Truyện ngắn Mặc Bích
Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 38 bài trong đề mục
frank 07.09.2013 03:47:26 (permalink)
Những Kẻ Lạ
 
Mặc Bích
 
Project phải nộp trong vòng một tháng đối với Hương quá vội vã, không đủ thì giờ! Tám con người, cả nam lẫn nữ, và phải là những người xa lạ? Người thầy giáo đã nghĩ ra những đề tài quái gở!!! Làm quen, bắt chuyện và ghi lại, rồi nhớ và về nhà vẽ lại 8 người đó. Sao nhiều chuyện thế cho năm học cuối! Cũng chỉ là một trong những đề tài phải làm, nhưng tốn quá nhiều thì giờ, công sức. Nguyên chuyện làm quen, hỏi chuyện đã không phải dễ đừng nói đến chuyện gì khác! Hương thở dài khi đóng cửa phòng.
Chiếc thang máy mới trong khu chung cư trườn từ lầu 3 xuống lầu 1 êm ru. Bỗng dưng Hương lại nhớ cái thang máy cũ kiểu cổ được làm từ năm 1940 khi căn chung cư mới được xây. Nó xọc xạch và có những tiếng động mà thoạt tiên mới đến tưởng đâu thang máy sẽ ngưng nửa chừng hay tuột dây đi một lèo! Vậy mà bây giờ lại nhớ!
Ngày Chủ Nhật đầu tháng 9, trời đã dịu hơn với những cơn mưa bất chợt. Mưa ở Manhattan đổ xuống đột ngột như lũ. Lúc nào Hương cũng mang sẵn chiếc dù nhỏ dù không có vẻ gì là trời sẽ mưa. Phải đổi hai lần xe điện ngầm mới lên tới Central Park. Ngày nghỉ nên không đông, nhưng người ta vẫn có thói quen vội vã chạy xuống hầm chờ tàu điện đến. Chẳng ai để ý đến ai, chỉ ngong ngóng đợi. Đợi cái âm thanh rầm rập của những bánh xe, những ánh đèn loang loáng quét trên đường rầy đen đủi bụi bậm mà thỉnh thoảng vài chú chuột thành phố béo mập từ ngõ ngách nào chạy tuột ra rồi thoắt lại vụt vào bóng tối. Hương đang tiếc một ngày chủ nhật không được dậy muộn! Ước ao duy nhất trong lúc này là được ngủ vùi trên tấm nệm trong căn gác trọ chung với Erika, cô bạn gái người Đại Hàn có khuôn mặt như một con búp bê bằng vải.
 Ngồi trong tuyến xe điện đang lao đi lắc lư, Hương nghĩ đến những điều mình phải làm trong ngày hôm nay. Những chữ “phải .., phải .., phải ..” tiếp nối nhau như thúc giục và đẩy nàng nhìn tới trước. Cái nhìn của Hương chợt đụng vào gương mặt mệt mỏi chảy dài với hai bên khóe đổ xuống của một thiếu phụ da màu có mái tóc nhuộm vàng quạch, khô như cỏ cháy. Cổ áo rộng trễ một bên lộ một phần ngực trần, không thách thức mời mọc nhưng chỉ như một xác định thêm về sự mệt nhoài hiển nhiên. Bà ta cũng nhìn Hương. Cặp mắt không có mầu rõ rệt, dường như lẫn với màu da nâu vàng, lẫn với mầu tóc, lẫn cả với những ù lì trong dáng ngồi buông thả mà hai chân xoạc ra như kênh nỗi chán chường để phô bầy trọn vẹn những điều không cần nói.
Trong đầu Hương lóe lên một ý tưởng: “Đây là một đề tài tốt để vẽ! Nhưng không dễ bắt chuyện! Thái độ đó như  một căn nhà với nhiều cửa kính nhưng đóng chặt. Trong khung cảnh này cũng khó! Thì giờ cũng không có bao nhiêu. Bà ta có thể xuống bất cứ trạm nào gần nhất”.
Đúng như Hương dự đoán, thiếu phụ uể oải đứng lên ở ngay trạm ngừng đầu tiên. Bà ta đi ra khỏi toa xe như một bóng ma thất thểu. Mà có lẽ cũng chẳng ai chú ý đến ai. Ở đây là thế. Nếu mà người đàn bà có cởi tung quần áo ra ngay đó, cũng chẳng ai thèm để tâm! Người ta còn những băn khoăn khác.
Đến trạm thứ nhì, Hương theo đoàn người hối hả từ đường hầm chui lên khỏi mặt đất. Bên trên, ánh sáng vỡ lòa. Có gió mát và những tiếng kèn xe inh ỏi. Nàng sang bên kia đường, lại xuống một đường hầm khác để bắt kịp chuyến xe điện thứ hai.
Mười lăm phút sau, Hương đến Central Park. Mọi sự đều khác, đẹp đẽ hơn, sạch sẽ hơn và đương nhiên sang trọng hơn nhiều lắm.
Công viên rộng mênh mông nằm ngay giữa thành phố, thản nhiên chiếm những phần tốt đẹp nhất để trả lại cho những con người thành phố chút thiên nhiên và yên tĩnh, dù là giả tạo và tạm bợ. Có lẽ, đôi lúc người và người đều cần những giả tạo và tạm bợ đó, như cần nước, cần thở.
 
1- Thành phố đã mất
Hương lững thững khoác chiếc xắc tay khá lớn lên vai băng ngang đường số 15 Central Park Ave. để vào công viên. Vài chiếc sạp nhỏ bên ngoài bày bán kỷ vật hay hot dog. Mùi xúc xích nướng thơm lừng lẫn với mùi phân ngựa và cỏ thoảng trong gió. Hương đảo mắt tìm những mục tiêu. Phía trước nàng, vài người chạy bộ ngược chiều. Xa hơn có hai người đi bách bộ. Chắc không còn trẻ với những phần lưng hơi cong và dáng đi nặng nhọc. Người già có lẽ dễ làm quen hơn? Để xem. Những con đường trải sỏi vòng bên trong công viên lên xuống thoai thoải đưa sâu vào bên trong. Hương không còn nghe thấy tiếng xe cộ bên ngoài mấy. Bên bờ cỏ thỉnh thoảng có người ngồi dựa gốc cây đọc sách hay ngắm trời mây, nhưng khách tản bộ là nhiều nhất.
Ngang một băng đáù, người đàn ông mập mạp da đen nhánh nhe răng cười với Hương. Hàm răng trắng bóc hổng một lỗ trống ngay đàng trước với đôi môi thâm xì dầy cộm đang trễ xuống theo nụ cười. Nụ cười hiền hòa thân thiện làm Hương muốn làm quen. Mục tiêu này được đây, nàng thầm nghĩ và Hương cũng cười lại, chân dừng bước.
Ông ta nói trước:
“Trời đẹp quá!”
Trong đầu nàng nghĩ ngay đây là một người homeless. Thế này là dễ bắt chuyện lắm.
Hương khởi đầu bằng câu phụ họa:
“Hy vọng hôm nay không mưa”
“Cô bé không coi thời tiết sao? Không có mưa đâu”
Nàng tính nhanh trong đầu để làm sao đi vào vấn đề ngay. Hương chỉ có 4 ngày chủ nhật cho 8 con người!
Hương ngồi xuống băng đá cạnh ông ta rồi đưa đẩy vào chuyện luôn.
“Ông ở đây hả?”
“Tôi mới đến đây thôi. Còn cô?”
“Tôi là sinh viên, học ở đây”
Ông ta gục gặc cái đầu gọn lỏn với đám tóc xoăn tít sát da.
“Cô ở đây thích không?”
“Dạ thích chứ. Thành phố lớn, trường học cũng nhiều, nhiều thứ để học hỏi”
“Tốt, tốt lắm!”
“Ông thích thành phố này không?”
“Cũng OK thôi”
“Hồi trước ông ở đâu?” Hương xoay hẳn người để nhìn mục tiêu. Nàng cần phải nhớ từng chi tiết trên mặt người này.
Người đàn ông da đen không biết bao nhiêu tuổi, 35, 40, 50? Cái mũi bè bè thật to nằm ngay chính giữa mặt như ngăn cho phần má hai bên tách riêng, mỗi nơi một cõi. Cái đầu mũi tròn ủng khoằm xuống nhìn vành môi tim tím, tai tái đang vểnh lên trong cái trề môi kèm theo cái nhún vai khi nói:
“Ở một nơi chẳng còn nữa..”
Hương tò mò nhìn ông ta kỹ hơn nữa. Dù làn da đậm màu, nhưng dưới ánh nắng nàng vẫn nhìn thấy những nếp gấp ở trên vầng trán không cao lắm, ở hai bên mép kéo thành vệt xuống chiếc cằm vuông hơi bạnh ra. Những sợi râu xám trắng thấp thoáng ở cằm. Nàng lại hỏi:
“Là ở đâu vậy?”
“Ở một nơi không ai muốn đến nữa!”
“Chỗ nào ghê vậy?” Hương càng tò mò.
“Cơn bão Katrina thổi tôi trôi dạt tới đây”
Hương mở to mắt. Té ra ông ta không phải là người vô gia cư như nàng nghĩ. Nàng buột miệng:
“Ông từ New Orleans?”
Đôi mắt có hình tam giác vì nhích lên ở chính giữa và sụp xuống hai đầu của người đàn ông sáng lên như bắt gặp một thứ gì đang kiếm tìm. Ánh mắt đó thay cho câu trả lời.
Tự dưng Hương không biết phải nói gì hơn. Những hình ảnh trên màn hình TiVi cách đây 1 năm về những tàn phá của trận bão Katrina đã đi vào lịch sử, không ai là không biết!
“Cô học gì ở đây?”
“Tôi học về mỹ thuật. Năm cuối của chương trình này”
“Vậy thì cô nhậy cảm với những cái đẹp, cái xấu, hơn một người bình thường”
Điều này có lẽ đúng, Hương nghĩ vậy và nàng đáp:
“Tự nhiên như vậy, tôi có muốn thế đâu”
“Đó là một tài năng Trời cho, cô phải biết cám ơn đã được như thế”
“Cám ơn? .. Tôi chỉ nghĩ đến như một hướng đi. Còn ông thì sao?”
“Cô đoán coi!”
Hương lại được dịp quan sát ông ta kỹ hơn nữa. Cổ bạnh ra nối với đôi vai rộng vạm vỡ. Chiếc áo thung màu trắng cụt tay sáng rỡ trên làn da đen nghịt. Cánh tay không có những bắp thịt của một người lao động hay chơi thể thao. Mà trông ông ta cũng không có dáng vẻ của một người tất bật khuân vác nghèo nàn. New Orleans, cái tên gọi, thành phố và những cư dân, rồi đời sống.. ? Tự dưng Hương nghĩ đến nhạc jazz!
“Ông có phải là nhạc sĩ không?”
“Nếu tôi bảo đúng thì cô nghĩ sao, và ngược lại nếu tôi bảo tôi làm nghề chài lưới thì cô thấy thế nào?”
“Tôi hỏi ông có một mà ông hỏi lại hai ba!”
Ông ta, tên gì không biết, ngửa cổâ lên cười khằng khặc. Nụ cười thỏa thuê khi cả người, cả khuôn mặt, những thớ thịt rung rung nhún nhẩy thoải mái theo lồng ngực lên xuống phập phồng. Cái miệng được dịp phô bày hết bao nhiêu răng, cái còn cái mất.
“Thú vị thực!”
Hương hơi khó chịu khi có cảm giác là mình bị trêu ghẹo.
Ông ta biết ngay nên cố nín cười rồi lắc đầu:
“Tôi.. chơi nhạc.. chuyên nghiệp”
“Saxophone? Trombone? Clarinet? Drum?”
Ông ta giơ tay lên như đầu hàng khi trả lời:
“Một thứ thôi. Saxophone”
“Bây giờ ở đây, ông chơi nhạc ở đâu?”
Tất cả những nét rạng rỡ lúc ban đầu bỗng dưng biến  mất, chìm sâu dưới làn da đen xậm như  trời đang sáng bỗng dưng tối đen! Cái miệng khép lại, như câu chuyện đến đó là dứt.
Ông ta không trả lời mà Hương cũng không hỏi gì thêm. Có lẽ câu hỏi vội vàng của nàng đã đưa ra không đúng lúc. Dù sao nàng đã nhớ khá kỹ những đường nét trên gương mặt này, mục tiêu thứ nhất!
“Tôi không còn chơi nhạc nữa!”
Câu nói bất ngờ làm Hương ngạc nhiên, nhưng nàng không dám hỏi thêm. Sự yên lặng của Hương bên cạnh ông ta như  cây như cỏ quanh đây, như mây như trời trên kia, dửng dưng mà an toàn, có nghe đấy rồi bay mất, mất tiêu.
Quay sang nhìn Hương, ông ta có vẻ ngạc nhiên khi không còn thấy nàng liến thoắng như lúc trước.
“Cô không thắc mắc vì sao ư?”
Hương nghiêng đầu nhìn bầy vịt trắng bóc đang lạch bạch xuất hiện từ sau triền đồi. Có lẽ bên dưới có hồ nước? Nàng trả lời mà mắt vẫn không rời bầy vịt ở đàng kia:
“Tôi hỏi nhiều quá, làm phiền ông”
Nàng không nhìn ông ta nữa. Trí nhớ nàng đã thu thập đủ những điều phải ghi lại trên giấy.
“Không sao. Ở đây, giữa thành phố này buồn quá! Chẳng bao giờ tôi có thể nghĩ rằng mình sẽ sống ở đây. Nơi đây và nơi tôi sinh ra lớn lên sống bao năm, khác nhau nhiều quá! Sự khác biệt làm chới với. Trong biển người ở đây, mỗi người chỉ là một con số.. Chỉ có ngồi ở đây nhìn trời đất cây cỏ là mới thấy yên được đôi chút. Yên cái đầu mà không yên được .. “ Ông ta chỉ vào ngực lắc đầu: “Ở đây nó không chịu yên!”
Định không nói gì nữa, nhưng không hiểu sao trên môi Hương lại mấp máy thành một câu hỏi khác dù mắt nàng vẫn nhìn về hướng bầy vịt đang le te tiến lại gần:
“Ông có trở lại New Orleans lần nào không?”
“Một lần!”
“Ông không muốn trở về đó sống sao?”
“Không còn ai! Thành phố đã mất. Thật đấy!”
Câu nói còn hơn một tiếng thở dài, rơi vào khoảng không gian thanh thoát rồi tan loãng.
“Lần đó tôi về, tưởng là được về luôn! Thành phố, người quen đâu hết. Về thành phố cũ mà mình lại thành kẻ lạ!”
Câu trả lời đến đó rồi chìm đi, dường như có chút ký ức chợt loé lên nhưng không gầy lên nổi một hình ảnh nào rõ rệt trong khung cảnh này.
Tưởng rằng câu chuyện thế là dứt, nhưng những hạt mưa bất chợt rơi xuống, lác đác hạt to hạt nhỏ mà làm thay đổi toàn diện. Người người nhốn nháo chạy mưa, trú mưa dưới những tàn cây lớn. Những màu sắc tươi sáng của trời của đất, cây cỏ đều biến dạng theo cùng một màu ảm đạm.
Hương căng chiếc dù màu đỏ đứng dưới một cây lớn gần đó chờ ngớt mưa. Người đàn ông da đen khi nãy cũng đã đứng gần nàng từ lúc nào. Ông ta nhe răng cười:
“Cho ké với!”
Hương đưa chiếc dù lên cao theo với chiều cao của ông ta. Người đàn ông cười hiền hòa nói:
“Để tôi cầm dù cho vì tôi cao hơn cô”
Chiếc dù đỏ chỉ che được nửa phần trên, từ đầu gối trở xuống, hai ống quần jean của Hương đã đổi sang màu xanh đậm. Nàng nghĩ đến 7 hình ảnh khác nữa phải tìm kiếm. Cơn mưa làm mất thì giờ và trở ngại cho nàng! Chán quá!
Tiếng người đàn ông nói làm nàng giật mình. Hương hỏi lại:
“Xin lỗi, ông nói gì?”
“Ồ, không, có gì đâu. Tôi nói một mình.. Đứng trú mưa thế này lại.. thấy buồn!”
Ông ta lại làm nàng tò mò.
“Sao vậy?”
“Tôi nhớ đến một cơn mưa khác đã qua.. dưới hàng hiên.. Cũng mưa như thế này..”
Hương chẳng nói gì. Trước mặt nàng những vạt nước mưa thi nhau đổ xuống vội vã, chen chúc. Bầy vịt không còn thấy đâu. Nàng mong cho mưa chóng tạnh. Kể ra nói chuyện bâng quơ với ông ta cũng làm Hương đỡ nóng ruột.
“Ông không còn gia đình ở New Orleans sao?”
Người đàn ông có vẻ ngạc nhiên khi thấy Hương trở lại đề tài lúc ban đầu.
“Cha mẹ tôi đã qua đời cả. Tôi là con một, chẳng có ai”
“Vậy thì buồn quá! Nếu thế ông trở lại làm gì?”
Ông ta cười, tiếng cười lẫn trong tiếng mưa nghe không vui:
“Cô còn trẻ, có tương lai. Những người như tôi hay già hơn nữa thì chỉ còn quá khứ. Dĩ vãng thường đóng những cái đinh vô hình khó quên. Tôi trở về vì cảm thấy mình thuộc về chốn ấy. Người ta cần một nơi để trở về, cần một chỗ thân thuộc.. để bám víu. Vì vậy tôi trở lại New Orleans.”
“Ông có tìm được điều ông muốn tìm không?”
“Tôi tìm được.. điều mình không muốn tìm..”
Hương không hỏi nữa vì nghĩ là ông ta sẽ nói tiếp vì những điều người đàn ông da đen này đang nói thật trừu tượng. Những cảm nghĩ và tình cảm riêng tư đương nhiên là mông lung.
Cũng như cơn mưa, khi đã trút xuống thì không ngừng. Người đàn ông nói tiếp:
“Một năm sau thành phố vẫn ngổn ngang và hoang phế như cơn bão mới trở lại. Thành phố thoi thóp chờ đợi những cư dân trở về. Người ở lại, người trở về dường như tắt tiếng cười. Tôi chỉ gặp toàn những gương mặt ủ dột lạnh câm, gượng gạo trong nụ cười. Nhịp sống của thành phố lạc điệu. Chỉ vài hàng quán mở cửa vì không có khách. Những cái mùi quen thuộc của thành phố như mùi cà phê thơm ngát ở góc đường, mùi thức ăn hải sản, khói thuốc quyện trong từng ngách đường.. mùi trác táng.. đâu hết cả. Chỉ thấy mùi rác, mùi bùn..
Đêm đầu tiên ở New Orleans, tôi trở lại quán rượu nơi vẫn thường chơi nhạc vào cuối tuần. Đi bộ từ đầu dẫy phố mà tôi đã sợ. Cô biết tôi sợ gì không?”
“Ông sợ cướp hả?”
Người đàn ông rú lên cười, lắc đầu:
“Cô bé ơi là cô bé! Cướp nào đâu!”
“Vậy ông sợ gì?”
“Tôi sợ chạm vào sự thất vọng!”
“Rồi ông có thất vọng không?”
Không thấy ông ta trả lời. Hương quay sang nhìn. Da mặt ông ta vốn đã đen nay lại càng đậm mầu hơn. Tự dưng nàng nghĩ chắc người đàn ông này đang buồn lắm.
“Chỗ đó chính là nơi tôi muốn trở về. Ở quán rượu nho nhỏ tồi tàn và cũ kỹ, có một góc là của tôi. Với cái góc tôi tối đó, chút ánh sáng và cái kèn, tôi được hoá thân để trở thành một cái gì tuyệt diệu cho chính mình... Tuyệt vời, thật như thế!”
Lần này Hương đặt câu hỏi một cách dè dặt, dường như nàng bắt đầu cảm nhận được một điều gì đó trong những lời kể của người đàn ông da đen:
“Cái quán.. đó..” nàng không biết phải nói như thế nào, hay vì nàng sợ lại chạm vào nỗi thất vọng của ông ta?
“Quán rượu vẫn ở đó nhưng đã đóng cửa”
Tội nghiệp ông ta quá, Hương nghĩ thầm như vậy. Nhưng không hiểu sao nàng lại rụt rè nói:
“Thành thử ra ông không chơi nhạc nữa?”
“Không, tôi chơi lần cuối.. ở ngay trước cửa quán.. dù quán đóng cửa. Tôi mang kèn đi theo.. và muốn được chơi một lần.. Không có đèn sân khấu, nhưng có đèn đường. Ở khoảng cuối đường này các cửa tiệm khác đều đóng cửa, không hiểu tạm thời hay vĩnh viễn nên chẳng có một bóng người... Rác rưởi đầy đường.. Chỉ có mình tôi, nỗi buồn, thất vọng và cô độc. Chưa bao giờ tôi chơi nhạc mà lại không có khán giả. Ngày hôm ấy.. quả thực tôi chơi nhạc cho sự mất mát của chính mình, cho những lề đường không một tiếng chân người qua lại. Còn nữa chứ, cho những bảng hiệu đóng cửa nghiêng ngả, cho những ổ khóa bắt đầu rỉ sét, cho những vách tường gạch ngả rêu, và cho sự câm nín vô vọng của một thành phố mà người ta không còn muốn nhớ đến..
Tôi đã chơi nhạc liên tục cho đến khi không còn hơi sức mà thổi kèn nữa..”
Không thấy ông ta kể tiếp. Câu chuyện của ông ta buồn quá.
Cơn mưa nhẹ hạt hơn nhưng vẫn chưa tạnh hẳn. Chao ơi, mất bương một ngày Chủ Nhật rồi! Hương than thầm.
Có lẽ biết ý, ông ta nói với nàng:
“Gần tạnh mưa rồi, nếu cô cần đi thì cứ đi đi. Tôi đứng chờ ở đây không sao”
Hương nhìn dò hỏi:
“Ông OK hả? Xin lỗi tôi còn nhiều bài vở phải làm cho ngày mai. Thật ra chờ thêm một lúc nữa cũng được”
“Cám ơn.. cô bé đã kiên nhẫn nghe một người già nói lẩm cẩm..”
Hương không biết phải trả lời thế nào, nàng chỉ cười.
Nhưng rồi bỗng dưng nàng hơi áy náy vì người đàn ông này không hề biết ông ta sẽ trở thành project số 1 của nàng!
“Thôi, chào ông nhé!”
Ông ta nhếch miệng cười, nụ cười như Hương nhìn thấy thoạt ban đầu.
Chiếc dù đỏ của Hương trở thành một cái chấm rực sáng di động dưới làn mưa lất phất. Người đàn ông trung niên da đen nhìn theo cái chấm đỏ đang xa dần. Điểm màu rực sáng ấy thu nhỏ, thật nhỏ và biến vào trong mưa.. Ông ta vẫn không đổi tầm nhìn như đó là một điểm cố định. Những hạt mưa chợt thưa đi, kẽ lá xanh hơn.
 
Buổi tối cuối cùng ở New Orleans đó vẫn còn chập chờn trước mắt. Đứng ở dưới gốc cây tại Central Park mà tiếng con chó hoang mất chủ tru lên trong đêm tối ở lề đường New Orleans ngày nào vọng lên từ tâm hồn ông như nhắc đến một chốn phải trở về.
 
*
 
Tối hôm đó khi vẽ theo trí nhớ hình ảnh người nhạc sĩ da đen mà Hương đã gặp trong Central Park, nàng đã gặp gỡ ông ta một lần nữa khi nhớ đến nỗi buồn của một người không còn nơi để trở về.
Nàng định vẽ ông ta với nụ cười và hàm răng cửa với lỗ hổng nhưng không biết vì sao Hương lại ghi lại trên giấy một khuôn mặt buồn rầu như thế. Có nụ cười hiền hòa rộng mở, có lỗ hổng trên hàm răng cửa, nhưng ánh mắt xa vời và buồn bã.
Tại sao nàng lại vẽ một sự tương phản như thế nhỉ? Hay vì đấy chính là hình ảnh của người nhạc sĩ già?
                      Mặc Bích
 
* Còn 7 nhân vật nữa và cũng là 7 cuộc đời... sẽ được dàn trải...
 
 
#1
    frank 07.09.2013 06:06:53 (permalink)
     
    Tuyt tích
     
    Mc Bích
     
    Cái bóng người lom khom đang cúi xuống, tra chìa khóa vào cửa, một bên vai trĩu xuống vì  chiếc bị đang xách ở tay. Lần nào cũng thế, phải xoay, phải lựa, phải lắc nhè nhẹ thì cửa mới mở. Dùng vai đẩy cửa vào, cầm chìa khóa, tay với bật đèn, còn chân nhoài ra sau đẩy ập cửa. Bỏ chiếc bị ngay sát cửa, ông Tài buông mình xuống ghế, người ông thưỡn ra như một miếng thịt nằm trên thớt chờ người ta xẻo, cắt. Ông ta lười biếng ấn gót để cởi giầy, ngọ nguậy mấy ngón chân. Cái sướng đi từ mấy ngón chân lên đến đầu rồi luồn xuống hai cánh tay, bàn tay buông thõng đang ì ra như thể mượn tay ai. Lúc này đúng là ông đang phiêu diêu miền cực lạc, tận hưởng một sự bay bổng thoát hồn, nhẹ mà nặng. Cái nặng trĩu trùng xuống, dãn ra mở bung cho cái nhẹ là đà bay lên. Cổ ông tựa vào triền đệm êm đưa cái mặt xương xương trát đầy phấn trắng, đôi môi vẽ to dầy đỏ choét đang ngoác cười dù ông chỉ hơi há miệng. Những quầng đen tô quanh mắt làm đôi mắt sụp ở hai góc bỗng huy hoàng xếch lên ở khoé đuôi làm thành một gương mặt vui nhộn, thấy muốn cười. Lớp phấn trát quá trớn bữa nay trít cứng trên mặt ông như đóng mặt nạ. Đầu ông trống hoác, mọi thứ dường như tuôn chảy rì rỏ suốt đường về để đến bây giờ sạch bách. Chẳng bao lâu, ông thiếp vào giấc ngủ mệt mỏi nhưng bình thản như trẻ thơ. Cái miệng bây giờ há to hơn chút đỉnh. Tiếng thở nghe rè rè mà đều, thụt ra hít vào, không vui tai trên khuôn mặt có cái miệng cười được vẽ rộng đến gần mang tai.
    Khi ngọn đèn trong phòng sáng hơn, chiều bỗng thành đêm và cái đồng hồ nằm tuột dưới bao tử bắt đầu reo, ông Tài tỉnh dậy. Mắt ông nhíu lại trước cái ánh sáng chói lòa không dịu như trong giấc mơ dở dang. Cổ họng ông khô khốc. Năm rồi mười phút. Ông đã về lại. Cứ đi rồi về, sao không đi luôn cho mọi việc trở thành giản dị?
    Vào phòng tắm, trút hết mọi thứ. Đứng dưới vòi nước âm ấm, ông mắt nhắm mắt mở nhìn những giòng nước dưới chân mình loang lổ mầu.. Những lớp phấn trên mặt tan đi. Nào kỳ nào cọ, tắm thật lâu, chẳng phải để đón ai, nhưng chỉ để tẩy cho sạch cái mặt hề, một công việc làm bị đánh giá thấp nhưng đối với người yêu nghề, yêu những tràng pháo tay và tiếng cười, làm hề là một thứ tuyệt đỉnh của mọi cảm xúc, một thứ vượt thoát trèo lên khỏi mình để mang lại những niềm vui cho người khác. Người ta cần nụ cười như một thứ gia vị của đời sống. Hề mang tấm áo của tuổi thơ, hồn nhiên, dung dị, thoải mái đi thẳng vào lòng người rồi trôi tuột như nước, chẳng vướng bận. Còn công việc bán hàng bán thời gian là một sự nhàm chán còn hơn nhai và nuốt!
    Tắt vòi hoa sen, choàng tấm khăn lông ba ngày chưa giặt đưa lên mũi ngửi rồi phất qua phất lại gọi là lau khô. Đứng trước tấm gương đục mù như nhìn vào một màn sương mỏng, ông xoa lên mặt gương. Cái mặt hơi phệ trong kia đang nhìn ông với vẻ hồ nghi. Ông thích nhìn cái mặt hề hơn, không muốn nhận cái thằng này, trông nó lao láo và chán bỏ mẹ! Ông Tài lẩm bẩm với cái miệng hơi mím lại trên đôi môi mỏng quẹt, hai mép hơi chẩy xuống theo đường nhăn.
    Chẳng chải đầu, chẳng mặc quần áo, tồng ngồng đi ra. Vẫn cái đèn sáng loà trong phòng đón ông, vỗ trên thân thể trần trụi nửa như ngạo nửa như thách thức. Ông Tài nói trổng: “Vậy đó, làm gì nào!”. Nói xong ông phì cười một mình, chắc chắn nụ cười không được như lúc làm hề vì không có những tiếng cười và vỗ tay đáp lại!
    Ở truồng một lúc lại thấy lạnh, chắc vì đói nữa, ông lục trong mớ quần áo vừa giặt hãy còn nhăn nhúm kiếm chiếc quần sọc, cả áo, trông hơi giống tù. Người-tù-thời-đại-ở-căn-nhà-số-123-đường-Tidla ngồi ăn bữa tối trước màn ảnh truyền hình với hộp cơm phần mua vội lúc chiều. Nhai mà không biết mình nhai gì. Ăn rồi nuốt, không chút hương vị. Lục trong tủ lạnh tìm được mấy trái ớt, cắn thử. Ngon! Có một tí vị mà giựt cả toàn thân. Đã! Làm hai ba trái đến khi mặt nóng bừng, nước mắt nước mũi tràn ra. Sướng! Hộp cơm chỉ vơi độ một nửa nhưng mấy trái ớt chỉ còn lại mấy cái cuống khô héo. Kể ra tìm cái sướng cũng không khó, chỉ phải đúng lúc, đúng điệu! Chuyện “đúng” đó cũng là một vấn đề! Quái, đời lắm vấn đề thế!
    Cái vị của mấy trái ớt còn lại đâu đó, dư vị của cái sướng này làm nhớ đến cái sướng kia. Cái sướng trong trí nhớ là một thứ ảo, giả hình và lừa gạt một cách khốn nạn vào những ngừơi tin nó!
    Màn hình trước mắt vẫn léo nhéo, chúng nó bắn giết nhau, cười cười ngả ngớn, chúng nó đang làm những chuyện trong đời người, đen trắng vàng đều thế cả. Không xem nữa nhưng không tắt. Ông Tài vẫn nhìn Ti Vi nhưng lại nhìn thấy những thứ khác, những thứ mà mới đây ông cho là ảo, là giả, là khốn nạn! Ông nhớ đến mùi thơm, đến nụ cười thật buồn và đôi mắt không nói thật, đôi mắt chẳng thuộc về ai. Tại sao ông không nhớ đến nụ cười đĩ thõa mà chỉ nhớ nụ cười buồn? Bởi vì chỉ có nụ cười gượng của Trâm mới là của ông trong một cách hiểu nào đó, trong một không gian và khoảng cách thật giới hạn giữa trái tim và cái đầu mà trí khôn đã cùn đến nửa! Trâm, Trâm.. và những mắt trước mắt sau tìm những mới lạ bất ngờ.
    Màn hình Ti Vi chợt  nháng lên như tia chớp rồi tắt ngúm. Lại tắt điện! Sang đến Mỹ mà còn bị cúp điện bất tử, tư bản gì, tư bản về chiều!
    Đang là những tiếng động, ánh sáng rồi bỗng tối thui. Bóng đêm đang thắt lại chung quanh ông, chỉ còn mùi đồ ăn ở hộp cơm đang ăn dở dang. Trí nhớ nhầu nát hỗn độn được dịp thay màn hình Ti Vi tranh nhau loé lên. Một buổi tối dư thừa, chắc chắn sẽ mất ngủ để đành phải bám víu vào cái đầu, sai khiến những suy tưởng của mình rồi thèm phút “tiêu diêu miền cực lạc” khi nãy!
    Đèn lại bật sáng! Ông Tài vẫn còn ở trong cái thế thụ động, hơi giậït mình chút đỉnh. Ông uể oải đứng dậy ra bếp vất hộp đồ ăn thừa vào thùng rác. Trở lại phòng khách, mắt ông chợt dừng ở cái hình thù dài dài màu trắng nằm dưới sàn ngay sát cửa ra vào. Một cái thư? Không phải từ người đưa thư vì ông có hộp thư riêng. Vậy của ai?
    Lá thư không có tem, không có tên người gửi? Bóc vội, nét chữ quen thuộc của Trâm làm ông thảng thốt! Làm phiền gì nhau nữa đây em? Tự dưng không muốn đọc! Em đã đi thì đi luôn cho nó xong chuyện, phiền nhiễu làm chi? Ông Tài nhất quyết không đọc và ném lá thư vào  đống báo bên cạnh ghế sofa. Cái màu trắng mới quái ác  gì đâu, cứ sống sượng đâm vào mắt mình! Thay vì ném vào thùng rác như ông muốn với sự chống đỡ yếu xìu, ông Tài nhét lá thư dưới chồng báo cũ. Sự không nỡ ném đi làm ông khó chịu đến điên người! Phải chi mình có thể làm hề ngay lúc này! Chỉ có những giây phút xênh xang với bộ quần áo xanh đỏ phủ ngoài, cái mặt trát phấn trắng như ma với cái mồm đỏ choét ngoác ra ông mới chế ngự được chính mình. Có lần cái thằng hề đó làm mọi người cười lăn trong lúc chính nó là cọng bún thiu ẻo qua uốn lại mếu máo! Trẻ con và người lớn đã cười vì sự mếu máo của thằng hề! Chỉ có mình ông mới biết rằng mình mếu thật, mếu trong cái huy hoàng của ánh đèn xanh đỏ với những tràng pháo tay tưởng như vỡ rạp. Ngày nào cũng như ngày nấy! Chắc cũng sẽ có những người tự hỏi làm sao người ta có thể làm hề mỗi ngày được như thế? Trong cái giả người ta có thể sống thật, trong cái thật người ta lại không dám sống thật!
    Đêm nay có người không ngủ đi lang thang như cái bóng vật vờ, một thứ vô thừa nhận mà cuộc đời còn chê! Ở cái giờ khắc mà đêm đã chín, vơ vẩn ngoài đường phố, vào công viên.. không rình mò  mà lại thành ra rình mò! Đôi tình nhân ôm nhau dưới bóng tối đồng lõa của tàng cây cao. Ông Tài lẩm nhẩm chửi thề! Ông đang muốn chạy trốn khỏi những phiền nhiễu mà không xong! Nhưng nhịp bước đều đều của đôi chân cũng có tác động ru ngủ. Đi cho đến lúc chân muốn rục, ông quay về nhà, chui vào giường… tay còn với bấm nút đồng hồ báo thức rồi.. thăng!
     
    *
     
    Tiếùng nhạc nho nhỏ bật lên từ cái đồng hồ báo thức làm ông Tài tỉnh giấc. Mở mắt mà không tỉnh! Lạ, sáng nay sao im thế? Ngoài trời đã sáng nhưng im phắc! Ông Tài lồm cồm dậy, ghé gần cửa sổ vạch màn nhìn ra ngoài. Bên kia đường trước mấy căn nhà, xe còn đậu nguyên. Hôm nay chủ nhật!
    Khi mặt trời đã lên cao và nóng, cái im vắng mới đây tan mất. Loáng thoáng nghe tiếng xe, tiếng người lao xao rồi cả tiếng máy cắt cỏ. Ông Tài nghĩ đến cái vườn sau nhà mà cỏ bắt đầu mọc vô trật tự. Cũng phải làm gì thôi!
    Cái máy cắt cỏ của ông chạy như người hết  hơi, khặc khừ nhả khói khét lẹt, ngáp ngáp đớp cỏ. Mồ hôi vã ra thấm ướt lưng áo. Được hai phần ba sân, ông ngừng tay nằm bệt dưới sàn cỏ vừa cắt. Mùi cỏ hăng hăng xông vào mũi. Chuyện đang làm đi ra khỏi cái thời khóa biểu đều đặn trong tuần rồi cái mùi đất mùi cỏ ngai ngái cho một cảm giác mới mẻ dễ chịu.
    Bỗng ông nghe có tiếng trẻ nói:
    “Ê! Ông có sao không vậy?”
    Ông Tài ngồi dậy tìm bằng mắt. Bên kia hàng rào mắt cáo, thằng bé da trắng tóc vàng chừng 5, 6 tuổi mặc cái quần cụt trễ xuống phơi tí bụng trắng hếu, áo thung màu vàng ngắn ngủn đang tò mò nhìn ông. Như thói quen khi làm hề, ông ngoác miệng ra cười làm điệu bộ. Thằng bé thú vị nhìn ông nhưng nó không cười. Ông Tài làm quen,nói:
    “Không sao hết!” Rồi bỗng dưng ông nói vu vơ “Nằm dưới đất khoái lắm!”
    Lần này nó cười, nói:
    “Kiến cắn chết!”
    “Sao chết được?” Ông Tài thích thú nhập vào câu chuyện.
    “Mẹ tôi bảo có thể chết vì kiến cắn”
    Bây giờ ông Tài cười thật. Năm sáu tuổi nó nói “Mẹ tôi bảo”, lớn chút nữa chắc cũng còn nói thế nhưng lớn hơn nữa chủ từ “mẹ” sẽ được thay thế bằng “tôi”, rồi bằng gì nữa.. nó hay một cái tên nào khác?
    “Tôi bị kiến cắn hoài có chết đâu?”
    Thằng bé nhìn ông bằng cặp mắt hoài nghi:
    “Mẹ tôi bao giờ cũng nói đúng!”
    Lại “mẹ tôi” nữa! Ông không nên đùa với chữ “mẹ” của nó mặc dù vẫn còn muốn cười. Ông lại gần hàng rào. Cái mũi hỉnh hỉnh lốm đốm tàn nhang của thằng bé trông ngộ nghĩnh hết sức! Mấy ngón tay be bé xinh xinh của nó đang níu lấy mấy mắt cáo hàng rào trông như mấy nụ hoa còn bum búp. Tự dưng ông thấy lòng mình mềm ra và nôn nao trong một tình cảm bất chợt như có lần nhìn hoa nở trong mưa bên bến sông vắng, thấy lòng chấp chới mênh mang một cảm xúc dị thường.
    “Cháu tên gì?”
    “Daniel”
    “Tôi chưa bao giờ thấy cháu ở đây vậy?”
    “Bố mẹ tôi mới dọn tới đây.” Nói xong nó cười thân thiện, nhe mấy cái răng trắng nõn mới mọc hãy còn cái cao cái thấp.
    “Ông tên gì vậy?”
    “Tài!”
    Thằng nhỏ lại cười nữa:
    “Tên gì kỳ vậy? Ông người Tàu hả?”
    “Không phải Tàu, người Việt”
    “Người Việt là người gì?”
    Ông Tài chưa kịp giải thích với người hàng xóm tí hon thì chợt nghe tiếng người đàn bà quát:
    “Danny! Đi vô nhà ngay! Làm gì ngoài đó vậy? Không có nói chuyện với người lạ!”
    Một người đàn bà ngoài ba mươi gầy nhom đang xăm xoi đi tới. Không thèm nhìn mặt ông Tài, bà ta kéo thằng bé đi vào trong nhà, miệng làu bàu: “Trông đúng là phường bất lương, muốn gì thằng bé chứ?”
    Ông Tài đứng chết trân!  Mặt ông đỏ lên không phải vì nắng! Thằng nhỏ theo mẹ đi vào nhà mà còn ngoái cổ nhìn lại. Quay lại nhìn sân cỏ, ông uể oải cắt nốt phần cỏ còn lại trong sân. Khoảng vườn nhỏ bỗng dưng rộng hẳn ra.
    Ý nghĩ nằm dài trên ghế  nhựa uống một lon bia, ăn một chút gì trong buổi sáng chủ nhật ngoài vườn không còn mấy hấp dẫn.
     
    *
     
    Chủ Nhật khác ra sân sau, tình cờ ông lại nhìn thấy thằng bé đang nghịch trong vườn. Nó cũng thấy ông nên nhìn. Ông Tài giơ tay, một tín hiệu thân thiện. Thằng bé cũng giơ tay lên ngoắc ngoắc. Ông thấy vui vui, niềm vui tự nhiên nhưng biết là chỉ có thế dù muốn có người bạn nhỏ, một thứ tình không bận bịu và êm ả, chẳng níu kéo mà cũng chẳng phải giữ gìn thủ thế.
    Những viên thuốc xanh đỏ phải uống mỗi sáng là một thứ câu giờ. Cái trò câu giờ nhân thế mới tào lao làm sao! Nó cứ lắt la lắt lẻo như lá úa trên cành, chờ cơn gió mạnh bứt đi. Và trước mặt chỉ là một màn hình Ti Vi không hình, không tiếng, chỉ toàn những đốm sáng giựt giựt với sự vô nghĩa loang kín mặt hình. Ông Tài đã nghĩ nhiều lần đến sự chấm dứt tình trạng câu giờ của mình. Khi nào chuyện “muốn” trở thành cụ thể? Khó hơn ông tưởng! Hóa ra trong thân xác vật vờ của ông vẫn còn chút lửa chưa chịu tắt. Rồi ông lại tiếp tục ngoan ngoãn ngốn những viên thuốc đều đặn như một thứ cầu kinh làm mê đi mọi xúc cảm, nếu còn!
     
    *
     
    Trâm nhìn xuống bụng mình rồi thở dài! Bao nhiêu năm sống với Tài, để đến khi chia tay lại dính cái bầu! Người ta có thể oán ghét, chán nhau mà vẫn dính bầu trong một giây phút không phải lỡ làng mà chỉ vì bị chính mình đốt, đốt cho đến mù lòa!! Toàn là những chuyện ngoài ý muốn! Nàng không biết khi nhận được cái thư Tài sẽ nghĩ sao? Trâm đã phải bỏ thư vào cửa vì biết Tài đã thuê hộp thư khác. Sự sai biệt 12 năm giữa hai người đã trở thành một khoảng cách vĩ đại khi người ta không còn yêu nữa. Hay bởi vì không còn tình yêu nữa nên nàng mới thấy những điều trước kia không nhận biết, hay đây chỉ là một cách trốn chạy mặc cảm tội lỗi, một thứ chia bớt lỗi lầm, tại anh tại em, tại cả hai đàng! Hay tại anh cả?
    Trâm cũng không ngờ rằng mình dứt nhanh như thế. Không phải vì ai khác. Có ai đâu, Tài cứ tưởng như thế trong sự mù quáng ghen tương tối tăm của chàng! Bây giờ đứa con trong bụng sẽ là gì đây, chắc chắn không phải là một gạch nối vì không có gì để nối cả, Trâm chỉ muốn cho Tài biết về sự có mặt của đứa trẻ này. Bỗng dưng nàng thấy tội nghiệp cho cả ba! Tài sẽ hiểu lá thư không phải là một sự níu kéo, chắc chắn  như thế, mà chỉ là một sự bắt buộc phải thông tin. Rồi nàng lại hối hận! Lẽ ra cũng không nên báo cho Tài biết. Để làm gì chứ? Cái mầm sống lạ lùng này sẽ thay đổi Trâm ra sao, nàng tự hỏi mình nhiều lần? Điều đầu tiên là Trâm thấy quên chính mình bớt mà chỉ nghĩ đến nó.
    Năm, mười ngày qua cũng không thấy Tài liên lạc. Thoạt đầu Trâm chờ đợi, tưởng tượng ra đủ thứ phản ứng của một người mình đã chung sống cả mười mấy năm. Nhưng rồi thất vọng, khó chịu, giận dỗi. Bỗng dưng lại cứ phải chờ đợi và nghĩ đến.. Tài! Thật khó chịu, không phải chỉ bực với Tài mà nàng bực cho quyết định gửi lá thư của mình! Ngu xuẩn! Không còn từ gì đúng hơn!
     
    *
     
    Ông Tài mua một xách bia, ít đồ nhậu. Bao lâu ông chưa nhậu và say nhỉ? Không còn nhớ nữa! Thế có nghĩa là lâu lâu lắm! Có chấm dứt thì cũng phải chấm dứt một cách vinh quang ngon lành. Giống mấy ngọn đèn trên sân khấu, khi tắt là tắt cái rụp.
    Về đến nhà, ông Tài bầy mọi thứ ra bàn, mở Ti Vi dù không xem, ông cần âm thanh, bất luậïn là âm thanh gì. Không thay quần áo, mặt vẫn còn trát phấn, ngồi xuống ghế, mở chai bia. Ông uống từng ngụm, mắt nhắm nghiền như tìm trong chất nước mà ông vừa tống xuống dạ dầøy một chút tình tri kỷ nào đó. Một thứ tri âm lâu ngày không gặp. Vậy mà rốt cục cũng chẳng phải là cố nhân! Vậy nó là thứ gì? Đối với ông coi bộ chẳng thứ gì ra thứ gì!
    Cả tháng nay ông Tài không uống viên thuốc nào, không muốn tiếp diễn cảnh câu giờ. Cũng có thấy khác, khác nhiều! Mà lạ, cũng không thấy hài lòng về chuyện tự mình dứt không uống thuốc. Chẳng thấy thỏa mãn về quyết định của mình. Hay mình nhầm? Không, mình đã quyết định đúng, ông nghĩ như thế và ngắm nghía lọ thuốc ngủ cực mạnh trước mặt. Muốn gì nữa? Một giấc ngủ luôn không dậy! Đó là chót đỉnh vinh quang. Vậïy mà trong ông có đứa phản bội thì thầm chửi ông “Đồ hèn!” làm ông Tài thấy lao đao trong cái rung rinh ngập nước ở tròng mắt ông, sóng sánh mà không tràn, chưa tràn thì đúng hơn! Nhưng cái thèm muốn mạnh mẽ của một ngày mai không tới có nghĩa lý quá đối với ông. Một thèm khát không tên gọi, không hình thù rỉa rói ông ngày này qua ngày khác và hiện tại đang quấn lấy ông, mơn man rồi thắt chặt, hứa hẹn một vượt thoát tuyệt diệu.. hơn mọi thứ trên đời này.
    Ông Tài nốc cho bằng hết lọ thuốc ngủ rồi nằm xoài ở chiếc sofa với cái mặt hề đang cười của ông, chờ, không màng tới hai vệt nước đang không còn chỗ chứa trào ra chẩy dài trên má. Những tiếng động từ chiếc Ti Vi vẫn liên tục, nó không để ý đến người hề nằm kia. Vô tình đến thế!
     
     
    *
     
    Larry, lão chủ tiệm càu nhàu:
    “Cái thằng Tài chắc không muốn làm nữa rồi! Hôm nay là ngày thứ tư nó không đi làm mà cũng chẳng gọi vào. Tao cho nó nghỉ luôn”
    Long đỡ lời:
    “Nhiều khi ông ta bịnh. Lâu nay thấy ông ta không khoẻ”
    “Bịnh cũng phải nói chớ! Mày có gặp nó bảo là tao đuổi nó”
    Long không nói gì thêm nhưng nghĩ đến chuyện ghé thăm ông Tài chiều nay. Hai người cùng chủng tộc màu da hiểu nhau hơn, chàng thở dài.
    Khi người làm ca kế tiếp đến, Long vội vã chuyển giao như trút gánh nặng. Thay vì về thẳng khu chung cư, Long giữ ý định ghé thăm ông Tài. Chàng đã đến nhà ông ta một lần. Căn nhà nhỏ nằm trong khu lẫn lộn cả da màu và trắng. Những căn nhà phải trên 20 tuổi là ít.
    Trước nhà ông Tài cả đống báo. Không lẽ ông ta đi vắng? Long ngần ngừ định đi luôn nhưng rồi xuống xe đi vào tận cửa. Chàng bấm chuông. Nhìn vào trong qua kẽ hở của chiếc màn không khép kín, thấy màn ảnh Ti Vi bật sáng. Vậy là ông ta có nhà. Long bấm chuông mấy lần vẫn không thấy ai mở cửa. Chàng ghé mắt nhìn vào lần nữa. Có đôi giầy to quá khổ, kiểu giầy của mấy bọn hề trong gánh xiệc gác lên trên thành ghế sofa. Long đập cửa gọi: “Anh Tài! Anh Tài ơi!”.
    Vẫn không thấy động tĩnh gì. Nhìn vào, vẫn thấy đôi giầy kệch cỡm ở yên trong vị thế đó. Một cái gì không ổn! Long chắc chắc như thế.  Lại bấm chuông rồi đập cửa, rồi gọi. Phải gọi 911 thôi.
    Khi xe cứu thương và cả xe cảnh sát đến, Long giải thích sơ sài. Họ đi vòng ra phía sau lắc cửa. Cửa nào cũng khóa chặt. Ra cửa trước, họ tông cửa vào. Một mùi hôi lợm giọng ùa ra. Xác của ông Tài đã bắt đầu có mùi!
    Cái chết của ông Tài không ám ảnh Long nhiều bằng cái mặt hề quái dị của ông. Người  đàn ông có vẻ tầm thường mà chàng không biết mấy đã chọn chàng làm người khám phá ra cái chết của ông ta. Giữa Long và ông Tài không có tình cảm nào đặc biệt ngoài tình đồng hương, ngoài ra không chút liên hệ. Vậy mà chàng không thể không nhớ đến ông ta! Long không quên được cái miệng ngoác rộng đỏ chét như đang cười ngạo với chàng. Có những đêm tỉnh giấc giữa khuya, cái miệng cười lạ lùng ấy tuy không phát ra tiếng cười nhưng cứ lơ lửng trong đầu chàng như một chiếc đèn lồng ma quái và cái ánh sáng huyền hoặc từ chiếc đèn đỏ ấy chỉ ánh lên chút lửa giả tạo chập chờn mang một nỗi buồn mênh mông. Đó không phải là nỗi buồn mà là một cái gì vơ vẩn không thể chia sẻ với ai! Cái chết và niềm sợ hãi làm gì đã có trong lứa tuổi Long? Đúng là vơ vẩn chớ chi nữa?
     
    *
     
    Trâm ghé đến căn nhà cũ khi bụng của nàng đã khá lớn. Buổi chiều tháng bẩy, nóng đã dịu, lòng đường vẫn còn ấm mà đôi chân nàng lạnh ngắt. Trước cửa nhà, bảng “For sale or lease” cắm nghễu nghện. Nàng đứng lặng yên dù biết rằng không còn gì để nhìn. Nhưng mái nhà kia, hàng dậu ở sân trước, khung cửa.. mọi sự vẫn thế, chỉ có Tài không còn ở đó! Lần này nàng không hối tiếc đã đến đây. Ít nhất Trâm đã cố gắng. Nàng sờ tay lên bụng lẩm bẩm “Mình đã cố gắng, đã thử, nhưng sao được!”. Tài không bao giờ biết rằng chàng đã không biến mất hẳn. Tưởng rằng đã tuyệt tích, ai ngờ!
     
    Mặc Bích
     
     
     
    #2
      NgụyXưa 07.09.2013 11:41:51 (permalink)
      "Những Kẻ Lạ" và "Tuyệt Tích" đã được mang vào thư viện.
       
      Xin cám ơn tác giả.
       
      #3
        frank 08.09.2013 00:43:46 (permalink)
        Xin cảm ơn.
        #4
          frank 08.09.2013 01:41:21 (permalink)
          Chuyến xe ngày th năm 
           
           
          Mc Bích
           
          Nguyệt Quế kéo cao cổ áo,  cái lạnh đầu đông mới chớm mà đã làm buốt một bên vai.  Buổi sáng sớm và buổi chiều có lẽ cũng không khác nhau. Trời nặng một màu xám đục có vẻ như ướt mà lại khô, khô thốc vào trong mũi, cuốn cho bằng hết những mềm mại trên má, trên môi, trên đôi bàn tay đang ủ kín trong hai túi áo lạnh như tìm chỗ trú ẩn ấm áp. Mặt trời trốn kỹ sau những lớp mây dầy đặc. Những cây trồng dọc theo lề đường hè phố trơ những xương xẩu đen đủi như ám khói, chỉ còn những bụi cây rải rác nằm dưới gốc là còn một màu xanh lục tối om, cũng đang ngủ hay chết sững?
          Băng ghế nhỏ chỉ đủ cho 4 người với vóc dáng trung bình ngồi đợi xe bus, cỡ mập quá khổ thì đâm thiếu. Khói thuốc của người đàn ông ngồi cách nàng dường như không chịu tan, cứ lẩn quẩn trong chu vi nho nhỏ của cái khung nhựa và chút mái che hẹp của chỗ đợi. Bà lão da màu tóc đã trắng như cước lốm đốm tí xam xám như chút tiêu của hoàng hôn đời rắc vội trên từng lớp uốn quăn quăn ngắn ngủn thưa thưa, trùm ba bốn lớp áo, cứ nhích nhích ngồi sát vào Quế để chừa một khoảng cách xa hơn giữa bà ta và người đàn ông da trắng cỡ trung niên đang thả khói  liên miên như hun thêm cái màu sương khói của một ngày thứ năm giữa tuần đang trăn trở vào đông. Quế không thấy sự cọ sát không mang tính thân thiện này của bà ta làm nàng khó chịu. Có lẽ nàng đã gặp bà ta trên cùng chuyến xe này ít nhất 2, 3 lần nhưng chưa bao giờ ngồi cạnh.
          Hai đầu gối bà lão chụm lại như dồn ép sức nóng trong thân nhiệt vào một điểm. Quế thấy hai cái đầu gối ấy rung rung không biết vì lạnh hay vì bà ta rung đùi? Và nàng chợt nhếch môi cười, một nụ cười bâng quơ của sáng ngày Thứ Năm. Cũng một ngày lưng chừng chưa đi tới đâu của tuần lễ.
          Chiếc xe bus xịch tới đem theo cái mùi khói khét lẹt và những tiếng thở mệt nhọc rồi thả ra một tiếng khi ngừng hẳn lại ở trạm xe đón hành khách. Cánh cửa trước mở. Vài người khách từ trong xe bus bước xuống trong một nhịp độ tương đối thong thả. Ba người chờ cùng đứng dậy nối đuôi nhau lên. Bỏ tiền hay chìa cạc rồi tìm chỗ ngồi. Quế theo sau bà lão và tình cờ họ lại ngồi cạnh nhau.
          Chuyến xe mỗi ngày Thứ Năm kéo dài từ trạm chót này ra đến xa lộ chạy thẳng vào phố mất 45 phút. Người ta làm gì trong 45 phút dài ngất ngư ấy?  Đọc sách, học bài, ngủ gỡ, tán chuyện hay thiền giả với đôi mắt thả rong suốt dọc đường. May cho Quế, nàng chỉ đi chuyến xe bus này mỗi tuần một lần vào ngày Thứ Năm vì Tuân, chồng nàng cần xe để di chuyển xa thay vì như những ngày khác dùng chung xe.  Quế ở vào trường hợp nào như những loại kể trên trong 45 phút đường dài? Cũng tuỳ, nhưng học bài và ngủ không có Quế. Học gì nữa? Còn ngủ? Quế không quen ngủ giữa đám đông cho dù đôi lúc những tiếng rì rì của máy xe và những chuyển động đong đưa quyến rũ đến độ nàng ngồi ngây như tượng và hình như ngủ với đôi mắt vẫn mở mà chết mọi cảm giác.
          Đoàn xe chợt chậm lại. Tai nạn trên đường. Nhưng có lẽ đã đựơc giải tỏa. Hành khách trên xe lố nhố chỉ chỏ với đôi mắt tò mò nhiều hơn thương cảm. Cũng chỉ là chuyện hàng ngày!
          Bà lão bên cạnh Quế cũng nhìn ra nhưng rồi quay vào chắp tay trên ngực lầm bầm điều gì. Nàng nhìn bà lão và tự dưng muốn gợi chuyện. Nàng đợi bà ta trở lại vị thế cũ mới bắt chuyện:
          “Tai nạn không tránh được phải không bà?”
          Bà lão nhìn sang Quế có chút ngạc nhiên trên đôi mắt bé tí loé lên sau những lớp da chùng đè chụp trên gương mặt nhiều kẻ vạch khắc sâu hoắm:
          “Làm sao được!”
          Bà ta cũng như Quế, chỉ là những kẻ ngụ cư trên đất nước này với một quá khứ rời, lủng lẳng bên mình trên chặng đường còn lại với những bước chân khác, gượng gạo chập chững len vào giòng người đa chủng tìm một chỗ đứng cho mình. Tiếng Anh của bà lão khá thông suốt nhưng mang nặng tính và âm hưởng của giòng cũ. Tò mò, Quế hỏi:
          “Xin lỗi, nhưng bà là người ở đâu?”
          Bà lão hiểu ngay Quế muốn nói gì, trả lời:
          “Tôi người Nhật, định cư ở đây cũng trên 30 năm. Còn cô sao?”
          “Tôi là người Việt Nam. Ở Mỹ cũng lâu bằng bà”
          “Quen chưa?”
          Quế cười cười nhìn bà ta:
          “Cũng quen mà cũng không quen”
          Bà lão gục gặc đầu lẩm bẩm: “Quen mà không quen”.
          “Bà có về lại xứ bà thường không?”
          “Thỉnh thoảng. Về thăm thôi.”
          “Sao vậy? Bà không muốn sống ở quê nhà sao?”
          “Thì như hồi nãy cô nói đó, cũng chỉ vì cái chuyện “quen mà không quen”.  Ba mươi năm cột ở một chỗ, nhổ lên để trồng lại coi bộ không dễ. Đời người trồng đi trồng lại nhiều không tốt. Mà ở đâu quen đó, lạ vậy!”
          Bà lão cũng phải cỡ bẩy mười mấy gần 80 hay 80 ngoài mà còn sắc bén như một lưỡi dao sáng loáng nhọn hoắt.
          Khi nào thì người ta đang từ quen trở thành không quen hay ngược lại? Nàng chỉ trả lời một câu hỏi thông thường mà bỗng dưng sự thường ấy lại trở nên một sự gì “bất thường”! Có thể cười ngạo với chút ngậm ngùi. Mà sự thể là như thế! Đó có thể chỉ là một chuyện vu vơ đầu ngày giữa hai người xa lạ trên cùng một chuyến xe.
          Đến phiên bà ta bắt chuyện trước, với giọng nói lớn hơn như đã vượt qua một mức của sự e dè tự nhiên:
          “Cô tên gì? Tôi là Shima, Shima Sonoda.”
          “Tên tôi là Quế”, nàng cười thân thiện và lập lại tên người bạn đồng hành với chút thích thú, rồi hỏi:
          “Bà sang Mỹ cùng với gia đình hả?”
          “Tôi sang đây do con gái tôi bảo lãnh. Nó lấy chồng Mỹ. Gia đình cô ở đây hết chứ?”
          “Vâng. Cả gia đình tôi ở thành phố này cả”
          Bà Shima bỗng dưng trở nên xa vắng, giọng bà nghe như mơ hồ lạc điệu:
          “Cô là người may mắn.” Tôi không được như vậy.”
          Quế tò mò:
          “Bà còn con cái ở bên Nhật sao?”
          Bà Shima lắc đầu:
          “Ở bên đó tôi chỉ còn họ hàng xa, những người cỡ tuổi tôi chẳng còn mấy… Tôi có ba người con, một trai, hai người con gái, chết một.. trong năm 1945. Bây giờ chỉ còn lại một trai, một gái thôi”.
          Quế không nói gì thêm, mà cũng chẳng biết phải nói gì. Nhưng chính bà ta lại cất tiếng:
          “Cô còn trẻ hơn con gái tôi”
          “Vâng, năm 1945 tôi chưa ra đời. Trông bà còn trẻ và khỏe lắm”
          “Nhiều lúc tôi cứ hỏi Thượng Đế sao bắt tôi sống lâu chi thế?”
          Quế bật cười:
          “Trời ơi, người ta mong sống thọ, sao bà lại nói như vậy?”
          “Cô thấy sống vui không? Ôi thôi, đừng để ý, tôi già hay nói lung tung!”
          Câu hỏi đột ngột như chút hé cửa của một ngôi nhà ảm đạm. Nàng trả lời câu hỏi không phải của bà Shima mà cũng chính đôi lúc nàng đã tự hỏi mình như thế.
          “Lúc vui lúc buồn phải không bà?”
          “Cô có biết cái vô hình là cái nặng nhất không?”
          Quế ngạc nhiên không hiểu:
          “Cái vô hình là cái gì? Bà muốn nói..?”
          “Niềm vui không phải là cái vô hình” rồi bà ta nói tiếp “Cái vô hình là cái không tan biến được. Cô có gia đình rồi chứ? Cô được mấy cháu?”
          Bà Shima đi từ một sự trừu tượng sang một sự đối nghịch hiện thực. Nàng hơi ngạc nhiên, nhưng đáp:
          “Vâng. Tôi được một cháu, cháu gái 15 tuổi”
          “Cháu ngoại gái tôi cũng cỡ đó. Chúng nó may mắn sinh ra trong thời bình, không như mẹ nó!”
          Bây giờ Quế mới để ý đến đôi bàn tay của bà Shima. Những vết sẹo chằng chịt lồi lõm không chừa chỗ nào trống cho làn da nhăn nheo với thời gian. Đấy là cái vô hình mà bà ta nói đến đây chăng?
          Mà hình như  khi người ta bắt đầu nhắc đến cái riềm bên ngoài của một câu chuyện là tự dưng cứ thế lân lan đến phần bên trong. Hay là khi đã đến lúc một người cần phải thốt ra những tiếng thở dài, và Quế bỗng dưng như một sự tình cờ có mặt ở đó, để nghe, chỉ để nghe.
          Nỗi vô hình không tan biến được ở bà Shima bắt đầu như sau:
          “Có những điều mình quên dễ dàng giống như sáng nay tôi để quên kính ở nhà, nhưng cũng có những điều khó quên quá! Mà cũng chính những cái khó quên đó làm mình quên nhiều chuyện khác! Tôi đã mất đi một phần của mình cách đây 60 năm… Gia đình tôi ở Hiroshima vào thời điểm chiến tranh đang leo thang, năm 1945 chắc cô biết chứ? Quên! Chắc lúc đó cô chưa ra đời? –Không đợi Quế trả lời, bà ta kể tiếp- Tương đối thì vùng chúng tôi ở không đến nỗi nào trong lúc những thành phố như Tokyo hay Yokohama đã bị tàn phá nhiều. Không phải mình tôi mà cả những người sống trong vùng này đều tin rằng chiến tranh không lan tới đây.
          Lúc đó tôi đã góa chồng, mặc dù mới 23 tuổi với một nách 3 đứa con nhỏ. Mới sáng sớm mà chúng tôi đã nghe còi báo động hụ phải xuống hầm trú ẩn ở sau nhà. Nhưng thời đó lúc nào cũng phải sửa soạn thức ăn mang theo khi xuống hầm trú bom vì không biết phải nằm dưới đó bao lâu, nhất là tôi có con nhỏ nên càng phải đề phòng. Trẻ con thích đồ ngọt nên lúc nào tôi cũng làm mứt vừa để dành được lâu không sợ bị hư mà trẻ lại thích. Chính cái thứ mình làm ra mà nó lại làm mình ray rứt đến như vậy!”
          Kể đến đây rồi bà lão ngừng lại như để bắt thêm hơi thở hay chính là để thở ra những ký ức và những bóng tối của chiến tranh? Rồi lại kể tiếp:
          “Akiko là đứa nhỏ nhất của tôi, năm đó nó được gần 3 tuổi. Nó thích mứt cam nhất. Sáng hôm đó khi tôi đang làm mứt, con bé cứ lằng nhằng đòi ăn mà tôi không chiều theo ý nó vì muốn để dành cất vào hũ, phòng khi không có gì  ăn… Vậy mà tôi tiếc... không cho nó ăn! Tại sao tôi lại có thể tiếc với con một điều nhỏ nhặt như vậy? Tôi đã để lỡ cơ hội cho một sự bày tỏ.... dù là vụn vặt!
          Sáng sớm mùa hè năm ấy chúng tôi đã phải chui vào hầm sau nhà khi nghe còi báo động, nhưng chỉ lát sau lại êm. Tôi chờ một lúc rồi ra khỏi hầm trước, tay còn bế con Ariko. Vừa lên khỏi hầm  là đã thấy tai mình ù đi như bị điếc, cả trời đất sáng lòa như cả mặt trời trên kia vừa rơi xuống đây… và cái ánh sáng.. sức nóng kinh hoàng ấy cùng những cụm mây hay khói không biết nữa bốc cao làm tối sầm trời đất. Nhiệt độ tăng lên đến mức không thể tưởng tượng nổi! Chắc địa ngục thì cũng chỉ đến thế! Rồi mưa cô ơi! Những hạt mưa đen như mực. Có biết đâu chính những hạt mưa từ trời cao ấy chứa đầy chất độc.. giết người! Tôi không thể hiểu đó là cái gì nhưng như một sức hút từ trời cao, con bé tuột khỏi tay tôi… Phải nói là nó bị cướp đi mới đúng!… Hai đứa sau cũng leo khỏi hầm, chúng níu lấy tay tôi. Giống như một giấc mơ, tai bị điếc không nghe thấy gì cả, mắt thì lòa đi, đầu óc u mê ngơ ngẩn. Làm sao mà tôi cùng anh chị của nó ra được đến bờ sông Ota thì không hiểu!.. Chẳng bao giờ có thể biết được tại sao! Khi đến được bờ sông Ota, thân người chúng tôi nám đen,  rát bỏng và không còn mảnh quần áo. Còn bé Ariko.. đâu mất!  Lúc đó tôi bắt đầu tỉnh tỉnh một chút, cả ba mẹ con đi tìm con bé Ariko. Tôi gọi tên nó cho đến khi lạc cả giọng. Quanh chúng tôi là những bóng ma cháy nám với những đôi mắt thất thần! Tôi nghĩ đó là ngày tận thế!... Vậy mà.. ba mẹ con tôi là một trong 100 ngàn hibakusha còn sống sót tại Hiroshima sau trái bom nguyên tử đã đi vào lịch sử chiến tranh của con người…”
          Bà Shima ngừng lại. Quá khứ sâu thăm thẳm trồi lên rồi lại tuột xuống tận đáy của một trí nhớ bạc thếch. Những nhà những cửa, trời mây vùn vụt bên ngoài theo tốc độ của chiếc xe bus như đẩy nhanh quá khứ lùi về sau. Quế lại nhìn xuống những vết sẹo trên bàn tay bà Shima. Những vết sẹo đã lành da căng cứng vì hụt, vì thiếu da, không nhăn nổi theo với quy luật của thời gian như niềm đau vô hình nhức nhối, như những vết thương tưởng đã lành mà  vẫn căng cứng  như thách đố.
          Nàng buột miệng nói:
          “Chiến tranh thật kinh khủng phải không bà?”
          “Chiến tranh.. chẳng bao giờ hết chiến tranh cả! Mà cho dù có hòa bình thì chiến tranh vẫn còn đó, không quên được!... Chiến tranh, hòa bình là hai nửa của một vòng tròn. Vậy mà..” Bà ta ngừng lại không nói nữa.  Quế cũng yên lặng.
          Bà Shima lại kể tiếp, bây giờ không phải là chuyện riêng mà là chuyện chung của những nạn nhân trong thời kỳ đó.
          “Những hibakusha.. Quên! Tôi cứ quen nói như vậy! Hibakusha là những người sống sót sau vụ đó. Tôi và các con tôi cũng là một trong  những hibakusha. Chúng tôi mang một dấu ấn do chiến tranh để lại! Người ta xa lánh, kinh sợ những hibakusha vì sợ ảnh hưởng của những phóng xạ gây bệnh tật. Chuyện lập gia đình với những người liên hệ đến nạn nhân trong vụ này là một điều người ta tránh tuyệt đối! Chúng tôi trở thành như một thứ hủi bị người đời xa lánh! Đã bị thương tật đã đành, nhưng đến đời các con tôi cũng cùng chung số phận! Nhiều hãng xưởng từ chối không mướn, có những gia đình khi lấy vợ lấy chồng cho con cái còn thuê mướn người điều tra tông tích xem cha mẹ ông bà có phải là hibakusha hay không! Tôi đã giận dữ, thù hận không chỉ chiến tranh mà còn cả những người đồng chủng với mình... Khi con gái tôi lập gia đình với một người Mỹ.. và theo chồng nó về xứ sở này.. tôi đã nghĩ khác đi! Để thay đổi người ta cần phải có thời gian, cô có nghĩ vậy không? Hay mình phải vượt lên cái tầm thường để cởi bỏ hết? Đến chừng này tuổi tôi không còn thù ghét một cái gì. Giá mà tôi thay đổi được ý nghĩ của mình sớm hơn có lẽ tốt hơn”
          Quế trả lời mà trong tâm đang tự vấn mình, hoài nghi về câu trả lời của mình:
          “Đúng thế! Nhưng không phải dễ!”
          Câu chuyện giữa hai người đến đây như dừng lại, mỗi người như lại tách ra với những ý nghĩ riêng của mình, hay vẫn cùng đề tài?
          Bên ngoài trời vẫn không sáng hơn. Và buồn, như nỗi buồn vô hình của người đàn bà ngồi bên đang chở nặng trên vai hơn 80 năm không phải của một cuộc đời mà có lẽ của nhiều cuộc đời! Giống như Quế, đôi lúc nhìn lại mình của những ngày trước đây, thấy mình khác, ngay cả trong những suy tưởng và hành động. Rồi tò mò và đôi lúc phủ nhận để bảo rằng mỗi người chỉ có một cuộc đời. Hay người ta sống nhiều cuộc đời trong một đời? Đó là được hay mất? Ôi thôi, sao rắc rối quá! Như trường hợp bà Shima, thay đổi, nhưng không quên. Ngay trong những lời kể lể tuy ôn hòa nhưng vẫn trĩu nặng những mất mát. Rồi vẫn chính bà ta lại tiếp tục câu chuyện:
          “Sống lâu, sống dài,  chỉ để gậm nhấm những thứ đã trôi qua. Mà càng lâu càng có thì giờ suy xét, sai có, đúng có, vô nghĩa cũng có nốt. Cái vô nghĩa nhất mà tôi thấy đó là tôi được sống mà Ariko.. chết! Đó cũng là được mà cũng là thua! Này, cô có biết đánh bạc không?”
          Quế chưng hửng:
          “Đánh bạc?.. À không, tôi chưa thử bao giờ”
          “Cuộc đời giống như nhiều canh bạc. Ăn thì vui mà thua thì cay. Toàn hên xui cả. Tính toán vứt đi! Mà canh bạc đời.. hay cho mình nhiều bất ngờ. Thật tức!”
          Có lẽ cái tức đó mà bà Shima bực đến cắt ngang câu chuyện. Hay những chuyện muốn kể cũng chỉ có thế và người kể cũng không muốn nói thêm. Hay, quá khứ phải khuất mắt đi cho người sống được sống.
          Bà Shima Sonoda -tự dưng Quế nhớ cái tên này rất lâu-  và những điều bà ấy kể, nói, làm dầy thêm cuốn tự vị sống của mình, Quế bâng khuâng nghĩ như vậy. Nàng sẽ nhớ lại câu chuyện của ngày hôm nay vào lúc nào trong cuộc đời trước mặt? Nhưng chắc chắn nàng sẽ không kể cho Tuân nghe vì không muốn chồng nàng phê bình: “Em thật vớ vẩn!”.
          Tuân sống nhiều hơn nghe và suy nghĩ. Nàng biết mình yên ổn bên cạnh một người giản dị không chỉ trong lối sống mà còn trong những tư duy. Nàng cần sự đơn sơ ấy để cân bằng hóa những thứ lộn xộn đang quấy rầy cái đầu nhỏ bé của mình, như những mảnh nhỏ trong câu chuyện vừa nghe còn lắng lại.
          Khi xe bus rẽ vào trong phố và ngừng lại ở trạm, Quế nắm tay bà Shima hơi lâu vừa để tạo cơ hội sờ vào những vết sẹo của bà lão rồi nói:
          “Cám ơn bà đã chia sẻ nhiều điều với tôi. Ngày mai nghe nói thời tiết khá hơn. Trời đẹp làm mình dễ chịu hơn phải không bà? Đâu phải lúc nào trời cũng xấu đâu, lúc này lúc kia”.
          Bà Shima nhướng mắt nhìn Quế. Cái nhìn lâu, im lìm, sâu thẳm ngập đầy cái rưng rức đau xót tỉnh táo không phải chỉ trong đầu trong tim mà cả da, cả xương, rồi đọng lại ở đuôi con mắt già sụp mí. Rồi chợt nháng lên chút tia nhìn hóm hỉnh. Và để trả lại, bà ta vỗ vỗ tay Quế không nói thêm điều gì. Bà thấy mình đã nói quá nhiều trong ngày hôm nay. Một ngày trời xấu!
           
          Mặc Bích
           
           
           
          #5
            NgụyXưa 08.09.2013 10:39:50 (permalink)
            "Chuyến Xe Ngày Thứ Năm" đã được mang vào thư viện.
             
            Xin cám ơn tác giả.
            #6
              frank 10.09.2013 06:35:18 (permalink)
              Xin cảm ơn
              #7
                frank 11.09.2013 23:32:15 (permalink)
                NGÃ RẼ
                 
                Mặc Bích
                 
                Cơn gió thổi thốc từ phía sau làm những bước chân của Đông Nghi chợt vội vã trong những nhịp không đều. Chiếc váy dài sát vào đôi chân, hằn lên những đường cong phải có. Mái tóc nàng bay dạt về phía trước như muốn bứt tung khỏi đầu. Ngọn gió lôi nàng đi lẫn trong từng đám lá khô đang tưng bừng bay bổng. Cát, bụi, cây cỏ, trời đất và người con gái đang bị đẩy dạt về một phía duy nhất: trước mặt. Cái màu sáng trong vắt ban nãy bị nhuộm đục ngầu, mỗi lúc một âm u hơn với những đám mây xám đen nghìn nghịt đồng hành với ngọn gió dữ. Sẽ mưa. Mưa lớn. Như bão tố. Đông Nghi nhìn quanh quẩn tìm kiếm một chỗ trú mưa. Những giọt mưa đầu tiên rơi xuống ngay bờ mi nàng, trên má, lạnh, nhột, len lén chảy xuống thấm vào môi nàng, ngòn ngọt là lạ! Kỳ quặc! Không phải giọt mưa kỳ quặc mà chính nàng thấy kỳ quặc bởi sự liên tưởng của “sự len lén” và “cái vị ngòn ngọt” của đất trời kia! Giống một cái gì! Hai vành tai Đông Nghi chợt nóng lên.
                Cái cổng sắt mở một nửa của căn nhà gần sát ngay đó trên đường khi cơn mưa đổ xuống là một ngã rẽ bất ngờ. Đông Nghi chạy vội vào sân trong, chẳng kịp nhìn ngôi nhà ra sao. Đứng dưới mái hiên nàng hơi rùng mình. Mấy giọt mưa làm như không chỉ thấm qua áo mà vào tận bên trong, qua làn da, rúc đến xương, rút cả người nàng lại. Lúc đầu chỉ là từng vạt nước mưa dịu dàng. Dần dà, xối xả, cuồng nhiệt hơn, tạt vào trong hiên, thăm dò hết nửa người nàng. Dù qua màn mưa Đông Nghi vẫn nhận ra cảnh vườn Nhật. Vài cây thông lùn ở mé ngoài, những bờ sỏi xám, ụ đá, những chiếc đèn lồng mà ban ngày thu hút ánh sáng mặt trời để đêm tối tỏa ra chút ánh sáng u uẩn vàng đục được treo rải rác đó đây cách mặt đất non sải tay trên những cọc bằng sắt có móc cong cắm xuống đất. Nàng tò mò đứng chếch người quay lưng nhìn vào trong nhà. Đúng là một căn nhà Nhật như Đông Nghi thường nhìn thấy trong phim ảnh. Khung cửa sổ từng ô vuông đều đặn mỏng manh trắng đục, không nhìn thấy gì bên trong nhà. Nếu như có tiếng động bên trong nhà nàng cũng không thể nghe thấy vì cơn mưa mỗi lúc một lớn hơn. Trời tối như đã 7, 8 giờ đêm. Toàn thân nàng, trừ nửa phần trên khô, từ ngang lưng trở xuống ướt nhẹp. Ánh sáng yếu ớt từ những chiếc đèn lồng trong vườn là những điểm nóng duy nhất. Nàng cứ chăm chú nhìn những điểm nóng đó để quên đi cái lạnh của chiếc váy ướt đang dính sát vào đùi.
                Tiếng động ngay sát bên khi chiếc cửa chợt mở ra làm Đông Nghi đứng lùi lại sát vào vách nhà như một phản xạ tự nhiên. Một thân người thò ra. Một người đàn ông tầm thước đưa tay bật ngọn đèn nhỏ ở trước nhà. Ánh sáng bật lên, làm vỡ nát bóng âm u tăm tối trước sân. Cả ông ta và Đông Nghi đều thảng thốt. Cái nhìn thảng thốt đó đậu khá lâu trên toàn thân nàng. Đông Nghi run run cất tiếng:
                “Tôi…”
                Ông ta cũng mở miệng cùng lúc:
                “Cô…”
                Cả hai cùng ngừng và chờ đợi ở người kia. Trên khuôn mặt khó khăn của ông ta chợt nhếch lên một bên nửa nụ cười:
                “Sao cô không gõ cửa? Đứng ngoài thế này ướt hết!”
                Đấy là một thứ tiếng Anh gãy gọn trong một giọng nói đục và trầm, giọng nói gợi sự tò mò, không hẳn là lôi cuốn.
                Đông Nghi không biết phải trả lời như thế nào và cũng không biết có thái độ ra sao trước một lời mời mọc gián tiếp được đặt trong một câu hỏi. Sự ẩm ướt dọc nửa thân người càng làm sự bối rối trong nàng tăng lên gấp bội!
                Vẫn cái giọng nói đó, ông ta nhìn Đông Nghi soi mói:
                “Mưa chắc còn lâu, mời cô vào nhà ngồi đợi một lát”.-Hình như đọc được sự ngần ngại ở người thiếu nữ, ông ta tiếp luôn – “Bà vú già của tôi pha trà và làm bánh ngon lắm. Bà ấy thích có khách để được dịp khoe tài”.
                Những câu nói vồn vã trên một khuôn mặt không mấy tươi tỉnh dễ dãi lại là một sự bất ngờ khác mà Đông Nghi không chờ đợi.
                “Vâng.. cám ơn..”
                Ông ta đi trước, đẩy rộng cửa vào. Cả một khoảng ánh sáng ấm áp tràn ra ngoài. Nàng hơi chần chừ đôi chút rồi cũng bước theo. Vài đôi giầy, dép đặt ngay gần cửa trước bậc thềm thâm thấp. Người đàn ông bỏ dép, đi chân không bước vào trong trước. Ông ta chỉ đôi dép thấp màu đỏ:
                “Cô đi đôi dép này cho ấm”
                Thay vì bảo cho sạch! Nàng nghĩ thầm.
                Đông Nghi ngoan ngoãn trút đôi giầy đã ướt sũng sang đôi dép mềm và êm chân. Hành lang được xây cao lên một nấc so với cửa ngoài. Dáng đi rất thư thả phía trước cho nàng một ấn tượng êm đềm về người chủ nhân. Ông ta không mặc đồ Nhật, chỉ là một bộ quần áo chẽn đơn giản màu đậm, không rõ là đen hay navy blue. Khi cánh cửa gỗ nâu với những ô như bằng giấy trắng đục được kéo nhẹ nhàng sang một bên, Đông Nghi bước vào một thế giới khác, khác hẳn bên ngoài hành lang trơ trụi. Căn phòng nhỏ, được nâng cao thêm một bậc nữa. Chiếc bàn vuông, thấp, đặït chéo ở một góc phòng. Quanh đó dăm chiếc gối nhỏ. Trên bàn đặt sẵn khay trà, có bình, chén trà đủ cả. Chiếc đèn lồng treo lơ lửng không xa đó tỏa ánh sáng dịu, không gắt, và rất lặng lẽ. Đứng ở ngay cửa vào, khung kính lớn đối diện đập vào mắt nàng mở rộng cả một khoảng trời bên ngoài. Màn mưa và u tối bên ngoài không cho nàng nhìn thấy gì thêm. Ở chân của khung kính, một bệ gỗ dài thấp nâng một chậu cây bonsai. Bên trái thông sang một phòng khác, không cửa ngăn. Cả căn phòng trống, thoáng và cho một cảm giác sạch sẽ, thanh khiết, trầm tĩnh.
                Ông ta ngồi xuống sàn, ngay chỗ bàn trong góc phòng và đưa tay làm một cử chỉ mời mọc. Những bước chân nàng dẫm trên tấm thảm không lún nhưng êm tạo một cảm giác là lạ. Tất cả những đồ vật cũng như cách bài trí căn phòng tự dưng làm cho Đông Nghi đâm rụt rè. Ngay đến những cử động bước đi, ngồi xuống thảm của nàng cũng bị hạn chế tối đa những tiếng động. Làm như những cử động mạnh bạo sẽ khuấy đục hơi thở tĩnh lặng của căn phòng. Nàng không còn nghe thấy tiếng mưa rì rào bên ngoài. Vẫn cái giọng nói đục và trầm, ông ta bảo:
                “Bà vú sẽ mang trà nóng lên bây giờ. Phải bà ấy pha trà mới ngon trong cung cách riêng của bà ta. Rồi cô sẽ thấy.”
                Đông Nghi quỳ trên thảm trong một tư thế nửa ngồi nửa quỳ, cũng tạm gọi là thoải mái. Sàn trong phòng có những chỗ như được dệt bằng một thứ cói đan nhỏ và tỉ mỉ, lại chêm vào những khoảng thảm như bằng một thứ giấy hay bông, rất lạ, như một thứ hoa văn cầu kỳ cho nền thảm. Nàng quan sát kín đáo khắp căn phòng như để tránh né khỏi phải nhìn vào ông ta, một người lạ. Môi nàng hơi hé mở nhưng vẫn không thốt lên lời nào. Ông ta vẫn tiếp tục nói, làm như đang trò chuyện cùng nàng:
                “Những cơn mưa mùa này thường lớn nhưng không mưa lâu. Bao giờ cũng thế, đến ào ào rồi lại rút đi nhanh!”
                Câu sau hình như ông ta không có ý ám chỉ cơn mưa. Đông Nghi hơi nhếch miệng cười. Nàng không biết phải đối thoại với ông ta ra sao. Chắc chắn không chỉ là những câu nói về cơn mưa ngoài kia.
                Có tiếng động khẽ khàng. Ông ta chợt đưa tay lên nói một tràng tiếng Nhật. Đông Nghi hơi quay người lại phía sau, vừa lúc nhìn thấy đúng là một người đàn bà Nhật mặc kimono màu xam xám có chữ đen đang rón rén bưng khay trà vào. Vì ngồi dưới thấp nên nàng để ý ngay đến đôi chân bao kín bí tất trắng với phần ngón cái riêng biệt với những ngón còn lại trông ngộ nghĩnh. Bà ta bước những bước ngắn có lẽ vì chiếc áo kimono bó ở phần dưới. Sáu mươi gì đó, có lẽ thế. Nàng thoải mái quan sát sự xuất hiện của người đàn bà đứng tuổi mà hai bên mai tóc đã đốm bạc. Chiếc khay sơn mài đen bóng được đặt xuống bàn. Bà ta quỳ hẳn người xuống thảm, cúi đầu chào Đông Nghi. Nàng cũng vội vàng cúi đầu đáp lễ. Trong khay có một bình trà vừa phải hình tròn có lẽ bằng đất nung. Thêm một bình khác lớn hơn. Chính giữa khay có đĩa bánh, loại gì nàng chưa trông thấy bao giờ. Bà ta dùng dao nhỏ cắt bánh. Khoanh bánh màu lục non, có nhân vàng ở giữa –chắc là đậu-, mặt trên của bánh rải một lớp gì giống vừng đen. Bà ta dùng một cái gàu nhỏ xíu, có cán gỗ thanh thanh múc khẽ nước sôi trong bình lớn rồi nâng từng chén trà lên, tráng kỹ, đổ sang một chiếc bát, rồi mới rót trà. Từng cử động nhỏ mà trang trọng. Lòng chén trà nông nhàn nhạt cho thấy nước trà xanh trong vắt, mùi ngai ngái, không thơm như trà ta. Không biết vị thế nào? Bà ta đặt đĩa bánh, chén trà trước mặt nàng, trước mặt ông ta, cúi đầu lần nữa rồi từ tốn rút êm.
                Vẫn ông ta là người lên tiếng nói:
                “Cô dùng thử chút trà cho ấm. Cả bánh nữa”.
                Lúc này không tránh được nữa, Đông Nghi cầm đĩa bánh lên, ngước nhìn người đàn ông đối diện. Nàng khẽ mời:
                “Mời ông…”
                Ông ta nhìn thẳng vào mặt nàng. Đôi mắt nhỏ và hơi xếch trên khuôn mặt của một người đã qua tuổi 60 nhưng vẫn còn một nét gì đó rất trẻ còn sót lại. Lông mày đậm, dài, có đôi sợi bạc lạc vào bất tử. Những dấu vết của bao nụ cười còn hằn ở đuôi mắt với từng vệt như chân  chim. Cái mũi cao và nhọn khinh khỉnh làm cả khuôn mặt trở nên khó chịu. Đôi môi mỏng hơi mím lại như che dấu một điều gì. Đôi mắt sắc sảo đó không ngừng tìm kiếm, lướt trên mặt nàng, lạnh lẽo nhưng tỏ lộ đầy quyền uy. Đông Nghi ghét những cái nhìn như vậy. Nàng cúi xuống cầm chén trà nhấp giọng và cố tránh không nhăn mặt vì cái mùi ngai ngái đặc biệt của chén trà xanh. Vị thanh và ngọt nhưng vẫn thế nào. Không hợp khẩu vị! Vừa ăn bánh, chiếc bánh chẳng khác gì bánh đậu của ta là mấy, nàng vừa mong thầm cho trời tạnh mưa.
                Thấy người thiếu nữ dừng ánh mắt ở khoảng trống thông sang phòng bên cạnh, ông ta giải thích;
                “Tôi vẽ trong phòng ấy”
                Đông Nghi ngạc nhiên:
                “Ông vẽ tranh? Ông là họa sĩ?”
                Cái nhếch mép cười nửa miệng của ông ta trông mới khó ưa làm sao khi trả lời:
                “Người ta gọi tôi như thế! Cô sang xem những thứ tôi đang làm dở dang”.
                “Những thứ đang làm dở dang”. Thật là một sự diễn tả kỳ quái! Nhưng cũng như giọng nói của ông ta, câu nói vừa qua cũng lại gợi trong nàng một sự hiếu kỳ. Nàng nhổm người đứng dậy tỏ ý muốn xem vì thực sự cũng không biết phải nói chuyện gì với người đàn ông này.
                Ông ta bật đèn. Căn phòng sáng, sáng hơn phòng khách bên ngoài rất nhiều. Bức tranh đang vẽ dựng trên giá đưa vào mắt nàng một sự buồn thảm khốc liệt. Đen, trắng, dữ dội. Đông Nghi tiến đến gần hơn. Trên khung vải nền đen, một vòng tròn khuyết màu trắng, trắng toát. Chỉ có thế. Cái vành của màu trắng không đều, và nàng có cảm tưởng đây là một sự cố ý. Rồi chính sự không đều đặn đó đã tạo nên.. Tạo nên cái gì –Đông Nghi đang tìm kiếm từ, nghĩa của điều mà nàng đang trông thấy.
                “Cô thấy sao?”
                Câu hỏi cũng thẳng thừng như cái nhìn của ông ta.
                Nàng buột miệng nói, gần như reo lên:
                “Sự sống! Đúng rồi!”
                Lần này ông ta không nói gì. Chờ đợi, có lẽ thế. Đông Nghi dường như không quan tâm đến những câu nệ của nãy giờ trong căn nhà lạ. Nàng tiến đến gần bức tranh trên giá vẽ hơn.
                “Màu đen mới là nền và vòng khuyết màu trắng hay ngược lại?” - Không thấy ông ta trả lời, nàng tiếp tục tự nhiên nói lên những cảm quan của mình – “Hai thứ màu đang chen lấn nhau kìa! Màu trắng đang lấn sang màu đen. Cả cái mảng đen kia cũng vậy. Sự không đều tạo nên vẻ sinh động như vậy phải không ông?-_Đông Nghi quay lại hỏi ông ta, trên gương mặt nàng hẳn bày tỏ nhiều hứng thú.
                Nàng nghĩ ông ta sẽ cười trước những nhận xét của một cô gái chỉ đáng tuổi con mình. Nhưng không. Trông ông ta khác trước. Đôi lông mày nhíu lại nhìn Đông Nghi như nàng là một thứ sinh vật lạ.
                “Cô biết về hội họa?”
                “Không! Tôi thích chứ không biết”
                Ông ta ậm ừ cái gì đó trong miệng nửa như thở dài mà cũng có thể hiểu nghĩa khác. Gật gù, ông ta nhìn nàng:
                “Cô cứ nói tiếp về những nhận xét của cô nữa đi!”
                Bây giờ thì nàng cười, nụ cười đầu tiên suốt từ khi gặp ông ta đến giờ:
                “Rồi ông sẽ cười tôi!”
                “Tôi hứa sẽ không cười” Ông ta nói câu đó với vẻ mặt nghiêm trang khác thường.
                Cũng chính vì vẻ mặt nghiêm trang đó mà nụ cười trên môi Đông Nghi chợt tắt. Nàng biết ông ta nói thật. Và cũng tự dưng thấy thú vị. Nàng yên lặng nhìn màu sắc và hình thể trần trụi trước mặt.
                “Tôi nhìn thấy cả niềm hy vọng và tuyệt vọng. Cả sự xung đột nữa” - Nàng giơ tay chỉ về bên trái ở phía trên nhưng bên trong vòng tròn trắng – “Mềm mại nhưng vẫn mạnh mẽ đủ để đẩy ngược màu đen đang tìm cách xâm lấn. Nhưng màu đen nhiều quá, ông có thấy vậy không? Cái vòng tròn khuyết? Tại sao lại khuyết mà không kín?”
                Ông ta thở dài:
                “Đó là điều mà tại sao bức tranh này mãi không hoàn tất! Nên cho nó tròn hay khuyết? Tôi chưa biết được!”
                “Ông có nghĩ chính điều này làm nên sự lạc lõng, mất định hướng không?”
                Nàng không còn tránh né cái nhìn của ông ta nữa. Hình như nàng đã già đi thêm mươi tuổi nữa, hay ông ta đã trẻ lại mươi tuổi? Nhưng nàng đọc được sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên tột độ trên khuôn mặt ông ta. Đông Nghi thích thú một cách lạ thường như đang phải đương đầu với một thách đố ngoài tầm sức của mình, và chính vì vượt khả năng nên sự thách đố càng mãnh liệt.
                Ông ta để mặc nàng đứng đó, bước ra phòng ngoài. Đi đâu. Nàng không biết. Đông Nghi chuyển hướng nhìn sang phía khác. Nãy giờ bức tranh đã chiếm hết sự chú ý của nàng. Nàng không thấy bức tranh nào khác trong phòng. Căn phòng cũng có cửa kính lớn nhìn ra bên ngoài. Trời đã ngớt mưa, sáng hơn. Nàng nhìn thấy rặng núi không xa lắm. Căn nhà này có lẽ nằm sát một thung lũng. Ban ngày, trời nắng có lẽ ánh mặt trời sẽ vào đầy ngập căn phòng. Sân cỏ thoai thoải. Nhiều chậu bon sai đang được tắm mưa, hạnh phúc tràn trề. Nàng nghĩ đến chuyện cám ơn ông ta rồi đi.
                Vừa quay người lại, nàng giật mình! Ông ta đứng cách nàng chỉ chừng hai sải tay mà nàng không hay. Im lặng như một người thợ săn đang rình mồi. Trông ông ta buồn bã và không còn vẻ quyền uy như nàng nhận xét lúc mới vào. Nàng nói:
                “Cám ơn ông”
                “Cô khoan đi! Mưa chưa tạnh hẳn”
                “Cô khoan đi”. Không nhiều chữ lắm nhưng bộc lộ sự níu kéo thiết tha. Níu kéo giữa hai người lạ, không biết tên nhau mà có lẽ cũng không cần biết để làm gì, là một sự bất thường hay bất tường? Nàng yên lặng. Và lại quay lại nhìn bức tranh.
                “Cô có biết rằng chính sự “không biết”, “sự mù lòa” của cô về hội họa đã cho cô thấy những điều mà kẻ “biết” không thấy không? Có lẽ tôi đã nói sai! Đây không phải là sự mù lòa. Đấy là sự mất đi một giác quan giúp ta trông thấy sự vật nhưng lại giúp ta nghe được và thấy được trong một chiều kích khác. Giống như ta đi ngược vào bên trong mình để tìm kiếm những… -tôi phải diễn tả như thế nào đây?- .. thầm kín ẩn náu của chính mình cần được khám phá.. Cô bé ơi! Tôi đang nói lung tung.. theo cái nhịp hỗn loạn của trái tim tôi. Có lẽ tôi mất định hướng như cô nhận xét thật. Đứng từ dưới đáy vực nhìn lên khoảng trời xanh bao la, tôi không ước ao với tay đụng bầu trời đó.”
                Sự xúc động nảy sinh trong nàng. Nhìn lại bức tranh, nàng hình dung vòng tròn khuyết màu trắng được kín, trọn vẹn, để sự xung đột cứ tiếp diễn, mãi hoài. Ánh sáng ấm, vàng trong căn phòng khách đã thay đổi. Ngoài trời đã tạnh mưa. Những đám mây đen đã rủ nhau bỏ đi. Bầu trời chắc lại trong. Biết đâu hửng chút nắng. Nàng khẽ khàng nói với ông ta như nói với một người thân quen lâu đời:
                “Đã hết mưa. Tôi phải đi. Cám ơn ông đã cho uống trà, ăn bánh và.. xem tranh”
                Ông ta chẳng nói gì thêm, đưa nàng ra cửa. Đi trước dẫn lối như lúc vào.
                 
                ………………………………..
                 
                “Áo lạnh đây cưng!”
                Không thấy vợ nói gì. Tuyên lo âu choàng áo lên vai nàng:
                “Em không sao chứ Đông Nghi?”
                Nàng quay lại nhìn Tuyên, ánh mắt xa xôi đôi chút ngỡ ngàng. Nàng hỏi lại:
                “Anh nói gì?”
                “Trông em lạ quá. Đi ra xe lấy chiếc áo, trở lại thấy em như ai đâu”
                Vẫn để hờ chiếc áo len khoác trên vai, Đông Nghi nhìn lại bức tranh trước mặt. Nền đen, vòng tròn trắng. Không khuyết. Có một vết nứt rất nhỏ, phải chăm chú nhìn kỹ lắm mới thấy như một vết nối.  Hàng chữ nhỏ bên dưới:
                “Jiro Yoshihara (1905-1972),
                To Martha’s Memory, 1970, Japanese.
                Oil on canvas, 73 x 92cm.”
                Nàng lẩm bẩm:
                “1972… 1972…”
                Tuyên đỡ lời kèm với nụ cười cố hữu tinh nghịch của anh:
                “1972. Lúc đó em mới có 10 tuổi”
                Đông Nghi lập lại lời của Tuyên: “Mới có 10 tuổi..”. Chung quanh nàng, những bức họa khác trên tường của phòng tranh Albright-Knox Art Gallery đang triển lãm hình như nhắc nhở nàng về thời gian hiện tại: 2002! Nàng đang ở New York, với Tuyên, trong một phòng tranh.. của tháng 2 năm 2002. Năm 2002..? Chỉ có chừng 15 phút khi Tuyên ra ngoài lấy áo để nàng đứng một mình trước bức tranh? Mười lăm phút của hiện tại mà lại là cả một thời gian gặp gỡ người họa sĩ của quá khứ? Một người đã khuất! Cũng không thể gọi là quá khứ! Cái gì đã qua đi được xếp loại thành quá khứ. Nhưng những điều vừa qua đi như một giấc mộng có thật mà chỉ riêng nàng cảm nghiệm được. Đông Nghi tin chắc rằng ngày mai, ngày kia nàng trở lại đây, đứng ngay chỗ này để tìm lại một giấc mộng, một sự kiện như thế chắc chắn sẽ không xảy ra.
                Đông Nghi nhìn kỹ lại bức tranh, phần trên, bên trái, vòng trong của vòng tròn trắng, một khoảng trồi ra nhiều hơn, đúng như nàng đã “thấy”. Và cái vòng tròn khuyết đã kín. Kín như nàng đã hình dung. Sự sống động và khốc liệt của bức tranh vẫn thế. Ông ta không còn nữa, không vẽ nữa, nhưng linh hồn mãi mãi không tan biến. Sự xúc  động vẫn còn đọng lại trong nàng, mới tinh khôi. Nàng còn nhớ cả mùi sơn dầu thoang thoảng. Cả vị của chiếc bánh đậu vẫn còn nằm trên đầu lưỡi. Nhưng câu hỏi: “Tại sao ông lại chọn tôi?” sẽ không bao giờ có câu trả lời.
                 
                Mc Bích
                 
                Ha sĩ Jiro Yoshihara (1905-1972) là cha đẻ ca trường phái Gutai (Biu hin) ti Nht. Sau khi ông qua đời, nhóm 18 ha sĩ tr Nht này đã tan rã. Bà Martha Jackson là người đã gii thiu nhóm Gutai và nhng tác phm ca h đến gii thưởng ngon Hoa K t thp niên 50 trong phòng tranh ca bà. Bc tranh “To Martha’s Memory” ông Jiro Yoshihara v riêng tng bà, hin nm trong Albright-Knox Art Gallery ti Buffalo, New York. Ha sĩ Yoshihara qua đời đột ngt năm 1972, 2 năm sau khi bc ha trên đã hoàn tt.
                Ch tr ha phm và  tác gi bc tranh là có tht, câu chuyn trên ch là hư cu trong s tưởng tượng ca mt người yêu tranh.
                 
                 
                #8
                  NgụyXưa 12.09.2013 04:08:39 (permalink)
                  "Ngã Rẽ" đã được mang vào thư viện.
                   
                  Xin cám ơn tác giả đã đóng góp cho thư quán những tác phẩm đắc ý.
                   
                  NX
                  #9
                    frank 12.09.2013 23:55:57 (permalink)
                    Xin cảm ơn.
                    #10
                      frank 20.09.2013 01:05:54 (permalink)
                       
                      Qunh Thi
                       
                      Mặc Bích
                       
                      Tôi ngồi trước  máy điện toán. Màn hình của computer trắng xóa, trống trải nhưng không rỗng, và chờ đợi. Chờ một điều gì đó sẽ xảy ra, ở đằng sau cái màu trắng lạnh lẽo câm nín kia. Tôi không làm chủ màn hình trước mặt. Tôi chỉ tuân phục và kiên nhẫn chờ một bí ẩn sẽ được hé lộ. Những thôi thúc trong tôi chỉ là những háo hức chờ đợi chứ không tìm kiếm. Một hình ảnh, một khung cảnh, khuôn mặt, con người, sự vật sẽ đến làm thành một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Tôi sẽ được sống trong một không gian, thời gian khác với hiện tại, mọi sự đều khác, tất cả đều biến đổi như dưới nhiều lăng kính khác nhau. Bước ra khỏi mình, đi vào một thế giới khác. Điều gì đang chờ đợi tôi ở sau màn hình kia? Ngày hôm nay chưa gặp, có thể ngày mai, hay một tuần, một tháng sau đó. Rồi như một sự chọn lựa đã định sẵn, một hôm tôi nhìn thấy không phải trên screen computer, mà xuyên qua đó, dội ngược vào đầu tôi, len lách, khuấy động như có chút kích thích, một khuôn mặt, nhiều khuôn mặt chưa bao giờ gặp lẫn với những cảm thông lạ lẫm tưởng như tôi đang không chỉ gặp mặt đối mặt mà còn bước hẳn vào trong những con người ấy, không chiếm đoạt nhưng lục lọi tìm tòi những ký ức, tình cảm, cuộc đời.. Đây không phải là một sự xâm phạm có tính cưỡng bức mà là một đầu hàng của phía bên kia mang tính tình nguyện chẳng khác gì một sự dâng hiến trọn vẹn của một người con gái. Thế là câu chuyện tôi sắp viết sau đây bắt đầu từ đó. Tôi có cần phải giải thích thêm nữa vì sao những nhân vật đó lại mang tên này hay tên kia mà không phải là một tên gì khác? Có lẽ không, bởi vì chính tôi cũng không hiểu những cái tên ấy đến từ đâu? Nhưng điều đó có gì quan trọng? Những con người và cuộc đời ấy mới là chuyện.
                       
                      Những căn nhà  một từng là những villa thời Pháp thuộc cũ còn sót lại nằm trên  ngọn đồi không cao lắm, cách nhau bằng những rặng thông quanh năm không đổi mầu. Cái màu xanh đậm không đổi thay rì rào trong gió như những tiếng rên nho nhỏ nhàm chán, để rồi đổi giọng rên xiết khi vào mùa mưa dưới những cơn mưa dai dẳng buồn tẻ có khi kéo dài hàng vài tuần lễ làm sũng những lớp đất thành lầy lội. Những giòng nước tuôn như suối làm con dốc nhỏ trải nhựa nứt ra, xẻ phần thịt đất đỏ bên dưới, nước tuôn vào kẽ nứt tung hoành những đường xoáy  và con đường duy nhất dẫn xuống dưới chân đồi không được tu sửa lại càng trở thành một thứ chướng ngại cho xe cộ lên xuống. Dưới chân đồi những thửa ruộng nối tiếp nhau liền liền làm thành những khoang vuông vức đủ loại. Người dân ở đây trồng đủ thứ loại rau, trái, quanh năm không lúc nào thấy đất trống phơi mình dưới nắng hay mưa.
                      Thái lấy khuỷu tay di di trên mặt kính trước nhà nhìn ra ngoài. Cơn mưa hình như đã bị đóng chốt ngay tại đây, không còn thể di chuyển đi đâu khác nữa. Nẹp gỗ quanh những ô kính cửa sổ ẩm như nước bắt đầu rỉ ra từ những thớ gỗ len vào đến tận trong. Chàng ngửi thấy cả cái mùi ẩm ướt, thoang thoảng có mùi mốc, không biết từ bên ngoài hay ở trong nhà. Tiếng gió rít lùa qua những rặng thông, tạt những màn mưa trắng đục như những màn luân vũ ngoạn mục, thoạt đầu mơn trớn êm tai, dần dà sắc và veo véo nghe rợn người. Những thửa ruộng xa xa dưới kia đã ngập nước. Nước từ những triền đồi đổ xuống và với cơn mưa triền miên mấy ngày qua đọng lại ngập hết những luống rau. Tội cho dân ấp Hà Đông!
                      Chàng nghĩ đến bể nước mưa sau nhà hẳn đã ngập, khéo mà tràn vào trong nhà! Chiếc bể xi măng đựng nước mưa cao đến hai phần ba thân người trung bình được xây ngay trong căn phòng sát bếp để chứa nước uống cũng như tắm giặt vì hệ thống dẫn nước của cả vùng này đã bị hỏng từ lâu, không được sang sửa. Thái mở nắp bể nhìn vào trong rồi leo lên nắp bể nước, đẩy cái ống dẫn nước nối liền với máng xối để nước mưa tuôn ra ngoài. Ngay cả thành bể nước cũng ẩm. Chỉ có mình là khô, khô không khốc, Thái thở dài! Tiếng thở dài từ đâu bên trong, tình cờ ghé ngang rồi cư ngụ luôn không đi nữa.
                      Từ bếp lên nhà trên chỉ được nâng lên một chút nhờ năm sáu bậc xi măng. Mới 3, 4 giờ chiều mà trời đã sâm sẩm tối. Trên này không sợ lụt! Đi ngang phòng Tiến, chàng nhìn vào. Căn phòng nhỏ và tối. Tiến không thích để đèn. Nó sợ ánh sáng và sợ cả người. Tiến đang ngồi ở chiếc bàn nhỏ kê sát cửa sổ nhìn ra vườn. Ngày xưa chiếc bàn bề bộn đầy sách vở. Giờ, vắng tắp, sạch gọn. Thỉnh thoảng Thái vào lau chùi cho em. Có lần đang lau mặt bàn học, Thái cứ chùi mãi, chùi đến mỏi tay như tìm sau mặt gỗ chút bóng dáng của thời gian đã qua.
                      Vẫn không quay lại, Tiến nói:
                      “Chim ăn hết mận rồi!”
                      “Không đâu. Hết mùa rồi. Phải chờ sang năm”
                      “Anh lộn rồi!”
                      Thái chẳng cãi. Nó mở miệng là tốt rồi. Nói gì cũng được!
                      Khi Tiến xoay người lại, trong cái mầu ảm đạm và tôi tối của căn phòng, Thái thót ruột và đột nhiên hơi hoảng sợ! Chàng như đang nhìn vào tấm gương, một khuôn mặt giống hệt chàng, chỉ khác ở cái vẻ ngây dại. Hay  có ngày mình cũng sẽ như thế trong căn nhà cũ rích và heo hút này? Bản năng mạnh mẽ trong Thái giơ tay chụp ngay lấy cái ý nghĩ đen tối này và dìm xuống. Phải như thế thôi! Phải triệt!
                      Không biết có đọc được những ý nghĩ đó trong Thái hay không, Tiến lại xoay người nhìn mông ra vườn, đầu nó nghiêng nghiêng. Chiếc màn cửa vén sang một bên hở ra những giòng mưa trắng đục sáng ở bên ngoài như miệng của một đường hầm.
                       “Chiều thích ăn gì để bà Tư làm?”
                      “Anh có thấy bà ấy nấu dở quá không?”
                      “Bà Tư chỉ biết làm có thế!”
                      Tiến không nói gì thêm. Nó còn biết chê bà Tư nấu không ngon. Mọi khi nó chẳng nói gì. Đúng là trời mưa cóc mở miệng!
                      Tối hôm đó, trong cơn mưa rả rích chừng như đã nhạt, trang sách được mở ra ở một chương đọc mãi không xong. Thái gấp sách. Ý tưởng bán nhà, bán hết những thửa ruộng đang cho người thuê dưới kia và dọn đi một nơi khác cứ dục giã như một thứ đòi nợ, trong khi nhiều thứ khác trong căn nhà mà anh em chàng đã sinh ra và lớn lên cứ níu chặt lấy Thái lôi lại như đòi phần của nó. Đó là những gốc rễ chằng chịt với muôn ngàn kỷ niệm của nhiều năm tháng, những chiếc rễ lằng ngoằng cứ thế mà lớn lên, lớn hơn Thái và Tiến gộp lại! Nhưng có lẽ càng bị níu kéo thì Thái càng vùng vẫy vì không còn gì ở đây cho mình. Thái muốn sống một cuộc đời khác, mọi sự khác, muốn biết, muốn với, muốn những thay đổi mỗi ngày..  muốn một hơi ấm, một gần gũi nào khác không phải là những ruột thịt. Chàng cần một cái gì khác lạ.. Tiếng ho của Tiến ở phòng bên làm Thái chợt dừng lại ngay trong những ý nghĩ của mình. Tiếng ho của Tiến làm Thái mắc nghẹn. Chàng muốn hết thở trong một thứ gì đang tuôn ra từ lồng ngực, lớn hơn mình. Thứ gì đó đang dâng lên và đánh thức chàng tỉnh giấc. Lại phải tỉnh thôi!
                      Mẹ sinh Thái ra trước Tiến có 2 phút. Hai phút đi trước mà khác biệt nhiều quá. Thể chất hai đứa giống hệt nhau, nhưng tâm tính khác hẳn. Thái mạnh bạo, Tiến nhút nhát và yếu đuối. Thái cởi mở, Tiến khép kín. Hai đứa trẻ là hai nửa của một khối. Đấy là một vòng tròn với hai mặt đối chọi. Bởi chính là một khối nên không thể tách rời theo một nghĩa hiểu nào đó. Lìa nơi này, bỏ Tiến, chàng không bao giờ làm được. Lôi nó đi, nó không đi. Nó đã bắt rễ ở đây từ ngày sinh ra đời. Cái rễ ấy cột cứng với thế giới riêng của Tiến, và cho nó sự yên ổn. Những xáo động mà Thái thèm muốn cũng là những khác biệt quá đáng, không có trong thế giới tĩnh lặng của Tiến. Thái biết mình đã bị một xiềng xích vô hình trói buộc ngay từ nhỏ..
                      Bỗng dưng Thái nhớ đến cây khuynh diệp khổng lồ ở dưới chân đồi. Nó mọc từ bao giờ không biết nhưng cao ngút ngàn. Lúc nhỏ đứng ở dưới nhìn lên, Thái không thấy ngọn cây và vẫn hình dung là chót đỉnh của nó lẫn với trời. Cuối hè khi những bông hoa khuynh diệp rụng đầy gốc, Thái và chúng bạn thường nhặt về, gỡ sạch những tua của nhụy hoa khuynh diệp để trơ lại cái núm và cuống, rồi xoay, rồi thảy như những con vụ tí hon thoang thoảng có mùi khuynh diệp nồng nàn trong gió. Thân cây sần sùi tróc những lớp vỏ màu gụ lộ phần thân trắng như vôi. Toàn cây khuynh diệp đó, từ thân, từ vỏ, từ lá, từ hoa đều tiết ra cái mùi dầu khuynh diệp không hắc mà ngan ngát. Lần nào Thái trèo lên cây khuynh diệp được một đoạn cũng bị Tiến đứng ở dưới gốc cây gọi. Nó sợ Thái trèo lên cao, cao nữa rồi mất tiêu luôn, Và lần nào khi nghe tiếng em gọi Thái cũng tiếc rẻ, nhưng rồi trèo xuống. Đang chơi trò gì mà Tiến không tham gia được, Thái cũng bỏ để về nhà với em. Chàng đã phải theo nó ngay từ nhỏ. Không có chỗ nào đứng riêng lẻ cho Thái, ngay cả trong những ý nghĩ  của mình!
                       
                      *
                       
                      Những cơn mưa cứ vơi dần rồi biến. Trời đất vẫn còn ẩm và lạnh. Cả mấy ngày nay chú Bình không đi chợ và mang lên cho bà Tư được vì mưa quá. Nhà chú bên dưới chắc cũng ngập! Rau cỏ rồi ra rẻ thối! Chú ấy không lên được thì mình phải xuống thôi, Thái cũng muốn ra khỏi nhà. Cơn mưa giữ chân chàng cả tuần.
                      Tiếng bà Tư nói sau lưng làm Thái giật mình:
                      “Thầy! Hết cái ăn rồi! Chú Bình không thấy đâu. Chắc dưới lụt lắm”
                      “Để tôi lo. Tôi đi bây giờ đây”.
                      Một tuần lễ chỉ thấy mưa và những bức tường, không cần phải đi mua nhu yếu phẩm thì Thái cũng đi.
                      Thái đẩy cổng gỗ ra ngoài. Phải cả tuần chắc đất mới khô. Thái chọn những chỗ nhiều cỏ hay xen với đá để đặt chân vì mặt đất mềm và nhão thành bùn. Triền dốc trải nhựa nứt nẻ nên nước không đọng nhưng sau những ngày mưa phần đất đỏ quạch như tươi hơn. Chàng chợt thấy có người đi lên dốc. Một cô gái, có lẽ? Cái bóng người đi lên ngược chiều với chàng mỗi lúc một rõ. Cô ta bước đi thoăn thoắt như người thuộc đường lối và với cách ăn mặc, cô gái phải ở vùng này, có lẽ ở dưới kia vì trên đây có bao nhiêu người Thái đều biết cả.
                      Khi khoảng cách đối nghịch thu ngắn hơn, dáng người ấy cho Thái một phỏng định: cô ta chừng 15, 16, nước da ngăm ngăm khỏe mạnh, tóc cột gọn. Cô gái cúi đầu cắm cúi trèo dốc, cũng chẳng nhìn Thái nên chàng cũng không trông rõ mặt. Cô gái xách một cái giỏ mắt cáo nylon. Khi đi ngang, Thái thoáng nhìn thấy vài bó rau chìa ra ngoài, nải chuối và vài gói bọc giấy dầu. Cô gái chỉ ngửng đầu lên nhìn Thái rồi tiếp tục đi lên đồi. Xuống gần đến gần chân đồi, Thái quay lại nhìn lên. Cô gái đang mở cổng vào nhà chàng. Lạ, ai?
                      Thái phân vân, nửa định đi tiếp xuống đồi, nửa lại muốn đi lên xem cô gái nhỏ là ai. Và chàng đi lên thật. Thái đi nhanh chứ không thong thả như lúc đi xuống.
                      Vào đến nhà, Thái nghe thấy tiếng người nói lao xao ở dưới bếp. Con cháu bà Tư? Chắc thế. Chẳng dính líu gì đến mình, nghĩ vậy nên Thái chẳng thắc mắc và chuyện đón xe lam xuống phố mua ít đồ như đã dự định làm chàng thoải mái hơn.
                      Phải xuống chân đồi, đi ngang hồ Vạn Kiếp, mặt hồ càng ngày càng bị thu hẹp bởi những lớp bèo tràn ngập cạn nước, đất từ bờ đổ xuống. Qua cái cầu gỗ ọp ẹp, thêm một cái dốc ngắn nữa mới ra đến đường chính để đón xe lam. Nắng đã lên nhưng không gắt, làm như hãy còn e lệ sau cơn mưa suốt tuần. Chàng đứng chờ xe dưới gốc cây ổi ngay sát cổng nhà ông Bá. Trước mặt chàng hàng hàng lớp lớp những ngôi mộ san sát nhau trên đồi của nghĩa địa thành phố vươn lên trong nắng như nhắc nhở sự có mặt của những người đã từng hiện diện trong thành phố này, dĩ nhiên có cả cha mẹ chàng, .. và cả Quỳnh Thi!
                      Chiếc xe lam chật ních đưa Thái ra phố. Chàng ngồi chen không chỉ với người mà cả với những chuồng gà, mùi hôi xông lên ngai ngái. Chiếc xe gắn máy của chàng đưa chú Hiển sửa chưa lấy về được. Thái cũng lười chẳng nhắc. Có chú Bình ở trong ấp Hà Đông đi chợ cho rồi mang lên nên Thái chẳng bao giờ quan tâm. Vài hôm nữa khi dưới ruộng bớt ngập chắc chàng phải ghé thăm chú Bình, có lẽ đau ốm sao đó.
                      Xe ngừng ở bến, gần chợ. Từ một vùng ngoại ô ra đến phố chính, cũng xa nhưng không phải xa lắm mà thấy diệu vợi vì những khoảng cách không người, không nhà, vắng xe cộ. Những nhộn nhịp của phố phường đẩy Thái vào giòng người đầy sinh khí.  Những chộn rộn đâu đâu cũng len vào Thái, chàng thấy vui vui.
                      Thái ghé chú Hiển ở cuối dốc Minh Mạng xem cái xe mình tới đâu rồi.
                      “Ê, Thái! Xe vẫn chưa xong vì chưa tìm được đồ thay, cháu chịu khó đợi vài hôm”
                      “Chú khoẻ không chú? Cháu ghé chơi thôi. Xe bao giờ được thì được, chẳng sao cả”
                      “Mấy anh em thường hả? Bà Tư còn ở đó không?”
                      “Vẫn còn chú, không có bà ấy chắc tụi cháu chết”
                      “Bán nhà, ra phố ở đi. Thanh niên mà ở trong đó đèo heo hút gió quá”
                      “Cháu cũng tính mà chưa được”
                      “Tính gì mà tính, ruộng trong đó vẫn cho thuê, nhà thì bán. Có điều cái nhà đó bán hơi khó. Quanh đó còn đủ cả không?”
                      “Cũng có vài gia đình dọn về Sài Gòn, còn tựu trung ở lại cả”
                      “Khi nào gặp ai cho chú gửi lời thăm nghe?”
                      “Được, chú. Tuần sau cháu ghé lại chắc xe xong chú hả?”
                      “Ờ, chắc tuần sau xong đó. À, mấy bữa mưa, trong ấp chắc lụt hết?”
                      “Vẫn như xưa, chú. Người ta quen rồi”
                      Việc  ra phố của Thái loanh quanh ghé thăm người này, người kia, mua bán chút đỉnh, rồi về. Chàng không muốn ở lâu, sợ bị giữ chân,  sợ tự gây khó khăn cho mình.
                      Đi về, buồn, nhàm chán nhưng yên ổn. Xe lam cũng chỉ thả chàng xuống ở đầu đường chính, Thái đi bộ về nhà.
                      Cổng gỗ vào nhà vẫn còn mở. Ai đó quên không đóng hay cô gái nhỏ khi nãy vẫn còn đây? Vừa mở cửa, Thái giật mình! Tiến ngồi lù lù ở phòng khách. Đã lâu lắm nó không ra khỏi phòng mấy khi ngoài chuyện đi làm vệ sinh. Thái nhìn em không biết nói gì. Dưới ánh sáng của căn phòng khách nhiều cửa sổ, trông Tiến lạ, như một người khách lạ.  Có một cái gì thay đổi trong nó, Thái chắc chắn như thế. Không phải vì căn phòng nhiều ánh sáng làm chàng thấy Tiến rõ hơn, cũng không phải vì bộ râu đã được cạo sạch –điều này lạ vì thường Thái phải dục- cũng không phải vì  một vẻ ngời ngời trên toàn gương mặt Tiến lúc ấy, nhưng một cái gì khác nằm khuất bên dưới mà Thái chỉ có thể bắt gặp bằng cảm nhận của một nửa này nối kết nhìn suốt sang nửa kia. Chàng thấy rợn người và không muốn để những ý nghĩ của mình đi ngược về xa hơn.
                      “Anh ra phố?”
                      “Ờ, anh đi chợ. Chú Bình đau sao không thấy lên?”
                      “Con gái chú lên đây”
                      À, cô bé ấy là con chú Bình!
                      “Chú ấy không sao chứ? Anh lại không có nhà để trả tiền cho họ”
                      “Té gẫy chân”
                      “Thế à? Tội nghiệp!”
                      Anh em không nói gì với nhau thêm, nhưng cả buổi chiều ấy Tiến không vào lại trong phòng. Nó ngồi ở phòng khách như chờ ai, chờ một cái gì.
                      Từ sau hôm đó, cái thế giới riêng tư của Tiến bắt đầu mở rộng hơn, nó ra sân, bắt đầu hay hỏi chuyện đây đó, lại phụ giúp Thái, không nói cộc lốc. Nó như một người vừa tỉnh thức sau cơn mộng dài và đang làm quen dần với đời sống.
                      Đến giữa tuần, con gái chú Bình lại mang thức ăn lên. Lần này Thái mới có dịp nhìn kỹ cô bé. Mới thoạt nhìn Huyền, chàng thấy nét quen quen, không phải vì cô giống cha. Lần gặp gỡ sau Thái mới biết vì sao chàng thấy Huyền quen thuộc. Đó cũng là lúc Thái hiểu vì sao Tiến thay đổi. Huyền có đôi mắt giống hệt Quỳnh Thi! Cũng đuôi mắt dài, hơi xếch, con ngươi không đen hẳn mà có ánh xanh tím, một màu xanh tím huyền bí đến lạ lùng làm người đối diện không chỉ nhìn lâu hơn mà còn như ngỡ ngàng với những thu hút tự nhiên không kìm hãm được.
                      Sự thay đổi trong Tiến vừa là một nỗi vui mừng vừa là một sự đe dọa. Dĩ nhiên đó chỉ là những linh cảm mơ hồ. Thái quan sát những thay đổi ấy trong trạng thái lo âu. Lắm lúc chàng có cảm tưởng Quỳnh Thi đang có mặt trong ngôi nhà này, không phải nằm ở nghĩa địa trên kia. Quỳnh Thi đang chi phối Tiến. Thật lạ lùng, Thái nhớ về Quỳnh Thi như những dính líu với Tiến, như là nguyên do đưa Tiến đến tình trạng tâm thần bất định hiện tại, mà không tìm thấy một vướng mắc tình cảm nào với chính mình hay đó chỉ là một sự  lừa dối? Hay chính sự tự lừa gạt mình đã tách chàng đứng riêng rẽ, hoặc là một chối bỏ cho rất nhiều nghi vấn lẫn với đau thương?
                      Hình ảnh Quỳnh Thi hồn nhiên đứng bên cổng gỗ nhà Thái, những cành mimosa lá bạc với những chùm hoa vàng mềm như nhung làm nền sáng rực dưới nắng một buổi chiều mây đen nghịt mà ánh nắng hừng lên vội vã là một êm đềm trong trí nhớ chàng cũng mượt mà như những tình cảm đầu đời. Thái chỉ muốn nhớ về Quỳnh Thi như thế, cho mình. Còn vì sao nàng lại ngã xuống chiếc giếng cạn hết nước cạnh tu viện bỏ hoang cách nhà Thái chừng non 1 cây số là điều Thái không muốn tìm hiểu hay không dám tìm hiểu.
                      Cái miệng giếng ấy như một cái miệng của một con quái vật há ra, sâu hun hút với thang sắt dài từ bờ giếng xuống đến lòng giếng. Người Pháp đã đào và xây giếng này từ lâu lắm, và đến khi giếng đã cạn nước, nơi này thành một bí ẩn cho những đứa trẻ sống trên đồi này. Đứng ở trên, thò đầu xuống la hét và chỉ thấy một mầu đen tối thui. Chiếc thang sắt đóng hẳn vào thành giếng là một mời gọi cho những đứa nhỏ thích phiêu lưu thám hiểm. Thái đâu tha những cơ hội như thế. Cái đứa nhỏ 8 tuổi là chàng đã háo hức trèo xuống tận đáy giếng với nhiều sự tưởng tượng, nhưng nó không tìm thấy gì ngoài những cành củi mục và rác. Tiến đứng ở trên hỏi vọng xuống: “Có gì dưới?”. “Chẳng có gì hết!”. Câu trả lời với nhiều sự thất vọng nhưng khi trèo lên hết những nấc thang, chú nhỏ 8 tuổi thấy mình lớn hơn vì nó đã vượt qua một thách thức. Đó cũng là một trò chơi với Thái, còn Tiến, nó chỉ có mặt mà không tham dự. Cái giếng bỏ hoang hầu như chỉ có những người sống trên đồi này lâu năm, hay những đứa trẻ hay nghịch ngợm mới biết đến. Vì sao Quỳnh Thi, ở dưới kia, lại đi lên đến tận nơi rồi ngã xuống giếng, chết, là điều Thái không hiểu được. Người ta nghi là Quỳnh Thi bị kẻ nào đó giết, nhưng tại sao và kẻ đó là ai thì đến 5 năm qua những câu hỏi này không được giải đáp và rồi cũng chẳng ai còn nhớ đến. Nhưng đã có những lúc Thái thấy người ta xầm xì sau lưng chàng chỉ bởi vì hai người có liên hệ tình cảm.
                       
                      *
                       
                      Thái đẩy chiếc xe gắn máy trên chiếc ván ép đặt trên những bực thang xi măng dẫn xuống cổng gỗ. Có chiếc xe, Thái thấy thoải mái hẳn ra. Chàng nghĩ đến việc đi dậy học lại theo lời mời của anh bạn mở một trường tư thục ngoài phố. Dựng xe, khép cổng, quay lại Thái thấy Huyền đang đi lên dốc tiến về phía chàng.
                      “Chào chú”
                      “Chào cô. Ba khoẻ chưa?”
                      “Ba cháu vẫn còn đi nạng. Chắc cháu phải giúp ba cháu còn lâu”
                      “Bây giờ mùa hè cô còn giúp được, chứ đến lúc đi học thì sao?“. Thái định bảo để chàng lo lấy nhưng nghĩ đến việc giúp đỡ chú Bình nên thôi.
                      Huyền có vẻ băn khoăn:
                      “Cháu cũng chưa biết nữa, nhưng cháu muốn giúp ba cháu”
                      Thái đề nghị:
                      “Cô đổi ngày đi, cô mang lên cho chúng tôi vào ngày cuối tuần cũng được mà”
                      “Vậy tốt quá, cám ơn chú”
                      Khi Thái mở cổng cho Huyền vào chàng chợt thấy Tiến đang đứng ở cửa trước nhìn ra. Sau những ô cửa kính nho nhỏ, hình dáng Tiến như bị cắt ra làm nhiều mảnh, như những câu đố chưa có lời giải đáp. Bỗng dưng một cảm giác lạ lùng dấy lên trong chàng. Đó là những băn khoăn vu vơ mà không hiểu sao lại lẫn lộn cả bóng dáng Quỳnh Thi trong đó. Có lẽ cả đời Thái sẽ không quên được nàng, không phải vì Quỳnh Thi, cũng không phải vì mối tình đầu, nhưng cái chết của nàng! Tại sao nhìn những người sống mà cứ nghĩ đến cái chết? Thái không muốn nhớ tới, nghĩ tới, ngay cả em chàng! Hãy đi ra khỏi vùng trí nhớ tôi!
                       
                      Niên học mới trở lại, Thái dậy học bán thời gian cho đỡ buồn. Ngày thứ năm tuần lễ đầu, Huyền không lên như Thái đã biết trước. Chiều thứ năm khi Thái trở về nhà, Tiến hỏi ngay với một giọng gay gắt:
                      “Anh không thuê cô Huyền nữa sao?”
                      Ngạc nhiên trứơc cái giọng có vẻ gây hấn của em, Thái trả lời:
                      “Anh vẫn thuê họ đấy chứ. Cô ta đi học nên xin đổi ngày. Cuối tuần nghỉ học cô ấy mới lên”
                      Tiến dịu lại nét mặt. Hôm nay nó lại còn lấy áo của Thái mặc. Độ này Tiến hay vào phòng Thái. Nó đổi nhiều.
                      Tối hôm đó trong bữa cơm chiều, Thái chợt buột miệng khơi chuyện:
                      “Tiến này, hay mình bán nhà dọn ra phố. Ở đây buồn quá mà đi lại cũng khó khăn.”
                      Đang ăn, Tiến bỏ bát đũa xuống trừng mắt nhìn anh:
                      “Anh tính gì đây?”
                      Thái thở dài thầm, nói vuốt:
                      “Chẳng qua thấy ở đây chán quá nên anh mới nói vậy.. còn nếu như em..” Thái không nói hết câu được trong nỗi ngậm ngùi, có lẽ là dành cho mình.
                      “Em không đi đâu hết, anh muốn đi thì đi đi. Ở đây có bà Tư.. và cô Huyền được rồi..”
                      Thái nhìn Tiến, nhìn suốt qua nó. Huyền là lý do. Không gì khác. Câu nói của nó phủ nhận sự có mặt của Thái. Nó đang yêu hay sao đây? Chỉ có tình yêu mới làm thay đổi Tiến. Hay nó đang mở cửa cho chàng đi. Đã đến lúc mà Tiến muốn tách rời với chàng.
                      Hai anh em không nói gì với nhau thêm nữa. Bà Tư ngồi ăn cùng cũng không nói gì. Bữa ăn sượng ngắt trong sự u tịch vốn sẵn có của ngôi nhà chỉ có ba người với ba thế giới riêng lẻ.
                      Đêm đó Thái mất ngủ. Thức trắng trong những dằn vặt rất buồn cười của mình. Khi thấy Tiến giận dỗi đẩy mình đi, Thái lại muốn ở lại dù rằng trước đó chàng chỉ muốn đi. Cái ý tưởng bỏ đi và ở lại cứ thế mà giằng co. Mà không chỉ có thế, lại nhiều điều không muốn nghĩ đến lại ùn ùn kéo tới chỉ làm cho Thái thêm mệt mỏi nhức đầu!
                       
                      Bóng dáng bé nhỏ của Huyền thấp thoáng mỗi cuối tuần trong căn nhà như một cánh bướm bay lượn, đậu đó rồi vụt mất như nỗi reo vui ngắn ngủi, không phải cho Thái mà cho Tiến. Trông Tiến mất đi vẻ si dại, có còn chăng nữa  chỉ là vẻ si dại do tình yêu mang đến với những háo hức đợi chờ thấy rõ.
                      Đến khi Thái bị ép dậy học toàn  thời gian cũng là lúc ý tưởng rời khỏi nơi này đã trở thành một sự thật phải làm.
                      Thái nói với bà Tư:
                      “Công việc dậïy học toàn thời gian quá nhiều thì giờ, mà ở đây lại xa xôi, hàng ngày cứ đi đi về về mệt quá, tôi chắc phải dọn ra phố. Bà cứ ở đây chăm sóc hộ nhà cửa như thường nhé. Không có bà, không biết phải làm sao..! Hay bà có con cháu gì, kéo về đây ở cũng được cho thêm người”
                      Bà Tư rưng rưng nói với Thái:
                      “Thầy cứ đi đi, vài hôm lại về nhé. Thầy đừng đi luôn”
                      Bây giờ lại thêm níu kéo của người đầy tớ trung thành. Bà Tư như một vú em của cả Thái và Tiến.
                      “Không, không có đi luôn đâu. Ở đây cũng còn nhiều việc phải lo chứ. Bà cứ xem như tôi phải ra ngoài ở trọ vì công việc, rồi thỉnh thoảng tôi lại về. Tôi về để còn lo cho bà với em tôi nữa chứ.”
                      Sự thỏa thuận có vẻ như tốt đẹp và nhẹ nhàng hơn Thái nghĩ. Và Tiến  đã tách rời khỏi chàng thực sự. Bóng dáng của Huyền đã mang lại cho Tiến một sinh khí, một niềm hy vọng mới. Trong trạng thái tâm lý thay đổi của Tiến, một bộ mặt mới cho căn nhà đang ngoi ngóp cũng bừng sáng hẳn.
                      Cứ giữa tuần thì Thái về thăm nhà, thăm lại người thân, mua bán những thứ cần thiết. Thực phẩm, chợ búa đã có Huyền. Tiến cũng vui vẻ hơn và Thái thầm mong một tình cảm nào đó sẽ nẩy sinh giữa hai người để đưa đến một kết thúc tốt đẹp.
                      Hai, ba tháng trôi qua đều đặn, những người, những sinh hoạt, những phố phường, làm Thái không còn nghĩ đến căn nhà của mình ở ngoại ô, và cả Tiến. Còn Quỳnh Thi, hình như đã lui vào một bóng tối nào đó trong tâm tưởng chàng với nhiều tầng nhiều lớp của đời sống mới đè khuất.
                      Lần nào về nhà Thái cũng mong được nghe bà Tư hay Tiến nhắc đến Huyền trong một vẻ khác như một sự tiến triển, nhưng không, hình như căn nhà quanh năm thiếu nắng!
                       
                      *
                       
                      Đến mùa hè năm sau khi Huyền ghi tên học thêm để sửa soạn kỳ thi Tú Tài, nàng chọn trúng trường và ngay lớp Thái dậy tư, là lúc mà những đám mây đen bắt đầu kéo đến cùng với mùa mưa của Đà Lạt.
                      Huyền cũng chỉ như những học trò khác học với Thái, có đặc biệt hơn thì cũng chỉ vì nàng là người giúp đi chợ búa cho anh em Thái.
                      Khi Thái về nhà vào ngày thứ năm như mọi tuần, chàng thấy Tiến gầy hẳn.
                      “Em đau ốm gì không Tiến? Có một hai tuần mà thấy em gầy hẳn đi”
                      Thay vì trả lời vào câu hỏi của Thái, Tiến lại hỏi anh với vẻ nửa như gây sự nửa như tra hỏi:
                      “Anh dậy Huyền học à?”
                      Thái hiểu ngay:
                      “Ờ, nó học thêm. Mùa hè mấy bọn nhỏ ghi danh học thêm nhiều lắm. Anh cũng chẳng để ý nữa”
                      Tiến nhìn Thái như muốn dò tìm câu nói “chẳng để ý” của Thái thực hư như thế nào.
                      Thái nhìn thẳng vào mặt Tiến. Họ không chỉ nhìn nhau mà còn đang đối đầu với nhau. Ở giữa Tiến và Thái như có một bức kính trong suốt đang dựng lên. Họ nhìn thấy nhau nhưng phân cách.
                      “Em yêu Huyền.. như yêu Quỳnh Thi!” Tiến nói như một lời thú tội hơn là một cởi mở tấm lòng. Những chữ những lời rất xác quyết được ném ra như ném vào mặt Thái dội lại vào mặt kính vô hình, rung chuyển với những chấn động ngân vang trong tai chàng.
                      Ba chữ đầu làm Thái dễ chịu vì những phỏng đoán của mình là đúng, nhưng ba chữ sau như một nhát dao chém vào ngực chàng làm vỡ những mảnh bọc bên ngoài mà trước giờ Thái thấy an toàn, lộ ra những nghi kỵ đớn đau khắc khoải làm chàng không nói nổi một lời nào.
                      Vẫn giọng điệu đó, Tiến trước mặt Thái như đang hóa thân thành một kẻ nào đó mà chàng chưa từng biết đến. Tiến không còn là đứa em yếu đuối nương dựa vào chàng nữa. Cái con người đó đang trồi lên, rũ bỏ cái lớp ngoài khờ dại nhút nhát. Mắt Tiến long lên sáng ngời và thách đố:
                      “Em mất Quỳnh Thi rồi, em không muốn mất Huyền nữa”
                      Thái như đang bơi trong những nhận chìm của giông bão, chàng cứ vừa cố ngoi lên lại  bị những cơn sóng từ ngay trong tim mình trào ra phủ chụp lấy. Cái chết của Quỳnh Thi hơn lúc nào hết hiện lên rõ ràng giữa khoảng cách của hai anh em. Thái không nhìn thấy Quỳnh Thi đứng cạnh bên cây mimosa với hoa vàng trong nắng. Giữa Thái và Tiến là Quỳnh Thi với khuôn mặt dập nát, đôi mắt mở lớn đầy vẻ hoảng sợ và kinh ngạc. Đó là hình ảnh cuối cùng của nàng mà Thái muốn tìm cách xóa hẳn khỏi trí nhớ chàng. Thái đứng đó, nhìn Tiến như trong một giấc mơ với sự bất lực của mình. Chàng không muốn những hồ nghi của mình được giải đáp. Đấy là những nghi kỵ cần phải diệt bỏ như một thứ thuốc độc đang tìm cách len lỏi vào trong Thái.
                      “Anh đừng để em mất Huyền nữa”
                      Câu nói của Tiến nghe mơ hồ như ở nơi nào xa lắm giống như trong một cơn mộng dữ nửa thật nửa giả. Thái hình như có mấp máy miệng mà không nghe thấy chút âm thanh nào. Chàng đứng đó với những mảnh vụn của tấm kính vô hình ngăn đôi hai anh em rơi vỡ phủ đầy chân như muốn chôn chàng xuống mặt đất. Những mảnh kính sắc nhọn vô hình ấy đang châm chích Thái như bắt chàng phải nhỏ từng giọt máu, nhưng chàng bất lực ngay cả trong cử động của mình.
                      Tiến bỏ đi vào phòng, không nói thêm lời nào. Nó đã nói hết. Còn gì phải nói nữa?
                      Khi đã trấn tĩnh hơn, Thái nói qua loa với bà Tư mấy câu, không dùng cơm và đi về ngay. Chàng muốn chạy trốn những điều đang ám ảnh và bóp nghẹt chàng. Làm như hành động rời khỏi căn nhà ngay lúc này là một việc đường đột nhưng dứt khoát mà ở vào thời điểm khác Thái không đủ can đảm để vượt qua.
                      Căn gác trọ mới tinh chưa mang một dấu ấn và kỷ niệm nào trống rỗng và lạnh lùng lại trở thành một cái phao để Thái bám lấy. Thái cũng không ngờ là mình lại khóc được giữa  những vách tường hãy còn trắng xóa. Hay những giọt nước vừa ứa ra đó đã theo một lỗ hổng nhỏ xíu trong trái tim chàng nhỏ ra?
                      Chàng rũ ra như một thân cây đã bị rút hết nước. Thái muốn xua Quỳnh Thi ra khỏi đầu mình, đẩy hình ảnh đó xuống lòng giếng trên đỉnh đồi và dùng nắp đậy chặt kín lại. Nhưng Tiến đang gỡ tung cái nắp ra trong sự ngạo nghễ đầy tuyệt vọng của nó! Có phải Tiến đã đẩy Quỳnh Thi xuống giếng để chiếm đoạt riêng cho mình? Câu hỏi này sẽ không bao giờ được trả lời như những lần vừa chớm lên đã bị Thái gạt ngang. Đó là những hồ nghi đáng bị nguyền rủa và không thể chấp nhận được. Nhưng nó cứ nằm đó, chỉ chờ cơ hội là lại dấùy lên. Thái muốn nguyền rủa cả chính mình! Lần này nước trong trái tim chàng ứa ra nhiều hơn, hay vì lỗ thủng càng lúc càng lớn hơn?
                      Đến sáng, không biết có phải là ngày hôm sau hay không vì Thái mất đi ý niệm về thời gian, chàng thấy không còn chỗ nào cho mình ở thành phố này nữa. Phải đi thôi. Đi để sống và làm một cuộc đời, con người khác, đoạn tuyệt với những gì đã qua. Hay đấy chỉ là những giả trá đau thương biến hình? Hãy gọi đó là bất cứ thứ gì nhưng đừng nhân danh tôi để tự đày đọa tôi nữa! Thái lẩm bẩm với những bức tường trống trơn đang câm nín kia.
                       
                      *
                       
                      Mấy tuần sau Thái mới trở lại về nhà khi đã thu xếp xong mọi sự cho việc di chuyển về Sài Gòn.
                      Bà Tư buồn rầu nhưng không giữ Thái. Tiến không tỏ phản ứng nào rõ rệt, làm như đấy là chuyện không dính líu gì tới nó.
                      Khi Thái bảo:
                      “Có lẽ chúng ta đã ở bên cạnh nhau quá lâu. Em cũng cần một đời sống riêng, anh cũng vậy. Thỉnh thoảng anh sẽ về. Công việc ruộng nương cho thuê thu góp thế nào, anh nhờ cả hai bố con chú Bình. Họ sẽ lo và mang lên cho em, chỉ trả công cho chú ấy”
                      Tiến chỉ đáp:
                      “Anh tính sao cũng được”
                      Thái không mang theo một cái gì thuộc về chàng trong căn nhà này. Chàng để lại hết như muốn chôn vùi mọi sự. Thái cũng không ở lâu, làm như sợ rằng một chuyện gì đó sẽ đột ngột xảy ra làm chàng thay đổi hết mọi dự tính.
                      Khi ra cửa, Tiến đi theo. Cái bóng im lặng đó đi bên cạnh Thái xuống đến tận cổng gỗ. Tự dưng Thái thấy thương em. Suýt nữa chàng đổi ý! Vài giây chần chờ giữa một khoảng cách hẹp, bỗng dưng Tiến nắm vai Thái, một đụng chạm nhẹ nhưng bất ngờ làm Thái muốn chết ngộp trong bao tình cảm mâu thuẫn. Chàng không tìm được lời nào nói với em. Miệng môi chàng như câm nín.
                      Rồi một cái gì thật thiêng liêng, thật ấm áp từ trong Thái làm chàng cũng quàng tay bóp mạnh vai em như truyền hết cả những tình cảm và sức mạnh cho Tiến. Cả hai không nhìn nhau.
                      Trèo lên xe, rồ máy, Thái lái xe gắn máy thẳng xuống dốc. Gió tạt vào mặt Thái như mơn trớn giã từ. Chàng cầu mong Huyền sẽ yêu Tiến để không có một thảm kịch nào sẽ xảy ra trên khu đồi núi hoang vu này. Hay tất cả chỉ là sự tưởng tượng hồ nghi của Thái? Có lẽ vậy! Hãy mong thế!
                       
                      Mc Bích
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                       
                      #11
                        NgụyXưa 20.09.2013 06:37:33 (permalink)

                        Hồ Vạn Kiếp, Ấp Hà Đông, Dốc Minh Mạng ... những địa danh gợi nhớ một thời trẻ dại!
                         
                        "Quỳnh Thi" đã được mang vào thư viện. Xin cám ơn tác giả Mặc Bích.
                         
                        NX
                        #12
                          frank 20.09.2013 22:46:05 (permalink)
                          Xin cảm ơn.
                          Truyện viết để nhớ một thời ở Đà Lạt
                           
                          Mặc Bích
                           
                           
                          #13
                            frank 04.10.2013 05:58:46 (permalink)
                            Giòng sông
                             
                            Mặc Bích
                             
                             
                             
                             Tâm Thanh kéo màn nhìn ra ngoài trời. Đã hơn 7 giờ. Chưa có nắng nhưng đã sáng. Trời âm u như muốn chuyển mưa. Có tiếng động khẽ. Nàng quay lại. Bà đang lê từng bước ngắn. Cả thân hình nghiêng về một bên gậy chống.

                            “Chắc sắp mưa bà ơi!”
                            Hiểu ý cô cháu, bà lão lắc đầu:
                            “Kệ! Cứ đi! Mưa thì về. Đem theo cây dù.”
                            Định ngăn bà, nhưng rồi lại thôi. Bà lão đã chuẩn bị sẵn sàng. Hai ba lần áo trên tấm thân cao lớn lòng khòng xương xẩu. Chiếc mũ len trên đầu che bớt mái tóc bạc. Tâm Thanh đỡ bà ngồi vào xe lăn. Như mọi lần, nàng trùm chiếc chăn len mỏng lên chân bà cụ. Đặt hai chân bà lên bàn đạp. Hai tay bà lão níu lấy thành dựa hai bên. Bỗng dưng nàng chăm chú nhìn bàn tay to lớn với những ngón dài mà từng đường gân máu cuồn cuộn nổi sau làn da dầy nâu sẫm đã lốm đốm đồi mồi của tuổi già. Nàng lại chợt nhớ đến những lần bà níu lấy tay nàng đau điếng. Cái sức mạnh tiềm tàng trong thân xác già nua kia vẫn còn đó, mạnh mẽ lôi kéo hơn 75 năm dài. Đôi bàn tay như tay của một người đàn ông! Xốc vác, cứng rắn và đầy sức mạnh! Nàng rất giống bà ở khuôn mặt, nhất là đôi mắt nhỏ, dài có đuôi, đen thui như không còn thấy lòng trắng đâu cả và sâu như muốn tuột hẳn vào bên trong hốc mắt mà có lần con Liên, bạn Tâm Thanh đã bảo: “Đôi mắt của đáy vực linh hồn”. Đó phải chăng là một sự chê bai hay chỉ để nói lên một sự đặc thù không ai có? Bướng bỉnh, lạnh lùng và kiêu căng! Cũng toàn là những thứ nàng thừa hưởng ở bà! Tâm Thanh ghét những điều này quá đi, nhưng làm sao thay đổi được khi nó đã là một phần cấu trúc của toàn bộ con người nàng!
                            Cứ mỗi buổi sáng Tâm Thanh đưa bà đi một vòng ngoài trời quanh khu hai bà cháu ở, chào xã giao với vài người hàng xóm Mỹ gần đó, chừng nửa giờ lang thang rồi quay trở về và bao giờ cũng ngừng ở sau nhà, bên cạnh con sông để bà ném bánh mì vụn cho đàn vịt hoang. Sau đó Tâm Thanh đến sở làm. Nàng có nguyên ngày làm việc, giao tiếp với bạn bè. Tối về, lại hai bà cháu trong căn nhà nhỏ mà cha mẹ Tâm Thanh đã để lại với thật nhiều kỷ niệm để đôi lúc nàng cứ ngỡ cha mẹ mình vẫn còn sống, chỉ đi đâu vắng.
                             
                            Con đường hôm nay rộng hẳn ra với quá nhiều khoảng trống do đám lá dưới đất để lại. Tâm Thanh cẩn thận chọn những chỗ bằng phẳng để đẩy xe.
                            “Không lạnh lắm nhỉ?”
                            “Vâng. Chắc thể nào hôm nay trời cũng mưa.”
                             “Mưa giống ở nhà!”
                            Hai chữ “ở nhà” bà hay nhắc đến phải hiểu là quê nhà ở mãi bên kia địa cầu mà Tâm Thanh chưa bao giờ thấy, nhưng nghe kể rất nhiều đến nỗi có những khi nói chuyện với bạn bè, quen miệng nàng cũng  dùng hai chữ này trong cùng một ý nghĩa. Ở xứ này 20 năm, bà chỉ biết có hai câu: “Good morning” và “Good bye”. Sáng nào bà cũng dùng từ “Good morning” dăm lần. Chữ “Good bye” thì thỉnh thoảng khi Tâm Thanh dừng chân trên đường trao đổi vài câu với những người trong xóm, để lúc tiếp tục đoạn đường quen thuộc bà được dịp thực hành câu “good bye”. Ti Vi bà không xem, sách báo Việt ngữ thỉnh thoảng Tâm Thanh mang về bà cũng không màng. Lúc còn khoẻ bà làm vườn suốt ngày. Những giàn hoa hồng leo mà cánh hoa nhỏ xíu ngoài cổng trước, cây cam trĩu nặng trái gần hiên nhà, những nhánh hoa ngọc lan thơm sực nức vươn tay dài lùa sát rặng thông, từng bụi hoa trồng dọc theo lối vào... đều có bàn tay của bà. Ngay đằng sau vườn cảnh, thoai thoải xuống bờ sông, từng gộp đá, bụi cây không phải tự nhiên mà có, cũng phải có bà mà để đến bây giờ tuy vườn cảnh thiếu bàn tay chăm sóc nhưng cái trật tự được tạo nên vẫn được giữ nguyên vẹn. Con đường đất dẫn xuống đến sát mặt sông đã phẳng lì, chẳng còn mấy ngọn cỏ chịu nổi sức nghiến của bánh xe lăn mỗi ngày. Cánh tay của Tâm Thanh cũng nhờ những động tác kéo, đẩy mỗi ngày, dù chỉ là một đoạn đường ngắn cũng trở nên rắn chắc. Và đó là điều duy nhất mà nàng có thể làm cho bà mỗi ngày, trừ những ngày mùa đông tuyết phủ hay mưa gió hoặc bà hay cháu đau ốm. Ngoài ra bà cũng không thích đi đâu khác.
                            Những con vịt hoang hầu như cũng tự động chui vào cái khuôn khổ nhất định quen thuộc của bà. Chúng đã chực ở ngay đúng góc bờ sông đó mỗi sáng. Tâm Thanh gài thắng, để bà ngồi trên chiếc xe lăn cách bờ khoảng ba bốn sải tay. Nàng nhìn đồng hồ, còn 10 phút nữa. Để mặc bà ngồi đó với bầy vịt và gói bánh mì vụn, nàng đi lại quanh quẩn ven sông, lòng thoáng như một ngôi nhà mở toang cửa. Gần sát bờ rào, một khoảng sông chợt hũng vào một đường vòng cung. Nước sông ở khúc này chẩy xiết, đẩy những vạt nước vỗ vào bờ chao đi đánh lại nhìn mà chóng mặt. Mùa hè nàng thường ngồi đây, thả chân xuống nước rồi nghĩ những chuyện không giống ai.
                            “Tâm Thanh! “–Tiếng bà gọi nghe khàn đặc.
                            Nàng quay vội, loạng choạng suýt ngã. Bà kêu lên:
                            “Cẩn thận!... Chỗ đó nước sâu lắm. Hụt chân hay đẩy nhẹ là rơi xuống ngay”.
                            Chỗ đó nước sâu lắm! Làm sao bà biết chỗ này nước sâu? Nhưng... hình như nàng không để tâm lắm.
                            “Về hả bà?”
                            “Ừ, đi về thôi!”
                            Gói bánh mì đã sạch bách. Tiếng vịt kêu quang quác chói tai như tiếng đàn lạc giọng.
                             
                            *
                             
                            Nửa đêm chợt tỉnh giấc. Không thể nhớ nổi vừa mơ những gì. Chung quanh tối om, chỉ có một vệt sáng nhờ nhờ do chiếc màn khép không kín để hở ra. Tiếng côn trùng vẫn rỉ rả như nhắc nhở về sự có mặt của chúng. Trời chưa lạnh đủ để cướp hết sự sống của những con vật với tiếng kêu đều đặn vang lên rõ mồn một trong đêm khuya. Phải 1, 2 tháng nữa mới thấy bặt tăm để trả lại cho đêm cái mênh mông yên tĩnh đến phát sợ! Tâm Thanh cố không nghĩ đến một điều gì để dỗ giấc ngủ. Nhưng trong bóng đêm hình như con người nàng càng nhỏ bé hơn và muôn ngàn vật thể, sự kiện của ban ngày đua nhau kéo về quấy rối không yên. Từng thứ, từng vật tiếp nối chồng lên nhau, dầy cộm, hỗn độn. Bỗng dưng đâu câu nói của bà lúc ban sáng bên bờ nước lại trở về. Hình như trong  thời khắc chạng vạng nửa đêm nửa ngày, người ta tỉnh hơn, và Tâm Thanh cũng thế.
                             
                            “...Chỗ đó nước sâu lắm. Hụt chân hay đẩy nhẹ là rơi xuống ngay”. Tại sao bà biết chỗ đó nước sâu lắm? Tại sao lại nói là đẩy nhẹ? Ai đẩy ai? Giọng bà thảng thốt một cách lạ! Những câu hỏi này choán hết mọi hình ảnh khác quanh nàng. Chập chùng đan vào những câu hỏi là đôi mắt đen thui sâu hun hút của bà mà dù thời gian có tàn nhẫn đến đâu vẫn không làm phai nhạt đi được cái màu đen và chiều sâu huyền bí đó. Đôi ngươi đen  chiếm gần hết màu trắng còn lại. Nàng lại chạnh nhớ đến cặp mắt mình. Cũng y hệt như thế, làm như cái màu đen kia đã vỡ ra, tràn kín bên ngoài. Nếu nàng có đôi mắt to có lẽ cái màu đen kia sẽ bớt đi. Chỉ vì đôi mắt mình nhỏ quá! Đó là những câu hỏi vớ vẩn. Tâm Thanh tự bảo mình như thế và cố nghĩ đến những điều khác hay trở lại với giấc ngủ. Nhưng làm như giấc ngủ của đêm nay thế là đủ và những câu hỏi kia cứ trở tới trở lui. Nàng mong cho trời mau sáng.
                             
                            Khi trời he hé sáng cũng là lúc những tiếng râm ran ngoài kia thưa dần. Nhà im phắc. Không nghe thấy tiếng bà húng hắng ho hay khua khoắng gì. Chắc bà còn ngủ say. Những động tác thường nhật được nàng làm rất khẽ khàng. Từ cái vòi nước chảy cũng ri rỉ, đánh răng, rửa mặt, rón rén như kẻ trộm! Tại sao mình lại buồn cười thế nhỉ? Tâm Thanh không muốn đánh thức bà và nàng cũng chán cái giờ giấc quen thuộc như cái đồng hồ của mỗi sáng. Chán những con đường quen thuộc, chán đến từng ổ gà, từng khoảng không gian tụ lại ở góc đường, con dốc sau nhà, xuống hồ... Đấy, đấy, nàng lại sắp sửa bị mấy câu hỏi hồi đêm quấy rầy!
                            Tâm Thanh cứ dùng dằng trong  phòng riêng của mình, hết thử cái áo này rồi lại cởi ra, thay áo khác. Vất đầy trên giường. Nàng thấy thích quá. Không giống như mọi ngày. Không trang điểm. Sau một đêm mất ngủ, trông nàng giống con ma. Này! Lạ quá! Điều gì, ý nghĩ nào rồi cũng dẫn dắt đến những thắc mắc đó? Không nên tưởng tượng một điều gì!
                            Không ăn sáng, nàng định đi làm sớm. Nhưng ra đến gần cửa, nghĩ sao nàng rón rén  đến cửa phòng bà nhìn vào. Bà nằm trên giường. Vừa thấy bóng Tâm Thanh, bà nhấc tay lên ra hiệu. Tâm Thanh định bảo: “Cháu đi làm”, nhưng chợt nhìn thấy gương mặt tiều tụy khác hẳn của bà,nàng hơi hoảng hốt kêu lên:
                             “Bà không sao đấy chứ? Bà mệt ư?”
                            “Mệt quá... không dậy được! Không cử động được... sao ấy!”
                            Bà như một người khác hẳn. Tâm Thanh cuống lên:
                            “Để cháu gọi xe cứu thương!”
                            Bà chẳng nói gì. Nằm yên, nhắm mặt lại. Làm như sự hiện diện của Tâm Thanh đã quá đủ. Mái tóc xô lệch càng làm sự tiều tụy tăng lên gấp mấy lần.
                            Ngay đến con số cấp cứu 911 mà mãi nàng mới nhớ ra. Nàng chưa tỉnh hồn. Nỗi lo âu choán ngợp làm mắt nàng mọng lên. Bà nằm yên, không mở mắt. Chẳng nói thêm lời nào. Tâm Thanh sợ.
                             
                            Tiếng còi xe cứu thương rúc lên từng hồi, nghe xa xa, rồi cứ rõ dần. Tâm Thanh vội cất những giấy tờ vào ví rồi ra cửa ngóng. Tiếng còi xe, đèn chớp nháy. Buổi sáng sớm mai khét lẹt mùi khói xe, những tiếng động inh tai. Nhưng bà vẫn nằm yên trên giường, không thèm mở mắt ra gọi Tâm Thanh.
                             
                            *
                             
                            Bà bị stroke lần nữa. Nặng hơn những lần trước. Hy vọng sống chỉ chừng 20%. Lúc này khi nghe thế, Tâm Thanh tha hồ khóc. Nàng khóc cho bà, cho cả mình nữa. Cho nỗi hiu quạnh mà tất cả mọi người bỏ lại cho nàng. Ba. mẹ, rồi lần này đến phiên bà.
                            Nàng ngồi bên cạnh bà và nước mắt cứ thế mà chảy ra. Tưởng đâu những giọt nước mắt như mưa ấy sẽ đánh thức bà dậy. Để Tâm Thanh đưa bà về lại nhà, mỗi sáng lại đẩy xe trên đoạn đường quen thuộc mà mới sáng nay nàng chán ngắt khi nghĩ đến những bổn phận! Bà vẫn nằm đó, bất động trong giấc ngủ với hàng bao nhiêu dây cắm trên đầu, trên tay. Có lúc mệt quá, nàng thiếp đi trong giấc ngủ vật vã. Tiếng ú ớ làm nàng tỉnh dậy. Mở choàng mắt. Nàng  nhìn bà, trông đợi một điều gì. Bà mấp máy miệng. Những lời gì Tâm Thanh nghe không rõ. Nàng áp mặt sát gần bà, lắng nghe. Chỉ có thế rồi bà mất. Giản dị, nhanh chóng và bất ngờ. Nàng đứng trơ ra đó, không làm gì được. Nàng nhấn nút ở đầu giường. Nhiều người lắm, ra, vào, làm đủ thứ mà bà vẫn cương  quyết không trở lại.
                             
                            *
                             
                            Căn nhà dường như rộng hơn theo với nỗi hiu quạnh. Tâm Thanh chưa thấy tình yêu đâu cả. Quay đi quay lại chỉ thấy mình. Tất cả những quen thuộc của thời gian trong ngày đều thay đổi. Nàng không còn theo một thứ tự như lúc sống với bà. Những quen thuộc nhàm chán giờ lại trở thành một thiếu vắng lắm lúc đến rợn người. Cái mùi dầu xanh, mùi salonpas bà hay dùng vẫn còn thoang thoảng bám vào đâu đó, không chỉ trong phòng bà mà hình như còn đọng lại trong bếp, phòng khách và có những lúc đứng ở bờ sông sau nhà nàng cũng có cảm tưởng ngửi thấy đuợc cái mùi đó. Tâm Thanh đã nghĩ đến chuyện phải trang hoàng lại nhà cửa, thay đổi hết đi. Điều này chắc có lý và sẽ làm nàng bận rộn. Tốt thôi.
                             
                            *
                             
                            Căn nhà sực lên mùi sơn mới. Tâm Thanh phải mở hé cửa vào những ngày cuối tuần khi nàng ở nhà. Màn cửa sẽ thay nhưng phải để dành tiền đã. Nàng tự sơn lấy lại tường và cửa nhưng không may được màn. Nàng gọi Salvation army tống khứ khá nhiều đồ. Căn nhà rộng hẳn ra, mang một vẻ đồng nhất của chỉ một bàn tay và một ý thích, không táp nham như trước. Một khuôn mặt mới, thanh xuân hơn với những decor trẻ trung và Tâm Thanh thấy lòng vui hẳn lên.
                             
                            Đã sang tháng giêng mà trời đất vẫn làm nũng quá này, chẳng nóng chẳng lạnh, chẳng ra làm sao cả. Hôm thì lạnh, rồi đùng cái ngày mai lại nóng hực lên. Tâm Thanh cứ nhấp nhổm nghĩ đến chuyện ra vườn cây khuân một lô hoa hoét về trồng trước nhà cho... ra vẻ mới luôn thể. Và nàng đã đi mua bao nhiêu là hoa về thật. Sáng thứ bảy, trời không mưa nhưng âm u, Tâm Thanh đã định sẵn trong đầu sẽ trồng những thứ nào ở đâu, thế mà khi xỏ tay vào đôi găng vải thô nàng lại cởi ra và quăng đi. Có bao giờ nàng trồng cây đâu, chỉ có bà. Đã bao lâu nay, nay mới nhớ đến bà! Nỗi nhớ mông lung và xa vời, thoắt ẩn thoắt hiện như một điều gì đã qua lâu lắc nhưng không biến hẳn. Rồi nàng cặm cụi trồng hoa, không găng tay, đầu óc trống không, chỉ thấy đất, hoa và màu sắc.
                            “Này cô!”
                            Tâm Thanh giật mình nhìn lên. Tiếng Việt! Rõ ràng là tiếng Việt từ một người nam. Ai vậy? Chưa hề gặp trong đời. Nhưng lại thấy nét quen. Lạ thật! Người đàn ông chắc cũng trạc tuổi nàng. Nàng đứng lên, cái nhìn của nàng có đầy đủ ý nghĩa của một câu hỏi không cần phải thốt lên.
                            “Đây có phải nhà bà Đắc không cô?”
                            Anh ta là ai mà lại nhắc đến tên bà? Tâm Thanh tò mò nhìn anh ta nhưng khi định trả lời nàng hơi phân vân... Nhưng bà cũng đã từng ở đây nhiều năm? Nhà của bà đúng rồi!
                            “Vâng.”
                            “Có bà ở nhà chứ?”
                            Điều gì làm anh ta xác định là bà ở nhà? Anh ta phải là người quen?
                            “Bà tôi... không có nhà! “ –Tâm Thanh không muốn nói đến chuyện ra đi của bà khi chưa biết rõ mục đích của anh ta. Suốt bao năm nay có bao giờ thấy ai tìm bà đâu?
                            Sự thất vọng lộ hẳn trên gương mặt hơi thô của anh ta. Đôi mắt lồ lộ như của một ai mà nhất thời nàng chưa nghĩ ra.
                            “Thế ông bà Huyến có nhà không hả cô?”
                            Lần này không thể nói lung tung nữa được rồi.
                            “Ba má tôi... không còn nữa...”
                            Sự ngỡ ngàng làm anh ta bối rối hẳn lên. Có lẽ khi đến đây anh ta không sửa soạn cho những bất ngờ như thế. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục hỏi thêm như vớt vát:
                            “Vậy... chắc cô là con ông bà Huyến?”
                            Ơ lạ quá đấy nhé! Tại sao anh ta lại biết rõ rành mạch thế? Nhưng cũng chính những câu hỏi này làm Tâm Thanh bạo dạn hơn, nàng hỏi lại:
                            “Sao ông biết? Ông là ai?”  
                             Anh ta chỉ tay vào hai chiếc ghế sắt để dưới hàng hiên:
                                “Nói chuyện một lúc được chứ? Tôi tên là Trí. Có bà con với ba cô. Cô tên gì vậy?”
                               Trở lại với con người cố hữu, Tâm Thanh hơi tủm tỉm cười:
                               “Tôi là Tâm Thanh . Tôi phải xưng hô thế nào?”
                               “ Tôi là em của ba cô.”
                               Em của ba? Chưa bao giờ nghe thấy nói đến? Chắc em họ của ba? Trông chẳng lớn hơn nàng bao nhiêu mà Tâm Thanh phải gọi bằng chú ư?
                               “Mời... chú vào trong nhà.”
                               “Bao giờ bà về hả cô?- Anh ta vẫn gọi Tâm Thanh như thế dù nàng đã đổi cách xưng hô.
                               Mức độ gần gũi và thân thiện đã nhích lại gần hơn bởi mối liên hệ giòng tộc. Tâm Thanh đưa “chú Trí” vào nhà bằng cửa garage vì tay nàng đầy đất. Tâm Thanh xin lỗi đi rửa tay trước khi trả lời.
                               Ngồi xuống ghế đối diện với chú Trí, Tâm Thanh nói không mấy khó khăn:
                               “Bà cháu mất mấy tháng nay rồi!”
                                Chú Trí nhận câu trả lời của Tâm Thanh với một vẻ khó coi, không hẳn là đau buồn. Lúc này Tâm Thanh mới để ý trên tay chú cầm một gói gì bọc khá cẩn thận. Quà chắc? Cả chú và Tâm Thanh đều không nói gì một lúc khá lâu. Giọng chú ta hơi khác khi hỏi nàng:
                                “Bà đau sao? Có lâu không?”
                               “Không! Cũng nhanh lắm. Trước đó bà bị stroke, bị liệt nửa người, nhưng tập một hồi nên cũng khá hơn. Lần cuối cùng này nặng...”
                               “Còn ba má Tâm Thanh?”
                               “Ba má cháu bị tai nạn xe hơi cách đây 3 năm. Cũng nhanh như bà thôi. Chú bà con thế nào với ba cháu?”
                               “Tôi là em cùng cha khác mẹ với ba Tâm Thanh” –Chiếc gói vẫn nằm trong lòng chú khi trả lời.
                                Toàn là những bất ngờ! Lúc này Tâm mới thấy đôi mắt hơi lồi quen thuộc ở chú giống ai. Giống ông, trong bức ảnh trên bàn thờ trong phòng bà. Quá nhiều câu hỏi chợt đến mà không tiện hỏi. Nàng cứ chấp nhận những điều vừa biết như... những điều đã biết từ lâu.
                                 Chú Trí đặt gói giấy lên bàn rồi bảo Tâm:
                                “Khi ba tôi chết cách đây 3 tháng, đây là những điều ba tôi dặn dò trong những giờ phút cuối cùng. Tôi tưởng đến đây sẽ gặp bà. Tôi hứa với ba tôi như thế. Lời hứa này...”
                                 Nàng không biết phải nói sao. Chiếc ảnh thờ ông đã có từ lâu lắm, phải trước khi nàng ra đời. Bà và ba mẹ nàng đã thờ ông như thờ một người đã khuất từ hàng 25 năm nay, hay có thể hơn nữa chút đỉnh. Cũng nhang khói, hương hoa... nhưng cho một người chỉ vừa mới nằm xuống đây? Tâm Thanh nhìn chú Trí, lòng nặng như những ngày bà mới mất. Tưởng đâu bà, rồi ba mẹ... đã nằm hết cả ở phía đằng sau của ký ức và Tâm Thanh hoàn toàn yên ổn với cuộc đời của mình, Cái quẫy mạnh tuy thuộc về quá khứ nhưng lại mới tinh, hớp hồn nàng bằng những đợt sóng nhồi dồn dập, hết lớp này đến lớp khác. Tự dưng Tâm Thanh buồn nôn. Nước miếng đầy trong miệng nàng. Chẳng thể nói một điều gì.
                                “Bây giờ tôi chỉ biết giao cho Tâm Thanh. Hoặc là cháu cất đi, để bàn thờ hay mang ra mộ bà, sao đó, cho toại lòng người đã ra đi..”
                                Điều này có dính líu gì đến mình? Tại sao Tâm Thanh lại là người duy nhất còn sót lại trong căn nhà này để phải nhận lãnh một gửi gấm của mộït người chết gửi cho một người cũng không còn nữa? Tại sao nàng lại phải bị đu đưa giữa những rắc rối nào đó thuộc về dĩ vãng không phải của mình? Tâm Thanh muốn nói lời khước từ, phủ nhận cái trách nhiệm đó nhưng nàng không tìm được một câu nói nào để nói với người chú chỉ bằng tuổi nàng, vừa nhận họ.
                                Sự im lặng ở Tâm Thanh trong lúc này đương nhiên trở thành một chấp nhận, dù miễn cưỡng. Chú Trí dường như cũng không muốn ngồi nán lại thêm. Chú đứng lên, nhanh nhẹn nói dăm câu gì đó Tâm Thanh cũng không nghe rõ. Nàng chỉ nhớ tiễn chú ra ngoài cửa, cố gắng nói lời chào chú, rồi thôi.
                                Những cụm hoa nho nhỏ vẫn đang chờ Tâm Thanh trước nhà nằm trên thềm xi măng. Phần đất vừa xới có mầu nâu non y như những điều nàng mong đợi ở những đổi thay. Tâm Thanh ngồi sụp xuống, ói ngay trên phần đất nàng vừa xới. Cái mát rượi của bên ngoài trời làm nàng tỉnh táo. Một lúc sau, nàng vun đất chồng lên lớp bẩn từ miệng vừa thải ra. Cũng lại mới thôi!
                                Tưởng rằng sẽ tiếp tục trồng nốt được những đám hoa như đã định, nhưng nàng nhầm. Trên từng chậu hoa, trên từng đám đất nàng đều nhìn thấy cái gói giấy nâu quái ác mà chú Trí để lại. Cũng không thể cất đi đâu được, không thể bỏ ngoài mộ bà, để đâu trong nhà thì nó vẫn có đó. Bỏ đi cũng không được! Chú Trí đã tống được cái lời hứa sang cô cháu, và rồi nàng sẽ làm gì với nó đây? Chỉ có một lúc thôi với sự rắc rối này mà nàng đã không chịu nổi, huống gì kéo dài, phải giải quyết cho xong. Tâm Thanh phải được trả lại về với hiện tại và tương lai của nàng.
                                 Tâm Thanh vào nhà, mang theo chiếc gói nọ vào bếp và cẩn thận kéo từng lớp băng keo, dây cột chằng chịt quanh nó để xem thứ gì trong ấy và phải thanh toán ra sao. Bên trong, sau nhiều lần giấy là một chiếc hộp chữ nhật cao, xinh xinh. Trong chiếc hộp có một bình sứ trông như bình hoa nhưng lại không phải, đậy nút cẩn thận. Có thêm một phong thư.
                                 Có nên xé thư ra xem? Thư của ông gửi riêng cho bà. Nhưng không đọc làm sao biết ý người chết muốn gì? Đã tháo chiếc hộïp thì bóc cả thư cho tiện việc giải quyết vấn đề, Tâm Thanh thấy mình có đủ nguyên cớ để hành động như vậy. Bức thư chỉ có 2 tờ, viết một mặt giấy.
                             
                            “L ra phi mt đối mt khi nói vi em nhng điu này, nhưng tôi không làm được. Ngay đến chuyn tr li căn nhà cũ, ch đứng ngoài thôi, tôi còn không làm được na, hung h! Hai mươi lăm năm có làm em nguôi ngoai? Cho tôi t li. Em có tin rng tôi không bao gi oán gin khi em đẩy tôi xung sông không? Đúng ra, tôi phi chết lúc đó cho va lòng em. Tôi vn nghĩ em s gin d điên cung khi biết tôi đã phn bi em, nhưng không bao gi ng đến hành động cui cùng y. Lúc nhoài người lên khi mt nước tôi còn nh đôi mt và khuôn mt em. Đôi mt sâu, nhiu tròng đen hơn tròng trng và đôi môi mếu xch hiếm khi thy làm tôi đau đớn và hình nh cui cùng y đã đeo đui mãi không thôi. Như thế mc dù đon tuyt nhưng cái tình gia đôi ta không tuyt. Ngay lúc đó tôi thy mình phi đi thôi, khut mt em và con.
                            Đó là mt li lm v phn tôi. Nhưng như em vn tng nói ”Thà có hay không có”. Em đã chn dùm tôi mt la chn. Tôi đã dn dò nguyn ước cui cùng là được thiêu. Mt na tro s giao li cho em. Để làm gì h em? Tôi mường tượng em s chm chp ra b sông sau nhà, đúng ch mà em đã đẩy tôi và đổ hết đám tro này xung cho toi nguyn được ý định đon tuyt. Như thế phn nào tôi cũng tm yên n cho nhng li lm ca mình
                             
                            “Ch đó nước sâu lm! Ht chân hay đẩy nh là rơi xung ngay!” Câu nói ngày nào trở lại. Tâm Thanh thấy thương bà, thương cho sự yếu đuối không ngờ ở bà. Phải yếu đuối đến thế nào bà mới hành động như thế. Phần mềm nhất ở một trái tim cứng rắn là một điểm yếu, yếu hơn người ta tưởng. Có bao giờ tưởng tượng một con người như bà lại lụy vì tình đến thế? Mỗi ngày nhìn giòng sông, bà nghĩ gì? Nhớ gì? Nhớ đến hai chữ “đoạn tuyệt” hay nhớ đến chữ “tình”?
                             
                            Chắc Tâm Thanh sẽ mang bức thư này ra mộ bà đốt rồi trải trên mộ cùng với tro của ông. Chỉ có cái chết mới đưa ông bà trở lại với nhau. Tâm Thanh thấy dễ chịu hẳn. Nàng trở lại ra sân, trồng nốt những luống hoa để mặt tiền nhà thực sự có một cái nhìn khác. Căn nhà ở góc đường cụt này sẽ phải trở nên một căn nhà với mảnh vườn đẹp từ hai bàn tay: bà và cháu. Từ hai người phụ nữ có đôi mắt đen thui, sâu như lòng sông.
                             
                            Mc Bích
                             
                             
                             
                             
                             
                             
                            #14
                              NgụyXưa 05.10.2013 02:23:00 (permalink)
                              "Giòng Sông" đã được mang vào thư viện.
                               
                              Xin cám ơn tác giả Mặc Bích.
                               
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 38 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9