Saptarishis - THẤT TINH BẮC ĐẨU
nguyenvanhien 14.03.2014 16:26:47 (permalink)
Tiểu thuyết
SAPTARISHIS
THẤT TINH BẮC ĐẨU

Tác giả: Nguyễn Văn Hiến
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.03.2014 16:29:23 bởi nguyenvanhien >
#1
    nguyenvanhien 14.03.2014 16:30:54 (permalink)

    Tóm tắt câu truyện
     
    Đôi dòng về lịch sử
    “Thất tinh Bắc Đẩu”, một cốt truyện lịch sử hư cấu, đặt bối cảnh tại vương quốc Chauhan (Ấn Độ), dưới triều đại trị vì của hoàng đế Prithviraj Chauhan (1149-1192). Thời điểm xã hội Ấn Độ có sự phân rã về địa lý, khi quân đội Hồi giáo Mamluk do tướng quân Muhammad Ghori lãnh đạo xâm chiếm đồng bằng sông Ấn, đến khi Qutb-ud-din Aibak tự xưng là Sultan (1206-1210), thành lập vương quốc Hồi giáo Islam đầu tiên tại Dehil. Bước tiến của đoàn binh Mamluk đã tàn phá nhiều đền đài, thành quách; hoại diệt tư tưởng Vệ-Đà và đồ sát các tín đồ Phật giáo. Để tránh cuộc chiến tranh hủy diệt do người Hồi giáo gây ra, nhiều cư dân miền Tây Bắc như Vidyaranya chạy loạn về miền Đông Nam trú ẩn.
    Tại cao nguyên Decan, Đạo sư Vidyaranya khuyến khích hai học trò của mình, Harihara và Bukka Raya, thành lập vương quốc Vijayanagara, một đế chế Hindu như đúng như ý nghĩa nguyên thủy của giáo lý Vệ-Đà. Vidyaranya mở đầu cuộc cải cách xã hội lớn ở Vijayanagara, xóa bỏ chế độ phân biệt giai cấp hà khắc như vốn có trước đây. Giai cấp Bà-la-môn tuy còn được trọng vọng nhưng bị giảm bớt quyền hành, họ chỉ còn tập trung vào tôn giáo và nghệ thuật. Tầng lớp quý tộc tham gia vào tư pháp địa phương, giữ gìn trật tự, nhưng bị cấm có thái độ phân biệt giai cấp. Còn các đẳng cấp thấp khác như người Thu-đà-là, như cộng đồng người Hồi giáo, người Phật giáo đều được cử người đại diện tham gia vào hoạt động xã hội của địa phương và phản ánh nguyện vọng của mình lên triều đình.
    Với mong muốn thiết lập một xã hội hòa hợp, dân chúng bất kể giai cấp đều được tiếp cận giáo dục và kinh sách Vệ-Đà theo ý muốn. Sự mở rộng học hành, mau chóng đưa Vijayanagara trở thành đế chế có rất nhiều triết gia, học giả, nhà thơ nhất vào thời kỳ đó.
    Các vấn đề về nữ quyền như tham gia vào hoạt động thương mại, nghệ thuật, tôn giáo, cũng được giải quyết; và Vijayanagara lần đầu tiên có học giả là phụ nữ. Sự kỳ thị kỹ nữ devadasi cũng bị bãi bõ và nghề mại dâm nữ được xem như là một công việc hợp pháp.
    Trên phương diện triết học và tôn giáo, chủ nghĩa giáo điều bị lãng quên, các học giả như Vidyaranya, Dvaita chủ viết các bộ luận kinh Vệ-Đà, hay tranh biện xung quanh triết lý của các trường phái bất nhị Advaita (Vedanta). Hướng con người tới con đường tri thức của chiêm nghiệm thay thế cho con đường tế tự.
    Mối liên kết trong một xã hội bình đẳng không những giúp đế chế Vijayanagara trụ vững trước những cuộc chiến của quân Hồi giáo, mà còn tạo ra một vương quốc phồn thịnh kéo dài trong hơn hai trăm năm.
    Kết cấu câu truyện
    Nhân vật chính Ananda (nghĩa là hỉ lạc) được xây dựng dựa trên hình tượng Đạo sư Vidyaranya, từ khởi đầu có mong muốn khám phá cảm xúc nội tại nhưng không được thỏa mãn và bỏ đi lang thang. Đến thời điểm Ananda hội ngộ đạo sư Ankura của trường phái Mật Tông Đại Thủ Ấn, rồi gặp gỡ các nhân vật như Acinta, Prithviraj Chauhan, Chand Bardai… trong một xã hội có đầy biến loạn và có dấu hiệu tan rã.
    Sự tiến triển nhận thức của Ananda, cũng là tiến trình phát triển chung đến một xã hội có tư tưởng dung hòa hiếm thấy trong lịch sử Ấn, tại vương quốc Vijayanagara.
    Thay vì viết câu truyện xuyên suốt dưới góc nhìn của Ananda, duy trì cảm nhận của anh ta về thế giới hiện hữu, nhưng tác giả cho rằng hơi khó thể hiện được quan niệm trong triết học Ấn, cái trực nhận về thế giới của mỗi con người chỉ qua là kinh nghiệm cá nhân chứa đầy ký ức riêng. Rồi sau khi Ananda nhập thất, bên trong nội tại, một phần nào đó mối liên lạc giữa nhận thức và ký ức bị cắt đứt, thật khó để miêu tả hình dung của anh ta về thế giới. Trong suốt câu chuyện, Ananda là sợi chỉ xâu chuỗi các cá nhân rời rạc thành một liên kết, và chỉ có thể là liên kết khi mỗi người hãy còn là một cá thể còn phân biệt sự hiện hữu, còn đối diện với những phiền não của chính mình.
    Không có tư tưởng nào trong quyển sách là riêng của người viết, nó là sự tổng hợp các triết lý Ấn giáo, và như chủ đề chính của nó là tư tưởng triết học Vedanta.
    Quá khó để trong thời gian sáu tháng có một tác phẩm hoàn thiện, nhưng bằng cách gỡ bỏ các khái niệm cổ điển, hy vọng quyển sách sẽ đem người đọc hòa nhập vào dòng triết học bất nhị Vedanta.
     
    Bạc Liêu, ngày 15 tháng 03 năm 2014
    Nguyễn Văn Hiến
     
     
     
     


    #2
      nguyenvanhien 14.03.2014 16:34:30 (permalink)
      CHƯƠNG 1. ANANDA
       
      1. Ananda tay cầm gậy trúc, lặng lẽ men theo con đường đá nhỏ nằm giữa dãy đồi phủ đầy màu tuyết trắng, dần đi xuống thung lũng trong màn hơi lạnh của một sớm bình minh. Chàng lướt nhìn những bông hoa loe kèn nở màu lơ đỏ, rung rinh sau một cơn gió vừa rớt xuống từ bầu trời mùa đông. Nơi những đám mây trắng mềm bông dạt trôi lửng lơ, vòng ôm mấy ngọn núi cao còn say mềm trong giấc ngủ dài chưa vội tỉnh. Và trong sâu thẳm của rừng núi Mây-Vờn, từ thiên nhiên, từ nhận thức; chàng nghe một lặng vắng trải dài, một lắng trầm ướp phủ lên tiểu quốc Chintpurni thành một cảm giác cô đơn rộng rãi, chẳng bến bờ. Nhưng Ananda không rõ thứ hiện diện bên trong, bên ngoài đấy là gì; cấu trúc nội tại của nó ra sao và chàng rất sầu muộn.
      Trong ký ức của chàng, Chintpurni vào đông như bao mùa đông của hình ảnh quá khứ và hiện tại. Một mùa đông cũ kỹ của nhận thức, của cảm giác: với tuyết, với trời mây, với lạnh lẽo, với cô độc; và mọi thứ, cùng lặp lại sống quanh cái vòng tròn kín khép, buồn chán. Tại mảnh đất ý tưởng cằn khô, trong chàng, chẳng có chút hạt giống trí tuệ nào hiện lên, sinh khởi. Chàng tự hỏi mình, cố tìm câu trả lời qua những điều từng đọc được trong kinh sách Vệ-Đà thiêng liêng. Dòng nào miêu tả rõ ràng cái kinh nghiệm nhân chứng quan sát về thế giới, trong một tự tại, để đi đến hợp nhất, để nghe lời reo mừng “Tat tvam asi” thốt lên từ thinh không, từ nguyên lý Brahma trường tồn, từ Chân Ngã sâu thẳm? Chàng chưa thấy. Chàng chưa biết. Còn thực tại, xung quanh thế giới nhị nguyên đang thị hiện rì rào qua nhận biết của chàng. Cái thấy với những sắc màu và dáng hình, cái ngửi được của những mùi hương ngào ngạt, cái cảm giác mềm mại qua xúc chạm, cái vị ngọt ngào của dòng sương nước đọng, cái nghe thấy của âm thanh vang vọng không hình tướng. Tất cả chúng thực là hiện hữu hay chỉ là cái biết sai biệt do nhận thức của chính chàng áp đặt lên qua kinh nghiệm thân tâm. Qua thứ ảo giác chập chờn vô thực, biến chuyển mau lẹ trong khoảnh khắt ngắn ngủi nhất của khái niệm thời gian, đến nỗi, chàng không còn cách nào để nhận ra cái nào là ảo giác và điều gì là thực tại. Chàng sống giữa vùng mênh mông đó như một người mắt sáng quờ quạng trong một màn đêm tối tăm nhất, tự định nghĩa từng thứ đồ vật nhờ cái chạm vào, nhờ cái cảm xúc dựng lên từ trí tưởng tượng, qua những hình ảnh xếp chồng của ký ức, của nhận thức. Cũng như cái cô đơn, cái trống rỗng khô cằn hiện diện và biến mất nhất thời trong tâm trí liệu có phải là Chân Ngã. Tựa như cảnh mặt trời mặt trăng nhìn ngắm xuống đại dương, xuống rừng cây, xuống núi non, xuống đồng bằng trong cái không nhận thức, trong cái hình tướng bất thị hiện.
      Chàng rối bời với những ý tưởng. Chàng không thể tự trả lời cho những câu hỏi. Chàng vẫn chưa tìm thấy Chân Ngã. Chàng chưa vượt qua cái kinh nghiệm cá nhân. Chàng chưa hòa nhập được vào cái nguyên lý tối thượng Brhama đang ẩn mình trong lòng đại dương của sự sống. Chàng cũng chẳng thể khơi nguồn cho tính Biết tự sinh khởi, cho cái Ta hiện hữu.
      Trong nỗi hoang mang trường dài đó, Ananda bắt đầu chán ngán và bỏ dở buổi niệm kinh thường nhật. Chàng không muốn trụ thêm vào một sự linh thiêng nào đó của các tượng thần, của chờ đợi cứu rỗi để tìm kiếm sự hợp nhất. Một sự hợp nhất vượt qua mọi giới hạn của nhận thức, trở về cái chân nguyên, cái nhất thể, cái khởi nguồn của bổn tính. Ananda thèm khát trạng thái thanh tịnh, nơi đưa chàng vượt xa mọi đau khổ, thoát lìa mọi khái niệm với hiện tượng giới, chấm dứt mối hình dung sự hiện hữu từ cái Tôi đang là; và nó đặt chàng tại trạng thái sung sướng nhất của chứng nghiệm tối hậu. Mong mõi đó. Tham vọng đó. Chúng biến hành trình tìm kiếm sự hiện diện của Chân Ngã trong Phàm Ngã là mục tiêu duy nhất, nhiệm vụ cuối cùng của Ananda, một người Bà-la-môn mộ đạo ở tiểu quốc Chintpurni. Nếu không thâm nhập được vào cái Ta hiện hữu, Ananda không biết sự tồn tại của mình ở cõi đời này có mục đích gì, ngoài chịu đựng phiền muộn mỗi ngày. Chàng nhiệt tình thực hành tâm linh với quyết tâm không thoái chuyển. Rồi chàng nôn nóng vì mãi chưa thành tựu, chàng đau khổ do mãi chưa tìm thấy đường hướng của cõi giới nhất nguyên bất thị hiện.
      Nhiều mùa đông tuyết nhuộm lên đỉnh núi Mây-Vờn đi qua, Ananda vẫn chưa thôi phiền muộn.
      Một buổi chiều Ananda ngồi thiền định không yên bên vách núi. Chàng đón nhận thế giới thị hiện trước mặt qua âm thanh ồn ào, qua hình ảnh nhảy múa. Rồi ký ức khởi lên những ràng ruộc của quá khứ, kéo dòng suy nghĩ gợn đến gợn đi, không ngừng như sóng vỗ.
      Sự hỗn loạn này, chúng đến từ đâu? Từ sự kiện bên ngoài huyên náo hay từ nội tại bên trong đầy bất tịnh. Có lẽ chàng phải tìm đến nơi nào đó tuyệt nhiên không có dấu chân người. Chàng cần cắt đứt hẵn liên lạc với bè bạn, với láng giềng. Chàng sẽ sinh sống một mình trong mảnh rừng hoang vu, trầm lặng thiền định trọn đời trong cô đơn.
      Rồi chàng quyết định đi, rời bỏ chổ mình sống, bước thẳng vào cánh rừng sâu u tịch. Chàng ngồi thiền định dưới gốc cây bồ đề lớn. Và trong cảnh cô lập đó, từng ngày qua đi, dù đói và khát giày vò, nóng và lạnh quấy nhiễu, nhưng chàng tuyệt nhiên không muốn từ bỏ. Chàng luôn quán tưởng thân thể mình là một thứ cặn bã, một thể vô ích nhưng luôn đòi hỏi được thoả mãn những dục vọng. Chàng phải chinh phục, phải diệt Ngã, phải bỏ đói nó, phải làm nó khô héo, phải để nó cam chịu tuân phục dưới lý trí tỉnh thức.
      Bảy ngày đầu chàng thiền định yoga kiểm soát đói khát và nhu cầu thực phẩm. Từ buổi mặt trời nhốm lên từ đằng đông, trải sáng trên đỉnh đầu, cuối về chạng vạng khuất. Từng buổi. Từng ngày. Cơn đói theo thói quen chiều chuộng hiện lên và réo gọi. Chàng chú ý vào cơn đói, vào vật vã, xem nó như cái cảm xúc đến và đi bất thường hằng. Chàng rút tinh khí prana, hoán chuyển thành thứ năng lượng thanh tịnh và rót chúng vào các kinh mạch hầu làm tươi sự sống.
      Bảy ngày kế tiếp chàng thiền định yoga kiểm soát thân thể dưới sức chịu đựng của đau đớn vật lý và thời tiết. Khi hơi lạnh trong bóng đêm của rừng sâu thấm vào lổ chân lông muốn kéo gục sức chịu đựng vị hành giả Bà-la-môn khổ hạnh, chàng không ngừng thiền định về ngọn lửa tam muội cháy lên từ luân xa dưới đốt xương cùng. Khi ánh nắng mặt trời muốn thiêu đốt cái thân thể gầy gò, chàng chú tâm về ngọn đồi phủ tuyết trên đỉnh núi Mây-Vờn vòi vọi cao.
      Bảy ngày sau chàng thiền định về yoga của lòng dũng cảm từ bỏ và sự bình thản khi đối diện với cái chết. Chàng quán tưởng sinh tử là một tiến trình tự nhiên của sống, một vai diễn dài hơi của mỗi cá nhân trong vở kịch cuộc đời. Chàng khoát lên mình một danh xưng và kết nối đến những mối liên hệ cộng đồng; rồi suy nghĩ, nói và hành động theo kịch bản của nghiệp đời, cho đến khi chàng trút bỏ nó, thanh thản hoàn thành trọn vai diễn qua kiếp sống của mình. Chết không phải là sự chấm dứt, một giai đoạn không thể kiểm soát, một lằn ranh đứt toạn của nhận thức, biết và không biết. Chết là một sự tiếp nối, một sự kiện để từ bỏ tham luyến và nhận ra có hiện diện của nhận thức tại một cõi giới tinh thần.
      Thời gian nối thời gian. Bình minh và hoàn hôn thay nhau ẩn hiện lên khu rừng già khuất tịch, lên thân người tu sĩ khổ hạnh mãi ngồi trầm tư chẳng hề ngoái động. Bốn mươi chín ngày cuộn trôi như dòng thác đổ rì rầm, trút bỏ một tàn đông, trả lại bầu trời một xuân trời tươi mới. Bên dưới bóng cây cổ thụ già, những xác lá bồ đề rụng rơi dọc thời gian, chất lấp lên thân thể của người tu sĩ như chiếc tháp gầy ướt đẫm những rêu phong, như vật liệu xếp lên dành hỏa táng cho thể xác héo mòn của người vừa mới chết.
      Khi sống và chết gần nhau, giòn gãy như tơ chỉ, mong manh bằng hơi thở. Từ bầu trời xa ùa đến một đám mây hồng, bỏ rớt một cơn mưa rừng hiếm lạ, tựa như dòng nước sông Hằng thiêng liêng chảy xuống từ suối nguồn bất tử. Những hạt nước mỏng manh chảy xuyên cành lá bồ đề, thấm ướt thân thể người tu sĩ gầy khổ hạnh. Gột rữa một hình hài, thanh tẩy những thân tâm. Trong niềm an tịnh thâm nhập và trú ngụ, Ananda đi vào một giấc mơ thiền định. Chàng thấy mình ở giữa bầu trời đêm không trăng sao, tràn đầy những ánh sáng dìu diệu. Có lẽ chàng vượt xuyên qua ba trạng thái thức, ngủ và mơ. Chàng gột sạch mình khỏi cái Tôi. Chàng thấy mình chẳng còn thân thể, dường như trú ở hư không của nhận thức, đứt lìa khỏi ranh giới sống và chết. Chàng ung dung ngắm nhìn những chú bướm nhiều sắc màu, những thực thể hình rễ cây, những đốm sáng kỳ dị hoan hỉ bay lượn chung quanh. Và chàng nghe, rõ ràng, tỉnh lặng đến từ cái rung động của từng cơn rung kẻ lá, từ tiếng chân thú dẫm lên lá khô giòn, từ tiếng réo mừng của chim chóc. Rồi chàng nhận ra mối liên hệ dẫn từ ý thức đến cái tham muốn tồn tại, đến lòng yêu thích hiện hữu. Qua sợi dây kết nối này, vọng tưởng khởi tạo ý niệm về thế giới, chúng bắt đầu cho lầm tưởng tự biện thân và tâm là một. Từ tư duy đó, ý tưởng không ngừng đặt tâm vào một hình hài riêng biệt, nhận thức không ngừng theo đuổi tâm linh bằng con đường đồng hóa sự thánh thiện là biểu hiện bên ngoài của thể xác và linh hồn phải tìm cách thống trị nó bằng cách khép mình vào khổ hạnh.
      Và chàng mơ mình đang đi trên con đường hành hương đến thánh địa Kailas linh thiêng. Chàng nhìn thấy một tu sĩ gầy gò đứng một chân trên tản đá, một chân gác lên đùi trong thế Hatha Yoga. Một tu sĩ khác ngồi bên gốc đá, da mặt héo úa như chiếc lá tàn mục rửa, đôi mắt mù cháy khô như lòng hồ khô cạn. Ông lặng im gãy đàn Tambura, hát bài ca Bhajan truyền thống ca tụng vị đạo sư của chính mình.
      Sinh khởi từ trái tim chộn rộn này,
      Tôi nhìn thấy ánh sáng và khát vọng chân lý
      Bậc thầy vĩ đại của tôi ơi!
      Từ đôi môi tôi hát lời cầu nguyện
      Từ thành kính tôi dựng một ngôi đền
      Bậc thầy vĩ đại của tôi ơi!
      Tại trái tim,
      Tôi muốn có sự an tịnh của ngài.
      Khi bài ca kết thúc, Ananda tò mò bước đến gần vi tu sĩ mù và hỏi: “Tại sao ngài lại đui mù thế kia?”.
      “Vì sao ư! Vì ta không muốn nhìn thấy cuộc đời hỗn loạn này. Ta đã không ngừng nhìn chăm chú vào mặt trời hàng chục năm. Ta hãnh diện vì đã trở nên đui mù. Ta dâng hiến đôi mắt của ta cho Thượng Đế và chẳng hề hối tiếc”. Vị đạo sĩ tự hào trả lời.
      “Thế ngài có tìm được chân lý? Có trụ được vào cảnh giới an lạc không?”.
      “Chân lý sao tìm được dễ dàng thế anh bạn! Nhưng ta thích thú với việc của mình làm”. Và vị tu sĩ mù chấm dứt cuộc nói chuyện với Ananda bằng cách lặp lại bài thánh ca quen thuộc của mình.
      Chàng nhìn ngắm vị tu sĩ mù và tự hỏi liệu chân lý có sinh khởi lên trong hình dáng của con người này, qua hành động đọa đày thể xác trong tuyệt vọng. Chàng rời đi trong nỗi hoang mang, nghĩ ngợi rằng có lẽ sự khổ hạnh chỉ là sự đọa đày không lối thoát. Và thất vọng đó kéo chàng giật mình tỉnh giấc. Chàng từ từ mở mắt. Một vùng ánh sáng mặt trời rọi vào vùng biên giới khép tối vừa mở cửa làm chói loà. Chàng hít một hơi thở dài. Chàng ngắm nhìn khu rừng xanh đương rì rào gió thổi, nghe tiếng chim líu lo đùa giỡn bên tai. Thân thể chàng giờ chỉ còn da và xương, hơi thở yếu ớt, đôi mắt lỏm sâu, móng tay dài ra, mái tóc phủ xoè trước mắt. Chàng nhẹ nhàng cử động chân tay trong cảm giác tê dại khó nhọc. Chàng xoa bóp tứ chi, rồi ngồi dậy, lảo đảo trên đôi chân run rẫy. Chàng cố giữ thăng bằng, nhẹ nhàng, từng bước đi ra khỏi cánh rừng trong một ý nghĩ mông lung.
      2. Mặt trời vừa nhú lên trên cái nền rực đỏ dưới chân núi.
      Đôi chân Ananda chạm vào bờ thung lũng, lên lớp cỏ khô úa vàng màu thời gian rớt đọng.
      Sau một ngày thiền định không dứt, chàng lại bộ hành khắp vương quốc Chintpurni, đi trong lang thang vô định. Đôi chân không mỏi mòn đó vượt qua những ngọn đồi, dòng suối, con sông, đến làng mạc và chợ búa. Chàng đến dưới ánh nắng trời, chàng đi dưới màn đêm lung linh những vì tinh tú lấp lánh sáng; hầu mong làm tươi mới cái nhận thức trong tâm tưởng với những điều hiện hữu ở chung quanh.
      Và trong bầu trời bình minh tỉnh lặng sáng nay, chàng chậm bước, lướt nhìn chung quanh một lượt. Chàng nhận ra ngôi làng của mình ở đằng kia. Và cạnh bên chổ chàng đứng. Trên ngọn đồi thoai thoải, những người đồng môn đang ngồi thiền định, khép mắt, mặt hướng về phía ánh bình minh rạng đỏ. Ananda từng học điều này, cách thiền định trong những buổi sáng sớm, hoà mình vào thiên nhiên, nhìn ngắm bằng tâm tưởng cái rung động dời chuyển truyền đến từ buổi giao thời của ngày và đêm tối. Trong một vòng tròn bất tận của ảo giác về khái niệm thời gian: khởi đầu từ đâu, kết thúc tại đâu; không quá khứ, chẳng tương lai. Chờ đợi và tìm kiếm trong khoảnh khắc ngắn ngủi theo đường tròn đó, tu sĩ sẽ thấy một giao thoa trầm lặng, một ranh giới vi tế. Và nhận ra giá trị của sự sống, của vòng đời, của cái khe hở để tẩu thoát khỏi luân hồi sinh tử. Ananda chỉ hiểu được điều này sau bốn mươi chín ngày ngồi biệt lập bên gốc cây bồ đề, trong cánh rừng kín thẳm sâu.
      Dường như ngay lúc này, trong cảm giác mơ hồ, chàng có thể chạm vào ranh giới của sống và chết, hiểu rõ giá trị của sinh tử, của tồn tại và không tồn tại. Nhưng điều đó vẫn chưa đủ, so với Tuyệt đối, cái trí của chàng còn đang biến dịch, chi phối suy nghĩ và hành động, vùi cái Ta ẩn tàng sau bức màn ảo vọng. Đau khổ và hân hoan vẫn thay nhau ẩn hiện trong từng cảm xúc, từng nhận thức.
      Ananda lặng lẽ bước vào thung lũng.
      Trước mặt chàng, bóng dáng người thợ rừng quen thuộc hiện ra trong tướng đi nhanh nhảu. Từng bước chân nối liền trên cỏ úa, thu rút dần khoảng cách từ hướng đường đối diện. Gã thợ rừng tay cầm búa, miệng nghêu ngao hát bài chân ngôn trích rút từ kinh sách:
      Trong mênh mông của dặm đường
      Nào có hay cuộc đời ai dài ngắn
      Phù du của đời người
      Sao sánh bằng chân lý vĩnh hằng
      Người thợ rừng chạm mặt Ananda, vung tay hoan hỉ: “Ananda đấy ư! Chàng trai Bà-la-môn trẻ tuổi đĩnh ngộ của vương quốc Chintpurni đấy ư! Anh đã về và có lẽ anh đã tìm kiếm được chân lý rồi chăng?”
      Ananda nhìn gương mặt sạm đen của Nalanda. Từng chút trong ánh mắt, dưới làn da, sau nụ cười kia hiển hiện những mừng rỡ và trông đợi. Chàng cảm thấy chút tủi hổ, và ngập ngừng đáp:
      “Nalanda! Đúng là tôi luôn có khát khao đi tìm chân lý. Đúng là tôi muốn thâm nhập thật sâu vào Chân Ngã. Nhưng bạn ơi! Sau bốn mươi chín ngày thiền định chốn rừng sâu, cái tôi nhìn thấy chỉ một giọt nước trong một đại dương rộng lớn. Và tôi biết, nếu tôi không hành động ngay từ bây giờ, cuộc đời ngắn ngủi sẽ không cho tôi cơ hội kịp hoà mình vào miền thanh tịnh. Tôi trở về đây để từ biệt bạn, chia tay tất cả mọi người, tôi sẽ rời vương quốc Chintpurni thân yêu và đi lang thang. Tôi muốn tìm yết kiến các nhà hiền triết thông thái, học hỏi cách soi rọi sự hiện diện của cái bất nhị ẩn tàng.”
      Nalanda lùi lại một bước, nhìn Ananda, thoáng chút thất vọng. Hắn nghĩ, chàng trai trẻ này đã từ bỏ danh hiệu “người đàn ông nhỏ thông thái nhất vương quốc Chintpurni”, anh ta vào rừng sâu thiền định nhưng lại không tìm được điều gì mới mẽ. Đó là một sai lầm chăng?
      “Ananda! Hay là anh trở lại vị trí của mình tại ngôi đền Masroor. Đợi đến khi vị trưởng lão viên tịch, anh sẽ trở thành một đạo sư mới. Với kiến giải uyên thâm của anh từ kinh sách Vệ-Đà, từ Áo-nghĩa-thư chúng tôi sẵn lòng cung phụng anh như một vị thánh”.
      Ananda xua tay: “Bạn à! Tôi hiểu rõ lòng tốt của bạn! Ngay từ nhỏ, cha mẹ tôi đã mong ước đứa trẻ nhỏ của họ trở thành một nhà hiền triết và tôi được giáo dục để trở thành một sagu. Đọc và tìm hiểu kinh sách là nhiệm vụ hàng ngày, là vui thú của tôi. Sự cố gắng đó đã đưa tôi trở thành người học thuộc nhiều điều giáo huấn nhất từ các bậc hiền triết và tôi sẵn sàng trích dẫn lại nó như một sự thông thái khởi nguồn từ chính mình trong một kiêu ngạo sáng chói.”
      Ananda ngập ngừng lấy hơi thở: “Nhưng đến một ngày tôi nhận ra, cái kiến giải phát sinh từ tôi dù có khôn lanh. Lời tôi nói dù có hùng hồn, dù có đáng thuyết phục và kéo dài vô tận đến thế nào, chúng cũng chẳng có lợi ích gì cho cái linh hồn bên trong tôi bị hỗn loạn. Tâm trí tôi đang đứng giữa một cánh đồng hoang mang sâu thẳm không bờ bến, hứng chịu một gió trời đau khổ thổi lồng lộng đến từ hư không mờ mịt, bối rối không biết bao giờ ác mộng cuộc đời tôi mới chấm dứt. Vậy thì, cố lừa dối, chốn chạy đối diện chính mình bằng cách ngồi lên bục cao và thuyết giảng huyên thuyên liệu có ý nghĩa gì. Hành động đó chỉ ru ngủ lòng khao khát cái mới. Nó khiến một bậc tri thức trở nên u tối. Nó như việc tôi trồng lúa trên mảnh ruộng khô cằn, gieo hạt mầm trên đá sõi; những hành động chẳng đem lại sinh trưởng tốt lành cho trí óc.”
      Rồi chàng ôm đầu mình trong vẻ mặt day dứt: “Và một ngày tôi nhận ra mình không thể cứ mãi đi trên cái lối mòn nhàm chán đó, đến nỗi chẳng hiểu rõ chính mình là cái gì. Cái kiến thức được chứa đựng trong ký ức của tôi không phải là nền tảng tuyệt đối mà tôi thực sự thèm khát kiếm tìm, hân hoan muốn thâm nhập. Sự tổng hợp và trích dẫn kiến thức đó chỉ là sự thu nhặt vô ích, là bề mặt tô vẽ một thành công của trói buộc. Khi màn đêm buông xuống, bóng tối thâm u trùm phủ lên dãy núi Mây-Vờn nhòe nhạt, tôi đã đối diện thật sự với chính mình, nhìn thấy tư tưởng này đã chết dần chết mòn trong sự chấp trước, từng ngày, từng ngày một. Tôi không còn muốn phung phí phút giây nào của cuộc đời chỉ dùng đốt cháy mình trong ngọn lửa mỗi ngày bừng tăng trưởng, ngọn lửa thắp lên từ vọng tưởng và ngã mạn. Tôi muốn thoát khỏi cách tiếp cận vấn đề qua cách hiểu biết từ ký ức quá khứ. Và đó là lý do tôi muốn ra đi khỏi vương quốc Chintpurni.”
      Nalanda bỡ ngỡ nhìn Ananda và nhận ra sự thông thái của bạn đã vượt qua sự hình dung của mình nhưng hắn vẫn cảm thấy lo lắng cho chàng:
      “Ananda! Tôi hiểu rõ lòng khao khát giác ngộ của anh. Nhưng anh đành lòng rời bỏ vùng đất Chintpurni thân thuộc, nơi cho anh sinh ra và nuôi dưỡng thân xác này lớn lên qua từng dòng sữa, từng hạt lúa ngọt lành. Dù cha mẹ anh không còn nhưng vẫn còn tôi, còn láng giềng và nàng Darina, người vợ chưa cưới đang chờ đợi anh từng ngày, trong ngôi làng bé nhỏ của chúng ta.”
      Ananda bồi hồi nhìn Nalanda qua ánh nắng mặt trời phết mềm lên tái tóc. Thật lòng, mối lưu luyến trong anh với nàng Darina, với con người, với vùng đất Chintpurni thân thuộc hãy còn sôi nổi. Nhưng một khát khao giác ngộ, một thôi thúc hành động lại lớn hơn rất nhiều những tham luyến đang hiện tồn trước mắt.
      “Cám ơn bạn! Những điều đó tôi đã nghĩ đến và tôi đã có quyết định của riêng mình.”
      Nalanda cầm tay Ananda: “Tôi chúc anh thành công trong sự lựa chọn của chính anh. Tôi hy vọng, một ngày kia, mình sẽ có cơ hội quỳ dưới chân vị thánh của vương quốc Chintpurni và được chính anh ban phép lành trong một lễ tẩy rữa”.
      Ananda mỉm cười từ giã Nalanda. Chàng đi về hướng ngôi làng trong ánh nắng trời vừa bừng phả lên ngọn đồi cây rì xanh. Chàng nôn nao muốn tìm Darina để nói lời giã từ.
      3. Mặt trời toả những tia sáng mềm mại lên dòng suối Bạch-Thuỷ, lên con nước xanh trong chảy chạm qua mấy hòn đá nhẵn mòn. Theo dòng suối mềm mại khơi tạo thuỷ âm róc rách, hoà lẫn vào tiếng lá cây rung động xạc xào, tiếng chim hót thánh thót vọng ra từ lùm cây đỏ. Ananda chăm chú lắng nghe từng rời rạc âm, rồi lại lắng nghe chúng trong một toàn thể của bản hợp tấu thiên nhiên. Và xuyên qua nó, từng dòng hồi ức chảy về, chàng cảm thấy quyến luyến khi nghĩ về Darina, về sự kiện xa cách nàng mà chàng sắp đối mặt.
      Chàng đi về hướng nhà Darina, trong đầu lởn vởn những điều thắc mắc về giai điệu thiên nhiên vừa nghe thấy. Chàng không hiểu những âm thanh, những nhạc điệu, những lời nói hiện diện và biến mất: liệu chúng vô thường hay vĩnh cửu? Chúng có phải được tạo tác từ những nguyên tố của hư không và cái chàng nghe thấy đó chỉ là một biến hình qua tiến trình tái xác nhận của thính giác và kết luận của nhận thức. Âm thanh xuất hiện qua thiên tạo, qua nhân tạo và kết thúc bằng thực nghiệm; giống như những điều được nói đến trong Vệ-đà kinh. Và cái lưu luyến vừa khơi dậy trong tâm tưởng là sầu muộn của chính chàng, chính ảo giác đã gợi cho chàng ý nghĩ âm thanh là một bản thể thường tại.
      Ananda chấm dứt ý nghĩ mông lung khi nhận ra mình mãi đuổi theo những mô tả mà chẳng thể có câu trả lời. Khi Ananda ngẩn nhìn lên, chàng đã thấy Darina mềm mại diễm kiều trong chiếc áo sari xanh màu mây, dệt những hình bông hoa trắng và đỏ. Mái tóc nàng mịn đen và buông xuống, lay động như dòng suối chảy từ đỉnh núi Mây-Vờn cao xa nhất. Darina đón chàng trong nụ cười. Nụ cười sáng đẹp như một bông hoa vừa chớm nở từ buổi bình minh ướt sương, vĩnh cửu. Nụ cười chàng đã thân quen ngắm nhìn, mến thuộc từ thuở nhỏ.
      “Ananda! Chàng đã về! Những ngày trông đợi mỏi mòn của em rồi cũng đến ngày được hồi đáp. Cám ơn Brahma! Cám ơn những vị thần đã mang chàng trở về trong bình yên”.
      Ananda mĩm cười. Chàng đứng đối diện Darina trong khoảng cách thật gần, nhìn thật lâu vào đôi mắt, quanh khuôn mặt, lên bờ môi. Và chàng nhận ra, trong cảm xúc vừa khơi dậy, từ sâu thẳm hiển hiện một tâm trạng quyến luyến, không nở rời bỏ. Chàng không hiểu, tâm trạng này có phải là hạnh phúc được ở kề bên người mình thương yêu, hay là một vui thú chỉ hiện diện thoáng qua trong cảm xúc ngắn ngủi hiện thời. Chàng bối rối. Chàng không biết bắt đầu mở lời về điều mình đã dự định như thế nào.
      “Ananda! Có lẽ chàng đã đói. Hãy vào đây! Em có một bát sữa dành sẵn cho chàng. Và sau đó, chàng hãy kể cho em nghe về những câu chuyện của chàng.”
      Darina nắm lấy bàn tay Ananda, dẫn chàng đi qua cánh cổng rào trồng đầy những cây hướng dương trỗ màu vàng bông, cùng bước vào nhà trong tiếng vòng xuyến chạm cọ len keng. Đây! Giữa khoảng cách gần gũi sau chờ đợi mỏi mòn, bên người bạn yêu thương, Darina như chìm vào cơn say hạnh phúc, vào giấc mộng tình nồng. Như vào những buổi chiều muộn nắng tàn, nghe tiếng chim khướu gọi bạn tình, nàng bước ra ngồi một mình bên giồng đậu lăng xanh lá và nguyện cầu. Mơ bàn tay gầy gò này một ngày vụn dạy vén mái tóc nàng lên, đeo qua cổ chiếc vòng dây đính ước mangala sultra. Rồi chàng và nàng sẽ mãi kề bên. Trong nhà, ngoài ruộng. Chàng ngồi xay bột bên cối đá bên góc bếp. Nàng đánh sữa, khuấy bơ trong chiếc nồi đất và bồi hồi nhìn ngắm chàng qua làn khói xanh lan tỏa. Chàng cuốc đất, gieo mùa đậu lăng sớm mới lên giòng đất ẩm tươi. Nàng vắt sữa bò bên gốc xoài và ngoái nhìn, thấy nụ cười chàng tươi đọng giữa nắng trời thanh trong.
      “Chàng hãy uống bát sữa này, nghĩ ngơi và thanh tẩy những bụi đường”.
      Darina dâng chàng bát sữa đầy. Từ hơi ấm của lòng bàn tay ấm áp, nàng bồi hồi, nhìn thật sâu vào đôi mắt chàng, cảm nhận những yêu thương nhưng nàng không nhận ra người đàn ông gầy gò kia, trong tư tưởng đang chứa đầy một ưu sầu, một nỗi niềm kín khép.
      4. Ananda ngồi thiền định trước ngôi nhà nhỏ của mình, trong suy nghĩ hiện diện đầy những phân vân. Chàng thôi khép mắt. Chàng ngắm nhìn những chiếc lá vàng rơi rụng, xếp lắp đầy khoảnh sân. Chàng cố đắm mình vào cây cối, vào bầu trời, vào dòng sông để xua tan những phiền não đang xáo trộn.
      Sau lần gặp Darina vào buổi sáng, chàng đã không có can đảm nói lời giả từ với nàng. Và trong suy nghĩ, trong ước muốn: chàng chỉ muốn dấn thêm vào cảm xúc hạnh phúc đến từ gia đình nhỏ nhoi, từ người vợ kiều diễm, từ những đứa con sinh thành ở tương lai. Và chàng sẽ chọn con đường khác để thâm nhập vào chân lý, con đường tương đối dành cho một phàm nhân, dùng phương cách tận hiến cuộc đời cho các thần linh, dùng Pháp thanh lọc tâm thể và duy trì mình trong một trật tự hữu hình của Brahma, hoặc dùng tri thức và sở học để biện luận các thánh kinh.
      Trong nhận thức của chàng, bây giờ, những mông lung mờ ảo của dục vọng vây lấy như quần mây đen bao quanh bầu trời và nắng vàng biến mất sau vô vọng. Tâm trí như ngọn lửa sáng ẩn mình quanh dãy khói mờ. Trí tuệ như chiếc gương sáng nhạt nhoè dưới lớp bụi thời gian bám đọng. Và giữa khung cảnh ảm đạm đó, năng lượng từ ngọn lửa dục vọng đã nuôi lớn cảm xúc, đối trọng cân bằng với tâm trí, hình thành mối xung đột đi-ở lớn dần trong đầu người Bà-la-môn khổ hạnh.
      Ananda vẫn ngồi đó, bất động, đôi mắt mở to qua điểm nhìn không mục đích. Và trong ý nghĩ, đầu óc chàng chứa đầy thứ năng lượng của bất phục và tuyệt vọng giữa một buổi trưa nhuộm bình yên lên ngôi làng nhỏ bé ở vương quốc Chintpurni.
      Bên ngoài mảnh sân nhỏ, nơi Ananda đang ngồi, một cơn gió xa lạ rớt xuống từ bầu trời nắng trong, cuốn chiếc lá bồ đề úa vàng rơi lên bàn tay của chàng trai trẻ tuổi. Ananda nắm nó, ngắm nhìn qua một gượn hình dung trên những xúc cảm phiền não. Những đường vân, một mãng màu chuyển vàng xanh, một dáng hình tương đối đồng nhất bên phải và bên trái. Chàng nghĩ, chúng có vẻ hiện diện trong một trật tự của tạo hoá, một khuôn đúc của tự nhiên, một sự cân bằng hữu hình. Và hình như một trật tự tâm thức như thế đã được ghi trong thánh thư Vệ-đà, từng lớp từng lớp của linh hồn đang xếp chồng trong cái khuôn khổ từ nặng nề đến thanh tịnh: bắt đầu từ cảm xúc, đến các giác quan, đến tâm trí, đến trí tuệ và cuối cùng là sự hiện diện cao cả của Chân Ngã. Nghĩ đến đó, đột nhiên trong đầu Ananda dội vang liên hồi những âm tiết thiêng liêng “AUM” trong một linh ảnh sáng chói của tam vị nhất thể. Và như một phản xạ được đánh thức từ trí tuệ khơi nguồn từ dòng mật chú, Ananda đứng dậy, cầm gậy trúc và đi lang thang trong một đường hướng vô định.
      Chàng bước mãi miết. Lang thang đi đến khi chạm bàn chân vào bờ mép hồ cong tựa hình mảnh trăng non, lao xao một nước rờn xanh. Và chàng nhận ra hồ Quỷ Khóc, một nơi nổi tiếng ở vùng đất Chintpurni. Chổ dành cho các linh hồn người chết nhảy xuống tẩy rữa ký ức cái kiếp sống vừa mới trút bỏ của mình, và trong một lãng quên, nó sẽ luân hồi, tái sinh trong một thể xác bé nhỏ của kiếp người mới.
      Ananda cong lưng đứng nhìn dáng mình thất thểu bên mõm đá. Mặt hồ dưới kia đang đựng vầng trăng cao phản chiếu xuống mặt hồ trong một biểu hiện vỡ vụn. Giữa dãy ánh sáng trắng bao lấy dãy đồi, từng tràng âm vi vu của gió trời cuốn vào vách núi, phả xuống mặt hồ thành những hình sóng vỗ, xô mình lăn tăn. Trước cảm giác lạnh lẽo phất phản từ hơi nước tụ, kẻ lang thang nhận ra mình chẳng khác nào một con quỷ hốt hoảng chạy đi tìm lối thoát sau khi vừa đánh mất đi thể xác qua một tiến trình chết. Vì mãi đuổi theo lạc thú cuộc đời, nó chẳng màn để tâm đến vùng biên của sanh tử, của sở hữu và bất sở hữu, của tồn tại và phi tồn tại. Đến khi sống tại tận cùng cõi sinh, sinh tại khởi đầu cõi chết, nó mới nhận ra vết tiếp nối của đời người, nó đau khổ và tuyệt vọng, muốn kiếm tìm một kết thúc, chấm dứt hoàn toàn mớ ký ức đương xáo trộn buồn trong xúc cảm hỗn tạp. Tại cuộc phiêu bạt lơ lững khắp hư không trời tư tưởng, nó thấy mảnh hồ bán nguyệt ngữa nhìn trời bên vách núi lao xao. Nó bước đến. Sầu bi soi mình xuống dòng nước trăng đêm. Gào khóc bên mép bờ. Trong run rẩy của sầu khổ tận cùng, nó nhảy xuống, đắm mình vào nước, tìm chết.
      Ananda bước lên bờ. Sau khi nhấn chìm thân thể vào dòng nước mát trong, chàng ngồi thiền định trên tản đá bằng phẳng kế mép bờ hồ sáng nước, khép mắt, đắm mình trong cảm giác mát rượi đến từ sự tẩy rửa thân thể. Rồi chàng chú tâm thiền định về cái chết, về luân hồi, về tái sinh, về cuộc phiêu bạt đầy mệt mõi của đời người, cuộc tìm kiếm sự thoả mãn vô cùng ngắn ngủi của cảm xúc.
      Trên dốc thời gian trôi. Trăng treo mình cao lên giữa bầu trời xanh, ngó màn sương mỏng nhẹ rớt giăng giăng lên dãy đồi, lên cỏ cây, lên mặt hồ; gom tụ thành những ảo mờ của khói sương huyền nhiệm. Tại khung cảnh thiền định đó, Ananda đi vào một giấc mơ. Chàng thấy mình xuất hiện trên một ốc đảo, xung quanh, những khuôn mặt người lộ rõ những xúc cảm quen thuộc của một phàm nhân: sợ hãi, âu lo, tức giận… Và những âm thanh lớn nhỏ, suy nghĩ và tiếng nói, khởi vọng từ họ vô cùng huyên náo, lộn xộn, chồng lấp và vô trật tự.
      Ananda ngơ ngác. Chàng chẳng hiểu điều gì đang xảy ra. Chàng định kéo một người đàn ông đứng đối diện chính ông qua tấm gương để hỏi. Nhưng dường như ông ta đang nói chuyện một mình. Một độc thoại. Một thố lộ về những luyến tiếc không nở dứt bỏ.
      “Chết! Chết!… Chết không phải là hết. Ta còn của cải. Ta còn công danh. Ta còn những thứ vui thú từ nhân thế chưa tận hưởng hết. Ta không tin mình đã chết. Đây! Đây!… thật sự chỉ là một cơn ác mộng xuất hiện sau khi ta say sưa”.
      Từ đằng xa, Ananda thấy một người đàn ông mặc áo đen đang đứng trước một eo bờ, cạnh một chiếc cầu nhỏ bằng sợi tóc bắc qua bên kia bờ; bên dưới, một đại dương lửa và dung nham đỏ lòm đang cháy đỏ. Ông ta dõng dạc tuyên bố:
      “Kẻ nào muốn thật sự tái sinh mình trong một kiếp sống mới, hãy bước qua dòng sông lửa này, đi trên chiếc cầu nối bằng sợi tóc của thần chết, qua bên kia bờ các ngươi sẽ nhìn thấy ranh giới của luân hồi. Nhưng các ngươi nên nhớ rằng, chỉ có linh hồn nào vứt bỏ hết những dục vọng của xúc cảm mới có thể bước lên chiếc cầu đó, bằng không, các ngươi sẽ rơi xuống và bị nhốt trong lửa đỏ của địa ngục đến hàng vạn năm”.
      Người mặc áo đen chỉ lên bầu trời rán đỏ, một ảo ảnh hiện ra, những con người với dáng hình kỳ dị bụng to, cổ nhỏ; tất cả họ đang lang thang đói khát trên một biển lửa dung nham.
      “Các ngươi thấy đó! Thế giới này là một tấm gương phản chiếu cảm xúc của chính các ngươi, nó luôn hiện diện trước các ngươi trong từng nhận thức một, không sai biệt”.
      Giọng ông ta trầm dài: “Chỉ ở thế giới này các ngươi mới nhận ra cảm xúc chính là một thức ảo giác: các ngươi đói các người sẽ nhìn thấy thức ăn trước mắt, các ngươi sợ hãi một kẻ nào đó thì hắn ngay lặp tức sẽ hiện diện trước ngươi, các ngươi nghĩ đến ai lặp tức các ngươi xuất hiện bên người đó… nhưng những thứ hiện ra kia không thể làm các ngươi thoả mãn; và tất nhiên, đau khổ sẽ mãi đeo đuổi, giày vò linh hồn các ngươi vì sự không thể thoả mãn này. Chỉ đến khi nào, linh hồn các ngươi nhận ra cảm xúc là ảo giác, và các ngươi quyết tâm từ bỏ; lúc ấy, các ngươi sẽ qua được bờ bên kia của sự sống. Đó là ý nghĩa hình ảnh của những con quỷ đói.”
      Ananda định tiến gần đến diện kiến người đàn ông áo đen, hỏi thêm vài điều khác, nhưng một cơn trấn động lớn làm rung chuyển bầu trời đỏ đã làm chàng hồi tỉnh.
      5. Ananda đứng trước đền Masroor nhìn mặt trời đổ nắng xuống mặt hồ nước xanh. Qua bóng nước lao xao, hình ba tượng thần Rama, Sita và Lakshmana chạm đá theo phong cách Indo-Aryan rung rinh sau một trận gió lùa.
      Sau giấc mơ hôm qua. Vào buổi sáng đó. Một hạt mầm tái sinh được gieo vào tâm thức chàng. Đã có một quyết tâm dứt bỏ thành hình. Một hành động đoạn tuyệt hiện hữu. Chàng sẽ bắt đầu một thay đổi từ đây. Từ giả vị đạo sư đầu tiên, người đã dốc hết công sức dạy dỗ Ananda. Chàng sẽ lên đường, ngay hôm nay, không chút gì do dự.
      Ananda thẳng bước vào đền. Chàng đi dọc theo hành lang nhỏ dẫn đến thiền đường. Bên trong căn phòng đá yên tịnh, vị đạo sư già tóc bạc ngồi thiền định chú mục, mặt quay vào vách, trầm lặng, đắm chìm suy tưởng về những bài thánh thư, về những huấn dụ của các bậc hiền triết Bà-la-môn vĩ đại.
      Chàng còn nhớ, lần đầu tiên được gặp đạo sư Viupa trước cổng ngôi nhà mình, bên dòng suối Bạch-Thủy đầu xuân, trong buổi chiều muộn nắng tàn. Và thân phụ dẫn chàng đến bên thầy, cuối đầu bái lễ, trao lá số tử vi vẽ mười hai cung hoàng đạo theo sơ đồ tử vi jyotisa. Ngài cầm xem tấm da dê, run run và bật thốt:
      “Ôi! Con trai ta. Ngôi sao chính tinh Surya đang ẩn mình tại bầu trời thanh tịnh Dharma. Thật may mắn cho chúng sinh, với nghiệp quả tích tụ tốt đẹp này, con sẽ sớm trở thành một bậc đạo sư lừng lẫy.”
      Đạo sư mĩm cười, xoa đầu cậu nhỏ, làm một lễ ban phép lành và trao cho chàng một chiếc lá bối viết dòng chữ: “Này con! Hãy nhớ đi trên con đường thánh đạo, con đường minh triết, con đường cắt lìa nhành khổ mệnh”.
      Từ hôm bắt đầu buổi lễ vidyarambha, đánh dấu ngày đầu tiên trong đời đi học. Sau khi nghe vị thầy tu trì tụng xong hồi kinh ban phước lành, cha bước đến, đặt chiếc lá bối vào lòng bàn tay ngữa mở, bảo cậu hãy gắng trở thành một sadhu vĩ đại. Rồi đến khi đứng trước ngôi đền Masroor quen thuộc hôm nay, dưới những bậc đá tam cấp hãy còn ướt nhẫy sương, bên mình cậu, chiếc lá bối vẫn còn nguyên dòng chữ cũ. Cậu mang theo nó như một lời nhắc nhở, một trách nhiệm, một định mệnh đã sẵn dành cho một người Bà-la-môn khát khao tìm đến chổ chân lý tận cùng.
      Ananda lặng im ngồi xuống, chờ đợi.
      Rồi khi ánh mặt trời lên cao giữa lưng chừng trời. Viupa đạo sư từ tốn quay lại, ngồi đối diện Ananda, đôi mắt hiền từ ông nhìn lên khuôn mặt điểm chứa nhiều sầu não của chàng. Vị đạo sư già hiểu, người trai trẻ này không tìm thấy thực tại giải thoát, chưa dứt bỏ được điểm nhìn hữu hạn qua các thánh thư do ông truyền dạy. Một con người khát khao chân lý cháy bỏng như chàng sẽ lựa chọn con đường hành động; và một ngày tương lai kia, không xa, chàng sẽ lìa thoát ra cái nhìn chật hẹp của Phàm Ngã, giải phóng ra hết khỏi những ràng buộc giả tạm của thế gian. Đồng nhất linh hồn mình với nguyên lý Brahman và có được một nhận thức thực tại tối hậu.
      “Ananda! Thầy đã đợi con khá lâu!”. Viupa đạo sư ôn tồn nói.
      “Thưa! Con đến đây để từ giả thầy và con sẽ lên đường đi tìm giác ngộ cho chính mình”.
      “Đây là một số mệnh sẵn dành. Thầy biết, sẽ đến một ngày con nhìn thấy được mối nguy hiểm của một đời sống phàm nhân, lúc đó con sẽ hành động tức thì để tìm kiếm giải thoát”.
      “Xin thầy hãy chỉ bảo, con đường con nên đi và đến?”.
      “Con đường chân lý đó bắt đầu từ nơi con và kết thúc ở chính nơi con. Nhưng các thánh nhân đã nói: kẻ nào dám vượt qua nhơ nhuốc của quyến luyến, sẵn sàng cho một giai đoạn thâm nhập tin thần không sợ hãi, kẻ đó sẽ mau chóng đạt tới chốn vĩnh hằng”.
      “Quyến luyến”, cái từ ngữ bật thốt ra từ lời nói của chân sư vừa kịp đánh thức chàng thoát khỏi một cảnh tượng mơ hồ lạc mộng. Ananda cuối đầu xấu hổ. Chàng nghe từng ngón tay mình chạm nhau tê buốt trong lúc xếp chồng. Chàng hiểu mình đang cố bám trụ đời sống vào một hoàn cảnh an toàn, hướng về một ảo tưởng tại điểm kết cục bình lặng ở tương lai, sợ hãi phải chấm dứt một thói quen thuộc về quá khứ. Và cái ký ức về nàng Darina, về tương lai mối hôn nhân được sắp đặt; hình ảnh đó từng ngày bồi đắp qua suy nghĩ, trở thành một thứ gì đó quen thuộc, cảm tưởng như chẳng thể tách rời.
      “Thưa! Thật sự con đã có một quyến luyến không nỡ dứt bỏ”.
      Đạo sư cười rộng lượng. “Ta biết con sẽ làm được điều này. Và con nên nhớ: kinh nghiệm trần thế, trí tuệ và thiền định là phương tiện tối hậu cho các Bà-la-môn dũng cảm chọn con đường hành động. Ở bên ngoài vương quốc Chintpurni rất nhiều vị đạo sư xứng đáng để con tìm đến học hỏi”.
      “Thưa! Con nên tìm kiếm họ ở đâu?”
      “Các vị đó thường chẳng ở một nơi cố định. Họ có thể nhập thất ẩn mình trong một hang động, lánh đời tại một cánh rừng thẳm sâu, hay hiện diện trong một đạo quán nào đó ở châu thành. Không ai biết rõ phương cách tìm kiếm dễ dàng, nhưng thầy tin duyên lành sẽ mau chóng dẫn dắt con lần lượt diện kiến họ”.
      Ananda đảnh lễ, nói lời cuối từ biệt thầy và bước ra khỏi ngôi đền trong một tâm trạng hân hoan.
      6. Bên dòng suối Bạch-Thủy mùa đông, dòng nước mềm lặng như gương chợt lao xao trong một lay động khi nàng Darina bước ra ngồi giặt áo. Từ lòng bàn tay mềm mại, nàng khuây khỏa dòng nước thành con sóng dợn lăng tăng, dập dền nhau lướt đi, chạm mình vào mép bờ đá lượn cong. Ananda vừa đến. Chàng đứng lặng yên. Bồi hồi ngắm nhìn bóng nàng Darina vờn in lên mặt nước. Trên khuôn mặt mịn tươi như dòng sữa đặc hiển hiện kia, từ lâu đã gom tụ thành một hình ảnh hình, thành những kỷ niệm; từng ngày chạm khắc, sâu thẩm vào ký ức chàng.
      Vào mùa trăng tròn mấy năm trước, chàng và Darina còn cùng nhau ngồi nhìn trăng dần trôi lên giữa hai ngọn đồi tương phả màu nguyệt bạc. Trên nền trời thẳm xanh, những hạt sao lung linh đan kết lại thành tấm rèm phất phơ trong một rung động sáng mịn màng của vụ trụ. Đôi mắt khẻ nhấp nháy, Darina ngả đầu qua vai chàng và chỉ tay về hướng dòng thiên hà rộng lớn, nơi nam Nguyệt thần Chandra được sinh ra từ biển sữa trường sinh do các vị thần cầu bất tử khuấy động. Và trong tưởng tượng của nàng, qua giọng kể ngọt ngào, thần Chandra trong những lần lướt qua các chòm sao lấp lánh, qua những cung trời mây toả trên trên chiếc xe vàng kéo bằng hai con linh dương đã gặp gỡ nàng Tara và họ đã khởi đầu một mối mình đẹp như mơ trong thiên giới.
      Ananda trầm ngâm, mân mê cây gậy trúc trên tay, đôi mắt dậy một sầu thương. Càng để suy nghĩ dạt trôi theo những hình ảnh của ký ức, theo những kỷ niệm xưa cũ, chàng càng bị dục vọng giày vò. Giữa vòng xoáy đau khổ, Ananda như một kẻ chơi vơi không điểm tựa, bềnh bồng trong một nhận thức trống rỗng. Trong trạng thái hớt hãi đó, chàng lay hoay nhìn lên mặt trời như một trông đợi cứu cánh và những tia sáng chói lòa lọt vào mắt, áp đè lên thị giác nhạt nhòe.
      “Darina! Anh đến đây gặp em lần cuối. Anh sắp rời xa vùng đất Chintpurni. Anh sẽ lên đường tìm kiếm chân lý. Và có lẽ anh sẽ không trở về vương quốc Chintpurni, nếu còn chưa tìm thấy sự hiện diện của Chân Ngã.”
      Darina buông tay. Chiếc áo ướt rớt chạm vào dòng nước, đẩy một xác xao lan tỏa.
      Nàng dứng bật dậy, ngẩn ngơ nhìn Ananda trong một ngạc nhiên tột cùng. Và trên đôi mắt trong veo như mặt hồ thu lặng sóng, chút sương mù vừa ướm lên, phả nhạt.
      “Ananda! Chàng nói rằng chàng muốn ra đi. Thật sự ư?”
      “Darina! Anh không có gì dối gạt em. Sự thật là anh đã quyết tâm ra đi, không chắc một ngày trở lại. Và anh đến đây để giả từ, mong rằng, em hãy sớm tìm kiếm cho mình một người chồng có thể nương tựa”.
      Darina úp mặt vào đôi tay ướt mềm và bậc khóc. Nàng hiểu số mệnh của một người phụ nữ Bà-la-môn, người luôn phải có trách nhiệm đặt khát khao gia đình của mình dưới vinh dự hành đạo của chồng. Nhưng một người Bà-la-môn cũng có thể lập gia đình, sinh con, sau đó mới chọn con đường thoát ly để tu hành.
      “Ananda! Chàng có thể chọn lối hành đạo như bao người Bà-la-môn khác, vì sao chàng lại sớm dấn thân mình vào con đường khổ hạnh. Chẳng lẽ rằng, thật sự chàng đã không còn yêu thương em”. Darina nói trong giọng điệu nài thẩn khiết.
      “Darina! Anh biết rõ điều này sẽ làm em thất vọng. Thế nhưng, anh làm sao múc được nước trong cái lòng giếng cạn khô, anh làm sao thiền định với cái tâm sầu muộn mỗi ngày. Em có biết, như con chim vàng anh thánh thót trong chiếc lồng son, ai cũng thích thú vì giọng nó ngọt ngào, nhưng không ai hiểu đó là tiếng thét van nài tự do, tiếng khao khát được thỏa thuê bay lượn giữa bầu trời xanh cao thẳm. Anh muốn được tự do. Tự do trong một tỉnh lặng trường dài để kiếm tìm chân lý.”
      Ananda nhìn Darina: “Anh khao khát thoát khỏi sự giới hạn tầm thường của cảm xúc. Anh muốn biết, từ chính kinh nghiệm của mình, sự hiện diện của anh, của em, của thế nhân này là gì. Và với khát khao đó, chắc chắn rằng anh sẽ ra đi.”
      “Nhưng còn tình yêu của chúng ta?”, Darina tuyệt vọng.
      “Darina! Hãy nói cho anh biết tình yêu này là gì? Chắc là em không biết và anh lại càng không. Làm sao chúng ta có thể nhận rõ tình yêu trường tồn trong cái cảm xúc xáo trộn thường nhật này. Và anh cũng muốn đi tìm một tình yêu hiện diện vượt ra ngoài nhận thức.”
      Darina hụt hẫng lùi bước. Rồi nàng lặng im.
      “Darina! Hãy tự chăm lo cho mình vì anh phải ra đi.”
      “Em còn có thể làm gì một khi anh đã có quyết định. Em sẽ cầu nguyện đấng Brahma dõi theo chàng trên từng bước chân viễn du và ước mong chàng sớm toại thành nguyện ước”. Hai dòng nước mắt rớt dài lên đôi má. Darina chạy đến cầm tay Ananda trong một bịn rịn không muốn dứt rời.
      Nhưng rồi Ananda cũng quay bước, lặng lẽ đi theo hướng mặt trời đang dần buông trôi về phía sau chân núi Mây Vờn.
      Trong một thanh vắng phủ trùm lên con đường đá nhỏ, lên dòng suối Bạch-Thủy hiền hòa chảy lượn, Ananda còn nghe tiếng nàng Darina nói với theo, vang vọng một chuỗi âm dài, lượn bay vòng quanh đỉnh núi.
      “Ananda! Nếu chàng tìm ra chân lý, xin hãy trở về và nói cho em nghe thế nào là một tình yêu vĩnh cửu”.
      Ananda lặng im. Chàng tiếp bước đi. Chàng nghe tự do và chân lý đang réo gọi mình ở đâu đó, tại con đường phía trước, chẳng hề xa.
       
       
       
      CHƯƠNG 2. ANKURA
       
      1. Chintpurni thật sự đã nằm lại sau lưng.
      Thung lũng của nơi chất đầy những sự kiện đã gom lại thành viễn ảnh mờ căm, mất dài sau màng sương xa tầm mắt. Hình ảnh đạo sư Viupa ngồi trầm mặc trước đền Masroor mỗi sáng. Hình ảnh nàng Darina ngồi giặt áo bên dòng suối Bạch-Thủy vào đông. Hình ảnh nơi tuổi thơ chàng cùng người mẹ mỗi đêm đến chổ cậu ngồi đọc sách, cần mẫn rót bơ lỏng vào đèn, hiền diệu nhìn chàng qua ánh mắt hi vọng đứa con nhỏ của mình tương lai sẽ trở thành người Bà-la-môn vĩ đại. Và những lúc cậu reo vui xòe tay nhận nắm đất từ mẹ, say mê ngồi nắn hình các vị thần Brahma, Shiva, Vishnu cao cả hiện diện tại các tầng trời cõi thiên qua trí hình dung riêng. Hình ảnh ngày tuổi thơ cậu nằm trên cánh đồng cỏ ngắm mây bay vờn, thả tưởng tượng chảy theo dòng sử thi Mahabharata, Ramayana. Hòa mình vào vai hoàng tử Rama, thành vị anh hùng Arjuna dùng dằng trước trận chiến huynh đệ tương tàn dài mười bảy ngày.
      Các con có biết thần Krishna đã hiện thân xuống thế giới này như thế nào không? Vị thầy tu già vừa mới đến làng, ngồi dưới ánh trăng rằm, trước những tín đồ mộ đạo, mở đầu cho câu chuyện kể dài trong bộ sử thi Mahabharata. Chúng con chưa biết! Mấy đứa trẻ nhỏ vỗ tay tán thưởng. Thầy bật cười. Trầm giọng khởi đầu câu chuyện trước những đôi mắt ngồi tròn, chăm chú nghe, chút lại cười tươi phấn khích.
      Bây giờ các con hãy cùng ta hát một bài thánh ca Bhajan sùng kính thần Chandra, người đem ánh sáng mát lành cho chúng ta. Vị thầy tu già mang cặp trống tabla trang trọng đặt trước mặt mình và đề nghị. Bốn ngón tay ông trượt quanh mặt trống nhỏ, bật nhả bật nhả ra chuỗi vòm âm thanh bổng, xuyên bay lên các tầng mây, lay chạm tới các vì sao rung rinh. Lòng bàn tay trái ông tỳ lên chiếc trống lớn, nhịp nhàng gõ đệm mấy nhịp âm trầm hòa điệu, khơi dòng hứng khởi cho bài bhajan cất nảy.
      Trên mấy dãi sương trời giăng giăng xa
      Dưới ánh trăng vàng ta gọi tên Chandra
      Ngài lướt bay trên cổ xe linh dương
      Vượt qua các vì sao
      Đóa sen trên tay người gieo ánh sáng dịu êm
      Cùng hai mươi bảy vì tinh tú bao quanh
      Lấp lánh sáng
      Trời đêm đã sâu. Vị sự phụ vuốt chòm râu bạc kết thúc buổi nói chuyện trong luyến tiếc của mấy đứa trẻ. Cậu nhỏ Ananda ngồi lặng im bên người bạn gái Darina, xếp bằng, nhìn râu tóc bạc phơ của vị tu sĩ già, hình dung nghĩ về các bậc đạo sư và những quyền năng vi diệu của họ. Ôi! Cái cuộc sống gắn với thiền định, lang thang và ngồi trước mọi người kể những câu chuyện như ông thật tự do biết bao.
      “Em có muốn bay tự do như con chim trên trời?”. Cậu ghé tai hỏi người bạn gái nhỏ của mình.
      Darina mở to đôi mắt, tròn xoe nhìn cậu. Bay như chim ư? Nhưng làm thế nào? Chưa kịp nhận được câu trả lời. Bàn tay chộp nắm bàn tay. Cậu kéo nàng chạy ra chiếc xích đu đặt ở góc sân. Em hãy ngồi đi! Darina gật đầu trèo lên. Cậu vòng ra phía sau và kéo đẩy. Em hãy nhắm mắt lại và nghĩ mình như con chim đang bay giữa bầu trời, không có gì níu kéo, buông trôi tự do dưới ánh sao, trong dãi sáng của trăng trời soi tỏa.
      Cái vầng trăng tròn lịm trên bầu trơi cao theo những tuần trăng, có rồi mất, mất rồi lại có. Nhưng đến một ngày mẹ cậu được cha quấn tấm vải sô đỏ quanh thân người, rồi đặt bà nằm xuống. Ông chầm chậm rải những cánh bông vạn thọ vàng trong cái cúi đầu buồn bã và tiếng khóc của người lớn. Vài người đàn bà mặc áo tang màu xanh lục xoa đầu an ủi cậu. Nghi lễ mai táng xong. Họ đặt xác mẹ cậu lên cán, khiên ra khỏi làng lên, rồi đặt lên giàn hỏa bên ngoài bãi tha ma. Cha cậu cầm đuốc, trầm ngâm trước thi hài, hồi tưởng những luyến ái ngọt ngào, rồi châm lửa đốt giữa tiếng niệm kinh lâm râm của thầy tế lễ. Theo ánh mắt tuổi thơ, ngày bàn chân nhỏ lẻo đẽo theo cha vun những nắm tro cốt của mẹ lên mặt nước sông Hằng, cậu bắt đầu có ý niệm về sống chết, về đau khổ của tử biệt sinh ly.
      “Mẹ đi về đâu hỡi cha?”. Cậu ngước đầu hỏi cha, khi nắm tro cuối cùng vun bay khỏi lòng bàn tay người đàn ông bạc tóc.
      “Linh hồn mẹ con ngược theo dòng nước linh thiêng này bay trở về thế giới của các vị thần, an trụ trường tồn tại cõi bất sinh bất tử”.
      “Liệu rồi con có chết như mẹ không cha?”.
      “Ai rồi cũng phải chết con ạ! Nhưng chỉ có những người Ba-la-môn vĩ đại sẽ không bao giờ chết”.
      Con không muốn chết. Con muốn trở thành một người Bà-la-môn vĩ đại. Cậu nghẻo đầu, hồn nhiên nói với cha.
      “Con hãy theo đạo sư tu học và cố gắng thoát khỏi những đau khổ của đời người”. Cha trao gói hành trang, vỗ về lên vai, dẫn chàng đến ngôi đền Masroor, nơi có vị thầy đang đón đợi theo ước hẹn.
      Ánh tà dương cuối chiều bị rịn, tiếc luyến rãi những giọt nắng cuối cùng sau vòm núi. Chàng thiếu niên Ananda rụt rè đứng bên thầy, trước cổng đền Masroor, buồn nhìn từng bước chân cha tụt dần xa dưới những bậc tam cấp đá. Trông đến khi cái bóng người khuất dạng sau hàng cây, rồi mất hút dưới mãng tối trời, dưới từng lớp xám đêm phủ quét lên vòm xanh mây.
      Ananda lưỡng lự theo bước thầy vào chánh điện. Bên trong, các đồng môn khác ngồi kiết già đối diện bên dưới bức tượng thần Rama, hoan hỉ chờ đón người đệ tử mới nhập môn. Dưới ánh rọi sáng của những ngọn đèn bơ, chánh điện bừng phả một màu đỏ trầm huyền ảo, dội chạm từ những bức họa tranh vẽ hình các vị thần hiển lộ trong nhiều tư thế thủ ấn.
      “Ananda là bạn đồng môn mới của các con. Theo lá số tử vi, đứa trẻ thông minh này sẽ sớm trở thành một bậc thầy giác ngộ”. Sau lời đạo sư giới thiệu, một hồi chuông đồng rung lên, rồi tiếng trống và tiếng kèn đệm theo điệu một bài lễ nhạc. Tại khoảnh khắc trịnh trọng đó, chàng cúi xuống, sụp đầu lên bàn chân đạo sư, nguyện hứa đặt trọn cuộc đời và tất cả suy nghĩ của mình hướng đến chân lý vĩnh hằng.
      Dưới những vì sao lấp lóe tròn nhỏ như hạt đậu, màn sương nhảy nhót theo một điệu luân vũ trên mái đền, rớt xuống, trườn dài thân ngoài cửa sổ, nhởn nha ngắm nhìn. Theo lệnh thầy. Ananda ra ngồi thiền định ngoài trời đêm tối, thực hành bài tập đầu tiên của một người quyết tử bỏ những luyến bám cư trần, biểu hiện một can đảm dấn thân. Chàng kéo xếp chân theo tư thế kiết già. Hướng mặt về phía khu rừng đương giấu mình trong một màn khối xám đen dưới thung lũng. Và nghe những cơn gió trời lao xuống từ dốc đồi, luồn qua tán lá, rít lên lạnh lẽo.
      Không được hôn trầm. Phải giữ lưng thật thẳng. Phải buông tâm yên tịnh. Phải tỉnh thức như mặt trời mặt trăng chẳng lay động. Viupa đạo sư cầm cây gậy tre nhịp nhịp vào vai chàng nhắc nhở. Ananda hít một hơi thở sâu. Cân giữ thân mình chắc vững. Gắng dìm hơi lạnh thấm vào da. Cố vượt cơn đau tê buốt chạy lên từ khớp xương thớ thịt. Chàng lặng im tiếp tục thiền dưới màn trời đêm lặng lẽ trôi về sáng.
      “Con hãy đọc tất cả những quyển thánh kinh này và nửa năm sau diễn lại cho ta nghe ý nghĩa của nó!”. Chàng cuối nhận ba quyển kinh thư từ tay đạo sư Viupa. Rồi hằng đêm rút lui vào động đá say sưa nghiền ngẫm.
      “Lời của một hiền giả phải được sinh ra từ sự thật sâu thẳm nhất của tri thức, nó không phải tiếng vo ve của bầy ong ruồi”. Viupa đạo sư quở trách khi chàng diễn đạt ngập ngừng ý tưởng của mình. “Con tưởng tượng mình đang đứng trước hàng vạn người và phải dùng lý lẽ thuyết phục họ dâng trọn niềm tin cho Thượng Đế”.
      Chàng cúi đầu: “Thưa, con hiểu”
      “Nào hãy nói cho ta nghe làm sao hiểu được ý nghĩa của Vệ-Đà kinh?”. Viupa nghiêm khắc yêu cầu.
      Ananda thoáng lặng im, nhanh chóng hình dung ý tưởng cho bài diễn thuyết của mình.
      “Thưa thầy! Bên mặt hồ lăn tăn mặt sóng gợn, có một cây đa cổ thụ già soi bóng, xòe cành lá xanh tươi hiện hữu theo một thực tại sống. Và từ bầu trời, một cơn gió xà đến đùa vui với cành lá xạc xào. Nhưng cơn gió xa lạ hồn nhiên kia chẳng hiểu được cái hình hài đa to lớn, cái cành lá đa sum suê từ đâu đến, hiện diện tại khi nào? Như thánh kinh Gita đã viết: Này hành giả! Ngươi hãy nhìn ngắm cây đa từ gốc, rễ, lá cành để biết rằng tất cả chúng là Vệ-Đà kinh. Ai hiểu được tiến trình của nó tất thông suốt Vệ-Đà kinh.”
      Chàng ngừng lại nhìn đạo sư: “Bẩm thầy! Cuộc đời tại thế giới chật hẹp này được ví như hành trình cây đa nảy mầm lên từ hạt giống tiềm năng, lớn cao, chết đi và tạo ra những bản sao kế tục. Suốt tiến trình sống, thời gian nuôi dưỡng, cành lá thay nhau đâm nở không ngừng, chẳng một ngưng trệ. Ai đã tạo ra một tiến trình vô đích đó? Vô minh. Chính là nó. Từ nguyên lý tối thượng ban đầu, prakrti và purusa kết hợp sinh ra ba Gunas, rồi có năm yếu tố chung gộp, tạo thành thế giới ma ảo, nơi dòng bất tri dẫn dắt sống phiêu bạc lang thang, đâm cành đẻ nhánh, đọa khổ não luân hồi.”
      Rồi chàng nén hơi thở lại: “Bẩm thầy! Như cây đa già trọn đời nhìn ngắm xuống mặt nước xanh trong, hồ hởi thấy mình ngày đêm nhảy múa, uyển lượn đẹp xin. Nhưng, thật sự nó lại chẳng biết rằng cái ảnh hình luân vũ kia chỉ là ảo ảnh của chính mình phóng chiếu, nên thà bám tin tại sự hiện hữu mà buông chìm vào một mê lung.”
      Ananda mở to đôi mắt sáng ngời: “Bẩm thầy! Ai có lòng can đảm dám phá vỡ niềm tin vào sự hiện hữu, soi tìm đến tận gốc rễ, lần ra nguyên nhân sự tồn tại của thế giới vật chất là gì. Người đó sẽ thấu hiểu Vệ-Đà kinh.”
      Nghe Ananda thuyết giảng xong, Viupa gật gù khen, nói con tất trở thành một đạo sư vĩ đại.
      Nhưng rồi mục tiêu trở thành một giảng sư đã sớm tắt trong lòng Ananda. Khi đến một ngày chàng nhận ra, ngoài những lời huyên thuyên, tại sâu thẳm bên trong, chàng vẫn còn có đau khổ giày vò.
      Ananda trầm ngâm hít một hơi thở dài. Mệt mõi với những theo đuổi dòng ký ức đang rót chạy về. Chàng ngữa đầu uống một ngụm nước và tự hỏi tại sao tâm lại hướng về quá khứ và vun đắp nó? Cái ký ức âm thầm chắt lọc kinh nghiệm cá nhân qua các ấn tượng, từ hạnh phúc đến tổn thương, từ tham muốn đến sợ hãi, từ hành động thiện hay bất thiện, từ quá khứ cùng hiện tại, rồi lưu nén chúng thành hạt mầm vi tế của nghiệp quả. Bất kỳ nhận thức nào khởi lên, trong mỗi tâm trạng vui buồn, cái bóng của hồi tưởng lộ hiện, so sánh, nhận dạng với ảnh hình của chính nó, của ngày hôm qua; rồi thành tạo cảm xúc ưng thuận hay đối nghịch, tiếp tục cho một sướng khổ nối liền. Quá trình sống buông xuôi vào ký ức đẩy tương lai trở thành một tái hiện của quá khứ cho ngài mai, của trở lại cho nhận thức thành cũ kỹ và nhàm chán. Và chính chàng, bên trong cái trí hiện tại rỗng không này, kỷ niệm đương khởi lên bất an và vọng động, không ngừng tô vẽ cho ý tưởng một cái tôi hiện hữu, đòi hỏi những thỏa mãn.
      Ananda đứng lại, ngắm nhìn dãy núi cao sững hiện diện trước mặt mình. Những khối đá xếp đặt từ tự nhiên chất chồng lên tựa hình bàn tay năm ngón, dựng xòe, khuất che tầm mắt. Qua vật chướng, chàng không thể nhìn rõ con đường nào phía trước, thôn làng nào tại đó, ruộng đồng nào xanh tốt. Như cảnh thiên la địa võng giăng trời, ký ức trở thành một ngăn che nhận thức hiểu rõ sự thật là gì, không cho biết phải sống thể nào theo lẽ thiện, cột buộc cảm xúc vào lối mòn luân phiên.
      Chàng nhớ rõ, mọi đàn ông Bà-la-môn từ buổi lễ buộc chỉ tay trưởng thành upanayana, họ phải luôn nhận thức mình là những kẻ được sinh ra hai lần trong một đời và cần biết tự hào khi có ngày đứng bên bờ ranh giới của từ bỏ, can đảm đối nhìn với đoạn tuyệt. Tất cả quá khứ, vui sướng và đau khổ, chúng tất bị chôn vào lãng quên của đoạn tuyệt; rồi từ đó, hạt mầm của nhận thức mới sẽ lại đâm chồi, sinh trưởng thành một tái sinh. Để hòa nhập vào đoạn tuyệt, chàng phải tìm kiếm một phương tiện giải trừ, thực hiện một hành động tiêu hủy cái ấn tượng của ký ức. Chàng ngẫm nghĩ về sự kiện kiểm soát ức niệm để dẫn đến một đồng hóa giữa tâm và cảnh. Rồi đi đến một hiệp nhất giữa chủ thể và đối tượng. Một nhất thông giữa hơi thở, âm tiết “AUM” và những điều sai biệt của thế giới nhị nguyên. Và từ đống đổ nát lịch sử khái niệm, một sinh khởi của tính biết nảy lên từ cái trí không phân biệt, cái nguyên sơ và độc lập của tâm không bị chi phối và ràng buộc từ thế giới vật chất chứa đầy những xúc cảm hỗn loạn.
      2. Nhìn hòn đá chạm khắc hình Đại Mẫu Amman ngồi trên lưng con thiên nga trắng đặt bên góc ngã tư đường, Ananda biết mình vừa đặt chân đến thị trấn Chintpurni. Vùng đất của những cư dân được gọi tên theo nữ thần Chhinnamasta, người hiến dân tận tụy đánh thức được năng lượng của sự thức tỉnh. Theo các tín đồ giáo phái Shakti kể lại, hai chị em theo dòng tu Mật Ấn, Mekhala và Kankhala đã tự cắt đầu mình dâng cho đạo sư rồi hoan hỉ nhảy múa trước mặt thầy. Và nữ thần Chhinnamasta được họ vẽ biểu hiện trong tư thế tự chặt đầu, máu từ cổ bà thị hiện thành dòng năng lượng Kundalini vô biên.
      Ananda đứng nép bên con đường đá sỏi nhấp nhô, ngắm nhìn một cậu bé hồn nhiên cưỡi trên lưng con la nhỏ theo sau người mẹ và những tín đồ giáo phái Shakti, thong thả hành hương về hướng ngôi đền màu gạch đỏ nằm trên ngọn đồi lớn không xa.
      Một hồi chuông đồng vừa rung vọng trầm lên từ phía đỉnh đồi.
      Vài tín đồ mới đến quỳ bái lễ trước tượng Đại Mẫu Shakti sáu tay, ngồi trên lưng sư tử, đặt giữa chính điện. Xung quanh hai bên, tượng mười hai vị nữ thần Kali, Tara, Shodashi, Bhuvaneshvari, Bhairavi, Chhinnamasta, Dhumavati, Bagalamukhi, Matangi, Kamala và Chhinnamasta được xếp theo thứ tự. Ananda còn nhớ trong kinh Devi Bhagavatam, Đại Mẫu Shakti là biểu hiện phương diện nữ tính của nguyên lý tuyệt đối Brahman. Và mười hai vị nữ thần Mahavidyas kia mang phẩm tính của trí huệ sâu thẳm.
      Shakti! Con xin bái lễ trước Người
      Đức mẹ vĩ đại
      Mẹ của nguồn năng lượng của thức tỉnh Kundalini
      Mẹ của tất cả loài người
      Shakti!
      Vị trưởng lão ngồi trước đền, chăm chú xếp đặt một Mandala hình tam giác xếp chồng lên một hoa sen và nghe đứa bé ngồi kế bên hát nghêu ngao. Ông rót bơ vào hai chiếc đèn đặt trên bàn và nói: “Rani, cháu thật thông minh! Cháu đã nhớ hết cả bài nguyện rồi cơ đấy”.
      Rani cười khúc khích, đứng dậy, chạy nhanh đến quàng cổ người ông đương ngồi thả chân già run rẩy trên bậc tam cấp đá.
      “Cháu đã thuộc cả bài hát về mẹ Shakti rồi ông ạ!”
      Nhưng ông lão dường như không nghe thấy đứa bé nói. Lặng im thả đôi mắt mờ về hướng cánh đồng mù tạt vàng bông dưới thung lũng.
      “Những người kỵ mã đang đang lướt đi trên lưng bầy ngựa trắng”. Ông lão chỉ tay xuống cánh đồng, cười hả hê.
      Rani cũng nhìn xuống nhưng nó không nhìn thấy người kỵ mã nào. Chỉ có vài người phụ nữ lưng đeo gùi, cặm cụi trước căn nhà tranh có vòng khói bếp bay lên, nhuộm qua bầu trời một màu mây xám tro. Nó nũng nịu trở về chổ người mẹ.
      “Ông đang nói bầy ngựa nào?”. Ananda bước đến, tò mò hỏi.
      Ông lão chẳng buồn nhìn lên xem ai vừa hỏi mình, hồ hởi nói tiếp: “Ta đó, người chỉ huy đội đội kỵ binh hoàng cung, dẫn đầu đoàn người phi nước đại trên thảo nguyên, huấn luyện họ bắn cung và vượt các chướng ngại. Ta có thể nhảy từ lưng ngựa này sang lưng ngựa khác khi chúng đang chạy, rồi đứng vững trên yên và trổ tài xạ tiễn.”
      Ananda cúi xuống, lặng lẽ ngồi kế bên lắng nghe.
      “Ôi! Dưới ánh nắng trời thanh trong rãi lên dãi đồi tuyết trắng mênh mông, mình ta rong ruỗi đi và gặp nàng. Kanti, đôi mắt đen sâu thẳm của em điểm lên trái tim ta một vết rạn và đổ đầy vào đó một tình yêu nồng nàn. Để rồi ta chết điếng trong hạnh phúc đó đến hàng vạn năm sau.”
      “Bẩm nhà vua! Ngựa đã chuẩn bị sẵn sàng, người có thể lên yên và tuần du khắp xứ.”
      “Đừng khóc con trai! Người kỵ mã tài ba phải thuần trên yên ngựa từ tuổi nhỏ và cái té ngã đó sẽ tiếp thêm cho con sức mạnh chinh phục cuộc đời.”
      Chợt lão ông bật khóc: “Kanti! Khi lời hứa cùng ta sống hết cuộc đời này chưa trọn vẹn mà nàng đã bỏ ra đi”.
      “Cha tôi có thể đã làm phiền ngài!”. Ngượi phụ nữ dắt tay đứa bé gái đến bên Ananda cúii đầu xin lỗi. “Ông già cả và bị lú lẫn. Cha tôi không còn phân biệt rõ thời gian. Những sự kiện trong đầu ông ấy giờ chỉ còn là một mớ hỗn loạn. Xin ngài đừng chú ý và bỏ qua cho”.
      Ananda mỉm cười, xua tay bảo không có gì để tôi phải bận tâm, sinh lão là lẽ tự nhiên của cuộc đời rồi ai cũng phải trải qua.
      Nói rồi chàng bỏ đi. Tìm nép mình dưới bóng một cây đa và suy tư. Chàng đặt tâm dõi theo từng hơi thở, vào và ra. Luân chuyển tịnh khí vào nội quan, vào đan điền và thải trược khí ra bên ngoài, đẩy trôi nó vào hư không vũ trụ. Chàng quán tưởng mình hợp lưu vào dòng sông đang chảy ra biển lớn, chảy đến chổ độc tồn, chảy đến nơi cuối nguồn hạnh phúc. Ananda thiền định thật lâu. Thật sâu. Đến khi biết mình lìa khỏi các giác quan, chấm dứt mối liên hệ giữa nhận thức và ngoại cảnh. Tâm chàng hợp hòa vào một hoa sen trắng đang vươn mình đơm nở, sáng chói từ nhụy hoa ra bên ngoài những cánh trong ánh sáng của tinh khiết. Và chàng thấy sự hiện diện của tâm trong một nội tại tĩnh lặng như ánh mặt trời vững chãi, như ngọn đèn sáng trên nền trời không gió lay động.
      Xuyên trong giấc thiền định, Ananda thấy mình bước qua một đám khói trắng sáng, rồi đứng trước cánh đồng rộng không biên giới, không tiếp nối, trải dài theo mãng vàng những bông hướng dương rung rinh giữa một rì rào gió. Và trên nền trời biếc xanh, một con bướm đỏ lượn bay, kiếm tìm, vui mừng đậu xuống một bông hoa và khép cánh bất động. Nhìn ngắm cảnh tượng này, Ananda bân khuân trong một xúc cảm dâng đầy; đột nhiên, chàng chợt nhớ đến cánh đồng lúa mì quê hương, hồi tưởng về những kỷ niệm từ những ngày xưa cũ. Và lạ thay, trước mặt chàng, cánh đồng hướng dương vừa nhuộm lên một màu của cánh đồng đã chín vàng, con bướm đỏ biến thành một bù nhìn dang rộng tay đe dọa.
      Sau khoảnh khắc đắm mình trong hồi tưởng, Ananda run lên và reo mừng khi nhận ra ý nghĩa của sự biến đổi lạ thường từ cánh đồng hoa nở. Chàng đã nhìn cánh đồng hướng dương thành cánh đồng lúa mì, con bướm đỏ thành một bù nhìn từ sự chi phối của ý niệm ký ức. Cánh đồng ban đầu chính là hình ảnh trung thực, nguyên thủy của đối tượng và ức niệm sâu đậm của chàng về cánh đồng lúa đã làm thay đổi bản chất của hình ảnh.
      Ananda tự hỏi mình, tại sao những con người như chàng và ông lão kia lại hướng tâm về quá khứ? Hay đắm chìm vào mớ hình ảnh của hôm qua, hân hoan với những vui thú, đau khổ với những biến cố, thù hằn với những tham vọng bất thành. Như một họa sĩ vẽ tranh, từ hàng ngàn nét bút sơ sài mà tô điểm thành ảnh hình hoạt thể. Ký ức của tâm lý qua thời gian đã không dừng vun đắp cho một cái tôi hiện hữu, một bản ngã thành hình. Và thông quá nó, chàng đã nhìn thế giới bên ngoài qua mối liên hệ từ cái ấn tượng ban đầu của quá khứ, trụ vào sự lầm lạc từ những hình ảnh méo mó đó để so sánh và nhận thức. Sau bức màn tư kiến, chàng đã không còn nhận ra sự trọn vẹn của thế giới, rằng vạn vật tự thân chúng chẳng hề tồn tại một khái niệm, và tri thức vốn được sản sinh ra từ góc nhìn hạn hẹp của kinh nghiệm cá nhân. Rồi trong trạng thái bị giới hạn và chật chội đó, chàng đã từng hy vọng, từng ghét bõ, từng mơ tưởng, rồi đau khổ trường dài tại thế giới nhị nguyên tương đối.
      Liệu có phải như Thánh kinh đã nói, Chân Ngã vốn chẳng thể nhận biết được từ học vấn, từ kiến thức tích lũy vào ký ức, từ sự phản xạ nhanh nhạy của trí tuệ, từ những suy tư thông thường trên ảnh nền quá khứ. Chỉ khi nào, duy nhất, các cửa sổ các giác quan khép lại trong một yên lặng, trong một cột buộc tâm, trong một bất buông trôi của cái trí; một mạch nguồn dẫn đến nguyên lý Brahman sẽ mở ra, dần thông suốt, rồi hiện hữu. Và người ta sẽ tự bước vào, thâm nhập đến cảnh giới nhất nguyên tuyệt đối của Brahma, của Chân Ngã trường tồn, của những biểu tượng được hình dung từ giá trị thánh thiện, an lạc, thanh tịnh vốn ẩn tàng trong mỗi linh hồn người.
      Nhưng làm sao chàng có thể đặt mình trong trạng thái không thời gian của ký ức .
      3. Trời rớt cong trũng xuống cánh rừng Du-Duyệt. Mây thả mây trôi thành một sương lãng đãng quyện lướt bên vách núi dựng đứng chiều.
      Ananda leo lên mỏm đá, đôi mắt trượt nhô sau vạt lá rừng cao cố tìm kiếm dấu tích của bóng nắng lừng chừng trốn khuất sau màn xanh thẳm đục. Trời sắp lên sao. Màn đêm sẽ tới. Ban chiều vì mải mê đuổi theo dấu tích một con hưu vàng tuyệt quý đã không chú ý đến thời gian, đến khi nó nhanh chân trốn biệt trong khu rừng sương khói mù, chàng mới nhận ra mình đã đi quá xa. Qua rìa núi này là đến khu rừng khói giăng phủ sương, một nơi không thể dừng chân. Lo lắng thoảng đến. Ananda ước đoán: từ đây trở lại bìa rừng khá xa và chàng sẽ đi trong màn đêm muộn trễ dầy những ánh trời sao mơn rung trên lớp nhành lá rừng cao khuất lắp.
      Một lần nữa Ananda nhìn lên bầu trời nhắm định một hướng đi nhanh nhất để thoát khỏi cánh rừng. Mon men theo vách núi xanh rêu, vén từng luồng dây rừng quyện đan như tổ nhện. Đi một quãng thật lâu. Ananda nhìn thấy con suối nhỏ hồi ban chiều mình đã vượt qua. Dòng nước trong mát lách tách chảy mở kéo một cơn khát bật cháy ở cổ họng. Ananda lần bước xuống suối, cuối vốc một bụm nước đầy lên tay và ngữa cổ uống. Một thoáng thư thả tràn đọng qua đôi mắt. Ananda bâng khuân nhìn cánh rừng, trong màn đêm nhạt tối vừa lay thả, một ánh lửa đỏ được thắp lên trong căn nhà cách không xa con suối. Chắc là có người ở bên kia, chàng thoáng nghĩ và quyết định đi về hướng ánh sáng, không màn do dự.
      Trước mắt Ananda, quanh những vòng dây leo quấn bám hai bên dãy hàng rào, sau những màu bông trỗ vàng đỏ khẻ đong đưa gió. Căn nhà lợp bằng lá rừng dựng bên cây cổ thụ già thắp lên một hi vọng loé. Chàng bước tới, nhẹ đi trong tiếng lá khô sột soạt vỡ kêu bên ngoài khoảnh sân nhà. Một chuỗi thanh âm gãy. Một đường hơi thở trôi. Phả dội. Phá tan lặng vắng chiều. Bên góc cửa. Dưới ánh đèn lửa sáng mờ. Một lão ông râu trắng, mặc áo bố tơi, đương ngồi thong thả trên cái nền tĩnh mịch của rừng sâu đọng lắng, chú ý ngoái nhìn ra. Ông thấy Ananda đang phân vân đứng ngó mình trong ánh mắt muốn nhờ vả.
      “Cháu thợ săn đi lạc rừng à?”. Ông lão chống gậy bước ra ngoài, ân cần hỏi.
      “Thưa không! Tôi là Ananda, một tu sĩ Bà-la-môn. Ban chiều vì nhìn thấy một con nai vàng tuyệt quý nên tò mò đuổi theo và bị lạc. Trời đã tối. Đường trở lại bìa rừng quá xa. Xin hỏi ông lão có thể cho tôi được trú tạm ngoài hiên một đêm”. Lão ông không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, mau mắn gật đầu đồng ý. Ông dẫn bước Ananda vào nhà, mời anh ngồi bên chiếc bàn gỗ nhỏ. Ân cần hỏi: “Chắc là cháu chưa ăn uống gì phải không?”
      “Cám ơn lão ông! Tôi có khả năng nhịn đói nhiều ngày”. Ananda từ tốn trả lời.
      Ông lão xua tay, “Không sao!... Không sao! Nhà ta vẫn còn chút canh măng đủ cho cháu dùng cho bữa tối. Cháu cứ tự nhiên vì cả nhà chúng ta đều đã ăn qua cả rồi”. Trấn an khách xong, ông lão lớn tiếng gọi vợ.
      Chốc sau, một bà lão chống gậy lò dò bước ra. Mái tóc bà bạc như mây trên đỉnh núi Mây-Vờn dạt trôi xuống đền thờ Masroor vào mỗi mùa thu, như màng sương trắng toả bên góc rừng chiều nay anh vô tình khám phá. Ananda ngẫm nghĩ, những người ở chốn hoang sơ thanh vắng này chắc hẳn là những bậc thầy tu luyện, xa phàm lánh tục, an cư trong thế chẳng vướng luỵ bụi trần. Chàng đứng lên vái chào bà.
      “Cháu cứ an tâm nghỉ ngơi ở đây, sáng mai hãy xuống núi”. Bà lão bước đến, nắm lấy bàn tay Ananda, ân cần nói.
      Ananda cúii đầu đáp lễ cám ơn.
      “Cháu ngồi đây đợi bà lấy thức ăn mang ra”. Bà lão lần bước ra nhà sau, chiếc bóng thoáng đọng mềm lên vách lá. Lão ông khẻ nhìn Ananda hỏi: “Chàng tu sĩ đến từ đâu?”.
      “Tôi đến từ vương quốc Chintpurni”.
      Ông lão khẻ cười, đôi mắt sáng lóng lánh: “Thế ư! Ta đã xa lánh bụi trần nhiều năm và quên hết mọi thứ từng diễn ra bên ngoài cánh rừng ồn ào kia.”
      “Xin hỏi tên của người là gì?”
      “Ta hơn ba mươi năm trước đã đào mộ chôn mình. Nhưng nếu con cần một cái tên để biết ta, hãy gọi là Ankura.”
      “Ngài đến đây từ khi nào?”
      “Lúc hai mươi tám tuổi ta cảm thấy chán ngán cuộc đời vô cùng. Ta quyết định vứt bỏ mọi tài sản thừa kế, cùng vợ lần tìm vào khu rừng sương khói này thiền định trong cô tịch. Đến nay ta sáu mươi và có một cô con gái hai mươi mốt tuổi.”
      “Tôi vô tình đến đây đã làm phiền và quấy nhiễu sự yên tĩnh của người”. Ananda ái ngại nói.
      Ông lão xua tay: “Cháu không phải là người đầu tiên lạc bước đến đây. Dăm ba tháng nhà lão lại có người thợ săn đến xin tạm trú.”
      Ananda thầm cảm phục lòng tốt cưu mang của những con người sống ở nơi hoang dã này. “Hóa ra ngài cũng là một tu sĩ!”. Ananda cung kính.
      “Mọi danh hiệu đối với ta chẳng có ý nghĩa gì. Ta chỉ chuyên tìm sự giải thoát cho mình. Đối với ta không có gì quý báu hơn chân lý”. Ông lão nghiêm nghị nói.
      “Xin mời anh dùng bữa ăn đạm bạc của nhà chúng tôi”. Ananda nghe tiếng nói ngọt ngào xướng bên tai, chàng giật mình nhìn sang. Một bối rối ùa dập tới. Trước mắt chàng, một ảnh hình của cô gái trong màu áo sari vàng, điểm lên cùng mái tóc dài mịn như những sợi tơ long lanh dưới ánh đèn nhạt sáng. Trên đôi môi thẳm màu, làn da đỏ đương lay động một sức sống của âm gió lùa dựng vi vu vào đồi thông, của tiếng suối lách chảy róc rách qua từng hòn đá cuội nhẵn mòn. Ananda nhận ra, từng nét từng đường trên thân thể cô: mái tóc, mùi hương, giọng nói, ánh mắt, làn da và đôi môi. Mỗi chúng một thực thể sống động rất riêng, không một từ ngữ nào có thể khơi gợi, không một hình dung tả nào tại sâu thẳm bên trong trí tưởng tượng có thể tái tạc hoàn chỉnh hình thể kia.
      “Chàng ăn đi kẻo nguội!”. Cô gái gợn bẽn lẽn nhìn Ananda mời nhắc.
      Chàng hít một hơi sâu. Gắng lòng trấn tĩnh. Gật đầu cảm ơn. cúi xuống dùng bữa trong cái nuốt nghẹn, trong hồi nhịp tim không ngừng hồ hởi giẫy đập sau lớp áo.
      “Cháu ăn xong hãy nghỉ ngơi. Sáng ngày mai đến gặp ta bên bờ suối”. Lão ông mỉm cười và rời bước vào nhà sau.
      3. Tiếng chim rừng hót thảnh thơi bên ngoài cửa sổ đánh thức Ananda trở dậy.
      Theo lời dặn của lão ông, chàng lần bước ra bờ suối. Dưới bầu trời rạng đông, cái bóng tối vô tận tưởng chừng có sức mạnh nuốt chửng cả khu rừng vừa biến chạy, kéo từng dãy sương mù dày đặc của đêm đen lẫn mất vào thinh không. Bên lối đi, vài con chim cánh kiến đỏ chuyền nhảy trên mấy nhành cây hoa bang lục lạo tìm thức ăn. Trong truyền thuyết, hạt giống của loài cây palash linh thiêng đó từng được tẩm ướp thuốc trường sinh somarasa và những tu sĩ Bà-la-môn như chàng mơ ước, trong nghi lể điểm đạo sadhu sẽ được thầy trao chiếc một lá bang, công nhận hoàn thành trọn vẹn sự dứt bỏ và được giải phóng khỏi sinh tử luân hồi.
      Khi Ananda chạm chân lên bải cỏ mềm bên góc suối, chàng đã thấy lão ông ngồi thiền định cạnh mấy con nai nhởn nhơ gặm cỏ tự bao giờ. Chàng bước đến, cuối ngồi cạnh bên. Lặng im. Lắng nghe tiếng suối chảy lóc róc qua mấy tản đá bám đầy những dây leo và rêu phong.
      “Con trai đến rồi à?”. Lão ông hỏi.
      “Dạ vâng!”. Ananda đáp lời.
      “Thật ra ta đã chờ đợi con tại đây từ rất lâu”
      “Ngài từng biết con hay sao?”. Ananda ngạc nhiên hỏi.
      “Duyên hợp thì hội ngộ, cần gì phải biết nó đến từ đâu. Nói đi, có phải con có ước nguyện trở thành một sadhu vĩ đại?”
      Ananda khẻ giật mình, lẽ nào ông lão có khả năng đọc tư tưởng của người khác.Chàng cung kính hỏi. Thưa đúng! Nhưng chẳng lẽ người có khả năng thấu thị?
      Lão ông tươi cười: “Con làm gì để lắng nghe trọn vẹn lời nói của một người?”
      “Thưa, là im lặng hoàn toàn”
      “Đúng vậy! Con hãy nhìn bầu trời bắt đầu đương xanh lên của một sáng bình minh. Trong bản thể tự nhiên trống rỗng đó, không một gợn mây trôi giạt, không một vọng động muộn phiền. Tại vùng im lặng mênh mông thanh khiết không tư tưởng đó, ta nghe được những âm thanh vang dội vang dội. Và như con, miệt mài thiền định đến khi mọi khái niệm tan biến vào hư không, đến khi những làn sóng ý niệm bị nhấn chìm vào ánh sáng. Tại điểm góc rễ luân hồi bị cắt đứt. Sự yên tịnh từ sâu thẳm sẽ nổi lên. Tâm bất nhị nguyên tự nhiên dõi theo mọi thế giới và con được lắng nghe những suy nghĩ thì thầm.”
      “Thưa ngài! Con thuộc nhiều kinh sách Vệ-Đà, từng thiền định khổ hạnh nhiều năm, nhưng vì sao những phiền não vẫn còn chưa thể trút bỏ hết?”
      Lão ông cúi xuống nhặt một hòn đá bỏ vào lòng bàn tay và hỏi, trong tay ta có gì? Một hòn đá. Ananda đáp.
      Rồi lão ông ném hòn đá xuống dòng suối, lại xòe tay ra và hỏi: “Trong tay ta có gì?”.
      “Một bàn tay trống không”
      “Con nói đúng. Hãy nhớ chính là không. Nhưng cái không đó chẳng phải là sự mê mờ của vô trí, của cái bóng tối thâm u trùm phủ lên tâm thức không nhận biết. Cái không đó cũng chẳng phải là sự vắng mặt của một đối tượng. Cái không đó là tính chất của sự chối từ, của tháo gỡ mình khỏi cái nhìn lưỡng nguyên giữa chủ quan và khách quan.”
      “Xin người nói rõ hơn!”
      “Này con! Hãy tưởng tượng dòng suối kia là biển cả của tính không, chứa đầy sự chối từ. Bằng thiền định an trụ, con đem nước cam lồ dẫn vào ba kinh mạch trung ương, làm tan những khát vọng và mộng tưởng. Hãy hít vào không sợ hãi và thở ra sợ hãi. Hãy hít vào không thù hận và tống ra thù hận. Hãy hít vào không tham và thở ra tham. Hãy hít vào không ganh tị và tống ra ganh tị. Này con! Hãy lặng im nắm bắt từng dòng tâm đang luân chuyển không ngừng. Hãy kiên trì! Kiên trì đến khi tâm an trụ vào tuệ giác thường hằng.”
      Ananda mừng rơi nước mắt, cuối lạy lão ông, run rẩy nói: “Lời giảng của người như ánh mặt trời xóa tan hết màn đêm vô minh mịt mùng trong tư tưởng con.”
      Đạo sư Ankura bật cười, “con sẽ mau chóng đoạn tuyệt với hư vọng phân biệt”, và chỉ tay về hướng động đá, “nào! Hãy đến động đá đằng kia thiền định cho đến khi nhận ra có sự biến chuyển tại bên trong mới được nghỉ dừng.”
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
      CHƯƠNG 3. YASHODA
       
      1. Ananda nhận ra thời gian đang trở về đêm.
      Từ lỗ hổng thông khí nhìn lên bầu trời cao, một vì sao lẽ đang treo mình lắc lư, sự sống thì thào theo hơi thở nhẹ nhàng của vũ trụ. Từ trên, một đường ánh sáng mong manh vượt qua các thế giới, lọt thỏm vào khe hở thông khí, rọi một vòng ánh sáng hình tròn lên vách đá. Nhưng sức lực nhỏ bé của nó không đủ xua đi mãng bóng tối dày đặc bên trong căn động hút sâu đang nuốt chửng người tu sĩ Bà-la-môn chìm trong một khối tịch lặng không thời gian.
      Ananda phát nguyện nhập thất trong động đá một năm để thực hành lời giáo huấn của thầy về tính không nội tại. Được đạo sư đồng ý. Ngày cuối lưng bước qua ranh giới của mái vòm đá xếp chồng và nghe cánh cửa gỗ nặng trịch kéo chặn ngang cửa hang và bật ra một âm thanh khô khan, Ananda biết mình vừa bỏ lại sau lưng một kết thúc, sẽ giáp mặt với một bắt đầu của thế giới khác. Thế giới của tư tưởng thì thầm không tiếng nói. Thế giới của bốn bề những tấm gương mặt phẳng nội tâm. Thế giới nơi chàng tìm cách sống với chính mình.
      Ngồi quay mặt vào vách đá. Ananda chú tâm giữa vùng bóng tối bao phủ chung quanh. Tại góc thế giới vô hình hài, không một tiếng động nào có thể vọng đến, không một hình ảnh nào có thể thị hiện. Chàng đối diện với chính mình qua tấm kính không thời gian, và trên cái nền lắng động không hôm qua chẳng ngày mai, cái tôi của chàng nổi lên, thị hiện trong hình tướng cô độc và hoang mang.
      “Anh có muốn thoát khỏi chổ này và đi rong chơi qua những nẻo đường hành hương?”. Cái bóng nói với Ananda nhưng chàng nhất quyết lặm im. “Hay là anh hát lên đi! Một bài ca. Một bài chân ngôn. Và qua đôi môi, âm thanh bay vào vách đá, vọng trở lại như anh có một người bạn đang thì thầm”. Và Ananda cũng từ chối trả lời.
      Sau cái bóng thời gian, ồn ào tan biến vào thinh lặng. Trí tuệ sinh mầm trên thanh tịnh. Suy tư rung giọng thì thầm: cô độc và thời gian là hai yếu tố lạ lùng trong cuộc sống, có thấy không?
      Ananda nhìn qua mặt gương phi thời gian. Tấm màn của vở kịch đời sống vén lên. Qua sự phân chia nhị nguyên, chủ thể và khách thể, cái tôi và cái hiện hữu được nối nhau qua sợi dây của lệ thuộc và thỏa mãn. Theo thời gian, mối quan hệ đó được vun đắp thành một bám víu tưởng như không thể tách rời. Và ngay tại khoảnh khắc đổ vỡ, cô độc len lỏi vào tâm thức, có một sự trống rỗng xảy đến làm sợ hãi nở hoa. Trống rỗng tách rời nhận thức khỏi ký ức, cô lập trí tưởng tượng khỏi mối liên lạc với thời gian. Và sợ hãi xui cái tôi lao xao tìm kiếm bất cứ cái gì lấp đầy, che đậy một cô độc hiện hữu tại bên trong và bên ngoài. Nhưng trạng thái cô độc đó không đến từ sự tách biệt vật lý, từ cái thiếu vắng mối quan tâm của những người thân hiện diện bên cạnh; mà chính nó nảy lên từ cái trí bị dứt đoạn những nhu cầu, bất chợt thiếu vắng một vui thú, sự kiện đứt rời các mối quan hệ lệ thuộc, hay thời khắc đánh mất một thói quen.
      Rồi Ananda chú tâm quán tưởng tánh không về sự quyến luyến của những mối quan hệ lệ thuộc, tánh không của thói quen kiếm tìm vui thú. Và dưới chiều sâu thẳm của nội tâm, chàng nhìn thấy trên những giề đất tách rời của mảnh ruộng khô cằn, hai đứa trẻ đội bình nước bước đi dưới ánh nắng nóng bỏng của mặt trời. Rồi đất hóa thành sa mạc. Cát vàng lắp đầy lên theo lượn sóng nhấp nhô. Mảng miếng ghép nối. Hình khối đắp bồi. Và gió nổi lên bầu trời. Những bụi mù cuốn dậy. Những gợn đục cuộn bừng. Những mờ lạc phủ cao. Mọi thứ. Mọi thứ. Chìm nhòa theo khô hạn. Ananda biết cái trí trống rỗng là cái trí của thoái hóa, cái trí của tách rời sống, cái trí của cô lập.
      Suy tư ngập ngừng nói: bữa nay là hôm qua và ngày mai, có thấy không?
      Ananda nhìn vào mặt gương phi thời gian. Chàng nhìn thấy một khoảnh rừng ngập nước chơ vơ thân củi giữa mặt hồ. Cuối rũ những bóng của quá khứ sự sống. Vài con chim bay tới, định đậu lên và bay đi. Mấy cơn gió lao đến, buồn bã trôi qua vì chẳng có tiếng rì rào. Mặt trời trên cao không còn hiện hữu. Mặt trăng hiền diệu chẳng thấy thị hiện. Tại đó không có đêm và ngày. Tại đó chẳng hôm qua không ngày mai. Tại đó chẳng có đợi lẫn chờ. Tại đó chẳng có gì hi vọng. Tại đó không có điều luyến tiếc. Và trong một im lặng nối dài, có một dứt bặt đậu lên mặt nước xanh phẳng lì không gợn sóng. Ý thức chìm lắng thật sâu vào dòng nước mềm, kéo yếu tố thời gian tan biến như màng sương của buổi sớm mai.
      Trên mặt thảo nguyên dầy cỏ, người đàn ông thả bầy dê tự do kiếm ăn, ngả tựa lưng vào vách căn chòi canh, say nồng trong giấc ngủ trưa. Xuyên qua một cơn mơ, gã nhìn thấy vị thần tay cầm những pháp khí cưỡi một con dê đen bay trên bầu trời đỏ. Gã mơ màng lục tìm ký ức và nhận ra nữ thần Kali. Thần chết. Đúng rồi. Gã hốt hoảng giật mình thức giấc. Đứng dậy xua mấy vệt nắng vàng nhảy nhót trên khuôn mặt. Gã nhìn nhìn lên bầu trời xanh. Một ngọn gió trườn xuống từ đỉnh đồi, phất vào mặt, kéo trôi sợ hãi tan vào lá cỏ lùa.
      Ananda xòe tay nắm ngọn gió. Cưỡi lên. Bay vòng khắp thung lũng. Cái cung lượn này. Cái vòng bánh xe không dứt của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Cái vòng của tâm đạt kinh nghiệm về thế giới thực tại: thức, ngủ mộng và ngủ say; chúng được sinh ra từ sự che đậy của vô minh.
      Ananda lướt bay theo đường chỉ tơ phi thời gian nối dài, không có điểm bắt đầu và chẳng tận cùng kết thúc. Nụ hoa của tự do nở bùng trong dưới ánh sáng tự tại. Nụ hoa của siêu vượt rung rinh trước gió làn thanh tịnh. Nụ hoa của phúc lạc điểm lên một giọt sương của giải thoát. Ananda thì thầm, chừng nào còn nhận diện sự hiện hữu, ý thức còn muốn thị hiện; chừng nào còn ý thức, yếu tố thời gian còn tồn tại; chừng nào yếu tố thời gian còn tác động thì tự do chưa thể sinh khởi.
      Suy tư bật cười, vung tay: Tự do sẽ như đùm mây trôi bay xa, có thấy không?
      Ananda reo mừng nhận ra thân hình mình nhẹ tênh như bông, như nhành hoa bồ công anh vừa bứt ra khỏi cuống, tự do theo gió bay lướt đi chẳng trả về. Dưới kia! Chàng đó! Cái thân xác mệt nhoài vừa trút bỏ, một pho tượng đang ngồi như ngọn núi phủ điểm lên những màn bông tuyết trắng đốm. Sau giấc ngủ vô minh dài , ý thức tỉnh giấc, bật tung lên khoảng không cao như một mũi tên, lướt xuyên gió vì vù. Rồi ý thức chạm chân lên tầng mây xanh ngắt. Lên một dãi đồng cỏ xanh tươi trắng mềm như dưới ánh sáng trăng. Nó thức rùng mình vì cái bầu không khí, cái cảm giác, cái nhận thức có đầy phúc lạc vây quanh. Có đầy sự yêu thương mà tách thoát hết ràng buộc. Có đầy tự do khi mọi rốc rễ của bám luyến bị nhổ bật.
      2. Bụi lan rừng mọc bám trên thân cây già trước thạch thất vừa trỗ mấy bông màu trắng, xòe cánh nghiên nghiên đón trận mưa đầu mùa vừa mới đến.
      Mười hai tháng nhập thất của Ananda cuối cùng cũng trôi qua.
      Đạo sư Ankura kéo mở cửa, bật cười khi nhìn thấy Ananda còn đang ngồi thiền định hướng mặt vào vách đá. “Hạn nhận thất của con đã đủ và hãy trở ra bên ngoài”.
      Ananda thanh thản rời động thất. Chàng hơi cuối đầu tránh ánh sáng mặt trời chói lóa.
      “Ta luôn dõi theo sự tiến triển của con từng ngày và cảm thấy hoan hỉ vì chút thành tựu đó”. Đạo sư Ankura nói.
      “Con thật sự chưa vượt qua được vài giới hạn, thưa sự phụ.”
      “Con hãy thanh thản. Thanh thản đem thiền định vào đời sống như hơi thở. Chỉ có thanh thản đó mới giúp con nhận ra tàn dư của Phàm Ngã.”
      “Dạ vâng! Con sẽ ghi nhớ”, Ananda cúi quỳ, chạm vào chân đại sư bày tỏ thành kính.
      3. Trăng tròn nhô mình khỏi những ngọn cây, phủ lên góc trời dãy sáng màu bạc thẳm. Bên dòng suối soi trăng, một con nai thân mình ướt đẫm sương, nhẹ nhàng lách bước qua mấy hòn đá lớn, thanh thản cúi uống dòng nước róc rách chảy dưới chân nó. Trên thảm cỏ xanh nhung cạnh bờ suối, Ananda ngồi đối diện thầy.
      “Hôm nay ta sẽ truyền dạy cho con cách sử dụng môn chiêm tinh Nadi Jyotisa”. Đạo sư Ankura nói.
      “Thưa vâng!”, Ananda lặng im chờ đợi.
      “Con có biết đời người đi theo tiến trình nào?”. Đạo sư Ankura hỏi.
      “Thưa, đó là vòng quay của nghiệp quả”
      “Nghiệp quả đó chứa ở đâu?”
      “Bẩm, trong tàng thức sanskaras.”
      “Con nói đúng! Như cây bồ đề xanh tốt, trên cành có bông hoa đã nở, trên nhành có trái đã đơm, và tinh túy của cây mẹ đã được gieo vào hạt giống theo tiến trình kết trái. Như thế. Một người sau khi chết; cảm thụ, ký ức, nhận thức, trí tưởng tượng và bản năng (nghiệp hành) theo đó mà gom tụ rồi rời bỏ thể xác. Nó lang thang tại cõi tinh thần, tự do di chuyển từ nơi này sang nơi khác trong một vùng không biên giới. Tại đó. Nó đau khổ vì chẳng còn thân thể để thụ hưởng các xúc cảm vật lý. Vật vờ đến khi nào nhận ra bản chất của thế giới là do tâm tưởng và tâm tạo. Ngay tại khoảnh khắc tâm bản nhiên sáng tỏ, nghiệp hành trở nên im lặng, ký ức bị chôn vùi dưới sự lãng quên. Nhưng vì cái tham luyến đời người vẫn còn, nghiệp thức đưa nó rơi vào một bào thai, vào trong một mầm sống được tạo ra từ tinh túy của người cha và người mẹ. Tại lúc nghiệp thức được bao bọc bằng tinh chất của ngũ đại, tính biết bị hôn trầm trong bóng tối, cái kinh nghiệm cá nhân của đời sống trước cũng theo đó mà chôn vùi vào hạt giống của tàng thức sanskaras.”
      “Khi nghiệp thức luân hồi trong hình hài một đứa bé, nó ở trong trạng thái phi kinh nghiệm cho đến lúc các giác quan phát triển tương đối hoàn thiện, rồi có cảm nhận về sự hiện hữu bên ngoài. Nó quan sát và học hỏi thế giới qua hình ảnh đầu tiên từ người cha người mẹ; đó cũng là thời điểm cái ký ức của đời sống mới được mở ra trên nền tảng của tàng thức. Nó sinh hoạt trước những sự kiện mới mẻ và không hề hay biết xu hướng mà nó thích, năng khiếu mà nó có, cá tính mà nó thể hiện, là khởi lên từ tiềm thức sanskaras. Và qua quá trình tích hợp kinh nghiệm cá nhân từ học hành, qua quan sát và tìm hiểu; nó tưởng mình là một cá thể có tự do với những suy nghĩ và hành động của riêng mình.”
      “Người ta thường đối diện với nghiệp vận của mình như thế nào?”, Ananda hỏi thầy.
      “Một người thành công trong xã hội sẽ từ chối lý thuyết anh ta đang chịu sự chi phối của nghiệp vận, bởi vì dường như đó là cách phủ định công sức và tài năng của một cá nhân xuất sắc. Một người thất bại không tin vào duyên nghiệp bởi anh ta chẳng muốn chấp nhận mình từng không hoàn thiện. Một người lại sợ hãi, vì nghiệp quả là một điều gì đó thật mơ hồ, anh ta đối diện với các sự kiện của nó, thành công và thất bại, trong một trạng thái khó nắm bắt. Và để thoát khỏi đó, anh ta sẽ thờ cúng các thần linh. Một người hiểu được tiến trình của nghiệp vận, anh ta sẽ không sợ hãi và thản nhiên chấp nhận nó thật tự tại.”
      “Nếu một người yếm thế biết được tương lai ấn định, anh ta sẽ buông xuôi theo số phận?”
      “Một con người có bất kỳ suy tưởng hay hành động nào về nghiệp quả của chính mình, từ chối, trốn chạy, thờ cúng các thần linh; anh ta vẫn đang trong vòng vây của nó. Nghiệp vận thật sự không đến từ bên ngoài, nó ở ngay chính trong anh ta, nó là dòng suy nghĩ đang hiện diện bên trong tâm thức và cuộn trào không ngừng nghỉ. Vậy anh ta trốn chạy bằng cách nào? Trừ khi anh ta đã thật sự giải thoát. Anh ta chấm dứt mọi suy nghĩ trong đầu.”
      “Thưa, ký ức được lắng xuống và trở thành tàng thức như thế nào?”, Ananda hỏi.
      “Tỉ như việc con gặp một người thợ đang cần mẫn nặn những chiếc bình gốm và nói chuyện với anh ta. Việc anh ta hội ngộ con là một sự kiện. Việc anh ta có kỹ năng làm sứ là một kinh nghiệm. Cả hai điều này đều chứa trong ký ức của anh ta. Nhưng khi ấn tượng về sự kiện bị lãng quên chỉ còn một kinh nghiệm của kỹ năng hiện diện mơ hồ, nó là một tàng thức.”
      “Khi nào người ta kết nối ký ức vào tiềm thức?”
      “Hãy tưởng tượng những suy nghĩ bên trong con là những tiếng nói rất ồn ào và tàng thức là một rung âm nhẹ nhàng. Con làm sao có thể nghe thấy nó trong cảnh tượng hỗn loạn đó. Khi cái trí của con trở nên im lặng hoàn toàn, tính sự kiện và kinh nghiệm sẽ hiện diện rõ ràng trong vùng ký ức không thời gian.”
      “Định mệnh và nghiệp quả khác nhau như thế nào?”
      “Nếu ta phân chia đời sống thành hai khía cạnh, thì tính sự kiện là duyên, còn trạng thái là nghiệp. Cái dẫn dắt con đến gặp ta là duyên. Cái ý nghĩ thôi thúc con trở thành đệ tử của ta là nghiệp.”
      “Liệu có phải con người chỉ có thể thay đổi nghiệp quả, chứ chẳng thay đổi được duyên số?”
      “Với một người thợ gốm, nguyên liệu xấu chỉ có thể cho phép anh ta nặn ra một sản phẩm có chất liệu tầm thường và tất nhiên dụng cụ đó có giá thật rẻ, nó hay được những người nghèo mua về sử dụng. Tương tự, một đứa trẻ trước khi ra đời, tại thời điểm nghiệp thức có ý nghĩ đi vào hóa sinh và nhập thai, nó được đưa đến một gia đình, một vùng, một quốc gia phù hợp hoàn cảnh mà tương lai của nó thị hiện. Tương lai đó đã chứa sẵn những sự kiện. Nó không có sự lựa chọn, vì chẳng thể nào nhận ra cái suy nghĩ của mình chính là do tàng thức sanskaras giật dây.”
      “Một kết quả của nghiệp vận luôn có luôn kết thúc đúng theo quy trình?”
      “Ta có một tiến trình của riêng ta. Con có một tiến trình của riêng con. Chúng ta luôn biến dịch trong từng khoảnh khắc của dòng chảy tồn tại. Như một cái trứng của con chim rừng trên ngọn cây bị gió cuốn rơi xuống đất và vỡ tan. Nếu như không có sự hủy diệt là nhân chứa sẵn trong quá trứng, thì nó vẫn hiễn nhiên tồn tại như sự hiện diện trước đó của nó. Nếu như trong nhân đã chứa sẵn sự tàn hoại thì ngọn gió kia chỉ là duyên, một cơ hội để tạo ra sự kết thúc và tác nhân đó chẳng mang một ý nghĩa gì cả. Ví như sự kiện ta và con gặp nhau gọi là sự chín mùi của nghiệp quả. Tuy một sự kiện được định sẵn, để đi đến kết thúc nó cần có một sự thúc đẩy của ý nghĩ bên trong. Lại vì lý do gì đó mà sự tác động quá nhiều hoặc quá ít, thời điểm kết thúc sẽ trễ hay sớm hơn.”
      “Đó là định mệnh của đời người được đề cập trong quyển sách chiêm tinh Brhat Parasara Horasastra?”
      “Có hàng trăm môn chiêm tinh từng hiện diện tại xứ sở này. Sau đời vua Bàn Cổ, chiêm tinh học được truyền lưu truyền rộng rãi, nhân loại vì thế mà tránh được nhiều tai kiếp. Nhưng dần dà lòng người sa đoạ, sử dụng chiêm tinh vào mục đích xấu nên khả năng tiên tri của nó chẳng còn linh nghiệm cao.”
      “Ngay cả quyển chiêm tinh cổ đại nổi tiếng như Bhrigu Samhita cũng là trò phù phiếm?”
      “Một người Bà-la-môn nào kiếm sống bằng cách nói cho thân chủ nghe về quá khứ, hiện tại và tương lai; thì anh ta đang tham gia vào trò chơi của sanskaras. Con tưởng tượng cái tàng thức sâu thẳm bên trong con nắm giữ một đồng tiền, và yêu cầu con đoán xem nó ở bên phải hay bên trái. Nếu nó gợi ý chân thật con sẽ đoán đúng; nếu nó cố tình đánh lừa thì con chẳng thể nào chiến thắng. Vì người gợi ý cũng là nó và người dự đoán cũng là nó. Thế nên, một nhà chiêm tinh dù tiên tri tài tình, anh ta vẫn chịu sự chi phối của nghiệp quả và chỉ có thể đoán đúng trong khoảng thời gian nào đó trong giới hạn của căn nghiệp. Trừ số ít người từ bỏ dục vọng, tư tưởng được thông suốt, ông ta mới có thể hiểu được sự xoay chuyển của các hành tinh và thấu hết các tác động của vũ trụ đến vận mệnh cá nhân mà không bị sanskaras chơi khăm”.
      “Các hành tinh đã vận hành số mệnh của con người như thế nào?”
      “Nói theo khái niệm của môn chiêm tinh Nadi Jyotisa, chín hành tinh Navagrahas điều khiển nghiệp quả của tất cả chúng sinh qua 84.000 điểm linh quang siddar. Những điểm siddar này nên hiểu như là một công cụ tác động, đánh thức các nghiệp quả đã chín ẩn trong tàng thức sanskaras, làm nảy sinh một ý tưởng để khởi đầu hoặc kết thúc một sự kiện. Và đó là cách người ta dấn thân vào định mệnh.”
      “Một sự cộng nghiệp cũng diễn tiến theo cùng một quá trình?”
      “Một người ăn mày như số mệnh đã định, hôm nay, anh ta nhận được ba đồng tiền. Như vậy, sẽ có một người nào đó đi trên đường tiêu mất ba đồng tiền cho anh ta. Đó là một sự cộng nghiệp. Tại một vùng đất mà nghiệp đã định phải có hạn hán ba năm, những người có nghiệp lực đói kém sẽ được gợi ý để luân hồi xuống đó; hoặc những người có nghiệp lực đói kém sẽ tìm tới đó định cư; và những người không phải chịu cảnh đó sẽ dời đi. Đó là một sự cộng nghiệp.”
      “Sự hưng vong của một quốc gia cũng là nghiệp quả?”
      “Tại một quốc gia mà tương lai hưng thịnh sẽ có những người làm cho nó hưng thịnh. Tại một quốc gia mà tương lai suy vong sẽ có những làm cho nó lụn bại. Dù điểm kết thúc của sự kiện là gì, trở nên thành công hoặc thất bại, những con người đó cần có nghiệp lực tốt để biến ý tưởng của y thành hiện thực và có khả năng vượt qua mọi kháng cự.”
      “Thời điểm ý tưởng nảy sinh cũng là lúc nhân được gieo?”
      “Trong phương diện cá nhân, khi ý tưởng nảy lên trong đầu, nó cũng chạm khắc vào ký ức một rung động, đánh dấu khởi đầu của nhân. Trong phương diện cộng nghiệp, khi một kế hoạch được tiến hành, nó cũng khởi đầu cho một nhân. Tùy vào thời điểm khởi đầu của nhân là gì, kết cục gặt quả sẽ tương ứng.”
      “Như thế người có nghiệp lực tốt sẽ gieo được nhân tốt?”
      “Một người mà còn những suy nghĩ hiện diện, anh ta không thể nào tự mình tìm ra thời điểm tốt để gieo nhân; thời điểm tốt lành kia là do sanskaras gợi ý, không phải sự sáng suốt của anh ta.”
      “Vậy tác dụng thật sự của môn chiêm tinh là gì?”
      “Môn chiêm tinh chỉ được sử dụng đúng đắn khi anh ta dùng nó quan sát cuộc đời, nhận ra mình bị nghiệp lực chi phối như thế nào, nhận ra thời điểm tốt lành để có những hoạt động đúng đắn, nhận ra tiến trình sống chỉ là một màn kịch bị quy định.”
      “Và qua đó nhìn thấy sự cần thiết của giải thoát?”
      “Người ta thường từ chối ý tưởng mình bị chi phối bởi nghiệp lực, vì họ muốn được công nhận cái kết quả đang là được vun đắp bởi tài năng và sự cống hiến của một cái tôi. Họ lo sợ thái độ chấp nhận tiến trình sống của một người chẳng khác nào màn kịch, sẽ đặt họ vào trạng thái giáp mặt với sự rũ bỏ chính mình.”
      “Vì sao một số nơi người ta phủ nhận mối quan hệ của nghiệp quả?”
      “Để ngăn nước trên dòng suối kia không chảy xuống hạ nguồn, con phải chặn nó bằng những hòn đá. Như thế, đó là cách người ta phủ nhận mối quan hệ nhân quả, nhảy chắn vào đó và tuyên bố mình là tác nhân của sự thành công, rồi trở thành một đấng anh minh chẳng hạn.”
      4. Ananda thiền định trước động đá.
      Những tia nắng nhảy nhót trên cành lá chợt giật mình lẫn trốn tiếng leng reng. Yashoda đến. Nàng đội bình sữa trên đầu. Chân đi theo một vũ uyển chuyển, đệm lên bằng điệu nhạc lục lạc cột dưới chân.
      Yashoda đặt chén xuống, nâng bình rót sữa. “Sư huynh hãy ngừng nghỉ và uống cạn bát sữa này!”. Nàng dâng bát sữa. Hơi thở nồng ấm trôi ra, chạm vào mắt Ananda. Mùi hương từ mái tóc tỏa ra chạm vào mũi Ananda. Làn da mềm mại chạm vào tay Ananda. Đôi mắt mời gọi ái ân chạm vào thị giác Ananda. Chàng bối rối nhìn Yashoda. Ngắm đôi mắt long lanh như mặt hồ. Nhìn làn da trắng như ngọn tuyết sơn. Ngó đôi môi đỏ ướt đẫm tựa làn sương mai buổi sáng. Lửa dục trong tâm chàng nổi lên, phừng phực nhấn chìm giác quan vào cơn hôn trầm tưởng ái. Cổ Ananda khát khô. Mắt Ananda mờ đục. Hơi thở Ananda đứt quãng.
      Ananda run run cầm bát sữa và uống cạn.
      “Hãy xem tóc của sư huynh rối lên kia, hãy để em chải lại cho chàng!”. Yashoda vòng ra sau lưng Ananda. Từng ngón tay nàng mềm mại luồn qua mái tóc khô dựng đứng như rễ tre, nhẹ nhàn bóc gỡ những lọn tóc rối đan vào nhau.
      Ananda lặng im nghe mùi vị nồng thắm của đàn bà. Nghe vòng tay dần xiết chặt dưới lưng. Nghe bầu ngực tròn nhấp nhô chạm vào da. Nghe khuôn mặt ngã vào lưng tìm kiếm một yêu thương. “Hãy để cho em suốt đời được ngã vào lưng chàng để tìm thấy bình an. Hãy để cho em suốt đời được ngã vào ngực chàng để tìm thấy một yêu thương”. Yashoda thỏ thẻ.
      Ananda định gom tụ những từ ngữ mềm mại nhất, những lời lẽ âu yếm nhất để nói chàng sẽ đồng ý cùng Yashoda sống tại đây đến trọn đời. Nhưng bên trong chàng lại có một trống rỗng và khô khan. Ý tưởng tàn héo. Ngôn ngữ nghẹn ngào. Hơi thở đứt đoạn. Chàng ngần ngừ quay sang nhìn Yashoda đang gục đầu lên vai mình. Trên đôi mắt nàng là hình ảnh người cha khắc khổ đứng dưới đền Masroor ngó lên nhìn con trong ánh mắt đầy hi vọng. Trên khuôn mặt nàng là tàn tro của người mẹ bay tản trên mặt nước sông dài gửi lại những dặn dò. Trên đôi môi nàng là hình ảnh cách chàng từ chối Darina để ra đi tìm chân lý.
      Ananda khẻ rùng mình. Trước mắt chàng, trên cánh đồng vô dục. Nơi vui thú đang vun từng bụm phân nuôi cỏ tham ái xanh tươi, sau ngọn gió luyến ái rơi xuống từ góc trời thẳm cao mời gọi rì rào. Một mùa cỏ qua đi. Những bộ rễ chịt chằng dục vọng hút sinh lực cuồn cuộn, trả lại lên cánh đồng tươi một mõi mòn khô kiệt. Nắng và gió giẫm lên tàn tạ. Thời gian nấu cánh đồng đông đặc thành cát sõi. Thoái hóa đến nặn lên thành cát đá vô tri. Thời điểm tận cùng rồi cũng đến. Tư tưởng hóa bê tông. Nhận thức đông cứng giữa bốn bề vô vọng. Một tận cùng bắt đầu khép lại đoạn kết thúc.
      “Sư muội hãy trở về kẻo thầy ngóng đợi”. Ananda nói, đứng dậy bước vào hang động, đóng cửa nhốt mình trong bóng tối.
      Ta không thể chấm dứt hành trình giải thoát của mình chỉ vì tham mê ái dục. Yashoda làm tỉnh, ngồi lên phiến đá. Chú tâm quan tưởng về tính không của lòng ái dục, về tính không của lòng vui thú tìm kiếm dục lạc, về tính không của lòng si mê cái đẹp.
      Trên cánh đồng vô dục, mưa tính không chứa cam lồ rơi xuống, thanh tẩy những mê tham. Vui thú bỏ đồng hoang chốn chạy về cõi biệt tăm. Cỏ tham ái úa vàng ngóng về tiếng rì rào, héo rũ đợi tiếng chân người vui thú; nhưng chẳng có. Rồi tịch mịch kéo đến cày xới đất, hun tham ái thành những tàn tro rũ xám. Rồi lặng im trở về gieo hạt giống an tịnh qua tay, vườn an lạc xanh lên màu hoa cỏ. Và trên sợi chỉ không thời gian, Ananda ném bất tịnh qua hơi thở, dẫn thanh tịnh chảy hòa vào các kinh mạch trung ương. Lặng im sinh khởi làm chủ thể, kéo hơi thở ngập xuống chỉ đường tơ, dỗ con tim buông thôi ngừng giãy giụa.
      Thêm một năm dài trôi qua.
      Bên ngoài động đá, có tàn cây ngã đỗ, có dây leo rừng mọc phủ kính cả lối đi.
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
      CHƯƠNG 4. BHUSUKU
       
      1. Con đường từ ngoại ô đi thành phố Ropar nằm cạnh dòng sông Satluj, lượn cong như hình rắn naga đang vùi ngủ trong hơi thở thì thầm. Ananda đứng trên cây cầu dây treo, nhìn dòng sông bên dưới chảy nhẹ, quanh co. Tại đoạn khúc chảy qua thành phố Ropar, những ngôi nhà lưa thưa dọc theo bờ sông hãy chìm mình trong màn hơi nước ảo mờ của buổi sáng.
      Dưới một tàn cây lớn, ba người đàn ông trò chuyện trên cánh đồng đang cày xới dỡ, lẫn theo tiếng cười của hai đứa bé đội bình nước, phụ cùng cha tưới đám cải vừa mới nhú mầm xanh. Một đôi bò mẹ con dìu dắt nhau lội qua dòng nước rẻ nhánh từ con sông lớn. Ngó nghiên mấy bóng chim hồng hạc cổ cao lêu nghêu, xoè màu lông đỏ như ánh bình minh vào buổi sớm ló dạng, lững thững đi trên bãi cỏ nhạt vàng, úa lá, lấp lé nước.
      Nắng đã lên trời. Trên chiếc bè chuối, một thiếu phụ, một đứa bé trai và một con đê đang lướt đi nhấp nhô sang bờ bên kia sông. Cây sào tre trên tay người đàn bà tung tẩy từng nhịp, chạm xuống, khuấy động dòng nước, bật ra một sức đẩy chập chùng trong ánh nắng sớm rải lao xao trên mặt nước. Và thằng nhỏ lấy tay che nắng, đứng trên bè nhìn Ananda tươi cười. Với nó, dường như một tu sĩ ẩn dật, ăn mặc rách rưới, đi lang thang trên con đường cái của khu ngoại thành yên tĩnh này ắt hẳn là một sự là lùng hiếm thấy.
      Ananda nhìn lên, tiếng một con đại bàn xé tan yên tĩnh trời dường như vừa hân hoan chào đón chàng. Sải cánh nó vừa vụt bay lên từ ngôi đền thờ thần Krishna phủ màu gạch đỏ, lướt qua cái bóng tháp ngả hồn lao xao xuống mặt sông xanh màu đậu đỗ.
      Một người đàn ông trung niên ngồi bệt bên bức tượng thần Krishna được ghép bằng vô số hòn đá cuội nhỏ đặt bên vệ đường, thất thểu. Ananda nghe, dường như ông ta đang khóc rưng rức. Chàng bước đến. Đứng nhìn. Nhận ra một người Pariah qua cách ăn mặc rách rưới và việc y không được phép bước vào bên trong điện đền thiêng. Chàng cảm thán cho phận người, cho sự phân chia cố hửu tồn tại khắc nghiệt giữa những phận người. Rồi chàng nhìn lên bức tượng thần Krishna màu xanh, cổ đeo vòng hoa đỏ, hoan hỷ với chiếc sáo cầm trên tay và người phối ngẫu bên cạnh, nàng Radha trìu mến trong bộ sari thêu họa tiết hình cánh chim công. Theo Thánh kinh Bhagavad Gita, thần Krishna, một hóa thân của Thượng Đế tối cao đã xuất hiện để truyền dạy pháp môn yoga, con đường giải thoát tối thượng cho vị dũng tướng Arjuna có đầy những tâm trạng bất an trước trận chiến huynh đệ tương tàn. Chàng hiểu rõ sự vi diệu của pháp môn yoga nhưng chàng đối diện với tượng thần Krishna như giáp mặt về một biểu tượng linh thiêng hơn là một dại diện của Thượng Đế hiện diện tại thế gian. Sự hiện hữu để lắng nghe đòi hỏi, đáp ứng tâm nguyện của con người thông qua cuộc tế tự và nhờ tài năng thông thiên từ các tế sư.
      Nhưng các tượng thần uy nghi và đẹp đẽ kia đã không có ý nghĩa gì với Ananda. Từ lâu, chàng đã chấm dứt niềm tin vào một Thượng Đế tối cao, đấng sáng thế hữu ngã duy vũ trụ trong một trật tự hữu hình. Chàng thấy, nhìn nhận một Thượng Đế tuyệt đối, sùng bái một Thượng Đế hữu ngã chẳng khác nào lầm lẫn một mặt trời thực bừng sáng trên hư không và một mặt trời ảo phản chiếu lên từ mặt nước, từ dòng Thu-Thủy đương xanh chảy kia. Cách gán ghép một biểu tượng tuyệt đối thành một Thượng Đế tương hữu ngã, có khởi nguồn từ nhận thức lầm lạc của vô minh. Và người ta đã dựng đền chùa, thờ phượng những bức tượng như một Thượng Đế hiện diện đầy quyền năng, thay vì chiêm ngưỡng chúng như giá trị của sự nhắc nhớ về một trạng thái siêu việt vốn ẩn tàng trong mỗi chúng sinh.
      “Anh bạn đang sầu muộn điều gì?”.
      Người đàn ông thả đôi mắt buồn rầu nhìn Ananda, “xin đừng nhắc đến tôi, một tiện dân của các người”, rồi lại gục đầu như tìm kiếm gì đó trong những hạt bụi nhỏ li ti sếp lớp bên vệ đường.
      “Chúng ta, hai con người đang trò chuyện cùng nhau và hãy quyên hết tên tuổi, cùng danh phận”, Ananda ngồi xuống kế bên người đàn ông và an ủi.
      “Thế nhưng tôi là một người Pariah và còn… và còn là một gã đồ tể”, người đàn ông nghẹn ngào.
      “Nhưng tôi nghĩ, bấy nhiêu nguyên do đó cũng không đủ làm anh héo mòn như thế đây?”
      “Thưa đúng, vợ tôi bị bệnh nặng nhưng không một thầy thuốc nào chịu giúp đỡ cho một tên đồ tể.”
      “Nào, hãy bớt lo lắng. Tôi hiểu biết một chút về môn đông y Ayurveda và có thể xem bệnh giúp cho vợ của anh bạn.”
      Người đàn ông giương đôi mắt ngạc nhiên nhìn Ananda, “thật sự ư! Một người Bà-la-môn như ngài chịu giúp đỡ một kẻ không phải người như tôi ư!”, rồi cuối đầu chạm tay vào chân chàng bày tỏ lòng thành kính.
      “Xin hãy theo tôi”, người đàn ông dẫn Ananda đi về hướng cánh đồng cỏ cháy. Không xa, một dãy nhà vách đất, lợp lên bằng rơm rạ xác xơ, nhỏ bé dưới ánh nắng trời soi rọi.
      “Đây là vợ tôi”, người đàn ông chỉ vào người phụ nữ nằm trên tấm thảm cỏ, đôi mắt sậm đem đóng chặt trong cơn hôn mê dài, “bà ấy như thế này đã một năm nay”.
      “Này anh bạn!”, Ananda nói.
      “Xin hãy gọi tôi là Bhusuku!”
      “Môn đông y cổ truyền Ayurveda nói rằng, con người có hai phần riêng biệt là tinh thần (prakriti) và thể chất (doshas). Thể chất doshas được cân bằng khi ba yếu tố vata, pitta và kapha dung hòa nhau. Vata là yếu tố của gió, có đặc tính di chuyển, nâng đỡ các cơ quan hoạt động. Pitta là yếu tố của lửa, có đặc tính tiêu hóa, giữ nhiệt lượng cơ thể. Kapha là yếu tố của nước, có đặc tính của máu huyết và chất dịch, nuôi dưỡng cơ thể”.
      Ananda ngập ngừng và hình dung: “Bhusuku, anh hãy tìm cho tôi một ít rau mùi (dhaniya) có tác dụng giảm đau, một ít cây cao su đen (khair) có tác dụng trợ lực hô hấp, một ít cây chân voi (suranakanda) có tác dụng kích thích sự thèm ăn; rồi đem về đây.”
      Bhusuku gật đầu, “vâng, tôi sẽ mau chóng tìm chúng như yêu cầu của ngài”, rồi bước ra khỏi cửa.
      2. Dưới bóng nắng chiều buông nhạt trên những đầu ngọn cỏ úa. Và tiếng gió cào lên mái rạ lao xao. Ananda ngồi đối diện Bhusuku, chăm chú nhìn người đàn ông cố nhẫn nại ngồi trong tư thế thiền định: “Anh bạn tu tập như thế nào rồi, Bhusuku?”.
      “Tôi đã ngồi xuống, cố trầm lặng và buông thả mọi suy tư, nhưng đáng giận thay, lúc nào cũng nhớ đến công việc từng giết chóc của mình. Một người như tôi chắc chẳng thể tu hành?”, Bhusuku thất vọng nhìn Ananda và thở dài.
      “Anh bạn không có cảm giác gì về hành động sát sinh ư?”
      “Lần đầu, sau khi giết một con dê tôi đã không thể nào ngủ yên được. Tôi luôn ghê tởm với công việc của mình nhưng tôi chẳng thể tìm được việc làm nào khác để kiếm sống. Để không còn bị lương tâm giày vò, tôi bằng mọi cách phải triệt tiêu mọi cảm xúc, xóa tan sự thương cảm với mọi thứ.”
      “Và anh cũng ghét chính mình?”
      “Tôi ghét tôi vì bản thân không có đủ thông minh để nghĩ ra một công việc lương thiện hơn.”
      Bhusuku ngập ngừng chỉ vào thân mình: “Tôi muốn hỏi ngài, cái gì sinh ra tôi?”, rồi hướng ngón tay lên bầu trời, “cái gì đã sinh ra cha mẹ tôi? Cái gì đã sinh ra ông bà tôi?”, và anh hơi cúi đầu, “ý tôi muốn biết đằng trước sự xuất hiện củ tôi là gì?”
      Ananda nhìn Bhusuku, cảm thông trước khó khăn trong cách lựa chọn từ ngữ diễn đạt ý tưởng của anh, liền nói: “Cái tâm bạn đang nói, một cái Ngã đang là có ý thức, một nội tại cảm giác hiện hữu rất vô thường, nó hoàn toàn không phải thân xác mà đang đang nhận diện. Hãy chú ý vào cái ý thức, vào cái khát khao muốn tìm xem đằng sau sự đau khổ mà anh bạn đang đối mặt là gì? “
      Bhusuku chỉ tay lên trán mình: “Ngài muốn nói đến cái suy nghĩ trong đầu của tôi”
      “Đúng rồi! Đấy gọi là cách bạn đang quan sát tâm của chính mình. Bạn nhận ra đang có dòng suy nghĩ chạy đến chạy đến, lướt đi lướt đi như cơn gió trong đầu mình.”
      “Ôi! Tôi đã có thể nhìn ngắm nội tâm của chính mình”
      “Bạn hàng ngày đều tạo tác vào bên trong ký ức của chính mình nhưng bạn không nhận diện được nó. Ví như khi kết liễu xong mạng sống của con vật, anh thấy thoáng lên chút vui thú. Đúng không?”
      Bhusuku nói trong băn khoăn: “Đúng là tôi vui thú khi cái chết của một con vật đến một cách nhanh nhất”
      “Anh có biết sát sinh là một tội lỗi?”
      “Tôi biết mình có tội với chúng”
      “Không những có tội với chúng, mà còn với chính anh.”
      “Ngài muốn nói tôi sẽ bị trừng phạt bằng cách bị đánh rơi vào địa ngục?”
      “Không có một phán quan nào chịu trách nhiệm phán xét tội lỗi của anh tại cõi giới tinh thần, thật sự là chính anh tự đưa mình rơi vào chổ tối tăm đó.”
      “Tự mình đi vào địa ngục, thế thì tôi có sự chọn lựa không?”
      “Anh bạn hãy trầm lặng và nghe. Trước khi bạn muốn kết thúc một mạng sống của chúng sinh, tất phải có một sát ý nổi lên. Sát ý đấy chính là phương tiện đưa bạn vào địa ngục. Trước khi bạn muốn gây đau đớn cho chúng sinh, tất phải có một nguyên do của thỏa mãn, của thù hằn, của sự kiêu ngạo và lòng tham muốn trừng phạt. Nguyên do đấy là chất liệu giam hãm bạn quanh bốn bức tường địa ngục.”
      “Như tôi, trong đầu chứa đầy sát ý làm sao để từ bỏ?”
      “Hãy đem con dao mà bạn thường sát sinh ra đây?”
      Bhusuku trao con dao cho Ananda: “Hãy bỏ nghề và chuyên tâm thiền định. Không ngừng nhìn ngắm con dao, và nhận rõ bên trong chấp thép dầy kia chứa đầy tính không của lòng tham muốn sát sinh.”
      “Tôi phải làm việc nầy trong bao lâu?”
      “Hãy an nhiên tu tập như bữa cơm, như thỏa mãn cơn khát mỗi ngày. Đến khi nào nội tại từ chối tổn thương một con kiến, lúc ấy không còn địa ngục nào có câu kéo được bạn.”
      3. Ananda lững thững dạo bước ra nơi cây dừa già sững đứng giữa cơn gió trời thổi rung những chiếc lá xòe, xào xạc. Chàng chạm tay vào thân dừa cao và đắm mình vào một cô đơn, cái cô đơn vốn có một bậc tri thức dùng tách mình khỏi đời sống thường nhật để trầm lặng suy tư. Chàng hiểu rõ trạng thái cô đơn này, một trống không tách rời ý thức với ngoại cảnh, một cô lập ý thức với cái tôi qua những xúc cảm và suy nghĩ ồn ào. Rồi khi trạng thái cô đơn hiện hữu bên trong, cũng là lúc chàng từ bỏ vai diễn cuộc đời, trở thành một khán giả lặng im đứng ngoài bức màn sân khấu, không lệ thuộc vào bất cứ gì, tự do ngắm nhìn những điều hiện diện chung quanh.
      Với chàng, cô đơn không là cô độc; một trạng thái chứa đầy những sợ hãi và lo lắng. Chàng không muốn trốn thoát khỏi cô đơn, lắp đầy sự trống rỗng đó bằng thèm muốn vui chơi, hòa mình vào náo nhiệt. Đám đông, sự cuồng nhiệt, sự tung hô và trò giải trí chỉ đem đến mệt mõi và phiền muộn. Như chiều nay, vào lúc chứng kiến nỗi thiệt thòi của những người Pariah, phiền não đã hiện diện trong tư tưởng chàng: một sân hận khởi lên vì nghĩ rằng có bất công, một tham muốn trừng phạt bộc phát vì cho thấy cần duy trì công lý; và trí óc chàng đã không ngừng đau rát vì ý tưởng náo động đó.
      Ananda chọn một chổ bằng phẳng và ngồi xuống thiền định. Chàng khởi đầu cho một thông suốt của tư tưởng bằng âm “AUM”. Chàng quán tưởng về gốc rễ của thù hận, về lòng tham muốn trừng phạt và chuyển hóa năng lượng của chúng về bất thù hận, khơi mạch nguồn cho tha thứ hiện diện, nhấn chìm cái thích thú buộc tội người khác vào tình thương duy nhất. Chàng đắm chìm vào những trạng thái thiện hữu đó dưới bầu trời đêm lung linh những vì sao, giữa ánh sáng trăng tròn mát rượi tựa như lòng từ bi được tỏa rọi ra từ nguồn năng lượng vô hạn của vũ trụ. Ánh sáng mềm mại đó trải mềm lên làn da, thấm vào từng lỗ chân lông, hòa tan vào nội thể thành ngọn đuốc dẫn đường đến Tự Ngã Atman, đến Chân Ngã Brahman, đến chốn thực tại vĩnh hằng, đến chổ bất nhị nguyên, đến vùng không hoại dịch.
      Và trong trạng thái thiền định đó, Ananda thấy mình đứng trên một thảo nguyên, vào một buổi chiều u ám của hoàng hôn. Trước mắt chàng, mặt trời to lớn nặng nề rơi xuống phía sau ngọn đồi tro, thảy bừng lên đám ánh sáng nhuốm đỏ màu và thứ lửa đó cháy lên, rừng rực, rụi thiêu vầng mây tịnh quang hờ đậu trên hư không. Rồi những tàn tro rơi xuống một đoạn cây già chết lá, thân cành ám khói, xác xơ, trơ mình run rẫy bám chút tàn hơi trên ngọn đồi chỉ còn đọng lại một màu đen chết chóc. Và giữa cái nền ảm đạm đó, một tiếng chim trời từ đâu cất lên, gào thét, cắt ngan thời gian bằng một tổn thương đau điếng và tuyệt vọng.
      Ananda cảm thấy sợ hãi trước cảnh tượng mờ mịt này. Chàng phân vân không hiểu đây là ảo ảnh hay là một sự phản chiếu nào đó đến từ nội tâm xáo trộn. Chàng ngồi xuống, thiền định trên những mảnh tro tàn, chú tâm quán tưởng một trận mưa cam lồ rơi xuống từ bầu trời, cơn mưa của tình thương và tái sinh. Và rồi, tức thì, những giọt nước mưa mềm buông rớt lên ngọn đồi cháy, chảy tràn xuống vực sâu, đọng lại thành suối, góp lại thành sông. Rồi trong một tươi mới của trời và đất. Những hạt mầm từ đống tro tàn quá khứ nảy chồi, sinh trưởng, đem xanh tươi trở lại trên ngọn đồi cỏ cháy.
      Và từ một dịu mát và thanh thản của thiên nhiên ướp lên nhận thức. Chàng nghe, tiếng gió ve vuốt lên cành lá, lên ngọn cỏ xì xào và giọng chim cất tiếng hót rộn ràng trong một bình minh của sự sống vừa tái tạo. Từ trong hân hoan đó, Ananda nhìn thấy ba vị thần Brahma, Krishna và Vishnu hiện ra trước mắt mình. Và tam vị, trong ánh sáng tinh khiết, hợp nhất thành một ảnh hình Brahma. Xong, lại nhô lên thành một Brahma bốn đầu, một vị là Viraj, một vị là Hiranya Garbha và một vị là Ishvara. Khi Brahma được xem là biểu tượng của chân lý vĩnh hằng, hình tướng đó là nguyên lý siêu việt Brahman. Khi Brahma được xem là nguồn gốc của vũ trụ, hình tướng đó là Hiranya Garbha. Khi Brahma được xem là đấng sáng tạo hữu ngã, hình tướng đó là Ishvara.
      Ananda bỗng như bừng tỉnh như vừa thoát khỏi hố sâu mê muội. Qua kinh nghiệm nhị nguyên, thế giới được coi là thực hữu, bên trong nó có một tiến trình của thành trụ, của hoại không. Một Shiva hủy diệt đại diện cho cái tàn phá của lòng thù hận, của tham muốn trừng phạt, của xung đột. Một Vishnu với ý thức duy trì xuất phát từ thói chiếm hữu, lòng tham, mối lưu luyến. Một Brahma sáng tạo hiện diện cho tình thương, lòng từ bi và những điều thánh thiện khác. Và qua chiều hướng của sự thật tối thượng, của chiều hướng tuyệt đối, thế giới là một sự vô hình, không sinh, không diệt.
      Đây! Câu hỏi đeo đuổi Ananda trên các nẽo đường bất tận, trong những buổi thiền định dưới tàn cây khuất lá, đã có lời giải đáp. Tại sao để phân chia và lý do gì phải hợp nhất? Có phân chia vì nội tại nhận thức qua bóng màn vô minh, qua xác nhận tồn tại và không tồn tại, qua nghĩ về một tuyệt đối thể của đấng Brahma sáng thế. Rồi sau buổi thời nhìn thấy ánh sáng tri thức rọi lên màn đêm u tối, có tiếng thì thầm từ thinh không dội đến, “tại khởi thủy ban đầu, thế giới là rỗng không”, “tại khởi thủy ban đầu, thế giới là nguyên lý Brahman”, “tại khởi thủy ban đầu, Tự Ngã là Brahman”.
      Và như câu chuyện thầy từng kể về sự hình thành thế giới do vọng tưởng của tinh thần phát sinh. Chàng nhận ra mình từng đắm chìm trong khái niệm một cái Tôi thường hằng, từng mãi mê theo đuổi cảm xúc nội tại, luôn nhìn sự việc trong một phân chia giữa cái tôicái không thuộc về tôi. Rồi chàng đã suy nghĩ và hành động khác nhau dưới sự phân chia đó, tự mang lấy gánh nặng phân biệt, quên mất về một đời sống nhất nguyên sẽ sinh khởi lên từ bản chất của thực tại.
      4. Ananda rải thêm ít cỏ khô lên gốc dừa, rồi ngồi xuống, suy tư về giấc mơ hôm qua vừa trải nghiệm. Chàng thấy mình chống gậy đến một cao nguyên. Đứng trên ngọn núi cao có từng lớp đá xếp chồng lên nhau, nghe gió từ ngoài biển khơi ùa tới thổi lên ngọn đồi cây rì rào. Dưới thung lũng cỏ xanh, một thành phố lấp lánh màu vàng kim, rực rỡ những đền đài và cung điện. “Anh bạn có biết đây là chổ nào hay không?”, chàng đi xuống thành phố và hỏi một người đang chơi đàn.
      “Đây là vương quốc Vijayanagara”, người thanh niên trẻ ngạc nhiên nhìn chàng và trả lời.
      Vijayanagara ư? Ananda hơi băn khoăn. Cái tên vương quốc xa lạ quá và chàng chưa hề nghe nói đến bao giờ. “Nhưng thành phố của vùng Vijayanagara nằm ở đâu?”, chàng hỏi lại.
      “Ở cao nguyên Tungabhadra. Đây là miền nam Deccan”
      Ananda gật đầu cảm ơn và bước đi.
      Đằng xa, một phụ nữ vừa vẽ tranh vừa bày bán các sản phẩm của mình. Một bức họa thần Brahma lộng lẫy còn dang dỡ dưới bàn tay tài hoa của nữ họa sĩ. Ananda trầm trồ. Phụ nữ ở đây sao lại được phép vẽ tranh và còn được phép mua bán ở nơi đông người như thế kia.
      Ananda định chống gậy bước đến hỏi thăm. Nhưng vừa nhớ đến từ ‘gậy’, chàng thấy nhìn bàn tay mình rỗng không. Gậy đâu? Chàng tự hỏi. Và giật mình tỉnh giấc.
      Sau thời gian thiền định dài lâu trong căn động đá ở cánh rừng Du-Duyệt, chàng bắt đầu có kinh nghiệm của trạng thái giấc ngủ mộng và thu được ánh sáng tịnh quang để thâm nhập vào bốn trạng thái: thức, ngủ mộng, ngủ say và thực tại an lạc (turiya).
      Tại trạng thái của biết, tâm trụ vào ký ức mà nhận thức về đối tượng ngoại tại. Tại trạng thái của giấc ngủ say, tâm chìm vào kinh nghiệm nội tại, bị che lắp trong một màng tối của buông bỏ tất cả các giác quan. Tại trạng thái của ngủ mộng, tâm lìa thể xác lang thang vào giấc mơ, vào cõi tinh thần, vào thế giới sâu thẳm của bóng đêm. Vì mắc kẹt vào vô minh, tâm không thể kết nối được cùng ký ức. Tâm trở nên mờ mịt trong một vùng tối tăm không biên giới, nó chẳng có kinh nghiệm vì không có cái biết của thấy, không có cái biết của nghe, không có cái biết của mùi và vị, không có cái biết của cảm xúc. Rồi khi ánh sáng của chân tính turiya được đem xuống, kinh nghiệm của ý thức an lạc sinh khởi. Tâm hiện diện trong cõi tinh thần và tưởng nhầm mình đang phiêu bạt trong thế giới hiện hữu, nó phản xạ trước các đối tượng mộng như một cái tôi. Cho đến khi ánh sáng turiya nở hoa; ba trạng thái thức, ngủ sâu và mơ chỉ còn là một xuyên suốt của sự an định samatha. Tại đó, âm tiết AUM tan biến vào tâm, tâm tan biến vào bất nhị nguyên. Ananda trụ vào trạng thái tịnh lạc; chàng không có thức, không có ngủ, không có mơ, không có khái niệm, không có hình tướng, không có phân biệt, không có nhận thức.
      Và ba trạng thái hàm chứa trong Tự Ngã Atman: ngoại tại tâm thức (Sat), nội tại tâm thức (Chit) và thế giới vô phân biệt (Ananda) gom tụ quá khứ, hiện tại, tương lai thành một thực tại không thời gian. Atman tự soi sáng mình bằng ánh sáng chân nguyên, ánh sáng mặt trời, ánh sáng khởi thủy đẩy bóng tối lùi sâu vào hoại diệt. Tại đó, ý niệm thời gian biến mất vào điểm nguyên thủy của thế giới, mọi thứ không có điểm bắt đầu và chẳng tận cùng chổ kết thúc, chẳng có gì đã là, không có gì sẽ là. Tại đó, Atman vượt qua mọi giới hạn không gian, đem thế giới nhập vào Tự Ngã, Tự Ngã đem mình tan hòa vào thế giới. Không gian thị hiện chỉ còn một là khối rỗng không của nội tại, chẳng có điều ràng buộc, không vật nào cách trở. Tại đó, khái niệm mà tâm dùng để ý thức (svagata) sự giới hạn của thân xác cũng biến mất. Atman biết mình nhảy vào lửa mà không tiêu hoại. Atman biết mình bước xuống nước mà không bị chìm lắng. Atman biết mình thăng lên hư không mà không bị sức nặng kìm níu. Rồi khi ba trạng thái của Sat - Chit - Ananda hợp vào nhất thể, từ trong sâu thẳm của hư không, vang dội vang dội lời reo mừng “Tat-Tvam-Asi”, “Ta là cái đó”, “Ta là tất cả”, “Ta hiện hữu”.
      Buổi sáng nay Ananda thức dậy trền nền gió trời lay động cỏ.
      Âm thanh đầu tiên chàng nghe, đó là tiếng hơi thở của Tự Ngã thì thầm. Trên miền tịch lặng an lạc, suy tưởng không một tiếng ồn ào, Tự Ngã nhận ra sự hiện diện của mình. Thực tại đó. Có một tồn tại siêu vượt trên trạng thái của cô độc khô cằn. Có một nhận ra tất cả sống cùng đan hòa nhau trong nguồn năng lượng của nguyên lý tuyệt đối Brahman. Có một chứng kiến sự hiện hữu và cái Ta là nhất thể, không đối đãi. Có một cái biết không hiện lên từ ký ức, mà sinh khởi từ sâu thẳm của sự bất nhị trường tồn.
      Ananda chạm tay vào lá cỏ, nghe tiếng căn nguyên của sinh vật mô tả về chính mình. Ananda chạm tay vào thân cây dừa, cảm tưởng có một hình ảnh của người già tóc bạc đang ngồi trầm tư không tiếng nói. Ananda nghe tiếng chim hót, hiểu ra lời than thở tìm bạn quây quần. Ananda thấy một con cóc nhảy qua, biết có một người đàn ông cởi trần phóng đi vội vã. Ananda nhìn con gà mái đậu trên ổ trứng, biết có một người phụ nữ mặc chiếc áo lông đứng ngó ngoáy xung quanh. Vạn thể đều chứa trong đó một căn nguyên. Vạn thể đều chứa trong đó một đồng dạng nhất nhân. Vạn thể đều chứa trong đó một nội tại.
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
      CHƯƠNG 5. ACINTA
       
      1. “Hỡi Đấng Tối Cao! Hỡi Thiên Đế! Vị chúa tể đến từ vũ trụ, từ mặt trời, từ gió, từ mây, từ không khí, từ hết thảy vạn vật tồn tại trong sự hiện hữu ở thế gian này. Xin ngài hãy nhận lấy bình thánh tửu soma đến từ lòng thành kính của con. Xin ngài hãy lắng nghe lời nguyện của con. Xin ngài hãy dẫn dắt con và dân làng phương cách vượt qua nỗi sầu muộn đang nhấn chìm linh hồn con, mỗi ngày, trong dòng đời khốn khổ.”
      Acinta lén lút quỳ bên ngoài ngồi đền cổ, cách xa bức tượng thần Krishna vài bước chân. Hắn buồn bã, chắp tay đắm chìm trong một nguyện cầu thành khẩn. Rồi Acinta nhìn lên bức tượng thần Krishna đang thổi sáo. Trong đôi mắt sâu thẳm của ngài dường như thị hiện hình ảnh nàng Kara ngồi bên khung cưỡi dệt lụa. Những đường chỉ tơ căn dài rung rung chạy về hướng con quay.
      “Chàng hãy dùng bữa trưa mau kẻo đói!”. Tiếng nói diệu êm và thái độ không phân biệt của nàng với những người làm công luôn được người Thu-đà-la trong làng ca tụng. Acinta đỡ lấy nồi thức ăn, mĩm cười nhìn Kara. Sau những cuộn lụa nhiều màu phất phơ gió trên chiếc sao tre vắt ngan hai cây cột lớn, Kara hiện lên trong một bức tranh hội đủ những sắc màu. Những vần mây trên cao. Những đường màu kéo quét. Những sợi tóc bay tung. Những ngón tay mềm níu giữ chiếc áo sari. Và nàng bước ra từ đó, hiện hữu trong một giấc mơ ảo huyền, trong một khung cảnh chứa đầy yêu thương.
      “Chàng hãy nhìn bức tượng nữ thần tình ái kia. Liệu tình yêu có thể đưa người ta vượt qua mọi ranh giới hay không?”. Kara chỉ tay về bức tượng thần
      “Nếu có quyết tâm, bất kỳ ai cũng có thể tìm được hạnh phúc của chính mình.”
      Tara thả ánh mắt trong veo nhìn Acinta, “liệu có thật như thế không?”, nàng hỏi nhỏ.
      Acinta lặng im. Dường như, tại vương quốc Chauhan này, chưa từng có một cuộc hôn nhân nào giữa một người Bà-la-môn và một người Thu-đà-la là thành tựu. Hắn đơn độc nhìn bầu trời. Một cụm mây đen vừa lướt qua.
      Nhoáng thấy bóng người đi tới. Acinta đứng dậy, nhấc bước chân nặng trĩu rời khỏi cổng đền.
      “Anh bạn sầu muộn ư?”. Nghe tiếng có kẻ hỏi chào, hắn dừng lại nhìn Ananda và nhận ra một tu sĩ khổ hạnh Bà-la-môn trong dáng vẻ thanh thản, khuôn mặt hiện đầy những nhiệt huyết đang đứng đối mặt mình. Hắn mừng rỡ và nghĩ, có phải thần Krishna linh ứng, tiến cử người tu sĩ Bà-la-môn thánh thiện này đến giúp đỡ mình chăng? Và hắn nhanh nhảu cúi xuống, chạm tay vào chân Ananda trong một cử chỉ thành kính nhất.
      “Ngài là một tu sĩ Bà-la-môn ư?”, hắn hỏi.
      “Đúng, tôi là một tu sĩ nhưng cái từ Bà-la-môn chẳng có ý nghĩa gì.”
      “Ngài thật thánh thiện!”, Acinta ngợi khen.
      “Nói đi, anh bạn chắc là có những phiền não lớn lao?”
      “Thưa ngài! Con tên là Acinta, một người Thu-đà-la nghèo khó. Con muốn hỏi ngài, tại sao có sự phân biệt giữa người Thu-đà-la và các giai cấp khác?”.
      Ananda chạm đầu đáp lễ qua một cử chỉ ban phép lành và bảo hắn đứng lên.
      “Cái gì là Bà-la-môn, Sát-đế-li hay Thu-đà-la? Tên gọi đó chỉ là những từ ngữ và sự phân chia thuộc về khái niệm”.
      “Thưa ngài! Chúng không hẳn là từ ngữ và khái niệm. Thật sự là người Thu-đà-la bị đối đãi chẳng khác nào nô lệ và súc vật. Chúng con không có tự do. Chúng con không được làm những điều giống như người Bà-la-môn hay Sát-đế-lị, như bước vào bên trong đền Krishna và cầu nguyện Ngài”.
      “Tôi biết bạn đang vật lộn với đau khổ và những tổn thương đến từ cuộc đời này. Bạn tìm đến ngôi đền Krishna, cầu nguyện, mong muốn có một kết thúc tại bên trong tâm trạng chẳng hạnh phúc của mình. Bạn sẽ không thoát khỏi nó, đến khi nào bạn hiểu rõ đau khổ kia đến từ đâu?”.
      “Người Thu-đà-la đau khổ vì bọn người bóc lột Sát-đế-lị và Bà-la-môn”. Acinta khẳng định.
      “Họ đến ném đau khổ vào bạn và những người khác à?”. Ananda hỏi.
      “Cách họ cư xử làm chúng con đau khổ”.
      “Còn gì nữa?”
      “Tại sao con lại bị sinh ra vào nhà một người nô lệ hèn mọn. Tại sao giai cấp khác thì hạnh phúc, còn chúng con thì không? Lỗi lầm này đến từ đâu? Từ con hay xã hội bất công này! Thật đau đớn cho những phận người khốn khổ không nhìn thấu ánh mặt trời, bóng tối đang trùm vây cái phận người nô lệ”. Acinta vung tay, ngữa mặt lên trời như đang khóc gào tìm công lý.
      “Anh bạn có biết sự khác nhau giữa đau khổ và đau đớn?”.
      “Dạ biết! Đau đớn đến từ thể xác, còn đau khổ đến từ bên trong nội tâm”. Acinta trả lời.
      “Anh bạn biết đau khổ đến từ bên trong, vậy tại sao nói đau khổ của mình do những người khác gây ra mà có?”
      “Có lẽ do tâm mách bảo?”.
      “Không. Thật sự là không có tâm nào nói, dù âm thầm hay rộn rã, rằng có một nguyên nhân duy nhất chính đáng nào đó cho đau khổ của con người. Có chăng là tiếng vọng từ vô minh thẳng tới. Và để nhận diện được đau khổ và bất hạnh, anh bạn cần hiểu rõ chính mình là gì”.
      “Lời nói của ngài thật sâu xa. Con muốn nghe những điều dễ hiểu hơn. Xin hãy rủ lòng thương hại lắng nghe và giải thích câu chuyện riêng tư của kẻ nô lệ này”.
      “Anh bạn hãy giãi bày!”. Ananda động viên.
      “Thưa ngài! Con và nàng Kara, một người con gái Bà-la-môn dệt vải đã yêu thương nhau. Chúng con cam nguyện trở thành vợ chồng và muốn chung sống cùng nhau nhưng tất cả những người Bà-la-môn ở đây đều phản đối và ngăn cản. Rồi họ quyết định ngăn cấm dân làng chúng con không được làm thuê trên những cánh đồng. Vậy đau khổ của chúng con có từ nguyên nhân nào?”
      “Trong tim những người Bà-la-môn chân chính luôn chứa lòng bình đẳng với tất cả chúng sinh, không phân biệt. Và sự phân chia trong xã hội này đã quá lâu, có lẽ đã đến lúc con người cần đối mặt và kết thúc nó”.
      “Xin ngài, người tu sĩ Bà-la-môn bác ái, hãy giúp con nói chuyện với họ”.
      Ananda gật đầu đồng ý van nài của Acinta, chàng thầm muốn người thanh niên kia có thể dứt bỏ phần nào đau khổ và sẽ cố gắng thuyết phục những người Bà-la-môn đầy quyền lực nhận ra sự bình đẳng toàn diện của tất cả chúng sinh hiện diện tại thế gian này.
      2. Acinta đưa Ananda trở về làng, một thôn xóm của những người Thu-đà-la với hơn trăm ngôi nhà vách đất mái lá quần tụ với nhau trên khoảnh đất trống, bạc phếch màu, khô cằn cỏ cây.
      Nắng chiều lắng đọng qua lớp bụi mù sương.
      Acinta đi trước dẫn đường trong dáng điệu hân hoan, miệng không ngớt gọi dân làng bước ra, vui mừng giới thiệu chàng trai trẻ Bà-la-môn hiếm hoi đang hiện diện trong làng. Theo con đường nhỏ nhuộm đầy những ván bụi mờ, chân nối chân, cả hai đi qua một giếng nước nằm cạnh gốc xoài già, lá rũ mềm run rẩy với thời gian. Trong tiếng lạc chiều khua động len reng trên cổ con bò gầy, bên chiếc chuồng cũ vẹo xiêu, bên căn nhà lá của người Thu-đà-la nhỏ bỏ lơi vắng vẻ.
      Ananda dừng bước trước cửa, xung quanh, những người Thu-đà-la hiếu kỳ vừ kéo đến, vây quanh, ngắm nhìn chàng trong ánh mắt ngưỡng mộ và kính phục. Họ thì thầm bàn tán, không hiểu người tu sĩ Bà-la-môn oai vệ kia sao lại bằng lòng tiếp xúc với những người nô lệ nghèo khó như họ, còn đứng đây và nhận bố thí nước uống từ Acinta.
      Sau khi uống cạn một ngụm nước, Ananda ngồi xuống dưới mái hiên nhà. Đôi mắt chàng chú mục vào cây dừa già cỗi, đơn độc in hình trên nền trời xanh thẳm, vút cao, không chút gợn mây tản bay, phiền nhiễu. Chàng suy tưởng, một sự sống duy nhất sinh trưởng trên khoảnh đất kia chỉ là tách biệt vật lý đến từ cái giới hạn của nhận thức; nhưng tại cơ bản, rõ ràng chúng là cỏ cây, là thiên nhiên hội tụ tại một thể thống nhất, không tách rời. Như những con người sinh ra và lớn lên dưới bầu trời này, họ không hiểu mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú xuất hiện, tồn tại và biến mất từ khi nào, sẽ bao giờ. Họ chỉ biết chấp nhận nó trong một hiểu biết buông xuôi, hiểu biết đến từ các câu truyện thần thoại qua truyền thống và kinh sách. Họ bị quy định để hiểu rằng, vũ trụ đang hình thành, xoay chuyển và kết thúc do năng lực và tâm trạng của ba nghìn ba trăm ba mươi chín vị thần, dưới một Brahma đầy quyền năng. Và rằng, giai cấp Thu-đà-la, con người này bị quy định để biết họ là nô lệ và dòng tộc Bà-la-môn có nhiệm lãnh đạo tinh thần tối cao. Một sự nô lệ ý thức được duy trì để người Thu-đà-la phải tuân phục uy quyền như là một trách nhiệm không thể bàn cãi do sự tối linh đến từ yêu cầu của Thượng Đế, nhưng thật ra, khởi nguồn này có từ âm mưu xếp đặt.
      Ananda ra hiệu cho những người xung quanh ngồi xuống. Chàng ôn tồn nói:
      “Hỡi những người bạn của tôi đang hiện diện ở đây! Chúng ta ngoài dáng vẻ bề ngoài có đôi chút khác biệt, nhưng thực sự, bên trong chúng ta có chung một gốc nguồn nhân loại. Tôi nói đến “một nhân loại” bằng từ ngữ tối sơ, thánh thiện và cân bằng. Thật cân bằng khi cùng hít thở tinh khí prana dưới bầu trời thanh trong, cùng đi đứng trên mặt đất bằng đôi chân, cùng nhìn ngắm thế giới bằng giác quan, cùng suy nghĩ bằng con tim và còn chung một Chân Ngã tối cao ẩn tàng thật sâu thẳm, tại bên trong”.
      Những người Thu-đà-la chưa bao giờ được nghe một người tu sĩ Bà-la-môn nào thuyết giảng qua một giọng điệu đơn sơ và thánh thiện như Ananda. Họ như nuốt từng lời và trong những ánh mắt, từng âm chàng nói đang hợp lại, rực sáng lên như các vì tinh tú soi rọi trên bầu trời tối đêm thăm thẳm.
      “Ngài nói đến công bằng nhưng tại sao chúng tôi, những người Thu-đà-la, bị xem như nô lệ của người Bà-la-môn và Sát-đế-lị. Các chủ đất, các trưởng lão thuê chúng tôi cày ruộng với giá tiền công chẳng đủ nuôi sống mình. Chúng tôi chẳng có gì ngoài đôi tay và sức lực. Chúng tôi dốt nát. Chúng tôi không nhìn thấy hiện tại và cả tương lai cho bản thân và con cháu?”. Người trưởng lão già, run run chất vấn Ananda.
      “Thật sự và rõ ràng chúng ta có bình đẳng của một con người, nhưng vì sao lại có ranh giới và phân chia. Nguyên do đến từ sắp đặt của những người Bà-la-môn và chính chúng ta đang tự trói buộc mình vào Thượng Đế, vào các đạo sư, vào quan niệm cho rằng mình là nô lệ và cam chịu tuân phục dưới uy quyền.”
      “Nhưng những người Bà-la-môn sẽ không bằng lòng cho chúng tôi có vai vế ngang bằng họ?”. Trưởng lão nói.
      Ananda nói: “Nhất định là họ, những người Bà-la-môn, sẽ không đời nào chịu từ bỏ uy quyền của mình”.
      “Chúng tôi phải đấu tranh thế nào để giành lấy quyền lợi của chính mình?”. Acinta hỏi.
      “Phải! Phải! Chúng ta phải đòi lại ruộng đất từ trong tay những kẻ áp bức. Chúng ta phải chống lại những tên điền chủ bằng gậy và đá. Bọn chúng sẽ phải run sợ và chia chác lại tài sản có được từ máu và nước mắt của những người Thu-đà-la chúng ta”. Đám đông kích động cùng đồng thanh.
      Ananda xua tay: “Đấu tranh là gì? Phản khán là gì? Chúng ta không thể nào tìm tự do và hạnh phúc của chính bạn ở người khác và càng không thể tìm thấy chúng từ hành động tướt đoạt. Tướt đoạt khởi nguồn từ một đau khổ của tuyệt vọng, cùng sự vắng mặt của thiện tri thức. Thiếu tri thức, chúng ta sẽ bị vô minh giật dây và che đậy; và qua đó lớp màn mờ ảo như làn sương buổi sớm mai đó, chúng ta đã không hiểu, khởi đầu một bạo lực sẽ kết thúc bằng bạo lực.”
      “Nhưng lời lẽ xuông không thể nào thức tỉnh những kẻ giàu có tự nhận là bề trên, đắc ý trong dáng vẻ đầy kiêu ngạo kia?”. Đám đông lại hỗn loạn.
      “Các bạn hãy bắt đầu từ thiện tri thức, sau đó thì suy tư và thiền định trên nền tảng đó để trí tuệ sinh khởi. Khi trí tuệ hiện diện và hoạt động, không lâu, chúng ta sẽ thấy mình hiện diện trong cái Ta hiện hữu.”
      “Vậy chúng tôi có thể giải thoát chính mình bằng phương cách nào?”. Acinta lại hỏi.
      “Chỉ đến khi nào chúng ta hiểu rõ mình là gì, chúng ta sẽ được tự do như đám mây trôi lững lơ, như con chim lượn bay trên bầu trời cao xanh vô tận kia”.
      Ananda và những người Thu-đà-la say sưa hỏi đáp cho đến khi mặt trời đậu lên ngọn dừa và dần chìm khuất dưới đường chân trời, trả lại thôn làng một màn đêm xám tối.
      3. Khi ánh bình minh của buổi sớm mai rải những tia nắng mềm dịu lên những bông hoa cúc tím màu. Ananda, Acinta, cùng một số người thân thuộc của y tìm đến nhà nàng Kara tìm hiểu việc người Bà-la-môn từ chối nhận người Thu-đà-la ngoài ngoại ô làm công. Và họ dừng bước trước căn nhà sàn gỗ nằm dưới những tán dừa cao, trong mãng bóng râm chụm lại hình bàn tay, che lên dăm hòn đá bám rêu xanh nằm chơi vơi bên bờ miệng giếng.
      Ananda bước theo lối con đường lót đá, đến gần góc cầu thang, nơi một người đàn ông Bà-la-môn trẻ tươi cười đón đợi.
      “Các vị đã đến! Cả nhà chúng tôi đang mong chờ”.
      “Xin nhờ anh bạn dẫn đường cho!”. Ananda đề nghị.
      “Người Bà-la-môn nào là chủ sự mời bước lên gác trên, còn những người Thu-đà-la xin đứng đợi ở đây”.
      “Nhưng, trong họ ít nhất có một người cần phải vào”. Ananda phân trần.
      “Tôi biết điều đó. Nhưng các trưởng lão Bà-la-môn đã nói, nơi đây không để những kẻ tầm thường làm ô uế”.
      Ananda quay lại, trấn an mọi người: “Các bạn hãy đợi ở đây, rồi mọi chuyện sẽ như ý thôi mà”.
      Ananda chầm chậm bước lên những bậc thang, trong đầu chàng có những suy nghĩ không yên về những đối đãi phân biệt giữa những người Bà-la-môn và các giai cấp khác.
      Và khi chàng đứng trước cửa, bên trong có bốn người đang ngồi đợi. Hai người là song thân của nàng Kara, người còn lại là đại đệ tử của đạo sư Mekopa và người huynh đệ thân cận của y.
      “Thưa các vị! Tôi là Ananda, người đại diện cho Acinta và dòng tộc của chàng trai trẻ đang đứng ở ngoài kia đến đây để tìm hiểu về vấn đề hôn sự của Acinta và lý do họ bị từ chối thu nhận làm công”.
      “Chúng tôi đã biết được điều này”. Người đàn ông Bà-la-môn ngồi cạnh vợ mình lên tiếng và ra dấu mời Ananda ngồi xuống.
      Ananda cuối chào họ, ngồi đối diện với song thân của nàng Kara; người đại đệ tử mặc áo vàng, cổ đeo vòng hoa đỏ, ngồi trên tấm thảm vải kết nhiều màu lót trên bục cao.
      “Đây là Goraksa, đại đệ tử uyên bác nhất của đại sư Mekopa, ngài ấy sẽ đại diện cho chúng tôi trao đổi với anh bạn về cuộc hôn nhân”.
      Ananda hơi ngạc nhiên khi nghe tên đại sư Mekopa, một trong sáu vị đạo sư lừng danh hiện thời. Người có chủ thuyết tin vào sự tồn tại các thế giới riêng biệt trong vũ trụ, thiên đường và địa ngục; sự chi phối của luân hồi nghiệp báo đến đời sống chúng sinh. Và để giải thoát, trường phái của Mekopa yêu cầu tín đồ phải thuần hành nghi lễ, hành Pháp, tuân phục tuyệt đối thánh thư Vệ-Đà. Ananda trầm ngâm. Dù không còn đặt toàn bộ niềm tin vào kinh sách, nhưng chàng cũng muốn gặp Mekopa, lắng nghe ông ta biện luận về thánh kinh.
      Chàng nhìn Goraksa, nhận ra ngoài dáng oai vệ, tế sư còn có chút kiêu ngạo của một người đầy uy quyền. Và chàng nghĩ, có lẽ sở học của đạo sư Mekopa cũng phần nào thể hiện ở người này, người nhận mình có khả năng thông thiên với các vị thần linh.
      “Chắc các vị ngồi đây quanh tôi, trong căn nhà tràn đầy những sinh động yêu thương này đã biết rõ câu chuyện tình yêu của Acinta và con của đôi vợ chồng thợ dệt đây, nàng Kara hiền dịu. Họ có một mối tình cao đẹp như ánh nắng của mặt trời, như ánh sáng của trăng rằm; và nó dẫn dắt tôi chạm mặt vào cái ranh giới giai cấp tưởng chừng không gì có thể xóa nhòa. Cái hành động dũng cảm vượt qua định kiến, dèm pha và phân chia của họ đã cho tôi biết mình đã đánh giá sự việc một cách sai lầm. Tôi tự thắc mắc rằng: có phải tôi và các vị đây, những người Bà-la-môn tự cho mình có tri thức và quyền hạn phụng sự các vị thần thiêng liêng, dưới lớp thân xác này chúng ta có một con tim tràn đầy thánh thiện? Nhưng, vì sao, chúng ta lại tồn tại định kiến phân chia tầng lớp, thanh tịnh và ô uế, sang cả và tôi đồi. Khi bên trong chúng ta còn tồn tại và chấp nhận cái ranh giới này, liệu rằng chúng ta có đủ vinh hạnh tự nhận mình là những người Bà-la-môn thuần khiết hay không?”.
      Goraksa giằng giọng lên tiếng: “Anh bạn đã quên rằng, từ khởi thủy kinh Vệ-đà đã ghi: thế gian có bốn nếp sống tinh thần dành cho bốn hạng người khác nhau. Người Bà-la-môn được xếp trên cùng vì có thượng tri thức, họ biết chiêm nghiệm và hiểu rõ Brahma là gì. Kế đến, người Sát-đế-lợi, bậc hạ tri thức có sự sáng suốt của lớp người lãnh đạo chính trị, họ thông hiểu kinh sách Vệ-đà và có thể giảng giải. Tiếp theo, người Tỳ-xá dù có lòng mộ đạo, nhưng họ chỉ có thể tiếp cận phần nào minh triết qua các bài giảng. Và cuối cùng, người Thu-đà-la, bởi do tạo nghiệp quá nặng nề nên họ chỉ chăm chú sống trong cái cảm xúc của chính mình. Họ buông suy nghĩ và hành động theo trôi dục vọng, để linh hồn mãi chìm đắm trong luân hồi sinh tử. Họ phải thờ phượng Brahma và lắng nghe các đạo sư để gieo hạt mầm tâm linh cho tương lai tươi sáng”.
      “Người Bà-la-môn là gì? Người Sát-đế-lị là gì? Và người Thu-đà-la là gì? Thưa tế sư! Có lẽ chúng ta đều biết rằng họ đều là con người, là nhân loại và từ ngữ ngài đang sử dụng để phân biệt người này người kia chỉ là một danh hiệu. Ví như chiếc áo ngài khoác lên người, vòng hoa ngài đeo trên cổ, chúng hoàn toàn không phải là ngài, không phản ánh chính xác nội tâm rộng lượng của ngài. Và theo dòng lịch sử của thời gian, chúng ta đã và đang thích thú sử dụng các danh từ đó, bằng lòng với sự phân chia tầng lớp dựa trên những tín ngưỡng, những niềm tin, những truyền thống rất mơ hồ”. Ananda đáp lời.
      “Người Bà-la-môn phải sống theo lập ngôn của Thượng Đế. Và ngay chính trong kinh Bhagavad Gita viết hẳn hoi rằng: Sự phân chia đó tồn tại khắp nơi vì Thượng Đế lập ra nó”. Goraksa khẳn định.
      Ananda xua tay, “Xin đừng cho kinh sách là thiêng liêng và mượn quyền lực của nó để biện hộ cho hành động của mình. Thật sự, chẳng ai sống vì Thượng Đế, người ta chỉ lợi dụng những khái niệm chỉ vì ích lợi. Một người Bà-la-môn chân chính phải là kẻ hiểu rõ mình, không tham lam, khướt từ mọi quyền lực và độc lập khỏi xã hội. Còn những người mượn danh từ “Bà-la-môn” vì nó tự nhiên trao cho họ địa vị, quyền lực và sự tuân phục trong xã hội, họ muốn khoát lên mình một sự cao cả mà không muốn từ bỏ chút tư lợi nào cả.”
      “Anh bạn nói có phần đúng! Bất kỳ ai cũng có ẩn núp dưới sự thánh thiện mà hành động cho tư lợi nhưng kinh sách thì không thể, chúng hiển ngôn bất vụ lợi”. Goraksa nói.
      “Chân lý không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ ai và tất cả nhân loại điều phải có quyền tiếp cận tri thức Vệ-đà một cách tổng thể. Người tìm kiếm chân lý nên phải hành động và thu thập tri thức từ kinh nghiệm của chính mình, kinh sách chỉ có giá trị tạm thời”.
      Goraksa hỏi: “Anh bạn có biết núi Tu-di?”.
      “Theo kinh Vệ-đà, nó là một trung tâm vũ trụ”.
      “Trong kinh nghiệm thiền định của mình, anh bạn có từng du hành đến đó?”.
      “Tôi thật sự là chưa có kinh nghiệm này? Còn tế sư?”. Ananda hỏi lại.
      “Tôi và anh cùng chưa có kinh nghiệm về núi Tu-di và có lẽ là cả đời này của tôi sẽ không biết đến nó. Chúng ta không có đủ thời gian để tìm hiểu và khẳn định một điều được nói đến trong kinh Vệ-đà là đúng hoặc sai? Thay vì nghi hoặc chúng ta nên hiến dâng mình cho Brahma trong một niềm tin không thoái chuyển. Anh nên biết rằng, thánh thư Vệ-đà được mặc khải từ Brahma, là chân lý siêu nghiệm từ Đấng Tối Cao và không bất cứ ai có thể tư duy và sáng tạo ra chúng”.
      “Thưa tế sư, con đường lựa chọn của tôi là khác hẳn ngài. Tôi muốn thâm nhập vào cái Ta hiện hữu bằng chính kinh nghiệm của mình”.
      “Nhưng anh nên hiểu rằng không ai cũng có dũng khí giống như anh và đừng nên đồng hóa mọi thứ và áp đặt nó dưới nhãn quan của chính anh”. Goraksa tỏ vẻ không hai lòng và nghiêm khắc cảnh cáo.
      Khi buổi chất vấn còn chưa đi đến hồi kết thúc, người thanh niên giữ cửa dẫn một vị quan đeo kiếm, mặc quân phục trắng bước vào. Ông ta cuối chào, rồi cười tươi giới thiệu:
      “Tôi là Dharmapa, Thượng thư của nước Chauhan. Nhà vua của chúng tôi đã nghe câu chuyện của các vị và ngài muốn làm chủ cho cuộc hòa giải”.
      Goraksa hơi khó chịu hỏi: “Ý của nhà vua muốn thế nào?”
      “Quốc vương muốn đứng ra tổ chức cuộc biện luận giữa đạo sư Mekopa và người chàng trai trẻ này. Ai chiến nắng người đó có quyền quyết định bên kia chấp nhận ý kiến của mình”. Thượng thư tuyên bố.
      “Nhưng quyền quyết định không nằm ở chổ tôi?”. Goraksa hướng ánh mắt về đôi vợ chồng Bà-la-môn cùng ngồi ở góc bên.
      “Hai vị đồng ý quyết định của nhà vua chứ?”.
      “Vợ chồng chúng tôi trao niềm tin vào tế sư Goraksa và đạo sư Mekopa”. Đôi vợ chồng Bà-la-môn cùng đồng thanh.
      “Còn chàng trai trẻ thế nào?”. Goraksa nhìn Ananda và hỏi trong dáng điệu đầy thách thức.
      “Tôi không có quyết định. Thượng thư cần phải hỏi ý kiến của anh bạn Acinta trước đã”.
      4. Acinta bân khuân nhìn góc làng Thu-đà-la xác xơ dưới ánh nắng vàng chiều. Qua một xót thương, hắn hình dung thấy những đứa bé hốc hơ ngồi gúc bên góc nhà, mấy bà mẹ nghèo giương mắt nhìn trận gió cuốn bụi mù, lơ mơ lần tìm một làn khói bếp đã vắng cháy và nhớ bước chân những người đàn ông tản đi lên những cánh rừng xa tìm lương thực chưa về.
      Từ lúc chủ đất đã từ chối thuê người Thu-đà-la quanh thành gặt lúa, dân làng đã không còn cách để sống? Nổ lực đã cạn. Hi vọng vãn mòn. Như đáy sông khô rũ mềm chờ con nước đến. Cần làm gì để vượt qua đói kém này? Gượng nhìn xuyên qua tán dừa đâm cao toạc mây trời, Acinta tự hỏi mình: Liệu có phải cần một cách mạng cho người nô lệ, cho kẻ bần cùng để tạo ra một trật tự công bằng cho cả thế giới rộng lớn này, như lời đại sư Kassapa, một người đến từ vương quốc Sialkot đã từng giảng thuyết?
      “Hỡi những người bạn cùng đinh”. Đại sư Kassapa đưa hai tay ra dấu trấn an những người ngồi đối diện mình. “Ta đến đây vì những đau khổ của các bạn”. Đại sư mở to mắt, những thớ thịt trên vầng trán co nhăn tạo thành mấy lượn sóng trườn.
      Nhìn khuôn mặt rắn rỏi và giọng nói san sản của Kassapa, không ai ngờ, con của một người nô lệ nhưng được sinh ra tại chuồng bò đã trở thành vị dẫn dắt tinh thần của người Thu-đà-la tại vương quốc Sialkot. Và trải dài từ Sialkot, Sindh, Lahore đến tận Chauhan; từ tưởng giải phóng nô lệ của Muhammad Ghori, Kassapa đã đem nó đi theo từng dấu chân ngài đến.
      “Đau khổ của các bạn đến từ đâu?”. Kassapa hỏi lớn.
      “Do những kẻ áp bức Bà-la-môn và Sát-đế-lị”. Một người trong đám đông nói vọng lên.
      “Đúng! Bạn nói thật đúng! Bọn Bà-la-môn tự xưng mình là người có đạo đức nhưng không ngừng gây ra những tổn thương cho chúng ta. Vậy thì đạo đức đó là gì?”.
      “Một bọn giả tạo”. Những âm thanh dài xôn xao.
      “Chỉ vì một cuộc hôn nhân những chủ đất đã từ chối thuê người Thu-đà-la làm công”. Acinta bộc bạch.
      “Những kẻ xấu xa đó đã hành động vì thù hận và tư lợi”. Đại sư Kassapa giải thích.
      “Liệu chúng tôi cần phải làm gì?”. Acinta hỏi.
      “Các bạn biết không? Những người Thu-đà-la tại vương quốc Sialkot đã làm chủ được mình, họ không còn là nô lệ, mấy kẻ bóc lột Bà-la-môn và Sát-đế-lị đã phải rùng mình khép sợ.”
      “Ai lãnh đạo người Thu-đà-la ở Sialkot?”. Acinta hỏi Kassapa.
      “Chính tướng quân Muhammad Ghori, người anh hùng đến từ miền đất Ghazna, đã dẫn đầu đội chiến binh dũng cảm Mamluk giải phóng người Thu-đà-la tại quê hương Sialkot chúng tôi.”
      “Chính là đội kỵ binh khét tiếng Mamluk ư?”. Một người hồ hởi hỏi.
      “Đúng, thưa các bạn! Những người Thu-đà-la chúng ta vốn bị bọn Bà-la-môn coi là nô lệ nhưng điều đó không có hề gì, chúng ta sẽ cải đạo và trở thành những chiến binh dũng cảm đi giải phóng người mình.”
      “Cụ thể chúng ta sẽ phải làm gì?”. Acinta hỏi.
      “Gia nhập quân đoàn Mamluk, cướp của người giàu và chia cho dân nghèo”. Kassapa cười tươi nói.
      “Nhưng cướp bóc là vi phạm luật Manu”. Một trưởng lão già ngồi bên dưới thắc mắc.
      “Các bạn đừng bị mê hoặc bởi lời lẽ dối trá của những kẻ Bà-la-môn. Thiên đường tại đâu? Địa ngục chổ nào? Các bạn đã có ai nhìn thấy nơi đó không?”
      “Không. Không.”
      “Vì đó là nơi bọn Bà-la-môn đã lừa dối chúng ta, đánh vào tâm lý sợ hãi của chúng ta”. Giọng đại sư Kassapa hơi thét lên.
      “Liệu có thật như thế không?”. Vài người Thu-đà-la có vẻ hiểu biết, nhìn nhau thăm dò.
      “Này các bạn! Trong cõi hư không mênh mông của trời và vũ trụ, bốn nguyên tố: đất, nước, lửa và hư không tự thành, tự hoạt, tự bại theo quy luật tự nhiên, thường hằng. Vì sự tác động của quy luật tự nhiên nên bốn đại đó hợp lại mà thành cây cỏ, muôn thú và con người. Và khi con người chết đi, cây cỏ héo tàn, bốn đại vì đó mà tan rã, trở lại thành bổn nguyên của vi chất. Do từ vô hợp thành thể, do từ thể lại trở về vô nên khi chết đi không có một linh hồn nào tồn tại. Vì không có linh hồn nên không có luật nhân quả, và mọi việc cúng tế, bái tự, cầu siêu, tham thiền là hư dối, là trò bày vẽ của bọn Bà-la-môn bóc lộc.”
      Những người Thu-đà-la ngồi bên dưới bàn nhau, nếu Kassapa nói đúng, từ nay họ sẽ không cần khúm núm với những đạo sĩ Bà-la-môn kiêu ngạo, mấy kẻ như thầy trò Mekopa, mau thôi, chẳng khác gì tượng đá bị bỏ hoang.
      “Ta nói để các bạn thấy rõ bản chất của bọn giáo sĩ Bà-la-môn. Vì hạnh phúc và tự do của người Thu-đà-la, chúng ta phải đứng lên phản khán, đòi lại những của cải đáng ra thuộc về chúng ta.”
      “Nhưng chúng tôi chẳng biết phải làm như thế nào?”. Vị trưởng lão già thắc mắc.
      “Những vị anh hùng đến từ Sialkot đã đi cướp kho thóc của bọn giáo sĩ Bà-la-môn sắp về đến nơi và thành quả đó sẽ được chia cho mọi người”. Một người đi cùng Kassapa nói.
      Những khuôn mặt âu sầu ngồi bền dưới góc sân nhỏ, nghe sắp được chia lương thực, khuôn mặt đã trở nên rạng rỡ hơn. Và ngay lập tức, đám người Thu-đà-la vây quanh Kassapa, tiếp cận, ngắm nhìn người anh hùng trong lòng họ đang hiện diện.
      5. Sau buổi tiếp kiến Kassapa. Acinta cùng Chand Bardai, một nhà thơ người Bà-la-môn, đón đợi Ananda ở đầu làng.
      “Bọn tu sĩ Mekopa thật là độc ác! Chúng còn câu kết với hoàng thân Govindaraj để triệt tiêu chúng tôi”, Acinta nói với Chand Bardai trong vẻ mặt đầy thất vọng.
      “Rồi chúng sẽ trả giá cho những việc của mìn làm”, Chand Bardai an ủi bạn.
      “Nhưng tại sao quốc vương Prithviraj Chauhan không có một sự can thiệp nào ư?”, Acinta hỏi.
      “Vị vua dày công chinh chiến trên lưng ngựa, sau cuộc tình với hoàng phi Sanyogita giờ chỉ còn muốn tìm kiếm sự bình an bên người đẹp.”, Chand Bardai thở dài.
      “Chẳng phải là đội quân Mamluk đã sắp tiến gần đến Dehil rồi sao?”
      Chand Bardai lắc đầu: “Với tư cách một thần dân, tôi chỉ biết chờ đợi.”
      Rồi có tiếng một người trong nhóm Thu-đà-la đang cùng tụ tập chạy đến báo Ananda vừa tới. Acinta và Chand Bardai đi tới, kéo Ananda đến ngồi bên gốc cây lớn.
      “Những chủ đất đã hành động không đúng. Tôi đã diện kiến nhà vua, nói rõ sự việc và hi vọng ngài sớm có giải pháp”. Ananda nói với Acinta.
      “Thật cám ơn ngài! Vừa qua sự đề nghị khẩn thiết của nhà thơ Chand Bardai, bạn thân của vua Prithviraj Chauhan, chúng tôi đã được cung cấp một số lương thực cứu đói”. Acinta chia sẽ, rồi giới thiệu Chand Bardai với Ananda.
      “Tôi biết Prithviraj Chauhan là một ông vua từ bi và Chand Bardai là một thi sĩ tài năng”, Ananda nói.
      “Thật vinh hạnh khi được ngài chú ý tới”, Chand Bardai tươi cười nói.
      Acinta hồ hởi kể với Ananda: “Đạo sư Kassapa, một người đến từ vùng Sialkot nói chúng tôi phải đứng lên cướp của giàu chia cho dân nghèo. Phải hành động vì Thượng Đế mà thanh lọc lũ người bóc lột, phải đưa chúng vào địa ngục công lý”.
      Ananda hơi thất vọng và hỏi lại: “Nhưng theo các bạn thế nào là xấu xa?”.
      Chand Bardai trả lời: “Bọn người bất chấp lẽ thiện và bằng mọi cách muốn dồn kẻ khác vào đường cùng”.
      “Như các bạn nói, theo một ngữ nghĩa thông thường, xấu xa hàm chỉ một thứ gì đó có khả năng hoặc từng gây nguy hiểm cho mình. Nhưng thật sự, từ bên trong nội tâm hỗn loạn của chúng ta, cái ý tưởng chứa đầy những sợ hãi của chết chóc, của mất mát sở hữu, của không thỏa mãn, của thiếu vắng tri thức là nguyên nhân của tất cả. Từ những vấn đề mà chúng ta đang đối mặt và không biết nguyên nhân là gì, ý tưởng khơi dậy một khái niệm mơ hồ về xấu xa và cáo buộc có một đối tượng nào đó phải chịu trách nhiệm cho sự kiện này. Và khi chạm đụng trước đối tượng được tưởng rằng có nguy cơ xấu xa, bạn sẽ cố hành động bảo vệ mình, bằng mọi cách có thể.”
      Acinta giải thích: “Ngài nói đúng! Chúng tôi chống lại họ vì mong muốn có một đời sống công bằng”.
      “Nhưng các bạn nên biết, khi hành động chống lại một điều ác cũng có nghĩa là bạn đang chống lại lẽ thiện, bởi vì thiện vá ác do chính con người đã tạo ra”.
      Chand Bardai hỏi lại: “Nếu ngài nói vậy, nghĩa là hành động bóc lột và bức hại người Thu-đà-la cũng không phải là tội ác?”.
      “Bạn tìm kiếm một cái gì đó từ một người khác, tài sản hoặc quyền hành và anh ta hành động để bảo vệ chúng, vậy đâu là khởi nguồn của thiện và ác?”
      “Lẽ nào nô lệ là một sản phẩm của Thượng Đế?”. Chand Bardai thắc mắc.
      “Khi đứng trước một vấn đề chúng ta nên tìm hiểu cái cốt lõi của nó. Đừng suy nghĩ trên nền tảng của cái tôi, cái bản ngã mãi mê lang thang tìm kiếm thỏa mãn và gìn giữ quyền sở hữu. Sự đối lập của tham muốn và bảo vệ là nguồn gốc của mọi xung đột từ bên trong đến bên ngoài, xuyên suốt trong thế giới của chúng ta”.
      Với đôi mắt sáng rực một niềm tin, Acinta nói: “Đại sư Kassapa nói với tôi: xung đột là tiến trình của cách mạng?”
      “Tại xã hội thiếu hòa hợp và đang vỡ vụn này, sự kiện của thách thức và phản ứng được khoát lên mình bằng những từ ngữ ‘cách mạng’ rất hay ho. Và qua chữ ‘cách mạng’, đấu tranh được hiểu là tiến trình cần thiết của tồn tại, là sự kiện tự nhiên không tránh khỏi, có đúng không?”
      Chand Bardai khẳn định: “Lịch sử đã là những đấu tranh”.
      “Bạn nói đúng, lịch sử đã là một mớ xung đột và người ta đỡ phải sám hối khi bắt chước một hành động, sao chép một tiến trình, dựa vào một triết thuyết nào đó. Theo ngữ nghĩa, cách mạng là cái gì đó của đổi mới và tiến hóa nhưng chúng ta lại muốn hành động như quá khứ, thế thì, không có một cách mạng gì cả, nó là một sự lập lại của vô trật tự”.
      Acinta kể với Ananda về cuộc cách mạng đang diễn ra tại thị trấn Sialkot. “Đại sư Kassapa đã nói cho chúng tôi nghe triết thuyết về quyền tự do và hạnh phúc của những người nô lệ đang có tại vùng Sialkot, do những người nô lệ mang lại”.
      “Bạn nghĩ như thế nào là một triết thuyết?”. Ananda nhìn Chand Bardai và hỏi.
      “Để tạo ra một thay đổi trong thế giới, một tư tưởng sẽ làm nền tảng để dự đoán, dẫn dắt và là đích để hướng đến”. Chand Bardai đáp.
      “Tôi có một câu hỏi: Bạn đang là ai?”
      “Tôi là Chand Bardai”
      “Vì sao bạn biết mình là Chand Bardai?”
      “Vì đó là tên tôi”
      “Tại sao tên bạn là Chand Bardai mà không phải Acinta, Ananda, hay thứ gì khác?”
      “Do cha mẹ đã đặt cho tôi cái tên này”
      “Bạn biết về cái tên của mình từ khi nào?”
      “Có lẽ từ khi tôi có nhận thức”
      “Trước đó, trong trạng thái của một hài thai, bạn có biết mình là Chand Bardai?”
      “Tôi đã quên hoặc không thể biết vì chẳng có ký ức về nó.”
      “Như vậy bạn hiểu chứ? Cái tên chỉ là danh xưng, nhưng vì bạn đồng hóa Chand Bardai là bạn, bạn là Chand Bardai, bạn thấy mình hiện hữu trong một hình thể thân xác, trong một ngã tướng. Và bạn, thay vì soi tìm cái ban đầu, cái giai đoạn hài thai; đặt câu hỏi rằng tại sao bạn lại hiện hữu và trước thời điểm bạn nhận ra sự hiện hữu của mình, bạn đã là gì? Nhưng bạn lại không ngừng nương theo một cái tôi, một Chand Bardai hiện hữu và tư duy từ một trung tâm của Phàm Ngã. Và tương tự, triết thuyết hay tư tưởng chỉ là câu chữ trừu tượng, tại ranh giới ban đầu của dối trá và sự thật, nó diễn đạt một khái niệm và không là chân lý.”
      Chand Bardai thắc mắc: “Xin ngài hãy nói rõ!”.
      “Hãy cho tôi mượn một con dao!”. Acinta ngần ngại nhìn Ananda và đưa con dao.
      Ananda chìa con dao cho Chand Bardai, “Anh bạn hãy cầm lấy và giết chết tôi!”.
      “Vì sao tôi phải giết ngài?”, Chand Bardai giãy nảy, “tôi không có lý do để làm điều này”.
      Ananda nhìn Chand Bardai và hỏi: “Bạn run sợ hay không có mục đích?”
      Chand Bardai hơi biến sắc: “Có lẽ gồm cả hai nguyên nhân”.
      “Bạn biết đấy, khi không có can đảm và mục đích, bất kỳ một người nào cũng phải run sợ để giết chết một người. Anh ta sợ gây tội lỗi như luật Manu đã nói, nhưng chỉ cần khoát lên một tư tưởng, qua phân chia thiện và ác, con người sẽ nhân danh Thượng Đế, nhân danh thánh thần, nhân danh giai cấp, nhân danh lợi ích; và khi ẩn nấp vào đạo đức họ sẽ ung dung hành động vì biết rõ mình không phải chịu một trách nhiệm luân lý nào cả.”
      “Tôi nghĩ trong một xã hội mất cân bằng và đau khổ, để thoát khỏi nó, đấu tranh có lẽ là cần thiết?”. Chand Bardai chất vấn.
      “Cần thiết để kết thúc một bế tắc chăng?”
      “Người Thu-đà-la không có lựa chọn khi chân lý luôn thuộc về bọn Sát-đế-lị và Bà-la-môn”. Acinta nói.
      “Bạn có thấy những tế sư, những bậc thầy, những tôn giáo, những tổ chức tự phong là đại diện của chân lý, tất cả chúng được xây dựng trên nền tảng đạo đức được che đậy, theo một luật lệ được chấp nhận, một truyền thống quen thuộc theo thời gian. Và để vun đắp cho quyền lợi tiếp tục, qua một lý luận, họ nhận mình có quyền sở hữu ‘chân lý’ và bất kỳ tư tưởng nào đi ngược lại thứ ‘chân lý’ này đều là vô luân bại đức. Có thể đa số người đều tin, nhưng một người tỉnh thức sẽ luôn nhận ra sự khác biệt lớn lao giữa đạo đức vĩnh cửu và thứ đạo đức thuộc phương diện từ ngữ.”
      “Ngài nói đến đạo đức giả?”. Acinta hỏi lại.
      “Trong thế giới này, không tri thức gì giả dối và cũng chẳng có tư tưởng nào chân thật. Tại khởi thủy, một hạt giống của cây xoài không có danh xưng gì cả; nhưng từ khi bị người ta phát hiện và đặt tên, nó liền bị lắp lên một hư dối qua danh xưng. Tương tự. Ban đầu, người Bà-la-môn nói chỉ có họ mới có quyền tiếp cận chân lý, không ai phản đối vì nó thật trừu tượng và chẳng mang ý nghĩa gì cả. Và qua thời gian, lời tuyên bố trở nên quen thuộc và tự nhiên trở thành một luân lý. Ví như trộm cắp là một vấn đề thuộc đạo đức, ngay tại thời khắc phạm tội, bên trong tâm trí kẻ trộm đã có một sợ hãi của cô lập dấy lên. Gã đau khổ vì sợ hãi đám đông từ chối công nhận sự hiện hữu của mình. Gã đau khổ vì sợ hãi đối diện với sự cắn rứt vì mình chạm vào giá trị luân lý. Gã đau khổ vì cảm tưởng tụt xa với tất cả nhân loại và đánh mất một tiêu chuẩn công dân nào đó. Đó là giá trị luân lý thuộc về nhân cách. Nhưng các giá trị luân lý được tạo dựng để duy trì quyền lực và chiếm hữu cũng biết mô phỏng tiến trình đó; nó đồng thời tạo ra các rào chắn ‘lương tâm’ hữu hiệu để phong tỏa đối thủ tiếp cận vấn đề. Một người Thu-đà-la muốn học hỏi kinh sách Vệ-đà, trước hết, anh ta cần có can đảm vượt qua sợ hãi của cái nhận thức gọi là giai cấp. Khi vượt qua sợ hãi, anh ta lại đối mặt với đám đông, những người Thu-đà-la hoặc Bà-la-môn khác sẵn sàng ngăn cản hoặc phủ nhận tất cả những hiểu biết của anh ta về tri thức.”
      Acinta mừng rỡ hỏi Ananda: “Vậy, làm thế nào để những người Thu-đà-la như chúng tôi được tự do?”.
      “Sống ngay dưới xã hội chứa đầy những giá trị luân lý được tạo dựng, trong ký ức của bạn đã chứa đầy những phản ứng tổn thương. Cái Tôi muốn được hiện hữu như những người mà nó thấy, nhưng nó không đạt được. Nó nhận ra, thật rõ ràng có một bất công nhưng lại có cái gì đầy mơ hồ níu kéo, vây nhốt để nó không thể trở thành. Và trong trạng thái có cảm tưởng chừng như không thể thoát ra khỏi vây đuổi, nó tự chìm nghỉm dưới dòng phẩn uất và thù hận.”
      “Nhưng cách gì để thoát khỏi nó?”. Acinta hỏi lại.
      “Như tôi đã nói, dòng suy nghĩ của bạn là sự phản ứng trên nền tảng ký ức. Bao giờ bạn tẩy sạch nó, những khái niệm: cái gì là sự liên hệ của các cá nhân trong đời sống, cái gì là danh xưng của người Thu-đà-la hay người Bà-la-môn, cái gì là giải thoát, cái gì là thánh kinh Vệ-Đà… Sau cuộc thanh tẩy, tâm bạn sẽ trở nên trong sáng như ánh mặt trời và tự do sẽ đến.”
      Chand Bardai hỏi, “Theo như ngài nói, ngay cả thánh kinh Vệ-Đà đều là giả tạo?”.
      “Một cuốn sách có giá trị nếu người đọc vô minh hơn người viết. Nếu tri thức đó không sáng tác từ suy luận suông, nó là công cụ để tiễu trừ những mê lầm. Ngược lại, kẻ có tư tưởng chứa đầy tham vọng của quyền hành sẽ biến nó thành vật thờ cúng, vì đó là một phương tiện để y đạt được khoái cảm danh vọng.”
      Acinta khẻ nhìn Ananda rồi tỏ ra thất vọng, “Vậy thì, lâu nay chúng tôi đã sống trong một đời sống mơ hồ do bọn tu sĩ Bà-la-môn tạo dựng?”.
      “Thế giới ảo vọng này không chỉ do người Bà-la-môn tạo dựng, mà nó là hình ảnh phóng chiếu của những tâm thức rối loạn của tất cả con người sống tại đó.”
      Acinta hỏi Ananda: “Ai đã khởi đầu cho lừa dối tại thế giới này?”.
      “Con người, cùng sự theo đuổi những tham muốn thuộc vật chất, thèm khát danh vọng thuộc tinh thần.”
      “Tại sao ảo tưởng vẫn còn hiện diện?”. Acinta lại hỏi.
      “Một đứa bé sau khi được sinh ra, tri kiến ẩn mình trong một tiềm thức lặng im. Đến khi thân xác lớn dần lên, các giác quan phát triển, nó nhìn ngắm và cảm tưởng về thế giới hữu hình qua bức màn tư kiến của quá khứ. Suốt tiến trình sống, nó tích trữ các ấn tượng vào ký ức, và từ đó mà có những kinh nghiệm cá nhân mang dấu ấn của môi trường sống. Vì đó: Cá nhân có thế giới của cá nhân qua nền ký ức và trí tưởng tượng riêng tư của y. Xã hội có phong tục, văn hóa, lề thói tồn tại cách biệt nhau bằng lằng ranh của lãnh thổ. Chính vì tư tưởng tạo dựng những bức tường, thế giới rộng lớn của chúng ta đã bị cô lập, bị phân chia thành từng mảnh của nhóm, của vùng, của tập thể, của triết thuyết, của tôn giáo, của quốc gia. Xuyên dài mảnh đất dưới bàn chân của chúng ta đang đứng đây bị quy định, từng mảnh của lãnh thổ, chổ này thuộc về người Bà-la-môn, đằng kia là của người Thu-đà-la và xa hơn là sở hữu của người Sát-đế-lị.”
      Chand Bardai nhìn Ananda hơi ngờ vực, “Ví như chúng ta đang sống rập khuôn bên trong một cái lồng của những vị vua và bọn thầy tế tự. Vì sao không ai có thể chấm dứt nó?”.
      “Bởi tính biết chưa thị hiện, bao trùm, xuyên suốt, vượt lên mọi tư kiến, nên thế giới vẫn là một tiếp tục của thoái hóa chứ không là một tiến bộ.”
      “Có thể thay đổi mọi thứ qua một cuộc cách mạng, chẳng hạn?”. Chand Bardai nói.
      “Dường như bạn thích thú làm thay đổi người khác hơn là nhìn nhận về bản thân mình?”
      Chand Bardai vổ vổ vào ngực mình: “Vì tôi thấy mình vẫn ổn!”
      “Bạn cảm thấy tự tại vì đang quan sát từ một bên ranh giới của phân chia, nhưng một nhận thức từ vùng biên như thế thật không trọn vẹn và cơ bản. Qua tách rời, bạn cho mình thuộc về lẽ thiện và những điều gây tổn thương cho thói quen, cho sở hữu của bạn là độc ác, là xấu xa. Khi đó, nếu hiện diện trong một tuyệt vọng cô độc bạn sẽ không ngừng chỉ trích, nếu sở hữu một quyền lực bạn sẽ tìm cách thay đổi người khác, ngược lại, bạn âm thầm duy trì và không ngừng vun đắp cho các sở thích của chính mình. Một cuộc cách mạng bên ngoài như thế, dù thuộc về chính trị hay kinh tế, tại cơ bản nó vá víu một tách rời và tạo ra một cô lập khác, không phải là một kết thúc trọn vẹn.”
      “Chẳng phải là con người đã tiến bộ không ngừng qua các cuộc cách mạng?”. Chand Bardai hỏi.
      “Lịch sử và hiện tại đã có sự khác biệt nào? Những quốc gia phân chia rồi bị thôn tính. Những biên giới bị tách rời và sát nhập. Những cuộc chiến tranh. Những thay đổi triều đại. Những khám phá các dụng cụ của đời sống. Những thửa ruộng thu hoạch được nhiều lúa đậu hơn. Những ngôi đền to lớn theo thời gian. Thêm các giáo phái. Thêm nhiều quyển thánh kinh được xuất bản. Theo ý bạn, tất cả chúng là những tiến bộ hay là một tái hiện?”
      “Có thể bao hàm cả tiến bộ và tái hiện”. Chand Bardai đáp.
      “Nếu bạn từng xem một vở kịch? Thì toàn thể vạn vật thị hiện trong thế giới này vốn diễn tiến theo một kịch bản của nhân quả. Một bi kịch lớn của vũ trụ với tầng nấc cao trào xung đột, biến chuyển từ giai đoạn này sang cảnh trí khác. Và dù tôi, bạn, hay các vị thánh nhân vĩ đại như Rama, Krishna, đều là những nhân vật hiện diện trong tác phẩm này. Chúng ta lầm tưởng mình là tác giả và có thể làm thay đổi mọi thứ, nhưng khốn thay, tất cả chỉ buông theo sự tiếp diễn của tấng tuồng. Vậy thì, một cách mạng như bạn tưởng, chỉ là một chuyển biến của tái hiện.”
      “Vậy, liệu có phải cuộc sống được đúc khuôn từ phép lạ của Thượng Đế?”. Chand Bardai hỏi.
      “Thượng Đế nào?”. Ananda tỏ ra ngạc nhiên.
      Chand Bardai chỉ tay lên bầu trời: “Người được cho là đấng sáng thế”
      “Không một Thượng Đế hoàn thiện nào tạo ra một sản phẩm bất toàn. Chính chúng ta đang tự đóng khuôn mình.”
      “Vậy con người, như tôi, hẳn là tác giả vở kịch đời sống của tự nó?”. Chand Bardai chỉ tay vào mình.
      “Vì bạn đã không nhận ra ranh giới của tác giả và diễn viên, của thị hiện và tồn tại, nên khi khoát lên mình một hình tướng, bạn nghĩ mình hành động để tạo ra các sự kiện nhưng thật sự bạn lại dự phần vào đó với tư cách một vai diễn. Và mãi đến chừng nào bạn tách rời khỏi nó với tư cách một khán giả đang quan sát, lập tức, bạn là hiện thân của Thượng Đế siêu việt. Và nên nhớ, bạn Thượng Đế chứ không phải trở thành Thượng Đế.”
      “Có gì khác nhau giữa Thượng Đế và trở thành Thượng Đế?”. Acinta do dự hỏi.
      “Cây xoài sau khi trỗ bông sẽ đậu trái gì?”. Ananda hỏi lại.
      Acinta thoáng chút băn khoăn nhưng cuối cùng cũng trả lời: “Tất nhiên là quả xoài”.
      “Chắc chắn không là quả dừa chứ?”
      “Chính xác là quả xoài”. Acinta dứt khoát.
      “Cây xoài đậu trái xoài là tiến trình tự nhiên. Cây xoài đậu trái dừa là biểu hiện của từ ngữ, một kiểu tô vẽ để trở thành.”
      Chand Bardai vung tay, “không phải con người và Thượng Đế, vậy thì, ai là tác giả của vở kịch của vũ trụ?”, rồi nhìn Ananda chờ đợi.
      “Tất cả mọi người tham gia vào tiến trình sống.”
      “Sự kiện siêu vượt ra khỏi vai trò của một diễn viên và trở thành khán giả là đoạn kết của tiến trình giải thoát?”.
      Ananda hơi ngập ngừng và nói: “Gần đúng như thế!”
      Rồi Chand Bardai diễn tả tâm trạng bồi của mình qua đôi mắt mở tròn. “Trong tiến trình quan sát, liệu một khán giả có dõi theo và thâm nhập vào vui thú và đau khổ của nhân vật? Tôi muốn hiểu trạng thái như của một Thượng Đế đang ngắm nhìn thế giới, chẳng hạn?”.
      “Với tư cách một khán giả, trên tổng thể, bạn có thể nhìn thấy nhân vật thiện và ác qua hành động của y. Nhưng tại cốt lõi, bạn hiểu rõ nguồn gốc của vấn đề, biết họ chỉ là diễn viên và những hành động kia mang tính chất giả tạm.”
      “Một quan sát như thế trong thế giới hỗn loạn và tàn nhẫn như hiện tại, người bóc lột và kẻ bị bóc lột, liệu có phải là sự vô tâm?”.
      “Vô tâm là một trạng thái phản xạ của sợ hãi và không nhận biết. Còn khán giả lại xem vở kịch từ vị thế của một kẻ biết rõ đoạn kết của nhân vật và y tự nhận ra, mình không có quyền năng gì để sửa đổi một kịch bản như thế.”
      Chand Bardai hơi bất mãn: “Vậy, đó chẳng khác nào một buông xuôi?”
      “Bạn sẽ không có ý tưởng nào hay ho hơn ngoài việc gợi ý để nhân vật thoát khỏi bi kịch và trở thành một khán giả quan sát.”
      “Quan sát dùng để kết thúc nhận thức trong chính mình hay chỉ là thản nhiên nhìn ngắm?”, Chand Bardai lại hỏi.
      “Tại bất kỳ góc độ quan sát nào, sự sống của bạn hay những điều đang diễn ra chung quanh. Ký ức của bạn, cái ấn tượng của quá khứ, đóng vai trò lớn trong tiến trình nhận thức của hiện tại. Điều này có nghĩa là bạn đang sống theo tư duy của ngày hôm qua cho công việc ngày hôm nay, với những trải nghiệm riêng về đau khổ, về vui thú, về hồi tưởng. Bao giờ thoát khỏi cái ký ức cũ kỹ đó, bạn sẽ có tự do để quan sát trong vai trò một khán giả.”
      Chand Bardai hướng mắt lên bầu trời: “Sự xuất hiện của một đấng cứu thế, như Krishna, rốt cuộc là để gợi ý hay cứu rỗi?”
      “Bạn mô tả thật đúng! Krishna tham gia vào vai diễn là để gợi ý và ông biết mình là một khán giả.”
      “Nếu không có cứu rỗi, vậy thì, Krishna không có một quyền năng to lớn và chẳng phải là một hiện thân của Thượng Đế như truyền thuyết?”
      “Thượng Đế chỉ là một khái niệm và quyền năng chỉ là những tư tưởng do chính ta tạo ra. Như hiện tại, bạn và tôi đang theo đuổi những mục tiêu gì, danh vọng và sở hữu; những tham mê đó được tiếp nối từ hạt mầm của kiếp trước. Vì lẽ đó, suốt tiến trình sống này và kế tiếp, chúng ta sẽ mãi lạc bước trong cuộc hành trình, lần mò theo đường ranh của một vòng tròn không điểm kết để truy tìm những ảo vọng. Đến khi nào chúng ta nhận ra và muốn chấm dứt nó, lập tức, tư tưởng kéo bạn dừng lại. Đó chính là quyền năng.”
      “Vui thú và tổn thương có phải đều là định mệnh?”. Acinta hỏi.
      “Vì sao bạn bị tổn thương?”
      Hơi tức giận, Acinta nói: “Tôi bị tổn thương vì nhìn thấy những kẻ áp bức và hành động áp bức”.
      “Với bạn, giữa tổn thương và vui thú, cái nào quan trọng hơn?”. Ananda hỏi.
      “Vui thú đem đến cho tôi hạnh phúc, còn tổn thương mang lại những đau khổ.”
      “Bạn thấy đấy, ký ức của chúng ta chứa đầy những tổn thương đến từ xung đột của những mối quan hệ, từ tham muốn không được thỏa mãn, từ sự nhạy cảm của tư tưởng trước số phận con người. Chúng ta muốn hướng đến hạnh phúc và tẩu thoát khỏi phiền khổ, nhưng chúng ta không hiểu rõ nguyên nhân của chúng là gì? Chúng đến từ đâu? Và bởi đó, phản xạ của cảm xúc dẫn dắt chúng ta đến kháng cự, đến lẫn tránh, hay trở nên bạo lực và hung hăng hơn. Rồi tức thì, từ hành động buông xuôi, kết quả chúng ta trở thành tác giả của ít nhất một tổn thương.”
       
       
       
       
      CHƯƠNG 6. MEKOPA
       
      1. “Hãy chỉnh lại tư thế, khuôn mặt phải an nhiên cho dù mi đứng trước ai”, đạo sư Mekopa nhắc nhở, yêu cầu học trò chỉnh lại phong cách trong bài thực tập thuyết giảng trước tín đồ.
      “Bẩm thầy, thế nào là sự an nhiên trong chính nó?”, một đệ có khuôn mặt hơi hiền lành quay sang thầy, ngơ ngác hỏi.
      Mekopa vuốt chòm râu bạc nhìn gã đệ tử ngây ngô đang há hốc miệng chờ lắng nghe những lời vàng ngọc: “Ngươi chẳng thể nào có sự an nhiên sinh khởi trong thời gian ngắn ngũi của cuộc đời, và để thuyết phục tín đồ ngươi phải giả vờ an nhiên như thật sự”. “Nhưng con chính thấy một tên ăn mày lang thang ngoài bãi tha ma có dáng vẻ rất an nhiên”, nó cãi lại.
      Một đệ tử cung kính dâng Mekopa bát sữa. Ông cầm lấy và ngoái lại nói: “Thiền định qua thời gian dài, y có thể đạt tới thành quả đó, nhưng trách nhiệm của ta là giữ gìn Thánh kinh Vệ-Đà và thu thập thật nhiều tín đồ. Qua sự sùng bái của họ, mi sẽ trở nên rất an nhiên”. Rồi ông cúi lật xem một số sổ sách kế toán từ đệ tử dâng tới và quát: “Lợi nhuận mùa này tại sao lại sụt giảm lớn như thế?”.
      “Bẩm thầy, bọn nô lệ Thu-đà-la tại Delhi đòi tăng giá nhân công nên cần phải chi tiêu nhiều hơn.”
      Mekopa vứt quyển sổ xuống nền gạch: “Phải ngừng thuê cái bọn nghèo khổ có nhiều yêu sách đó. Tại sao không đi xa hơn để tìm bọn Thu-đà-la khác về làm công.”
      “Đại sư huynh Goraksa đã cho tiến hành, thưa thầy”, người kế toán nói.
      “Quan trọng là rất nhiều người Bà-la-môn đang chạy về Sialkot, nơi vừa có một đế chế nô lệ do tướng quân Muhammad Ghori dẫn đầu thành lập. Và nhân công trở nên khan hiếm hơn”. Một đệ tử khác đứng gần bên Mekopa nói chen vào.
      “Một đế chế nô lệ ư?”, đạo sư Mekopa ngạc nhiên hỏi.
      “Bẩm đúng, tên nó là Mamluk”, nó khẳn định.
      Mekopa phun ngụm sữa xuống sàn, “cái bọn vô minh đó có thể làm được việc gì?”, rồi dậm chân quát tháo các đệ tử.
      “Có việc quan trọng đây, thưa thầy”, Goraksa thở hổn hển và nói to từ ngoài chánh điện.
      Mekopa nhìn Goraksa chẳng mấy gì ngạc nhiên, chắc lại là việc của bọn nô lệ Thu-đà-la quấy rối.
      “Vua Prithviraj Chauhan vừa quyết định, thầy sẽ tranh luận cùng Ananda để giải quyết vấn đề của bọn Thu-đà-la.”
      Ananda ư? Gã là kẻ nào buộc ta phải tranh luận cùng. Đạo sư Mekopa ngước mặt nhìn bức tượng thần Brahma đặt giữa chánh điện. “Ananda là tên ăn mày lang thang từ Chintpurni tới. Con đã chạm chán với gã, tài hùng biện cũng khá nhưng lại giảng giải những kiến thức rất lạ lùng”, Goraksa nói.
      Lạ lùng hử? Mekopa chăm chú nhìn Goraksa. “Nhà vua đã ra quyết định chưa?”.
      “Chỉ thị chắc chắn sẽ mau chóng tới đây”, Goraksa hồ hởi.
      “Việc gì mi phấn khởi khi ta phải đọ mồn với kẻ khác. Ta không thích tên hoàng đế Prithviraj Chauhan và không muốn nghe lời hắn”, Mekopa xếp chân ngồi lên tấm da nai.
      “Nhưng nếu thầy không biện luận, Prithviraj Chauhan sẽ xử chúng ta bỏ cuộc, và ra lệnh các chủ đất phải tăng giá nhân công.”
      “Tăng giá nhân công ư?”, ông khẻ rên lên, “lại là cái tên hoàng đế Prithviraj Chauhan muốn can thiệp vào chuyện của chúng ta”. Mekopa lặng im giây lâu rồi nói: “Vậy được! Con phải đi chuẩn bị mọi thứ cho ta”.
      2. Hoàng đế nước Chauhan, Prithviraj quyết định buổi biện luận “Thượng Đế, tri thức và chân lý” giữa Ananda và đạo sư Mekopa được tổ chức tại thành Delhi.
      Prithviraj là người say mê minh triết, cũng đồng thời lo ngại uy quyền lớn mạnh của thầy trò Mekopa, vừa bắt được tin Ananda có chủ thuyết bình đẳng giai cấp, nhà vua liền nắm ngay cơ hội tiếp cận chàng. Ngài hi vọng qua chiến thắng của chàng, thầy trò Mekopa sẽ nhường bước, từ cuộc hôn nhân đầu tiên giữa người Bà-la-môn và Thu-đà-la, cuộc cải cách xã hội của ngài sẽ được khơi mào. Tin tức cuộc thuyết pháp được nhà vua nhanh nhảu cho người thông báo khắp thành Delhi; và dân chúng, những người ở tầng lớp dưới hân hoan chờ đợi một chiến thắng chưa từng có đến từ Ananda.
      Sáng sớm đó, khi ánh bình minh còn nhạt mờ phía sau dãy núi Chauhan. Dọc theo con đường chính dẫn vào kinh thành, từng hàng lớp tiện dân nghèo khổ, người nô lệ, kẻ mua bán nhỏ, đầy tớ, kéo nhau đi về hướng cung điện.
      Cuộc biện luận được tổ chức trang nghiêm tại quảng trường Delhi. Nhà vua trẻ Prithviraj Chauhan ngồi trên bục cao, oai vệ trên chiếc ngai vàng chạm trỗ hình mặt trời và những đám mây. Ngài đeo nhiều trang sức vàng, đầu đội chiếc khăn lụa xếp có châu báu, cổ vắt một tấm khăn thêu chỉ vàng có hai đường viền đỏ. Ngồi bên dưới nhà vua, bên trái là quốc sư Narada, phía phải là thượng thư Dharmapa, cùng đông đảo quần thần ngồi vây thành vòng tròn. Khi thấy mọi người đã yên vị, nhà vua dõng dạc tuyên bố:
      “Ta là một người mộ đạo nhiệt thành và thích nghe những bậc tri thức biện luận về đời sống minh triết. Tại Chauhan quốc của chúng ta đã có một Mekopa uyên thâm Vệ-Đà kinh, nay định mệnh từ Thượng Đế lại dẫn dắt một Ananda tài năng khác đến Chauhan. Ôi! Các vị hiền triết, những con người thông tuệ. Hôm nay ta được nghe những lời vàng ngọc của hai vị tại đây và nếu tâm thức ngu muội này khai ngộ ra điều gì, hẵn là, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng ta không còn gì để lưu luyến.”
      Tiếp lời nhà vua, quốc sư Narada đứng lên nói: “Nhà vua và chúng tôi cam đoan sẽ là những người đánh giá trung thực cho mỗi phần biện luận của hai vị. Người chiến thắng sẽ có quyền quyết định chuyện hôn nhân chưa từng có giữa một người Bà-la-môn và một người Thu-đà-la, nếu hai vị ngang tài, nhà vua sẽ là người quyết định cuối cùng”.
      “Theo thông lệ, đạo sư Mekopa sẽ là người biện luận trước”. Thượng thư Dharmapa nói.
      Đạo sư Mekopa mặc áo vàng, râu tóc bạc phơ, cổ đeo một vòng hoa đỏ; chiễm chệ ngồi trên chiếc kiệu do bốn người đệ tử khiên tới. Ông chậm rãi đứng dậy, vái chào nhà vua và quần chúng. Rồi lẳng lặng bước vào giữa điện, đi quanh bục giảng bốn bận, vừa đi vừa đọc bài văn tế lễ:
      Purusha, ánh sáng toàn năng sinh khởi từ Thượng Đế
      Prakrti, tinh chất toàn năng của mầm mống thị hiện
      Hãy đưa ta về khởi nguyên bổn tính
      Hãy đưa ta về sự toàn vẹn
      Đón hơi thở của sự tuyệt đối
      Lời khấn kết thúc. Đạo sư Mekopa ngồi lên bục, cân chỉnh lại y phục. Đôi mắt ngài nhắm nghiền, thân mình nhẹ lắc lư dường như muốn đắm chìm vào trạng thái siêu việt.
      * * *
      Thưa nhà vua! Vào buổi bình minh của vũ trụ. Thuở đó, chưa có năm nguyên tố cực vi của thế giới vật chất: đất, nước, lửa, gió và hư không; cũng chẳng có mặt trời, mặt trăng, những vì tinh tú và bầu trời; các vị Brahma, Shiva và Vishnu hãy còn chưa xuất hiện.
      Vào lúc khởi thủy chẳng phân biệt thời gian đó, cái Duy Nhất, cái Độc Nhất, cái Tuyệt Đối, hay Đức Narayana tự vận hành trong nội năng (purusha) tối thượng, rồi phát sinh ngoại năng (prakrti) - cái vật chất tối sơ ban đầu của vũ trụ. Giống như ngọn lửa cháy bừng và tỏa sức nóng ra chung quanh; ngọn lửa chính là nội năng và sức nóng là ngoại năng. Thế là, từ buổi khởi thủy kia, ngoại năng của Đức Narayana, ánh sáng phúc lạc của năng lượng siêu việt, căn nguyên vật chất tối hậu prakrti đã tạo ra Purusa (Brahma), vị thần nghìn tay nghìn mắt đầu tiên của nhân loại. Và từ Brahma, có thêm ngọc hoàng Indra, tám vị Vasu, mười một vị Rudra, mười hai vị Aditya.
      Vì Narayana là Đấng Sáng Tạo Duy Nhất Tối Cao, Ngài tỏa sáng sau ánh hào quang Brahmajyoti chói lòa ở bên ngoài vũ trụ, vượt ra ngoài dãy thiên hà này, tại hành tinh Goloka xa xôi. Vì Narayana là Đấng Tối Cao nên thân thể, hình dáng, sự hiện diện của Ngài vượt tầm trị giác cảm thụ, vượt ra ngoài tri thức và suy nghiệm. Ngay cả Brahma và các vị á thần có tri thức Vệ-đà sinh khởi từ bổn tính của Đấng Tối Cao nhưng cũng không ai biết về Ngài. Loài người, cây cỏ, muôn thú tồn tại nhờ ngoại năng của Narayana nên sinh sống ở nơi tăm tối mịt mù, phải nhờ đến ánh sáng mặt trời dẫn lối. Do ánh sáng chói lòa của Brahmajyoti nên loài người không nhận ra sự hiện diện của Ngài, rồi những người duy lý suy đoán rằng Đấng Tối Cao không phải là một cá nhân. Họ chỉ tìm hiểu Ngài một cách thật thô sơ, so sánh vào thực tại tương đối, và bị các quan niệm tiêu cực dao động nên họ chẳng thể hình dung Ngài thành ra một cách toàn vẹn.
      Tất cả các tập kinh Vệ-đà đều nói, Đấng Chí Tôn là Thượng Đế khởi thủy, là căn căn nguyên của vạn vật, là người chủ cả thế giới tinh thần và vật chất. Vì phẩm tính của Narayana là Thần Ngã (Paraatma), vượt lên Chân Ngã (Atman) nên Đấng Tối Cao không sáng tạo và phá hủy thế giới, mà ba vị thần chính của vũ trụ Brahma, Vishnu và Shiva hành động trên tiến trình xúc chạm của hai mươi bốn nguyên tố vật chất tối sơ. Và các vị á thần, con người, do cũng bắt nguồn từ ngoại năng của Đấng Chí Tôn nên chịu ảnh hưởng từ Ngài, bị chi phối trên quy luật nhân quả của Ngài.
      Vì sống nhờ ngoại năng của Đấng Chí Tôn nên tri thức suy nghiệm từ các giác quan vật chất, từ cái xúc chạm của hai mươi bốn nguyên tố vật chất đều không hoàn thiện; dù các vị đó là các vị thánh nhân, các nhà hiền triết vĩ đại đi nữa. Chỉ có sự mặc khải tối thượng của thánh thư Vệ-đà được truyền từ Đấng Chí Tôn là tối hậu và vĩnh cửu.
      Thưa nhà vua! Từ lúc khởi đầu cho sống, mỗi con người chúng ta thành hình trong một hài thai và đến khi chết đi, ký ức của chúng ta nhờ năm giác quan đã thu nhặt không biết bao nhiêu kiến thức về thế giới hiện hữu ở chung quanh. Và nhờ vào nền tảng của ký ức, chúng ta tiếp tục suy luận, so sánh và giả định vào ngoại vật để tiến đến một kết luận thống nhất, rồi lại thu nhặt kiến thức mới vào ký ức. Nhưng loại kiến thức đơn thuần, bên ngoài đó không là tri thức chân chính, không mang đến một sự giải thoát hoàn hảo cho chúng ta. Vì vậy, chúng ta phải tìm đến loại tri thức chưa thể biết và không thể biết qua ngũ quan.
      Thưa nhà vua! Khi vừa bước chân vào sảnh điện rộng lớn này, tôi đã nhìn ngắm và nhận ra sự oai nghi rực rỡ của ngài thật thân thiện. Khi tôi nói câu nhận xét kia về ngài, điều gì đã diễn ra bên trong tôi, từ khởi đầu cho đến khi kết thúc tại bên trong cái suy nghĩ. Trước hết, mắt tôi thấy ngài, tôi nhận thức về ngài, tôi nhận ra tính chất oai nghi của ngài, tôi suy ra tánh thân thiện của ngài, rồi tôi kết luận về ngài. Tôi diễn tả tiến trình nhận thức (pratyaksa) bằng lời thật chậm; nhưng quá trình thấy, nhận thức và kết luận xảy ra bên trong tôi hành động rất nhanh nhạy, tựa nước đổ từ thác cao, như ánh nắng chói chang soi rọi xuống từ mặt trời. Và cái quá trình ngũ quan tiếp cận ngoại vật, rồi cọ sát với nội căn sinh ra nhận thức, sinh ra cái xúc cảm đau, vui, buồn, ghét, giận… là lượng trí đơn giản, nhỏ hẹp và khởi đầu.
      Hôm qua, tôi đi ngắm cảnh ở ngọn đồi Chauhan. Trong lúc tôi say mê với thiên nhiên và hòa mình vào nó, đột nhiên, tôi nhìn thấy khói tỏa ra từ phía sau ngọn đồi. Tôi liền nghĩ rằng, chổ rừng cây chắc có lửa cháy. Vì sao tôi khẳn định có lửa? Vì trong lúc nấu ăn tôi nhìn thấy bếp lò có lửa và khói, cái hình ảnh lửa và khói của bếp lò đã ghi vào ký ức của tôi. Và ngay khi nhìn thấy khói sau ngọn đồi, ký ức của tôi mở ra, tôi suy luận chổ rừng cây ắt có lửa. Vậy là, cái suy luận (anumana) bên trong tôi xảy ra trên ba yếu tố: ký ức, sự kiện và tầm mức giới hạn của giác quan. Nếu ký ức tôi không chứa đựng chút hình ảnh nào của khái niệm khói và lửa thì cái kết luận của tôi sẽ là gì?
      Cũng vào hôm qua, tôi nhìn thấy một con bò đi lang thang và tôi cho nó là một con bò rừng. Tại sao tôi lại nhận ra con bò kia là một con bò rừng? Bởi vì, trong ký ức, tôi từng ghi nhận một hình dáng con bò rừng. Và ngay khi bắt gặp nó, bên trong nhận thức của tôi đã có sự so sánh giữa nó với hình ảnh con bò rừng của ký ức và sự giống nhau đó đã cho tôi một kết luận. Cái so sánh (upamana) xảy ra trên yếu tố của một đối tượng ký ức và một đối tượng đang tri giác và nhờ vào tính tương tự mà đưa ra kết luận. Khi ký ức của tôi không chứa đựng một hình ảnh con bò rừng của quá khứ thì với sự xuất hiện của con bò rừng hiện tại thì cái kết luận của tôi sẽ là gì?
      Một lần tôi đến nhà một người bạn thăm hỏi y nhưng không gặp mặt, tôi cho rằng y còn đang sống và đi đâu đó. Vì sao tôi kết luận rằng y đang “ở đâu đó”? Do tôi biết y còn “đang sống” và “không có nhà” nên giả định là y “ở đâu đó”. Cái giả định (arthapatti) là quá trình đánh giá hai nhận thức tương phản của thực tế để đi đến kết luận. Nếu ký ức tôi không chứa đựng chút hình ảnh thông tin nào về tình trạng của anh bạn, không thống nhất giữa hai định lượng thì cái kết luận của tôi sẽ là gì?
      Kế bên phòng nghỉ của tôi có đặt một lu nước dùng để uống. Nhưng hôm qua, vào lúc tôi cảm thấy khát, tôi tìm đến chổ lu nước để uống thì không còn nhìn thấy nó. Vậy điều gì xảy ra bên trong nhận thức tôi, khi lu nước không có ở đó? Chính là cái vô thể của đối tượng tri giác dẫn đến một cái trống rỗng không thể nắm bắt (anupalabdhi), nên tri thức không đạt được. Nếu tôi không biết được nguyên nhân của cái lu nước biến mất nên cái kết luận của tôi sẽ là gì?
      Qua năm tiến trình đơn giản của nhận thức tri thức, chúng ta nhận ra sự lệ thuộc vào kinh nghiệm ký ức. Vào cái túi chứa đựng những hình ảnh thông tin, những rung cảm về ngoại vật; và chúng ta đạt được tri thức tự nhiên nhờ vào cái nền tảng của ức niệm qua các phương tiện tri giác như suy luận, so sánh và giả định. Nhưng cái ức niệm đó chỉ là những kinh nghiệm khiếm khuyết của giác quan, chỉ có tác dụng trong thế giới vật chất chật chội, và nó còn là cái nghiệp quả mà chúng ta đeo mang để luân hồi theo mỗi kiếp sống.
      Vượt trên cái tri thức trực diện, còn có loại tri thức vượt ra ngoài khả năng thực nghiệm, chúng ta tìm kiếm nó nhờ vào niềm tin từ sự xác tín thông tin (sabda) của một nguồn đáng tin cậy. Đó là các thánh thư Vệ-đà, loại tri thức vốn được siêu nghiệm từ Đấng Chí Tôn. Loại tri thức siêu việt vượt qua cái kinh nghiệm ký ức đúc kết từ sự thiếu sáng suốt của các giác quan và hạn chế từ các phương pháp suy luận. Và dù các hành giả yoga có tâm thức xếp vào tầm bậc thánh nhân thì họ cũng không thể đạt tới cái trạng thái Thần Ngã duy nhất.
      Từ đó, ta cho rằng, nhận thức không đạt được từ một nguyên nhân không thể xác định, từ mâu thuẩn nội tại, từ cái sự kiện đã cũ, từ ngoại tướng không chân thực. Do bởi từ sai biệt của giác quan và ký ức, nên không hiện hữu một tri thức có giá trị tuyệt đối từ một con người qua tự nhận thức. Chánh trí chỉ hiện diện duy nhất và bất biến ở thánh thư Vệ-đà. Và khi chúng ta đặt trọn niềm tin vào thánh thư Vệ-đà và thực thi thánh lễ, tức là hòa mình vào chân lý nguyên thủy, chúng ta sẽ từng bước đi đến đến giải thoát.
      * * *
      Đại sư Mekopa kết thúc bài biện luận và bước ra khỏi bục giảng. Các tín đồ bên ngoài điện reo hò trong hoan hỉ.
      3. Rồi bầu không khí trong quảng trường trở lại lặng im.
      Ananda bước ra thủ lễ với cử tọa, rồi ngồi lên bục giảng, bắt đầu bài thuyết giảng của mình.
      * * *
      Thưa các vị! Chúng ta vừa nghe Đại sư Mekopa nói về Thượng Đế, tri thức và chân lý. Theo lời giảng của Đại sư, vạn vật được khởi sinh từ hai loại vật chất ban đầu, nguyên lý tinh thần (purusha) đóng vai trò tác động và thực thể lý tính (prakrti) là kẻ sáng tạo không ngừng. Nó tựa như hình ảnh bầy dê thong dong trên bãi thảo nguyên dầy cỏ, purusha là con dê đực bàng quan và prakrti là con dê cái có thiên mệnh sinh sản một đàn con. Cũng tưởng như vườn xoài đầy những trái vàng chín mộng trong vườn thượng uyển của nhà vua, cái hình thể cây cối chúng ta nhìn thấy bên ngoài được tác tạo từ prakrti, còn cái động lực thúc đẩy đâm chồi, nở hoa và kết trái chính nhờ sự hiện diện tinh túy của cái biết purusha.
      Theo lịch trình sáng thế đó, khởi đầu từ ngoại năng prakrti sinh ra trí năng (buddhi); từ trí năng sinh ra ngã mạn (ahamkara) với ba tính chất biến hóa (guna): tịnh chất (sattva), loạn chất (rajas) và ám chất (tamas). Từ ngã mạn lại sinh ra bốn đại lượng gồm: nhận thức (manas); ngũ đại (bhutas) với năm nguyên tố (đất, nước, lửa, khí và gió); ngũ căn (tanmatras) với năm khả năng (nói, nắm giữ, di chuyển, sinh sản, bài tiết); ngũ tri căn (janendriyas) với năm nhận thức (nghe thấy, cảm thấy, nhìn thấy, nếm thấy, ngửi thấy); ngũ tác căn (karmendriyas) với các bộ phận cơ thể gồm cuống họng, bàn tay, bàn chân, cơ quan bài tiết và sinh dục.
      Do hai mươi bốn nguyên tố lấy prakrti làm nhân nên chúng là vật chất, sinh diệt vô thường, bị hạn chế bởi không gian và thời gian. Tuy purusha đóng vai trò dẫn dắt, nhưng dưới tác động xúc chạm của hai mươi bốn nguyên tố cấp thấp, cái hoạt động tinh thần chỉ còn mang tính chất giả tạo, sai biệt, không phổ biến; là cái bóng phản chiếu hình ảnh purusha.
      Vì nói căn nguyên của vũ trụ là prakrti và purusha, nên muốn thoát khỏi đau khổ đạo sư cho rằng phải đưa purusha trở về trạng thái nguyên sơ của nó, phải nhận ra đầu mối của lưỡng nguyên. Nhưng do purusha là nguyên lý tâm linh và prakrti là nguyên lý vật chất, mang tính khác biệt nên tôi nghĩ chúng chẳng hợp thành đồng nhất thể, chẳng trở về nguyên lý tối cao. Ví như khu rừng gồm nhiều chủng loại thực vật với hình dáng, màu sắc khác nhau. Tên gọi “khu rừng” chỉ là một khái niệm, mang tính chất ảo giả, không thể hiện bản tính nội tại. Vì chúng dựa lên nhau mà thành nên không thể đồng nhất, không thể hợp thành một tướng, không tồn tại độc lập.
      Do khác biệt, nên dù tuân theo cách nào để hợp nhất: nương nhờ vào prakrti để hướng lên cái độc tồn purusha; hay từ purusha mà hạ xuống prakrti để thụ hưởng khoái lạc trần gian. Tựa như cuộc gặp gỡ của hai thương binh muốn thoát khỏi chiến trường khốc liệt, một kẻ mù không nhìn thấy thế giới bên ngoài, một người què không thể bước đi. Hai người họ có ý tưởng muốn nương tựa vào nhau, người mù cõng kẻ què cùng thoát trở về quê. Nó là một sự hợp nhất đến từ nhu cầu, mang tính chất tương ưng, ràng buộc. Vì hai nguyên lý purusha và prakrti tác động qua lại, cùng tính biến dị. Nên dù hiểu được nguyên nhân của sự liên hệ giữa purusha và prakrti, cái trạng thái thần ngã có đạt đến chỉ mang tính chất tạm thời. Bao giờ purusha còn có ý tưởng hạ xuống tìm kiếm khoái lạc thì sự đọa khổ vẫn còn hiện diện.
      Thưa các vị! Đạo sư Mekopa đề cao tuân hành lễ bái, sùng kính kinh sách Vệ-Đà, xem thường kinh nghiệm trực tiếp. Nhưng ông lại quên rằng con người phải tiếp nhận tri thức Vệ-đà qua lăng kính tri giác, qua một sai biệt (parikalpita) từ ký ức và trí tưởng tượng. Nên dù thánh thư Vệ-Đà có linh thiêng cũng chỉ là cái bóng mặt trời phản chiếu xuống mặt nước xanh trong, là một trong hai mặt của chân lý, cái tạm thời và cái tối hậu. Từ đó tôi nói, tri thức Vệ-Đà chỉ là sự thật tương đối, còn kinh nghiệp thâm nhập trực tiếp qua thiền định mới chính là cứu cánh tận cùng. Con đường giải thoát phải đi lên từng bước, thiện tri thức làm nền tảng, rồi cuối cùng là thời gian dành cho thiền định. Nó giống như khi người ta muốn trèo lên mái nhà cheo leo phải bước lên từng nấc thang, leo qua từng nấc một. Và khi đạt đến bờ giải thoát chiếc thang chấm dứt giá trị tương đối của nó.
      Lại nói theo đạo sư, Thượng Đế sáng tạo vật chất nhờ vào ngoại năng prakrti, hoạt động nhờ nội năng purusha. Thế thì, lịch trình sáng thế diễn ra trong quá trình biến hóa của vật chất, từ một hoặc hai cái ban đầu bất diệt, do nhân quả mà dẫn đến vạn thù sai biệt, dẫn đến sinh thành rồi hủy diệt. Xét qua bốn khái niệm của nhân quả: vạn vật do tự thân mà sinh (svata utpattih), do vật khác sinh (parata utpattih), do vật khác và chính nó sinh ra (dvabhyam utpattih), do ngẫu nhiên mà sinh (ahetuta utpattih). Tất cả chúng đều không đáp ứng được lý luận về một Thượng Đế sáng thế.
      Nếu nói Thượng Đế đã sáng thế từ vật chất tối sơ, từ nguyên nhân đơn nhất, prakrti hẵn là nhân không chứa quả, nghĩa là tự nó sinh ra nó. Do không tiềm ẩn quả nên prakrti không biến dị; cái sinh ra và cái được sinh ra phải cùng mang tính đồng nhất, không đối phản. Vì đồng nhất nên cái được prakrti sinh ra hẵn là prakrti, không thể là cái khác.
      Nếu prakrti có hàm chứa quả và quả này tiềm ẩn không bộc lộ trong cái nhân độc lập; rồi từ cái được nó sinh ra, nhờ vào một ngoại lực purusha tác động mà sản sinh biến dị, thành ra nhân sau khi sinh thì quả không hiện hữu. Sự đứt đoạn nhân quả làm chấm dứt mối quan hệ đương nhiên của chúng, cắt đi mối liên hệ vốn có của chúng. Bởi nhân quả đứt đoạn, thật phi nghĩa khi nói prakrti và cái được nó sinh ra có cùng mối liên hệ. Do không cùng mối liên hệ nên không thể trở về cái duy nhất.
      Nếu thật từ prakrti mà sinh ra vạn thể, cái sinh ra và cái được sinh ra phải cùng nhân và quả. Nhưng nhân và quả giữa prakrti và cái được nó sinh ra lại khác nhau, vì khác nhau nên cả hai không cùng một mối liên hệ, vì không có liên hệ nên bất cứ vật gì cũng là sản phẩm của bất cứ thứ gì khác, không thể nói từ prakrti mà sinh ra vật khác.
      Lại nói, từ prakrti mà sinh ra vạn thể, để cái sinh ra và cái được sinh ra không cùng nghiệp quả, không cùng hoại diệt thì phải có các yếu tố đi cùng: như có số lượng tương ứng, có cùng tính chất, có tiềm năng, có biến tướng dị biệt. Nhưng trong bốn yếu tố kia ắt hẵn phải đòi hỏi kết hợp thêm các yếu tố khác và từ các yếu tố mới lại yêu cầu có thêm những yếu tố mới. Các yếu tố chồng lấp dẫn đến tình trạng vô lưỡng thoái, vì không thể tiến hoặc lùi nên không thể quy vạn thể về một nguyên nhân duy nhất.
      Thưa các vị! Do không có một luận lý nào của thuyết nhân quả giải thích được từ một nguyên nhân duy nhất mà có thể sinh ra vạn vật, nên tôi nói không có một Thượng Đế mang tính cách cá nhân hiện diện tại bất cứ đâu. Cái danh từ “Thượng Đế” thiêng liêng đã có từ lâu trong lịch sử, trong nhiều nền văn hóa và tại từng thời điểm riêng có những tên gọi khác nhau: Ishvara, Brahma hay Narayana. Và người ta sử dụng chúng như một phương tiện tìm kiếm một an toàn, một xoa dịu, một quên lãng, để trốn chạy khỏi những đau khổ và tuyệt vọng không rõ từ đâu đến, cứ quẩn quanh trong tâm trí. Họ tin rằng ông ấy diện hiện tại thiên đường và nắm giữ chân lý tuyệt đối, ông ta phán xét và ban thưởng rất công bình. Thế nên, cứ ung dung sống như những điều của dục vọng mong muốn, cứ tôn thờ Thượng Đế, chờ đợi, rồi sẽ có một chổ dung thân sau cái chết.
      Thưa các vị! Làm gì có thể tìm ra Thượng Đế khi ông ấy chỉ là một trạng thái, một sinh lực, một tập hợp của những nguyên lý vũ trụ thanh tịnh. Hãy hiểu rõ việc thờ phượng Thượng Đế như là một sự nhắc nhớ về cái trường tồn siêu việt, chứ không phải đồng hóa ông ấy trở thành một cá nhân có quyền năng chỉ để dựa dẫm và thỏa mãn. Bao giờ, một con người chưa nhận thức được chính mình, chưa dũng cảm từ bỏ, chẳng khát khao tìm kiếm trạng thái tự do, hay chổ tận cùng của hạnh phúc thì không thể hợp nhất với Thượng Đế, chẳng thâm nhập được vào trạng thái siêu ý thức.
      4. Hoàng đế Prithviraj Chauhan sau khi chăm chú lắng nghe cuộc biện luận giữa Ananda và Mekopa, liền gật gù tán thưởng: “Hai vị mỗi người đều có lý giải riêng của mình, ta thật khó phân thắng bại. Tuy nhiên, để có một kết quả rõ ràng, thượng thư Dharmapa sẽ có vài câu hỏi để hai vị trả lời.”
      Mekopa nhìn Ananda, “gã này chỉ toàn giọng điệu chợ búa, ta không có gì phải tiếp tục với hắn”.
      Prithviraj tươi cười, “đại sư Mekopa là người đạo học uyên thâm, tuy nhiên, ngài cũng nên mở rộng giới học để cho mình cơ hội đánh giá cái mới xem sao”.
      “Đại vương nói đúng! Tri thức thì không bao giờ cạn”, thượng thư Dharmapa phụ lời.
      Đại sư Mekopa biết không còn cớ gì thoái thác thì miễn cưỡng gật đầu chấp nhận. Thượng thư Dharmapa thấy Ananda cũng đồng ý, liền đứng lên hỏi: “Trong trạng thái siêu vượt của Tự Ngã, ký ức còn hiện diện hay chấm dứt; nếu ký ức kết thúc thì cái gì đảm nhận làm nền tảng cho nhận thức tại trạng thái bất biến của Thần Ngã?”
      Mekopa chậm rãi suy tư, rồi nói: “Theo tiến trình sáng tạo của prakrti, khi trở về trạng thái bất biến, Thần Ngã cắt đứt liên lạc với trí năng (buddhi) và các cảm giác nội tại, nên kinh nghiệm cá nhân không sinh khởi.”
      Ananda nhìn thượng thư Dharmapa: “Này thượng thư Dharmapa! Hôm trước, tôi đã gặp ngài tại nhà của song thân nàng Tara và ngay lúc ấy, ký ức của tôi đã ghi lấy hình ảnh của ngài. Hôm nay, tôi lại gặp ngài ở đây, tại khoảnh khắc tái ngộ này, ký ức tôi hồi sinh hình ảnh cũ và giúp tôi nhận ra sự hiện diện của thượng thư Dharmapa. Qua đó, ta xem tiến trình của ký ức là sự hồi sinh hình ảnh cũ để nhận thức đối tượng với kinh nghiệm hiện tại. Vậy thì, tại trạng thái bất biến, Thần Ngã có ý thức về sự thay đổi nên ý thức không thay đổi.”
      Thượng thư Dharmapa hỏi: “Nếu như đã xác nhận Thượng Đế là thường hằng, bất biến; tại sao lại nói nguyên lý Brahman có khắp ở mọi nơi?”
      Mekopa nói: “Như ta đã trình bày, sự biến dịch của cái tối thượng Narayana đến từ hai yếu tố: thần ngã (purusha) là chủ thể bất biến, tồn tại bởi chính nó; còn (prakrti) là khách thể biến hóa, tồn tại và hoạt động bởi chính nó để sáng tạo ra cái khác. Sự tác động lẫn nhau của chúng là xương cốt cho thế giới hiện hữu.”
      Ananda nhìn Mekopa, và nói: “Dù đạo sư Mekopa có dùng danh từ gì để diễn đạt cái tối thượng và sự biến dịch của nó; thì cũng không biểu hiện được tính thống nhất của cái tuyệt đối. Đã tuyệt đối thì phải thống nhất. Đã thống nhất thì phải bất biến.”
      Thượng thư Dharmapa lại hỏi: “Giữa chủ thể, khách thể và tri thức; cái nào là huyễn tưởng?”
      Mekopa nói: “Ta cũng đã nói: kinh nghiệm cá nhân là huyễn ảo, chỉ có tri thức Vệ-đà là siêu vượt trường tồn.”
      Ananda nói: “Vật vì do phân biệt mà thành, nên tri thức là sự huyễn hóa vô thường, hoàn toàn vô thực.”
      Thượng thư Dharmapa lại hỏi: “Mục đích của việc theo đuổi tâm linh hay tôn giáo là gì?”
      Mekopa nói: “Tôn giáo là cách thức theo đuổi một phương pháp để nhận ra sự hiện hữu của Đấng Tối Cao trong sinh mệnh nội tại của vạn vật. Và cách đó chỉ có thể là sùng bái kinh Vệ-Đà, nghe lời huấn thị của một đạo sư, hay tuân thủ giới luật Phạm Đà.”
      Ananda nói: “Tôn giáo là gì? Liệu có phải là cách kiểm soát hoạt động của cái trí, hướng nó về các thần linh hay là Thượng Đế, hiến dâng mình cho các đạo sư, xoa dịu đau khổ của con người bằng cách nhận dâng cúng thực phẩm và tiền bạc. Những tôn giáo mà được xây dựng trên hi vọng và sợ hãi, trên tham muốn được an toàn và đảm bảo, trên sự tôn sùng vào một biểu tượng; chúng không là tôn giáo hoàn thiện. Tôn giáo đích thực phải là một phương tiện đưa người ta đến tự do, đến giải thoát, mà không có sự nô lệ tư tưởng nào.”
      5. “Ta thề không để bọn nô lệ làm càn”.
      Tế sư Goraksa vung tay trước mặt hai đệ tử với điệu bộ đầy một thù hằn. Trong vị thế của một tế sư hàng đầu tại vương quốc Chauhan, Goraksa đáng lẽ nên biết tỏ ra mình là kẻ biết kiềm chế. Nhưng gã không thể không giận, chỉ vài ngày sau khi vua Prithviraj Chauhan quyết định Ananda thắng cuộc trong buổi biện luận ở triều đình, những người Thu-đà-la đã kéo đến các ngôi đền thuộc gã quản hạt, đòi bình đẳng, đòi tản chia đất đai, đòi phân quyền tư hữu. Chẳng thể nào. Gã nghiến răng. Cái bọn dốt nát và ô uế đó muốn nổi loạn ư?
      Theo yêu cầu cấp bách của gã, những tu sĩ Bà-la-môn, thương buôn, kẻ có thế lực trong thành Chauhan cùng tụ họp nhau tại đền Behari bàn luận hướng phản đối quyết định của vua Prithviraj Chauhan.
      Goraksa uy nghiêm ngồi trên bục, sẵn sàng cho bài thuyết giảng trôi chảy và thuyết phục hôm nay. Gã đằn hắn lấy giọng:
      “Hỡi các vị! Người Bà-la-môn thuần khiết, người Sát-đế-lỵ dũng cảm, những kẻ hết lòng phụng sự Đấng Tối Cao vì minh triết. Tất cả chúng ta đang đối diện với một âm mưu gây náo loạn từ bọn nô lệ và tên cầm đầu, gã Bà-la-môn bại hoại Ananda. Chúng muốn từ đám cưới của tên hèn mọn Acinta, từng bước đi đến hành động thâm độc hòng xóa xổ các giai cấp thượng tầng. Bọn họ dùng ngữ điệu ôn hòa, mượn cớ bình đẳng chẳng qua để đòi hỏi quyền lợi và của cải. Tất nhiên, với lòng rộng lượng, chúng ta sẵn sàng chia sẽ bất cứ thứ gì mà người Bà-la-môn và Sát-đế-lị có được. Nhưng sự phân chia này đâu có phải đến từ ý tưởng của thời đại chúng ta, nó xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử khai địa, nó lập ngôn từ thánh thư Vệ-Đà - tức là lời mặc khải chẳng thể bàn cãi của Thượng Đế. Chúng ta chỉ có trách nhiệm giữ gìn truyền thống và lẽ sống đó, chẳng hành động gì sai.”
      Rồi Goraksa vung tay: “Này các vị! Gã Ananda dựa vào kinh nghiệm cá nhân lầm lẫn của mình, đứng trước nhà vua, quần thần và các vị Bà-la-môn ưu tú thẳng thừng bài bác sự hiện diện của Thượng Đế, của Đấng Tối Cao, của sự siêu việt bất nhị trường tồn. Hắn dùng lời lẽ ngon ngọt mê hoặc để chúng ta tin rằng người Bà-la-môn bằng vai phải lứa với bọn nô lệ khốn khổ, những kẻ trong tư tưởng vốn chứa đầy những tạp niệm ô uế. Những tên thô lỗ đó xứng phải có vị trí riêng của chúng, theo tầng nấc tiến hóa tâm linh tích tụ từ nghiệp quả cá nhân.”
      Goraksa ngữa mặt nhìn trời trong vẻ mặt đầy tiếc nuối, rồi nói: “Này các vị! Vùng đất minh triết thiêng liêng này chẳng mấy chốc sẽ lụn bại khi bọn nô lệ có cơ hội cất lên tiếng nói của mình. Chúng ta phải ngăn chặn bọn họ phô bày những ý tưởng ghê tởm về dục vọng, đòi hỏi thực hiện bình đẳng hóa giai cấp.”
      Rồi Goraksa đứng dậy, kêu gọi: “Hỡi các vị! Vì sự thánh thiện trường tồn, vì minh triết cao cả của dân tộc này. Chúng ta phải cùng hợp lực đưa kiến nghị phản đối lên nhà vua, không để cho đám cưới này được tiến hành.”
      Tế sư Goraksa kết thúc lời phát biểu, đưa mắt một lượt nhìn phản ứng của đám người đến dự.
      “Thưa tế sư! Chúng ta đã tham gia vào cuộc thi tuyết pháp và đã thất bại, chẳng lẽ lại nuốt lời”. Một người Bà-la-môn già lên tiếng.
      “Anh bạn đừng chấp vào điều nhỏ nhặt đó mà làm hỏng một nền tảng minh triết vốn có từ cổ xưa. Chúng ta phải dũng cảm đứng trước sự lựa chọn, và vì Đấng Tối Cao, ta thà hi sinh cả tôn nghiêm của chính mình quyết không để đám cưới này diễn ra”. Goraksa nhìn người Bà-la-môn già, mạnh mẽ nói.
      “Tôi thấy chia cho bọn nô lệ chút ít ruộng đất khô cằn và xoa dịu họ, chúng ta cũng chẳng mất gì nhiều”. Một người buôn bán nói.
      “Lòng thương hại của anh bạn sẽ làm xã hội này hỗn loạn. Bọn chúng được một sẽ đòi hai, được hai sẽ đòi ba, yêu sách đến khi chúng ta trở nên bần cùng và trở thành một lớp nô lệ mới”. Goraksa gào lên.
      “Chúng ta có nên thể hiện chút lòng thương xót, điều đó cũng được viết ở thánh kinh”. Một tu sĩ trẻ chấp tay nói.
      “Chúng ta là những người gìn giữ truyền thống và phải tiếp tục nó, không phải để thay đổi”. Goraksa quát.
      “Nhưng liệu nhà vua có chấp nhận bãi bỏ quyết định đã từng hứa hẹn trước nhiều người?”. Một người khác hỏi.
      “Chúng ta bằng mọi cách phải đưa kiến nghị của mình lên đức vua, không ngừng thúc bách ông ta. Nếu công việc không thành, người em trai của hắn, hoàng thân Govindaraj đã hứa với Đại sư Mekopa rằng y sẽ đứng ra giải quyết vấn đề. Y sẽ hành động quyết liệt vì không muốn những người Bà-la-môn cùng quay lưng lại với dòng tộc của y”. Tế sư Goraksa buông lời chắc nịch.
      “Như thế thì chúng ta có cơ hội”.
      “Nào! Chúng ta phải mau chóng hành động theo mệnh lệnh của đại sư”. Một môn đệ thân cận của Goraksa khoát tay, xua mọi người tản ra thực hiện theo yêu cầu.
      CHƯƠNG 7. PRITHVIRAJ CHAUHAN
       
      1. Ta phải cai trị triều đại Chauhan làm sao để bình yên khi bọn người của đạo sư Mekopa gây bất mãn khắp nơi và sự đe dọa của đoàn chiến bin Mamluk do tướng Muhammad Ghori dẫn đầu ngày càng lớn? Prithviraj ngồi xếp ủ dột trên chiếc ghế vàng ròng chạm khắc những hoa văn, giữa bốn bức tường chứa đầy một cô độc và thở than. Từ thời Thái tổ Anangpal Tomar dày công chinh chiến trên lưng ngựa, thu phục đất đai từ Ajmer đến Delhi. Đế chế Chauhan lớn mạnh của gia tộc Rajput Chauhan đã làm các nước láng giềng phải ganh tỵ.
      “Con phải thay gia tộc Rajput Chauhan giữ gìn đất đai cho đến tận hơi thở cuối cùng”. Ông nội Angam Chauhan đứng cùng Prithviraj trên tường thành, chỉ tay xuống dãi đồi, nơi rặng Aravalli trùng điệp nhấp nhô phủ một màu xanh và dưới thảo nguyên, một bầy ngựa cùng đoàn kỵ mã lướt đi dưới ánh nắng chiều. “Ta sẽ trao cả vùng Delhi cho con vì ta biết Prithviraj Chauhan là vị vua thông minh và dũng cảm”, ông nói. Prithviraj Chauhan lặng im. Chàng nhớ đến cha. Xa xa, mặt hồ Bhardwaj chuyển dần màu nước từ danh da trời sang xanh lá cây, theo mổi buổi sáng chiều. Nơi đó, chàng và người cha quá cố Someshwar Chauhan, vua Ajmer, thường đứng bên góc đồi cao ngắm nhìn từng đàn bồ nông từ phương xa bay đến, quần tụ và bơi lội trên mặt hồ. Đâu đó tiếng bầy vịt nước gọi nhau, từng đàn trôi mình đi từ mép bờ này sang mép bờ bên kia. “Con nên dời đô thành đến Delhi và phát triển Chauhan thành một đế chế trường tồn bằng thanh kiếm trên tay”.
      Prithviraj tuốt vỏ thanh gươm. Vũ khí này từng giúp chàng đánh bại hoàng đế Bhimdev nước Patan cùng đám tàn binh, truy đuổi vua Mahoba phải tháo chạy khỏi Parmar, thâu tóm cả vùng Kukada. Nhưng chàng chẳng thể hạ bệ được bọn tu sĩ Mekopa qua một đường gươm bén nhọn.
      “Một lúc nào đó từ dòng sông Hindon, tôi sẽ bơi ngược về thượng nguồn Himalayan và ẩn cư tại đó đến trọn đời”. Prithviraj mệt mõi nói với người bạn thân Chand Bardai.
      Thi sĩ Chand Bardai ngạc nhiên nhìn người bạn nối khổ của mình, trong trí tưởng tượng của anh không thể hình dung được, chàng trai Prithviraj quen chinh chiến trên lưng ngựa từ thiếu niên lại tỏ ra chán chường.
      “Nhà vua mang cả nàng Sanyogita cùng đi chứ?”.
      “Tất nhiên, nàng là người đàn bà không thể thiếu trong cuộc đời tôi.”
      “Đây! bạn xem”, Prithviraj mang bức tranh nàng Sanyogita trải lên bàn, “tuyệt tác và thơ đề của bạn vẫn còn đây”.
      Chand Bardai gật gù. “Đây là tranh hoàng phi Sanyogita được tôi vẽ tại đền Koteshwar”.
      “Và nó đã kết hợp tôi với nàng như một giấc mộng”, Prithviraj cười lên thích thú.
      “Nhưng đó lại là cớ để hoàng thân Govindaraj muốn làm phản người!”
      “Điều đó chẳng quan trọng với ta”
      “Người thật không quan tâm sao?”. Chand Bardai lo lắng nói.
      Prithviraj trầm giọng “làm phản”, hay bất kỳ từ ngữ nào vọng hiện trong lúc này, đều không có nhiều ý nghĩ với Prithviraj.
      Trước một bế tắc, ngài lần hồi qua từng dòng ký ức, lục tìm một kỷ niệm vui thú đã qua. Như tiếng trống trầm mridangam, tiếng đàn thanh diệu veena đệm nền cho điệu múa bharatnatyam của nàng Sanyogita. Trong vòng âm thanh trộn hòa cuốn theo mỗi nhịp chân nàng nhịp nhàng, vung đẩy tiếng lục lạc leng ren. Trong vũ điệu tay vung xòe tụ cho mỗi chiếc vòng xuyến ào rớt chạm, đọng leng keng. Trong từng nét đường cơ thể. Trong từng bước chân động lay. Trong một đắm chìm hân hoan. Sanyogita hiện diện qua lớp hóa thân của chư thiên bằng buông bỏ hết thảy mọi luyến bám trần tục, bằng khép lại ngũ quan, bằng buông trôi ý thức như gió tản mây trời. Tất cả xung động thanh thoát lên từ cơ thể nàng nàng devadasis dường như chẳng còn kiểm soát. Chư thiên đã ngự. Thánh thần đã xuống. Xuống với nàng qua ý lực đẩy đưa màn đạo vũ từ cõi thiên hiện thể trong bước nhảy con người, nở ra như một hoa sen bhavas sáu cánh dưới ánh sáng chân lý rực rỡ. Một cánh của santa bhava có tình yêu thương của đứa con với người mẹ. Một cánh của dasya bhava chứa lòng tận tụy với chân lý. Một cánh của sakhya bhava có bình đẳng tuyệt đối. Một cánh của vatsalya bhava là sự trung thành với Krishna. Một cánh của kanta bhava là tình yêu vợ chồng. Một cánh của madhurya bhava chứa đầy tình yêu vĩnh cửu của Krishna.
      Rồi sau tiếng tụng niệm “Namah Shivaya! Namah Shivaya! Namah Shivaya!” của nhạc công, Sanyogita chuyển múa mình sang vũ điệu Tandava. Vũ điệu tình yêu thoát tục của Shiva. Một trăm lẽ tám bước nhảy dập dồn như con sóng đại dương, như các chòm sao lung linh trên dãi thiên hà cao, như rung chuyển của bão giông, như giao chuyển giữa ngày và đêm tối; và qua vũ điệu đó, tiến trình sáng tạo, thành trụ, hủy diệt, vô minh, và giải thoát khỏi xiềng xích maya thị hiện.
      Prithviraj say mê ngắm nhìn từng bước nhảy của nàng. Và giữa khắc thời rung động trong sấm sét chế ngự, trong một vô ngôn hình dung. Prithviraj vội nắm tay Sanyogita, kéo níu, khi nàng vừa định bước qua rèm sau: “Này Sanyogita! Người con gái xin đẹp có vũ điệu tuyệt luân! Nàng có bằng lòng trọn đời này chỉ múa cho ta xem?”.
      Sanyogita ngước nhìn nhà vua buồn bả đáp: “Em nào dám từ chối tình ý của chàng. Nhưng một devadasis như em phải biết làm sao ngoài cách trọn đời hiến mình cho Thượng Đế qua vũ điệu Natya Yoga tại ngôi đền này?”
      “Ta sẽ đưa nàng về cung và chẳng sợ người chỉ trích”. Prithviraj nâng càm Sanyogita, thỏ thẻ nói qua hơi thở và ánh mắt nồng nàn.
      “Nhưng em chỉ là một nô lệ, còn ngài là quốc vương của Chauhan”. Sanyogita ngước đôi mắt ngấn nước nhìn nhà vua.
      Prithviraj mạnh mẽ đáp: “Em có biết tình yêu không có ranh giới, chẳng cần giai cấp. Ta là một quốc vương và có thể làm thay đổi mọi quan niệm cổ truyền”.
      Prithviraj nghe một vòng tay mềm mại luồng qua eo. Qua mùi tóc thơm dịu tỏa, ngài biết Sanyogita đang đứng sau lưng mình.
      “Có phải chàng đang sầu muộn?”
      Nhà vua quay lại, đắm nhìn thật sâu vào đôi mắt thẳm đen, lên bờ môi đỏ nồng một yêu thương. Prithviraj vuốt tóc Sanyogita, kéo đầu nàng áp vào ngực mình. “Em hãy nghe đây, từng nhịp trái tim anh đang náo động, rẩy run như một tình yêu vĩnh cửu của gió cỏ cây trời, lã lay trên dãy đồi Aravalli xuyên buổi nắng nhẹ chiều vàng”.
      Em sẽ đãi chàng một bài hát giải sầu. Sanyogita xoay mình, gửi lại Prithviraj một nụ cười.
      Prithviraj bật cười, “sầu muộn của ta chỉ có một người là hiểu rõ”.
      Rồi trong một đèn lửa chập chờn, trong một tối sáng điểm nền, trong tiếng đàn jagate chạm khởi qua mấy ngón tay mềm, qua đôi môi đỏ hồng mở khép. Tiếng nàng Sanyogita cất lên, tung tẩy theo từng nhịp đàn, dạt trôi trên một biển rộng lưng trời, kéo vượt một sâu thẳm buồn rầu, đánh nổi một thanh lạc cõi đời.
      Nói đi anh tình yêu thật sự là gì?
      Phải như ánh mắt dịu dàng mà anh ngắm nhìn em
      Phải như vòng tay ấp áp mà anh ôm em dưới trăng rằm
      Phải như nụ hôn ngọt ngào mà anh đặt lên môi em trong một đắm say
      Phải như sự kiếm tìm em mà anh sợ thiếu vắng hay không?
      Giữa lời ca ngọt ngào đó. Từng âm. Từng nhịp. Tung tẩy kéo rớt từ đỉnh sầu từng giọt buồn phiền rụng rơi lên khung phím. Prithviraj sững lặng nghe như một pho tượng lẫn chìm giữa một sáng lạnh mù sương của thời gian đông đặc. Prithviraj chơi vơi thốt lên, nàng là hiện thân của thiên nữ Apsara mềm mại và phiêu bồng trên những tầng mây cao. Tiếng hát nàng là para vani, là khởi thủy của lời ca tiếng nói, là âm thanh di chuyển nhịp nhàng của các vì tinh tú trên bầu trời, là hơi thở của Thượng Đế, là dòng sữa ngọt ngào rót cho linh hồn đói khát của ta. Chàng nghe. Có một gom tụ của tiếng “OM”, âm tiết đầu thiêng liêng đầu tiên của vũ trụ hiện thể. Có một sinh khởi của tiếng “HUM” từ sự xúc chạm các nguyên tố mà tạo thành nhịp điệu. Có Nada, năng lượng của lòng thể hiện sự hiện hữu tạo thành độ rung. Và qua ahata, sự lắng nghe tiếng nói của thanh âm bên ngoài, đánh thức rasa (cảm giác) và bhava (tình cảm) của lòng từ bỏ và lãng quên trở dậy. Rồi anahata, sự lắng nghe âm thanh của hơi thở thì thầm bên trong kêu gọi kẻ lạc loài trở về tận hưởng phúc lạc của sự vĩnh hằng.
      2. “Hoàng thân Govindaraj Chauhan gửi đến nhà vua thông điệp từ Ajmer rằng, nếu còn bênh vực bọn Thu-đà-la và làm Đạo sư Mekopa mất lòng, gia tộc Rajput Chauhan sẽ phết truất ngài”. Gã sứ giả được hoàng thân Govindaraj gửi tới, nói rỗn rảng sau bức rèm ngăn cách.
      “Các ngươi muốn phản lại quốc vương Prithviraj, người được đích thân tiên vương Chauhan đệ nhi trao truyền ngôi vua?”. Thượng thư Dharmapa giận run, quát tên sứ giả.
      “Hoàng thân Govindaraj còn nói vương tộc Rajput Chauhan không thể chấp nhận một vị hoàng đế lại kết hôn với tầng lớp cấp dưới, và ã ta còn là một kỹ nữ giữ đền.”
      “Quốc vương Prithviraj nhân từ và việc kết hôn với một devadasis cho thấy thành ý hàn gắn xã hội của ngài”. Dharmapa nói.
      “Thần là một sứ giả chỉ có nhiệm vụ chuyển lời. Govindaraj còn nói nhà vua phải có ba việc phải làm và không được chối từ. Một là đuổi ã Sanyogita ra khỏi hoàng cung. Hai là không cho phép Ananda lưu trú tại nước Chauhan. Ba là không được bênh vực bọn Thu-Đà-La đang nổi dậy chống người Bà-la-môn khắp nơi.”
      Thượng thư Dharmapa quát lên: “Không thể nào chấp nhận được những yêu sách của hoàng thân Govindaraj”.
      Prithviraj ngồi nghe sau bức màn, nhìn Dharmapa xua tay và nói: “Ngươi hãy trở về báo với hoàng thân Govindaraj ta sẽ sớm có câu trả lời”. Rồi ngài lặng im lần bước qua cửa sổ. Sau bức màn, xuyên qua từng khẻ hở nhỏ xíu, nhà vua nhìn thấy một màu thẳm xanh điệp trùng của núi rừng, của suối nguồn, của mây trời bị rọc chia. Từng miếng nhỏ xanh rờn thu lại qua khẻ hở, ghép nối từng mãng, đan kết thành một tổng thể rạc rời, thị hiện trong trò chơi chiếm hữu. Prithviraj chạm tay lên cửa sổ, nghe cái thô ráp của tấm màn từ ngón tay chạy đậu lên con tim đầy thất vọng.
      Thời gian chầm chậm nhúc nhích theo từng sát-na hơi thở, theo từng sóng phiền não cuộn trào trên đại dương dầy động, kéo đẩy con thuyền tri giác lao chao dưới mảnh trời lộn đảo. “Thưa bệ hạ! Chúng ta cần phải làm gì?”. Thượng Thư Dharmapa hỏi.
      “Làm gì ư”, Prithviraj nhìn ngọn đèn bơ leo lắt dãy sáng hờ tạm như của một đời sống bất định, của cái nhị nguyên ngắn đoản. Ánh sáng và màn đen. Cái rực rỡ của minh quang nhờ ảo mờ mà hiện hữu. Cái thực trước nhật trời thành rõ tỏ. Cái ảo huyền tựa tối tăm hiện nhòe nhạt.
      “Hãy trở về và nghĩ ngơi đi!”, Prithviraj nói và bỏ đi.
      Bên ngoài, màn đêm vừa buông xuống đô thành Dehil.
      3. Buổi sáng vừa thức dậy trên nền trời lặng mờ sương, xuyên dãi nắng tản vàng rớt mình long lanh qua mặt lá ướt xanh, đọng thẳm. Sau giấc ngủ dài. Sau buổi hôn trầm đắm chìm vào mộng mị dạt trôi. Hàng xoài lộ mình sững thẳng, tựa lưng dọc theo con đường đá nhẵn. Bên góc trời đó. Qua những ngày tự mình thả bay những tàn bông héo úa, tìm lãng quên mau xuyên những xác lá rệu rã tại một quá khứ đã từng. Xoài tái sinh sau lớp áo nâu ngà. Tại đây. Quanh đường vòng xoay chuyển của tự nhiên, năm tháng và mùa vụ; một khởi đầu vật lý cho sống, cho tụ mầm hiến tạo tương lai được bắt đầu.
      Và giữa khúc thời gian rãi chậm. Quanh khoảnh trời rộng mở. Theo sầu muộn trôi dòng. Lạc nhìn nắng sớm nhảy nhót quẩn quanh cây. Prithviraj tự hỏi mình, tiến hóa và thời gian, cái quy luật thường hằng kia vẫn sao chưa làm thay đổi nhân loại này? Vẫn cái dòng tư tưởng của thế nhân từ hôm qua đến hôm nay, lo âu và cô độc, thất vọng và bất mãn, thù hằn và ganh tỵ, mọi thứ vẫn trụ lại như buổi thời hoang dại cổ xưa. Như vết rạn của tản đá bên hồ, dưới chân Prithviraj, mối quan hệ xung đột của người, với muôn loài, với tư tưởng đã chưa từng khép lại theo thời gian. Cái bóng lịch sử ở sau lưng và tại trước mặt, những cuộc chiến tranh và cách mạng, phân chia và cô lập, từng ngày cứ diễn ra, từng ngày đến tan rã, không còn thể kiểm soát. Prithviraj ngữa mặt nhìn trời, lầm rầm vãn than. Ôi! Cái thế giới loài người. Thế giới hãy đầy những bất công và đau khổ, vì sao? Câu hỏi đó! Câu hỏi khởi lên trong dòng suy tư hôm nay, hôm qua và hôm Prithviraj vi hành, kinh lý đến Ajmer xem vụ xử án kẻ tiện dân ra đồng cắt trộm lúa của người Bà-la-môn vì nghèo khổ và đói kém.
      “Phải chặt tay tên nô lệ này để cảnh cáo những kẻ tham lam khác”. Vị trưởng lão tuyên án trước đám đông ồn ào đứng xem.
      “Tuy hắn ăn trộm nhưng đâu phải tội lớn?”. Prithviraj bước ra, đứng bên kẻ trộm, biện minh hộ trước tòa.
      “Bọn tiện nhân phải xử nặng để răn đe”. Trưởng lão già đáp lời.
      “Đúng! Kẻ nào ăn trộm tài sản của người Bà-la-môn, hình phạt phải tăng gấp đôi. Cần phải chặt cả hai tay cái kẻ ô uế này”. Một người Bà-la-môn khác tiếp lời.
      “Nên chặt cả hai tay”. Đám đông giơ tay, đồng thanh hét lên.
      Giữa những lời thét giận dữ, kẻ bần cùng đưa ánh mắt tuyệt vọng, run rẫy ngoái nhìn ngài. Ôi! Prithviraj thảng thốt. Ngài vừa nhìn thấy cái tia sáng cuối cùng của vầng dương sắp tắt rọi vào vùng biên viễn tối tăm dốt nát, xóa tan ảo tưởng về một thế giới bình đẳng và hạnh phúc đang có tại vương quốc Chauhan, dưới tài minh trị của Prithviraj vĩ đại được quần thần tung hô. Thật thất vọng! Nhà vua chới với tựa vào vai thượng thư Dharmapa. Ngài lờ mờ hiểu, chính lòng yêu thích hoàn hảo mù quáng đã trao cơ hội cho sự dối trá che lắp cái biết, đặt ngài tin vào những lời báo giả tạo và sống giữa bức màn ảo tưởng do mình dựng nên, vun đắp từng ngày tại cung cấm.
      “Đây là nhà vua Prithviraj vĩ đại của chúng ta. Ngài nhận thấy vụ trộm này thật không đáng để chịu một hình phạt nặng nề. Vì lòng từ bi, ngày tuyên bố vụ trộm thóc là chuyện bất khả khán, tuyên gã nô lệ nộp phạt mười đấu thóc và được tha bỗng”.
      Thượng thư Dharmapa nhanh nhảu bước ra theo ý nhà vua, dặp tắt ý định hành hình kẻ trộm từ những người quá khích.
      “Chúng con không có của cải gì, chỉ xin dâng ngài bát nước lạt để tạ ơn”.
      Prithviraj đón nhận bát nước từ đôi bàn tay cháy xạm của gã Thu-đà-la nghèo. Ngài nhìn căn nhà vách đất dựng dưới mái lá rách tơi, cạnh bên những đứa trẻ đen đúa bẻn lẽn đứng nhìn. Từ sâu thẳm của tình thương, nhà vua hỏi Dharmapa: Còn bao nhiêu người như tên trộm Srinivasan phải sống trong cảnh đói nghèo tại vương quốc Chauhan? Điều gì tạo ra sự khác nhau giữa những người Bà-la-môn và tầng lớp khác? Nhưng Prithviraj không muốn nghe câu trả lời cũ, Thượng Đế quy định tất cả, lời giải thích có điều gì không đúng và lầm lạc tại vương quốc của ngài. Nhưng gã Thượng thư lặng im, lấp lé nhìn khuôn mặt nhà vua, chần chừ nói mình không thể đoán biết.
      “Gia đình ngươi sinh sống bằng gì?”. Prithviraj ân cần hỏi.
      “Bẩm nhà vua! Con làm thuê trên cánh đồng kia”. Srinivasan chỉ tay về hướng cánh đồng.
      “Cánh đồng đó thuộc sở hữu của ai?”.
      “Nó thuộc đền Kerala, do trưởng lão Dasharatha cai quản”. Srinivasan nói.
      “Thưa bệ hạ! Đền Kerala là sở hữu thuộc môn phái của Đạo sư Mekopa”. Thượng thư Dharmapa bẩm cáo.
      Prithviraj nhìn dãy màu lúa mì trúng mùa cuối vụ, trãi rực vàng đến khuất xa tầm mắt và hỏi:
      “Trong làng này không ai có khoảnh ruộng nào ư?”.
      “Bẩm! Cả làng chúng tôi làm công cho các chủ đất trong vùng”. Srinivasan cuối đầu nói.
      “Dharmapa! Ngươi hãy bảo cho ta biết, tại sao có chuyện bất công này?”. Prithviraj tức giận hỏi.
      “Thưa bệ hạ! Đây là tục lệ ngàn đời. Thần ngu muội, chỉ biết là có sự phân biệt nhưng không rõ lý do là gì?”.
      Uống cạn chén nước hạnh nhân trộn mật ong và sữa từ người hầu dâng tới. Prithviraj đứng nhìn bóng mặt trời và hàng cây soi dáng xuống mặt hồ nước lặng lạnh băng. Sau một màn đêm đã hết trời. Sương mù ứ đọng mây. Một ngày mới lại bắt đầu từ ánh nắng nhung vàng. Tại cảm xúc dâng đầy qua tươi mới và háo hức, Prithviraj nghĩ, Chauhan cần phải có một đợt thay đổi, một cuộc cải cách xã hội đem đến hạnh phúc, ấm no cho tất cả thần dân, không ngoại trừ, chẳng phân biệt. Và trong niềm vui sướng của đoạn kết, ngài sẽ ngắm nhìn họ tung chạy tự do như cá lượn ngoài biển khơi, như chim lướt giữa lưng trời.
      Nhưng Prithviraj không biết thay đổi này sẽ bắt đầu từ đâu? Ngài muốn hiểu tại sao lại có sự phân biệt người Bà-la-môn, người Sát-đế-lị hay người Thu-đà-la? Do đâu người ta tin tưởng vào chúng trong một niềm tin được cho là thiêng liêng và không thể bàn cãi?
      Prithviraj nhìn Ananda, hồi hợp chờ đợi câu trả lời.
      “Nhà vua biết loài cây này có tên gọi là gì?”. Ananda hỏi.
      “Tất nhiên là cây xoài”
      “Ngài biết nó có tên gọi này từ đâu?”
      “Ta biết vì mọi người đều gọi nó như thế”
      “Thưa nhà vua! Trước mắt ngài, trong hiểu biết của ngài, đây là giống xoài xanh tốt được trồng trong góc vườn thượng uyển. Mỗi ngày, nhà vua nhìn ngắm nó qua những lần dạo bước dưới những tàn cây, biết nó thay lá, trỗ bông và ra trái vào lúc nào, vị quả của trái vàng chín mộng thơm ngon ra sao. Thử ngược về khởi thủy, vào buổi binh minh của sự sống hãy còn ẩn mình trong hạt giống, chẳng có một tên gọi nào cho chủng loài, chẳng có tri thức nào tồn tại ở thế nhân. Khi ấy, có một loài cây vô danh mọc bên góc dại ven rừng. Một ngày có người thợ săn nhìn thấy nó, vì tò mò, anh ta nếm được vị ngọt ngào của mùi trái chín thơm. Sau đó anh ta chạy về làng và reo lên: Này mọi người! Tôi tìm được cây xoài có mùi vị rất thơm ngon ở bên cánh rừng phía đông. Rồi rất nhiều dâng làng theo bước anh thợ săn kéo đến bên loài cây dại đó, họ nếm trái chín và gọi nó là cây xoài”.
      Ananda nhìn Prithviraj Chauhan: “Nhà vua nên biết, giống như tên gọi dành cho cây xoài, thế giới này đã khởi đầu bằng một hư dối, rồi nối tiếp những hư dối. Thật ra chẳng có gì gọi là một người Bà-la-môn, hay một người Thu-đà-la, chúng chỉ là danh xưng và từ ngữ chỉ có ý nghĩa quy ước trong ngữ cảnh kinh nghiệm”.
      “Có thật là tất cả hiện hữu tại thế giới này đều hư ảo như các vị đạo sư đã nói?”. Prithviraj tròn mắt nhìn Ananda.
      “Nhưng nhà vua hiểu thế nào là một thế giới của hư ảo?”
      “Nó hư ảo bởi vì cái được và cái mất không thường hằng”
      “Ví như sự hiện hữu của tôi tại đây và cây xoài đằng kia là không thực?”
      “Thực nhưng không vĩnh cửu”
      “Theo nhà vua, điều gì thì tuyệt đối?”
      “Thánh kinh Vệ-Đà nói Thượng Đế thì vĩnh cửu và cái tạo ra từ ngài thì không trường tồn.”
      “Này nhà vua! Tại một biển trời xanh rờn, những dạt sóng mềm nhấp nhô trên bề mặt dại dương không ngừng vỗ động, vài con tàu đang lướt đi theo hướng gió rì rào. Trước cảnh tượng mê lụy đó, người ta hồ hởi hỏi rằng: Gió từ đâu tạt tới? Nước nhô lên vì sao? Lại không ai muốt tìm hiểu xem bên dưới lòng biển rộng lớn kia là một trầm lặng vô hạn. Như cách chúng ta quen nhìn ngắm những tài sản chứa trong nhà, những bà vợ bám kế bên, những nô lệ tuân phục, những đôi mắt nhìn ngắm ‘tôi’ trong ngưỡng mộ. Và qua sự tất bật đó, chúng ta chẳng còn thời gian để biết đằng sau sự hiện hữu là gì?”
      “Vậy thì, thế giới hư ảo đã thị hiện như thế nào?”, nhà vua phấn khởi hỏi.
      “Tôi muốn hỏi vì sao nhà vua nhận biết được sự hiện hữu của tôi, của cây xoài, của cái hồ, của vạn vật này? Liệu có phải vì tự thân cây xoài là cây xoài? Tự thân cái hồ là cái hồ? Tự thân vạn vật là vạn vật? Trong câu chuyện về cây xoài, tôi kể cho ngài nghe về khởi thủy của nó và cái danh từ ‘cây xoài’ mà ngài dùng để nhận ra cây xoài, nó là một tri thức lượng. Và nhờ rất nhiều danh từ xếp chồng lên ký ức như thế, ngài nhận ra sự hiện hữu của vạn vật nhưng trong ý nghĩa của nó, như ban đầu, chỉ là ảo tưởng.”
      “Và người ta đã quan sát sự hiện hữu qua các khái niệm?”
      “Khi tôi nhìn ngắm nhà vua, cái hình ảnh được ghi vào ký ức tôi chỉ là một rung động của kinh nghiệm cá nhân, và hình ảnh đó chắc chắn không phải là ngài. Khi tôi nhìn ngắm cây xoài mỗi ngày, theo thời gian, ‘tôi biết’ mùa vụ nó ra hoa, thời điểm nó có trái non đậu lủng lẳng trên cành. Vì ‘cái tôi biết’ về giống xoài, thời vụ của nó, sắc màu của nó, hương vị của nó là bất biến, nên tôi nghĩ tri thức đó là sự thật. Và tôi cho rằng tự thân giống xoài, nội tại có những thuộc tính, có những vận động, có những đặc thù, có sự phổ biến của chính nó. Nhưng khốn thay! Chẳng có tri thức nào sinh khởi trong nội tại của chính nó, mà sự quan sát, mà ý niệm của cái tôi tạo nên sự đồng hiện hữu của thực thể ở bên ngoài, tạo nên trải nghiệm đau khổ và lạc thú tại bên trong.”
      “Toàn bộ tri thức về thế giới cũng là hư ảo?”
      “Trên toàn thể, cái danh từ ‘vườn thượng uyển’ gợi lên ý tưởng gì đó của giàu có và sang trọng, nhưng cảm giác không là thực tại và nó hoàn toàn là một khái niệm.”
      “Và tri thức của con người về xã hội cũng là huyễn tưởng?”
      “Nhà vua có biết thế giới đã hình thành ra sao không?”
      “Ta rất muốn nghe câu chuyện đầy hấp dẫn này”. Prithviraj háo hức chờ đợi.
      * * *
      Này nhà vua! Hàng tỷ năm trước, trong thời kỳ đầu của đại tỳ kiếp Satya Yuga. Chúng nhân hãy còn là những cư dân bán thiên luân hồi xuống từ cõi trời do hết phước báu. Chủng nhân ấy không có giới tính, sống thọ hàng ngàn năm, thân hình long lanh qua ánh hào quang ngũ sắc. Họ di chuyển nhanh bằng ánh sáng, sống bằng dưỡng khí, bay đi trong hư không, có được một đời sống rất thanh tịnh.
      Rồi một số chúng nhân cảm khởi lòng nhàm chán thế giới của mình, họ thèm muốn tìm kiếm thứ lạc thú khác. Một ngày, chúng nhân đó nhìn thấy những màu đất đẹp đẽ, thơm lạ dưới cõi thấp và có ý muốn thử dùng thứ địa tố đó. Họ hồ hởi lấy ít đất đặt lên đầu lưỡi, không ngờ vị ngon lan toả, tan hoà vào cơ thể. Và họ kháo nhau, này bạn, dưới kia có thứ đất thơm ngon không dùng sẽ hối tiếc. Từ đó, ái dục chế ngự khích họ dùng mãi thứ đất ấy, luyến tiếc không từ.
      Thời gian trôi qua, những chủng nhân đó mất đi ánh hào quang cơ thể. Thân xác biến dị tùy căn cơ nghiệp quả, thành ra có màu da khác biệt, người sáng láng kẻ thô ráp. Rồi trong lòng họ vọng khởi lên một bản ngã, xem trọng mình, khinh thường người khác. Thế giới vì sanh ngã đó mà biến động, vị đất dần thoát mất.
      Khi loại đất không còn thơm ngon. Thế giới lại có loại lúa Sali không cần đến người trồng, hương thơm tỏa ngát ngoài đồng. Buổi sáng hái xuống đem nấu, chiều về hạt ấy đã có lại trên cành.
      Nếu như địa tố là loại tịnh thực, thì gạo Sali là thực phẩm cần phải tiêu hoá. Do dùng nhiều gạo Sali cơ thể họ lại biến đổi, sinh ra cơ quan tiêu hoá, bài tiết; rồi phân biệt nam nữ.
      Khi giới tính phân biệt, sự gần gũi khởi sinh sắc dục. Sắc dục sinh khát dục. Khát dục sinh hỏa dục. Hoả dục phát sinh giao hợp. Rồi họ muốn cất nhà cửa, che đậy quan hệ vợ chồng.
      Đến khi quần tụ gia đình, chủng nhân ấy trở nên lười biếng. Họ ra ngoài đồng hái thật nhiều gạo Sali đem về nhà tích trữ. Lòng tham sở hữu làm gạo Sali không tự nhiên mọc nữa, chúng nhân bàn nhau phân chia đất đai rồi đem giống Sali trồng trên mảnh đất của riêng mình. Nhưng bởi nghiệp vận quần tụ, mùa màng hay thất thường, dần dà gạo Sali thoái hoá thành ra có vỏ trấu.
      Rồi khi thế giới thật sa đọa, người ta phải đón những người có nghiệp xấu lần lượt luân hồi tái sinh. Thế là có nghèo giàu, trộm cắp, dối trá và chỉ trích xuất hiện.
      Từ buổi ấy, tại bộ tộc giàu có và thanh bình Kukada, dân chúng thường xuyên bị cướp phá. Họ rất sợ hãi và không hiểu điều gì đang xảy ra. Họ yêu cầu Sanjham Rai một chàng trai khỏe mạnh dẫn đầu nhóm thanh niên đứng lên bảo vệ bộ tộc. Đảng cướp bị đánh đuổi. Dân làng hợp lại nói, không biết khi nào bọn cướp phá quay trở lại, hay là yêu cầu Sanjham Rai trở thành người lãnh đạo và chúng ta gọi ông ấy là vua.
      Rồi Sanjham Rai trở thành vua bộ tộc Kukada. Ngày tháng dài yên bình trở lại trên thung lũng, dân chúng mãi chăm lo sống cuộc sống của riêng mình mà quên mất Sanjham Rai. Nhà vua buồn rầu hỏi Udal, một người thông thái của bộ tộc, ta không còn được họ tôn trọng thì phải làm sao? Udal thưa, gần vùng Kukada có bọn người rất hung tợn, ngài gửi vài thanh niên sang quấy phá để họ tấn công chúng ta.
      Đột nhiên bị kẻ khác tấn công cướp phá. Dân làng kéo đến cầu cứu Sanjham Rai. Và nhà vua lại dẫn quân đánh bại được kẻ thù.
      Sanjham Rai hỏi Udal, cách của ngươi thật hữu hiệu nhưng làm sao ta luôn được tôn trọng mà không cần phải có chiến tranh? Udal nói, phải làm cho họ sợ hãi để tuân phục ngài.
      Sanjham Rai tuyên bố trước bộ tộc, này các bạn, có hàng vạn kẻ thù hung hăng luôn quanh quẩn bên chúng ta. Để bảo vệ các bạn tôi cần những thanh niên dũng mãnh luôn thường trực chiến đấu và tất nhiên họ phải được nuôi sống. Thế này, mỗi tuần trăng một gia đình nộp cho chúng tôi ba phần mười thành quả mà các vị kiếm được. Chúng ta gọi sự kiện này là gì nhỉ? ‘Thuế’ đi, một từ ngữ biểu hiện sự cống hiến tận tụy của các bạn vì sự an toàn của bộ tộc Kukada.
      Thời gian trôi qua, Sanjham Rai trở thành người giàu có nhất bộ tộc.
      Một ngày, Sanjham Rai tức giận gọi Udal đến nói, bọn bộ tộc man rợ bên kia cánh rừng vừa lập gã Govinda lên làm vua, hơn nữa chúng thu thuế chỉ có hai phần mười và tuyên bố chổ chúng là an toàn nhất. Điều đáng giận là gã đã lôi kéo vài gia đình đang sống tại Kukada di cư sang đó.
      Udal suy tư, bọn họ đi hết thì quốc khố của ngài sẽ sớm trống rỗng thôi. Không được! Nhà vua phải cử người chặn các ngã đường để họ không thể tự do đi.
      Nhưng ta lấy lý do gì để giữ họ lại, Sanjham Rai than thở, chẳng lẽ lại nói bọn chúng phải ở lại để nạp thuế cho ta.
      Từ hôm đó, Sanjham Rai cho người chặn hết các ngã đường từ Kukada sang các vùng lân cận. Bên trong dân chúng truyền tin nhau, vua Govinda là kẻ tàn ác, thích thịt người và không nên đến đó.
      Govinda nghe kẻ khác phao tin mình ăn thịt người rất tức giận, nhưng vì không ai có thể ra khỏi Kukada, bèn sai một người lén lút đột nhập vào vùng đất của Sanjham Rai thanh minh.
      Nhưng chẳng may, người của Sanjham Rai bắt được kẻ truyền tin. Nhà vua lo lắng hỏi Udal phải xử lý hắn thế nào? Udal nói, phải làm cho người Kukada không nghe không hiểu bọn Govinda nói gì.
      Udal miệt mài sáng tạo ra bộ âm thanh mới buộc người Kukada học theo. Con nai phải gọi là con lơ ngơ, con gà phải gọi là con cục tác, giọng phải trầm xuống cho ồ ồ. Thêm nữa, không được nói tôi tên là Udal, phải đảo lộn chủ vị, là Udal tôi tên. Đúng. Như thế. Ồ ồ như thế. Udal hân hoan.
      Thời gian nhanh trôi qua. Không người Kukada nào còn nhớ tiếng nói cũ của mình. Họ say mê với ngôn ngữ mới.
      Một ngày, Sanjham Rai ra bờ sông dạo chơi và gặp Reva, một người phụ nữ xin đẹp. Ta là vua Sanjham Rai, người dũng mãnh nhất bộ tộc Kukada, nàng có muốn về làm vợ ta? Nhưng tiếc rằng thiếp đã có chồng, thưa nhà vua. Reva từ chối.
      Ta thật yêu thích Reva nhưng không biết làm sao có được nàng? Sanjham Rai than thở với Udal.
      Rồi Udal triệu tập người của bộ tộc đến và hỏi, các người có biết mình từ đâu mà có? Từ cha mẹ. Cha mẹ các ngươi từ đâu mà có? Từ ông bà. Ông bà các người từ đâu mà có? Từ tổ tiên. Vậy tổ tiên các ngươi từ đâu mà có? Mọi người lặng im. Có một vì vua to lớn hơn trên kia bầu trời, ngài ấy sáng tạo ra con người, muôn thú và Sanjham Rai là sứ giả được giáng xuống để giữ gìn sự sinh tồn của nhân thế. Sanjham Rai là bậc thánh nhân thấu hiểu hết tất cả, lời nói của ngài không thể sai biệt và không ai có thể chối từ yêu cầu của ngài.
      Và Sanjham Rai cưới được nàng Reva mà không gặp phải sự khán cự nào.
      Sanjham Rai có nhiều bà vợ phải nuôi nên cần một căn nhà thật tiện nghi và lớn. Nhà vua triệu Udal vào trầu. Hôm sau, Udal nói với thần dân: Các bạn hãy nhìn xem bên bộ tộc láng giềng, họ có một cung điện thật nguy nga và tráng lệ, đó là biểu hiện của một sự hùng cường. Vùng Kukada là một miền giàu có và không lý do gì để thua kém họ. Và để chúng ta không bị xấu hổ trước bọn người kém cõi đói, mọi người phải hướng về bộ tộc.
      Một ngày Sanjham Rai cảm thấy buồn chán, đứng trên thành lầu hỏi Udal. Làm vua của một bộ tộc nhỏ chẳng thú vị chút nào, đất đai của ta thật hạn hẹp, rất ít người thuần phục, làm sao có thể mở rộng biên giới sang đến tận đường chân trời?
      Phải có chiến tranh, Udal đáp. Nhưng bọn dân đen đó luôn thèm muốn một cuộc sống an bình, Sanjham Rai chán nãn nói.
      Nghe Udal mách bảo, Sanjham Rai ra tuyên bố trước thần dân. Này các bạn! Các bạn có nhìn thấy bộ tộc Kukada của chúng ta hùng mạnh không? Và sự thịnh vượng này đến từ đâu? Chính nhờ sự thần thánh của các bạn, những con người dũng cảm và siêu vượt lên tất cả. Nhưng các bạn đâu có biết bên ngoài kia còn có những con người chưa tiến hóa kịp và chúng ta có nhiệm vụ vinh quang cao cả là khai hóa họ.
      Chẳng lâu sau Sanjham Rai xua quân đánh chiếm nhiều bộ tộc xung quanh, thành lập vương quốc Kukada.
      Đến một năm, vương quốc Kukada mất mùa làm nhiều người chết đói, trong khi gia tộc Sanjham Rai và các chiến binh vẫn sống sung túc. Một nông dân nghèo tên Sadhil nói, này mọi người, tại sao chúng ta sống trong đói kém? Vì mọi của cải đều phải đóng góp cho Sanjham Rai, thuế từ ba phần mười đã tăng lên năm phần mười. Chúng ta không thể sống nổi. Chúng ta phải tìm người thay thế hắn.
      Vì Sanjham Rai bị người đời bất mãn, mau chóng thua cuộc, bỏ chạy khỏi Kukada. Và Sadhil được tôn lên làm vua.
      * * *
      “Câu chuyện của ngài thật là thú vị!”. Prithviraj tán thưởng.
      “Qua câu chuyện vừa rồi, điều tôi muốn nói với nhà vua, chính lòng yêu thích hiện hữu đã tạo tác và vun đắp thế giới này.”
      “Nhưng ta muốn làm thay đổi nó?”
      “Theo đại vương, thế nào là một vị vua anh minh?”. Ananda hỏi.
      “Ta sẽ cố gắng làm mọi người được no ấm và hạnh phúc”.
      “Ngài muốn thần dân có một cuộc sống no ấm để họ tuân phục ngài, ngưỡng mộ ngài, tung hô ngài, duy trì quyền lực của ngài hay trao họ sự hiểu biết mà ngài không nhận được gì cả?”
      Sa-va-ri ngập ngừng: “Có nhiều sự lựa chọn như thế ư?”.
      “Đúng thế thưa nhà vua! Nếu ngài muốn người Chauhan trở thành một công dân thì phải để họ tuân phục vào một khuôn mẫu định sẵn như truyền thống, có người Bà-la-môn, có người Sát-đế-lị, có người Thu-đà-la hoặc ngài còn có thể tự nghĩ ra nhiều luật lệ khác để trói buộc họ, nô lệ họ. Còn nếu ngài muốn dân Chauhan trở thành những con người thực thụ, con người không lệ thuộc vào bất cứ điều gì và bất cứ ai thì hãy ban cho họ thiện tri thức. Tại nơi nào, con người được quan tâm chứ không phải luật pháp, nơi đó sẽ có hạnh phúc.”
      “Hạnh phúc không phải là trạng thái của được thỏa mãn hay sao?”
      “Bằng quyền lực chính trị, ngài có thể đem đến cho họ sự mãn phần nào đó về tự do; bằng quyền lực kinh tế, ngài có thể làm cho họ thỏa mãn về đời sống, về sức khỏe, về giáo dục; nhưng dưới sự lệ thuộc, họ không thể nào chấm dứt được đau khổ giày vò bên trong.”
      “Nếu vương quốc Chauhan đạt được những thành tựu đó sẽ là một sự tiến bộ vĩ đại rồi!”, nhà vua hân hoan nhìn lên bầu trời.
      “Nhưng tại thế giới vô thường này, chẳng ai đủ khả năng duy trì những sự việc cố định như chúng đang là.”
      “Như hiện tại, Chauhan có đầy sự phân chia giai cấp bất công. Với vị thế của một quốc vương, làm sao ta có thể vô tâm nhìn những đau khổ của thần dân”. Prithviraj chợt xúc động.
      “Ngài muốn thay đổi cấu trúc xã hội?”.
      Prithviraj vung tay, ánh mắt sáng lóe như vì sao trên bầu trời đêm: “Ta muốn có một cuộc cải cách, một cuộc cách mạng mang tầm sáng thế”.
      “Ngài có những ý tưởng to lớn cho nhân loại, vì lý tưởng, ngài có can đảm từ bỏ mọi quyền lực của mình?”
      Prithviraj ngạc nhiên: “Ta dù kiến thức nông cạn cũng biết rằng một cuộc cải cách phải dựa trên quyền lực”.
      “Thưa nhà vua, tôn sùng quyền lực vốn là thói thường của con người và tôi cũng chẳng lạ khi quyền lực chính là phương tiện của ngài.”
      “Vì sao quyền lực chẳng có tác dụng gì trong một cuộc cải cách?”. Prithviraj ngạc nhiên hỏi.
      “Nhà vua có biết có mấy nhóm quyền lực tồn tại trong thế giới này hay không?”
      “Xin ngài hãy nói rõ!”
      Ananda nói: “Này nhà vua! Trong thế giới hư vọng này, có quyền lực của cưỡng bách gầy dựng trên lòng tham muốn an toàn và sợ hãi của nhân loại. Có quyền lực đạo đức đạt được qua việc trở thành một biểu tượng của lòng tin, của luân lý, của tôn giáo, của tài chính. Có quyền lực của thỏa ước khi một nhóm người trao quyền lãnh đạo cho một ai đó, hoặc là tham gia vào một tổ chức với sự chấp nhận các ràng buộc theo yêu cầu.”
      Và Ananda tiếp lời: “Dù phương thức nào của quyền lực được sử dụng: thỏa ước, đạo đức hay cưỡng bách thì mối quan hệ của chiếm hữu luôn hiện diện trong sự liên kết đó và chứa đựng đầy xung đột. Kẻ chiếm hữu muốn duy trì mọi thứ như nó đang là, kẻ bị chiếm hữu lại khát khao tìm kiếm cơ hộ trở thành kẻ tái tục sở hữu một uy quyền.”
      Và Ananda chỉ tay lên bầu trời: “Dù phương cách nào của quyền lực được sử dụng, để giữ vững uy quyền, kẻ chiếm hữu phải ẩn nấp vào các giá trị luân lý được thiết lập, hoặc tạo ra các giá trị đạo đức và trở nên một biểu tượng như đa số người muốn.”
      Ananda nhìn nhà vua: “Dù phương cách nào của quyền lực được sử dụng, ngay khoảnh khắc mà sự chiếm hữu sinh khởi, không có một đạo đức nào tồn tại: Bởi chiếm hữu không là đạo đức. Bởi vun vén cho quyền lực không là đạo đức. Này nhà vua, ngài hãy ngồi xuống thiền định, trầm lặng quan sát nội tâm của chính mình và ngài sẽ nhìn thấy quyền lực chỉ vun đắp cho quyền lực.”
      Prithviraj trầm ngâm: “Có sự thật là vậy”?.
      “Đúng là quyền hành không đi cùng đạo đức?”
      “Ý của ngài là?”
      “Ngài muốn có một cuộc cải cách rộng lớn đúng chứ? Dù ý tưởng của ngài ban đầu có thật sự tốt đẹp, có được diễn tả bằng những ngôn từ vĩ đại, có được khoát dưới bộ mặt đạo đức thuần khiết; thì rốt cuộc, cái đích cuối cùng là ngài sẽ trở thành một người vĩ đại, một thánh nhân tại thế giới mục nát này. Rồi đến khi quyền lực được thâu tóm, vì níu giữ quyền hành ngài sẽ trở nên mù quáng, ngài sẽ trở nên độc đoán, ngài sẽ trở nên nhẫn tâm hơn. Vậy thì, khi đem quyền lực trao lại vào tay một người, trông chờ vào hành động luân lý từ anh ta; so với sự phân chia giai cấp hiện thời liệu có gì khác nhau? Có phải nó vẫn là hiện trạng của sự chiếm hữu, quyền hành và nô lệ.”
      Prithviraj hỏi lại, “theo ý của ngài nên duy trì sự hỗn loạn này?”.
      “Nhà vua nói đúng, chúng ta đang sống trong hỗn loạn, kể cả những nơi mà được cho là có trật tự. Ngài hãy nhìn thế giới này xem, chúng chứa đầy những giá trị luân lý cao đẹp, nhưng không có một tình yêu nào trong mối quan hệ giữa người và người, họ vẫn sống như quá khứ, một sự lệ thuộc qua bóc lột và lợi dụng lẫn nhau. Rồi đến khi người ta nhận thấy sự phụ thuộc là hủy hoại, tất sẽ có đau khổ và xung đột nảy sinh từ mối liên hệ đó.”
      Prithviraj vỗ tay reo mừng, “vì lẽ đó nên ta nói Chauchan phải cần có một cuộc cách mạng”
      “Trong lịch sử, nhiều cuộc cách mạng đã xảy ra và chúng thành công về mặt nào đó ở bên ngoài, giai cấp dưới thay thế tầng lớp trên, lý tưởng mới thay thế lý tưởng cũ; nhưng cái nguyên do duy nhất của các cuộc xung đột, sự bóc lột, vẫn an nhiên tồn tại cho tới ngày hôm nay.”
      Prithviraj nhìn Ananda như khuyến khích, “ngài có ý tưởng nào tạo ra sự thay đổi nào cho vấn đề vừa đề cập hay không?”
      “Có nhiều lý thuyết được nói tới trong quá khứ và đã có rất nhiều người phải hi sinh cho thứ gọi là tiến trình ‘cách mạng’ đó. Đúng là thế giới thực cần một thay đổi lớn. Nhưng cuộc cách mạng phải diễn ra ở bên trong mà nó không có một xung đột nào, không có một đấu tranh nào, không có một phản khán nào và đó phải là lần thay đổi cuối cùng.”
      Prithviraj chăm chú nghe, suy nghĩ giây lâu và hỏi lại: “Cuộc cách mạng bên trong và lần thay đổi cuối cùng ư?”.
      Ananda hỏi lại: “Nhà vua có biết mình và những con người khác của xã hội này thật giống nhau?”.
      “Xin ngài hãy nói rõ hơn!”
      “Thưa nhà vua, từ tình yêu thương tận sâu thẳm bên trong khởi lên, ngài đau đớn khi thấy sự phân chia giữa giàu có và nghèo khổ, của quyền lực và nô lệ, của danh vọng và tôi đồi. Ngài nghĩ rằng nó có một nguyên nhân tạo thành kết quả này và muốn kết thúc nó.”
      “Đúng, ta thấy rằng tầng lớp trên đã quá tham lam.”
      “Nhưng ngài cũng là một thành viên trong xã hội tham lam đó”.
      Prithviraj tỏ ra hơi thất vọng: “Ngài nghĩ ta là một người như thế!?”.
      “Nhà vua không bằng lòng vì lời nói thật của tôi! Nhưng thế giới này vốn là tấm gương phản chiếu những tham vọng, những ưa thích, những tìm kiếm thỏa mãn, những vui thú và mọi phản ứng ngược lại với chúng của tất cả thế nhân. Xã hội đang phân rã này chính là một phản ánh của tạo tác, của phóng chiếu dục vọng từ ngài và tôi. Bất kỳ hành động nào từ ngài còn chứa đầy bất mãn và tuyệt vọng, một cách mạng như thế chẳng thể nào có kết thúc, nó sẽ là một tiếp tục cho những đòi cải cách khác.”
      Prithviraj gìm giọng, đợi chờ câu trả lời thật thỏa mãn: “Thật là Chauhan sẽ không thể có một thay đổi rộng lớn ư?”
      “Nhà vua nhìn thấy người Thu-đà-la nghèo khổ, người Bà-la-môn hành động không đúng như điều họ nói và cho rằng Chauhan cần một cách mạng. Nhưng làm thế nào để có thay đổi mà không đối nghịch với xã hội?”
      Prithviraj nhìn Ananda trong một chờ đợi: “Đây là vấn đề ta muốn nói với ngài, ta ghĩ rằng, Chauhan cần có một học thuyết giải phóng con người và ngài có thể trao nó cho ta”.
      “Một tu sĩ chẳng có tài sản như tôi sẵn lòng cho những lời khuyên với bất cứ ai, nhưng một học thuyết chống lại người khác thì tôi chẳng có”. Ananda lắc đầu nhìn nhà vua. “Khi mà những người vô minh đang gây ra sự hỗn hoạn khắp nơi, trong cái trò chơi của quyền lực và chiếm hữu, nhà vua sẽ làm gì? Chỉ trích. Giúp đỡ. Hay cắt đứt sự liên hệ với họ, tự xây dựng cho mình một nền tảng văn hóa mới mẻ.”
      Prithviraj hỏi lại: “Ngài không có ý tưởng tốt lành nào khác ư? Ta lại nghe nói ngài thuyết pháp về giai cấp cho những người Thu-đà-la nghe rất hay?”.
      Ananda nói: “Thưa nhà vua! Sự phân chia thế giới này, theo lịch sử, đã thành vết rạn nứt khó lành, và vấn đề đã nằm ngoài mọi kinh nghiệm cá nhân. Vì chúng ta không hiểu rõ chính mình, chẳng biết đích thực gốc nguồn của cuộc sống này là gì? Nên dù bất kỳ học thuyết nào xuất hiện, nó chỉ cổ vũ cho một phản khán, một đấu tranh và tiếp thêm cho những đau khổ chất chồng.”
      Ananda nhìn nhà vua: “Và khi đứng trước sự phân chia người Bà-la-môn, người Sát-đế-lị, người Thu-đà-la. Trước những lý tưởng, những thành kiến, những luân lý xã hội được đặt làm nền tảng đã tạo ra bất công, bất bình đẳng; nhà vua sẽ làm gì? Từ một học thuyết hình dung các giá trị bị thiếu vắng ở xã hội này, ngài tập hợp những người có cùng mục đích, cam đoan hướng đến những điều mới mẻ, tách rời luân lý cũ. Nhưng vì tham vọng trở thành cái gì đó - những con người mới có tri thức tiến hóa vượt trội chẳng hạn; ngài hành động bằng cách chống lại những nhóm không cùng lợi ích, chống lại những người không cùng tư tưởng; và chắc chắn, khởi đầu từ chỉ trích, bài bác, cuối cùng tất cả sẽ dẫn đến xung đột. Và kết thúc cho cuộc cải cách này là gì, nếu nhóm của ngài không trở thành một giai cấp mới thay thế, hay sao?”
      Ananda ném một hòn đá xuống mặt hồ, chỉ tay lên mặt nước đang xao động và nói: “Một giai cấp mới làm động lực cho cải cách là ý tưởng tồi của lịch sử. Một cách mạng nửa vời. Một cách mạng không tận cùng. Một cách mạng chỉ có những thay đổi bên ngoài; còn bên trong vẫn những con người cũ, những con người có đầy tham lam, thâu lợi, ganh ghét và bạo lực vẫn chưa nhìn rõ mình, thấu biết bản thực của thế giới là gì. Và với những con người này, khi đã có quyền quyền hành, có danh vọng, có tài sản; bất kỳ ai cũng sẽ muốn an toàn, muốn bền vững và làm mọi cách để duy trì những thứ như chúng đang là. Cái tiến trình của quyền lực trong xã hội đó dù khoát lên mình bộ áo nào của đạo đức, của luân lý, của tư tưởng vĩ đại đều muốn lần tìm đến đỉnh cao quyền lực thống trị, để từ đó mà có chiếm hữu và trục lợi. Như thế, Chauhan dù có truất bỏ được quyền hành của người Bà-la-môn, người Thu-đà-la có được quyền bình đẳng hơn, chẳng bao lâu trật tự xã hội cũng trở về hỗn loạn. Lại có những kẻ bóc lột sẽ tinh vi hơn xuất hiện và rồi người bất mãn đứng ra đòi cải cách, tuyên ngôn cần một cuộc cách mạng, y như ngài đang nói với tôi hôm nay.”
      Prithviraj hỏi lại: “Ngài chắc rằng sẽ không có nhiều thay đổi?”.
      Ananda bật cười: “Tất nhiên xã hội sẽ có những thay đổi bên ngoài vì cách mạng dựa vào một học thuyết, vào các giá trị mới được tạo dựng. Nhưng sau đó thì sao? Chúng ta lại nhân danh chuẩn mực mới, ẩn nấp vào những điều được cho là luân lý và tiếp tục mưu lợi. Vậy thì, một cuộc thay đổi như thế liệu có ích lợi gì?”
      Prithviraj trố mắt nhìn Ananda, “như việc phân chia ruộng đất cho người Thu-đà-la cũng là vô ích?”
      “Thật là vĩ đại nếu ngài lấy tài sản của mình trao cho họ”
      “Ta sẵn lòng trao tất cả tài sản của mình cho những thần dân nghèo khổ của mình”
      “Nhưng ngài không thể giải quyết tất cả nhu cầu?”
      Prithviraj dạm bước về phía bờ hồ, rồi nói: “Ta sẽ thuyết phục những chủ đất trao tặng một phần tài sản của họ cho kẻ nghèo khó hơn.”
      “Thưa nhà vua! Tôi nghĩ những người rộng lượng sẵn lòng chia sẽ những gì mình có, nhưng họ không phải là tất cả.”
      Rồi nhà vua quay lại nhìn Ananda, nói hơi cương quyết: “Chế định của pháp luật sẽ thúc bách những kẻ keo kiệt”.
      “Ngài định bù đắp tổn thương của người nghèo bằng tài sản cưỡng ép từ người khác? Thế còn những người không tự nguyện bị mất mát của cải, ngài an ủi họ bằng gì?”
      Prithviraj tuyên bố chắc nịch, “Có những vấn đề luật pháp phải đứng trên đạo đức và luân lý”
      “Đạo đức, luân lý hay luật pháp; những từ ngữ khơi gợi lên cảm giác gì đó rất hay ho, nhưng thật sự, chúng phản ánh ý tưởng đầy tham muốn của con người.”
      “Ngoài phương diện từ ngữ, chúng không biểu thị một lý tưởng nào ư?”.
      “Thưa nhà vua! Tại xã hội này, chứa đựng trong đó các danh từ gọi là Bà-la-môn, Sát-đế-lị hay Thu-đà-la; tất cả họ là con người đúng chứ?”
      Nhà vua gật đầu, “đúng! Ta không phủ nhận”
      “Vì tất cả họ là những con người, dù bề ngoài hay tư tưởng bên trong có sự khác biệt, nên cần một đối trọng công bằng. Liệu có lý do gì để cho rằng những người nô lệ đáng thương và kẻ giàu có kia đáng trừng phạt? Chính sự phân chia và cách không hiểu rõ cốt lõi của vấn đề dẫn tư tưởng ngài đến lòng tham muốn phán xét.”
      Prithviraj buồn bã nhìn Ananda. Qua dòng suy tưởng bấn loạn, nhà vua chới với, lẽ nào ý tưởng tốt đẹp của mình chẳng đem lại kết quả gì cho Chauhan. “Nếu là một cách mạng bên trong thì phải thế nào?”. Prithviraj thất vọng hỏi.
      “Cái Tôi luôn hướng đến sự an toàn. Nó sợ hãi mọi thứ thay đổi. Trong sự cấp thiết, nó làm mọi cách biến người khác trở thành cái gì đó mà ít ảnh hưởng đến mình nhất. Một cách mạng như thế chỉ là sự bổ sung. Một cách mạng như thế không là cơ bản. Một cách mạng đột biến là phải thay đổi chính mình. Một cách mạng cuối cùng phải khởi đầu từ ngài, từ hành động thâm nhập vào thiện tri thức, từ việc tự khám phá mình mà không lệ thuộc vào bất cứ ai. Hãy thiền định. Thiền định đến khi ngài hiểu rõ thế giới này là gì, tất thì, cốt lõi của mọi vấn đều được sáng tỏ”.
      “Và nó cần rất nhiều nổ lực?”
      “Ngài dùng nổ lực để làm gì?”
      “Để đạt đến một mốc tiến bộ lớn, ta cần nổ lực để thúc đẩy ý chí.”
      “Như nhà vua nói, nổ lực dùng để tìm kiếm một kết quả đặt dưới sự kiểm soát của một cái tôi. Rồi từ nỗ lực đó lại tạo ra ham muốn. Từ ham muốn tạo ra sự phụ thuộc. Từ phụ thuộc tạo ra sự xung đột. Và kết quả cuối cùng là chấm dứt cho tiến trình tiến hóa.”
      “Nó là sự an nhiên?”
      “Đúng! Phải là tiến trình của tự nhiên”
      “Sự thay đổi đó mang tính chất một cách mạng tôn giáo?”, Prithviraj chăm chú hỏi.
      “Nhà vua có thể dùng bất cứ từ ngữ nào để gọi nó. Nhưng cuộc cách mạng đó không là một tái hiện của lịch sử, nên tiến trình của nó chắn chắn không là sửa lại trên những gì hiện có, một hệ thống, một cấu trúc xã hội, một tôn giáo, một mớ luân lý trói buộc. Tại đó, xã hội sẽ là một thống nhất tổng thể mà không có sự phân chia nào.”
      “Nhưng làm thế nào để có thống nhất khi còn niềm tin về giai cấp, khi còn quyền thống trị của một nhóm người, khi còn người đang tìm kiếm quyền lực, khi còn người giàu có và vô số kẻ thiếu thốn?”, Prithviraj Chauhan hỏi.
      “Chúng ta muốn có tiến hóa nhưng lại sợ hãi đập nát thói quen, sợ hãi đánh mất sở hữu; và thay vì tìm một tái sinh cơ bản tại bên trong, chúng ta chọn cách chấp vá trên tàn mảnh của thoái hóa.”
      “Cách mạng tôn giáo là lựa chọn duy nhất cho chúng ta?”
      “Một cách mạng bên trong không gây bất kỳ một xung đột hay phản ứng nào từ xã hội. Bạn chỉ từ bỏ cái nền tảng của những giá trị cũ đặt trên tham vọng, ganh tị, quyền hành, hay chiếm hữu, từ suy nghĩ của chính mình. Cách mạng của nhận thức là phương cách duy nhất giúp con người tiến hóa, bởi vì, từng có nhiều cách mạng khác trong lịch sử đã thất bại.”
      “Để đạt đến xã hội đó chúng ta cần có bao nhiêu thời gian?”
      “Tinh thần là thứ phi thời gian. Còn nhận thức thời gian, tức còn sự lệ thuộc.”
      “Nguyên nhân nào gây mầm mống cho ý tưởng một cuộc cách mạng?”
      “Trên tổng thể có rất nhiều lý do dẫn đến một cuộc cách mạng, dù bên ngoài hay bên trong; nhưng cơ bản, nguyên nhân vẫn là sự sợ hãi về một mối đe dọa. Ví như ngài rất thích con thuyền, thường chèo nó ra hồ dạo chơi; và đến một ngày con thuyền bất ngờ chìm đắm, ngài cũng phải vứt bỏ nó để tẩu thoát.”
      “Ngài nghĩ thế nào về vương triều Chauhan?”
      Ananda nói: “Tại ban đầu, có một nhóm người sợ hãi cho sự an toàn, họ trao tự do của mình cho tộc trưởng để được nhận sự hướng dẫn của ông ấy, đổi lại tù trưởng nhận được lợi ích nào đó từ bộ lạc. Mối quan hệ ban đầu đó rất thuần chất. Nhưng rồi không lâu sau. Một ngày người ta nhận ra có rất nhiều lợi lộc đằng sau chức danh đó, thế là xã hội bắt đầu chuyển sang xu hướng chiếm hữu và thỏa mãn rõ rệt hơn.”
      Ananda thuận tay xếp những chiếc lá cây thành một vòng tròn, rồi nói: “Chính trị rõ ràng là một sản phẩm của xã hội, nơi người lãnh đạo có quyền chiếm hữu và dân chúng có quyền tìm kiếm thỏa mãn. Nhưng rồi, tham vọng quyền lực tuyệt đối đã đẩy chính trị lên một mức độ khác hơn, sự cai trị. Tại đó, dân chúng có nhiệm vụ phục vụ triều đình và hoàng đế trở nên một quyền lực vô biên. Vua tin mình là hiện thân của sự cứu rỗi, có nhân cách bất khả xâm phạm và hành động điều hòa quốc gia trở thành một biểu hiện của ban phát ơn huệ. ”
      Và Ananda xóa tan vòng lá vừa xếp: “Vì hoàng đế nằm trên nhung lụa quá lâu nên quên mất mình là một sản phẩm của xã hội, tức là nơi mà người ta tìm kiếm sự thỏa mãn, và bỏ quên người tạo ra mình. Thế là xã hội, theo thói quen, săn tìm thỏa mãn mới ở các thế lực khác và điều đó đã gây ra chiến tranh và xung đột.”
      Ananda nhặt tàn lá vung bay lên theo ngọn gió: “Rồi đến một ngày người ta sẽ nhận ra chính trị phản bội lại con người, thay vì tìm cách giải quyết vấn đề, triều đình chỉ chăm lo duy trì quyền lực của chính mình và thích tung ra các lời hứa.”
      “Đó là thời điểm người ta thôi phụ thuộc vào quyền lực?”
      “Khi nhân loại nhận ra tự do và hạnh phúc chính là không phụ thuộc vào gì cả, chính trị sẽ trở thành một biểu tượng.”
      “Nhưng ta không chắc sẽ có nhiều người chịu thay đổi mình như ngài nói.”
      “Thời khắc để con người quay về với chính mình chẳng khác nào mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Khi khỏe mạnh anh ta chẳng hề đoái hoài tới người chữa bệnh, nhưng điều này sẽ thay đổi khi cơ thể của anh ta đột nhiên suy nhượts.”
      “Ta muốn biết về thời khắc?”
      “Phương thuốc đã có sẵn. Còn sự kiện chắc ngài cũng nhìn thấy phần nào.”
      “Ngài muốn nói đội quân Mamluk sẽ xâm lăng Chauhan?”
      “Trong một sự kiện được định bởi nghiệp quả, không có cách nào khác hơn là chấp nhận nó và tìm cách làm giảm thiểu thiệt hại nhân sinh.”
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
      CHƯƠNG 8. CHAND BARDAI
       
      1. Chand Bardai lần theo bóng hoàng hôn, lang thang đi trên khắp nẽo dặm đường, vô chủ đích như dòng suy nghĩ bên trong chàng chảy đổ, vỗ cuộn sóng dậy sầu.
      Chàng nhắm mắt, hình dung mình như con thuyền nhỏ mệt mõi giữa đại dương cuộc đời, chơi vơi, không biết điểm khởi đầu và tận cùng chổ kết thúc. Ngày đến đêm. Bình minh tiếp hoàn hôn. Dầu thả lỏng người giữa thảo nguyên đầy cỏ, nghe tiếng gió trời, âm cây lá chạm đùa dưới trăng sao; hay nằm co bên ngoài ngôi đền thiêng sau cuối buổi nghỉ hành trình, bên trong chàng, cảm xúc dạt trôi vô hướng cứ đuổi theo và quấy động.
      “Khi mệt mõi với cuộc đời
      Ta làm vầng dương đỏ
      Bỏ rớt một buổi chiều”.
      Lời ca sầu muộn của gã hành khách sắp chết, nằm thoi thóp bên lề đường hôm nọ cứ mãi vẵng bên tai. Tại cuộc đời này. Sống và chết đối với chàng không có ranh giới, chẳng mang tính sự kiện, chàng chấp nhận nó như một điều hiển nhiên của sống. Nhưng làm sao, khi hạt giống của đau khổ đã sinh trưởng thành hình, dù đến đâu, thế giới nào, chàng vẫn phải đối diện với nó.
      Rồi trong bấn loạn đó. Chand Bardai lang thang đến đền Behari. Chàng ngắm nhìn những tượng thần, những phù điêu kỳ vĩ, những khắc chạm công phu, những tín đồ thành kính cuối đầu trước đạo sư. Trong một bất mãn. Chand Bardai đến. Nép mình bên góc đền, khải đàn tambura, miệng nghêu ngao hát.
      “Thượng đế sinh từ đâu?
      Chân lý tại chổ nào?
      Từ miệng của đạo sĩ
      Vây quanh những đàn bà
      Được lắp đầy của cải
      Từ xác của chúng ta
      Mekopa. Mekopa.”
      Những tín đồ đến bái lễ dừng lại, ngạc nhiên nghe chàng hát. Vài người tỏ vẻ tức giận nhưng cũng có kẻ lặng im, chia sẽ đồng tình.
      “Ta vốn là một người rộng lượng. Ai cũng có thể phỉ báng ta nhưng sĩ nhục Thượng Đế thì phải bị thiêu sống”. Mekopa chỉ vào Chand Bardai đang bị trói trước điện Delhi.
      “Vương quốc Chauhan không thể để tồn tại một kẻ Bà-la-môn bại hoại như Chand Bardai. Để răn đe dân chúng, ta kiến nghị nhà vua thiêu sống hắn tại quảng trường”. Tế sư Mekopa vung tay kiên quyết, hậm hực nhìn vua Prithviraj.
      Chand Bardai ngữa mặt cười: “Các người biết không? Diều hâu và bồ câu chỉ khác nhau lớp áo bên ngoài. Chúng là chim. Ha!Ha!”.
      “Vì sao ngươi sĩ nhục Mekopa?”. Prithviraj Chauhan giả vờ nghiêm khắc hỏi.
      “Nhà vua nghĩ thế ư? Nhưng Mekopa lại nói Thượng Đế bị phỉ báng? Cuối cùng là ai? Một loài chim. Một chủng thú. Một màu áo. Ai? Ai? Gì? Gì?”.
      “Mi đừng giả vờ ngốc ngếch?”. Mekopa chỉ tay vào mặt Chand Bardai.
      Chand Bardai ngữa mặt, cười hả hê rồi hát:
      “Nắng chiều vươn bụi đọng
      Trần ai thoáng thấp mờ
      Mù lòa khép ánh sáng
      Chẳng mong thấy rõ đời”
      “Ta nghĩ gã điên này chỉ thốt ra những lời vô tri. Chúng rối mù và chẳng có ý nghĩa nào. Đại sư rộng lượng đừng nên trách cứ hắn”. Prithviraj Chauhan nói và ra lệnh phóng thích Chand Bardai ngay tại đó.
      2. Từ hôm ấy. Mỗi ngày Chand Bardai xỏa tóc, lang thang đi dọc triền sông Tapa, không ngừng nghĩ suy, nuôi dưỡng trong tư tưởng một bài trường ca đề tả tấn bi kịch đời người. Nhưng mỗi khi cầm tấm lên da dê, chàng lại đối diện với một vô thinh. Tại bên trong chàng, không một diễn đạt nào thị hiện, không một từ ngữ nào sinh khởi. Trí tuệ. Tưởng tượng. Ký ức. Tất cả dường như đóng băng trong một khối tịch lặng, trong một trống rỗng của hư không trời, trong một đỉnh của giao hòa sống chết.
      Cái trầm đắm đó hệt như lần chàng hành hương đến Allahabad. Đứng bên này nhìn sang bên kia bờ, chờ buổi hoàng hôn muộn tô điểm một màu đỏ bên góc trời xám. Từng dãi nắng nhạt trườn lên bãi bồi, thả chiếc bóng rớt dài lên mặt sông như ngọn đèn bơ lay lắt vừa được thắp lên trong ngôi đền gần đó. Trên mặt nước lao xao, những cánh chim trắng đùa giỡn bên dòng nước Jamuna từ bổi xế, từng nhóm, lần lượt kéo nhau bay về hướng đốm tròn đỏ, bỏ lại mấy dề cỏ rêu lay sóng cạnh bờ sông Hằng.
      Góc ngã ba linh thiêng Allahabad, nơi sông Hằng và sông Jamuna hợp lưu, hòa dòng với con sông thứ ba Saraswati ẩn ngầm, nối chảy từ mái tóc thần Shiva xuống. Tại đây. Nhiều thi sĩ như chàng đã tới và im lặng lắng nghe tiếng “neti neti” của dòng sông vô hình thì thào như nhịp thở, như tình yêu của Thượng Đế ôm trọn sự sống trong vòng tay. “Neti neti”. Ngữ âm phản vọng hai mặt của đời sống nghị nguyên. Giữa hai cái biết và cái không biết khởi lên từ thinh lặng. “Neti neti”. Là cái bất lực vô hạn. Cái phủ định của bất ngôn khi diễn đạt sự hình dung về Thượng Đế, về nguyên lý tối thượng thường hằng, về sâu thẳm của trí huệ vĩnh cửu ẩn tàng? Chand Bardai nhìn lên bầu trời và tưởng tượng. Chân Ngã đó lẽ nào không già, không chết, không khổ não, không đói khát, không tham vọng. Rực rở tựa mặt trời? Như lời Ananda đã nói.
      Chand Bardai lặng im đi.
      Và đến một chiều nắng cạn lao xao trên mặt nước sông mềm. Bên bãi hỏa thiêu bám đọng những tro tàn, Chand Bardai nhìn thấy Ananda ngồi bất động bên chiếc bóng người co gầy. “Ngài ngồi mãi bên dòng sông để làm gì?”, chàng hỏi.
      “Ta đang soi bóng mình dưới nước”. Người tu sĩ chỉ tay vào dòng sông, nơi cái bóng rung rinh sau trận sóng tràn tới, lùa.
      “Nhưng sao ông lại nhắm mắt?”. Chand Bardai hỏi.
      Ananda cười và giơ nắm tay ra lên trời: “Để bắt giữ nó”.
      “Nhưng làm sao ông có thể bắt được một cái bóng?”. Chand Bardai ngạc nhiên, tò mò hỏi.
      “Biết nó đến từ đâu thì dễ bắt được. Nhưng người đời tiếc thay, chẳng mấy ai chịu soi rọi chính mình.”
      Chand Bardai cũng giơ nắm tay, quơ lấy lớp bụi tro mù phủ bay cuối nắng trời nhẹ nhạt. Trên mặt nước, làn tro ẩm rung trôi nhấp nhô như tấm sương mềm buổi sớm, ráp nối trời và đất liền nhau qua màn mây trôi tỏa. Trước mắt chàng, mọi thể hiện hữu sinh động kia đột nhiên im bặt, dường như chúng đang tự tan biến vào nhất nhân, hồi quy về căn nguyên của rỗng không, hiện hữu tại lớp vật chất huyền ảo ban đầu, nơi hai nguyên lý khởi thủy âm và dương, động và tĩnh tạo tác cho tiến trình sáng thế.
      “Đau khổ là gì?”. Chand Bardai hỏi, ngồi xuống cạnh Ananda và lặng im ngồi đợi câu trả lời.
      “Bạn nói đến đau khổ thuộc về thân xác hay tâm lý?”
      “Tôi có thể tưởng tưởng được một chút về đau khổ của vật lý. Tôi muốn nghe ngài nói nguyên nhân của cảm xúc đau khổ.”
      “Bạn, tôi và những con người từng hiện diện trong lịch sử, suốt tiến trình sống đều từng chạm mặt với đau khổ và cái thứ không hình hài đó đã gây ra nhiều tổn thất, cho tất cả. Có đau khổ thuộc về cá nhân khi tư tưởng bạn chứa nhiều tham muốn mà không được thỏa mãn, khi bạn bị mất mát một cái gì đó thuộc về tài sản, về thói quen; khi bạn sợ hãi vì thật sự không hiểu rõ một vấn đề; khi bạn cảm thấy mình bị xúc phạm. Nào! Hãy nhìn kia! Một bà mẹ gào khóc cạnh dòng sông, bên giàn hỏa cháy đỏ, giữa ngọn lửa bén đang bùng thiêu thân xác đứa con vừa chết trẻ. Đau khổ đó của bà, tất cả được tưởng đến từ một đau đớn của chia ly, của yêu thương, của hồi tưởng và luyến tiếc những ký ức; nhưng thật sự nó còn chứa thất vọng của một người xếp rất nhiều mong muốn lên tương lai đứa trẻ, chứa một sợ hãi đánh mất thói quen không còn nhìn thấy dáng vẻ nó hiện diện bên cạnh, chứa tham muốn đứa trẻ trở thành cái gì đó mà bà sẽ có những lợi ích. Thứ nữa, có đau khổ nảy sinh khi bạn nhìn thấy những người nghèo đói, dốt nát, rách rưới; như người đàn ông Thu-đà-la đánh cá đó. Tôi có thể nhìn rõ bạn đang đối diện với vấn đề này, rất mãnh liệt. Có thể bạn cần dừng lại, quan sát tâm mình, thử xem, cái cảm xúc khi đó của bạn là gì? Nó có phải là một xót thương của tình yêu hay đến từ lòng thương hại, khi bạn đang quan sát ông ấy trên vị thế của một người Bà-la-môn, bạn so sánh từ mình, một tri thức học rộng và nhận ra, so với bạn ông ta rất thảm hại.”
      Chand Bardai gật gù hình dung, rồi hỏi: “Có khác biệt nào giữa một tình xót thương và lòng thương hại?”
      “Khi ngắm nhìn người đánh cá qua một vị thế, từ cảm xúc của thương hại, bạn đồng hóa mình với ông ta. Ngay tại khoảnh khắc đồng hóa đó, bạn có bênh vực và chỉ trích; thế là, kết thúc một tiến trình hiểu rõ.”
      “Ngài có chắc bênh vực và chỉ trích không là nguyên nhân của tiến bộ?”
      “Tác nhân của tiến bộ không đến từ người nói, nó ở tại người nghe.”
      “Nhưng nếu không có chỉ trích làm sao có sự tiến bộ?”
      “Tại cơ bản, chỉ trích là kết quả của bất mãn và bên vực là phản xạ của đồng cảm. Xuyên một chuổi từ ngữ phản ứng bật thốt ra môi, hay theo những lớp ngôn từ chất đống trên văn bản, qua chỉ trích, bạn chỉ nhìn thấy tội lỗi hiện hữu và đạo đức chìm nhòa. Bạn chỉ trích vì nhìn thấy mình không được tôn trọng, vì có một sự kiện đang trôi tuột ra khỏi tầm nắm bắt, vì bạn không được thỏa mãn một điều gì đó, vì bạn đang tức giận. Nếu chỉ trích qua thất vọng, bạn hi vọng nó đem đến một giá trị luân lý. Nếu chỉ trích để đạt tới cái ý tưởng ban đầu, bạn hi vọng nó đem đến một sự thay đổi. Nếu chỉ trích để được thỏa mãn, bạn hi vọng nó đem đến một kết quả. Nếu chỉ trích qua tức giận, bạn muốn làm dịu cơn uất ức. Còn bênh vực chẳng khác nào mấy thứ trang sức đeo lủng lẳng trên người, nó tạo ra vẻ đẹp nhợt nhạt bề ngoài. Qua bênh vực, bạn tâng bốc điều tốt và bình thường hóa tội lỗi của đối tượng. Điều đó chỉ làm thỏa mãn và giải tỏa cái ức chế nhất thời của y.”
      Chand Bardai khó nhọc nhìn Ananda, cố nhớ lại những điều mà người tu sĩ Bà-la-môn kia từng nói với chàng: “Lời giảng của ngài thuộc về chỉ trích hay bên vực? Chẳng hạn, đôi khi tôi nghe thấy ngài bênh vực kẻ bóc lột và chỉ trích người nghèo khó.”
      “Khi đặt mình vào một đồng hóa, ngay tại khoảnh khắc đó, bạn đã không còn hiểu rõ vấn đề. Chỉ đến khi tư tưởng bạn siêu vượt lên mọi khái niệm, bạn không còn chỉ trích hay bên vực. Tại trạng thái bình đẳng tuyệt đối đó, lời nói của bạn chẳng khởi lên từ bất kỳ tham vọng quyền lực nào. Ngay lúc ấy, chỉ trích hay bênh vực liền trở thành một thông tin. Tất nhiên, thông tin là trạng thái tự do của một con người tri thức độc lập.”
      “Kẻ tri thức chẳng phải là những con người biết đọc sách và thốt lên mấy lời lẽ triết lý hay sao?”.
      “Đọc sách, viết sách hay thuyết giảng là sự kiện. Nó không phải là trạng thái.”
      “Vậy rốt cuộc theo ngài thế nào là một tri thức?”
      “Tri thức không phải là việc lắp đầy vào ký ức những khái niệm. Tri thức phải hiểu rõ con người. Tri thức phải hiểu rõ các vấn đề và cái cốt lõi của nó là gì. Tri thức phải phải tự do và độc lập”
      “Tự do là được làm những việc mình muốn và độc lập là không phụ thuộc vào ai, có phải không?”
      “Đó chỉ là tự do và độc lập mang tính chất vật lý!”
      “Thật thế ư?”
      “Như tôi vừa nói, anh ta cần độc lập khỏi xã hội và có tư tưởng bình đẳng tuyệt đối. Độc lập đó không phải là tách rời, mà là độc lập trong chính nó.”
      “Tôi muốn nghe ngài nói về tự do. Cái tự do không có tính chất vật lý.”
      “Bạn hãy nhìn bầy chim đang đùa giỡn trên dòng sông kia! Một con tắm nước. Một con rỉa lông. Một con sà lượn. Một con bơi vòng quanh giề cỏ kiếm ăn. Bầy chim đó. Chúng được tự bay đến những nơi mình muốn đến. Chúng có thể lưỡng lự dưới ánh nắng chiều tà cho đến khi mặt trời lẩn trốn dưới đường chân trời xa. Cảnh tượng đó gợi lên chút cảm giác gì của tự do của thuở xưa, buổi con người chưa có mấy khái niệm và tri thức. Rồi cái bóng đen màn đêm của sự sợ hãi phủ lắp lên đời sống, vì muốn an toàn người ta trao tự do của mình cho kẻ khác, những nhà lãnh đạo, những trưởng lão của bộ tộc, những vì vua. Đến khi quyền lực và sự chiếm hữu phủ tràn lên đời sống, họ cảm thấy ngột ngạt, đau khổ, vùng vẫy trong vòng giới hạn; thèm khát tẩu thoát khỏi lề thói và tù ngục cá nhân nhàm chán đó.”
      “Nhưng tự do thật sự là gì?”
      “Như tôi biết, tướng quân Muhammad Ghori, người dẫn đầu đội quân Mamluk đã xâm chiếm Sialkot, và đang nuôi dưỡng một quân đội hùng mạnh tại Ghazni?”, Ananda hỏi.
      “Đúng như ngài nói. Cả vùng Ambala và Panipat đang trở nên hỗn loạn vì người Thu-đà-la muốn dựa vào thế lực của Muhammad Ghori để tiến hành một cuộc các mạng cho chính họ, một nhà nước riêng cho chính họ, một nơi ước đoán sẽ không chứa chấp những người Bà-la-môn và Sát-đế-lị”, Chand Bardai bổ xung.
      “Bạn ủng hộ một cuộc cách mạng như thế?”, Ananda hỏi lại.
      “Tuy tôi chẳng ưa thích bọn thầy trò Mekopa có quyền lực khuynh loát, phân biệt giai cấp, chà đạp người Thu-đà-la; cũng không có nghĩa là tôi ủng hộ chiến tranh như cách của Muhammad Ghori đang tiến hành”. Chand Bardai buồn bã nhìn về hướng dòng sông.
      “Nhưng đó là cách người Thu-đà-la lựa chọn để tìm kiếm tự do”, Ananda ưu tư.
      “Như những gì đã diễn ra tại Sialkot, tự do đó có tính chất gì?”
      “Đó chẳng phải là tự do và chẳng có tính chất gì. Nó chỉ là cách thức họ tiến hành để giải tỏa phẩn uất và trút thù hận lên người khác; và đằng sau nó là cuộc chơi của những kẻ tìm kiếm quyền lực.”
      “Nhưng trong một chừng mực nào đó, họ có tự do khi không còn chịu đựng những luật lệ hà khắc của những người Bà-la-môn”, Chand Bardai phân bua.
      “Có những người muốn tìm kiếm tiến hóa qua hành động hủy hoại, nhưng thật sự, bạo lực chẳng thể nào đem đến một kết thúc đúng đắn. Như cuộc cách mạng đó, sau màn kết thúc của chiến tranh là gì? Tại Sialkot, Ambala, Panipat sẽ có một vì vua được dựng lên, như Muhammad Ghori chẳng hạn. Rồi để duy trì vương quốc và quyền lực của mình, ông ta lại cần những công dân tuân phục vào luật lệ, những con người trung thành với quốc gia. Trên phương diện từ ngữ họ có tự do, còn thật sự bên trong, họ chỉ thay đổi người lệ thuộc.”
      “Một sự lệ thuộc sẽ chấm dứt tự do?”
      “Khi bị lệ thuộc bạn phải có lòng trung thành và sự tuân phục vào một cá nhân, một tổ chức, một liên minh, một tôn giáo. Tại thời điểm mà cái trí nép mình giữa ranh giới của chật hẹp của tư tưởng, của giáo điều, của triết hệ, và trở nên thoái hóa thì làm sao có tự do.”
      “Trong một thế giới mà người ta có nhiều lựa chọn để trở thành cái gì đó, một vị trí người Bà-la-môn, như người Sát-đế-lị, cũng không phải là tự do ư?”
      “Bạn khao khát thể hiện mình và muốn trở thành cái gì đó được xã hội công nhận nhưng không được chấp thuận, bạn nghĩ mình thiếu tự do, điều đó đúng. Về cơ bản, mỗi người - một nhân loại - đều có quyền thể hiện mình như nhau; nhưng đó chẳng phải là tự do tận cùng. Khi bạn trở thành cái gì đó, bạn phải có sự lệ thuộc, bất kỳ mọi góc cạnh. Tự do thật sự không là khoảnh khắc của vui thú, của thỏa mãn hay cách thức duy trì mức cảm thụ đó. Mà tự do phải là độc lập ra khỏi khuôn mẫu của xã hội, là không có sự lệ thuộc nào tại cơ bản.
      “Trạng thái tách rời đó có vượt ra khỏi luân lý?”
      “Luân lý, như luật Manu có phải được sáng tạo từ ý tưởng của nhân loại?”
      “Theo tôi biết, luật Manu được mặc khải từ Thượng Đế.”
      “Dù nguồn gốc của nó là gì, tại mức độ của ngôn ngữ, hoàn toàn là một sản phẩm của nhân loại.”
      “Nếu đó là sản phẩm của con người?”
      “Vậy nó là cái khung của xã hội”
      “Như vậy, ý ngài là đạo đức không có giá trị gì? Nếu xã hội vắng mặt các giá trị tốt đẹp nó sẽ trở nên vô luân lý mất.”
      “Cách thức bạn tuân phục vào khuôn mẫu xã hội, mà được gọi bằng danh từ ‘đạo đức’ thiêng liêng, nó không là đạo đức gì cả, nó là một sự bắt chước, một ẩn nấp để trở thành cái gì đó được chấp nhận rộng rãi tại xã hội này. ”
      “Vậy có phải đạo đức là những ràng buộc luân lý mà con người không thể bước qua?”, Chand Bardai hỏi.
      “Có thể hiểu đạo đức là giới hạn do con người vạch ra để chống lại nguy cơ ai đó rơi tõm vào cái hố của xấu xa”, Ananda nói.
      “Ngài nói phải, có giới hạn luân lý thiên hạ mới cổ vũ lẽ thiện và thanh trừng điều ác.”
      “Hôm qua có một con côn trùng đến quấy nhiễu thiền định và tôi đã tìm cách tránh nó mà không sát sinh. Đó là một hành vi có đạo đức, phải không?”
      “Thánh kinh nói bất sát sinh là thuộc về đạo đức”
      “Không sát sinh đúng là một hành vi tốt đẹp. Nhưng qua việc tôi nói với bạn về hành vi thánh thiện của mình là tôi muốn tìm kiếm một sự nể trọng và hi vọng qua đó đoạt được một quyền lực đạo đức. Thế thì, nó không chứa một luân lý nào cả. Một sự ẩn nấp đúng nghĩa. Trong khía cạnh tâm lý, sau khi bạn giũ bỏ hết thảy tham lam, hết thảy sân hận, hết thảy si mê; bạn sẽ có tự do và đạo đức thật sự. Cái tự do và đạo đức đó nảy lên từ nguyên lý Brahman vĩnh cửu. Nó không là tuân phục vào các giá trị được tung hô. Nó phải sinh khởi ngay từ bên trong bạn. Trạng thái đó là một tự do. Tự do vì vượt lên tất cả khái niệm. Tự do vì cắt lìa mọi ràng buộc. Lúc đó, bạn là một thực thể độc lập (chứ không phải tách rời), là một hiện thân của tất cả vạn vật. Bạn có cái biết của một con người nhìn thấy thế giới thật sự giả tạm và từ chối thôi phụ thuộc vào nó.”
      “Đó là trạng thái của độc lập trong chính nó.”
      “Đúng, nó phải sinh khởi.”
      “Và theo sau là trạng thái của im lặng?”
      “Bạn nói im lặng nào? Trở nên im lặng hay im lặng? Nếu tôi trở nên im lặng, thì đó là một phản ứng của vô minh hoặc bất mãn.”
      “Kinh sách miêu tả các vị giác ngộ thường lặng im trước yêu cầu mô tả về thực tại tối hậu.”
      “Lặng im đối lập với cái ồn ào của nói, đúng chứ? Và qua nói, từ ngữ trở nên một phương tiện để truyền đạt, nhưng rõ ràng, nói không là sự kiện. Khi tôi nói chuyện với bạn, từ một ý tưởng khởi đầu cho đến khi những âm thanh được phát ra, từ ngữ đã trói buộc và gói gọn ý tưởng của tôi vào một giới hạn. Tại đó, sự thật biến mất và trở thành một biểu tượng. Tư tưởng Vệ-Đà nói tiến trình của âm thanh trải qua bốn giai đoạn: Mầm mống của ngôn ngữ đầu tiên là para vani, tiếng nói của Brahma hay là ngôn ngữ chung của muôn loài. Kế tiếp là ý tưởng ban đầu của sự kiện muốn diễn đạt, pashyanti vani. Khi ý tưởng trải qua sự hình dung, madhyama vani liền chứa đựng cái kinh nghiệm của ký ức cá nhân. Cuối cùng, lời nói phát ra từ miệng, vaikhari vani là sự kết thúc cho tiến trình diễn đạt.”
      “Thế nên chân lý vĩnh hằng phải là tiếng nói của vô thinh?”
      “Thế giới kinh nghiệm không thể mô tả sự tuyệt đối qua ngôn từ hay tri giác. Vì sự thô lậu của ngôn lời, sự thật tối thượng qua diễn tả của từ ngữ đã là sự thật tương đối. Và sự thật qua tư kiến của một người càng trở nên sai biệt. Ví như tôi nói về nguyên lý Brahman, nhưng người ta không hiểu rõ ‘nguyên lý’ là gì. Họ nắm ngay từ ngữ ’Brahman’ và nói đó là một cái Ngã thường hằng, phản phất bóng hình của Thượng Đế. Vì từ trong kinh nghiệm cá nhân quan sát sự hiện hữu, họ thấy mình có phẩm tính và suy luận rằng, Thượng Đế không khác nào sự phóng chiếu siêu vượt của cái Phàm Ngã.”
      “Như ngài nói, phải cởi bỏ hết thảy mọi khái niệm và biểu tượng mới có thể nhìn thấy chân lý?”
      “Đúng! Thế giới này vốn trụ vào những danh từ của khái niệm: nào là người Bà-la-môn, người Thu-đà-la, bậc vua chúa, người nô lệ, phận đạo sư, vân vân. Từ khởi thủy đến hiện tại, các từ ngữ không ngừng được bổ sung thêm, đến mức có thể liệt kê chúng qua hàng ngàn quyển sách, chứa đầy trong một thư viện đồ sộ nhất. Nhưng điều cần thiết chúng ta nên quan tâm, việc trao niềm tin vào biểu tượng và bị nó dẫn dắt là rào chắn ngăn cản trực nhận về chân lý.”
      “Theo ngài, chân lý có ở đâu và tại chổ nào?”
      “Vào những tháng ngày tôi còn ở tại vương quốc Chintpurni, đầu óc tôi trống rỗng, cô độc và bị hoang mang dày vò vì không thể tìm ra chân lý. Tôi buồn bã lang thang, đi qua nhiều nơi tìm kiếm một sự hứng khởi để có thể tiếp tục con đường của mình. Nhưng hứng khởi lại thoáng đến và đi như cơn gió, chẳng mấy chốc tâm thức tôi héo khô như mãnh đất sa mạc cằn. Cho đến một ngày, sau buổi thiền định bên cánh rừng Du-Duyệt, tôi ngộ ra chân lý có ở mọi nơi, hết thảy.”
      “Và chân lý có tại chổ nào?”
      “Bạn nhìn cái cây đanh xum xuê đằng kia và thử tưởng tượng ngược thời gian, tại điểm khởi đầu, nó là một hạt giống. Chân lý cũng giống như hạt giống, nó có tại điểm khởi đầu.”
      “Tựa như kinh Vệ-Đà đã viết, từ khởi thủy, có một nguyên nhân duy nhất sáng tạo ra vạn vật, và cái vật chất hay linh hồn ban đầu đó được gọi là Đấng Toàn Năng?”
      “Dường như bạn yêu thích khái niệm có một nguyên nhân khởi đầu cho mọi kết quả và giường mối ấy là Thượng Đế? Nếu quan sát và nhận biết một cách thật trọn vẹn, sự mô tả về một Thượng Đế hữu hình chỉ có thể đến từ một hình dung của cái trí bị trói buộc trong truyền thống, sợ hãi và khuôn mẫu. Nhưng bạn cũng có thể dùng từ ngữ ‘Thượng Đế’ đặt tên cho chân lý và nhớ rằng nó không là sự thật vĩnh cữu.”
      “Xã hội này dường như đang trầm lắng và thiếu vắng một chất men kích thích cho sự tiến bộ. Tôi muốn nghe ngài nói về sự hứng khởi, bởi vì tôi đang đánh mất nó. Tôi cần hứng khởi để có thể bắt đầu một tiến trình tư duy sáng tạo vượt lên cái trí của Phàm Ngã.”
      “Tôi hỏi bạn một câu: Bạn nghĩ nguồn động lực sáng tạo của mình là gì?”
      “Có thể là sự hứng khởi?”
      “Tại sao bạn trông đợi vào sự hứng khởi?”
      “Hứng khởi đem đến cho tôi sức sáng tạo không ngừng”
      “Bạn có thể sáng tạo vào ngay lúc này?”
      “Không thể, vì tôi đang đối diện với những phiền não riêng tư.”
      “Bạn hãy nhìn dòng sông rộng lớn kia và tưởng tượng, mặt nước mênh mông của nó là một đại dương. Bạn đứng trên một con thuyền và nhìn thấy bốn bề của biển cả, không bờ bến. Bạn cảm thấy trống rỗng, cô độc và sợ hãi. Trong nỗi hoang vắng dày vò, bạn muốn làm điều gì đó để lắp đầy, để tẩu thoát khỏi nó. Bạn lao xao hỏi rằng ai có thể trao cho bạn phấn chấn? Ai giúp bạn nuôi hy vọng? Ai sẽ khuyến khích bạn vượt lên khó khăn? Và ý nghĩa cốt lõi đằng sau trông đợi của bạn là gì? Có phải bạn đang tìm kiếm một lệ thuộc vào người khác. Và người ấy là: Một hiền triết. Một đạo sư. Một nhà lãnh đạo. Rồi sau sự lệ thuộc bạn buộc phải có tuân phục. Sau tuân phục bạn thấy mình bị chìm nghỉm dưới một cái bóng ràng buộc to lớn. Dần dà, bạn trở nên bất mãn và nuôi dưỡng đấu tranh. Một tìm kiếm hứng khởi dựa trên một kích thích của bên ngoài, của lắp đầy những vui thú, như thế, chẳng mấy chốc nó sẽ làm cho cái trí chai lì và vô cảm. Như hôm nay, tôi biết bạn đi lang thang bên bờ sông để giũ bỏ những muộn phiền, đợi tìm một hứng khởi hiện lên từ cái trí trống rỗng. Bạn nhìn ngắm dòng sông nhưng ký ức xưa cũ của dòng nước nhấn lại chìm trong tưởng tượng. Bạn thấy người đàn bà gào khóc cạnh giàn thiêu xác đứa con, cái tâm hỗn loạn của bạn lại có thêm thương cảm và đau buồn. Bạn tội nghiệp cho người đàn ông đánh cá nghèo tả tơi kiếm sống bên bờ sông và nhận thêm đau khổ từ hoàn cảnh bất thuận của ông ta. Ký ức và ngoại cảnh bạn nhìn thấy, bạn xúc chạm; nối kết, ràng buộc, đang bệnh như tơ nhện. Và tâm bạn cứ thế mà trôi theo những ảnh hình, những xúc cảm, những chấn động. Quá khứ hiện tại nối liền nhau, phiền não theo đó dấy lên không ngừng. Vậy lẽ nào bạn không hiểu, chỉ khi nào tâm thức lắng đọng xuyên qua chuyến hành trình mà không đặt hi vọng vào một kết quả, không một áp lực, lập tức hứng khởi sẽ nổi lên?”
      “Còn sự hứng khởi cho một thế giới?”
      “Thế giới là gì? Có phải bao gồm bạn, tôi và những người khác.”
      “Đúng như thế!”
      “Vậy thì đến khi nào có nhiều người biết tìm sự hứng khởi ở đâu, vòng quay của tiến trình tiến bộ sẽ khởi động.”
      “Khi đó con người sẽ được giải phóng!?”
      “Từ đâu mà giải phóng?”
      “Giải phóng ra khỏi ràng buộc của xã hội như ngài đã nói”
      “Bạn có biết sợi dây liên kết cá thể thành một xã hội làm bằng gì?”
      “Có rất nhiều mối quan hệ trong một xã hội, như gia đình, bè bạn, đạo sư và tín đồ, vua và thần dân.”
      “Tôi không muốn nói đến cách thức liên kết. Thuộc tính của nó là gì?”
      “Quan hệ chiếm hữu”
      “Cơ bản, mối liên hệ của chúng ta vẫn là của chiếm hữu, của thỏa mãn và tạo ra các giá trị trói buộc; dù sự hiện diện của ta có ở tại gia đình, nơi công cộng, chổ đền thờ hay vùng quốc gia. Tại đó, bạn trở thành một kết quả thuộc môi trường sống mà bị quy định phải như thế này và không được phép điều gì đó.”
      “Cuối cùng, sự giải phóng cá nhân vẫn là tối thượng?”
      “Tại trạng thái của sự viên mãn, cá nhân tận hưởng tự do trong chính mình và nhất định chấm dứt mọi đau khổ.”
      “Liệu hướng về cá nhân sẽ vô trách nhiệm với xã hội hay không?”
      “Trong cái tôi chứa đầy đau khổ, bạn giúp ích gì cho xã hội, tuân phục vào nó hay chỉ trích. Khi còn dự một phần vào mớ hỗn loạn đó, thành tích của bạn là góp thêm cho sự thoái hóa. Chỉ cần có trách nhiệm với chính mình, bạn có trách nhiệm với xã hội, ngay tức thì.”
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
      CHƯƠNG 9. KEYA
       
      1. Thống đốc Aibak nhẹ nhàng nhún đôi chân trần vào chậu nước ấm. Ngài khép mắt. Mơ màng. Tưởng tượng đang bay theo từng động tác xoa bóp, mơn trớn của Keya, và nghe bàn tay mềm mại của nàng luồn qua từng khe hở ngón chân, ấn ấn vào lòng bàn chân. OADEO! Một chuỗi âm thanh dài rít lên qua đôi môi hơi thô dày. “Tướng quân!”. Keya khẻ liếc nhìn lên khuôn mặt người anh hùng ngồi trên chiếc giường tô điểm những bông hoa dát vàng. Nàng mĩm cười. Chưa bao giờ nàng cảm thấy vui sướng đến vậy, vì xúc cảm đó được nhân đôi thêm từ khoái cảm của thống đốc, một người Thu-đà-la vĩ đại mà nàng được hân hạnh phục vụ.
      “Có phải nàng thấy rất tự do, Keya?”. Aibak kiêu ngạo cuối xuống. Nâng càm. Nhìn vào đôi mắt thẳm đen của nàng.
      Tự do! Có phải cảm xúc nàng đang có là tự do? Keya không biết. Nàng từng làm người hầu cho một gia đình người Bà-la-môn nhưng không ai nói với nàng tự do là gì, nàng chỉ biết phục vụ theo yêu cầu của chủ. Cho đến một ngày, cánh cổng lớn bên ngoài gã điền chủ đổ sụp và một đội quân kỵ mã của thống đốc kéo đến. Nàng rón rén nhìn qua tấm rèm. Gã Bà-la-môn thường hay la hét với nàng bị tuyên bố xử chết, bị bêu đầu gọn gẽ. Tài sản của gã bị tịch thu cho sự nghiệp tự do, thống đốc nói trên niềm vui sướng của những người Thu-đà-la vốn đã quen cuối đầu. Rồi tất cả nô lệ người Thu-đà-la được tập trung đưa đến dinh thự của thống đốc nghe những lời huấn thị của ngài. Đàn ông sẽ trở thành những người kỵ mã oai hùng, cầm gươm phóng như bay trên lưng những con ngựa đen với thân hình chắc nịch và nhiệm vụ của họ là chinh chiến và giữ gìn tự do cho dân Thu-đà-la. Còn tất cả đàn bà được đưa về chổ thống đốc, họ hứa hẹn có một cuộc đời mới, sự sống của đời người không nô lệ.
      “Bọn Bà-la-môn và Sát-đế-lị đã phải trả giá cho những tội ác của họ. Các người đã không còn là nô lệ. Các người đã làm chủ chính mình. Các người có thể đi bất cứ đâu trong lãnh thổ của chúng ta. Nhưng vì ý tưởng còn dang dở của ta, các người nên ở lại hiến mình cho nhiệm vụ cao cả đó”. Thống đốc hùng hổ tuyên bố.
      Vừa nghe xong lời thống đốc nói, Keya bồi hồi. Sau những thâm trầm lưu lạc. Nàng muốn trở về nhà. Nàng muốn tìm một người đàn ông, kết hôn và trở lại cày cấy trên một mảnh ruộng riêng tư mà nàng được hứa chia. Và nàng tưởng tượng, mỗi sáng, nàng ra suối và đội trên đầu chiếc bình nước, đi trên con đường đất quen thuộc của thôn làng và ngắm nhìn người chồng của nàng đang cày trên mảnh ruộng với con trâu đen.
      “Em muốn trở về nhà?”. Anika, một người chị sống cùng gian phòng Keya hỏi nhỏ nàng.
      Keya ngập ngừng. Nàng khẻ gật đầu nói mơ ước của em là một tự do ở bên ngoài bầu trời với mảnh ruộng của chính mình.
      “Keya ạ! Chị cũng từng từng là một nô lệ như em và chị thấy được cái đời sống cơ cực của mình trong kiếp sống phải cuối đầu trước người khác. Nhưng từ khi thống đốc đến và giải phóng chị ra khỏi gia đình bọn Bà-la-môn độc ác, chị cảm thấy mình chạm được vào tự do. Và cái tự do thênh thang mà chúng ta thụ hưởng đây đến từ đâu? Có phải do vị thống đốc tài tình của chúng ta đem lại, giành lấy từ những người Bà-la-môn và Sát-đế-lị hay không? Có thể em chưa biết, khát vọng lớn lao hơn của thống đốc là không chỉ người Thu-đà-la ở Sialkot, mà tất cả nô lệ ở thế giới này đều phải được giải phóng và tự do như điều tự nhiên của tạo hóa. Và để ý tưởng cao cả của thống đốc trở nên một thực tại; em, chị và tất cả dân chúng của Sialkot phải có trách nhiệm hi sinh những riêng tư, và phải thấy vinh dự cho sự hiến mình không nuối tiếc đó.”
      Keya nhìn đôi mắt sáng ngời niềm tin của Anika. Nàng vui sướng trước những từ ngữ “hi sinh”, “trách nhiệm”, “vinh quang”, tuông ra, mấp máy từ đôi môi rất thu hút của Anika. Nàng khẻ gật đầu.
      Rồi hôm sau, Keya được đánh thức từ rất sớm sau tiếng lắc chuông của người quản lý. Nàng thu dọn, trang điểm. Và được một nhóm vệ binh đưa đến một sảnh đường lớn, cùng một số người hầu khác. Bên trong doanh trại, các tướng lĩnh, quan viên và thống đốc đang ngồi đợi.
      Khi bước chân đầu tiên chạm vào mép thảm, nàng nghe tiếng bộ gõ Mridangam cùng đệm lên một bài lễ nhạc sang trọng. Chưa bao giờ. Chưa bao giờ nàng ở trong cảnh tượng này. Nàng cảm thấy đôi chân hơi run, tâm trạng chơi vơi và đôi bàn tay thừa thải bấu vào tấm áo sari màu đỏ.
      “Hỡi các bạn!”. Giọng rổn rảng của người chủ xướng thốt lên khi bài lễ nhạc vừa chấm dứt. “Những con người được tự do. Hôm nay tôi vinh dự thay mặt cho dân chúng triều đại Mamluk tại Sialkot, tuyên bố phong chức vị Thánh nữ Parvati cho nàng Keya, và bảy người khác trở thành các tiên nữ”. Tiếng vỗ tay dậy vang khắp lễ đường. “Thánh nữ Parvati và các tiên nhân có nhiệm vụ thiêng liêng, giúp đại thống đốc thực hành phép yoga để đạt đến sự hợp nhất của một trí tuệ siêu việt”.
      Keya hồ hởi. Nàng không nghe rõ ràng lời người chủ lễ, nhưng chuỗi từ “trí tuệ siêu việt” vừa kịp đến tai nàng khi lời thuyết kết thúc. Nàng lén nhìn lên. Những khuôn mặt đàn ông trang nghiêm như pho tượng chìm đắm vào một sắc thái trang trọng, thiêng liêng. Giữa đó, thống đốc bước xuống trao cho bảy người, mỗi người một quyển Kama Sutra hướng dẫn cách thực hành yoga âm dương hợp nhất.
      Sau buổi lễ phong thánh nữ, Keya được đưa đến Babaji, ngôi đền nằm trước ngọn đồi cao, bên chiếc hồ nhuộm một màu xanh của nền mây. Vào vai thánh nữ, Keya luôn mặc bộ sari màu đỏ, trên trán vắt mấy sợi dây tua vàng, mũi đính một viên kim cương lấp lánh, và cánh tay len đầy những vòng xuyến leng keng. Nàng có một phòng riêng và những người hầu khúm núm bên cạnh, điều Keya chưa từng dám mơ đến trước đó.
      Hôm đầu tiên đến, Keya thoát chút ngượng ngùng khi vừa nhìn thấy bức tượng thần Shiva và vị phối ngẫu lõa thể trong tư thế giao hợp dựng bên ngoài điện. Còn bên trong thánh đường, tượng dương vật lingam và âm đạo yoni phô bày trạng thái hợp nhất, được đặt trang trọng tại trung tâm. Và trên lingam treo một bình nước, từng giọt theo ống chảy xuống, thấm vào yoni trong một hòa tan của bản thể.
      “Chúng là biểu tượng của sự hợp nhất âm dương, để đạt đến cảnh giới vĩnh hằng”. Vị trưởng lão ngồi kiết già trên tấm da nai, chỉ vào các bức tranh, ung dung nói.
      Keya nhìn xung quanh tường, những hình ảnh đầy màu sắc các vị thần nam và nữ đang giao hợp, giống như những lời được miêu tả trong quyển Kama Sutra mà nàng được trao tặng.
      “Khi người nam và người nữ yêu đương trong một sự yên tĩnh và trang nghiêm, sự giao hợp giúp đem đến một thống nhất của Phàm Ngã và Chân Ngã”. Trưởng lão huấn dụ.
      “Khi mà áp lực của ham muốn tình dục, của tìm kiếm khoái cảm bị trút bỏ, sự ái ân đem đến một hạnh phúc tổn đỉnh và qua đó, Chân Ngã được đánh thức”. Vị trưởng lão chỉ vào bức tranh nam thần Krishna và nữ thần Radha giao hợp; trên đầu thần Krishna vẽ một đóa sen nở. “Năng lực tối thượng của Paramatman trỗi dậy như một đóa sen và nó là cực đỉnh của khoái cảm”.
      Keya ngồi lặng im giữa căn phòng leo léo mấy ánh đèn bơ không đủ sáng. Nàng ngẫm nghĩ, ngoài trời chắc những ánh nắng vàng đang nhảy nhót trên những chòm lá xanh, nhuộm lên cánh đồng xa, phủ lên ngọn đồi cao. Và những chú chim chuyền cành, quyến luyến trên cánh đồng xa, tìm kiếm thức ăn hay hót ca bằng một giọng điều véo von. Bên dốc đồi cỏ, người đàn ông chăn dê đang ngồi bên gốc cây lựu xanh, thả mình trong tiếng sáo quen thuộc giữa buổi trưa hè nắng đọng. Những hình ảnh đó được tái hiện lại từ ký ức mòn mõi, xa xăm của nàng.
      Có nhiều người sống bên trong đền Babaji nhưng tất cả họ đều lặng im. Vị trưởng lão già tóc bạc, răn rụng, ngồi trầm ngâm ngó những bức tượng chìm đắm vào một hồi ức trai trẻ xa xôi. Các cô gái người hầu làm việc theo yêu cầu, đến và đi trong câm lặng. Keya đoán rằng, họ chẳng còn gì để nói với nhau, những câu truyện của quá khứ đã cạn dần, hiện tại chẳng nhìn thấy gì ngoài những bức tường dầy cao vọi. Keya cũng bàn về đàn ông đến đây, thống đốc hay những người thân cận, sở thích và cách chiều chuộng thế nào để họ được thỏa mãn.
      Nàng đã thuần thục các động tác quyến rũ, các phương kế kích thích, các tư thế khoái cảm, được tả trong Kama Sutra. Qua bao cuộc mây mưa, nhưng nàng chưa cảm thấy mình được giải phóng, được tự do, được đạt tới sự hợp nhất của linh hồn qua thể xác. Và nàng cũng chẳng biết, thống đốc sau những lần đến đây đã thoát xác thế nào, nhưng nàng rõ, có nhiều tiên nữ bị thải loại và thay thế. Có lẽ do xác thân của một nô lệ quá ô trượt rồi chăng? Nàng chạm tay lên bầu ngực tròn, thấp thỏi nhìn ánh sáng ngọn đèn bơ leo lét như đang sắp hồi lụi tắt.
      Nàng lim dim. Cái bóng tối tăm của căn phòng không cửa sổ và ánh đèn bơ mấp máy cứ dìm Keya vào giấc ngủ. Nhưng thật sự là nàng không muốn thức dậy. Nàng chẳng thích cảnh trơ ngồi, cô đơn, gượng gạo nhìn cái màn chập chẹng mờ và cảm như nàng bị vây nhốt quanh bốn bức tường trơ lì, dựng đứng chung quanh. Sau mỗi giấc trở mình, nàng lại khép mắt, cố dìm nhận thức lặn vào mãng bóng tối của cô lập. Nàng tưởng tượng đang thả trôi mình trên mặt một dòng sông, trên mặt hồ Gora, và nàng ngữa mặt ngắm bầu trời rộng thênh, ngắm bầy chim xếp hình mũi tên bay lướt qua những cụm mây. Ôi! Thế giới kia rộng lớn biết chừng nào. Rồi nàng buông mình vào dòng nước, rơi theo một lắng đọng chìm. Nhận thức nàng đông đặc tại đó. Âm thanh biến mất. Mùi hương bay tỏa. Thị vật lọt vào bóng đêm. Xúc vị rã tan. Và tại ranh giới của thức và ngủ, xuyên qua những đám mây sáng màu, nàng đưa tay mở chốt, cánh cửa của thế giới mộng mơ bật mở. Tại miền đất tư tưởng vô thời gian. Không hôm qua chẳng ngày mai. Nàng trút bỏ hết lớp ký ức của quá khứ. Nàng quẵng đi những sầu muộn hiện tại. Nàng thả trôi mọi lo lắng tương lai. Và giữa một hư không trời. Nàng biết mình trở nên nhẹ tênh như một giề bông, một đám mây, một làn khói và tự do bay đi, tự tìm đến chổ nàng muốn tới.
      Xuyên trong giấc ngủ hôm qua, nàng mơ bay về quá khứ tuổi thơ. Trên mảnh sân nhỏ trước nhà, nàng và chị Keshi chơi trò ném đá. Keshi vun hòn sỏi lên cao, nàng đếm một hai ba, chị Keshi nhắm chụp và giữ nó trong lòng bàn tay rất thuần thục. Nàng còn nhớ, chị Keshi có nụ cười xin và mái tóc đen, dài chấm lưng như tấm tranh màu nữ thần Sita được tạc vẽ trong ngôi đền thiêng đầu làng.
      Mẹ sinh chị Keshi đẹp như nữ thần Sita. Nàng ôm chồm lưng bà mẹ ngồi bên góc bếp khuấy sữa làm bánh, nũng nịu nói.
      “Con cũng xin đẹp như chị Keshi đấy thôi!”. Mẹ hôn lên trán nàng.
      Chị Keshi phụ nhồi bột kế bên nghe thấy, lúc lắc cười: “Keya đang ganh tỵ kia!”.
      “Mẹ hãy kể cho chúng con nghe lại câu chuyện nàng Sita đi!”
      Vắt lại mấy sợi tóc rối lòa xòa lên tai. Mẹ ngập ngừng gom ký ức, hình dung câu truyện tình của nàng Sita và Rama trong sử thi Ramayana. Rồi đôi mắt mẹ sáng lên sau làn khói như một vì sao đêm lung linh. Giọng mẹ trãi trầm theo câu chuyện tình của nàng Sita và hoàng tử Rama.
      Và sau những giấc mơ, nàng không còn muốn thức dậy.
      2. Nắng chiều dần rụi sau chân núi, buông trả bầu trời ngậm mây một màn đen nhạt nhoè tối.
      Keya lần thứ hai được ra trước đền Babaji nhìn ngắm thế giới xung quanh. Nàng đứng bên bờ hồ Gora tròn vạnh như trăng rằm, nước trong vắt, nhìn thấy tận đáy sâu. Nàng khép mắt. Thả hồn bay theo gió. Tưởng tượng cái bể long lanh kia như dòng nước cam lồ chứa đầy sinh lực của thần Shiva, có sức mạnh thanh tẩy những vẫn đục của thân tâm. Và nàng nhảy xuống. Vùng vẫy. Ngụp lặng. Buông trôi mình trên tấm mặt gương soi. Rồi lúc nàng bước lên, hết thảy thanh thản lại trở về. Nhởn nhơ như mấy bóng chim công còn nán lại ngao du bên hồ, lững thững đi trong màn tối nhấp nha kéo tràn lên những căn nhà gỗ hình nấm.
      Dưới góc cây Kalpavriksha cuối chân đồi, vài người Thu-đà-la tụ tập xếp những thanh cũi to quanh một cái nồi đá lớn. Họ chuẩn bị buổi đốt lửa cầu nguyện Aibak ban cho bình an và tự do.
      Aibak! Aibak! Aibak! Nàng nhìn bầu trời đêm trong vắt, nơi những ánh sao trời lay động lung linh trên nền mây thẳm xanh, và cũng chấp tay cầu nguyện. Keya nghe lời nói của Aibak còn vẵn bên tai mình: “Ta có một việc cần nàng giúp hoàn thành!?”.
      “Thống đốc cứ nói”. Nàng nũng nịu.
      “Có một tên tu sĩ Bà-la-môn vừa lang thang đến vùng đất Sialkot của ta. Nàng hãy tiếp cận và dụ dỗ hắn”. Keya hơi ngạc nhiên nhưng vẫn cuối đầu, tỏ ý lắng nghe và hỏi lại: “Để làm gì?”
      “Gã này đi khắp nơi và giảng thuyết những điều rỗng tuếch. Ta chỉ muốn giết chết hắn, nhưng trước hết, nàng phải dụ dỗ hắn sa đọa vào bể lưới ái tình.”
      “Sao thống đốc tin em sẽ làm được điều này?”. Keya trao Aibak một chiếc cốc vàng đầy rượu.
      “Không ai có sự quyến rũ hơn nàng, Keya ạ!”. Aibak đặt một nụ hôn lên môi Keya.
      “Chàng không sợ em cùng gã sẽ chạy mất sao?”.
      “Nàng không thể thoát ra khỏi bàn tay của ta được”. Aibak cười ma mãnh và uống cạn cốc rượu.
      Keya khẻ mĩm cười.
      Dưới những chòm sao đan khép, dệt xuyên như tấm lưới trời, Keya nhìn thấy nhiều bóng người nối nhau kéo đến cây Kalpavriksha, lần lượt ngồi bao quanh lò đá, nhẫn nại chờ đợi.
      Rồi một hồi tù vang lên. Từ phía sau, trưởng lão trong áo choàng trắng, tay cầm ngọn đuốc rẽ dòng người bước vào. Ánh lửa đỏ hồng nhuộm lên khuôn mặt già một vẻ uy nghi. Lão bước đến gần lò. Chân đi trong một điệu bộ gần như múa. Miệng niệm chú lâm râm. Tay thủ ấn quyết. Tay cầm ngọn đuốc đặt dưới những thanh cũi lớn, đốt bừng phả lên một vùng sáng bập bùng trong tiếng nhạc. Và lời hát của bài ca “Aibak thần thánh” hợp cùng tiếng tù và trỗi lên. Rồi trưởng lão đi vòng quanh đống lửa ba bận, miệng hát:
      “Aibak! Aibak! Aibak!
      Bậc thánh nhân vĩ đại của chúng ta
      Bậc đại sư thông thái của chúng ta
      Bậc thống đốc oai dũng của chúng ta
      Ngài rực rở như mặt trời
      Và từ ánh sáng chói lòa của ngài
      Chân lý, tự do và giải thoát
      Phủ trùm khắp thế gian”
      Giữa lúc bài hát “Aibak thần thánh” dứt một đoạn, những người Thu-đà-la dự lễ đứng dậy, mỗi người lần lượt đổ vào chiếc lò đương cháy đỏ một chút bơ lỏng. Họ ăn mừng cái điểm kết quá khứ nô lệ của mình. Và ngày mai, khi ánh mặt trời hửng sáng dưới chân núi, một cuộc đời mới, rạng rỡ sẽ đến với họ qua sự dẫn dắt của thống đốc Aibak.
      3. Buổi lễ đốt lửa kết thúc từ lâu, những mảnh tàn tro trả lại thời gian, lất lay bay dưới nền trời xanh cao lấp ló những vì sao màu đỏ.
      Trời đêm sắp tàn trên cao.
      Trăng non treo chênh vênh trong màn hơi lạnh vờn đuổi trên đỉnh núi, nhuốm lên đền Babaji một im lặng dài. Nhiều lưu tinh hiện ra từ chòm sao Bắc Đẩu, rực sáng và rơi xuống đỉnh đồi trong một xao động lạ lùng.
      Keya ngồi lặng im giữa chánh điện. Xung quanh, những ngọn đèn rọi sáng leo lét, quét lên mấy bức tượng và tranh một giao hòa sáng tối, tô vẽ thêm cái giao ái thầm kín, phủ lên một tấm màn huyền bí bất hình dung tả. Keya bồi hồi. Nàng hơi lo lắng. Trong một lặng im trầm đọng của buổi tàn đêm, nàng chợt nghe, những vì sao bên ngoài dường như đang xao động, rung rinh, dội về một cảm xúc lạ thường. Keya, mi đánh mất tự tin rồi chăng? Không. Nàng tự trấn an. Chinh phục đàn ông là bản năng của một người đàn bà và huống chi nàng còn là một thánh nữ, một người thuần thục từng động tác làm mọi đàn ông say đắm, theo mô tả của Kama Sutra . Và gã Bà-la-môn kia cũng là một con người, một đàn ông chất đầy những tham ái, rồi nàng sẽ nhanh chóng chinh phục được y. Mà gã tên gì nhỉ? Nàng gượm nhớ. À! Ananda. Gã còn là một tu sĩ lang thang.
      Tiếng bước chân xột xoạt của người tì nữ đi đến chiếc bàn thờ gỗ chạm, cần mẫn rót bơ vào đèn đã đánh thức nàng.
      Keya lần bước ra trước cổng đền.
      Bên ngoài. Phía chân trời đông. Trên nền trời xanh. Một đường mây trắng lượn cong hình rắn vỡ khối như nét chạm bút dở dang của người nghệ sĩ, bắt đầu hửng ra một màu hồng đỏ. Và mặt trời như hạt châu ngọc, từng chút nhích lên khỏi cung điện, treo mình trên đỉnh tháp chói vàng, hừng hực một sinh lực sống mới tươi.
      4. Keya cùng một nữ tùy tùng đi xuống từng bậc thềm đá, và nàng được gã kiệu phu dìu bước lên chiếc xe ngựa màu đỏ chờ sẵn bên ngoài đền. Sau tiếng màn buông xuốt sột soạt. Nàng ra hiệu khởi hành.
      Người phu già rắn rõi vung roi, điều khiển con bạch mã kéo cổ xe rời theo con đường đá gồ ghề, chông chênh đi. Keya cố lắng tai nghe, dõi đếm tiếng chân ngựa gõ lên mặt đường. Nàng hớn hở biết mình đã cách xa đền Babaji, từng bước từng bước.
      Cổ xe lăn bánh vào thị trấn Sialkot. Những tiếng ồn ào trong khu chợ dội vào tai, dường như vừa đánh thức trái tim khô héo của nàng, dội lên, nảy cho một tái sinh động khởi. Keya vén màn nhìn ra mấy cửa hàng tạp hóa dọc hai bên đường. Một người phụ nữ già ngồi bên sạp chuối chín vàng, tươi cười mời đón. Một người đàn ông khắc khổ, cần mẫn trưng bày những rổ đậu lăng, ớt, cà ri, lạc; ngắm nghía vị thế, chọn cách sắp đặt sao cho khách hàng dễ thấy. Một cô gái đặt mấy cái bánh naan lên ngọn lửa hồng, lên chiếc lò cháy vừa đủ, dần nướng chiếc bánh tươi chín ngả sang vàng. Và cô gái khom người, nhẹ nhàng quạt mùi hương sữa chua và trứng bay quanh, kích thích cơn thèm thuồng của thực khách. Keya ngắm nhìn cô gái bán bánh, mĩm cười nghĩ, nàng ta hơi giống chị Keshi. Từ nhỏ, nàng và chị Keshi hiếm khi được ăn chiếc bánh naan thơm ngon như được nướng trên lò kia. Những bữa cơm thường lệ của gia đình được bày trên tấm lá chuối, mẹ từ sau bếp mang ra một nồi cháo gạo, một ít hành sống, chút ớt xanh; và trên bát mỗi người đựng một mẫu bánh mì thô.
      Một bầy dê được người chủ lùa đi, bất tuân, len lõi vào đám khách bộ hành kêu vang làm vài gã lái buôn chú ý, sấn tới hỏi giá. Người du mục nghèo da cháy nắng đen, đứng bên đàn dê, rụt rè giáp mặt trước ba người đàn ông sành sỏi. Sau cuộc ngã giá bất thành. Một trong hai gã lái buôn hậm hực chạy trở về góc chợ, hắn nhận ra một bầy lạc đà mang theo tơ lụa, vải vóc; vừa vượt sa mạc, mệt mõi trở về tới.
      Khu chợ sớm bỗng trở nên huyên náo hơn khi một đoàn kỵ mã võ trang rầm rập phi đến. Người dẫn đầu cưỡi trên lưng con hồng mã lông dày quý hiếm, gìm cương trong một hớt hãi của thị dân. Gã lộ vẻ uy phong qua bộ đồng phục chỉnh tề màu xanh, đai lưng trắng, hùng hổ ra lệnh nhóm tùy tùng bao quanh khu chợ. Rồi gã tuốt gươm thị uy, quát tháo: “Cái bọn thương buôn lười biếng chúng bây! Cái bọn bóc lột người nghèo chúng bây! Đã đến lúc chúng bây phải trả giá cho tội ác từng gây ra”.
      Nhiều người tò mò sựng lại. Dõi mắt chăm chú đứng nghe viên tướng gào thét giữa khu chợ. Tội ác gì cơ? Một bà lão bán hàng chới với, ngả bật ngữa bên quầy cá khô, móm mém thốt lên. Nghe nói thống đốc vị nhân sinh, hay là họ biết mình vừa ra tay giết đúng hai con ruồi. “Bắt hết bọn chúng lại”. Tiếng gã cầm đầu đốc thúc. Thôi chết rồi. Bà lão lồm cồm ngồi dậy. Tay chân loạn choạng. Chưa kịp định thần. Bà nhoáng thấy một toán lính xông vào vơ vét hàng. Và có thêm hai kẻ ập vào lôi cánh tay, kéo bà xền xệch đi.
      Keya ngoái nhìn khu chợ hỗn loạn sau lưng. Tiếng thét thất thanh của người cố tìm cách thoát ra ngoài vòng vây. Tiếng dò hỏi xôn xao của những người tụ tập gần chợ. Từng tốp vội vã chạy tới đằng khu chợ, tò mò xem có biến cố trọng đại gì đương xảy ra. Keya định gọi người đánh xe dừng lại, nhưng con bạch mã cứ theo đà đi tới, rời bỏ tiếng ồn ào, tách xa phần náo nhiệt, lướt đến một góc phố bình lặng.
      Keya nhìn qua tấm màn, một đôi vợ chồng trẻ đang đùa giỡn với đứa trẻ nít trước nhà. Chùm lục lạc theo bước chân tập tễnh của nó reo leng keng, rung rinh theo tiếng vỗ tay động viên của người mẹ. Và nàng mĩm cười nhìn đứa bé, tràn đầy một phấn khởi.
      5. Bóng nắng tàn ngày chỉ còn lại chút ánh sáng mờ nhạt in lên dòng sông Chanab, nơi một con thuyền chở khách lướt lên mấy lượn sóng nhấp nhô. Bên bến sông, một đàn bò nhởn nhơ gặm cỏ trên cánh đồng hoang, cạnh người đàn bà lúi cúi bó từng nhóm cỏ khô, rồi chất đống lại.
      Keya cho dừng xe. Nàng đứng trên mỏm đá. Dòng nước bên dưới nhuộm lên bóng người con gái đang xỏa tóc. Đôi môi đỏ hồng khấp khởi một đóa hoa vừa mới chớm. Rặng trúc đây rồi, tội gì ta không thong thả hít thở bầu không khí trong lành này. Thật tự do. Nàng thét lên rồi bật cười thành tiếng.
      Nàng bước lững thững bước dọc theo bờ sông. Đến cạnh một ngôi đền bỏ hoang, nằm tại khu rừng trúc gãy ngã đang lẫn chìm vào vùng ánh sáng nhập nhòe tối. Nàng nhận ra một tu sĩ ngồi thiền định bên trong và đoán chắc là Ananda. Nàng bước đến, nhẹ nhàng vén màn tơ nhện giăng đầy trên thân cột xiêu vẹo. Dưới pho tượng thần Shiva, Ananda trầm mặc thiền định giữa đống gỗ mục nát.
      “Thiếp đến đây dâng thực vật cho chàng, người tu sĩ bảnh bao”, Keya vừa thắp đèn lên và nói trong nụ cười.
      “Ta chỉ cần thực vật, không cần đàn bà và nàng hãy trở về đi”, Ananda nói.
      “Chàng hãy nhìn đi!”, Keya chỉ ra ngoài bầu trời đêm, “một người Bà-la-môn từ bi sao lại đành lòng để một người phụ nữ có lòng tốt ra về trong đêm tối.”
      Thấy Ananda lặng im. Keya bước lại gần, nhìn sát lên khuôn mặt thanh tú của chàng, “nếu trút bỏ bộ áo thầy tu này đi, chỉ với đôi mắt sâu thẳm chứa đầy yêu thương kia, không biết có bao nhiêu cô gái sẽ ngã vào lòng chàng”. Nàng vén mái tóc lòa xòa rớt lên trán Ananda, “tu hành làm sao thú vị bằng làm tình và ăn ngon, chàng không hiểu ư?”
      Keya hôn lên tai Ananda, “như cái vầng trăng lưỡi liềm kia, một mảnh cô đơn làm sao đẹp bằng buổi tròn trịa của hôm rằm”, rồi sờ lên má chàng, “nụ hôn ngọt ngào của một thánh nữ không biết bao đàn ông thèm khát, thiếp tặng chàng tình yêu nồng nàn đó mà không lấy một đồng xu.”
      Ananda đứng lên và nói: “Nàng hiểu thế nào là tình yêu?”
      “Ôi! Người đàn ông của thiếp”, Keya xoay mình theo tư thế một điệu múa, “lời nói của chàng thật ngọt ngào”, nàng ngập ngừng, “tình yêu là gì ư?”.
      “Khi môi chàng chạm vào môi thiếp trong cái thèm khát nhất. Khi môi thiếp chờ đợi vành môi kia trong một hiến dâng rất nồng nàn. Khi đôi tay chàng nhẹ nhàng vuốt ve lên thân thể này trong tâm trạng của một kẻ cô đơn cần điểm tựa. Khi hai đầu lưỡi mềm mại kết nối nhau, trao trọn hết yêu thương vốn có của mình. Khi hai thân thể trần trụi cùng quấn vào nhau tìm hợp nhất, thành một, thành tuyệt đối, thành tổng thể mà bỏ quyên hết mọi phiền lụy bên ngoài. Với thiếp, đó là một tình yêu khả dĩ”. Ananda bật cười, “tình yêu không phải là thỏa mãn dục vọng”.
      Keya hơi ngập ngừng: “Thế thì như người đàn ông đầu tiên của thiếp, tuy đã không còn gặp lại, nhưng hình ảnh ngày cùng chàng vui vẻ dưới ánh trăng sao, bên dòng sông, giây phút thèm khát chạm mặt nhau dù trong vài phút giây ngắn ngủi”. Ananda nghe xong lại xua tay, “tình yêu không phải là vui thú hay hồi tưởng lại hình ảnh hân hoan của ký ức”.
      Keya nhìn Ananda trong ánh mắt nở hoa, “Hay cũng như từ giây phút chạm mặt chàng tại đây, trong trái tim mềm yếu này sẽ chứa hình ảnh của đó. Rồi thiếp sẽ mong nhớ, thèm khát được khoát tay chàng dạo chơi bên bờ sông Chanab, nghe tiếng rừng trúc rì rào ca ngợi tình yêu của hai ta”. Ananda liền đáp lời, “tình yêu không là sự giải trí”.
      Và nàng chợt reo lên: “Thiếp biết rồi! Tại khoảnh khắc nhận ra sự hiện diện đầu tiên, thiếp nhận ra chàng có rất nhiều thu hút. Và sự thu hút đó là tình yêu”. Ananda lại lắc đầu, “tình yêu không thuộc về tư tưởng hay cảm xúc”.
      Nàng hơi bất mãn nhìn Ananda, ngập ngừng suy nghĩ rồi lại nói: “Hay thiếp sẽ trở thành vợ chàng, phục vụ và dâng hiến hết thảy những gì mà thiếp có thể”. Ananda lại từ chối, “tình yêu không phải là sự chiếm hữu, nô lệ và nuông chiều”.
      Bất chợt nàng giẫy đẩy, “nói chuyện với chàng thật vô vị”, rồi phụng phịu, “hay tình yêu là cách thiếp biết về người chồng của mình, nấu những món ăn chàng thích, trò chuyện những vấn đề chàng muốn đàm luận, múa vũ điệu chàng cần xem, hát bài hát chàng hay nghe”. Ananda nhẹ nhàng trả lời, “tình yêu không là hiểu biết về một con người, lượm lặt những sở thích của đối tượng, hay tìm cách thích ứng với cá tính của anh ta.”
      Rồi nàng nói như gào lên, “chàng nói đi, thế tình yêu là gì?”. Ananda mĩm cười, chỉ tay lên bầu trời đêm lao xao tiếng gió rì rào. Tình yêu là một sự nhìn ngắm từ trong sâu thẳm của con tim chứa đầy yêu thương, như mặt trăng dù tròn hay khuyết, ta luôn biết rằng nó luôn trong sáng, luôn mới mẻ, luôn đầy đặn. Và chỉ khi tình yêu được duy trì như khoảnh khắc rung động ban đầu, sẽ không có một thoái hóa nào xảy đến làm đứt gãy nó, kết thúc nó. Tình yêu đó là một sự thật vĩnh cữu, không thoái chuyển.
      Nàng nguýt dài. “Chàng làm như cả thế giới này đều mê muội còn chàng thì tỉnh táo”. Ananda lặng im, nhưng nàng chưa thôi, lại chất vấn: “Tại sao các thầy tu lại thờ phượng các vị thần trong tư thế giao hợp?”
      “Tình dục, từ lịch sử, là một yếu tố quan trọng trong đời sống con người. Những thanh niên và cô gái lớn lên điều quan tâm đầu tiên của họ là gầy dựng một gia đình, sinh những đứa con, cái mà được gọi như kết quả của một tình yêu. Sự hấp dẫn của những cá thể khác giống dường như không thể cưỡng lại được, họ tò mò không biết cốt lõi của tình dục là gì và không ngừng suy tưởng về nó. Có những nơi tình dục được hạ xuống thành một loại gì đó rất ghê tởm, một thứ đồi trụy, mặc dù người ta đối diện với nó hằng ngài, săn tìm nó mọi lúc. Có những nơi tình dục được nâng lên thành cái gì đó rất thiêng liêng, họ gắn các bộ phận tình dục vào pho tượng các vị thần, gọi nó lingam và yoni một cách rất tôn nghiêm. Sự thật, tình dục không là gì ngoài cảm xúc và sự tưởng tượng của cái trí. Sự kích thích của tình dục chẳng qua đến từ các khái niệm được dựng lên theo từng phần nào đó trên bộ phận của một người nam, một người nữ. Để tư tưởng không còn bị chi khối bởi các khái niệm tình dục, các tín đồ giáo phái Shakti không ngừng quán tưởng hai vị thần trong thế giao hợp, hay các nữ thần dakini lõa thể. Rõ ràng, chẳng có mối giao hòa âm dương, hợp nhất thể xác trong giao hợp như người ta suy diễn.”
      Keya hơi bất an, “như chàng nói, những gì viết trong Kama Sutra là vô ý nghĩa?”
      “Còn tùy theo người ta dùng nó vào việc gì, như để giải thoát khỏi ám ảnh tình dục thì rất vô ích.”
      “Nghĩa là thiếp cũng bị lừa gạt?”, nàng chơi vơi vịn tay vào thân cột đình.
      “Mọi thứ vẫn còn chưa muộn lắm”, Ananda nói.
      Keya bất chợt quỳ xuống, chạm tay vào chân Ananda, nghẹn ngào nói: “Xin ngài cứu vớt thiếp ra khỏi những bất an”.
      “Nàng hãy đi về hướng Delhi, rồi sau đó đến Deccan.”
      “Vì sao phải đến tận miền nam Deccan xa xôi?”
      “Nó sẽ là một nơi an toàn dành cho tất cả chúng ta”
      “Chúng ta”, Keya hơi vui mừng hỏi lại, “chàng rồi cũng sẽ đến Decan?”
      “Tôi cũng sẽ đến nhưng đó là chuyện của vài năm sau?”. Ananda bước ra ngoài nhìn lên bầu trời. “Nàng hãy ra xe kẻo không còn kịp nữa!”.
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
       
      CHƯƠNG 10. AIBAK
       
      1. Thị trấn Sialkot vào mùa với những cơn mưa phùn nhẹ tênh như màn sương buổi sáng.
      Trên đường phố nhoáng ướt, dấu tích của một cuộc chiến tranh tàn phá còn đọng lại qua những mảnh quân phục rách, những binh khí gãy gọn, những tàn tro rụi cháy. Qutb-ud-din Aibak nhìn quanh, gã thốt lên và bật cười. Đó là sức mạnh không thể cưỡng lại của đoàn quân Mamluk hùng dũng.
      Aibak quất ngựa chạy nhanh về hướng đóng quân. Ngoài cổng doanh trại, lá cờ hình rắn naga màu đỏ treo bay phất phới. “Các ngươi hãy chuẩn bị!”, viên chỉ huy ra hiệu. Những thanh niên Thu-đà-la mới đến từ nhiều nơi, chuẩn bị gia nhập quân Mamluk đứng xếp thành hai hàng dài, mỗi người trong họ cùng biểu lộ một vẻ mặt đầy hứng khởi.
      “Hỡi những bạn bè Thu-đà-la của ta! Hãy trút bỏ bộ y phục cũ kỹ của các ngươi và trầm mình xuống hồ nước xanh trong để thanh lọc tâm hồn. Khi các ngươi bước lên bờ phía bên kia, lập tức thoát kiếp nô lệ và trở thành chiến binh dũng mãnh nhất của đoàn quân Mamluk”, Aibak nhảy xuống ngựa, vừa đi vừa hô to.
      Những người Thu-đà-la lần lượt đi xuống hồ, ngâm mình thanh tẩy. Rồi từng người bước lên, nhận bộ quân phục xanh và thanh kiếm vẽ hình rắn naga màu đỏ trên vỏ được trao ngay tại đó.
      “Nguyện thề dùng máu phụng sự các Sultan!”, một viên chỉ huy tuốt gươm hô to, hướng dẫn những tân binh cùng làm theo chỉ dẫn.
      “Những chiến binh Mamluk thiêng liêng chúng ta có nhiệm vụ cao cả là giải phóng nô lệ, đem tự do đến cho người Thu-đà-la ở khắp nơi”, Aibak nói trong vẻ mặt biểu lộ đầy xúc cảm.
      “Chúng ta rồi cũng đến ngày nở mày nở mặt”, một tân binh thì thầm với người bên cạnh. Và bạn anh ta đáp lại: “Bọn Bà-la-môn và Sát-đế-lị rồi phải trả giá cho những gì chúng làm”. Một người khác chen vào, hiên ngang nói: “Ta muốn nhìn thấy cái ngày bọn chúng bị chà đạp dưới chân ta”.
      “Đúng! Các bạn nói thật đúng. Thế giới này chỉ có tự do và sung sướng khi bọn người Bà-la-môn sạch bóng”, viên chỉ huy hùng hồn nói.
      “Chúng ta phải thay mặt Thượng Đế thanh lọc thế giới. Phải quét sạch tàn dư Vệ-đà. Phải đạp đổ đền đài làm mồ chôn bọn tu sĩ Bà-la-môn. Phải lấy hết mọi tài sản mà bọn quý tộc Sát-đế-lị có được từ bóc lột người nghèo”, thống đốc Aibak tuốt gươm chỉ lên mặt trời cao.
      Rồi Aibak dẫn đoàn quân tiến về thị trấn Sialkot, bao vây một ngôi đền, bắt hai vị trưởng lão kéo ra trước sân.
      “Hãy nói xem cái lão già to mồm này từng nói gì với các người!?”, Aibak chỉ gươm vào mặt người trưởng lão ngồi bẹp run rẩy, cười ha hả.
      Một tên lính xông tới đạp trưởng lão nằm xuống đất, rồi dẫm giày vào mặt: “Bọn chúng nói người Thu-đà-la sinh ra từ phần dưới của Thượng Đế”.
      “Bây giờ hãy nói xem, người Thu-đà-la sinh ra từ đâu?”, thống đốc Aibak hét lên.
      “Từ…từ gót chân…của Thượng Đế…”, vị trưởng lão thì thào.
      “Mẹ kiếp!”, Aibak gầm lên, “Hãy hành hình hai tên Bà-la-môn ngoan cố kia cho ta!”. Rồi một tốp lính áp lên, kéo hai vị trưởng lão mang đi.
      Đại sư Kassapa lục tục đi theo đoàn quân từ đầu, đến giờ mới lên tiếng: “Thật ra chúng ta cũng không thể xử tử được hết cái bọn bóc lột đó. Thống đốc nên cho họ học tập giáo lý của hạ thần rồi cải đạo. Sau đó kẻ nào không phục mới kéo ra xử cũng chưa muộn.”
      “Cải đạo”, thống đốc bật cười, “ý ngươi rất hợp với ý ta”, “cải đạo”, “ha! ha! ha!”.
      “Đại tướng quân Muhammad Ghori đã từ trần, thưa thống đốc!”, tiếng tên lính vừa chạy vừa gào khóc làm Qutb-ud-din Aibak chú ý.
      “Thật không?”, “Tin tức rất chính xác”, “Mau về doanh trại và chuẩn bị ngựa để ta quay về Ghazni”, thống đốc Aibak quát cận binh và dẫn đoàn quân mau chóng rút khỏi ngôi đền.
      2. Vừa hay tin thánh nữ Keya bỏ trốn sang Delhi, thống đốc Aibak tức tốc sai người áp giải Ananda về thị trấn Sialkot.
      “Mi là tên Bà-la-môn đi nói nhảm khắp nơi đó ư?”. Gã gầm gừ nhìn Ananda. Tỏ ý khinh bỉ người mà gã cho rằng khốn khổ và dơ dáy hơn cả bọn nô lệ vừa mới đến.
      Ananda bật cười: “Tôi là người Bà-la-môn thì đúng, còn nói nhảm thì không”.
      “Được, ta cũng muốn thăm dò mi chút ít. Nếu đích thực mi là kẻ lừa bịp ta sẽ chẳng còn mạng để trở về”, Aibak tuốt gươm kề lên cổ Ananda cười hả hê, “nói đi, công lý thuộc về ta hay bọn Bà-la-môn?”.
      “Một người trộm cắp. Y bị bắt và phạt tù. Qua sự trừng phạt, bạn nói đó là công lý, đúng chứ?”, Ananda thản nhiên nhìn Aibak và nói.
      “Đúng, nhưng công lý chỉ thị hiện khi có một phán xét công bằng và thích đáng.”
      “Theo bạn, lý do nào để thế giới này có đầy những kẻ trộm?”
      “Ta cho rằng, bao giờ còn phân chia giai cấp, nghèo đói và cai trị bất công; thế giới sẽ chưa hết những xấu xa”. Aibak hùng hồn nói.
      “Vậy thì, cái gì là tác nhân để kết thúc mọi tội lỗi?”. Ananda hỏi lại.
      “Ta có ý tưởng về một thế giới bình đẳng, tại đó mọi con người được thụ hưởng một đời sống cân bằng, một công lý cân bằng, một tự do cân bằng. Và khi nhu cầu được đáp ứng cho hết thảy, mọi tội lỗi sẽ chấm dứt và nhân thế sẽ trở nên một thiên đường của hạnh phúc”. Tướng quân Aibak nói trong một giọng chứa khát vọng đầy.
      “Theo bạn, hạnh phúc sẽ có được từ sự đáp ứng những nhu cầu về vật chất, về tuận phục các kỷ luật?”
      “Đúng thế!”
      “Bạn nuôi một bầy dê trong chuồng. Mỗi ngày bạn đều đặn ném cỏ và nước uống cho chúng, bạn nuôi sống chúng, và bạn gọi đó là một sự kiện của đáp ứng những nhu cầu và tuân phục?”
      “Mi mô tả gần đúng!”
      “Nhưng bạn quên rằng, không giống một bầy dê, con người chứa đầy những tham lam về vật chất, về sở hữu quyền lực; những sân hận vì bất mãn, vì ganh ghét, vì muốn trừng phạt; những si mê vì thói săn tìm vui thú. Và trong một xã hội chứa đầy những cái ngã bất toàn như thế, làm sao có thể đi đến một giai đoạn của thế giới mà được gọi tên là vĩnh cửu?”
      “Ta cho rằng qua những rèn luyện, qua những kỷ luật khắt khe, qua những trói buộc, qua những răn đe, qua những đào thải; không xa, sẽ đến một ngày thế đồng dạng trong một trật tự.”
      “Vậy thì, bạn phải duy trì nó bằng hành động áp chế trước tiên.”
      “Để xã hội trở nên tiến bộ hơn, rất cần thiết có một cứng rắn.”
      “Và quyền lực tối thượng là một phương tiện của tiến bộ, đúng chứ?”
      “Quyền lực là cơ bản, răn đe là tổng thể.”
      “Bạn có biết dùng áp chế gieo sợ hãi lên kẻ khác sẽ gặt hái điều gì không?”
      “Sự tuân phục triệt để”
      “Bạn chỉ nói đúng một nửa. Người ta tuân phục vì sợ hãi hay nghĩ bạn bao bọc họ trong ranh giới của an toàn và tạo ra sự thỏa mãn. Nhưng một khi bạn đánh mất khả năng ban phát và bảo vệ, sự trung thành sẽ biến mất; rồi trong mắt họ, bạn là tội đồ của giả dối. Bạn nên nhớ rằng, phục tùng và bất mãn luôn đồng hành nhau, vì trong một tuân phục có tham muốn quyền hành bị đè nén, có hi vọng trở thành cái gì đó bị ngăn trở. Trong hoàn cảnh bất lợi, kẻ bị nô lệ phải nhẫn nại phục tùng, hắn im lặng nằm chờ đến khi người chủ suy yếu thì sẽ bật dậy với tất cả sức bình sinh vốn có.”
      “Vậy thì, thế giới đó sẽ có giáo dục triệt để giúp họ tin vào một sức mạnh dẫn dắt đến tương lai có sự thật vĩnh cửu.”
      “Bạn có tưởng tượng được tôn giáo và các vị đạo sư nhận mình có sứ mệnh dẫn dắt con người đi đến chân lý, đến tự do, đến giải thoát từ khi nào?”
      “Ta không rõ nhưng có lẽ từ đã rất lâu?”
      “Vậy xã hội đã có chân lý thật sự chưa?”
      “Ta chẳng thấy tiến bộ nào cho tất cả”
      “Như bạn nói, tôn giáo và các bậc đạo sư đã không ngừng thuyết giảng về đạo lý làm người, về cách xử thế, về các triết thuyết sâu xa. Họ giáo dục tín đồ qua hệ thống, qua con đường, qua giáo điều, qua giới luật, qua lời răn đe về thiên đường và địa ngục; hi vọng từ tuân phục và sợ hãi, nhân loại có thêm một tiến bộ về tinh thần nào đó. Và như bạn nhận ra, hôm nay là tái hiện của hôm qua bằng bất mãn, bằng xung đột, bằng đấu tranh. Thật sự là không có một trạng thái nào của sự thật hiện diện tại đây cả. Lỗi lầm ở tại đâu?”
      “Ta nghĩ tôn giáo thất bại do thiếu công cụ của chính trị dự phần”
      “Tôn giáo và chính trị không là nguyên nhân cốt lõi ngăn trở chân lý thị hiện, cho dù bạn có ý tưởng kết hợp chúng để có một sức mạnh toàn năng. Lịch sử thị hiện thấy, con người đã tự nguyện hiến dâng niềm tin của mình cho quyền lực và chịu sự áp chế, sự tuân phục, sự dẫn dắt vô minh, rồi để tư tưởng trở nên dần thoái hóa. Và không còn nhận ra sự đau khổ tù túng trong vòng thiên la địa võng mà chúng ta quẫy đạp đòi tách thoát là do tự mình giăng mắc lên, chứ nào phải đến từ một nguyên nhân bên ngoài.”
      “Sự lộn xộn là do con người thiếu trật tự”, Aibak quả quyết.
      “Vậy theo bạn trật tự là gì?”
      “Họ phải sống theo khuôn khổ, suy nghĩ theo định hướng. Bất kỳ ai bước ra khỏi đó sẽ bị nghiền nát bởi kỷ luật. Đó là trật tự.”
      “Trong cái kỷ luật gò ép bên ngoài, nó kiềm nén biểu lộ cảm xúc, phát ngôn và hành động. Nhưng bên trong lại chứa đầy sợ hãi, thù hận, xung đột và tàn phá.”
      “Ta không cần biết cái bên trong là gì? Sự tuân phục dù bên ngoài cũng đủ duy trì một trật tự.”
      “Sự tuân phục không đem đến chút trật tự nào.”
      “Theo mi, tại sao tuân phục lại vô trật tự?”
      “Bản chất con người vốn ưa thích tự do, nên dù sống trong một đời sống nhu cầu được thỏa mãn, tại ranh giới chật hẹp của hành vi và suy nghĩ đã có mầm mồng của vô trật tự.”
      “Ta chưa hiểu ý mi nói!”
      “Cái trật tự như ngài nói được thiết lập trên định chế, hay pháp luật đúng chứ?”
      “Đúng như thế”
      “Vậy ai là người thực thi định chế đó?”
      “Tất nhiên, ta sẽ có những con người ưu tứu của đế chế Mamluk thực thi nó.”
      “Họ sẽ có quyền lực tuyệt đối phải không?”
      “Giống như ý của mi nói”
      “Ai sẽ quan sát tiến trình tiến hóa diễn ra như ý tưởng ban đầu của nó?”
      “Tập thể sẽ kiểm soát”
      “Bạn định nghĩa thế nào là tập thể?”
      “Một nhóm người cùng chức năng hay nhiệm vụ”
      “Tại sao bạn lại muốn kiểm soát tiến trình dưới quyền lực một tập thể? Có phải là do bạn không hiểu rõ chất lượng hành động của một cá thể?”
      “Trong giai đoạn chuyển tiếp, tập thể kiểm soát sẽ là tối ưu.”
      “Nhưng hành động tập thể sẽ là một phương cách lẫn trốn trách nhiệm cho những cá thể.”
      “Vì sao?”
      “Sẽ có những người hiểu rằng tập thể là một trừu tượng và không có kỷ luật gì dành cho nó. Nên chắc chắn người ta sẽ ẩn nấp vào đó và trục lợi.”
      “Ta sẽ có những con người trung thành”
      “Trung thành có nghĩa là tuân phục. Nhưng bên dưới sự tuân phục chứa đầy bất mãn, ganh ghét và đó là cớ để con người tạo xung đột bên trong và bên ngoài. Tuân phục còn làm thoái hóa cái trí sáng tạo, nó sợ hãi cái mới và thích nô lệ vào cái cũ kỹ.”
      “Ta không cần biết mầm mống là gì. Thế giới trong ý tưởng của ta khởi đầu bằng kỷ luật và kết thúc trong một tự do tận cùng.”
      “Vậy thì có khác biệt gì so với tiến trình của một tu sĩ khổ hạnh suốt đời đứng một chân để kiếm tìm hơi thở Brahman và nguyên lý ấy chỉ hiện diện thông suốt ở bên trong. Tại sao không là tự do ngay tại lúc khởi đầu?”
      “Khi con người chưa được thuần hóa, tự do rộng rãi sẽ tàn phá đạo đức.”
      “Bạn nên biết rằng tự do không thuộc về cảm xúc hay trải nghiệm!”
      “Trạng thái tự do theo ý kiến của mi là gì?”
      “Tự do phải là không phụ thuộc vào bất cứ thứ gì”
      “Thế là đạo đức cũng bị đánh mất!”
      “Bạn nghĩ đạo đức rốt cuộc là gì?”
      “Là điều tốt đẹp mà con người nên hướng đến”
      “Bạn nghĩ tự do tận cùng sẽ phải dẫm đạp lên luân lý?”
      “Tuy mi không nói ra, nhưng ý nghĩa của lời lẽ đó bao hàm cả sự kiện vượt qua giá trị truyền thống.”
      “Không ai khác ngoài con người sáng chế ra các giá trị”
      “Mi không ưa thích sự lệ thuộc, vậy để người khác tin vào lời khuyên của mi há chẳng phải khởi đầu cho một sự nô lệ ý thức hay sao?”
      “Tôi chỉ gợi ý và chẳng mong muốn bạn trở thành cái gì đó thuộc sở hữu của tôi, một đệ tử chẳng hạn. Và tôi không trục lợi từ bạn dù về tinh thần hay vật chất. Vậy thì, nó chẳng lệ thuộc gì cả.”
      “Chẳng phải mi cũng đi khất thực hay sao?”
      “Theo bạn ý nghĩa của sự kiện khất thực là gì?”
      “Người cúng dường thức ăn cho các thầy tu Bà-la-môn sẽ được phước báu sau kiếp tái sinh, đúng không”
      “Bạn hiểu gì về phước đức?”
      “Nó là một sự vay trả. Cho rồi sẽ được nhận.”
      “Bạn hãy cầm lấy cái bát gỗ của tôi và đi xin về chút thức ăn!”
      “Ta việc gì phải làm cái việc hạ tiện đó cho ngươi”
      “Quan từ ngữ ‘hạ tiện’ của bạn, đã thấy khất thực là hành động diệt trừ tính kiêu ngạo tại bên trong tôi.”
      “Một thầy tu có gì để kiêu ngạo?”
      “Lòng kiêu ngạo không chỉ sinh khởi từ tiền bạc hay quyền hành”
      “Với ta, thầy tu chỉ là kẻ lười biếng và nói láo”
      “Theo bạn, nói như thế nào sẽ là sự thật”
      “Thẳng thắng như ta là nói thật”
      “Lời nói đó của bạn là tự biện, giáo điều và bất tự tại.”
      “Vậy, giữa lời khuyên của mi và những đạo sư rẫy đầy ngoài kia có gì khác nhau?”
      “Người nào không yêu cầu tin tưởng vào sự dẫn dắt của đạo sư, không quan trọng việc thờ phượng một quyển kinh, một pho tượng để hòa nhập vào giải thoát. Và phải hết lòng khuyến khích người khác nổ lực tự thân tìm kiếm sự an tịnh, ông ấy mới là bậc đạo sư thực thụ.”
      “Mi vừa nhận mình là một đạo sư đấy thôi?”
      “Khi tôi dùng chiếc bình đất múc nước từ dòng sông, nước trong bình đã không phải là sông. Chữ ‘đạo sư’ kia là khái niệm diễn tả cho bạn hiểu rõ vấn đề. Đừng nên bám vào nó.”
      “Thật chán ngấy khi nói chuyện với mi”, Aibak gầm lên, “ta có một nơi dành sẵn cho mi”, rồi chỉ tay ra nơi giàn hỏa vừa được xếp xong bên ngoài cổng doanh trại.
      Rồi hai tên lính nghe lệnh Aibak xông tới, kéo Ananda lên giàn hỏa, trói lại và châm lửa đốt.
       
       
       
       
      CHƯƠNG 11. TÔI
       
      1. “Putalipa, hãy chậm lại và đợi mình”, Upanaha mệt nhọc thét to từ sau lưng tôi.
      “Nhanh lên nào Upanaha! Chúng ta sắp trễ giờ đến lớp rồi đấy”, tôi quay lại nhìn Upanaha và thúc giục, “hôm nay đạo sư Ananda đến thuyết giảng, bạn và mình không thể bỏ lỡ cơ hội gặp mặt ông ấy”.
      Khuôn mặt gầy ốm của Upanaha thoáng chút tươi cười. Tuy có chút gì gượng gạo nhưng nhìn khá hơn lần đầu tiên tôi gặp y bên bờ sông Godavari. Lần đó, Upanaha thất thểu như một người sắp chết, y đã đi suốt ngày đêm từ Delhi đến Rajahmundry mà không nghỉ ngơi. Cho đến khi hội ngộ cùng đám người di cư chúng tôi, y ngã xấp xải xuống nền cát, miệng không khớt thều thào: “Aibak. Quân Mamluk. Bọn chúng đến rồi. Chạy mau đi”.
      Upanaha kể với chúng tôi, y chạy trốn khỏi trại tập trung của quân Mamluk, nơi nhốt rất nhiều người thuộc tầng lớp quý tộc nhưng Qutb-ud-din Aibak không hề quan tâm cung cấp thực phẩm để họ sinh sống. Upanaha nói y là nạn nhân của cuộc đại thanh lọc, mà đại đế Sultan của vương triều Islam vừa được dựng lên tại Delhi cho tiến hành.
      “Họ, những người chịu cải đạo được chuyển sang làm khổ sai còn có chút lương thực; còn những tri thức Bà-la-môn như tôi, hay giới quý tộc đều bị bỏ đói cho đến chết”, Upanaha nói qua đôi mắt chứa đựng đầy hãi hùng, “trong một cuộc bạo loạn đẫm máu, tôi và vài người khác bỏ chạy ra ngoài, rồi nhắm hướng miền nam Deccan đi thẳng mà không dám ngoái nhìn lại.”
      “Tại sao bạn chạy về Deccan mà không chạy về phía đông cho gần hơn, đó cũng là một nơi mà quân Mamluk chưa xâm phạm đến?”, tôi tò mò hỏi y.
      Upanaha lơ đãng nhìn dãy hàng dừa chìm nhòa trong màn hơi nước của dòng sông Godavari đang phất phả, “tôi từng nghe nói hoàng đế Prithviraj Chauhan theo chân Đạo sư Ananda chạy về hướng Deccan, và tôi quyết định đi về hướng đó.”
      Tôi gật gù đồng cảm với Upanaha, vì tôi cùng gia đình may mắn rời Dehil trước khi quân Mamluk chiếm trọn được vương quốc Chauhan. Tôi nhìn dáng vẻ nằm ngủ mỏi mệt của y, cái thân xác mềm yểu và khô cạn kia tựa như chẳng còn một linh hồn nào trú ngụ trong đó. Sợ hãi. Tổn thương. Mệt mõi. Chúng dìm cái tâm tưởng bé nhỏ vào tận đáy sâu thẳm của vùng tối tăm không sự sống.
      Bên ngoài căn lều tạm, hoàng hôn hiện lên sau bờ bên kia sông Godavari. Trên con nước dập dềnh, ánh nắng muộn chiều rãi lên một dãy sáng lao xao, vuốt chạm lên con thuyền nằm ngủ bên bãi cạn chút hơi nóng của ngày tàn. Tôi bước dần ra bãi cát, tận hưởng cái vùng thanh bình trầm lặng hiện lên, sinh khởi, điều mà trong suốt thời thơ ấu tôi chạm mặt mà không tận hiểu hết ý nghĩa của nó. Bên kia bờ Kovvur. Một trận gió như từ ngoài cù lao, từ một vùng thẳm xanh thổi tới rì rào; chạm vào mớ ngư cụ được ngư dân bỏ lại trên thuyền rít lên lồng lộng.
      Tôi từng có mơ ước được hành hương dọc theo Godavari, con sông Hằng phương Nam. Đến vùng đất linh thiêng Dharmapuri, ngắm ngía các ngôi đền cổ, trầm mình xuống dòng nước xanh mát này và thanh tẩy. Nhưng rồi cuộc chốn trạy bạo quân Mamluk đã đánh mất niềm hứng khởi của tôi. Và tôi chỉ có thể nhìn nó trong một tâm trạng bình lặng như hiện thời.
      2. Upanaha và tôi cuối cùng cũng đến trường không trễ.
      Trung tâm học thuật Bắc Đẩu Saptarishis nằm giữa thủ đô Vijayanagarar, được xây dựng từ ngày đầu khi Đại sư Ananda và hoàng đế Prithviraj Chauhan tìm đến Deccan. Một cách mạng giáo dục lớn đã xảy ra tại vương quốc Vijayanagara, không một trẻ em nào bị phân biệt giai cấp hay từ chối nhận vào học; và còn có cả những thiếu nữ tìm đến thụ huấn tri thức như bao thanh niên khác mà không sợ bị cười chê.
      Các học sinh tại trường Saptarishis được học đều các môn như văn học Vệ-Đà, triết học, nghệ thuật, kiến trúc, thiên văn học, chiêm tinh, y khoa… và cũng được phép lựa chọn nghiên cứu kỹ ngành học ưa thích của mình. Upanaha chọn môn hội họa và kiến trúc vì y ưa thích nó. Còn tôi quyết chọn cho mình môn văn học Vệ-Đà và tập trung nghiên cứu môn triết học bất nhị Advaita của trường phái Vedanta.
      Upanaha khoe với tôi, y được chọn vào nhóm sinh viên của trường cùng tham gia sáng tạo một phong cách kiến trúc mới cho vương quốc Vijayanagara. Y muốn cái trí được yên tịnh để có sáng tạo hơn và hỏi tôi một chút về thiền định. Tôi bằng lòng chỉ cho y, đó là điều vui thú nhất khi được chia sẽ kinh nghiệm thiền định với một người. Và dặn rằng, lần sau nếu tôi ra tranh biện cùng các bạn học khác thì y phải đi ủng hộ tôi hết lòng.
      Upanaha kéo tôi ngồi xuống khoảnh sân, nơi Đại sư Ananda sắp có buổi nói chuyện với sinh viên của mình. Đại sư Ananda là hiệu trưởng của trường Saptarishis, nhưng hiếm khi xuất hiện trước mặt các học sinh. Ông thường rút lui vào động đá, trầm lặng thiền định đến đầu mùa mưa mỗi năm mới xuất hiện tại đô thành Vijayanagarar.
      Đây là lần thứ hai tôi gặp Đại sư Ananda trên giảng đường, và lần này tôi quyết định diện kiến ngài ấy, để mở đầu cho câu truyện về bảy vị thầy đầu tiên sáng lập trường Saptarishis mà tôi có ý tưởng. Tôi muốn đem câu truyện của họ kể lại như biểu tượng của quyết tâm từ bỏ, tìm được sự tái sinh của chính mình qua con đường thâm nhập thiện tri thức và thiền định.
      Vị thầy điểm danh lướt nhìn các sinh viên ngồi xếp hàng bên dưới, và nhận ra các học trò đã đến đầy đủ, ông bước đến mời Đại sư Ananda ngồi lên bục giảng.
      Các sinh viên như tôi chờ đợi ngày được lắng nghe Ananda nói chuyện như thế này từ rất lâu, hầu hết đều rất tập trung và yên lặng.
      Đại sư Ananda lặng im nhìn ngắm các học sinh. Trên khuôn mặt đã vào tuổi chín mươi mà hãy trẻ trung và tràn đầy phục lạc, mỗi đường da trên đó là hiện hữu một nụ cười hoan hỉ.
      “Này các bạn! Những con người mới mẻ, nền tảng cho sự tốt lành thị hiện tại vương quốc Vijayanagara. Chúng ta không nói về lịch sử. Chúng ta không nhắc về quá khứ. Chúng ta hãy bỏ ký ức của mình chôn vùi dưới sự lãng quên. Tại đây, đô thành Vijayanagarar được mở ra dành cho các bạn, nơi không có sự phân biệt nào về giai cấp, nơi không có người Bà-la-môn quyền hành khuynh loát, nơi không có người Thu-đà-la nghèo khổ chịu giày vò, nơi tất cả mọi người được tiếp cận tri thức một cách cơ bản và toàn diện nhất.”
      “Bằng thiền định về tính không của sự chối từ, chúng ta hãy vứt bỏ hết đau khổ và sợ hãi của chính mình vào đoạn tuyệt. Chỉ có trong trạng thái thanh thản đó, chúng ta mới có cơ may xây dựng một xã hội hoàn toàn khác hẵn, một luân lý vượt trên tất cả luân lý, một cộng đồng mà không có sự tách rời nào đe dọa nó. Cái trí của chúng ta phải tốt lành trong bản thể tự nhiên của nó. Cái trí của chúng ta phải được tự do và không có bất kỳ sự lệ thuộc nào về vật chất hay tinh thần. Cái trí của chúng ta phải hiểu rõ nguồn gốc của thế giới này là gì.”
      “Chúng ta cần được giáo dục nhưng học tập không phải là cách tìm kiếm một thành tựu. Việc tìm kiếm một kết quả không đem đến cho chúng ta niềm an lạc vĩnh cửu. Giáo dục là cách hoàn thiện một con người. Và với những con người hoàn thiện xã hội sẽ chẳng có bất cứ xung đột nào.”
      3. Tôi rụt rè nói với thầy giám hiệu xin được diện kiến Đại sư Ananda để viết một cuốn sách về bảy vị thầy của trường Saptarishis. Ông thầy giám hiệu đang bận tay tưới luống hoa cúc đang nở vàng bông, nhìn tôi, ngập ngừng suy nghĩ và bảo “mi hãy đứng chờ ta ngoài hành lang”, rồi lật đật bước vào phòng trong.
      Một chút sau thầy giám hiệu trở ra hành lang, hoan hỉ chỉ tay về phía tôi và gọi lớn “Này! Thật hãnh diện cho mi. Hiệu trưởng đang chờ ở sảnh đường, hãy mau vào đi”. Tôi gập đầu cảm ơn và bước theo sau ông.
      “Con cần gặp ta làm gì?”, Đạo sư Ananda nhìn tôi và hỏi.
      “Bẩm thầy, con muốn viết một quyển sách về ngài và sáu vị thầy khác trong trường Saptarishis”, tôi mau chóng mô tả cái ý tưởng từng ấp ủ của tôi.
      “Ký ức của ta đã chìm vào quên lãng, có ý nghĩa gì khi bươi quá khứ lên từ đống đổ nát đó.”
      Tôi nghĩ thầy sẽ không bằng lòng nếu khôn giải thích kỹ càng ý tưởng của mình, và tôi nói: “Con nghĩ rằng, mỗi người đều đối mặt với những khó khăn riêng của chính mình và cái lòng dũng cảm để họ trút bỏ nó rất đáng để suy nghiệm”
      Đạo sư Ananda bật cười, “nếu con nghĩ như thế thì ta không còn cách gì khác để lựa chọn”.
      “Vâng”, tôi lấy giất bút ra và lặng im chờ đợi.
      “Con muốn ta bắt đầu câu chuyện từ đâu?”, thầy chăm chú hỏi tôi.
      “Xin hãy bắt đầu từ tuổi thơ của thầy!”
      Thầy ngập ngừng gom tụ cái ký ức bị dìm trong lãng quên, rồi khởi đầu câu truyện: “À! Ngày ấy, ta còn ở vương quốc Chintpurni…”
      4. Lời đề nghị của tôi về cuộc gặp mặt sáu vị thầy còn lại của trường cũng được các vị đồng ý. Thay vì tôi cất công tìm kiếm từng người, hiệu trưởng Ananda đề xuất các thầy Bhusuku, Acinta, Prithviraj Chauhan, Chand Bardai, Keya và Sanyogita sẽ diện kiến tôi sau buổi lễ thuyết giảng của ngài được tổ chức tại ngôi đền cổ Virupaksha.
      Thị trấn Hampi trực thuộc đô thành Vijayanagar, một phần được quy hoạch thành quần thể tôn giáo và triết học, với các ngôi đền lớn chuẩn bị được xây dựng với phong cách kiến trúc mới nhất, phân bố dựa trên mô hình các ngôi sao của chòm Bắc Đẩu. Nằm kề bên dòng sông Tungabhadra, đền thờ thần Shiva trong hóa thân của vị thần Virupaksha được chúng tôi coi như là trung tâm tôn giáo của đất nước Vijayanaga. Mọi hoạt động tôn giáo và triết học đều được nhà vua cho tổ chức tại đây, thường là các cuộc tranh biện của các học giả tự do hoặc với các sinh viên ưu tứu của trường Saptarishis quanh quan điểm bất nhị Advaita.
      Trung tâm hành chính nối liền thị trấn Hampi, với dãy cung điện của nhà vua, các tòa nhà chính quyền, trụ sở tòa án, nghị viện trưởng lão đại diện cho các địa phương và các cộng đồng. Thế nhưng, hầu hết cư dân Vijayanaga đều không ưa thích kiện tụng hay phàn nàn các những khó khăn của cá nhân mình lên nhà vua. Mỗi khi có vấn đề phát sinh, người ta thường dùng học thức của mình để biện luận nhưng không phải để cưỡng đoạt sự thật, mà họ muốn cùng nhau tìm ra nguồn gốc và giải quyết nó.
      Tại các địa phương, trường học thường do người dân trong làng xây dựng, họ cùng nhau thảo luận mời các giảng sư đến truyền dạy tri thức, hoặc là trưởng lão của làng đảm nhận trọng trách đó. Các giáo viên được người dân trả công hoặc được một vị hào phú địa phương tài trợ. Không một trẻ em nghèo khó nào hoặc sinh ra trong gia đình các giai cấp thấp bị từ chối nhận vào học. Nền giáo dục Vijayanagas khuyến khích mọi người luôn biết cách tự lập, không nô lệ vào ai và phải luôn biết sáng tạo trong cuộc sống của chính mình.
      Nghệ thuật và âm nhạc được nhà vua Devaraya I rất ưa chuộng, ngài cho xây dựng một hí viện gần hoàng cung, mỗi tháng đều mời các đoàn kịch nghệ đường phố đến biểu diễn. Môn nghệ thuật vũ kịch ban đầu được dạy từ Sanyogita, một giảng sư của trường Saptarishis, sau được biểu diễn phổ biến khắp mọi nơi trong đô thành Vijayanagar. Các sinh viên văn học Vệ-Đà say mê sáng tác trường ca kể chuyện về các vị thần, về tình yêu… và họ lồng vào đó các giá trị minh triết Hindu cổ đại, điều đã biến mất khỏi miền Bắc khi vó ngựa của quân Mamluk rầm rập kéo vào.
      Khi Đại sư Ananda cùng các vị đệ tử của ngài vượt Delhi vào Deccan, như định mệnh đã diễn ra trong giấc mộng của mình, ngài tìm đến dãy đồi Tungabhadra. Đứng trên ngọn đồi cao nhìn xuống thung lũng, ngài nhận ra thị trấn Hampi sẽ một là nơi thịnh vượng dành cho một đế chế tôn giáo tồn tại và thịnh trị đến hai ngàn năm.
      Tối hôm đó, ngài đứng trên ngọn đồi quan sát bầu trời, vẻ lại biểu đồ các hành tinh xoay quanh các cung hoàng đạo để tìm ra thời điểm hoàng kim muhurta, nhưng ngài hơi thất vọng vì trật tự thành trụ của tạo hóa chỉ cho phép vương quốc đó tồn tại trong hai trăm năm.
      Sáng hôm sau, ngài gọi Prithviraj đến đặt một viên đá lên ngọn đồi, rồi yêu cầu tìm người xây dựng một ngôi đền nhỏ trong bảy tuần trăng và gọi nữ thần trái đất Bhuvaneswari Devi đến trú ngụ.
      Trường đại học Saptarishis của tôi cũng được xây dựng sau ngôi đền đá ít lâu, cạnh quảng trường Vidyaranya, không xa cung điện của nhà vua.
      Khi Ananda và các đệ tử của ngài đến Deccan, thời đó quân Mamluk còn chưa tiến vào Delhi, dân cư của khắp vùng Vijayanaga hãy còn thưa thớt. Ngài đoán biết tướng quân Aibak sớm đánh Delhi và tàn sát người dị tộc, nên âm thầm chuẩn bị lương thực và nơi ở dành cho dân chạy loạn. Trong ba năm, nhiều khu dân cư rộng lớn được xây dựng mới. Và quả nhiên, không lâu sau hoàng thân Govindaraj thua trận, Delhi trở thành thủ đô của vương triều Islam. Để cũng đế chế mới của mình, Aibak buộc dân chúng cải đạo, những người bất phục đều bị thảm sát dưới sự thù nghịch của quân Mamluk.
      Aibak nhiều lần xua quân đánh vào vương quốc Vijayanaga nhưng y đều bị thua trận, đôi khi vì thời tiết bất lợi, vì quân đội y có mâu thuẩn, rồi rút quân trở về mà không có chiến sĩ nào phải hi sinh cho độc lập. Mọi điều đều diễn ra giống như lời đại sư Ananda đoán, Vijayanaga sẽ bình an trong hai trăm năm.
      - HẾT -
       
      #3
        Chuyển nhanh đến:

        Thống kê hiện tại

        Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
        Kiểu:
        2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9