GIAI ĐIỆU PHÙ TRẦM
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 58 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 867 bài trong đề mục
thiên thanh 13.04.2013 17:16:51 (permalink)
0
 
***
 
[YouTube]http://www.youtube.com/watch?v=eW7ogBl7TYs[/YouTube]
 
Hát cho Việt Nam
 
sáng tác & trình bày: Từ Yên
 
Trả lại cho tôi, non sông Việt Nam 
Trả lại cho tôi, giang sơn Hùng Vương
Trả lại cho tôi, anh linh Bạch Đằng
Hồn thiên nước Nam 

Trả lại cho tôi, Nam Quan Hoàng Sa 
Trả lại cho tôi, quê hương tự do 
Trả lại cho tôi, vinh quang làm người 
Làm người Việt Nam
 
Tôi là Việt Nam, có quê hương bờ đại dương Thái Bình
Tôi dân Lạc Hồng, ngàn muôn trang sử oai linh
Tôi lớn khôn lên, mơ một cuộc sống thanh bình
Dựng xây đất nước, nối chí thiêng Cha Ông ngàn năm
 
Tôi là Việt Nam, sáu mươi năm nhọc nhằn không nụ cười
Thương dân Việt nghèo, buồn cơn tai biến chưa nguôi
Căm oán quân gian gây vận nước điêu tàn
Thù giặc phương Bắc xâm lấn quê hương, non sông Lạc Hồng
 
Hai mươi năm xưa, buồn câu Nam Bắc phân ly
Bao nhiêu năm qua, lệ nô không thấy mặt trời
Tự do chi đây? Sao tù đầy cho người yêu nước?
Độc lập chi đây? Hay lọc lừa bán đất Việt Nam
 
Hai mươi năm xưa, mang hận thù xâu xé quê hương
Rồi ba mươi năm sau, đem biển Đông dâng hiến giặc Tàu 
Còn bao nhiêu lâu? Cho Việt Nam thôi nhục hèn ai oán?
Và còn bao lâu? Cho dân tộc mình được thấy tương lai…
 
Đòi lại đi thôi, non sông Việt Nam
Đòi lại đi thôi, giang sơn Hùng Vương 
Đòi lại đi thôi, anh linh Bạch Đằng
Diệt quân xâm lăng
 
Đòi lại đi thôi, Nam Quan Hoàng Sa
Đòi lại đi thôi, quê hương Tự do
Đòi lại đi thôi, vinh quang làm người
Làm người Việt Nam
#76
    dzuylynh 15.04.2013 06:16:15 (permalink)
    0
     Ý NGHĨA CỦA NGÀY QUỐC HẬN 30-4
     

     
      
    Nhân Ngày Quốc Hận 30 Tháng 4 sắp đến, trước hết xin nhắc giới trẻ sinh sau năm 1975, một ý nghĩa quan trọng mà nhiều em vẫn chưa biết: Ngày Quốc Hận là ngày buồn thảm, vì đó là ngày mà chúng ta, những người Việt ở Miền Nam Việt Nam, bị mất đất nước vào tay cộng sản Bắc Việt tàn ác, từ Hà Nội, bằng sự xâm lăng bạo lực và bất hợp pháp của bộ đội Miền Bắc vào lãnh thổ tự do của dân Miền Nam, năm 1975. Tóm tắt, Ngày Quốc Hận 30/4 là Ngày Mất Đất Nước, nói rõ hơn là Ngày mất nước Việt Nam Cộng Hòa  của tất cả những người Việt yêu tự do, nhân quyền, dân chủ, và hòa bình.
     Vậy mà, có những em sinh viên ở Mỹ còn tụ tập thành nhóm, để ăn uống, vui chơi, và nhảy múa, ngay trong ngày và đêm 30/4, như đã thấy trong các năm qua. Năm nay, xin các cha mẹ nhắc nhở và giải thích cho con cháu hiểu về ý nghĩa lịch sử của Ngày 30/4 đau buồn này, vì sau ngày đó, vào khoảng nửa triệu dân Việt ở Miền Nam đã bỏ mình trên biển Đông do vượt biển.
     Tôi mong các phụ huynh người Việt vẫn còn nhớ để dạy con cháu một câu tục ngữ Việt thông thường đã được phổ biến trong các trường học Miền Nam của chính thể Việt Nam Cộng Hòa, trước năm 1975: Một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ. Chúng ta nghĩ sao khi thấy loài ngựa biết chia xẻ nỗi đau cho nhau và biết cư xử với đồng loại của chúng tốt hơn con người cư xử với nhau? Sự hy sinh can đảm và đầy nước mắt đó của nửa triệu đồng bào vượt biển, đã Thức Tỉnh Lương Tâm của Liên Hiệp Quốc. Nên Cao Ủy Tỵ Nạn của LHQ đã lo chi phí cho các Trại Tỵ Nạn Cộng Sản (CS) được dựng lên trên các đảo ở Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan… vào khoảng các năm 1978-1988, để đón nhận những người Việt Tỵ Nạn đến sinh sống tạm thời ở đó. Rồi những người Mỹ có lòng tốt và Quốc Hội Mỹ đã kêu gọi được chính phủ Mỹ chấp thuận cứu xét giấy tờ cho người Việt Tỵ Nạn CS được định cư với cuộc đời mới ở Mỹ. Dần dần, các nước Tự Do khác trên thế giới cũng ủng hộ và cho phép chúng ta định cư trên đất nước họ, với lý do tỵ nạn chính trị, như: Úc, Gia Nã Đại, Pháp, Đức, Anh, Tân Tây Lan, Bỉ, Đan Mạch, Na Uy… Đồng bào của chúng ta đã chết cho chúng ta được sống. Vậy nỡ nào bây giờ, cha mẹ, những người Việt tỵ nạn trước đây, thản nhiên (hoặc vô tình không biết) để cho con cháu mình tụ họp, vui chơi, nhảy nhót trong các buổi tối, gần Ngày Quốc Nạn 30/4? 
     
     Kế đến, tôi muốn các em biết điều quan trọng thứ hai đã xảy ra vào hai năm 1988-1989: Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã hoàn thành một việc vĩ đại, giúp các tù nhân chính trị của Miền Nam, đang thống khổ lúc đó, do bị kỳ thị và bị đàn áp bởi sự độc tài của chế độ CS độc đảng trong nước. Năm 1988, Tổng Thống Reagan đã ký lệnh cho phép tất cả các Quân, Dân, Cán, Chính, của VNCH, thuộc mọi cấp bậc và trình độ (đã bị tù tập trung khổ sai, ít nhất 3 năm trở lên, dưới chế độ CSBV) và gia đình của họ, được nộp giấy tờ xin đi Mỹ, hợp pháp. Nghĩa là, họ và gia đình, không phải đi trốn bọn công an VC một cách lén lút, đầy nguy hiểm, bằng cách vượt biên như đi bộ qua Thái Lan, Cam Bốt…, hoặc vượt biển với những con thuyền nhỏ bé như một chiếc lá mong manh và chết trên sóng biển đại dương nữa.
     Trước đó một năm, vào năm 1987, nhiều Nghị Viên của Quốc Hội Mỹ thuộc cả hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ, cùng với Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao lúc đó, là ông Robert Funseth, đã nỗ lực hoạt động như những người điều đình để trình bầy Nghị Quyết 212. Khi họ mang nội dung của Nghị Quyết này đến thương lượng với VC trong việc thả tù chính trị của VNCH đang bị hành hạ trong các trai tù tập trung khổ sai (mà VC gian manh gọi là “học tập cải tạo”) thì bị VC chống đối mãnh liệt. Đảng CS Hà Nội nói rằng: “Không, chúng tôi không thả. Nếu thả hết bọn tù chính trị và tù quân đội VNCH này ra thì chúng đứng lên làm loạn cả nước, làm sao đảng cai trị dân được? Nước Mỹ của các anh có dám nhận hết tụi tù (dơ dáy) này qua Mỹ không thì chúng tôi mới thả…”
     VC không ngờ TT Reagan đã nhanh chóng xác nhận là Mỹ sẽ nhận các tù nhân VNCH vào nước Mỹ ngay, vậy VC cứ thả họ đi. Nhờ vậy, một hiệp ước thỏa thuận đã được ký ngày 30/7/1989 bởi Hoa Kỳ và nhà cầm quyền VC. Nghị Quyết 212 hợp pháp đã giải thoát khoảng 300.000 tù nhân chính trị, và cùng với gia đình, họ được rời khỏi Việt Nam để định cư ở Hoa Kỳ.
     Rõ ràng, đối với các cựu tù nhân chính trị VNCH: sau cơn mưa, trời lại sáng. Hãy hy vọng và cầu nguyện, ngay cả khi chúng ta bị phản bội, đang thất bại, hoặc gặp hoạn nạn… Tất cả rồi cũng trôi qua với cuộc đời tạm thời này … Và hãy tin rằng những ai làm việc cho chính nghĩa và nhân nghĩa, sẽ có cơ duyên hội tụ và ủng hộ nhau để thành công.

      
    Hậu quả 30-4: tù cải tạo, công an đàn áp.

    Viết Cho Ngày Quốc Hận 30/4
    GS TRẦN THỦY TIÊN – M.S.
     
    ********
    FOR YOUNGER GENERATION: THE MEANING OF BLACK APRIL 30
    With the coming of April 30, Id first like to remind the younger generation, born after 1975, of one important issue many of you still dont realize: The National Mourning Day of April 30 is a sad day because on that day, we, the South Vietnamese, lost our country into the brutal hands of North Vietnamese communists from Hanoi. With their aggressive and illegal invasion by North Vietnamese army they forced themselves into the free democratic territory of the South citizens, in 1975. Briefly, the National Mourning Day is the Day We Lost Our Country, the home land of all Vietnamese who cherish liberty, human rights, democracy and peace.
    Despite this, many Vietnamese college students in America ignorantly gather in groups to party or socialize, have fun and dance on that day and night, as seen in the past years. This year, parents, please explain to your children the historical meaning of how tragic April 30th is. After that day, approximately half a million Vietnamese in the South died on their way to escape communist brutality on the Eastern Sea.
    I hope Vietnamese grandparents and parents still remember to teach their children the common Vietnamese proverb that was widely taught in our Southern schools in the Republic of Vietnam before 1975: When one horse gets sick, the others in the whole stall dont eat. We should reflect on how horses have the ability to share their pain and treat their own better than we, the human race, are able to.
    The brave and tearful sacrifices of half a million Vietnamese, escaping by boat in the vast sea awakened the conscience of the United Nations. The UN High Commissioner for Vietnamese Refugees took care of the expenses to set up Refugee Camps in the Philippines, Malaysia, Indonesia, Thailand and more… from 1978 to 1988. These camps received Vietnamese refugees escaping from the communist regime and allowed temporary living. But the compassion didnt end there. Americans citizens and US Congress appealed to the American government for documents to approve Vietnamese refugees settling in America to start their new life. Gradually, other free countries in the world supported and allowed South Vietnamese to seek asylum in their home countries, including Australia, Canada, France, Germany, England, New Zealand, Belgium, Denmark and Norway… Our compatriots died for us to live. And now how can those parents, i.e., the former Vietnamese refugees, indifferently (or unintentionally) allow their adult children to meet, have fun, and dance at night in the approaching of the National Tragic Day of April 30?
    Next, Id like the younger generation to acknowledge another important part of history from 1988 to 1989. US President, Ronald Reagan was successful in his great task, helping former political prisoners of South Vietnam who were tremendously suffering from being discriminated against and oppressed by the dictatorship of the single party communist government regime in Vietnam.
    In 1988, President Reagan signed a decree permitting all Military, Citizens, Professionals and Government Officials of the Republic of Vietnam (RVN), all ranks and levels included (who suffered for at least 3 years in the VC concentration camps) and their families, could apply for settlement in America legally. Meaning, the political prisoners and their families didnt have to escape by hiding dangerously and walking to Thailand or Cambodia, or by riding on a small boat resembling a fragile leaf and perishing on the sea waves.
    Just one year before, in 1987, many US Congress members from both Republican and Democrat parties, along with former Deputy Assistant Secretary of State, Mr. Robert Funseth, made great efforts as the main negotiators to present Resolution 212. When the diplomats traveled to Vietnam to talk with Vietnamese Communists to liberate prisoners of RVN, who were enduring torturous treatment in VC concentration camps with severe hard labor (that treacherous VC called “re-education” places), the VC argued against them roughly. They said: “No, we dont let them free. If we free those political and military prisoners of RVN, they would stand up and rebel across the country. Then, how can we control the people? Does your America accept all the (dirty) prisoners if we let them free…?”
    The VC did not anticipate President Reagan would quickly affirm and reply that the RVN prisoners were welcome to immigrate to America if they were free to go. Thanks to President Reagan, an agreement between the US and VC party was signed on July 30, 1989. Therefore, Resolution 212 was considered as the legal document that liberated more than 300,000 South Vietnamese political prisoners. These Vietnamese people were allowed to leave communist Vietnam with their families to resettle and start a new life in America.
    Clearly, to the former prisoners of RVN: After the heavy rain, comes a bright sky. Lets hope and pray, even when we are betrayed, deceived, failed, or meet adversity… All things shall pass … along with the temporary human life. Lets trust those who work for the right cause and have kindness. We will rise above adversity, have opportunities to come across, and support one another for success.

    Commemoration for April 30TRẦN THỦY TIÊN – M.S
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2013 16:29:26 bởi dzuylynh >
    #77
      dzuylynh 16.04.2013 05:12:11 (permalink)
      0
       
                
      Một Nén Hương Cho Những Người Nằm Xuống:
      Những cái chết của 15 v Tướng QLVNCH từ 1955 đến trước và sau Quốc Hận 30/4/1975

       


      THIẾU TƯỚNG TRÌNH MINH THẾ
      Sinh năm 1922, tỉnh Tây Ninh  Việt Nam . Ngày 3-5-1955, trong lúc đang theo dõi các đơn vị của mình  (quân đội Cao Đài) phối hợp với quân đội chính phủ tấn công lực lượng  Bình Xuyên ở khu cầu Tân Thuận, tướng Trình minh Thế đứng trên một xe  jeep tại dốc cầu, phía bên Sàigòn. Giữa tiếng nỗ của nhiều loại súng  cách xa nơi ông đứng khoảng hơn 100m, có một viên đạn duy nhất không rõ  ai bắn, đã trúng ngay đầu tướng Trình Minh Thế làm ông chết tại chỗ.
      Cái chết chẳng ai ngờ của thiếu  tướng Trình Minh Thế vừa làm đau lòng, lẫn đau đầu cho người sống. Kẻ  nổ phát súng ấy là ai? Và tại sao? Từ năm 1955 cho đến nay, 2010, đã có  nhiều bài viết (kể cả sách) đưa ra các câu trả lời khác nhau về “thủ  phạm” bắn tướng T.M.T., nhưng hầu hết các tác giả đó đều dựa trên sự suy  luận mà không đưa ra được một chứng tích nào về văn bản, chứng từ, hoặc  chứng nhân v.v… Duy nhất có một người tự nhận mình là kẻ tổ chức ám sát  tướng Trình Minh Thế.  Ông ta đã từng lập một lời thề, sẽ giết tướng  Trình Minh Thế để trả thù cho một vị chỉ huy mà ông ta kính trọng đã bị  tướng Trình Minh Thế tổ chức giết chết. Tuy ông nầy cũng chẳng trưng ra  được chứng tích nào, nhưng nhận thấy lời ông kể nghe có lý hơn các câu  trả lời từ trước đến nay. Chúng tôi xin phép được trích đăng lại từ  nhiều nguồn tham khảo ở sách, báo tiếng Việt ở Mỹ có nói đến người nhận  mình giết tướng Trình Minh Thế.
      …”Năm 1951, thiếu tá Antoine  Savani là Trưởng Phòng Nhì, làm xếp an ninh mật thám của Phủ Toàn Quyền  Pháp trên khắp ba nước Việt-Miên-Lào. Ông nầy rất kính trọng thiếu tướng  Charles Chanson (1902-1951) nguyên Tư Lệnh quân đội Pháp tại Nam Việt.
      Ngày 13-7-1951, Thủ Hiến Nam Việt là ông Thái Lập Thành (1896-1951) cùng với thiếu tướng Charles  Chanson đến thị xã Sa Đéc dự lễ diễn binh mừng các chiến thắng vùng Tiền  Giang. Hai ông xuống xe đứng chào cờ trước khán đài chính. Bỗng một  bóng người mặc quân phục vạch đám đông dự lễ chạy thật nhanh đến chổ  chào cờ, vừa chạy vừa đưa tay vào túi áo (rút chốt quả lựu đạn). Lúc đến  trước mặt hai vị quan khách chính, người nầy đứng nghiêm và đưa tay lên  chào cũng là lúc quả lựu đạn phát nổ. Sự việc xảy ra quá nhanh, không  ai kịp có một phản ứng nào cả. Người mang lựu đạn bị xé làm hai, nằm bên  cạnh hai xác người đang thoi thóp là các ông Thái lập Thành và tướng  Charles Chanson. Gần đó hai sĩ quan Pháp cũng bị thương nặng. Những  người bị thương được đưa vào một quân y viện gần đó, nhưng vài giờ sau  thì cái chết đã đến với ông Thái lập Thành và tướng Charles Chanson.
      Thiếu tá Antoine  Savani gần như nổi điên vì cuộc ám sát vừa kể. Qua điều tra, được biết  kẻ ám sát là một thanh niên tên Phạm văn Út (1925-1951) là con nuôi của  đại tá Văn Thành Cao (1924- ?), Tư Lệnh quân đội Cao Đài vùng Đồng Tháp  Mười. Ngoài ra, còn có tin báo cho phòng nhì Pháp biết: Đại tá Trình  Minh Thế ở Chiến Khu Lò Gò (dưới chân núi Bà Đen, Tây Ninh) cho tổ chức  trọng thể lễ truy điệu và tôn vinh anh Phạm Văn Út như một anh hùng  kháng chiến của quân đội Cao Đài. Qua các nguồn tin thu nhận được, thiếu  tá Antoine Savani cho rằng thủ phạm là ông Trình Minh Thế và thề sẽ  giết ông nầy bằng mọi giá.
      Khoảng năm 1994, gần 40 năm sau  ngày tướng Trình Minh Thế bị ám sát (1955), ông Antoine Savani đã về  hưu từ lâu với cấp đại tá và cũng đã già. Lúc gần chết vì bệnh tim, ông  ta trăn trối những lời sau cùng về cái chết của tướng Trình Minh Thế.  Những lời kể của ông Antoine Savani được phỏng vấn và ghi chép bởi ông  Jean Lartéguy (người sau nầy viết cuốn “Le Mal Jaune”, bản tiếng Anh là  “Yellow Fever”). “…Chính tôi đã giết Trình Minh Thế. Dù không tự tay cầm súng nhưng  tôi là người tổ chức tất cả. Thế bị giết bởi một viên đạn do người thân  tín của tôi nấp từ phía sau bắn tới, không phải từ dưới tàu bắn lên.  Người bắn chẳng có tên tuổi gì, nói đúng ra, chỉ biết là cấp trung úy.  Sở dĩ tôi phải giết Thế là để báo thù cho tướng Chanson mà tôi đã từng  thề. Trong tất cả các thủ lãnh quân sự ở trong Nam thì Thế là người nguy  hiểm nhất, có nhiều tham vọng nhất, và cũng là người khôn ngoan nhất.  Lansdale* quả có mặt tinh đời khi chọn Thế … “*(Đại Tá Edward Lansdale ,  1908-1987, về hưu với cấp thiếu tướng)
       
      TRUNG TƯỚNG ĐỖ CAO TRÍ
      Trung Tướng Đỗ cao Trí Sinh ngày 20-11-1929, làng Bình Tước tỉnh Biên  Hòa Việt Nam , nguyên là Tư Lệnh Quân Đoàn III/ Quân Khu III. Sáng ngày  23-2-1971, trên cương vị Tư Lệnh Hành Quân Toàn Thắng 1/71, ông chủ tọa  cuộc họp tham mưu tại Bộ tư lệnh Tiền phương QĐIII/ QK III tại căn cứ  Trảng Lớn, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh như thường lệ. Sau buổi họp,  khoảng 09:30 giờ, ông dùng trực thăng bay về hướng bắc tỉnh Tây Ninh để  đến Dambe (một thị trấn nhỏ của Kampuchia) nơi lực lượng xung kích QĐ  III của đại tá Trần quang Khôi đang chờ. Trực thăng chỉ huy của Trung  Tướng Đỗ cao Trí rời khỏi Trảng Lớn khoảng bốn phút thì bùng nổ ở trên  không. Địa điểm tai nạn khoảng 7km bắc- tây-bắc thị xã Tây Ninh. Ngoài  tướng Đỗ cao Trí bị tử thương còn có hai phi công (chỉ biết tên một  người là đại uý Thành), hai xạ thủ và cơ khí phi hành (không rỏ danh  tánh); trung tá Sỹ thuộc Trung Tâm Hành Quân QĐ III; trung tá Châu, Chỉ  huy phó Truyền tin QĐ III; đại úy Tuấn, sĩ quan tuỳ viên; nhà báo Mỹ  (gốc Pháp) Francoi Sully. Sự ra đi đột ngột của tướng Đỗ cao Trí cũng để lại nhiều câu hỏi nhức  đầu cho hậu thế. Gần 40 năm qua, đã có khá nhiều bài viết của người  Việt bàn tán và nhận xét về cái chết nầy. Không có ai đưa ra được các  chứng cứ nào có sức thuyết phục để dư luận chấp nhận là hợp lý, hợp tình  hơn cả. Tuy nhiên tướng Đỗ cao Trí đi vào nơi khuất bóng trong lúc ông  đang chiến thắng dồn dập (70-71) ở bên vùng biên giới Kampuchia. Có tin  ông sắp ra nắm QĐ I để xoay chuyển tình huống mặt trận biên giới Lào,  vậy mà ông ra đi! Đó là điều làm người đời sau thắc mắc.
       
      THIẾU TƯỚNG NGUYỄN VĂN HIẾU
      Sinh ngày 23-6-1929, thành phố Thiên Tân, Cộng Hoà Trung Hoa Dân  Quốc. Năm 1949 đang học đại học Aurore ở Thượng Hải thì phải theo gia  đình dọn về Saigon, Việt Nam . Đầu năm 1951, ông theo học khóa 3 Võ Bị  Liên Quân Việt Nam tại Đà Lạt, và tốt nghiệp (hạng hai) ngày 1-7-51 với  cấp bậc thiếu uý.Thiếu Tướng Nguyễn văn Hiếu
      Hai mươi năm sau, thiếu uý  Nguyễn văn Hiếu đã là thiếu tướng Tư Lệnh Phó QĐ I (nhậm chức ngày  9-6-1971) và nỗi tiếng là một vị tướng liêm chính. Do có tài năng và đức  độ, nên ngày 10-2-1972, Phó Tổng Thống Trần văn Hương (1902-1982) đề cử  tướng Nguyễn văn Hiếu giữ chức Phụ Tá Đặc Biệt trong Ủy Ban Bài Trừ  Tham Nhũng (tương đương cấp Thứ Trưởng). Ngày 1-10-1973, ông được bổ  nhiệm làm Tư Lệnh Phó QĐ III/ QK III và đã giữ chức vụ nầy qua ba vị Tư  Lệnh Quân Đoàn là Trung Tướng Phạm quốc Thuần, Trung Tướng Dư quốc Đống  (1932-2008), Trung Tướng Nguyễn văn Toàn (1932-2005).
      Ngày 2-4-1975, tướng Nguyễn văn  Hiếu được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Tiền Phương QĐ III, nhưng chưa kịp nhận  nhiệm sở. Ngày 4-4-1975, khoảng 17:30 giờ (các tài liệu khác thì ghi  buổi trưa khoảng 13:30 giờ) những người đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh QĐ  III ở Biên Hoà bổng nghe một tiếng súng nổ trong văn phòng thiếu tướng  Nguyễn văn Hiếu (cùng có nguồn tài liệu khác ghi có hai tiếng súng). Lúc  mọi người mở cửa phòng thì thấy tướng Nguyễn văn Hiếu đã ngồi chết gục  tại bàn làm việc, một tay ông để trên bàn và tay còn lại buông thòng  xuống đất nơi có một cây súng nhỏ còn nằm trên sàn nhà (có thể loại súng  P 38). Ông bị chết vì một viên đạn đi xuyên từ cằm lên thái dương (có  vài tài liệu khác ghi viên đạn từ thái dương bắn xuyên lên đỉnh đầu và  phá một lỗ trên trần nhà), nhưng chẳng có ai hiểu được nguyên nhân ông  bị chết là do ngộ sát, tự sát hoặc bị ám sát. Vài ngày sau cái chết của  tướng Nguyễn văn Hiếu, chính phủ ban đầu công bố là ông tự sát, nhưng  sau đó đã cải chánh và đổi thành ngộ sát, bị cướp cò lúc đang lau súng.
      Ba mươi năm sau cái chết bí ẩn của tướng Nguyễn văn Hiếu, có rất  nhiều người vẫn không tin ông bị cướp cò súng bởi vì ông là người sưu  tập và rất cẩn thận về súng. Có người còn quả quyết tướng Hiếu bị ám sát  chết bởi những kẻ tham nhũng. Bọn nầy mượn gió bẻ măng để “giết người  bịt miệng” lúc ngọn sóng Đỏ đang tràn tới. Nhưng cũng có người cho rằng  một thế lực khác đã gây ra cái chết nầy. Thế lực đó đã biết được một kế  hoặch bí mật giữa các tướng Nguyền văn Hiếu, Nguyễn khoa Nam, Lê văn  Hưng, Trần văn Hai ở QĐIV/ QKIV, là các vị nầy sẽ tái phối trí và tổ  chức lực lượng quân sự tử thủ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu thủ đô  Sài gòn rơi vào tay quân Cộng Sản. Và thế lực đó không muốn cuộc chiến  kéo dài thêm nữa khi họ đã công khai bắt tay với Việt Cộng vì quyền lợi  của họ.
       
      CHUẨN TƯỚNG TRƯƠNG QUAN ÂN
      Sinh năm 1932, là thủ khoa khóa 7 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam ở  Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh/ QĐII/ QKII từ ngày  24-11-1966. Vợ ông là bà Dương thị kim Thanh (Huế), nguyên chuẩn uý  thuộc binh chủng Nhảy Dù nhưng làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Nhân  dịp bà đi thăm và tặng quà cho các chiến sĩ và gia đình đang đồn trú tại  vùng biên giới tây bắc tỉnh Pleiku, ngày 8-9-1968, Ông cùng bà đi chung  một chiếc trực thăng loại H-34 (Choctaw) của Không Quân VNCH đến thăm  các căn cứ tiền đồn. Sau khi thăm được vài nơi, trực thăng chở ông bà  lại cất cánh để đến nơi khác thì máy bay phát nổ ngay trước mắt các binh  sĩ và gia đình. Tất cả những người trên trực thăng đều tử thương, trong  đó có Chuẩn Tướng Trương quang Ân và vợ là bà Dương thị Kim Thanh.
       
      THIẾU TƯỚNG NGUYỄN VIẾT THANH
      Sinh năm 1931, Lâm Đồng, tốt nghiệp khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân  Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐIV/ QKIV từ ngày 1-7-1968. Hành  quân Cửu Long 1 (bắt đầu ngày 9-5-1970) là cuộc hành quân cấp quân đoàn  vượt qua đất Cam Bốt nhằm giải cứu, hồi hương hàng chục ngàn đồng bào  thoát sự tàn sát của của dân Cam Bốt. Trên cương vị là Tư Lệnh Hành Quân  Cửu Long 1, thiếu tướng Nguyễn viết Thanh thường xuyên có mặt trên máy  bay trực thăng để theo dõi và đôn đốc các đơn vị. Ngày 1-5-1970, chiếc  trực thăng chỉ huy của tướng Thanh đã vở tan trên không vì bị một chiếc  trực thăng võ trang của Mỹ đụng vào. Tai nạn xảy ra trên bầu trời tỉnh  Kiến Tường. Tất cả số người có mặt trên hai chiếc trực thăng đều tử nạn.
       
      CHUẨN TƯỚNG PHAN ĐÌNH SOẠN
      Sinh ngày 16-11-1929, Huế, tốt nghiệp khóa 1 Trường Sĩ Quan Việt Nam  Thủ Đức, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QLVNCH từ ngày 1-10-1968 đến  31-1-1972. Ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó QĐI/ QKI vào ngày  1-2-1972, thay thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ngày 25-2-1972, chuẩn tướng  Phan đình Soạn đi máy bay trực thăng ra thăm một chiến hạm Mỹ, cách Đà  Nẵng khoảng 20km ngoài khơi biển Đông Việt Nam. Lúc cất cánh trở về,  trực thăng của ông vì sơ suất nên đụng vào trụ ăng ten của chiến hạm.  Tuy bị hư hại nhưng trực thăng vẫn gắng bay về và bị rớt gần bán đảo Sơn  Trà, quận Ba thành phố Đà Nẳng. Toàn bộ người trên máy bay đều chết và  tìm được thi hài. Cùng đi với tướng Phan đình Soạn có đại tá Ngô hân  Đông, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QĐI/ QKI.
      CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN HUY ÁNH

      C/Tướng Nguyễn Duy Ánh – người đứng giữa
      Sinh tháng 7-1934, tốt nghiệp trường Không Quân Phi Hành Salon de  Provence 1953, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân QĐIV/ QKIV cho đến  năm 1972. Chuẩn Tướng Ánh tử nạn phi cơ trong một phi vụ quan sát tình  hình, vì ghi nhận một phi cơ L19 bị rớt nên ông dùng trực thăng của ông  đến câu phi cơ L19 và rủi ro xảy ra tai nạn. Ông tử nạn lúc 17giờ ngày  27-2-1972.
      CHUẨN TƯỚNG NGUYỄN VĂN ĐIỀM

      Sinh ngày 30-6-1929, tốt nghiệp  khóa 4 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng của  SĐ1/BB và Tư Lệnh Phó trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB,  năm 1973. Ông được hăng cấp Chuẩn tướng tháng 4-1974. Trực thăng của ông  bị rơi gần bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vào 8giờ tối ngày  28-3-1975. Ông là vị tướng bị tử nạn cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam

      NHỮNG VỊ TƯỚNG TỰ SÁT:
      CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ

      Sinh ngày 22-8-1933, tỉnh Sơn Tây, học khoá 2 Trường Võ Bị Địa Phương  Trung Việt, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn uý hiện dịch. Trước ngày  30-4-1975, ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB. Ngay sau lúc nghe được  lời kêu gọi buông súng của ông Dương văn Minh, chuẩn tướng Lê nguyên Vỹ  đã tự sát trước sân cờ của bản doanh Bộ Tư Lệnh SĐ5/BB ở Lai Khê tỉnh  Bình Dương.
       
      THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ
      Sinh năm 1929, tỉnh Hà Đông, học khóa 8 Trường Võ Bị Liên Quân Việt  Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐII/QKII từ tháng 11-1974. Trong cuộc  họp ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu  (1924-2001) lệnh cho tướng Phạm văn Phú rút quân khỏi các tỉnh Kontum,  Pleiku về vùng duyên hải QĐ II. Cuộc lui quân nầy diễn tiến như thế nào  thì lịch sữ đã cho thấy. Ngày 29-4-1975, tại nhà riêng ở Sàigòn, thiếu  tướng Phạn văn Phú đã uống một liều thuốc độc thật mạnh nhưng gia đình  phát giác và đưa ông vào bệnh viện cứu chữa. Trưa ngày 30-4-1975, ông  tỉnh lại và thều thào hỏi vợ về tình trạng lúc bấy giờ. Sau khi nghe vợ  cho biết ông Dương văn Minh đã đầu hàng và Việt Cộng vừa vô dinh Độc  Lập. Nghe đến đây, thiếu tướng Phạm văn Phú thở hắt ra. Đó cũng là hơi  thở cuối cùng của ông.
       
       
      CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI
      Sinh năm 1929, Cần Thơ, tốt nghiệp khoá 7 Trường Võ Bị Liên Quân, Đà  Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB thuộc QĐIV/ QKIV từ ngày  1-3-1974. Trước đó ông cũng từng đảm trách các chức vụ như Tỉnh Trưởng  tỉnh Phú Yên (năm 1965), Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung  Ương (năm 1967), Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia (năm 1968), Chỉ Huy  Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ  (năm 1971), Tư Lệnh Phó QĐII/ QKII và kiêm nhiệm Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ  Huy Hành Quân Chiến Thuật QĐII/QKII (năm 1972).
      Trong ngày 30-4-1975, khoảng 17:00 giờ tại Bộ Tư Lệnh SĐ7/BB ở Mỹ  Tho, chuẩn tướng Trần văn hai đã uống thuốc độc ngay trong văn phòng của  mình. Vị sĩ quan tuỳ viên sau khi phát giác chủ tướng của mình đã quyên  sinh, đã đưa ông qua Tiểu đoàn 7 Quân Y mong cứu được ông, nhưng mọi nổ  lực đều quá muộn. Buổi chiều trong ngày, trước khi uống thuốc độc chuẩn  tướng Trần văn Hai trao cho vị sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ  đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của  một người lính suốt đời liêm chính.
       
       
      CHUẨN TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG
      Sinh năm 1933, Hóc Môn, Gia Định, tốt nghệp khoá 5 Trường Sĩ Quan Trừ  Bị Thủ Đức, nguyên là Tư Lệnh Phó QĐIV/ QKIV từ ngày 1-11-1974. Ông  cũng từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB (ngày 14-6-1971), Tư Lệnh Phó QĐIII/  QKIII Đặc trách Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (ngày 4-9-1972), Tư Lệnh Sư  Đoàn 21/BB (ngày 9-6-1973).
      Khoảng 19:30 giờ ngày 30-4-1975, tại tư dinh của mình ở Cần Thơ,  Chuẩn Tướng Lê văn Hưng sau khi nói những lời từ biệt với các thuộc cấp,  dặn dò khuyên nhủ bạn đời là bà Phạm thị kim Hoàng, ông vào văn phòng  riêng và khóa chặt cửa lại mặc dù tiếng khóc than nức nở kêu gào của  người vợ. Ông đã dùng súng tự sát vào lúc 20:45 giờ ngày 30-4-1975.
      THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM

      Sinh ngày 23-9-1927, Đà Nẳng (chánh quán An Cựu Tây, quận Hương Thủy,  tỉnh Thưà Thiên), tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đời  binh nghiệp của ông đã trải qua những chức vụ như: Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5  Nhảy Dù (năm 1965), Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (năm 1967), Tư Lệnh  Sư Đoàn 7/BB (tháng 1-1970) và Tư Lệnh Quân Đoàn IV/ Quân Khu IV (tháng  11-1974) với cấp thiếu tướng.
      Ông đã dùng súng tự sát trong tư dinh của mình ở Cần Thơ khoảng 07:30 giờ ngày 1-5-1975.
       
      CHẾT TRONG TÙ CỘNG SẢN VIỆT NAM:

       
       
      THIẾU TƯỚNG ĐOÀN VĂN QUẢNG
      * Sinh năm 1923, xuất thân Thiếu Sinh Quân Việt Nam .
      * 1960: Thiếu tá, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân/ Đệ Ngũ Quân Khu (đến năm 1962 là QĐ IV vùng 4 chiến thuật)
      * 1961: Trung tá, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Đệ ngũ Quân Khu.
      * 1962: Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21/BB. Tháng 10-1963, Tư Lệnh Phó SĐ9/BB.
      * 7-11-1963: Đại Tá Tư Lệnh SĐ9/BB.
      * 1964: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biêt.
      * 1966: Chuẩn tướng. 1971: Thiếu tướng.
      * 1972: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
      Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng  đưa đi tập trung khổ sai. Thiếu tướng Đoàn văn Quảng chết trong tù Cộng  sản ở trại khổ sai Nam Hà (Hà nam Ninh) ngày 6-3-1984.
       
       
      CHUẨN TƯỚNG BÙI VĂN NHU
      Sinh ngày 26-12-1920 tại quận Bến Lức tỉnh Long An, bắt đầu phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia năm 1939 từ ngạch Thư Ký phiên dịch.
      * Từ 1949 đến 1952, Biên Tập Viên Chánh Sở Trung Ương Tình Báo.
      * 1952-1958: Quận Trưởng Hạng 4 Thanh Tra Tổng Nha CSQG
      * 1958-1960: Quận Trưởng Hạng 3 Giám Đốc TTHL/CS & CA
      * 1960- chức vụ Phó Tổng Giám Đốc Tổng Nha CS.
      * 1971-1975: Đại tá CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha
      * 01-2-1975: Chuẩn tướng CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha CS.
      Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai và chết tại trại tù Nam Hà, ngày 15-3-1984.
      BĐQ Đỗ Như Quyên

      <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2013 02:11:16 bởi dzuylynh >
      #78
        dzuylynh 16.04.2013 11:20:33 (permalink)
        0
                                         
         


        Xin bấm theo LINK sau
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2013 02:10:17 bởi dzuylynh >
        #79
          hai1957 16.04.2013 18:08:50 (permalink)
          0
          XA RỒI CÁT BỤI
           
           
          Xa rồi cát bụi mấy mươi năm
          Chí lớn về đâu chí lớn thầm?
          Rũ áo phong trần cơn mộng dữ
          Lạnh về vai nhỏ rét căm căm
          Lớp lớp thư sinh hề tráng sĩ
          Mà tráng sĩ hề sống bao lăm
          Còn mấy chàng Siêu ngày tóc bạc?
          Lận đận tha hương những vết bầm
           
          Xa rồi khói bếp những chiều xưa
          Một góc vườn hoang mấy gốc dừa
          Ly biệt ly biệt sầu ly biệt
          Mẹ ngồi lau sậy dáng đong đưa
          Thương đứa con ngày xưa bé bỏng
          Mòn đời trận mạc đã về chưa?
          Cha già ngoảnh mặt che thương nhớ
          Tiếng đàn hiu hắt mấy cơn mưa
           
          Xa rồi năm tháng cũ chơi vơi
          Lửa khói binh đao dậy ngút trời
          Ai cứ nhiều nhương mà thắng trận
          Ta đành ngã ngựa mảnh hồn rơi
          Em có theo ta về cõi nhớ
          Những ngày mộng ảo biệt trùng khơi
          Thương tiếc về đâu miền quá vãng?
          Chim vàng nức nở gọi tình ơi!
           
          Xa rồi ta có nhớ gì không?
          Nghìn dặm quê hương mấy tấc lòng
          Lá xác xơ bay buồn riêng nỗi
          Khúc hát ngày về ai ngóng trông?
          Chinh phụ ta xưa giờ tóc bạc
          Phù dung cũng chết bởi hoài mong
          Còn chút lòng ta là đồng vọng
          Ai có còn không có còn không?
           
          lph
          #80
            dzuylynh 17.04.2013 02:14:12 (permalink)
            0
                                           
            ***


             

            XA RỒI CÁT BỤI 

            thơ Lê phú Hải | phổ nhạc & trình bày dzuylynh

            album  Nỗi đau còn đó | 38 mùa xuân đã mất
               
            Xa rồi cát bụi mấy mươi năm 
            Chí lớn về đâu chí lớn thầm? 
            Rũ áo phong trần cơn mộng dữ 
            Lạnh về vai nhỏ rét căm căm
            hờ hơ hơ hơ ...
            Lớp lớp thư sinh hề tráng sĩ 
            Mà tráng sĩ hề sống bao năm! 
            Còn mấy chàng Siêu ngày tóc bạc? 
            Lận đận tha hương những vết bầm 
            Xa rồi khói bếp những chiều xưa 
            Một góc vườn hoang mấy gốc dừa 
            Ly biệt biệt ly... sầu ly biệt 
            Mẹ ngồi lau sậy dáng đong đưa 
            Thương đứa con xưa, ngày bé bỏng 
            Mòn đời trận mạc đã về chưa? 
            Cha già ngoảnh mặt che thương nhớ 
            Tiếng đàn hiu hắt mấy cơn mưa 
            Xa rồi năm tháng cũ chơi vơi 
            Lửa khói binh đao dậy ngút trời 
            Ai cứ nhiễu nhương mà thắng trận 
            Ta đành ngã ngựa mảnh hồn rơi ...
            hơ hơ hơ hơ hơ hơ hơ hơ hơ 
            Em có theo ta về cõi nhớ 
            Những ngày mộng ảo biệt trùng khơi 
            Thương tiếc về đâu miền quá vãng? 
            Chim vàng nức nở gọi tình ơi!
            Xa rồi ta có nhớ gì không? 
            Nghìn dặm quê hương mấy tấc lòng 
            Lá xác xơ bay buồn riêng nỗi 
            Khúc hát khúc hát ngày xưa ai ngóng trông...
            Khúc hát ngày về ai ngóng trông!
            Chinh phụ ta xưa giờ tóc bạc 
            Phù dung cũng chết bởi hoài mong 
            Còn chút lòng ta là đồng vọng 
            Ai còn không có có còn không? 
            Hưm hưm hưm hưm hưm hưm hưm hưm hưm hưm...

            Half Moon Bay April 16.2013


             
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2013 02:08:36 bởi dzuylynh >
            #81
              dzuylynh 17.04.2013 21:46:23 (permalink)
              0
               
                                           
               
               



              Lão chợt nhớ hôm nọ ở chợ Âm Hồn , có một bà già trỏ lão mà bảo: “ông năm nay cẩn thận kẻo gặp phải hạn to…”. Đời lão chẳng bao giờ tin vào sự bói toán, huống chi năm nay lão đã ngoài bẩy mươi, các cụ ngày trước bảo đó là cái tuổi hết trạch, quỷ thần đã tha rồi, còn phải kiêng kị gì nữa. Rốt cuộc lão vẫn gặp hạn ở cái xóc thứ sáu mươi…
               
               Đúng cái xóc thứ tám mươi mốt, lão Sướng choàng tỉnh. Nằm trong xe, lão với tay vớ sợi dây thừng, giật mũi cho con bò dừng lại rồi trèo xuống khỏi thùng xe. Lão dắt con bò cùng chiếc xe tới một gốc cây bên kia đường, cột lại tử tế, đoạn bước sang quán mụ cả Nẫm, hỏi mua gói thuốc lào...

               
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2013 02:09:43 bởi dzuylynh >
              #82
                dzuylynh 18.04.2013 03:03:25 (permalink)
                0
                                                                                                          

                Oán thù chồng chất!

                 
                 
                1)- Một tấm hình cũ
                Khi ông Tập Cận Bình, với hai chức vụ to nhất và quyền hạn nhứt nước Tầu Cộng, là “tổng bí thư” và “chủ tịch nước” đi thăm Nga và Nam Phi, dẫn theo bà vợ Bành Lệ Viên, thì báo chí thế giới, không ít tờ khen ngợi người đàn bà ấy. Khen bà ta trẻ, đẹp, ăn mặc đúng thời trang... khác với bà vợ mấy ông lãnh tụ Cộng Sản hồi trước.
                 
                Một thời, ông Khrushchev có đem vợ qua thăm nước Mỹ. Tôi không rõ báo chí hồi đó gọi bà ta như thế nào, nhưng xem hình, người ta có thể nghĩ đến những người đàn bà nuôi bò sữa ở miền Nam nước Mỹ này. Bà Lê Duẫn, con dâu ông thợ mộc ở làng Trung Kiên, Quảng Trị, nếu thấy mặt bà ta, người ta nghĩ ngay đến hũ mắm ruốc và thuốc lá Cẩm Lệ xắt lát gói trong lá chuối, và ngay cả bà Nga, quê ở Cần Thơ, trông cũng “chưa sạch phèn”; bà già chặt mía vợ ông Lê Khả Phiêu quê ở Quảng Ngãi thì “xin miễn bàn”. Bên Tàu, bà Giang Thanh trông sát khí đằng đằng, bà Vương Quang Mỹ, bà Đặng Dĩnh Siêu thì không mấy ai thấy mặt họ bao giờ. Mới đây, “Kim Ủn Ỉn” cũng “nhuốm màu tư bản” một chút, khi ông ta để một cô gái xuất hiện bên cạnh, người ta đoán là vợ, nhưng cặp nầy chỉ mới xuất hiện trong nước, chưa đi ra “nước ngoài” (nước ngoài là “danh từ Việt Cộng” đấy).
                 
                Đi đâu mang vợ đi theo lè kè, như Kennedy với Jackie, như Bill với Hillary, như Sarkosy với hoa hậu “uổng trờ”, chỉ là cái mốt của mấy ông “tư bản đế quốc” thừa son phấn mới có, còn như Cộng Sản thì cái đẹp của cô Nhíp, mặt mày trắng hơn ông Bao Công không bao nhiêu, đeo AK, níu bên hông xe tăng để dẫn đường cho “quân giải phóng” vào chiếm Dinh Độc Lập là cái đẹp số một. Cái đẹp, theo cách nói của Cộng Sản hồi ấy, không phải là khuôn mẫu từ Tokyo, từ Paris hay Nữu Ước, mà tư “bưng biền” của các cô du kích, mặt chưa sạch phèn, quấn khăn rằn, đội mũ tai bèo, chân mang dép Bình Trị Thiên, thường gọi là dép râu (bác Hồ), xuất hiện trên đường phố Saigon ngay những ngày đầu hồi mới “giải phóng” (Xin lỗi độc giả, đây cũng là danh từ Việt Cộng nữa đấy).
                 
                Ấy là chuyện khi đói ăn, thiếu mặc, còn bây giờ thì khác, khác lắm. Dĩ nhiên,người Hà Nội” của thời tiền chiến, khác rất xa với người Hà Lội” của sau năm 1954. Người Saigon” của trước và sau 1975, khác nhau một trời một vực vậy.
                 
                Trong khi báo chí quốc tế khen bà Bành Lệ Viên không tiếc lời như thế, ví với bà Michell của ông Obama, thì bỗng có một tay chơi khăm nào nó, có cái email hifighter hay gì đó, đưa lên mạng hình ảnh bà Bành Lệ Viên chụp năm 1989, sau khi vụ Thiên An Môn vừa dẹp xong.
                 
                Bà (hay cô?) Bành Lệ Viên hồi ấy, - không biết khi ấy cô ta có chồng chưa và chồng là ai? Ông Tập Cận Bình là người đến trước nhứt hay ông ta là “Kẻ đến sau” -, mặc áo quần rằn ri bộ đội Tàu Cộng, nói một cách văn hoa là “Hồng quân Trung Hoa”, đứng hát cho một đám bộ đội đông đúc ngồi nghe.
                 
                Bành Lệ Viên lúc đó là “văn công bộ đội”, hát để “động viên” cho các “chú bộ đội”, được điều từ các tỉnh về để thi hành việc đàn áp ở Thiên An Môn.
                 
                Vụ Thiên An Môn là một tội ác của Cộng Sản Tàu. Đám chớp bu Cộng Sản Tàu ở Trung Nam Hải muốn đàn áp thẳng tay vụ “nổi dậy” của thanh niên, sinh viên, học sinh ở Bắc Kinh, không dám dùng binh lính ngay tại thủ đô của họ, mà phải điều binh lính từ các tỉnh chung quanh.
                 
                Trước sự đàn áp tàn ác ghê gớm có hàng ngàn người chết ấy, khiến tinh thần lính Tầu Cộng ở các tỉnh về thủ đô cũng giao động, nên văn công Bành Lệ Viên phải “cất cao giọng hát” để “động viên” họ. “Động viên” họ hay “động viên” cho hành động tội ác của họ, hay “động viên cho tội ác”? Dù nói cách nào thì nó cũng có nghĩa như nhau cả.
                 
                Vậy mà rồi Cộng Sản Tàu muốn che dấu, xóa bỏ cái tội ác Thiên An Môn nầy. Và một anh chàng nào đó, đưa hình ảnh Bành Lê Viên đang hát sau vụ Thiên An Môn lên, để “đá giò lái” Tập Cận Bình hay các lãnh tụ ở Trung Nam Hải, để nhắc nhở, để người ta đừng quên một người đàn bà từng ca ngợi tội ác vụ Thiên An Môn, để bôi đen cái hình ảnh trẻ, đẹp, thời trang của bà đệ nhứt phu nhân Tàu Cộng đang được báo chí quốc tế khen ngợi.
                 
                Người ta có sợ rằng, người làm báo ở Mỹ, xuất thân từ các trường đại học danh tiếng, thường mắc bệnh mau quên, chỉ biết có bà Bành Lệ Viên ngày nay, mà không nhớ năm 1989, cô Bành Lệ Viên từng hát “động viên” cho tội ác Thiên An Môn.
                 
                Trí nhớ của giới báo chí Mỹ kém cỏi thật, phải có người nhắc, mới nhớ ra!!!!
                 
                 
                2)- Tư Mã Thiên đã chết rồi
                Nhưng điều tôi muốn nói ở đây không phải chỉ là tấm bình cũ ấy. Xem hình rồi thì ai cũng biết chuyện cũ. Điều đáng nói hơn là sự kiện đàn áp ở Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 năm 1989 là có hay không?
                 
                Báo chí thế giới nói là có, bởi vì người ta có cả những tấm hình cũ, những thước phim cũ, những giấy tờ, tài liệu cũ, thậm chí người ta có cả những người sống sót trong vụ đàn áp ấy, trốn thoát khỏi lục địa và hiện đang định cư ở Mỹ, ở Châu Âu. Họ là nhân chứng sống. Và cả trong hồi ký chui (bí mật phổ biến) của Triệu Tử Dương, người chống lại vụ đàn áp Thiên An Môn cũng nói tới, khá rõ,...
                 
                Vậy mà bên Tầu, ngày nay, người ta nói không có vụ đàn áp Thiên An Môn. Mấy tay đầu sỏ trong bộ Chính Trị Cộng Sản Tàu nói không có, người dân Tàu cũng nói không có, và hầu hết thanh niên Tàu lục địa ngày nay cũng nói không có, không biết gì về vụ Thiên An Môn cả. Thậm chí, các sử gia Tàu, những người tôn sùng ca ngợi Tư Mã Thiên, thường hô hào lấy cái khí phách của Tư Mã Thiên làm châm ngôn, cũng không thấy bàn tới vụ “đàn áp Thiên An Môn”.
                 
                Việc ấy có đáng gọi là Kinh Khủng không?
                 
                Với những người bình thường, không Cộng Sản là Kinh Khủng, với Cộng Sản thì không?
                 
                Tại sao vậy.
                Tại vì “Tăng Sâm giết người”
                 
                Tăng Sâm là đại môn đệ, một trong thất thập nhị hiền (72) của Khổng Tử. Một hôm, bà mẹ Thầy Tăng Sâm đang ngồi dệt vải, bỗng có người đến nói: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ nhất định không tin, vẫn ngồi dệt vải. Một chốc lại có người đến nói: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ thấy băn khoăn, ngừng tay làm việc. Một chốc nữa, lại có người đến nói: “Tăng Sâm giết người”. Bấy giờ bà mẹ tin là con mình giết người thật, bèn trèo qua cửa sổ, chạy trốn.
                 
                Té ra, đó chỉ là có người trùng tên!
                “Biết con không ai bằng mẹ”, tục ngữ nói như thế. Bà mẹ thầy Tăng Sâm biết rõ con mình, bà lại còn tin tưởng con hơn vì con bà là học trò đức Khổng Tử. Vậy mà, một người nói “Tăng Sâm giết người”, bà không tin, nhưng tới ba người nói như thế thì bà phải tin.
                 
                Nói, cứ nói, nói mãi, nói mãi, ban đầu không tin, nói riết rồi người ta cũng phải tin. Đó là Sách lược tuyên truyền của Cộng Sản”.
                 
                “Nói không thành có, nói có thành không”. Nói mãi dân chúng cũng phải tin.
                 
                Vì vậy, vụ Thiên An Môn có mà thành không. Một là dấu biệt, hai là cấm: Không ai được nói tới, bàn tới, không có trong báo chí, truyền thanh, truyền hình, không có trong sử sách, không có trong chương trình giáo dục... Cứ nói không có vụ Thiên An Môn, riết rồi một tỷ ba trăm triệu người Tàu cũng tin là không có vụ đàn áp ấy.
                 
                Thanh niên Tàu không biết tới vụ Thiên An Môn không có gì lạ, mà cả hành động của Cộng Sản Tàu cũng không có chi là là, nếu người ta biết Cộng Sản là ai? là cái gì?
                 
                Thảm sát hay tàn sát dân chúng là việc thường xảy ra trong lịch sử nhân loại, bên Tầu, từ trước đời Tần Thủy Hoàng cho đến đời Mao Trạch Đông không thiếu chi. Và ngay cả thời đại gọi là văn minh bây giờ, dù nói một cách hay ho rằng “Văn Minh Trung Hoa”, thì mỗi ngày, mỗi giờ, hỏi thử mấy tay chóp bu ngồi ở Trung Nam Hải, có bao nhiêu người Duy Ngô Nhĩ, người Tây Tạng đang bị tàn sát, bằng chính bàn tay của người Tàu, hay do chính họ tự thiêu, - việc tự thiêu đó cũng do bàn tay đẫm máu của người Tàu đang cai trị và đàn áp dân tộc họ mà ra vậy.
                 
                Bên Tây cũng không vừa chi. Thử lật lại lịch sử thời Đế Quốc La Mã, coi có bao nhiêu vụ tàn sát. Các cuộc tàn sát của người Hồi đối với những người không phải đạo Hồi không làm cho ông Mô-Ha-Mát khóc hay sao? Các cuộc gọi là “Thập Tự Chinh”, giương cao Thánh Giá, qua Trung Đông, Bắc Phi giết người, cướp của, hiếp dâm... cho tới bây giờ, lòng hận thù của người Hồi vẫn còn “cao ngút trời xanh”. Có lẽ ngay Chúa Giê-Su cũng ngạc nhiên về những kẻ nhân danh Chúa để làm những việc độc ác ghê gớm này hay sao?! Gần đây, vụ Đế Quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ) trục xuất và giết hàng trăm ngàn người Armenia vẫn chưa được sáng tỏ vì chính phủ Thổ không chịu xác nhận đó là một vụ “diệt chủng”.
                 
                Thái độ ấy của chính phủ Thổ còn “ngay thẳng” hơn thái độ của các lãnh tụ Cộng Sản. Chẳng hạn như vụ thảm sát ở rừng Katyn có 22 ngàn sĩ quan cùng nhân viên, giáo sư, trí thức Ba Lan bị Staline thủ tiêu. Vậy mà suốt mấy chục năm, Staline và chính phủ Cộng Sản Liên Xô cứ khăng khăng cho rằng không có vụ thảm sát đó. Mãi đến khi Liên Bang Sô Viết sụp đổ, khối Cộng tan rã, chính phủ Nga mới nhận rằng vụ thảm sát ở Katyn là có thật.
                 
                Còn bao nhiêu vụ nữa, nói sao cho hết. Cái gọi là “Cải Cách Ruộng Đất” ở bên Tàu và ở Bắc Việt Nam đâu có tổng kết bao nhiêu người chết? Mao Trạch Đông của Tàu và Hồ Chí Minh của Bắc Việt có khi nào công nhận việc họ giết người vô tội đâu! Ngay cả mấy triệu người Kampuchia bị Khmer Đỏ giết chết, đến nay tội trạng đã rõ ràng, nhưng tòa án Quốc Tế xử tội Khmer Đỏ diệt chủng đang hoạt động ở Phnom Pênh thì chậm như rùa! Người ta có dụng ý đấy: Để cho đám lãnh tụ Khmer Đỏ hiện nay đang gần đất xa trời chết dần đi, khỏi ta tòa, khỏi khai báo gì hết. Nếu việc xảy ra như thế thì không những Heng Somrin, Hun-Sen mà cả những lãnh tụ Tàu Cộng đứng sau lưng bọn Pol Pot cũng “sạch tội” luôn.
                 
                 
                3)- Mậu Thân, ai giết dân?
                Năm ngàn người bị giết hồi Tết Mậu Thân ở Huế, chuyện đã rõ ràng!
                Nhưng: Ai bị giết? Và Ai giết?
                 
                Trước hết là nói việc thảm sát 5 ngàn người! Việt Cộng không chối con số người bị giết như thế, nhưng họ chối bay chối biến rằng họ không giết những người đó.
                Nếu Việt Cộng không giết thì ai giết?
                 
                Một là Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa giết, hai là Quân Đội Mỹ giết.
                 
                Người ta có thể giải thích như thế nầy:
                Quân Đội VNCH không giết 5 ngàn người đó. Một lẽ rất dễ hiểu. Họ không thể giết thân nhân của họ bởi vì những người chết đó là thân nhân của họ. Đơn giản vậy thôi. Thành phố Huế đâu có rộng lớn như Saigon. Nhìn chung, người ta có bà con xa gần hay quen biết thân sơ với nhau cả đấy. Làm sao tôi có thể bắn vào nhà tôi, nhà dì tôi, chú tôi, bác tôi, mợ tôi, bạn tôi, nhà người quen biết thân sơ của tôi, dù tôi có biết Việt Cộng đang núp trong ấy.
                 
                Có người hỏi. Tôi là người Huế, tôi không giết người Huế được.
                Vậy thì bọn Tường, Phan, Xuân, Đóa, Trinh, Tiềm, Nguyện (Nguyễn Quang Nguyện, hội viên hội đồng tỉnh Thừa Thiên) thì sao? Họ cũng là người Huế, cũng giết người Huế đấy.
                 
                Họ khác tôi, họ khác với tất cả những người Huế chỉ vì một điều rất dễ hiểu: Hận thù.
                 
                Khi tôi không có hận thù với ai thì tôi không giết được họ, nếu có điều kiện. Còn như khi Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng những người bị giết là “những con rắn độc” thì khi nói như thế là y ta tự xác nhận rằng y hận thù họ đấy. Không hận thù thì không thể nói được những câu độc địa như thế.
                 
                Những người Huế giết người Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Đóa (cha), Nguyễn Thị Đoan Trinh (con), Tôn Thất Dương Tiềm (rể) có những hận thù khác nhau, nhất là về cá tính: đố kỵ, ganh ghét... Cá tính nầy là con đẻ của lòng ích kỷ đấy. Những người có tính ích kỷ dễ theo Cộng Sản vì Cộng Sản luôn luôn khơi dậy tính ích kỷ, đố kỵ, có thế mới tạo nên được lòng “hận thù giai cấp”. Hận thù giai cấp là bản chất của chủ nghĩa Mác, phải xóa bỏ giai cấp để tạo nên một xã hội không có giai cấp. (1)
                 
                Nếu Quân Đội VNCH không thể giết dân trong vụ Mậu Thân thì Mỹ giết. Mỹ đem súng đạn, tàu bò, tàu bay, bắn phá, bỏ bom bừa bãi nên người Huế chết oan. Chết oan thì có. Chiến tranh bao giờ chẳng vậy.
                 
                Nhưng nói rằng quân Mỹ bắn phá bừa bãi, gây nhiều chết chóc cho dân chúng, điều đó cũng có luôn. Trong cuốn “The Battle For Hué” của Keith Nolan, tác giả có nói đên một phóng viên nhiếp ảnh phản chiến:
                 
                Chẳng hạn như nhà nhiếp ảnh Philip Jones Griffiths tố cáo Thủy Quân Lục Chiến (Hoa Kỳ) đã xé nát thành phố bằng việc cướp bóc chè chén say sưa. (Tin tức của Griffiths sai lầm vì sự thực ông ta đã viết rằng TQLC ở Huế là những chiến binh rất nghèo khó). (trang 87)
                 
                Ở phần kết, Keith Nolan viết:
                Những người chống chiến tranh ở Mỹ hồi ấy hoàn toàn không tin Cộng Sản có những hành động tàn ác đến như thế. Chẳng hạn như nhà nhiếp ảnh Griffiths năm 1971 viết rằng người Mỹ đã dựng nên toàn bộ vụ tàn sát ở Huế nhằm tạo nên “Một chiến dịch tuyên truyền nói rằng thương vong (dân sự) trong cuộc chiến ở Huế, hầu hết là do người Mỹ xử dụng súng đạn một cách bừa bãi chưa từng thấy bao giờ, rồi đổ Cộng Sản tàn sát người dân.
                 
                Thật sự, người Mỹ đã làm ngược lại. Cũng ở phần kết, Nolan viết:
                Theo thống kê thì khoảng 10 ngàn ngôi nhà hoặc hư hỏng hoàn toàn hay một phần lớn, đạt tới 40 phần trăm toàn bộ số lượng nhà cửa trong thành phố. Tuy nhiên, những bài báo đầu tiên nói không đúng sự thật, cho rằng sự tàn phá là do bởi hỏa lực của Hoa Kỳ (như báo Life đưa tin rằng “... phương cách độc nhất để thắng địch là phải tàn phá thành phố”). Nhìn lại quá khứ, Huế bị hư hỏng nhẹ nếu so với trận đánh Monte Casino hồi năm 1944, một thành phố cổ hơn cả thế kỷ và cả thành phố bên cạnh nó thì sự tàn phá khủng khiếp hơn nhiều vì bom đạn của phe đồng minh.”
                 
                Trận chiến kết thúc chưa bao lâu thì chính quyền Nam Việt Nam đã đưa ra một chương trình phục hồi, cứu trợ và tái xây dựng, thời hạn 90 ngày, trọng tâm là toàn bộ Quân Khu I, nhưng chính yếu là tập trung vào Huế. Lương thực, quần áo, nhà cửa, y tế được đem tới cứu trợ cho người dân tỵ nạn trong thành phố, tính chừng cho 116 ngàn người, trên tổng số dân chúng là 140 ngàn người. Tới cuối năm, đời sống dân Huế đã trở lại bình thường. Thiếu tá Swenson ghi nhận:
                 
                “Những nhiệm vụ cuối cùng của tôi khi làm sĩ quan liên lạc là hướng dẫn du khách viếng thăm toàn bộ thành phố Huế. Thành phố không bị tàn phá hoàn toàn, chỉ bị hư hại mà thôi, và vẫn còn đẹp.”
                 
                Trong phần trên, Nolan viết rằng báo Times, lúc ban đầu đưa tin như thế. Sau đó, họ có biết họ sai và viết đúng hơn chăng.
                 
                Tuy nhiên, đâu phải chỉ có một mình Griffiths viết như thế. Còn John Kery thì sao?
                Cũng xin trích một đoạn nói về anh ta:
                John Kerry có câu nói nổi tiếng: “Làm sao có thể yêu cầu một con người phải chết cho một sai lầm?”
                 
                Sai lầm hay không? Lịch sử Mỹ chưa chứng minh rõ ràng việc Mỹ tham chiến ở VN là một sai lầm! Tuy nhiên, John Kerry không ngần ngại khi “mạnh mẽ lên tiếng tố cáo những hành vi sát hại dân lành của binh lính Mỹ tại Việt.” Kerry còn xác nhận chính y đã: “Có, có tất cả các loại tàn độc. Tôi có tham gia vào các hoạt động như vậy, như hàng ngàn người lính Mỹ khác. Tôi thực hiện việc quấy rối và bắn phá hoại, ở các khu vực được phép bắn tự do. Tôi đã sử dụng súng đại liên 50 cal được trao cho chúng tôi để chống lại người dân. Tôi đã tham gia các chiến dịch tìm diệt, tham gia vào việc đốt phá làng mạc. Tất cả những điều này là trái với luật quốc tế về chiến tranh, Công ước Geneva, và tất cả đều là lệnh của Chính phủ Mỹ từ trên xuống. Tôi tin rằng những người đã thiết kế ra các khu vực bắn tự do và ra lệnh cho chúng tôi… là tội phạm chiến tranh.”
                 
                Trong tinh thần tích cực phản chiến, Kerry tham gia biểu tình cùng hàng ngàn cựu binh trong đó y và các đồng đội đã quăng huy chương của mình qua hàng rào trước bậc thềm tòa nhà Quốc hội để phản đối chiến tranh. Bên cạnh đó, Kerry từng chỉ trích chính phủ Mỹ khi tiến hành chiến tranh tại Việt Nam: “Đó là bước nối dài của chủ nghĩa cô lập và đã trở thành chủ nghĩa can thiệp… Cuộc chiến ở Việt Nam đã đẩy người dân Mỹ vào chân tường”.
                 
                “Mặt thật” của John Kerry là ở đâu?
                Xin đọc tài liệu sau đây:
                “Tháng 4-1971, tổng thống Richard M. Nixon và cố vấn Charles Colson điện đàm về một nhân vật đang được công chúng quan tâm: John Kerry, người phát ngôn của Hội Cựu binh Mỹ tại VN phản chiến (VVAW).
                Colson lúc đó nhận định: “Tay Kerry này thật có tham vọng chính trị và chỉ đang tìm cớ (để gây chú ý) mà thôi”.
                “Tuy nhiên, tài liệu giải mật thời kỳ Nixon cho thấy các cố vấn của tổng thống Nixon ngày càng lo rằng John Kerry với khả năng thu hút người nghe của mình có thể là nguy cơ làm giảm sự ủng hộ của người dân Mỹ đối với cuộc chiến tranh tại VN. Một văn bản của Colson thậm chí còn ghi rõ: “Hãy triệt cái tay mị dân này trước khi hắn trở thành một Ralph Nader khác”. (Ralph Nader là một trong những nhà hùng biện và học giả tiếng tăm nhất tại Mỹ).
                 
                Tham vọng chính trị và mỵ dân là bản chất của John Kerry đấy!
                 
                Nếu Griffiths và John Kery nói như thế, thì trách cứ Việt Cộng làm sao được. Đồng hội, đồng thuyền, đồng chí hướng với nhau cả đấy.
                 
                Thử hỏi John Kerry một câu. Nếu y tuyên bố như thế thì trong cái gọi là “Chiến tranh Việt Nam” chính nghĩa thuộc về ai? Chính nghĩa thuộc về Miền Nam chiến đấu bảo vệ Tự do cho họ, cho “Thế giới Tự Do” có Đồng Minh, đứng đầu là Hoa Kỳ ủng hộ, hay thuộc về Cộng Sản Bắc Việt Xâm lược miền Nam.
                 
                Cứ như câu tuyên bố trên của John Kerry thì việc làm của Mỹ ở Nam Việt Nam là sai lầm, có nghĩa là Mỹ đem chiến tranh đến Việt Nam. Vậy thì Mỹ phải bồi thường. Tiếc chi mà chính phủ Hà Nội không vin vào câu tuyên bố của John Kery mà lên tiếng yêu cầu ông ngoại trưởng Mỹ đương nhiệm hãy bồi thường cho Việt Nam. “Há họng mắc quai”. Đó là cái quai trong miệng John Kerry, làm sao ông ta còn có thể yêu cầu chính phủ Hà Nội tôn trọng nhân quyền trong khi ông đã từng công khai công nhận là chính phủ Mỹ đã sai lầm trong chiến tranh Việt Nam. “Thôi còn chi nữa mà mong” ở ông ngoại trưởng đầy “tham vọng chính trị và mỵ dân” là bản chất của John Kerry.
                 
                Tại sao John Griffiths và John Kerry làm cái công việc nầy?
                Chính là vì “Phong trào phản chiến”. Người Mỹ muốn chấm dứt một cuộc chiến tranh ở xa nước Mỹ, bên kia nửa vòng địa cầu, mà con em họ đã ngã xuống khá nhiều, không rõ vì lý do gì. Hồi Thế giới Chiến Tranh thứ Hai, thanh niên Mỹ chết ở Phi, ở Nhật, ở Đông Dương thì còn hiểu được, vì Nhật tấn công Trân Châu Cảng, đem chiến tranh đế nước họ. Còn bây giờ thì Cộng Sản Bắc Việt có “gây chiến” tại nước Mỹ đâu? Cộng Sản hô hào hòa bình trên khắp thế giới, thế tại sao Mỹ lại đem quân đến Việt Nam đánh họ. Cách hiểu chính trị của người Mỹ “đơn giản” như thế, và John Kerry cũng hiểu “đơn giản” như mọi người, chưa kể ông ta muốn lợi dụng cái tâm lý số đông người vì “tham vọng chính trị”. Trong cái “tham vọng” đó, ông ta có “quan hệ” như thế nào đó gì không, với Cộng Sản, với Nguyễn Thị Bình đang ở Paris, vận động để chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Điều đó còn là “bí mật”, chưa ai biết được!
                 
                Tiếc chi mà Cộng Sản Việt Nam không lợi dụng ngay những tuyên bố, việc làm của Griffiths, của John Kerry mà đổ vấy cho Quân Đội Mỹ cái tội giết dân Việt Nam trong cuộc chiến Mậu Thân ở Huế. Nếu người ta tin Griffiths, tin John Kerry, lại không thể tin Lê Phong Lan hay các nhà viết sử Cộng Sản hay sao?!
                Đến lúc nào Cộng Sản Việt Nam không còn, cái mặt nạ vu khống của chúng rơi xuống, thì không hiểu lúc đó, cái mặt của John Kerry sẽ như thế nào!
                 
                Thật ra, nếu Quân đội Mỹ là thủ phạm giết 5 ngàn người dân Huế hồi Tết Mậu Thân, ngay lúc đó, các tướng tá, sĩ quan của Quân Đội Mỹ đang là cấp chỉ huy tại Việt Nam thì họ cũng không thể “yên thân” với báo chí Mỹ và quần chúng Mỹ được. Bởi vì vụ Mỹ Lai xảy ra sau vụ Mậu Thân, giữa tháng 3 năm 1968, các trung đội của đại đội Charlies, tiểu đoàn 1, thuộc Sư đoàn Bộ binh 23 hành quân ở thôn Mỹ Lai, quận Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, giết hơn 5 trăm thường dân không có vũ khí, phần đông là phụ nữ và trẻ em.
                Những sĩ quan có trách nhiệm trong vụ thảm sát nầy bị đưa ra tòa và bị án tù.
                 
                Số người bị giết trong vụ Mậu Thân ở Huế cao hơn vụ Mỹ Lai 10 lần, hơn 5 ngàn người. Nếu những người có trách nhiệm trong vụ Mỹ Lai, bị đưa ra tòa, thì những người Mỹ can tội giết 5 gàn người ở Huế tại sao lại không?
                Không lý ở cái xứ Mỹ nầy lại có những chuyện vô lý đến buồn cười như vậy sao???!!!
                 
                4)- Chính danh thủ phạm tên là “chính mi”
                (“Chính Mi” nói lái là “Chí Minh”, tức là Hồ Chí Minh chớ còn ai?”
                Trong trận đánh Tết năm Mậu Thân, người ban lệnh tấn công chính là Hồ Chí Minh. Đêm giao thừa, quân “Cộng Sản Bắc Việt xâm lược” và Việt Cộng (tức bộ đội dịa phương và du kích...), nếu nghe bài thơ sau đây của Hồ Chính Minh, do chính Hồ đọc “chúc Tết” trên đài phát thanh Hà Nội, thì phải hiểu đó là “Lệnh Tấn Công”.
                Trích một đoạn trong “Lịch sử Việt Nam” của Cộng Sản Hà Nội viết:
                 
                “Tháng 12-1967, Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III họp dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và thế giới, đã quyết định mở đợt Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968).
                (Xin nhớ: Công sản viết là “Tổng tấn công và Nổi dậy. Trong trận đánh Tết Mậu Thân ở Huế, đồng bào Huế không nổi dậy như Hồ Chí Minh kêu gọi)
                 
                . . . . “thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định được Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền tới đồng bào và chiến sĩ cả nước qua thư Chúc mừng năm mới, ngày 1 thăng 1 năm 1968. Sau khi điểm lại những thắng lợi của quân và dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc trong năm 1967, Người chỉ rõ “Sang năm nay, bọn Mỹ xâm lược ngày càng bị động, càng lúng túng, quân và dân ta thừa thắng xông lên, nhất định giành được nhiều thắng lơi to lớn hơn nữa”. Cuối thư, Người chúc đồng bào và chiến sĩ cả nước bằng bằng những vần thơ xuân quen thuộc:
                “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
                Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
                Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
                Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!
                Đó là lệnh “Giết người”. Năm ngàn người Huế bị giết năm Mậu Thân là qua cái lệnh “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta” của Hồ Chí Minh đấy.
                 
                5)- Xóa bỏ chứng tích
                Sau khi chiếm đóng toàn bộ miền Nam Việt Nam, Việt Cộng cho san bằng hai nghĩa trang Ba Đồn và Ba Tầng. Hai nghĩa trang nầy là nơi chôn cất tập thể của khoảng gần 3 ngàn bộ hài cốt không thể nhận biết là ai, thân nhân không nhận dạng được để đem về chôn cất.
                 
                Nếu người Mỹ là thủ phạm giết những người dân Huế hồi Tết Mậu Thân, thì hai nghĩa trang nầy cần được giữ lại để làn chứng tích cho “tội ác Mỹ Ngụy”. Tuy nhiên, Mỹ không giết, chính là Việt Cộng giết, nên chúng phải mau lẹ cho san bằng hai nghĩa trang nầy. Không lý để hai nghĩa trang đó lại, để làm “chứng tích cho tội ác Cộng Sản” hay sao? Xóa bỏ hai cái nghĩa trang đó, có nghĩa là Việt Cộng thú nhận “Lạy ông, tôi ở bụi nầy”.
                 
                6)- Ai bị giết?
                Có ba thành phần như sau:
                1)- Một là những người Việt Cộng gọi là “Ác ôn” (Danh từ Việt Cộng), tức là những người Việt Cộng đã có danh sách từ trước khi chúng vào Huế. Danh sách nầy, do bọn nằm vùng, như bọn Tường, Phan, Xuân, Đóa, Trinh, Tiềm, Nguyện (Nguyễn Quang Nguyện, hội viên Hội Đồng Tỉnh Thừa Thiên) báo cáo cho VC từ trước. Ngoài bọn nói trên, VC cũng được bọn nằm vùng khác, ở trong các xóm, phường, làng (An Cựu, Vĩ Dạ, Phước Quả (Phú Cam), Bao Vinh...) lập danh sách báo cáo cho.
                Những người nầy gồm công chức cao cấp địa phương như đại biểu chính phủ, tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng, phó thị trưởng... hạ sĩ quan, sĩ quan Cảnh Sát (phó thẩm sát viên, thẩm sát viên, biên tập viên, quận trưởng...), Cán bộ Xây Dựng Nông Thôn các hạng, đảng viên các đảng phái Đại Việt, Việt Quốc.
                 
                Phần nhiều, các thành phần nay bị “xử lý” ngay tại chỗ. “Xử lý” là “danh từ Việt Cộng”, cũng có nghĩa là giết ngay, không cần xét xử, tra hỏi gì cả, cũng có thể bị bắt, đem di, sẽ giết hay chôn sống về sau.
                 
                2)- Thành phần bị bắt, trình diện theo lệnh VC. Tuy nhiên, khi rút lui, VC không đem đi theo được, không tha được, nên giết đi. Phần đông, đó là những người bị bắt ở Gia Hội. Khi VC rút lui theo ngã Bến Đò Chợ Dinh, tại Bãi Dâu, không đem theo được nên VC giết đi. Vì vậy, người ta hiểu tại sao, Bãi Dâu thành ra “Bãi Tàn Sát” người dân Huế mà Trịnh Công Sơn đã mô tả trong “Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người”. Cũng trên đường rút lui về phía Tây Nam Huế, không đem những người bị bắt theo được, VC giết họ, không xét xử, không kêu án. Trong số nầy, có cả những người ngoại quốc (VC gọi là nước ngoài), trong số có cả 4 bác sĩ giáo sư người Đức dạy tại Đại Học Y Khoa Huế, bị chôn sống ở vườn sau chùa Tường Vân.
                 
                3)- Sau khi rút chạy khỏi Huế, VC bắt đem theo một số người. Số người bị bắt nầy bị dẫn về phía Tây Nam thành phố Huế, rồi dẫn về quận Vinh Lộc, quận Phú Thứ. Đến mỗi nơi, VC giết một ít. Cuối cùng, họ bị dẫn về Khe Đá Mài, thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa Huế. Khoảng 400 người bị đập đầu chết, đạp xuống khe nầy.
                 
                7)- Thành phần bị giết
                Trước khi Việt Minh cướp chính quyền tháng 8 năm 1945, người Việt Nam, giữa thành thị và thôn quê, không có gì mâu thuẫn. Họ thương yêu và giúp đỡ nhau khi cần nữa là đằng khác. Tuy nhiên, từ khi chiến tranh bùng nổ, Cộng Sản cố gây mâu thuẫn giữa người thành thị và thôn quê. Việt Minh tuyên truyền rằng người thành phố là theo Tây, ủng hộ Tây, làm tay sai cho Tây. Các đội Tự Vệ Chiến Đấu của Việt Minh ở các làng, tùy tiện bắt giam, giết những ai chúng gán cho tội theo Tây, làm mật thám cho Tây. Nhiều người dân thành phố bị Việt Minh bắt, bị giết.
                 
                Trong cách phân biệt giai cấp của Cộng Sản, người dân thành phố phần đông là “tiểu tư sản thành thị”, tư sản, tư bản, thương mãi, buôn bán... ảnh hưởng văn minh tư sản Âu Mỹ, là thành phần đối kháng với giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản muốn nắm chính quyền, dĩ nhiên phải tiêu diệt giai cấp đối kháng. Trường hợp Khmer Đỏ đuổi dân thành phố ra khỏi nơi họ sinh sống, buộc về miền quê lao động là sự minh chứng rõ rệt nhất cho quan điểm nầy của Cộng Sản.
                Đó là nhìn chung!
                 
                Huế, trường hợp đặc biệt hơn.
                Huế là kinh đô của nhà Nguyễn, kéo dài 143 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, đóng đô ở Huế, 1802, đến khi Bảo Đại thoái vị tháng 8 năm 1945. Suốt thời gian 143 năm đó, Huế là nơi cư trú của các vua, hoàng tộc, quan lại lớn nhỏ phục vụ triều đình Huế, đời sống giàu có, sang trọng, kéo theo các tầng lớp buôn bán lớn nhỏ, phục vụ cho quan lại và triều đình.
                 
                Bên cạnh đó, người ta phải kể tới các lãnh đạo tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo, một tôn giáo đặc biệt phát triển mạnh nhờ thế lực của Thực Dân Pháp xâm lăng và cai trị nước ta từ sau vụ “thất thủ kinh đô” năm 1885.
                 
                Người ta cũng không thể không kể đến các đảng phái, những đảng đông đảng viên, hoạt động mạnh, và chống Cộng Sản như Đại Việt, Việt Quốc.
                 
                Giai cấp thống trị miền Nam, đặc biệt ở Huế, là những phần tử Cộng Sản cần phải triệt tiêu. Đó là những người phục vụ trong Chính Quyền miền Nam, trong Quân Đội VNCH. Thành phần Cộng Sản căm ghét nhất là Cảnh Sát, chúng cho là những kẻ “kềm kẹp dân chúng”, cán bộ Xây Dựng Nông Thôn là lực lượng được Mỹ tài trợ, đánh phá Cộng Sản từ “hạ tầng cơ sở”, khiến các tổ chức Cộng Sản bị đánh phá, casn bộ Cộng Sản bị tù, bị đày Côn Đảo, v.v....
                 
                Nhìn chung, người Huế, bất cứ thành phần nào, đều theo về và ủng hộ Chính Quyền miền Nam, có tinh thần và thái độ chống Cộng, và nhất là “không nổi dậy” cướp chính quyền, không hoan hô bộ đội Cộng Sản khi chúng vào Huế, không làm theo lời Hồ Chi Minh hô hào trong câu thơ “Tiên lên! Chiến sĩ, Đồng bào”. Chiến sĩ (Cộng Sản) theo “lệnh bác” thì có “tiến lên” đấy, vô tới Huế, nhưng “dân chúng thì trốn chạy.” (2)
                 
                8)- Huế, hận thù và oan khiên
                Có hận thù mới có oan khiên. Đó là nét đặc trưng của Huế.
                Có hận thù là vì có tranh chấp quyền lợi. Việc ấy có thể kể từ khi ông hoàng Đảm lên ngôi mà không phải là con của ông hoàng tử Cảnh. Vụ án Nguyễn Văn Thành, cha, và con là Nguyễn Văn Thuyên có thể coi là khởi đầu cho Huế hận thù được không, khi ngai vàng về tay ông nầy, phe nầy mà không về tay ông kia, phe kia?
                 
                Hận thù đó rõ hơn về đời ông Tự Đức, khi ông Hồng Bảo không lên ngôi, từ đó mà có Giặc Chày Vôi, - hậu duệ của lãnh tụ đám giặc nầy là ông Lê Đức Anh bây giờ đấy - Cái hận thù ấy đâu có mau chấm dứt?! - Tự Đức băng hà rồi thì có “tứ nguyệt tam vương”, có “thất thủ kinh đô”, có giai cấp mới dựa vào thế lực của Tây mà ngồi bên cạnh ngai vàng, có “Phong Trào Cần Vương” theo hịch của vua Hàm Nghi, có “Phong Trào Văn Thân bình Tây sát tả”. Mối hận đó kéo dài cho tới Nam Bộ Kháng Chiến, có “Toàn dân Kháng chiến chống Pháp” tái xâm lăng nước ta.
                 
                Người ta cứ tưởng tiếng đàn tiếng ca trên sông Hương, làm cho, - không riêng chi “thương nữ”- mà cả một tầng lớp thống trị hưởng nhiều ơn vua lộc nước cũng “bất tri vong quốc hận”. Người ta lầm đấy. Người Huế vẫn còn “tìm trăng”, dù “trăng khuất đã lâu.” Các vua và những người yêu nước, “dù trăng khuất đã lâu” nhưng họ vẫn còn đấy!
                 
                Đó là cái đau chung cho dân tộc, cái hận chung cho đất nước. Nó không phải là hận thù sâu sắc như cái hận riêng của một tầng lớp, của những con người bị mất đi nhiều “đặc quyền, đặc lợi”.
                 
                Có thể lấy một ví dụ:
                Tường, Phan thuộc dòng dõi quan lại, - ông hoàng giáp Họ Hoàng người làng Bích Khê, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, bà con họ với cố nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, thi sĩ Cuồng Vũ, nhà văn Quang Đạo và ông Hoàng Hữu Quýnh (tác giả “Tôi Bỏ Đảng”).
                 
                Do Pháp xâm lược, thời thế thay bậc đổi ngôi, dòng họ nầy suy tàn. Thân phụ Tường - Phan chỉ đậu bằng sơ học yếu lược (lớp ba tiểu học), nhờ Bác sĩ Phan Văn Hy (quê ở Nhan Biều, Quảng Trị) mà có nghề y tá. (Trong dòng họ của Tường - Phan có bà Hoàng Thị Loan theo Cộng Sản từ hồi còn trẻ, trước cả Lê Duẫn, - có tham gia cuộc họp mặt những nhà “cách mạng lão thành” do Lê Duẫn tổ chức năm 1976 ở Hà Nội, sau khi chiếm xong miền Nam Việt Nam -). Bọn y cũng tin tưởng Lê Duẫn là người đồng hương (làng Bích La, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị) để dễ thăng tiến trong “đường Kách mạng”. Tuy vậy, bản chất Tường thì tiểu tư sản mà lại ưa ba hoa Cộng Sản, - hoàn toàn khác với Vĩnh Linh, cũng hoạt động cho Cộng Sản và cũng dạy ở trường Quốc Học -, nên nhiều người không ưa Tường. Trong khi đó thì y lại tự cao và miệt thị đồng nghiệp y ở trường Quốc Học vì không thuộc dòng dõi quan lại và không có tinh thần “cách mạng” (Cộng Sản) như y.
                 
                Thực ra, bố y là người bất đắc chí, cậu ấm con nhà quan to mà chỉ làm y tá bệnh viện, Nho học đã dốt mà Tây học thì chỉ ngang với bằng “sơ học yếu lược”. Sự bất đắc chí của người cha ảnh hưởng sâu đậm đến các con. Mặc dù hoạt động cho Cộng Sản nhưng Tường bị Cộng Sản loại ngay từ đầu vì hai điều: một là làm cho Cộng Sản bị hớ trong vụ “nổi dậy” tết Mậu Thân, thứ hai là bản chất tiểu tư sản của y khá rõ. Những năm cuối đời, khi biết Cộng Sản không dùng nữa, y tìm tới hòa thượng Trí Quang để hy vọng nếu Cộng Sản thay đổi đường lối chính sách thì y sẽ có cơ hội nhờ Phật giáo mà đi lên như thời kỳ Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc 1966 vậy. Biết y là tên hoạt đầu, hòa thượng Trí Quang cấm chỉ.
                 
                Đời người, ân oán đâu đó có đủ cả.
                Người Cộng Sản chẳng hạn, họ có thương y bao giờ đâu? Làm sao Chí Phèo có thể thương được một tên tiểu tư sản, dòng dõi quan lại? Nhưng những người có quan hệ riêng tư với cá nhân y, khi thấy Tường ngồi không vững, ngoắt ngoéo trên cái xe lăn, có thể thương hại y. Còn những ai từng là nạn nhân Cộng Sản, thì họ nghĩ gì? Có phải đó là cái giá mà y phải trả cho tâm địa độc ác của y, “hàm huyết phún nhân”. Vậy thì, “con rắn độc” chính là y, chớ đâu có phải ở những người chết oan hồi tết Mậu Thân. Trong cảnh sống dở chết dở đó, y nghĩ gì về lòng thù ghét người khác của thân phụ y, khi ông già nầy sa cơ thất thế, không được nối gót cha ông để làm quan mà hưởng “ơn vua lộc nước”.
                Thay vì trao lại cho con “chiếc gươm thân phụ di truyền” như trong câu hát “Hòn Vọng Phu”, để xây dựng đất nước thì ở đây, người cha trao lại cho các con lòng thù hận để các con cầm súng đi giết người Huế hồi tết năm đó???!!!
                 
                Trong nỗi tuyệt vọng và bất đắc chí như thân phụ Hoàng Phủ Ngọc Tường, y vẫn hơn cha y ở chỗ hoạt đầu, lưu manh và tự cao hơn, đặt nhiều tham vọng hơn ở chế độ Cộng Sản.
                Để đáp ơn, chế độ mới cho y chiếc xe lăn?
                 
                Còn Hoàng Phủ Ngọc Phan, sau 1975, y làm gì?
                Tù cải tạo về năm 1982, cũng như một vài người Huế khác, tôi thấy Phan ngồi “phơi chanh muối” tại một cái sân nhà đối diện với “Trung tâm Xạ Trị” ở khu vực ngã ba đường Bà Huyện Thanh Quan - Kỳ Đồng. Cộng Sản “cho” y chỉ vậy thôi sao? Công hãn mã chỉ có vậy thôi sao?!
                 
                Như tôi trình bày, Hận Thù của Huế nói không hết được! Nó khởi đầu từ khi Huế là kinh đô của nước Việt Nam hay trước nữa, không sao biết hết?! Nó làm cho người ta Quên công ơn của tiền nhân, của Huyền Trân Công Chúa, người chịu lấy ông vua già Chế Mân để nước Đại Việt có thêm đất hai châu Ô và Rí, - Ô châu là đất Huế bây giờ -, quên ơn chúa Nguyễn Hoàng “đi mở cõi” phương Nam, quên ơn 9 chúa 13 vua kéo dài lãnh thổ tới Cà Mau, Hà Tiên.
                 
                Khi ông Huy Phương viết:
                 
                “Châu Ô, châu Lý mà chi nữa,
                Đất đã mang về nỗi biệt ly”
                 
                thì ông là người biết ơn hay oán trách Công Chúa Huyền Trân vậy hè?
                 
                Tuy nhiên, có người tâm địa như thế nầy mà cũng có nghĩa tâm địa như thế kia.
                 
                “Thất thủ kinh đô” là một biến cố lớn của lịch sử Huế mà cũng lịch sử mất nước của dân tộc. Cuộc chiến tranh nầy làm cho hàng ngàn người chết, binh lính cũng như dân thường. Người chịu trách nhiệm trong cuộc chiến nầy không thể là người bị cướp nước mà chính là ở kẻ đi xâm lược, tức là người Pháp vậy. Tuy nhiên, khi chiến tranh qua rồi, người Huế gom những xác người vô thừa nhận, chôn chúng một hố, lập miếu cúng thờ, người Pháp cũng không cấm cản hay can dự tới. Nhờ vậy nên “Miếu Âm Hồn” được xây ở ngã tư đường Âm Hồn (tên mới là Nguyễn Hiệu), và đường Đông Ba (tên mới là Mai Thúc Loan). Đây chính là nơi chôn chung những người chết hồi “Thất Thủ Kinh Đô”. Thế rồi bà Nguyễn Nhược thị viết “Hạnh Thục Ca” nói về trận chiến ấy, hay người bình dân Huế làm “Vè Thất Thủ Kinh Đô”, bọn Tây thực dân cũng không sai Công An gọi hăm dọa hay bỏ tù ai. Mỗi năm, người dân Huế mở lệ “cúng cô hồn” cho những linh hồn chết oan trong trận giặc ấy, bọn xâm lược cũng không có biện pháp gì. Ấy là thời Pháp cai trị nước ta!
                 
                Hận thù xưa và hận thù ngày nay khác nhau nhiều. Hận thù đấy, nhưng người ta cũng nguôi ngoai “hỷ xả”, vì muốn làm theo chữ “Thứ” của Khổng Tử. Người ta không thể “nuôi” hận thù lâu trong lòng mình. Nó nặng lòng người ta lắm. Ngày xưa, khi quan án xử một vụ ly dị, quan quăng ngòi bút ký tên xuống bàn rồi đi rửa tay. Họ muốn xóa tội về một việc làm “thất đức”. Đức trị, lấy đức trị dân là châm ngôn của giai cấp thống trị cũ. Nay người ta trị dân bằng gì???
                 
                Đâu như bây giờ! Người ta không thể “hỷ xả” vì “hận thù giai cấp”, vì “cách mạngtriệt để”. Hận thù thì cũng phải “hận thù tới nơi tới chốn”, chính là “đường lối triệt để của cách mạng vô sản”, cộng thêm với hận thù của Huế tiềm ẩn trong tâm can một số người Huế, hễ có dịp là nó biến thành gươm đao, giết người không một chút thương tâm như hồi tết Mậu Thân năm 1968 vậy:
                Đàn con nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng,
                . . . . . . . . . .
                Đường nội thành đền xưa ai tàn phá?
                Cầu Tràng Tiền bạc màu loang giòng máu
                 
                Đấy là “hận thù triệt để” của những người vô sản.
                “Văn hóa Tư sản” và “Văn hóa Vô sản” khác nhau chứ!? “Văn hóa Huế” trước cái gọi là “Cách mạng tháng Tám”, khác với “Văn hóa Huế” sau biến cố ấy.
                 
                Một giai cấp mới giành được chính quyền, và một số không ít tham vọng theo đuôi. Đó là cái Cộng Sản gọi là “đầu hàng giai cấp”. Ở Huế, không ít những người “đầu hàng giai cấp”, như bọn Tường Phan và bọn học trò của Tường nay định cư ở Mỹ.
                 
                Đầu hàng giai cấp chính là bọn “hoạt đầu chính trị”. Khi sống dưới chế độ VNCH, chúng nó hát:
                 
                Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người
                Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
                Trên con đường, người cha già ôm con lạnh giá
                Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người
                Tôi đã thấy, tôi đã thấy,
                Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em.
                 
                hay: “Ba mươi năm nội chiến từng ngày”, nhưng sau 1975 thì dấu biệt. Tại sao phải dấu? Những cái gương Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Công Hoan... theo đuôi Cộng Sản chưa đủ làm cho người ta phải suy nghĩ hay sao, hay người ta muốn tìm kiếm cái gì trong chế độ mới?
                Người có lương tâm và sĩ diện thì đi tìm cái gì?
                 
                Trong chế độ mới của giai cấp mới, kẻ thống trị không bao giờ sai lầm nên không bao giờ có cái án oan, xử oan, chết oan... Những người bị giết năm Mậu Thân, bị HPN Tường gọi là “những con rắn độc”. Đã là “con rắn độc” thì “cách mạng giết cũng có lý, cần gì phải đổ thừa cho binh lính Mỹ ???!!!
                 
                Chế độ mới không làm điều sai lầm thì không bao giờ có việc “giải oan” cho những người bị giết hồi Tết Mậu Thân. Người sống còn chưa sống nỗi trong chế độ mới thì sá chi việc “chà đạp lên linh hồn những người đã chết.”
                 
                Huế, oan khiên và nỗi oán lên tận trời xanh là vì vậy! Đó là chuyện không bao giờ dứt được!
                Nghĩa trang Ba Tầng, Ba Đồn, nơi chôn người chết vô thừa nhận hồi Mậu Thân, đã bị san bằng. Xóa cái dấu tích về việc giết người hồi Tết năm đó. Sách báo thì nói ngược, rằng “Cách mạng không giết người” mà đó chính là “tội ác của Mỹ Ngụy”.
                 
                Sau Mậu Thân đã cõ những cuộc rước linh, chiêu hồn, giải oan cho những người chết oan bị Việt Cộng tàn sát. Bao giờ thì Huế lại có những cuộc biểu tình “lên án Mỹ Ngụy tàn sát 5 ngàn người dân Huế hồi tết Mậu Thân”
                 
                Chuyện tưởng như khôi hài mà thật đấy. Không rõ lúc ấy, những tên như Tường, Phan, Xuân,... có rửa sạch bàn tay vấy máu dân Huế của chúng để lãnh đạo những cuộc biểu tình lên án những “Ai đã giết dân Huế năm Mậu Thân”.
                 
                Hận thù của Huế đã đem lại oan khiên cho Huế,
                Có oan thì phải giải oan cho linh hồn người chết.
                Khi biết mình sai, chàng Trương lập miếu giải oan cho vợ. “Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương, Miếu ai như miếu vợ chàng Trương. Vua Lê Thánh Tôn mô tả như vậy.
                Huế oan khiên mà không giải oan cho Huế thì linh hồn người chết biết khi nào mới siêu thoát được.
                Xoa bỏ nghĩa trang, xóa bỏ dấu tích người chết oan là “oán gây thêm oán, oán chồng chất”, oán sẽ lên ngút tời xanh. Cái oan khiên của Huế sẽ không bao giờ xóa sạch, cả trong đời thường cũng như trong lịch sử.
                 
                Có phải như thế hay không???!!!
                 
                Viết lại đầu tháng Tư/ 2013
                hoànglonghải
                 
                 
                Phụ lục:
                Đề miếu chàng Trương 
                 
                Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
                Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
                Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ
                Làn nước chi cho lụy đến nàng
                Chứng quả có đôi vầng nhựt nguyệt
                Giải oan chi mượn đến đàn tràng
                Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
                Khá trách chàng Trương khá phũ phàng
                Lê Thánh Tôn
                 
                Cơn Mê Chiều (Nguyễn Minh Khôi)
                 
                Đàn con nay lớn khôn mang gươm đao vào xóm làng
                Chiều nay không có em, xác phơi trên mái lầu
                Một mình nghe buốt đau, xuôi Nam Giao tìm bóng mình
                Đường nội thành đền xưa ai tàn phá?
                Cầu Tràng Tiền bạc màu loang giòng máu
                Hương Giang ơi thuyền neo bến không người qua đò
                Một lần thôi nhưng còn mãi ...
                Và chiều nay không có em, đường phố cũ chân mềm
                Tôi là người khai hoang đi nhặt xác mình, xác người
                Cho ruộng đồng xanh màu, cho đám mới lên cao
                Và người ơi xin chớ quên, người ơi xin chớ quên
                Đường vào thành, hàng cây trơ trụi lá
                Đồi Ngự Bình thịt xương khô sườn đá
                Kim Long ơi, bờ lau ngóng, chuông chùa tắt rồi
                Một lần thôi nhưng còn mãi
                Và chiều nay khg có em, đường phố chẳng lên đèn
                Tôi là người trong đêm, mang ngọn đuốc về nội thành
                Xin làm người soi đường đi xóa hết đau thương
                Và người ơi xin chớ quên, người ơi xin chớ quên



                Bành Lệ Viên (Cán bộ Văn công Quân đội Tàu Cộng)
                 
                 

                Vợ chồng Khrushchev và tổng thống Eisenhower

                 
                nguồn
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2013 06:04:07 bởi dzuylynh >
                #83
                  dzuylynh 18.04.2013 04:50:10 (permalink)
                  0
                                    
                   
                   
                  Nỗi Buồn Tháng Tư.
                   thơ TrúcLan | phổ nhạc & trìnhbày Dzuylynh
                   album ViệtNam Minh Châu Trời Đông 

                  Tháng tư giọt vắn giọt dài 
                  Hoen đôi dòng lệ khóc ai anh hùng
                   Rồng thiêng thuở ấy vẫy vùng
                   Tháng tư nợ nước thù chung đã đền 
                  Sầu tình hương khói bay lên 
                  Hồn anh thấp thoáng bên thềm âm dương
                   Tháng tư bùng lửa chiến trường 
                  Mùa xuân tàn tạ, vách tường rêu phong
                   Năm cung sầu lọt khuê phòng 
                  Giang sơn hấp hối, đôi dòng lệ cay
                   Anh nương theo khói hương bay
                   Để em ở lại chuỗi ngày truân chuyên 
                  Tháng tư đứt đoạn lời nguyền
                   Níu cành dâu cũ khói huyền bay ngang 
                  Tháng tư lệ ướt khăn tang 
                  Em ôm cay đắng lang thang xứ người 
                  Nơi đây sương tuyết đầy vơi
                   Quê nhà tang tóc, đất trời mưa sa
                   Bắc Nam một dải sơn hà 
                  Ai về non nước cho ta theo cùng
                  Ta về đan mối thủy chung
                   Nối dòng sinh mệnh tưởng chừng phôi pha...

                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2013 04:54:23 bởi dzuylynh >
                  #84
                    thiên thanh 18.04.2013 04:57:03 (permalink)
                    0
                     
                    * * *
                     
                     
                     
                    Uẩn Khúc Tháng Tư
                    Lời bà mẹ ngày 30/4/1975 có con theo MTGPMN 
                     
                    thơ: Trúc Lan . diễn đọc: thiênthanh . đệm đàn thập lục: Dzuylynh

                    Xé thương đau rách lời than thở
                    Mảnh tâm can nức nở dòng thơ
                    Oà trong tiếng khóc vỡ bờ
                    Tình sao đen bạc hững hờ đổi thay ?

                    Con theo giặc về gây tang tóc
                    Đêm chong đèn mẹ khóc vì ai ?
                    Xót xa giọt lệ vắn dài
                    Một dao mã tấu chẻ hai thâm tình

                    Ngất cơn đau, hồi sinh rơi lệ
                    Cháy môi khô, nứt nẻ tình người
                    Giọt sầu thảm thiết, trời ơi..!
                    Máu đào mạch vỡ, rụng rời thế gian

                    Uẩn tình mẹ trăm ngàn cay đắng
                    Nón tai bèo gieo nặng tóc tang
                    Con đem tình mẹ cưu mang
                    Vùi sâu xuống mộ không màng nhục vinh

                    Mẹ tàn tạ điêu linh cát bụi
                    Đêm ngóng trông, hờn tủi hôm mai
                    Con theo giải phóng miệt mài
                    Thành người mất gốc, thành loài bạc vôi

                    Bừng con mắt thấy đời ô trọc
                    Mái đầu xanh bỗng chốc bạc phai
                    Tình thân con trả cho ai ?
                    Tôn thờ Các Mác, chẳng hoài mẹ cha

                    Con hung ác mẹ già run sợ
                    Trở về đây đòi nợ dân mình
                    Con ơi, xin hãy thương tình !
                    Đừng gây hờn oán điêu linh cho người

                    Mẹ vàng võ thân côi chiếc bóng
                    Nhớ khi xưa bé bỏng hình hài
                    Nâng niu bồng bế trên vai
                    Con theo Xã Nghĩa làm trai si cuồng

                    Mẹ cúi xuống, khóc hồn non nước
                    Mắt lệ rơi chảy ngược vào tim
                    Lưng còng gang tấc tử sinh
                    Cõi già mẹ vẫn hành trình lẻ loi
                    #85
                      dzuylynh 19.04.2013 04:22:13 (permalink)
                      0
                       

                      * * * 


                      Thư Bộ đội cụ Hồ gửi Anh Lính Miền Nam

                      Nguyễn Bá Chổi (Danlambao) - Nguyễn Bá Chổi vừa nhận được lá thư dưới đây của của một cựu bộ đội cụ Hồ qua đường bưu điện. Nhận thấy nội dung liên quan đến “đại thắng mùa xuân” mà “đảng ta” đang chuẩn bị ăn mừng ngày kỷ niệm lần thứ 38, Chổi xin quá giang Danlambaocho đăng lại nơi đây sau khi được sự đồng ý của tác giả bức thư với điều kiện dấu tên. Tiện thể, người nhận xin gửi nơi đây lời cám ơn đến anh cựu “giải phóng quân” Cách Mạng đã chia sẻ tâm sự phản tỉnh với “Ngụy quân”.

                      *

                      Anh Chổi, 

                      Trước hết tôi xin phép anh, thú thật, nhờ đọc những bài viết của anh suốt mấy năm nay, từ Cu Tèo trong mục “Bác cháu ta lên mạng” đến Kỵ Binh rồi Nguyễn Bá Chổi, tôi biết được anh từng là một người lính trong Quân đội Việt Nam Cộng Hòa trước 30 tháng Tư 1975, và biết được tuổi anh với tôi cũng xêm xêm nhau. Tôi viết “xêm xêm” theo kiểu nói người Miền Nam các anh hay dùng để anh hay rằng tôi, một bộ đội cụ Hồ thập thành trước kia nay đã tự giác tự nguyện tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc trên con đường Ngụy-quân hóa và Mỹ-cút hóa (con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng ta đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp núp đồng Đô - theo văn phong kiểu anh viết vậy).

                      Bởi vì sau khi giải phóng Miền Nam, tôi khoái quê hương của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh. Xin anh đừng buồn hay thấy bị xúc phạm khi tôi dùng chữ “Ngụy” trong thư này, lý do giản đơn là, một phần do quen mồm quen mép, một phần khác quan trọng hơn là, nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy... Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng, mà bây giờ nhờ đọc qua loạt bài Những sự thật không thể chối bỏ của Đặng Chí Hùng kèm theo những hình ảnh tư liệu dẫn chứng, tôi mới biết được thực sự ai ngụy ai ngay, nhưng đây không phải là nội dung tôi muốn đề cập đến trong thư này. 

                      Thưa anh Chổi, điều tôi muốn đề cập với anh hôm nay là cám ơn các anh đã... thua cuộc chiến tranh mà trước kia chúng tôi hăm hở gọi là “giải phóng Miền Nam”. Thực tế cho thấy đó là “giải phóng Miền Bắc”. Nói thế nghe ra là ”phản động”, nhưng thực chất là vậy. Nếu bác Hồ từng nói “Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” - cứ cho bác Hồ nói đúng đi, mặc dầu theo sách giáo khoa Cách mạng dạy thì Việt Nam ta không chỉ có một mà có tới 53 dân tộc (trong Nam các anh gọi là 53 sắc tộc, xem ra đúng hơn), thì ta cũng có thể nói, nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi

                      Thực tế đó là gì? Cũng giản đơn và dễ dàng như tòa án Hải Phòng vừa xử phạt tù anh em Đoàn Văn Vươn là nạn nhân, và phạt tù treo đám thủ phạm tép riu, còn đám đầu sỏ chủ mưu thì hoàn toàn vô can, trong vụ cưỡng chế tài sản nhân dân mà chính Thủ tướng kết luận “hoàn toàn trái pháp luật”. Nếu các anh không thua cuộc chiến thì bộ đội cụ Hồ chúng tôi đâu có thu được hàng tỷ khối chiến lợi phẩm mang về làm náo nức nhân dân Miền Bắc, trong đó có cậu bé 13 tuổi quê hương Xô Viết Nghệ Tĩnh sau này là nhà báo Huy Đức ghi lại: 

                      “Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; Cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; Con búp bê nhựa - biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe - buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn. 

                      Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh... được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày [1], Thép Đã Tôi Thế Đấy [2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.” (Bên Thắng Cuộc). 

                      Còn chính bộ đội cụ Hồ như chiến sĩ gái Dương Thu Hương háo hức bao nhiêu trên đường giải phóng Miền Nam thì sau 30/4/75, khi vào đến Sài Gòn đã... Ta thử đọc trích đoạn cuộc trao đổi giữa cô với nhà báo Đinh Quang Anh Thái (*)

                      “Đinh Quang Anh Thái: Bà từng viết rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975, khi các phụ nữ khác trong đoàn quân của bà trầm trồ trước sự trù phú vật chất của miền Nam thì bà ngồi khóc trên lề đường Sài Gòn. Bà có thể nhắc lại tâm trạng của bà lúc đó? 

                      -Dương Thu Hương: (thở dài) Điên rồ thì tôi có nhiều thứ điên rồ. Khóc thì tôi có hai lần khóc. 

                      Lần thứ nhất khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cà mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ. Ở miền Bắc, tất cả mọi báo đài, sách vở đều do nhà nước quản lý. Dân chúng chỉ được nghe đài Hà Nội mà thôi; và chỉ có những cán bộ được tin tưởng lắm mới được nghe đài Sơn Mao, tức là đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn bộ dân chúng chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể; có nghĩa là chỉ được nghe một tiếng nói. Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ thứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải.” 

                      Rồi chuyện ông bác sĩ bộ đội cụ Hồ mà anh gặp tại nhà người bạn chiến hữu của anh ở Tân Định ngay sau khi mới giải phóng Sài Gòn trông như người ngoài hành tinh mới đến, cứ ngơ ngơ ngáo ngáo, bảo “có vào đây mới biết đồng bào Miền Bắc ngoài đó quá khốn khổ”

                      Anh Chổi ơi, vài mẩu chuyện trên đây là của vài ba cá nhân lẻ tẻ nhưng là đại diện cho tâm trạng chung của tuyệt đại bộ phận đoàn quân “đại thắng mùa xuân” ngay sau khi mèo mù vớ được cá rán Miền Nam đó anh. Bây giờ thôi những mẩu chuyện cá nhân để nhìn vào tổng thể sờ sờ trước mắt. 

                      Giá như ngày đó Mỹ không chịu cút, Ngụy không chịu nhào và các anh cứ tiếp tục giữ vững Miền Nam với chế độ Tư Bản một mình thì chúng tôi, tức Miền Bắc, cứ vẫn xếp hàng cả ngày và chỉ được tiêu chuẩn “mỗi năm ba tấc vải thô, lấy gì che kín cụ Hồ em ơi”, Ba Ếch cứ tiếp tục trốn chui trốn nhủi trong rừng tràm U Minh, đêm du kích ngày chích mông, chứ làm gì có nhà thờ họ hoành tráng lừng lựng giữa Rạch Giá như bây giờ. Nói chung không nhờ Miền Nam các anh thua thì làm gì chúng tôi được nếm mùi bã Tư bản để được như ngày nay. Không nhờ các anh bỏ của chạy lấy người thì của đâu cho Cách Mạng lấy làm giàu như bây giờ. Không nhờ các anh thua cuộc thì ngày nay chắc chắn Miền Bắc chúng tôi còn tệ hơn nước anh em XHCN Bắc Triều Tiên của cậu Giun Kim Ủn bây giờ. 

                      Nói túm lại, kỷ niệm ngày 30 tháng Tư 75 là để mừng cho Miền Bắc chúng tôi được giải phóng, chứ Miền Nam các anh thì bị một vố phỏng... nhớ đời này qua đời khác. Nhưng ở đời này, anh còn lạ gì, khốn nạn của người này là hạnh phúc của người kia. Thôi thì Miền Nam các anh đã hưởng lâu rồi, nhiều rồi, nhường cho đồng bào Miền Bắc chúng tôi được giải phóng một ti, cho công bằng. 

                      Cảm ơn anh đã đọc hết thư này của một người cựu thù cùng máu đỏ da vàng, cùng quê hương “ông bác” mà ngày nay mỗi lần nghe nhắc đến là tôi muốn độn thổ vì xấu hổ. 

                      Trân trọng chào Anh, 

                      Một cựu bộ đội cụ Hồ trong đoàn “giải phóng quân” 1975. 

                      Sài Gòn, năm thứ 38 ngày Giải phóng Miền Bắc.


                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2013 22:42:13 bởi dzuylynh >
                      #86
                        Thúy Lan 19.04.2013 08:28:26 (permalink)
                        0
                         
                               
                         
                         
                         
                        Quốc Kỳ Quốc Ca Việt Nam - Quá Khứ Hiện Tại Và Tương Lai 


                        Cho đến ngày nay thì trên thế giới có thể chưa có văn bản nào, chính thức nghiên cứu về nguồn gốc và lịch sử của những lá cờ. Mặc dù nó được sử dụng trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống như: Cờ hiệu cho ngành giao thông thủy, bộ, thậm chí cả đường không để chỉ dẫn cho các máy bay lên xuống. Tại các sân bay, nhất là các sân bay quân sự, sân bay dã chiến, tàu sân bay... Rồi nhiều tôn giáo, hội đoàn cũng sử dụng những lá cờ để làm biểu trưng cho hội đoàn, tôn giáo, đảng phái của mình. 

                        Trong chiến trận thời cổ đại và trung cổ, lá cờ hết sức quan trọng. Đến nỗi trong một trận đánh, nếu bên nào bị cướp mất lá cờ hoặc bị chém gãy cán cờ. Thì coi như thua trận. Binh sĩ rối loạn, tháo chạy vì họ nghĩ chủ tướng bị bắt hoặc bị giết. Bởi lá cờ của đoàn quân luôn đi cùng vị chỉ huy trận đánh.

                        Ngày nay mỗi quốc gia đều có Quốc Kỳ . Trên đó thường có các biểu tượng hoa văn, họa tiết. Mà qua đó thể hiện được phần nhiều văn hóa, tôn giáo, khát vọng, tình cảm của nhân dân, thậm chí thể hiện quan điểm chính trị của giới cầm quyền. Và cả những ý đồ đen tối nữa như lá cờ của Đức Quốc Xã chẳng hạn... Lá Quốc Kỳ của mỗi quốc gia (hoặc của vương triều). Luôn sống cùng với thời gian cầm quyền của một triều đại, hoặc một thể chế chính trị nào đó. Nó chỉ thay đổi khi một triều đại suy tàn, hoặc một thể chế chính trị sụp đổ. Một lá quốc kỳ vì sự tự do, vì hòa bình, vì sự dân chủ tiến bộ. Luôn là niềm kiêu hãnh, tự hào của mỗi đất nước, mỗi dân tộc. Một lá quốc kỳ khác hàm chứa sự bạo tàn, giết chóc, áp bức và sự thống trị bằng súng gươm. Thì là nỗi sợ hãi oán hờn của hết thảy những ai nhìn thấy nó!

                        Ở Việt Nam, vào thời Hùng Vương. Tuy còn là truyền thuyết, nhưng những di chỉ khảo cổ thời đồ đồng (như trống đồng Đông Sơn). Với những hoa văn trống đồng ngọc lũ. Giúp chúng ta suy đoán rằng: Thời Văn Lang, lá cờ sẽ có biểu tượng Trời (bánh Dầy) Đất (bánh Chưng). Và các họa tiết có hình Chim Lạc... Đến thời nhà Đinh, cũng nổi tiếng với lá cờ bằng bông lau chăn trâu cắt cỏ của cậu bé Đinh Bộ Lĩnh. Thời nhà trần còn có lá cờ nổi tiếng khác (tuy không phải là Quốc Kỳ) của Trần Quốc Toản - Vị tướng thiếu niên với hàng chữ: Phá cường địch, báo Hoàng Ân.

                        Năm 1789 Cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ. Kết quả là nhà vua không còn là kẻ sở hữu quốc gia nữa. Nước Pháp là sở hữu của toàn dân. Ý niệm lấy lá cờ làm biểu trưng cho quốc gia Pháp được thực hiện. Nhiều người cho rằng: Đó là lá cờ biểu trưng cho quốc gia đầu tiên trên thế giới. Ở Việt Nam vào thời Triệu Ân nổi lên đánh giặc xâm lược phương bắc thì sách "Quốc Sử Diễn Ca" ghi lại rằng: Triệu Ân "Ngồi trên đầu voi phất ngọn cờ vàng". 
                         

                        Câu chuyện về sự xuất hiện lá cờ đầu tiên đại diện cho Quốc Gia Việt Nam cũng rất thú vị: Đó là vào năm 1863. Trong cuộc yết kiến vua Nã Phá Luân của cụ Phan Thanh Giản. Để thương thuyết về việc chuộc lại ba tỉnh: Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Theo nguyên tắc ngoại giao thì mỗi bên phải có lá cờ đại diện cho quốc gia của mình. Bí quá! cụ Phan Thanh Giản đã lấy vải vàng có sọc đỏ ở giữa trên y phục của chính mình, may sơ lại làm lá Quốc Kỳ. Nước Đại Nam cũng từng có lá cờ Long Tinh (cờ rồng). Thực ra đây không phải là lá cờ của quốc gia. Mà là lá cờ của nhà vua Nguyễn. Cũng có màu vàng và một sọc đỏ ở giữa. Xuất hiện tại lễ tế Đàn Nam Giao trong kinh thành Huế. Và bản nhạc như là Quốc Ca được tấu lên đó là bản "Đăng Đàn Cung" - Một bản nhạc cổ với nội dung ca ngợi công lao của các vị Tiền Nhân.

                        Như vậy - Với sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho Giáo và Phật Giáo. Lấy sắc Vàng tượng trưng cho Trời Đất, Nguyên Khí. Và xen vào là màu đỏ chính là ứng vào Qủe Ly trong thư tịch cổ Kinh Dịch: Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Có bốn phương Chính và bốn phương Bàng. Qủe Ly chỉ phương nam (Nước Nam). Chữ Ly còn có nghĩa là Lửa. Bên trong Qủe Ly còn có hai vạch liền. Đó là chữ Công trong Thủ Công, Công Nghệ nó mang ý nghĩa sự tài hoa khéo léo của Người Việt... Với lý do trên đi cùng với thuyết Ngũ Hành Tương Sinh . Những lá cờ khởi thủy ban đầu của nước ta được chọn là Màu Vàng - Sọc Đỏ theo những thuyết ấy!

                        Năm 1945 - Với bản "Tuyên Ngôn Độc Lập" do ông Hồ Chí Minh soạn thảo. Cùng với sự ra đời của lá cờ đỏ sao vàng, là sự xuất hiện của quốc ca nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Ban đầu bài hát này có tên gọi là "Tiến Quân Ca". Rõ ràng với tựa đề là "Tiến Quân Ca", mọi người đều nghĩ rằng nhạc sỹ Văn Cao - Người đã viết bài hát này hoàn toàn không có ý định để nó trở thành quốc ca Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mà nó đã bị cưỡng ép đưa vào làm quốc ca!... Ngay từ câu mở đầu chúng ta đã thấy rõ đó là bài hát viết cho quân đội: "Đoàn quân Việt Nam đi..." ... "Bước chân dồn vang..." Cho đến kết thúc đều nói đến súng, gươm, quân thù, sa trường... Toàn là những vũ khí giết chóc và chiến trận cả!

                        Ở đây tôi không dám chê bai nhac sỹ Văn Cao - Cha của bài quốc ca này. Vì chắc chắn với tài năng của Ông đã được khẳng định. Qua nhiều tác phẩm âm nhạc được Ông viết về quê hương đất nước rất sâu sắc như: Ngày Mùa, Làng Tôi, kể cả cho chiến trận như Du Kích Sông Thao vv... Thì nhạc sỹ Văn Cao hoàn toàn có thể viết nên một bài Quốc Ca thực sự mang Hồn Dân Tộc với trình độ uyên bác, sâu đậm tính nhân văn! ... Nhưng! dù cho nhạc sỹ Văn Cao có làm gì thì cũng không tránh khỏi sự chi phối tư tưởng của đảng cộng sản. Vì văn nghệ sĩ trong chế độ cộng sản buộc phải ca ngợi, và viết cho cộng sản cũng là lẽ bình thường! Chúng ta cũng đã từng biết rằng có một sự việc "Không bình thường" với chế độ cộng sản. Đó là phong trào Nhân Văn Gai Phẩm, sau đó là phong trào Thơ Mới. 

                        Với các văn nghệ sỹ nổi tiếng như: Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Hoàng Cầm v.v... Vì đã coi "nghệ thuật vị nghệ thuật" chứ không coi "nghệ thuật vị nhân sinh" (Nhân sinh của cộng sản). Đã bị cộng sản đàn áp bắt bớ, cầm tù (vụ án "Nhân Văn" ngày 21/01/1960) đánh phá nhân phẩm trên báo chí... Khiến giới văn nghệ sỹ oán hờn, căm phẫn, bỏ kháng chiến trốn chạy. Như ca sĩ Tài Tử Ngọc Bảo, nhạc sỹ Phạm Duy... 

                        Như vậy - nếu nhìn từ góc độ một bản hành khúc ngắn viết cho quân đội (hay một đạo quân). Thì bài hát "Tiến quân ca" là một bài hát rất hay là khác! 

                        Nhưng một bài quốc ca vốn phải mang được "Hồn của một dân tộc". Mà trong bài hát này chỉ có mỗi một từ "hồn" (Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước). Chúng ta không thấy được cái "hồn nước" thực sự ở đâu cả! Chả lẽ hồn của đất nước ta là cứ "súng ngoài xa chen khúc quân hành ca" rồi "tiến mau ra xa trường" để bắn giết thì "nước non ta mới vững bền" hay sao? Chao ôi! Một đất nước Việt Nam mấy ngàn năm văn hiến lại mang hồn dân tộc là như vậy sao ? Ở góc độ bảo vệ tổ quốc thì có thể hiểu được. Nhưng trong bình diện nhiều mặt của một quốc gia thì không thể hiểu nổi!

                        Ngày nay - Mỗi khi lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên và bài "tiến quân ca" ngày nào được cất lên. Với đầy đủ súng ống và gươm giáo, máu đổ... Người ta thấy sự hiện thân của "bạo lực cách mạng". Đó là: Giành mọi thứ bằng bạo lực, làm mọi thứ bằng bạo lực! Sản phẩm tư tưởng của Max - Một kẻ lập dị: ... Say rượu, nợ nần ngập cổ, và có ý định tự sát!. "Cuộc đời và sự nghiệp của Max" (Nhà xuất bản sự thật Hà Nội - 1988). Với quốc kỳ máu và cuốc ca giết chóc. Với sự cướp bóc ngầm (tham nhũng). Và sự cướp bóc trắng trợn được hợp pháp hóa bằng các điều luật (Luật đất đai, luật thuế, luật cư trú, luật hình sự vv...) Và sự thống trị bằng hiến pháp (điều 4) của nhà cầm quyền cộng sản... . Đã làm cho xã hội Việt Nam ngày nay bị phân hóa sâu sắc, nghiêm trọng. Và sự đối kháng giữa một bên là tầng lớp giàu - Quan chức cộng sản. Một bên là tầng lớp nghèo - Người lao động và công chức cấp thấp không có quyền bính. Đang xảy ra! Đó cũng là mâu thuẫn giàu - Nghèo mang tính đương nhiên. Được đẩy thành mâu thuẫn siêu đương nhiên ở Việt Nam, giữa kẻ cướp và người bị cướp!!!

                        Giữa những năm 80 của thế kỷ trước. Cũng có ý kiến tiến bộ của một số nhân vật cấp tiến trong trung ương đảng và chính phủ Việt Nam, nêu vấn đề thay đổi quốc ca. Đã có một đợt sáng tác của nhiều nhạc sỹ trong nước với tâm hồn và trí tuệ yêu nước. Kết quả là đã có hàng loạt những bài quốc ca được ra đời, để cho đảng cộng sản lựa chọn. Nhưng hỡi ôi! Tất cả công lao của các nhạc sỹ đã tan thành mây khói. Vì không đạt được tiêu chí của đảng cộng sản đề ra. Đó là: khẳng định sức mạnh cách mạng (bạo lực cách mạng) Và sự cầm quyền bất diệt của đảng cộng sản (điều 4 hiến pháp). Nên tất cả những tâm hồn và trí tuệ của các nghệ sĩ đã phải vào nghỉ ngơi trong... sọt rác! Và bài cuốc ca thì vẫn cứ được vang lên! Như vậy - chúng ta có thể khẳng định rằng: Chừng nào đảng cộng sản còn độc quyền, còn tồn tại. Thì bài quốc ca "tiến quân ca" đó và lá cờ máu sẽ luôn song hành! Chỉ khi nào lá cờ đó bị hạ xuống, thì bài quốc ca mới chịu im lặng!

                        Ngày 15/03/1942 đại hội Sinh Viên Toàn Quốc, tổ chức tại Hà Nội ban tổ chức đã lấy bản "Hành Khúc Sinh Viên" làm nhạc hiệu và sử dụng. Bởi tiết tấu âm nhạc mạnh mẽ trong sáng, và cuốn hút. 

                        Ngày 20/07/1954 Hiệp Định Genève về Việt Nam được ký kết. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ra đời, dưới sự giám sát của lực lượng làm nhiệm vụ quốc tế trực tiếp là Pháp và Mỹ. Cùng với sự xuất hiện của lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, thì đồng thời bản nhạc "Hành Khúc Sinh Viên" cũng được chọn làm quốc ca với phần lời được viết thêm lời 3. Với những ca từ trong sáng thiết thực, sâu sắc, ý nghĩa. Được mở đầu bằng: "Này công dân ơi..." và kết thúc bằng: "... Con cháu Lạc Hồng". [tôi xin đính kèm theo bài viết này bản nhạc đó để những ai chưa nghe, chưa biết về bài quốc ca này (chủ yếu là đồng bào Miền Bắc). 

                        Có sự so sánh với bài quốc ca "Tiến quân ca" hiện nay mà nhà nước cộng sản Việt Nam đang sử dụng]. Qua lời ca sâu sắc, xúc động, của bài quốc ca Việt Nam Cộng Hòa gắn liền với lá cờ Vàng ba sọc đỏ. Và nếu hiệp định Genève không bị đảng cộng sản Việt Nam vi phạm (Bằng cớ là họ đã lập đường dây năm 1959 đưa bộ đội thâm nhập trái phép vào Miền Nam đánh du kích - Ngày nay gọi là khủng bố. Và trước đó vào cuối năm 1957 họ đã lập ra chiến khu Đ tập trung lực lượng quân sự tấn công quân đội Việt Nam Cộng Hòa). Và nếu cuộc Tổng Tuyển Cử vào tháng 07/1956 được cộng sản Miền Bắc tuân thủ thực hiện. Thì đương nhiên nhìn từ góc độ khoa học xã hội, rõ ràng lá cờ Vàng ba sọc đỏ, và bài quốc ca đi cùng sẽ chiếm ưu thế chiến thắng tuyệt đối so với lá cờ Đỏ sao vàng. Bởi phiếu bầu của nhân dân cả nước. 

                        Ngày nay tại hải ngoại quốc ca Việt Nam Cộng Hòa và lá cờ Vàng ba sọc đỏ của Việt Nam vẫn được quốc tế công nhận và tôn trọng. Nó là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân dân Việt Nam. Một mai khi đất nước ta chuyển mình sang chế độ Đa Nguyên Đa Đảng. Đảng cộng sản không còn, hoặc không còn nắm quyền. Thì đương nhiên lá cờ Vàng và bài quốc ca đi cùng - Lại là ứng cử viên Số Một, bởi sự lựa chọn của hơn 80 triệu người dân Việt Nam. Trong một cuộc Tổng Tuyển Cử hoàn toàn mở và tinh thần tự do dân chủ thượng tôn. 

                        Như vậy có thể nói! Từ việc so sánh giữa hai bài quốc ca và ý nghĩa của hai lá cờ. Ta thấy rõ đâu là chính nghĩa và đâu là sự hung tàn... 

                        Chúng ta hoàn toàn có thể hiểu được vì sao nhân dân ta lại không có may mắn như hai miền Nam - Bắc Triều Tiên, hoặc là Đông - Tây nước Đức. Họ đã tránh được hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn cảnh "Nồi da nấu thịt", "Huynh đệ tương tàn" của Việt Nam. Chỉ vì bị cộng sản Việt Nam kích động vào lòng tự hào dân tộc, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Miền Bắc và một số đồng bào Miền Nam, để phục vụ mưu đồ đen tối của một nhóm người. Cả dân tộc ta đã lao vào một cuộc "Tự sát tập thể", để rồi ngày nay cộng sản lại quay đầu lại thống trị, đàn áp chúng ta - Những người đã từng nuôi chúng, từng hy sinh thân mình để bảo vệ chúng!!! 

                        ... Nhân dân Việt Nam đã bị đem ra làm vật hiến thân cho triết lý bạo tàn của cộng sản. triết lý "Dùng bạo lực" thật vô nhân và vô nghĩa. Nó cần được thay đổi bằng một triết lý khác. Bởi trong quá trình đi lên của xã hội loài người thì sự đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, sự tiến bộ và sự lạc hậu là lẽ bình thường luôn phải có. 

                        Dưới lá quốc kỳ của một nước được tung bay. phần âm nhạc của bài quốc ca trong sáng, hùng tráng luôn làm cho người nghe, người hát phấn chấn. Nó cũng mang tính giáo dục và là nguồn động viên, nhắc nhở người nghe ý thức về lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình yêu thương. Nó thật bổ ích cho mọi người trong giờ chào cờ trang nghiêm để đón chào ngày mới!

                        Trớ trêu thay! Một nước Việt Nam với nòi giống con Lạc cháu Hồng. Thế giới cũng phải khâm phục về sự dũng cảm và trí tuệ. lại đang phải nhìn lá cờ tượng trưng cho bạo lực. Phải nghe một bài quốc ca phản cảm! Đó cũng là nỗi khổ về tinh thần, bên cạnh bao nỗi thống khổ khác mà nhân dân ta đang phải gánh chịu. Đó là hậu quả năng nề của học thuyết cộng sản! 

                        * Lê Nguyên Hồng
                        (Trích Phương Đong News)
                         
                         
                        #87
                          dzuylynh 20.04.2013 03:41:24 (permalink)
                          0
                                                                                                                     
                            cháu TL đã ghé GDPT & đi bài chủ đề hay quá ! 

                                             

                          * * *


                           
                          NGƯỜI CON GÁI TRÊN ĐƯỜNG BOLSA
                           thơ Trần trung Đạo | nhạc & trình bày dzuylynh

                          Người con gái đứng trên đường Bolsa
                          Sao em chưa về trời sắp tối ?
                          Em đứng đây từ khi đêm chưa sáng
                          Lá cờ vàng cầm chặt trong tay

                          Người con gái Việt Nam từ khổ nhục sinh ra
                          Trên đất nước hận thù bao thế kỷ
                          Em khôn lớn dù giữa lòng đất Mỹ
                          Vẫn không quên mình da thịt Việt Nam

                          Nền cờ vàng là dải giang san
                          Ba gạch đỏ nối ba miền chung thủy
                          Là Hoàng Liên Sơn, Trường Sơn, Thất Sơn hùng vĩ
                          Là sông Hồng, sông Cửu, sông Hương

                          Hãy cầm chặt nghe em, như cha giữ biên cương
                          Như thuở mẹ ôm em như lòng biển cả
                          Như ông nội chết để giữ yên mồ mả
                          Như bao người ngã xuống giữ quê hương

                          Em vẫn ngồi đây dù mưa ướt đêm sương
                          Đã lâu lắm chưa bao giờ được thế
                          Những chị, những anh, cụ già, em bé
                          Cùng cất cao bài hát tự do

                          Người con gái đứng trên đường Bolsa
                          Như đang đứng giữa Sài Gòn chiến thắng
                          Hãy giữ lấy niềm tin, trời Việt Nam sẽ sáng
                          Bốn ngàn năm lịch sử vẫn còn đây.
                           

                          Trần Trung Ðạo
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2013 17:21:10 bởi dzuylynh >
                          #88
                            dohop 20.04.2013 10:29:02 (permalink)
                            0
                            Phần đầu xin xem
                            Chuyện Ma trong Siêu Thị Chú Sèng 
                            http://diendan.vnthuquan.net/fb.ashx?m=678185

                            Tiếp theo Chuyện Ma trong Siêu Thị Chú Sèng 
                             
                            Miền Nam được giải phóng, đất nước thanh bình coi vậy mà việc đi lại tới thôn quê bắt đầu khó khăn hơn.  Từ tỉnh xuống tới quê có bao xa đâu mà tui đếm không nổi có bao nhiêu trạm xét. Mang cái gì trong người cũng có thể bị “lập biên bản” và bị tịch thu; nói cách khác là món đồ đó được “địa phương quản lí!”  Tui ít đi xe đò về quê nên lúc nào xe tới gần trạm soát tui cũng được mấy chị, mấy cô bác gởi một lon sữa hay một ký bột, ký đường để giữ giùm để khỏi bị tịch thu ở trạm kiểm soát. Tui may mắn nên chưa bị bắt bao giờ. Nhìn thấy đồng bào bị tịch thu gói bột, bịch gạo, bịch đường mà tui não lòng. Một lần tui thấy một bà già gởi một lon sửa cho một chú bộ đội giử giùm để rồi chú ta giử luôn, không chịu trả lại. 
                             
                            Sau cái màn khám xét tịch thu, tui luôn chứng kiến một cảnh hết sức đau buồn và thô bỉ: các “thanh tra” vác súng nghênh ngang đi trước trở về trạm soát, theo sau là một bầy thiếu niên, thiếu nhi dơ bẩn mặt mày hung tợn khiêng và lôi sền sệt những “chiến lợi phẩm” mà các “thanh tra” đã tịch thu từ những đồng bào “đi buôn lậu!” Nhưng mà cảnh này dần dần đã quá quen thuộc, như là một phần của bộ mặt của chế độ mới.
                             
                            Chiếc xe đò cũ kỷ, chật hẹp hơn vì người ta nhét thêm ghế ngồi, dơ dáy hơn vì không ai than phiền và chạy chậm hơn trước giải phóng ít nhứt năm lần vì ngừng quá nhiều lần vì trạm kiểm soát và xe bị hư máy, lốp xe cần bơm, xe cần đổ thêm xăng vì nhà nước hạn chế, cuối cùng cũng tới vùng quê nơi tui thường nghỉ hè. Tới nơi lúc nào trời cũng tối thui làm tui sợ muốn chết. Từ ngày “hòa bình”, bao nhiêu chuyện ma đã được tung ra và lan truyền tới tỉnh. Ma là cô gái đẹp ngồi kế bên bạn trên xe đò và thường làm cho bạn ớn lạnh tới xương sống – khuôn mặt đẹp của cô gái có lúc tự nhiên đầy máu me, rồi cô ta biến mất trước mặt mọi người. Ma là chú bộ đội trên xe, chú giở nón cối ra là máu me và óc đổ xuống. Chuyện rùng rợn hay mắc cười nhứt mà tui nghe được là một hôm, bác tài vừa lái xe vừa kể chuyện tin đồn có ma bộ đội đội cho một đồng chí bộ đội ngồi kế bên nghe chơi thì chú ta nói “con ma đó có giống tôi không?” và chú giở nón cối ra, và… bác tài hoảng quá làm xe đò lao luôn vô bờ ruộng.
                             
                            Nhưng rồi tui thấy là miền quê của tui không còn giống như mấy năm trước nữa. Nhà con Dịt Xù đã được địa phương “quản lí”. Tui không gặp lại được thằng Cu Bự, không gặp được chú Sèng. Tui gặp được thằng Mót, nó kể là “nhà con Dịt Xù đã bị bắt hổng bao lâu sau giải phóng”, nghe đâu đã bị ép đi vùng kinh tế mới. Chú Sèng thì bị đánh tư sản hay bị bắt vì tội “đầu cơ tích trử” gì đó, vì có nhiều đồ giống nhau trong siêu thị, như vậy là “lủng đoạn thị trường”. Cán bộ còn nói chú Sèng là CIA bởi vì có người tố cáo chú Sèng biết nói dăm ba tiếng Mỹ. Hôm đó thằng Cư (mà tụi tui hay gọi là thằng Cu Bự) cũng ở siêu thị, thấy chú Sèng bị cán bộ đánh đập và tịch thu tài sản, nó xông tới bảo vệ chú Sèng và nói gì đó làm xúc phạm cán bộ nên bị ăn mấy báng súng AK-47 vô đầu, thằng nhỏ lớn con như vậy mà bị thương nặng rồi ngủm, rồi hết nhà nó cũng bị bắt đi kinh tế mới luôn.
                             
                            Duy nhứt có một thằng bổng nhiên trở nên khá hơn, đó là thằng Tửng. Thì ra ba nó là cán bộ VC chứ hổng phải là ông Đực Khùng, ông điên ở bến xe ở tỉnh, như mấy đứa nhỏ hay đồn. Việc này trước đây thằng Cu Bự có kể tui nghe và theo nó thì trong vùng ai cũng biết nhưng không ai nói gì hết vì ai cũng tội nghiệp cho hoàn cảnh đơn chiếc của má thằng Tửng. Thằng Mót nói bây giờ thằng Tửng phách lối lắm, còn nhỏ mà hay mặc đồ bộ đội và đeo súng lục khi có họp khu tổ hay phường ấp gì đó. Và vì vậy tui không muốn kiếm thằng Tửng làm gì nữa.
                             
                            Nói chung, tui không thể tìm lại được khoảng thời gian hồn nhiên của tụi tui tại miền quê này nữa. Thằng Mót cũng khuyên tui ăn nói cẩn thận, không nên tin ai vì ai cũng có thể bị méc với phường ấp để rồi gặp chuyện không hay giống như chú Sèng hay nhà con Dịt Xù.

                            Những năm kế tiếp, thời gian nghỉ hè tại miền quê của tui bị thay thế bởi lao động “tình nguyện” tại địa phương, như đi dọn rác, đi lượm giấy, bao bịch và sắt vụn theo “kế hoạch nhỏ”, đào mương, đắp đê, làm “thủy lợi”, v.v., bởi vì “lao động là vinh quang.” Cũng may là tui đào bới nhiều nhưng chưa đụng tới lựu đạn nổ banh thây như một đứa hàng xóm. Sau mấy lần đổi tiền, chính quyền địa phương biết quá rõ là nhà tui không có nhiều tiền để làm chuyện gì lớn nên nhà tui hổng bị đánh tư sản. Tuy vậy, tui có mấy ông anh lính ngụy nên không được phép học hành đàng hoàng. Không được học, không có việc làm, tui không biết tương lai của tui đi về đâu, những việc không hay xảy ra hàng ngày làm cha mẹ tui và tui kiệt lực, kiệt trí. Trong lúc túng quẩn, tui nghỉ đến chuyện vượt biển tìm tự do và năn nỉ ba má tui cho tui kiếm đường đi. Tội nghiệp ba má tui quá, mấy thằng con trai lính đang cải tạo múc mùa lệ thủy không biết ở đâu, con gái cũng bị bắt đi thanh niên xung phong, và bây giờ chỉ còn một thằng con trai ở nhà mà cũng không giữ nó được, không biết rồi thì “con nuôi má”, “má nuôi con”, hay là “con nuôi cá!”


                            Sau một tuần lễ lênh đênh trên biển, con tàu nhỏ 8 mét của tụi tui đã được một tàu dàn khoan vớt rồi đưa vô đảo Pulau Bidong. Tuy có thiếu thốn về lương thực, quần áo, tui đã tìm lại được tình người và sự lạc quan cho tương lai của tui ở nơi đất lạ.
                             
                            Một ngày đẹp trời, tui thấy một bóng dáng quen thuộc ở bãi biển Bidong – đúng là con Dịt Xù. Con bé vẫn đẹp, tuy có đen hơn và ốm đi. Bây giờ con bé có mái tóc thiệt dài nhưng tui vẫn nhận ra. Tuy vậy, tui không dám chạy tới nhận “họ hàng” liền, tui phải hỏi mấy người trước khi “bắt quàng làm họ!”  Người ta cho tui biết cô gái đó không có thân nhân và tên là Nguyệt – cái tên mà năm xưa tui không biết là nó có nghĩa là “Dịt”, và nhờ vậy, tui mới mạnh dạn gặp con bé bắt chuyện, kêu cô ta là “Hằng”.
                             
                            Con Dịt Xù nhận ra tui ngay và nói là “Tuấn không thay đổi, vẫn trắng trẻo, đẹp trai, chỉ ốm và cao hơn thôi!” Và cổ muốn tui kêu cổ với cái tên mà cổ yêu thích nhứt, là “Nguyệt”. Nguyệt đỏ mặt  khi cho tui biết cổ có cái tên “Dịt” vì hồi nhỏ hơi “khó nuôi”, còn cái tên “Hằng” là chỉ để tránh cái tên “Dịt Xù” thôi, và vượt biên rồi thì cô ta trở lại cái tên Nguyệt, cũng là tên trong khai sanh của cổ.
                             
                            Nguyệt kể cho tui nghe chuyện buồn của gia đình khi bị đuổi đi kinh tế mới, cùng với sự suy sụp của gia đình của nhiều đứa trong làng sau khi ba của tụi nó bị bắt đi cải tạo và gia đình bị ép đi kinh tế mới, và tui biết rõ thêm về cái chết của thằng Cư (thằng Cu Bự). Tội nghiệp thằng Cư, chỉ vì bênh vực chú Sèng và nói câu gì đó “phản động” nên bị chết oan, khi tuổi vẫn còn thiếu niên.
                             
                            Tui rất ngạc nhiên khi Nguyệt hỏi tui muốn gặp thẳng Tửng không? Thằng Tửng cũng ở trong trại. Té ra là thằng Tửng cuối cùng cũng được má nó cho vượt biên. Sống với ông chồng, người cha cách mạng một thời gian thì hình như là cả ba người đều sáng mắt ra. Một hôm hai vợ chồng ba má thằng Tửng cãi lộn om xòm, ba thằng Tửng cầm súng quơ qua quơ lại thấy ghê lắm, có công an, cán bộ tới can. Sau chuyện đó, hai mẹ con nó bỏ đi khỏi nhà, và sau đó, hai mẹ con đi vượt biên.


                            Thằng Tửng nói là ba má nó chỉ đóng kịch thôi, khi ổng bả hình dung ra được tương lai đen tối của thằng Tửng. Ba nó đã tập kết ra Bắc nên rành 6 câu vọng cổ chuyện gì sẽ xảy ra cho miền Nam, cho giới trẻ. Bây giờ ba nó còn kẹt ở quê, chắc phải tiếp tục đóng kịch để được yên thân lãnh lương cán bộ. Có thể ổng phải giả bộ điên điên khùng khùng như ông Đực Khùng ở bến xe ở tỉnh và hoàn cảnh của ổng tội lắm. Coi vậy mà lời người ta nói hôm xưa linh thiêng: “thằng Tửng là con của cái ông điên ở bến xe”.
                             
                            Bên đảo, tui và Nguyệt đều không có bà con thân thuộc và nhờ biết nhau hồi nhỏ, tụi tui dễ thân nhau và nảy sanh tình cảm. Tui không ngờ sẽ có một ngày tui có đủ “can đảm” để hỏi "con Dịt Xù" về cái tên “Dịt Xù” – “Dịt” là “Nguyệt” âm tiếng Tàu, còn “Xù là cái gì dzậy?”

                            Tui tìm lại được chút hồn nhiên của tuổi thơ của tui ngày xưa khi thấy lại được nét mặt mắc cở của con Dịt Xù của ngày nào, những ngày mà tui thiệt sự... chưa biết gì. Cô nàng cũng nhứt định không chịu nói. Bởi vậy, tui mới nói  “… nghe ai đó nói… có người… ngủ quên trên võng!”
                             
                            “Tuấn biết chuyện đó sao?” Cô nàng bẽn lẽn.
                            “Ờ, Tuấn chỉ biết dzậy thui chứ đâu có biết “xù” là gì!”
                            “Tuấn ngu quá!” Cô nàng đét vô mông tui một cái. “Chừng nào Tuấn... cưới Nguyệt rồi, Nguyệt mới nói! Nhưng mà hổng chừng đêm tân hôn là Tuấn biết rùi, hổng cần hỏi nữa đâu!”
                             
                             
                            Dù Pulau Bidong có kham khổ, có thiếu thốn về vật chất, Bidong nóng bức và đầy ánh nắng chói chan, tui đã tìm được sự ấm áp trong lòng và tui sẽ không bao giờ quên được ánh mắt long lanh, đôi má nóng đỏ thiệt đẹp, và, trên làn da bánh mật ngọt ngào, cặp chân mày thiệt đậm, bố trí hết sức ngộ nghĩnh và dễ thương của nhà tui trong giây phút đó!”
                             
                            dohop, Nam Bán Cầu, tháng 4 năm 2013
                             


                            (ảnh Internet)
                             
                             
                             
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2013 10:54:48 bởi dohop >
                            Attached Image(s)
                            #89
                              dzuylynh 21.04.2013 03:31:37 (permalink)
                              0
                               
                              TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO LỊCH SỬ
                               
                               
                              Hồ Chí Minh là Tàu Ô
                               
                              Kính chuyển :
                                   *Câu chuyện tên Hồ Chí Minh “thật” đã chết từ năm 1932 nay lại được xác nhận thêm một lần nữa. Rõ ràng xác chết của tên Hồ Chí Minh đang nằm tại lăng Hồ Chí Minh kia là một thằng Chệt được Tình báo TC cài vào Đảng CSVN… là chuyện có thật 100%. CS Hànội đã biết từ lâu nhưng không dám công bố vì sợ bẽ mặt, xấu hổ nhục nhã bị đàn anh lừa, cho nên chúng đành phải giấu nhẹm. Điều nầy cũng dễ hiểu. Bởi một khi mà quần chúng VN --kể cả các đảng viên CS—trong nước biết rằng “Bác Hồ” vĩ đại của họ chính là một thằng Tàu phù xì dầu Hán Chệt… thì hỡi ơi, còn gì là cái hào quang bịp bợm của “đảng ta” nữa !!!???
                                   *Mặt khác, nhiều bạn có thân nhân ở Hànội cho biết, cái xác chết Hồ Chí Minh đang nằm tại Lăng Ba Đình kia cũng không phải là xác thật mà là đồ giả. Lúc đầu, cái xác của tên  HCM “giả” do các chuyên viên Liên Xô phụ trách “ướp” và “bảo trì” thường xuyên theo định kỳ. Cứ tới định kỳ thì chuyên viên Nga lại bay tới Hànội lo săn sóc cái xác. Nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ, CS Hànội quay sang thần phục Tàu, thì nước Nga mới không chịu cung cấp người bảo trì nữa. Xác Hồ Chí Minh sau đó ít lâu bị sình thúi. CS Hànội lấy cớ đóng cửa lăng một thời gian để tu bổ. Nhưng sự thực chúng đem xác HCM “giả” đi chôn ở một nơi bí mật, và làm một cái xác “giả” khác đem trưng bày như cũ… không biết bằng vật liệu gì đó để tiếp tục BỊP ?!
                                   Thật là vẻ vang thay cho tập đoàn CS Hànội bán nước !!!
                                   *Bây giờ là thời điểm của SỰ THẬT đã đến. Chúng tôi ghi nhận việc Quốc Hội CS Hànội đang bàn chuyện sửa đổi Hiến pháp. Nhưng trước hết, yêu cầu Quốc Hội nầy hãy công bố SỰ THẬT về cái xác của Hồ Chí Minh. Hãy dẹp quách cái Lăng Hồ Chí Minh đi… để đánh dấu bước khởi đầu cho một cuộc cách mạng “không đổ máu” tại Việtnam. Mong lắm thay !
                                   GÓP GIÓ Mùng Một Tết Quý Tỵ 2013.
                               
                              ***
                               
                              Bùi Tín 
                              05.02.2013
                               
                              Gần đây trên một số mạng tự do ở Việt Nam có truyền đi tin tức, các đoạn trích dịch và một số bài bình luận về một cuốn sách chữ Hán nghiên cứu về cuộc đời của Hồ Chí Minh xuất bản tại Hoa Nam, Trung Quốc, có nhan đề là “Hồ Chí Minh sinh bình khảo‘’.   Mục đích cuốn sách là chứng minh ông Nguyễn Ái Quốc, sanh vào khoảng năm 1890 ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, mang tên khai sinh là Nguyễn Sinh Coong, sau đổi là Nguyễn Tất Thành, xuất dương năm 1910 sang Anh, Pháp, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, sau đó sang Nga, Trung Hoa, hoạt động trong phong trào Cộng sản, đã chết vào năm 1932 vì bệnh lao phổi. Thi hài ông được chôn đâu đó ở Hoa Nam.   Về sau có người tự nhận là Nguyễn Ái Quốc rồi lấy tên là Hồ Chí Minh, xuất hiện từ sau năm 1934, thật ra là một người Trung Hoa chính cống, thuộc dân tộc Miêu ở Đài Loan, có tên là Hồ Tập Chương.   Theo báo chí Hoa Nam đây là một thành tích “lịch sử, kỳ diệu, có một không hai” của Cục tình báo Hoa Nam. Nhà tình báo thiên tài Hồ Tập Chương đã đóng trọn vẹn vai trò đội lốt Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh , kể từ khi về hang Pác Bó, rồi dự hội nghị Tân Trào tháng 8/1945, rồi về Hà Nội sau đó, làm Chủ tịch đảng, Chủ tịch Nước suốt 24 năm - từ 1945 đến 1969 - mà sự thật này không hề bị tiết lộ.   Cuốn sách cũng khẳng định trong lăng Hồ Chí Minh là xác của nhà tình báo Trung Hoa Hồ Tập Chương. Báo chí Trung Quốc khoe cuốn sách này là trước tác chân thực của học giả có tên tuổi Hồ Tuấn Hùng, cháu họ của nhà tình báo Hồ Tập Chương. Sách in đẹp, công phu, rất nhiều ảnh và tư liệu, được phát hành rộng rãi khắp Trung Quốc.   Điều rất lạ, lạ đến kỳ quặc là người Việt trong nước xôn xao về cuốn sách giật gân này hơn một năm nay, nhưng cả Bộ Chính trị im re, cả bộ máy tuyên huấn câm như hến, cả bộ máy 4T thông tin tuyên truyền ngậm tăm, bộ máy an ninh đồ sộ đang bận lo đàn áp người yêu nước, coi đây là chuyện vặt.   Mưu đồ bôi xấu chế độ nham hiểm là đây, tuyên truyền chống chế độ là đây chứ còn ở đâu nữa. Xin hỏi ai có thể xúc phạm đảng Cộng sản Việt Nam, chính quyền Việt Nam hơn cuốn sách nhảm nhí đến tột cùng này? Trong Bộ Chính trị có ai cảm thấy nhục không khi họ in trên giấy trắng mực đen rêu rao khắp nơi rằng người từng là lãnh tụ cao nhất của đảng Cộng sản, của chính phủ Việt Nam trong suốt 24 năm trời hóa ra chỉ là một anh Tàu vô danh tiểu tốt mang tên Hồ Tập Chương của hòn đảo nhỏ Đài Loan của họ? Và trong cái lăng đồ sộ giữa thủ đô Hà Nội là cái xác giả Hồ Chí Minh, thật ra là xác một anh Tàu, vậy mà kỳ lễ lớn nào, kỳ họp Quốc hội nào những tai to mặt lớn của Hà Nội cũng phải đến cúi rạp người, lại nuôi cả một đội quân để bảo vệ và ra oai.   Đây là sự bịa đặt khổng lồ trong quan hệ giữa cấp quốc gia với quốc gia, vậy mà người phát ngôn bộ ngoại giao Lương Thanh Nghị vẫn im thin thít. Danh dự quốc gia, quốc thể là đây. Rõ thật là “khôn nhà dại chợ“.   Cũng là điều đáng tiếc khi một số mạng tự do đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền vẫn liên tiếp đăng những đọan dài kèm theo nhiều ảnh từ cuốn ‘’Hồ Chí Minh sinh bình khảo’’, với lời giới thiệu của nhà báo Huỳnh Tâm và dịch giả Thái Văn. Lẽ ra khi giới thiệu cuốn sách ban biên tập của các mạng ấy nên nói rõ quan điểm tỉnh táo của mình để hướng dẫn công luận. Vậy mà không một lời bình luận, phê phán. Hay là vẫn có người tin rằng trong thế giới ngày nay, khoa học tiên tiến có thể tạo và luyện nên những con người tình báo siêu phàm, giả giống y như thật - còn hơn thật - đến mức chị ruột và anh ruột ông Hồ là bà Thanh và ông Cả Khiêm cũng bị lầm, và tất cả cơ quan tình báo sắc sảo của Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật, Việt…cũng chỉ là gà mờ hết, bị cơ quan tình báo Hoa Nam cho ăn quả lừa ngoạn mục.
                               
                              * Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
                              Bùi Tín
                               
                               
                               
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.04.2013 17:29:28 bởi dzuylynh >
                              #90
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 58 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 867 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9