Trích đoạn: Long vũ
Thành viên chú ý
Ngoài nội quy của diễn đàn mà tất cả các thành viên phải tôn trọng :
Tất cả các bài post trong "Đường Luật Hội Quán" phải theo đúng tên gọi của forum
- Các bài thơ phải theo đúng luật chơi thơ Đường Luật (trừ các bài post theo tính cách bàn thảo trong tinh thần hòa nhã thì có thể du di );
- Các bài thơ viết bằng tiếng Việt phải có dấu;
Nếu các bài post không theo đúng các điểm trên sẽ bị chuyển qua "Thơ tình sáng tác" (ở forum này, bạn có thể tự do chọn thể thơ bạn muốn, không cần theo luật), hoặc sẽ bi xóa mà không cần phải giải thích. Tôi đăng nội qui của trang thơ(từ một web thơ đường đúng nghĩa) ý là kêu gọi tôn trọng topic thơ đường ,mong thông cảm.
Long vũ 12.25.08 Thân chào.
*******************
Thân chào bạn Long Vũ, Tôi có rất nhiều cảm tình với bạn khi trước đây thấy bạn thỉnh thoảng tiếp tay tôi để viết thêm 4 câu biến 4 câu thơ của Bảo Loan thành thơ Đường bát cú. Và tôi xin vắn tắt nói về đoạn bạn trích đăng trên đây : - đoạn bạn trích đang có vẻ là Nội Quy của một trang Web nào đó chuyên chơi thơ Đường bát cú, vì nó bắt đầu với câu :
Thành viên chú ý.
- Câu :Tôi đăng nội qui của trang thơ (từ một web thơ đường đúng nghĩa) …
thì là lời của bạn. Nhưng vì bạn không có quyền hay vì một lý do nào đó, bạn không cho biết địa chỉ thật của website ấy, nên trong ngoặc bạn chỉ ghi :
(từ một web thơ đường đúng nghĩa).
Ý kiến của tôi (LCR) : Có lẽ bạn muốn thấy loại thơ chúng tôi đang chơi được cải tiến theo chìu hướng tốt hơn, tương tự mục đích mong muốn nêu trong bản Nội Quy ấy. Điều nầy tôi xin chân thành cảm tạ hảo ý của bạn. Nhưng trong phần trich đăng có nhiều điểm không mấy thích hợp với cung cách chơi thơ thoải mái, tìm vui của nhóm chúng tôi, khiến có đôi chút góp ý bàn luận. Mặc dầu chúng tôi phần đông rất có tinh thần phục thiện, luôn chỉ bảo nhau để học hỏi, sửa chửa, cải tiến, tìm cách viết ra được những bài thơ đẹp hơn để khỏi làm bực mình người đọc. Nhưng quan điểm của chúng tôi thì có đôi chút không tương thích với phần trích dẫn bản Nội Quy nêu trên, cũng như có vài điểm không giống phần đông các lò thơ Đường Luật khác : - trước nhứt chúng tôi không câu nệ, kén chọn về danh gọi : thơ Đường, Đường thi, thơ Đường Luật, thơ Luật v.v. Bất cứ là dùng tên gọi nào trong số, tùy theo câu nói, mọi người cũng đều hiểu được là chúng ta đang bắt chước chơi theo loại thơ 8 câu, 7 chữ, theo luật, của các thi nhân nổi tiếng thời Đường. Còn muốn gọi cho thật đúng thì phải nói dài dòng hơn chút là : thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật.
Vì thơ Đường Luật có nhiều thứ : có loại Ngũ Ngôn Đường Luật và Thất Ngôn Đường Luật. Rồi trong loại Thất Ngôn lại chia ra : Thất Ngôn Tứ Cú Đường Luật (Tứ Tuyệt) và Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật …! Do đó nên nếu chỉ gọi vắn tắt là thơ Đường Luật thì vẫn là không đúng. - Ngày nay loại thơ nầy không còn được dùng cho việc khoa cử. Nhưng vẫn còn được nhiều người chơi vì những lý do khác :
* Về kỹ thuật, cấu trúc của nó tuy nhỏ gọn nhưng xinh xắn, lại cho phép thi nhân có cơ hội trổ tài trên nhiều địa hạt. Tùy tài năng của mỗi tác giả mà bài thơ sẽ có những bộ vần đẹp, những cặp đối hay, có nhiều nhạc tính.
* Về nội dung, cái cấu trúc tuy ngắn mà rất đầy đủ ấy cộng với sự bố cục có đầu có đuôi, có mở có kết, rất tiện dụng để người chơi trao đổi tâm tình, trò chuyện với nhau, kẻ tung người hứng. Không loại thơ nào khác có được sự xướng họa thịnh hành như loại thơ này.
* Về ý nghĩa, như các loại thơ khác, nó cũng hoàn toàn dùng được để diễn đạt mọi thứ tình cảm : nhắn nhe, châm biếm, trào lộng, tâm tình, nhàn đàm thế sự v.v.
- Sau cùng sự phân tách mổ xẻ những bài thơ thuộc tinh hoa của Đường Thi, cho thấy (riêng tôi) là
phép Niêm theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 là sự ứng dụng không đầy đủ các phép chơi của thi nhân tiền bối thời thịnh Đường. Có lẽ phép Niêm ấy được soạn ra trong thời khoa cử là để có một qui tắc rõ, gọn giúp các vị giám khảo dễ dựa theo đó mà chấm bài (ý kiến trong bài viết của Huệ Thu). Vì nếu áp dụng toàn bộ kỹ thuật các phép chơi của thi hào thi bá đời Đường thì phải nhiều hơn và khá phức tạp.
Chỉ nói tóm tắt thì như sau :
PHÂN TÁCH VÀ ĐÚC KẾT PHẦN KỸ-THUẬT
(dùng trong loại thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi)
1/
VẦN : Trọn bài thơ 8 câu chỉ được dùng
một VẦN, dù là dùng 4 hay 5 (hay 6) chữ
VẦN.
2/ Hai câu của cặp 3-4 và của cặp 5-6 phải
ĐỐI nhau
3/ Về
LUẬT các chữ :
Nhất tam ngũ bất luận. Nhì tứ lục phân minh 4/ Về
NIÊM :
thi gia đời Đường áp đặt phép Niêm, phép Luật, riêng rẻ và tự do cho 4 câu trên và 4 câu dưới của bài thơ bát cú như sau : 4 câu TRÊN có thể dùng phép Niêm hoặc 1-4 2-3 hoặc 1-3 2-4 và theo Luật Bằng hoặc Luật Trắc mà không cần biết đến 4 câu DƯỚI. 4 câu DƯỚI có thể dùng phép Niêm hoặc 1-4 2-3 hoặc 1-3 2-4 và theo Luật Bằng hoặc Luật Trắc mà không cần biết đến 4 câu TRÊN. 5/ Vài ví dụ làm bằng chứng :
a/
Ví dụ về Phép Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng của thơ Tứ Tuyệt VỊ THÀNH KHÚC
Vị
thành triêu
vũ ấp
khinh trần
Khách
xá thanh
thanh liễu
sắc tân
Khuyến
quân cánh
tận nhất
bôi tửu
Tây
xuất Dương
Quan vô
cố nhân.
Vương Duy
b/
Ví dụ về Phép Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc của thơ Tứ Tuyệt MỤC TÚC PHONG KÝ GIA NHÂN
Mục
túc phong
biên phùng
lập xuân
Hồ
Lư hà
thượng lệ
triêm cân
Khuê
trung chỉ
thị không
tương ức
Bất
kiến sa
trường sầu
sát nhân.
Sầm Tham
c/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-4 2-3 Luật Bằng, Dưới 1-4 2-3 Luật Bằng (
đúng theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
KHÚC GIANG NHỊ THỦ (kỳ nhị)
Triều hồi nhật nhật điển xuân y Mỗi nhật giang đầu tận túy quy Tửu trái tầm thường hành xứ hữu Nhân sinh thất thập cổ lai hi Xuyên
hoa giáp
điệp thâm
thâm hiện
Ðiểm
thủy thanh
đình khoản
khoản phi
Truyền
ngữ phong
quang cộng
lưu chuyển
(chữ ‘lưu’ bỏ Luật vì nhu cầu giữ ý) Tạm
thời tương
thưởng mạc
tương vi.
Ðỗ Phủ
HAI BÀI THƠ TRÊN SÔNG KHÚC GIANG (bài hai) Mỗi buổi chầu lui thường cố áo Bên sông say khướt mới ra về Vài ba nợ rượu đâu không có Bẩy chục đời người dễ mấy khi Cánh bướm vờn hoa bay thấp thoáng Ðuôi chuồn giỡn nước kéo lê thê Xưa nay quang cảnh cùng thay đổi Ðược lúc vui chơi há ngại gì. (bản dịch của) Bùi Khánh Ðản
d/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-4 2-3 Luật Trắc, Dưới 1-4 2-3 Luật Trắc (
đúng theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
KHÚC GIANG ÐỐI TỬU
Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy Thủy tinh cung điện chuyển phi vi Ðào hoa tế trục dương hoa lạc Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi Túng
ẩm cửu
biền nhân
cộng khí
Lãn
triều chân
dữ thế
tương vi
Lại
tình cánh
giác Thương
Châu viễn
Lão
đại đồ
thương vị
phất y.
Ðỗ Phủ
UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang Thủy tinh cung điện bóng mờ gương Hoa tơi tả rụng đào chen liễu Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng Chén rượu thường say người đã chán Phiên chầu vẫn trễ tiếng còn mang Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh Tuổi tác chưa về nghĩ tự thương. (bản dịch của) Bùi Khánh Ðản
e/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-4 2-3 Luật Bằng, Dưới 1-4 2-3 Luật Trắc (
không đúng dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
HÀ TIỆN
Giàu thì ba bữa khó thì hai Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy Nón đổi lá ngoài quần đổi ống Dép thay da mặt túi thay quai Dặn
vợ có
cà đừng
gắp mắm
Bảo
con bớt
gạo bỏ
thêm khoai
Thế
gian mặc
kẻ cười
hà tiện
Ta
chẳng phiền
ai chẳng
lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết
f/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-4 2-3 Luật Trắc, Dưới 1-4 2-3 Luật Bằng (
không đúng dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan Hốt văn họa các Tần tranh dật Tri thị lân gia Triệu nữ đàn Khúc
thành hư
ức song
nga liễm
Điệu
cấp giao
liên ngọc
chỉ hàn
Ngân
thược trùng
quan thính
vị tịch
Bất
như miên
khứ mộng
trung khan.
Từ An Trinh
NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan Buồn trong trăng sáng ý mơ màng Chợt nghe gác họa âm Tần vọng Mới biết nhà bên gái Triệu đàn Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc Điệu mau e buốt ngón tay vàng Lắng nghe then khóa còn chưa mở Ngủ quách may ra mộng gặp nàng. (bản dịch của) Đinh Vũ Ngọc
g/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-3 2-4 Luật Trắc, Dưới 1-3 2-4 Luật Trắc (
không đúng dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ
Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (chữ
Lăng bỏ Luật vì nhu cầu tên người)
Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm Hảo
điểu nghinh
xuân ca
hậu viện
Phi
hoa tống
tửu vũ
tiền thiềm
Khách
đáo đãn
tri lưu
nhất túy
Bàn
trung chi
hữu thủy
tinh diêm.
Lý Bạch
ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền Về ẩn Đông Khê trải mấy niên Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm Đón xuân chim quý ca sau viện Mời rượu hoa bay múa trước hiên Khách đến nài nhau say một bữa Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền. (bản dịch của) Đinh Vũ Ngọc
h/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-4 2-3 Luật Trắc, Dưới 1-3 2-4 Luật Bằng (
không đúng dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN
Lệ tận giang lâu vòng Bắc quy Điền viên dĩ hãm bách trùng vi Bình vô vạn lý hà nhân khứ Lạc nhật thiên sơn không điểu phi Cô
chu dạng
dạng hàn
triều tiểu
Cực
phố thương
thương viễn
thụ vi
Bạch
âu ngư
phủ đồ
tương đãi
Vị
tảo Sam
Thương lãn
tức ky.
Lưu Trường Khanh
LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC Lầu sông lệ cạn trông về Bắc Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây Vạn dặm đồng không người chẳng đến Nghìn non chiều xuống chim còn bay Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh Bến cũ xanh xanh cây mọc dày Âu trắng ngư ông xin hãy đợi Chưa qua hoạn nạn khó về ngay. (bản dịch của) Đinh Vũ Ngọc
i/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-3 2-4 Luật Trắc, Dưới 1-4 2-3 Luật Bằng (
không đúng dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ
Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi Phong lưu nho nhả diệc ngô sư Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ Tiêu điều dị đại bất đồng thì Giang
san cố
trạch không
văn tảo
Vân
vũ hoang
đài khởi
mộng tư
Tối
thị Sở
cung câu
dẫn diệt
Châu
nhân chỉ
điểm đáo
kim nghi.
Đỗ Phủ
NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời Sông núi nhà xưa văn vẻ đó Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi Thương thay cung Sở tiêu tan hết Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ. (bản dịch của) Đinh Vũ Ngọc
j/
Ví dụ về Phép Niêm : Trên 1-4 2-3 Luật Bằng, Dưới 1-3 2-4 Luật Bằng (
không đúng dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
Hai bài Tứ Tuyệt trên/dưới đều dùng 3 vần ÐẰNG VƯƠNG CÁC
Ðằng Vương cao các lâm giang chử (4 câu trên dùng 3 vần « u » thanh Trắc Bội ngọc minh loan bãi ca vũ Họa đống triêu phi Nam phố vân Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Nhàn
vân đàm
ảnh nhật
du du (4 câu dưới dùng 3 vần « u » thanh Bằng
Vật
hoán tinh
di kỷ
độ thu
Các
trung đế
tử kim
hà tại ?
Hạm
ngoại trường
giang không
tự lưu.
Vương Bột
ÐẰNG VƯƠNG CÁC Bến sông cao ngất Ðằng Vương Các Múa hát im rồi loan ngọc đâu Nam Phố mây bay quanh cột vẽ Tây Sơn mưa cuốn trước rèm châu Mây trôi đầm ánh từ bao độ Vật đổi sao dời đã mấy thu Ðế tử không còn trơ gác vắng Trường Giang muôn thuở chảy bên lầu. (bản dịch của) Bùi Khánh Ðản
Bạn Long Vũ thân mến, Bài của bạn gợi ra cho chúng ta có dịp bàn luận về thơ Đường nên tôi viết dài dòng như trên, tuy vẫn là tìm cách nói thật ngắn gọn. Ai chơi theo đường lối nào thì cũng tốt cả vì chẳng có gì đụng chạm nhau được. Và theo trường phái nào, khuynh hướng nào thì những nhà thơ tài năng đều có thể cho người đọc có dịp thưởng thức những bài thơ hay, gây được nhiều rung cảm. Bạn đừng thắc mắc gì cả nhé. Cứ tiếp tục đến chơi cùng chúng tôi như trước. Thân mến. LCR
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.12.2008 23:08:39 bởi lá chờ rơi >