Sáng sớm, Quốc đã thức dậy. Cả đêm nó không ngũ được. Nó mơ đến nhẩy ùm xuống nước từ trên tàu của chú Tư nó. Nó mơ chú nó chạy tàu, kéo nó ngồi trong cái phao lạng qua, lạng lại. Từ cuối mùa Hè năm ngoái đến nay đã 7, 8 tháng rồi. Hết mùa Hè, nước hồ đã trở lạnh. Chú Tư nó không chạy tàu đi chơi nữa. Nó chỉ mong mùa Hè trở lại để được đi tàu của chú nó trở lại.
Hôm qua, Ba nó nói với gia đình rằng ngày mai ra park chơi, chú nó mời. Nó biết rằng trời lúc này đã bớt mưa, bắt đầu ấm áp trở lại. Ra park, có chú nó đi cùng, thì thế nào cũng có đi tàu. Nó có hỏi ba nó coi có đi tàu không? Ba nó trả lời cái đó tùy vào chú. Nếu chú đem tàu tới thì đi tàu, không thì thôi. Nước hồ vẫn còn lạnh. Nói vậy nhưng nó tin rằng thế nào cũng có đi tàu. Chú nó biết tụi nó thích đi tàu. Nếu không có đi tàu thì chắc chú nó chỉ mời Ba nó thôi.
Dậy sớm, nó không biết làm gì. Chị Hân vẫn còn đang ngũ bên giường bên kia. Ba, Má nó chắc vẫn còn đang ngũ bên phòng bên cạnh. Nó có thể lấy sách ra đọc, hoặc đi xuống nhà dưới chơi video game, hay coi TV. Nhưng nó không muốn làm ồn, sợ đánh thức Ba, Má nó. Nó lấy tập truyện Spider Man And Octopussy ra coi. Hôm nay nếu đi tàu, khi nhãy xuống nước, nó sẽ quay vòng, lộn nhào như Spider Man trước khi rớt xuống nước. Nó vừa nằm đọc truyện, vừa mơ đến chuyện đi tàu.
Cuối cùng rồi gia đình nó cũng ra park. Sau khi dậy, Má nó cắt salad, ướp thêm thịt để ra park ăn. Ba nó lấy ra mấy cái ghế xếp để ngồi, kiếm than đá đã gói lại từ mùa Hè năm ngoái để đem ra nướng thịt. Nó và chị Hân nó chạy lăng xăng tới lui, phụ Ba, Má nó để đi cho lẹ. Chị nó cũng thích đi tàu, nhưng nhát hơn nó nhiều. Chị thích ngồi chơi trong tàu hơn là ngồi trong phao để chú kéo đi. Mỗi lần ngồi trong phao là chị nó cứ xin với chú Tư chạy chậm chậm để bớt sợ. Nó thì muốn chú chạy nhanh hơn. Đôi khi chú lạng nhanh, gặp sóng lớn, nó bị văng ra khỏi phao, rơi xuống nước. Nó không sợ bị văng ra khỏi phao. Rớt xuống nước không đau. Vã lại nó có bận áo phao, nên không sợ bị chìm. Có khi không bị văng ra khỏi phao, nó còn nghiêng người ra ngoài phao để tự rớt xuống nước nữa.
Tới park, nó muốn chạy đi kiếm chú Tư nó và Khoan, con trai của chú. Má nó nói rằng Khoan là em nó vì chú Tư là em của Bạ Nhưng Khoan lớn hơn nó nhiều, gần là người lớn, trong khi nó chỉ là một đứa con nít. Nó chưa thể chạy đi chơi kiếm chú nó được. Ba nó kêu nó lại, bảo rằng nó và chị Hân phải phụ giúp đem đồ ăn, đồ chơi từ xe ra tới chổ Picnic. Thế là hai chị em nó người xách cái ghế người ôm bao than đi ra chổ Picnic. Mấy cô, mấy bác, và những anh em họ khác ở đó cũng chạy ra giúp. Nó chưa thấy chú Tư đâu. Cô Tư đang bày bàn Picnic với một vài người khác. Khoan thì đang nói chuyện, cười đùa với mấy chị lớn. Park này rất lớn. Nó có chổ Picnic, có bãi tắm, và có chổ đậu tàu, thả tàu. Chổ Picnic, bãi tắm ở bên này park. Chổ đậu tàu, thả tàu ở bên kia. Park có cây to mọc rãi rác. Nên bên này park, nhìn không rõ bên kia. Chú Tư của nó có lẽ đang ở bên kia park, ở chổ đậu tàu, thả tàu.
Nó định rằng sau khi phụ giúp Ba, Má nó xong, nó sẽ chạy qua bên chổ đậu tàu chơi. Chị Hân nó cũng thích qua bên đó. Bên đó có hành lang bằng gỗ dài, chạy dọc theo bờ hồ. Có những cái cầu gỗ thọc ra ngoài hồ để tàu cập vào đó, và những cẫu gỗ khác có lang cang để người ta ra câu cá. Chị Hân nó thích ra ngoài đó, ngồi thả chân xuống nước nhìn mặt hồ, hay những con cá, con vịt bơi gần đó. Nó thì thích ra ngoài đó coi tàu đi qua, đi lại.
Sau khi chạy từ xe ra chổ Picnic, từ chổ Picnic chạy ra xe vài lần, nó đã phụ đem hết đồ trong xe ra. Nhưng nó lại còn phải phụ Ba, Má nó bày bàn, bày ghế, bày lò than. Làm gần xong thì chú Tư nó từ bên kia park đã trở lại. Chào hỏi Ba, Má nó xong, thấy nó và chị nó đứng lớ ngớ đó, chú Tư biết ý, bảo rằng nước còn lạnh, nên không thể ngồi trong phao để tàu kéo đi bữa nay. Nhưng chú có đem chiếc thuyền buồm con của chú đến. Lát nữa có thể chú sẽ cho chúng nó đi thuyền buồm. Nó cảm thấy thất vọng. Nó có thấy chú Tư nó dùng chiếc thuyền buồm của chú chở các cô, các chú đi mùa Hè năm rồi. Mọi người chỉ có ngồi trên chiếc thuyền đó, đi ra, rồi đi vào, chẳng có vẽ gì là hứng thú. Nó thích được đi nhanh, kéo dằn lên, dằn xuống. Nó thích được rơi xuống nước. Nhưng nó biết rằng chú nói đúng. Mặc nước tuy nhìn hấp dẫn, nhưng nước thì vẫn còn rất lạnh. Chưa có thể bơi lội được. Ngồi vào phao để chú kéo đi, nước văng lên đã lạnh rồi, lỡ rớt xuống hồ thì chỉ có nước chết cóng.
Phụ giúp Ba, Má nó xong. Nó không nghỉ đến chuyện đi tàu nữa. Nó và chị nó, và các đứa trẻ khác có đi qua bên kia park, chạy chơi chổ hành lang gỗ, chổ đậu tàu, chổ câu cá một chút. Nhưng rồi tất cả cũng chạy trở về chổ Picnic để chơi. Chúng nó bày trò ra đá banh, lấy cành cây làm kiếm đánh chơi với nhau, chạy rượt bắt v.v...
Sau khi nấu nướng, ăn trưa xong, các cô, các chú ngồi chơi, nói chuyện. Chú Tư lại hỏi mấy đứa nhỏ, ai muốn đi thuyền buồm với chú. Chú bảo hôm nay có gió. Thuyền chắc sẽ chạy lẹ. Dù là không phải tàu máy, nhưng có còn hơn không. Quốc lẹ làng nói với chú là nó muốn đi. Chị Hân còn đang dần dừ, ba đứa trẻ khác nói muốn đi. Chú nói chỉ đem được 3 đứa. Thế là ngoài nó, hai đứa trẻ khác được đi. Còn lại thì để lần sau. Thế là chú dẫn 3 đứa trẻ, và các trẻ em khác theo chú qua bên kia park. Các cô, các chú đã quen với việc chú dẫn các đứa trẻ đi tàu, nên để yên các đứa trẻ tự động đi theo chú.
Thuyền buồm của chú giống như một cái bè, gọi là catamaran. Mỗi bên có một cái bè hẹp. Ở giữa là một tấm lưới dầy căng giữa hai cái bè. Hành khách hai người một bên, một trước, một sau, ngồi ngang trên cái bè, lưng quay ra ngoài, chân quay vào trong để trên tấm lưới. Trên tấm lưới còn có chổ để móc chân vào, để có thể nghiêng người ra khỏi cái bè mà không rớt xuống nước.
Trước khi lên thuyền, chú Tư đưa mỗi đứa một cái áo phao. Đã quen nên nó mặc ngay vào, cài nút lại cẩn thận. Chị họ của nó là Thảo cũng mặc áo phao vào. Nhưng Phượng, khoãng 13, con của một cô, chú, lần đầu tới chơi, nói không thích mặc áo phao. Chú Tư bảo mặc vào đi. Hồ sâu lắm. Lỡ rớt xuống nước, chìm, chú nhảy theo không kịp đâu. Nó tự dưng nhìn xuống nước. Tuy thuyền vẫn còn đang cột vào cầu tàu, gần bờ, nhưng nhìn không thấy đáy. Nó tưởng tượng nếu chìm, không biết sẽ chìm bao lâu. Chú Tư còn dọa thêm, nếu chìm thì phải đến hai, ba ngày mới vớt lên được. Và người ta sẽ lặn xuống, cột dây vào đôi chân, rồi dùng máy kéo lên. Nghe nói mà lạnh cả người. Phượng có lẽ đã sợ, nhưng vẫn còn làm gan, không chịu mặc áo phao vào. Cuối cùng chú bảo không mặc áo phao vào thì không được đi. Đó là luật lệ đi tàu của chú. Nó đã biết luật này. Rồi Phượng cũng đành phải mặc áo phao vào. Chú bắt Phượng phải cài nút lại cẩn thận và không được mở ra.
Khi thuyền cột vào bến thì thuyền khá chòng chềng. Bước lên thuyền nó muốn té. Nhưng nó nhảy đại vào, rồi ngồi bệt xuống mãng lưới, bò qua cái bè đối diện. Ngồi xuống rồi thì không sao. Cái thuyền không lớn lắm. Hình có người ngồi lên, đè cái thuyền xuống, làm cho nó bớt chòng chềng đi. Mọi người lần lượt làm theo nó, tất cả đều lên được thuyền, không ai bị gì.
Sau khi mọi người đã lên thuyền và ngồi xuống, chú Tư tháo dây cột thuyền ra, đẩy thuyền tách xa cầu tàu, rồi nhảy vào thuyền. Đằng sau thuyền có hai cái đuôi thuyền, nối liền với nhau bởi một thanh cây dài làm tay lái. Chú bảo nó đổi chổ ngồi ra phía sau để cầm cây lái, giử cho hai cái đuôi thuyền chỉ thẳng để hướng ra giữa hồ. Nó vẫn chưa hiểu giử cây lái ra làm sao. Nhưng nghe lời cầm lấy cây lái, và giử yên đó. Trên thuyền có một cái chèo dài. Chú Tư cầm lấy cây chèo, bò ra đầu thuyền, đứng lên chèo như người đứng chèo cái bè. Thuyền từ từ tách bến. Bổng chú Tư kêu lớn, bảo nó kéo cây lái qua bên phải. Té ra vì mãi nhìn chú nó chèo thuyền, tay nó từ từ co lại, kéo hai cái đuôi thuyền quẹo qua một bên, làm thuyền đổi hướng. Nó vội vã đẩy cây lái ra. Chú bảo nó nhìn cái đuôi thuyền bên nó ngồi. Giử cho cái đuôi thuyền đó ngay với thuyền. Nó nghe lời chú, không nhìn ra đằng trước nữa, cố giử cho cái đuôi thuyền ngay.
Chèo được một chút, thuyền đã cách xa bờ khoãng 30 thước, chú Tư bỏ mái chèo, ngồi xuống. Chú khen nó cầm cây lái vững, nói rằng chú sẽ bắt đầu dương buồm lên. Buồm là một miếng bạt lớn, vãi không dầy lắm, nhưng chắc và hơi cứng như tấm giấy kiếng. Từ trên cột buồm, có hai sợi dây dài thòng xuống. Một sợi có một cái móc gắn vào cuối sợi dây. Chú Tư móc cái móc vào đầu tấm buồm. Xong chú đút cạnh buồm vào một đường khẽ dài chạy dọc theo cột buồm lên cao. Một tay kéo sợi dây kia xuống, một tay tiếp tục đẩy cạnh buồm vào trong đường khẽ đó, chú Tư từ từ kéo cái buồm lên cao.
Khi tấm buồm được kéo lên khoãng nữa cột buồm, gió thổi tấm buồm tạt qua bên Phượng vào Thảo đang ngồi. Thảo ngồi đằng sau, nên không bị buồm cuốn vào. Nhưng Phượng ngồi phía trước bị tấm buồm cuốn vào như một đứa bé đằng sau cái màng cửa. Phượng cố gắng đẩy tấm buồm ra và gọi lớn với chú Tư rằng bị cái buồm cuốn. Nhưng Phượng hai tay đẩy bên này tấm buồm thì bên kia quấn vào, đẩy bên kia, thì bị bên này quấn vào. Chú bảo buồm quấn vào một chút thì hết. Không sao đâu. Nhưng chú cũng bảo nó đẩy cây lái qua bên trái để lái chiếc thuyền vào hướng gió, để buồm bớt bị thổi tạt qua một bên.
Sau khi tấm buồm được kéo lên cao phần dưới của buồm đã qua khỏi đầu người ngồi. Chú Tư cột dây kéo buồm lại để buồm khỏi rớt. Xong chú bảo nó đổi chổ ngồi với chú. Nó ra ngồi phía trước của cái bè. Chú ra đằng sau, móc một sợi dây khác từ đằng sau thuyền vào góc ngoài, phía dưới của cái buồm để kéo cái buồm dang rộng ra. Từ đằng sau thuyền, chú một tay cầm tay lái, một tay chú kéo sợi dây căng buồm để điều khiển tấm buồm. Chú kéo dây ra thì sợi dây nối miếng buồm với đằng sau chiếc thuyền co rút lại, kéo tấm buồm thẳng ra, dọc theo chiếc thuyền. Chú thả sợi dây ra thì sợi dây nối với miếng buồm nới ra, để cho gió thổi lá buồm tạt ngang qua một bên.
Chưa đi thuyền buồm, nó vẫn tưởng tượng thuyền buồm như là một chiếc lá trên mặt nước. Gió và nước đưa đi đâu thì chiếc thuyền buồm trôi nhẹ nhàng đến đó. Nhìn một chiếc thuyền buồm từ xa, đó là cái nó thấy. Nhưng với chiếc bè buồm này, ngồi trong đó, nó có cảm tưởng như lá buồm rất là lớn. Khi lộng gió nó thấy như gió có thể thổi bay lá buồm, nhấc chiếc thuyền lên cao, hay quạt chiếc thuyền ngã ngang ra.
Sau khi kéo buồm lên, chú Tư quay tay lái, làm cho chiếc thuyền chạy ngang với chiều gió. Chú kéo mạnh sợi dây căng buồm ở phía sau thuyền. Cái buồm bị kéo thẳng ra phía sau, lộng lên dọc theo chiều dài của con thuyền. Bị gió thổi ngang, lá buồm muốn phồng lớn ra, nhưng bị đường dây cột từ đằng sau thuyền trì xuống, nó căng lên như làn da của cái bong bóng. Chú bảo đây là hướng đi làm cho thuyền chạy nhanh nhất. Gió thổi ngang làm cho chiếc thuyền muốn nghiêng. Chú bảo nó đổi chổ ngồi với Phượng vì Phượng lớn hơn, nặng hơn nó. Chú và Phượng ngồi bên chiếc bè phía gió để đè chiếc thuyền xuống. Chú nói vì thuyền này như là một cái bè, nó khó bị gió thổi nghiêng thuyền hơn là các thuyền khác. Vã lại nếu gió mạnh hơn, chú có thể thả lõng sợi dây căng buồm ra để nó bớt căng.
Chiếc thuyền no gió, chạy nhanh như một chiếc ca nô. Hai cái bè hai bên dài và hẹp, dẹp lại đằng trước như cái mũi của cái tua vít, xẻ nước ra hai bên chạy phăng phăng. Nhìn xuống lòng thuyền qua tấm lưới dầy căng giữa hai cái bè, cao trên mặt nước chừng hai gang tay, lướt nhanh như một chiếc máy bay, bay thấp, lướt qua ruộng đồng, cây cỏ. Nó không ngờ thuyền buồm lại có thể chạy nhanh, thích thú như thế. Thêm nữa vì hôm nay gió thổi rào rào, sóng nước bập bềnh, thuyền chạy nhanh, nên mặc dầu hai mũi thuyền xẻ nước như xé vãi, đôi khi gặp làn sóng cao, nước cũng văng tung tóe. Nhất là trên con bè thuyền này, người ngồi thấp, gần mặt nước. Hai người ngồi trước là nó và Phượng bị ướt nhiều nhất.
Nó không sợ bị ướt. Đối với nó thuyền đụng sóng cao, nước văng tung tóe, thì giống như ngồi trong phao kéo sau tàu dằn qua, dằn lại thế thôi. Nước tuy có hơi lạnh, nhưng có nắng ấm, nên chẳng sao. Phượng thì có vẽ vừa thích thú, vừa sợ bị ướt. Con nhỏ hét lên từng hồi. Mỗi lần nước văng lên thì hai tay che mặt, che tóc. Nhưng không có vẽ gì muốn chú Tư chạy chậm lại, hay rút người lại đằng sau để tránh nước. Chú Tư và Thảo ngồi đằng sau, tuy cũng bị ướt, nhưng ít hơn nó và Phượng nhiều.
Thuyền căng gió, lướt sóng, chạy một hồi thì gần đến bờ bên kia hồ. Chú Tư đẩy cây lái, kéo hai cái đuôi thuyền qua một bên, khiến cho chiếc thuyền quẹo vô hướng gió. Lá buồm bắt đầu rũ xuống, và chiếc thuyền chậm lại. Nhưng chiếc thuyền vẫn còn đà, tiếp tục quẹo, quay đầu lại hướng đã đi. Sau khi quẹo ngược lại, lá buồm bắt đầu căng lên trở lại qua phía đối diện. Bên nó và chị Thảo trở thành bên gió thổi. Chú Tư bảo hai bên đổi chổ ngồi. Chú Tư đổi chổ ngồi với chị Thảo, nó đổi chổ ngồi với Phượng. Chú Tư và Phượng ngồi trở lại bên đầu chiều gió, đè cái bè xuống trở lại.
Chị Thảo trầm trồ: "Chiếc thuyền này hay thật! Không phải chèo, không cần máy. Chỉ có gió thôi mà nó chạy phăng phăng. Nếu trên bộ có chiếc xe nào như thế thì hay biết mấy?" Chú Tư nghe nói tỏ vẽ vui. Chú bảo rằng chiếc thuyền này là chiếc chú thích nhất. Nhỏ, nhẹ, chạy nhanh. Có hôm trời lạnh, nhưng có gió, chú cũng mặc áo ấm, khoác thêm áo mưa, kéo thuyền ra, dương buồm đi chơi. Phượng phản đối: "Thuyền cần phải có kiếng chắn gió, chắn mưa". Chú Tư cười: "Đôi khi gió, nước, tạt vào mặt cũng là một thú vui". Ngồi nghe mọi người truyện trò, nó hoàn toàn đồng ý với chú Tư.
Trên đường về, gió vẫn thổi rào rào, thuyền vẫn chạy nhanh, nước hồ vẫn có lúc văng, bắn lên thuyền. Khi thuyền vào gần bờ, chú Tư bảo Phượng đổi chổ với chú, và bảo Phượng cầm cây lái. Chú ra đằng trước thuyền, tháo chổ cột dây kéo buồm ra. Chú đợi đến lúc gần bến, nhắm chừng thuyền có đủ đà để vào, chú thả dây kéo buồm ra, và kéo mạnh lá buồm xuống. Chú vừa kéo, vừa đặt tấm buồm lật qua, lật lại, nằm gọn ghẽ ở giữa thuyền. Thuyền vừa đủ đà trôi vào tới bến. Chú nắm sẳn dây cột thuyền, nhảy lên bến, kéo thuyền sát vào, rồi cột thuyền lại. Thế là xong một chuyến đi. Mọi người lần lượt ra khỏi thuyền. Mặt mày tất cả đều có chút ít sém gió, sém nắng. Tóc tai đều ít, nhiều tơi tả. Nhưng mọi người đều cảm thấy sảng khoái.
Trên bến, đã có những đứa trẻ khác đang đợi cùng với một vài cô, chú. Khoan, con chú Tư cũng có mặt. Thấy Khoan, chú Tư bảo Khoan lái thuyền chuyến này, và hỏi ai muốn đi với Khoan. Nó vẫn còn muốn đi nữa. Nhưng biết rằng nó đã đi xong, tới phiên người khác. Nó nghỉ rằng đi thuyền buồm này cũng không thua gì chạy tàu máy. Nhưng nếu nó có thể biết điều khiển thuyền buồm thì chắc sẽ thích hơn nhiều. Nó sẽ nhờ chú nó dạy cho nó đi thuyền buồm. Có thể là nó phải chờ thêm một vài năm nữa. Chắc giống như khi chú nói nó rằng phải lớn hơn chút nữa thì chú mới có thể dạy nó đi wakeboard như Khoan được. Nó mong thời gian bay qua nhanh như chiếc thuyền buồm lướt sóng để mau đến ngày đó.
Hết.
Phạm Quang Tuyến
Seattle
10/04/2013
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.04.2013 14:12:20 bởi seren >