ĐÔNG LA     
  NV Nguyên Ngọc  
  Nguyên Ngọc thành danh với những tác phẩm như Đất nước đứng lên và Đường  chúng ta đi. Đó là những tác phẩm phù hợp tuyệt vời trong giai đoạn  chúng ta cần cho công tác tuyên truyền, tạo nên một sức mạnh cho dân tộc  giành chiến thắng. Thật kỳ lạ, có lẽ vì các văn nghệ sĩ sáng tác bằng  tình yêu quê hương, đất nước đích thực, vì khát vọng hòa bình, độc lập  đích thực, nên nhiều tác phẩm thời ấy có giá trị nghệ thuật rất cao,  sống mãi với thời gian.  
  Nhưng sau này, thật bất ngờ là khi được giao trọng trách lãnh đạo Hội  Nhà văn VN, Nguyên Ngọc y như bị “thay máu”, đã khuyến khích, nâng đỡ,  ca ngợi những tác phẩm viết ngược với chính mình về mọi mặt, kể cả cái  nhìn về lịch sử và quan điểm chính trị. Trong bước chuyển hóa ấy, thì  tác phẩm Đất nước đứng lên thành quyển sách viết về “người tốt việc tốt”  và Đường chúng ta đi trở thành sách “hô khẩu hiệu” và có ba nhân vật  như ngày càng gắn bó “duyên nợ” với số phận của Nguyên Ngọc: Trần Độ,  Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh, và tất nhiên, với Nguyễn Huy Thiệp thì sâu  đậm hơn.  
  •  
  Viết về Nguyên Ngọc không thể không viết về Trần Độ, người từng đánh giá  Nguyên Ngọc rất cao: “trọn vẹn cả đức cả tài như anh không nhiều. Bởi  vậy khi anh chính thức được bổ nhiệm cương vị Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà  văn tôi rất mừng – Đây là một trong những trường hợp “đặt người đúng  chỗ” hiếm hoi trong cơ chế của chúng ta”.  
  Nhưng có ai ngờ chính người “trọn vẹn cả đức cả tài” ấy, năm 1991, lại  làm Trần Độ, Trung tướng, Trưởngban Ban Văn hóa, Văn nghệ Trung ương, bị  kỷ luật.  
  Tôi thấy trong đời một con người có điều quan trọng là cần phải biết  chấp nhận thất bại. Đó là điều khó, bởi cần phải có bản lĩnh, có trình  độ và cái tâm phá chấp. Chính Đức Phật đã dạy người con tập thiền là:  hãy coi mình như mặt đất, bởi mặt đất là nơi thấp nhất, người ta luôn  dẫm đạp lên, chất chứa rác rưởi, thậm chí phóng uế lên đó mà vẫn “không  sao cả”; được như thế thì không còn gì có thể làm cho ta đau khổ được  nữa. Tiếc là Trần Độ, người vốn là một công thần của chế độ, khi gặp  chuyện không hay ông đã không vượt qua được cái tôi của mình. Thật tai  hại khi những người chống chế độ luôn lợi dụng việc ông “phản tỉnh”, coi  như một chỗ dựa về tính chính nghĩa cho con đường của họ. Đến Dương Thu  Hương, người đàn bà nanh nọc, coi trời bằng vung, cũng “nể” Trần Độ:  “Anh Trần Độ đã đứng hẳn về phe chúng tôi”;“chế độ Hà Nội căm ghét ông,  đương nhiên, cũng là lý do để chúng tôi cảm phục ông”. Y như ông Phó Thủ  tướng Trần Phương cho “Chủ nghĩa Xã hội là lừa bịp”, Trần Độ cũng cho  Định hướng XHCN là “định hướng vào chỗ chết” (theo Nguyễn Thanh Giang)!  So với tấm lòng son sắt với cách mạng, vì dân, vì nước của Đại tướng Võ  Nguyên Giáp, người mà qua cái chết mới đây, chúng ta thấy cụ đã được coi  là một bậc thánh nhân, người anh hùng dân tộc trong lòng dân; thì nhân  cách của vị cựu Phó Chủ tịch Quốc hội (Trần Độ) và vị cựu Phó Thủ tướng  (Trần Phương) thật không có một chút gì để so sánh cả!  
  •  
  Quay lại với bản Đề dẫn của Nguyên Ngọc ngày nào đã có khuynh hướng “lật  đổ thần tượng”. Khi Nguyên Ngọc cho đăng bài “Hãy đọc lời ai điếu cho  một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu thì cái khuynh  hướng ấy đã được huỵch toẹt hết cả ra. Thế là con đường “vào Trung ương”  của Nguyên Ngọc bị chấm hết, “tầm nhìn xa” của Nguyễn Khải “nịnh dần đi  là vừa” Nguyên Ngọc trở thành tầm nhìn ngắn!  
  Nếu nói Trần Độ là lãnh đạo Văn hóa Văn nghệ thì Nguyên Ngọc chính là vị  tướng xuất quân, phất cờ “đổi mới”. Nhưng dường như đổi mới văn chương  theo chính đạo là quá khó như trong bất kỳ lĩnh vực sáng tạo nào. Trong  ngành Sinh học, nếu việc lai tạo tốt sẽ tạo ra được loại giống mới tốt  hơn, còn ngược lại, sẽ cho ra quái thai. Không biết có phải vì theo  chính đạo là quá khó nên Nguyên Ngọc đành phải theo tà đạo, đã đổi mới  văn chương bằng một loạt quan điểm lộn ngược: phản đạo lý, phản thẩm mỹ,  phản lịch sử, phản nhân văn.  
  •  
  Cụ thể, khi bị “rớt” xuống làm TBT tờ Văn nghệ, diễn đàn trung tâm của  Văn chương VN và là Trưởng ban Sáng tác Hội Nhà văn VN, Nguyên Ngọc đã  làm 2 việc ấn tượng nhất, đó là khai sinh ra tên tuổi Nguyễn Huy Thiệp  và quyết liệt ủng hộ việc trao giải thưởng của Hội Nhà văn cho cuốn Nỗi  buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Về vụ trao giải thưởng cho cuốn Nỗi buồn  chiến tranh, Ban Chấp hành Hội Nhà văn đã phải tự kiểm, nhưng buồn cười  là khi ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ, có người trong Ban Chấp hành  lại xin lỗi Bảo Ninh, cứ như Bảo Ninh là quân Mỹ vậy!  
  Khi Nguyên Ngọc làm TBT báo Văn nghệ, báo “nợ nần tùm lum”, đứng trước  nguy cơ “bị đóng cửa”, Nguyên Ngọc đã mau chóng làm tờ báo trở thành “tờ  được độc giả chờ đón nhất trong nước”, bởi đã cho chào đời một loạt tác  phẩm “kinh thiên động địa”: Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Cái đêm  hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, Lời khai của một bị can của Trần Huy  Quang,…  
  Trong bài Van-hoc-Viet-Nam-dang-o-dau? Nguyên Ngọc khi sang Pháp, theo  lời mời của giáo sư François Jullien, trong một cuộc hội thảo của UNESCO  về triển vọng văn học Việt Nam, Nguyên Ngọc đã kể về thời điểm này:  
  “… năm 1987… tôi đang làm tổng biên tập tuần báo Văn Nghệ của Hội nhà  văn Việt Nam. Chúng tôi in truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp:  Tướng về hưu. Cứ như là một cú giật nẩy mình trong đời sống văn học, và  cả trong xã hội. Đọc xong truyện ngắn ấy, Nguyễn Khải bảo tôi:“Sau thằng  Thiệp, chẳng ai có thể viết gì được nữa. Mình bỏ bút thôi. Chỉ bằng mỗi  truyện ngắn này, nó đã lật đổ tất cả, xóa sạch tất cả những gì mình đã  viết trước nay”.  
  Tôi nghĩ Nguyễn Khải đã không diễn đạt thật chính xác điều tất cả chúng  tôi cảm thấy lúc bấy giờ. Điều chúng tôi nhận ra lúc bấy giờ khi Nguyễn  Huy Thiệp xuất hiện, là từ nay không còn có thể viết như trước nữa. Phải  thay đổi… phải viết khác đi.  
  … trào lưu có tên là Đổi Mới… được biểu hiện trước hết bằng cái mà ở Nga  người ta gọi là glasnost (transparence). Tức là nói lên sự thật trần  trụi, đưa ra khỏi bóng tối, phơi bày ra dưới mắt mọi người tất cả các  mặt tiêu cực của xã hội, của đời sống đất nước sau chiến tranh, các mặt  trước nay vẫn bị dồn nén lại, che giấu cẩn thận. Có thể nói đó là một  trào lưu văn học phơi bày cái tiêu cực, mô tả và tố cáo nó”.  
  Riêng tôi thì thấy 3 tác phẩm tiêu biểu mở màn cho “Thời đại Nguyên  Ngọc” đúng là đã “phơi bày ra” những “sự thật trần trụi” về “tất cả các  mặt tiêu cực của xã hội” nhưng mới ở cấp độ, theo chính ý Nguyên Ngọc:  “Ăn dâu nhả ra dâu” chứ chưa phải “đổi mới”, cũng theo ý Nguyên Ngọc, là  “Ăn dâu phải nhả ra tơ”.  
  “Tướng về hưu” là câu chuyện kể về một ông tướng về hưu. Nguyễn Huy  Thiệp đã “phơi bầy ra” trước mắt ông tướng cái cuộc sống thực dụng, xô  bồ của đời thường, và kết luận: cái thời thực dụng nhí nhố, vô cảm, mất  nhân tính của “ông con” đã chiến thắng cái thời sống vì lý tưởng, đạo lý  của “ông bố”. Trong không gian văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, những  người lính khi hoàn thành nhiệm vụ đã không có đất sống khi trở về chính  ngôi nhà của mình! Điều này chỉ là cá biệt, không thể là đặc trưng cho  xã hội VN sau cuộc chiến được.  
  Tương tự, “Cái đêm hôm ấy đêm gì” cũng không có “tơ” tư tưởng nghệ thuật  gì, nhà văn cũng chỉ đơn giản “phơi bầy sự thật trần trụi” để tố cáo  bọn cường hào mới “thu sản” (lượng nông sản được khoán) người nông dân y  như trong văn chương hiện thực phê phán. Nghĩa là đã lôi văn chương  quay ngược lại thời của Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố.  
  Còn “Lời khai của một bị can” của Trần Huy Quang có lẽ khá hơn. Trần Huy  Quang không chỉ “phơi bầy” chuyện nhân viên công quyền xồng xộc bắt  người đi tù, mà tác giả đã cho độc giả thấy rõ việc làm của ông Nguyễn  Văn Chẩn đúng là chân chính, đầy tâm huyết và đầy sáng tạo. Từ đó ta  thấy rằng lao động là động lực, là cái cần thiết nhất, cao quý nhất của  đời sống. Nếu lao động mà bị ngăn cấm thì có khác gì muốn xã hội tự sát.  Vậy mà để nhận ra được cái chân lý hiển nhiên đó lại không dễ. Ông  Nguyễn Văn Chẩn có thể ví như một chiến sĩ bị thương trên mặt trận nhận  diện con đường phát triển kinh tế. Để có được mỗi bước tiến của nhận  thức, xã hội loài người đều đã phải trả giá. Sự đổi mới của VN cũng vậy.  Và trong chặng đường sắp tới, để đạt được những nấc cao hơn, chính  những ngày hôm nay xã hội ta cũng sẽ còn phải trả giá.  
  Như vậy, về mặt cảm tính, đọc Lời khai của một bị can rõ ràng không  thích bằng Tướng về hưu, nhưng xem xét một cách toàn diện, Lời khai của  một bị can chuẩn hơn Tướng về hưu.  
  Nhưng cũng trong bài Van-hoc-Viet- Nam-dang-o-dau?, Nguyên Ngọc viết rõ hơn những suy nghĩ của mình về Nguyễn Huy Thiệp:  
  “Nhưng tôi nghĩ điều quan trọng nhất ở Nguyễn Huy Thiệp… anh cố tìm ra  “nguyên nhân sơ khởi” của tình trạng xã hội và con người Việt Nam… cố  lần ngược lên đến ngọn nguồn của nó.  
  Và như vậy, anh đã khởi xướng ra trong văn học Việt Nam hiện đại cái mà  tôi muốn gọi là xu hướng tự vấn của xã hội… sự tự soi mình của dân tộc,  và của con người…”.  
  Tôi đã phải bỏ thời gian đọc lại một cách khách quan một số tác phẩm  tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp để tìm kiếm những điều mà Nguyên Ngọc nói  ở trên, nhưng quả thật tôi không thấy! Ông đã sai khi viết về Nguyễn  Huy Thiệp vì văn Nguyễn Huy Thiệp chỉ đơn giản là văn chương phơi bày  trần trụi.  
  Thứ nhất về cái “nguyên nhân sơ khởi” mà Nguyên Ngọc viết Nguyễn Huy  Thiệp “cố tìm ra”? Chúng ta đều biết tình trạng xã hội VN theo lời các  vị lãnh đạo nói đang “đứng trước nguy cơ tồn vong” do “quốc nạn tham  nhũng và lãng phí”, mà nguyên nhân sơ khởi chính là “lỗi hệ thống”. “Lỗi  hệ thống” theo tôi đầu tiên chính là công tác cán bộ, bởi tất cả tốt  hay xấu thì cũng đều do con người làm ra; tiếp theo là sự thiếu minh  bạch trong các lĩnh vực cùng với sự thiếu nghiêm minh trong việc thực  thi pháp luật. Tất cả là do cơ chế giám sát không hiệu quả. Bởi lẽ “Đã  tồn tại quá lâu rồi cái chủ nghĩa tập thể, cái gì cũng chung chung,  người này dựa dẫm vào người kia, nó chỉ phù hợp khi người ta đi trên  đường mòn, nhưng khi phải đối mặt với đèo cao, vực thẳm, phải vượt qua  những con dốc để vươn lên một tầm cao mới thì không làm gì được” (*).  Điều đó chính là một trong những “nguyên nhân sơ khởi” của “tình trạng  xã hội và con người Việt Nam” hôm nay mà trong văn Nguyễn Huy Thiệp có  “cố tìm ra” cũng không thấy!  
  Trong văn Nguyễn Huy Thiệp có rất nhiều tình tiết có thể khiến người ta  suy nghĩ, tự vấn thì chính Nguyễn Huy Thiệp lại tự xóa sạch những điều  ấy. Như trong Tướng về hưu, chuyện dùng “thai nhi nấu lên cho chó, cho  lợn” là chi tiết có lẽ ấn tượng nhất trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp.  Với những cây bút bậc thầy, chỉ xoay quanh chi tiết này, người ta có thể  viết hoàn chỉnh một truyện ngắn, khiến cho người đọc kinh hoàng về sự  thoái hóa nhân tính, sự vô cảm của con người trong thời thực dụng. Còn  với Nguyễn Huy Thiệp, nó chỉ là một chi tiết trong một loạt chi tiết  khác mà Thiệp kể ra như ghi chép nhật ký. Ông bố có chửi: “Khốn nạn! Tao  không cần sự giàu có này” nhưng ông con, nhân vật chính, “người phát  ngôn” của Nguyễn Huy Thiệp thì lại xổ toẹt: “Thực ra điều này tôi biết  nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan trọng gì”. Thành ra hòa cả làng, còn tự  vấn tự viếc cái gì nữa!  
  Cái việc cố đắp điếm tư tưởng cho văn Nguyễn Huy Thiệp thì đến Nguyễn  Đăng Mạnh, một người rất ủng hộ Nguyễn Huy Thiệp, cũng đã viết: “Đọc  Nguyễn Huy Thiệp, lắm lúc cảm thấy thật sự hoang mang. Vì chẳng hiểu anh  định nói gì – đúng là chủ đề không rõ ràng”. Còn Bảo Ninh cũng từng  nói: “Tôi thích văn Thiệp nhưng thích cái gì thì tôi cũng chịu”.  
  Có thể nói xu hướng “tự vấn”của văn Nguyễn Huy Thiệp được thể hiện rõ  nhất trong cái truyện “Những bài học nông thôn”. Với những nhà văn lớn,  tầm tư tưởng cao, tác phẩm của họ như những cây thế, cây kiểng mà mỗi  cọng lá, nhành cây đều mọc theo chủ đích của tác giả. Còn Nguyễn Huy  Thiệp viết tự nhiên, văn như ghi chép, chuyện nọ xọ chuyện kia, trong  Những bài học nông thôn, cuối truyện nhà “hiền triết” đột nhiên xuất  hiện, rồi phát ngôn y như được tác giả mở công tắc vậy. Mà chỉ có một  thằng tâm thần mới bộc bạch triết lý một cách khiên cưỡng với một thằng  trẻ con 17 tuổi như thế này:  
  “Chú không chống nổi sự ngu dốt của bọn có học đâu. Tôi đây này, tôi  hiểu sâu sắc sự ngu dốt của bọn có học tai hại thế nào, vừa phản động,  nó vừa nguy hiểm, lại vừa mất dạy. Sự ngu dốt của bọn có học tởm gấp vạn  lần so với ở người bình dân”. Tôi hỏi: “Vì sao?”. Anh Triệu bảo: “Vì  chúng giả hình. Chúng nhân danh lương tâm, đạo đức, mỹ học, trật tự xã  hội, thậm chí nhân danh cả dân tộc nữa”.  
  Ý này quả là hay. Có điều Nguyễn Huy Thiệp coi chừng, bản thân ông cũng  là người “có học” đấy. Dù cái môn sử thì với tôi ai thoát khỏi mù chữ  cũng có thể học được, cái chính là phải hiểu sử cho đúng thì ông lại  hiểu sai! Và theo tôi, cái giới “chí thức, rận sĩ” của nước Việt hiện  tại như Hiếu Đằng, Tương Lai, Huệ Chi, Xuân Nguyên… cũng rất xứng đáng  được đứng trong đội ngũ “có học” của Nguyễn Huy Thiệp.  
  Riêng cái ý này: “Thời loạn dứt khoát phải có một nền thống trị bá đạo.  Còn thời bình, đường lối chính trị bá đạo sẽ đưa dân tộc đến thảm họa.  Chỉ có một nền chính trị vương đạo, dân chủ, tín nghĩa và văn hóa đạo  đức cao mới làm cho đất nước phồn vinh”.  
  Nếu nó được nói ra sau một cốt chuyện phù hợp sẽ là rất hay, còn tự dưng  “bật công tắc phát loa”, tư tưởng được nhét vào mồm nhân vật một cách  khiên cưỡng thì chỉ là việc nhai lại những điều cũ rích mà thôi. Còn  chuyện nhà “hiền triết” sau khi nói ra sự thật thì bị con trâu điên đâm  “lòi ruột” chết, có ý ám chỉ “chế độ độc tài giết chết tự do dân chủ”  thì lộ và sượng quá!  
  Dù vậy cần phải công nhận là thực tế có nhiều người thích văn Nguyễn Huy  Thiệp. Bởi văn Nguyễn Huy Thiệp có tiết tấu nhanh, gọn, sắc, chỉ cần  một lời đối thoại là đã có thể khắc họa được rất sinh động đủ loại nhân  vật; có nhiều chi tiết nghịch dị nên tạo được ấn tượng mạnh; nhiều chất  tếu táo nên đọc thấy vui; và cái cuốn hút được nhiều người có lẽ là cái  gia vị mà Nguyễn Huy Thiệp thường “nêm” vào văn mình, y như người ta cho  riềng, mẻ vào thịt chó; và ăn cà pháo chấm mắm tôm vậy. Nhưng cho  Nguyễn Huy Thiệp là “nhất”, là “thành tựu của đổi mới” thì không phải.  Nếu xét văn Thiệp với những chuẩn mực cao hơn thì Thiệp còn nhiều chỗ  “chưa sạch nước cản”. Còn về “thi pháp” thì Thiệp có nhiều chỗ đã bắt  chước giọng truyện Tầu và giọng của Vũ Trọng Phụng.  
  •  
  Sau việc làm bà đỡ cho văn chương Nguyễn Huy Thiệp, với tư cách là  Trưởng ban Sáng tác HNV, Nguyên Ngọc đấu tranh quyết liệt để cuốn Nỗi  buồn chiến tranh của Bảo Ninh được giải thưởng, với lời ca ngợi:“Đây là  cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm  nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình”.  
  Nhưng Nguyên Ngọc viết vậy là hoàn toàn theo cảm tính tùy tiện, chẳng ăn  nhập gì đến tác phẩm cả. Bởi cái sự “chiến đấu lại” của “một con người”  mà Nguyên Ngọc nói ở trên lại chỉ là “dầm mình trong rượu” và “làm cách  mạng văn chương” bằng cái nhìn tâm thần về cuộc chiến: “Tôi như sẵn  sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết  cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn.  Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá”.  
  Ngoài Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh, Nguyên Ngọc còn ca ngợi Dương Thu  Hương lớp trước, Đỗ Hoàng Diệu lớp sau, và những ngày hôm nay ca ngợi  Huy Đức viết “Bên thắng cuộc” lộn ngược lịch sử và bảo vệ Nhã Thuyên làm  luận án thạc sĩ về thơ của nhóm Mở Miệng.  
  Đó chính là những tác giả mà tác phẩm của họ là thành tựu văn chương  tiêu biểu theo quan điểm của Nguyên Ngọc, một con người từng là nhà văn  chiến sĩ, từng là Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà văn VN, từng dốc lòng soạn  cương lĩnh văn chương, bản “Đề dẫn”, dâng lên “Đảng kính yêu” của mình  như sau:  
  “Nói về phương hướng nội dung của văn học trong thời kỳ mới hiện nay,  chúng ta muốn trước hết tập trung… vào con người… Con người mới ấy, như  Đảng đã chỉ rõ, sẽ là kết quả tổng hợp cả 3 cuộc cách mạng: cách mạng  quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn  hóa. Đảng cũng đã sớm chỉ ra cho chúng ta… đó là con người lao động  Việt Nam làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa… chủ nghĩa xã hội”.  
  Một người bất nhất, trước sau đối nghịch như thế phải chăng cũng chỉ là  một kẻ cơ hội? Khi tham vọng không đạt thì trở thành kẻ bất đắc chí,  quậy phá, chứ có đâu sự dấn thân, sự đấu tranh cho sự tiến bộ, vì dân,  vì nước!  
  •  
  Nhưng vẫn còn một điều tôi không sao hiểu nổi, lẽ ra Nguyên Ngọc phải rõ  hơn ai hết những chuyện đến với mình là tất nhiên, nhưng theo Tô Nhuận  Vỹ trong To Nhuan Vy Nha van Viet nam: Doi moi va hoi nhap:  
  “Nguyên Ngọc cũng chua xót: “Đọc Pasternak, tôi thấy bi kịch Zhivago vẫn  là của một người đứng ngoài, đứng trên cả nước Nga mà đau. Còn bi kịch  của tôi: một người trong cuộc, đảng viên, cầm súng, nhiệt tình xây dựng  chủ nghĩa xã hội mấy mươi năm. Thế mà tại sao tình yêu của chính mình  lại bị dày đạp đến như vậy”.  
  Như vậy là ông vẫn luôn nghĩ mình bị oan. Và chắc ông cũng sẽ cho Văn Chinh chơi xấu mình khi viết:  
  “Nhưng, Nguyên Ngọc – người tạo gió trong văn học, góp gió nhiệt tâm của  mình vào gió lớn thời đại để ngọn cờ văn học được phất lên mạnh mẽ;  cũng chính là người làm hỏng, làm chậm đà đổi mới của văn học”.  
  Với tôi thì ông đúng là người “có học” theo cách nhìn của Nguyễn Huy  Thiệp. Riêng cái vụ nhìn ra cái lớp người “có học” ở nước ta này thì  thằng cha Nguyễn Huy Thiệp đúng là thông minh thật!  
  13-12-2013  
  _______________________________________________________  
  (*) Trong truyện Bài toán của tác giả Đông La.