GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM

Thay đổi trang: << < 252627 > >> | Trang 26 của 29 trang, bài viết từ 751 đến 780 trên tổng số 867 bài trong đề mục
Tác giả Bài
dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 20.11.2014 21:22:07
0
nghinhnguyen


KÝ ỨC RỪNG
Rừng còn đâu ?
Hổ nhớ rừng !
Rừng đâu còn đón những tầng mây bay
Bốn mùa giờ quá đổi thay
Nắng mưa theo bọn tỉnh say thất thường
Rừng tàn rưng rưng hơi sương
Còn đâu vết tích đường trường sơn xưa
Con đường xương máu nắng mưa
Còn chăng dấu vết mấy mùa chiến tranh

Cạn khô con suối trong lành
Mất rồi xanh thẳm mênh mông đại ngàn
Một phần dâng hiến ngoại bang 
Những phần còn lại vào bàn tay đen
Bầy sâu lũ mọt tranh ăn
Rừng đâu còn nữa để ngăn giặc thù ?

NN



bài thơ Kí Ức Rừng thấm thía nỗi đau qúa con hổ gìa NN ơi !
mời NN và các bạn cùng nghe lại tiếng thét gọi RỪNG ƠI... của cọp rừng CN và cọp biển DL nhé !
để nhớ về một thời tuổi trẻ tay vói đỉnh trời chân dẵm nát mật khu cộng phỉ giữa núi rừng lộng gió Trường Sơn...




http://www.box.net/shared/suqtaavmt2
Rừng Ơi
Thơ: Cao Nguyên- Phổ nhạc & trình bày: Dzuylynh

cư dân cũ, từ vùng trời xa vắng
gọi rừng xưa, ta nhớ lắm - rừng ơi!
thương mùa cây cúi đầu buồn tháng Hạ
lá chịu tang qua mấy chục năm rồi!
lúc ta đi, rừng sâu còn ngún lửa
lửa hận thù, cháy quá nửa đời ta
cháy bỏng màu da, làm sao lành vết sẹo
chung niềm đau, ta chẻ máu nuôi rừng
nửa máu ta có giúp rừng sống lại
đất có mừng lá biếc nẩy chồi xanh
cây có vui khi chim về hái trái
hoa có cười cho hương toả vây quanh?
ôi nhớ quá, rừng ơi! ta nhớ quá
cao nguyên xanh, hoa lá ấy - hồn ta
và cả máu chia cho rừng thuở ấy
nhắc ta về, dù bữa hẹn còn xa
về xem nắng ghẹo hoa tươi rói mặt
về thăm cây lành hẳn vết thương chưa
về ngồi giữa nắng mưa nghe đất hát
khúc đồng dao từ những khát khao xưa!
thơ ta đó, rừng ơi! ru chút nhé
ta chưa về thăm đất mẹ chiều nay
sợ hàng cây còn long lanh ngấn lệ
ta với rừng sẽ khóc giữa vòng tay!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.11.2014 20:56:33 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 20.11.2014 21:44:12
0
Bí ẩn Lịch Sử :
Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh-Hồ Tập Chương ?
Nguyên nhân nào Hồ chí Minh không tiếp Chị Ruột là
Bà Nguyễn thị Thanh từ Nghệ an ra Hà Nội ra thăm Em...!
Kính mời đọc...
 
MỘT BÍ ẨN LỊCH SỬ
Thẩm phán Phạm Đình Hưng

Hồ Chí Minh và Nguyễn Tất Thành là một người hay hai người khác nhau. ? 
Đến ngày hôm nay, các công trình nghiên cứu sâu rộng, công phu và khách quan của nhiều tác giả ngoại quốc vẫn chưa trả lời được câu hỏi kể trên. Về mặt khoa học, chỉ có một cuộc khảo nghiệm DNA hài cốt của Hồ Chí Minh, cố Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đang được thờ phượng tại Ba Đình (Hà Nội) và cố Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ của Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành) đã được chôn cất tại Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Nhưng nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội không muốn phơi bày bí ẩn lịch sử nầy, chọn lựa giữ im lặng khi phải đối đầu với một vấn đề khó khăn khả dĩ làm tổn thương đến uy tín của mình trước nhân dân Việt Nam và quốc tế. Hơn nửa, bộ máy tuyên truyền của đảng Cộng sản Việt Nam không bao giờ tôn trọng sự thật lịch sử, luôn luôn đề cao sự sáng suốt của đảng và không chấp nhận đảng có sai lầm.

Căn cứ vào các công trình nghiên cứu của các tác giả ngoại quốc và một số dữ kiện lịch sử chính xác, tôi có vài nhận xét về một bí ẩn lịch sử đã có tầm ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với đất nước và dân tộc Việt Nam từ thập niên 1940 đến nay. Bí ẩn đó là : Hồ Chí Minh và Nguyễn Tất Thành là một người hay là hai người khác nhau ?
Lý lịch của Nguyễn Tất Thành
Nguyễn Sinh Cung (tức Nguyễn Tất Thành) sanh tại Nghệ An năm 1890, con của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Sau khi học hết bậc Tiểu học, Nguyễn Tất Thành được nhận vào trường Quốc Học ở Huế nhờ cha là quan lại của Nam triều. Bỏ học và rời khỏi trường Quốc Học rất sớm, Nguyễn Tất Thành đi vào Phan Thiết dạy học tại trường Dục Anh rồi đi vào Sài Gòn làm phụ bếp dưới tàu Amiral Latouche Tréville ( lấy tên Văn Ba) để xuất dương sang Pháp tìm kế sinh nhai và danh vọng. Thất bại trong việc xin vào học trường Thuộc địa của Pháp, Nguyễn Tất Thành tiếp tục làm việc trên các tàu viễn dương rồi qua London, Anh quốc, làm thợ nhồi bột cho một lò bánh mì của người Pháp. Năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở về Paris theo lời gọi của trưởng thượng Phan Châu Trinh và gia nhập Nhóm Ngũ Long gồm có Phó bảng Phan Châu Trinh, Tiến sĩ Luật Phan văn Trường, Cử nhân Luật Nguyễn An Ninh, Cử nhân Văn Chương Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Sống kham khổ tại Paris với nghề thợ rửa hình, Nguyễn Tất Thanh mắc bịnh lao phổi..Mặc dầu vậy, Nguyễn Tất Thành vẫn ăn mặc rất chỉnh tề, luôn luôn mặc áo vest và thắt cà vạt khi đi hội họp.
Ba năm sau cuộc Cách Mạng 1917 của Nga, Nguyễn Tất Thành gia nhập đảng Cộng Sản Pháp tại Hội nghị Tours để bắt chước các người Bolsheviks Nga làm cách mạng vô sản trên phạm vi toàn thế giới và xây dựng chủ nghĩa đại đồng vô biên giới. Tại Hội nghị Tours, Nguyễn Tất Thành đã nhờ một Đại biểu người Pháp tham dự hội nghị nầy giải thích cho ông ta biết sự khác biệt giữa Đệ tam và Đệ tứ Quốc tế Cộng sản. Năm 1924, Nguyễn Tất Thành được Dmitry Manuilsky, cán bộ Đệ tam Quốc tế Cộng sản (Komintern) tuyển dụng và đưa qua Moscowa huấn luyện cấp tốc về kỹ thuật công tác của một cán bộ cộng sản trước khi phái đến Quảng Châu trong tỉnh Quảng Đông làm thông dịch viên dưới quyền của Trưởng Phái bộ Liên xô Mikhail Borodin. Năm 1927, Thống chế Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Quốc Dân đảng ra tay diệt trừ cộng sản, Nguyễn Tất Thành chạy về Moscowa và đến Thái Lan ẩn náu. Năm 1930, Nguyễn Tất Thành vâng lịnh của Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô Josef Stalin đến Hong Kong tham dự việc thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 3-2-1930 cùng với 3 người Việt và một người Tàu tên Hồ Tập Chương (bí danh Hồ Quang), Đại biểu của Đệ tam Quốc tế Cộng sản. Kể từ đó, Nguyễn Tất Thành đã du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam để gieo rắc tai họa cho đất nước và dân tộc Việt Nam từ năm 1931 đến nay. Ở lại Hong Kong hoạt động với bí danh Tống văn Sơ, Nguyễn Tất Thành bị nhà cầm quyền Anh bắt giữ năm 1931 nhưng được cho nằm điều trị trong một bịnh viện bài lao vì ông ta mắc bịnh lao trầm trọng. Năm 1932, báo chí Hong Kong loan tin Tống văn Sơ (tức Nguyễn Tất Thành) đã qua đời. Trong quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo”, giáo sư Sử học Hồ Tuấn Hùng ở Đài Loan, cháu của Hồ Tập Chương, cũng ghi rõ sự kiện nầy.
Nguyễn Tất Thành mất tích
Kể từ năm 1932 đến năm 1938, Nguyễn Tất Thành đã mất tích một cách bí mật. Ông ta biến dạng trong cõi hư vô và chỉ còn là một hình bóng phai mờ trước bọn đàn em đang được Josef Stalin trọng dụng (Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần văn Giàu, Lê Hồng Phong, Nguyễn văn Cừ). Thậm chí Nguyễn Ái Quốc (bí danh của Nguyễn Tất Thành) còn không được tham dự chánh thức Đại hội 7 của Đệ tam cộng sản quốc tế như hai đàn em Lê Hồng Phong và Nguyễn thi Minh Khai. Người cộng sản Việt Nam đầu tiên nầy bị Stalin nghi ngờ và thất sủng vì trong thời gian lưu trú lần thứ hai tại Nga (1933-1938) ông ta biểu lộ một vài nghi vấn về lý lịch:
- Khi ghi danh học trường quốc tế Lenin, Nguyễn Ái Quốc khai y sanh năm 1903 thay vì 1890. Một người trung niên có học như Nguyễn Ái Quốc không thể quên năm sanh của mình! Sở dĩ có sự sai biệt về năm sanh là vì người đội lốt Nguyễn Ái Quốc là Hồ Tập Chương, người dân tộc Hẹ (Khách Gia) sanh tại Đài Loan năm 1901, nhỏ hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi.
- Trong tờ khai lý lịch, Nguyễn Ái Quốc (giả) mang bí danh P.C.Lin chỉ khai một chút ít dữ kiện về lý lịch của mình và ghi rằng y không có khả năng chuyên nghiệp gì cả.
(Sophie Quinn Judge, Ho Chi Minh: The Missing Years, University of California Press,2002, --- Hồ Tuấn Hùng, Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, Đài Loan, 2008)
Không những nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc (giả), Stalin còn có ý định giết chết y trong cuộc Đại Thanh trừng (Great Purge) năm 1935 nếu không có sự can thiệp của Georgi Dimitrov, Cố vấn của nhà độc tài Liên xô. Tha chết cho Nguyễn Ái Quốc (giả) nhưng Stalin không giao bất cứ công tác gì mà còn đặt ông ta trong tình trạng bị mật vụ theo dõi.
Sự xuất hiện của Hồ Quang (Hồ Tập Chương)
Mãi đến năm 1938, một nhân vật tên Hồ Quang (bí danh của Hồ Tập Chương) từ Liên Xô đến đột nhiên xuất hiện tại Diên An, căn cứ địa của Cộng sản Tàu trong giai đoạn 1935-1948 thuộc tỉnh Thiểm Tây, và có tư cách đảng viên đảng Cộng sản của nước Tàu. Gia nhập Bát lộ quân năm 1939, Hồ Quang đã phục vụ quân đội Tàu cộng với cấp bậc Thiếu tá. Sau một thời gian công tác tại Hoa Nam, Hồ Quang được đặc phái qua Việt Nam năm 1940 với sứ mạng liên tục gây ra chiến tranh để giết chết vô số nhân tài và sinh mạng, tiêu hao sinh lực của nước Việt, chuẩn bị việc thôn tính bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á theo kế hoạch của Mao Trạch Đông. Ẩn trốn trong hang Pác Bó (Cao Bằng) dưới sự bảo vệ của cán binh Tàu cộng và bọn người dân tộc Tày của Chu văn Tấn, Hồ Quang thường xuyên qua lại biên giới Hoa Việt. Năm 1943, từ Quảng Tây trở về hang Pác Bó, Hồ Quang mang một tên mới : Hồ Chí Minh. Sự cực kỳ độc ác của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đối với dân tộc Việt đã khiến cho rất nhiều người nghĩ rằng Hồ Chí Minh thật sự là Hồ Tập Chương, một người Tàu Đài Loan dân tộc Hẹ (Hakkard) đúng theo sự xác quyết của giáo sư Sử học Hồ Tuấn Hùng, một người cháu trong gia tộc của Hồ Tập Chương không có ân oán gì trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Mới đây, sau khi Trung Cộng công khai hóa một số bí mật về Hồ Chí Minh tức Thiếu tá Hồ Quang của Quân đội Nhân Dân Giải Phóng, tính thuyết phục của quyển sách “Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo” càng tăng thêm. Ngoài các quyển sách của giáo sư Đài Loan Hồ Tuấn Hùng, giáo sư William J.Duiker và sử gia Sophie Quinn Judge còn có vài nguồn tin chính xác khác và một số sự kiện cụ thể liên quan đến Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh thật sự là ai?
1) Ngô Trọc Lưu, người được xem là người cha của nền văn nghệ Đài Loan, đã xuất bản tại Đài Loan năm 1947 một quyển sách tựa đề “Hồ Chí Minh” viết bằng Nhật ngữ. Thân cận với Hồ Tập Chương và các người em của nhân vật kỳ bí nầy, Ngô Trọc Lưu xác quyết Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương, người thuộc sắc tộc Hẹ tức Khách Gia (Hakkard) sanh tại Huyện Miêu Lật, Địa khu Đông La, Đài Loan
2) Ký giả cộng sản Trần Đĩnh, một nhân vật thân cận của Hồ Chí Minh, đã hé lộ một chi tiết đáng kể về lý lịch của người “cha già dân tộc” của cộng sản Việt Nam.
Trong quyển “Đèn Cù”, ký giả Trần Đĩnh tiết lộ đã nghe Hồ Chí Minh nói tiếng Hẹ của dân tộc Hakkard rất lưu loát, thấy “Bác”rất thich thú đi dạo chơi thành phố Móng Cái và biết rất rõ thành phố nầy mặc dầu mới đến đây lần đầu tiên năm 1960. Ký giả Trần Đĩnh nghĩ rằng “Bác Hồ” đã có ở trong thành phố Móng Cáy khá lâu. Suy nghĩ nầy phù hợp với một vài chi tiết trong lý lịch của Hố Tập Chương: Năm 1931, Hồ Tập Chương bị bắt tại Quảng Châu cùng một thời gian với Nguyễn Ái Quốc (bí danh Tống văn Sơ) đang bị giam giữ tại Hong Kong. Sau khi được cộng sản Tàu giải cứu, Hồ Tập Chương đã đến vùng rừng núi Quảng Tây khai thác hầm mõ từ năm 1932 đến 1933. Kể từ đó, ông ta không còn liên lạc với gia đình. Khi ở Quảng Tây, Hồ Tập Chương có nhiều điều kiện thuận lợi để đi qua Móng Cáy hoạt động cùng cô Bí thư một Chi bộ cộng sản tại thị trấn biên giới nầy.
3) Tập thơ “Ngục Trung Nhật Ký” của Hồ Chí Minh (tự nhận là tác giả) có thể cung cấp một thông tin hữu ích về nguồn gốc địa phương của tác giả: trong tập thơ nầy có một số từ ngữ đặc thù và lối chơi chữ chỉ có người dân tộc Hẹ (Hakkard) mới biết dùng. Cần lưu ý: Nguyễn Tất Thành chỉ có trình độ sơ cấp về Hán văn và chỉ biết nói tiếng Quảng Đông nhờ hoạt động tại Quảng Châu từ 1924 đến 1927 và ăn ở với Tăng Tuyết Minh, người vợ xẩm có cưới hỏi năm 1925 qua mai mối của Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai)
4) Trước khi qua đời ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh muốn được nghe một bài hát của Tàu do một cô xẩm hát. Tại sao một nhà lãnh đạo người Việt lại muốn nghe một bài hát của Tàu trước khi chết, nhứt là do một cô xẩm hát?
5) Giáo sư William J. Duiker trong quyển sách “ Ho Chi Minh: A Life” có nhận xét một sự khác biệt về thói quen giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh: Nguyễn Ái Quốc ăn mặc rất chải chuốt và luôn luôn thắt cà vạt còn trang phục của Hồ Chí Minh thì rất lượm thượm, ông ta không bao giờ thắt cà vạt, trông rất quê mùa.(William J.Duiker, Ho Chi Minh :A Life, New York Hiperion, 2001)
6) Năm 1931, trong khi Nguyễn Ái Quốc bị giam giữ tại Hong Kong Hồ Tập Chương bị bắt tại Quảng Châu. Nhờ một nữ cán bộ cộng sản tên Lâm Y Lan giải cứu đưa đến Hạ Môn, một thành phố cảng nằm ở phía Đông Nam tỉnh Phước Kiến, Hồ Tập Chương đã có một mối tình thắm thiết với cô gái Quảng Đông nầy trong thập niên 1930. Sau nầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh của miền Bắc cộng sản nhờ Đào Chú, một cán bộ cao cấp đảng Cộng sản Tàu và Chủ tịch Mao trạch Đông tác hợp với Lâm Y Lan nhưng bị Lê Duẫn, Bí thư thứ nhứt đảng Cộng sản Việt Nam, chống đối nên không thành. Năm 1968, Lâm Y Lan chết ở Quảng Đông, Hồ Chí Minh buồn rầu đi theo người yêu xuống tuyền đài năm sau (1969). Cần ghi nhận Hồ Chí Minh không hề muốn gặp lại Tăng Tuyết Minh, người nữ cán bộ cộng sản ở Quảng Châu đã chánh thức kết hôn với Nguyễn Ái Quốc năm 1925. Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu (vợ Chu Ân Lai) cũng như đảng Cộng sản Tàu cũng không muốn đưa Tăng Tuyết Minh qua Hà Nội tái hợp với Hồ Chí Minh vì sợ lộ thân phận của ông Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam.
7) Lúc ông Cả Khiêm tức Nguyễn Sinh Khiêm (anh cả của Nguyễn Tất Thành) và bà Nguyễn thị Thanh (chị của Nguyễn Tất Thành) còn sống ở Nghệ An, Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề về quê nhà để thăm hai anh, chị ruột. Thậm chí khi hai người nầy qua đời, Hồ Chí Minh cũng không về Nghệ An để phúng điếu. Năm 1945, bà Nguyễn thi Thanh đã lặn lội từ Nghệ An ra Hà Nội thăm em xa cách gia đình mấy chục năm cũng không được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp. Dường như, Hồ Chí Minh cố ý tránh gặp ông Cả Khiêm và bà chi Nguyễn thị Thanh để khỏi bị phát giác sự khác biệt giữa Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh. Khác hẵn quảng đại quần chúng Việt Nam, Hồ Chí Minh không có tình cảm anh chị em ruột thịt và tình tự quê hương xứ sở. Ông ta rất xa lạ đối với người anh cả và người chị ruột.
Nói tóm lại, các tài liệu viết của người ngoại quốc và các sự kiện cụ thể kể trên giúp cho tôi có một cơ sở vững chắc để phán đoán và kết luận: Nguyễn Sinh Cung tức Nguyễn Tất Thành và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau.

Thẩm phán Phạm Đình Hưng

Mùa Thu California, 2014
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.11.2014 21:50:59 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 24.11.2014 09:49:08
0
 
 
 
 
 
XA  VẮNG
thơ Bùi Hồng Lĩnh | nhạc & trình bày Dzuylynh
album Hương Thời Gian Nov 23.2014
( thân tặng sl.bhl.dh.cn )


Em dẫn tôi về đâu chiều nay
Trên chuyến xe có con ngựa gầy
Kéo theo đôi bánh đời xiêu vẹo
 
Lòng nhớ hoài ngày em thơ ngây
Em dẫn tôi về nơi chưa quên
Bên gian nhà cũ sống êm đềm
Gác thưa một bóng trong đêm thẳm
Chưa đến sao mà đã nhớ thêm...

Em dắt tôi về ngôi trường xưa
Nhớ thương biết mấy đến cho vừa
Em bâng khuâng ngó ngoài xa vắng
Không biết đời tròn giấc mơ chưa

Bánh xe ngựa cũ không còn nữa
Gác lửng đêm khuya cũng mất rồi
Trường nay một bóng em tóc bạc
 
Thấp thoáng phương nào một bóng tôi 
Thôi giã từ em đêm đã khuya
Bên song trời gợi lại cơn mưa
Tiếng rơi trên lá trong vườn cũ
 
Sao vẫn như còn như tiếng xưa
Có phải tôi về hay tôi mơ
Tiếng mưa thao thức tự bao giờ
Nhớ quê một mảnh đời xuôi ngược
 
Mưa mãi trong lòng em ngây thơ
Thôi giã từ em đêm sắp qua
Lối xưa đường cũ đã nhạt nhoà
Dạ Lan ẩn hiện trong đêm vắng
Đêm vẫn như còn như đêm xưa


<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.11.2014 19:03:35 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 24.11.2014 21:50:21
0


 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.11.2014 05:05:00 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 28.11.2014 04:07:58
0
 
 
 
 
(xin mời bấm lên ảnh hay bấm vào link dưới để nghe bài hát)
 
 
TRẢ LỜI THU PARIS
thơ đông hương | nhạc & trình bày Dzuylynh
Album Hương Thời Gian.Nov 27.2014
 
 
Thu biết yêu, nên Paris nắng ấm
lạnh dừng chân bên dốc, ngõ công viên
lá vàng khóc trong mưa, chưa ai dỗ
tim nhị kiều loang lổ những niềm riêng...


*
mùa thay áo, tượng buồn, rưng mắt lệ
người tình xa, vàng úa chạm lên vai
đàn sẻ cũ vù bay, quên, lại để
trên lối về hồn cỏ nỗi không ai...

*
dọc dòng Seine, chim hải âu từ biển
nghiêng cánh dài chào người đứng tầm xa
và giọt nhớ long lanh rèm mi ngấn
gọi tên người òa rơi xuống,loang ra...

*
thiếu anh lắm nên nỗi buồn rất hiểu
quyện khói cay trong mái tóc ngọc ngà
café ngọt, đắng nụ cười hàm tiếu
điêp khúc sầu quay quắt mãi âm ba

*
buồn xa vắng, thánh đường chuông đêm đổ
bóng anh gù, khóc Esméralda
lá dẻ xưa phủ dấu chân chưa nhạt
mơ môt ngày ai... có nhớ... hương xa

 

Ct.Ly

da vàng
  • Số bài : 48
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 30.11.2013
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 02.12.2014 03:13:20
0

 
 
Tôi biết chắc ngày tàn của chế độ Cộng sản Việt Nam  

[tube]https://www.youtube.com/watch?v=L4B4VTiQ-lU[/tube]
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2014 03:18:58 bởi da vàng >

da vàng
  • Số bài : 48
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 30.11.2013
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 02.12.2014 03:18:34
0
 
 
 
Tôi biết chắc ngày tàn của chế độ Cộng sản Việt Nam   
 
(tiếp theo)
 
[tube]https://www.youtube.com/watch?v=1cEiP7-VifQ[/tube]

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 03.12.2014 21:32:04
0
 
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN
Không thể tuyên dương kẻ phản bội
 

1012907_618737491553490_2226205750821773168_n.jpg
Barbara Walters on Jane Fonda
 
Mời đọc, những kẻ phản bội nước Mỹ và quân đội Mỹ không thể được tuyên dương. Xin chuyển tiếp đến nhiều người thân quen.
 
Barbara Walters on Jane Fonda:
Barbara Walters nói về Jane Fonda:
Jane Fonda was on 3 times this week talking about her new book... and how good she feels in her 70's... She still does not know what she did wrong... Her book just may not make the bestseller list if more people knew.
 
Tuần này, đã 3 lần Jane Fonda nói về cuốn sách mới của bà ta... và về bà ta vẫn cảm thấy khỏe mạnh vô cùng ở lứa tuổi 70... Bà ta vẫn không biết những gì bà ta đã làm sai... Cuốn sách của bà lẽ ra không nằm trong liệt kê sách bán chạy nhất nếu thêm nhiều người đã biết.

 
Barbara Walters said: Thank you all. Many died in Vietnam for our freedoms. I did not like Jane Fonda then and I don't like her now. She can lead her present life the way she wants and perhaps SHE can forget the past, but we DO NOT have to stand by without comment and see her "honored" as a "Woman of the Century." (I remember this well.)
 
Barbara Walters đã nói: Cám ơn tất cả. Nhiều người đã chết ở Việt Nam cho tự do của chúng ta. Lúc đó tôi đã không thích Jane Fonda và giờ đây tôi cũng chẳng thích bà ta. Bà ta có thể sống cuộc sống hiện tại của bà ta cách nào bà ta muốn và có lẽ bà ta có thể quên đi quá khứ, nhưng chúng ta KHÔNG CẦN PHẢI đứng bên lề mà không bình luận gì và nhìn thấy bà ta "được vinh danh" như là một "Người đàn bà của thế kỷ." (Tôi nhớ kỹ điều này).
 
For those who served and/ or died... NEVER FORGIVE A TRAITOR. SHE REALLY WAS A TRAITOR!! And now President Obama wants to honor her!!!! In Memory of Lt. C. Thomsen Wieland, who spent 100 days at the Hanoi Hilton [infamous North Vietnam prison] --
 
Với những ai đã phục vụ và/hoặc đã chết... ĐỪNG BAO GIỜ THA THỨ CHO MỘT TÊN PHẢN BỘI. BÀ TA QUẢ THỰC LÀ MỘT TÊN PHẢN BỘI!! Và giờ đây Tổng thống Obama muốn tôn vinh bà ta!!!! Để tưởng nhớ Trung tá Thomsen Wieland, người đã trải qua 100 ngày ở khách sạn Hilton Hà Nội (nhà tù nổi danh của Bắc Việt).
 
IF YOU NEVER FORWARDED ANYTHING IN YOUR LIFE. FORWARD THIS SO THAT EVERYONE WILL KNOW! A TRAITOR IS ABOUT TO BE HONORED. KEEP THIS MOVING ACROSS AMERICA.
 
NẾU QUÍ VỊ CHƯA TỪNG CHUYỂN TIẾP BẤT CỨ ĐIỀU GÌ TRONG ĐỜI QUÍ VỊ, XIN CHUYỂN TIẾP BÀI NÀY ĐỂ MỌI NGƯỜI SẼ BIẾT! MỘT TÊN PHẢN BỘI SẮP ĐƯỢC VINH DANH. XIN CHUYỀN BÀI NÀY ĐI KHẮP NƯỚC Mỹ.
 
This is for all the kids born in the 70's and after who do not remember, and didn't have to bear the burden that our fathers, mothers and older brothers and sisters had to bear. Jane Fonda is being honored as one of the "100 Women of the Century."
 
Bài này dành cho mọi trẻ em sinh vào những năm 70 và sau đó không còn nhớ, và đã không phải mang gánh nặng mà cha mẹ và anh chị họ đã phải mang. Jane Fonda sắp được vinh danh như là một trong "100 người Đàn bà của Thế kỷ."
 
Barbara Walters writes: Unfortunately, many have forgotten and still countless others have never known how Ms. Fonda betrayed not only the idea of our country, but specific men who served and sacrificed during the Vietnam War.
 
Barbara Walters viết: Không may là, nhiều người đã lãng quên và còn không biết bao nhiêu người khác chưa từng biết làm sao cô Fonda đã phản bội không chỉ ý thức hệ của đất nước chúng ta mà còn rõ nét đã phản bội các người đàn ông đã phục vụ và hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam.
 
The first part of this is from an F-4E pilot. The pilot's name is Jerry Driscoll, a River Rat. In 1968, the former Commandant of the USAF Survival School was a POW in Ho Lo Prison, the "Hanoi Hilton."
 
Phần một của bài này là về một phi công F-4E. Tên của phi công là Jerry Driscoll, một chiến binh đơn vị River Rat. Năm 1968, nguyên Chỉ huy trưởng Trường Thoát hiểm Không quân Mỹ là một tù binh ở Hỏa Lò Hà Nội, "Khách sạn Hilton Hà Nội."
 
Dragged from a stinking cesspit of a cell, cleaned, fed, and dressed in clean PJ's, he was ordered to describe for a visiting American "peace activist" the "lenient and humane treatment" he'd received.
 
Bị kéo lên từ một hố bẩn thỉu của ngục cá nhân, bị tắm rửa, cho ăn, và bắt mặc một bộ đồ ngủ sạch, ông được lệnh mô tả cho một khách Mỹ "hoạt động cho hòa bình" đến thăm viếng, cách "đối xử khoan hồng và nhân đạo" mà ông đã nhận được.
 
He spat at Ms. Fonda, was clubbed, and was dragged away. During the subsequent beating, he fell forward onto the camp commandant 's feet, which sent that officer berserk. In 1978, the Air Force Colonel still suffered from double vision (which permanently ended his flying career) from the Commandant's frenzied application of a wooden baton.
 
Ông đã khạc nhổ vào cô Fonda, đã bị đánh bằng dùi cui, và đã bị lôi đi nơi khác. Trong lần bị đánh đập vì lí do đó, ông ngã chúi vào chân của viên chỉ huy trại làm cho tên sĩ quan đó giận điên lên. Năm 1978, vị Trung tá Không quân vẫn còn bị đau vì nhìn thấy hai hình (điều làm ông vĩnh viễn chấm dứt sự nghiệp bay của ông) vì bị viên chỉ huy trại đánh đập điên cuồng bằng gậy gỗ.
 
From 1963-65, Col. Larry Carrigan was in the 47FW/DO (F-4E's). He spent 6 years in the " Hanoi Hilton"... the first three of which his family only knew he was "missing in action." His wife lived on faith that he was still alive. His group, too, got the cleaned-up, fed and clothed routine in preparation for a "peace delegation" visit.
Từ 1963 đến 65, Đại tá Larry Carrigan ở đơn vị 47FW/DO (phi cơ F-4E). Ông đã trải qua 6 năm trong "Hilton Hà Nội"... ba năm đầu trong sáu năm đó gia đình ông chỉ biết ông bị "mất tích trong công vụ." Vợ ông sống trong niềm tin rằng ông vẫn còn sống. Nhóm của ông nữa cũng bị tắm rửa, cho ăn và cho mặc theo thường lệ trong việc chuẩn bị cho cuộc thăm viếng của "ủy ban hòa bình."
 
They, however, had time and devised a plan to get word to the world that they were alive and still survived. Each man secreted a tiny piece of paper, with his Social Security Number on it, in the palm of his hand. When paraded before Ms. Fonda and a cameraman, she walked the line, shaking each man's hand and asking little encouraging snippets like: "Aren't you sorry you bombed babies?" and "Are you grateful for the humane treatment from your benevolent captors?"
 
Tuy nhiên, họ đã có thì giờ để nghĩ ra một kế hoạch cho thế giới biết họ vẫn còn sống và vẫn sống sót.Từng người giấu kín một mẫu giấy tí xíu trong lòng bàn tay, với Số Xã hội của mình ghi trên đó. Khi diễu qua trước cô Fonda và một người quay phim, bà duyệt qua hàng người, bắt tay từng người và hỏi chuyện vụn vặt có chút khuyến khích như: "Ông không hối tiếc chuyện ông ném “bom trẻ nít” sao?" và "Ông có nhớ ơn cách đối xử nhân đạo nhận được từ những người nhân từ bắt giữ ông không?"
 
Believing this HAD to be an act, they each palmed her their sliver of paper. 
She took them all without missing a beat... At the end of the line and once the camera stopped rolling, to the shocked disbelief of the POWs, she turned to the officer in charge and handed him all the little pieces of paper...
 
Tin rằng đó CHỈ LÀ chuyện đóng kịch, họ từng người đưa vào lòng bàn tay cô mẫu giấy của họ. Cô ta nhận hết chẳng bỏ sót ai... Đến cuối hàng và một khi máy ngưng quay, trước cú sốc không tin được của các tù binh, cô quay viên sĩ quan chỉ huy và đưa cho hắn ta tất cả các mẫu giấy...
 
Three men died from the subsequent beatings. Colonel Carrigan was almost number four but he survived, which is the only reason we know of her actions that day.
 
Ba người chết vì bị đánh đập bởi lý do đó. Đại tá Carrigan suýt là người thứ tư nhưng ông đã sống sót, đó là nguyên do duy nhất chúng ta biết đến hành động của cô ta vào ngày đó.
 
I was a civilian economic development advisor in Vietnam, and was captured by the North Vietnamese communists in South Vietnam in 1968, and held prisoner for over 5 years. I spent 27 months in solitary confinement; one year in a cage in Cambodia; and one year in a 'black box' in Hanoi. My North Vietnamese captors deliberately poisoned and murdered a female missionary, a nurse in a leprosarium in Banme Thuot, South Vietnam, whom I buried in the jungle near the Cambodian border. At one time, I weighed only about 90 lbs. (My normal weight is 170 lbs.)
 
Tôi đã là một cố vấn dân sự về phát triển kinh tế ở Việt Nam và đã bị cộng sản Bắc Việt bắt tại Nam Việt Nam năm 1968 và bị cầm tù trên 5 năm. Tôi trải qua 27 tháng biệt giam, một năm nằm trong cũi ở Cambodia, và một năm trong 'hộp đen' ở Hà Nội. Đám bắt giữ Bắc Việt cố tình đầu độc và sát hại một nữ truyền giáo, một y tá tại trại cùi Ban Mê Thuột, Nam Việt Nam, mà tôi chôn trong rừng già gần biên giới Cambodia. Có một lúc, tôi chỉ còn cân nặng chừng 90 lbs (Trọng lượng bình thường của tôi là 190 lbs).
 
We were Jane Fonda's "war criminals". When Jane Fonda was in Hanoi, I was asked by the camp communist political officer if I would be willing to meet with her. I said yes, for I wanted to tell her about the real treatment we POWs received... and how different it was from the treatment purported by the North Vietnamese, and parroted by her as "humane and lenient." Because of this, I spent three days on a rocky floor on my knees, with my arms outstretched with a large steel weight placed on my hands, and beaten with a bamboo cane.
 
Chúng tôi đã là "tội phạm chiến tranh" của Jane Fonda. Khi Jane Fonda ở Hà Nội, tôi được viên sĩ quan chính ủy cộng sản của trại hỏi liệu tôi có muốn gặp cô ta. Tôi đã trả lời có, vì tôi muốn cho cô ta biết cách đối xử đích thực mà tù binh chúng tôi đã nhận được... và khác biệt đến chừng nào với cách đối xử người Bắc Việt ám chỉ và cô ta rêu rao như là "nhân đạo và nhân từ." Vì chuyện đó, tôi bị ba ngày quì trên nền đá, hai cánh tay giang ra với một quả tạ thép nặng trên hai bàn tay, và bị đánh bằng gậy tre.
 
I had the opportunity to meet with Jane Fonda soon after I was released. I asked her if she would be willing to debate me on TV. She never did answer me.
 
Tôi đã có cơ hội gặp gỡ Jane Fonda không lâu sau khi tôi được thả ra. Tôi hỏi bà ta liệu bà có sẵn sàng tranh luận với tôi trên truyền hình. Bà ta không bao giờ trả lời tôi.
 
These first-hand experiences do not exemplify someone who should be honored as part of "100 Years of Great Women." Lest we forget... "100 Years of Great Women" should never include a traitor whose hands are covered with the blood of so many patriots. There are few things I have strong visceral reactions to, but Hanoi Jane's participation in blatant treason, is one of them.
 
Các kinh nghiệm tự thân này chẳng minh họa một ai đó sẽ được vinh danh như là thành phần của "100 năm của Phụ nữ vĩ đại." Chúng ta lại càng không quên "100 năm của Phụ nữ vĩ đại" không bao giờ nên kể luôn vào một tên phản bội mà bàn tay đã nhuốm máu của bao nhiêu người yêu nước. Có một số điều tôi phản kháng tự thâm tâm, nhưng sự tham gia của Jane Hà Nội vào phản bội rùm beng là một trong đó.
 
Please take the time to forward to as many people as you possibly can. It will eventually end up on her computer, and she needs to know that we will never forget. RONALD D. SAMPSON, CMSgt, USAF 716 Maintenance Squadron, Chief of Maintenance DSN: 875-6431 COMM: 883-6343
 
Xin bỏ thời gian chuyển tiếp đến cho càng nhiều người càng tốt. Nó cuối cùng sẽ đến computer của bà ta, và bà ta cần phải biết rằng chúng ta không bao giờ quên. RONALD D. SAMPSON, CMSgt, USAF 716, Trung đội Bảo trì, Trưởng toán Bảo trì DSN 875-6431, COMM: 883-6343.
 
PLEASE HELP BY SENDING THIS TO EVERYONE IN YOUR ADDRESS BOOK.
IF ENOUGH PEOPLE SEE THIS MAYBE HER STATUS WILL CHANGE.
 
Xin giúp đỡ bằng cách gửi email này đến mọi người trong hộp thư của quí vị.
Nếu đủ số người thấy điều này, có thể tình trạng của bà ta sẽ thay đổi.








dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 06.12.2014 03:34:15
0

NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA CHÚNG TA

Lưỡng Quảng là Đất Việt


Vào tháng 8.1980, trong quá trình san lấp quả đồi Tượng Cương (Quảng Châu, Trung Quốc) để xây cao ốc, khi đào sâu vào núi đá khoảng 20m, đã phát hiện lăng mộ khổng lồ. Người nằm trong mộ là Triệu Văn Vương (Triệu Muội, Triệu Mạt, hoặc Triệu Hồ, lên ngôi 137 TCN), là cháu gọi bằng ông của Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), đời vua thứ 2 của nhà Triệu nước Nam Việt.
Lưỡng Quảng là Đất Việt :  Tình Cờ Khám Phá Ra Kho Vàng Ngọc Trong Lăng Mộ 2.000 Năm Của Vua Nam Việt
Khi điều tra, các nhà khảo cổ khẳng định đây là ngôi mộ đá, được tạc vào trong lòng núi. Như vậy, chắc chắn phải có lối vào. Mở rộng khai quật, các nhà khảo cổ đã phát hiện một lối vào, sâu đến 20 m. Lối vào đã bị lấp bởi những tảng đá lớn. Ngôi mộ nằm sâu trong núi đá, nên đã được bảo quản toàn vẹn suốt hơn 2.000 năm.
Theo tường thuật, thì hôm đó, chiếc máy múc xúc đất sâu vào núi, tạo ra lỗ thủng lớn. Dưới lỗ thủng là những phiến đá khổng lồ, máy múc không phá nổi. Doanh nghiệp đã dừng công việc, báo cáo chính quyền.
Quan tài gỗ và bộ quần áo được dệt bằng hàng ngàn mảnh ngọc, kết bởi sợi vàng
Quan tài gỗ và bộ quần áo được dệt bằng hàng ngàn mảnh ngọc
Vét hết lớp đất mịn, lộ ra quan tài gỗ và bộ quần áo được dệt bằng hàng ngàn mảnh ngọc, kết bởi sợi vàng. Bên trong bộ quần áo là dấu vết xương cốt đã mủn hết. Trong quan tài có 10 thanh kiếm khảm vàng. Xung quanh chủ nhân ngôi mộ là vố số vật dụng bằng vàng, ngọc cực kỳ tinh xảo.
Ngay lập tức, công tác khai quật bắt đầu. Các nhà khoa học đã gặp nhiều khó khăn khi tìm đường vào ngôi mộ, bởi lối vào được bố trí bởi các cơ quan bí mật. Phía sau cánh cửa đá có một bộ phận, mà khi đóng cửa, bộ phận đó tuột ra, làm vòm cửa đóng xuống. Khi cửa được đóng lại, thì ngôi mộ vĩnh viễn chìm vào quên lãng, không ai vào ra được nữa. Các nhà khoa học đã phải phá đá mới vào được bên trong.
Phần chính lăng mộ có diện tích 100 mét vuông, gồm 7 gian phòng, tường ốp đá xanh, trần được lắp ghép bằng những phiến đá lớn, dày, nặng cả chục tấn.
Các nhà khoa học đã kinh ngạc khi phát hiện tất cả các gian phòng đều chứa ăm ắp cổ vật, toàn vũ khí, vật dụng và châu báu.
Vét hết lớp đất mịn, lộ ra quan tài gỗ và bộ quần áo được dệt bằng hàng ngàn mảnh ngọc, kết bởi sợi vàng. Bên trong bộ quần áo là dấu vết xương cốt đã mủn hết. Trong quan tài có 10 thanh kiếm khảm vàng. Xung quanh chủ nhân ngôi mộ là vố số vật dụng bằng vàng, ngọc cực kỳ tinh xảo.
Tiếp tục bới lớp đất phủ ở phần ngực, thì phát hiện chiếc ấn vàng, núm rồng cuộn. Đáy ấn vàng khắc chữ “Văn Ðế Hành Tỷ”, theo lối tiểu triện.
Qua chiếc ấn này, các nhà nghiên cứu đã xác định người nằm trong mộ chính là Triệu Văn Vương (Triệu Muội, Triệu Mạt, hoặc Triệu Hồ, lên ngôi 137 TCN), là cháu gọi bằng ông của Triệu Vũ Đế (Triệu Đà), đời vua thứ 2 của nhà Triệu nước Nam Việt.
Trong sử sách, thời Tam Quốc, Tôn Quyền biết trong lăng mộ của nhà Triệu có rất nhiều châu báu, bảo vật, nên sai các tướng xua quân xuống Giang Đông tìm kiếm nhiều năm ròng. Tuy nhiên, quân Ngô chỉ tìm được mộ của Anh Tề, cháu gọi Triệu Đà bằng ông cố. Mặc dù vậy, quân Ngô cũng lấy được vô số vật báu, toàn là vàng, ngọc. Tuy nhiên, lăng mộ Triệu Đà, Triệu Muội ở đâu không ai biết, mặc dù giới khảo cổ, giới trộm cổ vật săn lùng ráo riết suốt hơn 2.000 năm qua.

Việc phát hiện lăng mộ Triệu Văn Vương vào thời kỳ đó, khiến các nhà khảo cổ Việt Nam quan tâm đặc biệt. Theo sử Việt, Triệu Đà được coi là một triều đại của Việt Nam trước công nguyên. Ông cùng với tướng Lữ Gia đã quật cường chống lại sự xâm lược của nhà Hán.
Theo sử Việt, Triệu Đà sống tới 121 tuổi, ở ngôi gần 70 năm. Vì sống thọ, nên truyền ngôi cho cháu là Triệu Văn Đế, chứ không truyền cho con.
Lăng mộ có kiến trúc tiền triều hậu tẩm, tức phía trước là triều đình, phía sau là cung điện, nơi vua ở. Tổng cộng có 7 căn phòng.
Tiền thất không có cổ vật, mà chỉ có những biểu tượng văn hóa. Nhưng từ căn phòng này, có 4 cửa thông sang các phòng bên.
Hai phòng phía đông và tây, bên hông mộ, gọi là nhĩ thất, chứa nhiều món đồ đồng, gồm chuông, nhạc nhí, binh khí và vô số món ngọc.

Kho chứa vàng, ngọc khổng lồ
Đằng sau phòng chính, tức địa cung, nơi đặt quan tài, là một căn phòng làm kho chứa. Đây là nơi chứa hàng ngàn cổ vật, là vật dụng vua dùng, toàn bằng vàng hoặc nạm vàng, đồ ngọc, đồ sứ, sành, đồng, sắt.
Các nhà khoa học đã lấy được tới hơn 200 món ngọc khí. Tất cả các món ngọc đều được chạm khắc tinh xảo, khiến các nhà điêu khắc ngày nay cũng phải kinh ngạc bởi sự sáng tạo, cầu kỳ.
Hơn 500 món đồng gồm đủ các loại, từ vật dụng đến binh khí. Phần lớn các món đồng đều nạm vàng. Đặc biệt quý là bộ áo bằng ngọc khâu bằng tơ vàng, gọi là ti lũ ngọc y. Đây là ti lũ ngọc y sớm nhất được tìm thấy ở Trung Hoa.
Trong mộ, quý nhất là 23 chiếc ấn, toàn bằng ngọc và vàng, một số ít bằng đồng mạ vàng. Như đã nói ở trên chiếc ấn Văn Đế Hành Tỷ là ấn vàng lớn nhất tìm thấy ở đời Hán. Hành Tỷ lớn, bằng vàng, lại núm rồng, chứng tỏ Triệu Vũ Đế, đến Triệu Văn Vương, dù thần phục nhà Hán, nhưng vẫn coi mình là vua, xã hội Nam Việt hoàn toàn độc lập với Trung Hoa.
Ngoài ra, còn có 36 đỉnh đồng, khắc chữ Phiên Ngung. Vô số vật dụng có nguồn gốc từ Trung Đông, Châu Phi. Những vật dụng phương Tây này chủ yếu là trang sức vàng, hạt châu, hộp bạc, hộp vàng, ngà voi.
 
Có 9 chiếc bình đồng khảm vàng lấp lánh tuyệt đẹp. 9 cái thạp đồng, với những hoa văn thuyền, người đội mũ lông chim, đi chân đất… là thứ đặc trưng của người Việt, giống hệt hoa văn trên các trống đồng, thạp đồng ở Việt Nam. Điều khiến các nhà sử học Việt quan tâm, là rất nhiều món đồ tinh xảo bằng đồng như nữu chung, gương đồng, bình hương liệu… có nguồn gốc từ Lĩnh Nam, gồm cả phần miền bắc Việt Nam và nam Trung Quốc bây giờ. Nhiều món đồ đến từ miền trung của Việt Nam.
Cung phi, nhạc công tuẫn tang theo
Điều đáng lưu tâm nữa trong lăng mộ Triệu Văn Vương, là có tới 15 người bị chôn sống. Những người bị tuẫn táng gồm người gác cửa, nhạc công, 4 cung phi và 7 người trong nhà bếp cùng các vật dụng, để phục vụ việc ăn uống. Ngoài ra còn có 2 người ở cạnh mộ chủ, có thể là vệ sĩ. Tục chôn sống theo người chết phổ biến thời phong kiến cổ đại, từ đời Tần về trước. Đến thời Hán, tục này không còn, nhưng rõ ràng vẫn duy trì ở Nam Việt.
Qua giám định pháp y, thấy rằng, những người này đều bị đánh mạnh vào ngực cho chết rồi mới chôn theo.
Qua nghiên cứu những di vật trong ngôi mộ này, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định rằng, từ hơn 2.000 năm trước, vùng Lĩnh Nam đã phát triển rực rỡ cả về kinh tế lẫn văn hóa. Vùng đất này không bị lệ thuộc vào Trung Nguyên. Các nền văn hóa tồn tại song hành, giao lưu, trao đổi với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, chứ không phải một chiều từ phương bắc đi xuống như người phương Bắc vẫn tuyên truyền.
Những vật dụng ở vùng Lĩnh Nam có niên đại trước thời Nam Việt, cũng đã khẳng định nền văn minh rực rỡ từng tồn tại ở vùng đất này. Nhiều vấn đề lịch sử cần được tiếp tục nghiên cứu và nhìn nhận lại từ lăng mộ Triệu Văn Vương.
Đông Phong
(Theo VTC NEWS)

<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.12.2014 03:43:42 bởi dzuylynh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 11.12.2014 21:18:11
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

Bản Thánh Ca Bất Hủ “AVE MARIA”

Bản nhạc nổi tiếng khắp châu Âu ngay tức khắc sau hôm đó! Một số giáo hội Công giáo (trong đó có GHCGVN) không hài lòng vì lời ca mất đi chữ “Mater Dei” (mẹ Chúa Trời) nên chỉ dùng “Ave Maria” của Schubert trong nhà thờ. Nhà soạn nhạc Pháp Camille Saint-Saens (1835-1921) nằm trong số này; đã chẳng hóm hỉnh ví lời ca Gounod là “con ếch phình bụng mà không chết” trong khi “thính giả lên cơn cuồng si mê đắm trước con quái vật” đó sao! Sự thật nốt nhạc có chỗ lên cao quá khiến vài phụ nữ yếu “bóng vía” thời đó khi nghe đã ngã lăn đùng ra xỉu!


HÀ BẮC
 Trong mỗi dịp Noel (hay Christmas, Giáng Sinh), bản thánh ca “Ave Maria” của Franz Schubert (1825) và của J. S. Bach & Charles Gounod (1859) lại vang vọng nơi các giáo đường ở khắp các thôn làng hẻo lánh cho đến các kinh thành ánh sáng; cùng với các bản thánh ca bản xứ khác để mừng Chúa Cứu Thế giáng trần. Nhưng ít ai để ý đến nguồn gốc thế tục cũng như các tác giả vĩ đại của nó.
 
Nhạc sư Franz Peter Schubert người Áo sinh năm 1797 tại Lichtenthal, Vienna; tác giả của 600 tấu khúc nhạc cổ điển, vừa symphonie, sonate và quarte; trong đó nổi tiếng có 8 tác phẩm hòa tấu trong album “la Symphonie inachevée” và 4 tác phẩm: La Jeune Fille et la Mort, La Truite, Le Roi des Aulnes và một tuồng viết cho Opéra. Bản “Ave Maria” được viết năm 1825. Ông được miễn lính vì quá thấp (chiều cao 5.1 ½ inches). Ông không sử dụng thành thạo một nhạc cụ nào nên chú tâm vào việc dạy và sáng tác nhạc rồi mất năm 1828; chôn cạnh Beethoven theo di chúc. Nhạc sư người Đức Jean-Sébastien Bach sinh năm 1685 tại Elsenach chuyên viết nhạc thánh ca dùng cho cantates, passions, Messes, oeuvres d’orgue. Ba con trai của ông cũng là các nhạc sư nổi tiếng không kém: Wilhelm Freidemann (1710-1784), Carl Philipp Emanuel (1714-1788) và Johann Christian (1735-1782). Ông mất năm 1750. Nhạc sư người Pháp Charles Gounod sinh năm 1818 tại Paris, tác giả của các tấu khúc tôn giáo như “Mors et Vita”. . . và các tuồng sân khấu nổi tiếng như Faust, Roméo et Juliette, Mireille, Philémon và Baucis cho opéra. Ông mất năm 1893. 
 
Franz Schubert thoạt tiên tiếp xúc với bài văn vần Thiên Hùng Ca “The Lady of the Lake” của Sir Walter Scott viết năm 1810 bằng Anh ngữ nói về nhân vật Ellen Douglas cùng cha bị trục xuất rồi trốn lên cao nguyên Scotland; trong một hang đá gần hồ Loch Katrine đế tránh bị nhà vua trả thù. Trong một lúc sợ hãi và tuyệt vọng nhất, Ellen đã dâng lời cầu nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria cứu giúp. Scott đã dựa theo lời cầu khẩn bắt đầu bằng chữ “Ave Maria” này để đặt tên cho ca khúc là “Ellens’Third Song” (Ellens dritter Gesang - tức Opus 52 numéro 6, D. 839) lần đầu xuất bản năm 1826. Sau đó tựa bài bị biến mất; chỉ còn lời như sau: 
 
“Ave Maria, Maiden mild! – Listen to a maiden’s prayer! – Thou canst hear though from the wild – Thou canst save amid despair – Safe may we sleep beneath thy care – Though banish’d, outcast and reviled – Maiden, hear a maiden’s prayer! – Mother, hear a suppliant child! – Ave Maria! Ave Maria undefiled! – The flinty couch we now must share – Shall seem this down of eider piled – If thy protection hover hear – The murky cavern’s heavy air – Shall breathe of balm if thou hast smiled – Then Maiden, hear a maiden’s prayer – Mother, list a suppliant child! Ave Maria!”
 
Lời ca Anh ngữ này được chuyển qua Đức ngữ bởi Adam Storck, người đã đưa cho Schubert để viết ký âm pháp năm 1825 cho hợp với thánh ca và trình diễn lần đầu không có thu âm. Một nhà quý tộc đã đưa bản nhạc (đời) này vào một biệt thự ở Stevregg để giúp vui cho bà Bá Tước Weissenwolff. Sau đó có lẽ các tu sĩ Công giáo đã đặt lời Latin để dùng cho nhà thờ và đã được ưa chuộng đến độ xuất xứ kể trên của ca khúc đã mất hẳn tên và ngụ ý; để chỉ còn là “Ave Maria de Schubert” được thu âm trên 800 lần sau đó và hát nơi công cộng vô số lần thời đó cho đến nay.
 
Nếu “Ave Maria de Schubert” là tác phẩm của một cá thể thì “Ave Maria de Bach & Gounod” được xem như tác phẩm hợp soạn với lời Latin thay đổi, thêm bớt cho đến thế kỷ XV. Nhà soạn nhạc Charles Gounod, một trong các bậc thầy tiên phong thời ấy yêu Anna Zimmerman, con gái của Pierre Zimmermann, một viên chức trong “Conservatoire National de Musique et de Déclamation” ở Paris. Viên chức này là tay dương cầm nổi danh và là thầy của nhà soan nhạc Georges Bizet (1838-1875), tác giả của “Pécheurs de Perles, Jolie Fille de Perth, l’Arlésienne, Carmen . . .”. Một hôm, Zimmermann nghe Gounod đàn piano bản “Prélude de J. S. Bach, C majeur” hay hơn nguyên tác bèn yêu cầu cậu con rể tương lai đàn lại lần nữa rồi chép nốt theo phím đàn của Gounod. Ông bố vợ tương lai còn viết thêm bản nữa cho violon rồi mua đứt bản quyền của cậu Gounod với giá $200 francs; sau đó ông bán lại cho một nhà xuất bản. 
 
Sau khi ông cưới Anna năm 1852, bản “thánh ca” của Gounod được xuất bản với cái tên “Méditation au premier Prélude de Bach”. Sau đó Gounod quen Rosalie Jousset, người phụ nữ trẻ có giọng ca thánh thót du dương lạ lùng. Thế là Gounod viết thêm vài lời thơ vô thưởng vô phạt của thi sĩ Alphonse de Lamartine (1790-1869) vào bản nhạc; định để riêng tặng cho người phụ nữ có chồng này. Nhưng bà mẹ vợ đa nghi khó chịu đã bắt viết thêm “Ave Maria” vào ngay dưới lời thơ của Lamartine để bài hát được thuần tôn giáo hơn. Anh con rể lại phải điều chỉnh một số nốt thành “mineur” cho thích hợp. Khi sao lại và chuyển âm, Aurélie đã bỏ bớt chữ “mater Dei” (vẫn còn trong “Ave Maria de Schubert” lời 2) và mãi đến năm 1859 mới được xuất bản. Rồi Gounod lại quen Madame Miolan-Carvalho, một giọng virtuoso soprano tuyệt vời trong vở tuồng “Roméo et Juliette” để mời bà hát. Thế rồi “Ave Maria de Bach & Gounod” như ấn bản ngày nay lần đầu tiên được cất lên bởi nàng hôm 24/5/1859!
 
Bản nhạc nổi tiếng khắp châu Âu ngay tức khắc sau hôm đó! Một số giáo hội Công giáo (trong đó có GHCGVN) không hài lòng vì lời ca mất đi chữ “Mater Dei” (mẹ Chúa Trời) nên chỉ dùng “Ave Maria” của Schubert trong nhà thờ. Nhà soạn nhạc Pháp Camille Saint-Saens (1835-1921) nằm trong số này; đã chẳng hóm hỉnh ví lời ca Gounod là “con ếch phình bụng mà không chết” trong khi “thính giả lên cơn cuồng si mê đắm trước con quái vật” đó sao! Sự thật nốt nhạc có chỗ lên cao quá khiến vài phụ nữ yếu “bóng vía” thời đó khi nghe đã ngã lăn đùng ra xỉu!
 
Năm 1904 bản thánh ca “Ave Maria de Schubert” này được thu âm với giọng ca Alessandro Moreschi lúc đó trên 40 tuổi. Lời ca dựa trên kinh cầu Đức Bà lời Latin như sau: 
-Lời 1) “Ave Maria! – Gratia plena – Maria gratia plena – Maria gratia plena – Ave, Ave dominus – Dominus tecum – Benedicta tu in mulieribus – Et benedictus – Et benedictus fructus ventris – Ventris tui Jésus – Ave Maria”; 
-Lời 2) “Sancta Maria – Mater Dei – Ora pronobis peccatoribus – Ora, ora pronobis – Peccatoribus – Nunc et in hora mortis – In hora mortis nostrae – In hora mortis nostrae – Ave Maria”. 
 
Lời Xuân Mỹ: “Dâng Mẹ Maria, đây những linh hồn đầy ưu tư! – Khép nép trong lòng Mẹ ôi hết ưu phiền – Đàn con xin Mẹ âu yêm nối cho lành duyên – Hãy ban cho hương đời đã tan vỡ trong ngày qua – Và đưa tới nơi mơ hồ - Mẹ ôi, Santa Maria! - Lòng con run lên vì nghe tiếng chuông xa xa – Từ xưa thơ ấu, hoa xuân nở trong gió thơ – Tàn kiếp, mong linh hồn siêu thoát Thiên Đường kia! Ave Maria!”. 
 
Lời Phạm Duy: 
-1) “Ave Maria! – Ôi Nữ Trinh đầy hồng ân – Chính Chúa đã rủ tình thương đoái trông Mẹ - Mẹ ôi, danh Mẹ vinh hiển khắp trên trần gian – Chúa Giêsu Con lòng Mẹ ơn phúc tràn lan – Mẹ ban phát cho nhân trần – Mẹ ôi, con xin mừng Thiên chức Mẹ Chúa Trời! – Triều thiên uy linh mười hai ánh sao rạng ngời – Từ nơi cao sang, xin thương trần gian chúng con – Hằng ngóng trông mong phần vinh phúc trên Trời cao! – Ave Maria!”; 
-2) “Xin Mẹ Maria – Cho nước con qua ngày can-qua – Đã mấy mươi năm Mẹ ôi, sống trong mộng – Ngày mai, một ngày tan chinh chiến vui bình yên – Hãy ban cho một mùa xuân như ý quên sầu bi – Đầy ơn phúc trong tay Người – Mẹ ôi, bao la lòng Maria! – Này đây muôn kinh quỳ lạy tấu dâng lên Bà – Tạ ơn Thiên Chúa, Grabriel truyền tin khắp nơi – Trần thế thắm bao tình ơn Thánh Nữ Đồng Trinh! – Ave Maria!”. 
 
Lời ca của Lm. Anthony Vũ Hùng Tôn trong CD “Tin Tưởng Nơi Chúa” do ca đoàn Xuân Tâm, cộng đoàn CGVN giáo xứ Saint James Vancouver WA (TGP. Seattle WA) xuất bản năm 2000 như sau: 
-Lời 1) “Ave Maria! – Ơn rất dư đầy bao la – Maria dư đầy ơn phúc cao sa – Maria Mẹ đầy ơn phúc trời cao – Ave, Ave Chúa ở cùng Mẹ - Mẹ có Chúa ở cùng Mẹ - Mẹ được ơn hơn bao người thiếu nữ ở thế trần – Và Giêsu Con lòng Mẹ có phúc nhất đời – Và Giêsu Con thân yêu lòng Mẹ có phúc – Thật có phúc hơn mọi người sống trên trần gian – Ave Maria!”; 
-Lời 2) “Ave Maria! – Thiên Chúa ở cùng Mẹ - Xin nghe lời nguyện đoàn con trót trao Mẹ - Mẹ ơi, xin rủ thương lắng nghe lời ban – Chở che cho đoàn con chẳng xa tội nhơ – Cầu xin Mẹ xót thương tình! – Giờ đây như trong giờ con giã từ cõi trần – Mẹ thương đưa tay dìu con tới nơi yên hàn – Mẹ yêu cho nên con ở nơi Chúa! Mẹ cứu giúp con được lên chốn trời cao – Ave Maria!”.
 
Lời Latin của “Ave Maria de Bach & Gounod” như sau: 
 
-1)“Ave Maria – Gratia plena – Dominus tecum – Benedicta tu in mulieribus – Et benedictus – Fructus ventris tui Jesus – Sancta Maria, Sancta Maria, Maria! – Ora pronobis – Nobis peccatoribus – Nunc et in hora - In hora mortis nostrae – Amen!”. 
 
-2) Lời Phạm Duy như sau: “Cầu xin Maria – Thấm nhuần một lòng thương chúng ta – Đoái hoài một đàn con xót xa – Mến trìu một bàn tay thiết tha của Người – Mẹ ôi mà lòng trinh tiết tỏa ngời – Người mà tình thiêng muôn đời – Quỳ niệm một vòng hoa – Đặt trên thánh giá những khi chiều tà – Xin cầu một kiếp nào – Mối tình xanh mãi màu - Tiếng hát chầu đưa bao duyên lành mới qua cầu – Hoa trong muôn vườn ngát khoe màu – Người cười trong ánh nắng – Tiếng reo yên lành đây đó – Ta cùng nép dưới bàn thờ - Xin cầu lời thương nhau – Amen!”.
 
Trong các thập niên từ 1970, các giọng tenor và soprano của các danh ca Luciano Pavarotti, Placido Domingo, José Carreras, Renata Jebaldi . . . và sau này là Charlotte Church đã làm say đắm lòng mọi thính giả đạo đời với “Ave Maria” của ba nhà soạn nhạc trứ danh này; không chỉ vào mỗi dịp Noel mà tại các cuộc hòa nhạc cổ điển trong các hý viện nổi tiếng ở các thủ đô Âu Mỹ cũng như bên bức tường thành Jérusalem! Lời cầu nguyện thay vì được lập lại nhiều lần bằng hình thức lần chuỗi “Mân Côi” râm ran khẩn khoản; đã được trau chuốt để trở thành bài thánh ca bất hủ du dương, thánh thót, vang vọng chất ngất thiên đình; tồn tại đã gần 3 thế kỷ trong lịch sử Thiên Chúa Giáo; xuất phát từ tình người và lòng mộ đạo để chuyên chở lời kinh “Je Vous Salue Marie” như sau: “Je vous salue Marie! – pleine de grace –le Seigneur est avec vous – Vous êtes bénie entre toutes les femmes – Et Jésus, le fruit de vos entrailles, est béni – Sainte Marie, Mère de Dieu, priez pour nous, – Pauvres pécheurs, maintenant – Et à l’heure de notre mort – Amen!” (Kính mừng Maria đầy ơn phúc – Đức Chúa Trời ở cùng Bà – Bà được phúc hơn mọi người nữ - Và Giêsu con đầu lòng Bà cũng được phúc vậy - Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng tôi là kẻ tội hèn khi nay và trong giờ lâm tử”.
 
HÀ BẮC  
(tham khảo tài liệu của Max Cryer, St Gregory Hymnal, Encyclopédie de Musique, Cantiques Notés và các tài liệu khác)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2014 22:34:01 bởi Phù vân >

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 12.12.2014 18:27:45
0
 
 
 
 
 
 
Bài Tình Ca Mùa Đông
Tác giả: Trầm Tử Thiêng
 
Bài tình ca mùa Đông anh hát giữa đêm trời giá 
Tình còn mãi chờ mong thấp thoáng bóng em vợi xa 
Hẹn hò sẽ vì nhau qua phong ba 
anh cố bước, đôi chân chậm quá! 

Để rồi sắp gặp nhau, mới biết em không đợi nữa 
Trời lại thêm mùa đông, cho tuyết than trên đầu non 
Kỷ niệm giăng ngập đêm nay trong mưa 
anh hứng nốt những giọt cuối mùa 
 
Êm êm, ngoài kia nhạc đêm đông! 
Anh nhớ khi mặn nồng, 
Xin cám ơn em một thời xuân 
 
Giờ còn đâu mà mong, 
cho chút duyên nghe còn ấm 
Bài tình ca mùa Đông 
hát mãi đôi môi lạnh câm 
Lòng thì vẫn hẹn cơn đau nguôi ngoai, 
Sao nỗi nhớ mỗi ngày mỗi đầy ...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.12.2014 18:33:07 bởi thiên thanh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 16.12.2014 20:47:46
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

Mặt Trận Đại Học thời Việt Nam Cộng Hòa

Một buổi chiều có nắng đẹp, hơi lạnh sau cơn bão đến Bắc California, vùng Thung lũng Silicon…Một số anh chị em cựu sinh viên các trường đại học Sài Gòn, đặc biệt là Văn Khoa và Luật Khoa đã đến gặp nhau trong một buổi họp mặt thân hữu để “trình làng” tập sách có tựa: Mặt Trận Đại Học thời Việt Nam Cộng Hòa.

Lê Bình
 
Cali Today News - Tác phẩm là tập hợp những bài viết từ năm 2009 của những sinh viên đại học Sài Gòn có tinh thần quốc gia, yêu tự do dân chủ, đã tham dự trong mặt trận “tình báo” để chống lại sự xâm nhập của cộng sản Bắc Việt vào sân trường Đại Học, tiêu biểu chóm nhóm sinh viên Cộng sản là Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng…với sự chỉ huy của Trần Bạch Đằng.
 
Buổi trao sách, diễn ra trong tình gia đình tại tư gia của một cựu sinh viên, trên đường Ridgeview Way, San Jose. Có khoảng gần 50 thân hữu tham dự, phần lớn là những cựu sinh viên Văn Khoa, Luật Khoa trong nhóm A 17, các cựu chủ tịch Ban Đại Diện Văn Khoa như Cựu Chủ Tịch Nguyễn Hữu Tâm, Phan Nhật Tân, cựu Phó Chủ tịch Ban Đại Diện VK Biện Thị Thanh Liêm, cựu thủ quỹ Ban Đại Diện VK Huỳnh …và một số nhân viên cảnh sát đặc biệt thuộc Phủ Đặc Ủy. Đặc biệt có sự hiện diện và nói chuyện của cựu Đặc Ủy Trưởng, Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình.
 
Buổi nói chuyện xoay quanh những hoạt động của các cựu sinh viên Văn Khoa, Luật Khoa trước năm 1975. Những nhân chứng còn sống nói về một thời sôi nổi của tuổi trẻ dấn thân “Vừa miệt mài đèn sách vừa ý thức bổn phận của người sinh viên Quốc Gia, hăng hái tham gia các hoạt động nhằm loại bỏ ảnh hưởng của cán bộ Thành đoàn Cộng sản ra khỏi môi trường đại học…” Những tên tuổi gắn liền với những cuộc đấu tranh chống cộng sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật. Tác phẩm cũng trình bày những sự thật mà chưa có sách vở, báo chí nào nói đến mặt thật của những “sinh viên” Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm…v.v.

 
Cũng trong buổi mạn đàm “Mặt Trận Đại Học” người ta biết thêm về những hoạt động quả cảm của những sinh viên chân yếu tay mềm, các chị sinh viên Văn Khoa, Luật Khoa tham dự trong công cuộc đấu tranh chống cộng và đã trả giá bằng những năm tù khổ sai sau 1975. Có người 8 năm, có  người 13 năm. Chị Thanh Liêm tâm tình “Cuộc chiến đã qua hơn mấy chục năm, với tư cách một nữ sinh viên Văn Khoa bé nhỏ trong hàng ngũ sinh viên Quốc Gia, chúng tôi không khỏi tự cảm thấy chút hãnh diện vì ngày xưa đã sát cánh cùng bạn bè góp công sức mình vào việc ổn định tình hình Đại Học nơi hậu phương để ngoài tiền tuyến các anh chiến sĩ VNCH yên lòng chiến đấu chống lại Cộng quân xâm lăng.”

 
 
Điểm qua tác phẩm Mặt Trận Đại Học Thời Việt Nam Cộng Hòa, cựu Chủ tịch Văn Khoa Lý Bữu Lâm nhận xét “Làm sống lại linh động một thời sinh viên của chúng ta. Nội dung cuốn sách vinh danh hàng ngũ Sinh Viên Quôc Gia, vinh danh Giáo Sư, Sinh Viên đã thực sự đổ máu, đã ngã gục trước họng súng bạo lực phi nhân của Thành Đoàn Cộng Sản…”
 
Cựu sĩ quan Cảnh sát Đặc Biệt, Trần Hùng, người đã từng sát cánh cùng sinh viên trong Mặt Trận Đại Học cho biết “Quyển sách đã nói lên một phần khác của cuộc chiến đấu chống cộng sản. Cuốn sách cần được phổ biến rộng rải đến nhiều người vì cho đến bây giờ bọn cộng sản vẫn ra sách để nói “tốt” về phía họ.” Nhiều người có nhận xét tác phẩm là một phản biện, là chứng tích rõ ràng cho thấy những tác phẩm của cộng sản viết về thòi kỳ sinh viên “đấu tranh” là sai sự thật. Trong bài số 9 (trang 187) nói về những sự không thành thật của LM Chân Tín khi trả lời phỏng vấn về những vụ mà theo LM Chân Tín “Bắt bớ sinh viên”, sự thật về cái gọi là Ủy Ban Vận Động Cải Thiện Chế Độ Lao Tù do LM Chân Tín thành lập năm 1970 để vận động thả những tên VC đội lốt sinh viên đã bị bắt. Tác phẩm cũng nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoảng Phủ Ngọc Phan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Ngọc Lan,  Nguyễn Đăng Trừng, Lê Hiếu Đằng…về tên sinh viên trùm tranh đấu Huỳnh Tấn Mẫm.

 
 
Nhìn chung, tác phẩm Mặt Trận Đại Học không phải là “sử” nhưng đó là tài liệu sống rất cần cho những nhà nghiên cứu viwết sử sau nầy. Tiến sĩ Trần An Bài nhận xét “Lịch sử gắn liền với sự thật. Nhưng những chế độ độc tài đảng trị luôn bóp méo sự thực khi viết lịch sử. Trong cuốn “Mặt Trận Đại Học” không chủ ý viết sử mà chỉ muốn trình bày sự thực như một nhân chứng, một người tham dự ở góc cạnh khá đặc biệt trong cuộc chiến Việt Nam. Đó là cuộc chiến tại các trường Đại Học của VNCH nhằm chống lại sự xâm nhập, phá hoại của VC. Cuộc chiến nầy đang bị cộng sản xuyân tạc và bóp méo sự thực để viết thành “lịch sử” truyền lại cho hậu thế.”
Một số tham dự cho biết nhận xét “Mới đọc lướt qua một vài bài nhưng đã thấy được nhiều sự thật cần được nói lên, viết ra cho mọi người thấy. Nhất là gìới trẻ sau nầy cần biềt về cha anh của họ đã làm gì.”
 
Sau cùng Ban Tổ Chức khoản đãi bữa ăn trưa. Buổi họp mặt trao sách chấm dứt lúc 3:00pm.
 
Tưởng cũng nên viết thêm. Trong buổi trao sách có sự hiện diện của cựu Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, ông đã nói về những cuộc chiến tình báo, trong đó có Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, xin ghi lại một vài nét về Phủ Đặc Ủy.
 

 
Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo (tiếng Anh: Central Intelligence Office, viết tắt là CIO) là cơ quan tình báo chiến lược trung ương của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, trực thuộc Phủ Tổng thống.  Trụ sở đặt tại số 3 Bạch Đằng.
 
Phủ Đặc ủy được thành lập năm 1961 theo sắc lệnh số 109/TTP do Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký ngày 5 tháng 5 năm 1961. Cơ quan này có nhiệm vụ điều tra, thu thập tin tình báo chiến lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các nước có liên quan; cố vấn cho chính phủ về an ninh quốc gia.
 
Phủ Đặc ủy gồm các cơ quan trực thuộc như: Cục Tình báo Quốc nội (gồm các nha: Điệp báo (ban K), Phản gián (ban U) và Chính trị (ban Z)); Cục Tình báo Quốc ngoại; Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia. Trong vùng kiểm soát của Việt Nam Cộng hòa, ở mỗi vùng chiến thuật có 1 Đoàn công tác đặc biệt, thuộc Cục Tình báo Quốc nội. Ở nước ngoài, có các biệt cục trực thuộc Cục Tình báo Quốc ngoại như: Biệt cục Phú Xuân ở Pháp, Lam Sơn ở Anh, Thái Bình Dương ở Nhật, Tiền Giang ở Thái Lan, Phú Quốc ở Campuchia,...
 
Các Đặc ủy trưởng qua các thời kỳ: Trung tá Lê Liêm, Đại tá Nguyễn Văn Y, Trung tướng Mai Hữu Xuân, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Trung tướng Linh Quang Viên, Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, Ông Nguyễn Phát Lộc
 
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 hầu như tất cả nhân viên của Phủ Đặc ủy đều bị kẹt ở lại và bị đi tù.
 
Lê Bình

Nguyệt Hạ
  • Số bài : 1104
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.10.2010
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 18.12.2014 04:17:57
0
 
 
 
 


Xin chúc anh Dzuylynh và gia quyến
mùa Giáng Sinh tràn đầy ơn lành
và một năm mới 2015 nhiều may mắn.

Nguyệt Hạ


 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.12.2014 04:19:04 bởi Nguyệt Hạ >

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 18.12.2014 18:14:13
0

tt xin thân mến chúc ca nhạc sĩ Dzuylynh và các quý bạn Giai Điệu Phù Trầm 
một mùa Giáng Sinh vui tươi hạnh phúc và đầm ấm cùng những người thương yêu và bạn bè 
 
 
 
 

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 18.12.2014 22:33:29
0
 
 
 
 
* * *
 
 
 
 
 
  Xin Mẹ Maria cho nước con qua ngày can qua.
Đã mấy mươi năm, Mẹ ơi sống trông mong ngày mai,
Một ngày tan chinh chiến vui bình yên.
Hãy ban cho một mùa xuân như ý quên sầu bi.
Đầy ơn phước trong tay Người.
Mẹ ơi! Bao la lòng Maria.
Này đây muôn kinh quỳ lạy tấu dâng lên Bà.
Tạ ơn Thiên Chúa Gabriel truyền tin khấp nơi.
Trần thế thắm bao tình ơn Thánh Nữ Đồng Trinh.
Ave Maria

Dâng về Maria, Đây những linh hồn đầy ưu tư
Khép nép trong lòng Mẹ ôi hết ưu phiền
Đàn con xin Mẹ âu yếm nối cho lành duyên 
Hãy ban cho hương đời đã tan vờ trong ngày qua 
Và đưa tới nơi mơ hồ 
Mẹ ơi! Santa Maria
Lòng con rung lên vì nghe tiếng chuông xa xa 
Từ xưa thơ ấu hoa xuân nở trong gió thơ 
Tàn kiếp, mong linh hồn siêu thoát thiên đường kia
Ave Maria
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.12.2014 23:32:48 bởi thiên thanh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 20.12.2014 20:25:34
0
 
Nguyệt Hạ


 

Xin chúc anh Dzuylynh và gia quyến
mùa Giáng Sinh tràn đầy ơn lành
và một năm mới 2015 nhiều may mắn.

Nguyệt Hạ


 
Thiên Thanh
 tt xin thân mến chúc ca nhạc sĩ Dzuylynh và các quý bạn Giai Điệu Phù Trầm 
một mùa Giáng Sinh vui tươi hạnh phúc và đầm ấm cùng những người thương yêu và bạn bè 
 

  ***

 Dzuylynh thân chúc BDH / VNTQ
Qúy thi hữu, văn nghệ sỹ, qúy tao nhân mặc khách ẩn danh, Giai Điệu Phù Trầm Fans
Các bạn Cát Ly, Huyền Băng, Nguyệt Hạ, Sen đất, Thiên Thanh, CàNa tn nguyen, Nghinh Nguyen, Tóc Nâu, Thúy Lan, Lê Phú Hải, Nguyên Đỗ, Đông Hương ...
cùng qúy quyến một mùa Giáng Sinh an lành, Năm mới vạn sự như ý.
 
           
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.12.2014 21:59:28 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 20.12.2014 20:42:50
0
Qúy bằng hữu đã cùng Dzuylynh thưởng thức giọng hát Mezzo Soprano ngọt ngào của nghệ sỹ tài tử Bạch Vân, một bạn thân của GĐPT qua một ca khúc bất hủ không thể thiếu trong các Mùa Giáng Sinh của nhân lọai.
Ở một nơi rất xa, gần cực Nam tinh cầu.
Từ ánh sáng ấm áp của ngọn nến trắng, ly rượu vang nồng màu hổ phách, không gian đọng lại cùng chiếc Microphone và màn hình Karaoke, Bạch Vân, Hòang Vân trải tấm lòng phụng sự hồng ân, buông lơi giai điệu chân thành quyến rũ bởi bảy nốt nhạc phù phép... Những mong cho bạn bè có chút an bình trong cuộc sống phù phiếm chốn nhân gian tạm bợ này. Cám ơn bạn, Thanks nữ ca sỹ Bạch Vân mây trắng thật nhiều!
Trong khung cảnh êm đềm, thánh thiện của Mùa Lễ Giáng Sinh đang đến, một sớm tinh mơ. San Jose những đêm thức chờ mặt trời. Mưa ngòai trời lất phất, dư âm cơn bão rớt còn vương vất thung lũng cùng làn khói thuốc, cốc cà phê đen đặc sánh, ngồi nghe âm điệu thân quen mà thấy lòng ấm áp vô cùng...

Một lần nữa, Dzuylynh xin trân trọng gửi đến tiếng hát vô tiền khóang hậu từ một nghệ sỹ du ca lừng danh thế giới . Nam danh ca Martin Huken, người Hollant sinh năm 1953, ca sĩ Opera đã đoạt giải Holland Got Talent năm 2010, hiện rất nổi danh và đang trình diễn nhiều nơi trên hòan vũ.
Hãy nhìn cô bé con ngây thơ với đôi mắt trong veo hồn nhiên đầy thánh thiện thưởng thức trong suốt buổi trình diễn trên vĩa hè của người nghệ sỹ du ca này để thấy được âm thanh là huyền ngữ vô cùng. Quả thực âm nhạc huyền diệu qúa, âm thanh đến với con người là không biên giới, không phân biệt màu da sắc tộc và tôn giáo.
Nghe EVA MARIA với Martin Huken và bất chợt cảm thấy tâm hồn thật sự bình an, phẳng lặng...

Bên một góc phố, những viên gạch cũ kỹ đã làm vạch nối cho khán thính gỉa gần lại nhau hơn, giọt nước mắt hoen trên mi người thiếu phụ, những nụ cười rạng rỡ trên môi người, những bước đi lẩm chẩm của cô bé thiên thần, chiếc mũ nằm quạnh quẽ dưới lòng đường cũng có chút an bình. Thiên Chúa chính là người sẽ trả công bội hậu cho người hát và người nghe, người biết lắng nghe cuộc hành trình vô biên của âm thanh mầu nhiệm. Âm nhạc không quốc tịch, không ngôn ngữ, không biên giới và cũng không giai cấp. âm nhạc là vô cùng, vô tận.
Và hãy nhìn cái cách mà người ca sỹ trình diễn hết sức chân thành tha thiết để biết rằng tại sao ca khúc này có phép thần thông khiến cho những ưu phiền chốn nhân gian thốt nhiên lắng xuống, và tấm lòng từ tâm trong chúng ta mở ra thênh thang, thênh thang...
Nào, xin mời các bạn, hãy ngồi gần lại bên nhau cùng thưởng thức với Dzuylynh: Tiếng hát của một sứ gỉa mang thông điệp thiên phước đi vinh danh và rao giảng cho nhân lọai : Thông Điệp Tình Thương !
 
 
 AVE MARIA



[TUBE]https://www.youtube.com/watch?v=v8O15DogWgg[/TUBE]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2014 22:41:57 bởi Ct.Ly >

Đóa Hồng Tím
  • Số bài : 505
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 17.06.2009
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 21.12.2014 05:39:50
0
CHUYẾN XE LỬA CHIỀU NOEL
 
gió buốt rét từng cơn qua thành phố
đi song song với bóng bước mình em
em mặc kệ nỗi buồn vui biểu lộ
nồng nàn hôm qua còn để kín dành
 
mưa bay bay, hạt nhiểu đầy vành nón
nón bằng len anh tặng Noel rồi
tay em xua cơn rứt ray gậm nhấm
mỗi một ngày lau chuỗi ngọc quanh môi
 
hai chéo áo tâm tư nhàu, tủi phận
gấu ống quần thấm ướt, cũng đôi khi
buồn qua em, xa anh, hằn giá lạnh
giữ không tròn để thấm ướt Paris
 
trời hư ảo Phố Hồng trong sương sớm
mù sân ga, chuyến tàu cuối sau cùng
em hơ mắt vào khói càfé nóng
tay chạm lên ngực trái, nhịp dập dồn
 
nhìn tấm vé đang cầm, em nôn nức
ngày cuối tuần, mình lên đón anh qua
có nhiều đâu, chỉ bài ba hôm nữa
vậy mà hình như tính mãi không ra
 
đông hương

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2014 05:49:20 bởi thương yêu >
quê hương em là Huế
quê tim em là anh

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 21.12.2014 22:33:46
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

Lễ Giáng Sinh

Ta có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu, một mình hoặc với người khác. Hãy nghĩ tới Thượng Đế nhiều hơn là hơi thở khiến cho cầu nguyện trở thành một thói quen.Và đừng cầu nguyện vào buổi sáng rồi suốt ngày sống như một con người man rợ độc ác.


Photo courtesy: www.freeimageswallpapershd.com
 
Bác sĩ Ý Đức ơi,
Christmas sắp đến rồi, bác sĩ có điều gì chia sẻ với độc giả về ngày lễ lớn này không. Thành Lê- 
 
Chào bạn Thành Lê,
 
Cảm ơn bạn đã nhắc nhở về lễ Giáng Sinh. Vậy chúng tôi xin tạm ngưng nói về sức khỏe để cùng đề cập tới ngày Christmas khá trọng đại này. Trọng đại vì đây là ngày đã được mọi quốc gia, mọi tôn giáo coi như ngày vui chung của nhân loại, chứ không riêng gì đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo. Do đó, có người đã nói, Christmas là một cơ hội hãn hữu để nhắc nhở mọi người  có bổn phận đối với những người mà ta không quen biết cũng như đôi khi không ưa thích.Và đồng thời mọi người cũng hân hoan hát các điệu nhạc Giáng sinh như “We wish you a Merry Christmas”, như “Silent Night”, Đêm Thánh Vô Cùng mừng Chúa Hài Đồng ra đời
 
…Ôi Chúa thiên đàng, cam nếm cơ hàn 
Nhấp chén phiền vương phong trần 
Than ôi Chúa thương người đến quên mình 
Bơ vơ chốn quên nhà lúc sinh thành 
Ai đang sống trong lạc thú 
Nhớ rằng Chúa đang đền bù…
 
Theo lời ghi lại thì khi Chúa Jesus cất tiếng khóc chào đời trong một cái máng cỏ ở hang Bethlelem có ba vị Vua phương Đông mang ba món quà đến để bày tỏ sự thành kính của họ. Trong khi đó, những người chăn cừu nghèo khó cũng lòng thành tặng Chúa Jesus hoa quả và những món đồ chơi do chính họ làm ra…
 
Lễ Giáng Sinh Christmas là lễ kỷ niệm  ngày sinh của Chúa Jesus. Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Christ là tước vị của Đức Giêsu, chữ Mas là Thánh lễ. Thượng Đế đã gửi con yêu quý của mình xuống thế để chuộc tội và mang lại tình thương, hòa bình, hạnh phúc cho nhân loại. Tuy là lễ riêng của tín đồ Cơ Đốc Giáo, nhưng hầu như mọi người đều trân trọng, chung vui. 
 
Với tất cả, Lễ Giáng Sinh là thời gian tuy ngắn ngủi nhưng tràn ngập thương yêu với những gói quà dưới cây Noel, sao sáng lung linh nơi cửa sổ, những cánh thiệp chúc tụng gửi đó đây, những bữa ăn đoàn tụ thân bằng quyến thuộc với tiếng cười nói hân hoan hạnh phúc, với tuyết trắng phủ kín sân nhà, đường phố…
 
Cho nên, tinh thần của Lễ Giáng Sinh là chia sẻ, bao dung, thương yêu và giảm thiểu giận hờn. 
 
Tiểu thuyết gia Oren Arnold gợi ý về quà tặng Giáng Sinh như sau: “Với kẻ thù, cho sự Tha thứ; với đối thủ cho sự Chịu đựng; với bạn bè cho Trái Tim; với khách hàng cho Phục Vụ Chu Đáo; với các cháu bé Làm Gương Sáng để cháu noi theo và với chính mình, cho niềm Tự Trọng”.
 
Trong thông điệp gửi cho nhân dân Hoa Kỳ, vị Tổng Thống thứ 30 của quốc gia này là Calvin Coolidge (1872-1933), nhắn nhủ: “Christmas không phải là một thời gian hoặc một mùa nhưng là một tâm trạng. Để chào mừng hòa bình và thiện ý, để có đầy đủ tình yêu thương”.
 
Tiểu thuyết  gia nước Anh là Charles Dickens ((1812–1870) cũng đồng ý với “ Tôi luôn nghĩ Christmas như là thời gian vui thú ; một thời gian thân tình, tha thứ, độ lượng, thoải mái; thời gian mà nam cũng như nữ dường như tự do rộng mở trái tim, do đó tôi xin Thượng Đế chúc lành cho Christmas”.
 
Tác giả Wilda English viết :”Thượng Đế ban cho ta ánh sáng của Christmas, đó là niềm tin;  ấm áp của Chrismas, đó là tình yêu; rực rỡ của Christmas, đó là sự trong sáng;  chính trực của Christmas, đó là công lý; lòng tin tưởng ở Christmas, đó là sự thật; mọi ý nghĩa của Christmas, đó là Chúa Giê Su”.
 
Kế cận những bên nhau hạnh phúc, Giáng Sinh còn quá nhiều người không mua, không nhận được quà tặng, không lo được bữa ăn ngon, những em bé bán diêm chết cóng trong đêm băng giá, những đứa con bị cha mẹ bỏ rơi, những người bệnh không được thuốc thang chăm sóc… 
 
Nhưng có Mother Teresa, người được Chúa Jesus kêu gọi để phục vụ những kẻ bất hạnh từ Giáng Sinh năm 1948. Bà từng nói “Mỗi năm tôi khởi  sự việc làm vào ngày Christmas”. 
 
Vì, theo bà, “Là Lễ Giáng Sinh mỗi khi ta để Thượng Đế thương yêu người khác qua ta…và  là Lễ Giáng Sinh  mỗi khi ta mỉm cười với anh em của ta và cứu giúp họ”.
 Đó là thánh ý Thiên Chúa.
 Mà trong Lễ Giáng sinh, thường thường người ta cũng hay cầu nguyện
 
Cầu nguyện không phải chỉ là sự thờ phượng mà còn là một nguồn sinh lực dồi dào, mạnh mẽ mà con người có thể tạo ra. 
 Ảnh hưởng của sự cầu nguyện lên tinh thần và thể chất có thể chứng minh được.  Ảnh hưởng đó được đo lường bằng sự phục hồi thể xác, đưa tới một trí tuệ sáng suốt, một lương tri ổn định và sự thấu hiểu những mặt khàc nhau trong sự giao thiệp giữa mọi người.
 
Nếu ta thành thật tạo ra một thói quen cầu nguyện, cuộc sống của ta sẽ thay đổi rõ ràng. Lời cầu nguyện sẽ để lại trong hành động và thái độ của ta những dấu ấn khó xóa nhòa. Một tác phong bình thản, một nét mặt ung dung tự tại ở những ai đã có một nội tâm phong phú. Trong chiều xâu của lương tri là ngọn lửa của nhân ái. Và con người tự nhìn thấy mình. Họ nhìn ra tính ích kỷ, thái độ kiêu hãnh, tâm trạng  sợ hãi, lòng tham lam, những sai lầm ngớ ngẩn của mình. Họ sẽ triển khai một nghĩa vụ đạo đức, một trí tuệ khiêm cung lâu dài. 
 
Câu nói, “Hãy cầu xin và sẽ được đáp ứng” đã được chứng minh bằng kinh nghiệm của nhân loại.Thực ra, cầu nguyện không thể mang lại sự sống cho em bé đã chút hơi thở cuối cùng hoặc chấm dứt được cơn đau thể chất. Nhưng cầu nguyện, như hạt radium, là nguồn sinh lực tự tạo sáng chói không bao giờ hết. Khi cầu nguyện, ta đã kết nối bản thân với nguồn sức mạnh bất tận đang quay cuồng trong vũ trụ. Ta xin một phần năng lượng đó cho nhu cầu thiếu hụt của ta để tăng cường bổi bổ. Nhưng đừng cầu nguyện Thượng Đế để thỏa mãn lòng ham muốn nhất thời. 
 
Ta có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu, một mình hoặc với người khác. Hãy nghĩ tới Thượng Đế nhiều hơn là hơi thở khiến cho cầu nguyện trở thành một thói quen.Và đừng cầu nguyện vào buổi sáng rồi suốt ngày sống như một con người man rợ độc ác. 
 
Hơn bao giờ hết, cầu nguyện bây giờ là một gắn bó cần thiết trong nếp sống của con người. Thiếu quan tâm tới ý nghĩa của tôn giáo đã đưa thế giới tới ngưỡng cửa của sự diệt vong. Nguồn sức mạnh xâu sắc, toàn hảo nhất của chúng ta đã bị lãng quên một cách thảm bại. Cầu nguyện phải được tích cực áp dụng trong nếp sống của chúng ta. Vì nếu sức mạnh của sự cầu nguyện được áp dụng trong đời sống thường nhật thì còn nhiều hy vọng rằng những lời cầu nguyện cho một thế giới tốt đẹp hơn sẽ được đáp ứng. 
 
Để kết luận, xin mượn lời của nhà văn danh tiếng nước Anh Charles Dickens như sau, khi ông nói tới Christmas: “I will honor Christmas in my heart, and try to keep it all the year”, Tôi sẽ tôn vinh Christmas trong trái tim của tôi và trân trọng Christmas suốt năm”.
 
Mong sao mọi người chúng ta cũng như bạn Thành Lê thực hiện được như lời nhà văn này nhắc nhở.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Ct.Ly

Tóc nâu
  • Số bài : 4317
  • Điểm: 24
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 01.03.2007
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 24.12.2014 16:02:17
0
 
 
Xin cảm ơn lời chúc đẹp của anh Lynh nha.
TN xin chúc anh Lynh cùng gia quyến và toàn thể thân hữu của ngôi nhà trang trọng GĐPT một mùa Giáng Sinh ấm cúng, an lành, một năm 2015 hoàn toàn toại ý.
 
 
 
 
Attached Image(s)
Thơ rơi
[link=http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=787518]Trang chính

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 26.12.2014 18:07:50
0
CUỘC TÌNH DƯỚI MƯA VÀ BÀI THÁNH CA BUỒN KHẮC KHOẢI 40 NĂM

Hạnh Lam

      
 
Cuộc tình dưới mưa và Bài Thánh Ca Buồn khắc khoải 40 năm
 



Gần nửa thế kỷ trôi qua, giai điệu Bài Thánh ca đó còn nhớ không em của nhạc sĩ Nguyễn Vũ vẫn không ngừng ngân vang, len lỏi vào tâm thức từ người dân đô thị đến những vùng quê.
 
Kỷ niệm cuộc tình dưới mưa
 
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời thơ ấu ông sống ở Đà Lạt. Những năm tháng tuổi thơ sống ở thành phố sương mù đã ảnh hưởng nhiều đến bước đường nghệ thuật của ông trong đó có “Bài thánh ca buồn”.
 
Không chỉ sáng tác nhạc, Nguyễn Vũ còn hát rất hay. Từ nhỏ, ông đã chơi được nhiều nhạc cụ như guitar, harmonica, piano…và hát cho Ban thiếu nhi của Đài Phát thanh Đà Lạt. Năm 12 tuổi (1956), cậu bé Tuấn Khanh đã đoạt giải Nhất đơn ca thiếu nhi do Đài Phát thanh Đà Lạt tổ chức. Nhạc sĩ Nguyễn Vũ và nhạc sĩ Đức Huy là anh em con cô, con cậu. Khi còn nhỏ Nguyễn Vũ và Đức Huy cùng sinh hoạt “sói con” (hướng đạo sinh) với nhau. Nguyễn Vũ thường qua nhà Đức Huy hướng dẫn cho Đức Huy chơi đàn thuở Đức Huy 14-15 tuổi.
Năm 1965, Nguyễn Vũ có tác phẩm đầu tay là ca khúc “Loài chim biển”. Hai năm sau, tên tuổi nhạc sĩ mới được giới yêu nhạc biết đến nhiều qua loạt ca khúc có chữ “cuối”:

 
 
“Bài thánh ca buồn” là một trong những ca khúc pop-ballad được nhiều người Việt ưa chuộng vào mỗi dịp Giáng sinh. (Trong ảnh: nhạc sĩ Nguyễn Vũ trình bày ca khúc Bài Thánh ca buồn
 
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ cho biết: “Tôi không nghĩ ca khúc này lại được nhiều khán giả yêu mến đến thế. Khi viết ca khúc ấy, đơn giản tôi đang hoài niệm quãng thời gian trai trẻ của mình. Cái thời mà tôi chỉ dám ngắm nhìn người tôi mến, không dám mở lời làm quen…"
 
“Thuở tôi là một cậu bé 14 tuổi ngày đi lễ ở nhà thờ Con gà (TP.Đà Lạt), sở dĩ tôi “chịu khó” đi lễ chỉ vì thấy một cô gái rất xinh và ngoan đạo mỗi ngày vẫn đi ngang qua ngõ nhà tôi để đến nhà thờ. Trái tim vụng dại của thằng con trai mới lớn đập loạn nhịp trước bóng hình thiếu nữ tóc bồng bềnh trong gió cao nguyên. Ngày qua ngày, suốt hơn ba tháng trời, tôi âm thầm, lầm lũi làm “cái đuôi” của cô ấy. Kẻ trước người sau, mỗi bận đi lễ về phải đi bộ hơn 3km đường đèo nhưng một lời bẻ đôi tôi không dám thốt. Lòng thành của tôi chỉ được hưởng một ân huệ cỏn con: Tôi được biết cô ấy tên Th., lớn hơn tôi 2 tuổi…”.
 
Thế rồi một buổi chiều gần lễ Giáng sinh, tan lễ thì trời đổ mưa to, cô ấy nép vào một mái hiên trú mưa, tôi cũng…trú tạm bên cạnh, hai người đứng cách nhau độ một gang tay.. Lẫn trong tiếng mưa vang lên giai điệu quen thuộc của bản thánh ca “Đêm thánh vô cùng” (Silent Night) vẳng ra từ ngôi nhà gần đấy:
 
Cô ấy đưa tay hứng những giọt nước mưa và khe khẽ hát theo. Tôi lặng người. Giọng hát cô ấy buồn da diết. Tự dưng tôi cảm thấy run, khẽ đưa tay vuốt nhẹ những hạt mưa bụi li ti bám bên ngoài chiếc áo của cô ấy. Cô ấy bất chợt quay sang tôi nhoẻn miệng cười: “Cảm ơn nghen!”.
 
Mưa tạnh, “người trong mộng” đã khuất dạng tự bao giờ mà thằng con trai 14 tuổi vẫn còn đứng ngẩn ngơ vì " Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn kia bỗng dại khờ"  
Ba ngày sau, gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống. Tâm trạng tôi lúc đó y như người vừa đánh mất một vật quý giá. Từ đó, mỗi khi chợt nghe bài " Đêm thánh vô cùng" lòng tôi lại tái tê với ánh mắt, nụ cười hồn nhiên, thánh thiện tựa thiên thần của " người ấy"
 

Ôm hình bóng ấy cho đến mãi 14 năm sau, tình cờ nghe lại “Đêm thánh vô cùng” từ chiếc máy đĩa, bỗng dưng cảm xúc từ một mối tình thánh thiện, hồn nhiên như trẻ thơ – tưởng như đã vùi sâu dưới lớp bụi trần thời gian – chợt ùa về trong ký ức, thôi thúc tôi và “Bài thánh ca buồn” ra đời.
 
Chuyện tình buồn nhưng không bi lụy
 
Nhạc phẩm “Bài thánh ca buồn” được nhạc sĩ Nguyễn Vũ sáng tác trong hai tiếng vào một ngày tháng 10.1972 và được hãng đĩa Sơn Ca mua độc quyền, “Bài thánh ca buồn”nam ca sĩ Thái Châu là người đầu tiên và ngay sau đó, nó trở thành ca khúc “hot” nhất trong mùa Giáng sinh năm đó. 
Cho đến nay có rất nhiều ca sĩ hát bài này nhưng ca sĩ Elvis Phương đã là người mặc định cho ca khúc một vị trí hoàn hảo, thổi vào đó dạt dào những cảm xúc từ khung trời kỷ niệm một chút gì tiếc nuối. Xa vắng, kết hợp giọng hát ở không gian cao, rộng, khoan thai, phát âm ca từ rõ ràng, lắng đọng, để rồi đẩy ca khúc lên. Biết bao nhiêu thế hệ người nghe, ca khúc vẫn không nhàm chán:“Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang/ Xin cho đôi mình suốt đời có nhau/ Vang trong đêm lành bài ca Thiên Chúa/ Khẽ hát theo câu: “Đêm thánh vô cùng”/ Ôi giọng hát em mênh mang buồn”.
 

 

Một câu chuyện tình lãng mạn nhưng tinh tế và chân thật của một mùa Noel kỷ niệm, hơi phảng phất buồn nhưng không bị lụy.
 
"Bài Thánh Ca Buồn"là một trong những ca khúc pop-ballad được nhiều người Việt ưa chuộng vào mỗi dịp Giáng sinh. Nó là ca khúc đã vượt qua sự thử thách của thời gian để trở thành hiện tượng văn hóa, chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật, nhân văn, thẩm mỹ, lịch sử khiến cho tác phẩm vì thế được cả những người Thiên Chúa giáo, lẫn những người ngoại đạo đều yêu thích.
 
Một câu chuyện tình lãng mạn nhưng tinh tế và chân thật của một mùa Noel kỷ niệm, hơi phảng phất buồn nhưng không bị lụy. Hơn 40 năm kể từ khi ca khúc “Bài thánh ca buồn” ra đời, đến nay nó vẫn được nhiều người nghe, thích và tiếp tục hát, thậm chí đang có xu hướng trẻ hóa dần.
 
Sự nghiệp âm nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Vũ không lớn lao như nhiều nhạc sĩ khác nhưng “Bài thánh ca buồn” đã trở thành một trong những bản nhạc được yêu thích, nhất là trong các album nhạc giáng sinh.
 “Bài thánh ca đó còn nhớ không em/ Noel năm nào chúng mình có nhau/ Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt/ Áo trắng em bay như cánh thiên thần/ Giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân”
Gần nửa thế kỷ trôi qua, cứ vào dịp lễ Giáng sinh, giai điệu bản tình ca “Bài thánh ca buồn” của nhạc sĩ Nguyễn Vũ, vẫn không ngừng ngân vang trong những đêm lành, len lỏi vào tâm thức từ người dân đô thị đến những vùng quê… Hơn 40 năm, “Bài thánh ca buồn” vẫn luôn được người nghe yêu thích. Thế là quá đủ đối với một nhạc sĩ.
 
Hạnh Lam.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ trình bày nhạc phẩm "Bài Thánh ca buồn" do chính ông sáng tác với lời nhắn gửi "hãy hát và hát đúng 2 từ trong nhạc phẩm của ông ...Vào những đêm "Thế Trần" đón Noel ....thay cho 2 từ "Thánh đường" mà mọi người vẫn thường hát. Xin cảm ơn.



[tube]https://www.youtube.com/watch?v=lc_1Vj9Qaqs[/tube]




http://nsvietnam.blogspot.ca/2014/12/cuoc-tinh-duoi-mua-va-bai-thanh-ca-buon.html#more
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.12.2014 18:16:08 bởi thiên thanh >

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 28.12.2014 15:37:53
0
chuyên cười cuối năm 
 
Xã HƯu Vit Nht
Tràm Cà Mâu
 
 
 
(Truyện nầy được viết sau một buổi nói chuyện tiếu lâm với ba ông bạn, một từ Ba Lan, một từ Nga Xô và ông khác từ xứ Nicaragua. Ba xứ nầy trước kia theo xã hội chủ nghĩa. TCM )            
 
 
Từ miền Nam ra Bắc, năm 1945 ông Tý đang miệt mài đèn sách tại  đại học Hà Nội, hy vọng ra trường được bổ dụng làm quan tham tá,  thì xếp bút nghiên theo tiếng gọi của sông núi. Cầm súng đánh đuổi giặc Tây đang trở lại, để dành độc lập cho quê hương. Năm 1954 nước Việt Nam chia cắt ra hai miền, ông đi tập kết ra Bắc. Năm 1975, sau khi miền Bắc chiến thắng trong cuộc nội chiến tương tàn do súng đạn ngoại bang cung cấp và thúc dục, ông hân hoan trở về. Trong trí tưởng tượng của nhiều người bà con giòng họ,  thì ông là một  kẻ  anh hùng oai phong lẫm liệt, cưỡi ngựa chiến, mang chiến bào, cầm gươm báu sáng ngời chỉ vào thiên địa hiên ngang. Nhưng họ thất vọng, vì thấy ông, mặt mày bủng beo hốc hác, tiều tụy,  chân mang dép râu, đầu đội nón cối sờn mục và áo quần nhàu nát lụng thụng màu phân ngựa. Trong một bữa ăn đoàn viên do bà chị ông tổ chức. Một người cháu trẻ tuổi hỏi:
- “Trong chế độ cộng sản, thanh thiếu niên có quyền yêu đương không?”
 
Ông cười đáp:
- “Được chứ, đó là tự do cơ bản, ai cũng có quyền, nhưng phải báo cáo và thông qua tổ chức. Được tổ chức cho phép thì tha hồ, Nhưng nếu tổ chức không chấp thuận, thì không nên tiếp tục tình yêu sai trái đó”
 
Đứa cháu nhún vai cười mĩm. Hỏi tiếp:
- “Thưa chú, người ta nói rằng, chế độ tư bản bất công, người giàu kẻ nghèo chênh lệch. Chế độ cộng sản tạo được công bằng gần như tuyệt đối, là mọi người đều khốn khổ bần cùng như nhau. Ngoại trừ một nhóm đảng viên cao cấp. Có đúng như vậy không?”
 
- “Tuyên truyền phản động. Nhưng có lẽ không phải  là không có cơ sở."
 
Ông Tý gắp một mớ cá lòng tong kho tiêu vào chén. Ông hỏi:
- “Cá nầy là cá gì mà ngon quá. Kho tiêu cay, ăn thấm miệng.”
 
Bà chị dâu ông cười và trả lời :
- “Đây là cá lòng tong”
- “Cá lòng tong lá cá gì?”
- “Là một loại cá voi, đã được sống trong xã hội chủ nghĩa lâu năm.”
 
Cả nhà đều cười. Ông Tý đỏ mặt, nhưng không muốn tranh luận làm chi với những người mà ông cho là cực kỳ phản động. Ông Tý hỏi;
- “Ở đây có ai biết  cái khác nhau giữa xã hội chủ nghĩa với tư bản chủ nghĩa ? Tại sao ta xây dựng xã hội chủ nghĩa?”
 
Đứa cháu lại nghiêm mặt và trả lời:
 - “Trong tư bản chủ nghĩa, thiểu số tư nhân giàu có bóc lột nhân dân lao động. Trong xã hội chủ nghĩa, thiểu số của thiểu số đảng viên cầm quyền bóc lột toàn nhân dân, triệt để và khốc liệt hơn. Xã hội chủ  nghĩa được xây dựng nên, cho người người được dịp làm biếng hơn, phè hơn, hoặc không làm chi cả cho khỏe."
 
Ông Tý chưa kịp phản ứng thì bà chị dâu lại hỏi:
- “Tôi đố chú, nói được sự khác nhau ở dưới địa ngục tư bản, và địa ngục cọng sản?”  
 
Ông Tý lung túng:
 - “Tôi không biết. Chị nói cho tôi nghe với”
- “Dưới địa ngục tư bản, người có tội phải nhảy bàn chông, và tắm vạc dầu. Dưới địa ngục xã hội chủ nghĩa, cũng như vậy, nhảy bàn chông và tắm vạc dầu. Nhưng rất nhiều khi, thiếu chông, và thiếu dầu, nên chỉ nhảy sàn đất, và tắm không khí mà thôi.”
 
Cả nhà cùng cười. Ông Tý nói:
- “Thật là phản động và bôi bác.”
 
Đứa cháu gái kêu ông Tý bằng cậu nói:
- “Cậu biết không? Cách nay nhiều năm, trước thời chiến tranh, có một ông già nhà giàu vào một tiệm bách hóa và trả tiền mua hết tất cả hàng hóa trong tiệm, nhưng không mang về, để lại tặng không cho các khách hàng đến sau ông, họ khỏi trả tiền. Chủ tiệm cười, sung sướng đồng ý. Ông già bắc ghế ngồi trước cửa tiệm xem chơi. Sau khi vài người khách vào tiệm mua, được cho không khỏi trả tiền, thì dân chúng ào ào kéo đến. Mười lăm phút sau, cả cái tiệm thành đống rác, đổ vỡ tan hoang. Ông già ngồi cười. Chủ tiệm mếu máo hỏi ông già rằng: “Ông có thù ghét chi tôi không mà hại tôi đến thế? Tan nát cái tiệm rồi. Từ nay làm sao buôn bán chi được nữa ? Ác chi mà ác đến thế ông ơi! Tại sao thế? “ Cụ già chậm rải giải thích: “Tôi đã già quá. Tôi biết không thể sống cho đến ngày cộng sản vào đây. Tôi muốn được thấy tận mắt thế nào là xã hội cộng sản”.”
 
Bố của cháu gái lườm mắt nhìn con và nói:
- “Để cho cậu của con ăn ngon miệng, nói chi ba cái chuyện tào lao mà nghẹn  họng, nuốt không vô. Ngày vui đoàn tụ mà.”
 
Đứa cháu gái trả lời:
- “Nhưng con không ưa chế độ, xã hội đó.”
 
Ông Tý nhìn đứa cháu gái và nói:
- “Cậu hỏi con rằng, trong xã hội tư bản, con có thể bỏ việc mà đi chơi bất cứ khi nào con muốn không?”
- “Không bao giờ”
- “Trong xã hội tư bản, con có thể lấy phương tiện, vật liệu của sở về xây nhà riêng không?”
- “ Không bao giờ”
 
Ông Tý dồn tiếp:
- " Trong xã hội tư bản, con có thể  dùng thời giờ của sở để xây nhà riêng không?”
- “Không bao giờ.”
- “Chú cho con biết, trong xã hội chủ nghĩa, mọi người đều làm được những điều đó. Thế thì tại sao con không ưa thích xã hội chủ nghĩa?”
 
Một đứa cháu khác hỏi tiếp:
- " Đọc nghị quyết của đảng cộng sản, cháu thấy họ viết rằng: 'Trước đây chúng ta đang đứng trên bờ vực. Từ đó đến nay, chúng ta đã tiến được nhiều bước vượt bực’. Đứng trên bờ vực mà tiến được nhiều bước vượt bực, thì có lộn mèo xuống hố hay không? Trong bài diễn văn gần đây, đồng chí tổng bí thư có đọc: "Chế độ cộng sản đang ở chân trời". Có nghĩa là sao?”
 
Thằng cháu nhỏ khác cười giải thích:
- “Chân trời là cái ranh giới trông vào thì thấy như mặt đất giáp trời. Nhưng càng đi đến, thì càng xa, và không bao giờ gặp cả.”
 
Ông Tý đang nuốt miếng thịt heo béo bùi mà nghẹn họng, đưa tay vuốt ngực, ho hen. Bà chị dâu lại hỏi:
- “Tôi đố chú, nếu chế độ cộng sản thành lập được giữa sa mạc Sahara , thì chuyện gì sẽ xẫy ra sau đó?”
- “Tôi không biết”
- “Thì chỉ trong vài năm  thôi, sa mạc sẽ thiếu cát, và phải nhập cảng cát. Tương tự Liên Xô, là một xứ nông nghiệp, mà mấy chục năm qua phải nhập cảng lương thực.”
 
Bà chị dâu nhìn ông Tý mà hỏi thêm:
- “Chú nói ở miền Bắc, dân chủ gấp vạn lần các xứ tư bản. Thế thì chú có thể đứng ở lăng Bác Hồ, kêu tên bác ra mà chữi bác ngu hay không?”
 
Ông Tý nhìn mọi người, rồi nói:
- “Tôi có thể làm điều ghê gớm hơn nữa, mà chẳng sợ rắc rối, chẳng ai bắt bớ tôi”
- “Điều gì?”
- “Tôi có thể ra ' ị'  trước lăng Bác, mà không ai làm gì tôi cả. Dân chủ quá đi chứ?”
- “Có thật không?”  Bà chị dâu tròn mắt ngạc nhiên hỏi.
 
Ông Tý cười bí hiểm, nói:
- “Cứ 'ị' mà đừng tuột quần xuống thì thôi. Ai mà bắt bẻ?”
 
Đang ngồi ăn, bỗng nghe tiếng đạn đại bác bắn đì đùng . Bà chị dâu sợ hãi, hỏi ông Tý:
- “Có chuyện chi mà bắn súng dữ vậy? Có gì nguy hiểm không?”
 
Ông Tý giải thích:
- “Đồng chí bí thư thành phố Mát-cơ-va qua thăm, tham quan ngoại giao.”
 
Bà chị nhăn mặt nói:
- “Thế thì không ai bắn giỏi cả hay sao, mà bắn hoài không trúng ông ấy?”
 
Chị ông Tý xen vào câu chuyện:
- ‘Nầy cậu Tý, tôi nghe nói, khi hấp hối, bác Hồ nói với đồng chí Tổng bí thư rằng: “Ta lo lắm, liệu nhân dân có theo anh hay không?”. Đồng chí Tổng bí thư trả lời: “Chắc chắn theo”. Bác hỏi: "Có chắc không, nếu họ không theo thì sao?"  Đồng chí Tổng bí thư trả lời rất rành mạch rằng: “Bác đừng lo.  Họ phải theo tôi, nếu ai không theo tôi, thì tôi cho họ đi theo bác ngay.”  Chuyện nầy có thật hay không?”
 
Ông Tý lắc đầu nói:
- “Những chuyện bí mật của nhà nước như thế, chúng tôi không được quyền biết đến, và không ai được quyền tiết lộ.”
 
Một đứa cháu trai đặt câu hỏi:
- “Thưa chú, chắc chú chưa quên ông Adam là tổ phụ loài người, như đã chép trong Thánh Kinh. Theo chú thì ông Adam là người nước nào?”
- “Chú đã theo đảng cộng sản và bỏ đạo từ lâu. Không còn biết ông Adam là ông nào, và là người xứ nào nữa. Thế thì cháu nghĩ  ông ta là người xứ nào?”
- “Ông ấy là người Liên Xô ạ.”
- “Sao vậy?”
- “Vì ông ấy trần truồng, không có được một cái khố che mông, và trên tay chỉ có một trái táo, mà vẫn tin tưởng là đang sống tại thiên đàng!”
- “Khỉ, khỉ, bọn mầy đã bị Mỹ ngụy đầu độc tư tưởng. Cần phải được đi cải tạo thay đổi tư duy, có cái nhìn đứng đắn hơn về xã hội chủ nghĩa ưu việt. Các cháu có biết không, nước ta đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa.  Chỉ một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ vượt lên, và đi trước cả nước Mỹ nữa”
- “Thưa chú, cháu đề nghị đi ngang nước Mỹ thôi, đừng đi trước họ” 
- “Sao vậy?”
- " Bởi mình mà đi trước, họ thấy cái quần rách nát lòi mông của mình thì kỳ lắm, xấu hổ"
Cả nhà cùng cười vang. Ông Tý cũng cười theo.
 
Một đứa cháu nói:
- “Chú đã nghe chuyện của bác Hai chưa? Bác Hai ra miền Bắc làm việc từ trước khi có chiến tranh. Không có tội gì cả, nhưng bác bị bắt giam. Vị cai tù hỏi bác bị kết án bao nhiêu năm, vì tội danh gì? Bác trả lời là bị kết án mười năm và không có tội danh gì cả. Ông cai tù trợn mắt lên, mắng rằng: "Láo khoét, thường thường, không có tội gì cả, thì chỉ bị kết án có bốn năm mà thôi."  Vợ bác ở nhà, gởi thơ vào trại tù than thở là không có ai xới đất làm vườn để trồng khoai. Bác gởi một thơ ngắn về nhà, ghi: “Chôn ở trong vườn”. Tuần sau, vợ bác gởi thơ lên, đại ý nói công an đã xới, đào khắp vườn, không bỏ sót một tấc đất nào cả. Bác gởi thơ về rằng: "Vườn đã được xới xong, chờ chi nữa mà không trồng trọt."
 
Ông Tý gắt lên:
- “Toàn cả chuyện bố láo. Nhưng chuyện sau đây, thì có thật. Có một anh cán bộ sở tôi, chạy gấp về nhà, thấy bà vợ đang nằm trên giường với một người đàn ông lạ. Anh gào lên rằng, bà chẳng được cái tích sự gì cả, giờ nầy mà còn nằm đó. Bà có biết trên cửa hàng lương thực đang bán khoai mì, chỉ còn lại mấy chục kí. Không chạy mau lên thì người ta mua hết bây giờ.”
 
Bà chị ông Tý nói:
- Khi bác Hồ mất, cậu biết chuyện gì xẫy ra không?”
- “Không. Chuyện gì thế ?”
- “Hôm ấy chú Huy trực . Có người kêu điện thoại vào xin được nói chuyện với Bác. Chú bảo bác đã qua đời. Một lúc sau, người ấy kêu  điện thoại lại và  được trả lời như cũ. Người đó kêu thêm hai ba lần nữa. Bực quá, chú Huy gắt lên: “Tôi đã nói, Bác chết rồi. Ông không nghe, không hiểu sao?" Bên kia đáp rằng: “Tôi nghe 'đã' cái lỗ tai quá, nên kêu đi kêu lại nghe thêm cho sướng tai”. Thế thì chú Huy chưa kể chuyện nầy cho nghe sao?”
 
Khi bữa cơm gần tàn. Ông Tý nói với các cháu:
- “Các con phải tích cực phấn đấu để sau nay được vào đoàn, vào đảng. May ra mới ngóc đầu lên được.”
- “Vâng, chúng cháu sẽ đi khám bệnh thần kinh trước. Đứa nào bị bệnh nặng, sẽ xin gia nhập đảng. Người ta kể rằng, khi gặp khó khăn, chính trị bộ bên Liên Xô cho người ngồi đồng, gọi hồn ông Các-Mác lên để vấn kế. Khi nhập đồng, thì hồn khóc rũ rượi.Hồn chỉ nói một câu, là cho gởi lời xin lỗi đến toàn thể nhân dân lao động khắp các xứ xã hội chủ nghĩa trên thế giới?”
 
Một người bà con hỏi, trong xã hội chủ nghĩa, thiên  hạ có thích chuyện tiếu lâm hay không? Ông Tý thành thực trả lời:
- “Nhiều người kể chuyện tiếu lâm, châm biếm mà bị tù đông lắm. Lần nọ, tôi gặp một anh chánh án nhân dân, đi ra khỏi tòa và cười rũ rượi, cười chảy nước mắt. Tôi hỏi sao vậy? Anh nói là vừa nghe một chuyện khôi hài tuyệt vời. Tôi yêu cầu anh kể lại.Anh quắc mắt lên hỏi tôi đã điên chưa mà yêu cầu anh kể. Vì người  kể câu chuyện đó, vừa bị anh kết án mười năm tù lao động khổ sai.”
 
Một bà hỏi ông Tý:
- “Có phải trong xã hội chủ nghĩa, thời gian qua mau hơn trong tư bản chủ nghĩa không?”
- “Chị muốn nói gì?”
- " Tôi đọc, thấy báo cáo của các hợp tác xã nông nghiệp, họ đạt thành tích thi đua, khoai sắn chỉ trồng qua đêm là đã gặt hái được.Thế nghĩa là sao? Làm được phép tiên sao?”
 
Ông Tý gật gù:
- “Báo cáo thành tích thì phải làm vậy. Không ai làm khác cả. Đó là cách khôn ngoan nhất để sống còn. Cấp trên họ cũng biết sự thực ra sao, nhưng họ lại muốn được thấy những báo cáo đó mà thôi”
 
Bà chị ông Tý lắc đầu bực mình nói:
- " Cậu bảo rằng xã hội cộng sản đã làm được những  điều tốt đẹp cho con người. Tốt đẹp ở đâu, cậu cho tôi xem vài thí dụ đi.”
 
Ông Tý bóp trán rồi trả lời:
- “Ví dụ như chị Năm Lài, trước kia mù chữ, đi chân đất, chuyên nghề chữi mướn, đánh ghen thuê. Bây giờ là chủ tịch hội phụ nữ yêu nước. Anh Tám Râu, thất học, nghèo không có quần xà lỏn mà mang, bây giờ đã có dép râu đi, và làm trưởng ban tuyên huấn giáo dục huyện. Và đồng chí Mười Búa , trước đây đâm thuê chém mướn ở bến xe, làm nghề hoạn heo, ai thấy cũng khinh bỉ, nhỗ nước bọt. Nay đã là một thành viên trong Bộ Chính Trị. Đó, cái siêu việt của xã hội chủ nghĩa, chị thấy chưa?”
 
Bà chị ông Tý nheo mắt nhìn kỹ, và hỏi ông:
- “Nầy, cậu bị thương tích trong trận đánh nào, mà bây giờ cái đầu cậu cứ gật gật mãi, và tay cậu cứ đưa lên, đưa xuống hoài vậy?” 
 
Ông Tý cười bẻn lẻn thú nhận:
- “Tôi làm đại biểu nhân dân ở quốc hội. Cứ gật đầu và dong tay nhất trí hoài nên thành tật, nay không thế nào chữa khỏi được.”
 
Bà chị hỏi:
- “Tại sao cậu lại binh vực và kính mến và thương yêu lão Ba Dừa? Lão đánh đập vợ mỗi ngày, tống cổ mẹ  ra đường, lấy trộm tài sản nhà nước, chơi cờ gian bạc lận, hiếp dâm con bé bán vé số. Có gì mà cậu binh vực hắn thế?”
- “ Dù gì đi nữa, đồng chí Ba Dừa cũng là một người cộng sản chân chính, nên tôi binh vực và kính trọng.”
 
Một giọng con gái rụt rè hỏi:
- “Nghe nói ở bên Liên Xô vĩ đại hàng năm có thi đua kể chuyện tiếu lâm phải không?”
- “Có. Người kể chuyện hay nhất, được lảnh giải 20 năm đi đày, người lảnh giải nhì được 15 năm, người lảnh giải an ủi được 10 năm. Tất cả đều được đi lao động khổ sai bên  Silberia.”
 
Đứa cháu cười và hỏi:
- “Theo chú, thì ai là người theo, ai là người chống cộng sản?”
- Người theo cộng sản là người cố tình như  “tin” vào Mác và Lê-Nin. Người chống lại cộng sản, là người “hiểu” rõ Mác và Lê-Nin.”
 
Buổi cơm đoàn tụ đã chấm dứt từ lâu, ông Tý cáo từ ra về. Ra  khỏi cửa nhà, ông lẩm bẩm:
- “Toàn cả một lũ cực kỳ phản động. Ông mà báo cáo, thì cả bọn đi tù cải tạo mục xương, mút mùa."
 
Tràm Ca Mâu
Mùa đông năm 2005
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.12.2014 15:39:17 bởi thiên thanh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 30.12.2014 01:08:23
0
 
6 năm nữa Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Trung Cộng?
T2, 12/29/2014 - 16:23 Tổ chức thông tin Wikileaks đã công bố một tài liệu mật của đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam gửi chính phủ Hoa Kỳ, có liên quan đến mối quan hệ bang giao hai nước Việt – Trung.

Wikileaks nói rằng, đây là tài liệu tuyệt mật ghi lại nội dung cuộc họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh, ông Đỗ Mười của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam và hai ông Giang Trạch Dân và Lý Bằng là các nhà lãnh đạo cao cấp của Trung Cộng hồi đầu tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô, mà dư luận thường gọi là “hội nghị Thành Đô.”
Theo tài liệu tuyệt mật này, đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị chính quyền Trung Cộng cho Việt Nam hưởng quy chế tự trị trực thuộc chính quyền Bắc Kinh cũng như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… để nhằm “bảo đảm sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam”.
Cũng theo tài liệu này, phía Trung Cộng đã đồng ý để cho Việt Nam thực hiện các bước cần thiết để “gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa” trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2020. Vậy là chỉ còn 6 năm nữa đến khi Việt Nam sẽ thực sự trở thành một tỉnh của Trung Cộng, theo như tài liệi này cho biết. 
Thông tin mà Wikileaks tiết độ đã có từ năm 2010; và năm 2014 đã được hâm nóng trở lại; sau sự kiện giàn khoan HD-981 của Trung Cộng xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Từ khi được lan truyền trên mạng internet, thông tin này đã gây ra bất ngờ, tò mò, sự ngờ vực, theo sau đó là chỉ trích và căm phẫn CSVN “bán nước” trong người dân.
Những thông tin trên đây chưa có sự kiểm chứng là chính xác hay không. Bởi phía Trung Cộng và chính quyền CSVN chưa bao giờ hé lộ thông tin chi tiết về hội đàm Thành Đô năm 1990. Tuy nhiên, dựa vào những gì thực tiễn xảy ra tại Việt Nam có liên quan tới Trung Cộng, nhiều người cho rằng cho rằng những thông tin mà Wikileaks tiết lộ có thể là đúng sự thực.
Lại có một nhóm khác đưa ra quan điểm rằng: CSVN không dám làm chuyện “kinh thiên động địa” – “bán” cả đất nước như vậy. Trong hội đàm Thành Đô năm 1990, CSVN có thể chỉ đã chấp thuận những điểm bất lợi, chịu sự lệ thuộc lâu dài của Trung Cộng.
Để làm rõ thực hư vấn đề này, phong trào “Tôi/Chúng tôi muốn biết” đã được Mạng lưới blogger Việt Nam khởi xướng. Mục tiêu của phong trào này là gửi tới Quốc hội CSVN lá thư “Yêu cầu bạch hóa Hội nghị Thành Đô năm 1990”, nhằm công khai toàn văn hội nghị này, chứng minh CSVN có thực sự “bán nước” hay không cho toàn thể người dân được hay biết.
Tuy nhiên, yêu cầu này của phong trào “Tôi/Chúng tôi muốn biết” không được CSVN đáp ứng. Trái lại, chính quyền tung ra một lượng lớn công an, mật vụ ngăn cản người dân tới Quốc hội trao thư yêu cầu vào trung tuần tháng 10 vừa qua. Bên cạnh đó, CSVN cho các “dư luận viên”, “thợ viết báo” đưa ra những bài viết, luận điệu tuyên truyền, bôi xấu phong trào “Tôi/Chúng tôi muốn biết” và những người tham gia là “có dụng ý xấu, phá hoại đất nước, bị các thế lực thù địch, phản động giật dây, xúi dục” …
Thời đại này là thời đại thông tin, không còn chế độ phong kiến lạc hậu. Người dân đã đủ sức để nhận xét thực tế, không còn bị che mắt bởi những luận điệu tuyên truyền xưa cũ. Bất kể chuyện “bán nước” của CSVN có thực hay không, hội nghị Thành Đô năm 1990 cuối cùng cũng phải được minh bạch. Vấn đề là sớm hay muộn.
Năm 2024 sẽ tròn 50 năm Hoàng Sa bị Trung Cộng xâm chiếm. Chúng ta muốn giành lại Hoàng Sa, chúng ta phải khởi kiện và gạt bỏ những trở ngại đang hiện hữu cho việc đó. Do vậy, việc bạch hóa Hội nghị Thành Đô năm 1990 hết sức quan trọng. Bởi từ đó, tính chính danh của đảng cộng sản trên đất nước Việt Nam sẽ được quyết định. Người dân cần phải đối xử với đảng cộng sản ra sao, ứng phó với Trung Cộng thế nào, nhằm bảo vệ chủ quyền của quốc gia.
Trong phiên họp cuối năm mới đây, Bộ trưởng Công an CSVN đã chỉ đạo “kiểm soát việc tung các tài liệu không đúng sự thật về các đồng chí lãnh đạo trên mạng, gây chia rẽ nội bộ, nhất là trước thời điểm đại hội đảng” – trong đó chắc hẳn sẽ bao gồm những thông tin về Hội nghị Thành Đô 1990.
Nếu CSVN không làm điều gì khuất tất, có tội với đất nước, với người dân, tại sao lại phải sợ chuyện bạch hóa đó ?! Hơn nữa, CSVN nhận mình là “công bộc”, người dân là “chủ nhân” của đất nước, vậy tại sao “công bộc” không cho chủ nhân biết công bộc đã làm gì ?! CSVN càng giấu diếm, thì người dân càng có căn cứ và cơ sở để tin cái chuyện “kinh thiên động địa” kia là sự thực!
Nhật Nam / SBTN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.12.2014 02:29:01 bởi Phù vân >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 30.12.2014 10:17:15
0
NHỮNG LỜI CUỐI CHO MỘT NĂM CŨ


Nguyễn Thị Từ Huy
Còn vài ngày nữa năm 2014 sẽ qua đi.
Ở Việt Nam nó sẽ qua đi và để lại rất nhiều đau đớn.
Năm 2014 để lại rất nhiều người trung thực và can đảm ở trong tù. Nó cũng để lại những người lương thiện đang trong nguy cơ bị tòa án lấy mạng sống để thế cho những kẻ có tội thực sự. Nó để lại bao nhiêu người dân lương thiện bị đánh chết ở cái nơi mà lẽ ra họ phải được bảo vệ, bởi những người sống bằng tiền thuế của họ và lẽ ra phải bảo vệ họ. Nó để lại những người phụ nữ quả cảm đang tuyệt thực đòi công lý. Nó để lại cả một xã hội trong tình trạng chấn thương tinh thần tập thể triền miên : oan ức nối tiếp oan ức, bất công nối tiếp bất công, mất mát nối tiếp mất mát, xót xa nối tiếp xót xa, phẫn nộ nối tiếp phẫn nộ. Ngay giữa thời bình mà hầu như chẳng có ngày nào được yên.
Năm 2014 còn để lại nguy cơ nô lệ cho cả một dân tộc.
Những ngày cuối năm dồn dập hung tin. Tôi không đủ năng lượng, không đủ thời gian, không đủ sự vững vàng tinh thần để đề cập đến tất cả các sự kiện. Xin nhường lại cho những người khác vụ việc những người tử tù oan, những người đang tuyệt thực, những cựu tù nhân lương tâm và những người hoạt động nhân quyền vô cớ bị đánh đập, và những vụ việc khác. Ở đây tôi dành vài lời cuối cùng của năm để nói về sự vụ bắt bớ các bloggers.
Đã có nhiều bài viết nhằm giải đáp câu hỏi vì sao các bloggers bị bắt. Trong bài này tôi đặt ra một câu hỏi khác : « Ai làm cho các bloggers bị bắt ? »
Câu trả lời tưởng như dễ dàng và đơn nhất : chính các bloggers bằng hành động làm blog đã tự dẫn mình đến chỗ bị bắt giam và phải vào tù.
Nhưng tôi cho rằng câu trả lời không đơn giản như thế.
Còn một câu trả lời khác : Chúng ta làm cho họ phải vào tù.
« Chúng ta » là ai ? Theo tôi, trong chữ « chúng ta » này có hai đối tượng (chữ « đối tượng » ở đây không được hiểu theo nghĩa mà công an thường dùng) : các tác giả có bài được giới thiệu và các độc giả của những bloggers ấy.
Ta hãy lấy trường hợp Bọ Lập làm ví dụ : blog Quê Choa chủ yếu đăng lại các bài viết đã đăng ở nơi khác, hoặc đăng bài của những người khác gửi đến Quê Choa, Bọ Lập viết blog rất ít và hầu như không viết về đề tài chính trị. Vậy không thể nói rằng Bọ Lập bị bắt vì các bài viết của Bọ Lập.
Bọ Lập bị bắt vì giới thiệu bài viết của những người khác. Chính các tác giả viết bài (trong có tôi) đã làm cho Bọ Lập phải vào tù.
Mặt khác, để biết ai là người làm cho Bọ Lập vào tù ta phải trả lời thêm câu hỏi này : nếu Quê Choa đăng bài nhưng không có độc giả hoặc ít độc giả thì chủ nhân của Quê Choa có bị bắt không ? Câu trả lời chắc chắn là « không ». Nếu blog không có độc giả hoặc ít độc giả thì chính quyền đâu cần bận tâm.
Chính là con số hàng trăm triệu lượt truy cập của Blog Quê Choa đã khiến cho chính quyền bất chấp hết cả luật pháp lẫn đạo lý để đưa con người tàn tật ốm đau ấy vào nhà giam.
Chính sự yêu mến mà độc giả dành cho Quê Choa đã làm cho Bọ Lập phải vào tù.
Việc bắt Hồng Lê Thọ hoàn toàn nằm trong logic này. Nguyễn Hữu Vinh tuy có viết bài, có bày tỏ chính kiến một cách rõ ràng, nhưng cũng không đi ra ngoài logic này, bởi trang Ba Sàm cũng giới thiệu tin và đăng lại bài của người khác, cũng có số lượt độc giả truy cập rất lớn.
Sự lan tỏa của các blog là điều mà các chính quyền dân chủ rất ủng hộ, cổ vũ, nhưng đó lại là điều mà một chính quyền độc tài không chịu đựng nổi. Và blog chỉ có thể lan tỏa được khi có sự quan tâm của độc giả.
Chúng ta, các tác giả và độc giả của blog Ba Sàm, blog Trương Duy Nhất, blog Quê Choa, blog Người Lót Gạch…, chúng ta đừng quên rằng chính chúng ta đã đẩy Nguyễn Hữu Vinh, Trương Duy Nhất, Nguyễn Quang Lập, Hồng Lê Thọ và những bloggers khác vào tù.
Chỉ còn lại là chúng ta có định làm gì cho họ không mà thôi. Một chữ ký, một bông hồng, một bài viết, đăng lại một bài của họ, nói lên một suy nghĩ về họ, tiếp tục công việc dang dở của họ (lập ra một blog khác, nếu không phải Quê Choa thì là Quê Tôi hay Quê Ta…, nếu không phải Người Lót Gạch thì là Người Lót Đường…), hay bất kỳ một hành động cá nhân hoặc hành động tập thể nào khác, để thể hiện chút tình đối với họ.
Việc các bloggers phải vào tù đặt chúng ta trước hai sự thật mà chúng ta phải đối diện: sự thật về chế độ, và sự thật về chính chúng ta.
Liệu chúng ta có thể im lặng nhìn họ ngồi tù  trong đau yếu bệnh tật?
Liệu chúng ta có thể hoan hỉ say sưa đón năm mới, bỏ mặc họ một mình sau chấn song lạnh lùng tàn nhẫn của chế độ và sau màn sương mù lạnh lẽo vô cảm của chúng ta???
Họ đã làm rất nhiều cho chúng ta.
Họ đã làm rất nhiều và đã vào tù để giữ cho chúng ta niềm hy vọng, để cho chúng ta còn có thể tự hào rằng Việt Nam vẫn có những con người đích thực.
Họ vào tù để chúng ta được sống trong sự thật.
Họ dùng chính cuộc sống của họ để trả giá cho tự do của chúng ta.
Chúng ta đừng quên điều đó. Đừng để sự hy sinh của họ thành ra vô ích.
Chúng ta cần giữ ngọn lửa mà họ đã nhen nhóm và nuôi dưỡng suốt những năm qua, thổi bùng nó lên trong bóng đêm đen tối và lạnh giá này để tiếp tục đi về phía bình minh…
Paris, 27/12/2014
Nguyễn Thị Từ Huy



dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 31.12.2014 22:32:02
0
CIA - NỖI NHỤC CỦA " ĐỒNG MINH " HOA KỲ

40 năm sau 30 tháng 4, 1975, lật lại hồ sơ Thái Khắc Chuyên: Điệp Viên Hà Nội?

Cuộc chiến Việt Nam gây nên nhiều thảm cảnh gia đình. Gia đình Thái Khắc Chuyên là một và đặc biệt. Đêm 20/6/1969, ba lính mũ xanh Mỹ đẩy một ghe máy ra biển từ đảo Hòn Tre, Nha Trang trên có xác một người đàn ông Việt bọc trong áo mưa “poncho’’ quấn nhiều lớp xích sắt dầy cột vào hai niềng xe vận tải.

 Thân xác anh ta đã nằm sâu dưới đáy biển Đông nhưng tên nạn nhân trở nên nổi tiếng: Thái Khắc Chuyên, điệp viên nhị, tam, tứ trùng?
 
Thái Khắc Chuyên sinh năm 1938 tại Bắc Việt Nam. Cha là Thái Khắc Qui, mẹ Thái Thị Lục. Năm 1954 gia đình di cư vào Nam Việt theo HĐ Genève bằng tàu Mirabelle từ Hải Phòng cập bến Saigon lúc Chuyên 16 tuổi. Ba anh trai và hai chị em gái còn ở lại Bắc VN. Mẹ lo ngại các anh bị đi bộ đội nên đã liều lĩnh trở về Bắc nhưng bị bắt tại sông Bến Hải. Gia đình sau đó dời lên Đà Lạt rồi người cha xin được việc làm cho chính phủ VNCH. Chuyên làm cho một nhà thuốc tây do anh trai làm chủ nhưng sau vào Saigon đi học.
 
Chuyên di chuyển chỗ ở nhiều lần giữa Đà Lạt và Saigon khiến việc học không liên tục nên thi Tú Tài nhiều lần vẫn không đậu. Khi quân đội Mỹ vào Việt Nam, Chuyên làm cho hãng thầu RMK-BRJ của Mỹ được ba tháng thì bỏ đi làm thông ngôn lương cao hơn cho Green Berets, một binh chủng chuyên về tình báo của quân đội Mỹ đóng ở căn cứ Ashau, Đà Nẵng. Khi chiến cuộc tăng phần khốc liệt, Chuyên bỏ job để tránh nguy hiểm vì ba hôm sau đó căn cứ Ashau thất thủ vào tay VC. Sự trùng hợp này và nhiều sự kiện tương tự sau đó khiến người ta nghi Chuyên là gián điệp cho Hà Nội; hay ít nhất cũng để trốn quân dịch khi có lệnh tổng động viên năm 1968.
 
Tính đến ngày 6/5/1961, TT Kennedy đã gởi 400 lính mũ xanh sang VN để đối phó với VC sau khi MTGPMN ra đời và gia tăng hoạt động khủng bố. Đến ngày Kennedy chết, quân số này đã lên tới 12,000. TT Johnson kế nhiệm đã gởi nhiều sư đoàn bộ binh Mỹ để Mỹ hóa cuộc chiến theo kế hoạch vốn đã bị cố TT Diệm phản đối (gây nên cái chết thảm cho ông và bào đệ trong cuộc đảo chánh người Mỹ tổ chức ngày 1/11/1963). Trong số đó có đơn vị tình báo số 5 mang tên B57, bí danh Project Gamma mà Chuyên làm thông ngôn, một thông ngôn quèn không ngạch trật.
 
Do năng khiếu đặc biệt về Anh ngữ, nói tiếng lóng thành thạo như lính Mỹ nên Chuyên dễ kiếm được chân thông ngôn trước đó cho Civil Affairs, một cơ quan dân sự phụ trách về bình định và gián điệp, đóng ở Mộc Hóa, Tây Ninh. Chuyên hoạt bát, chăm chỉ, hăng say, đúng giờ; thậm chí làm việc ngoài giờ và cả ban đêm. Chuyên thẳng thắn; nói chuyện luôn nhìn thẳng vào mắt người đối thoại; chứng tỏ sự trung thực. Chuyên cũng là người ái quốc vì cha theo kháng chiến chống Pháp nhưng đã bỏ về thành làm việc cho quốc gia khi phát hiện bộ mặt thật của Việt Minh và gia đình ông đã theo giáo dân xứ đạo của mình di cư vào Nam lánh nạn Cộng-sản. Những thành viên còn lại trong gia đình còn kẹt lại vì đi không kịp hoặc bị cản trở. Đúng là ‘’chữ tài liền với chữ tai’’ vì tình báo Mỹ đặt câu hỏi: - Khả năng Anh ngữ giỏi của Chuyên sao không ở Saigon dạy học hay làm việc cho quân đội Mỹ ở các thành thị an toàn mà lại đi làm ở Mộc Hóa, một căn cứ địa mạnh của MTGPMN và các căn cứ sôi động khác? Cũng như tại Mỹ, có giỏi mà không bằng cấp thì trường nào mướn?
 
Đơn vị Mũ Xanh K57 có BCH đóng tại Nha Trang. Tổ trưởng trực tiếp đơn vị 142 của Chuyên là Trung-sĩ Alvin Smith, bí danh ‘’Sands’’, người mến mộ Chuyên, giới thiệu Chuyên cho CIA và cũng là người đã tạo ra đầu mối gây cái chết bi thảm cho anh sau này. Khi được nhận làm cho CIA, Chuyên có ám số SF7-166 và nhiệm vụ đi sâu vào đất Kampuchia thám sát và thâu thập tin tình báo cũng như tuyển điệp viên người bản xứ. Cấp trên của Smith là đại úy trẻ tên Bob Marasco, người thường chê các báo cáo của tổ 142 là vô dụng, và cũng là người sau này kê nòng súng hãm thanh vào đầu Chuyên đưa xác anh vào lòng đại dương. Marasco trả Chuyên về Civil Affairs và trả Smith về BCH ở Nha Trang.
 
Tại Nha Trang, Alvin Smith phát hiện một ảnh đen trắng tịch thu từ xác một VC trong một trận đánh hồi đầu năm 1969; trong đó có một cán binh CSBV, đội lốt VC mặc bà ba đen đội nón tai bèo đứng cạnh một sĩ quan VC cấp cao; mà mặt trông giống Chuyên (khả năng nhận diện người châu Á, nhất là về tuổi tác, của chuyên viên người phương Tây không chính xác; cán binh VC trong ảnh răng hô còn Chuyên thì không). Chuyên viên Budge Williams của B57 cũng không đoan chắc Chuyên là người trong ảnh. Khi đối chiếu ảnh của Chuyên trong đơn xin việc thì cũng không chắc đúng sai; mà hồ sơ lý lịch của Chuyên không hề có ghi chú gì về tất cả các công tác đã làm từ ngày gia nhập đến nay. Điều này khiến B57 nghi có gián điệp địch ngay tại các cơ quan hành chánh Việt-Mỹ quản lý hồ sơ của Chuyên! Cựu chỉ huy trưởng B57 là Bob Thrasher thì phân tích rằng lỗ tai của cán binh trong phim không giống của Chuyên; nhưng biết đâu tại bóng đen do chiếc nón tai bèo tạo sai biệt?! Thrasher đề nghị điều tra thêm rồi mãn nhiệm về nước. 
 
Trong nhiệm kỳ hai ở VN, Lee Brumley điều tra về Chuyên từ ngày 9/6/1969. Ông ta nghi Chuyên là điệp viên tam trùng Mỹ-BV-VNCH vì các điệp viên người Việt khác ở Tây Ninh và Kampuchia khai có một điệp viên cộng sản hoạt động trong vùng; có vợ ở Mộc Hóa (?); mà Chuyên đang làm ở tận thung lũng Ashau ngoài Trung lại bỏ về Tây Ninh cho gần vợ con lúc đó đã dời về đấy sinh sống! Hơn nữa trong một cuộc hành quân mà Chuyên được báo cho biết trước, VC đã phục kích thành công toán trinh sát của tổ. Brumley chờ ở Nha Trang suốt ba tuần không thấy hồi âm nên liền đánh điện về Saigon yêu cầu BCH của CIA trên lầu tòa đại sứ Mỹ gởi gấp chi tiết lý lịch mới nhất của Chuyên cho B57 ở Nha Trang; chỉ dùng đả tự viên người Mỹ để bảo mật! Tr/sĩ Smith thì chỉ biết chi tiết Chuyên có ba anh trai còn kẹt ở BV. 
 
Khi họ tìm Chuyên để gởi về Saigon điều tra bằng máy dò sự thật thì Chuyên đã bỏ Civil Affairs đi đâu mất. Hai chuyên viên CIA là Enking và Scrymgeour đi lùng kiếm Chuyên và định nhốt ở Okinawa hoặc Panama, hai nơi duy nhất mà CIA có nhà tù, để điều tra. Nhưng hai nơi đó xa; di chuyển rất tốn kém; mà nhà tù của đồng minh VNCH thì CIA lại không tin tưởng! Cuối cùng Smith cũng tìm ra nhà Chuyên số 53/1/46 đường Phan Thanh Giản Saigon. Smith dụ khéo để bắt Chuyên bằng lời hứa hẹn có job thơm mới, phỏng vấn sáng hôm sau 9 giờ. Thủ tục có điền đơn chi tiết hơn và khai với máy dò sự thật mang từ Nha Trang vào Saigon.
 
Đúng 10 giờ sáng ngày 12/6/1969, Chuyên ăn mặc chỉnh tề và lạc quan tin tưởng; đến điểm hẹn gặp Ed Boyle. B57 phải dùng thông ngôn của đơn vị tên Tạ Xuân Cường, bí danh Joel cho chắc chắn vì đã hết tin Chuyên. Trong cuộc thẩm vấn an ninh, chứ không phải phỏng vấn việc làm như đương sự lầm tưởng, Chuyên khai đã bỏ Ashau và các nơi khác như núi Cô Tô-Cần Thơ, Mộc Hóa-Tây Ninh vì sợ bom đạn. Năm 1966, Th.tá McBride của đơn vị 5-2 giới thiệu Chuyên làm việc cho ‘’Huỳnh Sơn’’ và sau đó được ‘’Ginger’’ ở sư đoàn 25BB kết nạp vào CIA. Nhưng Boyle biết Chuyên đã không chính thức được CIA nhận mà chỉ làm cho tình báo Mũ Xanh và Civil Affairs suốt sáu năm qua mà lý lịch vẫn trống trơn không ghi thành tích nào!
 
Sau một ngày dài thẩm vấn, Chuyên mệt mỏi và đòi về nhà nghỉ. Cotton, Smith và Joel đưa Chuyên về lúc 7:30 tối. Trên xe, Chuyên than phiền nhiều câu hỏi thù nghịch, thái độ hỏi nghi kỵ và máy móc giây nhợ rườm rà làm anh ta sợ sệt. Cha mẹ vợ có mặt ở nhà Chuyên nhìn người Mỹ một cách lo lắng. Có mặt cả em dâu là Lâm Hoàng Oanh tại nhà lúc đó. Chuyên phải trở lại cuộc thẩm vấn lúc 8 giờ tối với nhập đề trắng trợn hơn: - Anh có làm gián điệp cho Hà Nội không? Vợ và em dâu lo quá đã đến nơi thẩm vấn xin gởi Chuyên mảnh giấy tỏ ý lo ngại cho Chuyên. Chuyên được hai vệ sĩ người Nùng hộ tống về nhà đêm đó, đêm cuối cùng với vợ con.
 
Sáng hôm sau cuộc thẩm vấn tiếp tục. Máy dò sự thật báo kết quả là nói dối. Boyle nghi Chuyên (và cả vợ Chuyên cũng nên) là điệp viên CSBV và ra lệnh cho phụ tá Cotton tìm bác sĩ chích các loại thuốc như Saline, Thorazine, Sodium Pentathol qua tĩnh mạch của nạn nhân. B57 quyết định chở Chuyên về BCH ở Nha Trang để điều tra tiếp. Chuyên bị bịt mắt và ngủ vùi vì thuốc trong áo mưa “poncho’’, bị quẳng vào cốp xe tải chở ra phi trường TSN hôm thứ sáu 13/6/1969 (Thứ Sáu 13 là ngày xui xẻo theo người phương Tây: Chúa Tử Nạn - và TKC sắp tử vong!) với tài xế và ba lính Mũ Xanh trang bị tiểu liên. Họ lên kế hoạch sẵn sàng ứng chiến nếu bị nhân viên chính phủ VNCH tại TSN khám xét và bắt giữ. Tại TSN, một máy bay bí mật chờ sẵn. Cùng lúc đó, một Honda hai bánh bí mật ghé nhà vợ số 38 Phan Thanh Giản; đưa cho vợ Chuyên, Phan Kim Liên mảnh giấy từ biệt viết ngắn gọn vội vã: “Em và các con thân yêu, anh phải vắng mặt vài ngày vì công vụ. Đừng lo lắng! Anh chúc cả nhà vui khỏe! Hôn em...’’ Liên đọc lời chúc lạ thường “vui khỏe” chưa từng có của chồng mà lo sợ ra mặt. Linh tính báo trước một điềm chẳng lành đã tới!
 
Cuộc thẩm vấn tại BCH B57 ở Nha Trang tiếp tục từ 4g sáng hôm sau 14/6 với Brumley xoay quanh các điệp viên người Việt khác cho đến khi Chuyên ngủ vùi vì quá mệt và vì thuốc. Hôm sau Chuyên lại bị thẩm vấn từ 8g sáng suốt ngày, xoay quanh tấm ảnh cán binh VC, nghi vấn về vợ Chuyên và người đàn bà, vợ điệp viên CS nào đó ở Mộc Hóa, về đại úy Phan, đại úy Nguyễn Chiêu, về kế hoạch C&C (tình báo chiến lược của MACV), về Thu Linh hay Thu Ninh nào đó ..vv.. Khi Brumley nghỉ, Boyle tiếp tục thẩm vấn nạn nhân với sự giám định y khoa tâm thần thường trực của Bs. Allison. Boyle xoay quanh thời kỳ Chuyên ở Vũng Tàu và điệp viên Huỳnh nào đó. Khi Boyle nghỉ, Brumley lại tiếp tục quay lại đề tài các anh của nạn nhân ở BV và em dâu tên Lâm Hoàng Oanh.
 
Bốn giờ chiều 17/6 sau sáu ngày thẩm vấn liên tục với máy dò sự thật và thuốc Sodium Pentathol, Chuyên nổi giận theo tính nóng cố hữu của nạn nhân, bất hợp tác với điều tra viên và chửi rủa ‘’bọn Mỹ chúng mày ngu ngốc, không hiểu gì về Việt Nam’’, rằng “Mỹ sẽ thua trận’’...vv.. Máy dò sự thật thì báo kết quả Chuyên nói dối về chỗ ở năm 1964 và về việc Chuyên tiếp xúc với anh trai ngoài BV. Đây cũng là ngày thẩm vấn cuối cùng vì nạn nhân không còn muốn hợp tác. Số phận của Chuyên đã được định đoạt: Chỉ còn là cách thức thủ tiêu vì CIA không có nhà tù ở VN mà hai nhà tù kia của CIA thì quá xa; vả lại nhà tù của “đồng minh” VNCH thì không đáng tin cậy; chưa kể đồng minh này có thể sẽ khai thác tin tình báo của Mỹ từ Chuyên!
 
Th. tá Crew và Đ.úy Brumley gởi báo cáo cho Saigon và xin gặp đơn vị trưởng của họ là Đ. tá Bob Rheault để xin chỉ thị. Crew đề xuất nhiều cách giải quyết và nhấn mạnh rằng Chuyên là một tù nhân nguy hiểm vì Chuyên biết quá nhiều chi tiết về các mục tiêu hoạt động, nhân sự cũng như hệ thống trên-dưới, ngang-dọc của hệ thống tình báo Mỹ ở VN. Phụ tá Facey đề nghị đặt một thùng Conex nhốt Chuyên cho đến khi chiến tranh kết thúc nhưng không chắc thực hiện được và cần xin MACV chấp thuận. Người khác đề nghị thủ tiêu Chuyên trong rừng rậm hoặc chở sang nhờ Đài Loan giết, hoặc đạp Chuyên xuống biển từ máy bay trên cao độ, thủ tiêu bằng dao, chích thuốc độc hoặc thắt cổ nạn nhân ..vv..
 
Qua những hành động tự phát kiêu căng đầy tính kỳ thị của các cá nhân, đơn vị quân đội hay các chính trị gia Mỹ tại VN, chính nghĩa Tự Do, Dân Chủ đã bị lu mờ trước sự tuyên truyền tinh xảo và khéo léo của đối phương Cộng-sản. Thật có, giả có! Chẳng hạn: Nhiều lính của SOG đã đấu láo rằng muốn thắng cuộc chiến VN chỉ cần thực thi ba bước: gom hết người Việt thảy xuống tàu thủy, rào biên giới VN lại, rồi đánh đắm tàu thủy ấy là xong! Tại VN, Tướng Patton III, con của Tướng George Patton tốc chiến tốc thắng hồi thời Thế Chiến 2, nổi tiếng luôn để một sọ đầu lâu VC trên bàn giấy của mình! Số phận của các nguyên thủ quốc gia như Magsaysay, Pak Chung Hy, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm đã bị các chính trị gia non nớt ngây ngô, các đại sứ hống hách và các đao phủ hiếu sát CIA của Mỹ định đoạt; bất kể khát vọng chính trị và lòng tôn kính của nhân dân các nước liên hệ đối với quốc gia và lãnh tụ của họ. Sự xâm phạm thô bạo chủ quyền các “đồng minh’’ là nhược điểm mà các chính phủ Mỹ chưa bao giờ chịu học hỏi và từ bỏ. Việc đối xử với các nghi phạm ở nhà tù Abu Ghraib tại Iraq năm 2003 sau này đã chứng minh điều đó. Trong việc thủ tiêu Chuyên, B57 và CIA đã tự ý quyết định số phận công dân một nước đồng minh, dù là tư chức của QĐ Mỹ hay của các hãng xưởng Mỹ ở VN, mà không hề tham khảo ý kiến; thậm chí còn giấu diếm chính phủ nước sở tại! Trong khi đó người Mỹ lại ngây thơ đối xử với các tên khủng bố Hồi giáo cực kỳ nguy hiểm bị nhốt ở Guatanamo bằng qui chế hiệp định Genève nhân đạo, mặc dù chúng chẳng phải tù binh có quân phục, cấp bậc, số quân như luật định! 
 
Nhu cầu thủ tiêu Chuyên càng cấp bách hơn khi nạn nhân ngày càng la hét, đập phá tường để mong thoát thân. Đơn vị QLVNCH đóng cạnh đó cũng không hề hay biết hoặc không được can thiệp. Đơn vị trưởng K57 là Đ. tá Bob Rheault thì chấp thuận việc thủ tiêu nhưng không dám công khai ra lệnh sợ liên lụy rắc rối cho giấc mơ ngôi sao Chuẩn Tường nằm trên ve áo. CIA ở Saigon và tại địa phương, qua chuyên viên Shackly, thì không công khai ra lệnh sợ rắc rối ngoại giao khi chính phủ VNCH phát giác nội vụ. Mọi người của B57 lại hiểu ngầm rằng sự im lặng suốt 10 ngày của CIA đồng nghĩa với sự chấp thuận, vì CIA có bao giờ nhận hoặc chối những gì họ làm và có bao giờ làm điều gì công khai đâu! 
 
Coi như “đèn xanh” không “cháy” nhưng có ‘’bật’’, tối thứ năm 19/6 lúc 7 giờ, nhóm sĩ quan K57 đưa một ghe máy ra Hòn Tre chờ nạn nhân đem từ Saigon ra. Boyle lái chở Chuyên bằng xe tải ra bờ biển rồi đè nạn nhân xuống lòng ghe, nhét vào poncho. Nạn nhân bị Brumley chích Morphine; bị bịt miệng bằng băng keo và trói thúc ké trước đó. Williams và Marasco phụ với hai người khiêng Chuyên ra ghe. Khi Morphine đã giảm, có tiếng rên rỉ từ trong poncho thì Morphine lại được chích thêm. Dù ghe đã ra xa ngoài khơi nhưng khi tiếng rên vẫn còn vì thuốc mới chích chưa hiệu quả, Brumley vội rút Colt-45 ra nhắm màng tang của Chuyên bóp cò nhưng súng không nổ. Williams và Brumley kéo Chuyên vào giữa ghe, quấn quanh poncho nhiều vòng xích sắt dầy và gắn theo hai niềng xe vận tải cho bảo đảm đủ nặng để xác nạn nhân được thủ tiêu dưới lòng biển an toàn. Họ kê đầu Chuyên lên thành ghe để máu bớt chảy trong lòng ghe; rồi Marasco kê nòng .22 ly có bộ phận hãm thanh vào đầu nạn nhân bóp cò. Nhưng lạ thay, súng lại bị kẹt đạn, có lẽ điều gì oan khiên đã ngăn cản viên đạn. Brumley giúp điều chỉnh cơ bẩm, nhét đạn vào nòng rồi đưa lại cho Marasco bấm cò. Lần này một tiếng kêu tựa vỏ xe xì lốp phát ra từ ống hãm thanh. Máu tươi, mảnh xương sọ và óc nạn nhân bắn tung tóe trên thành ghe, trong ghe và trên quân phục của xạ thủ. Williams và Brumley lăn xác nạn nhân xuống biển để thủ tiêu. Marasco đứng bất động nhìn theo để kiểm chứng. Về lại BCH/K57, họ thấy Smith và Crew nóng lòng ngóng đợi. Crew ra lệnh đốt bỏ quân phục dính máu nạn nhân để phi tang. Brumley và Boyle đem vật dụng cá nhân của Chuyên như bút, đồng hồ, nịt quần ..vv.. đi tận Đồng Hới đốt phi tang.
 
Mọi người xem mật vụ như đã đi vào dĩ vãng, riêng Smith lo âu vì sợ chính mình sẽ là mục tiêu kế tiếp bị cấp trên đem đi thủ tiêu để bảo mật vì chính Smith đã khám phá ra vấn đề ngay từ đầu và không tán thành việc thủ tiêu Chuyên. Smith sợ đến độ không dám ngủ tại phòng của mình mà lén hỏi thủ kho mượn nệm để ngủ mỗi đêm mỗi nơi khác nhau. Smith bị bắt và dẫn độ về Saigon bằng xe từ Nha Trang ngày 1/7/1969. Trong lời khai theo lệnh của hai sĩ quan quân cảnh tư pháp Bourland và Bidwell, Smith khai Đ. tá Rheault có dính líu. Smith bối rối viết tên nạn nhân lúc thì Chuyên, khi thì Khắc, lúc lại Thái, khi lại Chu Yên. Hôm 21/7, Tướng George Marbry phụ tá tình báo thừa lệnh Abrams ra lệnh nhốt tất cả 5 nhân viên can dự gồm Brumley, Boyle, Marasco, Williams, Middleton. Riêng nghi can chính là Đ. tá Rheault thì cố thương thuyết chỉ nhận tội nếu các thừa hành viên được miễn tố; nhưng đã thua lý lẽ của quân cảnh tư pháp Bourland rằng lời khai luôn để dành cho sự thật chứ chẳng để dành cho ai khác! Đ. tá quân cảnh tư pháp Frank Brandenburg đợi Rheault ngoài sân rồi bắt ông ta đưa lên xe.
 
Boyle bị thẩm vấn ngày 12/7 và bị giải về nhà tù Long Bình, nơi có cái tên tắt thật mai mỉa: LBJ (Long Binh Jail) đọc tắt giống Lyndon Baines Johnson! Boyle hốt hoảng xin gặp một tu sĩ, có lẽ với ý định tự tử vì Boyle biết theo luật Quân đội Mỹ, không ai có quyền đơn phương xử tử nghi can. Crew khai nửa chừng rồi thôi và đòi cung cấp luật sư. Marasco tự đánh máy lời khai, nhận tội nhưng không khai Rheault. Middleton vả lả với hai quân cảnh tư pháp khoảng một tiếng đồng hồ rồi bị tống giam. Ken Facey khai chỉ huy trưởng Rheault có ra lệnh giết Chuyên rồi Facey khóc. Trong nhà giam, Brumley giấu lưỡi lam dưới nệm phòng khi cần dùng (cạo râu hay cắt gân máu?). Tr.sĩ Kautson, thủ kho giữ ghe đã hợp tác hoàn toàn với quân cảnh điều tra. Tr.sĩ Wayne Ishimato gốc Nhật đóng vai Chuyên đi Kampuchia để cấp trên làm báo cáo giả rằng Chuyên còn sống và đang công tác bên đó, nay cũng không chối trước tòa án quân sự Long Bình. 
 
Theodore Shackley, chỉ huy CIA ở VN trình sự việc cho đại sứ Bunker xin chỉ thị. Bunker bảo việc này không dính đến ngành ngoại giao và bảo liên lạc Abrams xin ý kiến. Abrams bảo B57 là kế hoạch do CIA tài trợ và điều hành nên quân đội không chịu trách nhiệm. Ông bảo quân đội Mỹ đang bị rắc rối vụ Mỹ Lai chưa đủ hay sao còn ôm thêm chuyện này?! Shackley tuyên bố CIA không dính vào vụ giết người này dù CIA có tài trợ cho B57. Tại BCH/MAGV, Shackley từ chối không khai theo lệnh của hai quân cảnh tư pháp, viện lẽ CIA không nằm trong hệ thống quân đội và nhân danh tư cách hành pháp miễn trừ; nhưng phụ tá là Clement Enking vì gốc nhà binh nên bị thẩm vấn thay. Các tướng trong phòng nhìn cảnh thư hùng giữa tư pháp và hành pháp (CIA là một thứ chính phủ trong một chính phủ) mà phát ngượng!
 
Vợ Chuyên là Phan Kim Liên và em dâu Lâm Hoàng Oanh đến phòng thẩm vấn của K57 ở Saigon tìm Chuyên nhưng Brumley lánh mặt và đuổi khéo. Thất vọng, Liên đi nhờ chính phủ và quốc hội VNCH giúp can thiệp với tòa Đại Sứ Mỹ nhưng không kết quả. Người em dâu để lại địa chỉ chỗ làm: Sở Bình Định Nông Thôn 158 Pasteur Saigon, Tel. 922-5708 để K57 liên lạc. Tin Lâm Hoàng Oanh được học bổng du học Columbia University ở Mỹ càng làm cho K57 sợ toát mồ hôi: Hà Nội gởi điệp viên vào tận đất Mỹ!? 
 
Tại tòa án QS ở Long Bình kéo dài từ tháng 8/69, mỗi nghi can có một luật sư bào chữa. Riêng Middleton, sau khi nội vụ đã được tiết lộ cho báo chí và Quốc Hội Mỹ, đã được gia đình thuê luật sư dân sự là George Gregory ở S. Carolina sang VN biện hộ. Chánh án là Đ. tá Seaman, chưa có kinh nghiệm về tư pháp. Các luật sư đòi có đủ tất cả nhân chứng và bằng chứng, kể cả tài liệu từ Chính phủ VNCH và CIA, danh sách người di cư trên tàu Mirabelle năm 1954; nhất là phải có tử thi theo luật Mỹ! Các báo lớn nhỏ ở Mỹ đều đăng tin và theo dõi vụ án như New York Times, Charlotte Observer, Times, International Herald và Washington Post. Một số ký giả đã đến VN phỏng vấn các bên liên quan, kể cả CQ/VNCH, dân chúng địa phương và Đ.tá Lemembres, người thay mặt Rheault đang bị câu lưu.
 
Do đó, BCH/HQ Mỹ ở Saigon gửi điện yêu cầu đội rà mìn của hạm đội 7 ở Pearl Harbor cung cấp phương tiện dò tìm “ghe name” ở biển Đông VN. Khi bị HĐ7 từ chối viện lẽ không phải trường hợp cấp bách, tướng Potts phải mượn lệnh của Abrams mới được chấp thuận. Bảy ngày sau, tàu dò mìn USS Woodpecker đến duyên hải Nha Trang tìm xác TKC. Thợ lặn báo cáo sóng to gió lớn, bùn ngập tới đầu gối và tầm nhìn xa tối đa chỉ 7 feets nên yêu cầu để hôm sau. Chiều tối ngày thứ nhì, thợ lặn mới tìm thấy cái neo 100kg của chính con tàu dò mìn; hôm trước thả xuống giờ mới 24g đã trôi xa 100 yards. Họ bàn ra rằng với cường độ sóng gió này, xác TKC quẳng xuống cách nay 6 tháng chắc sẽ trôi dạt nửa đường đi Hà Nội! Thế là huề vốn! Bourland thất vọng trở về Long Bình.
 
Phan Kim Liên nghe tin Ls Gregory đến VN thì có đến khách sạn Caravelle tìm gặp và khóc lóc xin giúp tìm chồng nhưng Gregory viện cớ là luật sư bên bị can nên từ chối. Tờ Washington Post cử đại diện là Robert Kaiser và phụ tá là Vũ Thụy Hoàng qua VN tìm hiểu rồi đưa tin hôm 18/8/69 rằng vụ án đã bị cho chìm xuồng vì lý do chính trị. Được tin ấy, một anh của Kim Liên đòi đưa 8 ghi can ra tòa VNCH; còn Liên mướn luật sư viết thư gởi MACV và Bunker xin cho biết tình trạng sống chết của người chồng mất tích; bản sao gởi Thủ Tướng VNCH. Trong thư, Liên cũng cam kết chồng bà thuộc gia đình chống CS; không phải là VC cũng chẳng thể là điệp viên vì tánh rất nóng nảy không giấu nổi bí mật nào. TKC chỉ là thông ngôn quèn không ngạch trật. Thấy mình là trung tâm của vụ án mà chẳng ai đả động đến, Kim Liên liều thân đến tận tòa Đại sứ Mỹ để đưa thư hôm 18/8 chờ cả tiếng đồng hồ vẫn không được tiếp, đành để thư lại cho thư ký tiếp tân và ra về. Hôm sau, đại diện của Bunker đến nhà Liên tìm, gặp ông bố từ chối cho gặp Liên và từ chối trả lời mọi câu hỏi, có lẽ ghét người Mỹ. Phái viên ấy dặn ông cụ nhắn lại Liên hãy khiếu nại với quân đội Mỹ vì chồng Liên làm việc cho Green Berets Mỹ. Được lời nhắn ấy, Liên bỏ đòi hỏi đưa nội vụ ra tòa án VNCH, thay vào đó yêu cầu tòa Đại sứ và Quân đội Mỹ phải bồi thường thiệt hại. Liên bồng hai con trai nhỏ 2 tuổi và mới sanh, đến cổng tòa đại sứ khóc lóc, kể lể và qui trách nhiệm cho chính phủ Mỹ. Liên nguyền rủa rằng linh hồn chồng bà sẽ không tha thứ cho bọn giết người trong suốt cuộc đời của họ. Bà cũng đòi tự tử rồi ngất xỉu ngay trước cổng. Hôm 2/10/69 một sĩ quan phụ trách tài chính của quân đội Mỹ đến nhà Kim Liên trao 6,472 đô tiền mặt, trích từ quỹ đen của CIA, cho Liên; nói rằng số tiền “tử tuất’’ đó tương đương ba tháng lương của TKC kèm theo giấy cam kết yêu cầu bà ký từ nay không khiếu nại gì thêm, một hình thức bắt chẹt về mặt luật pháp. 
 
Tại VN, Đại sứ Bunker đánh điện cho bộ Ngoại giao, MACV và cả phái đòan Mỹ ở hội nghị Paris báo cáo về vụ kiện tụng. Ông viết rằng ‘’Kim Liên nhờ Thủ Tướng VNCH trong trường hợp chồng bà đã chết thì thư này thay thế văn kiện chính thức truy tố 8 người lính mũ xanh ra tòa án VN về tội giết người bất hợp pháp, vô nhân đạo và tàn bạo’’. Ông đại sứ kết luận bản báo cáo một cách lạnh lùng: “Bà Thái Khắc Chuyên khẳng định chồng bà không phải là điệp viên cộng sản’’. Tại Mỹ, đài NBC đưa tin chính quân đội Mỹ đóng hồ sơ vụ án. CBS thì bảo là CIA. ABC thì bảo là CIA và Nixon cho nội vụ chìm xuồng. Dân biểu Quốc hội liên bang Peter Rotino chửi rủa các tướng ở MACV và bênh vực gia đình Marasco. Ông đòi các can phạm phải được xử ở tòa án dân sự Mỹ để được công bình hơn tòa quân sự ở VN. Nhiều thư của các gia đình quân nhân tử sĩ Mỹ và các cử tri khác gởi thư cho dân biểu, nghị sĩ đại diện và cho cả Nixon yêu cầu giúp tha các can phạm lính mũ xanh ở VN.
 
Khi tin chính thức loan rằng các phạm nhân mũ xanh được thả, các ký giả quốc tế có làm một cuộc phỏng vấn ứng khẩu với các bên trong cuộc ngay trước tòa đại sứ Mỹ. Phan Kim Liên trong bộ áo tang trắng khóc sướt mướt kể lể rằng ‘’chồng tôi di cư vào Nam VN tìm tự do dân chủ và giúp người Mỹ thế mà người Mỹ lại giết anh ta rồi trốn lãnh trách nhiệm này’’. Các ký giả quốc tế bao quanh người quả phụ đau khổ với thái độ thương cảm và khó xử. Bà Liên đòi tự tử tại chỗ và gào thét ‘’họ phải hoặc lãnh trách nhiệm về cái chết của anh ta hoặc cái chết của tôi. Linh hồn chồng tôi sẽ theo họ suốt đời!’’. Khi Kim Liên ngất xỉu xuống đất, lính canh lặng lẽ đóng cổng tòa đại sứ.
 
Smith đáp chuyến bay World Airways khác chuyến bay của 7 người kia. Các ký giả quốc tế chờ họ tại sân bay San Francisco, CA. Bất đắc dĩ phải lại microphone vì đứng đầu hàng ngũ 8 người được thả, để trả lời câu hỏi ‘’Cá nhân ông có ra lệnh xử tử người đàn ông Việt mệnh danh là điệp viên nhị trùng không?’’, Rheault trơ trẽn nói: ‘’chả có gì chứng minh rằng nhận vật ấy là có thực cả!’’. Khi nhà báo ấy chưa thỏa mãn và hỏi tiếp: ‘’Rốt cuộc ông chối là không có giết người à?’’. Rheault trả lời ngay không suy nghĩ: ‘’đúng thế!’’. Bob Rheault sau có xin trở lại VN để phục vụ, hy vọng hoài bão lên cấp Tướng sẽ không chết non theo vụ án; nhưng Ngũ Giác Đài bảo Rheault đến bệnh viện quân đội Walter Reed ở thủ đô Mỹ để lãnh tiền và giấy giải ngũ, chấm dứt 26 năm kiêu hãnh từ ngày xuất thân trường võ bị West Point.
 
Sau 1975, Phan Kim Liên và hai con trai sống trong khó nghèo, cô quạnh ở thành phố nay đã đổi tên. Các anh trai của Chuyên kẹt lại Bắc Việt đã chỉ là thứ dân hạng bét của chế độ như bao nhiêu tín đồ Thiên Chúa giáo khác. Hồi tháng 8/1991, con trai cả của Thái Khắc Chuyên là Thái Quốc Việt vẫn tin cha mình còn sống; viết thư cho ký giả J. Stein hỏi về số phận của cha mình và thú nhận ‘’thật khó sống với những năm tháng dài ngờ vực. . .’’. Nó đâu biết rằng dân Mỹ thế hệ này vẫn còn ngờ vực sự lành lặn của vết thương chiến tranh Việt Nam. 
 
Lời xin lỗi cố TT. Thiệu và thú nhận của Kissinger sau này chưa đủ để tẩy sạch được vết nhơ danh dự ô uế: Phản bội chiến hữu đồng minh Nam Việt trung thành, giết hại lãnh tụ khả kính của họ để Mỹ hóa cuộc chiến; rồi lại Việt hóa cuộc chiến trở lại để trốn trách nhiệm. Và phải giải thích ra sao về trách nhiệm của giới chính trị gia Mỹ đối với niềm tự hào của một quân đội vốn chưa bao giờ chiến bại: Quân Đội Hoa Kỳ? 
 
Hà Bắc
(tham khảo tài liệu của J. Stein và Time

sen dat
  • Số bài : 3043
  • Điểm: 34
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.03.2008
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 01.01.2015 21:11:04
0
Đầu năm mới thì phải vui nên phải đọc điều vui để cười
Sếp ốm (sưu tầm)
Nghe tin sếp bị cắm giằm
Phải vào bệnh viện siêu âm chụp hình
Phòng ban lãnh đạo rối tinh
Vội ngưng công việc rập rình viếng thăm
Người thì nựng sếp "măm măm"
Kẻ thì nắn bóp tay chân dỗ dành
Bao nhiêu là tấm lòng thành
Bấy nhiêu là những "tờ xanh" đi cùng
Sếp nằm thịt thắm da hồng
Quanh giường quà cáp chất chồng ngổn ngang
Ốm như hoa hậu đăng quang
CHI SẮC (Hải phòng)

sen dat
  • Số bài : 3043
  • Điểm: 34
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.03.2008
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 01.01.2015 21:14:38
0
Cười rồi thì nhấm nháp cái gì cho ngon cái miệng. Mời các bạn ăn gỏi mít nha!
Attached Image(s)

sen dat
  • Số bài : 3043
  • Điểm: 34
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.03.2008
Re:GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM - 01.01.2015 21:17:41
0
Nhấm nháp xong thì ngăm hoa lá cành
Attached Image(s)

Thay đổi trang: << < 252627 > >> | Trang 26 của 29 trang, bài viết từ 751 đến 780 trên tổng số 867 bài trong đề mục