BẾN GIÁC - Tác giả Võ Xuân Tường
Vo Xuan Tuong 14.04.2013 22:22:08 (permalink)
 Tiểu thuyết dày 315 trang gồm 11 chương, mỗi chương cách nhau nửa trang  sách. Kính mong bạn đọc chiếu cố đọc và cho ý kiến quý báu.
 Trân trong cám ơn. 
VÕ XUÂN TƯỜNG
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
BẾN GIÁC
Tiểu thuyết
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NHÀ  XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                                    Trần thế đã nhiều duyên nghiệp quá,
                                                                  Lệ lòng mong cạn chốn am không...
                              
                                                                                                 Thái Can  
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
1
 
  Con tàu mệt mỏi dừng lại trên đường ray số 4. Châu tỉnh giấc. Không phải là giấc ngủ, chẳng phải là giấc mơ. Một sự chìm đắm huyền hoặc theo anh suốt cả chặng đường về như một kẻ mộng du bị thức tỉnh sau tiếng còi dài khản đặc. Châu ngơ ngác nhìn mọi người rồi xốc lại ba lô, xuống ga. Anh đứng lại tần ngần như kẻ quên mất lối về, hoặc có vẻ như trong đầu anh có nhiều địa chỉ phải đến mà chưa quyết được sẽ đi về đâu...Anh quay tại chỗ gần hết một vòng, miệng lầm rầm tự nói điều gì đó với chính mình rồi dừng lại, bước nhanh qua cổng nhà  ga, xuống đường. Anh ghé lại một quán nước bên  kia đường gọi một cốc nước chè xanh và mấy chiếc kẹo dồi. Cốc nước chè xanh rất đặc, hình như từ sáng đến giờ bà chưa bán được cho ai cốc nào. Cốc nước làm anh tỉnh táo. Anh nhận ra phía bên kia công viên là nhà  mình. Trước mặt anh, bên kia đường là rạp xiếc. Phía sau rạp xiếc có một con đường mòn nho nhỏ đến tận đầu phố nhà  anh. Anh đã từng theo mẹ đi trên con đường ấy đến rạp xem xiếc thú, đã từng trốn học chạy theo bọn trẻ trong phố trên con đường mòn nho nhỏ cỏ dại mọc đầy ấy ra công viên đuổi bướm, bắt cào cào...  “Bố mẹ chắc đang sốt ruột đợi mình về...” Anh đứng dậy móc ví trả tiền rồi quay đi. Bà chủ quán thấy anh quên đĩa kẹo vội lấy giấy gói lại chạy theo đưa cho anh: “Không ăn thì đem về cho cháu...!” Bà nói rồi đút gói giấy vào túi anh.
-         Bà cất hộ cho cháu, không phải trả lại tiền đâu! Cháu không vợ, không con, có “Cháu” nào đâu mà mang về làm quà! Để trong túi nó ướt mất bà ạ!
-         Này...này...! Bà chủ quán lấy tiền trả lại cho Châu nhưng anh đã bước ra xa.
  Châu quay gót, không đi về phía tạp Xiếc mà lộn lại đi vào trong ga. Anh mua vé đi chuyến tàu ngược Lào Cai. Trên tàu, chỗ toa anh ngồi có hơn chục cô gái mới nhập ngũ. Quân phục màu xanh lá cây tươi rói, sáng ngời trên ve áo là phù hiệu một sao nền đỏ. Các cô thật rộn ràng, nhí nhảnh, cười nói tưng bừng chẳng để ý gì đến những hố bom bên đường chưa lấp, chi chít những ngôi mộ chôn vùi ngỗn ngang. Châu nghĩ: “Các cô này chắc cũng vừa độ tuổi Lan của anh dạo ấy, chắc cũng vừa học xong phổ thông...” Anh ngắm họ. Cô nào cũng xinh. Anh vui lây niềm vui của họ. Anh hỏi cô ngồi đối diện:
-         Các cô xuống ga nào?
-         Đông Anh! Các cô đồng thanh trả lời.
-         Còn anh, anh xuống ga nào?
-         Tôi xuống ga Đông Em!
-         Anh chỉ nói xạo thôi, làm gì có ga Đông Em!
-         Đợi xem! Châu bảo.
Tàu đến ga, các cô gái líu ríu nhảy xuống tàu. Họ cười, nói:
-         Chúc anh đến ga Đông Em an toàn nhé!
-         Liệu chừng đấy, một cô  gái nói to, có lẽ là cô ngồi đối diện với anh lúc nãy trên tàu, đến chỗ “Đông Em” không an toàn đâu đấy!
Châu xốc ba lô lên vai, bước xuống theo các cô.
- Anh bảo anh xuống ga...cơ mà!
- Tôi có dối ai đâu! Anh đưa tay chỉ vào các cô:
- Hơn chục em thế này còn không “đông” nữa sao?
Những đôi mắt sáng long lanh và nụ cười trong trẻo, dòn tan đang xua đi cái không khí chết chóc nặng nề của dấu vết chiến tranh còn đọng lại ở cái ga trọng điểm bị địch đánh phá khốc liệt trên con đường huyết mạch này. Nắng đã khuất bên kia sườn non, chút mỏng manh của ánh vàng còn vương vấn trên đỉnh núi xa.
 Châu cắm cúi đi. Ra khỏi ga, anh ngoái đầu nhìn lại, sân ga vắng tanh, chẳng hiểu các cô gái đi về hướng nào. Anh mường tượng nhớ lại chỗ Lan đứng ở sân ga ngày tiễn anh lên đường đi bộ đội năm nào. Đúng là nơi có hòn đá kia, cây liễu gầy guộc vẫn còn đó. Cái cảnh Lan đứng vời vợi nhìn theo toa tàu khi đoàn tàu chở anh lên đường lăn bánh như đang diễn lại trước mắt anh. Chao ôi, hôm ấy Lan mới đẹp làm sao! Giản dị trong chiếc áo màu nâu non phơn phớt một chút sắc tím hoa cà, cổ trái tim hơi trễ, tà áo xẻ cao phất phơ trước gió...cái thân hình mảnh khảnh mới đến độ nở nang mờ tỏ trong nắng nhạt ban mai. Chiếc nón che nghiêng, đấy là chiếc nón bài thơ kỉ vật duy nhất mình tặng cô ấy, làm rạng lên sắc hồng của khuôn mặt trái xoan...Tàu chạy, khuất bóng nhưng hình ảnh của Lan cứ chập chờn trước mắt...
 Một cảm giác xót xa dâng lên trong lòng anh. Anh cắm cúi đi về phiá có hai ngọn núi xa mờ. Dưới chân núi ấy là Xóm Trằm, nơi có ngôi nhà  lá nho nhỏ của Lan. Trước sân nhà  là rặng tre rủ ngọn xuống dòng sông nhỏ, nước trong veo và chiếc thuyền nan “bé tẻo teo” buộc chặt dưới gốc Sung già dập dờn theo từng làn sóng gợn...Lan thường nấp sau chiếc thuyền nan ấy để tắm trong những đêm hè, và ta đã từng ngây ngất nấp bên bờ sông này ngắm nhìn cái thân thể ngọc ngà mờ ảo ấy dưới những đêm  trăng qua lăng kính của chiếc ống nhòm mang từ Liên xô về...Món quà kỉ niệm một thời sinh viên vô tư lự...
  Liêm không còn giữ được bình tĩnh nữa. Hết chạy ra phố nhìn theo con đường tắt qua công viên lại chạy vào nhà  vò đầu gãi tóc.
-         Nó bảo tàu đến ga lúc 12 giờ 15 phút cơ mà! Sao đến giờ này...
 Bà Nhân suốt ruột không kém nhưng an ủi chồng:
-         Đường sá, cầu cầu bị đánh tơi bời trong thời chiến tranh chưa khắc phục được, tàu bè sao đúng giờ được mà mong, có khi chậm cả ngày trời ấy chứ!
 Không đợi được, bà dọn cơm chiều. Hai vợ chồng ngồi đối diện nhau bên mâm cơm trong cảnh chiều hôm sao mà chông chênh đến vậy. Có con gà làm thịt để đón ngày trở về của Châu, nhưng đến giờ này vẫn chưa thấy bóng dáng nó ở đâu. Bà bê con gà vào bếp đậy lại, lấy một bát nước luộc đun lên cho quả cà chua, hành vào đem ra cho ông ăn. Bà đặt nhẹ bát “canh cà chua” lên chiếc mâm nhôm lạnh lẽo và quay “bát canh” về phía ông ngồi, một đĩa lạc rang muối, một đĩa rau muống xào tỏi đang bày sẵn. Hai vợ chồng ngồi nhìn nhau. Liêm cất tiếng nói, phá tan bầu không khí nặng nề:
-         Kì này thằng Châu về, tôi cho nó cưới con Lan!
     -    Nếu ông không phản đối, không đòi từ nó, nếu nó lấy con Lan thì chắc bây giờ ông đã có cháu nội rồi! Và, nó cũng chẳng phải đi bộ đội. Theo chính sách, nó thuộc diện không phải đi nghĩa vụ nhưng ông lên Thành đội đề nghị cho nó đi bộ đội để li gián nó khỏi con Lan thôi! Bao nỗi bức bối trong lòng bấy nay, bà bật ra trong những lời chua chát đối với ông lúc này. Tất nhiên, tôi hiểu, ông nói với tổ chức về việc ông tự nguyện cho con đi bộ đội không phải vì cái lí do ấy mà vì ông là người giác ngộ cách mạng cao, ông muốn đóng góp phần xương máu vào sự nghiệp bảo vệ tổ quốc! Nó được đưa vào mặt trận ở biên giới Tây Nam, đi làm nghĩa vụ quốc tế... Ông được khuyên mấy vòng đỏ vào lí lịch, vào hồ sơ xét phong giáo sư, vào hồ sơ đề bạt...Bà chì chiết.
- Thế bà bảo tôi cho thằng Châu đi bộ đội là sai hả? Ông quặc lại.
- Không sai, nhưng động cơ của ông là sai, là cá nhân chủ nghĩa, là vị kỉ!
- Con Lan đang đi học phổ thông chưa có nghề nghiệp gì, bố nó mất tích trong chiến tranh, lí lịch không rõ ràng, ngộ nhỡ ông ta đầu hàng giặc chạy về Sài gòn làm tay sai cho Mỹ- Ngụy thì bà tính sao?
    - Ông nói thế nào cũng được! Tôi đã từng là học sinh của ông, ông yêu tôi từ khi tôi còn đi học phổ thông. Ông đòi cưới khi tôi chưa vào đại học. Ông luôn đóng vai “Người thầy vĩ đại”. Tôi chưa tốt nghiệp thì sinh thằng Châu, ông đi làm vừa nuôi con vừa nuôi vợ. Ông trở thành “người cầm lái vĩ đại!” Thế rồi như một lẽ đương nhiên, ông tự phong cho mình cái vai trò độc tôn lãnh đạo cái gia đình này! Ông nói gì mọi người phải cúi đầu nghe, ông bảo gì mọi người phải tuân theo! Với cái cung cách ấy, ông chẳng cần dọa từ con đâu, đến lúc chúng nó sẽ từ ông nếu ông cứ tiếp tục cách hành xử như vậy! Một con người chỉ luôn tính toán cho lợi ích của mình mà bảo mình hy sinh phấn đấu cho lợi ích của người khác thì mỉa mai lắm ông ạ! Thanh niên bây giờ nó hiểu đời lắm! Không nói ra, không phải vì sợ ông mà chỉ vì chúng nó biết ông là người nắm quyền lực trong tay, ông không muốn nghe những lời trái ý ông đấy thôi!
 Liêm ngước mắt nhìn vợ đầy vẻ ngạc nhiên, lấy nhau ngần ấy năm chưa bao giờ Nhân có cái giọng lưỡi ấy.  “Ông chẳng cần dọa từ con đâu, đến lúc nó sẽ từ ông...”Bà ta nhân danh con để nói lên quan điểm của chính mình chăng? Hay là bà ta đã dò ra manh mối biết mình đã có một đời vợ và mình cố dấu bà ta...! Như mọi lần khác, chắc chắn  Liêm không chấp nhận những lời nhói buốt của bà vừa rồi nhưng hôm nay...Hôm nay có lẽ ông đang sám hối, đang ngồi cái ghế của kẻ “bị can”... Ông nhẹ nhàng bảo bà:
-         Thôi ta ăn đi! Có khi đến đêm con nó mới về. Nó đã báo về rồi thì chắc chắn thế nào nó cũng được về. Thực tình, Liêm đã nhiều đêm thao thức. Ông đã dấu Nhân, dấu tổ chức ngần ấy năm về việc mình đã có vợ trước khi đi tập kết! Bao phen mình đã định tự thú nhưng không cách nào nói được thành lời. Chuyện thằng Châu ra quân trở về, nét mặt lúc nào cũng đăm chiêu, như người mất hồn, lòng anh càng đau xé... Mỗi lần đến cơ quan, gặp bạn bè, con cái của họ cùng lứa Châu, nhiều đứa được đi học tiếp nay đã là Phó tiến sĩ, tiến sĩ...,kể cả những đứa đi học rồi ở lại nước ngoài không về, bị kết tội là phản bội tổ quốc...bây giờ ai cũng kinh tế vững vàng, vợ con gia thất đề huề mặt mày rạng rỡ, là mỗi lần ông tự vấn lương tâm. Thằng Châu con ông... May mà nó còn sống trở về! Ông tự an ủi mình rằng cái số của ông là vậy. Thầy tử vi bảo tuổi của ông xung khắc với tuổi của Châu. Bây giờ ông chỉ mong gặp lại con trai, nó muốn gì ông cũng chiều. Ông sẽ xin cho nó đi nghiên cứu sinh. Nếu nó đã đứng tuổi khó đi vào nghiên cứu các ngành khoa học, kĩ thuật, phải thi đầu vào, đầu ra phức tạp thì ông xin cho nó đi AON[1], vào đấy chẳng cần thi cử gì, chỉ cần 18 tháng, về nước cũng tiến sĩ như ai lại được tín nhiệm cao hơn. Đấy là nơi người ta đào tạo nguồn cho đội ngủ cán bộ lãnh đạo quốc gia của các đảng cộng sản chứ phải chơi đâu!
 
*
 
*       *
 Vừa đến đầu thôn thì trời sập tối. Ở cái miền trung du này hình như không có khoảnh khắc của hoàng hôn. Trời vừa tắt nắng là đêm buông màn. Châu rẽ sang phải, đi theo con đường đất quen quen... Vẫn thế, vẫn con đường đất đỏ trơ lì vắt qua đồi bạch đàn tư lự đến các nương chè, đồi sim...Có tiếng ếch kêu thưa thớt cầm canh từ các vũng nước dưới những hố bom vọng lên và tiếng côn trùng rả rích. Sương giăng đầy mọi nẻo, lối cũ nhạt nhòa dưới ánh trăng khuya. Châu cắm cúi đi, anh sững sờ đứng lại bên chân chiếc cầu độc mộc...
 Cái lần đầu tiên hôm ấy, cũng chính nơi này, thấy một cô gái từ bên kia cầu đi sang, theo đúng “luật” người ở bên này phải đợi cho người bên kia sang hẳn bên này rồi mới được lên cầu nhưng Châu cố tình trêu cô ta nên anh bước vội lên cầu. Hai đứa “ chạm trán” nhau giữa cầu, vừa đứng lại Châu hát to: “ Có hai con dê... [2]”, cô gái che mặt phì cười...Một cơn gió thổi mạnh lật chiếc nón đang đội trên đầu, cô buông tay vịn, đưa tay đỡ nón, chới với, cô rơi xuống sông, Châu nhảy xuống theo dìu cô ta vào bờ... Cái cảm giác mềm mại, ấm nóng hôm ấy...Cái thân hình vừa độ nở nang dính chặt vào bộ quần áo mỏng tang, sũng nước đang hiện ra trước mắt anh...Cô gái ấy chính là Lan. Lan ngượng ngùng vùng dậy chạy ngay về nhà  mình. Châu thấy chiếc nón lá bị dạt về phía bên kia bờ cách chân cầu không xa, anh nhảy xuống vớt lên. Anh có trong tay  “cái cớ lương thiện” để tìm đến nhà  Lan...
   Châu đứng lại giữa cầu, đêm vắng, sương bâng khuâng bủa vây bốn mặt, vừng trăng lưỡi liềm lơ lửng trên cao. Ngôi nhà  của Lan mờ ảo hiện ra sau lũy tre, vẫn là lũy tre ngày ấy, cây sung già  vẫn còn nhưng chiếc thuyền nan lênh đênh phương nào không rõ. Ngôi nhà  tối om, mấy con đom đóm chập chờn bay. Châu nghĩ bụng: “Đêm hôm khuya khoắt thế này, nhà  người ta đàn bà con gái mình vào không tiện...” Châu quay lại ghé vào ngôi nhà  cạnh chân cầu ngủ nhờ. Cả xóm đã tắt đèn, chỉ còn ngôi nhà  này có ánh sáng hắt ra. Đấy là nhà  ông Đạt, người bà con họ xa với Lan. Hồi anh mới về nước, được Viện phân về đây trông coi cơ sở sản xuất tự túc lương thực cho Viện, Châu đã ở trọ trong nhà  ông Đạt nhiều tháng. Hồi ấy cả làng, cả xã nhìn anh Kĩ sư ở Tây về như nhìn ông thánh. Chén nước nghi ngút khói, ấm cả bàn tay, chưa kịp uống, Châu đã hỏi ngay:
-         Nhà  bà Thịnh ( mẹ Lan) bên kia đi ngủ sớm nhỉ ?
 Ông Đạt nhấp một ngụm nước, đưa mắt nhìn ra mảnh sân hoang vắng, thở dài, im lặng. Châu bối rối đưa mắt nhìn sang bà Vân (vợ Đạt) tìm câu trả lời. Bà mới chỉ nói được hai từ: “Tội nghiệp!” Ông Đạt đỡ lời:
-         Bà ấy mất rồi!
-         Còn cô Lan? Châu hỏi gấp.
-         Cô Lan...Ông Đạt ấp úng...
-         Cô Lan cũng ở nhà , không đi Đại học hả bác? Châu hỏi.
-         Đi đâu được mà đi!  Ông Cường, bố cháu Lan hồi đi B là trung tá, trung đoàn trưởng, uy danh nhất cái làng này đấy. Được vài năm gì đó có tin đồn ông ấy đầu hàng, về Sài Gòn làm ở cơ quan chiêu hồi của Mỹ- Thiệu, cháu Lan học rất giỏi nhưng vì cái “ phốt” ấy không được đi đại học nên ở nhà !
-         Hai mẹ con bác ấy chắc sống vất vả lắm bác nhỉ? Châu hỏi.
-         Đời sống vật chất thì không đến nỗi nào, con Lan nó rất sáng dạ, nó có cái nón bài thơ, không biết mua ở đâu hay ai tặng, đội ra đường các cô gái cứ xúm xít đòi xem, tấm tắc khen. Nó đi đặt khuôn, mua lá về tháo chiếc nón của mình ra làm mẫu, hai mẹ con chằm nón bán, bán buôn chở hàng về tận chợ Đồng Xuân hẳn hoi. Lá và sợi móc ở đây là đầu nguồn, giá rất rẻ. Nón nó làm ra rất đẹp, hơn cả nón Bài thơ của Huế mà giá chỉ bằng nửa nón Huế. Hai mẹ con sống ung dung, chỉ tội buồn. Từ ngày nghe tin chồng đi theo giặc, xóm làng xa lánh, bà ấy chẳng ra đường gặp ai, hàng xóm sợ liên lụy không mấy ai đến nhà  bà. Bà vẫn tin rằng, chồng bà không bao giờ là một con người hèn nhát như vậy, nhưng mình nói sao lại với tổ chức! Còn cái Lan, nó như hóa thân làm người khác, suốt ngày câm lặng, tránh mặt người quen...Lâu ngày không thấy mặt, dân làng kháo nhau, cô Lan đã theo chồng về dưới xuôi. Họ bảo cô ấy tốt số lấy được anh chồng là kĩ sư, đẹp trai người Hà  Nội...Mãi đến hôm làm đám ma bà Thịnh người ta mới biết cô ấy vào Nam tìm tung tích bố rồi không thấy về.
  Tai Châu như ù lên. Anh không còn nghe được ông Đạt nói gì nữa, anh nhớ lại cái hôm anh và Lan, lần đầu chạy xuống chiếc hầm dưới nền nhà ...Sau cái ngày Châu mang nón sang trả lại cho Lan chừng hai ba ngày gì đấy, anh sang thăm Lan, cô đang vò đầu bứt tóc vì chưa giải được một bài tập hình học không gian, anh tươi cười bước lại ngồi cạnh như người đã quen biết từ lâu và giảng cho cô bài toán khó. Lan chớp chớp đôi mắt sáng nhìn Châu đầy vẻ thán phục: “Kĩ sư có khác, siêu thật, em loay hoay mải từ sáng đến giờ không xong đấy!” Lan đứng dậy đi vào nhà  định rót nước mời Châu uống, Châu đi theo Lan vào nhà . Anh đứng lại ngắm nghía cái miệng hầm, hỏi:
-         Hầm gì mà làm đẹp thế này?
-         Hầm chỉ huy sở của bộ đội Tên lửa, hồi chiến tranh phá hoại, ban chỉ huy trung đoàn đóng tại nhà  em. Lan nói.
 Tò mò, Châu chui xuống hầm. Lan chạy theo nói:
-         Hầm kiên cố và đẹp lắm, có cả chỗ kê bàn làm việc và cả giường nằm nữa.
 Cô lon ton chạy lên phía trước, ngồi lên chiếc sạp tre làm giường. Châu ngồi xuống cạnh, vòng tay ghì chặt Lan, nói:
-   Ngày kia, anh về Hà  Nội xin phép bố mẹ cho anh cưới em! Em đồng ý chứ? Em có yêu anh không?
  Lan quờ hai tay ra phía sau cổ Châu, vít đầu anh xuống sát tai mình, nói:
-         Anh lãng mạn quá đấy, sống bằng cái gì mà cưới nhau.
-         Lo gì, đi học bây giờ sinh viên 100% được học bổng, anh có lương, chỉ cần được sống trong tình yêu của em là anh no rồi, chẳng cần ăn nhiều đâu em ạ!
 Lan nét mặt thẩn thờ như chưa nghe lời Châu vừa nói, bảo:
-         Anh chưa hiểu hết khó khăn của em đâu! Không chắc em đã được vào đại học. Ở địa phương người ta đồn đại bố em vào Nam đầu hàng giặc...!
-         Thật không? Châu hỏi.
-         Thật giả, chưa có ai thông báo chính thức nhưng thấy thái độ của chính quyền địa phương nói bóng, nói gió, lạnh nhạt với nhà  em thì em đoán vậy.
-         Không vào đại học cũng được, Viện anh rất thiếu kĩ thuật viên can vẽ, sắp tới họ tuyển sinh, mở lớp đào tạo, anh sẽ xin cho em vào lớp đấy, thời gian đào tạo chỉ 6 tháng thôi, càng phù hợp với hoàn cảnh của bọn mình. Ra trường, vợ chồng làm cùng phòng, khỏi lo xin việc...
Làm sao quên được nét mặt rạng rỡ ngời ngời hạnh phúc của Lan hôm ấy!
 Bà Vân bê nồi cháo gà trong bếp đi ra cắt ngang dòng suy nghĩ của Châu. Ông Đạt nhìn vợ, bảo:
-         Bà ngồi xuống đây luôn.
-         Thôi, tôi với các cháu có trong này rồi, ông và anh xơi cho nóng!
 
 Châu nằm trên chiếc giường tre đầu chái phía Bắc, nơi anh đã từng nằm trong những năm sơ tán trước đây. Anh trằn trọc không sao ngủ được. Ngoài vườn, dưới ánh trăng suông bàng bạc, muôn vàn con đom đóm đang bay, ánh sáng lập lòe ma quái. Nghe tiếng trở mình của Châu, ông Đạt biết anh đã dậy, ông xỏ dép ra sân. Ông đứng nhìn sang phía bên kia sông, nơi ngôi nhà  của bà Thịnh xưa kia bây giờ chỉ còn trơ một đống đất nắng gió phôi pha- Tiếng đàn vạc đi ăn đêm đã về khắc khoải trong gió lạnh tháng giêng.
Châu bước theo ra sân, đến gần chỗ ông Đạt đứng, khẽ hỏi:
-         Còn ông Cường thế nào, có tin tức gì không hở bác?
-         Có! Ông Đạt trả lời cộc lốc, quay mặt nhìn ra đường. Lát sau ông nói tiếp, hồi năm ngoái, tỉnh đội và sở Lao động- Thương binh-Xã hội có về làm lễ truy điệu, đọc quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng Vũ trang và trao tặng bằng Tổ quốc ghi công cho Liệt sĩ Đặng Quốc Cường...
-         Thế cái chuyện  “theo địch” năm xưa ở đâu mà ra?
-         Chuyện là thế này, ông nói, Thằng Thỏ ở xóm dưới, mới nhập ngũ, được phân về đơn vị ông Cường, thấy nó người cùng làng, trông mặt mày hắn củ mỉ, cù mì, ông lấy nó về làm cần vụ cho mình. Ông đặt cho nó cái tên mới là Thơ, chỉ cần kéo cái dấu hỏi xuống dính vào chữ  “o” là được. Trong một cuộc đi trinh sát thực địa, hắn cùng đi theo ông. Giữa đường bị phục kích, tiểu đội trinh sát dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông Cường chiến đấu rất dũng cảm nhưng lực lượng của bọn thám báo quá đông. Vừa đánh vừa rút lui vào rừng sâu, ông Cường là người hy sinh cuối cùng dưới gốc của một cây si cổ thụ... Nghe súng nổ, thằng Thơ sợ quá, nhảy xuống một bụi mây rậm rì mép suối nằm như chết ở đấy. Khi bọn thám báo quay về, hắn nằm trong bụi kêu cứu và theo bọn chúng về Sài Gòn. Được bọn Tâm lí chiến mớm cho, hắn lên đài phát thanh Sài Gòn bịa chuyện ông Đặng Quốc Cường Trung tá trung đoàn trưởng Bắc Việt căm ghét chế độ Cộng sản tàn bạo muốn trở về với chính nghĩa Quốc gia, hắn là cần vụ, người đồng hương tin cẩn của ông, được ông giao nhiêm vụ đi móc nối với quân đội Việt nam cộng hòa để thoát khỏi tay Cộng sản độc ác. Hắn nói rất dài, rất nhiều buổi trên đài theo lời của bọn Chiêu hồi viết cho. Người làng nghe, nhận ra tiếng hắn. Hắn còn kể cả những đặc điểm cá nhân của mình như hắn có hai cái tai dựng lên ve vẫy như tai thỏ nên khi đẻ ra bố mẹ hắn gọi hắn là “Thằng Thỏ”, cái tên mới “Thơ” là do ông Cường đặt cho. Hắn bảo ông Cường được tổng thống phong Đại tá, hiện ông đang đi tham quan và chữa bệnh ở Mĩ chưa về..Thế là người làng đồn đại, thôn báo lên xã, xã báo lên huyện, rồi lên tỉnh...Tỉnh lại lập hồ sơ: “Theo tin “từ cơ sở[3]...Tên Đặng Quốc Cường đã phản bội tổ quốc, phản bội đảng, phản bội nhân dân..!.”
-         Bằng cách nào người ta minh oan cho ông? Châu hỏi.
-         Cũng chính là nhờ thằng Thỏ!
-         Thế nào? Châu hỏi gặng.
-         Thằng Thỏ sau khi đầu hàng, hắn được phân về một đơn vị hậu cần lo quân trang quân dụng cho bọn lính Sài gòn. Hắn lấy vợ. Nhờ ăn cắp được nhiều quân trang quân dụng tuồn ra ngoài, hắn giàu lên rất nhanh. Sau giải phóng hắn bị đi cải tạo, hắn khai rõ nguồn gốc, lí do hắn đầu hàng. Để chứng thực cho lời khai của mình, được rút ngắn thời gian cải tạo, hắn xin xung phong dẫn bộ đội ta đến nơi hắn bị phục kích và tìm xác đồng đội. Chính hắn đã tìm được mộ ông Cường. Hắn ngồi khóc trước mộ ông như khóc cha mình! Ông Đạt kể tiếp:
-         Ngày đưa linh cửu ông Cường về nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh, Thơ xin gia nhập đoàn đưa tiễn ông nhưng tổ chức không cho. Thơ thuê một chiếc xe, cho cả vợ con chít khăn tang lên xe chạy theo sau, cách đoàn xe tang lễ hơn trăm mét về đến thị xã. Ở đấy, theo kế hoạch của Thơ, cả bố mẹ anh, bà con, họ mạc của anh và dân làng mang vòng hoa và lễ đến dự buổi truy điệu Anh hùng, liệt sỹ Đặng Quốc Cường. Buổi lễ diễn ra rất xúc động, cả làng, cả xã đều khóc. Đoàn tang lễ cũng kéo về xóm Trằm thắp hương trên ngôi mộ của bà Thịnh. Một tấm bia bằng đá hoa cương đen khắc chữ thếp vàng: “Mộ chí bà Phan thị Thịnh vợ anh hùng liệt sĩ Đặng quốc Cường” .
-          Ông Đạt dẫn Châu qua thắp hương trên mộ. Ngôi mộ được đắp to bằng cả không gian ngôi nhà  thuở ấy. Anh thắp hương và đứng cúi đầu rất lâu trước tấm bia. Ai đó đã trồng lên phía trên đầu một cây bông Trang và dưới chân, sát tấm bia một cây Hồng Bạch, một cành hoa chĩa lên trời, ba bông hồng đang hé nụ. Châu cứ đứng thế, dưới trời mưa bụi bay, khói hương lẫn quất quanh đám cỏ trên mồ...
Ngày tháng Giêng rất dài, giờ này mà mặt trời chưa lên! Châu hối hả theo con đường đất đầm sương ra ga, quay về Hà  Nội. Trên đầu những tảng hoa Xoan tím bầm, nặng trĩu...Anh dừng lại ở một gốc bàng đầu thôn, ngoái nhìn lại quảng đường vừa đi qua...Làng Trằm liêu xiêu mấy chục mái nhà  gianh thưa thớt, đó đây, cao  thấp dăm thửa ruộng bậc thang lúa vừa bén rễ còn mang sắc vàng của lá mạ. Mấy người đàn bà lam lũ, quần áo bạc mầu nắng mưa, chùm kín mặt lầm lũi ra đồng. Sương bay là là mặt đất như những đám khói mỏng manh đang tan dần. Vài đốm vàng của nắng mai le lói trên các ngọn tre. Sương rơi tí tách trong các vườn xanh. Một chiếc lá bàng rơi đúng chỗ anh đứng, cong queo, khô cháy như miếng bánh đa nướng quá lửa. Ngước nhìn lên ngọn cây, mấy chiếc lá vàng đỏ ối đang run rẫy trong gió sớm. Anh thấy bồi hồi, chắc giờ này bố mẹ anh đang hốt hoảng về sự mất tích của anh trong 24 giờ qua. Về đến ngõ, trong nhà  lặng ngắt, anh hoang mang: “ Hôm nay là ngày nghỉ, Cả hai bố mẹ đi đâu nhỉ?” Anh đưa tay kéo chuông. Cánh cửa bật tung ra, cả hai ông bà cùng chạy ra cửa một lúc. Ông sững người nheo nheo cặp mắt nhìn ra, bà vịn vào cửa ghé mắt vào vai ông. Rồi, cả hai chạy ra sân, ông ôm chặt lấy đứa con trai, bà cầm lấy chiếc quai bai lô còn đeo trên vai con..Họ đi vào nhà . Bà Nhân bước vội vào bếp bê ra cốc nước chanh tươi vắt sẵn. Ông ngồi cạnh con trai vân vê chiếc quai ba lô chưa biết nói gì, liền bảo: “Con uống đi, uống đi cho mát!” Châu đi tắm, ông Liêm nói khẽ với bà Nhân:
-         Chiều nay có gì bà ra phố mua một ít quà cho con Lan, mai bảo nó lên trên kia thăm hai mẹ con bà ấy (Ông Liêm chưa biết tên bà Thịnh- Mẹ Lan) cho phải phép.
Bà Nhân lưỡng lự một lát rồi bảo ông Liêm:
-         Thôi để ngày kia hẵng đi, mai phải vào cơ quan cũ của nó cái đã! Nó về, ông Kĩ viện phó ở cạnh nhà  mình đây làm gì chẳng biết, mình không vào không được đâu!
 Châu vào Viện, lãnh đạo cũ chỉ còn lại ông Kĩ, viện phó phụ trách kĩ thuật, ông Quý thợ nguội bậc 6, Viện trưởng, ông Trực, viện phó tổ chức hành chính đều đã về hưu. Bây giờ ông Kĩ phụ trách viện, không được đề bạt Viện trưởng vì quá tuổi, nghe nói cũng sắp về hưu. Có hai kĩ sư, trước học bổ túc công nông, tốt nghiệp Kĩ sư  về Viện cùng thời với Châu đang phụ trách hai mảng Kĩ thuật và tổ chức –hành chính. Cán bộ nhân viên của Viện hầu hết là mới, số cũ không còn mấy. Người bỏ ra làm ngoài, mở cửa hàng sửa chữa ô tô xe máy, người bán phụ tùng Xe- Máy ở Chợ Giời. Số đông là sang Nga làm “Nghiên cứu sinh” theo “ giấy mời rởm”[4]. Họ sang đấy lao vào lao động làm thuê hoặc chạy chợ kiếm tiền, chủ yếu là buôn lậu hàng từ Việt nam sang.
Ông Kĩ hỏi chuyện qua loa với Châu rồi say sưa ôn lại chặng đường đã qua của Viện. Cái giọng khôi hài của ông rất có duyên. Đang nói thì Huân và Thắng cùng lứa kĩ sư với Châu dạo ấy ghé vào. Họ là các thành viên “sáng lập viện” còn tồn tại đến giờ. Họ say sưa cười nói ôn lại cái ngày xưa ấy. Ông Kĩ kể lại:
-         Ông Quý Viện trưởng được bộ triệu lên giao nhiệm vụ cho Viện nghiên cứu và chế tạo chiếc ô tô du lịch đầu tiên của Việt Nam. Tôi ngồi nghe ông Quý quán triệt cái chỉ thị ấy của bộ cho lãnh đạo Viện mà ngao ngán nhưng tôi không dám nói gì. Tôi đã bị dán cho các mác là: “Tiểu tư sản” không có tinh thần cách mạng tiến công, cái gì cũng bàn lui. Họ đã đặt cho tôi cái tên là Bùi Lan (nói lái là Bàn lui). Ông Quý Viện trưởng vừa cười vừa nói, nửa đùa, nửa thật bảo tôi: “ Mời Kĩ sư trưởng Bùi Lan phát biểu ý kiến” (Ông ta thường tự hào về bản chất trung thực thẳng thắn của giai cấp công nhân của mình). Đã quen bị chế nhạo, tôi chẳng biết tự ái là gì, ngồi cười khan. Ông Trực bí thư đảng ủy, viện phó tiếp lời: “Nhiệm vụ trên giao, chúng ta phải có trách nhiệm  thực hiện bằng được. Chắc các đồng chí còn nhớ câu của Pa-ven-cô-sa-ghin: “Không có thành trì nào mà người cộng sản không vượt qua được...[5]”.
 Cả viện chia nhau, tụm năm, tụm ba chạy đi khắp ngã, đào bới các đống sắt vụn, ra chợ Giời tìm kiếm các chi tiết đem về. Kẻ hàn, người đục, dũa, dựng cả lò bệ thủ công để đúc Blốc xi lanh. Theo chỉ thị của Viện trưởng, mọi chi tiết có thể nhặt nhặn vá víu nhưng riêng cái Blốc thì phải đúc bằng được có cả hàng chữ nỗi trên thân: Made in Viet Nam. Ông đề phòng bọn nhà  báo tò mò mở nắp ca-bô để chụp ảnh, nếu cái thân động cơ này nhặt của xe khác lắp vào là lộ tẩy ngay.  Ông Quý đến gặp và động viên ông Kĩ:
-         Anh Kĩ ạ! Xin nói thật để anh biết, chúng ta đã cỡi lên lưng hổ rồi, có muốn xuống cũng không xuống được nữa đâu. Anh T, bộ trưởng đã cân nhắc kĩ lắm rồi, anh ấy cũng xuất thân từ lái xe, rất am hiểu Xe-Máy. Anh giao nhiệm vụ này cho chúng ta cũng là thể hiện sự tin cậy, sự tín nhiệm chính trị đối với Viện ta.  Thật ra, đó là sự tín nhiệm đối với cá nhân anh. Cả nước chỉ có anh là Kỹ sư chuyên ngành ô tô duy nhất được đào tạo tại Pháp, đã từng làm việc ở Công ty Renault[6] về, nếu việc này không thành công thì không biết anh T sẽ ăn nói với trên thế nào!
-         Tôi sẽ cố gắng hết sức nhưng để sản xuất ra cái ô tô theo đúng nghĩa của từ: “sản xuất” thì thú thật tôi không dám. Tôi sẽ cùng với anh em cố gắng làm ra một cái gì đó na ná cái ô tô cho các anh...Ông Kĩ nói.
-         Tốt quá, tốt quá!... Ông Quý xoắn xuýt. Tôi chỉ có yêu cầu thế này thôi: Về hình hài giống cái ô tô, màu sắc đẹp thì không khó, thợ gò, thợ sơn của ta có khả năng làm được. Tôi chỉ lo cái động cơ, mong sao nó nổ được 15 phút chạy qua quảng trường để diễu hành ngày 2 tháng 9 sắp tới là được! Thế là đại thành công rồi.
-         Với đòi hỏi đó, tôi nghĩ là có thể được, tôi chỉ có một yêu cầu...
-         Yêu cầu gì xin ông cứ thẳng thắn phát biểu, đây là nhiệm vụ trung tâm  không chỉ của Viện ta mà là của toàn ngành, chúng tôi sẽ đem hết tinh thần và lực lượng để đáp ứng nhiệm vụ trung tâm đột xuất này, ông Quý rối rít.
-         ... Đề nghị của tôi là nếu nó không đạt như yêu cầu các ông đặt ra thì tôi xin chịu trách nhiệm, chịu kỉ luật trước tổ chức, nhưng nếu nó thành công như các ông mong đợi thì xin các ông đừng gắn tên tuổi tôi vào đó!
-         Thôi chuyện ấy nói sau, ông Quý nói nhanh, nhưng...tôi muốn biết vì sao? Có tâm tư gì chăng!
-         Nói ra, chắc ông sẽ bảo tôi “sĩ diện tiểu tư sản”, ông Kĩ bảo, nhưng tôi ngượng lắm! Tôi biết chắc các ông đang cần làm một sản phẩm để tuyên truyền chứ không phải sản xuất ra một sản phẩm tiêu dùng. Các ông sẽ cho quay phim, chụp ảnh, đưa lên báo lên đài rầm rộ để khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Các cột Xã luận chăng đầy các trang báo rằng: Chỉ mới mấy năm sau chiến tranh, Việt nam đã sản xuất được ô tô, đã vượt một chặng đường mà chủ nghĩa tư bản phải đi trong mấy trăm năm...!
-         Nhiệm vụ của ta là làm, còn nói thế nào đã có lãnh đạo lo, với lại chỉ sợ mình không làm được chứ làm được như thế thì nói vậy có gì sai đâu? Ông Quý bảo.
-         Nói vậy, may ra chỉ có một số đồng bào dân tộc các huyện miền núi của ta và các bộ lạc ở châu Phi tin thôi còn những người khác họ thừa biết nền cơ khí của chúng ta hiện nay chưa đủ sức để sản xuất ra một chiếc xe bò hoàn chỉnh, làm gì đã sản xuất được ô- tô! Các ông biết, tôi là một Kĩ sư, tôi muốn làm khoa học thực sự, không muốn trở thành một diễn viên xiếc. Ông Kĩ nói có phần gay gắt.
  Hơn hai tháng trời, còn gần một tháng nữa mới đến ngày Quốc khánh, họ đã ráp xong  “chiếc ô tô”. Cả viện xúm quanh đợi nghe tiếng động cơ của chiếc ô-tô phát ra.  “Phành phạch...phành phạch...” Khói đen bay mù rồi “xịt..” Người vỗ lên mui xe, người xoay vô lăng bánh đà.. họ xúm nhau, kẻ “đề” người đẩy, xe lại nổ máy, chạy được dăm mét lại “chết”. Xem chừng mọi người đã mệt, viện phó bí thư đảng ủy Lê Trực nói: “Thế là tạm được rồi, về nguyên lí thế là ổn. Thời gian còn dài, bộ phận Kĩ thuật cần tập trung sức lực hoàn thiện thêm.”
 Chiếc ô tô đã được “hoàn thiện”, được kéo ra phủ bạt đặt ở góc đường rẽ vào quãng trường, bảo vệ canh gác ngày đêm cẩn mật. Giờ G đã đến, một thanh niên vạm vỡ mặc lễ phục màu trắng cầm lá cờ đỏ sao vàng to phần phật  bay trong gió đi đầu. Hoàng Quý viện trưởng trong bộ Tôn Trung Sơn màu xanh tím đi sau người cầm cờ, hai bên ông, lùi về phía sau một chút, sát vào hai chiếc đèn pha ô tô là hai nữ kĩ sư, quần trắng, áo dài tha thướt màu da trời tung bay trong gió, tay cầm hình hai con bồ câu màu trắng giương cao quá đầu vẫy theo từng nhịp bước, nhún nhẩy trên đôi giầy cao gót màu trắng. Chiếc ô tô xanh màu “Hòa bình” kẹp giữa, mỗi bên hai hàng thanh niên lực lưỡng. Bốn người đi hàng trong tay tì lên thân xe, bốn người đi hàng ngoài tay cầm cờ đuôi nheo ve vẫy. Xe nổ máy, khói đen bay mù trời, vừa đến giữa kì đài, xe bỗng chết máy...Một tình huống đã được dự báo và đã được tập huấn công phu để đối phó. Lê Trực, bí thư đảng ủy đi sau, hô to các khẩu hiệu, không biết ông hô câu gì chỉ nghe các tiếng “ Đẩy mạnh... Muôn năm!...Muôn năm!..Đẩy mạnh...Đẩy mạnh...”đáp lại rền vang. Các thanh niên đi hàng ngoài vẫy cờ liên tục đến nỗi những người đứng gần nơi ô tô “chạy” qua cũng không thấy được cơ bắp nỗi lên cuồn cuộn của các thanh niên hàng trong đang gắng sức “đẩy mạnh” cho xe chạy. Trên kì đài nhìn xuống thấy chiếc xe đi chậm rãi nhưng bon bon êm ái . Có ai đó tỏ ra am hiểu kĩ thuật, bình luận: “ Xe tốt quá, chạy với tốc độ chậm mà không có khói, tiếng động cơ rất êm, đạt tiêu chuẩn kĩ thuật quốc tế đấy! Giỏi lắm! Cừ lắm!...”. Trên kì đài vẫy tay, cả quảng trường như một rừng cờ hoa tung lên rực rỡ, tiếng hô khẩu hiệu vang rền mặt đất.
 Mấy tuần sau đó, cả tháng sau đó báo, đài lên tục đưa tin, bình luận về thành công to lớn của Viện Động lực, bước tiến nhảy vọt của nền công nghiệp Việt nam. Hình ảnh đồng chí Hoàng Quý,  Viện trưởng Viện Động lực, người lãnh đạo khoa học xuất thân từ một công nhân chăng đầy các mặt báo. Tình cờ, Tạp chí Công nghiệp chụp được bức ảnh Bộ trưởng T đang trò chuyện với các kĩ sư đầu ngành, những người làm nên kì tích sản xuất ra chiếc ô tô “Made in Việt nam” đầu tiên. Trong ảnh, Bộ trưởng đang nắm chặt bàn tay của Kĩ sư  Chu Mai Châu. Ông Liêm sướng quên ăn, ông mua liền mấy chục quyển đi tặng bạn bè. “ Bộ trưởng T đang bắt tay thằng cháu nhà  tôi đấy!- Nó tốt nghiệp ở Liên xô về, bằng đỏ cơ đấy!...”
  Tối đến, dù xa bố mẹ lâu ngày nay trở về nhưng lòng Châu đang nghĩ tới Xóm Trằm, dưới chân núi Ba Đào. Nơi có chiếc cầu Độc Mộc bắc qua dòng sông nhỏ nước trong veo. Nơi có cây sung già nhiều năm tuổi đứng làm nơi neo đậu cho chiếc thuyền nan dập dềnh... Chiếc thuyền ấy nay trôi về đâu...? Cái còn lại bây giờ?...! Cái sân nơi ta và Lan ngồi giải toán, cái hầm.. và chiếc chỏng tre đâu rồi? Cái còn lại bây giờ...?- Một nắm đất trơ trơ phôi pha sương gió...!...Châu trăn trở trong đêm, anh nhớ lại tất cả.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
2
 
   Gần như cả đêm không ngủ. Châu nhớ lại cả quảng đời đã đi qua gần ba mươi năm của mình. Những bữa cơm chiều thứ bảy, anh phải đứng úp mặt vào tường vì không được Phiếu bé ngoan, những năm đi học Vỡ lòng, Mẫu giáo. Những bữa cơm mẹ xới cho một bát xuống ngồi thui thủi một mình dưới bếp vì chưa được vào Đội, vào Đoàn, bị bố phạt trong những năm đi học phổ thông. Những năm đi học ở Liên xô, anh cũng gây cho bố nhiều lo nghĩ, phiền muộn...Rồi, mối tình đầu của anh và Lan... Anh xót xa thấy mình làm khổ bố quá nhiều. Hình như chỉ có một lần anh làm bố sung sướng tự hào, đấy là bức ảnh anh chụp chung với bộ trưởng T đăng trong tạp chí Công nghiệp năm nào. Anh nhớ lại khuôn mặt tưng bừng của bố khi ông chìa cuốn tạp chí cho mọi người xem. Anh không hiểu vì sao khoảng cách thế hệ giữa anh và bố mình lại xa đến vậy. Cái mà anh thấy tầm thường, vô nghĩa thì bố anh lại thờ phụng một cách thành kính thiêng liêng và ngược lại.
  Những năm tháng sống xa gia đình, hôm nay trở về, bữa cơm sum họp, ba người ngồi chơ vơ quanh chiếc mâm nhôm. Không có lời mở đầu trước bữa ăn như tập quán gia đình ông đã hình thành hơn ba chục năm nay. Mọi khi, trước bữa cơm thế nào ông cũng có vài lời nhắc nhở con phấn đấu rèn luyện để trở thành con người mới Xã hội chủ nghĩa. Ông hỏi thằng Châu đã vào đoàn chưa, thằng Thạch đã vào đội chưa...? Hỏi vợ, ở cơ quan bà đã học tập nghị quyết này, chỉ thị nọ chưa, thái độ của nhân dân đối với các chủ trương đường lối của đảng thế nào...Hôm nay khác vậy, ông Liêm dặng hắng mấy lần định nói gì đấy mà không thốt ra lời được. Ông gắp miếng thịt gà bỏ lên bát Châu: “Con ăn đi!” Lời ông như nghẹn ở cổ. Châu nhìn ông, mắt ướt nghẹn ngào...
-         Lừa dối đồng loại và tự dối mình là đặc trưng riêng có của loài người! Liêm thốt lên.
Nhân chớp mắt nhìn chồng, tìm hiểu ý tứ trong câu nói vừa rồi của Liêm. Lặng im. Chỉ có tiếng nhai cơm nhóp nhoép, tiếng của chiếc thìa nhôm khua vào bát canh. Chưa bao giờ anh thấy gia đình có một bữa ăn có không khí trầm mặc lạnh lẽo như hôm nay!...  Nhân liếc mắt nhìn vội Liêm rồi lãng nhìn đi hướng khác. “Trông Liêm lạ lắm...”  Châu vẫn ngồi im suy nghĩ. Anh không hiểu giữa bố mẹ anh đã xảy ra chuyện gì... Trong mấy năm qua mặc dù đất nước trải qua những tháng ngày cực kì khó khăn nhưng những tổn thất, mất mát của cuộc chiến chưa vào đến cổng nhà  mình. ... Trên bàn thờ nhà  mình không có những bức ảnh viền khăn đen của những thanh niên trẻ măng gửi xác lại nơi chiến trường Vô Định[7], không có mùi khét nồng đêm ngày quẩn quanh của khói hương... Vậy tại sao?!
- Có lẽ nỗi đau ấy, nỗi buồn ấy của cha, mẹ cũng giống nỗi mất mát buồn đau của chính bản thân mình, thế hệ mình. Một sự hy sinh mất mát lớn lao không được đền đáp và không thể đền đáp được bằng  huân chương, bổng lộc, địa vị ! Đó là nỗi đau của một thế hệ tự đánh mất tuổi dậy thì của mình. Châu nghĩ.
-         “Tự lừa dối mình và lứa dối người khác...!” Châu nhắc lại câu nói của cha và hỏi, vậy theo bố những đặc trưng ấy có tự bao giờ và từ đâu sinh ra?
-         Cái sự lừa dối ấy, nguồn gốc của nó, có lẽ loài người học được từ loài Kì nhông phải biến màu để tồn tại, để khỏi bị săn đuổi. Loài người đã biến “ý tưởng” tự vệ của con Kì nhông thành những học thuyết để lừa mị người khác. Sự “thích nghi để tồn tại” trong chính trị chính là quá trình tự tha hóa của con người. Có quá nhiều sự thông minh đã làm cho con người trở thành ngu xuẩn. Nếu có một người nào đó nắm vững tất cả các học thuyết, thuộc lòng các kinh thánh chắc họ sẽ biến thành một con sâu cuốn chiếu, áp bụng sát đất mà bò, không dám ngẩng đầu lên và phải mọc thêm hàng trăm chân vì sợ ngả! Khả năng tự vệ duy nhất là cuộn tròn lại, nằm im!
 
 Gần ba mươi tuổi, lần đầu tiên Châu được bố đối xử như một người lớn. Anh cảm động nói: “Bố già đi nhiều quá! Hồi bố sang tập huấn nghiệp vụ ở Liên xô, con vừa bước vào năm thứ hai, bố còn khỏe mạnh, trẻ trung lắm, thế mà bây giờ...”
-         Cũng đã 15 năm rồi còn gì!
-         Các bác cùng đi với bố hồi ấy còn khỏe cả chứ? Người cao nhất trong đoàn làm đến chức vụ gì trước lúc nghĩ hưu?
-         Đoàn bố đi hồi ấy có hai lăm người, chỉ có năm người thuộc diện đào tạo để đề bạt, bố là một trong năm người ấy còn hai chục các vị kia là nhà nước cho đi để giải quyết chế độ, chính sách. Phần lớn họ là những người có công, sắp nghỉ hưu nhưng gia đình khó khăn quá nhà  nước cho họ đi một chuyến “Dối già” may ra tích cóp được tí gì cho đỡ khổ lúc nghỉ hưu. Trong năm người thuộc diện đào tạo để đề bạt cũng chỉ làng nhàng, bố được chức Viện trưởng, hai anh nữa vụ phó...đều về hưu cả rồi.
Hồi đó chúng con phục các cụ lắm, chúng con đã sống ở Mạc Tư khoa hơn hai năm mà chưa biết mô tê gì, thế mà các cụ, mới sang hôm trước, hôm sau đã lao đến các cửa hàng đồ cũ, biết rõ chính xác nó nằm ở ngõ nào, phố nào, cửa hàng nào bán thứ gì... Các cụ chỉ sang có ba tháng mà khi về, cụ nào cũng đủ cả “cơ số”: Máy khâu, đài, quạt tai voi, tất nhiên toàn là hàng đồ cũ, mới nhất cũng là loại sản xuất ba thập niên trước đó, chưa kể xích xe đạp, dây may- xo cả thùng mà học bổng của các cụ chỉ cao hơn chúng con hai mươi rúp một tháng chứ có bao nhiêu! Hôm con lên tiễn bố về nước, các cụ không biết tiếng nên không hiểu họ nói gì chứ như chúng con nghe được thì ngượng lắm. Theo thông thường, như họ đã từng tiễn các đoàn Cu ba, Mông cổ, Ấn độ và cả các đoàn châu Phi về nước họ thường thuê loại xe có số chỗ bằng số học viên cộng với ba ghế dành cho đại diện nhà trường, phiên dịch...Học viên của họ ra về với chiếc va li nhỏ đựng sách vở áo quần. Học viên của nhiều nước nhiệt đới còn bỏ lại cả những chiếc mũ lông, áo măng tô dạ đắt tiền do nhà trường phát cho. Đoàn Việt nam có 25 người, họ chỉ thuê một chiếc xe khách 28 chỗ ngồi . Xe đến kí túc xá, họ vô cùng hốt hoảng, nhìn thấy giữa sân một núi hàng đồ cũ, bao gói lôi thôi..Các cụ đã xếp thành ba hàng chỉnh tề ngồi sau đống hàng của mình, phơi mình dưới tuyết, người độị mũ lông, người mũ phớt, người mũ len đan tay...Có người đội mũ bia-rê quàng khăn len ra ngoài! Họ phải huy động thêm ba xe tải Ca-ma cỡ lớn mới chất hết hàng!
 Bây giờ Châu mới để ý đến ngôi nhà  của mình, tất cả những thứ hàng đồ cũ bố anh mua được từ thời ấy vẫn chưng bày đủ trong nhà . Chiếc đài điện tử Ri-gon-đa to như chiếc tủ kê đầu giường đứng uy nghiêm giữa nhà  được lau chùi láng bóng. Trên chiếc tủ lệch, chiếc quạt tai voi cánh cao su đúc, màu đỏ đã ngả sang nâu, toàn thân và đế đều bằng gang đúc nặng chịch phun nhũ kim màu xanh nhạt không dính hạt bụi nào...Tất cả được bày biện một cách trang nghiêm thành kính, tuồng như đấy không phải là những đồ dùng, những tiện nghi sinh hoạt mà là những đồ thờ thiêng liêng... Các sản phẩm này đều được sản xuất vào những năm hai mươi sau ngày Cách mạng Vô sản Nga thành công (1917), nếu không có các cụ nhà  ta sang khiêng về chắc họ phải cho vào lò cao hoặc đưa ra bãi rác thải. Ở góc nhà , chiếc máy khâu nhãn hiệu “Con bướm” lấp lánh như vừa mới bóc trong hộp ra, cũng là sản phẩm được mua từ thời ấy. Châu ngạc nhiên, hỏi bố: “ Cụ lấy đâu ra tiền Nhân dân tệ để mua cái máy khâu Trung quốc này?”.
-         Đời các con sướng lắm, đâu hiểu thấu nỗi cơ cực của thế hệ cha anh! Đó là tiền ăn trên tàu liên vận đoạn đường qua bắc Kinh được phát bằng tích kê, bố không ăn, đem đổi lại lấy tiền để giành, cả đi lẫn về cũng gần đủ tiền để mua đấy!
-         Thế bố nhịn ăn hả?
-         Không, khi đi thì cơm nắm muối vừng, bánh mì khô ngào đường, trứng luộc...Mẹ con phải thức thâu đêm để chuẩn bị cho bố. Khi về thì bánh mì, côn- ba- xa[8], bánh mì que, táo, ở Liên xô táo bán rẻ như cho... Thế đấy con ạ! Những ngày như thế con biết bố nghĩ gì không?
-         Chắc bố đang nghĩ đến cái khẩu hiệu: “Chịu khổ ba năm để hạnh phúc muôn đời!” Cố thắt lưng buộc bụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội, đợi đến một ngày “của cải tuôn ra như nước” và con người được thỏa thuê hưởng  theo nhu cầu chứ gì!
-         Có thể đó là câu con nói mỉa sự mê muội của thế hệ bố. Nhưng thú thật, trong lòng mình, bố có tự trấn an bằng cái khẩu hiệu đó! Nhưng có lẽ cái giúp mình vượt lên tất cả là  lòng tự hào, mình hơn người khác là được đảng và chính phủ tin cậy đưa sang đào tạo đội cán bộ nòng cốt cho công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội của đất nước sau này, được nhận cái phần thưởng cao quý mà không phải ai cũng có được. Hơn thế nữa là mong muốn được đổi đời cho cái gia đình bé mọn của mình. Con đã được sang Liên Xô học còn em Thạch ở nhà  còm cõi vì thiếu ăn. Em đến tuổi thay răng mà răng mới không mọc được do thiếu dinh dưỡng. Mẹ con xơ xác, già trước tuổi, bữa ăn có con cá, miếng thịt thì cố nhường cho con, cho chồng... Con tưởng bố không biết ngượng khi vác chiếc khung xe đạp cũ lên xe buýt, mặc chiếc măng tô to sụ mua ở cửa hàng đồ cũ sặc mùi mốc, rụng hết tuyết (tiền mua áo quần bạn phát cho thì để dành mua hàng cứu đói ở nhà !), xuống tàu điện ngầm không ai dám ngồi cạnh...hay sao? Nghèo thì hèn thôi con ạ!
 Lần đầu tiên Châu nói chuyện tâm tình với bố. Một sự xúc động sâu xa dâng lên khóe mắt. Anh quay mặt lại, nhìn vào những thứ bày trước mắt, nói:
-         Thôi, bố dẹp những thứ này đi, nó lạc hậu quá rồi! Có dịp đi công tác miền Nam, chẳng cần vào đến Sài gòn, chỉ đến Đà nẳng thôi là tha hồ mua các mặt hàng tiêu dùng từ ti vi, ra đi ô cát sét, tủ lạnh, quạt, máy khâu... của Nhật, Mỹ, Đài Loan...dù là hàng second hand cũng hiện đại gấp vạn lần hàng này của Liên Xô. Các mặt hàng này chỉ mới sản xuất trong vòng năm năm trở lại, có tiền mua hàng “Đập hộp” cũng có!
-         Thay cái đồ cũ của Liên xô bằng cái đồ cũ của Nhật, của Mỹ liệu có hơn gì? Giá trị sử dụng của cái anh hàng Liên xô này còn tốt chán. Dù không sử dụng được nữa thì nó cũng phải được lưu giữ cẩn thận như một thứ đồ thờ để kỉ niệm một thời đáng nhớ...Ông Liêm nói với con giọng tha thiết. Thế hệ các con làm sao cảm nhận được cái thi vị ngọt ngào của lòng tự hào, niềm kiêu hãnh râm ran trong lòng những người thuộc thế hệ như bố mỗi khi ngồi đánh bóng lại các thứ đồ thờ này! Mỗi lần như thế, trước mắt bố hiện quang cảnh của xã hội cũ, với tư liệu sản xuất là con trâu đi trước, cái cày đi sau, tư liệu sinh hoạt thì chỉ là cái quạt giấy của Hồ xuân Hương “Mát mặt anh hùng khi tắt gió /Che đầu quân tử lúc sa mưa...” Con hiểu chứ!...
-         Quay lưng lại phía mặt trời, hướng nhìn về đêm đen, không bao giờ bước qua được cái bóng của chính mình!...Thờ phụng những cái đã lỗi thời, lạc hậu chỉ làm cho con người thối chí đi và kéo theo sự tụt hậu của cả dân tộc bố ạ!
-         Con nhầm, loài người đến thời điểm này còn có nhiều tôn giáo, nhiều dân tộc vẫn thờ phụng con bò, con lợn, coi đấy là con vật linh thiêng. Ngu và bẩn như bò như lợn vẫn có người thờ phụng đó có sao đâu?
-         Con chắc chắc chắn đấy không phải là những dân tộc văn minh! Chỉ nhìn vào những thứ mà họ thờ phụng ta có thể biết ngay dân tộc đó minh hay mông muội. Trong các xã hội mông muội, kẻ thống trị và người bị trị đều nhơ nhuốc như nhau, kẻ thống trị trở nên vụ lợi ngạo mạn, khinh người và cố chấp, dễ dàng biến thành kẻ độc tài còn người bị trị thì biếng nhác, hèn hạ, xảo trá và bất tín.
-         Con nói đúng một nửa! Loài người bao giờ cũng cần có cái để thờ phụng. Trong xã hội hiện đại, cái giá trị được tôn thờ là tự do, dân chủ, là quyền sống của con người, nó chính là sợi dây ràng buộc mọi thành viên trong xã hội, tạo ra sức mạnh thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng văn minh tiến bộ. Khác với các xã hội văn minh, ở một số nước, những người đứng đầu các tôn giáo, các bộ lạc đang cố duy trì việc thờ phụng các tô tem mông muội ấy, họ sống một cuộc sống vương giả, thác loạn hơn cả các lãnh chúa thời trung cổ, đời sống vật chất, tiền gửi ngân hàng ngoại quốc  của họ còn nhiều hơn cả những người đứng đầu các nước văn minh nhất hiện nay. Họ có hàng tỷ Đô la gửi ở các ngân hàng ngoại quốc, con cái họ đều du học nước ngoài..
Bố đang nói say sưa, Châu chen vào:
-          Còn người dân của họ, được giáo dục rèn luyện kĩ lưỡng đến mức, nếu bây giờ có ai đến gặp các tín đồ mông muội ấy bảo với họ rằng: “Từ đây các ngươi được thật sự tự do” thì hành động hưởng thụ tự do của họ cũng chỉ là được sung sướng tăng thêm giờ quỳ lạy thành kính trước con bò mà thôi. Bố nghĩ gì khi có dân tộc tự xưng là văn minh nhất nhân loại mà mãi đến hết thập niên đầu của thế kỉ 21, của thiên niên kỉ thứ ba này người dân mới được phép sử dụng những thành tựu khoa học đã được loài người sử dụng gần một thế kĩ trước? Và, đáng buồn hơn khi người dân các dân tộc đó bụng lép kẹp chỉ có rau và cỏ đang hàng ngày nhảy múa ca ngợi những người lãnh đạo của họ là anh minh sáng suốt! Bố con đang trò chuyện thì có tiếng chuông gọi cửa, Châu chạy ra , nói với vào:
-         Bố ơi, bác Kỉ sang chơi!
 Ông Liêm xỏ dép vội vàng chạy ra sân:
-         Hay quá, hay quá! Thế mới phải chứ!
-         Mấy tuần qua tôi bận quá, đang sắp xếp lại hồ sơ chuẩn bị bàn giao để nghĩ hưu. Định sang chúc mừng thì bác lại đi công tác xa, chưa qua thăm bác được thật áy náy, người đời bảo “hữu vãng vô lai phi lễ giả”[9] Cụ bỏ quá cho, ông Kỉ nói trong nụ cười hoan hỉ.
-         Thằng cháu nhà  tôi vừa được xuất ngủ...
-         Có, có, cháu đã đến Viện thăm anh em rồi, tôi đã gặp cháu, Kỉ nói rồi hỏi Liêm:
-         Bác định cho cháu trở về Viện công tác hay xin cho cháu chuyển công tác khác?
-         Trước mắt cháu cứ về lại cơ quan cũ cái đã rồi tính sau.
-         Phải tìm cho cháu một chỗ khác, về viện là ngõ hẽm, là con đường cụt. Người ta dựng lên viện nọ viện kia chỉ là để làm vật trang trí thôi chứ chẳng làm ăn gì được, các viện xã hội của các ông xem ra xôm trò, các Viện nghiên cứu khoa học cơ bản còn tàm tạm còn các viện nghiên cứu kĩ thuật như chúng tôi thì...hết hơi ông ạ. Ông Kỉ nói.
-         Khoa học xã hội cũng vầy vậy thôi có làm ăn gì được đâu!
-         Sao lại không? Nào là: Làm chủ tập thể, nào là xây dựng cấp huyện, xây dựng con người mới Xã hội chủ nghĩa, rồi Thời kì quá độ, chặng đường đầu tiên, bước đi ban đầu, bây giờ lại còn thêm viện Đào tạo và bồi dưỡng nhân tài..toàn những việc đại sự quốc gia, những phát minh về ngôn từ có tầm chiến lược quốc tế, sợ các ông không đủ sức làm ấy chứ...! Nghe đâu các cụ đang định thành lập Viện Hàn lâm khoa học xã hội nữa cơ mà! Tôi nghĩ cái ghế chủ tịch Viện Hàn lâm không bác thì còn ai chen vào đây được!
  Liêm cười chua chát, lái câu chuyện sang hướng khác:
-         Tôi định cho cháu đi nghiên cứu sinh tiếp, bác thấy thế nào?
-         Cháu nó đã có vợ con gì chưa nhỉ? Ông Kĩ hỏi.
-         ... Cũng chưa đâu vào đâu cả! Ông Liêm trả lời đứt quãng, nói tiếp, nói vậy thôi chứ bây giờ mình có điều khiển được chúng nó nữa đâu. Cả ngày nó im lặng, ù lì như đang nung nấu một điều gì ghê gớm lắm!
-         Nói lấy vợ cũng chưa lấy ngay được, đi nghiên cứu sinh cũng chưa đi ngay được, làm được việc gì trước ta cứ làm, chùng chình là hỏng việc.
-         Viện “Con người mới” của bác mà giải thể à! Sao vậy? Nó là một viện xương sống của công cuộc xây dựng con người mới, xã hội mới cơ mà! Nghề của ông bây giờ lại hay, nay mai về hưu việc làm không hết, thu nhập còn cao hơn khi đi làm, lại nhàn, ông Kỉ bảo.
-         Nghề của tôi, khi về hưu chỉ có đi dạy thêm chứ có làm được gì đâu mà “việc làm không hết”? Liêm nói.
-         Ừ, có học vị, có bằng cấp làm giáo sư thỉnh giảng, thù lao được trả cao, sướng quá còn gì!
-         Ở các nước, ở Sài gòn xưa cũng vậy,“Giáo sư thỉnh giảng”  là một danh hiệu cao sang. Người ta mời cả những giáo sư nổi tiếng ở nước ngoài đến giảng với thái độ rất cung kính, trọng vọng. Còn ở ta, may có quen biết cơ sở đào tạo nào, họ ưu ái giành cho mấy giờ giảng, coi đấy là một sự thông cảm giúp mình tăng thêm thu nhập, giải quyết khó khăn về đời sống. Năm ngoái tôi đi dạy ở một trường đại học, cuối tháng đến tài vụ thanh toán tiền “giờ”, Cô tài vụ ghi: Chu Liêm, G2, Tháng ... Tổng số giờ giảng.....Thành tiền....Đồng. Tôi nhận tiền ra về, cứ thắc mắc mải chữ G2, nghĩ bụng, hiện nay người ta hay dùng các từ G7, G8 để chỉ các nước tiên tiến nhất, đoán rằng trường xếp mình vào loại giáo sư nhất nhì thế giới (G2), lòng thấy vui vui, tôi ghé vào phòng giáo vụ xem lịch dạy tuần tới, gặp một cô làm giáo vụ nhờ cô giải đáp. Cô nói lễ phép dài dòng nhưng tóm lại là để dễ hiểu, dễ ghi, trong khẩu ngữ đã thành lệ của tất cả các trường, họ gọi những người đi dạy giờ như chúng tôi là “Giáo Gọi”( Nghiã là khi nào cần thì họ gọi- họ mời qua điện thoại), G2 là hai chữ  viết tắt của từ Giáo- Gọi. Hai từ Giáo Gọi này thực ra không phải là phát minh của các trường Đại học Việt nam mà là họ vận dụng cách gọi của báo chí.( “Công an đã triệt được một đường dây gái gọi cao cấp”..Báo viết thế!)
Ông Kỉ đang ngậm bụm nước trong miệng phì cười, nước bắn ra nhà , Liêm tỉnh bơ lắc lắc cái đầu. Kỉ chưa hết cười, nói:
-         Thế hệ của các cô tài vụ, giáo vụ này, có khi cả Hiệu trưởng trường này nữa chính là sản phẩm “con người mới” do ông dày công tạo ra chứ gì?
-         Thôi, thôi..Khéo khen kể bấy làm công, kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu...[10]! Có chuyện gì vui thì nói đi!
-         Chuyện của ông vừa kể là chuyện vui nhất hôm nay rồi, chẳng có chuyện gì vui hơn được. Tôi đọc ông nghe mất câu thơ vừa nhặt được sáng nay nhé!
Trước mắt họ bộ ấm trà men lam, hương bay thoang thoảng. Ông Kỉ đọc thơ.  Liêm bưng chén nước lên miệng, lắng nghe, suy ngẫm:
                                 “ Mắt là mắt của người ta
                                 Tôi đem nhắm mở như là mắt tôi...”[11]
“ Buồn, nhưng mà đúng lắm ông ạ! Câu thơ nhuốm màu thế sự!..” Liêm nói tiếp:
-         Thời gian nằm chờ trên bố trí công tác mới, có thời gian rỗi rãi, tôi tìm đọc kinh thánh. Tôi muốn biết Con người theo quan điểm của các tôn giáo và của các thể chế chính trị giống nhau, khác nhau thế nào? Tôi thấy họ không khác nhau bao nhiêu, tất cả đều giống nhau ở chỗ tìm cách biến con người thành công cụ phục vụ cho tôn giáo mình, thể chế mình. Có chăng là sự khác nhau về phương pháp và luận điệu mê hoặc. Trong kinh Thánh, nguyên mẫu con người đầu tiên mà Chúa tạo ra là con người công cụ. Chúa tạo nó ra chỉ là để canh giữ vườn Địa Đàng cho ngài. Chúa lấy đất bụi nặn ra cái thằng người đầu tiên ấy rồi hà hơi vào mũi cho nó. Đó là ngày khai sinh ra loài người chúng ta. Ông tổ của chúng ta được Chúa nặn ra từ đất. Nó không có não bộ và không được quyền có não bộ, không được quyền biết sự tốt xấu ở đời!
-         Thật thế sao? Ông Kỷ nhướn cổ hỏi.
-         Ồ! Thì ra ông không biết thực à?  Một trí thức Tây học bậc cao mà không đọc Kinh thánh là sao? Ông Liêm nói.
-         Xin lỗi ông! Kỷ nói, tôi là người Mác xít-Leninits chân chính, không bao giờ tin và đọc những thứ sách ấy! Ông nói một cách đầy tự đắc như  vậy.
 Liêm cười. Ông thừa biết cái thằng cha giả ngây, giả dại đang ngồi trước mặt mình. “Hắn thật thật giả giả chẳng biết đâu mà lường...Một thằng cha không bao giờ vào Đảng cộng sản mà lại tự xưng mình là Mác-xít Leninits chân chính thì thật là hề!..” Liêm nghĩ bụng, phân vân không biết có thật là hắn chưa đọc Kinh Thánh và chưa biết sự tích loài người theo sách này dạy hay không? Liêm ngồi yên ở tư thế của người đang nói, mắt nhìn Kỷ chằm chằm. Kỷ vẫn giương cổ, dỏng tai về phía Liêm chờ nghe.
-         Cái ngày mà Chúa tạo ra Đất- Trời ấy thì trên mặt đất này là chốn hồng hoang, không có người ở, không có cỏ cây, vì không có nước nên sự sống không tồn tại. Bổng từ dưới đất phun lên một dòng nước ngọt ngào và sự sống sinh sôi. Chúa Trời lấy đất bụi nặn nên thằng người. Bây giờ người ta vẫn nói, con người sinh ra từ cát bụi là vậy. Chúa thổi hơi vào mũi thằng người. Hắn bắt đầu hoạt động và tuổi đời của hắn được tính từ đấy. Trên mặt đất lúc này, Chúa cũng đã tạo nên một vườn cây um tùm. Cây trái sum suê, trĩu cành trông đến sướng mắt. Chúa tạo ra muôn loài từ đấy. Chúa giao cho thằng người nhiệm vụ duy nhất là canh giữ vườn Địa Đàng. Ngài nói với y:
-         Ngươi được thả sức ăn các loại hoa quả ở trong vườn nhưng tuyệt đối không được ăn quả của một cây ta trồng ở chính giữa vườn. Đó là cây có khả năng “nhận ra sự tốt xấu” . Nếu ăn quả đó ngươi sẽ chết ngay tức thì!
Chúa thấy để một thằng đàn ông đơn độc như vậy không đành lòng. Người bèn truyền cho y một giấc ngủ đê mê rồi nhẹ nhàng đưa tay rút của y một chiếc xương sườn. Chiếc xương sườn ấy được nặn thành một người đàn bà. Đấy là tổ mẫu của loài người chúng ta. Người đàn ông và người đàn bà ấy sống trần truồng quấn quýt bên nhau không thấy có sự gì ngượng ngùng, hổ thẹn cả. Họ sống trong thanh bình và hạnh phúc, thích ăn gì thì ăn, ăn bao nhiêu cũng được, muốn chơi thì chơi, muốn ngủ thì ngủ...Đấy chính là cái mô hình mà xã hội loài người hiện nay đang mơ ước hướng tới.
 Trong các loài mà Chúa trời sinh ra, Rắn là con vật tinh ranh hơn cả. Rắn hỏi người đàn bà: “Chúa Trời cấm không cho các người ăn loại quả nào ở trong vườn?” Người đàn bà thật thà  đáp: “Quả của loại cây nhận ra sự tốt xấu trồng ở giữa vườn.” Thị còn nói thêm: “Chúa bảo, nếu ai ăn quả ấy,chỉ cần đụng tay vào nó thôi thì sẽ chết ngay tức thì!” Rắn cười ranh mãnh nói với người đàn bà: “ Cứ ăn đi, chẳng chết chóc gì đâu! Chúa cấm chỉ vì sợ các ngươi ăn vào sẽ nhận ra sự tốt xấu ở đời đấy thôi! Chúa rất sợ điều này, nếu để cho người dân biết  cái dở, cái xấu của thánh thần, của thượng đế thì sẽ mất thiêng và rất khó cai trị!”
Người đàn bà hái quả ăn và còn hái cho cả chồng cùng ăn. Mắt họ bổng sáng lên. Họ nhận ra điều hay lẽ phải ở đời. Họ cũng nhận ra cả cái thối tha mục nát đang tồn tại quanh mình. Đầu tiên, họ nhìn nhau thấy ngượng, thấy sự trần truồng của mình là điều đáng xấu hổ. Họ lấy lá rừng, lấy vỏ cây khâu áo váy cho mình.
Một hôm, trời hiu hiu gió mát. Chúa trời đi dạo trong vườn. Nghe tiếng động, người đàn bà chạy vào nấp trong bụi rậm. Chúa trời thấy lạ hỏi:
-         Tại sao các ngươi chạy trốn?
-         Chúng con không có quần áo nên thấy xấu hổ! Người đàn bà trả lời.
-         Ai bảo cho các ngươi biết cái xấu hổ của sự trần truồng? Chắc các ngươi đã ăn trộm trái cấm ở giữa vườn phải không?
Thằng người run sợ thưa:
-         Chính người đàn bà bà mà chúa tạo ra đặt bên con đã hái trộm ăn và cho con cùng ăn.
Chúa tra hỏi người đàn bà. Thị thưa: “Do rắn mách bảo!”
Chúa Trời giận dữ phạt rắn và hai người nọ. Người buộc rắn phải bò lê dưới đất suốt đời, không bao giờ được đứng thẳng người lên. Ngài nói cho muôn loài biết rắn là loài độc địa nhất trong muôn loài, đừng ai gần nó. Hình phạt Chúa trời dành cho đàn bà là bắt họ phải đau đớn khi đẻ và phải chịu nằm dưới đàn ông. Người đàn ông bị đuổi khỏi vườn địa đàng, phải lăn lóc trong sình lầy gai góc, dãi nắng dầm mưa để kiếm cái ăn. Con người bị buộc phải rời khỏi vườn Địa Đàng, sống trong cảnh khổ đau ấy cho đến lúc chết sẽ trở về với cát bụi.
-         Hay! Hay! Ông Kỷ kêu lên. Chuyện ông kể tưởng là duy tâm mà lại rất duy vật cơ đấy! Chính nhờ  lao động mà cái thằng người có đầu đất sét do chúa tạo ra ấy đã trở thành con người có trí tuệ, biết tư duy như ngày nay? Hay lắm! Thì ra cái hình phạt buộc những người dám làm cho mình có trí tuệ phải đi cải tạo lao động đã được chúa sáng tạo ra từ khi loài người mới có hai cá thể! Mục tiêu của nó cũng chỉ là để trừng trị những kẻ muốn biết sự thật, biết cái tốt cái xấu ở đời.
 Liêm nhấp chén nước, nhìn ra xa mơ hồ:
-         Tôi vẫn nghiêng về học thuyết duy tâm khi lí giải thân phận của con người trên thế gian này.
-         Sao? Ông mà là người theo chủ thuyết Duy tâm à! Ông Kỷ hỏi.
-         Ừ! Tôi thấy ở đời này những người thông minh xuất chúng đều phải chịu khổ đau: Người phải lên dàn hỏa thiêu, người bị tù đày, đi cải tạo lao động trọn đời...Có lẽ những người này đã làm trái ý Chúa, không cam chịu mang cái đầu đất sét như Chúa đã ban cho chăng? Họ lại còn phanh phui cái thối tha mục nát của xã hội...Chúa trừng phạt là phải.
-         Tôi nghĩ đến cái khía cạnh khác...Ông Kỷ nói. Những vấn đề đang tồn tại trong xã hội loài người bây giờ vốn đã có từ khi loài người mới sinh ra, từ khi loài người mới chỉ có một con đực và một con cái!
-         Thế nào? Liêm hỏi. Ông nói điều gì có vẻ cao siêu vậy. Tôi không hiểu.
-         Tôi nghĩ đến cái cách “ xử án” của Chúa Trời mới thấy nó cao minh và thâm hậu biết dường nào! Rắn là thủ phạm chính, là kẻ đóng vai trò giác ngộ và thức tỉnh quần chúng. Hình phạt nặng nhất Rắn phải chịu không phải là bị xử trảm mà là phải bò sát đất, không bao giờ đứng thẳng lên được! Còn đàn bà, kẻ thực hiện hành vi phạm tội, Chúa xử một cách đầy dung tục mà thâm thúy làm sao!. Niềm vui, niềm hạnh phúc của họ là được làm mẹ, được sinh con đẻ cái, Chúa tước đoạt đi một phần niềm vui ấy bằng cách bắt họ chịu đau đớn mỗi khi sinh đẻ! Và, ngay cả cái giờ phút sung sướng khi ngủ với chồng, cái thân phận phải nằm dưới đã nhắc họ đừng quên tội lỗi trong quá khứ của mình. Buộc họ phải nghĩ đến cảnh đau đớn khi sinh đẻ sau này... Một sự đe dọa rất dã man...Chúa mở ra một con đường thoát cho các tội nhân người là, nếu ngoan ngoãn phục tùng thì sẽ được trở về với cát bụi. Khi đó Chúa sẽ nặn lại, cho tái sinh để cam phận làm một con người mang cái đầu đầy cát bụi, làm một công cụ trung thành canh giữ vườn Aden như Chúa mong muốn. Còn đối với Rắn, thủ phạm chính, kẻ chủ mưu thì không bao giờ được giảm án, dù có lột xác sang kiếp khác cũng phải chịu hình phạt áp bụng xuống đất mà bò...!
-         Ghê quá ông nhỉ! Chẳng biết các nhà  Hình luật nghĩ sao chứ như ông nói thì cách quản lí xã hội loài người từ khi con người mới xuất hiện trên trái đất đến giờ vẫn vậy, tàn bạo chẳng khác gì nhau. Ông Liêm nói, nét mặt đăm chiêu.
-         Xin lỗi ông! Kỷ nói, ông chỉ giả vờ, chứ một “Giáo sư” xã hội học như ông, ông thừa biết các cái mẹo mực ấy của kẻ cai trị qua các thời đại...Kẻ này dùng mẹo của kẻ kia rồi sơn phết lại bằng những ngôn từ đẹp đẻ để lừa mị những cái “ đầu đất sét” ấy thôi chứ có khác gì nhau!
-         Có lẽ ông nói đúng. Nhưng xin thề là tôi chưa nghĩ đến những điều như ông nói...Ông Liêm nói đầy vẻ thành khẩn.
-         Tôi công nhận những lời ông nói là thành thật. Ông chưa nghĩ đến những điều đó thật. Cũng may nếu ông nghĩ đến nó thì chắc ông cũng chỉ là một thằng bụi bặm như tôi! Tôi nói để ông biết, hồi nước ta bị thực dân Pháp cai trị. Những trí thức Việt nam học ở các trường của Pháp ra, do trí thông minh và lòng yêu nước sục sôi, họ đã tích lũy được một khối lượng kiến thức đồ sộ từ văn chương đến triết học, lịch sử...trên tài các quan bảo hộ. Nhiều tên toàn quyền đã cứng lưỡi không cãi được  trước lí lẽ đanh thép của các trí thức Việt nam đòi độc lập, tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc mình. Tên thực dân Dourneau, hiệu trưởng trường Trung học ở Gia Định đã kiến nghị với Toàn quyền Pháp ở Đông dương Jules Brévié nên biên soạn một sách giáo khoa với Năm trăm từ (500) tiếng Pháp để dạy cho học sinh Annam, làm cho bọn này (An nam) chỉ đủ để nghe được lệnh của chủ và thi hành đúng lệnh thôi. Y nói: “Nếu đào tạo cho họ trở thành những người thông thái như chúng ta đang làm lâu nay thì đám người này sẽ trở thành những người phu mộ chôn vùi chúng ta. Tất cả những người lãnh đạo cộng sản An Nam, những người đang giương cao ngọn cờ đòi tự do, dân chủ, nhân quyền... nhằm tập họp dân chúng chống lại chúng ta đều từ mái trường của nước Pháp mà ra cả...Nền giáo dục của Pháp ở hải ngoại phải được cải cách triệt để nhằm đào tạo ra những người đầy tớ, những người làm thuê kiểu mới chứ không phải đào tạo ra những người làm quan như chúng ta đang làm. Nếu họ không đọc được báo chí, sách vở ngoại quốc thì làm gì họ biết đến tự do dân chủ, nhân quyền...! Ta bảo gì họ nghe vậy thôi...”
-         Tôi thật có mắt mà không trông thấy núi Thái Sơn ngay trước mặt của mình. Tôi biết ông là một nhà ”Tây học” uyên thâm, biết ông đã từng là một người tiên phong trong các cuộc biểu tình đòi tự do dân chủ, nhân quyền cho người Việt ngay từ khi còn là sinh viên du học ở Pháp...Những bài báo ông viết hồi ấy làm sôi sục lòng người, như ngọn lửa thiêu góp phần thiêu rụi cái chế độ bạo tàn ấy...Sao bây giờ...
 Kỷ cười móm mém:
-         Tôi hiểu ý ông. Tôi chỉ là đứa “Học đã sôi cơm nhưng chửa chín...”[12] Tôi chết vì bệnh nghề nghiệp. Cái giáo dục của thằng Tây nó nói như thật, nó làm như những giá trị Tự do-Dân chủ- Nhân quyền ấy là có thật và nhân loại có quyền được hưởng. Sự thực không phải thế. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, thậm chí là mỗi nhóm xã hội tiếp nhận cái giá trị ấy với những mục đích khác nhau. Ở các xã hội thuộc địa kém phát triển nó được sử dụng như một thứ vũ khí. Kẻ thống trị dùng nó để nô dịch, ru ngủ quần chúng. Kẻ bị trị sử dụng nó để tập họp dân chúng nhằm giành cái ngai vàng mà kẻ đương kim thống trị đang ngồi. Khi đã ngồi trên cái ngai vàng rồi, họ sẽ trở thành kẻ “qua cầu rút ván”, họ sẽ tìm cách hạn chế, thủ tiêu những giá trị về tự do dân chủ...mà họ đã từng sử dụng như một công cụ hữu hiệu để tập họp quần chúng và giành lấy được ngai vàng. Cái thằng tôi này ngu lâu, cứ muốn xả thân để biến các giá trị ấy thành hiện thực. Tôi là thằng ngớ ngẩn. Ông hiểu chưa?
 Liêm cười khan, nhìn người bạn “bụi đời” ngồi trước mắt mình đầy vẻ thông cảm và kính trọng: “Từ nay tôi xin làm đệ tử của ông! Được chứ?”  Liêm nói.
 Bà Nhân, vợ Liêm tay bưng đĩa hoa quả từ trong nhà  bước ra nói:
-         Mời hai ông ăn đi cho ngọt giọng mà bàn chuyện chính trị!
-         Thôi! Cám ơn bà. Bọn tôi bây giờ ăn của chua thì ghê răng, ăn của ngọt thì sợ đái tháo đường, chỉ còn xài được hai thứ là muối vừng và đậu phụ thôi. Kỉ nói.
 Liêm xen vào:
-         Thế đấy bà ạ! Chúng tôi là người hạnh phúc nhất, được tự do tán chuyện phiếm, được thỏa mãn nhu cầu muối vừng, đậu phụ, được hưởng chế độ làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu!
Bà Nhân đã quay lưng đi vào nhà  còn ngoái lại bảo:
-         Sao các ông ngồi đâu cũng nói chuyện chính trị. Nghiện chính trị như nghiện ma túy thế! Tôi thấy ông độ rày sặc mùi yếm thế, không hăng hái “tiến lên hàng đầu...”như mấy năm trước! Sao vậy?
-         Chết thật! Cái bà này! Liêm nói, một cán bộ cỡ như bà, thế mà gọi những điều chúng tôi vừa nói là chính trị sao? Không khéo bà gieo họa cho chúng tôi đấy! Chúng tôi đâu dám lạm bàn chuyện ấy! Chưa ai giảng cho bà chính trị là gì hả? Tôi sẽ nói cho bà biết để nay mai về thế giới bên kia nếu bà còn được tín nhiệm làm cán bộ công đoàn, lãnh đạo giai cấp công nhân, có cái cần câu cơm mà sống...
-         Ông chỉ được cái gở mồm... Nhân gắt.
-         Ai rồi cũng phải chết, có gì mà gở! Sống vì nghề, chết vì nghề. Ở dưới đó giai cấp công nhân chắc sẽ đông đúc, công tác giáo dục bồi dưỡng nhân sinh quan cộng sản chắc chắn sẽ được đề cao. Bà sẽ được trọng dụng đấy!
-         Thôi, thôi...Tôi lạy ông, muốn sống phải biết giữ mồm giữ miệng một chút! Nhân nói, tôi mang bộ cờ tướng ra để hai ông chơi cho nhẹ cái đầu, Mọi chuyện khác xin các ông cho nó vào sọt rác đi!
-         Bà tưởng đánh cờ là quên đi chuyện đời được sao? Đúng là...
-         “Đúng là...” gì? Nhân đay lại.
-         Đúng là...Đàn bà! Liêm nói. Mọi cái đáng sợ của cuộc đời đều có trên bàn cờ tướng. Từ âm mưu thủ đoạn, mánh khóe lừa lọc đẩy nhau vào cửa tử đều hiện lên trên bàn cờ. Một thằng bất tài như tôi mà cầm quân thì chẳng mấy chốc lũ tốt đen sẽ vượt sông tràn vào cung...Không đánh cờ bà không biết chứ cái lũ tốt đen vô danh tiểu tốt chỉ biết tiến không lùi ấy mà vào cung thì xe không dám đứng trước mặt, pháo phải chạy xa, sĩ tượng hoang mang, tướng khốn cùng đấy!
 Nhân ngúng nguẩy đi vào trong, vừa đi vừa lầu bầu:
-         Không là “Đàn bà” thì liệu ông có chăn gối được cả đời với một thằng đàn ông không?
-         Bà Nhân này! Ông Kỷ gọi dật lại pha trò. Bày ra cái chuyện đàn bà, đàn ông, xếp đặt kẻ trên người dưới đều do một tay Chúa làm ra cả. Chúng tôi vô can, chỉ cần cù thực hiện nhiệm vụ do Chúa giao cho, không dám hỗn láo với đàn bà đâu!
Nghe Kỷ pha trò, Mặt Liêm tươi lên, nhìn vợ nói theo:
-         Giá Chúa cứ đặt đàn ông, đàn bà bình đẳng, ngang nhau, sấp cùng sấp, ngửa cùng ngửa  không có chuyện kẻ trên người dưới thì làm gì có chuyện sinh con đẻ cái. Trái đất cần bao nhiêu người Chúa chỉ cần đào đất nặn ra theo chỉ tiêu kế hoạch hàng năm có hơn không? Bây giờ con người sinh đẻ tùm lum. Nạn Nhân mãn đang đe dọa loài người. Người ta phải tạo ra chiến tranh, nạo phá thai, tốn công, tốn của sản xuất thuốc tránh thai, bao cao su...mà không ngăn được. Thậm chí có nước còn lập ra Bộ sinh đẻ có kế hoạch, cử những người tài ba nhất để chỉ huy cái việc đẻ đái vô tổ chức này mà vẫn không xong!
-         Nếu không có cái sai lầm muốn biết điều tốt xấu của cụ tổ chúng ta ấy thì bây giờ trái đất đúng là thiên đường chẳng cần phải mất công tốn bao xương máu để làm cách mạng! Con người chỉ ngồi chơi tán dóc, hái quả ngon trong vườn Địa Đàng mà ăn, chẳng cần lo cày ruộng làm vườn, dầm mưa dải nắng gì cả. Chúa cũng nhàn, chỉ cần dạy dân có một điều: “Cấm không được biết sự tốt xấu, cấm nhận ra sự thật ở đời... Bộ luật của Chúa chỉ có một chữ cấm. Mọi việc im re...Nói chưa hết câu, với nụ cười nửa miệng, ông Kỷ đứng dậy ra về.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
3
 
 
Câu nói của ông Kỷ trước lúc ra về như thức tỉnh một điều gì đó. Liêm ngẫm nghĩ: “ Thì ra pháp luật của mọi chế độ xã hội loài người đều ngoại suy từ cái “Luật Mẹ” của Thượng đế ban ra từ cái thủa khai thiên lập địa, từ khi sinh ra cái thằng người đầu đất sét đầu tiên ở hạ giới này! “Cấm!” Và, kìm hãm con người trong ngu dốt, không cho họ có điều kiện để nhận ra sự tốt xấu hay dở ở đời...”  Chẳng phải đến bây giờ, từ xa xưa, một kẻ ngu dốt nói trái đất hình vuông, đúng như trong  Kinh Thánh, được coi là nhà thông thái. Người chứng minh ra trái đất hình tròn trái với Kinh Thánh bị coi là dị giáo, phải chịu cực hình lên giàn hỏa thiêu. Quản Trọng được coi là người hiền tài vì dựng được nghiệp bá cho Tề Hoàn công. Ở ta, thiên hạ gọi Cao bá Quát là Thánh Quát (Thần Siêu, Thánh Quát)[13] nhưng chống lại nhà Nguyễn nên bị triều đình coi là tên giặc Châu chấu. Giá trị của một con người, thang bậc của họ trong xã hội được xác định bằng mức độ vâng phục ý Chúa. Mà ý Chúa, ý Vua, ý của kẻ thống trị chính là những thủ đoạn để duy trì quyền lực của chúng. Nó trở thành nhân tố ngự trị lên vận mệnh của một dân tộc, của từng cá nhân con người trong xã hội. Những “Ý” ấy là gì? Đó là những quyền lực vô hạn, là những món lợi khổng lồ mà chúng được quyền bòn rút trên lưng hàng triệu những “thần dân”ngoan ngoãn cúi đầu vâng phục tuân theo “Ý chúa!”  
Liêm phục cái vĩ đại của những người đã phát minh ra các từ “Thượng Đế- Trời- Quy luật khách quan”, người đó đáng được phong cái học vị cao nhất và nhận phần thưởng cao nhất về khoa học cai trị. Nhờ đó những kẻ thống trị mới có chỗ để nhân danh mình là đại diện cho các Đấng tạo hóa ấy, hợp pháp hóa cái chỗ ngồi trên đầu nhân dân.
Bổng, Liêm đập bàn đứng dậy đi đi lại lại, vừa đi vừa nói: “ Thì ra thế! Thì ra thế!...” Nhân hốt hoảng chạy ra: “Ông làm sao vậy! Ông...Ông...” Liêm cười, ngồi xuống, ngước mắt nhìn vợ:
-         Tôi vĩ đại...thực sự vĩ đại bà ạ! Ông gật gù đầy vẻ đắc chí.
-         Thế nào? Nhân hỏi dồn...Ông làm sao ấy!?
-         Đợi đấy! Hồi sau sẽ rõ! Người ngoài bây giờ nhìn tôi, người này bảo: tôi là kẻ công thành danh toại, người có đóng góp to lớn cho xã hội, kẻ kia lại nhếch mép cười ruồi, coi tôi là kẻ cơ hội: “Chào Giáo sư viện trưởng..!” Đêm đêm tôi trăn trở với những lời khen tiếng chê ấy. Dù ngôn từ có khác nhau: “Công thành danh toại...Giáo sư Viện trưởng...” thì trong mắt họ tôi chỉ là một thằng Xuân tóc đỏ thôi!
-         Bị coi là “Xuân tóc đỏ” sao lại còn tự phong mình là vĩ đại?  Hớn hở thế kia? Nhân nói.
-         Vấn đề là chỗ ấy! Không là “Xuân tóc Đỏ” thì làm sao vĩ đại được! Tôi được khen thưởng, được phong tước phong hàm cao ngất ngưỡng, chính lúc đó tôi cũng không hiểu vì sao. Đôi lần buồn, lật luận văn của mình ra đọc, xem mình đã viết gì trong đó, nhiều chỗ thấy nó ngây ngô buồn cười. Cái đoạn của luận văn được gạch chân, được khuyên đỏ, được coi là một cống hiến khoa học của tôi, đó là cái đoạn mà khi đọc lại tôi thấy nó lố bịch, ngốc ngếch...
-         Đoạn nào? Nói về cái gì?
-         Đoạn nói về bài học của phép cai trị. Tôi viết: “ Sai lầm, thiếu sót lớn nhất của giai cấp tư sản trong nghệ thuật quản lí xã hội là họ chỉ mới dừng lại ở chỗ chỉ biết lợi dụng Nhà Thờ chứ chưa dám đồng nhất Nhà  thờ với Nhà  nước. Không biết cách làm cho người dân yêu kính tổng thống như con chiên yêu kính Chúa. Họ đã không biết sử dụng các bài quảng cáo làm bài xã luận..Mà, chính những điều này đã được các nhà  thần học, triết học của Đạo Cơ đốc giáo tự do[14]đề xuất từ thế kỉ 19...
  Nhân cầm lấy bản luận văn Tiến sĩ của chồng, đọc lại đoạn văn trên, ngoài lề, một vị giám khảo nào đó đã gạch đúp hai nét đỏ song song, ghi mấy chữ rất to: “Hay!, Gợi ý hay!..” Bà hỏi:
-         Thế ông vui ở chỗ nào cơ chứ?
-         Tôi vui vì bây giờ mới nhận ra mình vĩ đại, tôi phục tôi quá! Nếu xếp loại, dù với tất cả sự khiêm tốn, tôi thấy mình chỉ đứng sau cái người đã phát minh ra khái niệm “ Trời- Thượng đế- Quy luật khách quan” Tôi là người đầu tiên viết thành văn bản giúp cho các nhà  quản lí biết sử dụng cái khái niệm hư vô ấy vào hiện thực cuộc sống, xây dựng thành một thiết chế quản lí xã hội bảo đảm sự trường tồn... Chính cái lố bịch ngốc nghếch ấy làm tôi trở thành con người nổi tiếng đấy bà ạ!
-         Ông nhiễm cái thói diễu nhại, cười cợt của ông Kỷ từ lúc nào ấy?  Nhân bảo chồng. Tôi cũng nghe người ta đàm tiếu về ông, nhưng họ hay nhắc đến cái câu gì cơ chứ không phải đoạn trên!
-         Câu gì? Nói hồi nào? Tôi đi giảng bài khắp nơi...Bà không để ý chứ lời của tôi được trích dẫn trong các báo cáo khoa học, trong các luận văn tiến sĩ, Thạc sĩ đầy, không nhớ hết được!
-         Cái câu gì ông nói trong cuộc hội thảo về Pe-re-xtrôi-ca của Liên Xô ấy. Họ bảo chính nhờ cái câu ấy ông mới được đề bạt Viện trưởng, mới được giải thưởng đấy! Nhân giúp ông nhớ lại.
-         Rồi! rồi! Nhớ rồi...Ông lặng yên một lát rồi nói tiếp. Cái hồi ấy chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu vừa sụp đổ. Ta có cử một đoàn cán bộ cấp cao sang Liên xô nghiên cứu tình hình. Thành phần của đoàn chủ yếu là các cán bộ chính trị. Đoàn vừa về, họ mở một cuộc hội thảo khoa học lớn ở Hội trường Quốc gia. Theo họ thì sự sụp đổ của Liên Xô là do sai lầm buông lỏng công tác lãnh đạo chính trị tư tưởng. Công tác cán bộ thiếu chặt chẽ để cho những phần tử cơ hội hữu khuynh, các phần tử do địch cài cắm chui vào nắm giữ các cương vị then chốt trong đảng, trong chính quyền, để cho báo chí tự do phanh phui sự thật, kích động quần chúng...Mất cảnh giác với thủ đoạn làm “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc... Các nhà  khoa học thì khác, nhân danh câu khẩu hiệu nổi tiếng của công cuộc cải tổ: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật..” Họ phê phán gay gắt những sai lầm, khuyết điểm, duy ý chí của công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa không chỉ ở Liên xô mà còn có tính phổ biến ở hầu hết các nước Xã hội chủ nghĩa. Có người bạo gan nói sai lầm này bắt nguồn từ học thuyết...đây là lỗi hệ thống và sự sụp đổ ấy mang tính tất yếu... Cãi nhau loạn xạ. Ông H chủ trì hội thảo bối rối nhìn tôi. Thực ra, tôi không hiểu gì tình hình, về những điều đang xảy ra trong thế giới xã hội chủ nghĩa. Tôi không phải là thành viên của đoàn đi nghiên cứu tình hình Liên xô. Tôi không biết một ngoại ngữ nào, không đọc được báo chí nước ngoài. Tôi chỉ hiểu được tình hình qua báo chí trong nước. Biết vậy, đến hội nghị tôi tìm một góc khuất để ngồi, thực hiện phương châm: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe!” Ngờ đâu ánh mắt đồng chí chủ tọa liếc qua và bắt gặp ánh mắt tôi. Tôi liền đứng dậy, quyết làm một “Lê Lai liều mình cứu chúa”. Tôi chậm rãi bước lên bục diễn đàn. Tôi nói ào một câu: “ Dù lịch sử thăng trầm đến đâu, chúng ta phải vững tin rằng sự thắng lợi của chủ nghĩa Cộng sản trên phạm vi toàn thế giới là điều tất yếu, Và, thế kỉ 21 sẽ là thế kỉ của chủ nghĩa xã hội..” Tôi nói như đinh đóng cột rồi bước xuống, mắt nhìn thẳng như đi vào chỗ không người.
-         Tôi hỏi thật, ông có thật sự tin vào những điều mình nói, mình viết hay ông chỉ làm cái trò bịp thiên hạ để mưu danh, kiếm lợi? Nhân hỏi chồng.
-         Con người tự nhiên và con người công cụ thường khác nhau. Bất cứ ai khi hành động với ý thức về vai trò lịch sử mà mình đang đảm nhiệm thì hành động của họ thường là giả dối. Các Giáo sĩ không phải họ không biết Giáo chủ của họ cũng chỉ là một thằng người, cũng có đủ Tham, sân; si...nhưng những giáo sĩ được coi là tài năng phải biết cách làm cho dân chúng tin tưởng, tin tưởng một cách tuyệt đối rằng Giáo chủ là người thánh thiện, là hiện thân của Chúa để chăm sóc phần hồn cho nhân gian, củng cố cái vị trí nhân danh Chúa của Giáo chủ được trường tồn... “Học thuyết” của tôi tóm gọn trong hai chữ “Nhân danh”, vua được yên ổn ngồi trên ngai vàng nhờ nhân danh mình là Thiên tử thay trời trị dân... Họ biết tạo ra những điều có khả năng lừa mị được số đông. Phò tá Thánh thượng một cách đắc lực là những người tự nguyện mắc lừa . Họ được coi là những bậc hiền tài, là rường cột của quốc gia, được  ban tước cao, lộc hậu. Những bậc “hiền tài”- những kẻ tự nguyện mắc lừa ấy, đến lượt mình, họ biết cách làm cho dân chúng tin rằng cái vị trí mà Thánh thượng đang chiếm giữ  không phải là bất hợp pháp mà đó là do ý Chúa, mệnh trời...! Những người cầm quyền thường tìm cách tự phong hoặc đồng hóa mình với các bậc thánh nhân hay kẻ đã tu hành đắc đạo nhận lãnh trách nhiệm giáo hóa con dân. Nhưng thực chất họ là ai? Họ cũng chỉ là những người dân mưu sinh. Họ chỉ khác dân thường ở chỗ công cụ mưu sinh của họ là quyền lực mà quyền lực thì luôn luôn có xu hướng tha hóa, bị lạm dụng để mưu lợi cho bản thân họ, gây thiệt hại cho người dân, làm băng hoại xã hội... Hôm nọ ngồi nói chuyện với Kỷ, ông ta hỏi tôi:
-         Theo ông thằng đi lừa người khác và thằng bị lừa đứa nào đáng xấu hổ hơn?
Tôi trả lời theo sách vở:
-         Tất nhiên thằng đi lừa là kẻ xấu xa, tội lỗi, kẻ bị lừa là người hiền lành đáng thương...
-         Không phải thế, còn nghĩ thế là còn chấp nhận, dung thứ cho sự ngu muội của chính mình. Về luật pháp, người ta bỏ tù thằng đi lừa là đúng. Nhưng thằng đi lừa có quyền tự hào là nó có trí tuệ hơn thằng bị lừa. Người bị lừa không biết xấu hổ vì cái ngu đần của mình thì không bao giờ khôn lên được, xã hội cũng không tiến lên được. Người đáng xấu hổ là kẻ bị lừa!.. Ông Kỷ biện minh.
Nghĩ lại, tôi càng thương hai đứa con. Chúng nó là những con chuột trong cái phòng thí nghiệm “Đạo đức học” của tôi!...
 
 Liêm có hai thằng con trai. Từ lớp vỡ lòng cho đến hết cấp một, cấp hai rồi cấp ba chúng vẫn ngồi ở hai cái ghế ấy. Hai cái ghế đối diện trước mặt ông trong bàn ăn. Như một phản xạ có điều kiện đã được thiết lập, ở cái giờ sắp bê bát đưa lên miệng, chúng nó phải trả lời ông hàng loạt câu hỏi, phải nghe ông uốn nắn, chấn chỉnh về tác phong, thái độ, về nhận thức tư tưởng...Ước nguyện của ông là phải rèn dũa hai con ông thành những “con người mới xã hội chủ nghĩa” điển hình. “Đã được quàng khăn đỏ chưa? Đã vào đội, vào đoàn chưa? Vào đảng chưa?” Ông đau khổ đến phát điên lên, có bữa ông bỏ cơm vì thằng con cả ông, thằng Châu học hết lớp 9 mà chưa vào Đoàn. Ông ít khi hỏi đến ở trường chúng học những môn gì, kết quả học tập ra ra sao. Ông thường nói với chúng: “ học giỏi đến mấy mà không đoàn, không đảng thì cũng là đồ “ vứt đi!” May sao đến đầu lớp 10, thằng Châu được kết nạp vào Đoàn. Nhờ vậy, cuối khóa anh được cử đi học ở Liên xô. Nếu không vào đoàn chắc đời anh ta sẽ chuyển sang một hướng khác. Cái ngày Châu nhận được giấy báo đi học nước ngoài, ông Liêm rất băn khoăn vì lúc đó ở Liên xô đang thịnh hành “Chủ nghĩa xét lại hiện đại”. Ông sợ con mình non nớt, dễ tiêm nhiễm phải cái “nọc độc” ấy. Theo ông nếu nhiễm phải cái thứ ấy là “vứt đi!” Ông nói với vợ ý định của ông cho Châu ở nhà  đi bộ đội ba năm để rèn luyện, phấn đấu rồi sẽ tiếp tục đi học sau. Bà Nhân kiên trì thuyết phục ông cho Châu đi học nước ngoài. Ông đã để giành mấy tuần lễ để “chỉnh huấn” cho con trai. Ông may cho Châu một bộ áo đại cán bằng dạ Mông Tự của Trung quốc và xin đâu cho anh một bộ đồ của sĩ quan cấp tá bằng len màu cứt ngựa. Ông bắt Châu mặc vào, đi lại để ông ngắm. Ông khen rối rít: “Đẹp lắm, oách lắm ra dáng là một sinh viên rồi! Cứ thế mà mặc, không com lê cà vạt gì sất.” Ông nghiêm mặt nhìn Châu nói:
-         Bố nói để con biết, ta sang đấy cốt là để học tập cái khoa học kĩ thuật của họ. Nhưng, con nên nhớ, dù khoa học kĩ thuật có giỏi đến mấy mà lập trường quan điểm bấp bênh là “vứt đi.” Bây giờ ở bên ấy, chủ nghĩa xét lại đang thịnh hành ăn sâu vào mọi ngõ ngách của đời sống, làm lung lạc cả ý chí của giai cấp công nhân. Một quản đốc phân xưởng người của giai cấp công nhân hẳn hoi mà có những...6 cái cà vạt...Tiêm nhiễm lối sống tư sản đến vậy đó...!
Ngôn ngữ của Châu đối với bố chỉ có hai từ: “Vâng...Dạ.” Cuối năm thứ nhất, Châu gửi thư về cho bố mẹ. Chưa kịp đọc thư, ông lấy tấm ảnh của Châu ra xem. Ông hét lên...”Hỏng...Hỏng rồi bà ơi!”
Bà Nhân hốt hoảng, tưởng con mình có mệnh hệ nào chạy ra:
-         Sao?...Nó bị làm sao hở ông?..
Không nói, không nhìn mặt bà, ông cầm tấm ảnh đưa ra đàng sau qua vai:
-         Bà xem đi thì biết! Tôi đã bảo mà...Bà không nghe lời tôi, cứ hám đi nước ngoài, thế là “Vứt đi” rồi bà ạ!
-         Nhưng nó làm sao?
-         Bà không nhìn thấy gì hả? Xem cái quần...
-         Nó khỏe mạnh béo tốt, quần áo tươm tất, có làm sao đâu?
-         Bà rất thiếu nhạy cảm chính trị! Một người có bản lĩnh chính trị chỉ nhìn qua là biết bản chất của sự việc...Bà không nhìn thấy gì thực hả?
-         ....Bà Nhân đứng im ngơ ngác, hết nhìn bức ảnh lại nhìn nhìn ông Liêm.
-         Cái “quần ống loe” rộng tóe loe ấy bà không thấy thật sao! Mới sang hơn năm mà đã học đòi thế rồi. Học xong năm năm liệu cái đầu óc nó nghĩ gì? Nó có thành “con người mới Xã hội chủ nghĩa” được chăng? Ông nghĩ lấy hơi rồi nói tiếp:
-         Bà xem cái đầu nó kìa! Tóc để dài chấm vai như đầu con gái, đúng là nửa người, nửa ngợm!
 Ông Liêm lên Bộ Đại học đề nghị cho rút Châu về để anh đi bộ đội rèn luyện thêm. Ông nói với Bộ:
-         Trong công tác đào tạo con người mới, chúng ta phải đặt công tác giáo dục chính trị tư tưởng lên hàng đầu. Phải xác định đúng vị trí: “ Chính trị là gốc, là thống soái, tư tưởng dẫn đầu...” Lơ là khâu này là “Vứt đi!”
 Ông ra về, lòng vẫn hậm hực nhưng nỗi giận vơi dần. Ông thôi ý định đòi đưa Châu về cho anh đi bộ đội.
 Châu tốt nghiệp về nước. Anh xuất trình tấm bằng đỏ cho ông. Không vồ vập, ông đưa tay cầm tấm bằng trong tay con, nói:
-         Được, tốt lắm! Nhưng để thành Con người mới xã hội chủ nghĩa con còn phải rèn luyện phấn đấu nhiều hơn nữa.
 
 
 Đó là câu cửa miệng của ông, không phải ông chỉ giành riêng cho vợ con trong gia đình mình mà với bất cứ ai (trừ cấp trên của ông). Đó là một thói quen giao tiếp trong nghề nghiệp của ông. Nghề nghiệp nào cũng để lại những di chứng của bệnh nghề nghiệp nhưng riêng cái nghề của ông- nghề chuyên đi giáo dục uốn nắn người khác, cái di chứng ấy gây khó chịu cho những ai khi tiếp cận với ông. Ông tự đặt mình cao hơn người khác một cái đầu, luôn luôn răn dạy người khác. Một Cha cố cũng chỉ rửa tội cho những con chiên nào tự nguyện đến nhà thờ xưng tội và tự nguyện xin được rửa tội, còn ông, ông có trách nhiệm “rửa tội” cho toàn xã hội, cho tất cả mọi công dân để họ trở thành “con người mới Xã hội chủ nghĩa” dù họ tự giác hay không tự giác nghe ông. Ông có trách nhiệm chuẩn bị cho mọi người dân của xã hội có đủ điều kiện để sống trong thiên đường trên trái đất nay mai. Ông không cần người đó phải “xưng tội”, ông chủ động chỉ ra cho họ biết “tội lỗi” của từng người và chỉ ra con đường cho họ phấn đấu để “ rửa sạch tội lỗi”, trở thành con người mới Xã hội chủ nghĩa. Tất cả mọi người trên đất nước này đều là Con chiên của ông. Cả đời ông, ông đã cống hiến cho sự nghiệp “trồng người.” ấy . Nó đã đem lại cho ông ánh hào quang và sự vinh hiển của cả gia đình mình. Một gia đình “Toàn gia đại học” mà đỉnh cao là ông, giáo sư tiến sĩ, đứa con út, thằng Thạch, được sang Trung quốc học từ lớp bảy, nay đang học năm thứ nhất của “Bắc kinh đại học.” Nay mai, đến lượt chúng nó, rồi thằng Châu, thằng Thạch...đều sẽ trở thành tiến sĩ hết nếu chúng nó muốn. Người ta gọi gia đình ông là một gia đình kiểu mẫu của chủ nghĩa xã hội. Có những hội nghị, có người phát biểu: “Khi xây dựng xong chủ nghĩa xã hội thì mọi gia đình trong xã hội ấy đều giống như gia đình giáo sư Chu Liêm bây giờ!...” Người ta coi ông là một nhà  lí luận có năng lực thực tiễn cao, trước khi  làm cho toàn bộ con người trong xã hội trở thành “Con người mới Xã hội chủ nghĩa” ông đã xây dựng cho các thành viên trong gia đình ông trở thành những tấm gương của con người mới xã hội chủ nghĩa tiêu biểu...
Giờ đây, khi đã ở tuổi xế chiều, những lúc cô đơn ngồi nhìn lại cuộc đời, tất cả những “Thành tích, công lao, cống hiến...” của đời mình hiện ra nguyên hình, đầy ắp trong ngôi nhà  ông. Trên bức tường trước mặt, trong ngôi nhà  vắng lặng của ông.  dán chi chít tất cả những phiếu bé ngoan, những bằng khen học sinh tiên tiến, học sinh giỏi, đoàn viên bốn tốt...của hai đứa con từ năm lớp một đến hết phổ thông, và những bằng khen, giấy khen, huân chương, huy chương... của chính quyền, của đảng, của công đoàn tặng cho vợ chồng ông...Ở giữa nhà , những nơi trang trọng nhất bày những thứ đồ cũ từ Liên xô mang về nào đài Ri gon đa, nào quạt tai voi đến cái nồi hầm[15] thần diệu có thể ninh nhừ cả cái xương ống của những con bò già nhằm tăng cường can xi, bồi dưỡng sinh lực cho những tâm hồn cách mạng thêm bay bổng hướng tới tương lai huy hoàng...Trong những bài giảng về chính trị kinh tế học “Có cánh” của mình, các sản phẩm trên được ông đưa ra làm dẫn chứng cho tính ưu việt nổi bật của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa...
 Quá khứ dù rạng rỡ đến mấy rồi cũng nhạt nhòa, cũng chỉ tồn tại trong hư ảo. Những từ “ huy hoàng, sán lạn..”chỉ dùng cho thì tương lai. Khi đã ở phía bên kia dốc của cuộc đời, những cái gì thuộc về riêng mình, những kỉ niệm của một thời ấu thơ, những tình yêu chớm nở đầu đời, kể cả cái nhìn trộm lên khoang ngực của cô hàng xóm đang tuổi dậy thì, hai núm vú nhỏ vừa nhô cao đủ để nâng tà áo mỏng lên cho gió sớm lùa vào mơn man..tất cả cứ hiện về một cách thiêng liêng, quyến rũ.. “Buổi sáng ấy tôi chuẩn bị lên đường đi tập kết...” Liêm đang nói, không biết nói với ai, có phát ra âm thanh hay chỉ nói với lòng mình, hay nói với người thợ đá để họ khắc lại “thiên tình sử” này lên bia đá, dựng lên bên cạnh những tấm huân chương, huy chương đang treo trên tường...
“... Thật không ngờ, tôi vừa chuẩn bị xong ba lô đồ đạc thì Huyền bước vào, vẫn đôi mắt sáng trong như dòng sông ấy, vẫn nụ cười với hàm răng trắng ánh lên như ngọc ấy...Tôi sững sờ, không biết mình đang ở trong mơ hay thực. Tôi thầm yêu Huyền, yêu lắm, đôi khi hai ánh mắt chúng tôi bắt gặp nhau, chỉ một thoáng thôi rồi mỗi đứa một nơi, không ai nói gì với ai. Tôi cảm thấy như từ ngày ấy Huyền lớn nhanh hơn, đôi má hồng hơn..Chỉ có một lần, vào một đêm đã khuya khuya, tôi đi họp về, đến ngõ vừa thấy bóng Huyền đi ra, trời tối, chúng tôi “vô tình” vấp vào nhau. Tôi ôm choàng lấy Huyền, định đặt lên môi Huyền một nụ hôn nhưng khốn thay, khi tan họp thằng bạn cho tôi điếu thuốc, tôi ngậm lên môi như là đèn báo hiệu có người đi trong đêm tối, đến đầu thôn tôi vội nhỗ ra, miệng tôi sặc mùi thuốc lá, tôi không nghiện thuốc nên thấy mùi này ghê ghê, tôi không không dám đặt đôi môi nồng nặc mùi thuốc lá của tôi lên môi em sợ làm mất cái cảm giác thiêng liêng của cái nụ hôn đầu đời. Tôi hôn vội lên mái tóc em, lên cổ và ngực em. Tôi ép em vào sát người mình, đắm đuối, ngạt thở... Một tiếng động từ ngoài vườn. Tôi buông vội buông Huyền ra, tôi đi vào nhà , em ra ngõ..
“Cũng từ cái hôm ấy, tôi ngượng ngùng không dám nhìn thẳng vào mặt Huyền, chỉ sợ Huyền nghĩ tôi là người không đứng đắn...Tôi cố nhớ lại cái giây phút tôi ôm Huyền vào lòng ấy, không biết phản ứng của em lúc ấy ra sao? Tôi không nhớ được gì cả, chỉ biết lúc ấy trái tim mình đập liên hồi như muốn vọt ra khỏi lồng ngực, trái đất như quay cuồng. Chưa kịp định thần, chưa thốt ra được một lời yêu...thì cái thanh củi mục quái ác nào đấy từ ngọn cây rơi xuống gây ra cái tiếng động khốn khổ kia làm tôi hoảng sợ tưởng có người nào đó đang đi tới, đã nhìn thấy hành vi vụng trộm của chúng tôi.. Từ ấy, tôi chỉ dám nhìn trộm Huyền, đôi mắt ấy vẫn sáng long lanh, nhưng nó xa xăm, vời vợi hơn, khuôn mặt vẫn dịu dàng, kín đáo như đóa hoa mới hé nở, nụ cười cũng e ấp hơn. Huyền thường tránh xáp mặt với tôi hơn. Huyền vẫn qua nhà  tôi trọ luôn, hình như qua nhiều hơn trước đây nhưng chỉ ở dưới bếp, chỉ nói điều gì khe khẽ với ai đó, có cả tiếng cười rúc rích nữa rồi đi ra...Tôi chỉ kịp nhìn theo cái khuôn mặt có nét cười rạng rỡ ấy và cái lưng ong của em mờ tỏ sau vườn chè. Tôi chỉ biết trời đang nổi gió khi thấy mái tóc dài em bay bay và chiếc áo lụa em mặc dán chặt hơn vào cái thân hình chưa hết độ nở nang.
“ Tôi chỉ có hai ngày để chuẩn bị cho việc đi “Tập kết”[16], đã mất một đêm để về thăm và chào bố mẹ tôi trước khi lên đường ra bắc. Hiệp định Geneve về Đông dương đã có hiệu lực, nhà  tôi ở vùng địch tạm chiếm, sát nách đồn địch, tôi có thể về thăm nhà  vào ban ngày nhưng thói quen lẩn trốn khiến tôi sợ. Tôi phải chờ lúc mặt trời xuống núi mới lén về nhà . Bố mẹ tôi mừng mừng tủi tủi. Mẹ tôi ôm tôi khóc. Mẹ hỏi:
-         Con đi mấy năm nữa thì về?
-         Thưa mẹ, hai năm, chỉ hai năm thôi, bằng thời gian con xa bố mẹ lên rừng thôi mà!
Mẹ tôi vẫn nắm chặt tay tôi, nước mắt ràn rụa. Mẹ lại xoa đầu tôi hỏi:
-         Con đã nhắm được nơi nào chưa? Có thì nói cho bố mẹ biết, bố mẹ biện cơi trầu đến thưa chuyện với người ta cho phải phép, hai năm con về cưới xin là vừa. Có chạy đi chạy lại bố mẹ cũng đỡ nhớ con hơn.
Ông Ân (bố Liêm) cả buổi ngồi im nhìn con đăm đắm, nghe bà nói đến chuyện vợ con cho Liêm, ông lên tiếng:
-         Có rồi thì cũng tốt, năm nay con mới 21, đó là cái tuổi đang đẹp để yêu nhưng ở cái thời buổi nhiễu nhương này, chẳng ai biết mai ngày sẽ ra sao, mang vào người gánh nặng thê nhi cũng phiền nhiễu lắm con ạ!
Liêm cúi mặt xuống đất, vò đầu...Ông Ân hiểu ý con, nói:
-         Nếu đã nhắm được đám nào rồi thì nói cho bố mẹ mừng...
-         Có một đám...nhưng không biết cô ấy có yêu con không!..Liêm nói ấp úng.
Ông Ân cười phá lên...Cha bố cái anh này, đã 21 tuổi đầu, đi làm thầy giáo mấy năm rồi mà nói phô như con nít..
Liêm ngượng đỏ mặt, nói gấp gấp:
-         Không hoàn toàn như thế, con nói chưa hết ý, con rất yêu cô ấy và con biết cô ấy cũng rất yêu con nhưng chưa có dịp để nói với nhau thành lời thôi!
-         Thôi được rồi, ông Liêm nói rồi hỏi: “Thế bao giờ con lên đường?”
-         Chiều mai bố ạ!
-         Thời gian gấp quá rồi, con cứ yên tâm mà đi, bố mẹ thế nào cũng lên trên ấy thăm và cảm ơn bà Hòa, người đã cho con ở nhờ và chăm sóc con hai năm qua. Tiện thể sẽ sang nhà  bà Hậu (mẹ Huyền) chơi, bố mẹ sẽ thăm dò xem sao. Nếu thấy xuôi xuôi thì thì bố mẹ sẽ chính thức làm lễ hỏi vợ cho con. Được chứ? Có danh chính ngôn thuận như thế, nhà  gái người ta sẽ an tâm hơn. Con gái có thì. Ông Ân nói.  
 
 Liêm hết ra sân lại vào nhà , thời gian còn lại chỉ vẻn vẹn hơn hai tiếng đồng hồ. Từ sáng, anh cố ý nhìn qua nhà  bà Hậu nhưng không thấy bóng Huyền đâu.Hình như cô ta đang mải làm gì ở trong bếp, thỉnh thoảng anh vẫn nghe tiếng chuyện trò rủ rỉ của bà Hậu ở trong bếp vọng ra. Anh chỉ mong được gặp Huyền ở một chỗ vắng để nói được một câu: “Anh yêu em lắm, em có đợi anh được hai năm không?” Liêm đang thừ mặt đứng giữa nhà , đầu cúi xuống nhìn mặt đất, bổng nghe tiếng động, anh ngước mặt lên, đứng trước mặt anh là Huyền...Như người trong mơ, anh đưa cả hai bàn tay về phía trước định đặt lên vai Huyền kéo em về phía mình để đọc cái câu “Thần chú” mà anh đã tâm niệm bao ngày. Huyền lùi lại, né người. Anh “vồ” hụt, khựng người lại, không biết trước mắt mình là Huyền thật hay đó chỉ là giấc chiêm bao. Thấy vẻ mặt ngây ngô của Liêm, Huyền cười thành tiếng và hỏi: “Anh chuẩn bị xong chưa? Mấy giờ anh lên đường?” Liêm bối rối, nói:
-         Anh tưởng sẽ không được gặp em trước lúc lên đường, không được nói với em một lời chia tay ngắn ngủi.
-         Anh muốn “chia tay” em thật à?
Liêm không biết ý Huyền cứ đứng đực ra. Huyền nói tiếp:
-         Nếu em không muốn chia tay anh tại đây lúc này thì anh nghĩ thế nào?
-         ....Em nói sao!
-         Huyền cười chúi đầu vào ngực Liêm, nói, em tiễn anh đến tận nơi tập kết, chúng ta sẽ chia tay nhau ở đấy, anh đồng ý không?
-         Mẹ có cho phép không? Liêm hỏi.
-         Em đã thưa chuyện hết với mẹ rồi. Mẹ rất quý anh.
Nhân lúc nhà  vắng người Liêm quờ tay vào eo Huyền riết chặt về phía mình rồi buông vội ra. Liêm bảo:
-         Hay quá! Anh đang định sang chào mẹ em và mấy nhà  bà con trong xóm trước khi lên đường, em đi cùng anh luôn.
Liêm xốc ba lô lên vai, nét mặt rạng rỡ. Sang nhà  Huyền, bà Hậu đã chuẩn bị sẵn một tay nãi căng phồng để giữa chõng tre. Liêm mạnh bạo nói:
-         Con cảm ơn mẹ suốt cả đời này, dù hai năm, hai mươi năm chúng con cũng sẽ chờ nhau.
-         Con biết đấy, mẹ chẳng nhiều nhặn gì, chỉ mỗi mình nó. Các con hãy thương yêu nhau thực lòng, ráng chờ nhau đến ngày thống nhất. Hai năm chỉ như bóng câu qua cửa sổ thôi. Khổ nỗi, cái thời cuộc sao mà rối như canh hẹ thế này, khổ quá. Trẻ khổ đằng trẻ, già khổ đằng già, con Tạo thực quá đành hanh!
 Nghe bà Hậu nói, cả Huyền và Liêm rơm rớm nước mắt. Họ cúi đầu chào người mẹ kính yêu rồi quay gót ra cửa, không dám quay đầu lại. Bà Hậu tựa cửa nhìn theo hai cái bóng mất hút sau lũy tre làng. Bà đứng vậy rất lâu...
Ra khỏi thôn, đường làng vắng lặng. Cái nắng xế trưa bâng khuâng trên các ngọn cây, vàng au. Mấy tiếng gà xao xác gáy ở vườn xa vọng lại. Liêm quay đầu nhìn về xóm cũ. Anh đang nghĩ, không biết giờ này Huyền đang làm gì thì Huyền hiện ra trước mắt đang cắm cúi đi tới suýt nữa chạm vào anh. Anh ôm lấy Huyền hét to “Huyền! chao ôi, em đây ư? Chưa bao giờ anh dám nghĩ đến cái tình huống này, em tiễn anh đi đến tận nơi tập kết! Anh chỉ tưởng đó là lời nói trong mơ. Cả buổi đầu óc anh quay cuồng, cứ mải nghĩ về em, em đang ở lại nơi xóm Khe, An thôn, đang nhìn theo anh. Ai ngờ em đang nằm gọn trong vòng tay anh đây! Huyền diệu biết mấy cuộc đời chúng ta!”
Liêm nói liên hồi, lảm nhảm như người mộng du. Bây giờ anh mới nhìn vào Huyền, thấy em kềnh càng, vai đeo tay nải căng phồng, vai đeo ống bương..Anh bập vào hai vai Huyền đẩy ra, ngắm nghía em từ đầu đến chân, nói:
-         Em mang theo cái gì mà kềnh càng thế này?
Huyền cười:
-         Những thứ mẹ làm chuẩn bị cho bữa chiều của chúng ta.
-         Trời ơi! May quá không thì chết đói giữa rừng. Anh thì trăm thứ trong đầu không nghĩ gì đến chuyện ăn uống, bà Hòa thì cứ nghĩ anh đi tập kết ra khỏi ngõ là kẻ đón người đưa cơm bưng nước rót chính phủ lo hết nên không chuẩn bị cho anh thứ gì ăn tối cả. Em đúng là nàng tiên giáng thế trong câu chuyện cổ tích.
-         Anh uống nước không, nước chè xanh mẹ nấu đấy, Huyền vừa nói vừa cởi chiếc ống bương đang đeo trên vai đưa cho Liêm.
-         Cái tay nải kia đựng gì mà căng phồng thế kia? Liêm chỉ vào vai Huyền hỏi.
-         Con gà luộc, mo xôi, mấy quả chanh và đường để uống nước.
-         Đúng là “Đời vắng mẹ hiền, không phụ nữ, anh hùng thi sĩ hỏi còn đâu!”
 Họ đã đi vào khá sâu giữa rừng già, bắt gặp con đường mòn mà dân công bộ đội ta thường hành quân ra vào trên tuyến đường huyết mạch Nam- Bắc. Hoàng hôn xuống tự bao giờ. Sương lam mờ bao phủ cả không gian. Chim rừng chao chác gọi nhau trên các vòm cây. Tiếng của một con hoẳng gọi bạn tình lan đi trong cảnh hoang vắng của rừng già chiều hôm...xao xuyến lòng người. Những chỗ đường rộng, Huyền bước lên đi sánh vai cùng Liêm. Liêm khoác tay lên vai Huyền cùng đi...Họ băng qua cả những cánh rừng bị bom na-pan thiêu rụi chỉ vài tuần trước. Không khí ngột ngạt khó thở, mùi khét của bom, mùi xác chết của thú rừng còn lẫn quất tạo nên một thứ âm khí nặng nề. Hình như họ đang đi xuống một sườn non thoai thoải, bước đi nhẹ nhàng hơn. Và, trước mắt họ là một con suối cạn. Hai người ngồi lại bên bờ suối nghỉ chân. Họ nhìn thấy bên kia bờ có mấy dãy nhà  lợp vầu nấp dưới những tán cây rậm rì đầy vẻ hoang phế. Liêm bảo:
-         Chúng mình sang kia nghỉ chân, ăn cơm chiều luôn thể.
 Hai người bước vào mấy dãy nhà thông thống không một bóng người, những sạp tre chỏng chơ nghiêng ngửa. Liêm bảo: “Đây là một bệnh viện dã chiến, họ đã dời đi từ lâu, chắc bọn địch đánh hơi được nên mới dội bom xuống vùng này man rợ như thế.” Họ chọn một ngôi nhà nhỏ sát bờ suối ngồi nghỉ chân. Chẳng biết ngôi nhà  này trước đây sử dụng vào mục đích gì, trông khá sạch sẽ. Ba phía tường che bằng vầu vẫn còn nguyên, tường chỉ cao quá rốn, phía bờ suối có một hòn đá to, mái nhà  lợp chùm lên nửa hòn đá. Mùa này, suối nhiều nước, chảy xiết. Nước đập vào chân hòn đá bắn lên những tia nước trong suốt lấp lánh như kim cương. Dưới chân hòn đá phía trong còn đấu vết của một chiếc bàn, bốn chân chôn xuống đất chơ vơ, xiêu vẹo. Hai người kéo chiếc mặt bàn bện bằng nứa bị hất ra giữa nền nhà  lại sát chân hòn đá, ngồi nghỉ. Huyền trải tấm ni lông ra sạp, dọn cả mo cơm nếp, và con gà bọc gọn gàng trong giấy báo ra đặt lên trên tấm ni lông. Liêm bảo:
-         Trời còn sớm, em tranh thủ xuống tắm trước đi kẻo chốc nửa sương xuống nhiều lạnh. Anh sẽ ngồi canh cho em tắm và canh cả cái mo cơm nếp và chú gà này nữa.
 Huyền tắm xong lên “bày mâm”. Cái món thịt gà xé phay huyền làm rất “nghệ”, có cả tiêu, chanh. Xương và cổ cánh được để riêng ra một góc, đàn ông thường thích nhâm nhi những thứ này khi uống rượu.
Liêm tắm xong lên, nhìn “ mâm cổ” bảo:
-         Sang như cổ cưới thế này!
Huyền đỏ mặt bảo:
-         Vội quá, em quên mang theo rau răm, nếu có cút rượu nữa thì hay quá.
Hai người ngồi vào mâm, Huyền ngồi phía đối diện, Lâm tựa lưng vào hòn đá quay mặt ra, bảo:
-         Ngồi thế này thì như đi ăn cổ nhà  hàng xóm, chán chết!
-         Thế anh bảo phải ngồi thế nào? Huyền hỏi một cách ngây thơ, chân thành.
-         Thế em không biết câu ca dao: “Còn hôm nay nữa mai đi/ Ngàn vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề” hả?
Huyền cười, hai hàm răng sáng trong như ngọc,  đường viền chân răng hồng tươi màu bích đào hé lộ, Liêm như tỉnh, như mê... Em dứng dậy bước sang cạnh chỗ Liêm ngồi, đang nhìn ngó tìm chỗ ngồi. Liêm cầm tay kéo huyền xuống rồi ôm gọn em đặt lên đùi mình.
-         Ấy chết! Huyền kêu lên, thế này thì gảy đùi anh mất, em chẳng có gì để đền anh đâu!
-         Gảy đùi thì đền đùi có gì mà sợ! Liêm nói rồi đưa tay lấy miếng gan gà cho vào miệng Huyền. Anh quờ tay cầm ngay cái cánh gà cho lên miệng mình. Huyền đưa tay dành lại cái cánh gà bảo:
-         Ăn gì thứ ấy, chỉ xương với da thôi, báu gì! Cô lựa tay lấy một miếng lườn đưa vào miệng Liêm, nói: “trong con gà lườn là miếng ngon nhất, vừa nạc, vừa mềm..” Liêm ngả người Huyền ra bảo: “ không, lườn này mới thật là món tuyệt trần đời! Vừa nói Liêm vừa luồn tay vào lườn bụng dưới áo Huyền, dẫy khuy bấm trên chiếc áo lụa mỏng bật tung ra...một làn da trắng hồng, một sắc trắng như trứng gà bóc, hây hây anh chưa từng thấy bao giờ, hai bầu vú vống cao...một thân hình lồ lộ nguyên khôi chưa có dấu vết của một bàn tay thám hiểm nào đặt tới... Liêm bế Huyền đặt lên chiếc sạp ở góc nhà ...
Họ dậy sớm, nằm trên sạp nghe đất trời vần vũ quanh mình. Từ chập tối qua đến giờ, bây giờ họ mới nhận ra, mới nhớ lại mình đang ở đâu, đang làm gì. Liêm xiết chặt vòng tay hơn, ghì sát cái thân hình mềm mại của Huyền vào lòng mình. Họ đang rót hồn cho nhau... Tiếng sương rơi tí tách bên ngoài, tiếng lá rụng xạc xào. Vài con chim dậy sớm đi kiếm mồi chíu chít trên các tàn lá. Họ nhận ra tiếng con hoẳng kêu khắc khoải chiều qua, nghe buồn hơn, thống thiết hơn. Có thể “người” bạn tình của nó đã chết  trong trận bom na pan tuần trước!
Hai người đến trạm tập kết đúng giờ quy định, 8giờ sáng. Người trưởng trạm nhìn cô gái đứng nem nép vào Liêm hỏi:
-         Cô đây là...
-         Là vợ em. Chúng em yêu nhau nhưng ngày đi gấp quá, bố mẹ em ở dưới vùng “tạm chiếm” nên chưa kịp tổ chức lễ cưới. Chúng em đến đây xin Trạm cấp cho giấy đăng kí kết hôn.
-         Giấy hả? Ông trưởng trạm cười đôn hậu, rồi xé tờ giấy kẻ ô trong quyển vở học sinh ra viết: “Việt nam dân chủ cộng hòa/ Độc lập tự do hạnh phúc.. GIẤY XÁC NHẬN HÔN NHÂN..Ngày   tháng   năm...Làm tại Trạm tập kết số 45...” Ông kí roẹt một chữ kí thật to có tán, có tàn bằng mực tím rồi lần lưng quần lấy ra cái triện hình chữ nhật áp vô. “Xong!” Ông nói, tay đưa tờ giấy cho Liêm với nụ cười  trêu chọc, tinh quái của kẻ trải đời như chia niềm vui sướng cùng đôi bạn trẻ.
Xế chiều, Huyền về đến nhà , người mẹ nhìn con lưng lẻo như thể con mình vừa đánh mất chiếc dây chuyền bằng vàng đeo trên cổ, hay chiếc vòng ngọc bích trên vòng tay. Huyền nhìn mẹ âu yếm, em móc túi lấy tờ giấy “Xác nhận hôn nhân” đưa cho mẹ xem. Bà ôm con vào lòng, từng làn nước mắt rỏ xuống làn lưng Huyền, một cảm giác ấm nóng đang thấm vào thớ thịt làn da em, Huyền khóc theo mẹ. Một niềm hạnh phúc êm êm, một sự trống vắng xa vời..đang lan tỏa trong ngôi nhà  bà Hậu. Có người thân đi tập kết ra Bắc là một niềm kiêu hãnh, một niềm tự hào không chỉ cho gia đình mình mà còn là của cả họ tộc. Bà Hậu cầm tờ giấy “ Xác nhận hôn nhân” đi khoe với cả xóm làng như đi chia mâm lại quả ngày cưới con gái cho họ mạc, vẻ mặt ngời ngời hạnh phúc.
Bà Hậu bảo con gái:
-         Chiều rồi, con đi tắm rửa, nghỉ nơi đi, mẹ đi làm cơm. Mai con thu xếp đi về dưới đó ra mắt, báo cáo với ông bà dưới nhà ... Vừa dứt lời đã nghe tiếng chào hỏi của ông bà Ân từ ngoài vọng vào. Bà Hậu ra sân đón, dẫn vợ chồng ông Ân vào nhà ...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
4
 
 
Liêm tập kết ra Bắc, anh về nhận công tác tại huyện ủy Bình An. Cơ quan huyện ủy đóng ngay tại thị trấn. Cái thị trấn ấy không sầm uất hơn cái làng miền núi heo hút An thôn anh đã từng ở hồi kháng chiến bao nhiêu. Xưa, khi chưa có chiếc cầu Ô bắc qua con sông Ngân này, đây chỉ là cái chợ nhỏ bên bến sông, tanh tưởi, nhớp nhúa, dăm ba mớ rau, vài xâu cua, ruồi nhặng bâu đầy quanh cái mẹt cá chương phìn... Bây giờ nó là thị trấn. Nó được xác định là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỉ thuật của Huyện. Nền tảng văn minh tinh thần mới của phố thị là các cơ quan hành chính của huyện, những ngôi nhà lợp gồi của các cơ quan huyện ủy, ủy ban huyện, huyện đoàn, huyện đội, công an, tòa án huyện... Nền văn minh vật chất mang tính thị thành của phố thị là cửa hàng phở Rô. Cửa hàng phở duy nhất không chỉ của phố thị mà cho cả cái cung độ bốn mươi dặm đường ở cả hai phía đầu cầu Ô. Nghe đâu, huyện đã có nghị quyết hợp doanh “Cửa hàng phở Rô”  và đổi tên thành “ Công ty công- tư hợp doanh dịch vụ ăn uống tổng hợp Quang Rô.”(Lúc đầu họ định thay chữ “ Rô” thành “Bình An”- tên huyện nhưng, có đầu óc kinh tế siêu việt nào đó trong họ nói rằng không nên đổi vì thương hiệu Phở Rô đã trở thành nổi tiếng, giá trị tài sản vô hình của nó là rất lớn. Cuối cùng, để đảm bảo đoàn kết, nhất trí cao trong mọi chủ trương đường lối nên họ thống nhất giữ nguyên chữ “Rô” với điều kiện thêm vào trước đó chữ “Quang.” Nhân dân hoan hô chủ trương vô cùng sáng suốt này của lãnh đạo vì thực chất cửa hàng này không chỉ bán phở mà còn bán cả cơm. Với chủ trương đa dạng hóa sản phẩm, họ bán cả Cơm nguội, cơm rang, cơm chan nước xuýt, nước rau luộc ăn với cà pháo, cơm gà, cơm chó... Dân phố thị, kẻ vãng lai nhỡ độ đường đều trầm trồ: “Phở Rô ngon nhất nước.” Ngon là phải, khách vãng lai đi bốn chục dặm đường đến đây đã xế trưa, đói lả người, ăn gì mà chẳng ngon, uống gì mà chẳng ngon. Cái ngon ấy được tạo ra bởi cái đói, cái khát của con người. Cái ngon ấy còn được khẳng định bởi không có cái nào dở hơn hay ngon hơn để so sánh. Nó là duy nhất! Nó phải là ngon nhất! Vậy nên, ý kiến của nhân dân khi họ đang đói, khi họ chưa từng đi ra khỏi nhà quá bốn mươi dặm đường bao giờ cũng chân thật, khách quan và đúng đắn!
  Liêm công tác ở văn phòng huyện ủy, anh được giao nhiệm vụ phụ trách công tác tuyên huấn. Hầu hết cán bộ trong cơ quan huyện ủy là người địa phương, hết giờ làm việc họ về với gia đình. Liêm sống độc thân, anh được phân một phòng xép đầu hồi ngôi nhà  trụ sở huyện ủy và mặc nhiên anh kiêm luôn cả nhiệm vụ bảo vệ cơ quan. Anh sống vô tư, ai giao việc gì cũng làm, chẳng nề hà . Khu nhà  im ắng sau giờ làm việc, với sân trước, vườn sau rộng rất thích hợp cho đời sống của anh. Liêm sống như một nhà  sư để tóc, không mặc áo cà sa.
Hết giờ làm việc, anh tay cuốc, tay xẻng ra vườn sau vun xới vườn rau, đào giun nuôi gà. Vườn rau của anh mơn mởn đủ loại trông đến mát mắt: rau muống, mùng tơi, rau ngót, rồi hành, tía tô, húng, rau răm...không thiếu thứ gì. Thích nhất là đàn gà, có đến hai chục con. Những ả gà mái đít xề xệ như muốn sẳn sàng rơi trứng ra đất. Chú gà trống tía thật oai phong lẫm liệt. Cái mào dâm bụt kép đỏ tía cuộn chắc trên đầu, chân thấp và to, đuôi cong vống lên cao, lông đuôi dài chạm đất. Tiếng gáy của nó vượt qua cánh đồng, vang xa đến xóm trong mé bên kia bờ sông. Anh thật có tay nuôi, tiêu chuẩn anh mỗi tháng được mua 15 kg gạo, anh lấy ra ba cân đổi lấy 6 cân ngô xay cho gà. Vườn anh rất nhiều giun, mỗi ngày anh đào đến hàng kg, lúc đầu anh còn chịu khó băm vụn cho gà ăn về sau anh cứ để nguyên cả con ném cho chúng. Bọn gà tranh nhau ăn, có lúc một con giun, hai con gà kéo hai đầu như trò chơi kéo co, trông đến là vui mắt. Anh cảm nhận một đời sống mãn nguyện và yên ổn. Anh không ao ước gì hơn. Đến bữa ăn, anh xách cặp lồng ra “Công ty hợp doanh” mua vài hào cơm, về đun nước luộc rau, thả vài quả trứng gà vào luộc, vớt rau, bóc trứng dầm vào nước mắm, nghiêng chai cho mấy hạt lạc rang muối ra đĩa...Miệng ngâm nga: “...Cuộc đời cách mạng thật là sang..” Xong bữa! Hân hoan. Hết ngày. Đi ngủ.
Dù trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, ngành giáo dục phát triển như vũ bão. Nhiều trường đại học được mở thêm, trường nào cũng tăng thêm số lượng tuyển sinh. Trước đây cả liên khu gồm 6-7 tỉnh mới có hai, ba trường cấp ba, mỗi trường chỉ tuyển sinh hơn hai trăm học sinh nay huyện nào cũng có trường cấp ba. Trường cấp ba huyện Bình An vừa khai trương, nhiều giáo viên cấp hai được “Đôn” lên dạy cấp ba. (Cũng như giáo viên cấp ba ở nhiều nơi đôn lên dạy đại học). Khó khăn nhất bây giờ là thiếu đảng viên để làm nòng cốt lãnh đạo chính trị tư tưởng, đảm bảo cho nhà trường đi đúng đường lối chính trị của đảng nhằm đào tạo ra những con người mới xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết của trên là phải xóa bỏ tình trạng “Trắng” chi bộ trong các cơ sở đào tạo: Trường cấp ba phải có chi bộ đảng, trường đại học phải có Đảng ủy...Hiện trường cấp ba Bình An mới chỉ có hai đảng viên, một giáo viên thể dục và một chị cấp dưỡng là xã viên hợp tác xã vừa được tăng cường cho trường. Tổ chức nghiên cứu lí lịch, biết Liêm trước khi tập kết là giáo viên cấp một, anh được điều sang tăng cường lực lượng đảng viên cho trường cấp ba, làm giáo viên dạy chính trị. Thêm Liêm, trường vừa có đủ ba đảng viên để thành lập chi bộ, Liêm làm bí thư. Chưa kết thúc học kì Một, anh được bổ nhiệm làm hiệu phó phụ trách công tác chính trị tư tưởng của trường cấp ba. Ông hiệu trưởng chưa phải là đảng viên nên hầu như Liêm giữ trách nhiệm chính trong công tác lãnh đạo nhà trường.“Ý kiến quần chúng” nhiều lần đề nghị bổ nhiệm Liêm giữ chức hiệu trưởng để tiện cho công tác lãnh đạo, điều hành nhà trường, chính ông hiệu trưởng cũng đề nghị tha thiết như vậy nhưng trên chưa quyết chỉ vì Liêm mới tốt nghiệp tiểu học (theo hệ thống giáo dục cũ của Pháp, hệ tiểu học gồm 6 năm). Anh được mọi người quý vì thái độ vô tư, không kèn cựa địa vị, đảng giao việc gì anh toàn tâm toàn ý thực hiện. Tất nhiên kết quả thực hiện đến đâu tốt hay xấu còn phụ thuộc vào năng lực và trình độ nhận thức của anh. Anh quan niệm “Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện..” nên anh không bỏ qua bất cứ một hoạt động nào của nhà  trường. Anh đi dự giờ tất cả các môn học từ văn, sử, địa, toán, lí, hóa, thể dục, thể thao...Và, ở đâu anh cũng cho ý kiến chỉ đạo. Một lần, anh dự giảng môn văn, giờ giảng về tác phẩm “Chinh phụ ngâm”, giáo viên say sưa bình đến câu: “Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối/ Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm...” Liêm chau mặt. Về tổ bộ môn, anh góp ý rất nhẹ nhàng nhưng rất kiên quyết; “ Không thể đem cái “Sầu”, cái “Muộn” lướt thướt này này truyền thụ cho những tâm hồn non trẻ được!” Nhất là hiện nay, đảng đang cần thanh niên xếp bút nghiên ra trận, chống Mỹ cứu nước. Anh yêu cầu thay bài trích giảng này bằng bài “ Đoạn tuyệt” của tác giả Sóng Hồng. Giáo viên bảo:
- “ Đoạn tuyệt” đã được đưa vào văn tuyển lớp bảy, các em đã được học rồi!
- Không được, tôi tin là các em tuy đã được học nhưng chưa thấm, ngay cả các anh là thầy giáo đấy nhưng cũng chưa chắc thấm hết cái lập trường giai cấp, chưa thấu triệt cái tinh thần đấu tranh giai cấp không khoan nhượng, kiên định của tác giả. Bây giờ hơn lúc nào hết phải hâm nóng lại cái tinh thần rực lửa này...Liêm cao giọng đọc luôn: “...Cha và con đã là hai trận tuyến/ Cha một đường và con tiến một đường/ Thôi, từ nay hai chữ cương thường con mở rộng để thờ chung đất nước/ Buổi đoàn tụ, thôi, cha đừng mong ước/ Cuộc hội đàm dùng đại bác với thần công/ Bức thư đây là bức cuối cùng/ Cha cũng chỉ là cha trong dĩ vãng/ Thôi hạ bút cho thâm tình gián đoạn/ Để cho người kết án kẻ gian phi/ Lưỡi gươm thần tuốt sẵn để chờ khi...”[17] Các đồng chí có thực sự thấm nhuần, thấm nhuần một cách sâu sắc tinh thần này chưa? Tôi tin là chưa. Tôi đề nghị giảng lại bài này, ngoại khóa cũng được. Những quan điểm này, ở thời điểm đấu tranh giai cấp quyết liệt này rất cần được nhắc lại. Cốt lõi của con người mới xã hội chủ nghĩa là ý thức thường trực về tinh thần đấu tranh giai cấp.
Bây giờ thì cả cái trường cấp ba này, từ Hiệu trưởng đến giáo viên, công nhân viên không ai còn dám nhìn Liêm với con mắt coi thường. Họ thì thầm bảo nhau: “Cứng cựa đấy, đừng tưởng anh ta văn hóa thấp không biết gì, anh ta không phải là con rối đâu...” Cái cách giải quyết vấn đề của Liêm hay. Không to tiếng, không tranh luận, nhất là trong lĩnh vực chuyên môn. Anh ta chỉ nêu ý kiến của mình một cách dứt khoát, trang nghiêm, ai tiếp thu thế nào tùy họ. Một lần, anh đi qua phòng học, đang tiết giảng văn, thầy Cương đang hào hứng: “Đêm nay lạnh/Mặt trời đi ngủ sớm/ Anh nhớ em, em hỡi/ anh nhớ em...” Cương là giáo viên dạy văn giỏi nhất tỉnh này, anh đã từng là giảng viên ở một trường đại học ở Hà nội, anh tham gia phong trào “Nhân văn giai phẩm” nên bị “huyền chức” về dạy ở tỉnh này, rồi bây giờ khi trường cấp ba Bình An được thành lập, anh được “tăng cường” về đây. Anh rất có uy tín, nhất là về mặt chuyên môn, các giáo viên, kể cả hiệu trưởng đều nể trọng. Xong tiết giảng, Cương đang đi trên đường về phòng, “tình cờ” Liêm gặp Cương, Liêm chào thân mật:
-         Thầy còn tiết giảng nào tiếp theo nữa không?
-         Không, sáng nay tôi chỉ có hai tiết văn ở 10A, vừa giảng xong.
-         Phải, tôi đi ngang có nghe anh đọc câu gì của Xuân Diệu nghe nó sướt mướt quá! Giờ là lúc đang huy động cả nước ra mặt trận, phải giáo dục bồi dưỡng cho các em một tinh thần yêu nước sôi sục, xả thân vì nghĩa lớn..
 Cương thanh minh:
-         Tôi đọc câu ấy để ví dụ cho học sinh biết hình thức và tác dụng của phép Nhân hóa trong thơ văn, mở rộng kiến thức cho các em về các biện pháp tu từ...
-         Hình như có câu gì mà ...Tương tư... nữa cơ!
-         Dạ...Dạ...phải...Đó là câu tôi nêu ra để dẫn chứng về thể thơ Độc vận: ...Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.. Cũng là của Xuân Diệu.
-         Anh có vẻ say Xuân Diệu nhỉ? Không tìm được câu khác sao! Xuân Diệu thường ủy mị quá.
-         Khi giảng về thể thơ này, Cương nói, người ta thường nêu câu của Tản Đà: Tài cao phận thấp, chí khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương...
-         Hay! Sao anh không dùng? Câu thơ có giá trị phản kháng chống lại chế độ thực dân phong kiến chèn ép người có tài năng...Liêm nói.
-         Vâng, các giáo trình thường nêu câu này và nêu ý nghĩa tích cực của nó, các em đều có đọc, tôi muốn mở rộng thêm kiến thức cho các em, với lại...Cương ngừng câu nói giữa chừng.
-         “Với lại” thế nào? Liêm hỏi.
-         ...Báo cáo thật với anh, với hoàn cảnh của tôi chắc anh biết, nếu tôi đọc câu ấy ra “tài cao phận thấp..” không khéo người ta lại cho tôi phản ứng cá nhân, chống lại tổ chức...Gay lắm anh ạ! Cương phân trần vẻ mặt thành khẩn.
-         Thôi được, Liêm cười, đưa tay vỗ lên vai Cương, anh cứ suy nghĩ thêm về ý kiến của tôi, chuyện tôi nói hôm nay chỉ có anh và tôi biết thôi, có gì ta sẽ trở lại vấn đề này sau. Nói xong, anh không nhìn Cương quay đi.
Cương về phòng, đóng cửa, đứng lặng: “ Chỉ vì một bài thơ, mấy câu nói ngông nghênh đăng trên tập san “Giai phẩm” mình đã bị tuốt sạch trơn, mất cái suất đi nghiên cứu sinh, mất cái chân giảng dạy đại học bị đưa về cái tỉnh khỉ ho cò gáy này và bây giờ về Bình An một nơi sơn cùng thủy tận hết chỗ lùi này..Nếu “có vấn đề” nữa thì chỉ còn đi đẩy xe bò mà thôi...”
Hôm sau, Cương xin “gặp riêng” Liêm, anh thành thật nhận khuyết điểm là thiếu bản lĩnh chính trị, chuyên môn thuần túy...Liêm vồn vã nói:
-         Chuyện nhỏ ấy mà, tôi góp ý trên tình anh em để anh xem thêm, cốt là để cho công việc tốt hơn thôi. Về chuyên môn, anh là bậc thầy của thầy tôi. Tôi nói, nếu anh thấy đúng thì nghe, không thì anh bỏ qua. Anh đao to búa lớn quá! Chẳng có “Chính chị, chính em” gì ở chỗ này cả... Có gì ta đóng cửa bảo nhau, nói xong là thôi đừng nghĩ ngợi gì nhiều, có thế mới sống được với nhau. Tôi không ưa cái thói chụp mũ, lăm lăm đội cái mũ tai lừa[18] lên đầu người khác.
 Uy tín của Liêm lên rất cao, khóa ấy anh trúng huyện ủy viên coi như đại diện cho khối trí thức cách mạng trong cơ quan lãnh đạo cao nhất của huyện theo cơ cấu tổ chức.
Liêm lấy vợ, đối với cái phố thị với dăm chục ngôi nhà  nghèo nàn xơ xác này thì đây là một sự kiện. Nó giải tỏa cho người dân phố thị lâu nay vẫn bàn tán xôn xao. Người ta không hiểu vì sao một người đàn ông cường tráng, mặt mày sáng sủa, đi đâu đàn bà con gái cũng xán lại... Ấy thế mà bao năm nay, anh lánh xa, không chuyện trò, chẳng đưa lời ong bướm, liếc mắt đưa tình với bất cứ một người con gái nào kể cả đám nữ sinh mới lớn phây phây coi thầy là một thần tượng, một ước ao thầm kín. Một lần, ông bí thư huyện ủy gặp Liêm bảo:
-         Anh lấy vợ đi chứ! Ba mươi rồi còn gì?...Ưng đám nào tôi làm mối cho.
Liêm cười:
-         Còn nhiều khó khăn lắm đồng chí ạ!
-         Khó gì? Khó nhất là chỗ ở, tôi sẽ giải quyết được cho đồng chí, lo gì cái chuyện vặt ấy! Ca dao có câu: “Yêu nhau cho trọn đạo trời/ Dẫu rằng không chiếu trải tơi mà nằm...” Chỉ sợ cậu không chấm được ai thôi, mọi chuyện khác chẳng có gì đáng ngại cả. Ông bí thư nói một cách đầy nhiệt tình. “ Cô Nhân con ông giáo Mạnh, vừa tốt nghiệp lớp 10, sắp đi đại học đấy, được không?
- “Nhân ư? Cô học sinh lớp 10 mới lớn, ngoan ngoãn, nhìn mình như một thánh nhân ấy a! Có nói cho cô ấy biết mình đã có vợ hay không? Nếu không, đùng một ngày nào đó Huyền ra thăm chồng, mình sẽ nói sao đây trước mặt hai người, nói sao đây với các con (lúc đó chắc mình đã có con với Nhân!)? Nếu nói ra bây giờ  không những cuộc hôn nhân sẽ không thành mà cái tội man khai lí lịch của mình lại bị phơi bày, mất hết! Không nói thì mắc tội dối trá với Nhân, với Huyền, nói ra thì không tránh khỏi bị quy kết tội “Man khai” lí lịch! Đàng nào cũng không thoát nhục. Không cách nào thoát khỏi cái nhục này! Trong lí lịch của mình trước khi đi tập kết, anh khai chưa vợ. Anh chỉ mới “cưới vợ”, ngủ với Huyền trước lúc lên đường chưa trọn một đêm, chính xác là mười tiếng đồng hồ, cũng chẳng có đăng kí kết hôn, chỉ có một cái  “Giấy xác nhận hôn nhân” ghi bằng mực tím viết tay trên trang giấy học trò do một cơ quan tạm thời lập ra để đón tiếp người đi “Tập kết”. Ông trạm trưởng số 45 ấy cũng chẳng kịp ghi tên mình vào dưới chữ kí to uỳnh của ông trước khi áp cái triện hình chữ nhật vào. Liêm chẳng biết tên ông là gì. Anh đã trót im lặng suốt bao năm qua, bây giờ nếu lộ ra anh bị gán vào cái tội “Man khai lí lịch”. Cái tội này đáng sợ hơn bị trời đánh.”
Thấy Liêm trầm tư suy nghĩ, ông bí thư nói tiếp:
-         Cuộc chiến này còn kéo dài chưa biết đến bao giờ kết thúc, đối với anh chị em miền Nam tập kết bị thiệt thòi quá lớn. Trên cũng “bật đèn xanh” cho các Hội đồng hương cấp giấy xác nhận chưa vợ, chưa chồng cho họ, kể cả đối với những người đã có vợ, có con ở trong Nam để họ xây dựng cuộc sống mới. Tôi xem lí lịch thấy cậu chưa có vợ con gì, ở vậy nghe cũng lạ...
Nghe đồng chí bí thư nói sát sườn, Liêm hoang mang: “ Nếu mình không lấy vợ sẽ trở thành một nghi vấn trong con mắt của tổ chức, không khéo họ còn suy diễn ra các nghi vấn chính trị khác nữa thì gay go. Lúc đó buộc họ phải đi điều tra, tìm hiểu, vấn đề lại trở nên phức tạp hơn.” Anh nói:
-         Chắc gì cô ấy yêu em!
-         Thì tôi chỉ muốn biết cậu “Ứ” hay “Ừ” mọi việc tiếp theo tôi lo, ông bí thư nói.
-         Nếu mình “ừ” thì sao nhỉ? Liêm tự hỏi mình.
 Khuôn mặt Nhân hiện lên trước mặt anh. “Khuôn mặt cô ta không xinh, có nét gì đó là lạ. Không phải mặt trái xoan, cũng không phải chữ “điền”. Nó như mặt cắt của một quả dưa hấu bổ dọc. Trên khuôn mặt ấy, các chi tiết mắt, mũi, miệng nét nào ra nét ấy có thể nói là xinh. Nhưng khi sắp đặt các bộ phận ấy lên trên khuôn mặt, nhìn vào thấy ngay sự mất cân đối. Cái sống mũi cao, rất “đầm” nhưng hình như nó hơi dài, chỉ vài li thôi, chạy thẳng xuống cái miệng hơi nhỏ che lấp mất đôi môi xinh như vẽ. Mũi và miệng hiện ra như một dấu chấm than làm cho đôi mắt đen có hàng mi cong vút trở thành lạc lõng, bơ vơ. Vừng trán vuông vừa phải, trên đầu là một mớ tóc dày gợn sóng tự nhiên. Bù lại, được cái dáng. Cái dáng rất đẹp. Cao, thon thả, nở  nang vừa độ. Nước da cô ấy mới thật lạ, không trắng hồng, không phải bánh mật, thật khó tìm màu để so sánh, nó như da của người Ấn độ lai da trắng, gen trắng trội hơn. Đôi bắp tay lẵn tròn phủ lông măng phơn phớt rất gợi. Nụ cười e ấp, trinh nguyên đầy cuốn hút... “Cũng được!”” Liêm nghĩ thầm.
 Nhân vào khoa triết Đại học tổng hợp, chưa xong học kì Một thì Liêm cũng được triệu tập ra Hà  nội học lớp bổ túc chính trị ngắn hạn. Nhà  ở là vấn đề nan giải. Hai người ở hai kí túc xá tập thể của hai trường đại học! Liêm là cán bộ đi học ở trường Đảng, tiêu chuẩn mọi mặt cao hơn hẳn các trường đại học khác. Hai người một phòng 12mét vuông. Thời gian đầu, cứ chiều thứ bảy Nhân về thăm Liêm, hai người ngồi hai đầu chiếc giường cá nhân của Liêm nhìn nhau nói chuyện. Ông già học viên cùng phòng tạm “sơ tán” sang phòng cạnh ngồi tán dóc. Nhân ái ngại, không giám ngồi lâu, chưa đến 9 giờ tối là về lại kí túc xá của mình. Bọn bạn cùng phòng xúm vào trêu: “Đi thăm chồng kiểu gì vậy? cứ ở lại đấy, giường ai nấy nằm, can gì đến cái ông già kia, chịu không nổi thì ông ấy phải tìm cách chuồn đi chỗ khác! Không thì bảo ông ấy đến đây, đổi chỗ cho mày. Mày có gì mà sợ? Không chồng mới phải chịu cảnh nằm không như chúng tao, còn mày, có chồng hẳn hoi mà lại...Thật hoài của!” Dạo này ông già cùng phòng hay về nhà  vào chiều thứ bảy, chủ nhật, các đồng chí trong lớp cho ông mượn xe đạp. Quê ông tận Vĩnh phú, cách trường sáu bảy chục cây số, nhiều hôm đến sáng thứ hai ông mới xuống, bỏ  mất mấy tiết học buổi sáng. Không sao! Trường thông cảm. (Những hôm như thế ông báo trước cho Liêm nhờ anh xin phép hộ.)
Kết thúc chín tháng học, Liêm được điều về công tác tại“Viện con người Mới”. Cơ quan mới thành lập, cơ sở vật chất kĩ thuật chưa có gì, anh và vài anh cán bộ trẻ hết giờ làm việc ở lại cơ quan, ngủ trên bàn.
 Công đoàn thành phố vừa xây xong một khu tập thể ở ngoài đê. Nhà  tạm, mái lợp lá gồi, tường và vách ngăn các phòng làm bằng giấy dầu. Nhà  làm xong gần sáu tháng nay nay nhưng chưa thống nhất được cách phân. Đối tượng phân thì đã được tập thể “Đảng- Chính- Công –Thanh”[19] thông qua nhưng khi phân cụ thể ai ở dãy nhà  nào, ai ở phòng đầu hồi, ai ở giữa thì chưa phân thắng bại. Phòng đầu hồi hơn phòng giữa cái cửa sổ và rẻo đất đầu hồi. Nhà  số một, phía trước mặt không có ai ở, có thể đặt được cái chuồng gà. Nhà  cuối cùng, sau lưng nhà  có tí đất hoang có thể làm vài luống rau, thậm chí có thể làm được cái chuồng lợn!...Không ai nhường ai. Trần Khâm vừa trúng cử chức chủ tịch công đoàn. Anh là người năng động hoạt bát. Chính anh đã đề xướng ra nguyên tắc phân phối được mọi người chấp nhận, đảm bảo đoàn kết nội bộ. Anh cho triệu tập cuộc họp của một trăm đối tượng trong diện được phân phối nhà  đến dự gồm cả các vị từ Viện trưởng, trưởng, phó phòng, tiến sĩ, giáo sư... cho đến chị cấp dưỡng, lái xe...ai cũng có mặt đầy đủ và đúng giờ. (Vì lợi ích sát sườn mà lại!). Đại diện của các cơ quan Đảng- Chính- Công –Thanh cũng có mặt đầy đủ.
 Chủ tịch công đoàn Khâm đứng dậy, sau mấy lời thưa gửi anh nói:
-         Trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn, lãnh đạo Đảng và chính quyền thành phố đã quan tâm hết mức đến đời sống của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, đã cho xây dựng khu tập thể gồm 100 căn hộ. Nhà  đã xây xong gần 6 tháng trời vẫn bỏ không, trong khi công nhân, viên chức nhiều người phải ngủ lại trên bàn làm việc, có người còn chăng ni lông ở gầm cầu để ở! Vì sao vậy? Đó là vì tinh thần trách nhiệm kém, thiếu tinh thần thương yêu giai cấp của những người trực tiếp thực hiện. Có người gãi đầu bảo tôi: “ Khó lắm! phân nhà  là một cuộc chiến, một cuộc chiến không phải với kẻ thù mà với chính những người đồng chí của mình, toàn những người trí dũng song toàn, đạo đức cách mạng sáng ngời cả, ở đấy không có kẻ chịu thua mà cũng không ai chịu chết. Tất cả những người trong diện phân nhà  đều là những người có thành tích cao trong lao động và chiến đấu. Họ sẵn sàng xả thân cho sự nghiệp giải phóng loài người nhưng nhất quyết không chịu hi sinh cái chuồng gà của mình...” Nhận thức như vậy là sai, là không đánh giá hết tinh thần đồng chí đồng đội, tinh thần giác ngộ cách mạng cao của mỗi cán bộ đảng viên nhất là trong tầng lớp ưu tú được đảng phân nhà  hôm nay. Vấn đề không giải quyết được là do thiếu một cơ chế minh bạch. (Hội trường vỗ tay vang dội). Cơ chế như thế nào, nguyên tắc cơ bản của cơ chế ấy là gì?- Cơ chế ấy phải dựa trên tính ưu việt của chế độ ta, đó là: Công khai- dân chủ và công bằng! (lại vỗ tay, vang dội hơn lần trước) Chấm dứt ngay tình trạng đi cửa trước, luồn của sau, quà cáp chạy chọt...Tất cả phải được đặt lên mặt bàn, dưới ánh sáng minh bạch.(Cả hội trường đứng dậy vỗ tay, hoan hô). Khâm nói tiếp, trong chiếc hộp để trên mặt bàn kia, tôi đã chuẩn bị một trăm chiếc thăm, trên mỗi chiếc ghi rõ số phòng, số dãy ai bắt thăm trúng chỗ nào ở chỗ ấy!
-         Các đồng chí có nhất trí không? Khâm hỏi.
-          Đồng ý...Đồng ý.. tiếng vang áp đảo từ phía các anh công nhân, lái xe, các chị nhân viên phục vụ.
-         Ai không đồng ý giơ tay, Khâm hỏi lại.
 Các vị tiến sĩ, Viện trưởng, viện phó... đưa mắt nhìn nhau, không ai nói gì.
-         Không có ai giơ tay, coi như nhất trí 100%. Mời các đồng chí lên bắt thăm! Khâm nói.
Họ đứng dậy chen nhau lên bàn bắt thăm. Các vị trí thức uể oải ngồi nhìn,  chờ lúc vãn bớt người để lên bắt thăm. Liêm như muốn reo lên, anh cố kìm nén cơn sung sướng. Anh bắt được phòng số 1 nhà  số1, vừa là phòng đầu hồi thuộc dẫy nhà  đầu tiên. Mười dãy nhà  san sát giống hệt nhau. Một trăm gian buồng đều được thiết kế cùng một kiểu, cùng một kích thước, một mầu sơn. Mặt tiền của một gian buồng rộng 3,5m đều có một cửa ra vào và một cửa sổ: Cửa ra vào chiều rộng 80 phân, cao hai mét, cửa sổ rộng 80 phân cao một mét. Tất cả các cửa đều nép về một phía, cùng sơn xanh “màu hòa bình”. Có người đến ở cả năm trời rồi vẫn vào nhầm cửa nhà  nhau. Có điều tình cờ rất lạ là ở dẫy nhà  số một của Liêm cứ một hộ gia đình lại xen một hộ độc thân. Các phòng chỉ cách nhau bằng một bức vách bằng giấy dầu mỏng, thật bất tiện. Ở một môi trường sống như vậy không thể có tự do được, nói cũng phải nói thầm, cười cũng phải cười khẽ, thậm chí có lúc cái bụng cứ ậm ạch, muốn đánh “tẹt” một cái rõ to cho thoải mái cũng phải tìm cách hạn chế. Nhà  ở, dù chỉ là một cái hang tránh nắng mưa cũng là nhu cầu cao nhất của con người để tồn tại. Căn nhà , mái ấm là biểu trưng của hạnh phúc ở mọi thời đại. Họ hoan hô, chấp nhận cái cơ chế phân phối do Khâm đề ra để nhanh chóng có được một căn phòng: “Công khai, dân chủ, công bằng”, trong cái cơ chế đã được 100%  “nhân dân thừa nhận” này không có tự do.  Khi đời sống của con người chưa vượt qua cái ngưỡng của sự tồn tại, họ buộc phải chấp nhận loại trừ sự tự do ra khỏi khái niệm Hạnh phúc!
 
 Nhân được  đi nghiên cứu sinh chuyển tiếp[20] ở Liên Xô. Chẳng biết cậu Bồng săn tin ở đâu, biết rõ cả chuyến bay của Nhân, anh ra tận sân bay quốc tế Mát- xcơ-va đón Nhân. Bồng là bạn học thời phổ thông của Nhân, hai người cũng có tình ý với nhau nhưng chỉ là cái tình yêu tuổi học trò. Cái tình yêu chỉ được thổ lộ “bằng lời riêng nơi cuối mắt đầu mày”[21], chưa ai nói với ai một lời yêu. Bồng học trên Nhân một lớp, tốt nghiệp phổ thông anh được cử đi Liên xô học về ngành Vật lí nguyên tử. Về nước anh chẳng biết làm gì, lang thang nơi này, chỗ nọ, vài cơ quan, chạy chợ, áp phe, giao hàng, bỏ mối... đủ cả. Vợ con đói nhếch. Chán chường, anh xin đi quản lí lao động ở Liên Xô. Sang đây anh chơi thân với bộ phận quản lí học sinh của Đại sứ quán, có lẽ nhờ vậy mà anh nắm chắc được chuyến đi của Nhân. Bất ngờ nhìn thấy Bồng, Nhân bàng hoàng, đứng sững người giữa sân ga, mừng vui khôn xiết. Giữa đất khách quê người này gặp được một người đồng hương đã quý, đằng này lại còn gặp được một người bạn, có thể gọi là bạn tình thời trẻ dại nữa thì sung sướng biết ngần nào! Nên thơ hơn cả các chuyện tình trong tiểu thuyết lãng mạn! Bồng tiến lại, ôm Nhân vào lòng, cô đứng yên chỉ quay mặt nghiêng ra phía ngoài, tránh một cái hôn sét đánh của Bồng.
-         Giờ anh đưa em về sứ quán làm thủ tục chứ? Nhân hỏi.
-         Không cần, anh thay mặt ban quản lí ra đón em là được rồi! Giờ anh đưa em về ngay khách sạn tắm rửa nghỉ ngơi rồi sớm mai đến trình diện cũng được.
-         Anh cũng ở trong ban quản lí à? Nhân hỏi.
-         Không ở trong ban quản lí nhưng hơn cả ban quản lí! Bồng trả lời ậm ờ.
 Thấy Nhân chưa hết băn khoăn, Bồng nói:
-         Anh chỉ làm quản lí một đội lao động ở Mạc Tư Khoa, chơi thân với bọn Quản lí nên chúng thường nhờ anh đi đón, chuyện bình thường ấy mà! Em yên tâm, anh không bắt cóc em bán sang Trung Quốc đâu mà lo. Về nhà  anh sẽ nối điện thoại để em nói chuyện trước với các anh ấy.
 Nhân ở khách sạn “ Đêm Trắng” trên đại lộ M. Ngôi nhà  đượm vẻ xưa cũ, không uy nghi đường bệ như nhiều ngôi nhà  mặt phố ở Đại lộ này. Mặt tiền của ngôi nhà  khá rộng, có lẽ trên ba chục mét. Nó lùi sâu vào phía trong khoảng mười mét, có một mảnh sân nho nhỏ, hay hay. Bên kia đường là ga tàu điện ngầm.  Bồng cầm chìa khóa trong tay lên tầng 3 tìm phòng. Nhân thảng thốt trong giây lát, cứ tưởng Bồng đưa mình lên đến cửa phòng rồi tạm biệt chị, hẹn sáng mai gặp lại, không ngờ, Bồng đẩy cửa bước vào tự nhiên. Anh cởi chiếc áo “Na-tô”[22] vứt ngay lên giường ngủ, loay hoay sắp xếp đồ đạc, giống như đôi vợ chồng mới cưới  vừa dọn đến căn hộ vừa được phân. Căn hộ của Nhân ở là một căn hộ nhỏ khép kín, có đủ nhà  tắm, nhà  vệ sinh và cả bếp nữa. Bồng còn vào tận nhà  tắm hướng dẫn chi tiết cho Nhân sử dụng các thiết bị vệ sinh, xách theo cả túi xách nước hoa, xà phòng tắm, nước gội đầu, kem dưỡng da...toàn những mặt hàng cao cấp nhập ngoại bày ra khắp phòng tắm.
 Nhân nằm ngâm mình trong bồn tắm nước nóng, mùi xà phòng thơm êm dịu lan tỏa khắp phòng. Bọt xà phòng vùi kín thân thể dập dờn như mơn trớn, như vuốt ve..Một cảm giác lâng lâng, đê mê, sảng khoái chị chưa từng biết.
Nhân đứng dậy xả nước, nước lạnh làm chị tỉnh người lại. Chị ngơ ngác nhìn “đống” chai lọ trước mặt không biết cái gì dùng vào đâu. Tần ngần một lát, chị khoác tấm khăn tắm lên vai, cầm lọ kem trước mặt , đứng nép vào trong, hé cửa gọi: “Anh Bồng ơi!”. Bồng chạy lại, cánh cửa hé đủ để cho Bồng đọc được chữ ghi trên lọ kem và nhìn thấy bàn tay chị. Chị hỏi: “Đây là kem dưỡng da hả?”
-         Đấy là dầu xả, kem dưỡng da đây này! Bồng xô cửa xông vào... Anh bế thẳng Nhân ra đặt lên giường...
Phút lặng giữa hai cơn bảo táp, Nhân áp hai bàn tay vào má Bồng, nâng mặt anh lên, nhìn đắm đuối, nói: “Anh như một hiệp sĩ thời trung cổ, người rắn như tạc bằng đồng đen, bắp gân nổi cuồn cuộn..” Chị đưa tay vuốt mớ tóc dày gợn sóng phủ xuống quá vai, mân mê bộ râu quai nón đen nhánh bảo: “ Có lẽ đúng hơn, anh giống Gri- gô- ri của Sô- lô- Khốp[23] , một chàng Cô-Dắc thực thụ.” Nhân đan hai bàn tay vào nhau, vòng ra sau ót gối đầu vào, đùi khuýp lại, hai bàn chân bắt chéo, mắt lim dim, mơ màng, nói:
-         Nói thật anh đừng cười nhé! Em lấy chồng từ tuổi 17, nhưng chưa bao giờ có được một cuộc tình say đắm, bùng nổ, thác loạn như cuộc tình anh cho em vừa xong. Nó rung động đê mê đến từng đường gân thớ thịt, đến mỗi một nơ ron thần kinh, đến từng li ti huyết quản như vậy! Em sung sướng quá...Một cơn thở ra nhè nhẹ buông lỏng cơ thể như một động tác thư giản kéo dài cơn đê mê.
-         Thật không nàng Ác- xi- nhi- a của anh? Bồng hỏi rồi nói tiếp, lão chồng em “bết” thế à?
-         Không, anh ấy rất khỏe, trường sức lắm, chỉ tội...Anh xem cái hoàn cảnh sống tập thể như vậy, một tiếng thở ra mạnh, hàng xóm cũng biết nên phải giữ gìn từng li, từng tí một. Nằm trên bụng vợ mà rón rén như mèo rình chuột thì còn gì là thi vị nữa? Có đêm anh ấy làm hai ba cuộc nhưng lần nào cũng như lần nào, như du kích đi tập bắn đạn thật, hồi hộp lo âu rồi rón rén làm theo các động tác đã học thuộc lòng: Tì vai, áp má, nín thở, bóp cò..[24].Đạn bay vèo trúng đích hay không chẳng thèm biết. Nói thật lòng, nhiều đêm em chẳng còn chút hứng thú nào, chỉ làm nghĩa vụ qua quýt cho xong. Đang nói chuyện một cách nghiêm chỉnh như vậy, bổng Nhân cười thành tiếng, khúc khích.
-         Có gì vui? Bồng hỏi.
-         Em kể anh nghe một chuyện hoàn toàn có thật ở khu tập thể của em nhé! “Dãy nhà  số một, khu tập thể của em có đôi vợ chồng cậu thợ tiện, mới cưới, còn rất trẻ. Căn hộ của cậu ta kẹp giữa hai hộ độc thân. Một bên là một ông già về hưu người Nam bộ, trước làm bí thư đảng ủy xí nghiệp hay gì đấy đại loại thuộc diện cán bộ lãnh đạo. Bên kia là cậu tài xế, vợ con ở đâu không biết, hiện đang sống độc thân, đầu trọc lóc. Người ta quen gọi anh ta là “Xế Trọc”.Vợ chồng cậu thợ Tiện , sống bất cần đời. Cơm nước, tắm rửa xong là lên giường, chưa nói hết nửa câu chuyện là tiếng huỳnh huỵch vô hồi kì trận nổi lên. Phòng ông già Nam bộ lặng phắc, không tiếng động,, không cựa quậy, tưởng như ông đã tắt thở tự bao giờ. Cậu lái xe đầu trọc, trăn trở, lăn lóc trên giường. Một hôm, trời se lạnh, vợ chồng tay thợ tiện đang dở cuộc, cô vợ mót giải chạy ra nhà  vệ sinh công cộng ở ngoài nhà , khi trở về, hấp tấp thế nào lại vào nhầm buồng cậu Xế, cứ thế lao thẳng lên giường ôm lấy cậu ta. Không cần biết mô tê gì, cậu Xế ghì chặt cô ta, nhảy lên nện liên hồi. Cô vợ ngạc nhiên, không hiểu sao chồng mình hôm nay khỏe thế, cô đưa hai tay lên vít đầu “chồng” xuống. Đụng phải cái đầu trọc, cô đạp vội anh Xế ra chạy về phòng mình. Thấy vợ lâu về, anh chồng đã hoài nghi, nay thấy vợ về, vừa đi vừa rủa: “Đồ khốn...đồ khốn!..” Nỗi đóa, anh chồng thét; “Thằng nào?...Thằng nào?..” Cô vợ hổn hển: “ Cái thằng ở phòng bên trái ấy...” Anh chồng tức khí lao vút ra cửa, rẽ sang trái, lôi dựng ông già Nam bộ dậy đấm cho mấy quả. Tiếng ông già thều thào: “Tôi có lỗi...Tôi có lỗi anh tha cho...Anh tha cho”. Cô vợ biết chồng nhầm sang kéo chồng về, bảo: “Em bảo cái thằng cha bên trái cơ mà, sao anh vô cớ lại đi đánh cái ông già tội nghiệp này?” Thì em bảo tôi “Cái thằng bên trái cơ mà?!” “Khổ quá!” Cô vợ kêu lên: “Là em chạy từ ngoài vào, bên trái em là bên kia chứ? Anh chạy trong ra nên rẽ nhầm sang nhà  ông lão tội nghiệp ấy!” Anh chồng chưa hết căm nói:
-         Cái thằng khốn đầu trọc ấy mai tao cho biết tay!
-         Có giỏi thì sang ngay bây giờ đi, tao còn thức đợi mày sang “giải quyết vấn đề đây”! Mày là thằng bất lực chỉ gãi ngứa cho vợ thôi chẳng làm nên trò trống gì. Vợ mày đang lên cơn, nửa đêm phải sang cầu viện tao, thương tình, tao giúp cho, chính là giúp cho mày đấy còn oán cái nổi gì! Cậu Xế đầu trọc đầy vẻ khiêu khích.
 Anh chồng định xô cửa chạy sang gây sự, cô vợ níu tay lại: “Em lạy anh, lạy anh, làm gì mà ầm ỉ lên, hết đánh người này lại đánh người khác, cũng tại em vô ý thôi...”
-         Câu chuyện của em đúng là cười ra nước mắt, xót xa thay cảnh nghèo! Bồng nói, nhưng anh không hiểu cái ông già Nam bộ kia, không dưng bị đòn oan mà một điều “xin lỗi”, hai điều “tôi biết lỗi” là sao?
-         Chính em cũng thắc mắc về điều này, lúc đầu em cứ tưởng đấy là bệnh nghề nghiệp, ông ta làm công tác đảng, công tác quần chúng lâu năm nên tính tình mềm mỏng, nhu thuận cốt là để tập họp đoàn kết quần chúng, sẳn sàng nhận mọi sai sót về phần mình. Té ra không phải thế. Sáng hôm sau xảy ra sự việc, anh thợ Tiện đi làm sớm. Cô vợ ở nhà  cũng có thắc mắc như chúng ta. Cô vờ dọn dẹp nhà  cửa, lần theo bức vách giấy dầu giữa hai nhà , cô phát hiện ra một cái lỗ thủng bằng cái cúc áo được nút lại bằng cái nút của lọ Pê-nê-xi-lin. Cậu thợ tiện này còn trẻ nhưng nghiện thuốc lào nặng, lúc nào, đêm cũng như ngày đều thắp một ngọn đèn hạt đỗ. Tối đi ngủ, ngọn đèn đặt ở đầu giường. Thì ra, tối tối khi nghe bên nhà  thợ Tiện có tiếng động bất thường, ông cụ bật chiếc nút pê nê xi lin ra xem trộm các pha sex! Ông đâm nghiện xem “phim con heo.” Đêm nào cũng chờ xem xong “phim” ông mới đi ngủ. Tối ấy, đang dở cuộc thì phim tạm ngừng “chiếu”, ông vẫn dán mắt vào lỗ thủng chờ xem tập hai. Bất ngờ, ông bị cậu thợ Tiện lôi xuống nện túi bụi, ông cứ tưởng mình bị đánh vì cái việc xem trộm mờ ám của mình bị lộ. Ông sợ chuyện của ông bị loang ra, làm ô uế thanh danh ông nên ông lạy cậu ta như tế sao để yên chuyện!
-         Thật bi hài, Bồng cười và riết mạnh tay ép Nhân về phía mình, nói: “giờ ở đây thật tự do, chẳng lo ai nhìn trộm, dù ta có làm rung chuyển đến mười độ Rích-te cũng chẳng ai quan tâm...” Chưa dứt lời anh đã nhảy lên bụng Nhân.
-         Khiếp quá! Nhân kêu lên, ngày nào cũng mấy bận mà anh không chán à?
-         Không bao giờ chán cả, nhất là đối với em!
-         Thế mọi khi anh giải quyết việc này thế nào?
-         Ồ! Em ngốc thật, ở cái xứ sở này chỉ thiếu tiền chứ cái thứ ấy không thiếu, Âu Á, Mỹ, Úc , Phi đều có sẵn. Với lại, không phải ngày nào anh cũng làm thế này, sức mạnh ấy chỉ có được nhờ những xúc cảm có tính mỹ học và quan hệ tình cảm của hai đối tượng. Có tháng, thậm chí ba bốn tháng anh quên hẳn chuyện ấy...
-         Nhân rùng mình, hình như anh ta ngụy biện thì phải, chị cảm thấy ghê sợ cái con người đang nằm trên bụng mình. Chị không còn chút hào hứng, mặc cho anh ta xoay xở, chỉ mong sớm kết thúc.
-         Sao anh không lấy vợ đi?
-         Vợ mà làm gì nữa? Giờ anh chỉ thích đàn bà thôi, còn vợ thì anh xin vái cả tơi cả nón!
-         Sao vậy?
-         Thế em không biết chuyện của anh à? Bồng nói tiếp, ngày ấy anh đã lấy vợ, có một đứa con, gia đình đầm ấm nhưng rồi cuộc sống quá khó khăn, vợ con nheo nhóc. Thằng con trai như con nhái bén. Vợ đang tuổi ăn diện mà phải mặc chiếc quần lụa vá chằng vá đụp, đổi đàng sau ra đàng trước, quay đi quay lại chỗ nào cũng rách. Người cô ta ốm xo như đoạn xương ống vứt ra đường chó không gặm...Thương quá! Anh bỏ nhà  sang đây. Năm đầu tiên anh nhịn ăn, nhịn mặc, ki cóp, dành dụm. Vợ chuyển thuốc lá, rượu lậu từ nhà  sang...làm ăn dễ như nhặt được của rơi, như trúng xổ số. Vợ gửi thư, gửi ảnh sang. Nhà  cửa khang trang, vợ như bà hoàng, con như công tử, ngời ngời hạnh phúc. Anh mải mê làm ăn, chạy chợ, cũng ít khi thư từ, nhắn nhe gì về nhà . Chẳng được bao lâu, nhân một bận, thằng cu ốm nặng phải đi cấp cứu, tay bác sĩ chăm sóc rất tận tình. Anh ta hơn vợ anh mười tuổi, vừa bỏ vợ ở quê...  Anh ta thường lui tới thăm hỏi sức khỏe của hai mẹ con...Sớm đào tối mận lân la rồi ở lại luôn ngôi nhà  xây dựng bằng mồ hôi nước mắt của anh “chăm sóc” cả mẹ lẫn con! Anh gắng gượng làm lại cuộc đời, vay vốn đi buôn, mấy cú áp phe thất bạị, cú bị đồng bọn lừa, cú bị hải quan tịch thu, mất sạch! Lại mang công mắc nợ! Anh chán đời từ đấy.
-         Lấy một cô gái Nga cũng được chứ sao?
-         Em chẳng hiểu gì cả! Muốn lấy con gái Nga, được ngay, người tử tế xinh đẹp hẳn hoi...Nhưng khi thành vợ thành chồng rồi mới thực khốn nạn. Người họ với nhau, đồng chủng đấy nhưng họ vẫn không có đời sống vợ chồng như ta, không có cái cảnh đầm ấm “Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon..” như ta. Vợ chồng họ chỉ có chung giường ban đêm còn mỗi người là một thế giới riêng, tiền lương của ai người ấy giữ. Tan tầm, họ ra Xtô- lô - vai-a[25], tiện đâu ăn đấy. Cái bếp ở ta là nơi giữ hơi ấm gia đình, chồng vợ. Còn ở họ, vợ một nơi, chồng một nẻo, chẳng cần bếp núc nấu nướng gì hết. Ai tỉnh táo thì về nhà  trước, ai say ngả ra bên đường thì sáng sau xe cảnh sát chở về nhà . Đàn ông, đàn bà đều thế cả. Nhiều người đàn bà cô độc, say rượu lăn ra bên đường váy tốc lên, nhăn nheo đến thảm hại.
-         Sao vậy nhỉ? Nhân hỏi, em xem các chuyện xưa của Nga thấy đời sống gia đình của họ rất ấm cúng. Văn hóa ứng xử gia đình của họ rất tinh tế cơ mà?
-         Em có biết chính sách của chính quyền Xô viết về hôn nhân-gia đình hay không?
-         Không!
-         Có nhiều vấn đề nhưng trước hết là luật hôn nhân và gia đình, theo luật này, nếu vợ chồng li hôn bất cứ vì lí do gì thì toàn bộ tài sản trong nhà  thuộc về người vợ, người chồng chỉ xách va li ra khỏi nhà . Người ta tưởng làm như vậy là để bảo vệ quyền lợi người phụ nữ. Nhưng không! Tác dụng ngược lại, nó phá vở đời sống gia đình. Mà người gánh chịu hậu quả khổ đau của sự tan vỡ này lại chính là phụ nữ. Người chồng, trụ cột gia đình không bao giờ dám bỏ tiền ra xây nhà  hoặc mua sắm bất cứ thứ gì có giá trị để cải thiện sinh hoạt gia đình. Họ không xây nhà  riêng, một việc làm yêu cầu có sự đóng góp của cả người chồng lẫn người vợ mà trong đại đa số trường hợp, người chồng đóng góp phần chủ yếu. Họ chỉ ngồi chờ được nhà  nước phân căn hộ tập thể! Còn bản thân người đàn ông chỉ lo sắm cái va li thật to và dành tiền uống rượu! Cũng như anh vậy thôi, dành dụm để xây nhà cho thằng khác ở thì để tiền ấy uống rượu, chơi bời còn sướng hơn!
 Nhân nằm im, Bồng hỏi:
     -    Em mệt hả?
-         Vâng!
 
 Một con thú dữ không đáng sợ bằng một con người khi họ đã mất hết niềm tin. Nói chuyện với Nhân, giọng Bồng bao giờ cũng chứa đầy chua chát:
- Xin hỏi nhà  triết học, chủ nghĩa duy vật của cô luôn khẳng định sự tiến hóa, con khỉ  biến thành con người vậy tiếp theo, con người tiếp tục sự tiến hóa sẽ biến thành con gì? Biến thành Thích- ca- mâu- ni hay Giê- su, hay thánh A-la? - Không thể!- Họ chỉ là những cá thể, quán từ để chỉ họ là “Đức” ( Đức Phật, Đức Giê su...) không thể thành “loài” được, Mà, con người thì phải có “loài- Loài Người. Họ (các nhà  triết học) gọi con người là động vật bậc cao- Cao bao nhiêu cũng chỉ là động vật!... Điều đáng phục ở các nhà  duy vật là mặc dù loài của họ (loài người) đã thống trị trái đất nhưng họ không dùng quyền lực để tô son trát phấn cho loài ta[26] mà vẫn dũng cảm thừa nhận cái gốc gác động vật của mình, thừa nhận tổ tiên mình là một động vật có đuôi- con khỉ”
Nhân băn khoăn, không hiểu sao Bồng đặt ra câu hỏi ấy lúc này, phải chăng anh ta đang coi mình cũng chỉ là một động vật, động vật hoang dã...! Chị nhớ lại tất cả, từ cái giây phút ngỡ ngàng đầu tiên khi chị đặt chân xuống sân bay quốc tế Mat-xcơ-va, từ cái vòng tay ấm áp của người tình thời thơ dại đến những tháng ngày thác loạn vừa qua... Chị cảm thấy xấu hổ. Theo con mắt của Bồng, có lẽ mình như một con cái động đực sổng chuồng, như con mèo cái khát tình sau khi được thỏa mãn nằm rên rỉ, quằn quại trên mái giấy dầu của khu tập thể của gia đình chị ở xóm ngoài đê !
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
5
 
 
  Nhân xuống Lễ tân đề nghị đổi phòng. Chị chuyển lên tầng trên cùng của tòa nhà , một phòng cuối hành lang vắng lặng. Suốt mấy ngày chị ăn đồ nguội, không ra khỏi phòng. Chị dặn các cô lễ tân, tuyệt đối không nói cho ai biết nơi ở mới và số điện thoại của chị. Cô lễ tân ngạc nhiên hỏi lại:
-         Kể cả với chồng chị?
-         Bất kể ai! Nhân trả lời, bảo họ tôi đã chuyển đến khách sạn khác rồi.
-         Chắc họ đã chia tay nhau, các cô Lễ tân thì thầm bảo nhau.
Bồng đến khách sạn tìm Nhân, nghe các cô lễ tân nói, Bồng hiểu. Anh quay gót bước ra phố tức khắc, không buồn, không vui, không ngạc nhiên. “Tây là vậy!” Anh tự nói với mình. Anh nhận ra cái vô lí của chính mình, đang là người tự do lại tự trói buộc mình với một người đàn bà không phải là vợ ngót hai tháng trời, tiêu hoang mất 60 ngày, thật khốn nạn cái thằng tôi! Thảo nào các cô lễ tân bảo mình: “Vợ ông chuyển chỗ ở rồi!” Bọn Tây không hiểu là phải. Bọn chúng, con trai, con gái cả đêm ngủ với nhau quấn quýt nhưng sáng ra gặp nhau có chăng chỉ một câu chào: “Đô- bờ- rưi- u-tờ-rô”[27] rồi bước đi như người không quen biết. Họ lại khoác vai người khác ríu rít trên đường phố. Thì ra cái thằng người An Nam “Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai” đã ăn sâu vào máu thịt hễ có dịp là hồi sinh, là tái phát!
 Nhân trăn trở trên giường, mãi không ngủ được. Chị thở dài...  “ Trong đạo đức học cộng sản, hành vi vừa rồi của mình có bị coi là xấu xa không nhỉ?” Chị tự hỏi mình, tự tìm lời giải đáp cho mình. Cụ Mác bảo đến chủ nghĩa cộng sản mọi nhu cầu của con người sẽ được thỏa mãn, nhu cầu tình dục là một nhu cầu phổ biến nhất đối với con người, tiếc rằng cụ chưa chỉ ra cách thỏa mãn nhu cầu đó thế nào. Về sau, Nhân nhớ lại, hình như trong tác phẩm “Hôn nhân và gia đình”, có một đồng chí Bí thư Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản hỏi thẳng Cụ Lê, đề nghị cụ giải thích cho thanh niên hiểu rõ cách thỏa mãn nhu cầu tình dục này. Cụ Lê nhìn thẳng mặt anh bí thư nọ nói như mắng: “ Nhu cầu tình dục hả? Anh khát nước, anh có nhu cầu uống nước phải không? Liệu anh có vục mặt vào vũng nước bẩn bên đường để uống hay không? Anh có thò mồm vào một cái cốc có hàng trăm người uống hay không?..” Anh Bí thư bị mắng oan không dám cãi lại. Đã là con người khi được tự do, sống trong chủ nghĩa cộng sản thì chắc chắn là có tự do rồi, ai lại có nhu cầu “uống nước bẩn” ăn của thiu thối! Nói đến “Nhu cầu” là nói đến ước vọng được hưởng một cái gì đó trong sạch, thanh cao, có lẽ nào đến chủ nghĩa cộng sản mà nhu cầu của con người vẫn chỉ được đáp ứng bằng “vũng nước bẩn bên đường”, bằng một “chiếc cốc cho cả trăm người uống”? Nhân thiếp đi lúc nào không rõ. Trong giấc mơ, chị được gặp cụ Lê, sau một nụ cười đôn hậu cụ bảo Nhân: “Thế hệ các cháu bây giờ, người làm chính trị đã đành, ngay cả những người làm khoa học cũng đọc các trước tác một cách hời hợt. Thời chúng tôi suy nghĩ bạc đầu mới viết được một câu văn, mỗi chữ nặng như quả núi, sắc như gươm...Bây giờ các cô các cậu chỉ loáng thoáng rồi: “Mác nói...Lênin nói...” um sùm cả lên. Đến nỗi tôi nghe người ta trích lời của tôi mà hoa cả mắt không biết tôi nói điều đó lúc nào, ở đâu? Ai cũng tự xưng mình nắm vững chủ nghĩa Mác- Lênin. Không ít kẻ muốn biến học thuyết cách mạng của chúng tôi thành “chiếc gậy Như ý”không chỉ để dẹp bọn yêu tinh quỷ quái mà còn để đè bẹp những ai trái ý mình, khác chính kiến với mình, tạo ra cảnh máu chảy đầu rơi!... Cái chuyện “thỏa mãn nhu cầu tình dục” mà các cô các cậu quan tâm, trong tác phẩm “Hôn nhân và gia đình”, một  trước tác kinh viện của chủ nghĩa Mác, vấn đề đó đã được trình bày một cách minh triết, các cậu không chịu đọc, rồi “căn cứ vào đạo đức cộng sản, tuân theo di huấn của Mác-lê nin” đi xử lí oan hàng ngàn, hàng vạn đôi nam nữ chỉ vì họ khao khát được thỏa mãn nhu cầu tình dục!...Thậm chí còn dựng chuyện bịa đặt về quan hệ tình dục bất chính để bôi nhọ, đánh đổ nhau.Ta nhắc lại rằng: “Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân do đó việc nuôi dạy con cái là trách nhiệm của toàn xã hội. Xã hội sẽ không phân biệt đối xử với con “Trong giá thú” và con “Ngoài giá thú”, con chung con riêng...Điều đó sẽ tạo ra điều kiện thuận lợi và tự do cho quan hệ tình dục giữa nam và nữ..”. Tác phẩm cũng đã trình bày một cách khoa học và biện chứng về quan hệ hôn nhân và gia đình trong quá trình phát triển của xã hội loài người từ chế độ quần hôn thời sơ khai mông muội đến chế độ “Một vợ nhiều chồng” rồi chế độ đa thê “Một chồng nhiều vợ” và chế độ “Một vợ một chồng” trong thời đại văn minh ngày nay. Điều liên quan đến thắc mắc của thế hệ ngày nay là phương thức thỏa mãn nhu cầu tình dục trong xã hội văn minh bây giờ và trong xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai. Điều này Mác đã chỉ ra một cách không che dấu rằng: Cho đến nay, trên thực tế chế độ một vợ một chồng chỉ tồn tại trên danh nghĩa, nó luôn được bổ sung bằng tệ ngoại tình và nạn mãi dâm! Bây giờ thì chắc cháu đã nắm được “những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” về tình dục rồi chứ! Nhân đập tay xuống giường, kêu lên: “Ta không sai! Ta không sai! Ta chẳng làm gì xấu xa cả!” Chị tỉnh giấc bàng hoàng:
-         Đúng! Việc mình làm với Bồng chẳng có gì sai phạm ghê gớm cả. Nó cũng như đi làm vật lí trị liệu cho cơ thể được thư giãn, tinh thần được sảng khoái, điều tiết hoóc-môn, điều hòa âm dương làm tăng sức sống cho cơ thể. Con người cũng như một cỗ máy, muốn tăng được tuổi thọ, độ bền thì phải thường xuyên được bảo dưỡng, phải cho chạy đều. Chiếc máy nào dù tốt đến mấy mà cứ trùm chăn, phủ bạt lâu ngày, cả năm không cho nổ máy thì cũng sẽ hỏng... Nhân tự bào chữa cho mình. Hơn nữa, việc ta làm, về mặt đạo đức là phù hợp với những nguyên lí cơ bản của đạo đức cộng sản...
 Nhân nằm yên trên giường trăn trở, nhiều đêm như vậy, lòng chị không chút bình yên. Đêm đêm chị nằm đếm từng tiếng chuông từ trên gác chuông Ivan Đại đế vọng lại, tiếng sâu trầm và vang vọng, ngân dài trong hồn chị. Có hôm, đã nửa đêm, Mockba đang chìm trong giấc ngủ êm đềm, chị mở cửa, ra ban công, nhìn xuống, thành phố như một khối kim cương khổng lồ. Quảng trường rộng lớn không một bóng người .Những hoa tuyết lững lờ bay. Những tòa nhà đá đồ sộ màu tro xám đứng trầm mặc. Chị đứng đấy, đợi cho đến lúc tiếng chuông thứ mười hai tắt hẳn sau cánh rừng xa mờ trên bờ sông Mát- xcơ- va mới vào phòng đi ngủ.... “Mình không còn là mình nữa!” Chị nghĩ.  Mặc dù các học thuyết chính trị, các luận thuyết khoa học đều bảo vệ cho hành vi của chị, đều bênh vực chị... Tất cả cái đó, chị nghĩ, nào có ý nghĩa gì đối với một con người! Mà, tại sao một con người lại phải nhờ đến một kẻ khác làm chánh án, làm trọng tài phán quyết cho lương tâm của mình? Lại phải dùng đến những lí thuyết dây dợ lằng nhằng để làm nơi nương tựa cho tinh thần? Không có nó thì sao, mình có tồn tại hay không? Những học thuyết ấy chỉ là thứ nước sơn được dùng để tô vẽ cho các chế độ chính trị mà thôi. Đối với con người, mọi thứ lí thuyết ấy chỉ là những bùa mê thuốc lú mà kẻ cầm quyền dùng để mê hoặc, khiến con người phải hành động theo ngón tay trỏ của họ. Không có nước sơn nào có thể làm tươi sáng lại các tâm hồn đã bị hoen ố cả!
 Hình ảnh của chồng, con hiện ra với cuộc sống lầm lụi nơi quê nhà . Xót thương không phải vì nỗi khổ cực mà con người đang phải chịu. Cái đáng thương nhất cho con người là ở chỗ họ khổ mà không biết mình khổ, vẫn vỗ ngực coi mình là trung tâm của vũ trụ, đang đứng trên đỉnh cao muôn trượng trong sự phát triển của loài người. Chị nhớ đến sự say mê, bốc lửa của Liêm trong các bài giảng về con người mới Xã hội chủ nghĩa. Chị đọc gần như nát bản luận văn tiến sĩ về xây dựng con người mới Xã hội chủ nghĩa Việt nam của Liêm. Chị không bỏ sót một buổi hội thảo, nói chuyện về đề tài này của Liêm. Thực lòng chị không tán đồng về những quan điểm của Anh. Chị cũng biết  Liêm không có quan điểm gì riêng, chỉ là người thuộc bài, khéo nói và biết cách sống thuận theo thời thế thôi. Anh có muốn nói khác cũng chẳng biết nói gì, vốn tri thức của anh chỉ là các giáo trình, bài giảng thuở đi học và nghị quyết của các kì đại hội, một số bài xã luận cắt từ các báo ra. Liêm luôn tâm niệm con người mới là con người có tinh thần tập thể. Các bài giảng của anh về chống chủ nghĩa cá nhân rất hùng hồn sinh động. Anh hô hào phải tiêu diệt cái tôi nhỏ bé của con người trong xã hội cũ- xã hội dựa trên nền tảng chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nhiều lần hai vợ chồng tranh luận với nhau khá gay gắt về vấn đề này, chưa một lần Liêm khoan nhượng. Theo anh chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nên con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người có tinh thần làm chủ tập thể cao, Không tiêu diệt được cái tôi của cá nhân, không thể có chủ nghĩa xã hội. Bao giờ Liêm cũng thắng trong các cuộc tranh luận tay đôi.  Liêm thắng không phải vì anh có lí luận mà vì  anh là người phát ngôn của tư tưởng chính thống, và hơn thế Liêm là người thầy. Người thầy nhìn học trò cũng như người cha nhìn con, đứa con bao giờ cũng bé bỏng.
 Nhân quyết định chọn đề tài nghiên cứu sinh tiến sĩ triết học của mình là: “Cái “Tôi” trong con người mới xã hội chủ nghĩa.” Chị muốn góp một tiếng nói có cơ sở khoa học vào việc giáo dục đào tạo con người mới. Đây cũng là lời phản biện đối với những quan điểm khô cứng cực đoan của Liêm, và là việc làm để tự khẳng định mình, để vươn lên từ một cô học sinh, một người vợ lệ thuộc thành một người đồng nghiệp của Liêm.  Chị nghĩ:
-         Cái “Tôi” là trung tâm tinh thần của con người. Không có cái “Tôi” của cá nhân, con người sẽ sống trong bầy đàn. Con người phải là một cá nhân. Chỉ có con người (cá nhân) độc lập kiểm soát những hành vi của chính mình và có khả năng thể hiện tính chủ động toàn diện mới có cái “Tôi”. Theo chị, quan điểm của Liêm chủ trương phải đập nát cái “tôi” nhỏ bé của từng cá nhân để hòa nó vào trong cái “Ta” rộng lớn của chủ nghĩa tập thể là sai lầm. Cái tôi của con người chỉ có thể biểu hiện ra một cách đầy đủ nhất và tự do nhất trong từng cá thể, trong điều kiện cá nhân được tự do phát triển toàn diện và hoàn chỉnh. Liêm chủ trương xóa bỏ cái “Tôi” nhưng chính anh  đã trở thành một “siêu tôi” (Mạo danh là “Ta”) để kìm chế, triệt tiêu “cái tôi” của người khác. Khi cái tôi bị triệt tiêu, khi tiếng nói lương tâm của mỗi một  con người đều là tiếng nói của Thượng đế thì con người sẽ không còn cá tính, không còn “kí hiệu” để phân biệt anh ta với các cá thể khác trong cộng đồng.
  Nhân biết, con đường mà chị lựa chọn đầy chông gai, chắc chắn sẽ ít người trong giới khoa học xã hội Việt nam đồng tình với chị. Trong xã hội ta hiện tại, nói: Con người mới xã hội chủ nghĩa có cái “Tôi” khác nào bảo Chúa Giê su có con riêng với bồ! Chị sẽ bị “đánh” tơi bời. Người phê phán chị gay gắt nhất chắc chắn là Liêm, người được phong thần để canh giữ vườn Địa đàng, không cho phép ai được ăn trái cấm. Anh là lãnh chúa trong lĩnh vực này. Đối với chị, bằng cấp không thành vấn đề. Chị cố dồn sức lực để tìm hiểu thế nào là một con người lí tưởng mà các thời đại của loài người mong muốn. Chị say mê nghiền ngẫm lí thuyết giáo dục của Humboldt[28]. Theo ông này, “lí tưởng về con người toàn diện như là sự thống nhất giữa thể xác và tâm hồn, giữa lí trí và nhục cảm, giữa nghĩa vụ và thụ hưởng, giữa thế giới và cá nhân...” Nội hàm của các khái niệm này khác xa với hình mẫu “con người mới Xã hội chủ nghĩa” phát triển toàn diện: Đức – Trí – Thể - Mỹ như các giáo trình của Liêm. Vấn đề mà chị băn khoăn không phải ở bốn yếu tố ấy mà là nội hàm của từng yếu tố. Nội dung của “Đức” là tuyệt đối trung thành với lí tưởng cộng sản chủ nghĩa, sẳn sàng hy sinh cho lí tưởng đó; Trí được coi là người có thế giới quan Mác xít, nắm vững những nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin, có kĩ năng chuyên môn trong lĩnh vực công tác của mình...!
Những con người được “sản xuất” ra theo lít-xăng “công nghệ của Chúa”, nếu ra khỏi vườn Địa đàng họ biết sống vào đâu? Mà chắc gì “Vườn Địa Đàng” đã có!  “Con người mới” của Liêm sẽ sống ở đâu, sẽ hành xử thế nào trong thời hội nhập, khi trái đất là mái nhà chung của loài người! Nhân nghĩ miên man...
 Chị ngước nhìn lên tờ lịch treo trên tường, hoảng hốt: Chết thật! Chỉ còn hơn tuần lễ nữa mình đã đến ngày về nước, chưa mua được gì cả! Các cửa hàng bách hóa ở Mát bây giờ trống trơn, đến nỗi bơ là món thực phẩm phổ biến nhất của người Nga, nó cần cho bữa ăn hàng ngày của họ, từ người bần cùng cho đến kẻ giàu sang như muối vậy thế mà cửa hàng chỉ bán cho mỗi người xếp hàng một gói 200g, người nước ngoài xuất trình hộ chiếu mới được mua 2 gói... Những đoàn người xếp hàng dài dằng dặc, đàn bà đầu cúi gầm mặt mày ủ dột, đàn ông hơi men nồng nặc thốt ra những lời đả kích châm biếm chế độ nặng nề, cả những lời chửi tục. Ở tít cuối hàng, một  người Nga trung niên tự giới thiệu tên mình là Stê-pan, đứng tựa lưng vào cột hút thuốc, nói chuyện tiếu lâm với một thanh niên Việt nam, anh tự giới thiệu mình là Lân nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Viện Hàn lâm khoa học xã hội Liên xô:
-         Anh có biết tại sao tên của Liên xô được viết tắt là CCCP không? Stê-pan hỏi.
-         Đó là chữ viết tắt theo chữ cái đứng đầu theo tiếng Nga của“Liên bang- cọng hòa- xã hội chủ nghĩa- Xô viết”- Gọi tắt là Liên xô. Lân trả lời.
-         Không đúng! Stê-pan nói. Anh ngồi xuống, lấy cái que viết lên trên nền nhà  rồi giải thích:
-         Chữ C đầu tiên là chữ cái của từ “Xtran- na” có nghĩa là đất nước;Chữ “C” thứ hai là “Xa-Mức” có nghiã là “Nhất”; Chữ “C” thứ ba là chữ cái đứng đầu của chữ “ Xta- rức” có nghĩa là “Già nhất”.Còn chữ “P” cuối cùng là chữ cái của từ “Ru-cơ-va-đi- chen- lây” có nghĩa là “Những người lãnh đạo”.[29]Anh hiểu rồi chứ? CCCP có nghĩa là: “Đất nước của những người lãnh đạo già nhất”. Hai người ôm nhau cười rũ rượi. Lân giải thích cho người bạn Nga hiểu ý nghĩa trào lộng của cụm từ “ Xã- Hội- Chủ- Nghĩa” được viết tắt là XHCN theo tiếng Việt. (Xếp-Hàng-Cả-Ngày)! Stêpan cười to, đưa cánh tay phải lên trời, bàn tay nắm chặt, chĩa ngón tay cái ra kêu: “ Mơ la đét, Mơ la đét...”[30] Stê-pan nhìn thẳng vào mặt Lân, nụ cười trên môi, hỏi:
-         Anh đã đọc “Những người thích đùa” của Azit- nê- xin chưa nhỉ?
-         Rồi...rồi..hay quá...Lân vừa trả lời vừa cười khoái trá.
-         Chủ nghĩa độc tài là phản động nhưng mặt tích cực của nó là đã đóng góp cho nhân loại một nền văn học châm biếm, Stê pan nói, chuyện đáng cười nữa là ở nước tôi người ta đặt vấn đề truy cứu cuốn truyện “Những người thích đùa”. Họ bảo đó không phải là chuyện của Thổ Nhĩ Kì mà là chuyện của nước Nga do một người Nga nào đó viết, sợ bị bỏ tù nên dấu mặt, đổi tên thành Azit- nê -xin đấy thôi!
 
 Nhân đảo một vòng khắp các “Địa chỉ đỏ”[31] ở Mát-xcơ-va nhưng không mua được thứ gì đáng giá, thậm chí dây may- xo họ cũng chỉ bán cho chị năm chiếc. Những mặt hàng mà người Việt mình cần là nồi hầm, bàn là, máy khâu, tủ lạnh...Không đào đâu ra được. Chị mới mua lại theo giá cao hai cái bàn là và một đầu máy khâu của anh em “Xuất khẩu lao động” bán lại cho. Nhân đang lo sốt vó, chị đang cầm trong tay mấy ngàn Rúp tiền bán áo, phông, quần bò, đồng hồ, kính...biết làm gì với nó? Mang về nước đổi lại tiền Việt thì lỗ vốn to, không đủ để trả nợ tiền vay mua hàng mang đi lúc sang bên này! Chị uể oải xách tòn ten năm chiếc dây may-xo như nắm ruột gà bước vào phòng lễ tân. Nhân không tin ở mắt mình, trước mắt chị là Bồng, đầu trần, tóc quăn lượn sóng, bộ râu quai nón miết sát vào cằm ánh lên màu thép. Vẫn thế, vồn vã, ân cần, Bồng cầm lấy tay Nhân bảo: “Sắp về rồi mà còn hoạt động cách mạng” tích cực thế!” Nhân nở một nụ cười rối ruột, đưa nắm dây may-xo lên trước mặt cho Bồng xem.
 Bồng treo áo khoác vào giá, không vồ vập, xô bồ như những lần trước, anh ngồi vào chiếc sô pha đặt sát tường đợi Nhân. Chị bê ra đặt trước mặt Bồng một tách chè chanh tươi đang bốc khói, nhẹ nhàng mời anh uống rồi ngồi vào mép giường. Bồng hỏi:
-         Sắp về rồi, hàng họ xong chưa?
-         Sao anh biết em sắp về?
-         Ối dào!...Em ở đâu, làm gì từng ngày anh đều biết hết.
-         Sao lại lặn mất tăm thế?
-         “Đã quyết không mong sum họp mãi, bận lòng chi nữa lúc chia phôi...[32]
-         Giận em lắm hả?
-         “ Giận thì giận mà thương thì thương...” Nói vậy thôi chứ làm sao mà giận em được, em tha giận cho anh là may, anh đâu dám giận em. Thôi chuyện gì đã qua cho qua, bây giờ ta cần tập trung mọi sức lực ,trí tuệ để làm công cuộc cách mạng giải phóng loài người khỏi ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa Tư bản cái đã, công tội xét sau! Bồng vừa nói vừa cười, tỉnh bơ sự đời, hỏi Nhân:
-         Hàng họ mua sắm xong chưa có cần anh gói gém gì cho không?
Nhân im lặng, nét mặt vẫn buồn buồn nhưng đầy thân ái như từ giây phút gặp lại Bồng đầu tiên ở sân bay cho đến giờ. Chị đang đắn đo không biết có nên nói ra những khó khăn của mình để nhờ Bồng giúp đỡ hay không? Chị sợ phải mắc nợ người ta lắm! Quả thật Bồng là vị cứu tinh xuất hiện rất đúng lúc. “Thôi thì cao đạo mà làm gì..!” Đã nghèo thì hèn vậy thôi- Nhân nghĩ- Chuyện xảy ra với Bồng hồi mới sang hoàn toàn không có mục đích lợi dụng dựa dẫm vào Bồng. Đó là một cơn lốc đến cả từ hai phía. Nó là gì?- Tình yêu?- Là khát vọng tình dục cần được thỏa mãn?- Không biết! Nó là tình người, một tình cảm nguyên khôi trong như nước suối nguồn của một đôi trai gái thời nguyên thủy gặp nhau dưới gốc cây si trong rừng rậm hay đó là sự trỗi dậy của thú tính đớn hèn? Là gì?- Không biết!- Nó là một nhu cầu cần được thỏa mãn? Có lẽ đúng. Nhân thở nhẹ một hơi thở dài như người thư giản, nói với Bồng:
-         Em chưa mua được gì cả, ở Mát bây giờ không thể tìm ra thứ gì để mua, còn một đống tiền Rúp, chẳng lẽ lại mang về nước! Chỉ còn một tuần lễ nữa thôi em sốt ruột lắm.
-         An tâm đi! Bồng thủng thẳng nói, mắt nhìn xuống sàn nhà  trước mặt- Em cần mua những thứ gì viết ra giấy đi. Còn bao nhiêu tiền mua bằng hết. Mang tiền Rúp về nước chẳng có giá trị gì, không hơn tiền Đồng Việt nam bao nhiêu.
-         Anh Liêm em thích nhất là xe đạp nhưng là xe Fa-Vô-rít của Tiệp Hay Mi-Fa của Đức còn cái xe đua ghi đông quặp của Nga thì giá trị ở Việt nam thấp, để dùng thì rất khó đi...Nhân nói chưa hết thì Bồng cắt ngang:
-         Muốn Fa- vô-rít có Fa -vô-rít, muốn Mi-Fa có Mi-Fa...khó gì đâu. Gì cũng có tất, muốn mua gì em cứ kê ra giấy, trừ hàng hóa của các nước tư bản, còn hàng của các nước “phe ta” không thứ gì không có.
Nhân tưởng như mình nghe nhầm, hay anh ta nói đùa để diễu mình? Chị cầm cây bút và tờ giấy trong tay, mắt nhìn không chớp vào mặt bồng. Chị ghi nắn nót: “Xe đạp Mi-Fa nữ: 2 chiếc...” rồi dừng lại như người bị rối trí. Nửa tin, nửa ngờ chị hỏi:
-         Anh kiếm đâu ra những của độc này ở Mát?
-         Dân nghiên cứu sinh của bọn em chỉ là những anh đồ gàn, vùi đầu vào thư viện, ép xác mấy năm trời, lấy được mảnh bằng, thực hư lẫn lộn, về nước may ra có thần, có thế, kiếm cái ghế để ngồi, hơn người khác may lắm là được căn hộ 24m2 không thì chỉ tăng được một bậc lương chưa đến 10 đồng bạc, mua không được hai sợi dây may-xo này...Còn bọn anh thì khác. Anh làm vua không ngôi, cần cái gì là có ngay, trong tay có hàng mấy trăm quân để sai, mọi mặt hàng (mà quân ta cần) đều có sẵn trong kho của anh nhờ vào hệ thống trao đổi hàng hóa liên thông giữa các nước XHCN của bọn anh...Thôi, hết ngày rồi, nói đi, còn đi lấy hàng, đóng gói vận chuyển ra cảng nữa...
Nhân cặm cụi ngồi ghi, dày đặc một tờ khổ a4. Hai ngày sau, Bồng gọi điện cho Nhân báo tin mọi việc đã hoàn tất, hẹn Nhân có mặt ở Cảng để làm thủ tục gửi hàng về Việt nam. Nhân sửng sốt hỏi lại:
-         Cảng nào?
-         Cảng Mát- cơ-va chứ cảng nào nữa! Biết Nhân đang bối rối, Bồng giải thích:
-         Cảng biển ấy mà...! Ở đường... có biết không? Bồng nói tiếp, thôi, thôi em hãy đợi đấy anh sẽ cho xe rẽ qua đón em cùng đi.
 Nhân bỏ máy, ngồi thừ ra giường: - Mình đã tính mua hết hàng theo số tiền đã đưa cho Bồng, giờ phát sinh thêm tiền vận chuyển đường biển nữa thì lấy đâu ra! Chẳng lẽ đi vay, khất nợ..mặt mũi nào! Mọi người về nước bằng tàu hỏa đều mang theo hàng lên toa nằm khỏi tốn tiền gửi. Chỗ nằm chỉ dùng để chất hàng còn người chỉ nằm lên trên các kiện hàng hoặc tựa vào các thùng hàng, ngủ đứng như vịt...Những lần đầu, người phụ trách toa tàu phản đối kịch liệt, không cho hàng lên toa mằm, bắt phải gửi vào toa hàng. Nhưng, họ không thể nào thắng được “Việt cộng”[33]. Anh em mình rất tài ở điểm này. Họ lập thành những nhóm nhỏ, những người yếu ớt lên toa nhận chỗ, mở toang các cửa sổ, đứng đỡ các kiện hàng từ dưới đưa lên. Những người khỏe mạnh ở dưới sân ga làm thành dây chuyền, có người ngồi xuống hoặc “làm bò” cho người khác đứng lên lưng, lên vai tuồn hàng qua cửa sổ chất đầy các giường nằm của phòng ngủ.
Nhân ăn mặc rất lịch sự, vai đeo chiếc túi nhỏ bằng da cá sấu, dây nạm vàng (Quà của Bồng), Bồng theo sau xách chiếc va li bé. Đến chỗ soát vé lên toa, chị dừng lại để Bồng lách lên trước, chủ yếu là để dẹp đám người đang nhốn nháo khiêng hàng lên toa. Người đàn bà Nga khoác chiếc măng tô bằng dạ thô, to sụ như con gấu bắc cực, đưa mắt nhìn Bồng và Nhân một cách lạ lẫm và đầy kính trọng. Có lẽ bà đang cố phán đoán hai người này từ đâu lạc tới...người Nhật, người Hàn quốc hay Sin- ca- po? Sao họ lại chen vào giữa đám người nhốn nháo này!?
 Bồng dẫn Nhân đến buồng số 16. Cửa phòng đóng kín. Tiếng nói to từ trong phòng vọng ra, hình như họ đang cãi nhau một vấn đề gì đấy. Hàng còn để ngỗn ngang choán cả lối đi... Bồng gõ cửa. Cửa mở. Một chiếc bình thủy tinh vở tan nằm ngay giữa sàn, ba cô gái đang vây quanh. Mùi nước dưa chua khú bốc lên nồng nặc. Họ đứng một cách vô tình nhưng rất cân đối như ba chân của một chiếc kiềng. Thì ra  họ đang trách cứ và đổ lỗi cho nhau về việc trong khi chuyền hàng đã vô ý làm vỡ mất cái bình dưa cải muối của một cô trong bọn. Đó là món thức ăn cô ta chuẩn bị để ăn trên tàu suốt chặng đường Mát-xcơ-va – Hà  nội. Bồng dẫn Nhân quay trở lại đi tìm phòng trưởng tàu. Trông thấy hai người ăn mặc lịch sự bước vào, ông trưởng ga không dấu nỗi vẻ ngạc nhiên và kính nể. Bồng đưa chiếc vé của Nhân ra hỏi:
-         Xin ông cho biết cúp pê của giường này ở đâu?
 Ông trưởng tàu cầm chiếc vé và chỉ số toa, số cúp pê và số giường ghi rõ trên vé cho Bồng. Anh lắc đầu bảo:
-         Chúng tôi đã đến đấy, nhưng đấy là một toa chở hàng bẩn thỉu và rất mất trật tự.
 Trưởng tàu quay lại mời hai người ngồi, cầm máy gọi cho trưởng toa. Hai người nói gì không rõ, chỉ thấy ông trưởng tàu ồ lên một tiếng rất to rồi nói liên tiếp Pa- nhet...pa-nhét[34], miệng nở một nụ cười, nhìn hai người. Chẳng biết đó là nụ cười thân thiện thông cảm hay là biểu thị một sự chế nhạo. Ông nói:
-         Thưa hai vị... khách... quý...Ông cố tình kéo dài mấy từ này, bảo:
-         Đấy không phải là toa chở hàng, đấy là toa chở khách, tuy là toa hạng hai nhưng nó lịch sự và sạch sẽ, chăn đệm trắng tinh. Người Việt của các anh đã biến nó thành toa chở hàng. Về nguyên tắc chúng tôi có thể cấm các anh làm việc đó và không cho các anh lên tàu. Chúng tôi có toa chở hàng riêng ở cuối đoàn tàu nhưng vì thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của các anh nên đã làm ngơ để các anh làm như vậy và tất nhiên, khi nào có đoàn Việt nam đi thì chúng tôi không cho trải ga đệm, trải ra các anh cũng không dùng mà nếu bị rách chúng tôi không biết bắt đền ai. Đã có trường hợp các anh cuốn tấm ga lại làm giây buộc kéo hàng từ dưới sân ga lên! Tình hình này không phải mới xảy ra hôm nay mà đã hơn chục năm nay rồi, đã thành thói quen đối với người phục vụ buồng. Dân địa phương lên tàu đi qua những toa không chăn đệm ấy họ gọi là “Toa Việt nam”.
 Lần đầu tiên đi tàu liên vận, Nhân ngượng chín người, Bồng không lạ gì cảnh này nhưng nói cứng:
-         Chúng tôi không phải là họ, đề nghị ông thu xếp chỗ nằm cho bà đây.
 Đèn trong phòng sáng trưng, ông trưởng tầu ngắm nhìn Nhân từ đầu đến chân, cách ăn mặc, trang điểm, mùi nước hoa Pa-ri thoang thoảng của Nhân như đang trấn áp ông trưởng tàu. Ông bước ra ngoài ton ton chạy đi đâu, lát sau ông trở lại, vẻ cung kính trên khuôn mặt, mời hai người theo ông. Nét mặt ông khó tả, vừa tỏ vẻ ăn năn muốn được thứ lỗi, vừa có nét hồ hởi vì từ khi ông làmTrưởng toa đến giờ, nay toa của ông mới được đón một quý bà xinh đẹp, sang trọng  như một nữ Bá tước từ thời các Sa hoàng sống lại. Ông xếp Nhân vào một phòng đầu toa, ở đấy mới chỉ có một người đàn bà Nga nằm. Ông gật đầu chào Nhân và bắt tay Bồng rất chặt. Ông vừa quay gót đi, Bồng đuổi theo tặng ông một chai Vốt- ca Áp-sa-lút của Thụy điển. Nhìn chai rượu, ông ngạc nhiên đến sững sờ. Nước Nga gần ngót cả thế kỉ nằm trong bức tường sắt, người dân không hề biết đến phương Tây, họ có tâm lí sùng bái hàng hóa từ phương Tây. Đoàn tàu sắp chạy về miền Xi-bê-ri lạnh giá, nhiệt độ dưới 22 độ âm. Giữa đêm đông này,chai rượu Vốt- ca 45 độ cồn của Thụy điển từ tay một người của nước Việt nam nghèo đói tặng cho là một kỉ vật vô giá. Ông hớn hở quay về phòng, lòng băn khoăn: Họ là ai?..
 Con tàu Phương Đông 3 rời sân ga Mạc tư khoa vào một đêm lạnh giá. Tuyết bay đầy trời. Những ngọn đèn đường tỏa xuống một màu vàng bức bối. Theo tiếng gõ nhịp đều đều của bánh xe đập vào đường ray, con tàu dập dềnh trôi theo đường sắt trong không gian tĩnh lặng bao la. Tuyết đóng băng, mặt đất trắng xóa...Nhân nằm trong toa, nhìn qua cửa sổ, những hoa tuyết bay ngày một dày hơn. Những hàng cây bên đường ngày một thưa thớt, đen sì đứng dúm dó trong những cơn lốc hun hút của miền Bắc cực. Bất giác, Nhân nghĩ như mình đang đi trên con tàu giữa đại dương mênh mông, những bông tuyết kia chính là những ngọn sóng đang vỗ vào thân tàu, và, những bóng đen như đang bám riết lấy thân tàu, đuổi theo không buông rời con tàu kia chính là Bồng, anh đang bơi trong biển cả đuổi theo Nhân! Anh ta là ai? Anh đứng ở chổ nào trong những tập lí thuyết dày cộp về xã hội học, giáo dục học? Là nhân vật phản diện hay chính diện trong các tiểu thuyết xã hội? Không! Anh ta đang tồn tại một cách cường tráng giữa cuộc đời thực này. Anh không có mặt trong Kinh thánh, kinh Phật, trong “Đạo đức Kinh” của Lão tử, trong sách của Mác- ca- ren- cô[35]. Biết đâu! Đến một ngày nào đó, do sức sống mãnh liệt của những nhân vật như Bồng, các linh mục, thầy dòng, thầy tu, các nhà  chính trị...muốn cho các sách mình viết ra được tồn tại, họ lại giải thích rằng, Bồng chính là nhân vật chính diện tiêu biểu có đủ các tiêu chuẩn đạo đức cao thượng mà các kinh, các sách của họ  đã viết ra để nhằm giáo dục người đời! (Chuyện này không lạ khi người xưa đã từng giải thích Đạo Chích, một tên trộm khét tiếng là người có đủ cả Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín của Khổng tử đó sao!)
 Người đàn bà Nga cùng phòng tỉnh dậy, chị vừa ngủ một giấc say, hỏi bâng quơ:
-         Đến ga nào rồi nhỉ?
 Nhân đáp lại bằng nụ cười thân thiện như muốn làm quen. Lần đầu tiên Nhân đi con đường này.Chị chẳng biết đây là ga nào bèn hỏi:
-         Chắc chị về Xi bê ri?
-         Vâng.
-         Quê chị ở đấy?
-         Tôi sống ở đấy là đời thứ ba, quê gốc tôi là Mạc-tư-khoa...! Người đàn bà Nga trả lời rồi nhìn ra ngoài trời, đôi mắt xa xăm. Hình như chị ta cố tạo ra một khoảng vắng để có thời gian đoán định thân phận của người đàn bà Á đông đang đối thoại với mình.
-         Chắc chị là phu nhân ngoại giao? Chị hỏi Nhân.
-         Không, tôi sang làm nghiên cứu sinh tiến sĩ, Nhân trả lời.
-         Ồ! Người đàn bà Nga thốt lên, hay quá! Chị nghiên cứu về lĩnh vực gì?
-         Tôi nghiên cứu về “Con người mới Xã hội chủ nghĩa”.
-         “Xã hội chủ nghĩa...! Con người mới..”? Người đàn bà Nga thảng thốt nhắc lại, nhìn Nhân đăm đăm rồi nở một nụ cười khó hiểu như đang nói chuyện với  một người đi săn Khủng long.
-         Phải chăng, nụ cười ấy bao hàm cả sự mỉa mai và lòng thương hại đối với mình, Nhân nghĩ. Chị quyết định đi sâu khám phá con người này như là một chuyến “Đi thực tế” để nắm bắt tình hình. Nhân hỏi người đàn bà Nga đang quay mặt về phía mình như đang muốn tiếp tục câu chuyện:
-         Nước Nga xây dựng chủ nghĩa Xã hội đã hơn bảy mươi năm, theo lí thuyết thì Xã hội chủ nghiã là giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa Cộng sản, tôi không rõ hiện nước chị đang đứng ở chỗ nào trong tiến trình lịch sử vĩ đại ấy? Liệu còn bao lâu nữa thì chúng ta xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản? Nhân hỏi.
-         Theo lí thuyết của cụ B nêu ra thì hiện nay nước Nga đang ở giai đoạn chín muồi của chủ nghĩa xã hội! Chắc chị biết, cứ liên hệ với một trái cây cho dễ hiểu, sau khi chín muồi thì cái trái cây ấy phát triển đến giai đoạn nào? Còn như chúng tôi, những người dân thì hiểu khác! Người đàn bà Nga như muốn dừng câu chuyện ở đấy. Chị tỏ vẻ mệt mỏi không muốn kéo dài câu chuyện mà chị đã nghe đài báo nói đến nhàm tai.
-         Chuyện trên đài, trên báo nói thì chúng tôi đã được nghe nhiều, thậm chí còn được đưa vào giáo trình giảng dạy trong các trong đại học ở trong nước chúng tôi. Tôi muốn hiểu người dân Nga, trí thức Nga hiểu vấn đề đó thế nào? Nhân hỏi.
-         Ồ...! Tôi không có tư cách gì để đại diện cho nhân dân Nga phát ngôn về một vấn đề hệ trọng như vậy. Nếu chị muốn nghe về các câu chuyện lan truyền trong các quán ăn, hàng nước, hay trong các phòng khách kín đáo của các gia đình trí thức thì hiện tại ở nước Nga chúng tôi đang tồn tại nhiều hình thái xã hội khác nhau: Ở trong bốn bức tường của Điện Krem-li là chủ nghĩa cọng sản, trong nội ô của Mạc tư khoa là chủ nghĩa xã hội còn các vùng nông thôn thì không biết là xã hội gì, người ta quen gọi đó là chủ nghĩa xã hội hoang dã...Chị phá lên cười như người say rượu. Quay người lại, chị hỏi Nhân:
-         Hình như ở nước các bạn đang say mê tôn thờ chủ nghĩa xã hội lắm phải không?
-         Ở nước chúng tôi có hai biểu tượng được thờ phụng thiêng liêng không ai được đụng vào, đấy là con Rồng và Chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi kiên trì con đường Xã hội chủ nghĩa là nghĩ rằng con đường này sẽ sớm biến nước chúng tôi thành một con Rồng châu Á...!
-         Lạ nhỉ! Tôi chưa hình dung được con Rồng hình hài nó ra làm sao, hình như Trung quốc cũng thờ con Rồng thì phải, có giống con Rồng Việt nam hay không?
-         Không giống hoàn toàn, Nhân trả lời, Trung quốc cũng thờ Rồng nhưng con Rồng của họ mang Đặc sắc Trung hoa. Ngay ở làng tôi, có hai họ, mỗi họ đều xây một nhà  thờ, trên nóc đều đặt một con rồng to, họ này tạc con rồng có đầu giống đầu cá, râu nhiều và dài, họ kia không chịu lép, họ tạc cho mình một con Rồng khác, đầu to như đầu sư tử, hàm răng to và nhọn hoắt...  Con nhiều chân, con ít chân, con râu dài mềm mại, con râu ngắn chĩa lên trời như bàn chông..! Ai cũng bảo con Rồng của mình mới là Rồng đích thực...không ai chịu ai. Họ, hết đời cha đến đời con, xì xụp khấn lạy những con Rồng bằng xi măng cát do một ông thợ nề nào đó tô vẽ nên...
-         Nhưng phải biết nó là con vật thuộc họ gì, loài nào mới được chứ? Ai lại đi cúi đầu thờ phụng một thứ mà mình không biết nó ra sao! Cô gái người Nga sốt ruột hỏi. Với lại các nước đã trở thành “Con Rồng châu Á? có nước nào thờ con Rồng đâu?
-         Nó thuộc loài bò sát, cùng họ với rắn, Rồng có chân nhưng không bò, không có cánh mà bay lượn trên không, không có một con chim nào kể cả Đại bàng, hồng hộc có thể bay kịp...Và trong trí tưởng tượng của người dân, kể cả máy bay phản lực hiện đại nhất cũng không thể bay kịp. Nó có thể gọi gió, hô mưa... Còn, Nhân nói tiếp, chị đừng ngạc nhiên khi đặt vấn đề “Tại sao lại đi thờ phụng cái mà mình không biết nó là gì, là ai..” Xin nói để chị biết, đó là điều phổ biến của con người, không riêng gì dân tộc chúng tôi, nếu để họ biết đầy đủ sự thật thì họ đòi lật đỗ, họ đập phá... Chắc chị biết chuyện mới đây thôi, có kẻ đã cài bom, đặt mìn phá đi bức tượng Phật lớn nhất, cổ nhất của nhân loại...Sở dĩ họ dám phá vì họ hiểu ra sự thật những bức tượng kia chỉ là đất đá vô hồn. Có nước, nhà  cầm quyền còn huy động hàng triệu thanh niên đi đập phá tượng đài, chùa chiền, những nơi thờ tự..Những nhà cách mạng này muốn tập họp được sức mạnh của quần chúng xây dựng xã hội mới bằng cách đập phá thật tan tành những niềm tin mà dân chúng đã gửi vào các thần tượng trước đó. Họ dựng nên những thần tượng, những tô tem mới và dùng mọi hình thức kể cả cưỡng bức, tẩy não... làm cho người dân biết tôn thờ những giá trị đạo đức mới, những điều do họ vừa bịa ra, và phải hiểu rằng người dân thời nào cũng vậy, chỉ tôn thờ những cái mà họ chưa biết rõ!
-         Chắc chị cũng đang làm cái việc tạo ra những giá trị đạo đức mới đấy phải không? Người đàn bà Nga hỏi.
-         Nhân đỏ mặt, ấp úng...Có lẽ chị nói đúng một phần nhưng ở nước chúng tôi, vấn đề đặt ra không trắng trợn như vậy. Chúng tôi đang cố gắng tiếp thu có chọn lọc những giá trị nhân văn của thế giới và của chính dân tộc mình qua các triều đại...
-         Bằng cách sang Nga mua một ít sơn và ma tít về sơn đỏ các móng chân Rồng và phết lên các vảy Rồng cho nó nhẵn nhụi hơn phải không? Người đàn bà Nga chua chát...
-         Có lẽ chị chưa hiểu nhiều về Việt nam, có dịp mời chị sang thăm đất nước chúng tôi. Có thể nói chưa bao giờ Đạo Phật ở nước tôi phát triển rực rỡ như bây giờ. Hiện nay chưa có một trường đại học nào của Việt nam, kể cả trường Đại học Quốc gia số Một của Việt nam cũng không được đầu tư xây dựng hoành tráng như một số trung tâm Phật giáo vừa được xây cất.
-         Và, nếu điều đó có lợi cho cách mạng, chị có sẵn sàng khoác áo cà sa làm Hòa Thượng hay không? Người đàn bà Nga lại đay nghiến như đang bực bội với một đầu óc ngu lâu khó hoán cải.
-         Cám ơn chị! Thật lòng,tôi cũng đang muốn vào chùa đây.
-         Chị thật lòng muốn thoát tục? Người đàn bà Nga hỏi.
-         Chị nhầm! ở nước tôi vào chùa không phải là thoát tục. Ở hầu hết các chùa Phật ở Việt nam đều treo các bảng khẩu hiệu to và trang trọng: “Phật giáo và chủ nghĩa xã hội”! Tôi vào đấy làm nhiệm vụ cũng như chuyển công tác từ cơ quan này sang cơ quan khác thôi.
 Tàu phanh đột ngột. Toa tàu rung lên. Tàu dừng lại ở một ga xép giữa miền Xi- bê- ri lạnh giá. Hai người đàn bà xuống tàu. Họ dắt tay nhau băng qua bên kia đường, nơi có một cửa hàng bé cỏn con. Chắc họ không có ý định mua gì, chỉ xuống để thay đổi không khí và tìm hiểu thêm hiện thực của cuộc sống của những con người ở một vùng đất đã xây dựng chủ nghĩa xã hội trên bảy chục năm. Nơi mà người đàn bà Nga gọi là “Chủ nghĩa xã hội hoang dã”!
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
7
 
  Viện “Con người mới” của Liêm được giải thể, chức năng của nó được giao cho một Viện khác. Liêm đang khắc khoải lo âu, không biết thân phận mình sẽ ra sao? Đi đâu? Về đâu?... Một tin vui bất ngờ đến với anh, ngôi nhà  hai tầng nhỏ vốn là trụ sở của Viện “Con người mới” được chuyển thành nhà  ở, Liêm được chia cả tầng một có cả sân, vườn... Góc sân có một cây đại cổ thụ, bóng phủ cả mặt sân. Tầng một, theo thiết kế của chủ nhân cũ của ngôi nhà xưa chỉ gồm một phòng khách rộng, một phòng ăn và bếp. Nhìn vào dấu tích các gốc hoa, chậu cảnh của sân vườn còn sót lại và cách bố trí phòng khách, phòng ăn có thể thấy chủ nhân xưa của ngôi nhà  là một con người quảng giao và tâm hồn thanh khiết. Liêm được ưu tiên chọn trước, anh chọn tầng Một chỉ vì quanh nhà  có sân vườn rộng, có thể biến thành nơi nuôi gà, nuôi lợn và trồng rau cải thiện sinh hoạt... Anh nhớ lại cái vườn rau, chuồng gà đầy thú vị khi anh còn làm nhân viên văn phòng huyện ủy Bình An. Ngôi nhà  đã được cải tạo lại, không còn dáng vẻ xưa. Tầng Hai được làm một cầu thang riêng đổ xuống phố T, vuông góc với phố N nơi có cổng chính của ngôi nhà , cổng này bây giờ chỉ thuộc sở hữu riêng của Liêm. Khó coi nhất là ở tầng Hai, người ta làm một cái chòi lợp giấy dầu nhô ra ngoài để làm bếp và phơi quần áo. Tầng một của Liêm được cải tạo lại gọn ghẽ hơn. Phòng khách được ngăn làm hai phòng ngủ cho hai đứa con, phòng ăn trở thành phòng ngủ của vợ chồng Liêm. Một cái bàn tròn và bốn chiếc ghế nhỏ đặt ngay ở bếp làm chỗ ngồi ăn. Nơi chân cầu thang được phá đi cải tạo thành phòng khách. Khi có khách ở quê ra chơi, đây sẽ là nơi ngủ, nghỉ của khách luôn thể. Thời ấy, cán bộ cỡ Liêm ít người được phân một nơi ở oách như thế. Đó cũng là một niềm tự hào, xen lẫn cả cái tự kiêu “tôi phục tôi lắm” của Liêm. Trong khi chờ tổ chức sắp xếp công tác mới, Liêm có nhiều thời gian để chăm chút ngôi nhà của mình. Ngoài giờ đọc Kinh Thánh ra, anh dành thời gian cuốc đất trồng rau, làm chuồng gà...Tâm hồn anh như đang bay bổng giữa tầng không. Anh hiểu, bằng việc mình được ưu ái phân nhà , chắc chắn sắp tới anh sẽ được cất nhắc lên cao nữa mới xứng với cái “tiêu chuẩn” nhà  này. Niềm vui của anh tăng lên gấp bội khi nghĩ đến sự sung sướng mãn nguyện của Nhân ngày chị về nước bước vào ngôi nhà  mới. Anh sẽ dắt tay Nhân vào nhà  hỏi vợ: “Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa...?[36]” Để xem cái mặt của con vợ mình nó vênh vang đến cỡ nào, có như Tú Xương nói : “Chồng lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ...”[37]hay không!
 Liêm không tin ở mắt mình, anh đọc lại tờ quyết định: “Bổ nhiệm Giáo sư-Tiến sĩ Chu Liêm làm Viện trưởng viên đào tạo và bồi dưỡng Nhân tài...” đang cầm trong tay. Anh quay ra khóa chặt cửa ngoài, rồi cung kính đặt nó lên bàn thờ. Anh thắp một nén hương, đứng lặng khấn lầm rầm điều gì không rõ. Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời kể từ ngày tham gia cách mạng, nhà  “vô thần” Chu Liêm thắp hương khấn lạy như thế. Hình ảnh bố, mẹ, ông bà, nội, ngoại lướt qua trong óc anh..
Hình ảnh của Huyền xuất hiện, nét mặt đăm chiêu xa vời vợi.. Cả bà Hậu-mẹ Huyền nữa, họ không nhìn vào mặt Liêm. Anh bị thức tỉnh, hình như ông bà, bố mẹ anh về nhắc nhở anh về một món nợ tình, nợ đời mà anh định xù quỵt. Liêm giật mình, sự nghiệp anh sẽ bị tan tành nếu anh không khéo giải quyết vấn đề này. Anh sẽ bị coi là người lừa đảo Huyền, lừa đảo Nhân, dối trá với tổ chức... “Không...không...Ta nhất quyết không phải là con người như vậy, lịch sử phải chịu những tội lỗi này, nếu đất nước sẽ thống nhất sau hai năm như hiệp định Genève đã khẳng định, nếu bọn Mỹ-Diệm không tìm cách phá hoại công cuộc Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà  thì ta đâu phải chịu cảnh này...! –Ta không có tội nhưng rồi ta vẫn phải chịu tội, vẫn phải làm vật tế thần cho lịch sử! Chắc chắn còn nhiều người bị tội như ta...”
 Liêm lên gặp đồng chí Bộ trưởng, anh nói:
-         Thưa anh, tôi vừa nhận được quyết định của Bộ giữ chức vụ Viện trưởng “Viện đào tạo và bồi dưỡng nhân tài”...Trước hết, tôi xin tỏ lòng biết ơn Bộ trưởng đã tín nhiệm giao cho tôi trọng trách này. Thú thật, tôi cảm thấy đây là một việc làm quá sức mình nhưng tôi xin hứa sẽ không phụ lòng tin yêu của Bộ trưởng, sẽ đem hết sức mình hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tôi vừa xây dựng một kế hoạch công tác, xin được báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của bộ trưởng. Miền Nam vừa được giải phóng hoàn toàn, ở đấy có một lực lượng trí thức lớn, nhiều người trong họ tốt nghiệp ở Âu-Mỹ về, nhiều người có tài năng thậm chí là tài năng xuất chúng. Nếu ta tranh thủ sử dụng được lực lượng này thì sẽ góp phần không nhỏ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa Xã hội sắp tới. Điểm trở lực lớn nhất khi bàn về sử dụng lực lượng này là quan điểm chính trị của họ. Trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, ta đã lôi kéo, tập hợp được nhiều trí thức phia bên kia ủng hộ cách mạng, có người hoặc công khai, hoặc bí mật tham gia các hoạt động cách mạng. Nhưng, có thể nói từ khi đất nước bước sang giai đoạn xây dựng chủ nghĩa Xã hội, số đông trí thức cũ ở Miền Nam hoặc có thái độ thờ ơ, hoặc biểu thị thái độ công khai không đồng tình ở những mức độ khác nhau, nhất là khi chúng ta có những sai lầm trong đường lối cải tạo công thương nghiệp ở Miền Nam, đưa đi học tập cải tạo tràn lan một số trí thức quan chức trong bộ máy chính quyền cũ ...Tôi xin phép bộ trưởng được đi vào Nam khảo sát tình hình này để xây dựng kế hoạch, nội dung đào tạo bồi dưỡng họ thành những người trí thức xã hội chủ nghĩa đem tài năng phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa...
-         Hay lắm! Đồng chí bộ trưởng  thốt lên, suy nghĩ của đồng chí rất trùng hợp với suy nghĩ của tổ chức khi quyết định thành lập Viện này và tôi đã đúng khi quyết định giao cho đồng chí chức viện trưởng , đúng là chọn mặt gửi vàng. Ông nói tiếp:
-         Công việc này hết sức phức tạp và phải tiến hành khẩn trương. Khó khăn nhiều lắm, muốn thành công không phải chúng ta chỉ làm một phía là giáo dục đào tạo họ, mà, một phần, có khi là phần lớn, là phải giáo dục quán triệt, là chuyển biến nhận thức trong các ngành các cấp của chúng ta...Ví dụ thế này, ông vào miền Nam tìm được một kĩ sư tài năng, ông kiến nghị với tổ chức sắp xếp anh ta vào một cái chức nho nhỏ là phó giám đốc kĩ thuật của một công ty...Khó lắm đấy! Khi tổ chức đặt bút kí quyết định bổ nhiệm, họ lại nghĩ đến những công nhân quân giới, quá nửa cuộc đời ở rừng, ăn sắn với rau rừng để đúc lựu đạn, rèn gươm cho bộ đội, bây giờ thắng giặc rồi họ vẫn phải chúi đầu vào các lò rèn lửa hun sém mặt...Liệu những người công nhân ấy nghĩ gì...? Tất nhiên tổ chức quyết định điều gì không phải chỉ dựa vào cái được của người này, cái mất của người kia mà phải căn cứ vào lợi ích của sự nghiệp cách mạng. Vấn đề ta phải làm, thuộc trách nhiệm của ta là tạo ra sự đồng thuận trong xã hội. Ông quay sang hỏi Liêm:
-          Anh đi thì các công việc ở nhà  thế nào?
-         Ở nhà , tôi đã trao đổi với anh Đặng Toàn phó viện trưởng. Công việc trước mắt là kiện toàn bộ khung, xây dựng cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Viện và các phòng ban của Viện. Cũng xin báo cáo anh luôn, tôi có trao đổi và thống nhất với anh Toàn xin được lập một Hội đồng tư vấn, mời một số trí thức có tên tuổi, một số quan chức cao cấp, vụ trưởng, thứ trưởng đã về hưu...tham gia..Nếu có thời gian thì cho họp hội đồng tư vấn kể cả khi tôi chưa về kịp. Hôm nào họp, kính mời anh thu xếp xuống dự để lấy “khước” cho viện.
-         Chà ...chà .. Cậu nghĩ ra lắm chuyện nhỉ! Bộ trưởng tặc lưỡi vẻ tư lự, Cũng hay, nhưng nói thật, cái “anh” Hội đồng này cũng lắm chuyện đấy! Nếu tìm được những anh tâm huyết, có trí tuệ, có bản lĩnh, dám nói thật tham gia thì chắc sẽ rất bổ ích. Tôi sợ nhất là các cậu rước về các ông “tiến sĩ giấy”, mời dăm ba “Cụ”được trang bị vài bài vè lí luận chính trị vỡ lòng từ thế kỉ trước, đứng vững trên cái lập trường không mối mọt nào đục được, không chất a-xít nào có thể hòa tan, các vị đến tán dương nhau rồi hỷ hả nhận phong bì ra về...Lúc đó, cái hội đồng của các cậu sẽ thành “Hội đồng Chuột..[38].” Mở ra thì dễ còn dẹp đi thì khó đấy!
-         Vâng...Vâng, em hiểu, em hiểu ý anh. Chúng em sẽ hết sức cẩn thận trong việc này. Sự thật thì đây là việc rất khó. Cái đáng sợ bây giờ không phải là sợ họ nói trái chủ trương, đường lối mà sợ nhất là họ sẵn sàng nhất trí, luôn luôn nhất trí. Có người bảo: Đi làm việc bây giờ không cần đầu óc nhạy bén, chỉ cần cái cánh tay phải biết nhanh nhạy nắm bắt đúng thời cơ để giơ lên biểu quyết kịp thời, để cho người chỉ đạo hội nghị thấy được mình là người tiên phong gương mẫu trong việc giơ tay, tay mình giơ lên đầu tiên.
Liêm rối rít chuẩn bị lên đường. Anh được bộ trưởng cấp cho một chiếc xe Co-măng-ca đít vuông[39], lái xe là Bài, một anh bộ đội đã từng xông pha khắp các vùng ở Miền Nam thời chiến tranh. Lên xe, nhìn cái dáng tất tưởi của Liêm, Bài hỏi:
-         Chắc đây là lần đầu thủ trưởng vào nam?
-         Ừ, lần đầu, may có cậu thông thuộc đường sá.
-         Dạo này các sếp đi “B” nhiều, mọi người bảo nhau: “Thời chiến xuất binh, thời bình xuất tướng” là phải! Bài nói.
-         “ Cậu này chắc cũng xương xẩu lắm đây!” Liêm nghĩ bụng rồi mở bao “Điện biên bao bạc”[40]châm một điếu thuốc đưa cho Bài. Xe đi. Hai người im lặng, nhìn con đường gồ ghề đầy hố bom phía trước. Trong đầu óc Liêm bây giờ là Huyền. Anh loay hoay hết mở chiếc ca táp lại nắn túi áo, sờ túi quần: “Quái! Bản đề cương công tác vừa được bộ trưởng duyệt mình nhét vào đâu nhỉ?..-Không quan trọng..!” Anh nói khẽ rồi quay  mặt nghiêm trang nhìn về phía trước.
 Mục tiêu của cuộc “Hành quân Nam tiến” mà Liêm đặt ra cho mình là ngay chiều hôm ấy anh phải đến được thị xã Đ. “Thị xã Đ!” mình sẽ đến được thị xã Đ ngay chiều hôm nay! Có thật vậy không? Cái thị xã ấy thưở còn thơ dại anh đã nghe bố mẹ kể về nó như là chốn Bồng lai tiên cảnh trong các chuyện cổ tích. Cả làng anh, cả xã anh...những người dân ngây thơ chất phác, nhiều người cả đời chưa ra khỏi làng, họ được nghe kể về một xứ được gọi là thị xã mà ở đó có những con đường nhựa thẳng tắp, bóng như gương, có những chiếc xe chạy nhanh như gió, những ngôi nhà  lầu đỏ ối, những cô gái má đỏ môi hồng thớt tha trong những bộ áo dài sặc sở và hoa phượng! Hoa phượng rực trời soi bóng xuống dòng sông êm đềm...Lớn lên, cho đến khi đi dạy học, Liêm cũng chưa từng đến đấy, với sách báo anh đọc được, với trí tưởng tượng trong sáng thơ ngây anh đã từng kể cho Huyền nghe về cái miền cực lạc ấy, cái thị xã thần tiên ấy... Liêm nhẩm tính, hôm nay là ngày Mồng Mười âm lịch...Đẹp quá! Tuần trăng non của một ngày đầu thu...Bên dòng sông Nhựt bờ cát trắng tinh khôi, sóng vỗ nhẹ dưới chân...có Huyền đi bên cạnh...Mảnh trăng bạc trên đầu cứ đi theo họ. Sóng biển nao nức, trò chuyện rì rào...
 Chiếc xe rẽ quặt sang phải đi về hướng chân núi với tốc độ nhanh, người Liêm đập mạnh vào thành xe. Anh tỉnh cơn mơ, hỏi Bài: “Ta đến đâu rồi!” Báo cáo thủ trưởng: “Thị xã Đ” – “Thị xã Đ?!” Liêm thảng thốt nhắc lại và bảo dừng xe. Bước xuống xe, anh như người chóng mặt vì say xe, tay vịn vào thành xe, mắt nhìn ra bốn hướng...Trời đã về chiều nhưng mặt trời chưa tắt. Những đàn chim kiếm ăn chưa đủ no, nán lại trên những cánh ruộng bạc màu, giật mình mang theo cả bóng hoàng hôn bay vội về phía chân núi xa mờ. Liêm lắc đầu quả quyết nói với Bài:
-         Không phải! Chắc cậu đã lạc đường.
 Bài cười, nói một cách quả quyết:
-         Trong cuộc chiến tranh vừa rồi, em đã đi qua cái thị xã này không dưới trăm lần, từ khi nó còn là một thị xã nguyên vẹn cho đến khi nó bị bom đạn cày xới không còn lối đi, chỉ còn là một đống gạch ngói đổ nát hoang tàn..
-         Hoang tàn gì thì vẫn phải còn dấu vết chứ? Cậu và tôi đang đứng trên một cánh đồng lúa bạc màu, bên đường là sim mua...!
-         A..! em hiểu, em hiểu...Không phải chỉ riêng em, thủ trưởng hỏi bất cứ một người lính nào đã từng tham gia chiến trận vào Nam, ra Bắc họ đều chỉ cho thủ trưởng cái ngã ba khô cằn nơi ta đang đứng là thị xã Đ. Đây là một địa danh lịch sử quy ước, không ai có thể quên, không ai có thể nói sai.
-         Thế cái thị xã cũ đổ nát kia ở đâu, nó phải còn dấu vết chứ?
-         May là thủ trưởng hỏi em, người đã tham gia chiến đấu từ đầu cuộc chiến tranh mới còn nhớ được. Lớp lính trẻ sau này sẽ không ai hay biết cái đống đổ nát ven bờ sông kia là cái gì. Một viên gạch ở đấy ít nhất cũng thay đổi vị trí hàng trăm lần, quả bom trước tung nó đi khỏi vị trí này, quả bom sau lại hất nó bay đi chỗ khác...
-         Cậu đưa tớ đến đấy!
Bài quay người chỉ về phía trước nói:
-          Cái thị xã cũ ấy cách chỗ ta đang đứng khoảng  mười cây. Con đường nơi ta định rẽ vào này là đường đi đến Còng. Không ai minh định được vì sao lại có cái tên này và ai đặt ra nó. Không phải thôn, không phải phố, không phải là thị trấn. Đơn giản, gọn nhẹ... “Còng” vậy thôi.
-         Đến đấy làm gì? Tại sao ta phải đến đấy? Liêm hỏi giật giọng có vẻ khó chịu.
-         Thưa thủ trưởng! Còng nằm trên con đường thông thương Nam Bắc trong chiến tranh và bây giờ vẫn đang sử dụng. Nó là một bồn địa do hai cánh cung của dãy Trường sơn tạo nên, con đường mới mở chạy len vào giữa vòng cung của hai rặng núi thấp ấy. Thời chiến tranh, gần như toàn bộ dân thị xã Đ sơ tán vào đấy. Và bây giờ nó có trường học, trạm xá, chợ búa, bến xe khách... Có đủ các dịch vụ thủ trưởng ạ!
-         Lùi lại, ta đi về  “Thị xã” trước! Liêm nói.
-         Theo em thế này, bây giờ ta đi ăn cái đã, gần sáu giờ rồi, nếu muộn quán cơm đóng cửa là thầy trò mình nhịn đói đấy!
-         Thế cũng được nhưng ăn ở đâu? Có xa không? Liêm hỏi.
-         Trên đường đi Còng, cách đây chừng hai cây. Quán cơm ở ngay bến xe, đó là cửa hàng Mậu dịch quốc doanh ăn uống, Thủ trưởng có nhớ mang tem phiếu đi không?
-         Có chứ! Tiền đâu mà ăn cơm ngoài. Liêm trả lời.
-         Thủ trưởng hay thật! Các cửa hàng ăn uống tư nhân tuyệt đối không được kinh doanh các mặt hàng lương thực do nhà  nước quản lí, chè búp cũng cấm (Vì chè là mặt hàng xuất khẩu!) Các cửa hàng ăn uống tư nhân chỉ được bán các loại khoai, sắn luộc và miến dong thôi. Ở vùng này có món đặc sản được tự do kinh doanh là bánh bột lọc và bánh canh (Sản phẩm của bột sắn), ăn được nhưng tối về nóng ruột lắm, không thay cơm được đâu..!
Hai thầy trò dừng xe trước cửa hàng “Mậu dịch ăn uống quốc doanh Còng”. Bài kẹp 225 gam tem phiếu của Liêm với 225 gam tem phiếu của mình đi vào quầy. Lát sau, anh lễ mễ bê ra hai bát ô tô “ Cơm” và hai bát canh. Liêm ngạc nhiên nhìn hai bát “cơm” màu nâu đen, nghĩ bụng: “Dân xứ này xài sang thật, lại cho khách ăn cả xôi đỗ đen!” Đang đói, anh xúc ngay một thìa cho vào miệng. Một mùi vị chua chua, đăng đắng... khó tả xông lên đằng mũi, anh định nhè ra nhưng thấy xung quanh người ta húp, nuốt vô tư, sợ “mất lập trường quan điểm” nên cố nuốt vào. Lấy đầu đũa cời lên mấy hạt để xem thì ra “cơm” được nấu bằng hạt bo bo với gạo hẩm. Liêm nhìn vào “bát canh”, anh đem hết năng lực trí tuệ cố phân tích xem nó được tổng hợp từ những “nguyên tố” nào. Tay cầm đũa, có vẻ run run quấy vào “bát canh”. Một miếng mỡ lợn muối, trắng hếu lều bều nổi lên trên, váng mỡ lóng lánh như sao sa, nó muốn khẳng định với khách hàng sự phong phú về hàm lượng dinh dưỡng của món ăn cao cấp. Bát canh màu vàng đục, Liêm quấy mấy vòng cố tìm hiểu xem nó được nấu bằng loại rau gì nhưng chỉ thấy dập dềnh mấy lá hành hoa thái nhỏ...Bài đã ăn xong từ lúc nào, anh đang chăm chú theo dõi từng cử chỉ của Liêm, bảo:
-         Ăn được đấy thủ trưởng ạ! Quen cả thôi mà! Bọn em, được ngồi ăn một bữa ăn trên mặt đất, không có đạn bom, không có cái chết rình dập quanh mình là hạnh phúc lắm rồi. Liêm quên mất người đang đối diện với mình là Bài. Anh u ơ.. mấy tiếng gì trong cổ họng rồi bảo:
-         Được...được..không sao, nhân dân sống được, mình sống được..
 Thầy trò lại kéo nhau ra quán nước, Bài thấy thương Liêm, anh bảo:
-         Em dại quá, không lạ gì mấy cái quán cơm quốc doanh dọc đường này, chỉ muốn có hột cơm vào bụng cho mát ruột, ai ngờ...Chắc thủ trưởng đói bụng lắm. Ở đây có món lương thực nhà  nước không quản lí có thể ăn thay cơm được là Khoai Tía, khoai từ..,cao cấp nhất là môn Nịt, loại này củ to như bắp tay em này, có củ còn to hơn, luộc lên bóc ra bở và vàng tươi như lòng đỏ trứng gà, ngon lắm...Liêm nghe Bài kể, nuốt nước bọt liên hồi không kịp hỏi han, nói năng gì. Nhà  chị có môn Nịt không? Bài hỏi.
-         Có, có ngay, loại này luộc ăn ngay mới ngon.
 Chị nhà  hàng xăng xái chạy vào bếp, lát bê ra hai củ khoai to, khói bay nghi ngút, bên cạnh là đĩa muối trắng. Bài hỏi:
-         Nhà  chị không có đường trắng hả?
 Chị nhà  hàng cười, cái cười rất hoàn cảnh, dương mắt nhìn Bài:
-         Úi dà...Khoai này chấm với đường cát, ăn quên về nhưng nhà  em làm gì có cái thứ của độc ấy!
Liêm mải ăn không để ý hai người đang đối đáp chuyện gì, anh loáng thoáng nghe hai tiếng “đường cát”giương mắt hỏi lại:
-         Đường kính hả?
-         Vâng!
-         Ồ! Tôi có, tôi có!
Liêm ra xe, mở ba lô, xách vào một hộp to, có đến hai cân chứ chẳng chơi, anh vừa ngồi xuống, vừa nói: “Tiêu chuẩn đường mấy tháng đây, vợ con ở xa, chả mấy khi uống, đem theo định để uống nước chanh dọc đường, đâm ra lại hay...” Anh vừa nói vừa đẩy đĩa đường về phía Bài: “Ngon lắm.. Ngon lắm, mát tận ruột gan...Cậu ăn đi, cả chị nữa...ăn đi...không khách khí gì.. Cần thì ta luộc thêm!..” Hai bát nước chè xanh bốc khói trước mặt, uống xong Liêm thấy người mình thăng hoa, một sự khoan khái đến tột cùng. Anh xé báo gói cho chị chủ quán một gói đường. Chị chủ quán đây đẩy: “Tôi không dám nhận của các chú đâu, các chú còn đi xa, thứ này hiếm lắm, mang theo mà dùng...”
-         Chị cầm lấy, chúng tôi còn nhiều, cũng sắp đến nơi rồi, vào trong kia thứ này cũng dễ kiếm hơn ngoài mình..Liêm ôn tồn nói.
 Khách vãng lai của các quán loại này xưa nay chỉ là các chú bộ đội, thanh niên xung phong, ghé qua ngồi lại uống cốc chè xanh, ăn củ khoai, khúc sắn luộc, hút điếu thuốc lào vậy thôi, mấy khi có vị “Khách sộp” thế này. Chị quen miệng cứ gọi bừa là “các chú” bất chấp vị khách này tuổi tác, địa vị ra sao.
 Bài bảo:
-         Ta lấy luôn củ Khoai Tía kia để phòng thân lúc đi đường, biết đâu dọc đường không tìm thấy chỗ ăn.
-         Hay lắm! Liêm khen và bảo chị chủ quán; “Chị luộc thêm cho chúng tôi một chục trứng gà, có trứng gà tươi chứ?”
-         Hai bi đông nước chè xanh nữa thủ trưởng ạ! Bài thêm vào.
Chị chủ quán te tái chạy đi thu xếp “đơn đặt hàng” của ông “Khách sộp.” Tất cả được xếp đặt gọn ghẽ trong một chiếc giỏ tre, lót báo tươm tất. Chị nhìn Liêm nói:
-         Củ khoai Tía này xin biếu ông, cho em xin tiền chục trứng thôi, gà nhà  đấy mà, có mười một quả, em luộc tất, ông cho bao nhiêu cũng được. Lần đầu tiên gọi khách hàng bằng “Ông”, chị thấy ngượng nghịu..
 Bài bảo:
-         Thôi, chúng tôi xin chị nửa củ thôi! Củ khoai to bằng cả cái bắp đùi kia hai thầy trò ăn sao hết được!
-         Các chú cầm lấy, cây nhà  lá vườn ấy mà! Khoai Tía chấm đường còn ngon hơn Môn Nịt cơ đấy!
 
Bài dậy sớm định lau chùi, kiểm tra xe cộ để tiếp tục cuộc hành trình nhưng trời mưa to quá...! Anh ngồi dưới hàng hiên nghe mưa rơi. Điếu thuốc trên tay, khói bay trắng cả một vùng. Cái mờ đục của hơi nước quyện vào làm khói thuốc có màu biêng biếc. “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên...”[41]  Nghe Bài ngâm nga câu thơ, Liêm xách ba lô đi ra, cái giọng thuốc Lào rè rè, tiếng nước rơi tí tách ở hàng hiên và cả cái “ Không gian xám như sắp tan thành lệ...”[42]của buổi sáng mai nay có thể làm mủi lòng bất cứ ai huống hồ đối với một tấm lòng đầy trắc ẩn như Liêm!
-         Cậu người Huế hả! Nghe cậu nói giọng Bắc cơ mà? Liêm làm đứt dòng suy nghĩ của Bài.
-         Sếp dậy rồi hả?
-         Dậy lâu rồi, ngồi trong phòng nhìn mưa rơi qua cửa sổ, nghe cậu đọc  thơ, tớ xúc động và ngạc nhiên quá nên mới ra đây. Chắc cậu sống ở vùng này lâu lắm phải không? Cậu đọc cái câu “Nỗi niềm chi rứa...” đặc giọng anh Tố Hữu! Cái hay của câu thơ không phải chỉ ý tứ, câu chữ của nó mà còn ở cả giọng đọc, cả cái ngữ cảnh, tâm trạng khi thể hiện bài thơ nữa cơ! Hay quá, thật rung cảm.
-         Vợ em người Huế!
-         Chà ...chà ... Cậu này coi bộ lãng mạn ghê! Vợ là gái Huế cơ đấy! Nghe cậu đọc câu thơ, tớ biết hồn cậu đã nhập vào cái xứ này rồi. Đúng là tình yêu làm đất lạ hóa quê hương! [43] Kể nghe chơi? Liêm bảo.
-         Thủ trưởng bảo em kể gì cơ?
-         Về cuộc đời cậu ấy, kể cả cái thiên tình sử của cậu với cô gái Huế ấy!
-         Có gì đâu mà kể hở thủ trưởng!
-         Thì cứ kể đi! Có răng kể rứa nó mới hay, tớ đã quá ngán những chuyện thêu dệt đơm đặt cố uốn lượn cho nó đúng đường lối, chủ trương, chưa nghe đã biết kết cục rồi thì ngán lắm!
-         Hồi ấy, em đang học năm thứ hai khoa văn Đại học Tổng hợp Hà nội thì được động viên vào bộ đội, huấn luyện nhoáng nhoàng hơn tháng thì đi B...Kinh quá thủ trưởng ạ! Mấy lần chết hụt, cũng may, có lẽ cái số chưa tận nên chưa chết. Em nghĩ thế mà mình vẫn sống thì thật vô lí! Thế rồi, hay đi đêm cũng có ngày gặp ma...Trong một trận phục kích ở ngoại ô thành phố, em bị dính đòn, rất nặng, tưởng chết...Hai ngày mê man, tỉnh lại, thấy ngồi bên cạnh mình phía trên đầu là một cô gái tay đang bê bát sữa. Thấy em mở mắt, cô ta reo lên: “Ô! anh Hai tỉnh rồi..! Anh Hai tỉnh rồi..” Cô ta nâng hai bàn tay em đặt lên ngực mình một cách vô thức. Bàn tay em cảm nhận được cả tiếng đập rộn rả và cả cái ấm nóng của trái tim cô gái. Em vờ nhắm mắt lại, cố kéo dài cái giây phút ấy, cái giây phút đôi bàn tay em được đặt lên trên bộ ngực mềm mại của cô. Khi nhắm mắt lại, em chỉ kịp nhớ được đôi mắt và cái nụ cười ấy còn không biết mặt mũi, thân hình cô ta ra sao và mãi cho đến bây giờ, chúng em đã có hai mặt con, những lúc xa nhau như giây phút này em cũng chỉ nhớ có thế thôi! Đôi mắt ấy, nụ cười ấy...cứ như theo em cả cuộc đời. Và, còn cả cái giọng nói ấy nữa! Cái giọng nói khi buồn thì nghe như khóc, khi vui thì như cười, khi tâm sự tỉ tê thì như hát...Cái “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi...” mà em hay đọc là nhập tâm cái hồn vía của vợ em đấy!
-         Vợ cậu giờ làm nghề gì?
-         ... Dạy học, giáo viên dạy văn. Hồi chống Mỹ cô ta cũng là sinh viên văn khoa đại học của cái thành phố lớn thứ hai miền Nam này. Cô ta tham gia phong trào sinh viên chống Mỹ- Ngụy rồi bỏ học tham gia đội biệt động thành phố. Sau khi chiến tranh kết thúc, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn và tuổi đã nhiều nên cô xin đi dạy cấp Hai. Chúng em cưới nhau. Em được đưa đi điều dưỡng và học tập chính trị một thời gian sau đó cho ra quân. Đơn vị giới thiệu em về học tiếp ở Đại học Tổng hợp. Vợ em có bầu đứa con đầu lòng. Kinh tế quá khó khăn, để một mình vợ em bươn chải, e không trụ được. Em xin đi học lớp lái xe ngắn hạn ba tháng và trở thành lái xe chuyên nghiệp!
-         Sắp được gặp vợ rồi, kì này tớ sẽ giải phóng cho cậu mấy ngày...À, mà nếu thu xếp được tớ cho cậu nghĩ với vợ con cả tháng...
 Bài đưa mắt nhìn Liêm tỏ vẻ ngạc nhiên, nói:
-         Nhưng, bây giờ nhà  em không ở nhà , các cháu đang gửi cả về bà ngoại.
-         Đi đâu? Liêm hỏi.
-         Cô ta đang đi dự hội nghị thi đua toàn quốc ở Nam Hà !
-         Phải rồi! Nam Hà  có trường cấp hai Bắc lí, lá cờ đầu của phong trào giáo dục toàn quốc đấy!
-         Không phải đâu ạ! Vợ em năm năm liền được bầu là chiến sĩ chăn nuôi lợn giỏi. Năm nay hội nghị liên hoan những người chăn nuôi giỏi tổ chức tại Nam Hà . Báo cáo thật với thủ trưởng nhà  em sống được, nuôi được hai đứa con đi học là nhờ vào mấy con lợn đấy ạ. Lương giáo viên không đủ mua hai yến gạo, nếu được bầu là giáo viên dạy giỏi thì chắc bây giờ...! Được cái lãnh đạo nhà  trường rất tốt, rất thông cảm với hoàn cảnh gia đình em nên hết sức tạo điều kiện cho nhà  em được nghỉ dạy để đi dự hội nghị, năm nào cũng vậy.
-         Bao giờ thì vợ cậu về? Liêm hỏi.
-         Nếu theo đúng kế hoạch thì ngày kia, hai ngày nữa. Trước khi đi em cũng có báo tin cho vợ em biết chuyến đi Nam này rồi, nhưng không biết chắc đi đến đâu và đi mấy ngày thì về!
-         Ổn rồi! Không hẹn mà nên, phối hợp tác chiến thật tuyệt vời. Mải chuyện quên hỏi, vợ cậu tên gì?
-         Thuận An- Hồ Đắc Thuận An.
-         Con nhà  danh gia vọng tộc đấy chứ chơi đâu! Liêm nói.
 Bài bảo:
-         Ông Hiệu trưởng thấy vợ em lăn lóc, vật lộn kiếm sống, nuôi con không một lời kêu ca, cám cảnh nói: “ Chỉ có cách mạng mới đủ sức biến một cô gái tiểu thư cành vàng lá ngọc trở thành một con người thế này!”
 
 Sáng khởi hành muộn, trời mưa,  xe chạy chậm nên mải xế trưa mới đến được thị tứ Yên Ba, huyện lị của huyện Hà  Khê. Giữa trưa. Trời hửng nắng. Sương tan dần. Dãy núi Yên Ngựa hiện ra xanh như viên ngọc Phỉ Thúy khổng lồ. Dưới chân núi ấy...Cái bệnh viện dã chiến hoang phế...Nơi...Liêm và Huyền đã có một đêm ái ân trước giờ Liêm tập kết ra Bắc...Đã ba chục năm trời...Liệu nơi ấy bây giờ còn dấu tích gì không? Liêm ước định được cả vị trí của An Thôn, nơi Liêm đã từng sống, đã quen Huyền ở đấy! Dưới những nương mít đồi chè xanh ngát kia liệu có còn bóng Huyền vào ra...? Em có còn giữ tờ giấy “Xác nhận hôn nhân” do ông trưởng trạm 45 kí hay không? Xe dừng lại bên con đường đá tổ ong gồ ghề. “ Buổi trưa này xưa kia ta đã đi..[44]”, anh nghĩ ngợi mông lung, đi bộ vào làng. An thôn bây giờ là một cánh rừng bạt ngàn chạy dài đến chân núi Yên Ngựa. Liêm vẫn nhận ra ba viên đá bắc làm bậc thang lên nhà  Bà Hậu. Anh ngồi xuống hòn đá trên cùng, ngắm cái hoang vu của đại ngàn. Trên nền nhà , có lẽ là nơi kê chiếc giường tre của Huyền năm nào bây giờ đã mọc lên một cây dại đầy sức vóc, cao quá đầu người!..Góc sân, chiếc chum sành đựng nước mảnh vỡ ngổn ngang, cây cau  chết không để lại dấu tích gì, xung quanh cỏ dại mọc đầy..!
 Không còn dấu vết gì của Huyền là đáng vui hay đáng buồn? Có thể nào vui được? Không còn em, có thể em không để lại dấu vết gì trong lí lịch của ta, ta không còn lo sợ bị quy kết là man khai, là dối trá nhưng hình ảnh của em trong trái tim ta không thể nào phai mờ! Chính khi ta tìm cách tẩy xóa cho bản lí lịch quan chức của mình được sạch sẽ là lúc ta làm cho tình người bị hoen ố. Nhất định ta phải đi tìm bằng được tung tích của Huyền. Liêm gặp một cậu bé chăn bò, trạc chừng 10-12 tuổi, tóc cháy vàng hoe, đầu tóc rối như tổ quạ, nước mũi xanh thò lò, ruồi nhặng bay vo ve trước mặt, hỏi:
-         Cháu có biết cô Huyền nhà bà Hậu trong xóm kia bây giờ ở đâu không?
 Cậu bé nhìn theo tay trỏ của Liêm, tay nắm chắc chiếc giây thừng buộc mũi con bò, ra chiều suy nghĩ...Người đàn bà đang cắt cỏ ở bờ ruộng, nghe tiếng người lạ, đứng thẳng người, nhìn lên,  trả lời hộ con trai:
-         Có phải bà Huyền, vợ ông thiếu tá, quận trưởng không? Không đợi trả lời, chị ta nói tiếp, bà ấy vào thành phố sống lâu lắm rồi, từ khi thằng bé nhà tôi chưa ra đời cơ! Bà ấy giàu lắm! Nghe nói bà Hậu, mẹ bà ta đã mất rồi...
 Liêm lặng người, quay đầu nhìn lại lũy tre làng, nơi anh vừa đi qua. Nơi anh vừa chao đôi bàn chân xuống lạch nước trong veo như thói quen của gần 30 năm trước...Đó là thói quen rửa chân trước khi vào nhà của người dân An thôn...Bóng những bắp chân trần trắng muốt của các cô gái rơi xuống lạch nước trong veo ấy, giờ trôi về đâu...? Đêm xuống, hai thầy trò đem nhau ra ngủ nhờ ở một cái lán xiêu vẹo, gạch đá, tre nứa ngổn ngang của công trường. Đêm đen dày đặc, chỉ có mảnh trăng lưỡi liềm treo chót vót ở đầu ngọn tre là giống mảnh trăng của thời nào...Anh chẳng còn nghe tiếng con Mang lạc đàn chao chác kêu trong đêm. Anh đã từng được nghe cả nỗi khiếp sợ trong tiếng kêu ấy, mỗi khi nó đứng lại quay đôi mắt sáng xanh rợn người nhìn về phía sau rồi lại vun vút hớt hãi lao về phía trước. Nó đâu biết rằng chỉ trong phút chốc cái “tương lai sáng ngời” mà nó đang lao tới sẽ biến thành cái quá khứ đen tối đáng khiếp sợ phía sau! Liêm suy nghĩ miên man. Những vì sao xa lấp lánh, lúc ẩn, lúc hiện như đôi mắt của Thượng đế trách cứ sự mê muội của đàn con nơi hạ giới. Anh không hiểu suốt cả buổi chiều anh lặn lội ở An thôn để đi tìm cái gì?- Một mảnh đời đã mất? Một kỉ niệm nhạt nhòa? Những khóm tre hắt hiu...Những bờ dậu liêu xiêu phai mờ dấu vết?...Chẳng còn gì cả! Ngoài kia vẫn một màu đen ngun ngút. Anh trở mình:- Khi ta tìm lại được một khoảnh khắc của quá khứ nghĩa là ta đã xóa đi được một quãng đời, vơi đi những kỉ niệm. Rồi đến một ngày, quá khứ lấp trọn khoảng trống phía sau của cuộc đời và phía trước không còn chỗ cho tương lai nữa, ấy là khi con người ôm ảo tưởng về một cõi Vĩnh hằng và tự mình thắp sáng lên câu hỏi: “Nếu được tái sinh ta sẽ làm gì?”  Làm gì? Liệu có khá hơn kiếp trước không? - Kiếp người muôn đời là vậy! Chỉ là một trò tung hứng mà thôi... Kỉ niệm xưa xa dần, tan loãng, mong manh.. Huyền đã lấy chồng...đã trở thành giàu có...Mãn nguyện trong đời sống phồn hoa. Chuyện cũ đã khép lại. Tờ giấy “Xác nhận hôn nhân” viết bằng mực tím trên trang giấy học trò do ông trưởng trạm đón tiếp kí, “tang vật” cuối cùng của cuộc hôn nhân với Huyền, chắc Huyền đã đốt thành tro từ lâu rồi! “Sự dối trá” của mình đã được vùi sâu vào lòng núi Yên ngựa...Liêm thở dài...
 Xe chạy về thành phố. Trời chiều. Bâng khuâng. Xe chạy theo con đường ven biển ngoằn nghèo. Sóng biển đập vào bờ trắng xóa, rừng phi lao hun hút gió. Đường vắng người...Liêm và Bài lặng lẽ đi không ai nói với ai một lời!
-         Giờ ta đến đâu thủ trưởng? Bài hỏi.
-         Về thành phố!
-         Thành phố đây rồi ạ!
-         Qua cầu chưa? Liêm hỏi.
-         Dạ! Cầu T trước mặt rồi.
-         Qua cầu rồi sẽ tính!
 Trời nhá nhem tối. Đầy trời, nhập nhoạng cánh dơi bay. Những ngọn đèn đường vàng hoe tỏa những vừng sáng yếu ớt như những chiếc nơm đang chụp xuống lũ Thiêu thân đang bay lượn trong biển sương mù dày đặc. Dọc đường bọn trẻ con hông đeo giỏ, đứa cầm vợt, đứa tay không đuổi nhau, đứa vồ, đứa chụp, Liêm hỏi:
- Chúng nó làm gì vậy?
 Bài cười:
- Chúng đang đuổi bắt Cà cuống đấy thủ trưởng ạ!
- Bánh cuốn chấm với nước mắm Cà cuống tưởng chỉ còn trong huyền thoại, ai người nó đang tồn tại trong hiện thực của cái xứ sở này!
- Hà nội vẫn có món đặc sản Bánh cuốn Thanh trì chấm nước mắm Cà cuống là gì? Bài nói.
- Đó là thứ “Cà cuống hóa chất” nhập khẩu từ Thái Lan. Liêm giải thích.
- Người ta vẫn ăn, vẫn khen ngon, vẫn không ngớt ca ngợi cái món đặc sản dân tộc, cái “đặc sản dân tộc phục chế” ấy cũng đánh lừa được khối người đấy! Bài nói.
- Khen chê ở ta bây giờ không có chuẩn mực, không có tính phản biện, không có giá trị của sự đánh giá khách quan, thường người ta nói theo số đông, làm theo kiểu bắt chước. Ở công ty nọ, có một vị tổng giám đốc, người rất có thế lực vừa được bổ nhiệm, ông ta thích mặc áo da và rất hay nói tục, thế là chỉ một thời gian ngắn sau đó tất cả các lãnh đạo, trưởng, phó phòng, ban, quản đốc phân xưởng đều đua nhau mặc áo da và thi nhau văng tục. Họ coi đó là phong cách của người lãnh đạo cần có. Muốn được đề bạt, được nâng lương phải hăng hái nói tục, phải mặc áo da. Trong một đợt tổng kết thi đua, hơn chục người mặc áo da đứng hàng ngang trên bục chờ được gắn huân chương, huy chương. Áo da dày quá, ông lãnh đạo lay hoay mải không gắn được liền văng ra: “Áo đ. gì dày thế này!” Người được khen thưởng bực mình: “Đưa đây! Mỗi cái gắn cái huy chương mà đ. làm được...”
 Bài cười khà khà có vẻ khoái chí.
-  Thôi! Ta tìm cái quán bánh cuốn ăn thử chơi. Liêm bảo.
- Trong này người ta gọi là “bánh ướt” thủ trưởng ạ!
- Ừ thì bánh ướt!
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                            8
 
 Hai người đến Ty giáo dục thì đã hơn bảy giờ tối. Xe dừng lại trước cổng của một ngôi nhà  gạch lớn. Nhà  được làm theo cấu trúc của nhà  Rường phá cách, bốn gian hai chái, nền nhà  cao hơn sân chừng một mét với bảy bậc “Tam cấp” viền bằng đá xanh dẫn xuống một chiếc sân lát gạch Bát tràng đỏ au. Giữa cái sân rộng bát ngát ấy là hai cây bàng, thân to bằng người ôm, tán lá giao nhau và chạm vào đến hàng hiên. Liêm chưa vội gọi cửa, anh xuống xe đứng lặng im ngắm nhìn ngôi nhà , cố phán đoán xem, chủ nhân xưa kia của ngôi nhà  làm nghề gì? Nhà  ở? Nhà  chùa, hay là nơi công quán...?
 Nhân viên thường trực thấy lạ chạy ra cửa, đứng trong sân vọng ra:
-         Các ông tìm ai?
-         Xin lỗi, đây có phải là Ty giáo dục hay không?
-         Các anh cần tìm ai, có việc gì?
-         Tôi muốn gặp ông trưởng Ty, Liêm nói.
-         Sáng mai, bảy rưởi, đến đây.
-         Chúng tôi ở Hà  nội mới vô, bây giờ trời tối, anh có thể chỉ giúp có thể thuê chỗ trọ ở đâu?
  Một người từ chái đàng đông bước xuống sân đi ra cửa, hình như vừa ăn xong, vừa đi vừa xỉa răng, hỏi:
-         Có việc gì?
Thấy thái độ khúm núm của nhân viên thường trực, Liêm đoán ngay anh ta là nhân vật quan trọng của cơ quan này, liền nói to:
-         Báo cáo đồng chí, chúng tôi ở Bộ vào, đường sá xấu quá nên đến muộn...Liêm vừa nói vừa đưa tờ “Công lệnh” qua khe cửa...
 Dưới ánh trăng mờ của một đêm trời động, “Nhân vật quan trọng” liếc qua tờ giấy rồi ra lệnh mở cửa. Vừa hé một cánh, anh ta đã lách ra ngoài hỏi dồn dập:  Liêm...? Có phải Chu Liêm Huyện Hà  Khê không?
 Không kịp trả lời, Chu Liêm dang hai tay về phía người khách:
-         Trời ơi! Ngô Thiện Ý đây sao?
 Sau cách mạng tháng Tám, giặc Pháp trở lại chiếm đóng huyện Hà  Khê, Liêm và Ý vừa tốt nghiệp Tiểu học.[45] Hai anh dù chưa đến tuổi trưởng thành đều đi tham gia kháng chiến, cả hai đều làm liên lạc. Về sau, Liêm về An thôn dạy học còn Ý về làm công tác ở Văn phòng Huyện, hai người xa nhau từ đấy. Mãi sau này, Ý mới biết Liêm tập kết ra bắc, còn Liêm thì không biết tung tích gì của Ý cả. Việc Ý được tổ chức cài lại để xây dựng và phát triển lực lượng ở Miền Nam là việc tuyệt mật. Trong những năm ở Miền Bắc Liêm cố ý tìm Ý nhưng không thấy tung tích gì, không biết anh còn hay mất!
 Hai người nói chuyện thâu đêm. Liêm cố dấu chuyện quan hệ giữa anh và Huyền. Đôi lần anh cố lái câu chuyện vào An thôn hy vọng Ý có biết gì về tung tích của Huyền hay không nhưng Ý không hay biết gì về cái thôn trang heo hút nơi chân núi này. Câu chuyện giữa họ tập trung vào những kỉ niệm của cả một thời thơ dại ở trường tiểu học Hà  Khê, những bè bạn yêu thích, dễ mến, những đặc điểm của  từng thầy giáo, cô giáo của trường, những buổi đi cắm trại trong rừng phi lau trên bãi biển cát trắng chói mắt, nghe tiếng chim chiền chiện hót líu lo ở lưng chừng trời...Không ai bảo ai, trong kí ức của họ bổng hiện về cùng lúc hình ảnh thằng Hoe bạn học cùng lớp, cô giáo Ngân và thầy Thực...Ý thốt lên:
-         Cậu còn nhớ cô Ngân không?
-         Quên sao được! Mỗi lần nhớ lại, hình dung ra cảnh cô ta...Liêm vừa nói vừa cười.
-         Chẳng hiểu sao, học sinh cả trường đều ác cảm với cô ấy! Ý nói.
-         Cô ta ít tuổi nhưng đành hanh quá! Thực ra cô ta chỉ hơn bọn mình vài tuổi là cùng, hoàn cảnh ở nhà  quê, dân nghèo, con cái đều đi học muộn, có đứa đang học tiểu học đã cưới vợ, có lẽ cô ta còn ít tuổi hơn thằng Hoe nữa cơ. Phải cái thằng Hoe quá lười học, người lại cao lớn tồng ngồng, ăn mặc rách rưới. Ngân con nhà  giàu có... Cô ta ghét thằng Hoe ra mặt! Mỗi lần thằng Hoe không thuộc bài, cô ta bắt hắn quỳ xuống rồi lấy móng tay vuốt nhọn như vuốt hổ châm vào đầu hắn đến chảy máu...Thằng Hoe hận cô ta lắm! Cậu biết bố cô ta chứ?
-         Lạ gì! Bố cô ta là Cai Lễ, chủ cái đồn điền chè, cao su bát ngát ở đông Trường sơn. Ngày ấy bọn mình vừa nhập học, bố cô ta bắn được con Hổ, cô dẫn cả bọn mình về xem là gì?
-         Thằng Hoe lại quá ngang, theo quy định, học trò phải xưng “con” với cô giáo nhưng thằng Hoe không chịu, hắn chỉ xưng “Tui” (Tôi) với cô ta...
-         Không phải “ngang” đâu, ở nhà  hắn vẫn xưng “tui” với cả bố mẹ, đó chỉ là thói quen không được rèn dũa từ bé thôi.
-         Nhưng tại sao hắn vẫn xưng “con” với các thầy cô giáo khác còn với Ngân hắn chỉ xưng “Tui”?
-         Thời gian đâu mà giáo dục rèn dũa con cái, bố mẹ hắn quá nghèo. Mờ sáng, vừa ngủ dậy, đặt chân xuống đất là tất tưởi đi làm thuê, tối khuya mới về, ra đống rơm, gốc mít để tìm con.. Lớn lên, để khỏi lêu lổng, bố hắn cho hắn đến trường chỉ mong con nhặt được chữ nào hay chữ ấy vậy thôi...
-         Cái chuyện ông Thực đánh hắn hôm ấy ở trường quá tàn bạo, nếu ông Đốc (Hiệu trưởng) Hoàn không vào can thiệp có khi lão Thực đánh chết thằng Hoe ngay trong lớp!
-         Thầy bà gì lão ấy! sau này mình mới biết, hắn là mật thám tay sai của Pháp được cài vào làm giáo viên của trường để rình mò tố giác những người tham gia hoặc có cảm tình với cách mạng. Hắn hay lân la đến các gia đình có con em học ở trường, kể cả các gia gia đình quan lại trong huyện, các gia đình buôn bán làm ăn ở phố thị có dấu hiệu nghi ngờ để dò hỏi. Đôi khi hắn còn giả vờ làm ra mình là người yêu nước thương nói, oán thán chế độ thực dân phong kiến để thăm dò thái độ chính trị của đối tượng...Hắn yêu Ngân, Ngân thường mách với hắn những thái độ ngông cuồng hỗn láo của Hoe: “Hắn thường nhìn trộm vào ngực em, vào... làm em ngượng không giảng bài được!” Ngân đề nghị Thực nói với ông đốc đuổi Hoe khỏi trường.
-         Cái thằng Hoe này, học thì dốt mà sao hắn nghĩ ra lắm trò nghịch ngợm thông minh đến thế!
 Hôm ấy cả lớp đi du ngoạn trên bãi biển, trời rất nóng. Bọn học sinh choai choai kéo nhau ra sát bờ biển, đứa lội xuống nước, đứa ngồi bệt trên bờ túm tụm lấy cát xây nhà , sóng đánh tan nhà  này chúng xây nhà  khác...Ngân không ra biển, cô đi ngược lên phía khu rừng phòng hộ. Trời bức bối, gặp một khe nước trong veo. Cô kéo quần lội xuống suối, vục mặt vào dòng nước mát lịm, ngọt ngào. Cô thấy bốn bề lặng phắc, tiếng gió rì rào từ rừng phi lao ngoài bãi biển vọng lại. Ngân cởi quần áo chui vào một hốc đá nước tuôn trào trắng xóa, mát rượi. Cô cuộn tròn quần áo giấu vào gốc của một bụi Vằng rậm rì che phủ cả hang đá. Ngân ngâm mình vào nước khoan khoái lim dim mắt...Hoe mang theo súng cao su bắn chim, rón rén đi hết bụi cây này sang khóm cây nọ như một con mèo hoang. Bất chợt, hắn nhìn thấy một cuộn tròn tròn bằng vải nhét dưới gốc bụi Vằng nhằng nhịt dây leo, thoạt tiên hắn nghĩ đấy là tổ của một con vật gì.. Lại gần, hắn nghe thấy tiếng quẩy nước dưới suối...Lấp loáng qua các kẻ lá, hắn thấy một người con gái đang tắm, trần truồng. Hắn nín thở nằm xuống nhìn...Nhận ra cô Ngân, hắn đoán chắc có thầy Thực ngồi gác đâu đấy. Hắn sợ, vội nhón tay ôm gọn bộ quần áo bằng lụa mỏng lom khom chạy vòng qua phía bên kia sình nước đặt bộ áo quần của Ngân nửa kín, nửa hở trên rể của một cây si to. Xong, hắn chạy nhanh về phía bãi biển. Từ xa, hắn thấy thầy Thực tất tưởi chạy qua, chạy lại có ý tìm kiếm. Hắn ung dung đi, tay xách con cu gáy vừa bắn được nhập vào đám học trò. Thầy Thực chạy lại, mặt đầy thân thiện hỏi:
-         Con có thấy cô Ngân ở đâu không?
-         Lúc nãy đi bắn chim, con thấy cô ngồi dưới gốc cây si kia kìa.
Thực băng băng đi về phía gốc cây si. Đến nơi, anh nhận ra ngay bộ quần áo của Ngân. Ôm gọn bộ quần áo Ngân vào lòng, Thực hoảng hốt, cố phán đoán các tình huống xảy ra. Anh đi vào tận trong rừng, sùng lục từng bụi rậm. Anh phán đoán có lẽ Ngân bị bọn xấu bắt đem vào rừng cưỡng hiếp rồi trói chân tay nhét dẻ vào miệng dấu ở đâu đó...
  Giờ đi du ngoạn đã hết từ lâu, cô Liên sốt ruột, tập họp học sinh đứng đợi, không thấy bóng dáng cô Ngân và thầy Thực ở đâu. Cô cũng không biết việc thầy Thực đi tìm cô Ngân mà nghĩ có lẽ hai người rủ nhau vào rừng, mải vui quên cả lối về. Cô hỏi Hoe:
-         Con có gặp cô Ngân ở đâu không?
-         Khi nãy đi bắn chim con thấy cô đi xuống cái suối ở kia kìa...
 Cô Liên dặn học sinh hãy giữ nguyên hàng ngũ rồi te tái chạy theo hướng tay trỏ của Hoe. Ngân bị mất sạch quần áo, cô ngồi co ro, không dám động đậy sợ có người đi ngang bắt gặp cô trong cái cảnh lõa lồ như vậy. Cô rối trí không nghĩ ra cách nào để trở về! Nghe tiếng lội nước, động mạnh ở phía ngoài, cô co rúm người lại, giương mắt nhìn ra, thấy Liên, Ngân khóc òa lên. Người đàn bà dù đanh đá đến mấy, khi họ khóc đều gây ra một niềm thương cảm sâu xa. Nghe Ngân kể sự tình, lại thấy Thực “mất tích” vô cớ. Liên dặn Ngân ngồi yên rồi chạy ra ngoài đi tìm. Chị thấy Thực đang ôm bộ quần áo trong tay đứng thờ thẫn các gốc cây si không xa, Liên chạy lại quát:
-         Ông chơi cái trò đểu gì đấy! Liên giật vội bộ quần áo trong tay Thực rồi quay ngoắt lại, hớt hãi chạy. Thực đuổi theo. Liên ngoái cổ quát: “Đứng lại! Nhìn trộm chưa chán, không biết xấu hổ sao còn đuổi theo...?” Vốn đã có ác cảm với Thực từ lâu, Liên kể lại câu chuyện theo suy diễn chủ quan của mình. Ngân tin tưởng hoàn toàn vào những điều Liên nói. Cô biết Thực bao giờ cũng lẽo đẽo theo cô như hình với bóng. Cô tin chắc Thực đã rình xem trộm mình tắm và giấu quần áo của mình nhưng vì sao hắn ta lại chơi đểu như thế, cô không hiểu. Ngân biết, Thực theo đuổi mình và cũng biết cả trường không ai ưa gì hắn song ở cái trường huyện hẻo lánh này, không chơi với hắn còn biết làm bạn với ai! Mọi người càng xa lánh, hai người càng khăng khít với nhau nhưng Ngân không phải không biết cái tính cách hèn mọn xấu xa của Thực và đã mấy lần từ chối lời cầu hôn của y. Người dân, đặc biệt là dân trí thức coi những kẻ đi làm mật thám, làm “cớm” là những kẻ hèn hạ đáng khinh. Người ta xì xào nhau: “Thực là cớm đấy” và họ xa lánh không ai gần gũi tâm sự chuyện trò với hắn. “Cái “trò đùa” vô văn hóa này đích thực là của y”, Ngân nghĩ bụng... Từ giây phút ấy cho đến lúc về trường, Ngân không thèm nhìn mặt Thực.
Là một tên mật thám có nghề, Thực biết ngay cái trò hiểm này là do Hoe bày ra... Hôm sau đến trường, hắn gọi Hoe lên bảng làm toán. Hắn đã chuẩn bị cả nắm roi mây, loại roi có cả gốc, rể tua tủa như những chiếc đinh cắm vào. Cứ thế hắn phang vào lưng, vào đầu thằng Hoe. Cả lớp kinh hoàng nghe tiếng chân tùng tùng như tiếng trống liên hồi của thằng Hoe nhảy lên, nhảy xuống trên chiếc bục giảng bằng gỗ sau mỗi tiếng roi mây vun vút. Hoe gục xuống. Thực bắt bọn học trò lên kéo Hoe xuống đặt trên nền xi măng của lớp học. Hắn đạp một chân lên lưng thằng Hoe tiếp tục dùng gộc roi mây đánh vào đầu, vào vai...Học sinh cả lớp khóc rú lên, náo động cả khu trường. Có đứa sợ quá vãi đái ra quần. May quá, lúc ấy ông Đốc Hoàn bước vào...Nếu không chắc thằng Hoe không thoát chết.
 Hoe ngủ dậy, bố mẹ cậu đã đi làm tự bao giờ. Người ê ẩm, áo quần rách bươm, những vết roi còn tưa máu. Cậu quyết định bỏ học, lần vào bếp ăn mấy củ khoai luộc rồi cầm chiếc ná cao su đi vào rừng bắn chim. Hoe có kiểu đi như con mèo rình mồi, không có tiếng động. Cậu đang dõi theo dấu vết của một con cu gáy vừa bị cậu bắn rơi vào một bụi rậm trước mặt. Bổng...Cậu sửng người đứng lại, lắng nghe... Những tiếng động lạ phát ra từ một bụi rậm trước mặt...Tiếng rên, tiếng ư ử...tiếng người? Những thứ tiếng ấy cậu chưa từng nghe bao giờ! Cậu rón rén đến gần...Một thằng lính Lê-dương da đen đang nằm úp lên trên thân thể của một người đàn bà dập lên, dập xuống liên hồi, những âm thanh lạ cứ phát ra theo nhịp điệu của sự dập dờn ấy! Hoe lùi lại ngồi im quan sát cái sự lạ trước mắt mình. Cậu thấy sợ, nếu thằng Tây đen bất giác đứng dậy!..Cậu rón rén đi dật lùi, vấp phải một khẩu súng và một băng đạn. Cậu mừng rú, như một phản xạ tự nhiên, nhặt vội khẩu súng đeo vào người, tay cầm băng đạn chạy thoát ra ngoài. Cậu say mê bắn chim, đã bao lần cậu ngắm những con chim béo múp đứng hót líu lo trên các cành cao. Cậu chỉ ao ước mình có một khẩu súng để bắn hạ những chú chim như thế. Có súng, cậu có thể sống bằng nghề đi săn. Cậu có thể hạ gục những con hổ chúa sơn lâm như nhà Cai Lễ, bố cô Ngân đã làm. Hươu nai, chồn cáo xứ này nhiều vô kể, tha hồ sống ung dung, bố mẹ khỏi đi làm thuê nhọc nhằn. Vượt qua một bàu ao sình lầy, cậu bới cát chôn khẩu súng và bao đạn xuống dưới gốc của một cây dứa dại, đợi trời tối sẽ lấy lên và chạy lên rừng sống. Quên hết đau đớn, nét mặt hơn hớn, tâm hồn bay bổng, cậu chạy ra ngồi dưới gốc ba cây Mưng[46] đang mùa trổ hoa đỏ ối giữa cánh đồng khoai lang xanh mượt mà. Cậu giương ná, muốn thử tài bằng cách ngắm bắn các chú chiền chiện đang bay lượn giữa trời. Nhưng, tiếng hót líu lo của loài Sơn ca[47] ấy như thức tỉnh cậu. Cậu bỏ ná xuống cạnh người, ngước mắt nhìn trời, lắng nghe chim hót. Những đám mây trắng nõn như bông lơ lửng giữa trời. Những chuổi hoa Mưng đỏ ối điểm nhụy vàng bay bay theo chiều gió. Lần đầu tiên, Hoe ngước nhìn trời cao. Cao và xanh đến thế! Lần đầu tiên trong cuộc đời cơ cực, bị khinh miệt, cậu nhận ra vẻ đẹp diệu kì của cái vùng quê quanh năm đói nghèo của cậu...Bóng một người đàn bà đội nón mê đang sấp ngửa chạy tới. Mẹ...? Đúng rồi!..Cậu vùng đứng dậy chạy lao tới..Bà đứt hơi, nói không thành tiếng, đưa tay dúi cậu ta vào một bụi cây, hổn hển...:
-         Bọn Tây bắt bố mày rồi, chúng nó đang truy lùng tìm mày đấy! Trốn mau, về nhà là chết đấy!
 Sáng hôm ấy, ngay sau hôm Hoe bị đánh, cả cái huyện lị huyện Hà Khê náo động. Thầy Thực bị đâm chết nằm còng queo trước cổng trường. Mấy tấm bìa các tông viết bằng mực tím ngòng nghoèo để lên đầu, lên ngực Thực: “Đây là số phận của những tên mật thám chó săn cho giặc!” Thầy Hiệu trưởng cho các lớp tập họp học sinh điểm danh. Hoe vắng mặt. Bọn lính Tây kéo đến vây chặt nhà Hoe, một túp lều xiêu vẹo trống trơn. Chúng kéo quân ra đồng bắt bố Hoe và chia quân đi vào các cánh rừng truy tìm tung tích cậu. Bọn chúng khẳng định một cách dứt khoát Hoe là thủ phạm giết Thực, nếu tìm được là bắn ngay tại chỗ. Hoe nằm xuống giữa rãnh của hai vồng khoai lang, lấy dây khoai phủ kín người. Một chỗ ẩn nấp khá lí tưởng, hoàn toàn bất ngờ đối với bọn Tây đi săn lùng. Hoe nằm đấy chờ đêm xuống để lên rừng.
 Hoe được bổ sung vào bộ đội địa phương huyện. Đọc lí lịch hắn, nhiều người che miệng cười, bố hắn tên là Tạ Đỏ, hắn là Tạ Hoe...Huyện đội trưởng đổi tên cho hắn là Hòe, hắn thích lắm. Coi như hắn được đổi đời từ đấy. Hắn rất say sưa luyện tập nhất là môn bắn súng nhưng chưa được mấy ngày thì chiến tranh kết thúc. Hắn được tập kết ra Bắc, được bổ sung vào một đơn vị chính quy, được phát quân phục mới, được ăn no. Hắn lớn nhanh như thổi, trở thành một chàng trai phổng phao, đầy sức vóc. Hắn là chiến sĩ trẻ nhất đơn vị nhưng có thành tích cướp được súng giặc, lại là học sinh lớp Nhì (lớp Năm bây giờ) đọc thông viết thạo. Hắn biết tự làm sang cho mình, ai hỏi hắn học ở đâu, hắn bảo: Học Đệ nhị ở “Ê-côn pri- me com- plê- măng- te đờ Hà Khê” (Trường tiểu học Hà Khê). Hắn không ba hoa, tên trường hắn được viết bằng tiếng Pháp treo trước cổng ra vào là vậy! Nghe hắn tuôn ra một tràng tiếng Pháp mọi người phục lăn. Hắn thường đọc báo cho đơn vị nghe, gặp những từ tiếng Pháp hắn đọc không ngắc ngứ. Bộ đội ta thời ấy nhiều người còn mù chữ, một số mới qua lớp “Bình dân học vụ”, họ coi hắn là một trí thức! Hắn được đề bạt làm tiểu đội trưởng. Hòe thấy mình oách lắm. Các em thôn nữ nơi đóng quân nhìn hắn say đắm... Hắn là thằng cha mê gái. Nhìn các cô gái mới lớn, vừa bước qua tuổi dậy thì, cái tuổi đang phô ra sắc đẹp và cái duyên dáng trời cho, hắn thấy cô nào cũng đẹp. Đêm đêm hắn lăn lóc trên giường, hình ảnh các em cứ hiện ra trước mặt. Giá được làm vua chắc hắn sẽ tuyển tất cả vào cung làm cung phi. Hắn đủ lòng tự mãn để nghĩ rằng, hắn chấm bất cứ cô nào, cô ấy cũng gật. Hắn muốn chọn một cô làm vợ. Tất cả các khuôn mặt xinh tươi ấy cứ lần lượt hiện ra nhưng mắt hắn không dừng lại ở cô nào lâu. Hắn nghĩ: “ hoặc là lấy tất cả, hoặc là không lấy ai...” Một ý nghĩ kì quái! Hắn cười. Người ta bảo:” Vợ chồng phải có cái duyên, cái số...” Đúng vậy chăng? Một lần, trên đường về, hắn nhìn thấy phía trước một tốp sáu, bảy cô vừa dưới ruộng lên đang vén quần chao chân ở cái cầu ao ven đường. Có một cặp dò hút hồn hắn, thon dài,trắng hồng, tròn lẳn..Hắn lẽo đẽo theo sau đám con gái ấy cho đến tận cổng làng. Hắn phát hiện ra nhiều điều. Con gái, nhìn đàng trước, mình thường bị thôi miên, không dám nhìn lâu nên thấy ai cũng giống ai, ai cũng đẹp. Phải nhìn chúng từ phía sau mới thấy sự khác biệt. Cái dáng đi của chúng, mỗi người một khác, có đứa đi lót nhót như chạy, chân không bén đất những đứa ấy sẽ khổ; đứa đủng đỉnh, khoan thai, bàn chân in đều trên mặt đất, bước chân nhẹ, thoáng đạt...Hắn đã xác định được mục tiêu, quyết định đeo bám cái cô có bộ dò thon thon, trắng hồng ấy, dù chưa biết mặt mũi cô ta ra sao! Thì ra đấy là Dung, hắn đã từng bắt gặp cái dáng đi thẩn thờ, đôi mắt xa ngái của cô trong những trưa hè vắng lặng khi cô đi dưới các tán cây trong vườn nhà bên. Chẳng biết cô ta đi như thế để làm gì, thỉnh thoảng cô lại ngước nhìn lên các tán cây cao như muốn đi tìm cái tiếng ve kêu dìu dặt, thao thiết, phô ra cái cổ cao trắng ngần... “Một cô gái vừa tốt nghiệp trung học phổ thông ở nhà làm ruộng, tâm hồn còn gửi trên ghế nhà trường, đầy lãng mạn..”.Hòe nghĩ.
 Đơn vị của Hòe vừa nhận được chỉ thị tuyển sinh đi học trường “Bổ túc công nông”nhằm đào tạo những cán bộ nòng cốt cho công  cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiêu chuẩn tuyển sinh là: “ Những đối tượng thuộc thành phần cơ bản (cố nông, bần nông và công nhân), có trình độ văn hóa lớp bốn trở lên (do cơ quan, đơn vị xác nhận); có thành tích trong chiến đấu, sản xuất; lập trường, quan điểm vững vàng; sức khỏe tốt: tuổi đời không quá 25.” Hòe đứng đầu bảng. Anh vội vàng xin nghỉ phép cưới vợ để kịp lên đường nhập học. Sau hai năm học, mỗi năm học ba lớp, anh đã học xong chương trình lớp mười, được cử thẳng vào Đại học. Cũng trong hai năm ấy, vợ anh hai lần đẻ, sinh ba đứa con. Anh đi học với lương Chuẩn úy, theo giá thị trường tự do, mua chưa được mười cân gạo. Ngày công lao động nông nghiệp của vợ chỉ hơn nửa cân thóc! Lấy gì để nuôi ba đứa con ốm yếu dặt dẹo? Lương Chuẩn úy 54 đồng, cộng với phụ cấp khu vực, mỗi tháng anh nhận được 60 đồng. Anh gửi về cho vợ 30 đồng. Mọi chi tiêu của anh chỉ gói gọn trong ba mươi đồng còn lại. Anh nhịn ăn sáng, không trà thuốc, không phim ảnh, chỉ đóng góp mười tám đồng cho hai bửa ăn chính của bếp ăn tập thể nhà trường! Anh đi xin từng gam tem phiếu gạo của các đồng chí có gia đình ở miền bắc thừa ra do thứ bảy chủ nhật họ về quê ăn cơm nhà không phải nạp tem gạo. Gom góp được mỗi tháng chừng 10kg tem phiếu, anh ra cửa hàng lương thực mua (chỉ mất 4 đồng) mang về cho vợ con. Hai bữa cơm tập thể không đủ no, có những ngày anh thấy đói cồn cào. Anh làm lớp trưởng, mọi việc phải gương mẫu nhưng có những buổi sáng, khi tiếng kẻng báo thức vang lên, anh không cất mình được khỏi giường do đói. Mùi quà sáng, xôi, bánh mì...từ cổng bay vào như tra tấn anh...Một lần không cầm lòng được, anh bước ra cổng trường, bọn học sinh xúm xít quanh quầy bánh mì. Hòe lách vào cầm lấy một chiếc bánh mì ba tê mùi thơm phưng phức..Người bán hàng chẳng biết vì bận rộn bán hàng không để ý hay thấy dáng dấp Hòe có vẻ oai vệ tin rằng anh ta là cán bộ đàng hoàng, sẽ trở lại trả tiền nên không nói gì. Hòe lùi ra đi mấy bước, đưa chiếc bánh lên mũi ngửi, toan cho vào miệng, lại quay vào, nói:
-         Bánh nguội quá, trả lại bác đây!
Người bán hàng vồn vã:
-Anh lấy cái này này, vừa ra lò đây.
- Cảm ơn bác, cháu thích ăn khoai luộc hơn!
 Hòe quay sang bà bán khoai ngồi cạnh, nghiêng ngó rồi về phòng nằm.Hình ảnh ba đứa con nheo nhóc và người vợ nghèo hiện ra trước mắt như thúc dục anh vượt qua mọi khó khăn, giành cho được tấm bằng đại học. Với những đối tượng như anh vào đến cổng trường Đại học là đã cầm chắc tấm bằng, miễn sao anh đủ kiên trì ngồi trên ghế nhà trường bốn năm. Các thầy giáo đã được học tập, quán triệt đường lối giáo dục phục vụ công nông. Họ buộc phải thấm nhuần mục tiêu đào tạo đối với các đối tượng là cán bộ nguồn này. Họ  chỉ cần học để biết các khái niệm đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo. Chỉ cần yêu cầu họ biết: “À, khoa học là như thế, kĩ thuật là như thế...” Chỉ cần dán cho họ cái mác và quan trọng là tạo cho họ niềm tin rằng khoa học kĩ thuật...chẳng có gì khó khăn cả, họ sẽ lãnh đạo được tuốt! Nếu họ bị điểm kém tức là giáo viên dạy kém. Một 100% lên lớp,100% khá giỏi cho đối tượng này, đó là cam kết thi đua của các giáo viên, của lãnh đạo các khoa, phòng và của nhà trường. Nhà trường đã thực hiện xuất sắc cam kết của mình. Bốn năm sau, Hòe cầm tấm bằng tốt nghiệp loại xuất sắc của trường Đại học kinh tế.
 Hòe ra trường, được phân về công tác tại một nhà máy lớn, giữ các cương vị phó phòng rồi trưởng phòng, phó giám đốc nhưng đời sống gia đình không được cải thiện là bao. Trước đây, hồi còn đi học, mỗi tháng anh gửi cho vợ con 30 đồng, bây giờ anh gửi 50 đồng. Nhưng 50 đồng chỉ mua được 10kg theo giá thị trường tự do. Bốn miệng ăn! Sống sao được? Con cái ngày một lớn. Anh làm đơn trình bày hoàn cảnh, nhờ công đoàn nhà máy can thiệp để anh được trực tiếp nuôi con, xin cấp sổ gạo cho ba đứa con anh nhưng không được trên chấp nhận vì theo quy định “con ăn theo mẹ”. Mẹ làm ruộng không có chế độ tem phiếu nên con cũng không được hưởng chế độ cung cấp..!  Hòe tính toán, nếu có sổ, được cung cấp 30kg gạo/tháng, tính ra tiền 150 đồng/tháng, mẹ con nó sẽ ổn. Nhưng ước vọng ấy thật xa vời vì chế độ chính sách đã quy định “con ăn theo mẹ” như vậy rồi! Biết làm sao đây? “Con ăn theo mẹ” nhưng mẹ chúng cũng không có gì để ăn! Anh trăn trở nhiều đêm. Hòe đem chuyện bàn với vợ. Chị thở dài...Người nông dân khổ quá! Quanh năm, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một nắng hai sương, đến mùa lúa chín, thóc đổ vào kho hợp tác[48]! Công lao động nông nghiệp chỉ được trả hơn ba lạng gạo, phần thiếu phải mua ở thị trường tự do, giá cắt cổ. Người trực tiếp làm ra hạt gạo lại không được cung cấp gạo, người thị thành rong chơi, chạy chợ, buôn bán lại được mua gạo nhà nước theo giá cung cấp, tem phiếu đầy đủ. Nuôi mẹ già, con dại bằng gì?
 Hòe ngồi lặng im, xích lại gần, nhìn vào mắt vợ nói:
-         Cũng có cách nhưng không biết em có chấp nhận hay không?
-         Anh nói hay nhỉ! Chỉ có anh biết thương con thôi sao? Vì chúng, em sẳn sàng hy sinh tất cả. Cách gì anh nói đi!
-         ... Để anh nghĩ thêm, tối sẽ nói. Hòe đáp.
-         Cái chuyện anh sắp nói chắc là rất hệ trọng, chắc anh đã nghĩ nhiều ngày lắm rồi, có phải giờ này anh mới nghĩ ra đâu! Không nói em không ăn cơm đâu.
-         Chỉ có cách...Hòe ghé sát tai Dung, giọng nói đứt quãng...
-         Trời ơi! Sao anh lại nghĩ ra cái cách tai quái thế kia! Em hoàn toàn tin tưởng ở anh, nhưng phải đâu chuyện ấy chỉ có hai ta biết, làng xóm dị nghị, miệng lưỡi người đời, người ta nghĩ gì về anh, về em...Chưa nói là ta lừa dối cả tổ chức nữa. Hoàn cảnh này đâu chỉ có chúng ta, nếu ai cũng làm như chúng ta, liệu xã hội này còn ra gì nữa...Dung vừa khóc, vừa đi xuống bếp làm cơm. Dung vừa bưng mâm cơm lên thì trời đổ mưa. Gió mạnh vít cả ngọn tre xuống sát đất...Chị mừng thầm, bữa cơm hôm nay có thịt gà, nếu trời đẹp, chắc hàng xóm nghe tin  Hòe về sẽ đến chơi, nếu họ nhìn thấy đĩa thịt thì ngày mai tin đồn loan ra cả xóm. Thời buổi này, thịt một con gà để ăn là cả một sự kiện, dù chồng chị có là giám đốc xí nghiệp đi nữa! Họ sẽ suy diễn lung tung. Họ sẽ nhìn Dung bằng con mắt khác. Sợ nhất là họ “Đề cao cảnh giác” với gia đình chị thì khốn! Ba đứa con hau háu nhìn đĩa thịt. Hòe chống đũa nhìn ba cái ót của ba đứa con đang cúi gằm xuống mâm. Dung im lặng liếc nhìn chồng:
-         Ồ...! Sao lại thế này! Anh ăn đi cho các con nó còn ăn với chứ?
-         Em ăn đi! Vừa nói anh vừa gắp cho mỗi đứa một miếng nạc nhất và giục chúng: Các con ăn đi!
 Anh nhìn chúng nó ăn rau ráu...Dung gắp cái âu cánh đặt lên bát cho Hòe, rót cho anh một chén rượu, mặt chớm tươi một nụ cười nhưng đôi mắt vẫn nhìn xuống, nói: “Phần thưởng cho sáng kiến của anh đấy!” Mấy đứa con thấy bố mẹ vui trở lại, hình như chúng nó có vẻ an tâm ăn hơn. Thằng nhớn hỏi:
-         Hôm nay nhà ta có giỗ gì đấy hở mẹ?
-         Hôm nay có bố về, cả nhà vui nên mẹ thịt con gà hoa mơ nhà ta ấy thôi. Nhờ có bố tằn tiện, nhà ta mới được thế này, nếu không thì chẳng biết ba mẹ con sống ra sao. Các con cố gắng học tập để bố còn an tâm công tác.
 Ba đứa con ngừng nhai, ngẩng mặt đồng thanh “Vâng ạ” rồi nhìn bố hoan hỉ cười, tiếp tục gắp. Hòe đã hiểu thế nào là cái đói, cái thèm nên thương con, thương vợ vô hạn.
Hòe dậy sớm để về lại cơ quan kịp giờ làm việc. Anh dắt xe ra sân, Dung đi theo anh ra tận đầu làng:
-         Em hiểu anh chứ? Hòe hỏi.
-         Chỉ thương anh thôi! Không biết anh còn khổ đến bao giờ. Một thời niên thiếu đói khổ, bị người đời khinh miệt. May sao lớn lên đi bộ đội, đó là những ngày nhân phẩm được tôn trọng, cơm no, áo lành ngắn ngủi. Rồi đi học, rồi lấy vợ, khốn khó vì vợ, vì con...Cho đến giờ đã quá nửa đời người, cũng coi là có sự nghiệp ngờ đâu khổ vẫn lai hoàn khổ, còn day dứt hơn xưa đến nỗi phải làm liều...Đúng là “Đói ăn vụng, túng làm liều!” làm gì còn nhân phẩm để mà gìn giữ! Dung khóc, chị nói trong nước mắt, cũng chỉ vì vợ, vì con cả thôi!
-         Em cả nghĩ quá mà làm gì...Khi một người lao động đã làm việc cật lực mà không được trả công bằng những tư liệu sinh hoạt tối thiểu và cần thiết nhất cho sự tồn tại của bản thân và gia đình mình thì mọi hành động của họ nhằm phục vụ mục đích “tồn tại” đó đều là lương thiện. Chính vì thế sử sách thường ca ngợi những cuộc nổi dậy của nô lệ, những cuộc khởi nghĩa của nông dân và cả những cuộc cách mạng đẫm máu...Anh chỉ ân hận một điều, để đạt được điều đó, anh đã phải đem em ra làm vật hy sinh, xúc phạm đến những tình cảm tốt đẹp của em...
Cả tháng tiếp theo, Hòe không về thăm con. Người anh gầy rộc, đôi lúc người ta thấy anh ngẩn ngẩn, ngơ ngơ chẳng giao tiếp chuyện trò gì với ai. Anh đến trình bày với tổ chức về quyết định của vợ chồng anh thuận tình li hôn với lí do đơn giản là: “Đời sống tình cảm và sức khỏe không phù hợp.” Để khỏi mất thì giờ của tổ chức tìm cách hòa giải nhằm gắn bó lại tình cảm cho vợ chồng anh, anh nói thẳng rằng mình bị liệt dương. Vợ anh còn trẻ, nhu cầu tình cảm còn nhiều, chặng đường phía trước còn dài, anh muốn “giải phóng” cho vợ được tự do đi tìm hạnh phúc mới.
 Với hoàn cảnh của Hòe như vậy và cả vợ chồng đều thuận tình li hôn, tòa án chấp nhận đơn của hai người và Hòe được quyền nuôi con. Hòe mang quyết định của tòa án ra công an nhập hộ khẩu của ba đứa con vào hộ khẩu của mình và đương nhiên sở Lương thực phải cấp sổ mua gạo cung cấp cho chúng.
 Sự việc xảy ra, đơn giản, nhẹ nhàng, không nặng nề như anh tưởng. Hầu như cả xí nghiệp chẳng ai bàn tán gì về việc anh li hôn. Họ coi đó như một việc tất nhiên và tỏ lòng khâm phục vợ anh đã từng chịu đựng, sống hòa thuận với một người chồng liệt dương ngần ấy năm trời. Đây đó người ta chỉ thì thầm bàn tán về Hòe...về cái bệnh “hiểm nghèo” của anh. Mọi người ai cũng bảo mình đã đoán biết điều này từ lâu, từ ngày anh ta mới về công tác tại xí nghiệp. Hồi đó có người chưa hiểu cứ phê phán anh sống lập dị, xa rời quần chúng, bây giờ vỡ lẽ, họ thấy thương anh. Ngày nào cũng giống ngày nào, ngày hai bữa cơm rau muống, anh xuống bếp ngồi chung với mọi người và tám giờ ngồi vào bàn làm việc tiếp xúc với những người đến công tác, ngoài ra anh không chuyện trò chơi bời với bất cứ ai trong xí nghiệp. Tối đến, trừ những hôm có họp hành, 8 giờ tối anh tắt đèn lên giường nằm. Thời gian đầu lúc anh mới về xí nghiệp, tối đến có người đến chơi , thấy phòng tối om, tưởng anh đi vắng, gọi to:
-         Ông Hòe có nhà không?
-         Có...Có cái thân tôi!
-         Ngủ sớm thế?
-         Tiết kiệm năng lượng!
-         Ông đúng là một cán bộ gương mẫu, chưa tối đã tắt đèn để “Tiết kiệm năng lượng!” Gương mẫu đến mức “ki” như ông thì quần chúng sao theo kịp được!
-         Không phải, Hòe giải thích, “năng lượng” mà tôi cần tiết kiệm là “nội năng” của cơ thể chứ không chỉ là điện năng thắp sáng đâu!
-         Cao thủ! Cao thủ! Bái phục đại ca! Mấy người khách bước vào phòng nói cười rôm rả, đúng là một nhà kinh tế thứ thiệt!
 Từ những ngày đó, người ta đã đồn đoán Hòe đang mắc một bệnh gì đó, bây giờ mới vỡ nhẽ. Người ta thương hại anh. Giờ anh phải một mình gà trống nuôi con (mà là gà trống thiến nữa mới khổ chứ!) Anh phân trần:
-         Tôi định đón các cháu lên trên này nhưng các cháu còn nhỏ quá với lại chúng đang học dở dang, tôi lại hay đi công tác nên đành gửi các cháu lại cho “bà ngoại” chúng ở quê.
 Mọi việc coi như ổn. Sự dối trá đã thành công. TrongVăn hóa Việt tính bao dung nhân văn là một đặc sắc nổi trội. Ở đấy, người ta chấp nhận quan điểm “mục đích biện hộ cho phương tiện”. Trong khi đạo đức học dạy con người phải thật thà, coi thật thà là yếu tố hàng đầu của đức hạnh (nhất là đối với đàn bà) thì trong văn chương có cả ngàn lần, ngàn đời ca ngợi, tôn vinh sự dối trá ngọt ngào: “Yêu nhau cởi áo cho nhau/ về nhà dối mẹ qua cầu gió bay...” “Dù ai bảo đợi bảo chờ/ Thì em nói dối con thơ em về...”( Về với anh chứ có phải về với đứa con thơ nào đâu!)
Tháng, tháng Hòe lại ra cửa hàng mậu dịch đong hơn bốn chục cân gạo với giá cung cấp, bốn hào một cân mang về. Bây giờ anh không còn lo nghĩ gì về “hậu phương” của mình nữa. Vợ nuôi được con gà, con vịt, có được chục trứng không phải tất tưởi mang ra chợ bán đong gạo nuôi con nữa. Bếp nhà anh ngày chủ nhật anh về đã có mùi thơm của thức ăn bốc lên, bát canh không chỉ là bát nước luộc rau muống vẫn đục nhờ nhờ nữa mà đã có muôn vàn “ánh sao” màu vàng nho nhỏ lấp lánh nữa! Hạnh phúc đấy ư? Anh tự hỏi mình- Đúng! Chỉ có vậy thôi. “Hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ...[49]” Chỉ có vậy thôi mà buộc phải sử dụng những hành vi không lương thiện, phải vất vả nhiều đêm dằn vặt, phải ngụy biện bào chữa cho mình mới có được sao?..
 
 Ý trở mình, ngồi dậy. Anh châm một điếu thuốc, nét mặt xa xăm. Hình như anh đang nén một cơn xúc động. Liêm ngừng câu chuyện về Hòe, anh pha một ấm chè búp Thái nguyên. Hai chén chè trong tay hai người bốc khói. Mỗi người nhìn về một hướng xa xăm...Hình như giữa họ có một dấu hỏi lớn mà người này muốn người kia giải đáp cho mình. Có lẽ đó là câu hỏi về cuộc đời, về thân phận con người. Câu hỏi không chỉ cho riêng Hòe mà cho chính mỗi người nhưng họ chưa đủ thân nhau để nói thật với nhau về những ý nghĩ riêng của chính mình. Đèn tắt. Hai người lại nằm xuống nhìn trần nhà, tối om. Ý thốt lên:
- Thảm lắm!
- Nó chết rồi hả? Liêm hỏi.Thực ra, nó và tôi cùng tập kết ra bắc nhưng tôi chưa gặp nó một lần. Hồi đi học ở trường huyện tôi với nó cũng chẳng thân nhau. Tuy không gặp nhau nhưng mọi thông tin về hắn tôi đều biết như tôi vừa kể, chỉ có giai đoạn từ đầu 1975, trước ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam khoảng vài ba tháng gì đấy, hắn được lệnh đi B. Từ đó đến nay tôi không có tin tức gì về hắn. Nó chết rồi hả? Liêm láy lại câu hỏi.
- Chết gì...! Có đánh chác gì đâu mà chết. Cái “thảm” mà mình muốn nói là cái “thảm” của một kiếp người chứ phải đâu chỉ là cái chết! Ý nói thủng thẳng, xa vời...Hình như anh đang đeo đuổi một ý nghĩ gì khác. Giờ hắn sống như chết/hóa khùng, hóa dại...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                        9
 
 Cả đêm qua, trong câu chuyện với Ý, Liêm nảy ra ý định đi tìm Hòe. Anh đoán chắc có thể qua Hòe tìm được địa chỉ của Huyền. Anh biết Hòe thuộc đoàn cán bộ trung cao cấp được trung ương cử vào ém sẵn chờ tiếp quản các cơ quan dân sự và các cơ sở kinh tế của miền nam sau khi chính quyền Sài gòn sụp đổ. Hôm về An thôn, Liêm nghe loáng thoáng Huyền vào thành phố buôn bán làm ăn khá lắm. Chắc đối tượng này thuộc diện quản lí của Hòe.
 Theo những lời chỉ dẫn mà Liêm hỏi thăm được, anh cho xe chạy về khu kho bãi ( sau này ta gọi là kho vật tư) của công ty Hoá dược Trung phần. Đó là một khu đất rộng, ba ngôi nhà đúc khẩu độ mỗi cái chùng 12m nối mái liền nhau theo kiểu chợ Đồng xuân. Tường cao bao quanh thâm nghiêm, trên tường còn mắc dây kẽm gai. Cổng sắt kiên cố đóng mở bằng điện. Đứng trước cổng nhìn vào, bên trái là khu nhà kho, bên phải là một dẫy nhà tạm năm gian, lợp phe rô. Tít trong cùng, cuối sân là  ngôi nhà một tầng mái ngói thấp - cao nhiều góc cạnh, kiến trúc khá hài hòa, nhìn thẳng ra cổng. Trước mặt ngôi nhà là một cây đại to gần như che khuất cả mặt tiền ngôi nhà nhỏ này. Liêm đoán biết đây là ngôi nhà Văn phòng ban quản lí kho. Ngôi nhà tạm năm gian bên phải là nhà của đội bảo vệ và nhân viên tạp vụ, lái xe ở. Họ đều là những người độc thân. Hòe ở gian cuối trong cùng giáp góc với ngôi nhà Văn phòng. Tán cây đại phủ sát hàng hiên. Sau khi bị kỉ luật rồi bị tai nạn xe hơi mất sức lao động, công ty thương tình thu xếp cho anh ở trong gian nhà tạm này.
 Chiếc xe Com măng ca “đít vuông” Ru ma ni phủ đầy cát bụi, tơi tả đường trường đậu ngay trước cửa sổ phòng của Hòe nhìn ra sân. Đàn bồ câu đang nhởn nhơ kiếm mồi giữa sân, thấy “con vật khổng lồ” không biết từ thế giới nào lạc đến hốt hoảng bay vội lên đậu trên mái ngói của ngôi nhà văn phòng. Chúng đã quá quen với các loại xe cộ ra vào nơi đây nhưng chưa bao giờ thấy một loại xe lạ lẫm như vậy! Bạt thủng lỗ chỗ nhiều nơi, vết dầu mỡ lem nhem. Hai cánh bạt che sườn xe mất khóa bay phất phơ, khi xe chạy chúng xòe ra như hai cánh của một hung thần đang lao tới tiêu diệt con mồi.
 Liêm ngồi nói chuyện với Hòe, chốc chốc lại đưa mắt nhìn qua cửa sổ, phía ngoài có chiếc xe đậu như muốn báo cho Hòe biết mình nay đã là loại cán bộ có xe riêng đi công tác! Hòe như nhịn cười, hỏi:
-         Xe anh?
-         Vâng! Rất thản nhiên, Liêm đáp.
-         Gọi cậu Xế vào uống nước chứ?
-         Không cần! Ta có nhiều chuyện riêng tâm sự với nhau.
 Hòe kể lại ngọn ngành cuộc đời mình từ sau cái hôm bị Thực đánh suýt chết ở trường Tiểu học Hà Khê cho đến bây giờ. Hòe tưởng Liêm chưa biết gì. Liêm ngồi nghe lơ đễnh... “ Tôi buồn nhất không phải là mình bị kỉ luật, kể cả việc tôi bị tai nạn thế này tôi cũng không buồn. Buồn nhất của tôi là bị thiên hạ coi là thằng đểu. Họ bảo tôi lợi dụng lòng thương con của Dung (vợ tôi) để bày trò li dị vợ. Sự thực lúc đó muốn cứu ba đứa con khỏi chết đói, chúng tôi phải tìm cách cách để chúng được cấp sổ mua gạo theo giá nhà nước. Tôi bàn với Dung giả vờ li hôn, tôi nuôi con để được nhà nước cấp sổ gạo cho chúng. Tôi nói với Dung:- Cái giấy này của tòa án chẳng có nghĩa lí gì cả, xong việc ta có thể xé ngay. Chúng ta vẫn yêu thương nhau đến trọn đời. Những lúc chìm nổi thế này càng cám cảnh chuyện đời, càng thương nhau hơn. Ta làm việc này chỉ là vì các con thôi. Vợ tôi lúc đó rất buồn mà tôi ruột như muối xát, đem cả cái chuyện tình cảm vợ chồng thiêng liêng ra để lừa dối tổ chức...Nhưng đau hơn cả là sau này tôi đã đem cái giấy li hôn ấy ra làm bằng cớ rằng mình là người tự do để cưới cô ThiTrân, con gái của người chủ cũ của công ty này. Tôi yêu cô ta đến say đắm, cô ta quá đẹp, thùy mị, đoan trang. Sự cuốn hút của cô  ta không phải chỉ ở sắc đẹp mà còn ở cốt cách văn hóa, của một con người được giáo dục, nhào nặn trong lễ nghi. Con người ấy, nếu không gặp lúc thời thế biến thiên, một người như tôi làm người lau xe cho cô ta cũng không xứng, đừng nói là làm chồng.
-         Cậu trân trọng cô ta như thế sao cô ta lại cuỗm tiền của công ty rồi vượt biên, không mảy may nghĩ đến tình nghĩa mà cậu đã dành cho cô ấy, đã hy sinh cho cô ấy? Liêm hỏi. Cô ta không biết làm như vậy là cô ta đã giết cậu sao! Cậu nặng lòng mà làm gì, đó cũng chỉ là tuồng “mèo mả gà đồng” cả thôi! Nói rộng ra đó chính là bản chất giai cấp xấu xa của bọn bóc lột. Cậu chưa nhận ra hay sao? Liêm có vẻ xẵng giọng.
-         Những điều anh nói, tôi đã được tổ chức, được các đồng chí trong chi bộ, trong đảng ủy và cấp trên phân tích, mỗ xẻ nhiều... nhiều lắm rồi, lời lẽ còn nặng nề hơn gấp nhiều lần anh nói nữa cơ! Nếu không có một hệ thần kinh vững vàng chắc tôi không còn sống đến hôm nay.
 Ngừng một lát như để nghĩ ngợi điều gì, Hòe tiếp:
-         Tôi xin nói để anh rõ, Hòe bảo, những điều này tôi chưa hề nói trong hàng trăm cuộc họp kiểm điểm tôi nhưng giờ tôi sẽ nói hết với anh. Việc cô ta bỏ tôi mà vượt biên là một việc làm “rất người”. Cái thể chế này không phù hợp với những người như cô ấy. Mọi hiện thực cuộc sống xảy ra xung quanh đều làm cho cô ta thở dài, trăn trở. Đọc chưa xong bài xã luận của một tờ báo cô ta thở dài đặt báo xuống bàn. Mới nghe qua chương trình TV, cô ta tắt máy , nhắm mắt. Đến cơ quan, nghe ông cán bộ thuyết giáo cô ta như muốn ngoi người lên cao để lấy không khí...Có lần, trong đêm cô ta trăn trở, cô ta bảo: “Em không nói cái thể chế này xấu, nhưng nó làm sao ấy, nó không hợp với em, khó nói lắm. Rừng không xấu nhưng cá không thể sống được ở trong rừng, nó cần biển khơi, cần sông dài, hồ rộng... Chắc anh còn nhớ chuyện cô Hạnh Đào ở lễ tân thôi việc chứ? Một cái chuyện nhỏ ấy thôi cũng làm em bất bình không nhất trí được với  “ý kiến của tập thể”, với cách giải quyết của “tổ chức”. Cô ta được tuyển vào làm ở công ty trước ngày giải phóng không lâu. Cô ta con nhà danh giá, bố là một nhạc sĩ nỗi tiếng, giáo sư của Học viện âm nhạc quốc gia. Cô ta đi làm cho vui chứ không phải để kiềm tiền. Mặc dù cô ta chưa có bằng Tú tài nhưng thông thạo ba ngoại ngữ (Anh-Pháp-Trung). Bố em là bạn của bố Hạnh Đào. Ông nhận cô ta vào làm lễ tân của công ty, có hợp đồng đầy đủ.  Cách mạng về tiếp quản công ty, cô ta vẫn giữ nếp sống cũ. Trước bàn trực của cô bao giờ cũng có hoa tươi cắm trong một chiếc lọ pha lê xinh xinh. Những thứ này đều được mua sắm bằng tiền túi của cô. Mặc dù tình hình kinh tế sau giải phóng có khó khăn, nhiều hôm đi làm cô nhịn ăn sáng nhưng không bỏ thói quen ăn vận, trang điểm kĩ càng và không thể thiếu hoa tươi trước mặt. Lãnh đạo cũng thấy hài lòng vì lễ tân là bộ mặt của công ty, nơi tiếp xúc đầu tiên với khách hàng đến công tác, cần văn minh, lịch sự.“Đại hội công nhân viên chức” của văn phòng họp, nhiều người lớn tiếng phê phán tác phong tiểu tư sản của Đào. Nhiều người trong họ cũng đã tốt nghiệp trung học phổ thông ở miền Bắc, không kém gì cái tú tài của Đào, thậm chí có người đã trúng tuyển đại học nhưng tình nguyện đi thanh niên xung phong, làm giao liên, đi đập đá, phá đường...hy sinh cả tuổi xuân cho cách mạng. Nay trở về,  không có nghề nghiệp, không thể làm kĩ sư, bác sĩ hay chuyên viên kinh tế được. Họ sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ tổ chức giao dù đó là lao công tạp, vụ lau chùi nhà xí, nhà tiêu...họ không nề hà, điều mà họ đòi hỏi là được đối xử công bằng. Những người khác có trình độ như họ cũng phải tham gia làm các công việc đó...Những người này chỉ trích gay gắt lãnh đạo Văn phòng, cho rằng lãnh đạo không có tình thương yêu giai cấp, “mất lập trường”, thiếu công bằng. Họ đề nghị biên chế cô Đào về tổ lao công tạp vụ và thay nhau mỗi người lên làm lễ tân, được ngồi trước lọ hoa tươi một tháng! Cái chuyện nhỏ ấy cũng làm em đau đầu cả tháng. Nhiều người cho đòi hỏi đó của họ là đúng, là công bằng hợp lí. Em bảo họ rằng cái chức danh lễ tân mà Đào đang làm đã được ghi rõ trong hợp đồng, có sự thỏa thuận của người lao động và người sử dụng lao động, không tùy ý thay đổi được. Nhưng họ bảo đi làm cách mạng không ai có hợp đồng cả. Làm việc gì do tổ chức phân công theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa “Làm theo năng lực, hưởng theo việc làm!”
 Liêm cắt ngang câu chuyện của Hòe:
-         Có lẽ hồn vía của cậu đã bị cô Thi Trân bắt mất rồi! Liêm bảo, tôi không bảo cậu là ngụy biện, cố bào chữa cho tội lỗi của Thi Trân nhưng cậu chưa giải thích được cái “cao thượng” của kẻ “ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”trốn ra nước ngoài. Nếu bắt được tội phạm bị kết án thế nào cậu biết không?
-         Tôi  bây giờ “sống như chết...” như câu thơ người ta nhại lại thơ của ai đó để vận vào tôi, tôi nói thật lòng tôi, không cần phải “uốn lưỡi bảy lần”, không dối trá, không giả vờ...Anh hiểu về tôi thế nào tùy anh. “Tôi” thế nào đã được định hình trong hồ sơ của tổ chức, trong dư luận của xã hội. Giờ anh có bảo tôi tốt, tôi cũng không thể tốt lên được nữa, anh bảo tôi xấu tôi cũng không có gì để xấu hơn được nữa. Tôi là tôi, là cái thằng người “ Sống như chết/ thằng khùng thằng dại ” Nhưng xin anh hiểu cho, những người sắp chết thường nói thật, người điên thường nói thật (Chắc anh đã đọc cuốn “Nhật kí người điên” của Lỗ Tấn rồi chứ?) Những “con người mới” do anh đào tạo ra chắc thiếu cái tố chất này vì các anh dạy chúng nói dối từ trong bụng mẹ. Thử hỏi có đứa trẻ con người Việt nào mới sinh ra mà đã: “tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin...[50]”không? Trẻ con Liên xô chắc cũng không gọi thế nữa là...! Thi Trân thế nào, xin anh đọc bức thư cô ta để lại nhờ tôi chuyển cho Dung vợ cũ của tôi đây (phong bì dán kín, tôi vừa xé ra hôm qua sau khi nhận được thư của Thi Trân từ Úc gửi về tha thiết yêu cầu tôi chuyển thư này cho Dung (“Nếu e ngại điều gì xin anh cứ bóc thư ra đọc trước khi gửi cho chị ấy”.)
Thành phố....Ngày...tháng...Năm...
Kính gửi chị Dung,
Em là Thi-Trân vợ bé của anh Hòe xin lạy chị trăm ngàn mớ lạy, xin chị tha tội cho. Khi anh Hòe yêu em, đặt vấn đề cưới em, em chỉ biết anh ấy đã từng có vợ, có ba đứa con và anh chị đã li dị nhau. Em yêu anh ấy, có thể có đôi chút chi phối bởi những hoàn cảnh éo le của thời cuộc nhưng đó là một tình yêu thực lòng. Em thương anh ấy nhiều, nhiều lắm...Cưới nhau xong, chưa qua tuần trăng mật, em thấy anh ấy như người mất hồn, nhiều đêm không ngủ,ra phòng khách ngồi hút thuốc, uống rượu một mình...Có đêm em nghe tiếng nấc và tiếng tự nguyền rủa mình: “Ta là thằng khốn nạn!” Tưởng anh ấy mơ,em quờ tay qua, thấy nước mắt anh ướt đầm gò má...Anh vẫn không nói gì. Cuộc sống vẫn trôi qua nặng nề như thế! Những ngày nghỉ, anh một mình cùng lái xe vào rừng săn bắn, có ngày đến trưa hôm sau mới về. Anh ấy vẫn ham mê săn bắn như vậy từ trước, từ ngày chưa lấy em cơ! Bây giờ anh ấy lạ lắm! Nhiều lần tỉ tê tra hỏi anh mới nói thật cái tình cảnh của anh hồi ấy, cái tình cảnh buộc anh-chị thống nhất đưa nhau ra tòa án “giả vờ li hôn.” Anh ấy đã nhiều lần tự nguyền rủa thói đểu cáng, lật lọng của mình. Anh ấy kể về chị với tất cả sự trân trọng và niềm yêu thương vô hạn.Em đã được nghe anh ấy kể nhiều đêm về cuộc sống của anh chị, của các con thời ấy. Em cũng đã khóc ròng rã nhiều đêm như vậy! Kể nhiều và cặn kẽ đến mức nếu bây giờ em bất ngờ gặp chị ở ngoài đường, không cần ai giới thiệu em cũng nhận ra chị ngay. Em biết, nếu em còn ở lại đất này chắc sẽ gây khó và làm cho anh ấy đau khổ thêm. Em đã bảo anh ấy cho em làm lẽ, hầu hạ chị nhưng theo luật pháp hiện hành không cho phép điều đó! Em chào chị, em đi đây! Anh chị cứ coi như em không còn trên trái đất này nữa. Em cũng cầu xin chị tha lỗi cho anh ấy. Dù sao anh ấy vẫn là một người chồng tốt, một con người đáng trọng.
                                                                          Người em khốn khổ của chị
                                                                                       Thi- Trân.
Liêm đặt bức thư xuống bàn, ngồi trầm ngâm: Người đáng trách nhất trong vụ này chính là cậu. Cô ta thật đáng thương nhưng cái tội “ăn cắp tài sản xã hội chủ nghĩa” thì không tha thứ được, bất luận vì lí do gì.
-         Thi Trân ăn cắp ư?- Không phải!  Hòe nói. Tổng số tài sản mà cô ta lấy chỉ hơn năm chục lạng vàng. Con số ấy rất bé so với số tài sản mà ta tịch thu, trưng thu của gia đình cô ấy. Cô ta chỉ là người “Tước đoạt của kẻ đi tước  đoạt” thôi. Anh là người thấm nhuần kinh tế chính trị Mác-Lê, anh thử xếp cô ta vào đối tượng nào?
-         Trời!...tôi không còn hiểu cậu được nữa! Cậu không còn phân biệt giữa bản chất và hiện tượng. Liêm kêu lên, thôi chuyện ấy cho qua. Tôi không thể bỏ tù tội phạm Thi Trân được mà cũng không thể xếp cô ta vào hàng ngũ của những người cách mạng như ý cậu được. Có phải sau khi cậu bị tàn phế thế này thì cô ta bỏ trốn phải không?
-         Không! Tôi cam đoan với  anh, nếu tôi đang ở trong tình cảnh này thì không bao giờ cô ấy bỏ tôi mà đi như vậy. Tôi biết tư cách của cô ấy.
-         Thế sao? Cậu bị trong hoàn cảnh nào?
-         Hồi ấy tôi đang bị kiểm điểm chứ chưa xử lí kỉ luật gì cả. Hình như người ta đang bàn định đưa tôi về ngồi chơi xơi nước ở một cơ quan quản lí cấp trên theo kiểu “lai kinh hậu cứu[51]”. Thế rồi Thi Trân bỏ đi. Tôi buồn quá, có thằng bạn con của một vị siêu cốp, hai đứa đi săn gặp nhau trong rừng rồi kết nghĩa. Tôi gọi hắn là Thiếu Gia[52]. Hắn phục tài bắn của tôi nên rất kết. Hồi đầu, mới quen nhau chưa lâu nhưng hắn đã xả thân cứu tôi thoát khỏi một phen ra tòa. Tôi bắn chết một con tê giác trong khu rừng bảo tồn quốc gia, bị bảo vệ vây bắt, lập biên bản, hắn nhận ngay rằng chính hắn đã bắn chết con thú quý hiếm cần được bảo vệ kia do nhìn nhầm. Tôi thoát. Còn hắn, chỉ bị bố nhắc nhở qua loa rồi thôi. Trong tình thân của tôi đối với hắn còn có cái nghĩa đền ơn cứu mạng, coi hắn như người anh em từ đấy. Rồi cái hôm ấy Thi Trân vừa bỏ đi, trời hiu hiu buồn. Mây xuống thấp. Sắp hết giờ làm việc, khoảng bốn rưởi chiều, tôi đang ngao ngán không biết chiều nay mình đi đâu, làm gì thì nhận được điện của Thiếu Gia bảo lên gấp, sáu giờ có mặt. Đường núi quanh co, từ đây  lên đấy gần hai trăm cây số. Đi được nửa đường thì trời đổ mưa. Mưa to. Tôi liên tục nhắc lái xe phải đến nơi đúng hẹn. Lái xe biết tính tôi nên không dám bàn lùi. Xe lao xuống vực... Tôi bị sụn xương sống, vỡ xương chậu...đến cái nông nỗi này!
-         Vợ cậu, cô Dung có biết gì về tình hình của cậu không? Liêm hỏi.
-         Chẳng biết nghe tin từ đâu, cô ta hớt hãi vào đây, suốt hai tháng trời. Không có cô ấy, không hiểu rồi tôi sẽ ra sao! Tôi thật không ngờ. Sau ba hôm kể từ ngày tôi bị tai nạn, trên người cả đống thạch cao, giây dợ nhằng nhịt...Tuy còn mê man nhưng tôi đã nghe được tiếng của các thầy thuốc nói với nhau, phân biệt được các tiếng động xảy ra quanh mình. Tôi nghe tiếng thì thầm, nói trong nước mắt. Tiếng của Dung...!Vợ tôi...Tôi muốn mở to mắt để nhìn, hét to lên vì sung sướng. Cơ thể tôi không chấp hành lệnh của não bộ. Tôi hé mắt. Vợ tôi hỏi: “Anh có nhìn thấy em không?” Tôi gật đầu nhè nhẹ. Nước mắt vợ tôi nhỏ trên bàn tay tôi nóng hổi.
-         Nghe câu chuyện của cậu, tớ thấy cậu rất yêu vợ, nặng lòng với gia đình sao cậu chóng đổ đốn ra thế! Chắc cậu bị hoa mắt về cuộc sống phồn hoa giả tạo của miền Nam chăng?
-         Chẳng hiểu sao nữa, nó đến trong tôi tự lúc nào không rõ! Chỉ trong một tích tắc của sự yếu lòng.Tôi đem tờ giấy li hôn và những cảnh đời tôi đã sống kể cho Thi Trân nghe. Cô ta khóc nức nở và gục đầu lên vai tôi...Tất nhiên tôi dấu cái chi tiết “li hôn giả vờ” mà tôi và Dung đã thỏa thuận ngầm với nhau. Thật tình lúc đó không chỉ riêng tôi mà nhiều anh chị em tập kết trở về, ngoài bắc vô đều hoa mắt. Chúng tôi bảo nhau, nếu được lựa chọn giữa cái “phồn hoa giả tạo”và cái đói nghèo thực sự thì chúng tôi sẽ chọn cái phồn hoa này. Chúng tôi nhìn nhau, mặt mày xanh xám, quân phục bạc màu, chiếc mũ tai bèo, đôi dép cao su...Đi trên đường không bao giờ nhìn thẳng, mặt quay chín mươi độ nhìn đăm đắm vào các cửa hàng rực rỡ bên đường. Dần dà cái tinh thần tự ty, mặc cảm thay thế cho niềm tự hào của người chiến thắng. Người ta đua nhau học cách nói năng, ăn mặc của dân thành thị trong này. Họ bảo nhau mình là anh tẩm nhà quê ra tỉnh, mất hết cả tự tin khi giao tiếp, cố học thói sành điệu. Hồi mới tiếp quản, trong phòng tắm,  nhiều tuýp kem dùng dở vứt bừa bãi, tiếng Anh không biết, cứ dùng lung tung, cái nào cũng đem đánh răng. Một cậu bảo vệ đang cạo râu, dao cạo cùn, mới cạo được nửa môi trên, rát quá, rớm máu. Cậu ta là con người thu vén, nhặt được cái gì là thu thu giấu giấu, dùng riêng một mình. Anh em gọi là “ông Lõi”. Cậu Sực nhớ mình có tuýp kem, cậu nghĩ đó chắc là loại kem cạo râu, lấy ra bôi trắng cả môi trên, mép dưới... Cậu đang hân hoan định đặt dao lên cạo tiếp, tự nhiên mồm cậu bị dúm lại, nhô ra phía trước như mồm lợn lòi. Không nói được, cậu ứ ử ầm lên. Cả tổ bảo vệ lao vào, thấy bạn thất sắc, kì dị, họ nháo nhào chạy ra gọi xe cấp cứu. Tổ trưởng bảo vệ khẳng định đây là âm mưu của kẻ địch cài lại nhằm hãm hại cán bộ cách mạng, anh chạy đi báo cáo cấp trên. Một thông tri về đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng được ban ra. Hơn (tên cậu bảo vệ bị nạn) được đưa vào bệnh viện. Bác sĩ nhìn khuôn mặt Hơn cố nhịn cười, môi trên một nửa được cạo trắng, nửa bên trái râu rễ tre đen sì đang dật dật. Râu cằm dưới bị chia làm đôi bởi một nhát dao cạo đặt vào chính giữa...Mọi người chăm chú nhìn bác sĩ một cách hốt hoảng. Ông ôn tồn bảo:
-         Không có gì hệ trọng. Anh ấy dùng nhầm kem!
-         Sao? Kem gì thưa bác sĩ!
-         Đây là loại kem “Dúm”,các bà me Mỹ quá đát hay dùng để bôi vào...và..ào..chỗ ấy...Nó có tác dụng làm cho cơ co lại gây hứng thú cho khách chơi...
-         Trời ạ...! ba anh bảo vệ đồng thanh kêu lên. Bọn này tối phản động, cần tiêu diệt sạch trơn chúng!
 Bác sĩ bảo:
-         Không có loại thuốc đặc trị “bệnh này”.Người ta chỉ sản xuất loại kem bôi cho co vào, không có loại kem làm giản ra! Tôi cho dùng tạm loại thuốc này, chưa dùng cho ai bao giờ, chưa thử nghiệm lâm sàng, may ra có thể giảm bớt nhưng chỉ giảm từ từ. Chỉ khi nào khỏi hẳn mới được cạo râu, hàng ngày phải kiên trì tập há miệng. Anh ấy sử dụng “liều cao” quá nên sẽ rất lâu khỏi đấy!
 Mấy anh em hú hồn dẫn Hơn ra về. Ra đường, đi được một quãng, nhiều người cứ chằm chằm nhìn vào cái khuôn mặt kì quái của Hơn...Anh thấy ngượng, vội gọi chiếc xích lô, phủ bạt về nhà. Mấy hôm đầu anh em có vẻ thương cảm với Hơn không ai đùa cợt gì. Hôm sau thấy Hơn ngồi ăn đưa từng thìa cơm vào miệng một cách khó khăn, một cậu tếu táo bảo: “ Ông Hơn ơi! Ông lấy cái cái ống bơm xe đạp ấy cho cơm vào mà thụt, cứ thụt ra thụt vào liên hồi một nhoáng là hết sạch bát cơm lại chóng khỏi bệnh!.....Cả tổ cười vang, sặc cơm, ho rũ rượi... Hơn tức khí ném cả cái bát cơm vào mặt cậu vừa nói, văng ra một câu chửi thề rồi  lầu bầu “Đồ đểu!” May mà bát cơm không trúng vào ai.
 Có lẽ tôi bị ảnh hưởng xấu từ Thiếu gia. Anh ta rất điển trai, sành điệu, sành âm nhạc, hát hay, thạo ba bốn ngoại ngữ, ham đọc, lĩnh vực nào cậu ta cũng tỏ ra uyên bác. Lần đầu gặp anh ta trong rừng tôi như một người Mọi gặp một Hoàng tử. Thiếu gia cũng làm tổng giám đốc một công ty lớn. Người ta mời anh làm tổng giám đốc vì muốn nương cái bóng của bố anh, vị siêu cốp chứ không cần anh ta làm bất cứ việc gì, khi có chuyện rắc rối liên quan đến pháp luật anh ta mới ra tay tháo gỡ. Mọi việc êm rơ. Việc điều hành xí nghiệp anh ta giao cho người phó lo. Còn anh ta: “tôi chỉ việc ôm người đẹp trong lòng, gối đầu lên súng săn, nằm giữa rừng hát nghêu ngao, nhắm rượu Na-pô- lê - ông, ăn thịt rừng nướng..” Thiếu gia bảo thế. Anh ta hỏi tôi: “ông sống độc thân hả?” Tôi cười: “Đại loại như thế. “ Khốn nạn cái thân ông. Hắn bảo: “ Sao không kiếm vài con bé ngon ngon theo hầu?” Tôi cười, liếc nhìn cô bé trạc mười bảy tuổi như một đóa hoa đang ngồi trên xe.  Hắn chép miệng thít tha: “ Ngon lắm!” Nhìn tôi. Chừng như tôi chưa hiểu, hắn tiếp: “ Gái đẹp ấy mà, ngon hơn thịt rừng, ngậy mà thơm, không bao giờ ngán..”.Hắn nheo mắt nhìn tôi như trêu chọc: “ Nhớ đấy lần sau phải mang theo đấy, có gì khó khăn phôn cho tôi, chi viện ngay!” Tôi thấy mình cũng lạ. Mình là một thằng cộng sản gạo cội, đầu óc chứa đầy những tư tưởng cách mạng sẳn sàng tiến sang châu Mỹ hay lên Bắc cực để tiếp tục giải phóng loài người, loài gấu.. Lí luận chính trị trung cấp, cao cấp không thiếu bài nào. Lập trường kiên định, thành phần bần cố nông, đã từng “sống trong bùn lầy, lăn lóc trong vũng máu..”được cách mạng vớt lên, nuôi dưỡng đào tạo thành người cán bộ, cũng là Tổng giám đốc, chức vụ như hắn. Tại sao đứng trước hắn mình cứ như con rết gặp con gà! Hắn đưa tay ra hiệu, cô gái cầm chiếc đàn ghi-ta đi xuống ngồi cạnh. Hắn cầm đàn hát ngất ngây, chẳng biết trời đất là gì. Tôi ngồi lặng, giả vờ nghe nhưng đầu óc đang nghĩ đến chương trình nghị sự, nội dung cần quán triệt của cuộc họp Đảng bộ ngày mai.
Nhớ, có lần tôi hỏi hắn:
-         Anh chưa lấy vợ hả?
-         Có vợ nhưng chưa lấy! Hắn cười.
 Thấy thái độ của tôi nghiêm túc một cách ngây ngô, hắn biết một thằng người như tôi không biết đùa. Hắn tâm sự: “Tôi yêu mấy vụ không thành, thằng em này đã chấm cô nào thì cô ấy cực xinh luôn. Khốn nỗi, đem cô nào về ra mắt, hỏi qua về gốc gác gia đình các cụ gạt luôn, đứa con “Tề”, đứa cháu “Ngụy”...Đến cô thứ ba bị bác bỏ thì tôi thôi luôn, không để ý đến chuyện ấy nữa. Có cô bạn học của em gái tôi, con ông phó bí thư tỉnh ủy, các cụ nháy em tôi rủ cô ta về nhà tôi anh cơm. Tôi ngồi ăn, đối diện hẳn hoi nhưng không ai nói với ai chuyện gì. Cô ta thì líu ríu chuyện trò với cô em tôi. Tôi ăn nhanh, lên phòng nằm xem TV. Sáng ra, bố tôi nhìn tôi rất tình cảm, bảo “Được đấy chứ con?” Thấy tôi ngơ ngác, cụ lại nói: “Con bé cái Tâm, bạn con Hằng nhà mình ấy!...Được đấy chứ, xinh đẹp, nết na lại bí thư đoàn trường nữa đấy...! Tôi ngán hẳn, không nói gì. Sau đó mẹ tôi gặp riêng tôi tỉ tê, nào là con ông bí thư tỉnh, nào là bí thư đoàn trường...Nết na, khéo ăn, khéo nói...Bực quá, tôi bảo: “Tùy các cụ...” Mẹ tôi sướng quá, tưởng rằng tôi yêu cô ta nhưng nhát gái không dám nói thẳng, thế là họ làm đám cưới cho tôi. “Ừ thì cưới...” Tính tôi là thế, tôi chỉ làm việc gì mình thích còn không, mặc kệ người ta ai làm gì thì làm. Bố mẹ tôi bảo gì tôi làm vậy, còn việc gì thuộc quyền chủ động của tôi thì tôi không làm. Mặc!
-         Cô ta xấu lắm hả? Hòe hỏi.
-         Chả xấu, cũng dễ coi, nết na..
-         Sao cậu chê?
-         Mất “Zin”
-         Chết! Thế cơ à? Con gái nhà lành đang đi học mà đã mất trinh thì bậy bạ quá chẳng ra cái thể thống gì nữa!..
-         Không phải! Tôi có bảo cô ta mất trinh đâu, tôi nói mất “Zin” cơ mà!
-         Thế mất “Zin” là mất cái gì? Tôi chưa nghe ai nói bao giờ, hay trông cô ta vú vê xồ xề quá!
-         Không, có ta thon thả dễ coi.
-         Thế sao?
-         Tôi nói nó mất “Zin” vì cái loại người một tháng ba mươi ngày đi họp,  đầu óc họ cũng như quyển sổ tay họ luôn mang theo người, lít nhít đầy chữ, mực xanh, mực tím, chỗ này gạch đỏ, chỗ kia quét vàng...Không có chỗ nào cho riêng họ cả, không có chỗ cho âm nhạc, cho thi ca... Gặp nhau thì thi thố tài năng bằng cách thao thao bất tuyệt trích lời dạy của cụ A, cụ B! Ở cơ quan, ở trường học đã vậy, về nhà, trong bữa ăn, các cụ còn bồi dưỡng, quán triệt  thêm về lập trường này, quan điểm nọ, đường lối kia.....Nghĩa là cái đầu nó bị uế tạp không còn “Zin” nữa! Cái loại đàn bà được nuôi dạy, giáo dục trong một môi trường như vậy, nếu đẻ được, họ sẽ đẻ ra những con Rô-bốt! tôi sợ lắm. Có thể họ rất tốt với tập thể, được “quần chúng tín nhiệm cao” nhưng về gia đình thì khó sống chân thành với nhau lắm! Tôi không chịu nổi.
-         Trời! Tôi chưa nghe ai nói, ai nghĩ như anh bao giờ...Nghĩ như anh thì chỉ có đi vào chùa, cưới một bà sư làm vợ may ra còn “Zin”, tôi bảo.
-         Ông chưa thuộc bài! Thiếu gia nói, ông chưa hiểu khái niệm “Zin” của tôi. Tôi đang ngán cái loại người một tháng ba mươi ngày niệm kinh, ông lại định giới thiệu cho tôi một bà cả đời nhắm mắt, gõ mõ, tụng kinh nữa sao?  Hay! Hay...Ông là một nhà chính trị thông minh, nhiều triển vọng...Thiếu gia cười phá lên.
 Quả thật tôi bị hắn thôi miên, Hòe nói, tôi sùng bái hắn, bị ảnh hưởng của hắn. Tôi thích ngắm nhìn Thi Trân nhiều hơn. Đêm đêm, hình ảnh của Thi Trân hiện về trong giấc mơ êm đềm của tôi. Thức giấc, tôi nhớ đến món thịt rừng mà Thiếu gia mô tả...
-         Chà...Chà! Cậu bị lãng mạn từ hồi nào vậy? Một tinh thần lãng mạn đầy dung tục. Liêm cười, nhìn Hòe. Thế ông định ở mãi đây thế này à? Thu dọn mà về ngoài kia đi chứ? Còn có vợ con...
-         Cô Dung cũng bảo tôi như vậy nhưng ông xem, tôi, thân tàn ma dại thế này, vác mặt mo về làng...Chịu sao nổi miệng lưỡi thế gian.. Tôi bảo cô ấy: “Mẹ con dọn cả vào trong này, dù sao  trong này cũng dễ sống hơn.” Cô ấy bảo: “Vào trong này sống bằng gì? Cả năm miệng ăn trông chờ vào mấy đồng lương hưu của anh hay sao? Ngoài mình tuềnh toàng xong thôi, chứ vào trong này, con cái nhớn rồi, tuổi ăn, tuổi diện, tuệch toạc quá cũng không đành... Với lại, rời bỏ quê cha đất tổ trong cái cảnh này nó não lòng lắm! Còn chuyện học hành của con cái nữa chứ!” Vừa rồi, cô ta gửi thư vào nói: “Các con suốt ngày nhắc đến bố, chúng nó rất tự hào về cha mình, trong lí lịch thi đại học của thằng Quyền, nó ghi cha là tổng giám đốc kiêm bí thư đảng ủy công ty Hóa-dược trung phần đã về hưu do tai nạn ô tô.  Chúng rất mong cha về ngoài đó...” Tôi thật khó nghĩ. Thằng Quyền, con đầu của tôi năm nay cũng vào đại học rồi. Mà, tôi nghĩ, có khi về ngoài đó, khuất mắt dễ sống hơn ở đây!
-         Phải quá đi chứ lị...! Liêm bảo.
 Câu chuyện của Hòe làm cho quan hệ giữa hai người trở nên thân thiết hơn. Liêm nhìn cái thân thể tàn phế của Hòe, liên tưởng đến cái cảnh đời sắp tới của mình...! Xử lí thế nào trong quan hệ với Huyền, với Nhân bây giờ đây! Khó hơn nhiều, phức tạp hơn nhiều chuyện của Hòe! Liêm định đem chuyện mình ra tâm sự cùng Hòe, nghĩ thế nào, lại thôi.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
10
 
 
       Công ty hóa dược Huyền - Vi khi mới vào tiếp quản, nằm dưới sự kiểm soát của Hòe. Hòe chỉ biết tên chị là Phương thị Huyền, người An thôn, anh  không biết gì hơn. Hòe chỉ cung cấp thêm chi tiết là khi tiến hành kiểm kê, định giá tài sản của các công ty của tư sản của thành phố để tiến hành trưng thu, trưng mua và hợp doanh, anh nhận được chỉ thị không kiểm tra công ty Huyền Vi. Lúc mới vào thành phố Huyền rất nghèo buôn bán lặt vặt, mua đầu chợ, bán cuối chợ, sống qua ngày. Không biết tự bao giờ, cô ta chuyển sang buôn bán thuốc Tây, mua thuốc trong nội thành đem về bán ở các vùng quê. Cô ta giàu lên từ đấy. Nhiều người quen biết Huyền ngạc nhiên thấy cô ta giàu lên một cách nhanh chóng. Công ty dược phẩm Huyền vi có hàng chục đại lí bán lẻ ở các huyện thị, thị xã vùng ven và các vùng quê...
 Hồi ấy, chính quyền Sài gòn xúc tiến ráo riết chiến dịch “tố cộng”. Tất cả những người có chồng tập kết ra Bắc buộc phải làm đơn xin li dị và phải cải giá. Quận trưởng Hà khê, thiếu tá Huỳnh tôn Thắng rất tích cực trong chiến dịch này. Ngoài động cơ để được thăng quan tiến chức, động cơ bên trong là hắn rất mê Huyền, muốn cưỡng bức Huyền làm lẽ mình. Huyền hồi con gái vốn đã rất đẹp, nay, gái một con, nét tươi xinh ngời ngời...bọn quan chức trong quận đều biết Huyền. Thắng huênh hoang với mọi người là sắp cưới Huyền. Thắng say sưa với chiến dịch tố cộng, hắn dùng nhiều thủ đoạn và tội ác rất tàn bạo. Huyền làm kế hoãn binh, xin được nghỉ hai tuần về thăm quê ngoại, sau khi về sẽ tiến hành hôn lễ. Huyền vào thành phố định tìm nơi ẩn náu. Được ba ngày, ông Khả, giờ là bí thư thành ủy, mật danh là Bảy Bung tìm đến gặp Huyền. Ông báo tin Huỳnh tôn Thắng đã bị đội biệt động của ta ám sát, bị trọng thương đang được đưa vào cấp cứu ở bệnh viện thành phố, ít có khả năng sống sót. Ông bày kế cho Huyền bế con đến bệnh viện, xưng là vợ Thắng đến thăm. Y lời ông Bảy, Huyền dắt con, lễ  mễ đường sữa, cam...đến bệnh viện. Nước mắt lưng tròng, Huyền vừa bước vào bọn lính canh định ngăn lại, tên trung sĩ cần vụ của Thắng chạy ra, cúi đầu kính cẩn: “Ôi! Bà vào thăm thiếu tá, nhanh lên, thiếu tá đang mong bà, trong mê man, thiếu tá gọi tên bà!” Mấy tên lính dạt ra, Huyền vừa bước vào đến giường. Thắng tắt thở, đầu nghẹo ra phía ngoài, nơi Huyền đứng. Bọn sĩ  quan, binh lính có mặt đều rất xúc động nhìn cảnh Huyền đứng khóc não nùng...Huyền trở thành người chủ lễ của đám ma Thắng. Bọn giám đốc cảnh sát, quan chức thành phố biết mặt Huyền, bà quả phụ của Thiếu tá Huỳnh tôn Thắng, người đã “Vị quốc vong thân” như lời điếu, từ đấy. Bây giờ, tất cả mọi hành động của Huyền đều làm theo sự chỉ dẫn của ông Bảy. Huyền làm một bàn thờ to, một tấm ảnh chân dung của Thắng, đeo quân hàm thiếu tá quân đội Việt nam cộng hòa, đặt trong khung kính trang nghiêm. Cả ngày khói hương nghi ngút. Mấy lần, tên Trung tá Mai Hạnh, cảnh sát trưởng thành phố đến thăm, lần nào cũng vậy, trước khi ngồi tiếp chuyện khách, Huyền đều châm một nén hương cắm lên bàn thờ  “chồng”.
 Ông Khả đến thăm. Huyền vẫn gọi ông bằng chú, xưng cháu rất lễ phép. Dù hoạt động trong môi trường hiểm nguy, gian khổ, nhưng ông không già đi bao nhiêu. Mái tóc rễ tre gợn sóng của ông vẫn dày, lốm đốm muối tiêu. Mặt chữ điền rất quắc thước. Ông hỏi Huyền:
-         Cháu có sẵn sàng nhận nhiệm vụ của tổ chức giao phó hay không?
-         Cháu rất sẵn sàng, chỉ sợ cháu quá ngây ngô, non nớt không đảm trách được nhiệm vụ tổ chức giao cho thôi. Huyền nói.
-         Tổ chức hiểu rất rõ về cháu. Chỉ cần cháu có lòng trung thành. Cháu có những thế mạnh mà không ai có được.
-         Cháu có gì là “thế mạnh”cơ chứ, Huyền đáp.
-         Có đấy! Ông Bảy nói, trước khi giao nhiệm vụ, tổ chức đã nghiên cứu kĩ về cháu. Thứ nhất, ông nói một cách trang nghiêm, cháu có một sắc đẹp rất cuốn hút, thứ hai...Ông đưa tay chỉ lên bức ảnh của Huỳnh tôn Thắng đặt trên bàn thờ. Hiểu ý, Huyền cười. Ông Bảy nói tiếp, để làm được việc này, cháu cần làm tốt mấy việc: Một là phải tăng cường và mở rộng quan hệ với các quan chức chính quyền thành phố như cảnh sát trưởng, thị trưởng và quan chức, sỹ quan các cấp. Trước mắt nhân 49 ngày, 100 ngày mất của Thắng, cháu làm lễ rất trọng và mời được càng nhiều người thuộc các giới chức tới dự, tiếp theo là ngày giỗ đầu...Phải tìm mọi cách để phát triển quan hệ, càng mật thiết càng tốt. Trung tá  Mai Hạnh sẽ là chiếc cầu giúp cháu phát triển quan hệ và tạo thuận lợi cho hoạt động của cháu sau này. Thứ hai, cháu chuyển ngay sang kinh doanh dược phẩm, vốn liếng tổ chức sẽ lo, đây là việc chính cháu phải làm để cung cấp thuốc men cho mặt trận. Tình hình hiện nay căng lắm, bộ đội ngoài mặt trận, cán bộ ở rừng cần nhiều thuốc men, bọn địch kiểm soát gắt gao không cho mua, bán, chuyển thuốc ra khỏi các đô thị. Nắm được Mai Hạnh, có trong tay giấy phép chở hàng qua các trạm kiểm soát, có quan hệ thân tình với tỉnh trưởng thì việc mới xong được. Việc này rất khẩn trương nhưng phải làm từ từ, mở ngay công ty dược lớn, một lúc phát triển nhiều đại lí bán lẻ, bọn chúng sẽ sinh nghi. Tổ chức sẽ hỗ trợ cháu vốn và lập mạng lưới đại lí. Có điều chú dặn cháu, các đại lí không phải là người trong mạng lưới của ta. Họ chỉ là người buôn bán làm ăn bình thường, có cả người nhà, vợ con của ngụy quân, ngụy quyền, làm thế địch mới không nghi ngờ và đường giây của ta mới không bị lộ. Ta dùng lợi ích vật chất, cho họ hưởng hoa hồng với tỷ lệ cao để gắn bó họ. Ta “kinh doanh”không lấy lời nên việc đó làm được...
 Huyền là người nhanh trí. Mai Hạnh đến nhà, chị không còn rầu rĩ thắp hương lên bàn thờ “chồng” như trước. Chị tiếp chuyện Hạnh một cách thân tình nhưng mực thước. Hạnh càng yêu quý và tôn trọng Huyền hơn. Huyền đã nhận lời đi chơi với Mai Hạnh vào những ngày chủ nhật, ngày lễ. Huyền thích đi ra vùng ngoại thành, cố tình đi qua các bốt gác của cảnh sát. Bây giờ hầu hết các bốt gác, bọn lính canh đã quen mặt “Bà bồ” của cảnh sát trưởng. Thậm chí khi Huyền đi xe một mình chở hàng qua các trạm gác, bọn lính cung kính xum xoe chào “Bà cảnh sát trưởng”. Huyền thường thưởng quà cho bọn chúng, khi thùng bia, khi tút thuốc...Có khi Huyền còn mua cả mít chín,  gà... từ các chợ quê mang về làm quà.
 Công ty dược phẩm Huyền- Vi trở thành một công ty nhập khẩu lớn có tên tuổi, có quan hệ với các công ty sản xuất thuốc của các nước Mỹ, Pháp, Ca - na đa...Có thể đặt hàng mua bất cứ loại thuốc quý hiếm, dụng cụ y tế chuyên dụng nào.
 
 “ Huyền đã có cuộc sống gia đình êm ấm. Cuộc tình “một ngày nên nghĩa” giữa mình và Huyền đã được đào sâu chôn chặt. Cả Ý, cả Hoè...những người cùng quê cũng không hay biết về cuộc hôn nhân của mình và Huyền. Mục tiêu chuyến đi của mình nhằm “bịt lỗ rò”, xóa sạch những tung tích dấu vết rằng mình đã có một đời vợ, coi như đã hoàn tất. Chẳng còn lo Huyền ra Bắc đòi chồng, làm mất mặt mình với Nhân, với các con. Chẳng còn lo việc “man khai lí lịch” với tổ chức bị phanh phui...Mình có thể trở về Hà nội sống những ngày thanh thản, một cuộc đời trong ngọc, trắng ngà dưới con mắt kính nể của mọi người...” Liêm nghĩ. Nhưng, đã hai hôm nay, không hiểu sao, anh không ngủ được. Đã hai tối anh đến ngồi bên quầy sinh tố, dưới gốc cây bồ đề cổ thụ trước cửa chùa, đối diện với ngôi nhà số 65 phố P, nơi Huyền ở. Con phố vắng người qua lại. Vài quán cà phê, giải khát sáng đèn. Khách của họ là những người quen biết trong khu, những người ưa sự tĩnh mịch, ngồi trầm lặng bên tách cà phê...Vắng khách, anh ngồi một mình bên xe sinh tố dưới gốc cây bồ đề cổ thụ. Thỉnh thoảng một cơn gió nhẹ đi qua, nghe xạc xào lá rụng. Trăng sau rằm, đục mờ, vàng vọt. Vài chút trăng lách qua tán lá bồ đề rơi xuống áo anh nhạt nhòa, ẩn hiện như những kỉ niệm vơi đầy của một thời nào xa lắm hiện về. Cửa nhà Huyền đóng kín, không thấy người vào ra... Tiếng trẻ con cười đùa và ánh đèn hắt ra từ các khe cửa chứng tỏ trong nhà có người ở. Một lần và...chỉ có một lần anh thấy tiếng Huyền, đúng là tiếng của Huyền: “Nhím ơi! Lại đây với bà...Phim hoạt hình hay lắm, đừng quấy bố...” -... Liêm phán đoán: “ Huyền đã lấy chồng, sinh được con trai và đã có cháu nội...” Anh chờ đợi để được nghe tiếng nói của Vy, con gái anh, nhưng không nghe thấy! “Có lẽ Vy đã đi lấy chồng... mà có chắc Vy là con gái mình không nhỉ?” Liêm suy nghĩ miên man.
  Cả đêm, Liêm không tài nào chợp mắt, không một phút bình yên. Khoảng ba, bốn giờ sáng, anh bị đánh thức bởi tiếng chuông gãy gọn, khẩn nài từ ngôi nhà thờ ở cuối đường vọng tới. Liêm bật dậy, nhểu nhại mồ hôi, tim đập liên hồi. Cái buổi sáng tinh mơ năm ấy, có lẽ cũng vào giờ này, hai đứa, anh và Huyền tỉnh giấc...Hết lăn lóc trên chiếc sạp tre lại bế nhau xuống suối, mình nằm ngửa trên bãi cát thô giữa dòng mắt lim dim, Huyền nghịch ngợm đủ trò...Hai đứa vít chặt vào nhau không rời. Anh bảo Huyền: “ Thôi, anh không đi tập kết nữa, hai đứa đem nhau lên núi ở vậy, chẳng đi đâu cho mệt, đi đâu thì cũng chỉ làm thằng dân, mà, thằng dân như anh thì nhất vợ nhì trời thôi, được ôm em trong vòng tay thế này là tuyệt cú mèo rồi... Giờ đây, ta quên hết rồi sao? Ta đoạn tuyệt với mọi thứ, ta trốn chạy một cách hèn nhát vậy ư?..”
 Trời sáng dần, Vài cánh hoa bìm bìm tím ngát, mỏng manh run rẩy trong gió sớm trên các bờ dậu, gieo một nỗi buồn bâng khuâng vào buổi sáng mai tĩnh lặng của cái thành phố ven sông này khiến lòng anh bồi hồi, nhức nhối. Anh tựa vào ô cửa sổ, nhìn ra thành phố mù sương. Mặt trời lên chậm chạp, chưa nhô khỏi lũy cát nơi cửa sông. Một thứ ánh sáng bàng bạc, đùng đục như nước hến bao phủ cả thành phố. Liêm thấy ớn lạnh, anh khép cửa quay vào giường ngồi, đợi nắng lên. “Nhất định mình phải gặp Huyền, dù em đang sống lánh đời với người chồng sĩ quan ngụy được tha sau cải tạo trong cảnh đầm ấm:  “Trúc vàng, trăng sáng, gió mênh mông...[53] hay đang tất tưởi thăm nuôi người chồng đang ở trong trại cải tạo... Cũng có có thể em đang khắc khoải chờ tin người chồng vượt biên đang sống ở Mỹ! Mặc kệ tất  cả, ta phải gặp Huyền, phải được nhìn tận mắt đứa con gái đầu lòng” Liêm nghĩ.
 
 
 Liêm bị hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Mọi phương án anh chuẩn bị đối phó với các tình huống khác nhau khi gặp Huyền trở thành những điều hoang tưởng khác xa với cảnh sống thật của mẹ con Huyền. Câu chuyện trong nước mắt của ngày gặp lại không phải là chuyện bi lụy xa cách đằng đẳng của hai người trong quá nửa đời người phiêu bạt mà là câu chuyện của Vy- đứa con gái đầu lòng. Đứa con gái ấy vừa mới lên tuổi mới mười sáu đã bị điên vì tình! Đêm cũng như ngày, cô sống bằng hoài niệm. Hoài niệm của tuổi thơ mới bước vào đời với người thanh niên hàng xóm tuấn tú ấy, một sĩ quan của quân đội Việt nam cộng hòa đã mang cả bản mệnh của cô ra chiến trường rồi không bao giờ trở về. Đối với Vy, anh ta không chết, anh ta đang lẩn quất đâu đó quanh cô, một con đom đóm lập lòe, một bóng đen biến ảo giữa vườn trong đêm đều là hình bóng của Dương Huân- người cô yêu. Đang ngả người vào lòng mẹ nhìn trời, thấy một ánh sao rơi, cô thét lên: “ Nhảy dù...! Anh Huân đang nhảy dù..”.Một cơn gió đi qua đung đưa cây cau già ở góc vườn, mấy tàu cau dập dờn giữa bầu trời cao vời vợi ánh trăng Vy thấy Huân đang nhảy điệu Săm ba trong câu lạc bộ quân nhân. Bất chợt, một đám mây đen từ đâu bay tới che khuất mặt trăng cô thét lên: “Cháy..cháy...” Tiếng bom nổ, tiếng đại bác từ xa vọng lại thức tỉnh cô ta trở về với thực tại. Huyền ôm con vào lòng. Vy thét lên: “Chiến tranh...chiến tranh...Sao anh ấy mãi không về?” Đêm đêm, Vy khoác chiếc áo sơ mi kẻ sọc của Huân để lại, đi thơ thẩn trong sân như tìm kiếm vật gì vừa đánh rơi. Chiếc sơ mi ấy là một kỉ vật. Nó đã từng là con chim bồ câu đưa thư tình cho Huân và Vy. Tình cờ một lần, Huân giặt áo phơi trên chiếc dây kẽm trước nhà, gió thổi mạnh, chiếc áo bay qua vườn nhà Vy, chiếc áo lấm lem vì đất bụi. Vy lấy áo giặt cẩn thận rồi với sang phơi lên dây cho Huân, cô lấy chiếc kẹp kẹp lại chắc chắn. Huân đi làm về, nhìn chiếc áo, ngạc nhiên...Rồi, những lần sau, Huân cố tình để cho chiếc áo bay sang vườn Vy, mặc cho trời không gió và cứ thế, cứ thế, chiếc áo lại được phơi thơm mùi nắng và hình như Huân còn nhận ra được cả mùi da thịt của cô hàng xóm trên chiếc áo của mình...Họ bắt gặp ánh mắt của nhau và cả những nụ cười âu yếm. Hôm ấy, được lệnh quá gấp, Vy đang ở trường, Huân lấy vội chiếc sơ mi kẻ sọc ra, viết mấy chữ: “Anh đi chiến dịch, vội quá, không gặp được em. Hẹn ngày về em nhé! Anh sẽ về, đợi anh.” Mảnh giấy được gấp lại cho vào túi ni lông và bỏ vào túi áo. Huân ném chiếc áo sang vườn nhà Vy...
Đêm ấy, dưới ánh trăng mờ nhập nhoạng cánh dơi bay, Vy nghe rõ tiếng đập của trái tim mình. Trái tim của tuổi dậy thì đang náo động. Cô rùng mình. Trời lạnh. Vy nhớ đến mấy câu thơ của Thâm Tâm trong bài Tống biệt hành: “... Cơn lạnh chiều nay đổ bóng thầm
“ Ly khách ven trời nghe muốn khóc
“ Tiếng đời sôi động, tiếng hồn câm...”
 Những ngày tiếp theo cô cắp sách đến trường, chiếc cặp học sinh che trước ngực, vừa đi vừa đếm tiếng guốc của mình gõ trên hè phố. Đường phố chen chúc người và người. Tiếng còi xe nhà binh gầm rú, hình như nó muốn nghiến nát những người đi trên đường. Trước mặt là một con dốc, cô nhìn sang phía bên kia dốc, những đầu người lúc nhúc. Cô tưởng như bên kia dốc ấy là một vực thẳm. Nó nuốt chửng hằng hà sa số con người mỗi ngày, cô nhìn thấy cả những ngôi nhà đổ sụp, những bức tường gạch chỏng chơ...Trước mắt cô, trong ánh nắng chập chờn vô số các hạt bong bóng li ti đủ màu sắc...Bước vào cổng trường, Vy cảm thấy mình đang chui vào một đường hầm hun hút, tối om, ở đấy lúc nhúc những đàn chuột, chúng hối hả chạy về phía trước...Chúng đang tìm cách thoát khỏi trái đất này. Đầu bên kia đường hầm là mặt trăng. Lũ chuột nhảy  múa cùng chú Cuội...
 Vy được đưa vào bệnh viện tâm thần. Nằm cạnh cô là một bà già có con vừa chết trận. Chăm sóc bà cụ là một thanh niên trạc ngoài hai mươi. Tên cậu là Trí Đức, em trai người chiến sĩ trận vong vừa rồi. Trí Đức ít nói và quá hiền lành. Có những lúc cả ba người Vy, bà cụ và Đức ngồi im lặng nhìn ra một cõi xa xăm nào đó ở ngoài vườn, những lúc như thế người ta không phân biệt được ai là bệnh nhân, ai là người lành. Các bác sĩ gặp nhau cũng chỉ thè lưỡi, lắc đầu. Hình như chiến tranh đã làm cho cả dân tộc này mắc bệnh thần kinh. Cả Vy và bà cụ đều có triệu chứng bệnh lí như nhau: Trầm cảm. Họ ít nói, cười và khóc là hai trạng thái phổ biến. Họ thường đối thoại với hư không, nói lảm nhảm một mình, chỉ đủ cho mình nghe. Bà cụ cả ngày nhắm mắt nói rì rầm như người đọc kinh Phật. Còn Vy thì không, đôi khi cô ta cầm tay Trí Đức cười bảo: “Anh về hồi nào sao không cho em biết..” rồi quay đi “ súng, súng..đánh nhau to, to quá...”
Vy đã tỉnh táo ra nhiều. Huyền không phải túc trực suốt ngày bên con gái, Những lúc vắng, Huyền gửi Vy cho Đức.
 Bà cụ qua đời, Đức không còn ở bệnh viện nữa, Vy trở lại lặng lẽ u sầu. Huyền xin cho con ra viện, bệnh tình của Vy không nặng thêm nhưng không thuyên giảm được bao nhiêu, suốt ngày u sầu lặng lẽ. Theo lời khuyên của bác sĩ, Vy cần có một bạn nam tâm phúc để săn sóc chuyện trò. Huyền đến gặp Đức. Chị bảo:
-         Cháu ạ! Cụ mất rồi, cháu ở nhà một mình cũng buồn lại phải lo chuyện bếp núc, tương cà mắm muối nữa cũng nhụt chí đi. Bác có việc cần cháu giúp, cháu giúp bác cũng là làm một việc phúc ở đời. Cháu biết rồi đấy, cái Vy nhà bác, bệnh tình đã thuyên giảm nhiều nhưng suốt ngày ở nhà không có bạn, cả ngày lầm lũi thế bác sợ bệnh tình nó trở lại, nặng thêm thì khổ cho nó và cho bác lắm!
-         Sao bác không tìm cho bạn ấy một bạn gái có tiện hơn không? Đức nói.
-         Thì trước bác cũng nghĩ thế nhưng chẳng biết tìm đâu ra mà phải tìm được đứa thân với nó cơ! Vả lại, theo các bác sỹ, những bệnh như thế này, người khác giới chăm sóc tốt hơn. Mọi việc bác sẽ lo, cháu chỉ việc dẫn nó đi chơi, đọc sách, kể chuyện cho nhau nghe thôi không phải làm gì cả. Nhà bác nhiều sách lắm, đủ loại. Nó tỉnh táo rồi, hai đứa có thể dẫn nhau đi xem phim, nghe ca nhạc, xem hát... Với lại, cháu và nó đã quen nhau hồi ở bệnh viện, thời gian vừa rồi xa cháu, bác thấy nó buồn hơn hồi ở bệnh viện có cháu bên cạnh đấy!
 Đức vốn đã quen và mến Vy, anh ruột của Đức cũng tử trận, anh hiểu nỗi đau của Vy và muốn góp phần san sẻ nỗi đau ấy. Anh nhận lời.
 Bệnh tình của Vy thuyên giảm hàng ngày. Những buổi chiều Vy và Đức dẫn nhau đi dạo chơi ở các công viên, đi tắm ở bãi biển. Tối đến hai đứa hát ca ra ô kê, có khi cả Huyền cũng tham gia hát. Người sung sướng nhất là Huyền, chị thầm cảm ơn Đức và không dám làm điều gì phật ý cậu ta, không gây cho cậu ta mặc cảm mình là người thất nghiệp đi làm công cho nhà giàu. Chị coi cậu như người con ruột của mình, yêu thương và tin cậy. Bây giờ thì Vy và Đức đã có thể đi chợ, nấu nướng...
 Được mấy tháng, người Vy đang trở lại bình thường lại lăn ra ốm, bỏ ăn, nôn ọe...Huyền đưa con đi khám, bác sỹ gọi riêng Huyền vào phòng cho biết Vy có thai và khuyên không nên để thai nhi này. “Chắc chắn đứa trẻ sinh ra sẽ mắc bệnh tâm thần như mẹ và sẽ nặng hơn theo nguyên lí bội phát ở thế hệ hai, ở những người mẹ trẻ nguy cơ này trên 90%..”
 Đức đã dẫn Vy về nhà. Huyền đứng lại ở cửa phòng khám thấy trời đất quay cuồng. Chị không ngại Vy có thai mà chỉ sợ sau khi sinh cả hai mẹ con Vy đều mắc bệnh tâm thần hoặc phá thai xong bệnh của Vy lại trầm trọng hơn. Huyền ngồi xuống một chiếc ghế đá đặt dưới gốc cây bàng, chị có cảm giác như mình đang sống trong một môi trường không trọng lượng, xung quanh chị một màn sương bao bọc, có những ráng hồng ở phía chân trời. Rồi, có một tấm thảm rộng màu vàng tươi dài vô tận nối từ chỗ chị ngồi tới đỉnh núi xa xanh mờ trước mặt. Trên đỉnh núi ấy có một ngôi chùa. Một nhà sư nói vào tai chị: “Cái thai ấy là thần bản mệnh của con chị đó! Có nó từ nay con chị sẽ hết mọi bệnh tật, mọi vận hạn của nhà chị đã qua, cánh cửa phúc của nhà chị sẽ mở, một nhà đầm ấm phúc lộc tràn đầy...” Chị ngồi định thần lại, trời trong xanh cao vòi vọi, phía chân núi xa, nơi chiếc thảm vàng trong giấc mơ trải tới là một ngôi chùa. Có bóng của một nhà sư mặc áo vàng đang đi, đầu cúi, có lẽ ông đang nghĩ về những duyên nghiệp của chốn trần gian...Trong lời kể nghẹn ngào và những giọt nước mắt ấy của Huyền có cả những nỗi đau của những tháng ngày qua, có cả cả sự trách móc thầm kín đối với Liêm: “Sao ngần ấy năm kể từ ngày nước nhà thống nhất bây giờ Liêm mới trở về... Liệu có những khúc mắc gì nữa không?” Đôi lần chị bắt gặp cái nhìn xa ngái và nét trầm tư trên khuôn mặt của Liêm. Chị không dám đi xa hơn nữa vào cái ngõ tối ấy...Chị phải giữ bằng được cái gia đình bé mọn này...Có chồng, có vợ, có cháu, có con...Cái gia đình mà chị hằng ấp ủ, ước mơ quá nửa đời người.
 Thằng cu Nhím ở sân sau chạy vào, toe toét cười bỗng sửng lại khi thấy bà nó đang tỳ vào vai ông, khóc. Huyền đứng dậy, lau nước mắt, miệng nhoẻn một nụ cười, bế xốc thằng bé lên: “Lại đây ngồi chơi với ông ngoại!”... “ Ứ ừ...Ứ chơi với ông đâu!...Tại ông làm bà khóc...” Huyền bế cháu lại ngồi cạnh ông. Thằng bé nhìn Liêm ngơ ngác. Huyền bảo Liêm:
-         Ngày mai cả nhà ta đi Vũng tàu, Đà lạt nghỉ mấy ngày đi!
 Vy và Đức chạy vào, nét mặt rạng rỡ:
-         Mai đi hở mẹ, Vy hỏi lại, cu Nhím vươn người sang phía mẹ.
 Lần đầu tiên ra Vũng tàu, Liêm choáng ngợp với cảnh trí nơi này. “Thì ra đất nước mình cũng có nhiều cảnh đẹp, dân mình cũng biết làm đẹp cho tổ quốc mình, cũng biết ăn chơi nghiêng ngửa kém gì ai đâu...!” Lần đầu tiên Liêm ngầm thừa nhận, ăn chơi và biết ăn chơi cũng là một sự cống hiến cho lịch sử, cho nhân loại những giá trị văn hóa lớn. Không có sự ăn chơi xa hoa ( mà nhiều lần Liêm gay gắt phê phán) thì nhân loại bây giờ làm gì cung điện Mùa Đông, cung điện Mùa Hè, có vườn hoa Ba bi lon, Cố cung, Thiên an môn!...Trong kinh tế học hiện đại, ăn chơi là một yếu tố kích thích tăng trưởng. Liệu chỉ có “mo cơm, quả cà và tấm lòng cộng sản[54]” có thể “thay trời, đổi đất sắp xếp lại giang sơn” biến nó thành thiên đường trên trái đất được chăng?
 Vy và Đức dậy sớm, từ khi trời chưa rạng, rủ nhau ra biển. Vy ngồi gọn trong chiếc phao bơi làm bằng chiếc săm ô tô bơm căng, cặp đùi và bộ ngực nổi lên trên mặt nước, hai cánh tay trần trải trên phần nổi của phao tạo thành một vòng cung. Đức đứng dưới nước. Nước ngập quá vai, hai cánh tay anh úp lên hai cánh tay Vy. Anh nhún người đẩy chiếc phao căng phồng đang chở Vy trên đó ra xa. Đầu anh tỳ sát má Vy. Hai người trôi trên mặt nước phiêu diêu. Tận chân trời, mặt trời như một lưỡi liềm đỏ vừa nhô lên khỏi mặt nước, rắc ánh hồng lên mặt biển bao la. Gió nhẹ, sóng lao xao như ve vuốt thân thể hai người. Hình như cùng lúc sóng, gió và nắng mai đã đem lại sự khoái cảm cho cả hai người. Vy co chân lại, buông toàn thân xuống nước chỉ để hai cánh tay bám chặt vào phao bơi, Đức lặn xuống nước, chui từ dưới lên ôm chặt lấy Vy. Chiếc phao bơi lúc này như một hiếc thắt lưng khổng lồ thít chặt hai người lại với nhau. Hai cặp môi run rẩy gắn vào nhau,  dập dềnh theo từng đợt sóng, trôi dạt giữa mênh mông. Chân chạm đất, họ dắt nhau lên bờ. Nắng phủ vàng bãi cát. Biển ngan ngát một màu xanh vô tận. Họ nằm phơi nắng giữa trời cao và gió lộng.
 9 giờ, Vy và Đức dắt tay nhau về “thay ca” cho bố mẹ đi tắm. Nét mặt Huyền tươi rói, đôi mắt sáng long lanh, chị cầm tay Liêm, hai người đi sát vào nhau. Họ như sống lại tuổi đôi mươi. Huyền bảo:
- Có vẻ như duy tâm, nói anh đừng cười nhưng những điều nhà sư nói với em trong mơ càng ngày càng đúng. Từ ngày sinh thằng Nhím, cuộc sống gia đình đổi thay trông thấy, hay nói đúng hơn, từ ngày đó em mới có một cuộc sống gia đình thật sự. Sức khỏe của Vy hồi phục hoàn toàn, quấn quýt bên con và líu lo hát suốt ngày. Thằng Đức được nhận lại vào năm thứ hai khoa kinh tế, rồi, giờ anh về nữa! Em thấy cuộc đời dẫu phải trải qua những tháng ngày chua chát, khổ đau nhưng bây giờ trời cho ta một gia đình ấm áp, trọn vẹn quá anh ạ! Liêm, một phút lơ đễnh, đầu óc đang nghĩ về Nhân, Huyền ngước mắt nhìn anh:
- Anh đang nghĩ gì vậy? Có nghe em nói không? Huyền hỏi.
Họ vừa đến mép nước, một cơn sóng lớn xô vào bờ. Hai người bị cuốn ra xa, họ chới với đưa tay tìm nhau. Huyền mải cười, sặc nước, Liêm ôm gọn chị vào lòng.
 Anh hỏi:
-         Tên “cúng cơm” của thằng Nhím là gì? Nó lớn rồi phải được gọi bằng tên tuổi hẳn hoi cho nó quen đi, ai đặt cho nó cái tên “Nhím” không hay, không nên gọi. Cái con vật ấy lòng dạ thì bé mà chông gai thì nhiều, thái độ ứng xử với đời là nhắm mắt, co mình lại, xù nanh vuốt ra...Có lẽ tổ tiên nó đã từng sống trong một hoàn cảnh đầy thù hận, coi đời là một cuộc đấu tranh, hạnh phúc là được chiến đấu...Không hay, không hay! Phải đặt tên lại cho nó!
 Huyền cười:
-         Tên nó là Thái Hòa, Huyền nói.
-         Được, được...Hay đấy! Liêm nói, cái tên ai đặt cho mà hay thế? Thái Hòa, không gì quý hơn được sống trong một xã hội thái hòa! ...Hay...Hay. Tên em đặt đấy hả?
-         Sinh nó xong, đầy tháng, em mang nó lên chùa, kí thác nó cho nhà chùa và nhờ sư cụ đặt tên cho. Cụ nói ngay “ Nguyễn Thái Hoà”, cái tên như đã có sẵn trong đầu không nghĩ ngợi gì. Cụ cũng giải thích ý nghĩa của cái tên như anh nói, “ Người ta đi tu, người người làm điều thiện chỉ với ước mong được sống trong cõi Phật, được lên Niết bàn không phải ở đấy có cuộc sống của cải thừa mứa mà vì ở đấy có cuộc sống thái hòa...”
 “...Trời cho ta một gia đình ấm áp trọn vẹn...Cuộc sống thái hòa...” Mấy câu nói của Huyền làm tim Liêm đau nhói. Hai đứa con anh với Nhân, thằng Châu, thằng Thạch bây giờ mỗi đứa một phương. Thằng Châu đi bộ đội về, như người mất hồn, suốt ngày lầm lì chẳng nói, chẳng rằng rồi bỏ việc vào Nam bôn ba tìm tung tích con Lan. Nhờ thằng Thơ giúp đỡ, biết con Lan đã vượt biên hiện đang sống ở Úc. Nó vượt biên sang theo rồi không thấy tin tức gì. Thằng Thạch, hiền lành chân chất là thế, hồi còn đi học phổ thông, có lần không được bầu  là “ Đoàn viên tiên tiến” hắn sợ bố quá không dám về nhà, trong đêm, mẹ phải đội nói đi tìm dưới trời mưa và sấm sét...! Không dám cho sang Liên xô, Đông Âu học sợ nó nhiễm phải cái “ Chủ nghĩa xét lại hiện đại”đang thịnh hành ở đấy, mình đã chạy chọt để cho nó sang Bắc kinh, nơi thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội học. Nào ngờ bị bọn xấu lôi kéo, kích động, nó tham gia vào cuộc bạo loạn ở Thiên an môn. May mà không bị xe tăng cán chết như hàng trăm đứa bạn nó, không bị tù mọt gông hay án tử hình như những sinh viên bản xứ.
 Nó chỉ bị đuổi học và bị trục xuất về nước, chắc là nó sợ bố, không dám về, tìm cách trốn sang Đông Âu...Nghe đâu giờ đang sống ở Tây Đức! Khốn nạn cái thằng tôi! Hai đứa con...đấy là cả cuộc đời tôi. Tôi đã cố gắng đem hết sức lực, tài năng và tâm huyết vun trồng cho nó trở thành “con người mới xã hội chủ nghĩa” điển hình, những rường cột tương lai của chủ nghĩa cộng sản.!.? Còn cô vợ, ấn tượng sâu đậm trong lòng mình về người đàn bà ấy không phải là sắc đẹp, không phải là học thức tài năng mà là sự cam chịu, là sự quên mình vì chồng vì con. Có những bữa cơm, xới xong mấy bát cơm cho con, cho chồng, đáy nồi chỉ còn lại cháy, cô ấy cạy lên ngồi nhai rau ráu húp với bát nước luộc rau muống...Mấy năm nay được sang Liên xô học, chẳng hiểu sao thư từ thưa thớt dần, những lá thư gần đây nhạt nhẽo, sáo mòn... sáu tháng nay không nhận được một lá thư nào của cô ấy! ?...
 Chiều. Cả nhà đưa nhau ra nhà hàng ăn tối. Ánh đèn xanh mát. Gió biển hây hây. Cả nhà quây quần bên bàn ăn, một không khí gia đình ấm áp, tràn trề hạnh phúc. Vy và Đức chưa bao giờ thấy mẹ vui như thế. Chúng vui lây niềm vui của mẹ. Vy nhìn mẹ cười, bảo: “Chưa bao giờ con thấy mẹ vui như hôm nay. Mẹ trẻ và đẹp ra nhiền lắm...Chẳng bù cho mọi khi, mẹ cả ngày du dú ở nhà, nét mặt ủ dột đăm chiêu..” Huyền cười thẹn thùng nhìn Liêm như cô gái mới lớn. Liêm muốn nói một câu gì góp vui nhưng anh nghĩ mãi không ra. Anh, cả đời đi làm thầy thiên hạ, giáo dục thiên hạ. Nhiệm vụ của anh là làm cho mọi người “quán triệt” và “thông suốt”. Trong cái tâm thế của người cả đời buộc phải “quán triệt” và “thông suốt” không thể có tiếng cười! Anh khua đũa bảo mọi người ăn đi, ăn đi kẻo nguội...
Thằng cu Nhím làm trò quanh bàn ăn, trườn khỏi lòng mẹ sang ngồi trên đùi bà rồi quay về ngồi trên đùi bố Đức. Nó chăm chú nhìn người đàn ông lạ lẫm mà mấy lần bà nó, mẹ nó bảo nó gọi là “Ông ngoại”. Nó hỏi mẹ “ông ngoại” là gì..? Nó ngơ ngác, khi cái người mà nó phải gọi bằng ông ngoại ấy gọi nó bằng cái tên “Thái Hòa..” Liêm có vẻ không vui, anh biết bà nó, mẹ nó chưa “quán triệt” cho nó, hoặc đã “quán triệt” nhưng nó chưa “thấu suốt” những tư tưởng chỉ đạo của ông ngoại về ý nghĩa của cái tên mới của nó. Nó đã quen nhận được sự âu yếm, trìu mến của mọi người qua cái tên “Nhím” rồi. Liêm ngồi nhìn bữa ăn. Anh ngậm trong miệng một món thức ăn gì đấy rất lâu, mải nghĩ, anh chẳng biết mình đang ăn món gì. Có lẽ do thói quen “làm khoa học”, “từ thực tiễn sinh động” của thằng bé tiếp nhận cái tên mới cho nó, trong óc anh đang diễn ra một quá trình “tư duy trừu tượng”. Hình như sự tư duy này khớp với lí luận mà anh đã được học: “Nhận thức là một quá trình và ý thức bao giờ cũng thay đổi chậm hơn so với tồn tại...” Anh thôi không buồn về việc thằng cháu ngoại chưa “quán triệt,” chưa “thấu suốt” việc chuyển đổi từ loài Nhím lòng dạ hẹp hòi, ứng xử đầy gai chông sang cái nhân ái, quảng bác vị tha của những chân nhân,Phật tử trong một xã hội “Thái hòa” ở chốn Bồng lai, như ý nghĩa của cái tên mới mà ông nó đang ra sức cổ súy là phù hợp với quy luật khách quan của quá trình nhận thức. Ông quay lại bữa ăn, thấy không khí vui vẻ của bữa ăn lan sang mình, ông muốn kể một chuyện vui coi như món quà cho sự hòa nhập của ông vào cái gia đình mới đầy sinh động này. “Hồi ấy, ở miền Bắc gian khổ lắm vừa “thắt lưng buộc bụng” xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa “chi viện cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trong phạm vi cả nước”... Cả nhà ngừng đũa, ngước mắt nhìn ông. Đúng là bệnh nghề nghiệp, định kể một chuyện vui cho cả nhà, cho trẻ con và đàn bà nghe bên một mâm cơm, ông cũng mở đầu bằng những ngôn từ của một lớp học tập chính trị. Huyền nhìn anh cười. - Cười gì? Liêm hỏi.
Huyền bảo:
-         Anh định cho mẹ con em đi học tập cải tạo để tẩy não đấy hả?
 Liêm lặng đi một lúc rồi hiểu ra... “À...À là thế này”: “ Ở cạnh nhà anh có đôi vợ chồng trẻ, theo sự phân công, vợ đi làm về đến nhà trẻ đón con, chồng ghé chợ mua thức ăn. Nói mua thức ăn cho oắt vậy thôi, chứ hồi ấy bữa cơm cả miền bắc hầu như cùng một mơ-nuy, các món ăn đều được chế biến cùng một thứ nguyên liệu do các cửa hàng thực phẩm quốc doanh cung cấp. Món thức ăn chủ đạo phổ cập trong mọi bữa ăn là rau muống. Anh bạn vác về một mớ rau muống rất to. Cô vợ ngạc nhiên hỏi: “Anh mua gì nhiều vậy?” Anh chồng đứng ngay cửa bếp hát to: “ Cho hôm nay, cho ngày mai, cho ba ngày sau...[55]Cô vợ nguýt dài : “Còn sức để hát, cứ hát đi...Chiều nay, ngày mai rau úa vàng tôi luộc cho ông ăn đừng trách tôi nhé!”
- Ồ! Anh chồng kêu lên, thế em không thuộc câu thơ: “Đời vẫn tươi màu lá rau xanh” đó sao? Đời này chưa úa vàng thì rau muống của chúng ta cứ mãi mãi xanh tươi...Và, rau muống cần phải mãi mãi xanh tươi để cuộc đời không úa vàng! Biện chứng chưa?
 
 Hình như cả Liêm và Huyền đều muốn có những khoảnh khắc giành riêng cho nhau. Mấy ngày qua, cả nhà đều lúi búi xung quanh chuyện của Vy, của thằng cu Nhím nên chưa nói với nhau điều gì cho ra đầu, ra đũa. Thực chất, lòng Liêm đầy mâu thuẩn, anh chưa tìm được một giải pháp cho vấn đề của mình. Huyền là mối tình đầu say đắm, người vợ có hôn thú hẳn hoi, mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình..[56] Còn Nhân, người đàn bà hiền thục, hết lòng vì chồng, vì con, đã cùng anh lên thác xuống ghềnh bao nhiêu năm trong cảnh khốn khó, không có Nhân, chắc chắn anh không có một sự nghiệp như bây giờ! Cái hình ảnh Nhân ngồi nhai cơm cháy mỗi bữa ăn hiện về lặng lẽ làm anh rơi nước mắt... Cái cảnh Nhân ngồi trong bóng tối của ngọn đèn dầu leo lét suốt bao năm vò giặt quần áo cho cả ba bố con dưới bếp...Cái gì tạo nên sự nhẫn nhục, hy sinh thầm lặng ấy nếu không phải là tình yêu, không phải là trách nhiệm cao cả của một người mẹ, người vợ đối với gia đình?
Mấy ngày qua, từ ngày gặp lại, Huyền như sống lại tuổi thơ ngây của ngày mới lớn, nhí nhảnh như ngày đầu yêu nhau, cô không muốn nghe, muốn nghĩ một điều gì khác...Chồng cô đi tập kết đã về như cuộc sum họp, hội ngộ vĩ đại của hai miền tổ quốc, của hàng triệu, hàng vạn gia đình...Sau lưng ta lời thơ cũ dẫu buồn/ Nhưng trước mắt mùa xuân đang trẩy hội.[57].. Tâm sự của cả dân tộc lúc này là vậy. Huyền cũng vậy. Huyền và Liêm dẫn nhau lên Đà lạt, Vy và Đức ở lại Vũng tàu với cu Nhím. Đã cuối thu, Đà lạt trầm tịch trong một vẻ u huyền. Huyền và Liêm theo thói quen đậy sớm, họ đi dạo quanh hồ một cách lạc lõng. Bất chợt Liêm nhớ đến hai câu thơ của Xuân Diệu: “Sương lam mờ, bờ sông tưởng gần nhau/ Sương lam mờ và hồn tôi nghe đau...” Huyền đang mải mê ngắm mấy con cào cào vua đang nhảy nhót trong các bụi cỏ non, sững lại hỏi:
-         Anh đọc câu gì nghe hay thế?
 Liêm ớ người chống chế:
-         Hai câu ấy là của thầy Cương, em không nhớ à? Hồi đó, thầy đang giảng bài ở lớp 10a của em, anh đi ngang...
-         Thôi chết! Huyền kêu lên, anh có làm sao không? Thầy Cương nào? Em có học lớp 10a nào đâu, chỉ mới học xong lớp bốn rồi bỏ học, rồi anh đi tập kết...
-         Không, không...anh chẳng làm sao cả! Công việc nhiều quá, anh bỏ đi lâu nay không hiểu việc ở nhà ra sao. Sắp tới có một hội nghị về cải cách giáo dục, anh sẽ phải đọc một bài tham luận. Anh muốn phê phán việc đưa những nội dung ủy mị của thời thơ mới, Tự lực văn đoàn...vào sách giáo khoa. Anh nhớ đến bài giảng của thầy Cương hồi anh đang làm hiệu trưởng một trường cấp ba ở ngoài bắc...
-         Sao lại phê, hai câu ấy hay đấy chứ! Huyền nói.
 Biết rằng sự chống chế của mình đã thành công, trong lúc đi với Huyền mình đang nghĩ về Nhân, những ngày ở trường cấp ba Bình An, buột miệng đọc ra mấy câu thơ đầy tâm trạng hồi mới yêu Nhân. Liêm hứng chí hỏi Huyền:
-         Em thấy hai câu ấy hay thật à? Nếu em thấy hay thì thôi anh không phê nữa!
-         Hay thật, Huyền chỉ tay ra hồ, Anh thấy kia... “sương lam mờ...”, rồi gì nữa nhỉ?
-         Em thấy hay như thế nào? Liêm hỏi.
-         Nó nói được lòng người là hay chứ sao?
-         Nhận thức như em là nguy hiểm, “Lòng người” là ai? Không có con người chung chung, con người luôn luôn là con người của một giai cấp nhất định. Trong nghệ thuật quan niệm ấy được thể hiện bằng hai khuynh hướng khác nhau là “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “Nghệ thuật vị nhân sinh”.
-         Gay thật! cứ nói chuyện thế này sẽ dẫn đến thế giới chia làm hai phe và gia đình ta chắc cũng sẽ chia thành hai phe Địch –Ta mất thôi!
 Nghe khẩu khí của Huyền, Liêm ngạc nhiên hỏi:
-         Hồi ở trong này, em có tiếp tục đi học thêm hả?
-         Học thêm thì có nhưng không ‘đi”
-         Sao? Anh không hiểu, Liêm nói.
-         Ở nhà buồn, tối đến em đem những sách của Vy ra đọc, Vy học đến đâu, em học đến đấy. Say mê lắm anh ạ! Cũng học hết ban Tú tài đấy , nhưng chỉ học các môn xã hội thôi. Có lần, hồi Vy đang học tú tài II, giáo sư ra một đề luận (văn) đem về nhà làm, em bảo nó cho em làm thử, tất nhiên là đứng tên nó, đem lên nộp thầy chấm, được điểm rất cao. Em giành thời gian học tiếng Anh là chủ yếu.
-         Học tiếng Anh? Liêm hỏi láy lại.
-         Vâng! Huyền nói, không học tiếng Anh, không trực tiếp giao dịch được với người ta ai dám đặt bút kí các hợp đồng hàng triệu Đô la với mình! Với lại trong làm ăn trên thương trường quốc tế, một nhà kinh doanh phải là một nhà ngoại giao. Rồi từ cái vốn tiếng Anh ấy, cũng là do yêu cầu của công việc, em đọc thường xuyên các sách báo nước ngoài và biết thêm nhiều điều. Cái từ “con buôn” mà bọn anh hay đay nghiến chỉ là những kẻ buôn bán chợ giời thôi!
 Nghe Huyền nói Liêm thấy sợ, thấy phục Huyền, yêu vì nết, trọng vì tài. Liêm cắm cúi đi đắm chìm trong suy nghĩ. Huyền bảo:
-         Các anh ( và có cả phần đóng góp của những người như em nữa đấy!) là người chiến thắng. Người chiến thắng không bao giờ sai. Và theo các anh, sở dĩ giành được chiến thắng là nhờ đứng vững trên “lập trường giai cấp, có thái độ địch ta rõ ràng..” Em không dám tranh luận, nhưng cái gì các anh cũng đem lí luận về giai cấp để lí giải thì theo em nó khiên cưỡng, nó không đúng. Cái cây mọc trên rừng, từ khi loài người chưa sinh ra đã có nó, thế mà các anh cũng gán cho nó một lập trường giai cấp, một thái độ chính trị: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù!...” Làm gì có! Nó là nó, nó có lá, có cành là vì sự sống của nó. Dưới tán lá của nó, con rắn độc, con hổ mang đều ẩn nấp được, bộ đội, thổ phỉ đều ẩn náu được, đâu phải nó sinh ra để “che bộ đội!” Có cả những phi công Mỹ, phi công Pháp vừa ném bom dân ta nhảy dù xuống giữa rừng cũng được rừng che chở và thoát nạn đấy thôi...Tự nhiên các anh gán cho cây, cho rừng, những vật vô tri ấy có lập trường cách mạng!  Mấy năm qua, em đã đọc những giáo trình văn học trong sách giáo khoa của miền Bắc, Huyền vừa nói vừa nhìn Liêm cười âu yếm, thật tình em sợ lắm, có thể lập trường giai cấp của em còn non, em chưa hiểu hết. Ở đấy người ta dạy cho trẻ em lòng hận thù của cô Tấm, dạy cho con phải rút kiếm ra chờ xử trảm người cha ở chiến tuyến bên kia (“Lưỡi gươm thần tuốt sẵn để chờ khi...”) Em mạnh dạn nói với anh vì em biết, những người như anh, có trách nhiệm với thế hệ mai sau, và quan trọng hơn, chắc là anh không đi báo cáo tổ chức bỏ tù em, bắt em đi cải tạo...
 Liêm cười gượng gạo, cố nói pha trò:
-         Thế nếu anh đi báo cáo với tổ chức thì sao?
-         Nếu thế thì em chết được rồi! Em không thích sống nữa! Huyền nói nghiêm trang, gay gắt. Liêm thấy sợ, không biết thoát ra khỏi cảnh này như thế nào. Anh nhỏ nhẹ:
-         “ Sự thật hôm nay không thật đến ngày mai...”[58] Tất cả sẽ thay đổi.Liêm nói. Chúng ta dám làm cách mạng để thay đổi cái hôm qua bằng cái hôm nay thì chúng ta có đủ tài năng và trí tuệ để làm cho ngày mai tốt hơn hôm nay. Em có tin thế không?
-         Các anh đã tiêu xài một cách quá phí phạm lòng tin của nhân dân. Có thể làm được như điều anh nói với điều kiện chúng ta phải thật sự nhận ra được những sai lầm đã làm của ngày hôm qua và hôm nay, có thế mới khôi phục được lòng tin của quần chúng, mới tập họp được sức mạnh và lòng tin để làm cho “ngày mai tốt hơn hôm nay”. Huyền nói, chúng ta, mỗi người còn chưa thật với chính mình thì làm sao thật với người khác, làm sao thật được với cuộc đời! Khó lắm anh ạ. Câu nói như chọc vào vào gan ruột của Liêm.
 Đã hết gần hai ngày ở Đà lạt mà chỉ mới vòng quanh trời, mây, non, nước... Liêm chưa tìm được cách giải quyết vấn đề gia đình của mình, thậm chí chưa tạo được một tình huống để đặt vấn đề với Huyền. Điện của bộ gọi gấp Liêm ra Hà nội.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
11
 
 
      Chuyến tàu Liên vận Mát xcơ va- Hà nội về đến ga Hàng Cỏ quá nửa đêm. Nhân đã điện trước cho Liêm biết ngày về và lịch trình chạy tàu nhưng không hiểu tại sao Liêm không ra đón. Chị xách một chiếc va li xuống đặt dưới chân cột điện của sân ga, loay hoay không biết gửi cho ai trông chiếc va li này để lên toa xách nốt hai chiếc còn lại. Mấy tên móc túi và bọn gái ăn sương lượn lờ dưới ánh sáng vàng đục, ốm yếu của các bóng đèn chiếu sáng sụt thế. Khách đi tàu đã xuống hết. Nhân đứng nhìn không khí rộn ràng âu yếm của cảnh các gia đình đoàn tụ. Chị bật khóc. “Chắc Liêm đã biết việc mình và Bồng ở Mạc tư Khoa...!” Chị nhớ đến cảnh tiễn đưa của Bồng hôm chị lên đường về nước... “ Bồng đúng là một bậc chính nhân quân tử, từ cách ứng xử đến cách ăn nói; từ bước đi dáng đứng, đến cách yêu, cách giận... Liêm sao tiểu nhân đến vậy? Dù có biết mình ngoại tình đi nữa, thì cũng đã sống với nhau ngần ấy năm, có hai mặt con, lẽ nào không gặp nhau nói một lời rồi chia tay, ai đi đường nấy?.. Cách ứng xử này đúng là Liêm 100%, sống với mình ngần ấy năm, ông thầy của con người mới chỉ có sáu chữ: “Quán triệt, thấu suốt và chấp hành”. Sáu chữ ấy được Liêm quy tụ trong một cụm từ là “ý thức tổ chức kỉ luật.” Giận Liêm, chị nhờ mấy nhân viên bảo vệ ga giúp đỡ, thuê một chiếc xích lô về thẳng nhà người bạn gái ở phố Bờ sông.
 Mấy ngày liền, chị lang thang hết ngôi chùa này đến ngôi chùa khác ở Hà nội, suy ngẫm về cuộc đời. Tại sao trong chùa, không có cảnh sát, không có công an, không có bảo vệ dân phố mà trật tự ngăn nắp đến vậy! Không có cảnh hàng rong chen chúc, không xô bồ nhộn nhạo như ngoài phố chỉ cách đấy một hàng rào! Chị miên man nghĩ về Bồng, về Liêm... Nhân bỗng nhận ra kết hôn là một chuyện và chia sẻ cả cuộc đời với một người là chuyện khác. Trong óc Nhân hiện ra cảnh những ngày ở Mát- xcơ- cơ- va với Bồng, nhớ cái giờ phút Bồng tiễn Nhân lên tàu...rồi, cái cảnh những ngày chung sống nhạt nhẽo với Liêm, cái cảnh chị bị bỏ rơi một mình vào lúc nửa đêm vắng lạnh giữa sân ga...Hai đứa con mang nặng đẻ đau giờ mỗi đứa một phương trời...Chồng lăn lóc với chức tước, hàm, cấp và còn với gì nữa, ai biết! Giờ đây, giữa lúc trống trải này, trong đầu chị không còn một chỗ nào cho Liêm nữa, hình ảnh của Bồng, kỉ niệm về Bồng lấp đây mọi chỗ.
 Đêm ấy, Nhân chong đèn ngồi viết thư cho Bồng:
 Anh thân yêu,
Em xa anh đã hai tuần rồi, thời khắc này sao mà dài đến vậy! Em chưa về nhà, em đang ở nhờ nhà của một cô bạn ở phố Bờ sông. Ban ngày bạn em đi làm còn em thì đi khắp các chùa. Bây giờ em mới biết ở Hà nội có rất nhiều chùa.Có lẽ ở chốn đế đô có nhiều kẻ “chen hội công danh nhỡ lạc đường”, nhiều kẻ “màn loan trướng huệ”bị sa cơ lỡ bước, ngậm nỗi oan hờn về thế giới bên kia nên người ta mới dựng nên chùa chiền làm nơi siêu thoát cho linh hồn của những cuộc đời lận đận ấy! Em đến đấy không phải để thắp hương, để cầu nguyện mà cốt để tìm một nơi vắng lặng để ẩn náu, để suy ngẫm về cuộc đời, về cảnh ngộ của chúng ta. Em đã tìm thấy hình bóng của anh trong dáng cây cổ thụ vững chãi tỏa bóng xuống sân chùa, những đường nét của gương mặt anh trong những tia phản chiếu của nắng hồng ban mai trên mái ngói rêu phong nghi ngút khói hương, nghe tiếng anh thì thầm trên các ngọn cây khi làn gió thoảng qua lao xao...Em đi tìm lại những khoảnh khắc mà chúng ta đã từng có ở Mát-xcơ-va, đi tìm một sự an ủi. Giữa trưa vắng lặng, một người ăn mày đi vào chùa, nhà sư ra tiếp anh ta, không biết họ nói gì với nhau. Một cuộc đối thoại không thành lời, người ăn mày quay đi, nét mặt vẫn như lúc vào.Em bật cười, nhớ đến mấy câu thơ:
“Giữa trưa ăn mày vào chùa
“ Sư ra cho một lá bùa rồi đi
“Lá bùa chẳng để làm gì
“Ăn mày bỏ túi lại đi ăn mày...”[59]
Lá bùa của nhà sư, khẩu hiệu, tuyên ngôn của các cuộc cách mạng..đều chỉ là sự đền bù hư ảo cho những kiếp người khát sống. Em đang là người khát sống đây nhưng không muốn những tình cảm anh dành cho em chỉ như những lá bùa ấy!
Thời gian đã quá dài kể từ khi chúng ta xa nhau(đó là em nghĩ vậy), đúng là “ Khắc giờ đằng đẵng như niên!”. Tình cảm của chúng ta có thể phai nhạt được chăng? Phải chăng tình yêu sẽ kết thúc khi người nọ quên hơi của người kia! Có lúc nào anh nhớ đến em không?Nếu không thì có lẽ em đã đánh mất anh rồi! Em muốn quay  trở lại, nhảy lên tàu liên vận Ga Hàng cỏ- Mát- xcơ-va để đến với anh. Anh có còn dang rộng cánh tay ôm em vào lòng như cái ngày đầu tiên em đặt chân xuống sân bay Mát-xcơ-va hay không? Chúng ta sẽ dẫn nhau đi trên các đại lộ thênh thang của cái thành phố huy hoàng ấy, sẽ vùi người dưới những đống tuyết khổng lồ của cái “Vườn thực vật” mênh mông như một khu rừng bí hiểm cạnh tháp truyền hình Ốt- stan- ki- nô cao chót vót ấy không? Liệu bây giờ đôi môi anh có còn nóng bỏng như ngày nào hay không? Anh Bồng ơi!..
 
 Liêm về Hà nội đã gần một tuần. Anh đã quá quen với cuộc sống thui thủi một mình, không thư từ, không bè bạn, chẳng giao du cùng ai...Lòng anh rối bời, cuộc hội thảo đầu tiên với đối tượng là các trí thức vùng mới giải phóng ở phía Nam do anh chủ trì không mấy thành công. Cái đề tài “Hiền tài và sự chấn hưng đất nước” là con át chủ bài của anh. Anh đã quá quen nhận sự tung hô, sự nhất trí 100% của cử tọa, quen những cái bắt tay vồ vập và những lời ngợi ca có cánh...trong các cuộc hội thảo trước đây ở ngoài này do anh chủ xướng. Rất nhiều trí thức đã từng sống, làm việc dưới chế độ Sài gòn, nhiều người trong họ được đào tạo trong các đại học danh tiếng ở Pháp, Mỹ, Anh...đã đến dự, điều đó chứng tỏ như lời đồng chí Bí thư thành ủy : “Đề tài của cuộc hội thảo đáp ứng được sự mong đợi của đội ngũ trí thức, họ muốn góp phần mình vào sự chấn hưng đất nước...” Đồng chí Bí thư thành ủy nói tiếp:
-         Tôi đã nghe đồng chí trưởng ban tuyên huấn phản ánh lại những ý kiến phê phán của họ đối với nội dung, cách đặt vấn đề và phương pháp tổ chức cuộc hội thảo, đồng chí nghĩ gì về những ý kiến của họ?
-         Tôi nghĩ đại bộ phận của họ là những người tốt, họ tỏ thái độ hối cải, muốn đền đáp lại công ơn của cách mạng đã tha thứ cho họ, đã  “Xóa bỏ mặc cảm, xóa bỏ hận thù...”tạo cho họ cơ hội góp phần vào công cuộc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của đảng ta để lập công chuộc tội...Tuy nhiên, điều không tránh khỏi là có một bộ phận nhỏ do gắn bó quá nhiều với chế độ cũ tỏ thái độ phản ứng chống đối, không hợp tác...!
 Đồng chí bí thư cười:
-         Những lời đồng chí vừa nói ra, chắc đó là nội dung đồng chí chuẩn bị để báo cáo về kết quả của cuộc hội thảo với lãnh đạo bộ phải không? Không ổn đâu đồng chí ạ! Tôi đã nghe lại toàn bộ băng ghi âm của cuộc hội thảo, có thể nói đại bộ phận những người dự đã phản ứng và phản ứng gay gắt bản báo cáo của đồng chí. Vì vậy, tôi đã đọc lại toàn bộ bản báo cáo dẫn đề của đồng chí. Tôi cho rằng thái độ phản ứng của họ là đúng. Bản báo cáo của đồng chí không phải là một bản thuyết trình khoa học nhằm nghe ý kiến nhiều phía của các nhà khoa học được đào tạo và làm việc ở các thể chế, các nước ngoài hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Nó chỉ là một văn bản nhằm làm thấu suốt các quan điểm đường lối, chính sách, sự bao dung, độ lượng của Cách mạng đối với đội ngũ này và, xin nói thật, bản trình bày của đồng chí nhiều chỗ chưa đúng với tinh thần của đường lối của đảng. Nếu có thái độ cầu thị, biết lắng nghe thì sẽ rất bổ ích đồng chí ạ. Ta phải đến với họ với thái độ cầu hiền. Cái thiếu sót lớn nhất trong báo cáo của đồng chí là thái độ ban ơn, tha thứ, trịch thượng của kẻ chiến thắng đối với họ- những kẻ bại trận. Đừng nghi ngờ lòng yêu nước của đội ngũ trí thức này và cũng đừng vội gán cho họ tinh thần yêu tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Tổ quốc và tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai khái niệm, hai phạm trù khác nhau. Nếu đồng chí đánh giá 100% những người đến dự là yêu Tổ quốc thì tôi có thể tin nhưng nếu nói như đồng chí “Đại bộ phận của họ muốn góp sức xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước..” thì tôi nghi ngờ lắm. Gán cho ai đó một ưu điểm (tức là cái mình mong muốn) mà họ không có hoặc không muốn có là một cách làm nhục họ, nhất là đối với những người trí thức lòng đầy tự trọng.
 Liêm băn khoăn, không biết báo cáo với đồng chí bộ trưởng thế nào. Qua ý kiến của đồng chí bí thư, anh nhớ lại những lời vắn tắt đồng chí bộ trưởng dặn trước khi anh ra đi: “Phải biết nghe cậu ạ, biết nghe cả những điều trái tai, kể cả những lời phản đối. Cậu biết đấy chính những lời phản đối, những cuộc biểu tình đã làm cải biến nhiều xã hội theo hướng tiến bộ góp phần thúc đẩy lịch sử phát triển. Phải cẩn thận với những tràng vỗ tay và những tiếng hoan hô. Tôi chưa thấy những tràng vỗ tay nào thúc đẩy tiến bộ xã hội cả. Đồng chí có biết, trong lịch sử, cuộc cách mạng nào được hoan hô và vỗ tay nhiều nhất không?- Đó là cuộc Cách mạng văn hóa của Trung quốc đấy!
 Liêm về nhà muộn, mặt mày ủ dột. Ngôi nhà vắng tanh, chẳng thiết ăn uống gì. Đàn muổi đói đan lưới quanh anh, chúng nó làm anh bức bối không suy nghĩ được điều gì trong khi lòng anh đang rối như tơ vò. Liêm ra sân, vun một đống lá đại khô, châm lửa, khói bay nghi ngút hòa vào màn sương mờ bàng bạc đang vây phủ quanh anh. Trên đầu một mảnh trăng lưỡi liềm úa vàng. Liêm nhớ lại cảnh Đà lạt và câu thơ mà Huyền thích: “Sương lam mờ và hồn tôi nghe đau...”
Tiếng chuông điện thoại trong phòng vang lên, Liêm chạy vội vào. Đầu giây
bên kia, giọng một người con gái rụt rè: “Em xin được nói chuyện với giáo sư Liêm...”
-         Vâng, tôi đây, xin lỗi, cô là ai?
-         Em là Bằng Vân ở phòng hành chính của Viện...
-         Nói đi!
-         Có một người bạn của cô Nhân vừa gọi điện cho em, nhờ em báo tin cho Giáo sư biết cô Nhân đã về Hà nội gần 2 tuần nay hiện đang ở nhà một cô bạn của cô ấy ở phố Bờ sông...
-         Nhà ai? Số nhà bao nhiêu? Liêm hỏi dồn dập...
-         Cô Minh Nguyệt, ở số nhà... Phố Bờ sông.
-         Minh Nguyệt...tôi biết, tôi biết rồi..!, Liêm cúp máy không kịp cảm ơn người báo tin.
 Liêm vội vã phóng xe đến phố bờ sông, tìm nhà Minh Nguyệt. Thấy Liêm, Nhân ngạc nhiên hỏi:
-         Ai báo cho anh biết em ở đây?
 Liêm cười, nói pha trò để giảm bớt không khí căng thẳng của cuộc gặp mà anh dự tính:
-         Tình báo của anh giăng đầy thành phố, em ở đâu làm gì mà anh chẳng biết!
-         Thế thì anh nên loại hết bọn họ đi! Tình báo gì mà em về đây đã gần hai tuần nay mới lần ra tung tích. Chắc họ bận đi chơi với bồ nên quên nhiệm vụ!
 Liêm giật mình nghe câu nói cạnh của Huyền vội bảo:
-         Sao về mà không điện báo trước cho anh?
-         Có chứ! Điện cho anh hai bức, một gửi về cơ quan- Viện Con người mới, một gửi về khu tập thể Ngoài đê...
-         Thôi chết rồi! Liêm kêu lên...Cái viện ấy đã giải thể, anh đã chuyển về khu biệt thự ( Liêm cố nhấn mạnh mấy từ này) hơn nửa năm rồi, hình như anh có báo tin cho em cả rồi chứ?
-         Làm gì có! Hơn 6 tháng nay em có nhận được tin tức gì của anh đâu!
-         Ừ phải...phải, 6 tháng nay anh không nhận được tin tức gì của em, tưởng là em đi thực tập ở đâu nên không dám gửi thư theo địa chỉ cũ.
-         Em định về khu tập thể cũ ngoài đê nhưng đêm hôm khuya khoắt nên thuê xích lô về tá túc ở đây. Em có hỏi thăm nhưng nghe nói anh đi công tác ở miền Nam chưa ra. Giá em có điện về đúng địa chỉ mới thì cũng chẳng có người nhận... Em ở đây với Minh Nguyệt cho vui, với lại ở đây rất tiện đi các chùa. Anh về chậm chút nữa chắc em đã thành sư cô!
 Minh Nguyệt rất ngạc nhiên trước thái độ ứng xử vui vẻ của cả hai người. Liêm chào và cảm ơn Minh Nguyệt rồi hai người dắt nhau ra về. Nhân nhìn ngôi nhà mới (Ngôi biệt thự..) một cách vô cảm làm Liêm mất hứng. Nhà cửa tanh bành như nhà vô chủ. Trong nhà, mùi ẩm mốc xông lên nồng nặc, chuột rúc lít nhít dưới gậm giường, gián bay rần rật đậu cả vào mặt người đang nói chuyện. Chăn chiếu bốc mùi lờm lợm đến buồn nôn...Liêm chạy lăng xăng pha cốc nước chanh cho vợ, nể chồng, chị đón cốc nước từ tay anh nhưng không dám đặt môi vào... Nhân đứng dậy, mở va li lấy chiếc khăn tắm cũ nhúng vào sô nước ở góc nhà..Liêm kêu lên hoảng hốt:
-         Chết tôi rồi..
 Nhân đánh rơi chiếc khăn vào sô, cuống quýt hỏi:
-         Sao? Có việc gì à?...
-         À...không, không, không có gì cả. Em định làm gì đấy?
-         Em định lau qua cái giường, lấy bộ ga gối em mang về trải ra ngủ tạm. mai hẵng hay...
-         Ừ, em làm đi. Hà nội dạo này thiếu điện, thiếu nước nghiêm trọng. Đêm qua, anh thức dậy từ 3 giờ sáng, xếp hàng đến 6 giờ mới hứng được sô nước ấy để dùng hôm nay và sáng mai đấy! Không sao, ta chịu khó một chút, lát nữa anh ra xếp hàng để hứng sô khác có cái dùng vậy.
 Nhân thừ người nhớ lại “trước ngày mình đi Liên xô, Hà nội vẫn vậy, bây giờ vẫn thế, có khi còn khó khăn hơn nhưng ở nước ngoài chỉ được đọc qua báo chí trong nước gửi sang, chỉ thấy một màu hồng nên quên mất cái thực tế này. Chị thấy thương Liêm...
 Cả đêm Liêm thao thức không ngủ được, phần vì Nhân về một cách đột ngột chưa suy nghĩ được cách giải quyết giữa Nhân và Huyền ra sao, phần vì cuộc họp toàn Viện ngày mai..Liêm biết, hầu hết thành viên của viện là người mới, nhiều nhà khoa học có tên tuổi. Họ biết Liêm, số người tâm phục, khẩu phục Liêm không nhiều. Họ biết, anh  không phải là anh mà chỉ là một kẻ do người khác mong đợi. Cái tài của anh là đón được ý cấp trên và phát ngôn ra những điều mà trên mong đợi. Liêm cũng tự biết mình, tự cho mình là kẻ nhạy bén với thời cuộc. Lúc đầu anh chỉ tự lừa phỉnh mình để đạt mục đích, về sau anh muốn thành công lớn hơn nên trở thành kẻ đi lừa phỉnh người khác. Chính Liêm chọn thời điểm đi triệu tập cuộc hội nghị các trí thức miền Nam trước khi ra mắt viện cốt là để lấy uy cho mình, anh tưởng số trí thức của nền cộng hòa chiến bại sẽ sợ uy cách mạng mà răm rắp tán dương anh, tán dương bản báo cáo khoa học do anh trình bày, không ngờ mọi thứ ngược lại...Anh chưa biết xoay chuyển tình thế ra sao. Đến nơi, giáo sư Phạm Toàn phó viện trưởng cùng đông đủ anh em đang ngồi đợi, chuyện trò râm ran. Liêm tươi cười bước vào, mọi người đứng dậy hân hoan đón đồng chí Viện trưởng. Toàn đứng dậy giới thiệu Giáo sư viện trưởng Chu Liêm với mọi người rồi lần lượt giới thiệu các thành viên mới của viện với Liêm. Liêm hỏi Toàn:
-         Anh em ở nhà mạnh khỏe cả chứ?
-         Vâng, anh em khỏe cả và đang nóng lòng mong anh về. Toàn báo qua các công việc anh đã làm ở nhà, việc kiện toàn tổ chức viện, tổ chức cho anh em nghiên cứu bản báo cáo khoa học của viện trưởng..
-         Tốt quá, tốt quá...Thế ý kiến anh em thế nào? Liêm hỏi rồi nói tiếp, tôi xin thanh minh một điều, bản báo cáo do tôi trình bày không phải là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có thể nói đó là công trình của tập thể, đã qua ba cuộc hội thảo, được nhiều ý kiến của các nhà lí luận, các nhà khoa học ở phía bắc tham gia ý kiến. Thế xin hỏi, anh em mình đọc có ý kiến gì không?
 Mọi người nhìn nhau không ai nói gì, Phạm Toàn nhìn Liêm cười nói:
- Anh em bảo “cứng quá”, không biết anh em vùng mới giải phóng “răng yếu” liệu có nhai nổi, nuốt nổi hay không?
 Liêm cười to:
-         Rất đúng! Tôi đã dự đoán được điều này và quyết định làm một thử nghiệm. Thử nghiệm của tôi hướng về hai chiều, Chiều thứ nhất là thử xem, quan điểm của anh em trí thức miền Nam ra sao với nội dung cốt lõi là hiền tài phụng sự công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa thế nào, rõ hơn là trí thức muốn cùng đi trên con đường lớn của dân tộc phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, phải thấm nhuần thế giới quan Mác xít thế nào?..
-         Ý kiến của họ về vấn đề này ra sao? Ai đó hỏi.
-         Lúc đầu số đông im lặng, Liêm nói, mở đầu là giáo sư Ngô, ông là người Việt nam đầu tiên được cấp học bổng chính phủ Việt nam cộng hòa sang học đại học Haward, vừa vào năm thứ nhất ông đã khởi xướng “Phong trào Hòa bình” ở trường rồi mở rộng sang các trường khác tạo thành phong trào phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt nam. Một điều lạ đối với chúng ta là sau khi tốt nghiệp ông được nhiều trường đại học ở Mỹ mời ở lại giảng dạy. Ông trở thành một giáo sư, một nhà hoạt động xã hội có tên tuổi Mỹ. Thời gian sau, trong thời Việt nam cộng hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, ông về dạy ở đại học Sài gòn. Ông đứng dậy, điềm tĩnh nói:
-         Tôi xin nhắc lại câu nói của Feanman[60] mà tôi tâm đắc, câu nói khai tâm cho tôi khi tôi chọn con đường khoa học: Trong khoa học “Không có tối hậu, không có vĩ đại mà chỉ có khám phá-hoài nghi- để rồi khám phá...” Ông nói thêm, xin các ngài đừng bắt chúng tôi “phải tuyệt đối tin tưởng” cái này, hay phải đi theo con đường nọ. Còn nếu trong đội ngũ trí thức chúng tôi, có ai đó vì mưu sinh phải đi làm thuê cho một công ty, một ông chủ hay một cơ quan thì người chủ có quyền sai khiến họ, buộc họ phải nói và làm theo lệnh chủ đúng những điều đã thỏa thuận trong hợp đồng...
-         Dám nói thế cơ à...? Mấy “viện sỹ” quay mặt lại với nhau xầm xì...To gan thật! Thế anh có báo cáo vấn đề này với thành ủy hay không?
-         Có chứ! Và không đợi tôi báo cáo, họ đã ghi âm đầy đủ.
-         Ý của lãnh đạo thế nào?
 Liêm ngừng lại, miệng mỉm cười:
-         Khi nãy, tôi có nói, tiến hành cuộc hội thảo này nhằm hai hướng. Hướng thứ nhất là thử thái độ của các trí thức cũ của Miền Nam như  tôi vừa trình bày. Còn, hướng thứ hai là câu hỏi vừa rồi của đồng chí. Chính tôi cũng muốn biết thái độ của cấp trên đối với vấn đề này thế nào? Thú thật với các đồng chí, làm lãnh đạo khó lắm, không thấu suốt, không quán triệt tư tưởng chỉ đạo của cấp trên thì không bị khép tội tả khuynh cũng rơi vào tội hữu khuynh thôi!
-         Chúng tôi muốn biết ý của cấp trên thế nào?
-         Cả đồng chí bí thư thành ủy và đồng chí bộ trưởng đều phê bình tôi. Đồng chí bí thư cho rằng phần lớn các ý kiến của những trí thức dự hội thảo là đúng, chỉ có những người thực tâm tin tưởng vào cách mạng mới nói một cách thẳng thắn như vậy. Đồng chí bộ trưởng cũng bảo phải biết cách nghe, phải đổi mới công tác lãnh đạo khoa học. Người xưa thường nói “Vua sáng, tôi hiền” chỉ có những bậc minh quân mới thu phục, tập họp được nhân tài. Có “Vua sáng” mới có “tôi hiền”. Nếu không có Lưu Bị ba lần lên núi đứng chờ ngoài lều cỏ để gặp Khổng Minh, thì chắc Khổng Minh cũng chịu chết già trên núi Ngọa long không tên không tuổi thôi. Trong rừng có Đinh, Lim, Sến ,Táu là gỗ quý, là tứ thiết nhưng nếu vào tay của anh chăn vịt, đem về làm lều vịt thì làm sao tỏ được đó là gỗ quý! Người hiền tài là những người “Lòng vì thiên hạ những lo âu[61]” chứ không phải là những kẻ mưu tìm lợi lộc chức tước...
-         Các vị vẫn nói nguyên lí chung chung thôi, đi vào cụ thể là rất khó, một người đứng tuổi vẻ mặt chán chường ngồi tại chỗ nói: Nếu theo định lí: “Có vua sáng thì có tôi hiền.” Vậy nếu có một vị vua u tối, một kẻ hôn quân nhưng muốn tỏ ra mình là “vua sáng” nên phong bừa cho những tôi tớ hầu cận của mình là hiền tài cả thì sao? Chắc các vị nhớ câu chuyện của Ăng-đéc- sen. Anh thợ may may cho vua một bộ quần áo, theo anh ta, bộ quần áo ấy độc nhất vô nhị, đẹp tuyệt trần nhưng chỉ những người thông thái mới nhìn thấy nó. Anh làm động tác thay quần áo cho vua, rõ ràng vua thấy mình trần truồng nhưng không dám nói vì sợ bị coi là người ngu, các quan đại thần ai cũng tỏ ra mình thông thái vỗ tay khen bộ áo quần của vua “đẹp quá, đẹp quá...!”mặc dù họ thấy trên mình vua không một mảnh vải che thân, “chim, cò” tòi ra cả đống...
 Liêm chột dạ, anh lái câu chuyện sang hướng khác:
-         Qua ý kiến của các đồng chí lãnh đạo cũng gợi mở cho ta nhiều điều, có thể tôi chưa truyền thụ hết tinh thần, nhưng theo cảm nhận của tôi, đã có một không khí đổi mới, một sự chuyển động thật sự từ bậc cao. Tôi biết vẫn còn nhiều khó khăn và trách nhiệm của chúng ta sắp tới sẽ rất nặng nề nhưng tôi tin đây là một cơ hội tốt cho hoạt động khoa học của chúng ta.
 Xong buổi họp, Liêm bảo Toàn ở lại, anh nói với Toàn:
-         Công việc sắp tới của viện nhờ anh lo cho, việc trước mắt là tìm người, chiêu hiền đãi sĩ để tập họp được những người có tài năng thật sự. Việc kiện toàn tổ chức, sắp xếp bộ máy, anh toàn quyền làm theo ý mình. Trên danh nghĩa tôi còn là viện trưởng, những việc đó là chức trách của tôi nhưng tôi sẽ hoàn toàn đồng ý theo đề xuất của anh.
-         Ấy chết! Sao anh nói vậy? Anh là viện trưởng thực thụ chứ sao lại “trên danh nghĩa?”
-         Tôi sẽ xin nghỉ hưu thôi, tôi không đủ sức để làm cái công việc to lớn này. Anh mới là người xứng đáng giữ cương vị này. Trong giới khoa học, anh em trong viện nễ phục anh. Trước đây người ta không xếp anh vào cương vị này chỉ vì anh thẳng thắn quá, anh “Feanman” quá nhưng bây giờ khác rồi. Muốn cho khoa học phát triển cần có những người cương trực, dám xả thân như anh. Nhưng nói cho khách quan, đó cũng chỉ mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Điều kiện đủ là phải có một môi trường thật sự tự do, dân chủ- Điều kiện này như tôi cảm nhận được, đã bắt đầu có.
-         Anh quá khen, chứ tôi thì cũng vầy vậy thôi, cũng phải “uốn lưỡi bảy lần”, cũng phải biết “lựa lời mà nói cho vừa lòng trên” chứ làm sao mà nói khác được hở anh! Mình đã đành còn con, còn cái, tấm cơm manh áo...Nói ra cũng thấy nhục nhưng biết làm sao được? Thế rồi, không phải chỉ thế hệ anh, thế hệ tôi, cả mấy thế hệ tiếp theo cũng noi gương cách làm việc, cách suy nghĩ và ứng xử của chúng ta, chỉ biết“quán triệt, thấu suốt”, “ăn cơm chúa múa tối ngày” vậy thôi! Và nói thật, cho dù bây giờ đổi mới, mở cửa thât sự thì chúng ta cũng chẳng có vốn liếng tri thức bao nhiêu để bàn luận, để phản biện. Tất cả chúng ta đều được đào luyện trong cái lò Mác-xít biến tướng, không Trung cộng cũng Nga xô, xào đi xáo lại mấy bài giảng của các vị chuyên gia qua phiên dịch mà phần lớn các vị là những “ông già Khốt ta bít” đầu óc khô cứng, hết thời làm ăn ở trong nước họ.
-         Thôi anh ạ! Liêm nói, cái gì đã qua cho qua, chính vì vậy tôi đề nghị anh phải tập trung xây dựng viện mới, từ lựa chọn, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu...Điểm mấu chốt là phải tạo được một môi trường nghiên cứu thật sự tự do, thật sự dân chủ, không có những cái đó không bao giờ có khoa học thực sự cả. Phải khắc phục cho được cái tư tưởng khi nói đến tự do, dân chủ là thấy rờn rợn cả người như sợ bị điện giật, ngó trước, ngó sau...
 Toàn bảo:
-         Mà cũng lạ, ngay cả các đường phố mang tên Tự do, Dân chủ, Công lí...ở Sài gòn sau giải phóng ta cũng đổi tên sạch! Không hiểu là cớ gì? Sao ta lại muốn xóa bỏ những khái niệm thiêng liêng ấy trong đầu óc người dân? Cái quốc hiệu “Dân chủ- Cộng hòa” cụ Hồ đặt cho nước Việt nam độc lập nay chỉ còn một rạp chiếu bóng bình dân bé tí ở góc chợ Hàng Da mang tên: “Rạp Dân chủ”. Còn cái “Việt nam Cộng hòa”của ông Diệm ở miền Nam thì đã xóa sạch chỉ còn lại cái “Sân vận động Cộng hòa” ở thành phố Huế! Cũng may cái sân vận động bé tý, quy mô cấp huyện này không mấy ai nhớ đến nó để mà đổi tên!
 Sáng dậy, Liêm hấp tấp đi làm, không kịp ngồi ăn sáng với vợ một bữa sau ngần ấy năm xa cách và đến trưa anh cũng ở lại cơ quan, mải bàn luận với Toàn và một số cán bộ chủ chốt của viện, quên mất sự hiện diện của vợ ở nhà. Nhân ngao ngán, tủi hổ nhớ lại cái đêm về nước thui thủi một mình giữa đêm đông giá lạnh trên sân ga, những ngày sống vật vờ ở nhà Minh Nguyệt, những ngày lang thang trong các chùa ở Hà nội... Chị như người ngộp thở, cố vẫy vùng tìm một lối thoát cho cuộc sống tiếp theo của mình. Chị ngong ngóng trông chờ lá thư của con trai- thằng Thạch ở Đức gửi về. Chị đã viết thư cho nó hai ngày sau khi về nước ở nhà Minh Nguyệt( Gửi đồng thời với lá thư gửi cho Bồng). Chị ra khu tập thể cũ ở Bờ sông thăm lại bà con, may nhận được một lá thư của Thạch gửi về cho bố mẹ cả năm trước đó, may mà cậu Xế trọc giữ cho đến giờ trao lại. Chị như người chết đuối vớ được cọc. Trong tâm trạng đau khổ và buồn bực chị viết thư cho con trai, nói hết mọi nỗi niềm. Chị giới thiệu cho Thạch về Bồng với lời lẽ tha thiết. Chị mong Thạch và Bồng nương tựa vào nhau để sống nơi đất khách quê người cho đỡ cô quạnh và còn có cơ hội không chỉ để tồn tại và còn có thể phát triển. Mọi tâm tư chảy tràn trên ngọn bút, chị không dấu con điều gì...Sáng nay, ngồi một mình trong cái quạnh hiu của một ngày đầu đông, cơn lạnh vừa đủ để thức dậy các giác quan của con người. Gió không nhiều, chỉ lướt nhẹ trên các ngọn cây như thúc giục các lá vàng hãy lìa cành để nhường chỗ cho những mầm non trong mùa xuân tới. Hình như con đường giải thoát cho chị đang nằm trong lá thư của Thạch mà chị đang nóng lòng chờ đợi. Chị nghĩ, mình chẳng còn trẻ mỏ gì nữa nhưng chặng đường trước mắt còn dài, dài và hiu quạnh nếu không có một chỗ dựa về tinh thần. Nghĩ đến gia đình mình hiện tại, “có chồng hờ hững cũng như không...” hai đứa con trai, đứa chân trời, đứa góc bể, mỗi người chìm đắm trong một xứ cô đơn của riêng mình. Phải có lối thoát! “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm..”[62]
 Nhân cầm lá thư trong tay. Tay chị run đến mức như lá thư muốn rơi xuống đất. Chị ngồi vào ghế, để lá thư lên bàn trước mặt, người như muốn toát mồ hôi. Chị không đủ can đảm để bóc lá thư. Chị không nhớ nổi, trong cơn xúc động và buồn bực, chị đã viết gì cho Thạch, và, giờ đây Thạch sẽ nói gì với chị. Nếu Thạch phê phán chị nhất là trong quan hệ với Bồng, nếu con trai chị không thông cảm, không hiểu chị thì sự tình sẽ ra sao?!...Chị sẽ ở trong chốn lãnh cung này đến hết đời hay sao!
 Đọc mấy câu đầu của bức thư, chị thấy sự hân hoan không kìm nén được của con trai, người chị như bay bỗng lên cao:
Con chào mẹ! Thật là một sự sắp xếp của ông trời...Con nhận được thư mẹ chiều hôm trước thì ngay hôm sau chú Bồng tìm đến. Ở Nga nhận được thư sớm hơn, có lẽ nhận được thư là chú thu xếp sang ngay nên mới nhanh như vậy! Mấy ngày rồi hai chú cháu ríu rít bên nhau vui như mở hội. Có chú, con cảm thấy vững tâm, không còn cảm giác cô độc bơ vơ như mọi ngày...Con bàn với chú hoặc con sang Nga với chú hoặc chú sang bên này, nhưng có lẽ chú mê Đức hơn. Môi trường sống cho những người nhập cư ở Đức dễ chịu hơn, an sinh xã hội tốt hơn nhiều... Con xin nhận chú làm bố nuôi...Con xin gửi cho mẹ tấm ảnh chụp chung của “hai bố con” nhân cái ngày trọng đại này...” Thư của Thạch viết rất dài nhưng mắt chị hoa lên không còn đọc thấy gì nữa! Thạch báo tin: “ Con sẽ thu xếp về thăm bố mẹ ngay và con sẽ xin phép bố đón mẹ sang bên này.Bây giờ con cần mẹ hơn lúc nào hết...”
 Chính người đàn bà đã báo tin cho Bằng Vân, nhờ cô nhắn với Liêm là Nhân đã về đang sống tại nhà Minh Nguyệt là người biết rất rõ về Liêm, về chuyện tình của Liêm và Huyền, kể cả những “hoạt động” của Liêm trong chuyến “đi công tác” miền Nam của Liêm vừa rồi. Chị cũng đã đến nhà Nguyệt chơi và báo cho Nhân biết mọi chuyện trước khi Liêm đến đón Nhân.
 Nhân cố tình để bức ảnh chụp chung 18x24 của Thạch và Bồng giữa bàn. Liêm đi làm về nhìn thấy, hỏi:
-         Ảnh ai thế này, anh cầm lấy và xem những dòng chữ của Thạch ghi phía sau. Anh hỏi:
-         Ảnh thằng Thạch gửi về hả? Ai như cậu Bồng thế này nhỉ? Nhân cố tình như mãi chuyện bếp núc không nghe câu hỏi của Liêm. Anh láy lại:
-         Cậu ta học trên em một lớp, em còn nhớ chứ?
-         Vâng, em nhớ, nét mặt anh ta không thay đổi bao nhiêu chỉ có người cao lớn và mập ra nhiều.
-         Cậu ta sống ở Đức hả?
-         Nghe đâu anh ta trước đi quản lí lao động ở Nga, người nhà ở quê bảo vậy. Nhân trả lời thủng thẳng.
-         À...! ra thế...Hình như Liêm nói mấy từ này chỉ để cho mình nghe.
 Bữa cơm chiều vẫn thế, vẫn lặng lẽ. Tiếng thìa, đũa chạm vào bát đĩa kêu lách cách. Tiếng muổi kêu vo ve như khiêu khích cơn hờn giận của hai người, nhưng không, khi tình yêu đã không còn nụ cười âu yếm thì mọi sự giận hờn cũng không còn trong lòng họ nữa.
 Thạch về. Anh vào chào bố. Liêm nhìn con không dấu được vẻ âu yếm. Trong cái nhìn ấy có cả sự ăn năn. Anh hỏi Thạch:
-         Con sang bên ấy sống có ổn không?
-         Ổn lắm bố ạ!
-         Bố nghe nói nước Đức (Ý nói Đông Đức) tan rã, những người cộng sản bị khổ sở, không tìm được công ăn việc làm, đói rách nhếch nhác lắm phải không?
-         Không có chuyện ấy đâu! Một thằng nhập cư bất hợp pháp như con, trốn đi từ một nước cộng sản, không nghề nghiệp mà còn được thế này thì người cùng dân tộc với họ không thể bị bạc đãi được. Có thể ban đầu một bộ phận của người Đông Đức chưa có thu nhập cao như ở Tây Đức nhưng không phải khổ đâu. Chắc bố đã đọc, một tài liệu khảo sát mới đây của Trung quốc vừa được Bắc kinh công bố, lương của một Phó thủ tướng Trung quốc chỉ bằng lương của một người quét dọn vệ sinh và thấp hơn một người coi thang máy ở Hà lan...![63] Thạch nhìn mặt bố, thấy “cụ” lắng nghe những lời anh nói mà không nổi đóa đuổi đi, anh biết “cụ đã tiến bộ” nhiều. Anh nói tiếp:
-         Với lại, từ ngày hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, người ta ít nói đến chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản. Cách tư duy của họ hay lắm. Họ không thích đào bới quá khứ lên để làm kem trang điểm cho bộ mặt của mình. Họ hướng về tương lai. Ngày nay, người ta đánh giá một xã hội tiến bộ hay lạc hậu không phải là xã hội do giai cấp nào nắm quyền, không phải là nước đó đi theo chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản. Tiêu chí để đánh giá một xã hội tiến bộ hay lạc hậu là chất lượng sống của từng người dân bao gồm môi trường sinh thái, an sinh xã hội, phúc lợi, bảo hiểm; trình độ sống bao gồm trình độ chung về văn hóa, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng và những quyền của con người về tự do, dân chủ và nhân quyền; mức sống, bình quân thu nhập theo đầu người và sự chênh lệch về mức thu nhập của các giai tằng trong xã hội...Có điều lạ là...Thạch ngừng lại nhìn bố...
 Ông hỏi:
-         Hồi ở Bắc kinh con nghiên cứu về vấn đề gì?
-         Về triết học Mác-xít, Thạch trả lời.
-         Hiện nay, ở Đức người ta, kể cả con đánh giá thế nào về Các Mác?
-         Có lẽ các nhà lãnh đạo thế giới tư bản nắm vững chủ nghĩa Mác hơn chúng ta. Chính họ đang biến những tư tưởng của Mác về chủ nghĩa xã hội thành hiện thực trên đất nước của mình.
-         Tầm bậy, cái thằng này! Chứng nào tật ấy...Suýt nữa bị xe tăng cán chết trên quãng trường Thiên an môn mà chưa chừa sao? Con chưa hiểu bản chất của vấn đề. Điều con nói chỉ đúng một phần, những nhà lãnh đạo tư bản thực hiện những cải cách xã hội đem lại lợi ích cho người lao động không phải là tự giác mà là dưới áp lực của quần chúng được  giác ngộ bởi những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa xã hội...
-         Bố tha tội cho con, có chết con cũng phải nói thật, chí ít thì cũng phải nói thật với bố trong lúc này. Chính rất nhiều người công dân của các nước xã hội chủ nghiã lại chạy sang các nước tư bản sống như bọn con cốt để được hưởng những ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà ở nước mình họ mới chỉ là ước vọng, chỉ có trong sách vở. Con thường đọc các tài liệu nghiên cứu của các Viện Xã hội học, con số thống kê chỉ ra rằng ở các nước tư bản càng phát triển thì ở đó số đảng viên cộng sản càng ít. Số đảng viên cộng sản của cả nước Mỹ có lẽ không bằng số đảng viên của một huyện bên ta..
-         Thôi, thôi...Liêm gắt, anh đi quá đà rồi đấy! Ở đây không phải là nước Đức của anh! Liệu hồn đấy, luận điệu đó không khác luận điệu của bọn làm “Diễn biến hòa bình” bao nhiêu đâu!
-         Thạch ơi! Nhân nghe hết câu chuyện của hai bố con, gọi với ra, vào đỡ mẹ cái này với...
 Liêm ngồi lại một mình “thì ra là như thế”, Liêm nghĩ: “ Hơn sáu tháng trời không có một lá thư, Bồng sang Đức tìm thằng Thạch, Thằng Thạch nhận Bồng làm bố nuôi!...Không ngờ “cái việc của mình”lại được giải quyết một cách nhẹ nhàng như vậy! Cũng hay! “Đã quyết không mong sum họp mãi/Bận lòng chi nữa lúc chia phôi...[64]””Anh quyết định đến tối sẽ nói hết với Nhân, sẽ chia tay nhau một cách êm thấm. Cuộc chia tay này sẽ là mốc son đẹp nhất trong tình yêu của anh và Nhân suốt nửa đời người vừa qua. Một cuộc giải phóng. Gia đình anh gồm bốn con người, hai vợ chồng và hai đứa con, cả bốn thành viên, những con người Tự do của một gia đình mẫu mực đều có khát vọng được giải phóng.
 Đúng như Liêm nhận định, đêm ấy là cái đêm đẹp nhất trong cuộc đời tình ái của hai người. Họ đều khóc, những giọt nước mắt thành thật lăn trên má nhau. Liêm bảo:
-         Em ra đi lần này, không phải là vì hạnh phúc của cá nhân em, cũng không hoàn toàn vì con mà cái chính là em muốn giải phóng cho anh! Anh cảm động và thành thực cảm ơn em về điều đó. Em là người đàn bà hiếm có, cao thượng và biết hy sinh. Điều đau khổ trong lòng anh bây giờ là gần nửa đời người làm vợ anh, anh chưa đưa lại cho em được một ngày sung sướng, hình như cả một nụ cười âu yếm cũng không có. Em cũng chưa từng ốm đau để anh được đến bên giường pha cho em cốc nước!... Anh là một người máy chứ không phải là một người cha. Liệu các con có tha thứ cho anh không?
-         Thôi anh ạ, nghĩ nhiều làm gì cho nó nát ruột ra. Cái định mệnh, cái duyên nghiệp của chúng ta nó vậy. Hạnh phúc lớn nhất bây giờ là quá nửa cuộc đời gió bụi, anh được trở lại chính anh và em trở về với chính em, vẫn còn nguyên vẹn, “Còn duyên may lại còn người/ Còn vừng trăng bạc, con lời nguyền xưa...”[65] Hai đứa con của chúng ta cũng không đến nổi nào, thằng Châu làm ăn khấm khá, đã an cư lạc nghiệp ở xứ người. Điều quan trọng là nó đã tìm lại được người mình yêu, được sống với người mình yêu. Còn thằng Thạch, em tin là nó sẽ thành đạt.
-         À! Nhắc đến thằng Thạch, suýt nữa anh quên, anh không thể để em ra đi với hai bàn tay trắng. Cũng may, cuối đời anh được chia ngôi nhà này, nhà không đáng kể lắm nhưng được hơn trăm mét đất vườn. Nhà ở trung tâm thành phố, lại là mặt đường với giá hiện tại bán đi được cả ngàn cây vàng. Anh định ngày mai đem giấy tờ đất lên ngân hàng thế chấp để vay một khoản tiền cho hai mẹ con lấy vốn mà làm ăn..
-         Thôi anh ạ! Anh già rồi còn để mà phòng thân. Thằng Thạch bảo em: “Mẹ sang với con bên ấy sẽ không thiếu thứ gì...”.
-         Nó nói vậy là so với cái nghèo của chúng ta trước đây và nó yên phận với một kẻ làm thuê còn để làm ăn lớn, chen vai thích cánh với người ta thì phải có vốn lớn. Nghe anh đi! Vợ chồng một ngày nên nghĩa, đừng khách sáo làm gì. Em sẽ mang theo một nửa số tiền bán mảnh đất này. Nửa còn lại phần anh, quá thừa thải rồi, em còn lo gì cho anh nữa?
 Buổi chia tay hôm ấy, trên sân bay quốc tế Nội Bài, gió về hun hút. Trước cửa phòng đợi cách li, hai người ôm nhau, có lẽ là lần đầu tiên trong đời, họ ôm nhau trước mặt mọi người như thế! Nước mắt Liêm nhỏ xuống bờ vai Nhân từng giọt ấm nóng. Nhân ngửng mặt nhìn Liêm, nói trong tiếng nấc: “Anh về đi, em đi đây, cố gắng giữ gìn sức khỏe...” Liêm nán lại, đứng giữa sân bay ngước mắt trông trời, vời vợi nhìn theo chiếc Bô-ing 747 cất cánh lúc 0h45 phút đi Béc- lin. Tiếng gầm rú rạch đôi bầu trời... Gió ở đâu về nhiều thế! Thấm lạnh, Liêm bước vội vào xe. Hàng cây bạch đàn mới lớn  ven con lộ vừa được mở rộng oằn oại giữa đêm đông.
                                                                     Bán đảo Linh Đàm- Hà nội
                                                                                  17 tháng 9/2012
                                                                                  Võ Xuân Tường
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 



[1] Viết tắt của Viện Hà n lâm khoa học Xã hội trực thuộc trung ương đảng Cộng sản Liên xô.

[2] Bài hát thiếu nhi dựa trên câu chuyện dân gian có hai con dê đi ngược chiều nhau qua cầu độc mộc, con nào cũng muốn qua cầu, không chịu nhường nhau nên cả hai đều rơi xuống sông.

[3] Cụm từ “cơ sở” có thể hiểu là các tổ chức thuộc các đơn vị Hà nh chính thấp nhất là Phường, Xã; cách hiểu thứ hai là do tổ chức, cá nhân tình báo của ta cài cắm trong lòng địch báo về..Độ chính xác của hai nguồn thông tin này rất khác nhau. Ở đây ông Cường bị hiểu theo nguồn thứ hai.

[4] Hồi đó mở cửa, nhà  nước cho các cơ  Viện nghiên cứu ở trong nước chủ động cử người đi nghiên cứu sinh các nước XHCN, kinh phí tự lo, Thủ tục để đi chỉ cần có giấy mời của các trường Đại học nước ngoài nào đó là được. Người được “cử” đi chỉ cần thỏa thuận để lại phần lương trong nước của mình cho cơ quan mình đang làm việc và Hà ng năm gửi về cho cơ quan ấy một khoản tiền theo thỏa thuận. “Giấy mời” do những tổ chức, cá nhân người Việt ở nước ngoài làm đem về nước bán cho người cần mua, bao nhiêu cũng có.

[5] “Thép đã tôi thế đấy” của Ốt trốp ski.

[6] Công ty sản xuất ô tô lớn nhất của Pháp.

[7] Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu- Kiều

[8] Giống như dò lụa bên ta.

[9] Người ta đến với mình mà mình không đến đế đáp lễ là người không biết lễ.

[10] Kiều-Nguyễn Du.

[11][11] Thơ Hồng Nhu

[12] Thơ Tú Xương

[13] Văn như Siêu-Quát vô tiền Hán.

[14] Đạo cơ đốc giáo tự do một trào lưu thần học, triết học tư sản thịnh hành hồi Thế kỉ 19. Họ đề xuất ý kiến biến những giáo lí của đạo cơ đốc thành luật pháp, thành chủ trương đường lối của Nhà  nước trong việc cai trị. Những đại diện ưu tú của họ là U-ơn-tơ (Mỹ), Pô- bô- đi ở châu Âu...

[15] Những sản phẩm của công nghiệp Hà ng tiêu dùng Liên xô có từ những năm 20 của thế kỉ trước.

[16] Địa điểm tập trung để ra Bắc, về sau từ nay được dùng để chỉ những cán bộ, bộ đội miền Nam sống trên đất Bắc.

[17] Đoạn tuyệt- Thơ Sóng Hồng, Văn tuyển lớp Bảy-1957.

[18] Trong “Cách mạng văn hóa” Mao dùng loại mũ này đội lên đầu trí thức bắt họ đi cải tạo lao động để đánh sập uy tín của trí thức.

[19] Thường gọi là cơ chế “Bộ tứ” gồm Đảng ủy, Chính quyền- Công đoàn- Thanh niên.

[20] Hình thức áp dụng cho những người làm nghiên cứu sinh ở trong nước, năm cuối họ được ra nước ngoài để hoàn chỉnh bản luận án của mình rồi về “bảo vệ” ở trong nước.

[21] Xuân Diệu

[22] Loại áo mặc ngoài mùa đông của lính Mỹ, ở Miền Nam sau giải phóng loại áo này bán đầy đường. Đàn ông Nga, nhất là thanh niên rất chuộng, coi là thứ thời trang tân thời nhất. Tiền mua một cái áo Na-tô này bằng giá tiền của một cái tủ lạnh hiện đại của Nga.

[23] Nhân vật trong  tiểu thuyết Sông Đông êm đềm Sô- lô- Khốp.

[24] Các động tác huấn luyện xạ kích cho tân binh bắn súng trường.

[25] Quán cơm tập thể công cộng,

[26] Từ của Tố Hữu: Cảm ơn Mác –Lê nin vĩ đại/ Những con người đẹp nhất loài ta.

[27] CHà o buổi sáng- Tiếng Nga

[28] Humboldt Vin hem: 1767- 1835 nHà  triết học, nHà  giáo dục học vĩ đại người Đức. Trường đại học A-V Humboldt ở Đức chính là trường mang tên ông và người anh ruột của ông là Humboldt A lec xan nằm trên địa phận của Đông Đức Cũ.

[29] Chữ cái của các danh từ, tính từ của tiếng Nga đã chia theo số và cách.

[30] Tuyệt trần, cừ khôi- lời nói và cử chỉ khi tỏ lòng khâm phục, kính nể một ai

[31] Tiếng lóng chỉ các cửa Hà ng có bán các mặt Hà ng mà người Việt săn lùng.

[32] Thơ Xuân Diệu.

[33] Tiếng lóng anh em mình ở nước ngoài gọi vui nhau

[34] Tiếng Nga có nghĩa là: Hiểu...hiểu rồi...

[35] Nhà  giáo dục cộng sản nổi tiếng của Liên xô.

[36] Kiều

[37] Văn tế sống vợ của Tú Xương

[38] Chuyện của Ăng-Đéc-Sen

[39] Loại xe do Rumani sản xuất, có hai ghế băng đặt dọc thân xe giống như các xe Lam chở khách trong nội ô Sài gòn trước giải phóng, phủ bạt, có thể chở được từ 8-10 người.

[40] Loại thuốc lá sang nhất của miền Bắc hồi đó, bao lót bằng giấy bạc, không có đầu lọc. Cán bộ cấp Cục trưởng, Vụ trưởng được mua theo “giá cung cấp” hai tút/tháng.

[41] Thơ Tố Hữu

[42] Thơ Xuân Diệu

[43] Thơ Chế Lan Viên.

[44] Thơ Huy Cận.

[45] Hệ tiểu học của Pháp có sáu năm, không kể lớp “Đồng ấu” như lớp mấu giáo lớn bây giờ. Lớp cuối cấp gọi là lớp Nhất.

[46] Hoa Lộc vừng

[47] Tên khác của loài chim Chiền chiện.

[48] Kho chứa thóc của hợp tác xã nông nghiệp.

 

[50] Thơ Tố Hữu.

[51] Cách xử lí triệu hồi về cơ quan cấp trên ngồi chơi xơi nước, làm việc vặt nhưng được giữ nguyên lương và các chế độ khác.

[52] Cách gọi con trai của các nhà quyền quý bên Tàu xưa.

[53] Thơ Phạm Quang Hòa –  Quay về vườn ruộng cũ-Tạp chí “Tiểu thuyết thứ bảy” 5/1945.

[54] Những câu khẩu hiệu được tung hô trong thời kì xây dựng CNXH ở một số địa phương Miền bắc.

[55] Nhại theo lời bài hát “Bài ca người thợ xây” của Hoàng Vân ca ngợi những người thợ xây dựng đang xây những ngôi nhà “cao, cao mãi”... “Cho hôm nay, cho ngày mai, cho muôn đời sau..”

[56] Kiều

[57] Thơ Chế Lan Viên.

[58] Thơ Xuân Diệu: Sự thật hôm nay không thật đến ngày mai/ Thì ân ái có bao giờ lại cũ.

[59] Thơ Đồng Đức Bốn

[60] Feynman nhà bác học về vật lí lượng tử, người Đức gốc Do thái, đạt giải Nô ben về điện động học lượng tử. Ông còn là người tinh thông về nhạc, họa.

[61] Lê Thánh Tông.

[62] Thơ Xuân Diệu.

[63] Giấc mộng Trung hoa- TTXVN phát hành.

[64] Thơ Xuân Diệu

[65] Kiều


<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2013 17:36:40 bởi Vo Xuan Tuong >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9