Cuộc tang thương ( Tiểu thuyết của Đặng Trần Phất -1923)
nvietdung 23.07.2013 18:47:41 (permalink)
Cuộc tang thương - (Phần I)
 
Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tiểu thuyết thứ 2 "Cuộc tang thương"  của Nhà Văn Đặng Trần Phất ( Nhà Xuất bản Bùi Xuân Học- HN  in năm 1923 ). Tôi sẽ lần lượt đăng từng phần. Mời các bạn theo dõi.
Đoạn thứ nhất 
I
Cách tỉnh Phú-Thọ độ chừng ba kilomètres, có một khu đất bỏ hoang, chưa khai-khẩn gì, rộng ước chừng độ bốn mẫu, giữa có một cái chùa nhỏ, lâu ngày đã nát, tường vôi lở, mái nay trông đã sụt mất mấy hàng ngói. Trong chùa tượng Phật cũng đã sây sát cả, những bát hương bụi cát đen sì, còn trông thấy có tàn hương làm di-tích. Dưới đất cũng đầy rặt gạch cát ở trên mái chùa rơi xuống, lẫn với tiền vàng rải rác sót lại.
Nguyên chùa này trước kia thuộc về của dân sở-tại đấy lập có ruộng công để đèn hương cúng Phật; sư-cụ giữ chùa đó vốn là một hạng tiểu-lại xuất-thân, nhưng trong khi tòng-sự phải can tội hà-lạm của dân, nên bị nhà nước cách về. Dân làng nghĩ tình người đồng-hương, lại thấy nghèo đói rách rưới, bèn cho ra giữ chùa thay dân. Chẳng ngờ cu cậu sẵn được ấm no, lại sinh lòng muông thú, cách đó ba tháng, nó quyến rũ mất một người đàn bà đã có chồng con trong làng, rồi thu sếp hành-lý bỏ chùa đi mất, không biết đi đâu. Lý-dịch làng ấy, có đem việc này lên trình quan tỉnh để phái trát tìm bắt, nhưng tên ấy đã đào-tẩu xứ nào rồi, bặt tin nhạn cá, không sao truy nã được nữa. Thành ra chùa đó từ đấy bỏ không, vả lại trong dân mấy năm mất mùa đói kém, nên bao nhiêu ruộng công để hương đèn thờ cúng Phật, đều thu cả về dân, phân phát mỗi người vài sào...
Lâu nay cảnh chùa tiêu-điều, chẳng ai lo sửa sang. Lại thêm đồn rằng đã hơn một năm nay, chùa đó vẫn có ma hiện ra, những lúc đêm khuya thanh vắng, có người trông thấy một người đàn bà mặc áo trắng, đầu bỏ tóc xõa, vẫn nhởn nhơ ở cửa chùa khi hát, khi đùa, khi cười khi khóc, hễ trông thấy ai thì lại biến mất. Truyện lạ kỳ, thành ra đồn khắp mấy làng chung quanh đó, không ai dám bén mảng qua lại nữa...
Những khi chiều giời u-ám, cảnh vật một sắc đìu hiu, đàng xa thì mây xanh thảm đạm, trông gần thì đồng rộng đất hoang, tòa chùa ở giữa trông chẳng khác chi một cây cỏ mọc tron von giữa bãi xa-mạc mông mênh, rồi nghe tiếng quạ kêu lưng giời, tiếng chim ríu rít đàng xa, hòa với những dọng rì rào cành tre gió đập, nghe càng buồn, càng ai-oán càng ngậm ngùi hoài cổ, trông cảnh chùa tàn mà hồi-tưởng đến cuộc tang thương. Lại những đêm giăng không mọc, sao không lên, giời tối mây mờ, cảnh chùa đó trông lại hiu-hắt rầu rĩ vô cùng, tựa hồ như một túp lều gianh nơi Tân-thế-giới, đường đột ở giữa cảnh vũ-trụ cao xa, tịt mù thăm thẳm, khiến cho con mắt người du-tử phải bồn chồn, tự hỏi nơi chùa đó có phải hình-dung đức Phật Tổ, thừa lúc tối tăm này, hiện hồn lên mà than khóc với bãi cỏ khâu, thống-trách cái lòng đơn-bạc vô tín-ngưỡng của người đời, để đến nỗi sương lạnh, giăng mờ, chùa tàn vách đổ, từ đâu nên nỗi như nay ?...
Ký-giả đây, từ khi gánh tang-bồng đã xếp nhẹ hai vai lòng hổ-thỉ đã chán nản tê-mê thì chỉ giữ cái chủ-nghĩa an-bần lạc-đạo, sau khi nợ bút nghiên đã giả, bèn thôi không học lối khoa-cử, mà chỉ chuyên về câu ca, bài phú để di dưỡng tính-tình. Lại thêm đường đời ngang dọc, bụi tục lưng giời, cạnh-tranh sô-sát, bao nhiêu cái bi-kịch hài-kịch về thế-thái nhân-tình thường trình bầy luôn ở trước mắt, nên đối với thế sự thăng-trầm lắm lúc cũng buồn tênh chán ngán, đến nỗi thành ra con người Hoàng-Hy giữa buổi sinh-tồn lao-động này, trộm biết rằng mảnh hình hài dẫu sao cũng còn phải để trực-tiếp với sự-thế, chưa có thể dật-dừ trong cảnh mộng-thế thênh thang được, nhưng lại xin thú thật với ai rằng con mắt ký-giả đã khóc nhiều về nỗi đời thiết tha rồi, bao nhiêu nghị-lực cương-cường đã biến thành cái bệnh nhu-nhược đa-cảm mà đa-sầu, đa-tư mà đa-lự, không cười mà khóc, không vui mà buồn, khiến cho tấm hoài-cổ cùng với tấm cảm-tình lúc nào cũng ngang ngang trong dạ. 
Nên bình-sinh vốn ưa ngao-du các chốn danh-lam cổ-tích, con thuyền Tô-Thức, tay chèo Xích Bích, bầu rượu túi thơ, cuộc cờ núi Họa(1), tưởng cũng quên được cơn phiền-nhiệt nồng nàn mà khoáng-dật đôi chút.
Bấy lâu vẫn nghe chùa này bỏ hoang, cảnh-trí tiêu-sơ buồn bã, tuy đồn rằng có ma thiêng ẩn ở đó, nhưng không lấy làm tin, bèn cùng với bạn thân là Kim-Sinh, nhân ngày đầu tháng tám năm ngoái, khí giời trong sạch mát mẻ thẳng đường lên đấy... Đêm hôm ấy giăng sáng vằng vặc, trăm sao lóng lánh, cảnh-trí chẳng khác gì lúc bình-minh. Trông vừng mây cứ từ từ che lấp mặt giăng, chẳng khác chi một con Thanh-long lăn lộn, rồi nhìn xuống đồng thì một đàn đom-đóm đương bay lập lập lòe lòe, tựa hồ như nghìn bó đuốc soi xuống cảnh trần-gian... Tòa chùa nát vẫn sừng sững ở giữa khu đất bỏ không, tựa hồ như vẫn còn buồn phiền cho cuộc dâu bể soay vần... Chốc lại ngọn gió đàng xa thổi lại, rồi  tiếng run kêu, rế thét đồng-thanh, rền rĩ, âm thầm, như giọng hờn oán của người bạc-mệnh trong thâm-cung cùng-tịch. Nhìn trước nhìn sau, chẳng thấy chi cả, chỉ duy có một đám cỏ lan mọc trên khu đất với nóc chùa con. Cảnh đã thê-lương, người lại súc-cảnh hưng hoài, bèn ngâm rằng:
Tạo-hóa bầy chi cuộc đổi rời,
Bèo trôi sóng vỗ cánh hoa rơi.
Sông mê mù mịt người đâu vắng,
Bến Giác mong chờ mấy khách chơi.
Hợp hợp ly ly từ mấy thủa?
Suy suy thịnh thịnh kiếp nào thôi?
Trăm năm giấc mộng phù-sinh hẩn,
Cảnh cũ người xưa vẫn nín hơi!
Ngâm rồi ngảnh lại thấy Kim-Sinh đứng gần bên cạnh, mặt có vẻ buồn rầu vô hạn. Chàng thấy tôi nhìn liền thở dài nói:
“Tôi trông thấy cảnh chùa này lại hồi tưởng vừa mới ngày nào được nghe câu truyện một người thiếu-niên chết ở đây, mà chết vì nỗi nhân-tình thế-thái đảo-điên kiêu-bạc!”
Ký-giả nghe thấy chàng nói, giật mình như người nghe phải tiếng sét. Chết vì nhân-tình thế thái! Ai chết?
Kim-Sinh thấy ký-giả mặt đã đổi sắc khác, bèn thong thả mà nói:
“Thời buổi này, nhân-tâm ấy, ai là người hữu-tâm mà không chua sót cho thói đời điên-đảo, đệ đây thật lấy truyện chàng thiếu-niên chết ở đây làm đau đớn thương sót lắm, biết đâu chúng mình sau này chẳng có một lần bị cái giây nhân-tình thế-thái ấy gò thắt? Nói ngay ở gia-đình, phong hóa đã suy-đồi....
Chàng chưa nói hết câu ký-giả đã gạt đi:
“Thôi thôi, phong-hóa suy-đồi, vô phương-pháp cứu-vãn, bất nhược ta bỏ qua nghĩ tới làm chi, chỉ xin nhân-huynh làm ơn kể cho tiểu-đệ nghe rõ câu truyện ấy duyên-do làm sao, mà sẩy ra cái bi-kịch tại đây?”
Kim Sinh giả lời:     
“Truyện dài lắm, nói ra chửa biết bao giờ hết. Vậy chúng ta ngắm cảnh rồi về, bấy giờ tiểu-đệ sẽ thuật kỹ cho ngô-huynh nghe”.
 Ký giả gật đầu khen phải, nhân đối với cảnh thê-lương, bụng buồn sẵn, liền lại ngâm câu của ông Lý Thái-Bạch rằng: 
Sử-thế nhược đại mộng(2)
Đêm đã khuya, canh đã hầu tàn, anh em mới giắt nhau về. Đến nhà rồi, ký-giả bèn lưu Kim-Sinh lại đêm hôm ấy để thuật truyện cho nghe...
(1) Ông Trần Đoàn là một ông tiên rất cao cờ ở núi Họa-sơn.
(2) Ở đời giấc mộng lớn.
II 
 
“Nguyên chàng thiếu-niên này tên là Ngô-Tòng là con một nhà phú-gia ở nhà quê, thuộc tỉnh Thái-Bình, người khôi-ngô tuấn-nhã, có vẻ thông minh hoạt-bát, nếu chàng được chịu ơn gia-đình giáo-dục của cha mẹ, thì dẫu chẳng sớm muộn, cũng phải thành người. Nhưng chỉ vì ông thân-sinh ra chàng là người phóng khoáng tửu-sắc thái quá, không hết nghĩa-vụ làm người tộc-trưởng trong nhà, nên mới gây cái bi-kịch thảm hại mà ta sắp kể sau đây....
Ông tên là Ngô-Văn, tuổi mới ngoại bốn mươi, người bé nhỏ, trước có theo đòi cửa Khổng sân Trình mấy năm hoạn-lộ rủi ro, lao đao trường ốc, ông chán bèn về ở nhà quê, mượn tửu-sắc làm vui. Cũng may được bà là người siêng năng tần tảo, công việc làm ăn đảm đang, xốc vác giỏi, cho nên gia-nghiệp cứ một ngày một khá, chẳng mấy lúc mà giầu có ngay...  
Ông thấy cửa nhà sung túc, ruộng vườn cũng nhiều, thì lấy làm mừng lắm, chỉ còn tức một nỗi đường công-danh ngoắt ngoéo, khiến cho ông những ước ao mà không được, vẫn là người bạch-đinh; lúc rảnh rang ông thường nói với bà: 
“Đời nay cứ có nhiều tiền là có danh-giá thế-lực, có tiền cũng được người ta gọi là quan lớn, vậy thì vợ chồng ta, giời cho cũng có cơ-nghiệp kha khá, không nhân dịp này mà mua lấy chút danh vọng, tội gì mà khư khư giữ hai tiếng trọc-phú để cho làng nước người ta khinh cho!
Bà cũng giả lời:
“Ừ, ông nói rất phải, xem ngay như ông bà hai Đ. bây giờ, ai cũng gọi là quan hàn, bà hàn, ông quan lớn, bà cũng bà lớn, ngồi cả với ông phủ bà phủ, nghĩ như người ta giầu còn kém mình, mà lại danh-giá hơn mình bao nhiêu? ... Sướng thật! 
Ông thấy bà gãi ngay vào chỗ ngứa, thích ý quá, cười vang cả lên:
“Trước kia tôi đi học, chủ-ý cũng để thi, may ra có đỗ, thì cũng làm được tý quan lớn cho có chút danh giá với đời. Chẳng may số phận chẳng ra gì, cho nên sôi hỏng bỏng không, chữ lại giả chữ... Bây giờ thấy người ta đắc-chí; quan-hoạn hiển hách mà thèm... Vậy làm thế nào tôi cũng phải bỏ tiền ra mua lấy một cái hàm, gọi là cũng làm quan lớn tắt được... “
Hai vợ chồng bàn định xong, rồi đó ông lo mượn thày thợ, bỏ ra ba nghìn mua được hàm hàn-lâm-viện điện-bạ. Từ đấy rở đi, trong làng ai cũng gọi ông là quan lớn; ông đi đâu thường hay mang điếu tráp. Thỉnh thoảng có việc gì, ông lại vào hầu các quan tỉnh, cho nên nội nha-lại với cai lệ dinh quan Tuần, quan Án đều biết ông, chúng đều tâng bốc ông mà đều gọi là quan cả. Hoặc có tên lính mới nào, mới đăng ngạch, không được biết ông, một đôi khi có giáp ông, thì anh em lại bảo nó:
“Quan lớn đây thân với quan nhà lắm đấy! Lần sau ngài có lên tỉnh anh phải bẩm ngay để ngài vào chơi!”
Ông nghe nói lấy làm thích lắm, bèn trọng thưởng cho chúng. Trong bụng ông nghĩ: “Ngày nay ta cũng quan, chớ có kém gì đâu, hà tất phải thi-cử đỗ đạt mới làm được.
Trong tư-tưởng ông lúc bấy giờ đã nở ra như trăm hoa hớn hở; trong tưởng-tượng ông lại mới mô-phỏng ra một cuộc đời khác... Lạ gì cái phong-lưu là cái cạm trên đời, nó thường đánh bẫy con người phồn hoa, cho nên người ta ở đời, phú-quí dễ sinh hư-hỏng là thế. Như ông hàn này giời cho cửa nhà sang-trọng, ruộng vườn nhà cửa chẳng thiếu gì, sung-sướng kể đã nên sung-sướng, tuy cũng cỗ cao mâm đầy, lầu son gác tía, mà ông vẫn không lấy làm tự-túc... Như người khác ao ước cái cảnh như ông, được như ông tất bụng lấy làm mãn-nguyện lắm, nhưng đến lúc hy-vọng đã thành rồi, lại muốn hi-vọng cái này cái nọ nữa. Cho hay con người ta sinh ra, chỉ dồ dại vì cái lòng tham sống tham vui quá, mà đến nỗi đắm đuối vào những cảnh-tượng rất éo le, có vui sướng mà không được bao lâu. Thế mới biết một người đã quen ở cảnh thị-dục đào-hoa như ông hàn đây, lúc qua cảnh ấy rồi, hồi-tưởng đến vẫn còn ký-ức rất mạnh. Cái hoa thơm kia, dẫu nay hương tàn nhị rữa, mà vẫn còn bay mùi chung quanh mình ta, lúc nào cũng  có hình ảnh ở trong tưởng tượng, làm cho ta mỗi lúc nghĩ đến, lòng còn cảm-súc đến bây giờ, ta muốn rơ hai tay mà cầm lấy, hứng lấy, nhưng than ôi nó chỉ là một giấc mộng tràng-xuân vô-hình vô-ảnh đó thôi... Ấy thế mà dại dột thay là lũ người, vẫn biết rằng giấc mộng tràng-xuân ấy dài ngắn chẳng được là bao nhiêu, mà tinh-thần thường vẫn phảng-phất cái khí-vị êm đềm. Ngán thay!
Cái hạnh-phúc nhà ông hàn đây kể cũng không phải là không có, nhà cửa như thế, vợ chồng con cái xum họp vui vẻ, ông còn ước ao chi nữa. Song ông là người không phải lấy cái hạnh-phúc một gia-đình thế làm vui, làm sướng; tư-tưởng, cảm giác lại mộng du ra ngoài cái phạm-vi gia-đình lạc-thú, trong những cảnh  mộng-thế xuân sắc tươi cười của những kẻ đa-tình đa-tứ, lấy gió giăng làm kho vô-tận để tận-hưởng cái thú vật-chất kỳ khôi. Ông hồi-tưởng lại mười năm về trước, lúc ông còn trong vòng ba mươi, thôi thì bôn-ba trên đường hành-lạc, cùng chúng bạn câu cười suốt tháng, chén rượu cung đàn, dịp phách, khi cùng mấy ả hồng-lâu truyuện-trò tri-kỷ, cảm tình biết bao nhiêu? Ông nhớ như vừa mới ngày nào, cũng vào hồi tháng chạp, ông cùng ông cả Bi... hai anh em rủ nhau ngược Hanoi chơi, lên số nhà 70 phố hàng Giấy là nhà cô đầu Thi uống rượu. Cô đầu Thi này là một bực giai-nhân có nhan sắc ở phố hàng Giấy, khách làng chơi đã từng nghe tiếng, ai ran ríu cũng phải tốn hàng nghìn, thế mà ông mới biết cô có một lần duyên giời xui khiến, cô đã đem lòng quyến-luyến ông ngay, lúc ngồi chiếu rượu, cô hãm cho ông rằng:
Thuyền-quyên vừa biết anh-hùng,
Dặn lòng xin chớ phụ lòng làm chi.
Sớm đã tương-tri,
Thôi thì sớm đã tương-tri,
Cùng ai biết có duyên gì hay không?
Tạc một chữ đồng...
Ông nghĩ đến mấy câu hãm này, lại hồi-tưởng như được trông thấy cô đầu Thi trước mắt, đêm hôm ấy cùng ông ở trên một cái gác kín, ngoài thì gió thổi rét run, lúc bấy giờ đêm khuya chỉ có ông với cô ta còn thức nói truyện; những lời cô ta cảm-động thấm thía, ông nghe thấy, nay hãi còn trong lòng, mà cô đầu Thi bây giờ thì đâu... Ông lại nhớ như vừa độ nào, ông đương cùng với mấy ông bạn học, rủ nhau về Đông-Ngạc (Làng Vẽ thuộc tỉnh Hà-Đông) đánh trống, canh tàn lặng ngắt, ngồi trong nhà lá mà tai chỉ nghe tiếng phách chen tiếng đàn, hòa với câu hát, rịp rịp ràng ràng, thánh thót mà êm đềm như xui dục người du-tử mến cảnh giang-hồ, rồi mà, khúc hát Tỳ-Bà vừa não ruột vừa réo rắt, tay ông cầm roi chầu, cũng phải rời rạc... Chính cũng hôm ấy, ông cùng cô đầu Hanh là một người danh ca ở Đông-Ngạc đã hẹn hò sau trước, định trăm năm tính cuộc vuông tròn, nào ngờ đâu, qua đến năm sau ông hỏi thăm cô thì cô đã rơi ngọc trầm châu rồi, để cho ông thương tiếc..... Bây giờ dẫu cô đã ra con người Đạm-Tiên, mà cái hình-dung, cái tiếng thanh-tao của cô còn phảng-phất ở bên ông, ông nhớ đến cô, nghĩ như lại được trông thấy cô hát ở trước mắt. Cách năm mây khói mịt mù, vườn đào ướm hỏi ai là chủ-nhân? Thì sự đời đối với ông có lúc thường, có lúc biến, xưa kia vui vẻ bao nhiêu, thì nay lại buồn bã bấy nhiêu. Thấm thoắt mà nay ông đã ngoài bốn mươi tuổi đầu, da dăn, tóc đã hơi bạc, bao nhiêu cái xuân-sắc, xuân-tình, xuân-tứ thủa xưa nay đâu đâu cả, mà cả những sự mắt trông, tai nghe ngày xưa cũng tiêu-tán đâu hết. Ngoảnh đi ngoảnh lại, xuân rồi lại hạ, hạ lại sang thu, mà thu tàn, cảnh vắng, lá rụng, hoa rơi, tức là cái biểu-hiện cuộc đời ngày nay của ông, vì ông đã già rồi...
Ông đã già rồi nếu thật có phải, thì ông cũng chưa lấy chi làm già, ông còn tiếc cái chơi, ưa cái xuân tàn biết thú cái xuân-tình xuân-tứ kia mà... Thôi thì thôi, người dẫu có già, mà bụng ông chưa già; ông còn muốn có vừng mây xanh cản mảnh nguyệt sáng lại, cho bao nhiêu cảnh non nước hữu-tình còn rực-rỡ ở trước mắt ông. Nhưng sức ông đã kiệt, bao nhiêu ý-khí hăng hái lúc còn trẻ cũng không còn, dẫu có muốn chơi như ngày xưa cũng không được nữa... Vả lại bao nhiêu những sự hành-lạc của ông ngày trước, bấy giờ đối với ông cũng không đậm mấy, tinh-thần ông đã thấy mệt mỏi. Nhiều lúc nghĩ muốn cưỡng mà chơi, nhưng thân thể đã nhu-nhược không tài nào vượt qua được cái giới-hạn đã nhất-định, chỉ có ngồi nghĩ mà tiếc mà buồn thôi... Càng buồn, càng tiếc bao nhiêu, càng thấy như thèm nhạt khát khao. Bà cũng khéo chiều ông, cơm hầu canh dẫn, không để cho ông phải nói, nhưng bà đối với ông chẳng qua như một bức tranh tạo-vật về mùa thu, không còn có cái vẻ sán-lạn xuân-sắc nữa, như thế thì tuy bà chiều ông, yêu ông, mà ông vẫn chỉ coi bà như một thứ hoa giấy để một chỗ, cho đẹp cửa nhà, không khả dĩ đem ra để ngoạn-thưởng. Bao nhiêu sự cảm-giác của ông quay cả về cảnh xuân đầm ấm tươi tốt. Ông thấy các anh em bà con ông, lắm người già hơn ông mà còn lấy ba bốn vợ lẽ, nàng hầu đẹp đẽ trẻ trung, ngồi ăn thế này cũng hai ba cô ra hầu hạ, thì ông lại nghĩ đến ông, ví với các người ấy, sự sung-sướng thật cách xa, một giời một bể. Người ta thì hơi yếu đau, cũng hai ba cô hầu đấm bóp thuốc thang, mà mình giá có làm sao, thì chỉ có một vợ già cả lẫm cẫm hầu; người ta hơn gì mình mà được sung sướng thế; mình của có, danh-giá có mà vẫn khổ, là nghĩa làm sao? cũng chẳng qua người ta được vợ cả hiền-đức biết chiều chồng, mà không ghen tuông ! Đã nhiều lần ông ngỏ ý muốn mua hầu, thì bà lài kiếm truyện gạt đi, tức mình chẳng biết làm thế nào, chỉ ngày đêm thở ngắn than giài, bực rọc vô cùng, công việc trong nhà từ đấy ông bỏ cả, giao cho bà, còn cậu Ngô-Tòng là con ông, ông cũng chả nhìn gì đến.... ông vốn biết bà tin lễ bái, số tướng, mới bảo bà rằng:  
“Tôi xem số, thánh có dậy rằng phải lấy vợ lẽ, nếu không thì sát vợ cả, bởi vậy tôi lo cho bà lắm!...
Nói rồi cố ý nhìn bà xem bà có đổi sắc sợ hãi gì không, nhưng mặt bà vẫn như thường. Bà cũng biết rõ rằng ông nói dối như thế để dễ được lấy hầu, song không hề nói ra, vì bà cũng không muốn để phiền quá cho ông, e rằng ông vì bà mà lo rầu thái quá. Thói thường đàn bà ai cũng có tính ghen, yêu chồng mà ghen, quí chồng mà ghen, muốn đem hết một cái ái tình làm vợ đối riêng với chồng, ngoài ra không muốn có một cái ái tình khác nào gián-tiếp vào nữa, sự ghen đó tình rất nên yêu, mà thế rất nên thương. Vả lại như bà đây, cũng không phải là một người hãn-phụ, thật là có tam-tòng tứ-đức từ khi  lấy ông chiều ồng hết mực án họ Mạnh ngang mày khép nép, gánh giang-sơn thu xếp một tay, không một câu gì ông phải nói. Nay vì làm sao mà bà muốn phản đối ông việc mua hầu lấy lẽ? Chỉ vì bà biết ông nhiều thị-dục, xưa kia đã quá si mà hại của về cô đầu, chi cho khỏi ngày nay lại sẩy ra cái hại nữa về hầu thiếp? Những kẻ đào non liễu thắm, chịu đem thân lấy lẽ làm hầu, đã không có cái địa-vị làm vợ, gối phượng chăn loan ôm ấp, ngọt bùi san sẻ làm đôi, thì chắc chỉ mơ màng no ấm thân hèn, tiền của cho nhiều mà thôi, mấy kẻ có đức hạnh tốt? Con nhà bần tiện, vì bén hơi đồng, bán mình vào cửa giầu sang làm chi có giáo-đục, mà hòng biết đạo nghĩa. Ông thì tuổi cũng đã cao, cậu Ngô-Tòng cũng đã mười ba mười bốn, hai vợ chồng được có mụn giai là cậu, nếu nay ông không lo dậy bảo cậu thì sau này nhớn lên ra làm sao? Con có cha như nhà có nóc, nóc mà rột hỏng, phỏng có ở được nữa không? Ông mà không nghĩ gì đến việc cửa việc nhà nữa, thì gia-đình tất phải suy-đồi, cậu Ngô-Tòng tất mất trông cậy ơn giáo dục, cho nên khi bà nghe ông nói thế, thì bà giả lời:
“Có phải ông đã muốn mua hầu, thì để thong thả tôi xem có món nào xinh xắn tôi mua cho ông một người. Nhưng tôi tưởng bây giờ ông cũng đã ngót năm mươi tuổi đầu, việc lấy hầu dẫu sớm muộn cũng chẳng làm chi, chỉ cốt ông lo liệu dậy bảo trông nom con nó cho khỏi đến nỗi hư hỏng....” 
- “... Trông nom dậy bảo con nó à! Việc đó bà không phải lo, để sang năm tôi xin cho nó vào học trường tỉnh....”
- “Đã hay rằng thế, nhưng nó còn ở nhà, ông cũng phải dậy bảo nó một tí mới được chứ!”
Ông thấy bà nói lắm, chỉ vắn tắt một câu:
“Nó cũng ngoan ngoãn, chả cần phải dậy bảo lắm cũng được!”
Bà nghe ông nói, chán như cơm nếp, bụng buồn bực, than thầm:
“Hỏng mất, ông như thế thì gia-đình hỏng mất!” 
Từ hôm ấy giở đi gia-đình cậu Ngô-Tòng đổi ra một cảnh khác. Ông thì chỉ trông mong việc lấy hầu, sao cho chóng; trong bụng ông lúc bấy giờ tưởng như đã sẵn có tiền mua được hòn ngọc quý, đợi ngọc đến tận tay là tiền bỏ ra; ông ngẫm nghĩ đến những việc vui vẻ sau này với cô hầu mới, thôi thì cuộc vui đã dài mà trận cười lại lâu, vui sướng này không có giá nào nhất định, thân ông tựa hồ như trẻ lại mà cùng cô hầu chắp cánh liền cành, đôi mảnh hình-hài phiêu-dật trên cõi bồng-lai cực-lạc, bạn với phong-hoa tuyết-nguyệt, cái già của ông nay là cái xuân còn non, cái duyên đương mặn, đương nồng, lửa tình càng cháy càng bùng, tình xuân như dục cho lòng nhớ ai, mê ai, mong ai, chờ ai, yêu ai, tương tư ai, vẩn vơ ngồi nhẫn canh dài! ... Cái quá khứ của ông vui vẻ bao nhiêu thì cái hiện-tượng cũng sung sướng bấy nhiêu...             
Ông những mừng thầm, mà bỏ ăn quên ngủ, hình giáng bơ sờ. Trong tưởng-tượng ông chỉ hình-dung một cảnh tịch mịch, ngoài ra duy có tiếng chim hót dun kêu mừng đón cô hầu của ông sắp về; bà và cậu Ngô Tòng ở trước mặt ông; lúc bấy giờ chả qua như cái bụi nhỏ không lọt vào được cái nhỡn-tuyến nắng quáng, đèn lòa si-tình của ông; cùng ăn một mâm, mà ông nhất thiết không nói truyện với bà, bà có hỏi gì, thì ông chỉ nhạt nhẽo giả lời, con ông có truyện trò với ông, thì ông chỉ gắng gượg nói lại, trong hai vợ chồng với một con là ba người, mà khi họp mặt ăn uống tuyệt nhiên không có sắc mặt nào vui. Chưa chập tối ông cơm nước xong đã vào màn ngủ; Còn có mình bà với cậu Ngô-Tòng hai mẹ con ngồi riêng một buồng; bà thấy cảnh chồng như thế bụng buồn vô cùng, nhưng vẫn làm mặt như thường, cái vẻ âu sầu hơi lộ ra hai con mắt thôi, nên cậu Ngô-Tòng vẫn không biết rằng vì mẹ cha mà sầu não; cậu là người tinh, sáng ý lắm, những lúc ăn cơm với cha, thấy cha hờ hững nói năng gượng gạo, mặt vẫn không vui vẻ, thì bụng nghi hoặc. Hôm ấy cậu hỏi bà rằng:
“Con xem cha con hay buồn là nghĩa làm sao, hở mẹ?”
Bà thấy cậu đột nhiên hỏi, rơm rớm nước mắt bèn bật mồm giả lời:
“Cha con chỉ buồn vì chưa có người để hầu.”
Bà vừa nói vừa khóc làm cho cậu cảm động cũng khóc nốt:
“Cha con chưa có người để hầu, sao mẹ không hầu cha con có được không?”
Bà nghe câu ấy lại càng đau đớn:
“Con ơi, cha con có thiết mẹ hầu đâu? vì mẹ già rồi!...”
Đoạn, nức đi một hồi, rồi bà lại khóc:
“... Mẹ già rồi, cho nên cha con muốn lấy người khác để vui thú mà bỏ mẹ con ta!...”
Cậu nghe bà nói xong, ruột đau quàn quại, cổ nghẹn ngào tức tối, nước mắt từ đâu chảy xuống giòng giòng. Thế ra ông đã chán ghét mẹ con cậu, mà chỉ ước mong lấy vợ lẽ nàng hầu về mà vui xướng lấy một mình thôi:
“... Cha con muốn bỏ mẹ với con! Trời ơi, mẹ với con tội tình bạc ác gì mà cha bỏ! ... Thôi thì mẹ ơi, cha đã ghẻ lạnh mẹ với con, con cũng xin mẹ bỏ quá, mẹ chớ ưu phiền làm chi! Con yêu mẹ, con không bỏ mẹ là đủ...”
Bà nghe con nói thiết tha liền ôm cậu vuốt ve nưng niu;
“Thật con yêu mẹ không nỡ bỏ mẹ chớ? !”
- “Thật!...”
Ấy trong khi hai mẹ con cậu Ngô-Tòng thở than khóc lóc với nhau trong một cái buồng kín, canh khuya đối ngọn đèn xanh, bóng đèn thâm-u như sui dục lòng mẫu-tử thêm bi-đát cho nước đời éo-le, thì ngoài giời tối mây đen, run gào rế khóc như thi nhau mà chia buồn với mẹ con bà....
Còn ông thì đâu? Thưa rằng ông đương trằn trọc nằm trong màn, vắt tay lên trán mà nghĩ, ông nghĩ đến cái người còn mập mờ ở trong tưởng tượng, chưa xuất hiện ra trân-ảnh, cái người má phấn môi son, miệng cười hoa nở, trẻ trung mà yể điệu để cùng ông, như những đêm khuya này chung-hưởng giấc Vu-Sơn; ông nghĩ cái người nào mà ông sắp sửa mua về để hầu hạ ông, ông nghĩ những sự vui sướng, ông nghĩ những cảnh xuân-tình mộng-sắc vậy.
 làng ông Hàn có tên Trương-văn-Nhượng trước đã làm Phó-lý, sau vì tội lười biếng, không trông nom việc làng, phải cách. Từ khi về nhà nghèo túng cầm cả ruộng nương đất cát, tình cảnh rất nên khốn nạn. Hai vợ chồng tên Nhượng được có một đứa con gái tên là Thị-Hạnh tuổi ngoại hai mươi, da trắng trẻo, mặt mũi tròn trĩnh, miệng hơi rộng, người hơi cao, nhưng được hai con mắt tinh nhanh sắc sảo, vẻ mặt tươi tắn, kể cũng là mặn mà có duyên. Xinh thì xinh thật, nhưng ả cũng lại là một tuồng hạ-lưu vô giáo-dục, ngồi rỗi sinh hư, mấy năm trước ả theo một người lính chào-mào, ran ríu cùng chàng này hơn sáu tháng, giong giài ở Ha noi, trộm chửa với chàng ta được một đứa con, đến khi đẻ rồi, thì chàng lính lại vượt biển sang Pháp, đăng ngạch lính thợ. Một mình Thị-Hạnh bơ vơ giữa đất phồn-hoa, không nơi nương tựa, bèn đem đứa con bán cho nhà đạo được năm đồng bạc, rồi thu xếp lại quay về quê với cha mẹ. Vợ chồng tên Nhượng tự nhiên thấy con về, mừng mừng rỡ rỡ, vẫn tưởng con đã bị mẹ mìn quyến rỗ sang Tầu, bấy lâu chim cá vắng hơi nào ngờ đâu gió đưa lại, thích-hợp ngay vào lúc tên này định đem Thị-Hạnh bán lấy tiền. Nguyên tên Nhượng có đi lại luồn cúi hầu cửa ông Hàn, được ông tư-cấp luôn nên bụng vẫn rắp muốn đem con gái dâng ông cho làm hầu, hiềm vì con chưa về không biết đâu mà tìm. Nay Thị-Hạnh đã về nhà, Nhượng bèn đem việc ấy bảo con, thì ả bĩu mồm kêu:
“Con chả lấy người già gấp đôi tuổi con, lấy làm bố con thì được thôi, chớ lấy làm hầu mà chăn gối với người ta thì con xin kiếu!”    
Bố nghe con giả lời phản-đối như thế, giận quá. Cu cậu nhà cửa đã khánh kiệt, chỉ trông vào một đứa con mà sinh-nhai, nếu con không chịu lấy hầu, thì đến nguy mất. Liền cả tiếng nạt Thị-Hạnh rằng:
“Mày bảo người ta già, nhưng bạc của người ta có già không? Đồ ngu, không biết rằng đồng tiền là quí mà còn õng ẹo, kén cá chọn  canh, đến người bằng mấy mày còn muốn lấy ông già, huống chi mày!”
Vừa nói vừa dỗ:
“Nếu con bằng lòng để thày đưa con vào hầu cửa ông Hàn thì sau này con sẽ sung sướng, mà thầy u cũng được nhờ. Nhà người ta giàu thiên-ức vạn-tải, vợ cả thì hiền-lành có một con, may mà con khéo hầu hạ, được người ta yêu thì bao nhiêu cơ-nghiệp nhà ấy chả về tay con thì về ai ? Lúc bấy giờ tha hồ lên xe xuống ngựa. Vả lại người ta già rồi, chả mấy chốc nữa mà chết, con còn trẻ, lúc ấy sẵn của lo gì không kiếm được một thằng chồng đẹp trai trẻ trung. Đã có câu Phong-Giao rằng: “Giời mưa nước chẩy qua sân, lấy ông lão móm qua lần thì thôi, bao giờ ông lão chầu giời, thì tôi lại kiếm một người giai tơ”.
Thị-Hạnh nghe bố nói bùi tai, mười phần đã rịu hết chín. Vốn ả là một đứa con gái sinh trưởng vào một nhà đê-mạt,  còn có chịu  ảnh hưởng giáo-dục đâu mà phân-biệt lời nói ấy phải hay trái, chỉ nghĩ rằng có tiền là tiên, có tiền thì tha hồ ăn trắng mặc trơn, có tiền thì cũng quần lĩnh tía, khăn xa-tanh, vòng xuyến chíu chít. Hơi đồng đã bén, bạc trắng lóa mắt, nên ả liền thuận ngay, tức thì hỏi bố:
“Thế bao giờ cha định  đưa con vào hầu hạ quan Hàn?”
Tên Nhượng thấy con đã ưng chịu, mừng như bắt được vàng, mặt mũi nở nang:
“Để cha còn nói truyện với quan Hàn đã!...”
Rồi đó hắn nhân dịp một hôm bà Hàn, đi vắng, chỉ có ông ở nhà, lẻn vào chơi hầu ông, khi vào thì thấy ông Hàn đương nằm chơi ở nhà giữa, mặt có sắc buồn. Nhượng bèn lại gần chắp tay:
“Bẩm lạy quan lớn!
Ông nhìn ra thấy hắn liền hỏi đi đâu, rồi bảo bắc ghế ngồi gần ông. Ông bảo người nhà đun nước uống; nước vừa sôi, người nhà cầm khay chén, ấm chè lên, Nhượng ta đứng giậy đỡ lấy pha, rồi vừa pha vừa nói:
“... Lạy quan lớn, chúng con có một việc muốn thưa quan lớn, nếu quan lớn tha phép cho không bắt tội thì con xin nói!...”
Ông Hàn nghe thấy hắn nói ngạc nhiên không hiểu việc gì, nhìn tên Nhượng hỏi:
“Thày Phó định nói việc gì, thì cứ nói, chỗ bà con cả!”
Nhượng bèn đứng giậy, gãi đầu gãi tai làm ra bộ rất lễ phép:
“... Lạy quan lớn, chúng con đi lại hầu cửa quan lớn đã lâu, lại được nhờ cái dư-phúc của quan lớn cũng đã nhiều, không biết lấy gì tạ ơn quan lớn được nên gọi là có một chút...”
Chưa rứt câu ông Hàn đã hỏi:
“Có một chút gì?...”
- “... Lạy quan lớn chúng con có một chút cháu gái ạ!”
Ông Hàn nghe đến bốn câu “một chút cháu gái” đã hơi tỉnh táo vui vẻ, chính ông đương vì thế mà buồn, liền hỏi rồn ngay:
“... Thầy Phó định thế nào?...”
Nhượng ta lại gãi đầu giã tai:
“... Lạy quan lớn, chúng con định đưa cháu đến dâng quan lớn, nếu quan lớn không chê con nhà lều cỏ chiếu manh, thì chúng con xin đem cả nhà làm môn-hạ quan lớn!”
Ông Hàn nghe nói, bũng đã mừng thầm, liền hỏi:
- “Thế cô em năm nay bao nhiêu tuổi?”
- “Lạy quan lớn, cháu ngoài hai mươi.”
- Đã có chỗ nào dạm hỏi chưa?
- “Bẩm chưa ạ!”
Ông Hàn nghe đến câu “ngoài hai mươi” thích ý cười ran, ông thong thả bảo tên Nhượng: “Thày có bụng tốt như thế tôi rất cám ơn... Vốn bà Hàn nhà tôi đã già yếu rồi, công việc nhà thì bận nhiều, nên tôi cần có một người trông nom coi sóc, giúp đỡ cho bà nó... Thày đã muốn cho tôi cô em, thì xin để cho tôi xem người có được không?”
- “Bẩm quan lớn, thế là vạn-phúc nhà chúng con, vậy xin rước quan lớn rời gót ngọc đến thảo-lưu, để con bảo cháu nó ra lạy chào quan lớn!”
“Được thày cứ về sắp sửa mai tôi qua nhà...”
Tên Nhượng về nhà, mặt mày tươi tỉnh, đem hết đầu đuôi nói với vợ và con gái. Rồi bảo Thị-Hạnh rằng:
Mai quan Hàn sang nhà, con phải trang điểm lịch sự ra chào ngài, làm thế nào cho ngài ưng, ấy là số con đã đến ngày phát rồi đó!”           
Nói truyện lại ông Hàn được tên Nhượng nói xin dâng con gái làm hầu, trong mình khoan khoái vô cùng, ông tưởng ông nay còn trẻ lại, như người giai tân, mà ngày mai là ngày đi xem mặt vợ. Bao nhiêu cái buồn, cái vui, cái sướng, cái khổ của ông chỉ kết-cục thế nào trongbuổi ngày mai thì biết.
Ôi, cũng đêm hôm ấy không biết là đêm gì, mà bên nhà tên Nhượng, Thị-Hạnh đương soi vào hương, soi xong lại để xuống, chống tay lên lên mà nghĩ, rồi cả bên nhà ông Hàn này ông cũng đương nằm một mình trên giường, chốc lại giở mình cựa. Đêm giài cản vắng trống cầm canh thỉnh thoảng mới có vài tiếng, làm cho hai người này ngủ không yên giấc, cái trí tưởng-tượng chỉ hình-dung gặp nhau trong só tối bóng đen mà thôi...
Gà vừa gáy sáng, nông-phu vừa giắt trâu bò ra đồng, lúc ấy ông Hàn mới giở giậy rửa mặt. Xong đâu đấy, gọi một tên người nhà mang điếu tráp theo hầu ông sang nhà tên Nhượng. Khi đến nơi, Nhượng thân ra đỡ tráp điếu mời ông vào, thì vừa hay đâu Thị-Hạnh đã ở trong buồng nhìn ra, trông thấy ông râu dài, má hóp, hình dáng thấp nhỏ, bụng đã chán, nhưng lại trông thấy cha mình một hai bẩm quan lớn, thì chợt nghĩ ngay đến của cải giàu có; ả bèn ăn miếng giầu cau tươi rồi ngồi trong buồng chờ cha gọi thì ra.
Nước nôi đâu đấy, tên Nhượng bèn xin ông Hàn cho Thị-Hạnh ra lạy mừng, để ông xem mặt nhân thể, ông gật đầu:
“Được!...”
Nhượng vừa lên tiếng gọi, thì Thị-Hạnh đã đến trước mặt ông Hàn, hai tay chắp lại:
“Lạy quan lớn!...”
Tiếng nói thong  thả êm ái làm cho ông Hàn đã thú, ông liền sẽ nhìn Thị-Hạnh, thì vừa gặp ngay hai con mắt Thị-Hạnh cũng chăm chỉ nhìn ông,  mắt lóng lánh sắc như giao, nhìn một cái mà ông Hàn ta đã mê tít.
Cái con mắt kia! đôi má phấn kia! cái miệng nhai rầu tươi tắn kia! có thế-lực gì mà để cho ông Hàn này siêu hồn lạc phách đi rồi, nào có ngờ đâu cái làn sóng khuynh thành dễ làm cho đổ quán siêu đình như vậy, khiến cho bao nhiêu mặt tu-mi như si, như  ngốc, như cuồng, như điên, như lảo-đảo tâm-thần, như bị một cái giây điện nó rật ngang mình. Thị-Hạnh lúc này đứng trước mặt ông chẳng khác chi  người câu cá giong mồi tận miệng cá để rử, chốc ả lại liếc ông, mỗi cái liếc là cái giây ân-ái vô-hình đem mà chói buộc ông vậy; không thể ngồl lâu được nữa, vì ông đã váng đầu nhức óc, vì trông cái mồi của ả rử: ông ngồi trước mặt ả, mà người ông như đương ở cạnh ả, rơ tay ôm ả vào lòng. 
Ông bèn cố gắng gượng đứng giậy bảo tên Nhượng rằng:
“Thầy có bụng yêu muốn để cô em theo hầu tôi, chẳng hay thầy định đến bao giờ thì cho cô em sang bên nhà?”
Nhượng bẩm:
- “Lạy quan lớn, việc đó xin tuỳ quan lớn giậy bảo thế nào chúng con xin bái-lĩnh!”
- “Vậy thì đến rầm này tốt ngày, thầy sửa soạn cho cô em về bên kia, nhưng  thầy muốn tiêu bao nhiêu tiền?”
Nhượng nghe ông hỏi đến tiền, nghĩ một lúc rồi nói:
“Lạy quan lớn, chúng con được quan lớn cho cháu nó hầu thế là may rồi, còn truyện tiền nong, chúng con chỉ xin quan lớn 200p(1) để ăn uống với bà con thôi!”
Ông giả lời ngay:
“Ừ được, thế để đến rầm này thì thầy đưa cô em sang rồi tôi sẽ giao cho số tiền ấy nhận thể!”
...........................................................
Chiều hôm ấy ông về nhà đem truyện mua Thị-Hạnh nói với bà, thì bà kiếm lời can ông rằng:
“Ông ơi, ông đã già rồi, chẳng bảo còn trẻ trung gì mà mơ-tưởng những sự nguyệt-hoa, vậy thì vệc mua hầu ông quyết không nên, ông nên nghĩ đến con nó sau này, mà...”
Bà chưa nói rứt câu, ông đã gắt :         
“Sao bà lạl lạ thế, hễ tôi nói đến sự mua hầu thì bà lại can là nghĩa làm sao? Bà không biết làm tài giai phải lấy năm lấy bẩy à? Như tôi mới sắp mua có một đứa hầu mà bà còn can, thế thì bà muốn cho tôi, khổ suốt đời thế này rư?”
Bà cũng tức mình gắt lại ông:
“Thế cũng tài giai, nhiều vợ là tài giai à, thế thì những hạng giầu chôn của, hút máu người làm giầu mà nhiều vợ cũng là tài giai đáng khen nhất hay sao? Ông nhầm rồi, ông ơi! Còn ông bảo tôi can ông lấy hầu, là để ông khổ suốt đời, thì ông lại càng nhầm lắm...”
Ông trợn mắt nhìn bà:
- “Bà bảo tôi nhầm thế nào, bà thử nói tôi nghe. Bà há lại không biết sự lấy hầu là một sự thường ở xã hội này rư. Nói ngay như các quan, không mấy người là không có hầu thiếp, thế thì bà bảo người ta cũng nhầm cả đấy?...
Còn tôi giời cho tuổi cũng chưa đến năm mươi sáu mươi gì, mà không mong đường sinh-dục để sau này có nhiều con vui cửa vui nhà. Nói cho phải mà nghe, bà bảo tôi nhầm, mà chính bà lại nhầm nhiều lắm. Bà không biết rằng nghĩa-vụ bà làm vợ là phải tòng-phu, chiều chồng, thuận theo cái khuynh-hướng của chồng ư? Nếu bà biết thế là phải, thì bà phải vui lòng mà nghe tôi ngay, có lẽ nào bà lại muốn phản đối cái ý-tưởng rất đích đáng của tôi?”
- “Ý-tưởng ấy mà là ý-tưởng rất đích đáng!... Thôi ông ơi, phận tôi làm vợ thấy chồng có điều sai thì hết sức can ngăn còn ông chẳng nghe thì tôi cũng đành vậy mà thôi!”
Ông nghe bà nói rằng ông có điều sai, cơn giận đâu nổi lên đùng đùng, lại quát mắng bà:
“Tôi có điều sai gì?... Điều sai là vì lấy hầu, đụng cái ghen của bà có phải không?”
Ông nói đến tiếng ghen làm cho bà cũng tức, ông nói một bà lại nói mười:
“Lấy hầu đụng đến cái ghen của tôi lẽ đó đã đành như vậy mà là một lẽ hiển-nhiên rồi, vì ông có quyền được lấy hầu, thì tôi cũng có quyền được can ngăn giữ lại, cho cái quyền ấy khỏi làm nhạt cái ái-tình tôi đối với ông, ấy tôi làm vợ phải thế. Nhờ có sự ghen trong gia-đình, vợ chồng mới hết bụng yêu mến quý trọng lẫn nhau, dữ dìn cho nhau khỏi lỗi đạo. Chừ ra ghen quá mới có sự chia phôi tan cửa nát nhà. Nếu bảo rằng tôi đem bụng nhỏ nhen mà ghen  thì tôi cũng không dám can ngăn ông làm chi, vì phong-tục xã-hội đã rộng quyền để ông được tự-do có quyền-lợi làm giai lấy năm lấy bẩy, người đàn bà không được phép động đến cái đặc quyền ấy thì tôi cũng bằng lòng để ông lấy năm lấy bẩy, lấy bao nhiêu người cho thích thì thôi, nhưng mất của tìm người, ông cũng cho phép tôi kén trọn cho ông!...”
“Thị-Hạnh nó cũng là đứa nết na hiền lành, can chi phải kén trọn đâu nữa!...”
Bà nghe ông nói đến tên Thị-Hạnh đã ghét rồi, vì bà vốn biết ả là một đứa con gái, làng nước đã đồn nhiều tiếng tăm xấu chẳng ra gì, bèn nói với ông rằng:
“Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống, mua hầu tức cũng như bỏ tiền cưới vợ, chứ không phải là mua một con vật về để dùng, thì tất cũng phải cần người có đức-hạnh làm ăn được và hầu hạ ông nữa. Tôi xem ra Thị-Hạnh thật là một đứa mất nết, trước kia nó chửa hoang đã đẻ một lần ở Hanoi, hiện có người biết lại nói truyện với tôi, không phải là tôi nói không nói có...”
Ông đã mê Thị-Hạnh, nên bà nói  thì nói ông chỉ một mực: “Nói bậy, Thị-Hạnh như thế mà bảo đã chửa hoang nó còn con gái thơ thớ ra đã ai động đến, chẳng qua nó nhan sắc đứng đắn, những kẻ ve vãn không nổi, mới đặt truyện nói xấu nó, ở đời tiếng thị phi dẫu người thế nào cũng có ít nhiều, duy tai có nghe rõ mà mắt có trông thấy hẵng nên tin. Cứ mắt tôi trông thì Thị-Hạnh hãi còn gái tân!
Ông cố khen Thị-Hạnh, bà biết rõ Thị-Hạnh, ghét thì cố chê:
“Khen chê yêu ghét phải ở cái đức mới là phải; tôi không phải là có thù gì nó mà chê, chỉ vì cái đức nó không có mà chê đó thôi. Nhưng cái đức đời nay ai biết trọng, mà lấy để khen chê, phần nhiều chỉ khen chê yêu ghét ở những cái trang-sức hão, đàn ông yêu khen đàn bà phần nhiều chỉ yêu khen ở cái mặt đẹp, còn đàn bà yêu khen đàn ông cũng lại ở như tiền của, danh-giá rởm, cho nên tôi nói lấy đức mà khen chê, ông cho là nói ngược cũng có lẽ...
Nhưng ông bảo Thị-Hạnh còn con gái tân, thì tôi quyết không thực, nó thật là một đứa đã giang-hồ giở về; con ấy chính là một đứa chỉ giăng hoa đĩ bợm, trong truyện Kiều đã có câu: “Tuồng chi hoa thải hương thừa, mượn màu son phấn đánh lừa con đen.”
Bà chê bao nhiêu, ông càng lại khen bấy nhiêu, Thị-Hạnh đối với ông bà thành ra một vấn-đề khó giải-quyết:
“Bà chê Thị-Hạnh chỉ nghe người ta đồn, thực không trông thấy, chê nó ở lúc cùng khổ nghèo đói, thế là người không thực. Phàm chê người, không nên lấy những sự sấu nhỏ nhặt mà chê, phải chê ở cái bản-thân, cảnh ngộ con người ta bị thời-thế xoay chuyển mỗi lúc một khác, thì hành-vi sử-sự cũng phải tùy thời-thế mà biến đổi, không có ai vẹn toàn được cả ngũ-luân, không có ai tránh khỏi những sự khuyết-điểm nhỏ, thánh hiền còn có lúc phải người đời cười biếm, huống chi là người thường. Nhiều cơ-hội ở đời làm cho người ta không thể quản được sự khen chê của xã-hội, mà chỉ vụ lấy làm trọn cái nghĩa-vụ mình đối với mình mà thôi. Tỷ như cô Kiều ngày xưa, người không biết xét thời những chỗ phải vào lầu xanh, đem thân vàng giá ngọc mắc vào tay họ Mã mà chê là người thất tiết, nhưng lại phải xét chỉ vì một chữ Hiếu nặng quá, mà cô phải mười lăm năm phong-trần cay đắng, má hồng mày dạn, thế thì nên biết thương cô vì cảnh-ngộ bó buộc mà không vẹn được trinh-tiết, chỉ trọn được đạo làm con... Thân cô giang-hồ bạc-mệnh ai cũng phải ngậm ngùi; bà đã lấy hai câu truyện Kiều mà ví Thị-Hạnh, tôi cùng có thể bảo-toàn danh-tiết cho Thị-Hạnh mà khen: “tuy giầm hơi nước chưa loà bóng hương,” Thị-Hạnh ví làm sao được với cô Kiều, nhưng thấy nó cùng khổ nghèo nàn, thì nên thương mà không nên chê, nên dùng mà không nên bỏ, nên yêu mà không nên ghét. Nó phải đem thân đi hầu hạ, là nó muốn báo hiếu bố mẹ...”
Chưa rứt câu bà đã nói luôn:       
“Thôi, yêu thì vẫn là tốt, là hay, là đáng khen, đáng trọng, chẳng có thế mà vua Đường-minh-Hoàng ngày xưa yêu nàng Dương-quý-Phi quá, đến nỗi nàng đi lmột bước, vua khen rằng mỗi bước đi là nở ra một cái hoa sen; nay con Thị-Hạnh về đây, có lẽ mỗi một cái cười của nó là nở ra một cái hoa hải-đường hẳn!”
Vừa nói xong thì cậu Ngô-Tòng ở đâu đến cạnh bà, rồi thong thả nói với ông rằng:
“Mẹ con nói rất phải, cha nên nghe!....”
Ông lúc này đã tức giận sẵn, lại thấy cậu nói nữa, liền mắng chửi cậu thậm tệ:
“Mày không phải giậy tao! À mày muốn vào bè với mẹ mày để cấm tao hay sao? Con nhà bất hiếu bất mục ở đâu!...”
Cậu phải ông mắng chỉ ôm mặt khóc, bà thấy ông giận chửi con cũng thôi không nói gì nữa. Đâu đấy cơm chiều giọn lên, ba vợ chồng con cái điều ngồi ăn, coi sắc mặt người nào cũng buồn bực không vui. Canh tàn nhà vắng, ngọn đèn le lói như sui dục dạ buồn thêm buồn, nào hay đâu những tiếng cười nói, những truyện hàn-huyên bấy lâu đã tiêu-tán cả, lại gây nên cái quang-cảnh cốt-nhục sắp phân lìa, tình thân-ái đơn sơ lạnh nhạt quá như vậy.  
 
(1) “piastre” tiếng gọi “đồng bạc” thời Pháp 
                                                                                                           (Xem tiếp kỳ sau)

   
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.08.2013 14:05:55 bởi nvietdung >
#1
    nvietdung 24.07.2013 09:37:25 (permalink)
     
    Cuộc tang thương - (Phần 2)
       
        Thấm thoắt đã đến rằm, tên Nhượng đưa thị Hạnh sang lĩnh tiền rồi về.
        Thị Hạnh ở nhà ông Hàn mấy ngày đầu còn làm lụng ,sáng dậy sớm quét nhà rồi têm giầu, thỉnh thoảng lại vào bếp trông nom cơm nước, cũng có khu cái kim sợi chỉ khâu vá .Ông thì mê man ả không muốn rời một bước,gặp hôm ấy giở giời sốt rét ,ả hết lòng hầu hạ, cả đêm ngồi bên cạnh không nằm, ông lại càng quyến luyến lắm;cái ái tình của ôgn đối với ả dính như keo sơn, không bút nào tả xiết . Nếu ả có làm sao , thì ông cũng thức cả đêm săn sóc cho ả .Lắm lúc ông ngồi một mình với ả ,trông thấy ả còn trẻ trung, mà nghĩ mình thì đã già gấp hai tuổi ả ,chắc rằng thế nào cũng chết trước, không được cùng ả trăm năm một cuộc ái tình, nên ông thường rơm rớm nước mắt mà bảo ả rằng :
         “ Mình ơi, tôi thì già hơn mình,nếu một mai tôi chết trước mình thì mình ở với ai ?...Hay mình lại đi lấy chồng khác ?...”
         Thị Hạnh cũng giả khóc :
        “ Mình nói làm gì chuyện chết ,làm tôi đau lòng! Mình với tôi còn yêu nhau ngày nào là sung sướng ngày ấy,kể làm chi chết với sống ,mệnh con người ta đã có giời định.Mình bảo mình chết trước tôi, mình ơi, mình nói thế khiến cho tôi càng thương mình bao nhiêu lại càng thương tôi bấy nhiêu. Tôi đã gửi thân vào mình, chỉ biết có mình, mình có làm sao thì tôi cũng chết, còn mặt mũi nào mà lấy chồng khác nữa”.
         Ông Hàn nghe thị Hạnh nói cảm động quá ,hai mắt nhìn thị Hạnh tỏ ra một cách rất âu yếm mà rằng:
         “Thật mình yêu tôi hay sao ? Nếu được thế thì chết tôi cũng không nỡ bỏ mình ,tôi còn sống ngày nào, thì tôi còn yêu mình ngày ấy ,yêu mình vì mình đã biết yêu tôi.Nhưng tôi tưởng tôi già tuổi gấp hai tuổi mình ,râu ria nhiều rồi có lẽ mình chê mà không thực bụng yêu tôi chăng ?”
          “ Thế ra mình vẫn còn nghi tôi chê mình già rồi,mà không thực bụng yêu mình sao ? Sao mình nói thế, giá bụng tôi là cái bánh thì cũng bóc ngay ra cho mình xem .Mình tuy già nhưng bụng mình tốt ,tôi yêu mình là ở cái bụng mình thôi,kể chi ở đôi tuổi. Mình há không biết người ta yêu nhau tại tâm ư ?”
          “ Đã hay rằng mình nói tôi cũng tin được. Nhưng cái bụng con người ta xanh trắng khôn chừng, hay thay đổi, thì tôi sợ rằng cũng có lúc mình đổi bụng mà không yêu tôi nữa ! Biết đâu !”
         Thị Hạnh lúc này vẻ mặt có vẻ sầu não nhìn ông Hàn :
         “ Khổ chửa, sao mình hay nghĩ lẩn thẩn thế .Nếu mình chưa tin rõ bụng tôi, thì mình để phiền ngày đêm cho tôi đó. Mình bảo người ta ở đời hay đổi trắng thay đen cũng có lẽ,nhưng mình nghi cho tôi như thế, thật không đúng. Tôi nay như cái hoa đã tàn,mình động lòng thương, cầm lên đem về để yên trong lọ cho được tươi tốt , có khi nào lại không chết mà cảm ơn mình, còn nghĩ thế này thế khác làm gì ? Mình nghĩ kỹ mà xem ; như một người nghèo khổ mình cứu giúp cho được sung sướng , tất phải ghi ơn mình đến già , chớ còn nỡ phụ bạc sao ,..Mình ơi, mình sợ tôi ăn ở bạc với mình, mà chính tôi lại sợ mình phụ tôi !...”
         Ông Hàn nhìn thị Hạnh :
         “ Tôi nào nỡ phụ mình ?”
           “ Mình vẫn không nỡ phụ tôi , mà thực có lúc mình lại phụ tôi . Vì bây giờ mình giầu ang nhiều tiền, thiếu gì gái sắc mình lấy được , e rồi mình có mới nới cũ , thì để khổ cho thân tôi lúc ấy biết trông cậy vào ai ?... “ Nói rồi khóc rưng rức , gục mãi đầu vào lòng ông Hàn, ông tay vuốt ve mái tóc ả, mồm thì dỗ dành :
          “ Mình đừng lo.Tôi đã già rồi, còn sức đâu nữa mà đắm mê những bao nhiêu người. Vả tôi đã có mình làm bạn thì thôi, bụng tôi yêu mình còn sợ chưa đủ ,huống hồ còn yêu ai .Có phải mình sợ như thế ,thì để nay mai tôi tậu ruộng cho mình , thì mình mới tin tôi…”
         “ Thật không ? Mình nói dối ?”..
         “ Thật, nay mai mình biết …”
        Thị Hạnh mặt có sắc vui vẻ, cười nói với ông :
        “ Nếu vậy thì tôi ghi ơn mình xuống suối vàng cũng không quên được , từ nay tôi khỏi phải lo nỗi lo sau này không có nhà mà ở, đẻ con không có của mà lo cho ăn đi học ,mình ăn ở tử tế với tôi, tôi biết lấy gì đền ơn được , thôi kiếp này chẳng vẹn nghĩa với mình thì xin kiếp sau làm thân trâu ngựa trọn tình ngày nay .. Mình ơi, tôi chỉ có một tấm lòng với mình mà thôi..Mình đã tin tôi chưa ?..Mình quả yêu tôi sao ?..”
         “ Tôi quả yêu mình lắm, mình còn gặng hỏi mãi, thôi nói chuyện khác !..”
         Rồi ông cầm cái gương soi ,khẽ hỏi thị Hạnh :
        “ Mình trông tóc tôi có nhiều cái bạc chưa ?..”
        Thị Hạnh nhìn kỹ đầu ông, cười nói :
        “ Chết chữa, mới ngoài bốn mươi tuổi,mà đầu đã bạc gần hết như ông cụ sáu mươi !”
        Ông Hàn cũng cười :
       “ Ấy tại tôi lo mình chê tôi, nên nghĩ quá bạc cả đầu !”
        Thị Hạnh lấy tay phát trên vai ông :” Chuyện ỡm ờ mãi, để tôi xem có tóc sâu nào tôi nhổ cho “. Một câu chuyện, hai câu chuyện vui như tết ,nở như gạo rang, chuyện tri kỷ, chuyện tình tự, thôi bao nhiêu những giọng chỉ non thề bể, vàng đá đinh ninh, hương càng đượm, lửa càng nồng, chỉ có ông Hàn và thị Hạnh,cả đêm không ngủ, có hôm ba giờ đêm còn nghe tiếng ông với ả đùa bỡn trong buồng,thành ra sáng hai người phải ngủ trưa ,không dậy sớm được…
         Bà Hàn thấy thế lấy làm khó chịu lắm,nhưng cũng còn sợ ông không nói ra ,duy có cậu Ngô Tòng trẻ người non dạ, có sự giận gì không ngồi yên, một hôm nói với mẹ :
        “ Cha con rước đĩ về nhà ,để nó ngủ bây giờ chưa dậy,hôm nào cũng quá chín giờ mới thấy nó trong màn chui ra. Nó làm cho cha con mấy hôm nay xanh xao vàng vọt..”
         Bà chưa giả lời ra làm sao ,bất ngờ thị Hạnh ở trong buồng gần đó nghe tiếng, liền đem điều đó nói cả với ông :     “ Mình mua tôi về thì tôi chỉ biết có việc hầu hạ mình ,việc gì tôi hầu hạ mình mà con giai mình ton hót với vợ mình, nói tôi chẳng ra gì ?”
         Ông đương ở trong màn nghe ả nói,giận đâu nổi lên lập tức gọi cậu Ngô Tòng chửi một thôi :
        “ À nàng hầu tao, mày không muốn cho nó hầu,mà mày lại nói nó ..! Mày không biết, nó hầu tao thì tức cũng như mẹ  mày đấy. Sự này chắc tại mẹ mày sui mày. Liệu hai mẹ con mày rồi tao sẽ bảo cho .”
        Cậu Ngô Tòng nghe ông chửi chỉ nín , bà ở ngoài nghe ông chửi con cũng chỉ âm thầm đứng lặng im. Thị Hạnh được ông bênh lấy làm sướng lắm ,lập tức xuống nhà bếp quát tháo đầy tớ bảo lấy nước rửa mặt mang lên .Tên nhà bếp chưa kịp lấy ả đã quát :” Bảo thế mà mày không làm ngay đi..Quân này láo”.
    Từ hôm ấy giở đi, thị Hạnh lại càng hống hách không kiêng nể gì ai sốt ,đầy tớ người nhà hơi có câu gì trái là ả chửi mắng luôn,cũng có đứa ả lôi ra đánh đập. Trước ả còn làm lụng, miếng giầu còn têm, cái áo còn vá, thỉnh thoảng vào bếp trông cơm nước,nay xem chừng ông yêu nên bao nhiêu việc nhỏ nhặt ả cũng không nhìn gì đến, đều một tay bà Hàn thu vén xếp đặt cả .Bà ở trong nhà, quần lĩnh không bao giờ dám mặc, mà ả thì quần lĩnh tía cạp điều mặc sườn sượt cả ngày, giầu ăn luôn miệng, lúc nào cũng thấy ở trong buồng soi gương đánh phấn, không thì cười nói với ông. Ông mê ản quá lắm, không rời đi đâu một bước; ông đương nói chuyện với ả, nhỡ nhà ngoài có tiếng ai nói to,là ông ra chửi liền.Ngày hai bữa cơm, bữa nào ông cũng phải uống rượu, rượu say xong là ông vào buồng lên giường nằm,thị Hạnh phải vào hầu , cũng có hôm ông đặt bàn đèn hút ; ông khéo dậy ả tiêm, nên chẳng mấy ngày àm ả tiêm được thuốc,ông lại càng yêu. Ôi trong khi ngoài đường mưa sa bùn lầy, gió thổi cây rung,cảnh giời đất đọa đầy bao nhiêu kẻ gối sương nằm tuyết trên con đường lưu lạc gian truân ;bao nhiêu kẻ phải đội bão đội mưa gió mà đi,giang hồ khổ sở, lại nào có ngờ đâu trong cảnh phòng kín bốn bề cửa đóng của nhà ông Hàn đương biệt ra một thế giới khoái lạc, chỉ có ông và thị Hạnh là đương thi nhau mà tọa hưởng cái sung sướng cuộc ái tình đầm ấm ,ngoài mưa gió, mà trong vẫn ngọn đèn sáng trưng, lại thêm ngọn đèn nha phiến linh tinh như khêu gợi cái tia sáng của dục tình phút chốc mà lóe bừng lên. Ông thì nằm, hai mắt lim dim, thị Hạnh thì nằm một bên cần giọc tẩu tiêm mỗi một hơi thuốc ,là một cái bùa mê đeo vào người ông ,ông trong mình như sáng khởi,nhìn thị Hạnh ngồi trước ngọn đèn,má đỏ răng đen, cái vẻ tươi tốt đều sinh hoạt như hoa nở trong cái bông đèn đương đỏ rực .Ông hồi tưởng đến cuộc phù sinh,người đời thường cho là một giấc chiêm bao ,vì những sự sung sướng không được bao lâu mà cũng không làm thỏa được cái dục vọng của người ta ,thì ông lại cho là một lý thuyết sai lệch,ví với ông lúc này thực ông đã thấy sung sướng đến cực điểm, bao nhiêu trần lụy của ông hình như quét sạch , chỉ còn thấy cái thân thể nhẹ nhàng vui vẻ đè lên trên cái cảnh Ái tình. Đạo đức mà chi, chẳng chơi cũng thiệt một đời,nếu cứ bo bo giảng minh đạo đức,thực hành những lý tưởng về luân thường lễ nghĩathì có bao giờ được hưởng cái lạc thú sắc dục này ? Thị Hạnh đã thành một cái hoa vô hình trăm sắc đẹp đương nở trong cái vườn tưởng tượng của ôgn,hoa tươi đương nở, vườn xuân rộng mở, Đào Nguyên mấy thuở đi về với ai ?...
           Thị Hạnh lại khéo lựa lúc ông vui vẻ mà thỏ thẻ rằng :  
           “ Từ khi tôi về hầu hạ mình, cũng tưởng được yên thân sửa túi nâng khăn mình đến già ,ai ngờ đâu vợ mình lại đem bụng ghen ghét tôi, hết nói này nói nọ. Như thế thì tôi ở làm sao được với mình ,chẳng thà tôi đành phụ mình mà xin mình cho tôi về nhà tôi còn hơn !”
           Ông thấy ả nói, lại nhác thấy mặt có sắc buồn; thì dỗ dành một hồi lâu:
          “ Mình ơi, tôi cũng lấy điều đó làm thương mình lắm. Vốn tôi cũng muốn được cùng mình ở vào một chốn phong cảnh tịch mịch, để sớm khuya vui vầy ân ái với nhau , chớ tôi còn thấy vợ và con tôi thì tôi  khó chịu lắm .Tuy con tôi thật, mà tôi có buồn nhìn đến đâu, tôi chỉ biết yêu mình thì không ai dám nói đả động đến mình. Xem từ ngày mình về vợ con tôi nó cũng chả dám tiếng chì tiếng bấc gì !...”
          Thị Hạnh thấy ông dỗ dành càng thỏ thẻ già :
         “ Mình bảo từ ngày tôi về hầu hạ mình, vợ con mình, không dám tiếng chì tiếng bấc gì với tôi, nhưng mình biết đâu.Thật tai tôi nghe đã nhiều, chả nhẽ mỗi lúc lại nói với mình thì mang tiếng là hay ton hót  nịnh nọt. Thôi, nếu mình không liệu thế nào cho tôi nhờ thì tôi xin mình cho tôi về nhà bố mẹ tôi cho xong !”.
           Mấy lời thị Hạnh nói làm ông suy nghĩ mãi, càng suy nghĩ càng khó chịu lắm, trong bụng ông cũng hình dung hai mẹ con cậu Ngô Tòng như hai cái đinh đóng trong mắt ,như hai cái bướu sau lưng, muốn bỏ đi không được.Mà không bỏ đi, thì cũng bực tức, làm thế nào mà vui vẻ với thị Hạnh? .Bỏ đi thì bỏ đi đâu, không phải là một vật nhỏ mọn,mỗi lúc cầm quẳng đi được,chính lại là vợ ông, con ông,ghét thì ghét nhưng làm sao cho khuất mắt, chôn sống hay sao ? Đánh chết hay sao ? Ấy mấy thật khó ? Nếu không làm thế nào mà xa được hai mẹ con cậu Ngô Tòng, thì thị Hạnh lại không chịu ở, ả lại đòi về nhà kia ! Liệu thế nào cho xuôi, tính thế nào cho êm bây giờ ? Trong tư tưởng ông mô phỏng hai mẹ con cậu Ngô Tòng như một cục đất bùn , thì tiếc chi, còn có quý giá đâu mà tiếc ? Vậy thì vứt một cục đất bùn mà giữ được hòn ngọc kim cương là hơn cả ,quyết nên làm. Nghĩ đâu đấy ông bảo thị Hạnh :
          “ Mình hãy thong thả để tôi liệu xem đã…”
          Thị Hạnh lại hót thêm nữa :
         “Mình liệu làm sao nói cho tôi biết ? Thế mình có muốn cho tôi yêu mình trọn một đời tôi,ở luôn bên mình những lúc trăm tuổi ốm đau, sóng gió bất kỳ không ? Nếu mình còn muốn, thì thế nào mình cũng phải để cho tôi đừng trông thấy nhữgn cảnh nghịch mắt ở nhà này mới được. Gớm sao mà tôi trông thấy vợ con mình mà tôi phát ghê cả người, tưởng như yêu quái gì nó hiện hồn lên mà bắt đi vậy. Mình thử nghĩ xem như tôi với mình đương yêu nhau sung sướng thế này , mà có người ghen ghét muốn phá cuộc vui vầy thì mình có chịu bực tức hay không ? Mình còn muốn gần những người ấy không ?”
         Ả nói bao nhiêu như gợi cái bụng ghét của ông đối với mẹ con cậu Ngô Tòng bấy nhiêu. Trong trí nghĩ ông đã tán loạn, thị Hạnh nói thế nào thì hay rằng thế, chớ còn lưỡng lự :
          “ Tôi cũng lấy thế làm khó chịu lắm , nhưng không lẽ vợ con mỗi lúc lại bỏ đi hay sao ? chẳng lẽ đem mà chôn sống? nếu làm ngay thật ra thì thiên hạ người ta chê cười. Khốn lắm,nếu không liệu xong việc này thì tôi và mình cứ bị những cái nghịch mắt luôn, thì yêu nhau làm sao cho trọn được ?...Mình nghĩ giúp tôi xem ! ”
          Thị Hạnh nghe ổng bảo nghĩ giúp liền thừa cơ  nói :
          “ Mình sợ người ta chê cười thì mình còn yêu đàng kia không nỡ ra tay, thế là mình không yêu tôi hết lòng. Tôi biết rồi, tôi biết mình ghét tôi , chả có bụng nào với tôi. Trời ơi , thế ra cái lòng tôi ăn ở với mình nay thật là uổng phí. Nếu vậy thà chết cho xong !....”
         Ông thấy ả khóc liền lấy vạt áo lau nước mắt ả rồi dỗ rằng :
         “ Mình hãy khoan vài hôm đã !...”
    VI
         Cái dục vọng của người ta càng nhiều chừng nào thì sự gian ác cũng nhiều chừng ấy.Thị Hạnh hầu ông Hàn này, chỉ có một mục đích tham tiền, lấy ông là cốt vì tiền của ông có nhiều, mà ả yêu ông cũng là vì tiền của ông thì cái ái tình của ả đối với ông chẳng qua là giả dối, vờ vĩnh,ả dò biết tình ông đã quá si mê , mới dùng hết lời ngon ngọt làm cho ông bỏ vợ con, để chiếm đoạt hết cơ nghiệp sau này .Những lời ả nói như rót vào tai đã làm cho ông nghe mười phần đã rịu hết chín ;nhưng chưa biết ông dùng cách gì để bỏ được mẹ con cậu Ngô Tòng.Bảo viện lẽ rằng mẹ con cậu hư hỏng, thì thực cũng không phải,vì mẹ con cậu là người rất tốt,mà ngay từ ngày đầu ả về cũng chả có điều tiếng chi với ả cả.Hay bảo rằng có lỗi với ông, thì cũng không thực.Thế thì làm thế nào ? Suy đi tính lại,duy chỉ tìm được cái cớ gì mà bà Hàn to tiếng với ông và với ả , thì bụng ông mới cả quyết ruồng bỏ.
          Một hôm bà đương ngồi dưới bếp trông người nhà làm cơm,chợt thấy ả xuống, bà chưa kịp nhìn,thì đã thấy ả nhìn bà hai mắt trợn lên ,hình như có ý thù hằn gì với bà .Rồi lại thấy ả mặt vác lên ra bộ kiêu hãnh hợm hĩnh lắm. Bà trông thấy giận quá, nhưng cũng cố rầu lòng chịu, vì sợ nói ra, thì mang đều là người nhỏ nhen ghen ghét .Nhưng nếu không nói ra thì ả lại càng quen nết lăng loàn, rồi có khi đến át hẳn bà đi. Nói ra cũng tội, mà không nói ra thì không chịu được. Bà là người hiền hậu có nết ,muôn việc đều có ý nhẫn nại không nóng nẩy, nên cũng lấy sự hỗn hào của ả làm nhỏ,không thèm để tâm trong trí nghĩ ,chỉ coi ả là một đứa con gái mất nết hư hỏng mà thôi .Phải người khác có máu ghen lại nóng nảy thì nàng hầu vợ cả đã xảy ra xô sát rồi. Bà thì không thế, không kể những sự ả càn rỡ làm chi ,dẫu bà có quyền dậy bảo ả mà bà vẫn không hề nói gì với ả ,vì bà e rằng lại để cho ông nghĩ bà là một tay Hoạn Thư .Trước kia bà khuyên ông đừng có mua hầu về làm gì đã không nổi ,thì nay cũng đành mặc ông muốn cùng ả làm giời đất gì thì làm. Có một điều bà lấy làm để tâm nhất,là ả có tính lười lĩnh không chịu làm việc gì.Bà lấy làm ghét những kẻ lười biếng chỉ ăn không ngồi rồi,nên thấy ả ăn no ngủ kỹ ,chẳng mó tay đến việc gì,thì bà bèn kiếm lời tử tế bảo rằng :” Chị hầu ông Hàn là chồng tôi thì cũng như tôi hầu…Đến đó tôi không biết ghen là gì. Duy có một điều,tôi cần khuyên chị là chị nên làm lụng giúp đỡ cho tôi . Ai lại con gái mà chi có việc ăn ngồi chơi coi sao tiện ?”
         Ả đương ngứa mắt về bà ,bụng đương rắp bầy mưu kế để đánh bạt bà với cậu Ngô Tòng chưa xong,tình cờ thấy bà khuyên chỉ nói lơ lửng: “ Ông mua tôi để hầu, thì tôi chỉ biết hầu thế nào cho ông vừa ý thôi.Còn việc làm thì tôi không biết .”
        Bà tưởng lấy lời ngon ngọt khuyên ả, may ả có biết là phải mà nghe,ai ngờ lại cãi lại mình,lúc ấy bà cũng giận lắm:
        “ Con gái như chị đã đem thân làm hầu ,thì cũng phải làm,không biết thì phải tập cho biết “.
        Thị Hạnh cũng chẳng kém:
        “ Tôi không tập được thì bà bảo sao ? Đây chỉ biết hầu chồng thôi !”
        Ông ở đâu chạy đến, bà trỏ vào thị Hạnh mà nói với ông :
         “ Đấy ông xem nàng hầu ông đã quý chửa ? Bảo nó làm nó kêu nó không biết, nó lại đối già đối dảm rằng chỉ biết hầu chồng thôi. Ông là chồng nó ,sao ông không biết bảo nó đều ấy?”.
         Thị Hạnh cũng hoa chân hoa tay nói :
         “ Bà muốn giết tôi thì bà cứ việc giết.Ông ,mua tôi về, tôi chỉ biết có việc hầu hạ ông thôi “.
         Ông nhìn thị Hạnh bảo thôi, rồi bảo bà :
         “ Nó nói thế chả phải là gì .Phận nó là hầu thì nó chỉ biết có việc hầu hạ tôi, còn làm lụng thì đã có đày tớ người nhà, sao bà lắm điều thế ?”
         Bà nghe ông nói bênh hẳn thị Hạnh, tức tối rít lên :
        “ Thế nào ông cũng bênh nàng hầu ông được ,ông không biết nó hư hỏng quá rồi, mà ông còn không muốn cho ai động đến nó !”
           “ Nó hư đã có tôi dậy bảo việc gì đến bà !”
           “ Không việc gì đến tôi , nhưng tôi làm chủ trong nhà trách nhiệm phải sai bảo kẻ làm việc nọ người làm việc kia, đến tôi cũng còn làm cả ngày ,huống chi nó lại không chịu làm một tý hay sao ?”
           “ Bà làm gì thì làm, còn sai nó thì đã có tôi, bà không phải nói, bà không muốn để tôi yêu nữa hay sao ?”
          “ Nào tôi làm gì mà không muốn để ông yêu, ông yêu thế chớ yêu thế nào nữa ! Tôi cũng biết tôi già rồi, còn xuân xanh đâu bằng thị Hạnh mà ông chả ghét !”
         Ông nghe bà nói, tức tối kêu lên :
         “ Phải bà nay cũng như con vú già ở nhà này, bà nên biết thế mới được Tôi bảo lần này nếu cón có chuyện gì lôi thôi nữa…”
        “ Nếu cón có chuyện gì lôi thôi nữa, thì ông giết tôi hay sao ?...”
        “ Chả giết nhưng rồi mà xem !...”
        Bà Hàn mặt tái đi khí uất tức lên tận cổ , nghe những lời ông nói mà đau đớn xót xa. Cậu Ngô Tòng ở ngoài nghe cha mắng mẹ những câu bạc ác quá, cũng phải đau đớn.Cậu liền bước ra kéo tay bà vào trong buồng,thì bà đã run  cả người ,nằm thiếp xuống lâu lâu mới tỉnh giậy được.
         Một lúc bà nhìn cậu Ngô Tòng mà khóc :
        “ Cha con ăn ở bạc với mẹ con ta lắm !”
        Cậu thấy bà khóc thì thương lắm, chỉ khuyên bà :” Cha con ăn ở bạc thế, kể mẹ lo phiền cũng phải. Nhưng bụng cha con bây giờ đã đổi hẳn, chưa thể nào nói mà biết hối được. Chỉ xin mẹ chớ buồn làm chi , chắc rồi cũng có lúc cha biết thương mẹ con ta.”
            Bà thở dài bảo cậu :” Chờ đến lúc cha con hồi tâm thương đến mẹ con ta thì cũng đã muộn mất rồi . Mẹ chả trách ci cha con, mẹ chỉ trách làm sao đàn ông lắm người ăn ở bạc với vợ con thế được ?”
           Cậu Ngô Tòng nghe bà nói cũng thở dài giả lời rằng :
           “ Ở đời này vẫn thế, người bạc nghĩa thì nhiều, chẳng cứ đàn ông hay đàn bà ,cái bụng dễ thay đổi. Chỉ thương hại thay mẹ con ta, ăn ở hiền lành ,nhỡ sinh vào thời buổi xanh đỏ vàng trắng này ,nên mấy bị những sự bạc đã trong gia đình …”
           Bà lại nói :
          “ Thật thế, người tử tế sinh ở đời này thường không hay gặp sự tử tế, tỉ như mẹ đây lấy cha con từ lúc còn đi học , đến bây giờ găp được một chút phú quý, cũng tưởng được vợ chồng cha con bách niên giai lão , trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai, ngờ đâu cha con mua được nàng hầu thì bỏ ngay mẹ . Nghĩ cái thân phận người đàn bà thật hay gặp cảnh hồng nhan bạc mệnh chẳng ra gì, lúc còn nhan sắc trẻ trung thì kẻ đón người đưa , ngoài cửa yến oanh rập rìu , chồng yêu quý hứng như hứng hoa, cuộc nhân duyên như hoa đương tươi, giăng đương tròn, thế mà lúc nhan sắc kém, phấn nhạt hương phai , hoa thu cuối mùa,là bị ngay người đàn ông rẻ rúng, mặn nhạt thờ ơ ,chẳng còn mảy may thương xót.
          “ Đau đớn thay phận đàn bà, lời là bạc mệnh cũng là lời chung “
         Thật thế , làm đàn bà nứơc ta , cảnh ngộ rất là vất vả, mà đến sự đối đãi của chồng con như mẹ đây lại càng thê thảm lắm. “ 
          Cậu chưa kịp nói gì, bà đã nói luôn:
         “ Con ơi, con còn nhỏ chưa hiểu việc đời mấy, để mẹ nói rõ cho con nghe. Mẹ chả trách chi cha con, mẹ chỉ riêng tha thân cho những người đàn bà vất vả như mẹ nhỡ sinh vào một nước không được cái địa vị gì sung sướng ,có thể ngang với đàn ông. Đàn bà như hạt mưa sa, hạt vào đài các hạt ra ruộng cà ,may ra thì cũng vinh hoa sung sướng, mà chẳng may ra thì lại mang thân phận rẻ rúng như mẹ. Làm thân đàn bà con gái lỡ sinh ra ở cái đời này , thật thân thế chẳng khác chi chiếc thuyền giữa bể , sóng gió đánh chưa biết trôi giạt vào đâu. Cũng chỉ vì phong tục thiên trọng bên đàn ông quá cho được quyền lấy nhiều vợ , nên mới có người bỏ vợ này lấy vợ khác ,ghét vợ nọ yêu vợ kia !”
           Nói rồi thở dài :” Thật ở đời lắm người rất bạc !”
          Cậu nghe mẹ thở dài cũng thở dài :
         ” Ở đời lắm người bạc đã là một lẽ tự nhiên rồi, mẹ chắc lại làm chi cho thêm buồn !”
         Bà thấy cậu khuyên lắm cũng thôi không khóc lóc  gì nữa chỉ nói :
        ” Người ta ở đời hay đổi lòng ăn ở , xử bạc bẽo quên nhân nghĩa , cũng vì người đời thường có tính ích kỷ , chỉ vụ cho thỏa cái hy vọng một đời mình, cốt cho thân mình được sung sướng mà thôi, cho nên mới vượt qua cả những sự bó buộc của đạo đức luân lý mà không cần chi. Tuy tạo hóa còn cho người ta cái lương tâm để răn đều gian ác mà làm đều thiện, nhưng lương tâm thương bị cái lòng ham vui sướng của người ta làm cho tiêu tán đi . Cho nên người ta ở vào cảnh giầu sang dể sinh ra kiêu bạc ,thân đã được sung sướng thì chỉ làm thế nào cho sung sướng mãi, phần nhiều không còn biết nhân đạo, không sẵn bụng thương ai,không biết cảm cái khổ não của người khác, vì chính thân mình chưa lịch cái cảnh huống ấy, cho nên không biết đau đớn là thế nào ? Duy chỉ có ở cùng với nhau trong cảnh nghèo, cảnh khổ mới biết thương nhau thôi .Mẹ nghĩ như trước kia cha con còn nghèo,mẹ còn phải nuôi cho đi học ,lúc bấy giờ vợ chồng yêu mến thương xót nhau đã hết tình nghĩa.Nay cha con nỡ xử bạc bẽo với mẹ con ta , cũng là vì cha con đa dục vọng, lại mua được con thị Hạnh, cuộc vui đương như lửa bốc, cho nên có lương tâm mà lương tâm lúc này chỉ như đám gio tàn vậy !
          Mẹ nghĩ đến nhân tình mà mẹ chán , lắm lúc muốn gác bỏ cả sự sầu cảm về thế sự đi tu cho rồi…”
         Cậu nghe bà nói muốn đi tu, ngạc nhiên nhìn bà :
        “ Mẹ muốn đi tu thật không ?”
        “ Mẹ muốn đi tu thật, mẹ nghĩ còn đa mang mãi trần lụy, còn phải đau khổ, vì sống là khổ,khổ nhiều cách đau nhiều nỗi, nói tóm lại đời người ta chính là bể khổ vậy…Chỉ còn quy y cửa Phật , đem một cái lòng tin kính Giời Phật , mà luyện lấy thân cho được từ thiện, làm những đều từ bi phúc đức may ra còn có ích cho nhân đạo ,mà họa chăng mới tát khỏi nguồn sầu suối thảm…nhưng mẹ còn con ở bên,rứt bỏ mà gửi cửa thiền tâm sao cho đành ?  Nên mẹ định nuôi con học hành thành đạt,lấy vợ cho con đâu đấy rồi mẹ đi tu cho xong đời .”          
          Cậu nghe mẹ nói thảm thiết khóc rằng :
          “ Mẹ chỉ đau đớn vì nỗi cha con ăn ở bạc nghĩa , mà chán đời phẫn muốn bỏ đi tu .Nhưng mẹ còn con  đây, dù thế nào con cũng thương mẹ hết lòng hiếu thảo với mẹ, thì can gì mẹ phải bỏ đi tu tội nghiệp. Tu vẫn là hay, nhưng mà mẹ tu thì con không được phụng dưỡng mẹ nữa !”
        Cậu khóc nói sầu thảm thế làm bà cũng rơi lụy :
        “ Có phải con đã chí hiếu với mẹ , thì mẹ cũng không đi tu làm gì nữa !” Thiết tha thay lời nói của cậu Ngô Tòng, duy còn biết yêu mẹ mà không được yêu bố ,duy còn có mẹ yêu mà bố thì ghét. Cái tình mẫu tử ấy vì sao mà còn cảm động,chẳng phải vì ông Tạo vật kia đã khéo phú thác cho những kẻ ấu nhi ,đã vì một giọt máu mang nặng đẻ đau mới biết yêu mến đứng sinh thành ra minh ru ? Còn có cái tình con yêu mẹ ,mẹ yêu con, thì những người đàn bà ở vào cảnh ngộ bị chồng ruồng bỏ như bà Hàn đây, cũng an ủi được đôi chút…
         Cả đêm hôm ấy cậu nằm trằn trọc không sao ngủ được,nghĩ những cái đối đãi của cha, và những sự buồn phiền của mẹ thì bụng thổn thức, nước mắt tuôn rơi lã chã…Thương thay cậu bé sinh ra,chỉ có cha mẹ là người trông cậy yêu thương,mà lại phải ngay cha ghét bỏ, mẹ thì cũng bị cha ruồng rẫy, ai là ngươi như cậu chẳng đau lòng xót xa ? Cậu đã mười bốn tuổi đầu rồi, mà học hành chưa định,phần thì cảnh gia đình cha mẹ lại như thế, một ngày một quá, thân thể cậu chẳng khác chi ngọn đèn dầu cạn,những lúc tàn canh nay, đường xa buồn nỗi mai sau thế nào ? Thật quả đúng như lời bà nói sống là khổ ,nghĩ như cậu cũng là khổ lắm vậy !...
         Cậu lo nghĩ lắm nên sáng hôm sau rức đầu không ăn cơm, rồi đến chiều lên cơn sốt. Tinh thần tán loạn, tư tưởng hôn mê, lại thêm cậu khóc lóc nhiều,người hao hẩn đi, mà bệnh sốt càng nặng,bà lo sợ quá, không biết làm thế nào, bất đắc dĩ phải nói với ông xem ông bảo phải uống thuốc làm sao. Ông cũng chẳng rối trí chỉ bảo bà :
          “ Nó sốt thì mời ông lang gần đây xem mạch cho nó, can chi phải nói với tôi “.
         Bà nghe ông nói nhạt nhẽo chán ngắt , vội vàng sai người đi mời ông đồ C. gần đấy vẫn làm thuốc sang bắt mạch.Ông đồ xem mạch cậu đâu đấy rồi kê đơn.Nhờ được bà hết lòng săn sóc trông nom cậu, chuyện trò với cậu cho cậu vui,nên trong khi yếu ,cậu cũng không nghĩ buồn bã gì. Bà biết rằng cậu chỉ thương bà,nghĩ sự ông ăn ở mà phát ốm, vậy cũng không than thở buồn phiền với cậu, sợ rằng cậu lại cả nghĩ mà ốm lại. Thực thì trong bụng bà đã chết một nửa ,nghe những lời ông vừa mới nói thuần những giọng bạc ác bất nhân, đã đau đớn như bị dao đâm vào ngực .Cậu nằm bên bà, thực cũng không biết rằng mẹ vẫn uất ức khổ sở trong lòng. Cậu tuy ốm sắp khỏi, mà bà thì lại đau đớn quá đến sắp sửa ốm mất,bà đau đớn mà chỉ ngấm ngầm có ai biết cho đâu..?
    VII
          Giữa mưa phùn gió bấc lạnh lẽo,ngoài đường bùn lên đến mắt cá ,kẻ qua người lại không có ai,sáng ngày ra thị Hạnh mới ngủ dậy ,vừa rửa mặt vấn tóc xong,cái quang cảnh giời hôm ấy trông thực buồn bã; ả ngồi trong buồng nhìn ra ngoài đường ,hình dáng ra chiều nghĩ ngợi. Cảnh vật thê lương làm cho ả súc cảm mà hồi tưởng những chuyện gần xa . Ả hồi tưởng đến những lúc ả còn giang hồ ở Hà Nội, kết duyên với anh lính chào mào, đêm ngày âm thầm khổ sở, hơi một tý thì gã đánh đập tàn nhẫn, tưởng thân tàn không còn được đâu như ngày nay , lại may tình cờ mà được gửi thân vào cửa sung sướng này,ăn của ngon, mặc của tốt, má phấn đã không mòn mỏi ngày xanh, sợi tơ mành cũng chưa đứt hẳn , tuy tuổi trẻ mà ôm lưng ông lão già, con ngựa bạch sóng dây cương thừng ,nhưng ả như cái hoa tàn nhị rữa,hương thừa phấn thải, còn được ở vào chốn sóng đào sáo vẻ,gần nơi lầu hồng gác tía, thế cũng là có phúc lắm. Duy ả chỉ còn buồn nỗi ông Hàn già không đủ sức ân ái với ả cho thỏa thích ,nên ả vẫn lấy làm khó chịu .Ả nghĩ muốn làm sao lấy được rõ nhiều của của ông Hàn rồi thừa dịp mà đi với người khác, cho cảnh giang hồ của ả lại được quen lối vẫy vùng , bõ những lúc cá chậu chim lồng như bây giờ. Muốn thực hành được cái mộng tưởng ấy, thì trước nhất phải làm thế nào xa được mẹ con cậu Ngô Tòng, rồi mới có thể tự chủ một mình mà thu thập những tài sản của ông Hàn vào một tay được. Đương nghĩ quẩn quanh, chợt có thằng nhỏ ở với ông Nhượng đi ngang qua cửa số , thấy ả ngồi một mình trong buồng, thì đứng lại rồi đưa cho ả một cái thơ nói rằng cha ả sang chơi nói chuyện kín không tiện, phải viết thơ nói cho ả rõ. Ả vội bóc thơ ra xem, thơ rằng :
          ” Lâu nay cha không sang thăm con được cũng là sợ mang tiếng với làng nước người ta cho là đi lại luôn là để nịnh nọt ton hót với ông Hàn . Vả lại ông cũng ở nhà luôn, cho nên có nhiều chuyện riêng cha muốn nói với con e nói ra lại không tiện, nên cha phải viết thư để bảo con biết .Từ ngày cha mẹ bán con cho ông Hàn được 200 mang về, thì những mời làng nước ăn uống hết cả ,không còn để ra được đồng nào . Nay đến kỳ sưu thuế, cha một đồng một chữ không có, mẹ con lại đương yếu, nhà túng quá chả biết vay mượn vào đâu , nghĩ chỉ có con họa may có thể giúp cha mẹ những lúc này..Cha tưởng con vê bên ấy cũng được sung sướng như bụng ước muốn, thì con nên liệiu xin ông Hàn một cơ nghiệp mà sinh nhai về sau , họa may cha mẹ có được nhờ cậy chăng. Cha thấy ngoài người ta nói ông Hàn giầu lắm,của chìm của nổi rất nhiều,mà bà ta thì là người hiền lành , chính là may cho con đó, con nên sớm nghĩ để vơ vét lấy một ít vốn, phòng khi ông ta trăm tuổi thì con có sản nghiệp nuôi thân. Cha đêm ngày mong mỏi về con, con chớ nên bỏ bụng cha”.
    Nhượng ký    
        Thị Hạnh xem xong bỏ thơ vào tay áo rồi ngồi yên nghĩ ngợi…Chợt ông Hàn ở đâu đến, ả vừa nhìn thì ông đã hỏi :
            “ Mình nghĩ gì thế ? …”
           “ Tôi có sự buồn riêng nên phải nghĩ !”
           Ông nghe ả giả lời có sự buồn riêng nên hỏi ngay :
           “ Mình có sự buồn riêng gì nói cho tôi biết !”
           Ả làm ra mặt rất sầu thảm nói với ông rằng :
           “ Từ khi tôi lấy mình một đồng một chữ không có . Nay cha mẹ hỏi đến không lấy đâu ra đưa giúp nên phải buồn “.
          “ Thế ông bà cần lấy bao nhiêu ?”
          “ Một trăm “.    Ông cười nhìn ả :
           “ Có thế thôi mà mình cũng buồn làm cho tôi cũng buồn lây. Từ rầy mình có lấy tiền mình cứ bảo tôi, tôi đưa cho.” Nói rồi liền mở hòm lấy một trăm bạc đưa cho ả.Kỳ thực thị Hạnh cũng đã có mấy trăm bạc rồi, ả thừa những lúc ông ngủ say, trộm khóa mở hòm lấy, mà ông không biết. Lúc nào vui vẻ ông thường hỏi ả :
           “ Tôi yêu mình thế này mình đã bằng lòng chưa ? “
           Ả đáp :” Bằng lòng thì rất bằng lòng nhưng chưa lấy gì làm sướng !”
           Ông lại hỏi :” Hay để tôi đưa mình ra Hà Nội dắt mình lên hiệu Gô-Đa sắm sửa mua bán, rồi đến phố Hàng Bạc kéo vòng xuyến hoa hột,và qua Hàng Đào may cho mình mấy cặp quần áo mặc tết, mình đã lấy làm sướng chưa ?”
          Thị Hạnh giả lời :” Cảnh tôi chưa được sướng, nên tôi chưa lấy ăn mặc chơi bời làm sướng”.
          Ông hỏi :” Tôi yêu mình thế mà mình vẫn bảo là cảnh mình chưa được sướng là nghĩa là làm sao ?”
          Thị Hạnh đáp :” Cảnh sướng của người ta cốt ở trong nhà vợ chồng biết yêu nhau,ngoài ra không ai ghen ghét,không bị cái gì làm vướng mắt, như tôi yêu mình, mình yêu tôi mà có người ghét muốn phân rẽ tấm lòng yêu mến của đôi ta thì mình có lấy làm sướng được không ? Tôi không phải không biết chơi bời ăn mặc là sướng, nhưng cảnh có sướng, thì người mới sướng, cảnh buồn người vui làm sao được ?”
         Ông thấy thị Hạnh nhắc đến chuyện cũ liền ghé tai thị Hạnh mà nói nhỏ rằng :
         “ Việc này mình đừng nói nữa, nay mai tôi có kế làm cho hai mẹ con nó đi …”
         Nghe mấy lời ông nói, thị Hạnh đổi ngay mặt buồn, bấy giờ tươi cười như hoa nở: “ Có thế thì tôi với mình mới yêu nhau,mà tôi mới có thể quyết cùng mình trăm năm vẹn một chữ tòng được !”.
         Thị Hạnh vui vẻ bao nhiêu, ông cũng vui vẻ bấy nhiêu, ông bèn nhìn ả cười mà hỏi :
        “ Này tôi hỏi thật mình câu này,giời rét lại mưa phùn thế này, mà tôi với mình ngồi nói chuyện tri kỷ với nhau trong buồng kín ,mình có lấy làm khoái lạc trong bụng không ?”
        “ Khoái lạc lắm !...Sao mình cứ hay hỏi thế !...”
        “ Bởi vì bụng tôi lúc nào cũng nghĩ đến cuộc sung sướng của tôi với mình,tôi sung sướng tong lòng , thì tôi chắc mình cũng phải vui vẻ trong dạ , tôi chỉ muốn cho ngày tháng thật dài, năm lâu hết, để cùng với mình yêu mến nhau. Tôi được gần mình lúc nào như được trẻ lại, không biết là già nữa !”
         Thị Hạnh thích chí, ngồi yên cười , chưa kịp nói, ông Hàn lại nói luôn :
         “ Mình à, tôi với mình nay cũng có thể được ví giai anh hùng , gái thuyền quyên, phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng. Tôi nhớ khi xưa đi hát cô đầu có một ả cũng có nhan sắc nhân tình với tôi khi uống rượu hãm cho tôi mấy câu rằng :
    Đã nên ý hợp tâm đầu,
    Trăm năm xin hẹn cùng nhau chút tình,
    Một cuộc ba – sinh …
    Tôi xin đem mà tặng mình cho rõ cái cảm tình  của tôi với mình….”
            Thị Hạnh nghe ông đọc mấy câu hãm ,cũng cất tiếng hát rằng :
    Chàng ơi có thấu tình chăng ?
    Giữa rầm tháng tám ông giăng đương tròn
    Cùng nhau nguyện tấm lòng son
    Còn non còn nước ta còn yêu nhau …
               Thị Hạnh vừa toan hát nữa thì nghe buồng bên cạnh có tiếng kể chuyện, nghe kỹ thì rọ ra tiếng bà Hàn. Ả lấy ta ra hiệu cho ông yên đừng nói ,rồi hai người cùng nghe, giọng bà Hàn kể réo rắt âu sầu,ông và thị Hạnh chỉ nghe được có mấy câu “ Cung Oán Ngâm Khúc “ :
    Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng
    Dẫu thuê tiền cũng chẳng buốn tênh
    Nghĩ mình lại ngán cho mình
    Cái hoa đã trót gieo cành biết sao ?
    Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm
    Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon
    Cùng nhau một giấc hành môn
    Lau nhau ríu rít cò con cũng tình
    Mình có biết phận mình ra thế
    Giải kết điều ỏe ọe làm chi ?
    Thà rằng cục kịch nhà quê
    Dẫu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này
    Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ
    Vẻ tiêu hao lại võ hoa đèn
    Muốn đem ca tiếu giải phiền
    Cười lên tiếng khóc hát nên giọng sầu
    Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu
    Giọt hồng băng thấm ráo làn son
    Dơ buồn đến cảnh con con,
    Trà chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi.
    Trong gang tấc mặt giời xa mấy?
    Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu?
    Sinh ly đòi rất thời Ngâu,
    Một năm còn thấy mặt nhau một lần…..
            Xét ra bà Hàn nhân súc cảnh buồn nên sẵn thuộc Cung Oán nên nhớ câu nào kể câu ấy, nhưng thị Hạnh nghe xong lại nói với ông :
          “ Giọng kể chuyện  như thế rõ ra oán hận mình vô cùng ,thứ nhất hai câu cuối cùng, lại hình như rủa mình, mình ở cạnh vợ mình, mà vợ mình ví câu “ Sinh ly đòi rất thời Ngâu, Một năm còn thấy mặt nhau một lần…..” Mình có là ma đâu mà thỉnh thoảng một năm mới một lần hiện lên. Tôi với mình đương hát xướng vui vẻ mà vợ mình lại đá ngay giọng buồn vào, đó tức là trêu chọc mình, mình có biết không ?”
            Ông nghe thị Hạnh nói tự dưng đùng đùng giận dữ lẩm bẩm một mình :” À thế ra con này hỗn thực , rồi ông bảo cho mày !...”
            Rồi ngay chiều hôm ấy, cơm nước xong ông bảo bà rằng :
           “ Bây giờ thằng Ngô Tòng cũng đã lớn rồi, vậy phải cho nó đi học mới được. Nên tôi định thu xếp cho bà 1000£ . Bà ra Hà Nội buôn bán và nuôi con trông nom cho nó học hành. Bà nên kíp thu xếp lên Hà Nội ngay với nó. Còn công việc ở nhà có tôi bà không việc gì phải lo. Bà có bằng lòng không ?”
          Bà nghe ông bảo chả nói đi nói lại chỉ giả lời :” Ông đã bảo thế, mẹ con tôi xin vâng !“
          Ông lại gọi cậu Ngô Tòng ra bảo :
         “ Ta cho mẹ mày lên Hà Nội trông nom cho mày đi học ,nếu tao nghe thấy nói mày lười biếng không chịu chăm chút thì roi vào đít đấy biết chưa ?...”   
     
     ( Còn tiếp )
     
     
     
     
     
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.08.2013 10:02:12 bởi nvietdung >
    #2
      nvietdung 09.08.2013 10:04:05 (permalink)
      Cuộc tang thương - (Phần 3)  Tiếp theo 
         
      VIII
               Bà Hàn và cậu Ngô Tòng ra Hà Nội ở thấm thoắt đã được ba tháng rồi.Bà có quen biết bà lang C. ở phố Hàng Đào ,nên khi ra đến nơi ,bà lang thấy bà là chỗ người làng, bèn để ngay cho ba một nửa cửa hàng để buôn hàng tấm, còn ở trên gác thì mẹ con ở.  Vợ chồng bà lang C. cũng có con học trường Bảo Hộ,cậu Ngô Tòng đến, ông cũng xin cho được học cùng với con ông một lớp.Cậu mới hộc được ít nhiều chữ Pháp, nên mới vào học thì ngồi vào lớp ba.
              Còn bà Hàn đẻ ra cậu thì từ khi dọn hàng ở chung với bà lang C. thì may nhờ giời hàng họ dễ bán, xa lạ dần dân quen thuộc hết ,không ai là không mến bà, cũng vì bà ăn nói chào mời tử tế, nên hễ có người bước chân vào cửa hàng bà là y như mua ngay .Vả lại những thứ the lụa bà bán ,giá phải chăng không nói thách quá,thành ra khách mua hàng ai cũng muốn dùng hàng của bà,họ mua đã không phải hớ ,không đến nỗi đắt quá ,thì ai còn tội gì phải mua hàng chỗ khác,Phần nhiều các nhà thương mại người mình buôn đồ hàng một vốn ,khi bán lại muốn thêm ra những bốn lời,khách hỏi mua nói thách quá, nhiều người phải ngạc nhiên.Đại khái như một áo xuyến buông độ 6£ mà lúc bán nói ra những 15£ thì còn ai muốn mua nữa. Ấy các nhà phụ nữ buôn bán người mình hay có tính buôn bán như thế ,lại thêm những cách tinh khôn chào mời tuyệt nhiên không mấy người hiểu,đối với bạn mua hàng lãnh đạm gắt gỏng không mua thì đã cầu nhầu,nói nọ nói kia, phỏng ai còn muốn bước chân đến hàng mình nữa. Bà Hàn này thật có tư cách là một nhà buôn bán hoàn toàn, ăn nói ngọt ngào, tính khí hòa nhã ,bán giá phải chăng, dù ai đã bước chân vào hàng bà muốn mua hay không, kén chọn hàng gì,bà cũng vui lòng chiều khách,chào mời rất ân cần, không như phần nhiều các bà các cô ở Hàng Đào, Hàng Bồ ngày nay , giữ một cái thái độ rất trái ngược với khách mua hàng, thậm chí khách phải sợ cái tính chua chát của mình mà lần sau không dám đến nữa.Trong thương trường phụ nữ, cũng may còn có người như bà Hàn nay thật đáng khen. Nói tóm lại bà buôn bán mà vẫn còn giữ lại cái phổ thông giáo dục, vậy hàng họ bán tháng nào cũng lãi được hai ba chục,đủ để chi dụng sự ăn tiêu của hai mẹ con.Bà lang C. thấy bà là người tử tế nên đi lại chuyện trò với bà xem ra thân thiết lắm ;bà ở Hà Nội chả quen biết ai ,nay có bà lang C. làm bạn đàn bà ,tưởng cũng vui được một chút.
              Hai vợ chồng ông lang C. ở phố Hàng Đào kể cũng là một nhà giầu có lớn.Ông chỉ có nghề làm thuốc mà phong lưu phú quý thế ,đủ biết các cụ lang ta chưa đến nỗi phải lỡ đường sinh họat mà đành vứt dao cầu xuống ruộng khoai.Bà lang cũng là người đảm đang có tài kinh doanh nghề nghiệp nữa.
              Phố xá tấp nập kẻ buôn người bán ,xe cộ rập rìu như mắc cửi cả ngày ,trên đường cái nào xe cao su nhà, xe ngựa đi lại giây giây không dứt. Cái quang cảnh phồn hoa đô thị có vẻ huyên náo rộn rịp lắm. Trong trí bà Hàn lúc này như bị cái quang cảnh nay kích thích làm cho tinh thần rối loạn.Bà bụng đã nghĩ thầm :” Sao ở Hà Nội lắm người sung sướng sang trọng quá ?”
             Đêm hôm ấy bà nhắm mắt không yên,rồi lại hồi tưởng đến những cảnh trông thấy lúc ngồi trước cửa hàng,càng thổn thức bâng khuâng. Ăn mặc chơi bời vốn chẳng qua là sự thường của đàn bà con gái ,chỉ vụ sự hãnh diện khoe khoang,nào có phải là cái thú bất diệt ở đời,cái sung sướng ly kỳ một thân đâu ? Sự mặc đó có phải là cái hạnh phúc của đời người không ? Nếu không phải là hạnh phúc của đời người ,mà chỉ là một cái trang sức hão ,thì những ngươi biết suy nghĩ ,có chút tư tưởng cao thượng như bà bắt chước mà làm chi .Hạnh phúc của đời người ở đâu xa ,chẵng phải ở trong cảnh gia đình cha mẹ con cái yêu nhau cùng nhau một lòng một dạ gánh vác công việc đời ru ?
             Cái mộng tưởng của bà ở đó nay đã không có hoặc có mà thành ra ảo tưởng ,thì bà đối với sựnthế còn thể nào vui được ,còn có thể nào cho mọi sự hành lạc khác là vui sướng hơn được nữa ?.. Tuy bụng bà chỉ lo nghĩ về cậu Ngô Tòng sao cho học hành chóng thành danh hiển đạt ,để bà được trông thấy vui mừng về cậu thôi .
             Bà lang C. có một người em họ vẫn thường đi lại đấy chơi là ông Phán K. đương tòng sự tại phủ T.S. ông này đã hóa vợ ba năm nay, tuổi năm nay cũng đến 45 .Ông lại nhà bà lang C. luôn, nên được biết rõ chuyện nhà bà Hàn .Một hôm ông nói với bà Lang :
            “ Chị làm thế nào nói với bà Hàn lấy tôi ,thì tôi xin hậu tạ chị !..”
        Bà Lang cười :” Người ta đã ngoài bốn mươi tuổi đầu rồi,ai còn lấy chồng nữa mà hòng nói cho vô ích! ”    
           “ Biết đâu, chị cứ nói tôi làm ở sở ấy sở nọ được nhiều lương, chắc bà ta tham lấy..Tôi cốt lấy được bà ta là chỉ vì có lưng vốn được vài nghìn lại biết buôn bán !..”
             Bà Lang lại nói thêm :” Ấy bà ta chán vốn ra đấy !”.
            Ông Phán K. thích lắm nói mãi : “ Chị cố giúp em nhớ .Trăm sự xin nhờ bà chị cả đấy!..”
            Cách vài hôm sau,bà Lang C. ngồi nói chuyện với ba Hàn, nhân hỏi bà :
            “ Lâu nay sao bà không về quê thăm ông ? Và bà có biết tin tức ông độ rày ra làm sao không ?..”
           Bà Hàn nghe hỏi chỉ rầu rầu nét mặt đáp :” Không !…”
            Bà Lang dó biết bà buốn vì câu hỏi ấy liền than rằng :” Tội nghiệp cho mẹ con bà thì thôi,ông như thế thì bà trông cậy vào ai về sau này ? Một mình như thế có khổ không ?...”
            Bà Hàn chỉ cúi đầu xuống ngồi yên không nói gì .
            Bà Lang lại nói :” Như bà đây cũng là một người ăn ở với chồng chưa có đều gì sếch mếch mà ông nỡ ăn ở bạc bẽo ,vậy thì cũng chẳng tội gì mà thờ thứ chồng ấy nữa cho khổ một đời,thà kiếm chỗ khác để nương nhờ còn hơn !..”
            Bà Hàn ngạc nhiên nhìn bà Lang :” Chết nỗi ! sao bà lại dậy thế ?”
            Bà Lang lúc này mới rót :“Tôi như bà thì tôi chả tội gì mà ở với chồng bạc như vậy. người ta tệ bạc với mình làm khổ mình, mình có phép được phụ người ta mà tìm chốn sung sướng an th6an. Bất nhược bà cứ nghe tôi !..”
            Bà Lang nói đến đấy rồi ngừng lại không nói nữa thì bà Hàn lại hỏi :” Bà định dậy tôi làm sao kia ?”
            “ Tôi như bà thì tôi đi lấy chồng khác !..” 
            Bà Hàn nghe bà nói hết ,mặt tự nhiên đỏ bừng ngay lên mà rằng :” Chết bà nói sai lắm.Tôi mà lấy chồng nữa thì mặt mũi nào.Tring tiết để đâu. Và lại nói cho phải thì tuổi tôi cũng già rồi còn gì ?..”
            Bà lang chỉ lắc đầu cười :” Tring tiết mà khổ một đời,trinh tiết mà đối với chồng bất nghĩa thì trinh tiết đó đáng tiếc và đáng cười .Đời nay nhân nghĩa hão có kể vào đâu ,chán người già hơn bà còn lấy chồng,chán người cùng một cảnh với bà mà cũng phải sớm nghĩ đến lấy chồng khác ,huống chi bà già thì lại lấy người già,lấy chồng như bà thiên hạ ai chê cười,người ta tất khen là người thức thời, họ tất bảo rằng lấy để nhờ vả trông cậy,ai dám dị nghị đều nọ tiếng kia!...”
            “ Vẫn biết lời bà dậy cũng phải, nhưng tôi tưởng tôi không có mặt mũi nào làm được như thiên hạ,.. xin bà tha lỗi cho !...”
            Bà Lang nói mãi :” Bà thật là dở quá,ai đời sung sướng chả muốn lại muốn khổ suốt đời…”
            Bà chưa nói xong, bà Hàn đã gạt đi :” Chỗ chị em bà có lòng thương mến bảo gì tôi xin vâng ,nhưng xin bà chớ nói đến chuyện này nữa .Tôi dầu chết cũng không dám vâng theo, dù bà cho bạc vạn bảo tôi nghe, tôi cũng xin cam chịu thất ý bà …”
           Bà Lang thấy nói mãi không được cũng thôi, chỉ phàn nàn :” Bà chẳng biết nghe tôi thật đáng tiếc Chỗ bà con tôi yêu bà mới khuyên  nhủ ,xin bà lượng xét cho !”
           Xong cáo từ bà lui vào nhà trong,hôm sau ông Phán K. đến hỏi tin tức liệu có kết quả gì không, thì bà Lang lắc đầu rằng :” Người đ1o dạ như gang sắt,nói không chuyển được Thật cũng là người hiếm có …”
           Ông Phán K. nghe hết chỉ lẩm bẩm :” Người dại quá ,lấy mình sung sướng lên xe xuống ngựa mà không muốn, nghĩ thật cũng lạ thay .Thiên hạ sao lắm người dại thế bao giờ ? Số mình thật đen,nên không vớ được những món thế này, vừa tài giỏi, vừa có vốn…”
           Bà Lang thấy ông lẩm bẩm một mình thì cười bảo ông rằng:” Thôi,kiếm món khác vậy thôi !...”
      IX
             Khi bà Lang C. lui rồi, còn lại một mình bà Hàn ngồi lẩn thẩn nghĩ bụng bảo dạ :” Quái lạ, người ta cứ bảo phú quý sinh lễ nghĩa, mà ta xem những lời bà Lang C. này nói với ta thật là vô đạo quá.Ai ngờ đời bây giờ luân thường đạo nghĩa không còn nữa. Ra khổ, lòng người chỉ còn biết có của cải vàng bạc mà thôi. Nay ta là người biết nghĩ, nếu không đã nổi ngay lòng tham mà lấy chồng khác rồi còn gì ..Ta mà như thế thì lại bất nghĩa mà bạc với con ta lắm “.
            Vừa nghĩ xong, chợt cậu Ngô Tòng đi học về .Hai mẹ con rủ nhau ăn cơm xong thì trời vừa tối. Bà ngồi ngay cạnh cậu,càng trông con càng khởi ra những cảm tưởng chính đáng đáng trọng. Bà hỏi cậu rằng :” Lâu nay con đi học có hay thuộc bài không ?”
            Cậu đáp :” Hôm nào con cũng thuộc !”.
            Giọng nói quả quyết như tỏ ra là thực ,bà nghe bụng mừng lắm liền ôn tồn bảo cậu :
            ” Con đã lớn rồi,sự nghiệp của con hay hay dở,con đường tu thân xử thế của con dài hay ngắn cũng cốt ở sự học,học để cho biết đạo làm người,không nhầm lẫn bước vào con đường tà dục vô đạo. Học phải như thế mới là học.Mẹ thấy phần nhiều các học trò ngày nay đi học,học chỉ vụ lấy thành đạt rồi thì chơi bời ,như thế thì học để mà hư thân mất nết thì có. Con ở đất Hà Nội này đi học,mẹ lấy làm lo cho con lắm,vì chính đây là một chỗ rất dễ sinh dở.Cứ cái bề ngoài thấy nhà cao cửa rộng,người người sang trọng, con giai thì quần lượt áo là,gấm vóc xa hoa, con gái thì vòng xuyến chíu chít,áo nọ áo kia rực rỡ,tưởng ngay là chỗ văn vật lễ độ,chớ có biết đâu như thế là những cái gương dễ bụi bặm bẩn thỉu.Cha con chỉ vì ra Hà Nội tập nhiễm những sự ăn chơi ngoài này ,mới sin h ra bụng càn rỡ tệ bạc thế,mẹ e cho con không khỏi mắc phải cái dở ngoài này mất .Cái hay thì khó bắt chước,vì cái hay nó không lộ ra ngoài cho biết ,người có chịu suy nghĩ mới tìm thấy mà thôi.
             Mẹ mong rằng những lời mẹ nói đây lọt được vào tai con. Con đừng nên quên. Đừng thấy người ta có quần nọ áo kia mà sinh ao ước, đừng thấy người ta chơi bời mà vui theo,đừng thấy người ta có nhiều tiền bạc mà đem bụng muốn,con phải biết những cái ấy chính là những sự dễ làm cho người hay hóa dở ,chính bởi những cái dở thế này mà nhân tâm thành ra kiêu bạc,lễ tục thành ra đồi bại, đạo đức luân lý thành ra khinh rẻ.Người ta càng sung sướng bao nhiêu, càng dễ dở bấy nhiêu,nếu biết tìm ra cái sung sướng khác ,đừng lấy chơi bời ăn mặc làm đích , thì mới không đến nỗi thành ngưới hỏng. Con ơi con đường trần thế gai góc, quê người mẹ con ta, mong con mẹ khóc thì con nên biết nghĩ mà chớ phụ lòng mẹ .Mẹ tựa cửa đợi con,phận con, con ở vuông tròn ,đất khách nắng mưa, một tấm lòng son mẹ với con, Con có biêt chăng hử con ?”…
             Lời nói cảm động, hàng hàng thiết tha,câu giáo huấn bà Hàn nói với con thật đã chẳng thẹn với các bà Vương, Từ ( mẹ Vương lăng, Từ Thứ thời Tam quốc)đã cảm hóa thấm thía vào tâm cậu Ngô Tòng rồi,khiến cậu nghe mà hứng khởi trong lòng, sinh ra vô số quan niệm về lập thân tu chí .
            Đêm khuya thanh vắng một mình cậu ngồi, canh tàn chiếc bóng ngọn đèn xanh,cái cảnh tịch mịch trên tuyết án lạnh lẽo làm cho cậu nghĩ vẩn vơ buồn rầu vô hạn,nào hay đâu ngày tháng như ngựa lồng cửa sổ,cậu đã mười lăm tuổi rồi mà sự học vẫn chưa thành kết quả. Con đường sĩ hoạn còn dài, hai vai gánh nặng,biết bao giờ cho đến nơi đến chốn,phần thì mẹ già một cảnh con con, bấy chầy một bóng,đường nghìn dặm xông pha ,lấy ai kẻ đỡ đần mọi việc,tình kia cảnh nọ biết giãi bày làm sao ? Than ôi, đầu xanh tuổi trẻ như cậu mà cái bước phong trần lưu ly đã trải ,cốt nhục phân lìa , hàn huyên mấy cuộc mong chầy mà không biết sau này tương lai ra thế nào ? Ôi thôi, cậu những nghĩ mà lo ,mà cảm, cảm lo lo cảm ngẩn ngơ lòng, bấy lâu vẫn chốn cô phòng buồn tênh.Những lời bà khuyên cậu còn in trong trong tưởng tượng của cậu, đâu dám sai, con mắt cậu còn đương mô phỏng một công cuộc tổ chức cho cõi đời cậu sau này có quả phúc hoàn toàn. Lạ thay những lời nghiêm huấn chẳng qua là vô hình vô ảnh,mà có thế lực gì biến được nhân tâm cậu một cách mau chóng như thế .Từ hôm bà khuyên cậu, thì cậu chỉ có biết học, lúc nào cũng học, không mấy lúc là thấy cậu bỏ sách ra ngồi chơi.
            Hoặc có ai rủ cậu đi đâu cậu cũng chối từ,bảo rằng mẹ không muốn cho đi.Lắm lúc bà thấy cậu mải học quá đã phải bảo:” Con cũng nên học vừa vừa chứ, thỉnh thoảng phải đi chơi mới được !”.
            Nhiều khi chiều giời gần tối, cậu đứng chỗ cửa hàng bà mà nhìn ra ngoài đường, trông thấy nào các cậu công tử quần áo tây bảnh bao, vừa đi vừa nói chuyện tiếng tây trên hè, nào các cô thiếu nữ mặt mũi trắng trẻo đẹp đẽ xe cao su nhà quanh các phố , cảnh tượng ấy tự nhiên sinh hoạt ra biết bao nhiêu cảm giác trong trí não cậu, cậu bụng nghị ngay :
          ”  Mẹ ta bảo ở Hà Nội nay, cái dở thì nhiều ,biết đâu những hạng người này là những hạng người chứa nhiếu cái dở…Người nhiều dở, thời chẳng đáng khinh lắm ru ?”
            Bụng nghĩ vậy nên lấy làm ghét lắm, chẳng muốn chơi với ai ,mà cũng chẳng muốn đi đến đâu cả .Một đất Hà Nội, văn vật phồn hoa, lịch sự sung sướng như thế ,giai thanh gái lịch thiếu gì,mầu son vẻ tía thiếu gì,mà đối với con mắt cậu Ngô Tòng chỉ thờ ơ,không có ảnh hưởng,không sui khiến được tư tưởng của cậu đổi thay ! Hà Nội, Hà Nội, hòn ngọc kim cương làm lóe mắt mọi người,mà duy có mắt cậu Ngô Tòng là mi không huyễn diệu nổi! Duy có cậu là đối với mi như một vật bỏ rẻ không đắt .Ngươi chẳng qua không đủ đem cái ái tình làm siêu lòng cậu ! Cậu đối với ngươi thật cũng đã vô tình lắm vậy !
             Cậu ở cùng một nhà với cậu Nguyễn Sơ ,lại cùng học một lớp với cậu,mà xem cậu vẫn không muốn chơi với cậu này,không phải cậu hợm mình khinh rẻ gì , chỉ vì cậu này bao nhiêu tâm tính nết ăn nết ở đều trái hẳn với cậu.
             Hôm ấy giời rét ,cậu Ngô Tòng đương đứng chơi ngoài cửa,thình lình cậu Nguyễn Sơ ở đâu đến ,nhìn cậu mà nói :” Hôm nay mát giời, tôi với anh thuê mỗi người một cái xe đạp tập đi đi .Đây tôi có đủ tiền rồi !..”
              Cậu Ngô Tòng lúc này đã thấy khó chịu, không muốn đứng đấy nữa bèn giả lời :” Cậu có đi thì cứ đi, chớ tôi không di được,vì mẹ tôi không muốn cho tôi đi .Thôi để tôi vào !..”
              Nói rồi bước lên gác, vừa gặp lúc bà Hàn đang ngồi dở các quần áo rách của cậu ra để khâu; bà thấy con lên, liền hỏi đi đâu về, cậu nói chơi ngoài cửa nói chuyện với cậu Nguyễn Sơ .Bà thôi không hỏi nữa,một hồi lâu hỏi cậu :“ Có người giầu có muốn hỏi lấy mẹ,mẹ sắp lấy chồng đây, con có bằng lòng không ?”
              Mấy lời bà nói đột ngột lạ lùng  làm cho cậu như bị sét đánh,mặt tự nhiên tái đi, rồi hai hàng nước mắt rỏ giòng giòng xuống áo .Bà cảm động quá, hỏi sao cậu khóc, thì cậu nói :
            ”  Mẹ lấy chồng thì con không được yêu mẹ nữa? Con ở với ai ?”
            Bà nghe con vừa khóc vừa nói thương cảm lắm,bèn ôm lấy cậu mà vỗ về rằng :
           ” Mẹ nói đùa con đó ,chớ có khi nào mẹ nỡ bỏ con.Giời đã sinh ra mẹ có chồng, có con rồi ,thì mẹ chỉ biết có một chồng, một con thôi, chẳng may phải cha con ăn ở tệ bạc , thì mẹ đành ở vậy suốt đời mà nuôi con cho tới lúc khôn lớn .Mẹ không như ai nỡ quên tiết nghĩa luân thường .Dù người giầu đến trăm vạn muốn lấy mẹ ,mẹ cũng không vì những của cải nhiều đến nỗi đổi bụng,mẹ chỉ mong con biết nghe lời mẹ, mà tu thân luyện đức, cho khỏi phụ công giáo dục của mẹ thôi. Mẹ thấy nhiều người có tuổi mà còn cải giá thì mẹ khinh ghét vô cùng ,mẹ coi là đồ vô ânbội nghĩa vô đạo,không phải là giòng giống con nhà tử tế của nước Nam nữa .”
             Cậu thấy bà nói quả quyết cũng nói “ Mẹ đã nói như thế , thì con cũng hết sức tu thân học hành ,không để một điều gì  mẹ phải buồn phiền.”
             Ôi mẹ con đôi người ,câu chuyện tình thâm nghĩa trọng,cốt nhục vầy đoàn,con ấy mẹ ấy thật đáng quý thay,chả bù cho những gia đình mẹ chẳng ra mẹ, con chẳng ra con,mẹ con mà là người dưng nước lã,không có một chút thân ái chi cả,thử những khi đêm khuya thanh vắng ngồi mà đọc chuyện mẹ con cậu Ngô Tòng này,xem hồn lương tâm có còn hưng khởi cảm động chút nào không ?
             Đêm hôm ấy giời quang mây tạnh,ngoài phố tấp nập kẻ qua người lại,kẻ ngược người xuôi, mà trong nhà gác chỉ có hai mẹ con bà Hàn ngồi ngang nhau nói chuyện ,một ngọn đèn Pha-lê con để giữa bàn ánh tỏa ra bốn góc,như cũng vui vẻ thay cho cảnh êm ái của mẹ con cậu ấy . Cậu Ngô Tòng ngồi đọc truyện Kiều cho bà nghe ,đến đoạn nào hay thì cậu thôi không đọc nữa để bà giảng . Quãng nào buồn thì bà và cậu mặt cũng buồn dịu ngay xuống.Cho hay quyển Kim Vân Kiều kia cũng có ảnh hưởng đến tấm lòng cảm động của hai mẹ con,giữa lúc đêm hôm vắng vẻ này ,đọc đến mà bụng sinh ra bao nhiêu quan niệm về sự thế .Hồn cô Kiều ví có thiêng cũng xin chứng giám cho tấm lòng hiền hậu của hai mẹ con Ngô Tòng vậy !
      X
              Hoa phù dung sớm nở tối tàn ,bốn mùa qua lại vần xoay nhanh như nước chảy phút đã đầy hai năm . Cậu Ngô Tòng học hành tấn tới ,lên ngay được lớp nhất ban tiểu học,rồi năm ấy thi đỗ ngay được bằng cơ thủy học tốt nghiệp  ,kỳ khảo thí vào lớp trung học năm thứ nhất cậu cũng trúng tuyển,đậu cao nên lại được lương ở ngoài lĩnh mỗi tháng bốn đồng. Từ đấy cậu lấy vé tháng xe điện đi học,không phải đi bộ như trước nữa.
             Một hôm giờ nghỉ học,các học trò đương chơi ở sân ,cậu Ngô Tòng thấy một người học trò tuổi độ mười bẩy tuổi đứng dựa vào gốc cây bàng giữa sân khóc ,hai mắt đỏ hoe, cậu động lòng lại gần hỏi :
           “ Anh có việc gì buồn đến nỗi khóc thế ? “
           Người học trò ấy nhìn cậu giả lời :” Cảnh tôi chẳng ra gì nên tôi nghĩ thương tâm mà khóc !”
           Cậu nghĩ người ấy nói đến câu “Cảnh tôi chẳng ra gì ” chợt nghĩ đến cảnh mình,cũng rơi nước mắt , bèn lại hỏi :” Tôi đây cũng đau đớn vì cảnh ngộ hiện thời ,nếu cảnh anh có điều gì đau khổ, anh khá nói cho tôi biết, họa may tôi có thể an ủi anh chăng ?”
            Người học trò nghe cậu nói tử tế cảm động liền cám ơn cậu mà rằng :” Tôi tưởng cái sầu não của tôi khó có người an ủi được, nhưng anh đã hỏi thì tôi cũng xin nói hết,nếu có phải anh cũng đau đớn vì cảnh ngộ trong gia đình thì họa may anh mới biết thương xót đến phận tôi !”.
             Cậu Ngô Tòng muốn biết rõ lịch sử chàng ta cùng cái nguyên nhân khổ não mà chàng ta gặp phải thế nào bèn giục :” Thế nào xin anh cứ nói !”
              Người học trò ấy chưa nói được câu nào,nước mắt đã đầm đìa cả trong đôi mắt ,đủ biết cái sầu thảm của chàng ta kịch liệt lắm .Song chàng cố gượng gạt nước mắt không khóc nữa ,kể cho Ngô Tòng nghe :
             ”  Tôi đây tên Lê Cần ,năm nay đã học đến năm thứ hai rồi .
             Cha tôi vốn là người quê ở Hà Đông ,nhưng từ nhỏ đã bỏ làng ra Hà Nội làm ăn, tậu nhà ở phố Hàng Bông,lấy được mẹ tôi là con một nhà giầu ở Hà Nam .Cha tôi sẵn được của mẹ tôi có ,bàn định với mẹ tôi rằng :” Ngày nay buôn bán gì xem ra  cũng không chóng phát đạt bằng nghề thầu khoán,đời bây giờ mà làm được một nhà thầu khoán giầu có lấy độ mươi vạn thì danh giá cũng không kém gì một ông Phủ,ông Huyện .Vậy bà có bao nhiêu vốn cho tôi mượn để làm,may thầu được việc có lời thì vợ chồng tự khắc giầu to ngay.Mẹ tôi nghe cha tôi nói có lý,nên thu xếp đòi công nợ các nơi cùng tiền để hòm được tất cả năm nghìn đồng đưa cả cho cha tôi.May làm sao, cha tôi trúng được một việc,quả được lãi,rồi lại thầu luôn được mấy việc như đắp đê, làm đường,việc thầu nào cũng được lãi hàng nghìn. Sự làm ăn của cha tôi cứ ngày một thịnh vượng,,chẳng đầy ba năm mà cha mẹ tôi đã nghiễm nhiên thành một nhà giầu có hàng mươi vạn ở Hà Thành…Lúc bấy giờ trong nhà tôi biến hẳn thành một cảnh tượng mới,cha tôi đã là một nhà thầu khoán có tiếng ở Hà Nội,thì bao nhiêu các bực tai mắt cũng tìm đến chuyện trò,tới lui thăm viếng,bạn bè lúc ấy chẳng biết bao nhiêu,thật chẳng khác chi một xã hội nhỏ vậy…
            Mẹ tôi người hiền lành thật thà ít nói,nên cha tôi muốn chơi bời bạn bè với ai cũng tùy ý, không hề có đều nọ tiếng kia.
            Tôi còn nhớ năm kia vào mùa giời rét, gió lạnh lẽo ,mưa phùn cả ngày, tôi đương ngồi chơi với mẹ tôi trong buồng,thì thấy cha tôi đi đâu về, cởi áo pardessus đưa cho mẹ tôi bảo vá ngay để chiều cha tôi phải sang bắc có việc cần. Tôi trông thấy cái áo của cha tôi lần lót bằng lông mỡ bóng đẹp lắm ,cầm lên giở đi giở lại ngắm nghía mãi,khi giở đến túi trong, thì thấy có một cái phong bì lòi lên khỏi miệng túi quá nửa, tôi nhìn chữ đề thì thấy rõ là đề cho cha tôi,mà chữ thì rõ là chữ đàn bà. Tôi lấy làm nghi,lại có tính tò mò mới lấy thơ giở ra xem,thơ viết văn hoa dài lắm nhưng tôi chỉ nhớ phác rằng :
           ” Mình ơi, giời xanh dun rủi cho tôi gặp mình,khiến bụng tôi aimer (yêu) mình hết sức ,chẳng khác chi đã cùng mình hội ngộ rồi.Nhưng còn lòng mình định ăn ở với tôi ra sao ?
          Từ khi mon mari (chồng tôi) về tây để lại cho tôi 10.000 francs, mấy năm vừa ốm đau vừa ăn tiêu nhiều nên hết cả,nay muốn đem cái xuân xanh còn lại mà kết bạn tri kỷ với người cùng nước, chỉ ước ao được cùng nhau có chút amour (tình yêu) để những khi xem hoa nở, khi chờ giăng lên,còn có người biết câu chuyện ba sinh mà nói. Nhưng khéo đa đoan là Hồng quân,mấy mươi phen để khách hồng quần ba chìm bảy nổi,má phấn phôi pha, đầu xanh lần lữa ngày tháng thì mau, mà có chữ Amour không biết cùng ai phó thác được.Thế mới biết được người tri kỷ rất khó không phải là dễ. Tôi đã nghĩ nếu không gặp thì đành lại tìm mari người tây vậy .
            Ai ngờ, tình cờ chẳng hẹn mà nên, cho tôi lại được gặp mình là người lịch thiệp giỏi giang,ngay từ hôm gặp mình trong Quảng Lạc, tôi đã quyết đem một chữ đồng ghi tạc với mình,những lời mình nói với tôi, tôi còn nhớ không khi nào quên. Xa mình thì rêver (nhớ) mình muốn gần mình thì mình ít khi được đi đâu.Hay mình còn mải vui vầy chăn loan gối phượng ở nhà ,mà đã quên lời hẹn ước với tôi rồi. Tôi aimer mình lắm ,mình có biết không ? Sao mình đành tâm không giả lời cho tôi biết, mình tệ lắm mình ạ. Nếu thơ sau mà mình không giả lời ngay cho tôi , thì thôi…từ rầy tôi…
            Tôi viết cái thơ này cho mình vào lúc hai giờ đêm.Vì mình mà cả đêm không lúc nào nhắm mắt được.
                                                                               Tôi hôn mình trăm cái.
                                                                                     Cô Tư P.
           P.S. À đến thứ bảy này mình có thong thả đi chơi được với tôi thì mình lên Bách thú mà đón tôi .Hai giờ tôi lên chờ mình ở trước chuồng gấu.Tôi muốn gặp mình để nói chuyện,vì còn nhiều chuyện chưa nói được với mình. Rõ đen quá hôm qua đánh chắn ở nhà cô một V. nướng ngay mất hai dê.”
             Tôi xem xong thơ liền nói với mẹ tôi:” Có người gửi cho cha con một cái thơ hay lắm!”
             Vừa nói vừa cầm thơ đưa cho mẹ tôi,mẹ tôi cũng biết chữ nên cầm ngay lên xem, mẹ tôi xem chừng nào mặt tái đi chừng ấy .Hồi lâu xem hết cái thư ấy thì mặt tái xanh hẳn đi. Tôi biết cơn ghen của mẹ tôi đã quá lắm ,bèn an ủi mẹ tôi nên an tâm để kiếm lời khuyên nhủ cha tôi,may có bỏ được cô vợ tây này khôgn. Tôi lại lấy thơ bỏ vào túi áo pardessus cho cha tôi như trước. Một lúc cha tôi lấy áo mặc rồi đi. Mẹ tôi thấy cha tôi có ý hấp tấp vội vàng,liền nghi hoặc nói nhỏ với tôi,bảo tôi cứ lẳng lặng dó theo cha tôi xem đi những đâu. Tôi vâng lời. Cha tôi vừa bước chân ra khỏi cửa đã nhẩy lên xe cao-su bảo kéo lên bờ hồ. Người xe kéo cha tôi chạy nhanh lắm,nênt ôi cũng phải thuê xe cao-su đuổi theo mới kịp. Xe tôi theo cháhc xe cha tôi chừng mười thước tây,khi đến trước nhà chớp bóng, thì thấy xe cha tôi đỗ xuống,rồi cha tôi rảo bước đi vào đền Ngọc Sơn. Tôi vừa toan núp một chỗ để xem cha tôi vào làm gì ,thì tự nhiên nghe thấy có tiếng đàn bà nói với cha tôi rằng :” Tôi chờ mình ở đây lâu lắm, sao bây giờ mình mới đến ?”  Nghe cha tôi đáp lại :” Bây giờ mới đi được !..”  Tôi đứng núp ở sau một cái cây to nhìn ra thì thấy lúc bấy giờ cha tôi đương khoác tay đi với một người vợ tây có hai cái răng vàng ,tuổi độ hai mươi ba ,hai mươi bốn, mặt mũi tròn trĩnh, mắt sắc, người mập mạp,chân đi giầy tây đầm.Hai người đi mãi ra lối Cầu Gỗ , rồi nhẩy lên xe cao-su không biết đi đâu. Tôi trong bụng cũng đã nổi cơn ghen tức, tôi cứ trông theo hai cái xe cao-su đương chạy mà bào hao trong ruột,một hồi lâu tôi mới lại thuê xe vê nhà, nói sự tình để mẹ tôi nghe.
                Mẹ tôi thở dài bảo tôi rằng : “ Ai ngờ cha con bây giờ cũng sinh lòng chim dạ cá như thế, chẳng lo gì làm ăn buôn bán,lại mê vợ tây vợ tầu…”
               “ Ôi thôi cha con dại mới vướng víu vào những hạng ấy, chẳng qua là những hạng giang hồ để kiếm ăn, đem thấn thế bán rẻ cho trăm người để sinh nhai độ nhật, chớ những đồ hường thừa phấn thải, người không có ai nhân tình nhân ngãi làm chi,. Cha con rửng của mới phải lòng gái ấy. Phải lòng gái ấy rồi đến hết nghiệp lúc nào không biết !...”
               Tôi cũng nói theo :
              “ Thật thế, những của lấy tây giở về ,có mấy người tử tế, họ phần nhiều chỉ mượn bộ cánh mầu mỡ làm mồi dử những người chơi ngu dại,Chính mồm cha con vẫn nói chuyện với mẹ rằng: kể các cô lấy tây giở về, có mấy cô giữ được phẩm hạnh tử tế đoan trang. Cha con vẫn thường chê hạng người ấy, mà bây giờ lại mắc míu phải,không biết cha con nghĩ làm sao ? Vả con xem mặt mũi người vợ tây nhân tình với cha con không phải là người tử tế !..”
            Những lời tôi nói xúc động gan ruột mẹ tôi, làm cho mẹ tôi mặt mày buồn phiền lo nghĩ. Tôi biết trót vô ý nói gợi mãi chuyện buồn để mẹ tôi sinh cảm động, bèn kiếm điều khuyên và an ủi nên mẹ tôi cũng bỏ qua không nghĩ tới nữa.
             Cáh hai hôm sau, mẹ tôi nhân đêm khuya thanh vắng,cha tôi có nhà không đi đâu ,mới nói với cha tôi rằng :” Tôi nghe người ta đồn ông phải lòng một cô vợ tây nào. Sự thật nếu có, xin ông nghe tôi thôi đi ..!”  Mẹ tôi vừa nói xong, cha tôi đã trợn mắt quát mắng :
             “ Nói láo, ai mê vợ tây !...”
            Mẹ tôi thấy cha tôi chối, liền hỏi ngay :” Không mê vợ tây nào thế thơ ai gởi cho mà dưới ký tên cô Tư P.?” 
            Câu hỏi ấy làm cha tôi nghe phải nín lặng ,mặt sầm ngay lại, không nói đi nói lại gì. Lâu lâu cha tôi gắt với mẹ tôi :” Bà biết gì, những thơ kín của người ta lấy xem làm gì ? Đàn bà chỉ hay thóc mách !..”
            Mẹ tôi chả nói làm sao , chỉ ngồi yên .Một lúc tôi thấy cha tôi gọi tôi ra hỏi :” Thơ của cha để trong túi ,mày lại lấy đọc cho mẹ mày nghe hẳn ?”
           Tôi chối không biết thơ nào , tự nhiên thấy cha tôi giận mặt đỏ lên, rồi cầm ngay cái chổi lông gà để trên giường vụt tôi hai ba cái , vừa vụt vừa đe :” Chính mày lấy thơ của tao đọc cho mẹ mày nghe . Nếu không nói thật tao đánh nữa .”
             Tôi phải cha tôi đánh hai cái đau quá, vừa toan thú thật để khỏi phải đòn, thì mẹ tôi đã nói đỡ cho tôi :” Nó biết đâu mà ông đánh nó. Thơ ấy tôi mở ra xem. Ông có đánh thì đánh ngay tôi đây này, chớ không nên đánh oan nó.”
              Cha tôi hằn học tức tối không biết làm sao ,liền xoay mẹ tôi :” Từ rầy những thơ từ của tôi cấm cả nhà không được mó đến!”
              Từ đấy hôm nào tôi cũng thấy cha tôi đi chơi, mãi khuya mới về, mẹ tôi có hỏi đi đâu thì cha tôi bảo đi đến chỗ ý chỗ nọ, có hôm đến sáng mới thấy cha tôi về, mắt đỏ ngầu đầu tóc rũ rượi, chừng như thức đêm không ngủ. Mẹ tôi sợ cha tôi lắm nên cha tôi có đi đâu chỉ hỏi qua loa mà cũng không dám ngăn cản gì. Một hôm có người chú mẹ tôi ở nhà quê ra chơi, mẹ tôi sai làm cơm thết đãi ,rồi nói với cha tôi ở nhà để gọi người đánh tổ tôm, thì cha tôi lại bảo rằng có việc quan hệ không thể nghỉ được,phải đi ngay. Mẹ tôi tức mình mới nói :” Việc gì mà hôm nào cũng việc.Hôm nào cũng đến sáng mới về ?”
             Mẹ tôi nói câu ấy cũng là nói dỗi để cha tôi ở nhà bầu bạn chuyện trò với ông chú tôi, chẳng ngờ vha tôi đã chẳng nghe thì chớ ,lại còn mắng mẹ tôi thậm tệ :
            ” Ở nhà hay không là tùy ý tao, máy có phép cấm được tao à ?”
            Mẹ tôi nghe cha tôi mắng gọi mày tao biết cha tôi lôi đình thịnh nộ quá, chỉ nghĩ tủi mà rơm rớm nước mắt.
              Cảnh gia đình nhà tôi từ hôm ấy đã bắt đầu đổi ra một cảnh suy đồi buồn bã , hai mẹ con tôi hôm nào cũng ăn cơm một mình, còn cha tôi hôm ăn ở nhà, hôm ăn chỗ khác, trong một tháng mà đi cả 29 ngày, đi hết đêm hết ngày, đến lúc về nhà thì gắt gỏng chửi thày mắng tớ , rồi động có câu gì thất ý lại hạch mắng mẹ con tôi. Thương hại mẹ tôi hiền lành mà phải làm cái bung xung cho cha tôi nạt nộ. Tuy vậy mặc dầu, mẹ tôi không hề oán giận gì cha tôi, vẫn một niềm yêu mến kính trọng chồng,lúc đi lúc về hỏi han vui vẻ, tuyệt nhiên không nhắc gì đến chuyện cô Tư P.. Trong bụng mẹ tôi nghĩ rằng chắc rồi cha tôi cũng thôi, không đi lại vối người ấy nữa, vì cha tôi cũng biết là người chẳng ra gì. Thế nào một hôm lại có một bà chĩ em với mẹ tôi đến chơi, nói chuyện với mẹ tôi rằng hiện bà ta nghe đồn cha tôi đương phải lòng một cô vợ tây, tối nào cũng cùng với cô ta đi đánh xóc đĩa bài cào thua luôn mấy canh có đến vài nghìn bạc.
            Thua đến vài nghìn bạc , nói đến câu này làm cho mẹ tôi sám cả người, những tiếc của mà lo rầu buồn bã. Thành ra chuyện cũ tưởng đã được nguôi lòng,mẹ tôi lại vui vẻ không nghĩ đến,nay hóa ra bỗng lại gợi ra bao nhiêu nỗi ưu tư, chẳng khác nào ngọn lửa đã rập lại cháy .Mẹ tôi là người cần kiệm, tiếc từ đồng xu nhỏ,nghe nói cha tôi phí kể mấy nghìn từ xóc đĩa, bài cào, thì ngơ ngẩn cả người. Ngay đêm ấy giời mưa to quá, cha tôi không đi chơi được phải ở nhà, mẹ tôi thừa dịp can cha tôi rắng :
          ”  Ông ơi, ông thương lấy cơ nghiệp nhà ta mất bao nhiêu mồ hôi nước mắt mới gầy dựng lên được, không phải dễ mỗi lúc mà làm nên phát đạt thế, vậy ông ở nhà đừng có chơi bời gì nữa. Vì tôi nghe nhiều người nói đến tai tôi rằng ông độ rầy hay cờ bạc thua thấy lắm, mất có vài nghìn rồi, ông cũng đã biết tiền vứt đi thì dễ , làm ra thì khó …”
             Chưa nói hết, cha tôi đã giả lời :
            “ Bà chớ nghe hơ bắt bóng làm gì. Nào ai bảo tôi chơi cờ bạc thua hàng mấy nghìn thì lôi người ấy ra đây xem thật không ? rồi khắc biết. Người ta còn dại gì mà đem của đi đốt, tôi đã dại chán ra đấy mà bà phải can.”
             Mẹ tôi thấy cha tôi vẫn khăng khăng một mực không chịu thú lỗi, lời khuyên răn khó lọt tai bèn nói:
            “ Nếu ông không đánh bạc thua sao có người lại biết mà đồn, có phải ông đã chót thua thì từ nay ông đừng đánh nữa, có hay hớm gì cái nghề cờ bạc, có được cũng là của phù vân để ngoài ngõ thôi. Chỗ vợ chồng tôi mới dám khuyên can ông .”
             Mẹ tôi nói xong, cha tôi lại gắt :
           ” Ai làm gì mà dậy với dỗ.Đã bảo rằng người ta không đánh bạc còn nói mãi. Rõ thật khéo hão huyền. Người ta ở nhà đã khổ cả ruột gan,mình cũng chẳng để cho người ta được yên chút nào ! Chẳng thà đi cho rảnh… Hừ , có đi lại nói nọ nói kia, ở nhà thì luôn mồm thế rõ bực mình khó chịu vì vợ!...”
             Mẹ tôi nói lắm thì cha tôi chỉ gắt nói có thế, nếu mẹ tôi biết thôi thì không xô sát, bằng lần nào mẹ tôi hay khuyên răn cha tôi tỉ mỉ, thì y như lần ấy cha tôi chửi mẹ tôi. Lạ thay con người ta lúc đã bị cái vật dục nó áp chế quá, thì tư tưởng cũng thất lạc mà không phân biệt phải trái gì cả , những  lời mẹ tôi can ngăn cha tôi thật đã uổn phí ,không có ảnh hưởng chút nào, chỉ thêm khởi điểm ra cuộc tang thương trong nhà tôi sau này vậy.
             Tôi bấy giờ cũng đã 15 tuổi, anh em chả có ai, duy chỉ có mẹ tôi là tình thân ái hơn nhất, còn cha tôi chả bao giờ hỏi đến tôi. Kể từ lúc cha tôi mê cô Tư P. cái bụng ca tôi đã khác hẳn, cũng may tôi sớm biết nghĩ, cố học hành chăm chỉ để mẹ tôi trông thấy có vui mừng được chút nào hay không, hoặc may quên được sự buồn kia .Vì lòng tôi thương yêu mẹ tôi quá nên tôi mới học hành như nay , mà còn gập anh ở đây.
              Lê Cần nói đến đấy rồi ngừng lại,hình như có sự gì xúc cảm quá, rồi kêu to lên một tiếng :
             “ Mẹ ơi ! nào có ngờ đâu ?...”
             Ngô Tòng thấy cậu ta kêu lên như thế,biết cũng là người tốt nghiệp trong trường khổ thống, nhưng chưa hiểu nguyên do làm sao : “ Thế nào nữa anh nói tôi nghe !”
             Chàng Lê Cần lại bắt đầu nói :
            “ Tôi cũng không ngờ đâu cảnh gia đình tôi vừa mới như trên kia , đã xảy ngay một cái bi kịch gớm ghê như sau này :
             Vào hồi tháng chạp ta năm ngoái, vừa mới bắt đầu dở rét, thôi thì hôm nào cũng đổ mưa, có hôm mưa cả đêm không ngớt , ngoài đường lúc nào cũng lầy lội những bùn,xe không chạy nhanh được, người đi chơi đêm cũng ít không có mấy,nhà nào cũng đóng cửa sớm.Tôi còn tưởng tối hôm ấy  là tối thứ bẩy , vào khoảng mười một mười hai giờ ,tôi mới mua được một quyển tiểu thuyết tây nha đề là “ Une vie” ( Một đời) của Guy de Maupassant tiên sinh đem về ngồi một mình trong buồng,đắp chăn giong đèn xem,xem đi xem lại mãi, chuyện hay quá xúc cảm tưởng tượng tri giác tôi,làm cho tôi cứ nghĩ vơ vẩn mà ngậm ngùi thương hại một đời người chủ động trong truyện, thành ra cảm tình lan man chứa chan vô hạn , đồng hồ đã đánh tiếng một giờ mà tôi vẫn còn xem sách chưa ngủ . Mẹ tôi nằm giường bên cạnh đương ngủ chợt tỉnh dậy hỏi cha tôi đã về chưa, tôi thưa rằng chưa, rồi mẹ tôi bảo tắt đèn đi ngủ… Tôi vừa cầm ngọn đèn sắp thổi thì bỗng tự nhiên có một con dao dí ngay vào cổ tôi,rồi ở dưới gầm giường chui lên một người mặc áo tây vàng, đầu đội mũ Casquette sễ quá trán, râu rậm mặt đen. Tôi sợ run cả người vừa toan kêu, thì người ấy đưa ngay dao vào cổ tôi bào :
          ” Hễ mày kêu to một tiếng thì tao chém chết ngay ! Muốn sống thì tủ bạc để ở đâu, nói ngay! ”
            Nguyên bao nhiêu tiền bạc cùng đồ vàng mẹ tôi đều để riêng trong một cái tráp con, tối đi ngủ thì lại để vào bên cạnh giường chứ không để vào tủ. Nên tôi không biết nói làm sao , nếu chỉ chỗ mẹ tôi thì thằng hung thủ này tất nó lấy mất , e mẹ tôi tiếc của cố giữ hay hô hoán lên thì nó chém …
             Bấy giờ trong nhà tôi duy chỉ có hai mẹ con tôi, người nhà đầy tớ thì ngủ cả dưới bếp, cách nhà trên chỗ mẹ con tôi một cái sân, mà cửa lên cũng đóng. Không biết nghĩ thế nào,người tôi lúc bấy giờ tưởng đã chết mất nửa , miệng tôi kêu van tên hung thủ :
            ” Lạy ông nhà con không có gì xin ông tha cho làm phúc!” Kêu như thế tưởng rằng nó cũng tin mà thôi , không tra hỏi làm gì, ai ngờ mới kêu xong, nó đã lấy tay đấm vào ngực tôi một cái rất đau, tôi chưa kịp xưng nó đấm ngay cái nữa :” Để đâu nói ngay, muốn chết hay muốn sống !”.
             Nó nói sừng sộ như thế làm cho mẹ tôi động mình giở dậy hỏi :”  Cái gì ? ”
             Vừa hỏi nó đã buông tôi ra, nhẩy xổ ngay đến trước mặt  mẹ tôi giơ dao ra:
             “ Tiền bạc để đâu đưa ngay ra,không thì chết bây giờ !”
             Mẹ tôi vốn rút rát sẵn, lại thấy nó dơ dao thì đã thất kinh hồn vía liền đưa ngay tráp bạc ra ,miệng thì kêu :” Đây tiền bạc cả đây, xin ông tha cho mẹ con tôi toàn tính mạng!”.
             Tện hung thủ cầm lấy tráp bạc,bắt mẹ tôi đưa thìa khóa mở ra xem rồi đóng nắp lại,sắp mở cửa buồng nhẩy ra ngoài;mẹ tôi thấy mất tráp bạc tiếc quá mới hô thật to :” Cướp, cướp !...”
                Hô rứt tiếng nó liền quay lại  ,lấy ngay chân đạp mẹ tôi ngã lăn xuống đất,tôi vội vàng mở cửa chạy ra đường,giời mưa phố vắng nên không ai biết. Tôi chạy theo thì nó đi đâu mất rồi,định hô hàng phố dậy thì cũng đã quá muộn… Bèn vào buồng ,vực mẹ tôi dậy thì mẹ tôi đau quá, đã mê man đi rồi. Tính ra mất tráp bạc ấy cả đồ vàng cả thảy hơn một vạn. Hơn một vạn, thật là một số tiền rất lớn, nên mẹ tôi tiếc quá mà sinh ốm ngay hôm ấy, phải nằm bệt trên giường, thuốc thang mãi không khỏi.
               Sáng hôm sau tôi tính đi trình sở Cảnh sát ,nhân thể mời thầy thuốc đến xem mạch cho mẹ tôi.Vừa ra cửa, chân tôi dẫm ngay lên một cái mũ Casquette ,nhìn kỹ thì là cái mũ tên hung thủ đội hôm qua. Tôi lấy làm lạ, lại nhìn xuống đất xem tên hung thủ có bỏ rơi cái gìnữa không ,thời ở dưới đất cách chỗ cái mũ rơi độ một thước, có một bộ râu giả, tôi cầm lên ngắm nghía hồi lâu, cũng nhận ra bộ râu của tên hung thủ, không sai một tý nào. Bụng nghi nghi hoặc hoặc biết chắc tên hung thủ này ăn mặc giả lẻn vào ăn cướp. Tôi bụng bảo dạ rằng đêm hôm, lính Phú-lít đi tuần cả đêm,vả lại ở đất Hà Nội phố xá đông đúc có lẽ nào có cướp, dẫu tay bợm trộm cũng đã vị tất vào được nhà tôi ,vì nhà tôi cửa ngõ chắc chắn kỹ lưỡng,chập tối đã đóng các cửa không còn ai đi lại ra vào nữa , có lẽ nào trộm vào nổi, hoặc lẻn vào nhưng có chỗ nào hở mà nó vào. Một đều nghi ngại nhất là cha tôi vừa mới đi chơi, hoặc nhân lúc cha tôi mở cửa ra đi, hung thủ lẻn vào chăng. Tôi nghĩ chắc là thế, lúc cha tôi đi ra khỏi nhà không có ai đóng cửa…
             Còn cái mũ Casquette và bộ râu giả tên hung thủ đánh rơi, tôi cứ cầm nghĩ mãi không hiểu tên này làm sao lại đổi hình đi ăn cướp, bao nhiêu ăn cướp kẻ trộm xưa nay vào nhà người ta lấy đồ , nào có mấy tên đổi hình, chúng có tài trốn tránh chúng cần chi ăn mặc biến tướng ? Nhưng nghĩ mãi không ra manh mối, thành tôi cũng thôi, cả đến việc trình sở Cảnh sát tôi cũng thôi không đi nữa. Tôi thấy mẹ tôi đau ốm thì tôi lo sợ lắm, nên chỉ chăm tìm thầy thuốc cùng lấy thuốc điều trị bệnh thế cho mẹ tôi mà thôi, cũng quên cả việc mất hơn vạn bạc. Từ hôm nhà tôi xảy ra mất cướp cho đến hôm mẹ tôi bệnh nặng tất cả là năm hôm mà cũng không thấy cha tôi về nhà, tôi muốn đi tìm cha tôi mà cũng không biết đi đâu mà tìm…
              Trong nhà tôi lúc ấy sao mà buồn bã u sầu thế ,mẹ tôi thì ốm nằm trên giường, cha tôi thì bặt tin tức mấy hôm rồi , đầy tớ người nhà đứa thì nằm ốm một chỗ, đứa thì có việc xin về nhà ,duy chỉ có mình tôi khỏe mạnh đi lại trông nom nhà trên nhà dưới, cùng chăm sóc trông nom hỏi han mẹ tôi. Đêm khuya một mình chỉ có tôi và ngọn đèn là hai cảnh còn rực rỡ, tôi phải xin phép nghỉ học để trông nom mọi việc cùng hầu hạ thuốc thang mẹ tôi.
              Đêm nào tôi cũng bắc ghế ngồi cạnh mẹ tôi, một đêm mười hai giờ tôi không hề nhắm mắt , trông thấy mẹ tôi nằm thiêm thiếp trên giường,mê man thỉnh thoảng lại nói lảm nhảm những câu quái gở lạ lùng, làm cho tôi ruột gan như nấu như nung, ngồi gần mà cũng như người ốm dở, tinh thần cũng phảng phất bàng hoàng , phần thì tiếc của phần thì lo sợ cho mẹ,căn bệnh chưa biết thế nào, phần thi mong mỏi cha về.
             Chiều ngày hôm sau, tôi đương vực mẹ dậy uống thuốc, tự nhiên có ông cả B. bên láng giềng sang chơi với tôi, vừa trông thấy tôi ông ta đã nói :
              “ Tôi mới nghe được một chuyện lạ lắm, phải sang nói cho cậu rõ! “
             Tôi vội vàng để chén thuốc sắp cho mẹ uống xuống bàn rồi chạy lại gần ông ta hỏi :
             “ Ông nghe có chuyện gì cho con được biết !”
            Ông ta nhìn tôi cười mà rằng :” cậu có biết chuyện bà mất cướp một vạn ra làm sao không ? “
              Tôi giả lời là không. Ông ta lại hỏi : “ Thế cậu có đoán ra là ai không ?”
                Tôi cũng lắc đầu không đoán được, ông ta mới nói :
                “ Bà nhà mất một vạn này nào có phải kẻ trộm kẻ cướp nào đâu, chỉ là ông cả !”
                Tôi ngạc nhiên hỏi ngay, không để ông ta nói hết :” Thật không ? Thật không ? Sao ông biết ?...”
                Ông ta nói :” Thế mà hôm sau có người nói chuyện với tôi rằng ông nhân tình với một cô vợ tây , hôm nào cũng tay đôi đi đánh bạc,thua quá nên mới phải giả ăn cướp để lấy tiền rồi trốn đi tỉnh khác, vì hiện nay ông còn nợ ngoài mất bốn năm nghìn nữa chưa giả.”
                 Tôi nghe ông ta nói mơ màng như giấc chiêm bao, nhưng nghe ông ta nói cha tôi nợ quá đã trốn đi, tôi liền hỏi ông ta cha tôi hiện trốn đi đâu , thì ông ta giả lời :
               ” Không biết, thấy người ta đồn rằng trốn đi Sài Gòn ,không chắc có thật hay không, nhưng chắc không sớm thì trưa, ông bị bắt , vì hiện nay những nhà chủ ông nợ đã đầu đơn kiện ông rồi, Sở mật thám đương phái người tầm nã ông gắt lắm !”
              Tôi nghe ông cả B. nói hết đầu đuôi, người như điên dại, đau đớn lên đến cổ, ngất hẳn người đi, nhưng phải gượng ôm lòng sầu thảm mà hầu hạ thuốc thang cho mẹ tôi chóng khỏi. Hoàng thiên độc địa làm sao, không có chút nào thương mẹ con tôi,khiến cho mẹ tôi ngày càng ốm nặng, thuốc uống vào lại thổ ra hết . Cách đó sáu bẩy hôm sau, tôi thấy mẹ tôi cựa mình giở dậy được, hai mắt hơi tỉnh, trông tôi mà tỏ ý yêu mến sót xa , thì tôi thương cảm quá, lại có bụng mừng ,vì chắc có lẽ mẹ tôi khỏi.Tôi hỏi mẹ tôi trong mình đã bớt chửa, thì mẹ tôi nhìn tôi không nói đi nói lại, cứ trông hai con mắt đỏ hào quang ,mặt xám, má hóp lại ,cũng đủ rõ mẹ tôi sắp đến ngày quyết liệt. Tôi mừng mà hòa lại lo, chỉ nhìn mẹ tôi mà khóc, một lúc mẹ tôi gọi tôi hỏi : “ Cha con về chửa ? “
              Tôi thưa rằng chưa, chợt nhớ ngay đến câu chuyện mà ông Cả B. nói với tôi ,toan nói với mẹ, nhưng thấy mẹ ốm nặng, sợ nói ra mẹ sinh ra đau đớn lại ốm thêm nên không dám nói.
              Mẹ tôi tỉnh được vài giờ rồi lại mê, lần này mê quá mồm nói lảm nhảm cả đêm, rờ đến chân tay dần dần đã lạnh hai con mắt cứ lờ đờ, trông không còn chút tinh thần nào nữa .Tôi sợ quá, biết mẹ tôi sắp nguy hiểm đến nơi, vội vàng chạy sang nhà bà dì tôi ở phố Hàng Buồm , nói đầu đuôi sự thể vận vân…Dì tôi hốt hoảng đi xe ngay cùng tôi về thăm mẹ tôi .Mấy hôm trước tôi cứ tưởng mẹ tôi ốm xoàng rồi khỏi ngay nên không muốn phiền bận nói với dì tôi. Dì tôi lại gần mẹ tôi gọi , thì mẹ tôi đã nằm ngay hơi thở dần yếu mãi đi , được độ một giờ đồng hồ thì tắt nghỉ.
               Họ nhà cha tôi không có ai,mà họ nhà mẹ tôi cũng không có ai,việc ma chay cho mẹ tôi nhờ Dì tôi nghĩ tình chị em mà lo cho cả. Sáng hôm sau thì cái nhà tôi ở phố Hàng Bông bị quan Tòa đến tịch ký nợ, vì nhiều người cho cha tôi vay đầu đơn kiện, cha tôi đã trốn mất rồi, nên còn có một cái nhà và bao nhiêu đồ đạc quan Tòa tịch biên hết.   
              Mẹ tôi mất rồi, Dì tôi không có con giai nên đem tôi về nuôi rồi cho tôi đi học, tôi nhờ được Dì tôi có bụng yêu thương như con đẻ, bèn gắng công học hành, may nhờ hồng phúc tổ tiên mới lần lần lên được năm thứ hai trường này.
              Tôi nghĩ mình như chim lìa tổ, như cây lìa cành,tấm thân cô độc chửa biết gửi sinh tử nơi nào ,mà may còn được trưởng thành đến bây giờ cũng là nhờ công dưỡng dục của dì tôi. Tôi cảm ơn Dì không bao giờ quên được,Dì thường khuyên bảo tôi :” Dì coi con như con,con cũng nên coi Dì như mẹ cố chăm học cho Dì được bằng lòng.”
             Những lời Dì nói còn in trong trí não tôi,tôi yêu mến Dì tôi bao nhiêu , lại càng nhớ đến mẹ tôi bấy nhiêu… Mẹ ơi hỡ mẹ, ở dưới suối vàng có biết cho lòng con không ?...
             Chàng Lê cần nói hết câu chuyện, nước mắt lại giòng giòng như mưa tuôn,cậu Ngô Tòng nghe cảm động quá cũng khóc.Cậu lại hỏi chàng ta :
             “ Thế còn ông thân sinh ra anh, bấy lâu anh nghe tin tức làm sao ?..”
            Chàng Lê Cần đáp :
             ” Anh không hỏi thì thôi, chớ anh đã hỏi đến chả lẽ tôi không nói ra ,mà nói ra càng thêm đau lòng xót ruột, Kết cục một đời cha tôi thật là thảm hại,chẳng qua đem nắm xương trắng đem thác quê người . 
              Tôi về ở với dì được ba tháng ,một hôm xem Trung Bắc Tân Văn đến mục Thời sự trong Sài Gòn có mấy giòng sau này : “ Tự tử…Hôm…1920 ở đường Belgique một cái xác người chết cổ có dao cắm,khám trong mình người ấy có một cái ví da, đựng một cái thẻ đề tên là Lê Lan 45 tuổi quê ở Hà Đông làm nghề Thầu khoán,. Quan thầy thuốc khám nghiệm vết dao ở cổ thì nói đích rằng là vết dao tự người ấy có sự gì nên đã cố ý tự sát mình đi. Hỏi ra thì người ấy vì có gian díu với một ả đã lấy tây giở về, đã cùng ả mặn nồng khổ sở,cờ bạc mang công nợ nhiều,phải trốn vào trong này để kiếm cách sinh nhai cùng đoàn viên gắn cuộc trăm năm với ả , chẳng ngờ ả thấy chàng kia kiếm tiền đã ít, túi kia lại thường không nặng , mà đang tay bẻ chữ đồng làm hai, rồi theo một chàng khác.Chàng nghĩ ả ăn ở hai lòng như thế , nên mượn lưỡi dao tự giết mình cho thoạt nợ đời và tránh sự đau khổ này… Thương thay cho cha tôi !”
               Cậu Ngô Tòng vừa toan hỏi, chàng đã lại nói :
              “ …Ấy cha tôi chết được ít lâu, độ vài tháng nữa,có người ở ngoài này vào làm ăn trong Sài Gòn ra thăm nhà nhân quen dì tôi, biết rõ chuyện ấy mới nói với tôi rằng cô Tư P. từ ngày bỏ cha tôi ,theo hết người này đến người khác, hễ ai nhẹ túi ít tiền là cô lại bỏ…Thế nào người tây lai này một hôm thấy cô đi xem tuồng tay đội với một chú Khách ,chờ lúc tan, lôi cô ra một chỗ, hỏi tội cô,không biết cô giả lời ra làm sao, người ấy mới đâm cho cô hai nhát dao vào cổ, cô chết ngay…”
             “…Anh ơi, gia đình nhà tôi thất tán như thế,cảnh ngộ nhà tôi bi đát như thế ,anh bảo mỗi lúc nghĩ đến không buồn sao được ?...”
             Cậu Ngô Tòng bèn an ủi Lê Cần rằng :
             “ Thôi cái hạnh phúc an lạc trong gia đình chúng ta đã không được có vậy thì anh em ta gặp nhau đây cũng là ngẫu nhiên, ta nên cùng nhau kết bạn yêu mến giúp đỡ lẫn nhau để cầu lấy sự an ủi cho những cái đau đớn kia. Anh nghĩ sao ?...”
             Chàng Lê Cần đáp :
             “ Được như lời anh nói ,thì tôi đây rất lấy làm mừng.Thôi để lúc khác anh em ta nói chuyện, trống vào học rồi !!!”  
             ( Còn tiếp )
       
       
       
       
       
      #3
        nvietdung 13.08.2013 11:38:03 (permalink)
        Cuộc tang thương ( Phần 4)
        XI
        Cậu Ngô Tòng và chàng Lê Cần không phải nói ai cũng biết từ đấy trở thành một cặp bạn tâm giao rồi. Yêu nhau ý hợp tâm đầu, khi thân chẳng lọ là cầu mới thân, hai người đương lúc cùng chịu nỗ thống khổ cả ,nay vì một cái cảm tình tự nhiên gặp nhau, thương nhau ái ngại cho nhau,cùng muốn đùm bọc nhau, đem hai khối tình làm một cái gầu tát nước sầu khổ trong cái ao thế sự nước đục lờ đờ , tình kia cảnh ấy đã in như một,thật là bầu bạn mà yêu mến nhau chẳng khác chi vợ chồng. Chàng Lê cần người khôi ngô trông có vẻ tuấn nhã phong lưu hơn cậu Ngô Tòng, chàng hơn cậu hai tuổi ,nên đường học kiến văn rộng ,lại ăn nói đứng đắn tề chỉnh nên cậu Ngô Tòng vừa yêu vừa kính phục lắm, có điều gì hoặc họ có gì không biết đều đến hỏi chàng ta .Chàng tuy mới học đến năm thứ hai lớp Thành Chung , mà lực học chẳng kém người đã tốt nghiệp Thành Chung là mấy. Chàng lại là người chăm học lắm,sự học sau này chắc còn tiến bộ đến đâu, con đường xuất xử của chàng đương như lúc mặt giăng sắp mọc,mặt giời sắp lên, mùa xuân sắp đến vậy.
        Từ khi gia đình chàng thất lạc, hai ông bà thân sinh ra chàng qua đời rồi, chàng thương cảm quá mà thành ra có tính rất đa cảm đa sấu, đối với sự đời có phần lạnh lẽo, thường hai buổi đi học về , chỉ ngồi một mình mà trầm tư mặc tưởng. Nay có cậu Ngô Tòng là người bạn thân với chàng, thì thỉnh thoảng chàng cùng với người anh em rủ nhau đi chơi chỗ nọ chỗ kia, sự sầu thảm cũng được an ủi ít nhiều…. Tâm tính chàng thế nào , thì tâm tính cậu Ngô Tòng cũng thế,tuy không đa cảm đa sấu quá, vả lại cảnh cậu tuy còn bố mẹ ,mà cha cậu quá ghẻ lạnh bỏ rơi mẹ con cậu mấy năm rồi không thèm hỏi han chi tới, cảnh ấy với cảnh của chàng Lê Cần, dẫu có khác nhau mà mối sầu cũng như một.
        Hai người thỉnh thoảng qua lại nhà nhau chơi bời chuyện vãn, có hôm thì cậu Ngô Tòng ngủ nhà chàng Lê Cần, cũng có hôm thì chàng Lê Cần ngủ nhà cậu Ngô Tòng, bà Hàn đẻ ra cậu Ngô Tòng, bà Dì cậu Lê Cần thấy hai cậu thân thiết yêu mến nhau đến thế , cũng mừng, cho tha hồ đi đâu thì đi, không mắng mỏ ngăn cấm gì cả. Lắm hôm hai cậu nói chuyện với nhau thich ý quá cả đêm không ngủ.
        Giăng sao văng vặc trên giời, một bầu xanh rộng bao la, cả thế giới như đương lúc bình tĩnh trong khoảng đêm thanh vắng này , bao nhiêu giọng ồn ào huyên náo ban ngày phút chốc tan cả trong một cảnh tịch mịch không trung, cái đêm hôm ấy có lẽ ai cũng vui vẻ , ai cũng nhân cảnh giăng sao mà dạo chơi hóng mát, duy chỉ có cậu Ngô Tòng và chàng Lê Cần là còn đối ngọn đèn xanh chuỵện trò với nhau. Ngọn đèn xanh lúc canh khuya chính là ngọn lửa sầu đương cháy của khách đa cảm mà đa sấu như chàng Lê Cần đây, chàng nhìn ngọn đèn chốc chốc lại thở dài. Cậu Ngô Tòng thấy bạn buồn bực như vậy liền an ủi hỏi rằng :
        “ Anh buồn gì, chắc lại vì hồi tưởng chuyện cũ mà buồn đó chi ?”
        “ Phải, chuyện cũ lúc nào cũng như in dấu vết trong tưởng tượng tôi không làm cho tôi khuây được. Cho hay cái quá khứ cũng làm cho người ta hay đau khổ, mỗi lúc nghĩ đến là lại đau lòng.”
        “ Quá khứ là quá khứ , quá khứ đã đến thời kỳ tiêu tán trụy lạc rồi, nếu chỉ bì cái quá khứ mà đau khổ, mà chán ngán cái hiện tại cùng cái tương lai thì một đời đáng uổng phí bỏ đi còn gì …”
        “ Anh ơi người , người ta sinh ra đứng trong vòng ba thời kỳ : quá khứ, hiện tại, tương lai chẳng khác chi bị cái động lực của cái máy tuần hoàn thế sự nó xoay chuyển làm cho mỏi mệt nhức đầu, không lúc nào được thơ thái tĩnh định tinh thần. Tôi đã buồn cho cái quá khứ, thì còn cái tương lai chưa đến tôi cũng lại buồn nốt. Nghĩ buồn là phải vì sống ở đời mà vận mệnh không cưỡng lại được thời thế, cảnh ngộ không tránh được tang thương, nhân tâm không đè dược vật dục, tư tưởng không chống được ngoại vật kích thích , để đến nỗi hạnh phúc một đời người không bao giờ có, quanh đi những khổ là khổ không bao giờ sướng.
        Ôi hạnh phúc một đời người thật là khó kiếm , ở đời dễ mấy người biết cái chân hạnh phúc mà tìm, toàn bị cái hạnh phúc giả dối lừa lọc làm cho đến nỗi loài người tương tàn lẫn nhau, nhân tâm thế đạo suy đồi, thế giới rung động can qua tưng bừng, chẳng qua chỉ vì người ta không biết phân biệt cái hạnh phúc thế nào là phải , ở đâu mà tìm,làm thế nào cho có hạnh phúc. Hạnh phúc ở lòng người ta biết yêu nhau,ăn ở với nhau theo một cái lý tưởng, lấy chốn gia đình làm chỗ để ra công suy tầm, nghiên cứu cái hiệu quả của hạnh phúc. Vì có hạnh phúc gia đình, xã hội mới cấu tạo được một nền trật tự sinh hoạt vững vàng…Hạnh phúc một đời người ở đó không ở đâu xa, không phải ở cái vật dục thỏa mãn, không phải ở bản thân được đẹp đẽ ấm no ,mà chỉ ở tâm người ta còn tư tưởng cảm động,không phập phồng những thế sự tranh đua,không quản quanh những hành lạc vật chất, không mơ màng những thú sử cục cằn, không dùng nhầm thất tình…Nói tóm lại hạnh phúc một đời người là gốc tự gia đình,rồi ra đến xã hội…Gia đình hạnh phúc tức là nguyên nhân cho cái xã hội hòa bình…”
        “ Anh nói cũng phải nhưng gia đình có mấy khi được hành phúc , mà xã hội có mấy khi được hòa bình. Kể từ lúc người ta lọt lòng sinh ra ở đời là đã mang lấy tội ác vào thân,đến lúc nhớn lên thì tội ác càng to.Tâm không bao giờ chính ,sống ở đời mà chỉ biết giam mình vào vòng thị dục, mơ tưởng những sự phù hoa sặc sỡ,nên người ta hành vi là chỉ vì ác mà hành vi, điều thiện tuy có làm,nhưng điều thiện đó cũng lại là nguồn gốc của cái tâm không chính.Than ôi loài người có đã bao nhiêu lâu mà chỉ có hạnh phúc của người ta không thấy có, không mấy người cầu mà được. Cái sống của người ta đã không có nghĩa chính đáng ,mà chỉ có cái chết là đáng thương,vì chết là tránh được tội ác .Cái ác của loài người là do sự sinh hoạt của con người ta mà ra ,nên loài người còn dữ ác mãi, con người ta còn ăn ở bạc ác lẫn với nhau, thế thì cõi đời mới lại sinh tồn được. Đời như tấn kịch có vui có buồn,có khổ có sướng, có người trung có kẻ nịnh, có đứa giết người, có người nhân đức, nếu đời toàn những người nhân đức,ai cũng giữ đạo đức, không ai xâm phạm cạnh tranh tàn ác với ai, thì đời không là đời, đời không còn cái vẻ sinh hoạt lung linh nữa, mà chỉ là một bãi sa mạc mông mênh chứa toàn cỏ héo cây khô thôi… Chúng ta mà phải nhiều sự khổ trong gia đình, cũng là vì chúng ta chịu ảnh hưởng cái tội ác của loài người, tức của cha chúng ta, mẹ chúng ta mà gây cho chúng ta cái tư cách, biết quan niệm cuộc đời sau này,mà không đến nỗi lại nhầm đi con đường hắc ám nữa.Nếu có thật thế, thì ta cũng nên luyện cái khổ này mà tu lấy đức, chỉnh lấy tâm, chắc từ nay xã hội này một ngày một suy đồi ,cái hồn đạo đức không còn thoi thóp , mà chỉ còn cái hồn dâm tà quật khởi dậy , gia đình ngày nay đã như một chốn nhà trọ vắng vẻ của khách qua đường, không cảm cái quang cảnh tiêu sơ muốn bước chân vào nữa, họa may chúng ta còn đi lại làm người khách có duyên biết quyến luyến yêu mến cái nhà trọ ấy không ? Trong khi những kẻ làm cha không biết yêu con,những kẻ làm con không biết mến cha, những kẻ làm vợ không biết kính chồng, những kẻ làm chồng không biết yêu vợ, trong khi năm đạo thường của đời người đương bị cái phong trào dục vọng xô đẩy át hẳn đi, chúng ta nên cố giữ lấy bản thân chỉnh đốn lại nhân tâm, cố làm cái cột vững cho phong trào dục vọng kia lay không chuyển đổ, nhiên hậu mới lại trông gương người trước, mà không thẹn vậy.
        Vì sự đời bất thường thế này thế khác cho nên chúng ta mới được là người có đôi chút quan niệm cao thượng không đến nỗi như những kẻ sông ở đời như mù, như điếc, như câm,như ngây, nếu sự đời lại cứ thường thường, nếu chúng sinh ra cứ được sung sướng từ thuở bé, không trải đau khổ gì, thì làm thế nào biết yêu nhau ,biết cái khổ của nhau lúc này , mà biết quyết chí đem chân thân làm đại giá cho cái gương hành vi xuất xử sáng suốt , không phải cái bụi dơ bẩn của thời thế, cái thô bỉ vật dục làm bẩn thỉu đi !”
        “ Những lời anh giảng luận tôi lấy làm cảm kích quá,anh em ta ngày nay nhỡ sinh giữa ác thời buổi kiêu bạc này nghĩ mà đau đớn buồn rầu vô kể. May còn dược làm bạn với nhau ,vậy ta nên yêu nhua, cùng nhau mạnh bước trên con đường trần thế cho chóng tới…”
        “ Anh nói rất phải, anh em ta cùng thuyền một hội , cùng nhau ngày nay đương ở lúc giữa bể ba đào sóng gió, cảnh chúng ta ly tán như thuyền không lái, vậy cùng nhau tay lái tay chèo, vượt biển cả ra khơi ,thuyền một vượt khơi e còn khó, chớ thuyền hai vượt khơi , ta còn lo sợ gì trần lộ khi khu, bước đường mấp mô nữa. “ Nói rồi đọc lẩy mấy câu Kiều rằng ;
        Yêu nhau xin nhớ lời nhau
        Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy
        Chén vui nhớ bữa hôm nay
        Chén mừng xin đợi ngày này năm sau
        “ Anh em ta nói chuyện hôm nay thật là một ngày đầu ta tỏ tâm can cho nhau biết. Tôi xin đọc bốn câu ấy làm ghi…”
        Hôm sau Bà Hàn nhân lúc một mình than thở với cậu Ngô Tòng rằng : “ Cha con tệ quá mấy năm nay mẹ con ta ra ở ngoài này mà tuyệt nhiên không ra chơi hay viết thơ hỏi thăm mẹ con ta ?...”
        Cậu Ngô Tòng thấy mẹ nhắc đến việc nhà liền an ủi rằng :” Thôi mẹ lo phiền làm chi, cha con tệ bạc bây giờ, chắc đến lúc biết hối lại mà tạ lỗi cùng mẹ ! ”. Bà nghe cậu khuyên cũng thôi, liền nói chuyện khác. Bà ngồi trước mặt cậu, để mắt nhìn cậu, thấy cậu cao như người lớn rồi,bụng mừng thầm, cười bảo cậu :
        ” Mẹ xem con đã trưởng thành ,vậy mẹ muốn hỏi vợ cho con, con có bằng lòng không ?”
        Cậu nghe bà hỏi lắc đầu ,bà lại cười bảo : ” Con sao dở thế, giai phải có vợ, gái phải có chồng,làm người ai không phải lấy vợ lấy chồng, nếu con có bằng lòng thì sẵn có con bà Giáo Viên ở phố Hàng Gai, năm nay mới có 15 người xinh xắn dễ trông, để hôm nào mẹ đưa con đi xem mặt ,con có thuận mẹ sẽ hỏi cho con …”
        Bà nói lắm làm cho cậu phải giả lời :” Con không muốn lấy vợ vội, vì con đương học,vả chăng con xem ra con gái dời nay phần nhiều hư hỏng lẳng lơ mất nết, nên ý con không muốn có vợ, có vợ mà vô đức hạnh thì lại càng sinh ra cái buồn trong gia-đạo . Việc vợ chồng kén chọn phải cho kỹ lưỡng, không phải là việc thường,thật là việc quan hệ đến một đời người, vậy xin mẹ hãy khoan cho con học vài năm ,sau này con có thành danh, bấy giờ lấy vợ mới dễ. Nếu bây giờ còn đi học thì ai muốn gả con cho.”
        Bà nói : ” Bà Giáo Viên với mẹ cũng thân,bà ta người dễ dãi tử tế,chắc con ngoan ngoãn bà ta cũng gả con gái ngay cho, không cần phải đỗ gì mới được .”
        Cậu nghe mẹ ân cần nói lắm, thì giả nhời rằng : “ Mẹ hãy để con học nốt vài năm nữa, rồi mẹ sẽ lo cũng không vội chi !”
        Bà thấy cậu đã quyết ý , biết nói cũng không chuyển được bèn ôn tồn bảo cậu rằng :
        “ Sự cưới xin gả con lấy vợ mấy năm nay xem ra khác hẳn ngày xưa ,vợ chồng lấy nhau chỉ ở đồng tiền nén bạc mà không ở như đức hạnh, nên lắm nhà vợ chồng đã không còn tình nghĩa nữa , mà thành những vợ chồng tình nghĩa vờ vĩnh hão huyền .Ấy cũng bởi lòng cha mẹ con cái chỉ ham cái màu mỡ bề ngoài, mà không chú ý đến những điều cốt yếu ,ai cũng lấy câu gái tham tài giai tham sắc là phải, nên dễ nhầm,thành sự vợ chồng mất hẳn kỷ cương, Lại thêm những kẻ mối lái giúp bên nọ phò bên kia, chỉ quý hồ được tiền hoặc ham có chút danh giá giúp những nhà sang trọng đôi bên nên nghĩa vợ chồng , không nghĩ gì đến những sự thiệt thòi của vợ chồng lấy nhau sau này ,nên không mấy gia đình vợ chồng lấy nhau được xứng hợp. Cũng vì thế mà lâu nay hay có sự chê bai ruồng bỏ nhau. Người người đều đổ tại quyền cha mẹ ép uổng , vợ chồng không biết nhau mà phải lấy nhau,tránh làm sao khỏi có sự chê bai , nhưng có biết đâu đời nay cái quyền cha mẹ đối với con cái cũng vị tất là một cái cường quyền bắt con cái phải phục tòng. Những người muốn xướng xuất chủ nghĩa tự do kết hôn quả là sai. Không biết cái hại sau này còn nhiều lắm , vì giai gái còn ít tuổi chỉ trông thấy nhau vừa ý đã ham mê nhau mà không xét kỹ đến phẩm hạnh , thì sự ăn ở với nhau biết thế nào chắc… nay thế này, mai thế khác, rồi có lúc tâm tính không hòa hợp được, mà lại chê bỏ nhau cũng có khi. Thà rằng sự cưới xin để quyền cho cha mẹ còn hơn, cha mẹ nào lại không muốn cho con hay, gặp vợ hiền chồng giỏi ! Trong sự gả cưới cho con lẽ nào không xét kỹ…
        Ấy chỉ vì những cớ đó , mẹ e con rồi cũng lại không kén được vợ nết na đứng đắn, vì con còn trẻ, chắc chỉ thấy gái có sắc là bằng lòng ngay, mà không nghĩ đến phần đức hạnh nết na…Sẵn con gái bà Giáo Viên mẹ đã xét kỹ thật là một món rất nên, con nên nghe mẹ…”
        Cậu Ngô Tòng thấy mẹ khuyên mãi, liền nói thiết tha rằng :
        “ Con nào có dám cãi lời mẹ, nhưng con nghĩ con còn ít tuổi, vài năm nữa lấy vợ cũng không muộn gì, mẹ nên xét mà để cho con được lo sự học hành ngày nay được chóng đến lúc hiển đạt thì hơn . Con mà hiển đạt thì sự vui mừng của mẹ là ở đó ,cả cái hạnh phúc đời con cũng may mong mỏi được, chớ bây giờ lấy vợ về làm chi ?...”
        ĐOẠN THỨ HAI
        I
        Cánh hồng bay bổng ngày tháng thoi đưa, cảnh tượng giời đất đối với người ta mỗi lúc một khác, thay đổi nhanh chóng như bốn mùa xuân hạ thu đông , làm cho người ta mỗi tuổi lại thêm sự lo nghĩ buồn rầu, đã hầu như con tạo đã đặt bày ra con đường trần thế chỗ nào cũng gai góc, ngồi cũng mắc gai, đi cũng mắc gai, trông trước trông sau toàn gai cả, gai trần thế không phải là lưỡi dao mà thật đã đâm vào ruột chúng ta rất đau đớn như vậy, ngày tháng chạy nhanh như tên bắn, phút chốc đã năm năm rồi, cậu Ngô Tòng lúc này đã 20 tuổi, vừa mới tốt nghiệp lớp Thành Chung, còn cậu Lê cần thì đỗ trước cậu một năm đã được bổ làm việc ở Phủ Toàn Quyền. Sự học cậu Ngô Tòng đã tới ngày kết quả, chính là hồi cậu qua vòng bĩ cực tới hồi thái lai thì phải,ngay từ khi cậu đỗ, còn ở nhà đợi nhà nước bổ dụng mà nhiều nhà phú gia thương mại đất Hà thành đã bắn tin gọi gả con cho cậu. Nào bà Thông L. ở phố Lò Sũ còn một cô con gái tuổi vừa 18 cũng nhờ bà Lang đưa hơi nói với bà Hàn muốn gả, nào bà Bát H. cũng còn một cô con gái bằng tuổi cậu muốn cho cậu, cậu vừa đại đăng khoa mà tin đồn tiểu đăng khoa đã đồn rầm, ai cũng khen người đẹp học giỏi, rồi sau này làm được quan. Nhưng chỗ nào cậu cũng không ưng,chủ ý cậu chưa muốn lấy vợ vội, cũng tưởng rằng bà Hàn còn thọ được mươi năm nữa, mẹ con còn được hưởng phúc lộc nhiều, ai ngờ đâu mấy năm bà ra buôn bán ở Hà Nội, phần lo việc nhà, phần buồn về chồng, phần thì nghĩ việc hậu vận của con mà người suy yếu dần đi, rồi cách một tháng sau nhuốm bệnh. Cậu Ngô Tòng đương mừng vì công thành danh toại, đã chắc gia đình nhà mình sắp đến ngày vui vẻ, nay bỗng dưng thấy mẹ đau yếu, vội vàng một mặt đánh dây thép về nhà quê cho ông nói rằng bà ốm nặng, một mặt mời quan đốc-tờ đến xem mạch cho thuốc. Cậu tây học nên tin thuốc tây thần diệu hơn thuốc ta , bởi thế không mời các ông lang ta. Khi quan đốc–tờ tây đến xem bệnh bà , cậu nói với ngài rằng bà đau ngực, bụng đầy lắm.Ngài để khăn mặt trên ngực bà nghe một lúc , rồi lắc đầu nói với cậu Ngô Tòng rằng hơi thở bà kém quá, cho thuốc thì cho, nhưng chưa chắc sống. Cậu nghe ngài nói lo tái mét người đi, bối rối cả ruột gan, lại nóng ruột về nỗi ông ở nhà quê chưa ra. Bệnh thế bà thì một ngày một trầm trọng, thuốc tuy vẫn uống mà không thấy bớt chút nào …
        Hai hôm sau, cậu nhận được thơ của ông gởi ra nói rằng ông cũng đương ốm,không thể nào ra được, thì cậu cứ mời quan thầy thuốc bốc thuốc cho bà uống, chắc không việc gì. Thơ của ông vừa đến tay cậu thì bà đã hôn mê bất tỉnh nhân sự , được vài phút thì chết, không kịp trối câu gì,cùng dặn bảo cậu Ngô Tòng làm sao cả . cậu thấy bà mất một cách rất mau chóng, thì cất tiếng khóc vang nhà ,nghĩ lại giận trách cha mình bạc quá,không nghĩ tình vợ chồng , đến lúc chết cũng không thèm hỏi han… Bà phải bệnh mất ngay như thế cũng là vì người suy nhược sẵn rồi,huống chi bà lại nghĩ oán giận ông,trong cơn nghĩ khí uất kịch liệt quá thành ra bao nhiêu thuốc không thấm thía vào phủ phế .
        Bà mất rồi, cậu lập tức đánh một cái dây thép nữa về nói rõ với ông, song cũng tuyệt vô không thấy ông giả nhời bảo sao, thành ra việc ma chay chôn cất bà, bà Lang C. nghĩ chỗ chị em lo liệu chịu phí tổn cả, vả lại bà Hàn cũng có vốn liếng buôn bán hơn một nghìn, cậu lấy đưa cả cho bà Lang C. để bà lo liệu giúp…bao nhiêu tiền của bà làm ma, lập đàn đốt mã cho bà hết. Sinh thời bà ưa lễ bái đồng bóng, hay đền nọ phủ kia, bây giờ mất , cậu cũng đem tiền đến các phủ nhớn ở Hà Nội mời các nhà sư tụng kinh siêu độ hồn bà. Quê ngoại bà ở Bạch Mai nên cậu an táng bà ở đấy cho gần…
        Bà Lang C. thương cậu cho cậu ở đấy với bà để trông nom làm bạn học với cậu Nguyễn Sơ, nên cậu không phải đi ở chỗ khác… Từ hôm bà mất cậu Ngô Tòng như người mất hồn, lúc nào mắt cũng đỏ ngầu như tiết gà, linh hồn cậu vật vờ mộng du trên mộ bà. Cái đau đớn tử biệt sinh ly trong tình cốt nhục vẫn là cái đau đớn độc nhất vô nhị của con người ta,nhưng ví với cậu Ngô Tòng thì cái đau đớn ấy thật là muôn đời không mất. Cậu còn có một mình bà là tình thân,là người thân yêu, nay bà mất cô độc một mình còn có ai yêu hơn được nữa. Ông Hàn đẻ ra cậu thì ăn ở với mẹ con cậu bạc như thế ,mẹ cậu thì mất rồi, cậu còn có thể nào vui vẻ được. Thế giới tuy to, thiếu gì cảnh tượng vui,mà trước mắt cậu đã là một miếng đất toàn là mồ mả cả. Cậu hồi tưởng đến lúc bà còn sống, chuyện trò dậy bảo cậu,cậu nghĩ lại những lời bà khuyên răn cậu, những sự đó còn trong tưởng tượng mà bà đã không còn đâu nữa,bà đã thành người cổ rồi. Cậu chỉ ân hận trách giời sao không để cho bà sống thêm mươi lăm năm nữa, để cậu được phụng dưỡng bà, mà nửa đường vội dứt gánh, đến nỗi bà với cậu nay cách nhau một giời một đất, làm thế nào lại gặp ?
        Than ôi, cậu Ngô Tòng bấy giờ khác chi con thú bị thương chạy lạc vào rừng, hết gào lại rên, làm cho bạn cậu là Lê cần hết lời khuyên giải cũng không ăn thua , cùng lắm chàng Lê Cần mới bảo cậu rằng :
        “ Người ta sinh ra có sống phải có chết, đó là lẽ thường. Đã hay rằng bà chết, anh khóc thương là phải ,nhưng đời anh còn dài , công việc lo toan còn lắm, anh phải nguôi lòng buồn bã đi mà làm ăn thu xếp cửa nhà mới được chứ ? ”
        Chàng nói mãi, cậu vừa yêu vừa nể, nên cũng phải gượng sầu chạy đi chạy lại, thỉnh thoảng cùng Lê Cần đi chỗ nọ chỗ kia, và chờ nhà nước bổ dụng,nên còn được nhàn hạ, anh em hết tối này đến tối khác rong chơi các phố, loanh quanh tối nào cũng đến khuya mới về…
        Ai mới bước chân đến Hà Nội, trông thấy những nhà cửa nguy nga, lâu đài rực rỡ, phố xá sạch sẽ rộng rãi, người người ăn mặc mầu mỡ, chắc trong bụng nghĩ rằng nước nhà đã phú cường thịnh vượng lắm, nhưng giá có trông thấy một người kéo xe cao-su cùng xe sắt một ngày một đông ,giá có ra các chốn cửa ô xe điện thấy lũ ăn mày trẻ với già, mù với tàn tật, giá có trông thấy những hạng giật khăn ở các ngõ hẻm tối tăm mới biết rằng Hà Nội chẳng qua là cái màn rực rỡ che phủ chung quanh cái giường người ốm, một cảnh khôi hài trong cái bi kịch sinh nhai của quốc dân mà thôi. Trông thấy nghề nọ nghề kia của người mình đương khuyếch trương chấn hưng để cạnh tranh với các nước ,đã chắc rằng về đường vật vhất nước nhà có lẽ được phong phú hơn trước, nhưng lại có ngờ đâu ngoài những nghề nghiệp ích nước lợi dân, phì gia trục lợi ấy, còn có biết bao nhiêu nghề rất đê mạt như nghề chứa thổ đổ hồ của những kẻ lười biếng nhỡ nhàng, của những kẻ buôn thịt bán người, nghề cơ gian bạc lận của những kẻ vô liêm sĩ du-nọa. Đi qua các phố thấy không mấy nhà là không đèn điện thắp sáng như sao sa , đồ gụ tủ kính kê la liệt, ai chẳng bảo là nhà như thế đã giầu có, thừa ăn thừa tiêu, nào biết đâu còn mang công mắc nợ ,khánh kiệt lúc nào không biết.Nhìn vào nhà tối đến vầy đoàn tụm năm tụm ba, câu chuyện cười ran, miếng giầu quả cau ăn tươi như hoa, đỏ như son, ánh đèn điện chiếu vào sắc mặt người nào người nấy hớn hở sung sướng,ai chẳng bảo là cảnh một gia đình an lạc hạnh phúc,nào lại biết đâu trong bấy nhiêu sắc mặt, mà có bao nhiêu bụng đương lo rầu vì đường sinh hoạt , đương mơ màng chỗ liễu ngõ hoa tường, đương mong mỏi vượt cảnh cá chậu chim lồng, đương nghĩ ngợi sự ly tán cốt nhục…
        Trông những cậu thiếu niên ăn bận quần áo tây, giầy bóng, ba-toong quay tít kính gọng vàng lồng vào hai mắt,xì-gà ngậm miệng, bè bạn lũ hai lũ ba trên hè , đi đi lại lại mạnh bạo tề chỉnh, ai chẳng bảo là những bực anh tài tuấn kiệt làm cho nước được tiến bộ văn minh, nào ngờ đâu giáo dục không mấy kẻ có, mà học vấn cũng không có kết quả hoàn toàn, thường thì chỉ ngông ngông nghênh nghênh đeo cái mặt nạ tân học để dọa nạt ông già bà cả; trông những bậc khuê các học sinh , quyển sách cầm tay, chị em khoác tay nhau đi ngoài đường cười cười nói nói bạo dạn không còn có cái vẻ e lệ khép nép thẹn thò , đôi khi câu thơ pha mấy câu tiếng tây, ai chẳng bảo là những hạng nữ lưu tân nhân vật,học vấn giáo dục đã có thể đem làm gương cho bạn quần thoa soi , ngợi khen muốn thực hành ngay lấy chủ nghĩa nam nữ bình quyền ,nào có ngờ đâu phần nhiều chỉ là hạng mượn cái bút quyển sách rềnh rang, nho nhoe đôi câu Pháp văn mà đã thực hành ngay chủ nghĩa tự do bình đẳng,giữ thái độ lẳng lơ rởm đời. Trông những bục lão mại khăn lượt vành, giầy gia-định đầy cát, ô trắng cụt cán, nói năng lễ nhượng, ngồi đâu cũng thở dài sợ phong hóa suy đồi, ai chẳng bảo là những bực ưu thời mẫn thế, cầm cân nẩy mực cho quốc dân theo về đường tinh thần lý tưởng, thế mà nào có ngờ đâu, chẳng qua lại cũng là những bực bàng quan chỉ biết ô-hô, đến lúc hành vi sử sự cũng lại không ra ngoài cái phạm vi của dục tình bó buộc sai khiến…
        Cậu Ngô Tòng vừa đi vừa nghĩ ngợi lan man bất giác đi đến nhà chớp ảnh Bờ hồ lúc nào không biết, ngửng mặt lên nhìn, thì nhà chớp ảnh đương chớp film đầu, các người đi xem đã vào hết. Đối cửa nhà chớp ảnh thì có một dẫy hàng bán quà bánh, và nước chanh nước đá,tháng ấy vào giữa hè nên người đi chơi nghỉ mát ngồi đấy uống nước chanh ăn kem (crème) đông lắm.Cậu cũng lấy một cái ghế ngồi, đối ngay cửa vào đền Ngọc Sơn .Gió Hồ gươm đưa lại mát lồng lộng,ngồi mà nhìn ra thì tháp Hoàn Kiếm sừng sững ở giữa,chung quanh một làn nước xanh trong vắt bao bọc, tối đến bóng đèn dưới nước thấp thoáng như trăm bó đuốc thiên nhiên,khiến lại nhớ đến vua Lê Thái tổ bắt được thần kiếm, gây dựng sơn hà , giữ vững được ngót ba trăm năm,uy danh lừng lẫy trong sử xanh,bây giờ còn mãi mãi, mà ngày qua tháng lại ,một hồ nước trong với ngọn tháp kia còn biểu hiện một tấm thân thế ngài, tưởng tượng như con giao long đương vẫy vùng trong sóng biếc. Rồi mà nhìn ra chung quanh phố xá san sát ,nhà cửa huy hoàng, cảnh tượng phồn hoa, con mắt nhìn những ngọn đèn điện sáng như ban ngày cũng đủ chứng cái quang cảnh tiến bộ văn minh về đường hình thức của xã hội Việt Nam vậy.
        Thỉnh thoảng một cặp thiếu niên giai gái dắt tay nhau đi bộ qua , bước khoan thai chân đã đi khỏi mà mùi hương còn nồng ở mũi ,những cái hiện tượng ấy kích thích nhỡn giới cậu Ngô Tòng , làm cho cậu băn khoăn nghĩ ngợi , tự hỏi mình rằng đấy có phải là những quang cảnh sự văn minh tiên bộ ngày nay không ? Câu hỏi đó đã thành một vấn đề khó giải quyết trong tư tưởng cậu. Nếu như thế mà nước được văn minh, thì nước nhà quả đã văn minh cực điểm, những hạng vô loại tử đệ liều bỏ ra mươi đồng sắm bộ cánh lập tức văn minh được ngay !...
        Thơ thẩn ngồi đó buồn chả biết làm gì ,sẵn có thằng bé con rao bán nhật trình quốc ngữ ,cậu bèn gọi mua một tờ, ngồi ngay được chỗ sáng ,bèn giở ra xem, mục xã thuyết đầu đã nhìn đến bốn chữ Văn Minh Tiến Bộ , xem hết toàn là nghị luận về xã hội nước nhà , đại khái nói là nước nhà đã văn minh tiến bộ nhiều…
        Xem xong tờ nhật trình bụng chán như nhá cơm nếp, bèn đứng dậy lững thững lại đi, mười một giờ chuông nhà thờ vừa đánh xong, xe ngựa , xe cao-su kéo khách đi xem chớp bóng về chạy chật cả đường ,lính phu-lít tay cầm roi dẹp xe vụt đôm đốp. Đi đến đầu phố Hàng Đào , chợt trông thấy chàng Lê Cần đi trước, cậu lên tiếng gọi to, chàng ngoảnh thấy cậu mừng rỡ hỏi :
        “ Anh đi đâu ? Tôi định lại nhà anh bây giờ đây ! “
        Hai anh em rủ nhau về nhà,lúc bấy giờ đã hơn mười một giờ rồi, ngoài đường người đi lại cũng vãn, thỉnh thoảng mới nghe tiếng giầy tây lộp cộp trên hè của các thiếu niên đi chời qua, các hàng quà bánh bán đêm cũng ít, văng vẳng xa còn nghe tiếng anh bán phở rao : “ Phở !...Phở !...”
        Cậu Ngô Tòng từ hôm bà mất đi, buồn rầu hôm nào cũng thức cả đêm không ngủ, hôm ấy lại được có bạn là chàng Lê Cần, chuyện trò quên không thiết cả ngủ nữa.Đêm khuya nhà vắng một mình cậu ngồi tư lự , nghĩ đến sự đi chơi ban nãy mà sinh ra vô hạn cảm tưởng, chợt lại hồi tưởng như còn nghe thấy tiếng bà Hàn nói : ” Đất Hà Nội dễ sinh nhiều cái dở ..” bên tai .Lần này cậu mới gọi là đi chơi,mà nghĩ được bao nhiêu cái hay; cho hay sự du lịch cũng có ảnh hưởng đến học vấn trí tuệ thật. Đất Hà Nội tưc là một bái học rất hay để cho cậu nghiên cứu. Tuy cậu mới có hai mươi tuổi đầu, xuân xanh niên thiếu đương độ dễ ham chơi mắc hại, nhưng mắt cậu đã phân biệt cái dở cái hay,nên cậu chắc trong bụng rằng không bao giờ để mình sa vào nơi hắc ám. Cậu biết rằng đời này bạn bè khó kiếm,tổn hữu thì nhiều, hữu ích có mấy, nên bao nhiêu bực anh tú thiếu niên quen biết cậu không giao du đậm đà thân thiết gì cả. Bạn thân của cậu, có thể gọi là người hiểu biết tâm sự éo le mà an ủi, ngoài ra không có ai, duy có chàng Lê cần.
        Chàng Lê Cần , tức là một nửa linh hồn cậu đương phảng phất trên sông sầu núi thảm, bể khổ mịt mù, tức là một góc quả tim cậu đương đau vì nỗi tử biệt sinh ly, tức là một mảnh óc cậu đương đem ra mà suy nghĩ sự đời dâu bể, nhân tình kiêu bạc. Chàng Lê Cần , tức là cái thuyền vững chãi chở cậu qua khỏi chốn hải tần sóng gió dữ dội mà núp vào dưới bờ đê kín đáo. Ngoài chàng ra , cậu còn có ai là bạn tâm giao nữa…
        II
        Bà Lang C. từ khi thấy cậu bồ côi mẹ, bơ vơ một mình,bố không nhìn đến thì đem bụng thương lắm, bà lại thấy cậu thi đỗ,học giỏi, người nết na, bụng thêm mến yêu, vẫn than rằng :
        ” Tội nghiệp con nhà như thế mà không có cha mẹ !”
        Bụng bà rất thương yêu cậu,nên bà cố lưu cậu ở nhà bà , để cậu làm bạn học và khuyên bảo con bà là cậu Nguyễn Sơ. Cậu được bà nuôi không phải thuê nhà chỗ khác, định bụng khi nào có giấy bổ đi làm, lúc bấy giờ sẽ thuê nhà ở riêng một mình.
        Cảnh đã buồn lại ngồi không chưa có việc gì, lắm lúc cậu nghĩ đời chán lắm vậy.Như ngườ ita đại đăng khoa rồi, tất nghĩ ngay đến tiểu đăng khoa, thế mà sao cậu vẫn thờ ơ không nghĩ đến ? Cậu nghĩ rằng cậu có cha mẹ là tình thân ái nhất,nay giời không cho có, thì dẫu vợ nữa, vị tất đã có thể gọi là tình thân ái được ,kể các cô con gái bây giờ, phần nhiều phẩm hạnh chẳng ra gì,, đi lấy chồng phần nhiều chỉ tham tiền, đã vì tiền mà lấy thì lúc nên vợ nên chồng sự ăn ở với nhau cũng không trọng ở nghĩa tình, mà trọng ở cái trang sức kia thôi. Người biết nghĩ sâu sắc như cậu, nghĩ vừa chán vừa buồn cho đời, nên nói chuyện vợ cậu không muốn nghe,nhiều nơi có con gái gọi gả cho cậu mà không thuận đâu. Bao nhiêu con nhà khuê các, bao nhiêu các bực hồng phấn lịch sự ở Hà Nội đối với mắt cậu, chẳng qua chỉ là những hình nhân bằng cỏ rơm vô hồn không hoạt động. Cậu chưa trông thấy một người nào lịch sự mà đoan trang, có nhan sắc mà yểu điệu, có dáng dấp với nết na tề chỉnh, những người cậu đã trông thấy chỉ có bộ cánh là hào nhoáng, đến mặt mũi nếu không vênh váo tất trơ trẽn, không lẵng lơ tất hợm hĩnh.
        Bà Lang C. có một cô cháu gái gọi bà bằng cô tuổi mới 17 ,kỳ nghỉ hè vừa rồi đã thi đỗ bằng cơ thủy học tốt nghiệp, cô ta người tròn trĩnh tươi tắn, tuy không yểu điệu phong lưu, nhưng cũng có vẻ khuê các con nhà, bà Lang C. đến chơi nhà cháu, trông cháu bụng bảo dạ :
        “ Giá ta làm mối cho cháu ta lấy cậu Ngô Tòng thì thực đẹp đôi quá !..”
        Bèn một hôm nói với cậu : “ Này cậu muốn lấy cháu tôi không, thì để tôi nói với cha mẹ nó gả cho cậu. Con bé học đã đỗ, người lại xinh sắn đáo để !”
        Cậu vốn không ưa, nghe bà nói cháu bà học đã đỗ, bụng đã không ưa rồi, vì cậu thường trông thấy các cô học sinh, phân nhiều biết chữ mà hư hỏng,không đứng đắn, bèn đáp lại bà :
        “ Cám ơn bà đã có bụng thương muốn chiếu cố đến phận con, những các cô ấy đi học biết chữ ,có lẽ đâu con dám hỏi đến…”
        Bà Lang C. cười nói :” Những người như thế,người ta có học, người lại đẹp cậu nên lấy là phải, tôi tưởng rất xứng đáng !..”
        Cậu giả lời :
        “ Thưa bà kể xứng đáng thì thế nào chả xứng đáng,hiềm vì con muốn lấy người tề gia nội trợ, chứ những bực các cô đi học vắt vẻo quá ,một khi đi lấy chồng, cậy ta biết chữ có học, đòi binh quyền với chồng, kiêu ngạo lăng loàn, khinh thị cả tam tòng tứ đức, người chồng nào mà gặp vợ ấy thì thật khổ…”
        Bà Lang nghe xong cười bảo cậu :
        “ Cậu dở lắm đời bây giờ văn minh đàn bà con gái có học, không đến nỗi ù lỳ mờ mịt, đó là một cái hay, đã có tài ai không kiêu, có tính muốn khoe khoang, khoe khoang mà không hại đến chồng con thì không nên trách. Còn gì hơn chồng biết chữ đi làm, vợ biết chữ đi dạy học,hai vợ chồng cùng làm ra tiền, chiều chiều cùng xem một cuốn sách chung, hoặc lúc buồn thì dắt tay nhau đi chơi mát. Vợ chồng sướng hơn tiên ! Cần chi phải tam tòng tứ đức, cần chi phải là người tề gia nội trợ ! Người vẹn tam tòng tứ đức, xứng đáng là bực tề gia nội trợ đã danh giá bằng một cô giáo chửa ?”
        Cậu giả lời : “ Thưa bà, các cô giáo ngày nay thiên hạ ai chẳng hoan nghênh, mà ca tụng, hoan nghênh ca tụng đó là thấy các cô trước kia không có học vấn, nay được tiếp xúc trực tiếp ngay, thì chắc rằng sẽ là những bực đủ giáo dục làm gương cho những phụ nữ khác. Thời đại này là thời đại trí não người ta phải khai thông, sự học phải phổ cập, đàn bà con gái cũng phải có học mới biết giáo dục mà trị việc tề gia, giúp người đàn ông trong mọi đường hành vi xuất sử , học là cốt cho biết cái nghĩa vụ làm mẹ rồi làm vợ, để giúp cho nước được phú cường, xã hội được tiến bộ. Người đàn bà trước nhất phải vì cái hạnh phúc đào tạo gia đình, giáo dục con trẻ,làm người bạn chia xương gửi thịt giúp đỡ người đàn ông mà học, mục đích sự học là như vậy,chớ không phải để xem chung sách với chồng,tối đến rong chơi tay đôi với chồng, rồi đến bỏ cả việc nhà, phó mặc cho con ở, vú già.
        Nhưng xem ra cái mục đích ấy lâu nay đối với các cô đi học phần nhiều là thiên lệch sai hẳn phương châm, các cô đi họ cốt biết chữ để mà sinh nhai, mượn sự học làm cái áo sặc sỡ mặc vào để phô bầy cái rởm , cái xấy ra, chớ không lấy sự học làm cái thang giáo dục để bước lên, ,hóa nên ngày nay thường thấy bao nhiêu cô , học không kém gì đàn ông, làm được thơ, viết được báo, mà hỏi đến giáo dục đức hạnh nết na tuyệt không có gì. Chẳng qua có tài mà không có hạnh, biết được bao nhiêu, chỉ để khoe khoang, tôn mãi cái lòng hiếu thắng lên cao, mà khinh rẻ hẳn sự giáo dục…”
        Cậu chưa nói hết , bà đã nói : “ Thời buổi này là thời buổi tây đầm, ông tây bà đầm ngang vai nhau lên xe xuống ngựa, con gái nước mình có học tất cũng phải biệt đãi lên địa vị bà đầm, nói đến giáo dục mà làm gì. Bây giờ mà kén người học để cho biết giáo dục làm mẹ làm vợ, thì tôi chắc không ai cho con đi học là phải theo mục đích ấy. Người ta , đàn bà con gái đi học, đỗ đạt cốt để danh giá cho thân rồi làm ra tiền bạc để ăn chơi sung sướng,chớ học để mà khư khư ôm mãi bốn chữ “ tế gia nội trợ ” thì buộc người đàn bà khổ cả một đời,lấy chồng cũng không mong nhờ được chồng nữa hay sao ? Tôi thấy biết bao nhiêu nhà, chồng làm cùi cụi cả ngày, được lương về nhà, vợ lấy ăn chơi cờ bạc,cả tháng không phải mó đến việc gì thì sao ?”
        Cậu Ngô Tòng học cũng khá,biết tư tưởng lại am hiểu thời thế, khi nghe bà Lang C. nói trái tai như thế ,liền hết sức ngôn luận rằng :
        “ Thưa bà, tạo hóa sinh ra muôn vật ở đời đều phó thác cho có công việc cả ,như loài cây không hoạt động, mà công việc là là cho không khí trong sạch,lòng người thơ thái , nhỏ đến như loài sâu con ong cái kiến cũng có việc kéo mật, làm tổ để ở, huống chi người ta là giống có trí tuệ , có tư tưởng thắng đoạt được vũ trụ lại chỉ ngồi mà nhìn vụ trụ xoay chuyển mà không ra công tô điểm cho thêm xuân sắc ư ?
        Muôn vật ở đời là phải hoạt động, tùy theo năng lực mạnh hay yếu, thấp hay cao, to hay nhỏ, hẹp hay rộng. Đàn ông phải lao động nhọc nhằn, duy trì lấy xã hội, thì đàn bà phải đào tạo lấy gia đình, thu vén mọi việc. Đời người sinh hoạt không dứt,chung quanh mình như một nhà máy ồn ào những tiếng đánh búa, thì đàn bà chính là khúc hát cung đàn an ủi lòng phiền nhiệt, phấn khởi trí não người đàn ông cho lao động mà không chán nản. Nếu đàn bà mà chỉ biết có ngồi ăn, không thò tay làm việc gì , thì cũng chẳng khác chi những thứ hoa giấy, không có vẻ sinh hoạt nữa, thì khoái trá làm sao được con mắt thưởng du quan sát ? Nói cho phải mà nghe thì đàn ông lam việc ở ngoài, tức là trực tiếp với xã hội, đàn bà làm việc ở trong, tức là trực tiếp với gia đình,
        Còn như bà bảo thời buổi này là thời buổi tây đầm con gái nước mình có học tất phải biệt đãi như các bà đầm Âu-Mỹ sánh vai với đàn ông, nhưng ông tây bà đầm ở vào nước đã thật văn minh ,sự ngang vai đó không có hại mà có hay, chứ ở vào cái nước hãy còn giữ cái nền nếp cũ như nước ta , đàn bà con gái còn phải cư xử trong phạm vi tam tòng tứ đức , chưa có thể nào hốt nhiên bỏ cái quy củ cũ , mà học như các bà Âu-Mỹ được , học e không tài nào được mà rồi có hại nhiều – vài mươi năm nữa dân trí có mở mang , quốc dân đã có một nền giáo dục rồi, các cô đi học đã biết lọc cái tinh thần sự học, mà biết trọn cái trách nhiệm làm mẹ làm vợ, thì họa may mới có thể ngang vai với đàn ông được.
        Mới đây báo Thực-Nghiệp số 379 có đăng một bài như sau này :” Vậy… giáo dục…cô nghĩ sao ? Một nhà mô phạm ,vốn có vẻ tài hoa, lại chẳng lạc nền phong nhã, đời cũng lắm kẻ anh tài thuận tình với cô, cô lại vẫn trái với danh hiệu của cô mà ngoài mặt chẳng thuận cùng ai ,nhưng kỳ thực ai cô cũng thuận tuốt tuột, Chẳng thế sao trưa này, trước cửa Sở Cẩm Hàng Trống cô đương thuận đường Khai-Trí cho lũ con em ở khu nam đạo, cô lại kìm xe mà đi đôi với một cậu công tử bột nào đó , cô thì toe toét cười đùa với cậu, cậu thì níu xe cô, mà cùng nhau làm những trò khỉ trước công chúng. Vậy không phải cô thuận thi sao cô lại thế ! Ôi ! còn giáo dục của con người ta, cô nghĩ sao ? “
        Vì những cớ ấy , nên con lấy làm sợ những cô đi học mà không dám hỏi đến các cô..Nếu được người đi học mà có giáo dục thì còn gì hơn nữa * ( Tiện đây ký giả xin trích một đoạn ở tập Học báo số 11 ngày 13 Novembre 1922 để độc giả đồng lãm: Các cô giáo đã có chồng – Bên nước Thụy Sỹ mới có luật dịch rằng : Phàm các cô giáo ,hễ khi đã có chồng, thì khi bước chân về nhà chồng là phải từ chức giáo học;bởi vì người ta đã nghiệm ra rằng nếu các cô giáo đã có chồng mà để nguyên chức giáo học ,thì đối với việc tề gia là vô ích, mà đối với việc dạy học chắc cũng chẳng lợi là bao, thành thử cái chức vụ làm vợ làm mẹ đã bỏ thiếu ,mà chính cái chức vụ làm thầy cũng không được hoàn toàn .So sánh ra thì cái chức vụ làm vợ làm mẹ đối với người đàn bà bao giờ cũng quan hệ hơn cái chức vụ làm thầy dạy học , cho nên người ta mới quyết định cái luật bắt các cô giáo hễ chớm lấy chồng là phải thôi nghề dạy học ngay . Cái luật đó chả hay một nước ấu trĩ như nước ta có nên thì hành không ? )
        Những lời lý luận xác đáng của cậu làm cho bà càng ngẫm nghĩ càng cho là phải, lâu lâu bà lại nói :
        “ Tôi đàn bà nông nổi không hiểu thấu nhưng duyên do cậu vừa giãi bày, nghe cậu nói thật có lý lắm. Quả thế ,tôi thấy các nhà có con gái cho đi học ,không mấy nhà là không ca thán con gái hư hỏng… Sao đời bây giờ khác đời xưa thế ? Đàn bà con gái càng biết chữ càng giăng hoa tợn, không mấy người đứng đắn , cả đến đàn ông con giai học giỏi thi đỗ mà đến sự cư xử trong nhà cũng chẳng ra làm sao ? Không biết họ học để làm gì ?...”
        Cậu giả lời : “ Đời bây giờ là đời hoàng kim ích kỷ ,ai có thân ở đời cũng chỉ có cái mục đích là làm cho thân được no ấm sung sướng, không mấy người cho là cái thân ấy có quan hệ đến nước. Cho nên người ta học không phải để sửa mình ích quốc lợi nhà , mà học để cầu lấy sự sung sướng một thân ,bởi thế mới có nhiều người có học hư hỏng…”
        Cậu vừa toan nói nữa thì nghe ngoài cửa có tiếng người hỏi tên cậu , cậu vừa đứng dậy đi ra thì đã có một người đàn ông ăn mặc áo cánh quần nâu đứng tước mặt cậu, hớt hơ hớt hoảng nói :
        “ Ông ở nhà quê mệt nặng, sống chết tối đêm !...”
        Cậu chưa kịp hỏi thì người ấy lại nói :” Hôm ống mệt có viết cho cậu cái thơ, đây !”
        Rồi móc túi lấy ra một cái thơ đưa cho cậu Ngô Tòng . Cậu không hiểu đầu đuôi ra sao, bèn bóc thơ đọc .Thơ viết ngòng nghèo láu táu, khó xem, rõ ra tuồng chữ viết mệt nhọc lắm . Thơ rằng :
        “ Ngô Tòng con ơi !
        Sau khi cái thơ này đến tay con rồi thì có lẽ cha không được trông thấy con nữa . Bây giờ cha mới biết hối, mà ân hận rằng đã quá tệ bạc với mẹ con con, để cho con phải bơ vơ, mẹ con chết đi, đó thật là lỗi tại cha… Cha biết rằng cha có tội với mẹ con,và với con, vậy cha phải nói để con hồi tâm, chớ nên oán trách cha làm chi.Than ôi, vợ chồng cha con ta không được đoàn viên thân ái với nhau cũng bởi vì cha, đến nay cha nghĩ lại thì sự đã quá , mẹ con đã chết, mà cha đây cũng sắp chết theo…
        Thôi tình nghĩa cha con ta họa để kiếp sau mới trọn vẹn…Nay cha biết thương con thì thành người cổ rồi….
        Cha tệ bạc của con là Ngô Văn viết thơ ”
        Xem xong thơ tay chân cậu run bây bẩy, nghe nói ông sắp mất thì cậu thương xót quá, nhưng còn nghi ngờ không biết làm sao ông ốm nặng , phải bệnh gì mà đến nỗi sắp chết ! Hỏi đầu đuôi người đem thơ ra, thì người ấy cũng không biết rõ chuyện, chỉ biết rằng thấy ông ngất đi rồi sinh ốm. Người ấy nói xong chép miệng thở dài nói Thị Hạnh :” Không thấy ai tệ như cô ấy, ông nhà ốm nặng như thế mà cô ấy chẳng buồn rầu lo lắng gì cả !..”
        Chưa nói hết cậu Ngô Tòng đã hỏi: ”Thị Hạnh có mời ông lang đến bắt mạch cho cha tôi không ?”
        Người ấy nhăn mặt lắc đầu nói :” Không mới khổ chứ ! “
        Cậu nghe đến đây ruột nóng như lửa,muốn bay ngay về giết thị Hạnh .Thôi cha cậu ốm nặng chắc chỉ tại Thị Hạnh cả. Ả không cho ông uống thuốc chẳng phải cố ý đễ cho ông chết ru ? Đầu đuôi tường tận ra sao cậu chưa biết hết, mới biết mang máng là ông giận Thị Hạnh mà ốm, đến lúc ốm Thị Hạnh cũng không mời thầy thuốc cho thuốc … Nghĩ đâu đấy,định sáng hôm sau thì về quê
        III
        Mây sầu đen nghịt, cát bụi tung giời, chim xao xác bay về tổ, gió to bão nhớn sắp đến nơi,cảnh giờ đất hôm ấy trông tối mù mịt, biệt ra một cảnh tượng ghê gớm,trông vào nhà ông Hàn thì bốn bề kín mít, màn the buông, ngọn đèn con để ở giữa bị gió thổi lọt vào làm cho lập lòe như muốn tắt, một mình ông ốm nằm trong màn, hai mắt lờ đờ , mặt mày hốc hác nhờn nhợt như người đã chết rồi.. Ông thỉnh thoảng lại mở mắt nhìn xung quanh, mỗi lần mở mắt như có ý chờ đợi ai, Thị Hạnh ngồi cạnh ông cúi gằm mặt xuống ,mà không có ý buồn bã gì lắm. Ngọn đèn để giữa dầu đã gần cạn, nên ánh bốc hắt hiu, hình như biểu hiện cái chết của ông sắp đến .
        Than ôi , ông cớ sao mà đeo bệnh trọng như vậy…?
        Kể từ khi ông để mẹ con cậu Ngô Tòng ra Hà Nội, là trong mình ông như chữa khỏi một cái bướu đau rức,ông tưởng như con cá vẫy vùng trong hồ rộng sông to, con chim được chắp cánh bay cao trên mấy làn mây, thôi thì ngày đêm cùng với Thị Hạnh mận đào lân la, giăng gió đá vàng đã phỉ lòng nguyệt ước hoa mơ, hoa đã chán, nguyệt đã lại chê, nguyệt hoa chê chán trong cuộc truy hoan miệt mài.
        Kể chi những lúc ông cùng Thị Hạnh mượn mảnh tàn nguyệt mà bày tỏ tấm tâm can, tấm tâm can chan chứa bao nhiêu tình , vuông tròn một cuộc còn dành về sau ,kể chi những lúc tửu hậu trà dư, Thị Hạnh kể chuyện hoặc hát cho ông nghe , tiếng trong như hạc bay qua, rót vào tai ông như giọng sáo véo von giữa đêm ngồi ở Lạc Thành. Thị Hạnh lại khéo hát được những giọng sầu thảm, chẳng khác chi khúc Tỳ bà ở bến sông Tầm Giang làm cho khách Giang Châu- Tư Mã giọt châu đã đượm mùi áo xanh.Kể chi những lúc chiếu giời ủ dột,ba tiêu lại thánh thót ngoài hiên, đêm xuống sương lạnh,gió may hiu hắt, thị Hạnh cùng với ông câu chuyện tỉ tê ở trước lò sưởi than hồng,ngọn lửa lò than rực rỡ như chia vui với người. Vũ trụ đã thành một chốn ái tình,làm cảnh trí vui vầy cho ông và Thị Hạnh,ông ham mê những tính tình lạc thú, đối với Thị Hạnh ngoài sự chăn gối,thường lại mượn chén rượu câu thơ mà vui đường hoa nguyệt ,nguyệt hoa càng tỏ nét hồng, đêm xuân rõ một tấm lòng như in.
        Ăn ở với Thị Hạnh lâu năm như thế mà không có con,ông lấy đều đó làm lo nghĩ thương ả lắm, sợ rằng ngày sau mất, ả không người trông cậy. Nhưng ả lại lấy sự không chửa đẻ gì làm may, bụng bảo dạ :” Người ta sinh ở đời con với cái làm gì, càng thêm bận mình,chẳng thà có một thân, tha hồ ăn chơi cho phỉ chí ! “
        Thị Hạnh đối với ông ngày càng nhạt, ngoài mặt gượng nói gượng cười với ông, mà kỳ thực trong bụng đã chán ông lắm. Ả trông ông người gầy hốc hác, mắt rử lèm nhèm,da săn xam xám,râu ria đầy cằm ả đủ không ưa rồi,huống hồ ông lại yếu, không mấy tối vào chăn gối với ả,thành ra ả đêm nào cũng chăn loan trằn trọc,màn the một bóng ngọn đèn tàn,nỗi ấm lạnh lấy ai san xẻ, cảnh loan ôm phượng, phượng bồng loan đã nguội lạnh rồi.Mỗi đêm 12 giờ dài đằng đẵng,ả nằm một mình nghĩ xa nghĩ gần hồi tưởng thân thế đương như cái hoa xuân cần phải có ong bướm vo ve , thì hoa mới bõ công nở,mà bây giờ đến nỗi cành xuân đã bẻ, chung tình hai kẻ bấy nay,phải cắn răng ôm lưng ông lão già,tình cảnh đã buồn cả ruột mà rơ cả đời ,canh tàn dạ những bồi hồi, xa nghe tiếng vạc bên giời kêu sương. Cô phòng nhất ảnh,nào lại nghe tiếng giun kêu, dế thét càng làm cho giãn dây sầu hết đứt lại nối, buồn này bứt rứt ruột gan, Vu sơn một giấc mơ màng, hoa kề gối tựa bàng hoàng tình riêng, như những đêm này chăn đơn gối chiếc nỗi niềm thiếp biết rỉ răng !
        Ái tình, ái tình phải là sự xương da ấp lấy nhau, chớ lại chỉ có cái hình thức ngoài thì sao gọi là ái tình, ái tình ấy mà chi thêm phiền! Nghĩ thôi nằm chẳng yên giấc,ngồi chẳng yên thân, ả liến lấy gương soi, ngắm nghía một lúc rồi nghĩ thầm rằng:” Ta mới ngoài hai mươi tuổi đầu,sự ong bướm còn đương ham muốn, chỉ vì nhỡ bước phải làm bạn với ông Hàn này đến nỗi đêm đêm chực phận phòng không , tuy ông yêu ta hết lòng, nhưng ta không thể yêu ông được nữa. Ta yêu ông thì cái xuân xanh của ta bỏ hoài rất uổng !...”
        Cái ái tình của Thị Hạnh đối với ông trước mười phần nay chỉ còn năm. Ả những nghĩ như thế, sắc mặt thường hay rầu rĩ,ông trông thấy ả buồn lại nói :” Tôi yêu mình lắm ,có còn điều gì mình phải buồn nữa ?” Ả chỉ giả lời :” Ai cũng có đều buồn riêng, cái buồn của tôi mình không hiểu được !”
        Ông toan hỏi, ả đã quắc mắt lên nhìn ông, mặt ả đã có sắc giận dữ,ông lại không dám hỏi nữa.
        Mấy năm xa cách Hà Nội, Thị Hạnh lấy làm nhớ lắm, cảnh Hà Nội với người Hà Nội đã in vào tâm trí ả, chẳng khác chi một bức tranh thiên nhiên sán lạn lúc nào cũng có vẻ sinh hoạt trong nhỡn giới, khoái trá được tinh thần ,ả định nhân dịp buồn này lên Hà Nội mua bán ít đồ cùng may ít quần áo, bèn ngỏ ý với ông , ông cũng bằng lòng cho ả đi nhưng bảo ả :” Mình muốn đi thì để tôi cho một đứa đi hầu !”.
        “ Tôi đi một mình cũng được,không phải phiền người nhà đi theo thêm bận ra !”
        “ Mình đi một mình thế, tôi không yên tâm chút nào !”
        Ả tức mình gắt với ông :” Không yên bụng làm sao, người ta đã theo giai ngay đấy mà sợ !”
        Ông nghe ả gắt, nói sẵng,không dám cưỡng nữa phải để ả đi một mình,nhưng thấy ả đi bịn rịn có ý nhớ lắm : “ Mình đi liệu chong chóng mà về nhé !” . “ Phải ạ !...”
        Thị Hạnh thu xếp quần áo để vào va-ly ,rồi từ nhà đi xe lên Thái Bình,xong lại từ Thái Bình sang nam định , rồi chờ tàu hỏa lên Hà Nội.
        Lên đến Hà Nội,bước chân xuống ga đã thấy cảnh tượng phồn hoa rực rỡ, xe cộ đồ đạc người đi về chật đường,làm cho Thị Hạnh mắt nhìn người mà quáng hẳn.Rú rú trong xó nhà quê vắng vẻ mấy năm, nay hốt nhiên ra Hà Nội, thấy người mà bụng đã vui theo. Trước kia tinh thần tri giác ả tắm gội trong cảnh lâm tuyền khoáng dã, tiếp xúc cảnh u sầu tịch mịch,nay được trực tiếp ngay cảnh đô thị tấp nập, tinh thần tri giác đổi hẳn. Ngườ ixa lạ như Thị Hạnh bước chân xuống đất này tất phải lạ lùng bỡ ngỡ,tư tưởng rối loạn dễ bị thất lạc,nên lại dễ bị cái mầu sán lạn nó huyễn diệu,những trông cái sự ăn chơi sung sướng của người ngoài này đã đủ ước ao mong mỏi thèm nhạt rồi.Hà Nội với những người nhà quê chưa ra chơi mấy khi, có một ảnh hưởng rất sâu xa vậy. Hà Nội tức là cái khói thuốc phiện thơm tho , dễ mắc nghiện…
        Thị Hạnh đã ngửi cái khói thuốc phiện này và mắc nghiện rồi.Ngay từ lúc ả ở ga Ha Nội xuống đã nhày lên xe cao-su bảo người kéo xe vào hiệu cao-lầu Hàng Buồm ,ngồi một mình trong buồng ăn bánh uống nước trong bụng khoan khoái,nghĩ chẳng khác chi người tù tội mới vượt ngục trốn ra ngoài.Mấy năm ả ở với ông Hàn,suốt ngày đêm chỉ ngồi trong buồng với ông, không được tự do hành động,thật đã lấy làm bứt rứt .Bây giờ ra đây,ngoài đất Hà Nội chỉ có một mình dọc ngang chơi bời còn có ai mà e lệ !
        Ăn cao lâu xong,ả liền đi sắm sửa quần áo rồi đánh mấy đôi vòng xuyến,đâu đấy yên rồi thì vừa chập tối. Ả liền thuê xe cao-su giờ dạo chơi khắp phố. Hết phố này sang phố khác, phố nào cũng có người qua lại, cái xe của ả cứ từ từ bước một mà đi, trong mình thấy nhẹ nhàng như chân đạp trên xe mây vậy.Khi xe qua phố Cửa Nam thì đã hơn mười giờ đêm,người đi lại chơi bời đã vãn.
        Thị Hạnh hai mắt mơ màng tư tưởng vẩn vơ, chợt nghe có tiếng cười nói sau lưng,ngoảnh lại xem thì thấy một cặp giai gái thanh xuân vừa đi vừa khoác tay nhau nói chuyện.Người con giai ăn bận quần áo tây ,người con gái quấn tóc cài lược, mình mặc chiếc áo the.Xe Thị Hạnh ngồi bước một đi, nên cặp giai gái ấy rảo bước đã đi trước được sáu bảy thước. Thị Hạnh chăm chỉ ngó cặp giai gái ấy không chớp mắt,một lúc thấy người con gái gục đầu vào ngực chàng thiếu niên ,rồi thấy chàng này cúi đầu xuống để hôn,hai mặt áp vào nhau. Người kèo xe ra khổ cũng trông thấy cặp thiếu niên đó hôn nhau , vừa đi vừa nói :” Rõ sướng chửa ! “
        Cảnh tượng ái tình và câu nói người kéo xe như thể súc cảm trong tâm giới Thị Hạnh làm cho ả bụng cũng sinh vô số cảm tình,cảm tình vì nỗi ả còn trẻ,mà thân không được lịch những cuộc ái tình vừa lứa đẹp đôi như cặp thiếu niên này, cảm tình vì không bao giờ được cái môi người đàn ông vạm vỡ trẻ trung để lên má hôn,cảm tình vì không biết được cái sung sướng giai gái đi chơi tay đôi ngoài đường.
        Người kéo xe ả bụng nghĩ thầm không biết có phải ả là gái giang hồ không mà đêm lại xe cao-su đi một mình, mới gợi lên rằng :
        “ Gớm có thấy Phán ở phố Quan Thánh bảo mình gọi cho thầy ấy một cô đến nói chuyện ,mà hứa cho một lúc những vài chục .Người nào khôn ,đến với thầy ấy chắc là bở to !”. Người xe nói thì nói, nhưng ả chỉ nín lặng, anh ta liền hỏi :” Gần hết giờ xe rồi, cô có đi nữa không thì bảo ?”
        Ả ngồi xe đã lâu , tê chân quá bèn giả tiền xe xuống đất đi bộ một mình,vừa đi vừa nghĩ những sự kiến văn vừa qua . Thơ thẩn thẩn thơ trên đường cái , đêm khuya thân gái lòng đà buồn tênh .Chợt nghe đàng sau có tiếng đàn ông gọi tên : “ Cô Hạnh !..”
        Quay đầu lại xem ai , thì thấy có người đàn ông tuổi độ ba mươi trở lại,khăn áo chỉnh tề,mặt mày nhẵn nhụi,áo xa khuy vàng, giày tây bóng rảo bước đi đến, thấy ả đã cười nói :” May quá bây giờ mới gặp mợ”
        ( Còn tiếp )



         


           
         
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 13.08.2013 11:50:07 bởi nvietdung >
        #4
          nvietdung 15.08.2013 10:20:31 (permalink)

          Cuộc tang thương - (Phần 5 : hết )
                ( Tiếp theo Phần 4 và hết )
               Thị Hạnh trông người ấy thì không quen bao giờ, mà sao người ấy lại biết tên mình, bụng nghĩ lạ quá :” Sao ông lại biết tên tôi, ông là ai, tôi trông không quen ?”  Người ấy lại cười nói :” Mợ không biết tên tôi, nhưng tôi biết rõ mợ, và ông bà đẻ ra mợ nữa, vì tôi thường về quê mợ chơi luôn,nên nhiều khi được trông thấy mợ, nay được gặp mợ ở đây thật là lòng giời !..”
                 Giọng nói ngọt ngào con mắt hữu tình chòng chọc nhìn ả, khiến cho ả cũng phải động tâm nhìn lại thì thấy người ấy mặt tròn trĩnh, da trắng trẻo, người trông khỏe mạnh đẹp đẽ. Người ấy đứng trước ả mà đã làm cho ả sinh cảm tình yêu mến, chẳng khác chi hòn đá nam châm hút các chất kim khí vậy.
                 Nguyên chàng này tên là Sở Cường cũng là hạng cờ gian bạc lận kiếm ăn ở đất Hà Nội, lại có tài ngôn luận làm siêu lòng con gái phải mê, nên bấy lâu chỉ sinh hoạt bằng hai nghề này. Chàng vẫn hay về làng ông Hàn đánh bạc nên biết Thị Hạnh là nàng hầu ông,nay thấy ả đi một mình lại thấy đeo hoa hột, biết là trong mình có bạc, định ve vãn kiếm tiền.
                Chàng thấy ả cúi đầu nghĩ, bèn nhìn ả rất hữu tình mà rằng :” Chả mấy khi gặp mợ, tôi xin trộm phép mời mợ vào hiệu khách kia uống chén nước hỏi vài câu chuyện …”
                 Vừa nói vừa lấy tay chỉ vào hiệu cao-lâu khách ở gần phố ngoài ga. Thị Hạnh còn dùng dằng e lệ, chàng lại tán :” Trước lạ sau quen, vả lại tôi cũng có quen ông bà Phó, can chi mợ ngượng ?”
                 Ả nghe chàng ta nói có quen biết cha mẹ mình liền lặng yên, nhìn chàng ta tỏ ý bằng lòng đi.
          Hai anh chị rủ nhau vào hiệu cao-lâu đó , chọn một cái bàn sạch, bắc ghế ngồi đối nhau nói chuyện. Dưới ánh đèn điện , mặt giáp mặt, nhưng vẫn còn e lệ, chỉ thỉnh thoảng con mắt đưa đẩy liếc nhau mà thôi. Thị Hạnh nhìn chàng ta cũng có ý ưa , hễ thấy chàng nhìn thì cũng nhìn giả . Vay giả giả vay mấy cái nhìn ,mỗi cái nhìn là một ngọn lửa tình bốc lên trong ruột. Nước pha đã nguội, hai anh chị uống được vài chén rồi, Sở Cường mới cười nói với ả rằng :
                ” Ấy ngồi đây chơi nói chuyện lại, tôi trước cũng định hỏi mợ , vừa tính mượn người mối lái đến nói với ông bà Phó , thì mợ đã về hầu ông Hàn rồi !...”
                Ả chưa giả lời, chàng đã nói luôn :” Tội nghiệp! Ông Hàn trông ốm yếu thế , chắc chết mất ! Sao mợ còn trẻ thế mà đã lấy ông ta ? có hoài không ?”
               Thị Hạnh xúc cảm buồn bã chỉ thở dài : ” Tôi lấy ông ấy cũng là sự bất đắc dĩ “
                “ Bất đắc dĩ, thiếu gì người vừa lứa phải đôi mà lấy người tuổi tác như thế, còn có xuân tình đâu nữa, chẳng cũng phí cái nhan sắc hoa tươi phong nhị của mình đi ư ? “
                 Nghe chàng nói đến hai chữ xuân tình ,dục tình ả bừng bừng nổi lên như lửa cháy , chỉ ngồi nghe chớ không nói gì . Sở Cường dò biết ý tứ ả, mới dở hết giọng thiết tha tử tế : “ Thật đáng tiếc cho mợ !”
                Lại thở dài một mình :” Mà đáng thương cho tôi vô duyên bây giờ mới gặp mợ thì sự đã quá rồi, chả biết còn mong được gì nữa không ? ”. Vừa nói vừa thở dài thở ngắn ,Thị Hạnh nhìn chàng, bụng đã siêu hết tám chín : “ Cám ơn ông đã có bụng thương yêu đến em !...”
                 “ Tôi gọi mợ bằng mợ , sao mợ nỡ vô tình gọi bằng ông , nào tôi đã già gì ?...”
               Nói rồi liếc mắt cười,nhìn Thị Hạnh, ả lần này cũng liếc nhìn chàng ta một cáh hữu tình hơn hẳn lần trước: “ Thôi hôm nay đã khuya rồi, để lần khác sẽ lại nói chuyện !”
               Sở Cường làm ra vẻ buồn rầu quyến luyến :“Lần khác là lần nào? Xa một phút cũng còn nhớ mợ, huống chi là đợi đến bao giờ mợ mới buồn cho giáp mặt ?’
               Chàng dùng những giọng nói rất đầm thấm, làm cho Thị Hạnh mồm tuy nói vậy mà bụng cũng không còn muốn rời chàng ta nữa . Chàng liền hỏi Thị Hạnh bao giờ về quê nhà , ả giả lời mua bán xong thì về , nhưng ả thấy chàng quyến luyến , thì bảo chàng rằng :” Hôm nào tôi về, cậu về với tôi thì hay lắm, chớ tôi không thể ở lâu ngoài này được. Tôi nhận cậu là anh em họ hàng với tôi, thì ông Hàn không nghi gì nữa !”. Sở Cường mừng lắm :” Được vậy thì mợ thương tôi biết bao nhiêu ! Tôi lo gì không được cùng mợ sau này…” Chưa nói hết câu thì Thị Hạnh đã bảo :” Sáng ngày kia tôi về sớm, cậu cứ ra ga đợi tôi. Thôi, bây giờ để tôi về kẻo khuya..!”
                 Sở Cường đưa nàng về tận nhà trọ.
                 Cách hôm sau, vào lúc buổi sáng chuyến tàu thứ nhất xuôi nam. Thị Hạnh và Sở Cường y như lời hẹn đều gặp nhau, lấy vé rồi cùng lên tàu xuôi…
                Về đến nhà, Thị Hạnh đưa Sở Cường ra mắt ông Hàn nói rằng chàng là anh em. Ông thấy chàng ăn nói lễ phép khiêm tốn, bụng tin lắm ,sai dọn buồng ngay cạnh buồng ông cho chàng ở. Ông người hay mỏi mệt nên thường lúc nào cũng phải đi nằm,hai anh chị thừa lúc ấy đưa nhau tới những chỗ kín nói chuyện , tối Thị Hạnh lừa ông ngủ , lại lẻn sang buồng Sở Cường. Hai đứa gian phu dâm phụ tối nào cũng thế, mà ông Hàn không biết chi cả. Một hôm ông buồn, uống rượu say quá phải đi ngủ ngay .Thị Hạnh chắc là tối ấy ông ngủ say,vừa thấy ông đặt lưng nằm đã sang ngay buồng Sở Cường , đến nửa đêm ông lên cơn đau bụng, gọi ả lấy dầu Vạn ứng xoa thì không thấy ả đâu,ông đã hơi nghi, đốt đèn lên soi cũng không có,ông đứng yên nghe kỹ thì hình như có tiếng ả bên buồng Sở Cường.Tay chân run lẩy bẩy, ông rón rén bước đến cửa buồng thì thấy cửa đóng chỉ có ánh đèn xuyên qua khe cửa ló ra tia sáng con con, nhìn kỹ chỉ trông rõ cái đuôi gà đàn bà rủ xuống. Phải rồi , chính là Thị Hạnh! Ông uất người lên ,muốn đạp cửa xông vào bắt quả tang, nhưng ruột đau đớn quá, ngã người xuống…
                Lâu lâu tỉnh dậy, lại rón rén bước về buồng mình,lên giường nằm thì đã thấy mình nóng như lửa,người phát sốt. Bây giờ ông mới biết là ông bị cái ái tình giả dối của Thị Hạnh lừa, làm cho ông bỏ cả vợ con không thiết,bây giờ ông mới biết là bà Hàn là vợ hiền, cậu Ngô Tòng là con thảo của ông, chỉ vì ông mà phải đất khách bơ vơ. Trong cơn đau đớn ông tưởng tượng như linh hồn bà hiện lên khóc lóc bảo ông rằng :” Ông bị cái sắc nó lừa, cái bẫy dục tình nó kẹp rồi,bây giờ ông mới biết à ?”
                Cả đêm hôm ấy ông trông thấy cái chết trước mắt ,cái chết đau đớn đập vào tưởng như con dơi đói muỗi,sáng hôm sau thì ông ốm nặng. Thị Hạnh lại khéo vờ vĩnh hỏi ông :” Mình ốm làm sao, trong mình có đều gì không ?” Ông nghe giận sôi lên, muốn ngồi ngay dậy bóp cổ chết tươi, mà ngặt nỗi người đã yếu lả đi, cổ đã nghẹn không nói được, chỉ trông Thị Hạnh mà khẽ nói trong cổ :” Mày thật là con dao đâm vào ruột tao, người mày thật là cái bánh rử cho trẻ con nín khóc, tao đã ăn phải cái bánh của mày rồi.Tao thật là một đứa trẻ dại dột !”. Thực thì Thị Hạnh trông ông ốm nặng, chắc mười phần phải chết, bụng mừng thầm :” Từ nay ta được tự do lấy chồng khác !’.
                Ông ngồi trước mặt thị Hạnh chẳng khác chi người trực kiến lớp trò quỷ thuật thực hư hư thực, xem xong nghĩ ra mới biết! Đến bây giờ biết là con mắt mình như đui mù ,để cái hào quang sắc dục làm lóa mắt,..những sự vật hữu hình ở đời ,nguyên nhân cũng toàn hư vô cả …Ông nghĩ mình như con chim bị tên ,bay lạc vào rừng, bị thương nặng sống sao được ? Hồi tưởng đến vợ con, mà mình quá phụ bạc , thương xót hối hận biết chừng nào ? Vợ ông đã yên giấc suối vàng rồi, còn Ngô Tòng là con ông đương cô thân đất Hà Nội , ông bèn cố gượng viết một cái thơ sai người đưa ra ngay cho cậu. Cậu vừa bắt được thơ đi về nửa đường thì ông đã mất .
          IV
               Cậu Ngô Tòng về đến nhà thì ông đã mất được hơn một ngày, Thị Hạnh đã cho khâm liệm ông bỏ vào áo quan để giữa nhà. Giường thờ bài vị đâu đấy sẵn sàng, mấy cây nến thắp lung linh cả ngày trông cảnh tượng nhà khác hẳn…
               Cậu trông thấy cảnh đau lòng cất tiếng khóc vang, quỳ lạy trước quan tài cha mà khấn vái lầm rầm..Thị Hạnh cũng giả bộ thương xót ,gục đầu vào bàn thờ ông mà khóc rằng :” Mình ơi, mình ới, mình đi minh bỏ tôi để tôi ngày nay bơ vơ một thân, biết nương cậy vào ai ? Mình ơi , mình có thầu tình cho tôi không ? “. Cậu Ngô Tòng nghe tiếng Thị Hạnh khóc liền nghĩ đến những lời tên người nhà nói,giận quá mắng thầm trong bụng :”Mày là đứa giết người không dao , mày làm cho cha ta chết rồi còn khóc gì nữa ?” Cậu không biết rõ đầu đuôi làm sao ông chết ,nên cũng không có cớ chửi mắng thị Hạnh ..Các đầy tớ trong nhà thấy chủ chết đều xin về cả ,còn Thị Hạnh nhờ gia sản ông làm giấy cho đã lâu, nay ông mất được thừa nghiệp cái nhà bây giờ ,và tất cả ruộng nương về tay ả hết. Lúc ông hấp hối đã hỏi những văn tự nhà ruộng đã đưa ả khi trước, nhưng ả khôn giấu biệt. Bởi thế phần cậu Ngô Tòng chẳng được gì ..Cậu thu xếp an táng ông xong lại lên Hà nội chờ việc làm. Còn Thị Hạnh từ ấy rước bố mẹ về ở nhà ông Hàn.
                Cậu vừa lên đến Hà Nội thì nhận được giấy nhà nước bổ làm thư ký sở Kho Bạc Hà Nội .Được việc làm rồi cậu liền thuê nhà ơ phố Hàng Bè,ở một mình trên gác. Chàng Lê Cần muốn rủ cậu về ở chung ,nhưng chàng từ chối vì muốn yên tĩnh. Hai anh em tuy cách nhà, không được ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, nhưng đi lại chơi bời với nhau lúc nào cũng như lúc nào, tình tân ái nghĩa kim lan vẫn khăng khít giải đồng tâm xe chặt với ai,…Nghĩa bè bạn mà hóa như tình giai gái, yêu nhau đùm bọc lấy nhau,bao la giời đất một màu, đoạn tràng ai có qua cầu mới hay
           

                     Cậu Ngô-Tòng từ ngày tòng-sự tại sở Kho-Bạc, thì cứ ngày hai buổi đi làm, tối lại về ngồi một mình trên gác, không giao thiệp chơi bời với ai, chỉ có chàng Lê-Cần là thường thường đi lại truyện trò với cậu, ngoài ra gác rộng, thân cô, chẳng khác chi thày tu khổ-hạnh ngồi trong chốn thuyền-lâm tịch mịch. Cậu đây cũng như người tu tại gia tâm-giới đối với cảnh-ngoại đã thấy phản-đối, không lấy gì làm ưa, vì cảnh-ngộ cậu điên-bái lưu-ly như thế, cái sầu đã chất thành gò núi trước mắt, lúc nào cũng trông thấy. Người mà đến mấy năm hết buồn này, đến khổ khác, sống ở trong cảnh gia-đình tang-thương, không được biết cái vui xum họp gia-đình là gì, thì còn ham muốn gì nữa? Con người ta sinh ra, bước đường thứ nhất mình đi là chốn gia-đình, nay cái bước đường thứ nhất của cậu đã thất-lạc, thân cậu bây giờ như một cây cỏ mọc cheo leo giữa giời, không bám bíu vào đâu, cảnh ấy nguy-hiểm biết là đường nào, đáng buồn đáng lo biết là bao nhiêu? Cảnh-vật tuy có vui mà cũng là nơi thành sầu bể thảm của con người ưu-hoạn như cậu, đường thân-thế tuy đã có mục-đích mà bước tương-lai còn xa lăng lắc, suy chẳng tới nghĩ chẳng nên, thuyền ai một lá cánh buồm bên sông, nghĩ lòng lại sót xa lòng đòi phen. Ai đánh mà đau, ai bắt mà sầu, chẳng qua cỏ nội hoa hèn vứt bỏ, mà mây ngàn mờ khuất, giăng tà chiều hôm, bức tranh Vân - Cẩu ngàn dâu hiu hắt, nhìn đất giời con mắt đăm đăm. Tạo-hóa có thù chi khách hồng-quần mà bắt phong trần cũng phong-trần như ai. Sự đời đã bất thường khe khắt như thế thì đời phồn-hoa cũng là đời bỏ đi. Chàng Lê-Cần thấy cậu lúc nào cũng ủ rột như cánh hoa thu, vừa buồn lại vừa thương, cảnh chàng cũng buồn, nhưng chàng là người kiên-tâm nhẫn-nại, có tư-tưởng, bao nhiêu sự đau khổ tự-nhiên đều bỏ hết được, mà một niềm làm lụng cho khuây. Lê-Cần trông cậu rầu rĩ thái quá, bèn khuyên rằng:
              “Anh buồn mà chi, sầu nữa mà có ích gì? Chẳng qua ở đời tạo-hóa tuần-hoàn, người ta sinh ra thường trong mười phần vừa ý, thất ý đến  tám chín phần, không ai là không phải đau khổ, nhưng sống ở đời phải hoạt-động, phải có công-việc, phải có lo toan, nếu anh cứ thế mãi thì sau ra làm sao?”
                Nhờ những lời chàng khuyên cậu, nên cậu đỡ buồn; lúc rảnh rang chàng liền lấy lẽ phải khuyên cậu lấy vợ, cậu chỉ giả lời:
                “Lấy vợ! Lấy vợ mà làm gì?”
                Lấy vợ, lấy vợ mà làm gì, đó là một cái luận-đề mà cậu đương suy nghĩ, suy nghĩ vẩn vơ chưa ra nhẽ phải.
                Cảnh cậu ngày nay quạnh quẽ vắng vẻ đã chẳng khác cái một bãi xa-mạc mông mênh, không có vết chân lạc-đà bước qua, mây sầu khỏi tỏa chân giời, tịt mù nào biết ai người đồng-tâm, không có lẽ lỗi việc  đền trông cậy ở cái thịnh-tình của chàng Lê-Cần hay sao? Đành rằng phải lấy vợ, nhưng vấn đề lấy vợ này thế mà khó giải-quyết, giải-quyết làm sao? Biết lấy ai? Ai lấy? Lấy con nhà giầu có buôn bán chăng, e không có nết! Lấy con nhà thế-phiệt nho-gia chăng, e không phải là người làm ăn? Lấy con nhà hàng phố buôn bán chăng, e đức-hạnh không phải là người đứng đắn. Huống chi con gái đời nay, phần nhiều mắt cậu trông, tai cậu nghe, đều không phải là người có thể cậu lấy được.     
               Tối hôm ấy.... giời ấm áp, cận trong bụng bứt rứt không yên, bèn mặc áo chít khăn, dặn thằng nhỏ trông nhà rồi đi. Nghe những người đi đường nói truyện với nhau rằng Quảng-lạc độ rầy hát nhiều vở tuồng hay lắm, bèn quyết-ý định vào xem tuồng.
               Đến ngõ Sầm-công, thì rạp hát đương giáo-đầu cậu lấy vé hạng nhất, đưa người xé vé, rồi vào, thì các ghế ngồi trong rạp hát đã đông cả, từ trên gác xnống dưới nhà đen nghịt, những người. Vé cậu có số, nên không ai tranh được, tìm mãi mới thấy, vừa ngồi được một lúc, thì người ra đóng vai giáo-đầu đã rở vào, màn đã hạ, đèn điện đã sáng. Trong rạp hát ồn ào những tiếng nói cười, huyên-náo quá chợ Đồng-Xuân. Một  giẫy ghế hạng nhất gần chỗ cậu, ghế nào cũng có người, trông ra toàn là các ông, các bà, các chàng thiếu-niên bận tây rất choáng, các cô nữ-trang ăn mặc rất, mĩ-miều, có thầy thì áo tây khuy có đính cái hoa hồng con đỏ chói, có cô thì tay đeo đồng hồ Bracelet vàng, lại có cô thì ngồi cắn hạt rưa; những mùi thuốc lá sực nức mũi, ở giữa rạp hát đông người bay lên trên không như một đám khói trùng trùng, rồi những tiếng cắn hạt rưa nghe cũng chẳng khác chi tiếng tích-tắc máy đồng hồ hỏng nghe ban đêm thanh vắng. Mặt nọ ngoảnh nhìn mặt kia, mắt kia liếc nhìn mắt nọ, người nọ trông người kia mỗi người như có cái gì lạ trong mình, làm cho người khác phải nhìn rút lại quần áo phô-phang, dục-tình chọi với dục-tình mà thôi.        
               Cậu Ngô-Tòng tuy ngồi nhà hát, nhưng trí-não mộng-du trong cảnh người với người, càng trông cái cảnh-tượng huyên-náo này càng lấy làm khó chịu....
               Mới lấy chương-trình xem diễn vở tuồng gì, thì là tích Dự-nhượng đả, long bào, xem xong vội vàng gập lại để vào lòng, chẳng may chỗ ấy đông quá, người ngồi chật hai bên, cậu vô ý thế nào tay đụng ngay vào cái đuôi gà lõng thõng ra sau ghế trước, thì thấy một cô con gái ngoảnh lại, cậu biết mình sơ ý liền nói tạ lỗi cô, nhác nhìn cô diện-mạo đoan-trang, mày thanh, má phấn môi son, khổ mặt trái xoan, cái khăn xa-tanh hoa vấn trông rất xinh sắn tròn trặn, hai còn mắt trông sắc mà không lẳng lơ, không vô-duyên, càng nhìn càng thêm yeu mến. Lần này là lần thứ nhất cậu được trông thấy một người có sắc, mà đáng mến như cô, thật là một sự tình cờ, tự nhiên mà sui cho cậu có một cái cảm-tình vô hạn đối với cô. Cô là ai? Có duyên gì với cậu mà đã làm cho cậu quyến-luyến rồi.
               Cô con gái ấy nghe cậu tạ lỗi, không nói gì nữa, quay đầu lại. Bên cạnh cô có một bà cụ độ năm mươi tuổi, chừng là bà đẻ cô, một lúc thấy bà cụ bảo cô: “Đưa cho mẹ miếng dầu!”, rồi thấy cô lấy dầu để trong cái khăn mù-soa lụa trắng đưa ra. Cậu ngồi dưới có ý nhìn cô, càng nhìn càng đáng yêu. Trông người cô vừa vặn thanh-tú, mình mặc một cái áo đoạn chơn, mỗi bên tay có hai đôi xuyến chạm, tuổi độ 19, 20 là cùng....
               Lạ thay, con mắt cậu trông người cũng nhiều, mà chưa được người nào như cô vừa có vẻ phong-lưu yểu-điệu, lại vừa có vẻ chín chắn nết na. Tình cờ mà trông thấy cô, chắc là một cái duyên may, không nên bỏ qua. Có lẽ cô là người mà cậu đương băn khoăn tìm hỏi đó chăng?                   
              Một hồi lâu, còn hai cảnh nữa mới hết, thì đã thấy hai mẹ con cô con gái ấy đứng giậy ra về, bà cụ bước ra trước, còn cô vội vàng bước theo sau, lúc đứng giây, bỏ quên mùi-xoa đựng dầu rơi trên ghế, cậu bèn nhặt lấy, gọi cô lại đưa giả. Cô cầm mùi-xoa nói: “Giã ơn cậu!”
              Tiếng nói thanh-tao, như sui dục lòng cậu thêm cảm-tình quyến-luyến, hình như có cái động lực gì phát-khởi trong mình cậu, cậu lúc này chẳng khác chi miếng sắt bị đá nam-châm hút; cô đi, cậu cũng theo sau. Ra đến cửa, thấy bà cụ gọi xe mặc cả hai xu về đầu hàng Bạc; cậu muốn biết rõ chỗ cô ở, bèn cũng gọi xe theo sau, một lúc xe bà cụ và cô con gái đỗ gần đầu phố có máy nước ngay bên cạnh cột đèn, chỗ sáng, nên cậu xem rõ được số nhà, liền quay xe về....
              Nguyên cô con gái này tên là Ngọc-Lan, năm nay mới có 18 tuổi là con bà cụ này. Bà hóa chồng đã được sáu bẩy năm nay, ông xưa kia chỉ chuyên có nghề làm hàng bạc, đánh vòng, kéo xuyến rất khéo mà trở nên giầu có, nhà tậu được hai ba cái. Từ khi ông mất đi, hai mẹ con nhờ được cơ-nghiệp giầu có, cùng nhau giữ nghề cũ, chuyên-cần ngày đêm, một ngày một khá. Bà có một mình cô, nên rất yêu mến, đòi gì được nấy, lại cho cô thêm hai ba nghìn để làm vốn riêng; ngoài cái tiền bà cho cô, cô cũng buôn bán làm ra được vài trăm nữa. Bà yêu chiều cô thật, nhưng giữ gìn cô, không để cô đi đâu, cũng không cho cô đua chơi bời với chị em; ngày ngày hai mẹ con chỉ ngồi trong nhà làm công việc, ai kéo nhẫn, trạm hoa thì đưa đến để bà hay cô làm ở nhà trong, chứ không có cửa hàng..... 
               Thành ra cô vẫn là con gái cấm cung, được bà khéo giậy, nên kể cũng là người hiền lành, chưa có tai tiếng hư hỏng gì. Cô sở thích nhất là ăn mặc ngắm vuốt, thỉnh thoảng có đi lễ với bà, thì ăn mặc rất điểm-trang; quần áo đẹp vào cô rất hợp, vì người cô vốn có sắc. Hôm nào cô ăn mặc vào mà bước chân ra đường, là y như hôm ấy ai cũng phải nhìn.....
               Ai nhìn thì nhìn, cô cũng chả nhìn ai, trong bụng cô nghĩ cũng chưa có người con giai nào ra tuồng mà nhìn; những chàng thiếu-niên bảnh bao hay riễu ngoài phố, cô cũng không ưa, bởi thế đã nhiều thày đỗ cao, làm tòa nọ sở kia, lương một  tháng hàng trăm hoặc hơn một trăm mượn người dạm hỏi cô, bà bằng lòng mà cô không thuận. Cửa xuân-tỏa mặc người qua lại, mà mắt xanh vẫn chưa để vào một ai!
               Hôm ấy hai mẹ con rủ nhau xem Quảng-Lạc, thế nào cậu Ngô-Tòng gập, thành ra một sự tình-cờ, mà cậu phải để-tâm chủ-ý.
               Cậu biết rõ nhà cô rồi, hỏi thăm được gốc tích và tính-nết cô, nghe người nào cũng nói rằng cô không đi đâu, ở phố ấy không có tai tiếng gì, bụng mừng lắm, quyết định nhờ bà Dì chàng Lê-Cần đánh tiếng nói giúp, để khi nào cậu đoạn tang sẽ cưới.... Bà Dì chàng Lê-Cần nghe cậu mượn nói giúp, vui lòng nhận ngay lập tức tìm người quen thân với bà Thân-sinh ra cô Ngọc-Lan nói đầu đuôi, người này cũng hứa sẽ hết mức nói dùm cho xuôi việc.
               Khi hai mẹ con cô Ngọc-Lan nghe nói cậu Ngô-Tòng hỏi, trước còn dùng dằng bảo cậu bồ côi cha mẹ, họ hàng không có ai, tất là người lêu lổng, đã toan không gả, nhưng sau nghe nói cậu đã đỗ bằng Thành-Chung, hiện đương tòng-sự sở Kho-bạc, lại trông người cậu khôi-ngô đẹp đẽ thì bằng lòng, ngỏ ý bắt cậu phải ở gửi rể....
               Ba năm vừa qua, cậu Ngô-Tòng và cô Ngọc-Lan đã lấy nhau rồi. Cậu ở gửi rể, nên không thuê nhà ở hàng Bè nữa.
             Nhà bà thân sinh ra cô Ngọc-Lan rộng rãi, hai vợ chồng cậu ở trên gác, còn bà thì ở dưới nhà. Bà được chàng rể như cậu, cũng vui mừng. Cậu ăn ở với bà hết lòng kính-trọng, chẳng khác chi mẹ đẻ, bà yêu cậu lắm, còn mợ thì lại chiều cậu hết mực, trong cảnh gia-đình đã có vẻ hòa-khí an-lạc. Tình thân-ái trong vợ chồng đã là cái tình độc-nhất vô-nhị của loài người, do lẽ âm dương gập nhau, thì sự vợ chồng  trẻ mới lấy nhau, phần nhiều là chăn loan gôi  phượng xum vầy, ngày xuân nhớ lúc đi về với xuân, không cần phải nói.
               Tục-ngữ có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn” phu xướng phụ tòng, như thế thì cơm trắng chả chim, mới xứng đáng. Xem ra hai vợ chồng cậu Ngô-Tòng sự yêu nhau cũng rất mực, mà tư tưởng đôi bên nhiều khi xung-đột. Công việc trong nhà không phải là không biết thu xếp có ngăn có nắp, nhưng mợ chỉ chăm chút những việc to, mà không thèm nhìn đến việc nhỏ, cần-kiệm những việc tiêu hàng đồng, nhưng không cần kiệm những việc tiêu vài hào. Cái tính mợ lại thích soi gương đánh phấn, có đi đâu tất phải điểm trang ăn mặc chải chuốt. Cậu thì tính nết lại khác mợ, tuy là một người đàn ông, nhưng không hoang-phí, rất cần kiệm, từ 1 xu một hào phí cậu cũng tiếc! Lại ưa sự sếp đặt cửa nhà có ngăn nắp, còn đến đường ăn mặc thì cậu không ưa lòe loẹt sang trọng, chỉ cốt sạch mắt dễ trông. Cậu thấy mợ có những tính trái với cậu thế, thì thường khuyên mợ:
               “Đàn bà quý-nhất là có đức-hạnh, xứng là người tề-gia nội-trợ, chớ ăn mặc ngắm vuốt làm gì?”         
               Cậu nói muốn mợ phải theo mà nghe, nhưng mợ đã muốn cái gì, cũng không ai phản-đối được:
               “Tề-gia nội-trợ và đức-hạnh, đó là trách-nhiệm đàn bà nói đã đành, còn ăn mặc ngắm vuốt thì ai là không muốn mà có hại chi?”
               “Không hại chi à? Ăn mặc ngắm vuốt chỉ vụ khoe khoang lẳng lơ, người không có đức-hạnh mới thế?”
               Mợ nghe cậu nói mỉa mình, thì giả lời:
          “Dễ cậu bảo ai ăn mặc ngắm vuốt cũng khoe khoang, cũng lẳng lơ, cũng vô-đức-hạnh sao? Cậu nói sao cậu không nghĩ....”
               Cậu nói một câu, mợ cũng nói một câu thành ra hai bên cứ phản-đối nhau, mợ tính nóng nói lắm thì không chịu, bèn cãi to tiếng, cậu biết điều phải thôi.
               Một hôm cậu đương ngồi xem sách, mợ đi đâu về, tay cầm gói giầy cườm rở ra hỏi cậu:
                “Đôi giầy này tôi mua 7£.50. cậu bảo có đắt không?
               Cậu nghe mợ hỏi không giả lời sao, một lúc mới nói: 
                “Sao mợ chỉ thích sắm sửa thế? giầy Gia-định chả đẹp chán còn mua giầy cườm làm gì nữa?”
               Cậu nói trái ý mợ làm cho mợ đương vui, mặt rịu ngay lại, cầm đôi giầy cườm miệng lầm bầm: 
                 “Đem mà vứt đi cho rảnh!”
               Cậu thấy mợ rỗi, thì ôn tồn khuyên mợ rằng:
              “Vợ chồng có đều lầm lỗi thì phải khuyên bảo nhau là chỉ muốn cho nhau hay, như tôi có nói mợ, cũng vì thế. Mợ xem như đàn bà con gái mà chỉ vụ ăn mặc, phấn sáp quá, nào có ai khen đâu? Ai người ta cũng khen người ấy có nết, chớ có ai khen  người ấy ăn mặc đẹp. Mợ nên biết rằng cái nết đánh chết cái đẹp mới được!”
               Mợ đáp:
               “Ai chẳng biết cái nết đánh chết cái đẹp mà cậu phải dậy, vợ chồng có đều lầm lỗi thì khuyên bảo nhau, nhưng tôi tưởng tôi chả có đều gì là lỗi với cậu cả, tôi không ăn hoang làm hại, đĩ dại theo giai thì cậu cũng phải để tôi ăn mặc chứ, chả lẽ chị em người ta quần nọ áo kia, mà mình thì mình trần hay sao?”
               Cậu nói:
              “Mợ không nghe tôi, thì thật mợ ương ách quá. Làm đàn bà lấy chồng như mợ, phải biết theo chồng. Mợ quên câu “xuất-giá tòng phu” rồi ư?”
               Mợ không cãi lại được nữa, chỉ nói:
               “Động một tỵ thì dở nghĩa-lý, ngu dốt biết đâu mà theo.”
               Từ rầy cậu đừng nói gì đến sự tôi ăn mặc thì tôi mới vui được, nếu không thì tôi giận cậu mãi!”
               Mợ nói câu ấy, tưởng là nói dọa cậu, thì cậu không khuyên bảo ăn mặc, nhưng cậu nhất định nói:
               “Tôi vốn rất ghét con người trai lơ ăn mặc, chỉ biết có cái gương hộp phấn, lúc nào cũng cạo nhổ tô điểm, nếu mợ không bỏ được tính ấy thì mợ để cho tôi sầu não vì mợ đó!”
               Mợ đã nguôi giận, đỡ tức mình, thấy chồng lại chỉ chích đến sự ăn mặc, thì cũng nói:
              “Thật trần đời không có ai người như cậu, làm thân đàn bà con gái ai cũng thích ăn mặc sung sướng, không ai không. Thì sự đó là thường, cậu hà tất phải soi đến những việc ấy, quý hồ tôi không ăn ở lầm lỗi với cậu điều gì thì thôi, cậu bảo gì tôi xin nghe, nhưng cậu bảo tôi  không nên ăn mặc gì, thì tôi quyết không thể nghe được, vì tôi bẩm sinh từ bé chí nhớn đã có cái tính ấy rồi.” Nói xong, chậy xuống nhà, không ngồi đó nữa.
                Bà thấy hai vợ chồng thỉnh thoảng lại có điều nọ tiếng kia với nhau thì khuyên bảo cả hai người rằng:
               “Vợ chồng phải yêu thương nhau, châm chước cho nhau mới được chứ, nến cứ nay rầy vò, mai tiếng nặng tiếng nhẹ, thì sau này ăn ở hòa hợp với nhau thế nào được?”
              Bà tuy khuyên đã lắm, mà hai vợ chồng cậu vẫn đôi co nhau như thế. Bên nào cũng không chịu nghe, thành ra vợ chồng mà tâm-tính thật xung khắc nhau. 
              Đông hết sang xuân, cậu Ngô-Tòng độ ấy làm nhiều công việc, nên hôm nào cũng đến tối mới về nhà.
              Chàng Lê-Cần thường hôm nào cũng lại nhà cậu chơi, hôm nào cậu đi vắng, thì lại ngồi chơi với mợ. Thân thiết chẳng khác chi anh em ruột, bởi thế đi lại tự do, lúc cậu không có nhà cũng như có, ra vào không phải hỏi han gì ai cả.
                Chiều hôm ấy, mợ một mình ngồi trên gác, buồn quá chả có việc gì, bèn lấy truyện ra kể, đương kể được nửa chừng, thì có người chị em bà  Phán Sự đến chơi. Chuyện phào một lúc, bà Phán hỏi mợ:
                “Hôm nay dưới đền Hai Bà có đốt mã làm chay vui lắm, chị em ta đi chơi đi?”
                Mợ đáp: “Cậu cháu sắp về, không đi được!”
                Bà Phán muốn rủ mợ cùng đi với mình cho vui:
               “Ông Phán nhà tôi mới về kia rnà, ta đi bây giờ rồi về ngay cũng còn sớm chán “
               Mợ lắc đầu giả lời: “Đi thế nào được, nhỡ cậu cháu biết lại mắng ngay, tính cậu cháu ghét lễ bái, không muốn cho xem đốt mã làm chay!”   
               Bà Phán Sự cười nói: “Rõ ông Phán nhà bà sao mà lẩn thẩn thế, đi xem đốt mã mà cũng giữ, hay là có ý ghen đấy, sợ bà đi....”
               “Không phải là ghen đâu, bà không rõ, chỉ vì ghét lễ bái, nên không muốn cho cháu đi!”
               Nói xong, thở giài:“Sao đàn ông bây giờ nhiều người lố lỉnh thế, có vợ mà không muốn để cho đi đâu, cấm cả từ ăn mặc cho chí lễ bái, hơi một tý thì ghen tuông nghi-hoặc, cả ngày không dám để rời vợ ra, sợ người khác vồ ngay lấy hay sao? Còn mình chơi bời đĩ bợm, thì vợ có giữ được đâu!....”
               Mợ nghe bà nói xong, cũng thở giài đáp:
              “Bà không nói thì thôi, chớ nói cháu càng thêm thẹn, thực cháu lấy cậu cháu đây cũng phải cảnh như người bà vừa nói, cả ngày chả được đi đâu, chị em quen biết nhiều người cũng rủ cháu đi lễ phủ đền, mà cậu cháu biết thì nhất định không cho di. Cậu cháu rở quá, cấm cả từ đánh phấn soi gương, mặc tắm gội.”
               Bà Phán Sự nói:“Đàn ông mà cấm vợ cả từ soi gương đánh phấn, thật là người nhỏ nhen.”
               Mợ chưa giả lời, bà đã đứng giậy cáo từ ra về:“Thôi, bà không đi, tôi đi một mình vậy.”
               Bà về rồi, mợ ngồi nghĩ những lời bà nói súc-động tâm-tình, bỗng hai mắt rưng rưng. Quả từ ngày mợ làm bạn với cậu, không được đi đến đâu, không thân mật với ai, không được ăn mặc như lúc còn con gái. Mợ nghĩ mợ đã như cái hoa xuân tươi tốt, mà không được bón tưới, ngày đêm rầm mưa rãi nắng; những sự hành-vi của mợ đều bị cậu phản-đối, muốn cưỡng-bách mợ phải phục-tòng pháp-lệnh cậu. Làm con gái nhan-sắc có, của cải có như mợ, nhất đán không phải ỷ-lại vào người chồng, mà cũng không được biệt-đãi vào một cái địa-vị sung sướng, lợi quyền không được ngang với đàn ông thì cực gì bằng. Nghĩ bao nhiêu buồn bấy nhiêu, hay đành liều má  phấn cho rồi ngày xanh. Trong bụng mợ bất-giác sinh cảm giác bi-ai, vừa toan đứng giậy lấy quyển Nhị-độ-mai ra kể, thì chợt thấy chàng Lê-Cần bước lên, trông mợ đã chào hỏi ngay:
                 “Chào chị, thưa chị anh tôi chưa về ư?”
                Mợ giả lời chưa, chàng liền ngồi ngay xuống ghế gần chỗ mợ, nhìn mợ thấy trong khóe mắt có hơi ngấn nước mắt, mặt trái soan, da ngọc ngà, con mắt sắc lại có nước mắt chạy quanh, trông chẳng khác chi bông hoa hồng tía mới nở buổi sáng, trên cánh còn điểm mấy giọt sương, đã có cái thế-lực gì làm cho chàng Lê-Cần trong lòng nẩy ngay một cái cảm-tình mến và thương. Bụng chàng lúc này như bị một sức gì đè nén, làm cho điên đảo lao-đao, hai mắt đã bị cái hình-dung mợ làm cho mê-loạn, ngồi gần mợ như đã có cái giây giao-tình cách-cảm lôi kéo, nhìn mà muốn cầm ngay mù-soa lau nước mắt mợ, ôm mợ vào lòng để rỗ rành nưng niu và an ủi:   
                 “Chị có điều gì mà âu sầu thế?”
                 Mợ ngẩng mặt lên trông chàng, thì hai con mắt vừa gập hai con mắt chàng, đúng như lúc hai luồng điện-khí gập nhau xung-đột, bỗng lòe ra một ánh hào quang. Chàng Lê-Cần vội ôm ngay lấy mợ hôn, trong người mợ cũng như bị cái động-lực ở người chàng ta làm rung rẩy, nên không cựa cậy gì, gục ngay đầu vào ngực chàng, mợ lúc này đã như cái hoa có nước tưới, chàng thì như con mèo đói, lọt vào tràn vớ được thịt, hôn lấy hôn để. Hai người nhìn nhau đều có ý thẹn. Chàng Lê-Cần nói:
                 “Tôi yêu mợ, từ nay xin phép mợ cho tôi được đem một chút tình gửi, gọi là đi lại yêu nhau!”
                Đang nói, thì nghe có tiếng giầy tây đi lên gác, chàng và mợ liền trông ra, té ra cậu đi làm về, anh em thấy nhau mừng rỡ, truyện độ mười phút, cậu liền đi ăn cơm.
                Cái dục-tình trong lòng người ta như con thú dại, trông thấy gươm giáo cũng liều không sợ chết, dám xông vào người ta. Trong khi sống ở đời, hành-vi xử-sự càn rỡ, mà lương tâm không ảnh-hưởng được cũng vì dục-tình có cái thế-lực độc-nhất vô-nhị, tốc-độ bắt mau như chớp nhoáng.
                Chàng Lê-Cần và mợ bấy giờ như hai người ăn phải bùa mê, tư-tưởng không còn đường lối nào chánh đáng nữa, ngoài sự ân-ái với nhau, hai người đã là một cặp giai gái ham muốn nhau rồi. Thỉnh thoảng lại rủ nhau đi chơi các nơi phang cảnh vắng-vẻ, mà cậu Ngô-Tòng không biết chi cả.
                Trong sở cậu làm, có một thầy ký tên là Lương-Giám, đôi khi có đến chơi nhà cậu, biết mặt mợ. Một hôm gần tối, chàng thơ thẩn một mình trên Bách-Thú, bỗng gập một cặp giai gái đi trước mặt, nhìn rõ thì người con gái ấy chính là vợ cậu Ngô-Tòng, còn người đàn ông kia thì không biết là ai, người phong-nhã đẹp đẽ, ăn mặc rất nền, chàng ghi nhớ sự gập gỡ đó vào lòng, định hôm nào nói rõ để cậu Ngô-Tòng biết.
                Từ khi mợ đem lòng yêu mến chàng Lê-Cần, thì đổi hẳn cách cư-sử đối với chồng, chồng có hỏi han gì chỉ ầm à nhạt nhẽo, khác hẳn mọi ngày, cậu thấy vợ bây giờ thế, chả hiểu làm sao chỉ buồn riêng trong bụng. Hôm ấy đương ngồi trong sở làm, thì thấy chàng Lương-Giám bắc ghế ngồi gần, rồi vỗ vai cậu bảo rằng:
                  “Anh ạ, tôi  trông thấy chị nhà anh hôm kia vừa đi chơi với một người con giai trẻ trung nào!”
                Câu nói sác thực, làm cho cậu bán tín bán nghi, hỏi thăm chàng Lương-Giám diện mạo người con giai đi với vợ mình, thì chàng nói đúng hệt diện-mạo giáng giấp chàng Lê-Cần. Lạ thật lạ, không lẽ là chàng Lê-Cần được? Nhưng cậu vốn đa-nghi, nghe nói mợ như thế, thì bụng nhất định rò cho ra mối.
              Tối hôm ấy về nhà cậu bảo mợ rằng: “Tôi có việc phải xuống Hải-Dương ba ngày, nói cho mợ biết!”
              Lại đến nhà chàng Lê-Cần bảo chàng: “Tôi phải xuống Hải-Dương mấy hôm, vậy nhờ anh làm ơn thỉnh thoảng qua lại nhà tôi trông nom hộ cho!”
              Nói câu ấy, chủ-ý cũng để dò ý-tứ chàng ta, bụng cậu tuy tin yêu chàng, nhưng đa-nghi mới lập mẹo bảo chàng, xem chàng giả lời sao. Chàng nghe cậu nói, đáp rằng: “Được anh đã dặn, tôi xin vâng!”
               Mặt chàng có vẻ hớn hở mừng, cậu lại nói: “Nhà tôi duy có mình tôi là đàn ông, nếu tôi đi vắng, thì không có ai nữa. Hay cứ tối đến anh lại nhà tôi mà nghỉ, nhân thể trông nhà hộ, cửa ngõ đêm hôm mợ nó vô-ý, e đến trộm nó lẻn vào khuân đồ đạc trong nhà đi!”
               Chàng Lê-Cần không hiểu là câu nói dò, chỉ đáp: “Anh có bụng tin cho phép như thế, tôi rất cảm ơn, nhưng đâu dám. Thôi anh cứ đi, việc nhà anh tôi xin chu tất anh không ngại!”
               Dặn đâu đấy, cậu liền xách va-li đi, kỳ-thực thuê một cái săm quanh quất gần đấy, ngày đêm rong xe qua cửa nhà mình dò xét.
               Cả ngày hôm ấy đổ mưa to, ngoài đường bùn lầy bẩn thỉu quá. Chàng Lê-Cần nhờ lúc mới tối, đèn điện chưa lên, đi xe lại ngay nhà cậu Ngô-Tòng, len lẻn lên gác thấy mợ đương ngồi têm giầu, liền lấy tay đổ cơi giầu ra một chỗ, ngồi cạnh mợ nói:  “Anh đi rồi, chị với tôi đi chơi đi?”
               Miệng nói mắt nhìn mợ một cách rất lẳng lơ, mợ trông chàng đáp rằng: “Đi, ngộ có ai biết thì làm sao?”
                Chàng cười nói: “Có một người biết thì mới sợ, người ấy đi rồi, còn ai biết được nữa!”
                Con mắt nhìn chòng chọc vào mặt mợ, mợ cũng nhìn chàng, hai người tự-nhiên như bị một cái sức gì nó ép làm một, đều ôm lấy nhau, chàng Lê-Cần mồm để ngay lên môi mợ:
                “Mợ ơi..... mình ơi...... người rất đáng yêu mến của tôi ơi?”
                 Lâu lâu hai người mới buông nhau ra. Chàng Lê-Cần tưởng như sung sướng vào động tiên, mắt nhìn mợ, tay thì vuốt đuôi gà:  “Người yêu của tôi ơi.....”
                 Mợ đưa mắt láy chàng ta:  “ Ỡm ờ gì mà!”
                 Đùa bỡn với nhau một lúc, rồi rủ nhau đi. Mợ quấn khăn vuông che lấp trán, còn chàng Lê-Cần thì mặc áo tơi cao-su (imperméable) co lên đến tận cổ. Hai người ra cửa gọi hai cái xe cao-su, bảo kéo đến săm gần nhà ga. Hai cái xe vừa đỗ xuống hè, chàng và mợ vừa lên ngồi, thì chợt có một cái xe cao-su mui buông kín mít chạy ngang qua, khi gần hai cái xe này, thì đi thong thả. Giời mưa, xe nào xe ấy đều rương mui, mắc áo tơi cánh gà nên người ngồi xe không trông thấy nhau được. Cái xe cao-su kia là cái xe của cậu Ngô-Tòng ngồi, cậu đi xe lượn đi lượn lại đến bốn năm lần qua cửa nhà cậu, lần này mới trông thấy chàng Lê-Cần và mợ ở trong nhà bước ra cửa........
               Khi hai cái xe chàng Lê-Cần và mợ đỗ cửa Săm gần nhà ga, thì xe cậu Ngô-Tòng vừa chạy kịp, còn cách độ mười thước, cậu ngồi trong xe, thò mặt ra nhìn, thấy chàng và mợ đi vào trong. Giời đã tối một rẫy buồng thuê đèn điện sáng, cậu trông đích sác một rõ mười là chàng Lê-Cần đì với vợ mình.
               Chàng và mợ thuê buồng hạng 1 đồng, ngoài cửa có  đề số 1, hai người vào vội vàng đóng cửa lại, vừa hay cậu Ngô-Tòng đến nơi, cách có vài bước, nhận rõ số buồng. Bụng cậu không còn hồi hộp nghi ngờ gì nữa. Chàng Lê-Cần mê vợ cậu, vợ cậu phải lòng chàng Lê-Cần, hai người đưa nhau vào săm làm điều dâm-ô. Cơn ghen khí tức ở đâu cháy trong gan cậu, cậu vội vàng chạy ra ngoài cửa Săm, người canh cửa cản lại:  “Đi đâu, thế có thuê săm thì đưa tiền đây!”
               Cậu giả lời:   “Khoan đã, để chốc nữa tôi lại!”
               Nói xong, lập tức chạy lại hiệu khách bán tạp-hóa hỏi mua con giao-ríp to, chọn con nào lưỡi sắc, giả tiền xong lại quay lại nhà Săm. Lẳng lặng đến cửa Săm số 1 thì nghe rõ tiếng Lê-Cần đương nói với vợ mình:   “Người yêu của tôi ơi, tôi gập mình  thật đã phỉ lòng mơ ước!”
                Cậu đứng ngoài nghe như bị dao đâm vào ruột, tức quá không ngồi yên được, bèn giáng hết sức đạp mạnh cánh cửa, cửa khóa không chắc mở bung ngay ra, cậu đã vào đến nơi.
                Chàng Lê-Cần và mợ trông thấy cậu, chẳng khác chi ma hiện hồn ban đêm, mặt mày tái hẳn đi, đứng lui lại nép hẳn một chỗ. Cậu trông thấy hai người, như trông thấy thù-nhân, cầm con giao ríp trong tay dơ lên toan đâm chàng Lê-Cần, rồi đâm vợ. Tay vừa dơ lên, thì đã run, dao rơi xuống:
               “Lũ chúng mày thật đồ lang-tâm cẩu-hạnh. Đáng lẽ tao giết chúng mày cho rồi, nhưng tao không muốn bửn lưỡi dao tao. Tao cho phép chúng mày cứ sung sướng, ăn ở với lương-tâm của chúng mày!”
               Chàng Lê-Cần nghe cậu nói, mơ màng như rượu say đã tỉnh, quỳ trước mặt cậu mà rằng:
               “Anh ơi, anh tha tội cho tôi, tôi biết tội tôi rồi!”
               Vừa nói vừa khóc như mưa. Cậu liền lấy chân đạp chàng ta ngã:
               “Mày biết tội rồi à. Bây giờ mày mới biết tội, thì tao không còn mặt mũi nào trong thấy mày nữa. Thằng kia, đồ chó má giả-danh nhân-nghĩa kia!”
               Mợ cũng quỳ xuống xin lỗi cậu:  “Cậu ơi, tôi chót dại một phen, xin cậu bỏ quá cho!”
               Cậu càng trông vợ càng yêu, càng yêu mà càng đau đớn:
               “Chót dại một phen, chót dại một phen cũng không  còn vợ  chồng với mày nữa. Mày nói lắm vô ích, nước đổ khó bốc!”
               Nói xong, người đã thấy như điên rồ, bèn chạy ra ngoài cửa săm, thì giọt mưa lác đác rơi xuống, ngoài đường xe chạy lõm bõm trên bùn nước. Người cậu như điên, như dại, như dồ, như mê, trông cảnh-vật lúc bấy giờ chẳng khác chi cái ngục bấy lâu giam mình. Trông lũ người đi lại trước mắt chẳng khác chi những người xem trong chớp ảnh, thực hư không biết có phải là người không? Cậu đã như con chim bị tên bay lạc, thấy cây cong càng thêm rật mình. Bây giờ cậu chỉ còn tìm chỗ nào vắng vẻ, sống qua ngày làm bạn với cái đau đớn mà thôi, chớ sự đời đã tắt lửa lòng, còn chen vào chốn bụi hồng làm chi? Tư-tưởng cậu quay về cả cõi tôn-giáo siêu-việt ; tinh-thần cậu như muốn quy-y mà  tín-ngưỡng một đấng đại-từ đại-bi, để cầu sự an ủi trong lòng.....
                  Cậu chợt nghĩ khi xưa bà Hàn đẻ ra cậu vẫn hay lễ bái các đền phủ, chơi bời quen biết nhiều sư vãi, may thử đến hỏi xem, may được chỗ tiện để tu hành. Nghe có nhà sư Hòa-Mã là người quen thân với bà, cậu đến đó khóc nói với nhà sư rằng:
                 “Bạch-sư ông, con là một kẻ bị nhiều cái đau đớn vì nhân tình thế-thái lắm, không thể nào chen đua ở đời được nữa, muốn xin sư-ông làm ơn cho con ở nhờ, theo hầu sớm khuya hương đèn tụng kinh niệm Phật thì con đội ơn người lắm.”
                 Nhà-sư là người nhân-đức từ-thiện nghe cậu nói phải nhiều sự đau đớn, thưởng-cảm bảo cậu rằng:
                “A-di-dà-phật, cậu là người thiếu niên đã trải đau đớn về nhân-tình thế-thái rồi ư? Đáng thương thay, cậu muốn bỏ thất-tình mà quy-y cửa thuyền, sư này lấy làm khen và mến lắm. Nhưng xem nội chùa đây, cảnh-trí không được thanh-tịnh lắm. Tiện nhà sư có biết một chỗ này rất tịch-mịch, cậu có muốn đến đó tu-hành không?...”
               Cậu hỏi chỗ nào, nhà sư nói: “Cách tỉnh Phú Thọ độ ba cây lô-mét, có một cái chùa bỏ không của dân sở-tại làng đấy lập ra, bấy lâu không có người coi sóc đèn hương, nay cũng chưa có ai. Cậu nên lên trên ấy, nói qua xin Lý-trưởng làng ấy một tiếng, thì được ở đấy ngay. Như thế thì được chỗ hợp ý mình muốn!”
               Cậu tạ ơn nhà sư, ngủ chùa Hòa-Mã, rồi sáng hôm sau đi tầu lên Phú-Thọ.....
             Bước chân xuống ga Phú-Thọ, vào trong, trông phong-cảnh vắng vẻ buồn bã, rõ ra một tỉnh sơn-lâm thượng-du. Cậu thơ thẩn lừng thững đi trên đường cái con, vừa đi được vài bước thì có một con mẹ ăn mày đi đàng sau kêu:   “Lạy ông, xin ông đồng cháo!”
                Cậu ngoảnh lại nhìn, tự nhiên giật mình. Trông ai, té ra con mẹ ăn mày ấy là Thị-Hạnh. Cậu hỏi:
                “Chị có phải tên là Thị-Hạnh không?”
                Con mẹ ăn mày nghe cậu hỏi, nhìn cậu một hồi lâu rồi mừng rỡ kêu:  “Cậu Ngô-Tòng!!!......”
                Cậu thấy Thị-Hạnh, bây giờ thân thể thế, hỏi đầu đuôi làm sao. Ả khóc mà nói rằng:
               Từ khi ông mất đi, tôi nghe lời Sở-Cường, lấy nó được ba năm, nó bòn  hết của, rồi đuổi tôi đi. Lang thang một mình, không có ai quen biết, họ hàng thì không, nghề gì cũng không biết làm, nên phải đi ăn ngày nuôi miệng, nhờ giời cũng bữa đói bữa no!”
               Cậu nghe Thị-Hạnh nói đầu đuôi, ghét ả bụng dạ gian ác bất-nhân, phải đi ăn mày ngày nay thật đáng, nhưng thấy ả khóc lóc, hình-thể ốm yếu và rách rưới thì động lòng, bèn cho mấy hào rồi đi. Hỏi thăm mãi mới tìm thấy chùa sư-ông nói truyện, xem kỹ trong ngoài, thì chùa đã nát, gạch vôi lở hết, xây giữa quãng đồng bỏ không, u-tịch lạnh lẽo. Thật là một cảnh rất hợp ý  cậu. Cậu liền hỏi thăm người làng đấy, tìm vào nhà Lý-trưởng để nói xin, chẳng may Lý-trưởng có việc sang làng khác chưa về.... Lần lữa, thành ra đã tối, đường xa đất lạ, không có ai quen , cậu bèn ngồi trong chùa.
                Giăng sao vằng vặc, bầu xanh một giải, quang-cảnh giời đất hôm ấy mát mẻ; gló hiu hiu thỉnh thoảng đưa lại, tiếng run kêu rế thét, ngọn tre rì rào nghe như một tiếng đàn thiên-nhiên sầu cảm xúc-động lòng cậu, làm cho cậu nghĩ xa xôi, ký ức những truyện quá-khứ, hồi-tưởng sự đời mà ruột bời bời đòi đoạn, Cậu hồi-tưởng những đoạn thương-tâm lịch-sử của cậu, mà tưởng như đời cậu rặt trải những nỗi đoạn-trường, sông Tiền-Đường hò hẹn đến nay qua. Cậu tưởng như tai vẫn còn nghe lời bà nói rằng: “Đời nay nhiều người bạc, vô-đạo” và câu: “Cõi đời là bể khổ” văng vẳng bên tai, cậu tưởng như bà đương ở dưới Âm-Phủ chờ cậu xuống đó.
                Cậu tưởng như cõi đời toàn là đảo-điên điên-đảo, toàn là chiếu rõ những cái gương nhân-tình thế-thái như cái gương cậu vừa phải đau đớn mà trông, cậu tưởng như đời người toàn là ma-quỷ cả, mà chỉ có bà đẻ ra cậu là hình người, còn biết yêu-mến ăn ở với cậu thôi.
               Cõi đời là bể khổ, lời bà còn đó, nay mới biết là đúng. Cậu đau khổ quá rồi, cậu muốn kêu giời to một tiếng, cậu muốn gọi mẹ cậu, nhưng giời cao, mẹ cậu đã mất, chỉ còn xanh-xanh một khu-vực bao-la trước mắt cậu; linh-hồn cậu thoát ly ngay mà nhập vào cõi hư-vô; bao nhiêu sự đau khổ của cậu tối hôm ấy rũ sạch hết. - Sáng hôm sau, thì người cậu đã ngất đi, máu chàn ra miệng rồi chết, không kịp xin lý-trưởng làng ấy ở chùa tu. Còn thây cậu, thì đóng áo quan chôn ngoài bãi, cách chùa độ hai trăm thước.
          ...........................................
          Kim-Sinh kể xong, chẩy nước mắt than hai câu Kiều rằng:
          Trải qua một cuộc bể dâu,
          Những điều trông thấy đã đau đớn lòng.
          Ký-giả nghe hết truyện, bụng thương sót cũng đau đớn, bất giác sinh cảm-giác vô-hạn về sự thế, nên cầm bút chép truyện làm ghi.                                                         
                                                                                                 ( Xuất bản  1923 )
           

           
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.08.2013 10:23:57 bởi nvietdung >
          #5
            Chuyển nhanh đến:

            Thống kê hiện tại

            Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
            Kiểu:
            2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9