thơ Nguyễn Trãi

Tác giả Bài
diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
thơ Nguyễn Trãi - 03.02.2013 22:32:33
đã mang tất cả vào thư viện thơ


Đề Lư thị gia phổ


Tích khách nguyên lai tự hữu ky (cơ),
Súc hoành phát cự khả tiên tri.
Thi thư tuấn trạch phương du viễn,
Trung hiếu truyền gia huấn vĩnh di.
Thủy mộc tất tùng nguyên bổn thỉ,
Hoàng kim hà dụng tử tôn di.
Phần hương nhất độc công gia phổ,
Túc túc linh nhân khởi kính ty (tư).


- Dịch nghĩa


Giữ được phước trước nay vẫn có nguồn gốc, nguyên do
Phước dày lớn phát ra có thể đoán trước được
Nền thì thư thấm nhuần, hương thơm vượt xa
Sự trung hiếu gia truyền còn lại mãi mãi
Nước và cây hẳn phải từ cội nguồn đầu tiên
Bạc vàng lưu lại cho con cháu để làm gì?
Khi đốt hương đọc gia phổ của ngài
Khiến lòng cung kính của con người (tôi) khởi dậy.


Đề gia phổ họ Lư
(Người dịch: Lê Cao Phan)

Giữ phước nề xưa, chuyện rõ thay
Tiên tri đoán trúng đức cao dày
Thi thư nhuần thấm gần xa khắp
Trung hiếu lưu truyền xưa đến nay
Cây, nước, cội nguồn đều hẳn có
Bạc, vàng, di sản thảy đâu hay ?
Đốt hương giờ đọc trang gia phổ
Cảm mộ ngài xưa, kính tỏ bày.

Chú thích:


- Vĩnh di: "Ức Trai tập" ghi là vĩnh thai, không đúng, nhầm tự dạng.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2013 23:06:08 bởi diên vỹ >

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 03.02.2013 22:45:34


Lam Quan hoài cổ




Hành tận thiên sơn dữ vạn sơn,
Sóc phong suy khởi mãn Lam Quan.
Quân vương tằng thử tư trung gián,
Chướng hải diêu quan thất mã hoàn.

Dịch nghĩa
Đi mãi tận nghìn non vạn núi
Ngọn núi bắc nổi lên khắp ải Lam Quan
(Bởi vì) nhà vua thời ấy chẳng nghe lời can gián của kẻ trung
(Nên từng) có cảnh con ngựa không người cưỡi trở về từ quan ải xa và vùng biển độc địa.

Nhớ Lam Quan xưa
(Người dịch: Lê Cao Phan)

Nghìn non vạn núi, vượt muôn trùng
Gió bắc trùm quan ải lạnh lùng
Thuở ấy lời trung vua hiểu thấu
Thì đâu tủi bóng ngựa về không?



Nguồn: thivien.net

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 03.02.2013 22:56:47



Tặng Khổng, Nhan, Mạnh tam thị tử tôn giáo thụ Thái Bình

Nhân sinh thập lự cửu thường quai,
Thạnh thế thuỳ tri hữu khí tài.
Pha lão (1) tích tằng Đam Nhĩ khứ,
Trường Canh (2)diệc hướng Dạ Lang lai.
Văn Chương tự cổ đa vi luỵ,
Thi tửu tùng kim thả cố hoài.
Hội đãi kim kê (3)khai xá nhật,
Ngũ vân(4) thâm xứ đổ Bồng Lai.

Dịch nghĩa
Sinh ra ở đời, tính mười điều thường sai đến chín
Buổi thịnh ai biết được chuyện bỏ sót (quên) kẻ tài năng
Pha lão xưa từng đi đày tại Đam Nhĩ
Trường Canh cũng đã phải đến vùng Dạ Lang
Từ xưa văn chương vốn gây nhiều hệ luỵ
Nay ta lại càng trở lại với thơ rượu
Chờ mong ngày mở hội đại xá kim kê
Tại xứ ngũ vân xa thẳm thấy cảnh bồng lai.



Tặng con cháu ba họ Khổng, Nhan, Mạnh dạy học ở Thái Bình
(Người dịch: Lê Cao Phan)

Đời sao mười tính chín khôn thành
Lúc vượng nhân tài bị yểm danh
Phu lão từng đi vùng Đam Nhĩ
Dạ Lang đà đón gót Trường Canh
Văn chương vạn thuở thường gây luỵ
Thơ rượu từ nay tự giải mình
Ân xá mãi chờ khi mở hội
Năm mây vời thấy cảnh bồng doanh.


Khổng Tử, Nhan Uyên và Mạnh Tử, ba bậc thánh hiền của đạo Nho Trung Quốc.

"Nguyễn Trãi toàn tập" của Đào Duy Anh không chép bài này.

Chú thích:

(1). Pha lão:(già Pha) Tô Đông Pha (1037-1101), văn học gia, thư hoạ gia đời Bắc Tống, làm quan đến chức Binh bộ thượng thư, nhưng rồi từ quan, ông bầu rượu ngâm thơ. Có lần bị tội đày ba năm đến quận Đam Nhĩ, nay thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).

(2). Trường Canh:Một tên riêng của Lý Thái Bạch, thi bá đời thịnh Đường. Từng bị phát vãng đến vùng bộ lạc Dạ Lang (năm 758) nay thuộc Quỳ Châu vì tội theo Vĩnh Vương Lân (con vua Huyền Tông) làm phản.

(3). Kim kê: (gà vàng) Nói về sao Thiên kê, mỗi lần xuất hiện lấp lánh thì có ân xá, một hiện tượng được các đế vương xưa thể theo.

(4). Ngũ vân:(năm mây) Chỉ nơi vua ở và cũng ngụ ý điềm tốt lành.

Nguồn: thivien.net
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2013 22:58:31 bởi diên vỹ >

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 03.02.2013 23:11:31



Thính vũ

Tịch mịch u trai lý,
Chung tiêu thính vũ thanh.
Tiêu hao kinh khách chẩm!
Điểm trích sổ tàn canh.
Cách trúc xao song mật
Hoà chung nhập mộng thanh.
Ngâm dư hồn bất mị,
Đoạn tục đáo thiên minh.

Dịch nghĩa

Vắng vẻ trong phòng tối tăm,
Suốt đêm nghe tiếng trời mưa.
Tiếng não nùng làm kinh động gối khách,
Giọt thánh thót suốt mấy canh tàn.
Cách bụi trúc tiếng khua nhặt vào cửa sổ,
Lẫn tiếng chuông vẳng vào giấc mơ nhẹ nhàng.
Ngâm rồi vẫn không ngủ được,
Nghe đứt nối cho đến trời bình minh.


Nghe mưa
(Người dịch: Lê Cao Phan)


Phòng tối u tĩnh mịch
Đêm trường lắng mưa rơi
Nhẹ nhàng lay gối khách
Giọt nối giọt canh dài
Cửa ngoài tre sột soạt
Nhập mộng chuông khua hoài
Thơ ngâm rồi khó ngủ
Dứt nối đến trời mai.

聽 雨

寂 寞 幽 齋 裏,
終 宵 聽 雨 聲。
蕭 騷 驚 客 枕,
點 滴 數 殘 更。
隔 竹 敲 窗 密,
和 鐘 入 夢 清。
吟 餘 渾 不 寐,
斷 續 到 天 明。

Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976

Nguồn: thivien.net
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.02.2013 23:15:52 bởi diên vỹ >

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 03.02.2013 23:21:46
Tặng hữu nhân

Bần, bệnh dư liên nhữ,
Sơ cuồng, nhữ tự dư.
Ðồng vi thiên lý khách,
Câu độc sổ hàng thư.
Hồ lạc (1) tri hà dụng,
Thê trì lượng hữu dư.
Tha niên Nhị (Nhuỵ) Khê (2)ước,
Ðoản lạp hạ xuân sừ.

Dịch nghĩa
Tôi thương anh nghèo mà có bệnh,
Và anh cũng giống tôi tính ngang tàng.
Cũng là khách ngàn dặm như nhau,
Và cũng đã từng đọc mấy hàng chữ sách.
Hai ta như quả bầu rỗng biết làm được gì đây
Nhưng rong chơi thì lại có thừa
Chúng ta đã hẹn nhau nơi Nhị Khê này,
Cùng đội nón cùng bừa buổi xuân sang.

贈 友 人

貧 病 余 憐 汝,
疏 狂 汝 似 余。
同 為 千 里 客,
俱 讀 數 行 書。
瓠 落 知 何 用,
栖 遲 諒 有 餘。
他 年 淽 溪 約,
短 笠 苛 春 鋤。

Tặng bạn
(Người dịch: Lê Cao Phan)

Cảm bạn nghèo thêm bệnh
Giống nhau ta cuồng ngông
Đều làm khách nghìn dặm
Sách cùng đọc mấy giòng
Nông cạn đời vô dụng
Nhởn nhơ hẳn khôn cùng
Nhị Khê hẹn năm tới
Đội nón chụp bừa xuân.


Chú thích:

(1). Hồ lạc: Hồ là quả bầu, ý nói trống rỗng, không sâu sắc.
(2). Nhị (nhụy) khê: Làng Nhị Khê, huyện Thường Tín (Hà Đông, Bắc Việc), nơi thân sinh Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh đến ở. Nhị Khê cũng là bút hiệu của Nguyễn Phi Khanh.


Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Nguồn: thivien.net

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 05.02.2013 23:05:48



Thôn xá thu châm

Mãn giang hà xứ hưởng đông đinh,
Dạ nguyệt thiên kinh cửu khách tình.
Nhất chủng Tiêu quan chinh phụ oán,
Tổng tương ly hận nhập thu thanh.


Dịch nghĩa
Từ đâu vẳng đến khắp sông tiếng nện thình thình ?
Trong đêm qua làm kinh động lòng khách trú lâu ngày ở đây
(Như) một nỗi ta thán của người chinh phụ có chồng đang ở chốn Tiêu quan
Cả một niềm ly hận như thấm vào tiếng thu.

村 舍 秋 砧

滿 江 何 處 響 東 丁,
夜 月 偏 驚 久 客 情。
一 種 蕭 關 征 婦 怨,
總 將 離 恨 入 秋 聲。


Tiếng chày thu nện vải trên sông
(Người dịch: Lê Cao Phan)

Tiếng chày đâu dội khắp trên sông
Xa xứ đêm trăng khách chạnh lòng
Hay ải Tiêu quan chinh phụ khóc
Tiếng thu lời ly hận hòa chung ?
vChú thích:

Tiêu Quan: Tên một cửa ải xa xôi hiểm trở tại Quan Trung phía bắc Trung Quốc. Các đời Đường, Tống xây đồn lũy ở đây để chống rợ Thổ Phồn. Cũng trong văn cảnh này, Chinh Phụ Ngâm Khúc, thơ Hán văn thể cổ Nhạc phủ của Đặng Trần Côn (đời Lê, đầu thế kỷ 18) có hai câu sau đây:
Liên tưởng lương nhân kinh lược xứ
Tiêu quan giốc, hãn hải ngung
(Tưởng chàng giong ruổi mấy niên
Chẳng nơi hãn hải cũng miền Tiêu quan).



Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Nguồn: thivien.net

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 05.02.2013 23:21:53





Ký cữu Dịch Trai Trần Công

Binh dư thân thích bán ly linh,
Vạn tử tàn khu ngẫu nhất sinh.
Vãng sự không thành Hoè quốc mộng (1),
Biệt hoài(2) thuỳ tả Vị Dương(3) tình.
Bất lai tự nghĩ đồng Vương Thức(4),
Tỵ loạn chung đương học Quản Ninh(5).
Dục vấn tương tư sầu biệt xứ,
Cô trai phong vũ dạ tam canh.

Dịch nghĩa
Sau chiến tranh bà con bị điêu linh hết phân nửa
Cả vạn lần suýt chết, may còn thân này sống sót
Việc xưa cũ thành như giấc mộng xứ Hoè
Xa nhau thương nhớ, ai tả được mối tình Vị Dương?
Không đến được, tưởng cũng giống như Vương Thức
Chung qui, nên bắt chước Quản Ninh đi tị loạn
Muốn tự hỏi lại mối sầu tương tư của mình
Trong lòng cô quạnh, (bên ngoài) mưa gió suốt ba canh.

寄 舅 易 齋 陳 公

兵 餘 親 戚 半 離 零,
萬 死 殘 軀 偶 一 生。
往 事 空 成 槐 國 夢,
別 懷 誰 寫 渭 楊 情。
不 來 自 擬 同 王 式,
避 亂 終 當 學 管 寧。
欲 問 相 思 愁 別 處,
孤 齋 風 雨 夜 三 更。




Thơ gửi cậu Dịch Trai Trần Công
(Người dịch: Lê Cao Phan)

Sau loạn, bà con mất nửa phần
Nạn nhiều, sống sót, quả thiên ân
Chuyện qua nào khác mơ Hòe quốc
Đất Vị đành đau nỗi cách phân
Vương Thức từng ngưng lời trực gián
Quản Ninh đà dạy chước an thân
Mối sầu tự dỗ nơi xa xứ
Phòng quạnh, đem mưa gió chuyển vần.

Chú thích:

(1). Hoè quốc mộng:giấc mộng nước Hòe An. Kể chuyện người nằm ngủ dưới gốc hòe mơ thấy đến nước Hòe An được vinh hoa phú quý (làm phò mã, thái thú quận Nam Kha), về sau đánh giặc thua, công chúa chết, bị thất sủng. Trích bài Nam Kha ký của Lý Công Tạ đời Đường (Trung Quốc) nên cũng gọi là giấc mộng Nam Kha.
(2). Biệt hoài:có bản ghi là "biệt liên" 別憐.
(3). Vị Dương: địa danh ở Trung Quốc, theo Kinh Thi là nơi Tấn Khương Công tiễn chân người câu. Đây ngụ ý nói tình cậu cháu.
(4). Vương Thức:người thời nhà Hán (Trung Quốc) tự là Ông Tự, thầy dạy Xương Ấp Vương. Về sau Xương Ấp Vương được lập làm tự quân nhưng bị phế vì hoang dâm vô độ. Có người hỏi sao không can gián, Vương Thức đáp đã từng "can gián" qua kinh sách rồi.
(5). Quảng Ninh:tác giả đề cập khí phách của Quản Ninh, dân đất Ngụy thời Tam Quốc. Thiếu thời, đang cùng ngồi học chung chiếu với bạn là Hoa Hâm, bỗng một hôm Hoa Hâm bỏ chạy ra đường nhìn xem kẻ giàu sang cưỡi ngựa đi qua nên Quản Ninh cất đôi chiếc chiếu, không chịu ngồi chung nữa. Cuối đời Hán, Quản Ninh tỵ loạn 37 năm ở Liêu Đông, từ chối mọi chức do hai vua Văn Đế và Minh Đế ban cho ông.

Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Nguồn: thivien.net

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 05.02.2013 23:42:16


Thanh minh

Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ (1),
Quá bán xuân quang tê cú hoa(2).
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.


Dịch nghĩa
Từ khi lưu lạc quê người đến nay,
Bấm đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã mấy lần rồi.
Xa nhà nghìn dặm không săn sóc phần mộ tổ tiên được,
Mười năm qua bà con thân thích đã tiêu tán hết.
Tạnh cơn mưa mây, trời chợt sáng,
Hoa đồ mi đã quá nửa chừng xuân.
Hãy cầm lấy chén rượu mà gượng uống,
Ðừng để ngày ngày phải khổ vì nỗi nhớ nhà.

Thanh Minh: tiết trời vào tháng ba âm lịch, thời gian dân chúng thường đi tảo mộ. Trong truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820) có 2 câu 43-44 tả cảnh này:
Thanh minh trong tiết tháng ba
lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

清 明
一 從 淪 洛 他 鄉 去,
屈 指 清 明 幾 度 過。
千 里 墳 塋 違 拜 掃,
十 年 親 舊 盡 消 磨。
乍 晴 天 氣 模 稜 雨,
過 半 春 光 廝 句 花。
聊 把 一 杯 還 自 彊,
莫 教 日 日 苦 思 家。




Thanh minh
(Người dịch: nhóm Đào Duy Anh)

Luân lạc từ khi ra đất khách,
Thanh minh tính đã trải bao hồi.
Mả mồ nghìn dặm khôn thăm viếng,
Thân cựu mười năm thảy rụng rơi.
Chợt tạnh mưa rào đương tiết dấy,
Nở hoa tê cú nửa xuân rồi.
Khuây nâng một chén còn nên gượng,
Đừng để nhớ nhà khổ chẳng thôi.



Có tham khảo Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1998
Nguồn: thivien.net11

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 05.02.2013 23:54:07
Thanh minh

Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần doanh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tẫn tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ (1),
Quá bán xuân quang tê cú hoa(2).
Liên bả nhất bôi hoàn tự cuỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.


Dịch nghĩa
Từ khi lưu lạc quê người đến nay,
Bấm đốt ngón tay tính ra tiết thanh minh đã mấy lần rồi.
Xa nhà nghìn dặm không săn sóc phần mộ tổ tiên được,
Mười năm qua bà con thân thích đã tiêu tán hết.
Tạnh cơn mưa mây, trời chợt sáng,
Hoa đồ mi đã quá nửa chừng xuân.
Hãy cầm lấy chén rượu mà gượng uống,
Ðừng để ngày ngày phải khổ vì nỗi nhớ nhà.

Thanh Minh: tiết trời vào tháng ba âm lịch, thời gian dân chúng thường đi tảo mộ. Trong truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820) có 2 câu 43-44 tả cảnh này:
Thanh minh trong tiết tháng ba
lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.

清 明

一 從 淪 洛 他 鄉 去,
屈 指 清 明 幾 度 過。
千 里 墳 塋 違 拜 掃,
十 年 親 舊 盡 消 磨。
乍 晴 天 氣 模 稜 雨,
過 半 春 光 廝 句 花。
聊 把 一 杯 還 自 彊,
莫 教 日 日 苦 思 家。




Thanh minh
(Người dịch: nhóm Đào Duy Anh)

Luân lạc từ khi ra đất khách,
Thanh minh tính đã trải bao hồi.
Mả mồ nghìn dặm khôn thăm viếng,
Thân cựu mười năm thảy rụng rơi.
Chợt tạnh mưa rào đương tiết dấy,
Nở hoa tê cú nửa xuân rồi.
Khuây nâng một chén còn nên gượng,
Đừng để nhớ nhà khổ chẳng thôi.


Chú thích:

(1). Mô lăng vũ: mưa không thường, tín thời tiết đặc biệt vào dịp Thanh Minh.
(2). Tê cú hoa: hoa bớt tươi thắm. Có sách chú theo bản chữ Hán là hoa đồ mi, liên quan đến rượu đồ mi Trung Quốc mà vua chúa thường mang thiết đãi quần thần vào dịp Thanh Minh.



Có tham khảo Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1976
Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa học Xã hội, 1998
Nguồn: thivien.net

diên vỹ
  • Số bài : 3604
  • Điểm thưởng : 0
RE: thơ Nguyễn Trãi - 06.02.2013 01:50:04
Ký hữu (I)

Bình sinh thế lộ thán truân chiên,
Vạn sự duy ưng phó lão thiên.
Thốn thiệt đãn tồn không tự tín,
Nhất hàn như cố diệc kham liên.
Quang âm thúc hốt thời nan tái,
Khách xá thê lương dạ tự niên.
Thập tải độc thư bần đáo cốt,
Bàn duy (1) mục túc, toạ vô chiên.

記 友

半 生 世 路 嘆 屯 邅,
萬 事 惟 應 付 老 天。
寸 舌 但 存 空 自 信,
一 寒 如 故 亦 堪 憐。
光 陰 焂 忽 時 難 再,
客 舍 凄 涼 夜 似 年。
十 載 讀 書 貧 到 骨,
盤 惟 苜 蓿 坐 無 氈。




Gửi bạn (I) (Người dịch: Trúc Khê)

Truân chuyên từng ngán bước đường đời,
Muôn việc đành thôi phó mặc trời.
Tấc lưỡi còn đây thường tự tín,
Thân nghèo mãi thế đáng thương thôi.
Lạnh lùng khách xá đêm dài mấy,
Vùn vụt quang âm bóng xế rồi.
Đọc sách mười năm nghèo đến tuỷ,
Ăn không rau đậu, chẳng chiên ngồi.

Dịch nghĩa
Bình sinh đường đời nhiều vất vả quá thể
Vạn việc chỉ nên phó cho trời già
Tấc lưỡi hãy còn, tưởng cũng tự tin được
Cứ một cảnh nghèo như cũ thật đáng thương
Ngày tháng (sáng tối) đi qua vùn vụt khó mà trở lại
Quán khách lạnh lùng, đêm dài như cả một năm
Mười năm đọc sách (học hành) mà nghèo đến tận xương
Trên mâm cơm chỉ có rau mục túc, chỗ ngồi chẳng có chiếu.



Chú thích:

(1). Có bản ghi là "vô" 無.

Nguồn: thivien.net