GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM
Thay đổi trang: << < 404142 > >> | Trang 40 của 58 trang, bài viết từ 586 đến 600 trên tổng số 867 bài trong đề mục
da vàng 06.04.2014 22:40:38 (permalink)
0


 
* * *
 
 
 
 
NGÀY GIỖ ANH
thơ Cao Nguyên . diễn ngâm Dzuylynh

ba mươi năm qua rồi
em vẫn còn tiếng nấc
thắp nén hương cúng anh
lòng nghẹn trào nước mắt

mỗi Tháng Tư nhớ về
tình yêu và hạnh phúc
anh vội vã mang theo
em ôm chầm tiếng khóc

trong tiếng thét hãi hùng
anh cùng em vỡ vụn
anh nát một xác thân
em tan đời ước vọng

*
hôm nay ngày giỗ anh
em hướng về quê Nội
vẫn tiếng nói nhiệt thành
em yêu anh quá đỗi

mỗi năm ngày giỗ anh
hai con đều có mặt
hương ngát tỏ lòng thành
lòng quặn đau như cắt

ba mẹ con ôm nhau
nhìn ảnh anh mà khóc
ba mươi năm đời đau
trong hành trình khó nhọc

xin anh cứ yên lòng
em vẫn vui mà sống
vì hạnh phúc các con
lại nuôi mầm hy vọng

mong con cháu sau này
mãi còn luôn nhắc nhớ
trên cao chín tầng mây
linh hồn anh rạng rỡ!


Cao Nguyên
03.23.2004
Phù vân 07.04.2014 00:44:10 (permalink)
0
VIỆT- NAM CỘNG- HÒA QUỐC HẬN NĂM THỨ 39
 
BA MƯƠI THÁNG TƯ LÀ NGÀY GÌ ?


 
Do tin tưởng người bạn đồng minh Hoa Kỳ nhưng đã phản bội Việt Nam, và do sự hoảng loạn của vài giới chức cao cấp lảnh đạo quân đội, đã quyết đoán sai tình hình bằng chiến thuật rút quân không có kế hoạch, ngày 30 tháng tư năm 1975 vào khoảng 10 giờ 30 sáng, Thủ Đô Sài Gòn đã bị quân cộng sản chánh quy Bắc Việt hợp với quân cộng sản địa phương tay sai với danh xưng là cộng hòa miền Nam Việt Nam tràn ngập, dẩn đến lệnh đầu hàng của Tổng Thống bất hợp hiến Việt Nam Cộng Hòa Dương Văn Minh. 
 
Đây không phải là một cuộc thất trận trong một trận đánh giữa một đơn vị nào đó với cộng quân đưa đến đầu hàng để khỏi bị tiêu diệt, nhưng ngày 30 tháng tư năm 1975 lại có một sự khác biệt rất to lớn: Sự tuyên bố đầu hàng của một Tổng Thống, nó ảnh hưởng đến cả vận mạng Quốc Gia, đó là nước Việt Nam Cộng Hòa đã bị mất vào tay của bọn cộng sản thế giới, trong đó hàng mấy chục triệu người phải gập cảnh tan nhà nát cửa, mất mát niềm tin và hy vọng, chịu đớn đau không thể tả. Nếu nói về tình cảm của con người, thì ngày đó là một ngày “đại tang” cho tất cả người dân trong nước, cuộc đời đã bị mất sạch vào tay của kẻ thù. Đời sống vật vờ như hồn ma bóng quế. 
 
Sau ngày 30 tháng tư đó, xã hội của người dân miền Nam Việt Nam đã bị tan nát, đời sống vật chất và tinh thần bị đảo lộn đến tận cùng trong sự tan hoang.
 
Người chẳng có tội lổi gì, nhưng chỉ vì đã bảo vệ biên cương bờ cõi, gìn giữa an ninh thanh bình cho dân, đã bị gông cùm, tù đày khổ sai không biết ngày ra, để thỏa mãn sự căm thù của kẻ địch. Người dân đang sống an lành, đang hưởng hạnh phúc trong cảnh thanh bình của xã hội miền Nam, bổng dưng bị cướp nhà, cướp của, cướp đi mạng sống của người thân, đời sống trở nên cùng khổ hơn kẻ ăn mày, có nhà không thể ở, có đất nước không thể sống, chỉ còn hai bàn tay trắng với thân thể tiều tụy, tâm hồn nát tan.
 
Niềm đau khổ đó, tất cả người dân của Việt Nam Cộng Hòa đều bị ép buộc phải trải qua, không ai có thể tránh khỏi bàn tay tàn bạo đẩm máu của bọn hung thần cộng phỉ Việt Nam, tay sai của khối cộng sản Nga, Tàu.
 
Sau ngày 30 tháng 4 đen tối đó, không những người dân Miền Nam Tự Do đã bị mất sạch, mà cả người miền Bắc đã từng hồ hởi trong công cuộc “giải phóng miền Nam” cũng đã bị mất sạch, dù đã được hứa hẹn cuộc sống giàu sang bằng lời hứa cuội của tên đầu lảnh đảng cướp cộng sản Hồ Chí Minh. Họ tưởng đâu là sẽ được giúp đở đồng bào Miền Nam, cùng hưởng cảnh sang giàu, khi chiếm được miền Nam ruộng thẳng cánh cò bay, với đất đai trù phú, nhưng sau đó họ mới biết mình bị gạt. Tài sản của miền Nam giàu có hơn sức tưởng tượng của họ, đời sống tự do thanh bình của Miền Nam không cần sự giải phóng của Miền Bắc, đã bị bọn việt cộng cha, việt cộng con cướp sạch, phân chia cho bọn đầu nảo, còn dân đen thì cũng bị cùng khổ giống như người miền Nam, cũng bị đè đầu cởi cổ, bị cướp giựt cái công lao xâm chiếm và khai thác đất đai của miền Nam, bị sưu cao thuế nặng để làm giàu cho bọn trung ương đảng và bọn nhà nước cầm quyền. Bây giờ họ mới phát hiện ra, họ đã từng ăn cây ăn cỏ thay cơm, con em của họ “đã sinh bắc tử Nam” chết mất xác cho “sự nghiệp giải phóng Miền Nam”, chỉ là làm vật hy sinh, lót đường cho những tên việt cộng tham tàn tay sai ngoại bang, đoạt lấy quyền cai trị toàn dân với chế độ tàn bạo khủng khiếp gọi là “xã hội chủ nghĩa”.
 
Một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, chỉ có người dân miền nam hận bọn cướp nước, cướp của, cướp sinh mạng của người dân. Hơn một năm sau, người dân miền Bắc mới thấy cái tin tưởng lầm không thể tha thứ của họ, mang đến cho họ đời sống không khá hơn khi còn sống nghèo nàn đói khổ trong nước “Việt Nam dân chủ cộng hòa”, dù rằng không còn chiến tranh nữa, toàn dân Việt hiện đang sống trong đất nước có rừng vàng biển bạc.
 
Với đời sống cùng khổ, lại bị đối xử như những tên nô lệ cho bọn cầm quyền, có thể bị cầm tù, bị giết chết chưa biết ngày nào sẽ đến phiên mình. Những nổi lo sợ khủng khiếp đó đã dẩn đến cảnh phải liều chết để đào thoát khỏi ngục tù của bọn việt cộng.
 
Không chỉ riêng  người miền Nam mà cả người miền Bắc, đã từng chịu  đựng cái chế độ dã man từ năm 1954, cũng đã tìm cách vượt biên vượt biển, rời bỏ quê cha đất tổ để đi tìm Tự Do.
 
Không những chỉ có những người vượt biên vượt biển đã ôm ấp nổi hận trong lòng, mà cả đến những người dân Việt Nam còn ở lại nơi quê cha đất tổ, còn có niềm hận sâu thẩm hơn những người đã đi tỵ nan. Họ hận hơn vì càng ngày họ càng bị cái chế độ dã man hung tàn việt cộng, thi hành những thủ đoạn gian manh lừa đảo, dùng những luật lệ rừng rú để đày ải, để cướp giựt, người dân không có quyền tự do sống như một con người.
 
Ngoại trừ bọn cầm quyền đảng và nhà nước  việt cộng, niềm đau nổi hận đó, tất cả người dân Việt Nam đều mang nặng trong tâm tư cho mãi tận đến bây giờ, ba mươi chín (39) năm sau ngày đen tối 30 tháng tư đó. Kỹ niệm ngày đó, có một tên việt cộng chúa đã buộc miệng thốt lên câu nói “ngày nầy có triệu người vui, cũng có triệu người buồn” bởi vì ngoài những người dân Việt đang oằn quại vì chế độ ác nhân, hắn đang bị rơi vào ảnh hưởng truyền thống vắt chanh bỏ vỏ của chế độ do hắn góp bàn tay vào để dựng lên, và cũng vì hắn đã thắm thía số phận của những tên ở trong bộ phận ngoại vi của cộng sản Miền Bắc, là bọn lực lượng giải phóng Miền Nam, cũng đã bị vắt chanh bỏ vỏ, đuổi về vườn không thương tiếc.
 
Triệu người vui đó là những tên đảng viên cộng sản đã nhờ ngày đó mà cướp của, cướp nhà, cướp mạng sống của người khác để làm giàu ngang xương, để mua danh bán tước thâu tóm quyền lực, để có quyền cai trị dân theo mẫu mực của những tên độc tài khát máu Nga Tàu, còn hàng chục triệu người dân Việt Nam làm sao mà vui cho được ?
 
Ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày chiến thắng của những tên xão trá chiến thắng những người chân chính vì đã đối xử quá từ bi với chúng. Ngày đó bọn chúng gọi là ngày “đại thắng mùa xuân” cũng đúng thôi, bởi vì ngày đó, từ một tên khố rách áo ôm, đeo cọng đu đủ cũng không gãy, dốt nát mê muội, biến thành những những tên có quyền thế tột đỉnh, có quyền vơ vét của cải tài sản của những người bị bại, ăn sung mặc sướng đã mập thây, và ngày nay chúng biến thành những người giàu nhứt nước, có quyền lực như ông vua, vậy thì chúng làm sao không ăn mừng ngày chiến thắng của chúng?
 
Con cháu, dòng họ của bọn việt cộng, thừa hưởng tiền tài, quyền tước của cha ông chúng do cướp giựt, giết người mà có, chúng đâu có gì phải bận tâm, nên chúng ăn mừng ngày cướp giựt chiến thắng thì đâu có gì là lạ?
 
Những kẻ sống và ăn cơm của Việt Nam Cộng Hòa, đã phản bội lại nước mình do nghe theo những lời dụ dổ ngon ngọt của việt cộng, đã theo đóm ăn tàn thì làm sao không ăn mừng ngày đó như chủ của chúng cho được ?
 
Tất cả bọn chúng ăn mừng ngày chiến thắng mùa xuân của chúng là điều tất nhiên. Thế nhưng,  lại có những người vì chiến thắng của bọn chúng phải bỏ xứ ra đi, dù trước hay sau ngày 30 tháng tư năm 1975, với danh nghĩa là tỵ nạn cộng sản, lại dửng dưng với ngày hắc ám đó ?
 
Nếu ai không chấp nhận chế độ việt cộng, không theo bè kết đảng với chúng, không thể ăn mửng ngày đó như chúng, vì làm vậy tức là ăn mừng sự đau khổ khốn cùng của toàn thể người Việt Nam.
 
Có người muốn gọi ngày đó là ngày “Tự Do cho Việt Nam” (freedom for Việt Nam Day). Sao lại gọi ngày mất nước là ngày tự do ? Phải gọi là ngày mất tự do mới đúng chớ ! cũng vì ngày đó, dân Miền Nam đã và đang hưởng quyền tự do, bổng nhiên lại bị cướp mất đi quyền tự do của mình. Không phải là điều ngược ngạo hay sao ?
 
Cũng có một số người lại đặt tên cho ngày đó là “Ngày Thuyền Nhân” (Boat people Day). Sao kỳ cục vậy ? Đã đành rằng vì có ngày đó nên mới có những người vượt biển tìm tự do bằng những con thuyền nhỏ vượt đại dương. Nhưng còn những người vượt biên tìm tự do bằng đường bộ thì không kể họ vào sao ? Tuy nhiên dùng chữ thuyền nhân hay bộ nhân cũng không đúng, bởi vì cũng do ngày đó mà toàn thể dân tộc Việt Nam, người đã ra đi bằng thuyền hoặc bằng đường bộ, hay còn ở lại trong nước, cùng chịu chung số phận mất nước, tự do bị tước đoạt, đời sống không hơn súc vật, đồng chịu thảm cảnh như nhau. Cho nên không thể gọi ngày đó là ngày riêng biệt cho người vượt biên được.
 
Trên lý lẻ là thế, nhưng có một số người với danh xưng là người tỵ nạn, vẫn ngoan cố gọi ngày 30 tháng tư hàng năm là “ngày tự do cho Việt Nam” hoặc là “ngày thuyền nhân Việt Nam”, và còn có thể với nhiều tên khác nữa, khiến cho mọi người khác, đương nhiên phải nghĩ rằng, bọn người nầy tiếp tay với việt cộng, muốn làm nhẹ đi tội ác của việt cộng đối với dân tộc, bằng những cái tên không có liên quan trực tiếp gì với lối hành xử tàn ác của đảng và nhà nước việt cộng, đã làm cho toàn thể dân tộc Việt Nam ngập tràn trong máu lửa với niềm đau khổ tận cùng, đã làm cho toàn thể dân chúng phải sống một cuộc sống của loài thú, làm trâu cày ngựa cởi cho bọn bán nước cầu vinh, với nhản hiệu là xã hội chủ nghĩa, đang dâng hiến cho bọn tàu cộng đất nước Việt Nam có một lịch sử trên bốn ngàn năm, oai hùng chống giặc Hán bành trướng xâm lăng từ phương Bắc.
Cái chiến dịch đặt tên cho ngày 30 tháng tư để làm cho người ta sao lảng những hậu quả ác nhân của bọn việt cộng, không thành công trong năm 2013 vừa qua, đã bị dư luận trong lẫn ngoài nước đã phá kịch liệt. Rồi năm 2014 đã tới, cận kề ngày tưởng niệm 30 tháng tư, lại có một số người tung ra trên mạng internet những bài viết giải thích và kêu gọi hòa hợp và hòa giải với chế độ việt cộng, và cùng thời gian nầy, vào tháng 3 năm 2014, tên thứ trưởng ngoại giao của việt cộng Nguyễn Thanh Sơn, đã đến Canada, Houston Texas, Bắc và Nam California để giải độc, và trả lời phỏng vấn trên phố Bolsa TV mạng, kêu gọi người việt hải ngoại mà hắn gọi là “việt kiều”, hảy quên hận thù, hòa hợp hòa giải, sẽ được về nước thoải mái, bla, bla, bla…
 
Những thủ thuật và mánh khóe nầy của việt cộng và bọn tay sai, không những người Việt Nam, mà cả thế giới đều biết cái dã tâm muốn trường trị Việt Nam, muốn người ta quên đi những tội lổi của chúng đã làm trên đầu trên cổ của người dân mà không cần tỏ ra hối hận và  nhận tội trước toàn dân.
 
Hòa hợp hòa giải, quên hận thù làm sao được, khi mà bọn việt cộng ngày càng ló ra nhiều hành động để tăng thêm nhiều tội ác đối với người dân, bằng những chánh sách, luật lệ tàn ác, dã man ?
 
Vậy thì kể từ ngày 30 tháng tư năm 1975, ngày khởi đầu cho nổi hận và sự thống khổ của người Miền Nam và sau đó không lâu, cũng làm cho người Miền Bắc phải nuốt hận thấm sâu trong lòng vì súng đạn và mã tấu, dùi cui của bọn đồ tể việt cộng. Cho nên, ngày 30 tháng tư đó, nó không phải là ngày vui để ăn mừng, mà là một ngày ghi lại nổi thống hận sâu thẩm trong tận đáy lòng, của mỗi con dân Việt đối với chế độ và con người cộng sản Việt Nam, vì chính bọn việt cộng, hậu bối của tên Hồ Chí Minh, con đẻ của quốc tế cộng sản, đã đem voi về dầy mả tổ, đã khiến cho đất nước Việt Nam không còn là của riêng của giống nòi Hồng Lạc nữa, và con người Việt Nam dưới sự thống trị bởi bọn người vong bản với thể chế ngoại lai, phải sống trong địa ngục trần gian.
 
Vậy để tưởng niệm ngày 30 tháng tư năm 1975, chúng ta phải gọi ngày ấy là ngày gì đây ?
 
Xin thưa rằng, nếu còn nghĩ mình là người Việt Nam, thừa hưởng dòng máu bất khuất của tiền nhân, chúng ta không thể gọi ngày ấy bằng tên gì khác hơn là “NGÀY QUỐC HẬN” của dân tộc Việt Nam. Ngày nầy chỉ có thể từ từ được xóa nhòa sau khi đảng cộng sản và chế độ việt cộng bị tận diệt, không thể hòa hợp hòa giải gì để chúng còn tồn tại, mới có thể là quá khứ để được ghi lại trong lịch sữ là một ngày đen tối nhứt của dòng giống Lạc Long.
 
 
Lão Ngoan Đồng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.04.2014 03:05:40 bởi Phù vân >
dzuylynh 07.04.2014 01:18:41 (permalink)
0
 
Văn tế Quốc tổ và Anh linh Tử sĩ

 
Hỡi ơi!
Người Việt Hải Ngoại, ngưỡng trông Quốc Tổ;
Uống nước nhớ nguồn, nhắc nhở tâm can.
Ba triệu đồng bào xa quê, nhớ xóm làng, trông cương thổ;
Mùng mười tháng ba giỗ Quốc Tổ, người dựng nước Văn Lang.
Kính cáo: Chung huyết thống, sao có kẻ hiện hình quỉ đỏ?!
Xin thưa: Cùng một bào, lại có loài hại giống da vàng?!
 
Nơi đây!
Nửa quả địa cầu xa xăm nơi đất mẹ, tâm tư nhung nhớ;
Ba triệu người Việt hải ngoại nghĩ quê cha, một dạ lo lường.
Cõi bờ hao hụt, ngư dân nhục nhằn, máu tuôn loang lổ?!
Quân Tàu xâm lược, nước nhà tang tóc, lệ đổ bi thương?!.
Việt cộng đang đoạ đày nòi giống, bất lương nhất kim cổ!
Cờ vàng mong quang phục Việt Nam, rực rỡ khắp quê hương.
Ôi tưởng nhớ!
Miền Nam giữ Hoàng Sa, Hải quân tử chiến, dù máu đổ;
Tàu cộng xâm biển đảo, Việt cộng hoan hô, gẫm lệ tràn!.
Chiến sĩ Việt Nam Cộng hoà tiết nghĩa, vì tự do xứ sở;
Quân dân cán chính quốc gia kiên trung, bởi độc lập giang san!.
Nhớ mùa hè đỏ lửa, Quân đội miền Nam lo giữ yên trăm họ;
Hận ngày tết Mậu thân, dân Huế bị Việt cộng giết hại mấy ngàn!
Tháng tư đen, ai gây chết chóc, đồng bào gian khổ?
Ngày quốc hận, thù kẻ tương tàn, nòi giống thở than!.
Tri ân hương hồn ngũ hổ tướng tuẫn tiết: Tướng Trần Văn Hai, Tướng Phạm Văn Phú!
Luôn cung kính hương hồn: Tướng Lê Văn Hưng, Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tướng Nguyễn Khoa Nam!.
Hồ Ngọc Cẩn, khí phách pháp trường, danh thơm muôn thuở;
Ngụy Văn Thà, Hoàng Sa tử chiến, tên tuổi vẻ vang.
Anh hùng Trần Văn Bá tận tụy quê hương, danh rạng rỡ;
Đề đốc Hoàng Cơ Minh lo toan tổ quốc, nghĩa chứa chan…
Ôi đau thương!
Việt cộng chiếm quê hương dâng cho Tàu, để làm tôi mọi!
Đồng bào xa quê mẹ thân yêu, bởi độc đảng cường quyền.
Vượt biên, công an rình rập, rừng sâu gian nan lặn lội;
Vượt biển, hải tặc nhiễu nhương, sóng gió hoạn nạn liên miên!.
Phân biệt đối xử, Việt cộng đọa đày dân kinh tế mới;
Quân cán chính miền Nam bị “cải tạo”, hành hạ xích xiềng!.
Dân oan! Việt cộng cướp ruộng đất, cầu đất trời xin soi rọi;
Tôn giáo! Côn đồ phá đền chùa, khấn quỉ thần giải oan khiên!
Đau đớn thay!
Gẫm thuở xưa, bọn thảo khấu luôn nể nang Quốc Tổ;
Nghĩ ngày trước, giặc ngoại xâm mãi sợ sệt Tiền Nhân.
Nhà Lý, Trần giữ giang sơn, giặc Bắc ngại ngần lo sợ;
Bọn Việt cộng dâng đất nước, quân Tàu hùng hổ lấn xâm!
Chúng lấy: Thác Bản Giốc, ải Nam Quan, đảo điên trả nợ;
Nó đem: Chốn Biển Đông, vịnh Bắc bộ, hăm hở hiến dâng!.
Chúng làm Việt gian cho quân Tàu xâm lược, là đồ tôi tớ!
Nó để Tàu cộng mở bô xít Tây nguyên, đấy bọn bất nhân!.
Lòng thành cầu nguyện!
Người Việt khắp nơi, lo non nước, nỗi niềm trăn trở!
Linh hồn mọi nẻo, nghĩ giống nòi, cứu cảnh long đong!
Cầu Quốc Tổ, Tiền Nhân thương Đồng bào, trị loài quỷ đỏ;
Nguyện anh linh Tử Sĩ giúp quốc gia, cứu cảnh non sông!
Lấy lại đất đai nước Việt, bởi Tàu cộng xâm cương thổ;
Thu về đảo Hoàng-Trường Sa, vì Việt gian hiến biển Đông!
Van vái cầu nước nhà độc lập, dân chủ, vẹn toàn xứ sở;
Xin phù hộ Đồng bào tự do, nhân quyền, no ấm, ước mong!
Kính xin chứng giám!
 
Nguyễn Lộc Yên
 
Đóa Hồng Tím 08.04.2014 22:17:22 (permalink)
0
 

mái tóc ngày xưa thơm mùi sả
em còn nguyên vẹn giữ cho anh
cho dù đời đã trăm ngàn ngã
muôn thu gió thổi chẳng bạt ngàn
 *
thời gian nhuộm bạc lên từng sợi
lại ngỡ màu trăng in bóng quen
em vuốt tóc mình, rưng chợt hỏi
mênh mang chạm nỗi nhớ vô hình
 *
em đón buổi chiều nghiêng xuống tóc
tư trầm theo gió khẽ bay bay
có ngấn long lanh bên khoé mắt
buồn vui quyện lẫn, rối thở dài
 *
thôi nhé kiếp này mình lỡ hẹn
hương mùi sả cũng chết theo mơ
dành vương vấn đó làm vương miện
cho một ngày sau gặp cuộc chờ

đông hương




 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.04.2014 22:18:30 bởi thương yêu >
thiên thanh 09.04.2014 02:57:21 (permalink)
0
 
 
 
 
 
 
Cho Ngày Quốc Hận 30 tháng 4

thơ Sao Linh . thiên thanh diễn đọc 


Anh hỏi em sao không về thăm mẹ
Ngày lìa đời mẹ nhắm mắt không yên
Vắng bóng em nên mẹ chết ưu phiền
Vầng tang trắng thiếu đứa con gái út

Em hỏi anh vì sao em bỏ nước?
Tại vì sao mẫu tử phải chia lìa
Tại vì sao chồng vợ phải phân chia
Ngàn người chết biển đông trong rừng thẳm

Em hỏi anh hơn ba mươi năm lẻ
Quê hương mình dân chúng vẫn điêu linh
Có phải chăng vì bọn cướp hồ tinh
Đội lớp người nhưng lòng lang dạ sói

"Độc lập tự do" sao người dân tê tái
Hiếp đáp người, đàn áp bắt dân oan
Sống xa hoa mặc dân khổ kêu than
Tiền đầy tuí tham quan tư bản đỏ

Biển Việt Nam, Nam Quan, Bản Giốc
Sao cắt dâng Tàu cuí mặt cong lưng
Cô gái thanh xuân nước mắt rưng rưng
Vì manh aó bán thân lìa cha mẹ

Trẻ thất học lang thang trên đường phố
Kiếm mưu sinh trong đống rác vĩa hè
Những đêm đông áo rách không đủ che
Nằm giá lạnh co ro trời có thấu

Ai đã bảo là "cơm no áo ấm"
Lời mị dân xảo trá thật điêu ngoa
Người dân oan cay đắng lệ chan hoà
Ai tàn nhẫn bắt người còn cướp đất

Người nông dân cày ruộng thiếu cơm ăn
Nơi thành thị kẻ vung tiền như rác
Ai đã bảo "giàu nghèo cùng san sẻ"
Nhưng càng ngày hố ngăn cách càng xa

Dù xa quê nhưng em luôn khắc khoải
Vui sướng gì khi đất nước lầm than
Nước người ta ăn, mặc quá dư tràn
Lòng đau xót thương dân mình đói rách

Ba mươi tháng Tư anh ơi còn nhớ?
Ngày đau buồn ta quấn chiếc khăn tang
Giận ai kia hèn nhát đã đầu hàng
Để mất nước ta làm thân viễn xứ

Ba mươi tháng Tư Việt Nam Quốc Hận!
Ngày kinh hoàng rúng động cả năm châu
Lũ tham tàn không tồn tại được lâu
Anh hãy đợi một ngày em trở lại

Em sẽ về khi quê hương bừng sáng
Ngày tự do dân chủ sẽ không xa
Tuổi trẻ Việt Nam bất khuất thiết tha
Sẽ dựng lại một mùa xuân mầu nhiệm

Sao Linh
thiên thanh 09.04.2014 03:02:28 (permalink)
0
 
 
 
 
 
 
 
NGẬM NGÙI THÁNG TƯ

thơ đông hương | lanchy diễn ngâm

năm mươi năm xuống làm người
em chưa hề biết cuộc đời lưu vong
Mẹ, Cha vượt biển thăng trầm
chị, anh chết ngợp trong hầm thuyền đau

*
năm mươi năm, chưa lần trao
môi anh lại chiếc hôn đầu ngày xưa
thuyền anh vượt sóng trong mưa
lòng anh giông bão đẩy đưa xứ người

*
năm mươi năm, hai giấc đời
anh thành lãng tử, em người trời Âu
lặng nhìn cánh én vươn cao
trên vùng trời rộng khát khao mịt mù...

***
ba mươi năm, chợt tháng Tư
ngày anh bỏ súng, thân tù cùm gông
bạn thân đứa mất, đứa còn
đứa về đất Mẹ, đứa chân nạng cùn

***
hôm nay viết gửi về anh
mực em giọt lệ hồng lăn vơi đầy
Tháng Tư, máu hận cuồng dâng
quê hương hai chữ ngàn trùng : Việt Nam

*
quên được không? quên được không!
Tháng Tư vượt biển, tha hương... ngậm ngùi 

đht
Phù vân 10.04.2014 00:12:23 (permalink)
0
ĐỐT ĐÈN XEM TRUYỆN " Chí Minh "
LINH TINH CÁC CÁI... GIỰT MÌNH THẤT KINH !!!
 
HCM, NHỮNG MỐI TÌNH “CHƠI CHẠY”


  Chuyện Hồ có vợ con, nhiều người tình, thậm chí đa thê, thì cũng chỉ là những chuyện bình thường, riêng tư, mà trongđám đàn ông, ai cũng có thể mắc phải, không có gì đáng nói và cũng không nên nói.

Nhưng đối với nhân vật Hồ Chí Minh trong lịch sử VN cận đại thì lạt khác. Bởi vì chính Hồ và đám con em đệ tử của ông ta, cho đến nay, vẫn ngoạc mồm ra ca tụng là “Bác Hồ hy sinh cho công cuộc cứu nước đến quên cả hạnh phúc riêng tư của mình”, “Bác Hồ là ông thánh”, v.v… Thậm chí Hồ còn lấy hai bút hiệu là Trần Dân Tiên và T. Lan để viết bài tự ca tụng mình một cách trâng tráo và thô bỉ (đó là các cuốn sách ô nhục “Đời hoạt động của Bác Hồ” và “Vừa đi vừa ngước nhìn”).

Chính vì những lý do đó mà người ta đã đi tìm và dần dần đã “bật mí” ra biết bao nhiêu điều tầm thường, đôi khi rất bẩn thỉu về các cuộc tình ái riêng tư của Hồ, một con qủy dâm dục và lường gạt. Và điều quan trọng nhất là từ Hồ trở xuống đến lũ đàn em, con cháu đều là một lũ nói láo, nói láo đến độ trơ trẽn, vô liêm sỉ.

Ngoài những “mối tình lớn” có cưới hỏi, có con được công nhận một cách bán chính thức đã được trưng dẫn với các bằng chứng hiển nhiên, chính xác như 4 người tạm gọi là “vợ chính thức” :

1- Tăng Tuyết Minh (Quảng Châu, Trung Hoa), từ tháng 10/1926 đến tháng 5/1927, sau đó “quất ngựa truy phong”.

2- Nguyễn Thị Minh Khai (trong khoảng 1931-1933). Sau đó, Minh Khai đã bỏ Hồ đểlấy Lê Hồng Phong. Mấy năm sau, cả hai vợ chồng này lần lượt đêu bị Pháp bắt, rồi bị xử bắn hay chết trong tù. Phải chăng chính Hồ đã dàn dựng để trả mối…hận tình ?

3- Nông Thị Ngát (người thiểu số, tại hang Pac Bó, Cao Bằng), trong khoảng 1940-1942, mẹ Nông Đức Mạnh.

4- Nông Thị Xuân (người thiểu số, tại Hà Nội), từ 1956-1957, mẹ Nguyễn Tất Trung, bị Hồ cho đàn em thủ tiêu vì cô này đòi phải “công khai” mối tình này.
Ngoài ra còn cả chục mối tình nhỏ hơn, nhưng lại thuộc loại lem nhem, lén lút,đôi khi lại là màn cướp vợ của bạn bè, đồng chí, họ hàng với những thủ đoạn vô cùng bỉ ổi và đê tiện. Những vụ này rất ít người biết vì những người trong cuộcđã bị thủ tiêu để bịt miệng. Tuy vậy vẫn còn người biết và lần hồi đã được kểlại, hoặc tìm thấy những tài liệu trong kho lưu trữ của tình báo, mật vụ Nga sau khi chế độ CS ở đây cáo chung. Ta có thể kể :

1- Marie Bière : Theo tác gỉa Thành Tín (tức Bùi Tín) trong tác phẩm “Vềba ông thánh”, xuất bản tháng 5/1995, trang 149 : “Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh (tại Paris), ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên Marie Bière nào đó…”.

2- Lý Huệ Khanh : theo một tài liệu, năm 1927 (thời gian Hồ vừa cưới Tăng Tuyết Minh được vài tháng), Hồ đã dụ dỗ em gái của Lý Huệ Quần (Tàu, vợ Lâm Đức Thụ,đồng chí thân thiết nhất của Hồ, và cũng là người đã làm mai Tuyết Minh cho Hồ). Có thể cộng thêm với vụ hợp tác cùng Hồ bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp, mà bản án tử hình đã treo trên đầu Thụ, để diệt khẩu. Năm 1945, sau khi Hồ trởthành Chủ tịch nước VN Dân chủ Cộng hòa, Thụ về Hà Nội và đã được Hồ tiếp đón rất trọng thể, nhưng sau đó ít ngày thì Thụ… biến mất. Từ đó, không còn ai gặp hay nghe nói tới Thụ nữa.

3- Lý sâm (Tàu, vợ của Hồ Tùng Mậu) : trong « HoChiMinh », tác gỉa William Duiker có kể câu chuyện về một phụ nữ tên Lý Sâm, lúc đó là vợ Hồ Tùng Mậu, mà Mậu vưà là anh em họ, vừa là đồng chí cốt cán của Hồ lúc đó. Theo William Duiker, Lý Sâm và Hồ đã bị cảnh sát Anh bắt khi đang ngủ chung trong một phòng Hotel ởHongkong vào hồi 2 giờ sáng ngày 6/6/1931 (thời gian này Hồ cũng đang gian díu với người đồng chí trẻ Nguyễn Thị Minh Khai). Lúc này Hồ mang tên là Tống Văn Sơ, nhưng bị mật vụ Anh nhận diện ra Sơ chính là Lý Thụy, là Nguyễn Ái Quốc. Pháp xin dẫn độ Hồ về VN để xử, nhưng vì có sự chống đối mạnh của các nhóm cánh tả ở Anh nên nhà cầm quyền Hongkong phải đưa Hồ ra tòa. Như vậy Hồ bị bắt vì dụdỗ cô em dâu họ vào Hotel để hành lạc chứ không phải vì lý do « chống thực dân Anh » nhu lịch sử đảng CS sau này thêu dệt ra. Riêng Hồ Tùng Mậu, sau khi về VN hoạt động đã bị Pháp bắt và chết trong tù (Hồ Tùng Mậu là họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, và là cha của Hồ Đức Việt, đương kim Ủy viên Bộ Chính Trị khóa 10 củađảng CSVN hiện nay).

4- Vera Vasilieva (Nga) : cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham khảo cuả bà Sophia Judge, một sử gia Mỹ rành tiếng Việt đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về Hồ, nhất là 2 năm Hồ ở Moscou… Theo bà Sophia Judge, khi họpđại hội ở Nga, ngoài Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ còn có người tình Nga tên Vera Vasilieva. Vera đã có con gái riêng và sau này, cô kể cho bà Sophia Judge nghe (trong “Về ba ông thánh”, trang 151) : “Vào dịp Đại hội 4 của Quốc tế CS, cô ta mới 10 tuổi, nhưng còn nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ lại trên ghế dài vào năm 1934…”

Nơi trang 153 sách cùng tên, Bùi Tín còn dẫn bài viết của bà Sophia Judge : “Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Anh còn để lại khi về nước môt valy quần áo anh sắm cho vợ toàn là loại hạng sang, cô bé Nga này lấy ra dùng bao nhiêu năm mới hết”.

Trong hồi ký « Con rồng VN », Cựu hoàng Bảo Đại ghi : « HCM có một người vợ Nga và có chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến » (trang 205). Sở dĩ Cựu hoàng biết chuyện này là khi làm Cố vấn cho chính phủ Liên Hiệp, trong những dịp đi « công tác » với Võ Nguyên Giáp vào năm 1945 và Giápđã kể lại.

5- Đỗ Thị Lạc (đảng viên, theo Hồ về hang Pac Bó năm 1940). Như vậy trong thời gian này, ít nhất, Hồ đã có 2 phụ nữ trẻ bên mình để giải quyết sinh lý là ĐỗThị Lạc và Nông Thị Ngát, tức Nông Thị Trưng (mẹ Nông Đức Mạnh).

Trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, học gỉa Trần Trọng Kim viết rằng ông Hồ có quan hệ tình cảm với một người tên Đỗ Thị Lạc và có con gái với bà này. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện cũng cho biết như trên nhưng kết luận, “Nhưng sauđó thì cả hai mẹ con bà này đều mất tông tích”.

Trong sách “Năng động HCM”, tác giả Thép Mới của CS cũng ghi (trang 143) : “Bác giới thiệu với bản làng người nữ cán bộ hôm qua cùng về với Bác : – Đây đồng chí Lạc thay cháu Nông Thị Trưng về đây ở với đồng bào !”

6- Những câu chuyện chưa thể kiểm chứng : Gần đây, trên hệ thống mạng, có luân lưu một vài tài liệu mà ta chưa thể kiểm chứng một cách chắc chắn, dù chính chúng tôi đã được tiếp chuyện nhiều lần với một Tata đã lớn tuổi (trên 70), khi nghe kể về bài viết này thì Tata này chỉ nói : “Chuyện ấy đúng đấy ! Ngày xưa Tata cũng thế !”

Trước đây mấy năm, vị Tata này có lần đã kể với chúng tôi và một vài người nữa là hồi 1947-1950, khi Tata này khoảng 14, 15 tuổi đã được “tuyển” vào toán thiếu nhi luôn “quấn quýt” bên “Bác”. Toán này có hai nhiệm vụ : ban ngày, mỗi khi “Bác” muốn đi ngang hay vào một làng nào thì các cháu phải vào trước nghe ngóng tình hình ; còn nhiệm vụ buổi tối thì vịTata này chỉ vừa cười vừa nói : “Còn phải hỏi”.

Bài viết ngắn này mang cái tựa rất “xã hội chủ nghĩa” : “Lần gặp Bác Hồ tôi bị mất trinh” với mấy tấm ảnh rất đặc biệt, ký tên Huỳnh ThịThanh Xuân. Nội dung kể lại câu chuyện năm 1964, một nhóm thiếu nhi thuộc những “gia đình cách mạng” ở miền Nam được “tuyển” ra Bắc “tham quan” và gặp Bác Hồ. Huỳnh Thị Thanh Xuân, 15 tuổi, là giao liên cho biệt động thành Đà Nẵng và huyện uỷ Điện Bàn, Đại Lộc. Sau khi gặp Bác, các cháu gái lần lượt đều được Bác ưu ái tiếp riêng từng đứa trong “căn nhà sàn” và đều bị Bác… phá trinh “gây giống” ngay trong đêm.

Chuyện có vẻ như bịa, như đùa, nhưng nếu quý vị có đọc qua bài viết vào tháng 10/2006 của tác giả Hoàng Dũng, cán bộ VP trung ương (thời Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư) thì sẽ thấy dưới chế đô CS, nhất là CSVN, chuyện gì cũng có thểxảy ra.

Theo Hoàng Dũng (do lời kể lạI của Nguyễn Văn Linh), “Bác Hồ” rất “ưa thích” gái Nam Bộ. Do vậy, Bộ Chính trị thời ấy do Lê Duẩn làm Tổng Bí thư, đã yêu cầu Xứ bộ miền Nam tuyển một số cháu gái trẻ đẹp để đưa ra Bắc “phục vụ” Bác. Sau khi “tuyển” xong, chính Võ Văn Kiệt là người sẽ hộ tống “các cháu” ra Bắc… Nhưng vì chiến tranh trở nên ác liệt, đường đi bị nghẽn nên chưa thể đưa ra ngay được. Và trong lúc chờ đợi, chính Kiệt đã “qua mặt Bác” làm cho một “cháu” đẹp nhất trong bọn có họ Phan mang bầu.

Do đó, cô cháu gái họ Phan này phải ở lại và sau sinh một tai, lấy họ mẹ, tức Phan Thanh Nam, một “đại gia” hiện đang “hét ra lửa, mửa rađôla” từ nhiều năm nay ở VN.

Mà chuyện Phan Thanh Nam là con rơi của Võ Văn Kiệt, do Kiệt đã sám “ăn hớt” phần của Bác Hồ thì đám cán bộ trong “B” ai mà không biết. Cũng như chuyện Nguyễn Tấn Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh hay Trần Nam là con rơi của Trần Văn Trà, v.v…, v.v…

Nguyễn Y Vân (ngày 14/10/2010).

<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2014 00:19:11 bởi Phù vân >
Phù vân 10.04.2014 04:04:48 (permalink)
0
TẮT ĐÈN KHÊU NGỌN XUÂN PHONG
THÁNG TƯ KHỞI CUỘC LONG ĐONG HỒNG TRẦN
 
 
 
 


 

NGÀY XƯA...
( tặng các cháu gái "Bác" Hồ )

Ngày xưa con gái vót chông
Ngày nay con gái chổng mông kéo bừa
( ca dao dân gian )
Quê em thương mấy cho vừa
Bốn nghìn năm lẻ tối trưa sáng chiều

Tiền nhân đổ máu đã nhiều
Giữ gìn cương thổ mỹ miều phì nhiêu
Bây giờ hoang mạc tiêu điều
Ba mươi chín độ xuân thiều tan hoang

Em xưa là đứa cháu ngoan
Vót chông giết Mỹ chống càn giặc Tây
Cũng nhờ ơn Bác một tay
Cũng nhờ ơn Đảng mà nay thế này!

Thiên đường xã nghĩa bày chưng
Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời
Bấy lâu làm chuyện trời ơi
Bây giờ trí tuệ đã cơi, đã làu

Ngụy  nhào, Mỹ cút :  thờ Tàu
Cho trâu nghĩ khỏe em bừa thay trâu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chúng em nhất trí làm Trâu thay Người

Phù Vân . Tháng Tư Đen 2014
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2014 05:02:19 bởi Phù vân >
dzuylynh 11.04.2014 01:10:41 (permalink)
0
 


https://app.box.com/s/gdb467whkgmwwmf5jmur
NGÓN TAY PHẬT TỔ
  Truyện ngắn Phạm lưu Vũ | dzuylynh diễn đọc
  ( tặng LọLem.ChiềuBuồn.thiênthanh )
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.04.2014 05:11:31 bởi dzuylynh >
Phù vân 11.04.2014 02:29:40 (permalink)
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN
 
NGÀY VINH DANH CỜ VÀNG QUỐC GIA

TƯỞNG NHỚ NGÀY QUỐC NẠN THÁNG TƯ ĐEN

 
Lại một tháng tư đen trở về với dân tộc Việt Nam. Tháng mà cách đây 39 năm đồng bào miền nam Việt Nam không ngày nào quên đi được, Tháng mà đảng cộng sản Việt Nam vô thần do ông tham tàn Hồ Chí Minh đã đem về để gây nên triệu tang tóc cho dân tộc Việt Nam. Không riêng gì Miền Nam Việt Nam mà cho cả đất nước và dân tộc, ngày nay đã hiện rõ nguyên hình là đảng của những tên Mafia đỏ “hèn với giặc vá ác với dân” đang bán nước cho tàu cộng.  
 
Vì một chế độc độc tài đảng trị, hà khắc với dân tộc cướp nhà, cướp đất, cướp hết cả tự do, nhân quyền, tù đày, tra tấn v. v… mà những người quốc gia chân chính yêu chuộng sự tự do dân chủ và hòa bình ,không thể sống nổi. Từ khi có đảng cộng sản cai trị tàn bạo, bao triệu người đã phải rời bỏ quê cha đất tổ, đánh đổi cả mạng sống mình để lấy hai chữ “tự do”. Nhưng dù có sống lưu vong khắp năm Châu chúng tôi vẫn mang theo lá cớ vàng ba sọc đỏ linh thiêng biểu tượng cho tự do của dân tộc, của hồn thiêng sông núi.
 
Lá cờ vàng của hồn thiêng Việt Tộc
Màu cao sang nền gốc Nhị Trưng Vương
Hồn trân trọng yêu tổ quốc quê hương
Tim vinh danh rước trên đường thế giới.
 

 
Vâng! chúng tôi là những người yêu tổ quốc, quê hương. Mỗi năm tháng tư đen trở về lại rước lá quốc kỳ biểu tượng cho “tự do” đi bộ xuyên quốc gia trên châu Âu này để vinh danh. Điểm đến cũa ngày lễ vinh danh hôm nay ngày 05.04.2014 tại thành phố Mönchengladbach.
 

 
Những anh chị em vinh danh cờ vàng, đã dương cao ngọn cờ vàng để bộ hành vào lúc 6giờ sáng, từ thành phố Venlo Hòa Lan tới thành phố Mönchengladbach Đức Quốc là hơn (32Km). Cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản hôm nay đã quy tụ rất đông đảo đồng bào từ nhiều nơi về đây để đón rước lá quốc kỳ linh thiêng của dân tộc.
 

 
Đồng bào nơi đây đã ra tận xa để nghênh đón lá quốc kỳ và những anh chị em “bộ hành kỳ” từ Hòa Lan, Bỉ, Đức và Pháp. Ngọn đuốc cháy sáng đi đầu dẫn, tiếp theo bốn nam thanh nữ tú trân trọng rước lá quốc kỳ qua phố, theo sau là 4 lá cờ tự do bay phất phới trên phần đất tự do dân chủ này. Về đến địa điểm hai bên đường có hai hàng cờ vàng đang tung bay và đồng bào đón mừng rước vào hội trường St. Johanes.
 
Hiện diện trong ngày lễ hôm nay tôi thấy có những vị đại điện các đoàn thể và báo chí như sau:
Lm Trần Đức Minh đền từ Hòa Lan.
Ông bà Ms. Huỳnh Văn Công đến từ Pháp Quốc
Cư sĩ Nguyễn Kim Sơn ở Đức
Bs, Trần Văn Tích
CT, Ông Trịnh đỗ tôn Vinh PCT
Liên hội NVTN. tại Đức.
Ts, Nguyễn Ngọc Hùng cộng tác viên Liên Hội.
Ông Trần văn Các đaị diện Hội NVTNCS Bremen.
Ông Lê Trung Ưng đại diên Hội NVTNCS Oldenwald
Bà phương thị Phi Nga, bà phạm thị Bích Thủy đại diện hội phụ nữ việt nam tự do tại đức.
Ông Đinh Kim Tân, Ông Bùi văn Toàn cựu CTLĐCGVN. tại Đức
Ông Nguyễn xuân Lộc Cựu PCT: Liên đoàn, đương kim phó chũ tịch CĐ. Pa & Es
Ông Hồ Đông đại diện CĐCGMG.
Ông võ sư, Võ Tân Tiến đại diện Vovinam Bỉ Quốc.
Chị Trần thị kim Sương đến từ Đan Mạch, một chứng nhân sống trong trại tù cổng trời miền Bắc VN.
Ông ngọc Long đặc phái viên RADIO VNHH Châu Âu.
Ca sĩ Hạt Sương Khuya đến từ Pháp Quốc,
Ban nhạc Minh trí và văn Sơn đến Frankfurt – Odenwald
Qúy đồng hương xa gần đến tham dự MG. Krefeld, Düsseldoft, Bonn, Oberausen Frankfurt, Köln,Aachen, Kempen, Viersen.v.v…)
 

 
Tiếp đến là nghi thức chào quốc kỳ và hát quốc ca VNCH. và phần tưởng niệm những anh hùng đã hy sinh xương máu cho quê hương, những anh linh đã bỏ mình dưới chế độ độc tài cộng sản nơi rừng sâu nước độc hay lòng đại dương biển cả v.v…
 

 
Ba vị đại diện tôn giáo tiến lên thắp hương trước linh đài tổ quốc cầu cho đất Việt sớm được tự do gồm Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Minh, Mục Sư Hùynh Văn Công và cư sĩ phật giáo Nguyễn Kim Sơn. Tiếp đến là từng đoàn người dâng ngọn nến hương lòng lên trước bàn thờ tổ quốc đặt xuống chung quanh hình bản đồ Việt Nam với ý niệm mỗi người một ngọn nến sẽ thắp sáng cả đất nước vào một ngày rất gần. (Bản nhạc Đêm nguyện cầu của Lê minh Bằng được ca sĩ Thy Kim trình bày trong phần thắp nến cầu nguyện làm tăng thêm phần linh thiêng.)
 

 
Tiếp theo ông chủ tịch cộng đồng người Việt TNcs. Nguyễn Văn Rị trưởng ban tổ chức chào mừng các nhân sĩ từ khắp nơi về đây.
 
Kính thưa:
Chư vị Chức sắc Tôn giáo,
Quý vị Đại diện các Đảng phái Chính trị
Quý vị Đại diện các Đoàn thể, Hiệp hội,
các Tổ chức Dân sự Quý vị Đại diện các cơ quan Truyền thông, Báo chí,
Quý vị Nhân sĩ, Mạnh Thường Quân, và toàn thể Quý đồng hương.
Chúng tôi rất vinh dự được phép nhân danh ban tổ chức, Ban chấp hành Hội Người Việt Tị Nạn tỉnh Mönchengladbach để ngỏ lời chào mừng trân trọng đến toàn thể Quý vị Quan khách đang có mặt trong Buổi lễ tiếp rước và “Vinh danh Lá Cờ Vàng” do các Vận động viên khởi xướng và đồng thời tưởng niệm Ngày Quốc hận 30 tháng 4 tại hội trường ở tỉnh nhà.
 
Kính thưa Quý vị,
Lá cờ vàng ba sọc đỏ là linh hồn cuả Tổ quốc Viêt nam tự do, là biểu hiệu của dân chủ, nhân quyền và là linh hồn của biết bao chiến sĩ anh hùng dân tộc đã lấy máu xương của mình để chiến đấu gìn giữ giang sơn, chống lại sự bành trướng của chủ thuyết Cộng sản vô thần vốn rắp tâm nhuộm đỏ các nước trên thế giới. Cộng sản Việt nam, sau khi thôn tính được miền Nam tự do, chúng đã lộ nguyên hình qua chính sách cai trị độc tài, đảng trị, “hèn với giặc, ác với dân”, bần cùng hoá nhân dân. Thay vì đem lại cơm no áo ấm cho đồng bào như chính sách “hữu sản hoá”, hoặc “Người Cày có Ruộng”, trái lại họ tước đoạt tài sản người dân qua chính sách đánh tư sản, vơ vét vàng bạc, đổi tiền, quy hoạch đất đai trong kế sách bịp bợm “đất đai là sở hữu toàn dân” để cướp sạch, tước đoạt quyền sống của toàn dân v.v. Đó là hai mặt trắng đen của chính nghĩa và tà quyền phi nhân toàn trị.
 

 
Chúng ta, hôm nay tiếp rước nhóm Vinh danh Lá cờ vàng, một lần nữa xác định lập trường yêu tổ quốc tự do, chống độc tài, ghi nhận công lao xương máu của các chiến sĩ tự do, nhằm nói lên chính nghĩa sáng ngời về nhân quyền, quyền sống của đồng bào trước tiền đồ của Việt tộc, cảnh tỉnh trước họa xâm lăng, thôn tính của bè lũ bành trướng Bắc kinh mà trận hải chiến Hoàng sa của hải quân Việt nam cộng hoà năm 1974 là một bằng chứng lịch sử điển hình nhất.
 
Nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc hận 30 tháng 4 năm nay, chúng ta quyết tâm ủng hộ công cuộc tranh đấu vì hạnh phúc của 90 triệu đồng bào, qua buổi lễ ngày “VINH DANH CỜ VÀNG” hôm nay.
 
Kính thưa Qúy vị:
Đây là việc làm đầy ý nghĩa của những người yêu chuộng tự do, dân chủ thật sự. Chúng tôi tin tưởng phong trào nầy sẽ gây được tiếng vang lớn trong Cộng đồng Hại ngoại và trong nước sau cuộc hành trình tại Âu châu, từ Hoà Lan xuyên qua Đức, Bỉ về Pháp, và chắc chắc tại các trạm dừng chân, Nhóm Vinh danh Cờ Vàng sẽ được các Cộng đồng sở tại chào đón một cách nồng nhiệt như Quý vị có dịp chứng kiến trong buổi lễ ngày hôm nay. Một lần nữa, trong tinh thần „Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách“, chúng tôi vô cùng biết ơn, cảm kích với tấm lòng dấn thân, ủng hộ sinh hoạt Cộng đồng của Quý vị. Xin trân trọng kính chào qúy chức sắc và qúy vị trong tâm tình tri ân và đoàn kết.
 

 
Bs.Trần Văn Tích chủ tịch liên hội người Việt tị nạn cộng sản tại cộng hòa liên bang Đức thuyết trình ngắn gọn về một vài lá quốc kỳ của Mỹ và Nga là những nước có liện quan trực tiếp tới Việt Nam trong 2 chủ nghĩa đế quốc. Mỹ thì không cần phải bàn nhiều lắm. Nga thì chúng ta thấy lá cờ hiện tại của nước Nga mang màu “trắng xanh đỏ” đây là lá cờ từ khi nước Nga chưa có cộng sản. Khi cộng sản nhuộm đỏ được nước Nga thì đã dùng cờ máu. Người dân Nga lưu vong như chúng ta bây giờ vẫn tôn vinh lá quốc kỳ linh thiêng biểu tượng cho “tự do” đó và sau hơn bảy mươi năm tranh đấu và đảng cộng sản sắt máu Nga đã sụp đổ và lá cờ tự do xưa lại tung bay trên cả đất nước rộng lớn Nga bây giờ. Còn lá cờ vàng ba sọc đỏ linh thiêng của chúng ta chắc chắn rằng một ngày không xa nữa cũng sẽ quay trở lại như cờ Nga hiện nay để tung bay trên đất nước thân yêu Việt Nam của chúng ta. Chung tôi rất trân trọng những việc làm của cộng đồng và đặc biết của những anh chị em vinh danh cờ vàng để kỳ hành đi xuyên 4 nước Hòa Lan, Đức, Bỉ, và Pháp trong trong tháng tư đen này. Chắc chắn rằng mỗi ngày lại có thêm những đóng góp tiếp sức thêm của những nước kế tiếp nữa.
 

 
Tiếp theo là một số phát biểu của những đại diện các đoàn thể. Trong đây tôi có chú trọng đặc biệt của chị Trần thị kim Sương đến từ Đan Mạch, một chứng nhân sống trong trại tù cổng trời miền Bắc VN.
 

 
Tóm lược sơ lại là chị bị cộng sản bắt đi tù sau năm 1975 lúc trước chị đang làm việc cho hoa kỳ và bị nghi cho là CIA. nên cộng sản bắt chị đi đày ngoài bắc nơi trại cổng trời nổi tiếng nhất trong các trại khổ sai của csvn. Cái ác ôn của đám cai tù ở đây là ngoài những lao động khổ sai ra các nữ tù thường là phải phục vu nhu cầu sinh lý cho chúng nếu ai muốn có ăn và đỡ bị đày đọa hơn. chị vì không chấp nhận những thứ đó nên bị đầy đọa vô cùng thê lương. Tổng cộng chị đã tám lần vượt ngục và vượt biên nhưng bất thành. Bây giờ chị đã thoát ra được khỏi nhà tù lớn và đang định cư ở Đan Mạch vì sợ mất nhiều thời gian của ngày hôm nay nên chị chỉ chia sẻ sơ sơ vậy thôi, nếu có một dịp nào thời gian cho phép thì chị sẽ kể rõ hơn và nhiều hơn.
 

 
Tôi cũng rất cảm động khi nghe chia sẽ của một trong 6 anh trong đoàn “bộ hành kỳ” vinh danh cờ vàng tự do hôm nay. Anh nhớ lại những người lính TQLC. bị bỏ rơi lại ở Đà Nẵng trước ngày 30 tháng tư đen 1975. mà anh vẫn còn thổn thức cho đến hôm nay. Anh đem theo lá cờ tổ quốc mãi và bước đi cho đến một ngày sẽ mang lá cờ này trở lại trên quê hương đất Việt thân yêu của chúng ta. Và anh chắc chắn rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ linh thiêng tượng trưng cho 3 miền Bắc Trung Nam sẽ tung bay phất phới trên quê hương thân yêu ngàn đời bất diệt.
 

 
Một chương trình vặn nghệ vô cùng hấp dẫn cho ngày Vinh Danh cờ vàng và tưởng niệm 30.04.1975:
1. Tất cả các ca sĩ Nam Nữ : Hợp ca Cờ bay trên cổ thành Quảng trị.
2 . Đơn ca : Hạt sương khuya Pháp Quốc. Em nhớ mầu cờ Nguyệt Ánh
3. Đơn Ca : Lê Quang Frankfurt Một lần biên viễn xót xa Việt Dũng
4. Đơn ca : Thanh Xuân —– Ai trở về xứ Việt Việt Dũng
5. Đơn ca : Thụy Vy MG Khi xa Sải gòn Lê Uyên Phương
6. Đơn ca : Minh Nguyẽt Frankfurt Mời em về Việt Dũng
7. Đơn ca : Lưu phát Tấn Hòa lan Hùng ca trai thế hệ Quốc Anh
8. Đơn ca : Thy Kim MG Em đi rồi Lam phương
9.Đơn ca : Bích Phượng Frankfurt Anh Không chết đâu anh Trần thiện Thanh
10. Đơn ca. Hồng Tâm Odenwald chuyến tầu hoàng hôn Minh kỳ-H.Linh
11. Đơn ca. Bích Thủy Frankfurt Ngâm thơ, Gởi người tù xứ Việt
12. Bốn ca sĩ: Minh Nguyệt, Thu Thủy, Lê Quang, Bích Phượng. Frankfurt Triệu con Tim
13. Đơn ca. Hồng thủy Odenwald Cô lái đò bến hạ Hoàng thi Thơ
14. Đơn ca. Thu Thủy Frankfurt Chuyện hoa sim Lê minh Bằng
15. Đơn ca. Tuyết Lê Hòa lan Nước mắt cho Sài gòn Nam Lộc
16. Đơn ca Ngọc Yến Frankfurt Những đóm mắt hỏa châu Châu Kỳ
17. Đơn ca. Vĩnh khoa Frakfurt Việt nam tôi đâu Việt Khang
18. Đơn ca Ngọc Ánh MG Dấu tình sầu Ngô thụy Miên
 
Phần 2 của chương trình 19 gìờ 00
1 Tất ca các ca sĩ Nam Nữ : Hợp ca Một ngày Việt Nam
2. Đơn ca, Hồng Tâm Odenwald Ngoại ô buồn Anh Bằng
3. Đơn ca. Tuyết Lê Hòa lan Bài hát đấu tranh Nguyệt Ánh
4. Đơn ca. Hồng Thủy Odenwald hương về vùng hoả tuyến Lê minh Bằng
5. Đơn ca. Ngọc Yến Frankfurt Nắng đẹp miền nam Lam Sơn
6. Đơn ca. Thanh Xuân Frankfurt Biết bao giờ trở lại Ngô thụy Miên
7. Bốn ca sĩ: Minh Nguyệt, Thu Thủy, Lê Quang, Bích Phượng. Frankfurt, Bên em đang có ta
8. Đơn ca. Bích Phượng Frankfurt Bức tâm thư Lam Phương
9. Đơn ca. Ngọc Ánh MG Bản tình cuối Ngô thụy Miên
10. Đơn ca. Hồng Tâm Odenwald Đa tạ Anh việt Thu
11. Đơn ca. Hạt sương Khuya Pháp Thiên thần trong bóng tối Trúc Hồ
12. Song ca. Thy Kim-Hạt sương Khuya (Pháp-Đức) Nguyễn thị Sài gòn Việt Dũng
13. Đơn ca Lưu phát Tấn Hòa lan Lời Kinh đêm Việt Dũng
14. Hợp ca tất ca các ca sĩ Nam Nữ Phải lên Tiếng Trần anh Bằng
15.Hợp ca tất ca các ca sĩ Nam Nữ Thề không phản bội quê hương ( Hùng ca việt sử )
 

 
Chương trình kéo dài từ 13giờ 30 cho tới 21giờ vẫn chưa muốn chấm dứt. Một chương trình văn nghệ thất phong phú với những dọng ca phải nói lên một lời là rất hay và một ngày lễ VINH DANH CỜ VÀNG rất ý nghĩa và đầy cảm động.
 
Thanh Sơn 06.04.2014
Ghi hình và tường thuật
 
——————– ***************—————
 
Phụ chú.
Đêm qua sau khi dự ngày lễ về đến nhà thì tôi nhận được tin và hình ảnh này của người bạn trên FB. nên đưa luôn vào đây vì cờ vàng quốc gia ngày hôm qua đã xuất hiện và tung bay trên một nóc nhà ở Nghệ An. Đây có thể nói rằng sau gần thế kỷ bây giờ mới có.
Lá cờ vàng 3 sọc đỏ còn gọi là lá cờ Tự do và Di sản, với ý nghĩa:
Nền vàng tượng trưng cho đất mẹ Việt Nam, ba sọc đỏ trên lá cờ tượng trưng cho Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đoàn kết dưới một ngọn cờ, thể hiện lãnh thổ Việt Nam là lãnh thổ bất khả phân;
Cờ vàng với nền sọc đỏ, còn tượng trưng cho dòng máu đỏ da vàng, vốn dòng con Lạc cháu Hồng, là lá cờ tượng trưng cho cội nguồn của Việt tộc;
Ba sọc đỏ là quẻ Càn (trong kinh Dịch), tượng trưng cho trời; nền vàng tượng trưng cho đất; do đó lá cờ vàng 3 sọc đỏ là lá cờ Càn-Khôn, tượng trưng cho sự bất diệt.
Bởi lý do đó, mà đến hôm nay và cho đến mai sau, lá cờ vàng 3 sọc đỏ sẽ mãi mãi tung bay kiêu hãnh trên khắp năm châu.
Kết quả: Lá cờ TỰ DO tung bay lần đầu tiên tại xứ Nghệ, sau hơn 90 năm bị gián đoạn (từ thời Thành Thái 1890-1920). 15h ngày mồng 4 tháng Tư năm 2014.
 

 

 
Chắc chắn rằng một ngày không xa những lá cờ tự do sẽ bay phất phới khắp quê hương.
 
Thanh Sơn 06.04.2014
 
Xem thêm hình ảnh
https://plus.google.com/u/0/photos/114927148927567597565/albums/5998900536080593505?authkey=CID068Hgt7CnpAE
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2014 20:48:03 bởi Phù vân >
da vàng 11.04.2014 20:44:03 (permalink)
0
 
 
 
 
Thảm Sát tại Cai Lậy ngày 09 tháng ba 1974
 
[YouTube]http://www.youtube.com/watch?v=531YaTAcZ34[/YouTube]
dzuylynh 12.04.2014 03:16:09 (permalink)
0
 
 
 
 
 
e  m    v  ề   p  h  ố    c  ũ
đônghương|dzuylynh
album Cánh Thiên Di
 
một ngày buồn tênh, em về trên phố
mênh mang mênh mang, lòng phố tiêu điều
một lời dấu yêu, mênh mông dịu vợi
một vùng gió Thu mưa rơi thật vội

một ngày đầu tiên, em chào mây rối
con tim đơn côi, tìm bóng hôm nào
mịt mờ cánh âu bay qua biển rộng
tìm về dấu chân anh cho môi muộn phiền
một lần ... xa ... rồi quên ...


một ngày hồn nhiên, em từ thơ ấu
mang theo mong manh lời hứa cau trầu
để rồi nắng qua Đông sang trở lại
nhìn mình hoá trang trên môi khờ dại
cho hạt lệ âm thầm rơi nhanh rơi nhanh

anh đi rồi, anh xa rồi!
lòng chiều bối rối, dáng phố quên vui
đàn chim sẻ cũ và mùa Đông nào xa xôi...
tim em hóa đá trên lề phố hôm nay
thành phố vừa lên đèn
bóng một loài hoa mong manh
run run trong gió hoàng hôn 
vỡ những nhịp đau
bờ môi luống cuống
nhìn bước chân ngõ xưa mỏi mòn
chợt quên mất tên nhau

để rồi chợt quên mất tên nhau ...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.04.2014 05:18:26 bởi dzuylynh >
da vàng 12.04.2014 15:46:12 (permalink)
0
 
 
 
 
Lễ Khánh thành Bức tường Tưởng niệm Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà
 

 
Buổi lễ Khánh thành Bức tường Tưởng niệm Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà đã được khai mạc lúc 11 giờ sáng Thứ Bảy ngày 5 tháng Tư năm 2014 do Biệt Đoàn Văn Nghệ Lam Sơn tổ chức tại công viên History of San Jose Park. thành phố San Jose. Khoảng 300 quan khách tham dự buổi lễ trong không khí trang nghiêm và long trọng.
 

    [YouTube]https://www.youtube.com/watch?v=nbV3jM24lxI[/YouTube]
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.04.2014 15:49:49 bởi da vàng >
dzuylynh 12.04.2014 23:25:15 (permalink)
0
 
VIỆT- NAM CỘNG- HÒA ĐỐI XỬ RẤT NHÂN BẢN VỚI TÔI
 

 
Tôi còn nhớ rõ một buổi trưa nắng chang chang của năm 78, 79 gì đó. Đang ngồi đợi tr…ên xe buýt ở Lăng Cha Cả khởi hành đi Chợ Lớn thì tôi nghe có tiếng hát rất hay, nhưng vô cùng u uất: “Rừng lá xanh xanh cây phủ đường đi… Thành phố sau lưng…” Rồi bước lên xe là một thương binh VNCH trẻ khoảng 25,26 tuổi. Anh ta cụt một chân, trên cổ treo cây guitar vừa đàn hát vừa xin tiền. Anh ta mặc chiếc quần của Thủy Quân Lục Chiến rằn sọc ngang, áo thun bạc phếch, trên đầu đội nón vải đi rừng của lính VNCH. 
 
Dường như một số người trên xe biết và có cảm tình với anh ta nên có lẽ nói cho mọi người đều biết: “Ảnh là Thủy Quân Lục Chiến, bây giờ tội nghiệp lắm…”
Người thương binh VNCH khẻ gật đầu như muốn chào mọi ngưòi nhưng vẫn hát.. Một bà cụ ngồi phía sau chạy lên dúi vào tay anh ta mấy cái bánh ú và hỏi:
- “Q. sáng giờ con ăn gì chưa?”.

Người thương binh ngưng hát trả lời:
- “Dạ, con ăn chút bánh mì rồi ngoại…”

Thì ra bà cụ biết người thương binh này và vẫn thường giúp đỡ anh ta cho nên anh ta gọi bà cụ là ngoại. Đây cũng là cách gọi thân mật trong của người Nam.

Lúc đó có nhiều người dúi tiền vào chiếc túi vải treo trước ngực người thương binh. Mỗi lần ai cho anh, anh đều nói: “Xin cảm ơn ông / bà”. Dường như mọi người đều cho một ít như muốn nói “Tặng anh một chút để anh sống qua ngày… Chúng tôi dù sao còn may mắn hơn anh…”

Khi anh ta bước gần đến tôi, tôi nhìn gương mặt anh ta tôi có cảm tình ngay. Gương mặt sáng và thông minh. Anh tuy mất một chân nhưng rất rắn chắc. Tôi cũng lấy ít tiền dúi vào túi vải, anh ta nói:
- “Đa tạ ông”.

Tự dưng tôi cầm lấy tay anh ta và hỏi:
- “Anh bị thương năm nào?”

Anh trả lời:
-”Dạ em bị thương năm 1972 đó ông Thầy….”
Có lẽ anh ta nghĩ tôi là sĩ quan VNCH nên trả lời và gọi tôi “Ông Thầy”. Lính VNCH thường gọi sĩ quan là “Ông Thầy”.

Tôi nghe thế tôi rất xúc động vì tôi cũng bị thương năm 1972… có điều là chúng tôi…. khác chiến tuyến nhưng tôi lại được lính Biệt Động Quân VNCH cứu sống…
Tôi vội nói:
- “Tôi cũng bị thương năm 72…”

Anh ta dường như không chú ý câu nói của tôi và như có người chia sẻ, anh ta khe khẽ kể tiếp:
- “Đơn vị Thủy Quân Lục Chiến của em chặn quân Bắc Việt tại bờ Nam sông Thạch Hãn vào tháng Tư năm 1972… tụi nó đông lắm, xe tăng, bộ binh của chúng đông nghẹt luôn… Tiểu Đoàn 3 Sói Biển tụi em tuy chặn đứng chúng nhưng thiệt hại 50 % đó ông thầy ạ… Em bị thương trận đó… Bây giờ… Khổ lắm…”

Dường như nước mắt của cả tôi và anh ta đều giàn giụa…
Anh ta khẽ gật đầu chào và quay đi….
Anh bước xuống xe và tiếp tục lời hát: “…Sao không hát cho những bà mẹ từng đêm nhớ con xa… Hay hát cho những người vừa nằm xuống chiều qua… ”

Bóng người thương binh TQLC dần lẫn vào đám đông những người buôn thúng bán bưng…. những đứa trẻ gầy gò bưng bình trà đá bán dạo tại bến xe… Trời trưa nắng chang chang nhưng tôi nghe như mưa đổ trong lòng… Cơn mưa khóc hận cho miền Nam hưng thịnh nhân bản ngày nào bây giờ đang sống dưới tay loài quỉ Đỏ…

Và từ đó tôi không có dịp gặp lại ngưòi thương binh Thủy Quân Lục Chiến đó… Không biết anh trôi dạt nơi nào….
Anh bị thương năm 72, tôi cũng bị thương năm 72… Anh và tôi cùng được chữa trị bởi Quân Y Viện VNCH… Không biết lúc đó tôi và anh có cùng Quân Y Viện không? Tôi lúc đó được nằm trên giường… Anh có thể nằm… dưới đất nhường chỗ cho tôi…
 
(Trích hồi ký của một cựu bộ đội Bắc Việt)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.04.2014 01:50:01 bởi dzuylynh >
dzuylynh 14.04.2014 01:10:14 (permalink)
0
 QUỐC HẬN THỨ 39
 LỊCH SỬ VIỆT NAM CẬN ĐẠI


Sài Gòn thất thủ – Kỳ 1  

Komori Yoshihisa  - Khôi Nguyên dịch

 
Đứng trên bục gỗ trước máy phóng thanh, lời kêu gọi của ông Kỳ vang dội đến mấy ngàn giáo dân Công Giáo như càng làm tăng thêm dũng khí cho họ [...] Thế nhưng vào sáng ngày 29/4/1975 ông Kỳ đã dùng trực thăng tháo chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày.
 

Hồn Việt Radio - “Sàigòn thất thủ” là tựa đề một loạt ký sự được đăng tải liên tục suốt gần một tháng trên Nhật Báo Sankei trong mục “Đặc Phái Viên của Thế Kỷ 20” từ ngày 29/10 cho đến ngày 27/11/1998. Người thực hiện loạt ký sự này là ký giả Komori Yoshihisa, một đặc phái viên kỳ cựu của Nhật Bản đã có mặt tại Sài Gòn trước và sau thời điểm 30/4/1975. Ông Komori Yoshihisa từng là ký giả của tờ báo Mainichi được biệt phái đến Sài Gòn từ năm 1972 với tính cách là trưởng ban biên tập tại Sài Gòn. Sau đó, đến năm 1987, ông chuyển sang làm việc cho tờ báo Sankei.
 
 
Ký giả Komori Yoshihisa. Nguồn: CSIS.org
 

Cũng qua loạt bài viết liên quan đến sự kiện “Sài Gòn Thất Thủ”, năm 1976 ông Komori Yoshihisa đã nhận được giải thưởng danh giá “Phóng Viên Quốc Tế” Vaugh/Ueda Prize do hai cơ quan truyền thông Mỹ-Nhật UPI và Dentsu sáng lập. Hiện nay, ông đã 72 tuổi và nổi tiếng là một nhà bình luận thời cuộc thế giới kiêm công việc giáo sư danh dự tại trường đại học quốc tế Akita ở Nhật Bản. Ngoài ra, ông cũng từng được biết là một võ sư hướng dẫn môn Nhu Đạo tại đại học Georgetown ở thủ đô Washington, Hoa Kỳ.
 
Vì được chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử liên quan đến chuyện Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam cũng như nội tình của chính phủ Sài Gòn lúc đương thời, ông đã có cái nhìn rất trung thực và đứng đắn về cuộc chiến Việt Nam, vốn rất phức tạp trong một tình thế tương tranh gay gắt mà phe Cộng sản chiếm phần ưu thế lúc bấy giờ, hơn nữa còn bị đảng Cộng sản Việt Nam xuyên tạc bóp méo để đánh lừa dư luận thế giới. Nhận thấy tính cách giá trị lịch sử của loạt bài này, dù đã được viết hơn 15 năm trước, xin giới thiệu phần trích lược trong số 23 bài ký sự của ông Komori Yoshihisa qua phần chuyển dịch của Khôi Nguyên.
 
Cũng cần nhắc lại, trước đây các phần chuyển dịch này của Khôi Nguyên từng được một số báo chí, trang web người Việt hải ngoại đăng tải và đọc lại. 

Kẻ ở, người đi và một sự thật bình thường
 
Xe tăng của quân CSVN trong khuôn viên Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Nguồn: OntheNet
 

“Nếu 500 ngàn trong tổng số 3 triệu dân Sài Gòn cầm súng chiến đấu với một tinh thần quyết tử thì chắc là quân cộng sản Bắc Việt phải chuốc lấy những thất bại nặng nề, và Sài Gòn sẽ trở thành một Stalingrad thứ hai. Lúc đó, dư luận thế giới bắt buộc phải quan tâm để đưa đến những cuộc thương thuyết về vấn đề ngưng chiến tại Việt Nam.”
 
Ngồi trước mặt tôi và sau lưng là những người lính cận vệ trong bộ quân phục Không Quân hùng dũng, cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ với một giọng chắc nịch và quả quyết, đã nói như vậy trong buổi phỏng vấn vào ngày 25/4/1975 tại nhà thờ Lộc Hưng ở ngoại ô thành phố Sài Gòn.
 
Ông Kỳ vốn là một nhân vật nổi tiếng vì trước đó đã giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam như Tư Lệnh Không Quân, Thủ Tướng, Phó Tổng Thống. Ông đã được biết qua báo chí thế giới bằng hình ảnh một người đàn ông có dáng gầy, cao vừa phải, dung mạo đẹp trai, và nhất là bộ ria đen nhánh. Vợ ông là một phụ nhữ xinh đẹp, xuất thân từ giới tiếp viên hàng không.
 
Tuy nhiên, từ năm 1971, trong cuộc tranh đua quyền lực, ông Kỳ đã bại dưới tay ông Nguyễn Văn Thiệu, một nhân vật từng sát cánh với ông lúc trước. Vì thế, ông đã bị hất văng ra khỏi chính trường miền Nam. Sau đó, người ta ít thấy ông Kỳ xuất hiện và cho đến gần thời điểm nguy ngập vào mùa Xuân năm 1975, ông Kỳ đã lên tiếng chỉ trích những thất sách về mặt quân sự cũng như sự thối nát về mặt chính trị của chính quyền Sài Gòn.
 
Vào ngày 25/4/1975 nói trên, trong một buổi tập họp được Ủy Ban Hành Động Cứu Nước do linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo đứng ra tổ chức, ông Kỳ đã đến tham dự và phát biểu. Khi ông Kỳ dùng xe jeep đến nhà thờ Lộc Hưng thì nơi đây đã có gần 3 ngàn giáo dân tụ tập sẵn ngoài sân từ bao giờ. Địa phận Lộc Hưng vốn là nơi cư trú của đa số người Công Giáo miền Bắc tỵ nạn Cộng sản di cư về đây từ năm 1954. Trước khi đến đây, ông Kỳ đã nhận trả lời phỏng vấn của những phóng viên ngoại quốc như chúng tôi.
 
 
[YouTube]http://www.youtube.com/watch?v=EGm8k5T4KV4[/YouTube]
 
 
“Nếu đồng báo nhất trí đoàn kết, thì chúng ta sẽ còn con đường sống. Chúng ta phải cương quyết chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Quân cộng sản chỉ chờ đợi nơi chúng ta tự chia rẽ và tự tan rã mà thôi. Tôi sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu cho tới chết. Tôi muốn nói lên quyết tâm này với dân chúng Sài Gòn. Những người bỏ chạy ngay bây giờ trước khi quân địch tấn công vào đều là những kẻ hèn nhát.”
 
Đứng trên bục gỗ trước máy phóng thanh, lời kêu gọi của ông Kỳ vang dội đến mấy ngàn giáo dân Công Giáo như càng làm tăng thêm dũng khí cho họ.
 
Lúc này, quân Bắc Việt đã tràn đến những cứ điểm phòng thủ cuối cùng quanh vòng đai Sài Gòn sau khi nuốt gọn Xuân Lộc. Và Sài Gòn đang trong tình trạng hồi hộp, căng thẳng về một cuộc tổng công kích cuối cùng của quân Bắc Việt vào ngay lòng thủ đô. Tuy vậy, lúc nghe ông Kỳ diễn thuyết, tôi cũng cảm thấy yên tâm phần nào vì miền Nam vẫn có thể tránh khỏi một cuộc chiến bại toàn diện.
 
Thế nhưng vào sáng ngày 29/4/1975 ông Kỳ đã dùng trực thăng tháo chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày.
 
Từ lúc ông Kỳ bỏ chạy cho đến giây phút cuối cùng khi Sài Gòn rơi vào tay quân Bắc Việt, chỉ đúng một ngày. Trong khoảng thời gian này, số những tướng lãnh cùng binh sĩ VNCH ở lại chiến đấu cũng không phải là ít và có những vị tướng đã hy sinh.
 
 
Bốn vị tướng trong những sỹ quan VNCH đã hy sinh cuối tháng 4, 1975: Lê Nguyên Vỹ TL SĐ5BB, Trần Văn Hai TL SĐ7BB, Lê Văn Hưng TLP QĐ4 QK4 và Nguyễn Khoa Nam TL QDD4 QK4. Nguồn: OntheNet 
(Ghi chú của HVR: Tư lệnh SĐ7BB, Tướng Trần Văn Hai đã tự vẫn ngay trong doanh trại đơn vị)
*
Dọc theo quốc lộ 13, cách Sài Gòn khoảng 50 km về hướng Bắc là căn cứ Lai Khê do sư đoàn 5 VNCH trấn giữ. Đây là một trong năm sư đoàn được phối trí theo thế chiến lược bảo vệ vòng đai thủ đô Sài Gòn. Lúc này, Tổng Tham Mưu chỉ huy quân Bắc Việt là tướng Văn Tiến Dũng đã huy động tất cả 5 quân đoàn gồm 15 sư đoàn với quân số khoảng 200 ngàn để chọc thủng những tuyến phòng thủ vòng đai cuối cùng hầu tiến chiếm Sài Gòn.
 
Đúng vào buổi sáng 30/4/1975, sư đoàn 5 của VNCH đã phải hứng chịu những áp lực nặng nề trước sức tấn công mãnh liệt của quân đoàn 1 Bắc Việt, cuối cùng vì lực lượng quá ít so với quân số hùng hậu của quân Bắc Việt, sư đoàn 5 tan vỡ và vị Tư Lệnh sư đoàn là tướng Lê Nguyên Vỹ đã tự kết liễu vận mạng bằng cái chết hiên ngang, bất khuất.
 
Mặt khác, tại cứ địa Củ Chi cách Sài Gòn khoảng 30km về hướng Tây Bắc, sư đoàn 25 của VNCH cũng bị tấn công dữ dội và ngã gục trước quân đoàn 3 Bắc Việt. Tư Lệnh sư đoàn là tướng Lý Tòng Bá vì muốn bảo vệ sinh mạng binh sĩ nên đã chịu hàng và bị bắt làm tù binh.
 
Ngay cửa khẩu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long là căn cứ Tân An nằm ở hướng Tây Nam Sài Gòn được sư đoàn 22 VNCH trấn thủ cũng không tránh khỏi sự tấn công mãnh liệt của lực lượng Bắc Việt và đã bị tiêu diệt. Kế đến là lực lượng những binh sĩ còn lại của sư đoàn 18 dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo đang trấn đóng tại phía Đông Sài Gòn đã bị đột kích bằng chiến thuật biển người của quân đoàn 2 Bắc Việt. Sau khi thất thủ, tướng Lê Minh Đảo bị bắt làm tù binh.
 
 
Hai vị tướng bị quân CSVN bắt làm tù binh: Lê Minh Đảo và Lý Tòng Bá (tháng 4, 1975). Nguồn: OntheNet
 

Trong tình thế hiểm nghèo này, chỉ còn lại lực lượng duy nhất của sư đoàn 7 ở Mỹ Tho là tương đối có khả năng kéo về Sài Gòn tiếp ứng nhưng vì các trục lộ giao thông đã bị địch quân cắt đứt nên ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, sư đoàn 7 VNCH cũng đành phải đầu hàng.
 
Tiếp theo tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 của VNCH là nơi kiểm soát toàn bộ khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã tận lực trong việc bảo vệ và tiếp ứng cho hai sư đoàn 9 và 21 đang bị uy hiếp trầm trọng, nhưng kết cuộc cũng đành phải bó tay. Vị Tư Lệnh quân khu là tướng Nguyễn Khoa Nam cùng Tư Lệnh Phó là tướng Lê Văn Hưng đã chọn cái chết để bảo vệ khí tiết ngay tại căn cứ Cần Thơ.
*
Đối với tôi, thì việc trong hàng ngũ những tướng lãnh và nhân viên cao cấp của chính quyền miền Nam, người nào bỏ chạy, người nào ở lại tử thủ đã trở thành đối tượng cho sự suy nghĩ về những phương cách xử thế ở đời và là một bài học kinh nghiệm cho bản thân.
 
Những người thường hô hào chiến đấu chống cộng tới cùng, hoặc kêu gọi sự đoàn kết và lòng yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc một cách kịch liệt nhất, lại là những người chạy trốn sớm nhất. Ngược lại, những người có vẻ như thân Mỹ hay thân Pháp lẽ ra phải nhanh chân chạy thoát thì lại hy sinh ở lại chiến đấu. Thêm một lần nữa, tôi cảm nhận được một sự thật rất bình thường là “nếu chỉ dựa vào lời nói của một người, ta sẽ không thể phán đoán hành động của họ như thế nào”.
 
Sau ngày Sài Gòn thất thủ hai năm, tôi được chuyển sang làm đặc phái viên ở Hoa Kỳ và đã có dịp ghé thăm nơi ở mới của ông Nguyễn Cao Kỳ tại California.
 
Từ lúc được chính phủ Hoa Kỳ tiếp nhận cho định cư, ông Kỳ đã mở một siêu thị để kinh doanh ở gần thành phố Los Angeles cách nhà ông khoảng chừng 20km, một ngôi nhà thuộc hạng sang trọng đối với tiêu chuẩn của vùng này. Sau khi nhấn chuông, tôi được ông Kỳ đích thân mở cửa đón tiếp. Trong bộ quần áo màu vàng nâu, ông Kỳ có dáng vẻ của một vị trưởng giả và nếu gọi là có sự thay đổi nơi ông thì có lẽ chỉ là màu của bộ ria nay đã trở thành màu tro nhạt.
 
Ông tiếp tôi tại phòng khách và nhận trả lời cuộc phỏng vấn. Sau khi kể lại những khó khăn ban đầu từ lúc ông cùng vợ và 6 người con 4 trai 2 gái đặt chân tới đây, ông hồi tưởng lại chuyện chiến tranh:
“Tôi đã từng chủ trương rằng, hòa hợp hòa giải với thế lực cộng sản kết cuộc chỉ là một ảo tưởng. Điều này hoàn toàn đúng. Vì vậy, đối với cộng sản chỉ có chọn lựa một trong hai con đường: hoặc đầu hàng, hoặc chiến đấu tới cùng. Về điểm này có thể nói là những nhận thức của Tổng Thống Thiệu rất đúng đắn và chính xác.”
 
Tuy nhiên, ông Kỳ đã không chiến đấu tới cùng với cộng sản.
 
Việc ông vừa tuyên bố sẽ tử thủ tại Sài Gòn sau đó lại bỏ chạy như vậy, quả thật đã khiến tôi khó đề cập đến vì thái độ biểu hiện của ông quá chai cứng:
“Tôi đã cố gắng đến cuối cùng và biết rằng miền Nam sẽ hoàn toàn thất trận nên phải ra đi. Vả lại, tôi cũng chỉ là một dân thường mà thôi. Nếu như lúc đó tôi ở vào vị trí trọng yếu của chính quyền thì chắc chắn tôi sẽ ở lại tử thủ. Tuy vậy, đối với những chiến sĩ VNCH đã chiến đấu đến giờ phút cuối thì tôi rất kính phục và không biết phải dùng lời lẽ gì để biểu hiện cho sự kính phục này.”
 
Nói tóm lại, những lời biện minh, giải thích của ông Kỳ cho dù nghe ở một góc độ nào chăng nữa, quả thật người ta cũng không cảm nhận được ý nghĩa gì cả!
*
©Komori Yoshihisa  & Khôi Nguyên @ HVR


Đón đọc bài tới, Kỳ 2: Xuân Lộc, một chiến thắng ngắn ngủi làm nức lòng dân
 
nguồn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.04.2014 02:12:04 bởi dzuylynh >
Thay đổi trang: << < 404142 > >> | Trang 40 của 58 trang, bài viết từ 586 đến 600 trên tổng số 867 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9