Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Vay mượn từ tiếng Tàu - PHÁP - ANH
        
        
    
    
    
	
        
    
        
        
            
            
              Có  thể nói, bất kỳ một ngôn ngữ trên trái đất này cũng đều trải qua hình  thức vay mượn từ các ngôn ngữ khác. Ảnh hưởng về văn hóa là một trong  những tác động chính trong việc vay mượn về ngôn ngữ. Ngoài ra, còn phải  kể đến các yếu tố khác như địa lý, lịch sử, chính trị và xã hội trong  việc hình thành ngôn ngữ vay mượn. 
           Miền  Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng vốn là một “melting pot”, dễ dàng  hòa nhập với các nền văn hóa khác từ tiếng Tàu, tiếng Pháp và cuối cùng  là tiếng Anh. Có thể lấy bài hát Gia tài của mẹ của Trịnh Công Sơn để  giải thích sự vay mượn của ngôn ngữ Việt: “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu,  một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày…”. Như  vậy, Việt Nam đã trải qua ba thời kỳ ảnh hưởng, lần lượt theo thứ tự  thời gian là của Tàu, sau đó đến Pháp và cuối cùng là Mỹ trong những năm  chiến tranh gần đây nhất.         Trước  hết, xin được bàn về ảnh hưởng của Trung Hoa mà ta thường gọi nôm na là  Tàu cùng những biến thể như Người Tàu, Ba Tàu, Các Chú, Khách Trú và  Chệt hoặc Chệc. Gia Định Báo (số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16/2/1870)  giải thích:      “…An-nam  ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại  dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ  Tàu v.v... Từ Ba-Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là ba vùng  đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù Lao  Phố (Đồng Nai), Sài Gòn-Chợ Lớn, Hà Tiên, từ Tàu bắt nguồn từ phương  tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam, nhưng dần từ Ba Tàu lại mang  nghĩa miệt thị, gây ảnh hưởng xấu...”.      “…Kêu  Các-chú là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn  người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha  mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần  người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy...”.      “…Còn  kêu là Chệc là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người  bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu,  cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe  vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc ...”      Cách  giải thích thuật ngữ nói trên của Gia Định Báo từ thế kỷ thứ 19 được  coi là tạm ổn vì đây là một trong những tài liệu xưa có xuất xứ từ miền  Nam. Theo Lê ngọc Trụ trong Tầm nguyên Tự điển ViệtNam, chệc hay chệt là  tiếng Tiều gọi chữ thúc, nghĩa là “em trai của cha”. Người bình dân gọi  Chệcđể chỉ chung người Hoa.      Người  Quảng Đông cho là gọi như thế có ý miệt thị, người Triều Châu trái lại,  chấp nhận vì họ được tôn là chú. Ở miền Nam, “các chú” Quảng làm ăn  buôn bán khá hơn “các chú chệc” người Tiều lam lũ trong nghề làm rẫy,  tằn tiện nên không biết có phải vì vậy mới có câu:      Quảng Đông ăn cá bỏ đầu      Tiều Châu lượm lấy đem về kho tiêu!      Người  Tiều lại chê dân Quảng không biết ăn cá. Họ nói món cháo cá Tiều khi ăn  có vị ngọt đặc biệt nhờ chỉ rửa sạch bên ngoài, giữ lại nguyên si vảy,  đầu và cả ruột! Dân Tiều ở miền Nam “chuyên trị” những món cá chim hấp,  bò viên, tôm viên, ruột heo nấu cải chua... và nhất là món hủ tíu Tiều  Châu.      Người  ta còn dùng các từ như Khựa, Xẩm, Chú Ba… để chỉ người Tàu, cũng với  hàm ý miệt thị, coi thường. Tuy nhiên, có sự phân biệt rõ ràng trong  cách gọi: phụ nữ Tàu được gọi là thím xẩm còn nam giới thì lại là chú  ba.      Năm  1956, chính phủ Ngô Đình Diệm của nền Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963) đã  có một quyết định khá táo bạo, buộc tất cả Hoa kiều phải nhập quốc tịch  Việt Nam, nếu không sẽ bị trục xuất. Thương nghiệp tại miền Nam sau thời  Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều. Vì vậy,  chính phủ cố tạo sức mạnh cho doanh nhân Việt bằng cách hạn chế quyền  lợi của người Hoa.   Đạo  luật 53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan  đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt  vụn… được Chính phủ Ngô Đình Diệm ban hành vào tháng 9/1956. Đạo luật  này đã làm xáo trộn kinh tế trong nước nhưng đã có tác động mạnh đến nền  công thương nghiệp của người Việt vào thời kỳ đó. Đa số người Hoa đã  nhập tịch Việt, tính đến năm 1961, trong số 1 triệu Hoa kiều ở miền Nam  chỉ còn khoảng 2.000 người giữ lại Hoa tịch.      Người  Tàu kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc  biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối và tín dụng.  Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành  công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như  đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90%  xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả  thị trường. Cũng vì thế, ở Sài Gòn có câu mỉa mai: “Sống phá rối thị  trường, chết chật đường chật xá” để ám chỉ người Tàu khi còn sống lũng  đoạn nền kinh tế và đến lúc chết lại tổ chức những đám ma một cách rình  rang.      Cũng  như người Tàu ở Hồng Kông và Macao, người Tàu ở miền Nam đa số nói  tiếng Quảng Đông(Cantonese) chứ không nói tiếng Quan Thoại (Mandarin) mà  ngày nay gọi là tiếng Phổ Thông. Cũng vì thế, ngôn ngữ Sài Gòn xưa vay  mượn từ tiếng Quảng Đông được khoảng 71 triệu người Hoa trên khắp thế  giới xử dụng.      Người  Sài Gòn thường ví những người “ăn nói không đâu vào đâu” là “nói hoảng,  nói tiều” thực ra là “nói tiếng Quảng Đông, nói tiếng Triều Châu”. Điều  này cho thấy tiếng Quảng Đông xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ miền  Nam trước năm 1975, kế đến mới là tiếng Triều Châu. Trên thực tế, người  Tàu có đến 5 nhóm Hoa kiều, được gọi là Ngũ Bang tại miền Nam: Quảng  Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Khách Gia (người Hẹ).      Trong  lĩnh vực ẩm thực của Sài Gòn xưa, ảnh hưởng của người Tàu gốc Quảng  Đông rất đậm nét. Người ta thường nói về 4 cái thú: “Ăn cơm Tàu, ở nhà  Tây, lấy vợ Nhật Bản, đi xe Huê Kỳ”. Bên Tàu lại ví von: “Thực tại Quảng  Châu, Y tại Hàng Châu, Thú tại Tô Châu, Tử tại Liễu Châu” (Cơm ngon ăn  tại Quảng Châu, Áo đẹp may vải Hàng Châu, Vợ xinh cưới ở Tô Châu, Hòm  chết chôn không bao giờ mục ở Liễu Châu ). Quảng Châu chính là thủ phủ  của tỉnh Quảng Đông.      Kết  hợp ý nghĩa của hai câu nói Việt-Trung ở trên ta có thể kết luận: ăn  uống theo người Tàu gốc Quảng Đông là hết xảy hay số dzách (số một),  những từ ngữ đã quá phổ biến trong xã hội miền Nam. Về sau, vào thời  chiến tranh Việt Nam, “số dzách” được cải biên theo kiểu Mỹ thành  “nâm-bờ oăn” (number one)! Hành trình của ngôn ngữ xem ra rất thú vị.      Nói  cho công bằng, bên cạnh số đông các tửu lầu, cao lâu của người Tàu gốc  Quảng Đông, ở Sàigòn Chợ lớn cũng có lai rai một số tiệm Tàu khác như  tiệm Hủ tíu Triều Châu ở đối diện Chợ Lớn Mới,Cơm Gà Hải Nam ở Chợ An  Đông hay đường Tôn Thọ Tường.      Theo  Bình-nguyên Lộc (1), thời tiền chiến trước 1945, các phổ ky trong tiệm  Tàu còn có kiểu kêu vào bếp những món ăn thực khách gọi y như người ta  gọi “lô-tô” (bingo), dĩ nhiên bằng tiếng Quảng Đông:            - Bàn số 3, bên Đông, bà lùn, cà phê ít sữa nhiều!      - Bàn số 4, bên Đông, hủ tíu không giá.      - Bàn số 1, bên Tây, thêm bánh bao ngọt thằng nhỏ.      - Bàn số 2, bên Tây, ông già râu, cà phê đen ly lớn, xíu mại to.            Chủ  tiệm thường biết rõ tính nết và sở thích ăn uống của mỗi khách quen,  nên họ thường đặt cho mỗi người một cái tên thuộc loại… “hỗn danh”. Khi  khách ăn xong lại quầy trả tiền thì phổ ky rao những câu hóm hỉnh bằng  tiếng Quảng Đông, chẳng hạn như:            - Ông đầu hói mang khăn rằn, một đồng hai cắc      - Bà hai mập, ba đồng sáu cắc      - Ông chủ ốm nón nỉ, tám đồng tư, hai bánh bao mang về            Nổi  tiếng tại Sài Gòn xưa có các nhà hàng Đồng Khánh, Arc-en-ciel (sau này  đổi tên là Thiên Hồng), Soái Kình Lâm, Bát Đạt, Á Đông, Đại La Thiên,  Triều Châu... Tại đây còn phục vụ loại “ăn chơi” theo cung cách nhất dạ  đế vương. Quả thật người viết bài này chưa bao giờ được “làm vua một  đêm” nên đoán trong những bữa tiệc như thế phải có mỹ nữ hầu tửu, thực  đơn chắc chắn phải có nhiều mónhuyền thoại danh bất hư truyền về cái  chất bổ dương khích dục đi đôi với các thứ rượu quí như whisky, cognac  và Mao Đài tửu (Mao Đài hoàn toàn không có liên quan gì đến Mao Xếnh  Xáng dù ông có dùng rượu này để tiếp đãi các nguyên thủ quốc gia).            Cơm  Tàu thường được để trong những cái thố nhỏ nên được gọi là cơm thố, chỉ  là cơm trắng dùng chung với các món ăn nhưng không nấu bằng nồi mà chỉ  hấp cách thủy để cho chín gạo. Thông thường một người ăn chừng một hoặc  hai thố là no. Có người lại ca tụng ăn cơm thố chỉ cần chan chút hắc xì  dầu (nước tương đen) pha với dấm Tiều thêm chút ớt là đã thấy ngon rồi.            Nghĩ  lại cũng đúng nhưng nếu ăn kiểu này thì những tiệm nổi tiếng như Siu  Siu bên hông chợ An Đông hay Siu Siu ở đầu hẻm Nguyễn Duy Dương (hình  như ở số nhà 61) chắc đã dẹp tiệm từ lâu rồi! Hình dưới đây là những thố  cơm chụp tại Quán Chuyên Ký trong khu Chợ Cũ đường Tôn Thất Đạm. (Những  thố cơm ngày xưa nhỏ hơn nhiều, ngày nay tiệm dùng những cái thố quá  lớn, không lẽ bao tử của thực khách ngày nay lớn hơn ngày xưa?). 
   
       Cơm thố 
              
 
   
   
     Cơm chiên Dương Châu cũng là món ăn du nhập từ Quảng Đông. Nhiều người rất khoái cơm chiên  nhưng ít người biết từ khởi thủy đây chỉ là món tổng hợp các thức ăn dư  thừa được chế biến lại. Này nhé, cơm vốn là “cơm nguội” nấu dư từ hôm  trước, các phụ gia khác như jambon, trứng tráng, đậu Hòa lan, hành lá...  còn dư được xắt lát rồi trộn với cơm mà chiên lên!            Cũng  thuộc loại thức ăn dư thừa có món tài páo (bánh bao). Ban không tin ư?  Nhân bánh bao là thịt vụn được xào lên, trộn với lạp xưởng và trứng (sau  này được thay bằng trứng cút kể từ khi dịch cútlan truyền khắp Sài Gòn,  nhà nhà nuôi cút, người người ăn trứng cút). Vỏ bánh bao được làm bằng  bột mì, sau khi hấp chín bột nở phình ra trông thật hấp dẫn.            Có  người bảo cơm chiên Dương Châu và bánh bao thể hiện tính tằn tiện và  tiết kiệm của người Tàu, không bỏ phí thức ăn thừa! Nói cho vui vậy thôi  chứ từ cơm chiên, bánh bao đến các loại sơn hào hải vị như bào ngư, vi  cá, yến sào… đều đòi hỏi cách chế biến, đó là nghệ thuật nấu ăn.      Các tiệm “cà phê hủ tiếu”  của Tàu lan rộng ra nhiều nơi chứ không riêng gì trong Chợ Lớn. Khắp  Sài Gòn, Gia Định rồi xuống đến Lục Tỉnh đi đâu cũng thấy những xe mì,  xe hủ tiếu, chỉ nhìn cách trang trí cũng có thể biết được chủ nhân là  người Tàu. Họ có kiểu cách riêng biệt với những chiếc xe bằng gỗ, thiết  kế một cách cầu kỳ. Phần trên xe là những tấm kính tráng thủy có vẽ hình  các nhân vật như Quan Công, Lưu Bị, Trương Phi, Triệu Tử Long… trong  truyện Tam Quốc.             
 
   
   
    Xe mì Tàu còn giữ đến ngày nay      (Ảnh chụp tại xe mì gần Hồ Con Rùa, Sài Gòn)            Ăn điểm tâm thì có mì, hủ tíu, bánh bao,  há cảo, xíu mại… Khách thường gọi một ly xây chừng, đó là một ly cà phê  đen nhỏ hay tài phế (cà phê đen lớn). Cà phê ngày xưa còn có tên “cá  phé vớ (dzớ)”, pha bằng chiếc vợt vải nên còn được gọi là “cà phê vợt”  tựa như chiếc vớ (bít tất). Cà phê đựng trong “dzớ” phải được đun nóng  trong siêu nên còn có tên là “cà phê kho”, có điều “kho” nước đầu thì có  mùi cà phê nhưng những nước sau có vị như… thuốc bắc.         Sang  hơn thì gọi phé nại (cà phê sữa) hoặc bạt sửu (nhiều sữa nhưng ít cà  phê) với sữa đặc có đường hiệu Ông Thọ (2) hoặc Con Chim (3). Có người  lại dùng bánh tiêu hoặc dầu-cha-quẩy (người miền Bắc gọi là quẩy) nhúng  vào cà phê để ăn thay cho các món điểm tâm đắt tiền. 
         
 
   
    Cà phê pha bằng vợt 
        (ảnh Trần Việt Đức) 
           Người bình dân còn có lối uống cà phê trên đĩa. Mỗi tách cà phê thường được để trên một chiếc đĩa nhỏ, khách “sành điệu” đổ cà phê ra đĩa, đốt điếu thuốc Melia chờ cà phê nguội rồi cầm đĩa lên… húp. Nhà văn Bình-nguyên Lộc trong Hồn Ma Cũ mô tả cách uống cà phê của người xưa: “… Người cha đứa bé rót cà phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà uống”.  Đây là cách uống của một số người Sài Gòn vào những thập niên 50-60, đa  số họ là những người lớn tuổi, “hoài cổ” nên vẫn duy trì cách uống đặc  trưng của Sài Gòn xưa.      Vào  một quán nước bình dân trong Chợ Lớn ta có thể gọi một ly suỵt xủi và  người phục vụ đem ra một ly đá chanh mát lạnh. Có người gọi nước đá  chanh là “bất hiếu tử” vì dám cả gan “đánh cha” nhưng nói lái lại là… đá  chanh! Tại các tiệm “cà phê hủ tiếu” luôn luôn có bình trà để  khách có thể nhâm nhinhậm xà (uống trà) trước khi gọi phổ ky đến để thảy  xu (tính tiền). (Nhậm xà còn có nghĩa là tiền hối lộ, tiền trà nước).  Người sành điệu còn “xổ” một tràng “broken Cantonese”: “Hầm bà làng kỵ  tố?” (Hết thảy bao nhiêu tiền?).        Những  từ ngữ vay mượn của người Tầu dùng lâu hóa quen nên có nhiều người  không ngờ mình đã xử dụng ngôn ngữ ngoại lai. Chẳng hạn như ta thường lì  xì cho con cháu vào dịp Tết hoặc lì xì chothầy chú (cảnh sát) để tránh  phiền nhiễu, cũng là một hình thức hối lộ.       Lạp  xưởng (người miền Bắc gọi là Lạp xường) là một món ăn có nguồn gốc từ  bên Tàu, tiếng Quảng Châu là lạp trường: ngày lễ Tất niên và ruột heo  khô. Cũng vì thế vào dịp giáp Tết các cửa hàng nổi tiếng như Đồng Khánh,  Đông Hưng Viên trưng bày la liệt các loại lạp xưởng, nào là lạp xưởng  mai quế lộ, lạp xưởng khô, lạp xưởng tươi… 
     Chế  biến lạp xưởng là nghề của các Chú Ba trong Chợ Lớn. Lạp xưởng được làm  từ thịt heo nạc và mỡ, xay nhuyễn, trộn với rượu, đường rồi nhồi vào  ruột heo khô để chín bằng cách lên men tự nhiên. Lạp xưởng màu hồng hoặc  nâu sậm vì chắc hẳn có thêm chút bột màu.                        Lạp xưởng            Lạp xưởng ở Sóc Trăng thuộc miền Lục tỉnh cũng rất nổi tiếng cùng với món bánh  pía, một món đặc biệt của người Tiều gốc từ Triều Châu. Đôi khi bánh pía  còn được gọi là bánh lột da, thực chất có nguồn gốc từ bánh trung thu  theo kiểu Tô Châu nhưng khác với loại bánh trung thu mà ta thường thấy.  Đây là loại bánh có nhiều lớp mỏng và nhân bánh có trộn thịt mỡ.      Bánh pía do một số người Minh Hương di cư sang Việt Nam từ thế kỷ 17 mang theo.  Trước đây, việc làm bánh pía hoàn toàn mang tính thủ công và phục vụ cho  nhu cầu của từng gia đình. Bánh pía ngày trước cũng khá đơn giản, vỏ  ngoài làm bằng bột mì có nhiều lớp da mỏng bao lấy phần nhân, lớp da  ngoài dày thường để in chữ, nhân làm bằng đậu xanh và mỡ heo chứ không  có lòng đỏ trứng muối và các loại thành phần khác như ngày nay      Do  thị hiếu của người tiêu dùng mà các lò bánh mới thêm các thành phần  hương liệu khác như sầu riêng, khoai môn, lòng đỏ trứng muối... Tại Sóc  Trăng hiện có gần 50 lò chuyên sản xuất bánh pía. Tuy nhiên, số lò bánh  và cửa hàng buôn bán tập trung đông nhất tại thị tứ Vũng Thơm (xã Phú  Tâm, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) nơi được xem là khởi thủy của làng  nghề bánh pía. 
               
 
         
      Bánh pía Sóc Trăng            Vịt quay Bắc Kinh và vịt quay Tứ Xuyên là những món “đặc sản” nổi tiếng của Tàu. Đặc trưng của món vịt quay là  da vịt mỏng, giòn, màu vàng sậm. Tại miền Nam, vịt quay và thịt heo  quay cũng được người Quảng Đông đưa vào danh sách ẩm thực. Bí quyết gia  truyền của các món này là ướp ngũ vị hương rồi quay sao cho da giòn tan  trong khi phần thịt vừa mềm lại vừa thơm.      Vịt  quay hoặc heo quay theo đúng kiểu Tàu là phải ăn với bánh bao chay  (không nhân) nhưng người Việt cũng chế thêm món bánh hỏi thịt quay ăn  với các loại rau, chấm nước mắm cho hợp với khẩu vị. Ngày xưa, trong Chợ  Lớn, nổi tiếng về heo quay, vịt quay có khu vực đường Tôn Thọ Tường, ở  Sài Gòn thì khu Chợ Cũ có vài tiệm heo quay của người Tàu. Chuyện kể có  một ông cà lăm đi mua thịt quay, khi ông lắp bắp: “Bán… cho tôi… 20  đồng… thịt quay…” thì Chú Ba với tay nghề chặt thịt cũng vừa chặt xong  đúng 20 đồng!           
 
   
         Thịt quay Chợ Lớn         Hết “ăn” giờ lại sang đến “chơi”  trong ngôn ngữ vay mượn của người Tàu. Chuyện cờ bạc trong ngôn từ của  người Sài Gòn xưa đã xuất hiện không ít những từ ngữ từ tiếng Tàu. Tài Xỉu (phiên  âm từ tiếng Tàu có nghĩa là Đại – Tiểu) là trò chơi dân gian có từ rất  lâu. Chỉ cần 1 cái đĩa, 1 cái bát và 3 hạt xí ngầu cũng có thể lập sòng  tài xỉu nên còn có tên là sóc đĩa. 
     Hột  xí ngầu có sáu mặt, mỗi mặt có từ một đến sáu chấm, tương đương từ một  đến sáu điểm. Khi ráp sòng, người ta để cả ba hột lên chiếc đĩa sứ, chụp  bát lên trên rồi lắc. Tổng số điểm của ba hột từ mười trở xuống gọi là  xỉu, trên con số mười là tài. Sau khi chủ sòng lắc đĩa, người chơi đoán  hoặc tàihoặc xỉu mà đặt cược. Chuyện thắng thua trong tài xỉu tùy thuộc  vào tay nghề của người xóc đĩa, còn được gọi là hồ lỳ. Xác suất chủ sòng  là từ 60 đến 70% thắng nhưng vì lỡ mang kiếp đỏ đen nên con bạc vẫn bị  thu hút vào sòng xóc đĩa.      Các  loại bài và hình thức chơi bài cũng có xuất xứ từ tiếng Tàu. Binh xập  xám (13 cây) có những thuật ngữ như mậu binh (không cần binh cũng  thắng), cù lủ (full house) là 3 con bài cùng số và một cặp đôi, ví dụ  như 3 con chín + 2 con K (lớn nhất là cù lủ ách (ace), nhỏ nhất dĩ nhiên  là cù lủ hai), thùng(flush) là 5 con cùng nước (suit) mà không theo  trật tự liền nhau, ngược lại là sảnh (straight) là 5 con theo trật tự  liền nhau nhưng không cùng nước. Kho từ vựng trong xập xám còn có xám  chi (3 con cùng loại - three of a kind), thú (two) hay thú phé (two  separate pairs) là 2 cặp và 1 con bất kì nào khác. “Thứ nhất tứ quý (4  con bài cùng số) thứ nhì đồng hoa (cùng một nước như cơ, rô, chuồn,  bích)” là một trong số cả rừng từ ngữ của dân binh xập xám.            Ở  phần trên đã bàn về hai khía cạnh “ăn” và “chơi”, còn một khía cạnh  đóng vai trò không kém phần quan trọng là “làm” của người Tàu. Nghề  nghiệp được xếp thấp nhất của người Tàu là nghề lạc xoong hay nói theo  tiếng Việt là mua ve chai, người miền Bắc gọi là đồng nát.      Chú  Hỏa (1845-1901), người Phúc Kiến, xuất thân từ nghề này nhưng về sau  lại là một trong 4 người giàu nhất Sài Gòn xưa: “Nhất Sỹ, nhì Phương,  tam Xường, tứ Hỏa”. Bốn triệu phú ngày xưa gồm các ông Huyện Sỹ (Lê Phát  Đạt), Tổng đốc Phương (Đỗ Hữu Phương), Bá hộ Xường (Lý Tường Quan) và  Chú Hỏa (Hui Bon Hoa hay Hứa Bổn Hòa). (Xem Triệu phú Sài Gòn xưa, http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/11).      Một  số người Tàu hành nghề bán chạp phô với các mặt hàng thuộc loại tả pín  lù nhưng sẵn sàng đáp ứng được mọi nhu cầu hàng ngày của người lao động  trong xóm. Tiệm chạp phô chỉ có mục đíchlượm bạc cắc từ cây kim, sợi chỉ  đến cục xà bong Cô Ba, quả trứng, thẻ đường. Người Tàu kiên trì trong  công việc bán tạp hóa, ông chủ ung dung đếm tiền mỗi tối và ẩn dưới tiệm  chạp phô là cả một gia tài được tích lũy. Người ta chỉ phát hiện điều  này khi có phong trào vượt biên. Tính rẻ “3 cây một người” thế mà cả gia  đình chủ tiệm chạp phô vẫn thừa sức vượt biển để tìm đến bến bờ tự do.        
         Tiệm chạp phô của người Tàu            Cao  cấp hơn là những xì thẩu, những người thành công trong kinh doanh mà  ngày nay ta gọi là đại gia. Điển hình cho giai cấp xì thẩu là Trần  Thành, bang trưởng Triều Châu, với hãng bột ngọt Vị Hương Tố rồi các mặt  hàng mì gói Hai Con Tôm, nước tương, tàu vị yểu đã chinh phục thị  trường miền Nam từ thập niên 60 để trở thành “ông vua không ngai trong  vương quốc Chợ Lớn”.   Xì  thẩu Lý Long Thân làm chủ 11 ngành sản xuất và dịch vụ, 23 hãng xưởng  lớn: hãng dệt Vinatexco, Vimytex, hãng nhuộm Vinatefinco, hãng cán sắt  Vicasa, hãng dầu ăn Nakyco, hãng bánh ngọt Lubico, Ngân Hàng Nam Việt,  Ngân Hàng Trung Nam, khách sạn Arc en Ciel, hãng tàu Rạng Đông…      Xì  thẩu Lâm Huê Hồ được nhiều người gọi là “chủ nợ của các ông chủ”. Ông  là người giữ nhiều tiền mặt nhất miền Nam, số tiền ông có trong tay bằng  vốn của nhiều ngân hàng tư nhân cỡ nhỏ như NamĐô, Trung Việt gộp lại.  Lâm Huê Hồ còn nổi tiếng là vua phế liệu, chuyên thầu quân cụ và võ khí  phế thải rồi bán lại cho những doanh nhân trong ngành luyện cán sắt hay  bán lại cho Nhật Bản. Người Sài Gòn thường nói: “Trần Thành, Lý Long  Thân chỉ có Tiếng nhưng Lâm Huê Hồ lại có Miếng”   Xì  thẩu Vương Đạo Nghĩa, chủ hãng kem Hynos, là một người có óc làm ăn cấp  tiến. Ông là người có rất nhiều sáng kiến để quảng cáo sản phẩm trên  các cửa hàng ăn uống, chợ búa, hệ thống truyền thanh và truyền hình. Ông  cũng là người đầu tiên biết vận dụng phim võ hiệp và tình báo kiểu Hồng  Kông vào quảng cáo. Người dân miền Nam không thể quên hình ảnh tài tử  Vương Vũ giải thoát các xe hàng do đoàn bảo tiêu hộ tống thoát khỏi quân  cướp: mở thùng ra chỉ toàn kem đánh răng Hynos!       
         Quảng cáo kem đánh răng Hynos            Có  rất nhiều xì thẩu được Sài Gòn xưa phong tặng danh hiệu Vua. Trương Vĩ  Nhiên, “vua ciné”, là chủ hãng phim Viễn Đông và gần 20 rạp ciné tại Sài  Gòn - Chợ Lớn: Eden, Đại Nam, Opéra, Oscar, Lệ Thanh, Hoàng Cung, Đại  Quang, Palace, Thủ Đô…; Lý Hoa, “vua xăng dầu”, là đại diện độc quyền  các hãng Esso, Caltex, Shell phân phối nhiên liệu cho thị trường nội  địa; Đào Mậu, “vua ngân hàng”, Tổng giám đốc Trung Hoa Ngân Hàng (một  trong hai ngân hàng châu Á lớn nhất tại Sài Gòn cùng với Thượng Hải Ngân  Hàng).      Bên  cạnh đó lại có Lại Kim Dung là “nữ hoàng gạo”. Giá gạo tại miền Nam là  do công ty của bà ấn định, chính phủ đã có lúc phải hợp tác với “nữ  hoàng gạo” để ổn định giá gạo trên thị trường. Trong các buổi tiếp tân  lớn, bà Kim Dung luôn xuất hiện bên cạnh các mệnh phụ phu nhâ      Tạ  Vinh là một trường hợp xì thẩu đặc biệt. Năm 1964, Tạ Vinh bị Ủy Ban  Hành Pháp Trung ương của Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ xử bắn tại pháp  trường cát trước chợ Bến Thành vì tội “gian thương, đầu cơ tích trữ gạo,  gây xáo trộn thị trường”. Dân chúng và báo chí gọi Tạ Vinh là “hạm  gạo”. Ông Kỳ muốn cảnh cáo giới tài phiệt gốc Hoa không nên quá lạm dụng  tình trạng chiến tranh để làm giàu phi pháp, ông đã tổ chức một cuộc  họp kín gồm đủ thành phần đại xì thẩu tại Sài Gòn-Chợ Lớn để cảnh cáo.             
 
   
     Pháp trường cát trước Chợ Bến Thành    
    Chú thích:      (1)  Bình- nguyên Lộc là bút hiệu của Tô Văn Tuấn (1914-1987) với cách viết  tên rất cầu kỳ: có gạch nối giữa Bình và nguyên, nhưng không có gạch nối  giữa nguyên và Lộc, chữ nguyên lại được viết với mẫu tự n không hoa.  Nguiễn Ngu-Í trong “Sống và viết với... Bình-nguyên Lộc”, gọi ông là  “một trong tam kiệt của miền Nam” bên cạnh Hồ Biểu Chánh và Lê Văn  Trương. Bình-nguyên Lộc có khoảng 50 truyện dài, 1.000 truyện ngắn và 4  quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt  Nam chỉ được in phần đầu, phần còn lại khoảng 800 trang viết tay coi như  bị thất lạc. Tác phẩm nổi tiếng phải kể đến Đò dọc, Rừng mắm, Cuống rún  chưa lìa…   (2)  Sữa Ông Thọ là tên gọi của hiệu sữa Longevity trước đây thuộc hãng sữa  Foremost. Tên được dùng trước năm 1975 với hình Ông Thọ trong Tam Đa  (Phước, Lộc, Thọ) để minh họa. Sau năm 1975, Vinamilk sử dụng lại tên  Ông Thọ nên khi Foremost quay trở lại Việt Nam kiện đòi lại thương hiệu  nhưng thất bại nên phải dùng nhãn hiệu Longevity.   Hiện nay Longevity đã được chuyển nhượng cho Dutch Lady VN với cái tên Sữa đặc Trường Sinh.      (3)  Sữa Con Chim của hãng Nestlé (Thụy Sĩ) đặt chân đến Việt Nam lần đầu  tiên vào năm 1916. Trải qua nhiều thập kỷ, các sản phẩm như Guigoz, Lait  Mont-Blanc, Maggi đã trở nên thân thuộc với các thế hệ người Việt.  Nestlé trở lại Việt Nam vào năm 1990, và mở một văn phòng đại diện vào  năm 1993. Vào năm 1995, Công ty Nestlé Việt Nam (100% vốn đầu tư nước  ngoài) được thành lập, trực thuộc tập đoàn Nestlé S.A    
       
            
            
         
     
    
 
    
     
 
     
    
    
    
    
	
    
    
    
    
        
            
    
        Thống kê hiện tại
        Hiện đang có  0 thành viên và  1 bạn đọc.
        
 
            
         
     
    
    
    
    
    
    
        
        
        
	
            Kiểu: