Truyện ngắn Mặc Bích

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 38 bài trong đề mục
Tác giả Bài
frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Truyện ngắn Mặc Bích - 07.09.2013 03:47:26
Những Kẻ Lạ
 
Mặc Bích
 
Project phải nộp trong vòng một tháng đối với Hương quá vội vã, không đủ thì giờ! Tám con người, cả nam lẫn nữ, và phải là những người xa lạ? Người thầy giáo đã nghĩ ra những đề tài quái gở!!! Làm quen, bắt chuyện và ghi lại, rồi nhớ và về nhà vẽ lại 8 người đó. Sao nhiều chuyện thế cho năm học cuối! Cũng chỉ là một trong những đề tài phải làm, nhưng tốn quá nhiều thì giờ, công sức. Nguyên chuyện làm quen, hỏi chuyện đã không phải dễ đừng nói đến chuyện gì khác! Hương thở dài khi đóng cửa phòng.
Chiếc thang máy mới trong khu chung cư trườn từ lầu 3 xuống lầu 1 êm ru. Bỗng dưng Hương lại nhớ cái thang máy cũ kiểu cổ được làm từ năm 1940 khi căn chung cư mới được xây. Nó xọc xạch và có những tiếng động mà thoạt tiên mới đến tưởng đâu thang máy sẽ ngưng nửa chừng hay tuột dây đi một lèo! Vậy mà bây giờ lại nhớ!
Ngày Chủ Nhật đầu tháng 9, trời đã dịu hơn với những cơn mưa bất chợt. Mưa ở Manhattan đổ xuống đột ngột như lũ. Lúc nào Hương cũng mang sẵn chiếc dù nhỏ dù không có vẻ gì là trời sẽ mưa. Phải đổi hai lần xe điện ngầm mới lên tới Central Park. Ngày nghỉ nên không đông, nhưng người ta vẫn có thói quen vội vã chạy xuống hầm chờ tàu điện đến. Chẳng ai để ý đến ai, chỉ ngong ngóng đợi. Đợi cái âm thanh rầm rập của những bánh xe, những ánh đèn loang loáng quét trên đường rầy đen đủi bụi bậm mà thỉnh thoảng vài chú chuột thành phố béo mập từ ngõ ngách nào chạy tuột ra rồi thoắt lại vụt vào bóng tối. Hương đang tiếc một ngày chủ nhật không được dậy muộn! Ước ao duy nhất trong lúc này là được ngủ vùi trên tấm nệm trong căn gác trọ chung với Erika, cô bạn gái người Đại Hàn có khuôn mặt như một con búp bê bằng vải.
 Ngồi trong tuyến xe điện đang lao đi lắc lư, Hương nghĩ đến những điều mình phải làm trong ngày hôm nay. Những chữ “phải .., phải .., phải ..” tiếp nối nhau như thúc giục và đẩy nàng nhìn tới trước. Cái nhìn của Hương chợt đụng vào gương mặt mệt mỏi chảy dài với hai bên khóe đổ xuống của một thiếu phụ da màu có mái tóc nhuộm vàng quạch, khô như cỏ cháy. Cổ áo rộng trễ một bên lộ một phần ngực trần, không thách thức mời mọc nhưng chỉ như một xác định thêm về sự mệt nhoài hiển nhiên. Bà ta cũng nhìn Hương. Cặp mắt không có mầu rõ rệt, dường như lẫn với màu da nâu vàng, lẫn với mầu tóc, lẫn cả với những ù lì trong dáng ngồi buông thả mà hai chân xoạc ra như kênh nỗi chán chường để phô bầy trọn vẹn những điều không cần nói.
Trong đầu Hương lóe lên một ý tưởng: “Đây là một đề tài tốt để vẽ! Nhưng không dễ bắt chuyện! Thái độ đó như  một căn nhà với nhiều cửa kính nhưng đóng chặt. Trong khung cảnh này cũng khó! Thì giờ cũng không có bao nhiêu. Bà ta có thể xuống bất cứ trạm nào gần nhất”.
Đúng như Hương dự đoán, thiếu phụ uể oải đứng lên ở ngay trạm ngừng đầu tiên. Bà ta đi ra khỏi toa xe như một bóng ma thất thểu. Mà có lẽ cũng chẳng ai chú ý đến ai. Ở đây là thế. Nếu mà người đàn bà có cởi tung quần áo ra ngay đó, cũng chẳng ai thèm để tâm! Người ta còn những băn khoăn khác.
Đến trạm thứ nhì, Hương theo đoàn người hối hả từ đường hầm chui lên khỏi mặt đất. Bên trên, ánh sáng vỡ lòa. Có gió mát và những tiếng kèn xe inh ỏi. Nàng sang bên kia đường, lại xuống một đường hầm khác để bắt kịp chuyến xe điện thứ hai.
Mười lăm phút sau, Hương đến Central Park. Mọi sự đều khác, đẹp đẽ hơn, sạch sẽ hơn và đương nhiên sang trọng hơn nhiều lắm.
Công viên rộng mênh mông nằm ngay giữa thành phố, thản nhiên chiếm những phần tốt đẹp nhất để trả lại cho những con người thành phố chút thiên nhiên và yên tĩnh, dù là giả tạo và tạm bợ. Có lẽ, đôi lúc người và người đều cần những giả tạo và tạm bợ đó, như cần nước, cần thở.
 
1- Thành phố đã mất
Hương lững thững khoác chiếc xắc tay khá lớn lên vai băng ngang đường số 15 Central Park Ave. để vào công viên. Vài chiếc sạp nhỏ bên ngoài bày bán kỷ vật hay hot dog. Mùi xúc xích nướng thơm lừng lẫn với mùi phân ngựa và cỏ thoảng trong gió. Hương đảo mắt tìm những mục tiêu. Phía trước nàng, vài người chạy bộ ngược chiều. Xa hơn có hai người đi bách bộ. Chắc không còn trẻ với những phần lưng hơi cong và dáng đi nặng nhọc. Người già có lẽ dễ làm quen hơn? Để xem. Những con đường trải sỏi vòng bên trong công viên lên xuống thoai thoải đưa sâu vào bên trong. Hương không còn nghe thấy tiếng xe cộ bên ngoài mấy. Bên bờ cỏ thỉnh thoảng có người ngồi dựa gốc cây đọc sách hay ngắm trời mây, nhưng khách tản bộ là nhiều nhất.
Ngang một băng đáù, người đàn ông mập mạp da đen nhánh nhe răng cười với Hương. Hàm răng trắng bóc hổng một lỗ trống ngay đàng trước với đôi môi thâm xì dầy cộm đang trễ xuống theo nụ cười. Nụ cười hiền hòa thân thiện làm Hương muốn làm quen. Mục tiêu này được đây, nàng thầm nghĩ và Hương cũng cười lại, chân dừng bước.
Ông ta nói trước:
“Trời đẹp quá!”
Trong đầu nàng nghĩ ngay đây là một người homeless. Thế này là dễ bắt chuyện lắm.
Hương khởi đầu bằng câu phụ họa:
“Hy vọng hôm nay không mưa”
“Cô bé không coi thời tiết sao? Không có mưa đâu”
Nàng tính nhanh trong đầu để làm sao đi vào vấn đề ngay. Hương chỉ có 4 ngày chủ nhật cho 8 con người!
Hương ngồi xuống băng đá cạnh ông ta rồi đưa đẩy vào chuyện luôn.
“Ông ở đây hả?”
“Tôi mới đến đây thôi. Còn cô?”
“Tôi là sinh viên, học ở đây”
Ông ta gục gặc cái đầu gọn lỏn với đám tóc xoăn tít sát da.
“Cô ở đây thích không?”
“Dạ thích chứ. Thành phố lớn, trường học cũng nhiều, nhiều thứ để học hỏi”
“Tốt, tốt lắm!”
“Ông thích thành phố này không?”
“Cũng OK thôi”
“Hồi trước ông ở đâu?” Hương xoay hẳn người để nhìn mục tiêu. Nàng cần phải nhớ từng chi tiết trên mặt người này.
Người đàn ông da đen không biết bao nhiêu tuổi, 35, 40, 50? Cái mũi bè bè thật to nằm ngay chính giữa mặt như ngăn cho phần má hai bên tách riêng, mỗi nơi một cõi. Cái đầu mũi tròn ủng khoằm xuống nhìn vành môi tim tím, tai tái đang vểnh lên trong cái trề môi kèm theo cái nhún vai khi nói:
“Ở một nơi chẳng còn nữa..”
Hương tò mò nhìn ông ta kỹ hơn nữa. Dù làn da đậm màu, nhưng dưới ánh nắng nàng vẫn nhìn thấy những nếp gấp ở trên vầng trán không cao lắm, ở hai bên mép kéo thành vệt xuống chiếc cằm vuông hơi bạnh ra. Những sợi râu xám trắng thấp thoáng ở cằm. Nàng lại hỏi:
“Là ở đâu vậy?”
“Ở một nơi không ai muốn đến nữa!”
“Chỗ nào ghê vậy?” Hương càng tò mò.
“Cơn bão Katrina thổi tôi trôi dạt tới đây”
Hương mở to mắt. Té ra ông ta không phải là người vô gia cư như nàng nghĩ. Nàng buột miệng:
“Ông từ New Orleans?”
Đôi mắt có hình tam giác vì nhích lên ở chính giữa và sụp xuống hai đầu của người đàn ông sáng lên như bắt gặp một thứ gì đang kiếm tìm. Ánh mắt đó thay cho câu trả lời.
Tự dưng Hương không biết phải nói gì hơn. Những hình ảnh trên màn hình TiVi cách đây 1 năm về những tàn phá của trận bão Katrina đã đi vào lịch sử, không ai là không biết!
“Cô học gì ở đây?”
“Tôi học về mỹ thuật. Năm cuối của chương trình này”
“Vậy thì cô nhậy cảm với những cái đẹp, cái xấu, hơn một người bình thường”
Điều này có lẽ đúng, Hương nghĩ vậy và nàng đáp:
“Tự nhiên như vậy, tôi có muốn thế đâu”
“Đó là một tài năng Trời cho, cô phải biết cám ơn đã được như thế”
“Cám ơn? .. Tôi chỉ nghĩ đến như một hướng đi. Còn ông thì sao?”
“Cô đoán coi!”
Hương lại được dịp quan sát ông ta kỹ hơn nữa. Cổ bạnh ra nối với đôi vai rộng vạm vỡ. Chiếc áo thung màu trắng cụt tay sáng rỡ trên làn da đen nghịt. Cánh tay không có những bắp thịt của một người lao động hay chơi thể thao. Mà trông ông ta cũng không có dáng vẻ của một người tất bật khuân vác nghèo nàn. New Orleans, cái tên gọi, thành phố và những cư dân, rồi đời sống.. ? Tự dưng Hương nghĩ đến nhạc jazz!
“Ông có phải là nhạc sĩ không?”
“Nếu tôi bảo đúng thì cô nghĩ sao, và ngược lại nếu tôi bảo tôi làm nghề chài lưới thì cô thấy thế nào?”
“Tôi hỏi ông có một mà ông hỏi lại hai ba!”
Ông ta, tên gì không biết, ngửa cổâ lên cười khằng khặc. Nụ cười thỏa thuê khi cả người, cả khuôn mặt, những thớ thịt rung rung nhún nhẩy thoải mái theo lồng ngực lên xuống phập phồng. Cái miệng được dịp phô bày hết bao nhiêu răng, cái còn cái mất.
“Thú vị thực!”
Hương hơi khó chịu khi có cảm giác là mình bị trêu ghẹo.
Ông ta biết ngay nên cố nín cười rồi lắc đầu:
“Tôi.. chơi nhạc.. chuyên nghiệp”
“Saxophone? Trombone? Clarinet? Drum?”
Ông ta giơ tay lên như đầu hàng khi trả lời:
“Một thứ thôi. Saxophone”
“Bây giờ ở đây, ông chơi nhạc ở đâu?”
Tất cả những nét rạng rỡ lúc ban đầu bỗng dưng biến  mất, chìm sâu dưới làn da đen xậm như  trời đang sáng bỗng dưng tối đen! Cái miệng khép lại, như câu chuyện đến đó là dứt.
Ông ta không trả lời mà Hương cũng không hỏi gì thêm. Có lẽ câu hỏi vội vàng của nàng đã đưa ra không đúng lúc. Dù sao nàng đã nhớ khá kỹ những đường nét trên gương mặt này, mục tiêu thứ nhất!
“Tôi không còn chơi nhạc nữa!”
Câu nói bất ngờ làm Hương ngạc nhiên, nhưng nàng không dám hỏi thêm. Sự yên lặng của Hương bên cạnh ông ta như  cây như cỏ quanh đây, như mây như trời trên kia, dửng dưng mà an toàn, có nghe đấy rồi bay mất, mất tiêu.
Quay sang nhìn Hương, ông ta có vẻ ngạc nhiên khi không còn thấy nàng liến thoắng như lúc trước.
“Cô không thắc mắc vì sao ư?”
Hương nghiêng đầu nhìn bầy vịt trắng bóc đang lạch bạch xuất hiện từ sau triền đồi. Có lẽ bên dưới có hồ nước? Nàng trả lời mà mắt vẫn không rời bầy vịt ở đàng kia:
“Tôi hỏi nhiều quá, làm phiền ông”
Nàng không nhìn ông ta nữa. Trí nhớ nàng đã thu thập đủ những điều phải ghi lại trên giấy.
“Không sao. Ở đây, giữa thành phố này buồn quá! Chẳng bao giờ tôi có thể nghĩ rằng mình sẽ sống ở đây. Nơi đây và nơi tôi sinh ra lớn lên sống bao năm, khác nhau nhiều quá! Sự khác biệt làm chới với. Trong biển người ở đây, mỗi người chỉ là một con số.. Chỉ có ngồi ở đây nhìn trời đất cây cỏ là mới thấy yên được đôi chút. Yên cái đầu mà không yên được .. “ Ông ta chỉ vào ngực lắc đầu: “Ở đây nó không chịu yên!”
Định không nói gì nữa, nhưng không hiểu sao trên môi Hương lại mấp máy thành một câu hỏi khác dù mắt nàng vẫn nhìn về hướng bầy vịt đang le te tiến lại gần:
“Ông có trở lại New Orleans lần nào không?”
“Một lần!”
“Ông không muốn trở về đó sống sao?”
“Không còn ai! Thành phố đã mất. Thật đấy!”
Câu nói còn hơn một tiếng thở dài, rơi vào khoảng không gian thanh thoát rồi tan loãng.
“Lần đó tôi về, tưởng là được về luôn! Thành phố, người quen đâu hết. Về thành phố cũ mà mình lại thành kẻ lạ!”
Câu trả lời đến đó rồi chìm đi, dường như có chút ký ức chợt loé lên nhưng không gầy lên nổi một hình ảnh nào rõ rệt trong khung cảnh này.
Tưởng rằng câu chuyện thế là dứt, nhưng những hạt mưa bất chợt rơi xuống, lác đác hạt to hạt nhỏ mà làm thay đổi toàn diện. Người người nhốn nháo chạy mưa, trú mưa dưới những tàn cây lớn. Những màu sắc tươi sáng của trời của đất, cây cỏ đều biến dạng theo cùng một màu ảm đạm.
Hương căng chiếc dù màu đỏ đứng dưới một cây lớn gần đó chờ ngớt mưa. Người đàn ông da đen khi nãy cũng đã đứng gần nàng từ lúc nào. Ông ta nhe răng cười:
“Cho ké với!”
Hương đưa chiếc dù lên cao theo với chiều cao của ông ta. Người đàn ông cười hiền hòa nói:
“Để tôi cầm dù cho vì tôi cao hơn cô”
Chiếc dù đỏ chỉ che được nửa phần trên, từ đầu gối trở xuống, hai ống quần jean của Hương đã đổi sang màu xanh đậm. Nàng nghĩ đến 7 hình ảnh khác nữa phải tìm kiếm. Cơn mưa làm mất thì giờ và trở ngại cho nàng! Chán quá!
Tiếng người đàn ông nói làm nàng giật mình. Hương hỏi lại:
“Xin lỗi, ông nói gì?”
“Ồ, không, có gì đâu. Tôi nói một mình.. Đứng trú mưa thế này lại.. thấy buồn!”
Ông ta lại làm nàng tò mò.
“Sao vậy?”
“Tôi nhớ đến một cơn mưa khác đã qua.. dưới hàng hiên.. Cũng mưa như thế này..”
Hương chẳng nói gì. Trước mặt nàng những vạt nước mưa thi nhau đổ xuống vội vã, chen chúc. Bầy vịt không còn thấy đâu. Nàng mong cho mưa chóng tạnh. Kể ra nói chuyện bâng quơ với ông ta cũng làm Hương đỡ nóng ruột.
“Ông không còn gia đình ở New Orleans sao?”
Người đàn ông có vẻ ngạc nhiên khi thấy Hương trở lại đề tài lúc ban đầu.
“Cha mẹ tôi đã qua đời cả. Tôi là con một, chẳng có ai”
“Vậy thì buồn quá! Nếu thế ông trở lại làm gì?”
Ông ta cười, tiếng cười lẫn trong tiếng mưa nghe không vui:
“Cô còn trẻ, có tương lai. Những người như tôi hay già hơn nữa thì chỉ còn quá khứ. Dĩ vãng thường đóng những cái đinh vô hình khó quên. Tôi trở về vì cảm thấy mình thuộc về chốn ấy. Người ta cần một nơi để trở về, cần một chỗ thân thuộc.. để bám víu. Vì vậy tôi trở lại New Orleans.”
“Ông có tìm được điều ông muốn tìm không?”
“Tôi tìm được.. điều mình không muốn tìm..”
Hương không hỏi nữa vì nghĩ là ông ta sẽ nói tiếp vì những điều người đàn ông da đen này đang nói thật trừu tượng. Những cảm nghĩ và tình cảm riêng tư đương nhiên là mông lung.
Cũng như cơn mưa, khi đã trút xuống thì không ngừng. Người đàn ông nói tiếp:
“Một năm sau thành phố vẫn ngổn ngang và hoang phế như cơn bão mới trở lại. Thành phố thoi thóp chờ đợi những cư dân trở về. Người ở lại, người trở về dường như tắt tiếng cười. Tôi chỉ gặp toàn những gương mặt ủ dột lạnh câm, gượng gạo trong nụ cười. Nhịp sống của thành phố lạc điệu. Chỉ vài hàng quán mở cửa vì không có khách. Những cái mùi quen thuộc của thành phố như mùi cà phê thơm ngát ở góc đường, mùi thức ăn hải sản, khói thuốc quyện trong từng ngách đường.. mùi trác táng.. đâu hết cả. Chỉ thấy mùi rác, mùi bùn..
Đêm đầu tiên ở New Orleans, tôi trở lại quán rượu nơi vẫn thường chơi nhạc vào cuối tuần. Đi bộ từ đầu dẫy phố mà tôi đã sợ. Cô biết tôi sợ gì không?”
“Ông sợ cướp hả?”
Người đàn ông rú lên cười, lắc đầu:
“Cô bé ơi là cô bé! Cướp nào đâu!”
“Vậy ông sợ gì?”
“Tôi sợ chạm vào sự thất vọng!”
“Rồi ông có thất vọng không?”
Không thấy ông ta trả lời. Hương quay sang nhìn. Da mặt ông ta vốn đã đen nay lại càng đậm mầu hơn. Tự dưng nàng nghĩ chắc người đàn ông này đang buồn lắm.
“Chỗ đó chính là nơi tôi muốn trở về. Ở quán rượu nho nhỏ tồi tàn và cũ kỹ, có một góc là của tôi. Với cái góc tôi tối đó, chút ánh sáng và cái kèn, tôi được hoá thân để trở thành một cái gì tuyệt diệu cho chính mình... Tuyệt vời, thật như thế!”
Lần này Hương đặt câu hỏi một cách dè dặt, dường như nàng bắt đầu cảm nhận được một điều gì đó trong những lời kể của người đàn ông da đen:
“Cái quán.. đó..” nàng không biết phải nói như thế nào, hay vì nàng sợ lại chạm vào nỗi thất vọng của ông ta?
“Quán rượu vẫn ở đó nhưng đã đóng cửa”
Tội nghiệp ông ta quá, Hương nghĩ thầm như vậy. Nhưng không hiểu sao nàng lại rụt rè nói:
“Thành thử ra ông không chơi nhạc nữa?”
“Không, tôi chơi lần cuối.. ở ngay trước cửa quán.. dù quán đóng cửa. Tôi mang kèn đi theo.. và muốn được chơi một lần.. Không có đèn sân khấu, nhưng có đèn đường. Ở khoảng cuối đường này các cửa tiệm khác đều đóng cửa, không hiểu tạm thời hay vĩnh viễn nên chẳng có một bóng người... Rác rưởi đầy đường.. Chỉ có mình tôi, nỗi buồn, thất vọng và cô độc. Chưa bao giờ tôi chơi nhạc mà lại không có khán giả. Ngày hôm ấy.. quả thực tôi chơi nhạc cho sự mất mát của chính mình, cho những lề đường không một tiếng chân người qua lại. Còn nữa chứ, cho những bảng hiệu đóng cửa nghiêng ngả, cho những ổ khóa bắt đầu rỉ sét, cho những vách tường gạch ngả rêu, và cho sự câm nín vô vọng của một thành phố mà người ta không còn muốn nhớ đến..
Tôi đã chơi nhạc liên tục cho đến khi không còn hơi sức mà thổi kèn nữa..”
Không thấy ông ta kể tiếp. Câu chuyện của ông ta buồn quá.
Cơn mưa nhẹ hạt hơn nhưng vẫn chưa tạnh hẳn. Chao ơi, mất bương một ngày Chủ Nhật rồi! Hương than thầm.
Có lẽ biết ý, ông ta nói với nàng:
“Gần tạnh mưa rồi, nếu cô cần đi thì cứ đi đi. Tôi đứng chờ ở đây không sao”
Hương nhìn dò hỏi:
“Ông OK hả? Xin lỗi tôi còn nhiều bài vở phải làm cho ngày mai. Thật ra chờ thêm một lúc nữa cũng được”
“Cám ơn.. cô bé đã kiên nhẫn nghe một người già nói lẩm cẩm..”
Hương không biết phải trả lời thế nào, nàng chỉ cười.
Nhưng rồi bỗng dưng nàng hơi áy náy vì người đàn ông này không hề biết ông ta sẽ trở thành project số 1 của nàng!
“Thôi, chào ông nhé!”
Ông ta nhếch miệng cười, nụ cười như Hương nhìn thấy thoạt ban đầu.
Chiếc dù đỏ của Hương trở thành một cái chấm rực sáng di động dưới làn mưa lất phất. Người đàn ông trung niên da đen nhìn theo cái chấm đỏ đang xa dần. Điểm màu rực sáng ấy thu nhỏ, thật nhỏ và biến vào trong mưa.. Ông ta vẫn không đổi tầm nhìn như đó là một điểm cố định. Những hạt mưa chợt thưa đi, kẽ lá xanh hơn.
 
Buổi tối cuối cùng ở New Orleans đó vẫn còn chập chờn trước mắt. Đứng ở dưới gốc cây tại Central Park mà tiếng con chó hoang mất chủ tru lên trong đêm tối ở lề đường New Orleans ngày nào vọng lên từ tâm hồn ông như nhắc đến một chốn phải trở về.
 
*
 
Tối hôm đó khi vẽ theo trí nhớ hình ảnh người nhạc sĩ da đen mà Hương đã gặp trong Central Park, nàng đã gặp gỡ ông ta một lần nữa khi nhớ đến nỗi buồn của một người không còn nơi để trở về.
Nàng định vẽ ông ta với nụ cười và hàm răng cửa với lỗ hổng nhưng không biết vì sao Hương lại ghi lại trên giấy một khuôn mặt buồn rầu như thế. Có nụ cười hiền hòa rộng mở, có lỗ hổng trên hàm răng cửa, nhưng ánh mắt xa vời và buồn bã.
Tại sao nàng lại vẽ một sự tương phản như thế nhỉ? Hay vì đấy chính là hình ảnh của người nhạc sĩ già?
                      Mặc Bích
 
* Còn 7 nhân vật nữa và cũng là 7 cuộc đời... sẽ được dàn trải...
 
 

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 07.09.2013 06:06:53
 
Tuyt tích
 
Mc Bích
 
Cái bóng người lom khom đang cúi xuống, tra chìa khóa vào cửa, một bên vai trĩu xuống vì  chiếc bị đang xách ở tay. Lần nào cũng thế, phải xoay, phải lựa, phải lắc nhè nhẹ thì cửa mới mở. Dùng vai đẩy cửa vào, cầm chìa khóa, tay với bật đèn, còn chân nhoài ra sau đẩy ập cửa. Bỏ chiếc bị ngay sát cửa, ông Tài buông mình xuống ghế, người ông thưỡn ra như một miếng thịt nằm trên thớt chờ người ta xẻo, cắt. Ông ta lười biếng ấn gót để cởi giầy, ngọ nguậy mấy ngón chân. Cái sướng đi từ mấy ngón chân lên đến đầu rồi luồn xuống hai cánh tay, bàn tay buông thõng đang ì ra như thể mượn tay ai. Lúc này đúng là ông đang phiêu diêu miền cực lạc, tận hưởng một sự bay bổng thoát hồn, nhẹ mà nặng. Cái nặng trĩu trùng xuống, dãn ra mở bung cho cái nhẹ là đà bay lên. Cổ ông tựa vào triền đệm êm đưa cái mặt xương xương trát đầy phấn trắng, đôi môi vẽ to dầy đỏ choét đang ngoác cười dù ông chỉ hơi há miệng. Những quầng đen tô quanh mắt làm đôi mắt sụp ở hai góc bỗng huy hoàng xếch lên ở khoé đuôi làm thành một gương mặt vui nhộn, thấy muốn cười. Lớp phấn trát quá trớn bữa nay trít cứng trên mặt ông như đóng mặt nạ. Đầu ông trống hoác, mọi thứ dường như tuôn chảy rì rỏ suốt đường về để đến bây giờ sạch bách. Chẳng bao lâu, ông thiếp vào giấc ngủ mệt mỏi nhưng bình thản như trẻ thơ. Cái miệng bây giờ há to hơn chút đỉnh. Tiếng thở nghe rè rè mà đều, thụt ra hít vào, không vui tai trên khuôn mặt có cái miệng cười được vẽ rộng đến gần mang tai.
Khi ngọn đèn trong phòng sáng hơn, chiều bỗng thành đêm và cái đồng hồ nằm tuột dưới bao tử bắt đầu reo, ông Tài tỉnh dậy. Mắt ông nhíu lại trước cái ánh sáng chói lòa không dịu như trong giấc mơ dở dang. Cổ họng ông khô khốc. Năm rồi mười phút. Ông đã về lại. Cứ đi rồi về, sao không đi luôn cho mọi việc trở thành giản dị?
Vào phòng tắm, trút hết mọi thứ. Đứng dưới vòi nước âm ấm, ông mắt nhắm mắt mở nhìn những giòng nước dưới chân mình loang lổ mầu.. Những lớp phấn trên mặt tan đi. Nào kỳ nào cọ, tắm thật lâu, chẳng phải để đón ai, nhưng chỉ để tẩy cho sạch cái mặt hề, một công việc làm bị đánh giá thấp nhưng đối với người yêu nghề, yêu những tràng pháo tay và tiếng cười, làm hề là một thứ tuyệt đỉnh của mọi cảm xúc, một thứ vượt thoát trèo lên khỏi mình để mang lại những niềm vui cho người khác. Người ta cần nụ cười như một thứ gia vị của đời sống. Hề mang tấm áo của tuổi thơ, hồn nhiên, dung dị, thoải mái đi thẳng vào lòng người rồi trôi tuột như nước, chẳng vướng bận. Còn công việc bán hàng bán thời gian là một sự nhàm chán còn hơn nhai và nuốt!
Tắt vòi hoa sen, choàng tấm khăn lông ba ngày chưa giặt đưa lên mũi ngửi rồi phất qua phất lại gọi là lau khô. Đứng trước tấm gương đục mù như nhìn vào một màn sương mỏng, ông xoa lên mặt gương. Cái mặt hơi phệ trong kia đang nhìn ông với vẻ hồ nghi. Ông thích nhìn cái mặt hề hơn, không muốn nhận cái thằng này, trông nó lao láo và chán bỏ mẹ! Ông Tài lẩm bẩm với cái miệng hơi mím lại trên đôi môi mỏng quẹt, hai mép hơi chẩy xuống theo đường nhăn.
Chẳng chải đầu, chẳng mặc quần áo, tồng ngồng đi ra. Vẫn cái đèn sáng loà trong phòng đón ông, vỗ trên thân thể trần trụi nửa như ngạo nửa như thách thức. Ông Tài nói trổng: “Vậy đó, làm gì nào!”. Nói xong ông phì cười một mình, chắc chắn nụ cười không được như lúc làm hề vì không có những tiếng cười và vỗ tay đáp lại!
Ở truồng một lúc lại thấy lạnh, chắc vì đói nữa, ông lục trong mớ quần áo vừa giặt hãy còn nhăn nhúm kiếm chiếc quần sọc, cả áo, trông hơi giống tù. Người-tù-thời-đại-ở-căn-nhà-số-123-đường-Tidla ngồi ăn bữa tối trước màn ảnh truyền hình với hộp cơm phần mua vội lúc chiều. Nhai mà không biết mình nhai gì. Ăn rồi nuốt, không chút hương vị. Lục trong tủ lạnh tìm được mấy trái ớt, cắn thử. Ngon! Có một tí vị mà giựt cả toàn thân. Đã! Làm hai ba trái đến khi mặt nóng bừng, nước mắt nước mũi tràn ra. Sướng! Hộp cơm chỉ vơi độ một nửa nhưng mấy trái ớt chỉ còn lại mấy cái cuống khô héo. Kể ra tìm cái sướng cũng không khó, chỉ phải đúng lúc, đúng điệu! Chuyện “đúng” đó cũng là một vấn đề! Quái, đời lắm vấn đề thế!
Cái vị của mấy trái ớt còn lại đâu đó, dư vị của cái sướng này làm nhớ đến cái sướng kia. Cái sướng trong trí nhớ là một thứ ảo, giả hình và lừa gạt một cách khốn nạn vào những ngừơi tin nó!
Màn hình trước mắt vẫn léo nhéo, chúng nó bắn giết nhau, cười cười ngả ngớn, chúng nó đang làm những chuyện trong đời người, đen trắng vàng đều thế cả. Không xem nữa nhưng không tắt. Ông Tài vẫn nhìn Ti Vi nhưng lại nhìn thấy những thứ khác, những thứ mà mới đây ông cho là ảo, là giả, là khốn nạn! Ông nhớ đến mùi thơm, đến nụ cười thật buồn và đôi mắt không nói thật, đôi mắt chẳng thuộc về ai. Tại sao ông không nhớ đến nụ cười đĩ thõa mà chỉ nhớ nụ cười buồn? Bởi vì chỉ có nụ cười gượng của Trâm mới là của ông trong một cách hiểu nào đó, trong một không gian và khoảng cách thật giới hạn giữa trái tim và cái đầu mà trí khôn đã cùn đến nửa! Trâm, Trâm.. và những mắt trước mắt sau tìm những mới lạ bất ngờ.
Màn hình Ti Vi chợt  nháng lên như tia chớp rồi tắt ngúm. Lại tắt điện! Sang đến Mỹ mà còn bị cúp điện bất tử, tư bản gì, tư bản về chiều!
Đang là những tiếng động, ánh sáng rồi bỗng tối thui. Bóng đêm đang thắt lại chung quanh ông, chỉ còn mùi đồ ăn ở hộp cơm đang ăn dở dang. Trí nhớ nhầu nát hỗn độn được dịp thay màn hình Ti Vi tranh nhau loé lên. Một buổi tối dư thừa, chắc chắn sẽ mất ngủ để đành phải bám víu vào cái đầu, sai khiến những suy tưởng của mình rồi thèm phút “tiêu diêu miền cực lạc” khi nãy!
Đèn lại bật sáng! Ông Tài vẫn còn ở trong cái thế thụ động, hơi giậït mình chút đỉnh. Ông uể oải đứng dậy ra bếp vất hộp đồ ăn thừa vào thùng rác. Trở lại phòng khách, mắt ông chợt dừng ở cái hình thù dài dài màu trắng nằm dưới sàn ngay sát cửa ra vào. Một cái thư? Không phải từ người đưa thư vì ông có hộp thư riêng. Vậy của ai?
Lá thư không có tem, không có tên người gửi? Bóc vội, nét chữ quen thuộc của Trâm làm ông thảng thốt! Làm phiền gì nhau nữa đây em? Tự dưng không muốn đọc! Em đã đi thì đi luôn cho nó xong chuyện, phiền nhiễu làm chi? Ông Tài nhất quyết không đọc và ném lá thư vào  đống báo bên cạnh ghế sofa. Cái màu trắng mới quái ác  gì đâu, cứ sống sượng đâm vào mắt mình! Thay vì ném vào thùng rác như ông muốn với sự chống đỡ yếu xìu, ông Tài nhét lá thư dưới chồng báo cũ. Sự không nỡ ném đi làm ông khó chịu đến điên người! Phải chi mình có thể làm hề ngay lúc này! Chỉ có những giây phút xênh xang với bộ quần áo xanh đỏ phủ ngoài, cái mặt trát phấn trắng như ma với cái mồm đỏ choét ngoác ra ông mới chế ngự được chính mình. Có lần cái thằng hề đó làm mọi người cười lăn trong lúc chính nó là cọng bún thiu ẻo qua uốn lại mếu máo! Trẻ con và người lớn đã cười vì sự mếu máo của thằng hề! Chỉ có mình ông mới biết rằng mình mếu thật, mếu trong cái huy hoàng của ánh đèn xanh đỏ với những tràng pháo tay tưởng như vỡ rạp. Ngày nào cũng như ngày nấy! Chắc cũng sẽ có những người tự hỏi làm sao người ta có thể làm hề mỗi ngày được như thế? Trong cái giả người ta có thể sống thật, trong cái thật người ta lại không dám sống thật!
Đêm nay có người không ngủ đi lang thang như cái bóng vật vờ, một thứ vô thừa nhận mà cuộc đời còn chê! Ở cái giờ khắc mà đêm đã chín, vơ vẩn ngoài đường phố, vào công viên.. không rình mò  mà lại thành ra rình mò! Đôi tình nhân ôm nhau dưới bóng tối đồng lõa của tàng cây cao. Ông Tài lẩm nhẩm chửi thề! Ông đang muốn chạy trốn khỏi những phiền nhiễu mà không xong! Nhưng nhịp bước đều đều của đôi chân cũng có tác động ru ngủ. Đi cho đến lúc chân muốn rục, ông quay về nhà, chui vào giường… tay còn với bấm nút đồng hồ báo thức rồi.. thăng!
 
*
 
Tiếùng nhạc nho nhỏ bật lên từ cái đồng hồ báo thức làm ông Tài tỉnh giấc. Mở mắt mà không tỉnh! Lạ, sáng nay sao im thế? Ngoài trời đã sáng nhưng im phắc! Ông Tài lồm cồm dậy, ghé gần cửa sổ vạch màn nhìn ra ngoài. Bên kia đường trước mấy căn nhà, xe còn đậu nguyên. Hôm nay chủ nhật!
Khi mặt trời đã lên cao và nóng, cái im vắng mới đây tan mất. Loáng thoáng nghe tiếng xe, tiếng người lao xao rồi cả tiếng máy cắt cỏ. Ông Tài nghĩ đến cái vườn sau nhà mà cỏ bắt đầu mọc vô trật tự. Cũng phải làm gì thôi!
Cái máy cắt cỏ của ông chạy như người hết  hơi, khặc khừ nhả khói khét lẹt, ngáp ngáp đớp cỏ. Mồ hôi vã ra thấm ướt lưng áo. Được hai phần ba sân, ông ngừng tay nằm bệt dưới sàn cỏ vừa cắt. Mùi cỏ hăng hăng xông vào mũi. Chuyện đang làm đi ra khỏi cái thời khóa biểu đều đặn trong tuần rồi cái mùi đất mùi cỏ ngai ngái cho một cảm giác mới mẻ dễ chịu.
Bỗng ông nghe có tiếng trẻ nói:
“Ê! Ông có sao không vậy?”
Ông Tài ngồi dậy tìm bằng mắt. Bên kia hàng rào mắt cáo, thằng bé da trắng tóc vàng chừng 5, 6 tuổi mặc cái quần cụt trễ xuống phơi tí bụng trắng hếu, áo thung màu vàng ngắn ngủn đang tò mò nhìn ông. Như thói quen khi làm hề, ông ngoác miệng ra cười làm điệu bộ. Thằng bé thú vị nhìn ông nhưng nó không cười. Ông Tài làm quen,nói:
“Không sao hết!” Rồi bỗng dưng ông nói vu vơ “Nằm dưới đất khoái lắm!”
Lần này nó cười, nói:
“Kiến cắn chết!”
“Sao chết được?” Ông Tài thích thú nhập vào câu chuyện.
“Mẹ tôi bảo có thể chết vì kiến cắn”
Bây giờ ông Tài cười thật. Năm sáu tuổi nó nói “Mẹ tôi bảo”, lớn chút nữa chắc cũng còn nói thế nhưng lớn hơn nữa chủ từ “mẹ” sẽ được thay thế bằng “tôi”, rồi bằng gì nữa.. nó hay một cái tên nào khác?
“Tôi bị kiến cắn hoài có chết đâu?”
Thằng bé nhìn ông bằng cặp mắt hoài nghi:
“Mẹ tôi bao giờ cũng nói đúng!”
Lại “mẹ tôi” nữa! Ông không nên đùa với chữ “mẹ” của nó mặc dù vẫn còn muốn cười. Ông lại gần hàng rào. Cái mũi hỉnh hỉnh lốm đốm tàn nhang của thằng bé trông ngộ nghĩnh hết sức! Mấy ngón tay be bé xinh xinh của nó đang níu lấy mấy mắt cáo hàng rào trông như mấy nụ hoa còn bum búp. Tự dưng ông thấy lòng mình mềm ra và nôn nao trong một tình cảm bất chợt như có lần nhìn hoa nở trong mưa bên bến sông vắng, thấy lòng chấp chới mênh mang một cảm xúc dị thường.
“Cháu tên gì?”
“Daniel”
“Tôi chưa bao giờ thấy cháu ở đây vậy?”
“Bố mẹ tôi mới dọn tới đây.” Nói xong nó cười thân thiện, nhe mấy cái răng trắng nõn mới mọc hãy còn cái cao cái thấp.
“Ông tên gì vậy?”
“Tài!”
Thằng nhỏ lại cười nữa:
“Tên gì kỳ vậy? Ông người Tàu hả?”
“Không phải Tàu, người Việt”
“Người Việt là người gì?”
Ông Tài chưa kịp giải thích với người hàng xóm tí hon thì chợt nghe tiếng người đàn bà quát:
“Danny! Đi vô nhà ngay! Làm gì ngoài đó vậy? Không có nói chuyện với người lạ!”
Một người đàn bà ngoài ba mươi gầy nhom đang xăm xoi đi tới. Không thèm nhìn mặt ông Tài, bà ta kéo thằng bé đi vào trong nhà, miệng làu bàu: “Trông đúng là phường bất lương, muốn gì thằng bé chứ?”
Ông Tài đứng chết trân!  Mặt ông đỏ lên không phải vì nắng! Thằng nhỏ theo mẹ đi vào nhà mà còn ngoái cổ nhìn lại. Quay lại nhìn sân cỏ, ông uể oải cắt nốt phần cỏ còn lại trong sân. Khoảng vườn nhỏ bỗng dưng rộng hẳn ra.
Ý nghĩ nằm dài trên ghế  nhựa uống một lon bia, ăn một chút gì trong buổi sáng chủ nhật ngoài vườn không còn mấy hấp dẫn.
 
*
 
Chủ Nhật khác ra sân sau, tình cờ ông lại nhìn thấy thằng bé đang nghịch trong vườn. Nó cũng thấy ông nên nhìn. Ông Tài giơ tay, một tín hiệu thân thiện. Thằng bé cũng giơ tay lên ngoắc ngoắc. Ông thấy vui vui, niềm vui tự nhiên nhưng biết là chỉ có thế dù muốn có người bạn nhỏ, một thứ tình không bận bịu và êm ả, chẳng níu kéo mà cũng chẳng phải giữ gìn thủ thế.
Những viên thuốc xanh đỏ phải uống mỗi sáng là một thứ câu giờ. Cái trò câu giờ nhân thế mới tào lao làm sao! Nó cứ lắt la lắt lẻo như lá úa trên cành, chờ cơn gió mạnh bứt đi. Và trước mặt chỉ là một màn hình Ti Vi không hình, không tiếng, chỉ toàn những đốm sáng giựt giựt với sự vô nghĩa loang kín mặt hình. Ông Tài đã nghĩ nhiều lần đến sự chấm dứt tình trạng câu giờ của mình. Khi nào chuyện “muốn” trở thành cụ thể? Khó hơn ông tưởng! Hóa ra trong thân xác vật vờ của ông vẫn còn chút lửa chưa chịu tắt. Rồi ông lại tiếp tục ngoan ngoãn ngốn những viên thuốc đều đặn như một thứ cầu kinh làm mê đi mọi xúc cảm, nếu còn!
 
*
 
Trâm nhìn xuống bụng mình rồi thở dài! Bao nhiêu năm sống với Tài, để đến khi chia tay lại dính cái bầu! Người ta có thể oán ghét, chán nhau mà vẫn dính bầu trong một giây phút không phải lỡ làng mà chỉ vì bị chính mình đốt, đốt cho đến mù lòa!! Toàn là những chuyện ngoài ý muốn! Nàng không biết khi nhận được cái thư Tài sẽ nghĩ sao? Trâm đã phải bỏ thư vào cửa vì biết Tài đã thuê hộp thư khác. Sự sai biệt 12 năm giữa hai người đã trở thành một khoảng cách vĩ đại khi người ta không còn yêu nữa. Hay bởi vì không còn tình yêu nữa nên nàng mới thấy những điều trước kia không nhận biết, hay đây chỉ là một cách trốn chạy mặc cảm tội lỗi, một thứ chia bớt lỗi lầm, tại anh tại em, tại cả hai đàng! Hay tại anh cả?
Trâm cũng không ngờ rằng mình dứt nhanh như thế. Không phải vì ai khác. Có ai đâu, Tài cứ tưởng như thế trong sự mù quáng ghen tương tối tăm của chàng! Bây giờ đứa con trong bụng sẽ là gì đây, chắc chắn không phải là một gạch nối vì không có gì để nối cả, Trâm chỉ muốn cho Tài biết về sự có mặt của đứa trẻ này. Bỗng dưng nàng thấy tội nghiệp cho cả ba! Tài sẽ hiểu lá thư không phải là một sự níu kéo, chắc chắn  như thế, mà chỉ là một sự bắt buộc phải thông tin. Rồi nàng lại hối hận! Lẽ ra cũng không nên báo cho Tài biết. Để làm gì chứ? Cái mầm sống lạ lùng này sẽ thay đổi Trâm ra sao, nàng tự hỏi mình nhiều lần? Điều đầu tiên là Trâm thấy quên chính mình bớt mà chỉ nghĩ đến nó.
Năm, mười ngày qua cũng không thấy Tài liên lạc. Thoạt đầu Trâm chờ đợi, tưởng tượng ra đủ thứ phản ứng của một người mình đã chung sống cả mười mấy năm. Nhưng rồi thất vọng, khó chịu, giận dỗi. Bỗng dưng lại cứ phải chờ đợi và nghĩ đến.. Tài! Thật khó chịu, không phải chỉ bực với Tài mà nàng bực cho quyết định gửi lá thư của mình! Ngu xuẩn! Không còn từ gì đúng hơn!
 
*
 
Ông Tài mua một xách bia, ít đồ nhậu. Bao lâu ông chưa nhậu và say nhỉ? Không còn nhớ nữa! Thế có nghĩa là lâu lâu lắm! Có chấm dứt thì cũng phải chấm dứt một cách vinh quang ngon lành. Giống mấy ngọn đèn trên sân khấu, khi tắt là tắt cái rụp.
Về đến nhà, ông Tài bầy mọi thứ ra bàn, mở Ti Vi dù không xem, ông cần âm thanh, bất luậïn là âm thanh gì. Không thay quần áo, mặt vẫn còn trát phấn, ngồi xuống ghế, mở chai bia. Ông uống từng ngụm, mắt nhắm nghiền như tìm trong chất nước mà ông vừa tống xuống dạ dầøy một chút tình tri kỷ nào đó. Một thứ tri âm lâu ngày không gặp. Vậy mà rốt cục cũng chẳng phải là cố nhân! Vậy nó là thứ gì? Đối với ông coi bộ chẳng thứ gì ra thứ gì!
Cả tháng nay ông Tài không uống viên thuốc nào, không muốn tiếp diễn cảnh câu giờ. Cũng có thấy khác, khác nhiều! Mà lạ, cũng không thấy hài lòng về chuyện tự mình dứt không uống thuốc. Chẳng thấy thỏa mãn về quyết định của mình. Hay mình nhầm? Không, mình đã quyết định đúng, ông nghĩ như thế và ngắm nghía lọ thuốc ngủ cực mạnh trước mặt. Muốn gì nữa? Một giấc ngủ luôn không dậy! Đó là chót đỉnh vinh quang. Vậïy mà trong ông có đứa phản bội thì thầm chửi ông “Đồ hèn!” làm ông Tài thấy lao đao trong cái rung rinh ngập nước ở tròng mắt ông, sóng sánh mà không tràn, chưa tràn thì đúng hơn! Nhưng cái thèm muốn mạnh mẽ của một ngày mai không tới có nghĩa lý quá đối với ông. Một thèm khát không tên gọi, không hình thù rỉa rói ông ngày này qua ngày khác và hiện tại đang quấn lấy ông, mơn man rồi thắt chặt, hứa hẹn một vượt thoát tuyệt diệu.. hơn mọi thứ trên đời này.
Ông Tài nốc cho bằng hết lọ thuốc ngủ rồi nằm xoài ở chiếc sofa với cái mặt hề đang cười của ông, chờ, không màng tới hai vệt nước đang không còn chỗ chứa trào ra chẩy dài trên má. Những tiếng động từ chiếc Ti Vi vẫn liên tục, nó không để ý đến người hề nằm kia. Vô tình đến thế!
 
 
*
 
Larry, lão chủ tiệm càu nhàu:
“Cái thằng Tài chắc không muốn làm nữa rồi! Hôm nay là ngày thứ tư nó không đi làm mà cũng chẳng gọi vào. Tao cho nó nghỉ luôn”
Long đỡ lời:
“Nhiều khi ông ta bịnh. Lâu nay thấy ông ta không khoẻ”
“Bịnh cũng phải nói chớ! Mày có gặp nó bảo là tao đuổi nó”
Long không nói gì thêm nhưng nghĩ đến chuyện ghé thăm ông Tài chiều nay. Hai người cùng chủng tộc màu da hiểu nhau hơn, chàng thở dài.
Khi người làm ca kế tiếp đến, Long vội vã chuyển giao như trút gánh nặng. Thay vì về thẳng khu chung cư, Long giữ ý định ghé thăm ông Tài. Chàng đã đến nhà ông ta một lần. Căn nhà nhỏ nằm trong khu lẫn lộn cả da màu và trắng. Những căn nhà phải trên 20 tuổi là ít.
Trước nhà ông Tài cả đống báo. Không lẽ ông ta đi vắng? Long ngần ngừ định đi luôn nhưng rồi xuống xe đi vào tận cửa. Chàng bấm chuông. Nhìn vào trong qua kẽ hở của chiếc màn không khép kín, thấy màn ảnh Ti Vi bật sáng. Vậy là ông ta có nhà. Long bấm chuông mấy lần vẫn không thấy ai mở cửa. Chàng ghé mắt nhìn vào lần nữa. Có đôi giầy to quá khổ, kiểu giầy của mấy bọn hề trong gánh xiệc gác lên trên thành ghế sofa. Long đập cửa gọi: “Anh Tài! Anh Tài ơi!”.
Vẫn không thấy động tĩnh gì. Nhìn vào, vẫn thấy đôi giầy kệch cỡm ở yên trong vị thế đó. Một cái gì không ổn! Long chắc chắc như thế.  Lại bấm chuông rồi đập cửa, rồi gọi. Phải gọi 911 thôi.
Khi xe cứu thương và cả xe cảnh sát đến, Long giải thích sơ sài. Họ đi vòng ra phía sau lắc cửa. Cửa nào cũng khóa chặt. Ra cửa trước, họ tông cửa vào. Một mùi hôi lợm giọng ùa ra. Xác của ông Tài đã bắt đầu có mùi!
Cái chết của ông Tài không ám ảnh Long nhiều bằng cái mặt hề quái dị của ông. Người  đàn ông có vẻ tầm thường mà chàng không biết mấy đã chọn chàng làm người khám phá ra cái chết của ông ta. Giữa Long và ông Tài không có tình cảm nào đặc biệt ngoài tình đồng hương, ngoài ra không chút liên hệ. Vậy mà chàng không thể không nhớ đến ông ta! Long không quên được cái miệng ngoác rộng đỏ chét như đang cười ngạo với chàng. Có những đêm tỉnh giấc giữa khuya, cái miệng cười lạ lùng ấy tuy không phát ra tiếng cười nhưng cứ lơ lửng trong đầu chàng như một chiếc đèn lồng ma quái và cái ánh sáng huyền hoặc từ chiếc đèn đỏ ấy chỉ ánh lên chút lửa giả tạo chập chờn mang một nỗi buồn mênh mông. Đó không phải là nỗi buồn mà là một cái gì vơ vẩn không thể chia sẻ với ai! Cái chết và niềm sợ hãi làm gì đã có trong lứa tuổi Long? Đúng là vơ vẩn chớ chi nữa?
 
*
 
Trâm ghé đến căn nhà cũ khi bụng của nàng đã khá lớn. Buổi chiều tháng bẩy, nóng đã dịu, lòng đường vẫn còn ấm mà đôi chân nàng lạnh ngắt. Trước cửa nhà, bảng “For sale or lease” cắm nghễu nghện. Nàng đứng lặng yên dù biết rằng không còn gì để nhìn. Nhưng mái nhà kia, hàng dậu ở sân trước, khung cửa.. mọi sự vẫn thế, chỉ có Tài không còn ở đó! Lần này nàng không hối tiếc đã đến đây. Ít nhất Trâm đã cố gắng. Nàng sờ tay lên bụng lẩm bẩm “Mình đã cố gắng, đã thử, nhưng sao được!”. Tài không bao giờ biết rằng chàng đã không biến mất hẳn. Tưởng rằng đã tuyệt tích, ai ngờ!
 
Mặc Bích
 
 
 

NgụyXưa
  • Số bài : 880
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 31.01.2007
  • Nơi: Thái Bình Dương
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 07.09.2013 11:41:51
"Những Kẻ Lạ" và "Tuyệt Tích" đã được mang vào thư viện.
 
Xin cám ơn tác giả.
 

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 08.09.2013 00:43:46
Xin cảm ơn.

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 08.09.2013 01:41:21
Chuyến xe ngày th năm 
 
 
Mc Bích
 
Nguyệt Quế kéo cao cổ áo,  cái lạnh đầu đông mới chớm mà đã làm buốt một bên vai.  Buổi sáng sớm và buổi chiều có lẽ cũng không khác nhau. Trời nặng một màu xám đục có vẻ như ướt mà lại khô, khô thốc vào trong mũi, cuốn cho bằng hết những mềm mại trên má, trên môi, trên đôi bàn tay đang ủ kín trong hai túi áo lạnh như tìm chỗ trú ẩn ấm áp. Mặt trời trốn kỹ sau những lớp mây dầy đặc. Những cây trồng dọc theo lề đường hè phố trơ những xương xẩu đen đủi như ám khói, chỉ còn những bụi cây rải rác nằm dưới gốc là còn một màu xanh lục tối om, cũng đang ngủ hay chết sững?
Băng ghế nhỏ chỉ đủ cho 4 người với vóc dáng trung bình ngồi đợi xe bus, cỡ mập quá khổ thì đâm thiếu. Khói thuốc của người đàn ông ngồi cách nàng dường như không chịu tan, cứ lẩn quẩn trong chu vi nho nhỏ của cái khung nhựa và chút mái che hẹp của chỗ đợi. Bà lão da màu tóc đã trắng như cước lốm đốm tí xam xám như chút tiêu của hoàng hôn đời rắc vội trên từng lớp uốn quăn quăn ngắn ngủn thưa thưa, trùm ba bốn lớp áo, cứ nhích nhích ngồi sát vào Quế để chừa một khoảng cách xa hơn giữa bà ta và người đàn ông da trắng cỡ trung niên đang thả khói  liên miên như hun thêm cái màu sương khói của một ngày thứ năm giữa tuần đang trăn trở vào đông. Quế không thấy sự cọ sát không mang tính thân thiện này của bà ta làm nàng khó chịu. Có lẽ nàng đã gặp bà ta trên cùng chuyến xe này ít nhất 2, 3 lần nhưng chưa bao giờ ngồi cạnh.
Hai đầu gối bà lão chụm lại như dồn ép sức nóng trong thân nhiệt vào một điểm. Quế thấy hai cái đầu gối ấy rung rung không biết vì lạnh hay vì bà ta rung đùi? Và nàng chợt nhếch môi cười, một nụ cười bâng quơ của sáng ngày Thứ Năm. Cũng một ngày lưng chừng chưa đi tới đâu của tuần lễ.
Chiếc xe bus xịch tới đem theo cái mùi khói khét lẹt và những tiếng thở mệt nhọc rồi thả ra một tiếng khi ngừng hẳn lại ở trạm xe đón hành khách. Cánh cửa trước mở. Vài người khách từ trong xe bus bước xuống trong một nhịp độ tương đối thong thả. Ba người chờ cùng đứng dậy nối đuôi nhau lên. Bỏ tiền hay chìa cạc rồi tìm chỗ ngồi. Quế theo sau bà lão và tình cờ họ lại ngồi cạnh nhau.
Chuyến xe mỗi ngày Thứ Năm kéo dài từ trạm chót này ra đến xa lộ chạy thẳng vào phố mất 45 phút. Người ta làm gì trong 45 phút dài ngất ngư ấy?  Đọc sách, học bài, ngủ gỡ, tán chuyện hay thiền giả với đôi mắt thả rong suốt dọc đường. May cho Quế, nàng chỉ đi chuyến xe bus này mỗi tuần một lần vào ngày Thứ Năm vì Tuân, chồng nàng cần xe để di chuyển xa thay vì như những ngày khác dùng chung xe.  Quế ở vào trường hợp nào như những loại kể trên trong 45 phút đường dài? Cũng tuỳ, nhưng học bài và ngủ không có Quế. Học gì nữa? Còn ngủ? Quế không quen ngủ giữa đám đông cho dù đôi lúc những tiếng rì rì của máy xe và những chuyển động đong đưa quyến rũ đến độ nàng ngồi ngây như tượng và hình như ngủ với đôi mắt vẫn mở mà chết mọi cảm giác.
Đoàn xe chợt chậm lại. Tai nạn trên đường. Nhưng có lẽ đã đựơc giải tỏa. Hành khách trên xe lố nhố chỉ chỏ với đôi mắt tò mò nhiều hơn thương cảm. Cũng chỉ là chuyện hàng ngày!
Bà lão bên cạnh Quế cũng nhìn ra nhưng rồi quay vào chắp tay trên ngực lầm bầm điều gì. Nàng nhìn bà lão và tự dưng muốn gợi chuyện. Nàng đợi bà ta trở lại vị thế cũ mới bắt chuyện:
“Tai nạn không tránh được phải không bà?”
Bà lão nhìn sang Quế có chút ngạc nhiên trên đôi mắt bé tí loé lên sau những lớp da chùng đè chụp trên gương mặt nhiều kẻ vạch khắc sâu hoắm:
“Làm sao được!”
Bà ta cũng như Quế, chỉ là những kẻ ngụ cư trên đất nước này với một quá khứ rời, lủng lẳng bên mình trên chặng đường còn lại với những bước chân khác, gượng gạo chập chững len vào giòng người đa chủng tìm một chỗ đứng cho mình. Tiếng Anh của bà lão khá thông suốt nhưng mang nặng tính và âm hưởng của giòng cũ. Tò mò, Quế hỏi:
“Xin lỗi, nhưng bà là người ở đâu?”
Bà lão hiểu ngay Quế muốn nói gì, trả lời:
“Tôi người Nhật, định cư ở đây cũng trên 30 năm. Còn cô sao?”
“Tôi là người Việt Nam. Ở Mỹ cũng lâu bằng bà”
“Quen chưa?”
Quế cười cười nhìn bà ta:
“Cũng quen mà cũng không quen”
Bà lão gục gặc đầu lẩm bẩm: “Quen mà không quen”.
“Bà có về lại xứ bà thường không?”
“Thỉnh thoảng. Về thăm thôi.”
“Sao vậy? Bà không muốn sống ở quê nhà sao?”
“Thì như hồi nãy cô nói đó, cũng chỉ vì cái chuyện “quen mà không quen”.  Ba mươi năm cột ở một chỗ, nhổ lên để trồng lại coi bộ không dễ. Đời người trồng đi trồng lại nhiều không tốt. Mà ở đâu quen đó, lạ vậy!”
Bà lão cũng phải cỡ bẩy mười mấy gần 80 hay 80 ngoài mà còn sắc bén như một lưỡi dao sáng loáng nhọn hoắt.
Khi nào thì người ta đang từ quen trở thành không quen hay ngược lại? Nàng chỉ trả lời một câu hỏi thông thường mà bỗng dưng sự thường ấy lại trở nên một sự gì “bất thường”! Có thể cười ngạo với chút ngậm ngùi. Mà sự thể là như thế! Đó có thể chỉ là một chuyện vu vơ đầu ngày giữa hai người xa lạ trên cùng một chuyến xe.
Đến phiên bà ta bắt chuyện trước, với giọng nói lớn hơn như đã vượt qua một mức của sự e dè tự nhiên:
“Cô tên gì? Tôi là Shima, Shima Sonoda.”
“Tên tôi là Quế”, nàng cười thân thiện và lập lại tên người bạn đồng hành với chút thích thú, rồi hỏi:
“Bà sang Mỹ cùng với gia đình hả?”
“Tôi sang đây do con gái tôi bảo lãnh. Nó lấy chồng Mỹ. Gia đình cô ở đây hết chứ?”
“Vâng. Cả gia đình tôi ở thành phố này cả”
Bà Shima bỗng dưng trở nên xa vắng, giọng bà nghe như mơ hồ lạc điệu:
“Cô là người may mắn.” Tôi không được như vậy.”
Quế tò mò:
“Bà còn con cái ở bên Nhật sao?”
Bà Shima lắc đầu:
“Ở bên đó tôi chỉ còn họ hàng xa, những người cỡ tuổi tôi chẳng còn mấy… Tôi có ba người con, một trai, hai người con gái, chết một.. trong năm 1945. Bây giờ chỉ còn lại một trai, một gái thôi”.
Quế không nói gì thêm, mà cũng chẳng biết phải nói gì. Nhưng chính bà ta lại cất tiếng:
“Cô còn trẻ hơn con gái tôi”
“Vâng, năm 1945 tôi chưa ra đời. Trông bà còn trẻ và khỏe lắm”
“Nhiều lúc tôi cứ hỏi Thượng Đế sao bắt tôi sống lâu chi thế?”
Quế bật cười:
“Trời ơi, người ta mong sống thọ, sao bà lại nói như vậy?”
“Cô thấy sống vui không? Ôi thôi, đừng để ý, tôi già hay nói lung tung!”
Câu hỏi đột ngột như chút hé cửa của một ngôi nhà ảm đạm. Nàng trả lời câu hỏi không phải của bà Shima mà cũng chính đôi lúc nàng đã tự hỏi mình như thế.
“Lúc vui lúc buồn phải không bà?”
“Cô có biết cái vô hình là cái nặng nhất không?”
Quế ngạc nhiên không hiểu:
“Cái vô hình là cái gì? Bà muốn nói..?”
“Niềm vui không phải là cái vô hình” rồi bà ta nói tiếp “Cái vô hình là cái không tan biến được. Cô có gia đình rồi chứ? Cô được mấy cháu?”
Bà Shima đi từ một sự trừu tượng sang một sự đối nghịch hiện thực. Nàng hơi ngạc nhiên, nhưng đáp:
“Vâng. Tôi được một cháu, cháu gái 15 tuổi”
“Cháu ngoại gái tôi cũng cỡ đó. Chúng nó may mắn sinh ra trong thời bình, không như mẹ nó!”
Bây giờ Quế mới để ý đến đôi bàn tay của bà Shima. Những vết sẹo chằng chịt lồi lõm không chừa chỗ nào trống cho làn da nhăn nheo với thời gian. Đấy là cái vô hình mà bà ta nói đến đây chăng?
Mà hình như  khi người ta bắt đầu nhắc đến cái riềm bên ngoài của một câu chuyện là tự dưng cứ thế lân lan đến phần bên trong. Hay là khi đã đến lúc một người cần phải thốt ra những tiếng thở dài, và Quế bỗng dưng như một sự tình cờ có mặt ở đó, để nghe, chỉ để nghe.
Nỗi vô hình không tan biến được ở bà Shima bắt đầu như sau:
“Có những điều mình quên dễ dàng giống như sáng nay tôi để quên kính ở nhà, nhưng cũng có những điều khó quên quá! Mà cũng chính những cái khó quên đó làm mình quên nhiều chuyện khác! Tôi đã mất đi một phần của mình cách đây 60 năm… Gia đình tôi ở Hiroshima vào thời điểm chiến tranh đang leo thang, năm 1945 chắc cô biết chứ? Quên! Chắc lúc đó cô chưa ra đời? –Không đợi Quế trả lời, bà ta kể tiếp- Tương đối thì vùng chúng tôi ở không đến nỗi nào trong lúc những thành phố như Tokyo hay Yokohama đã bị tàn phá nhiều. Không phải mình tôi mà cả những người sống trong vùng này đều tin rằng chiến tranh không lan tới đây.
Lúc đó tôi đã góa chồng, mặc dù mới 23 tuổi với một nách 3 đứa con nhỏ. Mới sáng sớm mà chúng tôi đã nghe còi báo động hụ phải xuống hầm trú ẩn ở sau nhà. Nhưng thời đó lúc nào cũng phải sửa soạn thức ăn mang theo khi xuống hầm trú bom vì không biết phải nằm dưới đó bao lâu, nhất là tôi có con nhỏ nên càng phải đề phòng. Trẻ con thích đồ ngọt nên lúc nào tôi cũng làm mứt vừa để dành được lâu không sợ bị hư mà trẻ lại thích. Chính cái thứ mình làm ra mà nó lại làm mình ray rứt đến như vậy!”
Kể đến đây rồi bà lão ngừng lại như để bắt thêm hơi thở hay chính là để thở ra những ký ức và những bóng tối của chiến tranh? Rồi lại kể tiếp:
“Akiko là đứa nhỏ nhất của tôi, năm đó nó được gần 3 tuổi. Nó thích mứt cam nhất. Sáng hôm đó khi tôi đang làm mứt, con bé cứ lằng nhằng đòi ăn mà tôi không chiều theo ý nó vì muốn để dành cất vào hũ, phòng khi không có gì  ăn… Vậy mà tôi tiếc... không cho nó ăn! Tại sao tôi lại có thể tiếc với con một điều nhỏ nhặt như vậy? Tôi đã để lỡ cơ hội cho một sự bày tỏ.... dù là vụn vặt!
Sáng sớm mùa hè năm ấy chúng tôi đã phải chui vào hầm sau nhà khi nghe còi báo động, nhưng chỉ lát sau lại êm. Tôi chờ một lúc rồi ra khỏi hầm trước, tay còn bế con Ariko. Vừa lên khỏi hầm  là đã thấy tai mình ù đi như bị điếc, cả trời đất sáng lòa như cả mặt trời trên kia vừa rơi xuống đây… và cái ánh sáng.. sức nóng kinh hoàng ấy cùng những cụm mây hay khói không biết nữa bốc cao làm tối sầm trời đất. Nhiệt độ tăng lên đến mức không thể tưởng tượng nổi! Chắc địa ngục thì cũng chỉ đến thế! Rồi mưa cô ơi! Những hạt mưa đen như mực. Có biết đâu chính những hạt mưa từ trời cao ấy chứa đầy chất độc.. giết người! Tôi không thể hiểu đó là cái gì nhưng như một sức hút từ trời cao, con bé tuột khỏi tay tôi… Phải nói là nó bị cướp đi mới đúng!… Hai đứa sau cũng leo khỏi hầm, chúng níu lấy tay tôi. Giống như một giấc mơ, tai bị điếc không nghe thấy gì cả, mắt thì lòa đi, đầu óc u mê ngơ ngẩn. Làm sao mà tôi cùng anh chị của nó ra được đến bờ sông Ota thì không hiểu!.. Chẳng bao giờ có thể biết được tại sao! Khi đến được bờ sông Ota, thân người chúng tôi nám đen,  rát bỏng và không còn mảnh quần áo. Còn bé Ariko.. đâu mất!  Lúc đó tôi bắt đầu tỉnh tỉnh một chút, cả ba mẹ con đi tìm con bé Ariko. Tôi gọi tên nó cho đến khi lạc cả giọng. Quanh chúng tôi là những bóng ma cháy nám với những đôi mắt thất thần! Tôi nghĩ đó là ngày tận thế!... Vậy mà.. ba mẹ con tôi là một trong 100 ngàn hibakusha còn sống sót tại Hiroshima sau trái bom nguyên tử đã đi vào lịch sử chiến tranh của con người…”
Bà Shima ngừng lại. Quá khứ sâu thăm thẳm trồi lên rồi lại tuột xuống tận đáy của một trí nhớ bạc thếch. Những nhà những cửa, trời mây vùn vụt bên ngoài theo tốc độ của chiếc xe bus như đẩy nhanh quá khứ lùi về sau. Quế lại nhìn xuống những vết sẹo trên bàn tay bà Shima. Những vết sẹo đã lành da căng cứng vì hụt, vì thiếu da, không nhăn nổi theo với quy luật của thời gian như niềm đau vô hình nhức nhối, như những vết thương tưởng đã lành mà  vẫn căng cứng  như thách đố.
Nàng buột miệng nói:
“Chiến tranh thật kinh khủng phải không bà?”
“Chiến tranh.. chẳng bao giờ hết chiến tranh cả! Mà cho dù có hòa bình thì chiến tranh vẫn còn đó, không quên được!... Chiến tranh, hòa bình là hai nửa của một vòng tròn. Vậy mà..” Bà ta ngừng lại không nói nữa.  Quế cũng yên lặng.
Bà Shima lại kể tiếp, bây giờ không phải là chuyện riêng mà là chuyện chung của những nạn nhân trong thời kỳ đó.
“Những hibakusha.. Quên! Tôi cứ quen nói như vậy! Hibakusha là những người sống sót sau vụ đó. Tôi và các con tôi cũng là một trong  những hibakusha. Chúng tôi mang một dấu ấn do chiến tranh để lại! Người ta xa lánh, kinh sợ những hibakusha vì sợ ảnh hưởng của những phóng xạ gây bệnh tật. Chuyện lập gia đình với những người liên hệ đến nạn nhân trong vụ này là một điều người ta tránh tuyệt đối! Chúng tôi trở thành như một thứ hủi bị người đời xa lánh! Đã bị thương tật đã đành, nhưng đến đời các con tôi cũng cùng chung số phận! Nhiều hãng xưởng từ chối không mướn, có những gia đình khi lấy vợ lấy chồng cho con cái còn thuê mướn người điều tra tông tích xem cha mẹ ông bà có phải là hibakusha hay không! Tôi đã giận dữ, thù hận không chỉ chiến tranh mà còn cả những người đồng chủng với mình... Khi con gái tôi lập gia đình với một người Mỹ.. và theo chồng nó về xứ sở này.. tôi đã nghĩ khác đi! Để thay đổi người ta cần phải có thời gian, cô có nghĩ vậy không? Hay mình phải vượt lên cái tầm thường để cởi bỏ hết? Đến chừng này tuổi tôi không còn thù ghét một cái gì. Giá mà tôi thay đổi được ý nghĩ của mình sớm hơn có lẽ tốt hơn”
Quế trả lời mà trong tâm đang tự vấn mình, hoài nghi về câu trả lời của mình:
“Đúng thế! Nhưng không phải dễ!”
Câu chuyện giữa hai người đến đây như dừng lại, mỗi người như lại tách ra với những ý nghĩ riêng của mình, hay vẫn cùng đề tài?
Bên ngoài trời vẫn không sáng hơn. Và buồn, như nỗi buồn vô hình của người đàn bà ngồi bên đang chở nặng trên vai hơn 80 năm không phải của một cuộc đời mà có lẽ của nhiều cuộc đời! Giống như Quế, đôi lúc nhìn lại mình của những ngày trước đây, thấy mình khác, ngay cả trong những suy tưởng và hành động. Rồi tò mò và đôi lúc phủ nhận để bảo rằng mỗi người chỉ có một cuộc đời. Hay người ta sống nhiều cuộc đời trong một đời? Đó là được hay mất? Ôi thôi, sao rắc rối quá! Như trường hợp bà Shima, thay đổi, nhưng không quên. Ngay trong những lời kể lể tuy ôn hòa nhưng vẫn trĩu nặng những mất mát. Rồi vẫn chính bà ta lại tiếp tục câu chuyện:
“Sống lâu, sống dài,  chỉ để gậm nhấm những thứ đã trôi qua. Mà càng lâu càng có thì giờ suy xét, sai có, đúng có, vô nghĩa cũng có nốt. Cái vô nghĩa nhất mà tôi thấy đó là tôi được sống mà Ariko.. chết! Đó cũng là được mà cũng là thua! Này, cô có biết đánh bạc không?”
Quế chưng hửng:
“Đánh bạc?.. À không, tôi chưa thử bao giờ”
“Cuộc đời giống như nhiều canh bạc. Ăn thì vui mà thua thì cay. Toàn hên xui cả. Tính toán vứt đi! Mà canh bạc đời.. hay cho mình nhiều bất ngờ. Thật tức!”
Có lẽ cái tức đó mà bà Shima bực đến cắt ngang câu chuyện. Hay những chuyện muốn kể cũng chỉ có thế và người kể cũng không muốn nói thêm. Hay, quá khứ phải khuất mắt đi cho người sống được sống.
Bà Shima Sonoda -tự dưng Quế nhớ cái tên này rất lâu-  và những điều bà ấy kể, nói, làm dầy thêm cuốn tự vị sống của mình, Quế bâng khuâng nghĩ như vậy. Nàng sẽ nhớ lại câu chuyện của ngày hôm nay vào lúc nào trong cuộc đời trước mặt? Nhưng chắc chắn nàng sẽ không kể cho Tuân nghe vì không muốn chồng nàng phê bình: “Em thật vớ vẩn!”.
Tuân sống nhiều hơn nghe và suy nghĩ. Nàng biết mình yên ổn bên cạnh một người giản dị không chỉ trong lối sống mà còn trong những tư duy. Nàng cần sự đơn sơ ấy để cân bằng hóa những thứ lộn xộn đang quấy rầy cái đầu nhỏ bé của mình, như những mảnh nhỏ trong câu chuyện vừa nghe còn lắng lại.
Khi xe bus rẽ vào trong phố và ngừng lại ở trạm, Quế nắm tay bà Shima hơi lâu vừa để tạo cơ hội sờ vào những vết sẹo của bà lão rồi nói:
“Cám ơn bà đã chia sẻ nhiều điều với tôi. Ngày mai nghe nói thời tiết khá hơn. Trời đẹp làm mình dễ chịu hơn phải không bà? Đâu phải lúc nào trời cũng xấu đâu, lúc này lúc kia”.
Bà Shima nhướng mắt nhìn Quế. Cái nhìn lâu, im lìm, sâu thẳm ngập đầy cái rưng rức đau xót tỉnh táo không phải chỉ trong đầu trong tim mà cả da, cả xương, rồi đọng lại ở đuôi con mắt già sụp mí. Rồi chợt nháng lên chút tia nhìn hóm hỉnh. Và để trả lại, bà ta vỗ vỗ tay Quế không nói thêm điều gì. Bà thấy mình đã nói quá nhiều trong ngày hôm nay. Một ngày trời xấu!
 
Mặc Bích
 
 
 

NgụyXưa
  • Số bài : 880
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 31.01.2007
  • Nơi: Thái Bình Dương
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 08.09.2013 10:39:50
"Chuyến Xe Ngày Thứ Năm" đã được mang vào thư viện.
 
Xin cám ơn tác giả.

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 10.09.2013 06:35:18
Xin cảm ơn

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 11.09.2013 23:32:15
NGÃ RẼ
 
Mặc Bích
 
Cơn gió thổi thốc từ phía sau làm những bước chân của Đông Nghi chợt vội vã trong những nhịp không đều. Chiếc váy dài sát vào đôi chân, hằn lên những đường cong phải có. Mái tóc nàng bay dạt về phía trước như muốn bứt tung khỏi đầu. Ngọn gió lôi nàng đi lẫn trong từng đám lá khô đang tưng bừng bay bổng. Cát, bụi, cây cỏ, trời đất và người con gái đang bị đẩy dạt về một phía duy nhất: trước mặt. Cái màu sáng trong vắt ban nãy bị nhuộm đục ngầu, mỗi lúc một âm u hơn với những đám mây xám đen nghìn nghịt đồng hành với ngọn gió dữ. Sẽ mưa. Mưa lớn. Như bão tố. Đông Nghi nhìn quanh quẩn tìm kiếm một chỗ trú mưa. Những giọt mưa đầu tiên rơi xuống ngay bờ mi nàng, trên má, lạnh, nhột, len lén chảy xuống thấm vào môi nàng, ngòn ngọt là lạ! Kỳ quặc! Không phải giọt mưa kỳ quặc mà chính nàng thấy kỳ quặc bởi sự liên tưởng của “sự len lén” và “cái vị ngòn ngọt” của đất trời kia! Giống một cái gì! Hai vành tai Đông Nghi chợt nóng lên.
Cái cổng sắt mở một nửa của căn nhà gần sát ngay đó trên đường khi cơn mưa đổ xuống là một ngã rẽ bất ngờ. Đông Nghi chạy vội vào sân trong, chẳng kịp nhìn ngôi nhà ra sao. Đứng dưới mái hiên nàng hơi rùng mình. Mấy giọt mưa làm như không chỉ thấm qua áo mà vào tận bên trong, qua làn da, rúc đến xương, rút cả người nàng lại. Lúc đầu chỉ là từng vạt nước mưa dịu dàng. Dần dà, xối xả, cuồng nhiệt hơn, tạt vào trong hiên, thăm dò hết nửa người nàng. Dù qua màn mưa Đông Nghi vẫn nhận ra cảnh vườn Nhật. Vài cây thông lùn ở mé ngoài, những bờ sỏi xám, ụ đá, những chiếc đèn lồng mà ban ngày thu hút ánh sáng mặt trời để đêm tối tỏa ra chút ánh sáng u uẩn vàng đục được treo rải rác đó đây cách mặt đất non sải tay trên những cọc bằng sắt có móc cong cắm xuống đất. Nàng tò mò đứng chếch người quay lưng nhìn vào trong nhà. Đúng là một căn nhà Nhật như Đông Nghi thường nhìn thấy trong phim ảnh. Khung cửa sổ từng ô vuông đều đặn mỏng manh trắng đục, không nhìn thấy gì bên trong nhà. Nếu như có tiếng động bên trong nhà nàng cũng không thể nghe thấy vì cơn mưa mỗi lúc một lớn hơn. Trời tối như đã 7, 8 giờ đêm. Toàn thân nàng, trừ nửa phần trên khô, từ ngang lưng trở xuống ướt nhẹp. Ánh sáng yếu ớt từ những chiếc đèn lồng trong vườn là những điểm nóng duy nhất. Nàng cứ chăm chú nhìn những điểm nóng đó để quên đi cái lạnh của chiếc váy ướt đang dính sát vào đùi.
Tiếng động ngay sát bên khi chiếc cửa chợt mở ra làm Đông Nghi đứng lùi lại sát vào vách nhà như một phản xạ tự nhiên. Một thân người thò ra. Một người đàn ông tầm thước đưa tay bật ngọn đèn nhỏ ở trước nhà. Ánh sáng bật lên, làm vỡ nát bóng âm u tăm tối trước sân. Cả ông ta và Đông Nghi đều thảng thốt. Cái nhìn thảng thốt đó đậu khá lâu trên toàn thân nàng. Đông Nghi run run cất tiếng:
“Tôi…”
Ông ta cũng mở miệng cùng lúc:
“Cô…”
Cả hai cùng ngừng và chờ đợi ở người kia. Trên khuôn mặt khó khăn của ông ta chợt nhếch lên một bên nửa nụ cười:
“Sao cô không gõ cửa? Đứng ngoài thế này ướt hết!”
Đấy là một thứ tiếng Anh gãy gọn trong một giọng nói đục và trầm, giọng nói gợi sự tò mò, không hẳn là lôi cuốn.
Đông Nghi không biết phải trả lời như thế nào và cũng không biết có thái độ ra sao trước một lời mời mọc gián tiếp được đặt trong một câu hỏi. Sự ẩm ướt dọc nửa thân người càng làm sự bối rối trong nàng tăng lên gấp bội!
Vẫn cái giọng nói đó, ông ta nhìn Đông Nghi soi mói:
“Mưa chắc còn lâu, mời cô vào nhà ngồi đợi một lát”.-Hình như đọc được sự ngần ngại ở người thiếu nữ, ông ta tiếp luôn – “Bà vú già của tôi pha trà và làm bánh ngon lắm. Bà ấy thích có khách để được dịp khoe tài”.
Những câu nói vồn vã trên một khuôn mặt không mấy tươi tỉnh dễ dãi lại là một sự bất ngờ khác mà Đông Nghi không chờ đợi.
“Vâng.. cám ơn..”
Ông ta đi trước, đẩy rộng cửa vào. Cả một khoảng ánh sáng ấm áp tràn ra ngoài. Nàng hơi chần chừ đôi chút rồi cũng bước theo. Vài đôi giầy, dép đặt ngay gần cửa trước bậc thềm thâm thấp. Người đàn ông bỏ dép, đi chân không bước vào trong trước. Ông ta chỉ đôi dép thấp màu đỏ:
“Cô đi đôi dép này cho ấm”
Thay vì bảo cho sạch! Nàng nghĩ thầm.
Đông Nghi ngoan ngoãn trút đôi giầy đã ướt sũng sang đôi dép mềm và êm chân. Hành lang được xây cao lên một nấc so với cửa ngoài. Dáng đi rất thư thả phía trước cho nàng một ấn tượng êm đềm về người chủ nhân. Ông ta không mặc đồ Nhật, chỉ là một bộ quần áo chẽn đơn giản màu đậm, không rõ là đen hay navy blue. Khi cánh cửa gỗ nâu với những ô như bằng giấy trắng đục được kéo nhẹ nhàng sang một bên, Đông Nghi bước vào một thế giới khác, khác hẳn bên ngoài hành lang trơ trụi. Căn phòng nhỏ, được nâng cao thêm một bậc nữa. Chiếc bàn vuông, thấp, đặït chéo ở một góc phòng. Quanh đó dăm chiếc gối nhỏ. Trên bàn đặt sẵn khay trà, có bình, chén trà đủ cả. Chiếc đèn lồng treo lơ lửng không xa đó tỏa ánh sáng dịu, không gắt, và rất lặng lẽ. Đứng ở ngay cửa vào, khung kính lớn đối diện đập vào mắt nàng mở rộng cả một khoảng trời bên ngoài. Màn mưa và u tối bên ngoài không cho nàng nhìn thấy gì thêm. Ở chân của khung kính, một bệ gỗ dài thấp nâng một chậu cây bonsai. Bên trái thông sang một phòng khác, không cửa ngăn. Cả căn phòng trống, thoáng và cho một cảm giác sạch sẽ, thanh khiết, trầm tĩnh.
Ông ta ngồi xuống sàn, ngay chỗ bàn trong góc phòng và đưa tay làm một cử chỉ mời mọc. Những bước chân nàng dẫm trên tấm thảm không lún nhưng êm tạo một cảm giác là lạ. Tất cả những đồ vật cũng như cách bài trí căn phòng tự dưng làm cho Đông Nghi đâm rụt rè. Ngay đến những cử động bước đi, ngồi xuống thảm của nàng cũng bị hạn chế tối đa những tiếng động. Làm như những cử động mạnh bạo sẽ khuấy đục hơi thở tĩnh lặng của căn phòng. Nàng không còn nghe thấy tiếng mưa rì rào bên ngoài. Vẫn cái giọng nói đục và trầm, ông ta bảo:
“Bà vú sẽ mang trà nóng lên bây giờ. Phải bà ấy pha trà mới ngon trong cung cách riêng của bà ta. Rồi cô sẽ thấy.”
Đông Nghi quỳ trên thảm trong một tư thế nửa ngồi nửa quỳ, cũng tạm gọi là thoải mái. Sàn trong phòng có những chỗ như được dệt bằng một thứ cói đan nhỏ và tỉ mỉ, lại chêm vào những khoảng thảm như bằng một thứ giấy hay bông, rất lạ, như một thứ hoa văn cầu kỳ cho nền thảm. Nàng quan sát kín đáo khắp căn phòng như để tránh né khỏi phải nhìn vào ông ta, một người lạ. Môi nàng hơi hé mở nhưng vẫn không thốt lên lời nào. Ông ta vẫn tiếp tục nói, làm như đang trò chuyện cùng nàng:
“Những cơn mưa mùa này thường lớn nhưng không mưa lâu. Bao giờ cũng thế, đến ào ào rồi lại rút đi nhanh!”
Câu sau hình như ông ta không có ý ám chỉ cơn mưa. Đông Nghi hơi nhếch miệng cười. Nàng không biết phải đối thoại với ông ta ra sao. Chắc chắn không chỉ là những câu nói về cơn mưa ngoài kia.
Có tiếng động khẽ khàng. Ông ta chợt đưa tay lên nói một tràng tiếng Nhật. Đông Nghi hơi quay người lại phía sau, vừa lúc nhìn thấy đúng là một người đàn bà Nhật mặc kimono màu xam xám có chữ đen đang rón rén bưng khay trà vào. Vì ngồi dưới thấp nên nàng để ý ngay đến đôi chân bao kín bí tất trắng với phần ngón cái riêng biệt với những ngón còn lại trông ngộ nghĩnh. Bà ta bước những bước ngắn có lẽ vì chiếc áo kimono bó ở phần dưới. Sáu mươi gì đó, có lẽ thế. Nàng thoải mái quan sát sự xuất hiện của người đàn bà đứng tuổi mà hai bên mai tóc đã đốm bạc. Chiếc khay sơn mài đen bóng được đặt xuống bàn. Bà ta quỳ hẳn người xuống thảm, cúi đầu chào Đông Nghi. Nàng cũng vội vàng cúi đầu đáp lễ. Trong khay có một bình trà vừa phải hình tròn có lẽ bằng đất nung. Thêm một bình khác lớn hơn. Chính giữa khay có đĩa bánh, loại gì nàng chưa trông thấy bao giờ. Bà ta dùng dao nhỏ cắt bánh. Khoanh bánh màu lục non, có nhân vàng ở giữa –chắc là đậu-, mặt trên của bánh rải một lớp gì giống vừng đen. Bà ta dùng một cái gàu nhỏ xíu, có cán gỗ thanh thanh múc khẽ nước sôi trong bình lớn rồi nâng từng chén trà lên, tráng kỹ, đổ sang một chiếc bát, rồi mới rót trà. Từng cử động nhỏ mà trang trọng. Lòng chén trà nông nhàn nhạt cho thấy nước trà xanh trong vắt, mùi ngai ngái, không thơm như trà ta. Không biết vị thế nào? Bà ta đặt đĩa bánh, chén trà trước mặt nàng, trước mặt ông ta, cúi đầu lần nữa rồi từ tốn rút êm.
Vẫn ông ta là người lên tiếng nói:
“Cô dùng thử chút trà cho ấm. Cả bánh nữa”.
Lúc này không tránh được nữa, Đông Nghi cầm đĩa bánh lên, ngước nhìn người đàn ông đối diện. Nàng khẽ mời:
“Mời ông…”
Ông ta nhìn thẳng vào mặt nàng. Đôi mắt nhỏ và hơi xếch trên khuôn mặt của một người đã qua tuổi 60 nhưng vẫn còn một nét gì đó rất trẻ còn sót lại. Lông mày đậm, dài, có đôi sợi bạc lạc vào bất tử. Những dấu vết của bao nụ cười còn hằn ở đuôi mắt với từng vệt như chân  chim. Cái mũi cao và nhọn khinh khỉnh làm cả khuôn mặt trở nên khó chịu. Đôi môi mỏng hơi mím lại như che dấu một điều gì. Đôi mắt sắc sảo đó không ngừng tìm kiếm, lướt trên mặt nàng, lạnh lẽo nhưng tỏ lộ đầy quyền uy. Đông Nghi ghét những cái nhìn như vậy. Nàng cúi xuống cầm chén trà nhấp giọng và cố tránh không nhăn mặt vì cái mùi ngai ngái đặc biệt của chén trà xanh. Vị thanh và ngọt nhưng vẫn thế nào. Không hợp khẩu vị! Vừa ăn bánh, chiếc bánh chẳng khác gì bánh đậu của ta là mấy, nàng vừa mong thầm cho trời tạnh mưa.
Thấy người thiếu nữ dừng ánh mắt ở khoảng trống thông sang phòng bên cạnh, ông ta giải thích;
“Tôi vẽ trong phòng ấy”
Đông Nghi ngạc nhiên:
“Ông vẽ tranh? Ông là họa sĩ?”
Cái nhếch mép cười nửa miệng của ông ta trông mới khó ưa làm sao khi trả lời:
“Người ta gọi tôi như thế! Cô sang xem những thứ tôi đang làm dở dang”.
“Những thứ đang làm dở dang”. Thật là một sự diễn tả kỳ quái! Nhưng cũng như giọng nói của ông ta, câu nói vừa qua cũng lại gợi trong nàng một sự hiếu kỳ. Nàng nhổm người đứng dậy tỏ ý muốn xem vì thực sự cũng không biết phải nói chuyện gì với người đàn ông này.
Ông ta bật đèn. Căn phòng sáng, sáng hơn phòng khách bên ngoài rất nhiều. Bức tranh đang vẽ dựng trên giá đưa vào mắt nàng một sự buồn thảm khốc liệt. Đen, trắng, dữ dội. Đông Nghi tiến đến gần hơn. Trên khung vải nền đen, một vòng tròn khuyết màu trắng, trắng toát. Chỉ có thế. Cái vành của màu trắng không đều, và nàng có cảm tưởng đây là một sự cố ý. Rồi chính sự không đều đặn đó đã tạo nên.. Tạo nên cái gì –Đông Nghi đang tìm kiếm từ, nghĩa của điều mà nàng đang trông thấy.
“Cô thấy sao?”
Câu hỏi cũng thẳng thừng như cái nhìn của ông ta.
Nàng buột miệng nói, gần như reo lên:
“Sự sống! Đúng rồi!”
Lần này ông ta không nói gì. Chờ đợi, có lẽ thế. Đông Nghi dường như không quan tâm đến những câu nệ của nãy giờ trong căn nhà lạ. Nàng tiến đến gần bức tranh trên giá vẽ hơn.
“Màu đen mới là nền và vòng khuyết màu trắng hay ngược lại?” - Không thấy ông ta trả lời, nàng tiếp tục tự nhiên nói lên những cảm quan của mình – “Hai thứ màu đang chen lấn nhau kìa! Màu trắng đang lấn sang màu đen. Cả cái mảng đen kia cũng vậy. Sự không đều tạo nên vẻ sinh động như vậy phải không ông?-_Đông Nghi quay lại hỏi ông ta, trên gương mặt nàng hẳn bày tỏ nhiều hứng thú.
Nàng nghĩ ông ta sẽ cười trước những nhận xét của một cô gái chỉ đáng tuổi con mình. Nhưng không. Trông ông ta khác trước. Đôi lông mày nhíu lại nhìn Đông Nghi như nàng là một thứ sinh vật lạ.
“Cô biết về hội họa?”
“Không! Tôi thích chứ không biết”
Ông ta ậm ừ cái gì đó trong miệng nửa như thở dài mà cũng có thể hiểu nghĩa khác. Gật gù, ông ta nhìn nàng:
“Cô cứ nói tiếp về những nhận xét của cô nữa đi!”
Bây giờ thì nàng cười, nụ cười đầu tiên suốt từ khi gặp ông ta đến giờ:
“Rồi ông sẽ cười tôi!”
“Tôi hứa sẽ không cười” Ông ta nói câu đó với vẻ mặt nghiêm trang khác thường.
Cũng chính vì vẻ mặt nghiêm trang đó mà nụ cười trên môi Đông Nghi chợt tắt. Nàng biết ông ta nói thật. Và cũng tự dưng thấy thú vị. Nàng yên lặng nhìn màu sắc và hình thể trần trụi trước mặt.
“Tôi nhìn thấy cả niềm hy vọng và tuyệt vọng. Cả sự xung đột nữa” - Nàng giơ tay chỉ về bên trái ở phía trên nhưng bên trong vòng tròn trắng – “Mềm mại nhưng vẫn mạnh mẽ đủ để đẩy ngược màu đen đang tìm cách xâm lấn. Nhưng màu đen nhiều quá, ông có thấy vậy không? Cái vòng tròn khuyết? Tại sao lại khuyết mà không kín?”
Ông ta thở dài:
“Đó là điều mà tại sao bức tranh này mãi không hoàn tất! Nên cho nó tròn hay khuyết? Tôi chưa biết được!”
“Ông có nghĩ chính điều này làm nên sự lạc lõng, mất định hướng không?”
Nàng không còn tránh né cái nhìn của ông ta nữa. Hình như nàng đã già đi thêm mươi tuổi nữa, hay ông ta đã trẻ lại mươi tuổi? Nhưng nàng đọc được sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên tột độ trên khuôn mặt ông ta. Đông Nghi thích thú một cách lạ thường như đang phải đương đầu với một thách đố ngoài tầm sức của mình, và chính vì vượt khả năng nên sự thách đố càng mãnh liệt.
Ông ta để mặc nàng đứng đó, bước ra phòng ngoài. Đi đâu. Nàng không biết. Đông Nghi chuyển hướng nhìn sang phía khác. Nãy giờ bức tranh đã chiếm hết sự chú ý của nàng. Nàng không thấy bức tranh nào khác trong phòng. Căn phòng cũng có cửa kính lớn nhìn ra bên ngoài. Trời đã ngớt mưa, sáng hơn. Nàng nhìn thấy rặng núi không xa lắm. Căn nhà này có lẽ nằm sát một thung lũng. Ban ngày, trời nắng có lẽ ánh mặt trời sẽ vào đầy ngập căn phòng. Sân cỏ thoai thoải. Nhiều chậu bon sai đang được tắm mưa, hạnh phúc tràn trề. Nàng nghĩ đến chuyện cám ơn ông ta rồi đi.
Vừa quay người lại, nàng giật mình! Ông ta đứng cách nàng chỉ chừng hai sải tay mà nàng không hay. Im lặng như một người thợ săn đang rình mồi. Trông ông ta buồn bã và không còn vẻ quyền uy như nàng nhận xét lúc mới vào. Nàng nói:
“Cám ơn ông”
“Cô khoan đi! Mưa chưa tạnh hẳn”
“Cô khoan đi”. Không nhiều chữ lắm nhưng bộc lộ sự níu kéo thiết tha. Níu kéo giữa hai người lạ, không biết tên nhau mà có lẽ cũng không cần biết để làm gì, là một sự bất thường hay bất tường? Nàng yên lặng. Và lại quay lại nhìn bức tranh.
“Cô có biết rằng chính sự “không biết”, “sự mù lòa” của cô về hội họa đã cho cô thấy những điều mà kẻ “biết” không thấy không? Có lẽ tôi đã nói sai! Đây không phải là sự mù lòa. Đấy là sự mất đi một giác quan giúp ta trông thấy sự vật nhưng lại giúp ta nghe được và thấy được trong một chiều kích khác. Giống như ta đi ngược vào bên trong mình để tìm kiếm những… -tôi phải diễn tả như thế nào đây?- .. thầm kín ẩn náu của chính mình cần được khám phá.. Cô bé ơi! Tôi đang nói lung tung.. theo cái nhịp hỗn loạn của trái tim tôi. Có lẽ tôi mất định hướng như cô nhận xét thật. Đứng từ dưới đáy vực nhìn lên khoảng trời xanh bao la, tôi không ước ao với tay đụng bầu trời đó.”
Sự xúc động nảy sinh trong nàng. Nhìn lại bức tranh, nàng hình dung vòng tròn khuyết màu trắng được kín, trọn vẹn, để sự xung đột cứ tiếp diễn, mãi hoài. Ánh sáng ấm, vàng trong căn phòng khách đã thay đổi. Ngoài trời đã tạnh mưa. Những đám mây đen đã rủ nhau bỏ đi. Bầu trời chắc lại trong. Biết đâu hửng chút nắng. Nàng khẽ khàng nói với ông ta như nói với một người thân quen lâu đời:
“Đã hết mưa. Tôi phải đi. Cám ơn ông đã cho uống trà, ăn bánh và.. xem tranh”
Ông ta chẳng nói gì thêm, đưa nàng ra cửa. Đi trước dẫn lối như lúc vào.
 
………………………………..
 
“Áo lạnh đây cưng!”
Không thấy vợ nói gì. Tuyên lo âu choàng áo lên vai nàng:
“Em không sao chứ Đông Nghi?”
Nàng quay lại nhìn Tuyên, ánh mắt xa xôi đôi chút ngỡ ngàng. Nàng hỏi lại:
“Anh nói gì?”
“Trông em lạ quá. Đi ra xe lấy chiếc áo, trở lại thấy em như ai đâu”
Vẫn để hờ chiếc áo len khoác trên vai, Đông Nghi nhìn lại bức tranh trước mặt. Nền đen, vòng tròn trắng. Không khuyết. Có một vết nứt rất nhỏ, phải chăm chú nhìn kỹ lắm mới thấy như một vết nối.  Hàng chữ nhỏ bên dưới:
“Jiro Yoshihara (1905-1972),
To Martha’s Memory, 1970, Japanese.
Oil on canvas, 73 x 92cm.”
Nàng lẩm bẩm:
“1972… 1972…”
Tuyên đỡ lời kèm với nụ cười cố hữu tinh nghịch của anh:
“1972. Lúc đó em mới có 10 tuổi”
Đông Nghi lập lại lời của Tuyên: “Mới có 10 tuổi..”. Chung quanh nàng, những bức họa khác trên tường của phòng tranh Albright-Knox Art Gallery đang triển lãm hình như nhắc nhở nàng về thời gian hiện tại: 2002! Nàng đang ở New York, với Tuyên, trong một phòng tranh.. của tháng 2 năm 2002. Năm 2002..? Chỉ có chừng 15 phút khi Tuyên ra ngoài lấy áo để nàng đứng một mình trước bức tranh? Mười lăm phút của hiện tại mà lại là cả một thời gian gặp gỡ người họa sĩ của quá khứ? Một người đã khuất! Cũng không thể gọi là quá khứ! Cái gì đã qua đi được xếp loại thành quá khứ. Nhưng những điều vừa qua đi như một giấc mộng có thật mà chỉ riêng nàng cảm nghiệm được. Đông Nghi tin chắc rằng ngày mai, ngày kia nàng trở lại đây, đứng ngay chỗ này để tìm lại một giấc mộng, một sự kiện như thế chắc chắn sẽ không xảy ra.
Đông Nghi nhìn kỹ lại bức tranh, phần trên, bên trái, vòng trong của vòng tròn trắng, một khoảng trồi ra nhiều hơn, đúng như nàng đã “thấy”. Và cái vòng tròn khuyết đã kín. Kín như nàng đã hình dung. Sự sống động và khốc liệt của bức tranh vẫn thế. Ông ta không còn nữa, không vẽ nữa, nhưng linh hồn mãi mãi không tan biến. Sự xúc  động vẫn còn đọng lại trong nàng, mới tinh khôi. Nàng còn nhớ cả mùi sơn dầu thoang thoảng. Cả vị của chiếc bánh đậu vẫn còn nằm trên đầu lưỡi. Nhưng câu hỏi: “Tại sao ông lại chọn tôi?” sẽ không bao giờ có câu trả lời.
 
Mc Bích
 
Ha sĩ Jiro Yoshihara (1905-1972) là cha đẻ ca trường phái Gutai (Biu hin) ti Nht. Sau khi ông qua đời, nhóm 18 ha sĩ tr Nht này đã tan rã. Bà Martha Jackson là người đã gii thiu nhóm Gutai và nhng tác phm ca h đến gii thưởng ngon Hoa K t thp niên 50 trong phòng tranh ca bà. Bc tranh “To Martha’s Memory” ông Jiro Yoshihara v riêng tng bà, hin nm trong Albright-Knox Art Gallery ti Buffalo, New York. Ha sĩ Yoshihara qua đời đột ngt năm 1972, 2 năm sau khi bc ha trên đã hoàn tt.
Ch tr ha phm và  tác gi bc tranh là có tht, câu chuyn trên ch là hư cu trong s tưởng tượng ca mt người yêu tranh.
 
 

NgụyXưa
  • Số bài : 880
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 31.01.2007
  • Nơi: Thái Bình Dương
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 12.09.2013 04:08:39
"Ngã Rẽ" đã được mang vào thư viện.
 
Xin cám ơn tác giả đã đóng góp cho thư quán những tác phẩm đắc ý.
 
NX

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 12.09.2013 23:55:57
Xin cảm ơn.

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 20.09.2013 01:05:54
 
Qunh Thi
 
Mặc Bích
 
Tôi ngồi trước  máy điện toán. Màn hình của computer trắng xóa, trống trải nhưng không rỗng, và chờ đợi. Chờ một điều gì đó sẽ xảy ra, ở đằng sau cái màu trắng lạnh lẽo câm nín kia. Tôi không làm chủ màn hình trước mặt. Tôi chỉ tuân phục và kiên nhẫn chờ một bí ẩn sẽ được hé lộ. Những thôi thúc trong tôi chỉ là những háo hức chờ đợi chứ không tìm kiếm. Một hình ảnh, một khung cảnh, khuôn mặt, con người, sự vật sẽ đến làm thành một cuộc phiêu lưu kỳ thú. Tôi sẽ được sống trong một không gian, thời gian khác với hiện tại, mọi sự đều khác, tất cả đều biến đổi như dưới nhiều lăng kính khác nhau. Bước ra khỏi mình, đi vào một thế giới khác. Điều gì đang chờ đợi tôi ở sau màn hình kia? Ngày hôm nay chưa gặp, có thể ngày mai, hay một tuần, một tháng sau đó. Rồi như một sự chọn lựa đã định sẵn, một hôm tôi nhìn thấy không phải trên screen computer, mà xuyên qua đó, dội ngược vào đầu tôi, len lách, khuấy động như có chút kích thích, một khuôn mặt, nhiều khuôn mặt chưa bao giờ gặp lẫn với những cảm thông lạ lẫm tưởng như tôi đang không chỉ gặp mặt đối mặt mà còn bước hẳn vào trong những con người ấy, không chiếm đoạt nhưng lục lọi tìm tòi những ký ức, tình cảm, cuộc đời.. Đây không phải là một sự xâm phạm có tính cưỡng bức mà là một đầu hàng của phía bên kia mang tính tình nguyện chẳng khác gì một sự dâng hiến trọn vẹn của một người con gái. Thế là câu chuyện tôi sắp viết sau đây bắt đầu từ đó. Tôi có cần phải giải thích thêm nữa vì sao những nhân vật đó lại mang tên này hay tên kia mà không phải là một tên gì khác? Có lẽ không, bởi vì chính tôi cũng không hiểu những cái tên ấy đến từ đâu? Nhưng điều đó có gì quan trọng? Những con người và cuộc đời ấy mới là chuyện.
 
Những căn nhà  một từng là những villa thời Pháp thuộc cũ còn sót lại nằm trên  ngọn đồi không cao lắm, cách nhau bằng những rặng thông quanh năm không đổi mầu. Cái màu xanh đậm không đổi thay rì rào trong gió như những tiếng rên nho nhỏ nhàm chán, để rồi đổi giọng rên xiết khi vào mùa mưa dưới những cơn mưa dai dẳng buồn tẻ có khi kéo dài hàng vài tuần lễ làm sũng những lớp đất thành lầy lội. Những giòng nước tuôn như suối làm con dốc nhỏ trải nhựa nứt ra, xẻ phần thịt đất đỏ bên dưới, nước tuôn vào kẽ nứt tung hoành những đường xoáy  và con đường duy nhất dẫn xuống dưới chân đồi không được tu sửa lại càng trở thành một thứ chướng ngại cho xe cộ lên xuống. Dưới chân đồi những thửa ruộng nối tiếp nhau liền liền làm thành những khoang vuông vức đủ loại. Người dân ở đây trồng đủ thứ loại rau, trái, quanh năm không lúc nào thấy đất trống phơi mình dưới nắng hay mưa.
Thái lấy khuỷu tay di di trên mặt kính trước nhà nhìn ra ngoài. Cơn mưa hình như đã bị đóng chốt ngay tại đây, không còn thể di chuyển đi đâu khác nữa. Nẹp gỗ quanh những ô kính cửa sổ ẩm như nước bắt đầu rỉ ra từ những thớ gỗ len vào đến tận trong. Chàng ngửi thấy cả cái mùi ẩm ướt, thoang thoảng có mùi mốc, không biết từ bên ngoài hay ở trong nhà. Tiếng gió rít lùa qua những rặng thông, tạt những màn mưa trắng đục như những màn luân vũ ngoạn mục, thoạt đầu mơn trớn êm tai, dần dà sắc và veo véo nghe rợn người. Những thửa ruộng xa xa dưới kia đã ngập nước. Nước từ những triền đồi đổ xuống và với cơn mưa triền miên mấy ngày qua đọng lại ngập hết những luống rau. Tội cho dân ấp Hà Đông!
Chàng nghĩ đến bể nước mưa sau nhà hẳn đã ngập, khéo mà tràn vào trong nhà! Chiếc bể xi măng đựng nước mưa cao đến hai phần ba thân người trung bình được xây ngay trong căn phòng sát bếp để chứa nước uống cũng như tắm giặt vì hệ thống dẫn nước của cả vùng này đã bị hỏng từ lâu, không được sang sửa. Thái mở nắp bể nhìn vào trong rồi leo lên nắp bể nước, đẩy cái ống dẫn nước nối liền với máng xối để nước mưa tuôn ra ngoài. Ngay cả thành bể nước cũng ẩm. Chỉ có mình là khô, khô không khốc, Thái thở dài! Tiếng thở dài từ đâu bên trong, tình cờ ghé ngang rồi cư ngụ luôn không đi nữa.
Từ bếp lên nhà trên chỉ được nâng lên một chút nhờ năm sáu bậc xi măng. Mới 3, 4 giờ chiều mà trời đã sâm sẩm tối. Trên này không sợ lụt! Đi ngang phòng Tiến, chàng nhìn vào. Căn phòng nhỏ và tối. Tiến không thích để đèn. Nó sợ ánh sáng và sợ cả người. Tiến đang ngồi ở chiếc bàn nhỏ kê sát cửa sổ nhìn ra vườn. Ngày xưa chiếc bàn bề bộn đầy sách vở. Giờ, vắng tắp, sạch gọn. Thỉnh thoảng Thái vào lau chùi cho em. Có lần đang lau mặt bàn học, Thái cứ chùi mãi, chùi đến mỏi tay như tìm sau mặt gỗ chút bóng dáng của thời gian đã qua.
Vẫn không quay lại, Tiến nói:
“Chim ăn hết mận rồi!”
“Không đâu. Hết mùa rồi. Phải chờ sang năm”
“Anh lộn rồi!”
Thái chẳng cãi. Nó mở miệng là tốt rồi. Nói gì cũng được!
Khi Tiến xoay người lại, trong cái mầu ảm đạm và tôi tối của căn phòng, Thái thót ruột và đột nhiên hơi hoảng sợ! Chàng như đang nhìn vào tấm gương, một khuôn mặt giống hệt chàng, chỉ khác ở cái vẻ ngây dại. Hay  có ngày mình cũng sẽ như thế trong căn nhà cũ rích và heo hút này? Bản năng mạnh mẽ trong Thái giơ tay chụp ngay lấy cái ý nghĩ đen tối này và dìm xuống. Phải như thế thôi! Phải triệt!
Không biết có đọc được những ý nghĩ đó trong Thái hay không, Tiến lại xoay người nhìn mông ra vườn, đầu nó nghiêng nghiêng. Chiếc màn cửa vén sang một bên hở ra những giòng mưa trắng đục sáng ở bên ngoài như miệng của một đường hầm.
 “Chiều thích ăn gì để bà Tư làm?”
“Anh có thấy bà ấy nấu dở quá không?”
“Bà Tư chỉ biết làm có thế!”
Tiến không nói gì thêm. Nó còn biết chê bà Tư nấu không ngon. Mọi khi nó chẳng nói gì. Đúng là trời mưa cóc mở miệng!
Tối hôm đó, trong cơn mưa rả rích chừng như đã nhạt, trang sách được mở ra ở một chương đọc mãi không xong. Thái gấp sách. Ý tưởng bán nhà, bán hết những thửa ruộng đang cho người thuê dưới kia và dọn đi một nơi khác cứ dục giã như một thứ đòi nợ, trong khi nhiều thứ khác trong căn nhà mà anh em chàng đã sinh ra và lớn lên cứ níu chặt lấy Thái lôi lại như đòi phần của nó. Đó là những gốc rễ chằng chịt với muôn ngàn kỷ niệm của nhiều năm tháng, những chiếc rễ lằng ngoằng cứ thế mà lớn lên, lớn hơn Thái và Tiến gộp lại! Nhưng có lẽ càng bị níu kéo thì Thái càng vùng vẫy vì không còn gì ở đây cho mình. Thái muốn sống một cuộc đời khác, mọi sự khác, muốn biết, muốn với, muốn những thay đổi mỗi ngày..  muốn một hơi ấm, một gần gũi nào khác không phải là những ruột thịt. Chàng cần một cái gì khác lạ.. Tiếng ho của Tiến ở phòng bên làm Thái chợt dừng lại ngay trong những ý nghĩ của mình. Tiếng ho của Tiến làm Thái mắc nghẹn. Chàng muốn hết thở trong một thứ gì đang tuôn ra từ lồng ngực, lớn hơn mình. Thứ gì đó đang dâng lên và đánh thức chàng tỉnh giấc. Lại phải tỉnh thôi!
Mẹ sinh Thái ra trước Tiến có 2 phút. Hai phút đi trước mà khác biệt nhiều quá. Thể chất hai đứa giống hệt nhau, nhưng tâm tính khác hẳn. Thái mạnh bạo, Tiến nhút nhát và yếu đuối. Thái cởi mở, Tiến khép kín. Hai đứa trẻ là hai nửa của một khối. Đấy là một vòng tròn với hai mặt đối chọi. Bởi chính là một khối nên không thể tách rời theo một nghĩa hiểu nào đó. Lìa nơi này, bỏ Tiến, chàng không bao giờ làm được. Lôi nó đi, nó không đi. Nó đã bắt rễ ở đây từ ngày sinh ra đời. Cái rễ ấy cột cứng với thế giới riêng của Tiến, và cho nó sự yên ổn. Những xáo động mà Thái thèm muốn cũng là những khác biệt quá đáng, không có trong thế giới tĩnh lặng của Tiến. Thái biết mình đã bị một xiềng xích vô hình trói buộc ngay từ nhỏ..
Bỗng dưng Thái nhớ đến cây khuynh diệp khổng lồ ở dưới chân đồi. Nó mọc từ bao giờ không biết nhưng cao ngút ngàn. Lúc nhỏ đứng ở dưới nhìn lên, Thái không thấy ngọn cây và vẫn hình dung là chót đỉnh của nó lẫn với trời. Cuối hè khi những bông hoa khuynh diệp rụng đầy gốc, Thái và chúng bạn thường nhặt về, gỡ sạch những tua của nhụy hoa khuynh diệp để trơ lại cái núm và cuống, rồi xoay, rồi thảy như những con vụ tí hon thoang thoảng có mùi khuynh diệp nồng nàn trong gió. Thân cây sần sùi tróc những lớp vỏ màu gụ lộ phần thân trắng như vôi. Toàn cây khuynh diệp đó, từ thân, từ vỏ, từ lá, từ hoa đều tiết ra cái mùi dầu khuynh diệp không hắc mà ngan ngát. Lần nào Thái trèo lên cây khuynh diệp được một đoạn cũng bị Tiến đứng ở dưới gốc cây gọi. Nó sợ Thái trèo lên cao, cao nữa rồi mất tiêu luôn, Và lần nào khi nghe tiếng em gọi Thái cũng tiếc rẻ, nhưng rồi trèo xuống. Đang chơi trò gì mà Tiến không tham gia được, Thái cũng bỏ để về nhà với em. Chàng đã phải theo nó ngay từ nhỏ. Không có chỗ nào đứng riêng lẻ cho Thái, ngay cả trong những ý nghĩ  của mình!
 
*
 
Những cơn mưa cứ vơi dần rồi biến. Trời đất vẫn còn ẩm và lạnh. Cả mấy ngày nay chú Bình không đi chợ và mang lên cho bà Tư được vì mưa quá. Nhà chú bên dưới chắc cũng ngập! Rau cỏ rồi ra rẻ thối! Chú ấy không lên được thì mình phải xuống thôi, Thái cũng muốn ra khỏi nhà. Cơn mưa giữ chân chàng cả tuần.
Tiếng bà Tư nói sau lưng làm Thái giật mình:
“Thầy! Hết cái ăn rồi! Chú Bình không thấy đâu. Chắc dưới lụt lắm”
“Để tôi lo. Tôi đi bây giờ đây”.
Một tuần lễ chỉ thấy mưa và những bức tường, không cần phải đi mua nhu yếu phẩm thì Thái cũng đi.
Thái đẩy cổng gỗ ra ngoài. Phải cả tuần chắc đất mới khô. Thái chọn những chỗ nhiều cỏ hay xen với đá để đặt chân vì mặt đất mềm và nhão thành bùn. Triền dốc trải nhựa nứt nẻ nên nước không đọng nhưng sau những ngày mưa phần đất đỏ quạch như tươi hơn. Chàng chợt thấy có người đi lên dốc. Một cô gái, có lẽ? Cái bóng người đi lên ngược chiều với chàng mỗi lúc một rõ. Cô ta bước đi thoăn thoắt như người thuộc đường lối và với cách ăn mặc, cô gái phải ở vùng này, có lẽ ở dưới kia vì trên đây có bao nhiêu người Thái đều biết cả.
Khi khoảng cách đối nghịch thu ngắn hơn, dáng người ấy cho Thái một phỏng định: cô ta chừng 15, 16, nước da ngăm ngăm khỏe mạnh, tóc cột gọn. Cô gái cúi đầu cắm cúi trèo dốc, cũng chẳng nhìn Thái nên chàng cũng không trông rõ mặt. Cô gái xách một cái giỏ mắt cáo nylon. Khi đi ngang, Thái thoáng nhìn thấy vài bó rau chìa ra ngoài, nải chuối và vài gói bọc giấy dầu. Cô gái chỉ ngửng đầu lên nhìn Thái rồi tiếp tục đi lên đồi. Xuống gần đến gần chân đồi, Thái quay lại nhìn lên. Cô gái đang mở cổng vào nhà chàng. Lạ, ai?
Thái phân vân, nửa định đi tiếp xuống đồi, nửa lại muốn đi lên xem cô gái nhỏ là ai. Và chàng đi lên thật. Thái đi nhanh chứ không thong thả như lúc đi xuống.
Vào đến nhà, Thái nghe thấy tiếng người nói lao xao ở dưới bếp. Con cháu bà Tư? Chắc thế. Chẳng dính líu gì đến mình, nghĩ vậy nên Thái chẳng thắc mắc và chuyện đón xe lam xuống phố mua ít đồ như đã dự định làm chàng thoải mái hơn.
Phải xuống chân đồi, đi ngang hồ Vạn Kiếp, mặt hồ càng ngày càng bị thu hẹp bởi những lớp bèo tràn ngập cạn nước, đất từ bờ đổ xuống. Qua cái cầu gỗ ọp ẹp, thêm một cái dốc ngắn nữa mới ra đến đường chính để đón xe lam. Nắng đã lên nhưng không gắt, làm như hãy còn e lệ sau cơn mưa suốt tuần. Chàng đứng chờ xe dưới gốc cây ổi ngay sát cổng nhà ông Bá. Trước mặt chàng hàng hàng lớp lớp những ngôi mộ san sát nhau trên đồi của nghĩa địa thành phố vươn lên trong nắng như nhắc nhở sự có mặt của những người đã từng hiện diện trong thành phố này, dĩ nhiên có cả cha mẹ chàng, .. và cả Quỳnh Thi!
Chiếc xe lam chật ních đưa Thái ra phố. Chàng ngồi chen không chỉ với người mà cả với những chuồng gà, mùi hôi xông lên ngai ngái. Chiếc xe gắn máy của chàng đưa chú Hiển sửa chưa lấy về được. Thái cũng lười chẳng nhắc. Có chú Bình ở trong ấp Hà Đông đi chợ cho rồi mang lên nên Thái chẳng bao giờ quan tâm. Vài hôm nữa khi dưới ruộng bớt ngập chắc chàng phải ghé thăm chú Bình, có lẽ đau ốm sao đó.
Xe ngừng ở bến, gần chợ. Từ một vùng ngoại ô ra đến phố chính, cũng xa nhưng không phải xa lắm mà thấy diệu vợi vì những khoảng cách không người, không nhà, vắng xe cộ. Những nhộn nhịp của phố phường đẩy Thái vào giòng người đầy sinh khí.  Những chộn rộn đâu đâu cũng len vào Thái, chàng thấy vui vui.
Thái ghé chú Hiển ở cuối dốc Minh Mạng xem cái xe mình tới đâu rồi.
“Ê, Thái! Xe vẫn chưa xong vì chưa tìm được đồ thay, cháu chịu khó đợi vài hôm”
“Chú khoẻ không chú? Cháu ghé chơi thôi. Xe bao giờ được thì được, chẳng sao cả”
“Mấy anh em thường hả? Bà Tư còn ở đó không?”
“Vẫn còn chú, không có bà ấy chắc tụi cháu chết”
“Bán nhà, ra phố ở đi. Thanh niên mà ở trong đó đèo heo hút gió quá”
“Cháu cũng tính mà chưa được”
“Tính gì mà tính, ruộng trong đó vẫn cho thuê, nhà thì bán. Có điều cái nhà đó bán hơi khó. Quanh đó còn đủ cả không?”
“Cũng có vài gia đình dọn về Sài Gòn, còn tựu trung ở lại cả”
“Khi nào gặp ai cho chú gửi lời thăm nghe?”
“Được, chú. Tuần sau cháu ghé lại chắc xe xong chú hả?”
“Ờ, chắc tuần sau xong đó. À, mấy bữa mưa, trong ấp chắc lụt hết?”
“Vẫn như xưa, chú. Người ta quen rồi”
Việc  ra phố của Thái loanh quanh ghé thăm người này, người kia, mua bán chút đỉnh, rồi về. Chàng không muốn ở lâu, sợ bị giữ chân,  sợ tự gây khó khăn cho mình.
Đi về, buồn, nhàm chán nhưng yên ổn. Xe lam cũng chỉ thả chàng xuống ở đầu đường chính, Thái đi bộ về nhà.
Cổng gỗ vào nhà vẫn còn mở. Ai đó quên không đóng hay cô gái nhỏ khi nãy vẫn còn đây? Vừa mở cửa, Thái giật mình! Tiến ngồi lù lù ở phòng khách. Đã lâu lắm nó không ra khỏi phòng mấy khi ngoài chuyện đi làm vệ sinh. Thái nhìn em không biết nói gì. Dưới ánh sáng của căn phòng khách nhiều cửa sổ, trông Tiến lạ, như một người khách lạ.  Có một cái gì thay đổi trong nó, Thái chắc chắn như thế. Không phải vì căn phòng nhiều ánh sáng làm chàng thấy Tiến rõ hơn, cũng không phải vì bộ râu đã được cạo sạch –điều này lạ vì thường Thái phải dục- cũng không phải vì  một vẻ ngời ngời trên toàn gương mặt Tiến lúc ấy, nhưng một cái gì khác nằm khuất bên dưới mà Thái chỉ có thể bắt gặp bằng cảm nhận của một nửa này nối kết nhìn suốt sang nửa kia. Chàng thấy rợn người và không muốn để những ý nghĩ của mình đi ngược về xa hơn.
“Anh ra phố?”
“Ờ, anh đi chợ. Chú Bình đau sao không thấy lên?”
“Con gái chú lên đây”
À, cô bé ấy là con chú Bình!
“Chú ấy không sao chứ? Anh lại không có nhà để trả tiền cho họ”
“Té gẫy chân”
“Thế à? Tội nghiệp!”
Anh em không nói gì với nhau thêm, nhưng cả buổi chiều ấy Tiến không vào lại trong phòng. Nó ngồi ở phòng khách như chờ ai, chờ một cái gì.
Từ sau hôm đó, cái thế giới riêng tư của Tiến bắt đầu mở rộng hơn, nó ra sân, bắt đầu hay hỏi chuyện đây đó, lại phụ giúp Thái, không nói cộc lốc. Nó như một người vừa tỉnh thức sau cơn mộng dài và đang làm quen dần với đời sống.
Đến giữa tuần, con gái chú Bình lại mang thức ăn lên. Lần này Thái mới có dịp nhìn kỹ cô bé. Mới thoạt nhìn Huyền, chàng thấy nét quen quen, không phải vì cô giống cha. Lần gặp gỡ sau Thái mới biết vì sao chàng thấy Huyền quen thuộc. Đó cũng là lúc Thái hiểu vì sao Tiến thay đổi. Huyền có đôi mắt giống hệt Quỳnh Thi! Cũng đuôi mắt dài, hơi xếch, con ngươi không đen hẳn mà có ánh xanh tím, một màu xanh tím huyền bí đến lạ lùng làm người đối diện không chỉ nhìn lâu hơn mà còn như ngỡ ngàng với những thu hút tự nhiên không kìm hãm được.
Sự thay đổi trong Tiến vừa là một nỗi vui mừng vừa là một sự đe dọa. Dĩ nhiên đó chỉ là những linh cảm mơ hồ. Thái quan sát những thay đổi ấy trong trạng thái lo âu. Lắm lúc chàng có cảm tưởng Quỳnh Thi đang có mặt trong ngôi nhà này, không phải nằm ở nghĩa địa trên kia. Quỳnh Thi đang chi phối Tiến. Thật lạ lùng, Thái nhớ về Quỳnh Thi như những dính líu với Tiến, như là nguyên do đưa Tiến đến tình trạng tâm thần bất định hiện tại, mà không tìm thấy một vướng mắc tình cảm nào với chính mình hay đó chỉ là một sự  lừa dối? Hay chính sự tự lừa gạt mình đã tách chàng đứng riêng rẽ, hoặc là một chối bỏ cho rất nhiều nghi vấn lẫn với đau thương?
Hình ảnh Quỳnh Thi hồn nhiên đứng bên cổng gỗ nhà Thái, những cành mimosa lá bạc với những chùm hoa vàng mềm như nhung làm nền sáng rực dưới nắng một buổi chiều mây đen nghịt mà ánh nắng hừng lên vội vã là một êm đềm trong trí nhớ chàng cũng mượt mà như những tình cảm đầu đời. Thái chỉ muốn nhớ về Quỳnh Thi như thế, cho mình. Còn vì sao nàng lại ngã xuống chiếc giếng cạn hết nước cạnh tu viện bỏ hoang cách nhà Thái chừng non 1 cây số là điều Thái không muốn tìm hiểu hay không dám tìm hiểu.
Cái miệng giếng ấy như một cái miệng của một con quái vật há ra, sâu hun hút với thang sắt dài từ bờ giếng xuống đến lòng giếng. Người Pháp đã đào và xây giếng này từ lâu lắm, và đến khi giếng đã cạn nước, nơi này thành một bí ẩn cho những đứa trẻ sống trên đồi này. Đứng ở trên, thò đầu xuống la hét và chỉ thấy một mầu đen tối thui. Chiếc thang sắt đóng hẳn vào thành giếng là một mời gọi cho những đứa nhỏ thích phiêu lưu thám hiểm. Thái đâu tha những cơ hội như thế. Cái đứa nhỏ 8 tuổi là chàng đã háo hức trèo xuống tận đáy giếng với nhiều sự tưởng tượng, nhưng nó không tìm thấy gì ngoài những cành củi mục và rác. Tiến đứng ở trên hỏi vọng xuống: “Có gì dưới?”. “Chẳng có gì hết!”. Câu trả lời với nhiều sự thất vọng nhưng khi trèo lên hết những nấc thang, chú nhỏ 8 tuổi thấy mình lớn hơn vì nó đã vượt qua một thách thức. Đó cũng là một trò chơi với Thái, còn Tiến, nó chỉ có mặt mà không tham dự. Cái giếng bỏ hoang hầu như chỉ có những người sống trên đồi này lâu năm, hay những đứa trẻ hay nghịch ngợm mới biết đến. Vì sao Quỳnh Thi, ở dưới kia, lại đi lên đến tận nơi rồi ngã xuống giếng, chết, là điều Thái không hiểu được. Người ta nghi là Quỳnh Thi bị kẻ nào đó giết, nhưng tại sao và kẻ đó là ai thì đến 5 năm qua những câu hỏi này không được giải đáp và rồi cũng chẳng ai còn nhớ đến. Nhưng đã có những lúc Thái thấy người ta xầm xì sau lưng chàng chỉ bởi vì hai người có liên hệ tình cảm.
 
*
 
Thái đẩy chiếc xe gắn máy trên chiếc ván ép đặt trên những bực thang xi măng dẫn xuống cổng gỗ. Có chiếc xe, Thái thấy thoải mái hẳn ra. Chàng nghĩ đến việc đi dậy học lại theo lời mời của anh bạn mở một trường tư thục ngoài phố. Dựng xe, khép cổng, quay lại Thái thấy Huyền đang đi lên dốc tiến về phía chàng.
“Chào chú”
“Chào cô. Ba khoẻ chưa?”
“Ba cháu vẫn còn đi nạng. Chắc cháu phải giúp ba cháu còn lâu”
“Bây giờ mùa hè cô còn giúp được, chứ đến lúc đi học thì sao?“. Thái định bảo để chàng lo lấy nhưng nghĩ đến việc giúp đỡ chú Bình nên thôi.
Huyền có vẻ băn khoăn:
“Cháu cũng chưa biết nữa, nhưng cháu muốn giúp ba cháu”
Thái đề nghị:
“Cô đổi ngày đi, cô mang lên cho chúng tôi vào ngày cuối tuần cũng được mà”
“Vậy tốt quá, cám ơn chú”
Khi Thái mở cổng cho Huyền vào chàng chợt thấy Tiến đang đứng ở cửa trước nhìn ra. Sau những ô cửa kính nho nhỏ, hình dáng Tiến như bị cắt ra làm nhiều mảnh, như những câu đố chưa có lời giải đáp. Bỗng dưng một cảm giác lạ lùng dấy lên trong chàng. Đó là những băn khoăn vu vơ mà không hiểu sao lại lẫn lộn cả bóng dáng Quỳnh Thi trong đó. Có lẽ cả đời Thái sẽ không quên được nàng, không phải vì Quỳnh Thi, cũng không phải vì mối tình đầu, nhưng cái chết của nàng! Tại sao nhìn những người sống mà cứ nghĩ đến cái chết? Thái không muốn nhớ tới, nghĩ tới, ngay cả em chàng! Hãy đi ra khỏi vùng trí nhớ tôi!
 
Niên học mới trở lại, Thái dậy học bán thời gian cho đỡ buồn. Ngày thứ năm tuần lễ đầu, Huyền không lên như Thái đã biết trước. Chiều thứ năm khi Thái trở về nhà, Tiến hỏi ngay với một giọng gay gắt:
“Anh không thuê cô Huyền nữa sao?”
Ngạc nhiên trứơc cái giọng có vẻ gây hấn của em, Thái trả lời:
“Anh vẫn thuê họ đấy chứ. Cô ta đi học nên xin đổi ngày. Cuối tuần nghỉ học cô ấy mới lên”
Tiến dịu lại nét mặt. Hôm nay nó lại còn lấy áo của Thái mặc. Độ này Tiến hay vào phòng Thái. Nó đổi nhiều.
Tối hôm đó trong bữa cơm chiều, Thái chợt buột miệng khơi chuyện:
“Tiến này, hay mình bán nhà dọn ra phố. Ở đây buồn quá mà đi lại cũng khó khăn.”
Đang ăn, Tiến bỏ bát đũa xuống trừng mắt nhìn anh:
“Anh tính gì đây?”
Thái thở dài thầm, nói vuốt:
“Chẳng qua thấy ở đây chán quá nên anh mới nói vậy.. còn nếu như em..” Thái không nói hết câu được trong nỗi ngậm ngùi, có lẽ là dành cho mình.
“Em không đi đâu hết, anh muốn đi thì đi đi. Ở đây có bà Tư.. và cô Huyền được rồi..”
Thái nhìn Tiến, nhìn suốt qua nó. Huyền là lý do. Không gì khác. Câu nói của nó phủ nhận sự có mặt của Thái. Nó đang yêu hay sao đây? Chỉ có tình yêu mới làm thay đổi Tiến. Hay nó đang mở cửa cho chàng đi. Đã đến lúc mà Tiến muốn tách rời với chàng.
Hai anh em không nói gì với nhau thêm nữa. Bà Tư ngồi ăn cùng cũng không nói gì. Bữa ăn sượng ngắt trong sự u tịch vốn sẵn có của ngôi nhà chỉ có ba người với ba thế giới riêng lẻ.
Đêm đó Thái mất ngủ. Thức trắng trong những dằn vặt rất buồn cười của mình. Khi thấy Tiến giận dỗi đẩy mình đi, Thái lại muốn ở lại dù rằng trước đó chàng chỉ muốn đi. Cái ý tưởng bỏ đi và ở lại cứ thế mà giằng co. Mà không chỉ có thế, lại nhiều điều không muốn nghĩ đến lại ùn ùn kéo tới chỉ làm cho Thái thêm mệt mỏi nhức đầu!
 
Bóng dáng bé nhỏ của Huyền thấp thoáng mỗi cuối tuần trong căn nhà như một cánh bướm bay lượn, đậu đó rồi vụt mất như nỗi reo vui ngắn ngủi, không phải cho Thái mà cho Tiến. Trông Tiến mất đi vẻ si dại, có còn chăng nữa  chỉ là vẻ si dại do tình yêu mang đến với những háo hức đợi chờ thấy rõ.
Đến khi Thái bị ép dậy học toàn  thời gian cũng là lúc ý tưởng rời khỏi nơi này đã trở thành một sự thật phải làm.
Thái nói với bà Tư:
“Công việc dậïy học toàn thời gian quá nhiều thì giờ, mà ở đây lại xa xôi, hàng ngày cứ đi đi về về mệt quá, tôi chắc phải dọn ra phố. Bà cứ ở đây chăm sóc hộ nhà cửa như thường nhé. Không có bà, không biết phải làm sao..! Hay bà có con cháu gì, kéo về đây ở cũng được cho thêm người”
Bà Tư rưng rưng nói với Thái:
“Thầy cứ đi đi, vài hôm lại về nhé. Thầy đừng đi luôn”
Bây giờ lại thêm níu kéo của người đầy tớ trung thành. Bà Tư như một vú em của cả Thái và Tiến.
“Không, không có đi luôn đâu. Ở đây cũng còn nhiều việc phải lo chứ. Bà cứ xem như tôi phải ra ngoài ở trọ vì công việc, rồi thỉnh thoảng tôi lại về. Tôi về để còn lo cho bà với em tôi nữa chứ.”
Sự thỏa thuận có vẻ như tốt đẹp và nhẹ nhàng hơn Thái nghĩ. Và Tiến  đã tách rời khỏi chàng thực sự. Bóng dáng của Huyền đã mang lại cho Tiến một sinh khí, một niềm hy vọng mới. Trong trạng thái tâm lý thay đổi của Tiến, một bộ mặt mới cho căn nhà đang ngoi ngóp cũng bừng sáng hẳn.
Cứ giữa tuần thì Thái về thăm nhà, thăm lại người thân, mua bán những thứ cần thiết. Thực phẩm, chợ búa đã có Huyền. Tiến cũng vui vẻ hơn và Thái thầm mong một tình cảm nào đó sẽ nẩy sinh giữa hai người để đưa đến một kết thúc tốt đẹp.
Hai, ba tháng trôi qua đều đặn, những người, những sinh hoạt, những phố phường, làm Thái không còn nghĩ đến căn nhà của mình ở ngoại ô, và cả Tiến. Còn Quỳnh Thi, hình như đã lui vào một bóng tối nào đó trong tâm tưởng chàng với nhiều tầng nhiều lớp của đời sống mới đè khuất.
Lần nào về nhà Thái cũng mong được nghe bà Tư hay Tiến nhắc đến Huyền trong một vẻ khác như một sự tiến triển, nhưng không, hình như căn nhà quanh năm thiếu nắng!
 
*
 
Đến mùa hè năm sau khi Huyền ghi tên học thêm để sửa soạn kỳ thi Tú Tài, nàng chọn trúng trường và ngay lớp Thái dậy tư, là lúc mà những đám mây đen bắt đầu kéo đến cùng với mùa mưa của Đà Lạt.
Huyền cũng chỉ như những học trò khác học với Thái, có đặc biệt hơn thì cũng chỉ vì nàng là người giúp đi chợ búa cho anh em Thái.
Khi Thái về nhà vào ngày thứ năm như mọi tuần, chàng thấy Tiến gầy hẳn.
“Em đau ốm gì không Tiến? Có một hai tuần mà thấy em gầy hẳn đi”
Thay vì trả lời vào câu hỏi của Thái, Tiến lại hỏi anh với vẻ nửa như gây sự nửa như tra hỏi:
“Anh dậy Huyền học à?”
Thái hiểu ngay:
“Ờ, nó học thêm. Mùa hè mấy bọn nhỏ ghi danh học thêm nhiều lắm. Anh cũng chẳng để ý nữa”
Tiến nhìn Thái như muốn dò tìm câu nói “chẳng để ý” của Thái thực hư như thế nào.
Thái nhìn thẳng vào mặt Tiến. Họ không chỉ nhìn nhau mà còn đang đối đầu với nhau. Ở giữa Tiến và Thái như có một bức kính trong suốt đang dựng lên. Họ nhìn thấy nhau nhưng phân cách.
“Em yêu Huyền.. như yêu Quỳnh Thi!” Tiến nói như một lời thú tội hơn là một cởi mở tấm lòng. Những chữ những lời rất xác quyết được ném ra như ném vào mặt Thái dội lại vào mặt kính vô hình, rung chuyển với những chấn động ngân vang trong tai chàng.
Ba chữ đầu làm Thái dễ chịu vì những phỏng đoán của mình là đúng, nhưng ba chữ sau như một nhát dao chém vào ngực chàng làm vỡ những mảnh bọc bên ngoài mà trước giờ Thái thấy an toàn, lộ ra những nghi kỵ đớn đau khắc khoải làm chàng không nói nổi một lời nào.
Vẫn giọng điệu đó, Tiến trước mặt Thái như đang hóa thân thành một kẻ nào đó mà chàng chưa từng biết đến. Tiến không còn là đứa em yếu đuối nương dựa vào chàng nữa. Cái con người đó đang trồi lên, rũ bỏ cái lớp ngoài khờ dại nhút nhát. Mắt Tiến long lên sáng ngời và thách đố:
“Em mất Quỳnh Thi rồi, em không muốn mất Huyền nữa”
Thái như đang bơi trong những nhận chìm của giông bão, chàng cứ vừa cố ngoi lên lại  bị những cơn sóng từ ngay trong tim mình trào ra phủ chụp lấy. Cái chết của Quỳnh Thi hơn lúc nào hết hiện lên rõ ràng giữa khoảng cách của hai anh em. Thái không nhìn thấy Quỳnh Thi đứng cạnh bên cây mimosa với hoa vàng trong nắng. Giữa Thái và Tiến là Quỳnh Thi với khuôn mặt dập nát, đôi mắt mở lớn đầy vẻ hoảng sợ và kinh ngạc. Đó là hình ảnh cuối cùng của nàng mà Thái muốn tìm cách xóa hẳn khỏi trí nhớ chàng. Thái đứng đó, nhìn Tiến như trong một giấc mơ với sự bất lực của mình. Chàng không muốn những hồ nghi của mình được giải đáp. Đấy là những nghi kỵ cần phải diệt bỏ như một thứ thuốc độc đang tìm cách len lỏi vào trong Thái.
“Anh đừng để em mất Huyền nữa”
Câu nói của Tiến nghe mơ hồ như ở nơi nào xa lắm giống như trong một cơn mộng dữ nửa thật nửa giả. Thái hình như có mấp máy miệng mà không nghe thấy chút âm thanh nào. Chàng đứng đó với những mảnh vụn của tấm kính vô hình ngăn đôi hai anh em rơi vỡ phủ đầy chân như muốn chôn chàng xuống mặt đất. Những mảnh kính sắc nhọn vô hình ấy đang châm chích Thái như bắt chàng phải nhỏ từng giọt máu, nhưng chàng bất lực ngay cả trong cử động của mình.
Tiến bỏ đi vào phòng, không nói thêm lời nào. Nó đã nói hết. Còn gì phải nói nữa?
Khi đã trấn tĩnh hơn, Thái nói qua loa với bà Tư mấy câu, không dùng cơm và đi về ngay. Chàng muốn chạy trốn những điều đang ám ảnh và bóp nghẹt chàng. Làm như hành động rời khỏi căn nhà ngay lúc này là một việc đường đột nhưng dứt khoát mà ở vào thời điểm khác Thái không đủ can đảm để vượt qua.
Căn gác trọ mới tinh chưa mang một dấu ấn và kỷ niệm nào trống rỗng và lạnh lùng lại trở thành một cái phao để Thái bám lấy. Thái cũng không ngờ là mình lại khóc được giữa  những vách tường hãy còn trắng xóa. Hay những giọt nước vừa ứa ra đó đã theo một lỗ hổng nhỏ xíu trong trái tim chàng nhỏ ra?
Chàng rũ ra như một thân cây đã bị rút hết nước. Thái muốn xua Quỳnh Thi ra khỏi đầu mình, đẩy hình ảnh đó xuống lòng giếng trên đỉnh đồi và dùng nắp đậy chặt kín lại. Nhưng Tiến đang gỡ tung cái nắp ra trong sự ngạo nghễ đầy tuyệt vọng của nó! Có phải Tiến đã đẩy Quỳnh Thi xuống giếng để chiếm đoạt riêng cho mình? Câu hỏi này sẽ không bao giờ được trả lời như những lần vừa chớm lên đã bị Thái gạt ngang. Đó là những hồ nghi đáng bị nguyền rủa và không thể chấp nhận được. Nhưng nó cứ nằm đó, chỉ chờ cơ hội là lại dấùy lên. Thái muốn nguyền rủa cả chính mình! Lần này nước trong trái tim chàng ứa ra nhiều hơn, hay vì lỗ thủng càng lúc càng lớn hơn?
Đến sáng, không biết có phải là ngày hôm sau hay không vì Thái mất đi ý niệm về thời gian, chàng thấy không còn chỗ nào cho mình ở thành phố này nữa. Phải đi thôi. Đi để sống và làm một cuộc đời, con người khác, đoạn tuyệt với những gì đã qua. Hay đấy chỉ là những giả trá đau thương biến hình? Hãy gọi đó là bất cứ thứ gì nhưng đừng nhân danh tôi để tự đày đọa tôi nữa! Thái lẩm bẩm với những bức tường trống trơn đang câm nín kia.
 
*
 
Mấy tuần sau Thái mới trở lại về nhà khi đã thu xếp xong mọi sự cho việc di chuyển về Sài Gòn.
Bà Tư buồn rầu nhưng không giữ Thái. Tiến không tỏ phản ứng nào rõ rệt, làm như đấy là chuyện không dính líu gì tới nó.
Khi Thái bảo:
“Có lẽ chúng ta đã ở bên cạnh nhau quá lâu. Em cũng cần một đời sống riêng, anh cũng vậy. Thỉnh thoảng anh sẽ về. Công việc ruộng nương cho thuê thu góp thế nào, anh nhờ cả hai bố con chú Bình. Họ sẽ lo và mang lên cho em, chỉ trả công cho chú ấy”
Tiến chỉ đáp:
“Anh tính sao cũng được”
Thái không mang theo một cái gì thuộc về chàng trong căn nhà này. Chàng để lại hết như muốn chôn vùi mọi sự. Thái cũng không ở lâu, làm như sợ rằng một chuyện gì đó sẽ đột ngột xảy ra làm chàng thay đổi hết mọi dự tính.
Khi ra cửa, Tiến đi theo. Cái bóng im lặng đó đi bên cạnh Thái xuống đến tận cổng gỗ. Tự dưng Thái thấy thương em. Suýt nữa chàng đổi ý! Vài giây chần chờ giữa một khoảng cách hẹp, bỗng dưng Tiến nắm vai Thái, một đụng chạm nhẹ nhưng bất ngờ làm Thái muốn chết ngộp trong bao tình cảm mâu thuẫn. Chàng không tìm được lời nào nói với em. Miệng môi chàng như câm nín.
Rồi một cái gì thật thiêng liêng, thật ấm áp từ trong Thái làm chàng cũng quàng tay bóp mạnh vai em như truyền hết cả những tình cảm và sức mạnh cho Tiến. Cả hai không nhìn nhau.
Trèo lên xe, rồ máy, Thái lái xe gắn máy thẳng xuống dốc. Gió tạt vào mặt Thái như mơn trớn giã từ. Chàng cầu mong Huyền sẽ yêu Tiến để không có một thảm kịch nào sẽ xảy ra trên khu đồi núi hoang vu này. Hay tất cả chỉ là sự tưởng tượng hồ nghi của Thái? Có lẽ vậy! Hãy mong thế!
 
Mc Bích
 
 
 
 
 
 
 
 

NgụyXưa
  • Số bài : 880
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 31.01.2007
  • Nơi: Thái Bình Dương
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 20.09.2013 06:37:33

Hồ Vạn Kiếp, Ấp Hà Đông, Dốc Minh Mạng ... những địa danh gợi nhớ một thời trẻ dại!
 
"Quỳnh Thi" đã được mang vào thư viện. Xin cám ơn tác giả Mặc Bích.
 
NX

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 20.09.2013 22:46:05
Xin cảm ơn.
Truyện viết để nhớ một thời ở Đà Lạt
 
Mặc Bích
 
 

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 04.10.2013 05:58:46
Giòng sông
 
Mặc Bích
 
 
 
 Tâm Thanh kéo màn nhìn ra ngoài trời. Đã hơn 7 giờ. Chưa có nắng nhưng đã sáng. Trời âm u như muốn chuyển mưa. Có tiếng động khẽ. Nàng quay lại. Bà đang lê từng bước ngắn. Cả thân hình nghiêng về một bên gậy chống.

“Chắc sắp mưa bà ơi!”
Hiểu ý cô cháu, bà lão lắc đầu:
“Kệ! Cứ đi! Mưa thì về. Đem theo cây dù.”
Định ngăn bà, nhưng rồi lại thôi. Bà lão đã chuẩn bị sẵn sàng. Hai ba lần áo trên tấm thân cao lớn lòng khòng xương xẩu. Chiếc mũ len trên đầu che bớt mái tóc bạc. Tâm Thanh đỡ bà ngồi vào xe lăn. Như mọi lần, nàng trùm chiếc chăn len mỏng lên chân bà cụ. Đặt hai chân bà lên bàn đạp. Hai tay bà lão níu lấy thành dựa hai bên. Bỗng dưng nàng chăm chú nhìn bàn tay to lớn với những ngón dài mà từng đường gân máu cuồn cuộn nổi sau làn da dầy nâu sẫm đã lốm đốm đồi mồi của tuổi già. Nàng lại chợt nhớ đến những lần bà níu lấy tay nàng đau điếng. Cái sức mạnh tiềm tàng trong thân xác già nua kia vẫn còn đó, mạnh mẽ lôi kéo hơn 75 năm dài. Đôi bàn tay như tay của một người đàn ông! Xốc vác, cứng rắn và đầy sức mạnh! Nàng rất giống bà ở khuôn mặt, nhất là đôi mắt nhỏ, dài có đuôi, đen thui như không còn thấy lòng trắng đâu cả và sâu như muốn tuột hẳn vào bên trong hốc mắt mà có lần con Liên, bạn Tâm Thanh đã bảo: “Đôi mắt của đáy vực linh hồn”. Đó phải chăng là một sự chê bai hay chỉ để nói lên một sự đặc thù không ai có? Bướng bỉnh, lạnh lùng và kiêu căng! Cũng toàn là những thứ nàng thừa hưởng ở bà! Tâm Thanh ghét những điều này quá đi, nhưng làm sao thay đổi được khi nó đã là một phần cấu trúc của toàn bộ con người nàng!
Cứ mỗi buổi sáng Tâm Thanh đưa bà đi một vòng ngoài trời quanh khu hai bà cháu ở, chào xã giao với vài người hàng xóm Mỹ gần đó, chừng nửa giờ lang thang rồi quay trở về và bao giờ cũng ngừng ở sau nhà, bên cạnh con sông để bà ném bánh mì vụn cho đàn vịt hoang. Sau đó Tâm Thanh đến sở làm. Nàng có nguyên ngày làm việc, giao tiếp với bạn bè. Tối về, lại hai bà cháu trong căn nhà nhỏ mà cha mẹ Tâm Thanh đã để lại với thật nhiều kỷ niệm để đôi lúc nàng cứ ngỡ cha mẹ mình vẫn còn sống, chỉ đi đâu vắng.
 
Con đường hôm nay rộng hẳn ra với quá nhiều khoảng trống do đám lá dưới đất để lại. Tâm Thanh cẩn thận chọn những chỗ bằng phẳng để đẩy xe.
“Không lạnh lắm nhỉ?”
“Vâng. Chắc thể nào hôm nay trời cũng mưa.”
 “Mưa giống ở nhà!”
Hai chữ “ở nhà” bà hay nhắc đến phải hiểu là quê nhà ở mãi bên kia địa cầu mà Tâm Thanh chưa bao giờ thấy, nhưng nghe kể rất nhiều đến nỗi có những khi nói chuyện với bạn bè, quen miệng nàng cũng  dùng hai chữ này trong cùng một ý nghĩa. Ở xứ này 20 năm, bà chỉ biết có hai câu: “Good morning” và “Good bye”. Sáng nào bà cũng dùng từ “Good morning” dăm lần. Chữ “Good bye” thì thỉnh thoảng khi Tâm Thanh dừng chân trên đường trao đổi vài câu với những người trong xóm, để lúc tiếp tục đoạn đường quen thuộc bà được dịp thực hành câu “good bye”. Ti Vi bà không xem, sách báo Việt ngữ thỉnh thoảng Tâm Thanh mang về bà cũng không màng. Lúc còn khoẻ bà làm vườn suốt ngày. Những giàn hoa hồng leo mà cánh hoa nhỏ xíu ngoài cổng trước, cây cam trĩu nặng trái gần hiên nhà, những nhánh hoa ngọc lan thơm sực nức vươn tay dài lùa sát rặng thông, từng bụi hoa trồng dọc theo lối vào... đều có bàn tay của bà. Ngay đằng sau vườn cảnh, thoai thoải xuống bờ sông, từng gộp đá, bụi cây không phải tự nhiên mà có, cũng phải có bà mà để đến bây giờ tuy vườn cảnh thiếu bàn tay chăm sóc nhưng cái trật tự được tạo nên vẫn được giữ nguyên vẹn. Con đường đất dẫn xuống đến sát mặt sông đã phẳng lì, chẳng còn mấy ngọn cỏ chịu nổi sức nghiến của bánh xe lăn mỗi ngày. Cánh tay của Tâm Thanh cũng nhờ những động tác kéo, đẩy mỗi ngày, dù chỉ là một đoạn đường ngắn cũng trở nên rắn chắc. Và đó là điều duy nhất mà nàng có thể làm cho bà mỗi ngày, trừ những ngày mùa đông tuyết phủ hay mưa gió hoặc bà hay cháu đau ốm. Ngoài ra bà cũng không thích đi đâu khác.
Những con vịt hoang hầu như cũng tự động chui vào cái khuôn khổ nhất định quen thuộc của bà. Chúng đã chực ở ngay đúng góc bờ sông đó mỗi sáng. Tâm Thanh gài thắng, để bà ngồi trên chiếc xe lăn cách bờ khoảng ba bốn sải tay. Nàng nhìn đồng hồ, còn 10 phút nữa. Để mặc bà ngồi đó với bầy vịt và gói bánh mì vụn, nàng đi lại quanh quẩn ven sông, lòng thoáng như một ngôi nhà mở toang cửa. Gần sát bờ rào, một khoảng sông chợt hũng vào một đường vòng cung. Nước sông ở khúc này chẩy xiết, đẩy những vạt nước vỗ vào bờ chao đi đánh lại nhìn mà chóng mặt. Mùa hè nàng thường ngồi đây, thả chân xuống nước rồi nghĩ những chuyện không giống ai.
“Tâm Thanh! “–Tiếng bà gọi nghe khàn đặc.
Nàng quay vội, loạng choạng suýt ngã. Bà kêu lên:
“Cẩn thận!... Chỗ đó nước sâu lắm. Hụt chân hay đẩy nhẹ là rơi xuống ngay”.
Chỗ đó nước sâu lắm! Làm sao bà biết chỗ này nước sâu? Nhưng... hình như nàng không để tâm lắm.
“Về hả bà?”
“Ừ, đi về thôi!”
Gói bánh mì đã sạch bách. Tiếng vịt kêu quang quác chói tai như tiếng đàn lạc giọng.
 
*
 
Nửa đêm chợt tỉnh giấc. Không thể nhớ nổi vừa mơ những gì. Chung quanh tối om, chỉ có một vệt sáng nhờ nhờ do chiếc màn khép không kín để hở ra. Tiếng côn trùng vẫn rỉ rả như nhắc nhở về sự có mặt của chúng. Trời chưa lạnh đủ để cướp hết sự sống của những con vật với tiếng kêu đều đặn vang lên rõ mồn một trong đêm khuya. Phải 1, 2 tháng nữa mới thấy bặt tăm để trả lại cho đêm cái mênh mông yên tĩnh đến phát sợ! Tâm Thanh cố không nghĩ đến một điều gì để dỗ giấc ngủ. Nhưng trong bóng đêm hình như con người nàng càng nhỏ bé hơn và muôn ngàn vật thể, sự kiện của ban ngày đua nhau kéo về quấy rối không yên. Từng thứ, từng vật tiếp nối chồng lên nhau, dầy cộm, hỗn độn. Bỗng dưng đâu câu nói của bà lúc ban sáng bên bờ nước lại trở về. Hình như trong  thời khắc chạng vạng nửa đêm nửa ngày, người ta tỉnh hơn, và Tâm Thanh cũng thế.
 
“...Chỗ đó nước sâu lắm. Hụt chân hay đẩy nhẹ là rơi xuống ngay”. Tại sao bà biết chỗ đó nước sâu lắm? Tại sao lại nói là đẩy nhẹ? Ai đẩy ai? Giọng bà thảng thốt một cách lạ! Những câu hỏi này choán hết mọi hình ảnh khác quanh nàng. Chập chùng đan vào những câu hỏi là đôi mắt đen thui sâu hun hút của bà mà dù thời gian có tàn nhẫn đến đâu vẫn không làm phai nhạt đi được cái màu đen và chiều sâu huyền bí đó. Đôi ngươi đen  chiếm gần hết màu trắng còn lại. Nàng lại chạnh nhớ đến cặp mắt mình. Cũng y hệt như thế, làm như cái màu đen kia đã vỡ ra, tràn kín bên ngoài. Nếu nàng có đôi mắt to có lẽ cái màu đen kia sẽ bớt đi. Chỉ vì đôi mắt mình nhỏ quá! Đó là những câu hỏi vớ vẩn. Tâm Thanh tự bảo mình như thế và cố nghĩ đến những điều khác hay trở lại với giấc ngủ. Nhưng làm như giấc ngủ của đêm nay thế là đủ và những câu hỏi kia cứ trở tới trở lui. Nàng mong cho trời mau sáng.
 
Khi trời he hé sáng cũng là lúc những tiếng râm ran ngoài kia thưa dần. Nhà im phắc. Không nghe thấy tiếng bà húng hắng ho hay khua khoắng gì. Chắc bà còn ngủ say. Những động tác thường nhật được nàng làm rất khẽ khàng. Từ cái vòi nước chảy cũng ri rỉ, đánh răng, rửa mặt, rón rén như kẻ trộm! Tại sao mình lại buồn cười thế nhỉ? Tâm Thanh không muốn đánh thức bà và nàng cũng chán cái giờ giấc quen thuộc như cái đồng hồ của mỗi sáng. Chán những con đường quen thuộc, chán đến từng ổ gà, từng khoảng không gian tụ lại ở góc đường, con dốc sau nhà, xuống hồ... Đấy, đấy, nàng lại sắp sửa bị mấy câu hỏi hồi đêm quấy rầy!
Tâm Thanh cứ dùng dằng trong  phòng riêng của mình, hết thử cái áo này rồi lại cởi ra, thay áo khác. Vất đầy trên giường. Nàng thấy thích quá. Không giống như mọi ngày. Không trang điểm. Sau một đêm mất ngủ, trông nàng giống con ma. Này! Lạ quá! Điều gì, ý nghĩ nào rồi cũng dẫn dắt đến những thắc mắc đó? Không nên tưởng tượng một điều gì!
Không ăn sáng, nàng định đi làm sớm. Nhưng ra đến gần cửa, nghĩ sao nàng rón rén  đến cửa phòng bà nhìn vào. Bà nằm trên giường. Vừa thấy bóng Tâm Thanh, bà nhấc tay lên ra hiệu. Tâm Thanh định bảo: “Cháu đi làm”, nhưng chợt nhìn thấy gương mặt tiều tụy khác hẳn của bà,nàng hơi hoảng hốt kêu lên:
 “Bà không sao đấy chứ? Bà mệt ư?”
“Mệt quá... không dậy được! Không cử động được... sao ấy!”
Bà như một người khác hẳn. Tâm Thanh cuống lên:
“Để cháu gọi xe cứu thương!”
Bà chẳng nói gì. Nằm yên, nhắm mặt lại. Làm như sự hiện diện của Tâm Thanh đã quá đủ. Mái tóc xô lệch càng làm sự tiều tụy tăng lên gấp mấy lần.
Ngay đến con số cấp cứu 911 mà mãi nàng mới nhớ ra. Nàng chưa tỉnh hồn. Nỗi lo âu choán ngợp làm mắt nàng mọng lên. Bà nằm yên, không mở mắt. Chẳng nói thêm lời nào. Tâm Thanh sợ.
 
Tiếng còi xe cứu thương rúc lên từng hồi, nghe xa xa, rồi cứ rõ dần. Tâm Thanh vội cất những giấy tờ vào ví rồi ra cửa ngóng. Tiếng còi xe, đèn chớp nháy. Buổi sáng sớm mai khét lẹt mùi khói xe, những tiếng động inh tai. Nhưng bà vẫn nằm yên trên giường, không thèm mở mắt ra gọi Tâm Thanh.
 
*
 
Bà bị stroke lần nữa. Nặng hơn những lần trước. Hy vọng sống chỉ chừng 20%. Lúc này khi nghe thế, Tâm Thanh tha hồ khóc. Nàng khóc cho bà, cho cả mình nữa. Cho nỗi hiu quạnh mà tất cả mọi người bỏ lại cho nàng. Ba. mẹ, rồi lần này đến phiên bà.
Nàng ngồi bên cạnh bà và nước mắt cứ thế mà chảy ra. Tưởng đâu những giọt nước mắt như mưa ấy sẽ đánh thức bà dậy. Để Tâm Thanh đưa bà về lại nhà, mỗi sáng lại đẩy xe trên đoạn đường quen thuộc mà mới sáng nay nàng chán ngắt khi nghĩ đến những bổn phận! Bà vẫn nằm đó, bất động trong giấc ngủ với hàng bao nhiêu dây cắm trên đầu, trên tay. Có lúc mệt quá, nàng thiếp đi trong giấc ngủ vật vã. Tiếng ú ớ làm nàng tỉnh dậy. Mở choàng mắt. Nàng  nhìn bà, trông đợi một điều gì. Bà mấp máy miệng. Những lời gì Tâm Thanh nghe không rõ. Nàng áp mặt sát gần bà, lắng nghe. Chỉ có thế rồi bà mất. Giản dị, nhanh chóng và bất ngờ. Nàng đứng trơ ra đó, không làm gì được. Nàng nhấn nút ở đầu giường. Nhiều người lắm, ra, vào, làm đủ thứ mà bà vẫn cương  quyết không trở lại.
 
*
 
Căn nhà dường như rộng hơn theo với nỗi hiu quạnh. Tâm Thanh chưa thấy tình yêu đâu cả. Quay đi quay lại chỉ thấy mình. Tất cả những quen thuộc của thời gian trong ngày đều thay đổi. Nàng không còn theo một thứ tự như lúc sống với bà. Những quen thuộc nhàm chán giờ lại trở thành một thiếu vắng lắm lúc đến rợn người. Cái mùi dầu xanh, mùi salonpas bà hay dùng vẫn còn thoang thoảng bám vào đâu đó, không chỉ trong phòng bà mà hình như còn đọng lại trong bếp, phòng khách và có những lúc đứng ở bờ sông sau nhà nàng cũng có cảm tưởng ngửi thấy đuợc cái mùi đó. Tâm Thanh đã nghĩ đến chuyện phải trang hoàng lại nhà cửa, thay đổi hết đi. Điều này chắc có lý và sẽ làm nàng bận rộn. Tốt thôi.
 
*
 
Căn nhà sực lên mùi sơn mới. Tâm Thanh phải mở hé cửa vào những ngày cuối tuần khi nàng ở nhà. Màn cửa sẽ thay nhưng phải để dành tiền đã. Nàng tự sơn lấy lại tường và cửa nhưng không may được màn. Nàng gọi Salvation army tống khứ khá nhiều đồ. Căn nhà rộng hẳn ra, mang một vẻ đồng nhất của chỉ một bàn tay và một ý thích, không táp nham như trước. Một khuôn mặt mới, thanh xuân hơn với những decor trẻ trung và Tâm Thanh thấy lòng vui hẳn lên.
 
Đã sang tháng giêng mà trời đất vẫn làm nũng quá này, chẳng nóng chẳng lạnh, chẳng ra làm sao cả. Hôm thì lạnh, rồi đùng cái ngày mai lại nóng hực lên. Tâm Thanh cứ nhấp nhổm nghĩ đến chuyện ra vườn cây khuân một lô hoa hoét về trồng trước nhà cho... ra vẻ mới luôn thể. Và nàng đã đi mua bao nhiêu là hoa về thật. Sáng thứ bảy, trời không mưa nhưng âm u, Tâm Thanh đã định sẵn trong đầu sẽ trồng những thứ nào ở đâu, thế mà khi xỏ tay vào đôi găng vải thô nàng lại cởi ra và quăng đi. Có bao giờ nàng trồng cây đâu, chỉ có bà. Đã bao lâu nay, nay mới nhớ đến bà! Nỗi nhớ mông lung và xa vời, thoắt ẩn thoắt hiện như một điều gì đã qua lâu lắc nhưng không biến hẳn. Rồi nàng cặm cụi trồng hoa, không găng tay, đầu óc trống không, chỉ thấy đất, hoa và màu sắc.
“Này cô!”
Tâm Thanh giật mình nhìn lên. Tiếng Việt! Rõ ràng là tiếng Việt từ một người nam. Ai vậy? Chưa hề gặp trong đời. Nhưng lại thấy nét quen. Lạ thật! Người đàn ông chắc cũng trạc tuổi nàng. Nàng đứng lên, cái nhìn của nàng có đầy đủ ý nghĩa của một câu hỏi không cần phải thốt lên.
“Đây có phải nhà bà Đắc không cô?”
Anh ta là ai mà lại nhắc đến tên bà? Tâm Thanh tò mò nhìn anh ta nhưng khi định trả lời nàng hơi phân vân... Nhưng bà cũng đã từng ở đây nhiều năm? Nhà của bà đúng rồi!
“Vâng.”
“Có bà ở nhà chứ?”
Điều gì làm anh ta xác định là bà ở nhà? Anh ta phải là người quen?
“Bà tôi... không có nhà! “ –Tâm Thanh không muốn nói đến chuyện ra đi của bà khi chưa biết rõ mục đích của anh ta. Suốt bao năm nay có bao giờ thấy ai tìm bà đâu?
Sự thất vọng lộ hẳn trên gương mặt hơi thô của anh ta. Đôi mắt lồ lộ như của một ai mà nhất thời nàng chưa nghĩ ra.
“Thế ông bà Huyến có nhà không hả cô?”
Lần này không thể nói lung tung nữa được rồi.
“Ba má tôi... không còn nữa...”
Sự ngỡ ngàng làm anh ta bối rối hẳn lên. Có lẽ khi đến đây anh ta không sửa soạn cho những bất ngờ như thế. Nhưng anh ta vẫn tiếp tục hỏi thêm như vớt vát:
“Vậy... chắc cô là con ông bà Huyến?”
Ơ lạ quá đấy nhé! Tại sao anh ta lại biết rõ rành mạch thế? Nhưng cũng chính những câu hỏi này làm Tâm Thanh bạo dạn hơn, nàng hỏi lại:
“Sao ông biết? Ông là ai?”  
 Anh ta chỉ tay vào hai chiếc ghế sắt để dưới hàng hiên:
    “Nói chuyện một lúc được chứ? Tôi tên là Trí. Có bà con với ba cô. Cô tên gì vậy?”
   Trở lại với con người cố hữu, Tâm Thanh hơi tủm tỉm cười:
   “Tôi là Tâm Thanh . Tôi phải xưng hô thế nào?”
   “ Tôi là em của ba cô.”
   Em của ba? Chưa bao giờ nghe thấy nói đến? Chắc em họ của ba? Trông chẳng lớn hơn nàng bao nhiêu mà Tâm Thanh phải gọi bằng chú ư?
   “Mời... chú vào trong nhà.”
   “Bao giờ bà về hả cô?- Anh ta vẫn gọi Tâm Thanh như thế dù nàng đã đổi cách xưng hô.
   Mức độ gần gũi và thân thiện đã nhích lại gần hơn bởi mối liên hệ giòng tộc. Tâm Thanh đưa “chú Trí” vào nhà bằng cửa garage vì tay nàng đầy đất. Tâm Thanh xin lỗi đi rửa tay trước khi trả lời.
   Ngồi xuống ghế đối diện với chú Trí, Tâm Thanh nói không mấy khó khăn:
   “Bà cháu mất mấy tháng nay rồi!”
    Chú Trí nhận câu trả lời của Tâm Thanh với một vẻ khó coi, không hẳn là đau buồn. Lúc này Tâm Thanh mới để ý trên tay chú cầm một gói gì bọc khá cẩn thận. Quà chắc? Cả chú và Tâm Thanh đều không nói gì một lúc khá lâu. Giọng chú ta hơi khác khi hỏi nàng:
    “Bà đau sao? Có lâu không?”
   “Không! Cũng nhanh lắm. Trước đó bà bị stroke, bị liệt nửa người, nhưng tập một hồi nên cũng khá hơn. Lần cuối cùng này nặng...”
   “Còn ba má Tâm Thanh?”
   “Ba má cháu bị tai nạn xe hơi cách đây 3 năm. Cũng nhanh như bà thôi. Chú bà con thế nào với ba cháu?”
   “Tôi là em cùng cha khác mẹ với ba Tâm Thanh” –Chiếc gói vẫn nằm trong lòng chú khi trả lời.
    Toàn là những bất ngờ! Lúc này Tâm mới thấy đôi mắt hơi lồi quen thuộc ở chú giống ai. Giống ông, trong bức ảnh trên bàn thờ trong phòng bà. Quá nhiều câu hỏi chợt đến mà không tiện hỏi. Nàng cứ chấp nhận những điều vừa biết như... những điều đã biết từ lâu.
     Chú Trí đặt gói giấy lên bàn rồi bảo Tâm:
    “Khi ba tôi chết cách đây 3 tháng, đây là những điều ba tôi dặn dò trong những giờ phút cuối cùng. Tôi tưởng đến đây sẽ gặp bà. Tôi hứa với ba tôi như thế. Lời hứa này...”
     Nàng không biết phải nói sao. Chiếc ảnh thờ ông đã có từ lâu lắm, phải trước khi nàng ra đời. Bà và ba mẹ nàng đã thờ ông như thờ một người đã khuất từ hàng 25 năm nay, hay có thể hơn nữa chút đỉnh. Cũng nhang khói, hương hoa... nhưng cho một người chỉ vừa mới nằm xuống đây? Tâm Thanh nhìn chú Trí, lòng nặng như những ngày bà mới mất. Tưởng đâu bà, rồi ba mẹ... đã nằm hết cả ở phía đằng sau của ký ức và Tâm Thanh hoàn toàn yên ổn với cuộc đời của mình, Cái quẫy mạnh tuy thuộc về quá khứ nhưng lại mới tinh, hớp hồn nàng bằng những đợt sóng nhồi dồn dập, hết lớp này đến lớp khác. Tự dưng Tâm Thanh buồn nôn. Nước miếng đầy trong miệng nàng. Chẳng thể nói một điều gì.
    “Bây giờ tôi chỉ biết giao cho Tâm Thanh. Hoặc là cháu cất đi, để bàn thờ hay mang ra mộ bà, sao đó, cho toại lòng người đã ra đi..”
    Điều này có dính líu gì đến mình? Tại sao Tâm Thanh lại là người duy nhất còn sót lại trong căn nhà này để phải nhận lãnh một gửi gấm của mộït người chết gửi cho một người cũng không còn nữa? Tại sao nàng lại phải bị đu đưa giữa những rắc rối nào đó thuộc về dĩ vãng không phải của mình? Tâm Thanh muốn nói lời khước từ, phủ nhận cái trách nhiệm đó nhưng nàng không tìm được một câu nói nào để nói với người chú chỉ bằng tuổi nàng, vừa nhận họ.
    Sự im lặng ở Tâm Thanh trong lúc này đương nhiên trở thành một chấp nhận, dù miễn cưỡng. Chú Trí dường như cũng không muốn ngồi nán lại thêm. Chú đứng lên, nhanh nhẹn nói dăm câu gì đó Tâm Thanh cũng không nghe rõ. Nàng chỉ nhớ tiễn chú ra ngoài cửa, cố gắng nói lời chào chú, rồi thôi.
    Những cụm hoa nho nhỏ vẫn đang chờ Tâm Thanh trước nhà nằm trên thềm xi măng. Phần đất vừa xới có mầu nâu non y như những điều nàng mong đợi ở những đổi thay. Tâm Thanh ngồi sụp xuống, ói ngay trên phần đất nàng vừa xới. Cái mát rượi của bên ngoài trời làm nàng tỉnh táo. Một lúc sau, nàng vun đất chồng lên lớp bẩn từ miệng vừa thải ra. Cũng lại mới thôi!
    Tưởng rằng sẽ tiếp tục trồng nốt được những đám hoa như đã định, nhưng nàng nhầm. Trên từng chậu hoa, trên từng đám đất nàng đều nhìn thấy cái gói giấy nâu quái ác mà chú Trí để lại. Cũng không thể cất đi đâu được, không thể bỏ ngoài mộ bà, để đâu trong nhà thì nó vẫn có đó. Bỏ đi cũng không được! Chú Trí đã tống được cái lời hứa sang cô cháu, và rồi nàng sẽ làm gì với nó đây? Chỉ có một lúc thôi với sự rắc rối này mà nàng đã không chịu nổi, huống gì kéo dài, phải giải quyết cho xong. Tâm Thanh phải được trả lại về với hiện tại và tương lai của nàng.
     Tâm Thanh vào nhà, mang theo chiếc gói nọ vào bếp và cẩn thận kéo từng lớp băng keo, dây cột chằng chịt quanh nó để xem thứ gì trong ấy và phải thanh toán ra sao. Bên trong, sau nhiều lần giấy là một chiếc hộp chữ nhật cao, xinh xinh. Trong chiếc hộp có một bình sứ trông như bình hoa nhưng lại không phải, đậy nút cẩn thận. Có thêm một phong thư.
     Có nên xé thư ra xem? Thư của ông gửi riêng cho bà. Nhưng không đọc làm sao biết ý người chết muốn gì? Đã tháo chiếc hộïp thì bóc cả thư cho tiện việc giải quyết vấn đề, Tâm Thanh thấy mình có đủ nguyên cớ để hành động như vậy. Bức thư chỉ có 2 tờ, viết một mặt giấy.
 
“L ra phi mt đối mt khi nói vi em nhng điu này, nhưng tôi không làm được. Ngay đến chuyn tr li căn nhà cũ, ch đứng ngoài thôi, tôi còn không làm được na, hung h! Hai mươi lăm năm có làm em nguôi ngoai? Cho tôi t li. Em có tin rng tôi không bao gi oán gin khi em đẩy tôi xung sông không? Đúng ra, tôi phi chết lúc đó cho va lòng em. Tôi vn nghĩ em s gin d điên cung khi biết tôi đã phn bi em, nhưng không bao gi ng đến hành động cui cùng y. Lúc nhoài người lên khi mt nước tôi còn nh đôi mt và khuôn mt em. Đôi mt sâu, nhiu tròng đen hơn tròng trng và đôi môi mếu xch hiếm khi thy làm tôi đau đớn và hình nh cui cùng y đã đeo đui mãi không thôi. Như thế mc dù đon tuyt nhưng cái tình gia đôi ta không tuyt. Ngay lúc đó tôi thy mình phi đi thôi, khut mt em và con.
Đó là mt li lm v phn tôi. Nhưng như em vn tng nói ”Thà có hay không có”. Em đã chn dùm tôi mt la chn. Tôi đã dn dò nguyn ước cui cùng là được thiêu. Mt na tro s giao li cho em. Để làm gì h em? Tôi mường tượng em s chm chp ra b sông sau nhà, đúng ch mà em đã đẩy tôi và đổ hết đám tro này xung cho toi nguyn được ý định đon tuyt. Như thế phn nào tôi cũng tm yên n cho nhng li lm ca mình
 
“Ch đó nước sâu lm! Ht chân hay đẩy nh là rơi xung ngay!” Câu nói ngày nào trở lại. Tâm Thanh thấy thương bà, thương cho sự yếu đuối không ngờ ở bà. Phải yếu đuối đến thế nào bà mới hành động như thế. Phần mềm nhất ở một trái tim cứng rắn là một điểm yếu, yếu hơn người ta tưởng. Có bao giờ tưởng tượng một con người như bà lại lụy vì tình đến thế? Mỗi ngày nhìn giòng sông, bà nghĩ gì? Nhớ gì? Nhớ đến hai chữ “đoạn tuyệt” hay nhớ đến chữ “tình”?
 
Chắc Tâm Thanh sẽ mang bức thư này ra mộ bà đốt rồi trải trên mộ cùng với tro của ông. Chỉ có cái chết mới đưa ông bà trở lại với nhau. Tâm Thanh thấy dễ chịu hẳn. Nàng trở lại ra sân, trồng nốt những luống hoa để mặt tiền nhà thực sự có một cái nhìn khác. Căn nhà ở góc đường cụt này sẽ phải trở nên một căn nhà với mảnh vườn đẹp từ hai bàn tay: bà và cháu. Từ hai người phụ nữ có đôi mắt đen thui, sâu như lòng sông.
 
Mc Bích
 
 
 
 
 
 

NgụyXưa
  • Số bài : 880
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 31.01.2007
  • Nơi: Thái Bình Dương
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 05.10.2013 02:23:00
"Giòng Sông" đã được mang vào thư viện.
 
Xin cám ơn tác giả Mặc Bích.
 

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 05.10.2013 05:22:50
Xin cảm ơn

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 05.10.2013 05:25:52
Xin cảm ơn

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 15.10.2013 23:57:06
Tr li nhân gian
 
Mc Bích
 
Cho John và người đã cưu mang anh 
 
Người đàn bà đưa tay lần mò tìm nút bật đèn ở đầu giường. Ánh sáng vàng leo lét từ ngọn đèn 40 watts tỏa một ánh sáng yếu ớt nhưng làm ấm căn phòng lạnh lẽo. Bà ta chậm chạp chống tay ngồi dậy. Hơi rùng mình và so vai lại, người đàn bà nheo mắt nhìn chiếc đồng hồ treo trên vách tường: 1 giờ sáng! Chiếc kim đồng hồ chậm chạp nhích từng khoảng trên mặt tròn của đồng hồ như những chuyển mình của bà lão 80 tuổi. Dù trong ánh sáng lù mù của ngọn đèn nhỏ người ta vẫn có thể nhìn thấy những vách tường dán giấy hoa cũ kỹ, nhiều chỗ đã bong ra để lộ những khoảng trống trơ trẽn và tồi tàn.
Mặc dù ở trong nhà nhưng lúc nào bà Rosado cũng mặc hai ba lớp áo để tiết kiệm bớt tiền sưởi trong mùa Đông. Máy sưởi chỉ thỉnh thoảng mới chạy sịch sịch, hà chút hơi ấm như con ngựa già lẽo đẽo trên đường vắng cố lê tấm thân còm cõi để chốc chốc lại thở phì ra, trút bớt gánh nặng nhọc trên lưng. Bà quơ chân tìm dép trên mặt thảm cứng nhắc. Bà đặt chân một lúc trên đôi dép để bàn chân ấm áp quen dần với cái lạnh. Không biết hôm nay trời có tuyết không? Tối hôm qua bà không muốn xem mục tiên đoán thời tiết vì nó chỉ làm bà mất ngủ nếu chẳng may gặp thời tiết xấu.
Mỗi sáng sớm Thứ Năm bà đều thức dậy vào lúc 1 giờ để sửa soạn đi thăm John. Bà dường như quên hẳn những đau nhức đêm qua do chứng tê thấp gây ra suốt bao năm nay. Ngày Thứ Năm trong tuần là ngày bà vui nhất. Bà vừa rửa mặt vừa nhìn bóng mình trong gương. Hình ảnh phản chiếu trong tấm gương kia là mình đó à? Ngày hôm nay đột nhiên bà thấy như mình đang nhìn một kẻ xa lạ nào đó! Hai đuôi mắt bà sụp xuống, những phần da hai bên má đổ tụ lại cả về chính giữa khuôn mặt được phân ra bởi cái mũi hơi lớn làm thành hai vệt dài mệt mỏi. Còn cái miệng nữa kìa! Bà cố nhếch mép để tạo một nụ cười. Nhưng nụ cười không ra cười, mà nó cũng chẳng làm cho khuôn mặt bà tươi lên chút nào trái lại chỉ làm khuôn mặt già nua thêm gượng gạo buồn phiền! Bà đưa tay kéo làn da hai bên mang tai để thử tìm lại một hình ảnh nào quen thuộc thuở xưa nhưng vô vọng! Những bắp thịt trên mặt đã chai lì đi theo với với 80 năm lê lết nặng nhọc.
Tám mươi năm có như một chớp mắt phù du! Đau đớn, sầu não đến đâu của những ngày đã qua có lẽ cũng chỉ như những mơ hồ viển vông của kiếp người.
Bà vén màn nhìn bên ngoài. Trời tối om nhưng không có đến một bông tuyết bay. Bà mừng thầm. Đường phố vắng tanh. Tất cả còn say ngủ. Đến trước bàn thờ kê trong góc phòng, bà đốt nến và đọc kinh sáng. Trong ánh sáng lung linh của ngọn nến, đôi mắt tuyệt đẹp của tượng Đức Bà long lanh như muốn nhỏ lệ. Bà cúi đầu đọc kinh cầu nguyện cho John, mọi sự cho John, đứa con trai duy nhất còn lại của mình. Bà cúi mình khẽ hôn chân tượng. Như có một sức mạnh thiêng liêng truyền vào khắp châu thân, bà thấy mình phấn khởi hẳn lên. Mọi sự dù khó nhọc đến đâu, nỗi đau kinh hoàng đến chừng nào rồi cũng tự nó phải cởi bỏ để mặc vào một lớp vỏ mới hầu có thể đương đầu với tương lai, để sinh tồn.
Trước khi ra cửa, bà nhìn vào tấm hình của John trong bộ quân phục. Ngày ấy con trai bà còn trẻ. Trông John bảnh bao biết bao nhiêu! Trong đầu bà luôn luôn nhớ đến hình ảnh ấy. John, đứa con trai duy nhất còn lại của bà trên cõi đời này. Bà đã mất Lilian, rồi đến Thompson, và cả người bạn đường yêu quý. John trở nên to lớn, vĩ đại vì nó đã chiếm hết mọi khoảng trống còn lại.
Đúng hai giờ sáng bà rời khỏi nhà. Theo thói quen, sau khi khóa cửa bà vẫn lắc lại cửa để chắc chắn rằng cửa đóng chặt. Với chiều cao không quá 5 feet, bà Rosado như lùn hẳn đi trong chiếc áo dạ rộng thùng thình. Đôi giầy thể thao La.A. Gear làm bà có thêm trọng lượng, nhưng vững chãi. Cả 80 năm đổ dồn xuống đôi chân nhỏ bé nhưng lòng thương yêu và nhung nhớ John đã cất đi gánh nặng và làm cho bà thấy mình tràn trề sinh lực để đối đầu với quãng đường dài 18 tiếng đồng hồ, cả lượt đi và lượt về –đôi khi mất 20 tiếng tùy  theo thời tiết tốt xấu- đến nhà tù giam giữ con trai bà.
Như thường lệ, chiếc xe van chỉ chứa được có 14 hành khách, không kể người tài xế. Cuối tuần số lượng xe van và xe bus chở hành khách từ Nữu Ước đến thăm trại tù Elmira Correctional Facility rất đông đảo, nên bao giờ bà cũng chọn đi thăm John vào ngày giữa tuần cho thưa người. Đám đông, chen lấn làm bà mệt mỏi. Ngày nay người ta không còn nhường chỗ cho những người lớn tuổi nữa mà chỉ tranh đua dành chỗ ngồi nào tốt nhất, chuyến xe nào sớm nhất để khỏi mất thì giờ chờ đợi.
Suốt 18 năm nay đều đặn như vậy, hãng xe van mang tên Operation Prison Gap đã quá quen thuộc với bà Rosado nên người chủ hãng đã tự động giảm giá vé xuống còn 20 đô la. Những người tài xế của hãng này đã quá quen mặt bà. Ngay đến chỗ ngồi của bà, bao giờ cũng là mé ngoài để có thể nhìn qua cửa sổ và gần cửa lên xuống nhất. Làm như ngày Thứ Năm nào mà không có mặt bà, ngày ấy trong tuần không thể gọi là ngày Thứ Năm. Trong 18 năm liền, bà chỉ mất có 3 ngày Thứ Năm. Hai lần do việc bà phải đi giải phẫu và bác sĩ bắt bà phải nghỉ ngơi. Lần thứ ba thì tại thời tiết, không phải tại bà. Lần đó tuyết ngập phủ quá cao, không xe cộ nào đi lại được.
Chuyến xe bà đi hôm nay như mọi lần cũng đầy chật người. Lance, tài xế xe van, lên tiếng chào bà, giọng anh lúc nào cũng vui vẻ:
“Bác mạnh giỏi?”
Hỏi xong Lance tự trách mình, dĩ nhiên là bà lão phải khỏe mới có mặt đây ngày hôm nay, còn giỏi thì dĩ nhiên là giỏi rồi.
Bà nhếch mép cười lộ hàm răng mấp mô đã đổi mầu theo với thời gian:
“Phải mạnh chứ? Còn cậu?”
Lance cười ha hả:
“Cháu mà đau thì vợ nó cũng tống ra khỏi nhà bắt đi làm. Không làm lấy đâu mà ăn?”
Bà cười như đồng tình và nặng nhọc trèo lên xe van. Bàn tay gầy guộc có những gân xanh nổi vồng lên hiện rõ theo cử động mạnh bám lấy thành xe để đu cả người lên. Bà luôn luôn đến sớm hơn giờ khởi hành nên bao giờ cũng chọn được đúng chỗ ngồi như ý. Phải đến lúc đặt hẳn người người ngồi vào ghế bà mới thở ra một hơi dài khoan khoái. Đệm ghế còn lạnh ngắt nhưng chả sao, một lúc nữa đây là ấm ngay. Trong lúc chờ đợi, bà tìm trong túi, xách ra một chiếc hộp nhỏ trong có đựng kim chích và thuốc. Bà phải chích insulin hàng ngày do bệnh tiểu đường gây ra. Dù chậm chạp nhưng mọi cử động đã thành quá quen thuộc. Làn da bà đã chai cứng và dầy lên lốm đốm những dấu kim chích. Những ý tưởng về bệnh hoạn không bao giờ bà để tâm. Phải loại nó đi! Bà thường nhắc nhở chính mình như vậy. Mấy thứ lặt vặt này chẳng nghĩa lý gì! Có lẽ nhờ thế mà bệnh thì có đó nhưng chẳng mảy may làm bà lo âu hay khó chịu. Ai chẳng phải bệnh, không bệnh này thì bệnh khác, ăn thua gì!
Cái quan niệm: Mọi sự khó khăn hay không may xẩy đến đều chẳng ăn nhằm gì, như con đường đi phải có lúc bằng phẳng, có lúc nhồi xóc, cứ thẳng tiến mà bước, làm đôi môi bà luôn luôn mím lại như một thách đố cương cường với cuộc đời.
Nhưng có lẽ vì cứng rắn như thế nên đời lại càng thích trêu chọc và thử thách bà nhiều hơn. Đấy là may hay rủi? Bảo rằng may cũng được mà bảo rằng không may cũng chẳng sao! Bởi vì chuyện không may có đến hay không, con người bà vẫn y như thế, không thay đổi.
 
Chuyến xe van chuyên chở 14 trái tim nhiệt tình đi vào trong đêm tối theo con đường đến trại giam. Những trái tim nhiệt tình thật đấy, nhưng cũng có đau khổ nữa chứ? Chỉ khác là những đau khổ được gói ghém rất kỹ. Chẳng ai nói với ai một lời nào, dù là lời than vãn hay câu chuyện nắng mưa. Nhưng trên từng gương mặt đăm chiêu người ta có thể mường tượng được từng thảm kịch đã đến với họ. Một người thân yêu nhất bị xã hội lên án, giam giữ trong tù là một thảm kịch chứ gì nữa? Nhiều người ngủ gà ngủ gật trên xe suốt cuộc hành trình. Riêng bà Rosado vẫn không chợp mắt. Bà nhìn quang cảnh hai bên đường trong đêm và kiên nhẫn chờ tấm màn đêm ấy từ từ nhích dần lên. Trong cái mầu tăm tối đó, bà vẫn nhìn thấy thấp thoáng hình tượng cậu bé John từ những ngày chập chững bước đi đến lúc mũ áo ra trường. Đó là những hình ảnh sáng lấp lánh trong đêm như những vì sao trên trời kia. Nó ở đó những xa quá, chập chờn như một bóng ma, như không phải sự thực. Nó nằm đó với ước mơ thầm kín yếu đuối trong bà: Phải chi thời gian ngừng ở ngay đó và đi vào bất diệt!
 
Năm 1957 với cuộc hôn nhân đầu đời đổ vỡ, bà ly dị. Cuộc đời đẩy đưa bà cùng John sang Hoa Kỳ. Ở vùng đất phì nhiêu nhưng lạ lẫm này bà lập lại cuộc đời với người chồng thứ nhì. Những thất bại liên tiếp đã thay đổi tính tình chồng bà và những trận đòn vô cớ đổ lên bà, lên John. Bà vẫn tự oán trách mình là nguyên nhân đã làm John đi vào đường tội lỗi. Ngày ấy có lẽ bà còn quá trẻ nên mới đi bước nữa, một bước nhầm mà không thể lùi lại được với sự chào đời của Lilian và Thompson.
Bà đã tập cho tâm trí mình chỉ hướng về những ngày vui đã qua. Những quá khứ u buồn có hiện về bất chợt liền bị bà thẳng tay chối từ phủ nhận như thể những sự việc đó chưa bao giờ xẩy ra. Bà là người cương quyết phấn đấu hay bà chỉ là kẻ hèn nhát không dám nhìn nhận những điều đã xảy ra? Câu trả lời có lẽ chỉ tóm gọn một cách giản dị: Phải đặt tình yêu lên trên tất cả. Tình yêu đã làm bà tô mầu đè lên những phần tăm tối tủi nhục đã qua. Và có lẽ tình yêu đã làm 80 năm trôi qua trót lọt. Thế thôi!
 
Khi chiếc xe van ngừng trước cổng trại giam, nắng đã lên chan hòa từ lâu. Nắng vàng và trời trong xanh làm những vòng kẽm gai đen xì chung quanh trại giam càng nổi bật. Sự nổi bật kinh khiếp, sắc nhọn và làm cho ánh mắt của bất cứ ai cũng phải khựng lại. Chiếc xe thở phì phì, nhả vài làn khói xám nhạt rồi giật nhẹ và ngừng hẳn. Mười bốn người hành khách đứng dậy, thu dọn đồ và nối đuôi nhau bước xuống. Cuối cùng họ đã đến nơi mong đợi trong suốt chặng đường dài lê thê. Còn phải mất nhiều thì giờ qua nhiều trạm canh gác và kiểm soát trước khi gặp được người thân. Ngày Thứ Năm tương đối số người đi thăm cũng thưa hơn cuối tuần, bà Rosado nhìn quanh đám người đang từ những chiếc bus và xe van khác đang lục tục nhập vào đám đông và tính nhẩm: phải đến hàng 2 tiếng đồng hồ nữa bà mới có thể gặp được John. Những phỏng đoán của bà chỉ sai lệch chừng mươi phút đồng hồ vì số người đi thăm tù vào ngày Thứ Năm cũng khá đều đặn.
Mọi người xếp hàng nối đuôi, chậm rãi qua các cổng kiểm soát. Chẳng ai nói với ai tiếng nào. Bên ngoài đời người ta xếp hàng ở tiệm ăn, ở rạp hát, ở chỗ xin việc.. v…..v.. để trông đợi một niềm vui, một niềm hy vọng. Ở đây, những người đang nối đuôi lần lượt nhích từng chút một để được gì? Đối với bà Rosado, sự thu ngắn lại khoảng cách dần dần này là một sự cận kề với tình yêu. Cái tình yêu kỳ diệu mà chỉ có người mẹ mới cảm thấy hết được từ giây phút đứa trẻ được hình thành trong bụng mẹ, tăng trưởng dần và chào đời, rồi khôn lớn.. Tình yêu mà người mẹ chỉ cho đi mà không đòi hỏi sự đáp lại. Đó là tình yêu một chiều duy nhất trên thế gian mà con người biết cảm nhận và thụ hưởng.
Cũng vẫn những khuôn mặt, cảnh trí quen thuộc, nhưng lao xao trong bà một niềm vui rạng rỡ hơn bình thường vì năm nay ngày Thứ Năm này rơi đúng vào sinh nhật của John. Người gác khám xét cẩn thận, bắt bà bỏ mọi sự mang theo vào một hộc có khóa, có số và bắt bà ký nhận. Bà chỉ được phép vào thăm John tay không. Nhưng hôm nay là ngày sinh nhật của John, bà muốn xin được một đặc ân. Bà nài nỉ người gác ở trạm cuối cùng:
“Hôm nay đúng là ngày sinh nhật con tôi. Ông cho phép tôi được mang cái bánh cho nó”
Người gác mặt lạnh băng lắc đầu như không mảy may xúc động trước sự nài nỉ của bà lão. Ông ta giật lấy chiếc bánh nhỏ có nho khô trên tay bà và bỏ vào hộc khóa. Bà Rosado vẫn lải nhải, và rồi thì nước mắt ở đâu xô đến, ràn rụa trên gò má nhăn nheo của bà, làm mờ cặp kính bà đang đeo. Bà phải dựa vào tường như tìm một điểm tựa cho khỏi ngã xuống. Lâu lắm bà không để mình phải chảy nước mắt, nhưng lần này bà không tự ngăn cấm mình nữa, bà cần phải được buông thả những cảm xúc của mình. Và như một dòng nước chảy mãi không ngừng, bà cứ đứng tựa vào tường và khóc, mặc những người đang xếp hàng sau chờ đợi. Cũng chẳng ai lên tiếng. Chung quanh chợt im lặng một cách kỳ lạ, chỉ có tiếng sụt sùi nho nhỏ của bà Rosado.
Mặt người gác dịu xuống. Ông    ta thở dài:
“Thôi được! Nhưng bà phải chờ cắt chiếc bánh ra xem có dấu gì trong đó không. Không được phép đốt nến gì cả. Chỉ ngày hôm nay và trường hợp bà thôi!”
Bà Rosado run rẩy nói với người gác:
“Cám ơn ông.. cám ơn ông nhiều lắm.. Vâng, ông cứ cắt ra, không có gì trong đó đâu..”
 
Bà Rosado đặt cả bàn tay lên làn kính nhựa trong suốt ngăn cách giữa người tù và người đi thăm như muốn truyền hơi ấm sang cho bàn tay John ở bên kia. Cả hai người nói chuyện với nhau qua chiếc điện thoại máng bên cạnh bàn.
Người gác mang chiếc bánh muffin đã bị cắt làm nhiều miếng nhỏ vào cho John. John nhìn đĩa bánh, nhìn người gác rồi hỏi mẹ:
“Hôm nay có gì đặc biệt?”
Mắt bà Rosado sáng lên với một niềm vui thích vô bờ bến:
“Sinh nhật con, không nhớ à?”
John nhìn bà Rosado. Mười tám năm đã trôi qua, đã biết bao nhiêu lần John nhìn mẹ qua làn kính nhựa ngăn cách có màu trong suốt, nhưng chưa lần nào anh thấy gương mặt mẹ mình lại tươi sáng như vậy khi nhắc đến ngày sinh nhật của John. Mẹ không bao giờ hỏi John về tội ác anh đã gây ra và John cũng cứ tảng lờ như việc mình bị giam giữ trong tù này là một sự việc phải xảy ra, như hai cuộc đời ở hai đời sống khác nhau. Và sự khác nhau đó dĩ nhiên chẳng bao giờ gặp gỡ thực sự vì bao giờ cũng có lằn ngăn cách.
Bà Rosado lại tiếp tục nói bằng một giọng vui vẻ:
“Người ta không cho đốt nến nhưng cần gì, mẹ sẽ hát bài hát chúc mừng sinh nhật con nhé, John”
Và bà cất giọng hát. Giọng bà ồ ề và khàn đục vang lên đơn lẻ trong phòng thăm. Bà chỉ không vỗ tay thôi. Bên kia John ngồi yên, cúi đầu. Anh ước gì có thể ôm được mẹ vào lòng và nói một câu giản dị: “Con yêu mẹ” như lúc còn nhỏ John thường làm. Cổ họng anh nghẹn cứng, John không nói được lời nào và cũng không làm được một cử chỉ nào. Anh ngồi yên như hóa đá, chỉ có tâm hồn John là rạt rào yêu thương. Mắt John nhắm chặt không dám mở ra mặc dù có hai giọt lệ ứa ra ở khóe mi. Bà Rosado ngừng hát từ lúc nào anh cũng không hay.
Như có một cảm nhận thiêng liêng huyền bí nào đó làm bà Rosado cũng yên lặng. Dù qua làn kính nhựa, bà Rosado cũng nhìn thấy giọt nước ở đuôi mắt của John. Bà chắc chắn giọt nước đó có vị mặn y như lằn nước đang chẩy qua bờ môi bà. Dù có bao sự khá biệt giữa bà và John nhưng chắc chắn những giọt nước này là một, dù không thể hòa chung bởi sự ngăn cách. Bà nhắc nhở John:
“Ăn bánh đi con! Bánh sinh nhật con!”
John xúc từng thìa bánh đưa vào miệng, khó khăn như trẻ con mới tập ăn một mình. Nhiều lúc anh tưởng chừng như mắc nghẹn.
Có tiếng đập cửa phòng, người gác nói vọng vào:
“Hết giờ thăm!”
John nhìn mẹ. Mẹ anh già đi nhiều lắm. Lần này hai mẹ con anh chưa nói với nhau được nhiều. Dường như thời gian đã cướp đi cả những giây phút ngắn ngủi gần gũi này của John. Trong sự xúc động dạt dào vẫn còn đọng lại, John không muốn đứng dậy theo chân người gác. Nhưng rồi John cũng phải đứng lên và đi ra. Anh ngoái lại và nói với bà Rosado:
“Con yêu mẹ!”
Bà Rosado nhìn những cử động trên miệng John và đoán những lời gửi gấm của con trai mình. Đó không chỉ là một lời tỏ lộ tình yêu không thôi mà còn là một lời xin lỗi của John. Bà hiểu như vậy. Bà cũng chẳng muốn biết về những việc John đã làm trong quá khứ. Quá khứ đã trở thành những đám bụi mốc màu thời gian và đi vào quên lãng từ lâu, chỉ có tình yêu của mẹ con bà là tất cả, là quá khứ, là hiện tại và là tương lai.
Mãi đến khi người gác vào dục bà lần nữa, bà mới chậm chạp đứng dậy đi ra. Trong tai bà còn vang vang tiếng cười nói hồn nhiên của John lúc nó còn nhỏ xíu và lồng vào đó câu nói “Con yêu mẹ” chỉ nhìn thấy mà không nghe được bên tai. Lúc đi vào bà nhanh nhẹn bao nhiêu thì bây giờ bà thấy nặng nề bấy nhiêu khi đi ra.
Đoàn người đi thăm lại lục tục nối đuôi nhau ra xe bus, xe van trở về. Chỗ ngồi quen thuộc của bà đã bị người khác chiếm. Chuyến trở về bà ngồi mãi ở tận ghế sau cùng. Bà cũng không quay lại nhìn nhà tù như mọi lần. Hình ảnh John đi theo người gác và lời nói trên môi John vẫn còn lao xao trong tâm hồn bà như bà vẫn còn ngồi trong phòng thăm và trước mặt đĩa bánh chỉ còn vài mảnh vụn trơ trọi của một ngày sinh nhật không biết là lần thứ bao nhiêu của John.
Chiếc xe lại lắc lư trở ngược về thành phố. Những tiếng động rì rì của máy sưởi trong xe bus và những cái xóc nhẹ nhàng của sự chuyển động đưa bà Rosado vào giấc ngủ nhẹ nhàng.
Khi chiếc xe dừng ở trạm cuối cùng, bà Rosado chậm rãi bước xuống, không quên chào từ biệt anh tài xế quen.
“Đi cẩn thận nhe Bác. Trời tối lạnh, đường trơn trượt lắm đó! Gặp bác tuần tới nhé!”
Cái lạnh đột ngột bên ngoài làm bà hơi run rẩy. Bà cẩn thận dò từng bước trên đường về căn gác trọ của mình. Ánh sáng ấm áp của từng trụ đèn đổ xuống đường và vỉa hè làm thành những vũng tròn màu sắc trong đêm tối. Đến chân bậc cầu thang căn gác trọ, bà Rosado dừng chân thở mệt nhọc. Chiếc túi xách dường như nặng hơn lúc ra đi. Một bên vai bà trĩu xuống. Bà hơi rùng mình khi cơn gió lùa qua chân cầu thang. Bà tự nhủ thầm: “Ráng chút nữa. Lên hết cầu thang là vào đến nhà!”
Với hết mọi cố gắng, bà níu tay lên thành thang gác rồi từng bước, từng bước bà trèo lên thang. Lạ thật! Mọi khi đâu có mệt thế này? Chắc vì trời lạnh nhiều! Khi leo hết bậc thang cuối, bà thở phào nhẹ nhõm. Bà Rosado ngồi bệt xuống bậc thang thở dốc. Bà vẫn còn thấy lạnh, và hình như lạnh hơn cả lúc nãy. Người bà như đông cứng lại nhưng mồ hôi lại vã ra đầm đìa. Bà muốn đứng dậy, mở cửa vào phòng nhưng đôi chân vô tri giác của bà cứ ỳ ra, cả thân người như không còn theo sự điều khiển của cái đầu bà nữa. Bà có cảm tưởng như cái đầu mình và thân xác nay thuộc về hai người khác biệt. Bà muốn nghĩ đến một điều gì đó nhưng vô ích, đầu óc bà quay cuồng và tối đen.. tối hơn màn trời đêm, tối hơn góc cầu thang không một bóng đèn này. Bà nghiêng hẳn người về một bên cầu thang có tay vịn. Cả thân hình giật nhẹ vài cái. Bà ngã ngửa ra sau. Bàn tay bà thoạt tiên còn nắm lại, rồi co giật và sau cùng thì từ từ doãi, mở hẳn ra, bất động. Lòng bàn tay trắng nhờ nhờ ngửa trong bóng tối như một lời vĩnh biệt của bà Rosado, như một lời thầm thì trong đêm:
“Xin trả lại nhân gian!”
 
Mc Bích
 
 
 
 
 

NgụyXưa
  • Số bài : 880
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 31.01.2007
  • Nơi: Thái Bình Dương
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 16.10.2013 06:04:13
"Trả Lại Nhân Gian" đã được mang vào thư viện.
 
Xin cám ơn tác giả Mặc Bích.

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 17.10.2013 00:00:38
Xin cảm ơn.

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 29.10.2013 02:23:23
Cám D 
 
Mc Bích
 
Bỏ chiếc dù trong giỏ, lắc lắc thử liệu chừng nặng nhẹ, bà Sương tặc lưỡi nghĩ thầm: “Lỡ mưa sao? Cứ mang phòng hờ”. Lững thững đi bộ ra trạm xe buýt cách nhà chừng mươi phút. Trời đất im sững,  chẳng một ngọn gió, giống như trời đang chết đứng! Bà ngửa cổ nhìn trời, nhìn mây nghe ngóng. Đường phố vắng tắp. Đến gần trạm chờ xe buýt đã thấy có người ngồi đợi. Không phải những khuôn mặt quen mọi ngày. Hắn ngồi ngay chính giữa băng ghế. Một bên là chiếc túi xách lớn chiếm gần hết băng ghế. Hai chân xoạc ra. Quần áo lôi thôi. Khuôn mặt gầy, xương xương, râu quai nón lởm chởm, tóc cắt ngắn, nhiều chỗ dựng ngược như muôn ngàn mũi dáo chĩa thẳng lên trời soi bói. Chừng 26, 27 là giỏi! Chỉ bằng thằng cháu nội của bà Sương. Cái áo khoác ngoài kẻ ca rô đỏ, đen như quân cờ. Thấy bà Sương nhưng hắn vẫn ngồi yên, hai đùi còn rung rung, chân nhịp nhịp.
 
Thoạt đầu, bà đứng. Bỏ chiếc giỏ xuống đất, ngó mông ra đường. Chừng 2, 3 phút bà quay lại nhìn gã thanh niên xem y có ngồi dịch lại hay bỏ túi xách xuống đất chừa chỗ cho bà già không. Hắn cứ tỉnh bơ rung đùi, chẳng thèm nhìn trả lại bà lão vì bên cạnh gã vẫn còn một chỗ trống không rộng rãi lắm. Đã đi bộ nãy giờ mà lại còn phải đứng thì mệt cho đôi chân quá đi! Thôi, thì ngồi vậy!
 
Bà lão ngồi xuống cạnh hắn. Trông gã bẩn thỉu nhưng không thấy hôi hám. Cũng đỡ! Bà ngồi sít rịt vì nhích ra xa chút nữa thì một phần cái mông sẽ không có chỗ đỡ. Thằng quỷ! Bà già rủa thầm. Nhìn xuống đất, trúng ngay ngón chân cái lòi ra khỏi đôi giầy vải thủng một chút ở đầu mũi giầy của gã. Ngón chân ngọ nguậy theo nhịp rung trông tức cười hết sức. Ngón chân chĩa ra một cách vô trật tự y như một chỏm tóc trên đầu của hắn. Những cử động nhịp nhàng của ngón chân ngoẹo qua ngoẹo lại làm bà lão phát ngứa ngáy, bứt rứt khó chịu!
 
- Mưa! Mưa đi! Mưa lớn đi trời!
 
Bà Sương hết hồn! Ai nói vậy? Chẳng lẽ...? Quay sang nhìn gã thanh niên. Y đang mấp máy môi lập lại câu nói khi nãy:
 
- Mưa! Mưa đi!
 
Tự dưng bà thấy có cảm tình với hắn hơn. Cũng người đồng hương. Bà lão bắt chuyện:
 
- Cậu người miền đâu vậy?
 
Hắn hơi nhếch người nhìn bà Sương. Đôi mắt của gã mới kỳ dị làm sao. To, sáng rực như tỏa ra một thứ điện vô hình, không đen nhưng xam xám và xoắn nhìn mê mê như muốn hớp hồn bà lão. Bà cũng ngay đơ ra nhìn hắn. Không lẽ con mắt người ta mà lại có sức mạnh kỳ cục thế ư? Hai bên nhìn nhau ở một khoảng cách quá gần. Khi gã nhếch mép cười, mấy chiếc răng trắng bóc nhô ra coi hay quá.
 
- Người Việt. –Hắn trả lời cụt ngủn.
 
- Biết là người Việt, nhưng người ở vùng nào? – Bà Sương kiên nhẫn lập lại câu hỏi.
 
Hắn nhìn bà lão rồi lại cười, lần này không phải chỉ thấy vài cái răng mà cả hàm răng trắng tinh:
 
- Người Việt.
 
Bà lão chịu thua vì biết hỏi tới gã cũng sẽ chỉ trả lời y như vậy. Chắc nó không hiểu tiếng Việt nhiều như mấy đứa cháu của bà. Bà Sương quay nhìn  ra đưòng. Trời bỗng dưng tối hơn, âm u và nhiều mây. Trời tỉnh rồi! Hết chết đứng! Làm như cái túi trần gian ở khoảng này bỗng dưng bị túm trọn lại trong một cái bọc tôi tối, nặng nề. Chung quanh như đang thu gọn lại. Rồi lác đác vài hột mưa. Có hột to bằng hạt bắp rơi xuống ngay phía lề đường xi măng lốm đốm. Điệu này chắc mưa lớn! Bà Sương cầu cho xe buýt tới trước cơn giông.
 
Bên cạnh bà, gã thanh niên đứng nhổm dậy. Trông nó vui sướng một cách lạ thuờng. Tay chân, đầu tóc ngọ nguậy như có con gì đang bò khắp người. Nếu mà gã đeo thêm một cái máy gì bên tai nữa thì gã sẽ giống hệt thằng cháu nội ở nhà.
 
Hớn hở thò tay ra ngoài hứng vài hột mưa rồi gã lại thụt vào rú lên:
- Mưa rồi! Mưa rồi!
 
Nhân lúc gã đứng lên, bà Sương nhích vào bên trong băng ghế cho thoải mái. Chiếc xe buýt số 23 mắc dịch đâu sao hoài không thấy tới? Bà lão có biết đâu hôm nay đổi giờ!
 
Cơn mưa ào đến. Thôi thì hột to hột nhỏ tranh nhau đổ xuống dành phần hơn. Cũng may không có gió nhiều nên mưa chỉ tạt vào chút ít bên trong. Cả một khoảng trước mặt mù mịt, toàn nước với nước. Bà Sương thở dài thầm: “Điệu này xe buýt có đến, trèo lên được xe cũng ướt hết! Về bịnh, con cái lại kêu rên, cằn nhằn!”
 
Hắn nhìn khoảng trống bà Sương chừa rất nhỏ, nhìn bà lão, rồi đẩy chiếc túi xách dịch sang một bên, ngồi xuống. Quay sang bà, hắn thân thiện:
 
- Mưa rồi thấy không bác?
 
Trong tiếng mưa lộp độp rơi trên mái nhựa của trạm xe buýt, bà Sương phải ghé đầu sang gần mới nghe tiếng gã nói.
 
Tự dưng bà cũng không thấy ngại hắn nữa:
 
- Bộ cậu thích mưa lắm hả?
 
Hắn lắc đầu:
 
- Không thích! Khi mưa ngừng rồi mới thích.
 
Bà lão tò mò hỏi tới:
 
- Sau cơn mưa có gì mà thích?
 
Hắn không trả lời chỉ nhe răng cười. Nụ cười mới hồn nhiên làm sao.
 
Đổi câu chuyện, lần này đến phiên bà Sương nói trước:
 
- Chờ xe buýt đi đâu vậy?
 
- Đâu có chờ xe đâu. Bác  chờ xe buýt hả?
 
Thằng này chắc khùng khùng! Mình hỏi nó, nó lại hỏi mình. Bà Sương đáp:
 
- Ừ!
 
- Đi gần hay xa?
 
- Không xa, nhưng không đi bộ được.
 
Nó gật gù, không nhìn bà lão nữa mà nhìn ra ngoài đường. Một vài chiếc xe chạy vọt ngang.
 
Cả hai người lại cùng nhìn ra đường, nhìn màn mưa và nghĩ đến những điều không giống nhau. Họ cùng chờ đợi.
 
Nhiều lần bà lão định bắt chuyện với gã nhưng rồi lại thôi vì không biết phải nói chuyện gì với hắn. Hết nhìn mưa rồi lại nhìn ngón chân ngọ nguậy như khua động cả một khoảng không chật hẹp dưới mái trạm xe buýt. Cái thằng này không ngồi yên được! Bà lão than thầm: “Quái! Sao mãi xe buýt không đến?”. Bà có biết đâu cái đồng hồ vĩ đại của cả nước Mỹ đã chạy chậm lại một giờ, chỉ duy nhất còn mình bà vẫn theo cái đồng hồ cũ và những  nề nếp mà bà đeo đuổi cả mấy chục năm nay, trung thành, tuyệt đối.
 
Hết nhìn màn mưa rồi bà lão lại nhìn mấy hình vẽ nguệch ngoạc trên bức vách của trạm xe buýt. Vài bữa thấy chùi sạch bong, rồi không lâu lại thấy lắm hình thù quái gở. Nhiều lần bà có cảm tưởng trạm xe buýt này đã được đổi, nhưng không đâu, nó vẫn thế, ở ngay góc đường này, chờ đợi những chuyến xe, những con người.
 
Những giải mưa cứ thưa dần, nhanh chóng như lúc cơn mưa đến vội vã. Đã nhìn thấy rõ bên kia đường. Các cửa hàng vẫn còn đóng im ỉm. Những bảng hiệu sáng hẳn lên. Yên tĩnh. Chẳng bao lâu trời lại hửng nắng, phơn phớt màu sáng. Cái âm u ngắt lạnh bỗng loãng, tan đi, trả lại những khoảng trống dường như thênh thang hơn và bừng bừng đâu đó những rung động ầm ì của trời, của đất xa xa, ườn mình rũ cho hết những khắc khoải ướt nhẹp. Những vách tường loang lổ bên kia đường cũng nhạt dần. Duy nhất thấy bóng ông Tàu già mở cửa tiệm ra trước lề đường nhìn xuôi ngược, nhổ phẹt xuống giòng nước còn đọng hai bên đường. Tần ngần đứng ngó trạm xe buýt đối diện bên kia, có lẽ định khạc, nhổ thêm một lần nữa rồi thôi. Uể oải quay vào trong tiệm. Những cửa hàng bên cạnh vẫn còn lặng thinh. Những song sắt xám xịt kéo kín mít trong cái yên tĩnh của một sớm Chủ Nhật như những đôi mắt còn khép kín. Chẳng phải người, xe cộ cũng trốn biệt. Đâu đó bắt đầu có tiếng chim riu rít gọi nhau.
 
Tất cả những thay đổi nhanh chóng như đang từ một ngày này sang một ngày khác, như sự đổi ý bất thình lình, đánh lừa con người, trong đó có bà lão. Mà thật! Hôm nay không giống mọi ngày, từ chuyến xe quen thuộc đến người, đến cảnh vật. Giống như cơn mưa bất ngờ. Mưa kiểu này là Trời đái đây mà! Hứng rồi đái bậy! Bà lão tủm tỉm cười vì những ý nghĩ ngộ nghĩnh.
 
Trời âm ẩm, rồi nắng lên. Cái nắng đuọc lột trần, trong và sạch làm sao. Từng mảng mây xám cuốn đi cho bằng hết. Cái túi đã được mở tung ra trở lại. Trời cao vút hẳn lên, rồi xanh, rồi trắng. Khoảng đường trước mặt còn đọng một vài vũng nước mưa ở những ổ gà chưa được sửa. Đúng là ngày Chủ Nhật, lâu lâu mới thấy một chiếc xe chạy băng qua.
 
Bây giờ đến phiên bà lão sốt ruột, đứng dậy. Gã thanh niên như đồng tình, nói với bà, hai mắt y sáng rực như có ngọn lửa đang đốt:
 
- Đi không bác?
 
Bà lão nhăn nhó:
 
- Xe đã tới đâu mà đi?
 
- Không, đi xuống kia kìa! –Y chỉ mông ra đường.
 
- Xuống kia là xuống đâu?
 
- Bác thấy chỗ vũng nước kia không? Ngay gần chỗ quẹo đó.
 
- Thấy. Sao?
 
- Xuống đó vui lắm.
 
- Quẹo chỗ đường đó hả?
 
- Không! Chẳng quẹo đâu hết. Ở ngay đó chứ.
 
- Làm gì có chỗ nào mà xuống với chẳng lên! – Bà lão lắc đầu ngán ngẩm cho gã thanh niên chắc chắc mắc bệnh tâm thần.
 
- Xuống được mà! – Y quả quyết, mặt hơn hớn.
 
Bà lão cười nhẹ:
 
- Xuống đó có gì vui?
 
- Có những thứ mà trên này không có.
 
“Thằng này ấm ớ quá! Mà sao bỗng dưng mình cũng nói mấy chuyện vớ vẩn với nó làm gì? Thật là lẩm cẩm!”
 
Tưởng thế là xong. Nhưng gã thanh niên bước xuống khỏi lề đường, quay lại hỏi bà lão lần nữa:
 
- Đi không?
 
Bà lão lắc đầu. Không muốn nói nữa. Nói gì với nó cũng vô ích.
 
Nó nghiêng đầu, cũng mấy cái răng trắng tinh lộ ra trong nụ cười hóm hỉnh, giơ tay ngoắc ngoắc bà lão rồi bỏ đi sang vũng nước ở góc đường chỗ quẹo.
 
Đứng trước vũng nước không lâu lắm rồi nó thò chân khuấy nước. Rút chân ra, rú lên. Nó giơ cả hai tay lên trời múa may như người điên. Không! Nó chính là thằng điên!
 
Không một chiếc xe nào chạy ngang. Gã lại săm soi nhìn vũng nước, nhúng không phải một chân mà cả hai chân, rồi như bị vũng nước nuốt một cái ực. Gã biến mất! Biến như một cái búng tay ngay tróc! Mất tiêu! Mất... thật!
 
Bà lão  hoảng hồn! Chết! Nó làm sao rồi! Nó rơi xuống đâu rồi? Nó bảo đi xuống, mà nó đi xuống thật! Dưới lòng đường làm gì có gì?
 
Quên cả chuyện chờ xe buýt, bà lão nhìn trước sau, băng ngang đường, nhanh nhẹn hơn lúc thường. Đến bên vũng nước mưa, bà hồi hộp nhìn vào. Thấy ngay mình! Tưởng ai!
 
Lại nhìn, lần này từ tốn cẩn thận hơn. Ngoài mình ra còn thấy mây xanh, mây trắng, đẹp quá trời đất, long lanh, rung rinh còn đẹp hơn trên kia. Đó là một ổ gà khá lớn nhưng không sâu. Nước trong vì không có xe chạy cán ngang qua. Mà cái thằng nó biến cũng nhanh nên nước trong veo. Bà còn nhìn thấy rõ trong ánh nước lung linh, vài hòn đá bằng cái trứng gà nằm lăn lóc trong đó. Thế nó đâu rồi? Làm sao nó biến đi đâu được? Bà lão hoang mang nhìn lại bên kia đường, ngay trạm xe buýt. Chiếc xắc to tổ bố của gã thanh niên vẫn nằm nghễu nghện trên băng ghế. Bà nhìn quanh, vẫn không thấy gã đâu. Bà chắc chắn mình không hoa mắt. Mắt bà còn khá, không đến  nỗi nào. Vậy thì gã biến đi đàng nào?
 
Tự dưng thấy sờ sợ. Bà lại ngó ngang ngó dọc, quay tới quay lui rồi trở về trạm xe buýt bên kia đường. Ngồi xuống ghế, nhìn cái bị của gã, lòng thấy nao nao rồi đâm thắc mắc: “Mà đi đâu mới được chứ? Nó nói rõ ràng đi xuống chứ không phải đi lên? Lạ quá!”
 
Bà ngồi chờ. Bây giờ không phải chờ chuyến xe buýt số 23 mà là chờ sự xuất hiện của gã thanh niên mặc áo ca rô đỏ. Tại sao  lại chờ gã? Những câu nói lung tung của nó khi nãy lại dật dờ trở lại với bà. Ở dưới đó có những thứ gì mà trên này không có là cái quái gì? Đối với gã, trên đời này cái gì gã không có? Còn mình? Vừa tự hỏi xong là bà Sương thấy nhói một cái ngay trong bao tử đang rỗng. Thứ chi mà bà chẳng có, có điều giữ được hay không giữ được mà thôi. Chỉ có thế mà bỗng dưng bà lão thấy nồng nồng trong mũi, nong nóng ở mắt, làm như bị đụng ngay chỗ nhược! Tự dưng bà oán trách ông chồng bỏ đi sớm quá! Lẽ ra bà đi trước mới phải. Tóc còn xanh rói mà đã cùi cụi một mình. Rồi cũng có sao đâu. Bốn chục năm đã qua, hay thêm vài năn nữa thì cũng vậy thôi. Chỉ vì cái câu nói của gã thanh niên mà làm cho mình đau bao tử! Thật là bậy quá!
 
Khi chuyến xe buýt số 23 trờ tới, cửa trước xịch mở, người tài xế chờ. Bà Sương vẫn ngồi yên, làm như đây không phải là chuyến xe mà bà chờ đợi nãy giờ. Chừng không tới một phút, cửa xe buýt đóng lại rồi chuyển bánh đi. Mùi khói xe và xăng dầu thoang thoảng thốc vào mũi bà lão. Chuyến xe và cuộc hành trình quen thuộc đã chạy tuột ra khỏi sáng sớm mai một ngày Chủ Nhật trong vòng quay nhất định và liên lỉ của bà Sương. Chuyến xe thiếu bà lão đã trở thành chuyến xe lạc giữa đời, hay chính bà lão đang bị bứt khỏi những mắt xích quen thuộc để rồi trở thành kẻ bị bỏ lại? Hình như những điều đó chỉ còn nhấp nháy chút đỉnh và không nghĩa lý gì nữa khi bà Sương lại đứng dậy, nhìn trước nhìn sau và băng sang đường, trở lại vũng nước mưa.
 
Soi mình bên vũng nước, vẫn thấy trời xanh mây trắng lung linh, lại thấy mình nhưng không thấy gã thanh niên đâu cả. Bà khẽ kéo cao ống quần lên sợ ướt, nhưng vẫn đứng ì ra đó nhìn vũng nước. Nhìn xuống vũng nước, rồi lại ngửa cổ lên trời. Một chiếc xe chạy ngang bên mé ngoài làm rung động, vũng nước chao đi, mấy đám mây bồng bềnh huyền ảo kỳ diệu. Ngay đến bóng bà trong đó cũng chấp chới như ai đó. Cái rung động, loang loáng của mặt nước làm cho hình bóng bà như đang chao đảo, dục giã một điều gì. Đúng là mặt giáp mặt. Cái “mình” này mới ác ôn côn đồ! Nó đeo bà dính như sam và toàn xúi bẩy những chuyện tào lao thiên địa! Ai xúi mình không sao, chứ mình xúi mình mới là khổ!
 
Lần này làm thật! Bà lão kéo một bên quần lên cao chút xíu và đưa gót giầy quậy quậy nhúng nhúng xuống nước, mắt nhắm tịt lại chờ đợi một điều gì đó xảy ra. Cái tích tắc chọn lựa giữa mình và “mình” có chút xíu mà dễ sợ thật! Nhưng chẳng có gì xảy ra cả, chỉ ướt gót giầy! Bừng bừng cả mặt, bà lão vẩy vẩy gót giầy như hắt mấy giọt nước còn bám vào xuống vũng nước mưa  rồi lầm lũi đi trở lại sang đường bên kia. Đến bên trạm xe buýt, bà lão không thèm nhìn đến túi xách của gã mà nhấc chiếc túi của mình rồi quay trở lại đường cũ.
 
Lần trở về bà không nhìn gì hết mà chỉ nhìn mặt lề đường cùng đôi chân mình đang chậm rãi bước tới. Bà lão lẩm bẩm: “Giê Su Ma, lạy Chúa tôi, con suýt mất linh hồn!”. Lòng nặng trĩu ăn năn, nhưng bà thừa hiểu một con người khác ở trong bà luôn luôn rình rập kêu réo đòi trả lại những phần mà nó bị cướp mất hay phải quên đi. Nay đòi, mai đòi, sáng kêu, trưa dục, khuya gọi! Cái con người đó cũng từ trong bà mà ra thôi.
 
Chân rảo bước đi, miệng vẫn lẩm bẩm: “Đâu phải mình bị ma quỷ cám dỗ không thôi, chính mình cũng cám dỗ ma quỷ!”
 
Sau lưng bà Sương, trên băng ghế ở trạm xe buýt, chiếc túi xách của gã thanh niên không còn nữa, biến mất tiêu như chủ của nó.
 
Mặc Bích
 
 
 
 
 

bunthang
  • Số bài : 90
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 09.04.2009
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 25.01.2014 13:13:46
Bạn có bút pháp đặc biệt thuần tuý văn chương khiến khi đọc một lần khó nhầm lẫn cũng không có cảm giác đọc truyện mà giống như đọc báo. Cám ơn bạn!

Ct.Ly

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 17.02.2014 07:00:28
Vườn Xưa
 
Mc Bích
 
Thụy An đưa tay xé lịch. Đã sang tháng 4. Nàng nhìn qua khung cửa sổ rộng không màn che ra phía sau nhà. Cả một dãy chậu bon-sai được Sơn kê lên trên kệ gỗ xếp cẩn thận ngay tầm mắt từ phòng khách nhìn ra vườn, chỉ để nàng ngắm mỗi ngày. Mỗi chậu, mỗi cây, mỗi kiểu, mỗi dáng, mỗi thế. Xa hơn chút nữa sát hàng rào phân đôi với nhà bên cạnh, màu cam thắm đẫm vẻ tươi nhuận của những chùm quít xen kẽ với khóm mía cao vút giơ những thân cành tím đỏ. Hai bụi hoa mẫu đơn đến mùa nở rộ. Cái mầu phấn hồng hơi ẩn sắc tím, mướt như mùa xuân đầu mùa và gợi lên những rạo rực của những nõn nà tươi thắm. Cây táo hàng mười mấy năm, trái đỏ đẹp như trong truyện cổ tích cũng khoe sắc mời chào mấy chú chim sẻ rúc rích suốt ngày. Đẹp như thế mà Sơn đang đòi chặt hết, chỉ để trồng cây xanh cho hợp với dãy bon-sai!
Có tiếng chuông. Tiếng chuông không lớn nhưng trong cái yên tịnh của toàn khu nhà này vào giờ giấc mà mọi người đi làm hết lại trở nên... rộn quá! Thụy An chợt nhớ ..
Hai đầu gối vẫn đau làm nàng đi những bước nhỏ và chậm. Chưa mở cửa nhưng nàng cũng biết là ai. Ông Harry T.
Cái se lạnh còn sót lại của mùa đông đang chuyển bước sang xuân ở bên ngoài nhanh chóng luồn vào theo với khuôn mặt khắc khổ với những vết hằn trũng ở hai bên mép. Ông ta theo tập tục cúi đầu thật sát khi thấy chủ nhà:
“Chào Bà! Bà mạnh giỏi?”
“Chào ông!”
Thụy An xem câu hỏi thăm của ông Harry T. như một lời chào hỏi thông thường nên không cần phải trả lời.
Ông Harry T. chỉ vào bình hoa để trên chiếc kệ bằng gỗ nâu bóng có chân quỳ với số tuổi lâu đời gấp bao nhiêu lần hơn Thụy An, khen:
“Lúc nào bà cũng có hoa tươi đẹp thay luôn luôn. Cái mùi hoa này mới ngọt làm sao! Nó đi với mấy món đồ cổ của bà. Vừa có hương lại có sắc”
Thụy An cười. Nụ cười của nàng là một câu trả lời hay là một sự phụ họa? Hiểu thế nào cũng được.
“Tôi thích hoa, thích cây, nhất là loại hoa peony”
“Chồng bà sưu tầm cho bà nhiều thứ cây cảnh thật hiếm. Một sự tương đồng như thế giữa hai người thật là quý”
Thụy An đi trước, mở cửa cho ông ta ra vườn sau, nàng không nói gì thêm. Chẳng phải nàng là người lạnh nhạt xa cách, nhưng phải dùng tiếng Anh để trao đổi câu chuyện với ông Harry T. là điều không thích thú gì.
“Bà đừng lo. Chốc nữa tôi về bằng cửa bên hông, bà không phải bận tâm”
Đây là lần thứ ba ông Harry T. nói câu này. Ông ta có thể vào cửa bên hông khi đến nhưng ông ta không muốn vậy vì muốn cho chủ nhà biết là ông ta đến, không phải tự đến tự đi. Nàng gật đầu:
“Ông cứ tự nhiên”
Ông Harry T. là người đã bán lại cho vợ chồng Thùy An một cây bon-sai rất quý. Đó là lý do tại sao ông ta vẫn lui tới để chăm sóc và “thăm” cây bon-sai đã không còn là của ông.
Từ trong phòng khách phụ gần bếp, ngồi ở ghế bành nàng có thể nhìn thẳng ra vườn. Cái dáng còm cõi già nua của ông Harry T. đang khom người chúi mũi vào cây bon-sai làm Thụy An nhớ đến cái duyên mua được.
Lần đó, Sơn nhất định bắt nàng phải đến xem cây ở nhà ông Harry T., người nổi tiếng về bon-sai. Ông Harry T. được biết đến trong giới sưu tầm cây cảnh vì nhiều lý do. Ông ta có một bộ sưu tập cây cảnh đồ sộ. Tài uốn nắn của ông có thể nói là tuyệt hảo. Nhiều cây bon-sai của ông đã được giải thưởng cao quý. Ngay tại Tòa Bạch Cung cũng có một cây bon-sai do chính tay ông tìm kiếm và không chỉ là uốn nắn mà còn tái tạo để thành một tác phẩm nghệ thuật. Những cây bon-sai đẹp của ông dù có trả giá cao ông cũng không bán. Thụy An nhớ khi nghe kể về ông Harry T. và những cây bon-sai nàng đã buột miệng nói: “Tại chưa trả đúng giá nên chưa bán đấy thôi!”
Nàng nhớ mình đã miễn cưỡng đi cùng với chồng đến nhà ông Harry T. chỉ để xem cây cảnh. Sơn biết được địa chỉ này qua một người Tàu chuyên bán đồ cổ mà chàng là khách hàng lâu năm. Chồng nàng đã say sưa nói về cây bon-sai mà ông Harry không bán với một sự ham thích lạ lùng. Anh thích làm chủ những vật hiếm quý, để rồi khi đã mua được về làm của mình thì chỉ thích được một thời gian rồi lại tìm tòi săn đuổi những vật hiếm có khác, không hiểu vì sự chiếm hữu đã làm Sơn nhàm chán hay vì chưa đủ? Nhưng chưa lần nào Thụy An lại thấy sự say mê ở chồng mình lại mãnh liệt như thế khi tả về cây bon-sai không mua được.
Nhà ông Harry cách chỗ nàng ở đến hơn 1 giờ lái xe. Nhà không lớn nhưng đất rộng, nhiều cây lớn lại ở gần sát chân núi. Điều đầu tiên mà Thụy An thấy ngay khi bước vào nhà ông T. là cái lạnh và âm u như đi vào một huyệt mộ. Trong nhà tối om, cái mầu nhờ nhờ u ám có mang chút mùi của những đồ cũõ vây lại như một bức màn vô hình thập thò xem chừng những bước chân người lạ! Màn cửa trong nhà mầu đậm và kéo kín mít. Đồ đạc toàn gỗ đen với mặt đá xám lạnh lẽo. Nhà không có nhiều đồ đạc. Căn nhà như không có người ở, không sinh khí, hay chỉ là một thứ sinh khí èo uột và thật mơ hồ. Bước vào, ngộp thở, và chỉ muốn đi ra ngay như sợ sẽ bị cầm giữ lại hay lún xuống trong cái tối tăm tưởng chừng đang vươn những cánh tay ra với lấy! Những cánh tay không màu sắc với những con mắt chớp mở theo từng gót chân chậm và nhỏ của Thụy An.
Chủ nhân mở cửa ra vườn sau. Chỉ một cánh cửa ngăn trong và ngoài mà như mở một trang sách mới, của một người khác. Tuy không tưng bừng rộn rã nhưng êm đềm với không gian thoáng hơn. Mọi vật, mọi sự trong khu vườn được xếp đặt với những thứ tự riêng. Riêng mà chung. Riêng trong cách thế của từng loại, nhưng chung trong sự hài hòa làm như phải như thế, không thể khác đi được. Những cây Tùng Ngũ Châm lớn, cao, không theo kiểu bon-sai cũng được cắt tỉa nhiều tầng với những tàn cây thật đẹp. Rễ của cây trồi lên khỏi mặt đất những đường gân mạnh mẽ như móng vuốt chim ưng đang bám xuống mặt đất. Hồ nước ở góc vườn hình vòng cung thu gom một mảnh trời chìm lẫn với lác đác vài cánh sen trắng. Tuyệt đối không thấy một bông hoa màu sắc rực rỡ nào. Làm như chỉ một chút màu vào cũng đủ khuấy rộn cả một không gian lặng như  đang chìm dần vào bóng chiều tà. Những chậu bon-sai được đặt nằm xen kẽ chứ không để riêng xếp loại từng góc. Chúng nằm đấy trong thinh lặng nhưng dường như cũng để chờ đợi bóng đêm xuống như trông ngóng những hạt sương từ trời cao kia nhả xuống êm ả trong một gặp gỡ giữa trời và đất.
Chủ nhân của ngôi vườn, ông Harry T., người thấp bé nhưng rắn rỏi tuy có phần khắc khổ. Hai cánh tay gầy gò thò ra khỏi chiếc áo sơ-mi cụt tay và dứt điểm bằng đôi bàn tay nhỏ nhắn nhưng gân guốc. Ông ta có đôi bàn tay và những ngón tay nhỏ như tay đàn bà. Ông Harry khi đưa Thụy An và Sơn đi xem những cây bon-sai đã hãnh diện khoe với nàng: “Đây là những đứa con của tôi”. Nàng đã nghĩ thầm nếu là con thì làm sao bán được?
Những cây bon-sai với tên gọi mỹ miều do ông Harry đặt mang nhiều ý nghĩa. Ở đây đã là một thế giới thu nhỏ, nhưng cúi gần xuống nhìn những chậu bon-sai được cắt xén tỉ mỉ, những mảnh rêu mướt ở gốc, ở những mảnh thân cây, gốc rồi rễ rồi lá.. chêm một vài hình tượng tí hon, một thế giới khác còn nhỏ hơn, sâu hơn.
“Ông bà xem đây, phải uốn phải nắn phải chăm chút từng li từng tí mới được như thế này. Đây là loại cây Du được uốn theo thế “Long giáng”. Gốc lớn, lá nhỏ nhưng cành tỏa đều trên thân như vẩy rồng. Thân cứng mà hình thể mềm mại uốn khúc như rồng bay. Cành bóng như ngọc. Còn hoa... chỉ là hoa trong tâm tưởng. Gọi đây là Hoa Tâm Tưởng cũng được”.
Thụy An nhìn ông ta bằng một cặp mắt khác. Ông Harry không những đã cho cái cây một cái tên, một hình tượng, mà còn gán cho nó cả một linh hồn theo ý ông!
Ở một cây khác, chủù nhân tiếp tục giải thích:
“Đây là thông Nhật Bản, Japanese white pine. Từ gốc cây nhoài ra lên cao như đỉnh thác, rồi lại đổ xuống nhiều tầng mà ở mỗi chặng cây khúc khuỷa tựa như ghềnh đá, trổ ra lá có tán tròn trịa như nước chảy. Những tán tròn và mập “Trực” đã kéo lại cái thế “Đổ” của bon-sai”.
“Còn núi đá với cây đây ông đặt tên là gì?” Thụy An hỏi.
“À, nó là “Lng L Uy Hùng”. Núi đá không phải lên tắp cao như bình thường mà chênh vênh đổ dài. Trên thì nhẵn còn dưới bụng đá thì tôi phải đẽo thêm, tạo cho mấp mô lồi lõm nhiều hơn để tạo sự hiểm trở đối nghịch đồng thời tôn vinh cái vững chãi của núi. Đỉnh núi có tùng xanh do tôi chiết vào, dưới chân núi có lều trúc, ngư ông. Trên có sức sống mà dưới cũng thế. Có cái tĩnh của đá, có cái động của cây cỏ. Bon-sai phải có bố cục hoàn chỉnh. Bố cục càng giản dị càng đẹp”
Sơn nói với ông ta:
“Ông giới thiệu về cây bon-sai mà tôi thích cho vợ tôi nghe đi!”
Ông Harry đưa Thuỵ An và Sơn lại góc vườn nơi có hòn giả sơn, gần suối nước nhân tạo đang róc rách. Cây bon-sai có hình chữ S được ép cho ngắn lại. Cả thân cây khô vàng úa không có một tí vẩy nào cho thấy sự sống. Lên đến hơn nửa đoạn thân mới có nhánh rẽ ngang đâm chồi lá xanh.
Ông Harry giải thích:
“Đây cũng là loại Tùng Ngũ Châm. Loại này lá xanh quanh năm. Lá kim ngắn, sinh trưởng chậm và sống rất lâu. Cái đặc biệt của cây bon-sai này là hình tượng và dáng tự nhiên của nó. Ngoài ra quan trọng hơn cả là tuổi tác của cây. Cây này phải trên 1000 năm tuổi nên không thể uốn hay sửa dáng, thế được. Ông Bà nhìn xem. Giống cây này càng lâu đời thì dáng và thế của nó càng vặn xoắn, cuộn khúc, thế như rồng bơi. Kiểu thân cong thế này gọi là “Long trang”. Nó đúng là rồng. Tôi phải lên núi, vào sâu tình cờ tìm được nó. Nó bám vào gần sát bờ vực. Tôi lấy được mà suýt mất mạng. Bà có thấy phần thân từ gốc không? Phần này đã chết từ lâu. Bà nhìn coi! Khô hết cả. Vậy mà từ đây.. Bà cúi xuống nhìn gần mà xem.. lại sinh ra cành lá mới. Lá mọc ra cũng tự nó. Tôi đã thử chiết hay ghép nhiều lần mà đều thất bại. Hoàn toàn là tự nhiên. Không một vết tích của dây đồng uốn hay bất cứ một vết đẽo hay cắt nào. Nhưng cũng chỉ mọc có thế, không thêm cành mới nào khác. Đẹp ở chỗ có tsinh ngay đây.”
Thụy An cúi gần sát vào cây bon-sai. Nàng ngửi được cả mùi hăng hắc từ cây tỏa ra. Ngửng đầu lên, nàng hỏi:
“Tôi sờ vào được không?”
Đôi mắt ông Harry vốn đã nhỏ nay nheo lại như một lằn chỉ nhìn Thụy An. Cái nhìn như một lằn chớp trong đêm tối lướt trên mặt nàng, sắc và lạnh, lóe lên tí ánh sáng rồi khép kín.
Thụy An vẫn nhìn lên chờ đợi câu trả lời của ông ta.
“Được chứ!ù”
Nàng đưa ngón tay sờ vào thân cây khô như thăm dò một sự sống ẩn dấu trong đó. Thân cây khô cứng nhưng có chỗ không ráp mà những mạch gỗ nhẵn như đã hóa thạch. Những ngón tay nàng nhẹ nhàng vờn theo đường cong của thân cây lượn, như vuốt, như làm quen rồi buông ra. Những lằn gỗ khô bóng oằn xuống rồi cong lên nhưng vẫn bám vào nhau như gồng mình chịu một sức nặng. Những chùm lá bé tí tẹo có màu xanh lục đậm đâm ra từ thân cây chết đó như một sự thách đố dịu dàng mà hiển nhiên. Ngay cả cái mùi ngai ngái từ cây tỏa ra như những tiếng chuông nho nhỏ gióng lên diệu vợi râm ran. Cái âm vang chìm đắm đó như những tiếng nói vô hình trao gởi đến Thụy An. Nàng nhắm mắt lại hít cái mùi thơm đó như một thu nhận. Chừng như chưa đủ, nàng lại chậm chạp vuốt phần thân cây khô lần nữa.
Thụy An chợt nhói đau, nàng kêu khẽ!
Sơn giật mình hỏi:
“Em sao thế?”
Nàng đưa ngón tay lên nhìn. Đầu ngón tay giữa có lẽ bị gỗ ở thân cây móc vào nên sướt chảy máu. Để ngón tay vào miệng, nàng mút cho chặt để hút phần máu ri rỉ. Thụy An lắc đầu ra hiệu không sao.
“Bà có sao không?” ông Harry ân cần hỏi Thụy An.
“Không ăn thua gì. Tôi vô ý quá”
“Em đụng vào đâu mà chẩy máu tay thế? Phải cẩn thận”
Ở phần giữa thân cây còn lại một vết đỏ sậm nhỏ xíu. Ông Harry nhìn xuống và chắt lưỡi. Có lẽ ông ta hối hận đã cho Thụy An đụng vào cây bon-sai quý.
 “Ông để cho chúng tôi chậu bon-sai này nhé?” Thụy An buột miệng hỏi.
Sơn đã kỳ kèo mãi từ mấy lần  trước nhưng ông ta từ chối không bán. Lần này ông Harry cũng lắc đầu:
“Những cây nào khác ở đây có thể để cho ông bà được, nhưng riêng cây này thì không. Hiếm khi nào mới gặp được như thế. Có duyên thì gặp.”
Thụy An đứng dậy, nàng loạng choạng suýt ngã. Sơn phải đỡ tay nàng.
“Trong vườn tôi có nhiều cây bon-sai đẹp lắm. Ngay như  cây bon-sai kia. Đó là một tác phẩm nghệ thuật! Tôi đặt cho nó là “Hoang Sơ”. Kiểu này thuần túy là Nhật Bản. Đây là loại Tùng Nhật. Cây đã hơn 400 năm. Thoạt tiên chỉ có một cây, rồi tôi chiết và ghép vào thành một rừng Tùng. Đây là một cánh rừng nguyên sơ trên một đĩa hình hơi dốc. Nhìn vào thấy sự bình an trong cái hoang dã. Cái đẹp ở chỗ “tứ diện”. Ông bà nhìn phía nào cũng thấy nó đẹp cả, nhìn trước, sau, ngang, dọc, đều đẹp. Cây bon-sai này quý lắm, nhưng nếu ông bà thích thì tôi sẽ để lại vì biết là cây sẽ thuộc về người sành sỏi và yêu nó”
Sơn đã mua tác phẩm “Hoang Sơ mặc dù vẫn tiếc cây bon-sai “T  Sinh”.
Nửa năm sau, ông Harry gọi điện thoại cho Sơn. Ông ta bằng lòng bán cây bon-sai “T Sinh”. Mang cây về nhà, Sơn khoe với Thụy An:
“Không ai có một cây bon-sai như thế này. Ông ta bán với điều kiện thỉnh thoảng phải để ông ta đến thăm cái cây một lần. Có ăn thua gì đâu, đến nhiều hơn cũng được vì nhiều khi ông ta lại chỉ cách cho mình dưỡng nó, phải không em?”
“Anh mua đắt không?”
“Chỉ hơn chậu “Hoang Sơ một chút”
“Sao kỳ vậy? Em tưởng ông ta phải đòi giá cao lắm mới phải chứ?”
Sơn nhìn vợ tủm tỉm cười:
“Chắc mình có duyên!”
Khi Sơn đặt chậu bon-sai “T Sinh” cạnh chậu bon-sai “Rng Thưa”, Thụy An ngồi trong nhà nhìn ra ngắm vì dạo này đầu gối nàng đau lên, không muốn đi lại nhiều.
Đến cả tuần lễ sau nàng mới ra vườn. Thụy An kê một cái ghế nhỏ gần dãy bon-sai, ngồi lặng yên. Nàng có cảm giác có thể bầu bạn với tất cả những cây cối trong vườn. Trong cái yên lặng giữa cây và người dường như có một cảm thông. Những đối thoại trong im lặng đó làm Thụy An thấy lòng nhẹ hẳn.
Ngồi ngắm cây bon-sai “mới” giữa bao nhiêu cây cảnh khác, nàng có cảm tưởng cây bon-sai Tử Sinh là một người khách lạ. Nó vẫn chưa thuộc về nàng, phải cần thời gian. Mình phải làm quen với nó mới được, nàng nhủ lòng như vậy. Thụy An lại gần hơn, cúi người xuống không chỉ để nhìn cho rõ hơn nhưng như một sự cận kề làm quen. Nàng chưa muốn bảo với nó về “mối liên hệ mới mẻ” giữa vợ chồng nàng và “nó”.
Nhưng rồi nàng chợt nhìn thấy có điều khác lạ ở cây bon-sai “Tử Sinh” mới mua về. Nàng nhớ cả thân cây uốn khúc hình chữ S không có một ngọn lá, chỉ ở trên quá phần giữa thân cây mới có trồi ra cành và lá. Cành lá đó rủ xuống một bên bềnh bồng như những đám mây lơ lửng. Thụy An lại nhìn kỹ hơn Ở đoạn thân kế tiếp đi ngược lên trên chừng 2, 3 cm, một nhánh cây nhỏ còn non bé tí teo, đâm ra ở một chiều đối nghịch với nhánh cây bên dưới. Lơ thơ  vài chùm lá có màu xanh hơi bạc. Màu lá non khác hẳn những chùm lá khác. Lạ nhỉ?
Từ hôm ấy, Thùy An tự dưng thích cây bon sai “Tử Sinh” hơn những cây khác trong vườn. Nàng ngồi đó, cạnh cây, yên lặng nhưng trong đầu Thuỳ An nói lên trong âm thầm biết bao nhiêu điều mà không hề thố lộ với ai. Trong cái tịch mịch của vườn cảnh, thỉnh thoảng những tiếng rúc rích của côn trùng, tiếng chim kêu lấp ló, nàng thấy được những điều mà vào những năm trước chộn rộn với công việc, quay cuồng với đời sống và lo toan, Thuỵ An không thấy. Ngồi cạnh cây bon sai “Tử Sinh”, nàng có cảm tưởng mình có thể thu nhỏ lại, nhỏ tí tẹo để ngồi dưới gốc cây Tử Sinh rồi trèo lên thân cây vòng vèo của nó, áp mình vào những tàn lá xanh nhỏ li ti ấy cùng hít thở một đời sống mới đầy kiêu hãnh vì cũng như nó, nàng đã vươn lên cao, vượt trên nỗi đau của mình.
Phần Sơn vẫn mê man đi tìm những hiếm quý khác nữa và chỉ nhớ đến cây “Tử Sinh” mỗi khi có bạn quý hay khách xa đến chơi để chàng có dịp giới thiệu về nguồn gốc của nó.
 
Lần này là lần thứ ba mà ông Harry T. đến thăm cây “Tử Sinh”. Tự dưng nàng muốn ra vườn nói chuyện bâng quơ với ông ta.
Nhìn ông ta cúi sát đầu vào cây “Tử Sinh”, nàng bắt chuyện:
“Ông có thấy gì khác biệt không?”
Ông Harry giật mình nhìn lên. Nắng chiếu vào gương mặt sạm nắng. Đôi mắt của ông ta gần như nhắm hẳn lại.
“Bà có để ý phải không?”
Thụy An hơi thắc mắc  nên chưa trả lời vội chỉ cười. Ông ta nói ngay:
“Vì vậy tôi mới bán cho ông bà”
Nàng tỏ ý không hiểu.
Ông Harry trỏ vào cây bon-sai:
“Bà có thấy nó mọc cành mới không?”
“Có, tôi có thấy. Lạ quá! Tôi nhớ ông kể là ông tìm đủ cách để chiết hay ghép mà không được”
“Bà có để ý cành non mọc ở chỗ nào không?”
“Khoảng giữa thân cây”
“Bà không thấy à? Nó mọc ra nhành mới ở ngay chỗ bà bị cào sướt tay. Từ vết máu khô của bà bám trên thân cây. Từ phần đã chết của nó, từ cái phần già nua cắn cỗi nhất lại sinh ra sự sống mới. Máu của bà, sự sống của bà đã làm nó hồi sinh. Bon-sai là một nghệ thuật do con người tạo nên. Con người gọi đó là nghệ thuật. Tạo ra nghệ thuật, tôi tưởng mình sống với nó, nhưng tôi nhầm! Tôi sống với nó nhưng nó không sống với tôi! Tôi yêu những điều mình làm ra, nhưng yêu không chưa đủ. Đó chỉ là thứ nghệ thuật một chiều! Còn bà? Sự đụng chạm của bà, vết thương của bà ... Tôi không biết gọi đó là gì .. Một giao cảm giữa người và cây. Bà đã cho nó sự sống. Bà là người ơn của nó. Tôi phải bán cho ông bà là vì vậy. Trở lại đây nhiều lần, tôi chỉ muốn xem nhành cây mới này phát triển đến đâu. Xem những điều suy nghĩ của tôi đúng hay sai, hay vẫn chỉ là những hoang tưởng?”
Thụy An ngẩn người ra. Nàng cúi thấp xuống nhìn cây “Tử  Sinh”. Những điều ông Harry vừa nói có phải là những hoang tưởng? Hay chỉ là một sự trùng hợp? Nàng chỉ biết mình thích cây Tử Sinh hơn những cây khác trong vườn, và nhánh cây non mới mọc ấy đã trở thành một trung tâm điểm của sự chú ý.
“Có thêm lá non mới nữa đây này! Nó còn sống thêm hàng vài trăm năm hay vài ngàn năm nữa, nhưng cũng có thể ..” Ông ta bỏ lửng câu nói chừng vài chục giây đồng hồ rồi lại bàn tiếp “Giữa muôn ngàn chộn rộn trong vườn mà nó vẫn phát triển tốt. Tôi cứ nghĩ phải tạo môi trường sống cho nó, mà không phải vậy. Tất cả những thứ do con người tạo nên, cột nó vào đều sai cả. Bà đúng là có duyên với nó!”
Nói đến đó, mặt ông ta buồn thiu, vừa tiếc vừa ngẩn ngơ. Có lẽ nếu Thụy An không đến, không đụng vào cây bon-sai Tử Sinh thì ngày hôm nay nó vẫn có mặt trong khu vườn của ông, nó vẫn thuộc về ông! Nghĩ đến đó, ông Harry T, chợt nhận ra ông vẫn quanh quẩn trong cái vòng mà ông dựng lên và gọi là nghệ thuật! Bây giờ ông mới thấy mình thua đậm! Cái tự nhiên bộc phát mới chính là nghệ thuật. Những gán ghép dưới bàn tay tài hoa của ông dù khéo léo đến đâu vẫn chỉ có nửa vòng nghệ thuật. Một nửa còn lại trống toang hoác nên mới sổng mất!!!
Ông nói với Thụy An:
“Tôi không có lý do gì để đến đây nữa. Cám ơn bà rất nhiều trong thời gian qua. Cái duyên tự nó đến, muốn cũng chẳng được. Thôi, tôi xin phép bà. Bà là một người may mắn”
Thuỵ An không biết nói gì hơn, nhưng nàng thấy được nỗi tuyệt vọng đang đong đưa cùng với nỗi buồn trên gương mặt ông Harry, trên đôi vai suông đuột đầy vẻ chịu đựng. Nhưng nàng cũng phải nói một cái gì trong lúc này.
“Ông cứ ghé thăm cây Tử Sinh .. bất cứ lúc nào ông muốn. Không có ông thì tôi cũng không có nó trong vườn được.”
Ông Harry cúi thấp đầu chào Thụy An:
“Không những bà là người may mắn mà còn đôn hậu rộng rãi.. Chẳng bù cho tôi!! Nhưng đủ rồi thưa bà. Cái duyên giữa tôi và nó đã hết. Không nên gượng gạo ép buộc làm chi. Cám ơn ông bà.”
Ông Harry lầm lũi mở cửa bên hông nhà ra ngoài. Ông muốn ở lại với cây Tử Sinh lâu hơn một chút nữa vì biết đây là lần cuối, và cũng thừa biết rằng chủ nhà không phản đối, nhưng như một người đã bị tước đoạt mất tình yêu, càng cận kề càng thấy đau hơn. 
Nàng nhìn ông ta quay đi, men theo cửa bên hông ra lối trước. Thụy An nhìn xuống cây bon-sai Tử Sinh rồi lại nhớ đến những lời nói của ông ta. Ông Harry quả là một người hết lòng yêu.. cây!
Thuỵ An vào trong nhà. Nàng đưa tay gài cửa. Chắc chắn nàng sẽ không để Sơn chặt hết những cây trái hay hoa khác trong vườn. Nàng không muốn có nguyên một khoảng vườn chỉ toàn màu xanh của những cây bon-sai. Phải có này, có khác, như cuộc đời vậy.
Ngồi trước bàn thờ, Thụy An lần chuỗi đọc kinh nguyện trong ngày. Lúc này mới là tuyệt đỉnh của an bình, hạnh phúc và sự toàn mỹ. Những điều mà ông Harry T. nói nãy giờ đã rơi rụng bên ngoài như những trăn trở suy ngẫm do chính ông ta bày ra và đi tìm câu trả lời. Sẽ không bao giờ có câu trả lời như ý ông ta muốn cả, nàng biết chắc như vậy. Tự dưng nàng thấy tội nghiệp cho người được tôn thờ là bậc “sư” của ngành chơi cây cảnh bon-sai! Sự đau khổ do chính ông ta tạo nên đó sẽ đeo đẳng ông ta cho đến hết cuộc đời. Trừ phi..
Thuỵ An mỉm cười, lắc đầu! Nàng phải lần chuỗi lại từ đầu!! Không dưng bị chia lòng chia trí vì những chuyện không đâu!!
 
*
 
Khi những chùm lá mới ở cây Tử Sinh mọc ra nhiều hơn dù rất chậm cũng là lúc đôi chân Thụy An đã hoàn toàn bình phục. Nàng chăm sóc vườn cảnh nhiều hơn và vẫn bầu bạn với cây, với hoa. Sự sống mới không làm nàng thay đổi, chỉ bền vững hơn trong niềm tin của mình
 
 Mc Bích
 
 
 
 

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 17.02.2014 07:16:40
Mt Cõi Riêng

Mc Bích

Bốn ô kính vuông vức trên khung cửa sổ chia đều cảnh vật bên ngoài bằng những lằn ranh tuy nhỏ nhưng vẫn làm vướng bận tầm mắt. Từ bàn viết sát cửa sổ, Kiền có thể nhìn thấy từng hạt bụi vương trên làn kính trong vắt được chàng lau chùi mỗi ngày để có thể nhìn ra ngoài thật rõ. Một nhánh cây xanh biếc sà xuống vắt ngang ở khoảng trên của ô cửa sổ. Rêu bám quanh thân cành nhuộm một màu xanh rì, sậm hơn màu lá. Ngoài kia, trước mặt, chung quanh chỉ có một màu xanh. Ánh nắng không mấy chi thong dong tràn đến, chỉ len lỏi luồn lách qua những kẽ hở, nhạt, yếu ớt và tan biến trong từng khoảng chen chúc xanh ngắt của rừng.
Ngày nào cũng như ngày nấy, trong không gian im sững, ngồi ở cùng một vị trí, nhìn ra ở cùng một góc cạnh, Kiền tưởng đâu thời gian đã đọng lại ở đây, trái đất đã ngừng quay, và biết đâu chàng đã trở nên bất tử? Phải cám ơn Biên, người bạn tốt, đã cho Kiền mượn căn cabin này vô thời hạn. Nhớ đến Biên, lại nhớ đến những giới hạn của con người và căn bệnh đang đeo theo Biên.
Chỉ có thế mà Kiền không viết được nữa. Ly cà phê trên bàn còn quá nửa. Chàng đứng dậy, đẩy ghế, với chiếc áo jacket treo gần đó, Kiền mở cửa ra ngoài. Mùi ẩm ướt của đất, của núi rừng và cái màu xanh lồng lộng quanh Kiền chụp lấy chàng như muốn nuốt chửng. Những bục gỗ ẩm ở cửa cabin oằn mình thảng thốt kêu theo từng bước chân của Kiền.
Bỏ chùm chìa khóa vào túi áo, chàng vòng ra sau, đi về phía hồ. Hồ tên gì không biết nữa. Triền dốc thoai thoải, trơn vì ngập lá thông. Nếu chỉ cắm đầu xuống đếm bước chân sẽ chỉ thấy mầu nâu của đất, của lá thông khô, lác đác nhữõng bụi dương sỉ mà đài lá vươn từng sải tay, rải rác vài đám phân của thú rừng. Ngửa mặt lên hay nhìn thẳng, tầm mắt đụng lớp lớp xanh như ngọc. Có những chỗ dầy quá Kiền phải lấy tay đun ra, lách người. Sự thân cận với thiên nhiên không chỉ ở những cọ sát, va chạm, mà còn hít thở. Chàng như bơi trong những chen chúc của cây cỏ. Kiền chìm trong cánh rừng.
Càng gần mặt hồ cây lá càng thưa. Kiền thở nhẹ nhàng hơn dù phải đi bộ cả nửa giờ. Trước mặt chàng, lẫn trong những thân cây, lấp lánh ánh nước của một mặt hồ không rộng lắm. Rừng núi nhả Kiền ra, thả chàng trước mặt hồ.
Cảm giác thoáng, rộng, thấy mây, thấy nước.. và thấy.. cả người! Kiền có thể phân biệt được ngay đó là một phụ nữ vì mái tóc đen xõa dài bay trong gió. Những bước chân càng gần càng định rõ người đó. Bộ đồ thể thao bó chẽn trắng ngà vòng vèo lượn khúc và dứt ở những điểm cần dứt. Cô gái đang câu cá! Kiền chợt dừng chân. Có lẽ vì thấy cô gái đang vươn tay quay cần. Con cá chắc không nhỏ? Chàng nín thở đợi chờ.
Chiếc cần câu cong lên. Kiền có thể tưởng tượng được sự hào hứng đang dâng cao trong quả tim và trong lồng ngực phập phồng của cô ta. Khỏi mặt nước, một chú cá trắng bạc đang quẫy mạnh, nước bắn tung. Kiền biết mình đang cười. Chàng muốn chia sẻ với cô ta sự vui thích đó. Nhưng kìa! Con cá xổng khỏi sợi dây cước, rơi tọt xuống hồ! Nước cũng bắn tung tóe, như một cuốn phim quay ngược.
Cô gái giơ một tay lên trời, tay cầm cần câu đập xuống mặt hồ. Kiền nghe loáng thoáng tiếng cô ta kêu lên: “Mất tiêu rồi! Shit!” Nụ cười chưa kịp tắt trên môi Kiền lại được dịp nở rộng. Giữa chốn hoang vu của vùng Bắc Mỹ, nghe vài chữ Việt, mái tóc Đông Phương, quả là sự lạ lùng!
Như có linh tính, cô gái quay phắt lại. Nét mặt còn cau có, cô ta nhìn Kiền trừng trừng, làm như mọi chuyện không may vừa xảy ra là do lỗi Kiền, hay chính vì sự hiện diện của chàng. Dĩ nhiên muốn cười nữa, nhưng chàng phải tự chế mím môi nhìn trả lại.
Ở khoảng cách không gần lắm nhưng cũng không xa, Kiền có thể đoán cô ta chừng ba mươi mấy. Không đẹp! Dữ. Khuôn mặt xương xương. Đôi môi đang mím lại. Mắt quắc lên trong điệu bộ cong cớn giận dữ. Cái nhìn của cô ta mới hỗn làm sao! Kiền thích nhìn đàn bà trong những lúc như thế. Lúc đó họ mới lộ hết bản sắc.
Kiền tiến đến gần hơn, chàng định nói một cái gì rồi thôi, nhưng vẻ mặt chàng khi đó không dấu được sự thích thú lẫn chế diễu. Cô ta chừng như cũng định nói gì rồi đổi ý quay ngoắt đi.
- Này cô! Kiền buột miệng gọi.
Cô ta dừng chân nhưng không quay lại.
- Đâu phải lỗi tại tôi?
Quay hẳn người lại, cô ta nhìn Kiền, đôi mắt dịu hơn khi nhận ra đó là một người đồng hương, nhưng giọng vẫn gay gắt:
- Ơ lạ chưa! Tôi có bảo tại ông đâu?
Kiền lại cười:
- Trông như có vẻ cô đổ tại tôi mà vuột mất con cá! –Kiền lại tiến đến gần hơn tỏ ý làm quen.
Cô ta hơi nhếch miệng cười, lộ chiếc răng khểnh và hàm răng thật trắng:
- Chẳng phải tại ai cả!
Chỉ là một nửa nụ cười nhưng làm cô ta duyên dáng hẳn lên dù không đẹp. Kiền bắt chuyện tiếp:
- Cô thường hay câu cá ở đây không?
- Lần đầu tiên. Tôi không ở đây.
- Tôi chẳng thấy ai quanh đây bao giờ.
Cô ta không nói gì. Kiền tự giới thiệu:
- Tôi là Kiền, hân hạnh được nói chuyện với cô...
- Yên. Yên chứ không phải Yến.
Tên lạ, người cũng lạ! Kiền nghĩ thế và càng chú ý.
- Ông ở đây lâu chưa? Mà chỗ nào vậy? Đâu có thấy nhà cửa gì đâu?
Kiền chỉ phía sau lưng:
- Trên đó. Đứng đây không thấy được. Còn cô?
- Ngược lại.
Kiền tỏ ý không hiểu.
Cô ta chỉ trước mặt, bên kia hồ:
- Lên khỏi ngọn đồi thấp đó, đi xuống chút xíu là nhà ba má tôi. Bây giờ chẳng còn ai ở đó.
Kiền nhìn cô ta, chờ đợi một lời giải thích rõ hơn. Cô ta kể tiếp:
- Mùa hè, gia đình tôi về đây chơi mấy ngày. Trên này mát.
- Câu cá cũng có cái thú. Cô câu tiếp đi. Biết đâu lại được con cá lớn hơn con vừa rồi.
Yên lắc đầu:
- Câu hụt bực lắm! Vả lại nắng lên cao, khó câu! Câu đêm là tốt nhất hay sáng sớm. Không câu nữa! Thôi chào ông.- Giọng vẫn còn bực dọc.
Cô ta thu dây, cầm cần câu, xách chiếc thùng nhỏ có lẽ có vài con cá trong đó rồi bỏ đi. Kiền nhìn theo thân hình rất cân đối và nẩy nở của.. Yên.
Nàng đi vòng theo bờ hồ sang phía bên kia. Cái đốm trắng cứ xa dần, lên ngọn đồi thưa cây, nhỏ dần rồi mất hút về phía bên kia sau đường vòng của đồi.
Nắng tuy đã lên cao nhưng dịu và loãng quanh Kiền. Những cơn gió thổi vụt qua mặt hồ, gợn lăn tăn làm những hình ảnh chao đi, rung động đẩy nước vào ven bờ. Đó là những xôn xao duy nhất lúc này. Vẫn đứng yên ở một chỗ, nhìn về hướng cô gái đi khuất, tự dưng Kiền thấy như vuột mất một cái gì, không thuộc về mình. Ở chốn hoang vu này cả mấy tuần lễ, Kiền yên ổn trong lẻ loi và cô độc. Thiên nhiên không mảy may đánh động trong chàng tí lửa nào. Bỗng dưng chỉ vì sự có mặt bất ngờ rồi biến nhanh của cô ta, của Yên, lại làm Kiền bâng khuâng. Có đôi chút ấm áp phải nghĩ đến và hình như muốn quấy rầy chàng! Ngay chính khoảng không gian thoáng mát này và những ngọn gió xô dạt đẩy đưa tứ phía như muốn bốc hết lớp tro nguội lạnh và thổi lên vài đốm lửa nhen nhúm. Lạ thật?
Chàng trở lại đường cũ. Lặn vào rừng, về với căn chòi gỗ và đống giấy mực đang chờ đợi. Có lẽ thế giới của Kiền là ở đó.


**

Kiền viết cho đến khi mỏi rời tay mới ngừng. Chàng có thói quen viết với bút, trên giấy, không muốn dùng máy điện toán. Sự thân cận tròn trịa của cây bút, sự chà xát của bàn tay trên giấy cho một cảm giác mình làm chủ ngòi bút và thực sự là đang viết, không phải gõ trên máy.
Chàng ngửa người ra sau, đọc lại. Kiền giật mình! Chàng đang mô tả một nhân vật mới trong truyện giống hệt như... Yên, một con người có thật ngoài đời, vừa mới gặp gỡ, chưa biết gì về cô ta. Nhưng trên mặt giấy, những con chữ nối đuôi nhau tạo nên một thiếu nữ mà Kiền “biết” rất rõ. Cái “biết” dưới ngòi bút đã phà những hởi thở, làm nên da thịt, hình hài với đủ mọi vẻ rất thật. Thật đến nỗi làm Kiền rung động ngất ngư. Chàng không còn một mình trong cabin gỗ lạnh lẽo. Những cảm giác đua nhau ùa tới làm Kiền thoạt tiên ngạc nhiên rồi thích thú. Chàng đọc đi đọc lại những điều mình viết, thấy được người con gái ban sáng rõ hơn cả sáng nay. Cảm giác vuột mất không còn nữa mà thay vào đó đầy ắp những “sự thật trong tưởng tượng”, rung động trong từng giây phút, trên từng trang giấy. Ngay cả tên, Kiền cũng không sửa đổi. Yên! Tên gì lạ thế!
Buông bút, Kiền vẫn miên man nhớ đến nhân vật mới này của mình. Đúng là của chàng. Kiền đã cho mái tóc mây thật đen của Yên xõa nghiêng một bên, mượt mà chẩy êm đềm trên bờ ngực căng. Vài sợi tóc lòa xòa trên gò má hơi cao nhưng áp vào thấy mịn. Chàng muốn tìm những sợi tóc con ở sau gáy Yên, ở phần rất ấm, êm và chất chứa mùi thơm da thịt nồng nàn. Môi dưới của nàng phải mọng hơn, trễ xuống một chút để khi cau có bặm môi, làn môi càng đỏ hồng. Đôi mắt nhỏ, dài một mí nhưng tình tứ khi nàng cười, đuôi mắt díu lại thành những vệt dài. Kiền thích vẻ cong cớn láo xược ở Yên hơn. Chính sự thách đố đó kích thích lòng ham muốn và gợi nhiều tò mò ở Kiền. Chàng áp mặt vào gương mặt Yên, nhìn soi suốt vào đôi mắt rực sáng không hiền dịu chút nào, nuốt trọn trong ánh mắt mình, cậy đôi bờ môi đang mím lại, vờn trên đó những mơn trớn đễ đầu lưỡi chàng đụng vào chiếc răng khểnh kiêu hãnh kia. Ấn người nàng xuống như kiềm chế, không để sự phẫn nộ kia bùng ra. Con thú dữ là Yên quẫy mạnh như con cá trắng bạc trên hồ sáng nay rồi cũng phải rơi tụt chìm trong Kiền.
Ngoài kia, đêm đã phai mầu dần, chuyển sang mầu xám rồi nhạt nhòa trăng trắng của một ngày mới không nắng. Chưa bao giờ viết suốt đêm nhưng Kiền không thấy mệt mỏi. Chàng có cảm giác như mình đã sống rất lâu, rất nhiều trong đêm qua. Không phải chỉ hít thở, trái tim đập trong lồng ngực, mà toàn thân Kiền đã sống nhiệt thành với ngòi bút của mình, sống nhiều hơn lúc buông bút, ngọ nguậy trong đời thường làm một con người... bình thường.
Trước gương, râu ria đầy mặt, hai tròng mắt đục như trời ngoài kia nhưng đầu óc Kiền tỉnh táo, tim chàng rộn rã. Kiền lại muốn xuống hồ để tìm xem phải là cơ duyên nào đó để gặp lại Yên, xem những điều mộng hay thực, điều nào thú vị hơn?
Mặt hồ hôm nay có màu xám như tấm gương xỉn. Trời lặng yên không gió như một bức tranh chết. Vài con chim bay vụït ngang mặt hồ, tiếng vỗ cánh nghe rõ. Kiền tìm một mỏm cây đổ ngồi xuống chờ đợi, chờ đợi sự gặïp gỡ lần thứ nhì. Mắt chàng thu gọn mọi hình ảnh quanh mình. Chàng mong thấy lại đốm trắng bên kia đồi.
Kiền ngồi như thế rất lâu đến khi mặt hồ sáng hơn mà vẫn không thấy Yên. Có thể ngày mai, ngày sau đó Kiền sẽ gặp lại cô ta. Định quay trở về nhưng Kiền đổi ý. Chàng lần theo ven hồ, đi bộ lên đồi phía bên kia. Ngọn đồi thấp, ít cây. Chỉ chừng 15 phút Kiều đã lên đến đỉnh đồi. Nhìn xuống thung lũng, lác đác vài căn nhà. Bên này, bên kia khác hẳn. Những đường lượn vòng của thung lũng, những nóc nhà với kiểu cách quen thuộc cho một cảm giác bình thản và tầm thường. Kiền tự hỏi: “Mình đi tìm một sự bình thường sao đây?”. Chắc chắn là không. Kiền đứng nhìn xuống thung lũng không lâu rồi quay trở lại đường cũ. Yếu tố tình cờ vẫn là điểm lôi cuốn và hấp dẫn hơn nhiều.
Đi ngang hồ chợt Kiền dừng chân. Một con chim đang nằm ngửa trên đất. Hai chân nhỏ xíu đang dẫy dẫy trên chiếc bụng trắng hếu. Con chim cứ xoay tròn trên đất. Kiền cúi xuống khều nhẹ rồi khẽ đưa tay nâng cánh chim lật úp người nó lại. Con chim lạch bạch đi dăm bước rồi bay bổng. Nó tình cờ gặp Kiền nên mới bay trở lại trời, không gặp Kiền nó sẽ dẫy dẫy như thế cho đến khi đói khát và chết khô. Tình cờ! Có lúc tình cờ Kiền sẽ gặp lại cô ta hay sẽ không bao giờ cả?
Yên về với thế giới của cô ta, Kiền cũng vậy.

* *

Hai ba ngày sau đó, trời đổ mưa luôn mãi. Ô cửa sổ Kiền hay ngồi viết và ngắm trời đất bên ngoài mờ mịt và sũng nước. Những tiếng động duy nhất là tiếng mưa, tiếng mưa tạt vào vách gỗ, trên mái, gõ vào cửa kính, xào xạc cây lá bên ngoài. Nước, nước, nhìn đâu cũng chỉ thấy nước!
Trong trời đất buồn thảm như thế, Kiền vẫn gặp Yên, yêu Yên trong ngòi bút miệt mài. Mái tóc Yên ướt đẫm trong mưa, dưới tàn lá không đủ che. Áo nàng dán sát vào da thịt, hằn lên những mảng da gợi tình. Kiền lùa tay sau làn vải, di động những ngón tay trên đường trũng của lưng nàng, dọc theo chiều dài thon và ngừng lại ở điểm nối xuống bờ hông nở nang. Nước mưa cũng tuôn theo. Kiền hớp những giọt nước mưa trên má nàng, riềm mi đang khép. Nước mưa mới ngọt làm sao! Người chàng căng cứng khi áp sát người vào Yên...
Chưa bao giờ Kiền viết nhiều và nhanh như thế. Chàng không chỉ viết, chàng sống với Yên suốt mấy ngày trời mưa.
Đến ngày thứ tư, cơn mưa dứt. Nắng lại lên. Kiền mở cửa ra ngoài đi xuống hồ, tìm một sự tình cờ.
Đường dốc đất ẩm, nhiều chỗ thành bùn. Đôi giầy ủng của Kiền lem luốc. Nếu gặp Yên, chàng sẽ nói gì hay chỉ để sự tình cờ chế ngự?
Và Kiền gặp lại nàng thật, như một sự tình cờ nhiều ước muốn.
Yên không mặc áo trắng mà mặc áo đen, cũng sát vào người. Trông nàng khỏe và mạnh mẽ hơn là Yên trong những trang giấy của Kiền.
Kiền đến gần thật nhanh như chỉ sợ cô ta sẽ biến mất.
- Chào cô Yên!
Đang ngồi bên hồ, Yên quay lại, cười:
- Chào ông.. Kiền!
- Mấy bữa nay mưa quá!
Cô ta cười không đáp. 
Không thấy cần câu, Kiền hỏi:
- Hôm nay cô không câu cá nữa ư?
- Trời mưa, cá trốn hết rồi!
Kiền đùa:
- Nó sợ cô đấy!
- Cá nào mà sợ tôi..
- Chỉ có người..
Yên cười thật to:
- Người nào? Ở đây chỉ có tôi và ông.
Kiền cũng cười. Hình như chàng thấy thoải mái hơn.
Cô ta chợt hỏi:
- Ông ở đây lâu chưa?
- Chừng vài tuần lễ.
- Vậy à? –Giọng nàng có vẻ ngạc nhiên.- Tôi tưởng ông ở đây? Ông đến chơi thôi ư?
- Cũng không phải là chơi. Tôi lên đây để làm việc.
Nàng có vẻ ngạc nhiên:
- Ở đây thì làm gì được? Ông làm công việc gì?
Kiền lại cười:
- Cô nói cũng đúng đấy. Nhưng việc của tôi, nếu có thể gọi đó là công việc, cần sự yên tĩnh.
Yên tò mò nhìn Kiền chờ đợi một sự giải thích rõ ràng hơn.
- Tôi viết.
Nàng nói với vẻ thích thú không dấu giếm:
- Ông là nhà văn?
Kiền gật đầu không biết phải nói như thế nào.
- Ông sẽ ở đây bao lâu? –Không đợi Kiền trả lời, Yên nói luôn- Cho đến khi nào hoàn tất phải không?
Chàng nhún vai, tay vẫn thọc trong túi quần:
- Tôi cũng không biết nữa. Có thể như thế mà cũng có thể không.
- Ông có nhà ở đây?
- Không! Bạn tôi cho mượn chỗ.
- Ở trên phía rừng trên kia phải không?
Có lẽ những đối thoại nãy giờ làm mọi sự có vẻ thân mật hơn. Không biết nghĩ sao, Kiền ngỏ lời:
- Mời cô ghé lên coi cho biết cái chòi gỗ.
Cái “mác” nhà văn lại ở trong rừng rú thế này có lẽ gợi sự hiếu kỳ nơi Yên nên nàng gật đầu:
- Hôm nay cũng không bận gì, vả lại tôi không còn ở đây lâu nữa.
Kiền thấy chới với. Chàng không muốn nghĩ đến thời gian khi ở đây. Vậy mà câu nói vừa rồi của Yên lại nhắc nhở.
Yên đi theo Kiền lên dốc. Hai người giữ một khoảng cách. Thỉnh thoảng chàng quay lại hỏi:
- Cô mệt không?
Nàng lắc đầu, mặt đỏ lên vì leo dốc:
- Không sao!
- Sắp tới rồi. Bên này leo dốc mệt hơn bên kia.
Nàng có vẻ ngạc nhiên:
- Ông cũng sang phía bên kia rồi sao?
Kiền hơi ngượng khỏa lấp, sợ nàng đọc được ý nghĩ mình:
- Tôi đi lung tung các chỗ.
Nhiều quãng cây lá bít bùng, Kiền đi trước vạt lá, dọn đường cho nàng.
Lên đến nơi, hai người dừng chân nghỉ. Kiền giơ tay chỉ cabin, không nói.
- Chỗ này ở thích quá! Nhiều cây. Có con gì không?
- Chắc có, nhưng tôi không để ý. Chắc thể nào cũng có nai. Những đám phân tròn tròn nhỏ xíu dọc đường là của nai đấy.
- Ông có đi săn không?
- Không! Săn thú có gì thích đâu nhỉ?
Yên không nói gì. Kiền mở cửa mời nàng vào nhà.
- Bề bộn lắm! Cô đừng để ý nhé. Cô uống cà phê không? Ở đây tôi chỉ có cà phê và nước lạnh.
- Cà phê, một chút thôi. Không đường.
Kiền đi pha cà phê. Chàng rửa hai cái ly. May mà có 2 cái.
Yên nhìn quanh căn chòi gỗ. Chỉ có một phòng duy nhất và một góc khuất chắc để bếp và buồng tắm. Trong phòng có một giường nhỏ. Chiếc bàn kê sát cửa sổ cũng nhỏ, đầy giấy tờ trên đó. Chắc là chỗ ông ta viết? Duy nhất có một cái ghế nơi bàn viết. Yên tránh không nhìn vào giường ngủ.
Kiền đang pha cà phê, không quay lại, nói:
- Mời cô ngồi chơi. Xin lỗi có mỗi một cái ghế. –Vừa nói xong Kiền giật thót mình! Bản thảo chàng còn để đầy trên bàn! Chàng liếc nhìn. Nàng đã ngồi xuống ghế và dĩ nhiên mắt đang nhìn đống bản thảo trên bàn.
Yên hỏi vọng vào:
- Tôi đọc được không?
Chẳng lẽ không? Kiền nghĩ thầm. Mọi sự đều là tình cờ cả.
- Cô cứ đọc.
Khi Kiền mang hai ly cà phê ra, Yên vẫn đang đọc bản thảo của chàng. Kiền để ly cà phê trên bàn:
- Mời cô. -Giọng chàng tỉnh như không. Không tỉnh thì làm gì?
Yên cầm ly cà phê nhưng không ngửng đầu lên nhìn Kiền. Nàng đang cắm cúi đọc.
Chưa bao giờ Kiền thấy căng thẳng như vậy. Sự yên lặng trong một không gian chật hẹp như dò xét và chờ đợi một điều gì đó sẽ xảy ra. Một cơn giận dữ khác của Yên mà Kiền sẽ chứng kiến hay.. Ngay lúc này Kiền thèm hút một điếu thuốc, châm cho hết nỗi chờ đợi, và đốt ấm lên mọi ước muốn đang chực chờ vỡ bùng ra.
Người con gái ngồi đó, mái tóc xõa một bên! Yên của chàng! Yên vừa bước ra khỏi những trang giấy! Không nói cười buông thả như chàng đã thấy trong mấy ngày qua, như dưới ngòi bút của Kiền. Nàng ngồi yên như một bức tượng, đầu cúi xuống, đọc!
Vẫn yên lặng! Kiền chỉ nghe thấy tiếng thở của mình, tiếng đập của tim khá nhanh trong tiếng nàng lật trang giấy. Yên vẫn là cục nam châm. Hình dáng đó đang như muốn lôi kéo chàng đến gần nàng, ôm lấy bờ vai, úp mặt vào suối tóc và thả hết những chất chứa muốn điên người.
Yên đọc đến những đoạn không muốn đọc nhưng mắt nàng không rời khỏi nổi những trang giấy. Như một thứ ma lực cuốn hút nàng trong sợ hãi. Nàng muốn vùng vẫy khỏi những lôi kéo vô hình. Nàng thấy phần nào mình trong đó, giống như một người đứng trước gương, nhìn thấy hình ảnh mình phản chiếu nhưng không hài lòng. Nàng đang bước vào thế giới riêng tư của một người đàn ông... khác thường, một người lạ chưa từng quen biết. Dĩ nhiên Yên muốn phủ nhận tất cả những điều đang nằm trên trang giấy kia. Không có nàng ở đó. Không phải là tôi!
Yên bỏ bản thảo xuống, nhìn Kiền, ánh mắt nàng vừa lạnh nhạt vừa sợ hãi, nửa thách thức. Chỉ thế thôi mà Kiền như chôn chân xuống sàn. Ly cà phê trong tay chàng nắm chặt.
Chàng không tìm được một câu gì để nói trong tình huống này. Chàng nhìn xuyên qua nàng, qua cửa sổ. Quay lưng, Kiền ra mở toang cửa, đứng ngoài hàng hiên. Gió lạnh bên ngoài làm chàng tỉnh táo. Sau lưng chàng khẽ có tiếng động. Không quay lại chàng cũng biết là Yên.
Bỗng dưng Kiền nói như tìm một lối thoát cho chàng và cho cả chính Yên:
- Ở trên này buồn quá phải không? – Chàng nói một câu lãng nhách không đầu không đuôi.
- Chắc thế nên ông mới viết!
Kiền không muốn nhắc tới chuyện viết của mình.
- Khi viết, ông đạt được điều gì? Tôi tò mò quá không? –Giọng nàng có vẻ thách thức, đầy phong độ như lần đầu tiên Kiền gặp.
Kiền trả lời tỉnh như không:
- Không ai hỏi tôi câu này bao giờ. Cô là người đầøu tiên. Ở trường hợp tôi.. viết để được sự thỏa mãn cho chính mình.
- Ông sống trong mộng ảo!
Kiền cười hực lên. Không biết nụ cười đó cho mình hay cho nàng.
- Cám ơn ông đã cho tôi đọc bản thảo của ông. Tôi phải về.
- Tôi đưa cô xuống.
- Rồi ông lại phải leo lên, mệt quá!
- Không sao!
Họ ra khỏi cabin, đi xuống về phía hồ. Cả Kiền lẫn Yên đều không nói gì với nhau. Còn sự tình cờ nào nữa? Kiền tự hỏi.
Xuống đến hồ, Yên nói:
- Cám ơn ông. 
- Bao giờ cô đi khỏi đây?
- Ngày mai. 
Kiền không nói gì thêm. Lúc bỏ đi, nàng quay đầu lại:
- Đừng cho cô ta chết nhé!
Câu nói này của Yên làm chàng cười. Kiền gật đầu. Vẫn đứng đó nhìn theo Yên. Đời nào cho Yên chết trong lúc này? Chàng đang yêu nàng quá mà! Phải tận hưởng đã. Khi nào chán, tính sau!

Mc Bích
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2014 07:21:49 bởi frank >

Ct.Ly

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 19.02.2014 03:08:57
Tác giả Mặc Bích cảm ơn Ct. Ly đã đem truyện vào thư viện.
 
Đã gửi đến Ct. Ly link cho nhạc Nguyễn Đình Phùng
 
 

Ct.Ly

frank
  • Số bài : 1566
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.08.2013
Re:Truyện ngắn Mặc Bích - 25.02.2014 03:43:50
Đêm ở Madrid

Mặc Bích


Qua khung cửa kính rộng của chiếc xe bus, những mặt đường phố bị che kín với người và người, những mảnh da thịt  phơi trần, những chiếc áo màu sặc sỡ, những đầu tóc của đủ mọi màu da, óng nắng vàng trong một buổi chiều mặt trời không chịu khuất. Hình như người ta không làm gì cả, chỉ chơi, rong chơi chen lấn trên hè phố với một mức độ có hối hả đó, nhưng là thứ chộn rộn vui nhộn, thoải mái. Ngày và đêm ở đây dường như có dài hơn những nơi khác. Madrid, thành phố chẳng bao giờ ngủ! Người ta ngủ vào lúc nào hay chỉ là những chợp mắt muộn màng? Phải thức để mà sống, thoải mái chỉ có thế!Luân lơ đễnh nhìn theo những bóng hình nối đuôi trên hè phố. Lòng đường cũng chật ních với từng đoàn xe nhích nhích chậm chạp. Phải công nhận đàn bà ở đây đẹp. Không những  đẹp mà còn gợi tình. Vẻ gợi tình công khai, không che đậy, dấu diếm, không chỉ bằng những thân hình thiếu vải, nhưng từ những ánh mắt, nụ cười, dáng điệu di chuyển trên đường phố, những gót chân trần yểu điệu trên những đôi giầy cao gót đong đưa không chỉ những mông tròn, mà những cái eo nhỏ tí, những bộ ngực nhấp nhô trầm bổng. Ngay cả cái hơi nóng từ mặt đường bốc lên cũng hun từng đôi chân, cặp đùi như thúc dục người ta làm một điều gì.. Tại sao xứ này lại lắm đàn bà đẹp thế kia! Còn đàn ông? Thì chúng cũng như mình thôi, Luân nghĩ thầm và bất giác phì cười một mình!Nhã ngồi cạnh, quay sang nhìn Luân:
-Sao vậy?
Nhìn người bạn gái lâu năm – đúng nghĩa là bạn đấy. Nothing else! – Luân lắc đầu:
-Tự dưng cười!
-Làm gì có chuyện tự dưng cười! Ông đâu phải con nít đâu! Khai đi, đây nghe cho!
Lần này Luân cười lớn hơn làm bà Tàu ngồi băng ghế bên cạnh phải quay sang nhìn.
-Bà có thấy là phụ nữ ở đây đẹp không? 
Nhã nhíu mày:
-Thế thì có gì đáng để cười?
-Ấy vậy mà tức cười mới lạ!
 Luân nói thật lòng.
-Vớ vẩn! Thấy đàn bà đẹp thì ngắm chứ sao lại cười? Chẳng trách đàn bà con gái bỏ ông đi lấy chồng hết là phải!
  Nhã vừa nói vừa ném cho Luân một cái nhìn hoài nghi mà hóm hỉnh.Câu nói của Nhã làm Luân cụt hứng nhưng không phiền lòng. Chàng thân với Nhã như với Cường, với Hữu. Cả ba người đàn ông đều xem Nhã như một người bạn trai. Làm gì có chuyện “như”? Vậy mà thế đấy! Tại sao? Cả mười năm nay như vậy mà chẳng người nào thắc mắc tại sao? Nếu không muốn nói đại ra là cả Luân, Cường và Hữu chẳng hề xem Nhã khác mình. Bảo Nhã không phải là đàn bà thì không đúng. Nhã không đẹp, không xấu, ngổ ngáo, bạo dạn và có nhiều sở thích đều hợp nhau. Một party có đủ cả Nhã, Luân, Cường và Hữu vui hơn hết thảy! Và cả 4 người đều chưa bị ràng buộc nào hết!Chuyến đi chơi kỳ này chỉ có mình Luân và Nhã. Đoàn du lịch chừng 20 người, không có ai là người Việt Nam trừ chàng và Nhã. Bảy ngày ở Spain, bẩy ngày không làm gì cả ngoài chuyện ăn, ngủ, có người hướng dẫn đi chơi và không cần biết đến ngày mai. Buổi chiều cuối cùng ở đây còn sót lại buổi tối, nếu chỉ ăn rồi ngủ thì hơi uổng. Cả bẩy ngày với chừng này khuôn mặt, có lẽ phải tách ra ở ngày chót chắc có nghĩa lý hơn.Luân khều Nhã:
-Tôi nay mình xé lẻ không?
-Đi đâu?
-Kiếm nightclub nào nghe nhạc chứ ăn bữa ăn farewell với đoàn du lịch rồi về ngủ uổng quá!
-Có lý! Đi cho hết đêm luôn hả?
Luân cười cười nhìn Nhã:
-Bà dám không?
-Xong ngày mai ngủ quên và ở lại đây luôn.
 Giọng Nhã nửa đùa nửa thật
.-Có những chuyến đi tôi không muốn về nữa. Chẳng phải vì chán ở nhà nhưng đi thế này cho mình cái cảm giác như sống một đời khác.
-Tôi cũng như ông. Đi lang thang chắc cũng sướng.
Lần đầu tiên nghe câu nói của Nhã mà Luân để ý đến chuyện  phái tính. Đàn bà ai lại đi lang thang nhưng chàng không nói ra. Té ra cũng có “khác” chứ không phải “như” như mình thường nghĩ. Và chàng lại tủm tỉm cười. Lần này Nhã còn mải nhìn hai bên phố nên không hỏi gì thêm.Về khách sạn, Luân hỏi thăm và nhờ họ giữ chỗ ở quán Café de la Palma là nơi nổi tiếng ở Madrid. Không phải là ngày cuối tuần nên có chỗ. Luân đặt bàn mà chẳng hỏi Nhã vì biết Nhã sẽ không phản đối.Ngồi trong tắc xi, Nhã hỏi Luân:
-Nightclub này loại gì vậy?
Khẽ đập tay lên mu bàn tay Nhã, Luân nheo mắt:
-Đến rồi sẽ biết! Đàn bà vào được. Cứ tin tôi đi, chúng ta sẽ có một buổi tối rất đáng nhớ tại Madrid.
-Đáng nhớ theo nghĩa nào?
-Cứ thoải mái để rồi vui, việc gì phải thắc mắc lắm thế?
Nhã yên lặng và chợt nghĩ: “Đi chơi với Luân thích hơn với Cường và Hữu. Luân không tế nhị như Cường, không có óc hài hước như Hữu, nhưng cái bạt mạng, buông thả và liều, nếu không muốn nói là ẩu ở Luân tạo được sự khích động, tò mò nơi người khác với cái bề ngoài rất ngang tàng. Cao, vai rộng, mặt mũi bơ bơ, nói năng thì thẳng đuột, mắt nhìn hỗn xược. Láo, láo không thể nào tả được!
Xe tắc xi ngừng lại trước cửa quán Café de la Palma. Buổi tối ở đây còn nhộn nhịp hơn ban ngày. Người ta đổ ra đường đủ mọi chiều xuôi ngược, ngang dọc. Cái nóng ban ngày đã dịu bớt, chỉ còn cái nhiệt của những thân người lẫn với mùi nước hoa, mùi thuốc lá thoang thoảng trên lề đường. Những đống rác bẩn thỉu trên hè phố đã bị bóng đêm che bớt, người ta chỉ còn thấy vẻ lộng lẫy mang chút hơi hướm sa đọa cuộc đời trần tục nhất của những người tìm đến người.Từ bên ngoài quán đã nghe tiếng trống bập bùng như tiếng thở dồn dập của đêm đen. Chiếc váy đen xẻ một bên mà Nhã ít khi mặc làm cho từng bước đi của nàng không mấy thoải mái. Rất ít khi Nhã mặc váy, trang điểm. Những điều đó là những phiền nhiễu rất đàn bà mà nàng không thích. Đêm nay không hiểu vì sao nàng lại ăn mặc như thế này? Đôi giày cao gót mỏng manh làm Nhã bước đi những bước ngượng nghịu. Những cái nhìn của đám đàn ông lạ ngay cửa vào club làm Nhã bỗng dưng níu lấy cánh tay Luân.Luân nhìn Nhã ngạc nhiên nhưng không nói gì. Đó là một căn nhà lớn, nhiều cửa cao đến trần mở thông ra đến ngoài sân. Trong ngoài đều khá đông.Nhã hỏi nhỏ:
-Ông đặt bàn bên ngoài hay bên trong vậy?
-Không biết họ xếp mình ngồi đâu.
Chiếc bàn nhỏ vừa đủ cho hai người, nằm hơi xéo nhưng gần bục trình diễn. Sau lưng cách một bàn là cửa thông ra ngoài sân sau. Nhã quay lại nhìn ra sân. Bên ngoài không đông bằng bên trong nhưng có lẽ cái thích riêng. Những chiếc bàn đặt dưới tàng cây trên có treo những chùm đèn xanh đỏ đã đầy người. Luân hỏi Nhã:
-Muốn ngồi bên ngoài sao?
Nhã lắc đầu:
-Xem thôi. Ngồi đây thích hơn chứ?
Từ trong bình nến đặt trên bàn, ánh sáng le lói nhưng ấm hắt lên mặt Nhã, có những phần nhìn thấy rõ, những phần khuất, làm cho khuôn mặt xương xương bướng bỉnh thường ngày dịu hẳn lại. Trông nàng như một ai khác, Luân nhìn và thầm nghĩ. Lại bôi một tí son, mắt đen đen rộng mở, chị này bữa nay dở chứng! Họ ăn tối dưới ánh nến vừa đủ sáng trong cái ngột ngạt của một đêm hè mà máy lạnh chạy rất yếu lại đầy ắp hơi người. 
-Ăn được hả?
 Luân ngừng nhai hỏi Nhã.     
-Ngon! Chắc lạ miệng.
Nhã vừa ăn vừa khều khều mấy cọng rau trong đĩa.  
– Xứ này có những thứ rau lạ nhỉ?
-Khen ngon thì phải ăn cho hết, về Mỹ bà đâu có thấy những món như vầy nữa?
-Tại mình  không biết chỗ chứ tôi nghĩ cũng có cả.
Nhã nhìn Luân và nàng tin chắc rằng Luân có cùng một ý nghĩ với mình nhưng không nói ra: “Chỉ có ở đây, trong chuyến đi này mới có 2 người”. Trông Luân ăn cũng hỗn, ào ào như một kẻ bị bỏ đói lâu ngày! Không hiểu với đàn bà và.. cái khoản kia.. thì sao? Bình thường những ý tưởng này sẽ làm Nhã cười, cười lớn vì nàng chưa hề yêu ai, chưa hề biết tình yêu là gì. Nhưng đêm nay trong khung cảnh này ở đâu đó trong nàng dấy lên một tí men, sóng sánh, sủi bọt lăn tăn làm Nhã lao đao như có nghìn cánh bướm đua nhau đập cánh trong cái bao tử nôn nao dù đã đầy chặt thức ăn. 
-Phần đầu cũng được, hy vọng phần sau cũng thế hay khá hơn thì đêm nay tuyệt diệu nhỉ?
-Ông nhất định không bật mí phần sau là phần gì hả?
-Tại vì chính tôi cũng không biết họ chơi nhạc có hay không nữa?
-Loại gì?
-Flamenco.
Nhã reo lên:
-Tuyệt! Đến Spain mà không nghe flamenco thì vẫn chưa biết Spain.
-Thế sao không đòi?
Nhã nhìn Luân rồi không hiểu sao nàng chẳng trả lời. Nhã định bảo: “Đòi ai?” nhưng rồi lại thôi.Khi đến món tráng miệng cũng là lúc những nhạc sĩ bắt đầu xuất hiện trên sân khấu. Họ thử nhạc cụ. Những tiếng cười nói xôn xao nhỏ lại. Luân thấy có 7 người tất cả. Ba guitar, hai trống, một loại trống mọi mà người xử dụng chỉ dùng hai tay vỗ trên mặt trống và một người chơi trống thường, một anh nữa cầm hai cái bầu, để xúc xắc, và thêm một keyboard.Khi tay guitar ngồi ngay giữa sân khấu đứng dậy chào là lúc mọi đèn ở sân khấu đều bật hết lên. Đám đông, trong, ngoài, ùa lên những tiếng vỗ tay, những tiếng kêu lớn: “Armik! Armik! Armik!”. Anh ta cúi đầu thật thấp như để cảm tạ khán giả rồi ngửng lên gửi những cái hôn gió. Chừng 30, màu da của những cánh đồng nâu xạm, tóc quăn đen nhánh, đôi chân mày rậm, hơi chầm chập người và không có vẻ gì là nghệ sĩ cả. Đó là những nhận xét đầu tiên của Nhã, nhưng chắc chắn anh ta phải là nhân vật chính của đêm nay, trên sân khấu kia, trước tiếng reo hò của đám đông.Có người la lên:-Costa brava.Nhã quay sang hỏi Luân:
-Họ nói gì vậy?
Luân cười ruồi:
-Có hiểu đâu? Nhưng sao bà không bắt chước họ mà cũng la lên như vậy?
Nhã lườm Luân nhưng cũng phải mỉm cười, bụng rủa thầm: “Đúng là đồ cà chớn!”Khi anh ta ngồi xuống ghế, ôm đàn, đám đông chợt im bặt. Tiếng quạt trần quay vù vù nghe khá rõ. Người ta đang chờ đợi, chờ đợi những kẻ làm nên âm nhạc và những khoảnh khắc bứt lìa khỏi đời sống thực tại để du hành vào một thế giới khác. Tiếng đàn guitar cất lên ngọt nhưng mạnh, réo rắt từng nốt nhạc, tuôn như một dòng thác, không vướng mắc. Bàn tay chạy trên dây đàn thoăn thoắt, không nghe thấy tiếng lướt. Trái tim Nhã từ nãy giờ cứ lắt lẻo đong đưa, mỗi  một tiếng láy nàng nghe như tim muốn rụng. Khán giả không chỉ nghe và thưởng thức nhạc nhưng hình như họ đang bị lôi cuốn để sống với dòng nhạc lúc lên cao, lúc nhận chìm. Nhanh, liên tục và chụp bắt mọi ánh mắt của đám đông không rời nổi hình ảnh trên bục gỗ. Bài hát đầu tiên dứt đột ngột,  cũng sắc, gọn nhưng ngọt.Những tiếng huýt sáo, vỗ tay ầm ĩ. Anh ta chỉ hơi ngẩng đầu lên, giang tay như để giới thiệu tất cả những nghệ sĩ khác phụ họa trong bài nhạc đầu tiên. Trong đám khán giả có tiếng  nói lớn:-Alegria!Rồi tiếng người khác cũng la khá rõ:-Lovers in Madrid!-Rosas del Amor!Luân đùa đùa hỏi Nhã:
-Người ta đang yêu cầu. Bà yêu cầu bài gì?
-Đừng có lộn xộn! Ngồi nghe thưởng thức không sướng sao?
Họ không chơi nhạc flamenco thuần túy như Luân tưởng. Đây là một thứ Latino pha tây ban cầm cổ điển. Dầu sao cũng mang nhiều sắc thái Tây Ban Nha và buổi tối ở Madrid vẫn có một màu sắc đặc biệt của nó. Luân ngồi nghe nhạc bằng nửa đôi tai, nửa kia còn lang thang lan man đi tìm những mắt những môi, những khoảng da trần khêu gợi trong quán cho tấm lòng thêm.. ấm! Nóng máy bây giờ thì bỏ mạng! Chạy xịch xịch nhả khói đều đều được rồi, đừng rồ ga bất tử.. mà đụng cột đèn! Đấy chỉ là những ý tưởng lạc loài mà làm Luân thấy vui vui, chàng chỉ vỗ tay hưởng ứng nhiều khi đám đông vỗ tay, khi những thân hình tròn lẳn chung quanh đứng đậy lắc lư, gửi hôn gió. Sau 7, 8 bài, bỗng dưng sau tiếng vỗ tay, đèn trên sân khấu mờ hẳn lại. Một khoảng sàn gỗ nhỏ ngay chính giữa phựt sáng. Những vòng tròn của đèn quay đảo lên đảo xuống, vừa lúc tiếng đàn đổi hẳn, giật, nhanh cùng với tiếng đập bập bùng vào mặt thùng đàn.
Từ  sau sân khấu, hai bóng người xuất hiện, bước những bước nhanh theo nhịp đàn dồn dập. Flamenco! Luân khẽ reo thầm. Người thanh niên mặc quần áo đen bó chẽn lấy toàn thân, nửa phần trên để hở lộ ngực trần nâu đồng rắn chắc. Người thiếu nữ váy dài đen, tóc cũng đen, búi cao, vạt  váy xẻ dài nhiều mảnh. Ở giữa ngực trũng sâu hình chữ V mở rộng một bông hoa cẩm chướng đỏ như một con mắt mở lớn. Họ quấn lấy nhau, tay vung, chân gõ xuống mặt sàn, nhịp nhàng như âm nhạc là họ và họ cũng là một phần của những âm thanh.Những quay, lui tới của đôi này không để cho Luân kịp nhìn rõ khuôn mặt người thiếu nữ. Khi bản nhạc dứt, họ quay sang tứ phía để chào và cám ơn những tràng pháo tay còn nồng nhiệt hơn khi trước. Mắt đen như áo, lông mày, mi dầy rậm. Đôi mắt dài có đuôi tình tứ trong nụ cười mà mầu son đỏ thắm bóng, rộng phô bày trọn hàm răng trắng tinh. Từ người cô ta tỏa ra nhiệt, thứ nhiệt của tuổi xuân tràn đầy như đang muốn bứt tung, tuôn đổ trên từng miền da thịt màu mật óng ánh mà rờ vào chắc chắn phải mịn như tơ.
Ban nhạc đổi sang một nhịp điệu khác, chậm hơn và có những nốt kéo dài. Hai thân hình trên sàn gỗ quấn lấy nhau, trên, dưới, sát. Ôm, rồi buông. Cô gái co chân, lộ cả một đùi thon quấn vào chân người thanh niên. Như một con rắn trườn lên, cọ sát vào đùi anh ta, chậm và dọ dẫm như đo lường mức độ của con mồi say đến cỡ nào. Luân nghe thấy tiếng tim mình đập mạnh hơn tiếng trống. Dải áo đen phất phơ như đùa dỡn. Rồi cô nàng bỗng quay ngoắt đi, bàn tay giơ lên che mắt, lướt xuống sống mũi thon, lượn qua vành môi, xuống cổ, đến bờ ngực trần ngừng lại, mắt vẫn liếc sắc như dao, môi hé nụ cười mời gọi.
Cả quán nhạc im phắc. Người Luân căng cứng và chắc hẳn mặt chàng lúc ấy khá đần độn! Có bao nhiêu khuôn mặt như thế trong lúc này? Tiếng đàn hình như ngừng lại đồng lõa. Cô ta lắc nửa thân hình trên, phần có trọng lượng nhấp nhô, run rẩy, rồi cũng với cánh tay thon dài với những móng nhọn sơn đỏ chót, nàng kéo mạnh tay người thanh niên để cả thân hình anh ta như bị hút dính cứng vào những phần nhấp nhô trên thân hình gợi cảm. Lần này không phải chỉ dùng toàn thân  mà cả khuôn mặt cô gái áp vào mặt anh ta. Cô ta nhắm đôi riềm mi, môi hé mở. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên cổ, trên ngực cô gái là những giọt mồ hôi gợi tình, lấp lánh như sao sa. Tiếng đàn lại trỗi lên tha thiết. Họ đứng yên như tượng cho đến khi tiếng nhạc dứt thật ngọt.Cả căn phòng như muốn bể tung vì những tiếng vỗ tay, tiếng la nhiệt tình. Họ buông nhau ra, tay trong tay, cúi đầu chào khán giả.
Cô gái rút bông hoa cẩm chướng ở ngực và ném xuống đám đông. Bông hoa đỏ như con mắt lửa tìm kiếm, bay xẹt lên cao, rơi đúng vào lòng Luân. Bất ngờ, bất ngờ!  Luân tỉnh hẳn như sau một cơn đồng thiếp. Chàng cầm bông hoa, hơi ngẩn ngơ. Cô gái đảo mắt nhìn xem bông hoa mình ném vào tay ai. Khi thấy Luân, cô gái khẽ đưa tay gửi một nụ hôn gió rồi cùng gã thanh niên thoăn thoắt chạy biến vào trong. Những tiếng vỗ tay rầm rập tiếp tục vang lên nhưng họ không quay trở ra. Ban nhạc tiếp tục chơi. Đêm ở Madrid có lẽ đã đến độ chín mùi, nhưng có chút tiếc nuối đọng lại trong không gian về những giây phút căng thẳng vừa qua. Nhã dục Luân:
-Về thôi ông! Không thôi ngày mai không dậy nổi lúc 6 giờ sáng.
Nhếch mép cười nhìn cô bạn, Luân đùa:
-Tôi tưởng bà bảo đi suốt đêm?
Nhã nguýt Luân, không nói gì. Lần đầu tiên Luân thấy đuôi mắt dài, hơi xếch và dữ của Nhã khêu gợi, cái khêu gợi cho mình chàng thấy. Lạ! Bỏ mẹ chứ lạ gì! Nghĩ như thế và bỗng nhiên Luân thấy lúng túng, ngoan ngoãn đứng dậy kéo tay Nhã đi ra cửa.Nhã thầm thì:
-Trả tiền chưa vậy?
Luân gật:
-Trả từ lúc giữ chỗ.
Nhã để yên bàn tay trong tay Luân. Ra đến ngoài chờ tắc xi, họ vẫn không buông tay nhau, làm như đấy là một sự tự nhiên, lúc nào cũng như thế.Lên xe Luân nói với người tài xế đưa họ đi một vòng phố xem Madrid về đêm rồi mới về khách sạn. Họ đi qua những đường phố sáng trưng nhộn nhịp, những nơi thiếu ánh đèn, những tàng cây trên lề đường, những bảng hiệu khắp chốn. Đêm cuối cùng ở Madrid!Luân hỏi Nhã:
-Thích không?
Nàng gật đầu, ánh mắt dịu ngọt.
-Mệt không?
Nhã thẫn thờ trả lời:
-Tôi hơi nhức đầu, chắc tại vì nhiều lúc nhạc chơi ồn ào quá!
-Tôi có mang Tylenol phòng hờ. Uống 2 viên, ngủ một giấc dậy mai khoẻ ngay.
Về khách sạn, vào phòng  Luân, nhìn quần áo vương vãi khắp nơi, Nhã kêu:
-Bộ họ không làm phòng ông sao?
-Tôi không muốn.
Luân tìm trong sắc lấy thuốc, rót nước đưa cho Nhã. Cử chỉ săn sóc chưa bao giờ thấy ở Luân. Nàng uống ngụm nước, chưa kịp uống thuốc bỗng sặc. Nhã cúi gập người xuống ho. Luân lo âu hỏi:
-Này, không sao chứ?
Nhã khẽ lắc đầu nhưng vẫn ho. Nàng ngồi xuống giường, ôm ngực. Ngồi xuống bên cạnh, Luân ôm vai Nhã bóp nhẹ. Họ gần nhau như chưa bao giờ gần vậy. Một lúc sau Nhã ngừng ho quay sang Luân. Khoảng cách giữa hai khuôn mặt là một khoảng cách ngắn, nguy hiểm trong căn phòng ngủ bừa bộn của một nơi nghỉ chân tạm bợ. Điều gì làm cho Luân cúi xuống hôn Nhã? Và cũng điều gì làm cho Nhã cuồng nhiệt nhận nụ hôn ấy? Người ta có cần đâu đến những giải thích, tìm hiểu hay lý giải bởi vì có những giây phút trong cuộc đời không còn chỗ hở nào để những câu hỏi đó xen vào. Giản dị, tự nhiên như những điều phải xảy ra.Luân không chỉ hôn Nhã, chàng còn làm những điều như đã từng làm với những người đàn bà khác. Đêm, ánh đèn vàng ở đầu giường ngủ soi ấm lên từng miền thân thể, lên mái tóc đen dài, lên đôi mắt nhắm nghiền chờ đợi. Họ còn cả một thời gian nữa ở Madrid.Từng thời khắc qua đi, ngọt ngào và say đắm đến không muốn dứt. Họ là hai cây  đuốc thắp cho nhau, khai phá tìm kiếm những gì chưa hề biết đến, hay với Luân biết đấy mà vẫn chưa biết.
Trong hơi thở dồn dập, đôi chân dài, váy xẻ nhiều vạt của cô gái trong quán Café de la Palma nhận chìm Luân trong cơn lốc mê đắm ở một nơi không biết đến thời khắc, không còn biết đến điều gì khác ngoài những réo gọi của mình và cho mình.Nhã với tay tắt đèn. Họ buông nhau ra. Chỉ còn ánh áng từ đèn đường qua một phần cửa sổ rọi vào thành một vệt dài trong phòng. Nhã nghe thấy tiếng thở của Luân. Nàng nhìn lên trần căn phòng, cơn nhức đầu đã biến mất từ bao giờ dù ly nước và hai viên thuốc Luân đưa nàng chưa hề đụng đến. Nhã muốn nắm tay Luân như lúc ở trong quán nhạc nhưng nàng sợ.. Nàng đã vượt qua biên giới của một thứ tình bạn hiếm hoi để đến nơi nào đây? Luân sẽ nghĩ sao về nàng? Nằm đây, cạnh Luân trong căn phòng này, Nhã thấy nỗi cô đơn đang đổ ập xuống nàng. Nhã muốn khóc. Nhưng chắc chắn không phải ở đây, để Luân nhìn thấy. Nàng nhẹ nhàng ra khỏi giường, mặc quần áo rồi khẽ khàng ra khỏi phòng về phòng mình ngay sát cạnh.
Khi cánh cửa vừa khép lại, Luân mở bừng mắt và than thầm: “Lần này đúng là tổ trác!” Chàng lại chẩy mồ hôi nhưng không phải những giọt mồ hôi như ban nẫy lúc cuồng nhiệt. Luân bật đèn trong phòng. Thứ đầu tiên chàng nhìn thấy là bông hoa cẩm chướng mầu đỏ nằm lăn lóc trên bàn, bông hoa mà người thiếu nữ trên sàn nhẩy trong quán Café de la Palma đã ném xuống đám đông và tình cờ rơi đúng vào chỗ Luân. Những giờ phút vừa qua.. đâu phải.. Nhã? Ôm Nhã mà cứ tưởng.. ? Nếu tỉnh táo biết là Nhã thì bố bảo cũng chẳng dám rớ vào!!Luân muốn gọi phone sang phòng Nhã và nói một điều gì. Nói gì bây giờ? Không nói gì cả cũng cóc được!  Nghĩ ngợi một lúc đâm nhức đầu. Hai viên thuốc Tylenol mà Nhã không uống được Luân chiếu cố. Chàng lên giường, nhìn đồng hồ: “2 giờ sáng!” Luân tắt đèn và bụng bảo dạ: “Mai tính!”

                 * * *

Đứng trước của phòng Nhã, Luân ngần ngừ gõ. Như đã chờ dợi sẵn, Nhã mở cửa ngay. Trông Nhã bơ phờ, Luân thấy ruột quặn lại. Chàng làm tỉnh nói:
-Sửa soạn xong chưa? Xuống ăn sáng chứ?
Chữ “bà” với “tôi” quen thuộc đã bị dấu biệt. Nhã ra vẻ thản nhiên cười cười đáp:
-Xong hết rồi!
 Nàng vừa trả lời vừa nghĩ đến câu nói của mình. “Xong thật! Chúng ta lại trở về vị trí cũ cho dù những gì đã xảy ra đêm qua”. 
-Ngủ được không?
Nhã gật đầu và tìm cách nói lảng sang chuyện khác. Họ ăn sáng và cố xử sự như không có chuyện gì xảy ra. Lên xe buýt, Luân nắm lấy tay Nhã. Nàng để yên. Họ không nói gì với nhau một lúc lâu.Khi máy bay rời khỏi Madrid cũng là lúc Nhã mệt lừ vì mất ngủ cả đêm, nàng nhắm mắt và thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn. Đầu Nhã ngả vào vai Luân. Chàng để yên. Những sợi tóc của nàng xòa xuống. Luân ngửi thấy mùi thơm thơm và hơi ấm từ một sinh vật gọi là đàn bà tỏa sang. Nhìn xuống tay Nhã. Đó là đôi bàn tay nhỏ nhắn, thon và bất giác thấy rõ Nhã chẳng bao giờ giống chàng hay Cường hay Hữu. Nhã là Nhã, và tệ hại hơn nữa Nhã lại là.. đàn bà! Chàng đã biến Nhã thành đàn bà đêm qua. Luân thấy tối tăm mặt mũi! Đêm qua bảo mai tính, nay thì bảo gì? Mốt tính? Không tính được, chịu! Thôi thì ai tính thì tính! Những câu trả lời như thế cho chính mình làm  Luân thấy nhẹ nhõm hơn.

                  * * *
 
Xách hành lý đến cửa apartment cho Nhã, không hiểu trời xui đất khiến thế nào mà Luân ôm vai Nhã rồi nheo nheo mắt nói nhỏ:
-Không chạy đâu!
Đôi mắt tối có những nốt trầm của Nhã chợt bừng lên nhưng Nhã chỉ gật và không nói một lời nào.Ra xe, Luân thở dài và thương hại cho chính mình: “Lại dại nữa rồi! Dại gì mà dại đến hai lần liền! Chỉ tại cái đêm ở Madrid!”
Mặc Bích




























Ct.Ly

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 38 bài trong đề mục