CHIẾC XE KÉO Tạp bút của Tạ Hữu Đỉnh
Phương tiện vận tải của con người cổ nhất là các loài động vật, như trâu bò, lừa ngựa, và chiếc võng, chiếc kiệu. Ngày xửa ngày xưa, các quan lại, và những người giầu có, quyền quý, mỗi khi đi ra khỏi nhà, họ thường dùng võng. Chủ nằm lên võng, cho hai tên đày tớ khoẻ mạnh vừa khênh, vừa chạy. Võng quan đi thì còn có một thằng hầu, vừa bê tráp, vừa xách điếu chạy theo sau.
“…Tưng bừng vua mở khoa thi
Anh đỗ quan trạng vinh quy về làng
Võng anh đi trước võng nàng
Cả hai chiếc võng cùng sang một đò…”
(“Giấc mơ anh lái đò” - Nguyễn Bính). Và chắc là do cái hình thức dịch chuyển đó, mà dân ta có câu thành ngữ: “Ai biết quan đái lúc nào mà hạ võng!”.
Rồi sau mới phát minh ra xe kéo. Loại phương tiện vận tải cổ lỗ thứ hai này. Do người kéo, chứ không phải là ngựa hay trâu bò kéo. Còn được gọi là xe tay. Vì người phu xe, cầm hai càng xe chạy ở dưới đất, kéo người ngồi ở trên xe đi. Có lẽ chữ “tay” nghe có vẻ nhẹ nhàng hơn chữ “kéo”, cho nên được dùng thay thế chăng?
Nhưng loại xe này đã bị thị trường đào thải hơn nửa thế kỷ nay rồi. Cho nên có thể một số bạn trẻ chưa được trông thấy. Nó rất giỗng chiếc xe xịch lô, nhưng chỉ có hai bánh ở hai bên hông xe, và hai cái “càng” ở đằng trước chứ không có cái bánh thứ ba ở đằng sau xe như xích lô.
Chẳng biết do ai phát minh ra, và phát từ bao giờ? Hay du nhập từ nước ngoài về? Nhưng quả thực phát minh đó rất xứng đáng được nhận giải thưởng. Tỉ như giải “Sao vàng đất Việt” chẳng hạn.
Về mặt đẳng cấp xã hội, và sự vất vả, cực nhọc của người phu võng và phu xe, thì phát minh đó chẳng cải thiện được gì, vẫn y như nhau. Nhưng về mặt hiệu quả vận tải thì xe kéo đã hơn hẳn võng. Vì xe chỉ cần một người kéo, mà lại chở được những hai người, và cả hành lý của họ nữa. Không những thế, do phát minh ra xe kéo, mà xã hội lại có thêm một nghề mới. Người giầu bỏ tiền ra “đầu tư”, mua xe về cho người nghèo thuê. Người không có tiền mua xe, cũng thuê được xe để làm kế sinh nhai. Và do đó xe kéo được xã hội hoá, trở thành phương tiện đi lại của tất cả khách bộ hành, chứ xe không còn là phương tiện độc quyền của các quan lại, và nhà giầu nữa.
Làng tôi ở xa đường quốc lộ, nên mãi đến năm hơn mười tuổi, được ra thành phố, lần đầu tiên tôi mới được trông thấy chiếc xe kéơ. Mà không chỉ được trông thấy thôi đâu, còn được ngồi lên xe nữa kia. Đường xa, đang cuốc bộ, mỏi đến cuồng cả chân. Bỗng được ngồi lên tấm đệm lò xo êm như ru, mà trôi đi nhẹ tênh như nước chẩy xuôi dòng, thì ai mà chả thích? Còn thích hơn cả năm còn đang học vỡ lòng, những hôm trời mưa, đường trơn, được bố cõng đến lớp. Kể cả những lúc được ngồi lên lưng con trâu mộng đen cườm, vừa thủng thỉnh bước đi, vừa sần sật gặm cỏ ở ngoài đồng, thì cũng chẳng thích bằng. Nhưng rồi sự thích thú ấy cũng chỉ thoáng chốc thôi. Đúng như các bậc tiền nhân đã dậy: “Nhân chi sơ tính bản thiện”. Khi nhìn ra trước mặt thấy người phu xe má hóp, ria mép, râu cằm lún phún, y như bố mình, hai tay nắm chặt hai càng xe, vừa gò lưng kéo, vừa chạy, hai ống chân co duỗi, hai bàn chân trần to bè, tới tấp đạp lên mặt đường rịch rịch. Thì cái cảm giác thích thú kia đã vội vàng biến mất. Và thay vào đó là sự ngượng ngập, bứt rứt khôn nguôi. Vừa thương cho người, vừa ngượng cho mình !
Ngày xưa khi viết cái truyện “:Ngựa người và người ngựa”, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã gọi người phu xe là “con ngựa người”. Thật là chí lý! Con ngựa kéo xe để chủ cho ăn cỏ, ăn thóc. Con người cũng kéo xe, để kiếm miếng cơm manh áo, có khác gì nhau đâu ?
Rồi về sau, theo quy luật phát triển của xã hội, các nhà sáng chế ra sức phát minh, và ngành công nghiệp cơ khí, càng ngày càng cho ra thị trường nhiều loại xe cơ giới văn minh hơn. tiện ích hơn. Không có khả năng cạnh tranh, chiếc xe và nghề kéo xe lụi tàn dần. Nhất là từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cái kiếp nô lệ của người dân nước Việt đã được trút bỏ. Mặc dù nhiều người còn rất nghèo, nhưng cũng không còn ai cam tâm đem thân đi làm cái nghề “người ngựa” nữa. Mà nếu còn, thì chắc rằng cũng không ai đang tâm ngồi lên xe, để cho người đồng bào của mình chạy ở dưới đất kéo đi nữa Và cho đến hôm nay, nếu bảo con cháu của những người phu xe ngày xưa, nay đã trở thành các “anh tài” lái ôtô, lái tầu thuỷ, lái xe tăng, thậm chí cả lái máy bay nữa. Thì cũng không sợ mang tiếng là kẻ lộng ngôn, ngoa ngữ.
Thế là từ đấy chiếc xe kéo đã hoàn toàn và vĩnh viễn biến mất trên thị trường nước ta.
Nhưng thật không ngờ…
Đến thời kháng chiến chông Pháp. Năm 1948, cơ quan cho tôi vào thị xã Hồng Gai hoạt động bí mật. Bất ngờ tôi lại trông thấy chiếc xe kéo. Đó là chiếc xe độc nhất vô nhị ở cả thị xã, mà cũng có thể là ở cả nước ta. Chủ sở hữu chiếc xe đó là tên Ray, Chánh mật thám Sở than Bắc Kỳ, một tên sen đầm khét tiếng độc ác ở Khu mỏ. Ngày Nhật đảo chính Pháp, y đã nhanh chân chạy thoát. Rồi sau y theo chân quân Pháp trở lại đánh chiếm Khu mỏ, và y lại tiếp tục ngồi vào chiếc ghế cũ.
Vể tên thực dân cáo già này, tôi đã có dịp viết tương đối kỹ trong tập tiểu thuyết “Một thời giông bão” (sách đã ra mất bạn đọc năm 2005). Ở đây chỉ xin nói thêm về cái thói hợm hĩnh, ngạo đời của một tên thực dân. Y có thừa tiền để mua ôtô, và cũng có thừa tiêu chuẩn để dùng một chiếc ôtô vào loại sang trọng của Sở than cung cấp. Nhưng y không thèm dùng ôtô, mà kiếm ở đâu được một chiếc xe kéo, và nuôi một lão người Việt, tên là Đăng, tuổi trạc trên năm, dưới sáu mươi, còn khoẻ mạnh làm phu kéo xe. Và hằng ngày “con ngựa sắp gìa” ấy lẽo đẽo kéo con cáo già mật thám đến Sở., Hai tay cầm hai càng xe, lão Đăng chỉ hơi nhổm mông, lạch bạch chạy những bước thật ngắn như con vịt bầu. Vì chủ của lão không cần đi nhanh. Nếu cần nhanh thì chủ đã đi ôtô. “Bản chức” dùng xe kéo là để ngầm bảo cho bọn Việt Minh ở bản xứ biết rằng, người Pháp đã thắng. Mà kẻ thắng thì bao giờ chả có quyền bắt kẻ thua phải làm nô lệ, làm trâu, làm ngựa y như ngày xưa!
Nhưng rồi sau đó chẳng bao lâu, cả thế giới đêu biết, chiếc tầu “Há mồm” cuôí cùng, đã chở nhưng tên lính Pháp xâm lược cuối cùng, rời bến cảng Hồng Gai, ngày 24 - 4 – 1955, cút về nước.
Người Pháp rất chuộng cổ vật. Dù muốn, chắc tên Ray cũng không thể đưa chiếc xe kéo của y về Pháp để làm vật kỷ niệm được. Rất có thể y đã đem chiếc xe đó thưởng công cho lão Đăng, để lão kiếm mấy đồng tiền bán sắt vụn!
*
* *
Từ đó, dần dần hình bóng chiêc xe kéo đã không còn dấu vết gì ở trong tâm trí tôi nữa. Ây vậy mà sự bất ngờ lại xẩy ra. Mới đây thôi. Tôi đang lướt qua các kênh truyền hình, xem có chương trình gì xem được không? Thì bất chợt lại trông thấy chiếc xe kéo. Nhưng không phải là ở Việt Nam, mà ở Ấn Độ. Hình ảnh đó ở cuốn băng hình, của Hãng phim thời sự thành phố Hồ Chí Minh. Hình như băng được quay ở thành phố Đu Bai (tôi không nhớ rõ tên). Ngồi trên xe là một thiếu phụ khá xinh đẹp, ăn vận sang trọng. Ngồi bên cạnh là một chú bé khoảng sáu, bẩy tuổi, béo tốt, đẹp đẽ. Ngươì phu xe cao lớn, lực lưỡng, đầu trần, quần lửng, áo cộc tay, kéo chiếc xe gọng đồng sáng choé, nhấp nhô chạy dưới lòng đường, dầy đặc đủ các loại xe cộ. Nhiều nhất là xe ôtô, nườm nượp nối đuôi nhau.
Thật lạ lùng! Một đất nước cổ kính, có nền văn hoá, văn minh rực rỡ lâu đời, và sớm phát triển vào hàng nhất nhì thế giới. Vậy mà bây giờ vẫn còn tồn tại một loại phương tiện giao thông cổ hủ, lạc hậu, cũng vào loại nhất nhì thế giới !
Người thuyết minh truyền hình cho biết, dân ở đây sùng đạo Phật, “giới sát sinh”. Họ không ăn thịt động vật. Vịt trời và sâm cầm bơi lội hàng đàn trên mặt hồ, ở ngay trung tâm thành phố. Theo lời Phật dậy, người ta yêu thương vạn vật, và muốn chung sống với muôn loài. Nhưng đối với chính đồng loại của mình, thì vẫn còn kẻ giầu cậy của, lấy đồng tiền để trói buộc người nghèo phải làm thân trâu ngựa phục vụ cho mình. Cho nên người thuyết minh mới bảo: “Ở Ấn Độ, xã hội còn nhiều đẳng cấp”.
Vâng. Còn ở ta ?
Tôi nghĩ: Ở ta, tuy không còn cái cảnh con người phải làm trâu, làm ngựa kéo cày, kéo xe như ngày xưa nữa. Nhưng sự phân hoá giầu nghèo thì đã và đang phát triển, mỗi ngày một thêm sâu sắc, và khoảng cách giữa giầu và nghèo càng ngày càng xa mãi ra. Một số rất đông (Đảng và Nhà nước gọi là “một bộ phận không nhỏ”) các quan chức của Đảng và Nhà nước đã nhanh chóng trở thành những người giầu có. Xã hội đã hình thành ra một đẳng cấp mới. Đẳng cấp ăn trên ngồi trốc. Ôtô nhà lầu đối với họ bây giờ đã chẳng là gì rồi. Có người đã có đến mấy biệt thự, mà vẫn với tay chiếm đất ở nơi này, nơi kia, có sổ đỏ, có người đứng chủ đàng hoàng.
Bạn ơi! Xin đừng hỏi, họ lấy đâu ra nhiều tiền thế? Vì tiền ở đâu thì ai cũng biết cả rồi. Họ tiêu “TIỀN CHÙA” đấy ! Chứ họ chẳng thèm áp bức, bóc lột thặng dư thặng diếc gì đâu !
Tuy nhiên, trong cái đẳng cấp giầu có đông đảo ấy, cũng có một số rất ít các vị quan chức “bị lộ”. Cho nên có vị phải vào tù, có người bị kỷ luật cách chức, bị phê bình cảnh cáo, và có ông phải tự kiểm điểm, phê bình hết sức nghiêm khắc. Rồi như người gọi nhầm số điện thoại, chỉ “xin lỗi” một câu, thê là xong !
Tuy vậy, nhưng công bằng mà nói, xã hội ta vẫn là xã hội ưu việt vào bậc nhất thế giới. Vì nước ta là nước Xã hội chủ nghĩa, không còn giai cấp tư sản và địa chủ. Không còn chế độ người áp bức, bóc lột người./.
TP Uông Bí, ngày 18 - 12 – 2013
Tạ Hữu Đỉnh