Tử Biệt Sinh Ly Thường thường trong xã hội cũng như trong gia đînh, hễ cứ thịnh vượng quá thì càng dễ suy vong; cũng như một vết trên bánh xe, khi lên đến đỉnh tuyệt cao rồi thì tự nhiên tụt dần xuống dưới. Hạnh phúc trong nhà không bao giờ hoàn toàn hoàn mỹ mãn quá; hoàn mỹ tức là một cái mầm tai nạn, bởi lẽ hóa công hình như hay đùa ghen với sự sung sướng tuyệt đích của loài người.
Oanh Cơ từ ngày về làm dâu họ Lê, đem về cho họ ấy mọi sự phong lưu nhàn hạ. Cửa nhà ngăn nắp, thóc lúa đầy kho, tiền bạc chật hòm. Lê Mẫu không còn phải lo toan gì nữa. Gia dĩ Oanh Cơ lại sinh hạ được một đứa con nhỏ, sự vui vẻ trong gia đình thực quả như pha lê không vết, ai ai cũng đều sinh hoạt đầy đủ, mãn nguyện, chẳng có nỗi gì oán than hay ước muốn viễn vong. Hoàn cảnh yên vui êm ấm đó tưởng đâu có thể lâu bền vĩnh viễn, bởi lẽ anh em cậu ấm không hề làm sự gì ám muội phạm pháp, cũng không bon chen danh lợi mà bôn tẩu, sinh ra các mối oán thù.
Ai ngờ đâu Trời già không để cho yên, bỗng run rủi vạ gió tai bay đến phá nát hạnh phúc nhà họ Lê trong một sớm. Căn nguyên tai vạ đó là vô lý, thế mà cũng xui nên hai kẻ mất đầu.
Số là trong buổi sơ khai, nước ta còn nhiều đảng giang hồ trộm cướp, tụ tập binh lính quấy nhiễu lương dân và kháng cự cùng nhà nước. Cứ chỗ nào có rừng cao núi cả khó lòng mang quân đến tiễu trừ được là chúng quần tam tụ ngũ, bầu một tên chánh soái, rồi lập ngay một sào huyệt, một cơ sở để làm nghề không vốn muôn lời. Những nơi hiểm trở như các miền Yên Thế, Chợ Ghềnh, Ðồng Giao, Phố Cát, các mạn thượng du xứ Bắc Kỳ và các hạt giáp giới với dãy núi Giăng Màn xứ Trung Kỳ, phần nhiều là có giặc co, kẻ cướp ẩn nấp ở trong các truông lau, bãi sậy, các thung lũng eo hẹp ở chen vào những lớp núi cao ngất, gồ ghề dựng đứng như bức tường cheo leo, thẳng vút, các nơi hoang vu cô tịch ở phía tây hạt Ðồng Giao như mấy vùng Thạch Thành, Cẩm Thủy, La Hán, Hồi Xuân, toàn là các trường mai phục có địa thế, có thắng lợi, giúp cho một tên giặc mang súng ống nấp trong hang hốc bờ bụi có thể một mîh địch nổi vài chục binh lính nhà nước.
Thuở ấy, trong muôn vàn đảng giặc cỏ lau nhau chui rúc trong các kẽ rừng hốc đá, như ở các vùng núi non hiểm trở tả trên đây, có một vài đảng rất cường thịnh hiển hách, quân nhà nước lùng bắt trừ khử mãi không xong.
Có một đảng, trong các bọn thảo khấu cường thịnh đó, gồm độ vài trăm tên lâu la, dưới mệnh lệnh của một tay cuồng nho phẫn chí tên là Nguyễn Quán hoành hành ở biên giới hai xứ Bắc và Trung Kỳ, nhất là ở các vùng Thạch Thành, Cẩm Thủy, Phố Cát, Ðồng Giao; thanh thế lan dọc từ Bỉm Sơn đến Chợ Ghềnh, ngang từ Phát Diệm đến mãi Nho Quan, Hồi Xuân và La Hán.
Ðám giặc cỏ ấy thường thường vào các làng cướp bóc lương dân, hãm hiếp đàn bà con gái, phá nhà thờ, bắt cố đạo, ngang tàng đốt phá, đến đâu thì xưng hùng xưng bá, sát hại khổ chủ dọa nạt dân nghèo, bắt trâu dê gà lợn mổ xẻ làm tiệc linh đîh chè chén với nhau, xong rồi vơ vét đầy túi, kéo cả đàn lẩn tránh tản mát vào các hang sâu khe hẻm trong núi, không tài nào tróc nã được. Quan quân truy tầm lùng bắt đã riết lắm, thế mà chúng vẫn chưa bị sa vào pháp luật bao giờ.
Trên đầu sỏ, Nguyễn Quán, là một kẻ không những chỉ lắm mưu gian kế quyệt, lại còn giỏi võ nữa. Hắn có một khẩu súng hỏa mai thập bát hưởng, nghĩa là bắn luôn được 18 phát không cách xa nhau mấy, lại có một con dao găm hai lưỡi rất lợi hại, rạch người như mổ lợn, không hề khó nhọc chút nào. Ngoài hai thứ khí giới đó, Quán còn biết sử một ngọn roi gân hổ mà hắn múa vù vù, trông không thấy người đâu nữa, khiến tên bắn khó lòng trúng hắn được. Có thế mà thôi đâu, hắn lại còn sở trường môn ném chuỗi tiền, chuỗi tiền của hắn tung ra bách phát bách trúng, phi đoạt được gươm giáo côn đao của bên địch, cũng làm cho kẻ thù ngã quỵ xuống bị trọng thương. Võ nghệ của Quán thực là gần tới chỗ tuyệt đỉnh. Nếu không giỏi như vậy, hắn đã làm sao thâu phục được lũ đầu trâu mặt ngựa làm lâu la giúp hắn.
Hắn cứu tụi con em trong đảng đã nhiều phen, trong những trường hợp cực kỳ nguy khốn, hóa nhiều đứa từng chịu ơn cứu tử nên hết sức trung thành tận tụy với hắn. Tuy giỏi đến đâu thì giỏi, Quán cũng có ý gìn giữ phòng thân, sợ có khi bị người ta ném ám khí thì thiệt mạng. Bởi vậy hắn bèn chọn trong bọn lâu la, bống tay giỏi võ nghệ nhất để làm bốn kiện nhi hộ vệ theo hầu.
Bốn tên kiện nhi đó, đáng lẽ bổn phận là phải bảo vệ chủ tướng trong cơ nguy biến, ai ngời lại chính là Nguyễn Quán phải giữ gî tính mạng cho chúng, mỗi lần có những cuộc xung đột gay go! Bảy tám phen, giá Quán không giở đến tài nghệ bắn súng, ném đao, quất roi, hay ném tiền, bốn tên hộ vệ ắt bỏ mạng từ lâu.
Chúng chỉ được một việc là giúp chủ mà thôi, là vây bọc chủ lại, tả một đứa, hữu một đứa, tiền một đứa, hậu một đứa, để ngăn người ngoài ném trộm ám khí. Ngoài sự che chở đó, chúng không làm được việc gànữa. Bởi thế Nguyễn Quán vẫn có ý phàn nàn chưa chọn được cặp tả hữu nào có nghệ thuật siêu quần để được nhờ mà khỏi bị hao công tổn lực, để mỗi lần có cuộc huyết chiến thà chúng gánh vác hộ cái phần nguy hiểm gian nan. Mỗi lần đi cướp bóc ở đâu, Quán xem chừng công cuộc phải làm to, thàthân đi đốc suất lâu la đánh phá; nếu đoán là “tiếng bạc” hôm ấy bé thì chỉ nằm một chỗ, phái một hai tên thủ túc thay mình quản lĩnh là xong. Cũng do lẽ ấy, hắn cần phải có bọn tay chân xứng đáng. Bốn tên hộ vệ lúc ấy chưa phải là những người đáng mặt thay quyền Quán mà cai quản được bọn lâu la, dầu bọn ấy không lấy gì làm đông cho lắm. Quán có ý muốn tí hai võ sĩ có bản lĩnh, để rủ vào phe đảng mîh rồi giao cho cái chân phó soái, họa may hắn được an nhàn đôi chút.
Có kẻ mách hắn ở vùng núi Gôi có hai thiếu niên tráng sĩ dòng dõi võ tướng, vì lỗi thời nên không lĩnh ấn công khanh. Hai người đó chính là hai cậu ấm con quan lãnh họ Lê, võ nghệ đều siêu quần xuất chúng, tính tình thì cương trực anh hùng.
Nguyễn Quán nghe tiếng hai anh em Khôi, Việt đã lâu vẫn có lòng hâm mộ và cảm phục tài năng của hai chàng, song chưa có dịp nào làm quen cả. Nay nhân người tiến cử, hắn bèn tự thảo một phong thư, sai kẻ tâm thức đưa đến núi Gôi cho họ Lê; trong thư đại ý nói rằng:
- “Bỉ nhân trộm nghe đại danh hai công tử đã lâu, thường ao ước được phen tương ngộ. Ðấng hào kiệt tất phải lấy nghĩa xử nhân; bực anh hùng lẽ đâu chẳng lấy ân xử với người trí thức? Từng mảng nghe hai túc hạ là người khoáng đạt, có chí cao xa; vậy nên bỉ nhân đây, cơm Mạnh Thường mong đãi khách hiền lương, vàng Trịnh Bá rắp tặng người tuấn kiệt. Bằng hai túc hạ sẵn lòng giúp bỉ nhân cho hùm thiêng thêm cánh, thàngoài giữ chân tay, trong làm lòng dạ, chúng ta tuy Nguyễn Lê khác họ, rồi sẽ như Hồ Việt một nhà; nghĩa vườn đào rạng tiếng khách ngàn xưa, chúng ta hà chẳng, biết noi theo để cùng gây dựng sự nghiệp?... Xin hai công tử xét cho lòng thành thực này chớ có từ nan: được như thế, bỉ nhân sẽ lấy làm vạn hạnh!”
Hai anh em Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt được thư ấy vội vàng trả lời cho sứ giả đem về. Trong tờ phúc đáp, lời lẽ ngọt ngào khiêm tốn; hai cậu ấm tỏ ý rất ân hận, không thể cùng Nguyễn Quán cộng tác được, viện cớ rằng mẹ già vợ dại, lại “tông đường chút chửa cam lòng” nên không thể dứt tîh bỏ cửa nhà vào núi để đeo roi cắp kiếm theo hầu dưới tướng Nguyễn Quán được. Vậy xin ông chủ tướng kia hãy tìm những người phò tá khác. Vả chăng, hai anh em lại tự lượng mình không có tài cán gì không có thao lược gì để giúp cho Nguyễn gây dựng nên cơ đồ lộng lẫy cả. Muốn cho Nguyễn khỏi bị thất vọng về sau, chi bằng ngay lúc đầu tiên, đừng để cho nhau tưởng tượng quá sâu xa những công cuộc vĩ đại hay về một cuộc hiệp tác hão huyền.
Hai cậu ấm Lê tuy đối phó một cách quyết liệt với sự mời mọc của tên đầu đảng cướp, nhưng bề ngoài vẫn dùng lời lẽ thanh tao lịch sự, không ai bắt bẻ nổi hoặc giận dỗi vào đâu được.
Tưởng như thế tức là yên câu chuyện, không xảy ra điều gà rắc rối, khó khăn; ai ngờ đâu vì mảnh thơ vô tình kia hai anh em bỗng lâm vào một tình thế gian nan, càng ngày càng nguy hiểm, không tài nào gỡ thoát…
Ở một làng cách núi Gôi chừng hai ba mươi dặm, một đêm kia bỗng xảy ra một vụ cướp to. Quân cướp đề phòng không được cẩn mật, để mưu kế chúng bị bại lộ, khiến quan quân biết trước, đến mai phục chung quanh nhà chủ và căng lưới sẵn sàng để dụ cường đạo vào trong. Quả nhiên sau một trận xung đột kịch liệt, mười lăm tên gian phi bị thương chịu cho quan quân trói lại, mười hai tên khác thàtử trận, duy có tên đầu đảng và một ít lâu la trốn thoát được mà thôi. Hỏi ra mới biết tay chủ tướng khôn ngoan ấy chính là Nguyễn Quán. Y sở dĩ tẩu thoát được, một là vàcó súng, hai là nhờ bốn tay thị vệ hết sức xông xáo che chở hộ y. Trong bốn tên ấy, ba tên bỏ mạng trong trường xung đột; đứa thứ tư thì bị bắt vàmang một vết thương trầm trọng giữa đùi. Cớ sao bốn thằng kiện nhi đó lại hy sinh tính mạng cho chủ một cách anh hùng như thế? Căn nguyên sự hy sinh này mới kỳ dị làm sao. Chính là bức thư Nguyễn Quán đã viết cho hai anh em họ Lê đó. Vốn từ lâu, Nguyễn Quán vẫn có ý phàn nàn về những tay hầu cận mình không được giỏi, bởi thế mới viết thư dụ dỗ hai anh em họ Lê vào phe đảng giúp mîh. Bốn tên hầu cận bị chủ tướng khinh rẻ, lấy làm căm tức ngấm ngầm trong lòng, nên kịp khi lâm sự, chúng mới hết sức trổ tài, thi nhau che gươm đỡ đạn cho Quán, để tỏ rằng nghệ thuật của chúng nào kém gàtài cán hai gã họ Lê. Ngờ đâu vì hăng hái quá, chúng đều bị những miếng đòn độc ác của quan quân mà chết, chỉ còn mỗi đứa sống thì rồi cũng bị què và tàn tật suốt đời! Cái kết quả của một sự tức giận nhất thời nó là như thế. Kết quả ấy cùng chua cay thê thảm bao nhiêu, nó càng làm cho tên kiện nhi sống sót nghĩ thương tiếc anh em đồng đảng, bực tức số phận hẩm hiu mà thâm thù thâm oán hai anh em Khôi, Việt bấy nhiêu.
Bởi thế, khi bị giải về dinh Án sát để lấy khẩu cung, tên gian tặc ấy không ngập ngừng gì cả, khai ngay rằng muốn bắt được Nguyễn Quán, cứ việc đem tra tấn hai chàng thiếu niên võ sĩ đã giúp ngầm y trong các cuộc cướp của đốt nhà. Hai thiếu niên đó là con quan lãnh Bắc Ninh: Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt…
Tai nạn nhà họ Lê bắt đầu từ buổi ấy; đương lúc cả nhà chung hưởng hạnh phúc thái bình vui vẻ, hai anh em bị bắt đem đi, ngơ ngác không hiểu vàsao lại xảy ra cơ sự lạ lùng như vậy. Lê Mẫu khủng hoảng lo lắng, bỏ ăn bỏ ngủ; Oanh Cơ thàkhóc lóc suốt ngày. Về phần Nguyễn Tiêu, cháu Oanh Cơ, sau khi hai công tử bị giải lên tỉnh rồi tống lao, chàng bèn vội vã thu xếp hành lý theo lên Nam Ðịnh để đem cơm nước quà bánh cho hai người bị nạn và dò la tin tức thế nào.
Việt và Khôi bị bắt vừa được hai ngày thàsáng hôm thứ ba, các quan trên tỉnh về khám nhà họ Lê ở tại núi Gôi. Trong cuộc khám xét, chẳng bắt được giấy má gàquan trọng cả, duy chỉ tí ra được bức thư của Nguyễn Quán mà thôi. Thầy thư ký thông ngôn theo quan Chánh Cẩm đến khám nhà Oanh Cơ, thấy nàng thùy mị dịu dàng, cứ chòng chọc ngắm nhî nàng mãi, khiến nàng phải sượng sùng e ngại, cúu gằm mặt xuống, không dám ngửng đầu lên. “Gái một con, trông mòn con mắt”, gia dĩ nàng Oanh lại có sắc đẹp tự nhiên vẹn vẽ, hóa nên thầy Thông Ngôn càng say đắm si mê, thầy tiến đến bên cạnh nàng, lộ ra vẻ hiền từ phúc hậu bảo nàng rằng:
- Bà chớ lo! Tôi xin tình nguyện làm giấy má hộ bà, để bà đầu đơn khiếu nại cùng Nhà nước!
Oanh Cơ tưởng đấy chỉ là lời nói đãi bôi cho đẹp chuyện ai ngờ thầy Thông nói sao làm vậy, ngày hôm sau vội đến nhà họ Lê thảo các đơn từ tử tế rồi đọc cho Oanh Cơ và Lê Mẫu nghe. Xong thầy xin hai mẹ con ký tên vào đơn rồi đệ trîh lên quan Án. Khi thầy Thông ra về, hai mẹ con Oanh Cơ cảm chút tình săn sóc đến người có nạn, nên đem gạo tiền ra tiễn, song thầy Thông một mực từ chối, nhất định thế nào cũng không nhận.
Cách đấy ít lâu, chẳng biết Tòa Xử và tuyên án ra làm sao, chỉ rõ ngày 26 tháng 3, đầu giờ Mão, anh em công tử họ Lê bị điệu về núi Gôi, tró vào hai chiếc cọc đóng thấp ở một sườn đồi. Mười hai tên đạo tặc đồng đảng với Nguyễn Quán cũng bị trói như thế chung quanh mình hai cậu ấm.
Trên sườn đồi, trước mặt lũ tội nhân, nền đất bị san phẳng để dựng một cái rạp lớn, chung quanh có tinh kỳ đỏ ối, gươm giáo sáng quắc, tàn quạt uy nghi. Trong rạp, trên một chiếc ghế bành, đằng trước có bày hương án, một ông quan áo mũ chỉnh tề, cân đai bối tử trịnh trọng, ngồi chễm chệ uy nghi, sắc mặt nghiêm nghị đượm vẻ sát khí lạnh lùng. Diện mạo cứng cỏi đó thực là hợp với vẻ long trọng thê thảm của pháp trường. Bên mîh Giám trảm quan có các viên bộ hạ, các lính tráng theo hầu và một bộ đàn sáo bát âm. Hai bên trước của rạp, một bên là giá trống cái một bên là giá chiên đồng; hai tên lính mặc quần áo chẽn vàng nẹp đỏ, chân thắt xà cạp điều, cầm dùi đứng chực sẵn.
Trong hoàn cảnh lạ lùng nghiêm nghị ấy bỗng thấy một người đàn bà khóc sướt mướt như mưa như gió, vừa thất thểu tiến đến. Thiếu phụ đó mặc đồ sô gai trắng, bỏ tóc xõa, đội mũ mấn che lấp cả mặt mũi cho nên không ai nhận rõ được dung mạo nàng. Nàng bồng một đứa con thơ, rẽ đám người đi xăm xăm vào tận giữa pháp trường, tới gần một tội nhân nâng đứa hài nhi cho anh ta hôn; đoạn, phủ phục dưới chân anh ta khóc nức nở, nói không ra tiếng.
Phạm nhân đó nào phải ai xa lạ, chính là công tử Lê Trọng Việt, mà thiếu phụ kia là nàng Oanh Cơ. Nàng Oanh Cơ ngồi xệp xuống đất, bên cạnh chồng, ruột gan quằn quại như dứt ra từng đoạn một; cảnh sinh ly tử biệt, tự nhiên đến hủy hoại gia đîh êm thắm nhà nàng, nó tàn ác quá, đau đớn quá, khiến nàng không còn tâm hồn nào nữa, không còn đủ tri giác và tinh thần sáng suốt để tí ra một lời lẽ gàthống thiết khóc chồng và từ giã anh chồng. Nàng cứ quỳ mọp dưới đất. Cậu ấm hai, trông thấy vợ con lòng cũng tan tác, không hề cầm được nước mắt. Nhưng đã đến trường hợp này, cậu đành phải cúi đầu nhẫn nhục trước sắc lệnh cay nghiệt của định số, thổn thức bảo vợ rằng:
- Em khá mau về đi, đừng ở chốn rơi thịt đổ máu này làm gá Ngaỳ nay anh sở dĩ đương tuổi thanh niên mà bỏ vợ con, chịu bất đắc kỳ tử một cách thảm thiết thế này, chẳng qua chỉ vì tiền oan nghiệp trái đó mà thôi, có cưỡng cũng vô ích! Thân phụ chúng ta, xưa xông pha trong vòng khói lửa, chém giết tàn sát cũng nhiều, các oan hồn bởi thế mới theo dõi dòng họ nhà ta mà trả thù, báo oán. Ðến lúc vận trong nhà suy bĩ, lại có cả hai con ma rừng thuở trước cũng hùa vào tác quái; mạng anh nghĩ cho kỹ, thực là khó nổi bảo toàn. Em còn nhớ câu chuyện ma rừng anh thuật lại em nghe trong cái đêm vắng ẻ, khi hai ta mới bắt đầu gặp gỡ nhau không? Thôi em, em hãy về đi! Anh sống khôn chết thiêng, sẽ theo dõi bóng em, phù hộ cho em mãi mãi! Em còn trẻ, có nhan sắc; đời em còn chan chứa hạnh phúc, em chớ nên nghĩ luôn đến kẻ khốn nạn này làm gî Anh phúc mỏng đức bạc, không được cùng em thủy chung trọn nghĩa; một mai anh chết rồi em nên quên hẳn anh đi, chọn lấy một kẻ xứng đáng trao thân gửi phận, may ra sao này sẽ không đến nỗi khổ sở nghèo hèn. Còn như đối với anh, duyên số hai ta chỉ còn đến đây là đoạn tuyệt. Em đừng nên quá câu nệ, nghĩ vẫn vơ mà chịu thiệt thòi cả một đời xuân trẻ tốt tươi. Thôi, anh nói thế đủ rồi, em đứng dậy đi về đừng bịn rịn dùng dằng nữa.
Trọng Việt căn dặn vợ vừa xong, thì có một tốp lính vâng lịnh Giám Trảm Quan, cầm roi đến xô đuổi Oanh Cơ ra ngoài. Nàng bèn đặt phịch đứa con thơ xuống bãi cỏ, bỏ mặc nó khóc oe oe, thụp xuống lạy anh chồng hai lạy, rồi lạy chồng hai lạy vừa lạy vừa khóc lóc thảm thương. Ðoạn nàng bế cháu lại hôn bác, nâng con cho hôn cha, rồi bồng nó lủi thủi bước ra khỏi vòng cấm địa của pháp trường. Nàng đi mới được vài bước đã nghe tiếng loa nổi dậy như một hiệu còi thảm thiết, bi ai, tiếp đến một tiếng trống trầm trầm và một tiếng chiêng lanh lảnh. Tùng! Bi ly! Nàng ngoái đầu lại, hốt nhiên hoa mắt choáng váng, ngã gục trên thảm cỏ.
Thì ra mỗi tiếng loa, tiếng trống, tiếng chiêng báo hiệu như thế là một mệnh lệnh khai đao. Ðao phủ mặc áo chẽn đen, thắt dây lưng điều buộc thành tua ra phía tả múa may giữa đám tử tù, cứ mỗi lần nghe dứt tiếng chiêng sau cùng là hắn khoa thanh mã tấu đưa một linh hồn về chín suối...
Bãi chân đồi núi Gôi ngày nay chỉ còn là một cảnh hiền lành phẳng lặng, có ai hay nó đã làm sân khấu cho một tấn tuồng cực kỳ bi đát mà những vai đào kép bây giờ đều đã khuất, chỉ còn lại sự tích thương tâm của họ, hai mảnh hồn oanh phiêu diêu tán tụ, thỉnh thoảng lại hiện lên chốc lát để kỷ niệm lại cho đỡ tiếc cuộc đời trai trẻ đầy hy vọng, một sớm mai chẳng mai bị cắt đứt dưới lưỡi gươm tên đao phủ vô tình!
Hai cậu ấm chết rồi, chẳng bao lâu Lê Mẫu cũng buồn thảm mà chết theo; Oanh Cơ trước kia sống nghèo nàn cô độc, nay cũng lại sống nghèo nàn cô độc, cùng một đứa con thơ ấu và một đứa cháu vị thành niên. Bao nhiêu sản nghiệp trong nhà, lúc hai cậu ấm Lê bị tù tội đã đem bỏ cả lo lót, thậm chí bán cả ruộng vườn thế mà gỡ cũng không xong. Những đơn từ và mọi công việc chạy chọt, bởi cớ cậu Nguyễn Tiêu còn bé dại, nên nhờ ơn Thầy Thông Ngôn coi sóc hộ từ trước đến sau. Thầy Thông thực quả là người quý hóa. Giữa khi trong nhà lâm biến, thầy một lòng tîh nguyện đến đỡ đần dù khó nhọc thế nào cũng chẳng từ nan. Những buổi lấy khẩu cung ở giữa tòa, thầy đã cố ý bênh vực che chở cho hai anh em họ Lê, song quan trên nghiêm khắc quá, nên không tài gì làm giảm tội được chút nào. Kịp đến khi chồng và anh chồng nàng Oanh bị hành hình rồi, thầy lại tự đứng lên giúp đỡ mọi việc ma chay tống táng rất là tươm tất. Thấy cô cháu Oanh Cơ lâm thế quẫn, nghèo nàn chả có tý gì thầy nhiều phen giúp tiền, giúp gạo, đối với gia đình nhà nàng rõ ra một vị ân nhân hào hiệp. Thầy Thông không những chỉ phúc hậu, từ tâm thầy còn là người đứng đắn nghiêm trang nữa; trước mặt một quả phụ trẻ đẹp như Oanh Cơ, không hề bao giờ Thầy có một lời bờm xơm bợm bãi cả.
Mãi đến khi nàng hết tang chồng đã hơn một năm, lúc bấy giờ thầy thấy gia đình nàng quẫn bách quá, mới sai mối lái lại hỏi nàng và đưa cho nàng một lá thơ đại ý như sau:
- “Tôi xem chừng cái thế bà không thể đứng một mình mãi, vì cứ thế, bà lấy kế gì mà sinh nhai và nuôi hai cháu còn thơ? Như bà không có lòng tục huyền thì thôi, tôi không dám nói. Còn nếu bà liệu phải bước đi bước nữa bởi tîh thế bó buộc thì tôi có một lời này tâm sự mong bà rộng lượng xét cho. Tôi đây cũng góa vợ đã lâu, không có con; ở trong cảnh cô tịch quạnh hiu mãi, lấy làm buồn lắm. Chi bằng có sự này là lưỡng toàn hơn cả: chúng ta hợp nhau lại để gây dựng một gia đình tươi vui đầm ấm, tưởng những kẻ nơi chín suối cũng hiểu tình thế mà tha thứ cho ta. Bà nghĩ thế nào?
Thực ra Oanh Cơ cũng muốn thủ tiết với chồng cho trọn nghĩa ái ân và đền tấm ơn tri ngộ, nhưng trong buổi khốn khó này, nàng còn có con thơ phải nuôi nấng dạy dỗ nên người cho khỏi phụ lòng kẻ khuất. Nàng là một phụ nhân yếu đuối, không có gia tư điền sản, cũng không nghề nghiệp sinh nhai, chả lẽ cứ ỷ lại mãi vào lòng tốt của thầy Thông để cô cháu mẹ con được no thân lành áo? Vả lại, gian đình nàng thụ ơn của Thầy quá nặng nay cũng là một dịp để đền đáp chút ơn ấy. Bởi thế nàng nhận lời gá nghĩa cùng thầy, mong rằng sẽ có thể dựa vào thầy được để gây dựng cho đứa con gái bé nên người tử tế. Nàng có lấy thầy chăng nữa, cũng chỉ vì đứa con thơ dại và đứa cháu bé mà phải cải giá, chớ lòng nàng thì đã héo khô rồi, còn có ái tình đâu nữa! Ái tình của nàng nó đã theo cậu ấm Lê cùng xuống tuyền đài, nàng không thể một đời yêu đến hai lần, nếu người đó không phải chàng thứ tử họ Lê sống lại.
***
Ðèo Ô Quý Hồ
Trên con đường ghập ghềnh từ Sapa qua Phong Thổ một đoàn khách dừng chân nghỉ giữa con đèo Ô Quý Hồ. Ðoàn hành khách có mười hai người: một người đàn bà và một người con gái bé ngồi ghế đăng sơn, một người con trai cưỡi ngựa, còn bao nhiêu là phu khiêng ghế và tải đồ đạc.
Hỏi ra mới biết người đàn bà đó là bà Tri Châu Phong Thổ, chồng vừa ra đất ấy phóng nhậm được ít lâu nay. Ðứa con gái bé là con bà, người con trai là cháu bà. Ðoàn phu để chiếc ghế đăng sơn ở chỗ có bóng mát, rồi họ tản mác ngồi mỗi người ở một gốc cây để nghỉ chân dưỡng sức. Bà Tri Châu lúc bấy giờ giở tráp trầu ra ăn một miếng, trông bà có vẻ buồn rầu lo lắng, nhưng vẻ lo buồn không làm thế nào át được sắc đẹp dịu dàng sắc sảo của bà. Bà ăn mặc cực kỳ diễm dắn, nề nếp, không đeo lắm vàng ngọc, không đánh phấn thoa son; song càng ngắm bà càng thấy có duyên, càng bị say đắm vì đôi con mắt mơ mộng của bà, đôi mắt đăm đăm nhìn vào quãng chân trời xa thẳm.
Lúc ấy vào khoảng ba giờ chiều. Bóng nắng xê xế, trên đường rừng mát mẻ dễ chịu lắm. Người thiếu nên đi ngựa buộc con vật đỡ chân của chàng vào một góc cây, rồi đi dạo quanh quẩn ngắm nhìn vẻ đẹp lộng lầy tươi thắm của ngàn nội. Tụi phu có vẻ mệt nhọc, vì họ đã tất tưởi cả ngày rồi, ai ai cũng nhân dịp lúc dừng chân mà quạt mồ hôi, và nghỉ ngơi cho lại sức. Họ để các rương hòm rải rác dọc đường, núi, rồi ngồi phanh ngực ra mà quạt, có người thì dựa vào gốc cây, vách đá mà lim dim ngủ, chả ai để ý đến chiếc đăng sơn để ngay sát rá núi trước mặt bãi sậy rườm rà.
Bỗng đâu, một tiếng la to làm cho mọi người hoảng hốt đứng cả dậy, rồi đến tiếng khóc, rồi đến một lời kêu the thé vang lừng trong rừng sậy đưa ra:
- Cháu Tiêu ơi! Cháu nhớ lấy lời cô đó.
Xong, im bặt. Cả đoàn ùa lại mé đăng sơn. Cô bé con nằm chết ngất, ngoẹo đầu dựa vào thành ghế, còn bà Tri Châu thì đã biến đi tự lúc nào rồi. Dưới đất, ngay chỗ đăng sơn, có vết bốn cái vuốt in sâu xuống cát. Ðoàn phu nhận ra đó là dấu chân hổ. Thì ra bà Tri Châu đã bị hổ cắp tha đi.
Bà Tri Châu đó là Oanh Cơ. Ngày nay, theo đúng nghiệp số của nàng, nàng phải theo hai anh chị chết dưới vuốt thiêng của loài mãnh thú. Con hổ này rình nàng từ lâu lắm, nó định bắt nàng đi đã mấy năm nay rồi! Bởi gì chưa có dịp nào nên nó đành phải đợi sau khi bắt hụt nàng một phen ở mé Ðồng Giao. Tra khảo anh chị nàng, nó biết nàng tất phải qua đèo Ô Quý Hồ vì theo chồng ra Phong Thổ. Nó phục trong bụi lau đợi nàng ở đó. Ngày giờ nàng đã đến, số kiếp nàng đã tận, nàng đã bị nó nhảy ra ngặm chặt lấy lôi đi, giữa khi cháu nàng và các phu khiêng đều vô ý mỗi người chăm chú vào việc riêng của mîh.
Ðời Oanh Cơ thế là đoạn tuyệt; nàng vừa ra khỏi kịch trường mà nàng đã đóng một vai đào thương hết sức bi ai. Nhưng kỷ niệm của nàng mãi mãi vẫn không bị lu mờ trong lớp bể dâu; hình bóng nàng còn sống trong tâm hồn con nàng và cháu nàng. Trước khi nhắm mắt lìa đời, nàng đã tìm ra được một bí mật: là chồng cũ nàng, Lê Trọng Việt không phải bị các quan tòa lầm lẫn bắt buộc vào tội chết, mà chính là kẻ thù đã thêu dệt đã bịa đặt ra nhiều chuyện để xui giục quan tòa hạ bút phê án tử hình. Kẻ thù ấy, độc địa thay lại là thầy Thông, người đã cùng nàng giá nghĩa sau này. Cậu Lê Trọng Việt chết được hơn một năm, nàng nghe lời đường mật của thầy cùng thầy kết bạn tâm giao. Sau khi về nhà thầy được ba năm thì thầy bổ đi Bắc Cạn, rồi được 2 năm nữa thầy thăng Tri Châu, lên phó nhậm ở Phong Thổ. Trong khi chung chạ, nàng nhận ra thầy Thông là người gian trá xảo quyệt, chỉ có vẻ ngoài niềm nở lịch sự, mà thực tình trong lòng chứa đầy các kế độc, mưu sâu, nàng nhận được rằng thầy là kẻ tham lam bôn tẩu, tìm cách hại nhân thắng kỷ, một là để ăn tiền cho giàu có, hai là để chóng cao thăng. Thầy đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu nhân vật điêu linh, thế mà không tỏ vẻ gì hối hận cả, lại còn đắc ý là đằng khác. Những giờ phút chăn gối, nàng cố ý gợi lại chuyện chồng cũ, than vãn sao kẻ kia vô tội mà đến nỗi bị quan trên ghép vào tội tử hình. Nghe nàng căn vặn thầy Thông cứ ầm ừ không trả lời; mãi lâu lắm, lâu lắm, một đêm mà trời đất lạnh lùng buồn tẻ, một đêm mà hoàn cảnh như gợi lòng người, thầy Thông mới khe khẽ rỉ tai nàng bằng một giọng trầm trầm, ngần ngại:
- Sở dĩ tôi yêu mợ quá, nên buộc lòng phải làm như thế! Ðáng lý ra, anh em họ Lê không đến nỗi chết, chỉ phải tù tội mà thôi; tôi có nói thêm vào nên họ mới bị xử trảm. Song ngẫm ra đến ái tình là hết, tôi có ý thương mợ, nên mới gây ra tội ác ấy; không thì làm sao có ngày nay?
Từ khi nghe lời thú nhận của thầy Thông. Oanh Cơ coi thầy như con vật dữ, ngoài mặt nàng không lộ ra vẻ gì giận dỗi căm tức cả, nhưng trong lòng nàng chứa chất một khối oán hận tầy đình. Nàng oán thầy khẩu phật tâm xà, làm hại người ngay thẳng để quyến rũ vợ người ta mà vẫn nhởn nhơ vui vẻ, hình như không coi việc ác của mình là một sự xấu xa. Nàng trót đã lấy thầy, không lẽ giết thầy để rửa hận cho người đã thác; vả có giết thầy chăng nữa, cũng không đủ trả thù rửa oán; tội thầy đáng phải hình phạt thế nào cho thầy sống cũng như chết, ăn mất ngon, ngủ mất yên, đêm ngày tâm trí lo sợ, hối hận, hai mắt dở mù dở sáng, để thấy những cảnh mất đầu đổ máu tự tay thầy đã gây nên. Như thế, may ra mới xứng đáng. Nàng muốn tí kế báo thù như thế, nhưng thời gian thấm thoát, nàng chưa tìm được kế gî . Có lắm lúc mối oán hận trong lòng như sóng nước chơi vơi, trần lên tới cổ, nàng muốn chém thầy ngay, đầu độc thầy ngay, song chợt nghĩ đến đứa con gái còn thơ, nàng lại nén dằn, giả bộ ra vẻ đềm đạm như thường, khiến thầy không nghi ngờ gì hết.
Ðể biết rõ ngày xưa thầy hành động thế nào, Oanh Cơ lần về Nam Ðịnh, đến tòa xứ, hỏi những người bạn của thầy Thông, nhờ họ cho xem tập hồ sơ của cái án cũ Lê Trọng Việt. Xem tập án ấy nàng mới hay lá đơn khiếu nại thầy đã làm hộ cho mẹ con nàng đại ý như sau:
“Chúng tôi là Bùi Thị Lan, vợ góa của quan nguyên Lãnh binh Lê văn Khúc, và Nguyễn Oanh Cơ, nàng dâu thứ hai của vị cựu quan ấy, cúi đầu thành khẩn kính xin các Quan Tòa đèn trời soi xét trông lại cho chúng con nhờ.
Nguyên hai tên Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt tức là con, anh chồng và chồng chúng con, gần đây lại can phạm vào vụ cướp ở Làng Ngọc Chính Hạ. Tên đầu đảng bọn cướp đó là Nguyễn Quán, có rủ rê người nhà chúng con làm việc phạm pháp; người nhà chúng con trót dại giúp đỡ quan phản nghịch, nhưng cúi xin các quan thương cho mà đừng bắt tội, bởi lẽ, nếu hai anh em Khôi và Việt bị tội, thàhọ Lê chúng con sẽ tuyệt tự. Khôi và Việt còn mẹ già năm nay đã ngoài 50 lại có vợ dại con thơ, không biết nương tựa vào đâu, tình cảnh thực là bi thiết, cúi xin các quan mở lượng hải hà, hết sức che chở bao dung cho, chúng con sẽ ngậm vành kết cỏ, đội ơn các quan lớn vạn bội.”
Một lá đơn như thế, có bao giờ hai mẹ con nàng Oanh chịu ký tên ở dưới, nếu thầy Thông không đọc trái đi một cách khác, bảo rằng hai cậu ấm Lê không từng vào phe với đảng cướp bao giờ. Cứ theo lá đơn này, thì rõ ràng là, nàng Oanh Cơ và mẹ chồng nàng đã nhận rằng hai cậu ấm có đi ăn cướp thật, và kêu xin quan tòa ra tay tế độ, mở đường hiếu sinh cho. Nàng Oanh xem đến đấy, khí giận bốc lên ngùn ngụt nàng phải rút khăn lau mồ hôi trán đến bốn năm lần. Nàng lại giở xem nữa. Ðến đoạn lấy khẩu cung, của anh em Khôi, Việt mà chính thầy Thông hồi ấy đã dịch cho các quan tòa nghe, như sau này:
“Chúng tôi vàcó điều tức giận nên đi theo đảng cướp. Nay đã làm nên tội, chúng tôi không hối hận gì cả!”
Trời ơi! Có lẽ nào anh chồng và chồng nàng lại điên cuồng ngộ dại mà khai như vậy? Thực tình họ có đi theo đảng cướp bao giờ! Con người độc địa sâu cay làm sao! Thế mà ngoài mặt vẫn đạo mạo nghiêm trang, ai nào dám bảo là một kẻ giết người không đao kiếm.
Sau khi ở Nam Ðịnh về Oanh Cơ viện hết lẽ này đến lẽ khác, không hề chung chạ gối chăn với thầy Thông nữa. Cho mãi tới ngày thầy được giấy quan trên cho thăng chức Tri Châu, và bổ đi Phong Thổ. Thầy đi trước, chỉ đem một ít hành lý, dặn nàng ở lại Bắc Cạn rồi đem người nhà và đồ đạc theo sau. Trước khi lên đường, không hiểu tại sao nàng cảm thấy một sự gì buồn buồn khó tả, tựa hồ báo trước cho nàng biết, nàng sắp gặp những tai nạn bất ngờ. Rửa mặt, nàng ngửi thấy nước có mùi tanh; ra cửa nàng bị vấp suýt ngã; rồi lại có con chó vàng đến kéo áo như muốn lôi nàng trở lại... Thực là những điềm quái dị vô cùng. Nàng bèn thảo một phong thư di chúc trao cho cháu Nguyễn Tiêu; đoạn, nàng bày tỏ nỗi oán hận của mîh cho cháu rõ và bảo chàng rằng:
- Cháu chịu khó giữ lấy thư này cho kín đáo cẩn thận lắm mới được! Khi nào em Quyên (con gái nàng) đúng 18 tuổi, bấy giờ cháu mới kể lại sự tích cha nó thế nào cho nó nghe. Và cháu sẽ bảo nó theo đúng lời cô mà báo thù. Báo thế nào cho kẻ kia phải điêu linh, khổ sở, còn cũng như mất chớ đừng giết hại nó làm gì. Bởi giết nó, tức là gia ân cho nó đấy. Ði chuyến này, cô cảm thấy mệnh số cô hình như sắp hết; cô cháu ta sẽ cùng nhau vĩnh quyết nay mai. Trên đời này, cô không còn ai họ hàng thân thích cả, chỉ có cháu và em Quyên. Cô thường vẫn thương cháu như con, vậy một mai cô có mệnh hệ nào, cháu sẽ nghĩ tîh tận lực giúp em cho nó trả được thù ấy. Ðó là cháu đáp nghĩa cho cô đấy!
Nỗi lo ngại của nàng Oanh Cơ quả nhiên thành sự thật. Nàng bỏ con thơ cháu bé ở lại với cuộc đời tàn ác, để một mình lánh sang cõi thế bên kia.
Câu chuyện sự tích nàng Oanh đến đây là dứt.
Từ ngày nàng bị hổ tha vào rừng, thàcứ những đêm mưa gió bấc, những đêm u ám không trăng, trên quãng đèo Ô Quý Hồ lại văng vẳng có giọng đờn ca não ruột, ai bạo gan xông xáo trong đêm khuya rừng vắng, thì thấy ba cái bóng ma ngồi đàn hát cho một con cọp lớn ngồi nghe. Quái trạng đó hiện chán ở đèo Quý Hồ thàlại quay về hiện ở Ðồng Giao. Ở đây, cũng như ở kia, chỉ là do một gốc tích mà xảy ra tình trạng ghê rợn ấy. Nàng Oanh thác rồi, 15 năm sau, con gái nàng mới thay nàng báo thù cho cha là Lê Trọng Việt. Câu chuyện báo thù ấy, lại là một vấn đề khác, nó dài dòng lắm, và nó ly kỳ rùng rợn chẳng kém gì câu chuyện của Oanh Cơ. Con người độc nhất vô nhị được rõ nguồn gốc và kết quả sự báo thù ấy là tôi, bởi lẽ tình cờ và duyên số đã khiến tôi đóng một vai thụ động trong tấn kịch thương tâm chua xót ấy. Mà cũng vì có chân trong kịch, nên tâm tôi bị đeo một vết đau đớn thấm thía đến nay quá bốn mươi tuổi rồi, cũng vẫn chưa nguôi... Nhưng mà... Mai kia khi đến Sapa, trong những giờ phút rãnh rỗi tôi sẽ dần dần thuật lại để ông thưởng thức!...
Cụ Trần Công Chất nói đến đây, ngừng lại, tôi nhìn qua cửa sổ trong phòng thấy áng sáng mờ mờ đang xuyên qua luồng kính...
Viết xong tại phố Nghĩa Ðịa Tây, ngày mùng bảy tháng tư năm Canh Thìn,
tức là ngày 23-5-1940 âm lịch.
TCHYA-ÐÁI ÐỨC TUẤN