NHỮNG NGƯỜI MUÔN NĂM CŨ
Vo Xuan Tuong 05.05.2013 13:14:37 (permalink)
VÕ XUÂN TƯỜNG
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
            những người
 
MUÔN NĂM CŨ 
                                                             Tiểu thuyết
 
 
 
 
 
 
 
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 
 
 
 
 
 
 
 
                                                                      Những người muôn năm cũ
                                                                      Hồn ở đâu bây giờ!
 
                                                                                                Vũ Đình Liên
 
 
 
 
 
1
 
 
 
Trận mưa đêm qua đến là khủng khiếp. Những người già sống ở vùng này nói: “ Có lẽ năm mươi năm trở lại đây chưa từng có có một trận mưa nào dữ dội đến vậy!” Ngày xưa, cũng có những trận mưa như thế nhưng người dân không thấy khiếp sợ như trận mưa hôm qua. Mưa rào rào dội xuống mái tôn như có thiên binh vạn mã nào đó đang bắn hàng triệu viên đạn ghém vào các mái nhà, như trời đang dội xuống trần gian hàng tấn sỏi đá, cát bụi. Đến là ghê! Xưa, nhà của cả làng đều lợp cỏ gianh nên dẫu mưa to cũng chỉ nghe những tiếng thậm thịch trên mái nhà như nghe tiếng giã gạo đâu đó từ xa vọng lại. Những tiếng dội trên các mái nhà cỏ gianh ấy cùng với tiếng rả rích của những giọt nước hàng hiên giữa đêm dài trầm tịch, gây cho con người một cảm giác bâng khuâng, rộn rã. Rồi khi mưa ngớt dần, tiếng  “thậm thịch” ấy chỉ còn văng vẳng như tiếng trống ếch đêm trăng từ tuổi thơ vọng lại, đưa con người vào giấc ngủ êm đềm.…Bây giờ những đồi cỏ gianh ấy đã biến mất. Đất đã được khai hoang đến tận chân của dãy Trường sơn. Trẻ con ngơ ngác khi thi thoảng nhìn thấy một con chim Ác- là khoang trắng khoang đen, khi thấy một đàn sáo sậu từ đâu lạc đến rồi hốt hoảng bay đi. Chúng không biết đấy là những con vật gì! Cả làng bây giờ chỉ có nhà của Lão Lâm là còn lợp tranh nhưng lão lợp tranh lên trên mái tôn để chống nắng mùa hè và để tránh các tiếng ồn khi gặp các trận mưa lớn. Người ta bảo lão khôn. Lão cười. Tính lão hay nói ca trớn, bảo: “Khôn gì! Chỉ tại các ông các bà không nắm vững đường lối chủ trương đấy thôi!”
-         Đường lối gì? Chủ trương gì? Ông thử nói cho làng xóm xem! Bà con nhao nhao.
-         Chứng tỏ các ông, các bà đi học chính trị, đi nghe phổ biến không tập trung tư tưởng…Thật phí phạm, chẳng khác gì nước xao đầu vịt!
-         Thì ông nói đi, ông thông thái thì nói cho bọn dốt nát này nghe đi cứ vòng vo tam quốc, sốt cả ruột!
-         Thế các ông các bà đã từng nghe bao giờ cái câu: “Kết hợp hiện đại với thô sơ chưa?” Lâm nói, bao nhiêu chục năm nay người ta nói rồi, các ông các bà cứ bỏ ngoài tai rồi lại thắc mắc, phản đối.
-         Đấy là người ta nói về phương châm thực hành các đường lối chủ trương lớn chứ đâu có nói đến cái mái nhà, cái chuồng lợn của ông! Mấy người trong xóm cãi lại .
-         Thì đấy! Nhận thức sai là ở chỗ ấy. Nghị quyết đường lối là để cho mọi người dân quán triệt, để biến thành hành động cụ thể hàng ngày của mỗi người chứ đâu có chuyện chính phủ đề ra rồi chính phủ thực hiện còn mình thì ai làm việc nấy chả quan tâm gì.
-         Thôi chúng tôi xin chịu lí lẽ của ông, nhưng nói thật, chúng tôi lấy đâu ra tiền để mua tranh lợp chồng lên trên mái tôn? Tranh bây giờ đắt như vàng. Cả làng này chỉ có mình ông làm được thôi. Ông là cán bộ chứ chúng tôi lấy đâu ra tiền để “quán triệt sâu sắc” nghị quyết như ông? Chẳng phải riêng ông, cũng chẳng phải chỉ có cái chuyện lợp nhà. Mấy anh lắm tiền bây giờ vào các nhà hàng sang gọi các món Tây , món Tàu ăn chán chê, bỗng thức tỉnh tinh thần dân tộc, gọi thêm mấy quả cà pháo và đĩa rau lang cũng được coi là quán triệt tinh thần kết hợp hiện đại và thô sơ đấy chăng?
-         Mà ông Lâm này! Một gã trung niên, râu ria bụi bặm chất vấn: Ông là cán bộ, nghề của ông là chuyên đi giải thích thuyết phục dân chúng. Và, tất nhiên ông bao giờ cũng đúng, cũng sáng suốt. Vậy nhờ ông xử lí cho việc này. Thằng Kềnh con lão Bạng ở xóm trong, ở nhà đã có một vợ, hai con. Hắn đi xuất khẩu lao động ở Đức vừa về, mang theo một cô vợ trẻ người Đức, thuê khách sạn cho con này ở. Về nhà, hắn đánh con vợ cũ  của hắn chí chết. Xã triệu lên, phê bình và dọa bỏ tù. Hắn bảo: “ Tôi không sai. Tôi thực hiện đúng và xuất sắc phương châm kết hợp hiện đại với thô sơ!” Thằng ấy còn dám thách xã, nếu bắt hắn thì chủ tịch xã phải đi tù trước vì vợ hắn là người Cộng hòa dân chủ Đức chứ không phải là bọn Tây Đức tư bản đâu. Bắt hắn là vi phạm đường lối đối ngoại. Liệu hồn đấy! Lão đàn ông trông có vẻ bụi bặm đang đối thoại với lão Lâm nhìn thẳng vào mặt Lâm hỏi dồn: “Ông giải thích đi! Ông có khoái kết hợp hiện đại với thô sơ theo kiểu thằng Kềnh không? Tôi đang rất khoái đấy, có dịp là tôi kết hợp liền!”
Lão Lâm ngao ngán, không muốn nói chuyện với cái đám người dở ông, dở thằng này, liền vẫy tay như  muốn xua đuổi bọn họ rồi quay lưng đi vào nhà mình. Cái dáng đi của lão mới thật buồn cười, vừa bước thẳng lên phía trước vừa xoay người. Nếu lão mặc thêm cái áo thụng, với cái dáng đi xên xang, tay dài quá gối ấy, người ta sẽ tưởng lão đang tập để nhập vai một quan đại thần sau lúc bãi triều của một bộ phim lịch sử đang được dàn dựng. Lão đã vào nhà nhưng mọi người còn đứng lại đàm tiếu về lão:
-         Lão đã về hưu chưa nhỉ?
-         Về sao được! Lão còn ít tuổi hơn tôi, mới năm mươi ngoài, đang sức bật…
-         Tuổi tác chỉ là một vấn đề thôi, dùng cái tuổi để loại nhau là dễ nhất nhưng  chỉ với đối tượng trên 60 còn cỡ lão này đến 60 là ô-tô ma-tíc zề thôi! Có điều lão chưa đến 60. Quá trình công tác của lão cũng không có điều tiếng gì lớn.
-         Nhưng gần đây trông lão lạ lắm! Từ ăn mặc, đi đứng, nói năng…chẳng giống tí gì so với hồi lão còn làm việc!
-         Ừ! Cả cái bộ tóc của lão nữa! Giờ lão để tóc dài chấm vai. Gặp ai chào lão, lão đứng lại nheo nheo cặp mắt nhìn xói vào mặt người ta. Buồn cười là những lúc như thế cả hai hàm răng của lão phô ra trắng ởn. Trông lão như một nghệ sĩ yếm thế, lại như một nhà triết học cổ đại. Thời buổi này, cái “phom” người vừa khuôn phép bên trong, vừa tỏ ra nghênh ngang, cuồng phóng bên ngoài như thế đang được ưa chuộng! Biết đâu người ta đang chuẩn bị để đưa lão sang phụ trách bọn văn nghệ sĩ đấy!
-         Chưa chừng! Tôi nghe nói, trên đang bảo lão viết lí lịch và bản kiểm điểm công tác để sắp xếp công tác mới, đề bạt lên nữa đấy.
-         Các ông đùa đấy hả? Có thể người ta đề bạt lão lên nữa ở lĩnh vực công tác khác chứ lão có học hành gì đâu mà bảo đưa sang phụ trách bọn văn nghệ sĩ?
-         Ai học hết chữ ngờ. Mình nhìn người một cách khác, còn tổ chức có cách nhìn của họ.
-         Làm được tất! Chẳng tin, sau khi lão được cử sang phụ trách lĩnh vực này, chỉ vài tháng, lão sẽ có bài phát biểu xanh rờn chỉ đạo ngành. Toàn ngành lại tổ chức học tập quán triệt tư tưởng chỉ đạo sáng suốt của đồng chí Lâm. Dựa vào bài phát biểu này , sẽ có hàng chục nghiên cứu sinh tiến sĩ viết luận án khoa học về tính khoa học, tính dân tộc, tính hiện đại…trong tư tưởng chỉ đạo của đồng chí Lâm! Anh nào dám đánh cá với tôi nào? Cái anh chàng bụi bặm khi nãy chất vấn lão Lâm lại lên tiếng.
Đám đông ồn ào phụ họa theo lời của lão bụi này.
-         Được đấy, được đấy! Lão còn hơn khối đứa. Hồi làm mặt trận, đi nói chuyện, thính giả có cả trí thức, văn nghệ sĩ ngồi nghe, lão cũng tung ra các chưởng ca dao, hò, vè… nhất là chuyện tiếu lâm, lão xen vào có duyên đáo để. Lão cũng có mươi câu Kiều, dăm ba câu Chinh phụ ngâm, biết chuyện cụ Đồ Chiểu khóc mẹ mà mù mắt nữa đấy. Lãnh đạo được thế là quý rồi. Căn bản là cái quan điểm lập trường chứ kiến thức thì vô cùng, Quang Trung có được mấy chữ đâu mà làm nên một ông vua lẫy lừng!
-         Đúng! Một cậu giáo viên trẻ cả buổi đứng im nghe, bổng thốt lên: Với lại văn chương có phát triển hay không, phải đâu chỉ do người lãnh đạo. Thời Lê mạt vua quan có ra gì đâu mà chúng ta có những tác phẩm sừng sững: Nào Truyện Kiều, Nào Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc…Chẳng nói đâu xa, đầu thế kỉ hai mươi này thôi, chế độ thực dân phong kiến thối nát là thế, đến mức ông  Vũ Trọng Phụng phải kêu lên: “…Vô địch về vô học mà gọi ông Quỳnh, ông Vĩnh[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn1][1][/link] bằng thằng, không đọc qua một cuốn tiểu thuyết mà làm chủ tịch các ban chấm giải văn chương…!”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn2][2][/link] Ấy thế mà văn chương thời đó vẫn phát triển rực rỡ, có cả một phong trào thơ mới, những tác giả của Tự lực Văn đoàn, những cây đa, cây đề của văn học Việt nam như Ngô Tất Tố, Nguyễn công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Huy Cận… mọc lên từ thời ấy! Cái không hay của dân mình là tự thủ tiêu bản ngã. Xưa thì cái gì cũng tại trời: No, nhờ trời. Đói, tại trời. Bây giờ thì cái gì cũng tại lãnh đạo: Thành tích: Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt. Thất bại: Tại lãnh đạo bất tài, thiếu quan tâm…còn mình thì vô can, tự coi mình như một gọng cỏ trôi giữa dòng sông, một đám mây lơ lững giữa trời!
-         Phải thừa nhận là lão có cái phom người phù hợp với mọi hoàn cảnh, mọi cương vị công tác. Nghe các ông bàn, nhìn cái dáng của lão hiện tại, tôi đoan chắc lão sẽ sang lãnh đạo văn nghệ sĩ. Không phải lão cố tình tạo ra cái hình hài ấy đâu. Trời cho lão cái duyên ấy. Ngày trẻ, đi bộ đội, tự nhiên hắn cạo trọc đầu. Cả đơn vị chế nhạo hắn, gọi hắn là thằng Trọc. Các chính trị viên thì rất thích cái đầu trọc của hắn. Hồi ấy, trên các sân cỏ, các đội chiếu bóng lưu động chiếu nhiều phim của Trung Quốc. Các chiến sĩ Tân Tứ quân, Bát Lộ quân… những gương mặt anh hùng ấy đều có cái đầu trọc như của hắn. Xem phim nhiều, dần hình thành trong tiềm thức của mọi người rằng đầu trọc là tiêu biểu cho đạo đức phẩm chất cách mạng. Hắn được anh em quý trọng, lãnh đạo yêu mến, được cử ngay làm bí thư chi đoàn! Cái lão mặc áo xanh ở xóm chợ này chẳng biết ở đâu ra mà hiểu tường tận về Lâm đến vậy. Lão áo xanh nói tiếp:
-         Nhưng, nói cho ngay, lão Lâm không phải là người xu thời. Lão sống tự nhiên, thoải mái, rất vô tư. Vừa đại hội chi đoàn xong, lão chẳng để ý gì đến cái cương vị bí thư chi đoàn vừa được bầu. Đi ăn cơm, tay cầm đôi đũa gõ vào cái bát sắt kêu leng keng rồi ê a: “Con cua càng nằm ngang gốc mít, anh thấy cô mình lớn đít anh thương.”Đồng chí chính trị viên đại đội nghe Lâm ê a như vậy sửng sốt kêu lên:
-         Đồng chí Lâm!
-          “Có tôi!” Lâm giập mạnh hai gót chân, đứng khựng lại, hô to.
-         Mời đồng chí vào phòng tôi. Đồng chí có biết mình bây giờ là ai không? Chính trị viên hỏi.
-         Có!
-         Là ai, là gì? Chính trị viên hỏi dồn dập có vẻ bực tức trước thái độ nhơn nhơn một cách vô tình của Lâm.
-         Là chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt nam anh hùng, là con em nhân dân lao động, là…Lâm bị thủ trưởng cắt ngang:
-         Thôi, thôi, tôi nói để đồng chí biết, bây giờ đồng chí là bí thư chi đoàn, đồng chí phải thật sự gương mẫu trong lời ăn, tiếng nói, trong mọi hành động của mình.
-         Em có nói gì sai đâu! Lâm cãi lại.
-         Đồng chí không nhớ mình vừa hát câu gì à?
-         Đó là một câu ca dao Nam bộ, có nội dung gì phản động đâu?
-         Còn hơn cả phản động, tôi nói cho đồng chí biết, cái câu ca dao, ca thớt gì của đồng chí ấy sặc mùi khiêu dâm. Chẳng lẽ một đồng chí bí thư chi đoàn như đồng chí chỉ đi chọn những người to mông, lớn đít để lấy làm vợ, không quan tâm gì đến lập trường giai cấp, đạo đức tư cách của họ hay sao?
-         Tất nhiên phải xem xét toàn diện, nhưng thật lòng, không biết hồi trẻ thủ trưởng chọn vợ thế nào, chứ đôi khi yêu nhau chỉ vì những cái cảm xúc bất chợt vậy thôi. Mọi cái khác tính sau và cũng dễ cho qua lắm. Thủ trưởng có đồng ý với em rằng người đàn bà hấp dẫn nhất là cái bộ mông và cặp vú không? Dù lập trường giai cấp có cao đến đâu, tư cách đạo đức có tốt đến mấy mà thẳng đuồn đuỗn không mông, chẳng vú, trước sau như một thì chán lắm, ôm cột điện còn hơn. Lâm nói.
-         Càng nói thấy cậu càng tệ, thật là sai lầm khi cử cậu làm bí thư chi đoàn, chính trị viên nói.
Bị thủ trưởng phê bình gay gắt như vậy nhưng bước ra đường mặt hắn lại tươi rói, tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra. Thoáng thấy bóng cô Xuân, cháu ngoại của ông cụ ở cạnh nhà hắn đóng quân, đang đi ngược chiều về phía mình, hắn lại gõ bát thật to và ê a: “ Có trầu mà chẳng có cau, làm sao cho đỏ môi nhau thì làm.” Cô bé này xinh lắm, mười bảy tuổi đang học Trung cấp sư phạm ở thị xã. Ấn tượng nhất trên khuôn mặt trái xoan phin phín lông măng ấy là đôi môi hình trái tim đỏ mọng. Sáng nào Lâm cũng cố tình dậy tập thể dục sớm để được nhìn theo cô đi học. Dưới cái eo thon là đôi mông tròn bóng lên trong chiếc quần ca tăng ôm sát, dập dờn theo mớ tóc dày đen nhánh phủ kín cả làn lưng.
Tối ấy, Lâm quyết định “ đột kích” qua nhà cụ Đoàn (Ông ngoại Xuân). Bố Xuân mất sớm, mẹ tái giá. Xuân về ở với ông bà ngoại. Bà Xuân vừa mất cách đây ít lâu. Cụ Đoàn có hai con trai đều đang tại ngũ. Nhà chỉ có hai ông cháu. Lâm bước vào nhà vừa lúc cụ ăn cơm xong. Xuân đang loay hoay dọn dẹp dưới bếp. Cụ rót nước ra tách nhưng chưa uống, têm thuốc vào nõ điếu rít một hơi dài. Cụ nhìn Lâm qua làn khói thuốc, nói trống không:
-         Ngồi
Lâm luống cuống không dám ngồi lên sập đối diện với cụ bèn ngồi xuống chiếc chõng tre kê vuông thước thợ với chiếc sập. Cụ bê chén nước lên nhìn xéo qua đầu Lâm bảo:
-         Anh uống nước, mặc dù trước mặt Lâm chẳng có khay chén gì. Nhấp nước xong, vẫn cầm cái tách trong tay, cụ hỏi thủng thẳng:
-         Anh đóng quân bên nhà bà Hàn?
-         Vâng, thấy cụ có vẻ vui vui , Lâm muốn bắt đầu câu chuyện, nhưng chưa biết mở đầu ra sao, nhìn thấy cụ cũng có cái đầu trọc giống mình bèn hỏi:
-         Ai cắt cho cụ cái đầu đẹp quá!  Xứ mình nhiệt đới cắt trọc là hợp vệ sinh nhất.
-         Đẹp xấu gì, ông cụ nói, tôi già rồi cốt sao đơn giản, tiện lợi là được chứ có kiểu cách gì đâu. Ra ngồi ở gốc mít bảo thằng cu Đằng nó cạo cho một nhát là xong ấy mà.
-         Vâng, đầu trọc tiện lắm cụ ạ! Cả xóm này chỉ có cụ và cháu là hai thằng đầu trọc thôi đấy!
Cụ Đoàn đặt mạnh chiếc tách xuống khay, nhìn thẳng vào mặt Lâm hỏi:
-         Thế anh là con cái nhà ai? Quê quán ở đâu?
Lâm chưa nhận ra cái thớ lợ của mình, cứ tưởng là cụ đã duyệt và bắt đầu thẩm vấn lí lịch bèn tuôn ra:
-         Dạ cháu quê dưới mạn X, cháu thuộc thành phần cố nông, bố cháu mất sớm, Gia đình cháu vất…
-         Thôi, thôi, không cần nói nhiều tôi cũng biết anh thuộc thành phần cố nông, không có cha! Ông cụ chặn đứng cái sôi nổi đang dâng trào của Lâm.
Thấy Lâm biến sắc mặt và tiu nghỉu như mèo cắt tai, cụ động lòng thương hại, biết mình quá lời khi bảo Lâm “không có cha”, bèn nói:” Cha mất sớm là một điều thiệt thòi lớn, gia đình vất vả là phải. Phấn đấu trưởng thành được như anh bây giờ là khá lắm đấy. Nghe con Xuân nó bảo anh làm bí thư chi đoàn của đại đội hả?”
-         Vâng, Lâm trả lời nhỏ nhẹ.
-         Khá lắm! Cố gắng lên.
 
 
Trong một đợt học tập chính trị, có tên là đợt “Rèn cán, chỉnh quân”, Lâm và Thanh Bình cùng một tổ học tập. Lâm lúc này đã là chính trị viên phó đại đội còn Thanh Bình là trung đội trưởng. Hai người cùng chung trung đoàn nhưng khác tiểu đoàn. Đợt học tập này chủ yếu tập trung vào việc quán triệt, thấm nhuần một cách sâu sắc lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân, chống mọi biểu hiện của tư tưởng phi vô sản. Sau phần nghe quán triệt về nhận thức lí luận do các chính ủy và các cán bộ tuyên huấn cấp trên giới thiệu, phần trọng tâm nhất của đợt học tập này là mỗi người phải liên hệ bản thân,tự kiểm điểm sâu sắc những biểu hiện của tư tưởng tư sản, tư tưởng tiểu tư sản. Lâm và Bình biết nhau từ nhỏ, người cùng làng. Nhà Bình ở phố huyện, bố làm sếp ga, nhà Lâm ở rìa làng và là dân ngụ cư. Biết nhau nhưng chẳng ai chơi với ai, Lâm hơn Bình vài tuổi và đẳng cấp xã hội khác nhau. Lâm nhìn Bình với thái độ đầy mặc cảm. Vào bộ đội, Bình vẫn sống vô tư, hồn nhiên như ngày đi học. Thích chơi đàn ghi ta với các bài nhạc vàng, nhiều lần bị đơn vị đưa ra phê bình, kiểm điểm, thậm chí dọa thi hành kỉ luật về việc này nhưng hắn vẫn không chừa. Hắn hay chọc cười thiên hạ bằng những câu chuyện vô thưởng vô phạt. Ở đâu có hắn là ở đấy có tiếng cười. Những chuyện tếu của hắn đôi lúc cũng có phạm húy, có bị nhắc nhỡ nhưng chẳng có ai để tâm. Bây giờ đi chỉnh huấn nghiêm trang này hắn rất sợ có ai nhớ chuyện, hệ thống hóa lại thành quan điểm, lập trường đem hắn ra mổ xẻ thì gay. Bố hắn lại là viên chức nhỏ của Pháp, nhà có cái ăn, cái mặc.  Làng Sỏi  nghèo đói, xác xơ nằm im lìm sau những lũy tre gầy guộc. Sự kiện lớn nhất mỗi ngày là vài chuyến tầu hỏa hùng hục chạy qua, nhả khói đen sì như những hung thần từ địa ngục hiện về. Tiếng còi tàu khản đặc nghe khắc khoải thê lương! Nơi ấy, người ta nhìn lão sếp của một ga xép như nhìn một vị tướng, một đại quý tộc. Biết vậy, hắn càng lo. Bình cố vắt óc nghĩ ra những khuyết điểm của bản thân về tính mơ hồ trong lập trường giai cấp, về chưa nhận rõ vai trò lãnh đạo tất yếu của giai cấp vô sản. Cố tạo cho mọi người thấy mình rất thành khẩn, rất tự giác nhận ra những sai lầm khuyết điểm của bản thân. Ca ngợi sự sáng suốt của chủ trương tổ chức cuộc chỉnh huấn nhằm bồi dưỡng, nâng cao sức chiến đấu, lập trường cách mạng và ý thức giai cấp cho cán bộ chiến sĩ. Nhưng, cho đến giờ phút này hắn chưa có ý thức gì nhiều về các vấn đề này, chưa nghĩ ra được “đề tài” gì hấp dẫn để báo cáo trong lớp học cả.
Cuộc chỉnh huấn đã bước qua giai đoạn từng cá nhân tự liên hệ kiểm điểm. Hắn nghe mọi người tự kiểm điểm mà run cả người. Hắn biết những người quanh hắn bây giờ phần lớn là nông dân, có người cả đời chưa gặp một người công nhân nào ngoài mấy ông thợ gò, thợ thiếc ngoài phố huyện. Thế mà giờ đây, bản báo cáo nào cũng nói đợt chỉnh huấn này đã giúp họ đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Giúp họ nhận ra chỉ có giai cấp công nhân, người đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến mới có thể lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vô sản trên toàn thế giới, xây dựng thiên đường trên trái đất. Họ thề sẽ quyết chiến đấu đến cùng chống lại các tư tưởng phi vô sản. Phần tự liên hệ, tự kiểm điểm về những khuyết điểm của bản thân từng người mới ghê chứ. Thằng Đoan, chính trị viên trưởng của đại đội Bình đang phát biểu tự kiểm điểm. Đoan nói:
-         Những tư tưởng của giai cấp bóc lột, của tư sản, địa chủ ăn sâu vào tiềm thức, vào cân não của tôi. Nếu không có đợt chỉnh huấn này sẽ không bao giờ tôi tẩy rửa sạch được. Hồi mới lớn, tôi đi ở đợ cho nhà một địa chủ trong vùng. Nhà có ba cô con gái, xinh ơi là xinh. Cô chị trạc bằng tuổi tôi, trông cô hiền lành phúc hậu lắm. Thỉnh thoảng đi thăm đồng, cô ghé lại chỗ tôi, xem tôi làm việc. Những lúc đi qua đám ruộng nước, cô kéo hai ống quần lên để lộ hai cái bắp đùi trắng nõn. Tôi nhìn theo mê mệt. Những buổi trưa như thế, ngồi trên bờ ruộng lấy mo cơm ra nhưng người cứ ngẩn ngẩn, ngơ ngơ không ăn được. Thật lòng, hơn chục năm rồi nhưng bây giờ nhớ lại hình ảnh ấy vẫn thấy ngây ngất. Tôi ngày ước, đêm mơ, hình ảnh của cô cứ đi về trong giấc ngủ. Một đêm tôi nằm mơ thấy ông chủ gọi tôi lên, gả cô ta cho tôi. Tôi được ông cấp cho hai mẫu ruộng và làm cho một ngôi nhà. Tôi thường với vợ đi thăm đồng. Tôi mặc chiếc áo cánh ta trắng muốt, quần cũng trắng muốt như thế. Đi đâu kẻ ăn, người ở đều bẩm cậu, thưa cậu chủ…Cái đêm tân hôn mới sung sướng làm sao. Tôi đang trong cơn cực khoái thì tỉnh giấc, thấy mình vẫn đang nằm trên chiếc chõng tre xiêu vẹo của tên đầy tớ, chiếc quần đùi ướt sũng… Các đồng chí xem cái nọc độc của giai cấp bóc lột nó thấm sâu vào tôi đến như vậy đó. Nếu như điều đó thành hiện thực thì bây giờ tôi là một địa chủ, một kẻ thù giai cấp của các đồng chí. Tôi đã từng mơ ước mình trở thành một địa chủ, một kẻ giàu sang có vợ đẹp con khôn! Giá như hồi đó, chỉ cần cô ả cầm tay tôi cười, cho tôi được đặt tay lên người cô một giây thôi thì cô ta bảo tôi làm gì tôi cũng làm. Nói thật, lúc đó cô ta bảo tôi đi lính Tây tôi cũng đi. Thế đấy các đồng chí ạ! Nhưng điều đáng phê phán hơn cả là ngay trước lúc đi dự lớp tập huấn này, tôi vẫn nghĩ rằng có thể tiêu diệt sạch bọn địa chủ, tư sản nhưng các cô con gái của họ thì phải được bảo vệ chăm sóc chu đáo. Đừng phí phạm một nguồn giống quý hóa như thế, uổng lắm! Mọi người đang ngồi nghe chăm chú bổng xì xào, mấy thanh niên bụm miệng cười. May cho Bình, bản tự kiểm điểm của Đoan khá dài. Bình có thời gian để suy nghĩ về “Đề tài” của mình. Người tự kiểm điểm sau Bình là Lâm. Vẻ lo lắng hiện lên trên nét mặt của hai người. Chắc chắn Lâm còn bí hơn Bình. Lần đầu tiên người ta thấy Bình có vẻ mặt nghiêm túc đến thế!
Bình dặng hắng rồi bắt đầu trình bày bản tự kiểm điểm của mình một cách rất trịnh trọng:
-         Thưa các đồng chí!
Tôi là một thanh niên tiểu tư sản. Thật sự cho đến trước khi đi dự học khóa chính trị này, tôi chưa hiểu gì nhiều về cách mạng, về giai cấp và đấu tranh giai cấp cả. Do đó các đồng chí nổ lực một thì tôi phải nổ lực mười mới theo kịp các đồng chí. Được dự khóa học này tôi sáng ra nhiều điều nhưng nghiêm túc mà nói vẫn còn lơ mơ lắm! Giờ tôi xin liên hệ bản thân về những khuyết điểm của mình. Khuyết điểm của tôi thì nhiều lắm từ tư tưởng, tác phong đến nhận thức. Không đi theo cách mạng thì tôi chỉ là một thanh niên lông bông thôi. Từ nhỏ tôi đã vậy, không biết gì là tình thương yêu giai cấp. Có một lần đi học về, tôi thấy một ông đánh dậm cởi quần áo dấu vào một bụi dứa dại rồi lội xuống nước. Tôi thấy ông mãi mê nơm cá liền lén đến lấy trộm bộ quần áo của ông dấu sang bụi cây bên kia đường. Trời chạng vạng tối. Cuối thu, rét. Ông lom khom lên bờ tìm quần áo nhưng chẳng thấy. Ông lại tụt xuống ngâm mình dưới nước đợi trời tối hẳn mới leo lên bờ. Ông đeo cái nơm và cái oi cá ra trước bụng. Hai bàn tay úp lấy “cái ấy” lom khom chạy về nhà. Bà vợ ông không thấy chồng về , mấy lần chạy ra, chạy vào ngoài ngõ càng làm cho hàng xóm chú ý. Thấy bóng ông từ xa chạy về bà phấn khởi reo lên: “Đây rồi”. Hàng xóm của ông vốn là những người tọc mạch. Thấy ông đã về muộn lại đeo cái nơm đàng trước chạy lom khom, tưởng ông vớ được vàng bạc gì hay đánh được con gì lạ. Người lớn, trẻ con đều túa ra ngõ đón ông. Nào ngờ…Bọn trẻ con ré lên: “ A! Ông Bợt ở truồng…”Thanh Bình đang trình bày, hình như anh đang cố nhịn cười, thì, một tiếng “bốp” vang lên, máu miệng anh chảy ra. Mọi người ngơ ngác. Một tiếng nói nghẹn ngào, nức nở:
-         Mày biết mày đã  làm gì bố tao không? Vì mày mà gia đình tao phải đi tha phương một lần nữa không? Tao ra đường phải cúi mặt vì bọn trẻ cứ chỉ vào mặt tao mà réo: “ Lêu, lêu, con lão ở truồng” không? Lâm rút tay về nhưng vẫn tiếp tục lên án “tội ác” của Bình vừa kể khổ của đời mình.
Chính trị viên Đoan chạy xuống gở Lâm ra nói: “Có nhầm lẫn gì không? Trong lí lịch đảng,  tên bố anh là Bạt cơ mà?”
-         Đúng, bố tôi tên cúng cơm là Bợt, đã nghèo cái tên cũng xấu, để đỡ tủi,  tôi tự khai cho bố mình cái tên là Bạt. Cái chuyện này tôi không bao giờ quên, không bao giờ nhầm được. Tôi không ngờ cái đứa làm chuyện khốn nạn này chính là nó, Lâm nói.
Buổi kiểm điểm cá nhân của tổ hôm đó đến đây bị gián đoạn. Người ta đưa Bình lên trạm xá để băng vết thương. Vết thương nhẹ thôi, có lẽ lúc đó Bình đang nhịn cười, cố mím môi lại thì bị một cái tát, môi dưới chạm vào răng nanh nên gây xước chảy máu. Các cô y tá, y sĩ đang rỗi việc, vớ được một bệnh nhân máu me đầy mặt như thế thì xúm xít lại nào đo huyết áp, tim mạch…Bình nằm lim dim đôi mắt, hai tay sải rộng trên dường, được dịp ngắm các cô y tá trong những chiếc blu trắng tinh tươm. Bình nghĩ thầm: “Cứ nằm đây cải thiện đôi mắt cái đã, mọi việc tính sau”. Thủ trưởng và anh em kéo nhau đến thăm. Bình không ngờ cái tát của Lâm tạo cho anh một tình huống tốt đến thế. Mọi người tỏ ra rất thông cảm. Thủ trưởng đánh giá cao bản tự kiểm điểm rất sâu sắc, thành khẩn của Bình. Bình cứ nằm yên, mắt lim dim nhìn trộm các cô y tá và nhấm nháp những lời chia sẻ đầy ưu ái của đồng đội. Ai hỏi gì anh chỉ trả lời “Bình thường”. Thủ trưởng hỏi: “Đồng chí có thấy nhức đầu không?”-“Sơ sơ thôi”, Bình trả lời. Thủ trưởng đi vào phòng trong trao đổi riêng với đồng chí y sĩ trưởng trạm y tế: “ Tôi thấy thần sắc của cậu Bình không được tốt lắm, nhìn đôi mắt của cậu ta thì biết. Tôi e cậu ta bị chấn thương sọ não, nghe nói cái tát của cậu Lâm mạnh lắm! Có thể khi cậu ta ngã xuống đập đầu vào đâu đấy mà không ai để ý. Các cậu thu xếp, tôi sẽ cho xe đưa cậu ta về bệnh viện K9 cho chạy điện não đồ xem sao? Nếu cần, cứ để đồng chí ấy nằm lại đấy để họ theo dõi cẩn thận…”
Bình lên xe cứu thương. Thủ trưởng trở lại gặp Lâm nói:
-         Tôi thông cảm với đồng chí, trong một hoàn cảnh như thế, đồng chí uất lên, đồng chí căm thù là phải. Nhưng cái sai của đồng chí là hành động căm thù của đồng chí đặt lên không đúng chỗ. Kẻ gây ra nỗi đau cho gia đình đồng chí không phải là đồng chí Bình mà là chế độ thực dân, phong kiến, là địa chủ cường hào, bọn tư sản…Đồng chí Bình bây giờ là đồng chí, đồng đội của chúng ta, cùng cầm súng đứng trong đội ngũ lực lượng nòng cốt của chuyên chính vô sản…Đồng chí nên chủ động ra thăm Bình và xin lỗi cậu ta đi.
Tối ấy Lâm ra thăm Bình. Anh hối hận vì cái tát của mình quá mạnh. Thực tình thì Lâm chẳng “căm thù”, giận dữ gì Bình cả. Cái chuyện ông bố đi nơm cá bị mất quần, ở truồng chạy về nhà ấy Lâm cũng không hề biết và chưa nghe ai nói bao giờ. Bây giờ Lâm mới nghe Bình nói là một nhưng đang lúc bí, sắp đến lượt mình báo cáo mà không biết nói gì nên nhân cơ hội này, “ căm thù giai cấp” bỗng nhiên bốc cao. Lâm như một diễn viên nhập vai quá đạt mới đến nông nỗi này. Nhìn thấy Lâm, Bình tươi hơn hớn chạy ra bắt tay. Lâm ngạc nhiên, nghĩ bụng: “ Thằng cha này lạ! Mình làm hắn đau đớn đến vậy mà hắn lại…Đúng, hắn là một vĩ nhân. Mình căm thù hắn như vậy (Thực tâm mình cũng chỉ giả vờ căm thù thôi chứ ai giận được cái thằng cha ba toác này!) mà hắn lại thân ái, chân tình với mình thế này! Đúng, thằng cha này hành xử cao hơn mình một cái đầu. Oán thù nên giải không nên buộc. Cha ông ta dạy thế. Hay ho gì thù hận mà “khắc cốt ghi xương” mà nuôi hận trong lòng đến “muôn đời, muôn kiếp không tan”. Lâu nay mình vẫn có ấn tượng xấu đối với bọn trí thức, coi họ là người bấp bênh, thiếu tinh thần triệt để cách mạng nhưng quả thật có học có khác, làm việc gì cũng suy trước tính sau, cũng nghĩ đến đạo lí làm người. Mình phải gọi hắn bằng thầy.” Lâm ôm lấy Bình:
-         Cậu có làm sao không? Lâm hỏi.
-         Có gì đâu mà làm sao? Bình nói, lúc ấy tôi đang cố nhịn cười. Mọi người tưởng tôi đang hối hận, xúc động không nói nên lời và quả thật nếu được nói tiếp thì tôi chẳng biết nói gì nữa. Đang lúc ấy thì ông giải thoát cho tôi. Chỉ xước nhẹ cái môi, chảy tí máu thôi, có gì đâu mà…
-         Ở nhà đồn ầm cậu bị chấn thương sọ não! Họ bảo tớ tàn nhẫn quá, muốn tỏ ra mình có tinh thần giác ngộ giai cấp cao, có lòng căm thù sâu sắc. Họ nghĩ tớ mót được đề bạt, được lên chức, lên quyền nên không nghĩ gì đến tình người…Lâm rơm rớm nước mắt, cậu thế này là mình yên tâm rồi.
Bình cười hồn hậu ôm chặt lấy Lâm: “Tôi phải cảm ơn ông mới phải chứ! Được nằm tĩnh dưỡng một mình một phòng, nào đường, nào sữa…Mấy em y tá cứ tíu tít bên cạnh…”
 Cô nào cũng hỏi: “Anh thấy đau chỗ nào.” Mình giả vờ nhăn nhó:
-         Đau, đau lắm!
Các cô hoảng hốt hỏi, đặt tay lên trán, lên ngực mình, nghe mát rười rượi. Hỏi dồn, hốt hoảng:
-         Đau chỗ nào, có nói mới biết, mới có phương pháp điều trị chứ?
-         Đau chỗ khó nói lắm nhưng dễ điều trị thôi,  không chết đâu mà lo.
Một cô xuýt xoa tỏ vẻ thương cảm mình, vừa hỏi: “Hôm qua anh có ngủ được không?” vừa xoa hai bàn chân mình rồi xoa lên bắp đùi..Mình kêu lên: “Ấy, ấy…đau chỗ ấy đấy!” Cô ta bảo:  “Đây à?” – “Không, không, trên tí nữa…trên nữa…” Mình vừa nói vừa giả vờ rên. Cô ta đấm vào đùi mình rõ đau (đau hơn cái tát của cậu ấy):  “Phải gió ạ!”, Nguýt dài một cái rồi bỏ đi. Lâm cười sặc sụa, nói:
-         Nói thật với cậu, hôm ấy tớ bí quá, chẳng biết nói gì. Nhà mình nghèo thật nhưng có bị ai bóc lột trực tiếp đâu. Cả làng đều nghèo xác xơ thế cả. Tớ chẳng biết tố khổ ai, tố khổ điều gì. Cậu còn có tài bịa chuyện, tớ thì chịu.
Bình cười bảo:
-         Cái chuyện dấu quần ông đánh dậm là có thật. Tớ với thằng Lượng đi học về, thấy một ông đi đánh dậm đang cởi áo quần dấu vào bụi dứa dại…chuyện như tớ kể trong buổi kiểm điểm không thêm thắt điều gì. Hai đứa, tớ và thằng Lượng đến ngồi nấp sau một bụi xương rồng, thấy ông ta đã ra xa bờ bèn lén đến đem sang bên kia đường dấu đi. Hai đứa trở về bụi xương rồng ngồi đợi ông ta lên bờ. Thấy ông ta ở truồng tồng ngồng nghiêng chỗ nọ, ngó chỗ kia thì cười ngặt nghẽo. Tìm không được, lại thấy bóng mấy người đàn bà đi lại, ông vội tụt xuống ruộng. Bọn tớ lại được một dịp cười như nắc nẻ nữa rồi tớ bảo thằng Lượng chạy lại mách ông chỗ dấu quần. Ông chỉ lầu bầu: “Cha bố cái thằng nào nghịch như quỷ sứ thế này” rồi mặc quần áo ra về. Chuyện chỉ có thế thôi, phần sau là tớ bịa. Để cho người ta tin thì phải có địa chỉ, có tên, có tuổi, có chuyện bà vợ chạy ra ngõ ngóng…Thế tớ mới gán cái tên bố cậu vào chứ có biết cái ông đánh dậm ấy là ai đâu.
-          Tớ chắc chắn không phải là bố tớ. Tớ chưa bao giờ nghe ông ấy nói tí gì về chuyện này. Mà, bố tớ không bao giờ đi đánh dậm buổi chiều tối. Ông ấy bảo đi đánh buổi tối dễ gặp rắn độc nguy hiểm lắm! Nhưng, chuyện thế cũng là may cho tớ. Nếu không có cái câu chuyện ấy của cậu thì tớ lấy gì để báo cáo trong cuộc kiểm điểm. Thôi cậu cố chịu đau tí vậy.
-         Thế sau khi đưa tớ lên trạm xá, buổi kiểm điểm của tổ ta giải tán, cậu không phải báo cáo gì thêm nữa hả?
-         Tổ thì giải tán nhưng tớ thì phải báo cáo, kể lể sự tình bi thương mấy đời của gia đình tớ với các vị cấp trên phụ trách đợt chỉnh huấn khi họ đến tìm hiểu sự việc. Tớ nói rất lâm li, mà lúc đó sao tớ nói hay thế. Thực chất là tớ muốn chạy tội, nếu cậu có mệnh hệ nào thì người ta thông cảm cho. Cốt làm cho họ hiểu một con người chịu nhiều đau khổ, dồn nén nhiều uất ức do xã hội cũ gây ra như thế thì có quá khích một chút cũng là điều tất nhiên. Nếu cậu chết thật do cú đánh của tớ thì họ vẫn khoanh vào lí lịch tớ một điểm son, dù bây giờ họ có phê bình tớ dăm ba câu.
-         Ghê nhỉ! Cậu có một lí lịch “gà nòi” thế kia mà mình không biết. Nếu nói khổ thì toàn dân của cái làng Sỏi này chả có ai sướng, cả cái huyện Dương Đài này may ra có vài nhà đủ ăn đủ mặc như nhà ông Lê Thúc Hoằng còn lại thì nghèo rớt mùng tơi..
-         Không, cậu không hiểu được cái khổ của tớ đâu! Tớ người gốc ở làng Võ Vàng, bốn đời ở đấy. Bố tớ cũng sinh ra lớn lên ở đấy, lấy mẹ tớ rồi hai ông bà đi ăn mày và đến tá túc ở cái rìa làng Sỏi ấy..
Nghe đến “người làng Võ Vàng”, Bình giật mình, thốt lên: “ Thật không? Tưởng cái làng ấy chỉ có trong huyền thoại té ra có thật hả?”
- Tớ cũng chỉ được bố  tớ kể lại và chỉ tay về cái rặng núi xa mờ nơi chân trời góc bể kia rồi bảo: “ Làng Võ Vàng ở đấy! Gốc gác dòng dõi mình ở đấy! Xương cốt tổ tiên mình chôn vùi ở đấy!” Không bao giờ ông nhắc đến chuyện về thăm lại quê hương, tìm lại cội nguồn. Mỗi lần nghe mình hỏi đến chuyện làng Võ Vàng, đôi mắt ông như mờ đi. Ông đưa mắt nhìn ra bãi cát trắng mênh mông với một nỗi buồn khắc khoải. Hình như cả cái làng này, cả huyện này chỉ có mình ông biết rõ về cái làng Võ Vàng nhưng ông dấu biệt không cho ai biết gốc tích của mình, còn lại thì chỉ là truyền khẩu theo kiểu: ông bảo cho cha, cha nói với con, người con chỉ cho người cháu. Rồi mỗi thế hệ cứ tùy hứng mà thêm thắt vào cho li kỳ, hấp dẫn, cả những chuyện rùng rợn tùy theo trí tưởng tượng của mỗi người. Ai cũng nói những chuyện rành rành như mình đã từng sinh ra, lớn lên ở đấy.  Rồi, với một động tác có tính bản năng, di truyền, họ chỉ tay nói với thế hệ sau rằng: “Cái vệt màu xanh mơ màng sau những động cát như núi ấy là làng Võ Vàng đấy!”
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
2
 
 
 
 
Khi trong phòng chỉ còn lại hai người, Lâm ngồi xích lại gần Bình hỏi khẽ:
-         Nếu bây giờ cho cậu được thật sự tự do, cậu sẽ nói gì?
-         Nghe câu hỏi của cậu, tớ biết cậu chưa hiểu thế nào là tự do cả. Tự do không tồn tại ở dạng “nếu”, không ai có được tự do thật sự trên một nền tự do giả sử. Nếu một con người bị nhốt trong cái lồng tối tăm lâu dài của một môi trường xã hội không có dân chủ thì cái bản ngã của anh ta, cái mà anh ta cho là cả vũ trụ ấy, cái tự do mà anh ta vẫy vùng cũng chỉ hạn hẹp và đen tối như vậy thôi!
 Thấy Lâm ngơ ngác, tỏ ý chưa hiểu, Bình kể cho Lâm nghe chuyện hai chú ếch: “Một chú ếch già cả đời sống trong cái giếng sâu. Chú ta thấy cái giếng của mình là một thiên đường bao la có cả đất, nước, trăng sao. Chú ta tự do vẫy vùng có vẻ thỏa chí bình sinh lắm. Một ngày nọ, có một chú ếch sống ở biển vào thăm. Ếch giếng, với giọng đầy kẻ cả hỏi:
-         Biển của chú có rộng bằng một phần tư cái giếng của ta không?
 Ếch biển cười. Cái cười đầy vẻ chế nhạo. Ếch giếng biết ếch biển nhạo báng mình bèn kiêu căng nhếch mép:
                  -    Bằng một nửa cái giếng của ta chắc?
                  -    To, to lắm, đến cả cái giếng của ông cũng không so sánh nổi!
 Ếch giếng không tin, đòi ra biển để xem. Đến nơi, anh ta bị một cú xốc kinh hoàng và bị nổ tung thành trăm mảnh!
 Dân chủ là cái nôi, là biển cả của tự do, nếu không có dân chủ thì không bao giờ có tự do  cả! Có chăng, đó là thứ tự do dưới đáy giếng.
 Người dân khi thực sự có dân chủ trong tay, họ sẽ tạo nên một cơ cấu quyền lực, một thiết chế xã hội, một hệ thống luật pháp nhằm đảm bảo sự tự do và công bằng xã hội.
-         Lập luận như cậu thì để giữ chặt quyền lợi của mình, kẻ thống trị phải bóp nghẹt dân chủ, dại gì đi ban phát tự do, dân chủ cho dân chúng? Lâm hỏi rồi nói tiếp: “ Có phải khi họ trao tự do dân chủ cho dân chúng là họ đã nhượng bộ, đã tự nguyện đi đến chỗ diệt vong?”
-         Không, không bao giờ! “Giai cấp thống trị không tự nguyện đi đến chỗ diệt vong”. Đó là một luận điểm cách mạng quan trọng của Lê-nin. Và nếu được nói, tôi sẽ thêm vào: “Một tập đoàn, một cá nhân thống trị cũng không bao giờ tự nguyện đi đến chỗ diệt vong.” Adams nhà hoạt động dân chủ nổi tiếng của Mỹ, ngay từ thời lập quốc, đã cùng với các cộng sự nhiệt huyết của mình đưa ra những tuyên ngôn nổi tiếng về các quyền tự do, dân chủ, bình đẳng của con người: “Mỗi người dân thường, và tất cả mọi người trên trái đất này đều có quyền tự trị.” Họ coi các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng là các quyền tự nhiên của con người. Bản tuyên ngôn nhân quyền – một phần của bản Hiến pháp Mỹ đã nêu rõ và chi tiết hóa các quyền này. Nhưng, chỉ sau đó ít lâu khi Adams đắc cử tổng thống, ông đã ban hành “Đạo luật Nổi loạn”  cấm việc viết, nói hay xuất bản bất cứ nội dung giả dối, xúc phạm và ác ý chống lại tổng thống hay quốc hội.  Cái đạo luật ấy được ban hành ở nước Mỹ cách đây đã ba trăm năm và nó chỉ tồn tại được hai năm, bị nhân dân chống lại và phải hủy bỏ. Nếu giai cấp thống trị muốn gì cũng được thì  chắc đến bây giờ loài người vẫn còn sống trong chế độ nô lệ! Na-pô-lê-ông bắn đại bác vào các đoàn biểu tình đòi tự do dân chủ, dùng súng và lưỡi lê mở cuộc chiến tranh tổng lực khắp châu Âu để duy trì vương quyền của mình nhưng chế độ độc tài của ông vẫn sụp đổ thảm hại. Minh Trị Thiên hoàng thuận dòng lịch sử, tự nguyện trao lại vương quyền cho nhân dân mở đường cho Nhật Bản đi lên con đường dân chủ, tiến bộ theo thể chế quân chủ lập hiến. Thiên Hoàng sống mãi trong lòng dân và quyền lợi của hoàng tộc vẫn được đảm bảo bởi những định chế xã hội trên nguyên tắc dân chủ …!
 Đang nói say sưa, Bình dừng lại hỏi Lâm:
                  - Đợt chỉnh huấn của chúng ta còn kéo dài bao lâu nữa nhỉ?
-         Đến hết thứ sáu, thứ bảy tổng kết, liên hoan. Nghe nói tối thứ bẩy được xem bộ phim nổi tiếng nhất của Trung Quốc “Bạch Mao nữ đấy!” Ông cố ra viện kịp mà xem !
-         Tôi xem mấy lần rồi! Lần nào cũng có chuyện bộ đội ta dùng súng bắn tên địa chủ trên màn ảnh rồi ngất đi vì căm thù bọn bóc lột…Nghe đâu bây giờ đi xem các phim loại này trên quy định không được mang súng theo. Vừa rồi, nghe các bản báo cáo liên hệ kiểm điểm trong đợt học tập này ông thấy thế nào?
Lâm ngồi yên một lúc rồi nói:
-         Bản báo cáo của Thằng Đoan được coi là sâu sắc nhất, thành khẩn nhất nhưng nói thật…Lâm nhìn Bình ngập ngừng, hắn vẫn thích lấy cô con gái địa chủ kia lắm đấy. Nếu được làm con rể địa chủ, được trở thành tên địa chủ nhỏ chắc hắn khoái hơn đi làm chính trị viên đại đội này. Hắn thường than thở vợ hắn xấu lắm, được cái thành phần cơ bản và quan điểm lập trường tốt.
-         Mình chưa có vợ, không biết khi ôm nhau ngủ thì cái lập trường quan điểm nó thể hiện ra ở chỗ nào nhỉ. Bình vừa cười vừa nói.
-         Thôi ông ơi! Đã rách cả miệng ra mà vẫn chưa chừa. Còn hóm còn khổ đấy chú em !
 
 
*
*     *
Lâm vừa trở về đơn vị thì chính ủy Hồng Trường cũng vừa đến. Ông hỏi qua loa về tình hình của Bình rồi vui vẻ hỏi:
-         Cậu chính quê ở làng Võ Vàng hả?
Lâm bối rối như người phạm tội bị phát hiện, lắp bắp trả lời:
-         Em không sinh ra ở đấy nhưng  quê bố em ở đấy!
-         Cậu có biết gì về cái vùng đất ấy không?
-         Chỉ nghe bố em nói sơ sơ còn em chưa bao giờ đến đấy!
-         Hay lắm! Sau này chiến tranh kết thúc, có dịp tớ sẽ viết một quyển sách nói về cái vùng đất huyền thoại này. Ông chăm chú nhìn nét mặt của Lâm- nét mặt lầm lì bất biến. Chính ủy nói tiếp:
-         Tớ đã sống ở đấy!
Lâm ngước mắt nhìn ông. Nét mặt như biến dạng. “Thật à?”, anh kêu lên.
-         Đầu năm 1948, ông chậm rãi kể, đơn vị du kích của tớ đang hoạt động bên Phù Vân bị giặc truy đuổi ráo riết. Tớ và cả tiểu đội du kích vượt qua vùng đầm lầy trốn vào khu rừng Võ Vàng, tá túc ở đấy hơn hai tuần lễ mới tìm được lối về. Khu rừng ấy theo bản đồ địa chính thuộc huyện Dương Đài nhưng nó cách xa trung tâm huyện hơn chục cây số bằng những động cát, có thể gọi là núi cát khổng lồ. Phía đông là biển sâu. Một dãy núi đá cao sừng sững án ngữ. Còn phía Nam nơi đơn vị du kích tớ hoạt động là phủ Phù Vân, cách li với phủ Dương Đài bởi một đầm phá, sình lầy rất rộng. Phía Tây là một con sông nhỏ và một cánh đồng hoang hẹp. Cánh đồng hẹp nhưng cấu tạo địa hình rất kì lạ. Nó bao gồm những túi bùn khổng lồ, dưới đáy là đá tổ ong. Có chỗ sâu ngập con sào, có chỗ quá thắt lưng…Có những con trâu vì quá mải ăn, bị lún xuống không lên được và chết vùi ở đấy.
-         Thủ trưởng có còn gặp ai ở đấy không? Lâm sốt ruột hỏi.
-          Có, một bà cụ già, bà già lắm nhưng còn rất minh mẫn. Cụ bảo:
-         Xưa đây cũng là một làng trù phú. Quan bất sai, lại bất vấn. Các quan nha không ai bén mảng đến. Họ coi đây chỉ là một cánh rừng, không muốn biết ở đây có con  người, con vật gì sinh sống. Họ không muốn dây vào bọn đầu trộm đuôi cướp- như họ vẫn nói thế. Làm quan, người ta chỉ thích đến những nơi bóng môi, nặng túi, căng bụng, chứ đến đây chẳng có cái củ mốc gì mà không khéo lại bỏ xác nên họ đánh bài lờ. Họ cũng không dám báo cáo lên trên vì sợ bị đánh giá là thiếu khả năng cai trị để tình trạng trộm cướp xảy ra. Còn dân trong vùng, nghe đến mấy tiếng làng Võ Vàng là co rúm người lại. Mỗi lần nhà ai có trộm là họ chỉ biết la lên, đánh mõ, đánh vào những thứ có thể phát ra tiếng kêu rồi thắp đèn lên ngồi canh đến sáng, không ai dám xông ra khỏi nhà đuổi theo vì họ biết đó là những tên trộm làng Võ Vàng!
Làng này xưa chỉ có hai đẳng cấp: Ăn trộm và ăn mày. Ăn trộm thuộc đẳng cấp cao sang, tựa như giới quý tộc, giới hiệp sĩ trong xã hội phương Tây trước đây.  Họ nắm quyền cai trị cái làng này. Còn những người không có gan đi ăn trộm, không có kĩ năng ăn trộm hoặc vốn dĩ trời sinh ra đã có cái đức thiện lương không chịu làm cái nghề thất đức ấy thì phải đi ăn mày. Trong nhà dù có đủ ăn cũng phải bị gậy lang thang khắp chốn cùng quê đi ăn xin. Họ thuộc tầng lớp bị trị, phải chịu sự sai khiến của phái ăn trộm, phải làm mọi việc phu đài tạp dịch cho làng. Qua nhiều thế hệ như vậy, dấu ấn “giai cấp” được khắc sâu trên khuôn mặt của từng con người thuộc các giai tằng khác nhau. Ra đường gặp những kẻ mặt cúi gằm xuống đất, đôi mắt lim dim không dám mở to khi nhìn ai thì biết chắc họ là ăn mày, tầng lớp bị trị. Còn những kẻ mặt vác lên trời, đôi mắt lấc láo, nói năng bặm trợn, coi trời bằng vung… ấy là bọn trộm.
-         Cụ có nói gì về cội nguồn của cái làng này không? Lâm hỏi.
-         Có chứ! thú vị nhất, đáng quan tâm nhất đối với những nhà xã hội học, các nhà sinh vật học là ở cái đoạn này!
Lâm ngồi yên, đăm đăm nhìn vào mắt chính ủy Hồng Trường  chờ đợi ông nói tiếp.
-         Có điều lạ, nó phủ nhận cái học thuyết di truyền của Đác Uynh, ông thủng thẳng nói tiếp: “ Ông tổ của cái làng trộm này là một quan đại thần, có tên tuổi hẳn hoi và đang được thờ phụng rất long trọng ở đây…”
Lâm nhấp nhổm như không thể chờ đợi được nữa, muốn được nghe tiếp để biết cái cội nguồn bí hiểm của mình ra sao.
Chính ủy hắng giọng, nuốt nước bọt, nhìn Lâm định nói tiếp thì anh đứng dậy: “xin lỗi, xin lỗi thủ trưởng! Em không kịp lấy nước mời thủ trưởng!” Chính ủy cười nhìn theo cái dáng đi vội vã của Lâm. Ông tiếp tục câu chuyện của mình:
-         Người đầu tiên đến làng này lập nghiệp là Ngài Mạc Lân. Bà cụ cũng không biết chắc ông ta thuộc dân tộc nào. Có người bảo ông người Chăm, có người lại bảo ông là người Chân lạp, người Xiêm…Bà cụ là hậu duệ đời thứ tư. Khi bà lớn lên, có trí nhớ đến giờ, dân cả vùng biết đến Ngài với cái danh xưng Uy Vương. Nhà vua đã thu dụng ngài trong một trận ác chiến với quân xâm lược ngoại bang. Lúc bấy giờ, ngài là quan lo việc lương thảo cho một đội quân khổng lồ xâm lược An nam. Ngài bị quân An Nam bắt, trước uy lực và đức độ của Nhà vua , Mạc Lân xin hàng và được làm người hầu hạ dưới trướng Người. Nhìn nét mặt quắc thước, đối đáp mẫn tiệp và khí phách của Mạc Lân, đức vua rất hài lòng thu nạp ông. Ông phò vua, lập được nhiều công trạng, được phong hàm tam phẩm, giao cho quản lí kho ngân khố của nhà vua. Thời ấy ở kinh đô có hai tên trộm khét tiếng là Văn Tấn và Văn Tần. Cả hai đều tài trí và sức khỏe hơn người, võ nghệ siêu phàm. Đã mấy lần chúng đột nhập vào cung lấy trộm của cải trong kho. Mạc Lân lập mưu bắt được, ông tha tội chết cho chúng. Hai tên rập đầu lạy tạ và thề trọn đời xin làm thân trâu ngựa, chịu sự sai khiến của ông để đền ơn cứu mạng. Mạc Lân giao cho chúng nhiệm vụ cai quản vòng ngoài, phát hiện cho ông những tên trộm cắp ở kinh thành. Từ đấy không còn một tên trộm nào dám lai vãng. Kinh thành sống trong cảnh bình yên. Nhà Vua lấy làm đắc ý vì đã dám tin dùng một kẻ ngoại bang làm quan trọng thần. Khi quyết định việc này, nhà vua biết Mạc Lân là người trọng nghĩa khinh tài, hơn nữa ông không có vợ con, họ mạc ở đây, không lo ông bòn rút công khố làm giàu cho gia đình mình, họ mạc mình. Vua sợ cái triết lí đã ăn sâu vào hàng ngũ quan lại Việt Nam: “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Vua cha mất. Thế tử lên nối ngôi. Vị Vua trẻ này chìm đắm trong tửu sắc. Ngai vàng và gái đẹp là hai thứ không thể mất, còn giang sơn xã tắc, bách tính, lê dân…chỉ là rơm rác. Bọn gian thần được tin dùng! Mạc Lân biết triều đình bây giờ là nơi của bọn gián, bọn chuột này, không còn chỗ dung thân cho mình. Ông bàn với Văn Tấn, Văn Tần trốn khỏi Hoàng cung, mang theo vô số vàng bạc, châu báu để hộ thân. Ba người xuống thuyền. Thuộc lối, quen đường, Văn Tấn, Văn Tần đưa ông đến vùng đất Võ Vàng. Chỉ có những tên trộm cướp chuyên nghiệp mới biết được cái hang núi hiểm trở nối liền khu rừng Võ Vàng với vùng biển sâu hiểm trở này. Thuyền luồn lách giữa những mỏm núi nhọn hoắt nhô cao khỏi mặt biển hàng chục mét, rẽ theo một lạch nước hẹp rất sâu đi vào một hang động khổng lồ. Một con đường đá nhỏ, gập ghềnh, dựng đứng dẫn họ đi vào khu rừng thâm u đầy tính huyền thoại. Xưa, đây là hang ổ của bọn cướp biển. Mạc Lân thu nạp chúng và phân thành hai đạo do hai đầu lĩnh Văn Tấn và Văn Tần chỉ huy. Ông tụ tập mọi người lại và dạy rằng: “Ăn trộm là nghề của chúng ta. Người ăn trộm phải có nhân: không được giết người trong bất cứ tình huống nào. Chỉ được lấy trộm của nhà giàu không được lấy trộm của người nghèo khó. Người ăn trộm phải có nghĩa: phải tuyệt đối trung thành với chủ, hết tình che chở đùm bọc đồng đội, không được bỏ rơi đồng đội khi gặp khó khăn, không được thoát thân một mình. Phải có dũng: dám xông vào nhà trước và đi ra sau cùng. Phải có trí: biết nhà nào nên vào, nhà nào không, hoàn cảnh nào nên đột nhập, hoàn cảnh nào nên rút lui. Ăn trộm nhưng không làm cho người bị trộm phải khánh kiệt, hết phương kiếm sống, đó là Đức. Đạo đức của thánh hiền là vậy. Đã là người, từ vua cho đến thứ dân, đến thằng ăn trộm đều phải hành xử theo đạo ấy. Ta sống được là nhờ có nhà giàu. Họ giàu có vì họ có trí tuệ hơn ta. Họ chịu lao động một cách kiên nhẫn và cần cù. Họ biết tiết kiệm mới có thể trở thành giàu có. Ta cũng muốn trở thành người giàu có nên mới xả thân đi ăn trộm. Ta làm giàu bằng con đường bất chính. Ta không bằng họ về mọi nhẽ. Nhà giàu có thể coi ta là kẻ thù nhưng ta mãi mãi coi họ là bạn. Khi cần xả thân để bảo vệ họ ta vẫn làm…” Ông kể tiếp một câu chuyện xưa để giáo dục sĩ tốt của mình:
-         Vua nước Tấn có con ngựa quý bị bọn trộm bắt làm thịt ăn dưới núi. Các tướng định đem quân vây bắt và giết bọn trộm. Vua Tấn bảo : “ không được” rồi sai người mang rượu ngon đến chân núi bảo với bọn trộm rằng: “Nhà vua biết các ngươi đang ăn thịt ngựa nhưng không có rượu, sợ mất ngon nên sai chúng ta đem rượu ngon đến cho các ngươi đây!” Bọn trộm cảm kích sụp lạy, có đứa dập đầu khóc đến máu me đầy mặt…Về sau, một lần vua đi săn trong rừng bị bọn phản nghịch vây bắt định giết vua để cướp ngôi. Toán trộm này đã liều chết xông vào đánh tan bọn phản nghịch, cứu nhà vua thoát nạn. Vua lấy nhân đức mà cai trị thiên hạ, dân vì nghĩa nặng ơn sâu mà hết lòng trung, đó là một xã hội thái hòa.
Chính ủy đang nói say sưa, Lâm chen vào:
-         Hồi chính ủy đến đấy dân làng có còn ai ngoài bà cụ?
-         Chẳng còn ai, chính ủy nói, theo lời bà cụ, sau cách mạng tháng Tám, mọi người nghĩ rằng ăn trộm, ăn mày đều là những phần tử ăn bám xấu xa nên tìm cách bỏ làng ra đi và dấu biệt tung tích của mình, chỉ mình bà cụ ở lại trông nom mồ mả, hương khói cho tổ tiên. Cụ cho biết theo tập tục của làng này, đàn ông phải lo đi ăn trộm, sống rày, chết mai nên đàn bà phải lo việc thờ cúng. Trước khi mọi người rời khỏi làng, họ chung sức làm cho cụ một ngôi mộ rất kiên cố. Trong quan tài có sẳn chăn đệm, cụ có thể vào đó ngủ yên. Nắp quan tài được gắn vào một mái nghiêng lợp đá, có trụ chống. Khi nào cụ thấy mình không còn sống được nữa thì chỉ việc nằm vào quan tài kéo đổ trụ chống là xong! Chính ủy hiểu sự sốt ruột của Lâm bèn hỏi:
-         Cậu họ Đặng hả? Ông tổ của cậu là Đặng Hiếu Định, Văn thần của triều đình Uy Vương phải không? Mộ tổ của cậu to lắm! Chính ủy nói.
Mặt Lâm tái đi, chối đây đẩy:
-         Cụ tổ em là một nhà nho lỡ vận phải đi ăn mày, lạc đến vùng này, làm gì có chuyện văn thần, võ tướng gì đâu!
Chính ủy cười: “ Tớ biết, tớ biết! Bà cụ kể lại chuyện này rành mạch lắm. Tớ nói văn thần là nói theo lời khắc trên bia mộ của cụ: “Văn thần Đặng Hiếu Định…” Bia mộ ấy hiện còn ở làng Võ Vàng đấy! Bà cụ cũng tự xưng mình là quận chúa Ksan hậu duệ đời thứ tư của Uy Vương cơ mà!”
-         Bố em mỗi khi nhắc đến Mạc Lân cũng một điều chúa công, hai điều chúa công đấy thủ trưởng ạ! Lâm nói.
-         Bà cụ kể về văn thần Đặng Hiếu Định với những lời lẽ hết sức trân trọng.  Mộ của cụ là ngôi duy nhất được xây bằng đá, được dân làng hương khói quanh năm. Chính ủy Hồng Trường nói.
-         Thế mộ của Uy vương thì thế nào? Lâm hỏi.
-         Đây là một câu chuyện thú vị mà tớ chưa từng được nghe trước đó, Hồng Trường nói rồi hỏi Lâm:
-         Cậu đã nghe ai nói về tục “Mộc táng” chưa?
-         Có chuyện thế cơ à? Lâm hỏi, họ làm cách nào hở thủ trưởng?
-         Chỉ có những người đàn ông chức sắc thuộc dòng tộc Mạc Lân mới được mai táng theo hình thức này. Họ chọn những cây to, khoét rỗng gốc, đặt người chết ở tư thế ngồi, nhồi đất vào rồi lấy ván đóng nắp lại, đắp đất quanh gốc lên cao, có khi còn chất đá vòng quanh gốc cây. Ở vùng rừng này có một loại cây lạ. Cây thuộc họ dầu. Thân to mấy người ôm không xuể. Người địa phương gọi là cây Tờ- rai. Mộ của Mạc Lân (Uy vương) được táng trong một gốc cây như vậy. Quanh mộ người ta trồng cây dứa dại. Qua nhiều đời, thân cây dứa quấn vào nhau như rồng chầu trông rất trang nghiêm. Tương truyền sau khi mai táng Mạc Lân được một năm thì cây Tờ-rai bỗng xanh tốt khác thường. Năm ấy cây trổ hoa màu vàng thơm nưng nức cả một vùng. Dân làng dựng rạp, mổ dê, bò lợn cúng trong bảy ngày nhân dịp giỗ đầu ông. Cây Tơ-rai nở hoa là báo hiệu điềm lành cho làng. Tiếng đồn về Mạc Lân và làng Võ Vàng vang xa gây bất an cho triều đình. Vua sai một vị tướng dẫn hai ngàn quân kị mã tiến ra Dương Đài, vượt qua các núi cát đi về làng Võ Vàng. Cát ngập vó ngựa, lại đang giữa mùa hè, nắng như đổ lửa. Cát nóng đến nỗi ngô rơi xuống cát là thành bỏng ngay tức thì. Ngựa chết khát, chết nóng quá nửa. Vị tướng rút gươm gào thét nhưng quân kị không thể nào tiến lên được. Đang giữa trưa, trời bỗng trở cơn giông, mây đen kéo đến đen nghịt, sấm chớp nhằng nhịt lưng trời. Vị tướng giáp trụ uy nghi leo lên đỉnh cao quan sát. Bỗng, một tiếng sét xé trời, xác viên tướng chỉ còn là một đống than đen sì. Quân sĩ bỏ chạy tán loạn. Người ta càng tin Mạc Lân là con trời, không được ai đụng đến. Ít lâu sau Mạc Lân mất. Người con trưởng của Mạc Lân là Mạc Giá kế nghiệp. Hiếu Định xui Giá xưng vương. Giá nói:
-         Tài lực chưa đủ không nên làm.
Hiếu Định thưa:
-         Làm vua không cần nhiều tài, lực, chỉ cần có uy , có đức là được.
-         Thế nào là uy? Giá hỏi.
-         Uy bao gồm uy tín, uy lực rồi đến uy danh. Uy tín là ở chỗ: mình nói dân tin và nghe theo. Mình hành động, dân cho là đúng và làm theo. Uy tín tạo ra uy lực. Có uy tín, uy lực sẽ nổi uy danh. Dùng uy danh để cai trị thiên hạ. Định thưa.
Giá cười, nói:
-         Anh đúng là một cậu học trò! Uy lực tạo ra tất cả. Không có giáo nhọn kiếm sắc, không có những mãnh hổ làm tướng làm gì có ngai vàng! Không có ngục tù để bọn nhà nho các anh tự tung, tự tác đi ru ngủ quần chúng thì lời nói của vua cũng hết thiêng. Dân chẳng còn biết sợ mà làm theo lời vua .
-         Xin chúa công nghĩ thêm về những lời khuyên của Khổng tử về kế sách trị nước.
-         Kế sách thế nào? Ngươi toàn nói những chuyện cao xa!
-          Thầy Tử Cống hỏi Khổng tử về phép cai trị, những điều kiện đàm bảo cho dân an, nước giàu, giữ yên bờ cõi. Khổng tử bảo phải có ba điều: “Có binh lực mạnh, có lương thực đủ, có lòng tin của dân chúng”.(Túc thực, túc binh, dân tín chi hỹ) Tử Cống lại hỏi:
-         Vạn bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều kiện thì ta bỏ điều kiện nào?
-         Bỏ binh lực, không ngần ngại Khổng tử trả lời.
Rất ngạc nhiên về câu trả lời của Khổng tử, Tử Cống lại gặng:
-         Nếu phải bỏ đi hai điều kiện, chỉ giữ được một thôi thì ta bỏ thêm điều gì nữa?
-         Lương thực, Khổng tử trả lời.
Nét mặt Mạc Giá chưa hết băn khoăn, Hiếu Định thưa:
-         Có lòng tin của dân chúng sẽ có tất cả. Trong sử sách xưa nay, chưa có một vương triều nào giữ được ngai vàng lâu bền bằng cách sử dụng nhà tù và gông cùm cả.
 Mạc Giá làm  theo kế sách của Đặng Hiếu Định, xưng vương lấy hiệu là Nghi Vương, truy phong cha làm Uy vương. Các tùy tùng hộ giá tùy theo “tài năng và công tích” đều được phong văn hầu, võ tướng. Văn Hầu Đặng Hiếu Định được cử giữ chức quan đầu triều lo toan mọi việc triều chính giúp Nghi Vương.
Văn Hầu tâu Nghi Vương về những việc đầu tiên cần làm là mở trường dạy học và xây dựng quy cách về lễ nghi. Nghi Vương hỏi:
-         Dạy gì, học gì, thờ ai?
Văn Hầu tâu:
-         Không theo nếp cũ, chỉ dạy cho dân cái gì cần biết, cái cần biết ấy phải có lợi cho việc củng cố vương triều của ta!
-         Thờ ai? Nghi Vương lại hỏi.
-         Không theo nếp cũ, thờ trời, thờ Phật không bằng thờ ta!
-         Ngươi muốn nói thờ Uy Vương? Nghi Vương hỏi.
-         Sợ không bền! Văn Hầu trả lời.
-         Thờ ai cho bền? Nghi Vương hỏi.
-         Thờ kẻ thù của Uy Vương! Văn Hầu trả lời.
-         Ta chưa nghe ai nói, ai làm cái việc thờ kẻ thù cả! Nghi Vương nói.
-         Đã nhiều người nói, đã lắm kẻ làm nhưng chúa công chưa nghe đó thôi.
-         Ngươi thử nói xem, Nghi Vương nói như ra lệnh.
-         Con ngựa rất có công với người Mông cổ. Nhờ có ngựa, một dân tộc nhỏ bé như Mông cổ đã từng làm chủ cả lục địa Á- Âu nhưng họ không thờ con ngựa mà đi thờ con sói, một kẻ thù của ngựa và cũng là kẻ thù truyền kiếp của người Mông cổ. Văn hầu trả lời.
-         Tại sao? Nghi Vương lại hỏi.
-         Họ biết tôn thờ những gì giúp cho dân tộc họ phát triển, bất kể đó là ai. Họ học được ở loài sói về trí thông minh, lòng dũng cảm, về cách cai quản và tổ chức xã hội. Họ thôn tính được cả Á-Âu không phải chỉ nhờ sức ngựa mà chủ yếu là nhờ ở trí thông minh, lòng quả cảm và tài thao lược họ học được ở loài sói. Ngay cả loài ngựa có sức khỏe phi thường chạy nhanh như gió hiện nay của Mông cổ cũng là do quá trình đấu tranh sinh tồn giữa loài sói và loài ngựa qua nhiều thế hệ mới có. Những con ngựa gầy yếu đã bị sói ăn thịt, những con khỏe mạnh chạy thoát đã tạo nên những giống ngựa khỏe ngày nay. Những nước nông canh lạc hậu  hay tôn thờ công cụ, coi nhẹ những trí tuệ đã sáng tạo ra công cụ đó. Ở ta, đến bây giờ một số nơi còn sơn son thếp vàng những sọt đựng phân bắc và những que gắp phân đem thờ trong những miếu đường trang nghiêm! Thói quen  thờ phụng những thứ đã lỗi thời khiến dân ta không tiến lên được.Văn Hầu thưa.
Nghi Vương cười, nói:
-         Ngươi nói rõ cho ta biết, ta cần tôn ai lên làm thần tượng để thờ?
-         Vị tướng do triều đình cử đến tiêu diệt chúng ta, bị sét đánh chết trên đồi cát! Văn Hầu thưa.
Nhà vua nói:
-         Vị tướng ấy khác con sói Mông cổ, ông ấy có giúp gì được cho ta đâu mà phải thờ!
-         Có đấy! Văn hầu thưa.
-         Ngươi nói đi! Vua bảo.
-         Vị tướng ấy chết là vì dốt, đang lúc trời sấm sét lại đội mũ trụ bằng kim loại lên đứng trên đồi cao múa gươm nên bị sét đánh là phải. Cái dốt ấy cộng với cái dốt của dân, tin vào mê tín, dị đoan cho rằng tiên vương ta là con trời, vị tướng nọ định đi đánh con trời nên bị trời hại! Ta tôn thờ là tôn thờ cái dốt vì cái dốt đã giúp vương quốc Võ Vàng ta tồn tại. Văn hầu nói.
-         Sách nào dạy ngươi thờ cái ngu dốt? Nghi Vương hỏi.
-         Dạ! Văn hầu lễ phép thưa, thờ cái ngu là làm theo sách của Lão tử đấy ạ!
-         Ngươi nói thêm nữa đi! Nghi vương hào hứng giục.
-         Lão tử bảo rằng: “Khi bỏ cái trí đi rồi, nước sẽ yên ổn. Bậc hiền minh giữ cho dân ngu dốt, không ham muốn gì cả, và nơi nào có trí thức thì ráng giữ cho họ không hành động được.. Dân mà biết nhiều thì khó trị, phải để cho họ chất phác, ngu dốt…” Dân ngu thì dễ tin. Đất nước càng lạc hậu bao nhiêu thì thánh thần càng nhiều bấy nhiêu. Chính niềm tin non nớt và thơ ngây của con người đã tạo ra những thánh nhân minh triết. Hiếu Định nói.
-         Ngươi là một kẻ hoạt đầu, trên kia ngươi vừa bảo ta phải thờ cái thông minh, giờ, ngươi lại bảo ta phải thờ cái ngu! Sao vậy? Nghi vương nói đầy vẻ bực bội.
-         Thưa chúa công! Có những kẻ suốt đời chỉ đọc một quyển sách, thậm chí chưa đọc hết một quyển sách, hoặc đọc hết nhưng chưa hiểu hết ý nghĩa của nó rồi tuyệt đối tin tưởng vào những điều quyển sách ấy dạy, lấy từng câu, từng chữ trong sách ấy soi rọi vào từng hành động của mình, làm gì cũng sợ sai với điều sách dạy. Đó là cái học của bọn hủ nho, của những ông đồ gõ đầu trẻ. Bậc đế vương, kẻ thức giả, đọc nhiều, hiểu rộng, nghiền ngẫm cho thấu hiểu nghĩa lí trong sách sử của tiền nhân rồi hành xử sao cho phù hợp với thời thế. Mạnh Tử một nhà triết học, một môn đệ của Khổng Tử, một bậc á thánh của Đạo Nho, ông rất tin tưởng vào cái đạo của mình nhưng khi đi truyền dạy cho học trò, ông đều nói: “Tận tín thư, bất như vô thư.” Có nghĩa là khi đọc sách, hay tiếp nhận một học thuyết nào đó mà chỉ biết tuyệt đối tin tưởng vào những điều sách ấy, học thuyết ấy nói, không có đầu óc phê phán, không biết chọn lọc thì không bằng không đọc sách.. Đức Phật tổ  truyền bá đạo của mình chỉ bằng truyền khẩu, không bao giờ dùng sách viết sẵn để dạy học trò. Ông sợ thế hệ sau hành xử rập khuôn theo những điều ông viết trong sách..”
-         Hay quá, hay quá! Ta gặp được ngươi khác nào Tề Hoàn công gặp được Quản Di Ngô[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn3][3][/link]! Cho phép ngươi tiến hành việc đó. Nghi Vương chuẩn tấu.
Văn hầu cho xây một ngôi miếu toàn bằng những khối đá lớn, cao năm mét bốn tấc, bốn cột tròn rồng cuộn. Ông sai người đào mộ viên tướng lấy đầu lâu và mũ trụ đem về. Đầu lâu được sơn đen quang dầu bóng. Hai hố mắt được gắn hai cù lao chai màu nâu đỏ, khi ánh sáng chiếu vào, đôi mắt ấy phát ra một ánh sáng đỏ rất ma quái. Chiếc mũ trụ được tân trang lại, đội lên chiếc đầu lâu, lấp lánh ánh kim rất uy nghiêm. Toàn bộ chiếc đầu lâu ấy được gắn lên cổ của một bức tượng bán thân làm bằng gỗ Đàn hương quét dầu bóng, ánh lên màu cánh dán như được tạc từ một khối nhựa thông khổng lồ. Bức tượng bán thân chỉ có một cánh tay sơn đỏ được đặt trên một bệ đá cao hai mét năm tấc. Ngôi miếu đặt trên bãi đất bằng phẳng phía trước mộ Mạc Lân, nấp mình dưới tán cây Tơ-rai um tùm như lọng che. Trước mặt, phía đông nam có hai cây đại thụ dáng như voi nằm. Chẳng biết cây mọc tự nhiên hay do người trồng, ngay cả Quận chúa Ksai cũng không biết! Phía bên phải có cái giếng khơi tương truyền nước giếng được ngấm từ vùng đầm lầy phía Nam và từ dòng sông phía Tây- Bắc, lọc qua các lớp cát dày nên bốn mùa không bao giờ vơi cạn, nước trong vắt. Dân làng bảo: “Con gái làng này có nước da trắng hồng và mái tóc đen nhánh, dài như suối là nhờ có nguồn nước này.” Hai cột trụ đá cao lưng chừng trời trước cửa miếu làm tăng thêm cái uy nghiêm  của chốn địa linh. Mặt trước của hai trụ đá, Văn hầu cho khắc hai câu đối:
Biệt thành vũ trụ lưu phong viễn
Hữu lức lâu đài chính khí cao.
( Thành trì riêng một cõi, tiếng tăm truyền xa mãi;Thanh tĩnh khán lâu đài, khí thiêng vòi vọi cao.)
Nghi Vương ngự giá thân chinh chủ trì buổi lễ “Hô thần nhập tượng”. Văn hầu đọc bài minh ca ngợi công đức của Uy vương tiên đế, sự sáng suốt anh minh của Nghi vương. Nhờ có cách cai trị hợp ý trời, thuận lòng dân nên trời đã sai Thiên Lôi xuống hộ giá Uy vương, diệt trừ viên tướng của triều đình. Làm xong nhiệm vụ diệt quân nghịch tặc, Thiên Lôi được lệnh của Thiên đình ở lại hạ giới, đổi tên thành Địa Lôi và hóa thân nhập vào bức tượng Đầu lâu phò tá Nghi vương. Buổi lễ “ Hô thần nhập tượng” được tổ chức trọng thể. Khói hương nghi ngút khắp cả khu rừng. Dân lặng im như nuốt từng lời trong bài minh của Văn hầu. Bắt đầu từ đấy, mỗi lần toán trộm ra khỏi làng đi ăn trộm, tất cả các thành viên đều quỳ lạy một cách thành kính trước tượng Địa lôi. Tàn tuần hương, Văn hầu đứng lên quay bức tượng một vòng, khi tượng dừng lại, cánh tay gỗ sơn đỏ chỉ về hướng nào, đôi mắt rực lửa của Địa Lôi nhìn về đâu thì toán trộm theo hướng ấy mà đi. Dân làng tin rằng, đi theo hướng chỉ tay ấy sẽ trộm được nhiều của và không gặp rủi ro! Làng Võ Vàng ngày càng phú túc. Nhưng, nghiệp đời không bao giờ cho con người được hưởng  phúc như nhau. Cánh trộm- giới quý tộc của làng trở nên sung túc giàu có thì cánh ăn mày hạ lưu càng khốn khổ. Bọn này ra đường, vào nhà ai người ta đều xua đuổi. Họ rỉ tai nhau: “Bọn Võ Vàng đấy!”
  Làng Sỏi thuở ấy còn rất hoang vu, xơ xác nghèo. Bố mẹ Đặng Trúc Lâm, hai kẻ ăn mày đã bị gậy rời làng Võ Vàng vào một đêm đông lạnh đến cư ngụ ở rìa làng Sỏi và dấu biệt tung tích của mình. Ngay cả với Trúc Lâm khi đã lớn khôn, ông Bợt cũng chưa bao giờ nói cho con biết cái quá khứ đau buồn của dòng tộc mình. Kể cả chuyện ông tổ của mình- Đặng Hiếu Định đã từng làm quan đầu triều của cái triều đình ăn trộm ấy, Lâm cũng chưa từng được nghe cha kể bao giờ. Đặng Hiếu Định quê ở một vùng đất học phía Bắc. Ông là con người thông minh dĩnh ngộ, lớn lên đi học, làu thông kinh sử, tài thơ phú hơn người, không chịu luồn cúi ai. Mặc dù tài năng như vậy nhưng hai lần đi thi tú tài đều không đỗ chỉ vì phạm húy! Ông than thở: “Húy kị khắp chỗ thì còn đâu đất cho văn chương cảm hứng nữa! Đụng vào tên của các tỳ thiếp cũng bị đánh trượt, mà tỳ thiếp của vua thì lấy xe chở mười ngày không hết! Tôi có thể học thuộc tên họ để khỏi phạm quy nhưng tôi không làm vì làm điều đó là đáng hổ thẹn với một kẻ sĩ. Nhục lắm! Áo mũ cân đai mà làm gì…” Anh khóa Hiếu Định về làng mở trường dạy học. Mặc dù anh hay chữ nổi tiếng khắp vùng nhưng học trò của anh chỉ là những người con nhà nghèo trong làng. Những gia đình có máu mặt đều gửi con đến các cụ khoa bảng danh giá để học. Không sống được bằng nghề dạy học. Anh bỏ làng ra đi. Anh đi về hướng Nam. Nghĩ rằng đấy là vùng đất mới khai phá, xóm làng trù mật, nhu cầu mở mang trí tuệ nhiều. Khăn xếp, áo lương, ô cắp nách, anh lên đường. Mọi sự diễn ra không như anh tưởng. Người dân phía Nam thích phóng khoáng, tự do. Họ không thích trói mình vào những ràng buộc của các giáo lí mà anh định truyền dạy cho họ. Anh lang thang đi, sức lực cạn dần. Mấy ngày đầu, áo quần còn sạch sẻ, còn giữ được phần nào phong độ của bậc phong lưu quân tử, ghé vào nhà ai nghỉ chân còn được chủ nhân vui vẻ mời ngồi, mời nước, có khi gặp bữa, được mời ăn cơm…Nhưng rồi, cứ mỗi ngày, mỗi ngày như thế, áo quần nhếch nhác dần, thần sắc suy sụp. Anh đi qua cửa nhà ai, chó sủa vang.  Chủ nhà chẳng thèm đuổi chó chỉ hỏi vọng ra: “Ông cần gặp ai?” rồi để mặc cho đàn chó dữ đứng canh người khách lạ bệu rệch ở cổng.
Một chiều đầu mùa hạ, đã là ngày thứ bảy Hiếu Định rời nhà ra đi…Đói, mệt. Đầu óc quay cuồng. Anh không còn sức lực để hồi tưởng lại chặng đường tuổi thơ ngọt ngào, của những ngày gối đầu lên sử sách cha ông, mơ mộng quan trường, làm một người kinh bang tế thế…Anh lần từng bước theo con đường sỏi vắt qua ngọn đồi thoai thoải. Lên đến đỉnh đồi, chân anh không còn bước được nữa. Anh vịn tay vào một thân cây nhỏ ven đường. Mắt anh hoa lên như thấy muôn vàn con đom đóm đang bay trước mặt. Trời không gió. Mặt trời đỏ rực trên đầu. Định thần lại, anh thấy phía bên phải mình là một vườn cây tạp có đủ các loại cây: Mít, ổi, mấy cây khế gầy guộc... xen lẫn những khóm tre già, những bụi cây leo nhằng nhịt. Chim chiều líu ríu . Tiếng ve kêu khoan nhặt, đìu hiu. Một vườn hoang thiếu bàn tay người chăm sóc. Nghĩ vậy, anh lần bước đi vào vườn, hy vọng tìm được chỗ nghỉ qua đêm. Anh tựa lưng vào một gốc mít lâu năm. Lim dim, nhưng, không tài nào ngủ được vì đói. Một tiếng “ uỵch” rất to như ai đang ném một vật nặng gì bên cạnh . Mở mắt. Mùi mít chín thơm lừng. Hiếu Định bước lại nhặt từng múi mít đưa lên miệng. Mít dai. Tựa dày. Ngọt lịm, khe khé vị mật ong. Mắt sáng ra, người anh tỉnh lại. Tự nhủ mình: “Không được ăn quá no!” Anh đứng lên ngắt ngọn lá chuối đậy lại phần chưa ăn hết dành cho ngày mai, nhặt tất cả hạt cho vào túi. Vùng này, người dân trồng mít chủ yếu là ăn mít non thay rau và lấy hạt thay chất bột. Quê anh cũng vậy, trong một bữa ăn có ba, bốn món rau chế biến từ quả mít non: Canh mít non. Mít non băm nhỏ trộn với vừng làm nộm, rắc lên mấy lá húng trông rất đẹp mắt và ăn rất hợp vị. Mít non luộc thái quân cờ vuông vức, trắng phau như miếng thịt lợn nạc chấm với nước lèo…Rồi mít non muối làm nhút ăn vào những thời vụ không có rau. Còn hạt mít chín, quý chỉ sau hạt gạo. Anh nhóm lửa nướng những hạt mít để ăn. Thơm và bùi, phảng phất mùi hạt dẻ. Không có chất bột, chỉ ăn mít chín không thôi nóng ruột không ngủ được. Bảy ngày lang thang trên đường, hôm nay anh khóa Hiếu Định mới có được một bữa ăn no! Đêm xuống tự lúc nào không rõ. Trên đỉnh đầu vằng vặc một vừng trăng. Trăng sáng quá! Trời cao rộng, ngăn ngắt một màu xanh. Mấy sợi tơ trời mỏng tang lướt qua mặt trăng, lững thững trôi rồi biến mất. Dẫu nhiệt độ ngoài trời không thấp bao nhiêu so với ban ngày nhưng một mình trơ trọi giữa đồi hoang, nhìn ánh trăng sắc lạnh, anh thấy rờn rợn, ghê ghê. Tựa lưng vào gốc cây, anh duỗi dài hai chân, nhìn trời đất mông lung. Nhớ về quê nhà, mẹ giờ ra sao? Nếu biết mình đến nông nỗi này chắc bà chết mất!  “Ồ! Sao mình yếu đuối thế này?”Anh đưa tay chùi những giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má. “Mẹ đã dạy ta biết bao lần về chí làm trai!” Những hồi ức sống lại. Nhớ ngày còn học trò, anh đã rơm rớm nước mắt khi đọc bài “Nguyệt hạ độc chước” của Lí Bạch. Anh hình dung cái cô đơn tận cùng của nhà thơ trong hai câu thơ:
Cử bôi yêu minh nguyệt
Đối ảnh thành tam nhân.
( Nâng  chén mời trăng uống, ta với bóng là ba...)
Chính mẹ anh đã mắng anh khi nhìn thấy cảnh này. Lí Bạch còn được ấm lòng bởi có chén rượu trên tay, còn ta...! “Bất luận hoàn cảnh nào, thà chết chôn thây nơi đất khách, ta sẽ không về lại quê hương với bàn tay không.”Tiếng mấy con ếch “ộp, oạp” kêu thưa thớt cầm canh từ cánh đồng ruộng nước dưới chân đồi vọng lên giữa đêm vắng như muốn báo cho loài người biết rằng “trái đất vẫn còn, vẫn chưa bị thiêu cháy bởi cái nắng trưa nay.” Anh lần xuống phía chân đồi nơi tiếp giáp với những thửa ruộng nước. Vô cùng ngạc nhiên, trước mắt anh là một thế giới đang sinh sôi với một sức sống mãnh liệt. Mấy con cá sộp to bằng bắp tay đang rượt đuổi một cách quyết liệt  đàn nhái bén. Mặt nước xao động, trăng vàng lung linh vỡ  tan  thành muôn mảnh. Trên bờ, từng cặp, từng cặp ếch cõng nhau đi, chúng đang làm cái việc sinh tồn...Nhìn xuống nước, men theo các vệ cỏ vô số các con ốc bươu vàng, to như những quả thị, díu vào nhau nổi lên lấp lánh dưới ánh trăng... Và, cua nữa! Chao ôi, cái lũ sinh vật này mới ngây ngô đáng thương làm sao! Nghe thấy tiếng động, biết có kẻ thù, chúng không chạy trốn mà đứng lại, giơ hai cái càng lên cao phô trương sức mạnh của mình. Hai cái càng của chúng có hơn gì đôi bàn tay trói gà không chặt của anh học trò đâu! Thế mà nó tự tin ở sức mạnh của mình đến vậy? “Có lẽ cái loài cua này cũng bị tiêm nhiễm cái khí tiết và thói ngông nghênh của bọn nhà nho chăng!” Hiếu Định nghĩ. Anh đưa tay xuống nước quơ một hồi theo bờ cỏ. Một túi đầy những ốc, cua, cà cuống, niềng niễng...Yên tâm với thức ăn ngày mai của mình, anh tìm một gốc cây, dồn những lá khô lại làm chỗ ngủ. Chiếc ô rách được căng lên, vẫn được che lên đầu như ở tư thế đang đi. Chiếc áo lương được cởi ra, phủ lên trên mặt chiếc ô. Nằm ngủ.
Một chiếc xe ngựa không biết chở gì và đi về đâu đang lọc cọc leo lên dốc. Tiếng vó ngựa nện xuống con đường sỏi nghe rất dòn, vang xa. Hiếu Định tỉnh giấc. Một đám mây mù khổng lồ đang phủ kín sườn núi phía Tây. Sương giăng dày đặc trên các ngọn cây, tỏa xuống một màu xanh êm dịu. Thỉnh thoảng có những con chim màu nâu, đầu trắng nhảy nhót một cách vội vã trên cành rồi bay đi. Bóng chúng in lên trên nền trời xanh nhạt của buổi sáng mai trông thật êm đềm. Xung quanh chỗ anh nằm là những khóm hoa mua màu tím. Một loài hoa sơn dã chất phác và dễ thương, nở trong lặng im, mình tự ngắm mình. Ngay cả những kẻ đa tình như loài ong cũng chẳng mấy khi vờn đến nhưng Mua vẫn thời hoa hoa nở đúng hạn, đúng kì. Dưới kia, những bãi cỏ hoang, chi chít muôn vàn loài hoa dại: Màu trắng tinh khiết, màu vàng, màu đỏ và cả những màu xanh biêng biếc. Nhộn nhịp đàn ong bay...
Con đường sỏi đỏ như son chạy xuống chân đồi giữa hai bờ lau sậy dạt dào trong gió sớm. Định lại tiếp tục lên đường. Hai bên đường là những thửa ruộng. Nước lấp xấp trông rõ cả màu trắng nhờ nhờ của đất cát pha bùn dưới mỗi gốc lúa. Mấy chú cá thia lia màu sắc sặc sở tung tăng bơi lội, hớn hở, vô tư. “ Thiên nhiên vốn đa tình, ở đâu, ngay cả trên vùng đất cằn cỗi héo hon này cũng cố trau chuốt cho vẻ đẹp của mình!” Định nghĩ bụng. Anh đi. Chẳng biết đi đâu. Đầu cúi xuống đất như đếm từng bước chân mình! Thỉnh thoảng anh nhìn thấy một xóm nhỏ bên đường. Dăm ba ngôi nhà lá xiêu vẹo, ụp xụp. Mấy tàu lá chuối vàng vọt đung đưa . Chẳng biết nhà có người ở hay không. Dấu hiệu của sự sống nơi này là mấy con chó đói giơ xương nằm phơi nắng bên thềm, người qua không buồn sủa!
Chiều xuống tự bao giờ. Mặt trời lóe lên ánh vàng kim trên các đỉnh núi phía tây. Trước mặt anh là một ngọn núi cao sừng sửng chắn ngang. Con đường rẽ ngoặt sang trái, chạy theo hướng đông vòng ra phía sau núi. Góc đường, một chiếc cọc tre đóng cẩu thả treo một cái mẹt có đề mấy chữ bằng vôi trắng: “Chợ Chen”. Theo con đường ấy, đi vào khoảng hai chục mét, bên trái có một bãi đất bằng phẳng, rộng. Ấy là chợ. Chợ bán đủ thứ: Trâu, bò, gà lợn, chó...sắn khoai và cả củi nữa nhưng nhiều nhất là các loại bánh: Bánh ú, bánh chưng, bánh nậm, bánh bột lọc... Dấu tích để lại nhiều nhất trên chợ sau mỗi phiên họp là các bãi phân gia súc, các loại lá gói cái thứ bánh và mùi xú uế bốc lên ngạt thở. Định dừng lại ngắm nghía. Anh xăm xói nhìn vào các lều quán trong chợ. Muốn tìm một chỗ qua đêm tối nay. Bóng một người đàn bà với que cời trong tay, cúi đầu mải mốt ở góc chợ bên kia. Định dặng hắng. Người đàn bà ngẩng lên, nhìn. Trong giây lát lặng im, hình như chị đang đoán định thân phận của người đàn ông vào chợ lúc chạng vạng này. “Ăn mày giống ta ư? – Không giống lắm!- Một người Mọi trên núi chưa từng xuống chợ bao giờ bị lạc đường?- Không chắc, lạ lắm!” Vừa ngẫm nghĩ vừa tiến lại phía người đàn ông, chị hỏi: “Ông tìm ai?”
-         Tôi...tôi ở xa đến, tối trời, muốn tìm nơi nghỉ tạm. Định vừa trả lời vừa  nhìn vào khuôn mặt người đàn bà nhưng chiếc khăn chùm kín mặt chỉ để lộ hai con mắt. Anh bất lực không thể dùng tài xem tướng số của mình để đoán định người đàn bà đang nói chuyện với mình già trẻ, lành dữ, tốt xấu ra sao.
Người đàn bà đưa tay vén bớt chiếc khăn đang trụp xuống che gần hết mặt, nói:
-         Trời tối rồi, ở đây xa dân cư... Chị chỉ tay về phía góc chợ đằng đông nói, ông lại đây ngồi cho đỡ mệt rồi tính sau.
Định theo người đàn bà đi phía phía chân núi, góc chợ đằng đông, cách chợ bằng chiều rộng của con đường, sát vào vách núi. Dưới mỏm núi nhô ra, có một đám đất bằng vừa  đặt được một chiếc chiếu nhỏ. Ở đấy có một chiếc sạp tre, có lẽ là một chiếc giường con bị gãy chân đặt sẵn. Chị ta lấy hai chiếc bị cói trải ra sạp mời Định ngồi.
Định chăm chú nhìn người đàn bà lúc này đã gạt chiếc khăn chùm mặt ra sau vai. Chị còn trẻ lắm, đôi mắt rất sáng, khuôn mặt phúc hậu. Định hỏi: “Muộn thế này rồi mà chị chưa về chợ à?”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn4][4][/link]
-         Em có đi chợ đâu mà về chợ! Nhà em ở đây.
-         Chị “coi chợ” à? Định hỏi.
-         Không, coi chợ là bà Riềng nhà ở trong kia. Người trong vùng gọi bà là bà Thị[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn5][5][/link], em là Xoan, ăn mày. Muốn vào đây ăn xin phải được phép bà ấy đấy! Quê em xa lắm, đi ăn mày lang thang khắp chốn cùng nơi. Em mới đến chợ này từ hôm qua. Hết đường rồi, em định quay về nhưng ngày mai có phiên chợ, nán lại kiếm thêm chút gì rồi về.
Định nhìn Xoan từ đầu đến chân. Cái nhìn đầy ngạc nhiên và cám cảnh. Rồi nghĩ đến thân phận mình, thở dài, nói:
-         Tôi là Định, thân phận tôi bây giờ chắc chẳng khác cô là mấy!
-         Ấy chết! Sao anh nói vậy? Có lẽ anh đang gặp chuyện gì trớ trêu, chứ trông anh không ông đồ thì cũng thầy khóa, có đâu đến nỗi anh mày, ăn xin như chúng em.
Định đem hết sự tình nói cho Xoan nghe. Chị ngồi im, cắn môi, nghe từng lời...Như để phá tan cái nặng nề về những kiếp người, chị hỏi:
-         Chắc anh chưa ăn gì! Em cũng vậy, chị vừa nói vừa nhìn vào túi khoai sọ và nải chuối xanh quả bé tí ở góc hang.
 “Ồ!” , Định kêu lên: “ đây, đây!”...Anh lôi cái túi đựng đầy cua, ốc... đưa cho Xoan. Xoan mở túi, mấy con cua toan chạy ra ngoài.
 Xoan nhìn Định bảo:
- Hay quá, đúng là duyên trời, anh tìm đâu ra thứ này! Chuối nấu với ốc, khoai sọ,  ...Ngon quá! Còn đám cua nhốt lại để dành ngày mai. Qua được một ngày nữa rồi anh ạ.
 Hai người ngồi vào “mâm”. Xoan sực nhớ, với tay lấy mấy khẩu sắn luộc chị xin được hồi chiều. Nếu không gặp Định thì đây là bữa tối của chị. Định thấy bữa ăn ngon quá.  Xoan ngồi chọn ốc gắp cho Định còn mình ăn một cách nhỏ nhẹ, rón rén. Định vừa ăn, vừa nhìn Xoan và nghĩ đến hai chữ “Duyên trời” mà cô nhỡ mồm nói ra. Định lại gắp cho Xoan. Hai người cứ qua về như thế cho đến hết bữa.
Ngồi uống nước, Định hỏi Xoan:
-         Quê em ở đâu?
-         Xa lắm! Xoan trả lời.
-         Ở tận đâu ta? Định lại hỏi.
-         Anh có nghe tiếng làng Võ Vàng không? Quê em ở tận đấy cơ đấy.
 “Làng Võ Vàng.” Định ngồi im lục tìm trong trí nhớ. Anh hỏi:
-         Em còn bố mẹ và gia đình chứ?
 Xoan cúi mặt, vân vê chiếc khăn chùm đã hất ra sau vai, chậm rãi đứt từng tiếng trả lời:
-         Bố em mất lâu rồi, nhà chỉ có hai mẹ con. Em đi ăn xin với mẹ từ bé. Cụ địu em trên lưng đi khắp mọi nơi trong vùng kiếm ăn. Cụ vừa mất cách đây vài năm. Em chôn mẹ bên đường, mép núi. Chiều mai đi về thế nào cũng đi qua mộ mẹ em. Em sẽ thắp hương cho cụ.
-         Ở quê còn họ mạc gì không? Định hỏi.
-               Cái xứ ấy là người góp. Dân tứ chiếng giang hồ quy tụ lại, chưa có quan hệ họ mạc, láng giềng gì. Những người thuộc tầng lớp cao sang thì đêm đi ăn trộm, ngày về nằm ngủ. Tầng lớp hèn hạ đi ăn mày như chúng em thì lang thang khắp chốn. Sống đâu là nhà, chết đâu là mồ. Mỗi năm phải tụ tập về làng hai dịp: Ngày tết và ngày giỗ tổ. Nếu vắng mặt là họ đuổi khỏi làng. Xoan kể cho Định nghe về cái làng Võ Vàng quê hương của chị và những tập tục lề thói của làng. Xoan kể:
-         Từ sau cái vụ ông tướng của nhà vua đem quân đánh Ngài Mạc Lân bị trời đánh chết, dân trộm, cắp, ăn mày từ nhiều nơi đổ về xin được làm dân của làng. Lúc đầu ngài nhận nhưng về sau đông quá, ngài ra lệnh cấm không cho nhập tịch nữa. Giờ chỉ có những ai đi lấy vợ, lấy chồng ở ngoài thì được phép đưa chồng, đưa vợ về. Những người có cha, mẹ ở quê cũng được đón về nhập tịch vào làng.
Đêm đã khuya, Xoan bảo Định nằm ngủ ở chõng tre mép núi, còn mình ra cái lều giữa chợ, lót chiếc bị cói làm chiếu ngủ. Đêm, hai người ở hai đầu chợ, nằm nhìn trăng suông, thao thức.
Họ  dậy sớm, rời khỏi chợ trong sương mù dày đặc. Cố lánh mặt trời được phút nào hay phút đó. Xoan đi trước, Định chống chiếc gọng ô theo sau. Chiếc ô đã nhận chức năng mới: Cái gậy. Cái gậy của nhà nho thất thế đi ăn mày khác với cái gậy trúc của kẻ ăn mày chính ngạch. Người đời nhìn vào chiếc gậy họ sẽ biết ai thuộc đẳng cao hơn trong giới ăn mày. Anh lẽo đẽo đi sau Xoan và tự trào về mình: “Thì ra cái bọn nhà Nho khi nào cũng vỗ ngực cho mình là người chỉ đường, mình đem lại ánh sáng cho xã hội nhưng bao giờ cũng chỉ là kẻ đi sau lưng người khác, kể cả ăn mày!”
Đi. Lặng im. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Định mang tâm sự của một tiều phu xuống núi lúc hoàng hôn: Gánh nặng, đường xa, trời chiều, bạn vắng! Man mác buồn. Xoan đứng lại trên vệ cỏ ven đường, đưa tay chỉ vào hẽm núi cách đường chừng mươi thước, nói: “Mộ mẹ em kia rồi!”. Một nấm cỏ xanh rì giữa một bãi vắng hoang vu. Đầu ngôi mộ gối vào núi, đánh dấu bằng một cây xương rồng, dưới chân là một cây dứa dại. Xoan hái được một nắm hoa tập tàng nào hoa mua, hoa mẫu đơn, hoa bảy sắc... cắm lên mộ mẹ. Khói hương nghi ngút quẩn quanh. Xoan bảo: “còn một quãng đường nữa em sẽ rẽ về làng, anh định đi đâu?”
-         Anh...Định nhìn vào mặt Xoan, nghẹn ngào... Anh muốn về làng với em.
-         Sao được! Anh là nhà nho cơ mà... Xoan định nói gì nữa nhưng ấp úng không thành lời.
-         Anh muốn sống cùng em, làm một kẻ ăn mày lương thiện còn hơn làm một tên quan luồn cúi, tham nhũng. Nếu không tìm được con đường khác tốt hơn thì hai ta cùng nhau đi ăn mày trọn đời cũng được. Nếu xã hội này không dung, ta đem nhau lên núi, nuôi nhau bằng rau rừng, chết ở đấy. Miễn là được sống cùng em cho đến khi đầu bạc răng long, vậy thôi.
Hai người đứng sát vào nhau, cắm một nén hương nữa lên mộ mẹ. Cả hai đứng chắp tay khấn vái. Trước vong linh của người mẹ đã khuất, họ nói lời thệ ước trăm năm.
Hai người về làng vào quá nửa đêm. Hôm sau Xoan dẫn Định đến tâu trình với Mạc Lân như lề thói của dân làng vẫn làm vậy. Nhìn phong thái nho nhã, nét mặt quắc thước của Định, Mạc Lân rất ngạc nhiên. Ông bảo Xoan về trước và giữ Định lại trò chuyện. Hiếu Định tặng Mạc Lân hai tập sách: “ Cô phẫn” của Hàn Phi và tập “ Sở từ”. Mạc Lân hớn hở cầm lấy sách như nhặt được vàng. Hai người say sưa trò chuyện: Chuyện đời, chuyện thời cuộc, rồi điểm thơ, đọc lên những câu thơ nặng như quả núi, sắc như gươm...Tâm đắc! Một ngày trôi qua rất nhanh. Ông nói với Định:
-         Ta rất cần ngươi. Trời cho ta ngươi. Đúng là ta cầu được, ước thấy. Giờ ngươi về đi, ngày mai ngươi đến sớm. Đêm nay chắc ta không ngủ được vì vui đấy.
Định hớn hở về nhà. Xoan ra cửa đón. Anh chững lại. Trước mặt anh là một cô gái xinh tươi, khuôn mặt sáng ngời và nụ cười đằm thắm. Hàm răng trắng ngát. Anh kêu lên “Xoan!”. Ôm vợ vào lòng. Anh nhớ lại cái hình ảnh người đàn bà chùm cái khăn nhem nhuốc, tay cầm chiếc que cời lúc chạng vạng tối chiều qua. Trên trời, trăng đã lên. Một màu vàng huyền ảo phủ lên những tán hoa Tơ-rai đang mùa nở rộ. Hương thơm ngưng đọng trong những giọt sương rơi xuống các mái nhà tạo nên một âm vị mênh mang  giữa đêm dài sâu thẳm. Anh không biết mình đang ở đâu.
*.
                                                          *     *
 Hiếu Định dậy sớm vào chầu Mạc Lân. Ông đang ngồi nghiêng, khuỷu tay chống vào chiếc gối cao. Hai chân co lại. Mắt chăm chú nhìn vào quyển  “Sở từ” đang cầm trong tay. Mạc Lân tươi cười đứng dậy, nói:
-         Đêm qua ta đọc Hàn Phi, lí thuyết của ông ta rắc rối quá, nào “ Thuyết nan”, “Thuyết nghi”, nào “Định pháp”...Làm vua phức tạp quá, có cho ta ngai vàng  ta cũng không nhận. Điều ta cần người giúp là xác định danh phận cho ta sao đây. Ta không muốn làm vua nhưng cũng không muốn nằm xuống mồ với danh phận của một tên trộm. Của cải ta không thiếu gì, chỉ muốn một chút danh phận cho mát mặt đời sau thôi!
Thưa chúa công! Định nói:
-         Xưa nay, người đời nghĩ sai về trộm, chỉ coi những kẻ đi bắt trộm con lợn, con gà, thúng thóc là trộm. Thực ra giữa vua và trộm không khác nhau bao xa. Thầy Trang Tử có câu: “Ăn trộm lưỡi câu thì bị chém, ăn trộm đất nước (Tài nguyên của cải quốc gia) thì được phong hầu. Nhà công hầu ở đâu nhân nghĩa ở đấy.” Khi đã trở thành công hầu khanh tướng rồi thì những tên trộm cũng trở thành người nhân nghĩa đó thôi! Chúa công là một đại thần ăn trộm, có của cải, có giang sơn riêng, rất xứng đáng được làm vương.
Mạc Lân cười chua chát:
-         Ngươi diễu ta chăng? Xưa nay, ta chưa được biết có vị vương nào mà giang sơn chỉ bằng bàn tay, quân tướng chỉ vài trăm thằng đầu trộm đuôi cướp cả.
-         Thưa chúa công, đời nhà Tần, Trần Thiệp chỉ là một tên cai dẫn hơn trăm người phu đi xây Vạn lí trường thành . Biết rằng đến nơi sẽ bị xử tội chết vì không đúng hẹn. Trần Thiệp bảo họ vào rừng tụ nghĩa. Thiệp xưng vương chống lại nhà Tần. Đấy là hành động chỉ cốt bảo vệ mạng sống của mình không có ý định mưu bá, đồ vương gì nhưng gặp thời cơ nên cũng được lưu danh sử sách đấy thôi! Hiếu Định thưa.
-         Ta hỏi ngươi, Mạc Lân nói, ngươi vừa bảo: “ Khi đã trở thành công hầu khanh tướng rồi thì nghiễm nhiên trở thành người nhân nghĩa..” Vậy theo ngươi nhân nghĩa giúp cho người ta trở thành công hầu, khanh tướng hay khanh tướng làm cho người ta trở thành nhân nghĩa?
-         Thưa chúa công, công hầu khanh tướng là những người làm chính trị thành công. Những người có lòng dạ ngay thẳng không mấy khi thành công trong sự nghiệp chính trị, thành công trên con đường quan trường. Đã sống không ngay thẳng làm sao có thể gọi là người nhân nghĩa được! Nếu có một người nhân nghĩa nào đó lạc vào chốn quan trường thì một là họ phải tha hóa hai là họ bị đào thải. Chắc chúa công còn nhớ chuyện thừa tướng Tiêu Hà, ông là một đại công thần giúp Lưu Bang dựng nên cơ nghiệp  nhà Hán. Ông là người nhân nghĩa, sống thanh liêm chính trực, được nhân dân tin yêu và hết lời ca ngợi. Bọn quyền thần xung quanh ông là những kẻ quen vơ vét của dân, bòn rút công khố làm của riêng rất căm ghét ông. Chúng mật tâu với Lưu Bang: “Tiêu Hà muốn thu phục lòng dân để toan đoạt ngôi vua.” Lưu Bang cả giận và đang tìm cách diệt trừ Tiêu Hà. Có người biết tin đến báo cho Tiêu Hà biết. Tiêu Hà hoảng hốt lo sợ. Người nọ bảo Tiêu Hà rằng: “Nếu ông muốn giữ được ghế thừa tướng và cái đầu của mình thì chỉ có cách phải tự bôi nhọ mình, phải sống như bọn quyền thần xung quanh, phải biết tham nhũng, phải tìm cách vơ vét và cướp bóc của nhân dân.” Tiêu Hà làm theo. Dân gửi đơn kiện lên đến nhà vua tố cáo hành vi tham nhũng cướp bóc của Tiêu Hà. Đọc đơn, vua như trút được gánh nặng, sung sướng kêu lên: “ Tiêu Hà vẫn là rường cột xứng đáng của triều đình, vẫn là một cận thần trung tín, một chỗ dựa tin cậy của ta.” Tiêu Hà được phong vương, phong hầu sống trọn đời vinh hiển!
-         Ngươi hiểu thế nào câu nói của Trang Tử: “Nhà công hầu ở đâu nhân nghĩa ở đấy...?” Mạc Lân hỏi.
-          Khi đã trở thành công hầu, họ có điều kiện  để ban ân, ban đức cho người đời. Họ làm việc đó không hẳn xuất phát từ lòng nhân vốn có mà vì họ tin ở thuyết nhân quả, tin ở kiếp sau. Họ coi nhân nghĩa như một thứ của để dành. Dành cái phúc, cái lộc lại cho con cháu đời sau của mình. Còn những kẻ không tin ở thánh thần, coi kiếp người đến chết là hết. Cái còn lại chỉ là tro bụi. Họ chỉ biết thỏa mãn cái hiện tại, lo nhét cho đầy túi tham, nốc cho căng bụng. Họ chẳng cần nhân nghĩa hay không nhân nghĩa, cái gì có lợi cho mình là tốt. Những hành vi thất đức nhưng đem lại cho họ, cho con cháu họ nhiều nhà cửa, vàng bạc, ruộng đất, địa vị chức tước là họ làm , chẳng cần biết đến chữ phúc, chữ đức là gì cả. Và tất nhiên cả bọn này vẫn được coi là người nhân nghĩa vì chúng là công hầu! Hiếu Định thưa.
-          Thế, Mạc Lân nói, một người như ta muốn làm một điều nhân, nghĩa có được không?
-         Thưa chúa công! Hiếu Định nói: Kẻ tiện dân này đã đọc những điều chỉ dụ về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín...của ngài giáo hóa bọn trộm. Những điều ngài dạy cho bọn trộm thiết thực hơn nhiều so với những điều Khổng tử dạy cho các vua quan. Nếu chúa công làm vua, đem những lời giáo huấn ấy dạy cho các quan thì chắc chắn họ sẽ lương thiện hơn, biết điều nhân nghĩa hơn và xã hội sẽ trong sạch hơn, ít giả dối hơn.
-         Thôi, thôi, ta sởn da gà khi nghe đến hai chữ  “làm vua”. Không ai có thể làm cho xã hội “trong sạch và ít giả dối” hơn được! Bởi cái sai lầm này bắt nguồn từ Thượng đế.  Thượng đế sinh ra muôn loài trên trái đất, chắc ngài mong muốn muôn loài sống thuận hòa trong tương sinh, tương khắc. Ngài sinh ra con mèo để đính chính sự sai lầm sinh ra con chuột. Nhưng đàn chuột vẫn béo tốt, sống an nhiên tự tại trong các kho thóc của nhà vua, phủ chúa. Lũ mèo dù có tích cực thừa hành công vụ cũng chỉ rình bắt được những con chuột gầy nhom sống lén lút trong các chuồng xí, chuồng lợn chốn nhà quê thôi. Làm sao tiêu diệt được lũ chuột khi chúng ẩn náu nơi  thành cao, hào sâu, trong , ngoài vệ canh phòng nghiêm ngặt! Sinh ra con hổ dữ để khắc chế , để ăn thịt bọn tham quan, ô lại nhưng Thượng đế không ngờ bọn hổ này lại bị bọn quan tham mua chuộc nên quay lại ăn thịt những người lương thiện, những người nghèo khổ sống nơi góc rừng, xó núi. Chúng còn an phận về nằm trong cũi sắt ở vườn bách thú mua vui cho bọn vua quan! Trong cái xã hội loài người u u, minh minh hiện hữu, học giả, triết gia cũng chỉ là những con rối trong tay kẻ cầm quyền. Ta làm gì được! Ta làm được gì ! Đừng viễn vông vô ích. Nếu thượng đế còn tồn tại, ta có tái sinh trở lại, muốn sống tự do, muốn lương tâm bớt cắn rứt, chắc cũng chỉ làm một tên trộm mà thôi...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
3
 
 
 
 
               Đêm đầu thu, trời chớm lạnh. Đoàn tầu phì phò chạy trong đêm, nhả những cột khói đen lên bầu trời bàng bạc trăng non. Đại đội của Lâm ngồi ở toa cuối đoàn tàu. Anh ngồi cạnh cửa sổ, nhìn cánh đồng vun vút chạy qua trước mặt. Ánh đèn le lói ẩn hiện sau các lũy tre làng. Chập chờn trước mắt anh là hình ảnh của Xuân, người vợ mới cưới của mình. Mùi da thịt nồng nàn của em, người vợ trẻ hai mươi tuổi còn vương vấn khắp người anh. Anh trôi trong dòng kỉ niệm của những ngày hai người yêu nhau và của năm ngày, sáu đêm chung sống của tuần trăng mật trước lúc anh lên đường. Lâm bảo: “Sao em hay khóc thế?”  Xuân nói: “Xuân Diệu bảo: “Trái đất ba phần tư nước mắt. đi như giọt lệ giữa không trung”. Nước mắt ấy là của đàn bà tạo nên đấy anh ạ!”
              Xuân dúi đầu vào ngực Lâm, nấc lên nghẹn ngào: “Em sợ lắm anh ạ! Hai cậu em đều ở mặt trận, lâu nay không có tin tức gì, ông ngoại vừa mất,  giờ anh lại đi nữa, một mình em ở nhà...Buồn lắm, sợ lắm anh ơi!”
-         Có gì mà sợ, ở nhà có bà con lối xóm, đến trường có đồng chí, đồng nghiệp, có các em học sinh...
-         Không, em không sợ cô đơn! Em sợ nhất là......Lỡ mai anh không..
 “Đừng nói dại thế...” Lâm ôm chặt Xuân vào lòng.
 Tàu lắc lư, cái gì nhồn nhột ở cổ. Một sợi tóc của Xuân vương vào cổ áo. Lâm đưa lên soi, sợi tóc rất dài. Anh quấn sợi tóc cẩn thận, cho vào túi ni lông đựng thuốc lào vừa hết, nhét vào ví. Trong chiếc túi ni lông đựng sợi tóc ấy có cả mảnh giấy ghi họ tên ngày tháng năm sinh, quê quán của Lâm. Dòng chữ ghi đậm: “Khi cần báo tin cho vợ là Phan thị Xuân, địa chỉ...”
Cả toa ồn ào: “ Chính trị viên có ba tay, chính trị viên có ba tay...Một tay bị bom cắt đứt, một tay ôm vào bánh pháo còn một tay phất cờ chỉ huy...!” Lâm sực tỉnh, tưởng mọi người đang nói gì về mình. Anh đứng dậy cười, bảo:
-         Chuyện gì hay thế?
 Dương, chính trị viên phó của Lâm ( Lâm lúc này đã được đề bạt là chính trị viên trưởng đại đội) đang chỉ huy buổi đọc chuyện “người tốt việc tốt” cho các chiến sĩ nghe. Anh bảo cậu trợ lí văn thể của đại đội đọc lại câu chuyện “ người tốt việc tốt” vừa rồi: “Chính trị viên Lê Huy Hoàng bị một mảnh bom của địch cắt đứt một cánh tay. Anh vẫn dũng cảm chỉ huy đại đội pháo bắn trả quyết liệt. Một tay anh bám chắc vào bánh pháo, một tay anh phất cờ chỉ huy bắn rơi một chiếc Thần sấm...” Chính trị viên phó bảo mọi người im lặng rồi giải thích:
-         Chính trị viên Lê Huy Hoàng chỉ bị đứt một bàn tay thôi chứ không phải cả cánh tay, phần khuỷu tay còn lại vẫn kẹp được vào bánh pháo để tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Người ta in nhầm bàn tay thành cánh tay đấy thôi mà!
Mọi người trong toa vẫn tiếp tục bàn tán, cười đùa không dứt. Tiếng hát từ các toa trên vọng xuống: “Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi...” “ Có những ngày vui sao, cả nước lên đường xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục...” “Thanh niên quê tôi làm chiếc gậy hành quân, đặt cho tên gọi là chiếc gậy Trường sơn...” Có lẽ trên toa, có một nhà thơ nào đó cùng đi ra trận nên đã cảm hứng cái không khí này mà viết nên hai câu thơ: “ Đánh Mỹ có phải chuyện chơi đâu, nhưng đánh Mỹ là ngày hội lớn...”thì phải.
Những tân binh bổ sung cho đại đội của Lâm hầu hết là thanh niên trí thức. Phần lớn họ là sinh viên, giảng viên của các trường đại học. Ngồi cạnh Lâm là một người đàn ông trạc ngoài ba mươi, đeo kính cận. Trên toa có cả những sinh viên của anh nhập ngũ cùng ngày. Mặc dù cùng đeo quân hàm binh nhì, một sao nền đỏ cả nhưng họ gặp anh đều kính cẩn “Chào thầy ạ”. Tên anh là Phương, các tân binh sinh viên vẫn quen gọi là “Thầy Phương”, chưa quen xưng hô “đồng chí” theo quy định của điều lệnh. Phương ngồi im từ khi lên tàu đến giờ. Lâm bắt quen Phương bằng câu hỏi: “ Đồng chí có thấy “đường ra trận mùa này đẹp lắm” không?
Im lặng một lát, Phương nói:
-         Chiến tranh đẹp hay xấu không phải nó xảy ra ở mùa nào mà là ở bản chất của cuộc chiến tranh. Chiến tranh là đề tài muôn thuở của loài người, là sự xung đột lợi ích của các bên. Có thể có nhiều loại chiến tranh nhưng cái chung của nó là sự chết chóc, hy sinh và đau khổ. Và, như tôi thiển nghĩ thì không có chiến tranh nào “đẹp” cả. Từ xưa tới nay, bây giờ tôi mới được nghe là một rằng chiến tranh là ngày hội lớn . Thú thật tôi chưa đủ trình độ để lĩnh hội khái niệm mới này. Chưa có một nước nào có chiến tranh liên miên như nước Trung hoa cổ đại. Đất nước họ có những nhà thơ vĩ đại tầm cỡ nhân loại. Có nhiều bài thơ nổi tiếng viết về chiến tranh được lưu truyền mãi mãi nhưng bài nào cũng buồn. Đỗ Phủ mô tả cảnh tiễn người thân ra chiến trận: “Níu áo, dẫm chân, cản đường khóc. Tiếng khóc dội thẳng lên trời vang...” Người hy sinh cho kẻ chiến thắng và người bỏ mạng cho phe chiến bại đều có chung nỗi đau đứt ruột đó.
Lâm chen vào:
-         Đến thế hệ sau, thế hệ sau nữa, con cháu của những kẻ tử thù thuộc hai phía đang giết nhau hôm nay sẽ kết thân với nhau, lấy nhau sinh ra một lớp người mới có cả hai dòng máu thù-bạn, bạn-thù ấy họ sống với nhau thế nào nhỉ?
-         Các nhà huyết học phân loại máu theo nhóm máu. Máu không được phân loại theo giai cấp, địch ta, thù bạn. Phương nói, có thể lấy máu của kẻ địch tiếp cho “đồng chí ta”, cứu sống đồng chí ta nếu hai người cùng nhóm máu. Còn “người đồng chí” được cứu sống bằng máu quân thù, mang trong mình dòng máu quân thù ấy có còn được tổ chức tin cậy, tín nhiệm nữa hay không thì tôi không biết. Sự thật thì thù bạn chỉ là tạm thời. Có thể chẳng bao lâu nữa, kẻ thù mà ta quyết tâm tiêu diệt hôm nay sẽ trở thành bạn đồng minh mới, chính họ sẽ giúp ta tiêu diệt kẻ thù mới đang là bạn của ta hôm nay! Phương nói nhỏ nhẹ nhưng say sưa: “Không nói đâu xa, năm 1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi- rô-si-ma và Na- ga-za- ki của Nhật bản, gây chết chóc đau thương cho nhân dân Nhật Bản mà di họa của nó còn đến ngày nay. Đến đời nào mới nguôi được hận thù ấy! Nhưng, chỉ một năm sau đó, chính phủ Nhật kí hiệp ước liên minh Nhật-Mỹ, Nhật coi Mỹ là bạn đồng minh thân thiết nhất của mình!”
-         Điều ấy dễ hiểu, Lâm bảo, đấy là sự bắt tay của giai cấp tư bản, của bọn thống trị hai nước Nhật- Mỹ. Họ bán rẻ lợi ích của nhân dân lao động, không đếm xỉa đến những đau khổ của nhân dân!
-         Có một cách nghĩ khác, Phương bảo, chính những người lãnh đạo nước Nhật sau chiến tranh nhận ra rằng, kẻ thù lớn nhất, lâu dài nhất, nguy hại nhất của nhân dân Nhật là sự nghèo nàn, lạc hậu, là chế độ phát xít quân phiệt, thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ của nhân dân. Lợi ích lâu dài của nhân dân là được sống trong ấm no, hạnh phúc trong một xã hội có tự do, dân chủ. Họ đã đi tìm đồng minh mới có khả năng giúp họ đi trên con đường văn minh tiến bộ. Thực tiễn đã chứng minh họ hành động đúng. Chỉ mười lăm năm sau thảm họa bom nguyên tử, nước Nhật bước vào hàng ngũ của các cường quốc kinh tế. Dân họ thoát khỏi đói nghèo. Đất nước có dân chủ, có tự do.
Phó chính ủy Tạ Duệ đến, bên hông chiếc đài bán dẫn O-ri-ông-tông đang đọc vang vang bài xã luận phê phán luận điểm phản động “Chung sống hòa bình” của bọn “ Xét lại hiện đại”. Giọng của phát thanh viên đọc rất truyền cảm, thu hút người nghe: “Luận điểm chung sống hòa bình, trái đất là mái nhà chung của loài người, hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa cùng song song  tồn tại, cùng thi đua phát triển kinh tế, xã hội trong hòa bình... là một luận điểm hết sức phản động. Nó phủ nhận học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lê nin coi đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển... Thực chất, đó là sự đầu hàng chủ nghĩa tư bản...”
-         Giọng ai đọc mà truyền cảm, hùng hồn thế thủ trưởng? Một chiến sĩ hỏi phó chính ủy Tạ Duệ.
Ông cười:
-         Nghe sướng không? Đây là buổi phát thanh tiếng Việt của Đài phát thanh Bắc kinh. Đài Tiếng nói Việt nam tiếp âm. Ông đứng dậy nói: “Chúc các đồng chí ngủ ngon”. Cả toa hô to: “Chúc thủ trưởng khỏe”. Tân binh mới vào, rất thuộc điều lệnh về chào hỏi giữa cấp trên và cấp dưới trong quân đội.
Đoàn tàu lao vun vút giữa hai hàng bạch đàn như một con trăn khổng lồ róng riết đuổi theo con mồi phía trước. Trăng đã lặn. Gió mùa đông bắc đang về, thổi mạnh. Xào xạc lá  vàng rơi. Đây đó, dưới các gốc bạch đàn có những đôi trai gái ngồi bên nhau tình tự. Hình như họ không quan tâm gì đến thế giới xung quanh. Họ nói gì với nhau giữa trời đêm khuya lạnh thế này? Chắc ngày mai người thanh niên kia sẽ ra trận, sẽ ngồi trên đoàn tàu lắc lư thế này hay ba lô nặng trĩu trên vai, chống gậy vượt Trường sơn nhằm thẳng phương Nam mà tiến...! 
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi...”
Ai đó, hình như Phương, ú ớ trong mơ, đọc hai câu thơ của Vương Hàn (Say nằm ở sa trường chẳng ai cười, vì xưa nay ra trận mấy ai còn được mà về...- Lương Châu từ).
 
*
*    *
 
Ga Q. Đây là ga cuối cùng tầu có thể đến được trên đường sắt Bắc- Nam. Bộ đội xuống tàu. Một rừng cây xanh màu lá bỗng mọc lên giữa cái sân ga vốn trơ trọi vì đạn bom cày xới. Từ đây, ba lô trên vai, họ phân tán thành từng đại đội một, lặng lẽ biến vào các khu rừng phía tây. Đơn vị Lâm tập kết ở một bãi cỏ mé rừng. Từng tổ ba người mắc võng vào các gốc cây thoai thoải sườn đồi, dưới lưng là các đám cây xấu hổ, đám sim, mua. Phương thức giấc sớm,  nằm chờ trời sáng. Phương đông vừa rạng hồng. Anh đứng dậy đi ra suối rửa mặt. Vừa đến bờ quay lại thấy chính trị viên phó Dương đứng sau lưng. “Không ngủ được à?” Dương hỏi.
-         Tôi có thói quen dậy sớm, Phương nói, cái nghề làm công tác nghiên cứu giảng dạy quý nhất là khoảng thời gian này, vợ con đang ngủ say, xóm làng yên tĩnh...
  Tối qua, Dương lắng nghe câu chuyện đối thoại giữa Lâm và Phương, nhất là hai câu thơ Phương đọc trong mơ. Anh thấy “tình hình tư tưởng” của Phương có vấn đề. Dương đang tìm dịp thuận lợi để làm “công tác tư tưởng” cho Phương. Dương hỏi:
-         Tối qua đồng chí có ngủ được không? Mới xa nhà lần đầu chắc khó ngủ nhỉ?
  Phương nhổ vội búng nước trong miệng, bảo:
-         Mọi việc rồi sẽ quen cả thôi.
-         Hôm qua, Dương nói, tôi nghe câu chuyện của anh với chính trị viên Lâm, thấy hay quá!
-         Thế à? Phương hỏi lại.
-         Ừ, hai câu thơ chữ Hán gì đấy... “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi...” nghe hay nhưng buồn quá! Đọc vào lúc này không có lợi...
-         Tôi có đọc hai câu ấy cho anh Lâm nghe đâu! Phương cãi lại.
-         Có, tôi nghe rành rành mà lại! Dương nói...À, à quên, xin lỗi..! Hai câu ấy cậu đọc trong mơ. Tớ nằm sát cậu nên nghe rất rõ. Đã đọc ra trong mơ tức là suy nghĩ đã đi vào tiềm thức rồi. Tôi e...
   Một loạt đạn pháo nổ vang trời. Đất đá bay tung tóe. Phương thấy Dương bị hất lên cao rồi rơi xuống suối. Anh vội lao xuống dìu Dương lên bờ. Lúc này, anh mới thấy bàn chân trái mình bị nhói đau, máu ra nhiều. Anh nằm bất tỉnh bên xác Dương. Tỉnh lại, anh thấy Dương được đặt ngay ngắn trên một vệ cỏ bên sườn núi thấp. Trên đầu khói hương nghi ngút. Máu còn rịn ra tạo thành những vết đen bầm trên bộ quân phục mới, tươi rói màu lá rừng. Phương thử nâng chân trái lên xem, may quá chân vẫn giơ lên được, “Chắc chỉ bị cưa mất bàn chân thôi, còn nhúc nhắc đi lại được!” Phương nghĩ bụng. Nhìn xác Dương, anh thấy xót xa. Anh chưa kịp làm quen với Dương. Dương còn trẻ quá. Một con người dễ mến, đẹp trai. Mái tóc dày, gợn sóng bồng bềnh. Đôi mắt sáng, trong veo. Anh yêu cái  lí tưởng mà mình đã chọn đến cuồng nhiệt, đến cực đoan. Một tâm hồn trong sáng, chắc chưa vợ con gì.  Được thế là may! Còn như mình, nếu không may như Dương, vợ mình, một nhân viên thư viện lương chỉ hơn bốn mươi đồng, một nách hai con nhỏ sống sao nổi giữa thời buổi chiến tranh này. Chẳng ai còn có thể trông cậy vào cái khẩu hiệu “Lá lành đùm lá rách” trong hoàn cảnh cái lá rách “đùm” cho bản thân cũng không còn, lấy gì để giúp người khác!
   Phương về nhà. Cả nhà vừa mừng vừa lo. ( Nếu anh đào ngủ thì cả nhà biết dấu mặt vào đâu!) Biết vậy, vừa đặt ba lô xuống, anh cởi dày đưa bàn chân trái lên cho mọi người xem. Bàn chân giờ như một mũi mác. Một nhát cắt chéo từ sau ra trước. Một nửa bàn chân và bốn ngón bay mất, chỉ còn lại ngón chân cái. Vợ anh nức nở khóc. Có lẽ khóc vì sung sướng. Phương pha trò: “Anh sẽ tiếp tục chiến đấu với vũ khí sắc bén là cái lưỡi mác này”. Vừa nói anh vừa đá chân trái lên cao.
   Sau gần ba tháng hành quân, luồn rừng, lội suối, đơn vị Lâm đã đến đúng nơi tập kết nhận nhiệm vụ. Lâm sung sướng nhìn thấy những khuôn mặt dạn dày đã trở nên quen thân của những người đồng chí trong cùng đơn vị có mặt gần như đông đủ tại vị trí chiến đấu. Bây giờ đã là giữa mùa đông rồi nhưng thời tiết ở vùng này hệt như mùa thu miền Bắc. Rừng vàng một màu vàng xao xuyến. Những tán lá non cũng được nhuộm vàng bởi cái ánh chiều lưu luyến của mặt trời sắp lặn. Chim về tổ, ấm áp lứa đôi. Vài con chim lạc đàn nhao nhác dưới hoàng hôn. Đứng trên cao, nhìn xuống, trước mắt là một thảo nguyên hoang dã ngả màu xanh lục. Những cây khô xù xì đứng trầm ngâm. Đàn bò theo nhau đi về một thôn nhỏ phía xa với những mái nhà lợp tôn màu nâu đỏ. Cây thập tự của một nhà thờ nhô lên khỏi lũy tre làng, gầy guộc, phong sương. Bốn bề tĩnh lặng. Muôn loài như chấp nhận cái trật tự hiện hành, thu mình trong bóng đêm. Ngay cả những ngọn gió, bao phen nổi phong ba làm sập nhà, đổ cây mà giờ đây cũng len lén đi trong các hẻm núi, thì thầm với các ngọn cây rồi biến đi lặng lẽ. Đơn vị được nghỉ “xả hơi” hai ngày trong một khu rừng đại ngàn xa nơi chiến trận. Có những tốp tân binh luồn sâu vào rừng, leo lên các ngọn núi nhìn về phía bên kia, nước bạn. Cũng là những sườn núi, gò đồi, rừng cây, đồng ruộng...Và, những con sông ánh lên lấp lánh dưới nắng vàng. Những ngôi nhà nho nhỏ êm đềm nấp mình dưới các tán cây...Chắc họ đã sống ở đấy nhiều đời, nhiều thế hệ. Đã trải qua nhiều cuộc đấu tranh, giành dật và chạy trốn để có được cuộc sống mà họ chấp nhận ở góc rừng hôm nay! Con người ở đây là một phần khăng khít của thế giới tự nhiên, nó êm ả, giản đơn và trật tự. Sau lưng của các mái nhà xơ xác là các sườn đồi thoai thoải, nhấp nhô các ngôi mộ. Trước mặt là các cánh ruộng bậc thang ngoằn nghoèo theo các sườn đồi. Sông cho họ cá và nước. Rừng cho họ chất đốt và thịt của các loài thú. Khoảng  cách giữa các ngôi nhà khá xa nhau, không tường bao, không phên dậu. Có lẽ con người  nhìn nhau sẽ thấy đẹp hơn, sống thân thiện với nhau hơn, ít xung đột hơn khi giữa họ có một khoảng cách nhất định. Hai tân binh mặt còn măng sữa, đầu óc chứa đầy những tư tưởng phiêu lưu, lãng mạn tụt xuống tận lưng chừng núi phía bên kia vào một ngôi nhà của người dân bản địa. Có lẽ chủ nhân ngôi nhà này là người đến định cư sau cùng. Đấy là một người đàn ông da rám nắng, lực lưỡng, đôi lông mày sâu róm. Anh tự giới thiệu tên mình Cay- tơ- Rinh. Anh cười, cái răng vàng lóe sáng, nhìn người đàn bà nhỏ thó đi rẫy  về, tay mang theo mấy mớ rau tập tàng, nói với vợ: “Có mấy anh bên kia sang chơi”. Chị chào chúng tôi cũng bằng tiếng Việt, sõi hơn cả người Việt. Chuyện trò sôi nổi. Tha hương ngộ cố tri. Họ thân nhau nhanh chóng không giữ gìn ý tứ gì. Cáp Doãn Tần, cậu tân binh có mái tóc bồng, cựu sinh viên khoa sử, sau khi tự giới thiệu mình, chỉ tay vào Lập, nói: “Còn đây là đồng chí Lập, Đoàn Tự Lập. Chúng em quen nhau từ hồi ở đại học. Lập học khoa văn. May sao vào bộ đội ở cùng đơn vị nên cũng đỡ buồn.” Tơ-Rinh ngồi yên, lặng lẽ rót nước mời khách, nhìn vợ nói: “Trưa nay mời hai anh ở lại ăn cơm.” Hai tân binh đồng thanh chối từ, xin phép để dịp sau có nhiều thời gian hơn sẽ ở lại ăn cơm. Tần hỏi Tơ -Rinh: “Anh chị lên đây lâu chưa?” Tơ-Rinh bưng chén nước lên mời khách, như do dự điều gì, không trả lời câu hỏi của Tần, anh đi vào bếp. Lát sau, anh quay ra, cầm theo một gói giấy báo mỏng buộc trong túi ni lông, khói vàng. Mở ra, đưa tờ giấy có dấu đỏ cho Tần đọc. Tần ngước mắt nhìn Tơ-Rinh. Vẻ kính trọng hiện lên trên mặt Tần. Tơ- Rinh dặn: “Tuyệt đối bí mật!”
 Ra về, Lập tò mò hỏi Tần:
-         Ông ấy là gì đấy?
-         Thánh thật, Tần nói bâng quơ, không trả lời trực tiếp vào câu hỏi của Lập mà chỉ nói: “Ta bố trí cả lực lượng nòng cốt bảo vệ mặt sau của khu căn cứ, ngay trên đất bạn. Thắng lợi của cách mạng không bao giờ là sự ngẫu nhiên cả. Đó chỉ có thể kết quả của một thiên tài về tổ chức!”
-         Ông ấy chắc là một người đặc biệt, một dị nhân, Lập nói, khi nói chuyện, tớ thấy cái tai phải của ông ta giật giật liên hồi! Trên tai lại có một cái bớt đen to. Ít người có bớt ở trên tai.
     Đại đội Lâm được lệnh bổ sung cho Trung đoàn 71 anh hùng. Trung đoàn có nhiệm vụ cắm chốt ở vùng giáp ranh, tranh giành với địch từng thước đất, từng người dân, không cho địch mở rộng vùng chiếm đóng. Máu và lửa. Tiếng bom, tiếng súng suốt ngày đêm không ngơi nghỉ. Người lính ra trận không thèm để ý đến ba lô, tư trang của mình cất dấu ở đâu. Nếu còn sống được ngày hôm đó thì lấy áo quần, đồ dùng của người đã hy sinh để sử dụng. Người khác sẽ dùng đồ của mình. Lâm tự hào vì đơn vị mình nhập cuộc khá nhanh, chiến đấu mưu trí dũng cảm. Nhiều chiến sĩ của anh được đưa đi đào tạo cấp tốc các lớp hạ sĩ quan, sĩ quan bổ sung cho các đơn vị khác.
     Vừa được đề bạt tiểu đoàn trưởng, Lâm được lệnh về An toàn khu nhận công tác. Thật bất ngờ, nếu không có cái quyết định đề bạt chắc anh sẽ nghĩ cấp trên coi mình là phần tử hoang mang dao động, suy sụp ý chí chiến đấu hay có khuyết điểm gì nên bị điều về tuyến sau. Cầm quyết định trong tay, Lâm không buồn nhưng cũng không vui. Anh không lí giải được tại sao có cái quyết định điều động này, trong khi đơn vị anh đang rất cần cán bộ, cuộc chiến đang bước vào giai đoạn gay go quyết liệt. Kẻ địch đang lồng lộn đánh nống ra, mở rộng vùng chiếm đóng, uy hiếp an toàn khu. Đáng lẽ anh lên đường từ chiều qua nhưng anh cố nán lại để được ngủ với đồng đội một đêm nữa, được nghe hơi thở nồng nàn của họ, nghe tiếng nói mê ú ớ trong những cơn mơ...Lâm dậy sớm, trước giờ báo thức của đơn vị hai tiếng. Anh đi một lượt nhìn những khuôn mặt thân quen lần cuối cùng trước khi rời đơn vị. Sương lạnh. Cây rừng ướt lá đứng nghiêm trang.  “Xuân dậy chưa nhỉ? Ngoài mình độ này chắc rét lắm...Nửa chiếc giương trống lạnh. Ngôi nhà vắng hoe...” Một thoáng, hồn anh bay về quê nhà ngoài Bắc. Trước mặt anh là một cái hồ, không lớn lắm, anh biết mình đã đi đúng đường.  Theo hướng dẫn, đến đây anh sẽ men theo bờ phải của hồ để vòng sang phía bên kia. Không có đường mòn, dù nhỏ. Anh ngồi lại trên một tảng đá, ngắm nhìn mặt hồ của buổi tinh sương. Cây rừng trầm mặc. Sương lam phủ dày, mặt hồ như rộng ra. Màn đêm ảm đạm bắt đầu vén dần lên. Màu trắng bạc loang dần trên các ngọn cây. Những đám mây ngồi đợi bình minh trên đỉnh núi xa xa đón nhận những tia nắng đầu tiên của mặt trời,  hồng lên rạng rỡ. Chim rừng thức dậy, ríu rít. Giữa hồ, trên một hòn đá nhô lên, hai con cò đang đậu, dáng co ro. Hình như nó sợ ánh mặt trời. Cò thường đi theo đàn, bay đến đâu trắng xóa cả một vùng. Vẻ đẹp của chúng là vẻ đẹp bầy đàn. Nhìn một đàn cò trắng dàn hàng ngang bay giữa lưng chừng trời, lẫn vào màu mây trắng thật nên thơ nhưng khi tách chúng ra từng cá thể, trông chúng đến hèn mọn, thảm thương! “Mình có giống con cò kia không nhỉ?” Lâm nghĩ: “ - Không! Giá mình có đôi, cùng đi dạo với Xuân giữa cảnh này thì đẹp biết mấy!” Anh đứng dậy. Đi. Cắm cúi đi theo mép rừng rìa phải của hồ. Trên đầu, muôn loài chim reo hót líu lo theo giọng điệu của từng loài. Anh sực nhớ chiếc đài bán dẫn mới toanh anh vừa được cấp theo tiêu chuẩn của cán bộ tiểu đoàn. Anh bật đài, vặn nhỏ vô-lum. Tiếng của loài anh hòa giữa tiếng của muôn loài như một cuộc đại hòa tấu của vũ trụ. Lâm tắt đài. Anh như một vị chủ khảo công minh, nhận ra rằng tiếng của loài anh, dù lúc đó nữ nghệ sĩ có giọng hát cao vút T đang hát bài Tiếng đàn Ta lư, , Cô gái vót chông, làm hỏng mất cái giai điệu ngọt ngào của bản hợp xướng của thiên nhiên đang diễn ra quanh mình. Tiếng suối xa xa vọng lại, tiếng chim rừng véo von. “Tiếng suối trong như tiếng hát xa...” Lâm đã từng nghe ai đó đọc câu thơ này, bây giờ anh anh mới thực sự thấm cái hay, cái thần của câu thơ. Chỉ có những người có tâm hồn hòa quyện với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên như những đạo sĩ tu tiên mới truyền được vào hồn người khác cái ngọt ngào trong veo của dòng suối như vậy. Anh ngẩng đầu tìm một khoảng trời xanh nhưng chẳng thấy. Tán rừng già với những cây cổ thụ khổng lồ đã che khuất. Trước mắt anh là con suối tung bọt trắng xóa. Vượt qua bên kia suối, Anh men theo bờ, ngược lên thượng nguồn. Lâm leo lên đỉnh núi. Ngọn núi không cao lắm nhưng từ đây có thể trông rõ bốn hướng. Dưới chân núi trước mặt anh là một trảng cỏ rộng mênh mông. Vừa xuống núi, hai thanh niên ăn mặc áo quần người dân tộc tiến đến, họ hỏi anh giấy tờ. Lâm hiểu, khu rừng đại ngàn dưới chân núi, bên kia trảng cỏ là nơi căn cứ của khu, nơi anh cần đến.
    Vừa đẩy cửa bước một chân vào phòng, anh chững lại. Trước mặt anh là Xuân! Anh tưởng mình chiêm bao. Xuân ôm choàng lấy anh, khóc. Lâm đặt hai tay lên bờ vai của Xuân,  lùi lại một bước, anh ngắm nhìn Xuân từ đầu đến chân. Lại ôm riết Xuân vào lòng kêu lên: “Ôi! Miền bắc hết người rồi hay sao mà đưa cả những người bụng mang, dạ chửa như em vào chiến trường?” Xuân cười trong nước mắt. Anh đi được một tuần thì em làm đơn tình nguyện xin đi. Em thấy dấu hiệu mình có thai nhưng dấu biệt việc này. Đơn từ gửi khắp nơi, có cái viết bằng máu. Em được chấp nhận và lên đường sau anh hai mươi bảy ngày. Em được bố trí về đây, hiện làm ở Ban tổ chức. Sau này khi khu căn cứ mở rộng, có trường em sẽ đi dạy học đúng với nghề của mình.
    Cơ quan túm tụm nhau làm cho vợ chồng Lâm một căn nhà nhỏ sát vào vách núi. Ngôi nhà thông vào một hang đá nhỏ. Anh em đùa gọi cái hang đá là “khuê phòng” của vợ chồng Lâm. Đối diện với nhà Lâm, cách một cánh ruộng nhỏ, mé đồi bên kia là nhà của một bà già người dân tộc, bà Hên. Hai con trai bà trước đều làm cảnh vệ cho khu căn cứ. Hai cậu cứ khăng khăng đòi ra mặt trận trực tiếp chiến đấu. Giờ, bà chỉ sống một mình. Được tin Xuân về ở cạnh mình, bà mừng lắm, Xuân quấn quýt với bà như con gái về nhà mẹ. Bà rất thích nghe đài Hà nội. Mỗi lần Lâm đi làm về, nghe tiếng nhạc phát ra là bà sang ngồi nghe. Bà say nhất là nghe hát quan họ lời cổ. Nghe nhiều đến thuộc. Đôi khi ở nhà một mình, bà ri rỉ hát: “Bèo dạt mây trôi chốn xa xôi...”. “Nhìn dáng bà lom khom, côi cút lại cất lên lời hát ấy, thương lắm!” Xuân thường nói với chồng câu ấy.
 Xuân sinh con trai. Lâm đặt tên con là Đặng Mai Sơn. Anh giải thích: “Trúc Lâm là rừng Trúc, Mai sơn là núi Mai. Núi Mai đối với Rừng Trúc rất chuẩn, nhưng ý nghĩa chính là mẹ Xuân đã mang bé vượt Trường sơn vào đây và được sinh ra trong hang núi.” Mọi người chẳng ai gọi bé theo cái tên “cúng cơm” của bố đặt. Họ gọi nó là thằng Vừng. Mẹ đi làm về chưa đến ngõ đã “Vừng ơi!”, bà Hên thì cả ngày, dù bế Vừng trên tay vẫn cứ: “Vừng của bà đâu! Vừng ngoan của bà đâu!” Bà cứ bế chặt Vừng trên tay như sợ ai cướp mất. Vừng bụ bẫm, xinh như trong các tranh vẽ. Nhìn thấy người lạ cứ vẫy tay, đạp chân liên hồi rồi nhoẻn miệng cười đến là dễ thương! Khu rừng như sáng lên bởi tiếng cười của bé. Lên hai, Vừng lẫm chẫm theo mẹ đến cơ quan, đôi khi Vừng còn theo bố xuống địa đạo nơi bố làm việc. Khu căn cứ dạo này khá bình yên, vùng căn cứ không ngừng được mở rộng. Bọn địch co cụm lại cố giữ các thành phố và các tuyến huyết mạch giao thông. Đời sống vật chất không đến nỗi thiếu thốn. Đường sữa cho trẻ con không thiếu, toàn sữa ngoại. Các chú đi công tác về thế nào cũng có quà cho Vừng.
    Hôm ấy, cũng như nhiều lần khác, Xuân xuống các huyện mới giải phóng công tác, Vừng ở nhà với bố. Bất ngờ, bọn địch mở cuộc càn quét tổng lực đánh vào khu căn cứ. Sau những trận ném bom rải thảm, pháo bắn cấp tập theo tọa độ, hàng mấy chục chiếc trực thăng cho quân đổ bộ xuống trảng cỏ mé rừng. Bọn thám báo biệt kích, từng toán, từng toán xông vào các ngõ ngách trong rừng săn tìm hầm bí mật, cửa địa đạo. Ngồi dưới hầm nghe rõ tiếng giầy của chúng đi bên trên. Tiếng của những chiếc thuốn khoan xuống đất nghe rào rạo rất gần. Vừng sợ quá ôm chặt chân bố. Lâm tiểu liên đeo ngang ngực, lựu đạn trong tay lắng nghe chăm chú. Thấy vương vướng dưới chân, sực nhớ đến sự có mặt của đứa con trai trong thời khắc nguy hiểm này. Chỉ cần một tiếng khóc của nó là kẻ địch phát hiện ra ngay tức khắc miệng hầm. Tính mệnh các đồng chí lãnh đạo có mặt trong hang đang ở trong tay Lâm. Anh vội lấy chiếc chăn quấn chặt Vừng đem xuống đặt ở tầng sâu của địa đạo, thì thầm vào tai con: “Ngoan nhé, nằm yên đừng khóc, bố xuống ngay...!” Vừa nói Lâm vừa chạy lên án ngữ ở miệng hang. Bên trên súng nổ vang trời. Chỉ nghe tiếng súng anh biết giao tranh đang nổ ra quyết liệt ở rất gần nơi cửa hang của anh. Tiếng nổ đanh đúa, kéo dài rồi xa dần. “ Chắc bọn địch đã rút chạy”- Lâm nghĩ. Nghe rõ cả tiếng của các đồng chí mình đang tất bật phía trên. Anh nhảy bật lên khỏi miệng hang, đậy nắp ngụy trang cẩn thận rồi chạy về phía đám đông đang tụ tập phía trước. Xác chết của cả hai phía nằm la liệt. Các lực lượng cứu thương đang xoay xở cuống cuồng bên các thương binh. Thấy xác của một đồng đội nằm như đang gối đầu vào một gốc cây, Lâm chạy lại. Anh choáng váng, người đang nằm đấy chính là Thanh Bình. Trên người Bình rất nhiều vết thương. Máu đầm đìa. Chiếc đầu vẹo xuống. Một viên đạn xuyên từ đuôi mắt trái ra phía sau tai, máu tươi còn rỉ ra. Lâm ôm lấy Bình. Người Bình còn nóng. Đưa tay lên mũi Bình, Lâm thấy Bình còn thoi thóp. Lực lượng cứu thương đã tiến về phía trước. Họ đinh ninh Bình đã hy sinh nên tập trung lực lượng cho các ca sơ cứu. Lâm lấy vội chiếc băng ca, vẫy tay gọi cậu cảnh vệ, đặt Bình lên cáng. Hai người chạy như bay đưa Bình về trạm quân y. Các bác sỹ, y tá ở trạm quân y rất biết Lâm. Anh là chỉ huy trưởng lực lượng bảo vệ tiếp cận các đồng chí lãnh đạo cao cấp. Thấy Lâm trực tiếp cáng đến, họ đồ rằng người nằm trên cáng là cán bộ cấp cao của khu hoặc cán bộ của trung ương cử vào. Những người thầy thuốc giỏi nhất đều tập trung xử lí ca này. Lâm như nín thở đứng nhìn, quan sát khóe mắt, cái nhìn của các thầy thuốc để đoán biết tình hình sức khỏe của Bình. Lòng đầy lo lắng. Từ phòng trong, một tiếng khóc của trẻ con ré lên. Lâm sực tỉnh nhớ đến đứa con mình đang nằm dưới hang vội vàng chạy về. Vừa chạy anh vừa lẩm nhẩm: “ Vừng ơi! Vừng ơi...!” Anh giựt phứt nắp hầm vứt lên trên, chui vào hầm gọi to: “ Vừng ơi! Dậy đi, bố về đây rồi...” Anh lao vội xuống cái ngách sâu nơi anh đặt đứa con trai của mình nằm. Không nghe tiếng khóc. Anh lôi nhanh gói chăn, mở ra...Bé Vừng nằm co quắp. Người còn hơi ấm nhưng cháu đã tắt thở tự bao giờ. Lâm gào lên một tiếng man dại: “Con ơi!” Anh vọt lên khỏi hang, như người lên cơn điên, đặt bé Vừng lên hai tay đưa về phía trước ngực, thất thểu đi. Nước mắt ướt cả thi thể em bé...Mọi người xúm lại quanh anh. Bà Hên nghe tin chạy đến, đi được nửa đường bà nằm ngất xỉu nước mắt ràn rụa. Mấy anh bộ đội dìu bà đến chỗ đặt xác Vừng... “Sao con bỏ bà mà đi Vừng ơi!...Con ơi!...Con cho bà đi theo cùng...Bà sống mà làm gì, sống sao nổi nữa con ơi...”Tiếng bà đứt đoạn, ai oán, thê lương dội vào vách núi.
    Xuân đi công tác cơ sở, vào sâu vùng địch hậu, không có phương tiện liên lạc. Theo kế hoạch, bốn hôm nữa chị mới về. Không đợi được, cơ quan quyết định mai táng bé Vừng sau hai ngày. Mộ em được chôn ngay trong hang đá nơi em sinh ra. Lâm ra, vào như chiếc bóng, có khi cả ngày ngồi trong hang, bên mộ con. Ngóng đợi Xuân về, anh không hiểu cô có chịu nổi nỗi đau đứt ruột này không...
    Cơ quan khu bộ được lệnh cấp tốc di chuyển đến một địa điểm mới, vào sâu trong rừng già. Một bộ phận quan trọng được chuyển qua bên kia biên giới. Lực lượng vũ trang bảo vệ vòng ngoài được tăng cường, án ngữ phía bên này đường biên. Lâm được chuyển sang làm chính trị hiệp lí viên[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn6][6][/link] các cơ quan phục vụ quanh khu bộ.  Xuân vẫn ở ban tổ chức (công tác chính trị tư tưởng của ban vẫn do Lâm phụ trách). Hai vợ chồng có điều kiện gần gũi nhau hơn. Lâm săn sóc chăm chút Xuân nhiều hơn, cố gắng không để Xuân gục ngã trước đau thương. Cả hai đều cố gắng nén nỗi đau đang ngày một đè nặng trong lòng. Hàng ngày vẫn chăm chú công việc, bề ngoài họ vẫn tỏ ra vui vẻ, tham gia đều đặn mọi sinh hoạt của cơ quan. Tuần trước, cơ quan tổ chức liên hoan văn nghệ, theo lệ thường mỗi người đóng góp một tiết mục. Đến lượt Xuân, chị bước lên sân khấu hát bài: “ Lời ru trên nương”đầy xúc động. Đến câu: “ Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng...” chị hạ một giọng trầm đứt đoạn rồi ngã xuống sân khấu. Mọi người xúm nhau đưa chị về trạm xá. Chị nằm liệt giường cả tuần lễ, người xanh xao, võ vàng. Xuân được đưa ra bắc an dưỡng, điều trị cùng với số thương bệnh binh của khu. Lâm được trao nhiệm vụ phụ trách đoàn cùng bác sĩ Diệu Hương, y sĩ Lê Triều và y tá Lâm Bằng dẫn 32 thương bệnh binh vượt Trường sơn ra bắc. Thanh Bình là ca nặng nhất trong số thương bệnh binh đưa ra bắc lần này. Anh được nằm riêng trên chiếc chuyên xa cứu thương nhãn hiệu Ford mới toanh vừa lấy được của địch trong trận càn hôm rồi. Bác sĩ Diệu Hương và nữ y tá Lâm Bằng, người chịu trách nhiệm chính chăm sóc Thanh Bình ngồi cùng xe. Thanh Bình vẫn trong tình trạng mê man. Anh sống đời sống thực vật, sống được nhờ truyền đạm và huyết thanh. Đến địa đầu tỉnh N, tình hình chiến sự và địa hình hiểm trở, đoàn không thể men theo con đường Đông Trường sơn để ra Bắc như trước đây được nữa. Lâm quyết định cho đoàn vượt sang phía Tây Trường sơn đi nhờ đất bạn Lào. Vấn đề nan giải là tình hình sức khỏe của Bình không cho phép vượt Trường sơn lúc này. Trời nhá nhem tối. Bóng hoàng hôn giữa rừng nghe mông lung. Hai chiếc xe cắm cúi đi bằng đèn gầm. Vượt qua một trảng cỏ nhạt nhòa màu vàng úa của cỏ, màu tím sẫm của các khóm sim mua và những đám đất vừa bị cày xới của bom đạn. Xe dừng lại. Bác sĩ Diệu Hương chỉ tay về phía mảng núi xanh đen phía trước mặt nói với Lâm:
-         Đấy là chỗ giao nhau giữa dẫy Trường sơn và nhánh núi đâm ngang về phía đông ra gần đường quốc lộ. Chỗ màu đen sẫm kia chính là một cửa hang thông xuống một con suối nhỏ. Hang rộng lắm, cả trung đoàn đóng quân vẫn đủ chỗ. Trước đây hang đã từng được làm quân y viện dã chiến. Cửa hang này chỉ là cửa phụ. Cửa chính ở phía bên kia, ô tô có thể vào tận nơi. Từ đây sang đấy xa lắm, phải quay ra đường cũ, chạy theo con đường gập ghềnh lúc nãy ta vừa đi, đi tiếp hơn hai cây số nữa mới đến! Bình không thể tiếp tục đi được nữa. Tôi đề nghị đưa Bình vào hang đá, điều trị lấy lại sức rồi tiếp tục đi sau. Anh dẫn đoàn vượt sang phía Tây ra Bắc trước. Tôi và Lâm Bằng sẽ lo cho Bình. Vấn đề bây giờ là tìm cách đưa Bình vào hang, phải khiêng Bình vượt qua một con suối nhỏ và xóa hết mọi dấu vết trên đường.
    Chiếc ghế nằm trên xe được tháo ra làm băng ca cáng Thanh Bình vào hang và dùng làm giường nằm cho Bình luôn thể. Ba người xoay xở đến hơn bốn giờ sáng mới thu xếp tạm chỗ nằm cho Bình và chỗ ở của Lâm Bằng trong hang. Bác sĩ Diệu Hương kiểm tra lại sức khỏe cho Bình, ghi phác đồ điều trị đưa cho Lâm Bằng rồi ra xe trở về trạm quân y.
 Trời rạng sáng tự bao giờ. Lâm Bằng vẫn ngồi bên giường bệnh nhìn những giọt nước rơi chậm rãi trong ống gen. Cô gái hai mốt tuổi, lần đầu tiên xa nhà ngồi giữa rừng vắng,  canh giữ một người đàn ông đang tìm đường thoát về âm phủ. Một nửa vừng mặt trời bị mây đen che phủ. Lâm Bằng không dám bước ra khỏi hang. Cô ló đầu nhìn ra ngoài. Gió lay nhẹ các khóm cây trước miệng hang. Mặt trời lên cao. Núi rừng phủ đầy màu vàng của nắng, màu vàng nhạt của những cành lá non, mầu xanh thẩm của những tán cây cổ thụ và ánh lên sắc biếc của những khóm lá đương thì. Cả không gian xanh như đang đung đưa, dập dờn, phiêu bồng trong gió sớm. Dưới thung sâu, gió đang thì thầm ve vuốt  những loài hoa dại thơ ngây phô mình, khoe sắc trong nắng sớm ban mai: Màu trắng tinh khôi, màu vàng, màu đỏ thắm, màu tím nhạt mỏng manh...Trên cao nhìn xuống trông chúng như một bức tranh thủy mạc muôn màu. Lạc lõng giữa bức tranh êm đềm ấy là hai con chào mào đứng trên một ngọn cây cằn cỗi đối diện với cửa hang bên kia suối.  Những tiếng kêu liên hồi hót lên nghe thê lương, thảm thiết. Mắt chúng nhìn đăm đắm vào một cành cây vừa bị đạn pháo cắt đứt chiều qua bắn ra tận bờ suối. Thỉnh thoảng con chim cái lại sà xuống đậu lên trên cành cây chưa kịp héo lá rồi bay lên trong tiếng kêu xé ruột. Thấy lạ, Lâm Bằng chạy xuống suối, nhặt cành cây lên xem.  Cành cây đang đeo lủng lẳng một tổ chim chào mào, trứng vỡ tung, máu dính đầy trên thân của những chim con sắp đầy ngày, đủ tháng. Chim bố, chim mẹ đang đi tìm con sau trận càn của ngày hôm trước. Lâm Bằng ngồi quay mặt vào trong hang không dám nhìn lên cành cây có hai con chim đang đậu. Chị khóc. Hôm sau chị dậy sớm, nhìn ra cửa hang. Hai con chim vẫn đậu trên cành. Lông xù. Không có những tiếng gào rát ruột như hôm qua. Chúng xù lông, xích lại gần nhau, nói với nhau điều gì rất khẽ. Cành cây đã rụng hết lá, chỉ còn lại chiếc tổ chim méo mó, thảm thương.
    Công việc hàng ngày của Lâm Bằng là tiếp đạm, tiếp xia-rom, làm vệ sinh thân thể và xoa bóp toàn thân cho Bình. Sáng nay chị hoảng hốt thấy sau lưng Bình xuất hiện những đám tím bầm. “Bắt đầu có hiện tượng hoại tử”- Chị nghĩ thầm. Hiện tượng này xuất hiện do nằm nhiều. Nếu không kịp thời chữa trị sẽ rất nguy hiểm. “Không có bác sĩ, không có phương tiện, thuốc men, lại chỉ có một mình! Làm sao bây giờ?” Lâm Bằng vô cùng bối rối. Chị đã lót xuống giường cho Bình những chiếc chăn dầy, nhưng chỉ toàn chăn bông hóa học, rất bất lợi cho da. Giữa rừng sâu âm thầm, chỉ có sự đối mặt giữa cái chết và cái sống thôi, không có gì phải xấu hổ cả. Chị cởi hết quần áo của mình và của Bình, đặt Bình nằm ngửa lên người mình. Hai tay liên hồi xoa bóp cho Bình từ trên đỉnh đầu, xuống ngực, xuống bụng, tứ chi...Mệt quá, ngủ thiếp đi, tỉnh lại, lại liên tục xoa bóp. Sau ba ngày Lâm Bằng rất phấn khởi thấy những đám đen sau lưng Bình đã nhạt màu, nhiều chỗ sắc hồng đã hiện lại. Quan sát sự thay đổi về sắc diện, những cử động về tay chân, Lâm Bằng biết, bệnh tình của Thanh Bình có chiều hướng phát triển tốt. Đến ngày thứ sáu, thay quần áo cho Bình, chị reo lên sung sướng. Sắc hồng đã trở lại trên toàn bề mặt lưng Bình. Chị đã cảm nhận được một hơi ấm, một sức sống từ cơ thể Bình truyền xuống người mình râm ran khắp cơ thể. Tối thứ bảy, chị vẫn tiếp tục phương pháp điều trị cũ.  Chị ngủ được nhiều hơn. Khoảng bốn giờ sáng, hai tay chị đang với lên xoa trán, vuốt tóc cho Bình, bỗng, có một bàn tay tóm lấy tay chị hỏi: “Ai làm gì đấy?” Lâm Bằng hồn vía lên mây, suýt nữa hét lên vì sợ hãi. Chị tưởng dân quân địa phương đến bắt hai người đàn ông và đàn bà làm chuyện bất chính trong hang. Hồi còn ở nhà, chị đã nghe kể nhiều về những hình phạt dành cho những đôi trai gái bị bắt trong tình trạng trai trên, gái dưới trần truồng như vậy. Có trường hợp họ không cho hai người mặc áo quần, dẫn “bị can” trần truồng về ủy ban lập biên bản, xét kỉ luật. Bàn tay kia buông tay chị ra, sờ xuống dưới lưng mình, thấy cảm giác mềm mềm, ấm áp ở hai bàn tay. “ Ô! Sao lại thế này?” Lâm Bằng nghe hơi thở của tiếng nói ấy phát ra từ người đàn ông nằm trên mình. Chị nhẹ nhàng lách mình ra khỏi giường, đặt lưng Bình xuống mặt đệm. Chạy ra ngoài, mặc vội quần áo, vừa mặc, chị vừa cuống quýt hỏi: “Anh tỉnh rồi hả?”. Tiếng chị như reo, như nấc, như cười, như khóc. Chị lấy quần áo mặc cho Bình. Bình hỏi liên tục: “Đây là đâu? Sao lại thế này? Cô là ai?..
Hai người ngồi bên nhau cho đến sáng. Những câu trả lời của chị bị đứt quãng bởi tiếng nấc và tiếng khóc. Chiếc đèn pin lắp sáu pin chiếu lên trên trần tỏa sáng đủ để cho hai người nhận ra mặt nhau. Lâm Bằng úp mặt vào vai Bình khóc nức nở. Bình bảo rất thèm cơm. Tang tảng sáng Lâm Bằng chạy ra rừng. Chiều qua đi hái nấm, chị nhìn thấy một tổ chim cu. Ba con chim con béo tròn đang mọc lông ống, mắt thao láo nhìn chị rất đáng yêu. Chị định bắt chúng về làm thịt nhưng nhớ lại hình ảnh hai con chào mào mất con, chị lại không đành. Bây giờ Bình đòi ăn cháo, chị nghĩ ngay đến tổ cu gáy này. Đến nơi, chị tần ngần. Tiếng kêu sầu thảm của hai con chào mào lại vang lên bên tai chị. Lặng im một lát, chị nhón tay bắt một con. Chị bảo: “ Hãy cống hiến một con cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc nhé! Chúng mày đẻ hai con là vừa...” Chị quay lại, hai con cu gáy bố, mẹ bay rật lên. Chị chạy như bay về nhà, lấy gạo nếp cho vào nồi. Ăn xong, Bình đòi ra ngoài hang đi dạo. Lâm Bằng kiên quyết không cho, bắt anh phải tập những bài đi bộ cự li ngắn trong hang. Chị bảo Bình:
- Anh hãy đi bộ ba vòng giữa hang, em sẽ đo lại huyết áp, nhịp tim cho anh, nếu bình thường, chiều nay em sẽ dẫn anh xuống suối tắm. Bình tiến lại ngoặc tay với Lâm Bằng nói:
- O K, tôi sẽ đi năm vòng, nhưng không được ăn gian khi đo đâu nhé!
Bình không những đi ba vòng mà đi luôn đến năm vòng rồi chạy lại bảo Lâm Bằng kiểm tra.  “Lạ thật, như có phép thần vậy!”Lâm Bằng nghĩ, mọi chỉ số của Bình như người khỏe mạnh, bình thường. Sức khỏe của Bình hồi phục từng giờ, có thể nhận ra được bằng mắt thường.
    Ba giờ chiều, trời cao trong vắt. Cây rừng đứng lặng. Lâm Bằng dẫn Bình xuống suối. Chị có thói quen chăm sóc Bình như một cô bảo mẫu chăm sóc bé lên hai. Thanh Bình nhìn Lâm Bằng cười: “Có gì đâu mà cô cứ nắm chặt tay tôi dò dò từng bước như vậy? Tôi tự đi được mà!”
-         Anh mới ốm dậy, cẩn thận vẫn hơn! Lâm Bằng nói.
-         Không tin, cô khoác vào cổ tôi, tôi sẽ cõng cô xuống suối ngay bây giờ! Thanh Bình nói, cầm một cánh tay của Lâm Bằng khoác lên cổ mình.
-         Thôi được! Lâm Bằng nhìn vào mắt Thanh Bình cười, nói, em không dắt tay anh nữa nhưng anh phải đi sát vào lưng em. Chỗ nào khó, vịn vào vai em mà đi.
 Cô xăng xái lội xuống suối trước, nói với Thanh Bình:
-         Anh không được đặt chân lên hòn đá này, nhiều rêu, trơn lắm!
 Chị đưa cho Bình chiếc gậy. Bình chống gậy lội ra hòn đá cạnh Lâm Bằng, nơi chị chọn cho Bình ngồi tắm. Bình chống gậy đứng yên, mắt nhìn chăm chăm xuống dòng nước chảy xiết giữa hai bắp đùi Lâm Bằng. Anh sợ sự lay động sẽ làm tan biến đi hình ảnh của Lâm Bằng đang soi xuống nước. Chị, hai tay cầm chặt ống quần vén cao. Cặp đùi trắng hồng, tròn lẵn, nổi rõ cả những sợi lông tơ đen mờ, mỏng tang đang dính vào làn da nõn nà. Chị nghiêng người, tay với về phía trước đón Thanh Bình. Thanh Bình vẫn đứng sững giữa dòng... Lâm Bằng hét to:
-         Anh có làm sao không?
-         Choáng! Thanh Bình quay về phía Lâm Bằng trả lời cộc lốc như tiếng kêu cứu.
Chị hốt hoảng thả vội hai ống quần xuống nước lội sang chỗ Thanh Bình đứng, ôm chặt lấy ngang lưng anh nói:
-         Lên thôi, lên thôi, Đã bảo là mới ốm dậy mà cứ ham! Ngày mai, ngày kia còn chán thì giờ để tắm. Nước suối không cạn đâu mà lo.
Thanh Bình ngồi thụp xuống nước, làm Lâm Bằng cũng ngả theo. Anh cười to, sảng khoái  nói:
-         Choáng lắm, không còn biết trời đất là gì nữa! Phải ngâm xuống nước lạnh mới hết “choáng”!
Biết mình bị “lừa”, chị đấm thùm thụp vào vai Bình: “ Chết đi! Ngồi yên, em kì lưng cho.”
    Lên bờ. Lâm Bằng vào hang chuẩn bị bữa chiều. Bình ngồi lại trên miệng hang sưởi nắng. Anh nằm ngửa người trên bãi cỏ. Gió và ánh mặt trời mùa thu mơn man trên da thịt. Anh cảm nhận được sự sống đang trở lại với cơ thể mình. Chiều hoe vàng cả không gian. Gió lặng. Những hàng cây trầm mặc đứng ngắm bóng mình sóng soải trên các triền núi nghiêng nghiêng. Tất cả chúng đang soi mình xuống mặt đất trong cảnh chiều yên tĩnh. Chúng muốn biết trong những tháng ngày bom đạn vừa qua chúng được gì và mất gì: Có mầm non nào mới nhú, có cành nào bị gẫy...Thảm thương là những cây bị cụt ngọn. Bóng chúng trên mặt đất như khúc xương đùi của một động vật bị sói ăn thịt còn sót lại. Trên các cành cây cao, có những đôi chim, mỏ ngậm đầy rác và lá rừng. Chúng đang tìm nơi an toàn để xây lại cái tổ ấm đã bị tàn phá của mình. Thương thay cho những sinh linh bé mọn kia vẫn đang tìm cách để tồn tại theo sự thôi thúc của bản năng sinh tồn! Bình nghĩ: “Hành động theo bản năng sinh tồn và hành động theo lí tưởng có khác nhau không?” “- Khác nhau nhiều lắm! Bản năng sinh tồn là cái chung nhất của muôn loài, còn lí tưởng, chỉ con người mới có. Và, con người khi thực hiện một hành vi nào đó không nhất thiết là vì sự sinh tồn của bản thân hay vì một lí tưởng mà mình lựa chọn.” “- Vậy thì, tại sao loài chim có đầy đủ quyền tự do để chọn lựa môi trường sinh tồn, hoàn cảnh sống của mình theo phương châm đất lành chim đậu mà chúng vẫn bám riết vào cái nơi đầy chết chóc khói lửa này để sống?”  “- Sự níu kéo của thói quen và tầm nhìn!”
    Thời khắc trước hoàng hôn của chốn núi rừng đầy hư ảo. Vẻ huyền bí của núi đồi hiện lên dưới ánh mặt trời sắp tắt ám ảnh lòng người. Những đụn mây lúc xếp chồng lên đỉnh núi như muốn làm cột trụ chống trời, lúc lại biến thành một giải lụa trắng mỏng tang vắt ngang sườn núi xanh biếc. Thanh Bình đứng dậy đi vào hang. Một luồng gió lạnh xao xuyến thổi qua người. “Ngày mai sẽ thế nào nhỉ?”Anh tự hỏi mình một cách vu vơ.
     Sáng nay, Lâm Bằng định dẫn Thanh Bình đi dạo chơi trong rừng theo kế hoạch tập luyện nhằm hồi phục sức khỏe cho anh. Không ngờ, vừa ăn sáng xong, có chuyến xe chở thương binh ra Bắc ghé đón Bình. Lâm Bằng có lệnh trở về cứ . Đột ngột quá, bốn mắt nhìn nhau như muốn khóc. Họ chưa kịp nói với nhau điều gì, chưa biết cả họ của nhau. Lâm Bằng vội vã xách chiếc ba lô tòn ten, mỏng dính của Bình theo sau anh ra xe. Bình lên xe, với tay xuống nắm chặt tay Lâm Bằng, rối rít nói:
-         Thôi chết, em chưa ghi cho anh địa chỉ quê quán của em để anh có dịp về thăm các cụ!
Lâm Bằng vội buông tay Lâm, luống cuống tìm giấy. Chẳng có, chị vội cởi chiếc khăn dù quàng trên cổ, lấy bút viết vội vào góc chiếc khăn:
Hà Lâm Bằng, thôn.... Xã....Huyện.... Tỉnh Thái Bình, Con ông....Bà....
Ngày 18/4/ 19...
Bình kêu lên: “ Ô ! Ngày này chính là ngày sinh nhật của anh đấy! Anh quên mất. Bây giờ thì không thể nào quên được nữa rồi.”
Chị quàng chiếc khăn vào cổ Bình. Xe nổ máy. Lâm Bằng quay vội về hang, không ngoái đầu lại, sợ mọi người nhìn thấy những dòng nước mắt đầm đìa trên mặt mình.
Chị lau nước mắt, trèo lên một hòn đá trước cửa hang, quay nhìn về phía chiếc xe. Buổi sáng mai yên tĩnh lạ thường. Mặt trời vừa ló rạng, in bóng người con gái lên vách núi. Bộ quân phục màu lá còn mới, rạng rỡ trong nắng mai. Đôi mắt sầu u, xa thăm thẳm. Chị đứng im như bức tượng đá nhìn theo chiếc xe cắm lá ngụy trang khuất dần vào bóng núi.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                                     4
 
 
 
       Đôi vợ chồng Lâm và Xuân về sống trong ngôi nhà do ông ngoại Xuân để lại. Vẫn   ngôi nhà một gian hai chái đứng dưới tán cây mít dai nhiều năm tuổi, vỏ xù xì mốc thếch. Có đôi tắc kè ở đâu về trú ngụ, khắc khoải kêu trong đêm trường làm xốn xang thêm cho những người thao thức. Lâm trở mình hỏi vợ:
-         Em ngủ rồi à?
-         Chưa, Xuân trả lời, đặt tay lên ngực Lâm.
-         Anh muốn bàn với em việc này, nhưng em phải hết sức bình tĩnh nghe anh nói. Nói ra điều đau đớn của lòng mình không phải là dễ nhưng vì tương lai hạnh phúc của chúng ta và vì thương em, yêu em... Xuân cắt ngang lời Lâm:
-         Chẳng lẽ chúng ta còn chưa thật hiểu nhau, chưa nhận thức được hết tình cảm chúng ta dành cho nhau hay sao mà anh phải rào đón nhiều vậy? Để bảo vệ được tình yêu của chúng ta, anh bảo em nhảy vào lửa em cũng nhảy. Anh nói đi.
-         Con trai chúng ta, bé Vừng mất đã năm năm. Mất mát ấy thật đau đớn không gì bù đắp được. Điều an ủi của anh và em là chúng mình còn trẻ, còn có cơ hội sinh nở nhưng đã ba năm nay chúng mình luôn sống bên nhau mà sao không thai nghén được. Cả anh và em đều đã đi khám nhiều bệnh viện, ở đâu cũng kết luận sức khỏe sinh sản của cả hai đều tốt. Sức lực tràn trề, cảm hứng mạnh mẽ mà em vẫn không thụ thai! Có thể trời phạt anh chăng? Đứa con là báu vật trời cho mà anh đã để mất nó một cách vô tình như thế! Trời hại anh là phải...Lâm khóc rống lên. Chưa bao giờ anh khóc to như vậy.
-         Nhắc lại chuyện cũ làm gì nữa hở anh! Chiến tranh mà...Xuân ôm đầu chồng vùi vào ngực mình, nói. Vậy, giờ ý anh thế nào?
-         Vợ chồng mà không có con buồn lắm! Anh buồn một chắc em sẽ buồn mười, Lâm nói.
-         Điều đó em hiểu, Xuân nói, anh định nói gì cơ mà?
-         Có thể xin con nuôi, nhưng như vậy không hay bằng...Lâm nghẹn ngào nói tiếp, em còn độ sinh nở...Em, em...có thể đi với ai đó kiếm một đứa con mà nuôi, con do em đẻ ra vẫn hơn. Chuyện này phải được giữ bí mật tuyệt đối, chỉ có anh và em biết thôi. Đấy cũng là điều kiện bắt buộc đối với người mà em có quan hệ để xin con.
Xuân bật khóc, nức nở, không nói gì. Hồi lâu, chị nói:
-         Em cũng nghĩ rằng có đứa con sẽ làm cho gia đình hạnh phúc hơn. Để có con, anh bảo em làm gì em cũng làm. Em đã cùng anh đi hết chùa nọ đến đền kia, khấn vái tứ phương rồi mà không có hiệu quả gì. Giờ, anh bảo em đi xin con để đẻ! Anh thông cảm cho, điều đó em không thể làm được. Em là một cô giáo. Tâm hồn non trẻ của học sinh làm sao hiểu thấu nỗi đau của chúng ta. Em không ngại mình hoen ố nhưng rất sợ hành vi đó sẽ vấy bẩn tâm hồn trong trắng các em, của thế hệ sau. Em đã nghĩ đến giải pháp này nhưng người thực hiện không phải là em mà là anh cơ! Anh hãy chấp nhận đi. Anh làm công tác thanh niên, địa bàn công tác rộng, môi trường giao tiếp thuận lợi...Hãy tìm một ai đó có thể gửi gắm được...kiếm một đứa con mà nuôi, miễn sao họ đừng dính dấp vào đời sống của vợ chồng mình. Em sẽ đi đón con lúc nó mới lọt lòng từ nhà hộ sinh về...
-         Nói vậy, Lâm bảo, là em chưa hiểu hoàn cảnh công tác của anh bây giờ. Anh là phó bí thư tỉnh đoàn thanh niên cộng sản. Đoàn thanh niên là đội hậu bị, là cánh tay phải của đảng. Nhiệm vụ của anh là phải giáo dục thế hệ thanh niên sống có lí tưởng, có đạo đức trong sáng. Nếu anh làm chuyện vụng trộm ấy liệu dư luận xã hội có tha thứ cho anh không?
-         Thôi  đừng bàn chuyện này nữa anh ạ! Trời cho sao được vậy, lưới trời khôn thoát, vùng vẫy mà làm gì! Xuân nói.
-         Trời không bắt ta thế này. Trời cho ta đủ đầy. Lâm vào hoàn cảnh này là tại ta hành xử sai. Ta phải vẫy vùng tìm lối thoát cho chính mình. Lâm nói.
-         “Hành xử sai” nhất là ở chỗ không ai muốn làm người, chỉ muốn làm một tấm gương. Suốt đời, người này đi soi gương người nọ. Xung quanh quá nhiều gương sáng đến nỗi vấp vào gương vỡ đầu, chảy máu. Khi tỉnh lại soi vào chính mình thì không nhận ra cái mặt rách nát của mình nữa. Xuân nói một cách rắn rỏi như tỉnh bơ sự đời.
-         Được, anh hiểu...Ngủ đi, khuya rồi.
    Đang là dịp cuối năm, Lâm bận túi bụi vào việc tổng kết các phong trào thi đua. Thanh niên là ngọn cờ đầu, chiếc huy hiệu đoàn “tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên” thể hiện tính chiến đấu, tính tiên phong của người thanh niên cộng sản. Do vậy, không phong trào nào ở địa phương không dính vào Lâm. Phong trào “Ba sẵn sàng” (Đi bất cứ nơi đâu đảng cần, nhận bất cứ nhiệm vụ gì đảng giao, sẵn sàng hy sinh), Phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người.” Phong trào “Ba Khoan” ( Khoan yêu, khoan cưới, khoan đẻ)...
   Các đợt học tập gương người tốt, việc tốt được tổ chức liên tục: Gương anh hùng, “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt xe cơ giới”...từ các mặt trận phía Nam; Gương các “Kiện tướng làm bèo hoa dâu”, “Kiện tướng làm thủy lợi”, gương anh hùng chăn bò Hồ Giáo ; học tập các điển hình tiên tiến:  “Sóng Duyên hải”, “Gió Đại phong”, “Cờ Ba nhất”, rồi phong trào “Dạy tốt học tốt theo gương Bắc lí”...của các tỉnh phía Bắc...Lâm xoay như con cù: từ xã lên huyện về tỉnh. Đêm đến ngồi viết báo cáo, chuẩn bị ý kiến phát biểu chỉ đạo hội nghị..
    Lâm được cấp ủy đánh giá là người có năng lực, sở trường trong công tác quần chúng, công tác thi đua. Anh chỉ thị cho các chi đoàn, xã đoàn, huyện đoàn tổng kết nắm chắc số liệu về các cá nhân thuộc người của địa phương mình được nhà nước phong tặng các danh hiệu cao quý: Anh hùng, dũng sĩ, kiện tướng..báo cáo về tỉnh đoàn. Cả tháng liền anh ngồi cộng, trừ, nhân, chia, tính tỷ lệ % số người được khen thưởng trên số  dân của từng địa phương. Lâm gửi bản báo cáo này lên tỉnh ủy, đề nghị tỉnh ủy coi đây là một chỉ số quan trọng đánh giá phân loại trình độ giác ngộ chính trị tư tưởng của nhân dân từng vùng, đánh giá năng lực lãnh đạo của chính quyền cấp ủy của từng địa phương. Tỉnh ủy đánh giá rất cao ý kiến của Lâm. Tuy vậy, đề nghị này vẫn không được áp dụng vì trong thực tế nhiều xã tỷ lệ phần trăm trên rất bé, thậm chí bằng không những mọi chỉ tiêu khác họ đều vượt trội. Ruộng vườn xanh tốt, mùa màng bội thu. Xóm làng hòa mục, trên kính dưới nhường. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường. Nhiều em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp toàn quốc...
 
     Có tháng Lâm đi cơ sở biền biệt không về. Xuân sợ nhất là cái im ắng, cái sạch sẽ tinh tươm của ngôi nhà. Mọi đồ vật trong nhà như bị đóng đinh tại chỗ, không suy chuyển, không xê dịch...Mỗi ngày chị đi làm về, đứng trước cổng nhà mình nhìn vào...Mảnh sân con rêu phủ. Hàng dâm bụt um tùm. Trong nhà lặng phắc. Chị tưởng như mình đang đứng xem một bức tranh tĩnh vật của ai đó vẽ về một cảnh của làng quê. Tiếng muỗi kêu vo ve “chào đón” chị. Bỏ vội chiếc cặp xuống giường, chị thắp một nén hương lên bàn thờ ông ngoại và cũng là bàn thờ chung của hai người cậu, vừa nhận được giấy báo tử tháng trước. Chị đứng lặng trước bàn thờ. Làn khói hương mong manh vương vấn trên hai chiếc bằng “Tổ quốc ghi công”. Lâm dựng chiếc xe đạp “Phượng Hoàng” ở góc sân. Thấy cửa mở, anh nhẹ nhàng bước lên thềm nhà. Đứng lặng. Quay lưng lại phía anh là một người đàn bà vai xo, lưng hơi gù, gầy guộc, đang trầm mặc trước bàn thờ! “Chao ôi! Xuân của mình mới ngày nào là một cô gái phơi phới sức xuân, tràn trề nhựa sống. Ta đã bao lần ngây ngất nhìn theo mớ tóc đen nhánh phủ lên đôi bờ vai thanh, chảy xuống làn lưng ong như một con suối biếc. Và cái eo thon, đôi bầu vú căng tròn, nhí nhảnh, tươi vui...Bây giờ đã đến nông nỗi này ư! Tội nghiệp em tôi!” Xuân giật mình quay lại, chạm phải người Lâm. Anh vòng tay qua lưng vợ xiết chặt cô vào lòng...
    Xa nhau nhiều ngày, đêm ấy trong chăn gối nồng nàn, hai vợ chồng nói với nhau bao nhiêu chuyện trên trời dưới bể. Để tránh việc trở lại các chuyện buồn khi kết cục câu chuyện như mọi hôm, Lâm kể các chuyện vui mà Lâm gặp phải trong thời gian đi công tác cơ sở. Đang ôm vợ trong tay, Lâm cười khùng khục. -“Dạo này có gì tí tởn mà vui thế nhỉ?” Xuân bảo. Lâm buông vợ, nằm ngửa người kể:
- Đi công tác với anh xuống cơ sở lần này có cha Mai bên văn phòng ủy ban. Cha này trước ở ban “Dân số- Kế hoạch hóa gia đình”. Hắn quá tích cực trong chủ trương hạn chế sinh đẻ. Về các thôn, xã, hắn cứ thẳng thừng đè người ta ra mà thắt ống dẫn tinh, mà đặt vòng, không cần giải thích vận động gì lôi thôi hết. Dân phản ứng gay gắt, ủy ban phải chuyển hắn về văn phòng ủy ban, làm anh chạy cờ vậy thôi chẳng chức trách nhiệm vụ gì cụ thể. Đến xã G, trước khi cuộc họp bắt đầu, hắn xin phép được phổ biến một chỉ thị của tỉnh. Đó là chỉ thị về các nhiệm vụ cấp bách cần hoàn thành trong 6 tháng cuối năm. Hắn đọc: “Một là tích cực đẩy mạnh sản xuất, cấy xong vụ Đông –Xuân trước tết. Hai là tăng  cường cai thiến sinh hoạt của nhân dân, đảm bảo cho dân có cái tết vui tươi lành mạnh..- Ba là: Triệt đẻ bài trừ...” Nghe đến đấy cả hội trường ồ lên, bảo: “ Nghe nói anh “Cai thiến” (dân vùng này gọi Mai bằng cái tên anh Cai thiến) đã bị kỉ luật điều đi công tác khác, bây giờ anh lại hợp thức cái việc sai trái của mình bằng một chỉ thị của cấp trên là vì sao?” Thấy căng thẳng, anh cầm lấy công văn trong tay Mai xem lại, cười, ra hiệu bảo mọi người trật tự, rồi nói: “Xin bà con xem đây! Công văn được đánh máy chữ, không có dấu nên đồng chí Mai đã đọc sai, nguyên văn của chỉ thị cấp trên là: Tăng cường cải thiện sinh hoạt của nhân dân (Chứ không cai thiến sinh hoạt như đồng chí Mai đọc). Nội dung thứ ba của chỉ thị là “Triệt để bài trừ mê tín dị đoan..” (Không phải là triệt đẻ), thành thật xin lỗi bà bà con. Hội trường kẻ đứng, người ngồi, kẻ cười người nói vui vẻ. Một nông dân trạc trung niên, vâm váp, bặm trợn đứng lên: “ Anh Mai nói đi! Chúng tôi ở cái nơi khỉ ho cò gáy này, không văn nghệ, không phim ảnh, không Ti vi, chỉ còn mỗi cái NHA HAT LON để giải khuây  anh cứ lăm lăm cấm nữa là cớ gì?” Xuân cười khúc khích, đấm vào vai chồng: “Ông đi nhiều, sinh hoạt nhiều nên thành cáo rồi phải không?”
Lâm giải thích thêm cho vợ:
-         Mới gần đây thôi cái từ “sinh hoạt” được mọi người hiểu là “làm chuyện ấy”. Cái chuyện nhỏ này thôi nhưng ý nghĩa lịch sử của nó lớn đấy. Nó đánh dấu một sự thay đổi trong quan điểm, trong nhận thức về đánh giá con người. Nó khác ngày xưa. Trước đây đàn ông đàn bà không phải vợ chồng mà ngủ với nhau nếu bị bắt thì sẽ bị kỷ luật  nặng lắm. Họ gọi cái tội ấy là  “hủ hóa”. Bị cái tội ấy còn xấu mặt  hơn, bị phê phán gay gắt hơn cái việc “quan điểm, lập trường bấp bênh”, nhưng bây giờ khi đánh giá cán bộ, nếu anh nào trót dại “léng phéng” một chút thì người ta coi là chuyện sinh hoạt không phê bình kiểm điểm gì, cho qua. Từ đấy, cụm từ sinh hoạt mang một nội hàm mới: Chuyện tình dục cũng được coi là một sinh hoạt của cộng đồng, đồng đẳng với sinh hoạt tư tưởng, sinh hoạt văn hóa...thậm chí nó phổ biến hơn các loại sinh hoạt xã hội khác. Người ta gọi việc “làm chuyện ấy”bằng động từ sinh hoạt. Ngôn ngữ quả có bước phát triển mới, dùng từ ngủ với nhau nghe nó mơ hồ lẫn lộn, dùng những động từ đứng đầu bằng chữ đ. nghe nó thô tục sặc mùi phong kiến thực dân. Sinh hoạt ! Đúng là một sáng tạo có tính cách mạng. “ Vợ chồng nó đang sinh hoạt”. “ Tao bắt gặp hai đứa đang sinh hoạt với nhau ngoài bờ đê...” Người ta nói cái chuyện “cấm kị” ấy với nhau hằng ngày một cách bình dị như vậy. Dân sinh hoạt, lãnh đạo cũng sinh hoạt, rất bình đẳng, không phân biệt dưới trên. Gặp nhau ngoài đường, chỗ thân tình, thay vì chào nhau: “ Khỏe không” thì lại hỏi:  “Sinh hoạt đều đấy chứ?” Lâu ngày gặp lại, thấy bạn mình dặt dẹo, ốm yếu thì chào bằng câu: “ Bỏ sinh hoạt lâu chưa?” Lại tán thêm: “Tích cực rèn luyện vào, bỏ sinh hoạt quá ba tháng là không được đâu đấy!”
 Thấy Xuân vui, Lâm bèn chuyển đề tài câu chuyện. Anh bảo:
-         Xuân ạ! Có lẽ ta tìm giải pháp khác đi. Cái chuyện ta bàn với nhau dạo nọ, anh đã thực hiện theo ý em nhưng không có kết quả gì. Hai năm vừa rồi anh đã ngủ với năm cô gái. Các cô đều khỏe mạnh trẻ trung, cũng xem ngày tính tháng theo các phương pháp khoa học đầy đủ nhưng không ai có thai cả. Có lẽ trời không tha tội cho anh rồi. Anh không thể tiếp tục làm cái chuyện ấy nữa. Có ai hiểu cho mình! Không khéo họ nghĩ anh là kẻ sa đọa, ăn chơi trác táng cũng nên. Theo anh, em nên đến bệnh viện xin thụ tinh nhân tạo đi. Anh biết nhiều người đã làm và có kết quả rất tốt. Xuân nằm lặng im, thở dài. Lát sau, chị bảo: “Để em tìm hiểu thêm.”
    Ở trường Xuân chưa có ai đi làm thụ tinh nhân tạo cả nhưng các cô ai cũng khuyên Xuân nên làm. Họ nêu nhiều ví dụ, dẫn chứng mà họ biết đều có kết quả rất tốt. Hầu hết những đứa trẻ sinh ra theo phương pháp này, theo lời họ là rất mỹ mãn. Gia đình nhờ vậy rất đầm ấm hạnh phúc.  Xuân xiêu lòng. Chị tìm đến bệnh viện. Bà bác sĩ trưởng khoa, một người đàn bà đứng tuổi, đôn hậu ngồi lắng nghe chị kể sự tình. Xuân kể lại câu chuyện của mình trong đầm đìa nước mắt. Bà cảm động hỏi Xuân:
- Em đã trao đổi kĩ với chồng em về việc này chưa?
- Em đi làm việc này là theo ý chồng em. Trước đây, thậm chí anh ấy còn bảo em đi tìm một người đàn ông nào đó để kiếm một đứa con nhưng em không chịu. Vừa rồi anh ấy lại giục em đi bệnh viện làm thụ tinh nhân tạo nên em mới lên đây. Xuân nói.
 - Em đã biết gì về phương pháp này chưa? Bác sĩ hỏi.
 - Dạ, chưa ạ!
Bác sĩ ngồi trầm tư ngắm nhìn khuôn mặt đáng yêu của Xuân. Hình như bà đang tìm cách diễn đạt một vấn đề thuộc thân xác trần trụi mà tế nhị này. Bà nói:
-         Đây là một phương pháp được áp dụng một cách phổ biến không chỉ ở nước ta mà ngay cả trên thế giới. Nội dung của nó mang tính nhân đạo sâu sắc. Đảm bảo hạnh phúc gia đình, tỷ lệ thành công cao, không có biến chứng...Nghe bà mô tả, Xuân cúi mặt xuống bàn, thẹn thùng, không dám nhìn vào mặt bà bác sĩ. Xuân hỏi: “ Có cách nào khác không, thưa bác sĩ? Làm như bác sĩ vừa nói khác nào đi ngoại tình. Sao không lấy tinh trùng cho vào Xi-lanh rồi bơm vào cơ thể, có phải tốt hơn không?”
-         Bản chất nó là một, bác sĩ nói, đó là việc đưa tinh trùng của đàn ông vào tử cung của phụ nữ...nhưng đưa vào bằng cái ống thủy tinh hay bằng “cái thật”, theo em thì cái “ống” nào hay hơn? Sao không dùng thứ thiệt mà lại thích của dỏm! Bà cười. Chỉ có em là một. Đó là nói thuần túy về kĩ thuật, còn về các biện pháp tâm lí, tạo hưng phấn (một điều hết sức quan trọng để có được một thai nhi hoàn hảo) thì làm theo phương pháp “người thực, việc thực” như chị vừa nói với em là tốt nhất. Nguyên tắc quan trọng nhất của việc này là bí mật, hai người không được biết mặt nhau. Tuyệt đối không được liên lạc với nhau sau này. Những người đàn ông mà chúng tôi lựa chọn là những người khỏe mạnh, có dòng giống tốt. Có thể có nhiều phương pháp khác nhưng ở điều kiện của bệnh viện chúng tôi hiện nay chỉ dám áp dụng phương pháp này.
    Theo lời dặn và những điều ghi trong phiếu chỉ dẫn, đúng 19 giờ ngày...tháng...năm... Xuân tìm đến điểm hẹn, phòng C5. Cánh cửa khép hờ, một nữ y tá ghé mắt ra hỏi: “Chị là Phan thị Xuân?” Xuân im lặng đưa cho nữ y tá tờ phiếu điều trị có chữ kí của bác sĩ trong tay. Cô y tá kéo cửa rộng thêm, mời Xuân ngồi. Cô đưa cho Xuân một viên thuốc và cốc nước, bảo: “Uống đi” rồi dẫn Xuân vào phòng trong. Phòng tối mờ mờ, chỉ có ánh sáng le lói từ các ngọn đèn ngoài vườn hắt vào lúc mờ lúc tỏ. Chị giúp Xuân cởi bỏ quần áo, nằm lên giường. Chiếc ga trắng tinh thơm mùi nắng phủ lên người Xuân. Cô y tá bảo: “Có bệnh thì vái tứ phương, đừng ngượng ngập gì cả chị ạ!” Cô nhìn cái dáng nằm có vẻ e thẹn của Xuân, hướng dẫn thêm: “ Mắt không được nhắm nghiền, phải mở lim dim. Nằm ngửa người ra, chân dang rộng thêm tí nữa..tí nữa...thế! Hãy tưởng tượng đi, tưởng tượng thật phong phú vào, hãy nghĩ đến giây phút sung sướng sắp tới! Chị đã thấy thuốc bắt đầu có tác dụng chưa?” “-Hình như bắt đầu rồi!” Xuân nói. “- Tốt, sắp sửa rồi, nằm yên thế, tưởng tượng đi, như ngủ với chồng ấy mà! Thuốc sẽ giúp chị hưng phấn, hưng phấn đến quay cuồng đấy ...” Nói  xong, cô y tá đi ra, cửa khép hờ trở lại. Một bóng đen lừng lững đi vào. Ngồi xuống cạnh giường, đưa tay kéo tấm ga trắng xuống dưới chân, anh đau đáu nhìn từ đầu đến chân người đàn bà đầy khêu gợi đang nằm trên giường lấp loáng trong ánh sáng mờ ảo. Anh cúi xuống úp khuôn mặt mình lên hơi thở nóng bỏng của người đàn bà rồi toàn thân phủ xuống...
  Người đàn ông ra khỏi phòng C5. Tiếng chân bước ngoài hành lang nghe nhỏ dần rồi mất hẳn. Xuân ngồi dậy, sững sờ, bâng khuâng...Luyến tiếc một giấc mơ cực lạc vừa tàn. Cái thân hình như đô vật hạng nặng, những bắp thịt cuồn cuộn như còn in trên da thịt chị. Và...Rất lạ! Cái cảm giác do hai bàn tay của người đàn ông kia cứ như kéo dài cơn râm ran cơ thể. Đôi bàn tay thô ráp...Đầu ngón tay trơn bóng lướt trên cơ thể chị như những thỏi son khi tô lên môi.
 
*
*     *
 
    Lâm về thăm lại quê cũ. Cố hương còn lại trong anh là những hình ảnh cộc kệch, nặng nề. Cây mai vàng anh trồng ở đầu hồi nhà phía Nam lúc anh lên mười tuổi, ngày anh lên đường, mai nở những bông vàng đầu tiên. Ai đã chặt mất nó tự bao giờ. Cái gốc mục bị mấy bụi cây trinh nữ phủ che khuất. Anh đụng vào, chúng đồng loạt nhắm mắt như đang ngủ say không muốn trả lời về cái chết của mai vàng, như kẻ ngoại phạm. Nhìn mãi mới nhận ra hình dáng của cái nền nhà thuở ấy . Anh đến đắp thêm mấy nắm đất trên mộ mẹ, mộ cha rồi cắm hai nén hương lên hai ngôi mộ. Khói mờ trong sương chiều nhạt nhòa. Anh leo lên một mô đất nhìn về phía xa. Bóng rừng cây xanh thẩm trong hoàng hôn. Nơi ấy mới là quê anh, làng Võ Vàng! “Nhất định mình sẽ không đến nơi ấy để nhận tổ, nhận tông! Đấy là quê hương của bọn trộm, cướp....”Lâm nghĩ bụng. Anh khinh miệt cái tổ tông, gốc gác này cho dù chúng có xưng vương, phong hầu...
    Cả làng không biết anh là ai. Mấy đứa trẻ tò mò đứng từ xa nhìn Lâm. Chúng bảo nhau:
 “ Có người nào làm gì ngoài mả thằng ăn mày ấy!”. Mấy tiếng mả thằng ăn mày như một lưỡi dao đâm vào tim anh. Ở quê anh, mả thằng ăn mày là một cụm từ chỉ những gì dơ dáy, bẩn thỉu: “Đứa nào ị một bãi to bằng cái mả thằng ăn mày trước ngõ”. “Đống rác to như mả thằng ăn mày...” Con người ta lắm lúc thờ phụng cái gì, căm ghét cái gì chỉ là do thói quen hoặc thói a dua, chẳng cần tìm hiểu bản chất ngọn nguồn. Tất cả mọi người đều sử dụng thuật ngữ trên như một thói quen, nhưng số đông, thậm chí tất cả họ không ai ghét ăn mày cả. Cái thói a dua, vô tâm, vô tính của con người để lại những dấu ấn thế hệ rất đáng sợ. Hóa vàng xong. Một cơn gió mạnh ở đâu ào đến. Tro tàn bay lên thinh không, lơ lửng trên đầu anh. Rùng mình. Hình như linh hồn của bố mẹ anh đang ở một cõi xa xăm, từ nơi  địa ngục hay một miền cực lạc nào đó bay về chia sẻ với anh những nỗi buồn u uẩn trong lòng. Anh quay người bước đi. Chút quyến luyến của tuổi thơ còn vương lại trong lòng là người bạn cùng đi ở chăn trâu cho nhà cụ Lê Thúc Hoằng. Anh tìm đến nhà Đới. Đới không có họ. Chẳng ai biết quê quán anh ở đâu. Ai hỏi, người ta chỉ tay về phía các động cát chạy dài đến ven biển và bảo: “Người dưới động”. Có người nghi anh là người làng Võ Vàng. Mãi sau này, do một hoàn cảnh của chiến tranh, anh nghiễm nhiên được mang họ của cụ Hoằng- Họ Lê Thúc. Giờ thì cả làng đều gọi anh là Lê Thúc Đới. Hai đứa cùng đi ở cho nhà cụ Hoằng, Lâm chăn trâu còn Đới chăn bò. Đới hơn Lâm chừng ba tuổi. Đới có tài đào cây Hà thủ ô mọc trên cát. Người ta cho rằng Hà thủ ô sẽ có dược tính cao khi chúng được đào bằng tay hay các dụng cụ phi kim loại và đào khi mặt trời chưa lên. Đới đào chúng chủ yếu bằng tay không. Thoạt đầu anh đào cho vui, đào để trổ tài. Ngờ đâu, về cuối đời cái nghề này lại giúp anh sống thậm chí còn nổi danh. Những củ Hà thủ ô dài gần nửa mét được anh moi móc lấy lên nguyên vẹn. Anh đem về làm quà cho ông bà chủ. Ông bà Hoằng rất sùng bái cây Hà thủ ô, coi nó là tiên dược. Ngoài việc thái khô, sao vàng hạ thổ để ngâm rượu, ông còn “ đồ” củ Hà thủ ô với đỗ đen như người ta đồ xôi để ăn sáng. Ông thực hiện nó với một quy trình rất cầu kì qua nhiều công đoạn ngâm tẩm rất công phu. Quả thật từ ngày ông bà Hoằng sử dụng Hà thủ ô sức khỏe cường tráng hẳn lên. Da mặt căng, hồng hào tươi rói, ngời ngời vượng khí. Cả làng, thậm chí cả huyện nghe tiếng đồn, đổ xô nhau đi đào Hà thủ ô, nhưng ít  ai có đủ kiên trì để thực hiện cái “ công nghệ” đào như Đới. Ông bà Hoằng rất quý hai thằng nhỏ đầy tớ. Buổi tối Đới làm thêm việc xay lúa, giả gạo, còn Lâm, bé hơn được hầu trà nước cho hai cậu chủ ngồi học ở nhà trên. Hai cậu con trai của Cụ Hoằng là Lê Thúc Can và Lê Thúc Hoạt. Cả hai người đều ham học và mẫn tiệp. Ông Hoằng mời cả thầy giáo Tây học và thầy giáo Nho học dạy cho con mình. Cậu Can say mê Tây học còn cậu Hoạt lại thích Hán học. Lâm ngồi hầu trà thuốc ở phòng ngoài cũng không bỏ sót một buổi giảng nào. Lâm rất thích Hán học, dù không biết viết chữ Hán nhưng những đạo lí của Nho học anh cũng nhập tâm. Anh thân với Thúc Hoạt hơn cũng vì thế. Men theo bờ mương, anh đi về phía nhà cụ Hoằng. Sao rơi đầy xuống các vũng nước bên đường lấp lánh. Vài con chim ăn đêm hoảng hốt bay vút lên trời. Lâm đứng sững trước cổng ra vào nhà cụ chủ xưa. Xưa, đây là một chiếc cổng xây bằng gạch đồ sộ. Giờ, một viên gạch cũng không còn, thay vào đấy là một hàng cây xương rồng kim, gai góc xù xì. Thấy ánh đèn le lói cuối góc vườn. Lâm nhận ra nhà ở của Đới bây giờ là vị trí của chuồng trâu ngày trước. Anh bước chân vào, đập vào mắt anh là những cột đá buộc trâu ngày xưa, nay xiêu vẹo, ngả nghiêng bên hè. Đới đang loay hoay với mấy nong hà thủ ô sấy khô. Nghe tiếng động, anh đứng thẳng người, cầm chiếc đèn Hoa Kì giơ lên cao soi vào mặt Lâm, lắp bắp: “ Có phải...có phải Lâm không?” Anh đưa hai tay bắt chặt khuỷu tay Lâm như người bắt trộm. Anh vồn vã hỏi Lâm:
-         Nghe nói cậu lấy vợ rồi sao không đưa vợ về chơi?
-         Cô ấy cũng thắc mắc lắm, mấy lần đòi về quê chồng, về thăm mồ mả bố mẹ chồng nhưng em phải làm kế hoãn binh. Lâm nói.
-         Sao vậy? Đới hỏi.
-         Buồn lắm anh ạ! Lâm nói, chắc anh biết cả rồi, em tứ cố vô thân, cả làng này may còn anh nhớ đến em, còn mọi người chẳng biết em là ai. Từ chỗ em xuống đây, mấy chục cây số, chỉ đèo nhau bằng xe đạp...Ăn đâu, ngủ đâu? Đi đâu thì không sao nhưng về quê mà như vậy thì tủi lắm anh ạ! Em sợ vợ em buồn.
Đới nâng chiếc ấm đất trên bếp rót nước chè xanh ra bát mời Lâm uống rồi bảo:
-         Ngồi đấy, uống nước đi! Tớ đi làm đồ nhậu, uống rượu chơi.
Lâm sợ phiền bạn, gạt tay bảo: “Thôi, thôi...rượu chè gì. Nói thật em chưa ăn uống gì từ sáng đến giờ, nếu nhà còn khoai, sắn gì cho em mấy củ xong bữa. Ăn uống mai hẵng hay.”
Đới đã bước một chân ra cửa, quay người lại nhìn Lâm:
-         Làm cán bộ cỡ gì rồi mà ăn nói bậy bạ thế? Ngày xưa hai thằng đi ở chăn trâu cho nhà giàu còn chưa đến nỗi ăn khoai trừ bữa. Bây giờ làm người công dân của đất nước tự do, làm chủ cả đất trời, cả sông dài biển rộng mà còn ăn khoai trừ bữa thì...thì...Cậu đừng tưởng làm cán bộ, cứ giả vờ xuống ăn rau, cháo, ngủ ổ rơm với dân vài bữa là sẽ được dân yêu quý tín nhiệm đâu. Thời ấy qua rồi. Ở đâu có thịt, có rượu thì có say nói bậy cũng không nói lời phỉ báng cán bộ, công kích chế độ. Ở đâu đói rách xác xơ thì có uống nước lã cũng giả vờ say để nói bậy. Dân bây giờ khôn lắm. Họ đánh giá thành tích, năng lực lãnh đạo không phải chờ đến lúc nghe các bản báo cáo dài dằng dặc của các anh đâu. Chỉ cần nhìn vào mâm cơm hằng ngày của gia đình mình là họ biết hết. Ai cố tô hồng sơn phết thêm vào họ cũng đếch nghe. Kẻ nào ác ý, bôi đen, nói xấu, họ vả ngay vào miệng. Thế đấy chú em ạ! Muốn làm cán bộ tốt hãy tập nói thật đi!
 Nhìn mâm cơm, Lâm kêu lên:
-         Gớm! Anh làm gì mà đãi thằng em thịnh soạn thế này?
-         Thịnh sọan cái nỗi gì! Mỗi con ngan, nhà nuôi được ấy mà! Đãi chú hôm nay thịnh soạn nhất là món rượu: Rượu tắc kè, bìm bịp. Rượu rắn, gì chứ rắn thì xứ mình nhiều vô kể, toàn ngâm ngủ xà chả ai ngâm tam xà cho nó phí rượu. Rượu hà thủ ô là món sở trường của tôi chú biết rồi. Đạm bạc thế này tôi có thể nuôi được chú thím cả tháng. Thấy Lâm trợn mắt nhìn mình có vẻ ngạc nhiên, Đới nói tiếp:
-         Chú không tin hả? Ruộng được Hợp tác xã chia cho ba sào. Cái món gạo quanh năm không phải lo rồi. Tôi lại kiêm thêm cái món đông y nữa, cũng sống được lắm.
-         Đông y? Lâm vừa nói vừa đưa mắt nhìn những thúng mủng, nong nia đựng đầy các thứ lá thuốc nam để trên các giá trước mặt. Anh học nghề thuốc tự bao giờ? Lâm ngạc nhiên hỏi dồn dập.
-         Chuyện dài lắm, nhiều đận buồn muốn chết!
 Đới kéo Lâm ra vườn. Hai người lần theo lối mòn, đi trên mảnh đất đầy ắp những kỉ niệm đau buồn của một thời nhỏ dại. Hai người dừng lại trước sân của ngôi nhà lớn ngày xưa. Trên đầu vừng trăng màu trắng bạc in bóng hai người xuống cái sân rộng. Đó đây, mấy viên gạch Bát tràng rạn nứt, sứt sẹo còn bám xuống mặt sân. Đới vẫn rầu rầu: “Hồi chú bỏ đi lên rừng làm liên lạc cho dân quân, tôi vẫn tiếp tục cái nghiệp đi chăn trâu cho cụ Hoằng. Hồi này trâu bò bớt đi nên một mình tôi trông cả hai đàn trâu và bò. Đến năm Năm ba (1953) nhà cụ Hoằng gặp nạn lớn. Bao nhiêu tai họa đổ ập xuống một lúc. Cô con dâu đẻ quái thai. Đàn trâu, bò lăn ra chết không kịp chôn, chết hết...Người con trưởng của cụ, ông Lê Thúc Can  học giỏi, được chính phủ Pháp cấp học bổng sang Pháp học.  Năm Bốn lăm, ông về nước vừa khi cách mạng nổ ra rồi mất tích. Người nói, ông làm bác sĩ quân y cho quân đội viễn chinh Pháp tại Đông dương đang ở Lào, ở Miên.. Người khác nói ông đi theo cách mạng, tham gia cướp chính quyền ở Sài gòn...Tất cả chỉ là tin đồn. Gia đình vẫn không nhận được thư từ, tin tức gì của ông. Ông Hoạt vào buôn bán tận Sài Gòn, nghe nói giàu có lắm. Thỉnh thoảng ông có đánh giây thép (Điện báo)về nhưng cũng không một lần về thăm. Cụ Hoằng mất vào cuối năm ấy. Lúc lâm chung, ông không được nhìn thấy mặt con. Đám ma của cụ mới buồn thảm làm sao! Chiến tranh đang hồi quyết liệt. Chết chóc xảy ra hàng ngày. Bọn giặc điên cuồng cướp của giết người, hãm hiếp phụ nữ. Cụ mất chưa được hai tuần, tên quan ba trưởng đồn dẫn một toán lính vào nói với dân chúng rằng; “Tên Lê Thúc Can đã phản bội mẫu quốc theo Việt Minh chống lại chính phủ Pháp và quốc trưởng Bảo Đại.” Chúng đổ xăng đốt ngôi nhà thờ tổ. Nhà cháy ba ngày. Tôi và bà Lấm liều chết xông vào đội được chiếc hương án và mấy chiếc bài vị chạy ra ngoài. Bọn lính giơ súng định bắn nhưng thằng cai ngăn lại. Chúng biết chúng tôi chỉ là những tên đầy tớ trông nhà. Chúng ngạc nhiên nhìn theo hai chúng tôi, một thanh niên và một bà già mọp mẹp, không quản mạng sống để cứu linh hồn của những người chủ đã chết. Chúng tôi mang những đồ thờ tự chạy vượt qua cánh đồng lầy lội, qua bãi cát đem dấu vào mé rừng Võ Vàng. Không biết chúng đang thú vị hay cảm động chứng kiến cách ứng xử và đạo lí làm người của một dân tộc mà chúng chỉ mới biết được qua cái tên đầy khinh miệt An-nam-mít. Từ đấy, mảnh vườn này biến thành một trường bắn. Ngày nào chúng cũng đem những người tù vô tội đến đây xử bắn. Những ngày chúng bị thua trận, bị phục kích...chúng bắn một lúc năm sáu người. Xác chết ngổn ngang. Có lần tôi đi đào Hà thủ ô về muộn phải bước qua mười xác chết để vào nhà. Cả đêm ấy tôi không ngủ, lo chôn cất những xác chết vô chủ đó, mãi đến chiều hôm sau mới chôn xong. Và, từ đấy cái vườn này thành bãi tha ma. Tôi thành người phu mộ...”
-         Bây giờ ai quản lí mảnh vườn này? Lâm hỏi.
-         Sau thất bại ở Điện biên phủ, bọn Pháp rút vào Nam. Xã quản lí thửa vườn này, không chia cho ai cả vì đây là đất của cán bộ đi kháng chiến. Hóa ra may! Nếu ông Hoằng còn sống, chắc không thoát khỏi bị quy là địa chủ có khi là địa chủ phản động vì có con là Lê Thúc Hoạt đang là tư sản ở Sài gòn và ông Can chắc chắn sẽ bị triệu về để để nông dân hỏi tội. Họa thành phúc cậu ạ.
-         Họ vẫn thừa nhận anh là đầy tớ nhà ông Can có nhiệm vụ trông coi mảnh vườn này? Lâm hỏi.
-         Không, tôi được chia mảnh đất chuồng trâu ngày xưa kéo thẳng ra đến đường cái. Hai sào, cả ngàn mét vuông đấy! Trên giấy tờ chính thức là vậy. Tôi được giao nhiệm vụ quản lí cả thửa vườn này. Lâu ngày ông Can không về, coi như tôi là chủ, chẳng ai nói năng gì cả.
-         Cả mấy héc ta vườn anh làm gì cho hết! Lâm nói.
-         Ừ...Cũng chẳng biết làm gì thật. Đất ở đây không tốt lắm, bị bào mòn, có nơi trơ cả đá tổ ong ra rồi. Vườn mít xưa um tùm là thế bây giờ cằn cỗi, ngọn đầy tàn hương, chẳng có bao nhiêu quả. Tôi trồng một ít cây thuốc nam. Đất còn lại chủ yếu tôi làm trại chăn nuôi gà, ngan, ngỗng. Chúng tự kiếm lấy thức ăn trong vườn. Với lại, mới năm ngoái xã mới bốc hết mộ sang nghĩa trang bên động cát. Trước đây nó là bãi tha ma. Chẳng ai đoái hoài gì.
Hai người đưa nhau về nhà. Lúc này Lâm mới nhìn kĩ ngôi nhà của Đới. Đấy là ngôi nhà lợp tôn ba gian. Cửa chính ra vào nhà là đầu hồi. Tất cả mọi thứ của ngôi nhà từ mái lợp đến tường bao và đồ đạc trong nhà đều là phế thải của chiến tranh, của sự tàn phá do chiến tranh gây ra, Đới nhặt nhặn đem về tạo dựng nên. Tường bao ba phía được xây bằng đá tổ ong phiến lớn, nhiều vệt đen lem nhem còn lại từ ngôi nhà bị thiêu rụi của cụ Hoằng. Mái nhà được lợp từ những mảnh tôn đa sắc tộc kích cỡ màu sắc khác nhau, thủng chỗ này, rộp chỗ kia. Hai cái vỏ bom tấn dựng ở trong góc bếp, gian cuối, cái đựng vừng, cái đựng đỗ. Chuột khóc! Giá trị nhất là cái sập gụ Đới nằm. Đấy là cái sập gụ nhà cụ Hoằng bị cháy sém một góc. Có lẽ đấy là tài sản đáng giá nhất nhà Đới. Những lúc rỗi việc, anh lấy lá chuối khô lau phần còn lại, bóng như gương.
-         Sau khi cụ Hoằng mất, anh sống thế nào?
-         Đi đào Hà thủ ô bán cho ông lang Thiều, Đới trả lời rồi nói tiếp, chẳng được bao nhiêu nhưng tôi cố gắng hầu hạ ông, xách tráp theo ông để học lỏm nghề thuốc.
-         Sao anh không bị bắt lính? Lâm hỏi.
Đới cười khoái trá, đưa hai bàn tay lên trước mặt Lâm. Mười ngón trụi hết móng, đỏ hỏn, nói:
-         Nhờ cái này đây! Tôi đi đào Hà thủ ô bằng tay. Móng tay trụi hết. Bọn chúng tưởng tôi bị hủi nên không dám bắt tôi đi lính. Chúng còn tránh đi qua nhà tôi nữa cơ!
Lâm cười, nhìn Đới vô tư một cách đáng yêu, hỏi:
-         Sao anh không lấy vợ?
-         Lấy làm gì cho nhọc cái thân! Nói thật với chú, gì chứ cái khoản ấy, tôi là bậc đế vương ở đây, không thiếu gì. Mấy con vợ lính béo nây nây cứ  vào đây giả vờ mua rượu rắn, rượu bìm bịp cho chồng...Cứ gạ gẫm tôi, xài không hết. Có con mẹ sướng quá nẩy lên hỏi tôi: “Sao ông khỏe thế!” Tôi bảo: “Nhờ rượu tắc kè đấy!” Xong việc nó mua luôn cả hủ rượu mang về cho chồng. Nói bao nhiêu, trả bấy nhiêu không mặc cả. Mấy ngày sau, nó lại vào nhũng nhẽo: “Em bắt đền anh đấy, anh uống rượu thứ thiệt còn bán cho em là loại rượu rởm. Thằng chồng em nó uống vào chả nên cơm cháo gì cả...” Thế là tôi phải đền cho nó!
-         Thế từ ngày hòa bình lập lại bọn lính vào Nam hết anh “giải quyết” thế nào?
Cười, -“Trời sinh voi ắt trời sinh cỏ, lo gì. Gần đây tôi có cái hợp đồng với bệnh viện, việc làm không hết.” Nhìn nét mặt ngơ ngác của Lâm, Đới biết mình nói hớ, vi phạm quy định của Bệnh viện. Anh bèn nói chệch sang: “Mình hiện đang hợp đồng với khoa đông y của bệnh viện, cung cấp dược liệu cho họ, có khi còn được tham gia điều trị bệnh nhân nữa đấy.”
    Sáng sớm, Đới theo Lâm ra tít đầu làng. Bóng họ mờ trong sương đục. Heo heo gió lạnh. Hai người đầy tớ chia tay nhau, dùng dằng, bịn rịn tưởng như không bao giờ còn gặp lại nhau nữa. Trên đường về, nghĩ đến cuộc gặp gỡ đầy tình anh em với Đới, Lâm thấy buồn. Anh nghĩ bụng: “Giá bố mẹ mình sinh được ba bốn anh em thì bây giờ chắc đỡ cô quạnh hơn..” Anh giật mình.  Nhớ lời bố nói ngày nào: “Họ nhà mình kể từ đời cụ tổ Đặng Hiếu Định chỉ sinh một con trai.” Bố anh, ông Bợt chỉ sinh có mình anh... “Thôi, thế là hết hy vọng...” Anh gò lưng đạp chiếc xe Phượng hoàng lên dốc trên con đường sống trâu đất đỏ như son.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
5
 
 
 
 
             Mãi đến sau này, khi đã về già, có lẽ cũng như những người già khác, Cụ Can hay nhớ về những quá khứ xa xưa. Cụ thường kể say sưa về những ngày ấy- ngày xưa. Hình như cụ yêu cái ngày xưa ấy lắm! Nhớ về cái nắng ngày xưa au au vàng, trong veo. Nhớ tà áo dài màu lam của cô nữ sinh bay bay trên đường phố mỗi chiều khi gió nồm từ biển thổi lên. Nhớ cả chùm nho xanh màu ngọc bích và cái mùi nước mắm thơm nồng như nhà ai đang kho cá cho bữa cơm chiều... Lời kể của cụ chan chứa tình, kể cả khi nói về những ngày tháng hào hùng, oanh liệt cũng man mác một nỗi buồn hoài niệm.. “..Năm ấy, tôi hai lăm tuổi vừa tốt nghiệp bác sĩ ở Pháp về, đóng lon trung úy. Trên đường về thăm quê, đêm nghỉ lại ở thị xã Kim Sa. Thao thức, cả thị xã thơm mùi nước mắm, tưởng như trời vừa dội một trận mưa nước mắm xuống vùng đất này. Mấy dàn nho đầu nhà, lá và quả xanh biếc một màu ngọc bích. Những người đàn bà đi trên hè phố quần áo trắng đục màu đất sét pha cát. Lặng lẽ. Thành phố như nín thở đợi giờ nổ súng. Cả nước đang sôi sục vùng lên cướp chính quyền. Tháng Tám, một chín bốn lăm. Cái Tháng- Năm đáng ghi nhớ nhất của cuộc đời tôi là những tháng năm này...Nửa đêm, có lẽ đã vào một hai giờ sáng, chủ quán trọ dẫn một thanh niên khôi ngô cùng ba người đàn ông có vũ khí gõ cửa buồng tôi. Chàng thanh niên tự giới thiệu là Sáu Hoàng, chủ tịch mặt trận Việt Minh. Anh ta nói chuyện lịch sự, có lúc còn tỏ ra cung kính đối với tôi. Thời gian nói chuyện không nhiều song cũng đủ để anh phân tích tình hình thế giới, trong nước, phe Đồng minh, phe Phát xít... Cuối cùng anh phổ biến cho tôi chỉ thị “ Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Anh nói một cách đanh thép về sự thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của lãnh tụ anh minh Hồ Chí Minh. Tôi nói với Sáu Hoàng vắn tắt: “Tôi chờ đợi giờ phút này đã lâu, thời gian du học ở Pháp tôi đã tìm hiểu kĩ về Hồ Chí Minh và phong trào cách mạng Việt Nam. Tôi xin tự nguyện đứng trong hàng ngũ cách mạng...”  Tôi lấy chiếc áo sĩ quan mắc trên giá áo xuống, định lột hai chiếc lon trung úy, sĩ quan Pháp vứt vào sọt rác. Hoàng ngăn lại, bảo: “Cứ để nguyên tất cả, sẽ có lúc cách mạng dùng đến đấy! Chế độ xưa ta phải rủ bỏ sạch trơn, phải đập phá thật tan tành nhưng không phải làm ngay một lúc, làm ngay tức thì... Cái gì có lợi cho cách mạng ta vẫn dùng. Có lợi một ngày, dùng một ngày. Có lợi một tháng, dùng một tháng...Phải biết triệt để tận dụng. Sáu Hoàng đi rồi, tôi vẫn thao thức không tài nào ngủ được. Tôi trăn trở với câu nói của anh: “ Có lợi một lúc, dùng một lúc, có lợi một ngày dùng một ngày..” Tôi băn khoăn, không biết mình được xếp vào loại nào? Họ sẽ dùng mình trong bao lâu? Khoảng hơn bốn giờ sáng, Sáu Hoàng trở lại, dẫn theo một tốp lính khố đỏ. Sáu Hoàng quay lại nhìn vào mặt người đứng tuổi trong đám lính nói: “Giới thiệu với Thầy cai, chỉ tay về phía tôi, đây là Ngài Trung úy quân đội Pháp- ngài Lê Thúc Can. Với lòng yêu đất nước, cứu dân khỏi cảnh lầm than của cuộc đời nô lệ, Ngài đã tự nguyện gia nhập đội quân cách mạng. Từ nay, thầy và đội quân của thầy đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của ngài trung úy.” Trung sĩ Trình (thầy cai) đứng nghiêm, ưỡn người về phía trước, đưa tay lên mũ, nói dõng dạc: “Sẵn sàng tuân lệnh Trung úy!” Sáu Hoàng vui vẻ nói; “Tác phong quân ngũ thế là tốt nhưng từ nay ngoài quan hệ cấp trên, cấp dưới chúng ta còn có một mối quan hệ máu thịt khác đó là quan hệ của những người đồng chí, những người cách mạng.” Anh bảo cai Trình dẫn toán lính ra ngoài. Ở đấy đã có một tiểu  đội dân quân đợi tiếp quản họ. Khi chỉ còn lại hai người, Sáu Hoàng nói với tôi: “ Khí thế cách mạng của quần chúng hừng hực như chảo lửa. Tôi muốn bàn với ngài về kế hoạch cướp chính quyền ở tỉnh nhà. Nói thật với ngài, ngay lúc này chỉ cần một mệnh lệnh của tôi là chúng ra tro. Nhưng, chúng tôi muốn việc cướp chính quyền xảy ra trong trật tự. Hạn chế tối đa việc đổ máu. Lấy giáo dục, thuyết phục dưới áp lực chính trị của quần chúng cách mạng làm chính. Lực lượng vũ trang chỉ ra tay khi thực sự cần thiết. Theo kế hoạch này, quần chúng sẽ được huy động, bao vây dinh tỉnh trưởng, hô khẩu hiệu và đọc lời kêu gọi tỉnh trưởng nộp triện, các sắc phong và đầu hàng cách mạng. Lực lượng vũ trang cách mạng được bố trí ở vòng ngoài để bảo vệ quần chúng và thị uy gây áp lực. Lúc ấy ngài sẽ mặc quân phục trung úy sĩ quan Pháp, dẫn một tiểu đội lính khố đỏ ( do dân quân ta mặc áo quần lính khố đỏ) đi vào gặp tỉnh trưởng thuyết phục ông ta đầu hàng.” Tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ và góp ý kiến với Sáu Hoàng làm cho kế hoạch được hoàn hảo. Sáu Hoàng đồng ý với tôi là chỉ mang theo 5 lính có vũ trang trong đó có một là lính khố đỏ thật, quen mặt tỉnh trưởng. Ở cổng ra vào và cửa hông, mỗi nơi được bố trí một khẩu FM (Loại súng trung liên hiện đại của Pháp thời đó) để uy hiếp.  Khi tôi dẫn năm lính hộ vệ vào cổng thì quần chúng hô to các khẩu hiệu ủng hộ cách mạng và đả đảo chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Đọc trên loa lời kêu gọi đầu hàng và chính sách khoan hồng của chính quyền cách mạng. Vào đến nơi, thấy thái độ của tỉnh trưởng sẳn sàng quy thuận, đầu hàng cách mạng,  tôi ra hành lang vẫy tay. Cả rừng người đang hừng hực bên ngoài trở lại trật tự. Riêng các chiến sĩ ở hai khẩu đội FM thì vẫn nghiêm túc trong tư thế sẳn sàng chiến đấu. Tỉnh trưởng và hai viên thừa phái tiếp tôi ở đại sảnh của dinh tỉnh trưởng. Họ nhìn tôi với thái độ ngờ vực, chưa tin tôi là một sĩ quan của Pháp giác ngộ cách mạng. Từ câu chào đầu tiên đến bắt đầu câu chuyện, tôi sử dụng tiếng Pháp. Tỉnh trưởng lấy lại bình tĩnh. Ông lắng nghe tôi một cách lịch sự và nhanh chóng quy hàng chính quyền cách mạng. Ông chỉ có một  nguyện vọng xin được sử dụng chiếc ô tô riêng để đưa gia quyến về Sài gòn và xin chính quyền cách mạng cấp cho giấy tờ đi đường để được an toàn. Ông ta tên là Đông- Bố chánh Tôn thất Đông...”
    Can ra cổng, Sáu Hoàng đang đứng đợi anh ở đấy. Hoàng bắt tay Can rất chặt. Cười rạng rỡ. Anh nhìn bộ quân phục và quân hàm trung úy sĩ quan Pháp trên cầu vai Can, bảo:
                 - Bây giờ anh có thể cởi bỏ chúng được rồi!
    Can cười, nói với Hoàng:
-         Anh vui lòng cho tàn dư của chế độ thực dân kéo dài trên người tôi mươi phút nữa, về đến phòng tôi sẽ thay ngay.
    Ngay ngày hôm sau, Lê Thúc Can được bổ nhiệm làm phó chủ tịch mặt trận Việt Minh thị xã, trực tiếp giúp việc cho Hoàng. Can được giao phụ trách mảng trí vận và binh vận.[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn7][7][/link]
    Những ngày sau cướp chính quyền, những vùng chính quyền đã về tay nhân dân ấy, người dân, trẻ già trai gái như quên ăn, quên ngủ. Họ chỉ mong trời sáng để ra đường, để đi biểu tình, mét- tinh, để hội họp các đoàn thể. Những tiếng hô vang trời, lở núi: “Muôn năm...Muôn năm! Kiên quyết... kiên quyết!...” Khẩu hiệu, câu này xen vào câu kia không ai nhận ra câu gì. Chỉ nghe được những tiếng gào khản đặc: “Muôn năm...Muôn năm!...Đả đảo...Đả đảo!” Sức mạnh vùng lên ghê gớm nhất phải kể đến sức mạnh của đàn bà. Thật lạ lùng! Mới ngày hôm qua, họ mặc quần dài sát gót, rồi áo trong, áo ngoài, mớ ba, mớ bảy . Cái nón nghiêng nghiêng che mặt không cho ai nhìn thấy! Thế mà, đùng một cái! Chỉ một đêm cách mạng về, sáng ra các cô mặc quần soóc màu xanh ngắn cũn cỡn, phô những chiếc đùi trắng lốp, sơ mi trắng cộc tay, đội mũ chào mào...Gặp nhau ngoài đường, tay nắm lại đưa lên ngang tai: “Chào đồng chí.” Không có súng, mỗi người một gậy tre buộc giây đeo vào vai. Cai Trình xăng xái đi ngoài hàng hô: “Một...Hai, Một, hai..” Đôi lúc lão quên tiếng Việt lại hô: “Ắc-đơ...Ắc- đơ!”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn8][8][/link]. Lão chuyên cần và thú vị với nhiệm vụ được giao. Sáng sáng, đều đặn, lão dẫn đoàn tự vệ ra sân vận động tập quân sự. Trung đội tự vệ chủ yếu là chị em phụ nữ (phần lớn thanh niên đã xung phong đi vệ quốc đoàn). Lão cũng quên mất cả cái thói quen mỗi sáng la cà ra quán cà phê cô Trang nhâm nhi li ca phê Ban Mê Thuột. Ghiền cà phê đã đành, lão còn ghiền được nhìn cái khuôn mặt xinh đẹp của cô mỗi sáng trước khi vào đồn. Út Trang bây giờ cũng tham gia đội tự vệ chiến đấu dưới sự huấn luyện, dẫn dắt của Cai Trình. Đoàn nữ binh của cai Trình gồm hầu hết các chị em bán vải, các cô bán tạp hóa...ở ngoài chợ, bán bún bò, cháo vịt...ở đầu phố. Nhìn đoàn quân của mình chỉnh tề trong những bộ quân phục soóc xanh, sơ mi cộc tay trắng và những bộ đùi nõn nà cử động đều tăm tắp theo nhịp hô ắc-đơ của lão, Cai Trình thay đổi nhận thức. Sự thay đổi có tính tự giác đầu tiên từ khi lão đi theo cách mạng. Lão chăm chỉ nghiền ngẫm, thấm nhuần các bài học chính trị và tích cực quan sát liên hệ với thực tiễn sinh động, những đổi thay đang diễn ra quanh mình để làm công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đơn vị tự vệ của lão. Theo lão, phụ nữ là đối tượng được giải phóng nhiều nhất. Trước giờ tập quân sự thực hành là mười lăm phút  lên lớp về chính trị, lão nói:
-         Thưa các đồng chí, thưa chị em! Trước cách mạng, đau khổ nhất là người phụ nữ. Họ bị coi là thứ đồ chơi của bọn vua chúa, quan lại, địa chủ phong kiến. Họ phải tìm cách chống lại, cách tự bảo vệ mình. Cách tự vệ của họ cũng yếu đuối, thụ động như chính bản thể của họ. Chống lại bằng cách che kín cơ thể của mình. Mặc nhiều quần áo, quần dài sát gót. Áo thì mớ bảy mớ ba. Những vùng xung yếu trên cơ thể càng được tăng cường, gia cố thêm nhiều lớp, được bảo vệ nghiêm ngặt hơn. Có nơi, phụ nữ còn dùng cả chàng mạng để che mặt! Bây giờ họ mới thực sự được giải phóng, giải phóng một cách triệt để, toàn diện. Vẻ đẹp của họ không còn bị chế độ chiếm hữu tư nhân của bọn thực dân phong kiến chiếm đoạt thành sở hữu riêng của chúng nữa. Và, ngay cả cách nhìn về sắc đẹp, tiêu chuẩn đánh giá sắc đẹp của phụ nữ cũng thay đổi, khác xưa. Trước đây thường chỉ đánh giá sắc đẹp của phụ nữ qua khuôn mặt, những khuôn mặt trái xoan, mắt phượng, mày ngài... Còn bây giờ, theo tôi sắc đẹp của người phụ nữ  biểu hiện rõ nhất ở bộ đùi... Lão ngừng lại giây lát rồi nói to: “Các đồng chí có nhất trí không?” Lão cười. Cái răng vàng sáng chóe. Lão đưa hai tay lên cao, vỗ tay một mình thật to (Thói quen của lão là vậy). Vỗ tay vừa dứt, lão hô: “Triển khai đội hình tập quân sự!”
Hai khoa mục mà lão “rèn” cho chiến sĩ mình nhiều nhất là động tác “bò” và “ xạ kích”.
-         Đồng chí Kiều! Lão hô dõng dạc.
-         Có! Kiều đáp.
-         Ra khỏi hàng! Thao tác thị phạm khoa mục: “Xạ kích súng trường”.
-         Rõ! Kiều bước ra khỏi hàng.
    Kiều, cô gái bán tạp hóa mà Trình mê mệt. Khuôn mặt trái xoan, mũi cao, thẳng, mọi đường nét trên khuôn mặt đều thanh thoát nhẹ nhõm. Điều ngạc nhiên mà trước đó không ai biết, ai ngờ là cặp đùi cô rất to, dài, tròn lẵn, trắng hồng...
-         Nằm xuống! chân rộng bằng vai. Lão hô.
   Mặc quần soóc ống rộng, nằm sấp xuống, Kiều ngượng ngập khép chặt hai chân không dám dạng ra. Trình nhắc lại: “ Chân rộng bằng vai”. Lão lùi xa ra để ngắm, bảo; “Chưa được...chưa được! Rộng nữa ra, rộng ra! Nữa...nữa...Ô kìa! Đi làm cách mạng mà còn ngượng à?” Lão tiến lại ngồi xuống dưới chân Kiều, cầm hai chân cô doãng rộng ra..Lão đứng dậy nói với tiểu đội nữ: “ Các đồng chí xem kĩ đi, đến lượt mình phải làm đúng đấy!”
   Cả tiểu đội nữ đến mười lăm người nằm sóng soải thành một hàng ngang. Lão đi uốn nắn từng người. Sửa chân người này, nâng đùi người nọ, lắc mông người kia, tiến lùi ngắm nghía...Lão dừng lại rất lâu, hướng dẫn kĩ cho cô Trang, lâu nhất vẫn là động tác doãng chân. Tiếp tục chương trình huấn luyện, lão lại lăng xăng bên các cô gái hướng dẫn các động tác; “Tỳ vai, áp má...bóp cò...” Xong buổi tập, lão lại tập họp đơn vị nhận xét đánh giá kết quả buổi tập. Cả đơn vị nhìn xuống đất, chẳng ai nhìn mặt lão. Thái độ khinh miệt và căm ghét lão hiện trên mặt mọi người. Họ định bảo nhau không tham gia dân quân tự vệ nữa. Lão đọc được ý nghĩ của mọi người, nếu họ đồng loạt không tập và tố cáo lão thì chắc chắn lão bị kĩ luật. Để giảm bớt căng thẳng, lão cho cả đội nghỉ tập ngày hôm sau. Chiều ấy lão mò đến gặp Kiều tỏ ý muốn đến chơi nhà riêng của Kiều vào tối hôm ấy. Lão biết Kiều chỉ ở một mình trong một gian nhà nhỏ sau ngõ khuất. Một ý định vụt lóe trong đầu, Kiều làm kế hoãn binh, mời lão tối mai đến nhà cô chơi. Mọi việc xảy ra ở bãi tập, mọi hành vi của Trình, Kiều đều kể cho Sung nghe. Sung là thợ cắt tóc ở gần chợ. Một người lầm lì ít nói. Ít nói nhưng mọi người đều thích nói chuyện với anh ta. Quán cắt tóc của anh trông như trụ sở tiếp dân. Lúc, anh nói vài lời chỉ trích cái xấu xa, thối nát của chính quyền bù nhìn Bảo Đại, lúc, anh lầu bầu ca thán những việc làm sai trái của chính quyền cách mạng. Anh nói vài chuyện nhặt được trên báo, đôi chuyện nghe thấy ngoài đời. Gần anh, người ta thú vị vì thấy mình thu lượm được thêm những điều mới mẽ. Anh không tham gia bất cứ một hoạt động nào của các đoàn thể cách mạng, chỉ lo cặm cụi làm ăn. Có người bảo anh là công an chìm. Ai nói gì mặc kệ. Anh và Kiều yêu nhau nhưng bề ngoài vẫn lạnh lùng bí mật. Bí mật như cuộc đời của anh vậy. Kiều bàn với Sung kế hoạch “đón tiếp” Trình tối mai. Sung bảo Kiều: “Như thế...như thế...” rồi lặng lẽ xách đồ nghề ra quán theo đuổi sự nghiệp cắt tóc của mình.
   Tối ấy, Trình đến. Hớn hở, rạo rực, y bước vào nhà. Vồ vập, tay trái y quờ ra bắt tay trái Kiều, tay phải quàng qua eo. Kiều nghiêm mặt quay người, lùi lại, chỉ vào bộ ghế kê ở phía cửa vào: “Mời sếp ngồi.” Lão ngồi xuống ghế, lấy lại thăng bằng nghĩ bụng: “ Đối tượng này không thể dùng chiến thuật chim ó bắt gà con được!” Lão nhìn Kiều cười, cái răng vàng lóe sáng, nói:
-         Người đẹp mà chịu ở một mình lạnh lẽo thế này thì buồn chết được!
Làm như không để ý gì đến câu tán gái nhạt thếch của lão, Kiều nói:
-         Đến bữa rồi, anh ngồi chơi em làm cơm cùng ăn luôn thể, chắc anh cũng chưa ăn gì.”
-         Được đến với em là anh no rồi, cần gì ăn uống nữa! Trước khi đến đây anh cũng ăn uống qua loa rồi. Em đừng bày nấu nướng mất thì giờ. Thời gian bây giờ quý như vàng đấy. Trình nói.
-         Thời gian còn dài lắm, em làm sẵn cả rồi, chút xíu nữa em bê lên thôi. Kiều bảo.
-         Em thật chu đáo, còn gì quý bằng! Ăn cái đã, nhà binh của anh có câu: “Ăn no đánh thắng” mà lại. Giọng Trình líu ríu cuống quýt. Hắn đang nghĩ đến cặp đùi của Kiều hôm đi tập.
-         Em không đãi cơm anh đâu, chỉ chuẩn bị ít đồ nhắm để anh uống rượu thôi! Kiều nhìn Trình tình tứ nói.
Trình liếc nhìn lên bàn, một đĩa thịt nai xào lăn đầy tú ụ, một chai rượu trong veo, một đĩa dưa leo thái lát, một đĩa bánh mì cắt sẵn...Ba chiếc bánh bao nhân thịt.
-         Anh dùng đi kẻo nguội, Kiều nói.
-         Anh sẵn sàng chiến đấu rồi, em cầm đũa đi chứ! Mời khách mà chủ ngồi yên nghiêm nghị thì ai dám đụng vào. Trình nhìn Kiều đắm đuối nói.
-         Không mời mà đụng vào thì có chuyện chứ đã được mời thì cứ mạnh dạn mà xơi chứ sợ gì! Kiều bảo.
   Câu nói sát sườn của Kiều làm Trình mừng quýnh muốn ăn nhanh cho xong. Hắn cầm đũa khuơ khuơ trên đĩa thịt nai, gắp một miếng bỏ lên đĩa của Kiều, nói: “ Vậy anh xin làm chủ bữa tiệc vậy!” Kiều rót rượu cho Trình cho cả mình và nâng li: “ Cạn chén!” Trình nốc cạn, đặt li xuống bàn: “Rượu đâu ngon quá ta!” Bây giờ không còn giữ ý, giữ tứ gì nữa, lão ăn như hổ đói được mồi. Kiều liên tục rót rượu cho lão. Say mềm, lão lè nhè: “Kiều ơi! Có được cặp đùi của em thì thiên đường địa ngục gì thằng này chấp hết...chấp hết! Đéo sợ cái thằng nào..” Sung lách cửa bước vào, dìu Trình ra sân, đặt nằm vào gốc cây cạnh cổng ra vào.  Anh bảo Kiều ra bếp ngồi, tắt đèn, dặn với theo: “Sau năm phút nữa tiếp tục phần hai của kế hoạch”. Sung nhẹ nhàng lấy con dao cạo đưa một nhát. Tai của lão Trình bị cắt làm hai mảnh. Máu chảy đầm đìa. Sung thoát nhanh ra ngoài. Tiếng la của Kiều vang lên: “Trộm...Trộm! Ới làng nước ơi...Trộm!” Vừa la, chị vừa gõ liên hồi vào chiếc thau đồng rửa mặt. Hàng xóm chạy đến bao quanh. Bị đánh đau, Trình tỉnh rượu nhưng chưa biết sự tình ra sao. Sung chạy vào, rọi đèn pin lên mặt Trình và len vào xua mọi người ra nói:
-         Xin đồng bào chớ đánh, đây không phải ăn trộm mà là thầy Cai, Thầy Cai Trình, chắc ông đi uống rượu ở đâu về không may ngã vào đây...Xem kìa! Không biết thầy ngã vào đâu hay đánh nhau với ai mà máu me thế kia! Mọi người xúm lại. Đèn pin rọi sáng. Tai thầy bị rách làm đôi theo chiều ngang. “Còn may cho thầy, nếu bị cắt dọc thì cụt mất một tai rồi!” Ai đó đem thỏi mực Tàu chạy ra bảo: “Cầm máu tốt nhất là cái này.” Họ cắt một miếng đắp lên tai lão rồi băng lại.
   Cả tuần lễ tiếp sau, Trình đóng cửa nằm im ở nhà. Các vết bầm tím do bị đòn đã hết nhưng hại thay! Cái tai. Cái tai đã liền lại nhưng vết mực tàu đen nhánh thành một vệt ngang không sao tẩy được. Trình giống như kẻ tội đồ bị thích chữ vào mặt ngày xưa, không dám ra ngoài. Mọi người bàn tán xôn xao về cái kế sách sử dụng mực Tàu này. Một bản án chung thân. Khổ hơn nữa là không hiểu tại sao, vết thương trên tai đã liền mà  mỗi khi có điều gì bị kích động, cái nửa trên của tai lão cứ ve vẩy trông rất ngộ. Họ thì thầm bảo nhau: “Cái thâm thuý này chỉ có thể là thằng Sung thôi, cha này là Tàu khựa chính nòi đấy!” Mặc kệ, Sung như không nghe thấy gì, không biết có chuyện gì xảy ra. Vẫn con dao cái kéo liền tay, cắt cắt, tỉa tỉa.
   Lão Trình đội cái mũ chụp kín hai tai, không quản giữa trưa hè, lão đến quán của Sung cắt tóc. Sung mời lão ngồi vào ghế, rồi, như chẳng quan tâm gì đến cái vết sẹo trên tai lão Trình, tay cầm tông đơ, anh tiếp tục câu chuyện đang nói dở với cậu học sinh trung học: “...  Phá điện Ê-li-zê, dù đó là hành vi rồ dại nhưng nếu họ làm vậy ta vẫn có thể chấp nhận, nhưng phá ngục Batsti là hành vi không thể chấp nhận được. Không hiểu sao các nhà sử học, các nhà chính trị...” Mải chuyện, suýt nữa Sung cắt vào cái tai bị sẹo của Trình. Trình giật mình lấy tay bịt chặt hai tai: “Không sao, không sao...May quá!” Trình sợ Sung nhân lúc này để ý đến cái vết đen như con đỉa trên tai lão, nhất là nhìn thấy cái tai lão ve vẩy. Sung, miệng nói: “Xin lỗi, xin lỗi!” nhưng mặt vẫn quay về phía cậu học sinh nói tiếp: “...cứ ghi đậm nét vào sử sách, cứ hùng hồn trên bục trong các cuộc mét- tinh về sự kiện phá ngục Batsti coi đó là biểu tượng sáng ngời của cách mạng? Chế độ nào cũng có cung điện và nhà tù cả. Sự khác nhau giữa các chế độ xã hội được thể hiện bằng một phân số, trong đó tử số là cung điện, mẫu số là nhà tù. Cái tỷ số ấy càng lớn thì ở đó có văn minh tiến bộ, có tự do hạnh phúc. Còn, ngược lại ở các chế độ độc tài, phát xít, bóp nghẹt tự do dân chủ thì tỷ lệ đó càng bé. Thực chất của các cuộc cách mạng chỉ là việc thay thế người ngồi trong cung điện và kẻ ngồi trong nhà tù thôi. Cái nhà tù và cái cung điện chẳng can dự gì đến cách mạng cả!” Lão Trình ngồi im trên ghế cắt tóc lắng nghe câu chuyện. Lão thực hiện đúng cái phương châm: “Mi không đụng đến ta, ta không đụng đến mi.” Đừng ai nhắc đến cái tai của lão là được. Nhưng ngồi nghe lỏm câu chuyện giữa anh thợ cắt tóc và cậu học trò lão đâm hoảng. Lão thấy xung quanh lão có một thế lực nào đó mạnh hơn khẩu súng của lão. Lão nhớ lại cái hôm quần chúng biểu tình rung trời chuyển đất trước dinh tỉnh trưởng... “ Thằng Sung là ai nhỉ?” Hắn tự hỏi.- Một thằng người có học vấn, có trình độ như hắn không thể cam phận làm anh cắt tóc ở xó chợ này. Hắn cũng chẳng chịu đi làm cớm[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn9][9][/link] đâu! Có thể hắn là thủ lĩnh một đảng chính trị nào đó đang xây dựng lực lượng, đang chờ thời. Cũng có thể hắn là một trí thức, một quan chức cấp cao của triều đình chán ngấy cảnh thối nát của triều chính về đây sống mai danh ẩn tích, lạc đạo an bần... Trông người lại ngẫm đến ta, Trình suy nghĩ về mình: Học xong sơ học yếu lược, ba năm trường làng, gọi tiếng Tây cho oai là đỗ xéc-ti-vi- ca. Hắn làm thằng nhỏ lang thang khắp các nẻo đường phố rồi đăng lính, lên cai, đeo lon trung sĩ..làm đồn trưởng một đồn lính khố đỏ. Cả đời, hắn chỉ tin vào sức mạnh của cây súng trong tay những kẻ vô học như hắn. Bây giờ hắn lại  sùng bái quá mức vào sức mạnh của chính trị tư tưởng. Hắn tưởng bất cứ thứ chính trị tư tưởng nào cũng có thể thâm nhập vào quần chúng và biến thành sức mạnh. Hắn không biết có những thứ tư tưởng đã quá đát, bốc mùi nhập khẩu vào không những không tạo ra sức mạnh của dân tộc mà chỉ làm ô nhiễm, băng hoại đời sống tinh thần của xã hội. Hắn lại tự trách mình: “Suy nghĩ vơ vẫn như vậy để làm gì nhỉ? Ai mặc ai, kệ người ta. Mình phải lo lấy cái mạng sống của mình trước đã! Mình quen với thịt, với rượu, với đàn bà rồi. Khẩu súng đem lại cho mình những thứ ấy. Bây giờ nếu ai có bón cho mình những học thuyết cách mạng  tiến tiến, thơm tho đến mấy mình cũng nhè ra thôi. Xét cho cùng chẳng ai nhét vào dạ dày các học thuyết chính trị, các pho kinh thánh để sống cả. Con người  cho bò ăn cỏ không phải thương bò mà chỉ vì họ thèm đĩa bíp tết. Các học thuyết chính trị, các kinh thánh cũng chỉ là những thứ cỏ, các nhà chính trị nhồi nhét cho quần chúng để họ đem lại gạo trắng, thịt ngon cho mình...”
 Hôm sau, lão Trình biến mất. Chắc chắn lão trốn về Sài gòn. Mọi người đều nghĩ vậy.
Sau gần một tháng ngây ngất cuồng nhiệt trong không khí cách mạng, cuộc sống của thị xã đã trở lại gần như bình thường. Cô hàng xén trở lại sạp hàng giữa chợ. Chị bún vịt nhóm lại lò. Út Trang lại lúi húi với những tách cà phê...Những gánh hàng rong lại đè nặng lên những thân già còm cõi thất thểu trên hè phố. Trong khi chờ đợi đến cái ngày của cải tuôn ra như nước, con người được hưởng theo nhu cầu họ phải đi nhặt từng xu, từng cắc cho cái dạ dày đỡ cồn cào, cấu cắn chiều nay. Tối đến, các cuộc hội họp, sinh hoạt chính trị vẫn tưng bừng. Lớp học lí luận cho các nhân sĩ, trí thức do Lê Thúc Can phụ trách tiến hành không thuận lợi. Họ tranh cãi nhau om sòm. Nhiều người không tin cái xã hội trong đó con người được hưởng theo nhu cầu là có thật. “Tôi hỏi các anh, đến cái ngày đó, chị Lùn bán bún ốc đầu phố có nhu cầu sử dụng một chiếc chuyên cơ phản lực bay sang Mỹ vào dịp Giáng sinh, cô Út Trang lại muốn bay đi nghỉ mùa hè ở Mô- na- cô...thì xã hội làm sao đáp ứng được nhu cầu đó?”...  “ Ai chẳng muốn có cung điện, có nhiều thê thiếp...đấy có phải là nhu cầu không?” Và nhiều...nhiều câu hỏi nữa được đặt ra.
Sáu Hoàng bảo với Can:
-         Chúa chỉ cứu rỗi được linh hồn cho những ai tin ở Chúa. Con chiên có tin ở Chúa mới nhập tâm được Kinh thánh chứ không phải do thuộc Kinh thánh mới kính chúa đâu! Tôi đã nghiên cứu kĩ các thắc mắc của các học viên rồi. Cái cơ bản là họ chưa tin vào tính triệt để của cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo. Điều này dễ hiểu đối với những đối tượng của lớp học này. Tuyệt đại đa số nhân dân lao động, nghĩa là trên 90% dân số nước ta tin theo cách mạng, đi làm cách mạng là đủ đảm bảo cho cách mạng thắng lợi.
-         Sự thực thì, Can nói, sự vùng lên của nhân dân lao động là biểu hiện của những khát vọng không đạt được bị dồn nén lâu ngày vỡ tung ra chứ chưa phải là do giác ngộ lí tưởng, cũng chẳng phải do dư thừa về sức khỏe và trí tuệ có nhu cầu tìm hiểu khám phá như Cô- lông- bô. Có chăng, vài phần tử tiểu tư sản trong họ có cái si mê cuồng nhiệt của Đông- kinh- sốt thôi. Còn lại số đông, khát vọng của họ là tấm cơm, manh áo, cao hơn một chút là sự tôn trọng đời sống cá nhân và nhân phẩm danh dự. Họ đi theo Cách mạng, vì những người cách mạng đã gãi đúng chỗ ngứa của họ.
-         Đúng! Vậy bây giờ, để duy trì được khí thế cách mạng, duy trì được lòng tin của quần chúng vào cách mạng, ta phải đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để có phương hướng giáo dục vận động thích hợp. Tôi tin ở lòng yêu nước và tinh thần cách mạng của quần chúng. Sáu Hoàng nói.
-         Đối với đối tượng là nhân sĩ, trí thức, Can nói, vấn đề này khó hơn. Trước mắt, trong đợt học tập này ta phải làm cho họ thông, giải đáp được những thắc mắc của họ.
-         Thắc mắc của họ tập trung chủ yếu vào những vấn đề gì? Hoàng hỏi.
-         Thứ nhất, Can bảo, Luật sư Trần Chiếu nói: “Man- tuýt[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn10][10][/link] đã chứng minh một cách thuyết phục rằng dân số tăng theo cấp số nhân còn của cải vật chất tăng theo cấp số cộng. Do vậy nhu cầu vật chất của con người không bao giờ được thỏa mãn. Hơn thế, trái đất ngày càng còm cõi sẽ không nuôi nổi con người. Con đường đi đến cái xã hội của cải tuôn ra như nước và con người sẽ được thỏa mãn mọi nhu cầu có lẽ còn xa hơn con đường đi lên thiên đường...” Cùng ý  kiến này, kĩ sư nông học Lê Đình Cảnh nêu ra ý kiến liên quan đến vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Ông nói: “Nước ta có hai lăm triệu dân, có trên dưới hai triệu héc ta đất canh tác, năng suất bình quân hiện tại là mười ba tạ một héc ta[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn11][11][/link]. Nếu tiêu diệt hết địa chủ đi, đem chia đều số thóc ấy cho toàn dân thì mỗi người chỉ được một tạ thóc một năm! Chưa no, lấy đâu ra hạnh phúc! Trước hết để giải quyết được cái đói phải nâng năng suất lên mười lần, thử hỏi những người lãnh đạo của xã hội mới, công nhân, nông dân có khả năng làm việc ấy không? Giải quyết việc ấy phải là những nhà khoa học...”
 Hoàng nói:
-         Hãy bình tĩnh mà nghe họ nói. Quần chúng cách mạng không nghĩ như họ, không nói như họ. Những điều mà các vị trí thức nêu ra không phải là vấn đề lí luận, vấn đề khoa học mà chủ yếu là cách nhìn, là vấn đề lập trường, quan điểm. Chỉ có thể thông suốt những vấn đề lí luận cách mạng khi đứng trên lập trường của những người cách mạng, lập trường của giai cấp công nhân. Những người cố tình bài xích Đạo sẽ không bao giờ tin ở Chúa cả.
 
 
*
 
*        *
   Thực dân Pháp trở lại chiếm đóng thị xã. Các cơ quan của Việt Minh rút lên núi, vào rừng. Thị xã nín thở. Tiếng dày đinh của lính Pháp, lính Lê dương rủng roảng trên các nẻo đường. Hàng phố đóng cửa đi ngủ sớm. Những tiếng thì thầm nhỏ to bên các ngọn đèn Hoa kì leo lét. Thỉnh thoảng có những tiếng la hét thất thanh ở ngoài phố. Tiếng súng nổ đâu đó không xa vọng lại. Tiếng lựu đạn và tiếng liên thanh... Không thấy cai Trình trở về. Hắn chán ngấy Việt Minh nhưng không thể quay về với thực dân Pháp vì bị Pháp kết tội phản bội mẫu quốc, đem quân đầu hàng cách mạng. Có người bảo đã nhìn thấy hắn đi cùng với một cô gái điếm hết thời lên mạn ngược buôn bán nhì nhằng gì đấy. Cái vệt mực tàu đen như con đỉa vắt qua tai lão làm cho lão vĩnh viễn xa rời mảnh đất này. Các cô gái dấu mình. Áo dài thưa thớt. Nụ cười hiếm hoi.
  Vào rừng. Nguồn lương thực, thực phẩm, thuốc men cho các cơ quan đoàn thể cách mạng bị gián đoạn. Tinh thần tự lực cánh sinh được đề cao. Cuốc đất trồng sắn, phá rẩy trỉa lúa nương. Bữa ăn hàng ngày, ngày nọ tiếp ngày kia là sắn. Sắn ăn với dưa cải muối chấm muối, rau tàu bay. Người xanh xao, mọc đầy ghẻ lở. Đêm nằm ngủ, mủ các nốt ghẻ vỡ ra làm cho quần áo dính vào da thịt, sáng dậy gỡ ra đau nhói, chảy nước mắt. Bửng của các nốt ghẻ dính vào quần áo khô lại cứng quèo như vảy ốc đá dán vào. Khổ hơn cả là cái nạn ghẻ ruồi. Ngứa râm ran. Ngứa khắp người. Lúc đầu còn ngượng phải gãi vào chỗ hiểm nghèo khi đứng nói chuyện với ai, nhất là với người khác giới. Nhưng quen dần, ai cũng vậy cả. Đàn ông, đàn bà đều thế.  Cái tác phong tiểu tư sản bắt tay khi gặp nhau không cần phải mất thì giờ đấu tranh, phê phán cũng bị loại trừ. Gãi trở thành một phong trào quần chúng, một tác phong, Tác phong kháng chiến! Nó là dấu hiệu nhận biết “Ta- Địch”. Phải cảnh giác với ai khi nói chuyện với mình mà tay không gãi ghẻ ruồi! Đó là kinh nghiệm thực tiễn được đúc kết thành lí luận về cảnh giác cách mạng. Riêng ông Can, đối tượng trí thức tiểu tư sản có quan hệ nhiều với bọn thực dân phong kiến cần phải được cải tạo, thử thách, rèn luyện nhiều hơn. Ngoài các loại ghẻ phổ thông, ông có thêm một loại ghẻ đặc chủng. Ấy là loại ghẻ nước. Loại ghẻ này do một loại kí sinh trùng sống ở dưới da gây nên. Ngứa rất khó chịu, đôi lúc nhói lên như kim châm. Nếu gãi vỡ nước ra, nước loang đến đâu, ghẻ loang đến đấy. Con ghẻ ăn thành đường. Quan sát kỹ, ở cuối đường có một nốt trắng rất nhỏ, đó là nơi con ghẻ nằm. Phải dùng một chiếc kim, nhẹ nhàng đưa vào nhể nó ra. Nó bé hơn hạt cát, trắng tinh, bò rất nhanh... Kể lại chuyện xưa, ông Can ít khi nhắc đến những phút giây vào sinh ra tử, đến các trận đánh địch, chống càn oanh liệt mà thường nhắc đến chuyện thể xác bị hành hạ bởi ghẻ. Bọn trẻ bây giờ lại tò mò rất thích nghe ông kể về chuyện đi tắm ở chiến khu: “Ở chiến khu đi tắm là một sự bí mật. Những người đồng chí sống với nhau rất chân thành, con chấy cắn làm đôi ,sẵn sàng chia sẻ với nhau mọi nỗi niềm. Riêng cái chuyện ghẻ, cái nỗi đau ngấm ngầm, ngứa ghẻ hờn ghen thì không ai thổ lộ cùng ai. Mùa khô, nước cạn, người người đua nhau chiếm lĩnh thượng nguồn. Có lần tôi dậy sớm, đi nửa ngày đường, chắc mẩm phía trên chỗ mình ngồi sẽ không có ai. Thong thả cởi quần áo, ngồi lên một hòn đá nửa chìm nửa nổi. Ngờ ngợ, ngước mắt nhìn lên. Trên cành mấy con quạ đang chăm chú nhìn cái thân hình loang lỗ của mình. Chắc chúng đang phán đoán: “Cái cơ thể đang ngồi trên hòn đá kia là người sống hay là một thây ma! Là một con người với đầu óc chứa đầy những tư tưởng cách mạng, đang đảm đương sứ mệnh giải phóng loài người hay là một bữa tiệc linh đình của loài nó chiều nay!” Sợ quá, nghĩ bụng nếu đàn quạ sà xuống nhằm mình mà rỉa thì sao nhỉ? Chết mất. Mình lấy lại can đảm, vung hai tay lên trời. Đàn quạ thất vọng kêu lên mấy tiếng “khá...khá...” rồi bay đi. Đang hớn hở vì cái vị thế nhất thiên hạ của mình, một cái sợ khác lại đến, lớn hơn. Nếu bây giờ vô tình gặp phải một đồng chí trong cơ quan, nhất là các đồng chí lãnh đạo đi công tác ở đâu về, tắt qua đường này, thấy mình ngồi chon von ở đây, họ nghĩ gì?- “Một thằng cha tiểu tư sản đầu óc chứa đầy chủ nghĩa cá nhân thối nát!  Đi tìm chỗ sạch, cố leo lên cao để ngồi, để trút cái dơ bẩn cho người dưới...” Cúi xuống, soi cái bản mặt của mình lên mặt nước, thấy ngượng với chính mình... Thì, eo ơi! Trên mặt suối dập dềnh những mảng nước đầy ghét, có cả những miếng bông, băng đen sì lều bều trôi!  Hóa ra, trên mình còn có thằng láu cá hơn, bẩn hơn, cá nhân chủ nghĩa nặng hơn mình. Ông mặc lại quần áo đi về phía hạ lưu. Muốn hòa mình với tập thể, muốn phấn đấu gột sạch những tư tưởng cá nhân chủ nghĩa do cái xã hội cũ thâm nhập vào mình. Lạ thay! Dọc đường chẳng thấy chỗ nào có hai người tắm chung. Mỗi người đều tìm một chỗ khuất để ngồi tắm! Ai cũng cố dấu đi cái nổi đau ngấm ngầm, xa xót của mình...”
   Hồi ấy, cả cái vùng này, Lê Thúc Can là người học cao nhất, Tây học hẳn hoi, tham gia cách mạng sớm nhất. Người ta thường đến mời ông đi báo cáo cho các lớp học về truyền thống đấu  tranh cách mạng anh hùng nhưng ông đều từ chối. Ấn tượng sâu sắc nhất để lại trong cuộc đời hơn bốn mươi năm đi theo cách mạng của ông là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Cuộc chiến mà ông theo đuổi gần hết đời người chính là cuộc chiến mình chống lại chính mình. Cuộc chiến giữa con người tự nhiên và con người xã hội theo những quy tắc và chuẩn mực cách mạng.Bây giờ nhớ lại đôi lúc tôi còn chưa hết sợ!” Ông thường nói vậy mỗi khi có ai đến, nhất là anh chị em trí thức miền Nam sau ngày giải phóng đến đề nghị ông kể chuyện kháng chiến. Ông cười đôn hậu, nhớ đâu nói đấy, không có chủ đề tư tưởng, không có mục tiêu chính trị gì sất. Khi kể, cái miệng ông lúc nào cũng như mỉm cười. “ Hồi ấy kham khổ lắm, bà ấy (vợ ông) mang cho tôi con gà. Con gà sống thiến đã làm thịt và luộc chín. Bà ấy mang đi tất. Cả cái đoạn ruột mỏng dính cũng được quấn quanh cái mề gà, hai cái dò xương xẩu, miếng tiết tròn như cái đĩa nhỏ...Tôi cám cảnh nhìn con gà. Thương ba mẹ con trưa nay chắc chỉ xì xụp húp bát nước luộc xa xít khen ngon! Xử lí con gà thế nào là cả một vấn đề. Phải vận dụng tất cả các quan điểm, đường lối, chính sách mới có thể tránh được sai lầm. Tôi quyết định đưa con gà xuống bếp ăn tập thể để anh em toàn cơ quan cùng ăn. Thương lắm! Anh em cùng chung cảnh ngộ thiếu, đói. Tôi cũng rất thèm thịt nhưng khi ngồi vào bàn ăn tôi vờ như không để ý, không nhìn vào đĩa thịt mà nhìn vào đĩa rau tàu bay. Không ai dám thò đũa vào đĩa thịt. Cậu Ấn huyện đội phó đứng dậy, phá sự bế tắc này bằng cách mời mọi người ăn thịt trước. Anh  chủ động gắp cho tôi chiếc đầu gà, nói: “Mời chủ tịch khai mạc cho!” rồi bảo mọi người: “Xin cứ tự nhiên!” Nhà tôi dự bữa cơm khách đầu tiên của cơ quan kháng chiến. Bà chỉ ngồi nhìn, sợ không đủ cho mỗi người một miếng nên chưa dám gắp. Chị ngồi cạnh gắp cho bà một miếng lườn nạc to bằng hai đốt ngón tay. Bà thấy tôi đang bất lực loay hoay với cái đầu gà, liền bảo: “Anh ăn giúp em miếng này, em đau răng không ăn thịt gà được!” Bà đổi luôn bát cho tôi...”
Tăng Ấn biết Can từ ngày chuẩn bị cướp chính quyền ở tỉnh B, khu 6. Đêm đó chính Tăng Ấn dẫn tiểu đội dân quân hộ vệ Sáu Hoàng đến gặp Lê Thúc Can ở khách sạn. Anh tiến bộ rất nhanh, giờ đã là huyện đội phó phụ trách công tác chính trị tư tưởng. Uy danh của anh lẫy lừng khắp toàn vùng. Cũng lạ! Anh không được một bằng khen, một tấm huân chương, không được phong tặng anh hùng, dũng sĩ gì. Cái uy danh làm khiếp sợ mọi người của anh xuất phát từ những lời đồn đại ngấm ngầm, những tin đồn nhằm bôi nhọ anh hay nói đúng sự thật về anh không ai biết! Toàn những tin khẩu thiệt vô bằng! “Có một đồng chí bị bắn chết ở mép rừng...Có một người bị đâm chết ở ngả ba đường cái..” Tăng Ẩn đứng ra tổ chức truy điệu trang nghiêm: “ Đồng chí X...đồng chí Y..đã anh dũng hy sinh trong khi làm nhiệm vụ..” Khói hương nghi ngút, nước mắt sụt sùi..Ra về, người ta thì thầm với nhau ở chỗ thân tình: “Chớ có dại mà chọi nhau với lão Ấn!” Người ta sợ lão, kiềng lão đến mức trong các hội nghị, lão ta phát biểu điều gì là mọi người phụ họa theo, tán tụng thêm lên, nhất trí 100% với ý kiến của đồng chí Ấn.
   Ấn có khiếu làm chính trị. Lão biết đề ra những khẩu hiệu làm cấp trên kính nể. Trên đề ra khẩu hiệu chung: “Phải đi sâu, đi sát, nắm vững tâm tư nguyện vọng quần chúng.” Khi triển khai, mọi cấp mọi ngành đều nói rập khuôn, nhai lại y nguyên làm người nghe phát chán. Tăng Ấn nêu khẩu hiệu riêng, phương châm riêng rất cụ thể, thiết thực. Hồi làm chính trị viên đại đội bộ đội đia phương huyện, lão huấn thị cho các cán bộ dưới quyền: “Phải nắm được chiến sĩ của mình ăn ra sao, ngủ ra sao, họ đang làm gì, nghĩ gì 24/24 giờ trong ngày!” Lão hành động như thế thật, bất cứ giờ nào, bất cứ chỗ nào, đang tập luyện, đang chơi cờ, đang nằm ngủ lão đều sà vào nghiêng ngó. Lính của lão nghe đến hai tiếng Tăng Ấn là sởn da gà không bao giờ dám cãi nửa lời. Một lần thằng Cằm, chiến sĩ trong đơn vị, tán được một cô thôn nữ trong bản. Hai đưa rủ nhau vào hang đá. Đang cơn hưng phấn, cô ta kêu lên: “ Ối!..Anh ấn vào.!”Cằm hốt hoảng, không kịp mặc quần, quơ lấy chiếc áo quấn lấy người, chạy ra nấp sau một hòn đá, ngơ ngác hỏi: “ Anh Ấn vào đâu.?.” Cô ta điên tiết gắt: “ Không biết ấn vào đâu mà cũng đòi đi tán gái, xấu mặt! Ấn vào hang chuột hay sao mà chạy ra đấy! Thộn ơi là thộn.” Cằm lầu bầu: “Làm người ta mất cả hứng, cứ tưởng chính trị viên  Ấn vào!”
  Can được lệnh điều ra Việt bắc. Năm ấy, một chín năm ba (1953), cuộc kháng chiến đang bước qua một giai đoạn mới. Về quân sự ta thắng lớn trên khắp các chiến trường, đang chuyển qua giai đoạn tổng phản công. Về chính trị, nước Việt nam dân chủ cộng hòa được thế giới biết đến nhiều hơn, được nhiều nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Khí thế cách mạng đang bừng bừng dâng cao. Các cuộc vận động chỉnh huấn, chỉnh quân sôi sục. Nội dung cơ bản của các đợt sinh hoạt chính trị này vẫn là quán triệt sâu sắc đường lối giai cấp và đấu tranh giai cấp. Chính trị là thống soái. Tư tưởng xuyên suốt là cách mạng càng gần thắng lợi thì cuộc đấu tranh giai cấp càng diễn ra quyết liệt. Kiện toàn sắp xếp lại tổ chức, cán bộ theo đường lối công nông. Phát động cuộc đấu tranh triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chuẩn bị thực hiện cuộc cải cách ruộng đất. Nhẩm tính, Can thấy mình đi theo cách mạng đã được tám năm. Tám năm ở hang đá, rừng rậm, đêm đêm lặn lội xuống các làng xã vận động các gia đình có chồng con tham gia tề ngụy bỏ hàng ngũ giặc về với cách mạng, đi thu thuế nông nghiệp. Tám năm...bao lần bị phục kích! Ngạc nhiên, không hiểu sao mình còn sống được đến hôm nay...Ông nhớ đến câu nói của Sáu Hoàng: “Chế độ xưa phải rũ bỏ sạch trơn, phải đập phá thật tan tành nhưng không phải làm một lúc, không phải ngay lúc này. Cái gì dùng được một lúc ta dùng một lúc, một ngày ta dùng một ngày...” Bộ quân hàm trung úy sĩ quan Pháp của mình được cách mạng dùng một lúc, còn cái thân xác mình, đến nay đã được cách mạng dùng tám năm! Cũng là dài. Nhiều nhân sỹ trí thức nghe theo lời vận động của mình đi theo kháng chiến đến giai đoạn này lại lũ lượt dinh tê[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn12][12][/link]. Nghe đâu, vợ Sáu Hoàng, cô Tôn Nữ Đỗ Quyên, một sinh viên con nhà tư sản, một đoàn viên hoạt động sôi nổi trong phong trào sinh viên nội thành do Sáu Hoàng xây dựng và lãnh đạo thời ấy, đi theo cách mạng làm phó chủ tịch hội phụ nữ huyện cũng dắt con về thành, dinh tê rồi.
-         Họ bỏ cách mạng về thành phố có phải vì  bản chất của trí thức là bấp bênh, dao động như lí thuyết cách mạng đã nói hay vì không chịu nổi gian khổ? Can nghĩ.
-         Chắc không phải như vậy! Can tự giải đáp cho mình: “Nếu dao động, nếu sợ gian khổ, họ đã bỏ kháng chiến ngay từ những ngày cách mạng còn trứng nước, từ những ngày “cơm muối, rau rừng, ghẻ lở, sốt rét vàng da” rồi. Bây giờ cách mạng sắp đến ngày thắng lợi, đời sống vật chất tuy vẫn còn khổ nhưng đã khá hơn nhiều...” Tại sao?
-         Có lẽ, không phải vì họ dao động mà vì họ bị coi là những phần tử dao động. Như vậy cách mạng không tin ở họ. Điều mà kẻ sĩ xưa nay sợ nhất là dùng mà không tin. Người minh chủ mà họ tìm kiếm thực chất chỉ là đi tìm người tin mình, dùng mình một cách thực chất.
   Triển khai nghị quyết về “Quán triệt sâu sắc đường lối giai cấp trong công tác sắp xếp bố trí cán bộ, kiện toàn bộ máy tổ chức.” Tăng Ấn được điều qua làm chủ tịch huyện. Can vẫn làm phó. Sáu năm, anh đã làm phó cho ba đời chủ tịch. Tính hiền lành, dễ tin và cam phận đã giúp anh tồn tại. Anh  coi đó là những đức tính quý báu mà anh có được qua rèn luyện thử thách trong đấu tranh cách mạng. Đó là kết quả của sự cải tạo mình, sự tiến bộ vượt bực của một trí thức Tây học thuộc tầng lớp trên đi theo cách mạng. Anh tuyệt đối tin tưởng vào tổ chức. Suốt bao năm anh được rèn luyện trong tinh thần tôn thờ tổ chức: “Ý thức tổ chức, phục tùng tổ chức vô điều kiện...”  Anh nhớ lại chặng đường đã đi của đời mình. Tự nhiên một câu hỏi mơ hồ xuất hiện trong óc anh: “ Tổ chức là ai nhỉ?”- “Là tờ giấy có chữ được đóng triện đỏ, là lời nói của người đang nắm quyền, thậm chí chỉ là lời nói của kẻ thừa hành, cấp thấp hơn mình, cán bộ nhân viên của phòng tổ chức, chỉ cần họ mở đầu bằng câu: “Thực hiện ý kiến của tổ chức...” là xong!” Anh đã phục vụ, đã phục tùng ba ông tổ chức . Ông tổ chức hiện thời là Tăng Ấn. “Tăng Ấn ít học hơn các vị trước nhưng khôn hơn.” Can nghĩ bụng. Các văn bản đánh máy trên gửi về thường không có dấu, không đọc được, không nắm được nội dung văn bản hắn liền nghệch ngoạc ghi mấy chữ to bằng con gà mái bên lề: “Đồng chí Can nghiên cứu, đề xuất ý kiến, chiều hội ý với tôi!” Nhiệm vụ của hắn là đi sâu đi sát cơ sở, nghiêng chỗ nọ, ngó chỗ kia, nắm chắc được họ làm gì, ăn gì, nghĩ gì...24/24 giờ trong ngày.
   Luật sư Trần Chiếu và kĩ sư nông học Lê đăng Cảnh đến thăm Can. Một cuộc viếng thăm bất ngờ làm Can rất vui và không khỏi ngạc nhiên. Trần Chiếu nhìn Can một cách đầy thân thiện hỏi:
-         Chỗ bác sĩ  chắc đã được học tập quán triệt chỉ thị về “Đường lối giai cấp...” rồi chứ?
-         Rồi, rồi...Can trả lời.
-         Tất nhiên rồi! Cơ quan đầu não mà lại! Gì chứ việc quán triệt chủ trương đường lối thì phải đi đầu rồi. Cảnh nói.
-         Có ai thắc mắc, ý kiến gì khác không thưa bác sĩ, Trần Chiếu nói với giọng đầy trịnh trọng, xa cách.
Hiểu được ý tứ trong câu hỏi của Chiếu, Can cười, vẫn cái cười nhỏ nhẹ, có phần nhút nhát, nói:
-         Thắc mắc gì...đây là phổ biến ý kiến của tổ chức. Các cấp phải quán triệt thi hành. Với lại, tôi cũng chỉ là quần chúng ngoài đảng nên cũng chỉ được phổ biến tinh thần chung thôi.
-         Nghĩa là tuyệt đối tin tưởng, nhất trí 100% chứ gì? Cảnh hỏi.
-         Hẳn là thế, 100% cả thôi, đâu cũng vậy cả mà. Trần Chiếu vừa giải đáp cho Cảnh, vừa quay về phía Can nói:
-         Theo tinh thần mới, cơ cấu cán bộ của tất cả các cấp là phải đảm bảo 2/3 là  bần cố nông, 1/3 còn lại là giành cho trung nông và các nhân sĩ trí thức tiến bộ. Nếu kì này mà “cụ” còn trụ được nữa thì coi như được xếp hạng là phần tử trí thức tiến bộ rồi! Chiếu cười, nói tiếp, nghề của các vị thế mà hay. Có thế nào thì cách mạng vẫn dùng, ông Can đi tiêm chích, khám bệnh. Ông Cảnh vẫn đi bón phân, làm ruộng được, cách mạng vẫn cần. Còn tôi, cái nghề luật sư của tôi thật vô dụng!
-         Sao luật sư lại nói vậy? Xã hội nào rồi cũng phải có pháp luật, phải cai trị bằng pháp luật nó mới công minh chứ! Có pháp luật thì phải có luật sư chứ! Can nói.
Trần Chiếu nhìn Can nói:
-         “Cụ” vẫn muốn động viên tôi an tâm phục vụ kháng chiến nên nói vậy thôi. Nhìn vào thiết chế của xã hội mới, tôi thấy không có nghề thầy cãi. Cãi ai và cãi cho ai? Đồng chí A được tổ chức phân công làm chánh án, đồng chí B làm viện kiểm sát, đồng chí C lãnh đạo chính quyền...Tất cả đều gà cùng một mẹ, đều thực thi nhiệm vụ do tổ chức phân công. Ai bị đưa ra vành móng ngựa, mức án nặng nhẹ đều đã có ý kiến chỉ đạo của tổ chức! Bênh vực thân chủ của mình tức là đứng về phía kẻ thù chống lại tổ chức. Ai dám? Nghề của tôi bây giờ may lắm là có người nhờ viết đơn li dị, viết di chúc...Xử mấy tên ăn trộm trứng gà, mấy thằng bắt trộm chó chắc chẳng cần đến luật sư. Chán lắm! Trong đám mấy anh em trí thức chỉ có “cụ” là nhất!
-         Tôi cũng sắp đi rồi! Can nói.
Chiếu và Cảnh tròn mắt đồng thanh: “Đi đâu?”
-         Ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ mới do tổ chức phân công. Làm gì chưa rõ.
-         Bao giờ lên đường? Chiếu hỏi.
-         Hai ngày nữa. Can trả lời vô cảm.
-         Thế thôi, xin phép ông bọn tôi về. Hai ngày nữa sẽ đến tiễn ông. Ông uống được rượu chứ? Chiếu hỏi.
-         Thôi...thôi, xin kiếu! “Đã tu, tu trót qua thì, thì thôi.” Can bảo.
-         Ông Can dạo này nói năng có vẻ mạnh dạn đấy nhỉ! Cảnh nhìn Chiếu cười, nói, hai ngày nữa gặp lại.
Can mang ba lô lên vai, đi lại bồi hồi. Sắp đến giờ lên đường chẳng thấy Chiếu và Cảnh đâu. Có người đến thì thầm vào tai ông: “Chuồn rồi, về thành rồi!”
Chiếc ba lô trên vai Can như nặng hơn. Đầu cúi chồm về phía trước. Chiếc gậy trong tay. Ông đi. “Cầu mong cho các bạn được bình an. Đừng trách mình nhé!”Ông nói rì rầm như người đang cầu nguyện.
 
    
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
6
 
 
 
   Can không bứt được hình ảnh của Trần Chiếu và Lê Đăng Cảnh ra khỏi đầu mình. Anh nghĩ:
-         Giờ này chắc bọn hắn đang quây quần rượu chè với bọn trí thức Sài Gòn. Với cái đầu óc trào lộng và cái miệng sắc lẻm của Trần Chiếu, chắc hắn đang đem chuyện mình ra kể làm trò cười cho dân Sài Gòn đây. Hắn gọi mình là thằng cha Đông- kinh- sốt, kẻ hy sinh cả cuộc sống để đi tìm lời giải đúng cho một câu hỏi sai, xả thân hòng đem lại ý nghĩa cho những điều viễn vông, vô nghĩa...Hắn sẽ nhại cái động tác gãi ghẻ ruồi của mình ngay trong các bữa tiệc sang trọng của các khách sạn năm sao để chọc cười thiên hạ...Can hình dung ra con người mình trong vai diễn của Chiếu và bật cười.
   Mười ngày len lỏi trong rừng. Đoàn của Can gồm năm người về đến vùng núi địa đầu huyện Dương Đài vào lúc xế chiều. Mặt trời đã khuất sau núi. Bóng hoàng hôn bao phủ mông lung. Cây rừng đứng trầm mặc, lặng yên như đang mặc niệm cho những oan hồn xấu số của lũ cầy cáo, lợn rừng và muôn loài muông thú vừa bị bom na pan thiêu sống chiều nay trong rừng cỏ gianh trước mặt. Mùi khét nồng nặc đến ngạt thở. Xác một người đàn bà đi bứt cỏ gianh bị thiêu cháy đen như một hòn than khổng lồ, chiếc lưỡi liềm còn dính trong tay, nằm cạnh một hòn đá lớn. Không gian bức bối, ngột ngạt. Trên đầu nhợt nhạt mảnh trăng non. Lâm dẫn một cán bộ của huyện đến đón đoàn. Thấy Can, Lâm  reo lên “Cậu...”, anh định nói: “Cậu chủ...” như cách gọi hồi Lâm còn làm đầy tớ cho nhà cụ  Hoằng. Can bất ngờ, hoảng hốt, đưa tay lên miệng ra hiệu bảo Lâm im lặng. Đoàn được vào nghỉ tại nhà ông Hội Chủ ở sâu trong bản. Anh Hường phó văn phòng ủy ban gọi chủ nhân ngôi nhà là như vậy. Không biết Hội Chủ là họ tên của người chủ ngôi nhà hay ông là chủ tịch một hội đoàn nào. Nhìn qua cung cách, biết ông là người có vị thế trong bản này. Hường nói chuyện với ông cũng đầy vẻ cung kính. Ông Hội có ba bà vợ. Mỗi bà có một nhà riêng, ở trên ba quả đồi cách biệt nhau. Ông ở với mỗi bà một thời gian, tùy hứng không định thời gian cụ thể. Ngôi nhà bố trí cho đoàn nghỉ tạm là ngôi nhà thờ tổ. Ông Hội chỉ ở đây vào những ngày tế tự cần “sạch sẽ”. Trước nhà có một cây cổ thụ rất to, tán tỏa rộng hàng trăm mét. Vỏ cây màu  xám trắng loang lổ như vỏ cây bạch đàn. Hoa màu đỏ tua tủa, đung đưa, giống hoa lộc vừng nhưng to như những quả đèn lồng. Hoa rất lâu tàn. Cái màu đỏ ấy, vào những lúc chiều hôm giữa không gian u tịch này nghe rờn rợn, ghê ghê. Dân bản rất sợ cây này, họ gọi là “cây thiêng”. Họ truyền tụng nhau nhiều đời, họ tin như thật rằng mỗi chùm hoa như thế là một cái nôi của một con ma. Đêm đêm họ vẫn nghe thấy tiếng ru hời từ trên tán cây cao vọng xuống. Ngôi nhà thờ tổ của ông Hội ở ngay dưới gốc cây này. Cây linh thiêng và chỉ có những vị thần thánh, người có uy lực mới sống được đất này. Nghe Hường giới thiệu, Can nghĩ thầm:
-         Thế mới biết ở bất cứ trình độ phát triển nào của loài người, kẻ cầm quyền bao giờ cũng lợi dụng thần quyền để cai trị. Dân càng mê muội càng có nhiều thánh nhân.
   Trong lúc mọi người đang loay hoay thu xếp chỗ nằm, Can vờ hỏi Lâm chỗ đi vệ sinh. Can nói khẽ nhưng cố để cho người gần đó nghe: “ Chỗ đi vệ sinh ở đâu nhỉ?”
-         Ngoài kia, mênh mông chỗ nào cũng được, tha hồ làm quận công[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn13][13][/link]! Lâm chỉ tay ra ngoài nói.
-         Cậu chịu khó đưa mình ra ngoài một chút, đi bừa bải vi phạm chính sách dân tộc thì gay.
Lâm chỉ tay: “Đây được rồi cậu ạ!” Can kéo Lâm đi sát mình bảo:
-         Ra xa tý nữa, có chuyện cần nói riêng với cậu, Can bảo, từ giờ, cậu không được gọi tớ là “cậu chủ” nữa nhé!
-         Thế cháu gọi cậu bằng gì ạ? Lâm hỏi, rồi nói: “Từ bé cháu đã quen gọi “cậu chủ” bằng “cậu” rồi, giờ gọi bằng “anh” ngượng lắm!
-         Thôi được! Cứ gọi tớ bằng “cậu Can” và xưng cháu như mọi khi. Ai hỏi thì bảo: “ Cậu là con bà chị họ của tớ, không được tiết lộ gì về lai lịch gia đình của tớ, cũng đừng nói với ai quê tớ ở vùng này nhé!”
-         Cháu sẽ vâng lời cậu, sẽ không nói gì với ai nhưng theo cháu, bây giờ nói cũng chẳng ảnh hưởng gì nữa đâu. Gia đình mình tan nát hết rồi cậu ạ! Ông vừa mất cách đây bốn ngày, thảm lắm cậu ơi! Lâm khóc. Tối qua là ba ngày mở cửa mả cho ông, nửa đêm cháu lén về băng qua đồn địch, sang bên mộ thắp hương cho Ông... Lâm nghẹn ngào kể lại cho Can nghe sự phá sản điêu vong một cách quá nhanh chóng của một gia tộc từng nổi tiếng trong vùng. Lâm đã kể xong câu chuyện tự lúc nào. Can vẫn ngồi lặng im nhìn ra khoảng không tối đen trước mặt. Anh vụt đứng dậy bảo Lâm:
-         Về thôi, ngồi đây lâu không tiện! Anh đi như chạy. Lâm đuổi theo sau.
   Nằm trên sàn gỗ thô của ngôi nhà chòi, Can trăn trở suốt đêm không sao ngủ được. Thuở lên chín, lên mười, anh đã từng theo ông nội lên vùng này, mang muối, mang vải...lên đây đổi lấy trầm hương, măng, nấm mang về dưới xuôi...Cuộc sống xưa bần hàn của thời ông nội anh còn nhớ như in... Nghèo đói, xác xơ. Ông nội anh là Lê Thúc Vạn, một nông dân chân đất vùng châu thổ sông Hồng, theo đoàn người từ Bắc vào Nam khai hoang mở cõi theo sự khuyến khích của triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ. Rời quê hương với hai bàn tay trắng. Tài sản mang theo chỉ là một cây dao rựa và một sức khỏe phi thường, một ý chí đổi đời. Theo con đường thiên lí Bắc- Nam mà đi. Tối đâu, ngủ đấy. Tờ mờ sáng vào rừng đốn củi đem xuống các chợ ven đường đổi lấy cái ăn, làm thuê, làm mướn độ thân qua ngày. Đến vùng đất thuộc phủ Dương Đài bây giờ, trời nhá nhem tối. Trên đường không một bóng người lại qua. Lau sậy ngập đầu. Những đàn chim sáo! Sáo bay đen trời, gọi đàn ríu rít. Rồi Quạ, Ác là, Chào mào..Cái xứ này sao nhiều chim đến vậy? Cò trắng nữa! Chúng đậu trắng xóa cả ngọn tre... “Phải có các đồng cỏ, ao chuôm đầm lầy mới có đủ thức ăn cho chúng...Đất lành chim đậu...” Vạn nghĩ. Dưới ánh sao đêm lấp loáng, anh nhìn thấy một lối mòn nhỏ bên trái vệ đường rẽ về hướng đông. Theo lối mòn ấy, anh đi. Gặp một con sông nhỏ chảy giữa một vùng sình lầy, lau sậy um tùm. Mấy cây tre bắc qua, chẳng có tay vịn. Anh ngồi xuống đám cỏ dưới chân cầu, duỗi thẳng hai chân, gối đầu lên một mô đất cạnh gốc mua, ngủ thiếp đi lúc nào không rõ. Anh mơ thấy mình bị rơi xuống một hố phân. Ngột ngạt. Anh tỉnh giấc, đưa tay sờ khắp người, không thấy gì. Mồ hôi túa ra. Định thần lại, anh lội xuống sông tắm gội. Lên bờ, anh ra ngồi vắt vẻo giữa cầu, quay mặt về hướng bắc, nơi quê nhà xa thẳm, đợi mặt trời lên. Giấc mơ đêm qua ám ảnh anh. Người ta bảo, mơ thấy phân là giấc mơ lành, báo hiệu một tương lai tốt đẹp, có nhiều may mắn. Mặt trời lên rạng rỡ. Chỗ anh ngồi cách biển không xa. Anh đoán, cuối con đường này sẽ có một làng chài. Con đường mòn nơi anh đang ngồi chính là con đường giao lưu trao đổi hàng hóa của những người dân chài và các tộc người Thượng ở trên núi cao.
 Thấm thoắt đã gần một tháng trời Vạn rời bỏ quê hương ra đi. Nếu ở quê nhà có được hai sào ruộng, che được một túp lều để ở, để lấy vợ, sinh con chắc anh đã không lìa bỏ quê hương lang thang vô định thế này. Miền đất hứa Nam Kì với những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay chắc còn xa lắm! Chắc gì mình đủ sức đi đến đó. Và, có đến nơi chăng nữa liệu có thể có một đời sống tốt lành như người ta bảo hay không? Vạn suy nghĩ miên man. Đất cũng có số phận. Đất tìm con người để gửi gắm số phận của mình như cô gái tìm chồng, tìm người xứng đáng để trao thân gửi phận. Một đêm ngủ lại, nằm trải mình trên mảnh đất này, nghe con cá móng nước giữa dòng sông, nghe tiếng chim kêu râm ran trên các ngọn cây buổi sáng...Êm ả, thanh bình. Cái tình đất của xứ này như đã nhập vào hồn anh, níu giữ anh.  Vạn quyết định ở lại lập nghiệp nơi này.
 Hai mươi năm sau, chẳng ai còn biết, còn nhớ rằng, chính cái vùng đất nghèo nàn hoang vắng  bị bỏ quên này, nơi mà Lê Thúc Vạn là  người đầu tiên đến định cư đã trở thành một nơi sầm uất, tách khỏi làng Sỏi và được mang một cái tên mới rất nên thơ: “Thị trấn Trúc thôn”, cái tên được đích thân nhà Vua ban cho. Con đường thiên lí Bắc Nam được mở rộng. Phía Tây con đường là một vùng rừng núi yên bình, vương quốc của các loài muông thú. Các vua nhà Nguyễn ham săn bắn thường đến đây săn bắn nghỉ ngơi. Một lần vua hỏi các quần thần đi theo: “ Ở đây có lối nào thông ra biển không?” Thế là con đường nhỏ um tùm cỏ dại, nơi gần hai mươi năm trước Vạn phải dùng cây dao rựa rẽ lối để đi, được mở rộng nối thông ra biển. Chiếc cầu tre ngày nào Vạn ngồi vắt vẻo bắc qua con sông lấp không tên được thay thế bằng một chiếc cầu gỗ đồ sộ, có lan can. Nghe nói lần đầu tiên Vua đi từ rừng xuống biển qua cầu này, hai bên lan can của cầu chất đầy hoa. Từ đấy cầu được mang tên là Huê Cầu. Con sông được nạo vét ra đến cửa biển nơi thuyền vua ngự được đặt tên là Ngự Giang.  Nơi cửa sông gọi  là Bến Đông Tĩnh (Chốn yên tĩnh trên bờ biển Đông), triều đình định xây cất nơi đây thành một nhà nghỉ làm nơi ngự giá cho ngài lúc đi săn. Nhà Vua lắc đầu: “Nơi này không hợp với Trẫm.” Từ biển lên núi, qua khỏi cầu mấy bộ, bên phải là ngôi nhà của Vạn. Ngôi nhà được xây trên nền của túp lều tranh ngày đầu tiên Vạn đến lập nghiệp nơi này. Bây giờ là một ngôi nhà rường đồ sộ, tường được xây bằng gạch đá ong tấm lớn, cột tròn bằng gỗ mít đỏ au. Bốn xung quanh tường và trần được ốp gỗ bóng như gương. Ngôi nhà chìm giữa một rừng cây xanh ngút ngàn. Toàn cây ăn quả và hồ tiêu. Mùa tiêu chín chim chào mào về ăn quả líu lo. Một lần vua ghé vào thăm nhà Vạn, khuôn mặt ngài rạng lên niềm thích thú. Trưa hè tĩnh lặng. Gió nồm từ biển thổi lên hiu hiu êm ái. Tiếng chim gù từ những ngọn cây, tiếng gà gáy từ vườn xa vọng lại... Ngài ngồi yên như trạng thái thiền...Chỉ trừ viên hoạn quan đứng hầu bên cạnh, tất cả quần thần và chủ nhân ra ngoài, đứng quanh nhà tay chắp trước bụng, đầu cúi xuống đất hầu ngài. Tỉnh giấc, nhà vua đứng dậy vươn vai khoan khoái, nói với Thúc Vạn: “Ước gì ta được như ngươi! Ta vừa được gặp Tiên đấy!” Vạn sụp lạy: “Cảm ơn ân điển của bệ hạ. Phúc nhà của thảo dân to hơn núi mới được bệ hạ hạ cố đến nơi tệ xá này.” Vạn biết vua thích, ông định dâng ngôi nhà của mình cho Hoàng thượng nhưng lại sợ phạm tội khi quân[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn14][14][/link], vì một thiên tử mình vàng lẽ nào lại lấy nhà của một tên nông phu bẩn thỉu làm nơi ngự lãm cho mình. Vua hỏi Vạn:
-         Một người có sức lực và tài năng như ngươi, nếu vào Nam kì khai khẩn đất đai chắc chắn bây giờ ngươi đã là một điền chủ có hàng ngàn mẫu ruộng thẳng cánh cò bay, tại sao ngươi  lại lập nghiệp ở một nơi khỉ ho cò gáy thế này?
-         Muôn tâu bệ hạ, từ thuở còn thơ, thảo dân đã từng nghe kể nhiều về những loài chim bay cao chín tầng trời, bay xa ngàn dặm như Hồng Hộc, Phượng Hoàng... nhưng cho đến giờ thảo dân chưa hề thấy nó màu đỏ hay màu vàng, chưa từng được nghe tiếng hót của nó trong như suối, nhẹ như mây hay rung trời chuyển đất. Và, dù nó là gì đi nữa thì vẫn chẳng có ích gì cho những người dân khốn khổ cả. Cái ngày thảo dân bỏ nhà ra đi, lần đến đất này, vừa đói, vừa khát, thảo dân ngồi tựa dưới gốc cây ven đường. Bỗng, một luồng gió mát từ biển thổi lên rồi trên trời tiếng chim Sơn ca réo rắt. Ngước nhìn trời. Trời cao xanh ngắt. Trong các lùm cây ven đường tiếng chim Chào mào tưng bừng như mở hội. Thảo dân quên hết mệt nhọc. Người nhẹ lâng lâng như đang đi vào một thế giới huyền vi.
-         Ngươi là kẻ an phận thủ thường, vua bảo, tiếc thay!
-         Những người biết dưỡng đức, rèn tài, biết tu thân, học đạo để làm nên nghiệp lớn thật đáng tôn kính biết bao. Nhưng khốn thay không ít kẻ ở đời này tài hèn, đức mỏng nhưng không tự biết mình. Họ “nuôi chí lớn” bằng cách len lỏi vào chốn quan trường, rồi kéo bè kết cánh để trở thành công hầu khanh tướng, thật là họa cho dân, cho nước! Kẻ tiện dân ngu dốt này chỉ biết sống nhờ vào đôi bàn tay gân guốc và đầu óc thô thiển của chính mình mà thôi. Nhờ ân đức của thánh thượng, nhờ hồng phúc của ông cha, may sao gặp được chỗ đất lành mới có được bát cơm ăn, manh áo mặc như hôm nay.  
Vua bỏ cuộc săn, trở về kinh đô, ngài nói với các cận thần: “Ta thật không bằng Thúc Vạn. Nếu ta biết cách cai trị, giáo hóa cho mỗi người dân làm như Thúc Vạn, nghĩ như Thúc vạn thì dân ta no đủ từ lâu rồi, nước ta cường thịnh từ lâu rồi...” Nhà vua cho quy hoạch lại vùng rừng núi phía Tây nằm trên con đường thiên lí Bắc- Nam thành vườn Lâm uyển, nuôi nhiều thú quý làm nơi săn bắn, an dưỡng của nhà vua. Thúc Vạn cho người vào kinh thành tìm họa sư, tìm thầy địa lí và thuê các thợ giỏi đem về Trúc thôn. Ông quyết xây tặng nhà vua một nơi nghỉ lí tưởng, “một biệt điện” như lời ông nói với các thợ thầy đảm trách việc xây dựng. Ngôi biệt điện được xây dựng trong một khu rừng nhỏ, rộng chừng vài héc ta nằm trên bờ sông Ngự Giang cách con đường cái quan chừng hơn nửa dặm. Khu rừng không lớn nhưng đó là một khu rừng già, cả ngàn năm tuổi, phía trước mặt là sông Ngự Giang, phía sau là một đồng cỏ và những cánh ruộng hẹp, cách biệt với khu dân cư. Hàng trăm người lên núi, vào rừng tìm gỗ quý, đá quý chở về. Các tốp thợ làm suốt ngày đêm...
 Năm sau trở lại Trúc thôn, trước mặt vua, một quang cảnh mới lạ đến ngỡ ngàng. Thuyền rồng của vua cập vào một bến đậu uy nghi dưới tán của một cây si phủ bóng xuống dòng sông rộng đến mấy trăm mét. Trên bến, một vòng cung rộng bao quanh gốc cây si lát bằng đá xanh, đặt sẵn ghế ngồi nghỉ chân. Những rễ cột cắm sâu vào lòng đất khẳng định sự trường tồn của cây. Mấy chục lồng chim đủ các loại: Họa mi, Hoàng yến, Chào mào, Chích chòe...treo vào các rễ phụ màu nâu nhạt ở độ cao thấp khác nhau buông lơi trước gió, hót líu lo. Con đường từ Bến Ngự vào nhà được lát bằng đá quý. Trên hai bức tường hoa chạm trổ công phu là hai con rồng, vươn thẳng, đầu ngẩng cao như đang bay. Ngoài tường, phía bờ sông là những hàng liễu rủ thướt tha. Đi qua một chiếc cầu gỗ lan can màu đỏ ối là tiền sảnh ngôi nhà nghỉ của Vua. Ngôi nhà toàn bằng gỗ. Tường ghép bằng hai lớp ván dầy. Phòng khách là một không gian bao la, không phân chia thành những phòng nhỏ, không bày biện cầu kì. Giữa phòng hơi lùi về phía tường sau đặt một chiếc ghế bành làm bằng gốc tự nhiên của một cây trắc cổ thụ. Hai tay ngai có hình giống hệt hai đầu rồng. Bốn viên ngọc đỏ mài dũa cầu kì đặt vào bốn hốc mắt của hai đầu rồng. Mặt ghế được khoét lõm, chiếc đệm bằng da nai nhồi bông chế tác khéo đến nỗi đặt chìm xuống mặt ghế, nhìn xa cứ tưởng như chính là thớ gỗ của cây. Bốn bức tường, cả trong và ngoài đều chạm khắc công phu. Mặt trong nào Tùng, Cúc, Trúc, Mai, nào Xuân, Hạ Thu, Đông, nào Bát tiên quá hải...Từng quảng cách nhau, nơi giá để sách vở, nơi để bút nghiên, lọ hoa chậu cảnh... Trên tường chỗ này treo đàn cầm, đàn nguyệt, chỗ kia súng, nỏ, cung, tên...Án ngữ trước cửa ra vào là một bộ ngà voi đồ sộ. Quanh nhà là những sảnh lớn nhìn ra vườn, tường ngoài được chạm trổ các hình kì dị phỏng theo tích Đường Tăng sang Tây Trúc lấy kinh. Tầng trên là nơi nghỉ ngơi của nhà vua. Trước nhà, phía bờ sông là một hồ sen hình bán nguyệt, đang mùa nở hoa, hương thơm ngan ngát. Hai chiếc thuyền hái sen còn thơm mùi gỗ, đậu sẵn ở bậc lên xuống. Ngoài kia, một chiếc thuyền câu đang dập dờn theo từng làn gió thoảng. Sau nhà là một vườn bách thảo rộng mênh mông với đủ mọi loại kì hoa, dị thảo: Hải đường, Trà mi, Nguyệt quế...Hoa mộc trắng một màu tinh khiết, mùi hương thanh cao. Xa hơn, tận góc vườn là những cây hoàng lan, lan tây vừa hồi sức đang chúm chím ra hoa. Các khóm phong lan từ trên các cành cao rũ xuống với đủ sắc màu. Cuối vườn là một dẫy giả sơn bao quanh mặt sau. Chỗ này ngọn núi cao, chỗ kia lưng đèo thấp, suối chảy quanh co, có những thung sâu đầy cỏ lạ. Trên các sườn núi là các loài hoa có thân leo, bò lan từ ngọn núi này sang ngọn núi khác, buông mình xuống các lối đi êm đềm. Hoa rơi xuống mặt người, quyến rũ. Ong bướm dập dờn. Phía ngoài bức trường thành bảo vệ được làm theo lối giả sơn này là quang cảnh của các làng quê được tái hiện. Từ vườn bách thảo, đi qua một cửa tò vò được xây theo kiểu một hang đá tự nhiên, qua dẫy giả sơn ra ngoài là một cánh đồng bát ngát. Một con đường nhỏ cho vua đi dạo. Bên trái là hồ nước trong xanh, đàn vịt trắng như bông bơi lội thảnh thơi. Thoạt nhìn tưởng như những đám mây trắng từ trên trời rơi xuống mặt hồ. Trên bờ, những thửa ruộng vuông vắn. Giờ đang độ cuối xuân, lúa đang thì con gái. Sức sống căng tràn. Phía bên phải là một làng quê ẩn hiện sau lũy tre xanh. Mấy ngôi nhà tranh thưa thớt, tường quét màu vàng đất sét. Lối mòn quanh co tím biếc màu lá hoa dâm bụt dẫn vào các sân nhà có những hàng cau đứng lặng. Góc sân giếng nước trong veo... Êm đềm như tuổi thơ, cảnh vật đầy mộng ảo. Cuối đường bên phải là một am thờ Phật. Đến đây vua dừng lại ghé vào đốt một nén nhang. Từ lúc lên thuyền đến giờ ngài chưa nói một câu nào. Khuôn mặt ngài lúc hân hoan, lúc thành kính như đang đi vào nơi cõi Tiên, đất Phật. Một sự ngạc nhiên, thán phục và thích thú hiện rõ trên mặt ngài. Vua ban cho Thúc Vạn làm quan, hàm ngũ phẩm quản lí khu vườn Lâm uyển bao gồm cả khu “Biệt điện”, thưởng cho một ngàn lạng vàng. Vua bảo:
-         Ta chắc chắn ngươi không phải là con nhà bần dân, hạ tiện! Hãy nói rõ cho ta biết thân phận của ngươi.
-         Muôn tâu bệ hạ! Thần là con nhà hèn kém. Cha thần là một nhà nho không thành đạt. Ông sống trong đói nghèo cho đến chết. Khi qua đời ông chỉ để lại cho chúng con một túp lều xiêu vẹo và một chiếc chõng tre. Chúng con có ba anh em trai, cả ba đều được sinh ra trên chiếc chõng ấy, nằm ngủ trên chiếc chõng ấy cho đến lúc đứa em út của thần lên mười tám tuổi. Ba anh em chỉ nằm nghiêng không đủ chỗ cho nằm ngửa. Thần và người em thứ của thần phải rời bỏ quê hương ra đi phiêu bạt kiếm sống. Đứa em út ở lại quê nhà lo hương khói cho tổ tiên và may ra còn có một chỗ nằm để lấy vợ. Vạn tâu.
-         Cha ngươi là nhà nho, chắc ngươi được học hành tử tế? Vua hỏi.
-         Muôn tâu thánh thượng, thần được cha dạy cho đôi điều về lễ nghĩa của thánh hiền. Điều mà cha thần quan tâm là dạy cho các con đạo lí làm người...
-         Tốt lắm, vua bảo.
 Từ khi con đường nối ra biển được thông thương, thị tứ Trúc thôn trở thành một thị trấn sầm uất trên bến dưới thuyền, là thủ phủ của huyện Dương Đài. Trước khi đi nhậm chức mới vua ban, Vạn cho xây một ngôi đình làng to và một trường học gồm sáu gian cung tiến cho làng. Ông muốn ghi lại dấu ấn của mình trên vùng đất đang được mở mang này. Ông giao lại cơ nghiệp cho con trai là Lê Thúc Hoằng và nói với con: “ Gần hết một đời cha, lặn lội từ biển lên rừng, buôn muối, bán măng, ngụp lặn dưới bùn sâu để khai phá các vùng sình lầy trồng lúa. Hai bàn tay chai sạn như da trâu, đào đá, san đất để tạo lập các vườn cây...Cho đến bây giờ, nhà có của để, của ăn, cha vẫn mặc quần thô áo vải, đi chân đất, vẫn giữ lệ hai ngày mới có một bữa ăn có bát cơm còn thì sắn, khoai, ngô độn...Cha muốn để lại một cơ đồ cho con cháu sau này. Nhưng, ở cái đất này, chỉ được giàu có đến như cỡ nhà ta là hết, dù có cố gắng thì của cải cũng không thể nhiều hơn được. Con cố gắng làm ăn cốt sao đủ cho các con của con ăn học bằng người. Trí tuệ là nguồn tài nguyên lớn nhất chưa được khai thác, chỉ có đầu tư cho việc học thì mới giữ cho gia tộc hưng thịnh lâu dài...”
  Trở mình trên sàn gỗ nhà sàn lúc trời sắp sáng, Can nhớ lại những ngày còn bé, mỗi khi ngồi vào bàn học, bố anh nhắc lại những lời trên của ông nội cho anh và Hoạt nghe. “ Gắng công học tập để giữ cho gia tộc hưng thịnh lâu dài..” Lời ông nội văng vẳng bên tai. Can vùng dậy đi xuống sân. “Tan nát hết rồi cậu ạ, chẳng còn gì nữa đâu, chẳng còn gì để lo sợ, ông chết thảm lắm cậu ơi...” Lời của Lâm nói tối qua trong nước mắt... Ước mơ của ông nội, của cha “Giữ cho gia tộc được hưng thịnh lâu dài” chỉ thoáng qua như một giấc mơ vậy sao? Nếu gia đình ta vẫn giàu có như xưa, ta sẽ thế nào nhỉ? Những bản kiểm điểm rất thành khẩn của mình trong các đợt học tập chính trị mong muốn tẩy não, muốn trở thành một cố nông, một người công nhân, muốn lột xác, cố gắng che dấu cái tung tích trí thức Tây học của mình, che dấu cái gốc tích giàu sang để được cách mạng tin cậy...là thật hay là giả dối ? Tự ngàn xưa, trong cuộc đời thực cũng như trong truyền thuyết, trong các chuyện cổ tích dân gian không thấy ai ước mơ trở thành kẻ nghèo đói cả! Một cô Tấm đói nghèo cũng ước mơ trở thành Hoàng hậu. Một chàng Chữ Đồng Tử không có quần để mặc cũng mong trong một đêm mình trở thành người có gác tía lầu son. Mấy anh chàng láu cá,  vô học, tếu táo  cũng trở thành Trạng Quỳnh, Trạng Lợn..  được làm quan! Những người ấy nếu có thật và sống lại thời nay, họ có trăn trở và lột xác như mình không nhỉ? - Không! Cô Tấm và chàng Chữ đồng Tử chỉ cần bỏ đi cái giấc mơ hão huyền của mình, là thành những con người đứng trên tuyến đầu của thời đại. Giấc mơ của các “quan Trạng” sẽ thành hiện thực. Họ sẽ cười ha hả bước vào đời tung tác...Chỉ có ta, chỉ có lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn15][15][/link] là vẫn nặng nề với cái đầu óc tiểu tư sản khó gột sạch này thôi.”
 Đeo ba lô lên vai, rút lại quai dép cao su, ngắm nghía chiếc gậy trong tay, Can lại lên đường, bước tiếp trên con đường mà mình đã chọn.
 
Đoàn của Sáu Hoàng lên đường sau đoàn của Thúc Can một tuần. Đoàn gồm những cán bộ cấp cao hơn của nhiều tỉnh ghép lại. Sau năm ngày, bốn đêm lặn lội trong rừng, đến địa đầu của tỉnh T thì đã quá nửa đêm. Đây là một vùng nguy hiểm. Địch gần như làm chủ từ biển lên đến rừng. Các lực lượng kháng chiến phải lùi vào tận rừng sâu, thậm chí phải qua bên kia biên giới. Đoàn quyết định tiếp tục đi, khẩn trương vượt qua vùng eo nguy hiểm này. Khoảng ba giờ sáng, đoàn đặt chân đến khe Meo đang dừng lại để rửa ráy, lau người cho tỉnh táo rồi tiếp tục cuộc hành trình thì bị phục kích. Vừa mệt mỏi, vừa bất ngờ. Mạnh ai nấy chạy, tản vào rừng, leo lên núi, không biết ai còn, ai mất. Sáu Hoàng bị một phát đạn xuyên qua bắp đùi. Trên người chỉ còn một chiếc quần đùi và chiếc áo cổ vuông[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn16][16][/link]. Anh ngã xuống triền núi phía bên kia, lăn đến lưng chừng thì chui vào một bụi rậm. Anh xé hai tay áo cổ vuông tự băng bó cho mình. Cũng may, vết thương chỉ xuyên qua phần mềm. Tiếng tiểu liên vẫn nổ râm ran bên sườn núi phía đông. Trời sáng, chắc mặt trời đang lên. Không có tiếng chim kêu. Hoàng đoán chắc giờ này bọn địch đang nằm yên để nghe động tĩnh và chờ trời sáng để thu dọn chiến trường, thu nhặt chiến lợi phẩm, đem xác chết và những cán bộ chúng bắt được về báo công, lĩnh thưởng. Anh đoán bọn chúng sẽ không tiến sâu hơn nữa làm gì. Chúng sẽ được thăng chức, được thưởng tiền to, chẳng thằng nào muốn chết lúc này. Hoàng nghĩ, chí ít có ba đồng chí của mình bị chết, đó là ba người ngồi cạnh anh. Anh nhìn thấy họ ngã gục xuống khi đang ngồi kì lưng cho nhau trên tảng đá cạnh anh. Không biết số người bị bắt là bao nhiêu...Dù tin rằng bọn chúng không dám tiến sâu hơn nữa nhưng với tinh thần cảnh giác, sợ lúc trời sáng, có thêm viện binh chúng sẽ lần theo vết máu tìm được nơi anh ẩn nấp. Anh vượt qua một khe suối nhỏ, lần bò vào một hang đá sâu cách chỗ anh đang nằm chừng trăm mét. Anh nằm đó ngửa người nhìn trần hang. Vô số nhủ đá nhọn hoắt như hàm răng của một con vật ăn thịt khổng lồ: Con hổ? Cá sấu? Con Trăn tinh trong câu chuyện Thạch sanh?.. Chúng chập chờn, ẩn hiện trước mặt anh. Gió rít từng hồi trong các lèn đá nghe rờn rợn...Lim dim mắt, anh không nghĩ gì cả, đầu óc hư vô. Không nhớ quá khứ, không biết hiện tại, không nghĩ tương lai...Một ngày, một đêm trong trạng thái không sống, không chết, không ngủ, không thức như thế. Một con gì đốt vào lưng. Đau, làm anh tỉnh giấc. Khí núi ban mai lạnh. Anh quờ tay tìm ba lô lấy chăn đắp. Không thấy đâu, anh giật mình ngồi bật dậy. “Các đồng chí đâu cả rồi? Họ đi mà không gọi mình? Lại mang cả ba lô của mình đi...!” Hoàng toan đứng dậy đi ra ngoài hang...Chân đau nhói. Anh sực nhớ lại trận phục kích tối kia. “Chao ôi! Các đồng chí mình thế nào nhỉ? Ai còn, ai mất? Những người còn lại ở đâu bây giờ?” Anh nhẹ nhàng ngồi xuống, tựa lưng vào một hòn đá, duỗi thẳng chân, mắt nhìn thẳng ra cửa hang. Ngoài kia rừng đại ngàn, im ắng. Có tiếng quạ kêu. “Chắc chúng ngửi thấy mùi máu, mùi xác chết ngoài khe Meo, nơi có trận phục kích tối qua...” Hoàng nghĩ. Anh biết bọn địch không mấy khi phục kích hai lần trên một địa điểm trong một khoảng thời gian ngắn. Chiều xuống, anh quyết định chống gậy đi xuống chỗ bị phục kích để tìm dấu vết của đồng đội. Anh đi theo hướng có tiếng quạ kêu. Một vũng máu chưa khô trên phiến đá giữa dòng. Trên bờ, một chiếc chân bị cắt đứt còn vứt lại, một nửa ống quần dính đầy máu. Chiếc dép cao su còn nguyên dưới chân. Cả bàn chân ngâm dưới nước. Chắc anh này còn sống, bị gãy xương đùi và bị bắt, bọn địch đã cắt chiếc chân bị thương vứt lại để dễ bề đưa anh đi. Ngoài chiếc chân và vũng máu, quanh vùng không còn lại một dấu vết gì kể cả những áo quần anh em cởi ra để trên bờ khi tắm. Anh rẽ sang phía phải, đi xuống một sườn núi dốc hơn, chằng chịt những dây leo rậm rạp. Hy vọng sẽ tìm được thêm dấu vết của đồng đội. Biết đâu có xác của đồng chí mình đang bị quạ rỉa hay một đồng chí bị thương, còn sống đang ẩn nấp ở đấy. Một chiếc ba lô to lăn xuống, nép vào một hòn đá. Trông xa cứ tưởng hai hòn đá tựa vào nhau như dáng của một “Hòn Phụ tử”. Nhìn qua anh biết đấy là chiếc ba lô do hai anh cần vụ khiêng theo phục vụ đoàn. Mở ra, hai bộ quần áo còn mới, một chiếc võng, còn lại là lương khô, thuốc men, bông băng, mười hộp sữa đặc hiệu “Con chim”, có cả cuộn chỉ và kim khâu...
 Hoàng mang chiếc ba lô về hang. Anh nằm xuống, gối đầu lên chiếc ba lô, tự nhiên nước mắt chảy tràn. Khóc mà không biết vì sao. Phải chăng anh nghĩ đến cái chết mất tăm, mất tích giữa chốn rừng già không chút vinh quang? Phải chăng anh luyến tiếc cuộc đời với những kỉ niệm của cả một thời ấu thơ ngọt ngào không bao giờ trở lại? Hay anh đau buồn về những người đồng chí đã mất? Vợi dần nỗi đau, bổng trong dòng kí ức bất ngờ hiện về cả một thế giới trong sáng, mới mẻ chan chứa yêu thương của một thời trai trẻ. Hình ảnh của Tôn Nữ Đỗ Quyên với cái cổ cao, trắng ngần, hai cánh tay mảnh dẻ, bộ ngực như đôi quả đào non mới nhú sau làn lụa mỏng của chiếc áo màu hoàng yến. Một cô gái nhỏ nhắn, xinh tươi, đôi mắt đen sâu, rạng ngời nét trinh bạch. Một tiểu thư khuê các, sinh viên năm thứ hai đại học văn khoa...Chẳng biết vì sao cô ấy yêu mình, bỏ cả cơ đồ sự nghiệp, để lại đàng sau cả mẹ cha và đàn em để theo mình đi hoạt động cách mạng, rồi theo mình lên chiến khu sống cảnh cơm muối, rau rừng...Hai đứa con trai mắt tròn, trong veo như tượng Chúa Hài đồng. Chẳng biết cô ấy đã lấy gì ở giữa rừng để nuôi hai đứa con khỏe mạnh lớn khôn như vậy. Anh nhớ đến những dòng thư vợ anh để lại khi bí mật đưa con về Thành : “... Anh có thể coi em là đứa phản bội, là kẻ đớn hèn...là gì đi nữa, em đều chấp nhận cả. Em có còn là vợ anh nữa hay không là hoàn toàn tùy thuộc ở anh. Còn đối với em, anh bao giờ cũng là một thần tượng sáng ngời, một con người có trí tuệ, say mê lí tưởng. Một người đàn ông dũng cảm và đầy nghị lực. Một tâm hồn phong phú. Một con người hết lòng thương vợ, yêu con. Phải xa anh, lìa bỏ anh là một nỗi đau đứt ruột. Nhưng đối với em, một người đàn bà, đứa con là tất cả. “Ngày mai chúng sẽ ra sao?” là câu hỏi thường trực trong đầu em bấy nay. Không có lời giải đáp. Nhưng, nhất định em không giáo dục con trở thành con người công cụ. Tư chất và trí tuệ là thứ trời cho, là của riêng của mỗi người, không được biến nó thành hòn bột để nặn thành những con tò he bán ở góc chợ. Chúng nó phải được tiếp nhận một nền giáo dục tiên tiến  để trở thành những con Người có đầu óc phản biện và tinh thần phê phán. Trong một đoàn hành quân, nếu người lính đi sau đặt đúng gót giày lên dấu chân người đi trước thì đó là một đội hình đẹp, một đội quân có sức mạnh, nhưng trong cuộc sống nếu ta rèn cho lớp người sau chỉ được bước theo dấu chân của người đi trước thì xã hội ấy sẽ không phát triển được và sớm muộn sẽ tiêu vong hoặc bị lệ thuộc vào ngoại bang. Xã hội phát triển không ngừng theo hướng tiến bộ, đi lên phía trước. Trong chính trị sự biến động ấy càng càng quyết liệt mạnh mẽ hơn, không có cái gì là “muôn năm”, là “đời đời bền vững cả.” Nếu có thì đó chính là cái đáng sợ nhất. Nhớ ngày anh và em còn là sinh viên, còn hoạt động bí mật trong phong trào sinh viên, cả anh và em vô tình cùng nói lên câu mà mình thích trong bài diễn văn từ biệt của Tổng thống Washinton khi ông hết nhiệm kì (ghi trong lịch sử nước Mỹ): “ Nước Mỹ nên tránh xa những liên minh lâu dài, cố định với bất kì thế lực nào ở thế giới bên ngoài...” Lời khuyên ấy đã ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của nhiều vị Tổng thống kế nhiệm và trong cách hành xử của nhiều thế hệ người Mỹ cho đến bây giờ. Tinh thần ấy cùng với tự do cá nhân được đề cao, được bảo vệ bằng pháp luật và sự sáng tạo được khuyến khích đã làm cho nước Mỹ, một quốc gia trẻ nhất lại phát triển nhanh nhất, trở thành một quốc gia đứng đầu thế giới về nhiều mặt...Xin hứa với anh và mong anh nhớ cho rằng: Em về thành, có thể là em sẽ không còn tiếp bước trên con đường mà mình đã đi nhưng không có nghĩa là em phản bội lại lí tưởng chiến đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, từ bỏ hàng ngũ của những chiến sĩ đấu tranh cho một nước Việt nam tự do, dân chủ, và phú cường...” Thư của Quyên còn viết khá dài. Điều mà chị băn khoăn lo lắng nhất là việc chị bỏ kháng chiến về thành sẽ ảnh hưởng xấu đến sự tiến bộ của Hoàng. Chị biết mình đã bôi thêm một vệt đen trong cái lí lịch vốn đã không được coi là đỏ hồng của Hoàng. Ông nội Hoàng là một quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn. Ông thuộc phái “chủ chiến[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn17][17][/link]”không được vua chấp nhận, ông cáo quan về ở ẩn. Bố Hoàng là một công chức bậc trung làm việc cho chính quyền bảo hộ. Hoàng nhớ hồi còn đi học, mỗi lần nghỉ hè về quê, ông nội nằm đung đưa trên võng mắt lim dim chỉ hỏi Hoàng: “Sài gòn có nhiều Tây không hở cháu?” Lát sau, ông nội lại lặp lại câu hỏi đó. Trong ngày, cả chục lần ông chỉ hỏi Hoàng câu hỏi đó. Điều ông quan tâm là bọn Tây dương đã cút khỏi đất nước thân yêu của ông hay chưa. Đọc thư Quyên để lại, Hoàng càng yêu  và quý trọng vợ hơn. Hoàng thấy Quyên có một cách nhìn thời cuộc sâu sắc và một nhãn quan chính trị rộng lớn hơn anh nghĩ. Chính anh đã nhiều lần định tâm sự với vợ về việc nên đưa con về thành, nuôi dạy chúng ăn học thành người để xây dựng đất nước sau này nhưng anh thấy Quyên vẫn hăng hái say sưa với công tác kháng chiến, chị còn động viên anh khắc phục vượt qua khó khăn để hoàn thành các nhiệm vụ nặng nề mà cách mạng giao cho nên anh chưa nói. Giờ, vợ con anh đã về thành, anh có điều kiện để toàn tâm, toàn ý cho công việc nhiều hơn...Nào ngờ...Mà cũng thật may sao! Nếu bây giờ vợ con anh còn ở vùng kháng chiến thì anh còn lo lắng và khổ đau đến dường nào!  Hoàng quyết định tìm mọi cách liên hệ với tổ chức. Anh mang ba lô, chống gậy đi  theo hướng làn khói chiều man mác phía sườn núi xa, cách nơi anh nằm chừng hai quả đồi. Một bản nhỏ khoảng mươi nhà thưa thớt. Không thấy bóng người, chỉ có mấy con bò thung thăng gặm cỏ và cả tiếng gà gáy nữa. Dừng lại nghỉ chân dưới một gốc cây cổ thụ, dự kiến những tình huống xảy ra khi anh đột nhập vào nhà dân một cách bất ngờ thế này. Người dân bản đầu tiên nhìn thấy anh là một cô gái trạc chừng mười bảy mười tám tuổi. Hình như cô vừa cưới chồng. Thấy người lạ, cô chạy vội vào nhà, lát sau cô theo sau một người đàn ông, chắc là chồng cô ra gặp anh. Người thanh niên vẫn ở trần, quanh rốn một vùng bụng như bị kì cọ, mài xát nhiều trắng ra ờn ợt giống người bị lang ben. Hai vợ chồng người Mường thì thầm nói với nhau điều gì không rõ. Họ mời anh vào nhà. Hoàng nhờ họ chỉ giúp đường đến nơi có bộ đội hoặc cơ quan Việt Minh đóng. Cả hai vợ chồng đều đồng thanh, khoa tay chối đây đẩy: “Không biết, không biết! Ở đây không có Việt Minh, không có bộ đội đâu ta!” Nhìn ánh mắt chồng, người vợ đi vào bếp rồi theo cổng sau ra vườn đi đâu không rõ. Anh chồng niềm nở tiếp khách và ngỏ lời mời Hoàng ở lại ăn cơm với vợ chồng họ. Nồi cơm trên bếp chưa cạn, cô gái dẫn hai anh bộ đội có vũ khí và một dân quân người địa phương đến gặp Hoàng. Họ lịch sự mời Hoàng về trụ sở làm việc. Hoàng không có bất cứ một giấy tờ nào trên người chứng tỏ mình là cán bộ kháng chiến. Nhìn nét mặt thư sinh và bộ quân phục mới toanh Hoàng mặc trên người họ càng nghi anh là gián điệp đột nhập vào vùng kháng chiến. Hoàng kể cho họ nghe về đoàn của anh bị phục kích ở khe Meo và kéo quần lên cho hai anh bộ đội xem vết thương trên đùi còn chưa ráo miệng. Dân cả vùng này đều đã được cán bộ Việt Minh phổ biến cho biết trận phục kích ở Khe Meo và yêu cầu dân phải tuyệt đối chấp hành kỉ luật “Phòng gian bảo mật” của chính quyền nêu ra. Hai anh bộ độ bối rối, không biết xử trí với Hoàng ra sao, họ bèn dẫn anh về chỉ huy sở. Cách trụ sở ban chỉ huy chừng một cây số, hai người ở lại canh Hoàng còn một người theo đường tắt về báo cáo với ban chỉ huy. Chỉ huy trưởng đơn vị là một người đàn ông cao lớn, sừng sững, đầu húi cua, tóc rễ tre lơ thơ điểm bạc. Người ta gọi ông là  “Ông Chưởng”. Có lẽ đấy không phải là tên thật của ông, nó được biến âm từ chữ “Trưởng” (Thủ trưởng) mà ra. Khuôn mặt ông rất điềm đạm. Đôi mắt sáng và đặc biệt ông có nụ cười rất tươi. Ông có nhiệm vụ chỉ huy một đơn vị bảo vệ trại H15, nơi đang giam giữ gần một trăm sĩ quan tù, hàng binh Âu- Phi. Nhiệm vụ của đơn vị ông không chỉ là canh giữ họ mà là phải khai thác thông tin từ các sỹ quan này để tìm hiểu về những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù báo cáo kịp thời cho cấp trên. Điều khó khăn nhất của ông là không có cán bộ có trình độ ngoại ngữ đủ để làm nhiệm vụ này. Sau khi tiếp xúc với Hoàng, không ngần ngại, ông tiếp nhận ngay Hoàng và sử dụng anh theo một phương châm: “Triệt để sử dụng, triệt để cảnh giác!” Ông đặt ra một quy chế làm việc cho Hoàng rất chặt chẽ: Tuyệt đối không được tiếp xúc riêng với bất kì một tù hàng binh nào; Không để Hoàng ở gần trụ sở ban chỉ huy mà chỉ được ở với các chiến sĩ bảo vệ vòng ngoài; Những cuộc hỏi cung được tổ chức ở một hang đá xa nơi ban chỉ huy đóng; Hoàng không được dịch cho bất cứ ai ngoài thủ trưởng và chính trị viên của đơn vị; Hoàng có trách nhiệm đọc lại bản dịch các bài hỏi cung, kí vào biên bản với lời cam kết dịch đúng nguyên văn.. Trong thâm tâm, Chưởng vẫn tin vào lời tường trình của Hoàng, tin rằng Hoàng là một cán bộ cấp cao bị phục kích và mất liên lạc với đơn vị nhưng vì Hoàng không có bất kì một giấy tờ nào chứng minh lai lịch của mình nên về nguyên tắc làm việc ông không thể hành xử khác được. Theo chỉ thị của Chưởng, Hoàng được hưởng mọi chế độ đãi ngộ vật chất như một sỹ quan của đơn vị.
 Viên sĩ quan Pháp đã được đưa đến ngồi đợi sẵn trong hang. Hai anh bộ đội đứng gác ở cửa. Chưởng và Hoàng bước vào, hai người lính đứng nghiêm chào, viên quan ba Pháp cũng đứng dậy, hai tay đặt thẳng theo nẹp quần, mắt nhìn thẳng ở tư thế chào. Chưởng chỉ tay mời y ngồi rồi ra hiệu cho hai người lính ra ngoài. “ Ta bắt đầu làm việc nhỉ?” Chưởng nói trống không như với cả viên sĩ quan Pháp và với cả Hoàng. Hoàng vừa dịch xong câu nói của Chưởng thì ông cười ồ: “Xin lỗi, xin lỗi...tôi xin giới thiệu để hai người làm quen với nhau: Đây là ngài Thân Trọng Hoàng, sĩ quan thông dịch của chúng tôi, ông cũng là một học giả có tên tuổi.” Chỉ tay về phía viên quan ba Pháp, ông nói với Hoàng: “Còn đây là ngài Convié đại úy quân đội viễn chinh Pháp, khách mời của chúng ta.” Hoàng dịch nguyên văn cả câu nói của Chưởng với Hoàng cho tên quan ba nghe. Convié cười méo mó, tưởng Chưởng chế nhạo mình, nói: “Tôi may mắn từ khi cha mẹ mới sinh ra luôn được coi là khách mời[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn18][18][/link] kể cả khi bị tù!” Chưởng đỗ Pri-me (Tiểu học) nên cũng biết tiếng Pháp ít nhiều. Ông cười, nói với Convié:
-         Tôi muốn buổi gặp nhau hôm nay giữa chúng ta không phải là một cuộc hỏi cung mà là một buổi tọa đàm, một buổi trao đổi có tính học thuật về những nhận định và đánh giá của cá nhân về cuộc chiến do thực dân Pháp tiến hành đang diễn ra ở Đông dương và tình hình thế giới chi phối đến cuộc chiến này. Tôi và ngài Thân Trọng Hoàng sẽ phát biểu ý kiến cá nhân của mình nhưng trước hết tôi muốn được nghe ý kiến của ngài đại úy với tư cách là một khách mời. Ngừng một lát, Chưởng nhìn viên quan ba nói tiếp:
-         Hiện nay Pháp đang thất bại nặng nề trên chiến trường Đông dương, theo ý ngài liệu Mỹ có dám dùng bom nguyên tử ném xuống Việt nam để tiêu diệt lực lượng kháng chiến hay không? Xin ngài phát biểu một cách tự do, thoải mái như là một khách mời thật sự.
-         Không, chắc chắn không! Convié trả lời một cách dứt khoát không do dự.
-         Tại sao? Chưởng hỏi.
-         Mối quan tâm hàng đầu của Mỹ sau thế chiến thứ hai không phải là châu Á, lại càng không phải là Việt Nam. Chắc ngài nhớ, tháng 6-1950 được Stalin ủng hộ và cổ vũ, Kim Nhật Thành đã mở một cuộc tấn công xuống phía Nam, tràn qua Seoul. Tổng thống Truman đã cử tướng Doughlas McArthur một người hùng trong đại chiến thế giới thứ hai tới Triều Tiên. Vị tướng này đã ra lệnh cho quân đội Mỹ đổ bộ vào một cảng gần Seoul và đã đẩy lùi quân của Kim Nhật Thành lên tận sông Áp Lục (Yalu) cực bắc Triều tiên . Tháng 11 năm đó, quân đội của Mao vượt sông Áp lục đẩy quân Mỹ và quân đội liên hiệp quốc xuống phía nam. Những cuộc chiến đấu ác liệt đã xảy ra, cuối cùng hai bên đã thỏa thuận trở lại vĩ tuyến 38 theo đường ranh giới đã hình thành sau đại chiến. Trong khi đó McArthur đã thách thức cả quyền lực của Tổng thống Truman, kêu gọi dân chúng Mỹ ủng hộ kế hoạch của ông ném bom Trung quốc để giúp Tưởng Giới Thạch quay lại làm chủ lục địa! Truman đã cách chức viên tướng này. Nếu Mỹ thấy mình có khả năng chặn đứng cộng sản ở châu Á ở thời điểm đó thì chắc chắn ông ta đã đồng ý với kế hoạch của McArthur, chẳng cần đợi đến hôm nay để ném xuống Việt nam. Và, vị tổng thống đương nhiệm Asenhower cũng phản đối tất cả các đề nghị sử dụng vũ khí hạt nhân ở Đông dương. Mối bận tâm và quyền lợi sống còn của Mỹ lúc này là ở châu Âu và ở Trung Đông nơi có nguồn nhiên liệu dồi dào ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế Mỹ. Khả năng của Mỹ không phải là vô tận, dù có vũ khí hạt nhân trong tay, họ cũng chưa dám sử dụng để gây ra một cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba. Họ cũng không từ bỏ mục tiêu tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản nhưng chắc chắn họ sẽ tìm con đường khác, chiến lược khác để thực hiện mục tiêu này.
-         Theo ông, Chưởng hỏi, quyền lợi sống còn của Mỹ ở châu Âu là gì khiến Mỹ phải đặc biệt quan tâm lúc này.
-         Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, châu Âu là nơi tập trung sự đối đầu giữa hai phe Cộng sản và Tư bản. Mỹ muốn đóng vai trò lãnh đạo thế giới, truyền bá những giá trị tự do, dân  chủ Mỹ. Liên xô muốn mở rộng đường biên giới, truyền bá hệ tư tưởng Mác-xít, bảo vệ các đồng minh thân hữu của mình ở Đông Âu. Mỹ muốn đảo ngược các chế độ thân Nga ở Ba Lan, Tiệp Khắc và các nước khác ở Trung và Đông Âu...Ảnh hưởng của Liên xô lúc này đối với thế giới, đặc biệt đối với châu Âu là rất lớn vì họ có công đầu trong việc tiêu diệt chủ nghĩa Phát xít. Những tháng cuối cùng của chiến tranh thế giới lần thứ hai, quân đội Liên Xô có mặt hầu hết ở các nước Trung và Đông Âu. Họ đã hỗ trợ cho Cộng sản các nước này nắm được chính quyền. Lời tuyên bố của Stalin: “Thế giới sẽ không có hòa bình chừng nào hình thức kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại.” Các chiến lược gia thế giới tư bản coi câu nói này của Stalin là lời tuyên bố mở đầu cho một cuộc chiến tranh lạnh. Tháng 6 năm 1948, quân đội Liên xô bao vây Béc -lanh, cắt đứt mọi đường sắt, đường bộ dẫn tới các khu vực do Anh, Pháp, Mỹ chiếm đóng. Cùng với cuộc đảo chính thắng lợi của các lực lượng cộng sản ở Tiệp Khắc năm 1948 làm cho Mỹ thực sự lo ngại và họ phải tập trung lực lượng xiết chặt vòng vây quanh Liên Xô. Các nước Phương Tây vội vã lập cầu hàng không, vận tải gần hai triệu rưởi tấn lương thực thuốc men và cả than đá cung cấp cho Tây Béc - lanh. Sau 231 ngày bao vây Béc lanh, Stalin đã ra lệnh rút quân. Ngay năm sau (1949), 11 nước phương Tây và Mỹ lập khối hiệp ước Bắc Đại tây dương (NATO) với mục tiêu chống lại Liên xô và các nước Xã hội chủ nghĩa...
-         Ngài là một sử gia? Chưởng hỏi Convié với nụ cười rất tươi.
-         Vâng, nhưng tôi nghĩ rằng lịch sử chỉ có thể trung thực khi nó được viết ở chiến trường nên đã tự nguyện vào học trường võ bị và bây giờ trở thành khách mời của các ông. Convié trả lời với nét mặt tươi tỉnh.
 Convié đã được hai người lính dẫn về trại. Chưởng ngồi lại trong hang cùng Hoàng hiệu đính lại bản dịch. Cả hai đều rất tâm đắc với những ý kiến của Convié, cho rằng những ý kiến này là trung thực và có cơ sở khoa học, có thể khai thác phục vụ cho những quyết sách đấu tranh sắp tới với kẻ thù trên mặt trận chính trị và quân sự nhất là vào thời điểm này, khi chiến dịch Điện Biên Phủ sắp giành được thắng lợi hoàn toàn và một cuộc hòa đàm về kết thúc chiến tranh Đông Dương đang được xúc tiến tại Giơ-neo (Genève- Thụy sĩ). Theo đúng nguyên tắc làm việc, trước khi kí điện gửi đi, Chưởng trao đổi ý kiến với chính trị viên Lê Khắc Bồng. Xem qua bức điện, Bồng tròn xoe mắt nói một cách thảng thốt:
-         Anh định gửi bức điện này đi à? Anh xem lại mình có vội vả và cả tin quá không? Convié là ai, anh biết rõ rồi, còn Thân Trọng Hoàng, người phiên dịch và chấp bút bức điện này ta chưa biết là ai cả. Những quan điểm mà ta tán đồng trong bức điện này hoàn toàn trái ngược với những quan điểm ở lớp tập huấn chính trị mà tôi vừa đi học về. Lớp học này có cả các giáo sư chính trị của nước bạn sang trực tiếp giảng dạy. Theo quan điểm chính thức của lớp học mà chúng tôi phải thấm nhuần và quán triệt thì trung tâm của cuộc cách mạng vô sản trên toàn thế giới đang chuyển từ phương Tây sang phương Đông và Việt Nam bây giờ đã trở thành tiền đồn của phe Xã hội chủ nghĩa. Nếu Pháp bị thất bại nặng nề ở Việt Nam thì Mỹ sẽ nhảy vào thế chân thực dân Pháp và chúng sẵn sàng dùng bom nguyên tử ném xuống Việt Nam để ngăn chặn làn sóng đỏ truyền xuống Đông Nam Á. Không loại trừ bọn đế quốc cài gián điệp vào hàng ngũ ta tung ra những luận điệu phản động làm ta mất cảnh giác, mất phương hướng...Bồng còn nói dông dài về âm mưu của bọn đế quốc, về vai trò to lớn và công lao vĩ đại của Mao chủ tịch trong việc bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân Triều tiên, về cuộc đấu tranh giai cấp trên phạm vi toàn thế giới...
-         Ý kiến của ta cũng chỉ là một nguồn thông tin thôi, trên còn dựa vào nhiều nguồn khác và phân tích nhận định kĩ càng chứ đâu chỉ dựa vào mỗi nguồn thông tin của ta! Chưởng nói.
Bồng gay gắt:
-         Đành rằng trên còn có nhiều nguồn thông tin khác nhưng nếu đọc báo cáo của ta với những nhận định mơ hồ như thế, tổ chức sẽ nghĩ gì về trình độ chính trị, tư tưởng, về lập trường quan điểm của chúng ta? Họ không chỉ đánh giá riêng anh mà đánh giá cả cơ quan chúng ta, cả tôi là người chịu trách nhiệm chính về công tác chính trị , tư tưởng!
-         Đây không phải là ý kiến của tôi, của anh mà là của tù binh, chúng ta phải có trách nhiệm khai thác báo cáo kịp thời, trung thực lên trên thôi! Chưởng nói.
-         Anh có gì đảm bảo lời dịch của Thân Trọng Hoàng là trung thực, là đúng 100% không? Hay đây chính là ý kiến của Hoàng, một tên ta không rõ lai lịch, gốc tích vừa nhặt được dọc đường! Bồng càng nói càng căng thẳng.
-         Thôi được! Chưởng nói, tôi giao bản báo cáo này cho anh xử lí, gửi lên trên hay không tùy anh.
   Bây giờ chắc đang độ cuối xuân, Hoàng nghĩ bụng. Từ ngày về trại, anh không có khái niệm về ngày tháng, giờ giấc. Chiếc đồng hồ Mô- va- đô đeo tay bị mất trong trận phục kích ở Khe Meo, những ngày trời nắng, anh nhìn bóng của các ngọn cây đổ trên sườn núi để đoán giờ. Còn mùa này mưa bụi suốt này, trời âm u anh chỉ còn biết thời gian qua ba bữa ăn hàng ngày. Hoàng được bố trí ở chung cùng một lán với tiểu đội “Anh nuôi” (Những  người nấu bếp cho bộ đội) và hai người công sai, cần vụ. Theo lệnh của Chưởng, Hoàng được bố trí nằm ở trong cùng, có một liếp ngăn nhỏ ngăn cách với chỗ nằm của bảy người lính làm công tác phục vụ. Thái độ tôn trọng của Chưởng đối với Hoàng cũng chỉ dám thể hiện ở mức ấy. Hoàng chặt nứa tự làm một chiếc bàn nhỏ kê sát giường nằm. Đấy là nơi để các tờ báo, các bản tin có đánh dấu các bài cần dịch từ tiếng Việt sang tiếng Pháp để phục vụ cho công tác của Chưởng và Bồng. Từ ngày Chưởng được điều đi nhận nhiệm vụ ở đơn vị mới, Bồng phụ trách chung đơn vị kiêm cả chính trị lẫn quân sự. Việc hỏi cung, khai thác tù, hàng binh ít làm, hầu như không làm mấy khi. Việc phổ biến tình hình trong nước thế giới trước đây Chưởng vẫn tiến hành đều hàng tuần, hàng tháng nhằm giáo dục, giác ngộ cho số tù hàng binh, nay cũng thôi luôn. Từ đó Hoàng như người mù, người điếc. Điều khổ nhất đối với một người trí thức là mù thông tin. Anh chẳng biết làm gì, ngày ngày anh sang chỗ các anh nuôi giúp họ nhặt rau, vo gạo hoặc vào rừng lấy củi, hái măng. Vùng này nấm rất nhiều nhưng Hoàng không bao giờ hái nấm, thậm chí không dám tham gia cùng các đồng chí đi hái. Anh lấy lí do mình không phân biệt được nấm lành, nấm độc.
   Một ngày, vào lúc xế trưa, Bồng dẫn một sĩ quan trẻ đến lán anh nuôi, chỉ vào Hoàng, Bồng nói với người sĩ quan trẻ: “Đây là anh Hoàng, người mà tôi vừa trao đổi với đồng chí, nếu thấy cần cho công việc lúc đi đường, có thể cho anh ấy đi theo.” Người sĩ quan trẻ, Hùng Phi tên anh, bắt tay Hoàng một cách lịch sự và nở một nụ cười đầy thiện cảm. Phi hỏi Hoàng:
-         Đồng chí cần bao lâu thời gian để chuẩn bị ba lô, hành lí?
-         Đi xa? Hoàng hỏi lại Phi.
-         Xa và lâu, Bồng trả lời chen vào.
-         Tốt, tôi đi ngay đây! Hoàng nhìn mặt Phi trả lời.
   Phi bắt tay Bồng chào từ biệt. Hoàng cũng nắm tay Bồng: “ Chúc anh và anh em trong đơn vị ở lại mạnh khỏe!” Buông tay Bồng, Hoàng chạy vào ôm choàng lấy mấy người bạn, người đồng chí trong tiểu đội Anh nuôi đã bao lâu ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, rơm rớm nước mắt. Ngoài kia, một trung đội lính cảnh vệ được phái tới đang dẫn số sĩ quan tù hàng binh Âu- Phi của trại H15 xếp hàng ngay ngắn đợi lệnh xuất phát của Hùng Phi. Những người lính Âu- Phi bồn chồn ngơ ngác nhìn nhau như muốn hỏi: “Đi đâu thế này nhỉ?” Họ đưa mắt nhìn về phía Phi và Hoàng đang đi tới phía mình như muốn tìm lời giải đáp. Theo lệnh Phi, Hoàng đọc bản nội quy của cuộc hành quân. Hùng Phi phổ biến cho toàn đơn vị biết ban chỉ huy cuộc hành quân ra bắc lần này gồm ba người: Hùng Phi, chỉ huy trưởng; Lê Thức, phó chỉ huy trưởng và trợ lí Thân Trọng Hoàng. Anh yêu cầu toàn đơn vị chấp hành nghiêm chỉnh mọi nội quy, quy định và các mệnh lệnh hành quân.
   Đoàn lên đường vào một buổi chiều. Trời cao và xanh ngăn ngắt, vài đám mây mỏng tang vương vấn lưng chừng núi. Hoa mơ trắng rừng. Từng đàn bướm dập dờn trên các chóp mũ nan bọc vải màu xanh cây rừng. Bên đường những khóm hoa Ông Sao vàng ánh, rực rỡ. Đoàn người đi hàng một trong im lặng. Lặng im đến nỗi nghe cả tiếng vo ve của đàn ong đi kiếm mật...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
7
 
 
   Đọc cuốn hồi kí của Đại tá Convié viết lúc ông về hưu, hầu như không có chương nào, hồi nào ông không liên tưởng đến cuộc chiến ở Việt nam, liên tưởng đến đất nước và con người Việt nam. Mặc dù thời gian ông tham chiến ở Việt Nam chỉ hơn ba năm (Thời gian ông bị bắt ở trong trại H15 đã mất gần một năm rồi) so với cuộc đời binh nghiệp hơn ba mươi năm, xông pha khắp lục địa châu Âu đến tận Trung đông, Châu Á, Bắc Phi...thì chỉ là một thời gian rất ngắn ngủi. Ngay từ đầu chương 2 ông viết: “ Ngồi trên chiếc máy bay, bay qua bầu trời Bắc Phi, nhìn xuống những con đường màu đất đỏ tươi, những cao nguyên đất đỏ ba zan trùng điệp. Tôi bổng nhớ đến Việt nam. Một nỗi nhớ bồi hồi, day dứt! Rủi ro lớn nhất của đời tôi là phải đến chiến đấu ở đất nước ấy, bị bắt làm tù binh ở chiến trường ấy, một vết nhơ duy nhất trong cuộc đời sĩ quan của tôi bị bôi lên tại mảnh đất này...Nhưng giờ đây, khi lật sổ “kiểm toán” lại cuộc đời mình, những vinh nhục, vui buồn đã trải qua của cuộc đời binh nghiệp, tôi lại thấy cái may mắn nhất của đời mình là đã được đối mặt với một dân tộc như vậy trong một cuộc đấu tranh mất còn...Trong các ngày hội của các cựu chiến binh tôi thường muốn phô cái vết nhơ bại trận, vết nhơ của thằng tù ở Việt nam hơn là những tấm bội tinh lóng lánh vì những chiến công oanh liệt khi tôi chiến đấu ở chiến trường Trung Âu, Đông Âu trong thế chiến thứ hai. Tôi đã nói nhiều với họ về những điều kì lạ của cái xứ sở này và cũng không biết nói đến lúc nào cho cạn. Máy bay hạ thấp độ cao, một con đường đất ngoằn nghoèo dọc theo chân núi. Ôi! Sao con đường này giống hệt con đường từ trại tù H15 đi ra bắc Việt nam mà chúng tôi đã từng đi qua đến vậy! Cả đoàn phiến quân [link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn19][19][/link]da đen, da màu lá ngụy trang trên lưng...lặng lẽ đi cũng giống hệt nhau! Tôi chợt nhận ra, ảnh hưởng sâu rộng của Việt nam đối với phong trào nổi dậy đòi độc lập của các dân tộc khác trên thế giới. Điều khác nhau mà tôi quan sát được ở đây là bên cạnh đoàn quân đi không thấy có các đoàn dân công trùng trùng điệp điệp đàn ông, đàn bà...quang gánh trên vai hoặc đẩy những chiếc xe đạp thồ chở lương thực, súng đạn ra mặt trận như ở Việt nam. Đoàn tù binh H15 của chúng tôi đi bộ dọc theo một con đường dưới chân núi như thế, gặp các đoàn dân công, họ lại nép sang một bên nhường đường cho chúng tôi. Các cô gái, đôi sọt nặng chĩu trên vai, mồ hôi nhễ nhại cũng nở những nụ cười thân thiện.. Tôi hỏi Thân Trọng Hoàng, người sĩ quan thông dịch mà tôi đã quen biết khá lâu ở trại H15: “Mỗi dân công chỉ gánh trên vai khoảng hai chục cân gạo, trong khi họ phải đi hàng tháng trời chưa chắc đã đến được địa điểm tập kết, số gạo ấy không đủ cho họ ăn, còn đâu lương thực cho bộ đội các anh ăn?” Hoàng cười: “Đấy là một bí mật. Hai sọt gạo trên vai ấy sẽ được bàn giao đầy đủ tại địa điểm tập kết và dân công đi đường vẫn được ăn no.”Tôi lắc đầu tỏ ý không hiểu, Hoàng vừa cười vừa nói: “Ông đã đọc câu chuyện cổ tích Việt nam về niêu cơm Thạch Sanh chưa?” Đó là một câu chuyện lí thú trong kho tàng truyện cổ tích Việt nam mà tôi đã từng được nghe kể trong thời gian ở trại H15. Ngờ đâu huyền thoại đã biến thành hiện thực trước mắt tôi. Đến một địa điểm trên bờ của một con suối gọi là Khe Nét. Đoàn chúng tôi dừng lại nghỉ chân. Đã hai ngày đêm đi bộ giữa đường rừng. Chân cẳng rã rời. Tất cả chúng tôi, người tựa vào sườn núi, người nằm sóng soài ra bãi cỏ nhìn trời. Một chiếc cầu sắt, rỉ sét đen sì nằm trên con đường sắt Bắc- Nam được xây dựng từ cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20 bắc qua khe. Hai bên cầu, lan can đã bị tháo sạch, nghe nói họ đã lấy sắt đem đi rèn kiếm từ ngày đầu kháng chiến. Đoạn đường sắt chạy qua đây bây giờ đang được sửa chữa, chắp nối loang lổ, tà vẹc, cái làm bằng sắt thủng lổ chổ, cái làm bằng gỗ lim còn tươi. Họ đang khôi phục lại con đường sắt này phục vụ một mục đích nào đó tôi không phán đoán nổi. Tôi đang suy nghĩ về điều này, bổng thấy hai thanh niên đẩy một toa Goòng đến. Đoàn chúng tôi được lệnh lên ngồi trên toa. Sự hốt hoảng lộ rõ trên nét mặt của tất cả bọn tù hàng binh chúng tôi. Ai cũng nghĩ rằng giờ tận số của mình đã điểm. Cộng sản cho chúng tôi lên toa rồi sẽ cho lao xuống một khe suối hay đâm vào một hốc núi nào đó để thủ tiêu! Chúng tôi bình tĩnh trở lại khi thấy Hùng Phi và Hoàng cùng lên theo ngồi ở cuối toa. Hai thanh niên khỏe mạnh đeo ở cuối toa. Mỗi người một chân đạp lên sàn toa, một chân dấn xuống đường ray nhảy lò cò tạo lực đẩy toa xe chạy về phía trước. Xe qua khỏi chiếc cầu sắt ọp ọep tôi thở phào nhẹ nhõm. Xe chạy băng băng, “Có lẽ đến hai mươi cây số giờ...”Tôi thầm nghĩ. Như một trò thể thao mạo hiểm. Có thể gọi điều này bằng một thuật ngữ nào cho thích hợp? Một sự thông minh sáng tạo kì diệu hay một sự ngu đần đáng sợ? Một sự dũng cảm phi thường hay một sự liều mạng của kẻ tuyệt vọng...? Tôi lắc đầu, không tìm được lời giải đáp. Chỉ biết rằng chính những điều này đã giúp họ chiến thắng. Ước chừng xe đã chạy qua hơn ba chục cây số, đã qua hai chiếc cầu gầy guộc đen đúa như thế, tôi bắt đầu thấy yên tâm và có phần hứng thú đưa mắt nhìn xuống những thung sâu mây phủ trắng xóa tựa như những dòng sông hồ bị đóng băng vào những ngày đông khi chúng tôi hành quân trên các mặt trận châu Âu... Chỉ có điều ở đây trời nắng. Nắng vàng rất đẹp. Ngoài trời không có tuyết rơi. Chỉ có mây trắng phủ trên các sườn non. Nghe rõ cả tiếng chim hót bên các lùm cây vệ đường man mác!
 Phi hỏi tôi:
-         Ông sống thế nào trong trại H15 gần một năm qua?
-         Thế nào nhỉ? Tôi đang tìm câu trả lời. Sướng hơn những gì chúng tôi đã tưởng tượng nếu bị sa vào tay cộng sản ở Việt nam, tôi trả lời.
 Phi nhìn tôi cười, hỏi tiếp:
-         Ông có sợ chính những điều mình tưởng tượng không?
-         Không, tôi trả lời.
-         Nếu điều ông nói là thực lòng thì quả thực ông là người can trường. Nếu không bị bắt chắc chắn ông sẽ trở thành một vị tướng lĩnh nổi danh? Phi nói.
-         Không hẳn thế! Tôi nhận thức được điều tất yếu nên thấy mình tự do. Chúng tôi đã được chuẩn bị về tâm lí khá kĩ càng trước khi sang Việt nam. Chúng tôi đã sẵn sàng chấp nhận nên không còn thấy khiếp sợ khi bị bắt. Tôi trả lời.
-         Họ nói với các anh những gì? Phi hỏi.
-         Tôi nhớ hôm ấy, có một vị nguyên soái tên tuổi lẫy lừng đến giảng bài cho chúng tôi. Ông bước vào giảng đường, chúng tôi đứng nghiêm răm rắp. Ông cho bật nhạc bài quốc ca của nước Việt nam dân chủ cộng hòa của các ông. Chúng tôi ai nấy đứng thẳng đơ như người chết đứng, không hiểu sao vị nguyên soái lại bắt chúng tôi đứng chào cờ kẻ thù của mình trước khi ra trận! Đến câu: “Đường vinh quang xây xác quân thù...” Ông cho tắt máy và ra lệnh cho chúng tôi ngồi xuống rồi nói: “ Các anh hiểu rồi chứ? Kẻ thù mà các anh phải chiến đấu và tiêu diệt là một kẻ thù sắt đá như vậy đó. “Đường vinh quang xây xác quân thù...” Ông nhắc lại lời của câu hát rồi bảo:  “Đừng ngạc nhiên, mọi cuộc chiến tranh là vậy cả. Năm 1926 tại học viện Hải quân Hoàng gia anh có một cuộc hội thảo của các sĩ quan hải quân Anh với tiêu đề: “Tàn khốc, vô tình là điều cần thiết để giành toàn thắng trong chiến tranh..”. Ở phương Đông, cái triết lí này được thể hiện trong một câu nói nổi tiếng, ngắn gọn, súc tích như một câu ngạn ngữ: “Nhất tướng danh thành vạn cốt khô”. Danh tiếng của một vị tướng được đổi bằng hàng vạn sinh mạng của các chiến sĩ ngoài sa trường.” Tiếp theo, các vị phụ giáo của ngài nguyên soái còn mô tả những cảnh tra tấn, những đày đọa của cộng sản Việt nam đối với tù hàng binh...Nhưng, tiếc rằng điều ấy hoàn toàn không xảy ra với chúng tôi ở H15.
 Thân Trọng Hoàng cả buổi ngồi nghe cuộc trò chuyện giữa tôi và Hùng Phi, nói xen vào:
-         Tàn khốc và vô tình không chỉ là “Đức tính” của các nhà độc tài quân sự để giành chiến thắng, mà một kẻ làm chính trị nếu không tàn khốc và vô tình thì mãi mãi anh ta sẽ không đạt được mục đích của mình.
Tôi như tỉnh người, hỏi lại Hoàng:
-         Thế ra, theo ông, chẳng có gì khác nhau giữa hai nhà chính trị và quân sự?
-         Họ giống nhau ở chỗ ý chí quyết tâm đạt đến mục đích và khác nhau ở thủ đoạn đạt đến mục đích.
 Tôi vẫn ngồi yên chăm chú nhìn mặt Hoàng tỏ vẻ chưa hiểu hoàn toàn, còn muốn anh giải thích thêm. Hoàng nói tiếp:
-         Sự tàn khốc và vô tình của nhà quân sự phải thể hiện ngay trên nét mặt họ. Nó phải truyền được cái tàn bạo, cái vô tình sắt đá ấy đến tận các sĩ quan, binh lính dưới quyền để tạo ra sức mạnh chiến đấu. Nhà chính trị lại khác. Họ phải tạo được cho mình một khuôn mặt từ bi bác ái, như thể, chính họ cũng bị đau khi thấy một con ong cái kiến bị chết. Điều khác biệt hơn cả là nhà chính trị còn phải biết tàn bạo và vô tình với chính mình.
-         Tàn bạo với chính mình? Convié nhắc lại.
-         Đúng thế, Hoàng trả lời. Cái tài của nhà chính trị là ở điểm này. Tôi xin kể ngài nghe một mẩu chuyện về cách thu phục nhân tâm, giành được chiến thắng của một nhà chính trị bằng một phương pháp rất tàn bạo với chính mình. Nếu ngài có đọc lịch sử Trung Hoa ít nhiều chắc ngài có biết đến vua Đường thái tông. Ông là một vị hoàng đế kiệt xuất đời Đường và của cả các dân tộc Hoa hạ thời cổ đại. Một năm, đất nước bị đại hạn, khắp nơi bị họa cào cào phá hoại mùa màng. Dân tình bảo nhau vì vua thất đức nên trời giáng họa. Giặc giã nổi lên khắp nơi. Triều đình lung lay. Đường thái tông đích thân ra ngoại thành để xem xét đồng ruộng, thấy đâu đâu cũng bị cào cào tàn phá. Dân tình thán oán, khóc lóc. Tiếng khóc như dội tới trời xanh. Vua hết sức lo lắng. Ông bắt một con cào cào rồi nguyền rủa nó rằng: “Con người lấy lúa gạo ăn để sống. Nhà ngươi ăn hết lúa là làm hại bá tánh rồi! Lỗi của bá tánh do một mình ta chịu. Vậy ngươi có linh thiêng thì hãy ăn quả tim của ta đi nào chứ đừng làm hại bá tánh nữa! Dứt lời, nhà vua đưa con cào cào lên miệng định ăn sống nó. Các đại thần đứng xung quanh hốt hoảng can ngăn: “Tâu bệ hạ, cào cào là giống dơ bẩn, ăn vào sẽ sinh bệnh, không thể được đâu!” Nhà vua đáp: “ Ta mong tất cả các tai họa đều dồn vào một mình ta chịu, miễn sao cứu dân khỏi tai họa. Ta còn sợ gì bệnh hoạn nữa!” Nói rồi vua nuốt trọn con cào cào vào bụng. Dân tình đang oán thán nhà vua, bổng trở nên thương cảm quỳ lạy dưới chân ông, thề sẽ một lòng trung hành với vị vua thánh minh, hết lòng thương dân của mình và dốc sức vượt qua khó khăn...Chỉ một động tác ấy thôi, Đường thái tông đã dẹp yên được đại loạn, đại họa!
Tôi hào hứng nghe câu chuyện của Hoàng rồi hỏi lại ông:
- Như vậy, theo ông, chính trị là nghệ thuật của sự thỏa hiệp, mà đôi khi để giành thắng lợi về đại cục, nhà lãnh đạo phải tàn bạo và vô tình với chính mình, phải thủ đoạn với cả bản thân! Anh ta nhìn tôi cười. Tôi suy ngẫm mãi về điều này và liên tưởng đến những ngày sống ở trại H15...
   Có một lần, vô tình tôi nhìn thấy suất ăn của một sĩ quan Việt Minh coi trại tù, chỉ có cơm độn ngô, rau luộc và mấy hạt lạc rang. Trong khi đó chúng tôi là những thằng tù, kẻ thù của họ lại được ăn cơm trắng, có thịt có cá...Bữa ăn ấy quả là khổ nếu so với những bữa cơm sĩ quan Pháp, nào thịt bò bíp tết, rượu Rum, nào bơ, pho mát... khi còn ở Pa-ri. Nhưng so với bữa ăn bây giờ của họ thì suất cơm tù của chúng tôi là một bữa tiệc của bậc đế vương..Đêm đêm, họ đứng dưới sương lạnh để canh gác chúng tôi, còn chúng tôi nằm trong chăn ấm, ngủ ngon lành! Tôi thật sự khâm phục dân tộc họ. Mỗi người lính của họ cũng đều là những nhà chính trị. Họ biết, chịu đựng, hy sinh cho nền độc lập của dân tộc họ. Tôi thấy xấu hổ đối với họ, thấy không bằng họ. Họ đã cảm hóa, đánh bại chúng tôi bằng chính sự hy sinh thầm lặng đó... Ngày 16 tháng tư năm 1954, đoàn chúng tôi đến Việt bắc. Nơi tập kết là một làng nhỏ miền thượng du, dưới chân núi. Trước mắt là những quả đồi san sát chập chùng. Vẫn cái màu đất đỏ tươi, nồng nàn ấm áp ấy. Vẫn những màu tím bâng khuâng của những khóm hoa sim, hoa mua lặng lẽ làm đẹp cho đời ấy...!. Tôi liên tưởng đến những nụ cười rạng rỡ của các cô dân công mà tôi gặp trên đường. Gánh nặng trên vai, bom đạn quanh mình mà vẫn nhường đường, chào khách bằng những nụ cười nồng ấm tình người...Thì ra, cái quan điểm chiến tranh: “ Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo...”của nhà mưu lược đại tài Nguyễn Trãi đã thấm vào từng con tim khối óc của mỗi người dân Việt nam. Chắc chắn họ sẽ thắng chúng ta, tôi nghĩ...”
   Chiều muộn. Sương xuống nhiều. Cả không gian như chìm trong một màu xanh huyền ảo. Trên trời một vừng trăng non lặng lẻ. Phi và Thức dẫn đoàn tù ra bãi cỏ mé đồi trước mặt bàn giao cho đơn vị mới. Họ đang điểm danh từng người. Hoàng ngồi im như chìm trong không gian tĩnh mịch của chốn núi rừng bao la. Tiếng chuông chùa ban chiều như còn ngân nga trong hồn anh, nó lấp đi những khoảng trống vắng, xua đi những lo âu, nhọc nhằn. Anh như người đang bay lơ lửng giữa tầng không. Anh không còn những trăn trở băn khoăn như cái ngày vừa thoát chết ở Khe Meo, được dẫn đến trại H15. Anh không nghĩ gì nữa cả, không cần biết là H15 hay H150..., không cần biết đây là miền nào, là mặt đất hay cung trăng. Nhớ vợ con đến cồn cào...Để xóa tan cái u uẩn, nặng nề chất chứa trong lòng, anh đứng dậy đi lại trên đám cỏ, ngước mắt nhìn nửa vừng trăng cô liêu trên đầu. Buột miệng Hoàng đọc mấy câu thơ của Xuân Diệu:
Hỡi thượng đế, tôi cúi đầu trả lại,
Linh hồn tôi đã một kiếp đi hoang,
Hồn đã chín, xin ngươi thôi hãy hái,
                                          Nhận tôi đi dầu địa ngục hay thiên đàng...
Hoàng cúi đầu, vừa đi vừa đọc. Mấy câu đầu anh đọc nhỏ như chỉ cho mình đủ nghe. Đến hai câu cuối: “Hồn đã chín...”anh bổng đọc to lên. Vô tình đầu anh như chạm phải ngực của Hùng Phi đi tới. Hùng Phi làm như không nghe thấy gì. Anh bắt đầu câu chuyện với Hoàng bằng một câu hỏi: “Anh chờ lâu quá nhỉ?”
-         Ồ! Lâu hả? Hoàng như hỏi lại rồi nói tiếp, thời gian biết làm gì cho hết đâu mà lâu!
-         Ta đi thôi! Phi bảo.
-         Tiếp tục đi? Hoàng hỏi lại.
-         Không, về chỗ nghĩ lại tối nay thôi, Phi nói. Anh em tiếp tục hành quân rồi chỉ còn tôi và anh ở lại đây tối nay thôi. Mai tôi có chút việc với cơ quan.
 Hùng Phi dậy sớm, dặn Hoàng:
-         Tôi lên tổ chức khu có chút việc, anh ở nhà chơi với cụ chủ, lát nữa tôi về cùng đi ăn trưa. Tôi đã báo cơm rồi.
 Phi chưa ra khỏi cửa, cụ chủ nhà đã khăn áo chỉnh tề lên ngồi nói chuyện với Hoàng. Hoàng không phân biệt được cụ chủ là người dân tộc hay người Kinh. Trông dáng cụ có vẻ thư nhàn, người có học.
-         Hôm qua lạ nhà, ông có ngủ được không? Cụ hỏi Hoàng.
-         Thưa cụ, không khí ở đây thật trong lành, nằm xuống là ngủ ngay không mộng mị gì. Hoàng đáp.
 Bà Nhẫn bê nước lên đặt trước mặt hai người. Mùi hương nhài ngào ngạt. Hai người bê chén nước lên ngang mũi chưa uống thì nghe tiếng hai con cu gáy đầu hồi nhà cất lên trầm bổng. Ông Quỳnh (tên ông cụ) đặt chén nước xuống nói:
-         Cái loài chim này nó có hồn lắm! Cứ mỗi sáng, khi bà nhà tôi bê nước lên là y như nó gáy. Cái tiếng gáy ban mai của nó nghe rất tình. Nghe, chắc ông biết, cả hai con đều giọng thổ...Thấy Hoàng như đang nghểnh cổ lên để tìm kiếm nơi phát ra những âm thanh làm đằm thắm lòng người ấy, ông Quỳnh đứng dậy vẫy tay rón rén rủ Hoàng đi ra phía hành lang nơi treo các lồng chim. Hai con chim treo ở hai đầu hồi khuất mặt nhau vẫn đang say mê xướng họa. Sau mỗi hồi gáy, chúng lại xù lông cổ óng ánh màu ngọc bích, gù những hồi dài...Quỳnh bảo: “Con chim hót líu lo vì nó mong nghe được tiếng hót của bạn”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn20][20][/link]
 Vịn tay vào lan can, Hoàng lặng im nhìn ra xa. Những quả đồi chạy dài như bát úp phủ một màu vàng của ánh sáng ban mai ngọt ngào. Trời xanh nhạt, cao vòi vọi. Mấy đám mây trắng trôi vô định giữa tầng không. Tiếng chim hót rộn ràng từ các bìa rừng vọng lại. Bất giác Hoàng hỏi:
-         Vùng này thưa thớt dân cư quá cụ nhỉ?
-         Có dăm nhà khuất nẻo phía bên kia, cụ chỉ tay về phía bên kia suối.
Nhìn theo tay cụ, một dòng suối trong veo, nước chảy róc rách. Những viên cuội trơn bóng phản chiếu ánh mặt trời sáng lên như những viên bạch ngọc. Trên bờ, khuất vào phía trong, Hoàng thấy một mái nhà gạch cũ càng bị che lấp quá nửa bởi một cây cổ thụ. Trên một con đường hẻm, mấy con bò tung tăng gặm cỏ. Tiếng reo cười của các cậu bé chăn trâu vọng lại trong trẻo, thơ ngây...Quay lại nhìn cụ Quỳnh, Hoàng hỏi:
-         Chắc gia đình cụ đến định cư nơi này nhiều đời lắm rồi nhỉ?
-         Đâu có! Tôi là người đầu tiên đến làm nhà ở đây. Ông xem, cho đến nay quanh đây đã có ai đến ở đâu? Cụ Quỳnh diễn giải. Tôi lên đây mới vài chục năm nay thôi.
-         Thế quê cụ ở vùng nào? Thưa cụ. Hoàng hỏi tiếp.
-         Ở dưới xuôi, xứ Đoài gần chùa Hương ấy mà! Cụ đáp.
-         Thảo nào! Cụ không phải thầy địa lí mà chọn được một nơi ở tuyệt vời thế này. Cháu mới ngủ lại đây một đêm qua và sáng nay sống trong cảnh này, cháu thấy trong người lâng lâng như đang sống nơi đất Phật hay ở một cõi Bồng lai nào ấy...Mọi nặng nhọc của cuộc đời, day dứt về lẽ sống, tự nhiên bay đi đâu hết...Hoàng nói.
-         Tri túc thì nhàn, biết thế nào là đủ cho mình thì sẽ thấy người thanh thản. Cụ nói tiếp, thời thanh niên, tôi cũng là một thanh niên sôi nổi. Làm giáo học mấy năm, thấy cuộc đời nhà giáo thanh nhàn nhưng bình lặng quá, bỏ nghề, đầu đơn xin làm kí lục hỏa xa rồi được cử lên làm sếp ga ở cái ga Đụn ở vùng này. Cũng thấy chán. Cuộc đời nó bức bối, nó trói buộc con người thế nào ấy...Thật khó nói, muốn đập phá hết, xếp xó hết nào công, dung, ngôn, hạnh, nào nhân, nghĩa, lễ, trí, tín[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn21][21][/link]...nào những lời sáo rỗng tự do bình đẳng bác ái...Muốn dẹp hết, dẹp hết cái áo lương, khăn xếp bùng nhùng, cái cổ cồn, cà vạt ngạt thở...Chỉ muốn làm một thằng người, thằng người thứ thiệt thượng đế mới cho ra lò chưa từng tụng kinh, chưa hề niệm Phật, chưa bị bện quanh người các lí thuyết dây dợ lòng thòng của các nhà triết học. Thế là bỏ hết, rủ nhau lên rừng...
Cụ kéo tôi ra vườn, đi về đầu hồi phía bắc của ngôi nhà, ngay trên bờ suối. Chỉ tay vào một gốc đào xù xì, cụ nói:
-         Ngay cái chỗ này này, hồi ấy còn rậm rạp lắm, mấy thằng tôi, bơi lội chán dưới suối kéo nhau lên ngồi đây tán róc làm thơ, đọc thơ. Toàn một giọng ngông nghênh cuồng phóng, nào: Đã sinh ra ở trong trời đất phải có danh gì với núi sông, nào: Ai đã hay đâu tớ chán đời, đời còn có tớ, tớ còn chơi...Hết Nguyễn Công Trứ, Tản Đà lại đến Chu Mạnh Trinh, nào: Ai khiến thiếp phải phụ chàng, quạt ước trâm thề mộng dở dang.Chắc chốn biên thùy một cõi nghênh ngang, ai xui được người anh hùng cởi giáp... Mãi rồi cũng chán. Cái “ khí phách anh hùng” của lũ chúng tôi giống hệt bọn phường chèo trên sân khấu. Khi cái dạ dày cồn cào, tỉnh lại thấy xót xa thương mình... Mỗi thằng một ngả kiếm sống. Có phong trào vận động cách mạng, thấy họ nói hay hay tôi theo, trăm thứ bà giằn, làm đủ mọi việc. Hình như việc gì cũng chẳng ra việc gì hay sao ấy! Họ lại điều tôi vào làm chính trị viên trung đội. Mình có phải đảng viên, đảng hòn gì đâu nhưng vẫn làm chính trị viên! Hồi đó, ở cấp trung đội ai biết chữ, đọc được báo cho bộ đội nghe là được làm cái chức này. Đánh nhau vài trận phọt phẹt chẳng làm nên công cán gì thì bị thương. Bị thương nhẹ, nằm ở hang đá chủ yếu do dân chăm sóc thôi. Địch nhảy dù đổ bộ xuống bất ngờ. Quân ta vừa đánh vừa rút lui. Tôi bị “bỏ quên” trong hang đá! Cô Nhẫn này (Ông chỉ tay vào trong bếp) chăm sóc tôi rồi thành vợ tôi luôn. Cô là con của một ông quan lang có uy thế của vùng này. Hồi đầu ông cũng hăng hái cách mạng lắm. Ông nói gì là dân bản nghe và tin răm rắp. Tôi quen nhà tôi từ trước, từ ngày tôi làm sếp ga ở Đụn, cô ta ra học trường huyện ở đấy. Con gái vùng dân tộc mà đi học trường Tây hồi đó là phải biết! Cô ta biết chữ Nho nhiều hơn do bố dạy cho ở nhà. Sự tích là thế. Lấy vợ xong, tôi xin bố mẹ vợ ra ở nơi này. Cái nhà này là ông bố vợ làm cho từ ngày ấy. Tôi bảo phải làm cạnh cái gốc đào này...Cụ dừng lại ngước mắt nhìn lên cây đào đầy ắp kỉ niệm. Tôi nhìn theo, đã cuối tháng ba âm lịch mà trên những cành đào lá xanh non vẫn còn mấy bông hoa tươi thắm...
 Nhìn kĩ, tôi thấy cụ chưa già cho lắm. Tối qua, nhập nhoạng ánh đèn thấy ông để râu dài, đầu búi tó, Hùng Phi một điều “thưa cụ”, hai điều “thưa cụ” tôi cũng cứ thế gọi theo. Giờ, khi đứng đối diện với ông, thấy mặt ông vẫn đầy đặn, đôi mắt sáng, linh lợi, tôi đồ rằng ông chỉ hơn tôi dăm tuổi là cùng. Vừa rồi, lúc kể chuyện về bà Nhẫn, vợ ông, ông bảo: “ Tôi hơn bà ấy đến một giáp!” Tôi thấy giật mình, chắc chắn bà ấy ít tuổi hơn tôi, mà có khi còn ít hơn cả Đỗ Quyên nữa là cái chắc. Khi bà ấy bê nước lên lúc sáng tôi đã thấy ngờ ngợ, không nghĩ bà ta chính là bà Nhẫn, vợ ông...Tôi đang thộn mặt nghĩ kế thay đổi cách xưng hô thế nào cho phải phép thì Hùng Phi về. Anh chào “Cụ Quỳnh” một cách lễ phép rồi xin phép “Cụ” để hai anh em ra ngoài trao đổi công việc. Phi đưa cho tôi một Quyết định điều động tôi về công tác tại phòng ngoại văn của đài phát thanh. Đã làm công tác lãnh đạo, công tác cán bộ nhiều năm, tôi thấy cái Quyết định này khác các Quyết định điều động theo mẫu thông thường. Phần mở đầu ghi:
-         Căn cứ đề nghị của đơn vị H15 thuộc.... với sự bảo lãnh bằng văn bản của đồng chí tiểu đoàn trưởng Hùng Phi.
-         Xét nhu cầu công tác và năng lực của cán bộ,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1: Điều động anh Thân Trọng Hoàng cán bộ phiên dịch công tác tại Đoàn H15 về công tác tại...
 Tôi hiểu. Thì ra, Hùng Phi phải ở lại là để giải quyết công việc cho tôi. Chắc anh phải là người có uy tín và cũng phải vất vả lắm mới thuyết phục được cơ quan tổ chức ra được cái Quyết định này. Tôi và Hùng Phi trở vào nhà. Phi vội vã chào từ biệt “Cụ Quỳnh.”
-         Thôi chết, đi đâu mà vội thế! Ông Quỳnh nói như kêu lên, ở lại ăn cơm với gia đình đã chứ! Nhà tôi đi chợ cũng sắp về rồi!
-         Xin cảm ơn cụ, xin để dịp khác, cháu vội lắm! Anh em đang đợi ngoài kia!
 Ông Quỳnh quay sang phía Hoàng bảo:
-         Ông Hoàng còn nán lại được chứ? Ông Quỳnh hỏi.
-         Dạ thôi xin để dịp khác, Hoàng nói vội theo lời của Phi. Hoàng thấy nhẹ người khi thoát khỏi cái bế tắc một cách nhẹ nhàng về việc xưng hô, chào hỏi, nhất là lúc “Bà cụ” đi chợ chưa về.
 Hai người vội vã ra khỏi nhà ông Quỳnh, lội qua con suối, men theo con đường nhỏ, đi về phía xóm khuất bên kia. Phi hướng dẫn đường đi cho Hoàng đến đơn vị mới, rồi chia tay bạn. Hai người đều quay đầu lại nhìn nhau. Chẳng ai nhìn thấy ai. Bóng họ đã khuất sau dãy rừng thâm u.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                              8
 
 
      Đến đơn vị mới, Hoàng nằm khểnh ở “nhà khách” gần ba tuần mới được tổ chức mời đến trao đổi về công tác. Người gặp anh, tự giới thiệu tên mình là Tự, phó chánh văn phòng. Tự có đôi mắt nhỏ, da ngăm đen, hay nhìn xuống, đầu tóc rối bù. Anh vừa quét bàn vừa hỏi chuyện thân tình với Hoàng:
-         Anh đi đường chắc mệt lắm nhỉ? Khí hậu ngoài này khắc nghiệt không như trong ta.
-         Không, khí hậu ngoài này hay lắm, mùa này thật tuyệt vời!
-         Anh nói phải đấy! Cả bốn mùa, chỉ có cái thời khắc cuối xuân, đầu hạ này là dễ chịu nhất. Mùa đông đến thì biết tay nhau, rét lắm!
-         Nghe nói mùa thu Việt Bắc đẹp lắm phải không anh? Hoàng hỏi Tự.
-         Đối với tâm hồn thi sĩ thì chắc là đẹp, còn bọn tôi thì mùa thu đã lạnh rồi! Tự đáp lại rồi đột ngột chuyển đề tài câu chuyện: “Trên định bố trí anh tạm thời công tác ở tổ Ngoại ngữ chẳng biết ý anh thế nào?”
-         Việc gì cũng được, tổ chức sắp xếp thế nào tôi xin chấp hành, Hoàng trả lời.
-         Không hiểu anh thường sử dụng ngoại ngữ nào nhỉ?
-         Tôi thành thạo tiếng Pháp, tiếng Anh cũng sử dụng được ít nhiều, còn tiếng Hoa thì chỉ đọc dịch được chữ Hán, không nghe được tiếng Bắc kinh.
-         Tốt quá, Tự nói, tổ ngoại ngữ của chúng tôi hiện còn có ba người. Hai người tiếng Pháp vừa được điều đi công tác khác. Ba người còn lại là một bác già dịch tiếng Hoa nhưng cũng không nghe được đài Bắc kinh, hai sinh viên mới ở trong thành ra lo về địa bàn Anh-Pháp. Lực lượng của chúng tôi quá mỏng, được bổ sung thêm anh chúng tôi rất mừng. Nghe đồng chí Hùng Phi nói thì tiếng Pháp của anh rất “siêu” đến nỗi Convié phải gọi anh là giáo sư cơ mà...
 Hoàng cười, bối rối với câu khen bất ngờ:
-         Mỗi môi trường công tác có những yêu cầu cụ thể khác nhau. Tôi đang lo khi nhận nhiệm vụ mới này. Thực ra, trước khi về H15 tôi cũng chưa làm phiên dịch bao giờ. Nhưng yêu cầu công tác ở đấy chắc có khác ở đây. Tôi sẽ cố gắng hết sức, có gì các anh giúp đỡ thêm.
   Tự dẫn Hoàng đến nơi làm việc của tổ Ngoại ngữ. Mọi người như đã được báo trước, đứng dậy tươi cười đón khách vồn vã. Tự nói: “ Giới thiệu với anh Lân (tên người đàn ông nhỏ thó ngồi trong góc dịch tiếng Hoa) và các anh: Đây là anh Hoàng, thành viên mới của gia đình chúng ta. Mong các anh hợp tác tốt với nhau để hoàn thành nhiệm vụ trên giao cho. Hiện nay toàn thế giới đang tập trung theo dõi tình hình Việt nam, chiến dịch Điện Biên Phủ đang đi vào hồi kết với thắng lợi vang lừng của chúng ta, hội nghị Genève về Đông dương đang ở thế giằng co quyết liệt...Ta là tai mắt cho Đảng, cho chính phủ, phải có sự nhạy cảm về chính trị để tổng hợp phân tích được tình hình...Việt nam không còn là chuyện riêng của chúng ta nữa...Vấn đề cốt lõi là qua các kênh bình luận ở nước ngoài,  nắm được động cơ, bản chất thái độ của các thế lực. Đây là điều hết sức tế nhị...”
 Hoàng về chỗ ở của mình, không xa nơi làm việc. Vẫn nghĩ đến những điều Tự nói hồi nãy, nghĩ bụng: “ Chẳng biết họ điều hành công việc thế nào, chỉ với ba thằng người, cả mình nữa là bốn mà lại giao những “sứ mệnh” trọng đại như thế? Có lẽ người nói, nói theo thói quen của mình, còn người làm cũng chỉ làm theo thói quen của họ thôi...” Nghĩ vậy, rồi thôi. Đầu óc anh lại quay về với ông Quỳnh. “Sao cuộc đời của ông ta giống mình đến vậy?” Hoàng nghĩ, “có lẽ mình là bản nháp còn ông Quỳnh là phiên bản chính thức của một mẫu người do thượng đế nặn ra để thích ứng với thời thế ngày nay, giúp cho con người có cơ may tồn tại chăng?” Hoàng tự đối thoại với chính mình:
-         Liệu một xã hội toàn những công dân như ông Quỳnh có tồn tại được không?
-         “Tri túc thì nhàn”, triết lí sống của ông là vậy nhưng cái khó của con người là sự “tri túc”. Lòng tham, khát vọng của con người là vô tận. Không có một cuộc sống nào họ tự cho là “đủ” cả. Dân ta vẫn có câu “Được voi đòi tiên” là gì?  Ngay đạo Phật cũng chỉ ra cho tín đồ của mình rằng muốn lên cõi Niết bàn thì tự mình phải thủ tiêu những dục vọng, ham muốn cá nhân nữa là...Cái xã hội của ông Quỳnh ưu việt hơn cái Niết bàn của đạo Phật là nó hiện thực ngay trên mặt đất này. Nó không bắt con người phải diệt dục. Nó chỉ đòi hỏi mỗi con người phải biết tiết chế dục vọng, biết thế nào là đủ (tri túc) trong hoàn cảnh của mình.
-         Nhưng, liệu khi con người không còn khát vọng, hoặc khi mọi tham muốn, mọi nhu cầu được đáp ứng đầy đủ thì xã hội đó có còn động lực để phát triển nữa không? Động lực đó là gì?
-         Khát vọng cá nhân của con người là động lực phát triển của mọi hình thái xã hội. Con người không có khát vọng, xã hội sẽ không phát triển. Nhưng nó chỉ là động lực khi khát vọng của mỗi người phù hợp với năng lực của cá nhân đó. Còn trường hợp ngược lại, khi năng lực cá nhân thấp kém mà ước vọng của họ lại quá viễn vông, to lớn thì khát vọng đó lại gây ra tội ác! Các nhà chính trị muốn lôi kéo quần chúng theo mình đã kích thích khát vọng của mỗi cá nhân họ lên cao độ rồi chỉ cho họ con đường sai lầm để thỏa mãn khát vọng đó, đã dẫn đến nhiều cuộc chiến tranh, tàn sát đẫm máu: các cuộc thập tự chinh thời trung cổ, chủ nghĩa phát xít...Và, cả những kẻ tử vì đạo nữa, là những ví dụ cụ thể.
 Hoàng thường đi làm về sớm. Hầu như các buổi chiều anh được nghỉ, do chênh lệch về múi giờ anh phải làm việc về đêm để bắt các đài phương Tây. Hai vợ chồng người chủ nhà đi làm nương suốt ngày, ít khi anh gặp mặt. Ở nhà, hai đứa con nhỏ. Đứa con gái nhớn khoảng lên mười, biết đọc. Thằng em giai bé hơn chưa biết chữ. Cô chị thường đọc cho em nghe các mẩu chuyện cổ tích Việt nam. Chúng vừa mượn đâu được quyển sách ấy. Cậu bé đang nghe chị đọc đến chỗ: “Ăn một quả khế trả một cục vàng...” Cậu bảo chị:
-         Sao mình không bảo bố trồng mấy cây khế nhỉ?
-         Đời ông nội, bố bảo, nhà mình có cả một vườn khế bạt ngàn. Khế chín rơi thối cả đất chẳng thấy Đại bàng đâu. Bố càu nhàu; “Không dạy cho con người chăm chỉ làm ăn, lại dạy họ thói lừa gạt đem quả khế rẻ thối đổi lấy của người khác cục vàng...Chết đói là phải.” Bố chặt hết chẳng để cây nào!
  Cậu bé nằm im, có lẽ đang theo đuổi giấc mơ đem khế đổi vàng của mình. Cô chị lật trang sách, đọc qua chuyện khác. Bổng cô rú lên: “Eo ơi! Kinh chết đi được...” Cô chạy ra vườn ọe. Cậu bé ngạc nhiên, chạy theo: “Gì đây chị!...Gì đây chị...” Cô chị lắc đầu, đưa tay chặn ngang cổ như đang ngăn lại cơ buồn nôn: “ Tởm lắm!...Mắm thịt người...Mẹ ăn thịt con...Cái cô Tấm này ác quá! Ác quá!...”
-         Chị kể cho em nghe đi! Cậu bé nũng nịu.
-         Không, không, em đừng nghe chuyện này! Chị kể chuyện khác nhé!
-         Em ứ nghe chuyện khác! Kể chuyện ấy cơ...
 Hoàng đang ngồi dưới khóm tre, nhớ Đỗ Quyên và hai đứa con rồi lại lạc qua ngôi nhà của ông Quỳnh bên bờ suối...Giờ này họ đang làm gì, nghĩ gì nhỉ? Anh nhớ đến cái giá sách đồ sộ ở nhà ông. “Trời chiều buồn lặng thế này chắc ông đang đọc Hồng lâu mộng.” Anh nghĩ. Mấy chiếc lá tre vàng rơi trên đầu. Tiếng đàn chim sẻ líu ríu chiều hôm. Câu chuyện của hai đứa bé thức tỉnh anh. “Thì ra quanh ta còn quá nhiều điều phải đính chính lại...” Anh nghĩ. Ta muốn có những thế hệ con người sống trong công bằng, bác ái nhưng lại gieo vào tâm hồn chúng từ thuở còn thơ lối sống bất công và tàn bạo! Quả khế đổi lấy cục vàng là một sự trao đổi không ngang giá. Điều này chỉ có thể là sự lừa đảo hoặc bóc lột, không có gì khác hơn! Còn cô Tấm nữa! Hình như có lúc, có người muốn biến cô thành một thánh mẫu nữa đấy! Nếu anh, anh có chọn một người đàn bà có tâm địa như vậy để làm vợ không? Chắc chắn không. Có ai có thể tự hào mình là con đẻ của cô Tấm không? Ít lắm! . Hoàng duỗi chân, tựa đầu vào gốc tre, ngồi ở trạng thái thư giản. Anh tiếp tục nghĩ về những câu chuyện cổ tích Việt nam. Hoàng nhớ lại tuần trước, một phóng viên của tờ Lơ- phi- ga- rô đến Việt nam để đưa tin về chiến sự. Anh ta là người có thiện cảm và hết lòng ủng hộ cuộc chiến tranh giải phóng của Việt nam. Anh tự giới thiệu:
-         Tôi là Richad, tôi đến Việt nam hôm nay với tư cách một nhà báo nhưng thực chất tôi là một nhà “Việt nam học”. Ở phương Tây có nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa phương đông. Sai lầm lớn nhất của họ là chỉ tập trung nghiên cứu về văn hóa Trung hoa. Họ coi phương Đông chỉ là Trung hoa, có chăng nữa thì cũng chỉ biết thêm Ấn độ, Nhật bản... Ngay cả một người có tên tuổi như nhà sử học người Mỹ gốc Pháp Will Durant đã bỏ hơn ba mươi năm nghiên cứu về văn minh-văn hóa phương Đông cũng chỉ đề cập đến hai quốc gia là Trung hoa và Ấn độ. Ít người đề cập đến văn hóa Việt nam. Richad để tập báo lên bàn rồi đặt cuốn “Truyện cổ tích Việt nam” lên trên như một vật chặn giấy, nói:
-         Tôi nghĩ khác, một dân tộc nhỏ bé như Việt nam, tồn tại bên cạnh một nước lớn, suốt hàng ngàn năm Bắc thuộc vẫn không bị đồng hóa. Ngoài cái ý chí kiên cường bất khuất ra chắc chắn họ phải có một nền văn hóa có  bản sắc riêng, có tính đặc thù cao, có cội rễ sâu xa mới tồn tại và phát triển được. Tôi chọn ngành “Việt nam học” là  vì vậy!
-         Cám ơn ông, Hoàng nói.
-         Nhưng, tôi gặp quá nhiều khó khăn, tư liệu sưu tầm được ít quá. Tôi đã làm việc với thư viện Quốc gia, Đông dương Bác cổ ở Hà nội và cả những thư viện, Bảo tàng ở Paris... nhưng tư liệu chưa nhiều. Tôi sẽ cố gắng sưu tầm thêm, nhưng hôm nay tôi muốn trao đổi với ông những vấn đề nóng hổi mà tôi vừa thu lượm được.
-         Tôi sẵn sàng, nếu điều đó nằm trong phạm vi hiểu biết của  tôi.
-         Tôi đọc các bài xã luận trên báo các anh thấy nói nhiều đến những nguyên nhân thắng lợi là dựa vào đường lối chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mình là chính, biết lấy ít thắng nhiều...Trong chiến tranh, nhân tố con người là quyết định chứ không phải là vũ khí...Nhưng khi tìm hiểu truyền thống có trong các chính sử ra thì truyền thuyết, chuyện dân gian cũng có vai trò quan trọng nhất là khi nhìn nó dưới góc độ văn học thì dường như có mâu thuẩn. Những điều các anh thực hiện thành công bây giờ không có trong truyền thống ngàn xưa!..
-         Ông có thể cho biết những nghiên cứu cụ thể hơn của ông được không? Hoàng hỏi.
-         Tôi nhìn lịch sử dưới góc độ văn hóa vì vậy khi xác định một điều gì đó được coi là truyền thống của một dân tộc phải đi từ cội nguồn, từ truyền thuyết được dân tộc ấy chấp nhận và lưu truyền.
-         Tôi cũng nghĩ vậy, Hoàng bảo, chúng ta sẽ trao đổi một cách thẳng thắn.
-         Xin bắt đầu từ vị vua An Dương Vương. Ông xây thành Cổ Loa nổi tiếng nhưng không thể nào xây được nếu không có Thần Kim Quy giúp sức. Rồi đến khi bảo vệ thành cũng nhờ vào nỏ thần của Kim Quy trao cho. Có nỏ thần Vua ung dung ngồi đánh cờ uống rượu, giặc đến dưới chân thành cũng không sợ. Khi nỏ thần bị đánh tráo, Vua một mình, một ngựa bỏ chạy, thành mất vào tay ngoại bang. Vua đã quay lại chém chết “kẻ thù” (theo sự chỉ bảo của Thần) chính là con gái của mình chứ không phải là kẻ ngoại bang xâm lược! Không chỉ có chuyện An dương Vương với thành  Cổ Loa mà cả chuyện xây thành Thăng long cũng nhờ vào thần Bạch Mã. Đánh thắng quân Minh cũng nhờ vào kiếm thần Kim Quy trao cho...Không thấy tinh thần tự lực cánh sinh, không thấy vai trò chủ đạo của con người trong quá trình dựng nước và giữ nước qua các huyền thoại này. Mất cái nỏ thần là mất nước! Một câu hỏi đặt ra: “Nếu không có kiếm thần liệu Lê Lợi có thắng được quân Minh hay không? Truyền thống coi con người là nhân tố quyết định trong chiến tranh có tự bao giờ?”
 Hoàng cười:
-         Thật lí thú khi nghe ông nói, tiếc rằng tôi không phải là nhà “Việt nam học”. Giá được, ta tổ chức một hội nghị gồm các nhà văn hóa, lịch sử để trao đổi thì hay quá! Đúng là đứng xa trông rõ.
 Hoàng nghĩ bụng: “ Mình đã đọc những chuyện này từ thời thơ ấu. Thần tượng thần Kim Quy là một cái gì thiêng liêng, một vị cứu tinh của dân tộc. Nào ngờ, vị thần linh nàỳ đã đánh lạc hướng An Dương Vương, làm cho An Dương Vương không nhận ra kẻ thù chủ yếu của mình, đã chĩa lưỡi gươm vào cổ đứa con gái do mình rứt ruột sinh ra. Vua cha ơi! Sao mê muội thánh thần đến vậy? Có lẽ nào Người không hiểu được kẻ thù chính là kẻ cướp nước, kẻ dày xéo giang sơn xã tắc của  chúng ta? Sao nỡ coi những tình cảm trong trắng thơ ngây, coi tình yêu chung thủy của một người con gái do mình rứt ruột đẻ ra là kẻ thù! Có lẽ nào bọn người dùng những thủ đoạn hèn hạ xấu xa để đi cướp nước người lại mua chuộc được cả thần thánh nữa hay sao?
 Hoàng đứng dậy đi vào nhà, vừa đi vừa lẩm nhẩm: “ Xác định sai kẻ thù, mất nước! Mất nước!” Hai đứa trẻ trố mắt nhìn ông khách chưa quen. Ngơ ngác nhìn nhau, không biết ông nói gì. Ông đang viết chuyện cổ tích cho đời sau chăng!
 
*
*    *
 
   Hoàng dạo này ốm nhiều. Có lẽ anh không thích nghi được với thời tiết khí hậu vùng cực Bắc này. Lần lữa mãi rồi cũng phải đi nằm viện. Hoàng vẫn mang theo bên mình chiếc ra-đi-ô. Đêm đêm vẫn lần dò làn sóng vô tuyến điện nghe tin, cứ sáng sớm đơn vị lại cử người đến lấy tin đem về tổng hợp. Anh đang trùm chiếc chăn lên đầu và phủ kín cả chiếc đài để ghi chép, không cho ánh sáng lọt ra ngoài. Có người vỗ nhẹ vào hông anh. Tắt vội đèn, Hoàng nhỏm dậy. Bác sĩ trực trong chiếc blu trắng, Hoàng chỉ nhìn thấy lờ mờ nhờ có ánh trăng bên ngoài hắt vào. Một giọng Huế ấm áp, nói rất khẽ: “ Đề nghị đồng chí nghiêm chỉnh chấp hành nội quy bệnh viện!”
-         Vâng, vâng, xin lỗi, nghĩ bụng: “Giọng nói này sao quen quá!” Anh đặt đầu xuống gối, vờ ngủ, chăn kéo ngang cằm. Tiếp tục suy nghĩ, tìm trong trí nhớ cái giọng nói thân quen mà mình đã từng nghe đâu đó.
 Bác sĩ quay lại đứng dưới chân bệnh nhân. Hình như ông cũng thấy nét gì đó quen quen ở người bệnh. Ông đưa tay cầm chiếc bảng phiếu theo dõi điều trị, ghé ra ngoài cửa sổ đọc: “ Giường số 13-Thân Trọng Hoàng, Đài phát thanh...” “ Sao lại là đài phát thanh nhỉ? Làm gì ở đài phát thanh? Giám đốc chăng? – Có là giám đốc cũng chưa tương xứng với chức vụ của anh ta trước đây...” Tự đặt câu hỏi rồi tự trả lời. Bác sĩ đứng lặng, trầm ngâm. “ Không thể!” ông bước vội về phòng trực, ngồi đợi trời sáng. Lại tiếp tục nghĩ: “Thân Trọng Hoàng có phải là Sáu Hoàng lừng danh hồi hoạt động ở Kim Sa không nhỉ?”
 Ăn sáng xong, chưa đến giờ khám bệnh, các bệnh nhân đều tản ra ngoài vườn hít thở khí trời. Bác sĩ Can xăm xăm đi về phía giường số 13. Giường trống. Nhìn ra ngoài, mắt ông dừng lại ở một gốc cây to, cành lá xum xuê. Một người đàn ông đứng tựa vào gốc cây, chân phải co về phía sau đạp lên thân cây, chân trái duỗi thẳng đang nói chuyện với một người thấp lùn đứng đối diện. Hai người có vẻ tương đắc lắm. Can tiến lại. Hoàng quay mặt nhìn. Nhận ra nhau. Hai khuôn mặt méo mó không phải khóc, không phải cười. Họ ôm ghì lấy nhau, rồi nắm hai bờ vai đẩy nhau xa ra để nhìn cho rõ toàn thân của bạn mình. Bốn con mắt ướt nhìn nhau, tưởng như trong mơ. Can hỏi:
- Anh ra đây hồi nào?
- Rời Kim Sa sau ông một tuần, à, không phải, chỉ năm ngày thôi nhưng mới đến đây hơn tháng! Hoàng thủng thẳng trả lời.
- Sao vậy? Chắc lạc bước vào vương quốc đàn bà nào chăng? Can hỏi.
- Được thế thì may và chắc tớ sẽ chẳng còn gặp cậu hôm nay. Tớ chẳng “ngố” như Đường Tăng đâu!
 Hai người lại bập bốn bàn tay lên vai nhau cười dòn tan. Họ sống lại thời thanh niên sôi nổi của ngày “cướp chính quyền”.
 Chiều ấy, sau giờ làm việc Hoàng theo Can về “Ngôi biệt thự” của Can dưới lùm cây um tùm của sườn đồi bên kia. Hoàng lặng im theo sau lưng Can, không ai nói gì với ai. Họ nghĩ gì? – Không ai biết. Đến một con suối nhỏ, Can dừng lại đợi Hoàng. Một rạch nước nhỏ, trong veo róc rách chảy. Giữa dòng cát trắng lấp lánh. Bên bờ suối, có mấy gốc thông già, gió chiều hiu hắt. Xạc xào lá rụng. Can bảo Hoàng:
-         Lại đây, bước qua mấy hòn đá này sang bên kia là an toàn.
 Bên này bờ là những mái đồi thoai thoải, cỏ mọc dầy, thưa nhặt đó đây những nương sắn, ruộng ngô. Nắng phủ một màu vàng da cam xao xuyến. Trên bầu trời xanh phiêu dạt mấy đám mây trắng mỏng manh. Những đàn chim ríu rít bay về tổ trong ánh nhạt nhòa chiều hôm. Chỉ tay về hướng tây, Can bảo Hoàng “ Nhà kia rồi!”. Hoàng theo Can đi vào một ngôi nhà hoàn toàn bằng tre nứa. Mái lợp bằng những cây vầu to hai nửa úp sấp ngửa như sóng lượn, trông xa cứ tưởng như mái ngói lưu ly trên các đền đài cung điện. Các cửa sổ, dọc theo các chấn song bằng trúc vàng có cài các bông hoa đan bằng mây. Trong nhà bài trí đơn sơ, gian giữa là một bộ ghế trúc gồm sáu ghế. Hai hồi nhà là hai sạp nằm làm bằng tre nứa...  Hoàng  ngạc nhiên hỏi:
-         Ông ở một mình như Rô- bin- xơn thế này à?
-         Can cười, chuyện này hay lắm! Anh nói, cái nhà này là tôi và cậu Thao cùng làm, cả anh em trong bệnh viện giúp sức nữa chứ mình tôi sức mấy mà dám ra đây ở một mình!
-         Thế cậu ấy đâu? Hoàng hỏi.
-         Chuyện dài lắm! Can nói, cũng hay, con người thật đa dạng...
 Thao là một bác sĩ trên điều về đây công tác. Nói cho đúng chức danh của anh ta như trong Quyết định là Y sĩ cao cấp. Anh ta là một hình mẫu của phương thức đào tạo tầng lớp trí thức mới của công-nông.Thao thuộc thành phần bần cố nông chính hiệu. Vào bộ đội chưa biết chữ. Anh em dạy cho, xong lớp bốn, được cử đi học lớp y tá, thời gian sau đưa đi đào tạo bổ túc Y sĩ, được mấy năm, chắc cũng có thành tích chiến đấu cộng với thành phần cơ bản, trên cho đi học lớp chuyên tu thành Y sĩ cao cấp (Mọi người vẫn gọi chung cho tiện là bác sĩ). Tốt nghiệp Thao được bổ nhiệm làm phó ty Y tế tỉnh này. Trưởng ty là ông Mân một y sĩ được đào tạo từ thời Pháp. Mân cũng tham gia quân đội từ ngày đầu kháng chiến, lăn lộn nhiều chiến trường nhưng do kẹt về lí lịch nên không được vào đảng. Ông được chuyển ngành về đây. Xứ này là nơi thâm sơn cùng cốc. Mân là người có tay nghề, cứu sống cho nhiều đồng chí cấp cao ở địa phương nên rồi cũng lên được cái chức trưởng ty. Ông là người rụt rè, không dám quyết việc gì. Thao được bổ nhiệm phó ty chắc là bước đệm để thay Mân. Hôm liên hoan đón phó ty mới (Thao) ông Mân hân hoan nói: “Trên thật sáng suốt, bổ nhiệm anh Thao về đây, tuy chức danh của anh mới là phó, phó giúp cho tôi nhưng xin anh cái gì có lợi cho công việc anh cứ mạnh dạn quyết đi đừng nề hà trưởng, phó gì cả... Việc gì tôi không biết tôi hỏi anh, việc gì anh có khó khăn anh bảo tôi. Tóm tắt cho dễ hiểu, phân công công tác giữa hai chúng ta là thế này: “Tôi nắm chính quyền, anh nắm quyền chính...” Thao là con người vô tâm, anh chẳng ý thức gì về cái chức vụ mà anh vừa được bổ nhiệm, không lên mặt, chẳng kèn cựa gì với với Mân. Anh coi Mân như người anh lớn tuổi trong nhà. Thao biết, cả trong lĩnh vực nghiệp vụ, tay nghề, quá trình công tác mình không bằng Mân nên vẫn tôn trọng Mân một cách thành thực. Mặc dù Thao vẫn nghĩ rằng mình thay Mân làm trưởng ty là lẽ tất nhiên vì mình là “thành phần cơ bản”, vừa được bổ sung vào tỉnh ủy (tỉnh ủy viên) nhưng anh không ao ước cái chức trưởng ty, anh chỉ thích ít bị ràng buộc vào công tác, vào chức vụ. Anh chỉ thích được tự do, “có nhiều thời gian sống cho mình” như lời anh vẫn nói ra miệng. Anh đang tìm vợ, muốn có một cô vợ đẹp. “Nhất vợ nhì trời!” Thao là thế. Thao đang say cô Lệ Dung bán thuốc Tây ngoài phố. Say như ăn phải bùa mê, thuốc lú. Dung mười bảy tuổi, xinh lắm, nổi tiếng khắp vùng. Bố Dung là ông Đổng, chẳng làm gì chỉ sống nhờ vào cái bàn máy khâu của vợ và cái tủ thuốc của cô con gái. Thế rồi cuộc cải tạo công thương nghiệp tư doanh bắt đầu. Nhà ông Đổng bị quy là tư sản. Nghe tin, Thao điên tiết đến gặp đoàn trưởng đoàn cải tạo hỏi:
-         Các anh dựa vào quy định nào mà xác định thành phần nhà ông Đổng là tư sản?
-         Chắc anh mới về nhận công tác ở đây chưa lâu, Sầm (Trưởng đoàn) từ tốn nói, chưa hiểu ngọn ngành, gốc tích nhà ông Đổng.
-         Ngọn ngành gì thì cũng phải căn cứ vào các tiêu chuẩn, quy định và từ thực tế cụ thể chứ? Thao đã có vẻ hơi nóng tai.
-         Có chứ, công tác của chúng tôi đụng chạm đến sinh mạng chính trị đến hàng ngàn, hàng vạn con người, không nắm vững các quy định cụ thể, không đi sát thực tế làm sao làm được!
-         Tôi chưa nghe ai nói có nhà tư sản nào mà tài sản chỉ có một chiếc máy khâu “Cà khổ” để vợ đi vá tíc-kê đũng quần kiếm sống và cái tủ thuốc to bằng cái hòm của thợ cạo chuyên bán vài viên thuốc đau bụng, nhức đầu cả! Thao nói gay gắt.
-         Thực ra, tôi không có trách nhiệm báo cáo với anh công việc của chúng tôi đang làm. Tôi biết anh là tỉnh ủy viên nhưng công tác của chúng tôi: Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và cải cách ruộng đất không chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy địa phương. Nhưng anh đã đến đây, tôi nói để anh biết, tiêu chuẩn cơ bản để xác định thành phần giai cấp là có lao động hay không lao động, có nguồn gốc bóc lột hay không? Ông Đổng không lao động gì, bố ông ta dù đã về hưu nhưng đã từng là tri phủ, hiện đang sống ở miền Nam. Chưa rõ, viên cựu tri phủ, tay sai đắc lực của thực dân Pháp này có được bọn địch tổ chức móc nối với các phần tử bất mãn thuộc thành phần bóc lột nằm vùng ở hậu phương của ta để phá hoại cách mạng hay không, chúng tôi đang nghiên cứu. Đây cũng là một mục tiêu quan trọng của công tác cải cách ruộng đất và cải tạo công thương chứ không đơn giản là chỉ căn cứ vào tài sản cụ thể để xếp thành phần thôi đâu! Xác định cái “Tài sản vô hình” ấy mới khó, mới đòi hỏi người cán bộ phải có quan điểm rõ ràng, lập trường vững chắc đấy! Anh hiểu chứ? Sầm trả lời gay gắt không kém. Cũng nói thêm để anh biết, lẽ ra bước một này chỉ thực hiện cải cách ruộng đất, đánh đổ địa chủ, bước hai mới làm đến bọn tư sản nhưng ở vùng căn cứ địa này, trình độ giác ngộ của nhân dân cao với lại lực lượng tư sản không nhiều (tư sản chắc chỉ vài mống là hết, ngoài ông Đổng ra chúng tôi đang xét bà Hằng nữa là hết) nên trên cho làm chung một đợt luôn thể.
 Thao uất nghẹn họng ra về. Tối ấy Thao bỏ ăn, uống rượu say. Sáng ra, tỉnh dậy, Thao đến nhà ông Đổng đặt vấn đề xin cưới cô Dung, chẳng thèm làm lí lịch của người yêu để báo cáo với tổ chức theo quy định. Nhà ông Đổng như chết đuối vớ được cọc. Ông ngõ ý đề nghị Thao làm đám cưới đàng hoàng cho mát mặt cha mẹ. Ở vùng này con gái có chồng là bác sĩ lại là quan chức hàng tỉnh nữa thì thật là một đại phúc của gia đình. Ông ngầm nuôi hy vọng Thao là tỉnh ủy viên có thể làm giảm cái “án” tư sản cho gia đình nhà ông. Thao chấp nhận hết, còn làm quá yêu cầu của gia đình nhà gái. Anh nhờ thợ may ở thị xã lấy số đo rồi nhờ người về Hà nội may một bộ com-lê bằng hàng sang, thửa một đôi dày da, đen bóng, hai chiếc cà vạt rất thời thượng. Đám cưới anh không có một quan chức cấp tỉnh nào đến dự trừ ông Mân trưởng ty và một vài người bạn thân. Mặt Thao rạng rỡ tươi hơn hớn như không có chuyện gì xảy ra. Anh khoác tay Dung đi chào bà con họ mạc, tất cả đều đứng dậy reo lên: “Đẹp đôi quá! Đẹp đôi quá!” Mọi người lại thì thầm: “Con bé Dung xinh thế lấy được anh chồng danh giá này cũng đáng một đời!” Mân bắt tay Thao rất lâu, nở một nụ cười đằm thắm để tỏ ý chúc mừng.
 Thao bị mất sạch, mang cái quyết định y sĩ cao cấp về công tác tại bệnh viện.
-         Thế Thao bây giờ đi đâu? Hoàng lại hỏi.
Không trả lời ngay vào câu hỏi của Hoàng, Can chỉ tay ra các triền đồi nói:
-         Mấy cái ruộng đỗ, ruộng ngô kia là của cha ấy đấy! (Can có thói quen dùng cái đại từ nhân xưng ngôi thứ ba “cha ấy” để nói về những người mà mình thích.) Hắn  say sưa với cuộc sống ở đây. Cứ mỗi chiều thứ bảy khi buộc vào boóc- ba-ga những báo thóc, bao ngô, đậu, mấy chục trứng gà tươi mang về cho vợ, hắn cười khì khì: “Hạnh phúc là đây ông ạ! Đúng là ngựa tái ông họa phúc biết về đâu!” Vèo một cái, hắn phóng xe ra ngõ. Có lần cười đến vỡ bụng, hắn cho hai con gà vào cái bao tải sau xe định đem về nhà, bao tải có một lỗ thủng to hắn không để ý. Vừa ra khỏi ngõ, hai con gà chui ra khỏi bao nhảy xuống đất. Mãi mê với bữa tiệc chiều nay của gia đình, hắn không hay biết gì. Quá một phần ba đường, linh tính mách bảo, quờ tay ra sau, bao tải lép kẹp...Hắn hớt hãi quay trở lại, thấy hai con gà đứng cùng đàn nhởn nhơ bắt rận bên bờ ruộng. Đuổi mãi không sao bắt được, hắn tóm vội hai con ngan, buộc chặt treo vào ghi đông nói : “Cái gì cũng có số cả ông ạ!” rồi tất tưởi phóng xe đi. Đang say mê như thế, hắn lại được điều về trường y tế của tỉnh làm giáo viên. Hôm rồi về đây thu hoạch, hắn lại vui vẻ khoe: “ Về đấy xin được cho vợ vào học y tá rồi. Hai vợ chồng có một túp lều để ở. Sướng nhất là tối nào cũng được ôm vợ...khỏi phải đạp xe mấy chục cây số, cả tuần mới về một lần, về đến nơi rạc cả đầu gối... như hồi còn ở đây.”
 Được tin Hoàng về ở chung với Can. Chủ nhật ấy, Thao tức tốc phóng vào nói là để làm một lễ mọn ra mắt Hoàng, coi như bữa rượu “Vườn đào kết nghĩa”. Can và Hoàng lóng ngóng chẳng biết làm gì, chỉ biết nhặt rau, đun bếp, nhổ mấy cái lông gà...còn thì chỉ lăng xăng chạy ra chạy vào. Mọi việc nấu nướng, chế biến thực phẩm đều một tay Thao làm. Hoàng đề xuất mời thêm cả Quỳnh. Tất cả đều tán đồng. Thì ra biết nhau cả. Vợ chồng Quỳnh là bệnh nhân quen thuộc của Can. Thao có vẻ mê cuộc sống của Quỳnh. Trước khi quyết định cưới vợ, Thao đã đến gặp Quỳnh định xí phần cái khoảnh đất bên kia suối đối diện với nhà Quỳnh. Nếu bị kỉ luật thải hồi thì chắc Thao đã đem vợ về làm hàng xóm của Quỳnh rồi. Mấy lần gặp Can, Quỳnh  nhắc đến “khí phách” của Thao với vẻ thán phục.
 Rượu vào, lời ra, họ say sưa quên cả trời đất. Can bảo Thao:
-         Tại cậu tham vợ đẹp quá chứ như lấy một bà vợ “cơ bản” hơn thì bây giờ lên cao chót vót rồi! Hồi ấy đã tỉnh ủy viên rồi cơ mà!
-         Lên cao đến mấy thì cũng chẳng bao giờ tới được thiên đường, còn tôi bây giờ đêm nào cũng nằm trên thiên đường rồi! Thao lè nhè...Tôi học lão Quỳnh đấy! Lão ấy khôn sớm hơn tôi.
 Quỳnh nở nụ cười mãn nguyện. Nói với Thao:
- Cái lão Mân nhà cậu chán bỏ đời. Biết người ta chưa tin mình, chưa đủ tín nhiệm đối với mình, thì thôi đi, về mà làm chuyên môn, mà cày ruộng, có ích cho đời hơn. Lãnh đạo gì mà nói không dám nói, làm không dám làm, rụt rụt rè rè chán chết! Lại đi đề xuất cái cơ chế “Tôi nắm chính quyền, anh nắm quyền chính!”
- Ông nhầm, Thao nói, cái tính rụt rè nhút nhát của Mân không phải do ông ta chưa là đảng viên, không được tín nhiệm đâu! Đó là một căn bệnh ông ta mắc phải sau khi lấy vợ được ít lâu.
 Mọi người ngạc nhiên quay lại nghe câu chuyện về sự tích ông Mân. Vợ ông ta là bà Thoa, con gái của một gia đình buôn bè giàu có. Mân tốt nghiệp y sĩ Đông dương về làng, com lê, cà vạt, giầy da bóng loáng. Con gái cả làng, cả thị xã rùng rùng kéo theo, xua đi không hết. Bà Hằng, mẹ Thoa một chủ buôn bè giàu có, từng trải sông nước, khéo lắm. Bà đã tổ chức một cuộc “mai phục” thành công, Mân trở thành con rể của bà, chồng Thoa. Vợ chồng như đôi uyên ương, sóng sánh bên nhau sáng chiều lượn phố, thăm hỏi họ mạc. Đâu đâu cũng tưng bừng râm ran: “ Chào quan đốc[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn22][22][/link] , chào bà đốc!” Thế rồi cách mạng bùng lên, Mân đi bộ đội làm quân y sĩ. Bà Thoa sốt ruột, thấy chồng chẳng được thăng quan, lên chức gì, chỉ được cái quân hàm chuẩn úy, trong khi những người làm thuê cho nhà bà, đi lính sau Mân nay người đại úy, tiểu đoàn trưởng, người trung trung tá, trung đoàn trưởng...Mỗi lần về phép, Thoa đay nghiến Mân là thằng đần, thằng đụt...Khi chuyển ngành, Mân hăm hở quyết tâm phấn đấu vươn lên. Nhiều đêm anh xung phong trực thay cho bạn. Khi có ca nặng nhập viện, dù không phải phiên trực của mình Mân cũng ghé vào bệnh viện thăm bệnh nhân. Bà Thoa nổi đóa tưởng ông tằng tịu với mấy cô y tá. Có đêm ông ta vừa ló mặt về nhà bị bà Thoa vật xuống nền nhà đánh cho chí tử, xé cả quần áo. Mân vì sĩ diện, sợ hàng xóm biết sẽ mất thể diện nên cứ nằm im cho vợ đánh không dám kêu rên gì. Cái trò đời, người đánh thường muốn làm cho người bị đánh phải thật đau, phải thét lên mới hả dạ, đằng này Mân lại nằm yên như cái bị gạo, bà như bị trêu tức, cơn giận bốc cao. Thoa cỡi lên người Mân gào thét xỉ vả, đánh đạp... đến ngất đi. Người bà to như ông Hộ pháp. Bà ngồi lên cái lưng còm nhom của Mân khác nào ngọn Ngũ hành sơn úp lên Tôn Ngộ Không. Dù Mân có đau quá mà kêu lên cũng chẳng còn ai nghe thấy. Hàng xóm thấy lạ, tưởng Mân “có tịt” thật nên cúi đầu nhận tội không dám nói năng gì. Cái gì cứ lặp lại mãi cũng thành thói quen. Đánh chồng là một thói quen của Thoa, nhịn đòn là một thói quen của Mân. Nếu cứ tiếp tục vậy chắc chắn không chỉ là một thói quen của hai người mà có khi còn chuyển sang di truyền cho thế hệ con cháu họ. Có lần Mân được bầu là chiến sĩ thi đua của bệnh viện. Anh hớn hở chuẩn bị đọc báo cáo điển hình hôm ấy. Anh dậy sớm, quần áo tươm tất đầu tóc chải mượt, vừa bước một chân ra cửa, bà Thoa kéo dật vào, nói: “Hôm nay đi với con đĩ nào mà tí tởn vậy?” Thoa cầm lấy món tóc đường ngôi thẳng tắp  của Mân day day mấy cái, dúi đầu Mân xuống giường. May sao ông còn kịp kéo sập cái cánh cửa lại nên lối xóm không ai nhìn thấy. Bà đưa tay giật cái bút Kim tinh nắp vàng (phần thưởng chiến sĩ thi đua của Mân) lấp lánh trên túi ngực Mân, làm rách toạc cả ngực áo. Bây giờ mới thấy Mân mếu thực sự, anh chỉ còn duy nhất một chiếc sơ mi ấy là lành! Thế nhưng, nói cho ngay, bà ta cũng có lúc biết điều, có đầu óc thực tiễn. Để chồng ăn mặc rách rưới ra ra đường bà thấy ngượng cho chính mình nên từ đấy dù giận mấy bà cũng không xé quần áo chồng. Bà chấp nhận sự im lặng chịu đựng, không kêu rên của Mân khi bị đánh đau. Bà còn tỏ ý phục chồng, lần đầu tiên trong đời làm vợ Mân, bà chịu phục, bà coi sự cắn răng chịu đau của Mân là một cách ứng xử thông minh, một tinh thần kiên trì phấn đấu. Đánh, bà vẫn tiếp tục, nhiều khi chẳng có duyên cớ gì cụ thể. Đó là thói quen. Sợ đòn, khép nép rụt rè kể cả khilên nhận bằng khen ở cơ quan, khi bà Thoa không có mặt...Đó cũng làthóiquencủaMân.
Can nhìn Hoàng, pha trò:
- Tôi với ông tụt khỏi thiên đường rồi giờ tính sao đây?
 Thao cắt ngang câu chuyện bằng lời tuyên bố bàn giao lại toàn bộ “tài sản” trên quả đồi này cho Can và Hoàng. Rồi bảo:
-         Thiên đường của hai ông đấy! Các ông cố gắng để xây dựng thiên đường trên mặt đất vậy.  Nhưng, coi cái bộ trí thức lòng khòng của hai ông, tôi e các ông chẳng còn mấy hột sức để leo được lên thiên đường, không khéo còn bị thiên đường đè cho tắc thở như ông Mân đấy!
Họ quyết định cứ mỗi quý gặp nhau một lần vào ngày chủ nhật của tuần cuối cùng, tháng cuối cùng của quý. Thao đề nghị nên lập một hội lấy tên là “hội Điền viên”. Theo ý Thao tuy bốn anh em mỗi người một nghề nhưng sống được là nhờ có ruộng vườn. Nuôi lợn, nuôi gà, cuốc đất...mới là nghề chính của chúng ta. Nó không những là nguồn thu nhập chính nuôi sống chúng ta, mà danh dự của chúng ta được tổ chức coi trọng cũng nhờ những lao động chân tay này. “Lũ khỉ” chúng ta nhờ những lao động cơ bắp này mà biến thành con người mới đấy! Bác sĩ Can được tuyên dương không phải chỉ là do mổ xẻ giỏi mà cái chủ yếu là do tinh thần cải tạo lao động tốt, thể hiện quyết tâm “lột xác”, từ bỏ giai cấp cũ của mình để đi theo cách mạng. Quỳnh cười, cắt đứt câu nói của Thao:
-         Cậu chua chát mà làm gì! Tớ biết, ngoài giờ làm việc, cậu  đi chữa bệnh ngoài để tăng thu nhập, người ta khiển trách cậu nên cậu uất chứ gì?
-         Các ông nghĩ xem, Thao nói, ngoài giờ tôi đi chăn lợn, tiêm cho chó, tiêm gà để kiếm tiền thì được biểu dương còn đi khám bệnh, tiêm thuốc cứu người thì bị kiểm điểm, có lạ không?
-         Thôi ông Thao ạ! Hoàng bảo, còn nhiều điều lạ nữa cơ, điều cậu nói có là gì đâu! Tớ nói để cậu đừng ảo tưởng, tớ đố cậu lập được cái “Hội Điền viên” ấy đấy! Chắc cậu đọc Hiến pháp thấy ghi “tự do lập hội” rồi tưởng cứ muốn lập hội gì là lập ngay được sao? Phải qua nhiều thủ tục xét duyệt, nhiều quy định lắm! Huống hồ nhìn cái bản mặt của bốn thằng ta, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi này ai dám kí quyết định cho lập hội!
 Thao gân cổ:
- Không cho lập hội, ta lập họ. Tất cả chúng ta đều đổi thành họ Tôn Thất hết  cho nó sang, dù nó có dính dáng chút ít đến đế quốc phong kiến cũng chẳng sao, nghe đến hai chữ Tôn thất là xã hội trọng vọng rồi! Ta chẳng còn gì để mất mà lo. Đổi cả tên nữa cho nó oách! Tên mới của ông Quỳnh là Nghiệp (Tôn Thất Nghiệp), ông Hoàng là Cơ, ông Can là Thế, còn Thao tôi, người có thành phần cơ bản nhất, triệt để cách mạng nhất, xin nhận cái tên là Học vậy!
 Cả bọn nhìn Thao cười rũ rượi. “ Họp họ thế này thì tốn rượu lắm!”
Thao phóng xe ra về. Mặt đỏ bừng. Can nhìn theo: “cha ấy” sẽ thành lão gàn mất!”
-         Tôi cũng về đây, Quỳnh nói, thiếu lão ấy thì chẳng thành “hội”, thành “họ” gì sất!
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
9
 
Ấy là dịp tháng Mười năm 1954, Can và Hoàng đều nhận được lệnh về tiếp quản Hà nội. Trong cái hân hoan của đồng bào miền Bắc, Can và Hoàng có những nỗi niềm riêng giống nhau. Gia đình và vợ con họ đều ở Miền Nam, phía Nam sông Bến Hải. Liệu đến bao giờ họ mới có ngày đoàn tụ! Hai năm ư? Kẻ thù gian ngoan, liệu có gì chắc chắn? Nhiều anh em, bè bạn cảm thông, muốn chia sẻ nỗi niềm với Hoàng. Ra đi làm cách mạng, anh lẫm liệt, ngời ngời...Trong con mắt của họ mạc, bà con, bè bạn, nhất là Đỗ Quyên, Hoàng là một anh hùng, xả thân vì sự nghiệp... Nay, chiến thắng trở về trong cảnh thân tàn ma dại này liệu anh sẽ nghĩ gì khi gặp lại người thân?... Người ta không tìm thấy câu trả lời trên khuôn mặt Hoàng. Anh đã từng chạm trán với cái chết. Hình như những giây phút ấy làm anh thức tỉnh thật sự, một sự chuyển hóa hoàn toàn trong toàn bộ nhận thức của anh. Hai ngày nằm trong hang đá, như một người bệnh đang chết lâm sàng, anh thường kể lại cái giây phút huyền hoặc ấy cho mọi người nghe. Anh cảm thấy mình như một người đang ngồi trong một chiếc phi thuyền luồn lách trong những đám mây đen rồi bay vút lên khoảng trời xanh bao la. Ở cái thời điểm ấy, mọi niềm tin trước đây, mọi sự giáo lí đã từng ràng buộc anh bỗng tan biến rơi rụng hết. Anh trở thành một con người mới mẽ hoàn toàn. Anh nhìn thấy những tinh tú lấp lánh quanh mình...
Hôm họp mặt của “Câu lạc bộ điền viên” chia tay Hoàng và Can về Hà nội Hoàng ngồi yên, nhâm nhi chén rượu. Gần tan cuộc, Hoàng lại nói với Quỳnh và Thao: “Bọn tôi về Hà nội thỉnh thoảng sẽ lên thăm hai ông, nhờ hai ông trông coi nhà cửa vườn tược hộ nhé!” Can nhìn Hoàng cười, không hiểu sao Hoàng lặp lại câu anh vừa nói lúc nãy. Anh nhìn Hoàng, nói:
-         Xem ra ông Hoàng mê cái mảnh đất này lắm rồi, chẳng muốn về Hà nội nữa đâu!
-         Thôi được! Quỳnh nói, lần này ông cứ về Hà nội đi, may sao gặp được bà xã, rước bà ấy lên đây, ta củng cố lại cái “Câu lạc bộ điền viên” xây dựng nó thành mô hình của một xã hội mới.
-         Chết thật, Thao nhìn Quỳnh bảo, chỉ có cái ý nghĩ ấy trong đầu đã đáng đi tù rồi, ông còn nói ra miệng nữa thì thật là liều quá đấy!
-         Chết gì! Quỳnh chống chế, trong câu lạc bộ chúng ta vẫn có ông là đảng viên, ông chỉ mới mất chức tỉnh ủy viên thôi chứ? Chúng tôi bầu ông làm chủ nhiệm là được chứ gì?
-         Được, được...Thao nói, lãnh đạo là trách nhiệm của tôi, tôi sẽ làm chủ nhiệm suốt đời. “ Chủ nhiệm” xin thông báo một tin mới sốt dẻo: Từ ngày nhà bà Hằng, mẹ Thoa, bị quy là tư sản, Thoa thay đổi hẳn không còn đánh chồng như trước nữa. Thậm chí còn tỏ ra dịu dàng quan tâm săn sóc “ Đồng chí Mân” rất chu đáo! Lạ chưa! Giai cấp tư sản đã đầu hàng cách mạng rồi. Mân cũng đang làm thủ tục để về “hưu non”. Bây giờ Mân thật sự được tự do, đi muộn về sớm chẳng lo bị vợ đánh, đang muốn xin gia nhập câu lạc bộ của chúng ta đấy. ..
 Hoàng về Hà nội, như một người của hành tinh khác đến để tìm hiểu đời sống của loài người trái đất. Khuôn mặt anh không thể hiện tâm trạng, hay nó biểu hiện một cách khác mà những người quanh anh không nhận ra. Anh được điều về công tác tại  nhà xuất bản N. Đó là ngôi biệt thự của một nhà tư sản đã di cư vào nam để lại. Phía sau ngôi biệt thự lớn là một dãy nhà ngang, một tầng, tựa lưng vào tường bao của khu vườn. Người ăn ở, kẻ hầu hạ chủ nhà xưa ở đấy. Hoàng và ba người bảo vệ cơ quan ở trong gian đầu cùng của ngôi nhà trệt này. Gian nhà rộng chừng mười lăm mét, nhìn thẳng ra cổng chính  ngôi biệt thự. Trong phòng kê bốn chiếc giường đơn bằng gỗ tạp, mọt đục li ti. Mỗi người được nhận một chiếc chiếu cói rộng bằng chiều rộng của giường, tám mươi phân. Phần còn lại cho đời sống mỗi người tự trang bị lấy. Do “ý thức tập thể” được rèn giũa lâu ngày trong tổ chức, nên dù không ai bảo ai họ đều mua sắm các  thứ giống hệt nhau. Một chiếc bát sắt tráng men to của Trung quốc, một chiếc bếp dầu do các ông thợ thiếc chợ Giời sản xuất bằng vỏ các hộp sữa “Con chim” lấy được từ các thùng rác. Ai cũng sợ sự khác nhau, nên có một thứ gì đó mà người xung quanh đã mua rồi thì dù thị trường có khan hiếm hoặc có thứ khác rẻ hơn, tốt hơn cũng không mua, đi tìm bằng được để mua cái giống người ta.  Hoàng ngơ ngác đi theo mấy anh “bảo vệ”. Chờ họ mua xong, anh bảo chị bán hàng: “Tôi cũng như thế” rồi trả tiền, nhận hàng, động tác giống hệt anh “bảo vệ” đã làm. Tối đến họ rủ nhau đánh bài, ba anh bảo vệ luôn sẵn sàng. Hoàng không biết chơi lại thiếu mất một chân. Họ càu nhàu. Hoàng áy náy bèn ra ngồi cạnh chầu rìa. Mấy anh bảo vệ tận tình giúp đỡ để Hoàng tiến bộ, biết đánh bài, hòa mình với tập thể. Được vài bữa, Hoàng lắc đầu quay về giường nằm chéo chân ôm quyển sách! Mấy anh bảo vệ nhìn nhau thì thầm: “Phần tử này khó tiến bộ lắm!” Họ lại quay sang cờ tướng. Hai anh cầm quân, một anh chầu rìa. “Cờ ngoài bài trong”, đêm đêm sôi nổi, niềm vui bất tận. Tổ trưởng bảo vệ là anh Kim, chuẩn úy bộ đội chuyển ngành. Lương chuẩn úy là 54 đồng, bằng mức lương của cán sự bậc1 hoặc nhân viên bậc 5, Kim chỉ được xếp nhân viên 5 không được xếp vào ngạch cán sự. Nhân viên 5 là tột bậc rồi không còn đất phát triển nữa, dù tiền lương trước mắt như nhau nhưng cán sự 1 con đường phía trước còn rất dài, phấn đấu lên đến cán sự 6, tương đương trưởng, phó phòng ở Bộ, bằng chủ tịch huyện chứ chẳng chơi. Điều Kim buồn hơn cả là chỉ có cán sự trở lên mới được coi là cán bộ. Nhiều cuộc sinh hoạt chính trị người ta chỉ mời cán bộ đi dự còn nhân viên bao gồm những người quét dọn vệ sinh, gác cổng, phục vụ trà nước, đánh máy chữ.. như anh là ngoài rìa. Hoàng  không có bằng cấp gì, lí lịch cũng chưa được xác định rõ ràng, được xếp lương nhân viên bậc bốn, cũng được coi là ưu tiên, chiếu cố. Bậc lương khởi điểm của nhân viên 27,3 đồng, vì quá thấp nên bậc này coi như không được sử dụng, người mới tạm tuyển vào quét dọn cũng được xếp ngay bậc 1. Mỗi bậc hơn nhau từ ba đến năm đồng, theo giá thị trường tự do chỉ mua được một cân gạo. Chỉ tiêu xét nâng lương hàng năm là 10% tổng số công nhân viên chức cơ quan, có nghĩa là mười năm mới được lên lương một lần. Lương thấp nhưng nhiều người vẫn xin đi làm cái chân này vì điều quan trọng là họ được “vào biên chế” nhà nước, được hưởng tem phiếu theo giá “cung cấp”, về già có lương hưu. Hoàng là nhân viên, không đảng viên, lại không công đoàn viên nên trong con mắt mọi người mặc nhiên coi anh là phần tử lạc hậu, chậm tiến. Trong các cuộc họp chi bộ, các đảng viên đều phải tự kiểm điểm trước chi bộ về các mặt chính trị tư tưởng, quan điểm lập trường; về hoàn thành công tác chuyên môn; về công tác lãnh đạo, giác ngộ quần chúng, đến cái phần này hầu như đảng viên nào cũng nêu thành tích của mình trong việc giáo dục, giác ngộ cho quần chúng Hoàng. Mấy đồng chí ở tổ bảo vệ nêu nhiều về thành tích của họ trong việc giáo dục ý thức giai cấp, tác phong công nông, tác phong quần chúng cho Hoàng...Các đồng chí ở các bộ phận khác thì bảo Hoàng lập dị, khó hiểu, thu mình trong “cái tôi”cá nhân chủ nghĩa. Coi Hoàng là đối tượng cá biệt cần tập trung sức giáo dục, giác ngộ...Lần họp nào cũng biến cuộc họp kiểm điểm cá nhân của từng đảng viên thành cuộc họp phê phán đánh giá vắng mặt Hoàng. Các đồng chí ai cũng muốn thể hiện mình có tinh thần đấu tranh, phê bình thẳng thắn, nhưng phê các đồng chí mình thì sợ đụng chạm, phê “quần chúng” khác sợ đến tai, họ quặc lại có khi mất mặt nên mọi cuộc kiểm điểm đều quay lại “đối tượng” Hoàng. Lúc đầu Hoàng còn giữ ý, thỉnh thoảng ghé vào chỗ đánh cờ, mách đôi nước, bình luận đôi câu để thể hiện mình cũng đang “ hòa mình với quần chúng” nhưng về sau, anh thấy vô lí, người ta gọi mình là quần chúng, rồi bảo mình phải hòa vào quần chúng, nghĩa là sao? Hết giờ làm việc, đặt cái soong lên bếp dầu. Đổ nước vào soong. Nước sôi cho rau muống vào. Rau chín, vớt ra, cho luôn gạo vào, sử dụng nước luộc rau nấu cơm, tận dụng nguồn vi ta min, tiết kiệm chất đốt. Đem hộp lạc tẩm muối rang sẵn ra, ăn cả vỏ, tăng chất tạo xơ cho dạ dày dễ tiêu hóa, đỡ tốn công quét nhà... Dùng thìa xúc luôn vào nồi cơm. Hạt lạc, cọng rau nhồm nhoàm. Ăn xong chỉ cần rửa mỗi chiếc nồi, tiết kiệm lao động, tiết kiệm nước, vật tư. Chiếc bát sắt tráng men trên tường là thừa. Cuối tháng rủng rỉnh, mua được vài quả trứng, lạng thịt, quy trình nấu vẫn thế, cho trứng hoặc thịt lên, luộc cùng rau, vớt ra cùng lúc. Xong! Một nửa cuộc đời là ăn. “Đã xong một nữa cuộc đời!” Hoàng đọc câu “thần chú” ấy, đút chiếc soong vào gậm giường.
 Dạo này số lượng các văn kiện tài liệu cần dịch ra tiếng nước ngoài quá nhiều. Nước Việt nam dân chủ cộng hòa ra đời từ năm 1945 nhưng cho đến bây giờ thế giới mới biết đến cái hình hài cụ thể của nó, mới có thủ đô Hà nội. Ta phải nói nhiều, viết nhiều để làm cho thế giới hiểu ta, hiểu một dân tộc vừa rũ mình đứng dậy sáng lòa.[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn23][23][/link] Có hôm, một đồng chí lãnh đạo đến thăm nhà xuất bản, ông hỏi đồng chí giám đốc: “Các đồng chí có hiểu hết cái vĩ đại của các công việc mình đang làm hay không?” Thấy đồng chí giám đốc ngơ ngác, ông nói: “ Các đồng chí đang dịch các tuyển tập bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo, các văn kiện, nghị quyết của ta ra tiếng nước ngoài, đó là sách giáo khoa dạy cho thế giới biết làm cách mạng để tự giải phóng mình, để biết cách tự mình tìm ra con đường đi đến ấm no hạnh phúc! Mỗi chữ trong các văn kiện ấy quý hơn một nén vàng ròng đấy. Ta có thể còn phải học thế giới nhiều điều nhưng về lí luận cách mạng, về chính trị, triết học thì ai muốn học hãy đến Việt nam mà học, ta không phải đi học ai cả. Cho nên có thể nói các anh đang làm cái việc “Ta vì ta ba chục triệu người, cũng là vì ba ngàn triệu[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn24][24][/link] trên đời” đấy! Cái công việc tưởng như vô danh ấy nhưng nó vĩ đại, vĩ đại lắm lắm đấy các đồng chí ạ! Tôi có đọc một số bản dịch của các đồng chí, tôi biết các đồng chí đã có nhiều cố gắng nhưng nghiêm túc mà nói nhiều bản chưa đạt yêu cầu. Các đồng chí mới biết sử dụng tự điển để làm cái việc “ chữ đổi chữ”. Dịch là một nghệ thuật chứ không phải là một thứ kĩ thuật giản đơn. Cái cụm từ hiện nay trong các văn kiện, bài nói bài viết của các đồng chí lãnh đạo đang dùng là: “ Công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của chúng ta đang tiến lên với tốc độ một ngày bằng hai mươi năm.”Cụm từ “một ngày bằng hai mươi năm” được các đồng chí dịch rất đúng theo nghĩa số học. Có đồng chí lấy 365 ngày (một năm) đem nhân với 20 năm để thành con số 7300 năm! Thành tựu của một ngày xây dựng Chủ nghĩa xã hội của ta hiện nay lớn bằng cả thời gian phát triển của xã hội loài người từ thời tiền sử đến nay! Một năm phát triển của Việt nam hiện nay bằng 7300 năm của nhân loại! Đúng về ngữ nghĩa đấy nhưng đọc lên người ta kinh, người ta không hiểu, không tin, thế là hỏng. Cách mạng là hiện thực hóa các huyền thoại. Tại sao nhân dân ta tin vào hình tượng chú bé ở làng Phù Đổng vươn vai một cái thành người cao mười trượng, đánh tan giặc Ân? Hiện thực xảy ra trên đất nước chúng ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hôm nay mang đầy tính huyền thoại. Các đồng chí có tin rằng, cứ mỗi ngày ngủ dậy chúng ta có thêm một nhà máy mới? Công cuộc hợp tác hóa nông nghiệp với một nước có 90% dân số là nông dân như ta mà chúng ta đã hoàn thành nó trong vòng chưa đầy bốn năm, 100% nông dân đã vào hợp tác xã.  Trong khi đó ở các nước bạn ta ở Đông Âu, ở trình độ phát triển cao hơn ta, lại không có chiến tranh mà gần ba chục năm nay họ mới có 12% nông dân vào hợp tác xã? Đó là gì? Các đồng chí hãy suy nghĩ và thấm thía điều này, thấm thía hình tượng Phù Đổng thiên vương, các đồng chí mới chuyển hóa được cái cụm từ “một ngày bằng hai mươi năm” ra tiếng nước ngoài làm cho thế giới hiểu ta, tin ta, mới dám vùng lên làm cách mạng vô sản giải phóng loài người được...”
 Mấy tháng nay, Hoàng bù đầu, anh vừa dịch vùa ghi lại các thuật ngữ kinh tế chính trị trong tiếng Việt để đến chơi rồi trao đổi với Can khi chuyển sang tiếng Pháp đảm bảo tính chuẩn xác cao. Hoàng học tiếng Pháp từ khi học vỡ lòng, hết tiểu học đã làm văn, viết chính tả bằng tiếng Pháp rồi, từ trung học đến đại học hoàn toàn nghe giảng, ghi chép, trả lời bài thi của tất cả các môn học bằng tiếng Pháp. Nhưng chuyển các văn kiện chính trị từ tiếng Việt ra một ngoại ngữ khác cho chuẩn về khái niệm triết học về tư tưởng chính trị là cực khó. Hoàng đã từng đến gặp một số thành viên chấp bút soạn thảo ra các văn kiện đó nhưng nhiều chỗ vẫn chưa sáng tỏ. Có ông tếu táo bảo Hoàng: “ Cẩn thận quá như bác thì có khi cả năm chúng tôi không viết được câu nào. Khi đặt bút xuống trang giấy chúng tôi chẳng cần phân biệt “Quán triệt” với “Thấu suốt” khác nhau thế nào. Chính trị là người nói thấy sướng miệng, người nghe sướng cái lỗ nhĩ là đạt yêu cầu. Thận trọng theo kiểu đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành thì không làm chính trị được đâu. Nghề của chúng tôi là “nói xuôi cũng được, nói ngược cũng dễ nghe”, bác cứ mạnh dạn dịch theo cái phương châm ấy là ổn!” Nghe các soạn giả giải thích, Hoàng càng băn khoăn. Anh biết, tiếng Việt trong văn chương có nhiều từ mượn từ tiếng Hán rồi được Việt hóa, khi đọc văn bản tiếng Việt không thấy trùng lắp nhưng khi dịch ra tiếng khác thì trùng lắp rất khó chịu. Ví như khi đọc hai câu Kiều, trong tiếng Việt nghe rất hay:
Nàng rằng hồng diệp xích thằng
Một lời cũng một tiếng rằng tương tri
Ở câu sau, Nguyễn Du viết:
Dù khi lá thắm chỉ hồng
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha
“ Hồng diệp xích thằng” với “Lá thắm chỉ hồng.” chỉ là một. Đọc truyện Kiều ta không thấy nó lặp nhưng dịch ra một ngữ khác cho khỏi lặp là rất khó. Văn chương trong văn kiện lại càng khó hơn, chỗ này “tăng cường”, chỗ kia lại “đẩy mạnh”; quan điểm này thì cần quán triệt,quan điểm kia thì yêu cầu phải thấu suốt, “Quán triệt” và “thấu suốt” khác nhau thế nào? Làm rõ được cái cấp độ khác nhau của hai khái niệm đó cho người đọc hiểu, người làm thực hiện không sai là vô cùng khó! Rồi còn  Ưu tiên phát triển ngành này, nhưng lại ra sức phát triển ngành kia...không hiểu rõ nội hàm mà từ ngữ đó mang chứa thì khi dịch các văn bản đầy tính lí luận sâu sắc kia ra tiếng nước ngoài sẽ  thành một mớ hầm bà làng... Đang có ý định lên thăm Can để trao đổi, làm rõ thêm những khái niệm này thì nhận được tin nhắn của Can mời anh lên chơi. Vợ Can, bà Uyển Trang và hai con từ miền Nam ra, vừa đến Hà nội.
Trước khi về Hà nội, Can đã là một bác sĩ ngoại khoa nổi tiếng. Ông đã giải quyết thành công nhiều ca phẫu thuật phức tạp trong hoàn cảnh hết sức thiếu thốn ở chiến khu. Hơn nữa, ông là người thanh liêm, chính trực, hết lòng thương yêu bệnh nhân. Bao năm ở bệnh viện ông chưa từng lấy của bệnh nhân một chút quà nhỏ nào, dù chỉ là một quả cam. Mặc dù ông rất chan hòa với quần chúng, gần gũi mọi người nhưng ở ông bao giờ cũng toát lên một tầm cao của nhân cách. Mọi người kính trọng ông vì điều đó. Ngôi nhà 261 ở phố H là một biệt thự nhỏ, chủ nhà đã di cư vào Nam. Can được chia một nửa ngôi biệt thự này gồm hai buồng ngủ ở trên đầu cái ga- ra ô-tô nhỏ. Một mảnh sân con, có khóm hoa Tường vi gầy nép sát tường hàng xóm. Mùa hè hoa tím nở e ấp. Nhà quay mặt ra phố H ngay góc ngã tư giao nhau với phố Q. Cổng Ga ra ô-tô trổ ra phố này. Trên vỉa hè, cạnh cổng ga ra là một gốc Hoàng lan cổ thụ, cành lá xum xuê vào tận cửa sổ tầng hai phòng Can, tỏa bóng xuống mảnh sân nhỏ đầy rêu. Cổng ga-ra bây giờ là lối đi của nhà Can, không liên can gì đến nhà 261 phố H, nay đã biến thành khu tập thể cho những hộ độc thân nữa.
Hồi mới ở Việt Bắc về, một chiếc ba lô tòn ten với hai bộ quần áo dúm dó, được phân một căn hộ với hai buồng trên gác và một cái ga-ra tầng trệt, Can chẳng biết làm gì cho hết cái diện tích ấy. Trên gác, một buồng bỏ không. Tầng trệt bên dưới Can chăng một sợi dây tráng kẽm phơi quần áo. Cái sân con không có dấu chân người, rêu mọc đen sì. Thỉnh thoảng, có những buổi chiều ông thích xuống ngồi ở cái tầng trệt ấy, ngắm chéo về phía góc tường cạnh nhà tắm, nơi có khóm hoa tường vi lặng lẽ nép mình vào bức tường nhà bên. Hai con bướm trắng và mấy con ong vàng âm thầm bay từ trên cành hoàng lan xuống lượn lờ quanh mấy đóa tường vi. Cảnh sắc ấy gợi cho ông một nỗi nhớ xa xăm. Buổi sáng, ông thường dậy sớm. Công việc đầu tiên trong ngày của ông là mở hai cánh cửa sổ cho hương hoa bay vào nhà. Ông ngồi cạnh cửa sổ, ngắm mấy chú chim Vành khuyên chíu chít chuyền cành và những đàn chim sẻ từ đâu sà xuống nhảy nhót tưng bừng trên vạt nắng vàng trải trên mái ngói màu nâu của ngôi nhà đối diện bên kia đường. Rồi, đóng cửa đi làm. Ngày nào cũng vậy. Bước ra khỏi nhà, ông cảm thấy sau lưng mình là một khoảng trống vắng mênh mông. Nghe nói bệnh viện đang tìm nơi làm nhà gửi trẻ, ông đến gặp thư kí công đoàn đề xuất cho mượn tầng trệt nhà ông làm nơi gửi trẻ. Mấy lần hội nghị, ban giám đốc và công đoàn bệnh viện biểu dương tinh thần gương mẫu của bác sĩ Lê Thúc Can và vận động cán bộ nhân viên đem con gửi nhà trẻ bệnh viện. Lúc đầu nhà trẻ có khoảng mươi cháu, về sau ít dần. Các cô trông trẻ không ai được đào tạo, chẳng có nghiệp vụ gì. Họ là vợ, con của các cán bộ trong bệnh viện vừa đưa từ quê lên, có người chưa biết chữ. Những buổi tập hát, có cô dạy cho các cháu bài “ Diệt phát xít”, bài Quốc ca. Các cô cũng chẳng thuộc lấy một bài hát nào trọn vẹn để dạy các cháu, nhớ câu nào các cô dạy câu ấy. Nào “da ngựa bọc thây...” nào “ lạnh lùng vung gươm ra sa trường...”chẳng biết tên bài hát là gì. Giờ kể chuyện mới đáng sợ! Chẳng hiểu sao cô nào cũng thuộc cái chuyện cô Tấm giết cô Cám làm mắm gửi cho mẹ cô ta... Đến giờ nhà trẻ chỉ còn ba cháu, con của mấy chị cấp dưỡng (nấu bếp) do cô Mận trông coi. Ba cháu, không đủ số lượng để biên chế một “cô giáo” trông trẻ nhưng vì Mận là con gái đồng chí thư kí công đoàn Khả nên nhà trẻ vẫn được duy trì. Trong nhiều hội nghị, đồng chí Khả giải thích: “Nhà trẻ là cái nôi đào tạo giáo dục những con người mới Xã hội chủ nghĩa sau này. Có khó khăn gì chúng ta khắc phục, có thiếu sót gì chúng ta bổ sung nhưng nhất thiết không để tình trạng con ai người ấy nuôi. Không “tập thể hóa” được đầu óc con người từ khi mới lọt lòng thì không bao giờ có chủ nghĩa xã hội cả. Cái nguy cơ tạo ra những con người có đầu óc cá nhân chủ nghĩa, nguy cơ phục hồi chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ đấy...” Khả yêu cầu Mận, con gái ông đến ở lại tại nhà trẻ để phục vụ nhân dân 24/24 giờ trong ngày, đảm bảo cho cán bộ công nhân có con nhỏ an tâm đi làm ca, làm kíp. Tầng trệt nhà Can được ngăn lại bằng một bức tường cao chạm mái làm nơi trông trẻ riêng biệt và cũng là nơi ở thường trực của Mận để tiện việc phục vụ nhân dân vô điều kiện 24/24 giờ trong ngày luôn. Can chỉ còn lại 2,5 mét sân chiều rộng để làm lối đi lên gác. Phần đất còn lại rộng 9m chiều ngang dành cho “nhà trẻ”. Cổng lớn ra vào nhà thông ra phố Q được treo tấm biển mới: “NHÀ TRẺ BỆNH VIỆN P- số nhà 2B- Phố Q”. Mận lấy chồng. Chồng cô tên là Tấn lái xe bên Sở Nhà đất. Mận bảo chồng:
-         Trong khi chờ đợi được phân nhà mới, ta cứ ở tạm trong cái nhà trẻ này vậy!
-         Ở luôn chứ tạm cái gì! Tấn bảo, một thằng chồng lái xe, vợ giữ trẻ chưa vào biên chế lại còn mong được phân nhà...Có mà đến mồng thất!
-         Nhưng đây là nhà đã phân cho ông Can, bệnh viện mượn làm nhà trẻ thôi, chứ mình ở lâu dài sao được! Mận nói.
-         Ồ! Cô đúng là một đứa ngốc tồ, Tấn bảo, ông bố cô mới là bậc siêu nhân. Đúng là người lãnh đạo có khác, tính toán đâu ra đấy.
-         Tính gì? Mận hỏi.
-         Cô không biết thật à? Tấn hỏi.
-         Tôi nói cho cô biết, Tấn bảo, có thể ban đầu ông ta chưa nghĩ đến nhưng từ khi ông Can đề xuất cho mượn cái sân ga-ra này làm nhà trẻ thì ông bố cô nghĩ ngay đến việc đưa cô từ quê lên sung vào cái chân giữ trẻ này. Khi ông ta bảo cô ra ở thường trực ở đây để phục vụ nhân dân 24/24 giờ là ông ta đã thiết kế ý đồ chiếm cái diện tích này cho cô khi đi lấy chồng rồi. Tôi đố ông Can đòi lại được cái diện tích này!
-         Khó đấy! Mận bảo, ông ấy bây giờ là một giáo sư, bác sĩ nổi tiếng, chơi với ông ấy không dễ đâu.
-         Giải quyết vấn đề gì cũng phải dựa trên quan điểm quần chúng, Tấn nói, ông ta có là giáo sư nổi tiếng đi nữa thì cũng chỉ là một phần tử trí thức thôi. Còn tôi là một công nhân lái xe, cô là một nông dân tiên tiến con nhà cách mạng, bố cô là thư kí công đoàn. Hiện chúng ta không có nhà ở, gầm cầu cũng bị người ta chiếm hết rồi. Chúng ta cứ ở đây, cứ sinh con đẻ cái ở đây, liệu bố cô người đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động của bệnh viện có yêu cầu đưa máy xúc đến xúc chúng ta ra bãi rác không?
-         Ừ, thôi cứ ở đến đâu hay đó! Với lại nhà ông ấy còn rộng chán. Hai buồng trên gác đã ở hết đâu. Chắc ông ấy cũng chưa đòi.
 Cổng nhà ông Can bây giờ lại quay về phố H. Một cái cổng nhỏ, rộng tám mươi phân treo biển 261B phố H, cạnh “khu tập thể” 261 cùng phố. Đó là cổng vào nhà Bác Sĩ Lê Thúc Can. Nhà trẻ chỉ còn hai cháu. Bệnh viện quyết định giải tán nhà trẻ. Mận mở quán nước ở ngay cổng vào. Các bạn lái xe của Tấn là những vị khách đầu tiên. Không một người làm ma- két- ting nào có năng lực quảng bá khách hàng mạnh mẽ như những người lái xe. Chẳng bao lâu sau quán giải khát MANTAN số 2B phố Q trở thành một nơi ăn nhậu nổi tiếng của Hà thành. Từ sáng sớm đến đêm khuya khách hàng nườm nượp. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng chửi tục, chửi thề râm ran. Can vốn là người biết chịu nhịn. Nhịn để yên thân. Nhịn vì thông cảm với người đời. Nhịn vì bất lực, vì biết nói cũng chẳng ai nghe mình...Nhưng đã đến lúc ông phải nói vì không ngủ được, không có lấy một giây phút yên tĩnh để nghỉ ngơi, không chịu nổi cái ồn ào, cái tạp lậu về ngôn từ của bọn khách nhậu... Ông hé cửa gọi vọng xuống:
-         Cô Mận ơi! Làm ơn bảo khách hàng nói nhỏ tý nhé! Khuya rồi để bà con lối xóm nghỉ ngơi mai còn đi làm.
Vài lần đầu Mận còn đáp “Vâng, vâng” ra chiều lễ phép nghe lời. Lần sau cô ta im lặng như không nghe thấy gì. Lần sau nữa, một thằng say nào đó đáp thay:
-         Đ. mẹ! Ông là giáo sư được trọng vọng, xin mời ông lên trên Ba đình tìm một biệt thự yên tĩnh mà ngủ. Đ. mẹ, chúng tôi là nhân dân lao động chỉ ăn to nói lớn thế thôi. Cấm chúng tôi nói tức là cấm chúng tôi ăn, cấm chúng tôi nhậu! Ăn nhậu mà cấm không cho nói thì có còn là thằng người nữa không? Thế thì  sống làm cái đ. gì...?
Từ đấy ông Can đóng chặt hai cửa sổ, lấy băng dính dán kín các khe hở quanh cửa. Vợ và hai con từ miền Nam ra, ông mừng ít lo nhiều. Hai đứa con ông đã được đi học trường học sinh Miền Nam cách Hà nội hơn trăm cây số. Đó là một thành phố đẹp. Chúng nó còn nhỏ, ham vui, chuộng lạ, chẳng mấy chốc sẽ quen dần lối sống tập thể, được học hành, chắc rồi cũng sẽ nên người. Điều ông lo nhất là với Bà Uyển Trang, vợ ông. Lớn lên, bà ấy chưa từng chịu cực một ngày. Mấy ngày đầu gặp nhau sau hơn mười năm xa cách, bà cứ lặng lẽ quan sát ông như quan sát một người từ hành tinh khác tới. Bà không nghĩ đấy chính là ông, chính là bác sĩ Lê thúc Can, cựu sinh viên Đại học Y khoa Paris...Một con người hào hoa phong nhã. Một thanh niên đẹp trai cuốn hút, cuốn hút đến nổi mới chỉ gặp ông lần đầu trong một bữa tiệc ở nhà bạn bố cô, Uyển Trang đã thấy lòng mình say đắm...Bà không hình dung được bằng phép màu nào mà cách mạng đã cải hóa ông thành một con người như vậy. Sáng dậy ông rửa mặt đánh răng rồi đi làm, không ăn sáng, không cà phê, thuốc lá...Xỏ chân vào đôi dép cao su, tay xách một chiếc can nhựa để xách nước từ bệnh viện về dùng. Mỗi ngày một can như thế. Hôm nào bận mổ, xẻ hoặc mệt quá không xách được nước từ bệnh viện về thì phải dậy từ ba giờ sáng, sang vòi nước công cộng ở ngã tư bên kia đường xếp hàng để hứng. Ông làm việc đó một cách tự nhiên vui vẻ như đã được rèn luyện để làm nó từ ngày lên bốn, lên năm. Không ngượng ngập, không buồn rầu...Ông không cho bà làm việc gì nặng nhọc. “Bà để đấy tôi, khi nào bà thích nghi được hãy làm!” ông thường nói vậy mỗi khi bà định xách can sang bên kia đường hứng nước. Thời kì đầu mỗi khi ra đường hoặc đi đâu với ông, bà đều mặc áo  dài. Mặc dù khi đó ông chỉ mặc chiếc sơ mi “cháo lòng” lùng thùng bỏ ra ngoài chiếc quần ka ki nhăn nhúm! Ông bỏ ra cả tuần để hướng dẫn cho bà cách sử dụng các ô phiếu trong bìa mua thực phẩm nhưng bà không sao hiểu nổi, khi thì để người ta cắt nhầm ô này khi thì để mất phiếu kia...Ông đùa bà: “Đó là học phí phải trả, tôi đã được rèn luyện trong đấu tranh cách mạng mười năm rồi, còn bà mới được mấy tháng...!”
 Can đi làm về. Uyển Trang đang loay hoay với chiếc Ra-đi-ô vàng khè, mạng nhện chăng kín cả màng loa để trên đầu giường.
-         Em đang làm vệ sinh cho “cái đài”? Can hỏi.
-         Ủa! Anh về hồi nào? Trang hỏi chào chồng rồi nói tiếp, cái Ra-đi -ô này kì quá! Em dò suốt cả ngày mà không tìm được một làn sóng nào của các đài quốc tế cả!
-         Em muốn nghe “Đài quốc tế thì chờ đến 6 giờ tối, khi đó có đài Bắc kinh phát thanh bằng tiếng Việt do đài tiếng nói Việt nam tiếp âm.”
-         Không nghe trực tiếp được các đài Anh, Mỹ hả? Trang hỏi.
-         Không, tuyệt đối cấm, đó là  “các đài phản động” nghe làm gì. Can nói, với lại em có muốn nghe cũng không được. Tất cả các ra-đi-ô này muốn được sử dụng phải có giấy đăng kí của các cơ quan có thẩm quyền cấp. Khi đi đăng kí họ đã cắt ngay các băng sóng ngắn có thể bắt các “Đài địch.” Em ở nhà buồn thì mở đài tiếng nói Việt nam mà nghe. Có đủ cả, tin tức thời sự quốc tế và trong nước, dân ca nhạc cổ Bắc Trung Nam lời mới...
-         Em đã đọc báo Nhân Dân anh mang về rồi, trên đài họ cũng đọc lại các thứ đó thôi! Kể cả một số bài hát,  họ cũng phổ nhạc từ các bản tin của báo.
-         Đài, báo của ta không chỉ làm chức năng đưa tin, mà một trong những chức năng quan trọng của nó là giáo dục, giác ngộ quần chúng. Can giải thích cho vợ.
-         Rồi em sẽ hiểu, anh đừng lo gì cả. Trang bảo chồng, anh cố gắng mà làm việc ở bệnh viện cho tốt. Em không làm được gì nhiều nhưng sẽ đỡ đần cho anh việc bếp núc nội trợ. Anh đừng lo. Em chẳng buồn đâu. Rồi sẽ quen hết. Chỉ nhìn vào cách sống, cách nghĩ của anh bây giờ là em hiểu. Chỉ thương anh vất vả quá thôi.
 Chỉ lo vợ buồn, hôm sau, Can hớn hở bê về một chồng sách, nào “Chiến tranh và Hòa bình” của L. Tôn xtôi, “Tấn trò đời” “ Vỡ mộng” của Ban zắc, rồi thì “Hội chợ phù hoa”, “Tây sương kí”, “Hồng lâu mộng...” “Đâu ra lắm sách hay thế này!” Trang nói như reo lên.
-         Anh vừa tìm được một “Mỏ sách” vô tận! Các trí thức của Hà thành, trí thức “lưu dung”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn25][25][/link], mỗi nhà của họ là một thư viện, đủ các loại sách quý. Em đọc và cố giữ gìn cẩn thận nhé! Bây giờ họ nghèo đi nhiều, họ phải bán đi nhiều thứ để đảm bảo cuộc sống nhưng sách thì không. Can bảo.
-         Thì hồi ở Sài gòn, phòng sách nhà mình có đến cả ngàn cuốn là gì! Hồi ấy anh là “con mọt sách” thế mà bây giờ, lạ thật, thấy anh dững dưng...Trang nhìn chồng nói.
-         Thì em nghĩ xem, thời gian đâu! Mỗi tuần làm việc bảy ngày, họp hành vài tối. Ngày đi làm, tối về xếp hàng xách nước. Được ngày nghĩ thì nhớn nhác ngoài phố, thấy ở đâu xếp hàng dài là chen vào bất cần biết họ đang bán thứ gì...
-         Em chắc còn có những lí do quan trọng hơn lí do thiếu thời gian, Trang nói.
-         Có lẽ em đúng! Can nói. Mọi cái đều thay đổi và có thể thay đổi.
-         Đó là câu hay nhất em được nghe từ hôm em ra đây đến giờ! Trang nói. Chính đó là điều em đang nghĩ đến nhiều nhất khi gặp lại anh, khi quan sát những đổi thay lạ lùng ở con người anh.
-         Chắc tình yêu của anh đối với em thì không đổi thay chứ? Can hỏi.
-         Lại một câu đúng nữa! Trang khẳng định. Cái gì tiến hóa nhanh thì quá trình thoái hóa cũng rất nhanh. Tình yêu- theo nghĩa là một trạng thái tinh thần của loài người nói chung, là thứ ít thay đổi nhất trong quá trình tiến hóa của loài người (Em không đề cập đến cái tình yêu cụ thể của anh A, chị B đối với nhau) nên nó cũng ít thay đổi nhất khi loài người bị thoái hóa.
-         Làm gì có chuyện loài người bị thoái hóa? Can hỏi lại.
    Làng em xưa có nghề truyền thống là đi vào rừng sâu tìm trầm. Đến đời bố em thì đã ít người đi, Trang kể, nhưng từ đời ông nội em về trước thì đó là một nghề phổ biến cho những ai dũng cảm, có chí đổi đời. Thậm chí còn được coi là nghề cao sang. Ở ngay sát vườn nhà ông nội em, có một bà tên là La, chồng tên Hầu. Hai người lấy nhau từ năm La mười bảy tuổi, Hầu mười tám. Năm Hầu hai hai tuổi họ đã có hai con. Hầu quyết định đi vào rừng tìm trầm. Chuyện xảy ra một cách rất bình thường, như mọi nhà vẫn thế, những trai tráng trong làng đến nhà Hầu chúc rượu vui vẻ. Nghi thức vẫn thế, Hầu thắp hương khấn lạy tổ tiên, ngậm viên Ngải vào miệng (một thứ bùa hay thuốc có chất dinh dưỡng) rồi khăn gói đi ra Bến U ở đầu làng- con đường duy nhất đối với những người đi tìm trầm. Qua sông, không ngoái đầu lại. Men theo một con đường mòn dẫn vào rừng rậm. Đi. Mất hút. Ngày về không hẹn. Bà La, cách gọi của dân sở tại đối với người có chồng đi tìm trầm bao giờ cũng gắn với tên chồng, bà La Hầu vẫn như ngày chồng ở nhà, dậy sớm cho gà cho lợn ăn rồi ra đồng, lên nương. Tối về đỏ đèn, ba mẹ con ngồi bên mâm. Không bao giờ nhắc đến chồng, đến cha. Như chưa từng có một người tên là Hầu trong cái ngôi nhà tranh thấp lè tè của họ. Không ngóng chờ, không trông đợi, không thấp thỏm lo toan. Cái gì đã thành phổ biến trong xã hội rồi, khi không có cách gì để đổi khác thì được coi là điều tất nhiên. Ai bàn đến “cái tất nhiên” làm gì trừ các nhà bác học rỗi hơi.
 Mười lăm năm sau. Một đêm. La Hầu đi làm về muộn. Đang mùa gặt, một mình quần quật với mấy sào ruộng đã chín rục ngoài đồng. Cơm muộn, ăn xong toan đi ngủ, bà La Hầu cầm cây đèn vừa khều sáng đi ra phía chuồng lợn. Ngờ ngợ, như có ai nhìn mình. Đưa cao cây đèn, ngước lên. Bà rú lên một tiếng khủng khiếp. Một con vượn người, con Đười ươi...(?) lông lá xồm xoàm, nhe hàm răng trắng ởn đứng nhìn bà. Hai con mắt phản chiếu ánh đèn, xanh như mắt cáo. Cả làng, chiêng, trống, thanh la, náo bạt gõ vang lừng. Con vượn người quăng mình lên khóm tre già đang vít ngọn xuống phía chuồng lợn, chuyền cành rất nhanh rồi biến mất. Đêm ấy cả làng không ngủ. Họ đàm tiếu bình luận về chuyện này:
-         Lão Hầu trở về?
-         Không phải! Làm gì đã biến thành vượn nhanh thế! Mới chưa đầy mười lăm năm!
-         Nếu trở về nó phải đi đường cũ, qua bến U, ai đưa đò cho nó?
-         Khi bị lạc vào tận rừng sâu, trên thượng nguồn, con sông Bến U chỉ bằng chiếc đũa, làm gì chẳng đi qua được!
-         Đúng, khi lạc đường, hắn đã qua bên này suối và men theo phía hữu ngạn con sông và tìm về làng...
 Cuộc tranh luận sẽ không có hồi kết thúc, nếu người ta không rình bắt được con vượn ấy ba hôm sau đó. “Con Vượn” đã nhận ra bà La, vợ mình. Nhận ra mảnh vườn thân yêu, nhận ra con đường làng thân thuộc...Hắn “tự nguyện” để cho người ta bắt sống. Lúc đầu hắn vẫn bị xích. Đôi mắt hắn hiền từ trở lại, đầy vẻ âu yếm khi hắn nhìn bà La và hai đứa con. Một tháng sau, hắn bập bẹ nói lại những tiếng người đầu tiên. Không chối cãi, bàn luận gì nữa, hắn chính là Lão Hầu. Những dấu hiệu riêng biệt trên cơ thể hắn, chỉ có bà La mới biết. Bà La chính thức thừa nhận “con vượn” kia là Hầu, chồng mình...
-         Can cười phá lên, hơn mười năm, nay ông mới có một cái cười nở ruột, nở gan như vậy, chắc em muốn bảo anh giống cái lão Hầu kia chứ gì?
-         Không, anh mới hơn mười năm và điều cơ bản là anh chưa thoát li hoàn toàn khỏi loài người tự nhiên. Trang bảo, rồi nói tiếp:
-         Câu chuyện có thực trên nói lên một điều, trong muôn loài có trên trái đất, con người là động vật dễ bị tha hóa và biến chất nhất. Một con vật, con chồn, con thỏ hay con sư tử chẳng hạn, nếu bị lạc đàn hoặc thậm chí lạc đến một môi trường sống khác thì nó vẫn là nó. Hoặc là nó tồn tại như nó vốn thế, vẫn nguyên cái hình hài như trời đất sinh ra nó ban đầu, hoặc nó chết chứ không thay đổi. Còn, con người chỉ trong vòng mười lăm năm năm đã biến đổi thành con vượn!
-         Em đã thấy anh mọc lông trên người chưa? Can cười hỏi vợ.
-         Mọc lông thì chưa nhưng anh thay đổi nhiều lắm, thay đổi mà chính anh không nhận ra nhưng người thân khi gặp lại anh không khỏi ngạc nhiên. Ngạc nhiên đến không ngờ...Rất khó mô tả. Từ hình dáng bên ngoài đến lời ăn tiếng nói, cử chỉ, hành động!
-         Thật thế ư? Tốt, tốt lắm!...Can nói, nhưng chắc chắn anh còn nổ lực phấn đấu nhiều hơn nữa mới trở thành “con người mới” thật sự.
 Can mang về nhiều sách nhưng suốt mấy tuần qua Trang cũng chỉ đọc được vài trang. Đầu óc chị cứ nghĩ chuyện đâu đâu, chẳng chuyện gì ra chuyên gì cả. Chị thương Can, muốn làm một việc gì đấy làm cho đời sống của Can có ý nghĩa hơn, thanh thản hơn. Chẳng hiểu sao, trong những chuyện Can kể, ông thường nhắc đến những buổi chiều phẳng lặng ngồi ngắm khóm hoa Tường vi còm cỏi ở góc tường, cái sân đầy rêu và mấy con chim vành khuyên chíu chít chuyền cành...Tất cả, bây giờ chỉ còn là mộng tưởng. Khóm tường vi đã bị Tấn chặt bỏ. Cái sân rêu đã trở thành quán nhậu, không còn chỗ của ông! Can biết, chẳng bao giờ đòi lại được cái tầng trệt và mảnh sân ấy nữa. Vợ chồng bàn nhau cải tạo lại cái rẻo đất rộng 2,5 m dọc theo hàng rào phía đường H thành một khu công trình phụ, phục vụ cho đời sống lâu dài sau này. Bây giờ vào nhà Can, số 261B phố H, bước vào khỏi cổng, bên trái là cầu thang lên phòng ngủ trên gác. Hai bên lối đi, theo từng bậc cầu thang lên gác là những chậu cây Bon-sai và chậu hoa đặt ngay ngắn. Bên phải, sát cổng ra vào là một mảnh sân con có kê bộ bàn đá nhỏ, tiếp theo là nhà bếp. Trong cùng, sát góc đường của ngã tư là nhà tắm. Trên mái của khu công trình phụ là một dàn hoa Trâm bầu rũ xuống che khuất cả bức hàng rào sắt, bốn mùa xanh tươi. Mùa hè hoa trâm bầu tím nhạt nở bâng khuâng. Đối diện với chỗ đặt bộ bàn đá, áp sát mặt ngoài tường “Nhà Trẻ” là một bức tranh lớn mỗi chiều có đến bốn mét bằng gốm về phong cảnh vịnh Hạ long. Biển xanh biếc, núi đá xa mờ, những cánh buồm nâu no gió...Một lớp nước mỏng tang như sương chảy tràn liên tục qua mặt bức tranh lấp lánh. Buổi tối, chỉ cần một ngọn đèn mờ chiếu vào mặt tranh, ta tưởng như mình đang ngồi đâu đó trên bờ biển Hạ long. Hầu hết thời gian ở nhà, gần như cả hai ông bà đều ngồi ở bộ bàn đá này, đọc sách, báo, ngồi ngắm tranh...Những giây phút tĩnh lặng, có thể nghe được cả tiếng ong bay đi tìm mật nao nao trên đầu.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
10
 
 
 
           Hoàng nhận thư và ảnh của Đỗ Quyên do Trang chuyển ra. Anh chăm chú nhìn ảnh hai đứa con trai. Không ngờ chúng đã lớn đến vậy! Đỗ Quyên vẫn như xưa, không già đi mấy. Nét kiều diễm, quý phái bị phôi pha ít nhiều ngày lên rừng đi kháng chiến nay lại được hoàn nguyên cộng thêm cái trầm tư, nghiêm nghị của người có tuổi, xem ảnh, trông Đỗ Quyên ra dáng một bậc mệnh phụ đường đường. Hoàng nhét bức thư vào túi, tay cầm bức ảnh mân mê nói chuyện với vợ chồng Can. Anh không lên nhà, chỉ xin được ngồi nói chuyện ở bộ bàn đá nhỏ dưới sân, cạnh bếp. Hoàng hỏi Trang:
-         Trước lúc ra ngoài này chị có gặp nhà tôi và hai cháu ở Sài gòn?
-         Không, chỉ gặp mỗi bà nhà thôi, hai cháu đang du học ở Pháp, chưa vào dịp nghỉ hè nên các cháu không về.
-         Vậy nhà tôi chỉ ở lại Sài gòn một mình?
-         Không, bà nhà cũng sang Paris ở để chăm sóc hai cháu, thỉnh thoảng đi về Sài gòn. Chị em vẫn gặp nhau luôn. Chẳng có chuyện gì mới ngoài chuyện “hai ông” nhưng mỗi lần gặp nhau, chuyện cứ như ngô rang, không dứt được. Vui nhất là chuyện những ngày bà ấy đi kháng chiến, làm huyện hội phụ nữ!
-         Chị chắc đã thích nghi với cuộc sống Hà nội rồi nhỉ? Hoàng hỏi.
Can xen vào:
-         Tối qua bà ấy vừa kể cho tôi nghe một mẩu chuyện về cái đặc tính dễ thích nghi, dễ biến cải, dễ biến thành khỉ, thành vượn của loài người đấy!
Trang nhìn chồng, cười, đứng dậy đi pha cà phê đãi khách. Hoàng và Can lại nói chuyện công việc. Chuyện đời. Quán nhậu bên kia tường vẫn ầm ỉ, huyên náo như mọi ngày. Hoàng có thói quen nói nhỏ nhẹ, phải ngừng câu chuyện mấy lần. Can bảo: “Như thế lại hay, bọn mình nói chuyện thoải mái không sợ ai nghe lén!...” Hoàng bảo:
-         Tôi dạo này “bết” quá, sức khỏe xuống nhiều. Công việc lại nhiều quá. Nhưng cái mệt không phải ở chỗ nhiều việc, ở chỗ khác cơ! Có thể nói dịch sách là công việc tôi yêu thích, là sở trường của tôi nhưng dịch xong không có bản dịch nào tôi ưng ý cả. Nếu mình dịch thoát quá, dịch đạt thấu cái tinh thần của văn bản thì có khi “bị đòn!” Nếu một người nào đó làm biên tập, làm kiểm duyệt, họ lật tự điển ra, đối chiếu nghĩa của từng từ rồi bảo mình cố tình xuyên tạc thì rất nguy hiểm. Cái vận mệnh chính trị của tôi vốn đã mong manh, thậm chí còn nhiều nghi vấn, ai người ta tin ở mình? Tôi không có nghề gì khác, xin một chân “Bảo vệ” cũng không đến lượt mình. Ba cậu bảo vệ ở cơ quan tôi đều là đảng viên cả, tôi đã là cái gì đâu! Như sực nhớ điều gì, Hoàng quay sang dặn Trang:
-         Chị đừng thông báo cho Đỗ Quyên biết địa chỉ của tôi ở ngoài này nhé! Tôi sắp chuyển chỗ ở mới rồi.
-         Chuyển đến đâu? Tưởng thật, Can hỏi.
-         Ừ...thì cứ nói thế cái đã!
Trang đẩy bát đường kính trắng về phía hai người, giục:
-         Cà phê được rồi đấy, hai ông uống đi kẻo nguội! Chị đi lên gác.
-         Mình chỉ sợ...,ngập ngừng Hoàng nói, Trang thấy hoàn cảnh sống của mình quá khó khăn, thương tình lại thông báo cho Đỗ Quyên biết, cô ta lại mua quà gửi từ Paris về cho mình nữa thì thôi đấy! Hết đời...
-         Căng thế cơ à? Can hỏi.
-         Ở cơ quan mình có một cậu biên tập. Cô em họ cậu ta, tên Ngân là con của một vị thứ trưởng, Ngân yêu một cậu sinh viên cùng lớp, cậu Phiên. Thi tốt nghiệp xong. Cô cậu cưới nhau. Cậu Phiên có ông anh trai là một trí thức nổi tiếng ở Pháp, danh họa Lê Đằng, cả châu Âu đều biết tiếng. Đằng gửi về cho em hai chiếc xe đạp Pơ-jô làm quà cưới cũng là để cho vợ chồng đứa em có phương tiện đi làm trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn. Nhận quà xong, chưa kịp ngồi lên xe, Phiên bị tước bằng kĩ sư cho đi lao động. Ngân nhờ là con thứ trưởng nên chỉ bị treo bằng một năm...
-         Chắc là có nguyên nhân gì khác chứ làm gì đến nổi...Can nói.
-         Thì đúng là nguyên nhân khác. Cậu Phiên là học sinh miền Nam, khi vượt tuyến ra bắc, sợ liên lụy vì có bà con ở các nước phương Tây, cậu ta không khai tên ông anh Lê Đằng vào lí lịch. Cậu ta bị đuổi vì tội “Man khai lí lịch” chứ không phải là do nhận xe đạp từ Pháp gửi về. Đó là cách giải thích của tổ chức còn đâu là nguyên nhân, đâu là duyên cớ thì ai mà biết được.
-         Thế thì đúng rồi, Can nói, bản thân sự “vượt tuyến” đã là một nghi vấn chính trị rồi. Được nhà nước cho học lên đến Đại học cũng đã là may, nay lại thêm cái tội có người ruột thịt ở chiến tuyến bên kia nữa thì khó thoát lắm!
-         Vậy nên, tôi mới dặn bà Trang thế, ông lưu ý nói thêm cho bà ấy hiểu. Tình trạng của tôi bây giờ, nếu họ phát hiện vợ con tôi đang ở Pháp, lại còn giữ mối quan hệ chặt chẽ, nhận hàng tiếp tế nữa thì có chạy đằng trời...
-         Hơn nữa...Can hạ giọng, tình trạng chính trị bây giờ phức tạp lắm! Bọn địch đang tìm mọi cách tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc, móc nối với các phần tử bất mãn, với những chân tay nằm vùng do chúng cài lại trước khi rút chạy vào Nam để tiến hành phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, đánh vào hậu phương lớn của cả nước. Đề cao cảnh giác, xiết chặt tổ chức là biện pháp hàng đầu để giữ ổn định.( Can nói một cách thuộc lòng bản chỉ thị của cấp trên mà anh vừa được học tập, quán triệt.)
 Có lẽ Hoàng có quá nhiều lo nghĩ trong đầu nên anh không để ý gì đến những đổi thay ở nhà Can. Anh nhìn lên dàn hoa, bức tranh gốm trước mặt, dửng dưng như nó đã có ở đấy từ ngàn năm trước! Chưa nói là anh không để ý gì đến chiếc sơ mi trắng cổ cồn mà Can đang mặc để tiếp anh hôm nay. Từ ngày Can và Hoàng gặp nhau hồi cướp chính quyền năm 1945 đến nay, bây giờ Can mới mặc sơ mi trắng cổ cồn là một. Can muốn có cớ để khoe với Hoàng, con gái mình vừa được sang Ban lan học, gửi quà về cho ba má và có cả quà cho bác Hoàng nữa- Một chiếc sơ mi kẻ sọc và mấy bánh xà phòng thơm. Uyển Trang tươi cười xách túi quà từ trên gác đi xuống, nói: “Đây là quà của cháu Hạnh Nguyên gửi cho bác Hoàng đây!” Thấy Hoàng có vẻ ngơ ngác, Can bảo:
-         Vâng, con cháu đầu của tôi vừa được Nhà nước cho sang Ba lan học, có quà gửi tặng bác đấy!
-         Ồ!...Cháu ngoan quá...ngoan quá, hai ông bà thật hạnh phúc. Cháu thứ hai lên mấy rồi nhỉ? Hoàng hỏi.
-         Đang học lớp 10, Can trả lời.
-         Sang năm lấy bằng tú tài toàn phần đấy, Uyển Trang minh họa, đôi mắt chứa chan hạnh phúc.
-         Chà, chà...nhanh quá!
Hoàng về phòng. Mấy cậu bảo vệ thấy Hoàng xách cái túi là lạ liền ngừng đánh cờ nhìn chằm chằm vào trong túi. Hoàng thấy hoảng, lỡ họ tự nhiên một cách suồng sã, giật lấy cái túi của mình đòi xem những thứ bên trong, họ nhìn thấy tấm ảnh ba mẹ con thì gay. Anh liền tươi cười, chủ động rút cái hộp đựng chiếc áo sơ mi ra đặt trên giường, để hai miếng xà phòng lên trên, nói:
- Quà con cháu ở Ba lan vừa gửi về cho đấy! Biếu ba cậu một miếng xà phòng tắm cho vui.
 Ba cậu chuyền tay nhau ngửi miếng xà phòng, kêu:
 - Thơm quá, thơm quá! rồi rủ nhau đi tắm.
Một cậu nán lại, bảo:
 - Thư thư tí đã, xem cái sơ mi Ba lan nó thế nào!
 Hoàng mở vội chiếc hộp các-tông, lôi cái áo ra, mặc vào cho cả bọn ngắm nghía.
-         Đẹp nhỉ...Đẹp hết ý...Ba cậu trầm trồ rồi đi ra nhà tắm. Vừa đi vừa bảo nhau:
-         Lão Hoàng trông khù khờ thế mà có cháu học ở Ba lan cơ đấy, oách thật! Chỉ cần mỗi tháng nó gửi cho vài miếng xà phòng thế này là tươm rồi..
 Còn lại một mình, Hoàng ngắm chiếc sơ mi 100% cô-tông nền trắng, kẻ sọc nhỏ màu xanh, cổ cồn, bóng mượt đang mặc trên người bỏ ra ngoài chiếc quần vải chéo xanh Nam Định, hai đầu gối đã bạc trắng, đôi dép cao su đứt quai hậu, bật cười. Anh cởi vội chiếc áo nhét vào túi. Tấm ảnh ba mẹ con cỡ 18.24 lớn quá, không biết dấu vào đâu, Hoàng băn khoăn.
 
 
*
*    *
 
Hoàng nhận quyết định “ Về hưu non”. Anh là một trong những người đầu tiên về hưu theo chủ trương chung“Tinh giản biên chế, củng cố tổ chức.” Việc cho một nhân viên bình thường, cùng ngạch với những người bảo vệ, quét rác ra khỏi biên chế chẳng có gì phải bàn cãi nhiều. Cái lí lịch anh tự khai khi vào cơ quan Đài phát thanh với chức vụ đã kinh qua là phó chủ tịch, tỉnh ủy viên và bản tường trình lí do mất liên lạc với tổ chức không thể làm căn cứ để xác định chế độ hưu cho anh. Hoàng về hưu với mức lương 60% của nhân viên bậc bốn. Hoàng không nghĩ gì về điều này. Anh chỉ nhớ một điều là từ ngày mai, anh không được lên ngồi trước chiếc bàn gỗ tạp, mọt đục chằng chịt, loang lổ vết mực tím, mực đen trong một cái phòng chật ních người và nồng nực mùi khói thuốc Lào nữa. Anh đến báo tin này cho Can. Dẫu biết trước rằng chuyện này sớm muộn cũng sẽ xảy ra đối với Hoàng nhưng Can không khỏi bàng hoàng. Thương bạn. “Con người có số phận không nhỉ?” Can nghĩ thầm trong bụng. Nét mặt Hoàng như tươi lên nói:
-         Chẳng có gì để buồn nhiều đâu ông ạ! Số phận cả thôi, nếu chuyến đi ra bắc của ông lùi lại năm ngày, cùng chuyến với tôi thì chắc gì ông có cái may mắn còn được sống như tôi hôm nay!
-         “ Số phận” Can nói, tôi vừa nghĩ đến nó xong. Không biết, có thật con người có “Số phận”hay không nhỉ?
-         Có hay không thì kẻ nào đã đầu  tiên phát kiến ra hai từ “số phận”, xứng đáng là con người vĩ đại nhất, Hoàng nói. Nhờ có cái bảo bối “ Số phận” mà những con người bị đau khổ, bị thua thiệt vẫn cố sống. Loài người, đa số là ngây ngô. Họ tin ở “số phận” và cam chịu ở sự an bài của số phận, nhờ vậy mà phần nào xã hội yên hàn, bớt đi cái so đo, kèn cựa.
-         Bây giờ ông tính thế nào?
-         Chẳng có gì để tính cả! Trước mắt tôi giờ chỉ có một con đường, lên rừng. Tôi định đến để hỏi ông cái địa chỉ cụ thể trên bản đồ của nơi ta ở hồi kháng chiến ở Việt Bắc.
-         Tôi cũng chịu, Can vò đầu. Hồi ấy họ dẫn chúng tôi đi đêm đến một khu rừng rậm rồi bàn giao cho hai dân quân đưa chúng tôi vào địa điểm công tác. Nguyên tắc giữ bí mật không cho phép hỏi địa chỉ nơi cơ quan đóng. Thư gửi ra ngoài phải để ngỏ. Người có trách nhiệm kiểm duyệt rồi dán lại gửi đi. Tôi không có nhu cầu liên hệ với ai nên cũng không quan tâm tìm hiểu địa chỉ nơi làm việc. Đang nói trầm trầm, Can “A!” lên một tiếng rồi bảo:
-         Dễ thôi, bây giờ hòa bình rồi không còn nghiêm ngặt như trước nữa, ông ra bến N đi thuyền ngược lên, hỏi họ đường về bến Cọp trắng mạn TQ. Những người buôn bè ai cũng biết bến này. Đến đấy ông sẽ lần ra địa chỉ của Thao ( Hỏi bà Hằng, ông Đỗ thì chắc biết), thế là ổn. Can lấy từ túi ngực của mình chiếc phong bì đã gấp đôi cẩn thận đưa cho Hoàng, bảo:
-         Ông cầm lấy mà phòng thân, lên đấy phải sắm sửa nhiều thứ cho cuộc sống mới, không tạm bợ như trước đây được.
-         Thôi chết, ông cho nhiều thế này tôi làm gì cho hết! Tôi đã có lương hưu, tiền “chế độ” mỗi năm công tác được nửa tháng lương. Cũng kha khá rồi, ông đừng lo cho tôi. Ở thành phố chi tiêu tốn kém nhiều thứ. Hoàng đẩy chiếc phong bì về phía Can.
Can cầm lại chiếc phong bì gẫy khúc trên tay, nhìn thẳng vào mắt Hoàng, giọng run run nói:
-         Không ai ngờ ông lại có cái kết cục như hôm nay! Chúng ta quen nhau gần ba mươi năm về trước ở Thị xã Kim Sa, tỉnh B, khu 6.  Ông là người đầu tiên giác ngộ lí tưởng cách mạng cho tôi...Hai tâm hồn trẻ phơi phới dậy tương lai thuở ấy đã dìu dắt nhau đi cho đến tận hôm nay. Tôi nhờ ơn trời dun dủi được trở lại với chính mình, được cầm lại con dao mỗ, cứu người...Còn ông..! Món tiền này có đáng là bao. Đây là tấm lòng của vợ chồng tôi đối với ông, xin ông nhận cho. Can đút chiếc phong bì vào túi ngực của Hoàng.
-         Đừng áy náy gì về tôi cả. Thật sự, tôi đang vui đây. Tôi cũng sẽ tìm lại được chính mình. Không phải chỉ là chính mình của ba mươi năm về trước như ông mà là chính mình gắn bó chặt chẽ với cội nguồn xa xưa của cha ông. Tôi sẽ trồng lúa, nuôi gà...với chính hai bàn tay này, với những công cụ thô sơ. Tôi thật sự cảm ơn ông vì những ngày tôi được chung sống với ông trên quả đồi hoang giữa rừng Việt bắc. Cuộc sống ấy đã đặt nền móng cho việc hình thành tư tưởng về cuộc sống mai ngày của tôi.
 Như để minh họa cho sự chân thật trong lời nói của mình, Hoàng đưa chiếc ba lô lên trước mặt hai vợ chồng Can nói:
-         Sáng mai tôi sẽ lên đường, toàn bộ tài sản của tôi là đây! Cồng kềnh nhất là chiếc soong nhôm to bằng chiếc bát tô đựng canh. Còn lại là hai bộ quần áo mỏng dính, một gói muối và mấy chục viên đá lửa. Hoàng giải thích cho Trang nghe về cách chuẩn bị cho một bữa ăn chỉ bằng một chiếc soong mà Hoàng đã thực hiện suốt bao năm sống ở Hà nội. Anh cười: “Lên trên ấy tôi tiết kiệm được cái bếp dầu, chỉ cần nhặt ba hòn đá kê lên, nhặt củi khô, quét lá rừng cho vào, châm lửa. Nước sôi. Rau chín. Cơm chín....” Hoàng vừa nói vừa đưa tay minh họa các động tác làm bếp như một anh hề chèo.
Can ngồi im, trầm ngâm nhớ đến chuyện lão Hầu hóa vượn. Câu chuyện này Can đã kể lại cho Hoàng nghe. “ Chẳng biết Hoàng có nhớ không mà trông anh ta có vẻ tưng bừng đến vậy? Hay anh ta nghĩ mình sắp trở thành vượn mà vui!” Can nghĩ bụng. Anh cắt ngang sự hứng khởi của Hoàng, hỏi:
-         Ông đã đọc câu chuyện về nhà triết học theo “ chủ nghĩa tối giản” người Ý Đi-ô-zen chưa?
-         Rồi, rồi...nhưng làm sao mà theo kịp tiền nhân, Hoàng nói. Nhất là khi các bậc tiền nhân ấy lại là những triết gia! Đi-ô-zen không mặc quần áo, không có nhà, chỉ sống trong một cái thùng phuy vứt bên đường. Toàn bộ tài sản của ông chỉ là một chiếc cốc hứng nước để uống. Một hôm ông nhìn ra đường thấy một thằng bé ngậm ngay miệng vào vòi nước để uống, không cần dùng cốc. Đi-ô-zen đập ngay chiếc cốc của mình. Vua nghe tin, thấy lạ bèn tiền hô, hậu ủng, xa giá đến xem. Đi-ô-zen ngồi yên trong thùng tay cầm bó đuốc, hai tên thị vệ đến mở nắp, ông vung cây đuốc sáng lòa lao ra khỏi thùng. Vua ra lệnh ngăn lại hỏi: “Tại sao giữa ban ngày mà ngươi còn đốt đuốc chạy đi đâu?” – “Thảo dân đi tìm một CON NGƯỜI” Đi-ô-zen trả lời.
 Uyển Trang cười, bảo:
-         Tiếng vậy  nhưng vua quan xưa cũng hiền đấy chứ! Nếu không, cái lối cạnh khóe như Đi-ô-zen, có mà mất đầu!
 Hoàng ra bến đò sớm hơn giờ khởi hành cả tiếng đồng hồ. Anh muốn ngắm nhìn lại lần cuối cùng cái bến nước đã gắn với đời anh hơn chục năm qua kể từ cái ngày anh về làm việc ở nhà xuất bản N. Mùa xuân, bãi Giữa, ngô non phơi phới, xanh mướt ngút ngàn, lồng lộng gió như muốn nâng bổng hồn người. Rồi mùa lũ, nước trào mênh mông. Nước liếm vào bàn chân anh. Nước vỗ ì oạp vào thân cầu, hối hả trôi đi...biết bao tháng ngày, anh chứng kiến cái vòng tuần hoàn quẩn quanh của tạo hóa như thế. Cứ sau giờ làm việc là anh ra ngồi ở đấy, trên một mô đất đã bóng lên, chai lại vì vết ngồi của anh. Những người đi qua đường, bọn trẻ con thả diều, bắt dế, quá quen thuộc với cái ông già mỗi chiều ra ngồi trên cái hòn đất ấy nên  dù có mỏi chân họ cũng không ngồi lên đó. Thói quen là một quyền “sở hữu tư nhân” khó lòng “tập thể hóa”. Anh ngồi đấy, đã hàng trăm, hàng ngàn chuyến đò ngang, dọc ngược xuôi...Biết bao con người đã hối hả, tất bật, chen lấn như vậy để làm gì nhỉ? Hoàng tự hỏi và không có câu trả lời. Đầu óc anh không muốn đi xa hơn nữa để tìm lời giải đáp. Những tảng hoa Lục bình dùng giằng trước sự xua đẩy của dòng nước thượng nguồn trôi xuôi và sự cản lại bởi những con sóng do gió nồm từ biển thổi vào và nước triều cường tạo ra. Chúng nép vào sát bờ, được bình yên trong giây lát rồi lại bị xua ra giữa dòng, lênh đênh... Con tạo trớ trêu! Hoàng thoáng nghĩ. Ra đến biển rồi những cánh hoa lục bình tím ngát xao xuyến lòng người kia sẽ chỉ còn là những đống rác thôi mà! Tiếng í ới từ phía bờ sông bên kia vọng lại làm đứt quãng dòng suy nghĩ của anh. Lại người! Quang gánh, xe thồ...Người bước lên thuyền được một chân, chân kia mắc vào người dưới bến, la hét om sòm. Xa xa mấy người tất tưởi chạy về bến, luôn miệng “Đò ơi, đò ơi!” Dù đò khởi bến vào bất cứ giờ nào, có chậm hơn giờ quy định viết bằng vôi trắng trên cái mẹt to cắm trên bến cả tiếng đồng hồ thì khi đò rời bến vẫn có những tiếng la như vậy. Tiếng la ấy ngày nào cũng giống ngày nào, chuyến nào cũng giống chuyến nào! Cùng một âm thanh, cùng một cung bậc. Đó là tiếng kêu chới với trước một cạnh ngộ bấp bênh. Lòng họ đầy hoài nghi sợ rằng sẽ không còn chuyến sau.
 Hoàng lên đò. Con đò dọc của hợp tác xã thương mại và vận chuyển đường sông Bạch Mã. Trên đò đã chất đầy các thứ hàng khô. Tôm, cá khô, muối, nước mắm, giấy vở học trò, xu chiêng, xi líp...Vân vân là thứ. Hành khách đi đò dọc chỉ là trường hợp hi hữu. Đường ô tô giờ đã về đến một số thị tứ của các huyện. Cọp trắng chỉ là một vùng hẻo lánh, một thị tứ ven sông ít người qua lại. Bà Hằng là người buôn bè tre nứa tấp lại bến này vì một lí do bất khả kháng rồi trở thành người khai sáng ra cái thị tứ heo hút này. Muốn về Cọp trắng mà không phải chuyển bến thì chỉ có con đường duy nhất đi đò của hợp tác xã Bạch mã. Ba người đàn bà đã ngồi yên trong mui thuyền. Lặng lẽ. Những bao muối, bao cá khô, thùng nước mắm... chất đầy xung quanh. Hoàng chọn một chỗ ngồi đầu mũi thuyền dưới chân người bẻ lái. Sự im lặng một hồi lâu của ba người đàn bà khiến Hoàng ngạc nhiên. Bổng, một tiếng hỏi khe khẽ cất lên:
-         Đằng ấy đã mấy năm không nhận được thư rồi?
-         Bảy
-         Thế là từ ngày nhập ngũ đến giờ không có tin tức gì về anh ấy?
-         Có, lá thư đầu tiên nhận được gửi từ Quảng Bình, ba tháng sau khi nhập ngũ.
-         Tớ cũng thế, bảy năm rồi chỉ nhận được một lá thư anh ấy gửi gửi từ Vĩnh Linh hồi mới đi!
-         Nhà Hòa nhận được giấy báo tử từ hồi nào nhỉ? Họ hỏi người đàn bà thứ ba ngồi ở trong góc.
-         Sáu tháng năm ngày sau ngày ra đi.
-         Chết ở đâu, hồi nào?
-         Có trời biết, họ ghi “Hy sinh ở mặt trận phía Nam trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.” Chấm hết.
-         Cả ba đi cùng ngày í thôi!
-         Bốn chứ!
-         Ừ, cả thằng Thụy chồng cái Thương nữa!
-         Chỉ có cái Thương là sướng nhất thôi.
-         Sướng cái nỗi gì, lên bờ xuống ruộng mãi. Lấy chồng được năm ngày thì chồng đi bộ đội, ở nhà nuôi bà mẹ chồng mù. Làm đủ mọi thứ việc thôn xã giao cho, phong trào nào cũng đi đầu. Nào đội trưởng sản xuất, đội trưởng thủy lợi, rồi xã đội trưởng, thường vụ đảng ủy xã...Đùng một cái mất sạch, bị vứt ra đường, bị coi như con chó dại...Hồi ấy hắn thật tội nghiệp, trông đến liêu điêu...
-         Bây giờ thì hắn sướng nhất vùng, của ăn, của để không hết, chồng con đề huề, lại thuộc diện gia đình chính sách, chồng là thương binh, bố là liệt sĩ..
-         Đề huề cái nỗi gì? Mày xem hắn thì phây phây như thế mà thằng Thụy thì... Khổ không biết để đâu cho hết đấy! Người đàn bà đang kể ngừng lại cười khúc khích.
-         Thằng Thụy thế nào? Trông hắn lành lặn, vâm váp thế kia sao lại được xuất ngũ lại là thương binh loại Một?
-         Hắn bị thương nặng, mất sức “chiến đấu”, mất... “Chim!”
-         Con Thương hồi ấy bị cái “phốt” gì mà người ta xử lí nặng thế nhỉ?
-         Đúng là Tái ông mất ngựa, nếu không bị cái kỉ luật ấy thì bây giờ cũng chỉ sống dặt dẹo như bọn mình thôi chứ hơn gì. Tớ cũng từng là chủ tịch hội phụ nữ xã đấy thôi!
-         Chuyện con Thương cũng li kì. Nhìn bề ngoài ai cũng thấy hắn nghiêm nghị, mực thước. Bọn con trai thấy hắn đẹp cứ lượn quanh chép miệng thèm khát, không dám sỗ sàng. Trước mặt không ai dám xưng “Anh” với hắn. Một điều “chị Thương”, hai điều “Chị Thương”... Các cậu có nhớ thằng Vũ lác hồi đóng quân ở thôn mình không?
-         Có, có...Thằng nói giọng Nghệ ấy! Trông cao lớn , phương phi rất đàn ông chỉ tội con mắt trái bị lác. Trông thế nhưng hắn ta lại nhát gái. Hắn say con Thương lắm nhưng chỉ loanh quanh vòng ngoài thôi. Hồi ấy con Thương chưa lấy thằng Thụy, nếu thằng Vũ ngỏ lời chắc hắn cũng xiêu. Vũ đóng quân ngay ở nhà bà mù mẹ thằng Thụy, đi làm đồng về Thương thường kiếm cớ đi ngang ngõ nhà bà mù, đôi lúc còn ghé vào cho bà lá trầu quả cau. Nói dăm ba câu chuyện. Vẻ mặt tươi rói, trên môi hơn hớn nụ cười, ra về. Vũ nhìn theo đắm đuối nhưng chưa dám ngỏ lời bởi cái tính quá cẩn thận, cân nhắc quá kĩ lưỡng của anh. Thụy chỉ bằng tuổi Thương, “trẻ con” quá Thương không để ý. Với lại cái trò con gái : “Bụt chùa nhà không thiêng.” Bà mù thấy Thương chu đáo với mình, cứ cố vun vào cho Thụy. Vũ được lệnh đi đơn vị khác. Chẳng bao lâu sau, Thụy được lệnh nhập ngũ. Đám cưới của Thụy- Thương được tiến hành vội vã. Năm ngày sau Thụy lên đường...
-         Cậu đãng trí mất rồi! Đang nói về “Vụ án con Thương” mày lại vòng vo tam quốc chuyện thằng Vũ, thằng bão nào vào đây?
-         Thế mới nên chuyện chứ! Chừng một năm sau, kể từ ngày thằng Thụy đi B. Thằng Vũ cũng có lệnh đi B. Trên đường hành quân, tối ấy đơn vị Vũ trú lại thôn trên. Vũ ghé xuống thăm bà mù. Đến đầu sân, Vũ chững lại, nghe tiếng Thương nói với bà mù: “Bu ăn đi cho nóng.” Bà lặng thinh, đưa bát cơm lên miệng. Hai mẹ con đang giận nhau. Cái Thương có thói ban đêm tắm truồng rồi cứ ở truồng nồng nỗng như vậy lên giường nằm ngủ. “Trời tối như mực ai nhìn thấy mà lo...Thằng nào có sức thì cứ nhìn.” Hắn thường bô bô như vậy với chị em. Hôm ấy đi tập về mệt, cơm nước dọn dẹp xong đã muộn. Thương ra giếng, như mọi ngày, múc nước dội ào ào rồi vào giường lăn ra ngủ, chẳng quần, chẳng áo gì trên người. Hắn mơ gì không biết, nói lảm nhảm rồi rú lên. Bà mù nằm ở chái bên kia. Bà nghe hết mọi động tĩnh ở buồng con dâu. Bà mò sang. Sờ lên người Thương thấy trần trụi. Bà đoán chắc có thằng nào vào đây vừa làm “cái chuyện ấy”, thấy bà vào, tụt xuống trốn dưới giường. Bà mò mẫm trong bóng tối đi tìm cho ra cái “tổ con chuồn chuồn!” Bà vấp phải khẩu súng...Khẩu súng đổ xuống đập vào cái dùi kẻng báo động đặt cạnh đấy phát ra một tiếng chát chúa.
-          Ai ? Thương thét lên.
-         Tao đây mà! bà bảo, tao “ thấy” con gì nó đi vào buồng của mày nên sang xem..
-         Bà “sáng” ra bao giờ thế? Đêm đen như mực thế này đến người sáng mắt cũng chẳng thấy gì huống hồ bà...
Vũ bước vào nhà làm cho không khí nhà bà mù tưng bừng trở lại. Thương reo lên: “Bu ơi! Anh Vũ về thăm bu đây này!” Mặt bà mù rạng rỡ hẳn lên: “Thằng Vũ về đấy hở con” Bốn con mắt Thương và Vũ nhìn nhau đăm đắm. Bà hỏi tiếp: “Con về chơi được lâu không, có gặp em Thụy ở đâu không?” Vũ đưa tay cầm lấy tay Thương, trả lời bà: “Đơn vị con chỉ hành quân qua đây, chắc cũng chỉ ở lại vài hôm cho bộ đội dưỡng sức thôi bu ạ! Đơn vị con cũng đang trên đường đi vào. Thụy vào trước, chắc đã đến nơi rồi, giờ này có khi đang đánh nhau đâu đó cũng nên! Nước mắt Thương ràn rụa. Vũ bóp chặt bàn tay Thương trong tay mình. Vũ nhìn Thương cố ý nói to: “Muộn rồi con chỉ ghé thăm bu một lát, giờ con phải về đơn vị. Ngày mai con sẽ trở lại.” Thương đứng lên: “anh Vũ về nhé!” Bàn tay Thương vẫn nằm yên trong tay Vũ. Bà mù không nghe thấy bước chân Vũ ra ngõ liền gọi: “Thương ơi! Nhớ bảo anh Vũ mai đến ăn cơm với mẹ con mình nhé!” Thương và Vũ đang ôm nhau đứng trước hàng hiên cạnh cửa, nghiêng đầu vào trong nói: “Sao bu không bảo sớm, anh ấy về rồi, chạy theo bảo không tiện. Mai anh ấy còn trở lại cơ mà!” Nét mặt bà rất đỗi băn khoăn. Nghĩ lại, cái giây phút gặp Vũ ngắn ngủi vừa rồi, bà thấy trong tiếng nói, trong giọng cười của đứa con dâu mình khác hẳn mọi ngày. Bà lần vào buồng mình, nằm yên. Đêm ấy bà không ngủ.  Đã khuya. Trời tối. Ánh sáng của những vì sao xa rọi tới không chọc thủng được bóng đen của những lũy tre già bao quanh vườn. Đối với bà Tòng trong chặng đời còn lại này thì đêm hay ngày, tối ba mươi hay đêm rằm đều một màu đen dày đặc như vậy cả! Bà còn gắn bó với thế giới bên ngoài nhờ vào đôi tai tinh tường. Bà nghe rõ cả tiếng kẽo kẹt của hai thân tre sau vườn cọ vào nhau khi có làn gió tới. Tiếng côn trùng rả rích ở vườn sau...Đang nằm yên thao thức, bà ngẩng đầu lên. Lắng nghe! Tiếng ót ét dồn dập từ chiếc chõng tre buồng của đứa con dâu, tiếng rên rĩ, cả tiếng khúc khích nữa!...Đúng rồi! Bà bước ra nhưng rồi ngồi lại ở bục cửa. “Biết đâu nó lại đang nằm mơ như lần trước. Nó đã giận mình gần cả tháng trời vì cái chuyện ấy rồi...” Bà vụt đứng dậy, sau một hồi liên tục tiếng chõng tre cót két, bà nghe có cả tiếng đàn ông phì phò. Bà Tòng không ngần ngại, bước thẳng vào buồng con dâu. Bà túm thế nào lại đúng vào chỗ mắt cá của hai đôi chân. Bà la lên: “Đây rồi, đây rồi...! Cả bốn cái chân nhé! Còn làm mình làm mẩy, hờn giận nữa đi...Trời ơi là là trời “bốn cái chân!” Bà vẫn nắm chặt lấy chỗ mắt cá ấy. Hai đứa ra hiệu cho nhau cứ nằm im như khúc gỗ vậy. Bà sinh nghi, sao chúng nó lại nằm im như thế! Mình nắm được chân chúng nó, thật hay mơ đây? Bà cố la lối to lên cho xóm giềng đến, cho rõ mặt hai đứa gian phu, dâm phụ này. Bà buông tay, ra ngồi ở bậu cửa, lại la to hơn: “Bà con ơi sao lại đổ đốn ra thế này! Bốn cái chân, tôi tóm được bốn cái chân...” Trong khi bà la như vậy thì hai đứa lén ra phía cửa ngách đầu giường chạy ra ngoài. Tiếng nước xối ngoài giếng ào ào, tiếng Thương gọi vào:  
-         Gì đấy bu ơi!
-         Ai gọi đấy! Cái Thương hả? Mày đang ở đâu? Tao vừa đếm được bốn cái chân ở giường mày.
-         Con đang ở ngoài giếng, bu nói cái gì mà bốn chân, năm chân...?
-         Cái giường mày chứ còn cái gì nữa! Thế ai trong giường mày?
-         Rõ khổ! Thương chạy vào, vẫn trần trụi như mọi khi, ai đâu nào? Bu đi ngủ đi cho con nhờ. Thương cố nói to cho át tiếng kể lể của mẹ chồng, vừa để cho hàng xóm nghe thủng được cái chuyện mất trí của bà cụ. Bu lẩn thẩn quá rồi, giường nào mà chả có bốn chân? “Cụ” nhớ con trai quá rồi mất trí thế này thì khổ cái thân con quá! Ai chăm cụ được bây giờ? Bắt đầu từ ngày mai con phải làm cái khóa ở buồng cụ, tối đến hoặc lúc con vắng nhà là con khóa trái lại đấy! Đang đêm mà cụ bỏ nhà ra ngoài thì...thì thôi đấy.
-         Bà Tòng dạo này trái tính, trái nết quá rồi, tội nghiệp, hàng xóm bảo nhau, Thằng Thụy đi biền biệt, có đến năm năm rồi không tin tức gì.
Thế rồi chuyện cũng vỡ lở ra. Cái Thương có chửa. Thường vụ triệu lên, họ cũng định làm qua loa, chỉ miễn cái chức thường vụ Đảng ủy xã của Thương, đảm bảo cho bộ mặt của tổ chức được trong sáng trước con mắt của quần chúng thôi. Vì nguyên tắc, không xử lí không được nhưng các ông ấy cũng thương nó. Là con người cả mà. Nhưng cái Thương nó rất ương. Bảo nó đọc kiểm điểm, nó bảo: “Tôi là một con đàn bà, tôi thích được đàn ông vuốt ve ôm ấp, thích có đứa con để nuôi...Tôi sợ nhất là mất hai thứ đó, còn các thứ khác cứ mất đi cho nhẹ nợ. Tôi chẳng thiết, chẳng thường vụ, thường vẹo, chẳng xã đội xã cai gì sất! Xóa đi! Xóa hết đi...” Hắn bỏ về nhà. Chẳng đi làm hợp tác xã nông nghiệp, ngày ngày toòng teng đôi quang gánh đi nhặt sắt vụn bán cho cơ sở cán thép thủ công Đa hội. Mệt đâu nghỉ đấy, đói đâu ăn đấy. Giá trị ngày công của nó mèng ra cũng được 10kg gạo, trong khi ngày công của xã viên hợp tác ở quê  chỉ được 0,5kg thóc! Kinh tế hắn khá lên trông thấy. Hắn chẳng cần quang gánh lang thang nữa mà treo ngay cái biển  “ THU MUA SẮT VỤN” ngay trước ngõ. Đa Hội cho xe lên chở. Thương trở thành giàu có.  Con trai Thương, thằng Phấn lên ba thì bà Tòng mất. Thằng cu khôi ngô tuấn tú tệ. Mang cái gen trội của mẹ da trắng hồng rất dễ thương. Chưa đến bốn mươi chín ngày của mẹ thì Thụy về. Vừa đến đầu làng, ngồi ở cái quán nước gốc đa, Thụy đã biết hết sự tình. Những câu chuyện về Thương được người đời tô điểm, thêu dệt thêm, thấm đượm tình người. Cô ngời sáng như những nhân vật anh hùng trong các chuyện dân gian. Thụy ngồi tựa lưng vào gốc cây lơ đãng nghe chuyện như một người qua đường không quen biết. Nghe tin, Thương xớn xác chạy ra:
-         Anh về rồi hả? Chắc mệt lắm! Uống nước đi rồi về.
Cô hớn hở xách ba lô đi trước, Thụy thất thểu theo sau như một hàng binh bại trận. Dọc đường gặp ai quen biết trong xóm, ngoài làng Thương tưng bừng: “Nhà em vừa về, về hẳn rồi!” Thụy gật đầu cười theo. Về đến nhà, Thương bảo : “Anh thắp cho mẹ nén nhang rồi đi tắm rửa, nghỉ ngơi thoải mái đi! Chuyện chúng ta còn dài, dài lắm, nói sau. Cũng may bây giờ anh được ở nhà, có nhiều thời gian. Thằng Phấn chẳng biết gì đứng kẹp vào giữa hai đùi của bố, ngước mắt nhìn lên, đưa tay sờ cằm Thụy bảo: “Bố có nhiều lông cằm quá!” Thụy phì cười bế con đặt lên đùi mình.
 Thằng Phấn đã ngủ say. Chiếc đèn Hoa kì khói đen mờ cả bóng leo lét đặt giữa chiếc chõng tre. Thụy và Thương ngồi hai bên cây đèn. Bóng họ đổ dài về hai phía trên nền đất lem nhem. Phá tan bầu không khí lặng yên, Thương bảo: “ Em ở nhà...” như thế... như thế... không dấu diếm điều gì. “Bây giờ mọi việc do anh quyết định. Em rất có lỗi với anh. Nếu được anh tha thứ thì cả chặng đường còn lại này của cuộc đời em, em sẽ hết lòng vì anh, hết lòng phụng sự cho cái gia đình bé mọn của chúng ta. Em vẫn còn yêu anh và thương anh nhiều lắm! Có anh bên cạnh là đủ, em chẳng còn mơ ước điều gì nữa.” Lời nói của Thương đầy chân thành, nét mặt vẫn thơ ngây như ngày hai đứa đi học phổ thông  cãi nhau. Thụy đưa tay đặt cây đèn lên trên chiếc bàn ăn làm bằng nắp thùng đạn pháo cạnh giường. Anh ngồi sát lại cạnh Thương:
-         Em có hiểu hết cảnh ngộ của anh bây giờ chưa? Anh không muốn làm em phải tiếp tục khổ đau vì anh. Anh vẫn còn sống, nhưng thằng đàn ông trong anh thì đã chết! Tay phải anh lại bị khèo không còn lao động nặng được nữa...
-          Những điều anh nói có ý nghĩa gì! Điều mà em quan tâm là anh có coi khinh em không? Có còn yêu em như ngày nào không? Chỉ cần điều đó thôi! Anh chẳng cần lao động nặng nhọc gì. Còn “Cái kia” thì với kĩ thuật bây giờ người ta giải quyết quá dễ dàng. Thằng chồng bạn em cũng bị như thế mà bệnh viện X80 người ta giải quyết “ngon lành” còn “hoành tráng” hơn trước. Em đủ tiền để đưa anh đi làm lại với công nghệ tiên tiến nhất hiện có, không sợ tốn kém...”
Thụy ôm chặt Thương vào lòng:
-Thằng Phấn đáng yêu quá đi mất! Từ chiều đến giờ cứ quấn quýt bên anh bi bô “Bố ơi, bố ơi” hỏi hết chuyện này sang chuyện khác, trẻ con, thương thật!”
 Cái cô ngồi trong cùng, tựa lưng vào mui thuyền, nguyên chủ tịch hội phụ nữ xã hiểu quá tường tận về Thương. Cô kể chuyện trầm bổng hấp dẫn như nghệ sĩ đọc chuyện đêm khuya. Kết thúc câu chuyện là một tiếng thở dài: “Số phận cả thôi mà!”
Hoàng ngồi đầu mũi thuyền, tai không rời khỏi câu chuyện. Đến cái câu kết “Số phận cả thôi mà”, anh quay lại, thò tay vào ba lô rút một điếu thuốc. Khói bay vào mênh mông, không để lại dấu vết gì. Con thuyền vẫn đi qua những lũy tre soi bóng xuống dòng sông, những bến nước có các cô gái gội đầu, những đứa trẻ bơi lội. Những xóm làng vắng lặng. Những cánh đồng san sát ruộng lúa, bãi sắn nương ngô. Sát bờ sông hơn cả là những ngôi chùa, những đền miếu u tịch, hoang liêu dưới các gốc cây cổ thụ im lìm. Hoàng đã từng xuôi ngược trên “chín con rồng” của đồng bằng Nam bộ, luồn lách trong các kênh rạch của khắp chốn bưng biền giữa các rừng dừa nước rậm rì và những rặng tre tắm mình trong nắng vàng. Nhưng giờ đây, ngược dòng lênh đênh trên sông Hồng, nơi cội nguồn phát tích của dân tộc Việt, trong hồn anh sâu lắng một cảm giác thiêng liêng. Không gian địa lí của vùng châu thổ sông Hồng là một không gian triết học. Thuyền lướt đi, dù qua vùng dân cư trù mật bến nước, cây đa, những mái nhà rêu phong dày dạn nắng mưa hay những đồi bãi hoang sơ, dân cư thưa thớt, mái lá còn tươi...Nơi đâu cũng có bốn yếu tố đảm bảo cho sự tồn tại của một cộng đồng: Mái nhà che nắng, che mưa; ruộng nương để làm ra hạt thóc, củ khoai nuôi miệng; một bãi tha ma vùi thân khi lìa đời và một ngôi chùa, nơi tá túc của những linh hồn phiêu dạt, niềm an ủi cho những người còn sống. Bốn “Mô đuyn” của sự tồn tại ấy, hai cái cho sự sống và hai cái cho cái chết. Họ thích một cuộc sống ổn định sau lũy tre làng. Cuộc sống lênh đênh chỉ giành cho những người sa cơ, lỡ vận, những người không còn gì để mất ở quê hương. “Sống nhờ đất khách, thác chôn quê người...”như là nỗi nhục, nỗi đau của người dân Việt nói chung chứ không riêng gì Thúy Kiều. Và cho dù loài người đã tìm ra lửa từ hàng triệu năm nay, thịt chín đã trở thành món ăn không thể thiếu của nhân loại nhưng những con người sau lũy tre làng ấy vẫn muôn đời “Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương...!”
 Chiều xuống tự bao giờ. Thuyền cập bến. Hoàng ngơ ngác:
-         Đến Cọp trắng rồi hả?
-         Vâng, mời ông lên bờ!
-         Chiều rồi, ông định về đâu? Một người trên bờ hỏi.
-         Vâng, tôi chỉ đến đây thôi.
Hoàng cố nán lại đứng trên bờ sông nhìn nắng chiều rơi trên mặt nước lăn tăn. Bên kia bờ là một cánh rừng rậm. Chim về xao xác. Có tiếng của một con nai lạc đàn gọi bạn vọng lại. Đoán rằng, cái quán có vẻ lịch sự dưới bóng một cây đa cổ thụ bên phải chắc là quán của bà Hằng. Hoàng ghé vào. Chủ quán niềm nở mời khách:
-         Chắc ông ở Hà nội vừa lên!
-         Vâng thưa bà, tôi hỏi khí không phải, tôi muốn tìm đến nhà ông Thao, bác sĩ ở trường Y tế, nghe nói nhà ông ấy gần đây?
-         Mời ông xơi nước đi, nhà ông Thao cách đây không gần, cũng không xa lắm, ra chiều suy nghĩ, bà nói.
 Thoa ở nhà sau chạy ra:
-         Xin lỗi, chắc ông là ông Hoàng?
-         Vâng, Hoàng đoán chắc người hỏi chuyện mình là Thoa, vợ Mân. Hoàng đã được Thao, Quỳnh mô tả khá cặn kẻ nên đoán không nhầm.
 Thoa tươi cười nói:
-         Thế thì hay quá rồi, anh ngồi lại đây nghỉ chân, xơi nước. Em sẽ đi báo cho anh Thao đến đón anh. Anh Thao và nhà em cứ nói chuyện về anh hoài. Hôm nay gặp nhau chắc vui lắm. Ông nhà em về hưu rồi, đang rầu rĩ vì thiếu bạn tâm giao đấy! Chương trình chiều nay thế này nhé: Em sẽ đi báo ngay cho anh Thao đến đón anh về nhà em. Vợ chồng em mời anh và anh Thao dùng cơm chiều, mong anh nhận lời.
-         Được thế thì còn gì bằng! Tôi đã được nghe nhiều về ông nhà nhưng chưa được gặp. Tôi xin đi theo ông Thao!
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
                                                              11
 
 
 
                 Không như mong muốn của hai người. Từ ngày Xuân sinh thằng Kiếm, Đặng Gia Kiếm, Lâm đặt tên con như vậy, giữa Lâm và Xuân như có một bức tường ngăn cách. Đứa con có được nhờ thụ tinh nhân tạo ấy càng khôn lớn, bức tường như càng cao lên. Cao dần, cao dần đến mức che lấp cả ánh mắt nhìn nhau chan chứa niềm thương cảm giữa hai người, không còn cảm được hơi ấm của nhau, không nghe được tiếng nhau thở dài trăn trở trong đêm. Kiếm không có một nét nào giống Lâm đã đành, từ khuôn mặt, nước da, đến vóc dáng...không tìm thấy một dấu vết gì của Xuân. Nó giống ai ấy! “Nhìn nó thấy quen quá,” Lâm ngờ ngợ. Nước da đen màu bồ quân, khuôn mặt vuông chằn chặn, cái miệng rộng, đôi môi dày, mớ tóc rễ tre óng ánh...Bất cứ ai khi gặp hai bố con, người ta đều đưa mắt nhìn Kiếm rồi lại ngước nhìn Lâm. Nét mặt họ không dấu được vẻ thương hại Lâm. Anh biết những ánh mắt của thiên hạ nói gì. Lâm cố tránh sự hiện diện song trùng của anh và Kiếm ở bất cứ nơi nào. Khách vừa đến ngõ, Lâm đã bảo Kiếm: “Con vào buồng trong chơi, bố có khách!” Chẳng bao giờ Lâm đưa con ra đường hay đến cơ quan. Việc Xuân đi làm thụ tinh nhân tạo cả Lâm và Xuân đều cố tình dấu kín. Mỗi bữa ăn, khi ngồi vào mâm, hai bố con ngồi phía bên kia, chị và niêu cơm phía bên này. Chị không dám ngước nhìn hai khuôn mặt ấy. Hàng xóm cũng nhìn chị với con mắt khác. Xuân sợ nhất là bọn học trò bạn Kiếm đến nhà chơi gặp mặt Lâm. Bây giờ nói ra sự thật thì đã muộn, người ta chỉ coi đó là lời ngụy biện, sự chống chế cho một tội lỗi của Xuân. Thời gian đầu, có đứa con bên cạnh, Xuân rất vui, khuôn mặt nó giống ai chị không cần biết. Nó là con chị đẻ ra, lòng dạ chị thế nào Lâm biết. Chị chỉ cần có thế, thiên hạ nghĩ gì chị chẳng quan tâm. Sau khi đứa con thứ ba ra đời, Kiếm lớn lên, khuôn mặt vẫn thế nhưng mỗi lần ngắm nhìn con, Xuân thấy như đó là một minh chứng cho tội lỗi không thể che dấu được của mình. Xuân thường tránh ánh mắt của chồng. Chẳng bao giờ chị dám vuốt ve, âu yếm con trước mặt Lâm.
 Ngày Kiếm lên hai, Lâm cũng vừa chuyển công tác mới, làm chủ tịch mặt trận. Anh đi nhiều, có khi cả tháng không về. Một hôm, Kiếm sốt cao trên 40 độ. Xuân hốt hoảng nhờ một cô giáo viên cùng trường đưa con đi bệnh viện. Bác sĩ khám xong cho Kiếm. Chị bế con đi tìm phòng dược để nhận thuốc. Trước cửa khoa đông y có hai ghế băng không có người ngồi. Thấy mệt, từ sáng tới giờ hốt hoảng vì lo con ốm, chị chưa ăn uống gì. Xuân bế con ngồi xuống chiếc ghế ngay trước cửa phòng đông y. Một người đàn ông lực lưỡng, da đỏ au từ trong phòng bước ra, chắc ông ta tưởng chị là bệnh nhân nên ra tiếp. Ông không mặc áo Blu trắng như các bác sĩ, y tá khác mà khoác một chiếc áo công tác của bệnh viện màu xanh da trời chỉ dài chấm mông. Xuân đưa cả y bạ, đơn thuốc cho ông xem. Mặt ông lơ đãng nhìn ra xa như đang tìm trong kí ức điều gì. Ông nhìn Xuân, hỏi:
-         Chị là Phan thị Xuân, mẹ cháu?
-         Vâng!
Người đàn ông vén chiếc khăn sô mỏng phủ mặt đứa bé ra, nhìn chăm chú rồi đặt tay lên trán cháu. “Thằng bé kháu quá!”Ông trầm trồ như nói với chính mình.
Xuân chăm chú nhìn bàn tay “Ông bác sĩ” đang đặt trên trán con mình. Ông rút tay về. Chị nhìn theo khuôn mặt ông rồi lại âu yếm nhìn mặt con, phủ lại chiếc khăn sô che khuôn mặt đứa bé.
-         Chị cứ cho cháu ngồi đây, tôi sẽ đi làm tiếp các thủ tục cho. Cháu bị cảm nhẹ thôi chị đừng lo.
Xuân ôm chặt con vào lòng, nhìn theo cái dáng đi lừng lững của “Ông bác sĩ”, nhớ đến mấy ngón tay không có móng, đỏ hỏn trơn bóng đặt trên trán con. “ Những ngón tay nhồn nhột trơn trơn...Cái thân hình vạm vỡ, cái bóng đen bước ra trong ánh đèn mờ ảo của phòng “điều trị” C5 ngày nào, cũng lừng lững như thế! Và, cả cái khuôn mặt ấy nữa! Sao nó giống cái khuôn mặt thằng Kiếm đến vậy?” Xuân thấy sợ. Chị bế con vội vã ra khỏi bệnh viện không dám ngoái đầu nhìn lại. Chị sợ cái ánh mắt của “Ông bác sĩ ấy.” Hai ngày sau, “ông bác sĩ” tìm đến nhà bệnh nhân tí hon Đặng Gia Kiếm theo địa chỉ ghi trong y bạ. Trong tay ông bây giờ còn có cả cái phiếu điều trị cho bệnh nhân vô sinh Phan Thị Xuân năm nào. Cái phiếu ấy, cô y tá vô tình bỏ quên trên mặt bàn, ông nhặt được khi bước ra khỏi phòng điều trị C5. (Theo nguyên tắc ông không được biết họ tên, địa chỉ “người bệnh”, nhưng giờ ông đã có nó trong tay.) Ông nhớ lại cái đêm hôm ấy. Cái đêm còn được ghi lại rõ ràng trong “Phiếu điều trị”: “từ 19 giờ 30 đến 20 giờ 45, ngày...tháng..tại phòng C5 khoa hiếm muộn, bệnh viện....” Cái thân thể mềm mại, nồng nàn ấy đã làm ông đê mê cả tháng trời! Ai ngờ, gặp lại nhau...cái thằng bé giống mình như hai giọt nước...!
Thằng Kiếm đã hết sốt. Nhà chỉ có hai mẹ con, ông cũng không biết gia cảnh Xuân thế nào, chồng Xuân là ai, làm nghề nghiệp gì, công tác gần nhà hay ở xa. Ông đến với tư cách là một thầy thuốc kiểm tra sức khỏe bệnh nhân của mình. Ông bước vào nhà. Xuân thảng thốt ôm choàng lấy con như vừa sợ ai bắt mất con mình, như là tìm một chỗ tựa cho chính mình trong lúc bối rối. Nhìn nét mặt thất thần của Xuân, ông nhẹ nhàng hỏi:
-         Con đã khỏi sốt chưa?
-         ... Cháu cũng đỡ rồi bác ạ! Không nói được gì thêm. Chị cúi đầu.
Ông quờ tay bế thằng bé đặt lên ngồi trên đùi mình. Thằng bé không khóc, ngửa mặt lên nhìn người khách lạ. Xuân ngước nhìn lên. Chao ôi! Hai khuôn mặt... Chị sợ có ai bước vào nhà nhìn thấy cảnh tượng ấy lúc này. Trời trở cơn giông. Những đám mây đen vần vũ trên mái nhà. Xuân chạy ra sân lấy vội quần áo chăn chiếu vào nhà. Thằng bé sợ những tiếng sét, nép mình vào ông. Mưa rơi. Nước từ mái gianh thành dòng chảy hối hả xuống sân. Nước lênh láng, bong bóng bập bềnh trôi. Ba người ngồi lặng im nhìn nhau. Thằng bé vẫn ngồi yên trên đùi “ông bác sĩ”. Ông cất tiếng:
-         Mưa to quá! Anh ấy đi làm về không khéo bị ướt dọc đường.
-         Không, bố cháu đi tập trung học quán triệt nghị quyết hơn tháng, độ giữa tuần sau mới về.
 Ông bác sĩ nhận thấy hai từ “Bố cháu” Xuân vừa nói ra nghe gượng gạo thế nào ấy. Thằng bé ngủ say trong lòng “ông bác sĩ” tự lúc nào. Chị nhẹ nhàng luồn một cánh tay vào sau lưng con, sợ đụng chạm mạnh làm thằng bé tỉnh giấc, chị ấn tay sâu về phía “ông bác sĩ”. Cái cằm ông tỳ sát vào lưng chị, hơi thở nóng của ông phả ra ấm cả làn lưng...Trời vẫn mưa, dày hạt hơn. Tiếng sấm gầm gừ trên cao. Chị ẵm con vào lòng, như người hốt hoảng, mặt đỏ bừng... Đi như chạy, chị đưa con vào buồng. Chị ngồi lặng ở mép giường, nhìn con, định thần lại cái dây phút lâng lâng vừa qua. Thấy trong phòng yên ắng, ông bước lại phía cửa buồng, ghé mắt trông vào. Xuân ngồi như pho tượng, nghiêng lưng về phía cửa. Ông bước vào, ngồi ở góc giường, sát lưng Xuân. Chị nhích người xa ra, dịch về phía con nằm. Ông quàng tay ôm chầm lấy chị, nói trong nghẹn ngào: “Đây là đứa con của chúng ta...Em có biết điều đó không? Anh hạnh phúc quá em ơi, không ngờ đời mình lại có được cái hạnh phúc to lớn này...!” Ông đưa tờ “phiếu điều trị” cho Xuân xem. “Từ 19 giờ30 đến 20 giờ45...Ngày...Tháng...Năm...Tại...” Tên chị do bà bác sĩ viết và kí tên trước mặt chị. Cảm giác ngây ngất về giây phút ấy sống lại...Ông riết mạnh Xuân vào lòng mình...
  Hai ngày sau thì Lâm về. Sau cơn mưa, trời quang quẻ. Nẻo xóm, đường làng như vừa được tắm gội sạch sẽ. Hàng dâm bụt quanh sân tốt bùng lên, tím ngát. Những giọt nước mưa còn đọng lại trên lá, trên cành, ánh lên lấp lánh. Bước vào nhà, Lâm có cảm giác như mình vừa chuyển đến một nơi mới, sạch sẽ, gọn gàng. Lâm mở túi lấy đồ chơi và hai gói kẹo mua cho Kiếm. Thằng cu sướng quá, quýnh lên: “Con cảm ơn bố!” Rồi, theo thói quen, nó chạy vào buồng, mở đồ chơi ra xem. Quà cho Xuân là một chiếc khăn ni lông mỏng, màu hoàng yến, kẻ  những đường kim tuyến lóng lánh.
-         Ôi đẹp quá! Anh mua đâu được thứ này. Các cửa hàng ngoài phố huyện chẳng bao giờ có cái của hiếm này, Xuân nói, áp chiếc khăn vào cổ mình. Một góc khăn che cả miệng và mũi, hình như chị đang hít thở cái hương thơm từ chiếc khăn ấy.
 Lâm thấy vợ vui sướng vì món quà, anh bảo:
-         Đây là hàng phân phối cho các đại biểu dự hội nghị, bán ở căng tin, mỗi người chỉ được tiêu chuẩn mua một chiếc thôi.
Xuân đứng dậy chạy vào bếp lo bữa chiều. Chị buộc mấy chai bia thả xuống đáy giếng ngâm lạnh rồi vào bếp mổ gà. Lâm ra ngồi cạnh, anh xí phần nhổ lông gà, bảo vợ: “Còn gì nữa em đi làm đi, việc này để anh.” Niềm vui của chị như tia chớp, vừa lóe lên lại vụt biến. Chị nhìn trộm Lâm đang cắm cúi vặt từng chiếc lông gà, vụng về, lóng ngóng. “Chẳng biết lúc này anh ấy nghĩ gì nhỉ?” Xuân đang tự hỏi mình. Chị lại thấy lòng mình xốn xang như người có lỗi. Hiện tượng thần giao cách cảm là có thật. Cũng chính cái giây phút ấy, khi Lâm đang cắm cúi nhổ những sợi lông gà ấy, anh đang nghĩ về Xuân: “Tất cả là do mình, mọi tội lỗi nếu có đều là do mình. Xuân là người con gái trắng trong, là người đàn bà đôn hậu. Nếu cô ấy gặp được một người đàn ông tốt hơn mình, một hoàn cảnh không quá trớ trêu thì đâu đến nỗi thế này! Thật tội nghiệp.” Anh đưa mắt nhìn Xuân. Chị ngồi đó. Đầu cúi. Đôi bàn tay gầy guộc nổi lên chằng chịt những đường tĩnh mạch màu xanh đang vục trong rá gạo nhặt từng viên sạn, hạt thóc. Mắt đượm một nỗi buồn xa ngái. Một sự hối hận, một tình thương dâng trào trong lòng Lâm.
 Xuân lại có thai lần thứ ba. Chị lo lắng, không biết chị sẽ sinh ra đứa con trai hay con gái. Nó sẽ giống ai? Lo nhiều hơn mừng. Lâm được tin vợ có thai. Anh có phần băn khoăn: “Sao lâu nay thụ thai khó khăn như vậy mà bây giờ lại mắn đến thế? Thằng Kiếm mới hai tuổi!” Một chút hoài nghi thoáng qua rồi lại thôi. Anh nhớ lại cái đêm hôm ấy, anh vừa đi họp về, xa vợ hơn tháng trời...Vợ chồng ân ái mặn mà và lòng anh tràn đầy tình thương yêu đằm thắm đối với Xuân. Anh thường nghe các cụ kể có những đôi vợ chồng lấy nhau mãi không có con nhưng sau khi xin được đứa con nuôi lại sinh con sòn sòn. Biết đâu nhờ có thằng Kiếm mà vợ chồng anh có con chăng! Anh chờ đợi ngày đứa con thứ ba ra đời. Nó giống ai? Đó là điều anh quan tâm.
Xuân sinh đứa con thứ ba, con trai. Thằng bé giống mẹ như đúc. Những người tốt bụng, nựng thằng bé trên tay còn bảo: “Cái trán, đôi lông mày hệt bố...Cả đôi tai nữa chứ!” Xuân thở phào nhẹ nhõm như trút được nỗi lo, mặc cho những lời đàm tiếu: “con trai giống mẹ thì khó ba đời... Tam nam bất phú...” Lâm vẫn nửa tin, nửa ngờ. Anh vẫn nghĩ rằng mình không thể có con được nữa. Ngày ấy mình khỏe như thế, đắm say như thế...! Nào thầy, nào thuốc khắp chốn cùng nơi mà bao năm chẳng có kết quả gì, sao bây giờ...
 
 
Năm tháng chẳng chờ đợi ai. Nó cứ trôi đi vô tình như thế, nó làm chai dạn những vết đau trong tâm hồn mỗi người. Khi đã bước qua tuổi xế chiều, mỗi người đều biết tự tìm cho mình một niềm an ủi. Niềm an ủi ấy phần lớn mang màu sắc của chủ nghĩa vị kỉ cực đoan: “Mình còn hơn chán vạn người...Trông lên chẳng bằng ai, trông xuống chẳng ai bằng mình...” Nỗi khổ đau, sự thua thiệt của người này trở thành liều thuốc an thần, niềm vui sống của kẻ khác! Lâm cũng không ngoại lệ. Anh đã từng thề xả thân, chiến đấu để đem lại hạnh phúc cho nhân dân, phấn đấu làm người đầy tớ của nhân dân...Giờ đây anh thấy mình được an ủi, được hạnh phúc vì đã được hơn những người đang nằm lại nơi xó núi, góc rừng chưa tìm thấy xác, vợ góa con côi nơi quê nhà... Vì được hơn những người đang lầm lũi nắng mưa không kiếm đủ bát ăn! Những người ngày nào cầm súng ra đi với lí tưởng ngời sáng trong tim: “Được hy sinh cho sự nghiệp giải phóng loài người, được chết vì hạnh phúc của nhân dân là hạnh phúc lớn lao, là ý nghĩa của cuộc đời...” Chiến tranh kết thúc, những ai trong họ sống sót trở về. Họ ôm lấy nhau nức nở, nghẹn ngào: “Còn sống, còn được nhìn thấy nhau là hạnh phúc lắm rồi...!”
Lâm ngồi ở góc nhà. Anh nhớ lại những ngày mình hùng hồn sôi nổi trên các diễn đàn: “Người vô sản không có Tổ quốc, vì ở đâu trên trái đất này đều là Tổ quốc của họ. Họ chiến đấu không chỉ để giải phóng cho bản thân mình, giải phóng cho giai cấp vô sản của nước mình mà để giải phóng cho giai cấp vô sản toàn nhân loại..” Xuân đi chợ về, anh tươi cười bảo vợ:
-         Còn sớm, đừng nấu cơm vội, anh muốn bàn với em về việc này...
Xuân đặt vội cái rổ đi chợ về xuống cửa bếp. Hai kẹp cua đồng đang thao láo mắt, giương càng ngo nghoe, đặt trên mấy mớ mùng tơi.. Chị lại ngồi cạnh chồng. Lâm chẳng nói gì, nụ cười vẫn nguyên trên môi nhìn chằm chằm vào hai xâu cua.
-         Anh muốn giải phóng cho lũ cua khốn nạn ấy! Lâm nói như đang trong cơn mộng du.
 Xuân tưởng Lâm đùa, đáp:
-         Thì cứ giải phóng đi, trưa nay hưởng hạnh phúc bằng bữa cơm gạo hẩm chấm muối nhé!
Không thấy Lâm nói gì, cứ nhìn trừng trừng vào cái rổ đựng mớ rau và hai xâu cua ở cửa bếp. Nụ cười đóng băng trên môi.
-         Anh làm sao thế? Xuân nói như hét vào tai Lâm.
 Dạo này anh ấy vẫn thường lơ đãng chểnh mảng như thế, Xuân thấy hoang mang, chẳng biết anh có bệnh tình gì không? Lâm sực tỉnh:
-         Anh đang mãi nghĩ về những ngày sôi nổi hồi anh còn làm công tác Đoàn.
-         Thảo nào! Say mê đi giải phóng loài người chưa đủ lại xoay sang đi giải phóng loài cua!
-         Thế mà hay đấy! Chẳng biết Lâm trả lời Xuân hay tự nói với mình.
-         Hay thế nào? Xuân hỏi.
-         Giải phóng loài người tốn quá nhiều xương máu. Các thế lực thù địch, bọn tư bản, bọn bóc lột chống trả quyết liệt, còn giải phóng loài cua, bảo vệ các động vật quý hiếm được cả nhân loại hoan nghênh.
 Xuân tưởng chồng mình điên, chị hỏi:
-         Sao lại hoan nghênh?
-         Em không nghe cả thế giới đang rầm rộ phong trào “Bảo vệ môi trường” hả?
-         Ôi, cái loài người! Xuân kêu lên, em chẳng hiểu ra sao nữa cả. Con Khủng long, con voi Ma mút... bị tuyệt chủng hàng triệu năm nay nhưng loài người có vì thế mà tuyệt chủng theo đâu. Nỗi lo của loài người không phải là sự tuyệt chủng mà chính là ở sự bội phát của loài mình. Mấy thế kỉ qua, nào phát động các cuộc chiến tranh, nào hạn chế sinh đẻ, nạo thai hút thai.. nhằm tiêu diệt bớt con người nhưng nó vẫn sinh sôi. Mới ba tỷ ngày nào, giờ đã hơn năm tỷ! Anh vẫn say mê làm người chiến sĩ đi đầu trong mọi mặt trận chăng? Xuân cười khúc khích nhìn chồng: “ Có lẽ anh cũng đã trở thành một động vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ cần được bảo vệ đấy.”
-         Vừa tốt nghiệp Đại học văn khoa có khác, Lâm nhìn vợ bảo, nói năng bặm trợn quá! À, mà này! Tốt nghiệp đại học rồi, vẫn dạy cấp hai có được hưởng lương giáo viên cấp Ba không nhỉ?
-         Quan tâm mà làm gì thứ ấy, đi học để mở mang kiến thức thôi chứ lương thì mỗi tháng chênh nhau không bằng tiền hai xâu cua ấy mà! Có phải như anh, cho đi học chính trị cao cấp để cơ cấu vào cấp ủy, để đề bạt đâu!
-         Thôi, đừng nói chuyện ấy nữa! Anh định bàn với em về việc chuyển gia đình về sống ở làng Sỏi, quê nội đấy, ý em thế nào?
-         Bỏ nơi này mà đi em cũng buồn nhưng lấy chồng thì phải theo chồng vậy thôi, biết sao được! Nhưng ở đấy họ hàng mình cũng chẳng còn ai, sống giữa người dưng có buồn không?
-         Nhưng còn mồ mả cha ông, quê cha đất tổ...Lâm nói.
-         Thế cũng được, Xuân nói khẽ khàng. Lòng chị đầy mâu thuẩn, phần muốn ở lại nơi chôn rau cắt rốn này, phần muốn đi khuất mắt khỏi những lời đàm tiếu về chuyện gia đình chị. Nhất là các con giờ đã lớn, để nó biết tung tích của mình cũng không hay, lại tủi thân chúng nó.
-         Thế thì thế này! Hè này, thằng Kiếm nghỉ hè. Anh và nó sẽ vào Nam thăm mộ thằng Vừng cho anh em nó biết nhau, sửa sang lại mồ mả cho nó. Thằng Kiếm cũng đã xong năm thứ hai khoa sử rồi, chuyến đi này cũng như là một chuyến đi thực tế, giúp ích cho nó trong học tập tiếp theo.
-         Bố và anh Kiếm đi Nam thì mẹ con mình ở nhà đi nghỉ mát với nhà trường vậy! Xuân nói với thằng Thêm đang ỉu xìu vì không được đi với bố.
Chẳng biết vì ảo giác hay sao mà Xuân nhìn thằng Thêm, thấy càng lớn nó càng có nhiều nét hao hao giống “Ông bác sĩ”. May được cái nước da nó trắng giống mẹ và giống cả Lâm nữa. Bố con Lâm đi thăm mộ Vừng về. Cả nhà đèo nhau trên hai chiếc xe đạp về quê nội - làng Sỏi. Đây là lần đầu tiên Xuân về thăm quê chồng. Vừa bước vào sân, Đới chạy ra cửa đón. Bổng nhiên mặt anh ngây ra, đứng như chết giữa sân. Xuân đi sau lưng Lâm, lách lên phía trước chạy thẳng vào bếp. Chị gọi vọng ra:
-         Kiếm ơi vào mẹ nhờ! Con gì bay vào mắt mẹ rát quá.
-         Mắt trái hay mắt phải? Kiếm hỏi.
-         Cả hai, con thổi mạnh vào rồi pha cho mẹ tí nước muối, mẹ rửa mắt.
-         Ở vùng này có cái con moòng moòng, Đới giải thích, nó bé tí bay từng đám dày đặc như ai rắc cám lên trời. Đi ngang nó mà không kịp nhắm mắt là bị ngay.
Lâm đi theo Đới vào nhà, hỏi Kiếm:
-         Mắt mẹ thế nào rồi?
-         Không sao, ổn rồi, Kiếm chưa kịp trả lời thì Xuân đã nói vọng ra. Chị lấy chiếc khăn gấp chéo, buộc ngang giữa trán, che đôi mắt nửa kín, nửa hở, đỏ kè.
 Đới lặng lẽ lấy phích nước định chiêu vào chiếc ấm trước mặt thì thằng Kiếm giành lấy: “Bác để cháu.” Rót xong, nó bê nước đi mời. Đặt lại cái ấm vào khay, Kiếm ngồi vào chiếc ghế băng cùng với Đới. Lâm và Xuân ngồi ghế đối diện nhìn sang. Lâm tránh mắt, không nhìn vào hai khuôn mặt song song giống nhau như hai giọt nước ngồi đối diện mình. Đới cúi mặt xuống chén nước đặt trước mặt, nói:
-         Cũng sắp trưa rồi, giờ chú thím tranh thủ ra ngoài mộ thắp hương cho các cụ rồi về đây ăn trưa với tôi.
-         Xin phép anh, có lẽ để dịp khác, trưa nay lãnh đạo mặt trận huyện mời cơm bọn em rồi.
 Đới không gạn mời, không nói như ra lệnh; “Chú phải về đây ăn cơm với tôi” như mỗi lần trước đây khi Lâm đi công tác qua xã. Hai người bắt tay nhau, hai khuôn mặt sửng sờ ngơ ngác nhìn nhau như chưa tìm được câu trả lời: “Tại sao thế nhỉ?” Hình như họ hiểu được nhau phần nào qua sự ngây ngô chân thành ấy nhưng “tại sao thế nhỉ” thì vẫn chưa có câu trả lời.
Lâm và Kiếm, hai người xách hai chiếc xe đi trước. Xuân và Thêm, hai mẹ con tụt lại đàng sau. Lặng lẽ đi, không ai nói gì với ai. “ Cuộc đời sao tàn nhẫn trêu ngươi đến vậy!  Thế gian còn biết bao người, sao Đới lại là “Ông bác sĩ”! Không cho ta người khác, xa lạ hơn một chút được sao?” Xuân trầm ngâm theo đuổi những ý nghĩ nặng nề. Chị nhìn theo cái dáng cao gầy của Lâm đang cúi mình dắt chiếc xe đạp đi trước, chưa bao lăm tuổi mà đã xác ve, mình hạc! Thương chồng vô hạn. Thằng Kiếm không nói làm gì nhưng lại còn thằng Thêm! Mình đã lừa dối anh ấy. Tội trời ai mang? Nhiều lần mình đã định nói hết sự thật với anh ấy, thú tội với anh ấy cho lòng được thanh thản nhưng mình không dám. Anh ấy còn sống được vì chút hy vọng mong manh- Thằng Thêm là đứa con ruột của anh ấy và mình là người vợ chung tình đồng cam cộng khổ. Anh ấy cố sống cũng là vì thương mình, gắng gượng đem lại chút hạnh phúc bù đắp lại những gì mất mát cho mình. Mình không đủ dũng khí để nói sự thật, không muốn làm anh ấy tuyệt vọng. Nỗi đau về cái chết của thằng Vừng không bao giờ nguôi trong lòng anh anh ấy. Có những giờ phút anh ấy như ngây, như dại, nhớ nhớ, quên quên. Đau lòng biết mấy! Trong những năm tháng của tuổi xế chiều này, anh ấy muốn trở về sống ở quê nhà nhưng làm sao còn có thể sống được nơi này nữa? Giáp mặt nhau hàng ngày, rồi lại cái khuôn mặt thằng Kiếm, cái nhìn, hai con mắt thằng Thêm càng lớn càng giống...Tội tình chi, sao trời nỡ hành ta đến vậy? Vừng ơi, con có tha tội cho bố mẹ không? Nhớ đến thằng Vừng đang nằm lại nơi góc rừng heo hút, xa lạ... nước mắt chị lại ràn rụa. Lâm dẫn ba mẹ con ra thắp hương trên hai ngôi mộ cha và mẹ anh. Đứng im, đầu cúi trước hai nấm mồ. Khói bay mong manh. Bốn vẻ mặt đầy thành kính, không biết họ đang tâm nguyện điều gì. Chưa tàn nén nhang, Lâm quay lại, đưa tay chỉ vào đám  cây “xấu hổ” mọc dầy trước mặt, chúng đang “nhắm mắt” lại vì chân người đụng vào, nói với vợ : “Đây là dấu vết còn lại của cuộc đời anh, cái nền nhà cũ, nơi anh đã sinh ra.” Hai đứa con ngơ ngác nghe cha nói. Kỉ niệm tuổi thơ của Lâm không có những cánh diều bay bổng, chỉ có những ngày lầm lụi theo cha đi mò cua, bắt ốc, lấm lem. Đầu cao chưa tới thắt lưng cha đã đi ở đợ nhà giàu kiếm miếng cơm ăn. May còn tốt phúc được rơi vào nhà cụ Hoằng, nhặt được vài chữ rơi của cậu Can, cậu Hoạt làm cái vốn vào đời, đi theo cách mạng, có ngày hôm nay. Lâm nhìn mặt vợ, hỏi:
-         Mắt em còn đau nhiều  không?
-         Không sao, cũng đỡ rồi.
-         Em và các con ra cái ao kia rửa mặt đi cho mát! Nước ở đấy trong và ngọt lắm, thuở đi chăn trâu, bố thường lấy nón vục nước lên để uống đấy!
Bốn người ngồi lên xe đạp, lai nhau về huyện. Lâm đã quyết định không thể về sống ở làng Sỏi nữa nhưng anh vẫn lặng im, thăm dò ý kiến vợ:
-         Vùng này bây giờ trù phú quá, theo quy hoạch sắp tới còn được đầu tư phát triển mạnh nữa đấy, về đây sống tốt chứ em?
Xuân im lặng, đi sát vào Lâm:
-         Tùy anh thôi! Em thế nào cũng được, nhưng em thấy ở cái mảnh đất này gắn liền với quá nhiều kỉ niệm đau buồn. Liệu có tìm được chỗ nào hơn không? Anh thường bảo, chính quê của anh ở làng Võ Vàng cơ mà!
-         Ừ, Lâm bảo, quê cha đất tổ anh chính là ở Võ Vàng. Mộ tổ của anh, cụ Đặng Hiếu Định được chôn ở đấy, được xác định là một di tích lịch sử nằm trong quần thể khu di tích văn hóa kiến trúc của “Vương triều Mạc Lân đấy!” Bây giờ chẳng biết thế nào nhưng năm năm trước anh qua  đấy thấy nó còn heo hút quá, e em và các con buồn thôi.
-         Ta thử ra đấy xem rồi tính. Em muốn sống ở một nơi tĩnh lặng, thật xa, thật xa...may ra còn có những ngày cuối đời êm ấm. Về đấy nếu có đất, em sẽ xây một cái am cạnh nhà...Cả ngày em sẽ không ra khỏi ngõ.
 
 
  Đồng chí chủ tịch huyện nói với Lâm:
-         Anh ưng ý ở chỗ nào là chúng tôi OK liền không nói một hai gì hết!
Nghe Lâm hỏi thăm về vùng Võ Vàng, Phụng, một cán bộ của sở du lịch, như được gãi đúng chỗ ngứa của mình, tiến lại phía Lâm tuôn ra một tràng:
-Võ Vàng bây giờ không còn là miền đất chết với những câu chuyện hoang đường nghe rợn người như xưa nữa. Những bí mật của nhiều đời được khám phá. Nó mang lại những giá trị văn hóa có một không hai cho khu vực. Ít có những cộng đồng dân tộc nào trên thế giới mà sự sống và cái chết của họ phong phú đến thế, phong phú đến lạ lùng. Nghi thức “Mộc táng”, người chết không chôn xuống đất mà lại khoét những ruột cây còn sống cho vào. Lạ lùng hơn cả là nghi thức “Tự táng”, người chết tự chôn mình như trường hợp của Quận chúa Ksai. Những ngôi mộ đá rất cầu kì như ngôi mộ đá của Văn Hầu Đặng Hiếu Định. Truyền thống thờ phụng người ngu và tôn thờ kẻ thù của mình, coi họ là thánh nhân...Và còn nhiều điều lạ lẫm về cơ cấu xã hội, cơ cấu giai cấp, những giá trị được tôn thờ...làm cho khách du lịch ngẩn ngơ... Các nhà sử học, xã hội học, dân tộc học không chỉ ở trong nước mà cả nước ngoài đua nhau đến vùng này nghiên cứu. Nay mai, đây sẽ là một trung tâm du lịch lớn của cả nước. Tỉnh đã cử một đoàn cán bộ sang Vương quốc Mô-na-cô để nghiên cứu học tập cách quản lí, khai thác vùng đặc khu quan trọng này. Em cũng là một thành viên của đoàn đi nghiên cứu ấy.
- Thế à? Chủ tịch huyện hỏi, có gì hay nói nghe chơi!
- Hay lắm, hay lắm! Phụng nói, thấy người ta làm mới biết mình nằm trên núi vàng mà chịu chết đói. Có gì đâu anh! Nói là Vương quốc cho oai, cho hấp dẫn khách du lịch vậy thôi chứ nó chỉ là một hòn núi nhô ra biển, hệt như cái Võ Vàng của mình đây nè, bãi cát mặt biển còn hẹp hơn của mình, nước biển thì kém xa. Trên đỉnh người ta xây một cung điện, ở đó có vua, hoàng hậu và một công chúa. Đối diện với cung điện là một khách sạn to. Buổi sáng, du khách dù không muốn ăn sáng, không muốn uống cà phê cũng ra đấy ngồi chầu chực để được xem Vua, Hoàng hậu và công chúa diễu hành. Trời ạ, anh kêu lên, họ làm hay hết sức, y như thật, kèn, trống nổi lên, điệu nhạc trầm hùng, đội lính thị vệ quấn xà cạp như thời Na-pô-lê-ông, Thị vệ trưởng vận y phục màu đen bó sát người, viền kim tuyến, khuyu đồng lấp lánh, kiếm nạm vàng dài sát đất, chân thẳng đờ đi trước. Vua, hoàng hậu và công chúa đi sau. Công chúa đẹp mê hồn! Người ta mất tiền ngồi hàng tiếng ở khách sạn cốt là để được nhìn công chúa thôi. Toàn bộ khu ấy chỉ có một sòng bạc, một viện Hải dương học nuôi nhiều thứ sinh vật biển lạ cho khách tham quan, một khách sạn như tôi vừa nói. Mặt sau của quả núi là một trường đua ô tô. Còn lại là rừng, bát ngát rừng. Rừng của họ là rừng ôn đới thuần chủng không nhằng nhịt dây leo như bên ta. Đi trong rừng ta cảm thấy sạch sẽ, thư thái như đi trong các sân chùa bên ta...Lạ lắm, lạ lắm! Các nhà tư bản trên thế giới đến đấy đánh bạc, tắm biển và chơi...Và, nhiều , nhiều trò chơi, nhiều cách thu tiền khác nữa, nhiều cách khác nữa (Phụng có thói quen nhấn mạnh vấn đề bằng cách nói lặp lại như thế!). Nhờ thế mà họ nuôi sống mấy chục vạn dân, thu nhập quốc dân tính theo đầu người cao nhất nước Pháp đấy! Các anh tính xem, một cái bị cói của ta ấy, ở đấy họ bán 75 quan bằng 15 đô la Mỹ có ghê không. Nói thật, Võ Vàng ta hay hơn nhiều. Nhưng muốn được như vậy phải biết cách làm!...phải biết cách làm. Đi móc túi thiên hạ chẳng dễ đâu! Anh nói như gào lên, đừng tưởng bở..Đừng tưởng cứ bỏ tiền tỷ ra xây dựng các khách sạn tối tân, xây dựng các nhà hàng lộng lẫy, đem hàng đàn các cô gái mới lớn, xinh đẹp ra chào mời câu khách mà được đâu! Mô- na- cô có được như thế vì nó là một bộ phận của nền văn hóa huy hoàng của nước Pháp. Nét văn hóa ấy thấm sâu vào mỗi con người, từ kẻ qua đường đến người quét rác vô danh, đến bức tranh treo trên tường và cái lọ hoa lặng lẽ ở góc phòng...Rất, rất nhiều việc phải làm...
Chủ tịch huyện có vẻ bị Phụng cuốn hút, hỏi:
-         Thế, theo cậu, trước nhất ta phải có chiến lược, chiến lược tổng thể...
-         Ồ! Chủ tịch kêu lên, tưởng gì chứ “chiến lược” thì dễ ợt. Tớ vừa thông qua chiến lược phát triển Huyện đến 2010 và tầm nhìn đến hết thế kỉ sau đấy. Ban chiến lược thuộc phòng kế hoạch của tớ siêu lắm! Nếu cần...Ông quay lại phía sau hỏi: “Bây giờ là thứ mấy nhỉ?”- “Thứ tư ạ!”- Thế thì, thứ hai tuần tới, thôi để thứ ba cho chắc, cậu quay lại đây tớ sẽ trao cho cậu bản quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của huyện với tầm nhìn đến hết thế kỉ 21. Nếu muốn tầm xa hơn, cậu trực tiếp làm việc với ban chiến lược nhé!
Phụng tiu nghỉu...Hết nhìn nét mặt hớn hở của ông chủ tịch đến nhìn vào mặt Lâm:
- Anh nghe em đi, Võ Vàng hay lắm, bây giờ đã hay rồi, vài năm nữa kiếm một vị trí tốt ở đấy không dễ đâu.
 Ngôi nhà của Lâm được xây khuất vào trong như nguyện vọng của Xuân. Đó là một ngôi nhà rường ba gian hai chái, tường gạch 30 (Phải xây tường dày để chống nóng). Mái lợp bằng tôn màu, giả ngói. Trên mái lại lợp chồng lên những tấm gianh bện bằng cỏ gianh dầy. Ngôi nhà được dựng trên một khuôn viên rộng, chiều ngang mặt tiền năm mươi mét, chiều sâu đến hơn trăm mét. Bốn xung quanh được trồng cây duối, đều tăm tắp. Xuân cả ngày chỉ quanh quẩn ở khoảnh vườn sau nhà. Nhân dịp mừng nhà mới, có người tặng Lâm một cây thạch lựu, trồng trong chậu sành cổ có chạm hình theo tích “Tám vị tiên vượt biển” của Tàu. Những người sành đồ cổ cứ trầm trồ ngắm ngía: “Tôi đoan chắc cái chậu này có từ đời Tống, chỉ đời Tống mới có cái men lam này...” Người ta bảo cái chậu ấy giá gấp nghìn lần cây thạch lựu này. Những thứ này chỉ trong cung mới có. Chắc tên trộm nào trộm được đem đi bán. Người bán không biết giá trị của nó, người mua cũng chẳng biết gì nên mới trồng cây lựu vào đây! Lâm chẳng phải là người chơi đồ cổ, cũng chẳng phải người yêu phong lan, cây cảnh gì. Anh chỉ thấy cây Thạch lựu này hay hay. Gốc to xù xì mà ngọn thì tóp lại nhọn hoắt. Vài cành mảnh mai, đung đưa những quả non, xanh màu ngọc bích, thưa thớt mấy bông hoa cuối mùa đỏ ối. Hoa dầy như hoa phăng. Chậu hoa được đặt ngay trước cửa sổ phòng làm việc của Xuân. Mỗi sáng, Lâm dậy sớm tưới cho cây. “Sự sống của mày được quyết định bởi cái gáo nước hàng ngày do tao ban cho đấy nhé!” Ngắm nhìn cây Thạch lựu vẫn đâm chồi, vẫn nở hoa, hình như nó không xót xa gì với cảnh sống bị kìm hãm, bị câu thúc này. Lâm miên man với những ý nghĩ trong đầu. “Hay”! anh thốt lên. Cái trò chơi này của các bậc quyền quý ẩn chứa nhiều chất tư tưởng thâm thúy. Những cây si, cây đa sống giữa rừng già nghênh ngang hùng vĩ là thế. Không có nó, rừng già mất đi vẻ thành kính thiêng liêng. Nhiều điện thờ, am, miếu được nhân dân dựng dưới các gốc cây cổ thụ này, quanh năm hương khói. Sự tôn sùng ngưỡng mộ này sẽ làm lu mờ cả “Long nhan”, nó tầm thường hóa những áo mũ xênh xang...Người ta bổng nghĩ ra cái trò chơi này, đem những cây đa, cây si, cây tùng, cây bách uy nghi kia trồng vào trong các chậu, biến nó thành một thứ đồ chơi hèn mọn đặt trước mắt mọi người. Cho dáng “huyền” được dáng “huyền”, dáng “trực” được dáng trực. Sống được nhờ vào gáo nước, xẻng đất chủ bố thí cho. Thiếu bàn tay chủ một ngày, nó chết ngay tức thì. Lâm nghĩ đến những chuồng hổ, chuồng sư tử đặt trong các vườn bách thú. Kẻ nắm quyền trong tay tỏ cho dân chúng biết, những con vật “Chúa tể cả muôn loài” kia cũng phải khuất phục quyền uy của kẻ thống trị, cũng đành phải “Gậm một nổi căm hờn trong cũi sắt”... “Để làm trò lạ mắt thứ đồ chơi...”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn26][26][/link] mà thôi. Lâm liên tưởng đến cái tích con khỉ, Tôn Ngộ Không bên Tàu mà ghê. Vốn là một con khỉ chúa, làm vua một cõi nghênh ngang, chưa thấy hài lòng bèn bôn ba khắp đó đây tầm sư học đạo, có được 72 phép thần thông biến hóa trong tay, coi trời bằng vung. Y co chân một cái tưởng mình bay lên thấu trời, nhưng té ra chưa thoát khỏi cái bàn tay của Phật Bà Quân Âm. Cuối cùng, kẻ đã từng vỗ ngực coi mình là Tề thiên Đại thánh ấy muốn sống, muốn được vinh hiển cũng chỉ có một cách lựa chọn là bó tay cúc cung tận tụy làm một thằng hầu, một tên đầy tớ ngoan ngoãn trung thành. Y để lại trên bàn tay Phật Bà cái dấu tích “con khỉ” chưa kịp tiến hóa của mình, một bãi nước đái khai mù! Cái tư tưởng Đại Hán ấy đáng sợ thay! Họ xác lập quyền uy thống trị của mình bằng một cái vòng kim cô và một câu thần chú. Ngang ngạnh đến mấy cũng phải vào khuôn phép! Các vị vua phiên bang nghĩ gì khi đọc cái tích ấy, hay là chỉ cười hô hố như lũ trẻ con nhìn con khỉ múa may, miệng nhai nhồm nhoàm quả đào tiên trộm được để được sống trường sinh bất lão?
 Lâm thấy lòng bức bối, anh cứ nghĩ những chuyện vẫn vơ không đâu vào đâu như một kẻ rỗi hơi. Anh không muốn hàng ngày cứ phải nhìn cái cây Thạch lựu đang bị giam hãm trong chiếc chậu cổ đắt giá hơn cả cái nhà của mình. Anh cảm thấy cái chậu cây ấy như đang gò ép chính anh, đang bắt anh phải chấp nhận khuôn phép trong lúc anh đang muốn bỏ việc, về hưu để được sống những ngày tự do. Anh không đủ can đảm để đập cái chậu. Nó là vật quốc bảo, được sản xuất ra để tô vẽ cho cái cảnh sống bị câu thúc của các loài cây trồng trong đó. Hết đời này sang đời khác, nó nhằm làm cho con người dần dà thấy được cái giá trị cao quý của đời sống mất tự do. Chấp nhận cái hiện hành, tự giác sống trong khuôn khổ chật hẹp. Nhờ đó mà ngai vàng được vững chãi, thánh thượng được muôn năm. Đập vỡ nó khác nào phá hoại một thể chế. Người ta sẽ cho anh đi nhà thương điên tức thì! Lâm là người thức thời, nhát gan nhưng sáng dạ, biết tự lừa dối mình để lừa dối người khác.  Anh đào một cái hố, chôn cả cái chậu cây xuống đất lấp lại. Cái cây như đã được trả lại tự do, anh không còn bị ức chế bởi cái chậu sành bao quanh gốc nữa. Thạch lựu đã được giải phóng, được về với đất, được phát triển tự nhiên theo “đúng quy luật”. Vài cái rễ con “được phép”  xuyên qua lỗ thoát nước dưới đáy chậu để ra ngoài, cắm xuống đất liền để hút nước, lấy thêm chất mầu. Nó có thể tự sống được cầm chừng, vào mùa vẫn ra hoa, đơm quả, có phần tươi tốt hơn xưa và không lệ thuộc hoàn toàn vào cái gáo nước mỗi sáng của Lâm. Sự “sáng tạo độc đáo” của Lâm là giữ nguyên được bản chất “thứ đồ chơi” của cây cảnh và giải phóng cho nó vừa đủ để nó tự kiếm sống mà làm tròn chức năng này, không cần đến sự “bao cấp” hàng ngày của Lâm nữa.
“ Hay lắm!” Anh tự khen mình. Tư duy chính trị của mình vẫn còn tỉnh táo, sắc sảo lắm! Chưa chắc kì này “Các cụ” đã cho mình nghỉ hưu. “Đã biết được đến thế thì phải kiên quyết xin nghỉ mới gọi là người biết.” Lâm tự nói với mình. Trên đang giục anh viết bản báo cáo thành tích và bản bổ sung lí lịch để xem xét đề bạt anh lên cương vị cao hơn. Lạ quá, lần này khác với mọi lần trước đây. Mấy ngày liền, anh ngồi suy nghĩ trước tập giấy trắng. Chỉ mới có một dòng đầu tiên theo dàn bài quy định: “I. Quan điểm, lập trường...” không thể viết thêm được chữ nào. Anh lục tìm trong hồ sơ cá nhân lưu trữ ở nhà, lấy các bản thành tích công tác đã viết trong các lần đề bạt trước đây. Cả ba bản cho ba lần đề bạt trước đây, anh đều viết giống nhau, bản này chép lại bản kia, thêm thắt đôi chút là xong. Ở cái mục I. ấy anh đều viết: “Đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân. Đấu tranh không khoan nhượng chống lại các quan điểm, tư tưởng của bọn bóc lột, bọn tư sản, địa chủ và mọi biểu hiện của các tư tưởng phi vô sản khác...” “Cái thứ này là loại văn bia rồi, cứ thế mà chép lại, có gì mà đắn đo?” Anh nghĩ thế mà vẫn không làm thế được. Anh lật giở các trang khác ra đọc...Ném tập giấy xuống bàn. Đi ra sân. Gió chiều hiu hắt. Cảnh rừng Võ vàng chiều nay sao huyền bí đến vậy? Anh rủ Xuân đi dạo quanh vùng. Xuân mới về chưa hiểu hết vùng đất này. Chị hớn hở chạy ra. Ngạc nhiên bảo:
-         Rủ người ta đi chơi mà mặt sát khí như người đâm lê ấy thì chơi cái nỗi gì...?
-         Thì vì thế mới phải đi chơi, vợ chồng ấm lạnh có nhau mà lại!
-         Sao! Có chuyện buồn phải không?
-         Ừ, buồn lắm!
-         Buồn gì nói nghe nào, nghĩ gì nhiều cho nó thối ruột ra!
-         “Trên” đang giục viết báo cáo thành tích và bổ sung lí lịch để xem xét đề bạt!
-         Vênh thế chẳng trách lại bày trò đùa dai người ta. Sắp lên quan to đấy, Kiêu ghê! Thành tích thì anh đầy mình rồi, lí lịch, thành phần thì ăn mày chính gốc rồi, ai bì kịp! Cứ viết đi mấy dòng lấy lệ gọi là cho có thủ tục thôi chứ ăn chắc rồi có gì phải lo mà sầu thảm thế!
Biết Xuân chưa hiểu được tâm sự của mình, anh chuyển câu chuyện sang hướng khác, chỉ tay về phia bờ biển, nói:
-         Em có thích xuống hang Tấn -Tần chơi không? Ở đấy đang có bản đồ dự án phát triển khu du lịch Võ Vàng đấy.
-         Sao lại có cái tên “Tấn-Tần” ở đây như là chuyện thời Đông Chu liệt quốc vậy?
-         Tấn- Tần là hai tên cướp Văn Tấn, Văn Tần nổi tiếng ở kinh thành, theo Mạc Lân về đây, trở thành hai võ tướng của “Vương triều Mạc Lân”. Người ta đặt tên không phải để ghi nhớ công trạng gì của hai tên này mà chủ yếu để câu khách du lịch làm cho nó li kì hơn thôi. Ngay cả cái bảng to tướng “KHU BIỆT ĐIỆN VƯƠNG TRIỀU MẠC LÂN” treo ngay trước cổng ra vào cũng chỉ là cái trò câu khách mà thuật ngữ kinh tế hiện đại gọi là Ma-két-ting ấy mà.
 Lâm nhận được giấy triệu tập về tỉnh gặp đồng chí bí thư. Ngồi đối diện với Lâm, bên cạnh đồng chí bí thư, có đồng chí trưởng ban tổ chức. Ông đi ngay vào vấn đề:
-         Bên tổ chức có báo cáo tôi, đã nhận được hầu hết hồ sơ của các đồng chí trong diện xét đề bạt, còn thiếu mỗi mình đồng chí, tại sao vậy?
-         Đồng chí cho phép tôi nói thật?
Đồng chí Bí thư cười phá lên:
-         Đồng chí không theo dõi công cuộc cải tổ của Liên Xô chăng? Khẩu hiệu “Nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật” là một khẩu hiệu có tính cách mạng của công cuộc đổi mới bây giờ, không chỉ ở Liên xô, ngay ở chúng ta, câu khẩu hiệu ấy cũng đang là phương châm chỉ đạo mọi hành động của toàn đảng, toàn dân đấy.
-         Cám ơn đồng chí, Vậy tôi xin đề nghị thế này! Từ nay, để có cơ sở xem xét đánh giá tính trung thực, trình độ nhận thức của cán bộ trước lúc đề bạt, xin anh bỏ cái  cách làm xưa nay là viết báo cáo thành tích, thay vào đó anh bắt họ phải viết một bản báo cáo tường trình về những sai lầm khuyết điểm mà họ đã phạm phải trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Nêu rõ tác hại của các sai lầm đó...
Lâm ngừng nói từ lâu mà đồng chí Bí thư vẫn ngồi yên nhìn vào khoảng không trước mặt, lát sau, đồng chí nói:
-         Đồng chí đã cho tôi một gợi ý hay. Tôi sẽ tiếp tục suy nghĩ thêm về điều này. Nhưng tôi hỏi thật, bây giờ tôi hỏi đồng chí về những khuyết điểm của mình trong quá trình công tác vừa qua đồng chí có dám nói hết những tư tưởng, những suy nghĩ của mình không?
-         Có, tôi nói hết cả những điều cấm kị nhất, nếu đồng chí muốn nghe.
-         Tôi đang lắng nghe những khuyết điểm của đồng chí đây! Mời đồng chí.
-         Có một cách đơn giản, Lâm nhìn đồng chí bí thư, nói, đồng chí có thể biết được đầy đủ những khuyết điểm của tôi, không cần nghe tôi trình bày nhiều ở đây. Đó là cách đồng chí hãy đọc lại các bản báo cáo thành tích công tác lâu nay của tôi. Những thành tích ấy chính là khuyết điểm của tôi. Chắc đồng chí biết, hồi làm công tác đoàn, tôi được biểu dương khen thưởng, được đề bạt vì phong trào vận động nông dân “cấy dày”, phong trào vận động nông dân “cắt tai lợn.” Tôi được coi là một nhân tố cách mạng tích cực, được đề bạt. Tôi hãnh diện, sung sướng ngồi vào “ghế” nhưng sau đó không lâu hàng vạn hộ nông dân mất mùa do cấy dày, lúa không phát triển được, lợn bị hội  chứng điên vì phát triển không bình thường...không ai nói đến! Rồi phong trào vận động bà con nông dân vùng lên làm cách mạng “Thay trời đổi đất, sắp xếp lại giang sơn!” Tôi là bí thư đoàn, là kẻ cuồng nhiệt dẫn đầu bắt bà con rời bỏ làng mạc, nơi tổ tiên đã sống ngàn đời lên đồi ở, di dời mồ mả ông bà...Lâm nghẹn ngào nói tiếp, đồng chí hãy bảo tổ chức đưa lại bản tuyên dương công trạng của tôi hồi đó. Xin đồng chí hãy coi đó là bản cáo trạng tội ác của tôi!
-         Đồng chí có quá lời không? Đồng chí bí thư nói, nghe đồng chí, tôi hiểu đồng chí là người có cái tâm, có đầu óc suy nghĩ, hành động không hoàn toàn do mưu cầu danh lợi cá nhân, vậy sao đồng chí cuồng nhiệt đến thế?
-         Vì tôi là một thằng ngu, một thằng ngu có tấm lòng trong sáng. Tôi cứ nghĩ rằng nếu làm như vậy thì nhân dân sớm có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tôi tiêm nhiễm cái quan điểm cho rằng: “Ngay cả những kinh nghiệm tiên tiến cũng có khi phải dùng sức mạnh để phổ biến.” Tôi coi những người phản ứng chống lại các chủ trương chính sách là phần tử lạc hậu. Không bao giờ nghĩ rằng chủ trương đường lối cũng có lúc sai. Không một ai dám đặt ra vấn đề phải xem lại đường lối chính sách. Những kẻ luôn mồm tung hô sự đúng đắn, sự sáng suốt của cấp trên được coi là những phần tử cách mạng, tiên tiến. Không phải chỉ riêng tôi, ngành tôi, cả xã hội này hiện đang  là như vậy. Tôi biết cậu P (Tôi không nói tên ra làm gì, chắc đồng chí cũng biết), cậu ta làm bên ty thương nghiệp, bây giờ lên cao chót vót rồi. Cậu ta trưởng thành từ phong trào thu mua lợn. Xông xáo đến mức xắn quần vào kiểm tra từng chuồng lợn, bắt nông dân lập sổ kê khai lợn như kê khai hộ khẩu. Lợn của nhà người ta nuôi mà cậu ta làm như lợn nhà mình. P khuyến khích chăn nuôi lợn bằng cách găm tất cả các vải lụa đen may quần phụ nữ lại, không bán ra thị trường. Ai bán cho ty thương nghiệp một con lợn 50 kg trở lên được phát tem mua hai mét lụa đen may một chiếc quần. Chị em đua nhau cố gắng nuôi, ngày đêm mong lợn đủ 50kg để có quần mặc. Theo danh sách đăng kí, P cho người đến từng nhà để cân lợn và phát tem. Bao nhiêu bà nuôi lợn phải khóc. Thu mua giá rẻ như bèo đã đành. Mỗi lần vào bắt lợn để cân, những tên “sát thủ” dùng hai đầu gối thúc mạnh vào bụng lợn cho phân phọt ra, lại dùng “cân điêu” làm cho những con lợn 50, 51 cân chỉ còn lại 48, 49 cân. Họ buộc phải bán vì lợn đã bị trọng thương không nuôi lại được nữa mặc dù chẳng có thước lụa nào... Phong trào nuôi lợn tiêu điều, dân, đến trẻ con mỗi tháng được mua một lạng thịt cũng không có. Các cửa hàng thực phẩm của mậu dịch trống hoác trống huơ, khi đó thì P đã ngồi yên vị trên ngôi cao rồi... Ông ta lại được đánh giá cao vì lập được kì tích mới, đã làm “Đổi mới sâu sắc nhận thức thẩm mỹ của chị em trong cách ăn mặc.” Ra đường chấp chới quần đỏ, quần vàng, quần “bò”thắt đùi, hở rốn.. Ông ta quen được mọi người vỗ tay tung hô đến mức khi gặp bất cứ một đám đông nào, kể cả khi ra chợ, thấy đông người, ông tưởng là có cuộc mét-ting quần chúng, đứng lại vỗ tay một mình...
-         Hôm nay mới chỉ là buổi sơ kiến, đồng chí bí thư nói, chắc còn nhiều vấn đề cốt lõi hơn, hệ trọng hơn đồng chí chưa tiện nói và cũng không đủ thời gian để nói cho có ngọn, có ngành. Hẹn đồng chí một hôm gần đây. Tôi rất cần nghe những ý kiến trung thực như ý kiến của đồng chí vừa rồi.
-         Nhân được gặp đồng chí hôm nay, Lâm nói, xin trình bày với đồng chí nguyện vọng của mình là xin được nghỉ hưu, mong đồng chí chấp nhận cho.
-         Sao vậy, không được! Đồng chí là một cán bộ tận tụy, trung thực, dám xả thân cho sự nghiệp, thậm chí còn hy sinh cả đứa con của mình để bảo vệ tổ chức, bảo vệ cán bộ...Tôi rất cảm phục. Hôm nay được nghe ý kiến đồng chí tôi càng kính trọng và cảm phục đồng chí hơn. Đảng đang rất cần những cán bộ như đồng chí.
-         Thưa anh, Lâm chuyển từ cách xưng hô “Đồng chí” sang “Anh” một cách thân tình, nếu đảng cứ tiếp tục đề bạt, sử dụng cán bộ theo lối đền ơn, trả nghĩa, theo chủ nghĩa thành phần như vậy thì chắc chắn sẽ không mạnh được!
-         Thôi được, đồng chí bí thư đưa tay về phía Lâm, đến giờ tôi phải đi rồi! Chúng ta sẽ gặp lại nhau sau.
 Lâm ra về nghĩ bụng, “Mình vẫn chưa nói được những vấn đề cốt tử, chỉ mới phản ánh những biểu hiện bên ngoài, chưa vạch ra được cái căn nguyên sâu xa, cái cội nguồn của những sai lầm khuyết điểm. Ngay cả cái cụm từ “Sai lầm khuyết điểm” mà người ta hay dùng, mình cũng dùng theo ấy đã mang tính chất né tránh, che đậy, chưa dám “Nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật.” Lâm nhớ lại cuộc đối thoại. ông ta hỏi “Vì sao đồng chí lại làm các việc ấy một cách say mê, cuồng nhiệt đến vậy?” Mình đã trả lời “ Vì tôi là một thằng ngu!” Thật nhục nhã, khi đã tự coi mình là một người trung thực, dám nói thẳng mà lại còn tự biện hộ cho mình bằng cái câu; “Một thằng ngu có tấm lòng trong sáng...!” “Nói thực” chuyện người khác thôi còn chuyện mình thì vẫn tìm cách bào chữa, che dấu! Khốn nạn thay cho cái thằng tôi! “Trong sáng” ư? Khốn nạn thay Lâm ơi! Mày sẽ lãnh đủ những gì do mày đã tạo ra, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa...Lâm tự vấn lương tâm mình. Anh nghĩ, một người như đồng chí bí thư chắc đêm nay sẽ trăn trở: “Tại sao  những thằng ngu lại có quyền sinh quyền sát, gây hại cho dân đến vậy?”
Lâm về đến ngõ, Xuân hớn hở chạy ra. Chị phân vân suốt cả chiều qua, không biết chuyến đi gặp đồng chí Bí thư  lần này của Lâm là”Lành” hay là “Dữ”. Chức vụ, địa vị, nếu có nữa cũng tốt, không cũng chẳng sao, chị chỉ mong đồng chí ấy giải tỏa những tâm tư đè nặng trong lòng Lâm, để cho anh có những ngày sống thanh thản. Xuân thầm nghĩ, vợ chồng mình vẫn hết lòng thương yêu nhau nhưng những điều uất ứ trong lòng anh ấy mình cũng không sao hiểu hết được. Niềm vui có thể diễn đạt được đầy đủ bằng lời còn nỗi khổ thì không. Anh cố tươi lại nét mặt để an lòng vợ, đưa mắt nhìn vào nhà, Lâm hỏi:
-         Sao thằng Kiếm lại ở nhà? Nó đã đến trường tập trung hai tuần rồi cơ mà! Hôm nay là thứ tư, ngày học?
-         Anh vào nhà, nghỉ ngơi một lát đi rồi con nó sẽ thưa chuyện.
-         Bị đuổi hả?
-         Không! Con mình nó ngoan mà, làm gì có chuyện ấy.
 Thằng Kiếm rụt rè thưa với bố xin được bỏ học. Xuân chăm chú nhìn nét mặt Lâm. Không như chị dự đoán, Lâm điềm tĩnh hỏi con:
-         Tại sao?
-         Con chán học cái môn lịch sử này!
-         Sao lại chán? Lịch sử là một môn học cực kì quan trọng. Xưa kia, một người muốn ra làm quan, mà không phải xưa kia, ngay xã hội hiện đại này ở các nước văn minh, một người muốn ra làm quan phải làu thông kinh sử. Bố có được như ngày hôm nay cũng là nhờ có được ít nhiều kiến thức lịch sử. Những kiến thức ấy bố học lỏm được khi ngồi hầu các ông Can, ông Hoạt học, hồi bố đi ở đầy tớ cho nhà cụ Hoằng đấy con ạ. Bố học “dự thính” như vậy rồi mượn thêm sách để đọc. Vốn liếng vào đời của bố đấy con ạ!
-         Nhưng...
-         “Nhưng” cái gì?
-         ...Bố đã đọc giáo trình lịch sử của chúng con bây giờ chưa? Chán lắm bố ạ! Có gì để học đâu, những trang giáo trình ấy có khác gì các bài xã luận trên các báo. Một sinh viên khoa sử như chúng con về quê nói những điều đã học, nội dung chẳng khác gì ông tuyên huấn xã nói chuyện thời sự với nông dân. Bao giờ chúng ta cũng đúng, cũng sáng suốt. Chân lí của thời đại thuộc về chúng ta. Đội ngũ của chúng ta bao gồm những con người đạo đức ngời sáng, trí tuệ thông minh, dũng cảm... và vân vân thứ tốt đẹp mà loài người văn minh trên trái đất đã có thậm chí còn chưa có. Còn kẻ thù của chúng ta thì ngược lại, bao giờ cũng chỉ là những kẻ phản dân chủ, phản tiến bộ, đớn hèn, tham sống sợ chết, ngu ngốc...! Cuối năm thứ hai, khi tổng kết năm học, một sinh viên bạn con nêu thắc mắc: “Tại sao kẻ thù của chúng ta ngu đần nhút nhát, phản dân chủ, phản tiến bộ như thế mà chúng ta phải chiến đấu ngót hơn ba chục năm trời, hy sinh hàng triệu sinh mạng mới giành lại được đất nước?” Bạn ấy bỏ học rồi.
-         Bố thì giờ đâu mà đọc! Chán sao không nói ngay từ năm đầu, giờ đã học đến năm thứ ba rồi, bao nhiêu là tiền của...!
-         Sau khi con đi với bố vào Nam trở về, con càng ngao ngán hơn. Con không tìm thấy bóng dáng của anh Vừng, của bà Hên trong các trang sử ấy. Đêm đêm, con nằm mơ thấy anh Vừng về...
-         Sao con biết đấy là anh Vừng? Lâm hỏi giật giọng.
-         Anh ấy gọi: “em ơi mở cửa, anh về đây, anh là Vừng đây mà!” Con ra mở cửa thì anh ấy quay mặt đi, sau ót anh ấy có một bớt son thật to!
Lâm đánh rơi chén nước đang bê trên tay, hỏi:
-         Thật không? Mẹ con nói cho con biết anh Vừng có cái bớt son ấy à?
-         Không, mẹ con chưa bao giờ nói với con một tí gì về anh Vừng, kể cả cái chết của anh ấy.
-         Có chuyện ấy thật sao? Nếu không làm sao thằng Kiếm biết được cái bớt đỏ sau ót thằng Vừng? Lâm như người bị đột quỵ. Anh bàng hoàng: “Linh hồn là có thật, quả báo là có thật hay sao? Nếu vậy ta hóa giải tội lỗi bằng cách nào đây?” Hỏi tiếp:
-          Anh ấy có bảo con điều gì không?
-         Con chạy đuổi theo anh ấy vẫn không quay lại, hỏi:
-         Em đi học sử để làm gì?
-         Để nuôi dưỡng chí căm thù giặc và hun đúc truyền thống anh hùng cho các thế hệ sau.
- Hun đúc chí căm thù ư? Lật những trang sử cha ông ra, trang nào ra mà không có tiếng gươm đao, tiếng bom rơi đạn nổ! “Cuốn sử ông cha hôm qua đọc vội, gối lên đầu còn nghe tiếng gươm khua.”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn27][27][/link] Và suốt mấy ngàn năm, từ khi lập quốc cho đến bây giờ “Chân ngựa đá cũng lấm bùn trận mạc!”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn28][28][/link] Đó là những lời thơ ca ngợi truyền thống hào hùng của dân tộc hay còn là một lời thức tỉnh về những nỗi đau mà dân tộc ta đã phải gánh chịu cho các thế hệ hôm nay và mai sau? Hết cuộc chiến tranh này, đến cuộc chiến tranh khác. Thắng giặc ngoại xâm rồi thì lại đến các cuộc nội chiến tương tàn, nồi da, nấu thịt. Thắng giặc Nguyên rồi lại gươm đao tranh giành ngôi thứ Trần- Hồ. Đánh bại giặc Minh xâm lược xong lại Lê- Mạc, lại Trịnh- Nguyễn phân tranh... Xương rơi đầy đất, máu chảy thành sông! Và rồi “Xương còn rơi, máu còn rơi...”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn29][29][/link] Những ngôi sao vinh quang đã được cắm lên trên những “Đống xương Vô định đã cao bằng đầu”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn30][30][/link] ấy. Em còn muốn hun đúc những truyền thống ấy chăng? Làm sử là một sứ mạng thiêng liêng nhưng nếu không theo được Tư Mã Thiên, không có cái dũng khí của thái sử công nước Tề[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn31][31][/link] thì đừng làm sử, về đi buôn mà nuôi cha!
 “Nuôi cha!” Lâm nhắc lại hai từ trong câu Kiếm vừa nói, phân vân, “ Cha” ở đây là ai nhỉ? Mình hay là...Anh hỏi Kiếm:
-         Nếu bỏ học thì con định làm gì?
-         Bố xin cho con đi xuất khẩu lao động. Đi Đức là tốt hơn cả đấy bố ạ!
-         Được, gì chứ xin cho con đi xuất khẩu lao động thì không khó khăn gì! Chẳng hiểu ý mẹ con thế nào?
-         Mẹ con bảo, đi được thì tốt nhưng hỏi ý kiến bố ấy! Bố sẽ quyết định.
 Cả Lâm và Xuân không ai nói gì với ai nhưng trong thâm tâm đều muốn cho Kiếm ra nước ngoài. Nếu lập nghiệp luôn ở đấy càng tốt. Kiếm đã trưởng thành, chắc cũng biết điều này, biết cả cái việc “Đau mắt” của mẹ hôm ở nhà bác Đới. Miệng lưỡi thiên hạ làm gì không lọt đến tai nó!
Nét mặt của Kiếm bao giờ cũng đượm một nỗi buồn như nổi buồn trên khuôn mặt mẹ.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
12
 
Kiếm sang Đức, nung nấu một ý định kiếm tiền và học. Thời gian đầu, anh lăn lóc làm đủ mọi công việc nặng nhọc bẩn thỉu, những việc mà người bản xứ không ai làm. Chưa đầy mười tháng anh đã có một ngân khoản gần ba chục ngàn D Mác. Anh về xin việc ở Đờ ret- sđen. Ở đây, anh thay hình đổi dạng. Sơ mi, com lê, cà vạt toàn những hàng xịn. Anh mua một chiếc BMV 2500D-Mác tuy đã qua sử dụng nhưng vẫn còn mới. Với cái nước da xam xám nâu nâu, đầu tóc rễ tre mới mọc, ánh lên một màu đen khỏe mạnh, ăn mặc lịch sự, người ta cứ tưởng anh là người da trắng lai Phi hay một người đến từ Nam Mỹ. Họ chuộng những người như thế, không kì thị như đối với những người da vàng. Kiếm được tuyển vào làm việc bồi bàn trong một nhà hàng sang trọng ngay giữa trung tâm thành phố. Gần một năm trời, anh ngụp lặn trong các đường hầm thoát nước tăm tối của thành phố. Những ngày ấy anh không ý thức được mình đang sống ở đâu trên trái đất này. Anh lánh mặt bè bạn, không tiếp xúc với ai. Niềm vui của anh là cứ mỗi cuối tuần được nhận lương, lương của anh cao gần gấp đôi những người lao động cùng sang với anh một đợt. Tối về, anh chỉ thức để xem TV những hôm có truyền hình bóng đá, còn không thì lăn ra ngủ, không phim ảnh, không nghe tin tức thời sự. Sáng dậy đi làm, đầu ngẩng nhìn phía trước nhưng không nhìn vào cái gì cụ thể, không nhìn phố phường. Không cần biết xung quanh mình là ai. Đi. Đến nơi làm việc. Thay quần áo. Xuống hầm. Thế giới âm phủ. Gần một năm trời như thế. Anh mới trở lại đời sống của loài người ở “Dương gian” hai tuần nay. Hai tuần anh được nghỉ trước khi kí hợp đồng mới làm việc cho nhà hàng trung tâm thành phố. Anh phải lột xác, phải tẩy rửa hết mùi hôi trên cơ thể, cạo trọc đầu.  Anh dùng những thứ sữa tắm, sữa rửa mặt, kem dưỡng da...loại thượng hạng. Có hôm anh ngâm mình gần bốn tiếng đồng hồ trong bồn tắm trước khi đi ngủ.
Sau một tuần thư giản, “tẩy trần”, sáng thứ bảy, Kiếm thắng bộ, đồng hồ Rolex đeo tay, nhẫn  bạch kim đính hạt kim cương 5 ca-ra lấp lánh ngón giữa...Đi lại trước gương, sánh mình với các chính khách, các thương gia,  các VIP mà anh từng thấy trên TV, thấy ổn. Một chút băn khoăn về cái đầu trọc!  Cái đầu trọc nó “chọi” lại toàn bộ phục sức của anh. Một phút trầm ngâm, Kiếm đưa tay với lên giá áo cạnh tủ lấy chiếc mũ phớt nhỏ vành, đội lên... “Hoàn chỉnh!” Anh mĩm cười, bước xuống phố.  Sao hình như mọi người cứ tập trung nhìn anh vậy nhỉ? Luống cuống. Anh quay mặt sang trái, sang phải, đằng sau...Không! Mọi người ai việc nấy, chẳng ai để ý đến mình. Hình như đối với họ, mình không có trên trái đất này. Những đôi trai gái nụ cười trong ánh mắt, trên môi,  thung thăng đi. Các cụ già chậm rãi bước dưới những tán cây mượt mà. Chim dạn người đến mức như muốn đậu vào vai người đi bộ trên hè...Chẳng có ai nhìn mình cả. Kiếm tiếp tục đi nhưng vụng về lúng túng, hai bàn tay không biết dấu vào đâu. Anh đút một tay vào túi quần, một tay đánh nhịp theo  bước đi. Lạc lõng quá, có ai như mình vậy đâu? Anh nhìn nghiêng sang phía lề đường bên kia, nhìn những người đi ngược chiều phía mình xem họ “xử lí vấn đề” đôi tay thế nào? Vô ý, bàn chân trái bước hụt xuống một rãnh nhỏ. Đau nhói. Anh cố gắng để chân khỏi đi cà nhót. Càng cố gắng giữ nhịp, bước đi càng khập khễnh. Anh ghé vào một cửa hàng thực phẩm cạnh đường, không có ý định mua gì, chỉ muốn đứng lại nghỉ chân một lát. Ghé mắt xem giá cả các loại thịt bày trên giá. Lạ thật! Một cân thịt gà 15 D- Mác trong khi một hộp mề gà đã làm sạch sẽ, cũng một cân mà chỉ có 1,8 D Mác? “ Bọn này buôn bán ngố thật!”Anh nghĩ bụng và quyết định mua một hộp mề gà rồi quay về...Chân đi càng khập khễnh.
    Anh ngồi trước bàn, một đĩa mề gà bốc khói, một chai bia đen và hai quả dưa chuột. Nhìn qua cửa sổ, bên kia đường, giữa công viên, người lớn đi dạo thảnh thơi. Trẻ con như một đàn búp bê mũm ỉm chạy nhảy tung tăng. Cả những người da đen khoác tay các cô gái bản địa xinh tươi, rì rầm trò chuyện. Những người Ấn Độ quấn sà-rông dài lướt thướt như đàn bà mặc váy, vấn khăn trên đầu bước đi chậm rãi nét mặt đầy tự tin. Họ tự nhiên như cuộc sống ngày thường, chẳng ai mất công để làm cái việc tự khẳng định mình bằng trang phục bề ngoài như mình đã làm cả. Uống cạn một cốc bia lạnh, anh tự hỏi mình:
-         Tại sao những con người ngoại bang kia, những người da đen, người Ấn độ, người thuộc các chủng tộc khác mà ta chưa từng biết đến ấy, họ xuất hiện trên đường phố châu Âu với vẻ tự tin đến thế! Trên những khuôn mặt ấy còn toát lên cả niềm tự hào về tổ quốc họ, dân tộc họ. Còn ta...? Chẳng phải riêng ta, có những cán bộ Việt nam sang đây ra đường, vào các cửa hàng nói dối mình là người Nhật, người Đài loan...để được tôn trọng? Ngay chính mình cũng không muốn nhận mình là người Việt nam kể từ cái hôm một tờ báo địa phương đăng tin: “Tại khu chung cư F giành cho lao động nước ngoài ở, xuất hiện một loại côn trùng lạ, hình giống con bướm nhưng rất nhỏ, màu tro. Chúng bay khắp vùng, nơi có mật độ dày đặc là nhà số 10, nơi những người lao động Việt nam đang ở. Đoàn công tác đặc biệt chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường được trang bị những thiết bị đặc biệt đột nhập vào nhà 10. Họ đã xác định trung tâm dịch bệnh được phát ra từ phòng 303 nơi có ba công nhân Việt nam ở, những người này đang được xí nghiệp cho đi nghỉ hè, vắng mặt, Họ cạy cửa xông vào, mắt họ tối sầm lại vì những đám côn trùng dày đặc bám vào các rèm cửa, vào tường, vào trần nhà, chúng bám chặt vào các kiện hàng hóa chất đầy dưới gậm giường rất khó quét sạch. Phân tích sơ bộ, cơ quan chức năng cho rằng loài côn trùng này có nguồn gốc nhiệt đới, chúng được sinh ra từ các hạt đậu xanh không được bảo quản tốt. Hai mươi kg đậu xanh và ba bình thực phẩm tự chế khác lấy từ gậm giường ra đang được xét nghiệm. (Một bình mắm tôm, một bình dưa cải muối và một bình hành muối...)”
Kiếm nhìn xuống đĩa mề gà giữa bàn. Anh không thấy nó ngon và hấp dẫn như khi mới bày ra nữa. Ở bên nhà, mình thường nghe nói nhiều đến văn hóa ẩm thực của Việt nam,  cũng chẳng hiểu cái văn hóa ấy là gì, chỉ nhớ láng máng đến món nem Sài gòn vì họ nhắc đến nó quá nhiều. Cũng có lúc nghe họ nói, họ viết về cái độc đáo của thịt chó, mắm tôm...Tính lịch sử và tính văn hóa hình thành nên tính dân tộc. Dân mình thường “phơi bày gan ruột”, đem “lòng dạ” ra để thề thốt sự chân thật, sự trong sáng của mình. Họ coi việc ăn gan, uống máu kẻ thù là một hành động nghĩa hiệp, anh hùng...Có lẽ cái tính dân tộc ấy xuất xứ từ sự sùng thượng món lòng lợn tiết canh được hình thành trong “văn hóa ẩm thực”từ khi dân ta còn là những bầy người nguyên thủy sống trong rừng rậm chăng? Dân mình thích ăn chè (châu Âu không có món ăn này), biết bên này sẵn đường nên họ mang đậu xanh sang. Ngoài nấu chè, họ còn làm giá. Giá xào gan, phải để cho gan còn màu hồng của máu mới ngon! Thảo nào dân mình ngoài cái khí phách “ăn gan uống máu”, cái sở thích ăn chè tạo ra một đặc tính thích những lời đường mật, những lời xu phụ ngọt ngào. Cái “ngọt ngào” ấy được dân ta coi là một bảo bối cho việc hành xử để đạt đến thành công. Nó không chỉ là cái thang trên bước đường danh vọng mà còn là thanh đoản kiếm để tiêu diệt kẻ thù. Cái câu ngạn ngữ được mọi người thuộc làu là: “Mật ngọt chết ruồi, nước mắm mặn, giòi không chết!” “Thế đấy!” Càng ngẫm nghĩ Kiếm càng thấy sợ. Sợ chính “cái thằng tôi”. Anh nghĩ, nếu mình ở nhà, giờ này mình làm gì nhỉ?- Giờ này mình sắp ra trường, đang chạy chọt để kiếm một chỗ làm “có mầu”. Những toan tính để ngoi lên cao hơn người khác để có một địa vị xã hội “Vẻ vang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn32][32][/link] Cha mình bảo, muốn tiến bộ phải phấn đấu vào đảng. Ông sẽ tiếp tục giáo dục mình nắm vững và tuân thủ các nguyên tắc của thể chế: “Cá nhân phục tùng tập thể, Cấp dưới phục tùng cấp trên, bộ phận phục tùng toàn bộ, địa phương phục tùng trung ương...” Những nguyên tắc ấy cha đã nói nhiều lần, mình đã tóm tắt nó cho dễ nhớ là: “Không làm trái ý người khác, không được cãi lại cấp trên!” Bây giờ sống trên đất này, muốn được tôn trọng, mình buộc phải thay đổi, phải hành xử ngược lại. Ở đây con người được tôn trọng là người có óc sáng tạo, có thái độ phê phán và tinh thần phản biện, có chính kiến cá nhân. Bối cảnh văn hóa, cảnh ngộ sinh hoạt làm thay đổi thân phận và vận mệnh con người. Hiện thực làm thay đổi ý thức thẩm mĩ. Giống như một giống táo ngọt ở phương bắc, khi đem xuống trồng ở phương Nam nó lại chua! Giờ này, hàng triệu con người như mình đang trôi dạt khắp bốn phương trời, đang bám rễ, đâm chồi nảy lộc ở đâu đó. Dù có lúc lòng họ hướng về quê cha đất tổ, nhưng quê cha đất tổ trong kí ức của họ là gì? Có thể là một vài kỉ niệm mơ hồ về tuổi thơ. Nhưng cái hằn sâu nhất trong tâm tưởng họ vẫn là những cảnh ngộ lúc họ buộc phải rời bỏ quê hương. Cũng như quê cha đất tổ trong lòng ta bây giờ là ngôi mộ trong hang đá của Vừng, là nấm mồ cỏ mọc đầy bên bờ ruộng dưới chân đồi của bà Hên, là những nghĩa trang trắng xóa bạt ngàn bia mộ. Là cảnh ngộ của những người đàn bà có danh phận hẳn hoi, là bác sĩ, là kĩ sư tuổi chưa đầy 30 mà như một bà già, mặt khó đăm đăm lăn lê nơi chợ xép đầu phố lúc tan tầm với bó rau muống úa vàng và mớ tép chợ chiều...Nhớ về những người quen biết, thân thuộc ở quê nhà, những bạn sinh viên cùng lớp...mường tượng như nhớ cái lọ hoa đặt ở góc phòng, như cái chum hứng nước đặt ở gốc cau nhà ông ngoại, như một viên gạch được xếp chồng trong đống gạch ở công trường. Không nhớ được một con người cụ thể nào theo nghĩa là một con người thực sự- con “người tư tưởng.”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn33][33][/link] Ở đây lại khác, chỉ nhìn qua cửa sổ thôi, trên công viên ấy, mỗi người là một phong cách, không ai lệ thuộc vào ai từ ý nghĩ đến hành động. Trong cái xã hội này, họ quan niệm tính cá thể càng cao thì sự cố kết cộng đồng càng lớn. Chỉ có một sự lệ thuộc duy nhất mà mỗi người từ tổng thống đến người quét rác bên đường phải tuân thủ đó luật pháp. Mà luật pháp của họ lại được xây dựng trên một nguyên tắc là phát huy triệt để tính năng động, tính độc lập của từng cá thể. Sức mạnh của họ là ở chỗ ấy. Trong tư duy ngôn ngữ hiện đại, họ đồng hóa các khái niệm: “ Tuyệt đối tin tưởng, hoàn toàn nhất trí..” với khái niệm “Tuân chỉ” của các thời đế chế. Các nhà xã hội học của họ đang cực lực chống lại việc sinh sản vô tính, chống lại việc nhân bản con người bằng kĩ thuật Gen, chỉ vì lí do, với cách làm ấy sẽ tạo ra một xã hội “muôn người như một.”Ai cũng giống ai từ dáng người, khuôn mặt đến tư tưởng, hành động, nhân cách...Có thể nhặt bất cứ một thành viên nào lên làm Tổng thống đều được, đều hành xử hệt như nhau. Đó là lúc loài người đứng bên miệng hố của sự diệt vong. Họ tự hào vì xã hội của họ hơn một thế kỉ qua chưa có cuộc tuyển cử nào có 100% cử tri đi bầu, chưa có vị tổng thống, thủ tướng nào được trên 90% phiếu bầu.
 Kiếm chẳng có thì giờ để nghĩ vẩn vơ như hai tuần “nhàn cư vi bất thiện” vừa qua. Hết giờ làm việc ở nhà hàng, anh đi thẳng đến thư viện. Đây là thư viện của trường đại học T, nằm đối diện với nơi anh làm việc qua một mặt hồ rộng. Thư viện không thật lớn như những thư viện cộng đồng của thành phố nhưng số lượng đầu sách chuyên ngành phục vụ cho yêu cầu học tập của anh thì ít có thư viện nào sánh được. Nó được nối mạng với thư viện các trường đại học lớn, các viện thông tin trên thế giới. Một lần, cũng chỉ là nghịch vui thôi, anh vào phòng trung tâm máy tính, muốn biết cái năng lực cung cấp thông tin, tư liệu của nó ra sao. Anh vào máy, ấn vào thư mục an ninh-Quốc phòng (Lĩnh vực mà theo anh là bí mật nhất), di con chỏ vào mục “Việt nam”, bấm máy in. Chẳng biết độ chính xác của nó đến đâu nhưng trong tay anh đang có một tệp dày với các số liệu chi chít từ quân số của các quân binh chủng, số lượng, chất lượng của vũ khí, khí tài thậm chí cả năm và nước sản xuất các khí tài đó: Bao nhiêu xe tăng T54, mấy chiếc MIC21, MIC17, bao nhiêu tàu chiến...Lĩnh vực mà Kiếm say mê bây giờ là lịch sử và triết học. Anh đã ghi tên xin học dự thính ở hai khoa này. Ngày nào cũng vậy, cứ đến cái giờ X anh đến ngồi vào bàn số 17 khu A của phòng đọc. Trước mặt là một dàn máy tính. Anh có thể sử dụng máy để chọn sách đọc, tìm kiếm tư liệu, hoặc dùng nó để kiểm nghiệm lại các thông tin anh đang đọc trong một tài liệu mà anh nghi ngờ tính chuẩn xác của nó. Anh chuyên cần đến mức cái bàn 17 khu A ấy trở thành sở hữu riêng của anh. Những sinh viên khác đã quá quen thuộc với “người sinh viên da màu” ngồi ở cái bàn ấy. Vào giờ X hàng ngày không ai ngồi vào đấy dù lúc đó anh chưa đến. Cạnh anh, bàn 18, có một nữ sinh da trắng cũng chuyên cần như thế, chăm chỉ như thế. Suốt ba tháng trời ngồi cạnh nhau mà không ai nói gì với ai. Thỉnh thoảng có gặp nhau trên giảng đường, họ gật đầu chào nhau thoáng qua.
 Có một chiều, hình như những người đang yêu bắt gặp được hơi thở mùa xuân đã đến. Kiếm và Carol (tên cô gái ngồi ở bàn 18) đều ngước mắt nhìn hồ, sóng gợn lăn tăn. Giữa hồ hai con sếu đầu đỏ bồng bềnh. Những hàng liễu rủ tha thướt quanh hồ đang nảy những mầm xanh. Nắng chiều man mác. Ngoài cửa sổ những đóa hồng nhung màu đỏ thẩm nhưng nhìn nghiêng lại có màu tím. Những đóa hồng bạch e lệ, kiêu sa, trinh trắng đến lạnh lùng...Hai người không ai bảo ai đều thốt lên; “ Đẹp quá!” Họ rủ nhau ra ngoài đi dạo quanh hồ. Họ ngồi xuống một bãi cỏ ven hồ, nhìn con sóng dập dềnh tạo nên những ngấn nước cao thấp trên mặt các luống cỏ sát bờ. Carol là cô gái người Mỹ, gốc Pháp đến Đức để nghiên cứu về triết học phương đông. Kiếm ngạc nhiên hỏi:
-         Sao cô nghiên cứu triết học phương Đông mà lại sang Đức?
-         Carol cười, em biết anh sẽ hỏi câu ấy nhưng theo em, Đức là cái nôi của triết học. Họ có những nhà triết học chuyên ngành lớn, những nhà phương Đông học tên tuổi rất đáng nể trọng. Tư liệu của họ có hệ thống, tính độc lập, tự do tư tưởng trong nghiên cứu được đề cao nên tư liệu của họ đáng tin cậy. Người phương đông thường biến triết học thành kinh thánh. Họ giảng triết học như cha đạo giảng kinh, giá trị khoa học trong các nghiên cứu của họ không nhiều.
-         Cô nghiên cứu về trường phái Khổng-Mạnh hay Lão- Trang?[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn34][34][/link]
-         Không, em nghiên cứu về chủ nghĩa vị kỉ của Đặng Tích.
-         Đặng Tích? Anh chưa từng nghe tên bao giờ.
-         Em hiểu, ở nước anh có truyền thống tôn thờ chủ nghĩa “Nhất nguyên” nên khi đã thờ Khổng Tử ở Văn miếu rồi thì ai khác Khổng tử là kẻ lạc loài. Nhà nhà Khổng tử, người người Khổng tử. Phải có vài từ của Khổng tử trong câu nói của mình thì mới là người cao sang. Nghe nói cả bọn ăn trộm cũng vận dụng lí thuyết của Khổng tử, cũng coi hành vi ăn trộm của mình là phù hợp với “Nhân, nghĩa, lễ trí, tín”  của ngài!
-         Trời ơi! Suýt nữa Kiếm kêu lên, cả cái chuyện làng Võ vàng đầy bí mật của dòng dõi mình cô ta cũng biết sao? Kiếm tự an ủi, thời đại này ngay cả cái “Bí mật quân sự” của mình họ còn biết tường tận nữa là... Chỉ giữ được bí mật với người dân trong nước thôi. Quay sang Carol, Kiếm hỏi:
-         Đặng Tích có gì hay mà cô nghiên cứu, nước cô quan tâm vấn đề này?
-         Hay hay không là tùy người lĩnh hội nó. Món ăn tinh thần cũng như món ăn vật chất, có thứ dân tộc này khen ngon, là món ăn không thể thiếu như nhưng đối với dân tộc khác thì thấy sợ không dám đụng vào. Triết học có khác, nó là nền tảng để xây dựng nên một thiết chế xã hội, nó chi phối mọi hành xử của con người, lâu dần nó hình thành ý thức, tư tưởng của con người sống trong xã hội đó. Giai cấp thống trị sử dụng triết học như một công cụ cai trị.
-         Nước Mỹ định sử dụng chủ nghĩa vị kỉ để cai trị, để thiết lập ách cai trị mới chăng?
-         Không, thể chế chính trị nước Mỹ đã được xây dựng hơn hai trăm năm nay dựa trên những quan điểm triết học về tự do, dân chủ, bình đẳng bác ái. Để làm được điều đó, những nhà chính trị Mỹ đã trung thành với nguyên tắc tam quyền phân lập của Montesquieu[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn35][35][/link]. Ba nhánh chính quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp ngang bằng và tương hỗ lẫn nhau, một nhánh này luôn bị hai nhánh kia kiểm soát. Nó cân bằng một cách hài hòa, không để cho một cơ quan nào ở thế áp đảo cơ quan khác. Nó là một sản phẩm, một thành tựu to lớn của phong trào Khai sáng. Những người cha lập quốc của nước Mỹ đã quyết tâm xây dựng một chính quyền trên nguyên tắc đó. Họ tin rằng một cơ chế như thế sẽ thúc đẩy tự do cá nhân và tính thiện của con người.
-         Tại sao người Mỹ lại quan tâm đến Đặng Tích?
-         Đó là một vấn đề thời sự, Trung quốc là một nước lớn, không một sự kiện chính trị nào xảy ra trên thế giới có thể bỏ qua nhân tố Trung quốc. Những người được đào tạo để trở thành Tổng thống nước Mỹ được học một cách rất kĩ lưỡng về đất nước, con người Trung quốc, đặc biệt quan tâm đến những trường phái triết học đã từng ngự trị nước Trung Hoa, đã trở thành tiềm thức trong suy nghĩ, hành động của họ. Các nhà chính trị khi đối diện với đối thủ của mình phải biết người đó ăn gạo hay ăn bột mỳ, uống nước ở dòng sông nào.
-         Thế thì phải nghiên cứu Khổng tử chứ!
-         Đương nhiên, nhưng nghiên cứu Khổng tử cũng chỉ như nghiên cứu những đường thêu kim tuyến trên chiếc hoàng bào của các vua chúa thôi, không biết đầu óc các vị vua đó nghĩ gì. Từ khi triết học của Khổng tử ra đời không một vị vua nào của nước Trung Hoa sử dụng phép cai trị của Khổng tử cả. Đến nỗi, sau khi  đi khắp đất nước Trung hoa rộng lớn thuyết phục các vua dùng đạo của mình, Chính Khổng tử đã phải thốt lên với các học trò của mình: “Đạo của ta không thể thi hành, hãy cỡi thuyền chu du ra biển.”
-         Ông được tôn thờ, sùng bái, phong tước vị cao ngất cơ mà? Kiếm hỏi.
-         Đấy! Đó chính là thực chất của triết học Trung hoa. Không hiểu cái đó không nói chuyện được với người Trung quốc. Học thuyết của Khổng tử được tôn thờ, được đề cao từ thời Hán. Từ đấy trải qua Đường, Tống, Nguyên, Minh... Không một vị vua nào không phong tước cho ông. Thậm chí đến thời Trung Hoa dân quốc,  Tưởng giới Thạch vẫn còn phong cho Khổng Đức Thành, cháu đời thứ 77 của Khổng tử  tước “ Đại thành chí thánh tiên sư phụng sự quan” để tỏ thái độ tôn thờ Khổng tử cơ mà! Họ đua nhau, lập đền miếu, phong tước lộc cho ông, nêu cao công đức không để đâu cho hết! Tại sao? Để làm gì? Rất dễ hiểu, đó là thủ đoạn cai trị. Những người ngồi trên ngai vàng xưa nay được coi là con trời, họ làm vua vì đó là thiên mệnh của họ. Giờ họ thấy chỉ dựa vào thiên mệnh chưa đủ thuyết phục dân chúng, họ phải thể hiện mình được làm vua vì ngoài cái “con trời” ra họ còn là người có nhân, có nghĩa, có trí có dũng...  có nghĩa họ là môn đệ của Khổng tử, một bậc chính nhân quân tử, là “học trò xuất sắc của Người.” Những vị vua càng thối nát, càng tàn bạo thì càng tô vẽ tượng đài đền miếu của ông, càng phong cho ông tước vị cao sang.
-         Người Mỹ quan tâm đến Đặng Tích tự bao giờ? Kiếm hỏi.
-         Thực ra người Mỹ chẳng mấy ai quan tâm đến những người mà bây giờ đào mộ họ lên một nắm đất đen cũng chẳng còn. Ở Mỹ không có cái cụm từ “lãnh tụ vĩ đại, người thầy vĩ đại.” Khi người lãnh đạo hôm nay là “học trò xuất sắc” của người tiền nhiệm thì đó là dấu hiệu báo trước sự suy vong của xã hội ấy. Chỉ những chính trị gia, những người lãnh đạo mới quan tâm đến triết học. Từ khi ông Đặng Tiểu Bình nêu ra cái “học thuyết con mèo”, bất kể mèo trắng hay mèo đen, bắt được chuột là mèo hay và cái câu nói nổi tiếng ông nhắc lại lời người xưa: “Thù bạn chỉ là tạm thời, chỉ có lợi ích là vĩnh viễn.”Thế giới rộ lên: “Bây giờ mới có một “ông vua” nói thật!” Nó gần với chủ nghĩa vị kỉ của Đặng Tích. Khi Đặng Tích đã làm quan tư khấu của nước Trịnh thì Khổng tử mới lên 6 tuổi. Những tư tưởng của Đặng Tích đã có ảnh hưởng sâu rộng trong hơn hai thế kỉ của nước Trung hoa cổ đại. Và cho đến các triều đại sau này, mặc dù họ đề cao đạo Khổng, bài xích Đặng Tích nhằm củng cố chế độ phong kiến tập quyền của họ nhưng trong đầu óc của những người cai trị, trong hành động cụ thể vẫn làm theo tư tưởng của Đặng Tích. Phương Tây gọi ông là Xô crát[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn36][36][/link] của Trung Hoa. Đối với ông thiện- ác, phải-trái, chính-tà chỉ là tương đối cái gì có lợi cho mình là đúng. Khi có vụ án ông bày cho cả “bên nguyên” lẫn “bên bị”. Ông ủng hộ cả những học thuyết trái ngược nhau. Có một câu chuyện lí thú về ông: “Có một người giàu ở cùng làng với Đặng Tích chết đuối ở sông Vị. Một người vớt được xác lên, đến hỏi Đặng Tích, ông bảo “Phải bắt chuộc nhiều tiền vào, xác của một tên nhà giàu chứ có phải con vịt, con gà đâu mà lấy giá rẻ!” Y lời, người vớt xác đòi một khoản tiền chuộc rất lớn. Người nhà bị nạn đến hỏi ý kiến Đặng, Đặng khuyên: “Mặc nó, có nhà nào lại đi chuộc thây ma nhà mình đâu mà lo, tội gì phải mất nhiều tiền chuộc làm gì!” Nhà này cũng làm theo lời khuyên đó. Kẻ vớt được xác đợi hoài đâm lo lại lễ lược đến nhờ Đặng chỉ bảo, Đặng nói: “Mặc họ, cứ thủng thẳng, đừng bớt giá, họ chẳng tìm được cái xác cha họ ở đâu nữa mà lo, thế nào rồi họ cũng phải đến chuộc!” Chúng tôi nghiên cứu Đặng Tích không phải để đánh giá cái hay, cái dở cái đúng cái sai của ông ta mà chỉ muốn biết trong não bộ của những người đương thời đang hợp tác làm ăn với chúng tôi, đang bắt tay với chúng tôi chứa chất những gì. Theo tôi thì cái “chất Đặng Tích” trong  họ còn nhiều lắm!
 Kết thúc câu chuyện. Hai người ngồi trầm ngâm. Kiếm không biết Carol đang nghĩ gì. Một cảm giác tự ti, mặc cảm tràn ngập lòng anh. Carol là người trí thức đầu tiên của châu Âu mà anh tiếp xúc, trao đổi những vấn đề có tính học thuật. Anh không thấy xấu hổ về kiến thức kém cỏi của mình mà cái chính làm anh xấu hổ là ở sự lạc hậu trong phương pháp tư duy. Anh nhớ đến câu tục ngữ của Việt nam: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, cảm thấy mình lâu nay chỉ là một chất lỏng vô hồn...Chẳng biết Carol có đọc cái bài báo về thứ côn trùng lạ xuất hiện ở phòng 303 nhà 10 khu F hay không? Cô ấy nghĩ gì về mình...! Vừa rồi trong câu chuyện, Carol có nói; “Có những món ăn dân tộc này thấy ngon, là món không thể thiếu trong các cỗ bàn sang trọng, nhưng đối với các dân tộc khác thì thấy sợ không dám đụng đũa vào...” Phải chăng cô ta ám chỉ đến món lòng lợn, tiết canh  hay  món thịt chó mắm tôm mà những kẻ tếu táo đã nâng lên thành món “Quốc hồn quốc túy” của ta? Để xóa đi cái mặc cảm đó, Kiếm mời Carol đi ăn chiều. Anh muốn dẫn cô ta đến một cửa hàng ăn Việt nam, cho cô ta biết thế nào là văn hóa ẩm thực của Việt nam nhưng rất tiếc ở đây không có một cửa hàng ăn nào của Việt nam có thể ngồi được. Anh dẫn Carol vào một cửa hàng ăn Tàu. Nhà hàng Mãn Nguyệt, bên dưới ghi dòng tiếng Anh; “ Full Moon Restaurant.” Lồng đèn đỏ ối chấp chới dọc hành lang. Kiếm đưa quyển thực đơn cho Carol. Cô lắc đầu bảo mình không biết nội dung các món ăn đó là gì, mặc dù trong đó đã đề ba thứ tiếng: Hoa văn, tiếng Anh, tiếng Đức. Carol bảo Kiếm hãy chọn những món ăn nào đặc trưng cho phong vị châu Á nhất. Kiếm gọi: Sườn xào chua ngọt, cua rang muối và Rùa chiên bơ. Kiếm chỉ vào món rùa nói với Carol: “Món này đã bị Âu hóa, nó là sự giao thoa giữa các nền văn hóa ẩm thực Đông- Tây.” Sau ly Sâm banh chúc mừng tình bạn giữa họ, Kiếm gọi một chai rượu Suntory Brandy V.O của Nhật Bản. Carol thích thú, ấn tượng vì cái lạ của bữa tiệc từ món ăn đến rượu. Cô có vẻ ngạc nhiên về cái sành điệu của Kiếm trong tiếp khách. Cô rất tâm đắc cái món rùa chiên bơ, cô chưa được ăn bao giờ, mùi vị rất đặc biệt. Carol hỏi Kiếm:
-         Ở Việt nam có các món ăn này không?
-         Tất cả các món ăn này là của Việt nam, đặc biệt là món rùa chiên bơ, chỉ có ở Việt nam, thậm chí nó chỉ có ở vùng Cà Mau của Việt nam.
-         Đây là cửa hàng ăn của người Tàu kia mà!
-         Vâng, chủ là người Tàu nhưng đầu bếp là người Hoa sống ở Việt nam di tản sang. Anh chỉ món sườn xào chua ngọt nói:
-         Món này mùi vị mang đặc trưng Tàu rõ rệt, Việt nam cũng có nhưng không ngọt thế này mà có vị cay. (anh gián tiếp đính chính cái thói thích “ngọt” của người Việt.)
 Thấy Carol hào hứng vui vẻ, Kiếm bảo khi nào có dịp đi du lịch đến đồng bằng Nam bộ Việt nam cô nhớ gọi món này (Rùa) ở đấy họ còn làm ngon hơn. Đặc biệt ở đấy còn có món...Anh định giới thiệu với Carol món cháo ... rắn Ri-voi nấu với gạo nếp, đậu xanh. Đang nói hào hứng anh khựng lại: “ Cháo tức là xúp mà lại là xúp rắn, chắc Carol nghe xong sẽ chết khiếp, lại còn hai cái từ “đậu xanh” mà bài báo hôm nọ vừa nhắc, cái loại đậu sinh ra những côn trùng “chết người” ấy...” Nhanh trí anh bảo: “... món xúp vây cá mập.”
-         Thế à! “Xúp vây cá mập”, mắt Carol sáng lên nói, ở bên này cái món ấy chỉ có những đại gia, những nhà quyền quý mới dám gọi.
 
 
 Suốt thời gian hai năm sau đó, hai người sống với nhau như đôi bạn tâm giao. Kiếm coi Carol như một người bạn, người thầy. Carol coi Kiếm như một người tâm phúc, một trợ thủ đắc lực cho mình trong công tác nghiên cứu. Kiếm còn là một đối tượng sống cho việc nghiên cứu của Carol về ảnh hưởng của triết học Mác-xít trong việc hình thành con người mới ở một xã hội phương Đông. Carol đặc biệt coi trọng việc khai thác  các yếu tố về chất lượng trí tuệ, về nhân sinh quan, thế giới quan đặc biệt là cung cách hành xử trong một con người của “chủ nghĩa tập thể.”
 Ngày nào cũng vậy, đúng cái giờ ấy người ta thấy cái con người châu Á vạm vỡ da ngăm đen ấy đến ngồi ở cái bàn số17 khu A của phòng đọc và cô gái người Mỹ Carol cũng không mấy khi bỏ trống bàn số 18.
 Một ngày đầu thu se lạnh, nét mặt trầm tư, đượm buồn, Carol rủ Kiếm đi dạo. Không ai bảo ai, hai người dừng lại cạnh cái gốc liễu già, nơi mà hai năm trước ngày đầu tiên hai người quen nhau đã ngồi. Họ ngồi xuống, lặng im. Kiếm băn khoăn nhìn những biến thái trên sắc mặt của Carol, phán đoán điều gì sẽ xảy ra, chờ tiếng nói phát ra từ cái miệng xinh xinh hay cười ngày nào.
-         Em...em sắp về nước rồi...Anh ạ! Carol nghẹn ngào gục đầu vào vai kiếm, nức nở.
-         Kiếm bàng hoàng, quàng tay qua eo Carol, xiết chặt, nói, Anh ao ước được cùng em sang Mỹ.
-         Sao? Anh định sang Mỹ à? Công việc của anh ở đây rất thuận lợi, thu nhập cao, anh định bỏ đây mà đi ư?
-         Mục tiêu của anh từ khi rời nhà ra đi là đến Mỹ, Đức chỉ là chỗ dừng chân, transit thôi. Tiền anh cũng cần nhưng không phải là trên hết. Anh muốn hiểu biết cái thế giới này. Hơn nữa bây giờ trời đất dun dủi cho anh được gặp em, trở thành người bạn của em. Thiếu em chắc anh không sống nổi.
 Carol ngồi thẳng người trở lại, duỗi dài hai bắp chân trắng hồng trên bải cỏ xanh. Mặt nước hồ dờn dợn, lăn tăn. Hai con sếu đầu đỏ đã bay đi đâu tự hồi nào, chắc chúng đã bay về phương Nam tránh rét. Loài chim này thật tinh khôn, chúng đã sợ cái rét mùa đông ngay từ những ngày đầu thu!
-         Làm sao bây giờ! Một câu hỏi ném vào hư không! Một tiếng kêu trời. Carol nhìn Kiếm hỏi, anh đã nghĩ ra cách gì để sang Mỹ chưa?
-         Chưa, thủ tục nhập cảnh Mỹ quá khó! Nếu không có sự giúp đỡ của em chắc anh chỉ còn cách bơi qua Đại tây dương thôi! Kiếm cố pha trò cho không khí bớt căng thẳng.
-         Em chưa bao giờ nghĩ đến tình huống này, cũng chẳng mấy để tâm tìm hiểu cách thức của việc nhập cư. Có cách gì, anh bảo em, khó mấy em cũng làm. Đó không chỉ là việc giúp anh mà chính là giúp cho chính mình.
-         Có một cách, nhiều người đã làm , khá thuận lợi...
-         Cách gì anh nói đi!
-         Anh sợ em giận. Nếu em hứa với anh, sau khi nghe anh nói, nếu em không đồng tình thì coi như anh chưa nói điều ấy, em chưa nghe điều ấy...
-         Chỉ có cách...Chúng ta kết hôn! Kiếm nói.
-         Kết hôn?...Chúng ta là vợ chồng?
Kiếm cúi đầu như kẻ phạm tội, xấu hổ vì đã lợi dụng tình bạn trong sáng của Carol, ấp úng không nói thành lời.
-         Em không giận anh, Carol nói, có được một người chồng như anh thì thật là lí tưởng, một người chồng trong mơ, nhưng thú thật, em chưa nghĩ đến chuyện lấy chồng. Bố mẹ em chưa hề biết em có bạn trai. Ông bà là người Mỹ da trắng thuần chủng, dù không có tinh thần kì thị chủng tộc nhưng dù sao trong ý thức họ, nhận một người da mầu làm chàng rể chắc các cụ cũng không thoải mái...
-         Anh chưa nói hết ý...Nếu em chưa nghĩ đến chuyện lấy anh làm chồng thì chúng ta kết hôn giả có được không? Anh thề rằng chúng ta chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa, anh sẽ không đụng chạm đến em và sau khi anh sang Mỹ yên ổn rồi em sẽ hoàn toàn tự do...
-         Trời ạ! Lại có chuyện ấy nữa ư? Mặt Carol tươi lại như vừa được nghe một chuyện hài. Cô liếc nhìn nét mặt đau khổ của Kiếm, nói:
-         Chuyện anh nói em nghe lạ lùng quá, thôi bây giờ chúng mình đi uống cà phê để giảm bớt căng thẳng đã vậy!
Mười ngày sau cái buổi nói chuyện hôm ấy, bàn số 18 bỏ trống. Kiếm vẫn ngồi chăm chú nhìn lên màn hình của chiếc máy tính ở bàn 17. Con chỏ di nhanh trên các mục về di dân,về thủ tục nhập cư, về cộng đồng người Việt ở Mỹ. Kiếm chẳng còn hy vọng gì ở Carol nữa. Anh nghĩ: “Có khi Carol đã bay về nước rồi, chắc cô ta sẽ mang theo trong đầu một kết quả mới vừa phát hiện được về con người phương Đông là : Hay lợi dụng tình yêu để thực hiện âm mưu chính trị, từ Trọng Thủy-Mỵ Châu đến công chúa An Tư  công chúa Huyền Trân đời Trần, Ngọc Khoa đời Nguyễn... và đến bây giờ cô ta sẽ ghi thêm tên mình sau tên Trọng Thủy, hai người đàn ông được dùng làm kế mĩ nhân!” Kiếm bật cười, tự diễu mình.
 Đến ngày thứ mười thì Carol đến. Nét mặt cô không vui, không buồn, nghiêm trang, dạn dĩ như một người đàn bà đứng tuổi. Cô đưa mắt ra hiệu cho Kiếm cùng ra ngoài. Hai người vào một quán cà phê ấm cúng, vào giờ vắng khách, họ ngồi vào một góc khuất. Kiếm ngồi cúi đầu, liếc mắt nhìn trộm Carol để phán đoán “tình hình.”
-         Gần hai tuần rồi em chờ thư trả lời của các cụ. Em đã viết thư về nhà trình bày và thuyết phục để hai cụ làm giấy bảo lãnh cho. Chắc các cụ đắn đo nhiều nên hôm nay mới có trả lời...
-         Ý các cụ thế nào? Kiếm hỏi vội vàng.
-         Các cụ đồng ý bảo lãnh nhưng theo quy định mới của cục di trú, yêu cầu phải có bản chính của bản đăng kết hôn.
-         Em đồng ý đi đăng kí kết hôn với anh chứ?
-         Em đồng ý nhưng em nhắc lại một cách chính thức rằng: Giấy kết hôn là thật nhưng hôn nhân của chúng ta chỉ là giả thôi đấy. Em chưa nghĩ đến việc lấy chồng. Em chỉ muốn giúp anh thôi.
 
 
 Không riêng gì Kiếm, ai lần đầu tiên đến nước Mỹ đều phải ngạc nhiên khi đặt chân xuống Los Angeles. Một thành phố sáng như gương, đường phố dường như không có một hạt bụi nào. Cây cối xanh tươi mướt mà. Khí hậu ở đây bốn mùa đều là mùa xuân. Nắng nhạt hoe hoe vàng. Gió mơn man. Khu vực phía tây thành phố là nơi ở của những người giàu có. Nước nào cũng có kẻ giàu người nghèo nhưng phải đến tận nơi, nhìn tận mắt mới biết thế nào là người Mỹ giàu sang. Carol lái xe đưa Kiếm đi một vòng quanh thành phố, đến khu Sơn trại Beverly. Ở đây hình như người ta làm nhà không phải để ở mà để tô điểm cho thiên nhiên. Những quả đồi rộng mênh mông mà chỉ có vài ba ngôi nhà dáng dấp kiêu sa ẩn hiện trong các rừng cây. Chẳng phải là những “ngôi nhà” theo nghĩa thông thường của từ này, phải nói đó là những thành quách, lâu đài. Nó hiện đại nhưng cổ kính uy nghiêm chẳng khác gì nơi cung cấm của các lãnh chúa thời trung cổ. Những vườn cỏ xanh bát ngát cắt tỉa đều tăm tắp. Lối phân cách giữa các ngôi nhà là những hàng cây giống như cây cúc tần, cây duối bên ta cắt xén gọn gàng cao chỉ quá gối. Xe đi bên ngoài nhìn vào có thể thấy những người lao công mặc đồng  phục giúp việc các gia đình cắm cúi làm việc: Cắt cỏ, tỉa cây, dắt chó đi chơi. “Đẳng cấp” của chó được thể hiện trong bộ đai da, rọ mõm và sợi dây xích dắt chúng. Đây là khu nhà của các minh tinh màn bạc nổi danh, của các đạo diễn tên tuổi ở Hollywood. Những tên tuổi mà người ta ai đã được gặp họ một lần ngoài phố được coi như một niềm hãnh diện của đời mình... Trên đường về xe bon bon chạy qua khu phố gồm những tòa nhà đường bệ dựa lưng vào núi quay mặt ra biển. Rực rỡ hoa. Tinh tươm như các cô gái buổi sáng vừa tắm gội, trang điểm xong. Phía sau nhà là những cây tùng, cây bách và cả những cây cổ thụ vươn lên cao, rủ bóng xuống các mái nhà cao thấp. Tiếng chim hót líu lo...Đó là khu nhà của các tỷ phú ở Maryd. Nhà của bố mẹ Carol sống cạnh khu này, bên lề của sự giàu sang. Bố cô làm hiệu trưởng một thường Trung học, gia đình vào loại thường thường bậc trung nếu ở các vùng khác còn ở đây thì nhà ông chỉ thuộc loại “Trung nông lớp dưới”. Nếu có cách mạng vô sản nổ ra chắc chắn ông được xếp vào loại phần tử cốt cán loại hai, loại ba gì đó của cách mạng. Bố mẹ Carol tiếp nhận Kiếm một cách bình thường, tự nhiên, không vồ vập nhưng cũng không lạnh nhạt, theo tinh thần tôn trọng sự lựa chọn của con cái. Ông bà cũng không hề biết quan hệ vợ chồng giả vờ giữa hai đứa.
 “Vợ chồng” Carol thuê một ngôi nhà gỗ một tầng phía sân sau của một khách sạn hai sao. Nhà quay mặt về phía có lối đi nhỏ bên hông của khách sạn. Choán gần hết diện tích tầng một của ngôi nhà là phòng khách. Sàn gỗ, trải thảm len màu xanh nhạt, hoa văn màu vàng. Ở giữa đặt một bộ sa lông to bọc len hoa màu vàng nhạt. Một lò sưởi xây bằng gạch chịu lửa, ống khói cao quá mái nhà. Cửa của lò sưởi quay ra phía phòng khách. Hành lang nhỏ dẫn vào phía trong, bên trái là phòng ăn, cả tường và mái đều lợp bằng kính, như là ngồi ngoài trời vậy. Bên phải là nhà tắm, ở giữa là một bồn tắm hình bầu dục men trắng tinh, có hệ thống sục nước mát xa. Cạnh đó, cách cái bồn tắm bằng một tấm rèm ni lông có kê một chiếc phản đủ cho một người nằm. Phía trong cùng là khu vệ sinh và bếp. Nhà một tầng nhưng cao, trên trần của phòng khách chạy sâu vào hết phòng tắm là phòng ngủ, gỗ bóng. Giữa sàn là một tấm đệm lò xo dày 40 phân mỗi chiều 1,8. 2,4m thay cho giường ngủ. Hàng cây cúc tần, loáng thoáng mấy ngọn tóc tiên màu vàng chạy dài sát vách phòng ăn làm giới hạn cho khuôn viên ngôi nhà với sân cỏ của khách sạn. Quanh sân cỏ người ta đặt các ghế tựa bằng gỗ mộc. Nắng mưa làm cho chúng ngã màu tro. Trừ những lúc khách sạn tổ chức các bữa tiệc ba- bi- ciu (thịt nướng), nơi ấy còn là nơi ngồi thư giản của các cụ già trong phố, chỗ cho người qua đường nghỉ chân.
 Kiếm đã nhận được giấy xanh tạm trú, phải qua một thời gian hai năm để cục di  trú có thời gian kiểm tra tính xác thực của hôn nhân, trải qua các cuộc phỏng vấn lúc đó Kiếm mới được cấp thẻ cư trú vĩnh viễn. Trong thời gian này,  nếu những hành vi giả dối bị phát hiện, Kiếm có thể bị trục xuất và Carol có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Những nhân viên của cục di trú không phải là những kẻ làm thuê quan liêu, nửa đêm họ có thể đột nhập vào kiểm tra xem hai “vợ chồng” có ngủ chung không? Họ phỏng vấn người “chồng” hoặc người “vợ” về những đặc điểm tâm sinh lí của người kia. Họ hỏi và kiểm tra tính xác thực về những đặc điểm, dấu vết trên cơ thể như vết sẹo, nốt ruồi, bớt son... ở những chỗ kín của người này theo lời khai của người kia. Tối đầu tiên về “nhà mới” hai người phải “công khai hóa” cơ thể của mình cho nhau biết. Sau đó họ bàn đến chuyện nằm ngủ như thế nào. Kiếm chủ động nói trước:
-         Em lên gác xép ngủ, anh nằm xô pha dưới phòng khách này! Tất nhiên anh phải để quần áo, cả quần đùi áo lót ở trên ấy!
-         Không được, Carol trầm ngâm nói, như vậy, nửa đêm cảnh sát vào, anh không thể chần chừ, chạy ra mở cửa, hơi ấm của anh còn trên đi-văng, chúng vào lên gác xép thấy em đang ngủ say...không có dấu vết gì của anh ở đấy, lộ tẩy mất!
-         Làm sao bây giờ?
-         Anh lên gác ngủ, hai đứa hai chăn nhưng anh phải hứa tuyệt đối chấp hành những điều chúng ta đã cam kết với nhau.
Hai người lên gác, tựa lưng vào hai góc tường vuông góc, ngồi nói chuyện đến khuya không ai chịu “lên giường” trước. Kiếm giục:
-         Em đi ngủ trước đi!
-         Anh đi ngủ trước đi, em còn xuống nhà có tý việc.
-         Đừng thác chuyện nữa! Em sợ chứ gì? Nếu vậy anh xuống ngủ ở đi-văng đây!
 Carol im lặng nhìn Kiếm, suy nghĩ. Kiếm biết cô đang nghĩ gì liền lấy trong túi ra cái kim và cuộn chỉ. Anh cầm lấy cái kim, đưa cuộn chỉ cho Carol bảo: “Em xâu hộ cho anh sợi chỉ này!” Carol cầm sợi chỉ vừa đưa sát đến kim thì Kiếm lắc cái kim đi chỗ khác. Carol vô tâm cứ chăm chú xâu đến ba lần không được. Kiếm phá lên cười. Carol hiểu, vứt sợi chỉ xuống sàn, thụi Kiếm mấy cái đấm rồi đi xuống nhà. Carol trở lại, Kiếm vẫn ngồi yên chỗ cũ trầm tư. Carol ngồi xuống đệm nói:
-         Đây là vấn đề không chỉ liên quan đến tình cảm mà còn liên quan đến sinh mệnh của cả hai chúng ta. Anh đã vất vả biết bao nhiêu mới sang được đất này. Em có thể tan tành cả sự nghiệp, cả danh dự...Anh hiểu chứ?
-         Anh hiểu nhưng thương em quá vất vả vì anh. Em còn bị anh giam cầm trong bao lâu nữa?
-         Những ngày này đòi hỏi chúng ta phải có lí trí, phải sống bằng lí trí. Chúng ta sẽ tìm cách để ít tiếp xúc với nhau. Sáng dậy mỗi người đi một đường. Ai lo việc nấy. Em đã xin cho anh theo học lớp tiếng Anh cách đây mấy con phố. Gần nhà mình đây cũng có nhưng em cố tình tìm chỗ xa cho anh đi về tiêu phí bớt thời gian và năng lượng thừa đi. Đêm, ai về trước ngủ trước, không chờ nhau, không xem những những phim ảnh quá “ướt át”. Không ngồi ăn chung, hai bữa ra Bu- phét. Thỉnh thoảng, thứ bảy chủ nhật hai đứa dắt tay nhau đi ăn trưa để che mắt thiên hạ...Khi gặp nhau chỉ nói chuyện học thuật, chính trị thời sự, tuyệt đối không được ai lái vào “chuyện ấy!”
Những quy định ấy đã trở thành “điều ước” giữa hai người. Họ tuân thủ điều ước ấy một cách nghiêm túc trong suốt hai năm, sống với nhau như đôi bạn cùng giới thân thiết. Ngày Kiếm nhận được “thẻ xanh” cư trú vĩnh viễn đã tới. Hai người dẫn nhau ra phòng phỏng vấn. Kiếm nghẹn ngào cầm tấm thẻ xanh trong tay, ôm chầm lấy Carol riết chặt cô vào lòng. Hai người dẫn nhau ra một nhà hàng. Để ôn lại những kỉ niệm của ngày đầu gặp nhau hai năm trước, Carol có ý được đi ăn một nhà hàng Trung quốc. Họ ngồi đấy đến rất khuya mới về. Kiếm lăn ra giường ngủ say sưa như đứa trẻ vừa được mẹ cho bú no. Carol chui và chăn nằm cạnh nhưng không tài nào nhắm mắt được. Chị nằm nghiêng ngắm nhìn khuôn mặt thông minh mà thuần hậu của Kiếm. Trong lòng cô trỗi dậy một tình thương mênh mông, một sự khâm phục về ý chí và nghị lực của người thanh niên này. Chị nằm xuống, kéo chăn phủ đầu vờ ngủ. Carol nằm xích lại gần Kiếm hơn. Chị làm như mê ngủ vô tình đặt một bàn tay lên bụng dưới của Kiếm. Tỉnh giấc, Kiếm thấy một hơi ấm râm ran truyền từ Carol sang mình. Anh nằm yên không dám động đậy, sợ Carol “tỉnh giấc” rút mất bàn tay ấy về. Người anh nóng phừng chỉ muốn luồn  tay riết chặt Carol vào lòng. Anh không dám, chỉ nằm yên cứng đơ như vậy cho đến sáng. Bàn tay của Carol vẫn úp ở chổ ấy, vẫn ấm nóng râm ran...Nghĩ bụng, mình đã chịu đựng suốt hai năm trời rồi, bây giờ vừa nhận được thẻ xanh đã vội trở mặt, chơi xấu... Còn mặt nào dám nhìn Carol nữa. Đầu anh căng như sợi dây đàn, sức nóng trong cơ thể anh chắc cũng truyền ngược qua Carol. Anh nghe được cả tiếng nhịp tim đập gấp của Carol nhưng không dám nghĩ tới...Carol vẫn “ngủ say”...Trời sáng. Kiếm rón rén dậy đi làm sợ “mất giấc” của chị. Carol dậy với theo: “Chiều anh về sớm ăn cơm nhà với em nhé!” Kiếm bước ra ngõ những bước đi đầy tự tin và hãnh diện. Carol ở nhà cả ngày dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa chiều. Chị bắt chước làm món “nem Sài gòn” và món sườn xào chua ngọt mà Kiếm đã hướng dẫn cho. Buổi tối ấy, nét mặt Carol đằm thắm lạ thường. Chị luôn tay gắp thức ăn, rót rượu cho Kiếm. Hai người đều vờ ngủ. Họ nghĩ điều gì ai biết! Chừng nửa đêm, Kiếm “vô ý” gác bàn tay mình qua ngực Carol. Hai bàn tay Carol đang chắp trước ngực, chạm phải bàn tay Kiếm chị từ từ bỏ hai tay mình xuống. Bàn tay Kiếm đặt đúng vị trí cần thiết trên người Carol. Kiếm tung chăn ôm ghì lấy chị. Nồng nàn. Carol bảo:
-         Hôm nay em sẽ làm nghĩa vụ người vợ chính thức đối với anh.
Sức trẻ bị kìm nén suốt hai năm trời trỗi dậy. Bốn cánh tay ghì chặt lấy nhau không ai muốn buông rời. Kiếm hỏi:
-         Em thực sự yêu anh, làm vợ anh thực à?
-         Em yêu anh nhiều lắm, không có một người đàn ông nào đầy ý chí, nghị lực, thông minh và giàu lòng tự trọng  như anh nhưng em không thể làm vợ anh được. Chúng ta sẽ sống “Tuần trăng mật thế này trong năm ngày, sau đó ai về nhà nấy.”
-         Tại sao?
-         Em chỉ sợ bố mẹ em không vui. Cách cư xử của người Mỹ là vậy. Bố mẹ không can thiệp thô bạo vào việc riêng của con cái nhưng ngược lại con cái bao giờ cũng đáp nghĩa bố mẹ bằng cách làm cho bố mẹ vui lòng. Bố mẹ em chỉ có một mình em thôi.
-         Em nghĩ gì về việc chúng ta đã làm, có hối hận gì không?
-         Chúng ta yêu nhau thật sự và dâng hiến cho nhau chẳng có gì phải hối hận cả. Coi như đấy là một cuộc “sống thử tiền hôn nhân”, một cách sống phổ biến của lớp trẻ bây giờ trước khi thành vợ chồng theo đúng nghĩa pháp lí.
-         Chúng ta thì ngược lại, vợ chồng trên pháp lí đã hai năm nay bây giờ mới “thử”. “Thử” xong một cách rất mỹ mãn thì lại muốn hủy cái cơ sở pháp lí ấy đi!
-         Ngày mai chúng ta sẽ đi sống tuần trăng mật ở đâu?
-         Anh không thạo vùng này. Anh chỉ muốn đến một nơi nào chỉ có hai chúng ta giữa trời đất non nước thôi!
-         Hay lắm! Carol hớn hở kêu lên.
 Ngoài khơi vùng biển này có cả một quần đảo gồm nhiều đảo nhỏ. Trên một số hòn đảo, mỗi hòn người ta chỉ xây một ngôi nhà nghỉ vừa đủ cho một cặp vợ chồng. Hai người rủ nhau ra một hòn đảo nằm chơi vơi ngoài cùng, đảo số 13. Hòn đảo này phong cảnh cực đẹp, bãi cát trắng và mịn, thoai thoải, ra khơi gần hai trăm mét mà nước mới ngang vai. Nước trong veo, nhìn rõ cả bàn chân của mình. Một ngôi nhà nhỏ, sạch sẽ tinh tươm, đầy đủ tiện nghi. Tủ lạnh lớn có đầy đủ thức ăn các loại rượu, nước ngọt. Nếu có yêu cầu gì khác chỉ cần một “cú phôn” có người mang ra tận nơi. Trên đảo chỉ có hai người. Tự phục vụ, hưởng theo nhu cầu. “ Giờ đây chúng ta mới thực sự là người tự do” Kiếm cởi hết quần áo ôm choàng lấy Carol ngã vật ra giường. Hai người trần trụi như bầy người nguyên thủy trong hang đá. Bây giờ Kiếm mới thực sự chiêm ngưỡng cái thân thể kiều diễm như tạc bằng ngọc trắng của Carol. Đôi bầu vú căng tròn, cao vống. Anh như bị thôi miên, ôm chặt Carol vào lòng sục sạo tìm kiếm. Hai người lại trần trụi như thế dắt nhau ra biển, ngụp lặn như chơi trò chơi trốn tìm dưới nước. Kiếm lặn một hơi dài, chui đầu vào giữa háng Carol, đứng dậy công kênh chị lên vai đi vào bờ. Nằm trên bãi cắt trắng, úp lên nhau, sóng ùa vào phủ một lớp cát lên thân thể hai người. Họ sung sướng mãn nguyện lật ngửa người xuống, nằm  nhìn trời, dang rộng hai chân cho gió, cho ánh sáng mặt trời luồn lách vào mọi ngõ ngách trên cơ thể. Lại dắt nhau xuống nước, ngâm mình, Kiếm giơ hai tay ra phía trước cho Carol nằm úp lên như động tác tập bơi...Hai người lại lên bờ, vào nhà. Carol ngắm nhìn cái thân thể cường tráng của Kiếm, ngạc nhiên về cái “sức mạnh phi thường của anh”. Vừa xong, trên giường, dưới nước...cả mấy tiếng đồng hồ mà giờ lại thế rồi...căng tròn, hấp dẫn. Carol quỳ xuống, úp mặt vào giữa hai cái đùi dế cứng như sắt nguội của Kiếm...Anh ngồi xuống mép giường, ngả người về phía sau, hai chân chống đất, tư thế nửa nằm, nửa ngồi mặc cho Carol xoay xở. Năm ngày đêm như thế, lúc nào cũng có cảm giác mới mẻ, thèm muốn, quấn quýt bên nhau. Lên ca nô về lại đất liền. Vừa lên bờ Carol ngoái đầu lại chia tay Kiếm bằng một ánh mắt chứa chan, không cần phải nói một lời từ biệt gì nữa. Chị lên xe. Xe vun vút lao về phía trước, chẳng biết chị đi đâu. Kiếm đứng lại dưới bến sửng sờ nhìn theo.
 Anh về lại ngôi nhà gỗ. Mọi việc xảy ra từ khi anh nhận tấm thẻ xanh như một giấc mộng. Kiếm thấy không thể sống được trên đất này nếu thiếu Carol. Mùi da thịt nồng nàn, mùi nước hoa phảng phất trong phòng, cả trên cơ thể anh...Nét mặt rạng rỡ, nụ cười tươi rói, hàm răng trắng ngát đều tăm tắp, bộ ngực ấy, cái thân hình kiều diễm ấy đâu rồi...? Ta chiêm bao chăng? Đầu óc anh như muốn vở tung. Anh sống bảy ngày thờ thẩn như thế, đi vu vơ khắp chốn cùng nơi trong thành phố để tìm hình bóng của Carol, nhưng chỉ là đáy bể mò kim... Kiếm rất hiểu tính cách của Carol, đã nói là làm, chẳng còn chút hy vọng nào về cuộc sống chung, chồng vợ với Carol nữa. Anh quyết định rời Mỹ sang Úc. Cuộc ra đi lần này dẫu lòng buồn vô hạn nhưng vị thế của anh bây giờ khác xa những lần trước. Bây giờ anh là công dân của Hợp chủng quốc Hoa kì, mang hộ chiếu Mỹ với cái tên Mỹ Dankie. Một người Mỹ, da màu với tài khoản hơn hai trăm ngàn Đôla Mỹ. Một cung cách và trang phục rất VIP, đĩnh đạc bước xuống sân bay quốc tế Sidney. Dankie quyết định lập nghiệp tại đây.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
13
 
 
           Kiếm ổn định và thích nghi nhanh với cuộc sống mới trên miền đất này. Ở đây, anh có nhiều bạn bè vốn đã quen nhau từ hồi ở Đức sang đây định cư. Nhiều người trong họ thành đạt. Hệ thống Xã hội chủ nghĩa sụp đổ. Một thị trường rộng lớn khát hàng tiêu dùng nhất là hàng tiêu dùng được sản xuất từ các nước tư bản đang mở ra. Kiếm quyết định liên hệ với các bạn bè đang làm ăn ở các nước xã hội chủ nghĩa. Anh bay sang Mát- xcơ-va tìm hiểu thị trường và thiết lập các quan hệ buôn bán, làm ăn. Kiếm gặp Ngô, một “Soái” của người Việt không những tại Nga mà còn có quan hệ rộng với các công ty của người Việt ở các nước “Xã hội chủ nghĩa khác.” Ngô vốn là một nghiên cứu sinh ở đây, anh là con của một vị đại sứ, anh quan hệ với các sứ quán Việt nam ở các nước một cách dễ dàng. Khi Liên xô sụp đổ, anh bỏ học và đi buôn. Gặp được Dankie (Kiếm) một người Mỹ gốc Việt, vốn đã quen nhau từ trước. Hai lợi thế kinh tế- chính trị, hai thị trường của hai thế giới kết hợp với nhau trong buổi giao thời ban đầu tạo ra siêu lợi nhuận. Kiếm tức khắc mở một cửa hàng kinh doanh đồ điện tử ở Sidney. Mỗi tuần, sáu công- ten- nơ từ Sidney đi cảng Rốt-stốp chở các mặt hàng Ra-đi-ô cát sét, thiết bị âm thanh, đầu đĩa và các mặt hàng dân dụng mà ở các nước này coi là cao cấp.( Mặc dù nhiều mặt hàng trong đó là sản phẩm đã quá “đát” được bán rất rẻ ở các nước tư bản). Từ Rốt- stốp Ngô cho chuyển hàng rải hầu khắp thị trường các nước Liên xô- Đông âu cũ.
     Với sự từng trải, Kiếm hiểu đây là cơ hội ngàn năm có một và cơ hội này không thể kéo dài. Khi anh đã có một số vốn lớn, anh quyết định chuyển hướng kinh doanh sang lĩnh vực khách sạn-Nhà hàng. Ba thành phố lớn của Úc đều có các khách sạn nhà hàng của anh. Anh mua một biệt thự lớn, tiện nghi ở Sidney. Ngôi biệt thự quay mặt ra một  con phố cổ với những khuôn viên nho nhỏ, đủ các loại hoa. Người dân sống trên con phố này hình như có quan niệm thẩm mỹ giống nhau. Họ không trồng các giống hoa um tùm rực rở. Trong các khuôn viên ấy, lặng lẽ nở những bông hoa nho nhỏ, yêu yêu, màu tím nhạt, phơn phớt vàng hay một màu trắng mỏng manh... Những hoa ấy chỉ nở riêng cho các chủ nhân của ngôi nhà, cho các cụ già ngồi trong ban công nhìn ra vườn mỗi chiều vắng lặng, cho các cô gái mới lớn, trong giây phút mơ màng gấp sách, qua cửa sổ nhìn xuống vườn chiêm ngưỡng những cánh bướm dập dờn bay...Sau nhà là một vườn cỏ rộng. Một hệ thống đèn huỳnh quang ánh sáng xanh mờ chỉ đủ để tạo phản quang làm lấp lánh những hạt sương đêm treo trên ngọn cỏ. Giữa vườn, một lối đi bằng đá dẫn xuống bến ca nô đậu trên một con sông nhánh, nước trong xanh, phẳng lặng như mặt hồ. Những chiều đi làm về hay những ngày nghỉ, Kiếm thường lái chiếc ca nô ấy chạy ra sông cái, có khi ra tận biển, lao vào những con sóng bạc đầu...Theo địa chỉ của bố mẹ Carol, Kiếm vẫn thường liên lạc thư từ với chị. Một chiều đi làm về, anh sửng sốt nhận được tin Carol báo bố mẹ chị đi du lịch ở Thái lan, bị mất tích trong trận thủy tai ở Phù-khẹt. Anh vội vàng bay sang Mỹ để cùng Carol đi Thái lan tìm tung tích bố mẹ cô. Ngôi nhà nhỏ hai tầng bên lề khu Maryd giàu sang vốn đã im ắng bây giờ lại càng im ắng hơn. Kiếm bước vào. Mới hơn ba năm mà Carol thay đổi nhiều quá! Trước mắt anh, vẫn gương mặt ấy, đôi mắt sâu thăm thẳm và cái miệng với đôi môi thanh như một nét vẽ ấy nhưng Crrol bây giờ đã là một người đàn bà cương nghị. Bé gái chừng lên ba, nép vào đùi chị, rụt rè nhìn người khách lạ.
-         Con gái em? Kiếm hỏi.
-         Vâng!
-         Em lấy chồng sao không cho anh biết?
-         Em lấy chồng, chồng em anh biết rồi con báo làm gì nữa!
-         Nó là con anh? Kiếm nói như thét lên, sung sướng nghẹn ngào. Anh ôm chặt Carol vào lòng.
-         Chào bố đi con, Carol nhìn bé gái âu yếm, tên con là Marida. “Da” là chữ đầu họ Đặng của anh đấy!
Xong việc, Kiếm đưa vợ và con về Sidney. Nhân dịp này anh mời bố và mẹ  sang Úc chơi. Từ xa, nhìn thấy hai cái bóng của bố mẹ liêu xiêu bước xuống máy bay, ngơ ngác, rụt rè...Lòng anh trào dâng một tình cảm...anh muốn khóc. Carol và Marida nhìn anh cảm động nhưng chắc chị không hiểu hết nỗi lòng của anh. Kiếm không hình dung được bố mẹ gầy còm, già nua đến vậy. Kiếm đưa bố mẹ đi chơi gần khắp nước Úc. Đêm cuối cùng trước ngày rời Úc, ông bà Lâm- Xuân và vợ chồng Kiếm ngủ lại trong một khách sạn trên bờ biển ở Britsble. Xuân và Carol cả ngày đi mệt đã về phòng. Lâm ngồi lại cùng với Kiếm trong một quán rượu nhỏ dựng trên một doi dất nhô ra biển. Biển khơi rạt rào sóng vỗ, chén rượu trong tay, Kiếm ngập ngừng thưa với bố: “Nguyện vọng của chúng con là muốn được sống gần bố mẹ để được chăm sóc bố mẹ lúc tuổi già. Con thì giờ đây không thể về Việt nam được mà bố mẹ thì không muốn sang bên này. Giờ con muốn xin bố mẹ hai việc: Thứ nhất là con gửi về một số tiền để bố góp vốn vào việc phát triển khu Võ Vàng thành một khu du lịch có tầm cỡ. Con đã tính rồi, số vốn sao cho đủ lớn để bố có thể làm chủ tịch hội đồng quản trị và có chân cho em Thêm trong ban quản lí. Đó là việc ích nước lợi nhà, coi như một sự đóng góp của con vào việc xây dựng đất nước. Con đưa bố đến đây mấy ngày nay cũng là để tham quan cách làm du lịch của người ta. Britsble là trung tâm du lịch của cả nước Úc, chiếm gần một phần ba thu nhập quốc dân của cả nước. Việc thứ hai...Kiếm ngập ngừng rồi im lặng...” Lâm ngước mắt nhìn con đầy mến phục và thương cảm, giục:
-         Việc thứ hai là gì con nói đi, bất cứ việc gì làm được là bố- mẹ sẽ làm cho con. Con cũng đã trải nhiều gian truân mới có ngày hôm nay. Gia đình ta được mở mặt, mở mày cũng là nhờ ở con.
 Kiếm nhấp một ngụm rượu nhỏ như để trấn tĩnh mình, nói:
-         Việc thứ hai, con mình xin phép bố mẹ cho con được nhận bác Đới làm cha nuôi. Trông bác ấy tội nghiệp quá! Già rồi, trơ trọi...tứ cố vô thân!
Lâm như muốn bật khóc, cố nén cơn xúc động nói:
-         Con là người con biết nghĩ, việc này bố phải hỏi thêm ý kiến của mẹ. Theo ý bố, nếu con làm được điều đó nữa thì thật vẹn toàn.
-         Nếu được bố mẹ cho phép, con sẽ làm thủ tục đón “bố Đới” sang bên này sống với chúng con cho đỡ buồn. Hàng năm, những ngày giỗ chạp, vợ chồng con và cháu có về nước thăm bố mẹ, họ mạc, có người ở lại trông coi nhà cửa cũng an tâm hơn. Cuối sang năm chúng con định về sửa lại ngôi nhà cho bố mẹ ăn tết vui hơn.
 Buổi sáng, cả nhà đưa nhau ra nhà hàng Việt nam-“Nón lá” ăn sáng. Ăn xong, ra hàng hiên ngồi uống cà phê. Cả nhà hoan hỉ nhắc lại những chặng đường đã qua trong cuộc đời  của mỗi người, gian khổ nhưng ấm áp tình người. Carol chưa biết nhiều tiếng Việt nhưng chị vẫn vui lây cái không khí của gia đình chồng. Một chiếc xe Mercedes Benz màu đen sịch đến, các nhân viên cửa hàng nhớn nhác bảo nhau “Ông chủ!” Lâm nhìn ra. Không tin ở mắt mình, anh đứng dậy nheo nheo đôi mắt, như cái thói của anh vẫn thường thế, nhìn chằm chằm vào “ông chủ” rồi reo lên “Cậu Hoạt!”. Ông chủ ngơ ngác, đứng yên cho người khách đang ôm chặt và tỳ cằm vào vai mình.
- Cậu không nhận ra cháu à? Cháu là Lâm, thằng nhỏ ngày xưa ngồi hầu cậu học ấy mà!
Ông chủ đưa hai tay đặt lên vai Lâm đẩy ra xa một chút để quan sát khuôn mặt anh rồi ghì chặt anh vào lòng, nói:
- Sao lại có chuyện lạ lùng thế này?
-Cậu ơi! Cuộc đời nhiều chuyện lạ lắm! Lạ lắm! không sao hiểu nổi!
Cả nhà kéo nhau vào phòng khách của ông chủ ở gian trong. Cửa sổ nhìn ra một vườn hoa rộng. Người vui sướng và nói nhiều nhất là Kiếm. Nơi đất khách quê người, tìm được một người quen đã khó huống hồ đây lại là một người thân, một ân nhân của cha mình! Thực ra, từ trước đến giờ, người mà Kiếm được nghe bố kể nhiều nhất là ông Can. Anh chỉ biết ông Hoạt qua câu chuyện học chữ nho. Bố được ông Hoạt quý vì hợp “Gu”trong cái sở thích Khổng- Mạnh này. Ông Hoạt bảo:
- Thế này! Cả nhà phải ở lại đây với tôi vài hôm rồi về. Tôi còn muốn nghe nhiều chuyện lắm! Chú Lâm không thể bỏ tôi đây mà về Việt nam được.
- Thưa ông, Kiếm dành lấy phần trả lời thay cha, chúng cháu đi nhiều ngày quá rồi, ở nhà còn nhiều việc.  Xin phép ông cho chúng cháu được về, dịp khác chúng cháu lại xuống.
- Thôi được, chúng ta bây giờ là người trong một nhà, cùng cảnh ngộ, không khách khí gì cả. Vợ chồng cháu Kiếm có thể về Sidney chiều nay còn chú thím ở đây chơi vài hôm rồi về. Hoãn vé về Việt nam lại.
- Lâm nhìn Xuân thăm dò.
- Thưa cậu, Xuân nói, có lẽ nhà cháu ở lại tâm sự với cậu còn cháu và vợ chồng chúng nó xin về Sidney hôm nay.
 - Thế cũng được! Nhưng có chuyện này. Hồi xưa, tôi là “cậu chủ nhỏ” của Lâm, bây giờ chẳng còn chủ tớ gì nữa. Tuổi tác không hơn nhau bao nhiêu, gọi nhau là anh em cho nó thân mật. Nếu chú thím gọi tôi là “Cậu” thì bé Marida phải gọi tôi bằng “Cụ”, kinh quá. Cái già thật đáng sợ, mới đó mà cả tôi và chú đã già cả rồi.
Tối đó, trung tâm câu chuyện mà Hoạt quan tâm là Can. Hai anh em chia tay nhau ở Sài gòn chưa được một tháng thì cách mạng tháng Tám nổ ra. Hoạt chỉ biết láng máng Can đi  “ vô sản hóa”. (Theo Hoạt, người cách mạng phải là những người Cộng sản, những người thuộc giai cấp vô sản đi kháng chiến, còn những người thuộc “tầng lớp trên” những trí thức như Can đi theo cách mạng thì chỉ là “ đi làm vô sản hóa” thôi.) Từ đấy không có tin tức gì của nhau. Lâm kể lại cho Hoạt nghe về cái lần hai “cậu cháu” gặp nhau ở nhà ông Hội Chủ trên vùng núi huyện Dương Đài khi Can ra bắc. Hình ảnh của Can trong Hoạt là một con người đặc sệt Tây, ngang tàng, phong độ. Anh nói tiếng Pháp  như gió, dám dùng lí luận Mác-xít cãi nhau cả ngày với bọn Tây, chứng minh cái ưu việt và sự tất thắng của chủ nghĩa Cộng sản làm cho bọn này phải kiềng nể. Ăn mặc thì dày da đến hàng chục đôi, trời nắng đem phơi đầy sân, kính gọng vàng 24 ca- ra, gọng bạch kim, đồi mồi mấy cái... thế mà đi “Vô sản hóa” mấy năm, nay đã thành một con người như vậy! Ăn mặc, hình dong thay đổi đã đành nhưng thật không hiểu nổi tại sao lại quá thận trọng, rụt rè đến vậy! Hoạt phì cười khi nghe Lâm kể chuyện: Lâm gọi Can bằng hai tiếng “Cậu chủ” làm hồn vía Can lên mây. Can giải thích cho mọi người rằng Lâm là con bà chị họ, (gọi Can bằng Cậu) còn mình hồi còn ở nhà có tên là “Chủ”. Can còn giả vờ đi vệ sinh, nhờ Lâm dẫn đường để đem nhau ra ngoài đồi xa nói chuyện nhà. Xa nhà cả chục năm mà khi về lại đứng trên đất quê mình, bố vừa chết mới mở cửa mả mà còn dặn Lâm: “Đừng nói cho ai biết quê cậu ở đây” thì thật đau lòng không sao hiểu nổi! Hoạt phá lên cười, “Hay! Hay! Mình thế mà hay!...” Thấy Lâm ngơ ngác, ông giải thích cho Lâm về cuộc đời của mình:
-         Con người có số phận thật chú mày ạ! Hoạt nói, như tôi hồi bé thường bị bố mẹ chê là người thiếu chí tiến thủ. Ông Can thì thích văn minh phương Tây, hướng theo con đường văn minh, tiến bộ, còn tôi, như chú biết, tôi lại thích Hán học, Thích Lão- Trang, muốn an phận thủ thường, thích đời sống ẩn dật. Tâm đắc với cái triết lí sống “Tri túc thì nhàn”, chỉ mong một đời sống vật chất đủ để mà sống lương thiện. Tôi vào Sài gòn, với cái vốn cụ chia cho, mua ba chiếc ô tô chở khách chạy đường Sài Gòn- Huế, cốt để kiếm cái ăn cho cả nhà, đừng để đói rách người đời khinh cho, chẳng mộng giàu sang. Thế rồi chiến tranh nổ ra, nhất là từ khi lính Mỹ ồ ạt vào miền Nam, nhu cầu vận tải tăng lên đột biến. Có thời cơ làm ăn, tiền vào dễ như gió đến gác Đằng Vương[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn37][37][/link]. Tôi liền tậu thêm nhiều ô- tô, xe khách chỉ là một phần, phần chủ yếu bây giờ là xe tải, xe công ten nơ, xe reo[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn38][38][/link], tàu thủy, ca nô, sà lan...Đến năm 1975, trước giải phóng hãng tôi đã chiếm gần 30% thị phần vận tải của toàn miền Nam. Cách mạng về. Họ làm “cải tạo Công-Thương”. Tôi đem nộp sạch cho cách mạng. Họ cho tôi cái chân “Ủy viên đoàn chủ tịch Mặt trận thành phố.” Danh từ “Chủ hãng”bị xóa bỏ. Thay vào đó là chức Tổng giám đốc công ty do một ông Trung tá bộ đội Trường sơn đảm nhiệm. Tôi được cử làm chủ tịch công đoàn của công ty. Họ bảo nhau thế nào không biết mà làm đại hội, bỏ phiếu kín hẳn hoi thế mà tôi, một thằng cha tư sản bóc lột lại trúng cử chức chủ tịch 100% số phiếu. Có ban bầu cử, ban kiểm phiếu đầy đủ, đàng hoàng lắm! Thế là cái thằng tư sản tôi lại đứng đầu cái tổ chức của  giai cấp công nhân! Cũng lắm cái lạ. Tôi được trao nhiều quyền hạn, nhiệm vụ rất to tát, nặng nề như “Phát huy quyền làm chủ tập thể của cán bộ công nhân viên, phối hợp với phụ nữ làm việc này, với đoàn thanh niên làm việc nọ...Xây dựng nếp sống văn hóa, rèn luyện tác phong công nghiệp...” Mấy chục năm làm ông chủ tôi chưa hề làm các công việc này! Cái việc rõ nhất mà tôi nhận ra được là “Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ công nhân viên xí nghiệp”. Hồi ấy đói lắm, ăn bo bo đen cả ruột. Thấy vậy, lại thuộc chức năng của mình, tôi lấy một chiếc ca nô đi về miền Tây mua lương thực, thực phẩm về cho Công ty. Đến Cà Mau, chỉ trong một ngày, tôi đã mua đầy đủ các thứ cần thiết cho cơ quan, định sáng hôm sau quay về sớm, nào ngờ đài báo bão. “Gió cấp 10, giật cấp 11,12”. Tôi đành ở lại đấy hai ngày. Hồi ấy phong trào vượt biên, vượt biển rộ lên ồ ạt... “Thứ nhất nuôi má,  thứ nhì nuôi cá, thứ ba má nuôi.” Nếu vượt biên được thì gửi tiền về nuôi má; không may bị cướp biển, bị đắm tàu thì làm mồi cho cá; nếu không thoát bị bắt trở lại đi tù thì nhờ má thăm nuôi!...Làm mồi cho cá được xếp thứ hai, hạnh phúc hơn là bị bắt trở lại, bị tù (Xếp thứ ba). Thấy tôi không về họ nghĩ là tôi đã vượt biên. Lệnh truy nã  “Tên Lê thúc Hoạt, cướp đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa vượt biên!” được dán khắp nơi, có cả ảnh của tôi. Một người lái tàu thân tín của tôi ngày trước, đang đêm đến trao cho tôi lệnh này. Không còn con đường nào khác, tôi dong ca nô sang Úc...Người ta bảo “Bôn ba chẳng qua số phận”có đúng không nào? Như cái thằng tôi đây, cha mẹ sinh ra đã có cái tính an phận thủ thường. Lớn lên vào cái thời đạo Nho mạt vận. Người ta đua nhau đi theo Tây học, tôi lại đi dật lùi, theo Hán học. Học cho biết sự đời, nào có muốn quan gia gì đâu, cũng chẳng bao giờ nghĩ mình trở thành thằng tư bản. Thế nên, cách mạng về tôi “hiến” hết mọi tài sản. Nói “hiến” cho ra vẻ mình giác ngộ cách mạng cao vậy thôi, chứ không “hiến” cũng không được. Tôi không những trở thành người vô sản mà còn được làm “lãnh tụ” của giai cấp vô sản ở công ty (Chủ tịch công đoàn), rồi trở thành tên vô sản lưu manh, ăn trộm chiếc ca nô làm phương tiện chạy trốn. Chiếc ca nô ấy là tài sản của chính mình ngày hôm qua nay đã thành “Tài sản Xã hội chủ nghĩa!” Mình phạm trọng tội vì “ăn cướp” tài sản của chính mình! Có mỉa mai không? Bèo dạt mây trôi sang đây lại trở thành nhà tư sản! Ngộ thật?
Chuyện dài quá rồi, giờ ta đi ngủ, ngày mai tôi đưa chú về Sidney, bàn thêm với thằng Kiếm chuyện góp nhau khôi phục lại cái từ đường cũ và cái ngôi trường hồi cụ cố xây dựng ủng hộ quê nhà ở Trúc thôn.
Hoạt say sưa nghe Lâm trình bày cái kế hoạch xây dựng khu du lịch Võ vàng. Võ Vàng là một điểm nhấn rất kỳ bí, hấp dẫn cả về mặt địa lí và lịch sử. Cùng với khu Biệt điện, vườn Lâm Uyển, dòng Ngự giang sẽ nối liền các di tích này ra tận biển. Nếu biết cách làm ăn và đầu tư thích đáng, khu này cùng với các di tích chiến tranh đầy huyền thoại sẽ làm cho Dương Đài thành một khu du lịch có một không hai không phải chỉ ở Việt Nam mà ở cả khu vực Đông Nam Á. Nếu lấy Võ Vàng làm tâm điểm thì chỉ trong bán kính chưa đầy 15km có núi, có sông, hồ, đầy ắp các di tích lịch sử. Mảnh đất đầy khí phách mà rất diễm tình, vốn là sính lễ của một vị vua lân bang. Trên mảnh đất ấy còn in dấu chân của cha ông mang gươm đi mở cõi, của những đoàn ngựa chiến thời Nam- Bắc phân tranh cho đến những đoàn “quân đi điệp điệp trùng trùng ánh sao đầu núi bạn cùng mũ nan” [link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn39][39][/link]cho sự nghiệp thống nhất non sông hôm nay. Một vùng nghèo ,đất hẹp, người thưa chắc phải có một lí do tâm linh gì thiêng liêng lắm mới có chuyện Đức mẹ Đồng trinh giáng thế xuống một ngôi Nhà thờ rách nát dựng trên vùng đất hoang vu từ thế kỉ 18. Một sự kiện mà trong lịch sử của đạo thiên chúa chỉ xảy ra hai nơi trên trái đất. Cái nhà thờ ấy đã được La mã phong là “Vương cung Thánh đường.” Cái tài sản hữu hình của nó không lớn, chỉ là một ngôi nhà thờ nhỏ nhưng cái tài sản vô hình thì rất lớn, nếu biết khai thác, đó sẽ là một nguồn lợi  không nhỏ. Thật khó hiểu, đây không phải là vùng “đất học”ấy thế mà trong mọi lĩnh vực: Thơ ca, nhạc, họa...lĩnh vực nào cũng có người đứng ở tốp đầu của những người danh tiếng của đất nước, thậm chí còn nổi tiếng ở thế giới. Đây cũng chẳng phải là trung tâm chính trị kinh tế, văn hóa gì, có thể nói là một vùng đất bị bỏ quên ấy vậy mà Đức mẹ Đồng trinh đã chọn nơi này giáng thế nhằm truyền bá cái đạo của mình.  Những tổ chức Cộng sản cũng chọn nơi này phát triển cái “Đạo” của mình từ  rất sớm.  Chính cái đất nghèo này đã nuôi những anh hùng, đã sản sinh  ra những lãnh tụ tài năng của phong trào cộng sản Việt nam. Đang trò chuyện với Hoạt, Lâm phì cười bảo:
-         Cái thằng Út nhà em (tên cháu là Thêm) nó “quái” lắm. Nó nói: “Người ta đi du lịch là để tìm cái mới, cái lạ, cái mà họ chưa từng biết chứ đâu phải đến để nghe mình chứng minh định lí Pitago. Người làm kinh tế du lịch phải hiểu rằng: Các ông thánh, ông thần ngồi trong các đền miếu lăng tẩm uy nghi với các cô gái chân dài trong các quán đèn xanh, đèn đỏ đều có vị thế ngang nhau, đều là sản phẩm của kinh tế du lịch, cái nào mang lại lợi nhuận cao, cái ấy có giá trị cao...” Trước em thường cãi nhau với nó, bây giờ em thây kệ. Mình chẳng sống mãi để mà giữ kỉ cương, để bồi dưỡng lập trường quan điểm cho nó được. Nó còn dám phê phán:
-         Tính văn hóa trong du lịch của ta còn thấp. Trong một ngày hướng dẫn viên đưa khách đến tham quan hàng chục đền miếu, toàn nghe những chuyện huyền thoại hoang đường như kể chuyện cổ tích cho trẻ con lớp vỡ lòng, nào thần Ngựa, thần Rùa ...Những chuyện bịa mà nói cứ như thật, lại được thờ phụng tôn nghiêm hết đời này sang đời khác, liệu khi nói một chuyện “thật” nào đó còn ai tin? “Lấy giả làm chân, chân cũng giả!”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn40][40][/link]
-         Cháu nó học nghề gì? Ông Hoạt hỏi.
-         Cháu học Trung văn, bây giờ người ta không dạy môn này trong trường phổ thông nữa nên cháu xin vào làm ở công ty du lịch.
-         Tốt, có đầu óc suy nghĩ và phê phán như vậy chắc rồi sẽ khá đấy!
-         Cũng tùy bác ạ! Không phải ở bất cứ xã hội nào người có đầu óc phê phán đều sống được cả đâu, cho dù anh phê đúng. Người ta bảo “Họa tòng khẩu xuất” là thế! Tai họa đều do lỗ miệng mà ra cả.
 Dọc đường về Sidney, Lâm nghĩ nhiều đến Kiếm, đến lớp trẻ bây giờ. Nếu Kiếm nhất nhất vâng lời anh thì bây giờ nó ra sao? – Nó chỉ là một con cá muối lấy ra từ hộp cá. Đầu óc của nó sẽ chỉ là một chậu nước rác để cho người ta đổ vào đấy mọi thứ cơm thừa canh cặn. May mắn lắm thì có thể trở thành một con vẹt, có giá vì nói được tiếng người  và nhờ cái màu sắc lòe loẹt của mình! Gặp Xuân, anh ngạc nhiên vì không thấy chị vui như mình tưởng khi biết tin Kiếm sẽ nhận Đới là cha nuôi và đón sang bên này ở cùng vợ chồng Kiếm. Việc Đới là cha đẻ của Kiếm, Xuân cũng không lấy gì làm xấu hổ. Chị đi làm “thụ tinh nhân tạo” là theo ý nguyện của Lâm. Chuyện phản bội chồng, ám ảnh chị, làm chị xấu hổ với Lâm không phải là việc đẻ ra thằng Kiếm mà là chuyện thằng Thêm. Ma đưa lối, quỷ đưa đường thế nào, cái hôm ấy, Đới đến, trời mưa, Lâm vắng nhà...Đới chẳng biết Xuân là vợ của Lâm. Xuân cũng chỉ biết “Ông bác sĩ” tốt bụng, cường tráng hấp dẫn đã “điều trị” bệnh vô sinh cho mình...Cái đêm hôm ấy... Đới sang Úc, cách mặt, khuất lời cũng nhẹ đi cho anh những điều tiếng không hay. Lâm và Xuân cũng bớt đi cái ngại ngùng, khó xử trong đối mặt hàng ngày với Đới. Đới tìm được nơi nương tựa tuổi già...Một giải pháp hay, trọn vẹn cho Đới. Nhưng, Xuân và Lâm, mỗi người vẫn nặng chĩu một nỗi niềm riêng. Đã nhiều lần, từ khi mới mang thai thằng Thêm, Xuân có lúc định nói thật mọi chuyện với Lâm nhưng chị sợ. Sợ Lâm buồn, Lâm thất vọng về chị. Ngày thằng Thêm ra đời, thấy mặt “con” giống mẹ như đúc, Lâm ngộ nhận thêm nhiều nét giống mình, lòng anh như mở hội. Anh nâng niu thằng bé trên tay cả ngày. Anh nựng yêu nó, cười với nó đầy âu yếm. Nó “tè” ra ướt áo anh, anh cũng không muốn thay, để vậy cho có “mùi con.” Nhưng càng lớn, thằng Thêm lại có nhiều nét giống Đới, đã bị ám ảnh bởi thằng Kiếm, Lâm nhận ra sự giống nhau này rất nhanh. Lại còn cái tính khí thằng Thêm, cãi lại “bố” chan chát suốt ngày. Chẳng bao giờ nó có một lời âu yếm với bố. Ngay cả cách xưng hô, nó thường xuyên gọi Lâm là “Cụ Khốt”, chẳng bao giờ gọi “ bố ơi, bố Lâm ơi!” cả. Đêm đêm, Xuân an ủi Lâm, anh chỉ thở dài “Trời hành...Trời hành anh!” rồi trở mình quay lưng giả vờ ngủ. Ánh sao xa trên trời cao le lói rọi vào cửa sổ như hiểu thấu lòng anh.
 Trước ngày lên đường sang Úc, hai bố con cãi nhau một trận mất mặn, mất nhạt. Thằng Thêm trao đổi với bố về ý tưởng phát triển khu du lịch Võ vàng. Thêm nói ý kiến của mình để bố sang Úc trao đổi với Kiếm, yêu cầu Kiếm đầu tư. Thêm đề nghị hai việc: Một là xây dựng khu “cung điện” của Mạc Lân theo mô hình như Cung điện nhà vua ở Vương quốc Mô-na- cô mà hắn đã được nghe chú Phụng ở sở du lịch nói chuyện ở Huyện. Hắn bảo “Con sẽ làm vua ở đấy!” Hai là xây một khu lăng mộ đồ sộ thờ Vương Bột, cạnh đó xây một quán cà phê hiện đại theo mô hình “Đằng vương các ”. Lâm vốn quen cái tính hươu vượn của con chau mày, nói như gắt:
-         Vương Bột là ai, Đằng vương các là cái gì mà phải bỏ tiền ra xây dựng, thờ phụng?
-         “Cụ Khốt” ơi! Thêm kêu lên, đến Vương Bột mà cụ cũng không biết là ai hả? Thế mà cụ cũng làm đến cán bộ trung cao cấp cơ đấy! Thảo nào cái đất nước này ...!
 Lâm trợn mắt, nén giận, nhìn Thêm không nói. Biết ý, Thêm hạ giọng, giải thích:
-         Vương Bột là một nhà thơ nổi tiếng đứng đầu tứ kiệt thời sơ Đường bên Tàu, làm quan dưới thời Đường Cao Tông. Nhà Bột có sáu anh em thì ba người đỗ Tiến sĩ- tiến sĩ thời ấy chứ không như bây giờ ở ta đâu. Bố ông là Vương Phúc, bị biếm ra làm huyện lệnh ở Giao chỉ (tức Việt nam bây giờ). Ông lên thuyền đi thăm bố, gặp lúc thuận gió, chỉ đi một đêm, thuyền từ An Huy quê ông phía bắc vượt hàng ngàn dặm đến Giang tây miền Nam Trung quốc. Đô đốc Giang tây là Diêm bá Tự, nghe tiếng, phục tài Vương Bột từ lâu, mở tiệc khoản đãi tại Gác Đằng vương, mời các danh sĩ trong vùng đến dự, tại đây Vương Bột làm bài thơ nổi tiếng“Đằng vương các tự.” Ông dong thuyền xuống biển Nam tiếp tục hành trình đi thăm cha. Thuyền đắm, ông chết ở ngoài khơi biển nước ta.
-         Ai xui mày làm cái việc khiêng ma người ta về mà khóc đấy! Tổ tông không thờ lại đi lập đền miếu thờ cái thằng Tàu? Chưa hết giận, Lâm nói.
-         Những bài nói chuyện của cụ, Thêm nói, ở đâu cụ cũng kêu gọi “Đổi mới tư duy” Thế mà chính cụ lại chẳng “Đổi mới” tí nào! Thờ tất, thờ tất! Bất chấp thằng Tây hay thằng Tàu, thằng nào giúp mình hái ra tiền là mình thờ...
 Lâm cáu lắm nhưng cố kiên trì ngồi nghe tư “duy của lớp trẻ.” Hỏi:
-         Thế cái anh Vương Bột, vương bèo gì đấy giúp mày “hái ra tiền” bằng cách nào?
 Thấy bố đã có phần dịu, muốn nghe mình, Thêm nói:
-         Thưa cụ Khốt, cụ hãy chịu khó lắng nghe con, hay lắm, hay lắm, không phải cái đầu óc siêu việt này, không nghĩ ra được đâu! Thêm vừa nói vừa lấy tay gõ gõ lên  đầu mình. Ta cho xây một khu lăng mộ bằng đá xanh. Sưu tầm những cây tùng, cây bách, cây tuế nhiều năm tuổi về trồng xung quanh tạo nên một khu vực đầy sự thành kính, uy nghiêm mà trầm mặc nhiều chất thơ...
-         Thôi, thôi...Đủ rồi, tóm tắt lại là mày muốn lừa gạt thiên hạ lấy tiền, thế chứ gì? Lâm bảo, mày định xây mộ mà dưới đất một nắm đất đen cũng không có đừng nói hài cốt. Ai khẳng định Vương Bột chết ở vùng biển này?
-         Chịu cụ thôi, xin vái cụ, cụ thật “khó đào tạo” quá! Thảo nào cụ đi làm chính trị ngần ấy năm, thành phần rất “cơ bản” mà không tiến lên được. Thế cụ tưởng tất cả những điều người ta thờ phụng đều có thật cả à? Không nói đâu xa, cụ thử lên trên các nghĩa trang, thử xin đào lên mấy ngôi mộ, xem bao nhiêu ngôi có hài cốt ở đấy!
-         Tôi cấm anh không được đem chuyện hài cốt ở các nghĩa trang liệt sĩ so sánh với cái hài cốt của anh Tàu này. Lâm gay gắt, bây giờ tôi hỏi anh, anh làm các việc này đem lại lợi lộc gì?
-         Cụ chưa nghe con nói hết, cái thói gia trưởng, quen coi mình là nhất, nhập khẩu được cái tư tưởng người “thầy vĩ đại, người cầm lái vĩ đại” nên chẳng còn coi ai ra gì. Trái ý mình là hét toáng lên.. Nói chỉ phí lời...
Sự thực “sản phẩm du lịch” của vùng này cũng quá nghèo nàn. Nếu không có khu Võ Vàng, khu “Biệt điện” và vườn Lâm uyển thì chẳng có gì ngoài cái bãi biển để tắm, các cô gái chân dài để ôm, dăm cái nem Sài gòn để nhậu... Còn lại là chiến hào, là nghĩa trang bát ngát, các cửa hàng thì đâu cũng như đâu, mấy cái mũ tai bèo, cái võng, đôi dép cao su...Ai đến đây để xem, để mua thứ ấy? Không có một sản phẩm có tính văn hóa nào. Gần đây dưới bến U người ta xây dựng một ngôi miếu thờ ông bà La- Hầu, thờ mối tình chung thủy của một con vượn và một con người. Một câu chuyện diễm tình và đầy chất nhân văn. Nó hấp dẫn người xem bởi tính chân thực. Bức tượng đá của ông Hầu khi đã biến thành vượn về lại làm người, đứng tựa cột nhà, hai sợi xích sắt buộc ở chân nổi rõ cuồn cuộn trên đám lông lá xồm xoàm. Tên của bức tượng là : “Kiếp người”. Dưới bức tượng, khắc câu thơ của Nguyễn Gia Thiều: “Cái thân ngoại vật là tiên trong đời” Xung quanh tường treo nhiều bức họa mô tả cảnh bà La bón cơm, tắm cho chồng... gây xúc động cho người xem. Dù sao đấy cũng là một bước tiến bộ trong cách suy nghĩ làm du lịch. Đáng nói nhất là tua “Đi tìm dấu vết người xưa”, dựa vào tích người đi tìm trầm, tạo ra một tua du lịch sinh thái đi sâu vào rừng khá hấp dẫn. Touur này được thực hiện theo ý tưởng của Thêm, cho một vài người hóa trang thành vượn người “lẩn trốn” trong rừng, ngồi bên bờ suối vắng, thấy người đến từ xa thì chạy vào rừng sâu không cho khách thấy mặt. Lúc đầu du khách rất hứng thú. Lãnh đạo công ty thấy “bở”lại tuyển thêm người, phần lớn là “con ông cháu cha” của các cán bộ cơ sở thất học, chán làm ruộng cho vào rừng làm “vượn”. Tụm năm, tụm ba ngồi tán chuyện đến nỗi khách từ xa cũng nghe thấy tiếng cười đùa. Có những cặp “vượn” rủ nhau vào hang làm bậy, phưỡn cả bụng ra...Du khách đi đâu cũng gặp “vượn”, đâm chán. Một việc làm nghiêm túc có tính nghệ thuật lại biến thành trò đùa nhảm nhí. Du khách bảo nhau: “Cứ thế này thì chẳng bao lâu nữa người Việt Nam sẽ thành khỉ, thành vượn hết!” Cái đền thờ ông bà La-Hầu dựa trên một chuyện tình có thật cũng mất thiêng, chẳng mấy người buồn xem. Họ cho là chuyện bịa đặt vớ vẩn. Còn chuyện cái khu lăng mộ Vương Bột, “Gác Đằng vương” ý định của Thêm không phải dựng lên để thờ ông ấy. Đó chỉ là một chỗ ngồi nghỉ chân, uống cà phê, giải khát cho du khách. Mượn cái tên ông ấy để làm sang cho mình, kích thích tính tò mò của du khách. Ta được tiền lại được cái tiếng là một dân tộc trọng tài năng, trọng văn chương! Ý định của Thêm không tồi nhưng vì hai bố con không hợp nhau, chẳng ai chịu ai, Thêm lại tự phụ và hỗn xược nên khoảng cách giữa hai cha con ngày càng xa. Lâm lại thấy mình ngày càng cô độc, chỉ biết chép miệng : “Trời hành ta...Trời hành ta...Đến bao giờ hở trời!” Đúng là anh bị “trời hành”. Nỗi dày vò ấy càng lớn hơn, càng đắng cay chua chát hơn khi anh cố tình đào sâu, chôn chặt chúng xuống đáy lòng mình. Nhưng, “Sầu đong càng lắc càng đầy!” chia sẻ cùng ai?
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
14
 
 Khi đã ở cái tuổi xế chiều, con người thường sống bằng những hoài niệm, những ảo ảnh xa mờ, bằng những điều không nói được thành tiếng, không viết được nên lời. Thoáng hiện, thoáng đi. Đó là những thước phim được gỡ ra từ một cuốn phim mà kí ức đã quay trộm được về những ý nghĩ và hành động, cả những hành động được che dấu kĩ càng của một cuộc đời. Nó chỉ hay, chỉ có ý nghĩa khi chính mình là đạo diễn, chính mình là diễn viên và chỉ một mình mình là khán giả...Nó khác xa với những tập hồi kí, tự truyện dày cộp bìa cứng, mạ vàng in hàng vạn bản bán trên các vỉa hè như là những hộp son phấn dùng để trang điểm lên khuôn mặt của  các thi thể trước giờ nhập quan. Lâm đang sống với chính mình những tháng ngày như thế! Nhớ bạn bè, nhớ cả những khuôn mặt không quen biết. Nhớ vu vơ. Yêu cả những cái mình từng ghét và ghét cả những cái mình đã từng coi là thần tượng. Khuôn mặt bè bạn đáng yêu, được định hình trong anh là Thanh Bình. Yêu cái khuôn mặt không bao giờ có chút nghiêm trang kể cả khi đứng lên tuyên thệ hay trong phút mặc niệm tiễn người đồng chí về thế giới bên kia. Cái khuôn mặt luôn coi đời là một trò đùa. “Hắn bây giờ ra sao rồi nhỉ?” Lâm nghĩ bụng và quyết định đi thăm Thanh Bình. Vừa xuống ga, anh được tin Bình ốm nặng đang nằm điều trị ở bệnh viện P. Đến thẳng bệnh viện, chưa đến giờ thăm bệnh nhân, anh ngồi xuống cái quán nước dưới gốc bàng giữa sân. Mua chỗ ngồi bằng cách gọi một cốc nước chè xanh và hai cái kẹo lạc. Anh ngồi lặng im, nhìn gương mặt của những người ra vào. Đó là thế giới của những khổ đau. Những nụ cười nhợt nhạt, niềm vui trên những khuôn mặt héo khô vì đã được thoát chết sau một thời gian dài điều trị bại sản, khuynh gia. Mừng vì còn được sống, được xuất viện nhưng lo âu vì ngày mai sẽ sống ra sao với nợ nần, với gánh nặng cưu mang của người thân! Những khuôn mặt lầm lũi đi với những con số nặng chĩu trong đầu, tiền thuốc, tiền viện phí, tiền lót tay cho ca mổ sắp tới...Những người thầy thuốc dù tấm lòng từ mẫu của họ có bao la đến mấy cũng phải chai lì với những tiếng khóc, tiếng kêu rên hàng ngày xảy ra quanh mình. Bắt họ phải đau với nỗi đau của người khác, chắc họ không sống được đến tuổi ba mươi. Cuộc sống và nghề nghiệp khiến họ dửng dưng với những nỗi đau, với những điều mà người khác coi là thiêng liêng. Bên cạnh anh, mấy bác sĩ và y tá ngồi uống nước, đọc báo. Họ cười to khi đọc bài báo phê phán chuyện: “Ở bệnh viện B có mấy bác sĩ cùng với một nhóm sinh viên y khoa thực tập đang giải phẫu một thi thể. Họ đã cắt trái tim của người chết vứt xuống cái sô để dưới chân một cách thản nhiên. Cười đùa bên bàn mổ, kể cho nhau nghe câu chuyện về một bà vợ trẻ đi làm cải táng cho chồng cứ thắc mắc tại sao hài cốt chồng mình lại thiếu mất một khúc xương !  Còn tán thêm: “ nếu mất đi trái tim này chắc bà ấy chẳng thắc mắc đâu!”
 Lâm lên phòng. Bình nằm ngay giường sát cửa ra vào. Tay trái đang lủng lẳng chai dịch truyền, dây dợ lằng nhằng. Bình giơ tay phải lên, cười, vẫn cái cười ấy, cái cười coi đời là một mớ hổ lốn ấy, đón Lâm. Niềm vui bất ngờ. Bình làm động tác dịch người vào phía trong, tỏ ý mời Lâm ngồi cạnh mình. Chưa chuyện trò gì nhiều, Bình chỉ tay vào cái túi để trên đầu, bảo Lâm: “Cậu xem hộ đi, lát nữa ta trao đổi, chuyện dài lắm! Cậu đến quá đúng lúc, tớ có việc chưa biết bấu víu vào đâu đây!” Lâm mở túi ra, hàng trăm tấm ảnh đủ các cỡ.
-         Lâm Bằng hả? Lâm hỏi.
-         Đại loại thế, công trình gần mười năm của tớ đấy, Bình nói.
-         Mười năm? Lâm trợn mắt hỏi lại.
-         Ừ.
 Hai người dẫn nhau xuống sân, ngồi trên một chiếc ghế đá dưới tán một cây dâu gia đang mùa trổ bông trắng xóa. Lâm ngồi yên bên cạnh như đang chờ đợi Bình kể tiếp chuyện Lâm Bằng, kể từ cái buổi hoàng hôn chia tay nhau dưới chân núi Đại bàng ấy... Ra bắc, sau sáu tháng điều trị và an dưỡng, mình được bố trí công tác mới. Trước khi nhận nhiệm vụ, theo cái địa chỉ này, Bình chỉ tay vào chiếc khăn dù đang bọc kín tập ảnh trong tay Lâm, mình tìm về Thái Bình, quê Lâm Bằng...Lâm ngồi yên vừa nghe Bình kể chuyện vừa mở chiếc khăn dù ra xem. Nét chữ bằng mực tím chưa phai...Ngày 18 tháng tư...Bình dừng câu chuyện, liếc sang nhìn chiếc khăn trên tay Lâm: “Đấy cũng chính là ngày sinh nhật mình, lạ chưa!” Theo địa chỉ ấy. Mình về. Một ngôi nhà nhỏ lợp rạ, chẳng rào dậu gì. Ngoài ngõ nhìn vào thông thống, từ xa đã có thể nhìn thấy cái nồi đất đen thui dưới bếp. Hai ông bà già ngồi cạnh nhau trên chiếc chõng tre đặt giữa nhà, đăm đắm nhìn ra ngõ như ngóng đợi người về. Có lẽ hai ông bà đã ngồi bên nhau, nương tựa vào nhau  như thế nhiều ngày, nhiều năm tháng rồi. Bà già ngồi hai chân duỗi thẳng về phía trước. Ông già co hai chân lại như muốn dấu chúng xuống gậm giường. Cả hai đều nhìn ra ngõ, đăm đắm như thế. Mình gọi cửa, bà già tất bật chạy ra. Chẳng cần hỏi han gì, bà  mời mình vào nhà. Ông già tay cầm chiếc điếu cày ra theo, đứng cạnh, lưng hơi gù...
 Tấm ảnh Lâm Bằng chụp hồi đi học đặt trên bàn thờ. Hai bím tóc tết đuôi sam vừa chấm vai. Một cái nơ cài mái tóc phía trước bên phải. Bức ảnh nhìn mình cười ngây thơ, hồn hậu. Dưới bức ảnh ghi: “hy sinh ngày 18 tháng Tư, tại mặt trận phía Nam”, đấy là câu ghi đúng theo giấy báo tử. Mình đứng sững trước bàn thờ, nén hương trong tay nghi ngút khói, mình quên không cắm vào lư hương. Giặc ném bom vào cái hang của bọn mình trên mỏm núi Đại Bàng ngay vào cái buổi sáng mình chia tay Lâm Bằng. Trong tay Bình là tấm ảnh Lâm Bằng trong y phục quân nhân mới tinh khôi, chan chứa nắng vàng ban mai, đứng trên một hòn đá, vời vợi nhìn theo chiếc xe chở mình lăn bánh. Cô ta mất đúng ngày sinh của mình! Tấm ảnh này là một kỉ vật duy nhất còn lại của Bằng do một phóng viên chiến trường ngồi trên xe chụp cho. Người phóng viên ấy tên là An, anh ta mang tấm ảnh đến tặng mình hồi mình còn nằm ở trại an dưỡng. An bảo: “Chị ấy đẹp quá, em là một nghệ sĩ nhiếp ảnh nhưng chưa từng trông thấy một đôi mắt nào đẹp đến thế, tiếc rằng trong ảnh đôi mắt hơi bị nhòe vì nước mắt.” Lâm chăm chú nhìn tấm ảnh của Lâm Bằng trên tay Bình, hỏi:
-         Cậu bảo tấm ảnh này là kỉ vật duy nhất sao đây lại lắm ảnh của Lâm Bằng thế này?
-         Ừ, công trình mười năm của tớ đấy!
-         Mười năm! Công trình gì vậy?
-         Tạc một bức tượng đá của Lâm Bằng đặt trước cửa hang. May có bức ảnh của An chụp cho không thì cũng khó. Theo yêu cầu của họa sĩ, mình phải đi sưu tầm, tìm những người giống Lâm Bằng về vóc dáng, về khuôn mặt, mái tóc...chụp thêm những bức ảnh ở các góc độ khác nhau...
-         Xong chưa?
-         Xong rồi, tượng Lâm Bằng được đặt ngay trên hòn đá trước cửa hang, nơi Lâm Bằng đứng nhìn theo bóng mình khuất sau dãy núi. Không có chính ủy Hồng Trường giúp cho, mình làm sao đưa được bức tượng ấy lên đặt ở trên núi này được. Cậu còn nhớ ông ấy không?
-         Nhớ chứ! Làm sao quên được những con người như vậy? Ông ấy là con người văn hóa, rất nhạy cảm với từng mảnh đất, từng con người mà ông đã đi qua, đã gặp. Ông có nhiều phát hiện đặc biệt về vùng đất Võ Vàng quê tớ. Ông còn bảo, chiến tranh kết thúc, ông sẽ viết một quyển sách về vùng đất li kì này. Mình đang muốn tìm ông ấy, mời ông làm cố vấn cho việc phục hồi và phát triển khu Võ vàng thành trung tâm của khu du lịch Dương Đài đấy! Mà này! Đang nói chuyện về chính ủy Hồng Trường, Lâm hỏi giật lại, “Ở đấy, ngoài tấm bia và bức tượng có di tích gì đáng nhớ?”
-         Chắc cậu định phát triển nơi đây thành một điểm du lịch phải không? Bình hỏi rồi tự trả lời: “Nên lắm, hoành tráng lắm, bên phải cách đó không xa là một hang động rộng, từng là một quân y viện dã chiến, có lối thông ra suối, cách cửa hang của bọn mình không xa. Đi lên chừng năm trăm mét là cái ngã ba rẽ sang nước bạn, con đường mà cậu đã dẫn hơn ba mươi thương binh ra bắc. Đấy cũng là con đường trùng điệp quân ta tiến vào Nam...
-         Điều ấy tớ biết rồi, tớ muốn khai thác thêm những di vật về thiên diễm tình của bức tượng đá ấy thôi. Nó sẽ được ghi tạc đời đời đấy cậu ạ!
-         Mình vừa lên đấy về trước khi vào viện. Thật không ngờ cậu ạ!
-         Có gì hay?
-         Cơ man là những bài thơ trữ tình viết trên đá, dưới chân tượng, cả trên ngọn núi cao...
Nằm đây Bằng nhé!
Ở đâu cũng là đất anh hùng,
Khi sống mang trong lòng tất cả núi sông
Khi chết lại nằm vào lòng sông núi
Mới chiều qua,
Hai đứa chia nhau miếng cơm chấm muối
Trên sườn non hát vọng xuống quê hương,
Cùng hẹn ngày về ...
 Mấy câu thơ ấy của Viễn Phương được viết vào ngay phiến đá dưới chân bức tượng. Đỉnh núi cao trên đầu, hai câu thơ của Vũ Cao viết bằng sơn trắng xóa, chữ to:
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi.
Bốn mùa thơm ngát cánh hoa thơm...
 Còn nhiều, nhiều lắm, chứng tỏ người đến đây, đặc biệt là nam nữ thanh niên không ít. Có điều mình chưa thật ưng ý...
-         Điều gì?
-         Dưới chân tượng là một phiến đá phẳng, ý định của mình là khắc lên đấy câu : “Năm tháng sẽ trôi qua, các cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt, bảo táp cách mạng sẽ thôi gầm thét ở chân trời, chỉ còn lại bất diệt tấm lòng dịu dàng và đầy tình thương mến của em...” Nhưng ông họa sĩ từ chối với lí do không muốn để lại dấu vết gì bằng lời thể hiện tư tưởng của mình. Sợ!
-         Nhưng câu ấy có phải của ông ta đâu, câu của Alec xanTôn stôi[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn41][41][/link] cơ mà...
-         Thì mình cũng bảo vậy nhưng ông ấy không chịu. Ông ta lí luận, bất cứ là câu nói của ai, mình nhắc lại với thái độ đồng tình đều là thể hiện tư tưởng của mình cả.
-         Nhưng tư tưởng ấy có gì sai đâu?
-         Đấy là cách nghĩ của bọn mình. Ở cái xó sơn cùng thủy tận này có một thằng cha cán bộ thôn, cán bộ xã nào đó đi ngang, thấy ta khắc vào bia thờ câu nói của một ông Tây nào đó, không phải những cái tên Tây mà họ đã thuộc, thế là tinh thần cảnh giác cách mạng bốc cao, rồi quan điểm lập trường thù- bạn rõ ràng nổi lên...Họ báo cáo lên trên...Cũng đáng sợ thật!
-         Lão họa sĩ này chắc cũng lên bờ xuống ruộng, bầm dập nhiều phen nên mới có thái độ “kinh cung chi điểu”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn42][42][/link]đến vậy!
-         Đúng, đúng, tôi sẽ kể cái câu chuyện cười ra nước mắt của ông ta cho mà nghe: Không biết ông đã nghe cái tên Vĩnh Sơn bao giờ chưa? Trong giới hội họa, nghệ sĩ tạo hình không ai không biết tiếng ông. Năm 1950, trong cuộc triển lãm tranh tượng tại Paris, bức tượng “Thiếu nữ ngủ ngày” dựa theo một bài thơ cùng tên của Hồ Xuân Hương được trao giải đặc biệt. Hồi ấy ở châu Âu tranh khõa thân, tượng lõa thể đang rất được ưa chuộng. Bức tượng trên chất liệu đá quý của ông vừa mang những nét đặc trưng dân gian châu Á vừa đáp ứng cái thị hiếu Âu- Mỹ thời đó. Đó là niềm tự hào, là tài sản vô giá của ông. Có người đòi mua với giá sáu trăm ngàn đô la Mỹ ông không bán. Về nước, ông để lại tất cả ở Paris, chỉ mang theo mấy bộ áo quần và bức tượng. Ông được mời làm giáo sư ở trường đại học M. Trong một bài giảng về lí luận cơ sở, ông trình bày bài: “Những nguyên lí về khuếch tán ánh sáng trên các bề mặt không phẳng của vật liệu phi kim loại.” Đây cũng là đề tài luận văn tiến sĩ của ông, là bài giảng ông tâm đắc nhất. Đồ dùng dạy học mà ông sử dụng chính là bức tượng “Thiếu nữ ngủ ngày”.  Nhìn xuống sinh viên đang chờ đợi nghe, ông nói:
-         Chắc các em thuộc bài thơ này của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, “Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm, một lạch Đào nguyên suối chửa thông” tác phẩm này của tôi chỉ nhằm thể hiện cái thần của hai câu thơ trên. Một nhà điêu khắc bình thường cũng có thể tạc được cái “Đôi gò bồng đảo”, cái “Lạch Đào nguyên” ấy. Nhưng cái khó nhất ở đây là làm sao với khối đá vô tri ấy thể hiện được cái nét “Sương còn ngậm” Cái “Suối chửa thông” kia! Nắm được nguyên lí về khuếch tán ánh sáng, với tài hoa của đôi tay sẽ giúp ta làm được điều này.
 Chỉ vào bức tượng đang đặt trên bục, ông bảo:
-         Các em, lần lượt hai bàn một, lên đây, hãy thay nhau đứng ở các góc độ khác nhau quan sát và phát biểu cho tôi nghe những cảm nhận của mình.
 Đúng là cái “Đôi gò bồng đảo, cái lạch Đào nguyên” ấy, đứng ở góc độ này thấy nó phô ra cái nguyên khôi của một sức sống tràn trề, làn da hây hây trắng hồng. Ở một góc độ khác, nó chìm trong mờ ảo như được phủ một lớp khăn voan mỏng, ẩn hiện mong manh... người xem như đang “lạc chốn Đào nguyên”. Họ sống bằng trí tưởng tượng...Tất cả cái đó ngời lên trên khuôn mặt trinh trắng, vô tư đang ngủ quên, “yếm đào trễ xuống dưới nương long” của người con gái mới bước qua tuổi thơ ngây. Nó làm rung động sâu xa tâm hồn người xem. Xong hai tiết đầu, thầy cho sinh viên nghỉ giải lao. Hai tiết tiếp theo, theo kế hoạch, thầy sẽ nghe ý kiến của sinh viên và tổng hợp phân tích cho sinh viên biết cách vận dụng các nguyên lí ánh sáng như thế nào trên bức tượng ấy. Sinh viên không ai ra khỏi phòng. Họ túm tụm quanh bức tượng, trao đổi, tranh luận. Thầy Hiệu trưởng đi ngang, ghé vào xem, nghe ngóng. Ông cho mời thầy Vĩnh Sơn về phòng mình:
-         Sáng nay thầy có tiết giảng? Ông Hiệu trưởng hỏi.
-         Vâng! Vĩnh Sơn đáp.
-         Gì nhỉ? Hôm nay thầy giảng về...Ông cầm cái thước bằng gỗ dài lướt trên tấm bảng lớn ghi lịch giảng dạy treo trên tường...À! “Vật liệu”, thầy giảng về “vật liệu tạo hình” sáng nay?
-         Không, để chuẩn bị cho các em tiếp thu tốt môn vật liệu, tôi giảng cho các em chuyên đề : “Những nguyên lí về khuyếch tán ánh sáng trên bề mặt...”
-         Thầy chuyển qua dạy vật lí từ bao giờ mà tôi không được biết nhỉ? Ông hiệu trưởng nói nhẹ nhàng.
-         Chuyên đề này, ở các trường Mỹ thuật trên thế giới đều xếp vào môn lí luận cơ sở. Có trường đưa vào môn lí luận chuyên ngành. Hơn nữa, đối với việc đào tạo ở bậc đại học trên thế giới người ta không phân biệt một cách khúc chiết các môn học như chúng ta đâu. Đây là một phát minh mới của tôi, chỉ một số trường danh tiếng có tên tuổi mới đưa vào chương trình giảng dạy bắt buộc. Công trình khoa học của tôi vừa được công bố, chưa đầy ba tháng đã có 11 trường Đại học, viện hàn lâm mỹ thuật trên thế giới mời tôi đến giảng, hồi tôi còn dạy ở Đại học Mỹ thuật Paris.
-         Thầy hiểu cho, ông Hiệu trưởng nói, Việt nam không giống thế giới. Nhiều giáo sư, nhà giáo dục ở nước ngoài về nước chưa hiểu hết đặc thù Việt nam đã cộng trừ các giờ giảng, các môn học trong các trường của ta rồi la lên: “Thời gian giành cho học chính trị, quân sự...sinh đẻ có kế hoạch, luật lệ giao thông...nhiều quá! Học sinh không được nghỉ hè. Giáo dục mang tính nhồi sọ...” Xin nói để thầy hiểu, Việt nam không phải là thế giới. “Ta có cách làm của ta” và thực tế đã chứng minh, cách làm đó là đúng, cách làm đó đã đưa dân tộc ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác như thầy đã biết. Có lẽ tôi không cần nói nhiều. Thầy cần dành nhiều thời gian đi về nông thôn, nhà máy, hầm mỏ, gần gụi với công-nông hơn mới có cách nhìn nhận đúng được! Ông nói tiếp:
-         Nói để thầy hiểu, Trường tôi chưa phải là trường “danh tiếng” để được giảng những phát minh của thầy. Không hiểu, phòng Giáo vụ đã phổ biến cho thầy về quy chế, nội quy, kỉ luật giảng dạy hay chưa? Tóm tắt thế này, bất cứ một người nào đứng trên bục giảng cho sinh viên đều phải có trong tay Giáo trình, giáo án, đề cương bài giảng, danh mục các đồ dùng dạy học phục vụ cho từng bài giảng. Giáo trình phải được Bộ chủ quản duyệt và ban hành thống nhất trong cả nước. Giáo án lên lớp hàng ngày, đề cương bài giảng, kể cả việc sử dụng đồ dùng dạy học phải được tổ bộ môn thông qua, có chữ kí xác nhận của tổ trưởng.
-         Đó là phương pháp giảng dạy cho các trường dạy nghề, đào tạo thợ. Đào tạo ra những con người sáng tạo không ai làm như vậy cả. Đào tạo như thế thì cần gì giáo sư! Vĩnh Sơn nói có phần gay gắt.
-         “Thầy” nói đúng! Ông hiệu trưởng nói, cố nhấn vào chữ “thầy”, trường tôi không có cái gọi là “giáo sư”. Thầy đã vi phạm kỉ luật giảng dạy. Cái bài giảng của thầy không có trong giáo trình quy định đã được bộ duyệt. Cái “Đồ dùng dạy học” mà thầy tự ý sử dụng có hại cho thế hệ trẻ.
 Vĩnh Sơn phải thuê xích lô chở bức tượng về nhà mình. Hai tiết dạy tiếp theo của ông bị cắt. Sau đó ông được điều xuống “tăng cường” cho xưởng thực hành và sản xuất đồ dùng dạy học. Ông thôi việc, ở nhà chuyên sản xuất các chậu cây cảnh và lọ hoa gốm bán hàng chợ kiếm sống. Tớ phải nhờ một người thân của ông ấy thuyết phục và cảm động về câu chuyện của tớ ông ấy mới nhận lời làm cho đấy! Lâm có vẻ xúc động về câu chuyện của giáo sư Vĩnh Sơn liền hỏi:
-         Thế bây giờ ông ấy sống ra sao? Nhà ở đâu?
-         Cũng nhì nhằng, may được cái bà vợ tảo tần nên đủ ngày hai bữa. Nhà ông ấy ở phố G ngoài bờ sông. Hồi mới ở Pháp về, nếu muốn, ông ấy có thể mua nhà ở trung tâm thành phố, nhưng ông ấy thích nhà ngoại ô, có vườn để làm nơi sản xuất và bày tượng...
-         Còn phong lưu hơn khối người, Lâm nói.
-         Đó là nói chuyện ngày xưa, Bình bảo, còn bây giờ thì...Cậu đến đấy mà xem...
 Ngôi nhà nhỏ hai tầng. Tầng trên có ba phòng ngủ nhỏ. Tầng dưới là phòng khách, phòng ăn và bếp. Bây giờ sinh con đẻ cái, trên tầng là ba đứa con ba phòng. Chúng nó cũng tốt nghiệp đại học cả rồi, đứa kĩ sư, đứa bác sĩ...đều đã có gia đình riêng, lớn bé mười ba nhân mạng nhốt vào ba gian buồng mỗi buồng chưa đầy mười lăm mét. Khổ nhất là cái chuyện vệ sinh. Chỉ có một buồng vệ sinh lại không có nước, cãi vã nhau suốt ngày như mổ bò. Cái bếp và phòng ăn tầng dưới được “Tập thể hóa”, chung cho cả bốn hộ. Nghi ngờ nhau đến nỗi lọ mỡ, chai nước mắm nấu xong của ai mang về phòng người đó để dưới gậm giường. Cái phòng khách được ngăn đôi bằng cót ép. Một nửa là chỗ để xe đạp và làm lối đi chung. Nửa còn lại là chỗ ở của vợ chồng giáo sư chừng mười mét. Đất vườn đã bán hết ăn dần và để lấy tiền xây cái lò gốm. Còn một khoảng rộng bằng vài chiếc chiếu là khu sản xuất gốm của hai ông bà. Nguồn sống chính của hai ông bà là nhờ vào cái lò gốm ấy. Ngày xưa, hồi ông mới về nước, ai cũng thèm muốn và khen cái cách sống tao nhã của ông. Một khoảnh vườn rộng chừng ba trăm mét vuông, la liệt tượng. Những người hàng xóm ông, chẳng mấy ai hiểu hết ý nghĩa của các bức tượng, nhưng ai cũng muốn xem, cũng trầm trồ...Hai hòn đá giống hình người xù xì đặt chồng lên nhau ở dưới khóm hoa nhỏ có tên là “Sinh tồn”. Hai hình người bằng đá, chải chuốt, đánh bóng dài như hai cái đòn gánh nằm úp lên nhau dưới gốc cây dâu gia lại có tên là “Khoái lạc”, lại còn cái bức tượng cô gái làm bằng đá trắng, mông to như cái chum hứng nước, trắng như củ hành tây bóc vỏ ngoài, eo thắt lại bé tý, vặn mình, nhìn nghiêng về phía sau, cố phô ra cặp vú nhọn hoắt như cái phễu rót dầu đặt ngay lối ra vào...Mấy chị bán quà sáng, mấy anh đạp xích lô hồi ấy thấy lạ cứ nhìn trộm các bức tượng qua hàng rào.  Đến bây giờ họ vẫn còn nhớ, kể lại vanh vách những thứ bày trong vườn “Ông Hâm” (Hàng xóm quen gọi giáo sư Vĩnh Sơn bằng cái tên bình dân “ông Hâm” ấy để khẳng định cái thành tựu công nông hóa trí thức của họ).  Các bà, các chị cứ cười khúc khích khi kể về cái bức tượng “Khoái lạc” của ông. Các bác xích lô tỏ ra mình sành điệu, am tường về nghệ thuật thì tán mãi về các đường nét huyền diệu trên cái mông trắng như củ hành bóc của cô gái... Những câu chuyện như thế, trong các quán nước cạnh nhà ông, người ta cứ kể hoài không chán, năm này sang năm khác các câu chuyện về ông giáo sư- “ông Hâm”cứ được thêm thắt dần. Giá trong số người ngồi trong các quán nước ấy có một nhà phê bình mỹ thuật nào, chắc anh ta sẽ có có đầy đủ tư liệu thực tế để tung bút viết nên những câu văn bốc lửa: “ Chính nhờ cái đường lối quần chúng đúng đắn ấy đã tạo ra một nền nghệ thuật đích thực. Một nền nghệ thuật lấy công-nông- binh và nhân dân lao động làm đối tượng phản ánh, đối tượng thưởng thức, đã làm xuất hiện những tài năng nghệ thuật và những tác phẩm bất hủ, sống mãi trong lòng dân...”
 Ngôi nhà của ông bây giờ cũng là một kiệt tác về văn hóa mang đậm đà bản sắc dân tộc. Nó được cơi đằng trước, nới đàng sau, chuồi ra hai đầu hồi, chòi lên trên chóp. Nhìn nghiêng nó thấp thoáng hình bóng của ngôi nhà sàn của các đồng bào dân tộc vùng cao ở Tây Bắc, Việt bắc. Nhìn thẳng, thấy cái mái cong cong, chóp nhô cao giống kiểu mái nhà Rông của đồng bào Tây nguyên...Hay đáo để, cái tự phát của quần chúng đôi khi cũng mang lại những thành tựu bất ngờ! Nó đập tan mọi biểu hiện của cái tư tưởng tiểu tư sản coi thường sức mạnh sáng tạo của quần chúng.
 Cái khó xử nhất của giáo sư bây giờ là chỗ đặt bức tượng “Thiếu nữ ngủ ngày”. Gian phòng thưng cót ép mười mét vuông vừa đủ để đặt một chiếc giường đôi và cái bàn con ngồi uống nước. Bức tượng được xoay hết chỗ này sang chỗ khác, đặt ở đâu cũng thấy vướng. Có lúc, ban ngày nó được đặt lên giường ngủ. Giáo sư nảy ra sáng kiến, mua cái võng treo bức tượng lên trần nhà. Vợ ông bảo: “treo được thế cũng gọn nhưng đi bên dưới thấy ghê ghê, không may, bị chuột cắn hay giây võng mục, đứt, rơi xuống thì khốn...!” Giáo sư quen giải quyết các vấn đề thuộc tầm vĩ mô. Những chuyện vụn vặt này ông bộc lộ ngay cái bất lực tiểu tư sản của mình. Mấy ngày sau, ông mới tìm ra được giải pháp. Ông kiếm được ba cây chuối, lấy ba thanh tre xuyên ngang qua, đặt bức tượng nằm lên đấy, buộc chặt, treo lên cổ bức tượng tấm biển nhỏ, đề:
Cái đẹp bị khước từ
( Tức: Thiếu nữ ngủ ngày)
Tác giả: Vĩnh Sơn.
Giải thưởng quốc tế về điêu khắc năm...Tại....
 Ông đẩy bè chuối ra giữa dòng sông.  Hy vọng nó được trôi ra biển khơi, được giạt vào một miền đất văn hóa nào đó.
 Ông Bồi ở thôn dưới đi cất vó, bắt được bức tượng. Tắm rửa cho nó xong, ông đặt bức tượng nằm lên bãi cỏ. Ngắm nghía, xuýt xoa, quên cả trời chiều, quên cả cái giỏ trống không chưa có một con tép nào. Hình như ông quên cả trời đất, quên không biết mình đang đứng ở đâu...Suy nghĩ thế nào không biết ông cõng bức tượng lên lưng, ba chân bốn cẳng chạy về nhà. Cái chạy về nhà ấy cũng chỉ là một hành động theo thói quen, như con chồn kiếm được miếng mồi tha nhanh về hang để nhấm nháp...Gần đến nhà, hình như ông thấp thoáng thấy bóng vợ. Chững lại: “Cái con mụ này ghê gớm lắm đây!” Nghĩ bụng: “Hắn đang chờ mình về để lấy cá đi bán mua gạo ngày mai, để làm bữa ăn chiều...” Bồi cõng bức tượng chạy vòng ra vườn chuối sau nhà, đặt nép vào một khóm chuối rậm. Tiếc của trời, ngắm nghía! Bà vợ đến sau lưng ông, quát: “Ông làm cái trò gì đấy? Chưa chán hay sao mà còn đi khiêng cái con đĩ hở hang này về ngắm nghía? Dơ mặt!” Bồi “ừ... à” không biết mình đang làm chuyện gì, không biết đối đáp với vợ ra sao. Chỉ nghe mụ quát: “ Cá đâu? Vó đâu?” Bồi như tỉnh cơn mơ lao về phía bờ sông. Mụ vợ sẵn cái cuốc trong tay phang một nhát vào bức tượng...Đầu lìa khỏi cổ. Bồi chạy đến bờ sông, chỉ thấy cái oi nằm nghiêng dập dờn theo từng con sóng. Cái vó mới mua mất tong chỉ còn bốn cái gọng chỏng lên trời!..Bồi sợ vợ, không dám về nhà, ngồi nép mình co ro trên bờ  sông. Trời tối đã lâu, nhớ lại hình ảnh ngây ngây khùng khùng của chồng lúc chiều sau bụi chuối, mụ vợ đâm lo. Mụ rất mê tín và sợ ma. Bồi biết thóp vợ. Thấy cái đuốc chấp chới đến gần. Lão lặn xuống nước rồi vẫy tay ngoi lên hô: “Cứu với, cứu với...làng nước ơi! Ma... ma...” Mụ vợ hoảng hồn lao tới, kéo tay chồng lên. Bồi làm ra vẻ hoảng loạn, dẫy dụa cố trườn ra khỏi tay vợ, mồm vẫn hô “ma..ma.. cứu tôi với! Ma bắt tôi!”. Bồi nằm im, mụ vợ luôn mồm bảo: “Tôi đây mà! Ma đâu ma mà ma! Mình tỉnh lại đi...” Bồi ngồi dậy định thần, kể cho vợ nghe việc lão chiến đấu với con ma để giành lại chiếc vó bị nó cướp. Nó khỏe quá suýt nữa thì tôi chết chìm! Không lại được với nó! Nó con gái mới lớn, khỏe quá... Mụ vợ run bắn người nghe Bồi kể chuyện. Mụ hỏi: “Con ma nó hình thù ra làm sao? Có giống cái con gì mình cõng về để sau vườn chuối không?” Bồi giả ngây, giả ngô hỏi: “Con gì? Ai cõng? Con ma ấy là đứa con gái cụt đầu!” Mụ vợ khóc rống lên: “ chết tôi rồi! Nó trả thù tôi đấy mà! Nó thu hết hồn vía ông rồi! làm sao đây hởi trời...? Mụ rầm khấn khía trời đất, thần Phật tha tội cho mụ. Hai vợ chồng dẫn nhau về nhà. Bồi bảo: “Mình dẫn tôi ra vườn chuối xem cái con gì ấy nó thế nào?” Mụ run như cầy sấy, nép sau lưng chồng đi ra bụi chuối có cái bức tượng cụt đầu. Vừa nhìn thấy bức tượng, Bồi làm như ngả bật ra phía sau rồi cắm đầu chạy vào nhà, đóng sập cửa lại, suýt nửa vợ y phải đứng ngoài cửa. Bồi lấy chăn chùm kín đầu hét: “Sao mày lại đập gảy đầu nó? Nó chính là con gái vua Thủy tề, “Con ma” ấy suýt nữa nhấn chìm tôi xuống sông đấy! Nó trả thù, ta không sống được ở đây nữa đâu!” Nghe chồng nói, mụ vợ hồn vía lên mây, gào lên: “Làm sao bây giờ ông ơi!  Trốn đi đâu bây giờ hởi ông!”
 Sáng hôm sau, Bồi dậy sớm, ăn mặc sạch sẽ, không nói, không rằng, bỏ nhà ra đi. Mụ vợ hàng ngày vốn lắm lời nhưng hôm nay vì biết tội nên chỉ len lét nhìn theo bóng chồng khuất dần ngoài ngõ. Chập tối, thấy chồng về. Mụ vợ chạy ra ngõ đón, nhìn mặt chồng trân trân, sợ sệt. Bồi nghiêm trang, thấp giọng nói:
-         Cũng còn may! Có người hứa giúp cho may ra có thể giải được cái hạn này...
-         Thật thế chứ? Vợ giật giọng hỏi lại rồi lầm rầm, lạy chúa, ơn trời ơn Phật ơn thánh thần...
 Hôm sau, ông thầy cúng đến...Cầm nén hương trong tay, vung lên trời, hạ xuống đất. phồng má, trợn mắt, miệng lầm rầm...Ông nói điều gì với ma quỷ không ai biết! Quay lại, nhìn vào mắt mụ vợ Bồi, đang ngồi xếp trong góc chờ thầy phán quyết. Mụ nuốt từng lời thầy phán, đúng là lời của thánh thần, lời lời châu ngọc, đúng tắp lự. Từ đấy, Bồi thành ông thánh trong nhà, mụ chẳng dám lăng loàn như trước nữa. Theo lời “Thầy” chỉ bảo, hôm sau hai vợ chồng bàn tính xây một cái miếu ở sau vườn, rước “Hoàng cô” vào thờ ở đấy. Mụ vợ cắm cúi lấy mật mía trộn vôi loay hoay ngồi gắn lại cái đầu của “Hoàng cô”để đặt vào miếu.
 Bồi nhặt được tấm biển treo  trên cổ bức tượng rơi ra bãi cỏ. Cầm lên xem, chẳng hiểu gì, sao lại là: “Cái đẹp bị khước từ”, rồi cái giải thưởng gì đề bằng chữ Tây...Cuối cùng Bồi dừng lại ở hai chữ “Vĩnh Sơn”. Anh tìm đến nhà giáo sư, kể lại sự tình...như thế...như thế...Anh bảo:
-         Cám ơn giáo sư, nhờ có bức tượng của giáo sư mà nhà cháu bây giờ như được lột xác, như hóa thân thành người khác! Từ một người đàn bà nanh nọc, ghê gớm bây giờ trở thành một con người nhu mì thuần hậu...
 Giáo sư ngồi nghe, cố nhịn cơn cười. Ông nhớ đến những lớp chỉnh huấn mà ông đã dự: “Nghệ thuật đích thực là nghệ thuật phục vụ đời sống, phục vụ nhân dân, nó góp phần đắc lực trong việc hình thành con người mới!...”  “Nay mai cái lão Bồi này lên làm cán bộ chắc mình sẽ được giải thưởng to đây! Lão sẽ mời các nhà lí luận mỹ thuật, các giáo sư đến bàn về cái chân, cái thiện cái trong bức tượng “Thiếu nữ ngủ ngày” của mình”. Giáo sư nghĩ thầm, lúc đó họ còn bảo: “Đây là một tác phẩm thể hiện một cách nhuần nhị, tài tình kết hợp sự sáng tạo bác học và sức sáng tạo vô tận của nhân dân lao động...!” (Vì cái cổ bức tượng bị gãy do mụ vợ lão Bồi gắn lại bằng vôi). “Mụ ta sẽ là đồng tác giả đứng tên chung với mình trong giải thưởng sắp tới!”.
 “Tiếng lành đồn xa”, với sự góp sức của ông thầy cúng, nhân dân trong vùng, không chỉ mồng một ngày rằm mà cả ngày thường kéo nhau đến lễ bái đầy lòng thành kính. Một gian thờ mới được xây nối tiếp ra phía ngoài, ngôi miếu trở thành “hậu cung” chỉ để đặt tượng “Hoàng cô”. Một chiếc bàn thờ to bằng gỗ dâu, chạm trỗ, sơn bóng, bên trên đặt một bộ đồ thờ “Ngũ sự” bằng đồng sáng choang. Dưới chân bàn thờ đặt một chiếc hòm “Công đức” có khóa. Cả nhà Bồi bây giờ ăn đồ tế lễ xôi gà, giò, thủ lợn...không hết. Sẽ xây một ngôi nhà to bằng tiền công đức để thờ Ngài. Mụ vợ không còn nuối tiếc cái vó bị mất trộm. Giờ mụ rất từ bi. Suốt ngày tâm niệm “Ngài thiêng lắm, thiêng lắm...” Thì ra, ở cái xứ này không phải cái thiêng liêng được thờ phụng, mà những cái dù méo mó, cong vênh khi được thờ phụng cũng sẽ hóa thành linh thiêng!
 Thanh Bình dạo này yếu nhiều, không ngồi lâu được. Nằm trên giường, đưa tay ra hiệu bảo Lâm ngồi gần lại, anh bảo:
-         Có chuyện này, lạ lắm, cứ ám ảnh tớ hoài...Tớ chẳng tin cái trò mê tín dị đoan nhưng hôm về thăm bố mẹ Lâm Bằng ở dưới quê...
-         Thế nào? Các cụ yếu lắm hả? Lâm sốt ruột hỏi dồn dập.
-         Cũng yếu rồi nhưng tớ muốn nói cái chuyện khác cơ! Thấy hai cụ ngồi sát bên nhau vò võ nhìn ra cửa như thế, tớ liên tưởng đến cái chuyện hai con chào mào trước cửa hang mà mỗi khi Lâm Bằng kể cho mình nghe, cô ấy đều khóc. Thương quá! Có điều gì đấy thuộc về tâm linh không giải thích được. Các cụ bảo: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.” có lẽ nó đúng với hiện tượng này...
-         Thì nói đi xem nào? Lâm giục.
-         Cái chiều hôm, trước lúc bọn  mình đến chân núi Đại Bàng, máy bay Mỹ ném bom dữ dội xuống vùng đó. Tối ấy, các cậu vượt núi tiếp tục đi ra Bắc. Mình và Lâm Bằng ở lại trong hang. Sáng ra, nghe tiếng hai con chim chào mào gào thét ngoài cửa hang. Tiếng chúng nó khản đặc, căm hờn. Con chim cái đậu trên cành cao nhìn xuống. Con chim đực đậu ở cành thấp nhìn sang. Chúng nó nhìn chăm chăm vào một cành cây bị bom cưa đứt, bắn xuống bờ suối. Hôm sau, lại nghe tiếng gào thảng thốt, đầy đau thương ấy từ tờ mờ sáng. Lâm Bằng chạy ra ngoài cửa hang, con chim cái bay rật từ cái cành cây chưa kịp héo lá nằm nghiêng bên bờ suối lên đậu trên cành gần đấy. Thấy lạ, Lâm Bằng xuống suối nhặt cành cây lên xem...Một tổ chim chào mào treo lủng lẳng, ba trứng sắp đến ngày nở con vỡ tung, máu me be bét... Hai con chào mào bố mẹ nhìn Lâm Bằng không rời. Chị cầm cái cành cây có tổ chào mào ấy lên ngồi khóc ở cửa hang rồi cắm nó vào cái hốc đá trên cao. Hôm sau nữa, chị tò mò dậy sớm, nhìn sang cái cây bên kia suối. Hai con chào mào bố mẹ vẫn đậu trên cái cành mọi ngày nhìn sang. Chúng không còn đủ sức để gào, không đủ sức để đứng nữa...Hai bộ lông xù tiều tụy nằm sát vào nhau. Chúng an ủi nhau điều gì, tiếng nghe rất khẽ. Cái cảnh ấy qua lời kể của Lâm Bằng, buồn đến mênh mang, đến mình cũng rơi nước mắt. Hôm về Thái Bình thăm bố mẹ Lâm Bằng, từ ngoài ngõ nhìn vào, thấy hai cụ khô héo ngồi bên nhau trên chiếc chõng tre nhìn ra đường mòn mỏi...Mình lại nhớ đến Lâm Bằng, nhớ đến cái chuyện hai con chào mào trên hang đá. Cái tổ chào mào ấy bây giờ vẫn còn, Lâm Bằng treo nó cao hơn, buộc chặt vào cành của một cây duối cổ thụ nơi miệng hang. Đó là di vật duy nhất và quý báu nhất của Lâm Bằng còn để lại. Mình hiểu ra rằng, người ta có thể không sợ cái chết nhưng sợ nhất là nỗi đau do cái chết để lại cho người thân.
 Hôm sau, Thanh Bình qua đời, không bố mẹ, không người thân, không vợ, không con...Thiếu tướng Hồng Trường chủ trì buổi tang lễ. Bài điếu văn ông đọc bị ngắt quãng nhiều lần vì cảm động. Theo nguyện vọng và di chúc của anh, toàn bộ tài sản và căn hộ của anh được trao cho bố mẹ Lâm Bằng. Thi hài của anh được an táng dưới chân bức tượng của Lâm Bằng, nơi phiến đá mà Lâm Bằng thường dẫn anh ra ngồi phơi nắng ngày nào...
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
15
 
 
 Một sự tình cờ đầy tính ngẫu nhiên, Convié trở thành vị khách mời đầu tiên đến Việt nam dự ngày “Lễ hội Non sông”. Bây giờ thế giới biết đến ông không phải là một cựu đại tá của quân đội viễn chinh Pháp từng xông pha trên các chiến trường thuộc địa của Pháp như Việt nam, An-giê-ri... mà là một nhà Việt nam học. Nửa cuối của thế kỉ hai mươi này có hai sự kiện rung động cả thế giới đó là sự thắng lợi của Việt nam và sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa. Người ta thích tìm đọc Convié vì ở đấy họ tìm thấy một lời đáp, một sự lí giải trung thực khách quan, đầy tính nhân văn cho sự kiện thứ nhất- Việt nam chiến thắng các đế quốc sừng sỏ nhất thế giới. Mở đầu những trang viết trong cuốn sách ông viết về Việt nam, Convié đã hơn một lần nhắc lại ấn tượng của ông khi ông còn là một đại úy đứng trong giảng đường của Viện hàn lâm khoa học quân sự Pháp nghe bài quốc ca Việt nam, nói đúng hơn là được nghe một câu trong bài quốc ca đó mà vị nguyên soái đã trích dẫn để mở đầu cho bài giảng của mình về sứ mệnh của các sĩ quan Pháp, của quân đội Pháp trước khi họ lên đường sang Việt nam chiến đấu. “Đường vinh quang xây xác quân thù...” Convié viết: “ Suốt ba mươi năm, tôi suy nghĩ về điều này. Một ngày nào đó, chiến tranh sẽ kết thúc, đất nước sạch bóng quân thù. Xác quân thù không còn, họ lấy gì để xây đắp con “ đường vinh quang” của mình! Gần đây có điều kiện tìm hiểu kĩ hơn về Việt nam, tôi mới lí giải được phần nào tư tưởng của họ. Việt nam là nước Xã hội chủ nghĩa theo học thuyết Mác- Lê nin. Tư tưởng chủ thể của học thuyết này là đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy xã hội phát triển . Ngày nay, cuộc đấu tranh ấy đã ở quy mô toàn thế giới và rất gay go quyết liệt. Không những thế, ở một số nước, cách mạng xã hội chủ nghĩa đã thành công, giai cấp vô sản nắm chính quyền dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, cuộc đấu tranh nội bộ, chống “Tả”, chống “Hữu,” chống “bè lũ xét lại”. chống “những phần tử đi con đường tư bản trong đảng” cũng liên tục nổ ra không kém phần quyết liệt và tàn khốc. Kẻ thù không bao giờ hết, cuộc đấu tranh ấy không bao giờ chấm dứt. Không nghiên cứu kĩ bước ngoặc lịch sử này của xã hội Việt nam không hiểu được văn hóa hiện nay của họ. Nơi hội ngộ của văn chương, xưa được gọi là văn đàn. Họ lập ra hội Tao đàn. Hội của những tao nhân mặc khách luận bàn về những điều cao siêu của thánh kinh, huyền truyện, còn bây giờ tất cả đều là mặt trận, tất cả là chiến trường. Mọi người là chiến sĩ. Họ tôn thờ cái lí tưởng “Hạnh phúc là đấu tranh”. Văn chương bây giờ là một đấu trường, nơi của văn trường, bút trận. Một nhà thơ, nhà lãnh đạo tư tưởng một thời đã viết:  “Tôi chưa chết nghĩa là chưa hết hận/ Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời/ Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi..” Ông còn viết: “Mỗi thây rơi sẽ là một nhịp cầu đưa ta đến chân trời cao rộng...” Convié có những phân tích rất độc đáo về sự hình thành tính cách Việt nam, văn hóa Việt Nam. Theo ông, ở Việt nam có hai thời kì  có cơ hội để phát triển một nền văn hóa rực rở mang đặc trưng riêng của mình, đó là thời kì của các Vua Trần với tư tưởng : “Tam giáo đồng nguyên” Và thời kì Hồ Chí Minh với tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc, hướng tới việc xây dựng một thể chế cộng hoà và một nền dân chủ thực sự. Nhưng, do những khúc quanh của lịch sử, đến nay chưa có một tư tưởng triết học, một học thuyết chính trị nào được coi ý thức hệ của toàn xã hội Việt nam. Đây vẫn là nơi ẩn náu, chứa chấp của nhiều học thuyết chính trị có từ thời cổ đại cho đến bây giờ, từ cái thuyết Vị kỉ của Đặng Tích thời cổ đại với tư tưởng duy ngã cực đoan coi cái tôi của cá nhân mình là trên hết, lợi ích của cá nhân là trên hết đến cái  cường bạo của bọn Lí Tư, Thương Ưởng của phái Pháp gia thời trung cổ... Nó được nhào nặn cắt xén sao cho phù hợp với cung cách cai trị của mỗi kẻ cầm quyền.  Đạo Nho tồn tại lâu nhất, vật cản đường lì lợm nhất của dân tộc này. Cho đến trước ngày cách mạng tháng Tám 1945, nó vẫn dạy người ta : “Kẻ sĩ chết cho người tri kỉ!” Kẻ sĩ, người trí thức không phải là người dám chấp nhận ngồi trên dàn hỏa thiêu, để nói lên sự thật, đem trí tuệ của mình, tiếp thu những văn minh của nhân loại để truyền bá, giáo dưỡng cho nhân dân, làm cho dân tộc đi trên con đường văn minh tiến bộ mà chỉ biết nhắm mắt xả thân để đền ơn cho những kẻ đã cho mình miếng cơm, manh áo, địa vị, bổng lộc! Nó truyền bá những đạo lí, buộc con người phải trung thành một cách mù quáng: “Trung thần bất phụng nhị quân!” Một người bề tôi không được phép thờ hai vua, phải tuyệt đối trung thành, tuyệt đối tin tưởng vào một và chỉ một ông vua cho dù ông ta ngu xuẩn, tàn bạo đến đâu!
Điều đáng quan ngại nhất là sự nuôi dưỡng lòng hận thù, cô Tấm được tôn vinh như là một thánh mẫu, những bài hát ca ngợi cô ta ngày ngày vẫn ngân nga trên các làn sóng của đài phát thanh, rền vang trong các trường học. Rồi những câu thơ lưu truyền trong sách giáo khoa, được giảng hùng hồn trên các bục giảng của các mái trường:
Nuôi đi em cho đến lớn, đến già,
Mầm hận ấy trong lồng xương ống máu...[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn43][43][/link]
......
 
            Thù muôn đời muôn kiếp không tan...
 Convié được mời dự ngày “Lễ hội non sông” không phải vì những bài viết, những tác phẩm này, không phải với tư cách là một nhà “Việt nam học” được giới khoa học ngưỡng mộ. Nói cho đúng là ông được Đỗ Quyên mời. Convié đã cung cấp cho bà nhiều thông tin xác thực về Sáu Hoàng, chồng bà trong thời gian ở trại H15 và cả khi ra Việt Bắc. Những bài viết, những bức ảnh của Convié chụp giáo sư Thân trọng Hoàng, ông Chưởng, ông Phi Hùng... đã giúp Đỗ Quyên rất nhiều trong việc lần ra đầu mối về những ngày Hoàng bị coi là “mất tích”. Convié kính phục, sùng bái Hoàng đến mức bao giờ cũng gắn cho Hoàng cái học hàm “Giáo sư” và khi ông viết về Hoàng, nói về Hoàng bao giờ cũng đầy đủ cả chức danh và họ, tên: “Giáo sư Thân trọng Hoàng.”
Đỗ Quyên là người hoạt động sôi nổi trong phong trào “Việt kiều yêu nước” ở Pháp, đặc biệt, bà đã phục vụ đắc lực cho phái đoàn ta ở Hội nghị Paris. Chính nhờ những thành tích và sự quen biết đó, Đỗ Quyên đã nhanh chóng bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ lí lịch cho Thân Trọng Hoàng. Tất cả những cơ quan mà Hoàng đã làm việc, nhất là thời gian anh bị “mất tích”đã có những nhận xét đánh giá về anh sáng ngời, coi anh là “Một người cộng sản thật sự, một cán bộ mẫu mực, hiếm có, một con người yêu nước chân chính...trong những thời khắc bi đát về cuộc đời vẫn giữ được lòng tin son sắt vào sự nghiệp cao đẹp mà mình hiến thân...” Đọc những lời nhận xét, đánh giá, tuyên dương công trạng của cách mạng đối với Hoàng, liên hệ với mình, Quyên tự thấy ngượng. “Nếu mình có lí lịch, họ sẽ ghi vào đấy thế nào nhỉ?” Chị nghĩ. Hoàng kiên định vững vàng trong mọi tình huống, còn mình, thấy khó khăn, vỡ mộng là quay gót, là chối bỏ. Hoàng tham gia cách mạng với một sự giác ngộ lí tưởng sâu sắc, còn mình tham gia cách mạng như tham gia một ngày hội hóa trang, đi theo “phong trào”, theo bè bạn để thay hình đổi dạng trong chốc lát...để thoát khỏi cái ngấy của những bữa tiệc đầy cao lương mĩ vị, thoát khỏi cái tù túng của cảnh trướng rũ màn che! Hoàng về hưu với mức lương của người gác cổng, người quét rác... đang bị bỏ quên ở một góc rừng, xó núi nào. Còn mình ngồi trên ghế danh dự của những người có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc!
 Can xem chăm chú các hồ sơ của Hoàng do Đỗ Quyên trao cho. Ông không có ý định tìm hiểu xem Hoàng được “tổ chức” ưu tiên, ưu đãi những gì, chỉ muốn biết nghệ thuật “xử lí”của tổ chức ra sao. Ông đưa tay áo chùi chùi những giọt nước mắt trên hai gò má của mình, trả tập hồ sơ cho Đỗ Quyên nói:
-         Bà có cơ may là được phục vụ ở hội nghị Paris, nếu không chẳng có cách nào “chiêu tuyết” được cho ông nhà đâu! Nói xong, Can thấy mình “nhỡ mồm” dùng hai chữ “chiêu tuyết” không phải lối. “Điềm gỡ chăng?” Ông nghĩ bụng.
 Nhìn nét mặt Can, Đỗ Quyên thấy có điều gì đó nghiêm trọng, bất ổn đối với Hoàng. Những ngày đầu, nghe kể chuyện Hoàng, Đỗ Quyên chỉ tưởng Hoàng “treo ấn từ quan” theo gương Nguyễn Trãi về Côn sơn ở ẩn và giờ đây, Quyên đang cầm trong tay cái “chiếu chỉ” phục chức cho ông. Ông sẽ lại “về triều”, sẽ viết biểu tạ ơn... “Quần ngôn mặc kệ dèm pha, thánh ý vẫn bền tín nhiệm...Thương thần như ngựa tuổi già vẫn còn rong ruổi..[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn44][44][/link]” Rồi hứa hẹn đem hết sức khuyển mã để đền đáp long ân, rồi xênh xang mũ áo! Rồi vợ chồng bên nhau, bắt đầu một chặng đời mới, “Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời..”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn45][45][/link] Đỗ Quyên chỉ nghĩ được đến vậy. Bà chỉ biết dùng những khái niệm tương đương so sánh với chế độ cũ để hiểu chế độ mới. Bà chẳng hiểu cái chức chủ tịch tỉnh là gì nếu không đổi nó sang Tuần phủ, Tổng đốc...của cái chế độ mà cha, ông bà đã phục vụ, bà đã lớn lên trong đó.
 Chiếc xe Lát- vi- a của Liên xô chế tạo chở đoàn đi tìm Hoàng có Đỗ Quyên, Can, Uyển Trang và một đồng chí cán bộ của ban Tổ chức- ông Đắc Vỵ. Vẻ mặt nghiêm trang, chẳng ai nói với ai điều gì. Người buồn và lo lắng nhất là Can. Trên xe, chỉ có ông là người duy nhất biết chỗ Hoàng ở nhưng ông đã xa nó hơn hai chục năm, giữa rừng đại ngàn, chắc gì bây giờ đã tìm ra dấu vết. Chuyện La Hầu biến thành vượn khi đi tìm trầm lạc vào rừng sâu, cách li loài người chỉ sau 15 năm làm ông rùng mình...Hoàng trở lại đấy đã 16 năm rồi...Liệu Đỗ Quyên có giống bà La không nhỉ? “Con vượn Hoàng”lông lá liệu có bỏ chạy khi nhìn thấy Đỗ Quyên không? Đỗ Quyên vẻ mặt căng thẳng không hiểu chị nghĩ gì. Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác là Uyển Trang khi xe chạy qua các phố chợ đìu hiu, các xóm làng xơ xác. Tất cả khác xa với sự hình dung của chị trước đây. Có những chặng đường rừng nửa ngày xe chạy không gặp một bóng người...Ông Đắc Vị ngồi ghế trước nét mặt đầy tự tin và hớn hở. Trong thời kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc là địa bàn hoạt động của ông, nay là lần đầu tiên kể từ cái buổi “áo chàm đưa buổi phân li” ông mới có dịp trở về với cảnh cũ, người xưa, tìm lại “mảnh trăng giữa rừng...”
 Đến cơ quan tỉnh ủy, mọi người ngồi ở phòng khách nghỉ ngơi. Đắc Vị gặp riêng bí thư tỉnh ủy báo cáo tình hình. Chỉ riêng cái việc một cán bộ tổ chức trung ương dẫn đoàn đi đã đủ để nói lên tầm quan trọng của chuyến đi này. Đồng chí bí thư với vẻ mặt nghiêm nghị bước ra bắt tay hỏi thăm sức khỏe của mọi người. Ông quan tâm đặc biệt đến Đỗ Quyên, một trí thức thuộc dòng dõi hoàng tộc ở nước ngoài được mời về dự “Ngày hội non sông” và tỏ lòng trân trọng với “Giáo sư” Thân Trọng Hoàng chồng bà, một người cách mạng lão thành, một trí thức lớn đã nhiều năm hoạt động ở tỉnh nhà.
 Đồng chí bí thư cho gọi Chánh văn phòng đến “quán triệt” tầm quan trọng của việc tổ chức, đón tiếp phái đoàn. Ông nói: “ Đón đoàn này là biểu hiện tập trung việc thực hiện ba chính sách lớn của đảng và nhà nước: Chính sách đối với những người có công, lão thành cách mạng; chính sách đối với cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài; chính sách đối với trí thức... các đồng chí phải tổ chức thực hiện thật tốt, từ việc lo nơi ăn chốn ở chu đáo đến việc đáp ứng tốt nhất mọi yêu cầu của đoàn, đảm bảo thắng lợi của chuyến đi của phái đoàn...”
 Bữa tiệc đón đoàn chiều hôm ấy khiến tất cả các thành viên trong đoàn ngạc nhiên. Những món ăn họ chưa từng được nếm, thậm chí chưa nghe tên. Toàn thịt thú rừng: Nai, cầy hương, kì đà...Đồng chí phó gám đốc Sở văn hóa-du lịch chỉ vào miếng thịt “gà” mà Đỗ Quyên vừa gắp lên nói: “Còn đấy là thịt công!” Đỗ Quyên đánh rơi miếng thịt xuống bàn hỏi lại:
-         Con công đẹp hay múa ấy à? Sao lại giết nó?
-         Thịt nó ngon lắm! Bà ăn thử mà xem. Người ta bảo; “nem công, chả phượng” mà lại! Ngày xưa tiệc yến của vua cũng chưa chắc đã có, đồng chí phó giám đốc nói.
-         Nó là loài động vật quý hiếm cần được bảo vệ đấy! Bây giờ lại đang mùa sinh trưởng của nó nữa chứ! Tội chết. Đỗ Quyên nói.
Phó giám đốc cười vô tư nói:
-         Cái giống này ở đây nhiều lắm, nếu bà thích, mai sẽ tặng bà một đôi mang về Paris kỉ niệm.
 Sáng hôm sau đoàn lên đường. Chiếc xe Com- măng- ca Bắc kinh chở đoàn cán bộ của tỉnh ủy, ủy ban tỉnh tháp tùng đoàn “cán bộ trung ương” đến “Khu di tích cách mạng và kháng chiến - Bệnh viện Q10” ở giữa rừng đại ngàn Hoàng- Phan của chiến khu Việt bắc. Phó giám đốc sở văn hóa-du lịch- Châu rất am hiểu khu này vì anh là người thường đến đây chỉ đạo xây dựng các “Khu di tích lịch sử cách mạng.” Anh không mường tượng được ngôi nhà mà Hoàng và Can đã sống nằm ở vị trí nào. Châu dẫn Can  đi lại rất nhiều lần dọc theo các ngôi lá vừa được phục chế để giúp Can nhận ra những vết tích ngày xưa. Can hỏi Châu:
-         Có ngôi nhà nào ở dưới một gốc đa to?
-         Gốc đa to? Châu hỏi lại, À! Kia, kia! Châu dẫn Can đi lùi sâu vào phía trong chừng 20 mét và giàng giải: Cây đa ấy đây, rể của nó bây giờ ăn ra choán hết cả cái nền của ngôi nhà điều trị số ba của anh hồi ấy rồi. Chúng tôi buộc lòng phải xây ngôi nhà phục chế mới ở ngoài ấy, đỡ tốn nhiều công xây dựng, vừa khỏi chặt cây...Lịch sử mà lại! Ta phải biết uốn nắn lịch sử thế nào có lợi cho ta là được! Châu vừa nói vừa cười...Can tựa lưng vào gốc cây, chỉ tay về phía trước mặt bảo:
-         Đi thẳng lên khoảng 800m, rẽ trái khoảng 100m, gặp một suối nhỏ, qua suối, đi lên một sườn đồi thoai thoải chừng trăm mét nữa sẽ gặp một ngôi nhà lợp lồ ô...
-         Châu dẫn đoàn người đi bộ theo hướng ấy, có một người dân tộc bản địa cầm dao quắm đi trước mở đường...
 Đoàn người dừng lại, ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám nói trước câu gì. Châu nhìn Can như dò hỏi. Can gật đầu, nghẹn ngào: “Đúng rồi!” Anh chỉ tay vào hai cái cột gỗ chơ vơ còn lại giữa đám cỏ lác um tùm, nói: “Hai chúng tôi đã từng sống trong ngôi nhà này!” Đồng chí phó ban tổ chức tỉnh ủy, cả buổi không nói gì, nhìn vẻ mặt đau khổ của những người đi tìm người thân, nói một cách vỗ về, an ủi:
-         Chúng ta hãy bình tỉnh, ra bờ suối rửa mặt mũi chân tay, ngồi nghỉ một lát. Anh Châu cho huy động thêm khoảng năm nhân công nữa thu dọn sạch khu này rồi ta tính.
Căn nhà đã được dọn sạch, không tìm thấy dấu vết gì của Hoàng ngoài chiếc cà mèn bằng nhôm vừa là nồi nấu, vừa là bát ăn của ông lúc sinh thời đựng đầy cát, ba chân hương xiêu vẹo đã phai màu...
-         Hồi ở đây, hai ông không quen biết một ai sao? Đồng chí phó ban tổ chức nhìn Can hỏi.
-         Có hai người thường đến chơi với chúng tôi đó là Thao bác sĩ dạy ở trường y tế tỉnh và ông Quỳnh ở bản bên.
-         Thao? Ông phó ban tổ chức nhắc lại cái tên rất quen thuộc trong hồ sơ cán bộ của mình, nói, anh này tôi biết, được điều đi tăng cường cho một huyện giáp biên giới lâu lắm rồi. Còn Quỳnh là ai tôi không biết.
-         Ông Quỳnh ở bản bên chết hơn chục năm rồi! Một người dân tộc đang dọn dẹp nói xen vào.
-         Các ông có biết mộ của người trong ngôi nhà này chôn ở đâu không? Ông Thứ, phó ban tổ chức tỉnh nhìn người đàn ông đứng tuổi vừa nói chuyện về ông Quỳnh, hỏi.
 Năm người đàn ông đang cắm cúi dọn dẹp, ngước mắt nhìn nhau ra chiều suy nghĩ rồi cùng lắc đầu: “Không biết đâu vơ...!” Uyển Trang và Đỗ Quyên ngồi lì dưới bờ suối, nhìn lên đám đàn ông trò chuyện láo nháo trên mảnh sân vừa được dọn sạch. Họ chẳng để ý gì các câu chuyện mọi người đang trao đổi. Đỗ Quyên dứng dậy một cách quyết liệt như đang kìm nén những uất ứ trong lòng, bà bước lên sân, bật lửa đốt tập hồ sơ của Hoàng ngay trước gian bếp, cạnh “ chiếc lư hương” có ba chân hương xiêu vẹo. Trong góc bếp, một hủ gạo và một vại muối đặt cạnh nhau như hai linh vật dùng để thờ tự cho người quá cố theo nghi lễ tôn giáo của một thời hồng hoang nào đó trong lịch sử loài người. Quyên lấy một nắm đất và chiếc “lư hương cà mèn” bọc giấy cho vào túi xách của mình. Có lẽ đó là món quà của bố, bà định mang về Paris cho các con. Ngoài sân, đứng quay lưng lại phía bếp, nơi Đỗ Quyên đang thực hiện các “nghi lễ tế tự”, ông Đắc Vỵ đang say sưa nói với các cán bộ của tỉnh có mặt:
-         Các đồng chí cần khẩn trương phục chế lại di tích lịch sử  quan trọng này. Ngôi nhà mà hai vị giáo sư đã từng sống, từng làm việc trong thời kì kháng chiến chống Pháp, trong thời kì cách mạng còn trứng nước này có một ý nghĩa quan trọng về tuyên truyền giáo dục cho thế hệ trẻ về truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nó làm cho bạn bè thế giới đến đây hiểu được vì sao sự nghiệp cách mạng của chúng ta được toàn dân nhiệt liệt hưởng ứng tham gia...Ngay cả các đại trí thức Tây học, thuộc tầng lớp quý tộc cũng tự nguyện đứng trong hàng ngủ cách mạng, xả thân cho sự nghiệp vẻ vang này... Làm tốt nó sẽ là “Điểm chốt” trong cụm di tích cách mạng của vùng này. Nhưng, để đạt được điều đó phải biết cách làm, không phải các đồng chí chỉ cho dựng lại cái ngôi nhà tre xiêu vẹo giữa đám cỏ lác um tùm này, không phải để cái vại muối và hủ gạo kia nguyên xi như thế! Phải dựng lại, có thể là một ngôi nhà gỗ đơn sơ nhưng phải có những tiện nghi cần thiết, khung cảnh phải có chút lãng mạn êm đềm phù hợp cung cách sống của các trí thức Tây học. Nó phải thể hiện được sự quan tâm săn sóc của cách mạng đối với trí thức ngay cả khi đất nước còn cực kì khó khăn...Cái này nó tế nhị lắm! Các đồng chí phải động não suy nghĩ để làm cho tốt. Ví dụ, cái sân này không phải các đồng chí khôi phục lại y nguyên bằng cách cuốc lên trồng một vạt sắn như nó có trước đây mà phải cải tạo nó lại thành một vườn hoa nhỏ. Góc sân trồng một cây đào cổ thụ...Ông quay mặt lại phía bếp, nói tiếp:
-         Như kia, hai cây hoa móng rồng mà các giáo sư đã trồng đang leo theo hai tay vịn từ suối lên tận mái bếp kia...Đó là một di tích vô giá! Các anh sửa lại, biến cái bếp lụp xụp ngày xưa ấy thành một chỗ ngồi uống trà, vọng cảnh của hai giáo sư. Trên mái nhà vọng cảnh ấy rủ xuống các cành hoa móng rồng sực nức hương hoa. Trên bộ bàn trúc, đặt một bộ ấm trà cổ... “ Mỗi buổi sáng, sau khi tập thể dục xong, hai giáo sư ngồi đây uống trà, đọc sách...Họ có điều kiện đi sâu nghiên cứu nắm vững lí luận cách mạng và những sáng tạo trong chủ trương đường lối cách mạng Việt nam. Từ đó họ đã có những đóng góp xứng đáng cho cách mạng. Họ đã vinh dự được trở thành người trí thức của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động được nhân dân tin cậy, quý mến...” Đại loại thế, tôi đã làm hết việc của các anh rồi! Anh Thứ về báo cáo lại với các anh lãnh đạo tỉnh ý kiến của tôi và bàn thêm với các anh bên tuyên huấn làm cho tốt vào! Thật tốt vào! Hay lắm! Nói tóm lại, ngôi nhà tưởng niệm này phải thể hiện được các quan điểm về chính trị, tư tưởng; tính văn hóa và tính lịch sử.
 Can trầm ngâm, nặng nề như không nghe thấy gì. Ông ước sao Hoàng chưa chết, chỉ đi vào rừng và biến thành một con vượn. Người ta đang bàn chuyện lập đền thờ cho Hoàng như kiểu đền thờ ông bà La-Hầu ở bến U làng Võ Vàng để lôi kéo khách du lịch và phục vụ cho công tác tuyên truyền ấy.
 Về Hà nội, Tôn nữ Đỗ Quyên không đi dự buổi lễ khai mạc ngày “Lễ hội non sông” mà ra sân bay, bay về Paris. Các con bà đang nóng lòng được biết tin bố. Tiễn bà ở sân bay quốc tế có vợ chồng Can. Quyên đứng trên cầu thang máy bay, quay lại, đôi mắt ráo hoảnh, vẫy tay chào tiễn biệt. Vợ chồng Can nước mắt đầm đìa đứng dưới sân bay vời vợi nhìn theo bóng chiếc máy bay khuất dần trong đụn mây chiều của hoàng hôn như một con chim lạc đàn chưa tìm thấy tổ.
 Can đưa cho Uyển Trang xem tập hồ sơ nghĩ hưu của mình. Trang chăm chú xem: Giấy quyết định kết nạp Đảng, văn bản đề nghị nhà nước phong tặng danh hiệu “Thầy thuốc nhân dân”, quyết định nâng cho Can một bậc lương trước khi nghỉ hưu... Quả thật Can cũng thấy mình được hưởng nhiều sự quan tâm ưu ái của trên. Đồng chí bí thư thành ủy có sự quan tâm đặc biệt đối với Can. Đồng chí ấy đã đến dự và phát biểu ý kiến trong buổi lễ kết nạp Can vào Đảng. Ông nêu rõ những công lao đóng góp của Can, một tấm gương liêm khiết, hết lòng về người bệnh...Can nhận ở ông một sự thân ái chân thành và đặc biệt điều làm Can cảm kích là thái độ của lãnh đạo tôn trọng nhân cách của người trí thức. Nhưng từ hôm lên rừng về ông thấy lòng mình nặng nề. Có hôm ông bỏ ăn. Uyển Trang lo lắng,  muốn chia sẻ với chồng, liền bảo:
-         Tội nghiệp anh Hoàng và chị Đỗ Quyên quá! So với anh Hoàng mình cống hiến chẳng được bao lăm lại được nhiều ưu ái hơn!
 Can định nói với vợ điều gì nhưng rồi lại thôi. Ông đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.  Đường phố rực rỡ cờ sao.  Những tấm băng rôn, khẩu hiểu đỏ ối dập dờn trong gió. Ông nghĩ: “ Chắc giờ này Đỗ Quyên đã về đến nhà. Chị sẽ kể lại cho con nghe tinh thần chỉ đạo của đồng chí Đắc Vỵ về việc xây dựng nhà tưởng niệm hai vị Giáo sư Thân Trọng Hoàng và Lê Thúc Can!” Ông phì cười ngộ nghĩnh, người ta đang xây nhà tưởng niệm cho hai vị giáo sư: một vị có thể đang biến thành vượn sống trong rừng và vị kia đã sống nhiều năm như khỉ mà chưa chịu thành khỉ. Uyển Trang hỏi:
-         Anh có gì vui?
-         Vui vì được làm người, vẫn còn là một con người.
Uyển Trang cười theo, nhắc lại ngày ở rừng cực nam Trung bộ, ngày mà Can đầy ghẻ lở, ghẻ ruồi...Nhắc lại cái bữa cơm có đĩa thịt gà sống thiến do bà mang lên, cái động tác vụng về lóng ngóng của Can khi ông được “tập thể suy tôn” gắp cho cái đầu gà, loay hoay mãi không cách gì ăn được, không được một miếng nào vào miệng... “Ai ngờ chúng ta còn được như ngày hôm nay!”, không ai bảo ai, hai người đồng thanh bật ra câu ấy.
 Có người bấm chuông. Uyển Trang chạy xuống nhà. Bà nhìn người đàn bà quê kệch đang đứng ngoài hàng rào, đòn gánh trên vai, một đầu là chiếc bu gà, đầu kia là một bị cói. Ngạc nhiên! Bao năm nay chưa bao giờ ông cho bất cứ một bệnh nhân hoặc người nhà của họ đến nhà, tuyệt đối không nhận của họ bất cứ một món quà nào dù lớn, dù nhỏ. Uyển Trang hỏi người đàn bà:
-         Chị hỏi ai?
-         Dạ! Thưa, tôi muốn hỏi Giáo sư Lê Thúc Can.
-         Chị có việc gì cần?
-         Dạ! Ông ấy có thư, người đàn bà nói đầy vẻ sợ sệt rồi móc túi lấy bức thư đưa cho Uyển Trang.
 Bà cầm thư đi vội lên nhà đưa cho chồng. Can xem qua bức thư nói với vợ: “Mình xuống mời chị ấy vào, người nhà ông Bí thư, một cán bộ lão thành cách mạng đang nằm viện nhờ tôi ngày mai đến mổ giúp...”
-         Nhưng ông nghỉ hưu rồi cơ mà?
-         Ừ, đang nghỉ chế độ chưa nhận sổ, mấy lại, đối với giáo sư, khi bệnh viện cần họ có thể mời. Đi hay không là tùy mình nhưng trường hợp này, ông bí thư có thư riêng nữa thì chắc chắn phải đi rồi.
 Người đàn bà vào sân. Can cầm thư trong tay, xuống nhà chào khách như là để nhận mặt rồi lên phòng ngồi đọc. Người đàn bà ngồi xuống chiếc ghế đá, mồm năm, miệng mười chị kể cho Uyển Trang nghe về thân thế sự nghiệp của chồng mình, về mối quan hệ thân thiết giữa chồng chị và ông bí thư. Chị để gọn cái bu gà và cái bị cói đựng đầy nếp vào góc bếp cạnh đấy. Uyển Trang nhìn sang hỏi:
-         Chị để cái gì vào bếp đấy?
-         Không có gì đâu, chỉ có mấy thứ bác H (Ông bí thư) bảo đem xuống bồi dưỡng cho Giáo sư.
 Uyển Trang phân vân, nếu là quà của bệnh nhân thì dứt khoát trả lại còn đây là của ông bí thư...? Bà định chạy lên hỏi chồng thì chị ta đã te tái ra cửa: “Em phải vào viện bây giờ đây, nhà em nặng lắm không ai chăm...”
 Uyển Trang lên nhà. Đêm đã muộn. Bà giục ông đi ngủ. Sáng mai còn ca mổ. Nằm xuống giường, bà sực nhớ đến cái bu gà, định nói với chồng, lại thôi. Cái việc vặt ấy, đừng làm anh ấy bận tâm. Tính anh lại quá thận trọng, có khi lại suy nghĩ, mất ngủ ảnh hưởng đến tính mệnh của bệnh nhân ngày mai.
 Giáo sư Can vào viện sớm. Ông ghé qua kiểm tra lại tình hình bệnh nhân, dặn bác sĩ trực và y tá những việc chuẩn bị cần thiết cho ca mổ rồi vào phòng ngồi nghiên cứu hồ sơ bệnh án của bệnh nhân. Can hết sức ngạc nhiên. Người cán bộ lão thành cách mạng mà đồng chí bí thư đích thân yêu cầu mình mổ không ai khác là Hoàng Trình tức cai Trình! Cái vết sẹo đen trên tai y nói lên tất cả. Gặp nhau ở Kim sa, ngay cái đêm hôm trước khi cướp chính quyền của cách mạng tháng Tám năm bốn lăm cùng với Sáu Hoàng. Thì ra thế! Can kinh ngạc, thì ra xung quanh mình, mình chẳng biết ai là bạn, ai là thù cả. Ông tự trách mình có mắt mà không trông thấy núi Thái sơn! Vì sự nghiệp cách mạng bao nhiêu người phải mai danh ẩn tích, phải đội lốt làm một kẻ xấu xa như thế! Mình thật ngây thơ, ngây thơ! Ông tự trách mình trong nỗi bàng hoàng. Khi ông vào, Cai Trình giả vờ đau đớn nhắm mắt như không hề biết Can. Thảo nào đồng chí bí thư thành ủy đặc biệt quan tâm như thế! Thì ra họ lãnh đạo mình, nắm sinh mệnh của mình thế mà bên ngoài họ làm ra vẻ một kẻ hèn mọn, chịu để người khác sai vặt. Họ lại còn làm những việc mà người đời coi là nhục nhã phi đạo đức nữa chứ! Sự hy sinh của họ cao cả quá! Cai Trình đã thoáng nhìn thấy Can từ cả tuần nay nhưng hai người chưa xáp mặt bao giờ. Y lo ngại, nếu Can biết, rồi Sáu Hoàng biết nữa, thì chắc chắn y bị lộ tẩy. Y nghĩ kế loại trừ Can.  Nhân hôm đồng chí bí thư vào viện thăm một đồng chí thành ủy viên, nghe nói có đồng chí Hoàng Trình lão thành cách mạng, ủy viên ủy ban mặt trận Tổ quốc cũng nằm viện ở đây. Ông ghé thăm. Trong công tác của mình ông đặc biệt quan tâm đến những đối tượng gia đình có công với cách mạng và các “đồng chí lão thành.” Nhìn thấy đồng chí bí thư, cai Trình làm ra vẻ xúc động, gượng ngồi dậy. Đồng chí bí thư ra hiệu bảo y nằm. Ông hỏi:
-         Đồng chí có cần giúp đỡ gì không?
Cai Trình nằm yên nhăn nhó như đang nén cơn đau, nói:
-         Tôi tuổi tác rồi lại bệnh tình thương tích đầy người, kì này không chắc đã qua khỏi. Ngày mai tôi lên bàn mổ, chỉ xin đồng chí chỉ thị cho bệnh viện để Giáo sư Lê Thúc Can mổ cho tôi.
 Đồng chí bí thư nhìn giám đốc bệnh viện đứng cạnh, có ý dò hỏi ý kiến. Giám đốc nói:
-         Giáo sư Can đang nghỉ chế độ chờ nhận quyết định nghỉ hưu.
-         Không có vấn đề gì, nếu về mặt chuyên môn các đồng chí thấy được thì tôi sẽ cho gọi giáo sư đến mổ cho đồng chí Trình. Đồng chí bí thư nói.
-         Tốt quá! Giám đốc nói, được giáo sư can mổ cho thì đảm bảo quá rồi.
 Đồng chí Bí thư bảo thư kí thảo một bức thư cho giáo sư Can, ông kí vào đưa cho Trình, dặn: “Bảo chị ấy trực tiếp mang đến đưa cho giáo sư Can.” Trình kể lại câu chuyện đồng chí bí thư đến thăm mình, mặt mày bà Xanh (vợ Trình) vênh vang rạng rỡ. Cai Trình ghé tai dặn vợ: Như thế...như thế...
Hôm sau, trước giờ mổ, bà Xanh đã đứng chờ trước cửa phòng mổ. Theo quy định, người nhà bệnh nhân không được đứng đấy nhưng vì bà là vợ của một đồng chí “lão thành cách mạng” nên không ai dám đuổi bà đi. Bà né người để chiếc xe đẩy phủ ga trắng đưa cai Trình vào phòng mổ. Có ba bốn người mặc blu trắng đi theo xe, không thấy giáo sư Can đâu, bà chẳng phân biệt ai là bác sĩ ai là y tá. Đứng bên ngoài, bà ghé tai vào vách kính,  trong phòng lặng im. Tưởng họ đang mổ chồng mình bà đạp cửa xô vào quát: “ các anh không được mổ chồng tôi! Đồng chí bí thư đã chỉ định Giáo sư Can mổ cơ mà? Tôi đã trực tiếp đến gặp Giáo sư ở nhà, đã trao quà cáp, giáo sư đã nhận và hứa hôm nay sẽ mổ cho chồng tôi cơ mà!” Một bác sĩ gây mê đang làm nhiệm vụ nổi cáu, bảo cô y tá: “Đưa chị ta ra ngoài...” Chị ta cấu xé cô y tá không chịu đi. Người đàn ông mặc Blu trắng đứng cạnh phải giúp sức mới lôi được chị ta ra ngoài sân. Đứng giữa sân, chị ta te tát kể lể nào một con gà sống thiến ba cân, hai con gà mái ghẹ, nào mười cân nếp...Một số người tò mò vây quanh, có kẻ xấu bụng muốn khai thác để lấy bằng chứng đấu đá, xen vào hỏi theo kiểu “mớn cung”...Om sòm cả một góc sân.
 Giáo sư Can ngồi ở phòng trong chờ các bác sĩ phụ mổ làm xong các thủ tục gây mê và kiểm tra bệnh nhân lần cuối. Làm như không nghe thấy gì từ cái om sòm ở ngoài sân,  ông bước vào phòng mổ. Thực hiện thành công ca mổ của mình. Ông gục xuống cạnh gường mổ. Một cơn tai biến mạch máu não đến với ông. Cấp cứu cho ông xong, chiều ấy, theo yêu cầu của ông, bệnh viện đưa ông về nằm điều trị tại nhà.
Mấy giáo sư, bác sĩ, bạn bè thân tín dìu ông ra xe, theo ông về nhà. Nhiều người nhìn theo ông lưu luyến, cảm thương. Vài người túm tụm ở góc xa nhìn theo ông, bảo nhau:
-         Khi còn là “quần chúng” đang  “phấn đấu” vào đảng thì ai cũng gương mẫu, cũng thánh thiện lắm những đã trở thành đảng viên rồi thì y như rằng  thành ngay kẻ hối lộ, tham nhũng...
-         Chuyện ấy có gì lạ! người kia nói, người ta hối lộ là hối lộ cho kẻ có chức có quyền để nhờ vả việc này, việc kia, để chạy chức, chạy quyền. Phải là đảng viên mới có thể trở thành người có chức có quyền được chứ! Cứ làm cái thằng “Bạch đinh” như ông, như tôi...có chó nó đem của hối lộ cho mình. Không chức, không quyền như chúng ta, may ra tham nhũng được bát cơm nguội của vợ!
 Đồng chí Hoàng Trình ra viện, khỏe mạnh hơn xưa. Cái tin bí thư thành ủy vào tận bệnh viện thăm ông và trực tiếp chỉ thị cho bác sĩ giỏi nhất nước mổ cho ông nhanh chóng loang khắp làng, khắp huyện ông. Ở ngay cái thành phố rộng lớn này hầu như tất cả cán bộ chủ chốt của các ban , ngành, các sở đều biết. Họ loan truyền không phải vì cái sự cống hiến công lao to lớn của “đồng chí lão thành” cho sự nghiệp cách mạng mà cái chính là tỏ sự ngưỡng mộ cái tác phong sâu sát, cái đạo đức ngời sáng của đồng chí bí thư. Dù gì thì gì, Hoàng Trình lên đến đỉnh cao danh vọng.
 Còn nhớ cái ngày đầu lão mới về làng, sau Ba mươi tháng Tư. Lão mặc một bộ quân phục cấp tá của sĩ quan quân đội nhân dân Việt nam, bằng dạ, màu cứt ngựa, đi đôi dày Cô-sa-ghin[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn46][46][/link], đội mũ mềm...Dù vậy, đôi mắt lão vẫn không dấu được cái vẻ rụt rè sợ sệt. Lão ngồi vào một chiếc ghế tận trong góc của một quán nước. Đợi lúc thưa người, lão hỏi chủ quán:
-         Nhà bà Măng còn ở xóm này hay đã đi đâu rồi hở cụ?
Bà lão ngẫng đầu nhìn ra cánh đồng trước mặt, đôi mắt  xa xăm như đang lục trong trí nhớ của mình cái tên “Bà Măng” nào đó. Hình như bà đã mường tượng nhớ ra nhưng có vẻ chưa chắc chắn. Bà đưa mắt nhìn một ông khách nhiều tuổi cùng làng, tỏ ý cầu viện.
-         Có phải...
-         Tôi nhớ ra rồi, ông khách nói, bà Măng vợ ông Đá ở xóm trong. Ông bà ấy mất lâu rồi, có mỗi đứa con trai là thằng Mốc...
-         A! đúng rồi, bà lão kêu lên, thằng Mộc... Hắn làm nhân viên an ninh, trật tự gì của xã ấy. Bây giờ tên hắn là Mộc, ngày nào chẳng lượn qua đây mấy vòng, ngồi uống nước, nghe ngóng. Hồi đầu thấy hắn người ta sợ, chẳng ai dám nói tếu táo gì. Hắn cũng ra oai, muốn ngầm tỏ cho mọi người biết mình là nhân viên tình báo, công an mật. Ngay cả cái con vợ hắn cũng lấn lướt người khác, đi đâu cũng quang quác cái mồm: “Chồng tao à công an đấy, liệu hồn...” Bây giờ thì người ta coi hắn như củ khoai. Có hắn ngồi trong quán người ta nói càng dữ...
-         Nói bậy thế không sợ bị bắt à? Ông già hỏi.
-         Có mà bắt hết cả làng! Với lại cái thằng Mốc mặt chuột này rất khôn. Hắn nghe rồi để bụng vậy thôi, còn báo cáo lên trên bao giờ hắn cũng bảo tình hình an ninh chính trị ở khu vực hắn phụ trách rất tốt, nhân dân phấn khởi tuyệt đối tin tưởng vào mọi chủ trương đường lối của đảng, chính phủ...Thế là khôn, khỏi mất lòng bà con, lối xóm lại được trên đánh giá hắn là cán bộ có năng lực.
 Lão Trình ngồi nghe. Mặt mày rạng rỡ. “Mình có thằng cháu cậu, làm công an xã thế là ổn rồi...” Trình nghĩ bụng, bước ra khỏi quán, tìm về nhà Mộc. Mộc làm thợ xây. Dạo này trời mưa, ít việc, hắn ở nhà sửa sang lại cái bếp. Thấy khách lạ, hắn dừng tay, nhìn ra sân. “Một vị cấp tá đến nhà?”Hắn lấy làm sung sướng, bước ra lễ độ chào khách. Trình nở một nụ cười mãn nguyện. Cái răng vàng lóe sáng hỏi:
-         Còn nhớ cậu không? Hai tay y đặt lên vai Mộc đầy thân thiện và tin cậy.
“Cậu”? Mộc ngơ ngác nhìn bộ quân phục cấp tá, khuôn mặt rám nắng, dạn dày phong sương.
-         Có bao giờ, cháu được nghe người trong nhà nhắc đến tên cậu, “Cậu Trình” không? Trình hỏi đứa cháu đang cầm chặt hai tay mình, nét mặt bán tín, bán nghi. Biết cháu mình đang nghi vấn điều gì, lão bảo: “Trình, cai Trình ấy mà!”
-         Ô! Cậu Cai. Mộc reo lên sung sướng.
 “Cậu Cai!” Hai tiếng thân thuộc ấy đã sống trong kí ức tuổi thơ, trong những giấc mơ ngọt ngào của Mộc của những năm tháng đói nghèo, vật vã. Bố mẹ Mộc thường nhắc đến cậu với một tấm lòng thành kính trong những giờ phút cam go của cuộc đời như cầu nguyện một vị thần linh, một đấng cứu tinh. Cả cái làng Cót quanh năm thiếu đói, mù chữ này lại có một người con đăng lính đóng đến chức cai. Họ ngưỡng mộ, cung kính Trình hơn cả vị Thành hoàng làng. “Bây giờ cậu ấy là một sĩ quan cấp cao của quân đội nhân dân Việt nam!” Mộc nghĩ bụng: “Không tướng thì cũng là Đại tá.”
 Cơm nước xong, vợ con đã đi ngủ, bên ngọn đèn, Mộc được cậu Trình cho xem văn bản xác nhận “Đồng chí Hoàng Trình, Quê quán... tham gia cách mạng trước 1945, có công trong việc vận động binh lính phản chiến, cướp chính quyền tại Thị xã Kim Sa- Tỉnh B, khu 6. Chức vụ: Trung đội phó bộ đội địa phương.” Văn bản do phó chủ tịch tỉnh Thân Trọng Hoàng kí.
 “ Trời ơi! Trời ơi, Cậu Trình của ta...” Mộc như muốn gào lên, gào thật to: “ Cậu ta tham gia cách mạng trước Bốn lăm, làm trung đội phó từ cái thời mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chỉ mới là trung đội trưởng!... Mình hết khổ rồi, kì này mình sẽ...mình sẽ làm...” Hắn không nghĩ ra được “mình sẽ” làm gì nếu được lựa chọn chức vụ theo nhu cầu. Cho đến bây giờ, mới chiều nay thôi, trước khi gặp cậu Trình, trời mưa, hắn ngồi ở nhà, nghĩ bụng, nếu trên đài tuyên bố chúng ta đã tiến lên chủ nghĩa cộng sản rồi, mọi người được quyền hưởng theo nhu cầu thì hắn tức thì xông ra cửa hàng thịt chó làm một đĩa dồi tú ụ và chục vại bia.
 Chỉ trong buổi sáng hôm sau, cả cái làng Cót này biết, cả xã biết, cả huyện biết...Niềm vinh dự lớn lao...Đồng chí Hoàng Trình, người con ưu tú của Làng Cót đã trở về. Đồng chí bí thư đảng ủy xã, chủ tịch xã đến sớm nhất trong khi Mộc đang “trên tầng cây số” đi đưa cái tin quan trọng này. Hoàng Trình trong dáng dấp bệ vệ nhưng thân tình bắt tay họ, ông bảo:
-         Tôi định lát nữa lên đảng ủy, ủy ban chào các đồng chí và báo cáo một số tình hình...
-         Quý hóa quá, đồng chí trong khi bận những việc đại sự quốc gia vẫn nhớ về thăm lại quê hương thế này làm chúng tôi cảm kích quá!
 Đồng chí bí thư đảng ủy xã gặp Mộc bảo:
-         Cụ có nguyện vọng tuổi già về sống tại quê hương thật là một vinh dự cho xã nhà. Chúng tôi đã báo cáo lên trên để giải quyết các chế độ chính sách thỏa đáng đối với các đồng chí lão thành, có công với cách mạng. Trên rất hoan nghênh nhưng về văn bản pháp lí để giải quyết chế độ còn thiếu, cụ thể là giai đoạn từ sau cướp chính quyền cụ làm gì, ở đâu? Chúng tôi chưa giải trình được. Anh về bảo cụ bổ túc thêm hồ sơ. Anh lựa lời mà nói cho phải chăng, làm cụ giận thì gay đấy.
 Cơ sở nghỉ dưỡng cho cán bộ cao cấp toàn miền đặt ở khu N, nơi có con suối nước nóng Long Bối. Từ đấy sang đất bạn không xa, Đoàn tự Lập và Cáp Doãn Tần mới này nào là tân binh, sinh viên mới nhập ngũ, bây giờ đã là cán bộ cấp sư đoàn, quân đoàn. Đoàn Tự Lập giờ cũng là sư trưởng, Cáp Doãn Tần là thiếu tướng, chính ủy quân khu. Hai người có dịp sang thăm lại Cay tơ Rinh. Được dịp, Cay tơ Rinh cũng mang quà sang biếu trại an dưỡng. Có khi ông còn biếu trại cả con gấu to. Ông còn sang giúp trại nấu cao. Giờ thì Cay tơ Rinh trở thành cơ sở tin cậy của trại an dưỡng. Gặp bữa ông còn được mời ngồi ăn cơm với các cán bộ cấp cao, dù lúc đó không có mặt của Tần và Lập.
 Nghe Mộc nói “ý kiến của trên”. Trình cười đầy vẻ an tâm, coi như mọi việc thế là xong. Trình tìm đến Cáp Doãn Tần, người đã có ấn tượng sâu sắc với Cay Tơ Rinh từ hồi cậu ta còn là lính mới tò te, nhờ Tần xác nhận: “Đồng chí Hoàng Trình, tức Cai Trình, tức Cay-tơ Rinh là người phụ trách cơ sở cách mạng của ta bên đất bạn với nhiệm vụ bảo vệ sườn phía tây của an toàn khu...Từ sau tháng tám năm 1945 đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam...” Mộc bàn với Trình, mọi việc phát ngôn với chính quyền về quyền lợi của Trình để Mộc lo. Gặp chính quyền, đảng ủy hỏi về tâm tư nguyện vọng, Trình chỉ nói một câu: “Làm một người cách mạng, ước mong lớn nhất của tôi là đất nước được hoàn toàn giải phóng, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc. Tôi tự hào vì mình đã góp được phần nhỏ bé vào sự nghiệp vẻ vang ấy. Tôi mãn nguyện lắm rồi, không đòi hỏi điều gì hơn...” Đảng ủy hỏi Mộc về yêu cầu, nguyện vọng của Trình. Mộc bảo:
-         Cụ Bôn[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn47][47][/link]lắm chẳng đòi hỏi gì. Nếu được, nằm trong khả năng của mình, nên cấp cho cụ mấy sào đất làm nơi ở tuổi già.
Đảng ủy chính quyền hội ý mấy lần, định cấp cho cụ ba trăm mét vuông nhưng chưa dám nói, sợ phật ý cụ. Một người có công lao như cụ phải được cấp mấy nghìn mét, chứ ba trăm mét là cái đinh gì, lại còn đất xấu nữa, sợ cụ mắng, chưa dám nói. Họ trao đổi với Mộc, Mộc bảo:
-         Ông cụ là cách mạng nòi rồi, đừng ngại gì, thế nào cũng xong, chỉ sợ nay mai trên về kiểm tra, thấy chủ tịch, Bí thư ăn ở thế này mà để “một vị lão thành” ở trong xó ấy e không ổn.
 Chủ tịch và bí thư cảm ơn Mộc rối rít, thấy Mộc biết lo xa cho họ. Chủ tịch hỏi Mộc:
-         Theo cậu thì cấp cho cụ ở đâu là thỏa đáng?
 Suy nghĩ một lát Mộc bảo:
-         Theo tôi nên cấp cho cụ cái trận địa Tên lửa bỏ hoang chục năm nay kia kìa..
-         Không được! Bí thư nói, cái trận địa ấy là đất của an ninh- Quốc phòng ta xâm phạm sao được!
-         An ninh, quốc phòng cái mẹ gì, Mộc nói, đất này là đất vườn, đất ruộng của dân. Hồi ấy chiến tranh, họ mượn làm trận địa tạm thời. Mười năm nay bỏ hoang cỏ mọc đầy.  Họ đang đi đo lại để lấy đất chia nhau làm nhà đấy! Thôn dưới, đất ngon hơn họ đã chia nhau rồi, chia không đều đang kiện cáo nhau om sòm nên phải dừng lại đấy. Mộc nói tiếp:
-         Các ông cứ làm quyết định cấp cho cụ. Tôi sẽ thuyết phục cụ cho. Nếu bên Phòng không có xuống đòi, các anh cứ nói cứng vào, đòi họ xuất trình quyết định của Bộ quốc phòng lấy diện tích này làm căn cứ quân sự, bảo  họ đất đã được cấp cho đối tượng lão thành cách mạng rồi, cho kẹo họ cũng chẳng dám đòi.
Trình được cấp 1800 mét vuông, dân vui mừng vì không lấy đất canh tác của họ chia cho “đối tượng chính sách”, không ai kiện cáo gì. Chính quyền, đảng ủy không ngờ giải pháp của Mộc được cụ chấp nhận một cách dễ dàng.
Hôm sau, theo ý kiến của Đảng ủy, Xã đội, Đoàn thanh niên huy động mọi lực lượng đến san nền. Đang làm, một đồng chí thượng úy, người của cục doanh trại đến hỏi:
-         Ai phụ trách ở đây?
-         Tôi, Mộc bước tới, gọi viên Thượng úy ra một góc nói: “Như thế...Như thế...” Rồi bảo viên Thượng úy: “Anh ghé vào làm việc thêm với đồng chí bí thư đảng ủy và chủ tịch, tôi cũng chỉ biết được một phần thôi, làm theo mệnh lệnh của trên thôi.”
 Sau khi nghe ý kiến của chủ tịch và Bí thư, đồng chí thượng úy trở lại hiện trường, lễ phép chào Hoàng Trình. Hoàng Trình rất biết phép dọa người. Y ngồi yên đưa tay cho viên thượng úy bắt, mắt vấn nhìn ra ngoài “công trường” ,nói:
-         Đồng chí ngồi đi! Rồi bảo Mộc: “Lấy nước mời khách đi chứ!”
-         Đồng chí về bảo với đồng chí tư lệnh đến đây gặp tôi. Cái việc các đồng chí đang làm với dân ở đây có nhiều điều chưa ổn. Đồng chí có biết mảnh đất ta đang ngồi đây của ai không? Chắc không phải là đất doanh trại để các đồng chí chia nhau làm nhà đấy chứ? Đừng lạm dụng lòng tốt của nhân dân. Trong chiến tranh, nhân dân đã hy sinh cả mảnh ruộng, mảnh đất thờ cúng tổ tiên của họ để bộ đội làm trận địa đánh giặc. Giờ hết chiến tranh rồi các đồng chí phải đến cảm ơn, xin lỗi họ và trả lại đất cho họ mới phải. Đã không làm thế lại còn nấp dưới chiêu bài đất của an ninh quốc phòng để chia nhau. Thư thư công việc tôi sẽ lên làm việc với Tổng cục chính trị về việc này.
 Nghe viên thượng úy báo cáo lại tình hình đồng chí Tư lệnh rất lo. Việc lấy đất của các trận địa pháo thời chiến tranh làm đất ở là một việc làm không đúng nhưng vì tình thế khó khăn, nhiều đồng chí cán bộ cả đời xông pha trận mạc bây giờ về già chưa có được vài chục mét vuông nhà để sum vầy với vợ con cũng thật tội nghiệp. Ông quyết định “lách luật” để làm nhưng nếu để dân phản ứng thì không thể được. Ông bực bội nói với viên thượng úy:
-         Tôi bảo đồng chí đi nắm lại tình hình các trận địa về báo cáo tôi. Ai bảo đồng chí đi làm việc với đảng ủy, ủy ban lại chạm trán với các bậc lão thành cách mạng ở địa phương...?
Viên thượng úy vò đầu gãi tai thanh minh, trình bày lại sự việc, nói:
-         Chính quyền địa phương, nhân dân chưa có ý kiến gì đâu. Chỉ có đồng chí lão thành cách mạng có ý kiến thôi. Ông ấy có vẻ là một “cụ cốp”, chính quyền địa phương từ xã tới huyện đều rất sợ, muốn làm hài lòng ông ấy. Theo em, ông ấy là một cán bộ lão thành rất mực thước, biết thương người, không căng thẳng gì đâu. Ông nói là có ý chân thành giáo dục cách nghĩ, cách làm việc cho thế hệ sau thôi không có ác ý gì. Thủ trưởng nên bố trí thời gian xuống gặp ông ấy một tý, tỏ ra mình biết điều là xong. Nếu được ông ấy ủng hộ thì chẳng có chuyện gì phải lo nữa đâu.
-         Ngày mai cậu đi với tôi xuống đấy, bảo bên hậu cần chuẩn bị một túi quà, một phong bì. Bảo cậu Châm cần vụ cùng đi.
 Vẫn như thế, Trình vẫn ngồi nguyên trên ghế nhưng nở nụ cười thân thiện đưa tay cho Thiếu tướng, tư lệnh Chu bắt. Mời ngồi. Chu nhìn mặt Hoàng Trình, bắt đầu câu chuyện:
-         Báo cáo thủ trưởng, hôm qua đồng chí Cử (tên viên thượng úy) về báo cáo, tôi mới được biết thủ trưởng gần cả đời người đi hoạt động cách mạng, nay về sinh sống tại quê nhà. Cấp ủy, chính quyền địa phương cũng đang làm hết sức mình để  chăm lo cho những người có công với cách mạng như thủ trưởng có được cuộc sống yên vui tuổi già. Tôi nghĩ dù có làm gì đi nữa cũng không bao giờ bù đắp, đền đáp hết công lao của những người tiền bối cách mạng như thủ trưởng. Một sự tình cờ mà rất có ý nghĩa là ngay trên trận địa, mảnh đất ta đang ngồi, đơn vị tên lửa này đã bắn rơi pháo đài B52 trong trận “Điện biên phủ trên không”. Nay trên mảnh đất anh hùng ấy lại có một vị lão thành cách mạng kì cựu như thủ trưởng về ở. Hay quá! Hay quá! Đúng là “châu về Hợp phố”. Với ý nghĩa đó, đơn vị chúng tôi xin phép được đảm nhận việc xây dựng ngôi “nhà tình nghĩa” ngay trên mảnh đất này tặng thủ trưởng, đảm bảo cho thủ trưởng sống những ngày tiện nghi thoải mái. Trước nhà sẽ có một vườn hoa và nếu được thủ trưởng đồng ý, chúng tôi xin dựng một tấm bia kỉ niệm chiến công bắn rơi B52.
-         Tôi sống giản đơn quen rồi, Trình nói, các đồng chí làm được gì thì làm cốt để giáo dục cho thế hệ sau...Nhà đừng làm cầu kì quá làm gì. Mình là chiến sĩ cách mạng chứ không phải là quan cách mạng.
-         Thú thật với thủ trưởng, đời sống của cán bộ chiến sĩ của đơn vị hiện còn rất khó khăn. Phụ trách một đơn vị, chúng em lo lắng nhất là vấn đề chỗ ở. Chỉ còn trông chờ vào mấy cái trận địa này thôi, nếu có vấn đề gì khó khăn liên quan đến địa phương, thủ trưởng giúp cho. Tiếng nói của thủ trưởng quan trọng lắm.
-         Dân mình tốt lắm, chỉ cần biết ăn, biết ở là được. Tôi sẽ giúp, đừng lo. Bộ đội mình hy sinh nhiều quá rồi, biết lo cho đời sống của họ như đồng chí là một cán bộ tốt đấy! Tôi chắc nhân dân sẽ đồng tình.
 Ngôi nhà của Hoàng Trình được xây xong. Mấy ngôi nhà nghỉ của Bảo Đại ở Vũng Tàu, Đà lạt phải gọi cái nhà này bằng “Cụ”. Những hàng cau vua cao hàng chục mét được chở ở đâu về trồng lên uy nghi. Những khóm hoa đại, hoa lộc vừng cổ thụ có cả trăm năm tuổi bài trí trong vườn một cách rất hài hòa... Vườn hoa đầy những thứ hoa thơm, cỏ lạ.  Bể bơi nước trong xanh lăn tăn gợn sóng...
 Bí thư đảng ủy, chủ tịch xã đến gặp Mộc, xin phép được đến mừng nhà mới của cụ. Mộc đưa bàn tay phải lên trời huơ huơ, nói:
-         Chết, chết! Không được đâu, cụ đang cáu.
Bí thư và chủ tịch xích lại gần Mộc, nghiêng tai như muốn nghe điều cơ mật, hỏi rất khẽ:
-         Cáu vì chuyện gì?
-         Chuyện này phức tạp lắm...Quân ủy trung ương, ban tổ chức trung ương quyết định xây cho cụ một biệt thự hoành tráng xứng đáng với công lao của cụ nhưng cụ gạt phách đi. Tôi thuyết phục mãi, cuối cùng cụ đồng ý cho xây với điều kiện giảm bớt diện tích và quy mô xây dựng đi một nửa. Ai ngờ, xây nhà xong họ lại bày ra làm vườn hoa cây cảnh, bể bơi...Cụ quát tôi mất mặn mất nhạt...Gay lắm, mấy ngày nay tôi không dám nhìn mặt cụ.
 Qua cái miệng thằng Mộc, câu chuyện “ban tổ chức trung ương, quân ủy trung ương” xây nhà cho “cụ”lại lan truyền khắp vùng. Cái đức độ của “cụ” lên cao chín tầng mây. Bất cứ một hoạt động nào của địa phương, người ta cố mời cụ tham dự, ngồi trên ghế chủ tịch đoàn long trọng. Các nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ,  các đề tài nghiên cứu khoa học như: “Dân chủ ở cơ sở; Xây dựng nông thôn mới; Vấn đề kết hợp “ba nhà”[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn48][48][/link]trong phát triển nông nghiệp và nông thôn...”đều tìm cách mời bằng được cụ tham gia hướng dẫn, cố vấn đề tài. Được cụ làm người hướng dẫn luận án, coi như đã cầm chắc bằng tiến sĩ trong tay. Có cụ trong ban chủ nhiệm hoặc cố vấn khoa học đề tài nghiên cứu khoa học, chắc chắn đề tài ấy được nghiệm thu với kết quả xuất sắc! Người ta vận động mãi, cũng nhờ có thằng Mộc thuyết phục, cụ đồng ý tham gia đoàn chủ tịch mặt trận. Công việc của cụ lu bù, nếu không có thằng Mộc khéo thu xếp, hỗ trợ thì cũng khó mà hoàn thành được. Gặp ai cụ cũng kêu: “Công việc lu bu quá, tưởng về hưu được an nghỉ tuổi già, nào ngờ còn vất vả hơn thời “đương chức.”
 Con đường nhỏ trước mặt nhà cụ bây giờ đã trở thành con phố lớn, bốn làn đường xe chạy. Khoảnh đất bên kia đường, trước đây là ao chuôm, giờ được san lấp. Một khu thương mại- dịch vụ đồ sộ được mọc lên. Đất vùng này cứ lên giá vùn vụt, mười “cây” một mét vuông mà thằng Mộc vẫn chưa chấp nhận để trình cụ duyệt. Cụ mua một chiếc Toyota 3.0 màu đen bóng, thằng Mạc con trai của Mộc trở thành tài xế riêng của cụ. Thằng Mộc lại đi thì thầm: “Mua đâu mà mua! Xe này là ban Tài chính quản trị trung ương cấp cho cụ đấy. Họ định treo biển 80B, cụ kiên quyết phản đối nên mới treo cái biển trắng này!”
 Nỗi lo của Hoàng Trình bây giờ là Thân Trọng Hoàng và Lê thúc Can. Hai người biết rõ ngọn nguồn của Cai Trình, từ cái sẹo đen như con đỉa vắt ngang tai đến việc y bê tha rồi bỏ trốn cùng với cô Xanh, một cô gái “Nghề chơi cũng đã về già hết duyên” sang Nam Lào làm rẫy kiếm sống qua ngày...Mấy lần trước vào viện kiểm tra sức khỏe, lão đã thoáng thấy Bác sĩ Can. Lão tìm cách lánh mặt, về nhà nghĩ kế. Được tin Can đã có quyết định : “Nghỉ chế độ” Lão thực thi âm mưu của mình. “Phen này thằng Can có sống cũng thân tàn ma dại, chẳng còn ai tin ở lão...mà nói cho cùng, ngay cả khi hắn còn làm việc cũng chẳng ai tin gì cái thằng cha “Bạch vệ” [link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftn49][49][/link] ấy! Nhưng dù sao, nếu hắn còn tồn tại cũng phiền phức cho mình, lại còn cái lão sáu Hoàng nữa! Thôi kì này cho hắn chết, chết hẳn...”
 
*
*   *
 Bệnh viện đang lo tổ chức buổi lễ trao tặng danh hiệu Nhà nước “ Thầy thuốc nhân dân” và tuyên bố chuyển đảng chính thức cho Giáo sư Lê Thúc Can. Theo ý kiến của đồng chí bí thư thành ủy, buổi lễ phải được tổ chức trọng thể trang nghiêm. Đồng chí bí thư đã nhắc nhở nhiều lần: “Giáo sư Lê Thúc Can là một trường hợp đặc biệt, một trí thức lớn đi theo cách mạng từ những ngày đầu, thủy chung như nhất, một lòng phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, có nhiều đóng góp công hiến cho cách mạng. Làm tốt việc này không chỉ là sự đền đáp, ghi nhận công lao của giáo sư mà còn nêu một tấm gương sáng để giáo dục các thế hệ trí thức hôm nay và mai sau, giáo dục thế hệ trẻ...” Hội trường được trang hoàng lộng lẫy, hàng trăm giấy mời được phát đi. Với sự có mặt của đồng chí bí thư, chắc chắn đồng chí Bộ trưởng cũng sẽ nhận lời mời đến dự. Cả bệnh viện rộn ràng như đón ngày hội lớn.
 Trước hôm tổ chức buổi lễ, bệnh viện cử cán bộ đến nhà Giáo sư trực tiếp mời giáo sư và phu nhân đến dự. Thông báo cho giáo sư biết bí thư thành ủy và bộ trưởng sẽ có mặt trong buổi lễ và trực tiếp trao cho giáo sư quyết định phong tặng danh hiệu “Thầy thuốc nhân dân.”
 Hai gian phòng im ắng. Cửa sổ, cửa ra vào đều đóng kín mít. Hàng xóm cho biết từ ngày bị bệnh, giáo sư không tiếp một ai. Cũng ít khi nghe tiếng người bên ấy. Thấy mọi người quây quần trước cửa nhà giáo sư bàn tán, bà hàng nước bên kia đường chạy sang, hạ giọng nói đầy vẻ bí mật: “Ông bà ấy đi gần hai tháng rồi, chưa về đâu, bà ấy xách theo cả cái va li to...Họ đi ô tô, biển số Sài gòn. Có một thanh niên, trạc chừng ba mươi, đặc sệt giọng Nam bộ ra đón, gọi ông bà giáo sư bằng ba, má...”
Cậu cán bộ bệnh viện dỏng tai nghe hết, hốt hoảng chạy về chẳng kịp chào ai.
Con mèo nhị thể trắng đen nằm trên mái bếp, dưới rặng trâm bầu, lim dim mắt nhìn ra ngõ. Nỗi buồn nhớ chủ xa xăm...
                                                           Bán đảo Linh Đàm 30 tháng 6 năm 2010
 
 
                                                                                  V.X.T
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
65 Nguyễn Du- Hà Nội
Tel & FAX:38222135
Email:nxbhoinhavan@hn.vnn.vn
 
 
 
 
Những người
MUÔN NĂM CŨ
Tiểu thuyết
VÕ XUÂN TƯỜNG
 
Chịu trách nhiệm xuất bản
TRUNG TRUNG ĐỈNH
 
Biên tập:
TẠ DUY ANH
Trình bày bìa:
VĂN SÁNG
Sửa bản in:
NGUYỄN THỊ GIAO
 
 
 
 
 
 
 
 
                                In 1000cuốn khổ 13X19cm tại công ty in Phú thịnh
Giấy ĐKKHXB số:673-2010/CXB/47-51HNV.
In xong và nộp lưu chiểu: Quý IV năm 2010.
 


[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref1][1][/link] Các Cụ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh những người thông thái, hay chữ nhất thời đó.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref2][2][/link] Số Đỏ- Vũ Trọng Phụng.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref3][3][/link] Tức Quản Trọng thời chiến quốc, vốn là tử thù của Hoàn công, khi Hoàn công còn là thế tử Tiểu Bạch, Quản Trọng suýt bắn chết Tiểu Bạch. Quản Trọng sợ, bỏ trốn ra nước ngoài. Nghe theo lời tiến cử của Bảo Thúc Nha, Hoàn công mời Quản trọng về tôn là Trọng phụ (cha) và giao mọi Quyền bính cho. Quản Trọng giúp Hoàn công làm nên nghiệp bá.

 

5 Người coi chợ, thu tiền vào chợ và nộp cho làng theo mức khoán.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref6][6][/link] Làm công tác chính trị cho các đơn vị phục vụ cơ quan khu bộ như hậu cần, kĩ thuật, y tế...

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref7][7][/link] Công tác vận động trí thức và binh lính địch đi theo cách mạng.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref8][8][/link] Một- hai, tiếng Pháp.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref9][9][/link] Mật vụ, chỉ điểm cho cảnh sát.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref10][10][/link] Triết gia người Anh 1766- 1834, người đề xướng học thuyết “Nhân mãn”, cho rằng sự mất cân bằng giữa sự tăng dân số và thức ăn dẫn đến xung đột và chiến tranh.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref11][11][/link] Số liệu trước cách mạng tháng tám 1945. Theo các nhà khoa học hiện nay, nếu khai thác triệt để mọi diện tích có thể khai thác được thì diện tích canh tác của nước ta có thể đạt sáu triệu héc ta. Diện tích này đang có nguy cơ thu hẹp do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref12][12][/link] Bỏ kháng chiến trở về vùng địch tạm chiếm.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref13][13][/link] Người được vua ban tước Công, tước lớn thứ nhì sau Quốc công.Tục ngữ có câu: Nhất Quận công, nhì ỉa đồng.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref14][14][/link] Coi thường Vua.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref15][15][/link] Thơ Vũ Hoàng Chương.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref16][16][/link] Loại áo lót cộc tay may bằng vải thô nhuộm bùn hoặc nhuộm bằng lá cây..

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref17][17][/link] Khi Pháp vào xâm lược nước ta, triều đình chia làm hai phái: Phái chủ hòa chủ trương đầu hàng, cắt đất dâng cho Pháp để giữ lấy ngai vàng, phái chủ chiến kiến nghị phát hịch cần vương tập họp lực lượng dân chúng chống lại bọn xâm lược Pháp bảo vệ chủ Quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref18][18][/link] Tiếng Pháp chữ convié cũng có nghĩa là khách mời

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref19][19][/link] Cách gọi miệt thị đối với các lực lượng bộ đội kháng chiến.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref20][20][/link] Câu trong Kinh thi: “Anh kì minh thanh, cầu kì hữu thanh”

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref21][21][/link] Những qu phạm về đạo đức của chế độ phong kiến.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref22][22][/link] Đốc- tờ, bác sĩ, dân làng biết nhà này có thói háo danh nên tâng lên như vậy.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref23][23][/link] Thơ Nguyễn Đình Thi.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref24][24][/link] Dân số Việt nam lúc đó là ba chục triệu, của toàn thế giới là ba tỷ.(Ba nghìn triệu)

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref25][25][/link] Những trí thức như Kỹ sư, bác sĩ, luật sư...đã từng làm việc cho Pháp, không di cư vào Nam, ở lại miền Bắc, được chính quyền cách mạng thu dụng làm việc trong các cơ quan của mình.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref26][26][/link] Thề Lữ- Lời con hổ trong vườn bách thú.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref27][27][/link] Thơ Nghiêm Đa Văn.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref28][28][/link] Thơ Lý Thường Kiệt

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref29][29][/link] Lời trong một bài hát của Trần Hoàn.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref30][30][/link] Kiều

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref31][31][/link] Tư mã Thiên sử gia vĩ đại của Trung Quốc, sinh năm 145 TCN, sống dưới thời Hán Vũ Đế. Thái sử công nước Tề, khi Thôi Trữ giết vua để cướp ngôi. Ông chép vào sử tội ác ác này, Trữ giết ông, người em lên thay cũng chép nguyên như vậy. Trữ lại giết người em. Người em thứ ba cũng vẫn chép như vậy, Trữ sợ không dám giết nữa!

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref32][32][/link] Kiều

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref33][33][/link] Le penseur- người tư tưởng, bức tượng đá tác phẩm nổi tiếng của Rodin đặt ở bảo tàng Louvre- Pháp.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref34][34][/link] Khổng tử, Mạnh tử và Lão tử, Trang tử là những nhà triết học cổ đại lớn của Trung quốc.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref35][35][/link] Montesquieu, nhà triết học lỗi lạc của nước Pháp, một lãnh tụ của phong trào Khai sáng.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref36][36][/link] Xô crát nhà triết học Hy lạp 469-399, ông coi triết học là sự nhận thức của con người về chính bản thân mình, với luận điểm;”Con người, hãy nhận thức chính mình!”

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref37][37][/link]Thơ Đường: Thời lai phong tống Đằng vương các

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref38][38][/link] Loai xe tải siêu trường, siêu trọng dùng để vận chuyển các loại đường ống, gỗ cả cây...

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref39][39][/link] Thơ Tố Hữu

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref40][40][/link] Câu trong “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần, ý nói lấy cái giả làm thật thì cái thật cũng thành giả.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref41][41][/link] Nhà văn Nga

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref42][42][/link] Con chim bị bắn trượt, thấy cái cành cây cong giống hình cái cung cũng không dám đậu.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref43][43][/link] Thơ Tố Hữu.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref44][44][/link] Nguyễn Trãi.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref45][45][/link] Kiều.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref46][46][/link] Dày da do Liên xô trang bị cho binh sĩ.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref47][47][/link] Bôn sê vích, ý nói là rất cộng sản.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref48][48][/link] Nhà nông, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp.

[link=file:///G:/Nh%E1%BB%AFng%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20mu%C3%B4n%20n%C4%83m%20c%C5%A9.doc#_ftnref49][49][/link] Ý nói Can không phải là đảng viên.


 
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9