GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM
Thay đổi trang: << < 525354 > >> | Trang 52 của 58 trang, bài viết từ 766 đến 780 trên tổng số 867 bài trong đề mục
thiên thanh 18.12.2014 22:33:29 (permalink)
0
 
 
 
 
* * *
 
 
 
 
 
  Xin Mẹ Maria cho nước con qua ngày can qua.
Đã mấy mươi năm, Mẹ ơi sống trông mong ngày mai,
Một ngày tan chinh chiến vui bình yên.
Hãy ban cho một mùa xuân như ý quên sầu bi.
Đầy ơn phước trong tay Người.
Mẹ ơi! Bao la lòng Maria.
Này đây muôn kinh quỳ lạy tấu dâng lên Bà.
Tạ ơn Thiên Chúa Gabriel truyền tin khấp nơi.
Trần thế thắm bao tình ơn Thánh Nữ Đồng Trinh.
Ave Maria

Dâng về Maria, Đây những linh hồn đầy ưu tư
Khép nép trong lòng Mẹ ôi hết ưu phiền
Đàn con xin Mẹ âu yếm nối cho lành duyên 
Hãy ban cho hương đời đã tan vờ trong ngày qua 
Và đưa tới nơi mơ hồ 
Mẹ ơi! Santa Maria
Lòng con rung lên vì nghe tiếng chuông xa xa 
Từ xưa thơ ấu hoa xuân nở trong gió thơ 
Tàn kiếp, mong linh hồn siêu thoát thiên đường kia
Ave Maria
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.12.2014 23:32:48 bởi thiên thanh >
dzuylynh 20.12.2014 20:25:34 (permalink)
0
 
Nguyệt Hạ


 

Xin chúc anh Dzuylynh và gia quyến
mùa Giáng Sinh tràn đầy ơn lành
và một năm mới 2015 nhiều may mắn.

Nguyệt Hạ


 
Thiên Thanh
 tt xin thân mến chúc ca nhạc sĩ Dzuylynh và các quý bạn Giai Điệu Phù Trầm 
một mùa Giáng Sinh vui tươi hạnh phúc và đầm ấm cùng những người thương yêu và bạn bè 
 

  ***

 Dzuylynh thân chúc BDH / VNTQ
Qúy thi hữu, văn nghệ sỹ, qúy tao nhân mặc khách ẩn danh, Giai Điệu Phù Trầm Fans
Các bạn Cát Ly, Huyền Băng, Nguyệt Hạ, Sen đất, Thiên Thanh, CàNa tn nguyen, Nghinh Nguyen, Tóc Nâu, Thúy Lan, Lê Phú Hải, Nguyên Đỗ, Đông Hương ...
cùng qúy quyến một mùa Giáng Sinh an lành, Năm mới vạn sự như ý.
 
           
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.12.2014 21:59:28 bởi dzuylynh >
dzuylynh 20.12.2014 20:42:50 (permalink)
0
Qúy bằng hữu đã cùng Dzuylynh thưởng thức giọng hát Mezzo Soprano ngọt ngào của nghệ sỹ tài tử Bạch Vân, một bạn thân của GĐPT qua một ca khúc bất hủ không thể thiếu trong các Mùa Giáng Sinh của nhân lọai.
Ở một nơi rất xa, gần cực Nam tinh cầu.
Từ ánh sáng ấm áp của ngọn nến trắng, ly rượu vang nồng màu hổ phách, không gian đọng lại cùng chiếc Microphone và màn hình Karaoke, Bạch Vân, Hòang Vân trải tấm lòng phụng sự hồng ân, buông lơi giai điệu chân thành quyến rũ bởi bảy nốt nhạc phù phép... Những mong cho bạn bè có chút an bình trong cuộc sống phù phiếm chốn nhân gian tạm bợ này. Cám ơn bạn, Thanks nữ ca sỹ Bạch Vân mây trắng thật nhiều!
Trong khung cảnh êm đềm, thánh thiện của Mùa Lễ Giáng Sinh đang đến, một sớm tinh mơ. San Jose những đêm thức chờ mặt trời. Mưa ngòai trời lất phất, dư âm cơn bão rớt còn vương vất thung lũng cùng làn khói thuốc, cốc cà phê đen đặc sánh, ngồi nghe âm điệu thân quen mà thấy lòng ấm áp vô cùng...

Một lần nữa, Dzuylynh xin trân trọng gửi đến tiếng hát vô tiền khóang hậu từ một nghệ sỹ du ca lừng danh thế giới . Nam danh ca Martin Huken, người Hollant sinh năm 1953, ca sĩ Opera đã đoạt giải Holland Got Talent năm 2010, hiện rất nổi danh và đang trình diễn nhiều nơi trên hòan vũ.
Hãy nhìn cô bé con ngây thơ với đôi mắt trong veo hồn nhiên đầy thánh thiện thưởng thức trong suốt buổi trình diễn trên vĩa hè của người nghệ sỹ du ca này để thấy được âm thanh là huyền ngữ vô cùng. Quả thực âm nhạc huyền diệu qúa, âm thanh đến với con người là không biên giới, không phân biệt màu da sắc tộc và tôn giáo.
Nghe EVA MARIA với Martin Huken và bất chợt cảm thấy tâm hồn thật sự bình an, phẳng lặng...

Bên một góc phố, những viên gạch cũ kỹ đã làm vạch nối cho khán thính gỉa gần lại nhau hơn, giọt nước mắt hoen trên mi người thiếu phụ, những nụ cười rạng rỡ trên môi người, những bước đi lẩm chẩm của cô bé thiên thần, chiếc mũ nằm quạnh quẽ dưới lòng đường cũng có chút an bình. Thiên Chúa chính là người sẽ trả công bội hậu cho người hát và người nghe, người biết lắng nghe cuộc hành trình vô biên của âm thanh mầu nhiệm. Âm nhạc không quốc tịch, không ngôn ngữ, không biên giới và cũng không giai cấp. âm nhạc là vô cùng, vô tận.
Và hãy nhìn cái cách mà người ca sỹ trình diễn hết sức chân thành tha thiết để biết rằng tại sao ca khúc này có phép thần thông khiến cho những ưu phiền chốn nhân gian thốt nhiên lắng xuống, và tấm lòng từ tâm trong chúng ta mở ra thênh thang, thênh thang...
Nào, xin mời các bạn, hãy ngồi gần lại bên nhau cùng thưởng thức với Dzuylynh: Tiếng hát của một sứ gỉa mang thông điệp thiên phước đi vinh danh và rao giảng cho nhân lọai : Thông Điệp Tình Thương !
 
 
 AVE MARIA



[TUBE]https://www.youtube.com/watch?v=v8O15DogWgg[/TUBE]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2014 22:41:57 bởi Ct.Ly >
Đóa Hồng Tím 21.12.2014 05:39:50 (permalink)
0
CHUYẾN XE LỬA CHIỀU NOEL
 
gió buốt rét từng cơn qua thành phố
đi song song với bóng bước mình em
em mặc kệ nỗi buồn vui biểu lộ
nồng nàn hôm qua còn để kín dành
 
mưa bay bay, hạt nhiểu đầy vành nón
nón bằng len anh tặng Noel rồi
tay em xua cơn rứt ray gậm nhấm
mỗi một ngày lau chuỗi ngọc quanh môi
 
hai chéo áo tâm tư nhàu, tủi phận
gấu ống quần thấm ướt, cũng đôi khi
buồn qua em, xa anh, hằn giá lạnh
giữ không tròn để thấm ướt Paris
 
trời hư ảo Phố Hồng trong sương sớm
mù sân ga, chuyến tàu cuối sau cùng
em hơ mắt vào khói càfé nóng
tay chạm lên ngực trái, nhịp dập dồn
 
nhìn tấm vé đang cầm, em nôn nức
ngày cuối tuần, mình lên đón anh qua
có nhiều đâu, chỉ bài ba hôm nữa
vậy mà hình như tính mãi không ra
 
đông hương

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2014 05:49:20 bởi thương yêu >
Phù vân 21.12.2014 22:33:46 (permalink)
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

Lễ Giáng Sinh

Ta có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu, một mình hoặc với người khác. Hãy nghĩ tới Thượng Đế nhiều hơn là hơi thở khiến cho cầu nguyện trở thành một thói quen.Và đừng cầu nguyện vào buổi sáng rồi suốt ngày sống như một con người man rợ độc ác.


Photo courtesy: www.freeimageswallpapershd.com
 
Bác sĩ Ý Đức ơi,
Christmas sắp đến rồi, bác sĩ có điều gì chia sẻ với độc giả về ngày lễ lớn này không. Thành Lê- 
 
Chào bạn Thành Lê,
 
Cảm ơn bạn đã nhắc nhở về lễ Giáng Sinh. Vậy chúng tôi xin tạm ngưng nói về sức khỏe để cùng đề cập tới ngày Christmas khá trọng đại này. Trọng đại vì đây là ngày đã được mọi quốc gia, mọi tôn giáo coi như ngày vui chung của nhân loại, chứ không riêng gì đối với tín đồ Thiên Chúa Giáo. Do đó, có người đã nói, Christmas là một cơ hội hãn hữu để nhắc nhở mọi người  có bổn phận đối với những người mà ta không quen biết cũng như đôi khi không ưa thích.Và đồng thời mọi người cũng hân hoan hát các điệu nhạc Giáng sinh như “We wish you a Merry Christmas”, như “Silent Night”, Đêm Thánh Vô Cùng mừng Chúa Hài Đồng ra đời
 
…Ôi Chúa thiên đàng, cam nếm cơ hàn 
Nhấp chén phiền vương phong trần 
Than ôi Chúa thương người đến quên mình 
Bơ vơ chốn quên nhà lúc sinh thành 
Ai đang sống trong lạc thú 
Nhớ rằng Chúa đang đền bù…
 
Theo lời ghi lại thì khi Chúa Jesus cất tiếng khóc chào đời trong một cái máng cỏ ở hang Bethlelem có ba vị Vua phương Đông mang ba món quà đến để bày tỏ sự thành kính của họ. Trong khi đó, những người chăn cừu nghèo khó cũng lòng thành tặng Chúa Jesus hoa quả và những món đồ chơi do chính họ làm ra…
 
Lễ Giáng Sinh Christmas là lễ kỷ niệm  ngày sinh của Chúa Jesus. Christmas gồm có chữ Christ và Mas. Christ là tước vị của Đức Giêsu, chữ Mas là Thánh lễ. Thượng Đế đã gửi con yêu quý của mình xuống thế để chuộc tội và mang lại tình thương, hòa bình, hạnh phúc cho nhân loại. Tuy là lễ riêng của tín đồ Cơ Đốc Giáo, nhưng hầu như mọi người đều trân trọng, chung vui. 
 
Với tất cả, Lễ Giáng Sinh là thời gian tuy ngắn ngủi nhưng tràn ngập thương yêu với những gói quà dưới cây Noel, sao sáng lung linh nơi cửa sổ, những cánh thiệp chúc tụng gửi đó đây, những bữa ăn đoàn tụ thân bằng quyến thuộc với tiếng cười nói hân hoan hạnh phúc, với tuyết trắng phủ kín sân nhà, đường phố…
 
Cho nên, tinh thần của Lễ Giáng Sinh là chia sẻ, bao dung, thương yêu và giảm thiểu giận hờn. 
 
Tiểu thuyết gia Oren Arnold gợi ý về quà tặng Giáng Sinh như sau: “Với kẻ thù, cho sự Tha thứ; với đối thủ cho sự Chịu đựng; với bạn bè cho Trái Tim; với khách hàng cho Phục Vụ Chu Đáo; với các cháu bé Làm Gương Sáng để cháu noi theo và với chính mình, cho niềm Tự Trọng”.
 
Trong thông điệp gửi cho nhân dân Hoa Kỳ, vị Tổng Thống thứ 30 của quốc gia này là Calvin Coolidge (1872-1933), nhắn nhủ: “Christmas không phải là một thời gian hoặc một mùa nhưng là một tâm trạng. Để chào mừng hòa bình và thiện ý, để có đầy đủ tình yêu thương”.
 
Tiểu thuyết  gia nước Anh là Charles Dickens ((1812–1870) cũng đồng ý với “ Tôi luôn nghĩ Christmas như là thời gian vui thú ; một thời gian thân tình, tha thứ, độ lượng, thoải mái; thời gian mà nam cũng như nữ dường như tự do rộng mở trái tim, do đó tôi xin Thượng Đế chúc lành cho Christmas”.
 
Tác giả Wilda English viết :”Thượng Đế ban cho ta ánh sáng của Christmas, đó là niềm tin;  ấm áp của Chrismas, đó là tình yêu; rực rỡ của Christmas, đó là sự trong sáng;  chính trực của Christmas, đó là công lý; lòng tin tưởng ở Christmas, đó là sự thật; mọi ý nghĩa của Christmas, đó là Chúa Giê Su”.
 
Kế cận những bên nhau hạnh phúc, Giáng Sinh còn quá nhiều người không mua, không nhận được quà tặng, không lo được bữa ăn ngon, những em bé bán diêm chết cóng trong đêm băng giá, những đứa con bị cha mẹ bỏ rơi, những người bệnh không được thuốc thang chăm sóc… 
 
Nhưng có Mother Teresa, người được Chúa Jesus kêu gọi để phục vụ những kẻ bất hạnh từ Giáng Sinh năm 1948. Bà từng nói “Mỗi năm tôi khởi  sự việc làm vào ngày Christmas”. 
 
Vì, theo bà, “Là Lễ Giáng Sinh mỗi khi ta để Thượng Đế thương yêu người khác qua ta…và  là Lễ Giáng Sinh  mỗi khi ta mỉm cười với anh em của ta và cứu giúp họ”.
 Đó là thánh ý Thiên Chúa.
 Mà trong Lễ Giáng sinh, thường thường người ta cũng hay cầu nguyện
 
Cầu nguyện không phải chỉ là sự thờ phượng mà còn là một nguồn sinh lực dồi dào, mạnh mẽ mà con người có thể tạo ra. 
 Ảnh hưởng của sự cầu nguyện lên tinh thần và thể chất có thể chứng minh được.  Ảnh hưởng đó được đo lường bằng sự phục hồi thể xác, đưa tới một trí tuệ sáng suốt, một lương tri ổn định và sự thấu hiểu những mặt khàc nhau trong sự giao thiệp giữa mọi người.
 
Nếu ta thành thật tạo ra một thói quen cầu nguyện, cuộc sống của ta sẽ thay đổi rõ ràng. Lời cầu nguyện sẽ để lại trong hành động và thái độ của ta những dấu ấn khó xóa nhòa. Một tác phong bình thản, một nét mặt ung dung tự tại ở những ai đã có một nội tâm phong phú. Trong chiều xâu của lương tri là ngọn lửa của nhân ái. Và con người tự nhìn thấy mình. Họ nhìn ra tính ích kỷ, thái độ kiêu hãnh, tâm trạng  sợ hãi, lòng tham lam, những sai lầm ngớ ngẩn của mình. Họ sẽ triển khai một nghĩa vụ đạo đức, một trí tuệ khiêm cung lâu dài. 
 
Câu nói, “Hãy cầu xin và sẽ được đáp ứng” đã được chứng minh bằng kinh nghiệm của nhân loại.Thực ra, cầu nguyện không thể mang lại sự sống cho em bé đã chút hơi thở cuối cùng hoặc chấm dứt được cơn đau thể chất. Nhưng cầu nguyện, như hạt radium, là nguồn sinh lực tự tạo sáng chói không bao giờ hết. Khi cầu nguyện, ta đã kết nối bản thân với nguồn sức mạnh bất tận đang quay cuồng trong vũ trụ. Ta xin một phần năng lượng đó cho nhu cầu thiếu hụt của ta để tăng cường bổi bổ. Nhưng đừng cầu nguyện Thượng Đế để thỏa mãn lòng ham muốn nhất thời. 
 
Ta có thể cầu nguyện bất cứ ở đâu, một mình hoặc với người khác. Hãy nghĩ tới Thượng Đế nhiều hơn là hơi thở khiến cho cầu nguyện trở thành một thói quen.Và đừng cầu nguyện vào buổi sáng rồi suốt ngày sống như một con người man rợ độc ác. 
 
Hơn bao giờ hết, cầu nguyện bây giờ là một gắn bó cần thiết trong nếp sống của con người. Thiếu quan tâm tới ý nghĩa của tôn giáo đã đưa thế giới tới ngưỡng cửa của sự diệt vong. Nguồn sức mạnh xâu sắc, toàn hảo nhất của chúng ta đã bị lãng quên một cách thảm bại. Cầu nguyện phải được tích cực áp dụng trong nếp sống của chúng ta. Vì nếu sức mạnh của sự cầu nguyện được áp dụng trong đời sống thường nhật thì còn nhiều hy vọng rằng những lời cầu nguyện cho một thế giới tốt đẹp hơn sẽ được đáp ứng. 
 
Để kết luận, xin mượn lời của nhà văn danh tiếng nước Anh Charles Dickens như sau, khi ông nói tới Christmas: “I will honor Christmas in my heart, and try to keep it all the year”, Tôi sẽ tôn vinh Christmas trong trái tim của tôi và trân trọng Christmas suốt năm”.
 
Mong sao mọi người chúng ta cũng như bạn Thành Lê thực hiện được như lời nhà văn này nhắc nhở.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Ct.Ly 24.12.2014 03:21:26 (permalink)
Tóc nâu 24.12.2014 16:02:17 (permalink)
0
 
 
Xin cảm ơn lời chúc đẹp của anh Lynh nha.
TN xin chúc anh Lynh cùng gia quyến và toàn thể thân hữu của ngôi nhà trang trọng GĐPT một mùa Giáng Sinh ấm cúng, an lành, một năm 2015 hoàn toàn toại ý.
 
 
 
 
Attached Image(s)
thiên thanh 26.12.2014 18:07:50 (permalink)
0
CUỘC TÌNH DƯỚI MƯA VÀ BÀI THÁNH CA BUỒN KHẮC KHOẢI 40 NĂM

Hạnh Lam

      
 
Cuộc tình dưới mưa và Bài Thánh Ca Buồn khắc khoải 40 năm
 



Gần nửa thế kỷ trôi qua, giai điệu Bài Thánh ca đó còn nhớ không em của nhạc sĩ Nguyễn Vũ vẫn không ngừng ngân vang, len lỏi vào tâm thức từ người dân đô thị đến những vùng quê.
 
Kỷ niệm cuộc tình dưới mưa
 
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời thơ ấu ông sống ở Đà Lạt. Những năm tháng tuổi thơ sống ở thành phố sương mù đã ảnh hưởng nhiều đến bước đường nghệ thuật của ông trong đó có “Bài thánh ca buồn”.
 
Không chỉ sáng tác nhạc, Nguyễn Vũ còn hát rất hay. Từ nhỏ, ông đã chơi được nhiều nhạc cụ như guitar, harmonica, piano…và hát cho Ban thiếu nhi của Đài Phát thanh Đà Lạt. Năm 12 tuổi (1956), cậu bé Tuấn Khanh đã đoạt giải Nhất đơn ca thiếu nhi do Đài Phát thanh Đà Lạt tổ chức. Nhạc sĩ Nguyễn Vũ và nhạc sĩ Đức Huy là anh em con cô, con cậu. Khi còn nhỏ Nguyễn Vũ và Đức Huy cùng sinh hoạt “sói con” (hướng đạo sinh) với nhau. Nguyễn Vũ thường qua nhà Đức Huy hướng dẫn cho Đức Huy chơi đàn thuở Đức Huy 14-15 tuổi.
Năm 1965, Nguyễn Vũ có tác phẩm đầu tay là ca khúc “Loài chim biển”. Hai năm sau, tên tuổi nhạc sĩ mới được giới yêu nhạc biết đến nhiều qua loạt ca khúc có chữ “cuối”:

 
 
“Bài thánh ca buồn” là một trong những ca khúc pop-ballad được nhiều người Việt ưa chuộng vào mỗi dịp Giáng sinh. (Trong ảnh: nhạc sĩ Nguyễn Vũ trình bày ca khúc Bài Thánh ca buồn
 
Nhạc sĩ Nguyễn Vũ cho biết: “Tôi không nghĩ ca khúc này lại được nhiều khán giả yêu mến đến thế. Khi viết ca khúc ấy, đơn giản tôi đang hoài niệm quãng thời gian trai trẻ của mình. Cái thời mà tôi chỉ dám ngắm nhìn người tôi mến, không dám mở lời làm quen…"
 
“Thuở tôi là một cậu bé 14 tuổi ngày đi lễ ở nhà thờ Con gà (TP.Đà Lạt), sở dĩ tôi “chịu khó” đi lễ chỉ vì thấy một cô gái rất xinh và ngoan đạo mỗi ngày vẫn đi ngang qua ngõ nhà tôi để đến nhà thờ. Trái tim vụng dại của thằng con trai mới lớn đập loạn nhịp trước bóng hình thiếu nữ tóc bồng bềnh trong gió cao nguyên. Ngày qua ngày, suốt hơn ba tháng trời, tôi âm thầm, lầm lũi làm “cái đuôi” của cô ấy. Kẻ trước người sau, mỗi bận đi lễ về phải đi bộ hơn 3km đường đèo nhưng một lời bẻ đôi tôi không dám thốt. Lòng thành của tôi chỉ được hưởng một ân huệ cỏn con: Tôi được biết cô ấy tên Th., lớn hơn tôi 2 tuổi…”.
 
Thế rồi một buổi chiều gần lễ Giáng sinh, tan lễ thì trời đổ mưa to, cô ấy nép vào một mái hiên trú mưa, tôi cũng…trú tạm bên cạnh, hai người đứng cách nhau độ một gang tay.. Lẫn trong tiếng mưa vang lên giai điệu quen thuộc của bản thánh ca “Đêm thánh vô cùng” (Silent Night) vẳng ra từ ngôi nhà gần đấy:
 
Cô ấy đưa tay hứng những giọt nước mưa và khe khẽ hát theo. Tôi lặng người. Giọng hát cô ấy buồn da diết. Tự dưng tôi cảm thấy run, khẽ đưa tay vuốt nhẹ những hạt mưa bụi li ti bám bên ngoài chiếc áo của cô ấy. Cô ấy bất chợt quay sang tôi nhoẻn miệng cười: “Cảm ơn nghen!”.
 
Mưa tạnh, “người trong mộng” đã khuất dạng tự bao giờ mà thằng con trai 14 tuổi vẫn còn đứng ngẩn ngơ vì " Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn kia bỗng dại khờ"  
Ba ngày sau, gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống. Tâm trạng tôi lúc đó y như người vừa đánh mất một vật quý giá. Từ đó, mỗi khi chợt nghe bài " Đêm thánh vô cùng" lòng tôi lại tái tê với ánh mắt, nụ cười hồn nhiên, thánh thiện tựa thiên thần của " người ấy"
 

Ôm hình bóng ấy cho đến mãi 14 năm sau, tình cờ nghe lại “Đêm thánh vô cùng” từ chiếc máy đĩa, bỗng dưng cảm xúc từ một mối tình thánh thiện, hồn nhiên như trẻ thơ – tưởng như đã vùi sâu dưới lớp bụi trần thời gian – chợt ùa về trong ký ức, thôi thúc tôi và “Bài thánh ca buồn” ra đời.
 
Chuyện tình buồn nhưng không bi lụy
 
Nhạc phẩm “Bài thánh ca buồn” được nhạc sĩ Nguyễn Vũ sáng tác trong hai tiếng vào một ngày tháng 10.1972 và được hãng đĩa Sơn Ca mua độc quyền, “Bài thánh ca buồn”nam ca sĩ Thái Châu là người đầu tiên và ngay sau đó, nó trở thành ca khúc “hot” nhất trong mùa Giáng sinh năm đó. 
Cho đến nay có rất nhiều ca sĩ hát bài này nhưng ca sĩ Elvis Phương đã là người mặc định cho ca khúc một vị trí hoàn hảo, thổi vào đó dạt dào những cảm xúc từ khung trời kỷ niệm một chút gì tiếc nuối. Xa vắng, kết hợp giọng hát ở không gian cao, rộng, khoan thai, phát âm ca từ rõ ràng, lắng đọng, để rồi đẩy ca khúc lên. Biết bao nhiêu thế hệ người nghe, ca khúc vẫn không nhàm chán:“Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang/ Xin cho đôi mình suốt đời có nhau/ Vang trong đêm lành bài ca Thiên Chúa/ Khẽ hát theo câu: “Đêm thánh vô cùng”/ Ôi giọng hát em mênh mang buồn”.
 

 

Một câu chuyện tình lãng mạn nhưng tinh tế và chân thật của một mùa Noel kỷ niệm, hơi phảng phất buồn nhưng không bị lụy.
 
"Bài Thánh Ca Buồn"là một trong những ca khúc pop-ballad được nhiều người Việt ưa chuộng vào mỗi dịp Giáng sinh. Nó là ca khúc đã vượt qua sự thử thách của thời gian để trở thành hiện tượng văn hóa, chứa đựng nhiều giá trị nghệ thuật, nhân văn, thẩm mỹ, lịch sử khiến cho tác phẩm vì thế được cả những người Thiên Chúa giáo, lẫn những người ngoại đạo đều yêu thích.
 
Một câu chuyện tình lãng mạn nhưng tinh tế và chân thật của một mùa Noel kỷ niệm, hơi phảng phất buồn nhưng không bị lụy. Hơn 40 năm kể từ khi ca khúc “Bài thánh ca buồn” ra đời, đến nay nó vẫn được nhiều người nghe, thích và tiếp tục hát, thậm chí đang có xu hướng trẻ hóa dần.
 
Sự nghiệp âm nhạc của nhạc sĩ Nguyễn Vũ không lớn lao như nhiều nhạc sĩ khác nhưng “Bài thánh ca buồn” đã trở thành một trong những bản nhạc được yêu thích, nhất là trong các album nhạc giáng sinh.
 “Bài thánh ca đó còn nhớ không em/ Noel năm nào chúng mình có nhau/ Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt/ Áo trắng em bay như cánh thiên thần/ Giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân”
Gần nửa thế kỷ trôi qua, cứ vào dịp lễ Giáng sinh, giai điệu bản tình ca “Bài thánh ca buồn” của nhạc sĩ Nguyễn Vũ, vẫn không ngừng ngân vang trong những đêm lành, len lỏi vào tâm thức từ người dân đô thị đến những vùng quê… Hơn 40 năm, “Bài thánh ca buồn” vẫn luôn được người nghe yêu thích. Thế là quá đủ đối với một nhạc sĩ.
 
Hạnh Lam.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ trình bày nhạc phẩm "Bài Thánh ca buồn" do chính ông sáng tác với lời nhắn gửi "hãy hát và hát đúng 2 từ trong nhạc phẩm của ông ...Vào những đêm "Thế Trần" đón Noel ....thay cho 2 từ "Thánh đường" mà mọi người vẫn thường hát. Xin cảm ơn.



[tube]https://www.youtube.com/watch?v=lc_1Vj9Qaqs[/tube]




http://nsvietnam.blogspot.ca/2014/12/cuoc-tinh-duoi-mua-va-bai-thanh-ca-buon.html#more
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.12.2014 18:16:08 bởi thiên thanh >
thiên thanh 28.12.2014 15:37:53 (permalink)
0
chuyên cười cuối năm 
 
Xã HƯu Vit Nht
Tràm Cà Mâu
 
 
 
(Truyện nầy được viết sau một buổi nói chuyện tiếu lâm với ba ông bạn, một từ Ba Lan, một từ Nga Xô và ông khác từ xứ Nicaragua. Ba xứ nầy trước kia theo xã hội chủ nghĩa. TCM )            
 
 
Từ miền Nam ra Bắc, năm 1945 ông Tý đang miệt mài đèn sách tại  đại học Hà Nội, hy vọng ra trường được bổ dụng làm quan tham tá,  thì xếp bút nghiên theo tiếng gọi của sông núi. Cầm súng đánh đuổi giặc Tây đang trở lại, để dành độc lập cho quê hương. Năm 1954 nước Việt Nam chia cắt ra hai miền, ông đi tập kết ra Bắc. Năm 1975, sau khi miền Bắc chiến thắng trong cuộc nội chiến tương tàn do súng đạn ngoại bang cung cấp và thúc dục, ông hân hoan trở về. Trong trí tưởng tượng của nhiều người bà con giòng họ,  thì ông là một  kẻ  anh hùng oai phong lẫm liệt, cưỡi ngựa chiến, mang chiến bào, cầm gươm báu sáng ngời chỉ vào thiên địa hiên ngang. Nhưng họ thất vọng, vì thấy ông, mặt mày bủng beo hốc hác, tiều tụy,  chân mang dép râu, đầu đội nón cối sờn mục và áo quần nhàu nát lụng thụng màu phân ngựa. Trong một bữa ăn đoàn viên do bà chị ông tổ chức. Một người cháu trẻ tuổi hỏi:
- “Trong chế độ cộng sản, thanh thiếu niên có quyền yêu đương không?”
 
Ông cười đáp:
- “Được chứ, đó là tự do cơ bản, ai cũng có quyền, nhưng phải báo cáo và thông qua tổ chức. Được tổ chức cho phép thì tha hồ, Nhưng nếu tổ chức không chấp thuận, thì không nên tiếp tục tình yêu sai trái đó”
 
Đứa cháu nhún vai cười mĩm. Hỏi tiếp:
- “Thưa chú, người ta nói rằng, chế độ tư bản bất công, người giàu kẻ nghèo chênh lệch. Chế độ cộng sản tạo được công bằng gần như tuyệt đối, là mọi người đều khốn khổ bần cùng như nhau. Ngoại trừ một nhóm đảng viên cao cấp. Có đúng như vậy không?”
 
- “Tuyên truyền phản động. Nhưng có lẽ không phải  là không có cơ sở."
 
Ông Tý gắp một mớ cá lòng tong kho tiêu vào chén. Ông hỏi:
- “Cá nầy là cá gì mà ngon quá. Kho tiêu cay, ăn thấm miệng.”
 
Bà chị dâu ông cười và trả lời :
- “Đây là cá lòng tong”
- “Cá lòng tong lá cá gì?”
- “Là một loại cá voi, đã được sống trong xã hội chủ nghĩa lâu năm.”
 
Cả nhà đều cười. Ông Tý đỏ mặt, nhưng không muốn tranh luận làm chi với những người mà ông cho là cực kỳ phản động. Ông Tý hỏi;
- “Ở đây có ai biết  cái khác nhau giữa xã hội chủ nghĩa với tư bản chủ nghĩa ? Tại sao ta xây dựng xã hội chủ nghĩa?”
 
Đứa cháu lại nghiêm mặt và trả lời:
 - “Trong tư bản chủ nghĩa, thiểu số tư nhân giàu có bóc lột nhân dân lao động. Trong xã hội chủ nghĩa, thiểu số của thiểu số đảng viên cầm quyền bóc lột toàn nhân dân, triệt để và khốc liệt hơn. Xã hội chủ  nghĩa được xây dựng nên, cho người người được dịp làm biếng hơn, phè hơn, hoặc không làm chi cả cho khỏe."
 
Ông Tý chưa kịp phản ứng thì bà chị dâu lại hỏi:
- “Tôi đố chú, nói được sự khác nhau ở dưới địa ngục tư bản, và địa ngục cọng sản?”  
 
Ông Tý lung túng:
 - “Tôi không biết. Chị nói cho tôi nghe với”
- “Dưới địa ngục tư bản, người có tội phải nhảy bàn chông, và tắm vạc dầu. Dưới địa ngục xã hội chủ nghĩa, cũng như vậy, nhảy bàn chông và tắm vạc dầu. Nhưng rất nhiều khi, thiếu chông, và thiếu dầu, nên chỉ nhảy sàn đất, và tắm không khí mà thôi.”
 
Cả nhà cùng cười. Ông Tý nói:
- “Thật là phản động và bôi bác.”
 
Đứa cháu gái kêu ông Tý bằng cậu nói:
- “Cậu biết không? Cách nay nhiều năm, trước thời chiến tranh, có một ông già nhà giàu vào một tiệm bách hóa và trả tiền mua hết tất cả hàng hóa trong tiệm, nhưng không mang về, để lại tặng không cho các khách hàng đến sau ông, họ khỏi trả tiền. Chủ tiệm cười, sung sướng đồng ý. Ông già bắc ghế ngồi trước cửa tiệm xem chơi. Sau khi vài người khách vào tiệm mua, được cho không khỏi trả tiền, thì dân chúng ào ào kéo đến. Mười lăm phút sau, cả cái tiệm thành đống rác, đổ vỡ tan hoang. Ông già ngồi cười. Chủ tiệm mếu máo hỏi ông già rằng: “Ông có thù ghét chi tôi không mà hại tôi đến thế? Tan nát cái tiệm rồi. Từ nay làm sao buôn bán chi được nữa ? Ác chi mà ác đến thế ông ơi! Tại sao thế? “ Cụ già chậm rải giải thích: “Tôi đã già quá. Tôi biết không thể sống cho đến ngày cộng sản vào đây. Tôi muốn được thấy tận mắt thế nào là xã hội cộng sản”.”
 
Bố của cháu gái lườm mắt nhìn con và nói:
- “Để cho cậu của con ăn ngon miệng, nói chi ba cái chuyện tào lao mà nghẹn  họng, nuốt không vô. Ngày vui đoàn tụ mà.”
 
Đứa cháu gái trả lời:
- “Nhưng con không ưa chế độ, xã hội đó.”
 
Ông Tý nhìn đứa cháu gái và nói:
- “Cậu hỏi con rằng, trong xã hội tư bản, con có thể bỏ việc mà đi chơi bất cứ khi nào con muốn không?”
- “Không bao giờ”
- “Trong xã hội tư bản, con có thể lấy phương tiện, vật liệu của sở về xây nhà riêng không?”
- “ Không bao giờ”
 
Ông Tý dồn tiếp:
- " Trong xã hội tư bản, con có thể  dùng thời giờ của sở để xây nhà riêng không?”
- “Không bao giờ.”
- “Chú cho con biết, trong xã hội chủ nghĩa, mọi người đều làm được những điều đó. Thế thì tại sao con không ưa thích xã hội chủ nghĩa?”
 
Một đứa cháu khác hỏi tiếp:
- " Đọc nghị quyết của đảng cộng sản, cháu thấy họ viết rằng: 'Trước đây chúng ta đang đứng trên bờ vực. Từ đó đến nay, chúng ta đã tiến được nhiều bước vượt bực’. Đứng trên bờ vực mà tiến được nhiều bước vượt bực, thì có lộn mèo xuống hố hay không? Trong bài diễn văn gần đây, đồng chí tổng bí thư có đọc: "Chế độ cộng sản đang ở chân trời". Có nghĩa là sao?”
 
Thằng cháu nhỏ khác cười giải thích:
- “Chân trời là cái ranh giới trông vào thì thấy như mặt đất giáp trời. Nhưng càng đi đến, thì càng xa, và không bao giờ gặp cả.”
 
Ông Tý đang nuốt miếng thịt heo béo bùi mà nghẹn họng, đưa tay vuốt ngực, ho hen. Bà chị dâu lại hỏi:
- “Tôi đố chú, nếu chế độ cộng sản thành lập được giữa sa mạc Sahara , thì chuyện gì sẽ xẫy ra sau đó?”
- “Tôi không biết”
- “Thì chỉ trong vài năm  thôi, sa mạc sẽ thiếu cát, và phải nhập cảng cát. Tương tự Liên Xô, là một xứ nông nghiệp, mà mấy chục năm qua phải nhập cảng lương thực.”
 
Bà chị dâu nhìn ông Tý mà hỏi thêm:
- “Chú nói ở miền Bắc, dân chủ gấp vạn lần các xứ tư bản. Thế thì chú có thể đứng ở lăng Bác Hồ, kêu tên bác ra mà chữi bác ngu hay không?”
 
Ông Tý nhìn mọi người, rồi nói:
- “Tôi có thể làm điều ghê gớm hơn nữa, mà chẳng sợ rắc rối, chẳng ai bắt bớ tôi”
- “Điều gì?”
- “Tôi có thể ra ' ị'  trước lăng Bác, mà không ai làm gì tôi cả. Dân chủ quá đi chứ?”
- “Có thật không?”  Bà chị dâu tròn mắt ngạc nhiên hỏi.
 
Ông Tý cười bí hiểm, nói:
- “Cứ 'ị' mà đừng tuột quần xuống thì thôi. Ai mà bắt bẻ?”
 
Đang ngồi ăn, bỗng nghe tiếng đạn đại bác bắn đì đùng . Bà chị dâu sợ hãi, hỏi ông Tý:
- “Có chuyện chi mà bắn súng dữ vậy? Có gì nguy hiểm không?”
 
Ông Tý giải thích:
- “Đồng chí bí thư thành phố Mát-cơ-va qua thăm, tham quan ngoại giao.”
 
Bà chị nhăn mặt nói:
- “Thế thì không ai bắn giỏi cả hay sao, mà bắn hoài không trúng ông ấy?”
 
Chị ông Tý xen vào câu chuyện:
- ‘Nầy cậu Tý, tôi nghe nói, khi hấp hối, bác Hồ nói với đồng chí Tổng bí thư rằng: “Ta lo lắm, liệu nhân dân có theo anh hay không?”. Đồng chí Tổng bí thư trả lời: “Chắc chắn theo”. Bác hỏi: "Có chắc không, nếu họ không theo thì sao?"  Đồng chí Tổng bí thư trả lời rất rành mạch rằng: “Bác đừng lo.  Họ phải theo tôi, nếu ai không theo tôi, thì tôi cho họ đi theo bác ngay.”  Chuyện nầy có thật hay không?”
 
Ông Tý lắc đầu nói:
- “Những chuyện bí mật của nhà nước như thế, chúng tôi không được quyền biết đến, và không ai được quyền tiết lộ.”
 
Một đứa cháu trai đặt câu hỏi:
- “Thưa chú, chắc chú chưa quên ông Adam là tổ phụ loài người, như đã chép trong Thánh Kinh. Theo chú thì ông Adam là người nước nào?”
- “Chú đã theo đảng cộng sản và bỏ đạo từ lâu. Không còn biết ông Adam là ông nào, và là người xứ nào nữa. Thế thì cháu nghĩ  ông ta là người xứ nào?”
- “Ông ấy là người Liên Xô ạ.”
- “Sao vậy?”
- “Vì ông ấy trần truồng, không có được một cái khố che mông, và trên tay chỉ có một trái táo, mà vẫn tin tưởng là đang sống tại thiên đàng!”
- “Khỉ, khỉ, bọn mầy đã bị Mỹ ngụy đầu độc tư tưởng. Cần phải được đi cải tạo thay đổi tư duy, có cái nhìn đứng đắn hơn về xã hội chủ nghĩa ưu việt. Các cháu có biết không, nước ta đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa.  Chỉ một thời gian ngắn nữa, chúng ta sẽ vượt lên, và đi trước cả nước Mỹ nữa”
- “Thưa chú, cháu đề nghị đi ngang nước Mỹ thôi, đừng đi trước họ” 
- “Sao vậy?”
- " Bởi mình mà đi trước, họ thấy cái quần rách nát lòi mông của mình thì kỳ lắm, xấu hổ"
Cả nhà cùng cười vang. Ông Tý cũng cười theo.
 
Một đứa cháu nói:
- “Chú đã nghe chuyện của bác Hai chưa? Bác Hai ra miền Bắc làm việc từ trước khi có chiến tranh. Không có tội gì cả, nhưng bác bị bắt giam. Vị cai tù hỏi bác bị kết án bao nhiêu năm, vì tội danh gì? Bác trả lời là bị kết án mười năm và không có tội danh gì cả. Ông cai tù trợn mắt lên, mắng rằng: "Láo khoét, thường thường, không có tội gì cả, thì chỉ bị kết án có bốn năm mà thôi."  Vợ bác ở nhà, gởi thơ vào trại tù than thở là không có ai xới đất làm vườn để trồng khoai. Bác gởi một thơ ngắn về nhà, ghi: “Chôn ở trong vườn”. Tuần sau, vợ bác gởi thơ lên, đại ý nói công an đã xới, đào khắp vườn, không bỏ sót một tấc đất nào cả. Bác gởi thơ về rằng: "Vườn đã được xới xong, chờ chi nữa mà không trồng trọt."
 
Ông Tý gắt lên:
- “Toàn cả chuyện bố láo. Nhưng chuyện sau đây, thì có thật. Có một anh cán bộ sở tôi, chạy gấp về nhà, thấy bà vợ đang nằm trên giường với một người đàn ông lạ. Anh gào lên rằng, bà chẳng được cái tích sự gì cả, giờ nầy mà còn nằm đó. Bà có biết trên cửa hàng lương thực đang bán khoai mì, chỉ còn lại mấy chục kí. Không chạy mau lên thì người ta mua hết bây giờ.”
 
Bà chị ông Tý nói:
- Khi bác Hồ mất, cậu biết chuyện gì xẫy ra không?”
- “Không. Chuyện gì thế ?”
- “Hôm ấy chú Huy trực . Có người kêu điện thoại vào xin được nói chuyện với Bác. Chú bảo bác đã qua đời. Một lúc sau, người ấy kêu  điện thoại lại và  được trả lời như cũ. Người đó kêu thêm hai ba lần nữa. Bực quá, chú Huy gắt lên: “Tôi đã nói, Bác chết rồi. Ông không nghe, không hiểu sao?" Bên kia đáp rằng: “Tôi nghe 'đã' cái lỗ tai quá, nên kêu đi kêu lại nghe thêm cho sướng tai”. Thế thì chú Huy chưa kể chuyện nầy cho nghe sao?”
 
Khi bữa cơm gần tàn. Ông Tý nói với các cháu:
- “Các con phải tích cực phấn đấu để sau nay được vào đoàn, vào đảng. May ra mới ngóc đầu lên được.”
- “Vâng, chúng cháu sẽ đi khám bệnh thần kinh trước. Đứa nào bị bệnh nặng, sẽ xin gia nhập đảng. Người ta kể rằng, khi gặp khó khăn, chính trị bộ bên Liên Xô cho người ngồi đồng, gọi hồn ông Các-Mác lên để vấn kế. Khi nhập đồng, thì hồn khóc rũ rượi.Hồn chỉ nói một câu, là cho gởi lời xin lỗi đến toàn thể nhân dân lao động khắp các xứ xã hội chủ nghĩa trên thế giới?”
 
Một người bà con hỏi, trong xã hội chủ nghĩa, thiên  hạ có thích chuyện tiếu lâm hay không? Ông Tý thành thực trả lời:
- “Nhiều người kể chuyện tiếu lâm, châm biếm mà bị tù đông lắm. Lần nọ, tôi gặp một anh chánh án nhân dân, đi ra khỏi tòa và cười rũ rượi, cười chảy nước mắt. Tôi hỏi sao vậy? Anh nói là vừa nghe một chuyện khôi hài tuyệt vời. Tôi yêu cầu anh kể lại.Anh quắc mắt lên hỏi tôi đã điên chưa mà yêu cầu anh kể. Vì người  kể câu chuyện đó, vừa bị anh kết án mười năm tù lao động khổ sai.”
 
Một bà hỏi ông Tý:
- “Có phải trong xã hội chủ nghĩa, thời gian qua mau hơn trong tư bản chủ nghĩa không?”
- “Chị muốn nói gì?”
- " Tôi đọc, thấy báo cáo của các hợp tác xã nông nghiệp, họ đạt thành tích thi đua, khoai sắn chỉ trồng qua đêm là đã gặt hái được.Thế nghĩa là sao? Làm được phép tiên sao?”
 
Ông Tý gật gù:
- “Báo cáo thành tích thì phải làm vậy. Không ai làm khác cả. Đó là cách khôn ngoan nhất để sống còn. Cấp trên họ cũng biết sự thực ra sao, nhưng họ lại muốn được thấy những báo cáo đó mà thôi”
 
Bà chị ông Tý lắc đầu bực mình nói:
- " Cậu bảo rằng xã hội cộng sản đã làm được những  điều tốt đẹp cho con người. Tốt đẹp ở đâu, cậu cho tôi xem vài thí dụ đi.”
 
Ông Tý bóp trán rồi trả lời:
- “Ví dụ như chị Năm Lài, trước kia mù chữ, đi chân đất, chuyên nghề chữi mướn, đánh ghen thuê. Bây giờ là chủ tịch hội phụ nữ yêu nước. Anh Tám Râu, thất học, nghèo không có quần xà lỏn mà mang, bây giờ đã có dép râu đi, và làm trưởng ban tuyên huấn giáo dục huyện. Và đồng chí Mười Búa , trước đây đâm thuê chém mướn ở bến xe, làm nghề hoạn heo, ai thấy cũng khinh bỉ, nhỗ nước bọt. Nay đã là một thành viên trong Bộ Chính Trị. Đó, cái siêu việt của xã hội chủ nghĩa, chị thấy chưa?”
 
Bà chị ông Tý nheo mắt nhìn kỹ, và hỏi ông:
- “Nầy, cậu bị thương tích trong trận đánh nào, mà bây giờ cái đầu cậu cứ gật gật mãi, và tay cậu cứ đưa lên, đưa xuống hoài vậy?” 
 
Ông Tý cười bẻn lẻn thú nhận:
- “Tôi làm đại biểu nhân dân ở quốc hội. Cứ gật đầu và dong tay nhất trí hoài nên thành tật, nay không thế nào chữa khỏi được.”
 
Bà chị hỏi:
- “Tại sao cậu lại binh vực và kính mến và thương yêu lão Ba Dừa? Lão đánh đập vợ mỗi ngày, tống cổ mẹ  ra đường, lấy trộm tài sản nhà nước, chơi cờ gian bạc lận, hiếp dâm con bé bán vé số. Có gì mà cậu binh vực hắn thế?”
- “ Dù gì đi nữa, đồng chí Ba Dừa cũng là một người cộng sản chân chính, nên tôi binh vực và kính trọng.”
 
Một giọng con gái rụt rè hỏi:
- “Nghe nói ở bên Liên Xô vĩ đại hàng năm có thi đua kể chuyện tiếu lâm phải không?”
- “Có. Người kể chuyện hay nhất, được lảnh giải 20 năm đi đày, người lảnh giải nhì được 15 năm, người lảnh giải an ủi được 10 năm. Tất cả đều được đi lao động khổ sai bên  Silberia.”
 
Đứa cháu cười và hỏi:
- “Theo chú, thì ai là người theo, ai là người chống cộng sản?”
- Người theo cộng sản là người cố tình như  “tin” vào Mác và Lê-Nin. Người chống lại cộng sản, là người “hiểu” rõ Mác và Lê-Nin.”
 
Buổi cơm đoàn tụ đã chấm dứt từ lâu, ông Tý cáo từ ra về. Ra  khỏi cửa nhà, ông lẩm bẩm:
- “Toàn cả một lũ cực kỳ phản động. Ông mà báo cáo, thì cả bọn đi tù cải tạo mục xương, mút mùa."
 
Tràm Ca Mâu
Mùa đông năm 2005
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.12.2014 15:39:17 bởi thiên thanh >
Phù vân 30.12.2014 01:08:23 (permalink)
0
 
6 năm nữa Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh của Trung Cộng?
T2, 12/29/2014 - 16:23 Tổ chức thông tin Wikileaks đã công bố một tài liệu mật của đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam gửi chính phủ Hoa Kỳ, có liên quan đến mối quan hệ bang giao hai nước Việt – Trung.

Wikileaks nói rằng, đây là tài liệu tuyệt mật ghi lại nội dung cuộc họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh, ông Đỗ Mười của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam và hai ông Giang Trạch Dân và Lý Bằng là các nhà lãnh đạo cao cấp của Trung Cộng hồi đầu tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô, mà dư luận thường gọi là “hội nghị Thành Đô.”
Theo tài liệu tuyệt mật này, đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị chính quyền Trung Cộng cho Việt Nam hưởng quy chế tự trị trực thuộc chính quyền Bắc Kinh cũng như Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây… để nhằm “bảo đảm sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam”.
Cũng theo tài liệu này, phía Trung Cộng đã đồng ý để cho Việt Nam thực hiện các bước cần thiết để “gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa” trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2020. Vậy là chỉ còn 6 năm nữa đến khi Việt Nam sẽ thực sự trở thành một tỉnh của Trung Cộng, theo như tài liệi này cho biết. 
Thông tin mà Wikileaks tiết độ đã có từ năm 2010; và năm 2014 đã được hâm nóng trở lại; sau sự kiện giàn khoan HD-981 của Trung Cộng xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Từ khi được lan truyền trên mạng internet, thông tin này đã gây ra bất ngờ, tò mò, sự ngờ vực, theo sau đó là chỉ trích và căm phẫn CSVN “bán nước” trong người dân.
Những thông tin trên đây chưa có sự kiểm chứng là chính xác hay không. Bởi phía Trung Cộng và chính quyền CSVN chưa bao giờ hé lộ thông tin chi tiết về hội đàm Thành Đô năm 1990. Tuy nhiên, dựa vào những gì thực tiễn xảy ra tại Việt Nam có liên quan tới Trung Cộng, nhiều người cho rằng cho rằng những thông tin mà Wikileaks tiết lộ có thể là đúng sự thực.
Lại có một nhóm khác đưa ra quan điểm rằng: CSVN không dám làm chuyện “kinh thiên động địa” – “bán” cả đất nước như vậy. Trong hội đàm Thành Đô năm 1990, CSVN có thể chỉ đã chấp thuận những điểm bất lợi, chịu sự lệ thuộc lâu dài của Trung Cộng.
Để làm rõ thực hư vấn đề này, phong trào “Tôi/Chúng tôi muốn biết” đã được Mạng lưới blogger Việt Nam khởi xướng. Mục tiêu của phong trào này là gửi tới Quốc hội CSVN lá thư “Yêu cầu bạch hóa Hội nghị Thành Đô năm 1990”, nhằm công khai toàn văn hội nghị này, chứng minh CSVN có thực sự “bán nước” hay không cho toàn thể người dân được hay biết.
Tuy nhiên, yêu cầu này của phong trào “Tôi/Chúng tôi muốn biết” không được CSVN đáp ứng. Trái lại, chính quyền tung ra một lượng lớn công an, mật vụ ngăn cản người dân tới Quốc hội trao thư yêu cầu vào trung tuần tháng 10 vừa qua. Bên cạnh đó, CSVN cho các “dư luận viên”, “thợ viết báo” đưa ra những bài viết, luận điệu tuyên truyền, bôi xấu phong trào “Tôi/Chúng tôi muốn biết” và những người tham gia là “có dụng ý xấu, phá hoại đất nước, bị các thế lực thù địch, phản động giật dây, xúi dục” …
Thời đại này là thời đại thông tin, không còn chế độ phong kiến lạc hậu. Người dân đã đủ sức để nhận xét thực tế, không còn bị che mắt bởi những luận điệu tuyên truyền xưa cũ. Bất kể chuyện “bán nước” của CSVN có thực hay không, hội nghị Thành Đô năm 1990 cuối cùng cũng phải được minh bạch. Vấn đề là sớm hay muộn.
Năm 2024 sẽ tròn 50 năm Hoàng Sa bị Trung Cộng xâm chiếm. Chúng ta muốn giành lại Hoàng Sa, chúng ta phải khởi kiện và gạt bỏ những trở ngại đang hiện hữu cho việc đó. Do vậy, việc bạch hóa Hội nghị Thành Đô năm 1990 hết sức quan trọng. Bởi từ đó, tính chính danh của đảng cộng sản trên đất nước Việt Nam sẽ được quyết định. Người dân cần phải đối xử với đảng cộng sản ra sao, ứng phó với Trung Cộng thế nào, nhằm bảo vệ chủ quyền của quốc gia.
Trong phiên họp cuối năm mới đây, Bộ trưởng Công an CSVN đã chỉ đạo “kiểm soát việc tung các tài liệu không đúng sự thật về các đồng chí lãnh đạo trên mạng, gây chia rẽ nội bộ, nhất là trước thời điểm đại hội đảng” – trong đó chắc hẳn sẽ bao gồm những thông tin về Hội nghị Thành Đô 1990.
Nếu CSVN không làm điều gì khuất tất, có tội với đất nước, với người dân, tại sao lại phải sợ chuyện bạch hóa đó ?! Hơn nữa, CSVN nhận mình là “công bộc”, người dân là “chủ nhân” của đất nước, vậy tại sao “công bộc” không cho chủ nhân biết công bộc đã làm gì ?! CSVN càng giấu diếm, thì người dân càng có căn cứ và cơ sở để tin cái chuyện “kinh thiên động địa” kia là sự thực!
Nhật Nam / SBTN
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.12.2014 02:29:01 bởi Phù vân >
Phù vân 30.12.2014 10:17:15 (permalink)
0
NHỮNG LỜI CUỐI CHO MỘT NĂM CŨ


Nguyễn Thị Từ Huy
Còn vài ngày nữa năm 2014 sẽ qua đi.
Ở Việt Nam nó sẽ qua đi và để lại rất nhiều đau đớn.
Năm 2014 để lại rất nhiều người trung thực và can đảm ở trong tù. Nó cũng để lại những người lương thiện đang trong nguy cơ bị tòa án lấy mạng sống để thế cho những kẻ có tội thực sự. Nó để lại bao nhiêu người dân lương thiện bị đánh chết ở cái nơi mà lẽ ra họ phải được bảo vệ, bởi những người sống bằng tiền thuế của họ và lẽ ra phải bảo vệ họ. Nó để lại những người phụ nữ quả cảm đang tuyệt thực đòi công lý. Nó để lại cả một xã hội trong tình trạng chấn thương tinh thần tập thể triền miên : oan ức nối tiếp oan ức, bất công nối tiếp bất công, mất mát nối tiếp mất mát, xót xa nối tiếp xót xa, phẫn nộ nối tiếp phẫn nộ. Ngay giữa thời bình mà hầu như chẳng có ngày nào được yên.
Năm 2014 còn để lại nguy cơ nô lệ cho cả một dân tộc.
Những ngày cuối năm dồn dập hung tin. Tôi không đủ năng lượng, không đủ thời gian, không đủ sự vững vàng tinh thần để đề cập đến tất cả các sự kiện. Xin nhường lại cho những người khác vụ việc những người tử tù oan, những người đang tuyệt thực, những cựu tù nhân lương tâm và những người hoạt động nhân quyền vô cớ bị đánh đập, và những vụ việc khác. Ở đây tôi dành vài lời cuối cùng của năm để nói về sự vụ bắt bớ các bloggers.
Đã có nhiều bài viết nhằm giải đáp câu hỏi vì sao các bloggers bị bắt. Trong bài này tôi đặt ra một câu hỏi khác : « Ai làm cho các bloggers bị bắt ? »
Câu trả lời tưởng như dễ dàng và đơn nhất : chính các bloggers bằng hành động làm blog đã tự dẫn mình đến chỗ bị bắt giam và phải vào tù.
Nhưng tôi cho rằng câu trả lời không đơn giản như thế.
Còn một câu trả lời khác : Chúng ta làm cho họ phải vào tù.
« Chúng ta » là ai ? Theo tôi, trong chữ « chúng ta » này có hai đối tượng (chữ « đối tượng » ở đây không được hiểu theo nghĩa mà công an thường dùng) : các tác giả có bài được giới thiệu và các độc giả của những bloggers ấy.
Ta hãy lấy trường hợp Bọ Lập làm ví dụ : blog Quê Choa chủ yếu đăng lại các bài viết đã đăng ở nơi khác, hoặc đăng bài của những người khác gửi đến Quê Choa, Bọ Lập viết blog rất ít và hầu như không viết về đề tài chính trị. Vậy không thể nói rằng Bọ Lập bị bắt vì các bài viết của Bọ Lập.
Bọ Lập bị bắt vì giới thiệu bài viết của những người khác. Chính các tác giả viết bài (trong có tôi) đã làm cho Bọ Lập phải vào tù.
Mặt khác, để biết ai là người làm cho Bọ Lập vào tù ta phải trả lời thêm câu hỏi này : nếu Quê Choa đăng bài nhưng không có độc giả hoặc ít độc giả thì chủ nhân của Quê Choa có bị bắt không ? Câu trả lời chắc chắn là « không ». Nếu blog không có độc giả hoặc ít độc giả thì chính quyền đâu cần bận tâm.
Chính là con số hàng trăm triệu lượt truy cập của Blog Quê Choa đã khiến cho chính quyền bất chấp hết cả luật pháp lẫn đạo lý để đưa con người tàn tật ốm đau ấy vào nhà giam.
Chính sự yêu mến mà độc giả dành cho Quê Choa đã làm cho Bọ Lập phải vào tù.
Việc bắt Hồng Lê Thọ hoàn toàn nằm trong logic này. Nguyễn Hữu Vinh tuy có viết bài, có bày tỏ chính kiến một cách rõ ràng, nhưng cũng không đi ra ngoài logic này, bởi trang Ba Sàm cũng giới thiệu tin và đăng lại bài của người khác, cũng có số lượt độc giả truy cập rất lớn.
Sự lan tỏa của các blog là điều mà các chính quyền dân chủ rất ủng hộ, cổ vũ, nhưng đó lại là điều mà một chính quyền độc tài không chịu đựng nổi. Và blog chỉ có thể lan tỏa được khi có sự quan tâm của độc giả.
Chúng ta, các tác giả và độc giả của blog Ba Sàm, blog Trương Duy Nhất, blog Quê Choa, blog Người Lót Gạch…, chúng ta đừng quên rằng chính chúng ta đã đẩy Nguyễn Hữu Vinh, Trương Duy Nhất, Nguyễn Quang Lập, Hồng Lê Thọ và những bloggers khác vào tù.
Chỉ còn lại là chúng ta có định làm gì cho họ không mà thôi. Một chữ ký, một bông hồng, một bài viết, đăng lại một bài của họ, nói lên một suy nghĩ về họ, tiếp tục công việc dang dở của họ (lập ra một blog khác, nếu không phải Quê Choa thì là Quê Tôi hay Quê Ta…, nếu không phải Người Lót Gạch thì là Người Lót Đường…), hay bất kỳ một hành động cá nhân hoặc hành động tập thể nào khác, để thể hiện chút tình đối với họ.
Việc các bloggers phải vào tù đặt chúng ta trước hai sự thật mà chúng ta phải đối diện: sự thật về chế độ, và sự thật về chính chúng ta.
Liệu chúng ta có thể im lặng nhìn họ ngồi tù  trong đau yếu bệnh tật?
Liệu chúng ta có thể hoan hỉ say sưa đón năm mới, bỏ mặc họ một mình sau chấn song lạnh lùng tàn nhẫn của chế độ và sau màn sương mù lạnh lẽo vô cảm của chúng ta???
Họ đã làm rất nhiều cho chúng ta.
Họ đã làm rất nhiều và đã vào tù để giữ cho chúng ta niềm hy vọng, để cho chúng ta còn có thể tự hào rằng Việt Nam vẫn có những con người đích thực.
Họ vào tù để chúng ta được sống trong sự thật.
Họ dùng chính cuộc sống của họ để trả giá cho tự do của chúng ta.
Chúng ta đừng quên điều đó. Đừng để sự hy sinh của họ thành ra vô ích.
Chúng ta cần giữ ngọn lửa mà họ đã nhen nhóm và nuôi dưỡng suốt những năm qua, thổi bùng nó lên trong bóng đêm đen tối và lạnh giá này để tiếp tục đi về phía bình minh…
Paris, 27/12/2014
Nguyễn Thị Từ Huy


dzuylynh 31.12.2014 22:32:02 (permalink)
0
CIA - NỖI NHỤC CỦA " ĐỒNG MINH " HOA KỲ

40 năm sau 30 tháng 4, 1975, lật lại hồ sơ Thái Khắc Chuyên: Điệp Viên Hà Nội?

Cuộc chiến Việt Nam gây nên nhiều thảm cảnh gia đình. Gia đình Thái Khắc Chuyên là một và đặc biệt. Đêm 20/6/1969, ba lính mũ xanh Mỹ đẩy một ghe máy ra biển từ đảo Hòn Tre, Nha Trang trên có xác một người đàn ông Việt bọc trong áo mưa “poncho’’ quấn nhiều lớp xích sắt dầy cột vào hai niềng xe vận tải.

 Thân xác anh ta đã nằm sâu dưới đáy biển Đông nhưng tên nạn nhân trở nên nổi tiếng: Thái Khắc Chuyên, điệp viên nhị, tam, tứ trùng?
 
Thái Khắc Chuyên sinh năm 1938 tại Bắc Việt Nam. Cha là Thái Khắc Qui, mẹ Thái Thị Lục. Năm 1954 gia đình di cư vào Nam Việt theo HĐ Genève bằng tàu Mirabelle từ Hải Phòng cập bến Saigon lúc Chuyên 16 tuổi. Ba anh trai và hai chị em gái còn ở lại Bắc VN. Mẹ lo ngại các anh bị đi bộ đội nên đã liều lĩnh trở về Bắc nhưng bị bắt tại sông Bến Hải. Gia đình sau đó dời lên Đà Lạt rồi người cha xin được việc làm cho chính phủ VNCH. Chuyên làm cho một nhà thuốc tây do anh trai làm chủ nhưng sau vào Saigon đi học.
 
Chuyên di chuyển chỗ ở nhiều lần giữa Đà Lạt và Saigon khiến việc học không liên tục nên thi Tú Tài nhiều lần vẫn không đậu. Khi quân đội Mỹ vào Việt Nam, Chuyên làm cho hãng thầu RMK-BRJ của Mỹ được ba tháng thì bỏ đi làm thông ngôn lương cao hơn cho Green Berets, một binh chủng chuyên về tình báo của quân đội Mỹ đóng ở căn cứ Ashau, Đà Nẵng. Khi chiến cuộc tăng phần khốc liệt, Chuyên bỏ job để tránh nguy hiểm vì ba hôm sau đó căn cứ Ashau thất thủ vào tay VC. Sự trùng hợp này và nhiều sự kiện tương tự sau đó khiến người ta nghi Chuyên là gián điệp cho Hà Nội; hay ít nhất cũng để trốn quân dịch khi có lệnh tổng động viên năm 1968.
 
Tính đến ngày 6/5/1961, TT Kennedy đã gởi 400 lính mũ xanh sang VN để đối phó với VC sau khi MTGPMN ra đời và gia tăng hoạt động khủng bố. Đến ngày Kennedy chết, quân số này đã lên tới 12,000. TT Johnson kế nhiệm đã gởi nhiều sư đoàn bộ binh Mỹ để Mỹ hóa cuộc chiến theo kế hoạch vốn đã bị cố TT Diệm phản đối (gây nên cái chết thảm cho ông và bào đệ trong cuộc đảo chánh người Mỹ tổ chức ngày 1/11/1963). Trong số đó có đơn vị tình báo số 5 mang tên B57, bí danh Project Gamma mà Chuyên làm thông ngôn, một thông ngôn quèn không ngạch trật.
 
Do năng khiếu đặc biệt về Anh ngữ, nói tiếng lóng thành thạo như lính Mỹ nên Chuyên dễ kiếm được chân thông ngôn trước đó cho Civil Affairs, một cơ quan dân sự phụ trách về bình định và gián điệp, đóng ở Mộc Hóa, Tây Ninh. Chuyên hoạt bát, chăm chỉ, hăng say, đúng giờ; thậm chí làm việc ngoài giờ và cả ban đêm. Chuyên thẳng thắn; nói chuyện luôn nhìn thẳng vào mắt người đối thoại; chứng tỏ sự trung thực. Chuyên cũng là người ái quốc vì cha theo kháng chiến chống Pháp nhưng đã bỏ về thành làm việc cho quốc gia khi phát hiện bộ mặt thật của Việt Minh và gia đình ông đã theo giáo dân xứ đạo của mình di cư vào Nam lánh nạn Cộng-sản. Những thành viên còn lại trong gia đình còn kẹt lại vì đi không kịp hoặc bị cản trở. Đúng là ‘’chữ tài liền với chữ tai’’ vì tình báo Mỹ đặt câu hỏi: - Khả năng Anh ngữ giỏi của Chuyên sao không ở Saigon dạy học hay làm việc cho quân đội Mỹ ở các thành thị an toàn mà lại đi làm ở Mộc Hóa, một căn cứ địa mạnh của MTGPMN và các căn cứ sôi động khác? Cũng như tại Mỹ, có giỏi mà không bằng cấp thì trường nào mướn?
 
Đơn vị Mũ Xanh K57 có BCH đóng tại Nha Trang. Tổ trưởng trực tiếp đơn vị 142 của Chuyên là Trung-sĩ Alvin Smith, bí danh ‘’Sands’’, người mến mộ Chuyên, giới thiệu Chuyên cho CIA và cũng là người đã tạo ra đầu mối gây cái chết bi thảm cho anh sau này. Khi được nhận làm cho CIA, Chuyên có ám số SF7-166 và nhiệm vụ đi sâu vào đất Kampuchia thám sát và thâu thập tin tình báo cũng như tuyển điệp viên người bản xứ. Cấp trên của Smith là đại úy trẻ tên Bob Marasco, người thường chê các báo cáo của tổ 142 là vô dụng, và cũng là người sau này kê nòng súng hãm thanh vào đầu Chuyên đưa xác anh vào lòng đại dương. Marasco trả Chuyên về Civil Affairs và trả Smith về BCH ở Nha Trang.
 
Tại Nha Trang, Alvin Smith phát hiện một ảnh đen trắng tịch thu từ xác một VC trong một trận đánh hồi đầu năm 1969; trong đó có một cán binh CSBV, đội lốt VC mặc bà ba đen đội nón tai bèo đứng cạnh một sĩ quan VC cấp cao; mà mặt trông giống Chuyên (khả năng nhận diện người châu Á, nhất là về tuổi tác, của chuyên viên người phương Tây không chính xác; cán binh VC trong ảnh răng hô còn Chuyên thì không). Chuyên viên Budge Williams của B57 cũng không đoan chắc Chuyên là người trong ảnh. Khi đối chiếu ảnh của Chuyên trong đơn xin việc thì cũng không chắc đúng sai; mà hồ sơ lý lịch của Chuyên không hề có ghi chú gì về tất cả các công tác đã làm từ ngày gia nhập đến nay. Điều này khiến B57 nghi có gián điệp địch ngay tại các cơ quan hành chánh Việt-Mỹ quản lý hồ sơ của Chuyên! Cựu chỉ huy trưởng B57 là Bob Thrasher thì phân tích rằng lỗ tai của cán binh trong phim không giống của Chuyên; nhưng biết đâu tại bóng đen do chiếc nón tai bèo tạo sai biệt?! Thrasher đề nghị điều tra thêm rồi mãn nhiệm về nước. 
 
Trong nhiệm kỳ hai ở VN, Lee Brumley điều tra về Chuyên từ ngày 9/6/1969. Ông ta nghi Chuyên là điệp viên tam trùng Mỹ-BV-VNCH vì các điệp viên người Việt khác ở Tây Ninh và Kampuchia khai có một điệp viên cộng sản hoạt động trong vùng; có vợ ở Mộc Hóa (?); mà Chuyên đang làm ở tận thung lũng Ashau ngoài Trung lại bỏ về Tây Ninh cho gần vợ con lúc đó đã dời về đấy sinh sống! Hơn nữa trong một cuộc hành quân mà Chuyên được báo cho biết trước, VC đã phục kích thành công toán trinh sát của tổ. Brumley chờ ở Nha Trang suốt ba tuần không thấy hồi âm nên liền đánh điện về Saigon yêu cầu BCH của CIA trên lầu tòa đại sứ Mỹ gởi gấp chi tiết lý lịch mới nhất của Chuyên cho B57 ở Nha Trang; chỉ dùng đả tự viên người Mỹ để bảo mật! Tr/sĩ Smith thì chỉ biết chi tiết Chuyên có ba anh trai còn kẹt ở BV. 
 
Khi họ tìm Chuyên để gởi về Saigon điều tra bằng máy dò sự thật thì Chuyên đã bỏ Civil Affairs đi đâu mất. Hai chuyên viên CIA là Enking và Scrymgeour đi lùng kiếm Chuyên và định nhốt ở Okinawa hoặc Panama, hai nơi duy nhất mà CIA có nhà tù, để điều tra. Nhưng hai nơi đó xa; di chuyển rất tốn kém; mà nhà tù của đồng minh VNCH thì CIA lại không tin tưởng! Cuối cùng Smith cũng tìm ra nhà Chuyên số 53/1/46 đường Phan Thanh Giản Saigon. Smith dụ khéo để bắt Chuyên bằng lời hứa hẹn có job thơm mới, phỏng vấn sáng hôm sau 9 giờ. Thủ tục có điền đơn chi tiết hơn và khai với máy dò sự thật mang từ Nha Trang vào Saigon.
 
Đúng 10 giờ sáng ngày 12/6/1969, Chuyên ăn mặc chỉnh tề và lạc quan tin tưởng; đến điểm hẹn gặp Ed Boyle. B57 phải dùng thông ngôn của đơn vị tên Tạ Xuân Cường, bí danh Joel cho chắc chắn vì đã hết tin Chuyên. Trong cuộc thẩm vấn an ninh, chứ không phải phỏng vấn việc làm như đương sự lầm tưởng, Chuyên khai đã bỏ Ashau và các nơi khác như núi Cô Tô-Cần Thơ, Mộc Hóa-Tây Ninh vì sợ bom đạn. Năm 1966, Th.tá McBride của đơn vị 5-2 giới thiệu Chuyên làm việc cho ‘’Huỳnh Sơn’’ và sau đó được ‘’Ginger’’ ở sư đoàn 25BB kết nạp vào CIA. Nhưng Boyle biết Chuyên đã không chính thức được CIA nhận mà chỉ làm cho tình báo Mũ Xanh và Civil Affairs suốt sáu năm qua mà lý lịch vẫn trống trơn không ghi thành tích nào!
 
Sau một ngày dài thẩm vấn, Chuyên mệt mỏi và đòi về nhà nghỉ. Cotton, Smith và Joel đưa Chuyên về lúc 7:30 tối. Trên xe, Chuyên than phiền nhiều câu hỏi thù nghịch, thái độ hỏi nghi kỵ và máy móc giây nhợ rườm rà làm anh ta sợ sệt. Cha mẹ vợ có mặt ở nhà Chuyên nhìn người Mỹ một cách lo lắng. Có mặt cả em dâu là Lâm Hoàng Oanh tại nhà lúc đó. Chuyên phải trở lại cuộc thẩm vấn lúc 8 giờ tối với nhập đề trắng trợn hơn: - Anh có làm gián điệp cho Hà Nội không? Vợ và em dâu lo quá đã đến nơi thẩm vấn xin gởi Chuyên mảnh giấy tỏ ý lo ngại cho Chuyên. Chuyên được hai vệ sĩ người Nùng hộ tống về nhà đêm đó, đêm cuối cùng với vợ con.
 
Sáng hôm sau cuộc thẩm vấn tiếp tục. Máy dò sự thật báo kết quả là nói dối. Boyle nghi Chuyên (và cả vợ Chuyên cũng nên) là điệp viên CSBV và ra lệnh cho phụ tá Cotton tìm bác sĩ chích các loại thuốc như Saline, Thorazine, Sodium Pentathol qua tĩnh mạch của nạn nhân. B57 quyết định chở Chuyên về BCH ở Nha Trang để điều tra tiếp. Chuyên bị bịt mắt và ngủ vùi vì thuốc trong áo mưa “poncho’’, bị quẳng vào cốp xe tải chở ra phi trường TSN hôm thứ sáu 13/6/1969 (Thứ Sáu 13 là ngày xui xẻo theo người phương Tây: Chúa Tử Nạn - và TKC sắp tử vong!) với tài xế và ba lính Mũ Xanh trang bị tiểu liên. Họ lên kế hoạch sẵn sàng ứng chiến nếu bị nhân viên chính phủ VNCH tại TSN khám xét và bắt giữ. Tại TSN, một máy bay bí mật chờ sẵn. Cùng lúc đó, một Honda hai bánh bí mật ghé nhà vợ số 38 Phan Thanh Giản; đưa cho vợ Chuyên, Phan Kim Liên mảnh giấy từ biệt viết ngắn gọn vội vã: “Em và các con thân yêu, anh phải vắng mặt vài ngày vì công vụ. Đừng lo lắng! Anh chúc cả nhà vui khỏe! Hôn em...’’ Liên đọc lời chúc lạ thường “vui khỏe” chưa từng có của chồng mà lo sợ ra mặt. Linh tính báo trước một điềm chẳng lành đã tới!
 
Cuộc thẩm vấn tại BCH B57 ở Nha Trang tiếp tục từ 4g sáng hôm sau 14/6 với Brumley xoay quanh các điệp viên người Việt khác cho đến khi Chuyên ngủ vùi vì quá mệt và vì thuốc. Hôm sau Chuyên lại bị thẩm vấn từ 8g sáng suốt ngày, xoay quanh tấm ảnh cán binh VC, nghi vấn về vợ Chuyên và người đàn bà, vợ điệp viên CS nào đó ở Mộc Hóa, về đại úy Phan, đại úy Nguyễn Chiêu, về kế hoạch C&C (tình báo chiến lược của MACV), về Thu Linh hay Thu Ninh nào đó ..vv.. Khi Brumley nghỉ, Boyle tiếp tục thẩm vấn nạn nhân với sự giám định y khoa tâm thần thường trực của Bs. Allison. Boyle xoay quanh thời kỳ Chuyên ở Vũng Tàu và điệp viên Huỳnh nào đó. Khi Boyle nghỉ, Brumley lại tiếp tục quay lại đề tài các anh của nạn nhân ở BV và em dâu tên Lâm Hoàng Oanh.
 
Bốn giờ chiều 17/6 sau sáu ngày thẩm vấn liên tục với máy dò sự thật và thuốc Sodium Pentathol, Chuyên nổi giận theo tính nóng cố hữu của nạn nhân, bất hợp tác với điều tra viên và chửi rủa ‘’bọn Mỹ chúng mày ngu ngốc, không hiểu gì về Việt Nam’’, rằng “Mỹ sẽ thua trận’’...vv.. Máy dò sự thật thì báo kết quả Chuyên nói dối về chỗ ở năm 1964 và về việc Chuyên tiếp xúc với anh trai ngoài BV. Đây cũng là ngày thẩm vấn cuối cùng vì nạn nhân không còn muốn hợp tác. Số phận của Chuyên đã được định đoạt: Chỉ còn là cách thức thủ tiêu vì CIA không có nhà tù ở VN mà hai nhà tù kia của CIA thì quá xa; vả lại nhà tù của “đồng minh” VNCH thì không đáng tin cậy; chưa kể đồng minh này có thể sẽ khai thác tin tình báo của Mỹ từ Chuyên!
 
Th. tá Crew và Đ.úy Brumley gởi báo cáo cho Saigon và xin gặp đơn vị trưởng của họ là Đ. tá Bob Rheault để xin chỉ thị. Crew đề xuất nhiều cách giải quyết và nhấn mạnh rằng Chuyên là một tù nhân nguy hiểm vì Chuyên biết quá nhiều chi tiết về các mục tiêu hoạt động, nhân sự cũng như hệ thống trên-dưới, ngang-dọc của hệ thống tình báo Mỹ ở VN. Phụ tá Facey đề nghị đặt một thùng Conex nhốt Chuyên cho đến khi chiến tranh kết thúc nhưng không chắc thực hiện được và cần xin MACV chấp thuận. Người khác đề nghị thủ tiêu Chuyên trong rừng rậm hoặc chở sang nhờ Đài Loan giết, hoặc đạp Chuyên xuống biển từ máy bay trên cao độ, thủ tiêu bằng dao, chích thuốc độc hoặc thắt cổ nạn nhân ..vv..
 
Qua những hành động tự phát kiêu căng đầy tính kỳ thị của các cá nhân, đơn vị quân đội hay các chính trị gia Mỹ tại VN, chính nghĩa Tự Do, Dân Chủ đã bị lu mờ trước sự tuyên truyền tinh xảo và khéo léo của đối phương Cộng-sản. Thật có, giả có! Chẳng hạn: Nhiều lính của SOG đã đấu láo rằng muốn thắng cuộc chiến VN chỉ cần thực thi ba bước: gom hết người Việt thảy xuống tàu thủy, rào biên giới VN lại, rồi đánh đắm tàu thủy ấy là xong! Tại VN, Tướng Patton III, con của Tướng George Patton tốc chiến tốc thắng hồi thời Thế Chiến 2, nổi tiếng luôn để một sọ đầu lâu VC trên bàn giấy của mình! Số phận của các nguyên thủ quốc gia như Magsaysay, Pak Chung Hy, Lý Thừa Vãn, Ngô Đình Diệm đã bị các chính trị gia non nớt ngây ngô, các đại sứ hống hách và các đao phủ hiếu sát CIA của Mỹ định đoạt; bất kể khát vọng chính trị và lòng tôn kính của nhân dân các nước liên hệ đối với quốc gia và lãnh tụ của họ. Sự xâm phạm thô bạo chủ quyền các “đồng minh’’ là nhược điểm mà các chính phủ Mỹ chưa bao giờ chịu học hỏi và từ bỏ. Việc đối xử với các nghi phạm ở nhà tù Abu Ghraib tại Iraq năm 2003 sau này đã chứng minh điều đó. Trong việc thủ tiêu Chuyên, B57 và CIA đã tự ý quyết định số phận công dân một nước đồng minh, dù là tư chức của QĐ Mỹ hay của các hãng xưởng Mỹ ở VN, mà không hề tham khảo ý kiến; thậm chí còn giấu diếm chính phủ nước sở tại! Trong khi đó người Mỹ lại ngây thơ đối xử với các tên khủng bố Hồi giáo cực kỳ nguy hiểm bị nhốt ở Guatanamo bằng qui chế hiệp định Genève nhân đạo, mặc dù chúng chẳng phải tù binh có quân phục, cấp bậc, số quân như luật định! 
 
Nhu cầu thủ tiêu Chuyên càng cấp bách hơn khi nạn nhân ngày càng la hét, đập phá tường để mong thoát thân. Đơn vị QLVNCH đóng cạnh đó cũng không hề hay biết hoặc không được can thiệp. Đơn vị trưởng K57 là Đ. tá Bob Rheault thì chấp thuận việc thủ tiêu nhưng không dám công khai ra lệnh sợ liên lụy rắc rối cho giấc mơ ngôi sao Chuẩn Tường nằm trên ve áo. CIA ở Saigon và tại địa phương, qua chuyên viên Shackly, thì không công khai ra lệnh sợ rắc rối ngoại giao khi chính phủ VNCH phát giác nội vụ. Mọi người của B57 lại hiểu ngầm rằng sự im lặng suốt 10 ngày của CIA đồng nghĩa với sự chấp thuận, vì CIA có bao giờ nhận hoặc chối những gì họ làm và có bao giờ làm điều gì công khai đâu! 
 
Coi như “đèn xanh” không “cháy” nhưng có ‘’bật’’, tối thứ năm 19/6 lúc 7 giờ, nhóm sĩ quan K57 đưa một ghe máy ra Hòn Tre chờ nạn nhân đem từ Saigon ra. Boyle lái chở Chuyên bằng xe tải ra bờ biển rồi đè nạn nhân xuống lòng ghe, nhét vào poncho. Nạn nhân bị Brumley chích Morphine; bị bịt miệng bằng băng keo và trói thúc ké trước đó. Williams và Marasco phụ với hai người khiêng Chuyên ra ghe. Khi Morphine đã giảm, có tiếng rên rỉ từ trong poncho thì Morphine lại được chích thêm. Dù ghe đã ra xa ngoài khơi nhưng khi tiếng rên vẫn còn vì thuốc mới chích chưa hiệu quả, Brumley vội rút Colt-45 ra nhắm màng tang của Chuyên bóp cò nhưng súng không nổ. Williams và Brumley kéo Chuyên vào giữa ghe, quấn quanh poncho nhiều vòng xích sắt dầy và gắn theo hai niềng xe vận tải cho bảo đảm đủ nặng để xác nạn nhân được thủ tiêu dưới lòng biển an toàn. Họ kê đầu Chuyên lên thành ghe để máu bớt chảy trong lòng ghe; rồi Marasco kê nòng .22 ly có bộ phận hãm thanh vào đầu nạn nhân bóp cò. Nhưng lạ thay, súng lại bị kẹt đạn, có lẽ điều gì oan khiên đã ngăn cản viên đạn. Brumley giúp điều chỉnh cơ bẩm, nhét đạn vào nòng rồi đưa lại cho Marasco bấm cò. Lần này một tiếng kêu tựa vỏ xe xì lốp phát ra từ ống hãm thanh. Máu tươi, mảnh xương sọ và óc nạn nhân bắn tung tóe trên thành ghe, trong ghe và trên quân phục của xạ thủ. Williams và Brumley lăn xác nạn nhân xuống biển để thủ tiêu. Marasco đứng bất động nhìn theo để kiểm chứng. Về lại BCH/K57, họ thấy Smith và Crew nóng lòng ngóng đợi. Crew ra lệnh đốt bỏ quân phục dính máu nạn nhân để phi tang. Brumley và Boyle đem vật dụng cá nhân của Chuyên như bút, đồng hồ, nịt quần ..vv.. đi tận Đồng Hới đốt phi tang.
 
Mọi người xem mật vụ như đã đi vào dĩ vãng, riêng Smith lo âu vì sợ chính mình sẽ là mục tiêu kế tiếp bị cấp trên đem đi thủ tiêu để bảo mật vì chính Smith đã khám phá ra vấn đề ngay từ đầu và không tán thành việc thủ tiêu Chuyên. Smith sợ đến độ không dám ngủ tại phòng của mình mà lén hỏi thủ kho mượn nệm để ngủ mỗi đêm mỗi nơi khác nhau. Smith bị bắt và dẫn độ về Saigon bằng xe từ Nha Trang ngày 1/7/1969. Trong lời khai theo lệnh của hai sĩ quan quân cảnh tư pháp Bourland và Bidwell, Smith khai Đ. tá Rheault có dính líu. Smith bối rối viết tên nạn nhân lúc thì Chuyên, khi thì Khắc, lúc lại Thái, khi lại Chu Yên. Hôm 21/7, Tướng George Marbry phụ tá tình báo thừa lệnh Abrams ra lệnh nhốt tất cả 5 nhân viên can dự gồm Brumley, Boyle, Marasco, Williams, Middleton. Riêng nghi can chính là Đ. tá Rheault thì cố thương thuyết chỉ nhận tội nếu các thừa hành viên được miễn tố; nhưng đã thua lý lẽ của quân cảnh tư pháp Bourland rằng lời khai luôn để dành cho sự thật chứ chẳng để dành cho ai khác! Đ. tá quân cảnh tư pháp Frank Brandenburg đợi Rheault ngoài sân rồi bắt ông ta đưa lên xe.
 
Boyle bị thẩm vấn ngày 12/7 và bị giải về nhà tù Long Bình, nơi có cái tên tắt thật mai mỉa: LBJ (Long Binh Jail) đọc tắt giống Lyndon Baines Johnson! Boyle hốt hoảng xin gặp một tu sĩ, có lẽ với ý định tự tử vì Boyle biết theo luật Quân đội Mỹ, không ai có quyền đơn phương xử tử nghi can. Crew khai nửa chừng rồi thôi và đòi cung cấp luật sư. Marasco tự đánh máy lời khai, nhận tội nhưng không khai Rheault. Middleton vả lả với hai quân cảnh tư pháp khoảng một tiếng đồng hồ rồi bị tống giam. Ken Facey khai chỉ huy trưởng Rheault có ra lệnh giết Chuyên rồi Facey khóc. Trong nhà giam, Brumley giấu lưỡi lam dưới nệm phòng khi cần dùng (cạo râu hay cắt gân máu?). Tr.sĩ Kautson, thủ kho giữ ghe đã hợp tác hoàn toàn với quân cảnh điều tra. Tr.sĩ Wayne Ishimato gốc Nhật đóng vai Chuyên đi Kampuchia để cấp trên làm báo cáo giả rằng Chuyên còn sống và đang công tác bên đó, nay cũng không chối trước tòa án quân sự Long Bình. 
 
Theodore Shackley, chỉ huy CIA ở VN trình sự việc cho đại sứ Bunker xin chỉ thị. Bunker bảo việc này không dính đến ngành ngoại giao và bảo liên lạc Abrams xin ý kiến. Abrams bảo B57 là kế hoạch do CIA tài trợ và điều hành nên quân đội không chịu trách nhiệm. Ông bảo quân đội Mỹ đang bị rắc rối vụ Mỹ Lai chưa đủ hay sao còn ôm thêm chuyện này?! Shackley tuyên bố CIA không dính vào vụ giết người này dù CIA có tài trợ cho B57. Tại BCH/MAGV, Shackley từ chối không khai theo lệnh của hai quân cảnh tư pháp, viện lẽ CIA không nằm trong hệ thống quân đội và nhân danh tư cách hành pháp miễn trừ; nhưng phụ tá là Clement Enking vì gốc nhà binh nên bị thẩm vấn thay. Các tướng trong phòng nhìn cảnh thư hùng giữa tư pháp và hành pháp (CIA là một thứ chính phủ trong một chính phủ) mà phát ngượng!
 
Vợ Chuyên là Phan Kim Liên và em dâu Lâm Hoàng Oanh đến phòng thẩm vấn của K57 ở Saigon tìm Chuyên nhưng Brumley lánh mặt và đuổi khéo. Thất vọng, Liên đi nhờ chính phủ và quốc hội VNCH giúp can thiệp với tòa Đại Sứ Mỹ nhưng không kết quả. Người em dâu để lại địa chỉ chỗ làm: Sở Bình Định Nông Thôn 158 Pasteur Saigon, Tel. 922-5708 để K57 liên lạc. Tin Lâm Hoàng Oanh được học bổng du học Columbia University ở Mỹ càng làm cho K57 sợ toát mồ hôi: Hà Nội gởi điệp viên vào tận đất Mỹ!? 
 
Tại tòa án QS ở Long Bình kéo dài từ tháng 8/69, mỗi nghi can có một luật sư bào chữa. Riêng Middleton, sau khi nội vụ đã được tiết lộ cho báo chí và Quốc Hội Mỹ, đã được gia đình thuê luật sư dân sự là George Gregory ở S. Carolina sang VN biện hộ. Chánh án là Đ. tá Seaman, chưa có kinh nghiệm về tư pháp. Các luật sư đòi có đủ tất cả nhân chứng và bằng chứng, kể cả tài liệu từ Chính phủ VNCH và CIA, danh sách người di cư trên tàu Mirabelle năm 1954; nhất là phải có tử thi theo luật Mỹ! Các báo lớn nhỏ ở Mỹ đều đăng tin và theo dõi vụ án như New York Times, Charlotte Observer, Times, International Herald và Washington Post. Một số ký giả đã đến VN phỏng vấn các bên liên quan, kể cả CQ/VNCH, dân chúng địa phương và Đ.tá Lemembres, người thay mặt Rheault đang bị câu lưu.
 
Do đó, BCH/HQ Mỹ ở Saigon gửi điện yêu cầu đội rà mìn của hạm đội 7 ở Pearl Harbor cung cấp phương tiện dò tìm “ghe name” ở biển Đông VN. Khi bị HĐ7 từ chối viện lẽ không phải trường hợp cấp bách, tướng Potts phải mượn lệnh của Abrams mới được chấp thuận. Bảy ngày sau, tàu dò mìn USS Woodpecker đến duyên hải Nha Trang tìm xác TKC. Thợ lặn báo cáo sóng to gió lớn, bùn ngập tới đầu gối và tầm nhìn xa tối đa chỉ 7 feets nên yêu cầu để hôm sau. Chiều tối ngày thứ nhì, thợ lặn mới tìm thấy cái neo 100kg của chính con tàu dò mìn; hôm trước thả xuống giờ mới 24g đã trôi xa 100 yards. Họ bàn ra rằng với cường độ sóng gió này, xác TKC quẳng xuống cách nay 6 tháng chắc sẽ trôi dạt nửa đường đi Hà Nội! Thế là huề vốn! Bourland thất vọng trở về Long Bình.
 
Phan Kim Liên nghe tin Ls Gregory đến VN thì có đến khách sạn Caravelle tìm gặp và khóc lóc xin giúp tìm chồng nhưng Gregory viện cớ là luật sư bên bị can nên từ chối. Tờ Washington Post cử đại diện là Robert Kaiser và phụ tá là Vũ Thụy Hoàng qua VN tìm hiểu rồi đưa tin hôm 18/8/69 rằng vụ án đã bị cho chìm xuồng vì lý do chính trị. Được tin ấy, một anh của Kim Liên đòi đưa 8 ghi can ra tòa VNCH; còn Liên mướn luật sư viết thư gởi MACV và Bunker xin cho biết tình trạng sống chết của người chồng mất tích; bản sao gởi Thủ Tướng VNCH. Trong thư, Liên cũng cam kết chồng bà thuộc gia đình chống CS; không phải là VC cũng chẳng thể là điệp viên vì tánh rất nóng nảy không giấu nổi bí mật nào. TKC chỉ là thông ngôn quèn không ngạch trật. Thấy mình là trung tâm của vụ án mà chẳng ai đả động đến, Kim Liên liều thân đến tận tòa Đại sứ Mỹ để đưa thư hôm 18/8 chờ cả tiếng đồng hồ vẫn không được tiếp, đành để thư lại cho thư ký tiếp tân và ra về. Hôm sau, đại diện của Bunker đến nhà Liên tìm, gặp ông bố từ chối cho gặp Liên và từ chối trả lời mọi câu hỏi, có lẽ ghét người Mỹ. Phái viên ấy dặn ông cụ nhắn lại Liên hãy khiếu nại với quân đội Mỹ vì chồng Liên làm việc cho Green Berets Mỹ. Được lời nhắn ấy, Liên bỏ đòi hỏi đưa nội vụ ra tòa án VNCH, thay vào đó yêu cầu tòa Đại sứ và Quân đội Mỹ phải bồi thường thiệt hại. Liên bồng hai con trai nhỏ 2 tuổi và mới sanh, đến cổng tòa đại sứ khóc lóc, kể lể và qui trách nhiệm cho chính phủ Mỹ. Liên nguyền rủa rằng linh hồn chồng bà sẽ không tha thứ cho bọn giết người trong suốt cuộc đời của họ. Bà cũng đòi tự tử rồi ngất xỉu ngay trước cổng. Hôm 2/10/69 một sĩ quan phụ trách tài chính của quân đội Mỹ đến nhà Kim Liên trao 6,472 đô tiền mặt, trích từ quỹ đen của CIA, cho Liên; nói rằng số tiền “tử tuất’’ đó tương đương ba tháng lương của TKC kèm theo giấy cam kết yêu cầu bà ký từ nay không khiếu nại gì thêm, một hình thức bắt chẹt về mặt luật pháp. 
 
Tại VN, Đại sứ Bunker đánh điện cho bộ Ngoại giao, MACV và cả phái đòan Mỹ ở hội nghị Paris báo cáo về vụ kiện tụng. Ông viết rằng ‘’Kim Liên nhờ Thủ Tướng VNCH trong trường hợp chồng bà đã chết thì thư này thay thế văn kiện chính thức truy tố 8 người lính mũ xanh ra tòa án VN về tội giết người bất hợp pháp, vô nhân đạo và tàn bạo’’. Ông đại sứ kết luận bản báo cáo một cách lạnh lùng: “Bà Thái Khắc Chuyên khẳng định chồng bà không phải là điệp viên cộng sản’’. Tại Mỹ, đài NBC đưa tin chính quân đội Mỹ đóng hồ sơ vụ án. CBS thì bảo là CIA. ABC thì bảo là CIA và Nixon cho nội vụ chìm xuồng. Dân biểu Quốc hội liên bang Peter Rotino chửi rủa các tướng ở MACV và bênh vực gia đình Marasco. Ông đòi các can phạm phải được xử ở tòa án dân sự Mỹ để được công bình hơn tòa quân sự ở VN. Nhiều thư của các gia đình quân nhân tử sĩ Mỹ và các cử tri khác gởi thư cho dân biểu, nghị sĩ đại diện và cho cả Nixon yêu cầu giúp tha các can phạm lính mũ xanh ở VN.
 
Khi tin chính thức loan rằng các phạm nhân mũ xanh được thả, các ký giả quốc tế có làm một cuộc phỏng vấn ứng khẩu với các bên trong cuộc ngay trước tòa đại sứ Mỹ. Phan Kim Liên trong bộ áo tang trắng khóc sướt mướt kể lể rằng ‘’chồng tôi di cư vào Nam VN tìm tự do dân chủ và giúp người Mỹ thế mà người Mỹ lại giết anh ta rồi trốn lãnh trách nhiệm này’’. Các ký giả quốc tế bao quanh người quả phụ đau khổ với thái độ thương cảm và khó xử. Bà Liên đòi tự tử tại chỗ và gào thét ‘’họ phải hoặc lãnh trách nhiệm về cái chết của anh ta hoặc cái chết của tôi. Linh hồn chồng tôi sẽ theo họ suốt đời!’’. Khi Kim Liên ngất xỉu xuống đất, lính canh lặng lẽ đóng cổng tòa đại sứ.
 
Smith đáp chuyến bay World Airways khác chuyến bay của 7 người kia. Các ký giả quốc tế chờ họ tại sân bay San Francisco, CA. Bất đắc dĩ phải lại microphone vì đứng đầu hàng ngũ 8 người được thả, để trả lời câu hỏi ‘’Cá nhân ông có ra lệnh xử tử người đàn ông Việt mệnh danh là điệp viên nhị trùng không?’’, Rheault trơ trẽn nói: ‘’chả có gì chứng minh rằng nhận vật ấy là có thực cả!’’. Khi nhà báo ấy chưa thỏa mãn và hỏi tiếp: ‘’Rốt cuộc ông chối là không có giết người à?’’. Rheault trả lời ngay không suy nghĩ: ‘’đúng thế!’’. Bob Rheault sau có xin trở lại VN để phục vụ, hy vọng hoài bão lên cấp Tướng sẽ không chết non theo vụ án; nhưng Ngũ Giác Đài bảo Rheault đến bệnh viện quân đội Walter Reed ở thủ đô Mỹ để lãnh tiền và giấy giải ngũ, chấm dứt 26 năm kiêu hãnh từ ngày xuất thân trường võ bị West Point.
 
Sau 1975, Phan Kim Liên và hai con trai sống trong khó nghèo, cô quạnh ở thành phố nay đã đổi tên. Các anh trai của Chuyên kẹt lại Bắc Việt đã chỉ là thứ dân hạng bét của chế độ như bao nhiêu tín đồ Thiên Chúa giáo khác. Hồi tháng 8/1991, con trai cả của Thái Khắc Chuyên là Thái Quốc Việt vẫn tin cha mình còn sống; viết thư cho ký giả J. Stein hỏi về số phận của cha mình và thú nhận ‘’thật khó sống với những năm tháng dài ngờ vực. . .’’. Nó đâu biết rằng dân Mỹ thế hệ này vẫn còn ngờ vực sự lành lặn của vết thương chiến tranh Việt Nam. 
 
Lời xin lỗi cố TT. Thiệu và thú nhận của Kissinger sau này chưa đủ để tẩy sạch được vết nhơ danh dự ô uế: Phản bội chiến hữu đồng minh Nam Việt trung thành, giết hại lãnh tụ khả kính của họ để Mỹ hóa cuộc chiến; rồi lại Việt hóa cuộc chiến trở lại để trốn trách nhiệm. Và phải giải thích ra sao về trách nhiệm của giới chính trị gia Mỹ đối với niềm tự hào của một quân đội vốn chưa bao giờ chiến bại: Quân Đội Hoa Kỳ? 
 
Hà Bắc
(tham khảo tài liệu của J. Stein và Time
sen dat 01.01.2015 21:11:04 (permalink)
0
Đầu năm mới thì phải vui nên phải đọc điều vui để cười
Sếp ốm (sưu tầm)
Nghe tin sếp bị cắm giằm
Phải vào bệnh viện siêu âm chụp hình
Phòng ban lãnh đạo rối tinh
Vội ngưng công việc rập rình viếng thăm
Người thì nựng sếp "măm măm"
Kẻ thì nắn bóp tay chân dỗ dành
Bao nhiêu là tấm lòng thành
Bấy nhiêu là những "tờ xanh" đi cùng
Sếp nằm thịt thắm da hồng
Quanh giường quà cáp chất chồng ngổn ngang
Ốm như hoa hậu đăng quang
CHI SẮC (Hải phòng)
sen dat 01.01.2015 21:14:38 (permalink)
0
Cười rồi thì nhấm nháp cái gì cho ngon cái miệng. Mời các bạn ăn gỏi mít nha!
Attached Image(s)
sen dat 01.01.2015 21:17:41 (permalink)
0
Nhấm nháp xong thì ngăm hoa lá cành
Attached Image(s)
Thay đổi trang: << < 525354 > >> | Trang 52 của 58 trang, bài viết từ 766 đến 780 trên tổng số 867 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 5 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9