lâu nay được coi như là các mệnh phụ phu nhân, không chịu. Họ họp lại và bầu ông Huỳnh Bửu Sơn lên thay. Ông Sơn nhanh nhảu gửi lên xã báo cáo kết quả ông được bầu chọn là Trưởng Ban. Báo cáo được đóng dấu từ con dấu mà Cư xá vẫn dùng từ trước. Lập tức, ông Huỳnh Bửu Sơn bị triệu tập. Ông vừa ngồi xuống ghế, đã có hai bộ đội xách AK ra hỏi: “Anh biết tội gì không?”. “Dạ không”. “Cách mạng đã giải phóng rồi mà anh vẫn còn sử dụng con dấu của Ngụy. Tội anh đáng bắn. Nhưng thôi, từ nay, ông này là Trưởng Ban”. Người bộ đội nói rồi chỉ tay qua ông Vàng, hình như đã có mặt ở đấy từ trước. Câu chuyện của ông Huỳnh Bửu Sơn không phải là hy hữu. Ngày 29-6-1975, một cuộc “đấu tố” với hơn “2000 dân” đã được nhóm họp trước chợ Thanh Đa: “Đồng bào đã sôi nổi tố cáo những tên Lô trưởng Cư xá, điển hình là Lê Văn Minh, Trưởng Lô 9, nguyên là một viên chức Ngụy quyền, nay tự xưng là người của Cách mạng… Phát huy tinh thần làm chủ Cư xá, đồng bào đã yêu cầu chánh quyền loại bỏ 24 tên lô trưởng phản động do Ngụy quyền để lại”44.

                            Cuộc cướp chính quyền sớm nhất ở Sài Gòn được nói là đã diễn ra vào lúc 7 giờ sáng ngày 30-4-1975 tại phường Trần Quang Khải, quận Một. Chi bộ Đảng bí mật ở đây đã cho vây bót Tân Định, tước vũ khí của những cảnh sát vào giờ ấy chỉ mong sớm được về với gia đình. Ngay sau khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố Bàn giao chính quyền, ở Quận 11, cờ cũng được cắm trong Dinh Quận trưởng. Tiến trình “cướp chính quyền” và xây dựng chính quyền thường được bắt đầu như trường hợp ở phường Cây Bàng: “Khi tiếng súng của quân Giải phóng bắn tới tấp vào các căn cứ quân sự của địch, nhân dân Phường Cây Bàng đồng lòng nổi dậy phá kềm, truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay mình và tràn ra đường đón
                            chờ quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo, hoan hô nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tự quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn trương xây dựng. Đến nay, 2-5, Phường Cây bàng đã thành lập xong Tổ An ninh, Hội Mẹ giải phóng, Tổ Thông tin Tuyên truyền, Tổ Y tế và Uỷ ban tự quản. Đang xúc tiến thành lập Tổ Cứu đói và Phòng chống Hoả hoạn”45.

                            Trước 30-4-1975, tại Sài Gòn có 735 đảng viên tại chỗ. Trung ương Cục bổ sung thêm 2.820 cán bộ đảng viên từ trong các cơ quan của R về. Nhưng đến cuối tháng 5-1975, số đảng viên đã nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Những chiến sỹ cách mạng nằm vùng, những người từ trong các căn cứ kháng chiến ra và các “cán bộ 30-4”, nhanh chóng nắm giữ các vị trí then chốt của thành phố, kiểm soát Đài Phát thanh, thành lập báo Sài Gòn Giải Phóng và điều hành một hệ thống đoàn thể xuyên suốt từ Thành phố cho đến các thôn ấp.

                            Không chỉ có “Cách mạng 30-4”, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, không ai trong số những người tiếp quản Sài Gòn năm 1975 có kiến thức về quản lý nhà nước. Mục tiêu lớn nhất đặt ra trong những ngày đầu là nhanh chóng ổn định trật tự xã hội, ổn định chủ yếu bằng các giải pháp chính trị. Riêng các cơ sở kinh tế, giáo dục, y tế… thì dự định từ trong R là sẽ để cho các ngành, chủ yếu từ miền Bắc vào, tiếp quản những cơ sở có liên quan đến ngành mình.



                            “Ngụy Quyền”


                            Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục: “Khi tiếp quản miền Bắc, cụ Hồ cho lưu dụng hầu hết các viên chức trong bộ máy hành chánh cũ và bảo lưu mức lương cũ còn cao hơn cả lương chúng tôi. Cụ Hồ còn đảm bảo tính kế thừa nhà nước bằng cách công nhận hiệu lực tiếp tục của một số sắc luật có từ thời Pháp. Công việc xây dựng chính quyền mới, vì thế không nặng như khi chúng tôi làm ở Sài Gòn”.

                            Hệ thống hành chánh của Sài Gòn bắt đầu được thiết lập quy củ từ thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông Diệm vốn là một quan Thượng thư Triều Nguyễn, nhưng khi nắm quyền đã thay đổi phương thức tuyển chọn quan lại thông qua các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình, bằng việc thành lập trường Quốc Gia Hành Chánh. Trường Quốc Gia Hành Chánh đào tạo: tham sự, hệ hai năm cho các chức vụ như trưởng ban, trưởng phòng của các ty; đốc sự, hệ bốn năm cho các chức vụ phó quận, trưởng ty; và bậc cao học cho các viên chức hành chánh cấp bộ. Cho đến năm 1960, chức tỉnh trưởng thời ông Diệm vẫn là một viên chức chính trị.

                            Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời, đường lối Cách mạng miền Nam được xác định là phải bằng “con đường bạo lực”, ông Diệm đáp lại bằng cách “quân sự hoá bộ máy”, bổ nhiệm các quân nhân đứng đầu cơ quan hành pháp cấp tỉnh, cấp huyện. Một viên chức từ trường Quốc Gia Hành Chánh ra, đương là quận trưởng, nếu muốn tiếp tục, phải ra Nha Trang học một khóa quân sự sáu tháng. Ngược lại, một thiếu tá tiểu đoàn trưởng có năng lực có thể được bổ nhiệm quận trưởng sau khi trải qua một lớp về bộ binh cao cấp và một lớp sáu tháng về khoa học hành chánh, và sau đó về thực tập sáu tháng dưới quyền một viên phó quận
                            trước khi được bổ nhiệm làm quận trưởng.

                            Tuy nhiên, hành chánh vẫn được coi là một vấn đề cực kỳ chuyên môn, nên dưới thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã có những trì trệ trong việc xử lý nhu cầu hành chánh cho dân, bởi các vị quận trưởng quan tâm đến quân sự hơn. Thủ tướng đã cùng với Bộ Nội vụ ký một hướng dẫn, theo đó, các tỉnh trưởng, quận trưởng phải ủy quyền bắt buộc cho cấp phó. Dưới chế độ Sài Gòn, cấp tỉnh, cấp quận chỉ có một cấp phó và người này phải là đốc sự tốt nghiệp từ Quốc Gia Hành Chánh ra. Ở cấp phường xã, tuy không đòi hỏi phải tốt nghiệp từ trường này, nhưng một xã trưởng, ấp trưởng sau khi được bầu hay một trưởng phường sau khi được bổ nhiệm đều phải đi học sáu tháng ở Trường Đào tạo Cán bộ Xã Ấp. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đánh giá cao vai trò của cán bộ phường xã tới mức ông thường xuyên có mặt trong lễ khai giảng và bế giảng các lớp học này và nói với các học viên: “Tôi là tổng thống trung ương, các anh là tổng thống địa phương”.

                            Tuy nhiên, “Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà từ Trung ương tới địa phương” trước khi có tuyên bố của Đại tướng Dương Văn Minh đã bắt đầu “tan rã”. Khoảng gần 200 nghìn người có quan hệ với người Mỹ hoặc đang làm việc trong bộ máy chính quyền cũ đã kịp thời “di tản” trong vài tuần lễ trước “30-4”. Số còn lại gần như cũng đã ý thức được tình thế của mình, tự động “bỏ trống nhiệm sở”. Nhưng cho dù họ có ở lại, thì với mục tiêu của cuộc chiến tranh kể từ sau Hiệp định Paris là “đập tan bộ máy của chính quyền tay sai”, việc những người chiến thắng sử dụng chuyên môn của những viên chức có trình độ cao trong bộ máy Sài Gòn là điều khó xảy ra. Công Điện ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư xác định đối tượng làm việc trong
                            chính quyền cũ được lưu dụng: “Ta cần có chính sách mạnh dạn sử dụng những người thật thà phục vụ cách mạng, nhất là công nhân, lao động, cán bộ kỹ thuật, trừ những phần tử thù địch, bọn mật vụ, bọn phá hoại hiện hành…”. Theo Chỉ thị ngày 19-4-1975, cũng của Ban Bí thư, với cấp nhân viên, sau khi “được giáo dục” tại phường, xã: “a, Đối với những tên thật thà hối cải thì tạo điều kiện cho họ tiến bộ, lập công chuộc tội; b, Đối với số cảnh sát, cứu hoả thì có thể sử dụng, trừ bọn ác ôn phản động và ta phải đưa cán bộ cốt cán vào để quản lý giáo dục…”. Từ cấp quận phó trở lên, và hầu hết các chỉ huy cảnh sát từ cấp đội trở lên… đều thuộc
                            diện đưa đi tập trung cải tạo dài hạn.

                            Một “đồng chí” được giới thiệu là “trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền” đã từng công khai tuyên bố: “Việc học tập cải tạo đối với công chức, nhân viên nguỵ quyền sẽ phải công phu và gian khổ về tinh thần hơn so với nguỵ quân vì công chức cao cấp nguỵ quyền là những người trực tiếp hoặc tham gia tích cực vào bộ máy kềm kẹp nhân dân. Họ được huấn luyện kỹ càng do đó, ảnh hưởng chế độ cũ về mặt nhận thức và tư tưởng khá sâu”46.

                            Sau ngày “giải phóng”, các chủ trương của nhà nước cũng chủ yếu được vận hành thông qua các phong trào chính trị, cho dù có sử dụng “ngụy quyền” lưu dụng thì kiến thức chuyên môn của họ cũng không biết để làm gì. Chưa kể, trong con mắt của chính quyền, theo “đồng chí Trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền”: “Họ được huấn luyện kỹ càng để tham gia tích cực vào bộ máy kìm kẹp nhân dân”47.


                            “Ngụy Quân”


                            Một tuần sau, ngày 5-5-1975, Ủy Ban Quân quản Sài Gòn ban bố: “Mệnh lệnh số 1 về việc ra trình diện, đăng ký và nộp vũ khí của sĩ quan, binh lính, cảnh sát, và nhân viên ngụy quyền: Điều I: Tất cả các sĩ quan, binh lính, cảnh sát, tình báo mật vụ, nhân viên ngụy quyền trong thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định đều phải ra trình diện và đăng ký. Thời hạn bắt đầu từ ngày 8-5-1975 cho đến ngày 31-5-1975 là ngày cuối cùng. Điều II: Cấp tướng và tá trình diện và đăng ký tại số nhà 213 Đại lộ Hồng Bàng, cấp uý trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng quận, cấp hạ sĩ và binh lính trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng phường. Cảnh sát, công an tình báo mật vụ trình diện và đăng ký tại trụ sở Ban an ninh nội chính thuộc Ủy ban Quân Qủan thành phố Sài Gòn. Nhân viên công chức làm việc tại nhiệm sở nào trình diện và đăng ký tại nhiệm sở nấy. Điều III: Khi ra trình diện và đăng ký nhất thiết phải mang nộp chứng minh thư, các loại giấy tờ cá nhân, tất cả vũ khí, trang bị, hồ sơ tài liệu, phương tiện, ngân quỹ… Điều IV: Người nào, nhà nào, tập thể nào, cơ sở nào có giữ vũ ,khí chất nổ và các phương tiện, khí tài thông tin đều phải tới khai và nộp tất cả. Điều V: Mệnh lệnh này phải được triệt để chấp hành đến 24 giờ ngày 31 (ba mươi mốt) tháng 5 (năm) năm 1975, những người không ra trình diện cố tình lẩn trốn sẽ bị nghiêm trị, những người đã ra trình diện, đăng ký nhưng còn khai gian, giấu diếm võ khí tài liệu, phương tiện nghĩa là chưa thành thật, sau này phát hiện ra thì xem như chưa tuân lệnh, người nào đăng
                            nạp vũ khí, tài liệu, khí tài vật tư quý giá và phát hiện nhiều vấn đề có giá trị khác sẽ được xem xét khen thưởng xứng đáng. Tất cả những người đã ra trình diện đăng ký tạm thời trước khi có lịch này đều phải làm đăng ký chánh thức lại theo mệnh lệnh này. Sài Gòn, ngày 5-5-1975/Thay mặt Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn- Gia Định/Chủ tịch/Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ.”

                            Việc ra trình diện không kéo quá dài như dự kiến. Chỉ trong vòng năm ngày, đã có 23 viên tướng có mặt tại Sài Gòn tự động đến Trung tâm Dự bị Viện Đại học Sài Gòn: Tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3; Tướng trẻ Trần Quốc Lịch, 40 tuổi, tư lệnh Sư 5; Tướng Phan Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động Quân khu II; Tướng Hồ Trung Hậu, nguyên phó tư lệnh Sư Đoàn Dù… Nhưng chủ yếu là những viên tướng đã nghỉ hưu từ trước: Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Sằng, Trung tướng Lê Văn Nghiêm… Cũng có những người đã thôi chức từ rất lâu như Trung tướng Lê Văn Kim, về hưu từ năm 1964; Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ, nguyên Tổng trưởng Quốc phòng, về hưu từ năm 1972; Thiếu tướng Lâm Văn Phát, người từng bị Sài Gòn kết án tử hình vắng mặt từ năm 1965…

                            Trong thời điểm khắc nghiệt nhất của chế độ Sài Gòn, những người “ngoan cố” đã ra đi hoặc đã tuẫn tiết như Tướng Lê Văn Hưng, phó tư lệnh; Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV và một số tỉnh trưởng Miền Tây khác. Những người còn lại ở lại và chấp nhận những gì sẽ đến với mình48.

                            Ở Sài Gòn, 443.360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, 9.306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4.162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.

                            Gần một tháng sau sau Lệnh Trình diện, ngày 10-6-1975, Uỷ Ban Quân quản ra thông cáo “Về việc Học tập Cải tạo Sỹ quan, Hạ sỹ quan, Binh lính và Nhân viên Quân đội Ngụy, Tình báo, Cảnh sát và Ngụy quyền đã trình diện đăng ký”. Theo đó: Tất cả hạ sỹ quan binh lính và nhân viên quân đội Nguỵ thuộc các quân binh chủng tại Sài Gòn-Gia Định, tình báo cảnh sát và nhân viên Nguỵ quyền quận, phường, khóm, xã, ấp đã trình diện đăng ký phải đi học tập cải tạo trong ba ngày kể từ ngày 11-6-1975 đến ngày 13-6-1975. Nhân viên Nguỵ quyền từ trưởng phó phòng trở xuống thuộc các phủ, bộ, vụ, viện, nha, sở, ty… đã đăng ký đi học tập từ ngày 18 đến ngày 20-6-1975. Thời gian học tập liên tục từ 7 giờ đến 16 giờ [giờ Đông
                            Dương] trưa nghỉ một giờ. Người đi học tự mang thức ăn trưa và chiều, sau khi học, về nhà nghỉ. Lệnh học tập này phải được tuyệt đối chấp hành ai không đi học tập cải tạo đúng thời hạn coi như phạm pháp.

                            Cũng trong ngày hôm ấy, lệnh học tập cải tạo được thông báo đến các sỹ quan theo đó, “sỹ quan quân đội Nguỵ, cảnh sát, tình báo biệt phái từ thiếu uý đến đại uý” được hướng dẫn: “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật dụng cá nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong mười ngày kể từ ngày đến tập trung”. “Sỹ quan cấp tướng, tá”, được hướng dẫn mang theo “thực phẩm, lương thực đủ dùng trong một tháng”.
                            Từ ngày 11-6, tất cả hạ sỹ quan binh lính đã đến các địa điểm trong Thành phố học tập và họ cảm thấy yên tâm khi thời gian học tập chỉ có ba ngày, đúng như thông báo và cách tiến hành thì mang tính “học tập” nhiều hơn là “cải tạo”. Báo chí bắt đầu được sử dụng để trấn an những sỹ quan còn có chút băn khoăn lo lắng trong lòng.

                            Bài xã luận “Tiếp tục cải tạo để trở thành người công dân chân chính” đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 17-6-1975 viết: “Đợt học tập cải tạo của binh lính, hạ sỹ quan nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền mở ra đã được mấy ngày. Trong các thu hoạch của các học viên, có một điểm chung làm mọi người chú ý: hầu hết đều phát biểu thừa nhận mình trước kia dù làm bất cứ việc gì trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền, đều là những người có tội với nhân dân, với cách mạng. Họ đều hứa sẽ tự cải tạo mình thành những con người tốt. Cuộc học tập này đã làm cho phần lớn binh sỹ nguỵ biết phân biệt ai là địch, ai là ta. Sự phân biệt này rất quan trọng. So với trước khi học đây là một bước tiến bộ đầu tiên của binh lính nguỵ quân và nhân
                            viên nguỵ quyền. Nhưng cũng chỉ là một bước tiến đầu tiên mà thôi. Phân biệt được địch, ta, hứa phấn đấu để trở thành người tốt, mới chỉ là tiến bộ về mặt nhận thức, mới chỉ là sự bày tỏ thái độ. Họ có thật sự tiến bộ hay không? Thái độ của họ có thành thật hay không? Hay giả vờ tiến bộ, giả vờ hứa hẹn cốt cho qua cửa ải này, rồi trà trộn vào cộng đồng dân tộc với những tư tưởng thù địch với dân tộc? Đối với những con người đã từng bị giặc Mỹ nhồi nhét những tư tưởng xấu xa, ý thức chống nhân dân, chống cách mạng trong suốt hai mươi năm qua thì làm sao họ có thể gột rửa hết trong ba ngày học tập? Vì vậy, cách mạng tạo cho họ điều kiện để chứng minh sự tiến bộ của mình bằng hành động. Nhân dân ta đã có kinh nghiệm: đánh giá một con người phải căn cứ trên hành động của họ. Ta giáo dục họ những tư tưởng đúng, là cốt để họ làm đúng chứ không chỉ để nói đúng mà thôi”.

                            Một bài báo khác dẫn lời anh Trần Văn Lành, một trung sỹ quân nhu, nói: “Trước khi đi học tập, tôi đã tưởng là sẽ bị ngược đãi, bị hạ nhục và có thể bị đánh đập nữa”49. Nhưng, “điều đó đã không xảy ra” và sau học tập, anh Lành đã được cấp “Giấy công nhận hoàn thành học tập cải tạo” - tờ giấy có giá trị công nhận những người “lính Ngụy” bắt đầu được “trở lại làm người” trong chế độ mới. Một người khác, được giới thiệu là “Binh nhất Lê Công Đắc”, thì cho rằng: “Qua cuộc học tập này, chính quyền cách mạng đã dắt chúng tôi ra khỏi nơi tối tăm, đưa chúng tôi về với nẻo chính nghĩa”50. Những phát biểu này được các sỹ quan theo dõi sát và khi thấy sau “ba ngày học tập” binh lính được trở về nhà, thấy “cách mạng đã làm
                            những gì cách mạng nói”, các sỹ quan đã yên tâm hơn.

                            Không ai biết rằng, từ ngày 18-4-1975, Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư đã quy định: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sỹ quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu cầu của ta và tuỳ theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo an ninh quân đội, sỹ quan tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sỹ quan hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ”51.

                            Ở nhiều địa phương, một số “tên ác ôn đầu sỏ” đã được “xử lý” ngay và chỉ vài ngày sau 30-4, các sỹ quan gần như đã được đưa đi cải tạo. Tuy nhiên, Sài Gòn, nơi tập trung gần nửa triệu sỹ quan và binh lính chế độ cũ, nơi tập trung sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước, nên mọi quyết định đều được Trung ương Cục và Đảng ủy Đặc biệt bàn bạc lên kế hoạch.
                            Ngay trong phòng làm việc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung ương Cục đã bàn cách đưa các sỹ quan của ông đi “cải tạo lâu dài”. Kế hoạch được gọi là Chiến dịch X-1. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: Việc công bố ba mức thời gian học tập - hạ sỹ quan binh lính, ba ngày; cấp úy, mười ngày; tướng, tá, một tháng - là có ý để cho các đội tượng ngầm hiểu rằng, thời gian học tập tối đa của các sỹ quan chỉ là một tháng. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, năm ấy là một sỹ quan biệt phái với quân hàm đại úy, thuộc diện “học tập mười ngày” viết: “Hầu hết đều bình thản đến cổng, xin vào. Có người cưng con gái đi theo đỡ đần con rể. Có người thuộc diện “ba ngày” tiễn đưa bạn, ngồi quán nhậu ngà ngà cũng theo bạn vào cổng cho vui. Có người giải ngũ nằn nì xin ‘đi học để có cái giấy về dễ làm ăn’. Nhưng, qua con ngựa sắt là
                            dòng sông không trở lại”52.

                            Nơi tập trung của ông Tạ Chí Đại Trường là một trường học, ông viết: “Sáng 23- 6-1975, tôi đi vòng giã từ phố phường rồi cầm khúc bánh mì đến công trường Taberd. Mười giờ 30 sáng. Hai viên sỹ quan cầm súng lặng lẽ chỉ lối vào. Ngoài đường vắng, cổng trường kín chỉ chừa chỗ lách, không thể biết bên trong có gì”53. Những “sỹ quan cấp úy” ấy đã bình thản đến guichet (quầy) nộp “tiền ăn mười ngày”, lấy biên lai… cho đến khi vào hành lang, cán bộ tới ra lệnh bỏ đồ kim khí ra, mới thấy có “cái gì nặng nề lảng vảng”, rồi khi “trời càng về khuya, mưa tầm tã” thì “bắt đầu mới rùng mình”. Đại úy Tạ Chí Đại Trường viết: “Tôi mang mùng giăng trên tầng gác hội trường nhưng không ngủ được. Từ trên gác nhìn ra bóng tối nhiều hơn ánh sáng… Ánh đèn pha trải dài trên sân nước. Một vài người lính đi lại mang B40 lắp đầu đạn khiến cái bóng càng dài ra”54. Tối 25-6, Đại úy Trường cùng các chiến hữu nhận được lệnh di
                            chuyển, “Có người dẫn ra đường. Vắng ngắt. Xe đậu dài ngút”. Rồi, thay vì “học tập mười ngày”, ông thầy dạy sử Tạ Chí Đại Trường đã phải trải qua các trại từ hôm ấy cho đến tháng 6-1981.

                            Mười ngày, một tháng qua nhanh. Không ai nhận được bất cứ tin tức gì liên quan đến những người thân bị đưa đi học tập. Rồi đột nhiên, một sỹ quan được tha về, người đó là Cựu Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Nguyễn Văn Vỹ. Vừa ra khỏi trại, Tướng Vỹ phát biểu: “Chúng tôi ăn còn ngon hơn bộ đội. Tôi mong những người có thân nhân đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tưởng Cách mạng, đừng tin ở những lời đồn vô căn cứ”55. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người mà ngay hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: “Tôi hiểu rõ quân đội trong này lắm, tệ
                            lắm, xấu lắm; và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội Cách mạng rất kỷ luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát gì hết. Cách mạng vào yên ổn, thanh bình ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng”56.

                            Ở thời điểm Tướng Vỹ phát ngôn trên báo, dân chúng không cần phải nghe tin đồn, chồng con họ bặt vô âm tín đã hơn ba tháng cho dù “Cách mạng nói” sĩ quan cấp úy chỉ đi học tập “mười ngày”, cấp tá chỉ đi “một tháng”. Tuy nhiên, đấy cũng chưa phải là thời điểm mà những người ở nhà hay ở bên trong hàng rào dây kẽm gai tuyệt vọng. Chính quyền biết điều đó và Tướng Vỹ được tha để nói những lời có giá trị trấn an. Đồng thời, “các sỹ quan và nhân viên ngụy quyền” bắt đầu được phép và được động viên viết thư về nhà.

                            Đầu tháng Bảy, báo Giải Phóng, tờ báo trong R của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, cho đăng lá thư của ông Trần Văn Tức “nguyên là đại úy cảnh sát ở Côn Sơn”, gửi vợ là bà “Nguyễn Bích Thủy, ở số 52-54 Nguyễn Khắc, Sài Gòn 2”. Khi cho đăng lá thư, tờ Giải Phóng nói rõ là “để bạn đọc hiểu thêm cuộc sống hiện nay của các sĩ quan (trong quân đội ngụy trước đây) đang học tập cải tạo” 57. Thông điệp mà Chính quyền muốn gửi qua bức thư này được lồng vào một cách vụng về: “À, ở thư trước anh quên dặn em là đừng tin lời đồn nhảm của bọn phản động của bọn ngụy tuyên truyền làm cho em và ba má ở nhà hoang mang lo sợ. Nếu người nào nói xuyên tạc đó là bọn lưu manh thừa dịp để làm tiền hoặc bọn ngụy phản cách mạng, em nên đến chánh quyền cách mạng tố cáo họ. Anh cố gắng học tập cải tạo
                            tốt để chánh phủ cách mạng khoan hồng cho những đứa con lạc lối được thành người công dân chân chính và sớm về đoàn tụ với gia đình tăng gia sản xuất”58.

                            Hơn một tháng sau, tờ Tin Sáng có bài phỏng vấn bà “LQL”, người vừa trở lại Sài Gòn sau chuyến thăm chồng là “Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến Ngụy”. Tờ Tin Sáng không nói rõ chị L thăm chồng ở trại nào và chồng chị là ai, chỉ giới thiệu: “Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27-3 vừa qua”. Câu chuyện ở trại cải tạo được tờ Tin Sáng dẫn dắt cho thấy không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại hè59. Bài phỏng vấn kết thúc bằng lời dặn dò của người chồng: “Em yên trí về lo làm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và gái, đã làm hai đứa thường mất hạnh
                            phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất điều hòa và lành mạnh như em đã thấy, chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước”.

                            Người phỏng vấn, phóng viên Phan Bảo An, sử dụng những ngôn từ như “tên tướng ngụy…”, khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn từ “R” về hoặc từ Bắc vào. Nhưng Phan Bảo An là bút danh của ông Phan Xuân Huy, một cựu dân biểu Sài Gòn. Ông Phan Xuân Huy nói rằng cuộc phỏng vấn ông thực hiện được là tình cờ chứ không phải do Chính quyền sắp xếp 60; tuy nhiên, về sau ông mới phát hiện ra “người vợ” là con của một gia đình Cách mạng.

                            Cho đến tháng 9-1975, chỉ những người có nhân thân rất đặc biệt mới có thể vào trại thăm thân nhân. Lá thư của “ông Trần Văn Tức gửi vợ là bà Nguyễn Bích Thủy” trùng hợp với thời gian mà ở các trại cải tạo, “ngụy quân, ngụy quyền” được yêu cầu viết thư về nhà. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thời gian này đang cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh, kể: “Thư hàng tháng được coi như là một ân huệ của Nhà nước ban cho người có tội phải cải tạo,‘dựa trên ý thức truyền thống thông cảm với tình gia đình đậm đà của người dân Việt Nam’… Thư gửi được quản giáo kiểm duyệt. Nội dung thư cứ phải nói ‘học tập tốt, lao động tốt’ và phải động viên gia đình”61.



                            “Đoàn tụ”


                            Có lẽ không mấy gia đình ở miền Nam không đồng thời có người thân vừa ở phía bên này vừa ở phía bên kia. Và có lẽ không có ở đâu, ý thức hệ lại chia cách tình thân đến thế. Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam Tổng Phát hành, có cậu ruột là một cán bộ cộng sản nổi tiếng, ông Mai Văn Bộ, nhưng vẫn không thoát vòng lao lý. Ở đề lao Gia Định, ông Bộ có vào thăm nhưng người cháu đang bị liệt vẫn tiếp tục bị giam cầm.

                            Nhà văn Doãn Quốc Sĩ là con rể của nhà thơ Tú Mỡ - người có tác phẩm được miền Bắc đưa vào sách giáo khoa phổ thông - nhưng vẫn phải đi tù. Doãn Quốc Sĩ bị tù tổng cộng mười bốn năm, trong thời gian đó ông không được gặp mặt bố mẹ đang sống ở Hà Nội, thậm chí không được gặp cả người anh ruột Doãn Nho là một nhạc sĩ con cưng chế độ.

                            Trung tá Phan Lạc Phúc62 cũng có cùng hoàn cảnh như nhà văn Doãn Quốc Sĩ. Ông Phúc có một người em ruột là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, năm 1962 tham gia đảo chính bất thành, đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Nhưng sau năm 1975, ông Phan Lạc Phúc vẫn phải chịu hơn mười năm cải tạo.

                            Đại úy Dù Phan Nhật Nam63 có cha là ông Phan Văn Trình, vốn là một sỹ quan tình báo được Việt Minh đánh vào Sở Mật thám Liên bang Đông Pháp. Ngày 2-9- 1950, ông Trình đã lập công bằng cách lấy hồ sơ của Sở Mật thám mang ra Việt Bắc. Nhưng, như số phận của nhiều nhà tình báo khác, ông Phan Văn Trình đã không được tin dùng. Ông chỉ là một cán bộ nhỏ công tác ở Hải Phòng và sau năm 1975 về Nam chỉ nhận được chức phó chủ tịch một phường ở Sài Gòn. Đại úy Phan Nhật Nam biết trước là không thể nhờ vả được gì vào bố mình. Bởi chính ông, năm 1973, đã từng gây khó khăn cho bố64. Theo ông Phan Nhật Nam: “Năm 1981, ở Mỹ, khi Mặt trận Hoàng Cơ Minh trao giải cho cuốn sách của tôi, Tù binh và Hòa bình, ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa, từ ngày 7-9-1981, tôi bắt đầu bị cùm trong phòng biệt giam. Trong hoàn cảnh đó, ngày 8-5-1985, khi ba tôi lên thăm, ông vất vả ra Hà Nội chờ xin giấy thăm nuôi tôi ở Cục Quản lý trại giam, thay vì có thể xin ở trại như các tù nhân khác. Cuộc thăm nuôi lại chỉ được diễn ra trong vòng mười lăm phút. Cho dù đó là lần đầu tiên gặp nhau sau hơn ba mươi năm, tôi vẫn nói với ông: Ba vất vả quá, thôi đừng thăm nuôi nữa, đợi khi ra tù, con về”65.

                            Cũng có không ít quan chức Cách mạng thay vì bảo lãnh, đã vận động ngay chính những người trong gia đình mình đi “học tập”. Có người muốn chứng minh với Đảng sự “chí công vô tư”. Có người tin là cần thiết đối với người thân của họ. Thiếu úy Việt Nam Cộng Hòa Lưu Đình Triều có ba mẹ là cán bộ cao cấp của Cách mạng. Năm 1954, lúc Lưu Đình Triều một tuổi, chị gái Triều ba tuổi, anh đã được ba mẹ để lại cho bà ngoại để đi tập kết. Trong suốt hơn hai mươi năm, hai chị em Lưu Đình Triều đã lớn lên như những đứa trẻ mồ côi trong khi ba mẹ mình sống ở Hà Nội trong một phần căn biệt thự trên đường Điện Biên Phủ với sổ mua hàng
                            “Tôn Đản”. Ba anh là ông Lưu Quý Kỳ, vụ trưởng Báo chí Ban Tuyên huấn Trung ương kiêm tổng thư ký Hội Nhà báo. Còn anh, năm 1972, khi Chính quyền Sài Gòn tạm đóng cửa các trường đại học và hạ bớt tuổi hoãn quân dịch của sinh viên, như nhiều sinh viên khác, Lưu Đình Triều bị động viên vào lính. Năm 1975, ông Lưu Quý Kỳ trở về, Lưu Đình Triều nhớ lại: “Bao lần tôi đã nằm tưởng tượng ra cảnh hội ngộ này và nghĩ rằng lúc ấy tôi sẽ hét vang cái tiếng gọi mà tôi đã thèm khát hàng chục năm trời: Ba ơi! Má ơi!”. Nhưng, ngay trong ngày
                            gặp lại, Lưu Đình Triều đã cảm nhận được một “hố sâu thực sự”. Lúc đó, do tình hình đi lại khó khăn, ông Lưu Quý Kỳ về Nam trước, vợ và con ông, những người sinh ra ở Hà Nội, đã gửi gắm tình cảm vào chiếc máy ghi âm mà ông Kỳ mang theo. Cô em gái Triều sau khi thăm hỏi anh chị, hồn nhiên hỏi: “Từ hôm giải phóng tới giờ anh chị biết bài hát nào mới chưa. Em và con Thảo, con chú Tân, hay hát lắm. Để bọn em hát cho anh chị nghe nhé”. Rồi hai cô gái Hà Nội cất giọng lanh lảnh hát trong máy ghi âm: Sài Gòn đó, quê ta ơi / Trong biển lửa vẫn
                            ngời ngời / Ta đi như sóng căm hờn dâng trào / Xô lên trên xác quân thù hung bạo / Giành một mùa xuân tươi sáng khắp miền Nam… Lưu Đình Triều viết: “Khi nghe tới đó, tim tôi như thắt lại. Một ‘quân thù’ đang đứng cạnh ba đây. Ba có biết không? Có căm hờn nó không? Từ giờ phút đó, niềm vui hội ngộ trong tôi giảm hẳn. Chỉ có nỗi lo âu, thắc thỏm là mới dâng trào”. Vài tháng sau, Lưu Đình Triều vẫn phải đi cải tạo. Trong thời gian ở trại, Lưu Đình Triều kể: “Ban ngày chúng tôi phải học lý luận, ban đêm học hát những bài như Bão Nổi Lên Rồi, Rầm Rập bước Chân Ta Đi Trên Đường Phố Sài Gòn… Sau khi được “lên lớp” về Truyền thống Chống Ngoại xâm, Đường lối Sáng suốt của Đảng Ta, Cuộc Chiến tranh Chính nghĩa, Chính sách Khoan hồng của Chính phủ Cách mạng…, các trại viên phải tập trung thảo luận, theo hướng: phải phân tích được âm mưu của Mỹ - Ngụy; phải nhận ra Ngụy quyền không chính nghĩa, chỉ có Cách mạng mới chính nghĩa. Học xong lại phải “soi rọi bản thân”, kể ra những tội lỗi của mình, mỗi người phải nghĩ cho ra một điều phi nghĩa của Quân đội Việt Nam Cộng
                            hòa”. Lưu Đình Triều nói: “Tôi dẫn chuyện lính Sư 7 hành quân bắt gà, bắt heo của dân. Có người là lính tài vụ, cả đời chỉ đi phát lương, với mong muốn được Chính phủ khoan hồng, đã nhận phát lương cũng coi như tạo điều kiện cho lính đi càn quấy. Có người than, tao nghĩ không ra tội, chúng mày ạ”.

                            Từ tháng thứ ba, Triều kể: “Mỗi tháng, trại viên được thăm nuôi một lần. Trong số những người thăm nuôi có người quê Biên Hòa, tôi nhắn chị tôi đi thăm. Hóa ra, khi ấy chị tôi đang đi Hà Nội. Khi chị tôi về, lên trại đúng lúc trại cấm thăm nuôi vì một sự cố do trại viên gây ra. Tôi nhìn thấy chị tôi, khoát tay bảo về nhưng chị tôi cứ đứng bên kia đường không chịu. Một người quản giáo tốt bụng tới vỗ vai, nói: ‘Đi theo tôi’. Đi ra, vệ binh chặn lại; nhưng người quản giáo can thiệp. Hai chị em nhìn nhau khóc, khiến người quản giáo cũng khóc”. Chỉ huy trại khi ấy cũng biết Lưu Đình Triều là con cán bộ cao cấp nên chủ động gửi thư cho ông Lưu Quý Kỳ, nói: “Chúng tôi biết anh, nếu được, anh lên trại chúng ta nói chuyện về cháu”. Ông Lưu Quý Kỳ có lên nhưng thay vì gặp con và bảo lãnh, ông chỉ viết thư khuyên “con cố gắng học tập tốt”. Lưu Đình Triều nhớ lại: “Tôi vừa đọc thư ba tôi vừa xé và vừa cay đắng khóc”.

                            Có những quan chức Cách mạng không bảo lãnh cho con cháu của mình bởi họ tin rằng những đứa con, đứa cháu lầm đường của họ cần có thời gian cải tạo. Có những quan chức cẩn trọng biết rằng tờ bảo lãnh đôi khi sẽ là một trong những cái cớ để khi cần, các đồng chí của mình đem ra “xử lý”. Ông Trần Quốc Hương nguyên là một nhà chỉ huy tình báo, từng là cấp trên của “ông cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ và “trưởng văn phòng báo Time” Phạm Xuân Ẩn. Năm 1950, ông Hương “đánh” từ Hà Nội vào Nam một cán bộ tình báo có tên là Từ Câu. Vì hoạt động trong lòng chế độ Sài Gòn nên con cái của ông Từ Câu cũng phải đi lính như những gia đình khác. Sau 1975, họ cũng phải đi “học tập”. Khi ông Từ Câu mất, các con ông - thiếu úy Từ Dũng và thiếu úy Từ Tuấn - đang bị cải tạo ở Minh Hải, gia đình có đơn xin cho con về để tang cha. Ông Mười Hương phê đơn, chuyển Giám đốc Công an, xin cho họ “được về để tang rồi vào trại lại”. Trước Đại hội V, ông Trần Quốc Hương 66 bị tố cáo “bốn vấn đề”, trong đó, “một đồng chí trong tiểu ban bảo vệ Đảng” tố ông đã can thiệp cho “hai thiếu úy Ngụy ra khỏi trại giam”.
                            #14
                              hai1957 04.01.2013 16:07:01 (permalink)
                              “Phản động”


                              Một diễn biến khác, xuất hiện ngay từ những ngày Trung ương Cục nhóm họp để triển khai “Chiến dịch X-1, X-2”, được quan tâm đặc biệt vì liên quan đến an ninh chính trị. Ngày 3-9-1975, Trung ương Cục được báo cáo: “Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên; dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lý, đi 46 tên; dự kiến 500 cảnh sát đã chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; Tình báo dự
                              kiến 1000 chỉ đi 142 tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi 130 tên; Bình Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là 10.200 nhưng chỉ đi 4.800 tên; còn lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn cơ sở, tình báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên. Theo báo cáo thì việc tổ chức học tập là tốt. Hội nghị chủ trương: Đối với bọn tuyên úy công giáo, phật giáo và tin lành giáo, Ban Mặt trận Thành mới tới nói chuyện động viên khuyến khích đi học; các tôn giáo trở về phải có ý kiến với từng người để họ đi học. Sau cuộc nói chuyện sẽ tổ chức bắt nếu họ không chịu đi trình diện. Đối với biệt kích, gia hạn đăng ký một thời gian; đề cao bọn ra trình diện; kêu gọi gia đình động
                              viên con em họ đi học sau đó tổ chức truy bắt”67.

                              Chính sách cải tạo cũng đã đi vào lịch sử Tòa thánh Vatican từ ngày 15-8-1975, khi Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời tới Dinh Độc Lập, tại đây ông bị bắt giữ và trong ngày hôm ấy được di lý ra trại giam Cây Vông, Phú Khánh. Việc Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận, người gọi ông Ngô Đình Diệm là cậu ruột, làm giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn vào ngày 25-4-1975 (chỉ chưa đầy một tuần trước khi “giải phóng”) đã làm cho Cách mạng lo lắng. Bản thân nội bộ công giáo cũng có những hoạt động được cho là “mờ ám”; một số linh mục được coi là “cấp tiến” đã ám chỉ các tín hữu của Đức Cha Thuận là “phản động”. Ngày 13-5-1975, một nhóm sinh viên công giáo đã đột nhập vào Tòa Tổng Giám mục đòi Đức Cha Thuận phải từ chức. Ngày hôm sau, 14-5, chính họ lại cũng đột nhập vào Tòa Khâm xua đuổi Đức Khâm sứ Henri Lemaitre.

                              Chính quyền không đứng ngoài những hoạt động “cấp tiến” này, nhưng Chính quyền cũng đã hoang mang khi những hành động quá khích như vậy tác động trở lại. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là trong buổi chiều bắt Đức Cha Thuận, Chính quyền đã triệu tập tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ tới tòa nhà Quốc hội Sài Gòn để nghe “nói chuyện”, nhằm tránh những phản ứng khiến cho tình hình phức tạp thêm. Người dân Sài Gòn quan sát những diễn biến ấy trong nỗi lo sợ rất rõ ràng, nhưng thái độ của mỗi người thì một khác. Nhà báo Đoàn Kế Tường kể: “Sáng 29- 4-1975, tôi và một người bạn gặp nhau trên cầu Sài Gòn, anh hỏi: ‘Đi không?’. Tôi
                              nói không lưỡng lự: ‘Không. Tôi còn mẹ già ở Quảng Trị’. Anh chia tay tôi xuống Tân Cảng, một chiếc tàu hải quân đang đợi chúng tôi ở đó. Nhưng tôi không thể ngờ được là mọi thứ sau 30-4 nó lại đảo lộn lên như thế”. Đoàn Kế Tường sinh năm 1947 tại làng Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải Lăng, Quảng Trị. Vì cha từng đi lính Tây nên năm 1960 khi mới mười ba tuổi, ông được đưa vào học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, được huấn luyện trở thành
                              lính Biệt kích. Từ năm 1965 được đưa lên tác chiến ở vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long. Là lính trận thật sự, hai lần bị thương, nhưng chàng trai trẻ mười tám tuổi vẫn có chút máu Quảng Trị, làm thơ từ trong rừng sâu gửi về các tờ báo ở Sài Gòn rồi được kết nạp vào Hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội. Năm 1969, nhân Đại hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường nhờ Chu Tử68 xin cho về lại Sài Gòn làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều nhân vật có thế lực, đã nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường cuối năm ấy về Sài Gòn làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm cho báo Điện Tín. Tường kể: “Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám”. Nhưng, sau cái ranh giới 30-4-1975, Ớt và Tường không bao giờ có thể “binh xập xám” với nhau. Huỳnh Bá Thành là một cán bộ An ninh T4, biết những người như Đoàn Kế Tường ở lại và “tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp”. Trong Hội nghị ngày 3-9-1975, Trung ương Cục lưu ý “các đối tượng làm việc cho các cơ
                              quan Mỹ, văn nghệ sĩ, báo chí, ký giả” và phân công: “An ninh phối hợp với Hoa vận, tình báo nghiên cứu đề xuất phương án đối với Quốc Dân Đảng, Tàu đặc vụ và nhân viên làm việc với nhân viên Mỹ. Tuyên Huấn Thành và Thông tin Văn Hóa nghiên cứu kỹ đối với văn nghệ sỹ, ký giả”69. Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Tôi trốn trình diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích
                              rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục quốc70... Chúng tôi in truyền đơn, in lời kêu gọi và phát tán chúng. Ngày 29-4-1975, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã lấy trực thăng bay ra hàng không mẫu hạm Midway mà chúng tôi vẫn nghĩ là ông lên rừng lập chiến khu. Chúng tôi cùng nhau hát: Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng của dân / Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng rừng xanh71. Khi đó, tôi còn quá trẻ lại đầy máu nghệ sỹ, cứ nghĩ những việc làm của mình cũng như một cuộc chơi mà sinh viên Sài Gòn vẫn làm hồi trước 1975”.

                              Nhưng Sài Gòn đã không còn như “hồi trước 1975”. Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Trong những ngày ấy, Huỳnh Bá Thành có gặp tôi hỏi, nếu muốn làm báo Tin Sáng thì Thành sẽ giúp, nhưng tôi chỉ đáp cụt lủn: Không! Tôi sẽ vào rừng!”. Đêm 22-10- 1975, Huỳnh Bá Thành đến nhà Đoàn Kế Tường còng tay người bạn từng binh xập xám hôm nào. Trong đêm ấy, Dương Đức Dũng, Thái Sơn và giáo sư Lê Việt Cương cùng bị bắt.

                              Gần bốn tháng sau, ngày 10-2-1976, Nguyễn Việt Hưng, Trần Kim Định bị bắt. Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh Thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng 3 người khác bị bắt.

                              Vụ nhà thờ Vinh Sơn chưa kịp lắng xuống thì ngày 1-4-1976, xảy ra một vụ nổ ở Hồ Con Rùa72 làm cho một người chết, bốn người bị thương và phá hủy hoàn toàn con rùa làm bằng đồng đặt giữa hồ. Hai ngày sau, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bản tin có tựa đề, “Tóm gọn tại chỗ bọn phản động và phá hoại”, với mấy dòng ngắn gọn: “Ngày 1-4, bọn phản động và phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Một tên trong bọn chúng bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”73. Cùng ngày, tờ Giải Phóng, cũng đăng bản tin với độ dài và nội dung: “Trừng trị tại chỗ bọn phản động và phá hoại: Tối 1-4-1976, bọn phản động và phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Công trường này ở ngã tư đường Duy Tân, Võ Văn Tần và Trần Cao Vân; ở giữa có một vườn hoa nhỏ, đồng bào ta thường ra ngoài hóng mát. Một tên trong bọn phản động bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tra”74.

                              Vụ nổ xảy ra lúc 8 giờ tối, được Huỳnh Bá Thành kể lại là “vang dội từ phía sau lưng đuổi tới, nhà cửa hai bên đường rung chuyển và đó đây tiếng kính vỡ rơi lổn cổn, khô khốc”75. Khi “trinh sát” đến hiện trường, theo Huỳnh Bá Thành: “Mùi thuốc nổ vẫn còn khét lẹt. Một cảnh tượng hãi hùng trước mắt Trường Sơn: một thây người đầy máu, bay mất cái đầu và đôi bàn tay, đang được anh em cảnh sát khiêng lại để gần chỗ đặt chất nổ. Bốn thanh niên bị thương máu me đầy mình được xe cảnh sát tức tốc đưa đi cấp cứu. Bên cạnh cảnh tượng chết chóc và thương tích rùng rợn ấy, con rùa bằng đồng to tướng bị chất nổ làm banh ra từng mảnh nhỏ, văng ra vung vãi. Theo giám định hiện trường của các đồng chí cán bộ cảnh sát thuộc bộ phận khoa học hình sự đã xác định sơ bộ: chất nố được đặt ngay ở thân con rùa đồng, loại TNT có sức công phá ước chừng mười đến mười lăm kilogam”76.

                              Việc Chính quyền vội vàng kết luận trên báo chí người chết là “một tên trong bọn phản động” là chưa có căn cứ. Huỳnh Bá Thành, người mà báo Tuổi Trẻ nói rằng đã “tham gia điều tra từ đầu cho tới khi kết thúc vụ án”77, cũng thừa nhận rằng: “Không tìm thấy giấy tờ tùy thân nào trong người hắn… khó mà kết luận tuổi tác chính xác khi người chết không còn mặt mũi và hai bàn tay. Nạn nhân mặc chiếc quân jean Mỹ bạc màu, chiếc áo kaki đã sờn, chân đi dép nhựa mòn sát gót. Cũng thật khó mà kết luận thành phần xã hội của kẻ đặt chất nổ”78.

                              Theo Huỳnh Bá Thành thì có ít nhất ba trường hợp đã đến công an đầu thú, một số kẻ khác đã bị bắt khi đang ba hoa ở quán café rằng mình là chủ mưu, nhưng “hóa ra bọn họ đều là những kẻ háo danh hoặc có vấn đề về tâm thần”. Nhiều vụ “bắt bí mật” đã được ngành an ninh thực hiện, một trong số đó là Lỗ Hung 79. Lỗ Hung khai nhận và theo Huỳnh Bá Thành, trong người anh ta có một mảnh giấy ghi: “Làm thêm ba thẻ tổ viên tổ hợp ván sàn”. Theo Thành thì vợ chồng nhà văn Trần Dạ Từ và Nhã Ca80 cũng có một tổ hợp ván sàn và Lầu Phá Xấu, theo đặc tình của Thành là Đặng Hoàng Hà81, người mà nữ đặc tình này biết là thường xuyên qua lại với vợ chồng nhà văn Nhã Ca.

                              Trên thực tế, cho dù mãi tới ngày 6-4-1976 vụ án mới “được làm sáng tỏ”, nhưng ngày 2-4-1976, tức là chỉ mười hai giờ sau vụ nổ, những người như Nhã Ca, Trần Dạ Từ đã bị bắt. Nhà văn Duyên Anh kể: “Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa kịp vô bìa, thì Sài Gòn mất. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà 82, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Cũng đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Mạnh Côn lên đường trực chỉ Sở Công an”83.

                              Một chiến dịch bắt bớ văn nghệ sỹ được kéo dài cho đến ngày 28-4-1976. Duyên Anh kể tiếp: “Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ sĩ. Hôm sau, cả Sài Gòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3- 4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra hai khách lạ nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn ngoái lại, hai khách công an đã phóng ra vỉa hè. ‘Nó đến bắt Mai Thảo’, Côn nói. Tôi đi tìm dấu vết Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo. Công an không bắt được Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo”84.

                              Đến chiều ngày 8-4-1976 thì chính Duyên Anh cũng chịu chung số phận. Ông kể: “Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang băm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông tổ trưởng dân phố của tôi dẫn ông phường trưởng và công an phường đến thăm gia đình tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo dưới bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về. Mười phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn luôn chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ỏ nhà, họ mới đến bắt… Cảnh tượng gia đình tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi đang đau nặng, vụt tỉnh, tung mền chạy ra phòng khách. Tôi nhìn cái còng nhãn hiệu Mỹ do cộng sản siết dính trên tay mình, nhìn vợ tôi mặt mày tái mét, nhìn ba đứa con tôi ngơ ngác, nước mắt chảy ròng ròng. Tôi đợi công an đến bắt tôi sau khi tôi hay tin họ đã bắt Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doãn Quốc Sĩ…”85.

                              Lý do “bọn phản động cho nổ Hồ Con Rùa” được Huỳnh Bá Thành thuật lại trong cuốn sách mà báo Tuổi Trẻ khẳng định là “một câu chuyện hoàn toàn có thật” là nhằm phá con rùa “ếm đuôi rồng” để cho đuôi rồng quậy phá chế độ mới86. Duyên Anh, một nhân vật của cuốn sách Vụ Án Hồ Con Rùa, nhận xét: “Bỏ qua thứ văn chương hạng bét và thứ kiến thức tình báo giày dép của Huỳnh Bá Thành, cộng sản khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường Công Lý (sau này đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở lui tới họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống.
                              Đằng Giao là Đỗ Gia. Chu Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ là Lê Dạ, Tú Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long… Cộng sản đề cao Hoàng Hà Đặng (tên thật Đặng Hoàng Hà) như một ‘lãnh tụ’ ghê gớm, ngang cơ với Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết tình báo là cái gì. Đưa chúng tôi lên mây, trao mìn về cho chúng tôi, cho chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với các đại cố vấn Mỹ trước 1975 rồi khi ‘tóm’ được chúng tôi thì mô tả chúng tôi là những thằng ‘ăn mày’, những thằng ‘đói thuốc phiện thất thểu’ vào tù đền tội, và ‘xưng em’ với nữ công an ngọt xớt”87.

                              Trên thực tế, trong những ngày ấy cũng có rất nhiều những người chống đối chính quyền bằng hành động, có những người - nhất là giới văn nghệ sỹ - chống đối bằng những lời nói cho sướng mồm, có những kẻ lợi dụng lòng tin, bày đặt chống đối để lừa đảo tiền tình của những người dân không ưa chế độ. Nhưng cũng có những cái bẫy được đặt ở đâu đó. Ngày 6-04-1976, Chính quyền quyết định tấn công vào nơi được coi là “sào huyệt của bọn phản cách mạng”, đặt trong một khu rừng ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, bắn chết sáu người, bắt sống “Chủ tịch Trần Duy Ninh và tám tên khác”. Ngày 8- 04-1976, bốn mươi ba mục tiêu ở Sài Gòn bị đồng loạt tấn công: “bắt thêm năm mươi tên, thu giữ một điện đài, hai máy in bạc giả, một máy phát điện, toàn bộ máy móc để xây dựng đài phát thanh, tám mươi súng các loại, 100kg thuốc nổ TNT và một số tài liệu phản động”88. Hành động này còn mang ý nghĩa trấn áp, vì ngày 29-4-1976, trên cả nước sẽ diễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của Chính quyền Cách mạng: Tổng tuyển cử bầu Quốc hội Thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Chính quyền muốn đảm bảo rằng sẽ không xảy ra sự cố. Nhiều người đã bị bắt mà cho đến tận khi nhắm mắt lìa đời vẫn không biết lý do là gì89.

                              Ngày 7-4-1976, họa sỹ Chóe bị bắt. Họa sỹ Chóe tên thật là Nguyễn Hải Chí, trong thời gian “đi trung sỹ” tại Phòng III, Bộ Tổng Tham mưu, Chóe nổi tiếng với những tác phẩm biếm họa phản chiến đăng trên báo chí Sài Gòn chế diễu từ Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger, Tổng
                              thống Nixon cho tới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; tranh của Chóe cũng châm biếm cả bà Nguyễn Thị Bình và ông Lê Đức Thọ… Ở cơ quan Tổng Tham mưu: “Hạ sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại gấp nghìn lần Cao Văn Viên”90. Trong chiến tranh, biếm họa của Chóe được các tờ báo nổi tiếng ở Mỹ đăng. Chính quyền Sài Gòn cũng không ưa gì Chóe. Cuối năm 1974, ông bị bắt do vi phạm lệnh “cấm những người đang phục vụ trong quân đội làm báo”. “Khi đại tướng Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc Huấn thị, Nhật lệnh, nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở phòng giam của Cục An Ninh quân đội”91. Ngày 30-4, chính Cách mạng đã mở cửa nhà tù cho Chóe. Họa sỹ Chóe nhớ lại: “Một hôm đi ngang qua quán cà phê 104 Công Lý của Chu Thị Thủy - Đằng Giao, tôi nghe Nhã Ca kêu, nên có vào ngồi một lúc. Đó là lần duy nhất tôi ngồi với họ kể từ sau ngày 30-4”92. Nhưng sự liên đới của Chóe không chỉ bị Huỳnh Bá Thành lưu ý trong lần cà phê ấy.

                              Trong Vụ Án Hồ Con Rùa, Thành đã viết về mối quan hệ của Tú Dung - Nhã Ca với Barry Hilton: “Viên sĩ quan CIA người Mỹ tên là Barry Hilton cầm tay chỉ việc cho Tú Dung, thì nữ văn sĩ này biến thành một ‘nữ biệt kích’ chống cách mạng một cách hoàn toàn không còn lương tri của một người trí thức”. Cách nói đó không chỉ cáo buộc Nhã Ca. Huỳnh Bá Thành, cũng từng là một họa sỹ biếm, biết Barry Hilton đánh giá cao tài năng của Chóe. Barry Hilton đã tuyển tranh của Chóe in thành tập The World of Choe. Sách đã in nhưng vì Barry Hilton là công chức thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ nên phải chấp nhận không phát hành tập sách đả kích Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó. Chóe bị bắt khi đang làm việc ở tòa soạn báo Lao Động Mới. Ông bị dẫn về nhà ở số 52/8 Quang Trung, Gò Vấp, lúc đã 6 giờ chiều; công an khám xét tới 9 giờ đêm thì giải ông về trại “tạm giam”. Huỳnh Bá Thành là người bắt Chóe.

                              Ba ngày trước tổng tuyển cử, 26-4-1976, An ninh ra lệnh bắt tiếp Luật sư Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không bao giờ biết vì sao mình bị bắt93. Ông từng làm cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương trình “cấp căn cước cho người từ mười sáu tuổi trở lên” và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận được học bổng đi học thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là “chuyên viên đặc nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.

                              Những cuộc bắt bớ tương tự kéo dài tới năm 1978. Một trong số đó là nhà trí thức cách mạng Hồ Hữu Tường. Từ giữa thập niên 1920 khi du học ở Paris, ông Hồ Hữu Tường từng tham gia phong trào Đệ tứ Quốc tế cùng với các ông Phan Văn Trường, Tạ Thu Thâu. Mặc dù năm 1939, ông Tường từ bỏ chủ nghĩa Marx và phong trào Đệ tứ nhưng năm 1940 ông vẫn bị người Pháp bắt và đày ra Côn Đảo cho tới năm 1944. Ra tù, với tư cách là một nhà trí thức, ông Tường có nhiều bài viết nổi tiếng về cả chính trị, kinh tế và văn hóa phổ biến ở Hà Nội. Năm 1946, ông làm cố vấn cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông là một trong những người biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc trung học của nước Việt Nam, lúc ấy, vừa tuyên ngôn độc lập. Ông Hồ Hữu Tường bị người Pháp bắt lại năm 1948 và năm 1957, sau khi về sống ở Sài Gòn, bị chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên án tử hình vì làm cố vấn cho Mặt trận Thống nhất của Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Nhờ có sự can thiệp của những nhân vật nổi tiếng trên thế giới như Albert Camus, Nehru, ông được giảm
                              xuống khổ sai. Ông được trả tự do sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Ra tù, ông được mời làm phó viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và năm 1967, ông tham gia chính trường với tư cách là một dân biểu đối lập. Ông Hồ Hữu Tường không phải đi cải tạo cho đến khi ông có một vài “sáng kiến chính trị” vào năm 1978, năm ông Tường sáu mươi tám tuổi94. Ba lần ông thoát khỏi nhà tù, của người Pháp và của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng tới lần thứ tư thì không. Ngày 26-6- 1980, ông Hồ Hữu Tường được đưa từ trại Z30D ở Hàm Tân về Sài Gòn, nhưng trên đường đi thì ông mất.

                              Năm 1981, trong khuôn khổ một hoạt động của US-VN Reconciliation Project, bà Luật sư Ngô Bá Thành được mời tới Đại học Harvard. Tại đây, bà cho rằng, những người được đi cải tạo là may mắn vì nếu họ bị đưa ra một phiên tòa như Nuremberg thì có thể họ đã bị xử bắn. Luật sư Ngô Bá Thành không biết rằng con gái của ông Hồ Hữu Tường, người tù cải tạo vừa mới chết một năm trước đó, Giáo sư Hồ Tài Huệ Tâm lúc ấy đang dạy lịch sử ở Harvard cũng được người tổ chức chương trình, ông John McAuliffe, mời dự95. Lập luận của bà Ngô Bá Thành không mới đối với Hà Nội nhưng rất ngạc nhiên khi nó được nói ra bởi một luật sư. Việc đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm súng, không bằng một bản án của tòa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt, câu chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau đây, thật khó để nói là may mắn.

                              Trưa 29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng thống Dương Văn Minh ký cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện chuyến di tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa sông, đã bị B40 bắn theo, giết chết nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm Nhật báo Sống. Con tàu Việt Nam Thương Tín và hàng nghìn người nằm đợi ở đảo Guam gần năm tháng. Sự chờ đợi trước một tương lai vô định trong khi vợ con, cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đã khiến cho nhiều người muốn quay lại Việt Nam, nơi mà họ tin là đã bắt đầu thống nhất và chắc chắn có hòa bình. Một trong số ấy là Đại úy tình báo Võ Tính 96. Ông Võ Tính được người Mỹ tạo điều kiện đưa toàn bộ gia đình di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ đến ngày đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”. Còn cha vợ ông thì khi đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm 1954 trở lại. Ông Võ Tính đã định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày cuối tháng 4-1975, người Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính được đưa ra Phú Quốc và khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông được đưa ra Hạm đội 7 để rồi sau đó tới Guam. Cũng như nhiều người lính khác, Đại úy Võ Tính không chắc có bị “Việt Cộng” trả thù trong khi, từ trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt Nam mới là tổ quốc. Không tìm được lý do hợp lý để bỏ nước, bỏ cha mẹ già, người vợ trẻ và 3 đứa con thơ, Đại úy Võ Tính đã tham gia vận động để người Mỹ cho phép
                              những người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.

                              Ngày 29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ý của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín rời Guam trong một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo dài, chào cờ và được truyền hình Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ được ủy nhiệm chỉ huy chuyến trở về của con tàu này.
                              Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu. Mãi tới hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và dừng lại cách tàu Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải quân dùng ống nhòm quan sát rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt Nam Thương Tín chạy ngược ra phía miền Trung. Những người trở về bắt đầu linh cảm điều gì đó bất thường nhưng họ vẫn còn hy vọng và vẫn còn chờ đợi. Tới Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi người đều bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung Tâm Thẩm Vấn của Quân đoàn II thì mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào phòng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy 7 tuổi, tất cả đều phải đi tù, người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất - Trung tá Trần Đình Trụ - phải ở tù tới 13 năm.



                              Tù và cải tạo


                              Cho dù ở tù hay cải tạo thì đều là thân phận của những người mất tự do. Nhưng được chuyển từ Đề lao Gia Định hay Chí Hòa ra trại “cải tạo” vẫn là những gì mà những “người tù” thèm khát. Duyên Anh viết: “Nếu tôi đã phục vụ (trong quân đội) như Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên…97, tôi sẽ đóng một khoản tiền ăn mười ngày cho đơn vị tôi trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe Molotova, xe GMC, xe đò nữa, chở tôi đến trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra, hai ba năm đầu, bộ đội họ quản lý tôi cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm cửa phòng tôi không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu vinh hạnh làm sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi là nhà văn phản động và công an đã đến còng tay tôi, đưa tôi đi một mình”98.

                              Khi đã vào những nhà tù như số 4 Phan Đăng Lưu, số 3c Tôn Đức Thắng hay Chí Hòa thì mới thấy được đi cải tạo cũng là một ân huệ. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích kể: “Sau một năm ở xà lim, tôi được đưa ra phòng giam tập thể, giam chung với sáu mươi chín người khác trong một phòng. Mỗi người được một phần sàn xi măng rộng 60cm dài hai mét và được phát một chiếc chiếu. Trong phòng, có các tướng lĩnh, các bộ trưởng và các viên chức cao cấp của Sài Gòn. Tôi nhận ra trong đó có những người cùng bị bắt đợt tháng 4-1976 với tôi”. Bên cạnh những người tù không có án như Đoàn Kế Tường, Linh mục Thiện, Luật sư Vũ Đăng Dung, Dân biểu Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân, Như Phong, Lâm Văn Thế, Nguyễn Ngọc Tân, Lê Xuyên… ở các đề lao cũ của Sài Gòn còn có các nhà “tư sản mại bản” mà trong đó có một số người có được “vinh dự” ra tòa như Phạm Quang Khai, Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài, Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng, Nguyễn Văn Trương (Khai Trí), Trương Văn Khôi… và cả những “tên phản động” bị bắt trong vụ Nhà thờ Vinh Sơn như Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn
                              Văn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp…

                              Cuối thập niên 1970, ngay cả người Sài Gòn cũng không mấy khi có gạo trắng, cá tươi, cơm tù không thể nào tránh được cá thịu, gạo hẩm. Nước cũng là nỗi khát khao của các tù nhân. Ở Chí Hòa, tù nhân Đoàn Kế Tường đã từng tổ chức biểu tình “đòi đi tắm”. “Họ bị cai ngục dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Hòa, họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc đầu, thở dài”99.

                              Nhiều thứ bệnh đi theo người tù như tiêu chảy, kiết lị… nhưng thuốc men gần như không có; những năm đó, ngay cả công an, bộ đội và dân chúng cũng đều phải dùng “xuyên tâm liên chữa bá bệnh”100. Nhưng, không có gì làm khổ người tù như ghẻ, lở. Theo Duyên Anh: “Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè ‘của quý’ mà lập chiến khu. Tù nhân này cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Bôi xong, vội vàng lấy quạt lia. Vì thuốc xót vô cùng” 101. Trong hoàn cảnh ấy, những người tù ở Đề lao Gia Định, Chí Hòa coi việc được đưa tới các trại cải tạo là giảm nhẹ.

                              Trước Tết 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả, trong đó có Nhã Ca, được tập trung tại khu A, Chí Hòa, học tập một tháng rồi được thả về. Những người như Doãn Quốc Sĩ, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Trần Dạ Từ, Chóe, Duyên Anh… phần lớn vẫn “ở tù”; cá biệt, những người cứng đầu như Đoàn Kế Tường thì bị giữ lại suốt 10 năm ở Chí Hòa. Trong khi đó, một số khác được chuyển từ chế độ tù sang “cải tạo”.

                              Nhưng đấy là câu chuyện xảy ra trước năm 1978. Khi Chiến tranh Biên giới Tây Nam xảy ra và ở phía Bắc, Trung Quốc bắt đầu đe dọa, các trại cải tạo được chuyển giao từ quân đội sang cho công an. Theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Chúng tôi bắt đầu chịu cảnh tội tù khắc nghiệt”.

                              Ngày 8-5-1975, sau khi trình diện, ngoại trừ Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị bệnh nặng, các sỹ quan cấp tướng102 và cấp tá bị giữ lại để học tập đợt một tại Ðại học xá Minh Mạng, Chợ Lớn trước khi đưa về Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Sau đó, các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay trong khi các sỹ quan cấp thấp hơn được đưa ra Bắc bằng tàu thủy và xe lửa. Nơi đến của những người bị coi là “nguy hiểm” này là các trại giam Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ An. Như những người tù thâm niên khác, Trung tá Phan Lạc Phúc đã trải qua những nhà tù gian khổ nhất: Trại Long Khánh - Suối Máu, Liên trại 2 Sơn La, Trại Yên Hạ (Sơn La), Trại Tân Lập (Vĩnh Phú), Trại Thanh Phong (Thanh Hóa), Trại Tân Kỳ (Nghệ Tĩnh), Trại Ba Sao (Hà Nam Ninh), Trại Xuân Lộc (Đồng Nai). Yếu tố chính để Phan Lạc Phúc chịu cải tạo lâu là vì ông đã từng học thông tin báo chí tại Hoa Kỳ, từng làm chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau một năm bị giam ở trại Long Giao và Suối Máu, ngày 10-6-1976, ông Phúc được đưa ra Bắc trong đợt đầu tiên. Ông viết: “Chúng tôi đang ngồi ở sân tập kết trại Suối Máu thì người bạn thân cùng ngành của chúng tôi là Tạ Ty chạy hốt hoảng: 'Đi chuyến này hở. Ra Bắc đấy. Thế là năm niên đấy. Có nhắn gì về nhà không?' Tôi và Hùng nhìn nhau cười nói với bạn: 'Nói hộ với gia đình là tụi tôi đi ra Bắc ngày hôm nay. Ở lại khỏe nha'. Người bạn họa sĩ tài danh của miền Nam ngậm ngùi tạm biệt 'Hẹn gặp lại nhau sớm ở Sài Gòn…'”103.

                              Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận nhớ lại buổi tối ông bị đưa ra khỏi Sài Gòn: “Ngày 1-12-1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình tôi bị gọi cùng với vài tù nhân khác. Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên một xe cam nhông. Cuộc hành trình ngắn đưa chúng tôi tới Tân Cảng. Chúng tôi thấy một con tàu trước mặt, hoàn toàn chìm trong bóng tối để dân chúng khỏi để ý. Chúng tôi bị đưa lên tàu đi ra miền Bắc… Tôi bị đem xuống hầm tàu, nơi chứa than. Chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cháy. Chúng tôi tất cả là 1.500 người, trong một tình cảnh không thể tả được… Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt
                              vọng của các tù nhân khác. Bầu không khí sầu thảm như đám tang. Một tù nhân đã tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh”104.

                              Trung tá Phan Lạc Phúc cũng được đưa ra Bắc bằng tàu và chuyến đi của ông cũng gian khổ không kém gì chuyến tàu của Đức cha Nguyễn Văn Thuận, nhưng những gì mà họ gặp trong quãng đường chuyển tù chỉ mới là những thử thách ban đầu105.



                              “Thăm Nuôi”

                              Thời gian cải tạo càng tăng thêm thì tiền bạc của người nhà tù nhân cũng như ngân sách của “Cách mạng” càng dần cạn kiệt. Từ Tết năm 1976, các suất ăn bắt đầu bị cắt bớt; đến cuối năm 1977, lương thực của tù nhân được thay bằng lúa mạch, thường gọi là bo bo. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường, tới mùa Thu năm 1978, mỗi người chỉ còn 300g gạo một ngày. “Rau muống, rau lang không kịp ra đọt non, rau dại cũng bị vặt khi vừa mới nhú. Củ chuối bị đào hết lên”. Không phải học viên cải tạo nào cũng biết rằng lúc ấy ở “ngoài xã hội”, cái bao tử của thường dân cũng không no đủ hơn. Chính quản giáo, ban ngày “hắc” thế nhưng đêm xuống cũng tìm gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tý mỡ”. Những ngày có đồ thăm nuôi là những ngày trong trại tưng bừng. Những lá thư viết từ trại những năm tháng về sau chủ yếu là liệt kê các “nhu yếu” thăm nuôi.

                              Ông Tạ Chí Đại Trường kể: “Cũng có người vẫn giữ được tiền, mỗi lần thăm nuôi lại có khuân có vác, nhưng cũng có người chỉ có thể mang theo mấy ổ bánh mì, lủi thủi với chồng: Không biết lần sau có còn vay được tiền đi thăm anh”. Dần dà, những người tù bắt đầu biết thăm nuôi đang trở thành một gánh nặng cho những người mẹ, người vợ ở quê cũng đang đói khổ. Để đi đến các trại cải tạo thăm chồng, thăm cha, những người con lính, vợ lính đã phải nếm biết bao tủi nhục. Từ năm 1978, họa sỹ Chóe bị đưa lên trại Gia Trung, Gia Lai. Hai năm ở trại
                              “tạm giam” của cơ quan An ninh Điều tra, số 4 Phan Đăng Lưu, Chóe chỉ được nhận đồ chứ không được gặp người nhà. Hai năm ấy, do phải nằm trên sàn xi măng, chân ông, vốn phong thấp, đã gần như bị liệt. Đến Gia Trung, được thăm nuôi thì đường sá lại quá xa xôi, cách trở.
                              Vợ Chóe, bà Nguyễn Thị Kim Loan, năm ấy phải một mình nuôi bốn đứa con, đồ đạc trong nhà gần như đã bán hết. Cũng như hàng triệu gia đình Sài Gòn, nhà bà cũng được Chính quyền cấp cho “sổ gạo”, nói là gạo nhưng những năm ấy thường chỉ có bo bo hoặc khoai; tiêu chuẩn một ký gạo được Nhà nước bán thay thế bằng 2 ký khoai. Không chỉ những người vợ có chồng bị đưa đi cải tạo, trong “chế độ mới” đàn ông trở thành vai trò thứ yếu vì không có việc làm, cuộc sống chỉ còn có thể trông cậy vào tài xoay xở, mua bán lặt vặt của những người phụ nữ. Bà Loan lả một phụ nữ công giáo di cư từ Phát Diệm, đã từng làm thư ký trong Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng hòa, từng sống hết sức phong lưu nhờ nhuận bút những bức tranh biếm của chồng đăng trên các báo Sài Gòn, báo Mỹ. Từ khi chồng “đi Gia Trung”, bà Loan phải mua từng bộ đồ cũ, từng bịch xà bông, chen chúc trên xe đò, giấu giếm đem về An Giang quê chồng, bán, kiếm từng đồng chênh lệch giá. Kiếm tiền để đi thăm nuôi đã khó, mỗi một chuyến đi từ Sài Gòn lên Gia Lai là cả một “đoạn trường”. Trước hết, phải “chạy” xin cái giấy của Phường, rồi từ 3 giờ chiều đã phải ra bến xe xếp hàng. Chính sách “cải tạo nhân đạo” đã biến những hãng xe đò tư nhân như Phi Long, Phi Hổ một thời khoanh tay mời khách mua vé, mời khách lên xe, trở thành những “chuyến xe bão táp”. Có mặt từ chiều ở bến xe,
                              đợi đến 3 giờ sáng “xe khách quốc doanh” bắt đầu bán vé, chen chúc, la ó, nhưng có khi đến lượt mình thì vé hết vì xe ít, nhà nước ưu tiên bán trước cho cán bộ có “giấy công tác”. Không đi được là bi kịch vì tiền bạc giành dụm mua cá, mua thịt kho để lâu không được. Nhà nước sợ tù tích trữ thực phẩm trốn trại nên không cho thăm nuôi đồ khô, ngay cả mắm ruốc, muối mè. Lên xe được rồi cũng vô cùng thắc thỏm, những năm ấy nền kinh tế không còn “lệ thuộc nước ngoài”, phụ tùng không có, xe cộ hỏng hóc giữa đường là chuyện thường. May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước Tài thì đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.

                              Theo bà Nguyễn Thị Kim Loan: Từ chỗ xe dừng vào tới trại hơn ba cây số. Quản giáo không cho thuê người gánh. Họ nói, “Giờ này mà các chị vẫn không bỏ được cái thói tiểu tư sản à”. Dân Sài Gòn gánh không quen, đau vai, đành cứ phải xách. Xách giỏ thứ nhất lặc lè đi lên chừng trăm thước, quay lại xách giỏ thứ hai. Đi ba cây số mà mất tới hơn hai giờ. Những hôm xe chết máy, lên tới trại đã là nửa đêm thứ hai, trời tối như bưng, lũ đàn bà, con nít cứ nhắm mắt mà đi không nhận ra lối rẽ, bước thẳng vô mấy nấm mồ mới, hét lên. Quản giáo chạy ra mới biết đã lạc vào trại khác, phải ngủ lại đấy, chờ sáng hôm sau tìm đến chỗ giam chồng. Lặn lội xa xôi như vậy nhưng rồi cũng chỉ được nhìn thấy mặt chồng mười lăm phút. Trên một
                              cái bàn cây dài, quản giáo ngồi hai đầu, một bên là “phạm”, một bên là thân nhân, họ chỉ kịp trao đổi với nhau những lời vội vã.

                              Năm 1978, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cũng đang học tập ở trại Gia Trung, kể: “Có người xách bịch đồ thăm nuôi về phòng mà băn khoăn không biết ở ngoài làm sao vợ nuôi nổi mấy đứa con lại còn chạy được tiền đi thăm mình. Nhưng cũng có người thản nhiên, phần vì đã quen đòi hỏi, phần vì không hình dung hết những gì đang xảy ra, liên tục gửi thư về giục gửi cho thứ này, thứ nọ. Thảm cảnh gia đình xảy ra từ đó”.

                              Đại úy Đỗ Duy Luật, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 248, Sư 18. Ngày 19-4-1975, đơn vị ông được điều từ Bình Tuy về Long Khánh, tham gia trận Long Khánh gây tổn thất nhiều cho quân Giải phóng. Hai ngày sau khi ra trình diện, ông Luật bị đưa lên Long Giao. Từ tháng thứ hai, ông được viết thư về nhà nhưng chỉ cho khai số hiệu trại là “L2T2” chứ không cho nói rõ địa danh. Vợ ông, cũng như vợ của nhiều người lính khác, phải đi hết trại này sang trại khác, nấp sau những bụi cây cạnh bờ rào dò hỏi với hy vọng mong manh tìm chồng. Những chuyến đi như vậy làm khánh kiệt dần chút gia tài mọn của những người vợ lính. Từ năm 1978, ông Luật được di lý từ Sơn La về trại Ba Sao, Phủ Lý. Mãi tới cuối năm 1979, vợ ông mới tìm được ra thăm. Đó là lần gặp nhau cuối cùng của hai vợ chồng. Khi trở về bà phát bệnh ung thư rồi chết vào đầu năm 1980. Cũng trong năm ấy, ông được chuyển từ Ba Sao về Hàm Tân, vào trại Z30D. Tháng 6-1981, ông được tha với lý do là vợ chết. Khi ông Luật trở về, căn nhà nhỏ của ông ở số 2 Duy Tân không còn nữa, vợ ông đã phải bán, trang trải chi phí cho những chuyến đi thăm chồng và nuôi ba con nhỏ.

                              Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường: “Có những người vợ đã phải đi bán thân. Có những người vợ đã phải sử dụng thế mạnh của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và trẻ em, lại phải tìm cách qua mặt công an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ thất ngay cả trên đường xa… thì không thể nào trách những người phụ nữ ấy. Chuyện một bà tứ tuần có mang với anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ trời cặp với anh lính cũ của chồng mình… cũng không có gì bất ngờ khi nó được đưa vào trại”106.

                              Cũng có những người tù cải tạo thương vợ thật lòng viết thư về nói: “Thôi, đời anh như vậy là hết rồi, em nên đi tìm hạnh phúc mới, coi có người bộ đội nào…”. Điều đó lại chạm vào tự ái của một số người quản giáo duyệt thư, nhiều anh đã kiêu hùng, mắng: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ gia đình, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các anh!”107. Có lẽ, nếu có ai mất vợ thì cũng chỉ vì thời thế. Vợ của nhà thơ Tạ Ký đã đi lấy chồng “Việt Cộng” khi ông còn bị giam ở trại T6, Long Khánh, cùng với nhà sử học Tạ Chí Đại Trường và họa sỹ Trịnh Cung.

                              Trại T6 có một nhà xí hai ngăn nằm ngay rìa đường vào rẫy của dân, sát bờ rào dây kẽm gai. Thời gian đầu, thân nhân chưa được chính thức thăm nuôi, các trại viên T6 có sáng kiến dùng nhà xí để nhận tin gia đình và trò chuyện với người thân mà không bị quản giáo phát hiện. Các trại viên thường thay phiên nhau ra ngồi “trực” ở đó để chờ nhận tin nhắn, nhiều tù nhân đã gặp được người thân, những người cất công đi tìm chồng, tìm con, tìm cha, dù chỉ để nhìn thoáng thấy mặt nhau trong giây lát hay nói thật nhanh một câu báo tin nhà. Họ thường phải lên đấy trước, mượn quần áo làm đồng, cuốc xẻng của những nông dân sống gần trại để
                              ngụy trang và nhờ chính những nông dân này che giấu, men theo hàng rào kẽm gai như những người dân đi làm ruộng tình cờ ngang qua hố xí. Cũng chính nơi đó, những người tù nôn nao ngồi chờ…

                              Một ngày cận Tết năm 1976, đúng vào phiên “trực hố xí” của họa sỹ Trịnh Cung, ông nhận được tin nhắn: Tạ Ký gặp mẹ lúc 2 giờ trưa nay!”. Trịnh Cung vội báo tin cho Tạ Ký. Khi đó, theo ông Trịnh Cung: “Đó là một tin vui bất ngờ của Tạ Ký vì đã nửa năm chưa được thăm nuôi. Nhưng thông tin mà anh nhận được từ mẹ chỉ là: Vợ con nó lấy thằng Việt cộng rồi. Ở nhà có mẹ lo sắp nhỏ, con yên tâm. Khi được phép, mẹ sẽ đi thăm”108. Không riêng Tạ Ký, không ít sỹ quan “Ngụy” từ trại cải tạo, khi đột ngột trở về đã phải đột ngột bước ra khỏi nhà mình, vì “đứa con ngày chia tay còn thơ không còn nhận ra mình, trong khi trong nhà lại treo cái nón cối”109.



                              “Học Tập”


                              Đầu tháng 4-1865, khi viết thư đầu hàng gửi Đại tướng Tư lệnh Quân miền Bắc Ulysses S. Grant, Đại tướng Robert E. Lee đã xin cho những người lính của ông được mang lừa ngựa, mà họ đã đem từ nhà tham chiến, trở về quê cũ làm ăn. Còn Đại tướng Dương Văn Minh, cuối tháng 4-1975, đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Trong những động thái chính trị trước đó, không có dấu hiệu nào cho thấy Tướng Minh và “bộ tham mưu” của ông đã lo lắng cho số phận của hàng triệu binh sỹ miền Nam. Cũng thật khó để trách tướng Minh. Trước khi tuyên bố đầu hàng, ông đã không có cơ hội nào để thương lượng với những người chiến thắng. Nhưng sự khác nhau căn bản giữa hai cuộc chiến tranh nằm ở chỗ: ở Mỹ, năm 1865, những chiến binh miền Nam được các tướng thắng trận mô tả như “một đoàn quân tả tơi, nhưng hiên
                              ngang”, còn ở Việt Nam, năm 1975, những người lính miền Nam Việt Nam bị những người Chiến thắng gọi là “tay sai”, là “dã thú”.

                              Chưa bao giờ Chính quyền cho công bố chính xác số lượng người bị đưa đi cải tạo 110. Theo số liệu dẫn trong Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, tính tới tháng 9-1982 chỉ riêng ở Sài Gòn, Chính quyền đã tha về hơn ba vạn sỹ quan đã từng là tù cải tạo. Tháng 1-1988, hàng ngàn tù cải tạo đã được tha. Từ đó, gần như toàn bộ số tù cải tạo ở tất cả các trại giam, kể cả từ trại Nam Hà, khoảng 210 người, đều được đưa về trại Z30D. Họ gồm các sỹ quan cấp tướng, cấp tá, hoặc những người từng phục vụ trong các lực lượng như an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, tình báo. Nhiều người trong số họ đã phải ở tù tới đầu năm 1992111.

                              Tướng Trần Văn Trà và ông Cao Đăng Chiếm, hai đại diện của quân đội và công an trong Ủy Ban Quân quản, đảm trách việc chuẩn bị “Chiến dịch X-1”. Tuy nhiên, theo ông Võ Văn Kiệt, Đảng ủy Quân quản và Trung ương Cục cũng đã bàn luận rất nhiều, không chỉ là tính những thủ thuật để hàng trăm nghìn sỹ quan quân đội miền Nam tự mang khăn gói vào tù, mà còn đề ra mục tiêu chính trị cho việc tập trung cải tạo. Chủ trương đưa những sỹ quan cao cấp, những người có “nợ máu” đi cải tạo lâu dài cũng không hẳn là để “trả thù” mà, theo ông Kiệt, còn “để họ thấy sai, thấy sự lầm lạc và hiểu cuộc chiến tranh của Cách mạng là chính nghĩa”112.

                              Có thể đọc được suy nghĩ ấy của những người như ông Kiệt trong các bài xã luận đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngay trong những ngày “Chiến dịch X-1” đang diễn ra113. Ngày 11-6-1975, hạ sỹ quan, binh lính bắt đầu ngày “học tập” đầu tiên. Ngày 12-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng có bài “Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt nam”, xã luận: “Cách mạng thắng lợi, giải phóng đồng bào ta, đồng thời cũng giải phóng luôn cả người lính nguỵ. Cuộc đời làm lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ đã chấm dứt. Họ khỏi phải chết. Họ thoát khỏi kiếp sống cực nhục trong đội quân chống lại tổ quốc. Đó là hành vi nhân đạo đầu tiên rất căn bản của cách mạng đối với họ. Giờ đây, dù họ có bị bắt giam hay không, họ vẫn là những tù, hàng binh trong tay các lực lượng vũ trang giải phóng… Tuy nhiên, nếu chúng không chống cự thì ta cũng không giết chúng. Chúng cũng là con người Việt Nam. Đế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính”114.

                              Ngày 15-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng xã luận tiếp: “Hòa hợp là một chính sách lớn của cách mạng. Muốn hoà hợp dân tộc thì điều cơ bản và đầu tiên là phải làm sao cho mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc có một lập trường thống nhất làm cơ sở. Giặc Mỹ và bọn tay sai bán nước dã dùng một chính sách chia rẽ tệ hại nhất. Chúng gây thù hằn giữa các thành viên của dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa các địa phương. Chúng cố tình chia cắt nước ta… Nguy hiểm hơn cả là chúng đã dùng mọi thủ đoạn để nhồi nhét vào đầu óc của một số người chủ nghĩa chống cộng điên cuồng để làm bình phong che dấu mục đích xâm lược. Bởi vì chúng biết rằng những người cộng sản là những người yêu nước nhứt, là những người chống đế
                              quốc quyết liệt nhứt… Làm sao có thể hoà hợp giữa những người yêu nước với những người chống lại tổ quốc, dù dưới bất cứ hình thức nào và nhãn hiệu nào? Súng đã nộp mà tư tưởng chống cách mạng vẫn còn thì hoà hợp làm sao được?... Vì vậy, hoà hợp dân tộc là trước hết, họ phải gột sạch những nọc độc tư tưởng giặc Mỹ đã gieo rắc, từng bước tiếp thu ánh sáng chính nghĩa của dân tộc. Đợt học tập tổ chức cho binh sỹ nguỵ quân, nguỵ quyền hiện nay đã mở ra cho họ một cơ hội tốt để làm việc đó. Qua học tập, họ phải thấy cho rõ âm mưu và tội ác của giặc Mỹ và tay sai, phải nhận ra chính sách khoan hồng đầy nhân nghĩa của cách mạng, phải thấy hết lỗi lầm của mình đối với dân tộc và con đường tất yếu họ phải đi từ đây để làm lại cuộc đời, trở thành người công dân Việt Nam chân chính. Đó là con đường duy nhất đưa họ đi đến hoà hợp với đông đảo các tầng lớp nhân dân”115.

                              Cho tới đầu thập niên 1990, quan điểm của Đảng về việc tập trung cải tạo vẫn còn khắc nghiệt. Thông báo ngày 20-2-1991 của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương “Về những luận điệu xuyên tạc của Bùi Tín trên đài BBC” viết: “Việc cải tạo những phần tử đã gây nhiều tội ác hoặc còn mang nặng tư tưởng chống cộng, thù địch quyết liệt với cách mạng thì hoàn toàn không phải là vi phạm nhân quyền, càng không phải là việc làm trái với chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc mà chính là việc làm cần thiết để bảo vệ cuộc sống hòa bình, yên vui của nhân dân, bảo vệ nhân quyền cho mọi người và để tăng cường hòa hợp dân tộc”.

                              Đúng như ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, đòi hỏi những sỹ quan thua trận “tiếp thu ánh sáng chính nghĩa” từ những người đưa mình vào tù là một yêu cầu quá cao. Cán bộ quản giáo miền Bắc, những người trực tiếp giáo dục lại các “ngụy quân và ngụy quyền” là những người lớn lên trong một xã hội hoàn toàn khép kín. Những giai thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài Gòn giàu có, đã giữ tư thế cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa bằng cách khoe: “Ngoài đó, ti vi tủ lạnh chạy đầy đường”, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt thự, cao ốc, nhìn thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau vào, giật
                              nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: “Bọn tư bản nó gài bẫy” cũng không hẳn là tiếu lâm chính trị. Hầu hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Đến khi vào tới Sài Gòn thì đến Đài Tiếng nói Việt Nam cũng ít có dịp được nghe, sách báo thì ngay cả Thép Đã Tôi Thế Đấy, Rừng Thẳm Tuyết Dày… cũng không đủ đọc. Họ được dạy rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc trong ngày 30-4-1975 còn ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những thanh niên lầm đường lạc lối. Không ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của miền Nam đã nhận ra sức hiểu biết của mình đang ở đâu. Cũng có những người vì mặc cảm đã dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung thành với những gì được dạy. Sự say sưa làm “thầy” của họ đã tạo ra không ít tình huống trớ trêu.

                              Theo ông Nguyễn Văn Trân116, người được bổ sung vào Trung ương Cục đầu tháng 4-1975, chủ trương từ trước của Bộ Chính trị là: Số nguy hiểm thì đưa ra miền Bắc cải tạo, số không nguy hiểm thì để lại trong Nam. Bản thân những người trong cuộc cũng nhận thấy những người được cải tạo ở miền Nam thì cuộc sống có phần nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Những người “tù nặng, tù lâu” thì ra Bắc. Những năm đầu việc cải tạo do bộ đội quản lý, kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới 17-2-1979, tù cải tạo được chuyển dần sang các trại ở Nam Hà, Thanh Hóa.

                              Không chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lý giải vì sao những người chiến thắng lại giam giữ những đối thủ đã đầu hàng mình lâu như vậy. Cho tới đầu thập niên 1990, những người lính biệt kích bị bắt hồi đầu thập niên 1960, những tù binh “Ngụy” bị bắt hồi Mậu Thân (1968), hồi Chiến dịch Hạ Lào 1971 vẫn còn phải đang “cải tạo”.

                              Nhà thơ Tô Thùy Yên, sau mười năm ở tù về đã viết:

                              Ta về cúi mái đầu sương điểm
                              Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
                              Cám ơn hoa đã vì ta nở
                              Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
                              Ta về như lá rơi về cội
                              Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
                              Chút rượu hồng đây xin ruới xuống
                              Giải oan cho cuộc bể dâu này…


                              Cải tạo không chỉ là câu chuyện của từng số phận mà còn là một phần trong “cuộc bể dâu” cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.

                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 19 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9