Một mơ ước, một bi kịch
Vũ Quí Hạo Nhiên
Thuở Mơ Làm Văn Sĩ của Nguyễn Thụy Long Nhà xuất bản Tuổi Xanh, 2000
Người ta nói, người Việt mình chuộng văn chương. Ðất Việt Nam là đất văn vật. Giấc mơ làm văn, thi sĩ, v.v., các món “sĩ” bấp bênh về tiền bạc, hầu như Việt Nam mười người thì bị dính hết chín. Bao nhiêu người đã từng làm những “sĩ” có tiền (như bác sĩ, dược sĩ, tiến sĩ, v.v.), đến lúc đầu hai thứ tóc, viết truyện, hồi ký, lúc bấy giờ mới thú thật là mình chả hề muốn làm những nghề kia mà chỉ muốn làm thơ viết văn.
Cứ thế, nếu người nào chỉ tìm hiểu văn hóa Việt Nam qua sách vở, chắc phải kết luận rằng trí thức Việt Nam hầu hết đều tiếc nuối con đường mình đã không đi.
Chẳng phải vậy. Chỉ vì các vị nào hài lòng với nghề bác sĩ, dược sĩ, thì đã chẳng viết văn, in sách làm gì. Ngay cả những người muốn làm văn sĩ, nhưng lại ngại cuộc đời gian nan nên rẽ qua đường khác, biết đâu họ vẫn yêu thích nghề chuyên môn, biết đâu được đấy! Mà vẫn khỏi phải sống đời chật vật của người làm văn sĩ.
Kể chuyện đời cầm bút chật vật thì chắc hiếm ai có thể tự cho đời mình chật vật hơn Nguyễn Thụy Long. Ðọc “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ”, thật là ái ngại cho đời người văn sĩ. Ngay từ khi ông ta còn học trung học, một truyện ngắn được tuyển đăng trên báo, là ông chú đã cho một trận đòn nhớ đời, cho ông sáng mắt ra, lo học lo hành, liệu mà bỏ cái ước mơ văn nghệ ấy đi. Nguyễn Thụy Long viết, ngay khi cho ăn roi, ông chú đã giải thích là ông đánh vì muốn cháu mình nên người:
Giọng ông hằn học nhưng không kém phần buồn bã:
-- Làm văn sĩ không phải là chuyện gì xấu xa, chú khẳng định như vậy, nhưng đời nghệ sĩ khổ lắm con ơi, nhất là nghệ sĩ ở đất nước mình .... Con không thấy bao nhiêu văn nghệ sĩ ở đất nước mình than thân trách phận đó sao? ....
Tôi ngạc nhiên vì thấy chú tôi đọc ra mấy câu thơ dẫn chứng cho lối nói của ông. Hình như mấy câu thơ của Nguyễn Vỹ. Giọng chú tôi như muốn gầm lên:
-- Ðấy nhé, chính mấy anh làm thơ viết văn nói ra để “khuyên đời”, răn đe những kẻ lăm le đi theo con đường ấy, chú không đặt điều nói bậy.
(trang 24)
Tôi không biết những câu thơ người chú ông Nguyễn Thụy Long trích dẫn là những câu nào. Hôm nay, nếu cần sách vở để chứng minh rằng nghề viết văn “khổ lắm con ơi”, tôi chỉ cần “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ” của Nguyễn Thụy Long. Chính ông cũng nói với người em: “Rán mà học đi, đừng có như anh.”
Vậy mà Nguyễn Thụy Long cũng trở thành nhà văn. Cũng chứng tỏ rằng tuy là “yêu cho roi cho vọt” nhưng một khi đứa trẻ đã muốn làm cái gì rồi, thì roi vọt cách mấy cũng chẳng ngăn cản được.
Ông viết báo, viết tiểu thuyết, với những tác phẩm như “Bà Chúa 8 Cửa Ngục”, “Gái Thời Loạn”, “Biệt Thự Phù Du”, “Biển Ðen”, “Loan Mắt Nhung”, v.v. Truyện “Loan Mắt Nhung” được dựng thành phim. Truyện nổi tiếng đến nỗi sau này, trong giới trẻ lớn lên sau 1975, nhiều người gọi đùa bạn nữ tên Loan là “Loan Mắt Nhung”, mà có khi chưa từng xem cuốn phim hay đọc quyển truyện đã bị cấm.
Trong “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ”, Nguyễn Thụy Long kể nguồn gốc bà Chúa Tám cửa ngục. Sau vụ đảo chánh hụt 1961, Nguyễn Thụy Long bỏ trại lính đi lang thang, đang đi vào một đám đông thì bị người ta la toáng lên là ông ... móc túi. Người ông thì cao lớn, mà sau mấy ngày đói và rất có thể là không giặt giũ, người đọc cũng có thể tưởng tượng ra ông dáng dấp ra sao. Người ta tưởng là quân bất lương thì chắc cũng có lý. Dân chúng đánh ông, cảnh sát thẩy ông vô Chí Hòa.
Khám đường xây theo hình bát quái, tám khu riêng biệt. Người ta nói khám đường này do Nhật xây sau khám lớn Sài Gòn do Tây. Theo yểm triệt bùa chú Ðông Phương, vào khám là cửa sinh, ra cửa tử. Ngay giữa khám là một bồn nước lớn, hình dáng của cái chuôi kiếm cắm ngược. Hình dạng khám đường chính là một lá bùa huyền bí ghim bằng một mũi kiếm ngập đến chuôi.
....
Rằm tháng bảy, cúng cô hồn các đảng. Nhưng khám Chí Hòa cúng bà Chúa Tám cửa ngục. Vì những người tù ở khám tin rằng tám cửa ngục ở cái lò bát quái này có một bà chúa cai quản tất cả các cô hồn uổng tử, những đêm mưa dầm ảm đạm trong không khí bí ẩn. Ðèn nhang thắp đầy trên những thềm các cửa phòng giam của cả tám khu. Người ta nói rằng đã có năm thấy bà chúa hiện lên lê dây xiềng xích đi dọc theo hành lang cả tám khu.
(trang 169, 174) Sống hẳn trong tù, mới viết được “Bà Chúa 8 Cửa Ngục”. Tư liệu viết văn ấy, mấy ai mà có được.
Sau 1975, sách Nguyễn Thụy Long bị cấm, bị đốt. Gia đình ông tan tác. Ông đi tù. Rồi lại về, nhưng không được xuất bản nữa. Tên ông vào sổ đen, có thời gian sau đổi mới ông viết báo kiếm tiền, nhưng phải dùng tên giả.
“Thuở Mơ Làm Văn Sĩ” là tác phẩm ông viết trong lúc lâm bệnh, giữa những cơn thổ huyết. Sách không được in trong nước, ông gửi bản thảo cho bạn bè, rồi người ta in ở Mỹ. Một quyển sách khác của ông, “Hồi Ký Viết Trên Gác Bút”, cũng đã được xuất bản theo kiểu này.
Nếu chỉ đọc và hiểu theo thời gian, quyển sách kể chuyện tác giả tập tành viết lách. Mở đầu từ lúc ông còn là một học sinh trung học Chu Văn An, mồ côi cha, mẹ đi làm ăn xa, ông ở với chú. Ông cùng năm bảy ông choai choai khác lập cái mang tên rất oai là “thi văn đoàn Lãng Bạc”. Nguyễn Thụy Long gửi bài đăng báo, bị chú đánh đòn.
Rồi đi lính, đến lúc Nguyễn Chánh Thi đảo chánh hụt ông bỏ trại đi tìm đồ ăn, bị vu oan móc túi, ông vào tù. Ra khám, không gia đình, không người thân, ông đi làm thợ, sống như người vô gia cư. Ông gặp những người sau này sẽ là những “tay tổ” trong làng báo làng văn, như nhà thơ Trần Dạ Từ (“Thuở Làm Thơ Yêu Em”, “Người Ði Qua Ðời Tôi”), nhà văn Nhã Ca (“Giải Khăn Sô Cho Huế”, “Hoa Phượng Ðừng Ðỏ Nữa”), nhà văn Dương Nghiễm Mậu (“Con Sâu”, “Cánh Cửa Sau Cùng”), nhà thơ trào phúng Tú Kếu, ông Nguyễn Ðình Vượng làm nhà xuất bản, nhà thơ Viên Linh, v.v.
Chế độ Diệm suy đồi, ông cùng bạn bè góp sức làm tờ báo Ngàn Khơi, nửa công khai (kiểm duyệt đục bỏ lung tung cả cột, có khi cả trang), nửa chui (bản không kiểm duyệt được mang đi bán khắp Sài Gòn).
Kể về trình tự thời gian, quyển hồi ký xem như kết thúc sau đảo chánh 1963. Ông mua được một căn nhà nhỏ ở một xóm ruộng ngoại ô Sài Gòn, và bắt đầu bước vào nghề văn thực sự.
Chấm dứt thuở chỉ “mơ” làm văn sĩ chăng?
Không phải thế.
Giấc mơ chỉ “thành” được trong một thời gian. Hai mươi năm viết lách và đi tù – khoảng thời gian không ghi lại trong hồi ký. Sau đó, rơi trở lại vào hoàn cảnh chỉ được “mơ làm văn sĩ”. Trong những câu chuyện kể lại, kiểu như cập nhật hóa, tác giả đã cho thấy, cái “thuở mơ làm văn sĩ” nó có hai đầu – đầu trước, khi tác giả còn phấn đấu để trở thành nhà văn, là phần chính trong sách. Nhưng vẫn có bóng dáng của đầu sau, khi tác giả đã là nhà văn phải gác bút, mộng lại hoàn mộng.
Giấc mơ hai đầu. Một đầu hướng về những điều chưa đến. Ðầu kia nhìn lại những gì đã mất.
Như khi nói về Duyên Anh, tác giả kể:
Khi ấy Duyên Anh làm công chức, cán bộ gì đó ở Thanh Niên Cộng Hòa. Anh hay đến nhà in Nguyễn Ðình Vượng in sách báo gì đó trong bộ quần áo xanh cán bộ Thanh Niên Cộng Hòa trên chiếc Vespa Italic....
[H]ai mươi mấy năm sau,... Duyên Anh gặp tôi ngồi ăn với nhau một bữa ban đêm ở chợ Thái Bình, trước nhà in Nguyễn Ðình Vượng xưa. Anh đưa tôi xem mọi thứ giấy tờ ra đi theo diện ODP. Nhưng rồi anh gấp lại:
-- Tao đầy đủ giấy tờ để ra đi hợp pháp, nhưng tao không làm chuyện này. Tao vượt biên, đi vậy mới đáng mặt....
(trang 217-218) Ðầu trước, đầu sau. Một đầu là một nhà văn đã có sách xuất bản với một người mới cầm bút. Ðầu kia một người sửa xe đạp và một người nói chuyện vượt biên.
Với Vũ Bằng:
Hai mươi năm sau tôi còn thấy nhà văn Vũ Bằng, bậc đàn anh trên văn đàn, lọm khọm đi thu gom những mẩu chuyện tiếu lâm ở chợ trời trong thành phố được tái chiếm.... Tôi hỏi ông làm gì vậy? Ông trả lời đồ ngu, tao làm việc này như tao viết “Miếng Ngon Hà Nội” thuở nào, cứ gom lại đã không cần xuất bản.
(trang 205) Một đầu là một “bậc đàn anh trên văn đàn”, đầu kia là một người viết “không cần xuất bản.”
Với nhà văn Dương Hùng Cường (“Buồn Vui Phi Trường”, “Lính Thành Phố”, “Vĩnh Biệt Phương”), một người bạn Không Quân:
Tôi không ngờ lần gặp Dương Hùng Cường ấy, sau đó chúng tôi trở nên thân tình trong tình đồng nghiệp kéo dài mấy chục năm trời, đến khi nghe tin anh chết trong trại tù, lúc tôi đang là thợ sửa xe đạp ngồi ngoài lề đường.... Ly rượu “nước mắt quê hương” tràn đầy cụng nhau ở quán Mười Hai Bến Nước đường Trương Minh Giảng khi chúng tôi là kẻ ngã ngựa.
(trang 127)
Với các tác phẩm của chính mình:
Tại sao bốn mươi năm sau, một buổi chiều tôi lại chẩy nước mắt, khi tôi ngồi đọc lại cuốn tiểu thuyết Kinh Nước Ðen của tôi, xuất bản từ gần bốn chục năm về trước?... Cuốn sách tìm lại được, nằm ở một nhà cho thuê truyện ... Ðã có một thuở người ta gọi tôi là văn sĩ hay nhà văn có tác phẩm bán chạy và cũng đủ ăn đủ tiêu. Thuở đó xa rồi, chỉ còn lại tôi già cỗi và căn nhà xưa xiêu vẹo này, nếu tôi không biết ăn vạ biết lăn đùng ngã ngửa ra thì cũng mất lâu rồi.
(trang 239-240) Thì ra tác giả cũng hó hé cho người đọc thấy rằng cái thuở mơ làm văn sĩ có khúc trước và khúc sau. Mơ được viết, rồi viết được rồi, nhưng sau lại chỉ được mơ.
Trong đời mơ làm văn sĩ ấy, tác giả đã là nhân chứng cho nhiều sự kiện lịch sử. Ðến cái khám Chí Hòa ai cũng biết tiếng, ông đã vào nằm đó cả một năm. Ông là một loại “người trong cuộc” theo đúng nghĩa của chữ đó.
Người trong cuộc, nhưng cứ bị như người ngoài cuộc.
Ðây chính là bi kịch lớn nhất trong sách. Không những của riêng ông Nguyễn Thụy Long, mà còn của hầu hết người Việt Nam.
Từ chuyện nhỏ hàng ngày, cho đến chuyện quốc gia đại sự, nó là chuyện của mình rõ ràng ấy, mà mình cứ bị bỏ qua một bên như người ngoài.
Nguyễn Thụy Long viết bài đăng báo. Tác phẩm đầu tiên được đăng, ông đã “tra trong nhiều quyển từ điển Hán Việt mới tìm ra” một bút hiệu ưng ý, đến lúc báo đăng truyện, “‘người ta’ quên béng mất không ghi bút hiệu” của ông mà ghi luôn tên thật. Bút hiệu của mình, người ta không xem ra gì, cứ tự tiện ghi tên khác dù là tên thật. Chuyện ông lăm le làm văn sĩ bị lộ, chú ông nện cho một trận. Mới chỉ là chuyện nhỏ.
Mẹ ông vỡ nợ, phải đi buôn bên Lào. Ông vào lính Không Quân. “Cấp binh nhì lương 916$50 một tháng. Năm hào cắc lẻ không bao giờ được lãnh. Tôi không biết nó đi đâu.”(1) Tiền của mình rõ ràng, người ta không hỏi gì mình, cứ tự tiện bỏ túi.
Viên Linh và Trần Dạ Từ (lúc bấy giờ mới 13 tuổi, mang bút hiệu Hoài Nam) ở trong trại học sinh di cư Phú Thọ. Trại có tiền nhà nước, nhưng “vị quản lý trại đó tham nhũng tiền cấp dưỡng, nên các học sinh phải ăn uống rất kham khổ”. Ðến khi trại giải thể, “[n]hững kẻ quản lý trại ấy trở nên giầu sụ.” Cơm của mình, người ta không cho đụng đến, bỏ túi.
Trong Không Quân, Nguyễn Thụy Long được giao trách nhiệm giữ kho nhiên liệu. Xăng, xi măng, tôn, sơn, hàng viện trợ nằm trong kho của ông. Dùng cho quân đội thì ít, mà cho cấp trên dùng và bán ra chợ đen thì nhiều. Bảo xuất thì phải xuất, chẳng nói được tiếng nào. Bị bắt quả tang, ông trung úy trưởng phòng chối bay, bỏ ông làm “con chốt thí” cho an ninh quân đội bắt nằm tù. Cũng may là ông có mảnh giấy ông trung úy ghi tóm tắt những món ông ta cần. Nguyễn Thụy Long thoát tù, lại còn bị lên lớp, “Lần sau thì cậu phải cẩn thận, đừng có la cà để an ninh nó tóm được.” Ông nói ngay, “Báo cáo trung úy, sẽ không có lần sau với tôi, xuất kho phải có chứng từ, nếu không tôi lại thành thằng ăn cắp.” Và thế là “[m]ấy ngày sau tôi đi khỏi kho nhiên liệu để làm thứ lính tạp dịch trong phi đoàn.” Trách nhiệm của mình rõ ràng, người ta bắt mình phải làm ngược lại. Mình muốn làm đúng trách nhiệm, là cho đi chỗ khác.
Năm 1961, Nguyễn Chánh Thi đảo chánh. Một đầu mối quan trọng là sân bay Tân Sơn Nhứt. Nguyễn Thụy Long có mặt tại đó. Người trong cuộc đấy. Nhưng chỉ với tư cách một tù binh. Nguyễn Chánh Thi lúc bấy giờ là đại tá Nhảy Dù, việc đầu tiên là sai lính Dù bỏ tù lính Không Quân. Chính người lính Dù làm việc ấy cũng chẳng được cho biết gì. Người trung sĩ Dù bảo “Nhẩy Dù chúng tớ được tin Việt Cộng xâm nhập khắp thành phố, nên Nhảy Dù tới thanh lọc đấy chứ”. Rồi lại than “khi hành quân tớ nghe nói khác bây giờ người chỉ huy lại nói khác”. Chiếm xong sân bay, đảo chánh chưa thành, không ai được đi đâu, cả lính canh lẫn lính tù biến thành lính đói. “Không biết cuộc đàm phán giữa phe cách mạng và tổng thống diễn ra thế nào, nhưng tất cả binh sĩ Nhảy Dù chiếm sân bay đều đói, không bữa sáng, không bữa trưa và không cả bữa cơm chiều.... Lính Không Quân trong phi trường cũng đói lây, không đâu bán đồ ăn, mà ai phải ở chỗ nấy”. Ðánh nhau là chuyện sinh mạng của người lính. Mạng sống của mình rõ ràng, mà chẳng ai coi ra gì, muốn sai đánh ai, đánh lúc nào, thì cứ sai.
Mà có phải chỉ có lính thấp cổ bé miệng không thôi đâu. Ðến ngày cuối cuộc đảo chánh, một sĩ quan đang bị bắt, “Trung úy Phan Phụng Tiên, hoa tiêu vận tải bị gọi ra, đưa ra phi đạo. Ông lên máy bay, rồi xăng được tiếp, một chiếc xe nạp điện chạy đến cạnh máy bay mở máy nạp điện.” Cứ tưởng sẽ chở tổng thống đi lưu vong đâu đó. Ðến phút chót mới biết là đảo chánh thất bại và người đi lưu vong không phải ông Diệm mà là ông Thi. Máy bay của mình, chuyến bay của mình, “phe” mình là phe thắng rõ ràng, thế mà cũng chẳng ai bảo mình một tiếng.
Qua đến thời cộng sản, những đứa con tinh thần của tác giả bị nhà nước vất đi mà chẳng làm gì được cả. Sau 1975, sách của Nguyễn Thụy Long phải đem đốt, trong cuộc bài trừ văn hóa đồi trụy và phản động. Ðến thế kỷ mới, ông mới tìm lại được một bản.
Tại sao bốn mươi năm sau, một buổi chiều tôi lại chẩy nước mắt, khi tôi ngồi đọc lại cuốn tiểu thuyết Kinh Nước Ðen của tôi, xuất bản từ gần bốn chục năm về trước?... Cuốn sách tìm lại được, nằm ở một nhà cho thuê truyện, bìa đóng bằng giấy dầu mầu nâu xỉn, đã trốn thoát trong cuộc hỏa tai năm 1976, hai mươi lăm năm qua tôi không rõ nó lưu lạc và ẩn náu ở đâu, bây giờ nó trở về trong chính vòng tay của cha nó.... Riêng tâm hồn tôi bị tổn thương thì kệ tôi, tôi vẫn tiếp tục đi tìm những đứa con bị thất lạc, tôi đã thấy vài đứa như thằng bé tội nghiệp này.
(trang 239-240)
Quyển “Thuở Mơ Làm Văn Sĩ”, cũng chẳng được ra đời nơi nó thai nghén. Sách của mình đấy, con tinh thần của mình đấy, phải xin mới được in, mà có ai cho!
Cứ thế, người trong cuộc cứ bị bỏ ngoài cuộc. Dân làm chủ nhưng nhà nước quản lý. Cái bẩn của một chế độ độc tài, hay quân phiệt, là ở chỗ đó. Nó coi thường người dân, coi thường người lính, coi thường bất cứ ai không ở trong não bộ lãnh đạo.
Phải khi nhất quyết không phục tùng chế độ như thế, người ta mới thực sự là người trong cuộc, và thực sự làm chủ cuộc đời mình.
Trong cuộc đời Nguyễn Thụy Long, đó là thời gian ông làm báo Ngàn Khơi. Báo Ngàn Khơi là một tờ báo nửa chui nửa chính thức.
Ông chủ nhà in [Nguyễn Ðình Vượng], Tú Kếu, tôi kéo nhau lên lầu, ngồi ngay sác gác đánh chén và bàn kế hoạch phát hành báo. Làm thế nào tờ báo nguyên vẹn đến tay độc giả và tờ bị kiểm duyệt nộp lưu chiểu cho Bộ Thông Tin vẫn hợp pháp, tuân hành lệnh kiểm duyệt.
Rượu vào, lời ra, chúng tôi tìm ra giải pháp. Nghĩa là in hai ấn bản, số ít thôi có kiểm duyệt tại nhà in Nguyễn Ðình Vượng, mang về tòa soạn phát hành và nộp lưu chiểu. Ẩn bản không đục đẽo được mang bản in qua nhà in khác in bí mật và cũng nộp bí mật qua các em học sinh có tâm huyết. Phát hành trong những cuộc biểu tình đấu tranh như phổ biến truyền đơn... Chưa bao giờ tôi thấy say mê làm báo như lúc ấy.
(trang 228) Không say mê sao được! Lần duy nhất trong quyển sách này, người đọc thấy tác giả tự nắm được vận mệnh của mình. Bài viết ra không phải “bị ngăn chặn phát hành, bị Bộ Thông Tin đục đẽo nham nhở.”
Tờ báo không qua mặt được chính quyền; chủ bút Trần Dạ Từ bị mật vụ bắt. Nhưng riêng tác giả và những người khác trong báo Ngàn Khơi vẫn nắm được phần chủ động. “Báo vẫn ra, những bài viết đấu tranh ngày một hung hãn tợn hơn, những em học sinh giúp báo phát hành.”
Nguyễn Thụy Long không làm chính trị, không phải chuyên viên xuống đường, cũng chẳng phải triết gia gì. Nhưng trong cuộc đời ông, người ta nhìn thấy chân lý mà nhiều lý thuyết gia đã nói tới: Con người ta phải làm chủ chính mình. Không ai có thể bắt những người trong cuộc đứng ngoài cuộc mãi được.
Bi kịch của người làm văn sĩ, chính là bi kịch của một người cứ khăng khăng muốn đi theo đường của mình, muốn làm chủ việc của mình, trong một xã hội cứ lăm le vất người ấy ra ngoài cuộc.
Trong một xã hội như thế có những người sống được, lại sống rất sung túc nữa. Như những vị quản lý trại học sinh Phú Thọ. Hay như người thay Nguyễn Thụy Long trông kho nhiên liệu. “Tay hạ sĩ thay thế chỗ tôi có vẻ ăn nên làm ra.... Kho nhiên liệu trở thành cây xăng.... Hắn biết kinh doanh và biết điều với những xếp cấp trên.” Ðến bây giờ, Việt Nam vẫn đầy rẫy những hạng người đó.
Nhưng nhà văn thì không thể thế. “Liêm sỉ con người được thể hiện trung thực qua ngòi bút, ngòi bút mảnh mai và bền bỉ.” Ngòi bút trung thực có cái giá của nó. “Tôi biết thêm rằng sự tự do tư tưởng cần thiết như thế nào. Ðiều này rồi đây suốt một đời cầm bút phải trả giá đắt, đắt mà rẻ.” Như nhà văn Dương Hùng Cường, đang ngồi trong nhà tù lính mà nói với ông an ninh: “Thiếu úy thấy tôi đã sợ ai chưa? –Bởi vậy anh mới vô đây.”
Thuở mơ làm văn sĩ, chính là thuở mơ vượt qua được cái xã hội vô liêm sỉ, được làm chủ bản thân và số mệnh. Roi vọt không ngăn cản được.
Cái thuở ấy có hai đầu, một đầu lúc muốn làm chủ vận mệnh mình, đầu kia là đã làm chủ vận mệnh mình rồi, sau đó lại mất đi, “trong cuộc hỏa tai”, “trong thành phố đã được tái chiếm”, “khi chúng tôi là kẻ ngã ngựa”.
Có ai không thấy số phận nhà văn giống số phận một dân tộc.
Chẳng phải tự nhiên mà người chú ông Nguyễn Thụy Long nghiệm ra rằng, “đời kẻ nghệ sĩ khổ lắm con ơi, nhất là nghệ sĩ ở đất nước mình.”
--------------------------------
(1) Dường như nhà in sắp chữ sai. Ở trang 105 in là “Lương tân binh của chúng tôi hồi đó chỉ có 516$50, trừ tiền cơm”, sang đến trang 113 lại in là “Cấp binh nhì lương 916$50 một tháng”.