BÍ MẬT QUẢ CHUÔNG
Tác giả : ROBERT VAN GULIK
Người dịch : PHƯỚC LỘC
Năm 668 khi Địch Nhân Kiệt đến trấn nhậm tại Phổ Dương, một thành phố nhỏ nằm cạnh sông Hoàng Hà thuộc tỉnh Giang Tô. Cứ tưởng rằng ngài sẽ có những ngày tháng yên bình sau biến cố khủng khiếp trong vụ án “ Vụ giết người trên chiếc thuyền hoa” tại Hán Dương. Tuy nhiên khi vừa mới nhận nhiệm sở mới thì ngài đối mặt với vụ án giết người, hiếp dâm tại phố Bán Nguyệt. Hung thủ bị kết tội là một chàng thư sinh trói gà không chặt đã tạo nên mối nghi ngờ nơi quan án sát.
Cùng lúc đó tin đồn về một ngôi chùa Phật giáo nơi có bức tượng Phật bà quan âm linh thiêng sẽ giúp cho những phụ nữ hiếm muộn có con nhưng cùng với nó là những lời đồn đãi của dân chúng về lối sống xa hoa, sự giàu có không thể lý giải được của những tu sĩ tại chùa. Đâu là sự thật của vấn đề này ?
Một bà già đến công đường để kiện về một mối thù truyền kiếp giữa hai gia đình Lương – Lâm và những oan khuất mà bà phải gánh chịu từ đó đến nay. Ai là thủ phạm của tất cả những tội ác này.
Tất cả những điều này sẽ được giải đáp trong truyện “ Bí mật quả chuông ” của tác giả Robert Van Gulik
Chương 1
Một kẻ hiếu kì trở thành nạn nhân của một biến cố kì lạ
Địch công bắt đầu nhiệm vụ quan huyện tại Phổ Dương
Sáu năm đã trôi qua kể từ ngày tôi bỏ nghề buôn trà thịnh vượng do cha tôi truyền lại để về sống tại trang viên của gia đình tôi ở bên ngoài cổng thành phía Đông. Tại nơi ẩn cư yên tĩnh này, cuối cùng tôi đã có thể chuyên tâm vào trò tiêu khiển yêu thích của mình: sưu tập những vật lạ đã từng đóng một vai trò trong lịch sử khoa hình sự.
Nhưng triều đại nhà Minh rạng rỡ của chúng ta đang là một triều đại trật tự và thanh bình, cho nên hiện tại rất hiếm có những hành vi bạo lực. Do đó, để tìm thấy những vụ án bí ẩn được các quan toà sáng suốt giải quyết một cách tài tình, tôi đã phải lục tìm về quá khứ. Công việc tìm kiếm say mê đã cho phép tôi tập hợp được một bộ sưu tập đáng chú ý gồm các đồ vật có liên quan đến những vụ án nổi tiếng: Một hung khí đã được dùng để tiến hành một vụ ám sát ghê sợ nào đó, một vật dụng của một kẻ chuyên trộm cổ vật đã dùng ngày nào và biết bao những vật lạ khác đại loại như vậy.
Một trong những vật quý báu nhất của tôi là mảnh gỗ mun có hình dáng thuôn dài trên đó có khắc bài thơ tứ tuyệt sau:
“Quan án phải như phụ mẫu muôn dân
Coi sóc dân lành, giúp người già yếu
Nếu có phải trừng phạt nghiêm minh,
Thì nỗi lo chính của Người vẫn là ngăn ngừa điều xấu.”
Và những tài liệu lưu trữ cũ xác minh rằng quan án Địch Nhân Kiệt đã sử dụng chiếc búa gỗ này để điều khiển phiên toà, còn bài thơ đó có nhiệm vụ luôn luôn nhắc nhở ngài nghĩ về nghĩa vụ thiêng liêng của mình với nước với dân.
Tôi trích bài thơ trên dựa vào trí nhớ chứ cái di vật ấy thì tôi không còn giữ nữa. Biến cố khủng khiếp xảy ra với tôi cách đây hai tháng vào mùa hè vừa qua đã buộc tôi phải từ bỏ hoàn toàn công việc nghiên cứu tội phạm học, và tôi ngờ rằng tất cả mọi vật trong bộ sưu tập của tôi là có liên quan đến những tội ác đẫm máu thời xa xưa. Hiện nay, tôi bắt đầu sưu tập đồ sứ men ngọc; và cái trò tiêu khiển yên tĩnh này phù hợp hơn nhiều với bản tính ôn hoà của tôi.
Tuy nhiên, tôi vẫn còn phải làm cho xong một việc trước khi có thể sống thanh thản: tôi phải làm sao rũ bỏ được hoàn toàn những nỗi ám ảnh vẫn thường quấy rầy giấc ngủ của tôi. Và cách duy nhất giúp tôi thoát khỏi những cơn ác mộng ấy là tôi phải viết ra giấy kể lại những điều bí mật lạ lùng mà tôi đã phát hiện ra một cách thật là đặc biệt. Chỉ khi đó tôi mới có thể vĩnh viễn quên đi cái biến cố khó chịu đã làm cho tôi suýt phát điên lên.
Cuối cùng, vào buổi sáng mùa thu đẹp trời như sáng hôm nay, khi ngồi trong căn phòng lịch sự ngoài vườn hoa và khoan khoái ngắm nhìn vẻ duyên dáng của hai nàng hầu đang đưa những ngón tay thon dài hối hả sửa sang những cây hoa cúc, tôi mới dám hồi tưởng lại những sự kiện xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy.
Hôm ấy là ngày mồng chín tháng tám âm lịch, một ngày đã khắc sâu mãi mãi trong kí ức tôi. Trời về chiều làm cho cái nóng trở nên khó chịu. Tôi cảm thấy bực dọc và quyết định sai gia nhân rước kiệu đi dạo. Khi gia nhân hỏi tôi muốn đi đâu, tôi trả lời không cần suy nghĩ là đi thăm cửa hiệu đồ cổ của ông Liễu.
“Rồng Vàng” là tên của một cửa hiệu bán đồ cổ mở ngay trước cổng đền thờ Khổng Tử. Chủ cửa hiệu, ông Liễu, là một người láu lỉnh, hám của, nhưng ông biết nghề của mình và thường tìm được cho tôi những đồ mỹ nghệ thú vị được coi là đã từng có một vai trò nho nhỏ trong những câu chuyện hình sự từ thời xa xưa. Không biết tôi đã vui thú bao lần tại cái cửa hiệu lúc nào cũng đầy ắp báu vật của ông.
Hôm ấy, khi bước vào cửa hiệu, tôi chỉ thấy anh chàng làm công. Anh ta bảo là ông chủ thấy trong người không được khoẻ lắm và đang ở trên lầu, tại căn phòng trong đó có trưng bày những đồ vật quý báu nhất.
Thế là tôi lên gác. Ông Liễu, vì bị đau đầu, nên đã đóng hết các cửa sổ lại để ngăn bớt cái nóng ngột ngạt từ bên ngoài vào, do đó trong cảnh tranh tối tranh sáng, căn phòng vốn quen thuộc đối với tôi bỗng trở nên kỳ lạ… thậm chí có vẻ thù địch. Phản ứng của tôi là muốn ra về ngay tức khắc, nhưng nghĩ đến cái lò lửa đang đợi tôi ngoài đường, tôi đành quyết định ngồi lại một lát và để chờ ông chủ hiệu chỉ cho xem vài vật tầm thường lạ mắt. Tôi ngồi xuống chiếc ghế bành, cầm lấy cây quạt lông ngỗng quạt lấy quạt để.
- Cửa hiệu xoàng xĩnh của tôi hôm nay chẳng có gì đáng để trình ngài xem, - ông Liễu cúi đầu nói.
Tuy nhiên, sau khi đảo nhanh con mắt quanh mình, ông bước tới góc nhà lấy ra một chiếc gương có chân đế sơn đen, rồi đem đặt trước mặt tôi.
Sau khi ông phủi bụi xong chiếc gương, tôi mới thấy đó là một chiếc gương dùng để sửa sang đầu tóc. Loại gương này làm bằng bạc được gắn trên một chiếc hòm vuông, thường được các quan chức dùng để soi khi đội mũ lụa đen trước khi đến nha môn. Căn cứ vào những vết rạn ở chỗ quét sơn, có thể đánh giá rằng chiếc gương này có tuổi thọ khá lâu đời; tuy nhiên nó không phải là của hiếm, và nó không có giá trị lớn lắm dưới con mắt của những người sành sỏi.
Nhưng bỗng nhiên tôi nhìn thấy những nét chữ nhỏ bằng bạc khảm trên khung gương. Tôi cúi sát người để nhìn và phát hiện ra những dòng chữ như sau:
“Tài sản của quan án Địch, Phổ Dương”
Tôi cố kìm giữ tiếng reo vui: chiếc gương này của quan án sát Địch nổi tiếng! Và theo các tài liệu lưu trữ quốc gia thì khi quan án Địch làm quan huyện Phổ Dương – một huyện nhỏ thuộc tỉnh Giang Tô - ông dã gỡ rối được ít nhất ba vụ án bí hiểm với một sự sáng suốt phi thường. Tiếc thay chi tiết của những kì tích này đã không được bảo tồn cho đến ngày nay.
“Địch” không phải là một cái họ phổ biến, cho nên cái gương này chắc chắn là của ông quan án nổi tiếng kia. Tôi không còn cảm thấy mệt mỏi do nóng bức nữa. Trong thâm tâm, tôi thầm vui sướng vì sự dốt nát đã không để cho ông Liễu nhận ra đây là di vật của vị thám tử tài giỏi nhất, đã từng sống vào thời thịnh vượng của Đế quốc Trung Hoa cổ đại.
Cố làm ra vẻ dửng dưng, tôi sửa lại tư thế ngồi thoải mái trong ghế bành và xin ông Liễu pha cho một tách trà. Khi ông ta vừa đi xuống nhà dưới là tôi vội vàng đứng bật dậy để xem xét chiếc gương. Khi mở ngăn kéo của chiếc hòm dùng để làm đế gương, tôi nhìn thấy chiếc mũ vải đen, loại mũ của các quan án sát.
Tôi thận trọng giở chiếc mũ vải lụa mốc ra. Một lớp bụi rơi ra từ các đường may, nhưng trừ một số lỗ thủng do mối xông, còn thì có thể nói chiếc mũ vẫn lành lặn. Tôi kính cẩn run tay cầm chiếc mũ và tự nhủ: đây chính là chiếc mũ của quan án sát Địch, chiếc mũ mà ngài đã từng đội khi điều khiển phiên toà.
Có lẽ, chỉ có Thượng Đế tối cao biết được tại sao tôi lại bị cái ý nghĩ ngông cuồng phi lí xúi giục đội cái mũ quí giá ấy lên cái đầu không xứng đáng của tôi. Tôi liếc mắt soi vào gương để xem hiệu quả của việc mình làm ra sao. Thời gian đã làm cho lớp bạc tráng gương bị mờ đi, cho nên thoạt đầu tôi chỉ thấy trong gương một hình bóng mờ nhạt, nhưng bỗng nhiên hình bóng của đường nét đó hiện lên rõ ràng và tôi nhận thấy một bộ mặt xa lạ có vẻ mệt nhọc đang chăm chú nhìn tôi bằng đôi mắt cháy bỏng.
Đúng lúc đó tôi nghe thấy một tiếng sấm nổ đinh tai. Căn phòng tối sầm lại. Tôi cảm thấy như mình bị ngã xuống một chiếc vực không đáy và mất hết mọi khái niệm về thời gian và không gian. Tôi bắt đầu trôi nổi giữa những đám mây dày đặc, mà dần dần chúng biến thành hình người. Tôi mơ hồ nhận ra bóng dáng một người con gái trần truồng, đang bị một tên đàn ông hãm hiếp mà tôi không nhìn rõ mặt. Tôi muốn lao tới cứu người con gái bất hạnh, nhưng tôi không tài nào nhấc nổi chân. Tôi muốn kêu cứu nhưng không cất nổi tiếng. Thế là tôi lại bị cuốn vào một chuỗi những biến cố khủng khiếp khác, lúc thì phải chịu cảnh tra tấn đau đớn, lúc thì phải chịu bất lực đứng nhìn.
Khi tôi từ từ bị chìm đắm trong một hồ nước đọng hôi thối, thì có hai người con gái tươi trẻ giống như hai nàng tỳ thiếp của tôi, chạy lại cứu tôi. Nhưng đúng lúc tôi sắp nắm được tay họ thì có một luồng nước mạnh cuốn tôi đi. Tôi xoay tròn trong xoáy nước sủi bọt và bị kéo dần vào giữa vực thẳm, rồi từ từ chìm nghỉm trong dòng xoáy khủng khiếp. Sau đó bỗng nhiên, tôi thấy mình bị đóng kín trong một ngăn tối chật hẹp, trong khi một vật nặng ghê gớm từ từ đè xuống người tôi. Tôi lấy hết sức vùng vẫy hòng thoát khỏi cái khối nặng không thể chịu được ấy. Vô ích. Tôi dò dẫm sờ soạng, nhưng chỉ sờ thấy một vách ngăn bằng sắt nhẵn nhụi. Nhưng, đúng lúc tôi sắp chết ngạt thì cái sức ép đó bỗng buông tôi ra và tôi vội vã hít lấy hít để luồng không khí trong lành. Tuy nhiên, đến khi tôi muốn cử động, thì tôi bỗng hoảng sợ nhận ra là thân thể mình bị gắn chặt xuống đất, chân tay bị kéo dang ra, cổ tay và cổ chân tôi bị trói bằng những sợi dây to dày, đầu dây mất hút trong đám sương mù xám xịt. Tôi cảm thấy dây trói căng ra… Một nỗi đau đớn khủng khiếp xâm chiếm tay chân tôi và một sự kinh hoàng khó tả làm cho tim tôi gần như ngừng đập: tôi vừa hiểu ra rằng mình sắp sửa bị xé xác. Tôi kêu thét lên và tỉnh khỏi cơn mê.
Một biến cố bất ngờ tại cửa hàng đồ cổ Tôi thấy mình vẫn đang ở nhà ông Liễu, trong tư thế nằm dài trên sàn và toàn thân ướt đẫm mồ hôi lạnh. Quì bên cạnh tôi là ông chủ hiệu đang hốt hoảng gọi tên tôi. Chiếc mũ đen cũ kĩ đã văng ra khỏi đầu tôi và đang nằm giữa đống mảnh gương vỡ nát.
Ông chủ hiệu buôn đỡ tôi ngồi lên ghế bành, trong khi tôi vẫn chưa hết cơn run rẩy. Sau đó, ông kề tách trà vào tận môi cho tôi uống.
Ông giải thích cho tôi hiểu rằng ban nãy, khi ông vừa xuống nhà lấy ấm trà, thì nghe thấy một tiếng sấm nổ vang trời, tiếp theo là một trận mưa như trút nước kéo xuống, làm cho ông phải vội vàng quay trở lại lên gác để đóng cửa sổ lại cho chắc và thế là ông nhìn thấy tôi nằm ngất trên sàn nhà.
Tôi im lặng một lúc lâu trong khi nhấp từng ngụm trà thơm, sau đó tôi kể cho ông Liễu nghe một chuyện vu vơ tôi vừa nhớ ra và nói dối rằng mình hay bị choáng váng bất ngờ. Thế rồi tôi nhờ ông gọi kiệu cho tôi và ra về ngay trong cơn mưa như thác đổ. Mặc dù đám gia nhân đã cẩn thận che kiệu bằng một tấm giấy dầu, nhưng khi về tới nhà, tôi vẫn bị ướt như chuột lột.
Tôi vội đi nằm ngay trong cơn đau đầu dữ dội. Bà vợ cả của tôi hốt hoảng vội sai người đi mời thầy thuốc, và khi ông ta đến thì thấy tôi đang mê sảng.
Trong suốt hai tháng trời tôi ở trong tình trạng sống dở chết dở. Bà vợ cả tôi khẳng định rằng sở dĩ cuối cùng tôi qua khỏi là hoàn toàn nhờ bà nhiệt thành cúng vái và thắp hương hàng ngày tại đền thờ thần y học. Riêng tôi, thì tôi cho rằng sở dĩ tôi khỏi bệnh là nhờ hai tỳ thiếp của tôi ngày đêm thay nhau túc trực bên giường và cho tôi uống thuốc theo đơn của ông thầy thuốc tài giỏi.
Cuối cùng, khi tôi lại sức và có thể ngồi dậy được, ông thầy thuốc muốn nghe tôi kể lại những gì đã xảy ra ở nhà ông Liễu. Tôi chẳng muốn kể lại gì, nên chỉ nói rằng tôi đã bị choáng đột ngột. Ông bác sĩ liếc nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, nhưng không gặng hỏi gì thêm. Đến khi chào tôi ra về, ông mới dửng dưng nhận xét rằng căn bệnh sốt đau đầu như thế này, đôi khi chỉ xảy ra khi người ta sờ mó vào những vật đã từng đóng một vai trò trong một câu chuyện án mạng cổ xưa nào đó. Những vật này toả ra ám khí độc hại và gây nguy hiểm cho đầu óc người nào chạm vào chúng.
Khi ông bác sĩ sáng suốt đi khỏi, tôi liền cho gọi viên quản lí của tôi vào. Tôi ra lệnh cho ông ta đóng gói bộ sưu tập những di vật về tội phạm học của tôi vào bốn cái hòm lớn và gửi cho ông Hoàng, chú của vợ cả tôi. Mặc dầu bà vợ cả của tôi không hết lời khen ngợi ông ta, nhưng trên thực tế, ông chú họ Hoàng này là một lão bỉ ổi, thích gây chuyện kiện tụng mọi người. Tôi viết một bức thư vô cùng nhã nhặn gửi kèm theo món quà, để thông báo cho ông ta biết rằng tôi muốn biếu ông ta toàn bộ kho sưu tập di vật tội phạm học, để tỏ lòng thành kính sâu sắc đối với sự hiểu biết thấu đáo của ông ta về dân luật và hình luật. Tôi cũng phải thổ lộ với độc giả rằng tôi vẫn còn căm thù ông chú họ Hoàng này lắm, kể từ cái ngày mà thủ đoạn gian trá ông ta đã chiếm của tôi một mảnh đất đẹp. Tôi khát khao mong sao cho khi xem xét bộ sưu tập của tôi, ông ta sẽ vớ phải một trong những đồ di vật chết chóc đem lại cho ông ta một biến cố tai ác chẳng kém gì biến cố tôi đã gặp phải tại cửa hiệu của ông Liễu.
Giờ đây tôi sẽ cố kể lại một cách mạch lạc những sự kiện mà tôi đã trải qua trong giây phút ngắn ngủi khi tôi đội chiếc mũ của quan án Địch. Tôi dành cho độc giả độ lượng, quyền được quyết định xem chuyện của tôi kể về ba tội ác ngày xưa đã cung cấp cho họ những sự kiện đích thực tới mức nào – những sự kiện mà tôi đã phát giác một cách khác thường, hay đó chỉ là những điều bịa đặt do cái bộ óc kém cỏi của tôi trong cơn sốt quay cuồng nghĩ ra. Tôi đã không bỏ công tham khảo tài liệu lưu trữ lịch sử của thời đế chế để xác minh các sự kiện; bởi vì như tôi đã tuyên bố ở trên, tôi hoàn toàn từ bỏ kiểu tìm kiếm này. Những chủ đề đau buồn ấy không còn lôi cuốn tôi nữa, vì hiện nay tôi đang thích thú chuyên tâm sưu tập những đồ sứ màu lục tuyệt diệu thuộc đời Tống.
Sáng nay Địch công vừa đến nhận nhiệm vụ tại trụ sở mới của mình là huyện Phổ Dương. Mãi đến chiều tối, ngài vẫn còn ngồi trong phòng làm việc ở sau công đường, để nghiên cứu các tài liệu lưu trữ của huyện. Hai ngọn nến to cắm trên hai cây đèn nến bằng đồng soi sáng chiếc bàn ngổn ngang giấy tờ tài liệu. ánh sáng lung linh nhảy múa trên bộ quan phục bằng gấm xanh và trên chiếc mũ vải lụa đen láng bóng. Thỉnh thoảng ngài lại vuốt bộ râu dài màu đen rất đẹp hoặc mân mê hai hàng râu quai nón mọc dài, nhưng không bao giờ ngài ngừng đọc lâu.
Ngồi sau một chiếc bàn nhỏ hơn đặt đối diện với bàn của quan án sát, ông Hồng Lượng (người giúp việc không rời của quan án) đang xem xét tập hồ sơ của toà án. Hồng Lượng là một người đàn ông đã có tuổi, hơi gầy. Ông để râu cằm và ria mép lơ thơ bạc trắng, mặc chiếc áo thụng nâu đã phai màu và đội chiếc mũ chỏm nhỏ bé che chiếc đầu hói. “Sắp nửa đêm rồi”, ông nghĩ và liếc trộm con mắt sang cái bóng cao to của quan án. Hồng Lượng đã làm một giấc ngủ trưa, nhưng còn ông chủ của ông thì không hề chợp mắt suốt cả ngày hôm nay. Mặc dù ông biết là quan án sát có một thể tạng vững như thép, nhưng ông Hồng Lượng không khỏi lo lắng.
Là người hầu già của dòng họ Địch, ông Hồng Lượng đã từng bế bồng quan án sát tương lai khi cậu còn là một cậu bé. Về sau, khi cậu bé đã trưởng thành và lên kinh đô để dự khoa thi, thì Hồng Lượng lại đi theo hầu cậu chủ, và khi Địch Nhân Kiệt – tên cậu chủ - được bổ làm quan huyện, thì ông theo cậu về tỉnh lẻ. Giờ đây Phổ Dương là nhiệm sở thứ ba của quan án sát Địch. Suốt mấy năm nay, Hồng Lượng đã trở thành quân sư, đồng thời là người bạn trung thành của quan án sát. Quan án thường kể, không những chỉ những chuyện riêng, mà kể cả những việc quan của mình cho ông nghe, và ý kiến của Hồng Lượng thường tỏ ra rất có ích. Để cho ông có một chức vị chính thức, quan án đã gọi ông là chấp sự của toà án, và thế là ông được mọi người gọi là “Chấp sự Hồng” còn khi nói chuyện thân mật thì thường gọi là lão Hồng.
Vừa giở tập tài liệu, lão Hồng vừa nghĩ đến một ngày vất vã, mệt nhọc mà ông chủ của mình vừa trải qua. Sáng nay, khi quan án sát cùng đoàn tuỳ tùng của mình – gồm các bà vợ, các con và gia nhân – tới Phổ Dương, quan án đã tới ngay phòng tiếp khách của toà án, trong khi đoàn tùy tùng tiếp quản khu dinh thự nhà riêng của quan án nằm ở phía bắc nha môn. Tại đây, cùng với sự trợ giúp của viên quản gia, bà vợ cả trông coi việc chuyển đồ và bắt đầu sắp xếp nhà cửa. Quan án Địch không còn có thời gian để đi xem nhà ở mới, vì trước tiên ngài phải tiếp nhận dấu ấn của huyện nha từ tay quan án Phụng, người tiền nhiệm của ngài. Xong buổi lễ bàn giao ấy, ngài bắt đầu xem qua nhân lực thường trực của toà án, từ viên chánh thư lại và đội trưởng các bộ đầu đến viên cai ngục và đội cận vệ. Đến trưa, ngài chủ trì một bữa tiệc thịnh soạn tiễn biệt ngài quan huyện cũ, sau đó ngài tiễn quan án Phụng cùng đoàn tùy tùng ra tới tận cổng thành theo đúng tục lệ. Khi quay về, quan án Địch lại tiếp những người dân đầu tiên của Phổ Dương đến chào mừng ngài.
Sau đó, ngài ăn vội bữa tối tại phòng làm việc của mình, và tại đây, ngài bắt đầu liếc qua tập hồ sơ của huyện đường. Đám thư lại sốt sắng đem tới cho ngài những tập tài liệu lưu trữ đựng trong những hộp da lớn. Sau hai tiếng đồng hồ ngài cho họ lui, còn ngài thì vẫn không hề tỏ ra là muốn đi nằm.
Cuối cùng, sau khi buông tập tài liệu mà ngài vừa xem xong, ngài ngả người trên ghế bành, rồi vui vẻ nhìn sang người bạn trung thành của mình.
- Thế nào, lão Hồng, làm một tách trà chứ? – Ngài mỉm cười hỏi.
Lão Hồng vội vàng đi lấy ấm trà đang để trên chiếc bàn một chân. Trong khi ông rót trà thì Địch công lên tiếng:
- Thượng Đế đã ban biết bao phước lành cho huyện Phổ Dương. Tập tài liệu này cho ta thấy rằng đây là một mảnh đất màu mỡ. Người dân không hề biết đến hạn hán, lụt lội, còn nông dân thì làm ăn thịnh vượng. Được xây dựng bên bờ con sông lớn chảy từ bắc xuống nam, thành Phổ Dương có một địa thế đặc biệt thuận lợi. Tàu thuyền thường ra vào trú tại cổng thành phía tây. Du khách không ngớt đi về và công việc làm ăn không thể chê vào đâu được. Ở đây cũng là nơi giao lưu giữa sông và kênh đào, làm cho nguồn cá trở nên dồi dào, tạo nguồn lợi cho đám dân nghèo. Sự có mặt của một đội quân đồn trú tương đối lớn làm cho thương mại phát triển. Như vậy là dân chúng ở đây sống sung túc, hài lòng với số mệnh của mình và sẵn sàng nộp thuế đúng hạn. Cuối cùng phải nói tới một điều là vị tiền nhiệm của ta, quan án sát Phụng, rõ ràng là một người có năng lực và đầy nhiệt tâm: mọi giấy tờ đều được giải quyết ngày nào xong ngày ấy và hoàn toàn ngăn nắp.
Nét mặt của lão Hồng trở nên tươi tỉnh.
- Thật là vui khi được nghe những điều như vậy, thưa đại nhân - Ông đáp – Những khó khăn mà chúng ta gặp phải tại nhiệm sở trước ở Hán Dương luôn luôn làm tôi lo lắng cho sức khoẻ của ngài ( xem truyện “ Vụ giết người trên chiếc thuyền hoa “ )
Rồi vừa vuốt bộ râu cằm lưa thưa, ông vừa nói tiếp:
- Trong khi tra cứu các văn bản gốc của toà án, tôi đã phát hiện thấy tình trạng phạm tội ở đây không cao lắm. Và những tội ác hiếm hoi ấy đã được xét xử công minh. Chỉ còn một vụ là đang còn chờ toà giải quyết. Đó là một vụ hãm hiếp đê tiện kéo theo án mạng mà quan án Phụng đã gỡ rối trong vòng vài ngày. Khi nào tìm hiểu hồ sơ thì ngài sẽ thấy là chỉ còn phải giải quyết một vài chi tiết vụn vặt nữa thôi.
Địch công cau mày:
- Những chi tiết vụn vặt ấy đôi khi lại đẻ ra những vấn đề lớn đấy. Hãy kể cho ta nghe vụ việc đi!
Lão Hồng nhún vai:
- Đây không phải là một chuyện quá phức tạp. Người ta đã tìm thấy xác cô gái con một ông hàng thịt họ Tiểu trong phòng của cô ta. Khám nghiệm tử thi cho thấy đây là một vụ hãm hiếp. Cuộc điều tra phát hiện ra rằng nạn nhân có người tình là một chàng thư sinh thoái hoá có họ là Vương. Ông hàng thịt buộc cho chàng trai tội giết người. Sau khi quan án Phụng xác minh lời khai của nguyên cáo và nghe các nhân chứng, thì sự việc trở nên rõ ràng là chàng Vương chính là kẻ giết người, nhưng anh ta không chịu nhận tội. Quan án Phụng liền đem anh ta ra tra khảo. Tiếc thay, anh ta đã bị ngất trước khi kịp nhận tội. Sự ra đi của quan án Phụng đã ngăn không cho ngài kịp đi xa hơn nữa trong việc giải quyết vụ án. Nhưng vì kẻ giết người đang còn bị giam trong ngục và rằng những chứng cứ chống lại anh ta đủ để người ta có thể đem anh ta ra tra khảo, nên trên thực tế vụ án coi như đã kết thúc.
Địch công im lặng một lát, tay vuốt râu ra chiều nghĩ ngợi, sau đó ông nói:
- Ta muốn nghe vụ việc kĩ hơn, lão Hồng.
Khuôn mặt của lão Hồng bí xị.
- Nhưng sắp nửa đêm rồi, thưa đại nhân - ông ngập ngừng đáp – tốt nhất ngài nên đi nghỉ và có một giấc ngủ ngon thì hơn. Chúng ta còn nhiều thời gian để xem xét vụ này.
Quan án lắc đầu:
- Dù bác mới chỉ kể ngắn gọn, nhưng ta đã thấy câu chuyện có vẻ mâu thuẫn lạ lùng. Sau khi ta đã xem tất cả những tài liệu hành chính này rồi thì một vấn đề hình sự chính là cái ta cần để tẩy sạch đầu não! Uống trà đi, rồi lấy tư thế thoải mái mà kể cho ta nghe tóm tắt sự việc.
Lão Hồng rất hiểu ý quan án. Thế là với vẻ phục tùng, ông xem mấy tờ giấy rồi bắt đầu tường trình:
- Cách đây đúng 10 ngày, trưa ngày 17 tháng này, một ông hàng thịt tên là Tiểu Phú Hãn đến kêu khóc dưới chân quan án Phụng trong buổi tiếp dân hôm ấy. Ông này có một cửa hàng nhỏ tại phố Bán Nguyệt, ở góc tây nam thị trấn. Có ba nhân chứng cùng đi theo ông: Ông Cao, trương tuần phường cửa Nam; ông Long, thợ may ở nhà đối diện với nhà ông Tiểu, và ông trưởng phường hàng thịt. Ông hàng thịt Tiểu trình lên quan án Phụng bản cáo trạng buộc tội Vương Hiến Tông, thí sinh đang chuẩn bị cho khoa thi cử; anh chàng họ Vương này là một thư sinh nghèo cũng sống gần nhà ông hàng thịt. Ông Tiểu khẳng định anh Vương đã bóp cổ con gái duy nhất của mình, cô Ngọc Trinh, tại căn phòng của cô ta và đã ăn cắp đi hai chiếc trâm vàng. Theo ông Tiểu, anh khoá Vương là tình nhân của con gái ông từ sáu tháng nay. Tội ác được phát hiện khi người ta không thấy cô gái xuống nhà để dọn dẹp nhà cửa như thường lệ.
- Cái hàng thịt họ Tiểu này, - Địch công ngắt lời – hoặc là một kẻ hoàn toàn ngu đần, hoặc là một tên vô lại tham lam! Làm sao mà ông ta có thể cho phép con gái mình tiếp một người đàn ông ngay trong nhà mình được, biến ngôi nhà ông ta thành nhà chứa ? Chả trách án mạng đã xảy ra ngay trong nhà ông ta!
Lão Hồng lắc đầu phản đối:
- Không, thưa đại nhân. Những điều giải thích của ông Tiểu làm cho sự việc xuất hiện dưới một vẻ hoàn toàn khác!
Chương 2
Địch công ý kiến về vụ án hiếp dâm, giết người tại phố Bán Nguyệt
Chấp sự Hồng giật mình về tuyên bố của Địch công
- Ta nghe đây! – Quan án nói rồi khoanh tay giấu dưới ống tay áo thụng.
- Cho đến sáng hôm đó ông Tiểu cũng không biết được con gái của mình có một người tình - lão Hồng kể tiếp – Cô Ngọc Trinh ngủ trong căn gác xép, bên trên kho chứa đồ đạc ở đằng sau cửa hàng. Căn gác xép này cũng được dùng làm phòng giặt giũ và phòng may vá. Vì nhà ông Tiểu không đủ giàu để có thể thuê người ở, nên vợ con ông phải lo tất cả mọi việc trong nhà. Theo lệnh của quan án Phụng, người ta đã kiểm tra thấy rằng có thể nói chuyện khá to trong gác xép mà ở trong phòng của ông hàng thịt và ở những nhà xung quanh không thể nghe thấy được. Về phần anh khoá Vương, anh ta thuộc một gia đình tử tế ở kinh đô, nhưng bố mẹ anh đều đã mất và do xích mích với những người thân khác, nên anh không còn nơi nương tựa. Anh đang chuẩn bị thi hương và sống chật vật nhờ vào việc dạy học cho lũ trẻ của các cửa hiệu xung quanh khu phố Bán Nguyệt. Một người thợ may già họ Long cho anh ta thuê căn gác xép ở bên trên cửa hàng của mình, nằm đối diện ngay với cửa hàng thịt.
- Anh ta trở thành tình nhân của cô gái từ khi nào? – Địch công hỏi.
- Anh ta phải lòng cô gái cách đây khoảng sáu tháng và đôi trai gái quyết định bí mật gặp gỡ nhau tại phòng cô Ngọc Trinh. Anh khoá Vương thường đến trước nửa đêm, leo qua cửa sổ vào phòng cô, rồi lại lén lút ra về trước khi trời sáng. Ông thợ may họ Long khai rằng ông đã nhanh chóng phát hiện ra điều bí mật tệ hại này sau vài tuần. Ông đã nghiêm khắc quở trách chàng Vương và còn nói thêm rằng ông sẽ thông báo cho ông hàng thịt biết những sự việc xấu xa ấy.
Quan án gật đầu đồng tình:
- Ông thợ may này suy nghĩ rất đúng!
Lão Hồng tham khảo tập tài liệu trước mặt rồi nói tiếp:
- Chàng Vương rõ ràng là một tên vô lại xảo trá. Anh ta quỳ dưới chân ông thợ may họ Long mà quả quyết rằng cô Ngọc Trinh và anh ta yêu nhau chân thành, rồi anh ta thề là sẽ cưới cô gái đẹp ấy ngay sau khi anh ta thi xong. Khi ấy vị trí mới sẽ cho phép anh ta đáp ứng đồ sính lễ rước dâu và tặng cho cô dâu một căn nhà nghiêm chỉnh. Trong khi nếu điều bí mật của anh ta bị phát giác ngay bây giờ thì người ta sẽ không cho anh dự thi và tất cả mọi người liên quan đều sẽ mất mặt. Ông Long biết rằng anh Vương là một chàng trai chăm chỉ và chắc chắn là đến mùa thu này anh sẽ thi đậu. Hơn nữa, khi nghĩ rằng mầm mống của một gia đình quý tộc – mà sắp tới sẽ làm quan triều đình – chọn con gái của một người bạn hàng xóm làm vợ tương lai, đã làm ông ta tự hào. Thế là, nghĩ rằng chỉ còn vài tuần nữa là mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp bằng lễ cầu hôn, ông đã hứa với đôi trai gái là sẽ giữ kín chuyện bí mật của họ. Nhưng, để tin chắc rằng Ngọc Trinh là một cô gái đứng đắn, ông Long đã để ý theo dõi cô và thề rằng cô không hề biết đến một chàng trai nào khác ngoài chàng Vương, anh này là người duy nhất lọt vào phòng cô gái.
Quan án uống một ngụm trà nhỏ rồi cất giọng gay gắt nói:
- Điều đó có thể xảy ra. Nhưng có một điều là cô Ngọc Trinh, anh khoá Vương và ông thợ may họ Long đều xử sự một cách rất là đáng chê trách!
- Quan án Phụng cũng nhấn mạnh đến điểm này, - lão Hồng nhận xét - ông hết sức lên án tội tòng phạm của ông Long và tội thiếu ý thức trông nom gia đình của ông Tiểu. Sáng ngày 17, khi ông Long biết tin về vụ ám sát cô Ngọc Trinh, tình cảm tốt đẹp của ông dành cho chàng Vương liền biến thành nỗi căm ghét tột độ. Ông vội chạy sang nhà ông Tiểu để báo cho ông này biết chuyện dan díu của cô con gái với chàng khoá sinh. Đây là nguyên văn câu nói của ông: “Thật khốn nạn thân tôi vì tôi đã nhắm mắt làm ngơ trước hành vi bỉ ổi của hai đứa! Cái thằng chó Vương này đã lợi dụng chuyện đó để thoả mãn dục vọng thấp hèn của hắn đối với cô Ngọc Trinh, và chắc là vì cô đòi hỏi hắn phải cưới cô, nên hắn đã giết cô và lấy đi hai chiếc trâm vàng để hòng mua được một cô vợ khác giàu có hơn”. Ông hàng thịt họ Tiểu phát điên lên vì tuyệt vọng và tức giận, ông liền sai người đi tìm ông trương tuần - ông Cao, và trưởng phường hàng thịt. Ba người hội ý một lát rồi đi đến nhất trí: thủ phạm chỉ có thể là chàng Vương. Thế là ông trưởng phường hàng thịt thảo đơn kiện và cả ba đem tới trình toà tố cáo tên Vương về vụ giết người bẩn thỉu này.
- Thế còn anh khoá Vương tại thời điểm đó ? – Quan án Địch hỏi – Anh ta có bỏ trốn không?
- Không, anh ta bị bắt ngay lập tức. Sau khi nghe lời trình báo của ông Tiểu, quan án Phụng liền sai bốn bộ đầu đi bắt chàng trai. Họ thấy anh ta vẫn đang còn ngủ say trong phòng mình, mặc dù trời đã về chiều. Bộ đầu dẫn anh ta đến toà án và tại đây anh được thông báo về lời buộc tội của ông Tiểu.
Tỳ hai khuỷu tay xuống mép bàn, Địch công háo hức kêu lên:
- Ta đang tò mò muốn biết lời bào chữa của anh khoá Vương đây!
Ông chấp hành viên lục tìm giấy tờ, đọc lướt qua một lượt rồi đáp:
- Tên vô lại này chỉ có một bản biện minh, cái chính…
Quan án Địch giơ tay ngăn lại:
- Ta muốn nghe thuật lại những lời lẽ của anh ta. Hãy đọc cho ta nghe biên bản.
Ông chấp sự sửng sốt nhìn quan án có vẻ như muốn nói điều gì, nhưng ông lại thay đổi ý kiến và, bằng một giọng đơn điệu, ông đành đọc lời khai của bị can đã được viên thư lại của toà án ghi vào biên bản:
“Kẻ thư sinh dốt nát đang cúi lạy trước mặt quan lớn đây cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Tôi đã mắc phải một tội đáng chê trách nhất: đó là tội đã quyến rũ một cô gái đồng trinh có thanh danh trong sạch và đã giữ quan hệ bí mật với nàng. Xin quan lớn hiểu cho rằng căn gác xép của tôi trông ra phố Bán Nguyệt. Từ chỗ ở của tôi, tôi có thể nhìn thấy cửa sổ căn phòng cô Ngọc Trinh và thường xuyên được chiêm ngưỡng những đường cong đầy đặn, dịu dàng của nàng mỗi khi nàng chải mái tóc dài. Chẳng bao lâu trong thâm tâm tôi quả quyết rằng mình sẽ không thể lấy ai khác ngoài nàng
Thật hạnh phúc biết bao cho tôi, giá như tôi giữ được quyết định này và chờ đợi kết quả thi cử may mắn của tôi, trước khi tôi thực hiện ý đồ của mình. Khi ấy, địa vị mới của tôi sẽ cho phép tôi được thuê người làm mối. Người có nhiệm vụ xe duyên đôi lứa ấy sẽ đem đồ lễ đến gặp cha nàng, để hỏi nàng làm vợ cho tôi, theo phong tục cổ xưa đáng kính của chúng ta. Nhưng than ôi! Một hôm tôi gặp Ngọc Trinh ở dưới cửa hàng của cha nàng. Tôi không thể không hỏi chuyện nàng, và, với vẻ ngây thơ, nàng tỏ ra cho tôi hiểu rằng, tình cảm của tôi đã làm cho trái tim nàng rung động. Thế là, đáng ra tôi phải là người dẫn dắt cô gái trong trắng ngây thơ này đi theo tôi đường chính trực, thì tôi lại khêu gợi dục vọng của chính nàng bằng ngọn lửa dục vọng của tôi. Tôi đã xin nàng cho tôi được gặp lại và chẳng bao lâu tôi đã thuyết phục được nàng cho tôi tới thăm nàng tại phòng riêng của nàng. Tới ngày hẹn, tôi đợi tới khuya mới bắc thang trèo qua cửa sổ vào phòng nàng. Thưa quan án, tôi phải thú nhận rằng tôi đã giành được niềm vui trong vòng tay nàng, niềm vui mà Thượng đế chỉ cho phép tôi được thưởng thức cùng với một người con gái đáng kính sau lễ thành hôn long trọng.
Than ôi! Cứ như lửa được chất thêm củi, dục vọng của tôi càng cháy bùng lên và nó làm cho tôi đòi nàng cho gặp mặt lần nữa, rồi lại nhiều lần nữa, càng ngày càng thường xuyên hơn. Vì sợ tuần canh hay một người nào đó đi khuya nhìn thấy chiếc thang, tôi đã thuyết phục cô Ngọc Trinh buộc một băng vải trắng vào chân giường nàng, rồi buông qua cửa sổ. Từ dưới đường, tôi sẽ giật băng vải làm hiệu, nàng sẽ mở cửa sổ và kéo băng vải giúp tôi trèo lên. Bất cứ ai không biết đều tưởng rằng đây là khăn áo phơi bị bỏ quên!”
Quan án Địch đấm mạnh tay xuống bàn ngắt lời ông chấp sự:
- Thằng vô lại gian ngoan! - Ông giận dữ kêu lên – một anh khoá hạ mình bắt chước những mánh khoé đê tiện của bọn trộm cắp và lũ bất lương, thật là đẹp!
- Tôi đã nói rồi, thưa đại nhân – lão Hồng nói tiếp - anh chàng Vương này là một kẻ tội phạm hèn hạ. Tôi xin đọc tiếp lời khai của anh ta:
“Nhưng một hôm ông Long đã phát hiện được điều bí mật của tôi và vì là người đứng đắn, nên ông đã doạ sẽ kể hết cho ông hàng thịt họ Tiểu nghe. Than ôi! Tôi thật mù quáng, không biết rằng lời khuyến cáo đó chính là do Thượng Đế nhân từ sai khiến và tôi đã xin ông Long đã giữ kín chuyện cho. Và ông đã đồng ý.
Thế là sự việc cứ thế tiếp diễn trong vòng gần sáu tháng. Sau đó thì Thượng đế cao xanh đã quyết định không dung túng sự vi phạm những điều luật linh thiêng nữa và bỗng nhiên trừng phạt đồng thời cả cô Ngọc Trinh vô tội lẫn kẻ phạm tội khốn nạn như tôi. Đúng ra tối ngày 16 tôi phải đến gặp nàng tại phòng nàng, nhưng chiều hôm ấy anh khoá Dương Phổ đến gặp tôi và báo cho tôi biết bố anh ấy vừa mới gửi năm lạng bạc cho anh ấy nhân dịp sinh nhật. Anh ấy liền mời tôi đi ăn mừng ngày sinh tại hiệu ăn Ngũ Vị ở cửa Bắc thị trấn. Trong bữa ăn, tôi đã uống nhiều rượu và khi chia tay Dương Phổ, tôi hiểu rằng tôi đã hoàn toàn bị say mèm. Thế là tôi quyết định về nhà ngủ một hai giờ cho tan rượu trước khi đi gặp cô Ngọc Trinh, nhưng tôi say đến nỗi đã không nhận ra đường về. Sáng nay, trước khi mặt trời mọc, tôi tỉnh rượu thức giấc và thấy mình nằm giữa bụi gai trong đống đổ nát của một ngôi nhà cũ. Tôi phải cố sức để đứng lên, bởi vì đầu tôi vẫn còn nặng. Sau đó tôi khó nhọc lần mò ra đường lớn và về nhà, leo thẳng lên phòng mình rồi ngủ thiếp ngay. Chỉ đến khi bộ đầu đến tìm tôi, thì tôi mới được biết số phận khủng khiếp của vị hôn thê tội nghiệp của tôi.”
Lão Hồng ngừng đọc một lát, sau đó ông nhìn sang quan án sát, nói bằng giọng khinh bỉ: “Bây giờ ngài hãy nghe câu kết của kẻ đạo đức giả này!”
“Nếu đại nhân bắt tôi phải chịu hình phạt cao nhất, vì thái độ không thể tha thứ được của tôi đối với cô gái bất hạnh này và vì tội gián tiếp gây ra cái chết cho nàng, thì tôi sẽ vui lòng nhận lời tuyên án ấy. Nó sẽ giải thoát cho tôi khỏi cuộc sống đầy tuyệt vọng từ nay trở đi. Nhưng để cho cái chết của người yêu của tôi có thể được trả thù – và vì danh dự dòng họ nhà tôi – tôi buộc phải từ chối lời buộc tội đã hãm hiếp và giết cô Ngọc Trinh.”
Lão Hồng đặt tờ giấy lên bàn, rồi vừa gõ ngón trỏ xuống tờ giấy, ông vừa giải thích:
- Ý đồ do anh chàng Vương này vạch ra nhằm thoát khỏi sự trừng phạt thích đáng là quá rõ ràng. Anh ta nhấn mạnh đến tội quyến rũ, nhưng lại kiên quyết phủ nhận là đã giết cô gái. Anh ta biết rất rõ tội quyến rũ một cô gái chưa lập gia đình với sự đồng ý của cô ta nặng nhất chỉ là phạt năm mươi trượng, còn tội giết người sẽ là một cái chết công khai nhục nhã giữa pháp trường !
Lão Hồng nhìn chủ nhân và chờ đợi một lời bình phẩm. Quan án im lặng nhấp một ngụm trà rồi hỏi:
- Quan án Phụng đã nói gì sau khi nghe lời khai của tên Vương ?
Ông chấp sự xem một cuộn giấy khác rồi đáp:
- Quan án Phụng không hỏi gì anh khoá Vương trong phiên toà đó. Ông bắt đầu cho điều tra ngay.
- Ông ấy đã hành động rất khôn ngoan! –Địch công tán thành – Bác có thể cho ta nghe bản báo cáo khám nghiệm hiện trường và kết luận của pháp y không?
Ông chấp hành viên mở tiếp tập tài liệu:
- Vâng, thưa ngài. Mọi chi tiết đã được ghi ở đây. Quan án Phụng đã đến căn nhà ở phố Bán Nguyệt cùng với những người giúp việc của mình. Tới nơi, họ thấy trên giường là xác một cô gái khoảng 19 tuổi, hoàn toàn trần truồng. Cô có một thân thể tuyệt đẹp, phát triển cân đối, nhưng đầu tóc rối tung và khuôn mặt rúm ró đáng sợ. Chiếc nệm nằm vắt ngang thành giường, gối nằm lăn lóc trên sàn nhà bên cạnh một tấm vải trắng dài nhàu nát, một đầu tấm vải buộc vào chân giường. Chiếc hòm quần áo bị mở tung. Đối diện với chiếc giường dựa lưng vào tường là một chậu giặt lớn và trong góc phòng có một chiếc bàn nhỏ, trên có đặt một chiếc gương bị rạn. Ngoài ra, còn có một chiếc ghế đẩu nằm đổ cách giường không xa.
- Có dấu vết nào của thủ phạm để lại không? – Địch công ngắt lời.
- Không có, thưa đại nhân. Người ta chỉ tìm thấy một tập thơ tình gửi cô Ngọc Trinh, cô giữ gìn cẩn thận trong ngăn kéo bàn. Mặc dù cô không thể đọc được nó. Những bài thơ này đều có chữ kí của anh khoá Vương.
Sau khi khám nghiệm tử thi, quan pháp y tuyên bố rằng nạn nhân chết vì bị bóp cổ. Ở cổ nạn nhân có hai vết tím bầm. Những vết giập và sưng ở khắp hai cánh tay và ngực cho thấy cô gái đã chống cự quyết liệt. Cuối cùng, một số dấu hiệu cho phép kết luận cô đã bị hãm hiếp trước hoặc trong lúc bị bóp cổ.
Lão Hồng lướt nhanh đoạn cuối tập tài liệu và nói tiếp:
- Trong những ngày tiếp theo, quan án Phụng xác minh tỉ mỉ mọi lời khai của nhân chứng và …
- Bác có thể bỏ qua các chi tiết - Địch công ngắt lời – Ta tin là quan án Phụng đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách có ý thức. Bác hãy dừng lại ở những điểm cơ bản thôi, chẳng hạn ta muốn biết anh chàng Dương Phổ nói gì về bữa tiệc ở quán ăn.
- Dương Phổ đã xác nhận mọi chi tiết của câu chuyện, nhưng anh ta không tin là chàng Vương quá say khi ra về. Anh ta dùng chữ “hơi chếnh choáng”, cần nói thêm là chàng Vương đã không nhớ được mình ngủ gục ở chỗ nào. Quan án Phụng làm mọi việc có thể, ông đã sai vài bộ đầu dẫn tên Vương đi đến những nơi đổ nát trong thị trấn nhằm giúp anh ta nhớ lại nơi mình đã ngủ, nhưng tất cả là vô ích vì anh ta không nhận ra nơi nào cả. Anh ta bị mấy vết xước trên mặt và mấy vết rách ở áo. Nhưng anh ta giải thích rằng đó là do anh ta ngã vào bụi gai. Quan án Phụng dành ra hai ngày để lục soát tỉ mỷ chỗ ở của chàng Vương và những nơi mà anh ta có thể giấu hai chiếc trâm vàng nhưng không thấy gì. Ông Tiểu đã vẽ lại hình hai chiếc trâm ra mảnh giấy được kèm theo đây.
Lão Hồng cầm tờ giấy mỏng đưa cho quan án xem.
- Thật là một món đồ thủ công tinh xảo - Quan án Địch nhận xét – Hình con nhạn đang bay được làm thật là tinh tế.
- Theo ông Tiểu, hai chiếc trâm này là vật gia truyền của dòng họ. Vợ ông vẫn cất giữ chúng trong hòm từ lâu, vì họ cho rằng chúng đem lại bất hạnh cho người nào dùng chúng. Nhưng cách đây mấy tháng cô Ngọc Trinh đã xin mẹ cho cô và cuối cùng mẹ cô đã chiều cô, vì bà không có tiền để mua cho cô thứ khác.
- Tội nghiệp cô gái nghèo ! – Quan án buồn rầu thì thầm. Sau một lát im lặng ngài hỏi:
- Thế quan án Phụng đã đi đến kết luận như thế nào?
- Ngày hôm kia, quan án Phụng đã xem xét lại toàn bộ kết quả điều tra. Sau đó, ngài tuyên bố mặc dù không tìm thấy trâm vàng ở nhà anh Vương, nhưng điều đó cũng không giúp ích gì cho anh ta, vì rất có thể anh ta đã kịp giấu nó đi. Ngài công nhận rằng bản tự bào chữa của anh Vương tỏ ra mạch lạc, nhưng ngài nói thêm là không có gì ngạc nhiên khi thấy một anh khoá có học có thể bịa ra được một câu chuyện đáng tin như vậy. Ngài bác bỏ giả thiết cho rằng án mạng này do một tên trộm gây ra. Ai cũng biết ở phố Bán Nguyệt chỉ có các tiểu thương nghèo sinh sống. Và ngay cả khi tình cờ có một tên trộm nào qua đây, thì nó sẽ tìm cách đột nhập vào cửa hàng hoặc vào nhà kho, chứ không bao giờ nó nghĩ đến chuyện trèo lên gác xép. Mọi lời khai, kể cả lời khai của anh Vương đều chứng minh những cuộc hẹn hò của đôi trai gái chỉ có họ và ông Long biết mà thôi.
Rời mắt khỏi các tài liệu lão Hồng mỉm cười láu lỉnh và nói thêm:
- Ông thợ may Long, thưa đại nhân, đã gần 70 tuổi và quá già yếu để có thể làm một việc như thế, do đó ông ta được loại ra khỏi diện tình nghi.
Địch công gật đầu rồi hỏi:
- Quan án Phụng đã thảo bản luận tội như thế nào? Hãy đọc chính xác cho ta nghe!
Lão Hồng cúi đầu đọc to:
- Khi bị cáo tiếp tục cam đoan là mình vô tội, quan lớn liền đập bàn quát: “Đồ chó, ta, là quan án sát huyện này đã biết tất cả sự thật! Khi ra khỏi quán ăn, mi đã đến thẳng nhà cô Ngọc Trinh. Rượu đã cho mi can đảm để mi tuyên bố mi đã chán cô ta và muốn bỏ cô. Thế là xảy ra cãi nhau. Cô Ngọc Trinh chạy ra cửa để gọi bố mẹ. Mi tìm cách ngăn cô ta lại. Cuộc vật lộn đánh thức bản năng thấp hèn nhất của mi, thế là mi cưỡng hiếp cô ta, rồi bóp cổ cho cô chết. Làm xong hành vi bỉ ổi này, mi đã lục tung hòm quần áo của cô và lấy đi hai chiếc trâm vàng, hòng làm cho mọi người tin thủ phạm là một tên trộm. Nào, hãy nhận tội đi!”
Sau khi đọc nguyên lời văn quan án Phụng, ông chấp sự lại kể tóm tắt vụ việc:
- Anh khoá Vương vẫn cam đoan là mình vô tội, quan án Phụng liền sai đánh năm mươi roi bằng chiếc roi da nặng. Nhưng đến roi thứ 30 thì chàng Vương ngất đi ngã lăn ra đất. Khi người ta đốt giấm dưới mũi cho anh tỉnh lại thì anh trở nên ngây dại, thế là quan án phải tạm dừng cuộc tra khảo. Ngay tối hôm đó, quan án nhận được lệnh thay đổi nhiệm sở. Tuy nhiên, ngài vẫn ghi ý kiến của mình vào cuối bản luận tội.
- Đưa ta xem! Quan án nói.
Lão Hồng mở tờ giấy đặt trước mặt quan án. Địch công cầm tờ giấy đưa lên đọc to:
“Ý kiến của tôi sau khi đã suy nghĩ kĩ là: tội trạng của khoá sinh Vương Hiến Tông đã được ấn định chắc chắn. Khi nào anh ta nhận tội một cách hợp thức, thì tôi xin gợi ý, hãy dành cho anh ta hình phạt xử trảm nghiêm khắc nhất. Ký tên: Phụng Di, quan huyện Phổ Dương”.
Quan án Địch thong thả cuộn tờ giấy lại, sau đó ngài cầm viên ngọc thạch chặn giấy lên rồi nhẹ nhàng tung nó trên tay một lúc lâu. Lão Hồng đứng trước bàn nhìn quan án với vẻ tò mò.
Quan án bỗng nhiên đặt viên ngọc chặn giấy xuống bàn rồi đứng lên. Ngài nhìn thuộc hạ của mình rồi tuyên bố:
- Quan án Phụng là một quan toà khôn khéo và chu đáo. Ta cho rằng, sở dĩ ông đưa ra lời phán quyết hấp tấp như vậy là vì ông đã phải cố làm quá sức cho kịp thời hạn thay đổi nhiệm sở. Nếu có thời gian thong thả điều tra vụ này, thì chắc ông sẽ đi đến một kết luận hoàn toàn khác.
Vẻ sửng sốt của lão Hồng làm cho quan án mỉm cười vội nói thêm:
- Anh khóa Vương là một chàng trai dại dột. Ta đồng ý là anh ta không có bản lĩnh và đáng phải cho anh ta một bài học, nhưng anh ta không giết cô Ngọc Trinh !
Lão Hồng mở miệng định nói. Tuy nhiên, quan án giơ tay ngăn lại và nói tiếp:
- Ta sẽ không nói gì hơn trước khi xét hỏi những người có liên quan đến vụ án này và trước khi xem xét nơi xảy ra án mạng. Ngày mai ta sẽ nghe trình bày vụ án tại phiên toà buổi chiều. Khi ấy bác sẽ hiểu tại sao ta lại đi đến kết luận như vậy. Bây giờ mấy giờ rồi?
- Bây giờ đã quá nửa đêm, thưa đại nhân – với một cái nhìn nghi ngờ, lão Hồng tiếp tục – tôi phải thú nhận rằng không tìm thấy lỗ hổng nào trong lời buộc tội tên Vương. Ngày mai, khi đầu óc của tôi minh mẫn hơn tôi sẽ đọc lại toàn bộ hồ sơ.
Ông chậm rãi lắc đầu và cầm một cây nến để dẫn đường cho quan án đi qua những hành lang tối tăm đi về khu nhà riêng của ngài ở phía Bắc nha môn.
Nhưng Địch công đặt tay lên cánh tay ông và nói :
- Đừng bận tâm đến ta, bác Hồng – ông nói – ta nghĩ không nên làm mất giấc ngủ của gia đình ta. Họ cũng như bác đã vất vả cả ngày hôm nay rồi. Bác hãy về thẳng phòng mình mà nghĩ ngơi. Ta sẽ nghĩ tại đây trên chiếc ghế dài này. Bây giờ hãy đi đến chiếc giường của bác và chúc bác ngủ ngon.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.01.2013 09:17:33 bởi LocBH >