Những chuyện ngắn lạ...
Chào chị Hoàng yến
Năm mới lại đền, CtLy thương chúc chị năm Giáp Ngọ tràn đầy ha(nh phúc, an khang và như ý
Chuyện 7 CHIẾC GIƯỜNG TẦNG TRÊN ( THE UPPER BERTH by F.MARION CRAWFORD ) Ông Brisbane nói: -Trước kia tôi là một hành khách đã từng vượt Đại Tây Dương nhiều lần, tôi cũng có những cái ưa thích riêng của mình. Đa số người ta đều có những ưa thích riêng. Tôi đã thấy một ông kia chờ ở ba Broadway 45 phút để đón một chiếc xe mà ông ta thích. Tôi tin rằng ông chủ ba đó cũng kiếm được ít nhất 1/3 số lợi tức nhờ vào cái sở thích của ông kia. Tôi cũng có thói quen mỗi khi vượt đại dương thường chờ cho được một chiếc tàu đặc biệt nào đó. Chỉ có một lần trong đời thói quen của tôi đã gây rắc rối cho tôi. Tôi còn nhớ rất rõ vào một buổi sáng ấm áp tháng sáu tôi vội vã lên tàu, chiếc KAMTSCHATKA đã là một trong những chiếc tàu ưa thích của tôi, tôi nói đã vì bây giờ nó không còn hiện hữu nữa. Không một điều gì có thể khiến tôi đặt chân lên chiếc tàu đó nữa, mặc dầu boong tàu rất sạch sẽ và những giường ngủ đều có hai tầng. Nó khá tiện nghi nhưng tôi sẽ không bao giờ đặt chân lên nó nữa. Tôi lên tàu và gọi một người bồi tàu có cái mũi đỏ và bộ râu cá chốt cũng đỏ mà tôi trông rất quen. Bằng giọng của một người coi việc vượt Đại Tây Dương cũng thường như việc uống một ly whisky ở phố Delmonico, tôi nói: -Cho tôi phòng 105, giường dưới. Người bồi tàu cầm lấy xách tay và áo khoác của tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên được vẽ mặt của anh ta. Tôi không lưỡng lự mà nói rằng, anh ta không hề xanh mặt, nhưng vẽ mặt của anh ta khiến tôi đoán rằng anh ta sắp khóc hay nhảy mũi hoặc sắp đánh rơi xách tay của tôi, và vì xách tay của tôi có chứa hai chai rượu sherry rất xưa do ông bạn cũ Snigginson Van Pickyns biếu để tôi mang theo trong cuộc hành trình, tôi cảm thấy vô cùng lo ngại. Nhưng trái với suy đoán của tôi, anh bồi không hề khóc, nhảy mũi hay đánh rơi gì cả. Anh ta chỉ lầm bầm: -A, khổ cho tôi! Rồi quay lưng dẫn đường. Tôi nghĩ có lẽ anh ta vừa mới uống rượu nhưng tôi không nói gì, chỉ đi theo sau. Phòng 105 ở về phía mạn tàu và phòng cũng chẳng có gì đặc biệt. Chiếc giường, giống như các giường khác trên chiếc Kamtschatka, là giường tầng. Phòng khá trống, có một bồn rửa mặt, một hàng móc bằng gỗ nâu. Trên mặt nệm những chiếc mền được xếp cẩn thận, không thấy có khăn lông. Các chai nước chứa đầy một thứ chất lỏng trong có hơi pha chút màu nâu và toát ra một mùi không mấy thú vị cho khứu giác giống như mùi dầu máy. Hai tấm màn có cái màu trông buồn thảm che hết phân nửa giường trên và ánh mặt trời tháng sáu lờ mờ chiếu một chút ánh sáng yếu ớt lên trên cảnh lẻ loi đó. Ôi, sao mà tôi ghét cái phòng đó tệ! Người bồi tàu đặt hành lý tôi xuống rồi quay nhìn tôi, dường như anh ta muốn đi cho rãnh, có lẽ là để tìm thêm hành khách và được thêm tiền. Việc cho tiền boa lúc nào cũng là một khởi điểm tốt cho công việc của mình vì vậy tôi đã boa anh ta ít đồng shilling liền ngay đó. Bỏ tiền vào túi anh ta nói: -Tôi sẽ cố gắng hết sức để làm cho ông được thoải mái. Tuy nhiên trong giọng nói anh ta có một vẽ như nghi ngại khiến tôi ngạc nhiên. Hay có lẽ tiền boa cho anh ta đã tăng lên và anh ta không vừa ý với mấy đồng của tôi?! Nhưng tôi nghĩ hẳn là chính anh ta cũng sẽ an ủi rằng “ Dầu sao cũng đủ một ly rượu” Tuy nhiên tôi đã nghĩ lầm và đã phán đoán anh ta không đúng. Suốt ngày hôm đó không có chuyện gì đáng nói đến. Tàu rời bến rất đúng giờ và vì thời tiết lúc ấy nóng bức nên khi tàu chạy thật là thú vị, tàu di động mang đến một luồng gió thật tươi mát. Ai cũng biết ngày đầu ở biển như thế nào. Người ta đi lại trên boong nhìn mặt nhau và thỉnh thoảng gặp được những người quen mà họ không dè là có mặt trên tàu. Lại thêm nổi băn khoăn về thức ăn không biết ngon hay dở cho đến khi đã ăn được hai bửa ăn thì vấn đề đó mới trôi qua. Rồi lại tới nổi băn khoăn về thời tiết cho đến khi tàu đã qua khỏi đảo Lửa. Lúc đầu các bàn ăn đều đầy nghẹt rồi bổng dưng thưa dần. Nhiều người mặt tái xanh vụt khỏi chổ ngồi vội vàng chạy ra cửa khiến các thủy thủ đã từng đi biển thở phào nhẹ nhõm vì người kế bên mình đã bị say sóng chừa chổ cho mình rộng rãi ăn uống thoải mái. Cuộc vượt Đại Tây Dương nào cũng rất giống nhau và chúng ta những người đi biển thường không coi việc vượt biển là một điều hay ho hay lý thú gì. Cá ông và băng sơn quả là những thứ hấp dẫn nhưng cá ông thì con nào cũng giống nhau và băng sơn thì hiếm khi được thấy gần. Đối với đa số những người đi biển thì cái giây phút thú vị nhất trong ngày là khi đã rảo một vòng cuối trên boong, đã hút xong điếu xi-gà cuối và cảm thấy có thể vào phòng ngủ với một đầu óc thư thả. Vào cái đêm đầu tiên trong chuyến vượt biển đó tôi cảm thấy thật lười biếng nên đã đi ngủ sớm hơn thông thường. Khi bước vào phòng tôi ngạc nhiên thấy rằng mình có một bạn đồng hành. Một chiếc xách tay rất giống của tôi nằm bên góc đối diện và trên giường tầng trên đặt một chiếc chăn xếp gọn gàng với một cây gậy và một cây dù. Tôi thấy thất vọng vì đã hy vọng được ở một mình, nhưng tôi thắc mắc không biết người bạn đồng hành của mình như thế nào, vì vậy tôi quyết định nhìn xem ông ta. Tôi lên giường chưa được bao lâu thì ông ta vào phòng. Ông ta rất cao, rất ốm, rất xanh với tóc và râu mép màu cát ngà và cặp mắt xám không chút máu. Tôi nghĩ ông ta có cái vẽ khó mô tả, loại người mà bạn có thể gặp ở khu Wall Street nhưng không sao đoán được rõ ràng ông ta làm gì ở đó, hoặc loại người thường có mặt ở Quán café Ăng-lê, hình như chỉ có một mình và luôn uống sâm-panh. Bạn cũng có thể gặp loại người này ở trường đua nhưng ông ta sẽ có vẽ như không làm gì ở đó cả. Ăn mặc hơi lố, hơi kỳ cục một chút, thường có ba hoặc bốn hạng người này trên một chiếc tàu biển. Tôi quyết định không thèm làm quen với ông ta và nhắm mắt ngủ tự nhủ là sẽ để ý các thói quen của ông ta hầu có thể tránh gặp mặt ông ta. Nếu ông ta dậy sớm, tôi sẽ dậy trễ. Nếu ông ta đi ngủ trễ, tôi sẽ đi ngủ sớm. Tôi không cần quen biết ông ta. Nếu bạn nói chuyện với loại người đó một lần thì họ sẽ đến gặp bạn hoài. Tội nghiệp! Tôi không cần phải nghĩ bao nhiêu chuyện về ông ta như thế vì tôi không bao giờ gặp lại ông ta sau cái đêm đầu tiên đó ở phòng 105. Đang ngủ ngon tôi bổng giật dậy vì một tiếng động mạnh. Qua tiếng động hẳn là ông bạn cùng phòng với tôi đã nhảy bật từ trên giường xuống sàn phòng. Tôi nghe tiếng ông ta mở chốt cửa và cửa bật ra ngay, rồi tôi nghe tiếng chân ông ta chạy thật nhanh theo hành lang bỏ cửa phòng mở toát đằng sau. Tàu đang bị sóng nhồi và tôi lắng nghe xem ông ta có loạng choạng hoặc bị té ngã không, nhưng không, ông ta chạy như thể để cứu mạng của mình vậy. Tàu bị sóng nhồi nên cửa phòng va tới va lui khiến tôi bực mình vì tiếng động khó chịu đó phải leo xuống giường đóng cửa lại, rổi lần dò trong bóng tối trở lại giường nằm. Tôi ngủ lại ngay và không biết mình ngủ được bao lâu. Khi tôi thức giấc trời hãy còn tối và tôi nghe một cảm giác lạnh khó chịu, hình như là không khí có hơi ẩm ướt. Chăc các bạn cũng biết khi phòng tàu bị ướt nước biển nó có mùi lạ như thế nào. Tôi kéo mền trùm thật kỹ và ngủ lại định bụng hôm sau sẽ dùng ngôn từ mạnh bạo để phàn nàn về việc đó. Tôi nghe tiếng trăn trở của ông khách tầng trên. Có lẽ ông ta về phòng lúc tôi ngủ mê. Có lúc nào đó hình như tôi nghe tiếng ông ta rên rỉ và tôi cho là ông ta bị say sóng. Thật là khó chịu khi bạn nằm ở tấng dưới. Tuy vậy tôi vẫn ngủ được và ngủ mãi đến sáng sớm hôm sau. Buổi sáng tàu lắc lư nhiều hơn tối qua và làn ánh sáng nhạt chiếu qua khung cửa kiếng tròn của phòng ánh lên từng lúc tùy theo từng đợt nhồi của sóng khiến mặt kiếng lúc thì hướng về mặt biển lúc lại quay ngược lên trời. Trời thật lạnh, điều này lạ đối với tháng sáu. Tôi quay đầu nhìn khung cửa tròn và rất đổi ngạc nhiên thấy nó đã được mở ra và cánh cửa được gài vào vách tàu chặt chẽ. Tôi nhớ rằng lúc đó tôi đã chửi to lên rồi ngồi dậy đến đóng nó lại. Lúc quay lại tôi liếc nhìn lên giường trên thấy hai cánh màn đã khép sát lại, hẳn ông bạn đồng phòng cũng cảm thấy lạnh như tôi. Căn phòng không được tiện nghi và lạ một điều là tôi không còn ngửi thấy mùi nước biển ẩm ướt đã làm tôi khó chịu trong đêm nữa. Tôi thấy là mình đã ngủ quá đủ rồi và ông bạn đồng phòng thì vẫn còn ngủ, đây là dịp may hiếm có để tránh gặp mặt ông ta, vì vậy tôi mặc đồ ngay và đi lên boong. Trời ấm áp và có mây, nươc biển có mùi dầu. Tôi lên đến boong là đúng 7g- trễ hơn là tôi tưởng. Tôi đi ngang vị bác sĩ đang hít thở làn không khí buổi ban mai. Anh là một người trẻ tuổi ở miền tây Ái Nhĩ Lan, một người khỏe mạnh với mái tóc đen và cặp mắt xanh đang trên đà phát phì. Anh có cái vẽ trẻ trung yêu đời trông khá hấp dẫn. Để tự giới thiệu tôi nói: -A, một buổi sáng đẹp trời! Anh nhìn tôi vẽ thú vị. -Vâng, một buổi sáng đẹp và cũng không đẹp. Tôi nghĩ nó không đẹp gì lắm. -À, phải, cũng không đẹp gì lắm. Tôi đáp và nói tiếp. -Tối qua tôi đã nghĩ rằng trời lạnh quá, nhưng khi nhìn quanh mới hay cửa tròn đã được mở ra. Lúc đi ngủ tôi quên không để ý xem, và căn phòng cũng ẩm ướt nữa. -Ẩm ướt à? Anh hỏi. –Phòng ông ở đâu? -Phòng 105. Tôi ngạc nhiên thấy anh giật mình và nhìn sửng tôi. Tôi hỏi. -Có chuyện gì thế bác sĩ? -Ồ, có gì đâu – chỉ là trong ba chuyến vượt biển rồi ai cũng phàn nàn về phòng đó. -Nếu vậy thì tôi cũng xin phàn nàn. Chắc hẳn là phòng đã không được dọn rửa cẩn thận. Thật là tệ. -Đành vậy. Bác sĩ đáp. -Tôi tin là có một cái gì --- hừ, mà tôi không được làm cho hành khách sợ hãi. -Anh đừng lo là sẽ làm cho tôi sợ. Ẩm ướt cách mấy tôi đều chịu được cả và lở tôi có bị cảm tôi sẽ đến gặp anh. Tôi mời anh một điếu xì- gà. Anh cầm lấy nhìn ngắm với vẽ bình phẩm rồi nói: -Không hẳn là vấn đề ẩm ướt. Tuy nhiên tôi tin là ông sẽ chịu được. Ông có ai ở chung phòng không? -Có, một thằng ngốc, chạy bổ ra khỏi phòng lúc nửa đêm và để cửa phòng toang hoác. Anh bác sĩ lại liếc nhìn tôi một cách kỳ lạ rồi anh đốt thuốc hút với vẽ lo âu. Anh hỏi: -Người đó có trở lại phòng không? -Có, lúc tôi đang ngủ, sau đó tôi thức giấc và nghe ông ta xê dịch ở trên, rồi tôi nghe lạnh quá và đã ngủ lại. Sáng dậy tôi thấy cửa tròn mở toang. -Nghe này. Bác sỉ lặng lẽ nói, -Tôi không cần chiếc tàu này. Tôi cũng không cần biết đến thanh danh của nó. Tôi có một căn phòng rộng trên boong, tôi sẽ nhường ông nửa phòng mặc dầu tôi không biết ông là ai. Tôi rất đổi ngạc nhiên với lời đề nghị đó. Tôi không hiểu sao anh bác sĩ lại bổng dưng quan tâm đến tôi như thế. Thái độ của bác sĩ lúc nói về chiếc tàu có vẽ kỳ quặc. Tôi nói: -Anh tử tế quá bác sĩ à nhưng tôi tin rằng căn phòng có thể được dọn rửa kỹ lại. Sao anh lại không cần đến chiếc tàu? -Nghề nghiệp của tôi không cho tôi mê tín nhảm nhí, thưa ông, nhưng biển cả làm cho con người trở nên như thế. Tôi không muốn làm hại ông và tôi cũng không muốn làm cho ông sợ hãi, nhưng ông nên nghe lời khuyên của tôi mà dời lên đây ở với tôi. Anh nói thêm một cách chí tình. -Thà để tôi gặp ông trên tàu hơn là được biết ông hay một người nào khác đã ngủ trong phòng 105. -Trời đất. Sao vậy bác sĩ? Tôi hỏi. Anh nghiêm nghị trả lời. -Vì trong ba chuyến vượt biển vừa qua những người ngủ ở phòng đó đã nhảy cả xuống biển. Thú thật là tiết lộ đó đã làm cho tôi giật mình và không thấy thú vị chút nào. Tôi nhìn kỹ anh bác sĩ để xem có phải anh muốn trêu ghẹo tôi không nhưng thấy anh hoàn toàn thành thật. Tôi thân mật cám ơn anh và nói tôi sẽ là một trường hợp ngoại lệ đối với cái lệ ai ngủ phòng đó thì sẽ nhảy xuống biển. Bác sĩ không nói nhiều nhưng có vẽ lo lắng và ngỏ ý rằng tôi nên xét lại đề nghị của anh. Sau đó chúng tôi đi ăn điểm tâm. Chỉ một số ít hành khách có mặt ở phòng ăn. Tôi chú ý thấy một hay hai sĩ quan ngồi cùng bàn có vẽ lo âu.Sau điểm tâm tôi về phòng lấy một quyển sách.Màn ở giường trên vẫn còn kéo lại và không nghe thấy tiếng gì cả. Chắc ông ta vẫn còn ngủ. Lúc bước ra tôi gặp anh bồi có bổn phận “chăm sóc” tôi. Anh ta lầm bầm là thuyền trưởng muốn gặp tôi rồi quày quả đi như sợ tôi hỏi han. Tôi đến phòng thuyền trưởng và thấy ông đang chờ tôi. Ông nói: -Thưa ông, xin ông giúp cho một việc. Tôi đáp là rất sẳn lòng. Ông nói : -Người đồng phòng với ông đã biến mất. Tôi được biết là tối qua ông ta đã đi nghỉ sớm. Ông có để ý thấy cử chỉ ông ta có gì lạ không? Câu hỏi đó xác nhận rõ ràng nổi lo sợ của vị bác sĩ cách đó nửa giờ khiến tôi bàng hoàng. Tôi vội hỏi: -Thuyền trưởng không có ý nói là ông ta nhảy xuống biển chứ? -Tôi e rằng ông ấy đã nhảy rồi. -Đây thật là một điều kỳ lạ nhất… -Sao vậy? Thuyền trưởng hỏi. -Vậy ông này là người thứ bốn phải không? Rồi tôi giải thích cho ông biết là đã nghe kể câu chuyện liên quan đến phòng 105 nhưng không đề cập đến vị bác sĩ. Thuyền trưởng có vẽ khó chịu vì tôi biết chuyện đó. Tôi kể cho ông nghe những chuyện xảy ra tối hôm đó. Nghe xong ông nói: -Điều ông kể đúng y như điều các người đồng phòng với ba người kia đã kể lại với tôi. Họ cũng nhảy bật xuống khỏi giường và chạy như bay theo hành lang. Vọng canh trông thấy họ nhảy xuống biển. Chúng tôi cho tàu dừng lại và thả thuyền nhỏ xuống nhưng không tìm thấy họ. Tuy nhiên không ai nghe hoặc thấy gì về người bị mất tích tối qua---nếu thật sự ông ta dã mất tích. Anh bồi tàu có lẽ là một người mê tín, anh ta tin là sẽ có chuyện không may xảy ra nên sáng sớm đã tới tìm ông khách đó thì thấy giường ông ta trống không, quần áo nằm đây đó nơi ông ta đã thảy chúng xuống. Anh bồi là người duy nhất trên tàu biết mặt ông ta và đã tìm kiếm ông ta khắp nơi trên tàu mà không thấy. Ông ta đã thật sự biến mất rồi. Thưa ông, xin ông đừng nói gì về việc này với bất cứ hành khách nào. Tôi không muốn tàu bị mang tiếng xấu và những câu chuyện về tự tử thường mang lại ảnh hưởng không tốt cho các tàu đi biển. Ông được quyền lựa bất cứ phòng của một sĩ quan nào trên tàu mà ông thich kể cả phòng của tôi trong suốt cuộc hành trình còn lại để bù đắp cho việc ông dấu kín dùm chuyện này. Ông có đồng ý đây là một cuộc trao đổi công bằng không? - Vâng, rất là công bằng và tôi rất cám ơn thuyền trưởng nhưng vì tôi chỉ có một mình, lại được ở một mình một phòng rộng rãi, tôi thấy không thích dời đổi. Xin cho người đem đồ của ông khách kém may mắn ấy ra và tôi sẽ ở lại phòng đó. Tôi sẽ không nói với ai về chuyện đó đâu và tôi tin là có thể hứa với ông là tôi sẽ không đi theo vết ông bạn đồng phòng đó. Thuyền trưởng cố khuyên tôi bỏ ý định nhưng tôi thích ở một phòng một mình hơn là ở chung với bất kỳ một sĩ quan nào trên tàu. Không biết là tôi có hành động ngu xuẩn hay không nhưng nếu tôi đã nghe theo thuyền trưởng thì bây giờ hẳn không có chuyện gì để kể ra đây trừ chuyện trùng hợp của những vụ tự tử xảy ra trong số người ngủ ở phòng đó. Tuy nhiên câu chuyện không dừng lại ở đó. Tôi cứng đầu nhất định không tin một chuyện hoang đường như thế và tranh luận về việc đó với thuyền trưởng.Tôi nói căn phòng đó có diều không ổn, nó hơi ẩm ướt. Rằng ông bạn dồng phòng của tôi có lẽ đã có bệnh trước khi lên tàu và sau khi lên giường ngủ bỗng lên cơn mê sảng. Có thể ông ta vẫn còn đang ẩn núp đâu đó trên tàu mà thế nào cũng sẽ tìm ra và phòng lạnh là vì cửa tròn đã để mở tối qua. -Theo tôi thì nên dọn sạch phòng và xem lại then cài cửa tròn.Nếu thuyền trưởng cho phép, tôi yêu cầu cho người làm ngay những gì tôi nghĩ là cần thiết. -Dĩ nhiên là ông có quyền ở chổ nào ông thích. Thuyền trưởng trả lời hơi nóng nảy, -nhưng tôi mong là ông sẽ dọn ra để tôi khóa phòng đó lại, như vậy cho xong. Tôi không đồng ý và rời phòng thuyền trưởng sau khi đã hứa là sẽ im lặng về việc người bạn đồng phòng mất tích. Ông ta không quen ai trên tàu nên trong ngày không có ai tìm ông ta. Đến chiều tôi gặp lại vị bác sĩ, anh hỏi tôi đã đổi ý chưa. Tôi đáp là chưa. Anh tỏ vẽ rất ái ngại. -Vậy thì ông sẽ đổi ý không lâu nữa đâu. Buổi tối chúng tôi chơi cờ và tôi đi ngủ trễ. Bây giờ tôi xin thú thật là tôi có một cảm giác khó chịu khi bước vào phòng. Tôi không thể nào không nghĩ đến con người cao ráo tôi đã thấy tối qua mà giờ đây đã chết chìm, xác bị những con sóng dài xô tới xô lui cách tàu hai hoặc ba dặm. Lúc tôi thay đồ gương mặt ông ta hiện ra rõ rệt trước mắt tôi. Tôi còn kéo cả tấm màn che giường trên ra như để thuyết phục chính mình là ông khách đã thực sự chết rồi. Tôi gài chặt cửa phòng lại và bổng nhìn thấy cửa sổ tròn đã được mở ra và cánh cửa được gài chặt vào vách phòng. Điều này thì quá lắm không thể chịu được nữa. Tôi khoác vội áo và đi tìm Robert, người bồi phòng của tôi. Tôi còn nhớ lúc đó tôi rất giận dữ, khi tìm được anh ta, tôi lôi anh ta đến trước cửa phòng 105 và đẩy anh ta tới trước cửa sổ để mở. -Đồ ngốc, tại sao anh lại để cửa này mở mổi đêm? Bộ anh không biết như thế là trái luật hay sao? Anh có biết là nếu tàu bị nghiêng và nước tràn vào thì mười người mạnh khỏe cũng không đóng nó lại nổi? Đồ ngốc, tôi sẽ báo cáo anh với thuyền trưởng vì làm phương hại đến tàu. Tôi hết sức nóng giận. Anh bồi run rẩy và tái xanh, anh ta lật đật kéo tấm kiếng cửa tròn có bộ chốt cửa bằng đồng nặng nề đóng chặt lại. Tôi hỏi cụt ngủn. -Sao anh không trả lời tôi chứ? Robert lập bập. -Thưa ông, không ai trên tàu này có thể giữ cửa này đóng lại ban đêm được cả. Ông cứ thử đi thì biết. Tôi sẽ không làm lâu trên tàu này nữa đâu. Nếu tôi là ông tôi sẽ dọn lên ở với bác sĩ. Phải, tôi sẽ dọn ngay. Này, ông xem coi cửa đã đóng chặt chẽ hay chưa? Ông thử xem có nhúc nhích nó được một li nào không? Tôi kéo thử cánh cửa và thấy nó hoàn toàn chặt chẽ. Robert nói tiếp vẽ đắc thắng. -Tôi dám cá với ông cái thanh danh bồi tàu hạng A 1 của tôi là chỉ trong 1/2 giờ nữa nó sẽ mở ra và gài chặt vào vách phòng lại. Gài lại đàng hoàng, đó mới là điều đáng sợ. Tôi xem xét lại cái đinh vít to tướng và chốt cài bằng đồng nặng nề trên cửa rồi nói. -Robert, nếu tối nay mà nó mở ra, tôi sẽ cho anh một Anh Kim (1 bảng Anh). Chắc chắn như vầy thì không thể nào có chuyện mở ra được. Thôi anh đi đi. -Thưa ông, một Anh kim phải không? Tốt lắm. Cám ơn ông, chào ông. Chúc ông ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp. Vui mừng được thả ra anh ta chạy vụt đi. Dĩ nhiên tôi nghĩ là anh ta đã kể một câu chuyện tầm ruồng để khỏa lấp cái tội lơ đễnh không đóng cửa sổ của mình, và cũng để hù tôi, nhưng tôi không tin. Kết quả là anh ta lấy được đồng Anh kim, còn tôi thì trải qua một đêm khó chịu kỳ lạ. Tôi lên giường và năm phút sau khi tôi đã trùm mền xong thì anh chàng Robert tắt ngọn đèn mà lúc nào cũng cháy đều bên trong khung kiếng nhỏ gần cửa ra vào. Tôi nằm yên trong bóng tối cố gắng dỗ giấc ngủ, nhưng chẳng bao lâu tôi thấy là không tài nào ngủ được. Trong lúc giận dữ cãi vã với anh bồi tôi đã quên cái cảm giác khó chịu lúc đầu khi tôi nghĩ đến người chết chìm đã ở chung phòng với minh. Tôi nằm thao thức một lúc, không còn buồn ngủ nữa, thỉnh thoảng lại liếc nhìn cửa tròn mà từ chổ nằm tôi có thể thấy lờ mờ. trong bóng tối nó trông giống như một dĩa súp sáng mờ lơ lửng trong một nền đen. Tôi chắc là đã nằm như vậy độ một giờ đồng hồ và tôi còn nhớ lúc tôi sắp chợp mắt thì choàng tỉnh vì một làn gió lạnh và cảm nghe rõ ràng những tia nước biển bắn vào mặt. Tôi vụt đứng dậy và vì trong bóng tối chưa quen ngay với sự di động bồng bềnh của tàu, tôi bị thảy mạnh từ chổ đứng ở giường sang ghế phô-tơi đặt ngay dưới cửa tròn. Tôi lấy lại thăng bằng ngay và quỳ gối lên. Cửa tròn lại mở rộng và cánh cửa gài chặt vào vách. Những điều này là sự kiện rõ ràng vì tôi hoàn toàn tỉnh táo lúc bật dậy ở giường mà giả sử tôi còn ngáy ngủ đi nữa thì cú ngã mạnh bổ nhào cũng đủ làm tôi tỉnh ngủ. Hơn nữa hai cùi chỏ và hai đầu gối tôi bầm tím. Nếu như tôi có nghi ngờ thì sáng hôm sau các vết bầm cũng đủ chứng minh sự kiện đó có thật. Việc cửa tròn mở rộng và cài lại đàng hoàng là một việc không sao giải thích được. Tôi còn nhớ rất rõ là lúc trông thấy như vậy tôi đã quá đổi ngạc nhiên hơn là sợ hãi. Tôi đóng ngay cửa tròn lại và dùng hết sức mình gật cái chốt xuống. Trong phòng rất tối. Tôi nhận thấy là cửa tròn đã mở ra trong vòng nửa giờ sau khi Robert đóng nó lại trước mặt tôi, vì vậy tôi quyết định sẽ canh để xem nó còn mở ra nữa thôi. Bộ chốt bằng đồng rất nặng nề và cũng không phải dễ mở. Tôi không tin rằng cái chốt bật ra vì sự rung động của đinh ốc. Qua khung kính dầy tôi đứng nhìn những ngọn sóng trắng xóa liên tục vỗ vào bên dưới mạn tàu. Hẳn là tôi đã đứng đó độ 15 phút. Bổng tôi nghe rõ ràng có tiếng động sau lưng tôi trên một trong hai chiếc giường và một giây sau vừa lúc tôi quay lại để nhìn, mặc dầu là tôi không thấy được gì trong bóng tối, tôi nghe một tiếng rên rỉ rất yếu ớt. Tôi nhảy chồm lại vẹt hai màn che giường trên sang bên và đút hai tay vào xem có ai trên đó không, và…..có một người. Tôi còn nhớ lúc đưa hai tay vào tôi có cảm giác như đút vào lớp không khí của một căn hầm ẩm ướt và từ đằng sau hai tấm màn một luồng gió có cái mùi tanh tưởi của nước biển vụt ra. Tôi nắm phải một vật có hình thể của một cánh tay người nhưng phẳng bóng, ướt và lạnh ngắt. Lúc tôi vừa kéo nó thì bổng nó nhảy bổ vào người tôi, một khối nhơm nhớp và rỉ nước, nặng nề, ướt át nhưng lại có một sức mạnh siêu việt. Tôi bị đẩy ngã bật ra, trong chớp mắt cửa mở và nó vụt ra ngoài. Tôi không đủ thì giờ mà sợ hãi, chồm dậy tôi chạy ra cửa và rượt theo nó hết tốc lực nhưng đã quá trễ. Trước mặt tôi lối 10 sải (yards) tôi thấy ---Tôi chắc chắn là đã thấy ---một bóng đen ngòm chạy giữa hành lang thắp đèn mờ ảo, nhanh giống như bóng một con ngựa đua trong ánh đèn chiếu hắt ra trước một chiếc xe kéo vào một đêm tối trời. Nhưng chỉ một giây nó đã biến mất và tôi thấy mình đang bám chặt vào tay vịn chạy dọc theo vách ngăn nước nơi hành lang quẹo ra lối đi chính. Tóc tôi dựng đứng và mồ hôi lạnh chảy dài xuống mặt. Tôi không xấu hổ về điều đó chút nào vì quả thật tôi sợ hãi vô cùng. Mặc dầu vậy tôi vẫn nghi ngờ các giác quan của mình và lấy lại bình tĩnh, tôi nghĩ, thật là phi lý. Có lẽ món tôi ăn ban chiều không thích hợp với bao tử của tôi khiến tôi mơ thấy ác mộng!? Tôi lần trở lại phòng và cố bắt mình bước vào phòng. Phòng có mùi nước biển tanh tanh giống như lúc tôi thức dậy đêm hôm trước. Phải cố gắng lắm tôi mới bước hẳn vào trong và lục tìm trong đồ của tôi một hộp đèn sáp. Khi thắp xong ngọn đèn bảo mà tôi luôn mang theo phòng khi muốn đọc sách sau khi đèn trên tàu đã tắt, tôi nhận thấy cửa tròn đã lại mở ra. Một nổi sợ hãi chưa từng biết úp chụp lấy tôi nhưng tôi vẫn thắp một ngọn nến và tiến lại xem xét chiếc giường trên, nghĩ bụng chắc nó ướt đẫm nước biển. Nhưng tôi phải thất vọng, giường tuy có dấu người nằm và mùi nước biển nồng nặc nhưng chăn nệm thì vẫn khô ran. Tôi nghĩ có lẽ Robert đã không đủ can đảm dọn giường sau tai nạn tối qua—và tất cả chỉ là một giấc mơ ghê sợ. Tôi kéo màn sát ra và xem xét mọi chổ, tất cả đều hoàn toàn khô ráo. Thế sao cửa tròn lại mở!? Đầy ngạc nhiên sợ hãi tôi đóng nó lại và vặn chốt chặt, tôi đút cây gậy của mình qua cái khoen gắn vào chốt cửa và dùng hết sức siết nó lại cho đến khi nó hơi cong lại dưới sức mạnh, rồi tôi móc đèn bảo vào cái móc nhỏ trên tường ở gần ghế phô-tơi. Tôi ngồi xuống cố lấy lại sự tỉnh táo. Tôi ngồi đó suốt đêm, không nghĩ gì đến chuyện nghỉ ngơi và cũng không suy nghĩ gì được cả. Cửa tròn vẫn đóng và tôi tin là nó sẽ không mở được nữa nếu không dùng sức. Cuối cùng bình minh cũng đến. Tôi chậm rãi mặc quần áo vừa nghĩ đến những chuyện xảy ra trong đêm. Tôi lên boong, trời hôm nay thật đẹp, tôi vui mừng được tắm ánh nắng ấm buổi ban mai và hít mùi gió thổi từ mặt nước trong xanh khác xa làm sao với mùi nước tanh tưởi trong phòng đêm hôm. Tôi tự dộng hướng về phòng vị bác sĩ, anh đang đứng trước phòng miệng ngậm ống píp thở hít làn không khí trong lành buổi sớm giống y như ngày hôm trước. Anh nhìn tôi vẽ tò mò, lặng lẽ nói. -Chào ông bạn. -Bác sĩ, anh nói đúng lắm. phòng đó có cái gì là lạ. -Tôi nghĩ là ông sẽ đổi ý mà. Bác sĩ đáp vẽ đắc thắng. -Ông đã trải qua một đêm mệt mỏi à? Ông có cần tôi pha cho ly rượu không? Tôi có một lối pha chế đặc biệt. -Thôi, cám ơn bác sĩ. Tôi muốn kể cho anh nghe những chuyện xảy ra hồi hôm. Rồi tôi kể lại rành mạch những việc đã xảy ra, không quên nói về nổi sợ hãi khủng khiếp của tôi. Tôi nhắc nhiều nhất đến cửa tròn vì đó là một sự việc rõ rệt tôi có thể quả quyết được cho dầu những việc kia có là ảo giác. Tôi nhấn mạnh đã đóng nó lại hai lần trong đêm và lần thứ hai đã dùng gậy để xoay cái vòng chốt cho chặt. -Ông sợ tôi nghi ngờ câu chuyện của ông hay sao? Bác sĩ mỉm cười, -Tôi không nghi ngờ chút nào cả, tôi xin mời ông một lần nữa hãy mang hành lý đến ở chung phòng với tôi. -Xin bác sĩ hãy đến ở chung với tôi một đêm. Hãy giúp tôi tìm cho tận cùng câu chuyện này mới được. -À, coi chừng ông sẽ tìm thấy xác mình ở tận cùng một chổ khác kia đấy. -Tận cùng cái gì chớ? Tôi hỏi. -Tận cùng đáy biển chớ đâu. Tôi sẽ rời chiếc tàu này, nó không có bảo đảm. -Vậy là bác sĩ không giúp tôi tìm….. -Không. Bác sĩ đáp nhanh. –Công việc của tôi là phải để cho thần trí tỉnh táo chớ không phải để xen vào việc ma quỷ. -Bộ anh tin đó là một hồn ma sao? Tôi hỏi có hơi khinh miệt. Vừa lúc hỏi tôi đã kịp nhớ lại cái cảm giác ghê rợn về sức mạnh siêu việt đã chụp lấy tôi hồi hôm. Bác sĩ nhìn tôi giận dữ. -Vậy ông có một giải thích hữu lý nào về những sự việc đó không? Ông không có phải không? Ông nói ông sẽ tìm ra giải đáp nhưng tôi nói ông sẽ không tìm ra vì sự thật chẳng có một lời giải đoán nào cả. Tôi cũng không vừa. -Vậy bác sĩ, là một nhà khoa học anh có ý nói rằng những việc như vậy không thể giải thích được hay sao? -Phải, tôi nói như vậy. Và nếu có thể đi nữa tôi cũng sẽ không liên hệ gì với sự giải thích đó cả. Tôi không muốn ở một mình trong phòng đó thêm một đêm nữa, nhưng tôi lại cứng đầu muốn tìm cho ra gốc rễ của vấn đề. Nếu đã trải qua hai đêm như tôi đã qua, tôi tin rằng không ai còn muốn ngủ một mình thêm một đêm nữa. Nhưng tôi quyết định thử một lần nữa cho dầu không tìm được người chịu thức canh với tôi. Bác sĩ thì chắc chắn là không tham dự rồi, nói rằng mình là một nhà giải phẩu lúc nào cũng phải sẵn sàng lỡ có tai nạn gì xảy ra trên tàu, anh không thể để mất tinh thần. Có lẽ anh ấy có lý, nhưng tôi thì lại nghĩ rằng anh cẩn thận như thế là vì sự tin tưởng của mình. Qua sự dọ hỏi của tôi anh cho biết là trên tàu không có ai muốn tham gia vào cuộc điều tra của tôi cả, và sau một hồi kháo chuyện tôi từ giả anh bác sĩ. Một lát sau tôi gặp viên thuyền trưởng và kể hết mọi chuyện cho ông nghe. Tôi bảo ông nếu không ai chịu thức canh với tôi thì xin ông cho phép để đèn cháy suốt đêm trong phòng tôi và tôi sẽ thức canh một mình. Thuyền trưởng nói: -Tôi sẽ thức canh với ông và chúng ta sẽ coi xem chuyện gì xày ra. Tôi tin rằng hai chúng ta sẽ tìm ra sự thật. Có thể có một tên ẩn núp trên tàu, chiếm chổ hành khách bằng cách hù nhát họ. Cũng có thể là có cái gì lạ trong cái khung sườn của chiếc giường đó. Tôi đề nghị dẫn người thợ mộc của tàu xuống xem xét tại chổ. Tôi rất vui mừng việc thuyền trưởng đồng ý canh thức với tôi. Ông cho gọi người thợ mộc và bảo anh ta làm theo lời yêu cầu của tôi. Chúng tôi đi ngay xuống phòng. Tôi đem hết chăn mền ở giường trên xuống và chúng tôi xem xét cẩn thận mọi chổ coi có miếng ván nào bị lỏng hoặc một bức chắn nào có thể mở ra hoặc đẩy sang bên không. Chúng tôi xem xét vách ván khắp nơi, gõ sàn phòng, mở cả khuôn sườn của giường dưới ra từng mảnh. Nói tóm lại, không có một phân nhỏ nào trong phòng mà chúng tôi không lục tìm và xem xét. Mọi thứ đều hoàn hảo và chúng tôi lắp ráp lại như cũ. Lúc chúng tôi làm gần xong thì Robert đến cửa phòng nhìn vào. Anh ta hỏi với một nụ cười chế nhạo: -Sao, thưa ông, ông có tìm được gì không? -Về vụ cửa tròn anh nói đúng đấy Robert ạ. Tôi nói và trao cho anh ta đồng Anh kim đã hứa. Người thợ mộc làm việc lặng lẽ và khéo léo, làm theo lời chỉ dẫn của tôi. Khi xong việc anh ta nói: -Tôi là một người tầm thường, thưa ông, nhưng tôi nghĩ là ông nên đem đồ đạc ra và cho phép tôi đóng một lố đinh bốn phân vào cửa phòng. Căn phòng này chưa từng đem đến một điều gì tốt đẹp cả. Theo trí nhớ của tôi thì đã có bốn mạng chết ở đây trong bốn chuyến đi. Tốt hơn là ông nên bỏ qua đi. Tôi bảo: -Tôi sẽ thử thêm một đêm nữa thôi. -Tốt hơn nên bỏ qua đi ông ạ, không tốt đâu. Người thợ mộc lập lại và bỏ dụng cụ vào túi rồi rời phòng. Dầu sao tôi cũng thấy lên tinh thần rất nhiều nhờ vào việc thuyền trưởng đồng ý canh thức với tôi. Vì vậy tôi quyết định không để bị ngăn trở, quyết lòng đi đến cùng của sự việc lạ lùng này. Chiều hôm đó tôi tránh xa món tôi đã ăn đêm trước và cũng không tham dự trò chơi bài thường lệ. Tôi muốn để cho thần kinh không căng thẳng và cũng muốn tỏ ra là người đáng tin cậy trước mặt thuyền trưởng. Thuyền trưởng là một người vui vẻ, khỏe mạnh và dẻo dai trong giới những người chuyên đi biển. Hạng người mà tánh cứng rắn, bình tỉnh và can đảm khi gặp khó khăn thường giúp họ đạt được cao điểm niềm tin của mọi người. Ông không phải là người dễ tin vào những chuyện tầm ruồng, nhưng việc ông đồng ý canh thức với tôi đủ chứng tỏ là ông cũng nhận thấy có điều gì không ổn mà không thể nào giải thích được bằng những lý luận thông thường hay bằng sự diểu cợt cho rằng chỉ là mê tín dị đoan. Ngoài ra lại còn thanh danh của ông và của tàu nữa. Ông cũng biết một chiếc tàu mang tiếng có hành khách nhảy xuống biển không phải là một chuyện nhỏ. Mười giờ tối hôm đó lúc tôi hút xong điếu xì-gà cuối cùng thì ông đến gặp và kéo tôi sang một bên xa các hành khách đang đi dạo trên boong trong bóng đêm ấm áp. Ông nói: -Đây là một vấn đề quan trọng ông Brisbane ạ. Chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận hai điều: một là thất vọng, hai là sẽ gặp phải khó khăn. Ông cũng thấy là tôi không coi đây là một chuyện giỡn chơi và tôi sẽ xin ông ký tên vào một bản tường trình lại sự việc xảy ra. Nếu tối nay không có gì xảy ra thì chúng ta sẽ thử lại vào tối mai và tối mốt. Ông đã sẵn sàng chưa? Thế là chúng tôi xuống phòng. Lúc bước vào phòng tôi nhìn thấy anh bồi Robert đứng xa ở đầu hành lang nhìn chúng tôi với một nụ cười dường như chắc chắn một sự việc khủng khiếp sắp sửa xảy ra. Thuyền trưởng đóng cửa phòng và gài chặt lại. Ông đề nghị: -Hãy để vali của ông trước cửa, một trong chúng ta có thể ngồi lên đó và không vật gì có thể đi ra được. Cửa tròn đã đóng chưa? Tôi thấy nó vẫn đóng y như lúc tôi rời phòng ban sáng. Thật vậy, nếu không dùng một vật làm cán như tôi đã làm thì không ai có thể mở nó ra được. Tôi kéo màn giường trên rộng ra để có thể nhìn suốt vào trong cho dễ. Theo lời thuyền trưởng tôi thắp ngọn đèn bảo lên và đặt nó ở nơi ánh sáng có thể rọi thẳng lên mặt drap trắng của giường trên. Thuyền trưởng nằng nặc đòi ngồi trên va-li, nói rằng như vậy ông mới có thể quả quyết là chính ông đã ngồi trước cửa. Rồi ông bảo tôi đi xem xét khắp phòng cho cẩn thận, công việc này hoàn thành nhanh chóng vì chỉ phải nhìn xuống gầm giường dưới và gầm ghế phô-tơi đặt dưới cửa tròn mà thôi. Cả hai nơi đều trống rỗng không thấy gì. Tôi nói: -Như thế này thì không một con người bằng xương bằng thịt nào có thể chun vào được và cũng không một con người nào có thể mở được cửa tròn. -Tốt lắm. Thuyền trưởng thản nhiên nói. –Vậy nếu chúng ta thấy bất cứ một cái gì thì hoặc là do chúng ta tưởng tượng hoặc đó là một thứ ma quỷ nào đó. Tôi ngồi xuống bìa giường dưới còn thuyền trưởng tựa lưng vào cửa, chân bắt chéo. Ông nói: - Chuyện đó xảy ra lần đầu tiên vào tháng ba. Người khách ngủ ở đây, trên giường trên, hóa ra là một người điên hay nói đúng hơn người ta biết là ông ta có hơi "man" và ông ta đã mua vé tàu đi mà bạn bè không biết. Ông ta vụt ra khỏi phòng lúc nửa đêm và nhảy xuống biển trước khi viên sĩ quan canh gác kịp chặn ông ta lại. Chúng tôi cho tàu dừng lại và hạ thuyền nhỏ xuống. Đêm đó biển lặng nhưng chúng tôi không tìm được ông ta. Dĩ nhiên sau đó chúng tôi cho việc tự tử là do sự điên loạn của ông ta mà thôi. -Chắc chuyện đó thường hay xảy ra? Tôi hỏi. -Không. Theo kinh nghiệm của tôi thì trước đó chưa từng xảy ra, mặc dầu tôi có nghe nói thỉnh thoảng xảy ra trên các tàu khác. Như tôi đã nói, nó xảy ra lần đầu vào tháng ba. Rồi vào chuyến kế tiếp đó------------Ông nhìn gì thế? Thuyền trưởng đột ngột hỏi. Tôi tin là lúc đó tôi đã không trả lời vì mắt tôi đang dán vào chổ cửa tròn. Dường như cái khoen đồng đang quay rất chậm, chậm đến nổi tôi không chắc là nó có di động không nữa. Tôi nhìn nó chăm chú, cố khắc vào óc vị trí của nó và cố gắng xem chắc coi nó có thay đổi vị trí không. Thấy nơi tôi nhìn, thuyền trưởng cũng quay nhìn. -Nó chuyển động kìa. Ông hô lên bằng một giọng chắc chắn nhưng sau đó một phút ông sửa lại. –Không, không có. Tôi nói: -Nếu là do đinh ốc bị lỏng rồi rung động thì cửa cũng phải mở ra vào ban ngày chứ nhưng đầu hôm tôi đã xem xét kỹ thì thấy nó vẫn chặt chẽ như lúc sáng. Tôi đứng dậy lại thử chốt cửa thì thấy nó lỏng ra vì chỉ chạm nhẹ tay là tôi đã nghe nó di động. Thuyền trưởng lại nói tiếp: -Điều lạ là người thứ hai dường như đã nhảy qua cửa tròn đó. Chúng tôi phải qua nhiều giờ khổ nhọc vì nó. Vào lúc nửa đêm, thời tiết rất xấu thì có báo động là một trong các cửa tròn dưới đã mở ra và nước đang tràn vào. Tôi xuống đây và thấy mọi vật đều ngập nước, mổi lần tàu nghiêng sang bên thì nước ùa vào. Chúng tôi phải cố hết sức mới đóng được cửa lại nhưng nước cũng đã gây ít nhiều thiệt hại. Từ đó tới giờ phòng này thỉnh thoảng lại có mùi nước biển. Chúng tôi đoán là người khách đã tự thảy mình qua cửa tròn nhưng chỉ có Chúa mới biết làm sao ông ta lại có thể nhảy qua cái cửa nhỏ xíu đó được. Anh bồi cứ bảo tôi hoài là anh ta không làm sao giữ cho nó đóng được vào ban đêm. A, tôi ngửi có mùi nước biển, ông có ngửi thấy không? Ông vừa hỏi vừa hít hít không khí một cách nghi ngờ. -Vâng, đúng rồi. Tôi đáp và run lên vì cũng mùi nước biển tanh tưởi đó càng lúc càng nồng nặc trong phòng. Tôi nói tiếp: -Có mùi như vầy thì phòng phải ẩm ướt lắm mới đúng, vậy mà hồi sáng này tôi và người thợ mộc xem xét thấy mọi thứ đều khô ráo. Thật là kỳ lạ--------Ê! Cái đèn bảo của tôi đặt ở giường trên bỗng nhiên tắt ngúm nhưng vẫn còn khá nhiều ánh sáng phát ra từ ngọn đèn của phòng đặt sau khung kiếng dầy ở gần cửa. Tàu chòng chành mạnh và màn của giường trên bị thảy ra giữa phòng rồi lại giật về. Từ chổ ngồi ở bìa giường dưới tôi nhanh nhẹn đứng dậy với ý định vói lấy cái đèn bảo xuống xem xét, cùng lúc đó thuyền trưởng bật đứng lên và kêu lên một cách ngạc nhiên. Vừa nghe tiếng la của thuyền trưởng thì tiếp theo tiếng ông gọi tôi đến giúp. Tôi phóng lại phía ông. Ông đang dùng hết sức mình để giữ chặt chốt đồng ở cửa tròn, nhưng mặc sức cho ông trì kéo, nó vẫn quay trong tay ông. Tôi chụp lấy cây gậy làm bằng gỗ sồi rất nặng mà tôi vẫn thường mang theo mình và đút nó qua cái khoen rồi dùng hết sức mình để chịu nó lại, nhưng cây gậy bổng gãy đôi và tôi té nhào xuống ghế phô-tơi. Khi tôi đứng lên được thì cửa tròn đã mở rộng và thuyền trưởng đứng dựa lưng vào cửa phòng đôi môi tái mét. Ông la lên bằng một giọng kỳ lạ, đôi mắt như muốn lồi ra. -Có cái gì ở giường trên kìa. Hãy giữ cửa đi để tôi xem---Cho dầu nó là cái gì đi nữa, nó không thể thoát khỏi tay chúng ta. Nhưng thay vì nghe theo ông, tôi lại nhảy lên giường dưới và vói tay chụp cái vật nằm ở giường trên. Đó là một vật gớm ghiếc, khủng khiếp không bút mực nào tả được và nó lại cử động trong tay tôi nữa chứ. Nó giống như xác của một người chết chìm rất lâu ngày nhưng nó lại cử động và có một sức mạnh của mười người còn sống. Tôi nắm chặt nó với tất cả sức mình---nắm lấy cái vật nhơm nhớp, trơn nhớt, ghê khiếp đó---đôi mắt trắng dã của người chết dường như nhìn sửng tôi trong bóng tối mờ, mùi nước biển tanh tưởi quyện chung quanh nó và tóc nó sủng nước rớt từng lọn ướt hôi hám trên mặt nó. Tôi vật lộn với cái vật chết đó, nó nhào vào tôi và đẩy bật tôi ra, gần làm gãy tay tôi. Nó luồn hai tay xác chết của nó vòng quanh cổ tôi khiến tôi cuối cùng phải la lên và buông tay té bổ nhào xuống sàn. Khi tôi té nó nhảy ngang qua tôi và hình như nhảy vào người thuyền trưởng. Tôi thoáng thấy mặt ông trắng bệch và môi bậm lại. Hình như ông đã dùng hết sức bình sinh giáng một cú đấm vũ bão vào xác chết, nhưng rồi chính ông cũng té chúi mặt xuống sàn và la lên một tiếng ghê rợn. Xác chết dừng lại và chờn vờn trên thân thể sóng xoài của thuyền trưởng. Trong cơn sợ hãi tôi muốn thét lên nhưng không còn tiếng để thét nữa. Xác chết bổng đột ngột biến mất. Trong cơn bấn loạn, choáng váng của tôi thì dường như nó nhảy qua cửa tròn nhưng làm sao mà nó qua được cái cửa nhỏ đó thì tôi không tài nào giải thích được. Tôi nằm trên sàn rất lâu và thuyền trưởng cũng nằm gần đó. Sau cùng tôi hơi tỉnh táo lại và cử động, lập tức tôi biết là tay mình đã bị gãy, cái xương nhỏ ở gần cổ tay trái. Tôi cố gắng đứng dậy và với tay còn lại ráng đở thuyền trưởng lên. Ông rên rỉ và cử động, cuối cùng ông mới tỉnh lại. Ông không bị thương nhưng ê ẩm, cháng váng ghê gớm. Sao, các bạn còn muốn nghe nữa không? Nhưng cũng không còn gì để kể nữa. Đến đây là chấm dứt câu chuyện của tôi. Anh thợ mộc đã giữ đúng lời và đến đóng đinh bốn phân niêm phong phòng 105 và nếu có bao giờ bạn đi trên chiếc Kamtschatka, bạn có thể hỏi mua vé phòng đó và bạn sẽ được trả lời là phòng đã có người giữ chổ. Vâng, nó đã được giữ chổ cho xác chết ghê khiếp đó. Phần còn lại của chuyến đi đó tôi ở chung phòng với vị bác sĩ. Anh băng bó cái tay gãy của tôi và khuyên tôi từ rày đừng nên xía vào chuyện của ma quỷ nữa. Thuyền trưởng thì rất im lặng và từ đó ông không lái chiếc tàu đó nữa mặc dầu nó cũng vẫn còn chạy. Tôi cũng sẽ không bao giờ đi chiếc đó nữa. Đó là một kinh nghiệm khó chịu, việc tôi đã sợ hãi quá đổi khiến tôi không thích tí nào. Tất cả chỉ có thế. Các bạn đã biết tôi gặp ma như thế nào---nếu đó là một con ma. Dầu sao thì nó quả là một xác chết. Xong ngày 4 tháng 8/1982 Hoàng_Yến R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.02.2014 05:07:14 bởi Ct.Ly >
Chào Ct.Ly, Tối nay đưa chuyện 7 vào mới thấy có lời chúc Tết của Ct.Ly. Chị rất cám ơn và rất rất xin lổi. Thời gian Tết lu bu quá chị không có đánh máy chuyện và cũng không vào thăm thư quán nên không biết. Chị thật thiếu xót đã quên chúc Tết Ct.Ly, bỏ qua cho chị nha. Và bây giờ cho chị chúc trễ há …Chúc Ct.Ly và gia đình năm Giáp Ngọ 2014 này nhiều sức khỏe, nhiều may mắn-hạnh phúc và thành công trong mọi mặt. Tóm lại là The Best of Everything!
NHỮNG CHUYỆN NGẮN LẠ Chuyện 8 CHUYẾN XE LỬA TỐC HÀNH 4 GIỜ 15’ (THE FOUR-FIFTEEN EXPRESS by AMELIA B.EDWARDS ) Câu chuyện mà tôi sắp kể đây xảy ra khoảng chín, mười năm trước, lúc đó Sebastopol đã đầu hàng vào đầu mùa xuân, hòa bình của Paris đã được lập lại từ tháng ba và quan hệ thương mại của chúng tôi với đế quốc Nga cũng vừa mới lập lại. Trở về quê nhà sau chuyến đi miền bắc đầu tiên từ khi chiến tranh, tôi rất hài lòng với viễn ảnh được qua tháng 12 dưới mái nhà hiếu khách của người bạn cao quý của tôi là Jonathan Jeff ở Dumbleton, làng Clayborough miền đông tỉnh Anglia, dùng phương tiện chuyên chở của một hãng nổi tiếng mà trong đó tôi cũng có chút phần hùn. Tôi đã được mời đi thăm thủ đô Nga và Ba Lan và nhận thấy cũng cần thiết phải qua một thời gian quan sát các hải cảng thương mại dọc vùng biển Baltic. Vì vậy hơn một năm trôi qua trước khi tôi lại đặt chân về đất Anh và thay vì được săn bắn chim trĩ cùng bạn mình vào tháng 10 như tôi đã dự định tôi trở thành khách của anh vào mùa Giáng Sinh. Về đến Anh quốc, sau vài ngày bận lo công chuyện ở Liverpool và London, tôi vội vã về Clayborough lòng rộn rã như một cậu học sinh sắp được nghỉ lễ. Tôi đi bằng đường hỏa xa Đông Anglia đến ga Clayborough, tại đó tôi sẽ sang xe ngựa đi Dumbleton 9 dặm đường còn lại. Hôm đó là một buổi chiều đầy sương mù và khá ấm áp so với một ngày đầu tháng 12 (4 tây tháng 12). Tôi đã thu xếp để rời London bằng chuyến tốc hành 4 giờ 15. Trời mùa đông tối sớm và đèn trong các toa xe đã được thắp lên. Sương mù ẩm ướt làm mờ các cửa kính, bám vào các tay nắm cửa và tràn ngập trong không gian. Bên gian hàng sách kế cận ngọn đèn gas tỏa ánh sáng chói chan khiến càng nổi bật vẽ mù mờ của nhà ga. Tôi đến sớm trước giờ khởi hành bảy phút và qua sự giúp đở của người soát vé tôi chọn được một toa trống cho riêng mình. Tôi thắp đèn mang theo của mình lên rồi ngồi xuống thoải mái thưởng thức một điếu xi-gà và một quyển sách. Vì vậy tôi rất đổi thất vọng khi vào phút cuối một người đàn ông vẽ vội vã liếc nhìn vào toa tôi ngồi rồi dùng chìa khóa riêng mở cửa bước vào. Ngay cái nhìn đầu tiên tôi nghĩ rằng mình đã gặp ông rồi. Đó là một người cao, môi mỏng, mắt màu nhạt, mảnh khảnh với đôi vai hơi lệch, mái tóc muối tiêu để dài chấm cổ. Ông mang trên tay một áo khoác nhẹ, một cây dù và một hộp lớn màu nâu của Nhật để đựng chứng thư mà ông đặt xuống bên dưới chổ ngồi. Xong, ông dò dẩm túi áo ngực kỹ lưỡng như thể xem chắc bóp tiền và sổ tay còn đủ không, rồi ông đặt cây dù lên giá để hành lý trên đầu, trải áo khoác lên hai đầu gối, thay cái nón đang đội bằng nón đi đường hàng Tô Cách Lan. Vừa lúc đó xe lửa rời ga trong ánh hoàng hôn xám nhạt lạnh lẽo. Bây giờ thì tôi đã nhận ra người bạn đồng hành của mình. Tôi nhận ra ông ngay khi ông dỡ nón để lộ cặp chân mày nhỏ, rậm với những nếp nhăn. Tôi nhớ rõ dã gặp ông cách đây ba năm tại ngôi nhà tôi sắp đến mà có lẽ ông cũng thế. Tên ông là Dwerrihouse, là một luật sư và nếu tôi không lầm thì ông là anh họ của vợ bạn tôi. Tôi cũng biết rằng ông là người khá giả, có tài. Gia đình Jeff tiếp đón ông theo đúng phép lịch sự dành cho những thân nhân giàu có. Đám trẽ rất thích ông và người quản gia già gọi ông là “đại tướng” với lòng kính trọng. Quan sát ông dưới ánh đèn và ánh hoàng hôn hòa lẩn, tôi nghĩ sao ông anh họ bà Jeff chỉ mới qua ba năm mà trông đã già cỗi, khô khan thế. Trông ông tái nhợt và ánh mắt thất thần khác xa khi xưa. Những nếp nhăn quanh miệng sâu hẳn đi, hai gò má và thái dương lõm vào cho thấy vẽ bệnh hoạn và buồn sầu. Lúc mới bước vào ông đã liếc nhìn tôi nhưng không có vẽ gì nhận ra tôi. Bây giờ thì ông lại liếc nhìn vẽ hơi bợ ngợ. Khi ông liếc nhìn lần thứ ba hay tư gì đó, tôi đánh bạo lên tiếng: -Thưa, ông là John Dwerrihouse? -Vâng, đó là tên tôi. Ông đáp. -Tôi đã hân hạnh được gặp ông ba năm về trước tại Dumbleton. -Tôi thấy anh hơi quen nhưng rất tiếc tôi không nhớ tên. -Tôi là William Langford. Tôi dã quen biết Jonathan Jeff từ khi chúng tôi còn nhỏ. Tôi thường đến Dumbleton chơi ít tuần vào mùa săn bắn. Chắc ông cũng trên đường đến đó? -Không, tôi đi lo công việc. Chuyện có hơi rắc rối. Còn anh hẳn là đến đó để vui chơi. -Vâng, tôi xem chuyến viếng thăm này là ba tuần tươi sáng nhất của tôi trong suốt năm. -Gia đình đó rất thú vị. Ông nói. -Vâng, gia đình thú vị nhất mà tôi được biết. -Jeff rất hiếu khách. -Vâng, một người tử tế nhất. Sau một lúc yên lặng, ông nói tiếp: -Họ đã mời tôi đến chơi vào tuần lễ Giáng Sinh. -Và ông có định đến không? -Không biết được, còn tùy vào công việc của tôi. Chắc anh có nghe nói công ty chúng tôi sắp thiết lập một đường hỏa xa từ Blackwater đến Stockbridge? Tôi giải thích rằng mình đã vắng mặt một thời gian ở nước ngoài nên không biết điều đó. Ông cười tự mãn. -Đó sẽ là một cải tiến lớn lao. Stockbridge là một tỉnh đang vươn lên cần có một đường rầy trực tiếp nối liền với thành phố lớn để trở nên một trung tâm thương mại quan trọng. Đường rầy này là ý kiến của tôi. Tôi đã trình bày trước hội đồng và tự mình trông coi việc xây dựng. -Tôi đoán ông là một giám đốc trong công ty Đông Anglian? -Tôi có mức lời gấp ba trong công ty. Tôi là một giám đốc và là người có cổ phần đáng kể. Tôi cũng là chủ hãng Dwerrihouse & Craik và là luật sư chính của công ty. Đầy tự mãn về dự tính của mình, ông nói huyên thuyên hầu như không còn biết nói gì khác hơn là việc đó. Ông nói đến sự chống đối ông đã gặp phải, đến những khó khăn ông đã khắc phục được trong việc mở đường hỏa xa đi Stockbridge. Nhờ vậy tôi được biết đến những chi tiết và các rắc rối địa phương. Sự tham lam của địa chủ này và kém thực tế của địa chủ kia. Sự tức giận của vị mục sư có đất bị đe dọa, sự dửng dưng đáng trách của dân tỉnh Stockbridge, không chịu hiểu rằng quyền lợi thiết yếu của họ dựa vào việc thiết lập đường hỏa xa của hãng Đông Anglian. Ông nói đến sự thù hằn của báo chí địa phương. Tất cả những điều đó làm cho ông bạn đồng hành của tôi vô cùng phấn khích nhưng chẳng đem lại chút thích thú nào cho tôi cả. Khổ thay ông lại cứ tiếp tục nói đến những vấn đề phức tạp hơn nữa, đến phí tổn ước lượng từng dặm đường, đến những ước lượng do các nhà thầu khác nhau gửi đến, và cứ thế nói mãi cho tới khi đầu tôi nhức nhối và mắt tôi cứ khép lại mặc dầu tôi đã rất cố gắng giữ cho khỏi ngủ gục. Cuối cùng tôi sực tỉnh khi nghe ông nói: -75.000 bảng Anh tiền mặt. -75.000 bảng Anh tiền mặt à? Thật là một số tiền lớn! Tôi lặp lại bằng một giọng sống động. -Vâng, một số tiền lớn. Ông đáp vừa chỉ vào túi áo ngực. - Nhưng chỉ là một số tiền nhỏ so với con số tối hậu mà chúng tôi phải trả. -Ông mang theo 75.000 tiền mặt trong người à? Ông không nói giỡn chứ? -Anh bạn, tôi đã nói với anh như thế cả nửa giờ đồng hồ rồi. Số tiền này tôi sẽ phải trả vào lúc 8g30 tối nay tại văn phòng luật sư của ngài Thomas để hoàn tất giấy tờ mua bán. -Nhưng làm sao ông có thể đi đêm từ Blackwater đến Stockbridge được với số tiền 75.000 bảng trong túi? -Đến Stockbridge à? Vậy là từ nãy giờ anh không hiểu gì cả. Tôi đã giải thích là số tiền này chỉ trả được đoạn đường đến Mallingford, đây là giai đoạn đầu vì đoạn đường của chúng tôi từ Blackwater đến Mallingford nằm hoàn toàn trên đất của ngài Thomas. Tôi lắp bắp. -Xin lổi ông, có lẽ tôi bận suy nghĩ. Vậy là tối nay ông chỉ đến Mallingford thôi à? -Đúng vậy. Tôi sẽ đi xe của đội bảo vệ Blackwater, còn anh đi bằng gì? -À, Jeff sẽ cho xe ngựa đến đón tôi ở Clayborough. Ông có muốn nhắn gì với vợ chồng Jeff không? -Anh nói dùm là tôi rất muốn đi cùng với anh, nhưng nếu có thể tôi sẽ đến thăm trước Giáng Sinh. -Ông không nhắn thêm gì sao? Ông Dwerrihouse mỉm cười. -Anh nói với cô em họ của tôi là cô ấy không cần phải đốt cháy cả dãy hành lang để chào đón tôi lần tới. Anh nói thêm là tôi sẽ rất cám ơn nếu cô ấy cho quét sạch ống khói lò sưởi của căn phòng xanh trước khi tôi đến. -Ông nói nghe buồn cười quá, chắc trong chuyến viếng thăm lần trước ông đã gặp phải hỏa hoạn chứ gì? -Cũng gần như thế. Số là lò sưởi trong phòng ngủ của tôi đã ngưng đốt từ hồi mùa xuân nên ống dẫn hơi nóng bị bẩn và bồ hóng đóng đầy trong đó, vì vậy khi tôi lên phòng để thay đồ dự bữa ăn tối thì thấy phòng đầy khói và ống khói thì phựt lửa. Chúng ta đã đến Blackwater rồi sao? Trong lúc ông nói chuyện thì xe lửa dần dần chậm lại, ló đầu ra cửa sổ tôi có thể thấy được nhà ga ở cách vài chục mét. Có một xe lửa nằm phía trước làm cản đường chúng tôi và người soát vé lợi dụng dịp đình trệ này để kiểm tra vé đi Blackwater. Tôi chưa kịp ngồi ngay lại thì bộ mặt đỏ gay của người soát vé đã xuất hiện ở cửa toa. Anh ta nói: -Ông cho xem vé. -Tôi đi Clayborough. Tôi đáp vừa đưa ra cái thẻ màu hồng nhỏ nhắn của mình. Anh ta cầm lấy, liếc nhìn dưới ánh đèn lồng nhỏ cầm nơi tay rồi trao trả lại. Xong anh ta quay nhìn hướng người bạn đồng hành của tôi rồi đi ra. Tôi nói với vẽ ngạc nhiên. -Anh ta không hỏi vé của ông. -Họ không bao giờ hỏi, mọi người đều biết tôi và tất nhiên là tôi đi không tốn tiền. “Blackwater đây, Blackwater đây”, người phu khuân vác vừa la vừa chạy theo bên hông xe lửa khi xe vào ga. Ông Dwerrihouse kéo hộp đựng chứng thư ra, bỏ nón đi đường vào túi áo, đội lại nón, lấy cây dù xuống và chuẩn bị xuống xe. Ông nói với vẽ lịch sự cổ điển. -Cám ơn nhiều lắm ông Langford. Chúc ông một buổi tối vui vẻ. -Chào ông. Tôi đáp và chìa tay ra, nhưng hoặc là ông không thấy hoặc không muốn thấy, ông chỉ khẻ nhấc nón và bước xuống xe. Ông đi chậm rãi hòa lẫn giữa đám đông đang rời ga. Chồm ra cửa sổ để nhìn ông đang rời xa tôi đạp nhằm một vật và nhận ra đó là một hộp đựng xi-gà. Có lẽ nó đã rơi ra từ túi áo khoác của ông Dwerrihouse, nó được làm bằng da màu sẩm, bên hông có những chữ cái bằng bạc. Tôi nhảy vội ra khỏi toa vừa lúc người soát vé đến nơi chặn tôi lại. Tôi nóng nảy hỏi: -Anh cho tôi một phút được không? Người đi cùng toa với tôi làm rớt hộp xi-gà này. Ông ta chưa ra khỏi ga đâu. -Thưa ông, chỉ còn một phút rưởi nữa thôi, ông phải nhanh lên mới được. Tôi chạy thật nhanh trên sân ga. Đây là một sân ga rất rộng và vào lúc này ông Dwerrihouse đã đi được hơn nửa sân ga. Tuy nhiên tôi thấy rõ ràng ông đang đi chậm rãi giữa giòng người. Khi đến gần tôi thấy ông đã gặp một người bạn. Hai người vừa đi vừa nói chuyện, sau cùng họ tách khỏi đám đông đứng sang một bên bàn chuyện rất hăng hái. Tôi đi thẳng về phía họ. Nơi họ đứng có một ngọn đèn gas ngay phía trên đầu tỏa ánh sáng soi rõ mặt cả hai. Tôi thấy họ thật rõ, mặt của ông Dwerrihouse và mặt người bạn của ông. Tôi chạy nhanh nín thở bá vào hành khách và phu khuân vác lòng lo lắng sợ trễ tàu, tuy vậy tôi vẫn nhận thấy người bạn của ông còn trẻ và thấp hơn ông, tóc màu vàng nhạt, có râu mép, nét mặt nhỏ nhắn và mặc một bộ đồ cắt sát bằng hàng nỉ Tô Cách Lan. Chỉ còn cách họ một vài mét tôi đụng phải một ông mập bự và xém bị một xe đẩy hành lý tông phải, rồi vấp phải một túi đựng thảm và đến nơi vừa lúc tiếng còi báo hiệu xe lửa sắp rời ga. Họ không còn đó nữa, tôi quá đổi ngạc nhiên vì chỉ cách hai giây trước đó tôi còn trông thấy họ, vậy mà họ đã đi rồi. Tôi đứng yên nhìn sang phải sang trái, không thấy bóng dáng họ ở phía nào cả. Như thể sân ga đã nứt ra và nuốt chửng họ. Tôi hỏi một phu khuân vác đứng bên cạnh. -Có hai ông vừa mới đứng đây, anh có thấy họ đi hướng nào không? -Thưa ông, tôi không thấy ai cả. Anh ta đáp. Còi tàu lại rít lên, người soát vé ở mãi đằng xa giơ cao tay lên và thét gọi tôi trở lại tàu. Người phu khuân vác nói. -Nếu ông còn đi tiếp bằng chuyến tàu này thì ông phải chạy nhanh lên. Và tôi đã chạy thục mạng, nhảy lên toa vừa lúc xe lửa chuyển động. Người soát vé đẩy tôi vào và tôi thấy mình ngồi thở dốc, bàng hoàng, hộp xi-gà của ông Dwerrihouse vẫn còn nằm trong tay. Đây là một vụ biến mất kỳ lạ nhất, giống như trò biến hình trong một vở kịch câm. Trong một giây họ hiện diện tại đó bằng xương bằng thịt, nói chuyện với ánh đèn tỏa sáng trên mặt, giây sau họ đã biến mất. Không có cửa nào ở gần đó cả, không cửa sổ cũng không bậc thang. Đó là một khoảnh đất trống trải chung quanh có những bảng quảng cáo lớn. Còn chuyện nào bí ẩn hơn không?!? Chuyện không đáng phải suy nghĩ, vậy mà suốt đời tôi tôi không thể nào không suy nghĩ, không thắc mắc, đắn đo được, cứ moi óc để tìm một giải đáp cho điều bí ẩn đó. Suốt trên đường từ Blackwater đến Clayborough tôi cứ nghĩ đến điều đó. Ngay cả khi ngồi trên cổ xe do một con ngựa đen kéo trên đường lộ nhẳn bóng với người đánh xe ít nói và giỏi nhất của Đông Anglian tôi cũng không sao ngừng thắc mắc. Chúng tôi vượt chín dặm đường không đầy một tiếng đồng hồ và dừng lại trước cổng ra vào khi đồng hồ ở nhà thờ gõ 7g30. Chỉ ít phút sau thì ánh sáng ấm áp từ hành lang thắp sáng đã rọi trên lối đi trải sỏi, một bàn tay thân ái nắm lấy tay tôi và một giọng nói vui vẻ, rõ ràng cất lên. -Chào mừng anh đến Dumbleton. Sau khi chào hỏi, bạn tôi nói tiếp. -Bạn thân, bây giờ anh không có thì giờ để rình rang đâu nhé. Chúng ta sẽ ăn lúc 8g và có vài người đến để gặp anh, vì vậy anh phải thay đồ nhanh lên mới được. Tiện đây tôi nói anh biết là anh sẽ gặp vài người quen. Ông bà Biddulph sắp đến và ông bà Prendergast ở Skirmishers đang lưu lại nhà tôi. Bà nhà tôi đang chờ anh ở phòng khách. Tôi được dẫn đến phòng của mình, không phải căn phòng xanh ông Dwerrihouse đã nhắc đến mà là một căn phòng nhỏ xinh xắn dành cho người độc thân, có màn treo bằng vải hoa thanh nhã và trông vui tươi nhờ ánh lửa bập bùng từ lò sưởi hắt ra. Tôi mở khóa vali và cố làm cho nhanh chóng nhưng trí óc tôi cứ bị ám ảnh về sự kiện xảy ra trên sân ga. Tôi không thể nào quên được. Nó cản trở tôi, làm tôi lo lắng, làm tôi rối loạn và khiến tôi cài lộn nút măng-sết, thắt sai cà vạt và làm sút nút găng tay. Tệ hơn hết nó làm tôi trễ nải đến nỗi mọi người đã có mặt đông đủ trước khi tôi đến được phòng khách. Tôi chỉ vừa kịp chào hỏi bà Jeff thì buổi tiệc đã bắt đầu và chúng tôi từng cặp, 8 hoặc 10 cặp đi vào phòng ăn. Tôi sẽ không tả ra đây về quan khách và buổi tiệc vì các buổi tiệc tùng ở tỉnh đều giống nhau. Cũng với sự hiện diện của ông bà Nam tước và các ông bà mục sư, lại cũng món gà tây và thịt nai. “Vanitas vanitatum-chẳng có gì mới lạ dưới ánh mặt trời cả! ” Tôi được xếp ngồi ở khoảng giữa bàn. Lúc vào dự tiệc tôi đã đi cặp với bà vợ của một mục sư và bây giờ ngồi bên trái tôi là một bà nữa. Cả hai bà nói chuyện với nhau ngang qua tôi và câu chuyện của họ chỉ xoay quanh về các em bé. Thật là nhàm chán! Sau cùng là một khoảng yên lặng, các món khai vị được dọn đi và món gà tây quay được mang ra. Các câu chuyện trong phòng tiệc đã tẻ nhạt ngay từ đầu, lúc này lại như ngưng đọng. Jeff đang cắt thịt gà tây còn bà Jeff thì như cố tìm một điều gì để nói. Những người khác đều yên lặng. Bỗng nhiên tôi cao hứng muốn kể lại sự kiện đã xảy ra. Tôi cất tiếng. -Jeff, anh biết không, trên đường tới đây tôi đã đi chung một phần đường với một người bạn của anh đấy. -Vậy à. Ai thế? Jeff hỏi vừa cho dao lướt nhẹ vào ức gà. -Ông ấy nhờ tôi nhắn với anh là nếu có thể ông ấy sẽ đến thăm anh trước Giáng Sinh. -Tôi không nghĩ ra là ai cả. Bạn tôi mỉm cười đáp. -Chắc là thiếu tá Thorp chứ gì? Bà Jeff đoán. Tôi lắc đầu. -Không phải thiếu tá Thorp mà là một người bà con của chị đấy. -Vậy là tôi càng không nghĩ ra nữa, ai thế Mike? Bà Jeff hỏi. -Còn ai khác hơn là anh họ của chị, ông Dwerrihouse. Jeff đặt dao và nĩa xuống. Bà Jeff nhìn tôi vẽ kinh ngạc một cách kỳ lạ nhưng không nói một lời nào. -Và ông ấy nhờ tôi nhắn với chị là chị không phải đốt cả dãy hành lang để chào đón ông ấy nữa, mà chỉ cần cho người quét sạch ống khói lò sưởi của căn phòng xanh trước khi ông ấy tới. Trước khi dứt câu tôi nhận thấy có gì không ổn trên nét mặt của các vị khách. Tôi cảm thấy như mình đã nói một điều mà đáng lẽ không nên nói ra và nhận thấy bởi một lý do nào đó lời nói cùa tôi đã gây nên một sự kinh ngạc chung trong phòng. Tôi ngồi bối rối không dám nói thêm gì nữa. Cả phòng hoàn toàn im lặng trong ít nhất là hai phút rồi đại úy Prendergast phá tan sự nặng nề. -Anh Langford, nghe nói anh đã ở nước ngoài mấy tháng. Anh đã sang Nga phải không? Chắc anh có thể kể cho chúng tôi nghe vài điều về quốc gia đó sau chiến tranh chứ? Tôi rất cảm kích việc ông bạn này đã giúp tôi ra khỏi thế kẹt. Tôi trả lời không được tự nhiên lắm nhưng ông vẫn tiếp tục cuộc đối thoại và chẳng mấy chốc một vài người khác cũng tham dự vào, nhờ vậy không khí bớt căng thẳng nhưng vẫn chưa tự nhiên, vẫn còn một chút gì gượng ép, khó chịu. Lúc nãy khách khứa đã có vẽ uể oải nhưng bây giờ thì rõ ràng là họ mất tự nhiên và bối rối. Món tráng miệng chưa dọn khỏi bàn thì các bà đã đứng lên rời phòng tiệc. Tôi nhân dịp này chọn một ghế trống cạnh đại úy Prendergast. Tôi thì thầm. -Trời đất, chuyện gì thế? Tôi đã nói gì đến nổi? -Anh đã nhắc đến tên John Dwerrihouse. -Thế thì đã sao? Tôi gặp ông ấy cách đây không đầy hai giờ đồng hồ mà. -Nếu anh đã gặp ông ta thì đó là một sự trùng hợp kỳ lạ nhất. Anh có chắc đúng là ông ta không? Đại úy Prendergast hỏi. -Chắc lắm. Chúng tôi nói chuyện với nhau suốt trên đường từ London đến Blackwater mà. Nhưng sao điều này lại làm ông ngạc nhiên thế? Bằng một giọng thật thấp, đại úy Prendergast đáp: -Bời vì John Dwerrihouse đã tẩu thoát với 75.000 bảng Anh tiền của công ty cách nay ba tháng và từ đó đến nay không ai nghe hay thấy ông ta đâu cả. John Dwerrihouse đã tẩu thoát ba tháng trước đây, vậy mà tôi đã gặp ông cách đây chỉ vài giờ. Ông đã thụt két 75.000 bảng Anh tiền của công ty và đã nói với tôi là mang số tiền đó trong người. Sao các sự kiện lại khác biệt kỳ cục như thế? Sao ông lại dám lộ diện dọc đường hỏa xa chứ? Hơn nữa ông đã làm gì suốt ba tháng đó? Những câu hỏi trên nảy sinh ngay trong đầu mọi người liên hệ nhưng chẳng đem lại được một kết luận nào. Tôi cũng chẳng tìm được lời giải nào cho các câu hỏi đó cả. Dại úy Prendergast cũng không đưa ra được đề nghị nào. Còn Jeff thì ngay khi có dịp đã kéo tôi sang một bên bảo tôi kể lại hết tất cả và anh còn kinh ngạc hơn cả chúng tôi nữa. Đêm hôm đó khi quan khách đã ra về hết, anh đến phòng tôi và chúng tôi đã bàn cãi việc đó đủ mọi phương diện, nhưng thú thật, chúng tôi chẳng đưa ra được một kết luận nào hết. Jeff nói: -Tôi không hỏi xem anh có nhìn lầm không vì điều đó chắc không thể. -Cũng giống như tôi không thể nhìn lầm một người lạ ra anh được. -Đây không phải là vấn đề gương mặt hay giọng nói mà là những sự kiện rõ ràng.Việc anh ấy đê cập đến vụ cháy ở căn phòng xanh đã chứng tỏ anh ấy chính là John Dwerrihouse. Anh thấy anh ấy thế nào? Jeff hỏi. -Tôi thấy ông ấy già hơn, xanh xao hơn, vẽ lo lắng nhiều hơn. Bạn tôi nói vẽ buồn bã: -Hẳn là anh ấy phải lo lắng rồi dầu có tội hay vô tội. -Tôi tin là ông ấy vô tội vì ông ấy không hề tỏ ra bối rối khi tôi chào hỏi và chẳng có vẽ gì lo sợ khi người soát vé vào toa. Ông ấy nói chuyện có hơi quá lố, kể ra hết những công việc làm ăn một cách tự nhiên. -Điều đó kể cũng lạ vì anh ấy rất kín đáo trong những vấn đề như thế. Anh ấy nói rõ với anh là có đem theo 75.000 bảng trong túi à? -Phải. -Hừ, vợ tôi có ý kiến về chuyện đó. Không chừng cô ấy nói đúng…. -Ý kiến gì thế? -À, anh cũng biết đàn bà thì hay khôn khéo trong việc đặt mình vào chuyện của người khác. Cô ấy nghĩ rằng anh ấy đã thực sự lấy số tiền đó và đã trốn suốt ba tháng ở một vùng hoang dã nào đó của miền quê, cố gắng chống chọi với lương tâm của mình, không dám tẩu thoát với số tiền đánh cắp mà cũng không dám trở về với số tiền đó. -Nhưng bây giờ ông ấy đã trở về thì sao? -Đó mới là vấn đề. Vợ tôi nghĩ rằng có lẽ anh ấy đã trở về xin công ty tha thứ và đã hoàn trả lại số tiền, và sau khi được tha thứ đã được cho phép tiếp tục công việc như không có chuyện gì xảy ra. Tôi nói: -Đó là trường hợp không thể xảy ra được. Đúng là chị Jeff suy nghĩ như một phụ nữ đại lượng chứ hội đồng giám đốc một công ty hỏa xa lớn không suy nghĩ như vậy đâu. Họ sẽ không tha thứ một chuyện như vậy. -Đúng thế. Dẫu sao đó là lập luận duy nhất có thể nghĩ ra. Tuy nhiên ngày mai chúng ta sẽ đi Clayborough xem có biết được thêm gì không. Prendergast nói là anh có lượm được hộp xi-gà của anh ấy? -Vâng, đây này. Jeff cầm hộp xi-gà xem xét dưới ánh đèn và nói ngay rằng đó chính là của Dwerrihouse không nghi ngờ gì cả. Jeff nhớ đã trông thấy ông ấy dùng nó. Anh nói thêm: -Đây này, những chữ tên của anh ấy bên hông hộp, một chữ J lớn quyện với chữ D. Anh ấy cũng in những chữ này trên giấy viết thư của mình. -Vậy đây là bằng chứng tôi không nằm mơ. -Phải, nhưng bây giờ đã đến giờ anh đi ngủ và nằm mơ rồi. Tôi xin lổi đã giữ anh thức khuya thế này. Chúc ngủ ngon. -Chúc anh cũng thế và nhớ tôi rất sẵn sàng đi với anh tới Clayborough hoặc Blackwater, hoặc London hay bất cứ nơi nào nếu tôi có thể giúp được anh. -Cám ơn nhiều. Tôi biết là anh sẽ giúp tôi. Một lần nữa chúc ngủ ngon nhé. 8g30 sáng hôm sau chúng tôi gặp lại tại buổi điểm tâm. Một buổi ăn vội vã trong im lặng. Chúng tôi không ai ngủ ngon cả vì mãi bận nghĩ đến chuyện đó. Hiển nhiên là bà Jeff đã khóc suốt đêm, còn Jeff thì nôn nóng muốn đi ngay. Đại úy Prendergast và tôi cảm thấy mình là kẻ ngoài cuộc bị lôi cuốn ngoài ý muốn vào một vụ rắc rối gia đình. Chỉ trong vòng 20 phút sau khi dùng điểm tâm, xe ngựa được mang đến và tôi cùng Jeff lên đường đến Clayborough. Trong khi xe chạy nhanh trên đường lạnh lẽo, Jeff bảo tôi: -Langford này, tôi không muốn mang tên Dwerrihouse ra hỏi ở Clayborough. Các viên chức ở đó đều biết anh ấy là anh họ của vợ tôi và chuyện anh ấy làm là một việc xấu hổ, nếu anh không phiền, tôi muốn mình đi chuyến 11g10 đến Blackwater được không? Đó là một nhà ga quan trọng và chúng ta sẽ dễ hỏi tin tức hơn ở Clayborough. Thế là chúng tôi đi chuyến 11g10, cũng là chuyến tốc hành. Đến Blackwater khoảng 12g kém 15, chúng tôi tiến hành ngay việc dọ hỏi của mình. Chúng tôi xin gặp ông xếp ga, một người to con, cục mịch. Ông ta nói ngay rằng rất biết rõ John Dwerrihouse, rằng chưa có một giám đốc nào trong công ty mà ông ta lại thường xuyên gặp gỡ và nói chuyện như với Dwerrihouse. Ông ta nói: -Cách nay ba tháng ông ta thường hay xuống đây một tuần hai, ba lần lúc đường hỏa xa mới bắt đầu xúc tiến, nhưng từ đó đến nay thì chắc các ông cũng biết…. Ông ta dừng nói một cách đầy ý nghĩa. Jeff đỏ tía mặt vội vã nói: -Vâng, chúng tôi biết chuyện đó. Vấn đề bây giờ là chúng tôi muốn biết xem gần đây có ai gặp hoặc nghe nói đến ông ấy không? -Điều này tôi không được biết. Ông xếp ga đáp. -Thí dụ ông có nghe nói là ông ấy đi xe lửa xuống đây hôm qua không? Ông xếp ga lắc đầu. -Thưa ông, đường hỏa xa Đông Anglian là nơi ông ta không bao giờ dám chường mặt vì không có một xếp ga nào, một người soát vé nào, một phu khuân vác nào mà không biết rõ mặt ông ta như chính ông ta thấy rõ mặt mình trong gương vậy. Không ai mà không gọi điện cho cảnh sát ngay khi gặp ông ta ở bất cứ đoạn đường nào. Ông không biết là từ ngày 25 tháng 9 vừa qua đã có công văn truy nã ông ta rồi sao? Bạn tôi vẫn cố nói: -Ấy vậy mà một ông đi từ London đến Clayborough hôm qua bằng chuyến tốc hành buổi chiều khai rằng đã gặp ông Dwerrihouse trên xe và nói rằng ông ấy xuống ga Blackwater. -Thưa ông, không thể có chuyện đó được. Ông xếp ga đáp ngay. -Tại sao lại không thể được? -Bởi vì ở ga này ai cũng biết ông ta và ông ta sẽ gặp rắc rối to, cũng như đút đầu vào mõm sư tử vậy. Có điên ông ta mới đến ga Blackwater, mà nếu có đến thì ông ta cũng đã bị bắt ngay khi xuống ga. -Ông có thể cho biết ai đã soát vé đi Blackwater trong chuyến đó không? -Đó là Benjamin Somers. -Chúng tôi có thể tìm anh ta ở đâu? -Muốn gặp ông có thể chờ ở đây đến 1g. Ông ta sẽ lên theo chuyến tốc hành từ Crampton, chuyến này sẽ ghé ga Blackwater 10 phút. Chúng tôi ở lại chờ và để qua thì giờ, chúng tôi thả bộ dọc đường phố Blackwater ra đến vòng đai tỉnh, từ đó nhìn lại nhà ga ở cách xa gần vài dặm. Đúng 1g chúng tôi lại có mặt ở sân ga để chờ chuyến xe lửa. Xe đến rất đúng giờ và tôi nhận ngay ra người soát vé có bộ mặt đỏ gay đã đi trên chuyến tàu với tôi chiều tối hôm qua. Để thay lời giới thiệu ông xếp ga nói: -Somers, hai ông đây muốn hỏi anh một vài điều về ông Dwerrihouse. Somers liếc nhìn từ tôi đến Jeff rồi trở lại tôi. Anh ta hỏi: -Ông John Dwerrihouse, cựu giám đốc? Bạn tôi đáp: -Vâng. Nếu gặp ông ấy anh có nhận ra không? -Thưa ông, tôi sẽ nhận ra dầu bất cứ ở đâu. -Anh có biết là ông ấy đã đi chuyến 4g15 chiều hôm qua không? -Không có đâu, thưa ông. -Làm sao anh biết chắc chắn được? -Bởi vì tôi nhìn vào từng toa và thấy từng bộ mặt trên chuyến đó và tôi thề là không thấy ông Dwerrihouse, còn ông đây thì tôi có thấy, mặc dầu tôi chưa gặp bao giờ nhưng tôi nhớ mặt ông rất rõ. Anh ta quay nhìn tôi. -Hôm qua ông xém trể tàu tại ga này và ông xuống ga Clayborough. -Đúng vậy. Tôi đáp. –Nhưng anh không nhớ mặt cái ông ngồi chung toa với tôi tới đây sao? Somers nói vẽ vô cùng kinh ngạc: -Tôi nhớ là ông đi chỉ có một mình mà? -Ồ không, tôi có một bạn đồng hành cùng đi đến Blackwater, và chính vì muốn đưa lại cho ông ấy hộp xi-gà ông ấy đánh rơi trong toa mà tôi đã xém trể tàu đấy. -Tôi nhớ có nghe ông nói gì đó về một hộp xi-gà, nhưng…. -Anh đã đòi xem vé tôi trước khi tàu vào ga đó. -Phải rồi, thưa ông. -Vậy thì anh phải thấy ông ấy chứ. Ông ấy ngồi ở góc gần ngay cửa vào mà. -Quả thật tôi không thấy ai hết. Tôi nhìn Jeff và bắt đầu nghĩ rằng người soát vé này chắc là về phe với ông cựu giám đốc và đã được trả tiền để giữ im lặng. Somers nói thêm: -Nếu tôi thấy một hành khách khác thì tôi đã hỏi vé rồi. Ông có thấy tôi hỏi vé ai khác ngoài ông không? -Đúng là anh không hỏi nhưng ông ấy giải thích rằng…. Tôi lưỡng lự sợ rằng mình đã nói lộ nhiều quá chăng, vì vậy tôi ngưng ngang. Người soát vé và ông xếp ga nhìn nhau trao đổi và người soát vé nhìn đồng hồ tay vẽ bồn chồn. Anh ta nói: -Chỉ còn 4 phút nữa là tôi phải đi, thưa ông. Jeff cố hỏi thêm: -Một câu cuối nữa thôi. Nếu người bạn đồng hành của ông đây đúng là ông Dwerrihouse và đã ngồi ngay góc gần cửa nơi anh soát vé thì có thể nào anh không thấy và không nhận ra không? -Dạ, không khi nào có chuyện đó. -Anh chắc là không nhìn thấy ông ấy chứ? -Như tôi đã nói hồi nảy, tôi thề là không thấy ông ta và tôi cũng không muốn nói ngược với ông khách đây làm gì nhưng tôi thề rằng ông đây đã đi một mình trong toa suốt từ London đến Clayborough. Hơn nữa, Anh ta nói thêm, hạ nhỏ giọng để ông xếp ga vừa được gọi sang nói chuyện với một người gần đó không nghe thấy được. -chính ông đã nhờ tôi tìm một toa riêng cho ông và tôi đã làm đúng như thế. Chính tôi đã khóa cửa lại và ông đã tử tế hậu tạ cho tôi đấy. -Phải, nhưng ông Dwerrihouse có một chìa khóa riêng. -Thưa ông, tôi không hề thấy ông ta. Ngoài ông ra tôi chẳng thấy ai khác trong toa cả. Xin lổi các ông đã đến giờ tôi phải đi. Nói xong anh ta đưa tay chào rồi quay đi. Một phút sau tiếng thở nặng nề của đầu máy nổi lên và xe lửa lướt chậm ra khỏi sân ga. Chúng tôi nhìn nhau im lặng trong vài giây rồi tôi cất tiếng: -Anh Somers này biết nhiều hơn là anh ta muốn nói ra. -Anh nghĩ thế à? -Hẳn là như vậy, vì anh ta không làm sao đứng ngay cửa toa mà không thấy ông Dwerrihouse được. Không thể nào. -Anh bạn ạ, có một chuyện có thể được đấy. -Chuyện gì thế? -Là anh đã ngủ quên và mơ thấy tất cả câu chuyện. -Có thể nào tôi mơ thấy việc thiết lập một đường hỏa xa ngánh mà tôi chưa từng nghe nói đến không? Có thể nào tôi mơ thấy hàng trăm chi tiết nhỏ nhặt về kinh doanh mà tôi không hề quan tâm đến không? Có thể nào tôi mơ thấy chính xác 75.000 bảng Anh không? -Có lẽ anh đã thấy trên báo hoặc nghe nói đến việc đó lúc còn ở nước ngoài. Có thể lúc đó anh không để ý nhưng tên của các nhà ga dọc đường hỏa xa đã gợi cho anh nhớ lại những chi tiết đó trong giấc mơ. -Thế còn vụ cháy trong ống khói lò sưởi của căn phòng xanh thì sao? Chẳng lẽ tôi cũng nghe nói đến vụ đó lúc ở nước ngoài à? -À không, việc này thì tôi phải công nhận là khó giải thích. -Và còn hộp xi-gà thì sao? -A, trời đất, lại còn hộp xi-gà nữa chứ. Đó là một việc khó chối cãi. Chuyện này thật bí ẩn, nó cần một thám tử tài ba hơn tôi nhiều để tìm ra sự thật. Thôi, có lẽ chúng ta nên trở về thì hơn. Không đầy một tuần sau tôi nhận được một thư của ông bí thư Công ty hỏa xa Đông Anglian mời đến dự một buổi họp hội đồng đặc biệt trong vài ngày tới. Thư không nêu lý do và cũng không cáo lỗi về việc làm mất thì giờ của tôi, nhưng tôi chắc là họ đã nghe nói tới vụ dò hỏi của chúng tôi về ông giám đốc mất tích nên muốn chính thức tra gạn tôi về việc đó. Vì vẫn còn là khách của biệt thự Dumbleton nên tôi đồng ý lên London dự buổi họp và Jeff cùng đi với tôi. Tôi nhận thấy ban giám đốc Công ty Đông Anglian gồm 12 hoặc 14 vị ngồi nghiêm nghị quanh một bàn to màu xanh lá cây trong một căn phòng tối. Được ông chủ tịch đón tiếp niềm nở (ông này nói ngay là việc dọ hỏi của tôi về ông Dwerrihouse đã đến tai ban giám đốc, vì thế họ ước muốn được tham khảo với tôi về vấn đề đó), chúng tôi được mời ngồi vào bàn và theo đúng thể thức cuộc chất vấn diễn tiến. Trước hết tôi được hỏi xem có biết ông Dwerrihouse không và tôi đã quen biết ông ấy bao lâu? Trường hợp gặp mặt tôi có nhận diện được không? Rồi tôi được hỏi đã gặp ông ấy lần cuối cùng lúc nào? Tôi đáp: -Vào ngày 4 tây tháng 12, 1856. Tôi lại được hỏi đã gặp ông ấy vào ngày đó tại đâu. Tôi đáp: -Trên toa hạng nhất chuyến tốc hành 4g15. Rằng ông ấy lên toa lúc tàu vừa rời London và đã xuống ở ga Blackwater. Ông chủ tịch muốn biết xem tôi có chuyện trò với người đồng hành ấy không nên tôi đã thuật lại mọi điều ông Dwerrihouse nói theo như trí nhớ. Cả hội đồng chăm chú lắng nghe trong khi ông bí thư ghi chú. Tôi đưa ra hộp xi-gà và nó được chuyền từ tay người này sang tay người kia, tất cả đều nhận ra nó. Không ai hiện diện mà lại không nhớ hộp xi-gà đơn giản với những mẫu tự bằng bạc. Sau khi tôi đã kể hết mọi chuyện, ông chủ tịch thì thầm với ông bí thư, ông này nhấn vào một nút chuông bằng bạc và Somers được đưa vào phòng. Anh ta được chất vấn thật kỹ giống như tôi. Anh ta nói biết ông Dwerrihouse rất rõ không bao giờ lầm lẫn được, rằng anh ta có đi theo chuyến tốc hành 4g15 vào buổi chiều hôm đó, rằng anh ta có nhớ tôi vì đặc biệt chiều hôm đó có một, hai toa hạng nhất trống nên anh ta đã theo lời yêu cầu của tôi chọn cho tôi một toa riêng. Anh ta chắc chắn rằng tôi đã ở một mình trong toa suốt cuộc hành trình từ London đến Clayborough. Anh ta sẵn sàng tuyên thệ rằng ông Dwerrihouse không có mặt trong toa với tôi hay bất cứ toa nào khác. Anh ta nhớ rõ đã xem xét vé của tôi ở Blackwater và nhớ chắc rằng không có ai khác trong toa của tôi lúc đó, rằng nếu có người thứ hai thì không thể nào anh ta không trông thấy được, và nếu người thứ hai đó lại là ông Dwerrihouse thì anh ta đã lẳng lặng khóa cửa và chạy báo ngay cho ông xếp ga rồi. Đó là những lời khai của Somers, thật rõ ràng, chắc chắn khiến hội đồng có vẽ bối rối. Ông chủ tịch nói: -Ông Langford, ông đã nghe rõ lời khai của nhân chứng này, nó trái ngược lại với các lời khai của ông. Vậy ông nghĩ thế nào? -Tôi chỉ có thể lặp lại những điều tôi đã nói khi nãy là tôi hoàn toàn chắc chắn sự thật những điều tôi thấy cũng như Somers chắc chắn những điều anh ta nói. -Ông nói rằng ông Dwerrihouse xuống ga Blackwater, rằng ông ta có chìa khóa riêng. Ông có chắc là ông ta không dùng chìa khóa riêng để mở cửa toa xuống ga trước khi anh Somers tới soát vé không? -Tôi chắc chắn là ông ấy không hề rời khỏi toa cho tới khi xe lửa đã vào hẳn sân ga và các hành khách khác cùng xuống ga. Tôi còn thấy ông ấy được một người bạn đến đón. -Thật sao? Ông có thấy rõ người đó không? -Thấy rõ lắm. -Ông có thể tả lại hình dáng không? -Được chứ. Người đó thấp, tóc hơi vàng, râu mép và râu cằm rậm ri, mặc một bộ đồ bằng hàng nỉ màu xám. Tôi đoán tuổi ông ta khoảng 38, 40 gì đó. -Ông có thấy ông Dwerrihouse rời nhà ga với ông đó không? -Tôi không biết được. Tôi chỉ thấy hai người đi trên sân ga và đến đứng nói chuyện dưới một ngọn đèn gas. Sau đó thì tôi mất dấu họ một cách đột ngột và rồi tôi phải lên tàu đi tiếp cuộc hành trình. Ông chủ tịch và ông bí thư bàn bạc nho nhỏ với nhau. Các giám đốc cũng thì thầm với nhau. Một vài người nhìn anh soát vé vẽ nghi ngại. Tôi nhận thấy rằng những chứng cứ của tôi không thể cãi chối được và cũng như tôi họ nghi ngờ người soát vé là đồng lõa với ông Dwerrihouse. Ông chủ tịch hỏi: -Somers, anh đã theo chuyến 4g15 hôm đó tới đâu? -Dạ, tôi đi suốt chuyến từ London đến Crampton. -Sao lại không có ai thay cho anh ở Clayborough? Tôi nhớ là luôn luôn có người thay ở ga Clayborough mà? -Dạ,trước kia thì như vậy nhưng sau có điều lệ mới hiệu lực từ giữa hè năm ngoái là nhũng nhân viên soát vé trên các chuyến tốc hành đều phải đi suốt chuyến. Ông chủ tịch quay sang ông bí thư nói: -Tôi nghĩ là ta nên kiểm tra lại việc này trong quyển lịch trình. Ông bí thư lại nhấn cái nút bạc nhờ tùy phái cho mời ông Raikes. Nhờ một, hai câu nghe lõm được tôi đoán ông Raikes là một trong các ông phó bí thư. Ông ta đến, một người nhỏ nhắn, tóc vàng, mắt lanh lẹ, cử chỉ nôn nóng, râu mép và râu cằm rậm ri. Ông ta chỉ ló mặt ở cửa vào phòng họp và được nhờ mang đến một quyển lịch trình nào đó trên một kệ trong một phòng nào đó, rồi ông ta cúi chào và quay đi. Ông ta chỉ hiện diện trong một chốc nhưng sự ngạc nhiên nhìn thấy ông ta quá lớn lao và đột ngột đến nổi chỉ sau khi cửa đã đóng lại sau lưng ông ta tôi mới bật ra tiếng được. Tôi bật nhỏm dậy và nói to: -Đó là người đã đến gặp ông Dwerrihouse ở ga Blackwater. Cả phòng kinh ngạc. Ông chủ tịch nghiêm nghị và nóng nảy nói: -Ông Langford, hãy cẩn thận những điều ông nói. -Tôi chắc chắn về diện mạo của ông ta như chính của tôi vậy. -Ông có xét lại hậu quả lời nói của ông không? Ông có nhận thấy đã đem một lời tố cáo nặng nề nhất đến cho một nhân viên của công ty chúng tôi không? -Nếu cần tôi sẵn sàng tuyên thệ. Người đàn ông đến trước cửa cách đây một phút là người mà tôi thấy đứng nói chuyện với ông Dwerrihouse trên sân ga Blackwater. Dầu ông ta có là một nhân vật quan trọng nhất trong công ty, tôi cũng không thể nói khác hơn được. Ông chủ tịch quay sang người soát vé. -Anh có thấy ông Raikes trên xe lửa hoặc trên sân ga không? Somers lắc đầu. -Tôi quả quyết là ông Raikes không có trên xe lửa và tôi cũng chẳng thấy ông ấy trên sân ga. Ông chủ tịch quay sang ông bí thư. -Ông Hunter, ông Raikes làm trong văn phòng của ông. Ông nhớ xem ông ấy có vắng mặt vào ngày 4 tây không? Ông bí thư đáp: -Tôi không nghĩ là ông ấy vắng mặt nhưng tôi không chắc lắm. Gần đây tôi thường phải đi công việc vào buổi chiều, ông ấy có thể vắng mặt nếu ông ấy được phép. Ngay lúc ấy ông phó bí thư đến mang theo quyển lịch trình. Ông chủ tịch nói: -Ông Raikes, ông coi dùm vào ngày 4 tây tháng này trách vụ của Benjamin Somers là gì. Ông Raikes mở lịch trình ra, bằng một ngón tay và cặp mắt nhà nghề ông ta dò theo ba hoặc bốn cột chữ nối tiếp nhau và dừng lại ở cuối trang, rồi ông ta đọc to lên là vào ngày đó Benjamin Somers đã theo chuyến tốc hành 4g15 đi suốt từ London đến Crampton. Ông chủ tịch chồm ra khỏi ghế nhìn thẳng vào mặt ông phó bí thư hỏi đột ngột: -Còn ông, ông Raikes, chiều hôm đó ông ở đâu? -Tôi à, thưa ông? -Chính ông. Chiều và tối ngày 4 tây tháng này ông ở đâu? -Dạ ở tại đây trong văn phòng ông Hunter. Tôi còn ở đâu khác nữa chứ. Trong giọng nói của ông phó bí thư có chút run sợ nhưng vẽ ngạc nhiên của ông ta thì rất tự nhiên. -Ông Raikes , chúng tôi có lý do để tin rằng ông đã vắng mặt chiều hôm đó không có phép, có đúng vậy không? -Thưa, chắc chắn là không đúng. Kể từ tháng 9 đến bây giờ tôi chưa hề có một ngày nghỉ nào cả. Ông Hunter sẽ làm chứng cho tôi về việc này. Ông Hunter lặp lại những điều ông đã nói khi nãy nhưng nói thêm rằng các thư ký trong văn phòng bên cạnh chắc chắn sẽ biết. Vì vậy người thư ký trưởng, một người trung niên, vẽ nghiêm trang, đeo cặp kiếng xanh đậm được mời đến chất vấn. Lời khai của ông này gỡ rối cho ông phó bí thư ngay. Ông này nói rằng theo ông biết thì ông Raikes không hề vắng mặt trong giờ làm việc bao giờ kể từ khi ông ta trở về sau chuyến nghỉ phép thường niên hồi tháng 9. Tôi lấy làm bối rối. Ông chủ tịch quay sang tôi mỉm cười, vẽ hơi khó chịu. -Ông Langford, chắc ông đã nghe rõ? -Vâng, nhưng lời tố cáo của tôi không thay đổi. -Ông Langford, tôi e rằng các cáo buộc của ông là vô căn cứ. Tôi nghĩ rằng ông đã nằm mơ và lẫn lộn sự kiện thật với giấc mơ. Đó là một thói quen tâm trí nguy hiểm, có thể đưa đến các hậu quả tai hại. Nếu ông Raikes đây không có lý do cách diện rõ ràng thì đã rơi vào một tình huống không may rồi. Tôi định trả lời nhưng ông không dành cho tôi chút thì giờ nào mà quay sang nói tiếp với hội đồng. -Thưa quý vị, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ phí thì giờ nếu tiếp tục cuộc tra vấn này. Chứng cứ của ông Langford chỉ có giá trị tương đối. Lời khai của Benjamin Somers đã làm mất giá trị phần đầu của lời khai ông Langford và lời khai của nhân chứng vừa rồi lại làm mất giá trị phần thứ hai của lời khai ông Langford. Tôi nghĩ chúng ta có thể kết luận rằng ông Langford đã ngủ quên trên xe lửa trong chuyến đi Clayborough và đã mơ một giấc mơ bất thường và rõ ràng mà chúng ta đã được nghe khá đầy đủ. Có vài điều còn khó chịu hơn là lời khai chắc chắn của mình bị người ta nghi ngờ. Tôi không thể không bực mình vì sự việc đã xảy ra trái ngược như vậy. Tôi không đủ chứng cớ để đối lại với sự mỉa mai trong cung cách của ông chủ tịch. Khó chịu hơn cả là cái cười mỉm lặng lẽ ở khóe môi Benjamin Somers và ánh mắt nửa như đắc thắng nửa như thù ghét của ông phó bí thư. Rõ ràng là ông ta có vẽ bối rối và hơi sợ hãi. Cái nhìn của ông ta như lén lút tra vấn tôi. Hắn là ai? Hắn muốn gì? Tại sao hắn lại đến đây để gieo sự nghi ngờ giữa các ông chủ với mình? Có gì liên quan đến hắn là mình đã vắng mặt không phép hay không? Đọc ra những thắc mắc này từ ánh mắt của ông phó bí thư và có lẽ vì bực mình, tôi đã xin hội đồng nhín cho thêm chút thì giờ. Jeff bồn chồn kéo tay áo tôi thì thầm: -Thôi bỏ qua đi. Ông chủ tịch nói phải, anh đã mơ, bây giờ đừng nói gì thêm là tôt hơn cả. Tuy nhiên tôi không thể nín lặng như thế được. Tôi vẫn còn một điều để nói và tôi phải nói ra. Đó là: những giấc mơ không thể tạo ra các kết quả có thể sờ mó được và tôi đòi ông chủ tịch giải thích xem tại sao giấc mơ của tôi lại có thể tạo ra một ảo giác quá thật và tốt đẹp như hộp xi-gà mà tôi đã được vinh dự đặt ra trước mặt ông khi buổi tra vấn bắt đầu? Ông chủ tịch đáp: -Ông Langford, tôi công nhận hộp xi-gà là điểm mạnh nhất trong chứng cớ của ông. Tuy nhiên nó là điểm mạnh duy nhất của ông mà thôi, và có thể là chúng tôi đã lầm lẫn vì sự quá giống của nó. Ông cho phép tôi xem lại cái hộp nhé. Tôi trao cho ông vừa nói: -Không thể có một sự giống nhau từng chi tiết những chữ cái tới các điểm nhỏ nhặt khác. Ông chủ tịch xem xét trong im lặng một lát rồi đưa qua ông Hunter. Ông Hunter quay hộp qua lại rồi lắc đầu. -Đây không phải là một sự giống nhau. Chắc chắn đây là hộp xi-gà của ông Dwerrihouse. Tôi nhớ nó rất rõ, tôi thấy nó cả trăm lần rồi. Ông chủ tịch nói thêm: -Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng như thế thì làm sao giải thích được tại sao nó lại vào tay ông Langford? Tôi đáp: -Tôi chỉ có thể lặp lại là tôi đã thấy nó trên sàn toa sau khi ông Dwerrihouse xuống ga. Lúc chồm ra cửa sổ để nhìn theo ông ấy tôi đã đạp phải nó và chính lúc chạy theo để trao trả nó lại cho ông ấy, tôi đã trông thấy ông Raikes đứng nói chuyện với ông ấy. Tôi lại nghe Jeff kéo tay áo tôi thì thào. -Nhìn ông Raikes kìa! Nhìn ông Raikes kìa! Tôi quay nhìn về phía ông phó bí thư đã đứng khi nãy và trông thấy ông ta, mặt trắng bệch, môi run rẩy đang lùi dần về phía cửa. Từ mối nghi ngờ nổi lên đột ngột, kỳ lạ và rõ ràng đến lúc tôi nhảy bổ về phía ông ta, chụp hai vai ông ta như chụp một đứa con nít, quay gương mặt sợ hãi của ông ta về phía hội đồng, chỉ mất một tích tắc đồng hồ. Tôi hô lên: -Hãy nhìn ông ta! Hãy nhìn mặt ông ta! Tôi không đòi hỏi một nhân chứng nào hơn để nói lên sự thật các lời nói của tôi trước hội đồng. Đôi lông mày ông chủ tịch nhíu lại. Ông nói một cách nghiêm khắc. -Ông Raikes, nếu ông có biết điều gì thì tốt hơn ông nên nói ra. Cố gắng vô hiệu quả để vuột khỏi tay tôi, ông phó bí thư lắp bắp một lời phủ nhận không rõ rệt. -Buông tôi ra….Tôi không biết gì cả…Ông không có quyền giữ tôi lại đây…Buông tôi ra. -Ông có đến gặp ông Dwerrihouse ở ga Blackwater không? Lời tố cáo ông hoặc là thật hoặc là giả. Nếu thật thì ông sẽ có lợi hơn nếu cung khai hết những điều ông biết ra đây để xin lượng khoan hồng của hội đồng. Ông phó bí thư vặn vẹo hai bàn tay trong một nổi sợ hãi đau đớn. Ông ta kêu lên: -Tôi ở xa. Lúc đó tôi ở xa cả 200 dặm kia mà. Tôi không biết gì về việc đó cả. Tôi không có gì phải cung khai cả. Tôi vô tội! Tôi xin Chúa hãy chứng giám sự vô tội của tôi. Ông chủ tịch hỏi: -Cách xa 200 dặm. Ông nói gì thế? -Tôi ở Devonshire. Tôi được nghỉ phép ba tuần. Tôi đã xin với ông Hunter. Ông Hunter biết là tôi được nghỉ phép ba tuần mà. Suốt thời gian đó tôi ở Devonshire. Tôi có thể chứng minh là tôi dã ở Devonshire. Thấy thái độ của ông ta sợ hãi. Nói năng không rõ ràng và vẽ lo lắng thái quá, các giám đốc bắt đầu xì xầm với nhau và một người lặng lẽ đứng dậy bảo anh tùy phái đứng canh cửa. Ông chủ tịch lại hỏi: -Việc ông đã ở Devonshire thì có liên quan gì đến vấn đề này? Ông đã ở Devonshire khi nào? Ông bí thư đáp: -Ông Raikes nghỉ phép hồi tháng 9, khoảng vào lúc ông Dwerrihouse bỏ đi mất. -Tôi chẳng hề biết là ông ấy đã đi mất mãi cho tới khi tôi nghỉ phép về. Ông chủ tịch nói: -Điều đó để sẽ xét lại. Tôi sẽ giao việc này lại cho cảnh sát ngay. Còn bây giờ thì, ông Raikes, là một chưởng lý và đã từng xử những vụ như thế này, tôi khuyên ông không nên chống cự mà hãy thú tội lúc còn kịp thời. Còn về người đồng lõa với ông… Con người sợ hãi kia quỵ xuống hai đầu gối và kêu lên: -Tôi không có đồng lõa nào cả, nhưng xin hãy khoan hồng cho tôi. Hãy tha mạng sống tôi, tôi sẽ khai hết tất cả. Tôi không có ý định hại ông ấy. Tôi không có ý làm đau một sợi tóc trên đầu ông ấy. Chỉ xin hãy khoan hồng cho tôi và tha cho tôi. Ông chủ tịch đứng dậy, tái mặt và đầy khích động. Ông thảng thốt nói: -Trời đất ! Điều bí ẩn khủng khiếp gì đây? Ông muốn nói gì chứ? Jeff nói: -Còn gì phải hỏi nữa, chắc chắn như Chúa trên trời là án mạng đã xảy ra. -Không. Không. Không. Raikes thét lên, vẫn quỳ và co rút người như một con chó săn bị đánh đập. -Không phải sát nhân. Không một bồi thẩm đoàn nào có thể nói đây là một vụ cố sát được. Tôi tưởng chỉ làm ông ấy bất tỉnh thôi. Tôi không hề có ý làm hơn như thế. Ngộ sát. Ngộ sát. Không phải cố sát. Kinh hoàng vì sự tiết lộ không ngờ này, ông chủ tịch đưa tay bụm mặt và yên lặng trong ít giây. Cuối cùng ông nói: -Con người khốn khổ kia. Ông đã tự tố cáo mình ra rồi. -Ông bảo tôi hãy cung khai. Ông khuyên tôi hãy nhờ lượng khoan hồng của hội đồng. Ông chủ tịch đáp: -Ông đã thú ra một tội mà không hề một ai nghi ngờ cho ông cả. Một tội mà hội đồng nầy không có quyền xử phạt hay tha thứ. Tôi chỉ có thể khuyên ông nên nộp mình cho luật pháp, nên nhận tội và đừng giấu giếm gì cả. Ông đã làm việc đó hồi nào? Con người phạm tội đứng lên, nặng nề dựa vào bàn. Câu trả lời của ông ta thốt ra một cách do dự, giống như lời nói của một người đang mơ ngủ. -Vào ngày 22 tây tháng 9. Vào ngày 22 tây tháng 9 ! Tôi nhìn Jeff và Jeff nhìn tôi. Tôi nghe mặt mình tái đi trong một cảm giác ghê sợ và ngạc nhiên. Tôi thấy mặt Jeff bổng tái nhợt và cặp môi cũng thế. Anh thì thào: -Chúa ơi ! Vậy thì anh đã thấy gì trên xe lửa? Câu hỏi này không được giải đáp cho đến nay. Tôi đã không thể trả lời được. Tôi chỉ biết rằng người tôi gặp giống hệt như người bị giết, cái người mà thân xác đã nằm khoảng mười tuần lễ dưới một đống cành cây khô và lá mục, dưới đáy một cái hố rác vắng vẻ ở giữa đường từ Blackwater đến Mallingford. Tôi biết rằng người đó đã nói, đã đi đứng và đã nhìn giống y như cái xác kia đã nói, đã đi đứng và đã nhìn khi còn sống. Tôi biết rằng tôi đã được nghe kể những điều, những công chuyện làm ăn mà tôi không thể nghe biết được bằng cách nào khác. Tôi cũng biết rằng tôi đã được hướng dẫn cho thấy hình ảnh trên sân ga để dẫn dắt tôi đến việc xác nhận lý lịch của kẻ sát nhân, rằng tôi là một dụng cụ thụ động được dùng để mang lại công lý sau cùng. Những điều này tôi không thể nào giải thích được. Về hộp xi-gà thì theo cuộc điều tra tôi được biết, toa xe mà tôi đã đi chiều hôm đó đến Clayborough đã không được dùng đến trong nhiều tuần lễ mà cũng là toa xe mà ông Dwerrihouse đáng thương đã đi lần cuối cùng. Hẳn là ông ấy đã đánh rơi và nó đã nằm đó không ai thấy mãi đến khi tôi lượm được. Về chi tiết vụ án mạng tôi không cần phải dài dòng. Những ai muốn biết rõ từng chi tiết có thể lục xem bảng thú tội của Augustus Raikes trong hồ sơ lưu của báo Times năm 1856. Chỉ cần tóm tắt như sau: Ông phó bí thư biết đến dự án thiết lập đường hỏa xa mới, đã theo dõi từng bước cuộc thương lượng và quyết định đón đường ông Dwerrihouse để cướp số tiền 75.000 bảng Anh rồi trốn sang Mỹ. Để thực hiện ý định, ông ta đã xin nghỉ phép vài ngày trước thời gian ấn định cho vụ trả tiền, và đã ghi tên giữ chổ trên một tàu hành khách xuyên Đại Tây Dương sẽ khởi hành ngày 23 tây. Mang theo một bình dưỡng khí cá nhân ông ta đến Blackwater để chờ đợi nạn nhân của mình. Ông ta đã gặp nạn nhân trên sân ga với một bức điện giả của hội đồng như thế nào. Đã đề nghị hướng dẫn nạn nhân theo một đường tắt ngang qua các cánh đồng để đến Mallingford như thế nào. Khi đến một nơi vắng vẻ đã đập nạn nhân bằng bình dưỡng khí và giết chết ông ta như thế nào. Khi nhận ra việc mình đã làm, liền kéo xác nạn nhân đến một hố rác khuất nẻo như thế nào và đã ném xác xuống đó rồi chất cành cây và rác rưởi lên trên. Lạ thay, tên sát nhân sau khi thi hành xong thủ đoạn lại không dám rời nước. Hắn nói rằng không có ý định giết người mà chỉ định đập bất tỉnh để cướp của, nhưng khi thấy nạn nhân đã chết hắn không dám tẩu thoát vì sợ kéo mọi nghi ngờ về phía mình. Hắn biết nếu chỉ là một tên cướp của hắn sẽ trốn an toàn ở Mỹ, nhưng là một tên sát nhân thì không thể nào tránh khỏi bị săn đuổi và đem ra công lý. Vì vậy hắn đã xin gạch tên trên chuyến tàu và trở về văn phòng như bình thường sau khi mãn phép, cất dấu số tiền cướp để chờ một dịp thuận tiện hơn. Trong khi đó hắn vô cùng khoan khoái thấy ông Dwerrihouse bị mọi người cho rằng đã tẩu thoát với số tiền, nhưng không ai biết bằng cách nào. Dầu có cố sát hay không, Augustus Raikes cũng đã đền tội ác của mình và bị treo cổ ở nhà giam Bailey vào giữa tháng giêng 1857. Ai muốn được nhìn rõ ông ta (làm bằng sáp) có thể đến xem “Căn phòng khủng khiếp” bất cứ lúc nào tại phòng trưng bày của bà Tussaud ở đường Baker. Tại đó sẽ thấy ông ta đứng giữa đám các ông các bà phạm tội ác, mặc bộ đồ nỉ cắt sát mà ông ta đã mặc ngày gây án và cầm trên tay cái tang vật đã dùng để giết người. Xong ngày 24 tháng 2, 1983 Hoàng_Yến
Chào chị Hoàng Yến
Lúc này chị phẻ hong???
Truyện thứ 8, em đã mang vào thư viện
Chúc chị luôn an lạc
Chuyện 9 POLLOCK VÀ TÊN PORROH ( POLLOCK AND THE PORROH MAN By H.G.WELLS ) Chính ở một làng vùng đầm lầy trên dòng sông bắt nguồn từ hồ nước mặn đằng sau bán đảo Turner mà Pollock đã gặp tên Porroh lần đầu. Đàn bà xứ đó nổi tiếng là đẹp. Họ là giống dân Gallinas có pha trộn chút máu Châu âu do từ thời Vasco da Gama và những người Anh buôn nô lệ để lại, và cả tên Porroh cũng có thể pha trộn chút máu Caucasian. Thật là buồn cười khi nghĩ rằng một số trong chúng ta có những anh em họ hàng xa ăn thịt người trên đảo Sherboro hoặc đánh giết nhau với dân Sofas. Dầu sao thì tên Porroh cũng đã đâm cô gái thấu tim như thể hắn là một tên Ý hạ tiện, và hắn cũng đã đâm hụt Pollock trong gang tấc. Nhưng Pollock, dùng súng đánh văng con dao găm sắt nhọn được nhắm vào bụng anh, đã nổ súng trúng bàn tay hắn. Anh bắn một phát nữa nhưng trật làm bật một cửa sổ ra khỏi vách chòi. Tên Porroh khom người ở ngạch cửa và liếc nhìn Pollock ngược qua kẽ tay chống. Pollock thoáng thấy gương mặt ngược của hắn dưới ánh nắng và rồi anh chàng người Anh chỉ còn lại một mình, yếu ớt và run rẩy sau cơn kinh động trong ánh mờ của căn chòi. Chuyện xảy ra chỉ trong tích tắc. Cô gái đã chết hẳn và sau khi đã chắc chắn điều này. Pollock đi lại cửa chòi nhìn ra ngoài. Bên ngoài ánh sáng chói chang. Một toán phu khuân vác đứng lố nhố gần dãy chòi xanh của họ nhìn về phía anh thắc mắc không biết những tiếng súng đó có nghĩa gì. Đằng sau họ là bờ sông đầy bùn trải rộng và những lau sậy bè cây xanh rờn, rồi đến dòng nước đục ngầu. Những cây mangrove ( loại cây vỏ dùng để làm thuốc và thuộc da) đằng sau dòng suối hiện ra mờ ảo qua hơi sương mờ xanh nhạt. Không có dấu hiệu rộn ràng nào trong ngôi làng thấp lè tè nơi mà từ đây có thể trông thấy được dãy rào nhô lên khỏi đám cỏ mía. Pollock cẩn thận ra khỏi chòi và bước về phía bờ sông, thỉnh thoảng lại nhìn ra sau, nhưng tên Porroh đã biến mất. Pollock bồn chồn nắm chặt khẩu súng lục trong tay. Một tên gia nhân của anh tiến đến gặp và chỉ vào bụi rậm đằng sau căn chòi nơi mà tên Porroh đã biến vào. Pollock có cảm tưởng khó chịu là mình đã làm một thằng ngốc và anh cảm thấy cay cú, bực tức về những chuyện đã xảy ra. Rồi đây anh còn phải kể lại với Waterhouse – Ông Waterhouse đạo mạo, cẩn thận và gương mẫu – thế nào cũng sẽ quan trọng hóa vấn đề. Pollock cay đắng nguyền rủa sự xui xẻo của mình, nguyền rủa Waterhouse và đặc biệt là miền Tây duyên hải Phi Châu. Anh hoàn toàn chán nản cuộc thám hiểm. Đầu óc anh lúc nào cũng ngờ vực, thắc mắc không biết tên Porroh đang lẩn quất ở đâu. Tuy vụ giết người vừa mới xảy ra có gây cho anh cú sốc nhưng không làm anh hoang mang chút nào. Trong ba tháng vừa qua anh đã thấy quá nhiều những cảnh tàn ác, quá nhiều xác chết phụ nữ, những căn chòi bị đốt cháy, những bộ xương khô ở ngược dòng sông Kittam sau khi đoàn kỵ binh Sofas đi qua, đến nổi các giác quan của anh đã chai cứng. Điều làm anh khó chịu là cái cảm giác câu chuyện này chỉ mới bắt đầu thôi. Anh chửi thề tên Porroh đã gây cho anh cái cảm giác đó rồi đi vào căn chòi dưới tàn cây cam nơi Waterhouse đang nằm. Anh có cảm tưởng mình là một cậu bé đang bước vào văn phòng ông hiệu trưởng. Waterhouse còn đang ngủ vì ảnh hưởng của chất thuốc Chlorodyne ông vừa mới uống. Pollock ngồi trên một thùng đựng hàng bên cạnh ông, anh đốt píp và chờ ông thức dậy. Chung quanh anh rải rác nào nồi niêu và vũ khí Waterhouse đã thu thập được từ dân Mendi mà ông đang vô thùng để gửi theo chuyến ca-nô đi Sulyma. Sau cùng Waterhouse thức dậy, sau khi vươn vai co giản gân cốt ông cho rằng mình đã khỏe lại. Pollock đem trà đến cho ông. Trong lúc ông uống trà Pollock kể lại chuyện đã xảy ra sau khi nói vòng vo rào đón trước. Waterhouse xem chuyện đó còn nghiêm trọng hơn là Pollock tưởng. Ông chẳng những không bằng lòng mà còn rầy la và sỉ nhục anh. Ông nói: -Anh là một trong những thằng ngu cho rằng da đen không phải là người. Tôi chỉ bị bệnh một ngày thôi là anh đã va vào chuyện nhơ bẩn này nọ. Đây là lần thứ ba trong tháng anh đã gây chuyện với một tên bản xứ và lần này thì anh không tránh khỏi bị báo thù, mà lại dân Porroh nữa chứ! Anh đã tự viết tên mình vào bản án, mà dân này thì nổi tiếng thù oán số một. Anh làm cho người ta phải xấu hổ vì sự văn minh của mình, mà anh lại xuất thân từ một gia đình nề nếp nữa chứ! Nếu tôi mà còn để cho mình dính líu với một tên ngu ngốc, xấu xa như anh nữa thì…… -Bình tĩnh nào. Pollock càu nhàu bằng một giọng mà lúc nào cũng làm cho Waterhouse nổi giận. –Bình tĩnh nào. Nghe thế Waterhouse phát cáu. Ông nhảy dựng lên. Sau một lúc cố lấy hơi thở, ông nói: -Nghe này Pollock, anh phải về nước. Tôi không chứa anh nữa. Anh đã làm cho tôi mệt mỏi quá rồi…. Pollock nói, nhìn thẳng trước mặt. -Đừng nóng. Tôi đã sẳn sàng đi rồi. Waterhouse bình tĩnh lại, ông ngồi xuống chiếc ghế đẩu. -Được rồi, tôi không muốn gây gổ nhưng anh phải biết người ta bực mình như thế nào khi công việc của mình bị ngăn trở bởi một chuyện như thế này. Tôi sẽ đi với anh tới Sulyma và đưa anh lên tàu an toàn… -Ông không phải mất công như thế. Tôi đi một mình được. Đi từ đây. -Anh sẽ không đi xa được đâu. Anh chưa hiểu bọn Porroh này. -Làm sao tôi biết được là cô ta thuộc về tên Porroh chứ? -Ấy, nhưng mà cô ta là của hắn và anh không làm sao được nữa rồi. Đi một mình à! Tôi thắc mắc không biết họ sẽ làm gì anh? Dường như anh không hiểu rằng bùa chú của bọn Porroh cai quản xứ sở này, là luật lệ, là tôn giáo, là hiến pháp, là thuốc men và là phép lạ của nó. Họ chỉ định các tù trưởng. Ngay cả Ủy Ban Điều Tra dù cố hết sức mình cũng không soi tỏ được bọn này. Không chừng hắn sẽ xúi giục Awajale, tù trưởng vùng này chống lại chúng ta. May mắn bọn phu khuân vác của chúng ta đều là dân Mendi. Chúng ta sẽ phải dời trại….Mẹ kiếp, Pollock, đã vậy anh lại còn bắn trật hắn nữa. Ông cúi đầu suy nghĩ và các ý nghĩ của ông dường như cũng bất đồng với nhau. Sau cùng ông đứng dậy cầm lấy súng trường. Lúc đi ra ông nói vói lại sau lưng: -Nếu là anh thì tôi sẽ cẩn thận hơn. Để tôi ra xem có biết được gì thêm về chuyện đó không. Pollock ngồi lại trong chòi suy ngẫm. Vừa nhồi ống píp anh vừa nói với chính mình một cách hối tiếc. -Mình chỉ thích hợp với đời sống văn minh. Mình trở về London hay Paris sớm chừng nào tốt chừng đó. Mắt anh lướt trên chiếc thùng đã đóng khằn trong đó Waterhouse đựng những mũi tên không gắn lông có tẩm thuốc độc mà họ đã mua ở vùng của dân Mendi. Anh nói một cách dữ dằn: -Ước gì mình đã bắn trúng tên khốn kiếp ở chổ nhược. Sau một lúc lâu Waterhouse trở lại, và mặc dầu Pollock cố tra gạn, ông không nói nhiều. Dường như tên Porroh là một nhân vật có hạng trong cái xã hội thần bí đó. Cả làng có vẽ quan tâm nhưng không đe dọa. Chắc tên phù thủy đã đi vào rừng. Ông ta là một thầy phù thủy có tiếng. -Dĩ nhiên là ông ta đang sắp đặt một chuyện gì đó. Waterhouse nói rồi im lặng. -Nhưng ông ta có thể làm được gì chứ? Pollock hỏi. Sau một lúc im lặng Waterhouse đáp: -Tôi phải đem anh đi khỏi đây mới được. Phải có tính chuyện gì chứ, nếu không, họ không giữ im lặng như vậy đâu. Pollock muốn biết họ tính làm chuyện gì? -Nhảy múa quanh những đầu lâu và nấu một chất hôi thúi trong một nồi đồng. Waterhouse nói. Pollock muốn biết rõ chi tiết nhưng Waterhouse lại nói mơ hồ. Pollock cố tra gạn, cuối cùng Waterhouse nổi nóng. Ông đáp sau câu hỏi thứ 20 của anh là tên Porroh sẽ làm gì. -Làm sao tôi biết được chứ? Hắn đã muốn giết anh trong căn chòi thì bây giờ tôi nghĩ hắn sẽ tìm cách khác hay ho, kỹ lưỡng hơn. Anh sẽ thấy ngay mà. Thật ra tôi cũng không muốn làm cho anh thêm sợ, có thể những điều mình nghĩ chỉ là bâng quơ mà thôi. Tối hôm đó lúc họ đang ngồi bên đống lửa, Pollock lại cố tra gạn Waterhouse về những phương pháp bọn Porroh hay dùng, nhưng ông chỉ nói: -Tốt hơn nên đi ngủ đi. Ngày mai chúng ta lên đường sớm. Anh cần phải tỉnh táo. -Nhưng hắn sẽ dùng cách nào? -Không biết được. Họ là một giống dân thiện nghệ, họ biết nhiều cách chế biến thuốc. Tốt hơn anh nên hỏi thằng lai Shakespeare, bảo nó nói. Bỗng một ánh chớp và một tiếng “pằng” nặng nề phát ra từ bóng tối sau những căn chòi, một viên đạn đất sét bay lướt qua đầu Pollock. Thật quá lắm! Bọn đen và lai giống ngồi tán gẫu bên đống lửa riêng chồm dậy, một tên bắn vào bóng tối. Waterhouse vẫn ngồi yên, lặng lẽ nói: -Tốt hơn anh nên đi vào chòi. Pollock đứng lên cạnh đống lửa và rút súng ra. Đánh nhau, ít nhất, anh không sợ điều đó. Nhưng một người ở trong bóng tối có nhiều lợi thế hơn. Nhận thấy lời khuyên hữu lý của Waterhouse, anh đi vào chòi nằm xuống. Ngủ được chút nào thì anh lại nằm mơ, những giấc mơ đủ loại, nhưng hầu hết là anh mơ thấy mặt tên Porroh đảo ngược lúc hắn chạy ra cửa chòi và khom người nhìn ngược anh qua kẽ tay chống. Lạ một điều là sao cái hình ảnh thấy thoáng qua đó lại cứ bám vào trí não của anh. Thêm một điều nữa là anh thấy khó chịu vì những cơn đau là lạ trong tứ chi. Trong ánh sương mờ trắng xóa buổi sớm mai lúc họ đang chất hàng lên ca-nô thì bỗng một mũi tên có móc nhọn cắm phập trên mặt đất sát chân Pollock. Bọn phu phát các bụi rậm chung quanh đó một cách chiếu lệ nhưng không bắt được ai. Sau hai việc xảy ra đó, mọi người trong đoàn tránh xa Pollock, còn anh thì lần đầu tiên trong đời lại muốn trà trộn vào đám phu mọi. Waterhouse ngồi một ca-nô, còn Pollock mặc dầu rất muốn trò chuyện thân mật với ông lại phải đi một ca-nô khác. Anh bị bỏ ngồi một mình ở mũi thuyền và phải khó khăn lắm anh mới bắt được bọn phu vốn không ưa anh cho ca-nô chạy ở giữa sông, cách xa hai bờ khoảng 100 mét Anh hoặc hơn. Tuy nhiên, anh bắt Shakespeare, tên lai giống ở Freetown, lên ngồi ở mũi thuyền với anh và nói cho anh biết về bọn Porroh. Tên lai không làm khác hơn được nên đã kể cho anh nghe với ít nhiều khoái trá. Ngày trôi qua, ca-nô lướt nhẹ trên mặt sông giữa những thân cây gãy ngã, cây papyrus (loại cây dùng làm giấy), cây dừa nước và về bên trái là rừng cây mangrove giữa đầm lầy mà chốc chốc người ta nghe từ bên kia rừng vẳng lại tiếng sóng gầm của Đại Tây Dương. Bằng một giọng Anh lơ lớ nhẹ nhàng, Shakespeare kể bọn Porroh có thể tạo ra những cơn mê như thế nào; làm cho người ta khô cằn đi dưới sự hiểm ác đó như thế nào; gửi đi những ác mộng ra sao; đã tra tấn rồi giết các con trai của Ijibu như thế nào;họ đã bắt cóc một lái buôn da trắng ở Sulyma vì tội đối xử tàn tệ với một người Porroh như thế nào, và khi tìm được ông ta thì xác ông ta ra làm sao. Cứ sau mỗi đoạn kể Pollock lại nguyền rủa việc thiếu giáo sĩ đã để xảy ra tình trạng đó và nguyền rủa cả chính phủ Anh đã ù lì trong việc cai trị cái thế giới đen tối Sierra Leone này. Chạng vạng tối họ đến hồ Kasi và đã cắm trại qua đêm trên đảo khiến một đám cá sấu phải rời đi. Ngày hôm sau họ đến Sulyma và ngửi được mùi gió biển, nhưng Pollock phải ở lại đó năm ngày trước khi có thể đến được Freetown. Waterhouse cho rằng anh khá an toàn ở đây vì ở trong vòng ảnh hưởng của Freetown nên để anh lại đó và quay về Gbemma với đoàn thám hiểm. Pollock trở nên rất thân thiện với Perea, một lái buôn da trắng duy nhất ở Sulyma, anh thân thiện với ông ta đến nổi đi cùng ông ta khắp nơi. Perea là một người Bồ Đào Nha nhỏ thó đã từng sống ở Anh quốc nên coi sự thân thiện của anh chàng người Anh với mình là một vinh dự lớn lao. Suốt hai ngày không có chuyện gì khác lạ xảy ra, hầu hết thì giờ Pollock cùng chơi Nap với Perea vì đó là trò chơi duy nhất mà họ cùng biết—và Pollock đã mắc nợ Perea với trò chơi này. Vào tối ngày thứ nhì Pollock lại biết đến sự hiện diện của tên Porroh ở Sulyma vì bị một vết thương sướt thịt trên vai do một cục sắt giũa nhọn bắn từ xa lại nên khi đụng vào anh thì nó đã yếu đi, nhưng cũng đủ để cho anh biết ý nghĩa của nó. Suốt đêm đó Pollock ngồi trên võng, tay cầm súng và sáng hôm sau anh đã kể lại một phần câu chuyện cho ông bạn Bồ Đào Nha nghe. Perea coi câu chuyện đó rất nghiêm trọng vì ông ta biết rành phong tục địa phương. Ông ta nói: -Anh phải biết đây là một vấn đề cá nhân, một sự báo thù và hắn ta vội vã vì anh sắp rời khỏi đây. Không một tên bản xứ hay lai giống nào dám xen vào việc của hắn đâu—trừ phi là anh trả hậu cho chúng. Nếu gặp hắn bất ngờ anh có thể bắn hắn được nhưng hắn cũng có thể bắn anh. Rồi lại còn vấn đề bùa phép nữa. Dĩ nhiên tôi không tin chuyện đó, mê tín dị đoan thôi, nhưng thật khó chịu khi nghĩ rằng bất cứ mình ở đâu, luôn có một tên mọi đen cứ thỉnh thoảng vào một đêm trăng sáng lại nhảy nhót quanh đống lửa để gửi đến cho mình những cơn ác mộng...Mà anh đã có những cơn ác mộng nào chưa? -Cũng có. Pollock đáp. –Tôi cứ mãi thấy cái đầu đảo ngược của hắn nhăn răng cười với tôi giống lúc ở trong chòi, và cứ đến gần rồi lại lùi xa, rồi lại đến gần. Chẳng có gì phải sợ nhưng không biết sao nó lại làm cho tôi tê người đi vì sợ hãi trong giấc ngủ. Những giấc mơ là những điều kỳ lạ, lúc nào tôi cũng biết đó chỉ là một giấc mơ, nhưng không làm sao thoát ra khỏi được. -Có lẽ chỉ là tưởng tượng. Perea nói. –Bọn phu của tôi còn nói là Porroh có thể gửi rắn đến. Gần đây anh có thấy con rắn nào không? -Chỉ có một con. Tôi giết nó hồi sáng này trên nền nhà gần võng tôi nằm, lúc thức dậy tôi xém đạp nhằm nó. Perea trấn an. -A, dĩ nhên chỉ là một sự trùng hợp. Dầu sao anh cũng nên đề phòng. Rồi còn những cơn đau nhức trong xương nữa. -Tôi tưởng đó là do chướng khí. -Cũng có thể. Anh bị từ bao giờ? Pollock sực nhớ anh nhận ra chứng đau nhức này ngay cái đêm sau vụ xảy ra trong chòi. Perea nói: -Theo tôi thì hắn không muốn giết anh, ít nhất là hắn chưa muốn. Tôi nghe nói phương pháp của chúng là nhát và làm cho người ta lo lắng bằng những giấc mơ, bằng những vụ bắn hụt, bằng đau nhức xương cốt, bằng những ác mộng cho đến khi người đó cảm thấy chán sống. Dĩ nhiên chỉ là lời đồn đại. Anh đừng lo lắng gì cả…Tuy nhiên tôi cũng thắc mắc không biết hắn định làm gì nữa đây? Pollock nói, buồn bã nhìn những lá bài trơn láng mà Perea đang đặt trên bàn. -Tôi sẽ phải làm một điều gì đó trước hắn. Danh dự tôi không cho phép tôi để bị theo dõi, bị bắn lén và chịu khổ sở như vầy. Tôi thắc mắc không biết bùa chú của bọn Porroh có làm rối loạn cái may mắn của ông khi chơi bài không? Anh nhìn Perea vẽ nghi ngờ. -Hầu như vậy. Họ là một giống dân khá thú vị. Perea đáp thân mật vừa xóc bài. Chiều hôm đó Pollock giết được hai con rắn trong võng của anh và lũ kiến đỏ bò quanh phòng anh dường như gia tăng dân số một cách đặc biệt. Những việc đó khiến anh nổi điên dẫn đến việc anh đã thuê một tên vô lại tộc Mendi mà trước đó anh đã có tiếp xúc làm một việc cho anh. Tên Mendi đưa anh xem một con dao găm bằng sắt nhỏ và chỉ nơi sẽ được đâm vào ở cổ bằng một cách làm cho anh phải run lên, và để trả công hắn, anh hứa sẽ cho một khẩu súng hai nòng có báng chạm trổ. Buổi tối khi Pollock và Perea đang chơi bài thì tên Mendi đến mang theo một gói vải địa phương sũng máu. Pollock vội vã nói: -Không phải ở đây…Không phải ở đây… Nhưng không còn kịp vì hắn đã mở gói vải và thảy cái đầu tên Porroh lên bàn. Cái đầu tưng từ trên bàn xuống nền nhà, để lại một vệt máu dài trên những lá bài, lăn vào một góc nhà rồi dừng lại lộn ngược, mắt nhìn trừng trừng vào Pollock. Khi cái đầu rơi lên những lá bài, Perea nhảy dựng lên và trong cơn kích động đã nói líu lo bằng tiếng Bồ Đào Nha. Tên Mendi nghiêng đầu chào, mảnh vải đỏ máu trong tay. Hắn la to: -Khẩu súng. Pollock nhìn chằm chằm vào cái đầu ở góc nhà. Cái nhìn và nét mặt của nó giống y như anh đã thấy trong các giấc mơ. Khi anh nhìn nó dường như có một cái gì “bựt” trong óc anh. Perea đã bình tĩnh và nhớ lại tiếng Anh của mình. -Anh đã thuê người giết hắn à? Anh không tự mình giết hắn sao? -Tại sao tôi lại phải tự mình chứ? -Nhưng như vậy thì hắn không còn có thể “giải” nữa được. -Giải cái gì chứ? Pollock hỏi. -Những lá bài này hư cả rồi. -Ông nói giải là giải cái gì? -Đến Freetown anh phải gửi cho tôi một bộ bài mới. Ở đó anh có thể mua được. -Nhưng giải cái gì? -Đó chỉ là mê tín dị đoan, tôi quên rồi…Bọn đen nói rằng nếu các phù thủy, chắc hắn là phù thủy--chỉ là chuyện tầm phào…Anh phải làm cho tên Porroh “giải nó” đi, tức là giải bùa chú của hắn bỏ vào anh đi hoặc anh phải tự tay giết hắn…Tất cả chuyện này thật ngốc nghếch. Pollock chửi thề và cứ nhìn chằm chằm cái đầu trong góc nhà. Anh nói: -Tôi không chịu được cái nhìn trừng trừng đó. Rồi bỗng anh chạy bổ lại đá nó một cái. Nó lăn ra độ vài mét rồi dừng lại lộn ngược như trước và vẫn nhìn anh trừng trừng. Perea nói: -Nó xấu xí quá. Thật là xấu xi! Chúng nó rạch mặt bằng những con dao nhỏ. Pollock định đá thêm cái nữa nhưng tên Mendi đã chạm vào tay anh và nói: -Khẩu súng. Hắn nhìn cái đầu vẽ lo lắng. Pollock nói: -Tao cho mày hai khẩu nếu mày chịu đem đồ quỷ này đi nơi khác. Tên Mendi lắc đầu, cho biết là hắn chỉ muốn một khẩu là phần công của hắn thôi. Pollock dụ dỗ, dọa nạt chả nghĩa lý gì với hắn. Perea có một khẩu súng và ông ta bán ở mức lời 300%. Lấy được khẩu súng tên Mendi liền bỏ đi. Rồi Pollock, trái với ý muốn, lại quay nhìn cái vật trên nền nhà. Perea cười gượng: -Buồn cười thật! Sao đầu hắn lại cứ lộn ngược? Óc của hắn chắc là nặng lắm, giống như con lật đật. Chừng nào đi anh nhớ đem nó theo. Anh có thể đem đi bây giờ. Bài hư cả rồi. Ở Freetown có một người chuyên bán bài. Phòng dơ bẩn quá. Đáng lẽ anh phải tự mình giết hắn. Pollock gượng đứng dậy và đến nhặt cái đầu lên. Anh máng nó vào cái móc treo đèn ở trần nhà giữa phòng anh và đi đào một cái lổ để chôn nó. Anh nghĩ rằng mình đã máng tóc của nó lên cái móc, nhưng có lẽ anh đã lầm vì khi trở về thì anh thấy nó treo ngược cổ lên. Trước lúc mặt trời lặn anh chôn nó phía bắc của căn nhà anh đang ở, như thế để buổi tối khi anh từ nhà Perea về sẽ không phải đi ngang qua nó. Trước khi đi ngủ anh giết được hai con rắn. Giữa khuya anh giật mình thức giấc vì nghe có tiếng lạch bạch và một vật gì soàn soạt trên nền nhà. Anh ngồi êm dậy và mò dưới gối lấy khẩu súng. Tiếp theo là một tiếng gừ, anh bắn ngay vào chổ phát ra âm thanh đó, có tiếng ăng ẳng và một hình thù đen chạy băng qua cửa dưới ánh sáng xanh mờ ảo. -Một con chó. Pollock nói và nằm xuống ngủ lại. Sáng sớm hôm sau anh thức dậy với một cảm giác mệt mỏi. Những đau nhức mơ hồ trong xương cốt anh lại xuất hiện. Anh nằm một lúc lâu nhìn bầy kiến đỏ bò qua lại trên trần nhà và rồi khi trời bắt đầu sáng rõ hơn, anh nhìn qua bìa võng và thấy một vật đen đen trên nền nhà. Anh giật nảy mình mạnh đến nổi chiếc võng lật nghiêng thảy anh văng xuống đất. Anh thấy mình nằm cách cái đầu tên Porroh khoảng một mét. Nó đã bị con chó moi lên và gặm nát lổ mũi, kiến và ruồi bu đầy. Một sự trùng hợp lạ lùng là nó vẫn nằm lộn ngược và vẫn với cái vẽ độc ác dữ tợn trong đôi mắt đảo ngược. Pollock ngồi bất động nhìn chằm chằm cái đầu lâu một lúc rồi anh đứng dậy đi vòng tránh xa nó và ra khỏi nhà. Ánh mặt trời trong sáng, hoa quả lay động dưới làn gió và chổ chôn cái đầu trống hoác với dấu chân chó bao quanh khiến anh nhẹ nhõm đầu óc đôi chút. Anh kể lại cho Perea nghe như thể đó chỉ là một chuyện đùa—nhưng là chuyện đùa kể với cặp môi trắng bệch. -Đáng lẽ anh không nên làm cho con chó hoảng sợ. Perea nói với vẽ vui nhộn giả tạo. Hai ngày tiếp theo, trong khi chờ đợi tàu đến, Pollock lo việc sắp xếp đồ đạc. Mặc dù không muốn đụng tới cái đầu, anh cũng ráng mang nó ra cửa sông và ném nó xuống dòng nước, nhưng nhờ một phép lạ nào đó nó thoát được lũ cá sấu và được thủy triều đẩy lên bãi bùn một khúc ở thượng lưu dòng sông, rồi lại được một tên lai Ả Rập nhặt được đem gạ bán cho Pollock và Perea làm kỷ vật ngay vào lúc đầu hôm. Trong ánh hoàng hôn ngắn ngủi tên bản xứ cứ cà rà mãi và càng lúc càng hạ thấp giá, cuối cùng hắn có vẽ sợ khi nhận thấy nỗi sợ hãi rõ rệt của hai người da trắng này đối với cái đầu liền bỏ đi. Khi đi ngang qua chòi của Pollock hắn liệng cái của nợ vào đó cho Pollock thấy vào sáng hôm sau. Khi trông thấy cái đầu Pollock nỗi điên lên quyết định đem đốt nó. Trong ánh bình minh anh đi thẳng ra ngoài và trước khi nắng lên anh đã chất xong một đống cây, cỏ khô. Công việc của anh bị gián đoạn bởi tiếng còi của một chiếc ghe chèo từ Monrovia tới Bathurt đang chạy qua khe chận ở cửa sông. -Cám ơn trời. Pollock nói với một nỗi vui mừng vô biên khi anh nhận ra ý nghĩa của tiếng còi. Với đôi tay run rẩy anh vội vã đốt dống cây khô, thảy cái đầu vào đó rồi đi sắp xếp đồ vào va-li và đến từ giã Perea. Chiều hôm đó, với một cảm giác thoải mái tột cùng, Pollock nhìn bờ biển bằng phẳng của Sulyma nhỏ dần đi ở đằng xa. Khoảng cách trong làn sóng trắng dài hẹp dần đi như thể nó sắp đóng lại để chia cắt anh khỏi mọi rắc rối đã qua. Cái cảm giác sợ hãi và lo lắng bắt đầu vuột từ từ khỏi đầu óc anh. Ở Sulyma niềm tin về sự hiểm độc và về bùa chú của bọn Porroh hiện hữu trong không gian, cảm giác của anh về Porroh tràn ngập, đầy dọa nạt và ghê khiếp. Còn bây giờ rõ ràng là thế giới của Porroh chỉ là một thế giới nhỏ nhoi, một dãy đất đen nhỏ bé nằm giữa biển và vùng thượng du Mendi đầy mây mù xanh thẳm. -Vĩnh biệt, Porroh, Pollock nói, -Vĩnh biệt, và chắc chắn không phải chỉ là tạm biệt. Thuyền trưởng chiếc tàu đến tựa vào lan can cạnh Pollock, chúc anh một buổi tối tốt đẹp và nhổ nước bọt xuống những bọt sóng với vẽ tự nhiên. Ông ta nói: -Chuyến đi này tôi đã nhặt được trên bãi biển một cổ vật ngộ nghĩnh, kỳ lạ. Đó là một vật mà trước đây tôi chưa từng thấy có ở vùng này. -Đó là cái gì thế? Pollock hỏi. -Một cái đầu xông khói. Thuyền trưởng đáp. -Cái gì chứ? -Cái đầu – đã được xông khói. Đầu của một tên Porroh, đầy đủ các vết sẹo khắc trên mặt. Ê, sao thế? Anh ổn chứ? Tôi không dè anh yếu bóng vía như vậy. Mặt mày xanh lè hà, tệ quá! Sao, anh khỏe chưa? Chúa ơi, trông anh buồn cười làm sao! Anh biết không, tôi bỏ cái đầu đó chung với vài con rắn vào trong cái chai rượu to mà tôi dùng để chứa những vật giống như vậy và đặt trong phòng tôi, kỳ lạ là cái đầu nó cứ nổi đảo ngược lên. Ê, anh bạn…. Pollock đã hét lên một tiếng to và lùa hai bàn tay vào tóc. Anh chạy bổ lại chổ để các dầm bơi với ý định vừa chớm là nhảy xuống biển nhưng rồi anh kịp nhận ra tình trạng của mình và quay trở lại phía viên thuyền trưởng. Thuyền trưởng nói: -Này, Jack Philips, giữ anh ta cách xa tôi. Xê ra. Không được lại gần, anh bạn. Anh làm sao thế? Anh điên à? Pollock đưa bàn tay lên đầu, có giải thích cũng bằng thừa. -Tôi tin là có lúc tôi gần như điên lên, chỉ vì tôi bị đau ở đây. Xảy ra đột ngột, xin ông thứ lổi cho. Anh trắng bệch và toát mồ hôi. Anh nhận thức rất rõ sự nguy hiểm nếu bị nghi ngờ là điên loạn. Anh buộc mình phải lấy lại lòng tin của thuyền trưởng bằng cách trả lời những câu hỏi thiện cảm của ông ta, ghi nhận các lời khuyên, ngay cả việc nhắp một ngụm rượu, xong, anh đặt một số câu hỏi về sở thích riêng của thuyền trưởng trong việc sưu tầm các vật lạ. Thuyền trưởng tả lại cái đầu thật tỉ mỉ. Trong suốt thời gian đó Pollock cứ phải cố gắng chống chọi lại cái hình ảnh vô lý là chiếc tàu trong suốt như pha lê và anh có thể nhìn thấy rõ ràng cái mặt đảo ngược đang nhìn mình từ căn phòng phía dưới boong tàu. Anh trải qua một thời gian trên tàu còn tệ hại hơn lúc ở Sulyma. Suốt ngày mặc dầu đầu óc anh lúc nào cũng lảng vảng hình ảnh tên Porroh, anh cố chống chọi lại và tự kềm chế mình. Đêm đến ác mộng cũ lại trở về, cho đến khi với một cố gắng phi thường, anh buộc mình phải thức giấc, cứng người vì sợ hãi và một tiếng thét khàn còn trong cổ họng. Anh dứt bỏ cái đầu thật sự lại Bathurst nơi anh sang tàu đi Teneriffe, nhưng anh không dứt bỏ được các giấc mơ và cái đau âm ỉ trong xương cốt. Đến Teneriffe Pollock chuyển sang một chiếc tàu hàng đi Cape nhưng cái đầu vẫn cứ theo anh. Anh đánh bài, chơi cờ và ngay cả đọc sách nhưng anh biết cái nguy hiểm của rượu nên tránh xa nó, vậy mà mỗi khi một bóng đen tròn hoặc một vật đen tròn lọt vào tầm nhìn của anh thì anh lại nhìn kiếm cái đầu và….thấy nó. Anh biết rõ là trí tưởng tượng của mình đã phản bội lại mình, vậy mà có lúc dường như chiếc tàu, hành khách, thủy thủ, biển rộng—tất cả đều là một phần của một tấm màn ma quái mờ ảo, treo, nhưng không che hết được giữa anh và một thế giới thực sự ghê khiếp. Rồi khi tên Porroh chường cái mặt dữ tợn của hắn qua tấm màn đó, đấy mới là sự thật không chối cãi được. Mỗi khi như vậy Pollock lại phải sờ mó các đồ vật, nếm hoặc nhai một thứ gì đó, đốt bàn tay mình bằng một que diêm hay đâm kim vào mình cho tỉnh táo. Thế là chống chọi lặng lẽ và dữ dội với óc tưởng tượng bị kích thích của mình, Pollock về đến Anh quốc. Anh lên bờ ở Southampton và đi thẳng từ Waterloo đến ngân hàng của anh ở Cornhill bằng taxi. Tại đó anh thương lượng một vài công việc với viên quản lý trong một phòng riêng, và trong suốt thời gian đó cái đầu cứ treo lủng lẳng như một món đồ trang trí dưới bệ lò sưởi bằng đá cẩm thạch đen và máu nhỏ giọt trên tấm đan sắt để trước lò sưởi. Anh nghe rõ tiếng những giọt máu rơi và thấy cả màu máu đỏ trên tấm đan sắt. -Một cây dương xỉ đẹp. Viên quản lý nói, nhìn theo hướng mắt của Pollock, -Nhưng nó làm cho tấm đan sắt bị rỉ sét. -Đẹp. Đẹp lắm. Pollock nói. –À, tôi sực nhớ ra, ông có thể giới thiệu cho tôi một bác sĩ chuyên khoa tâm thần không? Tôi bị chứng…a…ảo tưởng thị giác. Cái đầu cười man rợ, dữ tợn. Anh ngạc nhiên là viên quản lý không nghe thấy điều đó, nhưng ông ta cứ nhìn anh chăm chăm. Anh trở ra đường phố Cornhill với địa chỉ của một bác sĩ. Không thấy bóng một chiếc taxi nào cả, vì vậy anh đi về đầu đường phía tây và định qua đường ở phía đối diện Tòa Thị Sảnh. Ngay đối với người sinh trưởng ở London thì việc băng qua đường cũng không phải là dễ dàng vì các xe buýt, xe taxi, xe ngựa, xe thư nối đuôi nhau liên tục thành một hàng dài; còn đối với một người vừa từ vùng man dã Sierra Leone trở về thì việc băng qua đường là cả một vấn đề, nhất là khi một đầu lâu nhăn nhúm giống quả banh cao su Ấn Độ bổng từ đâu nhảy chòi vào giữa hai chân bạn để lại những vệt máu rõ ràng mỗi khi nó chạm đất thì bạn không thể nào tránh khỏi tai nạn được. Pollock nhấc cao chân lên để tránh nó và rồi đá vào cái đầu một cách giận dữ. Bỗng một vật gì đụng mạnh vào lưng anh rồi một cơn đau buốt chạy suốt cánh tay anh. Anh đã bị cây cản của một xe buýt đụng phải và ba ngón của bàn tay trái bị móng ngựa đạp dập—đúng y những ngón mà anh đã bắn rụng khỏi bàn tay tên Porroh. Người ta lôi anh từ dưới chân ngựa ra và tìm thấy địa chỉ của vị bác sĩ trong bàn tay dập của anh. Trong vài ngày các giác quan của Pollock tràn ngập mùi thuốc mê cay nồng và những lần giải phẩu công phu nhưng không gây chút đau đớn nào cho anh. Anh nằm yên và được người ta cho ăn uống, rồi anh lên cơn sốt nhẹ và rất khát nước, ác mộng cũ lại trở về. Chỉ khi nó trở về anh mới nhận ra là mình đã qua được vài ngày không có ác mộng. -Nếu óc mình bị dập nát thay vì những ngón tay này thì có lẽ ác mộng sẽ tiêu tan. Anh lẩm bẩm mắt nhìn chăm chú vào cái gối sậm màu đang bắt đầu biến dạng thành một cái đầu lâu. Ngay khi có dịp Pollock kể cho vị bác sĩ biết tình trạng đầu óc của mình. Anh biết rõ là mình sẽ phát điên trừ phi một việc gì đó xảy ra để cứu anh. Anh giải thích với bác sĩ là anh đã chứng kiến một vụ chặt đầu ở Dahomey và đã bị cái đầu đó ám ảnh. Dĩ nhiên là anh không muốn nói rõ sự việc. Vị bác sĩ có vẽ nghĩ ngợi, ông ngập ngừng hỏi: -Khi còn nhỏ ông có được dạy dỗ về tôn giáo nhiều không? -Ít lắm. Pollock đáp. Nét mặt bác sĩ hơi cau lại. -Không biết ông có nghe nói đến phép lạ ở Lourdres (Lộ Đức) không, mặc dầu có thể đó không phải là phép lạ? -Tôi e rằng chữa bệnh bằng đức tin không thích hợp với trường hợp của tôi. Anh nói mắt nhìn cái gối lót trên ghế và thấy cái đầu nhìn anh cười quái đản làm các vết sẹo trên mặt nó co rúm lại. Vị bác sĩ hướng qua cách khác, với vẽ nghiêm nghị ông nói: -Tất cả chỉ là tưởng tượng. Dầu sao đây cũng là một trường hợp có thể chữa bằng đức tin. Hệ thống thần kinh của ông bị yếu đi, tình trạng sức khỏe cùa ông đang ở giai đoạn dễ bị các ảo giác xâm nhập nhất. Ấn tượng vụ chặt đầu đã quá mạnh đối với ông. Tôi sẽ pha cho ông một hỗn hợp giúp tăng sức cho hệ thống thần kinh của ông—đặc biệt là bộ não. Ông cũng cần luyện tập thể dục. -Tôi không thích hợp chút nào với việc chạy chữa bằng đức tin. -Vì vậy chúng ta cần phải tìm động cơ thúc đẩy. Hãy tìm những vùng có không khí kích thích như : Tô Cách Lan, Norway, núi Alps… -Cả Jericho nếu ông muốn, nơi mà Naaman đã đến. Pollock nói. Tuy vậy, ngay khi các ngón tay anh lành lặn lại, anh cố gắng theo lời khuyên của bác sĩ. Bấy giờ đã là tháng 11. Anh thử chơi đá banh, nhưng với Pollock đó chỉ là trò chơi đá một cái đầu đảo ngược quanh sân cỏ. Anh chơi rất tệ, đá loạn xạ với một nỗi sợ hãi. Lúc người ta cho anh làm thủ môn thì mỗi khi banh sà xuống anh lại thét lên rồi nhảy tránh xa. Những chuyện xấu trước kia đã đẩy anh rời xa Anh quốc để lang thang đến vùng nhiệt đới khiến anh xa hẳn mọi tiếp xúc ngoại trừ với đám bạn trai, giờ đây cái thái độ ngày càng kỳ lạ của anh lại khiến các bạn trai cũng xa lánh anh. Cái đầu bây giờ không chỉ là một ảo giác của mắt nữa mà nó còn trêu chọc và nói chuyện cả với anh. Một nỗi sợ hãi khủng khiếp tràn ngập đến nỗi khi anh chụp lấy cái đầu thì nó không phải chỉ là một món đồ vật nào đó mà là một cái đầu lâu thật sự. Khi chỉ có một mình, anh nguyền rủa, thách thức, khẩn khoản nó. Một hoặc hai lần mặc dù cố gắng kềm chế nhưng anh đã bật nói với nó trước mặt người khác. Anh thấy nỗi nghi ngờ ngày càng gia tăng trong mắt của những người chung quanh—chủ nhà của anh, người làm của anh… Một hôm vào đầu tháng 12, Arnold, anh họ của Pollock đến thăm và kéo anh ra ngoài nhìn vào gương mặt vàng bệch thỏn đi của anh. Pollock thấy hình như cái nón anh họ cầm nơi tay không phải là cái nón mà là một đầu lâu Gorgon đảo ngược đang chằm chằm nhìn anh thách đố. Tuy vậy anh vẫn cương quyết chống chọi lại. Anh lấy xe đạp từ Wandsworth đến Kingston trên con lộ đóng băng và thấy cái đầu lăn theo bên cạnh để lại một vệt đen dài đằng sau. Anh cắn răng đạp nhanh hơn. Khi anh đạp xuống đồi về hướng công viên Richmond thì bỗng dưng cái đầu lăn ra trước bánh xe của anh, đột ngột quá khiến anh không kịp suy nghĩ, quẹo ngang để tránh nó và té bổ nhào vào một đống đá và bị gãy cổ tay trái. Kết cục đến vào buổi sáng Giáng Sinh. Suốt đêm anh lên cơn sốt, dãy băng dùng bó cổ tay trái anh như một dãy băng lửa, các giấc mơ của anh rõ ràng và khủng khiếp hơn bao giờ hết. Trong ánh sáng nhợt nhạt lạnh lẽo trước khi mặt trời lên, anh ngồi dậy trên giường và trông thấy cái đầu nằm trên giá nơi đặt một cái lọ bằng đồng. -Mình biết đó chỉ là cái lọ đồng. Anh lẩm bẩm với một mối ngờ vực lạnh lẽo trong lòng. Cuối cùng không chịu được sự ngờ vực, anh chậm rãi xuống giường, run rẩy tiến về phía chiếc lọ tay giơ ra phía trước. Chắc chắn anh sẽ chạm vào chất đồng lạnh lẽo và biết ngay rằng trí tưởng tượng đã lừa gạt mình. Cuối cùng sau một hồi lâu lưỡng lự, những ngón tay anh chạm vào gò má đầy sẹo của đầu lâu, anh giật nhanh tay lại run rẩy từng cơn. Giai đoạn cuối đã đến, xúc giác cùa anh đã phản bội anh. Run rẩy, va mạnh vào giường, dùng chân không đá mạnh vào đôi giày của mình, cảm giác đầy rối loạn, anh lần đến bàn mở tủ lấy dao cạo rồi ngồi xuống giường, nhìn vào gương anh thấy mặt mình nhợt nhạt, chao dao đầy nổi cay đắng thất vọng tột cùng. Anh nhớ lại những diễn biến trong cuộc đời mình. Đến gia đình khốn khổ của mình, đến những ngày đi học còn khốn khổ hơn, đến những năm dài tệ hại anh đã sống từ lúc đó, từ hành động xấu xa ích kỷ này đến hành động xấu xa khác. Bây giờ tất cả đều rõ ràng và đáng phỉ nhổ, tất cả sự điên rồ, nhơ bẩn đó trong ánh sáng lạnh lẽo buổi ban mai. Anh nhớ đến căn chòi, đến cuộc đánh nhau với tên Porroh, đến cuộc đào tẩu theo dòng sông tới Sulyma, đến tên sát nhân Mendi và cái bọc đẫm máu cùa hắn, đến những cố gắng vô hiệu của anh để tiêu hủy cái đầu, đến sự gia tăng của ảo giác. Những gì anh nhìn thấy thật ra là ảo giác, anh biết rõ như vậy, chỉ là ảo giác mà thôi! Trong một lúc anh chụp lấy hy vọng đó, anh quay lại và kìa trên giá để cái lọ đồng cái đầu đảo ngược đang nhăn răng cười với anh…Dùng những ngón tay cứng nhắc của bàn tay đang buộc băng anh dò nơi cổ tìm cuống họng…. Buổi sáng thật lạnh và lưởi dao cạo cũng lạnh như băng. Xong ngày 9 tháng 2, 1983 Hoàng_Yến
Lâu lắm mới đọc lại truyện của chị dịch
Chị vẫn khoẻ chứ
Chúc chị luôn an, vui
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: