(url) Trịnh Công Sơn

Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 61 đến 84 trên tổng số 84 bài trong đề mục
Tác giả Bài
chialy1904
  • Số bài : 613
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2006
  • Nơi: trái tim của mẹ
RE: DIỄM XƯA - 11.05.2006 18:41:23
(tiếp)

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/14769/E7E36723784146EEA8E287EDB7DB46AC.gif[/image]
Attached Image(s)
Địa vị ư? - Sẽ mất
Tiền tài ư? - Sẽ hết
Hoa đẹp ư? - Sẽ tàn
Chỉ có lòng người sống mãi với thời gian.

chialy1904
  • Số bài : 613
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2006
  • Nơi: trái tim của mẹ
RE: DIỄM XƯA - 11.05.2006 18:43:29
Chợt tôi thấy thiên thu là một đường không bến bờ
--- Trịnh Công Sơn ---



Những con đường trăng tròn là những con đường trăng khuyết. Vẫn là những con đường cũ en đi qua và tôi đi qua. Thế rồi, có những lúc tôi đi qua những con đường mù mịt không trăng. Những tro tàn quá khứ bỗng dậy lên một cơn lốc cuốn tôi về với những con đường ma quái ảo ảnh chập chờn.
Cái chập chờn của một thân thể phiền não không biết mai nay mốt nọ ra sao, cứ thắc thỏm muốn gởi gắm vào cuộc đời một linh hồn phiêu lạc. Tôi phiêu lạc bao nhiêu năm rồi trên một dòng đời không bờ bến. Có khi tưởng bờ là bến. Có khi tưởng bến là bờ. Cái tạm và cái thường hằng lắm khi là một. Thế mà cứ lại là khác nhau. Cái bờ mỏng manh khoảnh khắc ra đi. Cái bến nhiều khi bền bền ở lại. Bờ mở ra những bến. Có dâu bể cho bờ. Nên định mệnh bờ thường trói buộc thân phận bến.
Tôi là bờ em ra đi. Em là bến tôi ghé lại
Con đò ghé qua bờ này bờ nọ, nhưng sẽ đậu lại ở một bến kia.
Mùa xuân là bờ hay bến? than ôi, mùa xuân chỉ là bờ. Ai ai trong đời này cũng có lần ghé qua cái bến tạm mùa xuân. Cái bờ bến mùa xuân nhập nhằng những dặm trường lận đận. Thoắt nhiên bến xuân chỉ còn lại là bờ. Cái biến đi qua, rồi cái bờ ở lại. Cái bến hiu hắt của một thuở tưởng rằng thời hoàng kim bến sẽ mãi mãi không bao giờ là bờ. Thế rồi tuổi đời người người -đến đến – đi đi cứ mộng vờ, hoang tưởng hão huyền một thứ bờ bờ - bến bến, không biết nơi nào để neo lại một thân thể phiêu bồng.
Có thể bến cho em và bờ cho tôi. Tôi cứ mãi đi và em ở lại. Cái thân phận thuyền quyên ấy đừng làm đau xót đời. Cuối cùng, trong cõi mông lung mờ mờ ảo ảo, em vẫn chính là cái bến hư ảo một cách vẹn toàn mà tôi có lúc mỏi mệt sẽ tìm về nương tựa.
“ Ru đời đi nhé cho ta nương nhờ lúc thở than”…
Cái bờ ru lời hiu quạnh lau lách. Cái bến ru chập chờn một đốm lửa chiều…
Trong một giấc ngủ bồng bềnh không giờ giấc của mùa xuân, tôi thảng thối thấy bờ bến bỗng rã tan thành những cánh bèo mông lung vô định. Em tôi không bến và tôi không bờ. Em trôi đi và tôi cũng trôi đi. Em và tôi cũng là bến. Em và tôi cũng là bờ. Chúng ta tan biến vào nhau thành một khối bến bờ không còn chia lìa nữa. Trong em không còn trí nhớ về bến. Trong tôi cũng mất hết những ký ức về bờ. Bến ở đâu và bờ ở đâu?


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/14769/18C921E4859643E5A958EE697E3C888E.jpg[/image]
Attached Image(s)
Địa vị ư? - Sẽ mất
Tiền tài ư? - Sẽ hết
Hoa đẹp ư? - Sẽ tàn
Chỉ có lòng người sống mãi với thời gian.

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Nỗi lòng của tên tuyệt vọng - 31.03.2007 00:21:53
Nỗi lòng của tên tuyệt vọng

Trịnh Công Sơn, 1972. Thay lời tựa tập nhạc "Tự tình khúc" (*)

Tiếng nói thầm kín của một người nhiều khi suốt cuộc đời không thể nào bày tỏ. Có khi bày tỏ được thì cũng là những tiếng nói dở dang. Có người giấu bặt. Tôi chưa hề quên cái hiệu lệnh muôn đời: "Cái ta đáng ghét". Tuy nhiên trong cuộc sống thường nhật nơi đây, ngoài những ngày hét la to đầy nộ khí, vẫn có những giây phút lui về muốn thở than. Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người.



Mỗi đời sống ẩn giấu một định mệnh. Có những định mệnh đời đời là cây kiếm sắc. Một đôi lần trong giấc mơ tôi, bừng lên những ánh thép đó. Nhưng tôi biết rõ rằng tôi chỉ là một loài chim nhỏ hót chơi trên đầu những ngọn lau. Không ai muốn mình là kẻ tuyệt vọng. Nhưng tôi tự nguyện làm tên tuyệt vọng. Bởi nhiều khi sớm mai tôi thức dậy không thấy được hoa quả khai sinh trong trái tim người.

Tôi lại biết thêm rằng, dù là người chiến thắng hay chiến bại, suốt cuộc đời cũng không thể vui chơi. Hạnh phúc đã ngủ yên trong những ngăn kéo của quên lãng.

Nơi đây, chúng ta đang sống thêm một thứ định mệnh mới. Định mệnh Việt Nam. Thứ định mệnh đã khép lại những nụ cười. Đã dạy dỗ ta những điều mang trá. Thứ định mệnh đêm rao bán ở công viên, trong những ngõ tối, dưới những khung cửa thấp và chật hẹp. Nhưng may mắng thay, vẫn còn làm nở ra, đây đó, những đời người đẹp đẽ.

Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi thường rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy mình lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm. Khi quanh tôi, mọi người đã yên ngủ. Và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh.

Mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm. Ðời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, vì sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời. Như đứa con ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy sắn nương khoai, nơi có bà mẹ suốt đời mắt không sáng nổi một ngày trẩy hội.

Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá. Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọn g và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa. Tôi không muốn khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng mỗi chúng ta hãy thử sống cùng một lúc vừa kẻ chiến thắng vừa kẻ chiến bại. Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường.

Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là người bạn. Ðôi khi tôi là người tình. Chúng tôi cùng học vẽ lại chân dung của nhân loạị Vẽ lại con tim khối óc. Trên những trang giấy trắng tinh khôi chúng tôi không bao giờ còn thấy bóng dáng của những đường kiếm mưu đồ, những vết dao khắc nghiệt. Chúng tôi vẽ những đất đai, trên đó đời sống không còn bạo lực.

Như thế, với cuộc đời, tôi đã ôm một nỗi cuồng si bất tận. Mỗi đêm, tôi nhìn trời đất để học về lòng bao dung. Nhìn đường đi của kiến để biết về sự nhẫn nhục. Sông vẫn chảy đời sông. Suối vẫn trôi đời suối. Ðời người cũng để sống và hãy thả trôi đi những tị hiềm.

Chúng ta đã đấu tranh. Ðang đấu tranh. Và có thể còn đấu tranh lâu dài. Nhưng tranh đấu để giành lại quyền sống, để làm người, chứ không để trở thành anh hùng hay làm người vĩ đại. Cõi nguồn từ khước tước hiệu đó.

Chúng ta đã đấu tranh như một người trẻ tuổi và đã sống mệt mỏi như một kẻ già nua. Tôi đang muốn quên đi những trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ. Ở đó có hai con đường. Một con đường dẫn ta về ca tụng sự vinh quang của đời sống. Con đường còn lại dẫn về sự băng hoại.

Nhân loại, mỗi ngày, đang cố bày biện những tiệm tạp hóa mới. Ðóng thêm nhiều kệ hàng. Người ta bán đủ loại: đói kém, chết chóc, thù hận, nô lệ, vong thân...
Những đấng tối cao, có lẽ đã ngủ quên cùng với chân lý.

Tôi đã mỏi dần với lòng tin. Chỉ còn lại niềm tin sau cùng. Tin vào niềm tuyệt vọng. Có nghĩa là tin vào chính mình. Tin vào cuộc đời vốn không thể khác.

Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng.


Trịnh Công Sơn

11/1972


(*) Lời tựa của TCS do chúng tôi nhan đề

http://www.tcs-home.org/writings/NoiLongCuaTenTuyetVong/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 00:37:16 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Mê hoặc bằng sự giản dị - 31.03.2007 01:01:04
Mê hoặc bằng sự giản dị




Tự nhận là "người hát rong đi qua trần gian". Trịnh Công Sơn rao truyền thông điệp "sống để yêu thương" của mình bằng một thứ âm nhạc giản dị trong trẻo nhất. Nó rất gần với âm nhạc của những người hát rong trên khắp thế giới này.
 

Không phải vì Trịnh Công Sơn không học "chính quy" ở một trường nhạc nào nên âm nhạc của anh mới "không phức tạp" như vậy. mà vì bản chất của âm nhạc đường phố lại rất gần với nhạc trong giáo đường: nó rao truyền thông điệp bằng chính sự giản dị và bằng sự cuốn hút của đức tin. Người hát rong có thể hát để kiếm tiền độ nhật, nhưng lớn hơn, họ còn hát vì một đức tin muốn đưa tới người nghe một thông điệp mà có khi chính họ không ý thức hết.
 
Trịnh Công Sơn là người từng học ban Triết học, từng viết văn và nhất là làm thơ, nên chắc chắn anh có ý thức khi muốn rao truyền thông điệp của mình. Vậy mà tôi vẫn có cảm giác anh là người hát rong hồn nhiên. Âm nhạc của anh dù đôi khi như rao giảng nhưng lại luôn vô tình, không cố ý. Âm nhạc ấy không buộc người nghe phải nhọc công tìm kiếm một ý nghĩa sâu xa nào. Nó chinh phục người nghe tức khắc, đúng như bản chất nguyên thủy của âm nhạc.
 
Còn nhớ, có lần tôi đã nghe vài nhạc sĩ chuyên nghiệp nhận xét nhạc Trịnh Công Sơn chưa chuyên nghiệp lắm. Họ cũng nhận xét về âm nhạc Phạm Tuyên như vậy. Đó là hai nhạc sĩ có vẻ rất khác nhau. Âm nhạc Phạm Tuyên nghiêng hẳn về ngợi ca lạc quan, trong khi âm nhạc Trịnh Công Sơn nghiêng về những dằn vặt đau đớn của phận người. Nhưng đã bao giờ ẩn sâu giữa những cung bậc ngợi ca đầy lạc quan của Phạm Tuyên một nỗi đau ngấm ngầm, còn giữa những giai điệu đầy day dứt u sầu của Trịnh Công Sơn một giọng ngợi ca sáng láng và chìm lắng? Đó là hai nhạc sĩ viết từ hai phía số phận dân tộc Việt, cứ ngỡ họ xa nhau mà hóa ra lại gần, rất gần nhau. Nói như thế e có nhạc sĩ hay nhà phê bình âm nhạc chuyên nghiệp sẽ phản bác, cho là tôi nói… tào lao. Nhưng thực sự, tôi nghe được như vậy từ âm nhạc của hai nhạc sĩ này. Và tôi có quyền nghe được như vậy, theo cảm thụ của riêng tôi.
 
Chỉ riêng một ca khúc Huyền thoại mẹ của Trịnh Công Sơn thôi, tôi nghĩ, Người Mẹ Việt Nam, người mẹ yêu nước, người mẹ thương những đứa con không phải do mình dứt ruột đẻ ra, người mẹ kháng chiến đã được ngợi ca ở những cung bậc cao nhất và trầm nhất, nhưng lại không vượt quá nhịp đập bình thường của trái tim con người. Chỉ với một bài hát ấy thôi, Trịnh Công Sơn đã xứng đáng với một giải thưởng cao nhất dành cho âm nhạc. Nhưng Trịnh Công Sơn đâu chỉ có mỗi bài Huyền thoại mẹ. Anh còn có hàng trăm bài hát để đời khác, những bài hát đủ sức làm say mê, day dứt, lay tỉnh nhiều thế hệ người Việt. Nhưng cũng như Phạm Tuyên, anh vẫn không có một giải thưởng cụ thể nào, dù ta có thể nói anh đã nhận được một giải thưởng cao nhất: đó là tình yêu của hàng triệu người Việt và không phải người Việt dành cho âm nhạc của anh.
 
Bạn tôi, nhà thơ Vũ Ân Thy đã có bài viết rất hay nhằm "giải mã" ca từ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn, khi anh tìm trong ca từ ấy thể thơ 3 chữ hay 4 chữ của đồng dao, 5 chữ hay 6 chữ của thể thơ kể chuyện trong thơ ca dân gian người Việt. Đúng là nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn là ca khúc đồng dao, nhiều ca khúc khác là những câu chuyện kể bằng âm nhạc rất bình thường, giản dị. Âm nhạc ấy đòi hỏi ca sĩ thể hiện không chỉ "bắt đúng kênh" mà còn phải tự biết "quên mình" hay "nhập hồn" vào ca khúc. Và phải hát thật giản dị, đúng như kiểu những người hát rong đã hát.

Tôi nhớ, ngày mới giải phóng Sài Gòn, một băng cassette nhạc Trịnh Công Sơn và một chiếc máy cassette cũ đã theo tôi và nhà thơ Ngô Thế Oanh lang thang khắp miền Nam. Phải nghe nhạc Trịnh Công Sơn trong trạng thái hồn nhiên hoang dại và di chuyển liên tục như chúng tôi hồi ấy mới thấy… sướng. Nghĩa là người nghe cũng phải "nhập vai" người hát rong, cũng lang thang và "được tháo gỡ" mọi vướng víu, kể cả chuyện không biết trưa nay mình có được ăn cơm không và ăn ở đâu, thì lúc đó dường như âm nhạc Trịnh Công Sơn mới vào ta một cách trọn vẹn.
 
Thanh Thảo

http://www2.thanhnien.com.vn/Chaobuoisang/2007/3/25/186265.tno
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 01:09:32 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Giải mã nhạc thơ Trịnh Công Sơn - 31.03.2007 01:12:04
Giải mã nhạc thơ Trịnh Công Sơn


Trịnh Công Sơn (24.2.1939 - 1.4.2001), nhạc sĩ tài hoa, nhà thơ xứ Huế. Gần 50 năm qua khi tác phẩm đầu tay Ướt mi xuất hiện, nhất là 5 năm trở lại đây từ khi nhạc sĩ qua đời, nhiều nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn được dàn dựng trên các sân khấu ca múa nhạc, băng đĩa..., sách viết về ông liên tục xuất bản. Tại sao nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn có sức lan truyền, thẩm thấu, lay động...?


Nghe và gặp

Thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong chiến khu, tôi may mắn làm việc, tiếp xúc với đời sống sinh hoạt văn nghệ các vùng tạm bị chiếm, các đô thị miền Nam. Ngay sau ngày 30.4.1975, tại ngôi nhà nay là trụ sở của Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM, các văn nghệ sĩ từ Hà Nội vào trong đó có nhà văn Hà Mậu Nhai, Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, nhà thơ Chế Lan Viên, nhà thơ Xuân Diệu, nhà văn Nguyễn Đình Thi, nhạc sĩ Hồ Bắc, nhà văn Hồng Duệ, nhà văn Thái Thành Đức Phổ, họa sĩ Mai Văn Hiến, Nguyễn Sáng cùng cánh văn nghệ sĩ trong R ra là họa sĩ Thanh Châu, Cổ Tấn Long Châu, Phạm Đỗ Đồng, Nguyễn Quang Sáng, Hoài Vũ, Giang Nam, Thanh Thảo... trò chuyện và im lặng mở băng, nghe nhạc Trịnh Công Sơn say sưa.

Đã nhiều lần gặp và uống rượu với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ những nhận xét đột ngột của nhiều người, tôi hát, đàn, đọc, nghe... để tìm cho mình cách giải mã tác phẩm của ông. Có lần cùng Nguyễn Quang Sáng ở nhà Nguyễn Duy; có lần cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngân Vịnh, Thanh Quế... ở Đà Nẵng, có lần cùng Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Lâm, Nguyễn Khắc Phục, họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi ở nhà Hoàng Yên Di bên Nhà Bè và không ít lần ngồi quán cóc lề đường với Nguyễn Nhật Ánh...

Sau bộ phim truyện của đạo diễn Hoàng Tích Chỉ về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Báo Thanh Niên lần đầu tiên đưa chương trình Duyên dáng Việt Nam về Quảng Nam - Đà Nẵng giới thiệu. Trịnh Công Sơn cùng ở chung với chúng tôi gồm Lê Nhược Thủy, ca sĩ Cẩm Vân, Quốc Triệu, Hồng Nhung, người đẹp Thanh Mai... Đỗ Trung Quân,... và tôi. Tối đến, bên bãi biển Thanh Khê, Mỹ Khê hay bên sông Hàn, xuống Hội An bên sông Hoài, lúc nào anh Sơn cũng uống rượu Chivas. Anh uống không ăn, chỉ nghe và nói rất ít khi có câu hỏi cần trả lời. Anh Sơn vui thích bất kỳ ai hát bài của mình và bao giờ anh cũng khen hay. Có nhiều đêm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và nhà thơ Đỗ Trung Quân thức trắng uống rượu và trò chuyện. Tôi ngồi lắng nghe...

Truyền thống từ thơ dân gian, dân ca

Có thể dễ nhận biết được ca từ trong các bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như là những bài thơ, khổ thơ ta thường gặp trong các bài thơ dân gian, dân ca miền Trung, mà Huế là một trung tâm văn hóa nổi trội. Bắt đầu từ những vần thơ dân gian, dân ca miền Trung xứ Huế: "...Trước bến Vân Lâu. Ai ngồi ai câu. Ai sầu ai thảm. Ai thương ai cảm. Ai nhớ thương ai...". Hay câu ca ví dặm Nghệ Tĩnh "Giận thì giận (nì). Mà thương thì thương. Anh ngược Đò Lường. Em không chịu nổi...".

Các nhà thơ miền Trung đều có thơ hay thể loại 4, 5 chữ, như Xuân Diệu (Hà Tĩnh): "Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng vàng nhạt. Tôi muốn buộc gió lại. Cho hương đừng bay đi"; Lưu Trọng Lư (Quảng Bình): "Mưa chi mưa mãi. Lòng nhớ thương hoài?”, hay "Em không nghe mùa thu. Dưới trăng mờ thổn thức”; Hàn Mạc Tử (Quảng Bình): "Trước sân anh thơ thẩn. Đăm đăm trông nhạn về. Mây chiều còn phiêu bạt. Lang thang trên đồi quê..." đều là những áng thơ hay giàu truyền thống dân gian.

Chúng ta thử đọc những bài... thơ hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nào là thơ 3 chữ như đồng dao: Trời ươm nắng/Cho mây hồng/Mây qua mau/Em nghiêng sầu/Còn mưa xuống/Như hôm nào/Em tới thầm/Mang gió lên"; Thơ 4 chữ: "Mẹ ngồi ru con/Ru mây vào hồn/Lạy trời mưa tuôn..."; "Hà Nội mùa thu. Cây cơm nguội vàng. Cây bàng lá đỏ. Nằm kề bên nhau"... hay thơ 5 chữ: "Gió heo may đã về. Chiều tím loang vỉa hè. Và gió hôn tóc thề"...; "Đêm chong đèn (ngồi) nhớ lại. Từng câu chuyện ngày xưa. Mẹ về đứng dưới mưa. Che đàn con nằm ngủ..."...

Từ tình ca, tâm ca cho đến những bài nhi ca... Trịnh Công Sơn đều làm thơ 3, 4, 5 chữ quen thuộc. Từ thơ cơ bản 3, 4, 5 chữ, chuyển hóa. Thơ 3 chữ: "Trời trong xanh. Đất hiền hòa. Bàn chân em. Đi nhè nhẹ...", biến hóa thành thơ 7 chữ hoặc ngược lại: "Em sẽ là mùa xuân của mẹ. Em sẽ là màu nắng của cha. Em đến trường học bao điều lạ. Môi mỉm cười là những nụ hoa"... Có khi thơ 4 chữ biến hóa thành 8 chữ "Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao... Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau”... Có khi thơ 5 chữ biến thành 10 chữ "Một người về đỉnh cao một người về vực sâu. Để cuộc tình chìm mau như bóng chim cuối đèo...". Thơ 3, 4, 5 chữ thoắt ẩn thoắt hiện, huyền ảo "Từ trên đất này những con người mới. Mọc lên tựa tia nắng cuối chân trời..." hay "Từ Bắc vô Nam nối liền cánh tay. Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...

Là gì nếu không phải là tính dân tộc đậm đà, đặc sắc, độc đáo trong thơ Trịnh Công Sơn - một hồn thơ Huế, một hồn thơ miền Trung, một hồn thơ Việt Nam.

Cấu trúc nghệ thuật lập thể Picaso

Ca khúc Trịnh Công Sơn dễ thuộc, trước hết vì thơ Trịnh Công Sơn dễ nhớ. Trịnh Công Sơn lại biết cách hát thơ đa dạng, phong phú nên nhạc ông càng long lanh sắc màu. Thơ - nhạc Trịnh Công Sơn là những khúc tư tình chân thành, say đắm và có chất của thiên tài mê hoặc. Cái chất mê hoặc nhiều khi... khó hiểu chính là ông kết hợp giữa tính dân tộc với quốc tế; tính độc đáo cá biệt với tính phổ biến hiện đại.

Nhiều lần trò chuyện với bạn bè trong giới họa sĩ bạn thân của ông (bản thân ông cũng là một họa sĩ), được biết ông rất mê danh họa Picaso, ông tổ của một phương pháp nghệ thuật đã làm thay đổi, cách tân quan điểm cổ điển kinh viện của nghệ thuật thế giới - Nghệ thuật lập thể ! Cùng với nghệ thuật đồng hiện, nghệ thuật lập thể cho phép nghệ sĩ trên một không gian cụ thể, thời gian cụ thể, một mặt phẳng giới hạn... có thể biểu hiện tất cả các góc cạnh của hiện thực cuộc sống, lịch sử qua thế giới quan của chính mình.

Thi pháp của Trịnh Công Sơn thực chất là thơ dân gian 4, 5 chữ truyền thống, nhưng được thể hiện và xây dựng trên nền tảng nghệ thuật lập thể, cho nên vừa truyền thống, vừa hiện đại, vừa độc đáo vừa phổ biến. Những tứ thơ, đoạn thơ lập thể của Trịnh Công Sơn tạo nên bề dày của ý tứ: "Rồi từ đây em gọi. Tình yêu cánh chim bay. Gọi thân hao gầy. Gọi hồn ngất ngây... Ôi tóc em dài đêm thần thoại"; "Tôi thu tôi bé lại. Làm mưa tan giữa trời. Tôi xin làm đá cuội mà lăn theo gót hài"... hay: "Người ngồi xuống hai vai gầy. Ôi yêu thương nghe đá buồn... Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao. Còn gì nữa đâu sương mờ đã lâu. Em đi về cầu mưa ướt áo. Đường phượng bay mờ không lối vào. Hàng cây lá xanh gần với nhau..." hay "... Ngày chủ nhật buồn. Còn ai còn ai. Đóa hoa hồng. Tàn hôn lên môi. Em gầy ngón dài. Lời ru miệt mài...", "Mây bay trên đầu và nắng trên vai. Đôi chân ta đi sông còn ở lại. Con tim yêu thương vô tình chợt gọi. Lại thấy trong ta hiện bóng con người...".

Hiện nay, nhiều chương trình hòa tấu nhạc Trịnh Công Sơn được thực hiện bài bản và chuyên nghiệp. Nhận xét chung là đều gợi nhớ lời thơ của bài hát, hay có cảm giác đơn điệu (monotone). Tại sao vậy. Có lẽ vì người ta đã quen nghe nhạc phẩm. Và nhạc Trịnh Công Sơn cũng dùng để hát (nghĩa có lời). Trịnh Công Sơn làm thơ để hát cho nên ca từ đều là những bài thơ hoàn chỉnh. Và ngay việc phổ biến của bài hát Trịnh Công Sơn cũng có giới hạn nhất định - Ấy là chất thị thành của thanh niên học sinh sinh viên, trí thức trẻ.
Sinh thời, Trịnh Công Sơn tâm sự: "Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những tình cảm của mình". Tác phẩm Trịnh Công Sơn là sự kết hợp hài hòa giữa gia đình (mẹ già, tiếng mõ tụng kinh), quê hương của người Minh Hương lập ấp xây làng tại Thừa Thiên - Huế, văn hóa Pháp, văn hóa phương Tây, của đời sống trí thức thị dân... và cuộc chiến tranh ác liệt...
 
Vũ Ân Thy

 
http://www2.thanhnien.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=181804
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 01:14:09 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Giây phút sáng tạo: trước tiên là sự ám ảnh... - 31.03.2007 01:25:06
Giây phút sáng tạo: trước tiên là sự ám ảnh...


Với một nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 ca khúc – mà phần lớn được yêu thích ngay từ khi ra mắt lần đầu - lắm lúc người ta phải tự hỏi sức mạnh nào đã đưa ông đi đến những bờ cõi tuyệt vời của sáng tạo không ngừng ấy ?
 
Trong triết học Mật tông có nói đến khái niệm về sự bùng nổ ý thức; tương tự, sáng tạo của con người cũng có những giây phút bùng nổ như vậy. Tất nhiên trước đó ta phải mang nặng trong tâm trí những ý tưởng, hình ảnh, triết lý... liên quan đến đề tài cần sáng tạo. 
 
Trong sáng tác ca khúc chẳng hạn, trước khi viết ra một bài hát, tôi cũng phải suy nghĩ về nó rất dài lâu. Khoảng thời gian đó là vô hạn định, có thể là một ngày, một năm hay lâu hơn nữa. Đến khi tác phẩm hoàn toàn rõ ràng trong đầu thì việc chép ra có thể chỉ trong phút giây. Đó chính là giây phút bùng nổ quan trọng nhất của sáng tạo, nó vỡ ra tất cả những gì chưa giải quyết được còn dồn lại trong đầu bấy lâu. Nếu chỉ nhìn vào thời gian tác phẩm được ghi lại – có thể là một giờ, một ngày - người ta có thể cho rằng việc sáng tạo thật ngắn ngủi và dễ dàng, nhưng có ai tưởng được rằng tất cả những điều đó đã được tích lũy qua năm tháng. Bất cứ tác phẩm nào cũng phải như thế cả. Sáng tác nào không được phát thảo trước trong ý thức như vậy, thì khi nó ra đời cũng chẳng có giá trị gì.
 
Đôi khi ai đó thấy tôi lang thang trên phố, đứng ngắm một bức tranh hay che tay đứng nhìn một ngọn nắng; cứ tưởng là chơi, nhưng đó là những lúc trí óc tôi đang loay hoay với đề tài mà mình đang suy tưởng. Trên 600 ca khúc tôi viết – ví dụ như bài Hoa Xuân Ca hay Quỳnh Hương - đều ra đời như vậy, từ một hội ngộ kín đáo giữa tôi và cuộc đời trong một dịp ngẫu nhiên nào đó. Nhìn thấy một ánh nắng, một giọt mưa hay một người con gái trên đường, trong tôi có thể bỗng vỡ vạc những cảm giác cuối cùng ập đến, khơi mở, hoàn thiện cho một cái mới. Muốn được như vậy tôi phải làm một chứng nhân của nắng mưa, của sáng chiều, sớm tối. Những cái tưởng chừng lặng lẽ đó đầy sức sống và ban tặng cho mình vô vàn những điều sâu sắc. Tôi cũng làm chứng nhân về những người già, em bé, những người thiếu nữ, sự hạnh phúc, cái chết, sự sống. Mỗi khi ghi nhận những hình ảnh đó vào trí nhớ, tôi bao giờ cũng bị giam, bị vây nhiều giờ phút nghĩ về con người và soi rọi lại mình để hình thành một ca khúc.
 
Cũng có những tác động tưởng chừng là bất ngờ ập đến, tạo ra một niềm cảm hứng. Nhưng hãy ngẫm nghĩ mà xem, nếu như không có sự tư duy, nuôi dưỡng từ trước thì cảm hứng chẳng thể nào trào dâng lên được. Ngược lại, sự ngỡ ngàng do cái mới bất ngờ ập đến chỉ có thể tạo nên sự trống rỗng, vô hồn, hoặc chỉ đơn thuần ghi chép lại chứ không là sáng tạo.
 
“Một hôm thấy ta là lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do...”, tôi còn nhớ ca khúc này và sự chiêm nghiệm của mình như là một tổng kết những gì mà tôi cảm nhận được từ cuộc đời của tôi, của mọi người. Thực lòng mà nói, tôi chịu ảnh hưởng của Albert Camus trong bài hát này. Trong tác phẩm « Ghi chép ở Angiêri » (« Notes d’Algérie »), ông ghi lại những tiếng chó sủa ban đêm, những bước chân đi mà ai cũng có thể một lần nghe thấy trong đời mình nhưng không mấy người nhìn ra được điều đó từ chúng. Ngẫm lại đời mình, tôi thấy tôi nhiều muộn phiền. Không hiểu vì sao tôi đã ray rứt về sự ra đi, ở lại của cuộc đời từ rất sớm. Tôi đã chọn hình tượng lá cỏ để ví với mình. Vì sao lại là lá cỏ? Có thể cuộc đời rộn ràng có quá nhiều điều để ta phải lưu ý, nhưng trong đó không thể không có sự góp mặt của những điều nhỏ nhoi. Ngọn cỏ, lá cây hay cây đa đều có bổn phận của nó với cuộc đời. Cỏ có bổn phận cỏ, lá có bổn phận lá. Tôi không mơ ước gì to lớn, mà nghĩ mình như một phận cỏ hèn. Vì hèn mọn nên nó không phải to lớn và có bổn phận nặng nề như cây đa, vì vậy nó tự do lắm. Và vì sao lá cỏ lại hát? Bài hát là phương tiện để bày tỏ lòng mình với cuộc đời, có gì đẹp hơn chiếc lá cỏ nhỏ nhoi nhưng tự do ca hát với đời mình? Rũ bỏ những muộn phiền và thảnh thơi đời mình , điều này đã ám ảnh tôi từ lâu, lâu lắm rồi, nhưng chỉ đến khi viết được những câu hát như vậy tôi mới thấy nhẹ lòng. Ý tưởng này quanh quẩn trong tôi nhiều năm và chỉ được giải tỏa khi sáng tạo vụt đến và bật được thành những giai điệu như vậy.
 
Tôi cũng muốn nói với các bạn trẻ sáng tác sau này, ngoài sự tư duy về tác phẩm, về đề tài, còn phải tạo cho mình một nền tảng về triết học. Chính từ đây mà trong tác phẩm của mình mới có được sự sâu sắc. Nếu như ít đọc sách thì mình chẳng thể nhận thêm những chiêm nghiệm sâu sắc của người khác. Một mình mình suy nghĩ thôi thì không đủ vốn liếng với cuộc đời. Chính tôi cũng không thể đứng ngoài con đường ấy được...
 
Phỏng vấn Trịnh Công Sơn,
Tuấn Anh ghi.

Tuổi Trẻ Chủ Nhật
số đề ngày 10/11/1996)
 
http://www.tcs-home.org/writings/giay-phut-sang-tao/

<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 01:26:23 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
6 năm nhớ Trịnh, cảm xúc vẹn nguyên - 19.04.2007 23:10:34
6 năm nhớ Trịnh, cảm xúc vẹn nguyên
 
Tối qua, hơn 4.000 khán giả đến với đêm nhạc "Nhẹ nhàng như mây..." diễn ra tại Hội quán Hội ngộ Bình Quới (TP HCM). Giản dị, đẹp và sang trọng là ấn tượng mà gần 20 nghệ sĩ, ngôi sao làng nhạc thành phố mang đến cho các tấm lòng yêu nhạc Trịnh.

Hồng Nhung xuất hiện trong chiếc áo dài trắng đơn sơ và hát Tuổi đá buồn, Diễm xưa với chất giọng "nhẹ như mây...". Nếu không có đôi mày hơi nhíu để cố kìm nén cảm xúc lúc hát, lúc tâm sự vài kỷ niệm nhỏ về Trịnh Công Sơn, nàng "Bống" trông trẻ trung, tươi tắn như không có tuổi. "Bống" khóc sau khi kết thúc Diễm xưa.  
 






6 năm nhớ Trịnh, Bống hát với giọt nước mắt trên mi.
Sau "Bống" là những gương mặt quen thuộc khác như: Lan Ngọc, Mỹ Hạnh, Đức Tuấn, AC&M, Trần Mạnh Tuấn, nhóm Mặt trời đỏ, Thủy Tiên, hai chị em song sinh Minh Thư - Minh Tú (Tam ca áo trắng), nhạc sĩ - ca sĩ hải ngoại Đức Huy... Họ đã biểu diễn hết sức mình trên một sân khấu thiết kế đơn giản hình chiếc lá màu trắng, dụng ý làm phông nền cho hình ảnh những đồng mạ non xanh mát, biển sóng ầm ào, rừng thu lá vàng xao xác... 
Năm nay, thời tiết đẹp tuyệt vời là một thuận lợi lớn cho ca sĩ. Giữa những đèn lồng to rải đều trước sân khấu và treo trên nhành cây, chiếc "đèn" đẹp nhất, to nhất chính là nàng trăng của đêm trước ngày thanh minh, tròn trong vành vạnh treo lơ lửng ngay trên sân khấu. Chắc có lẽ đó là lý do khiến người ta dù đã nghe Trịnh quanh năm suốt tháng, nghe Trịnh trong những phòng trà ấm cúng lẫn khán phòng sang trọng, hay cà phê cóc, thì họ vẫn muốn về nơi lá gió của Hội quán, để giữa xào xạc cây trời mà tiếp tục lắng lòng cùng giai điệu của ông. 






Trần Mạnh Tuấn chơi kèn giữa đèn lồng, trăng cao và người đẹp.
Nhiều khán giả nhận xét, MC Đỗ Trung Quân nói chuyện duyên hơn các năm. Không phải chỉ vì dẫn chương trình cùng anh còn có cô gái xinh đẹp, MC Xuân Hiếu của đài HTV, mà vì dường như ở "người đàn ông có vẻ đẹp tiều tụy" này (như anh tự nhận xét về mình), việc làm MC cho những đêm nhạc tưởng nhớ Trịnh tại Bình Quới là hình ảnh quá quen thuộc với mọi người.
Đỗ kể về một chuyến ra Hà Nội, vô tình được bạn dẫn đến Cuối Ngõ, một quán cà phê nhạc Trịnh. Ông chủ quán từng là dân anh chị, vì mê nhạc Trịnh đã "gác kiếm hoàn lương" về mở quán cà phê, lập bàn thờ Trịnh, ngày ngày thắp hương cho người nhạc sĩ tài hoa. Đó không phải là chuyện của ngày Cá tháng 4, mà là sự thật về một tấm lòng giống như nhiều tấm lòng khác. 






Nhạc sĩ - ca sĩ Đức Huy giành được nhiều tình cảm của khán giả bằng giọng hát êm đềm và phong cách giản dị.
Khi mỗi bài hát kết thúc, hoặc đến đoạn nghệ sĩ biểu diễn hay quá, tiếng vỗ tay lan xa từ những bãi cỏ kéo dài đến gần khán đài, nghe như từng đợt sóng. Hàng nghìn người ngồi trong trật tự. Người chiếm được góc gần sân khấu thì hể hả ra mặt. Có người chấp nhận đứng. Có người ngồi xa khuất trên những thảm cỏ, không xem chỉ cúi đầu nghe. Đêm nhạc kết thúc, dòng người đổ ra con đường nhỏ của khu Hội quán, không quá ồn ào, náo nhiệt và có những lời hẹn "năm sau lại đến nghe...".
 
Bài, ảnh: Anh Vân
 
http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2007/04/3B9F4B42/
 
 

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Bài hát đầu tiên - 19.04.2007 23:37:45
Bài hát đầu tiên
Sâm Thương

Năm 1958, Sơn sáng tác ca khúc Ứớt Mi được Nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sàigòn năm 1959. Thật ra, theo như lời Sơn kể lại thì trước đó Sơn cũng đã sáng tác một số bài như Sương Đêm, Chơi Vơi “Rất nhiều bài hát đã được viết trước bài ‘‘ Ướt Mi” nhưng riêng bài Ướt Mi thì tồn tại như một số phận của nó và của tôi”(1), do đó có thể coi Ướt Mi là tác phẩm đầu tay của Trịnh Công Sơn chính thức được công bố.
Trong một tối, Trịnh Công Sơn đã cùng một vài người bạn đến Mỹ Cảnh, một phòng trà nổi tiếng của Sàigòn thời ấy để uống rượu và nghe nhạc. Tình cờ Sơn được nghe tiếng hát của một ca sĩ chỉ mới 15 tuổi, người Huế : Thanh Thúy, người mà Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã dành một chương trong trong tác phẩm Nhận Định IV (2) mang tên Ảo Ảnh Thanh Thúy để viết về cô:
“ (…) Thường một ca sĩ ra hát, bao giờ cũng cố gắng làm sao cho người khác để ý đến mình, không những chỉ bằng sự hiện diện trước mặt họ mà còn bằng những cử động, những cái nhìn, nụ cười chiếu thẳng vào khán giả mong làm hài lòng khán giả như mời gọi, quyến rũ. Đứng trước máy vi âm, ca sĩ chú ý đến khán giả mong làm hài lòng khán giả bằng sự phô trương tất cả con người của mình.
Trái lại Thanh Thúy ra hát, dĩ nhiên cũng là hát cho khán giả, nhưng làm ra vẻ không chú ý đến khán giả, không tự giới thiệu, đi đến với khán giả bằng cử chỉ nụ cười, cái nhìn Thanh Thúy e lệ, kín đáo, bước ra rụt rè như con cò, tiến đến gần máy vi âm, mà không đưa mắt nhìn vào khán giả. Lúc hát không làm một cử động nào, hai tay luôn luôn nắm lấy cây sắt của máy vi âm, mắt nhìn xuống đất hoặc nhìn ngang, thỉnh thoảng mới nhìn lên lướt qua rất nhanh khán giả mà không cố ý nhìn một ai. Thanh Thúy không nhìn ai, để trở thành vật được nhìn của tất cả. Hình như đôi lúc Thanh Thúy lại nhắm mắt hay chỉ mở lim dim…
(…) Đứng trướcThanh Thúy, nghe Thanh Thúy hát những bài buồn buồn bằng một giọng trầm, với những nét mặt xa vắng, khán giả như thấy bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ vãng dệt một hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất nước, với thôn quê , đồng ruộng , với sông Hương , núi Ngự, tiêu biểu cho những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định…Thanh Thúy là hiện thân của nỗi buồn đó.

Giọng ca trầm buồn và phong cách trình diễn của Thanh Thúy đã gây cho Sơn một ấn tượng đặc biệt. Ngay trong đêm nhạc đó, Sơn đã viết một mảnh giấy nhỏ đề nghị Thanh Thúy hát bài Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong. Thanh Thúy nhỏ nhẹ cám ơn, rồi cất tiếng hát. Khi hát do có tâm sự riêng, nghe đâu cha cô vừa mất trước đó vài tháng và mẹ cô bị lao phổi đang trong tình trạng trầm trọng. Cô đã không kiềm chế được cảm xúc, cứ để cho tình cảm tràn đầy, cô vừa hát vừa khóc.
Sau khi quay về Huế, có lẽ vào một đêm mưa, cơn mưa của Huế, Sơn đã nhớ lại những giòng nước mắt lăn dài trên má của cô ca sĩ trẻ với số phận bất hạnh, “những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ trên tâm hồn mỏng manh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời nào còn xa xôi hơn đã từng làm tôi nhỏ lệ.
Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tôi không ngừng dan díu với những giọt nước mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống thành hình. Tôi e cũng đã từng nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình nói về những giọt nước mắt kia (3).
Những giọt nước mắt đó đã trở thành một ám ảnh, một thôi thúc làm bùng lên ngọn lửa sáng tạo đang âm ỉ cháy trong Sơn. Và, Sơn đã viết ra như không kiềm giữ được:


Buồn ơi trong đêm thâu
Ôm ấp giùm ta nhé
Người em thương mưa ngâu
Hay khóc sầu nhân thế
Tình ta đêm về có ấm
từng cơn mưa em chưa (…)
Ướt Mi (4)

Bài hát Ướt Mi ra đời trong một hoàn cảnh như thế, và nó đã được giới trẻ miền Nam đón nhận nồng nhiệt vào những năm 1959-1960, đặc biệt khán giả Nhật Bản cũng rất thích bản nhạc này, một phần do dàn nhạc giao hưởng của Nhật đã thu và trình diễn. Với âm điệu đó, ngôn từ đó hình như anh đã nói thay họ những gì trong cái góc riêng tư, sâu kín nhất nhưng lại như có vẻ giản dị, dễ cảm thông mà họ không thể nói được.
Tiền bản quyền của ca khúc Ướt Mi mà Nhà xuất bản An Phú đã trả cho Sơn là 5.000 đồng (5), một số tiền quá lớn. Anh đã bất ngờ với số tiền mà mình nhận được. “Dạo ấy, trong đầu hoàn toàn chưa có một khái niệm nào về tiền tác quyền. Ở tuổi hai mươi, trong tâm trí đang còn phơi phới những ý đồ hiệp sĩ. Số tiền năm ngàn hồi ấy quá lớn đã được dùng một phần tặng người ca sĩ và phần còn lại chia đều cho các bạn cùng ở trọ. Mỗi tháng tiền ăn ở cho một học sinh, sinh viên chỉ có năm sáu trăm đồng.
Nguồn cảm hứng đầu tiên ấy đã làm cơ sở cho một loạt những cảm xúc khác thành hình. Như một khu rừng mùa thu yên tĩnh được một cơn gió thổi bùng lên đánh thức lớp lá vàng dậy, tâm hồn tôi đã bắt đầu biết xôn xao theo những tín hiệu, dù nhỏ nhất của cuộc sống. Tôi không còn nhìn ngắm cuộc sống một cách lơ đãng như trước nữa mà càng lúc càng thấy mình bị cuốn về phía những tình cảm phức tạp của con người.
Những trái cây đầu mùa ấy còn vụng về, chưa có vóc dáng riêng, nhưng nó mang đến niềm thích thú để từ đó sẵn lòng làm một cuộc hành trình dài lâu đi vào cái bề sâu của âm thanh và ngôn ngữ.” (6)

Một năm sau, năm 1959, một lần nữa, Sơn viết một bài khác, cũng để tặng người đã hát bài hát đầu tiên của mình. Bóng dáng người nữ ca sĩ nhỏ nhắn đêm đêm sau xuất hát hấp tấp bước vào ngõ tối trên đường Cao Thắng trở về nhà với mẹ. Đó là ca khúc Thương Một Người như để chia sẻ trên đôi vai cô ca sĩ trẻ sớm gánh chịu nỗi nhọc nhằn.

Thương ai về ngõ tối
Sương rơi ướt đôi môi
Thương ai buồn kiếp đời
lạnh lùng ánh sao rơi.
(...)
Thương ai về xóm vắng
Đêm nay thiếu ánh trăng
Đôi vai gầy ướt mềm
người lạnh lắm hay không.
Thương một người (7)

Với Thanh Thúy, tình cảm mà Trịnh Công Sơn đã dành cho cô không biết có phải là tình yêu hay nỗi niềm cảm thông trước số phận nghiệt ngã của người đồng điệu? Hình như chính Sơn cũng không phân định được.

Sâm Thương

____________

(1) Trịnh Công Sơn, Trịnh Công Sơn, Người hát rong qua nhiều thế hệ, Nhà Xuất Bản Trẻ, 2003, tr.16.
(2) Nguyễn Văn Trung, Nhận Định IV , Nam Sơn xuất bản, 1966, tr. 148-150.
(3) Trịnh Công Sơn, Sđd, Nhà Xuất Bản Trẻ, 2003, tr16.
(4) Trịnh Công Sơn, Ướt Mi, Nhà Xuất bản An Phú,1959.
(5) Theo thời giá năm 1956, một lượng vàng khoảng hơn 1.000 đồng .
(6) Trịnh Công Sơn, Trái Đầu Mùa, Bản thảo viết tay.
(7) Trịnh Công Sơn, Thương một người, Nhà xuất bản An Phú, 1960.

 



hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Tình yêu đầu tiên - 19.04.2007 23:49:35
Tình yêu đầu tiên
Sâm Thương


Nhờ mối quan hệ với Hà Thanh, một ca sĩ của đài phát thanh Huế, cũng là ca sĩ đã hát những bản nhạc đầu tiên của Sơn vào thời kỳ đó. Sơn quen và yêu Ph. Th., em gái của Hà Thanh. Nhà Ph. Th. ở trên đường Huyền Trân Công Chúa, gần ga xe lửa Huế, trước mặt nhà là con đường, tiếp giáp với một nhánh nhỏ của sông Hương chảy qua Bến Ngự, Phủ Cam, về An Cựu, bên kia sông là trường Pellerin. Lúc quen với Sơn, Ph. Th. mới học đệ tam (lớp 10) trường Đồng Khánh, 16 tuổi và Sơn chỉ mới 18 tuổi chứ không phải tuổi 15 như Sơn viết trong Nhật ký tuổi 30 (1)

Mối tình của đôi trai gái mới lớn, chớm nở giữa một khung trời rất ư thơ mộng với những con đường thẳng tắp, những hàng cây xanh mướt, những dòng sông, những chiếc cầu, những con đò, những lăng tẩm thành quách cổ kính, đến những lá thư hò hẹn, và những nụ hôn vụng về thơ dại… cùng với không biết bao nhiêu buộc ràng thành kiến …

Trong nắng vàng chiều nay
anh nghe buồn mình trên ấy
Chiều cuối trời nhiều mây
đơn côi bàn tay quên lối
đưa em về nắng vương nhè nhẹ
Đã mấy lần thu sang
công viên chiều qua rất ngắn
Chuyện chúng mình ngày xưa
anh ghi bằng nhiều thu vắng
đến thu này thì mộng nhạt phai(…)
Nhìn những muà thu đi (2)

Hoặc

Em đứng lên mùa thu tàn tạ,
hàng cây khô cành lá bơ vơ,
hàng cây đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô.
Em đứng lên mùa xuân vừa mở
nụ xuân xanh cành thênh thang
chim về vào ngày tuổi em trên cành bão bùng
Gọi tên bốn muà (2)

Sau khi đậu tú tài bán phần Ph. Th. chuyển qua học lớp đệ nhất trường Quốc Học niên khóa 1961-1962, học chung lớp với nhà thơ Phan Duy Nhân, Trần Vàng Sao, Châu Văn Thuận và luôn với D., người yêu sau này của Sơn. Vì trước niên khóa 1963-1964 ở Huế chỉ có trường Quốc Học mới có lớp đệ nhất (lớp 12) nên tất cả các nam nữ học sinh đậu tú tài bán phần ở Huế, bao gồm cả Quảng Trị, Đà Nẵng đều được nhận vào đệ nhất ở Quốc Học. Kể từ niên khóa 1963-1964 không còn tình trạng nam nữ học chung, trường Đồng Khánh cũng đã bắt đầu có các lớp đệ nhất.
Niên khóa 1961-1962, Ph. Th. học đệ nhất C2 thì tôi mới học đệ nhị B9, sau Ph. Th. một năm. Nhưng hình ảnh cô với mái tóc thề buông xoã bờ vai, trong chiếc áo dài lụa trắng với dáng đi tha thướt, quý phái giữa đám đông, mỗi sáng mỗi chiều trước giờ học từ cổng trường (cổng chính chỉ dành cho giáo sư và nữ sinh) đi vào vị trí xếp hàng chào cờ của lớp mình. Bước chân cô đi thật nhẹ, tà áo bay bay đã làm xao động biết bao tâm hồn nhạy cảm của đám bạn bè cùng trang lứa với tôi thuở ấy.

Mối tình giữa Sơn và Ph. Th. vẫn lãng mạn và thánh thiện. Đó là mối tình đầu với biết bao nhiêu e ấp vụng dại, chưa định hình như bao mối tình thuở học trò thời đó. Dù lúc ấy, tên tuổi Sơn đã được nhiều người biết đến, nhất là với một thành phố nhỏ như Huế. Sơn vẫn như bao chàng trai xứ Huế khác vào tuổi đó, chưa có kinh nghiệm đời, Sơn cũng chưa bao giờ dùng kinh nghiệm đời của anh trong tình yêu. Anh chỉ biết yêu và hiến dâng, chưa bao giờ toan tính. Cho đến khi Ph. Th. đi lấy chồng, một giáo sư đại học, Sơn mới giật mình, chợt hiểu ra mình đã mất đi tình yêu, nó đã để lại những dư vị đắng cay đối với Sơn. ‘‘Thời gian mơ ước được làm người lớn cũng là thời gian của mối tình đầu tiên. Cũng là thời gian được yêu và được nhìn người yêu mình đi lấy chồng. Cuộc tình duyên không cân xứng về tuổi tác nhưng cân xứng về danh vọng và nhan sắc. Điều này đã trở thành cổ điển và không gây thêm được một chút ngạc nhiên nào trong xã hội nho nhỏ của thành phố. Tuy thế, riêng tôi, là một thất vọng không lường được. Sau đó là những mối tình khác nhau nhưng tôi vẫn khó xóa được mặc cảm (tuy càng ngày càng mỏng dần trong tôi) đối với thành phố này …” ( 1 )

Ph. Th. hiện sinh sống ở Mỹ, sau khi chồng mất vẫn ở vậy nuôi con ăn học. Năm 2000 Ph. Th. có trở về Việt Nam. Cuộc gặp gỡ giữa Ph. Th. và Sơn lần nầy chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ, khơng hẹn trước sau mấy chục năm, tôi có mặt trong buổi cơm thân mật hôm đó. Nhìn gương mặt Ph. Th. tôi đã cố nhớ lại dáng vẻ của cô trong tà áo lụa trắng, với chiếc cặp ôm trước ngực trên sân trường Quốc Học năm nào. Thời gian có phần nào làm Ph Th. thay đổi, nhưng ở cô vẫn giữ dáng vẻ dịu dàng, đoan hạnh và vẫn chất giọng Huế quen thuộc.

Sâm Thương

________________________
(1) Trịnh Công Sơn, Nhật ký tuổi 30, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 8.4.2001.
(2) Trịnh Công Sơn, Những bài ca không năm tháng, nxb Âm nhạc, 2000.
 http://www.tcs-home.org/ban-be/sam-thuong/tinh-yeu-dau-tien

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Người vẫn quanh đây - 19.04.2007 23:54:52
Người vẫn quanh đây
 
30-03-2007 22:45:55 GMT +7
 
 
Sáu năm, thời gian đủ để nhiều người lãng quên một cuộc tình, song với nhiều người yêu nhạc, Trịnh Công Sơn vẫn còn hiển hiện . Các ca khúc của anh vẫn còn đó, trên sân khấu, ở quán cà phê, trong lời thầm thì của những lứa đôi... Từng ngày đi qua, những ca khúc của anh vẫn vang vọng tưởng chừng như anh chưa hề có chuyến đi xa.


Những năm tháng cuối cùng trước khi trở về cát bụi, Trịnh Công Sơn đã có một bài viết ngắn như những lời tạ từ cái cõi tạm mang tên trần gian mà anh đã sống trọn đời bằng tất cả yêu thương và tận hiến. Bài viết đó mang tựa đề: “Tôi đã mơ thấy chuyến đi của mình”.
Vẫn là chữ nghĩa của Trịnh Công Sơn nhẹ nhàng, sâu lắng, chẳng lẫn vào đâu được, anh mở đầu thật buồn bã: “Càng sống nhiều ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất cứ một ai. Chết quá dễ mà sống quá khó. Hôm qua gặp nhau đấy ngày mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hò hôm nay hôm mai. Chết thì chẳng có cuộc hẹn hò nào trước...”. Rồi đang trăn trở về lẽ tử sinh của kiếp người, anh lại nói về tình yêu với một chút đắng cay nhưng ngập tràn độ lượng: “...Càng yêu ta càng thấy có tình yêu thì khó mà mất tình thì quá dễ. Hôm qua mới yêu nhau đấy, hôm nay đã mất rồi. Mất sạch như người đi buôn mất hết vốn liếng. Cứ tự an ủi mình khi nghĩ rằng mình đau khổ thì có kẻ khác đang hạnh phúc... Có người bỏ cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Có người bỏ cuộc tình mà đi như người đãng trí. Dù sao cũng đã lãng quên một nơi này để đi về một chốn khác. Phụ đời và phụ người hình như cũng vậy mà thôi...”. Quả thực, không dễ dàng để thuộc lòng một bài văn xuôi như những tình khúc bất hủ của anh, nhưng không ít người đã đọc đi đọc lại đoạn văn này nhiều lần bởi họ đã bắt gặp nỗi niềm của riêng mình trong đó.


“Con đường duy nhất đi đến với người khác trên mặt đất không phải là sự độc ác mà chính là lòng nhân ái vô biên” (Trịnh Công Sơn)
Bây giờ đã là ngày cuối tháng ba, chỉ còn một hôm nữa là đến ngày cá tháng tư (l-4), ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bỏ cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Mới đó mà đã sáu năm tròn, thời gian đủ để nhiều người lãng quên một cuộc tình. Thế mà với Trịnh Công Sơn thì dường như chỉ mới hôm qua, vẫn mơ hồ chưa có cuộc chia ly nên cho dù anh đã xa mặt vẫn chưa đủ để cho người ở lại cảm thấy cách lòng. Tính ra, kể từ năm 1958, khi viết ca khúc đầu tiên mang tên Ướt mi cho đến ngày tim anh ngừng đập, Trịnh Công Sơn đã có 43 năm sống thủy chung với dòng nhạc riêng mình bằng cảm xúc ca từ tuyệt vời đến độ xuất quỷ nhập thần. Không ai có thể đưa ra được con số chính xác trong suốt 43 năm sáng tác đó, Trịnh Công Sơn đã để lại cho đời bao nhiêu ca khúc? Có người nói 800, có người nói 1.000, nhưng cho dù là bao nhiêu đi nữa thì âm nhạc của anh đã lắng sâu vào lòng người để trở thành bất tử. Năm 1972, người Nhật trao tặng anh giải Đĩa Vàng với bài hát Ngủ đi con (dành cho đĩa nhạc nước ngoài phát hành trên hai triệu bản) và người Pháp đã trân trọng ghi tên anh vào từ điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde cũng đủ để xác nhận Trịnh Công Sơn là một trong những thiên tài âm nhạc của nhân loại. Nhưng anh lại là một con người quá cô đơn, cô đơn bởi tâm hồn anh quá lớn, khó tìm được một tri kỷ để chứa đựng hết cảm xúc, trăn trở chất chứa trong tim. Vì thế mà anh độ lượng với đời, chan hòa với người, gửi gắm, sẻ chia, với từng bằng hữu, mỗi người một ít, dù thân hay sơ cũng được anh đón nhận bằng tất cả chân tình.
Không ít người chưa một gần gặp Trịnh Công Sơn, nhưng khi anh đi rồi, họ lại tiếc thương như một người ruột thịt. Trên đường Âu Cơ, quận Tân Bình - TPHCM, một cô gái chủ một quán cà phê đã đúc một pho tượng Trịnh Công Sơn bằng đồng đặt chính diện quán, suốt ngày nghi ngút khói hương. Một nhà giáo trên đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3 đã làm hai trang thờ đối diện nhau trong phòng khách với hai bức di ảnh được phóng lớn: một bên là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một bên là nhà thơ Bùi Giáng...
Với nhiều người yêu nhạc, Trịnh Công Sơn mãi mãi vẫn còn trong tim họ, vẫn còn hiển hiện giữa đời. Từng ngày đi qua, những ca khúc của anh vẫn vang vọng tưởng chừng như anh chưa hề có chuyến đi xa. Và như thế Trịnh Công Sơn đã quá linh thiêng khi thảng thốt viết lên những lời tiên tri: “Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây...”
 
ĐOÀN THẠCH HÃN
 
http://www.nld.com.vn/tintuc/van-hoa/184593.asp
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2007 00:00:15 bởi hoaha >

chuthuongthoi`
  • Số bài : 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.05.2007
RE: Người vẫn quanh đây - 16.05.2007 19:57:49
Trịnh công Sơn !
từng một thời với tôi là thần tượng . . .
Xin được post lên đây một bài viết vừa tình cờ đọc được .
sống trên đời cần một tấm lòng
chẳng cho ai cả
chẳng làm gì hết

chỉ để gió cuốn đi thôi !

(Trịnh công Sơn vô ( ! ) tâm thế đấy !)

Theo chỗ tôi biết, trong số những người viết về cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh trong thời gian dạy học, chỉ có bốn người mới có thể có nhiều tài liệu sống về Trịnh Công Sơn, còn hầu hết đều cưỡi ngựa xem hoa, hoặc cặm cụi mày mò, đào xới trong các bài viết của nhiều người, cóp chỗ này một ít, chỗ kia vài chi tiết và đem các ca từ của họ Trịnh ra, sợi tóc chẻ làm tám, rồi dùng ngòi bút thần kỳ hô phong, hoán vũ, tô lục, chuốc hồng mà thôi.

Bốn người đó là: Hoàng Phủ Ngọc Tường - Khánh Ly - Trịnh Cung - Đinh Cường.


Thời gian Trịnh công Sơn còn sống, báo chí hải ngoại viết rất nhiều về người nhạc sĩ này, cả khen lẫn chê, nhiều khi đến độ gay gắt. Tôi cố tìm đọc những bài của ông Đinh Cường để xem lập trường của ông, nhưng không thấy. Mới đây ông Nguyễn văn Liễu tức họa sĩ Trịnh Cung có phát biểu một số điều tại Cali trong dịp tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Trong đó có một số sự việc ông không phản ảnh đúng sự thật. Tôi nghĩ rằng ông quên hoặc ông suy diễn.

Mãi đến khi tờ Hợp Lưu, số 59, phụ trang đặc biệt Trịnh Công Sơn "Một cõi đi về", tôi mới được đọc một bài duy nhất của ông Đinh Cường. Cả hai ông Trịnh Cung và Đinh Cường đều nói là bạn lâu năm với Trịnh Công Sơn, từng cưu mang, chia ngọt, xẻ bùi cùng nhau cho đến ngày nhạc sĩ họ Trịnh từ giã cuộc đời. Nhưng tuyệt nhiên, người ta không thấy hai ông đả động gì tới vấn đề Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không?

Ca sĩ Khánh Ly hết lời ca tụng người nhạc sĩ này là điều đương nhiên, dễ hiểu. Nếu không có nhạc Trịnh Công Sơn chắp cánh cho Khánh Ly bay cao, thì suốt đời Khánh Ly chỉ là một cô bé "nhếch nhác", như lời ông Cung mô tả, ở tại Đà Lạt mà thôi. Ngược lại, nếu nhạc Trịnh Công Sơn không nhờ Khánh Ly "lăng xê chùa" trên Đài Phát Thanh Đà Lạt, ròng rã ba năm liền, từ 1964 đến 1967, và "đi chân đất" về Sài Gòn hát miễn phí cho sinh viên nghe thì liệu nhạc của họ Trịnh có được phổ biến rộng rãi như ngày nay không? Cần nhắc ở đây là trước 1964, từ cái thuở mới mười bảy tuổi, Trịnh Công Sơn đã có những bản nhạc rất hay như "Ướt Mi", "Thương Một Người", "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi" mà nào có tăm tiếng gì. Có chăng là những bạn bè trong giới Sư phạm hoặc một vài thân hữu chuyền tay nhau hát!
Người có thẩm quyền nhất để giải đáp thắc mắc của nhiều người liệu Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không chính là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng đến giờ này, tôi không thấy ông lên tiếng xác nhận. Hoặc có mà tôi không biết chăng?

Hai Năm Tại Trường Sư Phạm Qui Nhơn 1962-1964
Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn. Khóa I, ngày 22 tháng 4 năm 1962, khóa đầu tiên được mở ra tại thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định. Tên gọi khóa học là "Thường Xuyên", học hai năm, để phân biệt với "Khóa Cấp tốc", học một năm. Tiêu chuẩn tối thiểu để nộp đơn là Tú Tài I. Tuy nhiên khóa đầu tiên ấy đa số đã có Tú Tài II. Một vài người đã có một, hai chứng chỉ Đại học. Sĩ số giáo sinh là ba trăm người. Đa phần là người Huế, tỷ lệ có lẽ chiếm 60%. Số còn lại rãi rác ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa... lên tận các tỉnh cao nguyên Đà Lạt, Lâm Đồng, PleiKu, KonTum...

Trịnh Công Sơn theo ban Pháp văn. Tôi theo ban Anh văn. Hiệu trưởng là thầy Đinh Thành Chương. Ông này rất tôn sùng tổng thống Ngô Đình Diệm. Mỗi sáng thứ hai, chào cờ, Ông thường có những bài phát biểu trước giáo sinh, ca tụng công đức Ngô Chí Sĩ hết lời. Ngược lại, em Ông, giáo sư Đinh Thành Bài lại thiên Cộng. Trong những giờ dạy Sư phạm lý thuyết, thầy thường xen vào những lời ca ngợi chế độ Cộng Sản.

Năm 1963, phong trào Phật Giáo nổi lên, lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Một nhóm giáo sinh tổ chức tố khổ thầy Đinh Thành Chương, buộc Ông phải từ chức. Trịnh Công Sơn cũng bị lôi kéo theo trong vụ này. Mấy tuần sau, Bộ Giáo Dục phải bổ nhiệm giáo sư Mẫn mới từ Hoa Kỳ về, thay thế thầy Chương, nội vụ mới êm.

Còn nhớ, ngày nhập học đầu tiên, thầy Đoàn Nhật Tấn, dạy môn tâm lý giáo dục, đọc tặng học trò hai câu thơ:
Dưa leo chấm với cá kèo,
Bởi con nhà nghèo mới học Normal! (Sư phạm)

Đúng vậy! Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo. Hoặc học hành dang dở, hoặc cha mẹ không đủ khả năng tài chánh để gửi con ra Huế hay vào Sài Gòn tiếp tục học lên Đại học. Vì vậy chúng tôi đều cố thi vào Sư phạm để chắc chắn rằng sau hai năm sẽ có công ăn việc làm cho bản thân và có thể giúp gia đình. Tưởng cũng nên nói rõ ở đây tại sao chúng tôi cố thi vào Sư phạm. Thời gian đó hai ngành Y Tế và Giáo dục rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm đi làm ngay. Trong khi các ngành khác như Công Chánh, Nông-Lâm-Súc, Kỹ Thuật Phú Thọ... ra trường, nằm nhà mấy năm vẫn chưa được bổ nhiệm.

Có một nghi vấn ở đây: Không biết ông Trịnh Cung vin vào đâu mà bảo rằng Trịnh Công Sơn vào được trường Sư phạm Qui Nhơn để núp bóng là nhờ hai ông Tường và Kha giúp đỡ. Có lẽ ông Cung đã nghe ông Tường, ông Kha hay là Sơn kể lại chăng?

Nói thêm một chút về chuyện thi vào Sư phạm. Đề thi thật ra không khó, nhưng để lọt được vào cửa ải, mỗi thí sinh phải chọi lại ít nhất mười đối thủ. Tính từ Quảng Trị, Trung Trung Phần đến miền cao nguyên hơn mười bốn tỉnh, Bộ chỉ chọn có ba trăm người. Vậy theo tiết lộ của ông Cung, người ta nghĩ đến hai vấn đề:

1/ Ông Tường hoặc ông Kha đã thi dùm cho Sơn? Hoặc hai ông có chân trong Ban Giám khảo, chấm cho Sơn đậu?

- Tại sao lại phải vào trường Sư Phạm núp bóng mà không là Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế? Nơi mà ông Cung với ông Cường theo học.

Ông Đinh Cường từng xác nhận là Sơn có tài hội họa, vậy thì thi vào Mỹ thuật có khó khăn gì, thi chi vào Sư phạm để phải nhờ đến sự giúp đỡ của hai ông Tường và Kha?

Thứ nữa, ông Cung chê nghề dạy học không xứng đáng với tài năng của Sơn (lúc ấy?). Và ông còn cho biết đã cưu mang Sơn.
Tôi không biết ông nói chữ "cưu mang" với một nghĩa nào. Theo chỗ tôi biết, đem chỉ số lương ra so sánh thì lương của Sơn phải hơn hẵn.

2/ Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp bóng. Cả hai ông Cung và Cường đều nói như thế. Vậy Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp ai? và núp cái gì? Sẽ có hai giải thích được đặt ra cho hai chữ "núp bóng"

a/ Sơn vào Sư Phạm để tạm thời trốn lính.

b/ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Văn Liễu (Trịnh Cung) và Đinh Cường đã có mưu đồ gài Sơn vào Sư Phạm để thực hiện sách lược "học đường vận"?

Giải thích một: không vững. Lúc đó Sơn đã có Tú Tài I. Đâu phải ở vào trường hợp "Rớt tú tài anh đi trung sĩ". Sơn có thể theo học bất cứ một trường Trung Học tư nào để thi lấy Tú Tài II vẫn được hoãn dịch theo luật định. Nếu cuối năm, thi hỏng, thì a-lê, mời anh vào Thủ Đức, vác Garant M1 đi "ắc ê" chín tháng quân trường. Sau đó mang lon chuẩn úy, đi "mút chỉ cà tha", bốn vùng chiến thuật, trả nợ nước non. Còn nếu anh bợ được cái Tú Tài II, thì anh cứ tà tà lên Đại Học. Chí ít cũng được hoãn dịch bốn năm nữa. Chính phủ Việt Nam Cọng Hòa đâu có chủ trương lùa hết trẻ, già, trai, gái, lớn, bé đi "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" như ở miền Bắc.

Ông Cường nói vì tình hình, thời cuộc lúc đó... lại càng khiên cưỡng. Những ai sinh từ năm 1940 trở về trước đều biết rất rõ rằng: Miền nam được hưởng một thời gian mấy năm rất thanh bình, kể từ ngày Ông Diệm chấp chánh (54-63) cho đến lúc Ông bị đám "Thập nhị Sứ quân" giết.

Giải thích hai: có lẽ thuyết phục hơn, nếu xét theo bề dày "thành tích" Sơn đã cúc cung tận tụy, phục vụ chế độ sau tháng Tư, bảy lăm. Nhưng suốt những tháng, năm sống chung với Sơn, tôi không thấy Sơn có một hành động cụ thể nào khả dĩ gọi là có vẽ "Việt Cộng". Trừ khoảng thời gian giữa năm 1965, Sơn nhận được nhiều thư từ của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và tiếp theo là những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc bí mật tại một trang trại ở Phim Nôm, gần Tùng Nghĩa, Đà Lạt với một nhân vật, Sơn dấu tên. Sau đó, Sơn mới vội vã sáng tác tập "Ca Khúc Da Vàng" trong vòng có ba tháng hè năm 1965. Loại trừ hai giải thích trên, Sơn vào Sư phạm với một lý do hết sức đơn giản là:

Dưa leo chấm với cá kèo.
Bởi con nhà nghèo mới học "Sư phạm".

(Cái sĩ diện hão của đa số người Huế cứ mơ về một thời vàng son làm "ôn" làm "mệ" cố che dấu cái hiện tại suy tàn đã đành. Còn ông Liễu là dân Nha Trang-Cầu Đá-Chụt chính tông mà cũng lập lờ "đánh bùn sang ao" quả là chuyện lạ)

Nhắc lại hai câu thơ của thầy Đoàn Nhật Tấn đã dẫn nhập để thấy rằng lúc ấy nhà Sơn đang lâm vào cảnh ngặt nghèo. Cha bị tai nạn mất sớm, gia đình khánh kiệt. Má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nỗi đàn con còn nhỏ dại. Sơn là con trưởng, phải bỏ dở chương trình học để lấy nốt cái Bac II Philosophie, về lại Huế để phụ giúp mẹ. Sư phạm Qui Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ý nguyện này. Những ngày mưa gió ủ ê, đất nhão, không đi ra ngoài được, nằm khoèo ở nhà, Sơn tỉ tê kể cho tôi nghe về cuộc đời của Sơn nhiều buồn vui lẫn lộn. Trong đó có cả điều thất vọng và thất tình về cô Diễm. Từ đó mới có bài ca thất tình diễm lệ "Diễm xưa".

Dù bất cứ ai, vô tình hay hữu ý, che dấu hay huyền thoại hóa Trịnh Công Sơn trong giai đoạn học Sư phạm và dạy học bằng những lý do rất "mờ mờ, ão ão" để đánh hỏa mù dư luận với mục đích thần tượng hóa đời thường của một nghệ sĩ, cũng cần cơm ăn, áo mặc... như mọi người, đều không giúp ích gì được trong việc cung cấp tài liệu để viết lại tiểu sử một người nghệ sĩ tài ba được nhiều người mến mộ. Có khi lại phản tác dụng.
Trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật Qui Nhơn được ngân sách Mỹ tài trợ, xây cất rất qui mô và tân kỳ. Hai trường nằm gần nhau tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giưã đường từ phố Gia Long đến Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ giấc ngàn thu. Qua khỏi Ghềnh Ráng là làng Qui Hòa, làng dành riêng cho người mắc bệnh cùi. Ở đó có nhiều bà "xơ" hy sinh một đời, tận tụy chăm sóc cho bệnh nhân.

Lúc bấy giờ, 1962, thành phố Qui Nhơn hãy còn tiêu điều xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long, chạy dài từ Núi Một (Ga xe lửa) đến bến cảng hãy còn nhiều ngôi nhà vô chủ, đổ nát hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển còn rất nhiều nhà tranh, vách lá.

Vẽ lại một vài hình ảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ý khi cho xây cất hai ngôi trường đồ sộ tại đây. Mỗi năm hai trường qui tụ hơn một ngàn giáo sinh và học sinh kỹ thuật khắp nơi đổ về. Nền kinh tế tại đây đã nhanh chóng phục hồi.

Để quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc nhà trường cho thành lập một ban văn nghệ. Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng ban, chịu trách nhiệm tổng quát. Thanh Hải, phó ban thứ nhất, trách nhiệm về nhạc. Võ Văn Phòng, phó ban thứ hai, trách nhiệm về kịch. Một vỡ kịch thơ dài 45 phút nhan đề "Tiếng Cười Bao Tự" được dàn dựng. Tôi được chọn để thổi sáo đệm thơ. Nhân dịp này tôi mới biết và quen với Trịnh Công Sơn.

Một chương trình đại qui mô gồm đủ các tiết mục ca, múa, nhạc, kịch được Ban Văn nghệ hoạch định. Thêm vào đó là một tổ phụ trách ánh sáng. (Lúc đó rất hiện đại và tân kỳ. Dùng đèn chiếu slide làm hậu cảnh thay đổi mỗi màn trình diễn khác nhau. Dùng đèn quay, chớp chớp đổi màu rất đẹp mắt) Buổi trình diễn được ra mắt đúng ngày "Song Thất" năm đó, chứ không phải ngày mãn khóa như ông Đinh Cường nói.

Trong thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca "Tiếng Hát Dã Tràng" hay gọi gọn hơn là "Dã Tràng Ca" để làm tiết mục mở màn. Đây là tiết mục công phu và đặc sắc nhất. Ban hợp xướng gồm năm mươi người gồm nam lẫn nữ do Sơn thử giọng tất cả các mầm non văn nghệ và chọn lọc. Anh đã khổ công tập ráo riết trong ba tháng trời, xen kẻ giữa những giờ học, và đã thành công vượt mức trước sự ngạc nhiên đầy thích thú và khen ngợi của quan khách và công chúng. Tiếng vỗ tay đã kéo dài rất lâu.

Rất tiếc, tôi không có chân trong ban hợp xướng, nên không thuộc trường ca này. Chỉ nhớ lõm bõm vài câu, xin ghi lại cho vui.


Tiếng Hát Dã Tràng hay Dã Tràng Ca.
(Tiếng vọng) Dã tràng... Dã tràng... Dã tràng...
Dã tràng xe cát biển Đông... Dã tràng xe cát hoài công...
(Tiếng trống Bass dồn dập, thúc dục):
Trùng dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ...
....(quên)...
Thôi... còn gì nữa đâu... Còn gì nữa đâu... Đời lên cơn đau! Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt... Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...

Tôi chỉ nhớ đại khái vậy. Hiện nay, tại thành phố Lawrence, Mass, có anh Nguyễn Văn Tấn, Cali có chị Hồ thị Nghị trước ở trong ban hợp xướng, chắc còn nhớ. Bốn mươi năm đã qua rồi, còn gì!

Cũng trong thời gian học Sư Phạm, Sơn còn sáng tác thêm những nhạc phẩm khác như "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi", "Nắng Thủy Tinh". Hầu như tất cả giáo sinh đều biết và ngâm nga những bài này. Ngoài ra Sơn cũng sáng tác một vài bài vui, ngắn để chúng tôi khi đi thực tập tại các trường dạy cho các em hát.

Tôi xin ghi lại đây một bài tượng trưng:
Ông Tiên vui
Ông Tiên vui,
Ông có cái râu dài.
Đêm ông thường ngủ yên trên đỉnh mây.
Ông Tiên vui,
Ông thường hay nhắc đến.
Chốn thiên đình chẳng có tháng ngày vui.
Ông Tiên vui,
Ông có cái căn nhà.
Trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.
Hôm em lên,
Ông chợt đi đâu vắng!
Lúc em về, em buồn đến ngẩn ngơ.

Xin nhắc lại ở đây, Qui Nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành phố có mỗi quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê, thuốc lá, bia, trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Qui Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ.

Mỗi buổi chiều, chúng tôi, anh chị em nào có chút tiền còm thì kéo nhau vào quán, kêu bình trà, ngồi nhâm nhi nghe nhạc. Khá một chút nữa thì kêu một chai bia với tô bò viên gân, ngầu pín của ông Ba Tàu đậu xe trước quán. Thế là sang lắm rồi. Anh chị nào "bô xu" thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Qui Nhơn là biển bùn nên cát ở đó có màu vàng xỉn trông dơ dáy, không trắng như cát biển Nha Trang. Dọc theo bờ biển là một hàng dương, chạy dài từ khu quân sự đến bệnh viện Nguyễn Huệ. Trước bệnh viện là xóm chài. Bờ biển không có một lều quán hay kiosque nào. Ông Đinh Cường nói cùng Trịnh Công Sơn và Bích Khê ra đó uống cà phê ngắm trăng là nói nhầm.

Ba Năm Tại B'lao (Bảo Lộc, Lâm Đồng)
Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Lê Thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn Văn Sang, Trương Khắc Nhượng, Đỗ Thị Nghiên (NhaTrang) cùng được bổ nhiệm chung một sư vụ lệnh, đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh mang số 961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do Ông Nguyễn Hữu Quyến, Xử Lý Thường Vụ Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm ký ngày 14 tháng 8 năm 1964.

Sau hai năm tập sự, chúng tôi được điều chỉnh tuyển dụng bằng Nghị Định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng Lý Văn Phòng, Phụ Tá Chuyên Môn, Phạm Văn Thuật ký ngày 6/5/1966.

Đến năm 1967, chúng tôi mới được chính thức bổ dụng bằng Nghị Định mang số 687/GD/NV/3B/NĐ kể từ ngày 01/9/1966 do T.U.N Ủy Viên Giáo Dục Đổng Lý Văn phòng Huỳnh Ngọc Anh ký ngày 7/4/ 1967.

Với chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao lúc bấy giờ, chúng tôi lãnh được năm ngàn hai trăm đồng ($5.200) mỗi tháng, tương đương với hai lạng rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất rẽ. Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia Con Cọp 3 đồng. Một dĩa thịt bò lúc lắc bốn người ăn giá 7 đồng. Tô phở 3 đồng. Cà phê loại ngon, một ly/1 đồng. Cơm bữa với ba món, 6 đồng. Thời gian từ 1964 đến 1967, chúng tôi sống sung sướng, tiêu pha rộng rãi mà vẫn còn rủng rỉnh.

Tôi từ Nha Trang lên, theo đường Nha Trang-Đà Lạt-Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn, từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi xe đò lên Bảo Lộc.

Không hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Lâu lâu mới thấy dăm người Thượng lầm lũi nối đuôi nhau, lặng lẽ rảo bước về một bản làng nào đó. Chúng tôi nhìn nhau, lòng thầm nghĩ: Trời ơi! Cái thiên đường mà mình tưởng tượng khi nắm trong tay tờ Sự Vụ Lệnh là đây sao? B"lao-Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu hắt. Chuyến xe cuối cùng đổ khách xuống đây rồi lẫn mất. Ai cũng tản mác về nhà. Chỉ còn trơ lại Sơn và tôi, trơ trọi, cô độc. Trời lại đang mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va li quần áo nhẹ tênh. Lang thang tìm người hỏi đường đến Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Lúc bấy giờ, thị xã Đà Lạt thuộc tỉnh Tuyên Đức. Lâm Đồng là một tỉnh chỉ có vỏn vẹn hai quận là Djiring (Di Linh) và B'lao (Bảo Lộc). Trước năm 1960, Tòa Hành Chánh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc được mấy năm, trước khi chúng tôi đến.

Khi chúng tôi tìm được đến Ty Tiểu Học thì trời đã sụp tối mặc dù chưa tới sáu giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là là dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân cần mời chúng tôi theo bác.

- Mấy thầy cũng may! -Bác nói- Chút nữa là tôi về rồi. Mai thứ bảy Ty nghỉ. Mấy thầy biết trọ nơi đâu. Đi theo tôi, tôi sẽ giới thiệu hai thầy với mấy ông giáo cũng vừa mới đổi tới đây mấy hôm trước.

Chúng tôi theo chân Bác vào ngõ Tiên Dung (gọi là ngõ Tiên Dung vì đầu ngõ có tiệm chụp hình mang tên ấy). Đi sâu vào khoảng hai trăm thước, con hẽm hẹp, trơn trợt vì cơn mưa buổi chiều, xoai xoãi lên dốc dần. Bác dừng chân trước một căn nhà mái tole, vách ván. Trong nhà vẳng ra tiếng cười nói vui nhộn của đám đông. Bác cai bước vào trước. Tiếng huyên náo im bặt. Bác ra hiệu cho chúng tôi vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc giường gỗ khá rộng. Trên giường bốn mạng đang nằm, ngồi lổn nhổn. Mọi người nhìn bác cai chờ đợi. Bác đưa tay về chúng tôi rồi hướng về một anh lớn nhất trong đám giới thiệu:

- Thầy Lãng à! Mấy thầy này mới đổi tới hồi chiều. Ty đóng cửa rồi, không trình diện được. Thầy giúp dùm cho mấy thẩy ở tạm qua đêm được không? Nhà tôi chật quá, không có chỗ ngủ.
Lãng tung chăn, ngồi dậy, giọng hơi cà lăm:
- Thế à! Được... được! Bác cứ về! Để... để tụi này thu xếp.

Sau khi bác cai quay lưng ra khỏi cửa, tôi với Sơn sực nhớ ra chưa nói lời nào cám ơn sự giúp đỡ của bác, bèn vội nói vói theo:
- Cám ơn bác nghe!
Không thấy tiếng trả lời. Có lẽ bác đã đi khá xa. Chợt Lãng lên tiếng:
- Ối giời! Nhà bác ấy cũng gần ngay đây thôi! Sáng mai, thế nào bác ấy cũng sang đây. Các anh vào đây đã. Sao cứ đứng mãi thế. Để... để cái va li vào góc này!

Chúng tôi theo lời anh đem hành lý đặt vào góc nhà. Thế rồi cả bốn người bu quanh hỏi thăm rối rít.
- Sư Phạm Qui Nhơn hả?
- Vâng!
- À, có anh Sang cũng Sư Phạm Qui Nhơn đây, mới trình diện hôm kia. Còn bọn này Sư Phạm Sài Gòn. Cũng lên trước mấy ngày thôi.

Tôi nhìn qua Sang. Cũng dân Nha Trang, nhưng tôi chưa gặp mặt lần nào tại Qui Nhơn. Sang ốm và cao như cây tre miễu. Nước da đen nhẽm. Mắt tròn xoe, tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Còn hai người kia mới thoạt nhìn cứ tưởng là hai anh em. Cả hai đều tròn lẵn, chắc nịch. Da mặt hồng hào, bóng lưỡng. Một anh tên là Nguyễn Đức Hinh, nãy giờ chỉ đứng nhìn chúng tôi cười cười, không nói gì, nét mặt lộ vẽ thân thiện. Còn anh kia là Đỗ Danh Đạo, người hoạt bát, nói năng vui vẻ. Anh giới thiệu với chúng tôi người này, người nọ bằng một giọng đặc biệt Bắc pha Sài Gòn nghe rất tếu:
- Ông này là Nguyễn Tiến Lãng, -anh chỉ tay về phía đầu giường, Lãng đang quấn mền, ngồi dựa lưng vào vách.- Lãng là thổ địa kỳ cựu sáu năm ở đây, có biệt danh là ông Trùm. Đang dạy tại trường Nam Bảo Lộc.
Có lẽ đoán được sự thắc mắc của chúng tôi qua nét mặt ngơ ngác, Đạo giải thích:
- Sở dĩ ông Lãng lên tới chức Ông Trùm là vì ông ở đây lâu, thổ nhưỡng Lâm Đồng tặng cho ông bệnh sốt rét kinh niên. Cứ tới năm giờ chiều là ông phải trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường. Ngày nắng hay ngày mưa cũng đều đặn.

Mọi người cười rộ lên qua lời tếu của Đạo. Quay qua cặp mập và ốm ngồi cạnh nhau, Đạo tiếp:
- Còn hai ông này là Sang và Hinh, đang làm vua một cõi tại Lạc An, cách đây bảy cây số. Một tuần về phố một lần để du hí. Tạm trú tại "am" của em và bác Lãng.

Không khí dần dần cởi mở, thân mật. Chúng tôi thấy ấm lòng và quên ngay nỗi buồn nặng nề buổi chiều, mới cách đây có hai tiếng đồng hồ. Chợt Hinh lên tiếng:
- Này ông, ông giới thiệu người khác lung tung, sao ông không nói gì về ông hết?
Đạo đỏ mặt rần lên, phất tay lia lịa:
- Thôi tha cho nhà em, nhà em đâu có gì để mà nói!
Nhưng Hinh đâu có chịu tha:
- Hai anh nè! Hắn là Đỗ Danh Đạo, tự là Đạo Sữa. Hôm mẹ hắn dẫn hắn lên đây giao cho bác Lãng trông nom, có dặn dò bác Lãng nhắc chừng hắn uống đều đặn mỗi ngày ba lần sữa, sữa Guigoze chính hiệu bà Lang Trọc đấy.
Nói xong, anh chỉ cho chúng tôi thấy hai thùng sữa tổ bố nằm dưới gầm bàn.

Thoáng chốc, chúng tôi thấy gần gũi và thân tình như đã quen nhau tự bao giờ. Mọi người dục chúng tôi đi tắm rữa rồi dẫn đi ăn tối. Đi ngược lại hẽm Tiên Dung. Phía bên kia đường là quán ăn Ngọc Hương, nằm bên phải đầu cầu. Buổi chiều, lầm lũi theo bác cai nên chúng tôi không để ý. Cầu có tên là Cầu Đất, vì bên dưới không có sông hay suối gì cả. Người ta dùng xe ủi, ủi đất lấp đầy một quãng, nối liền hai trái đồi, thành một lối đi, hai bên có thành che chắn cho khỏi ngã xuống hố, trông giống như cây cầu. Sương buổi tối đã dâng lên dầy đặc. Cả phố Bảo Lộc thắp thoáng ẩn hiện trong sương giống như cảnh tiên bồng trong xi nê. Quán ăn Ngọc Hương lập lòe ánh điện, văng vẳng tiếng nhạc phát ra, nghe như lúc gần lúc xa. Còn nhớ hình như bản "Những Bước Chân Âm Thầm". Vì lời ca, tiếng nhạc với cái khung cảnh lúc bấy giờ nó hòa nhập vào lòng người lần đầu tiên đặt chân lên miền cao nguyên, sơn cước... Trước mắt tôi, một cảnh trí hoàn toàn lạ lẫm, đầy huyền ão và thơ mộng mà từ thuở nhỏ đến giờ, sống ở miền gió biển, cát trắng, sóng vỗ quanh năm, tôi chưa từng được thấy. Có chăng cũng chỉ là tưởng tượng ra những hình ảnh mơ hồ qua bản nhạc "Ai Lên Xứ Hoa Đào" của nhạc sĩ Hoàng Nguyên mà thôi.

Những hình ảnh buổi chiều đứng co ro nơi bến xe vắng ngắt bóng người, nó ảm đạm thê lương bao nhiêu, bây giờ trở thành thơ mộng, lãng mạn bấy nhiêu. Nào con đường đất đỏ quanh co lẫn khuất dần trong ngõ vắng. Nào sương mù là là bay từng đám dưới chân. Nào những con đường lên dốc, xuống dốc khiến những mái nhà trồi lên, hụp xuống theo, y như những con thuyền tròng trành lượn theo giợn sóng xa xa ngoài biển.

Đang đói suốt một ngày đi đường, tôi và Sơn, vèo một cái, mỗi người đã ăn hết một dĩa cơm sườn nướng một cách ngon lành. Trong lúc mọi người đang nhâm nhi cà phê, nghe nhạc. Họ đã ăn từ chiều. Chúng tôi tiếp tục uống cà phê và trò chuyện. Sơn ít nói, chỉ ngồi nghe. Thỉnh thoảng góp vài câu gọi là. Có lẽ lần đầu còn giữ kẽ chăng? Ba anh: Lãng, Hinh, Đạo chốc chốc lại ngó chăm chăm vào Sơn, nửa như tò mò, nửa như quan sát. Phải chăng cái phong thái nghệ sĩ của Sơn đã gây cho người ta cái ấn tượng đầu tiên? Đối với tôi hay Sang, cái hình ảnh Trịnh Công Sơn, với một khuôn mặt ngăm đen, đôi mắt nhỏ mơ màng sau cặp kính cận khổ lớn, gọng đồi mồi che gần hết nửa khuôn mặt, trong hai năm học tại Qui Nhơn đã quá quen thuộc. Nhưng giờ đây, với những người bạn mới, chân chỉ hạt bột, mới rời ghế nhà trường, lần đầu tiên bước chân ra ngoài xã hội thì hình ảnh một ngươi nghệ sĩ như Sơn tự nhiên với mái tóc thưa, hơi dài, cái trán hói cao, đôi kính cận to quá khổ, hàng ria mép lưa thưa, vừa như râu, vừa như lông, mãnh và mịn khiến người ta thấy lạ nhưng ưa nhìn và có cảm tình ngay.

Gần chín giờ, mọi người dục về. Tôi và Sơn muốn nán lại chút nữa để được hưởng thêm cái hương vị ngọt ngào, đậm đà kỷ niệm của ngày đầu tiên đặt chân lên xứ Thượng. Nhưng anh Lãng cho biết, đúng chín giờ là nhà máy điện sẽ cúp.

Đêm đó, chúng tôi trãi chiếu, chăn xuống thềm nhà, năm người bạn trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi sàng sàng từ hai bốn đến hai sáu, cùng nhau trao đổi những chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào giấc ngủ. Lúc bừng mắt dậy đã chín giờ sáng.

Sáng thứ Hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ thứ Bảy, Chủ Nhật. Sư phạm Qui Nhơn đủ mặt: Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng. Sư phạm Sài Gòn: Nam có Nguyễn Hảo Tâm, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Nghị. Nữ có: các cô Nguyệt, Châu, Hải, Trang... Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là Ngô Thanh Bạch.

Ty Trưởng đương nhiệm là Ông Trương Cảnh Ngôn, sắp về hưu. Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng, Nguyễn Hảo Tâm và tôi cùng được bổ nhiệm về trường Tân Bùi, xứ Tân Bùi, cách trung tâm Bảo Lộc chừng năm cây số. Lê Thị Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay trung tâm phố. Nguyễn Văn Ba phụ chân kế toán tại Ty. Riêng Trịnh Công Sơn được "biệt nhãn" hơn bổ về một trường Sơ Cấp Thượng, ở sát nách Ty, chừng non cây số. Với chức vụ là Trưởng Giáo. (Xin chú ở đây, theo qui chế Bộ Giáo Dục bấy giờ: một trường chỉ có lớp bốn trở xuống gọi là trường Sơ cấp. Đứng đầu là Trưởng Giáo, phải dạy lớp và không có phụ cấp chức vụ 200$. Trường từ năm lớp trở lên mới được gọi là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu Trưởng có phụ cấp chức vụ, vẫn phải đứng lớp. Truờng có từ mười lớp trở lên, Hiệu Trưởng mới được miễn dạy.

Ngạch chúng tôi là Giáo Học Bổ Túc, chỉ số lương tập sự là 320, ngân sách do Bộ Quốc Gia Giáo Dục đài thọ, như đã nói ở trên.
Sau khi phân bổ xong, Ty cho chúng tôi được nghỉ một tuần để thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới.
Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng giáo của Sơn. Lần đầu nghe tới chức Trưởng Giáo, ai cũng liên tưởng tới chức Trưởng Lão Hộ Pháp trong Ma Giáo, truyện chưởng Kim Dung.

Mấy ngày thong thả, tôi và Sơn đi dạo khắp nơi để tìm nhà trọ. Thật đúng như lời của một bản nhạc "đi dăm phút đã trở về chốn cũ..." Phố Bảo Lộc nằm dọc theo quốc lộ, chỉ có một đoạn ngắn chưa đầy nửa cây số. Bắt đầu từ trường Nông Lâm Súc, chạy thoai thoải xuống dốc, đến cuối dốc là một cái hồ nước, trông giống như cái lòng chão là hết. Lên dốc, hai bên là những đồi trà ngút ngàn. Lâm Đồng là xứ trà. Xưa kia B"Lao do người Pháp khai khẩn trồng trà và chế biến trà. Họ có nhiều trang trại lớn và có cả sân bay tư nhân. Năm chúng tôi được bổ về đây thì chỉ còn hai người Pháp già lấy vợ Việt Nam là còn ở lại. Những trại chủ khác đã bán lại cơ sở cho người Việt hoặc bỏ hoang để về nước vì không chịu nổi Việt Cộng thu thuế.

Bảo Lộc là đọc theo âm Việt của tên Thượng là B"Lao. Năm 1954, ông Diệm đưa số người Bắc di cư lên đây khẩn hoang lập nghiệp. Họ toàn là người Công Giáo. Dẫn đầu là một cha xứ. Người xứ nào ở ngoài Bắc thuộc làng gì thì lên đây qui tụ lại thành một xứ, lấy tên làng mình ghép thêm chữ Tân để thành tên của xứ mình. Ví dụ: làng Bùi Chu thành Tân Bùi. Theo thứ tự, hướng từ Định Quán lên cao dần, qua khỏi khu vực sông La Ngà là đèo Ma Đa Gui, ranh giới tỉnh Lâm Đồng. Quận Bảo Lộc bắt đầu từ xứ Tân Bùi. Tiếp theo là Tân Hà. Phố Bảo Lộc nằm giữa. Rồi đến Tân Thanh, Tân Phát. Xa vào tận buôn Thượng còn thêm Tân Rai và Tân Lú. Tôi chưa đến đó bao giờ. Chỉ đọc thấy trên bản đồ hành chánh. Mỗi xứ đạo do một cha xứ cai quản, cả phần hồn lẫn phần xác. Phụ tá có các ông trùm. Xứ có lực lượng vũ trang riêng để tự vệ an ninh và đánh trả Việt Cộng. Chung quanh xứ bảo bọc bởi hàng rào tre kiên cố. Kẻ lạ muốn vào xứ phải có người trong xứ quen và hướng dẫn. Xứ được xây dựng theo đồ hình bát quái. Trung tâm là nhà thờ. Dưới mỗi nhà đều có đường hầm ăn thông với đường hầm chính dẫn tới nhà thờ. Đường hầm được đào và xây dựng rất rộng rãi, chắc chắn. Suốt những năm ông Diệm chấp chánh, không một tên du kích nào dám bén mãng đến quấy rối. Nghe nói lúc đầu cũng có vài tên cố thâm nhập nhưng đều bị giáo dân tóm cổ tức khắc. Trong khi đó, tại trung tâm phố, khu tập trung đông đảo dân Nam, Ngãi, Bình, Phú, Thừa Thiên theo đạo Phật đa số thì Việt Cộng lại dễ dàng trà trộn rãi truyền đơn và treo cờ. Kể từ năm 1964, khi chúng tôi dạy học tại đây, trở về sau, những chính quyền kế tiếp không chú trọng đến kế hoạch ấp chiến lược nữa, thu hồi toàn bộ vũ khí của các xứ, nên vấn đề an ninh lỏng lẽo dần.

Trở lại chuyện chúng tôi đi tìm nhà trọ. Suốt mấy ngày, Sơn và tôi lang thang khắp ngõ để tìm nhà thuê, nhưng không nơi nào vừa ý. Nhất là nhà vệ sinh thì khiếp quá. Tất cả các nhà đều đào hố xí sau vườn. Gác ngang miệng hố là hai thanh gỗ. Che chung quanh bằng những tấm cót tre. Không có mái che. Ngày mưa phải đội nón lá mà ngồi. Nhặng xanh hằng ngàn con bay vù vù từ dưới hố lên, bu cả vào người. Dòi bọ trắng nhởn to bằng đầu đũa, bò lổn nhổn khắp mặt đất. Eo ơi! Còn những ngày nắng oi nồng, cái mùi xú uế từ dưới xông lên càng khiếp đảm.

Trong lúc loay hoay tìm nhà, có ai đó mách chúng tôi, ở về phía Ty Công Chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà muốn cho thuê nhưng hơi đắt. Sơn và tôi đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên một khu quang đãng, thoáng tầm nhìn. Chung quanh hàng rào bao bọc, phía trước có cổng. Nhà có ba phòng ngủ, một phòng khách. Nhà bếp rộng chia làm hai, một nửa là bếp, một nửa là phòng tắm và vệ sinh. Chủ nhà là một người đàn bà tuổi trạc độ ba mươi, người mãnh dẽ. Bà hiện là Trưởng Phòng Kế Toán của Ty Công Chánh Lâm Đồng. Bà sống với đứa con gái nhỏ sáu tuổi tên Đào. Chồng bà đang làm việc ở Sàigòn, bà cho biết. Sau khi nói chuyện độ dăm phút, chúng tôi bằng lòng thuê toàn bộ căn nhà, trừ một phòng cho bà và đứa con gái để ở, với giá 1.200 đồng. Nếu muốn ăn cơm tháng thì bà nấu luôn cho. Ngày ba bữa, mỗi người trả thêm ba trăm đồng. Chúng tôi ra về với lòng thơ thới vì đã tìm được nơi ăn ở vừa ý. Trên đường về Sơn cứ lẩm bẩm: Đàn bà mà tên Phi lại lót Thị, Thị Phi... Thị Phi!

Sơn tủm tỉm cười một mình. Tôi biết Sơn đang nghĩ gì về bà chủ nhà trẻ, sống một mình. Chúng tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia bớt phòng và chia bớt tiền. Hai anh Nguyễn Hảo Tâm và Nguyễn Văn Ba đến xem nhà và đồng ý ngay. Sơn và tôi có công tìm nhà, nên được ưu tiên ở căn phòng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường. Tâm và Ba ở căn kế. Bà chủ nhà căn trong cùng. Ba phòng ăn thông ra phòng khách. Phòng khách có cửa hông thông với nhà bếp. Từ lúc chúng tôi về ở, trừ những lúc dọn cơm cho chúng tôi hay những lúc đi làm chạm mặt ở phòng khách, bà chủ cùng đứa con gái đóng cửa im ỉm, nói chuyện rầm rì ở trong buồng, ít khi ló mặt ra ngoài. Mấy tháng sau, bà thuê được một cô người làm. Cô này độ chừng hơn hai mươi, có da thịt, tính tình hiền hậu, hơi quê mùa nhưng dễ thương. Cô giúp bà chủ đi chợ nấu ăn cho chúng tôi. Cô ngủ ở nhà bếp.

Nhớ lại một mẫu chuyện vui. Có lần bà chủ nghỉ phép nửa tháng về Sài Gòn với gia đình, bà yêu cầu chúng tôi tìm chỗ ăn tạm trong thời gian này. (lúc đó chưa có cô giúp việc) Bốn chúng tôi thay phiên nhau đi chợ nấu ăn mỗi người một ngày. Sở dĩ chúng tôi không đi ăn tiệm là vì hai lý do. Thứ nhất là làm biếng đi xa. Từ nhà đến tiệm ăn xa hơn đến chợ. Thứ hai, có cơ hội để thử mình có khả năng tự lực cánh sinh hay không? Đầu tiên, tôi xung phong trước. Bữa ăn có cá chiên dầm mắm tỏi ớt, chắm với dưa leo, rau sống, xà lách. Hội đồng chấm điểm: Tạm được! Ngày thứ hai, Nguyễn Văn Ba. Thịt ba chỉ kho hột vịt ăn với dưa cải và cà pháo muối mặn. Điểm: Khá. Đêm đó chúng tôi lục đục thức dậy uống nước và đi tiểu suốt. Nguyễn Hảo Tâm người Sài Gòn, giả giọng Bắc của Ba, ngâm ư ử chọc Văn Ba:
Em ơi! Mở cửa cho anh ra!
Kẻo anh chết khát trong vại cà nhà em!

Ngày thứ ba, Hảo Tâm vác chiếc bụng phệ đi chợ. Vậy mà thoáng cái đã về, xăn tay áo vào bếp. Trưa hôm đó chúng tôi được thưởng thức món hột vịt luộc, dầm xì dầu ớt chanh, chấm với giá chua, rau sống. Sơn rên rỉ : Chắc cái rô bi nê nước của bà chủ nhà đêm nay hư quá! Văn Ba được dịp trả thù câu chọc tối qua của Hảo Tâm:
- Này ông Tâm! Cái câu "Kẻo anh chết khát trong hủ giá chua nhà em" tối nay đọc nghe trúc trắc quá, ông ráng sửa lại nghe cho êm tai nhá!
Tâm cười giả lả:
- Nè... nè tráng miệng với chuối bồ hương đi! Ngon lắm đó.

Ngày thứ tư đến lượt Sơn. Anh rũ tôi đi cho có bạn. Hóa ra anh chàng mắc cỡ. Anh thủ sẵn trong túi hồi nào không hay một cái bao bằng giấy xi măng. Miệng ngậm ống vố phì phèo, tay chắp sau đít, anh lững thững vào chợ như người đi dạo cảnh. Tôi theo sau không ý kiến, mắt đảo quanh đám người Thượng, xem họ mua bán đổi chác những thổ sản mang từ trên núi xuống. Nhiều nhất là phong lan. Nhưng chỉ là những loại thường như hoàng lan, hoàng điệp, hàm rồng, long tu, địa lan... Mấy thứ này rẽ tiền. Chỉ năm, mười đồng một nhánh. Tháng đầu tôi ham, mua về treo đầy trong phòng. Song nó cứ rũ ra, chết dần. Có người bày cách, phải treo nó ngoài trời cho có đủ sương và nắng gió nó mới sống. Tôi làm theo. Nhưng mấy chục nhánh cũng lần lượt héo sầu, đổi sang màu vàng rồi chết khô. Có lẽ nó nhớ bạn, nhớ rừng chăng?

Sơn xăm xăm đi tới hàng đồ khô, gia vị và nói với bà bán hàng:
- Bà cho tôi một chục trứng gà, một ít củ hành và tỏi. Tính hết bao nhiêu?
Bà bán hàng nói giá tiền và hỏi lại:
- Cậu có cái gì đựng không? Đi chợ mà đi hai tay không vậy?
Sơn nhanh nhẹn rút trong túi quần ra cái bị giấy xi măng đưa cho bà bán hàng và nói:
- Bà bỏ hết vô đây là được rồi.

Trả tiền xong, Sơn quành qua hàng thịt mua một miếng thịt ba chỉ. Trở lại hàng rau mua thêm mấy trái cà chua.
- Xong! Ông thấy tôi có nghề không? Sơn hỏi tôi mà không cần câu trả lời.
Vừa về đến nhà đã thấy hai chàng Tâm và Ba chờ sẵn.
- Nào! Bữa nay coi anh chàng nhạc sĩ của mình nấu nướng ra làm sao!
Sơn cười hì hì:
- Được rồi! Mấy ông vô hết trong này coi tôi trổ tài nghe.

Sơn vào bếp chỉ huy ba chúng tôi, người này lột vỏ hành, tỏi, người kia rửa cà, thái lát mỏng, người nọ cắt thịt ba chỉ thành sợi như chiếc đũa. Chúng tôi làm theo răm rắp. Mọi việc đâu vào đấy. Và giục Sơn ra tay vì trời đã khá trưa rồi. Sơn bắt đầu đổ dầu chiên vào chão. Trong khi chờ đợi dầu nóng, Sơn giảng giải cách làm các món:
- Các ông sẽ được thưởng thức món hột gà "ốp la" và hột gà đổ chả nghe! (Sơn thường đệm tiếng "nghe" ở cuối câu rất nhẹ và rất dễ thương) Phải đợi dầu thật nóng, bốc khói, rồi khử dầu bằng vài tép tỏi đập dập cho thơm-Sơn nói tiếp:
- Bây giờ mấy ông coi nghe!
Sơn cầm lấy một trứng gà bằng hai tay, vừa làm vừa giảng tiếp:
- Mình phải cầm trứng bằng tám ngón tay như thế này, từ ngón trỏ đến ngón út, hai ngón tay cái bấm vào trứng để bóp quả trứng. Nè! Chú ý nè!

Chúng tôi ngó theo bàn tay Sơn, những ngón tay thuôn dài đang ôm lấy quả trứng. Những ngón tay khô, xương và da. Phải cho có thêm một ít thịt thì bàn tay Sơn chắc đẹp không thua gì bàn tay con gái. Sơn bóp mạnh hai ngón tay. Lòng trắng, lòng đỏ trứng gà thay vì lọt vào chão, lại vọt xuống đất đánh "bạch" một tiếng. Một trứng đi đời. Sơn bào chữa:
- Tại tôi bóp mạnh quá!
Chúng tôi khuyến khích:
- Làm lại! Làm lại!
Sơn làm thêm hai lần nữa, tình trạng vẫn y như cũ. Một đống trứng nhầy nhụa dưới chân. Ba la lên:
- Thôi! Thôi! Ông Sơn ơi, làm ơn tránh ra cho chúng tôi làm. Mà ông có biết làm không thì bảo?
Sơn nói:
- Hồi nhỏ tôi thấy má tôi làm như vậy mà!
Tâm hỏi lại:
- Mà ông đã làm thử lần nào chưa?
- Chưa!
- Vậy mà cũng bày!

Tôi chọc quê Sơn bằng cách hát nhại "Dã Tràng Ca": "Thôi! Còn gì nữa đâu! Còn gì nữa đâu! Mà không ăn rau..."
Sơn nổi cáu, xì nẹt:
- Thôi cha! Cha sửa lời làm hư hết bản nhạc của tôi đó cha.

Sau đó chúng tôi đập hết những trứng còn lại vào trong một cái tô lớn. Trộn thêm đường, hành củ, cà chua, thịt ba chỉ, tiêu, xì dầu đánh đều lên thành một món hổ lốn, đổ vào chảo thành hai lượt cho mau chín và không bị cháy phía dưới. Không ngờ bữa cơm ấy lại vui và ngon ra phết. Ai nấy vừa ăn vừa nhắc lại cảnh Sơn bóp trứng mà cười. Dứt bữa ăn, Sơn trịnh trọng đứng lên tuyên bố:
- Bắt đầu chiều nay đi ăn cơm tiệm!
Không ngờ cái lệnh vô tình ấy lại hợp cả cho chúng tôi. Không ai bảo ai, cả ba chúng tôi đồng thanh vừa cười, vừa hô to:
- Ăn cơm tiệm! Đã đảo đi chợ!

Những ngày chúng tôi sống chung với nhau trong "ngôi biệt thự" của bà Trần Thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khung cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các nhạc phẩm để đời: "Chiều Một Mình Qua Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết Lăn Trầm"- và "Ca Khúc Da Vàng."

**********************************************8

* Bài viết " một quãng đời của Trịnh Công Sơn " của tác giả / cựu thày giáo / đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn khá dài ( phần trích dẫn ở trtên chĩ khoảng 1/4 ) chủ yếu tác giả nêu ra , đưa lên , mô tả chân thực một khoảnh ngắn trong cuộc đời của con người danh tiếng như cồn này đó là quãng đời của thày giáo Trịnh Công Sơn sống giữa lòng bạn bè của mình . Nhũng kỷ niệm rất nhỏ nhưng rất người được tác giả viết rất tỷ mỷ khiến cho người đọc có quyền tin vào độ chính xác chân thực rất cao ( từ chuyện hai người / tác giả và TCS / ngày đầu tiên nhận nhiệm sở đến chuyện hai người đi thuê nhà . bữa cơm và tài làm món trứng của T.C.S v.v và v.v. ) . Thế mà than ôi chỉ năm năm sau thôi khi vừa có chút tiếng tăm con người sống chỉ cần một tấm lòng ấy chẳng còn nhớ gì nữa cả . . (năm 1972 . triển lãm tranh ở Nha Trang . TCS đã vờ đi không nhận ra ( ?) không nhớ ra người bạn của mình . .)
Ban đầu tôi định post đầy đủ bài viết trên , nhưng nay cũng từ ý anh NHĐoàn và tự mình cũng nhận thấy là thừa thãi nên chỉ trích dẫn lại những đoạn có thể làm câu trả lời cho những định đề tôi đưa ra ở bên trên thôi :


Trịnh Công Sơn và Tình Bè Bạn
Sau một tuần, anh em lục tục lên đủ mặt.
Bữa tiệc tẩy trần thật tưng bừng. Chúng tôi thầu hết tầng lầu trên của Câu Lạc bộ. Bây giờ thì ăn nói thoải mái, không còn phải e dè mấy tên du đãng tép riu. Sau vài ly máy nóng, chúng tôi tha hồ kể "chuyện nhà binh". Chuyện khói lửa bốn vùng chiến thuật nguội dần. Có anh sực nhớ tới Trịnh công Sơn, hỏi trống không:
- Có ai biết anh chàng Sơn nhà mình bây giờ ở đâu, làm gì không hè?
Hiện đáp:
- Tôi biết. Sơn bây giờ nổi tiếng lắm. Không những trong nước mà cả thế giới cũng biết.
Bạch không tin:
- Thôi cha! Xạo vừa vừa thôi! Thằng chả trốn lính, làm ăn gì được mà nổi tiếng!
Hiện vẫn bằng cái giọng rề rà bỡn cợt, nửa đuà nửa thật:
- Tôi làm việc ở cơ quan ninh quân đội, địa bàn Sài Gòn- Chợ Lớn, nên biết một ít về ông Sơn nhà mình. Đầu tiên ông ta được một tay có cở trong không quân che chở, cấp cho một cái thẻ "Chứng chỉ tại ngũ" chức vụ binh nhì lèo.
Có tiếng lao nhao:
- Ai vậy? Ai vậy? Ông biết không?
- Sao lại không! Đại Tá Lưu Kim Cương chớ ai vào đây nữa! Cảnh sát biết thừa đi chứ. Nhưng không dám đụng vào ổ kiến lửa.
Hiện cười cười, tợp thêm một ngụm bia rồi tiếp:
- Sau tay này tịch. Cụ Sơn nhà mình bèn làm một bản nhạc để tạ ơn người che chở mình. Bản nhạc có tên là "Cho một người nằm xuống".
Tín nhảy vô vòng chiến:
- Ông rề rà bỏ mẹ! Thế thì tôi hỏi ông nhé! Bao nhiêu năm ông già Thống còng lưng dạy thế cho ông ấy, để ông ấy lo việc công danh của mình, ông ấy có làm bản nhạc nào tên là "Cho một người dạy thế" để tạ ơn ông Thống không?
Hiện vẫn đũng đỉnh:
- Ấy! Cái này thì tôi không biết. Nhưng ông Thống chưa tịch thì làm gì có nhạc để tặng? Còn ông Sơn sẽ làm hay không thì có dịp gặp mặt tôi sẽ hỏi lại rồi cho ông biết sau.
Tín thở hắt ra:
- Nói như ông chán bỏ mẹ!
Đạo sốt ruột:
- Sau khi Lưu Kim Cương chết rồi thì ai là cái ô dù của ông Sơn?
- Cái ô dù hãy còn bé lắm. Phải nói là cây đa cổ thụ mới đúng.
Nói tới đây, Hiện dừng lại, thong thả rót bia vào ly mình một cách chậm rãi để bọt khỏi tràn miệng ly rồi nâng ly lên làm mấy tợp, mặc cho bao nhiêu con mắt đang hau háu chờ đợi.
Nghị nóng nảy văng tục:
- Mẹ! Cứ vờ vịt! Ông đấm buồi vào!
Hiện khà một tiếng sảng khoái, đưa tay chùi mép rồi mới tiếp:
- Cây đa cổ thụ là tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đấy.
- À ra thế đấy! Nhiều tiếng xì xào.
Lãng từ đầu đến giờ vẫn ngồi im lặng nhâm nhi ly bia lắng nghe anh em kể chuyện "đường xa xứ lạ" thích lắm vì không được cái "hân hạnh", "Tòng quân giết giặc" để "Dong vó ngựa trên đường chinh chiến", bây giờ mới lên tiếng:
- Moa... moa thì "mo phú" tay nào che chở cho ông Sơn. Việc bắt ông Sơn là việc của mấy ông "cớm". Moa... moa thì moa bực cái ông Sơn nhà mình. Bực lắm cơ. Moa có mua mấy tập nhạc của ông ấy khi mới xuất bản. Tập nào cũng ghi tiểu sử có đủ thứ trên đời mà không thấy tập nào ghi lấy một dòng như "dạy học tại Bảo Lộc từ năm 1964 đến 1967" họặc "Học Sư phạm Qui Nhơn" chẳng hạn. Moa bực là nghĩ: Chẳng lẽ ông ta có mặc cảm xấu hổ với nghề dạy học chăng?
. . . .
. . . . . .
Tiếng cười nói lại xôn xao, náo nhiệt. Sực nhớ ra điều gì, Tín vùng nói lớn giữa tiếng ồn ào:
- Này các cụ! Còn em bé Đỗ thị Nghiên "cúng" cây đàn ghi ta cho ông Sơn ba năm có được xơ múi gì không?
Đạo là người rời Bảo Lộc sau cùng nên biết chuyện này, đáp ngay:
- Em Nghiên trước khi theo chồng về Huế có đến đòi lại cây đàn. Cũng còn may! Nếu không thì ông Sơn cũng đã quên.
Tín quay sang tôi móc lò:
- Còn ông mãnh này! Ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu ba năm trời có được xơ múi gì không?
Tôi thật thà trả lời:
- Có! Hồi đầu tiên Sơn có tặng cho tôi và ông Lợi, mỗi người một bản "Chiều Một Mình Qua Phố".
Tín vặn:
- Bấy nhiêu thôi à! Thế mấy tập Tình ca-Ca khúc da vàng không tặng sao?
- Sơn nói nhà xuất bản cho ít quá nên không đủ tặng.
Hiện tiếp lời:
- Mấy ông đừng trách! Ông Sơn bây giờ bạn đông lắm, đếm không hết. Ông ấy bây giờ đi đâu cũng có một đám bu quanh như nhặng xanh bu c. ngựa vậy.
Anh chàng Sang ngồi im từ đầu đến cuối, bây giờ như cóc mở miệng:
- Mấy cha cứ nói chuyện trên trời, dưới đất. Hồi còn ở đây, ông Sơn đã dự đoán sau hai mươi năm nội chiến, những người còn lại đều là một "lũ bội tình". Thì ông ấy có chút bạc ơn với nghề dạy học và chút bạc nghĩa với những người bạn ở cái xứ Thượng heo hút này cũng là chuyện nhỏ trong cuộc đời "vĩ đại" của ông ấy mà thôi. Có đáng gì đâu mà nhắc tới!
Câu chuyện nhạt dần, không khí cũng lắng dần. Có lẽ mọi người đã ngấm say. Lần đầu tiên trở lại Bảo Lộc, sau ba năm, tôi thấy anh Lãng không còn đòi về trước để trùm mền và xoa dầu Nhị Thiên đường như xưa. Có lẽ anh đã từ chức "ông Trùm" rồi chăng? Mừng cho anh.

. . .
. . . .

Giã Từ
Tháng 11 năm 1991, tôi đem hết gia đình vào Sài Gòn để chờ máy bay. Thời gian này, tôi gặp lại Lãng, Hinh, Tâm lùn và Sang. Lãng vẫn tiếp tục dạy học vì anh không có "nợ máu" với nhân dân. Anh được chuyển sang dạy cấp hai. Nay anh đã có vợ và hai con. Tâm cùng vợ bán sữa đậu nành sống lây lất qua ngày. Tối hì hục xay đậu. Sáng hì hục đẩy xe ba gác ra chợ Bà Chiểu bán. Sang cũng tốt nghiệp từ một trại Cải Tạo miền Nam, về vớ được một bà lỡ thì, bán chuối ở chợ Ông Tạ. Ngày ngày phụ với vợ vác những quầy chuối bán từ đầu chợ đến cuối chợ. Hinh cũng đã có vợ và một con. Phụ một chân sai vặt cho "ông bà bô" bán hàng trong một quán cóc ở Gò Vấp, kiếm cơm ngày hai bữa.

Trong một bữa nhậu chia tay cuối cùng gần cổng xe lửa số 6 (bò bảy món Ánh Hồng xưa) thăm hỏi những bạn bè cũ còn lại được những ai, thì được biết Đỗ Danh Đạo vượt biên, nay đang ở Tây Đức. Còn bao nhiêu thất tán trong trận cuồng phong thổi vào Sài Gòn tháng tư, bảy lăm. Bấy lâu không gặp lại một ai. Bữa ăn thật buồn. Tâm lùn cố pha trò nhưng vẫn không đánh tan nỗi u sầu nặng trĩu trong lòng mọi người. Lãng vẫn còn nói lắp:
- Thế... thế, trước khi rời khỏi Việt Nam, ông có định đến thăm Trịnh Công Sơn lần chót không?

Mọi người lúc ấy mới chợt nhớ ra là mình còn một người bạn tên là Trịnh công Sơn. Tôi hơi e ngại chuyện đến thăm. Sợ bị hiểu lầm dựa hơi, nhờ cậy. Tôi kể lại chuyện gặp hai ông Trịnh ở Nha Trang năm 1970, Sơn không thấy tôi hay không nhận tôi. Sang chép miệng:
- Đọc báo thấy nói ổng quen toàn những văn nghệ sĩ từ cái thời Nhân văn Giai phẩm ngoài Bắc như Văn Cao, Phùng Quán, Hoàng Cầm... không hà!
Sang lại chửi đổng:
- Mẹ! Thấy sang bắt quàng làm họ!
Hinh tiếp lời:
- Tôi có lần đến cà phê của anh ta. Chung quanh anh ta lúc nào cũng có một đống bu quanh.
Tâm hỏi:
- Thế anh ta có nhìn thấy ông không?
Hinh tặc lưỡi:
- Anh ta lúc nào cũng bận tíu tít với cái đám bung xung thì làm gì có thì giờ nhìn thấy tôi!
Tâm phấn khích quay sang tôi:
- Ngày mốt ông lên máy bay hả? Được rồi, trưa mai 12giờ, dẹp hàng xong, tôi chở ông lên chỗ ông Sơn ở, ông vào xem thử ra sao! Bây giờ Nhà nước cấp cho ông ta một cái vi la to lắm không biết của ai chạy bỏ lại. Mẹ! Không biết làm đến chức gì mà ngon thế? Tâm lại chửi đời. Các bạn xúm nhau mỗi người một câu, xúi tôi đi thử:
- Ông cứ đi thử cho biết tình đời! Chết thằng tây đen nào mà sợ!

Trưa hôm sau, Tâm chạy chiếc xe Honda cà tàng, xành xạch chở tôi đến vi la của Sơn đang ở. Tâm dừng xe bên kia đường chói chang nắng gắt giữa trưa, bảo tôi qua bấm chuông. Căn biệt thự có tường vây cao quá đầu bao bọc. Dọc bên trong có trồng trúc kiểng cao quá tường. Tôi bấm chuông. Cánh cửa sắt hé mở. Dưới tàn một khóm trúc ngay cổng, hai thanh niên vạm vỡ đang ngồi nhâm nhi. Chai Whisky vơi quá nửa. Một người hỏi tôi:
- Ông hỏi ai? Có việc gì?
- Tôi là bạn của ông Sơn lâu lắm rồi. Đến thăm thôi, không có việc gì cả!
- A! Anh Sơn đang nghỉ trên lầu! Ông đứng đây chờ một chút. Tôi lên thông báo rồi cho ông hay.
Anh ta bỏ ly rượu xuống bàn, bước vào nhà. Độ hai phút trở ra nói:
- Anh Sơn đang mệt cần nghỉ ngơi, sáng giờ uống hơi nhiều. Nếu ông cần gì, xin viết giấy để lại, chúng tôi sẽ trình với anh Sơn.

Nói xong anh ta xé trong tập sổ tay một tờ giấy con đưa cho tôi và cây viết Bic. Tôi lưỡng lự không biết phải viết cái gì. Nhìn qua bên kia đường thấy Tâm đang đưa tay quẹt mồ hôi trán, lòng tôi bất nhẫn. Tôi lia ngay một hàng không nghĩ ngợi: "Anh Sơn! Từ năm 1967 đến nay mới có dịp vào Sài Gòn. Ngày mai tôi sẽ lên máy bay đi Hoa Kỳ, nên ghé thăm anh tí chút, nhưng không được gặp. Thôi, xin hẹn lại kiếp sau". Đưa trả lại tờ giấy cho ngươì bảo vệ, tôi quay lưng đi thẳng.

Trên đường về, Tâm hỏi:
- Sao? Không có Sơn à?
- Có! Nhưng tên bảo vệ nói là Sơn sáng nay uống rượu hơi nhiều nên mệt, cần nghỉ ngơi. Hắn bảo tôi cần gì thì viết giấy để lại.
- Ông có viết không?
- Ban đầu tôi định không viết. Nhưng nhìn thấy ông đứng ngoài nắng nhễ nhại mồ hôi, tôi đâm bực, viết đại một câu cho bỏ ghét. Bây giờ nghĩ lại thấy cải lương quá!
- Câu gì mà cải lương?
- Xin hẹn lại kiếp sau!
Tâm cười ha hả:
- Thì đúng boong! Ông qua Mỹ rồi, làm gì có ngày về lại Việt Nam để gặp lại nhau? Không là kiếp sau à!
Tâm lại hỏi:
- Ông có nghĩ rằng họ sẽ đưa tờ giấy đó cho ông Sơn không?
- Không! Tôi nghĩ là không! Lúc tôi viết mấy chữ đó, liếc mắt thấy nó nhếch mép cười. Tôi chắc rằng khi quay lưng đi, chúng nó sẽ vất vào giỏ rác ngay. Vã lại, với chức quyền như Sơn hiện giờ thì ngày nào lại chẳng có khối thằng đến xưng là bạn để cầu cạnh, lợi dụng. Họ bận tâm làm gì!
Tâm vẫn ức:
- Ông Sơn làm nhạc thì ăn cái dải gì mà cầu cạnh?
Tôi phì cười vì cái ý nghĩ đơn giản của Tâm:
- Bán sữa đậu nành như ông, bán chuối lề đường như ông Sang thì không cần. Nhưng ông viết văn, làm nhạc thì phải khom lưng cười cầu tài đó!
- Sao ông biết?
- Tôi không biết ông Sơn đang nắm giữ chức vụ gì, nhưng cứ suy đoán thì thấy ngay. Này nhé! Cứ đem so sánh với những tay một đời theo đảng, mấy ai đã được ân sũng như thế? Vi la này! Những hai bảo vệ này! Còn vô khối bỗng lộc ngõ trước, ngõ sau thì đủ biết Sơn đang giữ chức vụ lớn và quan trọng lắm.
- Mới tới đây có mấy phút mà nghe ông nói như thánh nói!
- Cần gì phải thánh mới biết! Cứ nhìn đầy tớ gác cổng mà uống whisky thì biết ngay đời sống của thầy!

.*********************************************** . . . . . .

anh  hoang lien  công  viết



khi đọc bài này , có thể ta hơi bị bất ngờ. Nhưng nhân tài thì vẫn có sai sót, và những sai sót bé bỏng và đáng yêu.

HLC.

***************************************
( anh   ngo  huu  đoàn  viết  )



Tui đã đọc qua bài này, không biết bài viết này còn khúc nào nữa hay không, hay là chỉ bấy nhiêu, nếu chỉ bấy nhiêu mọi người có thể bàn luận, kẻo như lần trước, ý kiến xong lại nghe "còn tiếp ..." thì hơi kẹt!

Theo thiển cận (tạm gọi cho đỡ trách nhiệm) của tôi:

- Mấy ý đầu là đưa vấn đề
- Phần thứ 2, dài sau đó, kể về kỷ niệm, hồi ức, khúc này hay và chi tiết lắm
- Phần thứ 3, phần chí để giải quyết vấn đề, phần này đưa ra 3 ý chính
a. Cuộc triển lãm tranh TCS ở Nha Trang
b. Lần đến thăm TCS sau nhiều năm ko gặp trước khi tác giả đi Hoa Kỳ diện H.O
c. TCS với các mối quan hệ: Lưu Kim Cương, Nguyễn Cao Kỳ, Võ Văn Kiệt, Lê Thanh Hải.

Trong ý chính này tôi thấy tác giả cũng không đủ thuyết phục

a'/ Tại cuộc triển lãm tranh mà cho rằng TCS "cố quên bạn" thì nghe hơi có vẻ áp đặt, Vì sao? vì trong bài không có câu đối thoại nào của TCS với tác giả bài viết này. Điều đó có nghĩa là có thể TCS không thấy thật trong lúc triễn lãm đông đúc người.
b'/ Lần đến thăm mà ko gặp được TCS vì lý do 2 bảo vệ cho biết ông đang nghĩ vì mới uống rượu nhiều cũng là chuyện bình thường. Vì lúc đó, ông chưa biết bạn ông là ai, đương lúc mệt cũng có thể xử lý thông tin bằng cách đó. 2 bảo vệ uống whisky cũng không là chi tiết quan trọng (nếu có). Uống whisky cũng ko sao, và biết đâu vỏ whisky ruột chuối hột thì sao?
c'/ Nói tới cái này là cái quan trọng, nhưng nói bấy nhiêu đó thì ít thông tin quá. Theo tui biết thì tác phẩm TCS bị cấm phổ biến không những ở chính quyền Miền Bắc mà còn bị cấm dữ dội ở Miền Nam. Những người này chơi với TCS là do TCS hay là do họ ngưỡng mộ tài năng âm nhạc thì cũng không xác định được. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là người của chính quyền Miền Bắc nhưng là bạn thân với TCS, nhiều lần ông này đã che chở TCS trong những lần đi Âu, Mỹ bị người Việt hải ngoại phản kháng (phản kháng vì những câu đại khái như "em ra đi nơi này vẫn thế/ lá vẫn xanh trên con đường nhỏ". Nếu nói TCS thân Miền Nam để được yên ổn thì tại sao 30/4/75 ông ko đi, trong khi nhiêu người tình nguyện tới chở, sau này còn bảo lãnh? Nếu thân Miền Bắc để hưởng lợi thì tại sao ông phải bị khổ sở vì những câu đại khái như "sẽ có một ngày mùa thu Hà Nội trả lời cho tôi/ sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi". Những chương trình của ông cũng không được nhà nước "mặn mà" dù ông là một nhạc sỹ tài năng sáng giá của VN. Có lần Phạm Duy đã phá đám ông bằng cách cho đàn em cướp sân khấu trong lúc giải lao để hát bài "cớ gì mà buồn (?)" ( của Phạm Duy) trong khi chương trình của ông là Ca khúc da vàng, Kinh Việt Nam. Có người đã cúp điện khi tiết mục của ông bắt đầu tại Nhà văn hóa Thanh Niên (sau 75). Có người tới chơi nhà ông rồi đái lên tranh của ông. Nếu ông là người như mọi người bình thường (chứ chưa kể tầm thường) thì mấy vụ đó ẩu đả xảy ra là ko tránh khỏi, và công chúng quên sao được?

- Một ý là TCS không hề đề cập tới thơì gian làm trưởng giáo ở B'lao, tôi cũng chưa rõ vì sao không thấy ông viết về công việc này?

Nếu ông TCS xấu thì những người ganh tỵ ông đã lên tiếng lâu rồi, bên cạnh đông đảo bạn bè yêu quý ông thì cũng có một ít người ganh tỵ tài năng không, thì họ (người ganh tỵ) đã "khai thác" lâu rồi chứ không phải đợi đến hôm nay để cho tác giả bài trên lên tiếng. Có người (nhạc sỹ) đã tuyên bố viết nhạc như TCS họ có thể viết 10 bài/ngày, cả sự nghiệp của TCS họ chỉ làm trong 3 tháng!. Tôi nghĩ, những người ngưỡng mộ TCS thì hãy yên trí tin rằng TCS là một tài năng lớn, một nhân cách lớn, vì TCS đã qua "thử thách" nhiều rồi!

Bài này bạn guest post cho tui thấy được và tin hơn ông Nguyễn Đắc Xuân, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về TCS, giai đoạn dạy học ở B'Lao.

Cảm ơn bạn nhiều !



**************************************************
nguyetthao viết

* Nguyêtthao chẳng biết quan điểm của anh H.L.C anh N.H. Đ về tình " bẳng hữu " như thế nào , chứ riêng nguyetthao có vài người bạn trai , tất cả họ đều nâng niu kính quí hai chữ bằng hữu này vô cùng . Tình cha mẹ con cái anh chị em có máu mủ buộc chặt Tình vợ chồng phu thê có nợ và nghĩa trói ràng , nhưng riêng tình bằng hữu thì chỉ có mỗi một tấm lòng nghĩ về nhau đối với nhau là thiêng liêng màu nhiệm . Chẵng biết anh H.LC nghĩ sao mà bảo rằng việc quên hẳn cả một thời gian , quên hẳn tất cả những người bạn hàn vi của mình như vậy là một sai sót nhỏ bé đáng yêu . Nguyêtthao mong rằng trong cuộc đời anh đửng bao giờ có những nét đáng yêu như vậy ?!
* Hai phần a và b mà anh N.H.Đ lập luận nguyetthao miễn bàn / một ý là áp đặt và một ý là cãi lỳ thì tranh luận muôn đời không hết . Cứ để thiên hạ phán xét thôi . nguyetthao chỉ nêu ra hai khía cạnh: một là có một gã muốn quên đi tất cả và hai là có những con người không muốn ( không có ý định ) vơ vào .
* Cái điềm thứ ba / cái điều mà anh NHĐ CHO LÀ QUAN TRỌNG NHẤT thì anh NHĐ lạc đề rồi . Toàn bộ bài viết không đặt ra vấn đề tcs ở " phe " nào / CS hay MỸ Nguỵ / tất cả bài viết chỉ nói về tình bạn bè bằng hữu / và chinh cung cách cư xủ của tcs đối với bạn bè / cũng như đối với thời hàn vi của mình / không dám nghỉ tới không dám nhớ tới / đủ noí lên bản chất đam mê DANH và LỢI ở con người này rồi .

Những người này chơi với TCS là do TCS hay là do họ ngưỡng mộ tài năng âm nhạc thì cũng không xác định
được


Những danh tánh Đạo - Lãng - Sang - Hiện - Tín -cô giáo Nghiên và tác giả Ng t Ty v. v. không phải là những người chơi với tcs hay fan của tcs mà đó là những nhà giáo đồng nghiệp của tcs / Cuộc đời họ sống bằng nghề giáo / hảnh diên là thày giáo ( khác hẳn với kẻ không dám nhận mình là thày giáo bởi vì mình là một vĩ nhân ) . Rõ ràng thì chỉ những con người to lớn cỡ NG q Sáng mới xứng đáng là bạn của tcs thôi .
Những danh tánh trên không làm nghề nhạc sỹ cũng chẳng ganh tỵ chút gì về tăm tiếng của tcs cả .
*Công khai bài hồi ký này , tác giả không có ý định , ý đồ lật mặt nạ tcs ( nếu có ý đó thì đã làm lâu rồi ) bơỉ vì không nhờ vả gì nên cũng chẳng cay cú oán hận gì ( xem cách viết thì rõ ) . Bài hồi ký này xuất hiện do chủ ý tác giả muốn đòi lại BẢN QUYỀN ( tức là những dữ liệu ,sự kiện trong bài viết ) đã vô tình bị một người khác đánh cắp .

* Nguyetthao hoàn toàn tôn trong quyền tự do sùng bái . Và từ bao đời nay rồi sự thật thì cũng luôn luôn phũ phàng .





*******************************************
anh  hoang  lien  cong  viêt


Bạn nói gì tôi thật sự không hiểu, những ngừoi bạn đó có vẻ tự ti , mặc cảm quá hay sao, đợi đến khi người ta chết mới đào mồ người ta lên xử hay sao, những chuyện riêng tư giữa họ chỉ thật sự có vậy thôi sao, tôi hy vọng bạn lý giải được chỗ này bạn sẽ thấy nhạc sĩ Trịnh công Sơn đáng yêu biết bao nhiêu. Một người bạn chân chính bao giờ hơn ai hết phải hiểu bạn mình, là ngừoi cho ta sự tin tưởng,và hành xử với ta sự cao thượng,chứ không phải đi đào ra những sự tỵ hiềm cá nhân.
nhạc Trịnh công Sơn là một thứ văn học và là một thứ thánh giáo cho tôi, tất nhiên tư cách của ông là điều tôi học hỏi, tôi yêu nhạc của ông há rằng tôi lại không thấy trong đó một tính cách vĩ đại.
để tóm lại câu chuyện này, tôi trích ý trong điếu văn của nhạc sĩ Trần long Ẩn đọc trong ngày tang lễ nhạc sĩ Trịnh công Sơn. -Trịnh công Sơn vĩnh biệt chúng ta đó là một mất mát lớn,ông là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng vượt lên trên hết đó là một "nhân cách" lớn đã để lại cho cuộc đời chúng ta.


HLC.


**************************************************

nguyetthao  viết


Anh H.LC .
Chúgta có thể kết thúc tranh luận ở đây .
Đạo đức nhân cách một con ngưyơì không thể do người này ( Ng Q. Sáng phán ) không thể nghe(Tr. L Ẩn đọc) . Nhân cách một con người thể hiện qua tấm lòng họ đối xử với bằng hửu bạn bè với cộng đồng xã hội .
Mê tín sùng bái là quyên mỗi người .
Tài năng không phải nhân cách ( như phạm duy ấy là giống gì )
Anh bào nhửng người bạn của tcs trong bài viết trên là tự ty là mặc cảm . Không đâu . họ không phải hạng người mê say danh lợi thấy bạn mình sang mà vơ vào ( như tcs vơ vao trịnh cung . luu kim cuong lê thanh hai vo van kiêt ).

Theo nguyetthao thì anh hãy đọc kỹ bài viết trên .
nhân cách tcs tuỳ thuộc vào độ chuẩn xác chân thực của bài viết này . Không nên nghe người này phán người kia bảo kẻ nọ tung ho rồi mình tung hô theo .
Anh cố gắng giảm bớt sự mê tín . hảy cùng nguyetthao tìm ra sự thật .
Còn tranh luận kiểu u lỳ như anh viết thì cho nguyetthao xin thôi .

nguyetthao





*************************************************
nguyetthao  viet



Nguyetthao không nghĩ là trình độ như anh HLC anh NHĐ mà lại cứ cố u lỳ ngây thơ như vây .

GIa đình đang yên ấm , nguyetthao đang đường đường là dâu thảo vợ hiền từ mẫu . Bỗng đâu nhận được một lá thư thế này :
"Tối ngày 29/2/2008 chúng tôi thấy cô nguyễn thị nguyetthao cùng một người đàn ông bước vào kách sạn NumberOne ở đường số 2 quận 3. Hai người lên phòng 405 ( lầu 3 ) và ở chung với nhau từ 22g đến 5g sáng ngày 01/ 03 . hoá đon thanh toán num . . total 1000000đ . Tại sỗ trực của khách sạn vả sổ luư tạm trú địa phương danh tánh 2 người đăng ký ngủ phòng 405 theo C.MND thì người đàn ông tên là Ng X còn đàn bà tên nguyễn thi nguyetthao. "

Để gỡ lại danh dự cho mình / công việc đầu tiên nguyetthao làm không phải là đi tim tác giả bức thư là ai ? ở đâu ? động cơ gì ?
Mà trước nhất nguyetthao phải chứng minh : đây là lá thư có tính cách vu khống .
Có 3 sự viêc phải minh chứng :
1/ người đàn bà ấy không phải là tôi ./ tôi aliby / bởi vì tối ấy ( đêm ấy ) tôi ở đâu /với ai /làm công việc gì
2/ Ở quận 3 mình không có cái khách sạn nào tên NOne . / NOne là một nhà nghì nhỏ không có lầu 3 nên cũng không có phòng 405.
3/Lần ngược dấu vết thì người đàn ông tên Ng X thì hoàn toàn không có thực

Đây là những dẫn chứng / theo nguyetthao /tốt nhất thanh minh cho mình .
( Nếu không thanh minh được thì bào chữa . Bào chữa kiểu : tại chồng tôi đủ thứ bất lực / bỏ bê gia đình / nhậu nhẹt . . chứng minh được như vậy thì người ta sẽ thông cảm cho )


Còn theo anh HLC và anh NHĐ thì không nhất thiết phải như thế : bởi vì " ngốc quá nguyetthảo ơi là nguyetthão . tại sao lại không :
1/ Nhờ tổng thống Bush bảo Bill xác nhận cho mấy câu " Không thể như thế được một thiên tài window như cô nguyetthảo này thì không bao giờ làm chuyện tầm bậy đó cả . ( Bill nói là thánh nói mà )
2/ Đến Geneve nhờ ban quàn lý giải thưởng NOBEL bảo lãnh cho " " một nhà thơ thiên tài như cô nguyetthao đang được đề nghị trao giải thưởng văn chương này thì không thể nào có hành động ngoại tình như thế đựoc .
3/Ra Hanôi nhờ một nữ tổng bí thư danh tiêng tiếng nào đó " bao năm nay nguyetthao nổi tiếng là dâu thảo vợ hiền , đẽ hai đứa con là cháu ngoan , Năm năm liền đạt danh hiệu phụ nữ 3 đảm , được tổ dân phố tuyên dương . uỷ ban phường khen thưởng . . . Một con người như thế thì / nhân danh tổng bí thư tôi bảo đảm / không thể nào . hư hỏng được .
Theo nguyetthao . nếu chúng ta cứ ngoan cố mỗi bên theo một phương pháp ( kiểu như trên ) thì chẳng đến đâu cả . Nên kết thúc là tốt nhất .

Tuy nhiên trước khi kết thúc nguyetthao muốn đặt lại 2 vấn đề

Một /
ý là TCS không hề đề cập tới thơì gian làm trưởng giáo ở B'lao, tôi cũng chưa rõ vì sao không thấy ông viết về công việc này? .

Câu trả lời chì có thể là :
1/ VVới ai thì nghề dạy học là cao quý chư với vỹ nhân với thiên tài tcs thì đó là cái nghề hèn " Không lẽ ta đây mà có thời phải làm thày dạy học mấy thằng thượng con à "
2/ Có thể cái nghề dạy học không đến nỗi hèn lắm , nhưng nhắc đến cái nghề đó là lại phải nhắc đến cái đám bạn thày giáo mạt hạng !

nguyetthao không nhớ đọc ở đâu câu này : " quá khứ , nguồn cội là sương sống hình thành nhân cách con người "

Hai /
Ngoại trừ những người có lý tưởng và có nhiệm vụ về điệp báo ( như các anh hùng Phạm X. Ân - Phạm N. Thảo v.v. )phải chấp nhận một lối sống thế nào đó ( để hoàn thành nhiệm vụ công tác ) . Còn ông nhạc sỹ tcs này chẳng phải là điệp viên gì cả mà ông ta khéo luồn cúi đến độ cả hai thời kỳ ông toàn là em cháu / con / bạn / lính lác / hay tài lọt gì đó cho các ông lớn không ? hai anh có bao giờ suy nghĩ vấn đề này chưa nhỉ ? Thêm nữa biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ công cán đày trời mà ân huệ hưởng chẳng bao nhiêu chỉ riêng ông nhạc sỹ này công cán bao nhiêu mà được cấp căn nhà to đùng thế nhỉ ?!
Cứ chậm rãi nghiền ngẫm đi rồi chân lý sẽ loé ra từ bóng tối !

nguyetthao

*****************************************
anh  hoang  lien  cong  viết


tôi yêu cầu bạn hãy cẩn thận trong cách nói năng, mỗi người có một quan điểm riêng của mình và hãy bảo vệ nó, và tôi nhắc lại điều này - ở chợ có văn hoá của chợ, và ở đây không phải là một cái chợ.
Riêng câu chuyện của Trịnh công Sơn. Tôi nhớ lại một câu nói này không biết của ai, nhưng tôi tâm đắc nó,- muốn đấu tranh(đấu tranh giải phóng dân tộc,trong đó bao gồm cả trí thức và văn nghệ sĩ nữa) thì trước hết mình phải sống (tồn tại) đã.Người đấu tranh cho dân tộc thì phải biết đâu là điểm trọng yếu nên đi và đâu là điểm nên nhịn. lịch sử Trung hoa có Hàn tín , lịch sử Việt nam có Quan Trung có Nguyễn Trãi, đó là những tấm gương lớn để cho thế hệ đời sau học hỏi.
nói đến Trịnh công Sơn tôi nhớ một câu chuyện, khi Khánh Ly ở Hải Ngoại có đăng bài viết ca ngợi về ông, nhưng ông đã lên tiếng trong báo giới trong nước rằng - tôi với khánh ly gặp nhau đó là một cuộc hạnh ngộ trong đời, chúng tôi yêu thương và coi như ruột thịt, nhưng những gì Khánh Ly nói là để ca ngợi về một người đã chết. vâng các bạn thấy đó , đó là sự yếu mềm , sự bé bỏng của một con người có phải không, ( ta thấy ở đây một sự hờn giận và cố tránh đi một tơ lòng sâu nặng của ông).
Và một câu chuyên nữa trong một bài viết của nhà thơ Lâm thị Mỹ Dạ kể rằng, có một lần Trịnh công Sơn nhớ Khánh Ly trong nỗi nhớ ray rức ông đã viết hai chữ Khánh Ly lên đầy một trang giấy, điều này bạn có thấy bé bỏng và đáng yêu không các bạn.
Vĩ nhân cũng có lúc yếu mềm và " tôi ơi đừng tuyệt vọng", và "ngừoi ấy" tại sao lại để cho các bạn của ông phải phàn nàn thế. và thưa ông có nhiều người đang bảo vệ cho ông , thưa ông.


**********************************
phương  lạc  viêt


môt /

Tôi thấy là trong khi cô nguyetthao muốn đưa vấn đề - muốn :

a/ nhấn mạnh về độ chuẩn xác , về tình chân thực của bài viết để tìm ra một phần nào " chân lý "
b/ được đọc lại những phản biện ( bào chữa )về cung cách hành xử ( theo nội dung trong bài viết kiểu như tại sao tcs phải thế này , tại sao phải thế kia thì " phía bên kia " chỉ có biết cả vú lấp miệng em .
tôi khuyên nguyetthao stop lại là tốt nhất .

hai /

Trở lại câu nói làm nên sự " bất hủ ?! " của con người tcs :

Sống trên đời , con người cần có một tấm lòng !
có ai đó hỏi ": để làm gì "
Phải chăng khi đang ba hoa về một thứ đạo giáo tcs nào đó con người ông nhạc sỹ này bất chợt giật mình nhớ đến thuở mình làm thày mấy thằng thượng con , nhớ đến ơn nghĩa của cái đám thày giáo mạt hạng ( bạn bè của tcs thế này ư ) và một chút lương tâm hối hận khiến ( hoặc là sợ hố hàng ) vĩ nhân của chúng ta phán một câu lãng nhách :
" chỉ để gió cuốn đi thôi "
Kính xin các tín đồ của tcs " giải mã " cho "danh ngôn " này

ba/

nhưng những gì khánh ly nói là để ca ngợi về một t người đã chết

Lại phải chăng con người ta củng có một lúc nào đó phải trở về cái tính bổn thiện của mình . Khi nói câu này chính là lúc vỹ nhân của chúng ta bị lương tâm dày vò cắn rứt khủng khiếp đây .
về một người đã chết !
"thằng " ngưòi tcs nào đã chết ?
lúc này tăm tiếng và uy thế nhạc sỹ ưu tú` tcs đang lưng danh thiên hạ mà !
chính là "thằng" thày giáo tcs đã chết đấy !

bốn /

Dầu gì tcs - với tôi - cũng có điều đáng nể :
- thứ nhất sống thật với lòng mình khi dám quẳng vào mặt bạn bè " tấm lòng tôi chỉ để gió cuốn đi thôi ". .
- thứ hai còn một chút liêm sỉ khi dám xác nhận rằng : đã có một thằng bội bạc trong tôi đã chết

năm /

Phương lạc sẵn sàng thưa chuyện hầu chuyện . Nhưng đừng bao giờ xử dụng cái kiểu tranh luận cả vú lấp miệng em .
******************************************
hoang  lien  cong  viết







Thưa tất cả các bạn , như các bài của tôi đã viết , tôi không cố tranh luận về vấn đề này, cho dù câu chuyện này có thật hay không, thiết nghĩ , một người như Trịnh công Sơn quá đủ để cho tôi ngưỡng mộ, nhân vô thập toàn, mỗi người có một quan điểm riêng để sống. tôi dựa vào câu nói của thi hào goocki :'" văn học là nhân học", vậy thì âm nhạc của trinh công Sơn đủ cho tôi thấy nhân cách của một con người,
trở lại với câu"sống trong đời sống cần … để gió cuốn đi" tôi không cho đó là môt câu hay, và tôi chẳng bao giờ cho rằng câu này là một cao đạo gì hết. và thực tế như vậy, không phải thiên tài thì câu nói nào cũng đúng cũng hay, nhân câu chuyện này tôi liên hệ tới câu chuyện danh hoạ picasso.,có một lần nguời bạn của ông đem một bức hoạ và hỏi ông bức hoạ này có đẹp không, ông trả lời không đẹp, người kia bảo rằng bức hoạ này chính do ông vẽ , và picasso trả lời, tranh của picasso không phải cái nào cũng đẹp. và tôi cũng chưa thấy một nhà bình luận văn học nào,(có hoặc chưa có) bình luận câu nói trên của Trịnh công Sơn để cho tôi có thể tâm đắc. và tôi chắc chắn tôi không bao giờ bị lạc đề trong câu nói này.
Nếu ở đây chỉ tranh luận có hay không có cho một vấn đề theo tôi là phải có nhiều bằng cớ, và bằng cớ thì không thể dựa trên một văn bản xa tít với đông đảo công luận. ít ra là nó phải đựoc đăng tải trên các báo có uy tín v,v.

Kẻ nào chưa tìm được ra bằng cớ manh mối xác đáng mà đã vội vàng hạ uy tín của một con người là một tội lỗi.

Thưa các bạn , cái lớn lao nó nằm ở đâu phải phân định cho ràch ròi.
Phạm Xuân Ẩn và Trịnh công Sơn là ở cùng một chiến tuyến, nhưng sự đấu tranh của họ nằm trên những bình diện khác nhau.
Phạm xuân Ẩn là một thành tích có thể nhìn thấy và hiểu được .còn Trịnh công Sơn đấu tranh cho dân tộc lại phải đươc hiểu trên một bình diện khác, nó không được hiểu như một logic sẵn có. Những bản nhạc , " Người con gái Việt nam da vàng, người già em bé, đại bác ru đêm, v.v.." càng nghe càng bị cuốn hút và có một sự khai mở cho tâm hồn, chứ nó không phải là những logic suy diễn để rồi nghi ngờ. Sự đấu tranh cho độc lập dân tộc không chỉ đơn thuần dựa vào vũ lực mà hãy thức tỉnh tiềm năng trong lòng dân. Đây là một đức tính yêu nước của người Việt mà tôi ngưỡng mộ ở Trịnh công Sơn; tôi lại phải tranh luận câu chuyện trên kia để làm gì, và tôi cũng không phản đối việc tranh luận của các bạn, tôi chỉ nói quan điểm của tôi với sự việc này, và đối với tôi đó là việc vô bổ.

*************************************************

View Member Profile Find Member's Posts ipsmenu.register( "post-member-8384", '', 'popmenubutton-new', 'popmenubutton-new-out' );







 


1






chuthuongthoi`
  • Số bài : 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 15.05.2007
RE: Người vẫn quanh đây - 20.05.2007 10:43:42
nguyethao  viết ( từ  thotre. com)
( nhân  chuyện  Trinh  Công  Sơn viết  về  hai  chữ  nhân  cách )

một

Hồi nào tới giờ , thú thật nguyêtthao mơ hồ lắm về cái từ Nhân Cách , cứ nghĩ nhân cách là nhân cách thôi , rồi buôn chuyện ở đâu cũng đế vào một câu cho ra vẻ am tường : " mệnh phụ phu nhân có nhân cách của bà mệnh phụ phu nhân - cô gái điếm có nhân cách của nàng gái điếm !? )
Cho đến ngày ông tcs mất . trong điếu văn cho vỹ nhân này nguyetthao lượm ra được một từ mới " nhân cách lớn " á hà té ra nhân cách cũng có nhiều hạng nhân cách : nhân cách lớn , nhân cách vừa vừa , nhân cách hơi nhỏ , nhân cách nhỏ v.v. Thế là lại thêm phần phức tạp rồi , ai làm ơn giảng giải cho nguyetthao biết cách phân biệt các cỡ : lớn , vừa vừa , hơi nhỏ và nhỏ ở đây với .

hai

Đọc cũng khá nhiều bài viết về vỹ nhân tcs , những minh chứng về thiên tài của ông thì vô số , nhưng tìm mỏi con mắt vẫn chưa ( xin lưu ý chữ chưa )thấy một dữ liệu nhỏ nhoi nào nêu ra được cái nhân cách lớn của ông nhạc sỹ thể hiện ra ở thời gian nào không gian nào hoàn cảnh nào với ai trong trường hợp nào tình huống nào .
Không hẳn thế , cũng có hai lần cái nhân cách vừa vừa thôi được thể hiện ra qua lời kể của hai nhân vật .
* Một là nhà văn Lâm t. Mỹ Dạ kể ràng đã chứng kiến cái nhân cách của tcs thễ hiện vào cái ngày ông nhạc sỹ nghe tin Khánh Ly chết vì vượt biên chung quanh chỗ ông ngồi , tràn ngập căn phòng ông ở cơ man những tờ giấy ông nhạc sỵ nghuệch ngoạc hai chữ K.L . - Xin được nghiêng mình bái phục , ít nhất trong đời mình cũng đã một lần nguyetthảo thể hiện nhân cách vừa vừa của mình cho thế giới thấy . Đó là cái ngày thằng bồ cưới vợ nguyetthao cũng làm sạch boong một gram 500 tờ giấy y cheng như vậy .
.

**Lần thứ hai nhân cách vừa vừa của tcs được thể hiện khi ông thày giáo - thày của lũ thượng con - dứt khoát từ chối yêu cầu của ông đại tá tỉnh trưởng lâm đồng trong một dịp lễ lạc nào đó - Tiếc thay lời kể này chỉ là của một gã thày giáo chưa có được cỡ 1% uy tín so với những người nổi tiếng cùng đẳng cấp tcs như Trịnh Cung - Ng. q Sáng - Trần Long Ân v. v. nên cần phải xem xét lại . Chưa biết chừng cái gã thày giáo cùng đinh này lại chỉ có ý đồ lợi dụng nhân cách lớn của trịnh vỹ nhân để chứng tỏ chút nhân cách nhỏ của mình cũng nên chăng ! Khổ thật ! nhân tài thì dư giả nhân cách còn con người bình thường hơi khó đấy đa .

ba

Tìm thày giáo cũ , nhờ thày giảng lại cho hai từ Nhân Cách . Giảng tới giảng lui vẫn chẳng thông lại xin thày dẫn chứng cho hai(2)cái Nhân Cách có tên tuổi cụ thể nhất . Thày hỏi tại sao là hai (2) . Thưa : chỉ hai (2) nhưng phải đối nghịch nhau như bà mệnh phụ và cô gái điếm ấy để mai mốt nguyetthảo dễ ứng dụng mà đi loè thiên hạ . Thày kể ( theo thày thì ) :
- Chính phái - tức phe ta ấy - Thày ái mộ nhân cách của anh hùng Phạm Xuân Ân nhất . Con người này có một cuộc sống thượng lưu ngay giữa trong lòng địch ( thời làm pv báo Time ) nhưng tuyệt đối không quên nghĩa vụ đối với tổ quốc mình . Khi đến những ngày sắp chiến thắng lại đau đáu nghỉ đến ( số phận ) những người mà mình đã tưng thọ ân . .
- Tà Phái - tức phe địch ấy - Thày khâm phục nhân cách bà văn sỹ Nhã Ca - chồng học tập . người đàn bà trẻ sống với mấy đứa con thơ trong tình cảnh ngặt nghèo không hề sợ liên luỵ tai tiếng , không hề sợ hậu quả khủng khiêp vẫn dung chứa bao bọc cho người anh , người bạn hồi nào của vợ chồng mình . Chưa hết còn nhường cả cái xuất vượt biên vô cùng đắt đò của con gái mình cho người bạn này nữa ( Đọc hồi ký của nhà văn Hữu Loan thời Nhân Văn Gia Phẩm mới thấy thắm thía nhân tình nhân cách đời con người )

bốn

Lại hỏi thày về phương pháp đánh giá so sánh lớn nhỏ trong nhân cách - thày lắc đầu - Không còn cách nào khác , nguyetthảo bắt bí thày xem sao : " người ta bảo tcs nhân cách lớn thế thì nhân cách Khánh Ly ở hạng nào , vừa vừa , hơi nhỏ hay nho nho nhỏ ạ "
Thày ngẫm nghĩ thật lâu rồi mới e dè ngài ngại : " So giữa hai người này thì không biết nhân cách tcs lớn tới đâu , tới cỡ nào nhưng có một điều chắc chắn nhân cách Khánh Ly lớn hơn nhân cách tcs một tý chút .'
- Sao lại vậy được thưa thày !
- Cái thời mà tcs uy vũ lừng danh trong nước thì Khánh Ly cũng vẫn giữ được vị thế của mình ở hải ngoại ( phải nói rõ ra như vậy để phân biệt với đám thày giáo -đồng nghiêp của tcs hồi xưa - không khéo có người lại bênh vực bảo Khánh Ly bợ đỡ để nhờ vả dựa hơi họ trinh ) khi bất cứ có ai hỏi đến sự nghiệp ( tcs-KLy ) thì trong trả lời của Khánh Ly luôn luôn là " nhờ tcs , nhờ nhạc tcs mả KL mới có . . . còn ngược lại trong trả lời của vỹ nhân này người ta chưa thấy ông nhạc sỹ mạnh dạn nói đến tiếng nhờ KL , nhờ có giọng ca KL . . Chỉ từng ấy thôi đủ xếp hạng nhân cách ai lớn hơn ai rồi .



<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2007 10:47:27 bởi chuthuongthoi` >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Mot so bai ve Trịnh Công Sơn trên Vnexpress! - 31.08.2007 08:19:17
Xin mời các bạn vào đường Link để xem một số bài viết về Trịnh Công Sơn trên Vnexpress:
 
http://vnexpress.net/Search/?fMC=true&fMT=false&fSD=&fED=&fC=&fDS=1&fRPP=10&p=1&r=57&a=1&s=Tr%26%237883%3Bnh%20C%26%23244%3Bng%20S%26%23417%3Bn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.08.2007 08:26:16 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Miếng đòn khiến Trịnh Công Sơn trở thành nhạc sĩ! - 22.03.2008 23:31:47
Miếng đòn khiến Trịnh Công Sơn trở thành nhạc sĩ
 
Cú té ngã gần 50 năm trước đã khiến người nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh nằm liệt, phải từ bỏ ước mơ võ sư, để rồi sau đó "vịn" âm thanh đứng dậy.
Bên cạnh những người bạn thân quây quần trong ngôi nhà lớn đèn đuốc rỡ ràng của gia đình tại Sacramento, thủ phủ tiểu bang California (Mỹ), Trịnh Quang Hà, em trai kế của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói về "miếng đòn định mệnh" đã đưa Trịnh Công Sơn từ giấc mơ võ sư sang đời nhạc sĩ.
Thời 1956-1957, cả hai anh em Sơn và Hà (cách nhau hai tuổi) đều học võ thuật tại Huế, quyết chí trở thành thày võ. Trịnh Công Sơn khi ấy chẳng quan tâm về âm nhạc. Theo lời kể của Trịnh Quang Hà, "Anh Sơn đã lớn, 18-19 tuổi rồi mà chỉ thấy anh mê võ. Nhà có một cây đàn guitar gỗ cũ nhưng rất ít khi anh Sơn sờ tới. Anh thường mân mê cặp găng boxer, tập đi bài quyền của phái Vovinam, nghiên cứu và luyện võ theo sách nhu đạo. Anh thường xuyên nói chuyện võ chứ không nghe anh nói chuyện nhạc bao giờ".
Cho đến "một buổi sáng mùa hè năm 1957, anh Sơn và tôi tập nhu đạo để chuẩn bị thi lên đai "ma-rông" ở sân nhà trên đường Phan Bội Châu (ngã giữa Huế). Sau một hồi hai anh em tập dượt, quần thảo thì sự cố xảy ra. Khi tôi dùng sức đưa cú đấm "đơ-dem-ê-côn" thì anh Sơn cũng dùng hết sức chặn. Tôi rị lại, té nhào trên mình anh Sơn và không cưỡng nổi quán tính của đường quyền đang chuyển động, cùi chỏ của tôi theo đà ấn xuống, đập một đòn chí mạng vào ngực anh. Anh Sơn thổ huyết lai láng (gần cả thau) và nằm ngục ngay tại chỗ".





Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngày còn sống. Ảnh: photobucket
Sau biến cố này, Trịnh Công Sơn nằm liệt giường suốt hai năm. Trong suốt cả năm đầu ông phải húp cháo lỏng và ăn uống cần người đút. Khi Trịnh Công Sơn gượng dậy được thì thú vui của ông là "cây đàn bỏ quên".
Với kiến thức nhạc lý căn bản trong những năm học trung học trường Tây, Trịnh Công Sơn tìm vào thế giới âm thanh như một lối thoát, một khúc quanh, một ngã rẽ tình cờ của thân phận vô thường.
Ngày rời giường bệnh cũng là ngày mà Trịnh Công Sơn "vịn" âm thanh đứng dậy. Nhạc của ông đã có đường bay nghệ thuật riêng. Ca từ của Trịnh có mãnh lực diệu kỳ cuốn hút người thưởng ngoạn nghệ thuật.
Nhiều người thắc mắc tại sao người ta yêu thích ca từ của Trịnh Công Sơn ngay cả khi không hiểu tác giả muốn nói gì. Trịnh Công Sơn đã thổi hồn phách vào lời nhạc mà không thông qua những khái niệm đời thường của ngôn ngữ. Khi người ta quên ký hiệu ngôn ngữ để chỉ còn nhớ lời ca của Trịnh được hát lên, tấu lên thành giai điệu đầy ắp mà không cần phân tích lý luận "lời buồn thánh", "cỏ xót xa đưa" là gì thì chính là khi Trịnh Công Sơn ca khúc khải hoàn.
Đời đã và sẽ có bao nhiêu nụ hôn, bao nhiêu miếng đòn, bao nhiêu cuộc hẹn, sự đời biến cố mang tính "định mệnh" làm thay đổi con người và hoàn cảnh như trường hợp Trịnh Công Sơn?
(Theo Pháp Luật TP HCM)
 
http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/Guong-mat-Nghe-sy/2008/02/3B9FF211/

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Ca sĩ Hong Nhung tra loi truc tuyen! - 05.04.2008 20:29:18
Ca sĩ Hồng Nhung trả lời trực tuyến

Vào lúc 15h ngày 4/4/2008 ca sĩ Hồng Nhung đã có buổi giao lưu trực tuyến cùng thính giả nhacSO.net
Dưới đây là nội dung buổi giao lưu:




Ca sĩ Hồng Nhung
- Nguyễn Tiến Thọ (Vũng Tàu): Chào chị Hồng Nhung. Em là 1 người còn rất trẻ tuổi nhưng rất thích nhạc Trịnh mà đặc biệt qua sự thể hiện của chị. Các ca khúc của nhạc sĩ TCS rất sâu sắc. Em muốn xin hỏi chị 1 câu. Cơ duyên nào đã đưa chị đến với nhạc Trịnh, và bằng cách nào chị thể hiện hay và truyền cảm đến như vậy. Vì theo em biết nhạc Trịnh rất khó thể hiện. Có nhiều ca sĩ hát nhưng không thành công không phải vì họ không có kỹ thuật thanh nhạc... Theo chị là do đâu. Chào chị và chúc chị luôn thành công trong sự nghiệp.
Hồng Nhung
Xin gửi lời chào thân mến đến khán giả của nhacSO.net va Hồng Nhung cũng xin cảm ơn những người biên tập chương trình để cho Hồng Nhung có dịp trò chuyện trực tiếp với khán giả gần xa.
Xin chào bạn Tiến Thọ ở Vũng Tàu là người đã gửi câu hỏi đầu tiên. Đúng như bạn nghĩ, Hồng Nhung cũng cho rằng âm nhạc Trịnh Công Sơn không chỉ dành cho một lứa tuổi nào bởi từng nốt nhạc và ca từ đều được viết lên từ những rung động giản dị và chân thật của một tâm hồn nhạy cảm luôn khao khát yêu thương. Có nhiều bài hát đã nổi tiếng anh viết khi mới ở lứa tuổi đôi mươi nên những đồng cảm mà bạn có được cho nhạc Trịnh Công Sơn là rất tự nhiên.
Hồng Nhung may mắn được gặp gỡ và trở thành người trò, người bạn của nhạc sĩ trong suốt 10 năm và nhờ đó đã được tiếp xúc và học tập về âm nhạc Trịnh Công Sơn một cách đặc biệt. Có lẽ vì thế mà những bài hát Nhung thể hiện dễ được quí khán giả chấp nhận và đồng cảm. Theo Nhung thì để hát nhạc Trịnh Công Sơn, yếu tố tình cảm quan trọng hơn nhiều kỹ thuật thanh nhạc. Nếu bạn yêu những nốt nhạc giản dị đó bạn có thể hát rất hay mà không cần kỹ thuật gì cả.
- Phạm Quang Huy (Hà Nội): Chào chị Nhung, được biết, chị là người gắn bó với khá nhiều bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Theo chị, để chuyển tải được cái hồn của nhạc Trịnh và gắn kết nó sâu sắc với người nghe, một ca sĩ cần phải làm gì?
Hồng Nhung
Chào bạn Huy !
Như Nhung vừa nói, có lẽ để chuyển tải được đúng tính chất của nhạc Trịnh thì người hát nhất thiết phải yêu bài hát, đồng cảm với thông điệp về tình yêu mà bài hát định nói, và sẽ hay khi mỗi người hát lại đưa vào đấy tình cảm và cách nghĩ rất riêng của mình. Bạn có thấy thế không ?
- Nguyễn Trọng (Hà Nội): Chào chị Hồng Nhung. Tôi là một người rất thích nghe nhạc Trịnh qua giọng hát của chị. Tuy nhiên, tôi lại chỉ được nghe chị hát qua băng đĩa hay truyền hình mà không có nhiều dịp để nghe live. Chị có ý định tổ chức một liveshow về nhạc Trịnh tại Hà Nội không vì lâu lắm rồi, không được nghe Hồng Nhung hát tại Hà Nội, nhất lại là hát nhạc Trịnh.?
Hồng Nhung
Mặc dù hát rất nhiều những bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng quả thật Nhung không có nhiều CD nhạc hay liveshow cho dòng nhạc riêng này. Lí do vì càng yêu mến và càng hát nhiều thì lại càng thận trọng hơn trong việc trình diễn, có thể gọi là "kiệm" hơn. Vừa rồi Nhung có chương trình mang tên "Như Cánh Vạc Bay" tại nhà hát Thành Phố. Sau đó là "Vì Ta Cần Nhau" (cùng ca sĩ Quang Dũng) trong đó nhiều ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã được thể hiện theo phong cách song ca tạo không khí mới lạ và không kém phần cảm động.
Trong năm nay Nhung hy vọng sẽ cùng với những người bạn đồng nghiệp của mình thực hiện một chương trình nhạc Trịnh có tính cách gần gũi hơn là biểu diễn, để có thể đến với mọi người bằng cách giản dị nhất mà trước đây anh Sơn đã từng làm.




- Nguyễn Đắc Hiệp (HCM): Chị Bống ơi! Live show Thuở Bống Là Người 2003 tại Bình Quới của Chị rất thành công. Nhiều khán giả ở xa không xem được rất tiếc và hy vọng Chị sẽ phát hành DVD Live Show này. Sau Như Cánh Vạc Bay Chị có dự án nhạc Trịnh nào nữa không? Chúc Chị vui khỏe và may mắn.
Hồng Nhung
Đêm "Thuở Bống Là Người 2003" là một đêm mà Nhung sẽ không bao giờ quên ! Cảm ơn bạn đã có mặt và chia sẻ kỉ niệm thật đẹp này cùng 5000 người trong đêm hội ngộ ấy đúng vào ngày sinh nhật của Hồng Nhung, đã làm nên một sinh nhật đầy âm nhạc và tình người.
Chương trình này không có DVD cho nên chỉ có thể ở lại trong mọi người như một kí ức đẹp đẽ.
Tuy vậy "Vì Ta Cần Nhau" DVD sẽ được phát hành trong tháng sau trong đó những bài hát như "Phôi Pha", "Ru Tình", "Như Một Lời Chia Tay" ... đã được thể hiện trên sân khấu lung linh của đạo diễn Phạm Hoàng Nam.
Cũng xin chúc bạn vui khỏe, may mắn và luôn giữ tình yêu không bao giờ xưa cũ với nhạc Trịnh.
- Nguyển Ngọc Đính (Đồng Nai): Hồng Nhung ơi, Sao Nhung hát nhạc Trịnh hay dữ vậy? Và tôi muốn hỏi rằng liệu nỗi nhớ Anh Sơn có làm cho Nhung phải "trống vắng" không? Chừng nào mới có một nhạc sĩ thánh thiện như Anh Sơn?
Hồng Nhung
Thưa chú !
Xin được chia sẻ ý nghĩ của chú về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thánh thiện.
Hồng Nhung cũng vì được gần gũi với dòng nhạc này mà cách nhìn và cách nghĩ về đời sống có nhiều thay đổi. Được hát nhạc Trịnh là một điều may mắn đối với Hồng Nhung, còn có thấy hay hay không là xin nhờ vào những người khán giả yêu nhạc Trịnh tự cảm nhận với cách riêng của mỗi người. Xin cảm ơn chú Đính đã có lời khen khích lệ cho Hồng Nhung.
Sự ra đi của nhạc sĩ đã để lại sự "trống vắng" trong tâm hồn rất nhiều người và riêng đối với Hồng Nhung, đã để lại một khoảng trống không thể lấp đầy !
Hồng Nhung nghĩ cách thiết thực nhất để thể hiện tình cảm với người nhạc sĩ có một không hai này là hát lên những ca khúc của anh bằng tình cảm yêu mến trân trọng và say đắm.
- Minh Hiếu (Thanh Hoá): Chào chị Nhung, em rất thích nghe chị hát những ca khúc da vàng của bác Trịnh như Ngủ đi con, người già và em bé.... Liệu có abum nào dành riêng cho mảng ca khúc này không ạ, lần trước nghe chị nói đang thực hiện cùng Hoài Sa một abum nhạc Trịnh những bài hát này
Hồng Nhung
Trước đây nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có nói chuyện và giảng giải cho Hồng Nhung rất nhiều về những Ca Khúc Da Vàng, chở cả một sự rung động lớn của một tâm hồn nhạy cảm trước chiến tranh, bom đạn, cái chết, và những mất mát không gì thay thế được. Những tình ca đã mạnh mẽ bao nhiêu thì những Ca Khúc Da Vàng lại càng quyết liệt hơn. Còn có rất nhiều Ca Khúc Da Vàng còn chưa được cho phép. Hy vọng sẽ thực hiện được album này vào một ngày gần nhất.
- Hoàng Trường Giang (Hà Nội): Gửi chị Hồng Nhung! Ca khúc "Đóa hoa vô thường" có phải nhạc sỹ Trịnh Công Sơn dành riêng cho chị không? (Vì em đã nghe nhiều người hát bài này nhưng không ai hát hay bằng chị)
Hồng Nhung
Bài hát này đã có từ lâu trước khi Hồng Nhung gặp gỡ với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ngay lần thu đầu tiên Hồng Nhung đã hát với những rung động mới mẻ và có nhiều phần nữ tính. Không ngờ đấy là cách hợp nhất với bài hát này cho Hồng Nhung. Vì vậy mình cứ hát tự nhiên và tha thiết cứ như bài hát được viết dành riêng cho mình. Nếu bạn yêu bài hát và nghe kĩ, có thể bạn sẽ có cảm giác bài hát được viết dành riêng cho mình.




- Phương Thảo (Thanh Hoá): Chị hát rất hay và cảm động trong abum và live show Như cánh vac bay, tuy nhiên ca sỹ Siu Black trả lời phóng vấn có nói rằng: Diva nhạc Trịnh hát rất thiếu cảm xúc,đó là cảm xúc diễn, rất giả.....Chị nghĩ sao về điều này, sự thay đổi cách hát rất mới của mình với nhạc trịnh là nhẹ nhàng, mộc mạc, nữ tính liệu có được tiếp tục ?
Hồng Nhung
Chị Siu Black là người rất dễ thương ngoài đời. Với Hồng Nhung chị là một ca sĩ có giọng hát tuyệt vời, và diễn xuất sân khấu đầy lửa. Nhung luôn luôn là một khán giả hâm mộ của chị Siu. Có thể chị có cách nhìn khắt khe hơn với những ca sĩ hát nhạc Trịnh nên có những nhận xét như vậy...
Cảm ơn Phương Thảo đã đến dự liveshow "Như Cánh Vạc Bay".
Hồng Nhung sẽ giữ cách hát mới của mình là nhẹ nhàng, mộc mạc và nữ tính. Theo bạn như vậy có được không ?
- Nguyễn Hồng Thúy (Hà nội): Được chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhận xét là người làm mới những ca khúc của ông và phù hợp với hiện tại - chị làm được điều đó bằng chính sự tìm tòi của bản thân hay có sự giúp đỡ của người khác?
Hồng Nhung
Chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người đã từng khuyến khích và nâng đỡ cho cách làm mới những ca khúc của ông khi Hồng Nhung bắt đầu hát, còn quá trẻ và vô tư để chỉ hát thật thà như là cách mình cảm nhận. Không ngờ chính nhạc sĩ cho rằng cách hát này làm âm nhạc của ông không phải chỉ dừng lại ở trong quá khứ mà sống với hiện tại. Làm được điều đó, Hồng Nhung được sự giúp đỡ của rất nhiều người: bên cạnh nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là các nhạc sĩ hòa âm phối khí, kể cả các bạn ca sĩ đồng nghiệp.
- Trần Liên (Huế): Em xin hỏi chị Hồng Nhung một câu hỏi: những ca sĩ hát nhạc Trịnh thường hát những dòng nhạc trữ tình. Ý kiến của chị ra sao khi hiện nay có rất nhiều ca sĩ ở các thể loại khác nhau cũng muốn thử giọng dòng nhạc này. Mặc dù nhạc Trịnh không phải ai cũng có khả năng hát được. Nhất là khi nghe một số ca sĩ (em xin không nêu tên) hát với những phong cách rất lạ, cải biên cũng có. Thành ra khi nghe hát thấy có một thứ gì đó nghe rất chướng tai. Ý kiến chị ra sao khi thấy một hiện tượng như vậy?
Hồng Nhung
Theo Nhung tất cả các ca sĩ đều có thể hát được nhạc Trịnh. Kể cả những người không phải là ca sĩ cũng hát được. Hồng Nhung nhớ một lần đi cùng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đến một cafe nhạc ở ngoại ô, có một cô gái lên sân khấu nhỏ cầm micro hát "Như Cánh Vạc Bay" còn sai cả nốt, mà nhạc sĩ vẫn rất thích vì cô gái hát rất thiết tha, cứ như chỉ có một mình với bài hát của mình mà thôi.
Vậy ai cũng có quyền yêu và hát nhạc Trịnh theo cách của mình. Khán giả sẽ là người lựa chọn cách thể hiện nào mà họ dễ cảm nhận nhất.
- Khánh Phượng (HCM): Em yêu thích những ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất nhiều là bởi giọng hát đầy truyền cảm của chị Hồng Nhung. Bây giờ chị hát nhạc Trịnh khác so với những ngày đầu chị hát nhạc Trịnh như thế nào?
Hồng Nhung
... Nhẹ nhàng hơn, giản dị hơn và tập trung nội lực cho tình cảm trong bài hát, càng không có những biểu diễn kỹ thuật mà thiên về hát như nói.
- Trần Anh Tuấn (An Giang): Tôi tuy còn trẻ nhưng rất thích nghe dòng nhạc Trịnh, tôi đã nghe chị Nhung hát nhạc Trịnh này hơn 3 năm rồi, nhưng có 1 điều tôi thắc mắc muốn hỏi Chị: "Sao tôi nghe nhạc Trịnh nhiều lần nhưng vẫn không hiểu hết nội dung bài hát tôi nghĩ rằng mình con quá trẻ" không biết mỗi khi chị trình bày một bài nào đó nhạc Trịnh chị có lột tả hết nội dung bài hát không? Rất mong nhận được câu trả lời của chị. Gửi lời chúc sức khỏe đến chị. Mến Chào.
Hồng Nhung
Khi anh Sơn còn sống, Nhung cũng nhiều lần hỏi anh về nhiều ca từ hay đoạn thơ trong rất nhiều bài hát mà mình không hiểu được. Có khi nhạc sĩ giải thích, có khi lại nói giỡn là: "cái này moi (tiếng Pháp - tôi) còn không hiểu làm sao toi (tiếng Pháp - cô) hiểu".
Vì vậy Nhung chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể lột tả hết nội dung của bài hát, mà chỉ có thể thể hiện được sự rung động riêng của mình đối với mỗi bài hát mình yêu mến. Có điều may mắn là đã có nhiều người đồng cảm và thích cách hát ấy.
Có những quãng thời gian khác nhau trong cuộc đời ta có cách nghĩ và cách nhìn thay đổi, điều này cũng làm ảnh hưởng đến cách cảm nhận một bài hát mà mình đã từng hát từ lâu, để bỗng nhiên bài hát lại được trình bày với một hơi thở mới hoàn toàn.




- Tấn Sơn (HCM): Chị Nhung ơi, em rất thích nhạc Trịnh, nhất là các ca khúc do chính chị hát, em xin hỏi, với tư cách là người đại diện cho gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn giữ gìn tất cả các nhạc phẩm của nhạc sĩ, chị nghĩ thế nào khi nhận nhiệm vụ này, chị có gặp những khó khăn nào trong việc lưu trữ lại hay không? Chị có nghĩ mình sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc không?
Hồng Nhung
Chào bạn Tấn Sơn !
Hồng Nhung không phải là người đại diện cho gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, mà chỉ là ca sĩ của ông đã và sẽ tiếp tục trình bày các nhạc phẩm của nhạc sĩ để đưa đến cho người nghe với phong cách chuyên nghiệp, tình cảm và trân trọng.
- Ngô Hà Trung (Bắc Ninh): Chị gắn bó với dòng nhạc Trịnh cũng đã lâu và đã để lại được dấu ấn riêng trong lòng người hâm mộ. Chị nhận xét thế nào về sự thể hiện các ca khúc nhạc Trịnh của các ca sĩ trẻ bây giờ? Chị có kế hoạch ra tiếp album nhạc Trịnh nữa không?
Hồng Nhung
Nhung nghĩ hầu hết các ca sĩ đều hát nhạc Trịnh vì thích những bài hát hay này. Tuy nhiên để hát đúng tinh thần dòng nhạc này có lẽ cũng cần có sự nghiên cứu tìm hiểu một cách nghiêm chỉnh, và cần có chút kinh nghiệm sống cộng với một tâm hồn biết rung cảm trước những cái đẹp giản dị trong con người và đời sống.
- Nguyễn Khoa Linh (Hà Nôi): Chị thể hiện các bài hát của Trịnh Công Sơn gây được cảm tình của nhiều bạn nghe nhạc. Không mấy ca sĩ làm được điều đó. Từ đâu mà chị có được cảm súc sâu sắc với nhạc trịnh để thể hiện thành công đến như vậy?
Hồng Nhung
Cảm ơn bạn Khoa Linh !
Hồng Nhung đã nhận được sự đồng cảm và khích lệ từ những khán giả như bạn, đã là một động lực rất quan trọng để Hồng Nhung tiếp tục hát những bài hát của Trịnh Công Sơn.
Bí quyết để hát nhạc Trịnh theo Nhung là tình cảm và sự giản dị.
- Y Phong (HCM): Hồng Nhung là người Hà Nội, Nhung hát nhạc HN rất hay, nhưng để tìm một CD hát về HN của Nhung thì khó quá. Nhung hãy đầu tư để làm 1 album video clips về HN đi. Với su hướng chạy đua với những sáng tác "rẻ tiền" bây giờ, Nhung nghĩ gì về những ca khúc một thời để nhớ?
Hồng Nhung
Bạn Y Phong có thể tìm CD "Đoản Khúc Thu Hà Nội" là CD đã phát hành cách đây mấy năm trong đó Hồng Nhung hát 10 bài hát về Hà Nội.
Đúng là trong nhiều dòng nhạc mới xuất hiện, có những phong cách âm nhạc kiểu dễ dãi, nhạc thì "lai", lời thì lủng củng, tạo nên luồng không khí kém chất lượng cho âm nhạc Việt nói chung. Tuy nhiên bạn đừng lo giá trị nghệ thuật thật mới có thể tồn tại.
- Phạm Hồng Dương (Hà Nội): Chào chị Hồng Nhung. Em xin có 1 câu hỏi dành cho chị: Điều gì ở nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khiến cho chị khâm phục nhất? Và chị nuối tiếc nhất điều gì ở mình với người nhạc sĩ tài hoa?
Hồng Nhung
Điều làm cho Hồng Nhung khâm phục nhất chính là con người của anh và tài năng của anh.
Điều nuối tiếc nhất là anh đã ra đi quá sớm !
- Nguyễn Thị Hương (HCM): Em chào chị Hồng nhung em đã em rất phen hâm mộ của chị từ nhỏ, em rất thích giọng hát của chị và chị chị có bí quyết gì mà trẻ mãi vậy chị?
Hồng Nhung
Chắc là vì mình luôn luôn được bao quanh bởi âm nhạc.
Thêm một bí quyết nữa là thể thao nhé ! Mỗi ngày tập thể thao là một điều không thể thiếu được của Nhung.
Thế bạn bắt đầu một ngày của mình thế nào ? Có âm nhạc không ? có thể thao không ?
- Tuấn (HCM): Được một nhạc sĩ tài hoa viết riêng cho mình một câu chuyện cổ tích với một chùm 3 ca khúc về Bống. Hồng Nhung là người thật hạnh phúc với báu vật này. HN có buồn không khi có vài ca sĩ khác cũng thích khám phá báu vật riêng này, nhưng tiếc rằng họ không thể diễn đạt hết cái hồn và cái tình mà nhạc sĩ TCS muốn gửi gắm vào trong ấy?
Hồng Nhung
Câu chuyện cổ tích này nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết cho Hồng Nhung bằng âm nhạc trở thành câu chuyện "Cá Bống thứ 2" (chuyện trước đọc từ hồi còn bé). Đây là món quà vô giá mà chính Hồng Nhung cũng không ngờ mình được đón nhận. Có một số ca sĩ cũng hát những bài hát này. Điều này rất dễ thương làm cho Nhung thấy vui ! Có người còn cho Nhung nghe bản thu để hỏi ý kiến. Và tất nhiên họ có toàn quyền thể hiện bằng cách riêng của mình.
- Nguyễn Quốc Linh (Quy Nhơn): Xin chào Ca Sĩ Hồng Nhung. Có người cho rằng ca sỹ là một trong những "người tình" trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn. Chị nghĩ như thế nào về điều đó? Và duyên cớ nào đã đưa chị đến với những ca khúc nhẹ nhàng sâu lắng của Trịnh Công Sơn. Xin chân thành cảm ơn chị. Chúc chị luôn thành công trong sự nghiệp.
Hồng Nhung
Nhung nghĩ rằng không cần phải là "người tình" mới được xuất hiện trong các sáng tác của nhạc sĩ. Ví dụ như bài "Tuổi Đá Buồn", chính anh Sơn đã kể cho Nhung về cô gái trong bài hát mà anh không hề quen biết.
Chính âm nhạc và con người của nhạc sĩ đã làm cho Hồng Nhung vô cùng cảm mến, trân trọng - có lẽ đó là cái duyên cớ để cho mình đến và không bao giờ ra đi nữa.




Xin cảm ơn các khán giả đã gửi tình cảm, sự khích lệ của mình cho Hồng Nhung qua những câu hỏi gửi đến nhacSO.net. Cảm ơn BBT và các bạn trẻ trong trung tâm nhacSO.net đã đón tiếp và giúp đỡ Hồng Nhung "nối cầu" với quí khán giả.
Xin chúc mọi người sức khỏe tốt, may mắn trong công việc và nhiều niềm vui trong cuộc sống.
 
http://nhacso.net/Music/News/2008/04/05F663A6/


<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2008 08:31:42 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Gioi thieu ve TCS cua Hoi nhac si VN! - 06.04.2008 08:28:38
Giới thiệu về TCS của Hội nhạc sỹ Việt Nam

Ns. Trịnh Công Sơn


Họ và tên:
Trịnh Công Sơn
Ngày sinh: 1939
Ngày mất: 01/4/2001
Nguyên quán: Huế
Sámg tác chính:
ca khúc trữ tình





Con người ai cũng có tên cùng với danh xưng - riêng Trịnh Công Sơn không cần đến danh xưng. Nói đến Trịnh Công Sơn hầu như ai cũng biết anh là nhạc sĩ - không chỉ biết anh là nhạc sĩ mà người yêu nhạc nào cũng thuộc của anh ít nhất một đôi câu, bởi lẽ lời và nhạc của Trịnh Công Sơn nói nhiều lẽ của đời người: nỗi buồn, niềm vui và khát vọng.

Ông sinh ngày 28/02/1939 tại Hương Vinh, Huế. Tốt nghiệp tú tài ban triết, Trịnh Công Sơn tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (NXB An Phú in năm 1959). Cho đến nay, nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm, có thể được phân loại dưới 3 đề mục lớn: Tình Yêu - Quê Hương - Thân Phận.

Nửa cuối thập niên 1950 - 1960, giữa lúc dòng nhạc Ðoàn Chuẩn đang dần ngưng với Lá đổ muôn chiều, Chiếc lá cuối cùngGửi người em gái miền Nam thì dòng nhạc Cung Tiến bắt đầu giao thoa vào với Hương xưa, Thu vàng, Hoài cảm. Tiếp tục giao thoa với dòng âm nhạc Cung Tiến, năm 1958, 19 tuổi đời, Trịnh Công Sơn đã bắt đầu dòng nhạc của mình bằng Ướt mi - một ca khúc mang đậm nỗi buồn Huế. Giai đoạn đầu, ca khúc Trịnh Công Sơn căn bản là tình khúc. Bằng nỗi cô đơn trong trẻo, đầy linh cảm mất mát của tuổi đôi mươi, những tình khúc Trịnh Công Sơn khi ấy là lời thốt lên của lớp thanh niên miền Nam sống triền miên trong âu lo, trong phấp phỏng thời cuộc. Ðó là những Thương một người, Chiều một mình qua phố, Hạ trắng... và tiếng nức nở trào lên một đổ vỡ ở Cuối cùng cho một tình yêu. Trong giai đoạn này, ca khúc Cho một người nằm xuống, đã báo hiệu cho một cái nhìn về chiến tranh. Thân phận những người lính ngã xuống chỉ là một mất mát đời đời. Báo hiệu này đã dẫn tới những ca khúc phản chiến ở giai đoạn tiếp theo của dòng nhạc Trịnh Công Sơn. Nhìn chiến tranh bằng cặp mắt trung thực ở tầm nhân loại, Trịnh Công Sơn đã kêu lên bức bối giữa cuộc đời "nồi da nấu thịt". Có lẽ vì cách nhìn như thế nên sau 30/04/1975, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ miền Nam duy nhất lại có thêm nửa khối thính giả ở miền Bắc. Anh đã tạo ra thính giả bằng chất nhạc riêng của mình. Cũng cần nói thêm rằng sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong thời kỳ này được chắp cánh nhờ giọng hát Khánh Ly. Cuộc trùng phùng này đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.

Trịnh Công Sơn bước vào địa hạt làm âm nhạc cho điện ảnh cũng từ sau giải phóng miền Nam. Anh đã có mặt ở gần hai chục phim truyện cũng như tài liệu. Từ trong những cuốn phim, ca khúc Trịnh Công Sơn lại đĩnh đạc bước vào đời, sống một cuộc sống riêng như những ca khúc khác.
Nếu ở giai đoạn trước là sự song hành của Trịnh Công Sơn với Khánh Ly, thì ở địa hạt âm nhạc cho điện ảnh lại là song hành của Trịnh Công Sơn với Phạm Trọng Cầu. Hai người bạn, hai nhạc sĩ nhiều đồng cảm với nhau luôn cùng có mặt trong từng bộ phim.
Cuối tháng 3 năm 1990, nhạc sĩ có một cõi âm thanh của hơn ba mươi năm sáng tạo, của gần 500 ca khúc thoắt một cái đã trở thành diễn viên của phim truyền hình do hãng phát thanh truyền hình BBC thực hiện.

Nhạc sĩ đã qua đời lúc 12g45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 tại TP Hồ Chí Minh. Trịnh Công Sơn để lại cho đời một gia tài ca khúc thật đồ sộ. Nhưng lớn hơn, đẹp hơn và cao quý hơn là tâm hồn anh. Sinh thời, Trịnh Công Sơn quan niệm cuộc sống trần gian này là cõi tạm. Biết là cõi tạm nhưng Trịnh Công Sơn muốn tạm lâu dài bởi vì: "Tôi là ai mà trần gian thế. Tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này". Trịnh Công Sơn yêu đời với một tâm hồn rất trẻ thơ.

Bao nhiêu người sẽ còn nuôi anh trong hồn. Bao nhiều người sẽ còn hát với anh và khóc vì anh. Tình người không bao giờ vơi trên cõi đời nhưng nó có luật đo lường của nó. Anh cho bao nhiêu thì sẽ được tặng lại bấy nhiêu, ấy là lẽ công bằng vậy!


http://www.vnmusic.com.vn/music/index.php?aid=nhacsi&id=4
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2008 08:33:08 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Danh muc mot so bai hat cua TCS! - 06.04.2008 08:46:51
Danh mục một số bài hát của Trịnh Công Sơn

Ghi chú: Danh mục này trích từ http://www.tcs-home.org/songs/titles



Tên bài hát                                      Năm           Nghe mp3       Lời dịch

Ai ngoài cánh cửa                           ?
Bài ca dành cho những xác người       1968                            
Bay đi thầm lặng                                   1973                            
Bên đời hiu quạnh                                 1970-71
Bến sông                                               1959
Biển nghìn thu ở lại                               2000
Biển nhớ                                                1962                             
Biển sáng                                              <1982
Biết đâu nguồn cội                               <1972?
Bốn mùa thay lá                                   <1981
Bống bồng ơi                                          1993
Bống không là bống                               1995
Buồn từng phút giây                               1970-71                      
Ca dao mẹ                                               1965                       
Cánh chim cô đơn                                    1980                           
Cánh đồng hoà bình                               <1968      
Cát bụi                                                   <1965                          
Chỉ có ta trong một đời                          <1970
Chiếc lá thu phai                                    <1983
Chiều một mình qua phố                        <1961
Chiều trên quê hương tôi                        <1980                         
Chìm dưới cơn mưa                                  <1974                        
Chính chúng ta phải nói                          <1969
Cho đời chút ơn                                       <1993                          
Cho một người nằm xuống                        1968                          

Chờ nhìn quê hương sáng chói
1967




Cho quê hương mỉm cười
1967





Chưa mất niềm tin
1968





Chưa mòn giấc mơ
1969





Chuyện đoá quỳnh hương
1982





Có một dòng sông đã qua đời
1966?





Có một ngày như thế
<1995





Có nghe đời nghiêng
1973-74




Có những con đường
1973




Cỏ xót xa đưa
1969




Còn ai với ai
<1993





Còn có bao ngày
1969





Con đường mùa xuân
1976





Con mắt còn lại
<1992




Còn thấy mặt người
<1970





Còn tuổi nào cho em
1964




Cúi xuống thật gần
1966




Cũng sẽ chìm trôi
1973





Cuối cùng cho một tình yêu
1958




Dã tràng ca
1962





Dân ta vẫn sống
<1968




Dấu chân địa đàng
<1962





Diễm xưa
1960



Du mục
1965





Dựng lại người dựng lại nhà
1968




Đại bác ru đêm
1967



Để gió cuốn đi
1971





Đêm
?




Đêm bây giờ đêm mai
<1967




Đêm thấy ta là thác đổ
1968





Đi mãi trên đường
1999





Đi tìm quê hương
1967




Đóa hoa vô thường
1972




Đoản khúc thu Hà Nội
<1995





Đời cho ta thế
1973





Đợi có một ngày
1972





Đời gọi em biết bao lần
<1980




Đôi mắt nào mở ra
1968




Đời sống không già vì có chúng em
<1991





Đốm lửa hồng
2001





Đồng dao 2000
2000





Đồng dao hoà bình
1968




Đừng mong ai, đừng nghi ngại
1969





Đường xa vạn dặm
1992





Em còn nhớ hay em đã quên
1980





Em đã cho tôi bầu trời
1970





Em đến cùng mùa xuân
1991





Em đến từ nghìn xưa
1980




Em đi bỏ lại con đường
<1995





Em đi trong chiều
1969




Em hãy ngủ đi
1970




Em là hoa hồng nhỏ
1990




Em ở nông trường em ra biên giới
1981





Gần như niềm tuyệt vọng
1973




Gia tài của mẹ
1965




Giọt lệ thiên thu
1973-74




Giọt nước cành sen
1990




Gọi đời lên mau
1963-64




Gọi tên bốn mùa
1963-64




Góp lá mùa xuân
1969-70





Hạ trắng
1961




Hai mươi mùa nắng lạ
<1995





Hành ca
<1961




Hành hương trên đồi cao
1962





Hạt điều khăn điều
2001





Hát trên những xác người
1968




Hãy cố như
1970





Hãy cứ vui như mọi ngày
1969





Hãy đi cùng nhau
<1968




Hãy khóc đi em
<1972




Hãy nhìn lại
1972




Hãy nói giùm tôi
1967




Hãy yêu nhau đi
1970




Hoa vàng mấy độ
1984




Hoa xuân ca
1986





Hòa bình là cơm áo
1972





Hôm nay tôi nghe
1984





Huế Sài Gòn Hà nội
<1969





Huyền thoại mẹ
1985





Khăn quàng thắp sáng bình minh
<1991





Khói trời mênh mông
<1972





Lại gần với nhau
1965





Lặng lẽ nơi này
1987




Lời buồn thánh
1959





Lời của dòng sông
1964





Lời mẹ ru
1964





Lời ở phố về
1972





Lời ru đêm
1972





Lời thiên thu gọi
<1972




Mẹ đi vắng
1982





Mẹ của anh
?





Mênh mông Đồng Tháp
1986




Môi hồng đào
1973-74





Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
1977




Một buổi sáng mùa xuân
1969




Một cõi đi về
1974



Một lần thoáng có
<1972





Một ngày như mọi ngày
1969





Một ngày vinh quang một ngày tuyệt vọng
1972





Mùa áo quan
~1972





Mùa hè đến
1991





Mùa phục hồi
1973





Mưa hồng
1964



Mưa mùa hạ
1990





Mừng sinh nhật
1995




Muôn trùng biển ơi
1996





Nắng thuỷ tinh
<1963




Này em có nhớ
<1972





Ngậm ngùi riêng ta
~ 1973





Ngẫu nhiên
1972





Ngày dài trên quê hương
<1967



Ngày mai đây bình yên
<1968




Ngày nay không còn bé
<1993





Ngày về
1969





Nghe những tàn phai
1972





Nghe tiếng muôn trùng
<1972





Ngọn lửa
1971





Ngọn lửa vĩnh cửu ở Matxcơva
1986





Ngủ đi con
<1967





Ngụ ngôn của mùa Đông
1967




Người con gái Việt Nam
1965



Người già em bé
1965



Người mẹ Ô Lý
1971




Người về bỗng nhớ
1971





Nguyệt ca
<1972




Nhân danh Việt Nam
1970





Nhìn những mùa thu đi
<1961



Nhớ mùa thu Hà nội
1984





Như cánh vạc bay
1964




Như chim ưu phiền
1976-78





Như hòn bi xanh
1993





Như một lời chia tay
<1991




Như một vết thương
1973-74





Như tiếng thở dài
1973-74





Những ai còn là Việt nam
<1969





Những con mắt trần gian
1965





Những giọt máu trổ bông
<1969





Những giọt mưa khuya
1960





Nhưng hôm nay
<1967





Níu tay nghìn trùng
1973-74





Nối vòng tay lớn
1968



Nước mắt cho Quê hương
<1965





Ở trọ
1973





Ông Tiên vui
1963





Phôi pha
1960





Phúc âm buồn
1965




Quê hương






Quê hương nặng đau
1971





Quỳnh hương
1980




Ra đồng giữa ngọ
1973-74





Rồi như đá ngây ngô
1970-72




Rơi lệ ru người
1976





Ru đời đã mất
<1972





Ru đời đi nhé
1973-74




Ru em
1965





Ru em từng ngón xuân nồng
1964




Ru ta ngậm ngùi
1970





Ru tình
1993





Rừng xanh xanh mãi
1992





Rừng xưa đã khép
<1972




Sao mắt mẹ chưa vui
<1968





Sẽ còn ai
<1972





Sóng về đâu
1995





Ta đi dựng cờ
<1969





Tạ ơn
1964





Ta phải thấy mặt trời
<1969





Ta quyết phải sống
<1969





Ta thấy gì đêm nay
<1968



Tết suối hồng
1991





Thành phố mùa xuân
<1982





Thanh quan ca
~ 1970





Thiên sứ bâng khuâng
1999





Thuở bống là người
1999





Thương một người
1958




Tiến thoái lưỡng nan
1998



Tiếng ve gọi hè
<1991





Tình ca của người mất trí
1967



Tình khúc Ơ-Bai
1992





Tình nhớ
1966




Tình sầu
1965





Tình xa
1966-67





Tình xót xa vừa
1970





Tình yêu tìm thấy
1982





Tôi biết tôi yêu
~1972





Tôi đã mất
1970





Tôi đang lắng nghe
1981




Tôi ơi đừng tuyệt vọng
1992




Tôi ru em ngủ
<1967





Tôi sẽ đi thăm
<1967



Tôi sẽ nhớ
1980





Trả lại em
<1981





Trong mỗi đời riêng
~1980





Trong nỗi đau tình cờ
1981




Tự tình khúc
~1970





Từng ngày qua
<1972





Tuổi đá buồn
1961



Tuổi đời mênh mông
1982





Tuổi trẻ Việt Nam
<1969





Tưởng rằng đã quên
<1972





Ước mơ về dòng điện
1980





Ướt mi
1958




Vẫn có em bên đời
1986





Vẫn nhớ cuộc đời
<1972





Vàng phai trước ngõ
1973-74





Về giữa Trị An
1990





Về thăm mái trường xưa
1990




Về trong suối nguồn
1986





Vết lăn trầm
1963





Vì bé ngoan






Vì tôi cần thấy em yêu đời
<1980





Việt nam ơi hãy vùng lên
<1969





Vườn xưa
<1993





Xa dấu mặt trời
1965





Xác ta xác thù
~1972




Xanh lòng tàn phai
~1972





Xin cho tôi
~1965



Xin mặt trời ngủ yên
1964



Xin trả nợ người
1993





Yêu dấu tan theo
<1972



Mong các bạn góp phần sửa sai và bổ sung. Xin gửi e-mail về webmaster. Đa tạ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2008 09:17:32 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Những dòng sông nhỏ! - 24.06.2009 20:01:35
Những dòng sông nhỏ

TTO - Những dòng sông nhỏ là một bài viết trong tập sách Như những dòng sông - cuốn hồi ức mới nhất về cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn do Hoàng Tá Thích - em rể của Trịnh Công Sơn chấp bút. Nhân ngày giỗ lần 6 của người nhạc sĩ tài hoa này (1-4-2001 - 1-4-2007), TTO xin trích giới thiệu đến bạn đọc.
Người con gái đầu tiên bước vào đời Trịnh Công Sơn là một cô gái đẹp của thành phố Huế thời bấy giờ. Chỉ là một cuộc tình lãng mạn thời niên thiếu, khi anh mới 18 và cô gái xinh tươi như một vùng cỏ non liên thiên bích ấy vừa tròn 17. Thuở đó, tình yêu của lứa tuổi này được viết bằng chữ A lớn (Amour), mà một cái nắm tay đủ làm cho nhau ngây ngất, một nụ hôn vụng về tưởng suốt đời không thể nào quên. Hơn nữa, trong cái thành phố nhỏ bé đầy những thành kiến bảo thủ ấy, anh chỉ có thể để lòng mơ mộng đến một cuộc tình nhẹ nhàng đầy tính lãng mạn.

Cho đến một hôm nghe tin người mình yêu sắp từ giã con đường Huyền Trân Công Chúa, anh bỗng thấy lòng vấn vương một nỗi buồn man mác. Con đường đó anh vẫn thường đi qua. Ngôi nhà của nàng nằm cao cao bên bờ sông Bến Ngự, đối với anh quen thuộc biết bao. Những buổi chiều tà, cùng ngồi với nhau trong phòng đọc sách, anh có thể nhìn thấy, một chút nắng vàng vẩn vơ đọng trước hiên nhà phía trước.
Cuộc tình trôi qua như thoáng mây bay, chẳng có một gắn bó hứa hẹn nào, nhưng lại sống mãi trong tác phẩm nổi tiếng Nhìn những mùa thu đi (nghe ca khúc) (1960): “Anh nghe buồn mình “trên ấy”, chuyện chúng mình ngày xưa, anh ghi bằng nhiều thu vắng, đến thu này thì mộng nhạt phai”. Anh thường gọi cái buồn man mác đó là la melancolie, nỗi buồn nhẹ nhàng như đang ngồi trong một khu vườn nhìn buổi chiều tà tắt nắng.
Ướt mi (nghe ca khúc) được viết từ những giọt lệ trên khóe mắt ca sĩ Thanh Thúy lúc được chính anh yêu cầu cô hát bản Giọt mưa thu ở phòng trà Vân Cảnh (Sài Gòn) năm 1958. “Buồn dâng lên đôi môi, buồn đau hoen ướt mi ai rồi”. Hồi đó Thanh Thúy còn rất trẻ, chưa đủ tuổi để ký hợp đồng khi đi vào nghề ca hát mà đã sớm mất mẹ. Anh cũng chưa quen biết nhiều cô ca sĩ này, nhưng nhìn những giọt nước long lanh trên đôi mắt to tròn ấy, anh đã xúc động không cùng. Sau khi trở về Huế, anh ghi lại cảm xúc của mình và bài hát được gửi vào Sài Gòn cho Thanh Thúy. Ca khúc Ướt mi, có thể gọi là tác phẩm đầu tay của anh trong những năm 1959-1960, qua tiếng hát liêu trai của Thanh Thúy tại khắp các phòng trà, vũ trường Sài Gòn, đã làm cho cái tên Trịnh Công Sơn trở thành một dấu hỏi, vì thật ra ít ai biết tác giả là người như thế nào.
Một bài nhạc khác cũng được anh viết cho Thanh Thúy, như là một kỷ niệm của người nhạc sĩ một hôm bất chợt thấy thương cho người ca sĩ lặng lẽ trở về ngõ tối sau một đêm tràn ngập ánh đèn màu: “Thương ai về ngõ tối, sương rơi ướt đôi môi... Thương ai về xóm vắng, đêm nay thiếu ánh trăng (Thương một người -1959 - nghe ca khúc).
Đầu năm 1962, gia đình dời nhà từ đường Phan Bội Châu qua Nguyễn Trường Tộ. Đối diện nhà là khuôn viên của tòa Tổng giám mục Huế. Đứng trên ban-công, có thể nhìn thấy một đoạn đường phía bên kia cầu Phú Cam. Con đường đó, ngày ngày người con gái mang tên Diễm trong chiếc áo lụa trắng của trường Đồng Khánh, vẫn thường đi ngang, băng qua cầu, rẽ tay mặt về nhà. Hình ảnh người con gái thùy mị mang nét kín cổng cao tường rất cổ điển đó đã làm cho anh không ngày nào không nhìn xuống đường chờ đợi: Lụa áo em qua phủ mặt đường; Gót nhỏ xanh xao tựa khói sương .
Diễm mang đến cho anh một mối tình nhẹ nhàng và lãng mạn như hai chữ Diễm xưa. Có hôm thức dậy muộn, nhìn thấy bên cửa sổ có cài một nhành dạ lý hương, anh biết người đẹp đã đi qua nhà mình. Và mỗi lần thức dậy anh đều mong nhìn thấy cành hoa cài trên cửa: “Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi, làm sao có nhau, hằn lên nỗi đau, bước chân em xin về mau”.
Diễm xưa (nghe ca khúc) ra đời, nhanh chóng nổi tiếng khắp miền Nam, đến độ mọi người đều cho đó là một mối tình lớn của Trịnh Công Sơn. Nhưng không phải thế, vì chưa đầy một năm sau thì đôi mắt nai ngây tròn của người em mới thực sự làm anh ngây ngất.
Cuối năm 1962, lúc anh bắt đầu cuộc sống xa nhà ở Quy Nhơn rồi Bảo Lộc, thì những cánh thư tình đã bắt đầu qua lại với Dao Ánh. Từ đôi mắt trong như nắng thủy tinh của nàng, rất nhiều ca khúc viết tiếp theo đều dành cho người con gái này. “Còn tuổi nào cho em” (nghe ca khúc) đây? “Thuở đó, tình đẹp như cơn “Mưa hồng” ươm nắng. Anh thổ lộ “em đã cho tôi quên đi muộn phiền”. Đến độ anh đã tưởng rằng “áo xưa dù nhầu, cũng xin bạc đầu, gọi mãi tên nhau”.
Nhưng trước sau Trịnh Công Sơn vẫn là một nghệ sĩ lãng du, chưa có ý định dừng chân ở bến đỗ nào. Còn cô gái khuê các Dao Ánh lại không thể sống mãi với mối tình lãng mạn chẳng một lời một hứa hẹn. Và cuối cùng cuộc tình đã kết thúc sau nhiều năm gắn bó: Em đi bóng đổ đường dài; Để tôi ở lại miệt mài nỗi đau.
Đầu năm 1970, trong những ngày tháng lang thang trên vùng đồi núi Đà Lạt, anh gặp một cô gái xinh đẹp đã liều lĩnh leo rào nội trú Trường Yersin để hẹn hò với anh - P.T.L môi đỏ má hồng, mắt long lanh như nước hồ Đà Lạt, đã đem đến cho anh nguồn vui mới. Trên những con đường của thành phố ngàn thông mơ mộng, anh cùng người đẹp lang thang khi xuống phố khi leo đồi. Nhưng rồi cuộc tình lại cũng như thoáng mây bay, chưa kéo dài bao lâu đã phải chia tay vội vàng.
Khoảng cuối năm 1970, anh đang ở Huế bỗng nhận được điện tín nhắn vào Sài Gòn gấp. Vài hôm nữa đã là ngày giỗ thân phụ nhưng anh vẫn vội vã lên máy bay để chỉ kịp đến phi trường tiễn đưa người tình rời quê hương đến một phương trời xa xôi biền biệt: Em đi pháo đỏ nhuộm đường; Tôi ngồi với nỗi tiếc thương bạc lòng.
Biết không bao giờ có thể gặp lại, làm sao giây phút tiễn đưa chẳng khỏi chạnh lòng: “Từ lúc đưa em về, là biết xa nghìn trùng... ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh (Như cánh vạc bay - 1970)”.
Năm 1981, anh gặp Hoàng Lan. Cô gái lúc nào cũng sống động vui tươi này gợi lên hình ảnh một đôi hài ba lê duyên dáng gõ trên phím dương cầm thánh thót. Tóc mây buông xõa, môi cười họa mi, đóa hoa vàng đã nhập vào hồn làm anh ngây ngất. Nhân ngày sinh của người đẹp, anh mang đến tặng nàng 21 cánh hoa hồng màu vàng: “Yêu em một đóa hoa vàng, yêu em một phút hoàng lan tình cờ”.
Bài hát anh viết cho Hoàng Lan năm 1981 mang tên Một thuở hoa vàng, sau được đổi thành Hoa vàng mấy độ lúc xuất bản: “Em đến bên đời, hoa vàng một đóa, một thoáng hương bay, bên trời phố lạ, nào có ai hay, ta gặp tình cờ”.
Hồi đó, Trịnh Công Sơn vừa đến ngưỡng 40. Nếu quả thật anh đã mệt mỏi đôi chân muốn tìm một nơi ngơi nghỉ, biết đâu người con gái này có thể là người bạn đời của anh. Nhưng rồi cuộc tình cũng trôi qua. Không do phụ rẫy, không bởi nhạt phai, mà chỉ vì anh muôn thuở là chàng lãng tử.
Khoảng năm 1990, V.A đến với anh bằng những nồng nàn của người con gái tuổi đôi mươi có nhan sắc tuyệt vời và thân hình chuẩn mực của một á hậu. V.A thường xuyên đến thăm anh ở nhà Duy Tân. Tiếc thay, cuộc tình chỉ kéo dài chưa đầy năm. Có lần, anh nhờ một người bạn trẻ đưa V.A về. Đến khi biết ra thì quá muộn màng, chàng trai ấy đã mang nàng tiên ra đi không trở lại. Chẳng biết, anh có đau khổ vì mất người yêu hay không, chỉ biết V.A có lần nhắn tin cho anh Sơn khi cô nằm trên giường bệnh, nhưng anh đã không đến thăm.
Cuộc tình này chấm dứt để lại cho chúng ta ca khúc. Con mắt còn lại (1990): “Còn hai con mắt khóc người một con, còn hai con mắt một con khóc người, con mắt còn lại nhìn một thành hai, nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ”. Không hiểu anh nghĩ gì khi viết nhìn em yêu thương, nhìn em thú dữ, chỉ biết rằng mỗi lần nhắc đến tên V.A hình như anh có chút chi băn khoăn trong lòng.
Năm 1992, sau khi đi Canada về anh thường lui tới với Hồng Nhung. Cô ca sĩ nhạc pop người Hà Nội với thân hình bé như hạt tiêu dường như làm cho anh trẻ lại. Hồng Nhung chỉ bằng nửa tuổi của anh Sơn, nhưng ngay từ đầu cô vẫn hồn nhiên xưng hô với anh một cách thân mật như người bằng vai phải lứa. Mặc dù đôi khi anh trách yêu cô là “hỗn”, nhưng lại tỏ vẻ rất thú vị.
Khi bắt đầu chuyển sang hát nhạc Việt, Hồng Nhung trình bày ca khúc Hạ trắng với thể điệu rock. Một số khán giả yêu nhạc Trịnh Công Sơn đã bày tỏ sự không bằng lòng vì cho rằng không phù hợp phong cách nhạc Trịnh. Nhưng anh Sơn lại cười hiền hòa: “Chẳng sao, bởi vì Hồng Nhung hát bình thường sẽ không thể nào tranh được với Khánh Ly”. Dù biết là anh chỉ nói đùa, nhưng điều đó chứng tỏ anh rất thương cô gái bé bỏng này. Và có lẽ Hồng Nhung là người ca sĩ duy nhất được Trịnh Công Sơn viết riêng cho đến ba bài hát (Thuở Bống là người, Bống không là bống, Bống bồng ơi).
Tuy rất được yêu, nhưng cũng có lúc Bống làm anh buồn. Hay có lúc Bống đã muốn nhảy lên bờ, bỏ mặc anh đợi chờ dưới suối. Như anh đã viết: “Có một con đường em không đi tới, vui buồn hội ngộ trong kiếp người”. Phải chăng đó là một lời trách móc người bạn bé nhỏ đã không chia sẻ những vui buồn trong cuộc đời với anh?
Cuối năm 1992, một người tình cũ từ Hoa Kỳ trở về thăm anh: “Người ngỡ đã đi xa, nhưng người bỗng lại về” (Tình nhớ). Dao Ánh vẫn trong tà áo lụa ngày nào, vẫn đôi mắt của nắng thủy tinh, vẫn là đóa hướng dương vô thường, đã làm anh như sống lại với những kỷ niệm xa xưa. Không khác gì ngày xưa, vẫn chọn một chỗ hẹn hò dưới phố. Buổi chiều, anh nhờ các em gái chọn giúp một chiếc sơ mi để mặc đi đến chỗ hẹn. Năm ấy là mùa pháo Tết cuối cùng ở Việt Nam, anh bồi hồi nhìn người yêu trở lại: “Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một đời em đã phụ tôi, bao nhiêu năm em nợ bạc đầu, trả nợ một đời không hết tình đâu.” (Xin trả nợ người - 1993).
Rồi lại bồi hồi nhìn người yêu ra đi về nơi ngút ngàn xa cách. Những cánh thư đi về nối lại chuyện tình hai mươi năm về trước. Lại tiếp tục những cuộc hẹn hò, kéo dài cho đến ngày anh nằm bệnh. Trong số các khuôn mặt người tình, có lẽ Dao Ánh là người anh yêu thương sâu đậm nhất. Phần đông những người cũ khi gặp lại đều đã thuộc về người khác, anh luôn giữ mối tương kính bạn bè. Riêng Dao Ánh đã làm cho tình cảm trong anh sống lại, hai mươi năm vơi cạn lại đầy...
Khánh Ly không có một cuộc tình với Trịnh Công Sơn, nhưng định mệnh như đã gắn liền cái tên cô với tên anh. Cô ca sĩ này đã chân đất giã từ thành phố Đà Lạt để theo Trịnh Công Sơn hát cho sinh viên lúc chỉ hơn 20 tuổi. Nhiều người đã cho rằng trời sinh ra Khánh Ly để hát nhạc Trịnh Công Sơn. Cô yêu thương anh như một người bạn, một người anh, một người thầy, và cả một người tình. Đôi khi trước mặt những người khác, anh đã la rầy Khánh Ly như một cô học trò nhỏ. Khánh Ly cũng chỉ cười buồn.
Suốt mười năm bên cạnh anh, Khánh Ly đã trở thành một cái gì không thể tách rời với cái tên Trịnh Công Sơn. Khánh Ly thường nói: “Tuy không một ca khúc nào của Trịnh Công Sơn viết riêng cho tôi, nhưng tôi vẫn có cảm tưởng hầu hết tất cả những ca khúc của Trịnh Công Sơn đều được viết cho Khánh Ly”. Có lẽ vì vậy mà có thể nói cô là một trong những người hiểu rõ nhất từng ca từ cũng như những tâm ý trong một số lớn ca khúc của anh. Sau năm 1975, Khánh Ly rời Việt Nam lang thang khắp thế giới với nghiệp cầm ca, nhưng không lúc nào cô rời bỏ cái tên Trịnh Công Sơn bên cạnh cuộc đời mình. Khánh Ly từng nói rằng, cô đã chết nửa cuộc đời theo Trịnh Công Sơn sau ngày anh nằm xuống.
Đối với Trịnh Công Sơn, anh chỉ thấy Khánh Ly là một gắn bó định mệnh. Hơn mười lăm năm sau mới hội ngộ nhau ở Canada, đối diện với anh Sơn vẫn là Khánh Ly nhỏ bé ngày xưa, luôn luôn yêu thương và kính trọng người anh, người thầy của mình...
Một điều chắc chắn là bất cứ người con gái nào tới với anh, đem đến cho anh dù chỉ một chút tình, anh vẫn nâng niu đón nhận. Ngay cả khi anh đã qua độ tuổi bồng bột mà, như anh thường nói, đôi khi ngồi bên một người đẹp chưa chắc anh đã thú vị bằng ngồi ngắm ánh nắng buổi chiều tà hay cơn mưa phùn buổi sáng, thì vẫn có rất nhiều phụ nữ vì yêu tài mà tìm đến anh.
Anh biết ơn tất cả, bởi bản chất anh là luôn trân trọng hết thảy mọi phụ nữ mình từng quen biết trong đời.

HOÀNG TÁ THÍCH
 
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=194285&ChannelID=10
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.11.2010 04:23:21 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Trịnh Công Sơn và lễ cưới “bí mật” sau Nhà hát Sài Gòn - 15.05.2010 17:13:54
Trịnh Công Sơn và lễ cưới “bí mật” sau Nhà hát Sài Gòn

Thứ năm, 25 Tháng hai 2010, 09:03 GMT+7

showarticletop("http://vietbao.vn","65188951")
Tags: Trịnh Công Sơn, Nguyễn Trọng Tạo, Sài Gòn, Thanh Thúy, Trịnh Cung, Đinh Cường, người đàn bà, nhạc sĩ, lễ cưới, bóng hồng, nhà hát, bí mật, cuộc đời, năm, em

Dường như mỗi người đàn bà đi qua cuộc đời cố nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đều để lại một bài hát. Một loạt bóng hồng từng xuất hiện trong lời ca như Diễm (Diễm Xưa), Nguyệt (Nguyệt Ca) hay Quỳnh (Quỳnh Hương)… và người ta cho rằng cả đời Trịnh Công Sơn không hề lấy vợ. Nhưng theo tiết lộ của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thì Trịnh Công Sơn không hề độc thân cả đời, mà ông đã từng lấy vợ.



Đồn thổi những bóng hồng trong nhạc Trịnh
Dường như có nhiều người tình ngang qua âm nhạc Trịnh Công Sơn. Mỗi người đàn bà đi qua cuộc đời cố nhạc sĩ tài hoa đều để lại một bài hát cho cuộc đời âm nhạc của nhạc sĩ đa sầu, đa cảm và đa tài Trịnh Công Sơn. Người tình của ông có khi là Diễm (bài hát Diễm Xưa): “Chiều nay còn mưa sao em không lại”; có khi tên là Nguyệt (bài Nguyệt Ca): Từ khi trăng là Nguyệt, đèn thắp sáng trong tôi/Từ khi em là Nguyệt cho tôi bóng mát thật là/Từ khi em thôi là Nguyệt, coi như phút đó tình cờ”. Có khi bóng hồng đó lại tên là Quỳnh (bài hát Quỳnh Hương): “Ta mang cho em một đóa Quỳnh/Quỳnh thơm hay môi em thơm”; khi thì lại tên là Tường Vi: “Một đêm bước chân về ngõ nhỏ/chợt nhớ đóa hoa Tường Vi”. Những bóng hồng ấy hiện lên trong thơ nhạc Trịnh thật đẹp, thật buồn để rồi một lần nhạc sĩ từng thốt lên một cách bồi hồi, xao xuyến đến nao lòng: “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ/Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa”.
Tên tuổi của cố nhạc sĩ từng một thời gian gắn liền với nữ ca sĩ có giọng hát liêu trai Khánh Ly. Những ai đã từng nghe Sơn Ca 7 hẳn sẽ không bao giờ quên và buộc phải nghĩ rằng, nếu không có một tình yêu thật nồng cháy giữa nhạc sĩ và ca sĩ thì không thể có một sự kết hợp tuyệt vời đến thế. Nhưng giữa họ có một tình yêu ngoài cuộc đời hay không thì không ai dám khẳng định. Có lần nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo hỏi Trịnh Công Sơn về điều này thì ông chỉ cười và hát “Áo xưa dù nhầu, cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau”.

Còn Khánh Ly thì 13 năm sau khi ra nước ngoài đã phát biểu trên một tờ báo ở Mỹ (1988) rằng: “Tôi yêu Huế bởi từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu. Tôi không muốn nhắc đến những điều đã được viết quá nhiều về một nơi chốn. Tôi chỉ muốn viết về Huế của riêng tôi và như vậy cũng có nghĩa là mở ra cánh cửa của kỷ niệm, của những hân hoan đau đớn, những ước mơ không thành, những dằn vặt ám ảnh tôi suốt 13 năm qua.








Mười ba năm trước đã không thành, không nói thì bây giờ lẽ ra càng không nên nói. Bởi dù có thêm 100 năm nữa “hai mái đầu xanh giờ đã bạc” cũng chẳng còn bao giờ gặp lại nhau. Nếu có chăng nữa thì cũng là kiếp sau. Nhưng “tình đã tưởng yên mà tâm còn động vọng”. Thì ra 13 năm với tôi vẫn còn là cơn mộng. Chưa thoát ra được. Không thoát ra được. Không muốn thoát ra. Còn cố gắng bao che, tự lừa dối mình cũng chỉ là một cơn mộng. Đêm sẽ qua, mộng sẽ tàn. Ta sẽ tỉnh. Thấy tóc vẫn xanh với lời dặn xưa: Qua đèo Hải Vân nhớ cột tóc, kẻo gió bay nghe em!”.
Sau này có một số ca sĩ chọn nhạc Trịnh Công Sơn cho giọng hát của mình như Hồng Nhung, Thùy Dung... Và như cố nhạc sĩ tài hoa thường nói, những giọng hát mới ấy đã làm cho âm nhạc của ông trẻ lại.


Lễ cưới “bí mật” sau Nhà hát Sài Gòn
Báo giới đã tốn không ít giấy mực để bàn về cuộc đời độc thân với vô số bóng hồng đi qua đời nghệ sĩ tài danh. Có người cho ông là người lập dị, có người cho đó là sự cống hiến trọn đời cho nghệ thuật. Nhưng sự thật, có rất ít người biết được rằng Trịnh Công Sơn từng cưới vợ từ năm ông 26 tuổi. Đó là một câu chuyện lạ có thật.

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng hỏi thẳng Trịnh Công Sơn khi ông còn sống về chuyện này và Trịnh Công Sơn thú nhận rằng, lễ cưới của ông từng được tổ chức tại một nhà hàng sang trọng phía sau Nhà hát lớn Sài gòn cuối năm 1964. Cô dâu chính là người đẹp Thanh Thúy. Thanh Thúy là một vũ nữ gốc Hoa đẹp nổi tiếng thời bấy giờ, người ta thường gọi cô là Thanh Thúy Tàu hoặc Hoa Cưng. Cô làm vũ nữ ở nhà hàng Catinat nơi Trịnh Công Sơn thường lui tới và tình yêu đã nảy nở giữa hai người. Đám cưới diễn ra rất đơn giản, ngoài cô dâu, chú rể chỉ có hai người bạn thân thiết của ông là họa sĩ Trịnh Cung và họa sĩ Đinh Cường.








Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng từng kể lại với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo rằng, trong một cuộc trò chuyện với Trịnh Cung về những người yêu “toàn nói giọng bắc” của Trịnh Công Sơn, anh mới biết chuyện này. Hai người liền đến Quán Trịnh tìm Sơn để hồi ức về lễ cưới kỳ lạ đó. Đấy là một buổi tối đẹp trời, tiệc cưới được bày trên một cái bàn ngoài ở ngoài sân cỏ. Trên bàn thắp nến. Người đẹp Thanh Thúy mặc áo đầm trắng nhảy tung tăng trên thềm.

Trịnh Công Sơn rất vui, nói với Trịnh Cung và Đinh Cường: “Nhí nhảnh như một con chim”. Tiệc đến nửa chừng thì nến tắt. Hai người bạn nhắm mắt lại để Trịnh Công Sơn đeo nhẫn cho cô dâu. Đó là chiếc nhẫn mà Trịnh Cung và Đinh Cường góp tiền mua chung để mừng lễ cưới của bạn. “Một giọt nước nóng bỏng rơi xuống lưng bàn tay làm Sơn suýt co tay lại. Đấy chính là giọt lệ của Thanh Thúy”, Trịnh Công Sơn hồi tưởng lại với bạn và anh nói rằng: “Sơn không bao giờ quên giọt nước mắt hạnh phúc của người đẹp rơi xuống đám cưới của đời mình”. Đêm hôm đó, Trịnh Cung và Đinh Cường đưa cô dâu, chú rể về phòng tân hôn là phòng riêng của Thanh Thúy. Đến cửa phòng thì hai anh quay về. Nhưng đi được một quãng khá xa thì họ chợt nghe tiếng giầy lóc cóc đuổi theo sau lưng. Hai người ngoảnh lại nhìn, hóa ra người đuổi theo chính là chú rể Trịnh Công Sơn! Sơn vừa thở hổn hển vừa thanh minh: “Bỗng dưng ở lại một mình với một người đàn bà trước mặt, mình hoảng quá, không biết làm gì, đành bỏ chạy cho khỏe!”. Năm ấy Trịnh Công Sơn bước vào tuổi 26.

Giờ đây người nhạc sĩ tài hoa đã vĩnh viễn dừng lại ở tuổi 63. Người ta còn viết nhiều về anh, về những “bí mật” của anh, cũng như người ta còn hát mãi hàng trăm ca khúc tuyệt vời của anh. Phải chăng, những cuộc tình như những vết thương đã làm nên tình sử Trịnh Công Sơn, khiến cho âm nhạc của anh sâu sắc và độc đáo khi ngợi ca tình yêu và phận người: “Lòng tôi có đôi lần khép cửa/Rồi bên vết thương tôi qùi/Vì em đã mang lời khấn nhỏ/Bỏ tôi đứng bên đời kia...”.

(Theo GĐ&XH)

Việt Báo
showsource("65");
(Theo_VnMedia)
http://vietbao.vn/Giai-tri/Trinh-Cong-Son-va-le-cuoi-bi-mat-sau-Nha-hat-Sai-Gon/65188951/235/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2010 17:15:54 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Trịnh Công Sơn-Vết chân dã tràng (Mục lục, tựa) - 06.11.2010 00:25:08
Vừa rồi tôi có sưu tầm được quyển sách "Trịnh Công Sơn-Vết chân dã tràng" của tác giả Ban Mai. Đọc thấy hay, tôi xin đăng để các bạn cùng thưởng thức. Quyển sách này hiện nay đang hạn chế lưu hành.
 
BAN MAI 
 
 
 
 
TRỊNH CÔNG SƠN
VẾT CHÂN DÃ TRÀNG 
 
 
 
 
 
NHÀ XUẤT BẢN lao động           
Trung tâm văn hoá ngôn ngữ đông tây
 

MỤC LỤC

·         Trang trọng đôi lời cùng bạn đọc                                                             7
(Gs. Nguyễn Đình Chú)                                                                                
·         Lời mở đầu của tác giả                                                                              11
 
PHẦN I                                                                                           
I. Quá trình nghiên cứu                                                                               17
II. Trịnh Công Sơn tiếng hát dã tràng                                                       28
III. Vết chân dã tràng ngàn năm in dấu                                                    42
IV. Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam                                          52
V. Trịnh Công Sơn người tình của cuộc sống                                         69
VI. Trịnh Công Sơn người ca thơ                                                              99
VII. Thay lời kết luận                                                                                 134
* Tài liệu tham khảo                                                                                  136
 
PHẦN II                                                                                             
            Phụ lục 1: Danh mục các tập nhạc Trịnh Công Sơn                              143
Phụ lục 2: Danh mục ca khúc Trịnh Công Sơn                                      177
Phụ lục 3: Văn bản ca từ Trịnh Công Sơn                                              195
Phụ lục 4: Hình ảnh, thủ bút trịnh Công Sơn                                        471
 
 
 
 
TRANG TRỌNG ĐÔI LỜI CÙNG BẠN ĐỌC
Nguyễn Đình Chú(*)

Dù chưa có một cuộc bình bầu, một cuộc điều tra xã hội học, tôi vẫn tán thành ý kiến của nhạc sĩ Thanh Tùng cho rằng Trịnh Công Sơn là “Người Việt Nam viết tình ca hay nhất thế kỷ”. Bởi tôi cũng nghĩ như vậy. Từ hạ bán thế kỷ XX đến nay, trong nền âm nhạc Việt Nam hoành tráng, đa thanh, đa điệu, Nhạc Trịnh – cái tên thân quen mà người đời đã đặt cho âm nhạc của Trịnh Công Sơn – là nhạc sĩ được đón nhận nồng thắm nhất, không chỉ với người trong nước, mà còn với Việt kiều sống ngoài nước, kể cả người nước ngoài. Chỉ xem báo chí tường thuật lễ tang nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đông đến hàng vạn người đã đành, mà có điều chưa từng thấy bao giờ trên đất nước ta là những người đi đưa tang, vừa đi vừa hát, dĩ nhiên là hát Nhạc Trịnh; chỉ nhìn vào sách báo viết về Trịnh, Nhạc Trịnh dồn dập ra đời trong vài ba năm sau ngày Trịnh “về làm” cát bụi, cũng đủ tin điều nói trên đây là sự thật. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua đời ngày 1- 4 – 2001,  ngay sau đó chưa đầy một tháng đã có sách Trịnh Công Sơn – Một người thơ ca, một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Đoàn Tử Huyến sưu tầm biên soạn (Nxb Âm Nhạc - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 5 –2001), và vài năm sau (2004) bổ sung, tái bản với tên sách mới Một cõi Trịnh Công Sơn (Nxb Thuận Hoá - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây). Và cùng ra đời là các sách: Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy (Nxb Thuận Hoá - Tạp chí Sông Hương); Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ (Nxb Trẻ, 7 – 2001); Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người (Nxb Phụ nữ, quí II – 2001); Trịnh Công Sơn - Cuộc Đời - Âm Nhạc - Thơ - Hội Họa & Suy Tưởng (Nxb Văn Nghệ TP. HCM, 11 - 2001); Trịnh Công Sơn: một nhạc sĩ thiên tài (Bửu Ý – Nxb Trẻ - Công ty Văn hóa Phương Nam, 4 - 2003); Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế (Nguyễn Đắc Xuân – Nxb Văn học, 1 - 2003); Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (Hoàng Phủ Ngọc Tường – Nxb Trẻ, 2 năm 2005).
Sách in lại những bài viết khi Trịnh còn tại thế, nhưng phần lớn và cũng là phần tâm huyết nhất, gây xúc động với người đọc nhiều nhất vẫn là sau ngày Trịnh qua đời. Chúng ta bắt gặp ở đây nhiều tên tuổi quen thuộc không chỉ trong nhạc giới mà còn là văn giới, và các ngành khác: Văn Cao, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Duy, Trần Văn Khê, Phạm Tuyên, Phó Đức Phương, Hồng Đăng, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Anh Ngọc, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Quang Sáng…
Kiều bào ta ở nước ngoài cũng rất mực ưu ái Trịnh. Đã có nhiều bài ngợi ca Nhạc Trịnh khi tác giả còn sống. Trước năm 1975, Tạ Tỵ đã có thể viết: “Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình, cho thế hệ mình những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước quốc gia như Trịnh Công Sơn”. Sau ngày Trịnh qua đời, trên các tạp chí Diễn đàn, Hợp lưu, Văn học, trên nhiều website lại càng có thêm nhiều bài viết xúc động, sâu sắc về thế giới Nhạc Trịnh. Riêng tạp chí Văn học đã dành một chuyên san về Trịnh. Năm 2008, Bùi Vĩnh Phúc – nhà phê bình văn học ở Hoa Kỳ - đã xuất bản chuyên luận viết về Trịnh Công Sơn in tại Việt Nam: Trịnh Công Sơn – Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008).
Nhạc Trịnh, đúng là trường hợp hiếm hoi trong nền nhạc của nước nhà, có khả năng vượt ra ngoài phạm vi quốc gia. Tại các nước Mỹ, Pháp, Nga, Đức, Nhật, Nhạc Trịnh đã có chỗ đứng không dễ gì có. Riêng ở Nhật, Diễm xưa của Trịnh đã được dịch ra tiếng Nhật để hát và được chọn làm nhạc phẩm chính cho một bộ phim của một hãng phim lớn, và là nhạc phẩm Á Châu đầu tiên được đưa vào giảng dạy tại Viện Đại học Kansai Gakuin. Thêm nữa, năm 1991, cô Yoshii Michiko đã làm luận văn thạc sĩ tại Pháp bằng tiếng Pháp về đề tài Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn. Năm 2004, Giải thưởng âm nhạc hoà bình thế giới (WPMA) được trao cho Nhạc Trịnh. Người Việt Nam ta, hẳn rất tự hào về Nhạc Trịnh. Riêng với tôi là kẻ đến muộn, nhưng nhờ có mối quan hệ ruột rà giữa văn chương mà tôi đã gắn bó một đời với ca từ của âm nhạc để từ đó trở thành người thần phục thế giới phong phú, huyền diệu, lừng lững chất nhân văn muôn thuở đặc biệt là đậm đà triết lý cao siêu hiếm thấy ở Nhạc Trịnh. Trước hết là ở ca từ. Với tôi, sự thần phục đã đi đôi với lòng biết ơn. Biết ơn trong Nhạc Trịnh có tiếng gọi đàn, gọi đàn... da diết, điều tôi hằng mong ước thiết tha đến cháy bỏng, thậm chí có kèm theo ít nhiều bức xúc trước sự khắc nghiệt của trần gian. Tiếng gọi đàn trong Nhạc Trịnh là tiếng gọi người Việt Nam ta ơi! Hãy “Nối vòng tay lớn”, “Hãy yêu nhau đi”, yêu nhau nhiều, nhiều, nhiều… nữa đi! Chúng ta đều là con cháu vua Hùng. Tổ tiên ta từng dạy Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Đừng để bất cứ một thứ định kiến nhất thời nào, một thứ rào cản nào ngăn trở. Hãy yêu nhau thêm nữa đi. Hãy “nối vòng tay lớn” thêm nữa đi. Và, tôi cũng xin được cảm ơn Nhạc Trịnh đã cho tôi một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời để từ đó tôi có đối tượng mà nghĩ về vấn đề thế nào là giá trị nhất thời, thế nào là giá trị vĩnh hằng trong thế giới nghệ thuật mà với người đời vốn cũng không đơn giản. Với tôi, giá trị của Nhạc Trịnh là trường tồn, là bất biến, dù cho sự khám phá, sự nhận chân giá trị đối với Nhạc Trịnh vẫn còn phải đặt ra mãi mãi theo thời gian như đã từng đặt ra với các thiên tài nghệ thuật khác.
Bạn đọc kính mến!
Từ những gì được thưa thốt trên đây, tôi lại thiết tha mong muốn quý vị hãy đến với cuốn sách này của nữ soạn giả Ban Mai. Đến với nó, trước hết là đến với một trường hợp đam mê Nhạc Trịnh tự thuở niên thiếu cho đến hôm nay Ban Mai đang làm việc tại một trường Đại học,  đã được đào tạo ở bậc thạc sĩ. Làm luận văn thạc sĩ, Ban Mai đã chọn đề tài Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Đây là vấn đề cốt lõi trong nội dung ca từ của Nhạc Trịnh. Do đó, nhiều bậc thầy, bậc đàn anh đi trước đã có nói tới và nói đến nhiều điều rất hay, nhưng chưa có điều kiện nói hết. Ban Mai, với yêu cầu của một luận văn thạc sĩ, dĩ nhiên, trên cơ sở tiếp thu thành quả của người đi trước, phải có sự phát triển, nâng cao bằng những phương pháp khoa học khác nữa, mà kết quả đã được ghi nhận. Nay, từ luận văn thạc sĩ, đã có sự tu chỉnh, bổ sung thêm, tác giả chuyển lên làm sách. Sách gồm hai phần chính:
Phần I. Tiểu luận về Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn.
Phần II. Văn bản ca từ Trịnh Công Sơn.
Với phần I, bạn đọc đã có điều kiện theo dõi ý kiến của những người đi trước, nay đọc tiểu luận của Ban Mai chắc sẽ có sự đánh giá khách quan, công bằng đối với tác giả. Tôi xin không nói gì thêm. Tôi muốn nói nhiều đến phần II. Quả thật theo tôi đây là việc làm rất cần thiết trong công cuộc khám phá, chiếm lĩnh lâu dài đối với Nhạc Trịnh. Như mọi người đã thừa nhận trong kho báu Nhạc Trịnh, lời ca, ca từ có một vị trí đặc biệt. Riêng về ca từ, Trịnh Công Sơn đã hoàn toàn xứng đáng là thi sĩ lớn, thậm chí có người đã mệnh danh là Nguyễn Du của thời nay. Ấy thế nhưng, hỏi đã có mấy ai được tiếp xúc với khối lượng ca từ của Nhạc Trịnh một cách đầy đủ? Ngay đến con số nó là bao thì cũng mỗi người nói một cách: 300?, 500?, 800? Mà nghe đâu, chính Trịnh Công Sơn cũng không nhớ mình đã có bao nhiêu ca khúc. Phạm Văn Đỉnh, Chủ tịch Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn tại Pháp, đã công bố trên mạng thư mục bài hát Trịnh Công Sơn từ công phu sưu tầm của mình là 288 bài. Từ thực tế đó, lần này, với cuốn sách của Ban Mai, in lại 242 văn bản ca từ của Nhạc Trịnh, với sự cho phép của người thừa kế bản quyền. Tôi không chỉ hy vọng mà còn tin rằng tất cả những ai đã đam mê Nhạc Trịnh, hiện đang trên con đường đến với Nhạc Trịnh, sẽ hân hoan chào đón. Con số 242 này, dù đã là kết quả của một quá trình xông xáo, vất vả, thậm chí tốn kém của nữ soạn giả Ban Mai, nhưng chắc chắn chưa đủ so với những gì Nhạc Trịnh đã có. Chỉ mong sao, sẽ có sự bổ sung, đóng góp thêm của những ai thiết tha với kho báu Nhạc Trịnh. Và cũng xin đừng quên chỉ bảo cho soạn giả Ban Mai những điều còn bất cập, thiếu sót, trong công trình vốn là sản phẩm của nhiều năm tháng bằng niềm đam mê Nhạc Trịnh.
 
Hà Nội, vào Thu, Mậu Tý (2008)
 
 





[font=.vntime] 
[font=.vntime](*) Giáo sư Văn học Việt Nam hiện đại, Đại học Sư phạm Hà Nội[font=.vntime].

 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.11.2010 20:19:23 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Trịnh Công Sơn-Vết chân dã tràng (Lời mở đầu) - 06.11.2010 00:31:34
TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)
 
LỜI MỞ ĐẦU
 
Trong nền âm nhạc Việt Nam, Trịnh Công Sơn được xem là một trong những nhạc sĩ viết lời ca hay nhất, là phù thuỷ của ngôn ngữ [7, 8]. Gần nửa thế kỷ sáng tạo, Trịnh Công Sơn đã để lại cho nền âm nhạc Việt Nam một di sản đồ sộ trên 300 ca khúc. Ca từ của ông đích thực là thơ. Một kiểu thơ lãng mạn, trữ tình, giàu chất hiện sinh, siêu thực mang đậm dấu ấn Thiền, có giá trị lớn về nội dung và nghệ thuật.


Thế nhưng, tìm hiểu giá trị ca từ của Trịnh Công Sơn mang tính học thuật trong trường học đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Là người say mê Nhạc Trịnh, vì vậy, khi làm luận văn Cao học về Văn học Việt Nam, tôi không ngần ngại chọn ca từ Trịnh Công Sơn làm đối tượng nghiên cứu, dưới góc nhìn văn học.


Bên cạnh việc tìm hiểu giá trị ca từ và những đóng góp của Trịnh Công Sơn trong nền văn hóa Việt Nam, công trình này trước tiên coi trọng về mặt cung cấp tư liệu. Trong điều kiện cho phép, chúng tôi cố gắng sưu tầm, khôi phục tương đối đầy đủ những ca từ thất lạc của Trịnh Công Sơn dựa trên các tạp chí, các website trong nước và nước ngoài. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sưu tầm gần như tất cả những bài nghiên cứu ở trong và ngoài nước với nhiều quan điểm khác nhau. Điều này nhằm khách quan hoá cách nhìn trên tinh thần khoa học, vì trước đây do hạn chế về mặt tư liệu, do cách nhìn phiến diện vì nhiều lý do, công chúng chưa hiểu thấu đáo về cuộc đời và những giá trị nghệ thuật mà Trịnh Công Sơn đã cống hiến.


Nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn, chúng tôi kết hợp nhiều phương pháp khác nhau. Đặc biệt, chú ý đến tính triết học trong ca từ họ Trịnh; phương pháp xếp chồng văn bản của Charles Mauron; phương pháp liên văn bản do Mikhail Bakhtin đề xuất.[30] Mặc dù coi những ca từ của Trịnh Công Sơn là những văn bản chính để khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi còn muốn dựa vào một thứ “siêu văn bản” khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết học, chính trị trong đó những ca từ của ông ra đời, và sự giáo dục cá nhân của chính con người nghệ sĩ. Tất cả những điều ấy cũng là những loại “văn bản khác”, qua đó, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần vào việc giúp nhìn rõ hơn chân dung tác giả, cũng như phát hiện phần chìm của tảng băng trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn. [4]


Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với giáo sư Nguyễn Đình Chú, người thầy đã cho tôi nhiều ý kiến quý giá trong quá trình hoàn thiện văn bản.
Xin trân trọng cảm ơn những lời chỉ giáo của ông Bửu Ý, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà thơ Anh Ngọc, Giáo sư Dương Viết Á, nhà văn Trần Hữu Thục (Hoa Kỳ), nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc (Hoa Kỳ).


Đặc biệt, tôi chân thành cảm ơn Tiến sĩ Khoa học Phạm Văn Đỉnh - Chủ tịch Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn (Pháp), và những người bạn Nam Dao, Trần Vũ, Nguyễn Hương, Thơ Thơ đã cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý báu.


Trân trọng cảm ơn cô Trịnh Vĩnh Trinh - đại diện pháp lý bản quyền tác giả - đã cho phép tôi công bố văn bản ca từ Trịnh Công Sơn.


Cuối cùng, chân thành cảm tạ ông Đoàn Tử Huyến - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây - đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc biên tập hoàn chỉnh bản thảo cuốn sách này và đưa nó đến tay bạn đọc.

Trong điều kiện hạn chế về mặt khả năng nghiên cứu, công trình chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của quý bạn đọc.
 
Tháng 8/2008
BAN MAI

(Nguyễn Thị Thanh Thúy)

<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2010 06:33:03 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Trịnh Công Sơn-Vết chân dã tràng (Phần 1-I) - 06.11.2010 00:33:52


TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)
 

Phần I

TRỊNH CÔNG SƠN


VẾT CHÂN DÃ TRÀNG
 

I. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU

1. Về thư mục bài hát

Công chúng thường phỏng đoán Trịnh Công Sơn đã sáng tác hơn 400 ca khúc, có người đã tăng số ấy lên 600, 800 bài, thậm chí có người tăng đến 1000 bài, nhưng không ai đưa ra chứng cớ cụ thể, không biết dựa vào tài liệu nào để phỏng lượng như vậy. Chính Trịnh Công Sơn, lúc sinh thời, cũng không biết mình đã viết bao nhiêu ca khúc vì thời chiến tranh sống cuộc đời trốn tránh, lang bạt ông không có điều kiện giữ gìn, những sáng tác ấy thất lạc khắp nơi.

Năm 1991, cô Yoshii Michiko, một sinh viên người Nhật làm luận văn cao học về nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, đã sưu tầm được 196 bài hát, trên cơ sở tài liệu do chính Trịnh Công Sơn cung cấp dựa vào trí nhớ tác giả hoặc của các ca sĩ. [64]

10 năm sau, khi Trịnh Công Sơn qua đời năm 2001, những bạn bè của ông ở trong nước và ngoài nước cố công sưu tầm những bài hát của ông qua nhiều nguồn. Hiện nay trên mạng Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn, trong thư mục Bài hát, Ts.Kh. Phạm Văn Đỉnh đã kỳ công sưu tầm được 288 bài, có chú thích năm tháng cẩn thận. Có lẽ đó là thư mục bài hát tìm được nhiều nhất tính cho đến thời điểm hiện nay.
Khi sưu tầm ca từ Trịnh Công Sơn để nghiên cứu, bước đầu chúng tôi cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, qua thời gian dài sưu tầm công phu, cẩn trọng với những cứ liệu có được, chúng tôi nhận định Trịnh Công Sơn sáng tác khoảng trên 300 bài hát. Ts.Kh. Phạm Văn Đỉnh cũng đồng ý như vậy.
 
2. Về nhưng bài nghiên cứu

Hiện tượng Trịnh Công Sơn

Âm nhạc của Trịnh Công Sơn, ngay từ khi mới ra đời và xuất hiện trước công chúng đã gây được tiếng vang và nhanh chóng trở thành hiện tượng. Từ đó đã có những bài viết về nhạc của ông. Chúng tôi tạm phân ra hai thời kỳ: Thời kỳ ông còn sống và sau khi ông mất.
Thời kỳ Trịnh Công Sơn còn sống: Qua tư liệu chúng tôi sưu tầm được, trước năm 1975 có vài tờ báo viết về hiện tượng nhạc Trịnh Công Sơn với những nhận định chung chung về thiên tài âm nhạc của Trịnh. Như các bài: Phong trào da vàng ca của Lê Trương, Trịnh Công Sơn của hoạ sĩ Tạ Tỵ, Huyền thoại về con người của Tô Thùy Yên. Trong các bài viết đó, nhận định của Tạ Tỵ rất đáng chú ý. Ông cho rằng: “Trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, không nhạc sĩ nào có thể tạo cho mình, cho thế hệ mình, những cơn lốc nghệ thuật làm lay động đến chiều sâu tâm thức con người ở trong và ngoài kích thước quốc gia như Trịnh Công Sơn. Trong vòng 4-5 năm trở lại đây, tiếng Nhạc Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly đã đi hẳn vào đời sống tâm linh của những người trẻ tuổi bằng niềm đau xót và phẫn nộ xen kẽ trong một hoàn cảnh không mấy thuận lợi vì tình hình quân sự và chính trị”.[45] Nhìn chung, các bài viết trên chỉ cho ta cái nhìn toàn cảnh về âm nhạc Trịnh Công Sơn trong bối cảnh xã hội chiến tranh loạn lạc lúc bấy giờ, không có bài viết nào nghiên cứu sâu về ca từ Trịnh Công Sơn.

Đến năm 1991, khi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn sống, có một luận văn cao học viết về nhạc của ông, do cô Yoshii Michiko người Nhật nghiên cứu với đề tài Những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, viết bằng tiếng Pháp, đánh máy chữ rất thoáng, mỗi trang chứa khoảng 20 hàng, có lẽ với máy đánh chữ Olympia của Nhật, cho phép gõ phím với dấu tiếng Việt. Gồm tất cả 135 trang, kể cả trang tựa và phần phụ lục. Đã được bảo vệ tháng 9/1991 tại Đại học Paris 7. Bản dịch tiếng Việt tôi hiện có, đánh máy vi tính khoảng 60 trang (phần bài viết). Luận văn này giới thiệu những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, nhằm chứng minh đó là những kiệt tác về âm nhạc, từ đó giúp người nghe nhạc hiểu tốt hơn về những bài hát phản chiến của ông.[64]

Tóm lại, trong khoảng thời gian Trịnh Công Sơn còn sống, việc nghiên cứu ca từ của Trịnh Công Sơn rất hạn chế, do nhiều nguyên nhân: trước năm 1975 do chiến tranh loạn lạc, sau năm 1975 trong quan điểm chính thống có nhiều luồng tư tưởng còn cực đoan, phiến diện. Đây đó, trên những tờ báo trong nước và nước ngoài chỉ giới thiệu về hiện tượng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong âm nhạc và trong cuộc đời, chưa đi sâu khai thác những đóng góp của ông về nghệ thuật ca từ.
Sau khi Trịnh Công Sơn qua đời ngày 01/04/2001, người ta mới nghiên cứu nhiều về cuộc đời và những sáng tác của ông.

Tại Việt Nam
Có nhiều tác phẩm của Nhiều tác giả biên soạn, lần lượt ra đời tập họp những bài phê bình của các tác giả trong và ngoài nước (lấy lại trên các trang web hải ngoại và được biên tập lại) gồm những bài phỏng vấn, những bài nghiên cứu, cảm nghĩ của bạn bè.
Sau 01/04/2001, cuốn sách ra đời đầu tiên viết về người nhạc sĩ vừa quá cố là cuốn Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Đoàn Tử Huyến sưu tầm và biên soạn; sau đó được bổ sung, biên soạn lại và xuất bản lại với tựa đề Một cõi Trịnh Công Sơn (2004).

Tiếp theo, lần lượt được phát hành các cuốn Trịnh Công Sơn - Cát bụi lộng lẫy, Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ, Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người, Trịnh Công Sơn - Cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội họa & suy tưởng.
Ngoài ra còn có các tác phẩm khác của Bửu Ý, giảng viên tiếng Pháp Trường Đại học Sư phạm Huế, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân.

Ở đây, chúng tôi điểm qua 3 tập tiêu biểu của Nhiều tác giả:
Thứ nhất là tập Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người do Nhà xuất bản Phụ Nữ ấn hành năm 2003, dày 208 trang. Cuốn sách nhỏ, khiêm tốn, in thoáng, chữ rõ, tâp hợp một số bài viết thiên về người mẹ, người phụ nữ. Nổi bật trong tập sách này có bài Kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận của Bửu Ý, với những nhận định sắc sảo: “Tình yêu, với Trịnh Công Sơn, là diễm tình. Trước hết là phải đẹp, đẹp trong từng lời bội bạc, bước chân quay gót, trong dang dở và tan vỡ… Cái đẹp ở đây là cái đẹp siêu thực, tức là ít nhiều nhuốm màu sắc ý chí của kẻ chủ trương và đồng thời nhạt bớt hương vị của thường tình… Quê hương nổi bật hai nét lớn: nghèo và chiến tranh. Cái nghèo còn là hậu quả của chiến tranh. Và chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong lòng người, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh… Trịnh Công Sơn quả quyết “Chỉ có ta trong một đời” và dứt khoát chọn lựa: Sống, Sống hết mình. Không khất hẹn, không chờ đợi, không ủy quyền… Phải ôm cho hết cuộc đời nhị nguyên cồm cộm này, bao gồm những cặp phạm trù khó dung nạp nhau nhưng khó phân ly: sống/chết; buồn/vui; hạnh phúc/khổ đau”. [55;125-136]

Thứ hai là tập Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ, của Nhà xuất bản Trẻ, 2004, dày 416 trang. Bìa cứng, có chân dung tự họa của Trịnh Công Sơn, năm 1999, sau một cơn bịnh “thập tử nhất sinh”. Ấn phẩm này trình bày đẹp, in ấn trang nhã, tập hợp 26 bài viết của Trịnh Công Sơn, 28 bài viết về Trịnh Công Sơn trước ngày 1/4/2001, 87 bài của bạn bè sau 1/4/2001 và một số hình ảnh tư liệu về Trịnh Công Sơn. Nổi bật có bài Hành tinh yêu thương của Hoàng tử của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhận định về tình ca, nhà văn họ Hoàng cho rằng: “…Với Sơn, Người Tình là người đối thoại cần thiết, và vì thế trong tình ca Trịnh Công Sơn, người nói không là “Anh” mà là “Tôi và Em”. Hai tiếng Anh - Em ngọt ngào đó hình như không thích hợp với những điều cay đắng. Không thích hợp với nhiều thứ gai góc cuộc đời, như thân phận, cái chết và nỗi tuyệt vọng: “Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng tuyệt vọng”. Đến đây thì mọi sự đã ngã ngũ, rằng Tình ca Trịnh Công Sơn chính là siêu hình học, và vì thế không bao giờ cũ”.[37;128]


Thứ ba là tập Một cõi Trịnh Công Sơn, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2004, dày 650 trang. Công trình gồm 51 bài viết của 43 tác giả, trong đó có nhiều bài trùng với tập Người hát rong qua nhiều thế hệ, phần Phụ lục 1 có văn xuôi Trịnh Công Sơn, đặc biệt có truyện ngắn Chú Lộ, và phần Phụ lục 2 gồm 73 ca từ của Trịnh Công Sơn.

Đánh giá về ca từ Trịnh Công Sơn, nhạc sĩ Phạm Tuyên viết: “Trong lĩnh vực ca khúc, lời ca có một vị trí hết sức quan trọng và về mặt này Trịnh Công Sơn thực sự là một nhà thơ. Lời ca anh không dễ dãi tùy tiện, mà luôn luôn ẩn sâu một triết lý về cuộc đời và điều đáng nói là anh đã tìm được những giai điệu phù hợp, dung dị, không cầu kỳ, kiểu cách để thể hiện nội dung đó. Đối với người sáng tác, có được một phong cách riêng là một điều phải phấn đấu. Trịnh Công Sơn không chủ tâm tạo cho mình một sự khác biệt lập dị, nhưng bằng tình cảm chân thành của mình, anh đã có được một phong cách rất riêng được sự mến mộ của đông đảo công chúng. Sẽ còn có nhiều công trình nghiên cứu về hàng trăm ca khúc của anh với những sự đánh giá có thể khác nhau, nhưng phải khẳng định rằng sự nghiệp sáng tác của anh đã góp phần xứng đáng vào nền ca khúc Việt Nam hiện đại”. [36; 463]

Ngoài ba tập sách của Nhiều tác giả trên, còn có ba tác phẩm cá nhân:
Thứ nhất là tập: Trịnh Công Sơn một nhạc sĩ thiên tài (2004) của Bửu Ý – một người bạn thân từ thời trai trẻ của Trịnh, hiện đang giảng dạy tiếng Pháp tại Trường Đại học Sư phạm Huế. Ông viết lại từng chặng đời của Trịnh Công Sơn và phân tích một số chủ đề và nghệ thuật ngôn ngữ trong ca từ, bên cạnh còn có những thủ bút của Trịnh. Ngoài ra Bửu Ý còn cung cấp một số bài viết của người nước ngoài viết về Trịnh Công Sơn.

Tiếp đến, nhà nghiên cứu xứ Huế Nguyễn Đắc Xuân cho ra đời tác phẩm Trịnh Công Sơn - Có một thời như thế (2003). Những tư liệu sưu tầm tương đối đáng tin cậy ấy đã cho ta một cái nhìn xác đáng về cuộc đời của Trịnh. Bên cạnh đó, tác giả đã có công trong việc truy tìm lại bài Dã Tràng ca (còn có tên Trường ca Tiếng Hát Dã Tràng), được sáng tác thời học Sư phạm Quy Nhơn bị thất lạc đến nay.
(1)
 Riêng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường – bạn thân của Trịnh - ngoài bài viết Hành tinh yêu thương của Hoàng tử bé in ở tập Trịnh Công Sơn - Người hát rong qua nhiều thế hệ còn cho xuất bản tập Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng tử bé (2005) với những bài tùy bút viết về kỷ niệm của hai người và những cảm nhận về nhạc phản chiến, tình ca Trịnh Công Sơn.


Tại Hải Ngoại
Ngay từ ngày 02/04/2001, sau khi Trịnh Công Sơn vừa mất một ngày, Diễn đàn là tạp chí đưa tin và có bài viết sớm nhất về ông, chủ yếu là tập hợp các bài viết của bạn bè sinh sống ở Âu, Mỹ. Tiếp đó, trung tuần tháng 4/2001, tạp chí điện tử Văn học Nghệ thuật đã nhanh chóng đưa lên mạng Phụ trương Đặc biệt, phong phú và đa dạng với nhiều bài viết từ trong và ngoài nước, chủ yếu là kể lại những kỷ niệm và cảm xúc của bạn bè dành cho Trịnh Công Sơn.
Tạp chí Hợp Lưu (2001) tại Hoa Kỳ dành 72 trang đầu viết về ông. Trong đó, có bài Chiêm ngắm đóa hoa vô thường của Hà Vũ Trọng, khẳng định nhạc của ông là thơ, ông viết: “Chúng ta yêu Nhạc Trịnh Công Sơn vì trong nhạc của anh có thơ. Vậy, chúng ta có được cả hai. Tự thơ đã là một loại nhạc biểu hiện cái đẹp và sự hài hòa của chữ nghĩa. Nhạc thơ ở anh song sinh từ niềm thôi thúc muốn tỏ tình với cuộc đời. Nhạc thơ đó cũng lung linh ảo diệu như bóng trăng in trên mặt nước mà chúng ta thường không phân biệt nổi đâu là nhạc là thơ. Nếu nhạc là con sông thì thơ là con trăng nhập vào mặt nước thành con thuyền chở tình yêu của anh. Nói cách khác, thơ và nhạc là đôi cánh để bay chở tình yêu trong những ca khúc của Trịnh Công Sơn, không thể tách lìa được”. [48;17]

 Đặc biệt, tạp chí Văn học (2001) tại California, Hoa Kỳ dành nguyên một ấn bản với chủ đề: Trịnh Công Sơn Tình yêu, quê hương, thân phận, gồm 20 bài, dày 245 trang. Tranh bìa do họa sĩ Đinh Cường vẽ. Trong đó, có bài nghiên cứu Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn của nhà văn Trần Hữu Thục (Hoa Kỳ) rất công phu, ông so sánh kỹ thuật viết của Trịnh Công Sơn khi viết về hai dòng nhạc tách bạch: dòng nhạc về chiến tranh – hòa bình, và dòng nhạc về tình yêu, thân phận. Ông nhận định “… Trong hầu hết những bài hát thuộc loại chiến tranh và hòa bình, anh viết bằng một lối viết rất hiện thực, kể cả khi mô tả những giấc mơ, những ước vọng. Hiện thực kinh khiếp đó được mô tả bằng chữ nghĩa sống động và đầy hình ảnh: trái tim rơi theo đại bác, thịt người cho thú nhai ngon, thịt xương đã phơi đồng xanh, đại bác ru đêm dội về thành phốMọi sự hoàn toàn khác hẳn khi ta bước vào tình ca và thân phận. Tất cả bắt đầu chông chênh ở biên giới chữ nghĩa, ý tưởng bởi vì có một sự pha trộn đặc biệt giữa nhiều hình ảnh và ý tưởng cũng như ẩn dụ… tạo ra những hình ảnh, biểu tượng mới và rất nhiều khi tạo nên những hiệu ứng đặc biệt về mặt âm thanh: tuổi đá buồn, nắng khuya, mặt trời ngủ yên, miệng ngọt hạt từ tâm.”. [50; 57-58]


 Và kỳ công hơn là bài viết của nhà phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc (Hoa Kỳ), Trịnh Công Sơn, ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật. Bằng phương pháp thi pháp học, kết hợp với phương pháp xếp chồng văn bản (superposition) của Charles Mauron và phương pháp liên văn bản nói chung, ông khảo sát kỹ thời gian, không gian nghệ thuật và cách sử dụng ngôn ngữ kỳ ảo trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn. Theo ông, trong nhạc Trịnh Công Sơn, chủ yếu có những loại thời gian nghệ thuật sau: thời gian phai tàn, thời gian tiếc nuối, thời gian trông ngóng, thời gian hướng vọng thiên thu, và thời gian thực tại. Không gian nghệ thuật bao gồm không gian Trời đất, không gian Núi và Biển, không gian Sông, không gian Rừng, không gian Phố, với những biểu tượng gắn vào các không gian này như Sóng, Mây, Mưa, Nắng, Mặt trời, Mặt trăng... Ngôn ngữ nghệ thuật trong ca khúc Trịnh Công Sơn kỳ ảo vì chúng thường được kết hợp với nhiều biện pháp tu từ. Và cuối cùng ông kết luận: “Trịnh Công Sơn là một thi sĩ. Anh sống trong thời đại của mình, và anh có những giấc mơ. (...) Có lẽ, nếu muốn, chúng ta cũng thấy được tầm cỡ của thời đại mình qua những giấc mơ và thế giới mà Trịnh Công Sơn đã sống, đã yêu và đã cùng xót xa với chúng”.[46; 172]


Kế đến là bài Trịnh Công Sơn, tiếng hát hòa bình của nhà phê bình Đặng Tiến (Pháp), bàn về ca khúc phản chiến, ông giải thích: “Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti-war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hòa bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nửa một số nhạc tình thuần túy, nội dung không quan hệ đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến”. [10; 176]

Bên cạnh những tác phẩm trên, còn phải kể đến một số bài phê bình khác in trên tạp chí và trên mạng rất công phu như Ảo giác Trịnh Công Sơn của Lê Hữu (Hoa Kỳ), nói về những ảo giác mà ca từ Trịnh Công Sơn tạo ra. Tuy bài viết có nhiều quan điểm phiến diện, nhưng phần phân tích ca từ rất kỳ công và nhiều chỗ tinh tế. Bài viết đăng trên tạp chí Văn học tại California, Hoa Kỳ tháng 02&03/2004; và trên mạng tcs-home.org.

Ngoài những công trình trên, chúng tôi còn tìm thấy các bài sau đây:
Nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn, của giáo sư Cao Huy Thuần (Pháp) trong Đêm tưởng niệm Trịnh Công Sơn do Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn tổ chức tại Paris, 3/5/2003, “thuyết văn” sắc sảo về nội dung những bài hát chủ đề này, đăng lại trên mạng tcs-home.org; Thời thanh xuân Trịnh Công Sơn của Sâm Thương (tcs-home.org); Trịnh Công Sơn và Những Phố Xa, của Ngự Thuyết (Hoa Kỳ) trên mạng (suutap.com) phân tích kỹ về không gian phố trong ca từ Trịnh Công Sơn. Tiếng Việt trong dòng Nhạc Trịnh Công Sơn của Phạm Bân (suutap.com); Bài phỏng vấn Khánh Ly của nhà báo Bùi Văn Phú tại Hoa Kỳ tháng 7/2004, nguồn Tạp chí Văn (California) số 92, tháng 8/2004; Cái chết, Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh trong nhạc Trịnh Công Sơn (2007) của John C. Schafer (talawas.org); (tcs-home.org), tóm lược lại từ văn bản tiếng Anh rất đồ sộ. [65]

Ngoài nữa còn có nhiều trang web tập hợp tất cả hình ảnh, bài hát, đĩa nhạc, bài viết, phê bình, thủ bút của ông, cập nhật thường xuyên. Như trên trang web suutap.com tại Mỹ và  tcs-home.org tại Pháp.

Nhìn chung, điểm qua các công trình nghiên cứu, sưu tầm được, chúng tôi nhận thấy như sau:
- Theo thời gian, các công trình nghiên cứu đã cố gắng dựng lại trung thực cuộc đời âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong bối cảnh đất nước trước và sau chiến tranh 1975.
- Hầu như các nhà nghiên cứu đều khẳng định Trịnh Công Sơn là một hiện tượng văn hóa lớn trong thế kỷ XX, ông không những là một tài năng lớn trong âm nhạc mà còn là một nhân cách lớn trong một bối cảnh Việt Nam đầy biến động.
- Nghiên cứu, đánh giá Trịnh Công Sơn nhìn chung thường trong trạng thái hỗn hợp giữa nhạc và lời. Nhưng dù vậy, căn cứ trực tiếp hơn vẫn là thiên về phần lời, phần ca từ. Nghiên cứu về ca từ, phần lớn các công trình nghiên cứu đều phân tích phong phú các chủ đề mà nội dung ca từ Trịnh Công Sơn phản ánh, đồng thời lý giải về mặt sử dụng nghệ thuật ngôn từ một cách tài hoa trong các ca khúc của ông.
Cụ thể bàn về nội dung ca từ của Trịnh Công Sơn, hầu hết các bài nghiên cứu đều nhận định “Thân phận con người và tình yêu” là hai chủ đề nổi bật trong sự nghiệp sáng tác của ông. Thân phận con người của ông thường mang những cặp phạm trù đối lập sống/chết; buồn/vui; hạnh phúc/khổ đau. Ông ám ảnh phận người mong manh, chóng tàn. Tình yêu với người nữ của Trịnh Công Sơn là thứ tình yêu sương khói, lãng đãng, dở dang. Còn tình yêu con người trong ông, là tình yêu thương nhân loại không bó hẹp màu da, chính kiến. Tuy nhiên, trong các bài viết chỉ mới đề cập đến nhưng chưa nêu thành một hệ thống và đào sâu.

Nhận xét ngôn ngữ ca từ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn hầu hết đều khẳng định Trịnh Công Sơn là một thi sĩ, ca từ của ông đích thực là thơ. Một kiểu thơ lãng mạn, trữ tình, giàu chất hiện sinh, siêu thực mang đậm dấu ấn Thiền, Phật, có giá trị lớn về nội dung trong lòng Văn hóa Việt Nam, khẳng định những đóng góp to lớn có ý nghĩa cách tân của ca từ Trịnh Công Sơn trong nền ngôn ngữ thơ ca Việt Nam. Ngôn ngữ Trịnh Công Sơn đã tạo thành một trường phái ngôn ngữ mang phong cách Trịnh.

Tóm lại, trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, bài viết này hệ thống lại, đào sâu thêm, mở rộng hơn nữa, nhằm góp phần khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật ca từ Trịnh Công Sơn trong dòng văn hóa Việt Nam, dưới góc nhìn văn học.








(1) Sau khi Nguyễn Đắc Xuân công bố, có người gia đình Trịnh Công Sơn tuyên bố trước báo chí bài Dã Tràng ca từ đó đến bấy giờ vẫn nằm trong nhà.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.11.2010 04:34:10 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Trịnh Công Sơn-Vết chân dã tràng (Phần 1-II) - 07.11.2010 05:44:59
TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)
 
II. TRỊNH CÔNG SƠN - TIẾNG HÁT DÃ TRÀNG

Những hẹn hò từ nay khép lại
Thân nhẹ nhàng như mây...
Đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời
Như một lời chia tay
("Như một lời chia tay" – Trịnh Công Sơn)



Thời tuổi trẻ
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk trong một gia đình gốc Huế. Hai năm trước đó, bố mẹ ông lên đây lập nghiệp. Năm sau, sinh con trai đầu lòng, không nuôi được. Năm tiếp theo, Trịnh Công Sơn chào đời, xem như con trưởng. Ông là anh cả của 8 người em trai và gái, người thừa kế quan trọng trong một gia đình trung lưu. Cha ông là một doanh nhân yêu nước và tham gia chống Pháp. Mẹ ông là một người đàn bà nhân hậu, đảm đang và có cảm nhận nghệ thuật rất tinh tế. [44]
Năm 1943, khi ông lên bốn, gia đình về lại Huế, ở tại vùng Bến Ngự, một vùng đất xanh tươi, bên dòng sông An Cựu, nơi có nhiều chùa chiền, lăng tẩm. Tiếng chuông chùa và lời cầu kinh thấm vào hồn ông từ tuổi thơ. Điều đó giúp chúng ta hiểu vì sao những ca từ của ông về sau mang đậm dấu ấn Thiền, Phật và giàu chất Huế.



Khi ông được 8 tuổi, gia đình ông có cửa hàng buôn bán xe đạp và xe máy tại Sài Gòn. Ông thường xuyên vào ra Sài Gòn – Huế. Lên trung học, Trịnh Công Sơn học ở Huế là trường Lycée Français, rồi đổi sang trường Providence, rồi theo học ban Triết tại trường Chasseloup-Laubat, Sài Gòn. Điều đó chứng tỏ ông là một trong những trí thức thấm nhuần văn hóa Pháp ngay từ khi còn rất trẻ, phần nào lý giải ảnh hưởng nền triết học phương Tây hiện đại, như Albert Camus, J. P. Sartre..., lên cuộc sống tâm thức ông. Người có công rất lớn trong việc đem triết học phương Tây hiện đại vào Việt Nam, gây nhiều ấn tượng và ảnh hưởng đối với thanh niên miền Nam Việt Nam những năm 50 là giáo sư Nguyễn Văn Trung du học từ Bỉ về. [7; 16-19]


Năm 1955, khi ông 15 tuổi, cha ông bị tai nạn giao thông qua đời. Cái chết đột ngột thảm khốc của người cha là cú sốc đầu đời, ám ảnh ông thường trực. Từ đấy, ông luôn suy nghĩ về sự sống và cái chết.
Có lẽ người ta sẽ ngạc nhiên khi xem ảnh thời thơ ấu của ông. Chàng trai vui vẻ và khỏe mạnh giành nhiều giải thưởng thi đấu thể thao (chạy, cử tạ, judo) này là ai vậy? Điều gì sau đó đã đưa ông trở thành một nhà thơ – nhạc sĩ “buồn bã và ốm yếu” trong mắt của nhiều người?


Năm 1957, Trịnh Công Sơn 18 tuổi. Một tai nạn bất ngờ đã thay đổi tất cả cuộc đời ông. Lúc ấy ông đang học trung học, vào một ngày khi đang tập judo với người em trai, ông bị thương nặng ở ngực, suýt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Không ngờ thời gian nằm dưỡng bệnh này ông có nhiều thì giờ rảnh rỗi, suy nghĩ về kiếp người, cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên. Để khuây khỏa nỗi buồn ông đọc ngấu nghiến Apollinaire, Marcel Pagnol, Jacques Prévert, Rabindranath Tagore, Marcel Proust, Nietzsche, Nikos Kazantzakis, Albert Camus, Jean-Paul Sartre... Ông đặc biệt yêu thích những tác phẩm của Albert Camus, Truyện Kiều của Nguyễn Du và triết lý Phật giáo. Ông không chỉ tiếp cận với văn học, thi ca mà còn tìm hiểu dân ca Việt Nam, âm nhạc của người da đen: blues, gospel v.v... [44]. Trịnh Công Sơn quyết định chơi đàn guitare và bắt đầu sáng tác. Những ca khúc đầu tiên mang tên Sương đêmChơi vơi đều chưa ấn hành. [7; 18]


Theo Sâm Thương, ông từng thổ lộ: “Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một niềm đam mê khác – âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trỗi dậy”. [44]


Tai nạn trên là một cái rủi cho ông về thể xác nhưng là một cái may cho nền âm nhạc Việt Nam. Nếu như không có khúc quanh bất ngờ này, có lẽ ông đã tiếp tục chơi thể thao, đi học tiếp và không chừng đã trở thành một ông bác sĩ, hay kỹ sư nào đó... và lịch sử âm nhạc Việt Nam sẽ không bao giờ có được một nhạc sĩ tài hoa như thế.


Ca khúc được in đầu tiên của Trịnh Công Sơn là bài Ướt mi, sáng tác vào năm 1958 và công bố năm 1959, nói về giọt nước mắt thuần khiết của một người con gái. Đó là một cô ca sĩ mới 16 tuổi, xuất hiện về đêm ở phòng trà Văn Cảnh – Sài Gòn, đi hát để nuôi mẹ bị bệnh lao nặng. Đêm nào khi hát bài Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong, cô cũng khóc. Điều ấy đã gợi nguồn cảm hứng cho ông sáng tác Ướt mi. Tác phẩm này cho thấy sự thành công qua số lượng đĩa nhạc bán được. Người hát bài này đầu tiên cũng chính là cô ca sĩ ấy - ca sĩ Thanh Thúy – người mà sau này cũng rất nổi tiếng trong sự nghiệp ca hát trước năm 1975. Nguyễn Văn Trung đã từng viết bài Ảo ảnh Thanh Thúy để ca ngợi giọng ca đầy chất liêu trai của cô. [60; 469]


Sau đó, đầu thập niên 60 là thời kỳ Trịnh Công Sơn sáng tác rất nhiều bản nhạc tình và đã trở thành những kiệt tác ca khúc Việt Nam. Ở Huế, thời gian này Trịnh Công Sơn lại rung động theo hình ảnh một thiếu nữ mảnh mai: Ngô Vũ Bích Diễm, con của thầy Ngô Đốc Kh... dạy Pháp văn tại trường Đồng Khánh và trường Quốc Học Huế. Ca khúc nổi tiếng Diễm xưa ra đời, một ca khúc đánh dấu đặc biệt trong đời ông và có hậu vận bền lâu. Mối tình thơ mộng và ngắn ngủi với Bích Diễm được tiếp nối qua hình ảnh cô em Ngô Vũ Dao Ánh cho đến cuối đời, tuy có nhiều đứt đoạn. Với Trịnh, đó là mối tình gắn bó lâu dài vì cả hai đã có chung nhiều kỷ niệm xưa.
(2)


Những năm 62-64, chiến tranh Việt Nam ngày càng tàn khốc, thanh niên hầu hết đều bị động viên đi lính. Để hoãn quân dịch, Trịnh Công Sơn rời Huế thi vào trường Sư phạm Quy Nhơn, trường mới thành lập và đây là khóa đầu tiên đào tạo giáo sinh thời khóa hai năm. Nơi thành phố biển hiền hòa, yên tĩnh này, Trịnh đã sáng tác những tình ca nổi tiếng như Biển nhớ, Nhìn những mùa thu đi, Nắng thủy tinh, Chiều một mình qua phố, Vết lăn trầm, Dã tràng ca, Cát bụi.[28; 33] Những tình ca của Trịnh Công Sơn đã gây kinh ngạc cho mọi người thời đó, khi mà cả miền Nam vẫn còn quen với dòng nhạc tiền chiến sướt mướt với Biệt ly của Doãn Mẫn, Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong, hay Bóng chiều xưa của Dương Thiệu Tước... Những hình ảnh của Trịnh Công Sơn mang đậm nét siêu thực, với những ca từ lạ hóa hình ảnh đời thường, đã đánh thức cả một thế hệ. Lạ từ nhan đề tới hình ảnh tân kỳ trong lời ca như: Diễm xưa, Tuổi đá buồn, Lời buồn thánh. Rồi những hình ảnh mắt xanh xao, hồn xanh buốt, hai bàn tay đói, bàn tay chăn gió mưa... quả là độc đáo, mang nhiều màu sắc mới lạ, đã gây sự chú ý và liền chinh phục người nghe. [46; 125]



Thời "phản chiến"
Năm 1964, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Quy Nhơn, ông được điều lên Bảo Lộc dạy học. Thời gian này, cuộc chiến ở Việt Nam đã trở nên ác liệt. Năm 1965 quân đội Mỹ bắt đầu rầm rộ đổ bộ lên miền Nam Việt Nam. Phong trào đấu tranh của Phật giáo và sinh viên dâng cao.



Giai đoạn 1965-1972, “nhạc phản chiến” trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Trịnh Công Sơn. Ông bắt đầu sáng tác những bài hát về thân phận con người trong chiến tranh, miêu tả cuộc sống đau đớn, kinh hoàng đầy chết chóc hằng ngày của người dân, từ những người mẹ, người vợ cho đến cụ già, em bé. Những bài hát của ông là tiếng kêu than thống thiết của con người trong cuộc chiến. Tiêu biểu như Gia tài của mẹ, Hát trên những xác người, Đàn bò vào thành phố, Người già em bé, Người con gái Việt Nam, Tình ca người mất trí... Cuối cùng có lệnh tổng động viên toàn quốc, không thể trốn tránh mãi, ông bắt buộc tìm cách làm cho mình không đủ sức khỏe để đi lính. Hằng ngày ông phải nhịn ăn, và uống thêm diamox, một thứ thuốc rút bớt nước trong cơ thể làm cho sút ký nhanh, và ông đã “thành công” khi tự hủy hoại bản thân mình với trọng lượng cơ thể không thể đi lính. Trốn lính gần như là một cái “nghề” đầy tính chất phiêu lưu của thanh niên miền Nam lúc bấy giờ, trong số đó có Trịnh Công Sơn. Thái độ trốn tránh ấy, chứng tỏ quyết tâm không tham chiến của ông, ông từ chối chiến tranh và phản đối nó. [60; 180]


Dường như không khí thời đại đã thôi thúc ông trong việc sáng tác, và một gặp gỡ định mệnh giữa ông với ca sĩ Khánh Ly, người thể hiện tuyệt vời những nhạc phẩm của ông, đã làm nên tên tuổi cả hai từ đó.
Theo Bửu Ý, vào năm 1965 tại Đà Lạt tình cờ Trịnh Công Sơn nghe Khánh Ly hát trong hộp đêm Tulipe Rouge. Ông biết ngay giọng hát của cô ca sĩ này phù hợp với những bản nhạc của mình nên mời cô tham gia. Thời gian sau, Khánh Ly rời Đà Lạt và theo ông xuống Sài Gòn. Từ đó cô đã trở thành “Ca sĩ chuyên hát nhạc Trịnh Công Sơn”. Hãy nghe ông nói về cuộc gặp gỡ này: “Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra ca sĩ nào ngoài Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly”.[61; 522]


Vào cuối năm 1966, buổi ra mắt đầu tiên của ông trước công chúng Sài Sòn là khoảnh sân sau Trường Đại học Văn khoa, với hàng ngàn sinh viên và trí thức. Bằng chiếc ghi ta thùng đơn giản và giọng ca huyền thoại Khánh Ly, những bài tình tự quê hương và thân phận con người được hát vang lên và làm thức tỉnh, say đắm hàng ngàn khán giả cuồng nhiệt đêm đó.
Tác phẩm đã hòa nhập vào công chúng, là tiếng lòng của công chúng.


Trịnh Công Sơn và Khánh Ly trở thành một hiện tượng và rồi trở thành thần tượng của lớp trẻ lúc bấy giờ.
Trịnh Công Sơn, với dáng người mảnh khảnh, cặp kính trắng trí thức, giọng Huế nhỏ nhẹ, với cuộc sống bất định. Đêm đi hát, khuya về kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Quán Văn hay Hội Họa Sĩ Trẻ. Bên cạnh đó hình ảnh Khánh Ly, khi hát đi chân đất – nữ hoàng chân đất của một thời – giọng hát da diết sương khói diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: “tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người”. Hai người đi với nhau tạo nên hình ảnh “đôi lứa”, một đôi trai-gái trong tình bạn hồn nhiên, trong sáng. Tạo thành một đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam. Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò... Những tâm hồn phóng khoáng và “hiện đại” thì gạt phăng đi loại “tò mò bệnh hoạn ấy”.[9] Và đặc biệt, Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Sơn nói: “Tôi và Khánh Ly chỉ là hai người bạn. Thương nhau vô cùng, trên tình bạn”.[61; 529] Khánh Ly viết: “Một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường”.[61; 112]


Nhưng trên hết, chính hình ảnh Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, trường học, đã tạo ra một hình ảnh lý tưởng trong nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát – mang theo lý tưởng nhân đạo và tình yêu thể hiện sự dấn thân của người nghệ sĩ. Trong khi đó, đa số các ca sĩ khác chỉ hát để kiếm tiền. Trong một lần trả lời phỏng vấn nhà báo Bùi Văn Phú, Khánh Ly kể lại giai đoạn cơ cực đói khổ nhưng đầy hạnh phúc những năm 60 ấy: “Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy mình thực là hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi mình được hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn”.[47]


Năm 1969 nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn nổi tiếng khắp thế giới, ông được xem là một Bob Dylan (nhạc sĩ phản chiến số 1 ở Mỹ) của Việt Nam. Năm 1970, bài Diễm xưa được vào chung kết cuộc thi các bài hát nước ngoài ở Nhật, bài Ngủ đi con chiếm “Đĩa vàng” và đã phát hành trên hai triệu đĩa [7; 27].


Trịnh Công Sơn từ đó trở thành thần tượng - Kẻ du ca bất khuất - trên đất nước đầy bom đạn. Những sáng tác tiếp theo của ông với những ca từ mạnh mẽ, trong tập Kinh Việt Nam hay Ta phải thấy mặt trời, Nhân danh Việt Nam là tiếng kêu gọi hòa bình và thống nhất đất nước. Nhạc phản chiến của ông bị chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cấm phát hành. Bản thân ông phải sống trốn tránh. Nhưng ông được nhiều trí thức và quần chúng cưu mang. Trong đó có đại tá Lưu Kim Cương, một sĩ quan cao cấp trong Không quân miền Nam Việt Nam đã che chở và giúp đỡ ông rất nhiều trong thời gian khốn khó ấy. Sau khi đại tá Lưu Kim Cương tử trận, ông viết bài Cho một người nằm xuống để tri ân một người bạn đã từng che chở mình và chính bài hát này về sau là nỗi khổ của ông.



Những năm đầu hòa bình
Tháng Tư 1975, chiến tranh chấm dứt, ông là người đầu tiên lên Đài Phát thanh Sài Gòn hát vang bài Nối vòng tay lớn, một bài hát nói lên niềm khao khát hòa bình, thống nhất. Ước mơ hòa hợp dân tộc hai miền Nam-Bắc, được ông viết từ năm 1968.



Ngày 30 tháng Tư người thân ông ra đi, bạn bè ông ra đi, Khánh Ly rời đất nước trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Ông ở lại, bởi vì đó là logic của một con người ước mơ được nhìn thấy: ngày hòa bình thống nhất trên quê hương.
Bàn tay thân ái
Lòng không biên giới
Anh em ơi lắng nghe tình nhau
Ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu
Mẹ dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu
Cho hai miền trùng phùng lòng thấy nao nao
Ngày Nam đêm Bắc
Tình chan trong mắt
Sẽ thấy trăm bình minh ngọt ngào
Huế - Sài Gòn - Hà Nội


Tại sao ông ở lại Việt Nam?
Trước ngày 30/4/1975 có nhiều lời mời đưa ông ra nước ngoài của các hãng thông tấn quốc tế. Ông nói: “Việt Nam là nơi duy nhất tôi có thể sống và sáng tác. Ở nước ngoài, tôi không nghe ra tiếng nhạc trong đầu mình, tôi không nghe được câu thơ tôi viết ra. Tôi thích đi nước ngoài, nhưng nếu ở lâu, tôi sẽ khô cạn và chết mất. Hơi ấm của dân tộc Việt Nam giống như nước cần thiết cho hoa vậy”.[7; 140]
Thế nhưng, tình hình của Trịnh Công Sơn thật khá tế nhị trong thời kỳ sau 1975. Những ngày đầu sau cuộc chiến, với không khí chính trị còn ấu trĩ, tả khuynh quá đà của một số người trong chính quyền mới, ông bị coi là một nghệ sĩ của chế độ “mục nát” của miền Nam.
Theo Nguyễn Đắc Xuân, giai đoạn sau tháng Tư 1975 “Đối với lãnh đạo thì không có vấn đề gì, nhưng có nhiều “anh em phong trào” ở Sài Gòn không thích quan điểm lập trường chung chung của Trịnh Công Sơn trước đây”.[28; 97] Vì vậy, để thoát khỏi “không khí nghi kỵ” ở Sài Gòn lúc ấy, Trịnh Công Sơn về Huế. Thế nhưng, thời gian đó một số phần tử quá khích theo phong trào “Vệ Binh Ðỏ” của Trung Quốc đã kích động sinh viên treo một tấm banderole to tướng mang dòng chữ xanh rờn: “Hạ bệ Phạm Duy - Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn” trước trường Đại học Sư phạm Huế. Ông sững sờ và câm lặng. Không ngờ về quê hương ông lại bị giội một gáo nước lạnh như thế. Và tiếp theo là cuộc tọa đàm luận tội “Trịnh Công Sơn có công hay có tội” tại Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế. Hôm ấy có cả Trần Hoàn, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Viết Ngạc và vài người nữa... Có người lên án, nhưng cũng có người bảo vệ. “Tội” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là ông đã làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt được chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phóng dân tộc trong bài Gia tài của mẹ với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Thậm chí ông còn làm nhạc ca ngợi địch trong bài Cho một người nằm xuống thương tiếc đại tá không quân Sài Gòn Lưu Kim Cương chết trận – người đã từng cưu mang ông. Nhiều người đã biện hộ cho Trịnh Công Sơn: “Đúng là Trịnh Công Sơn đã làm nhiều bản nhạc phản chiến, anh được mệnh danh là Người làm nhạc phản chiến số 1 thời ấy giống như Bob Dylan, Joan Baez ở bên Mỹ. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tự do, anh theo đuổi chủ nghĩa nhân bản chung chung khác chúng ta. Nhưng anh làm nhạc trong vùng tạm chiếm, người nghe nhạc phản chiến của anh là lính Cộng hòa. Rất nhiều lính của Thiệu đã bỏ ngũ vì nghe bản nhạc Người con gái da vàng của anh. Chẳng có người lính cách mạng nào bỏ ngũ vì nghe nhạc của Trịnh Công Sơn cả. Cũng như ngày xưa bên Trung Quốc, Trương Lương thổi sáo đâu phải để cho quân mình buông kiếm! Đâu phải tự dưng chính quyền Thiệu ra lệnh tịch thu những bài hát của Sơn”.[28; 98-101] Và chính xấp tài liệu đăng lệnh của cựu Tổng thống Thiệu cấm phổ biến nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, lệnh cấm mang số 33 ngày 8.2.1969, đã có sức thuyết phục lớn đối với những người tham dự tọa đàm. Sau cuộc tọa đàm, Trịnh Công Sơn phải viết kiểm điểm. Hồi ấy, những bản kiểm điểm “nói không đúng vấn đề” thường bị viết lại. Trịnh Công Sơn chưa quen lối sinh hoạt này nên rất đau khổ, chán chường.


Trong thời hậu chiến, cả nước rất khó khăn và như bao người Việt khác, Trịnh Công Sơn cũng được đưa đi lao động sản xuất trên những cánh đồng đầy bom đạn chưa tháo gỡ. Thời gian này, ông không thể sáng tác được, làm sao một người làm tình ca mang tính triết lý trừu tượng nổi tiếng lại một sớm một chiều có thể chuyển mạch bắt sáng tác theo “hiện thực xã hội chủ nghĩa được”.[28; 103]


Bên cạnh thực tế ấy, Trịnh Công Sơn lại không đủ sức chống đỡ với những thế lực khác kèn cựa tài năng mình. Có người còn tuyên bố xanh rờn: “Ca khúc mà như của Trịnh Công Sơn thì một ngày mình có thể làm đến mười bài!”. [28; 115]


Hiểu được bi kịch của ông, và biết rõ tài năng, nhân cách của người nhạc sĩ tài hoa này, một nhà lãnh đạo nổi tiếng ở phía Nam đã đánh tiếng, gọi ông về Sài Gòn. Năm 1979, Trịnh Công Sơn từ giã Huế vào Sài Gòn. [28;113]


Từ những năm 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại. Tác phẩm của ông sau chiến tranh có những bài nổi tiếng như: Chiều trên quê hương tôi, Em còn nhớ hay em đã quên, Huyền thoại mẹ, Hà Nội mùa thu, Tiến thoái lưỡng nan, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Lặng lẽ nơi này, Xin trả nợ người, Lời thiên thu gọi... Những sáng tác này thường là tình ca, không có bài hát nào liên quan đến chiến tranh, chủ yếu là những tác phẩm viết cho các phim. Những tác phẩm sau này thường nói lên thân phận con người, kiếp người trong cõi tạm, mang đậm chất Thiền.


Năm 1983, Trịnh Công Sơn chuẩn bị cưới vợ lần thứ nhất, người phụ nữ ấy có tên là C.N.N sống ở Paris, Pháp. Thư từ Sài Gòn gửi cho Bửu Ý ngày 30.7.1983 Trịnh viết: “Moi sẽ làm đám cưới trong tháng tới. Cố gắng vào thì vui hơn”; nhưng dự định cưới vợ không thành. [7; 33]


Tháng Năm 1985 Trịnh Công Sơn sang thăm Moskva.
Năm 1989, ông sang Pháp theo lời mời của Nhà Việt Nam tại Paris. Tại đây, ngoài những bài thân thuộc với khán giả, ông và Thanh Hải, từ Đức sang, hát một loạt bài sáng tác trong giai đoạn 1972-75 nhưng chưa được phổ biến rộng rãi, và thêm một số bài mới viết sau 1975 mà tại Paris ít người biết tới. Ông đã gặp Khánh Ly tại Paris sau 14 năm xa cách, tuy nhiên không thể tổ chức được gì dù có sự hiện diện của hai nhân vật nổi tiếng một thời này, vì ở hải ngoại một số người cực đoan cũng bài xích ông là “kẻ hèn nhát, kẻ phản bội quốc gia”. [31; 270-283]

Những năm 90
Năm 1990, hình như Trịnh Công Sơn cũng có ý định cưới vợ một lần nữa, người phụ nữ này là V.A, nhưng cuối cùng rồi chuyện cũng không thành, và trong tình yêu ông vẫn là chàng lãng tử cô độc “Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ”… cho đến cuối đời.
Năm 1992, sau khi mẹ mất, ông suy sụp hoàn toàn, ông sang Canada thăm những người em, để mong tìm chút hơi ấm tình thân. Trịnh Công Sơn viết: “Khi một người mất mẹ ở tuổi 50 điều ấy có nghĩa là không còn gì có thể dàn xếp được. Cái sa mạc để lại trong lòng bạn cứ thế mỗi ngày lan rộng ra và cõi lòng bạn thì tan nát như một cánh đồng xanh tươi vừa trải qua một cơn bão lớn”. [19; 9]
Những năm 90, sau thời kỳ đổi mới của đất nước, nhạc của ông lại được hát rất nhiều trong các chương trình ca nhạc, chủ yếu là những bản tình ca. Những bài hát phản chiến rất hay của ông vẫn là điều tế nhị cấm lưu hành. Năm 1995, ông sáng tác bài Sóng về đâu, một bài hát nói về tình yêu lấy cảm hứng từ câu kinh đạo Phật mà ông rất thích. “Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha” (Yết đế, Yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha). Trịnh Công Sơn dịch ra chữ quốc ngữ đại để là: “Vượt qua, vượt qua, tất cả chúng ta đều vượt qua, và đến bờ giác ngộ”. [63]


Cuối năm 1998, sau 35 năm ra trường, lần đầu tiên ông trở lại Trường Sư phạm Quy Nhơn nhân dịp thành phố Quy Nhơn tổ chức kỷ niệm Bình Định 400 năm tuổi. Cùng đi với ông lúc ấy có các nhạc sĩ khác trong nhóm “Những người bạn” như Trần Long Ẩn, Tôn Thất Lập, Thanh Tùng, Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Văn Hiên... Đó là một đêm đầy cảm động. Cả hội trường Đại học Quy Nhơn nghẹt kín sinh viên. Sinh viên Đại học Quy Nhơn đón ông như đón một người anh trai lâu ngày trở về. Có những bài ông vừa hát, sinh viên phụ họa hát theo như một dàn đồng ca đã được tập dượt trước. 12 giờ đêm chương trình chấm dứt nhưng các sinh viên vẫn quây lấy ông chụp hình kỷ niệm. Ông xúc động kể lại những năm tháng ông học tại Sư phạm Quy Nhơn thời 62-64, và hát say sưa không biết mệt.
“Festival Huế 2000” là một sự kiện văn hóa của cả nước, trong Nhật ký Huế ông viết: “Tháng Tư năm nay ở Huế có tổ chức Festival 2000… cuối cùng tôi cũng đến Huế trong những ngày nằm giữa bề dài của cuộc Festival... vì tôi là thằng con của Huế… Khi bạn có một xứ sở để trở về hoặc là để thỉnh thoảng trở về, thì bạn có hạnh phúc nhiều lắm”. [36; 474-475]


Trở lại Sài Gòn, ông ngã bệnh phải đưa vào bệnh viện. Những năm sau này ông thường xuyên bị bệnh. Sức khỏe giảm sút rõ rệt.
Ca khúc cuối cùng ông sáng tác trên giường bệnh là bài Biển nghìn thu ở lại. Và ngày 01/4/2001 Trịnh Công Sơn qua đời, “Con chim nhỏ hát chơi trên đầu ngọn lau” không còn nữa, vết chim hạc để lại trên cõi trần đúng 62 năm.


Cái chết của Trịnh Công Sơn làm chấn động những người dân Việt cả trong nước và ngoài nước. Hàng triệu trái tim lặng lẽ khóc thương, hàng ngàn người đi sau linh cữu ông, chưa có một đám tang nào mà mọi người lại yêu thương nhau đến vậy, tất cả cùng nắm tay và hát trong nước mắt bài Cát bụiMột cõi đi về theo tiếng kèn thống thiết của Trần Mạnh Tuấn.


Người đời tinh lắm, Trịnh Công Sơn đã cho cuộc đời trái tim ông, ngày ông mất người đời đã cho lại ông tất cả.
Tôi ước mơ một ngày nào đó trên hành tinh này tiếng hát sẽ được trả về với vẻ đẹp thuần khiết của nó. Đó là tiếng hát bay qua các lục địa, các đại dương, mang trong lòng nó tình yêu và tình nhân ái. Cái sứ mệnh huy hoàng nhất của nó là phải mang được cái thông điệp ấy đến với từng con tim. Không những chỉ với những tâm hồn vốn yêu chuộng hòa bình mà cả những con tim đang ngộ độc bởi những ngòi thuốc nổ”.[28; 189-190] 







(2) Theo lời kể của cô Trịnh Vĩnh Thúy, em gái lớn của Trịnh Công Sơn.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.11.2010 04:37:23 bởi hoaha >

hoaha
  • Số bài : 118
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 14.09.2005
Trịnh Công Sơn-Vết chân dã tràng (Phần 1-III) - 18.11.2010 06:09:12
TRỊNH CÔNG SƠN - VẾT CHÂN DÃ TRÀNG (TÁC GIẢ BAN MAI)


III. VẾT CHÂN DÃ TRÀNG - NGÀN NĂM IN DẤU
Tầm ảnh hưởng Nhạc Trịnh Công Sơn trước năm 1975


Ngày tôi chào đời, nhạc của Trịnh Công Sơn đã nổi tiếng khắp miền Nam. Ngay từ thời thơ ấu, tôi đã thuộc lòng những bài hát của ông. Ngày ấy, dù không hiểu gì về ca từ bài hát nhưng qua tiếng hát của những người chị ngâm nga, hằng ngày, hằng ngày nó thấm vào tim tôi “Mẹ ngồi ru con / Đong đưa võng buồn / Đong đưa võng buồn / Mẹ ngồi ru con / Mây qua đầu ghềnh / Lạy trời mưa tuôn”... “Đại bác ru đêm dội về thành phố / Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe/”. Thời ấy, thế hệ chúng tôi ai lại không thuộc nhạc của ông, khi hằng đêm chúng tôi vẫn thường nghe tiếng súng nổ, tiếng hỏa châu rơi... giai điệu buồn bã, đều đều như tiếng cầu kinh ấy, đã quá quen thuộc. Đến khi lớn lên, khi bắt đầu hiểu biết và trải nghiệm cuộc đời, những ca từ thấm đẫm tình yêu thương về thân phận con người của Trịnh Công Sơn đã là người bạn đồng hành cùng tôi trong từng chặng đời. Nó như một thứ bùa mê mà mỗi con người đều mang theo để làm cứu cánh khi thấy lòng cô đơn, buồn khổ, hay trong những lúc hân hoan, say đắm.


Không chỉ riêng tôi, trên đất nước Việt Nam này, ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn rất to lớn, gần như người dân Việt nào cũng đều thấy mình trong từng bài hát của ông. Ông nói hộ cho con người những âu lo, những vò xé, những thao thức, những đớn đau, những tiếc nuối, những ngỡ ngàng và cả những hoài nghi, những mê đắm... về thân phận con người, về chiến tranh nhân loại, về tình yêu thương gắn bó, về sự tan nát chia xa... ông đi cùng với họ, an ủi, tâm tình bên họ. [36;459] Có ông cuộc đời như vơi bớt niềm đau, cái chết cũng không còn ghê gớm nữa. Vì ông đã giúp họ hiểu ra sự thật của kiếp người. Vậy thì, tại sao không sống thanh thản cho đời nhẹ nhàng hơn.



Trước năm 1975, mặc dù nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn bị chính quyền miền Nam cấm đoán, nhưng nhạc của ông vẫn được hát không chính thức trong các giảng đường, trường học, hộp đêm. Những bài tình ca, những bài tình tự quê hương dân tộc vẫn được thu băng và bày bán khắp các đường phố. Có không ít người miền Nam Việt Nam vào thời đó thuộc bài hát của ông, từ người già đến em bé, từ trí thức đến người bình dân.


Để hiểu rõ điều đó, hãy nghe nhận định của Hoàng Nguyên Nhuận: “...Nếu Huế là thánh địa của Phật giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hòa bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại tại các thành phố miền Nam...”. [10; 180]


Trong luận văn viết về đề tài “Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn”, cô Yoshii Michiko có đề cập đến một tư liệu của Kondo Koichi, đặc phái viên chiến tranh tờ SanKei của Nhật - có văn phòng tại Sài Gòn trước 1975 - đã từng nhắc đến hiện tượng này: “Diễm xưa: Thiên tài Trịnh Công Sơn đã soạn ra giai điệu của bài hát này, bài hát đã được cả miền Nam Việt Nam yêu thích. Người ta nói rằng nữ ca sĩ Khánh Ly, cũng là một trong những tài năng mà người ta chỉ gặp một lần trong suốt 100 năm. Bài hát này bị cấm dưới chế độ ông Thiệu sau khi phát hành không lâu. Lối ẩn dụ chống chiến tranh ở đây quá đặc biệt. Và trong số họ có một người cấp bậc đại úy, dường như anh đã có lý khi chứng tỏ sự hiểu biết của mình về điều đó. Thực tế, một vị đại tá của một trung đoàn có nhiệm vụ bảo vệ Đà Lạt đã nói: “Nghệ thuật là nghệ thuật. Phản chiến hay không, người ta không cần biết”. Và đã không nghe theo lệnh của tổng hành dinh. Ngược lại, ông đã khích lệ cả những binh lính của ông, hát những kiệt tác của “thiên tài duy nhất mà miền Nam Việt Nam có thể ca ngợi với thế giới”.[64]


Một nhà báo Nhật khác thường lui tới hộp đêm của Khánh Ly trên đường Tự Do kể: “Hằng đêm vào đầu giờ, người ta chỉ nghe những bài hát cho phép, nhưng đêm gần tàn, Khánh Ly bắt đầu hát những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn, và trên thực tế, công chúng chỉ đến để nghe những bài hát này”.[64]


Điều đó chứng tỏ, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn dù đã bị cấm đoán trong thời chiến tranh nhưng người dân vẫn hát vang trên khắp phố phường, làng mạc. Vẫn được đánh máy, in ronéo chuyền tay nhau trong các phong trào thanh niên và ngay cả trong những sĩ quan cao cấp của chính quyền miền Nam.
***


Nhạc Trịnh Công Sơn ảnh hưởng rộng rãi ở miền Nam trước 1975 chúng ta đã biết, thế còn ở miền Bắc thì sao? Những nhân chứng dưới đây giúp chúng ta sáng tỏ:
Nhạc sĩ Văn Cao viết: “...Tôi đã gặp Sơn từ những ngày đất nước còn chia hai miền và còn chìm trong khói lửa. Tôi muốn nhắc đến ở đây một kỷ niệm không thể quên ở nhà một người bạn trẻ. Đêm ấy lần đầu tiên tôi nghe (cũng có nghĩa là gặp) Trịnh Công Sơn... Những bạn trẻ hát cho tôi nghe gần suốt đêm hàng loạt ca khúc Trịnh Công Sơn (không biết họ học ở đâu?) hát say sưa đến nỗi đứt cả dây của cây đàn ghi-ta duy nhất có trong nhà”. [58; 17]
Nhà thơ Nguyễn Duy kể rằng, ở dọc Trường Sơn, bộ đội miền Bắc cũng đã từng nghe tình ca của Trịnh: “Mặt trận Đường Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông Sêbănghiêng... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm đài Sài Gòn, tình cờ “gặp” Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm xưa... Mưa vẫn mưa rơi... Làm sao em biết bia đá không đau... Quỷ thật! Giai điệu ấy và lời ca ấy tự nhiên “ghim” lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như cánh vạc bay... Quái thật!... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà, đắm đuối ấy... ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái đẹp. Cái đẹp trong câu nhạc. Cái đẹp trong ca từ, cả xác chữ lẫn hồn thơ. Bảng lảng, lờ mờ, khó phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... và để lại cái ám ảnh thẩm mỹ”. [29; 44]


Theo tài liệu của Đặng Tiến: Tác giả Nguyễn Văn Thọ, trước đây là bộ đội miền Bắc, sau đó lao động xuất khẩu Ðông Âu, hiện đã về nước, viết: “Năm 1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch Lam Sơn 719 vớ được cái đài Sony rất tốt. Đêm Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với Nhạc Trịnh Công Sơn. Chúng tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những ngày sau hòa bình. Rất lạ, với tôi khi đó Nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn, hòa bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó”. Và đáng quý hơn nữa, tác giả này đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn trưa ngày 30 tháng Tư 1975, ông nghe Trịnh Công Sơn đang hát bài Nối vòng tay lớn trên đài phát thanh Sài Gòn: “Mặt đất bao la... anh em ta về... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng... Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường thấy của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn... Nối vòng tay lớn. Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi đóa. Đấy là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh”. [9]


Tiếng hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hàng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao? Văn học nghệ thuật Việt Nam đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó? [9]

Tầm ảnh hưởng Nhạc Trịnh Công Sơn sau ngày 30/4/1975
Sau năm 1975, một thời gian dài nhạc Trịnh bị cấm biểu diễn, kể cả những bài tình ca và những bài tình tự quê hương, dân tộc. Trịnh Công Sơn sống cuộc đời im lặng và cô độc. Cho đến cuối những năm 80 đầu những năm 90 - thời mở cửa, nhạc Trịnh Công Sơn mới được chính thức phổ biến. Tuy nhiên, trong những năm chính quyền không cho phép, mặc nhiên người dân ở cả hai miền Nam - Bắc vẫn nghe nhạc của ông trên khắp nẻo đường đất nước, từ những nơi núi rừng heo hút cho đến chốn thị thành.



Nhạc của ông cũng truân chuyên như cuộc đời ông vậy.
Nguyễn Đắc Xuân kể lại rằng: “Sau ngày thống nhất đất nước, cùng với hàng hóa tiêu dùng của miền Nam, các băng nhạc của Trịnh Công Sơn bắt đầu xâm nhập giới trí thức miền Bắc. Đứng trên lầu 51 Trần Hưng Đạo (Hà Nội) – cơ quan Văn nghệ miền Bắc, tôi nghe vang vọng từ phía Nhà xuất bản Văn học một gia đình nào đó mở Gia tài của mẹ, Nối vòng tay lớn... của Trịnh Công Sơn”. [28; 123]


Đi từ Nam ra Bắc, chúng ta dễ dàng bắt gặp những quán cà phê mang tên “Nhạc Trịnh” hay mang tên tựa đề bài hát của ông: Hạ trắng, Diễm xưa, Biển nhớ… Dấu ấn ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn còn bàng bạc trên văn chương của người đương thời.


Ngày nay, đi đến bất cứ nơi đâu trên trái đất này, nếu có cộng đồng người Việt sinh sống, thì nơi đó có nhạc Trịnh Công Sơn. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết: “Hơn mười năm qua, đi đâu, bất cứ nơi nào, trong nước hay ngoài nước, nơi nào có người Việt Nam, là nơi đó tôi được nghe nhạc Sơn. Nhớ năm 1987, trong dịp sang Đông Berlin, khi tôi vừa ngồi yên trong xe, thì anh bạn lái cho tôi bảo: “Nghe Trịnh Công Sơn nhé?”. “Có à?”. Tôi ngạc nhiên. “Sao lại không!” và giọng của Khánh Ly “Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ...” lại cùng tôi vang trên các nẻo đường Đông Berlin trong đêm thu”. Tại Paris, quận 13... Một hôm tôi đến, vào một quán phở, một cái quán có nhiều khách chống Sơn: lạ, tôi lại nghe họ mở nhạc của Sơn. Rồi đầu tháng Bảy 1989 ngồi trong một quán ăn Việt Nam ở New York, trong ánh đèn mờ, tôi cũng lại nghe nhạc của Sơn... Hóa ra người ghét Sơn, chống Sơn vẫn không thể không nghe nhạc Sơn. Từ đó, có thể nói, nghệ thuật của Trịnh Công Sơn đã vượt qua khỏi sự hằn thù...”. [31; 273-274]



Hãy nghe những lời phát biểu về tầm ảnh hưởng của Trịnh Công Sơn.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật: Gần nửa thế kỷ sáng tác ca khúc, hành trình của Trịnh Công Sơn là hành trình của một trái tim yêu người, yêu giống nòi, luôn luôn tìm cách trả lời những câu hỏi không phải của khối óc mà là câu hỏi của chính trái tim anh đặt ra, trong đó, sự trăn trở giữa cái bản ngã và phi bản ngã là sự trăn trở thường trực... các nhà thơ từ Nam đến Bắc đều coi anh là thi sĩ .[38; 455]



Nhà văn Phạm Thị Hoài: Thế kỷ vừa rồi hiếm khi cho chúng ta một nghệ sĩ đặc biệt như thế. Ông không phải là một trong những nhạc sĩ lỗi lạc nhất, song hầu như không ai khác từ lúc sinh thời đã để lại một ảnh hưởng rộng rãi như vậy với người làm nhạc và người nghe nhạc Việt Nam. Ông không phải là một ca sĩ trứ danh, song ông đã được so với Bob Dylan, và đem lại cho danh hiệu kẻ du ca một ý nghĩa hiện đại. Ông không phải là một trong những nhà thơ sáng giá nhất, song cách ông đặt lời bài hát đã thành một trường phái và dựng nên một phong cách ngôn ngữ xứng đáng được ghi nhận trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông không phải là một trong những chiến sĩ của hòa bình, tự do và nhân phẩm kiên cường nhất, song với đông đảo bạn hữu và quần chúng, ông đã tượng trưng cho những giá trị ấy. [38; 457]


Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo trong bài Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người tình lãng du của nhiều thế hệ, đã tự hỏi: “... Vì sao mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca từ của anh không chỉ là giàu chất thơ người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thực sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình yêu, về sự sinh ra và trở về cát bụi của phận người ngắn ngủi... Khi được nhờ chọn một số bài thơ tình hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã tâm đắc tiến cử lời bài ca “Đêm thấy ta là thác đổ” của Trịnh Công Sơn. Nhưng những lời thơ ấy được hát lên bằng nhạc của chính tác giả, thì nó bỗng trở thành những câu kinh bất hủ. Và người ta nói rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu bên vực thẳm về thân phận và tình yêu”. [37; 171]

Đó là nhận định của các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Và chúng ta hãy nghe tình cảm chân thành của những con người bình thường khác, đó là những người mẹ nhọc nhằn, những cô gái ăn sương, những em bé không hề biết ông là ai, nhạc Trịnh Công Sơn đã ảnh hưởng họ như thế nào:
Bà mẹ vợ của tôi, chồng bị bệnh nằm một chỗ đã nhiều năm, một tay nuôi 8 đứa con dại. Mùa hè năm 1975, cậu con trai thứ hai lại bị mất tích trên đường theo bộ đội vào giải phóng Sài Gòn. Bà hết sức đau khổ. Hằng ngày đứng nấu cơm rửa chén phục vụ gia đình bà tự an ủi mình với “Cỏ xót xa đưa”. Bà mẹ đẻ của tôi ở Đà Lạt, hơn nửa đời người vất vả nuôi con, cuối đời rất sùng đạo Phật. Bà thích nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì bà cho rằng Nhạc Trịnh Công Sơn có hơi hám “cát bụi giải thoát”. Người ta nói âm nhạc Trịnh Công Sơn chỉ thích hợp với tuổi trẻ. Các bà mẹ tôi không còn trẻ nữa mà cũng thích nhạc Trịnh Công Sơn. Các bà thích không vì tuổi còn yêu mà chính là nhạc Sơn đã nói hộ các bà về thân phận của kiếp người sống trong cõi tạm. Các bà mẹ tôi thích nhạc Trịnh Công Sơn khi chưa biết Trịnh Công Sơn là ai. Cũng giống như các em bé trên miền núi huyện Hướng Hóa (Quảng Bình) vào những đêm trăng quây quần giữa sân hát vang “Em sẽ là mùa xuân của mẹ, em sẽ là màu nắng của cha...”, các em không biết tác giả bài ca ấy là ai. Các em cũng không cần biết tác giả làm gì. Các em chỉ cần biết lời của bài ca đó chính là ước mơ của các em”.[28; 123-124] Ngoài ra, còn có một chứng từ khác của Hoàng Phủ Ngọc Tường về các cô gái ăn sương: “Cách đây mấy năm, một đêm khuya tôi vừa uống rượu về, ngang qua công viên nhà thờ Đức Bà, Sài Gòn; từ sau một gốc cây, một cô gái mặc áo hồng bước ra, kéo tay tôi. Tôi ôn tồn từ chối. Liền sau đó, một cô áo đỏ, rồi áo lục... toàn là nhan sắc hương phấn, giống như trong Hồng lâu mộng. Tôi liền khoát tay ra hiệu mình bị nhiễm HIV nặng, các em lập tức dãn ra... Lúc này tôi mới để ý tới giọng hát khe khẽ từ bóng tối bên vệ đường... một cô gái áo đen... vẫn ngồi đấy từ đầu. Không thèm bận tâm gì tới cuộc ríu rít của những “đồng nghiệp” của cô vây quanh tôi, chỉ mải chìm đắm trong giai điệu của bài hát mà cô yêu thích, và tôi nghe rõ: “Đi về đâu hỡi em. Hãy lau khô dòng nước mắt. Đời gọi em biết bao lần”. Tôi thầm hiểu rằng đến với cô gái bất hạnh trong phận người lúc này, quả không thể là Phạm Duy hoặc bất cứ nhạc sĩ nào khác, mà chính là Trịnh Công Sơn”. [19; 93-94]
***

Những bài hát của Trịnh Công Sơn đã phổ biến và ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong lòng người dân Việt Nam, mà còn lan xa trên thế giới.
Ở Mỹ, người ta coi ông như là một Bob Dylan của người Việt và ông được mời sang sống ở đó như là một người dân di tản với mức thu nhập bảo đảm cuộc sống an nhàn.
Ở Pháp, Mỹ, Nga, Đức, Nhật có nhiều bài báo viết về Trịnh Công Sơn như của các nhà báo Jean-Claude Pomonti, Jacques Boyer (Pháp), Murray Hiebert, Jon Liden, John Schafer (Mỹ), Frank Gerke (Đức), Irina Zisman (Nga)... và nhiều bài hát được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Nhật. [7; 123 -146]
Năm 1970 ở Nhật Bản, bài Diễm xưa được tuyển vào vòng chung kết những bài hát hay của nước ngoài và bài Ca dao Mẹ được giải “Đĩa vàng” và bán được hai triệu bản. Tiếp theo thành công này, vào năm 1972, Mainichi Broadcasting đã đề nghị Trịnh Công Sơn sáng tác một bài hát đặc biệt dành tặng cho Hiroshima và Nagasaki. Và Trịnh đã sáng tác ca khúc Như tiếng thở dài.[64] Nhạc Trịnh đặc biệt được người Nhật yêu thích, vì những giai điệu bài hát của ông như những lời ru rất gần gũi, quen thuộc với người Nhật.
Năm 1980 ca khúc Diễm xưa và bản dịch Utsukushii Mukashi được đài truyền hình lớn nhất ở Nhật NHK chọn làm nhạc phẩm chính cho một bộ phim nội dung trình bày những khác biệt văn hóa giữa một người Nhật có vợ Việt Nam. Tháng Bảy 2004, Diễm xưa trở thành nhạc phẩm châu Á đầu tiên được Viện Đại học Kansai Gakuin đưa vào chương trình giáo dục của Viện trong bộ môn Văn hóa và Âm nhạc. [35]
Năm 2004, “Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới” (WPMA) được trao cho nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vì lý tưởng hòa bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân loại.
Tên ông được ghi trong bộ bách khoa Le Million của Pháp (tập 8 trang 122, Genève 1973). [7]

<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.11.2010 06:26:17 bởi hoaha >

Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 61 đến 84 trên tổng số 84 bài trong đề mục