
    
    Nguyên Sa (Trần Bích Lan): Sinh năm 1932 tại Hà Nội   
Tác phẩm: 
Thơ Nguyên Sa 1958,
Gõ đầu trẻ (truyện) 1959,
Quan điểm văn học và triết học (biên khảo) 1960, 
Mây bay đi (tập truyện) 1967, 
Một bông hồng cho văn nghệ (biên khảo) 1967,
 Descartes nhìn từ phương Đông (biên khảo) 1969     
Nguyên Sa   Và ngôn ngữ tình yêu trong thi ca   Có  lẽ, đã trên mười năm, vào buổi chiều Sài Gòn sau một cơn mưa lớn, tôi  đang ngồi dưới mái hiên nhìn những vũng nước đục lầm trước nhà thì Mai  Thảo đến thăm. Cùng đi với Mai Thảo có thêm một chàng trai phốp pháp có  dáng dấp hồn nhiên. Mai Thảo giới thiệu – 
Nguyên Sa, người có thơ đăng trong Sáng Tạo
 mà cậu thích! Cái  bắt tay lần đầu giữa tôi và Nguyên Sa thật là thắm thiết. Tôi nhìn  chòng chọc vào Nguyên Sa đang đối diện, để chứng nghiệm lời Mai Thảo nói  với tôi bữa trước, Nguyên Sa mới từ Pháp về, có tinh thần tiến bộ muốn  đi cùng một đường với anh em.     
 Sau buổi tối hội ngộ đó, tôi đã coi  Nguyên Sa như người bạn cũ. Tôi nhớ, trước khi về Nguyên Sa có tặng tôi  một bài thơ mang tựa đề "Nga", in trên giấy láng, được dùng thay thiệp  báo hỷ, ấn loát tại Ba-lê ngày 10-12-1955. Bài thơ này Nguyên Sa sáng  tác tại Solden, No# 1954. Tôi yêu bài thơ đó lắm, tuy nội dung chưa vượt  khỏi ước lệ thông thường với suy tư và rung cảm của một tình nhân đối  với một tình nhân.           
“Hôm nay Nga buồn như con chó ốm   Như con mèo ngái ngủ trong tay anh   Đôi mắt cá ươn ướt như sắp sửa se mình   Để anh giận sao chẳng là nước biển…”     Ngôn ngữ của Nguyên Sa trong bài thơ tuy không mới nhưng hình ảnh  thật mới được lồng trong khuôn thức của nhịp điệu làm người đọc dễ rung  cảm và lãnh hội.         
“Em nhớ không đã có một lần anh van em   Đã có một lần lâu hơn cả ngày xưa…   Em sợ thời gian như mọt nhấm từng câu thơ   Em sợ thời gian ác như lửa thiêu từng thanh củi   Mắt e ngại như từng con chỉ rối   Em sợ những ngày trời nắng như hôm nay   Em sợ những đường tàu vướng víu như chỉ tay   Không dám chọn lấy một ga hò hẹn…”     Đọc thơ Nguyên Sa tôi có cảm tưởng như được thấy những ý nghĩ thầm  kín của hồn mình. Nó gần gũi. Nó trẻ và sống. Nó chuyên chở từng dung  nhan diễm tuyệt, ngay cả trong lo sợ. Mỗi dòng, mỗi chữ được Nguyên Sa  cân nhắc và sử dụng linh động như nhà phù thuỷ cao tay sai khiến âm  binh. Thơ Nguyên Sa không nóng bỏng, suồng sã, đam mê, khăng khít như  Xuân Diệu hoặc thâm trầm, tế nhị, kiêu sa như Huy Cận mà nó luân lưu,  uyển chuyển giữa hai dòng thơ lớn đó của thời tiền chiến. Tuy đã sống ở  Paris nhiều năm, đã am hiểu văn hóa Tây phương nhất là triết học, mà  Nguyên Sa lúc làm vần thơ vẫn giữ được cái phong thái của thi ca Việt  Nam ngay cả ở những bài thơ mà Nguyên Sa đã sáng tác tại Kinh Đô Ánh  Sáng:         
“Mai tôi đi dù hôm nay đang vào thu   Dòng sông Seine đang mặc áo sương mù   Đang nhìn tôi mà khoe nước biếc   Khoe lá vàng lộng lẫy lối đi xưa…”   (“Paris”)    
 Paris với dòng sông Seine, với tháp Eiffel, với xóm Montmartre, với  những thư viện, những bảo tàng, những mái giáo đường với sương mù tuyết  trắng, với những nàng kiều nữ, với trăm vạn đam mê huyễn hoặc, mà sao  Nguyên Sa chỉ dùng chúng trong thi ca như dùng những phương tiện để  chuyên chở từng ý nghĩ Việt Nam, từng ngôn ngữ Việt Nam. Thi sĩ William  Carlos đã nói đúng:
“Sự sáng tạo ngôn ngữ mới cho thi ca, ở đó, các thi nhân Mỹ có thể viết ra được, chính là một ngôn ngữ mang biểu tượng nước Mỹ” (Jarell, 
Situation d’un Poète).    
 Xuyên  qua ngôn ngữ Nguyên Sa, người đọc hình dung thấy một khung cửa bỏ ngỏ.  Từ khung cửa đó, có thể nhìn ra một khu vườn với màu sắc chói chang, với  muôn vàn cánh bướm đang múa lượn chập chờn làm rung động những đài hoa  ngát nhuỵ. Những cánh bướm của tình yêu, của khát vọng, của dự tưởng,  Nguyên Sa dang rộng đôi tay bé nhỏ muốn ôm vào lòng mình. Cái vũ trụ nào  đó, mà Nguyên Sa đoán biết hay tìm thấy không phải cái vũ trụ được đo  lường và ước đoán bằng chứng nghiệm toán học, bằng những năm ánh sáng,  bằng vệ tinh, bằng phi thuyền. Vũ trụ ấy chẳng ai chứng minh được vì nó  là Vũ trụ của Tình yêu, do tình yêu hình thành. Sartre nói – 
“Cái TA là do kẻ khác”. Cái  nguyên lý này, Nguyên Sa là người biết rõ hơn ai hết. Nguyên Sa biết  triết học trước khi biết làm thơ. Hình ảnh chói loà của Socrate, Platon,  Kant, Nietzsche, Heidegger, Bergson, Russel, Jaspers, Sartre v.v… với  các triết thuyết cao siêu mà các vị đó đã để lại cho nhân loại, hình như  chẳng có chút liên hệ gì trong địa hạt thi ca, một địa hạt mà Nguyên Sa  coi như cứu cánh của đời mình. Điều nói đó có thể không đúng hẳn, nhưng  xuyên qua thi phẩm Nguyên Sa, người đọc chưa chiếu rọi hay khám phá  được màu sắc triết học hay hướng đến triết học.  
 Nguyên Sa đi vào thi  ca với những bước chân mang nhiều ân tình cho kẻ khác. Kẻ khác, đương  nhiên là người con gái, là Tình yêu. Tình yêu đối với Nguyên Sa như ân  sủng, như nguồn thương vô tận, với ngọt ngào môi hôn, với bấn loạn tâm  hồn, với quấn quít vòng tay, với dịu hiền hơi thở. Sự kiện này rất tự  nhiên và bản chất Nguyên Sa như vậy.         
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát   Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông   Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng   Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng   Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn   Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh   Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung   Bày vội vã vào trong hồn mở cửa…"   ("Áo lụa Hà Đông")    
 Chất thơ Nguyên Sa là chất thơ thuần tuý, ở đó, mỗi âm thanh, mỗi  ngôn ngữ như một lời kể lể, một cầu xin, một đắm đuối. Tình yêu là  chuyện muôn thuở, chẳng phải chỉ Nguyên Sa mới tỏ bày lần thứ nhất, mà  con người ở mỗi thời đại có nhiệm vụ làm-mới-lại những cái gì  của-hôm-qua với khả năng nghệ thuật vô biên. Goethe nói: 
“Thiên nhiên vẫn y nguyên, nhưng nhãn quan của mỗi con người làm thay đổi thiên nhiên” “Goethe  et la littérature universelle. Thornton Wilder). Trong tình yêu cũng  vậy, tình yêu vẫn thế nhưng mỗi kẻ tình nhân làm tình yêu đổi mới:         
“Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến   Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa   Hãy gửi cho nhau từng hơi thở mùa thu   Có gió heo may và nắng vàng rất nhẹ   Và hãy nói năng những lời vô nghĩa   Hãy cười bằng mắt, ngủ bằng vai   Hãy để môi rót rượu vào môi   Hãy cầm tay bằng ngón tay bấn loạn   Gió có lạnh hãy cầm tay cho chặt   Đêm có khuya hãy ngủ cho ngoan   Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn   Nếu em sợ thời gian dài vô tận…"   ("Tháng sáu trời mưa")     
“Hãy để môi rót rượu vào môi” và 
“biến cuộc đời thành những tối tân hôn” quả thật Nguyên Sa đã sử dụng ngôn ngữ thi ca một cách tài tình dù rằng  ngôn ngữ đó để chuyển đạt một ý nghĩ rất Tây phương. Theo Randall  Jarrell, 
thi sĩ là một kẻ sáng tạo, một nguyên trinh (pureté), một kiến trúc sư của kỹ thuật thi ca. Nguyên  Sa đã tự sáng tạo và giành lấy đặc quyền trong lãnh vực tình yêu, dù  tình yêu đôi khi chỉ là ảo ảnh, là nỗi buồn thảm, tối tăm của thất vọng  và đớn đau, chia cách. Thơ Nguyên Sa toát ra sự mong manh, rạn vỡ ngay  cả trong hy vọng đợi chờ.         
“Em chói sáng trong tình anh cô độc   Cả cuộc đời mộng ảo nhớn bùng lên…   … Em đến chưa? Sao đêm chợt vắng   Cả cuộc đời xáo động cũng hao đi   Những ngón tay dần chẳng đến hôn mê   Và tà áo phủ chân trời trước mặt”.   ("Người em sống trong cô độc")    
 Trong bài thuyết minh nhân dịp tưởng niệm Goethe tại Aspen (Colorado) năm 1949, Wilder có nhắc lại câu nói của Goethe 
“Trí  não con người làm văn học nghệ thuật giống như một thùng chứa những  mảnh giấy được bóc ra khỏi cuốn bách khoa vĩ đại, những mảnh giấy đó  không phải chỉ chứa đựng sự ghi nhớ thông thường mà đích thực ở mỗi tờ  đều toát ra và rung lên cảm xúc, nó có thể là liều thuốc hay niềm an ủi,  cũng có thể là lời báo trước một bi thảm...”. (Goethe et la littérature Universelle, Protil, n
o 1)  
 Người  làm thơ cũng phải gỡ ra khỏi hồn mình những chất liệu để cấu tạo nghệ  thuật. Nguyên Sa bóc năm tháng của cuộc sống riêng tư để ca tụng tình  yêu, để trải tâm sự qua từng niềm thương, nỗi nhớ, qua từng giọt sữa yêu  đương cũng như nỗi buồn mật đắng:         
“Em đứng lẩn bên góc hè phố vắng   Như loài hoa hoang dại trong rừng sâu   Màu da tơ bóng tối ngả u sầu   Đôi mắt đẹp từng cánh sao tắt lịm   Em đứng đợi một người không hẹn đến   Bán cho người tất cả những niềm vui   … Đêm gần tàn em ơi người gái đĩ   Đợi trong khuya bến vắng ngủ say rồi   Nhìn ánh đèn vương lại cửa nhà ai   Rồi kéo vội khăn quàng trên vai lạnh…”   ("Đợi khách")    
 Tình yêu đối với Nguyên Sa đẹp như một nàng công chúa mới lên ngôi,  nhưng có lúc nó biến thành tình thương khi Nguyên Sa bắt gặp cuộc đời có  mặt với những giận hờn, ti tiện, bon chen, đố kỵ do những ước lệ xã hội  tạo nên… Nói cho đúng, Nguyên Sa là một thi sĩ gặp nhiều may mắn ở cuộc  đời cũng như ở nghệ thuật. Sự cúi xuống tình thương chỉ do từ tâm – một  ngoại lệ. Vì đó, niềm xót xa mà Nguyên Sa diễn đạt bằng ngôn ngữ thi ca  chỉ mang giá trị tương đối. Người đọc chỉ cảm thấy hay chứ không xúc  động, vì Nguyên Sa đã biến đổi nó thành vóc dáng khác, ở đó, cái 
“nhìn” và cái 
“nhận” không còn nằm ở vị trí 
“khách thể” nữa. Nhưng có điều mọi người chắc chắn đều nhận ra, 
những nỗi buồn thảm và tối tăm của sự vật cũng như cuộc sống thường gặp lại ở những bài thơ hay, do đó, sự nghiêng xuống khổ đau đối với thi nhân chỉ được xem như thường tình.  
 Chính  vì chất thơ của Nguyên Sa không nằm ngoài vị trí tình yêu nên ngôn ngữ  tình ái trong thơ Nguyên Sa được sử dụng với tất cả tài hoa của một tâm  hồn phóng khoáng muốn dùng khả năng hữu hạn của ngôn ngữ để vẽ chân dung  tình yêu với tất cả cảm xúc lúc nào cũng tràn dâng làm ngập lụt linh  hồn:         
“Không có anh lấy ai đưa em đi học về   Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học   Ai lau mắt cho em ngồi khóc   Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa   Những lúc em cười trong đêm khuya   Lấy ai nhìn những đường răng em trắng   Đôi mắt sáng là hành tinh lóng lánh   Lúc sương mờ ai thở để sương tan   Ai cầm tay cho đỏ má hồng em   Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc…”   ("Cần thiết")    
 Đoạn thơ trên, Nguyên Sa đi rất gần Tế Hanh tác giả thi phẩm 
Hoa niên thời tiền chiến. Tuổi trẻ nào chả vậy, bước chân thứ nhất vào đời qua ngưỡng cửa nhớ mong, sầu mộng, qua 
“trời hải đảo”, “tóc bồng bềnh” với 
“lá gió trăm cây” với 
“mây trắng lênh đênh” để 
“lời ngỏ ý sẽ là kinh cầu nguyện”. Nhưng  Nguyên Sa, một thi sĩ đã hiểu thấu đáo về luật thời gian, đã hiểu rõ  thân phận mình và kẻ khác, chẳng phải do Triết học hay Khoa học mà chính  nỗi ưu tư, phiền muộn do chính thực tế trao gửi. Chiếc bong bóng tình  yêu của thi sĩ thả lên trời cao để mặc cho gió đẩy đưa, mặc cho giông  gió huỷ hoại trong nỗi bàng hoàng của biệt ly, của thất bại:         
“Người về đêm nay hay đêm mai   Người sắp đi chưa hay đã đi rồi   Muôn vị hành tinh rung nhè nhẹ   Hay ly rượu tàn run trên môi…   Tôi muốn hỏi thầm người rất nhẹ   Tôi đưa người hay tôi đưa tôi?...”   (“Tiễn biệt”)    
 Nguyên Sa vào đối với bản tình ca trên môi, với lời chào trong mắt,  với bước chân quấn quít. Nguyên Sa sợ thời gian, sợ tan biến, sợ hư  không, do đó, mỗi lời nói trao duyên, mỗi lần tình tự, người đọc nhận  thấy sự vội vàng, sự níu kéo xen vào nỗi buồn rờn rợn như sắp đánh mất  hay bị cướp đi sự quý báu thiêng liêng tưởng như đã thuộc-riêng-mình.  Thơ Nguyên Sa hiện diện giữa cuộc đời với sự mong manh đó. Người đọc  nhìn nó trong suốt như nhìn qua tấm pha lê có chạm trổ những hình nét  tuyệt luân, nhưng chỉ một vô ý cỏn con tấm pha lê đó sẽ biến thành những  mảnh thuỷ tinh nát vụn. Làm thơ không phải là công việc của riêng cá  nhân hay của một thời đại nào nhất định. Sự hiện diện của thi ca, hàng  loạt con người bất cứ ở đâu, bất cứ thời đại nào đều phải nhận rằng,  năng khiếu thi ca không chỉ định một hiếm hoi hay để tán tụng một bài  thơ diễm tuyệt. Tiếng nói của thi ca tuy không làm chủ được định mệnh  nhưng nó có mặt để trình bày một giá trị, một lời an ủi dịu dàng làm  nguôi ngoai đau khổ. Vì biết rõ giá trị tương đối của Thi ca đứng trước  thực tế, trong phạm trù nhân sinh nên Nguyên Sa dùng nó để giải toả ẩn  ức, giải toả mặc cảm mà mỗi con người phải cúi đầu vâng theo định luật  thiên nhiên.  
 Nguyên Sa đã nhìn thấy 
“sa mạc hoang vu chạy suốt linh hồn” nghĩa là thi sĩ đã chấp nhận. Sự chấp nhận đây không phải là đầu hàng  mà đích thực để hành động, để tránh né cái “không-thể-tránh” mong để lại  những chứng tích thực thể trước cái yếu đuối của con người với ngàn vạn  thất vọng, bi thương.  
 Vì quá yêu sự sống nên Nguyên Sa luôn luôn đẩy về phía trước những hy vọng:         
“Tôi sẽ sang thăm em   Để những mái tóc màu củi chưa đun   Màu gỗ chưa ai ghép làm thuyền   Lùa vào nhau nhóm lửa…   Tôi sẽ sang thăm em   Để tình yêu đừng chua cay   Để tình yêu là sóng   Một dòng sông gặp gỡ một dòng sông…”.   (“Tôi sẽ sang thăm em”)    
 Sự yêu thương và niềm hy vọng như một động cơ luôn luôn nổ máy để  lấn át mọi hệ luỵ do cuộc sống trôi dạt đến. Nguyên Sa thường cầu khẩn  với lòng mình cũng như với người yêu:         
“Và tôi vẫn xin em   Cho tôi ghì thật chặt   Như chiếc thắt lưng xanh   Ghì quanh lần áo vải   Cho tôi tìm một chữ mới   Không có trong hai mươi nhăm chữ cái   Để bắt đầu tên em:   .............................. ”.   (“Tự do”)    
 Ngay trong những đêm buồn thành phố, chán ngán cột đèn với những đại lộ quần chân, Nguyên Sa vùng dậy:         
“Bằng hơi thở thiên thần   Bằng giọng nói đam mê   Bằng ngón tay mầu nhiệm   Ta truyền   Hỡi Sài Gòn ban đêm mở cửa!...”     Mở cửa để làm gì? Để thi sĩ 
“đi thanh tra những mái tóc bâng quơ, những cánh tay buồn, những mối sầu thơ dại!” để nghe ở đáy hồn cất lên tiếng nói: 
“Sao không mang nặng cặp mắt Trần Dần, cánh tay Phùng Quán với thân hình vạm vỡ tình yêu?” rồi tiếng nói vụt tắt, rồi xiềng xích áo cơm, danh vọng, bổn phận xiết  lấy thân phận và chỉ có bóng đêm chứng kiến sự nổi loạn của tâm hồn cô  độc trong nỗi nghẹn ngào chờ đợi bình minh.  
 Nguồn cảm hứng trong thơ Nguyên Sa như dòng sông lớn chảy phăng phăng ra biển cả, bỏ mặc hai bên những bến bờ nhân thế. Nhưng 
“nỗi niềm của một kiếp người đã nhiều tháng ngày ngồi trong ngõ tối, để suốt cả đời chờ đợi tin yêu” để nhìn 
“hy vọng bay theo từng hy vọng” đã làm Nguyên Sa vụt nghĩ đến cái chết. Cái chết mà Dante, thi hào Ý Đại Lợi ở đầu thế kỷ XIV thét lên – 
“Tôi không hiểu tại sao, sự chết đối với một số đông lại có nghĩa là bại trận!”. Nguyên  Sa không có cái can đảm của Dante, nên khi nói về cái chết vẫn hình  dung đến sự ghê gớm, lạnh lẽo với tiếc thương “trên ấy”.         
“Anh cúi mặt hôn lên lòng đất   Sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng   Mười ngón tay sờ soạng giữa hư không   Đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh.   Ở trên ấy mây mùa thu có lạnh   Anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời   Em có ngồi mà nghe gió thu phai   Và em có thắp hương bằng mắt sáng?   Lúc ra đi hai chân anh đằng trước   Mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời   Hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai   Thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi   ..............................   Những bài thơ anh đã viết trên môi   Lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh…”   (“Lúc chết”)