 Ba anh em Francois, Mick và Annie về  nghỉ hè ở Kernach với gia đình cậu mợ Henri và Cécile. Claudine, con gái  cậu Henri, tính nết hơi kỳ quặc, buổi đầu tỏ vẻ không ưa thích mấy  người anh chị họ. Dần dần, do thật sự quý mến và biết cách đối xử thân  tình, ba anh em Francois đã làm cho Claudine thay đổi và chơi thân với  họ, đưa họ đi chơi đảo Kernach, xem xác chiếc tàu đắm và toà lâu đài cổ  trên đảo do tổ tiên mợ Cécile để lại; tất cả những thứ đó đã là của  riêng của Claudine. Qua những chuyến đi ấy – cùng với Dagobert, con chó  quý của Claudine – mấy anh em đã phát hiện ra một kho vàng của ông cụ tổ  cất giấu trong lâu đài. Do cách đối xử với trẻ con không thoả đáng của  cậu Henri, suýt nữa thì kho vàng lọt vào tay bọn bất lương. Mấy anh em –  cùng Dagobert – phải khắc phục nhiều khó khăn trở ngại và đã giữ lại  được kho vàng.    Chương 1
    Ba anh em Francois, Mick và Annie về  nghỉ hè ở Kernach với gia đình cậu mợ Henri và Cécile. Claudine, con gái  cậu Henri, tính nết hơi kỳ quặc, buổi đầu tỏ vẻ không ưa thích mấy  người anh chị họ. Dần dần, do thật sự quý mến và biết cách đối xử thân  tình, ba anh em Francois đã làm cho Claudine thay đổi và chơi thân với  họ, đưa họ đi chơi đảo Kernach, xem xác chiếc tàu đắm và toà lâu đài cổ  trên đảo do tổ tiên mợ Cécile để lại; tất cả những thứ đó đã là của  riêng của Claudine. Qua những chuyến đi ấy – cùng với Dagobert, con chó  quý của Claudine – mấy anh em đã phát hiện ra một kho vàng của ông cụ tổ  cất giấu trong lâu đài. Do cách đối xử với trẻ con không thoả đáng của  cậu Henri, suýt nữa thì kho vàng lọt vào tay bọn bất lương. Mấy anh em –  cùng Dagobert – phải khắc phục nhiều khó khăn trở ngại và đã giữ lại  được kho vàng.    Chương 1 -
 Lên đường đi Kernach    Buổi sáng hôm đó, khi tất cả nhà quây quần quanh bàn ăn sáng, François hỏi:  
  -         Mẹ ơi, năm nay mẹ đã định cho chúng con đi nghỉ hè ở đâu chưa? Chúng con có được đi Grơ-nốp như năm ngoái không?  
  Bà Gauthier trả lời:  
  -         Không, mẹ e là không đi được đâu. Các khách sạn ở đó đầy ắp cả rồi mà khách du lịch vẫn cứ ùn ùn kéo đến từ khắp nơi.  
  Ba anh em François, Mick và Annie nhăn  mặt. Ba đứa nhìn nhau chán ngán. Đi Grơ-nốp thú vị biết bao! Ở đó có  nhiều nơi dạo chơi rất thích và lại được thở không khí trong lành miền  núi nữa.  
  Ông Gauthier nói:  
  -         Thôi, đừng có buồn trước làm  gì! Thể nào bố mẹ cũng tìm được chỗ gửi các con đến nghỉ cho các con tha  hồ vui chơi. Năm nay, bố mẹ không cùng đi với các con được, mẹ đã nói  cho các con biết chưa?  
  Annie kêu lên:  
  -         Mẹ đã nói gì đâu! Bố mẹ không  thể cùng đi nghỉ với chúng con thật ư? Từ trước tới nay, bao giờ cả nhà  cũng luôn cùng với nhau kia mà!  
  Bà Gauthier nói:  
  -         Thì trước vẫn thế, nhưng năm  nay, bố muốn mẹ đi cùng với bố lên phía bắc có công chuyện. Bây giờ các  con đã lớn rồi, bố mẹ nghĩ là các con có thể nghỉ hè với nhau vui vẻ,  vắng bố mẹ. Thế nhưng giờ ở Grơ-nốp không còn chỗ mà cũng không thể để  các con ở lại Li-ông trong dịp hè được, mẹ cũng chưa biết cho các con đi  đâu bây giờ…  
  Bố bỗng có ý kiến:  
  -         Này sao không gửi chúng đến nhà cậu Dorsel nhỉ?  
  Ông Henri Dorsel là em bà Gauthier, tức  là cậu của ba đứa trẻ. François, Mick và Annie mới trông thấy cậu có mỗi  một lần, mà lần ấy đứa nào cũng thấy hơi sờ sợ. Ông Dorsel là một người  cao lớn, dáng vẻ nghiêm khắc; ông là một nhà bác học cũng có ít nhiều  tiếng tăm, ông dành phần lớn thời gian để nghiên cứu. Ông ở cạnh bờ  biển… Đấy, ba đứa chỉ biết về cậu mình có bấy nhiêu thôi.  
  Bà Gauthier ngạc nhiên kêu lên:  
  -         Gửi các con đến nhà Henri à?  Sao anh lại nghĩ đến chuyện đó nhỉ? Cậu ấy không chịu nổi cái cảnh nhà  cửa lộn xộn ầm ĩ trẻ con quấy phá đâu!  
  -         Có gì đâu, hôm nọ anh gặp vợ  cậu Henri ở Paris. Mợ ấy cũng lên Paris có việc. Trong khi nói chuyện,  mợ ấy có bảo là ở Kernach hơi buồn. Cậu ấy thì cứ suốt ngày vùi đầu vào  sách vở, mợ ấy đang nghĩ xem có nên nhận vài người ở trọ trong dịp hè,  để cho có việc mà làm không. Nhà mợ ấy ở ngay bờ biển. Con mình ra đấy  nghỉ hè thì thật là lý tưởng. Mợ Cécile rất dễ tính, anh chắc mợ ấy sẽ  hết lòng chăm sóc bọn trẻ.  
  -         Đúng đấy, mợ ấy lại còn có một  đứa con gái, ba đứa quỷ sứ nhà ta chơi với nó thì hợp lắm. Tên nó là gì  nhỉ? À phải Claudine, đâu khoảng mười một tuổi.  
  Mick kêu lên:  
  -         Ồ, bằng tuổi con à? Thế ra  chúng con có một cô em họ, vậy mà chẳng trông thấy bao giờ! Nó ở một  mình, chắc là phải buồn ghê lắm. Con còn có François và Annie chơi cùng,  còn nó là con một thì buồn chết. Chắc bọn con đến, nó sẽ mừng lắm…  
  Ông Gauthier ngắt lời:  
  -         Thì chính thế! Mợ Cécile nói  rằng nếu có trẻ con cùng chơi với Claudine thì sẽ rất tốt cho nó. Bố tin  rằng để giải quyết dứt khoát câu chuyện nghỉ hè này, chỉ cần gọi điện  thoại cho mợ Cécile, nhờ mợ ấy cho các con đến nghỉ hè năm nay. Bọn trẻ  sẽ làm cho mợ thêm vui và lại có thêm bạn chơi với con gái cậu mợ. Về  phần mình, bố mẹ cũng yên tâm vì các con sẽ được trông nom cẩn thận.  
  Ba đứa trẻ rất phấn khởi với ý kiến của  bố. Được đi tới một nơi chưa từng đến bao giờ, lại được ở cùng một cô em  họ chưa từng biết mặt thì thật là thú vị biết bao!  
  Annie hỏi:  
  -         Bãi biển đó giống như cái gì? Có cát hay là sỏi? Chỗ ấy có đẹp không? Có vách đá, núi đá không?  
  Bố trả lời:  
  -         Đã lâu bố không đến nên cũng  chẳng nhớ nữa, nhưng bố chắc chắn là các con đến đó sẽ rất thích. Ở đó  có một cái vịnh tên là vịnh Kernach. Mợ Cécile từ nhỏ đến giờ vẫn ở đó  và mợ sẽ không bao giờ dời đi đâu cả.  
  Mick giục giã:  
  -         Bố gọi điện thoại nhanh lên!  Con tin chắc rằng chúng con sẽ được vui chơi thoả thích ở đó. Trời ơi,  vịnh Kernach! Chỉ nghe thế đã thấy đầy chuyện phiêu lưu rồi, phải không?  
  Ông Gauthier cười:  
  -         Con thì đi đâu mà chẳng thấy thế! Thôi được, bố sẽ gọi điện thoại và thống nhất với mợ các con.  
  Ba đứa trẻ đã ăn xong bèn theo bố sang gian phòng có đặt máy điện thoại. Cả ba đều nóng lòng muốn biết kết quả ra sao.  
  François nói:  
  -         Anh mong là mọi việc sẽ trôi  chảy. Không biết cái Claudine ấy nó giống ai nhỉ? Tên nó hay đấy chứ,  các em có thấy không? Nó kém anh một tuổi, bằng tuổi em đấy, Mick ạ, còn  Annie thì lại thua nó một tuổi. Như vậy chắc chắn chúng ta sẽ hợp với  nó. Cả bốn đứa chúng mình cùng chơi thì vui phải biết!  
  Khi ông Gauthier gọi điện thoại, ông ra  hiệu cho bọn trẻ đi xa, nhưng chỉ mười phút sau, chúng đã thấy ông quay  lại, trông nét mặt ông, chúng biết là công việc đã trôi chảy. Miệng ông  cười hớn hở làm cho khuôn mặt sáng hẳn lên. Ông nói:  
  -         Xong cả rồi! Mợ Cécile rất vui  mừng được đón các con. Mợ nói là sự có mặt của các con sẽ rất có ích cho  Claudine, vì nó sống hơi cô độc. Nhưng các con phải chú ý không được  làm phiền cậu Henri. Cậu là một nhà trí thức phải làm việc rất nhiều;  làm phiền cậu trong lúc bận việc là cậu dễ bực mình lắm!  
  Mick hứa:  
  -         Chúng con sẽ không làm ầm ĩ gì hơn mấy con chuột nhắt, chúng con hứa với bố như vậy. Nhưng bao giờ chúng con đi hả bố?  
  -         Nếu mẹ con chuẩn bị kịp thì tuần sau.  
  Bà Gauthier gật đầu:  
  -         Cũng được thôi. Có gì chuẩn bị  nhiều lắm đâu! Bọn chúng con cần những gì nhỉ? Áo tắm này, sơ mi cộc tay  này và mấy cái quần đùi. Đến đấy thì chỉ mặc thế thôi chứ gì?  
  Annie vừa reo vừa nhảy tại chỗ:  
  -         Lại được mặc quần đùi, thích  quá! Đến Kernach, con sẽ lúc nào cũng được mặc quần đùi với áo tắm, rồi  con sẽ suốt ngày đi tắm và leo núi với các anh!  
  Mẹ cười:  
  -         Thì có ai cấm con đâu! Bây giờ  con hãy nói cho mẹ biết con muốn mang đồ chơi gì và sách vở gì đi? Nhưng  không được đòi mang đi nhiều quá vì va li cũng không rộng.  
  Mick nói:  
  -         Năm ngoái, Annie đòi mang đi Grơ-nốp đủ cả mười hai con búp bê. Em có nhớ không, Annie? Buồn cười chết được!  
  Annie đỏ mặt:  
  -         Có gì mà buồn cười! Em yêu tất  cả các con búp bê của em nên em chẳng biết nên mang đi con nào, để lại  con nào, em nghĩ là cứ mang đi theo tuốt cả là xong.  
  -         Thế em có nhớ năm ngoái em còn đòi mang đi bằng được cả con ngựa gỗ không? …  
  Bà Gauthier nói xen vào:  
  -         Mẹ thì lại nhớ là có một thằng  bé tên là Mick, một năm nào đấy đi nghỉ hè đã chất vào trong va li cả  một con gấu bông to đùng, ba con chó, hai con mèo và cả con lừa già lăn  trên bánh xe nữa…  
  Đến lượt Mick mặt đỏ bừng bừng; cậu ta vội vàng nói sang chuyện khác:  
  -         Bố ơi, chúng ta sẽ đi bằng gì? Xe lửa hay ô tô?  
  -         Ô tô, con ạ. Ta có thể cho tất cả hành lý vào hòm sau xe; xem nào, ta có thể đi vào… thứ ba chẳng hạn.  
  Bà Gauthier gật đầu:  
  -         Tôi đồng ý đấy! Như vậy chúng  ta sẽ có thì giờ đưa các con đến Kernach, trở về đây chuẩn bị hành lý  đàng hoàng và đến thứ sáu thì cũng lên đường luôn. Thôi được, nhất định  thứ ba đi nhé!  
  Chưa bao giờ ngày thứ ba được chờ đợi  nóng ruột như vậy. Bọn trẻ vừa đếm từng ngày vừa thở dài và Annie mỗi  buổi tối trước khi đi ngủ còn gạch cẩn thận trong tờ lịch cái ngày vừa  trôi qua. Sao mà cái tuần lễ đó dài đến như vậy! Và cuối cùng, cuối  cùng, đã đến ngày thứ ba! Mick và François cùng ngủ chung một phòng,  cùng thức dậy một lúc và lập tức chạy đến cửa sổ nhìn ra ngoài trời…  
  Francois kêu lên:  
  -         Tuyệt quá! Trời đẹp vô cùng!  Mình không hiểu tại sao, nhưng thường cứ ngày nghỉ hè đầu tiên bao giờ  cũng đẹp. Chúng mình đánh thức Annie dậy đi.  
  Annie ngủ ở buồng bên cạnh. Francois ùa vào như một cơn gió và lay vai em:  
  -         Nào dậy đi! Hôm nay thứ ba rồi, mặt trời đang chiếu rực rỡ!  
  Annie tỉnh dậy, mỉm cười với anh, nói vui vẻ:  
  -         Thế là đã đến ngày lên đường! Gớm thời gian chưa bao giờ đi chậm như vừa rồi. Em rất muốn đến ngay Kernach.  
  Ăn sáng xong, mọi người lên đường. Xe hơi  của nhà rộng, nên cả nhà ngồi thoải mái. Bố mẹ ngồi ghế đằng trước còn  ba đứa trẻ ngồi ghế sau, chân đặt trên hai chiếc va li, đầy ắp những gói  cùng bọc, không kể một chiếc hòm con để mãi trong cùng. Bà Gauthier  chắc chắn không quên gì cả.  
  Chiếc xe luồn lách qua những phố phường nhộn nhịp của thành phố Li-ông rồi rời thành phố, phóng nhanh trên đường cái lớn.  
  Chẳng mấy lúc đã đi giữa đồng quê mênh mông. Bọn trẻ cất tiếng hát vang lừng, Annie bắt đầu thấy đói, liền hỏi:  
  -         Chúng ta có sắp dừng lại để ăn dọc đường không mẹ?  
  -         Có, nhưng không phải là ngay bây giờ. Mới mười một giờ, đến giữa trưa chúng ta mới ăn, con ạ…  
  Cô bé kêu lên:  
  -         Con làm sao mà đợi cho đến lúc đó được!  
  Bà Gauthier đưa cho cô bé một thanh  sôcôla. Annie chia với hai anh. Ba anh em vừa ăn vừa nhìn đồi, núi, rừng  cây chạy vù vù qua trước mặt. Cả nhà dừng lại ăn dọc đường trong một  khung cảnh đồng quê tuyệt đẹp. Chỉ có Annie hơi sợ một con bò cái to  tướng cứ tiến mãi đến gần để nhìn cô, vẻ tò mò, nhưng khi bố cô phất  phất cái khăn vào nó thì nó lại quay đi, may quá! Lũ trẻ ăn ngon miệng  quá, đánh sạch cả thức ăn dành cho bữa chiều, làm cho mẹ phải tuyên bố  thế nào cũng phải dừng lại một cái quán bên đường để ăn bữa chiều.  Francois nuốt nốt miếng tráng miệng cuối cùng, bụng còn thòm thèm, hỏi  bố:  
  -         Độ mấy giờ ta đến nhà mợ Cécile hả bố?  
  -         Nếu không có gì trục trặc thì  vào khoảng sáu giờ. Bây giờ, các con đi dạo một tí cho khỏi chồn chân  rồi ta lại lên xe. Đường còn dài đấy.  
  Những cột cây số lại thi nhau lướt qua  vùn vụt. Lại đến bữa cơm chiều. Ăn xong, bọn trẻ càng có vẻ sốt ruột  thấy đã sắp đến nơi. Mick nói:  
  -         Chúng mình phải để ý, sắp đến biển rồi đây. Em đã ngửi thấy mùi biển rồi.  
  Đúng vậy. Không khí mang tới mùi của biển  khơi. Xe dừng lại trên đỉnh một ngọn đồi nhỏ… và biển vụt hiện ra trước  mắt họ, xanh lộng lẫy dưới ánh nắng mặt trời, im lặng và láng bóng như  một tấm gương kì diệu. Ba đứa trẻ thốt lên tiếng kêu sung sướng:  
  -         Biển đây rồi!  
  -         Biển đẹp quá!  
  -         Em chỉ muốn được tắm ngay một cái!  
  Ông Gauthier nói:  
  -         Khoảng hai mươi phút nữa, chúng  ta sẽ đến vịnh Kernach. Chúng ta đi thế là nhanh đấy! Tuy chưa đến  vịnh, nhưng các con sắp sửa trông thấy vịnh bây giờ. Vịnh cũng khá rộng,  ở giữa lại có một hòn đảo con rất ngộ.  
  Khi ô tô chạy dọc theo con đường ven biển, bọn trẻ ngóng chờ cái phút được thấy vịnh. Francois nhìn thấy vịnh trước tiên:  
  -         Kia rồi!… Nhất định đúng là vịnh Kernach kia rồi!… Mick, em nhìn xem, vịnh đẹp không kìa, một màu xanh tuyệt diệu!  
  -         Thế anh có thấy cái hòn đảo nhỏ tựa như đứng gác ở giữa vịnh không? Em muốn ra thăm hòn đảo ấy quá!  
  Bà Gauthier quay lại bảo:  
  -         Nhất định các con sẽ được ra xem đảo. Giờ đây ta phải tìm biệt thự “Hải Âu” ở đâu đây: gia đình cậu Henri ở đó.  
  Mọi người tìm thấy ngay biệt thự; nó đứng  trên một vách đá nhìn xuống vịnh, trông có vẻ cổ kính. Cũng chẳng phải  là một biệt thự mà là một cái nhà lớn bằng đá trắng đã dầu dãi với thời  gian. Mặt trước có dây hoa hồng leo và khu vườn nhỏ quanh nhà đầy hoa  đẹp rực rỡ.  
  Ông Gauthier dừng xe trước nhà và nói:  
  -         Biệt thự Hải Âu đây rồi, hình  như ngôi nhà này cổ đến ba trăm năm cơ đấy! Nào xem cậu Henri đâu… A,  kìa các con, mợ Cécile kia rồi.    
Chương 2 – Cô em họ kỳ lạ    Mợ Cécile vẫn có ý đợi xe đến; vừa trông  thấy xe, mợ đã chạy vội ra khỏi nhà. Thoáng gặp mợ, bọn trẻ đã thấy mến  ngay. Mợ kêu lên vui vẻ:  
  -         Chúc mừng các cháu đến chơi  Kernach! Cả nhà mạnh khoẻ chứ? Gặp anh chị và các cháu, em mừng quá! Sao  mà bọn nó chóng lớn thế này!  
  Mợ hôn tất cả mọi người rồi đưa khách vào  nhà. Trong nhà trông cũng đẹp mắt, nhưng giữa những bức tường cổ kính,  vẫn phảng phất một vẻ gì bí ẩn. Đồ đạc bằng gỗ toàn đồ cổ và rất đẹp.  
  Annie nhìn quanh, hy vọng trông thấy cô em họ xuất hiện, hỏi ngay:  
  -         Thế Claudine đâu mợ?  
  Bà mợ trả lời:  
  -         Em ấy tệ lắm. Mợ đã bảo em phải  ở trong vườn để đón các cháu, thế mà nó lại đi đâu mất rồi. Mợ phải nói  cho các cháu biết thoạt đầu các cháu sẽ thấy tính nết em hơi khó chịu.  Các cháu thấy đấy, em sống một mình mãi nên cũng hơi kỳ quặc: Có thể em  không thích thấy các cháu đến đây. Nhưng rồi sẽ quen. Các cháu đừng để ý  thái độ cục cằn của em. Chẳng bao lâu em sẽ quen các cháu. Còn riêng  mợ, mợ thấy các cháu đến sẽ rất có ích cho Claude. Nó vốn không có bạn  nhỏ để cùng chơi đùa.  
  Annie kêu lên:  
  -         Mợ gọi em là Claude ạ? Cháu tưởng tên em là Claudine chứ?  
  -         Đúng, tên em là Claudine. Nhưng  Claudine rất sợ mình là con gái, nên để cho em vui lòng, cậu mợ gọi em  là Claude cho có vẻ con trai. Vả lại, nếu gọi là Claudine thì em nhất  định không chịu thưa đâu.  
  Bọn trẻ thì thầm trao đổi với nhau về cô  em họ như vậy thì tính nết quả cũng kỳ quặc thật. Vì vậy, chúng càng  nóng lòng muốn gặp cô bé, nhưng vẫn chẳng thấy cô bé ló mặt. Chỉ thấy  cậu Henri hiện ra trong khung cửa. Cậu người cao, tóc rất đen, dáng vẻ  lịch sự, vầng trán thông minh nhưng lúc nào cũng cau mày làm cho xấu đi  chút ít.  
  Ông Gauthier nói:  
  -         Chào cậu Henri! Đã lâu lắm  không được gặp cậu. Tôi mong rằng bộ ba của tôi sẽ không làm phiền cậu  quá trong khi cậu làm việc.  
  Mợ Cécile nói:  
  -         Hiện nay anh Henri đang làm một  bản báo cáo khoa học, nhưng phòng làm việc của anh ở mãi tận đầu nhà  đằng kia. Em nghĩ rằng có lẽ bọn trẻ cũng không làm phiền anh ấy lắm  đâu.  
  Cậu Henri quay lại nhìn ba đứa trẻ và khẽ  gật đầu. Nhưng trán cậu vẫn giữ nguyên nếp nhăn, làm cho mấy anh em  Annie cảm thấy hơi sờ sợ. Chúng nghĩ thật cũng may mà ông cậu nghiêm  khắc này lại làm việc tại một phòng xa trong ngôi nhà cổ kính.  
  Nhà bác học bỗng hỏi bằng một giọng trầm trầm:  
  -         Claude đâu?  
  Mợ Cécile nói giọng phiền muộn:  
  -         Chẳng biết nó đi đâu nữa! Em đã dặn nó là phải có mặt để đón các anh chị rồi đấy chứ!  
  Cậu Henri tuyên bố:  
  -         Con này, phải phết cho một trận mới được.  
  Bọn trẻ không hiểu cậu nói đùa hay thật.  
  Cậu quay lại các cháu:  
  -         Còn các cháu thì cậu mong các cháu sẽ vui chơi ở đây và sẽ làm cho Claude biết điều hơn một tí.  
  Biệt thự Hải Âu không được rộng rãi lắm  nên không mời được ông bà Gauthier ở lại ngủ đêm. Vì vậy sau bữa cơm  chiều nhanh chóng, hai ông bà lại lên đường đến ngủ tại một khách sạn ở  thành phố bên cạnh để sáng hôm sau ăn sáng xong sẽ về nhà. Hai ông bà  tạm biệt các con lúc Claude vẫn chưa thấy ló mặt về.  
  Bà Gauthier nói:  
  -         Tôi hơi buồn vì không được gặp  Claudine. Mợ hôn cháu giúp tôi và nói là tôi mong cháu sẽ chơi vui vẻ  với Francois, Mick và Annie.  
  Sau đó hai ông bà lên đường. Bọn trẻ cảm  thấy hơi bâng khuâng khi chiếc xe ô tô đen khuất bóng ở cuối con đường  rẽ, nhưng mợ Cécile đã dẫn chúng lên gác để chỉ cho chúng buồng ngủ, nên  chúng cũng chẳng có thì giờ để buồn.  
  Hai cậu con trai ngủ chung một gian buồng  nhỏ giáp mái, từ đó có thể trông xuống vịnh, phong cảnh rất đẹp. Mick  và Francois rất thích thú về thuận lợi đó. Còn Annie thì ngủ chung phòng  với Claudine, phòng này cửa sổ mở trông ra cánh đồng cỏ chạy dài phía  sau nhà. Tuy nhiên cũng có một cửa sổ nhỏ trông ra phía biển và Annie  cũng lấy điều đó làm thích lắm. Nói chung căn phòng cũng đẹp, những bông  hồng leo phía trước cửa nhà khi có gió phơ phất thì cũng mơn man vào  những cánh cửa sổ.  
  Annie nói với mợ:  
  -         Cháu chỉ muốn Claudine về ngay bây giờ. Cháu chỉ muốn xem xem em giống ai.  
  -         Em cháu tính khí cũng hơi lạ.  Đôi khi em có vẻ cau có và khó chịu nhưng thực ra rất tốt. Hơn nữa em là  một đứa bé rất thẳng thắn trung thực, có thể hoàn toàn tin cậy em. Một  khi các cháu đã trở thành bạn của Claude, thì các cháu có thể tin ở em:  Claude sẽ mãi mãi là bạn của các cháu… Nhưng tiếc thay em rất khó gần;  làm quen với em không phải dễ. Đó là điều mợ băn khoăn nhất.  
  Annie bất giác ngáp dài. Hai anh nó trợn mắt nhìn, vì chúng biết là sắp xảy ra chuyện gì. Quả nhiên chúng đã không lầm.  
  Mợ Cécile nói:  
  -         Tội nghiệp cháu Annie, cháu mệt  quá! Thôi các cháu đi ngủ nhanh lên và ngủ một mạch cho đến sáng mai.  Như vậy các cháu sẽ thức dậy thoải mái, tỉnh táo.  
  Mợ Cécile vừa trở ra, thì Mick quay lại nhìn Annie vẻ rất khó chịu:  
  -         Sao em ngốc thế không biết! Em  không nghĩ là hễ người lớn thấy mình ngáp thì sẽ nghĩ gì à? Anh thì đang  thèm xuống biển chơi một lát!  
  Annie xin lỗi:  
  -         Em rất tiếc là đã ngáp nhưng em  không nhịn được. Nhưng mà chính anh Mick cũng đang ngáp kia kìa… Ô kìa,  lại cả anh Francois cũng ngáp kìa!  
  Cô bé nói đúng. Chuyến đi xe hơi đường dài làm cho chúng buồn ngủ và tuy không nói ra nhưng đứa nào cũng muốn ngủ ngay lập tức.  
  Annie hôn các anh, chúc ngủ ngon; nhưng trước khi đi, cô bé lại nói cho các anh biết sự ngạc nhiên của mình về Claudine:  
  -         Em không hiểu Claudine ở đâu…  Nó lạ thật, không ở nhà mà đón chúng mình… rồi cũng chẳng ăn cơm… và bây  giờ muộn thế này rồi mà cũng chưa về. Nhưng thế nào thì nó cũng phải  ngủ cùng buồng với em, không biết đến bao giờ nó mới về đánh thức em  dậy.  
  Thực ra ba đứa trẻ ngủ rất lâu rồi  Claudine mới chịu về giường ngủ. Chẳng đứa nào nghe thấy nó mở cửa phòng  để đi ngủ. Bọn chúng mệt quá, ngủ như chết mãi đến sáng hôm sau mặt  trời rực rỡ đánh thức chúng dậy.  
  Khi Annie mở mắt, mới đầu nó tự hỏi không  biết mình đang ở đâu. Nằm dài trên giường, nó đưa mắt nhìn trần nhà rồi  nhìn những bông hồng đang nhô lên tận cửa sổ bỏ ngỏ. Lúc đó cô bé mới  nhớ ra là đang ở đâu. Cô nghĩ:  
  -         À, mình đang ở Kernach và những ngày nghỉ hè đã bắt đầu!  
  Ý nghĩ ấy làm cho Annie thích quá, cứ cựa  quậy trong giường. Bỗng cô nhìn sang giường bên cạnh, ở đó có hình một  đứa trẻ khác cuốn trong chăn, chỉ thò mỗi cái đầu tóc nâu xoăn tít. Khi  cái hình ấy bắt đầu ngọ nguậy, Annie liền hỏi:  
  -         Này, cậu có phải là Claudine không?  
  Cô bé nằm giường bên cạnh ngồi dậy và đưa  cặp mắt sắc lạnh nhìn Annie. Tóc cô xoăn tít cắt rất ngắn, gần như tóc  con trai. Da mặt cô sạm nắng, làm cho đôi mắt xanh màu hoa đồng nội của  cô trong càng thẫm hơn. Còn cái miệng thì phụng phịu và trên trán có một  nếp nhăn hệt như của cậu Henri.  
  -         Không! – cô bé trả lời – Tôi không phải Claudine.  
  -         Ô! – Annie ngạc nhiên kêu lên – Thế thì cậu là ai?  
  -         Tôi là Claude, – cô bé trả lời –  và tôi chỉ trả lời nếu cậu gọi tôi như vậy. Tôi ghét mình là con gái.  Tôi không thích những trò chơi con gái. Tôi cũng biết trèo cây giỏi như  bất cứ một đứa con trai nào và tôi bơi nhanh hơn tất cả chúng nó. Tôi  cũng biết bơi thuyền giỏi như bất cứ một thuỷ thủ nào ở biển. Cậu phải  gọi tôi là Claude. Chỉ có thế tôi mới nói chuyện với cậu, nếu không cậu  sẽ không nghe thấy tôi nói với cậu một tiếng nào.  
  Annie nghĩ em họ mình quả là một cô bé lạ kỳ, bèn nói:  
  -         Được thôi, đối với mình thì gọi  cậu là gì mà chẳng được. Theo mình, Claude là một cái tên rất hay, mình  cũng không thích tên Claudine lắm đâu. Vả lại trông cậu cũng giống con  trai.  
  -         Thật không? – Claude hỏi và  trong giây lát không cau mày nữa. – Lúc mình cắt tóc ngắn như thế này,  mẹ mình giận mình lắm. Trước mình cũng có những búp tóc dài đến cổ. Thật  là kinh ghê lắm.  
  Hai chị em lặng lẽ nhìn nhau một lúc lâu. Bỗng Claude hỏi:  
  -         Cậu không thấy khổ sở vì cậu là con gái à?  
  -         Không, sao lại thế? Mình thích  mặc váy áo đẹp, cậu thấy đấy… và mình cũng rất yêu búp bê. Thế mà con  trai thì chẳng có váy áo cũng chẳng có búp bê.  
  Claude cười khẩy:  
  -         Ôi chao! Thích những mụn vải và đồ chơi! Cậu chỉ là một đứa bé nằm nôi. Đấy là tất cả ý kiến của mình!  
  Annie cảm thấy bị xúc phạm, cô nói:  
  -         Cậu chẳng lịch sự tí nào. Mình  chắc các anh mình sẽ cười cậu nếu cậu làm ra vẻ cái gì cũng biết. Các  anh ấy mới là con trai thật, chứ không phải là con trai giả vờ như cậu.  
  Claude nhảy ra khỏi giường, giận dữ:  
  -         Này, nếu hai anh cậu định cười  tớ thì chính tớ sẽ không coi họ ra cái gì hết. Vả lại, tớ có bao giờ  muốn cho các cậu đến đây đâu. Tớ có cần các cậu đến đây sống với tớ đâu.  Tớ sống một mình rất dễ chịu. Thế mà bây giờ tớ phải chịu đựng một con  bé ngốc nghếch chỉ thích váy áo và búp bê với lại hai đứa anh họ có lẽ  cũng ngốc nghếch như vậy.  
  Annie cảm thấy hai chị em làm quen với  nhau buổi đầu như thế là bất lợi. Cô không nói gì nữa, nhưng vội nhanh  chóng mặc quần áo: cô mặc cái quần đùi màu ghi và một cái áo pun đỏ.  Claudine cũng mặc một cái quần đùi và một cái áo sơ mi con trai. Hai cô  bé vừa mặc xong quần áo thì hai cậu con trai đến gõ cửa.  
  -         Annie, em mặc quần áo xong chưa? Và Claudine đã về chưa? Kìa Claudine! Bọn mình sẽ đợi cả hai cậu nhé!  
  Claudine mở toang cửa và kiêu hãnh ngửng  đầu bước ngang qua trước mặt Mick và Francois. Cô bé giả bộ không trông  thấy hai cậu con trai đang tròn mắt ngạc nhiên rồi chạy ùa xuống thang  gác, biến mất. Ba anh em nhìn nhau, kinh ngạc.  
  Annie giải thích:  
  -         Nó sẽ không nói chuyện với các  anh nếu các anh gọi nó là Claudine. Nó nói với em là chúng mình đến đây  nó không thích vì chúng mình can thiệp vào cuộc sống của nó. Nó vừa chế  giễu em xong và tỏ ra rất khó chịu.  
  Francois quàng tay ôm lấy vai em và nói dỗ dành:  
  -         Thôi mà, em đừng lo. Các anh sẽ không cho phép nó làm cho em bực mình. Còn bây giờ, chúng mình hãy đi ăn sáng đã.  
  Ba đứa trẻ đã thấy đói ngấu. Mùi cà phê  sữa và bánh mì nướng dễ chịu bốc lên ngào ngạt. Chúng vội xuống nhà chào  mợ. Mợ đang đổ cà phê sữa vào đầy các bát đặt trên bàn. Cậu Henri ngồi  một đầu bàn đang đọc báo, cậu chỉ khẽ gật đầu đáp lại lời chào của các  cháu. Ba đứa trẻ im lặng ngồi vào bàn, tự hỏi không biết ở đây có được  phép nói chuyện trong khi ăn không. Ở nhà thì chúng được phép, nhưng ở  đây, cậu Henri có vẻ nghiêm khắc quá.  
  Claude cũng ngồi đấy, đang phết bơ lên bánh. Cô bé đón các anh chị bằng một cái cau mày. Mẹ cô bảo:  
  -         Này, Claude, bỏ cái vẻ cau có  ấy đi nhé! Mẹ tin là mấy anh em đã trở thành bạn với nhau rồi. Bốn đứa  chơi với nhau thì sẽ có rất nhiều trò vui. Sáng hôm nay, con dẫn Annie,  Francois và Mick xuống bãi biển, đưa các anh thăm vịnh và các chỗ tắm  tốt nhất.  
  Claude lầu bầu:  
  -         Sáng nay, con còn đi câu.  
  Bố ngừng đọc báo, ngước mắt nhìn lên:  
  -         Không có câu kéo gì hết. Để cho  khác đi một tí, con sẽ phải tỏ ra lịch sự và đưa các anh chị ra vịnh  chơi. Con hiểu rồi chứ?  
  -         Thưa bố, vâng ạ! – Claude trả lời, nhưng vẫn không quên cau mày một lần nữa, y hệt bố.  
  -         Cậu Henri ạ, nếu Claude cứ  thích đi câu, thì chúng cháu tự mình cũng có thể tìm được đường xuống  bãi biển ạ – Annie nói như vậy. Em nghĩ rằng Claude cứ cau cau có có như  thế thì thà đi chơi không có nó còn hơn.  
  Cậu Henri nói giọng cương quyết:  
  -         Claude sẽ phải làm đúng như lời ta nói, nếu nó không nghe lời thì cứ liệu…  
  Vì vậy ăn sáng xong, bốn đứa trẻ sửa soạn  xuống bãi biển. Một con đường nhỏ dễ đi ngoằn ngoèo dẫn xuống tận vịnh.  Ba anh em Annie vui sướng chạy theo con đường đó cho đỡ chồn chân. Bản  thân Claude cũng hơi đỡ cau có và vui lên trong ánh nắng ấm áp toả những  ánh vàng trên mặt biển long lanh. Xuống đến bãi cát, Annie bảo Claude:  
  -         Claude ạ, nếu cậu thích thì cứ  đi câu đi, chúng mình sẽ không nói với cậu mợ là cậu không đi với chúng  mình đâu! Cậu biết là bọn mình không muốn phiền cậu. Chúng mình có những  ba người, nếu cậu không muốn chơi với chúng mình thì cứ việc tự do.  
  Francois nói thêm, ân cần:  
  -         Nhưng bọn mình rất thích cậu ở lại với bọn mình.  
  Trong thâm tâm, cậu bé cũng cho là Claude  tính tình khó chịu và không được uốn nắn cẩn thận, nhưng cũng cảm thấy  rất mến cô bé có mớ tóc cắt ngắn, có cái cằm vênh lên thách thức, có đôi  mắt sáng màu xanh biếc và cặp môi lúc nào cũng phụng phịu.  
  Claude nhìn thẳng vào mắt Francois:  
  -         Để còn xem. Tôi không kết bạn  với những người chỉ là vì họ có họ với tôi hoặc vì một lý do vớ vẩn  tương tự. Tôi chỉ kết bạn với mọi người vì tôi mến họ mà thôi.  
  Francois nói ngay:  
  -         Thì cũng như bọn mình! Có thể bọn mình cũng không thích cậu.  
  -         Ồ! – Claude kêu lên như thể  điều đó chưa bao giờ cô ta nghĩ đến – Ừ, tất nhiên, cũng có thể! Có rất  nhiều người cũng không thích tớ, quả là bây giờ nghĩ lại thấy đúng thế  thật.  
  Annie không rời mắt khỏi biển màu xanh  biếc. Giữa vịnh có một hòn đảo nhỏ, trên chỏm có một cái gì trông như  dấu vết còn lại của một toà lâu đài cổ đổ nát. Em nói:  
  -         Trông hòn đảo ngộ quá nhỉ! Không hiểu tên nó là gì.  
  Claude quay lại nhìn hòn đảo và trả lời:  
  -         Đó là đảo Kernach. Ra đấy thích  lắm. Nếu mà cuối cùng tôi thích các cậu thì cũng có thể một ngày nào  đó, tôi dẫn các cậu ra đó. Nhưng mà tôi chưa hứa hẹn gì hết. Muốn ra đảo  tất nhiên chỉ có một cách là đi bằng ca-nô.  
  Francois hỏi:  
  -         Hòn đảo này thuộc về ai vậy?  
  Câu trả lời của Claude làm ai nấy ngạc nhiên:  
  -         Đảo đó là của tôi, hoặc ít ra ngày sau sẽ là của tôi. Đó là đảo riêng của tôi và cả toà lâu đài ấy cũng là của tôi.    
Chương 3 – Một câu chuyện hồi hộp… và một bạn mới    Ba đứa trẻ tròn mắt nhìn Claude vì ngạc nhiên. Claude điềm nhiên như không. Cuối cùng, Mick nói:  
  -         Cậu nói gì vậy? Đảo Kernach làm sao lại là của cậu? Cậu nói đùa đấy chứ?  
  -         Đâu có, chuyện thật hoàn toàn  đó! – Claude trả lời – Các cậu cứ hỏi mẹ tôi thì biết… Còn nếu tôi nói  mà các cậu không tin thì từ giờ tôi không nói gì với các cậu nữa. Không  bao giờ tôi nói dối. Theo tôi, phải là kẻ hèn nhát mới không dám nói sự  thật, mà tôi thì không phải là một kẻ hèn nhát.  
  Francois chợt nhớ; mợ Cécile có nói  Claude thật thà thẳng thắn. Cậu nhìn Claude, gãi đầu suy nghĩ: “Không có  lẽ điều nó nói lại thật!”. Cậu bèn nói:  
  -         Nếu Claude nói thật thì chúng  mình tin cậu chứ sao! Nhưng câu chuyện này quả thực là kỳ lạ. Những đứa  trẻ như chúng mình làm gì đã có quyền sở hữu những hòn đảo, dù chỉ là  hòn đảo nhỏ tí tẹo như đảo này.  
  Claude cãi lại giận dữ:  
  -         Không phải là “hòn đảo nhỏ tí  tẹo”, mà là một hòn đảo rất đáng yêu! Ở đó có rất nhiều thỏ quen người  như được nuôi trong nhà, rồi cả những con chim công cốc to tướng và rất  nhiều hải âu làm tổ. Cả toà lâu đài cũng đẹp ghê lắm, tuy nó đã bị đổ  nát.  
  Mick nói:  
  - Mới nghe mình đã thích ghê! Nhưng tại sao những cái đó lại là của cậu được, hả Claudine?  
  Claude lườm Mick và không trả lời gì cả. Mick nói:  
  -         Cậu tha lỗi cho mình, mình không định gọi cậu là Claudine, mà định gọi là Claude kia…  
  -         Claude nói tiếp đi, tại sao hòn đảo đó lại thuộc về em được? – Francois vừa nói vừa khoác tay cô em họ đang cau có.  
  Claude giằng tay ra và nói:  
  -         Cậu đừng có làm thế, mình cũng chưa chắc đã trở thành bạn của cậu!  
  Francois cũng đã bắt đầu thấy bực mình, lầu bầu:  
  -         Thôi được, thôi được, nếu cậu  muốn thì chúng ta cũng có thể trở thành kẻ thù của nhau. Nhưng bọn mình  rất yêu mẹ cậu, cho nên không muốn mẹ cậu phiền lòng khi thấy chúng ta  không thể chơi được với nhau.  
  -         Thật không? Các cậu cũng yêu mẹ  mình à? – Claude hỏi, đôi mắt xanh đã dịu đi một chút. – Có phải mẹ  mình rất đáng yêu không? Thôi được, mình sẽ nói cho các cậu biết tại sao  hòn đảo và toà lâu đài kia lại thuộc về mình. Nào hãy ngồi xuống đây, ở  cái xó này không ai nghe chuyện chúng ta.  
  Cả bốn đứa ngồi xuống bãi cát. Claude quay lại nhìn hòn đảo đứng sừng sững như một người lính gác giữa vịnh.  
  -         Chuyện như thế này. Ngày xửa  ngày xưa, gia đình đằng mẹ mình làm chủ hầu hết đất đai vùng này. Rồi tổ  tiên mình bị sa sút và phải bán hầu hết tài sản, nhưng các cụ giữ lại  hòn đảo này, trước hết vì các cụ cũng mến nó, đồng thời vì toà lâu đài  lúc đó đã bắt đầu đổ nát nên không ai mua cả.  
  Mick nói:  
  -         Thật cũng lạ là chẳng ai mua hòn đảo xinh xẻo như thế kia nhỉ? Nếu mình có tiền thì mình sẽ mua nó ngay, thật thế.  
  -         Tất cả tài sản thuộc về gia  đình của mẹ mình ngày xưa, nay chỉ còn lại biệt thự Hải Âu, nhà mình  đang ở, với một cái trại ở gần đây và đảo Kernach. Mẹ mình đã hứa là khi  nào mình lớn thì hòn đảo sẽ thuộc về mình. Mẹ mình có nói thêm là ngay  từ bây giờ, mình đã có thể coi đảo là của mình được rồi. Các cậu đã hiểu  tại sao mình nói nó là của mình chưa? Đó là đảo của mình và mình không  cho phép ai đặt chân lên đó nếu mình không đồng ý.  
  Ba anh em nhìn Claude yên lặng, chúng tin  ngay những lời cô bé vừa nói, vì chắc đó là sự thật. Nhưng việc tự mình  có cả một hòn đảo thì thật là ngộ, bọn chúng cũng rất muốn được như  Claude.  
  -         À, Claudine… à quên, Claude,  sao cậu may mắn thế! Hòn đảo đẹp kinh khủng! Mình mong rồi đây cậu sẽ  coi bọn mình là bạn của cậu và sẽ đưa bọn mình ra chơi ngoài đó. Cậu  không thể tưởng tượng được bọn mình sẽ thích như thế nào đâu!  
  Claude có vẻ rất thích thú vì chuyện của nó được mọi người tán thưởng đến như vậy, nó đồng ý:  
  -         Ừ, kể ra cũng không phải là  không thể được. Mình sẽ nghĩ đến việc đó. Mình chưa từng đưa ai ra thăm  lâu đài cả, tuy bọn con trai con gái ở xung quanh đây cứ xin với mình  mãi. Vì mình không thích bọn chúng nên mình từ chối tất.  
  Câu tuyên bố đó làm cho mấy anh em lặng  đi mất một lúc. Tất cả luồng mắt của bốn đứa trẻ đều hướng về hòn đảo xa  xa. Thuỷ triều mới xuống nên trông khoảng nước giữa hòn đảo và đất liền  hẹp đi rất nhiều, khiến Mick cứ hỏi mãi không biết có thể lội ra đảo  được không.  
  -         Không – Claude nói – Như mình  đã nói với các cậu! Chỉ có thể ra đảo bằng ca-nô được thôi. Trông thế mà  nó ở xa lắm, nước ở đấy rất sâu. Vả lại, đảo của mình xung quanh có rất  nhiều đá ngầm. Phải biết luồn lách nếu không sẽ bị va vào đá ngầm. Bờ  biển xung quanh đây chỗ nào cũng nguy hiểm cả. Khối tàu thuyền đắm ở  quanh đây.  
  Francois kêu lên, đôi mắt sáng rực thích thú:  
  -         Có xác tàu đắm à? Giá mà cậu  biết rằng mình chưa bao giờ được thấy một cái xác tàu đắm nào! Ở đây có  được trông thấy một cái nào không?  
  -         Một vài tàu đắm chìm sâu quá,  một số thì đã được vớt lên. Đúng ra chỉ còn có một chiếc ở phía bên kia  đảo. Nếu dừng thuyền ngay trên chỗ đắm thì có thể trông thấy cột buồm  gãy. Nhưng phải vào hôm biển lặng và mắt nhìn phải tinh. Cả cái xác tàu  ấy nữa, nó cũng là của mình.  
  Đến chuyện này, thì bọn trẻ khó mà tin được Claude. Nhưng cô bé khẳng định:  
  -         Thật đấy, cái xác tàu ấy cũng  của mình. Cái tàu này trước kia là tài sản của một cụ tổ nhà mình, hình  như cụ tổ ba đời thì phải. Tàu đó chở vàng, những thoi vàng to lắm và đã  đắm ở ngoài khơi Kernach.  
  Annie mê quá liền hỏi:  
  -         Thế còn vàng, giờ đâu rồi?  
  Claude thú thực:  
  -         Chẳng ai biết cả! Mình cho là  có lẽ có người đã lùng sục trong xác tàu và lấy cắp mất vàng. Tất nhiên,  người ta đã đưa thợ lặn xuống để xem, nhưng chẳng ai tìm thấy một mẩu  vàng nào.  
  -         Trời! Câu chuyện sao mà hấp dẫn vậy! – Francois nói – Mình muốn được nhìn thấy cái xác tàu ấy quá!  
  -         Thế thì… chúng ta có thể đi vào  trưa hôm nay – Claude nói – Hôm nay biển lặng và nước rất trong. Nhất  định với những điều kiện đó, chúng ta có thể trông thấy cái tàu bị đắm.  
  Annie reo lên:  
  -         Ôi, sướng quá! Em xưa nay vẫn ao ước được trông thấy một cái xác tàu đắm bằng xương bằng thịt!  
  Mọi người cười ầm.  
  Mick cười:  
  -         Về xương thịt thì đừng mơ tưởng  quá, em ạ! Em sẽ chỉ trông thấy gỗ mục với sắt gỉ mà thôi. Còn bây giờ  thì Claude này, chúng ta có tắm nắng không?  
  Claude vùng đứng dậy:  
  -         Trước hết, mình phải đi đón Dagobert về đây đã!  
  Mick hỏi:  
  -         Dagobert là ai vậy?  
  Claude nói:  
  -         Các cậu có thể giữ được điều bí mật không? Một điều bí mật không thể để cho bố mẹ mình biết.  
  Francois nói:  
  -         Nhất định được chứ! Hãy nói mau điều bí mật ấy ra. Bọn mình sẽ im như thóc cho xem.  
  Claude giải thích:  
  -         Dagobert là người bạn thích  nhất của mình. Mình không thể sống mà không có nó được. Nhưng bố mẹ mình  không thích nó nên mình phải nuôi giấu nó… Giờ mình đi đón nó đây.  
  Claude chạy đi, vừa chạy vừa leo lên con  đường vách đá. Mấy anh em ngồi chờ cô bé trở về và nghĩ: Claude quả là  một cô bé lạ lùng nhất từ trước đến nay chưa gặp bao giờ.  
  Francois lẩm bẩm ngạc nhiên:  
  -         Không biết cái cậu Dagobert ấy  là ai nhỉ? Chắc là một cậu bé dân chài mà bố mẹ Claude không muốn cho nó  cùng chơi chứ gì!  
  Ba anh em nằm dài trên cát mịn kiên nhẫn  chờ đợi. Bỗng nhiên, chúng nghe tiếng Claude reo lên ở phía sau: “Nhanh  lên, Dagobert, nhanh lên!”.  
  Chúng ngồi cả dậy để xem anh chàng  Dagobert là ai, nhưng đáng nhẽ trông thấy một cậu bé dân chài thì chúng  chỉ thấy một con chó lớn, chẳng thuộc giống nào rõ rệt, có cái đuôi dài  lê thê và cái mõm như đang cười. Con vật có vẻ mừng quýnh, nhảy nhót  xung quanh Claude. Cô bé chạy đến với các anh chị mình. Cô nói:  
  -         Xin giới thiệu Dagobert với các cậu. Có phải nó đẹp ghê không?  
  Kể ra phải công nhận Dagobert không xứng  với tính từ “đẹp” đó. Mình nó chẳng cân đối gì cả. Nó có một cái đầu quá  to, tai quá nhọn, đuôi quá dài và không ai có thể nói rõ nó thuộc giống  gì. Nhưng nhìn nó rất buồn cười, nó vụng về nhưng rất nhộn và có tình  cảm, nên vừa thấy nó là ba anh em Annie đã yêu nó ngay.  
  Annie reo lên:  
  -         Ôi! Con vện đáng yêu quá!  
  Thế là Dagobert thè luôn lưỡi liếm Annie một cái vào đầu mũi.  
  -         Ừ phải, mình cũng thấy nó có vẻ ngoan, – Mick nói vậy và giơ tay vỗ vào lưng con chó, làm cho nó mừng cuống quýt.  
  Đến lượt Francois nói:  
  -         Mình cũng rất muốn có một con  chó như nó. Này Claude ạ, con chó này trông đáng yêu thật đấy, cậu chắc  hãnh diện về nó lắm!  
  Cô bé mỉm cười, nét mặt cô thay đổi hoàn  toàn. Mặt cô sáng bừng và trông đẹp ra vì nụ cười đó. Cô ngồi xuống bãi  cát và Dagobert ngồi xuống cạnh cô, thè lưỡi liếm lia lịa.  
  Claude nói:  
  -         Mình yêu nó lắm! Ngày trước,  một hôm mình bắt gặp nó trong đồng cỏ, lúc đó nó mới được một năm. Mình  mang nó về nhà. Mới đầu mẹ mình cũng quý nó lắm, nhưng khi nó lớn lên  rồi, nó bắt đầu hư.  
  Annie hỏi:  
  -         Hư như thế nào?  
  -         Thế này nhé! Nó có cái thói  nhai tất cả các thứ vớ được, cái gì vớ được là nhai tất, ví dụ: một cái  chăn mẹ mình mới mua, cái mũ đẹp nhất của mẹ, giày đi trong nhà của bố…  một số giấy tờ của bố và còn nhiều thứ khác nữa. Rồi nó lại còn sủa nữa.  Mình cũng thích nó sủa nhưng bố mình thì không thế. Bố nói rằng nó sủa  thế làm bố khó chịu. Mỗi khi Dagobert sủa, bố lại đánh nó, mình thì cáu  lên và bố lại bực với mình.  
  Annie hỏi:  
  -         Bố cậu có đét cậu không? Cậu Henri có vẻ nghiêm quá nhỉ!  
  Claude quay mặt nhìn ra vịnh, vẻ mặt lại cau có như cũ; cô nói:  
  -         Cái đó thì quan trọng gì! Không  phải đó là cái đáng sợ nhất. Một hôm, bố mình tuyên bố là không thể để  cho Dagobert sống trong biệt thự được nữa. Mẹ mình cũng đồng ý như vậy.  Mình bắt buộc phải xa con chó của mình. Mình khóc mấy ngày liền… mà các  cậu biết đấy, mình làm gì có cái thói hay khóc. Con trai có bao giờ hay  khóc và mình thì cũng giống như con trai.  
  -         Ồ, có chứ, con trai thỉnh  thoảng cũng hay khóc, – Annie bắt đầu nói và đưa mắt nhìn Mick, hồi còn  bé cũng hay khóc nhè. Nhưng Mick lấy tay huých Annie một cái và cô bé  không nói tiếp nữa.  
  Claude nhìn Annie:  
  -         Không, con trai không bao giờ  khóc. – cô nhắc lại một cách bướng bỉnh – Ít nhất thì mình cũng chưa  thấy đứa con trai nào khóc bao giờ và mình cũng cố giữ để không khóc.  Trẻ con mới lắm nước mắt, còn mình thì đã mười một tuổi rồi. Thế mà cái  lần ấy mình không thể không gào lên khi Dagobert bị tống ra khỏi cửa.  Mình khóc ghê quá và Dagobert cũng khóc.  
  Bọn trẻ con nhìn Dagobert với vẻ thán phục, chúng chưa bao giờ nghe thấy ai nói một con chó có thể khóc.  
  Annie hỏi:  
  -         Cậu muốn nói là nó khóc có nước mắt thật đấy à?  
  -         Không, không hẳn như thế! Vì nó  là một đứa can đảm. Nhưng nó thốt lên những tiếng kêu ai oán và nó có  vẻ khổ sở quá làm cho lòng mình như tan nát. Và lúc đó mình hiểu rằng  mình không thể xa nó được.  
  -         Thế sau rồi sao?  
  -         Mình đi tìm Jean Jack, một cậu  dân chài quen biết, mình bảo nếu cậu ấy đồng ý nuôi hộ Dagobert thì mình  sẽ cho cậu ấy tất cả tiền tiêu vặt của mình. Cậu ấy bằng lòng, thế là  xong. Vì vậy chẳng bao giờ mình có một xu nào trong túi để tiêu cả, tất  cả đều dùng để nuôi Dagobert. Con này nó ăn khoẻ khiếp lắm… có phải  không, Dagobert?  
  -         Oa! – Dagobert trả lời và nằm lăn ra cát, ngửa bụng lên, chân quẫy rối rít. Francois lấy tay cù vào bụng nó.  
  -         Thế lúc cậu thèm ăn kẹo hay ăn  kem thì làm thế noà? – Annie hỏi như vậy vì cô có bao nhiêu tiền bỏ túi  đều mua kẹo bánh ăn hết.  
  Claude trả lời:  
  -         Mình không ăn nữa, chỉ có thế thôi.  
  Một sự dũng cảm như vậy khiến mấy đứa trẻ  phục lăn, bởi chúng rất thích ăn kem, sô cô la và kẹo. Cả ba anh em đều  rất hay ăn và khó có thể nhịn được.  
  Francois đánh bạo hỏi:  
  -         Mình nghĩ là thỉnh thoảng các bạn trên bãi biển cũng mời cậu ăn bánh kẹo với họ chứ?  
  Claude trả lời:  
  -         Có, thỉnh thoảng cũng có, nhưng  bao giờ mình cũng từ chối. Bởi vì không khi nào mình có thể mời lại họ,  nên ăn của họ là không đúng.  
  Đúng lúc đó, nghe đằng xa vang lên tiếng  chuông báo hiệu người bán kem đi qua. Francois lục trong túi, rồi vùng  đứng dậy chạy về phía đó, vừa đi vừa lắc mấy đồng tiền leng keng. Mấy  phút sau, nó trở về, cầm cẩn thận trên tay mấy chiếc kem sô cô la. Nó  đưa cho Mick một cái, Annie một cái, còn cái thứ ba đưa cho Claude. Cô  bé nhìn cái kem một cách thèm thuồng, nhưng dũng cảm lắc đầu:  
  -         Không, cám ơn! Cậu hãy nhớ mình  mới nói với các cậu điều gì: mình không thể dùng tiền tiêu vặt để mua  kem, cho nên sẽ không bao giờ mình mời lại được các cậu. Vì vậy mình  không thể nhận được cái gì hết. Nhận quà của người ta mà không có gì  biếu lại người ta là không tốt.  
  Francois cố ấn cái kem vào tay Claude:  
  -         Cậu có thể nhận của chúng mình được, vì chúng ta là anh em họ với nhau kia mà!  
  -         Không, cám ơn cậu. – Claude nói – Cám ơn cậu đã tốt với mình. Cậu tốt lắm, Francois ạ.  
  Cô bé nhìn cậu bằng đôi mắt xanh trong  sáng và Francois cứ nghĩ mãi cách làm thế nào để cô bé bướng bỉnh này  phải bằng lòng. Bỗng cậu mỉm cười:  
  -         Này nhé, chính cậu cũng có  những thứ mà bọn mình cũng muốn được chia xẻ. Chính ra có rất nhiều thứ  của cậu mà bọn mình cũng rất thèm được có phần nếu cậu đồng ý. Vậy mình  đề nghị thế này nhé: cậu chia với bọn mình những thứ đó và bọn mình chia  với cậu kem và kẹo. Cậu thấy thế nào?  
  Claude nhìn cậu anh họ, rất ngạc nhiên:  
  - Mình không thấy mình có những cái gì có thể chia được với các cậu?  
  Francois lấy tay vuốt ve Dagobert:  
  -         Trước hết, cậu có một con chó,  cậu có thể cho chúng mình mượn, chúng mình đã yêu nó lắm rồi. Lại còn  hòn đảo của cậu nữa, nếu cậu cho chúng mình ra đấy thì thật là tuyệt.  Cuối cùng, cậu còn cái xác tàu nữa… Bọn mình rất muốn xem nó và chia  phần nó với cậu. Kem với kẹo thấm vào đâu so với các tài sản của cậu.  Nhưng chúng mình có thể để tất cả làm của chung được không?  
  Claude nhìn thằng vào đôi mắt nâu to  thẳng thắn đang nhìn mình, cô bé không thể không cảm thấy yêu mến  Francois. Chính ra trong thâm tâm, cô không muốn chia xẻ cái gì với ai  hết. Là con một, lúc nào cô cũng sống một mình, không chan hoà với xung  quanh. Bản tính hơi kiêu căng, hơi bản năng một tí, cô rất hay nổi giận.  Từ trước đến nay thực ra cô cũng chẳng có ai là bạn cả.  
  Dagobert ngửng đầu lên và hiểu rằng  Francois đang mời Claude ăn một cái gì ngon lắm. Nó bèn nhảy lên và liếm  cho cậu bé đáng yêu đó một cái.  
  Francois vừa cười vừa nói:  
  -         Đó, cậu thấy không, Dagobert cũng muốn chén một miếng. Nó có vẻ rất bằng lòng có thêm những người bạn mới.  
  Claude nói:  
  -         Ừ, cũng có vẻ như thế thật!  
  Và bỗng nhượng bộ, cô bé cầm lấy chiếc kem sô cô la và nói:  
  -         Cám ơn, Francois. Mình cũng sẽ  chia những cái mình có với các cậu. Nhưng các cậu hãy hứa là không nói  cho ai ở nhà biết là mình vẫn nuôi Dagobert.  
  Francois khẳng định:  
  -         Tất nhiên, bọn mình hứa với cậu  như vậy. Nhưng nếu bố mẹ cậu có biết chuyện này, thì mình chắc là cũng  không ngăn cản cách nuôi này đâu, khi mà Dagobert không sống ở trong nhà  nữa. Này, cậu thấy cái kem này thế nào, có ngon không?  
  -         Còn phải nói! Kem ngon nhất  đời, từ trước chưa bao giờ mình thấy ngon như thế. – Claude vừa trả lời  vừa liếm sạch cái cốc đựng kem bằng giấy. – Nó lạnh và ngon tuyệt trần.  Cả năm nay bây giờ mình mới ăn cái kem này là một! Ngon quá!  
  Dagobert cũng cố sức để được nếm một  miếng kem. Claude vứt cho nó một mẩu, rồi ngửng đầu nhìn các anh chị, cô  mỉm cười, tuyên bố:  
  -         Cả ba cậu cùng đáng yêu cả và  cuối cùng mình rất vui vì các cậu đã đến. Trưa nay, chúng mình sẽ lấy  thuyền và bơi ra tận ngoài đảo để xem cái xác tàu đắm. Thế có được  không?  
  Cả ba anh em đồng thanh:  
  -         Thế còn nói gì nữa!  
  Dagobert ngoáy đuôi tít mù. Người ta tưởng như con vật đáng yêu ấy cái gì cũng hiểu.   
Chương 4 – Cái xác tàu đắm bí mật   Sau đó, ai cũng tán thành là phải tắm một  cái. Ba anh em nhà Gauthier nhanh chóng phát hiện Claude bơi giỏi hơn  bọn chúng rất nhiều. Cô bé có lối bơi rất đẹp và có thể bơi rất nhanh.  Hơn nữa, cô có thể lặn dưới nước lâu không cần ngoi lên để thở. 
  Francois thán phục: 
  -         Cậu vượt chúng mình xa! Tiếc là  Annie không bơi khá hơn! Annie, em phải chịu khó tập cho khá lên, nếu  em không muốn các anh bỏ em lại đằng sau. 
  Đến giờ ăn trưa, bọn trẻ cảm thấy đói cồn  cào. Chúng leo theo con đường vách đá về nhà, bụng mong mợ Cécile sẽ  cho chúng một bữa ra trò. Mợ Cécile đã không phụ lòng mong mỏi đó. Sau  mấy món ăn nguội vừa nhiều vừa ngon, tiếp đến pa-tê bọc vỏ cứng, đậu  xanh, rau xà lách, phó mát và một món tráng miệng rất tuyệt. Các vị  khách nhỏ chén ráo cả, không đợi phải mời mọc nhiều. 
  Mợ Cécile hỏi: 
  -         Trưa nay, các con định làm gì? 
  Annie trả lời: 
  -         Claude sẽ chở thuyền đưa chúng cháu sang bên kia đảo để xem xác tàu đắm ạ. 
  Mợ Cécile nhìn con gái một cách ngạc nhiên: 
  -         Claude sẽ chở thuyền đưa các  cháu đi chơi à? Thật không thể tin được! Này Claude, có chuyện gì thế,  con? Từ trước đến nay, con vẫn từ chối không chịu chở ai trên ca-nô của  con, và ngay mẹ cũng đã nhiều lần yêu cầu con… 
  Claude không trả lời, chỉ cắm cúi ăn món  tráng miệng. Trong suốt bữa ăn, cô bé chưa hề mở miệng nói câu nào. Cậu  Henri hôm nay không ra ăn cơm cùng với cả nhà, trong thâm tâm, bọn trẻ  cũng hơi thấy nhẹ mình chút ít. 
  Mợ Cécile lại nói: 
  -         Vậy là Claude, con sẽ chở thuyền cho các anh chị con đi chơi. Mẹ rất vui lòng thấy con đã quyết định như thế. 
  Claude nói: 
  -         Con làm thế vì con thích thế.  Con sẽ không chở ai đi xem cái xác tàu của con, nếu con không thích, dù  người ấy là tổng thống nước Cộng hoà, hay là hoàng hậu nước Anh cũng  vậy. 
  Mẹ cô bật cười: 
  -         Vậy là mẹ rất vui vì con thích chơi với Francois, Mick và Annie. Mẹ mong rằng các anh chị con cũng thích chơi với con. 
  Annie kêu lên: 
  -         Ồ thưa mợ, thích lắm đấy ạ! Chúng cháu yêu Claude lắm và chúng cháu cũng yêu cả Da… 
  Trên môi cô bé đã sẵn sàng cái tên  Dagobert, nhưng cô không kịp nói ra, vì ngay lúc đó, cô bị đá một cái  vào mắt cá chân, đau quá làm cô phải kêu lên một tiếng, nước mắt trào  ra. Cùng lúc đó, Claude lườm cô một cái. 
  Mợ Cécile kêu lên: 
  -         Claude! Tại sao con lại đá  Annie, trong lúc chị ấy đang nói tốt cho con? Ra ngay khỏi bàn ăn! Mẹ  không chịu nổi cách con cư xử như vậy! 
  Claude không nói một lời, đứng dậy ra  khỏi phòng và ra vườn, để lại trên đĩa của mình phần lớn món bánh nhân  táo mới ăn có một tí. 
  Mick, Annie và Francois ân hận nhìn đĩa  thức ăn bỏ dở, nhất là Annie lại càng bối rối quá. Tại sao em có thể  ngốc đến nỗi quên rằng không được nói tên Dagobert ở nhà? 
  Cô bé nói với mợ Cécile: 
  -         Cháu xin mợ gọi Claude về đi, mợ ạ. Em vô tình đá phải chân cháu thôi! 
  Nhưng mợ Cécile thực sự đang giận Claude. Mợ nói: 
  -         Các cháu cứ ăn nốt món tráng  miệng đi. Mợ đoán là bây giờ con Claude đang dỗi đây. Trời ơi! Sao mà nó  khó tính khó nết thế không biết! 
  Với mấy đứa trẻ thì việc Claude có đang  dỗi hay không nào có quan trọng gì; chỉ sợ bây giờ Claude không đồng ý  đưa chúng ra xem xác tàu đắm nữa thôi. 
  Bữa ăn kết thúc trong im lặng. Mợ Cécile  đứng dậy vào xem cậu Henri có muốn ăn thêm một chút phó mát không. Hôm  đó, nhà bác học muốn ăn một mình trong phòng làm việc để tập trung tư  tưởng hơn vào công việc. Mợ Cécile vừa ra khỏi phòng, Annie nhặt ngay  phần bánh nhân táo Claude để lại trên đĩa và chạy ra vườn tìm cô em họ. 
  Bọn con trai cũng không có ý định mắng mỏ  Annie. Chúng biết là cô em gái quá nhanh mồm miệng nhưng sau đó lại tìm  hết cách để sửa chữa sai lầm. Chúng còn nhận thấy Annie đã dũng cảm dám  đi gặp Claude khó tính lúc này. 
  Annie tìm thấy Claude nằm dài dưới một gốc cây to, ở cuối vườn. Cô nói với Claude: 
  -         Claude ạ, mình rất tiếc là đã  vụng về như vậy. Đây, mình mang phần bánh tráng miệng cho cậu đây. Mình  xin hứa từ giờ trở đi sẽ không bao giờ nói tên Dagobert ra trước mặt mọi  người nữa. 
  Claude ngồi dậy trên bãi cỏ và tuyên bố: 
  -         Mình rất muốn không đưa các cậu đi xem xác tàu đắm nữa! Sao mà cậu ngốc thế không biết? 
  Annie lo thắt cả ruột. Đó chính là điều cô sợ nhất: Claude phản ứng như vậy là tất nhiên thôi! Cô bé bèn dịu dàng nói: 
  -         Mình hiểu lắm. Cậu giận mình  cũng đúng. Nhưng mấy anh mình thì có làm gì cậu đâu, cậu chẳng có lý do  gì giận các anh ấy cả. Vậy cậu hãy đưa các anh ấy đi xem xác tàu… Vả  lại, – Annie vừa nói vừa giơ chân ra, – cậu cũng đã đá cho mình một cái  đau ghê lắm, cậu biết không? Xem này, tím cả chân đây này. 
  Claude nhìn cái chân bị xanh tím rồi lại nhìn Annie: 
  -         Thế nếu mình đưa Francois và Mick đi xem mà không cho cậu đi, thì cậu có buồn không? 
  -         Có chứ, nhất định có. – Annie trả lời – Nhưng mình không muốn vì mình có lỗi mà các anh ấy bị mất đi một cuộc vui. 
  Bỗng nhiên Claude có một cử chỉ mà ai  biết em cũng phải lấy làm ngạc nhiên. Cô hôn lên má Annie một cái thật  kêu. Sau khi hôn xong, cô lại cảm thấy xấu hổ vì nghĩ rằng bọn con trai,  không đứa nào lại làm như thế bao giờ. Mà cô thì luôn luôn làm thế nào  để cho mình giống con trai. 
  Cô bèn nói bằng một giọng cứng nhắc, vừa nói vừa cầm lấy phần bánh từ tay Annie: 
  -         Thôi được! Cậu đã xuýt nữa gây  ra một chuyện rầy rà. Mình đã ngăn cậu bằng cách đá cho cậu một cái.  Chúng mình thế là hoà. Tất nhiên, trưa nay cậu cũng sẽ được cùng đi với  chúng mình. 
  Annie chạy về báo cho các anh biết mọi  chuyện đã dàn xếp xong và mười lăm phút sau, cả bốn đứa chạy trên con  đường dẫn xuống bãi biển. Đứng trên một chiếc ca-nô đánh véc-ni bóng  loáng, là một cậu bé dân chài da rám nắng, vào khoảng mười bốn tuổi.  Dagobert thì đang vẫy đuôi tíu tít bên cạnh. 
  Cậu bé mỉm cười nói với Claude: 
  -         Ca-nô đã chuẩn bị xong, thưa cậu Claude. Và Dagobert cũng đã sẵn sàng. 
  -         Cám ơn! – Claude nói và đưa tay mời các anh chị lên thuyền. 
  Dagobert cũng nhảy vào trong thuyền, cái  đuôi dài ngoẵng vẫy rối rít. Claude đẩy ca-nô ra và cũng nhảy vào trong,  rồi cầm lấy bơi chèo. 
  Cô chèo rất khéo chiếc ca-nô lướt êm trên  mặt biển trong vắt. Nước biển một màu xanh thẫm, mặt trời thì màu vàng  rực rỡ. Bọn trẻ thấy rất thích có được một buổi trưa tuyệt đẹp như vậy  và được lướt trên mặt biển êm như nhung. Dagobert ngồi ở đằng mũi và mỗi  khi có chút bọt sóng trào vào nó, nó lại sủa lên ông ổng. 
  Claude vừa chèo vừa nói: 
  -         Nếu các cậu đi vào lúc trời nổi  gió thì các cậu sẽ thấy con Dagobert buồn cười như thế nào. Lúc đó, nó  sủa như điên vào những ngọn sóng lớn và nổi giận khi bị sóng trào vào  người. Con này nó bơi thạo lắm nhé! 
  -         Có một con chó như thế này đi  với chúng ta thật thích – Annie nói như vậy để lấy lòng Claude, làm quên  đi câu chuyện ngốc nghếch đã qua – Cậu biết không, mình yêu nó lắm nhé! 
  -         Oa! – Dagobert sủa to lên một tiếng rồi quay lại liếm vào tai Annie. 
  Annie rất bằng lòng, nói: 
  -         Mình chắc là nó hiểu những lời mình nói đấy! 
  Claude nói ngay: 
  -         Tất nhiên là nó hiểu chứ! Cái gì nó cũng hiểu tất! 
  Francois bỗng nói, đã run lên vì vui mừng: 
  -         Này, hình như đã gần đến đảo  rồi phải không? Trông đảo thế mà to hơn mình tưởng nhỉ? Và cái lâu đài  nữa kìa, mình mê nó quá! 
  Ca-nô tiếp tục tiến lên và bọn trẻ không  mấy chốc đã thấy xung quanh đảo có một dãy đá nhọn bao bọc thành một  vòng tròn. Chỉ có điều phải biết lách giữa những hòn đá mà đi, nếu không  thì không có cái tàu nào có thể đến đảo từ phía này được. 
  Ở giữa đảo, trên một mỏm hơn cao, là toà  lâu đài cổ. Đá xây lâu đài ngày xưa màu trắng. Giờ đây, tất cả những sự  huy hoàng thưở trước chỉ còn lại những vòm gãy, những tháp sụp và những  bức tường đổ nát. Toà lâu đài lãnh chúa, ngày xưa là một pháo đài hùng  mạnh, giờ chỉ còn là chỗ trú chân của những con quạ và hải âu kéo đến  đậu trên những bức tường hãy còn đứng vững. 
  Francois không rời mắt khỏi toà lâu đài: 
  -         Toà lâu đài này đầy vẻ bí mật.  Mình rất muốn lên đảo, vào xem toà lâu đài. Và mình nghĩ: lên đó ngủ lại  một hai đêm có lẽ cũng thú đấy! 
  Claude ngừng tay chèo, reo lên vui sướng: 
  -         Tuyệt diệu! Ý kiến hay làm sao!  Cậu có biết là mình chưa bao giờ nghĩ được như vậy không? Ngủ một đêm  trên hòn đảo của mình! Chỉ có bốn đứa chúng mình cắm trại ở đó! Làm cơm  lấy ăn, y như thể chúng mình sống lâu dài giữa những bức tường cổ kính  này! Đúng rồi, như thế thì thật tuyệt! 
  Mick cũng nhìn hòn đảo, thích thú: 
  -         Mình cũng nghĩ như vậy. Cậu đoán xem liệu mợ Cécile có cho phép chúng ta không? 
  -         Mình cũng chưa biết – Claude nói – nhưng cũng có thể mẹ sẽ cho phép. Chúng mình cứ hỏi mẹ thử xem. 
  Francois hỏi: 
  -         Chúng ta có thể ghé vào đảo ngay trưa nay được không? 
  -         Không được, nếu các cậu muốn  xem xác tàu… Chúng mình phải có mặt ở nhà vào giờ ăn, nên không có thì  giờ đi sang phía bên kia đảo rồi lại trở về. 
  Francois thú nhận: 
  -         Thực ra mình thích xem xác tàu  hơn là thăm lâu đài Kernach. Này, Claude, đưa mình chèo cho một lúc, cậu  cứ chèo mãi thế sao được! 
  -         Không, mình chèo được – Claude  nói – Nhưng mình nhường cho cậu cũng được. Mình cũng thích nằm dài trong  ca-nô để hưởng hết thú vui được đi chơi, cho khác đi một chút. Nhưng  đợi tí đã. Để mình chèo qua chỗ này, hơi nguy hiểm một tí, rồi cậu chèo  thay mình cho đến chỗ những đá ngầm kia. Đá ngầm trong vịnh này có thể  chơi cho ta những vố bất ngờ đáo để đấy! 
  Một lúc sau, Francois chèo thay Claude.  Cậu bé chèo cũng khá, nhưng không có sức bật mạnh bằng Claude. Tuy  nhiên, ca-nô vẫn tiến lên, dập dềnh nhẹ trên sóng. 
  Sau khi đã vòng quanh đảo, bọn trẻ thấy  toà lâu đài ở một góc cạnh khác. Mặt lâu đài quay ra biển trông còn thảm  hại hơn mặt quay vào đất liền. 
  Claude giải thích: 
  -         Đó là bởi vì gió từ ngoài khơi  thổi vào mạnh hơn. Về phía này, lâu đài chẳng còn gì mấy, chỉ còn vài  bức tường. Nhưng ở đây có một bến lên rất tốt, ở trong cùng một cái vịnh  bé tí tẹo. Thế nhưng cũng phải biết chỗ mới vào được. 
  Một lúc sau, Claude lại cầm chèo và lái ra ngoài biển, để đảo Kernach lại đằng sau. Bỗng nhiên, cô dừng lại và nhìn vào phía bờ. 
  Francois tò mò hỏi: 
  -         Cậu làm thế nào để xác định được chỗ có tàu chìm. Có lẽ cũng khó tìm lắm! 
  Claude trả lời: 
  -         Cậu có trông thấy cái gác  chuông ở trong đất liền đó không? Và cậu có nhìn thấy mỏm đồi, quá về  phía bên phải một tí không? Đó, khi nào nhìn thấy cả hai cái đó nằm trên  cùng một đường thẳng và mình thì ở giữa hai cái tháp của toà lâu đài,  lúc đó chắc chắn cậu đang đứng ngay bên trên cái xác tàu. Mình đã phát  hiện ra điều đó từ lâu. 
  Quả nhiên, khi nhìn giữa hai cái tháp của  lâu đài, bọn trẻ thấy đúng là gác chuông nhà thờ và ngọn đồi đã cùng  đứng trên một đường thẳng. Tức thì, chúng cùng nhìn xoáy xuống tầng nước  biển sâu thẳm, hy vọng sẽ thấy bóng chiếc tàu đắm. 
  Nước rất lặng và mặt biển phẳng lì. Gió  đã ngừng thổi. Dagobert cũng nhìn xuống mặt nước, đầu ngoẹo về một bên,  tai vểnh như thể nó cũng hiểu là mọi người đang quan tâm đến cái gì.  Thái độ nó trông rất ngộ làm cho lũ trẻ không nhịn được, phải cười ầm  lên. 
  -         Chúng ta cũng chưa hẳn đã ở  ngay trên xác tàu – Claude vừa nghiêng mình nhìn xuống nước vừa nói –  Hôm nay nước trong quá, ta có thể nhìn được rất sâu. Để yên, mình chèo  qua phía trái một tí. 
  -         Oa! – Dagobert bỗng sủa lên một  tiếng, đuôi lại ngoáy tít mù. Và, ngay lúc đó, bọn trẻ thấy một cái gì  đó ở ngay bên dưới. 
  -         Xác tàu đây rồi! – Francois reo  lên, phấn khởi quá đến nỗi xuýt lăn tòm xuống biển – Mình đã trông thấy  một mẩu cột buồm gãy rồi! Mick, em nhìn xem kìa! 
  Cả bốn đứa trẻ và con chó cúi mình trên  mặt nước trong, cố sức nhìn sâu vào tầng nước. Sau một lúc, chúng đã có  thể phân biệt hơi rõ ràng hình một cái vỏ tàu màu sẫm, từ đó nhô ra một  cái cột buồm gãy. 
  -         Tội nghiệp cái tàu cũ kỹ! –  Francois lẩm bẩm – Nó nằm nghiêng về một bên nhỉ! Có lẽ nó cũng thấy khổ  vì sẽ kết thúc cuộc đời như thế này, cứ dần dần mục nát nhỉ! Claude ạ,  mình muốn lặn một cái để xem nó cho gần. 
  Claude bảo: 
  -         Ừ, tại sao lại không nhỉ? Cậu  có mặc áo tắm đấy không? Có à, mình cũng vậy. Mình thỉnh thoảng cũng có  lặn ở đây, nếu cậu muốn thì mình sẽ cùng đi với cậu… Nhưng Mick phải coi  chừng cho thuyền khỏi trôi đi mới được. Mick, cậu chỉ cần giữ cái bơi  chèo này để ghìm nguyên thuyền ở chỗ này thôi. 
  -         Được, yên trí. 
  Cô bé nhanh chóng cởi bỏ quần ngắn và áo  sơ-mi, Francois cũng vậy. Cả hai đều mặc áo tắm. Claude nhảy một kiểu  rất đẹp mắt từ phía mũi. Mấy đứa trẻ trông thấy cô bơi dưới nước, cô  tiến bằng những sải tay mạnh mẽ, vẫn nín thở. 
  Một lúc sau, cô ngoi lên để thở và nói: 
  -         Mình đã xuống gần đến xác tàu  rồi. Nó vẫn nằm nguyên như lần trước mình trông thấy nó. Vỏ nó đầy hà và  ốc bám. Mình rất muốn vào ngay tận trong tàu, nhưng mình không giữ đủ  không khí để thở. Lần này, cậu cùng lặn với mình chứ Francois? 
  Và Francois nhảy… không may, cậu không  lặn giỏi bằng Claude, nên không thể xuống sâu. Tuy vậy, cậu cũng biết mở  mắt và nhờ thế cũng nhìn được sàn cái tàu đắm trứ danh đó. Xác tàu  trông hơi lỳ lạ và cô đơn. Kể ra Francois trông nó cũng không thích lắm,  mà lại cảm thấy bồn chồn làm sao. Vì vậy cậu rất bằng lòng được ngoi  lên mặt nước, hít không khí trong sạch đầy hai buồng phổi và cảm thấy  ánh nắng mặt trời mơn man trên đôi vai mình. Cậu trèo lên ca-nô. 
  Cậu tuyên bố với các em: 
  -         Trông thì thích lắm nhưng cũng  rất ảm đạm. Thật tiếc là không thể thăm thật kỹ cái xác tàu đó. Anh rất  muốn vào được bên trong và ngó một chút vào các buồng tàu. 
  Claude nói: 
  -         Không thể được đâu! Mình đã nói  với các cậu là đã có những thợ lặn chuyên nghiệp kiểm tra kỹ lưỡng con  tàu. Họ chưa tìm thấy cái gì hết. Bây giờ mấy giờ rồi nhỉ! Ôi! Chúng ta  mà không nhanh nhanh lên một tí thì bị chậm giờ ăn đến nơi rồi. 
  Chúng vội quay về nhà và về đến nơi vừa  đúng giờ ăn. Sau khi ăn no nê, cả bọn cùng nhau đi chơi trên cánh đồng  cỏ. Dagobert cũng được cùng đi, nó không rời bọn trẻ nửa bước. Tóm lại,  khi chiều xuống, bốn bạn trẻ cảm thấy mệt mỏi quá nên dù không muốn, mắt  chúng cũng cứ díp lại. 
  Annie vừa chui vào chăn vừa nói: 
  -         Chúc Claude ngủ ngon. Nhờ cậu mà bọn mình có được một ngày chơi vui quá! 
  -         Mình cũng vậy, mình cũng được  một ngày chơi vui, nhờ các cậu. Mình rất vui vì các cậu đến đây nghỉ hè.  Bốn đứa chúng ta sẽ chơi với nhau rất vui. Mình nghĩ là hòn đảo nhỏ của  mình và toà lâu đài của mình sẽ làm cho các cậu thích. 
  -         Nhất định rồi… – Annie công nhận. 
  Nói xong, cô ngủ ngay một giấc ngon lành,  nằm mơ thấy toàn xác tàu đắm, và hàng ngàn lâu đài và đảo. Ôi! Bao giờ  thì Claude bằng lòng đưa mấy anh em ra đảo Kernach nhỉ?   
Chương 5 – Ra thăm đảo   Hôm sau, mợ Cécile chuẩn bị một bữa ăn  nguội. Mợ đã có kế hoạch cùng đi với bọn trẻ đến một vũng nhỏ ở quanh  vùng, ở đó chúng có thể bơi lội thoả thích. Trời có vẻ đẹp vô cùng và  chương trình trong ngày nghe cũng hấp dẫn. Tuy vậy, trong thâm tâm,  Francois, Mick và Annie lại muốn đi thăm hòn đảo nhỏ của Claude hơn; như  vậy, chúng thích thú hơn nhiều. 
  Về phần mình, Claude cũng chẳng thích thú  lắm cuộc đi chơi và ăn trưa ngoài trời; không phải vì em không thích  những cuộc chơi như thế, mà chính vì có mẹ cùng đi thì em không thể mang  Dagobert theo được. Cả một ngày thiếu Dagobert đối với em, đó là một  ngày không có ánh sáng mặt trời. 
  -         Chẳng hay tí nào! Francois đoán  được tâm lý cô em, bèn lẩm bẩm. – Nhưng mình vẫn không hiểu tại sao cậu  không nói thật với mẹ là cậu vẫn giữ Dagobert. Mình chắc rằng mẹ cậu  thấy cậu đã gửi nó ở nhà Jean Jack rồi thì cũng bằng lòng thôi. Ở vào  địa vị mợ Cécile, thì mẹ mình cũng không nói gì đâu. 
  Claude đáp một cách cương quyết: 
  -         Mình không muốn bất cứ ai biết  điều bí mật về Dagobert… trừ các cậu. Cậu thấy không, ở nhà, lúc nào  mình cũng có chuyện phiền toái. Mình cũng không bảo là không phải tại  mình, nhưng cũng mệt lắm kia! Bố thì rất dễ nổi nóng. Bố viết sách khoa  học bán không chạy, thành ra bố không thể chiều chuộng mẹ con mình như  bố mong muốn. Vì thế bố hay bực mình. Ví dụ, bố muốn cho mình đi học ở  một trường thật tốt, nhưng không có đủ tiền. Mà mình thì thấy thế lại  thích… Mình chẳng muốn đi học xa tí nào. Mình thích ở lại đây. Như vậy  mình sẽ không phải xa Dagobert yêu quý của mình… Mà mình đang nói gì  nhỉ…? À phải, đang nói là bố mình hay nổi nóng và hay phạt mình. Vậy nếu  bố biết mình vẫn giữ Dagobert thì bố sẽ phạt mình chết. 
  Annie hỏi: 
  -         Tại sao cậu lại không thích vào  trường nội trú? Các anh Francois, Mick và mình đều đi học nội trú cả,  bọn mình thấy thích lắm. 
  -         Mình thì chẳng thích. Mình mà ở giữa một đám con gái ồn ào như cái chợ vỡ thì mình ghét lắm. 
  -         Cậu tưởng thế thôi! – Annie nói  – Thực ra có các bạn gái cũng thích lắm. Và đối với cậu, nhất định cũng  sẽ tốt, Claude ạ. 
  Claude kêu lên, hai mắt long xòng xọc: 
  -         Nếu cậu lại bắt đầu kể cho mình  nghe những cái gì đối với mình “sẽ tốt” thì mình sẽ ghét cậu vô cùng  cho mà xem. Bố mẹ mình lúc nào cũng khuyên cái này, cái khác… mà cái gì  cũng trái với cái mình thích, thế mới khổ! Giờ lại đến cậu nữa thì… 
  Francois cười xoà: 
  -         Thôi mà, đừng có giận! Cậu sao  mà dễ giận thế không biết! Trông kìa, ở mắt cậu phóng ra những tia lửa  kìa, có thể châm một điếu thuốc lá vào đấy được đấy! 
  Câu nói đùa làm cho Claude dù không muốn  cũng phải bật cười. Không thể nào làm mặt giận với Francois được, cậu bé  bao giờ tính tình cũng vui vẻ. 
  Cuộc đi cắm trại đã diễn ra êm thấm, bọn  trẻ xuống tắm biển mấy lần liền. Bơi lội giữa những ngọn sóng trong vắt,  dưới ánh mặt trời chói chang thật vui thích biết bao! Claude đã tỏ ra  đáng yêu, dạy cho Annie bơi. Cô bé vẫn không biết phối hợp các động tác  tay chân, nên đến khi thấy cô đã khắc phục được cái khó khăn này rồi,  Claude cảm thấy rất tự hào. 
  Annie vừa biểu diễn một lần nữa bài học mới thuộc vừa nói với Claude: 
  -         Thật cám ơn cậu quá! Mình chắc  chẳng bao giờ bơi giỏi bằng cậu, nhưng mình cũng muốn có thể tự lực bơi  được như các anh mình. 
  Trên đường về, Claude tìm cách nói riêng với Francois: 
  -         Này, cậu có thể nói với mẹ mình  là cậu cần đi mua một con tem hay cái gì đấy được không? Bởi vì, lúc đó  mình sẽ đi với cậu và nhân đó chạy ù đi thăm Dagobert một tí. Nó cả  ngày hôm nay không được thấy mình và không được đi chơi, chắc đang buồn  lắm. 
  -         Được! Mình không cần gì đến tem  nhưng mua kem thì được. Mick và Annie có thể về cùng với mợ Cécile và  mang các gói đồ. Đợi tí nhé, để mình xin phép mợ. 
  Nó chạy theo mợ Cécile: 
  -         Thưa mợ, cháu có thể chạy đi  mua mấy chiếc kem không ạ? Hôm nay, chúng cháu chưa được ăn chiếc nào.  Cháu đi nhanh thôi ạ. Và mợ cho Claude đi với cháu được không? 
  Mợ Cécile cười: 
  -         Nó mà chịu đi với cháu thì kể cũng lạ đấy. Nhưng cháu cứ thử hói nó xem. 
  -         Claude! Đi với mình đi! – Francois vừa chạy về phía làng vừa gọi. 
  Claude cũng vừa cười vừa đuổi theo cậu bé. Đuổi kịp, em nhiệt liệt cám ơn Francois: 
  -         Cậu giúp mình tốt quá! Giờ cậu chạy đi mua kem đi, còn mình thì đi thăm Dagobert. 
  Hai đứa chia tay nhau. Francois mua bốn  chiếc kem và cứ từ từ đi về biệt thự Hải Âu. Chỉ một lúc sau, Claude đã  đuổi kịp cậu, mặt mũi tươi roi rói. Cô bé nói: 
  -         Dagobert vẫn khoẻ. Gớm, cậu  không thể tưởng tượng được thấy mình nó mừng như thế nào đâu! Nó nhảy  cẫng lên như choi choi! Sao… lại cho mình một cái kem nữa à? Francois,  cậu cừ lắm. Mình phải mau mau có gì chia sẻ với cậu mới được. Hay là mai  ta ra thăm đảo? Cậu thấy thế nào? 
  -         Thế thì tuyệt! – Francois kêu  lên, hai mắt sáng ngời. – Cậu đã quyết định thực sự chưa? Phải chạy về  báo cho bọn chúng biết. 
  Bốn đứa ăn kem ở trong vườn. Francois nói  cho Mick và Annie biết Claude mời ra thăm đảo. Tin đó được mọi người  hoan nghênh nhiệt liệt. Claude cũng rất vui thích. Từ trước tới nay cô  thường từ chối không đưa các bạn ở quanh vùng ra thăm đảo, là vì tự cảm  thấy mình rất quan trọng. Nhưng bây giờ cô cảm thấy nhận lời đưa mấy anh  chị em ra thăm đảo lại vui thích gấp ngàn lần. Cô vừa ăn kem vừa suy  nghĩ: 
  -         Mình cứ tưởng chơi một mình là  thích nhất, nhưng giờ mới biết là chơi cùng với Francois và mấy anh chị  lại thích hơn rất nhiều. 
  Bọn trẻ được gọi về rửa chân tay mặt mũi  và thay quần áo trước bữa ăn chiều. Bọn chúng cứ hào hứng nói mãi về  cuộc đi chơi dự định vào ngày hôm sau. Mợ Cécile nghe thấy và cười: 
  -         Vậy là Claude đã dự định đưa  các cháu đi thăm đảo của nó. Mợ thấy nó rất bằng lòng chia xẻ cái gì đó  với các cháu là mợ rất vui… Này, các cháu có muốn mang theo cơm trưa rồi  ở ngoài đó cả ngày không? Vừa đi vừa về bằng ca-nô cũng chiếm một số  thời gian và nếu muốn chơi được lâu một tí, thì cũng phải ở vài giờ trên  đảo. 
  Annie kêu lên: 
  -         Ôi! Mợ Cécile! Mợ có ý kiến hay quá! 
  Claude nhìn mẹ: 
  -         Mẹ ơi, mẹ có định đi với chúng con không? 
  Bà Dorsel trả lời giọng hơi buồn: 
  -         Con có vẻ không muốn mẹ có mặt.  Hôm qua mẹ đã để ý, lúc mẹ nói là sẽ đi cắm trại cùng với các con, con  có vẻ không bằng lòng. Vậy con cứ yên trí… mai mẹ không đi cùng với các  con đâu. Nhưng mẹ nghĩ là các anh các chị con cũng lấy làm lạ là có cô  con gái không muốn cho mẹ mình chia xẻ những cái vui của mình. 
  Claude không trả lời. Thường khi bị mắng,  cô không bao giờ nói gì cả. Mấy đứa kia cũng không nói gì, vì bọn chúng  biết rằng sở dĩ Claude không muốn có mẹ đi cùng là vì nó muốn mang  Dagobert đi theo mà thôi. 
  Mợ Cécile lại nói: 
  -         Nói thế chứ mẹ không thể đi  được. Mẹ còn phải làm vườn. Nhưng các cháu đi với Claude cũng an toàn  lắm, nó biết chèo thuyền thạo như một thuỷ thủ chính cống. 
  Sáng hôm sau, khi thức dậy, ba anh em  Annie đã lo lắng nhìn trời. Nhưng không hề gì, mặt trời vẫn chói chang  như hôm trước và ngày hôm nay có vẻ sẽ đẹp tuyệt. 
  Annie vừa mặc quần áo vừa nói với Claude: 
  -         Trời đẹp quá nhỉ! Mình rất nóng lòng được thấy hòn đảo của cậu. 
  Claude bỗng nói: 
  -         Cậu muốn biết ý kiến của mình không? Thế này, nói thật nhé, hôm nay chúng mình không nên ra đảo. 
  -         Ôi! Sao vậy? – Annie hỏi, trong giọng đã thấy có vẻ hốt hoảng. 
  Claude nhìn về phía tây nam và trả lời: 
  -         Mình cho rằng sắp sửa có giông bão hoặc ít nhất thì cũng có gió to lắm. 
  -         Nhưng mà cái gì làm cho cậu nghĩ vậy? Cậu nhìn mặt trời xem! Và trên trời không có một gợn mây. 
  Claude giải thích: 
  -         Gió thổi mạnh. Và nếu nhìn kỹ,  cậu sẽ thấy trên ngọn sóng có một làn bọt trắng, chung quanh hòn đảo của  mình. Những cái đó, người ta gọi là “đàn cừu”; chúng chẳng báo điều gì  tốt đẹp đâu! 
  Annie vốn không thể vui vẻ chịu được bất cứ chuyện gì bất ý, năn nỉ: 
  -         Ôi, Claude, nếu cậu không đưa  chúng tớ đi hôm nay thì thật là một nỗi thất vọng lớn nhất trong đời. Vả  lại, – Annie nói hóm hỉnh, – nếu chúng ta sợ giông bão mà ở nhà thì  không được chơi với Dagobert. 
  Claude gật đầu: 
  -         Ừ, đúng thế thật. Vậy thì, thôi  được, cứ đi. Nhưng mà cậu phải để ý, nếu bão nổi lên thì đừng có khóc  như trẻ con. Cậu sẽ cố gắng không sợ, rồi lại còn thấy thích nữa chứ? 
  -         Hừm, mình cũng chẳng thích bão…  – Annie bắt đầu nói, nhưng vội ngừng ngay khi thấy cô em họ nhìn mình  có vẻ coi thường. 
  Bọn trẻ xuống ăn sáng. Claude hỏi mẹ xem chúng có thể mang theo một bữa ăn nguội như hôm qua mẹ nói không? 
  Mợ Cécile nói: 
  -         Được! Annie và con sẽ giúp mẹ  làm bánh mì kẹp. Còn bọn con trai thì ra vườn, chọn những quả mận thật  chín để ăn tráng miệng. Hái xong mận, cháu Francois có thể chạy ù vào  làng mua mấy chai bia và nước chanh, tuỳ các cháu muốn uống gì thì mua  nấy. 
  Francois nói: 
  -         Cháu xin mợ cho uống bia. 
  Bọn trẻ đứa nào cũng xin uống bia. Đứa  nào cũng vui như tết, vì chúng mơ ước xiết bao được ra thăm hòn đảo nhỏ  kỳ lạ đó. Còn Claude thì cũng rất sung sướng, vì Dagobert yêu quý của nó  sẽ không phải rời nó suốt cả một ngày. 
  Cuối cùng đã đến giờ lên đường. Thức ăn  được chia làm hai túi lớn. Việc trước hết là đi đón Dagobert. Con chó  buộc trong sân sau nhà Jean Jack. Cậu bé dân chài đã đứng đấy và mỉm  cười khi thấy Claude. 
  Cậu chào: 
  -         Xin chào, cậu Claude! 
  Francois, Mick và Annie cũng hơi lạ thấy cậu ấy gọi Claudine là “cậu Claude”. Jean Jack nói tiếp: 
  -         Cậu Claude có biết là từ sáng  nay, con Dagobert cứ lồng lên không? Hình như nó cũng đoán biết cậu sẽ  cho nó đi chơi hay sao ấy. 
  Claude vừa cởi dây xích chó ra vừa nói: 
  -         Tất nhiên nó đoán được rồi. 
  Vừa được mở dây, Dagobert mừng quýnh lên. Nó chạy xung quanh bọn trẻ, tai và đuôi vẫy rối rít trước gió. 
  Francois nói: 
  -         Nếu Dagobert là một con chó  săn, thì nó chạy phải nhanh nhất. Kìa nó làm tung bụi lên và khó mà nhìn  thấy nó trong đám bụi ấy! Này Dago! Lại đây bắt tay chúng tao cái chứ? 
  Dagobert nhảy lên liếm tay Francois rồi  lại tiếp tục chạy vòng tròn. Sau đó, nó dịu đi một chút và chạy lon ton  bên cạnh Claude khi bọn trẻ chạy xuống dốc bờ biển. Rõ ràng nó rất yêu  cô chủ nhỏ: lúc nào nó cũng liếm láp đôi chân trần của Claude và cô chủ  thì kéo tai nó ra ý mắng mỏ. Xuống đến bãi biển, bốn đứa trẻ trèo vào  trong ca-nô, Claude cầm bơi chèo. Jean Jack vẫy tay từ biệt; cậu ta kêu  to: 
  -         Các cậu không ở lâu quá chứ? Có vẻ sắp bão đấy, mà không phải nhỏ đâu! 
  -         Mình biết rồi – Claude kêu trả lời – Nhưng bọn mình sẽ về trước khi có bão. Bão còn ở xa! 
  Claude nhất định tự mình trèo thuyền cho  đến đảo. Dagobert cứ chạy đi chạy lại, từ đầu thuyền đến cuối thuyền,  sủa gâu gâu vào từ ngọn sóng lớn. Bọn trẻ nhìn đảo đến gần dần. Đối với  chúng, trông hòn đảo lại càng có vẻ đáng chú ý hơn là hôm trước. 
  Francois hỏi: 
  -         Claude, cậu định cập bến chỗ  nào? Mình phục cậu tìm được đường giữa những mỏm đá mấp mé nước như thế  này. Lúc nào mình cũng sợ thuyền của chúng ta sẽ va vào đá vỡ tan. 
  Claude nói: 
  -         Mình sẽ bỏ neo ở trong cái vịnh  nhỏ đã nói với các cậu hôm nọ. Chỉ có mỗi một chỗ lách để đi được đến  đó, và mình biết rất rõ chỗ đó. Nó lẫn vào trong những mỏm đã ở về phía  tây đảo. 
  Cô bé khéo léo điểu khiển con thuyền giữa  các mỏm đá và đột nhiên, sau khi cô bé vừa vượt được một chỗ đặc biệt  nguy hiểm, mấy anh em trông thấy ngay cái vịnh nói trên. Đó là một chỗ  hõm tự nhiên, nước lặng, có những mỏm đá cao che chở hai bên và một bãi  cát thoai thoải dễ lên. Chiếc ca-nô đi vào làn nước của bến cảng nhỏ đó  và lập tức không bị sóng làm chao đảo nữa. Mặt nước ở chỗ này trông tựa  như một tấm gương trong suốt. 
  -         Trời, sao mà chỗ này đẹp đến thế! – Francois kêu lên, đôi mắt sáng long lanh thích thú. 
  Claude nhìn Francois và mắt cũng sáng rực  lên như vậy, mắt cô xem ra còn xanh hơn màu nước biển. Đây là lần đầu  tiên cô đưa người khác đến thăm cái đảo yêu quý của cô và cô cảm thấy  vui sướng vô cùng. 
  Chiếc ca-nô cập vào bến cát vàng óng. Annie nhảy xuống đất và chạy tung tăng, reo lên: 
  -         Thế là chúng ta đã ở trên đảo rồi! 
  Dagobert chạy theo và cũng nhảy nhót điên  loạn như vậy. Lũ trẻ cười phá lên. Claude lôi ca-nô lên rõ thật cao  trên bãi cát. Francois vừa giúp cô vừa hỏi: 
  -         Tại sao phải lôi lên cao thế? Thuỷ triều làm gì mà lên mãi đây? 
  Claude nói: 
  -         Mình đã nói là có thể có bão  mà! Nếu có bão thì cái vịnh này cũng bị những ngọn sóng lớn đánh đến, mà  chúng mình thì không muốn bị mất ca-nô phải không nào? 
  -         Tất nhiên rồi… 
  -         Đi thám hiểm quanh đảo đi! Đi  thám hiểm quanh đảo đi! – Annie đã trèo lên trên đỉnh những mỏm đá bao  quanh vịnh và gọi: – Nhanh lên, các anh, leo lên đây với em! 
  Ba đứa trèo lên theo. Quả nhiên chỗ đó  cũng đẹp thật. Một lũ thỏ tự do chạy đi chạy lại, thấy có người đến thì  tản ra, nhưng cũng không trốn vào trong hang như ở nơi khác. 
  Mick có vẻ ngạc nhiên: 
  -         Chúng có vẻ dạn nhỉ? 
  Claude nói: 
  -         Có gì đâu, trừ mình ra, nào có  ai đến đây đâu! Mà mình thì cố gắng không làm cho chúng sợ. Dago! Mày mà  cứ đuổi thỏ thì tao sẽ phết cho một trận. 
  Dagobert quay lại nhìn cô chủ, vẻ thảm  hại. Nó và Claude thống nhất với nhau về mọi chuyện, trừ chuyện đuổi  thỏ. Đối với Dagobert, thỏ sinh ra là để cho chó đuổi, cho nên nó không  hiểu tại sao Claude lại cứ cấm nó đuổi. Nó cũng ngoan ngoãn đi một cách  trịnh trọng bên cạnh bọn trẻ, nhưng vẫn nhìn theo một cách thèm thuồng  những “túm lông xù” đang đùa giỡn với nhau trên cỏ. 
  Francois nói: 
  -         Mình có cảm tưởng những con thỏ này có thể đến ăn ngay trên tay chúng mình. 
  Claude lắc đầu: 
  -         Không đâu! Mình đã thử, nhưng  chúng chưa thật là quen người. Các cậu nhìn bọn thỏ bé xíu mà xem, trông  dễ thương không? 
  -         Oa! – Dagobert lên tiếng rất  đồng ý với nhận xét đó, đồng thời tiến thêm một bước về phía bọn thỏ  con. Thấy bộ dạng “anh chàng” như vậy, Claude phải gọi nó lại gần mình.  Nó phải nghe theo, đuôi cụp xuống. 
  Francois nói: 
  -         Lâu đài đây rồi, chúng mình có thăm lâu đầi luôn không? Mình muốn thăm ngay bây giờ. 
  -         Ừ, cũng được, – Claude đồng ý… –  Các cậu nhìn này, đây là cửa vào chính. Ngày xưa, người ta đi qua cái  vòm này, nay đã đổ nát. 
  Bọn trẻ ngắm nhìn rất lâu cái vòm cổng vĩ  đại, ở bên trên đầu chúng, phía bên trong thấy rõ những bậc lên xuống  của một chiếc cầu thang bằng đá đã đổ nát, dẫn vào trung tâm lâu đài. 
  Claude giải thích: 
  -         Lâu đài này ngày xưa có những  bức tường rất dày bao quanh và có hai cái tháp. Một cái đã hoàn toàn đổ  nát, một cái khác hãy còn tương đối vững. Bọn quạ làm tổ trong đó, chúng  chất đầy cành cây và cỏ đủ các loại. 
  Trong khi các du khách đi về phía cái  tháp còn đang đứng vững, thì bọn quạ bay thành vòng trên đầu họ, vừa bay  vừa kêu lên the thé, nghe mà khiếp. Dagobert nhảy lên như choi choi,  làm như thể nó muốn vồ nghiến lấy chúng, nhưng làm sao được! Bọn trẻ vừa  cười vừa chế nhạo nó. 
  Claude vừa bước qua một khung cửa bị đổ nát vừa nói: 
  -         Thế là chúng ta đã ở giữa lâu đài rồi đây! 
  Bọn trẻ đi theo Claude vào một chỗ có lẽ  ngày xưa là một sân rộng, lát những phiến đá, bây giờ đã gần ngập lút  dưới những đám cỏ hoang. 
  -         Cái sân này ngày xưa vốn là một  phòng lớn, nơi các lãnh chúa hay tụ họp. Từ đây, ta có thể trông thấy  chỗ ngày xưa là các phòng. Trông kìa, còn một cái phòng gần như còn dùng  để ở được… Đúng thế đấy, hãy đi qua cái cửa con này, các cậu sẽ thấy  ngay! 
  Cả toán đi theo Claude và bước vào trong  một phòng tối, tường và mái đều bằng đá. Ở một đầu, có một khoảng rộng,  là chỗ của lò sưởi ngày trước. Cả phòng chỉ có hai khoảng trống nhỏ hẹp  làm cửa sổ. Toàn cảnh toát ra một cảm giác là lạ và hơi bí hiểm. 
  Francois thở dài: 
  -         Thật đáng tiếc, toà lâu đài này đã đổ nát quá! Có lẽ cái phòng này là độc nhất gần như còn nguyên… 
  Cậu lôi các em đi theo: 
  -         Mình thấy bên này còn một số  phòng nữa, nhưng tất cả đều đổ nát, cái thì không còn mái, cái thì mất  một hoặc hai bức tường. Chỉ có căn buồng chúng ta vừa đi qua là còn ở  được… Claude này, có lẽ phải có cầu thang dẫn lên các tầng trên chứ nhỉ? 
  Claude nói: 
  -         Tất nhiên là có chứ, nhưng bậc  lên xuống biến mất gần hết rồi. Các cậu nhìn xem, bên cạnh cái tháp có  quạ ở, còn nhận ra được một phòng, nhưng không tài nào lên đó được; mình  đã thử lên, nhưng cũng chịu. Mình trèo lên tí nữa thì bị ngã gãy cổ.  Bước lên thấy đá cứ rơi lả tả dưới chân mình. 
  Mick hỏi: 
  -         Thế có những hầm “bỏ quên” không? 
  -         Mình cho là có, – Claude trả  lời – Nhưng mà chưa ai tìm ra được những hầm ấy bao giờ… Cỏ hoang mọc  lan tràn khắp nơi rồi còn gì! 
  Quả thật thiên nhiên đã lại chiếm lĩnh  khắp mọi nơi. Những bụi gai lớn mọc lung tung cả và một vài bụi nhô ra  từ các viên gạch lát. Cỏ hoang làm thành tấm thảm dưới chân người và  những cây xương rồng màu tím hoa cà bắt rễ trong các hốc tường đen xám. 
  Annie tuyên bố: 
  -         Dù sao, em cũng thấy chỗ này thật là tuyệt! Vừa tuyệt vừa đẹp vô cùng! 
  Claude hỏi, hớn hở: 
  -         Cậu nghĩ thế thật đấy à? Thế  thì mình thích lắm! Các cậu hãy nghĩ xem, chúng ta đã ở phía bên kia của  đảo rồi, quay mặt ra biển cả. Các cậu có trông thấy trên những tảng đá  to đằng kia có bao nhiêu là chim to tướng đậu không? 
  Bọn trẻ nhìn theo phía tay chỉ. Chúng  thấy có mấy tảng đá nhô lên khỏi mặt nước và có những con chim lạ màu  đen tuyền đậu bên trên. 
  Claude giải thích: 
  -         Đó là những con chim công cốc.  Có lẽ chúng đã ăn quá nhiều cá và bây giờ đậu ở đó để tiêu cá cho yên  tĩnh. Kia kìa! Chúng bay lên cùng một lúc kìa, không hiểu tại sao lại  thế nhỉ! 
  Câu hỏi của Claude chẳng mấy lúc đã được trả lời. Bỗng nhiên, từ phía tây nam, một tiếng gầm dữ dội vang lên. Claude kêu lên: 
  -         Bão đến! Bắt đầu rồi đây! Bão nổi lên sớm hơn là mình dự đoán!   
Chương 6 – Và trận bão đã làm nên một sự kỳ diệu   Ba anh em nhà Gauthier sửng sốt nhìn ra  biển. Chúng quá mải mê xem toàn lâu đài cổ, nên không đứa nào để ý đến  sự thay đổi đột ngột của thời tiết. Một tiếng sấm rền thứ hai lại nổi  lên tưởng như có một con chó rõ to gầm gừ sau những đám mây. Ngay chính  con Dagobert cũng nhầm và gầm gừ trả lời lại. 
  Claude hơi hoảng, lẩm bẩm: 
  -         Thôi chết, thế là chúng mình bị  kẹt ở đây. Chúng ta không thể về nhà đúng giờ đã định được, điều đó là  cái chắc. Gió thổi ngày càng mạnh. Mình chưa bao giờ trông thấy trời  ngập mây một cách nhanh chóng như vậy. 
  Lúc bọn trẻ ở nhà đi, trời còn một màu  xanh ngắt, bây giờ đen kịt và những đám mây lớn màu tối sẫm trôi nhanh  rất thấp. Chúng như đang chạy trốn trước một kẻ thù vô hình. Gió rít lên  nghe ghê rợn, khiến Annie cảm thấy hoảng sợ. 
  Francois nhìn một giọt nước lớn rơi trên tay mình và nói: 
  -         Mưa rồi đây này, có lẽ chúng ta  phải trú vào đâu đó chứ! Cậu thấy thế nào hả Claude? Chúng mình mà cứ ở  đây thì sẽ ướt như chuột lột. 
  Claude nói: 
  -         Ừ, nhưng hãy đợi một tí đã. Cậu  hãy nhìn xem những ngọn sóng lớn đánh vào trong vịnh kìa. Chỉ một lát  nữa chúng mình sẽ thấy nổ ra cả một cơn bão mạnh hiếm có. Trời ơi!… Chớp  có ghê không! 
  Quả thực, những ngọn sóng ngày càng trở  nên dữ dội. Quang cảnh thật hấp dẫn, biển và trời đều cùng thay đổi  nhanh ghê gớm. Sóng vồng lên, ầm ĩ đập vào các tảng đá rồi tràn lên bãi  biển nhỏ của đảo với một sức mạnh khủng khiếp. 
  Claude bỗng nói: 
  -         Mình nghĩ có lẽ nên kéo ca-nô  của chúng ta lên cao hơn nữa. Cơn bão này có vẻ rất dữ dội. Các cậu cần  biết rằng về mùa hè, bão lại lớn hơn về mùa đông nữa kia. 
  Francois và Claude cùng chạy đến chỗ để  ca-nô. Claude có lý khi lo chuyện xấu nhất có thể xảy ra, bởi đã có  những ngọn sóng lớn bao quanh chiếc ca-nô như tìm cách kéo nó ra biển. 
  Hai đứa trẻ kéo chiếc ca-nô theo một con  dốc thoai thoải lên mãi đỉnh của dốc đá; Claude buộc ca-nô cẩn thận vào  một cái rễ mọc kẹt trong đá. 
  Bây giờ, mưa đã như trút nước. Quần áo của Francois và Claude ướt cả. Claude vừa chạy về phía toà lâu đài vừa nói: 
  -         Mình mong là hai đứa kia biết chạy về cái phòng còn đủ mái và tường mà tránh mưa. 
  Quả nhiên về tới nơi thấy hai đứa bé đã ở  đấy, cả hai đều rét run lên và có vẻ hơi sợ. Căn phòng chỉ có hai cái  lỗ bé tí thông ánh sáng nên tối om. 
  Francois nhìn xung quanh rồi nói: 
  -         Hay là chúng ta đốt lửa lên cho ấm nhỉ? Không biết có thể tìm đâu được một ít củi khô nhỉ? 
  Như để trả lời câu hỏi của cậu bé, một toán nhỏ những con quạ vừa bay ra ngoài mưa vừa kêu chí choé. Francois kêu lên: 
  -         Mình rõ thật ngốc! Việc gì phải  đi tìm đâu cho xa! Nhất định chúng ta sẽ thấy hàng đống củi khô ở dưới  chân tháp, nơi bọn quạ làm tổ ấy mà! Nhất định trong khi làm tổ, chúng  phải đánh rơi xuống đất nhiều cành lắm! 
  Cậu chạy dưới mưa về phía cái tháp và ôm về một mớ củi khô. Claude nói: 
  -         Tốt lắm, giờ chúng ta sẽ đốt lên một ngọn lửa trại. Cậu nào có giấy và diêm đấy không nhỉ? 
  Francois nói: 
  -         Mình có mấy que diêm, nhưng hình như không ai có giấy thì phải… 
  -         Có đấy! – Annie vội nói – Bánh mì kẹp của chúng mình bọc giấy mà! Chúng mình bỏ giấy ra, lấy giấy đó mà nhóm lửa. 
  -         Hay đấy! – Claude nói. 
  Bọn trẻ mở gói bánh mì kẹp, trải một cái  khăn tay sạch lên một hòn đá phẳng, đặt bánh lên đó. Sau đó, chúng xếp  củi vào trong chiếc lò sưởi còn đang dùng được, cho giấy lên trên, bỏ  thêm những cành củi nhỏ. Đốt lửa lên, lửa cháy lem lém vào giấy trông  thích biết bao! Giấy cháy đùng đùng, củi nhỏ cũng bén ngay vì rất nỏ.  Ngọn lửa bỗng chốc reo vui và gian phòng nhỏ sáng bừng những làn ánh  sáng nhảy nhót. 
  Bên ngoài, trái lại, giờ đã tối đen kịt.  Những đám mây lớn tích điện là thấp đến gần chạm vào đỉnh tháp của lâu  đài và đi nhanh vun vút. Gió thổi chúng bay về phía đông bắc, gió rú  cũng khiếp như chính biển đang gầm thét vậy. 
  Annie sợ hãi nói: 
  -         Em chưa bao giờ thấy biển gầm  thét dữ như vậy, thật đấy, chưa bao giờ! Em nghĩ là nó không thể nào gầm  thét dữ hơn được. 
  Đúng như vậy. Với tiéng gió gầm thét,  tiếng sóng đập vào chung quanh đảo nhỏ, bọn trẻ không ai nghe thấy ai  nói gì hết. Phải gào lên mới nghe được. Mick bèn gào lên; cậu này có xúc  động đến đâu cũng không quên được cái bụng đói: 
  -         Chúng mình ăn bữa trưa thôi! Bão to thế này còn làm được gì nữa! 
  Annie nói: 
  -         Phải lắm! Ăn ngay tại đây, bên  cạnh lửa, trong gian phòng tối tăm và cổ kính này, thì thật là thú. Em  nghĩ đã lâu lắm không có khách đến đây dự tiệc. Em muốn được gặp vài vị  xem họ ra sao! 
  -         Mình thì chẳng thích gặp tí  nào. – Mick nói, vẻ hơi khó chịu. Nghe nói thế, cậu ta tưởng chừng sắp  có vài nhân vật thời xa xưa bước vào phòng cùng ăn với cậu. – Bão thế  này đã ảm đạm lắm rồi, lại còn nói những chuyện như vậy nữa! Lại thích  gặp ma à? Thật là… 
  Sau khi ăn bánh mì kẹp và uống bia, mọi  người đều cảm thấy dễ chịu. Lửa càng bốc cao càng kêu lách tách vui vẻ.  Gió thổi mạnh khiến trời trở lạnh, ngọn lửa làm cho căn phòng ấm áp hẳn  lên. 
  Claude nói: 
  -         Chúng mình sẽ lần lượt thay nhau đi lấy củi khô. 
  Annie không chịu đi một mình. Cô cố giấu  không cho mọi người biết là cô sợ bão đến mức nào, nên cố nữa thì chịu.  Cô không thể nào bỏ gian phòng ấm áp này mà chạy ra ngoài mưa, trong khi  sấm rền chung quanh mình như vậy. Cả Dagobert có vẻ cũng không thích  bão. Nó ngồi sát vào Claude, tai vểnh lên, mỗi khi có sấm thì nó lại gầm  gừ. Bọn trẻ vừa ăn vừa cho nó ăn, vì nó cũng đã đói lắm. 
  Thức ăn tráng miệng có mận, ngoài ra mỗi đứa còn được bốn cái bánh quy. Claude nói: 
  -         Có lẽ mình phải cho Dagobert cả bốn cái bánh này, vì lúc đi quên không mang bánh riêng cho nó mà nó thì có vẻ đói lắm. 
  Francois nói: 
  - Không, đừng làm thế. Chúng mình mỗi đứa  sẽ cho nó một cái bánh quy. Như vậy nó cũng được đủ bốn cái mà chúng  mình mỗi đứa cũng còn ba cái, thế là đủ rồi còn gì. 
  -         Các cậu tốt thật đấy! Này Dagobert, có phải là các cậu ấy thật tốt không? 
  -         Oa! – Dagobert trả lời ngay,  rất đồng ý với cô chủ. Và để tỏ tình cảm của mình, nó liếm tất cả mọi  người, làm cho bọn trẻ cười phá lên. Thế là nó nằm ngửa bụng lên, cho  Francois cù vào bụng nó một cách thích thú. 
  Mick vứt thêm một nắm củi khô vào đống  lửa và bữa ăn kết thúc vui vẻ. Một lúc sau, Francois lại chạy đi lấy củi  khô. Cậu bé chạy ra ngoài và đứng im một lát; mưa chảy tràn trên mái  tóc cắt ngắn của cậu. 
  Bây giờ bão hình như đang gầm rú ngay  trên đỉnh toà lâu đài. Một ánh chớp loé lên trong mây, kèm theo một  tiếng sấm rền. Nói chung, Francois không sợ gì bão, nhưng trận bão này  cũng làm cậu hơi hoảng, bởi nó thật dữ dội. Cứ khoảng ba mươi giây lại  có một ánh chớp và sấm rền mạnh đến nỗi nghe như núi đổ xuống ầm ầm. Thế  mà cứ im tiếng sấm thì lại nghe thấy tiếng biển gầm thét, mà tiếng gầm  thét này nghe cũng rất kinh khủng. Sóng tung lên cao đến nỗi Francois  đứng giữa toà lâu đài đổ nát mà cũng bị ướt từ đầu đến chân. 
  Cậu bé nghĩ: 
  “Nhất định mình phải đi xem xem sóng  giống như cái gì. Mình đứng đây mà nó còn tưới ướt cả, thì chắc sóng  phải to ghê lắm! Không hiểu chiều nay bọn mình làm thế nào mà về nhỉ?  Chẳng sợ! Lúc nãy, Annie đã hỏi và Claude đã bảo là bão kiểu này thường  không kéo dài mà!” 
  Cậu bèn ra khỏi toà lâu đài và trèo lên  một bức tường đổ. Trèo được lên rồi, cậu đứng thẳng, nhìn ra biển; cảnh  tượng cậu trông thấy thật vượt xa tất cả những gì cậu có thể tưởng tượng  ra. 
  Những ngọn sóng trông như những bức tường  nước vĩ đại màu xanh xám. Chúng tấn công vào các vách đá bao quanh đảo  Kernach và bọt sóng tung lên, màu trắng sáng lấp lánh trong bầu trời  giông bão. Những ngọn sóng đập vào các vách đá mạnh đến nỗi Francois cảm  thấy bức tường rung lên dưới chân mình. 
  Cậu bé đứng im một lát, chiêm ngưỡng vẻ  đẹp hùng vĩ đó. Có lúc cậu cũng nghĩ không biết biển cả có khi nào đó  làm ngập cả hòn đảo đi không. Những nghĩ đi nghĩ lại, cậu tự bảo nếu  việc đó xảy ra thì đảo đã bị ngập từ đời tám hoánh nào rồi. Cậu cứ đứng  im ngắm nghía mãi, bỗng nhiên trông thấy trên sóng có một vật gì rất lạ… 
  Vật đó hiện rõ trên mặt biển, bên ngoài  vành chắn sóng, đang bị sóng giồi lên giồi xuống. Đó là một đám màu  thẫm, hình như là mới từ đáy biển hiện lên và đang cố sức giữ cho thăng  bằng trên biển động. Không biết cái gì đấy nhỉ? 
  Francois tự nghĩ “Chẳng lẽ lại là một cái  tàu sao?”. Cậu bé bỗng cảm thấy tim mình đập mạnh, mắt cậu cố giương  hết sức để chọc thủng màn mưa và nhìn qua ngọn sóng. “Không, không thể  là một cái tàu được, nhưng mà cái của này trông cũng giống một cái tàu.  Nếu là cái tàu thực thì thật là bất hạnh. Nhất định những người trên tài  không thể thoát khỏ trận bão kinh khủng này.” 
  Cậu cứ đứng một lúc lâu theo dõi vật lạ.  Cái đám màu sẫm lại hiện lên trên một ngọn sóng, rồi lại biến mất trong  một vực thẳm. Francois quyết định phải báo cho các em biết; cậu chạy vội  về gian phòng vẫn còn ấm hơi lửa. Cậu kêu to lên: 
  -         Claude! Mick! Annie! Trên mặt  biển có cái gì rất lạ nổi lên phía ngoài các mỏm đá nhọn và ở ngoài khơi  đảo này. Trông giống như một cái tàu, nhưng hình như cũng không phải là  một cái tàu! Nhanh lên, ra mà xem này! 
  Ba đứa trẻ nhìn Francois một cách ngạc  nhiên rồi đứng vụt dậy. Claude vội vàng vứt thêm vào đống lửa mấy cành  củi nhỏ để giữ lửa khỏi tắt rồi mới chạy theo mấy đứa kia. 
  Bên ngoài, trời vẫn còn mưa nhưng cơn bão  có vẻ đã dịu dần. Những ánh chớp thưa dần đi và những tiếng sấm rền,  nghe ngày càng xa. Francois đưa cả bọn đến gần bức tường trước đó cậu đã  trèo lên để xem biển. 
  Ba đứa trẻ cũng trèo lên theo và tò mò  ngắm nhìn biển nước mênh mông. Mới đầu, chúng chỉ trông thấy những ngọn  sóng khổng lồ màu xanh xám đang ào ào chạy từ chân trời xa tắp đến tấn  công vào đất liền. Sóng tung lên trên các mỏm đá và nhảy lên đảo như thể  muốn nhấn chìm cả hòn đảo xuống biển. Annie níu chặt lấy tay Francois,  em cảm thấy hoang mang lo sợ. 
  Francois gào lên để át tiếng sóng: “Cứ  yên trí, Annie đừng sợ! Hãy nhìn ra phía kia kìa… chỉ một hay hai phút  nữa thôi là em sẽ thấy một cái này rất lạ…” 
  Bốn cặp mắt đều hướng ra phía tay chỉ.  Mới đầu chúng chẳng nhìn thấy gì vì sóng to quá chắn hết cả mọi hướng  nhìn. Bỗng nhiên, Claude dường như trông thấy một cái gì đó. Em kêu lên: 
  -         Trời đất ơi, có một cái tàu  thật! Đúng là một cái tàu! Cái tàu ấy đang bị đắm hay sao thế? Một cái  tàu thật… Không phải một cái thuyền buồm, hay một cái tàu đánh cá bình  thường! 
  Cô bé Annie tội nghiệp rên rỉ: “Ôi, miễn là không có ai còn ở trên tàu!” 
  Bốn đứa trẻ tiếp tục theo dõi con tàu  đang di chuyển; Dagobert cũng nhìn thấy, nó liền sủa ông ổng. Con tàu kỳ  lạ nghiêng ngả trên sóng sang trái, sang phải, mà hình như những con  sóng lại đưa nó lại gần hòn đảo. 
  Francois tiên đoán: 
  -         Nó sắp va phải những mỏm đá nhọn vỡ tan ra bây giờ!… Trông kìa, nó đang lao thẳng đến các mỏm đá! 
  Em vừa nói xong thì con tàu kêu lên răng  rắc một cách thê thảm và chạy thẳng lên đập vào những mỏm đá nhọn hoắt ở  phía tây nam hòn đảo. Nó đứng đó, mỗi khi có ngọn sóng lớn nào ào đến  phía dưới và nâng nó lên thì nó lại lắc lư nhẹ nhàng. Claude nói: 
  -         Thế là nó đã phải đứng yên rồi  đó, mình chắc là nó không thể cựa được nữa đâu. Thuỷ triều sắp xuống, cà  cái tàu sẽ bị mắc cứng vào đá thôi. 
  Ngay lúc đó, một tia nắng nhàn nhạt bất ngờ ló ra khỏi đám mây rồi lại tập tức tắt ngay. 
  -         Tuyệt! – Mick kêu lên phấn khởi  – Thời tiết có vẻ muốn đẹp trở lại rồi. Chúng mình sắp có thể hong khô  quần áo và sưởi nắng… Chúng ta có lẽ cũng có thể lại gần xem cái tàu tội  nghiệp kia nó giống cái gì. Ôi! Francois, em mong là không còn ai ở  trên tàu! Em mong là đoàn thuỷ thủ đã kịp tháo chạy và hiện nay đang ở  nơi an toàn nào đó trên đất liền. 
  Những đám mây tụ bắt đầu tan dần, gió đã  thôi không thổi thành cơn bão nữa mà trở thành một làn gió heo may, tuy  còn khá mạnh. Một lúc sau, mặt trời ló ra lâu hơn lần trước, và bọn trẻ  sung sướng hưởng những tia nắng ấm nóng. Bọn chúng không thôi ngắm nghía  chiếc tàu mắc vào những mỏm đá. Bỗng nhiên, một tia nắng chiếu thẳng  vào cái tàu và làm nó sáng rõ lên. Francois nói: 
  -         Cái tàu này trông kỳ lạ thật.  Đúng đó, mình thấy nó có vẻ rất kỳ lạ. Mình chưa trông thấy cái tàu nào  giống như nó bao giờ. 
  Claude cũng nhìn cái tàu đắm một cách  ngạc nhiên. Bỗng nhiên đôi mắt xanh của cô sáng lên, cô quay lại các  anh, và bọn này ngạc nhiên không hiểu sao mắt cô lại sáng long lanh như  thế. Cô bé có vẻ rất xúc động, muốn nói với các anh điều mình mới phát  hiện ra, nhưng không nói ra lời. 
  Francois cầm lấy tay cô bé và hỏi: 
  -         Thế nào, có chuyện gì đấy em? 
  Claude kêu lên bằng một giọng đầy phấn hứng: 
  -         Francois… ôi Francois… đó là  cái xác tàu của mình! Cậu có hiểu là cái gì đã xảy ra không? Trận bão đã  làm con tàu long ra khỏi nền cát ở dưới đáy biển và tàu lại nổi lên mặt  nước. Thế là sóng giồi nó lên các mỏm đá. Mình nói chắc chắn đó là cái  xác tàu của mình! 
  Bọn trẻ xác nhận rất nhanh Claude nói có  lý. Đúng là cái tàu cổ bị đắm bây giờ đã nổi lên, chẳng trách trông nó  rất kỳ lạ. Đó là một cái tàu từ thời cổ có hình dáng rất đặc biệt. Đúng  là cái xác tàu của Claude, nổi lên từ những tầng sâu, ở đó nó đã ngủ yên  từ đời nảo đời nào và bây giờ lại mắc kẹt vào đá ngay gần chúng. 
  Francois sướng như điên, kêu lên: 
  -         Claude! Bao giờ có thể được,  chúng mình sẽ cho ca-nô xuống nước và chèo đi xem thật gần xác tàu. Bây  giờ có muốn vào bên trong xem có lẽ cũng dễ dàng. Chúng mình sẽ đi xem  nó từ đầu đến cuối và biết đâu chúng mình lại chẳng tìm ra số vàng đã  mất. Ôi! Claude!   
Chương 7 – Trở về biệt thự Hải Âu   Bốn đứa trẻ vì quá ngạc nhiên nên im lặng  một lúc lâu không nói thêm lời nào. Bọn chúng không thể rời mắt khỏi  cái xác tàu và tự hỏi không hiểu chúng sẽ tìm thấy gì ở bên trong.  Francois bỗng nắm tay Claude thật chặt: 
  -         Có phải thật tuyệt không Claude? Ôi! Claude, thật là một điều lạ kỳ, em có thấy thế không? 
  Claude tiếp tục nhìn xác tàu, vẫn im lặng. Một lát sau mới khẽ thở dài: 
  -         Không hiểu sau khi nổi lên mặt  nước, cái xác tàu có còn là của mình nữa không? Mình không hiểu có phải  các xác tàu đều thuộc nhà nước quản lý hay không? Cái tàu đắm này thời  trước kia là của riêng gia đình nhà mình, chẳng ai nghĩ đến nó khi nó  còn chìm sâu dưới nước… Nhưng bây giờ, khi nó lại nổi lên mặt nước rồi  thì anh bảo người ta có còn để nó cho em không? 
  Mick góp ý: 
  -         Có gì đâu, đơn giản lắm, đừng nói chuyện này với ai hết! 
  Claude lầu bầu: 
  -         Cậu đừng ngốc như vậy. Rõ ràng  bất cứ người đánh cá nào lảng vảng đến gần chỗ này cũng sẽ trông thấy  ngay nó và sẽ nói chuyện cho người khác biết. Chẳng mấy lúc mà tất cả  mọi người sẽ biết chuyện. 
  -         Vậy thì chúng mình phải đi thám  thính cái tàu cổ này nhanh nhanh trước khi người khác biết mà trèo lên  nó. – Mick hăng hái góp ý – Hiện nay chưa ai biết ngoài chúng ta. Có lẽ  chúng mình có thể trèo lên tàu sau khi thuỷ triều xuống đấy nhỉ! 
  -         Cậu đừng tưởng dễ – Claude nói –  Không thể nào đi bộ ra chỗ tàu mắc cạn được. Có thể đi ca-nô đến gần  nhưng trong lúc này vẫn còn rất nguy hiểm: biển còn đang động mạnh. Dù  thuỷ triều xuống, trời bão như thế này, điều mong muốn đó cũng sẽ nguy  hiểm, mình nói thật đấy! 
  Francois gợi ý: 
  -         Nếu vậy thì tại sao sáng mai,  chúng ta không thể quay lại sớm được? Mình nghĩ rằng từ giờ đến lúc đó  cũng chưa có ai lảng vảng đến đây. Mình cho rằng nếu chúng mình là những  người đầu tiên trèo lên tàu, thì sẽ tìm thấy một cái gì đó… nếu còn có  cái để tìm. 
  -         Có thể được. – Claude đồng ý –  Mình đã nói với các cậu là nhiều thợ lặn đã lặn xuống và tìm kiếm trong  xác tàu kỹ hết sức, nhưng mình nghĩ rằng kiểu tìm tòi như vậy ở dưới đáy  biển không dễ dàng gì lắm, có thể có cái đáng tìm mà không thấy… Tất cả  những chuyện này mình như thấy trong mơ, mình không thể tưởng tượng nổi  cái xác tàu của mình lại có thể nổi lên mặt nước như vậy! 
  Mặt trời bây giờ đã lộ hẳn ra, quần áo ẩm  ướt của bọn trẻ bắt đầu khô, một làn hơi nhẹ bốc từ những áo len, quần  soóc… và cả từ bộ lông của Dagobert. Trái với bọn trẻ, con chó không có  vẻ thích thú lắm với sự xuất hiện của cái xác tàu, nó vừa gầm gừ vừa  nhìn ra biển. Claude xoa đầu nó và nói: 
  -         Sao mày ngốc thế hở Dago! Có gì mà sợ. Đó chỉ là một cái tàu cũ thôi. 
  Annie cười phá lên: 
  -         Có lẽ nó tưởng đó là một con cá  voi chắc! Ôi! Claude ơi! Thật là một ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời  mình! Thật không thể làm cách nào lấy ca-nô và bơi ra gần cái xác tàu  được hả cậu? 
  -         Không thể được. Chính mình có  phải không muốn ra đâu cơ chứ! Nhưng không thể nào được. Trước hết, theo  mình, hình như cái vỏ tàu cũng chưa thật bám chắc vào đá, biết đâu khi  thuỷ triều xuống, nó lại chẳng rời ra. Mình thấy mỗi khi có một ngọn  sóng to ập vào thì nó lại lắc lư. Cho nên bây giờ trèo ngay vào thì còn  đang nguy hiểm. Vả lại mình không muốn ca-nô của mình bị va vào đá mà vỡ  tan ra, nếu chúng mình không cẩn thận thì rất có thể xảy ra như vậy.  Không được, Annie ạ, phải đợi đến ngày mai thôi. Ý cậu rất hay, Francois  ạ. Mai chúng mình sẽ tìm cách ra đây thật sớm, còn từ giờ đến đó phải  im lặng. Khi mà người lớn đã biết chuyện, là thể nào họ cũng cho rằng  chỉ có người lớn mới có quyền thám thính trong cái xác tàu cho mà xem. 
  Bọn trẻ tiếp tục ngắm nghía cái các tàu  một lúc nữa rồi quay lại đi xem đảo. Đảo Kernach không lấy gì làm rộng,  nhưng trông rất đặc biệt với bờ biển đá nhấp nhô, bến cảng bé nhỏ kín  đảo, với toà lâu đài cổ đổ nát, với đám chim huyên náo ầm ĩ và đám thỏ  rừng vui vẻ chạy lung tung khắp chốn. 
  Annie thủ thỉ với Claude: 
  -         Mình yêu chỗ này lắm. Mình yêu  nó thật đấy! Không thể nói gì hơn được. Hòn đảo của cậu có kích thước  vừa đủ để có thể gọi được là hòn đảo. Những đảo rộng quá làm cho người  ta không có cảm tưởng là đang ở trên đảo. Cậu có hiểu mình nói gì không?  Lấy ví dụ như nước Anh mà xem. Đó là một hòn đảo nhưng những cư dân  trên đó không biết mình đang ở trên đảo nếu không có người nói cho họ  biết. Còn hòn đảo của cậu thì không thể lừa ai được bởi quay phía nào  cũng nhìn ngay thấy biển. Mình chưa bao giờ thấy cái gì đẹp hơn cái đảo  này! 
  Nghe Annie nói như vậy, Claude thấy trong  lòng vui sướng lạ lùng. Trước kia, cô rất hay đến đảo, nhưng lúc nào  cũng chỉ đi một mình với Dagobert. Cô đã tự hứa với mình là không bao  giờ đưa người thứ hai nào đến giang sơn của cô, cô cho rằng có người lạ  sẽ làm cho hòn đảo của cô mất giá trị. Nhưng cô đã tự bỏ lời hứa, đã đưa  các anh chị em họ đến thăm giang sơn kỳ ảo của cô và, trái với điều cô  nghĩ, bây giờ giang sơn này của cô lại càng tăng thêm giá trị biết bao.  Lần đầu tiên, Claude cảm thấy rằng khi có niềm vui mà có người chia xẻ  thì niềm vui đó được tăng lên gấp bội. 
  Claude nói: 
  -         Chúng ta hãy đợi một chút cho  sóng lặng bớt rồi trở về nhà. Mình thấy có vẻ như sắp mưa và chúng ta  lại sắp bị ướt nữa. Nhưng có về đến nhà cũng phải quá giờ ăn trưa: chúng  ta phải chèo ngược sóng đó. 
  Suốt cả buổi sáng đó có bao nhiêu chuyện  đáng xúc động xảy ra, bây giờ bọn trẻ cũng thấy hơi mệt. Trong lúc chèo  trở về, chúng ít nói hẳn đi. Chúng thay nhau chèo thật lực, chỉ trừ  Annie còn nhỏ quá không đủ sức chống với sóng đánh ngược. Vừa đi xa khỏi  hòn đảo, thỉnh thoảng chúng quay lại nhìn, nhưng không thể trông thấy  được xác tàu, vì nó ở phía tây đảo, quay mặt ra biển khơi. 
  Francois nói: 
  -         Thật may mà nó lại ở về phía  bên đó. Như vậy thì từ đất liền nhìn ra, không ai có thể trông thấy nó  được. Sáng mai chúng mình sẽ quay lại thám thính nó thật sớm, vào lúc  chưa có một người đánh cá nào ra biển. Mình đề nghị chúng ta phải dậy từ  sớm tinh mơ. 
  Claude gật đầu: 
  -         Đúng, phải dậy sớm như vậy.  Nhưng các cậu có thể dậy sớm được không? Với mình, thì thỉnh thoảng mình  đã có ra đi từ lúc mờ đất, nhưng mình chỉ sợ các cậu không quen. 
  Francois nói: 
  -         Cậu đừng lo, bọn mình sẽ dậy  đúng giờ… A, sắp đến rồi đây này, mình thích quá, các cậu biết không?  Chèo thuyền rã cả cánh tay rồi! Và mình lại thấy đói nữa, có lẽ mợ  Cécile bày món gì lên bàn, mình cũng chén hết sạch. 
  -         Oa! – Dagobert sủa lên, ra ý đồng tình với sự sẵn sàng chén như vậy. Claude nhảy ra khỏi ca-nô và nói: 
  -         Mình còn phải mang Dagobert đến  cho Jean Jack. Francois, cậu hãy kéo ca-nô lên bãi cát, đợi mình một  phút, mình về ngay. 
  Một lúc sau, bốn đứa trẻ ngồi quanh bàn  ăn trưa. Mợ Cécile chia cho mỗi đứa một bát sô-cô-la nóng hổi ăn với  bánh mì phết bơ và một cái bánh ga-tô to tướng làm đặc biệt để thết các  cậu. Các vị khách thấy cái bánh ngon quá, đến nỗi không để lại trên đĩa  lấy một mảnh vụn nào cả. Chúng tuyên bố chưa bao giờ được ăn thứ bánh gì  ngon hơn thế. 
  Mợ Cécile đợi cho bọn chúng lửng dạ rồi mới hỏi: 
  -         Thế nào, các con hôm nay chơi có vui không? 
  Annie vội vã trả lời: 
  -         Ô, có đấy ạ! Chúng cháu đã được chứng kiến một trận bão tuyệt đẹp và chúng cháu đã thấy nó đổ lên những mỏm đá… 
  Francois và Mick đá cho Annie mỗi đứa một  cái ở dưới gầm bàn. Claude cũng định đá cho nó một cái, nhưng nó ngồi  hơi xa thành ra đành chịu. Annie tức giận nhìn hai anh và nước mắt ứa  ra. 
  Mợ Cécile vội hỏi: 
  -         Làm sao thế cháu? Annie, có đứa  nào lại đá cháu phải không? Mợ nói thật, các cháu ạ, mợ không thích cái  kiểu như thế, nếu các cháu cứ làm thế mãi, thì bé Annie tội nghiệp sẽ  tím bầm hết cả chân cho mà xem! Thế nào, cháu yêu của mợ, cháu thấy cái  gì đổ lên các mỏm đá? 
  -         Cháu thấy các ngọn sóng cao như  mái nhà, – Annie vừa trả lời vừa nhìn bọn trẻ một cách đắc thắng. Nó  hiểu rằng cả ba đứa đều nghĩ là nó sẽ trả lời: “thấy cái xác tàu của  Claude”, nhưng thực ra nó không định nói thế. Bọn chúng hiểu nhầm nên đã  đá oan nó mất mấy cái. 
  Francois xin lỗi: 
  -         Em tha lỗi cho anh vì đã làm em đau, chân anh nó buột ra bất ngờ. 
  -         Chân anh cũng vậy. – Mick nói. –  Đúng thế, mợ Cécile ạ, chúng cháu đã được chứng kiến một trận bão kinh  khủng đổ lên trên đảo. Những con sóng chạy từ chân trời đến, to đến nỗi  chẳng mấy lúc chúng đổ đầy cái bến cảng bé tí. Chúng cháu phải kéo cái  ca-nô lên mãi tận trên đỉnh dốc đá, nó mới khỏi bị sóng cuốn trôi. 
  Annie có vẻ sung sướng nói tiếp: 
  -         Thực ra, cháu cũng không sợ bão lắm. Dù sao, cháu cũng chỉ sợ bằng nửa Da… 
  Lần này, không ai còn nghi ngờ gì là  Annie đang sắp sửa nói đến Dagobert. Bởi vậy ba đứa kia vội vàng nói  chặn, cướp ngang lời nó, mà ba đứa cùng nói một lúc. Francois không nhịn  được, lại tiếp tục đá cho em một cái nữa dưới chân bàn. Annie kêu: 
  -         Ái! 
  Francois kêu to: 
  -         Ở trên đảo có rất nhiều thỏ không biết sợ người, mợ ạ. 
  -         Chúng cháu trông thấy cả chim hải âu. – Mick hét lên. 
  Còn Claude thì thêm: 
  -         Còn bọn quạ thì quang quác đến nhức đầu nhức óc. 
  Mợ Cécile bật cười: 
  -         Chính bọn cháu cũng làm ầm lên  như tất cả bầy chim họp lại. Ai lại cả ba đứa nói một lúc như vậy. Thế  nào, ăn xong chưa? Nào bây giờ đi rửa tay nhanh lên. Đúng rồi, Claude,  mẹ biết tay con dính đầy mứt mà. Chính mẹ làm bánh mà lại, nên mẹ biết  rất rõ là lúc nhồi mứt quả vào thì tay bẩn như thế nào. Sau đó, các con  nên sang phòng bên cạnh chơi cho yên lặng, vì trời đang mưa nên không ra  ngoài được đâu. Nhưng Claude phải chú ý đừng để các anh làm phiền đến  bố, bố đang làm việc. 
  Bọn trẻ đi rửa tay. Francois nói rít qua kẽ răng: 
  -         Con bé ngốc này, tí nữa thì làm lộ bí mật những hai lần liên tiếp. 
  Annie phản đối: 
  -         Không phải thế. Lần đầu, em có định nói về cái xác tàu đâu nào… 
  Claude ngắt lời: 
  -         Thà cậu nói lộ bí mật về cái xác tàu còn hơn nói về Dagobert. Dẫu sao, phải nói là cậu có một cái lưỡi khiếp thật. 
  Annie công nhận, vẻ hối hận: 
  -         Đúng vậy thật! Thôi từ giờ trở  đi, có lẽ trong các bữa ăn, mình không mở miệng ra nữa thì hơn. Tại mình  yêu Dagobert quá nên mình cứ thích nói đến nó. 
  Sau đó, bọn trẻ sang chơi ở buồng bên cạnh. Trông thấy một cái bàn, Francois lật nó xuống đánh ầm một cái: 
  -         Chúng ta sẽ chơi cái xác tàu này. Tưởng tượng đây là một cái tàu, chúng ta sẽ vào thám thính nó. 
  Cánh cửa đằng sau bỗng mở toang, một ông giận dữ bước vào. Đó là bố của Claude. Cậu Henri hỏi: 
  -         Ầm ĩ lên như vậy là nghĩa thế nào? Claude! Có phải con lật ngược cái kia như vậy không? 
  Francois thẳng thắn nhận lỗi: 
  -         Thưa cậu, đó là cháu đấy ạ! Cháu quên mất rằng cậu đang làm việc. 
  -         Chúng bay cứ tiếp tục như vậy  đi rồi sẽ bị phạt cả bốn đứa suốt ngày mai không được ra khỏi phòng.  Claudine! Chú ý nhắc các anh chơi se sẽ một tí. 
  Ông Dorsel quay vào đóng cửa lại. Bọn trẻ sợ hãi nhìn nhau. Francois nói: 
  -         Bố cậu có vẻ nghiêm khắc quá nhỉ! Tại mình làm ầm quá đấy mà! Thôi từ giờ phải chú ý hơn mới được. 
  Claude góp ý: 
  -         Chúng ta tìm cách nào chơi cho  yên lặng, nếu không bố mình sẽ phạt, sẽ bắt chúng mình ở trong phòng  suốt cả ngày mai trong khi đang nóng lòng muốn đi xem cái xác tàu quá. 
  Nghĩ đến thế đã thấy sợ rồi. Annie yên  lặng đi kiếm một con búp bê và chơi với nó. Lúc ở nhà ra đi, cô đã tìm  cách mang theo một số lượng đáng kể các “cô con gái” của mình. 
  Francois lấy một quyển sách đọc. Claude  thì tiếp tục đẽo một miếng gỗ thành hình một chiếc tàu. Còn Mick thì  chẳng làm gì cả, chỉ nằm dài trên một cái ghế và suy nghĩ đến cuộc đi  chơi sáng ngày mai. Bên ngoài, mưa rơi không ngớt, nhưng bọn trẻ nghĩ  rằng đến sáng mưa sẽ tạnh. 
  Mick vừa ngáp vừa nói: 
  -         Chúng ta sáng mai phải dậy rất  sớm. Vậy mình đề nghị chiều nay đi ngủ sớm. Các cậu nghĩ thế nào? Hôm  nay mình chèo thuyền cũng thấy mệt. 
  Thông thường không đứa nào muốn đi ngủ  sớm, nhưng chiều hôm nay, nghĩ đến cuộc đi chơi sáng mai thì ai cũng náo  nức, vì ai cũng muốn thật khoẻ mạnh để bước vào cuộc phiêu lưu mới. 
  Annie bỏ búp bê xuống và nói: 
  -         Vả lại, nếu chúng ta đi ngủ sớm thi sẽ thấy thời gian không quá dài từ giờ cho đến sáng mai. 
  Nhưng Claude hơi băn khoăn: 
  -         Thế nhưng mẹ mình thấy chúng  mình bây giờ đã đi ngủ thì sẽ nghĩ thế nào? Mẹ mình sẽ nghĩ ngay là  chúng mình ốm. Không, không nên đâu, phải đợi ăn tối xong hãy đi ngủ,  lúc đó chúng mình sẽ nói là chúng mình chèo thuyền mệt. Vả lại sự thực  cũng là như vậy kia mà. Chúng mình ngủ cả đêm cũng đủ, sáng mai sẽ khoẻ  khoắn để đi thám thính xác tàu. Rồi các cậu sẽ thấy, sẽ rất là mê ly!  Không phải ai cũng có dịp được vào xem bên trong một cái tàu cổ bị đắm…  nhất là sau khi nó đã nằm rất lâu dưới đáy biển. 
  Theo lời khuyên của Claude, bọn trẻ vừa  ăn cơm xong là đi ngủ ngay. Mới có tám giờ tối, mà cả bốn đứa đã nằm im  trong giường, làm cho mợ Cécile rất ngạc nhiên. 
  Annie vừa nằm xuống giường đã ngủ tít, cả  Francois và Mick cũng vậy. Riêng Claude còn thao thức mãi không ngủ  được, cô nghĩ đến hòn đảo của cô, đến cái xác tàu và đến Dagobert yêu  quý. Trước khi ngủ thiếp đi, cô nghĩ: 
  -         Mình sẽ mang theo Dagobert, không thể để nó ở nhà được. Cũng phải cho nó tham gia vào cuộc phiêu lưu này chứ!   
Chương 8 – Thám thính xác tàu   Sáng hôm sau, Francois dậy sớm nhất. Cậu  mở mắt đúng vào lúc mặt trời hiện lên ở đằng đông, trên đường chân trời  và bắt đầu toả những tia nắng vàng dịu ra khắp bầu trời. 
  Francois nằm im một lúc, mắt nhìn lên  trần nhà rồi bỗng sực nhớ lại tất cả mọi việc xảy ra ngày hôm trước. Thế  là cậu ngồi bật dậy và gọi khẽ nhưng cố sức nói thật rõ ràng: 
  -         Dậy, Mick! Dậy! Chúng ta sẽ đi thám thính xác tàu! Nào dậy đi thôi! 
  Mick cựa quậy, mở mắt và mỉm cười với  anh. Cậu cảm thấy hết sức sung sướng. Chẳng phải là sắp bắt đầu một cuộc  phiêu lưu kỳ diệu đó sao? Cậu nhảy ngay xuống đất và chạy đến phòng bọn  con gái, khẽ mở cửa. Hai cô bé vẫn còn đang ngủ, Annie nằm cuộn tròn  trong chăn như một con sâu. 
  Mick lay lay Claude và thụi cho Annie một  cái. Hai cô bé tỉnh dậy và ngồi trên giường. Mick thì thào: “Dậy nhanh  lên, trời sáng rồi! Chúng mình phải nhanh lên thôi!” 
  Đôi mắt xanh của Claude sáng rực trong  khi cô mặc quần áo, còn Annie thì vội vã mặc một cái áo tắm, một cái  quần ngắn và đi đôi dép cao su. Ai chuẩn bị cũng nhanh như điện cả. Khi  mọi người đã ra khỏi phòng, Francois dặn: 
  -         Bây giờ phải đi cho cẩn thận,  đừng để các bậc thang kêu cót két. Bằng bất kỳ giá nào, không ai được  hắt hơi hoặc là cười đấy. 
  Dặn thế cũng không thừa vì Annie rất hay  cười, điều đó có thể làm cho dự định của chúng thất bại. Nhưng may lần  này cô bé đã cố giữ không cười và cũng cẩn thận bước xuống thang êm ả  như các anh chị. Xuống hết thang, lại còn phải mở cửa. May cái cửa cũng  không kêu, bọn trẻ vội chạy ra vườn, còn Francois trước khi chạy theo đã  đóng cửa lại cẩn thận. Cửa vườn khi mở thường rít lên ken két, cho nên  bọn trẻ thấy tốt hơn hết là trèo qua. 
  Mặt trời, tuy hãy còn thấp nơi chân trời,  đã toả sáng rực rỡ, những tia nắng ấm dễ chịu. Bầu trời xanh ngắt một  màu, làm cho Annie có cảm tưởng là trời vừa được rửa sạch. Cô bé kêu  lên: 
  -         Cứ y như là trời mới từ hiệu giặt trở về vậy! 
  Bọn trẻ cười rộ. Annie nói ngộ nghĩnh tệ!  Nhưng kể ra Annie nói cũng đúng. Bầu trời trông như mới tinh… những đám  mây hồng trên bầu trời xanh… biển thì êm ả và mát mẻ vô cùng… Không thể  tưởng tượng nổi ngày hôm trước mới có một trận bão đã làm đảo lộn tất  cả! 
  Claude kéo ca-nô xuống nước, rồi đi đón  Dagobert trong khi bọn con trai xếp các bơi chèo vào ca-nô. Cậu bé dân  dài Jean Jack rất ngạc nhiên thấy Claude đến sớm như vậy, cậu cũng đang  chuẩn bị đi biển với bố. Jean Jack cười rất cởi mở với Claude và hỏi: 
  -         Cậu Claude, cậu sắp đi chơi đấy  à? Trời ơi, hôm qua bão ghê quá, cậu thấy không? Đã có lúc tôi tưởng  các cậu bị bão ở giữa biển cơ đấy! 
  Claude trả lời: 
  -         Kể ra thì cậu cũng không nói sai lắm đâu. Nào Dago, đi thôi! 
  Dagobert rất sung sướng được cô chủ nhỏ  sớm như thế, mừng quá, nó nhảy như choi choi bên cạnh Claude, có lúc làm  Claude vướng nó suýt ngã. Ra đến bờ biển, thấy ca-nô, nó nhảy tót ngay  vào trong, ngồi chồm chỗm phía sau, lưỡi thè lè, đuôi vẫy rối rít. Annie  nhìn nó, lẩm bẩm: 
  - Không hiểu sao cái đuôi nó còn dính  được mãi với người nó. Cứ vẫy rối rít như thế kia suốt cả ngày, thế nào  cũng có phen rụng lúc nào không hay. 
  Bọn trẻ cho ca- nô đi thẳng ra đảo. Hôm  nay biển trong vịnh Kernach êm như nhung, thành ra bơi ca-nô trở thành  một thú vui khôn tả. Ca-nô đi vòng quanh đảo để cập đảo từ phía ngoài  khơi. 
  Và kia, cái xác tàu hiện ra, sừng sững đè  trên sóng. Bây giờ nó đã mắc cứng vào đá nên sóng đánh vào, nó cũng  không động đậy nữa. Nó nằm hơi nghiên trên đá, chiếc cột buồm vốn gãy,  lại vừa bị bão cuốn đi thêm một mẩu nữa, vươn lên như một cánh tay cầu  cứu. Francois hào hứng nói: 
  -         Cái xác tàu đây rồi, tội nghiệp  nó! Trông nó lại còn thảm hại hơn trước nữa. Các cậu có nhớ lúc bị sóng  đánh dạt lên đá, nó kêu lên ghê gớm như thế nào? 
  -         Chúng mình làm thế nào bơi đến  gần nó được nhỉ? – Annie vừa hỏi vừa e ngại nhìn những mỏm đá lởm chởm  vây quanh xác tàu. 
  Riêng Claude có vẻ vẫn bình tĩnh. Cô  thuộc lòng bờ biển xung quanh hòn đảo của cô, cùng những hiểm nguy ngầm  dưới biển và biết cách tránh chúng. Cô chèo luồn lách rất khéo léo và  đưa được thuyền vào sát gần xác tàu. 
  Từ dưới ca-nô, bọn trẻ ngước lên ngắm con  tàu cũ kỹ. Trông gần, tàu rất to, to hơn nhiều so với lúc nhìn nó dưới  nước. Vỏ tàu bị đủ các loại hà ốc bám, lẫn với rong rêu đủ thứ quấn  loằng ngoằng. Nó lại bốc mùi là lạ. Sườn tàu mới bị vỡ nhiều chỗ, do bị  va mạnh khi lao lên đá. Trên boong tàu cũng có nhiều lỗ hổng trông thấy  được vì tàu nằm nghiêng. Toàn cảnh nom có vẻ hoang vu buồn bã, nhưng bọn  trẻ cũng vẫn rất vui sướng được xem con tàu. 
  Claude cho ca-nô đến gần những mỏm đá đỡ chiếc tàu và nhìn chung quanh. Cô quyết định: 
  -         Chúng ta sẽ buộc ca-nô vào ngay  tàu, rồi chúng ta sẽ bám vào vỏ tàu mà lên. Chú ý này, Francois! Cậu  thử ném cái nút thòng lọng này lên mẩu gỗ thò ra phía trên kia, buộc vào  xem nó có đủ sức chịu đựng chúng ta trèo lên không. 
  Francois làm theo, kéo thử sợi dây thấy  mảnh gỗ còn chắc. Claude leo lên đầu tiên, nhanh nhẹn như một chú khỉ  nhỏ; Francois và Mick cũng leo lên được, riêng Annie thì phải giúp đỡ  một tí. Cả bọn đã ở trên boong tàu, mặt boong trơn như mỡ, mùi tanh nồng  nặc, làm cho Annie khó chịu. Claude lẩm bẩm: 
  -         Thế ra đây là boong tàu đây. Và kia chắc là cửa cầu thang để cho đoàn thủy thủ lên xuống. 
  Nó chỉ một lỗ hổng trên sàn, nhìn qua đó  còn thấy lờ mờ những bậc thang bằng sắt. Cả bốn đứa đều cúi nhìn xuống,  mắt căng ra chọc thủng màng tối. Claude nói: 
  -         Mình cho rằng cầu thang này còn  đủ chắc để chúng ta trèo xuống được. Mình sẽ xuống trước. Có ai mang  đèn pin đi không? Dưới này tối đen như mực. 
  Francois móc túi đưa cho Claude đèn của  mình. Cả bọn đều yên lặng. Không khí chung quanh có vẻ bao trùm bí hiểm.  Cả bọn cũng hơi sờ sợ. Không biết bên trong xác tàu sẽ có cái gì? 
  Claude bấm đèn và dũng cảm trèo xuống cửa  cầu thang, cả bọn thấy thế cũng theo xuống. Ánh sáng ngọn đèn nhỏ soi  rõ một quang cảnh kỳ lạ. Bên trong xác tàu có trần thấp lót bằng một lớp  gỗ sến rất dày. Bọn trẻ phải vừa đi vừa cúi thấp đầu, lần theo một lối  có lẽ ngày xưa là hành lang. Bên trái, bên phải, có thể đoán lờ mờ chỗ  những ca bin cũ, thực ra chẳng trông thấy cái gì rõ rệt, vì tất cả đã bị  tàn phá, rong rêu mọc trùm lên cả. Mùi xông ra còn kinh tởm hơn ở trên  boong, vì vừa lẫn lộn mùi gỗ mục với mùi rong rêu thối rữa. 
  Các nhà thám hiểm nhỏ tuổi vừa đi vừa  trượt trên sàn trơn như mỡ. Tuy vậy, cũng quan sát được một số thứ. Lòng  tàu thực ra cũng không rộng lắm như lúc đầu tưởng. Bên dưới các ca bin,  có một gian hầm rộng, chúng dùng đèn soi đi quét lại kỹ. Francois nói: 
  -         Mình nghĩ rằng ngày xưa người ta cất giữ các hòm vàng ở đây. 
  Nhưng than ôi, vàng đã biến mất rồi, và  chúng chẳng thấy gì ngoài nước và đàn cá bơi lội tung tăng. Chúng cũng  không thể xuống sâu hơn được, vì phần dưới đã ngập nước. Tuy nhiên, cũng  có thể khẳng định rằng không hề còn tí vàng nào vương vãi trên nền sàn  thủng tứ tung. Cũng có một vài chiếc thùng lớn trôi lềnh bềnh, nhưng nắp  đã mất từ lâu và lòng thùng trống rỗng! 
  Claude nói: 
  -         Những thùng này ngày xưa chắc  dùng để chứa nước ngọt, hoặc đựng thịt hay bánh dự trữ. Chúng mình quay  lại xem các phần khác trong tàu đi. Mình muốn xem lại chỗ trước kia là  các ca bin. Được ngắm nhìn chỗ nằm của những người cổ xưa thì thích thú  biết bao… Trông kìa, có mấy cái ghế gỗ, bao nhiêu năm rồi mà chúng vẫn  còn đấy… Ô kìa, nhìn sang bên này mà xem, trông như là những cái móc  đóng vào vách gỗ. Những móc này gỉ hết rồi, nhưng ngày xưa chắc dùng để  treo xoong nồi đấy. 
  Cuộc thám thính cái xác tàu vẫn tiếp tục.  Bọn trẻ chưa hết hi vọng. Chúng sục vào từng xó một, mong tìm ra những  hòm vàng kỳ diệu mà Claude đã nói chuyện với chúng, nhưng chẳng thấy một  cái hộp nhỏ nào hết, dù là hộp không. 
  Cuối cùng, chúng vào tới một ca bin rộng  hơn những cái trước một chút. Trong góc, thấy có một cái giường, trên  giường, một chú cua to tướng đang nằm, giương đôi mắt thô lố. Có một vài  dấu vết chứng tỏ đã có bàn ghế ở đây. Trông hình như trước có một cái  bàn kê sát giường nằm. Nhưng hiện nay cái bàn đó chỉ còn sót lại hai cái  chân cũng đã bị hà bám chặt. Có một vài cái kệ bằng gỗ, rong rêu bám  đầy, còn mắc lòng thòng trên vách gỗ. 
  Francois đoán: 
  -         Ca bin này chắc là của thuyền trưởng, vì nó rộng nhất. Kìa có cái gì trong góc kia? 
  Annie cầm lấy vật đó và nói: 
  -         Một cái chén cũ. Và đây là nửa  cái đĩa tách. Em tưởng tượng ông thuyền trưởng ngồi ở cái bàn này uống  một chén cà phê. Đúng lúc đó thì tai họa xảy ra… 
  Nhắc đến chuyện đắm tàu, bọn trẻ đứa nào  cũng bùi ngùi, chúng tự dưng cảm thấy khó thở trong gian phòng tối tăm  và hôi hám này, sàn thì trơn như đổ mỡ dưới chân chúng. Bản thân Claude  cũng cảm thấy giá cái xác tàu cứ nằm ở dưới đáy biển lại hoá hay. Cô  rùng mình và nói: 
  -         Thôi chúng ta đi đi. Mình không thích chỗ này lắm. Cũng có nhiều cái lạ đấy, nhưng mình cũng thấy sờ sợ thế nào ấy. 
  Bọn trẻ đang sắp sửa đi ra, thì Francois  cầm đèn lướt một lần cuối khắp gian phòng. Cậu sắp tắt đèn để đi theo  các em lên boong thì bỗng nhìn thấy một vật làm cho cậu dừng ngay lại.  Cậu nhìn thật kỹ rồi gọi: 
  -         Này! Hãy đợi một chút! Mình thấy có cái gì hình như cái tủ ở trong vách phòng. Thử xem bên trong có gì không? 
  Cả bọn quay lại và cùng nhau quan sát.  Quả nhiên có một cái gì như cái tủ đặt giữa lớp vách gỗ dày. Chính vì  nhìn thấy có lỗ khoá nên Francois mới chú ý: nhưng chỉ có lỗ khoá, không  có khoá. Francois lòng đầy hy vọng lấy tay cậy cánh tủ, nhưng không làm  sao lay chuyển nổi. Cậu nói: 
  -         Tủ khoá chặt rồi, chắc là trong có đựng cái gì quý lắm, kho vàng chẳng hạn. 
  Claude cũng lấy ngón tay thử mở nhưng  không được. Em nói: “Khoá gỉ hết rồi”. Em liền lấy trong túi ra một con  dao, mở lưỡi ra và lách vào khe tủ, ấn một cái, cánh cửa bật ra, mở  tung. Francois chiếu sáng lòng tủ và chúng nhìn thấy một cái ngăn, trên  để một vật rất lạ. 
  Đó là một cái hòm gỗ, ngâm lâu dưới nước,  gỗ đã phồng lên. Ngay bên cạnh có những thứ gì giống như những cuốn  sách, nhưng đã nát nhoét cả ra rồi và một vài dụng cụ đi biển, gỉ đến  nỗi không còn nhận ra là những thứ gì nữa. 
  Francois tuyên bố: 
  -         Trừ cái hộp ra, chẳng có gì đáng chú ý cả. 
  Mick nói: 
  -         Có thể những thứ để bên trong hộp cũng đã bị hỏng như các thứ khác. Chúng ta thử tìm cách mở xem sao. 
  Francois và Claude cùng góp sức bật cái nắp ra. Nắp hộp được chạm trổ tỉ mỉ và có ghi hai chữ đầu tên: H.K, 
  Mick nói: 
  -         Có lẽ đây là chữ đầu tiên của thuyền trưởng. 
  -         Không phải đâu! Claude kêu lên,  hai mắt bỗng long lanh sáng ngời. – Đó là hai chữ đầu tên của tổ ngoại  mình, đúng rồi! Mẹ mình vẫn nói đến cụ luôn. Cụ tên là Henri Kernach và  chiếc tàu này là của cụ. Cái hộp này chắc là hộp riêng của cụ. Mình cho  rằng cụ dùng để đựng những giấy tờ quan trọng riêng! Ôi! Làm thế nào mà  mở được hộp ra nhỉ? 
  Nhưng chỉ có một con dao của Claude thì không tài nào mở được hộp. Bọn trẻ đành chịu, và Francois cắp hộp vào nách mang về: 
  -         Về nhà, chúng mình sẽ lấy kìm  búa để mở nó. Cậu thấy không, Claude, cuối cùng, chúng mình cũng tìm  thấy một cái gì đó chứ! 
  Bốn đứa trẻ có cảm giác là chúng đã tìm  thấy một cái gì rất quý giá. Bao quanh hộp có một màn bí mật làm cho nó  càng có vẻ hấp dẫn. Không biết có tìm thấy gì ở trong không? Nếu có, thì  là cái gì? Chúng chỉ muốn bay ngay về nhà để khám phá ra điều bí mật  này. 
  Chúng trèo thang sắt và lên trên boong  tàu. Vừa ra đến ngoài ánh sáng, chúng thấy ngay là đã có nhiều người  phát hiện ra xác tàu. 
  Trông đám thuyền đang thi nhau bơi lại gần xác tàu, cái nào cũng muốn càng đến gần hơn càng tốt, Francois kêu lên: 
  -         Trời ơi! Có lẽ gần hết số thuyền đánh cá ở vịnh Kernach đều hẹn gặp nhau ở đây chắc! 
  Những người đánh cá đều sửng sốt ngắm xác tàu. Khi thấy bọn trẻ xuất hiện trên boong tàu, họ lớn tiếng gọi: 
  -         Hê! Hê! Này các cháu trên kia! Cái tàu này là tàu gì vậy? 
  Francois lấy tay khum vào miệng làm loa trả lời: 
  -         Đó là cái xác tàu. Trận bão hôm qua đã làm cho nó nổi từ dưới đáy biển lên đấy! 
  Claude cau mày, ra lệnh: 
  -         Thôi, không được nói thêm gì  với họ nữa. Đây là cái xác tàu của mình. Mình không muốn cho người ta  trèo lên lục lọi xác tàu của mình. 
  Francois im lặng, và, tuy tiếc không ở  được thêm trên tàu, cả bốn đứa lần lượt trèo xuống ca-nô. Chúng ra sức  chèo để có thể trở về càng nhanh càng tốt. Bởi giờ ăn trưa đã qua từ  lâu, có thể chúng sẽ bị mắng… Có thể cậu Henri nghiêm khắc sẽ phạt  chúng. Trong thâm tâm, chúng cũng không sợ bị phạt lắm. Bởi chúng đã  được vào thám thính cái xác tàu và mang về được một cái hộp có thể chứa…  ừ thì không phải rất nhiều thoi vàng, nhưng có thể chỉ một thoi thôi  chăng? 
  Quả nhiên, khi trở về đến biệt thự Hải  Âu, bọn trẻ bị mắng một trận nên thân. Và trong bữa ăn trưa, chúng chỉ  được uống cà phê sữa, ăn bánh phết bơ, không được ăn mứt, bởi vì cậu  Henri đã tuyên bố rằng những đứa trẻ về ăn trưa muộn đến thế chắc là  không đói lắm. Bữa ăn trưa hơi buồn. 
  Trước khi về, Claude đã đem Dagobert gửi  cho Jean Jack. Nói đúng ra, nó chỉ buộc con chó trong sân nhà cậu bé dân  chài, còn chính Jean Jack thì chưa về. Chính mắt Claude đã trông thấy  Jean Jack cùng với bố đứng trong thuyền gần cái xác tàu, đang nhìn như  muốn nuốt lấy nó. 
  Trước khi ăn, bọn trẻ đã cẩn thận mang cái hộp quý giá vào cất dưới gầm giường, trong buồng bọn con trai. 
  Nếu Claude biết rằng ngay lúc đó, Jean Jack nói gì với bố nó, thì Claude sẽ làm gì? Cậu bé dân chài đó nói với bố rằng: 
  -         Con có một ý kiến hay lắm!  Chúng ta sẽ kiếm tiền bằng cách chở những người đi nghỉ mát đến đây xem  cái xác tàu. Bố thấy có được không? 
  Từ đó cho đến chiều, đã có hàng chục  người đi cá thuyền đánh cá ra ngắm xác tàu. Khi Claude biết chuyện đó,  nó nổi lên một cơn tức giận dữ dội. Nhưng chao ôi, biết làm thế nào  được. Nói cho cùng, đúng như Francois góp ý với nó, làm thế nào để bắt  người khác có mắt mà không được nhìn?   
Chương 9 – Bí mật nằm trong cái hộp   Việc đầu tiên của bọn trẻ sau bữa ăn trưa  là đi lấy cái hộp quý báu và mang ra tận cuối vườn, ở đó có một cái lều  chứa dụng cụ làm vườn. Bọn chúng nóng lòng muốn bật khoá cái hộp. Tất  cả đều quả quyết là cái hộp phải chứa một kho vàng. 
  Francois nhìn chung quanh, tìm một đồ  dùng thích hợp. Nó tìm thấy một cái đục và cho rằng nhất định cái đục  này sẽ được việc. Chao ôi! Chẳng được gì hết, cái đục còn trượt ra ngoài  và đam cả vào tay đau điếng. Nó thử dùng một số dụng cụ khác, cũng  chẳng ăn thua gì. Cả bốn anh em nhìn nhau chán ngán. Cuối cùng, Annie có  ý kiến: 
  -         Em thấy làm như thế này. Chúng  mình trèo lên gác và thả cho hộp rơi từ trên cao xuống, hộp sẽ vỡ tung  ra. Em chắc là như vậy. 
  Francois gật đầu: 
  -         Ý kiến đó hay đấy! Thử xem sao. Chỉ có một điều là sợ những thứ đựng trong đó bị hỏng mà thôi. 
  Nhưng nghĩ mãi cũng chẳng có cách nào  hơn. Francois mang hộp trèo lên tận buồng giáp mái nhô đầu ra cửa sổ. Ba  đứa đứng dưới vườn, ngước lên chờ đợi. Francois lấy hết sức ném cái hộp  từ trên xuống. Cái hộp rơi xuống hàng hiên đúng ngay cửa giữa, nghe  “choang” một tiếng. 
  Cửa giữa mở ngay ra lập tức và cậu Henri lao ra như một viên đại bác. Cậu kêu lên: 
  -         Chúng bay đang làm gì vậy? Tao  mong là chúng bay không ngu ngốc đến nỗi ném vào đầu nhau những đồ từ  trên gác xuống chứ? Nhưng cái gì trên đất kia? 
  Bọn trẻ nhìn cái hộp. Lớp vỏ gỗ đã vỡ tan  tành, để lộ ra một cái hộp bằng kim loại, có lẽ không thấm nước. Nếu  trong hộp có gì, thì chắc không bị ảnh hưởng trong thời gian ngâm dưới  nước. Mick chạy ra nhặt cái hộp lên. 
  Cậu Henri quát: 
  -         Tao hỏi là cái hộp gì ở dưới đất kia mà? 
  Mick đỏ bừng mặt, ấp úng: 
  -         Dạ, đây…đây là cái hộp của chúng cháu… 
  -         Đã vậy thì tao tịch thu. Tại  sao tao đang làm việc mà chúng bay lại làm ầm ĩ lên như vậy? Đưa cái hộp  ấy đây. Chúng bay lấy cái hộp này ở đâu? 
  Không ai trả lời. Cậu Henri lại càng cau  mày thêm nữa, đến nỗi kính của cậu suýt rơi khỏi mắt. Cậu quắc mắt nhìn  Annie đứng ngay cạnh: 
  -         Chúng bay lấy ở đâu? Nói! 
  Cô bé sợ chết khiếp, ấp úng: 
  -         Dạ, ở…ở trong cái xác tàu ạ… 
  Cậu Henri ngạc nhiên hết sức, nhắc lại: 
  -         Ở trong cái xác tàu! Các cháu  muốn nói đến cái xác tàu bão làm nổi lên trên mặt biển hôm qua phỏng? Ù,  cậu có nghe nói đến. Thế các cháu đã vào xem nó rồi à? 
  Mick thú thật: 
  -         Dạ, có đấy ạ. 
  Francois từ trên gác chạy vội xuống, đứng  vào với các em. Việc cậu Henri can thiệp vào làm cho nó bàng hoàng. Nếu  cậu tịch thu cái hộp đúng vào lúc bọn trẻ sắp mở được thì quả là một  điều kinh khủng. Nhưng chao ôi! Cậu Henri có vẻ đã nói là làm, không  tránh được. Cậu nói: 
  -         Cái hộp này có thể đựng những giấy tờ quan trọng. 
  Nói rồi, cậu cầm lấy cái hộp từ tay Mick và nói tiếp: 
  -         Các cháu không có quyền lục lọi trong cái xác tàu và lấy bất cứ cái gì trong đó. 
  Claude kêu lên, giọng thách thức: 
  -         Nhưng cái xác tàu đó là của  con, chỉ của con thôi kia mà! Con xin bố, bố trả cho con cái hộp! Chúng  con vừa mới tìm cách phá được cái vỏ hộp bên ngoài. Biết đâu trong hộp  khi mở ra, chúng ta lại thấy có…một thỏi vàng chẳng hạn…hay là một kho  vàng tương tự! 
  Ông Henri nhún vai: 
  -         Một thoi vàng ấy à? Thật là đồ  trẻ con! Không bao giờ một cái hộp bé như thế này lại có thể chứa một  thứ tương tự. Có thể con sẽ đọc được trong đó những điều có liên quan  đến việc đã xảy ra cho những thoi vàng ngày xưa mà thôi. Theo ý bố, kho  vàng ngày xưa chở trên cái tàu này đã được trao cho người chính thức  được hưởng. Bao giờ bố cũng nghĩ rằng khi cái tàu đắm thì kho vàng đã  được chuyển lên bờ rồi. 
  Claude lại van vỉ: 
  -         Bố ơi, con xin bố, bố trả cho chúng con cái hộp đi! 
  Trong giọng nói của Claude như có cả nước  mắt. Cô bỗng cảm thấy rõ là trong hộp nhất định có các giấy tờ liên  quan đến kho vàng. Nhưng ông Henri không nói thêm lời nào, quay gót trở  vào trong nhà, nách cắp cái hộp quý. 
  Annie oà lên khóc: 
  -         Đừng mắng em vì em đã nói ra là  cái hộp được tìm thấy trong cái xác tàu! Hãy tha lỗi cho em! Tại em sợ  cậu Henri quá. Cậu hỏi, em không dám nói dối! 
  Francois vỗ vỗ vào vai em, an ủi: 
  -         Thôi, em bé, đừng có khóc nữa! 
  Francois đang tức ghê lắm, nó nghĩ rằng cậu Henri lấy cái hộp của chúng nó như thế là sai. Một lúc sau, nó mới nói: 
  -         Thôi nhé, nghe đây này. Chúng  ta sẽ không chịu để cho sự việc diễn ra như vậy. Chúng ta phải tìm cách  này hay cách khác lấy lại cái hộp và xem trong đó đựng cái gì. Mình chắc  là cậu Henri nói thế thôi chứ cũng không chú ý lắm đến cái hộp đâu,  Claude ạ. Có lẽ cậu lại tiếp tục viết sách và quên cái hộp đi rồi. Để  khi nào có dịp, mình sẽ lẻn vào trong buồng giấy của cậu và sẽ lấy lại  cái hộp. Nếu cậu bắt được mình thì đành chịu phạt thôi. 
  Claude tán thành: 
  -         Đồng ý! Chúng ta sẽ rình bố mình. Nhất định sẽ có lúc bố phải đi ra ngoài chứ! 
  Thế là chúng thay nhau rình cậu Henri.  Nhưng cả buổi sáng, cậu không ra khỏi cửa. Mợ Cécile cuối cùng cũng thấy  lạ vì cứ thấy trong bọn trẻ lúc nào cũng có một đứa, không đứa này thì  đứa khác, lảng vảng trong vườn, trong khi những đứa kia chạy chơi dưới  bãi biển. Mợ hỏi Mick, lúc đó đang đi trong vườn, dáng điệu nhàn nhã: 
  -         Tại sao các cháu không cùng chơi hay cùng đi tắm với nhau? Hay là các cháu lại cãi nhau rồi? 
  Mick không dám nói lý do ở trong vườn, chỉ chối đây đẩy: 
  -         Không ạ, làm gì có chuyện chúng cháu cãi nhau ạ? 
  Một lúc sau, khi Claude đến nhận phiên gác, Mick hỏi Claude: 
  -         Bố cậu không bao giờ đi đâu à? Cứ suốt đời ở trong phòng kín thế à? 
  Claude gật gù ra vẻ hiểu biết: 
  -         Các nhà bác học ai mà chẳng  thế. Nhưng riêng bố mình, thì mình có thể nói với cậu một điều: thỉnh  thoảng buổi trưa, bố mình có ngủ một lúc đấy. 
  Buổi trưa hôm đó, đến lượt Francois gác.  Nó ngồi xuống một gốc cây và mở một cuốn sách ra. Một lúc sau, có một  tiếng động lạ làm cho nó ngẩng đầu lên và lập tức nó hiểu ngay đó là cái  gì. 
  -         Cậu Henri đang ngáy! Đúng rồi…  đúng rồi… mình không nhầm mà! Không biết mình có thể lẻn vào trong phòng  và lấy lại cái hộp của chúng mình không? 
  Nó rón rén đi đến cái cửa sổ lớn, mở hé  ra và nhìn vào bên trong. Cậu Henri đang ngồi lọt thỏm trong một chiếc  ghế bành lớn, mắt nhắm nghiền, miệng hơi hé mở. Cậu đang ngủ say. Mỗi  khi cậu thở, lại ngáy một tiếng. 
  Francois nghĩ: “Có lẽ cậu ngủ say lắm  rồi! Bây giờ là lúc hành động. Cái hộp kia rồi, để trên bàn, ngay sau  lưng cậu. Thôi được, mình phải liều thôi; nếu cậu bắt được, nhất định sẽ  bị phạt nặng, nhưng phải liều thôi! 
  Cậu bé lẻn vào trong phòng. Ông Henri vẫn  ngáy đều. Francois rón rén đến gần cái bàn ngay bên cạnh ghế, thò tay  ra và cầm lấy cái hộp… 
  Đúng lúc đó, một mảnh gỗ sót lại của cái  vỏ hộp cũ, còn vướng vào một khe hộp sắt, rời ra và rơi xuống đất, nghe  khô khốc. Ông Henri giật mình tỉnh giấc, mở mắt ra. Nhanh như chớp,  Francois ngồi thụp ngay xuống đằng sau ghế của ông cậu, trống ngực đánh  như trống làng. 
  Nhà bác học nửa tỉnh nửa mê khẽ hỏi: 
  -         Cái gì thế? 
  Francois vẫn im như thóc. Một vài giây  đồng hồ trôi qua, dài như một thế kỷ. Rồi ông Henri lại ngồi như cũ,  nhắm mắt lại và tiếp tục ngáy. 
  Francois nghĩ thầm trong bụng: “Thoát rồi!” 
  Nó thong thả đứng dậy, ôm chặt cái hộp  vào ngực. Rất cẩn thận, nó chui qua cửa sổ ra ngoài vườn và cắm cổ chạy  ra đến tận bãi biển. Claude, Annie và Mick đang nằm dài sưởi nắng,  Francois kêu: 
  -         Thắng lợi! Thắng lợi! Đây rồi! Đây rồi! 
  Ba đứa trẻ vụt ngồi dậy, và mắt chúng  sáng lên khi thấy cái hộp trong tay Francois. Francois ngồi xuống bên  cạnh và cười vui vẻ, nói với Claude: 
  -         Bố cậu ngủ… Kìa, Dagobert, mày  đừng kéo quần tao, tụt bây giờ… Mình đang nói gì nhỉ? Ờ phải, bố cậu  đang ngủ, Claude ạ, và mình thừa dịp lẻn vào trong buồng giấy. Mà các  cậu có biết đã xảy ra chuyện gì không? Cái hộp khỉ này chỉ còn một miếng  gỗ dính vào, miếng đó bỗng rời ra, rơi xuống sàn kêu đánh cạch một cái  và cậu Henri mở mắt ngay ra! 
  Claude hốt hoảng la lên: 
  -         Ôi trời đất ơi! Thế rồi làm sao? 
  -         Mình bèn nấp sau ghế của cậu và  mình đợi cho cậu ngủ lại. Sau đó mình mới chuồn. Thôi bây giờ, chúng ta  hãy xem trong hộp có cái gì. Mình cho rằng cậu Henri cũng chưa nhìn xem  trong đó có cái gì đâu! 
  Francois nói đúng. Cái hộp – hình như  bằng thiếc – vẫn còn nguyên vẹn. Ngâm lâu trong nước, nó hơi bị xỉn đi,  nhưng nắp hộp đậy khít đến nỗi không thể mở được bằng tay không. Không  ngần ngại, Claude rút con dao ra và dùng mũi dao cậy cái khe hộp nhỏ tí,  gần như không trông thấy được. Dần dần, cái nắp hộp cũng chuyển và sau  khoảng mười phút, nắp hộp bật ra. 
  Cả bọn háo hức lục xem trong hộp có gì.  Có một số giấy tờ cũ, một quyển sách đóng bìa da đen… ngoài ra không có  gì cả! Không có một thỏi vàng nào cả! Không có một kho của nào! Thật là  thất vọng quá sức! 
  Francois nhận xét một cách ngạc nhiên: 
  -         Tất cả các vật này đều khô nguyên! Không có một vết bẩn nào! Cái hộp này bảo quản chúng giỏi thật đấy! 
  Cậu cầm quyển sách và mở ra, đọc vài dòng rồi reo lên: 
  -         Đây là quyển nhật ký của tàu!  Trong quyển này, cụ tổ của cậu ghi lại hành trình của các cuộc đi. Đọc  chữ của cụ khó không thể tả được! Cụ cứ ngoáy tít mù. 
  Claude cũng cầm lấy tờ giấy. Nói “tờ  giấy” thực ra là không đúng, bởi đây là một mảnh da dày, đã vàng đi qua  thời gian. Claude mở rộng trên mặt cât và chăm chú nghiên cứu. Trông như  là một tấm bản đồ. 
  Francois nói: 
  -         Đây có lẽ là bản đồ hành trình của con tàu chăng? 
  Bỗng dưng, hai tay Claude đang cầm tờ  giấy da run lên bần bật. Cô bé ngước lên nhìn các bạn bằng đôi mắt sáng  như sao. Francois hỏi: 
  -         Gì vậy Claude? Cậu đã tìm ra cái gì rồi? Kìa, nói đi, sao cứ im như thóc vậy? 
  Claude lắc đầu, và bắt đầu nói một cách sôi nổi: 
  -         Francois! Cậu có biết cái gì  đây không? Đây là tấm sơ đồ toà lâu đài của mình… sơ đồ của lâu đài  Kernach khi nó chưa bị sụp đổ… Các cậu trông đây là chỗ các hầm “bỏ  quên”. Và hãy nhìn đây… nhìn đây, có cái gì viết ở góc cái hầm giam này! 
  Ngón tay Claude run run chỉ một điểm trên  tấm bản đồ kỳ lạ. Bọn trẻ cúi xuống để đọc cho rõ và có thể đọc được  một chữ viết theo lối chữ cổ “THOI”. 
  Annie lẩm nhẩm: 
  -         Thoi? Thế nghĩa là thế nào? Đây là lần đầu tiên em nghe thấy chữ này. 
  Những chữ đó đối với mấy đứa kia lại không có gì là lạ. Mick reo lên, phấn khởi: 
  -         Thoi à? Như thế có nghĩa là những thoi vàng đấy chứ còn gì nữa! 
  Francois cũng nói thêm: 
  -         Tất nhiên, người ta có thể gọi  là “thoi” bất cứ thanh kim loại nào. Nhưng trong trường hợp này, vì  chúng ta biết là cái tàu cổ chở vàng và vàng đó đã bị mất tích, thì  những thoi nói ở đây chỉ có thể là những thoi vàng. Trời ơi! Cứ nghĩ  rằng kho vàng còn được cất giấu ở đâu đó trong các hầm của lâu đài  Kernach! Ôi Claude! Claude ơi! Cậu có thấy hấp dẫn đến thế nào không? 
  Claude gật đầu, bản thân Claude cũng run lên vì xúc động: 
  -         Giá chúng mình tìm được kho vàng ấy nhỉ? Ôi! Giá chúng ta được cái may mắn đó! 
  Francois nói: 
  -         Cứ cho là chúng mình đạt được  kết quả đó, thì cũng không phải dễ dàng đâu. Việc tìm kiếm sẽ rất khó  khăn, vì bây giờ lâu đài đã bị đổ nát, gai góc và cỏ dại mọc đầy. Tuy  nhiên, mình vẫn tin tưởng là nhất định chúng ta sẽ tìm ra các thoi vàng.  Những thoi vàng! Nghe hay quá! 
  Nghe đến những thoi vàng, cả bọn trẻ đều  tưởng tượng ra nhiều điều mới lạ. Có phải chỉ là “vàng” không đâu, mà là  “những thoi vàng”! Chỉ có con Dagobert là không có phản ứng gì với vàng  hoặc những thoi vàng, nó không hiểu làm sao bọn trẻ con lại có vẻ xúc  động đến thế. Vừa rối rít ngoáy đuôi, nó vừa tìm cách liếm láp các cô  cậu chủ, nhưng lạ thật, chẳng ai để ý đến nó cả. Sau một lúc như thế nó  dỗi, bỏ ra xa bọn trẻ, ngồi quay lưng lại, hai tai cụp xuống. 
  Claude chợt trông thấy và đoán là nó đang dỗi. Cô bé kêu lên: 
  -         Trông Dagobert tội nghiệp chưa  kìa! Nó không kiểu tại sao chúng ta cứ rối lên như thế. Nào Dago yêu  quý! Mọi việc đều tốt đẹp cả, đừng có hiểu lầm là mày bị phạt hoặc chúng  tao bỏ mày. Nhưng mà, mày biết không, chúng tao vừa khám phá ra điều bí  mật tuyệt nhất thế giới. 
  Dago lại nhảy nhót, ngoáy đuôi tít mù vì  thấy mình lại được âu yếm. Bỗng nó để chân lên cái bản đồ và bọn trẻ  đồng thanh kêu lên sợ hãi: 
  -         Trời ơi! Con quỷ này, mày có bỏ chân ra không? 
  Francois nói: 
  -         Nếu mà nó xé mất cái bản đồ này  thì không biết chúng ta sẽ làm thế nào? Bây giờ chúng ta làm gì cái hộp  này nhỉ? Mình muốn nói rằng… cậu Henri thế nào cũng sẽ nhận ra là nó đã  bị lấy đi, đúng không? Có lẽ bây giờ lại phải trả nó về chỗ cũ. 
  Mick trả lời: 
  -         Đồng ý, nhưng tôi đề nghị chúng  ta giữ lại cái bản đồ. Cậu Henri chưa mở cái hộp này ra nên không biết  trong đó có cái bản đồ này. Chúng ta để lại trong hộp những thứ khác,  như các giấy tờ và quyển nhật ký của tàu. Những cái đó không có giá trị  gì cả. 
  Francois nói: 
  -         Làm thế này hơn, chúng ta hãy  chép lại bản đồ rồi bỏ bản chính trả lại vào hộp. Như vậy, chúng ta  không làm gì sai trái đến bị mắng cả. 
  Tất cả tán thành ý kiến hay đó. Cả bọn  quay về biệt thự Hải Âu sao lại tấm bản đồ. Việc này tiến hành trong lều  để dụng cụ, không có ai nhìn thấy. 
  Bản đồ có ba phần, Francois giải thích: 
  -         Chỗ này là chỗ các hầm ngầm và  hầm “bỏ quên” của lâu đài. Còn đây là bản đồ tầng một. Còn cái phần thứ  ba này là bản đồ của phần trên lâu đài. Claude ạ, ngày xưa chắc lâu đài  của cậu là một toà nhà đẹp lộng lẫy lắm. Tất cả phần chìm dưới đất của  lâu đài là các hầm giam người. Nhưng không hiểu xuống đó bằng cách nào  nhỉ? 
  Claude nói: 
  -         Rồi chúng ta phải nghiên cứu kỹ  bản đồ này mới có thể hiểu được. Mới trông thì bản đồ có vẻ rối rắm,  nhưng rồi sẽ rõ ràng cả thôi, khi chúng ta nghiên cứu nó tại chỗ, ở ngay  tại lâu đài Kernach. Nhất định chúng ta sẽ biết người ta xuống hầm của  lâu đài bằng cách nào. Trời ơi! Mình chắc không có đứa trẻ nào trên thế  giới được dịp sống cuộc sống như chúng ta hiện nay! 
  Francois cất cẩn thận bản sao bản đồ vào  trong túi quần đùi, nhất định cậu sẽ không bao giờ để mất! Một tấm bản  đồ quý đến như thế! Sau khi để trả lại nguyên bản vào trong hộp, cậu  nhìn về phía biệt thự và nói: 
  -         Bây giờ phải mang trả cái hộp chứ? Claude này, có lẽ bố cậu vẫn còn đang ngủ nhỉ? 
  -         Cứ thử xem sao! 
  Nhưng ông Henri đã thôi không ngủ nữa.  Ông đang thức hẳn hoi! Nhưng may quá, ông đã hoàn toàn quên cái hộp. Đến  bữa cơm chiều, khi ông đã cùng cả gia đình ngồi vào bàn ăn, thì  Francois xin phép ra ngoài và chạy đi trả lại cái hộp vào chỗ cũ. Lúc  ngồi vào bàn ăn nó nháy mắt với bọn trẻ, ra hiệu mọi việc đâu vào đấy.  Cả bọn nhẹ người. Ông Henri có vẻ nghiêm khắc quá làm cho đứa nào cũng  sợ xanh mắt. Annie không dám mở miệng, cô chỉ sợ lại lỡ mồm nói đến  Dagobert hoặc đến cái hộp. Ba đứa kia thì trao đổi se sẽ với nhau vài  câu. Trong lúc cả nhà đang ăn thì có tiếng chuông điện thoại réo. Mợ  Cécile đứng dậy trả lời. Khi mợ trở lại, mợ nói với chồng: 
  -         Điện thoại gọi anh đó, anh  Henri ạ. Hình như chuyện cái xác tàu làm mọi người xôn xao, không chỉ ở  đây mà còn xa hơn nữa. Tin tức đi nhanh thật. Người gọi điện là một  phóng viên của một tờ báo ở Paris. Anh ta muốn hỏi anh vài câu. Anh ta  và một số bạn đồng nghiệp đã ra xem tại chỗ. 
  Cậu Henri bảo: 
  -         Em làm ơn nói lại với họ là anh sẽ tiếp họ vào lúc sáu giờ chiều. 
  Bọn trẻ hơi hoảng, đưa mắt nhìn nhau.  Chúng hy vọng ông Henri không đưa cho các nhà báo xem cái hộp. Bởi vì  như vậy thì sự bí mật về những thoi vàng chẳng mấy lúc sẽ lan ra. 
  Ngay sau bữa ăn, Francois kéo cả bọn ra ngoài: 
  -         May mà chúng ta đã nghĩ ra  chuyện sao lại tấm bản đồ. Nhưng mình cũng tiếc là đã bỏ bản chính trả  lại vào trong hộp. Bây giờ thì chẳng mấy chốc, bí mật về những thoi vàng  cũng sẽ lộ ra!   
Chương 10 – Một người khách hàng bí mật   Sáng hôm sau, các báo đều đăng tin về  việc cái xác tàu bao nhiêu lâu nằm im dưới đáy biển, nay bỗng nổi lên  một cách kỳ lạ. Các phóng viên cũng dễ dàng được ông Henri kể cho nghe  chuyện cái tàu cổ và khối lượng vàng nó chở bị mất tích. Một vài người  trong bọn họ còn tìm được cách thuê ca-nô đi ra đảo Kernach và chụp ảnh  toà lâu đài cổ đổ nát. 
  Claude tức giận vô cùng. Trước mặt mẹ, cô nổi cơn thịnh nộ, làm ầm ĩ cả lên. Cô hét: 
  -         Đó là cái xác tàu của con! Lâu  đài của con! Và cả hòn đảo cũng của con! Mẹ vẫn bảo là những cái đó của  con cơ mà! Mẹ vẫn bảo thế cơ mà! 
  Mẹ trả lời: 
  -         Mẹ vẫn biết thế rồi, Claude yêu  quý ạ! Nhưng con phải biết điều một chút chứ! Có ai vì ra đảo của con  mà làm hỏng đảo đi đâu, hoặc nếu có chụp ảnh toà lâu đài thì cũng có làm  nó đổ thêm đâu! 
  Claude vẫn nói: 
  -         Nhưng con không muốn cho ai  bước chân lên đảo của con và lâu đài của con. Những chỗ ấy là của con,  mẹ đã cho con rồi cơ mà! 
  -         Thì mẹ có biết đâu sẽ xảy ra  chuyện như thế này. Thôi mà, biết điều một chút, Claude! Người ta ra xem  cái xác tàu một tí thì có việc gì đến con! Vả lại con cấm họ thế nào  được. 
  Đúng là Claude không cấm được người ta. Nhưng nghĩ như vậy đã không làm cho nó nguôi đi tí nào mà lại càng bực bội thêm. 
  Bọn trẻ cũng hơi ngạc nhiên về việc dư  luận chú ý đến cái xác tàu nổi lên nhiều đến thế, đồng thời do đó mà lâu  đài Kernach cũng trở thành quan trọng đối với mọi người. Nhiều người  đang nghỉ mát ở các thành phố bên cạnh cũng cố tìm sang tận nơi để ngắm  nó. Những người dân chài ở địa phương chẳng mấy lúc đã tìm ra bến cảng  nhỏ cho phép cập bến vào đảo và hàng ngày chở đến hàng lô khách tham  quan. Claude tức quá khóc hu hu và Francois tìm mọi cách dỗ dành cô bé: 
  -         Nghe anh này, Claude! Hiện nay  chưa ai biết điều bí mật của chúng ta. Chúng ta sẽ đợi cho những chuyện  sôi động này qua đi, rồi chúng ta sẽ đi đến lâu đài Kernach. 
  Claude lau nước mắt và trả lời: 
  -         Nếu không có ai tìm ra trước chúng ta thì mới đến phần chúng ta. 
  Claude rất ghét khóc, nhưng tức quá không nhịn được. 
  -         Ai mà tìm thấy được? – Francois  khẳng định – Chỉ mới có chúng ta xem trong hộp có gì thôi chứ! Bây giờ  mình sẽ thử tìm cách lấy lại cái bản đồ chính bằng da để trong cái hộp  trước khi có một người khác cầm đến nó. 
  Cậu bé không còn dịp nào để thực hiện ý  định đó, bởi vì đã xảy ra một sự kiện kinh khủng: cậu Henri bán cái hộp  đó cho một người buôn đồ cổ! 
  Một hai ngày sau khi dư luận xôn xao về  việc cái xác tàu nổi lên, cậu Henri ra khỏi phòng làm việc, mặt mũi tươi  tỉnh và nói cho mợ Cécile và bọn trẻ biết việc mới thực hiện được. Cậu  nói với mợ: 
  -         Anh vừa mới giải quyết xong một  việc rất hay. Em có biết cái hộp cũ bọn trẻ lấy được trong cái xác tàu  không? Thế này nhé, anh vừa tiếp một người chuyên buôn những của lạ như  vậy và anh đã bán cho ông ta cái hộp đó, được giá lắm. Chính ông ta đề  ra giá với mình đấy. Một số tiền mà mình cũng không ngờ được đến như  vậy… Khi người buôn đồ cổ ấy thấy mảnh giấy da và quyển nhật ký hành  trình để trong hộp, ông ta nhất định đòi mua nó ngay lập tức. Ông ta nói  rằng cũng là vô tình đến xem mình có tìm thấy vài thứ bát đĩa cổ, hoặc  vài thứ dụng cụ đi biển nào không, cho nên khi mình đưa cái hộp ra, ông  ta có vẻ rất thích… bởi vì ông ta trả giá cao đến thế kia mà! 
  Bọn trẻ nhìn ông Henri hốt hoảng. Ông đã  bán mất cái hộp quý rồi! Rồi sẽ có người nào đấy nghiên cứu bản đồ và có  thể tìm ra điều bí mật! Bởi vì câu chuyện về số vàng bị mất tích đã  đăng trên tất cả các báo. Chẳng cần phải giỏi giang gì lắm, chỉ cần để ý  một tí là có thể hiểu cái bản đồ có ý nghĩa thế nào rồi. 
  Nhưng Claude và các bạn đã không dám nói  cho ông Henri biết những chuyện đã khám phá ra. Ông Henri bây giờ đang  tươi như hoa. Ông còn hứa sẽ mua cho bọn trẻ một cái ca-nô mới bằng gỗ  tốt. Nhưng tính nết ông hay thay đổi đột ngột nên cũng chẳng có thể cho  là ông đang vui vẻ mà nói hết được; nếu Francois thú thật đã lấy cái hộp  và mở ra trong khi ông đang ngủ trưa thì có thể ông sẽ nổi lên một trận  lôi đình ghê gớm. 
  Bọn trẻ đành im lặng nhưng khi chỉ có mấy  đứa với nhau, chúng bàn tán về việc này rất sôi nổi. Tình hình trở nên  nghiêm trọng. Cũng có lúc, chúng đã định nói điều bí mật này cho mợ  Cécile biết. Nhưng lại nghĩ rằng đây là một điều bí mật kỳ diệu, sẽ mang  đến những chuyện kỳ lạ nên cuối cùng chúng quyết định không nói với ai  cả… Và sau hết, Francois kết luận: 
  -         Bây giờ thì nghe mình nói đây.  Chúng ta sẽ xin phép mợ Cécile ra đảo ở chơi một hai ngày… Đúng thế,  chúng ta sẽ cắm trại ở đó, như vậy, chúng ta sẽ có thì giờ đào nơi này,  bới nơi khác để xem có tìm ra cái gì không. Bây giờ người ta đã xem xét  ngoài đó chán rồi, chẳng mấy ai ra đó nữa. May ra chúng ta có thể tìm  thấy kho vàng trước khi có người nào đó tìm ra điều bí mật. Vả lại, có  thể cái ông buôn đồ cổ đã mua cái hộp cũng không đoán ra tấm bản đồ vẽ  trên giấy da nghĩa là thế nào. Ở trên đó có ghi tên lâu đài Kernach đâu  mà biết. 
  “Diễn văn” của Francois làm cho bọn trẻ  yên lặng đôi chút. Trước đó, không biết phải làm gì, đứa nào cũng chán  nản mệt mỏi, giờ đây đã quyết định phải hành động, đứa nào cũng thấy  thanh thản trở lại. 
  Chúng bèn quyết định ngay ngày mai sẽ xin  phép mợ Cécile ra ngoài đảo nghỉ hai ngày cuối tuần. Hiện nay trời đang  rất đẹp, được cắm trại trên đảo thực không còn gì thú bằng. Chúng sẽ  đem theo thật nhiều thức ăn. 
  Khi chúng đi tìm mợ Cécile để xin phép  thì thấy cả cậu Henri cũng vẫn đang ở đó. Cậu vẫn có vẻ rất phấn khởi,  thậm chí còn thân ái đập đập vào vai Francois. Cậu kêu lên vui vẻ: 
  -         Thế nào, các bạn trẻ? Các bạn cần cái gì đây? Tôi thấy các bạn có vẻ muốn xin xỏ cái gì thì phải? 
  Francois lễ phép trả lời: 
  -         Chúng cháu đến xin phép mợ  Cécile… Thưa mợ Cécile, trời đẹp quá, mợ có vui lòng cho phép chúng cháu  được ra lâu đài Kernach nghỉ ngơi trong mấy ngày cuối tuần này không ạ?  Chúng cháu mà được cắm trại trên đảo một hai ngày thì vui lắm! 
  Mợ Cécile quay lại nhìn chồng: 
  -         Ừ, kể thì… Anh nghĩ thế nào, anh Henri? 
  Cậu Henri gật đầu: 
  -         Nếu chúng thích thì cho chúng  đi. Sắp tới đây rồi sẽ không có dịp nào ra đó nữa đâu! Cậu phải nói cho  các cháu biết rằng có người mới đặt vấn đề với cậu về việc mua lâu đài  Kernach. Đã có người muốn mua rồi. Người đó có dự định không phải là xây  dựng lại lâu đài Kernach mà biến nó thành một khách sạn, thành một nơi  nghỉ mát dễ chịu. Các cháu thấy thế có tuyệt không? 
  Lúc đó, giá có sét đánh ngay vào đầu lũ  trẻ cũng không làm chúng xúc động đến thế. Cả bốn đứa nhìn ông Henri  bằng những cặp mắt vừa bực bội vừa kinh hoàng. Có người muốn mua hòn đảo  ư? Như thế là điều bí mật đã bị khám phá rồi chăng? Cái người muốn mua  toà lâu đài phải chăng đã đọc được tấm bản đồ và biết rằng có một kho  vàng khổng lồ đang bị chôn vùi dưới đó? Bỗng nhiên, Claude gần như ngạt  thở. Hai mắt nó bỗng long lên dữ dội: 
  -         Mẹ ơi, mẹ không thể bán hòn đảo của con được! Mẹ không thể bán lâu đài của con được! Con không cho phép như thế! 
  Ông Henri cau mày, nói nghiêm khắc: 
  -         Claudine, không được ngốc  nghếch như vậy! Tất cả những cái đó có phải thật là của con đâu! Con còn  lạ gì nữa! Hòn đảo và toà lâu đài là tài sản của mẹ con, và nếu mẹ con  muốn bán thì bán đi chứ sao. Nhà ta có giàu đâu và bán được một món tiền  lớn là rất hay. Khi đã bán được đảo, bố sẽ có điều kiện để mua cho hai  mẹ con những thứ chúng ta thích. 
  Claude kêu lên, đau khổ: 
  -         Con chẳng thích cái gì hết! Đảo  của con và lâu đài của con là những thứ quý nhất mà con có! Ôi, mẹ ơi…  mẹ đã nói với con rằng… những cái đó đã thuộc về con. Mẹ đã nói thế rồi  cơ mà! 
  Bà Cécile có vẻ rất bối rối: 
  -         Claude ạ, mẹ nói cho con hòn  đảo và toà lâu đài để cho con ra đấy chơi, và lúc đó, mẹ nghĩ rằng cả  đảo lẫn lâu đài chẳng có giá trị gì cả. Nhưng hiện nay, tình thế đã khác  trước rồi. Bố con vừa được người ta hỏi mua các thứ đó với một giá rất  hời, gấp hàng nghìn lần điều mà chúng ta có thể mơ ước, cho nên ta không  thể từ chối được. 
  Claude lại kêu lên, mặt tái ngắt: 
  -         A, thế ra mẹ cho con hòn đảo vì  mẹ nghĩ rằng nó chẳng đáng giá gì cả, và bây giờ mẹ lại lấy lại của  con. Chơi… chơi thế không ngon chút nào hết! 
  Ông Henri cáu kỉnh ngắt lời: 
  -         Đủ rồi đó, Claudine! Mẹ chỉ  biết nghe lời bố thôi. Còn con, con chỉ là một đứa trẻ. Mẹ con cho con  hòn đảo và toà lâu đài là vì muốn con vui. Còn bây giờ con phải hiểu  rằng có bán đi thì mới có thể mua cho con những thứ con cần mà xưa nay  chưa có. 
  Claude trả lời, giọng khàn đặc: 
  -         Con không cần một xu nào của cái tiền ấy! 
  Nói rồi, cô bé quay lưng lại và ra khỏi  phòng, bước chân lảo đảo. Mấy đứa trẻ kia rất buồn, chúng rất thông cảm  với Claude. Cô bé khổ sở quá! Nhưng Francois nghĩ rằng Claude không hiểu  tâm lý người lớn. Cậu Henri và mợ Cécile muốn làm thế nào chẳng được,  nếu hai người muốn bán đảo và toà lâu đài thì ai mà ngăn được? Chỉ có  điều, cậu Henri không biết cái điều quan trọng nhất: có thể dưới hầm của  toà lâu đài có chứa một tài sản vô giá! 
  Francois trầm ngâm nhìn cậu Henri và suy  nghĩ không biết có nên nói cho cậu biết điều đó không. Nhưng nghĩ kỹ, nó  quyết định không nói. Có thể còn một hy vọng là bọn trẻ sẽ tìm ra kho  vàng trước mọi người. 
  Francois hỏi: 
  -         Thưa cậu, bao giờ cậu định bán hòn đảo ạ? 
  Ông Henri trả lời: 
  -         Những thủ tục giấy tờ sẽ làm  xong và ký trong vòng một tuần lễ nữa. Vì vậy, nếu các cháu muốn ra  ngoài đó chơi một hai ngày thì ra ngay đi. Sau này, chưa chắc người chủ  mới sẽ cho phép các cháu được lên đất của ông ta mà cắm trại đâu. 
  Francois lại hỏi: 
  -         Thưa cậu, người định mua hòn đảo có phải chính là cái ông buôn đồ cổ đã mua của cậu cái hộp sắt không? 
  -         Đúng đó, và cậu cũng hơi lấy  làm lạ, vì cậu tưởng ông ta chỉ chú ý đến những đồ vật cổ thôi, cho nên  cậu ngạc nhiên thấy ông ta lại còn định mua hòn đảo để biến toà lâu đài  thành khách sạn. Tuy vậy, cậu cũng cho rằng xây một khách sạn ở ngoài đó  cũng là một ý hay đấy! Khung cảnh ngoài đó cũng thơ mộng, và chỗ ấy có  thể được khách du lịch thích đó. Cậu thì không phải là một nhà kinh  doanh, nên cậu không thể hình dung được mình sẽ xây cái gì trên đảo cả,  nhưng người mua đảo thì họ biết là nên làm gì. 
  Francois thở dài: 
  -         Rõ là ông ta biết quá còn gì! –  Cậu bé cùng Annie và Mick ra khỏi phòng – Lão ấy chắc đã đọc được bản  đồ… và hắn cũng đã đi đến kết luận giống như mình. Như vậy là nhất định  có rất nhiều thoi vàng được cất giấu trên đảo. Lão kia cũng định tìm  cách đoạt lấy chúng, còn ý định xây dựng một khách sạn trên đó chẳng qua  chỉ là lí do thôi. Lão chỉ chạy theo kho vàng mà thôi. Mình chắc là hắn  đã trả cho cậu Henri một món tiền so với kho vàng chẳng thấm vào đâu,  nhưng cậu Henri thật thà của mình thì cho đó là một món tiền khổng lồ!  Trời ơi! Câu chuyện rắc rối quá! 
  Francois chạy đi tìm Claude và thấy cô bé  ở trong lều đựng dụng cụ. Cô bé mặt tái xanh và nói là hình như cô ốm.  Francois an ủi em: 
  -         Chỉ tại những chuyện vừa rồi làm cho cậu mệt mỏi đấy mà! 
  Francois quàng tay vào vai Claude và lần  này, Claude không hất tay nó ra. Sự an ủi của Francois làm cho em dịu  lại. Những giọt nước mắt trào ra trên mặt Claude, cô bực tức gạt đi.  Francois nói: 
  -         Nghe mình này, Claude. Không  nên vội hết hy vọng. Ngày mai chúng ta sẽ ra đảo và chúng ta sẽ tìm mọi  cách xuống được những hầm “bỏ quên” và tìm ra các khối vàng. Chúng ta sẽ  ở đấy cho đến khi nào xong việc mới thôi. Được không? Còn bây giờ thì  hãy bình tĩnh lại. Chúng mình rất cần cậu phải sáng suốt để lập cho xong  chương trình của ngày mai. May làm sao chúng ta lại nghĩ ra chuyện phải  sao chép tấm bản đồ! 
  Claude đã bình tĩnh chút ít. Ý nghĩ ra  đảo cắm trại vài hôm với các anh chị và con Dagobert làm cho cô quên đi  một phần câu chuyện không hay mà cha mẹ cô đã vô tình gây ra. Tuy nhiên  cô vẫn thở dài: 
  -         Mình vẫn nghĩ là bố mẹ mình đối với mình không tốt! 
  Francois nói: 
  -         Nếu cậu nghĩ kỹ thì không phải  như thế đâu! Nói cho cùng thì bố mẹ cậu cần tiền và, dưới con mắt của  cậu mợ, hòn đảo và toà lâu đài chẳng có giá trị gì cả, bây giờ có người  trả giá hời mà không bán đi thì có hoạ là điên! Vả lại, cậu hãy nhớ lại  lời bố cậu nói mà xem, bố cậu có hẹn sẽ cho cậu cái gì cậu thích. Mình  mà ở địa vị cậu thì mình biết là sẽ nên xin cái gì. 
  Claude tò mò hỏi: 
  -         Thế xin cái gì? 
  -         Xin con Dagobert, chứ còn cái gì nữa! 
  Điều đó làm Claude phải bật cười và chỉ mấy phút sau, nó đã quên hết mọi ưu phiền.   
Chương 11 – Bắt đầu đào bới   Claude và Francois đi tìm Mick và Annie.  Hai đứa bé đang đợi ở trong vườn, đứa nào cũng có vẻ rất lo lắng về  chuyện mới xảy ra. Thấy Claude và Francois chạy lại, hai đứa đều có vẻ  vui mừng, Annie cầm lấy hai tay Claude: 
  -         Claude ơi, cậu có biết mình buồn về những dự định của cậu Henri đến thế nào không? 
  Mick cũng nói: 
  -         Mình cũng vậy. Cậu thật là không may, cô bé… à quên, không, mình định nói cậu bé tội nghiệp ạ. 
  Claude cố gắng mỉm cười và nói, có vẻ hơi xấu hổ: 
  -         Vừa rồi, mình đã xử sự như một đứa con gái, nhưng tại vì mình bị kích động ghê quá. 
  Francois nói cho hai em biết những dự định mà cậu ta và Claude vừa bàn tính lúc nãy. Cậu kết luận: 
  -         Vậy là ngày mai chúng ta sẽ ra  đảo Kernach. Trước hết, chúng ta phải lập danh mục các đồ vật cần thiết  phải mang theo. Nào bắt đầu ngay đi. 
  Cậu rút trong túi ra một cái bút chì và một tờ giấy. Mick nói: 
  -         Em đề nghị trước hết phải ghi những thức ăn. Phải mang theo nhiều thức ăn, vì nhất định chúng ta sẽ chóng đói đấy. 
  Claude nói: 
  -         Phải nghĩ trước cả đến nước  uống, bởi vì trên đảo không có nước uống. Ngày xưa, mình có nghe nói  trên đảo có một cái giếng rất sâu, sâu mãi xuống quá mặt nước biển  nhiều, và cung cấp nước ngọt cho đảo. Nhưng mình đã để ý tìm nhiều lần  mà không thấy dấu vết đâu cả. 
  Francois ghi: Thức ăn, nước uống… 
  Cậu ta lại nhìn mọi người xem có ai thêm gì không. Không thấy ai nói gì, cậu vừa ghi vừa đọc: Xẻng, cuốc… 
  Annie ngạc nhiên: 
  -         Xẻng cuốc à? Để làm gì? 
  -         Để đào bới tìm đường đi xuống các hầm “bỏ quên”. 
  Mick gợi ý: 
  -         Mang cả dây thừng nữa, có thể dùng đến… 
  Claude thêm: 
  -         Và mấy cái đèn pin. Trong các hầm chắc tối lắm. 
  Annie nghĩ đến chuyện xuống hầm tối đã  rùng mình. Cả đời nó chưa bao giờ được thấy một cái hầm “bỏ quên”, nên  chỉ riêng cái tên ấy cũng đã chứa đựng bao điều bí mật rùng rợn. 
  Mick lại nói: 
  -         Phải mang chăn nữa. Đêm nằm trong gian phòng của lâu đài chắc là lạnh lắm. 
  -         Chúng ta cần mang theo một số  bát đĩa, nhất là cốc uống nước. Và mang đi một số đồ dùng để đục, cậy…  có thể phải cần đến. 
  Sau nửa giờ, bọn chúng đã ghi được một  danh mục khá dài và ai cũng hoan hỉ nghĩ đến việc đi cắm trại trên đảo.  Claude đã bắt đầu quên nỗi giận dữ và sự thất vọng của mình. Sự có mặt  của các anh chị khiến cô bình tĩnh lại. Đứa nào cũng điềm đạm, biết  điều, lạc quan, sự vui vẻ của chúng đã lây cả sang Claude. Claude nhìn  Francois đang cắm cúi đọc lại bản danh mục và thầm nghĩ: 
  “Nếu mình có thêm mấy anh chị em thì có  lẽ sẽ đáng yêu hơn. Mình có chuyện gì mà được kể lại với người khác thì  cũng thấy vui. Lúc đó những chuyện buồn phiền sẽ trở nên nhẹ nhõm hơn,  dễ chịu hơn. Mình yêu ba anh chị của mình quá. Đúng rồi, mình yêu, bởi  vì anh chị nào cũng đáng yêu, luôn cười nói, lúc nào cũng vui vẻ. Mình  muốn giống các anh chị ấy. Mình thì lúc nào cũng cắm cảu, ít cười, hay  nổi cáu, giận dữ. Chẳng thế, bố cứ mắng mình suốt. Mẹ thì thật đáng yêu,  nhưng bây giờ mình mới hiểu tại sao mẹ cứ bảo mình khó tính. So với các  anh chị, mình thật khác biết bao! Họ dễ chan hoà với mọi người và ai  cũng yêu họ. May quá, họ đến chơi với mình và đang làm cho cái con bé  man rợ là mình đây thay đổi đấy!” 
  Đó là những suy nghĩ nghiêm túc, cho nên  Claude có một thái độ nghiêm trang khác thường. Francois ngửng đầu lên  và thấy đôi mắt xanh của Claude đang chăm chú nhìn mình, cậu bèn mỉm  cười: 
  -         Mình thật muốn biết cậu đang suy nghĩ gì? 
  Claude đỏ mặt: 
  -         Không có cái gì đáng kể đâu! Mình chỉ đang nghĩ rằng cả ba cậu thật là đáng yêu và mình rất muốn được giống các cậu. 
  Francois ngạc nhiên: 
  -         Nhưng mà chính cậu cũng rất đáng yêu kia mà! 
  Nghe Francois khen mình, Claude lại càng đỏ mặt. Nó đột ngột nói: 
  -         Thôi chúng ta đi tìm Dagobert rồi cùng đi chơi đi! Chắc nó đang không biết có việc gì xảy ra mà không đến đón nó đây. 
  Cả bọn cùng đi; Dagobert đón chúng, sủa  ầm ĩ. Mọi người nói cho nó biết dự định của ngày mai, và con vật thông  minh ngoáy đuôi tít mù, hình như cũng hiểu những lời người ta nói với  nó. Annie cho là mình cần phải giải thích thêm: 
  -         Nó rất vui vì chúng ta sẽ cho nó cùng đi đấy. 
  Sáng hôm sau, bọn trẻ đã sốt ruột đến tột  độ. Cả bọn hối hả vác xuống ca-nô tất cả các thứ chúng đã chuẩn bị từ  hôm trước. Những gói, buộc được để vào góc ca-nô. Cứ vác xuống đến đâu,  Francois lại lấy bút chì chấm vào danh mục thứ đó để đánh dấu. Làm như  vậy sẽ không quên thứ gì cả. 
  Năm người bạn (kể cả chó) đã đi xa bờ được một quãng thì Mick chợt hỏi: 
  -         Anh có nhớ mang theo cái bản đồ đó không? 
  Francois gật đầu: 
  -         Tất nhiên là có chứ! Sáng nay  anh vừa thay quần soóc mới sạch, và anh đã lấy cái bản đồ từ trong túi  quần cũ cho sang túi quần sạch. Đây, nó đây này! 
  Cậu ta đưa cho em xem tờ giấy, nhưng đúng  vào lúc đó, một làn gió mạnh thổi đến và giật tờ giấy khỏi tay  Francois. Tờ giấy rơi xuống nước. Cả bốn đứa kêu lên sợ hãi. Thôi thế là  mất cái bản đồ quý giá rồi. 
  Claude vừa quay mũi thuyền vừa nói: 
  -         Nhanh lên, bơi theo lấy lại! 
  Nhưng đã có kẻ nhanh hơn nó. Dagobert đã  trông thấy tờ giấy tuột khỏi tay Francois, đã nghe thấy những tiếng kêu  hốt hoảng. Nó nhảy tùm xuống biển và bơi theo tờ giấy. Nó bơi rất khá,  vì rất khoẻ. Chỉ một thoáng, nó đã ngậm được tờ giấy trong mõm rồi bơi  trở về thuyền. Các cô cậu chủ mãi vẫn chưa hết bàng hoàng về trí thông  minh và tài lanh lẹn của nó. 
  Hai cậu con trai bế nó lên thuyền, còn Claude thì gỡ mảnh giấy ra khỏi mõm nó. Trên tờ giấy chỉ thấy lờ mờ mấy vết răng. 
  -         Hoan hô Dago! Mày lại còn tỏ ra cẩn thận nữa kia đấy! 
  Dù sau, thì cái bản đồ cũng thấm nước ướt  đẫm và bọn trẻ lo lắng nhìn xem nó có bị nước biển làm hỏng không. May  sao, khi vẽ lại, Francois đã ấn mạnh ngòi chì, nên từng nét của bản đồ  vẫn còn rất rõ ràng. 
  Francois trải bản đồ ra nắng và bảo Mick ngồi canh cho nó khô: 
  -         Không được để cho nó bay một lần nữa đấy! Thật hú vía! 
  Claude lại cầm lấy bơi chèo và hướng  thuyền về hòn đảo. Dagobert sau khi được mọi người khen ngợi, lại được  thưởng mấy cái bánh quy, nó vừa nhai vừa tỏ vẻ rất sung sướng. Xong rồi,  ngồi xổm trên thuyền, nó rũ bộ lông ướt đẫm làm cho mọi người ướt sạch. 
  Claude vẫn khéo léo cho thuyền lách qua  những mỏm đá ngầm bao quanh đảo. Mấy đứa kia lại có dịp khen ngợi khi cô  bé tài tình đưa thuyền lướt qua các mỏm đá nhọn mà thuyền không hề quệt  phải một mỏm đá nào. Bọn chúng thấy Claude có vẻ là một thuỷ thủ thực  sự có tài. 
  Bây giờ, con thuyền đang trôi trên mặt  nước phẳng lặng trong cái bến cảng thiên nhiên nhỏ xíu. Một lúc sau,  thuyền cập bến. Cả bọn nhảy lên cát, kéo thuyền lên rõ cao để tránh  sóng, rồi bắt đầu dỡ các thứ trong thuyền. 
  Francois nói: 
  -         Bây giờ chúng ta phải đưa hết  các thứ này vào trong gian phòng của lâu đài, để nếu có mưa cũng không  bị ướt. Mình mong là trong khi chúng ta ở trên đảo, không có ai đến đảo  cả. 
  Claude nói: 
  -         Làm gì có ai đến. Bố mình chẳng  nói là mãi tuần sau mới ký các văn bản bán đảo kia mà. Người mua mà  chưa mua xong thì không có quyền đến chiếm đảo. Chúng mình còn một số  ngày nữa để mà tìm. 
  Francois đã nghĩ đến chuyện phải đặt người gác, đề phòng có ai đến thì báo động, nghe thế liền nói: 
  -         Vậy thì không cần đặt người gác  nữa. Nào chúng ta ra cả đây. Cầm lấy mấy cái cuốc, Mick. Tôi sẽ mang  thức ăn và các đồ uống. Claude giúp mình. Còn Annie, em mang mấy cái gói  nhỏ kia. 
  Các thức ăn uống được đóng trong một cái  hòm to tướng, vì bọn trẻ sợ bị đói trong khi ở trên đảo. Bọn chúng theo  những ổ bánh mì lớn, bơ, bánh quy, mứt, những hộp nước quả, mận chín,  một số chai bia, bột cà phê, một cái xoong và một bi đông nước, tóm lại,  tất cả những gì cần thiết. 
  Claude và Francois lặc lè khiêng cái hòm  lên dốc lâu đài. Hai đứa phải nghỉ lấy hơi mấy lần mới lên được đến gian  phòng lát gạch độc nhất còn có thể ở được của lâu đài. Sau khi xếp cái  hòm vào sát tường, hai anh em lại trở lại ca-nô lấy nốt mấy cái chăn. 
  Sau khi sắp xếp xong, gian phòng cổ kính  trông đã có vẻ vui vui. Bọn trẻ quyết định ngủ ở đó, và trải những đệm  ngủ vào trong góc. Francois nói: 
  -         Hai cô gái ngủ với nhau trên đống chăn này, còn bọn con trai chúng mình ngủ ở đống này. 
  Claude không đồng ý, nó không muốn ngủ  với Annie, vì như vậy là bị xếp vào loại con gái. Nhưng Annie nhất định  không chịu ngủ một mình, và nhìn Claude với một vẻ van vỉ đến nỗi Claude  mỉm cười và thôi không phản đối nữa. 
  Cô bé Annie nghĩ bụng: 
  -         Đúng là Claude ngày càng trở nên đáng yêu, mình yêu nó ghê lắm. 
  Francois ngồi lên trên đống chăn và lấy tấm bản đồ từ trong túi ra: 
  -         Nào bây giờ chúng ta bàn việc.  Chúng ta sẽ nghiên cứu tấm bản đồ này thật cẩn thận và tìm cách phát  hiện cho ra chỗ xuống những hầm dưới đất. Hãy đến tất cả đây, ngồi cạnh  mình và cùng bắt đầu làm việc. Hãy bắt chất xám làm việc và phải chiến  thắng kẻ đang có âm mưu chiếm đảo của chúng mình! 
  Bốn cái đầu cúi trên tấm bản đồ đã khô  hẳn. Bọn trẻ tập trung hết sức nghiên cứu nó. Xem trên bản đồ thì ngày  xưa lâu đài Kernach là một lâu đài rất đẹp. 
  Francois chỉ tay lên phần vẽ sơ đồ các hầm “bỏ quên”: 
  -         Xem đây này! Phần ngầm dưới đất  hình như chạy khắp cả mặt bằng lâu đài, và đây, đây nữa, trông những  đường thẳng song song kia như có vẻ là những bậc thang. 
  Claude nói: 
  -         Đúng rồi, có lẽ cậu nói đúng.  Vậy thì, nếu đúng là các bậc thang thì nhất định phải có hai lối vào hầm  ngầm. Một cầu thang hình như đi từ một nơi có thể là căn phòng chúng ta  đang ngồi đây. Còn cửa kia, có thể là ở dưới cái tháp chúng ta trông  thấy đằng kia… Nhưng mà Francois này, cậu có biết cái vòng tròn bé tí  này là cái gì không? 
  Ngón tay Claude chỉ vào một cái vòng tròn  nhỏ, cái vòng này vẽ cả ở trên phần sơ đồ hầm ngầm, lại vẽ cả ở trên  phần mặt sàn lâu đài. 
  -         Mình cũng không hiểu đó là cái  gì! – Francois trả lời, có vẻ suy nghĩ rất nhiều. Bỗng nó kêu lên: – Mà  đúng rồi, mình biết nó là cái gì rồi! Có phải hôm qua cậu nói là ở gần  đây trước kia có một cái giếng, phải không nào? Vậy thì cái vòng tròn  này là vẽ chỗ cái giếng ấy đấy. Giếng này phải rất sâu mới đến được lớp  nước ngọt ở dưới đáy biển. Vì vậy, nó phải đi qua phần hầm ngầm. Các cậu  thấy có lạ không? 
  Mỗi lúc, bọn trẻ lại càng thấy hào hứng  thêm lên. Chúng có cảm tưởng đang bước vào một cuộc phiêu lưu kỳ lạ. Như  thể là chúng đã có một dấu hiệu rất quý. Có một cái gì đấy cần phải  khám phá ra, một cái gì có thể và cần phải khám phá ra trong vòng một  hai ngày tới. Bỗng dưng chúng thấy tự tin lạ thường. 
  Mick hỏi: 
  -         Vậy thì thế nào? Chúng ta bắt  đầu từ đâu? Có lẽ là phải tìm lối vào hầm ngầm ngay ở trong phòng chúng  ta đang ngồi đây chăng? Theo mình, đó chắc phải là một hòn đá vuông lớn;  chỉ cần nhắc hòn đá ấy lên, là chúng ta sẽ làm lộ ra cửa vào các hầm  “bỏ quên”. 
  Nghĩ thế, mọi người đã thấy hào hứng hẳn  lên. Francois gập cẩn thận tấm bản đồ và bỏ vào trong túi, sau đó đưa  mắt nhìn quanh. Nền sàn lát gạch của gian phòng bị cỏ dại mọc trùm lên  hết cả. Bây giờ phải nhổ hết cỏ đi, mới có thể xác định được trong đám  những viên gạch lát sàn kia, viên nào có khả năng di động được. 
  Francois cầm lấy một cái cuốc: 
  -         Chúng ta bắt đầu vào việc ngay  đi nào. Cuốc cho hết đám cỏ dại bò lan đi. Đây này, cứ làm như thế này  này… rồi chúng ta sẽ kiểm tra từng hòn gạch một. 
  Claude, Mick và Annie mỗi đứa cầm lấy một  cái cuốc và trong phòng vang lên những tiếng cuốc cạo lên gạch sồn sột  để bứt cỏ. Cỏ cũng dễ nhổ, và bọn trẻ làm hết sức mình, nên công việc  cũng chạy. 
  Có lẽ do bị ảnh hưởng không khí chung,  nên Dagobert cũng tỏ ra hăng hái đặc biệt. Tất nhiên, nó không hiểu tại  sao các cô cậu chủ lại bận rộn như vậy. Nhưng nó cũng tham gia tích cực  vào việc đào bới. Nó lấy chân hết sức bới, đất và cỏ dại bay tung toé  khắp nơi. 
  Francois bị một hòn đất bắn vào đầu, kêu lên: 
  -         Dừng lại, Dago, dừng lại! Gớm,  mày làm gì mà như giông bão thế? Khéo mà chỉ một lúc nữa, mày sẽ làm cho  những viên gạch này bay vào không trung mất thôi! Claude, cậu có thấy  là con Dago cũng cùng làm với chúng mình không? Lúc nào nó cũng tìm cách  giúp đỡ chúng mình. 
  Bọn trẻ lại tiếp tục làm một cách say  sưa, chúng rất nóng lòng tìm ra cửa vào hầm ngầm. Nếu tìm thấy thật thì  hồi hộp biết bao. Bởi vì lúc đó cuộc phiêu lưu sẽ thực sự bắt đầu!   
Chương 12 – Những khám phá hấp dẫn   Một lúc sau, nền gian phòng nhỏ đã sạch  đất cát và cỏ dại. Mặt nền lộ ra, lát bằng những tấm đá lớn vuông vức.  Bọn trẻ đốt đuốc lên xem kỹ từng viên, tìm xem có viên nào có thể xê  dịch được. Francois tuyên bố: 
  -         Viên gạch mà chúng mình tìm phải là viên ở giữa có một cái vòng sắt, thì mới nhấc lên được. 
  Nhưng chúng chẳng thấy viên nào như thế cả. Viên nào cũng giống viên nào. Thật là thất vọng quá sức! 
  Francois bèn nghĩ cách lách mũi cuốc vào  các khe giữa các viên gạch, vừa lách vừa bẩy. Không một viên nào động  đậy, viên nào cũng như đã gắn chặt vào đất từ bao giờ. Sau ba giờ làm  việc liên tiếp, bọn trẻ quyết định nghỉ ngơi lấy lại sức. 
  Đứa nào cũng đói ngấu, và chỉ nghĩ đến  những món ăn ngon lành chúng mang theo cũng đã đủ thấy thích. Vừa ăn,  chúng vừa bàn đến chuyện đang làm. Francois nói: 
  -         Xem ra thì cửa vào hầm ngầm  không phải đi từ gian phòng này đâu. Kể ra thì cũng hơi buồn vì mất công  thật đấy, nhưng cũng chẳng có gì đáng phải lấy làm lạ. Chúng ta sẽ đo  trên bản đồ để xem có thể ước được chỗ nào là chỗ có cầu thang đi xuống  các hầm “bỏ quên”. Cố nhiên cũng có thể chưa hẳn đã chính xác, và trong  trường hợp ấy, căn cứ vào bản đồ thì chẳng ích lợi gì. Nhưng dù sao cũng  phải thử xem sao. 
  Chúng tìm cách đo đạc, nhưng chẳng có kết  quả gì. Bởi ba phần của bản đồ lại không cùng vẽ theo một tỷ lệ.  Francois hơi nản, khẽ thở dài. Cuộc tìm kiếm có vẻ vô vọng… Nếu không  tìm thấy dấu vết gì thêm, thì phải thử lòng đất của khắp nền gian phòng.  Làm như vậy sao nổi, bởi mất nhiều thì giờ quá. 
  Claude bỗng kêu lên, tay chỉ vào cái vòng tròn nhỏ tượng trưng cho cái giếng trong bản đồ: 
  -         Nhìn xem này! Cửa xuống hầm có  vẻ gần ngay cái giếng. Nếu tìm được giếng, chúng ta sẽ đào khắp xung  quanh để tìm cho ra những bậc thang. Cái giếng được vẽ trên bản đồ ở cả  hai phần. Hình như nó ở giữa lâu đài. 
  Francois hoan hỉ tán thành: 
  -         Cậu nói rất có lý, ý đó hay  thật. Vậy chúng ta hãy cố gắng tìm xem tâm của lâu đài là ở đâu. Theo  mình, nó cũng là tâm của cái sân, nó ở ngoài kia. 
  Bọn trẻ ra bên ngoài, dưới ánh mặt trời.  Chúng thấy rõ việc chúng làm là rất quan trọng, nên chúng có vẻ nghiêm  trang. Lao mình vào một cuộc chạy đua đi tìm vàng thế này, chẳng phải là  rất hấp dẫn sao? Bây giờ, chúng hoàn toàn tin rằng ở dưới chân chúng,  khối vàng mất tích được chôn giấu đâu đây. Nếu có ai bảo chúng rằng làm  gì có các thoi vàng, nhất định chúng không chịu tin. 
  Chúng dừng lại giữa sân, chỗ này ngày xưa  cũng là tâm của toà lâu đài cổ. Nhưng nhìn khắp xung quanh, chúng vẫn  không thể nào tìm được một dấu vết để khám phá ra chỗ của cái giếng xưa.  Ở đây, thiên nhiên cũng lại đã xâm chiếm tất cả. Cát theo gió bay từ  bãi biển vào, cỏ và gai mọc trên cát dày không thể tưởng tượng nổi.  Những viên gạch phẳng ngày xưa lát đầy sân rộng, nay đã vỡ hầu hết,  trông không viên nào giống viên nào. Rêu, cát và cỏ dại đủ loại trùm lên  khắp mặt sân. 
  Bỗng Mick kêu lên: 
  -         Kìa, một con thỏ. 
  Quả thật, một “cục bông” màu be đang đi  qua sân, không chút vội vã. Con vật bỗng biến mất vào một cái lỗ, rồi  một con khác xuất hiện, ngồi trên hai chân sau, nhìn bọn trẻ một cách  nghiêm trang và cũng lại biến mất. Ba anh em Francois ngạc nhiên vô  cùng, chưa bao giờ chúng được thấy thỏ hoang quen người như vậy. 
  Con vật thứ ba xuất hiện. Một chú thỏ con  nhỏ xíu nhưng có đôi tai to tướng, trông rất ngộ nghĩnh, lại có một túm  đuôi bé tí trắng xoá. Nó có vẻ không nhận thấy có bọn trẻ ở đó. Nó nhảy  nhót làm cho bọn trẻ rất thích thú, sau đó nó ngồi lên hai chân sau,  đưa chân trước ngoáy tai. 
  Thật là khiêu khích con Dagobert quá sức.  Nó đã cố hết sức nhịn thèm: khi hai con thỏ đầu tiên xuất hiện, nó chỉ  sủa lên vài tiếng. Nhưng cái con thỏ ranh kia, dám ngồi trước mặt nó  ngoáy tai ngoáy mũi, không thèm để ý gì đến nó, quả thật là khiêu khích  đến mức không một con chó nào chịu nổi. Dago, không đôi hồi gì cả, sủa  lên một tiếng “oa” dữ dội và nhảy xổ đến vồ lấy con thỏ. 
  Trong một giây ngắn ngủi, con vật bé nhỏ  dường như đứng ngây ra tại chỗ. Từ trước tới nay, chưa ai làm cho nó sợ  hoặc săn đuổi nó, nên nó mở to mắt nhìn con quái vật to lớn đang nhảy bổ  vào nó. Bỗng dưng hiểu ra sự nguy hiểm, nó vội chạy đi, cái đuôi ngắn  ngủn dựng đứng như một dấu hiệu kêu cứu và biến mất trong một bụi rậm,  ngay cạnh bọn trẻ. Dagobert chạy theo nó và cũng mất hút. 
  Một trận pháo hoa cát và bụi đất toé lên  trong không khí: Dagobert cố hết sức moi cho rộng ra cái lỗ con thỏ vừa  chui vào. Nó dùng móng chân bới đất nhanh như chớp. Vừa bới vừa rên rỉ  và sủa luôn miệng, không thèm để ý nghe Claude đang gọi nó nữa. Nó muốn  bắt con thỏ bằng được. Càng thấy cái lỗ rộng ra dưới chân, nó càng đào  khoẻ hơn. 
  Claude kêu: 
  -         Dago! Dago! Mày có nghe tao gọi  không, hử? Lại ngay đây! Tao đã cấm không được săn thỏ kia mà! Mày cũng  biết là tao không thích thế kia mà! Xấu lắm! Lại đây ngay lập tức! 
  Nhưng con Dagobert không chịu nghe, cứ  tiếp tục đào bới. Y như thể nó nổi cơn điên rồi ấy. Claude đành phải đến  tận nơi để bắt nó lại. Đúng lúc Claude đến sát bụi cây thì con Dagobert  thôi không đào bới nữa, mà bỗng dừng lại, sủa lên một tiếng hãi hùng,  rồi im bặt. Claude nhìn vào trong bụi và ngẩn người vì ngạc nhiên. 
  Con Dagobert đã biến mất. Không phải bụi  cây che khuất nó, không, chỉ có điều không thấy nó đâu nữa. Claude trông  rõ cửa hang thỏ bị con chó đào rộng ra, nhưng con chó thì không thấy  đâu nữa. 
  Claude run run nói với Francois: 
  -         Francois ơi, con Dagobert mất  tích rồi… Nó không thể chui vào trong cái hang thỏ được, phải không?  Mình cho là nó to quá không thể chui vào được. 
  Bọn trẻ vội tập trung ngay lại chỗ bụi gai. Từ dưới lòng đất vẳng lên một tiếng rên rỉ. Francois ngẩn người: 
  -         Chết thật, đúng là nó rơi vào  trong cái lỗ. Lạ thật, mình chưa bao giờ nghe thấy nói một con chó chui  được vào hang thỏ. Làm thế nào lôi nó ra được bây giờ? 
  Claude quyết định: 
  -         Trước hết, phải nhổ cho hết bụi  gai này. – Nghe giọng nói của Claude, người ta thấy rằng để cứu  Dagobert, nó không ngần ngại gì mà không phá hết cả lâu đài Kernach nếu  cần. – Mình không thể chịu được khi nghe con Dago kêu cứu mà không làm  cách nào để cứu nó lên. 
  Bụi gai rậm quá nên không thể chui xuống  dưới được. Francois chợt nhớ là nó có mang đi đủ các thứ dụng cụ. Nó  chạy đi lấy một cái rìu. Đó chỉ là một cái rìu nhỏ, nhưng cũng đủ để hạ  các bụi cây nhỏ. Tuy nhiên, giữa bụi gai nhỏ có lẫn một bụi gai lớn, nên  cũng khá vất vả mới chặt được. 
  Bọn trẻ rất hăng hái làm việc. Chỉ sau  một thời gian ngắn, tay chúng đã bị gai cào xây xát hết cả, nhưng chúng  cũng chẳng để ý. Chúng đã thành công! Cái lỗ do con Dagobert đào rộng ra  bây giờ trông rất rõ. Francois lấy đèn pin soi xuống đất. Nó bỗng kêu  lên ngạc nhiên: 
  -         Mình đã hiểu chuyện gì xảy ra  rồi! Đây là cái giếng. Bọn thỏ đào hang ngay sát cạnh giếng. Muốn đào  rộng miệng hang, con Dago đã đào phải một phần miệng giếng và nó bị rơi  xuống giếng. 
  Claude hốt hoảng: 
  -         Ôi, không! Không thể thế được! Dago! Dago! Mày có làm sao không? 
  Từ dưới sâu vẳng lên một tiếng rên rỉ xa  xa. Đúng là con Dago bị rơi xuống giếng rồi. Bốn anh em nhìn nhau hốt  hoảng, Francois nói: 
  -         Mình chỉ thấy còn một cách là  lấy cuốc khơi rộng thêm miệng giếng ra thôi. Sau đó chúng ta có thể thả  một cái dây thừng xuống và kéo Dago lên. 
  Bọn trẻ chạy đi lấy cuốc. Đào rộng miệng  giếng cũng không khó khăn gì. Miệng giếng chỉ bị bụi gai lúc nãy che  khuất, cộng thêm một ít đất cát, một tảng gạch xây và một vài hòn đá  nhỏ. Hình như có một lúc nào đó, một mảng tường đã đổ và che lấp mất một  phần miệng giếng, rồi thời gian và cỏ dại tiếp tục lấp thêm. 
  Claude và mấy anh em phải hợp sức lại mới  vần được tảng gạch xây. Nhưng vần được nó là xong cả. Nó nằm ngang trên  miệng giếng và đã được kéo sang một bên. Ngay dưới tảng gạch là mọt cái  nắp bằng gỗ đã mục, có lẽ ngày xưa dùng để bảo vệ nước trong giếng. Bây  giờ nó đã mục quá đến nỗi con Dagobert chỉ vừa ngồi lên thì gỗ đã vụn  ra, con vật tội nghiệp đã lọt qua tấm gỗ. 
  Francois bỏ nốt cái phần nắp giếng ra, và  bọn trẻ cúi nhìn xuống dưới miệng giếng. Cái hố có vẻ rất sâu và tối  om. Francois nhặt một hòn đá ném xuống giếng. Tất cả mọi người đều nhịn  thở, lắng nghe tiếng “tõm” là tiếng thông thường tiếp sau khi hòn đá rơi  xuống nước. Nhưng chẳng nghe thấy gì cả. Hoặc là giếng không còn nước  nữa, hoặc là giếng quá sâu, đến nỗi hòn đá rơi xuống không còn nghe thấy  được… Francois cho rằng giả thuyết sau này đúng hơn. 
  -         Nhưng mình không hiểu tại sao  giếng sâu như thế mà Dagobert ngã xuống lại không chết, mà chúng ta lại  còn nghe thấy tiếng nó nữa. Nó có thể ở chỗ nào nhỉ? 
  Francois đưa đèn chiếu vào trong miệng  giếng và… lập tức trông ngay thấy con chó. Trước đây nhiều năm, một hòn  đá lớn đã rơi vào giếng và bịt mất một phần miệng giếng. Hòn đá đó mắc  vào trong giếng, mà lại mắc nằm ngang, cho nên Dagobert đã may mắn rơi  vào đúng giữa hòn đá này. Nó ngửng đầu nhìn các cô cậu chủ, mắt có vẻ  rất sợ hãi. Nó không thể hiểu cái gì đã xảy cho nó. Chao ôi, ai bảo cứ  đi đuổi thỏ mãi, thật đáng kiếp. 
  Claude trông thấy một cái thang sắt gắn  vào thành giếng bên trong và khi chưa ai đoán được cô định làm gì, cô đã  trèo qua miệng và bước xuống những bực thang gỉ. Cô cũng chẳng cần biết  là những bậc thang gỉ đó có đủ sức mang cô không. Cô chỉ có một ý nghĩ  trong đầu là cứu bằng được Dagobert. Cô xuống được đến chỗ con chó.  Không biết cô làm thế nào mà vác được con chó lên lưng và định vừa trèo  lên vừa một tay giữ chó. Nhưng không thể làm thế được. Cần phải có đủ  hai tay để trèo. Mick tìm cách giúp cô. Cuối cùng Mick vứt cho cô một  sợi dây thừng, để buộc qua mình con chó, lúc bấy giờ mới đưa được con  vật lên. Khi đã đặt đủ cả bốn chân lên mặt đất, Dagobert lại nhảy tứ  tung khắp nơi, sủa oăng oẳng và trong lúc quá vui sướng, thấy cái gì nó  cũng liếm. 
  Mick gọi nó: 
  -         Thế nào, Dago? Mày còn muốn săn  thỏ nữa thôi? Kể ra thì chúng tao cũng không thể mắng mày được, vì nhờ  có mày, chúng tao đã tìm ra cái giếng. Bây giờ, chỉ có việc xem xét  chung quanh tìm lối xuống hầm ngầm. 
  Bọn trẻ lại tiếp tục làm việc… Chúng lấy  cuốc đào tất cả những bụi cây ở xung quanh… Gặp hòn đá nào cũng lật lên  và đào đất, hy vọng sẽ tìm ra điều bí mật ở nơi đây. 
  Chính Annie lại có vinh dự tìm ra điều bí  mật. Cô bé phát hiện ra cửa hầm ngầm. Cũng là ngẫu nhiên thôi… Cảm thấy  mệt, cô bé ngồi xuống nghỉ một lát. Nằm sấp trên cát, cô nghịch ngợm  lấy tay gãi đất xung quanh. Bỗng những ngón tay cô đụng phải một cái gì  vừa cứng vừa lạnh. Annie gạt cát ra và thấy ngay một cái vòng bằng sắt.  Cô kêu lên một tiếng, tất cả bọn trẻ chạy lại: 
  -         Lại đây xem này. Em tìm thấy một hòn đá ở giữa có cái vòng! 
  Claude, Francois và Mick xô nhau chạy  lại. Francois dùng cuốc bới hết đất xung quanh hòn gạch ra. Annie nói  đúng; ở giữa hòn gạch có một cái vòng sắt, những cái vòng như thế chỉ có  ở những hòn gạch có thể di động được. Không còn nghi ngờ gì nữa. Hòn  gạch này bịt miệng cầu thang dẫn xuống các hầm “bỏ quên”! 
  Bọn trẻ cảm thấy hào hứng đến cực độ. Đứa  nào cũng muốn thử nắm tay vào cái vòng để nhấc hòn đá lên nhưng hòn đá  không lay chuyển. Francois bèn buộc đầu một sợi dây thừng vào cái vòng,  và cả bốn đứa cùng hợp sức, lấy hết sức kéo sợi dây. 
  Hòn đá bắt đầu hơi động đậy. Francois hô: “Nào, tất cả, cố lên!” 
  Một lần nữa, cả bốn lại căng gân sức. Hòn  đá lay chuyển và cuối cùng bật ra. Nó bật ra đột ngột, làm cả bốn ngã  chồng lên nhau. Dagobert nhảy đến cái lỗ trống hoác và sủa lên như điên,  làm như thể đó là hang ổ của tất cả thỏ trên thế giới họp lại. 
  Claude và Francois vội đứng dậy và chạy  ngay đến bên miệng hố. Hai đứa đứng đó, im lặng nhìn xuống bên dưới, nét  mặt hân hoan cực độ. Thế là cuối cùng đã tìm ra con đường bí hiểm! 
  Một dãy bậc thang hơi dốc, đào trong đá, đi thẳng xuống dưới sâu thăm thẳm, Francois kêu lên: 
  -         Hãy lại đây tất cả! Cầu thang, chúng ta tìm thấy đây rồi! Nào đi xuống các hầm “bỏ quên”, nhanh lên! 
  Những bậc thang trơn như mỡ, Dagobert hấp  tấp lao ngay xuống, trượt chân, cứ thế lăn lông lốc xuống dưới, vừa lăn  vừa kêu lên sợ hãi. Francois theo sau, rồi đến Claude, Mick và Annie  lần lượt xuống theo. Tất cả đều sốt ruột, thở hổn hển. Chẳng biết ở dưới  đó có cái gì? Chúng đã tưởng tượng ra mình đứng giữa những kho vàng vô  giá. 
  Ở dưới chân cầu thang, tối mờ mờ. Một mùi ẩm ướt khó chịu bốc lên, làm Annie thấy nghẹt thở. Francois nói: 
  - Mình mong là thứ khí này không độc. Ở  dưới các hầm ngầm thường có khí độc. Nếu một trong các cậu cảm thấy hơi  khó chịu, thì phải nói ngay, và chúng mình sẽ trở lên ngay. 
  Nhưng nếu có đứa nào cảm thấy hơi khó  chịu, chắc là chúng cũng không nói ra. Cuộc phiêu lưu đã đến độ hấp dẫn,  phải bỏ dở nửa chừng thì thật tiếc quá. 
  Qua một mặt phẳng, hẹp, cầu thang lại  tiếp tục. Cầu thang thật là dài, nhưng rồi cũng hết. Francois bật đèn  pin và nhìn chung quanh. Thật là một cảnh tượng kỳ lạ. 
  Những hầm “bỏ quên” của lâu đài Kernach  được đào ngay vào trong đá. Không hiểu những hang đó là tự nhiên hay do  bàn tay người đào? Không ai có thể nói được. Chỉ biết rằng, những hầm đó  trông đầy bí ẩn, tối om om và dội lại mọi tiếng động thành những tiếng  vang rất lớn! Francois huýt sáo một tiếng nhỏ, thế là vang lên thành  nhiều tiếng một cách rất lạ. Nghe có cảm giác rờn rợn thế nào ấy. 
  Claude thì thào: 
  -         Lạ quá nhỉ? 
  Lập tức tiếng vang tăng câu nói đó lên  gấp bao nhiêu lần. Các hầm “bỏ quên” lần lượt nhắc lại câu nói đó của cô  bé: “Lạ quá nhỉ… quá nhỉ… nhỉ…” 
  Annie nắm lấy tay Mick, cô bé sợ hãi. Cô  chẳng thích tiếng vang tí nào. Tất nhiên cô cũng hiểu rằng những tiếng  đó không có gì là lạ, nhưng nghe vẫn như tiếng của hàng mấy chục người  nấp trong các hang động cùng nói lên. 
  Mick nói: 
  -         Anh Francois, anh thử nghĩ xem những thoi vàng giấu ở đâu? 
  Và cũng ngay lập tức, tiếng vang nhắc lại: “Anh thử nghĩ xem những thoi vàng giấu ở đâu? giấu ở đâu? ở đâu?…” 
  Francois bật cười… và tiếng cười đó lập  tức biến thành hàng loạt tiếng cười như từ các hầm bật ra, quây lấy bọn  trẻ. Thật là một hiện tượng kỳ lạ vô cùng! Francois nói: 
  -         Chúng mình lại đằng này. May ra tiếng vang để yên cho chúng ta chăng? 
  Như là để chế nhạo Francois, tiếng vang nhắc lại “…để yên cho chúng ta chăng?… cho chúng ta chăng?…” 
  Những nhà thám hiểm nhỏ tuổi đi ra khỏi  cầu thang và bắt đầu xem xét các hầm ngầm ở gần. Đó chỉ là những hang đá  rất đơn giản dưới lòng lâu đài mà thôi. 
  Cũng có thể ngày xưa, chúng đã được dùng  để giam những người tù bất hạnh, nhưng cũng rất có thể người ta chỉ dùng  chúng làm kho cất giữ các đồ vật và thức ăn. 
  Francois lẩm bẩm: 
  -         Không hiểu chúng ta sẽ tìm thấy vàng ở trong cái hang nào? 
  Cậu đứng lại và rút tấm sơ đồ trong túi  ra. Mick dùng đèn pin soi cho anh đọc. Nhưng dù trong sơ đồ có ghi một  chữ “THOI” ở một chỗ rõ ràng, bọn trẻ không có một ý niệm nào về hướng  phải đi để tìm đến chỗ đó. Bỗng Mick kêu lên: 
  -         Nhìn xem kìa: Đây có một cái  hang có cửa đóng cẩn thận! Em chắc đó chính là cái hầm chúng ta đang  tìm! Trong đó có các thoi vàng đó!…   
Chương 13 – Kho vàng   Tất cả bốn cái đèn pin bật sáng soi vào cánh cửa bí mật. Cái cửa này  có những đinh sắt rất lớn, đầu tròn, trông có vẻ vững chắc vô cùng.  Francois kêu lên sung sướng và đâm bổ ngay đến cánh cửa, cậu tin chắc  rằng sau cánh cửa đó có cái kho vàng ghi trên bản đồ. 
  Nhưng than ôi, cánh cửa lại đóng chặt! Không tìm cách nào mở được, dù  là kéo ra hay đẩy vào. Có một cái khoá to tướng, nhưng không có chìa.  Bọn trẻ bất lực, thất vọng đứng nhìn. Đúng vào lúc chúng tưởng đã đặt  được tay lên kho vàng, thì cái cửa quái quỷ này lại sừng sững chặn  đường. 
  Francois nói: 
  -         Giờ ta quay lên lấy cái búa xuống đây. Chúng ta có thể bửa gỗ xung quanh cái khoá và nậy khoá ra. 
  Claude tán thành: 
  -         Hay lắm! Ta quay lên đi! 
  Cả bọn quay trở lại, nhưng dưới hầm rộng quá đường đi lại chia làm  nhiều nhánh nên chúng bị lạc đường. Gần như mỗi bước, chúng lại vấp phải  những chiếc thùng vỡ, những khúc gỗ mục, những chai không và rất nhiều  đồ vật chẳng có giá trị gì, nhưng không làm sao tìm được con đường dẫn  đến chân cầu thang lúc xuống. 
  Đi được một lúc, Francois nói: 
  -         Thật là kinh khủng! Mình không có một ý niệm nào về chỗ  xuống cầu thang ở đâu! Chúng ta đã đi thăm lần lượt các hầm, đi qua chỗ  này chỗ khác, nhưng chỗ nào cũng giống chỗ nào! Chỉ thấy tối tăm, hôi  hám và đầy bí ẩn! 
  Annie sợ hãi kêu lên: 
  -         Miễn là chúng ta không phải cứ ở đây mãi cho đến hết đời! 
  Mick cầm tay em, an ủi: 
  -         Em ngốc ạ! Chúng ta sẽ tìm thấy chỗ lên ngay bây giờ đây mà! Ơ kìa… cái gì đây thế này? 
  Cả bọn dừng lại. Trước mặt chúng, có một cái gì giống như một cái lò  sưởi bằng đá rất cao xuyên suốt phần ngầm từ trên trần xuống đến đất.  Francois soi đèn vào. Chẳng hiểu cái gì mà lại xây tròn như thế này?  Bỗng Claude kêu lên: 
  -         Mình biết cái này là cái gì rồi! Cái giếng đó mà! Các cậu  nhớ rằng trên bản đồ phần trên lâu đài cũng vẽ nó, phần hầm ngầm cũng vẽ  nó. Như vậy là hiện nay chúng ta đang đứng trước phần giếng chìm sâu  trong lòng đất. Không biết có chỗ nào hở ở phần này để cho người ta có  thể múc nước trong hầm ngầm cũng như trên mặt đất không nhỉ? 
  Cả bọn đi xem chung quanh. Quả nhiên, ở phía bên kia cái vật tròn  bằng gạch xây ấy, chúng tìm thấy một lỗ hổng tương đối rộng, bọn trẻ lần  lượt, từng đứa một, có thể chui cả đầu và vai qua đấy. Chúng chiếu đèn  soi rõ thật xa. Cái giếng sâu quá, không thể đoán được đến đâu là đáy.  Francois cũng ném một hòn đá, nhưng lắng tai mãi, cũng vẫn không thấy có  một tiếng động nào cả. Cậu nhìn lên phía trên và rất mừng thấy có một  tia sáng nhỏ lọt qua giữa thành giếng và tảng đá đã lấp một phần miệng  giếng… cái tảng đá khi Dagobert rơi xuống đã ngồi lên. 
  -         Không còn nghi ngờ gì nữa, Claude đã nói đúng. Đúng là cái  giếng rồi! May quá! Giờ đã tìm thấy cái mốc này, chúng ta biết rằng chỗ  xuống cầu thang không xa đây mấy nữa! 
  Bọn trẻ tự nhiên thấy khoẻ hẳn ra. Chúng cầm tay nhau đi trong bóng  tối mò mẫm, chỉ có những ánh đèn pin yếu ớt soi đường. Bỗng nhiên, Annie  kêu lên sung sướng: 
  -         Chỗ xuống cầu thang kia rồi! Em trông thấy có ánh nắng mặt trời. 
  Cả bọn chạy đến chỗ ngoặt gần nhất và vui sướng thấy các bậc thang  dẫn lên bên trên. Francois nhìn quanh để xác định phương hướng khi trở  lại. Cậu cũng không chắc có thể tìm lại được cái cửa gỗ. 
  Cả bọn vội vã chạy lên trên. Trên này, mặt trời chiếu sáng, ấm áp dễ chịu, khác hẳn với không khí lạnh lẽo dưới hầm ngầm. 
  Francois xem đồng hồ và kêu lên ngạc nhiên: 
  -         Đã sáu rưỡi chiều rồi! Thảo nào mình thấy đói thế! Chúng  mình quên cả ăn bữa xế. Chúng mình đã làm việc rồi đi quanh quẩn dưới  hầm ngầm mấy giờ liền! 
  Mick đề nghị: 
  -         Vậy thì bây giờ chúng ta hãy đi ăn bữa tối trước khi tiếp  tục tìm kiếm. Em có cảm tưởng là dễ đến một năm nay chưa được ăn gì cả! 
  Francois giả bộ lạ lùng: 
  -         Ơ kìa, trưa hôm nay em đã ăn gấp đôi mỗi người trong bọn  chúng ta rồi cơ mà… – nói xong, cậu lại mỉm cười vui vẻ – Nói thế chứ,  anh cũng thấy đói như em! Nào chúng ta lại đây, ăn cho thật no vào.  Claude này, cậu đặt cho một xoong nước lên bếp được không? Chúng ta nên  ăn một cái gì nóng, một cốc sô-cô-la nóng chẳng hạn. Mình cảm thấy rét  run lên vì ở mãi dưới lòng đất. 
  Bọn trẻ thích thú được đun nước sôi trên ngọn lửa đốt bằng cành cây  khô. Và thật khoan khoái biết bao được vừa nằm dài sưởi những tia nắng  mặt trời đang lặn, vừa nhấm nháp bánh mì, phó mát, ăn bánh quy và bánh  ga-tô. Dagobert cũng được ăn ngon. Vừa rồi, cuộc thám thính không làm  cho nó thích thú, và trong suốt cả thời gian ở dưới mặt đất, nó không  rời bọn trẻ một bước, đi liền sát cạnh, đuôi cụp giữa hai chân. Nhất là  cái tiếng vang làm cho nó khiếp đảm vô cùng. 
  Có một lúc, nó có sủa lên mấy tiếng và lập tức nó tưởng rằng trong  hầm có đến một đàn chó cùng sủa còn to hơn nó. Sau cuộc thử nghiệm kinh  nghiệm kinh khủng đó, nó không còn dám ho he tý nào. Bây giờ, nó lại  thấy rất sung sướng được đớp những miếng bánh bọn trẻ vứt cho và mỗi lần  đến gần Claude, lại liếm chân cô chủ một cái. 
  Khi bọn trẻ ăn xong và thu dọn đồ ăn còn lại cất đi, chúng thấy đã  gần tám giờ. Chiều trời ngả xuống nhanh chóng, và bắt đầu trở lạnh.  Francois nói: 
  -         Mình thì bây giờ chẳng muốn xuống lại hầm ngầm một chút  nào. Chính mình cũng rất muốn bổ cái cửa đó ra để xem bên trong có gì.  Nhưng mình mệt quá rồi. Vả lại, mình cũng chẳng muốn trời tối tăm thế  này mà bị lạc đường dưới đó. 
  Những đứa khác cũng đồng ý với cậu ta, nhất là Annie đã hơi sờ sợ cái  chuyện phải đi xuống dưới đất lúc trời đã tối. Vả lại, cô bé đã buồn  ngủ díp mắt lại rồi, cả ngày vừa lắm chuyện xúc động, vừa mệt mỏi đến  thế kia mà. 
  Claude bắt Annie đứng dậy: 
  -         Dậy, Annie, dậy! Phải đi ngủ thôi! Chúng ta sẽ quấn chăn  ngủ thật ngon, và ngày mai khi thức dậy, chúng ta sẽ vui sướng biết bao  khi nghĩ đến việc chúng ta sắp mở toang cánh cửa hầm bí mật! 
  Bốn đứa trẻ và con chó đi vào gian phòng có trần và chui vào trong  chăn. Dagobert lần vào giữa hai cô bé và nằm đè lên chân chúng, nhưng nó  nặng quá, nên bị Annie đẩy ra. Claude kéo nó lại, cho nó nằm lên trên  chân mình và nằm im nghe nó thở phì phò. Claude cảm thấy rất sung sướng.  Cô đang ngủ trên hòn đảo của cô, mấy anh em cô sắp tìm ra những thoi  vàng, nhất định là như thế! Lại có cả Dagobert đây nữa, đang ngủ bên  cạnh. Có lẽ rồi mọi việc cũng suôn sẻ cả thôi. 
  Rồi Claude cũng ngủ thiếp đi. Đã có Dagobert canh gác, bọn trẻ không  còn gì phải sợ cả. Chúng ngủ một mạch cho đến sáng hôm sau. Lại chính  cái con Dagobert bất trị ấy đánh thức chúng dậy: nó trông thấy có một  con thỏ chạy bên ngoài vòm cổng và chạy xổ ra để đuổi bắt. Nó làm cho  Claude thức giấc. Cô bé ngồi dậy dụi mắt và kêu lên: 
  -         Dậy nào! Tất cả dậy nào. Trời sáng rõ rồi, chúng ta đang ở trên đảo đây mà! Dậy! 
  Mấy anh em đều vội vàng trở dậy. Nghĩ đến những điều khám phá ra hôm  trước, chúng bỗng cảm thấy vô cùng phấn khởi. Francois nghĩ ngay đến cái  cửa gỗ. Cậu cảm thấy có thể dùng búa bổ vỡ cái cửa. Và lúc đó, chúng sẽ  thấy gì đằng sau cái cửa? 
  Mọi người trước hết ăn sáng rất vui vẻ. Không thể để bụng đói mà  xuống hầm được. Rồi Francois cầm búa và cả bọn cùng đi xuống hầm. Xuống  đến nơi, chúng bỗng thấy không biết đi đằng nào để tìm được cái cửa gỗ.  Thật là nản! Claude thở dài ngao ngán: 
  -         Rồi chúng mình lại lạc như hôm qua cho mà coi! Những cái  hầm và những đường ngang lối dọc này y như là một mê cung. Chúng mình  không thể làm thế nào xác định được phương hướng. 
  Lúc đó Francois có một sáng kiến. Cậu rút trong túi ra một viên phấn  trắng, và quay trở lại chân cầu thang, vạch lên tường một cái dấu. Sau  đó nó cứ tiếp tục vừa đi dọc con đường tối om vừa vẽ những mũi tên lên  tường. Chúng đi đến tận cái miệng giếng rất dễ dàng và Francois vui  sướng nói: 
  -         Từ nay, mỗi khi chúng ta đi đến chỗ cái giếng, chúng ta sẽ  có thể dễ dàng trở lại lối ra. Chỉ cần theo các mũi tên mình đã vẽ. Bây  giờ là vấn đề tiếp tục: chúng ta sẽ đi theo đường nào? Chúng ta sẽ thử  đi vào một con đường và mình sẽ vẽ trên tường dọc con đường đi đó: nếu  nó không dẫn đến cái cửa gỗ, chúng ta sẽ quay lại và xoá các mũi tên đó  đi. Lại từ cái giếng, chúng ta sẽ đi thử con đường khác cho đến khi tìm  ra con đường đúng. 
  Thật là một ý kiến hay. Con đường hành lang đầu tiên không dẫn đến  đâu cả, và bọn trẻ phải trở lại, xoá những mũi tên đi. Trở về đến cái  giếng, chúng lại tiếp tục đi theo hướng khác. Và lần này, chúng tìm thấy  cái cửa gỗ. 
  Cánh cửa sừng sững trước mặt chúng, với những chiếc đinh to tướng,  trông vững chắc, không thể xâm phạm. Bọn trẻ nhìn nó, đắc thắng.  Francois giơ búa lên, bổ một nhát thật mạnh, ngay vào chỗ cái khoá.  Nhưng chất gỗ, tuy trông cũ như thế, vẫn còn chắc lắm, lưỡi búa chỉ hơi  làm xây xát. Francois lại bổ nữa. Than ôi! Lưỡi búa chém đúng một cái  đinh, trượt sang bên cạnh. Một mảnh gỗ bật ra…và cắm đúng vào má Mick. 
  Cậu bé kêu lên một tiếng đau đớn. Francois hốt hoảng buông búa và xem xét vết thương. Má Mick chảy nhiều máu…Mick nói: 
  -         Có cái gì đó bay từ cửa ra và cắm vào má em. Có lẽ là một cái dằm… 
  -         Phiền quá nhỉ! – Francois vừa nói vừa xoay cái đèn bấm để  soi cho rõayco h dch vết thương của em – Em có thể chịu được để anh rút  cái dằm ra không? 
  Mick lại muốn tự mình rút cái dằm ra. Nó nhăn mặt đau đớn và khi rút được cái dằm ra thì đau tái cả mặt. Francois nói: 
  -         Có lẽ em nên trở lên bên trên cho thoáng. Đằng nào cũng  phải rửa vết thương này và cầm máu lại. Annie có một chiếc khăn tay sạch  đấy, phải thấm khăn vào nước và chấm chấm vào má. 
  -         Em sẽ lên với anh Mick – Annie quyết định – Francois ở lại đây với Claude. Không cần phải lên tất cả đâu! 
  Nhưng Francois vẫn muốn đưa Mick lên tận bên trên rồi mới trở xuống  với Claude để mở cho được cái cửa đáng ghét kia. Cậu đưa cái búa cho  Claude: 
  -         Mình lên với hai đứa một chút. Trong lúc đó, cậu cứ thử bổ  cái cánh cửa này xem. Không nên để mất thì giờ. Mở được cái cửa này cũng  vẫn còn lâu. Chỉ vài phút mình sẽ quay lại. Bây giờ đã đánh dấu đường  rồi thì lên xuống cũng nhanh thôi. 
  Claude gật đầu, cầm lấy búa: 
  -         Được rồi, cậu cứ đi. Tội nghiệp Mick, mặt cậu ta trắng bệch như tờ giấy! 
  Dagobert ở lại cùng với Claude. Cô bé bắt đầu tấn công cái cửa dữ  dội. Francois đưa Mick và Annie lên trên mặt đất. Annie dúng cái khăn  tay sạch của mình vào trong xoong nước và sẽ sàng lau vết thương của  anh. Má Mick vẫn còn chảy máu nhưng vết thương cũng không sâu lắm. Cậu  bé dần dần hồng hào trở lại và lại nói đến chuyện trở xuống hầm cùng với  Francois. 
  -         Không được đâu – Francois nói – Tốt hơn hết là em hãy nằm  một lúc trên bãi cỏ. Em nằm ngửa ra, đó là cách nằm tốt nhất khi bị chảy  máu cam… cho nên chảy máu má có lẽ nằm thế cũng tốt đấy. Cứ thử xem  sao! Em có thích cùng với Annie trèo lên mấy tảng đá kia mà ngồi không? Ở  đó ta có thể nhìn thấy cái xác tàu. Các em sẽ nghỉ ngơi ở đấy khoảng  nửa giờ. Nào đi nào, anh sẽ đưa các em lên đấy rồi anh sẽ xuống hầm. Tốt  hơn hết, trong lúc má em còn chảy máu thì em đừng có đứng dậy. 
  Francois đưa hai em ra ngoài sân lâu đài, trèo lên những tảng đá quay  mặt ra biển khơi. Vẫn trông thấy cái vỏ màu sẫm của xác tàu bị chốt  cứng trên các mỏm đá nhọn. Mick nằm ngửa và ngắm nhìn bầu trời, chỉ ước  mong cho má mình nhanh chóng cầm máu. Cậu không muốn mọi người tìm thấy  kho vàng mà lại không có cậu. 
  Annie cầm lấy tay anh; tai nạn xảy ra cho anh tuy nhỏ nhưng cũng làm  Annie thương anh lắm. Cô cũng mong được chứng kiến lúc tìm ra các thoi  vàng, nhưng cô vui lòng ở cạnh anh cho đến khi anh đỡ đau, Francois ngồi  với hai em một tí rồi quay lại chỗ cầu thang và khuất xuống dưới đó… 
  Xuống đến nơi, cậu bé đi theo các mũi tên bằng phấn và nhanh chóng  đến ngay chỗ cái cửa. Claude vẫn còn đang ra sức bổ vào cửa. Cô đã bổ vỡ  hết gỗ xung quanh cái khoá, thế mà cửa vẫn không chịu mở ra. Francois  cầm lấy cái búa và ra sức nện thật mạnh. Nện được mấy cái, cái cửa đã có  vẻ lung lay. Francois đặt búa xuống đất, vừa thở vừa nói: 
  -         Nó gần long ra rồi. Chúng ta phải làm nốt cho xong. Đứng xê ra, Dagobert. Còn Claude, nào cậu với mình cùng đẩy nào. 
  Hai anh em cùng ra sức đẩy và cái cửa kêu răng rắc rồi bật ra. Cánh  cửa mở rộng, hai anh em chạy ùa vào trong, vừa đi vừa quay đèn soi khắp  nơi. 
  Gian phòng không rộng hơn những hầm khác là bao và cũng được đào trực  tiếp vào trong đá. Nhưng nó khác các hầm kia ở chỗ trong cùng góc  phòng, có để một đống những cái gì là lạ, giống như những hòn gạch.  Nhưng là những hòn gạch đặc biệt, làm bằng một thứ kim loại màu vàng  xỉn. Francois nhặt một hòn lên xem. Cậu bỗng kêu lên: 
  -         Ôi, Claude! Những thoi vàng! Những hòn gạch này đều bằng  vàng thật! Trông thì không giống vàng, nhưng đúng là vàng thật rồi!  Claude, ôi Claude ơi… trong hầm này có cả một gia tài vô giá… và cái kho  vàng này thuộc về cậu! Chúng mình cuối cùng đã tìm ra kho vàng!   
Chương 14 – Sa bẫy   Claude không sao thốt ra một lời. Cô cũng nhặt lấy một thoi vàng và  đứng im, mắt nhìn chằm chằm vào đống vàng trước mặt. Cô không thể tưởng  tượng nổi những vật lạ lùng này, trông hơi giống những hòn gạch, lại là  thứ kim loại quý giá đến thế. Trống ngực cô đánh thình thình. Chao ôi,  thật là tuyệt diệu, li kì… 
  Bỗng nhiên, Dagobert gầm gừ; nó đứng quay lưng lại bọn trẻ, mõm hướng  ra cửa. Rồi nó bỗng vùng lên dữ dội và sủa ầm ĩ cả gian phòng. 
  Francois gọi: 
  -         Mày có im đi không, Dago? Mày nghe thấy cái gì vậy? Hay là hai đứa bé trở xuống với chúng ta chăng? 
  Cậu chạy ra cửa, khum tay làm loa và lấy hết sức kêu to: 
  -         Mick! Annie! Có phải các em đấy không? Đến đây nhanh lên, anh và Claude đã tìm ra các thoi vàng! Ở đây này! Nhanh lên! 
  Dagobert thôi không sủa nữa nhưng vẫn gầm gừ. Claude lo lắng: 
  -         Mình thấy thái độ Dagobert rất lạ. Nếu là Mick và Annie thì nó không như thế đâu! 
  Nó chưa nói xong, thì hai anh em bỗng choáng cả người; một giọng nói  người lớn vang lên trong căn hầm chật hẹp, tiếng vang đi mãi mãi: 
  -         Ai thế? Ai mà dám xuống đây thế hả? 
  Claude sợ quá, bám lấy Francois. Dagobert vẫn gầm gừ, lông dựng đứng. Claude tắt đèn, thì thào: 
  -         Im nào Dago! 
  Nhưng con chó không chịu nghe, nó vẫn gầm gừ. 
  Bỗng nhiên bọn trẻ thấy một ngọn đèn pin sáng quắc loé lên ngay gần  đó. Quầng sáng chiếu ngay vào chúng và người cầm đèn trông thấy chúng  thì ngạc nhiên đứng dừng lại. Vẫn cái người nói lúc nãy lại cất tiếng: 
  -         Ồ, hay chưa kìa! Thế nào mà lại có hai đứa trẻ ở trong hầm lâu đài của tôi thế này? 
  Claude kêu lên: 
  -         Ông nói lâu đài của ông là nghĩa thế nào? 
  -         Nó là thế này, cô bé ạ, lâu đài này là của tôi rồi, tôi đang làm thủ tục để mua nó mà! 
  Một tiếng nói thứ hai, nghe cắm cảu hơn, cất lên sau lưng người đang nói: 
  -         Này hai đứa kia, chúng bay làm gì ở dưới hầm này vậy? Mick  và Annie mà chúng bay gọi lúc nãy là những đứa nào vậy? Và những thoi  vàng mà chúng bay tìm thấy là những thoi như thế nào? 
  Francois thì thầm với Claude: 
  -         Đừng có trả lời! 
  Chao ôi! Tiếng vang lập tức đón lấy những lời đó và nhắc lại ầm ầm trong các đường hầm: “Đừng có trả lời”… “Đừng có trả lời”… 
  -         A, như vậy là chúng bay không muốn trả lời phỏng? – Cái  người nói sau cất giọng gầm gừ hỏi. Và hắn hùng hổ tiến đến trước mặt  hai anh em. Con Dagobert nhe răng gầm gừ, nhưng hắn không có vẻ gì sợ  hãi. Hắn tiến thẳng đến cửa và chiếu đèn pin quan sát một lượt khắp cái  hầm. 
  -         Gút-ta, hãy nhìn xem này! – hắn kêu lên – Mày nói đúng  thật, đúng là số vàng tưởng mất vẫn còn trong hầm ngầm! Toàn là vàng  thoi thế này thì mang đi dễ dàng quá!… Tao nói thật, chúng mình rơi vào  một mỏ vàng thật rồi! 
  Claude đỏ bừng mặt, giận dữ: 
  -         Vàng này là của tôi! Hòn đảo và toà lâu đài là tài sản của  mẹ tôi, và tất nhiên kể cả những gì trong đó! Kho vàng này do cụ tôi  mang đến đây cất giấu, trước khi tàu bị đắm. Vàng này không bao giờ của  các ông cả! Khi nào tôi trở về nhà, tôi sẽ nói cho bố mẹ tôi biết chúng  tôi đã tìm thấy gì và lúc đó tôi bảo đảm là bố mẹ tôi không bán cái gì  cho ông cả, cả hòn đảo lẫn toà lâu đài. Kể ra, các ông cũng tinh đấy,  khi tìm ra bí mật về kho vàng ghi trên miếng giấy da cũ, nhưng chúng tôi  đã nhanh hơn các ông. Chúng tôi đã tìm thấy kho vàng trước các ông! 
  Hai người đàn ông im lặng nghe Claude nói, giọng rõ ràng nhưng đầy phẫn nộ. Bỗng nhiên một người cười phá lên: 
  -         Đúng mày chỉ là một nhóc con! Mày không tự cho là có thể đủ  sức cản trở công việc của chúng tao chứ? Chúng tao sắp mua hòn đảo này  và tất cả những gì nó chứa ở trong! Chúng tao sẽ mang vàng đi tức khắc  khi hợp đồng mua bán vừa ký xong! Vả lại, nếu có chuyện gì xảy ra mà  chúng tao không mua được hòn đảo thì chúng tao cũng cứ lấy vàng đi như  thường. Đưa một cái tàu đến gần đây rồi chở dần ra bằng ca-nô là chuyện  dễ ợt! Chúng mày đừng có mơ tưởng hão! Chúng tao muốn làm gì là được  nấy! 
  -         Không bao giờ! – Claude kêu lên và bước lên một bước – Bây  giờ tôi sẽ về ngay nhà và báo cho bố tôi biết những chuyện đang xảy ra ở  đây. 
  Một người đàn ông nắm lấy hai vai Claude và đẩy cô trở lại trong hầm: 
  -         Không đâu, cô bé ạ! Cô không trở về nhà được đâu! Cô sẽ ở  lại đây. Và nếu cô không muốn tôi giết chết con chó kia, nó có vẻ sẵn  sàng xông vào cắn tôi, thì cô hãy giữ cho nó đứng yên. 
  Lúc đó Claude mới nhận thấy gã đàn ông cầm sẵn một khẩu súng ngắn loé  sáng lên một cách đáng sợ và cô thấy kinh hãi. Cô vội vàng nắm cái vòng  cổ mà lôi con Dagobert về phía mình mà nói: 
  -         Đứng yên, Dagobert! Không có chuyện gì đâu! 
  Nhưng Dago thì đoán ra là đang có chuyện nghiêm trọng, nó cảm thấy  thế mà lại. Cho nên nó tiếp tục gầm gừ một cách hung dữ. Gã kia tiếp tục  nói, sau khi đã trao đổi rất nhanh với bạn gã: 
  -         Bây giờ hai đứa nghe tao nói đây! Nếu chúng bay ngoan  ngoãn, thì sẽ không có gì xảy ra cho chúng bay cả. Nhưng nếu chúng bay  cứ nhất định cản trở chúng tao, thì chúng bay sẽ phải hối hận về việc  đó. Chúng tao bây giờ định thế này… Chúng tao sẽ đi ca-nô ra biển và  nhốt chúng bay ở đây. Sau khi đã thuê được một chiếc tàu, chúng tao sẽ  trở lại mang vàng đi. Bây giờ đã tìm thấy kho vàng rồi thì chúng tao  cũng chẳng cần mua hòn đảo này làm gì nữa. 
  Hắn cứ nói mà không để ý đến những cái nhìn hốt hoảng của hai đứa bé trao đổi với nhau. Hắn nói tiếp: 
  -         Bây giờ, chúng bay sẽ viết cho hai đứa còn ở trên kia một  mảnh giấy bảo chúng rằng đã tìm thấy kho vàng và gọi chúng xuống xem…  Khi chúng xuống đây, chúng tao sẽ nhốt cả bốn đứa vào trong hầm có kho  vàng. Chúng bay có thể chơi với những thoi vàng đó thế nào tuỳ thích.  Hãy yên trí, từ lúc này cho đến lúc chúng tao về. Chúng tao không để cho  chúng bay chết đói chết khát đâu mà sợ. Chúng tao sẽ mang thức ăn xuống  cho… 
  Người kia rút từ trong túi ra một cái bút chì và một mẩu giấy: 
  -         Này đây, hãy viết thư cho Mick và Annie đi. Đưa cho con chó mang lên. Chắc là nó làm việc đó được đấy. Nào, nhanh lên! 
  Claude giận dữ kêu lên: 
  -         Tôi không viết! Tôi không viết cái gì hết! Các ông không  thể bắt tôi làm một việc như vậy được! Không bao giờ tôi lại gọi Mick và  Annie để cùng sa vào bẫy với chúng tôi cho các ông bắt cầm tù tất cả!  Và tôi cũng không cho phép các ông mang vàng của tôi đi. Vàng của tôi  mới tìm ra! 
  Một trong hai gã đàn ông bỗng có một sáng kiến, hắn giơ nòng súng lên và nói: 
  -         Nếu mày không chịu vâng lời thì tao bắn chết con chó này! 
  Claude cảm thấy lạnh toát cả người và kêu lên một tiếng hãi hùng: 
  -         Không! Không! Đừng làm như thế! 
  -         Vậy thì viết đi, cô bé! – gã kia đưa mẩu giấy và bút chì cho Claude – Nào thôi, cầm lấy, tôi sẽ đọc cho cô viết… 
  -         Tôi không thể viết được! – Claude khóc lên rưng rức – Tôi không muốn các ông bắt cả Mick và Annie! 
  -         Vậy thì tôi sẽ bắn chết con chó này! 
  Người kia nói bằng một giọng lạnh lùng và cả quyết. Hắn chĩa súng về  phía con Dagobert. Claude ôm choàng lấy con chó và gào ầm lên: 
  -         Không! Không! Hãy dừng lại! Tôi sẽ viết tờ giấy ấy vậy! Đừng bắn! Đừng bắn! 
  Nói rồi cô bé cầm lấy giấy và bút chì và nhìn người đàn ông chờ đợi. Hắn ra lệnh: 
  -         Đây viết như thế này: “Mick và Annie thân mến. Bọn mình đã  tìm thấy kho vàng. Hãy xuống ngay hầm với bọn mình để cùng vui chung”.  Xong, ký tên. 
  Claude viết theo lời người kia đọc, rồi ngoan ngoãn ký tên. Nhưng đáng lẽ ký là 
Claude, thì cô ký là 
Claudine. Cô  nghĩ rằng Mick và Annie biết cô không bao giờ chịu ký tên như thế. Cô  chẳng đã nhiều lần nói là ghét cái tên Claudine lắm hay sao. Cô hy vọng  sẽ ngầm báo cho hai đứa biết được là ở dưới này đang có chuyện không hay  xảy ra. 
  Người kia cầm lấy tờ giấy, đọc lại rồi buộc vào cổ con Dago, con này  trong suốt thời gian vừa rồi không lúc nào thôi gầm gừ, nhưng Claude đã  cố giữ được nó khỏi chồm lên cắn hai người kia. Người kia lại ra lệnh: 
  -         Thôi bây giờ cô sai nó mang giấy lên cho hai đứa trên kia đi! 
  Claude nói: 
  -         Đi đi, Dagobert! Đi lên tìm Mick và Annie, đưa thư cho họ! 
  Dagobert không muốn xa rời cô chủ, nhưng nó có vẻ hiểu những lời nói  đầy lo âu của Claude. Nó nhìn Claude một lần cuối, liếm chân Claude một  cái, rồi phóng lên con đường hầm, nó tìm đường rất giỏi, trèo lên các  bậc đá và ra hẳn ngoài trời. Nó dừng lại giữa sân cỏ và đánh hơi Mick và  Annie. 
  Nó đánh hơi theo vết bọn trẻ và chẳng mấy lúc tìm thấy hai đứa nằm  trên mấy tảng đá. Bây giờ Mick đã cảm thấy khoẻ hơn nhiều, má không chảy  máu nữa. Trông thấy con chó, nó ngồi dậy, kêu lên ngạc nhiên: 
  -         Kìa, Dagobert! Thế nào mà bạn lại đi tìm chúng tôi thế này, hả bạn Dagobert? Bạn ở dưới hầm mãi chán rồi phải không? 
  Annie kêu lên: 
  -         Anh Mick nhìn kìa, có cái gì trăng trắng buộc ở cổ con Dago  kìa! Một cái thư. Chắc là anh Francois và Claude viết thư cho chúng  mình bảo xuống với họ chứ gì. Con Dago thật thông minh, nó biết là nó  phải làm nhiệm vụ đưa thư mà! 
  Mick tháo cái thư ở cổ con chó ra và chăm chú đọc. Rồi cậu đọc to lên  cho Annie cùng nghe: “Mick và Annie thân mến. Bọn mình đã tìm thấy kho  vàng. Hãy xuống ngay hầm với bọn mình để cùng vui chung. Claudine.” 
  Annie reo lên, mắt sáng ngời: 
  -         Hoan hô, Francois và Claude đã tìm ra kho vàng! Anh Mick,  bây giờ anh đã thấy đỡ chưa, để xuống hầm. Phải nhanh lên mới được. 
  Nhưng Mick vẫn ngồi yên không đứng dậy. Nó ngồi nguyên trên hòn đá, mắt nhìn tờ thư một cách băn khoăn. Annie sốt ruột hỏi: 
  -         Cái gì thế, anh Mick? 
  Mick lắc đầu một cách khó hiểu và nói: 
  -         Anh chỉ thấy lạ là tại sao Claude lại ký tên là Claudine?  Em cũng biết nó ghét là con gái và mang một cái tên con gái như thế nào  rồi. Em cũng biết có ai lỡ gọi nó là Claudine thì không bao giờ nó thèm  trả lời. Thế mà trên cái thư này, nó lại tự gọi nó là Claudine. Cái đó  làm cho anh thấy ngờ ngợ. Hình như nó muốn chúng ta chú ý đến một cái  gì, như là báo cho chúng ta biết có một việc gì không ổn. 
  -         Gớm, anh Mick, thôi đừng lẩm cẩm nữa – Annie sốt ruột nói –  có cái gì mà không ổn được! Thôi xuống đi, em đang nóng lòn muốn gặp  Francois và Claude. 
  Mick quyết định: 
  -         Hãy đợi một chút, Annie ạ. Để anh chạy ra bến xem ngoài chúng ta ra có ai lên đảo không đã! Em đợi anh ở đây nhé! 
  Nhưng Annie không chịu ở lại một mình. Nó đi theo Mick, vừa đi vừa  lầu bầu là Mick quá cẩn thận. Khi hai anh em ra đến gần bến, đã trông  thấy ca-nô của mình rồi lại thấy ngay bên cạnh có một chiếc ca-nô máy.  Thế là Mick đã không lầm: trên đảo đã có những người lạ! 
  Cậu bé thì thầm: 
  -         Em thấy không? Có người đã đổ bộ lên đây, chắc hẳn đó là  cái lão muốn mua toà lâu đài. Anh đoán hắn cũng đã đọc được tấm bản đồ  và cũng biết có một kho vàng giấu dưới đó… Theo anh, hắn muốn chúng ta  xuống dưới đó để giam chúng ta cùng với Claude và Francois, trong lúc đó  hắn lấy cắp vàng mang đi. Chính hắn đã bắt Claude phải viết bức thư  này… nhưng Claude đã tinh khôn ký bằng một cái tên không bao giờ dùng  đến để ngầm báo cho chúng ta biết. Vậy thì bây giờ hãy nghĩ nhanh xem  phải làm cái gì… Chúng ta phải làm cái gì bây giờ?…   
Chương 15 – Mick ra tay   Mick cầm tay Annie, kéo em ra khỏi tầm nhìn từ dưới bến lên. Có thể  gã kia không đến đảo một mình. Có thể còn tên nữa rình rập đâu đấy và  thấy chúng chăng… Mick bắt Annie phải chạy, và hai đứa về đến cái phòng  hôm trước chúng ngủ đêm ở đó. Về đến nơi, hai đứa ngồi vào một góc… Mick  thầm thì: 
  -         Không còn nghi ngờ gì nữa., Francois và Claude đã bị những  kẻ lạ mặt bắt gặp trong khi đang mở cửa kho vàng. Không biết bây giờ  chúng mình nên làm gì… Có một điều chắc chắn là chúng ta không thể xuống  dưới hầm được nếu chúng ta không muốn cũng lại bị bắt. Kìa, con  Dagobert đi đâu vậy? 
  Con chó từ nãy vẫn đi theo, tự nhiên quyết định chạy thẳng đến chỗ  cửa xuống hầm và biến mất. Nó có vẻ muốn đi tìm Claude ngay tức khắc vì  nó linh cảm thấy cô chủ nó đang bị nguy hiểm đe doạ. Mick và Annie nhìn  theo nó lo lắng. Dagobert còn ở cnạh chúng thì chúng còn cảm thấy hơi  yên tâm. Bây giờ, nó chạy đi mất rồi, hai đứa cảm thấy mình lẻ loi quá! 
  Không đứa nào quyết định được cái gì. Bỗng dưng Annie có ý kiến: 
  -         Em biết là chúng mình nên làm gì rồi. Chúng mình hãy lấy ca-nô chạy về đất liền cầu cứu. 
  Mick âm thầm trả lời: 
  -         Anh đã nghĩ đến điều đó, nhưng anh nghĩ là chúng ta không  có khả năng luồn lách qua các mỏm đá ngầm. Vả lại, chúng ta không đủ sức  chèo cho đến bờ đâu. Trời ơi! Không có cách nào nữa cả… 
  Hai anh em cũng chẳng có thì giờ để suy nghĩ gì lâu. Có hai người đàn  ông ra khỏi đường hầm đang đi tìm chúng. Họ đã trông thấy Dagobert trở  về không có lá thư và hiểu rằng Mick và Annie đã đọc thư. Nhưng họ không  hiểu tại sao hai đứa trẻ không theo lời Claude đi xuống hầm để tìm  chúng. 
  Mick nghe thấy tiếng họ gọi. Lập tức, cậu nắm chặt tay Annie không  cho em cựa quậy. Cậu cẩn thận tiến ra phía cửa và thở phào nhẹ nhõm thấy  hai gã kia đi về phía đối diện với chúng. Cậu bỗng nghĩ ra một ý hay: 
  -         Annie! Anh biết chúng mình có thể trốn ở đâu rồi! Chạy đến  cái giếng cũ. Chúng mình bước xuống mấy bậc thang sắt và trốn ở đấy cho  đến khi có thể lên được. Anh chắc bọn cướp không đứa nào biết mà đến đấy  nhòm xuống đâu. 
  Việc đứng trên thang sắt gỉ, trong bóng tối ở giếng cũ không làm  Annie thích một tí nào. Nhưng Mick đã bắt buộc em đứng dậy và chạy qua  khoảng trống giữa sân, trong khi hai gã kia đang tìm ở phía bên kia lâu  đài. Hai đứa trẻ có đủ thì giờ trốn trước khi họ trở lại. 
  Mick đẩy cái nắp gỗ mục sang một bên và giúp Annie bước xuống mấy bậc  thang. Cô bé sợ lắm. Mick cũng chui xuống giếng và cố sức đậy cái nắp  cho kín ở trên đầu. Hòn đá trước kia Dagobert bị rơi xuống vẫn còn đấy.  Mick bước xuống thêm vài bậc, đứng lên hòn đá, tay vẫn bám vào thang,  nhún nhảy; hòn đá đã mắc cứng vào thành giếng, nên không lay chuyển tí  nào. 
  Mick thì thầm với Annie: 
  -         Hòn đá này khá vững để em có thể ngồi lên trên. Đến đây ngồi, như thế đỡ mệt hơn là bám vào những bậc thang đó. 
  Annie vừa nghe theo vừa run như cầy sấy. Hai đứa ngồi yên như thế một  lúc lâu, hy vọng sẽ không ai đến tìm chúng ở cái chỗ trốn bất tiện này.  Một lúc sau, chúng nghe thấy hai gã đàn ông trở lại và đến gần chỗ  chúng nấp. Hai gã chẳng biết làm thế nào hơn là gọi to lên: 
  -         Mick! Annie! Hai đứa kia tìm các cháu đấy! Các cháu ở đâu? Các chú có tin mừng báo cho các cháu đây! 
  Mick lẩm bẩm trong miệng: 
  -         Nếu có tin mừng thật, sao họ không để tự Francois và Claude  báo cho chúng mình biết? Mưu của họ lộ rõ rồi! Anh nghi có chuyện xảy  ra ở trong hầm ngầm là đúng. Anh rất muốn gặp Francois và Claude để xem  có chuyện gì xảy ra. 
  Bây giờ, hai gã đàn ông đã dừng lại ở giữa sân. Chúng có vẻ rất bực bội. Một gã nói: 
  -         Không biết hai đứa quỷ quái ấy nó đi đâu? Ca-nô của chúng  nó vẫn còn ở ngoài bến, chứng tỏ chúng chưa rời khỏi đảo. Chắc là chúng  chỉ trốn ở đâu đấy thôi. Chúng ta cũng không thể đợi chúng suốt ngày  được. 
  -         Cậu nói đúng đấy. Chúng ta không nên mất thì giờ. Hãy đem  cho hai đứa bị giam dưới kia một ít thức ăn và đồ uống. Mình đã trông  thấy có thức ăn ở trong cái phòng có tường đá. Chắc là của bọn trẻ để  dành ăn dần. Chúng ta để lại một nửa cho hai đứa ở trên này ăn. Khi đi,  chúng ta kéo theo cả ca-nô của chúng để chúng không thể ra khơi được. 
  -         Đồng ý. Vấn đề chính là mang vàng đi xa càng nhanh càng tốt  và giam giữ bốn đứa trẻ trên đảo này cho đến khi chúng ta đã cất giấu  của cải xong yên ổn. Không cần tính đến chuyện mua toà lâu đài này làm  gì nữa. Trước kia chúng ta có ý định đó cũng chỉ là để tìm kho vàng mà  thôi. Bọn trẻ con đã tìm hộ chúng ta. Đời quả thật là tuyệt đẹp! 
  -         Thôi đừng ba hoa nữa, hãy mang thức ăn xuống cho bọn tù  nhân và mặc kệ bọn khác. Hay là cậu cứ đứng đây đợi trong lúc mình xuống  hầm. Biết đâu hai đứa kia bất chợt trở về và cậu chỉ có việc tóm cổ  chúng. 
  Mick và Annie nghe hai gã kia nói chuyện với nhau, im thin thít không  dám thở mạnh. Mong sao chúng không có ý định ngó một cái xuống cái  giếng cũ. Hai đứa trẻ nghe thấy một gã đi về phía gian phòng để lấy thức  ăn mang xuống cho tù nhân. Còn một gã đứng ở sân, miệng huýt sáo một  bài hát đang thịnh hành. 
  Thời gian trôi đi, đối với hai đứa trẻ, dài dằng dặc! 
  Một lúc sau, gã xuống hầm đã lên và cả hai cùng đi về phía cái bến nhỏ. Rồi Mick nghe thấy tiếng một chiếc mô-tơ khởi động. 
  -         Bây giờ chúng mình có thể ra được rồi, Annie! Thật là vừa  hay. Ở đây lạnh quá! Anh phải vội ra ngay chỗ nắng ấm mới được. 
  Hai anh em vội vã ra khỏi chỗ nấp và đứng một lúc lâu sưởi ấm dưới  ánh mặt trời mùa hè chói chang. Tuy vậy, chúng vẫn đứng nấp cho khỏi bị  lộ và nhìn ra biển, chúng thấy rõ một chiếc ca-nô máy đang chạy thẳng  vào bờ. Mick kêu lên vui vẻ: 
  -         Thế là tốt rồi. Chúng ta đã thoát bọn chúng, ít nhất cũng  trong lúc này. Chúng không kéo theo chiếc ca-nô của chúng ta như chúng  nói. Nếu như chúng mình có thể giải thoát cho Francois và Claude, thì  chúng mình có thể đi tìm người cứu được. Chỉ có Claude mới có thể bơi  thuyền về tới đất liền. 
  Annie hỏi: 
  -         Việc gì mà ta không thể giải thoát cho Francois và Claude được? Chúng ta chỉ cần xuống hầm và mở cửa ra thôi chứ gì? 
  Mick buồn rầu nói: 
  -         Thế còn nói chuyện gì? Em thử nhìn coi… 
  Annie nhìn theo phía Mick chỉ. Nó thấy là hai tên cướp đã bịt cửa cầu  thang xuống hầm bằng những tảng đá rất lớn và rất nặng. Phải cả hai  người lớn tập trung sức lại mới có thể vần được những tảng đá to như  vậy. Mick và Annie thì không hy vọng gì lay chuyển nổi những tảng đá ấy  để lấy lối xuống. Thế là lối xuống đã bị tắc hoàn toàn. 
  Mick nói: 
  -         Như vậy là không thể xuống bằng cầu thang đá nữa rồi. Bọn  chúng đã tìm cách ngăn trở chúng ta. Thế mới gay đấy. Mà mình cũng chẳng  biết cái cửa thứ hai xuống hầm ngầm ở chỗ nào nữa, chỉ mang máng là ở  gần chỗ cái tháp có nhiều quạ đậu. 
  -         Thì chúng ta cứ thử tìm xem – Annie nói một cách hăng hái. 
  Hai anh em đi về phía cái tháp ở bên phải, nhưng rồi chúng cũng phải  nhanh chóng công nhận rằng cái cửa ấy nếu có đi chăng nữa thì cũng đã  mất từ đời nảo đời nào rồi. Ở chỗ đó, toà lâu đài bị đổ nát hoàn toàn và  trên mặt đất, xung quanh chỗ tổ quạ, có rất nhiều tảng đá to không thể  nào lay chuyển được. Hai đứa trẻ đành phải bỏ dở cuộc tìm kiếm. 
  -         Bực thật! – Mick nói – Cứ nghĩ rằng Francois và Claude đang  bị giam giữ trong hầm ngầm mà không làm cách nào giải thoát cho họ được  thì tức thật!… Annie, em nghĩ xem có cách nào khác không? 
  Annie ngồi lên trên một hòn đá và suy nghĩ rất dữ. Bỗng dưng mặt cô có vẻ rạng rỡ lên và quay lại Mick, cô nói: 
  -         Anh Mick này, thử xem… Anh thấy ta có thể theo con đường  giếng trèo sâu xuống dưới được không? Cái giếng này đi qua các hầm “bỏ  quên”… và ta đã thấy nó có một lỗ hổng có thể chui ra chỗ hầm ngầm được.  Anh có nhớ không? Chúng mình đã chả chui đầu qua cái lỗ ấy và nhìn lên  trên này thấy ánh sáng mặt trời đó sao? Có thể chúng mình lách qua giữa  hòn đá che mất một phần miệng giếng và thành giếng để trèo xuống bên  dưới. Ta thử xem có được không, anh thấy sao? 
  Mick hiểu rất rõ Annie muốn nói gì, cậu lại gần giếng và nhìn xuống bên dưới một lúc rồi trả lời: 
  -         Anh nghĩ rằng em nói có lý đấy, Annie ạ. Chúng ta không ai  quá to lớn, có thể lách qua hòn đá và trèo xuống bên dưới. Nhưng anh  không hiểu những bậc thang sắt này xuống sâu đến chừng nào thì hết. 
  Annie cương quyết: 
  -         Đến đâu mặc nó, ta cứ thử xem. Chỉ còn cách ấy mới giải thoát được Francois và Claude mà thôi. 
  Mick đồng ý: 
  -         Được rồi, anh sẽ thử. Còn em, Annie, em không đi theo anh  được. Anh không muốn em lộn cổ xuống tận đáy giếng. Anh sẽ xuống một  mình. Những bậc thang có thể hết ở giữa chừng… cái gì mà chẳng có thể  xảy ra được. Em phải ở trên này đợi và giúp đỡ anh nếu cần. Anh sẽ thử  xem có làm được cái gì không? 
  Annie lo lắng: 
  -         Anh phải cẩn thận hết sức đấy, em van anh. Anh nên mang  theo một sợi dây thừng. Như vậy, nếu cần đến dây thì anh không phải trèo  lên nữa. 
  -         Ý kiến hay đấy! 
  Mick đi về phía gian phòng và lấy một sợi dây. Nó cuốn dây quanh mình để khỏi vướng tay, rồi quay lại chỗ Annie: 
  -         Anh chuẩn bị xong rồi đây. Nào bắt đầu xuống! Em đừng lo gì cho anh. Mọi việc sẽ suôn sẻ cả. 
  Annie sợ xanh mặt. Cô chỉ sợ Mick ngã lăn xuống đáy giếng. Mick trèo  xuống các bậc thang sắt cho tới hòn đá chắn ngang. Đến đó, cậu thu mình  lại cho thật nhỏ để lách qua giữa hòn đá và thành giếng. Không dễ lắm,  nhưng cuối cùng cũng qua được và từ lúc đó Annie không trông thấy Mick  nữa, tuy vẫn nghe thấy tiếng nói: 
  -         Những bậc thang vẫn còn ở dưới hòn đá, Annie ạ. Mọi việc đều ổn cả. Em có nghe tiếng anh không? 
  Annie cúi xuống thành giếng và trả lời, tiếng nói nghe ồm ồm rất lạ tai: 
  -         Có! Cẩn thận đấy nhé, anh Mick! Em mong là thang sẽ còn xuống thấp nữa! 
  -         Vẫn ổn cả! – Mick lại gào to để trả lời. Nhưng rồi nó bỗng  kêu lên một tiếng bực bội – Khỉ thật! Đến đây là hết thang, y như thể nó  bị gãy đột ngột vậy! Hay là nó chỉ xuống đến đây chứ chưa bao giờ dài  hơn nữa? Bây giờ mình phải dùng đến dây thừng rồi. 
  Một lúc im lặng. Mick đang cởi sợi dây thừng cuốn quanh mình. Cởi  xong, cậu buộc một đầu vào nấc thang gần sát cuối, xem ra có vẻ vững  chắc hơn cả. Cậu kêu to lên với Annie: 
  -         Bây giờ, anh bắt đầu xuống bằng dây đây. Em đừng sợ gì cả. Mọi việc vẫn ổn cả! 
  Bắt đầu từ lúc này, Annie thôi không còn hiểu Mick nói gì nữa, bởi vì  giếng sâu và lại có hòn đá to chắn ngang, nên lời nói lên đến nơi đã bị  biến dạng đi, không nghe rõ nữa. Tuy nhiên, cô bé vẫn sung sướng nghe  thấy tiếng anh nói, cái đó chứng tỏ Mick vẫn được yên ổn. Thỉnh thoảng,  cô cũng nói mấy câu để động viên anh, hy vọng Mick nghe thấy. 
  Mick tiếp tục tụt xuống bằng sợi dây. Cậu bám vào dây bằng hai tay,  hai chân và đầu gối. May làm sao cậu ta vốn là tay giỏi về môn thể dục; ở  trường, bao giờ cũng đứng thứ nhất. 
  Tụt được một lúc, cậu tự hỏi không biết đá đến ngang hầm ngầm chưa.  Tụt xuống cũng khá lâu rồi còn gì. Cậu lấy đèn pin trong túi ra, bật  lên, rồi ngậm vào giữa hai hàm răng, làm như vậy để cho hai tay được rỗi  rãi. Cậu chuyển mình đẩy cho cái dây xoay một vòng, và như vậy đèn soi  được một vòng quanh thành giếng. Nhưng Mick vẫn không xác định được mình  ở trên hay ở dưới cái lỗ hổng thông từ giếng ra con đường hầm, mà cậu  ta không có ý định tụt mãi cho xuống tận đáy giếng. 
  Sau một phút suy nghĩ, cậu cho rằng mình chỉ vừa mới đi qua chỗ đó  được tí thôi. Cậu trèo trở lên một chút và nhẹ người khi thấy mình đã  nghĩ đúng. Cái lỗ hổng ở ngay phía trên đầu. Cậu trèo lên thêm và đung  đưa sợi dây để đến gần cái lỗ hổng; chỉ một lúc sau cậu đã ngoặc chân  được vào đó và tìm cách chui qua. 
  May mà Mick cũng không to lớn lắm, nên tuy có khó khăn, cuối cùng  cũng thành công. Vẫn bám vào cái dây, Mick uốn người một chặp thì chui  được. Cậu đã đứng trong đường hầm, thở hổn hển nhưng thắng lợi. 
  Bây giờ, cậu chỉ cần theo các dấu phấn trên đường để đi đến hầm vàng; ở đó chắc chắn là Francois và Claude đang bị cầm tù. 
  Cậu bật đèn và soi lên tường. Tốt quá, các mũi tên trắng không bị  những kẻ kia xoá đi. Thế là may rồi!… Trước khi đi, Mick thò đầu qua lỗ  hổng và gọi em: 
  -         Annie, xong rồi, anh đã ở trong đường hầm. Em hãy theo dõi xem lúc nào bọn kia trở lại. 
  Nói xong, cậu đi theo các mũi tên chỉ đường. Tim cậu đập thình thịch.  Một lúc sau, cậu đi đến trước cái cửa có khoá và những hàng đinh to.  Đúng như cậu nghĩ, cửa này hiện đang đóng chặt để giam Francois và  Claude. Bên trên và bên dưới cửa lại có hai cái chốt to tướng, làm cho  hai kẻ bị nhốt không tài nào tự mình thoát khỏi nhà tù được. 
  Trông thấy hai cái chốt cửa, Mick rất ngạc nhiên. Tất nhiên không  phải bọn cướp biết rằng chúng sẽ phải dùng đến mà mang theo. Vả lại, hai  cái chốt cửa trông gỉ ngoèn gỉ ngoẹt, Mick đoán là đã có ở đấy từ lâu,  nhưng lúc bọn trẻ mở cửa để vào thì hai cái chốt này không cài. Có lẽ vì  vậy mà bọn chúng không để ý đến. 
  Chỉ cần khoá cửa cũng đủ bảo vệ kho vàng. Hai cái chốt cửa có lẽ được  dùng từ ngày xửa ngày xưa, chứng tỏ hầm ngầm đã được dùng để nhốt tù  nhân. Bây giờ nó cũng lại đang nhốt tù nhân nữa. 
  Hai tù nhân trong đó đã dùng hết sức để xô cánh cửa, nhưng chẳng ăn  thua gì cả. Bây giờ, chúng đang ngồi trong gian phòng chứa đầy vàng, hết  hơi hết sức và rất tức giận. Cái tên nhốt chúng đã quay lại, mang xuống  cho chúng các thức ăn uống, nhưng chúng không hề đụng đến. Dagobert  cũng nằm cạnh đấy, đầu đặt trên hai chân duỗi dài, hơi giận Claude vì  Claude không cho phép nó được nhảy lên cắn cổ những kẻ kia, mà nó thì  muốn thế quá đi mất. Nó không thể biết rằng Claude làm thế để cứu nó;  nếu nó tấn công bọn cướp, chắc chắn bọn này sẽ bắn nó chết ngay. 
  Claude bỗng nói: 
  -         Tuy vậy, mình cũng rất mừng vì Mick và Annie đã đủ tinh  khôn mà không xuống đây để cùng bị cầm tù với chúng ta. Có lẽ hai đứa  cũng nghĩ rằng ở đây đang có cái gì không ổn xảy ra khi thấy mình ký tên  là Claudine chứ không phải Claude. Không biết bây giờ hai đứa đang làm  gì? Có lẽ chúng đang trốn, không cho bọn kia tìm thấy… 
  Bỗng Dagobert hộc lên một tiếng làm cho Claude dưng lại. Con chó đứng  vùng dậy và đi ra phía cửa, vừa đi vừa nghiêng đầu nghe ngóng. Chắc  chắn là nó có nghe thấy một tiếng động gì đó. 
  Claude rên rỉ: 
  -         Mình mong là chưa phải bọn chúng đã quay trở lại. 
  Nó lấy đèn pin soi vào Dagobert, và ngạc nhiên thấy con chó đang vui  vẻ vẫy đuôi rối rít. Một tiếng động mạnh vào cửa làm cho hai đứa đứng  bật dậy. Và lúc đó, y như một hồi kèn thắng trận, tiếng Mick vang lên: 
  -         Ơi Claude! Ơi Francois! Các cậu có ở đấy không? 
  -         Oa! – Dagobert trả lời, lấy chân gãi cửa sồn sột. 
  -         Mick! Mở cửa cho anh nhanh lên! – Francois gào lên sung sướng.         
(Còn tiếp)    Người đánh máy: ITAP    Thể loại: truyện ngắn (phiêu lưu, mạo hiểm)   Tác giả: Enid Blyton   Dịch giả: Nguyễn Thị Huyền       
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 02.10.2013 13:19:36 bởi ITAP >