(url) Trịnh Công Sơn
Thay đổi trang: << < 456 > | Trang 5 của 6 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 84 bài trong đề mục
chialy1904 11.05.2006 18:41:23 (permalink)
(tiếp)

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/14769/E7E36723784146EEA8E287EDB7DB46AC.gif[/image]
Attached Image(s)
#61
    chialy1904 11.05.2006 18:43:29 (permalink)
    Chợt tôi thấy thiên thu là một đường không bến bờ
    --- Trịnh Công Sơn ---



    Những con đường trăng tròn là những con đường trăng khuyết. Vẫn là những con đường cũ en đi qua và tôi đi qua. Thế rồi, có những lúc tôi đi qua những con đường mù mịt không trăng. Những tro tàn quá khứ bỗng dậy lên một cơn lốc cuốn tôi về với những con đường ma quái ảo ảnh chập chờn.
    Cái chập chờn của một thân thể phiền não không biết mai nay mốt nọ ra sao, cứ thắc thỏm muốn gởi gắm vào cuộc đời một linh hồn phiêu lạc. Tôi phiêu lạc bao nhiêu năm rồi trên một dòng đời không bờ bến. Có khi tưởng bờ là bến. Có khi tưởng bến là bờ. Cái tạm và cái thường hằng lắm khi là một. Thế mà cứ lại là khác nhau. Cái bờ mỏng manh khoảnh khắc ra đi. Cái bến nhiều khi bền bền ở lại. Bờ mở ra những bến. Có dâu bể cho bờ. Nên định mệnh bờ thường trói buộc thân phận bến.
    Tôi là bờ em ra đi. Em là bến tôi ghé lại
    Con đò ghé qua bờ này bờ nọ, nhưng sẽ đậu lại ở một bến kia.
    Mùa xuân là bờ hay bến? than ôi, mùa xuân chỉ là bờ. Ai ai trong đời này cũng có lần ghé qua cái bến tạm mùa xuân. Cái bờ bến mùa xuân nhập nhằng những dặm trường lận đận. Thoắt nhiên bến xuân chỉ còn lại là bờ. Cái biến đi qua, rồi cái bờ ở lại. Cái bến hiu hắt của một thuở tưởng rằng thời hoàng kim bến sẽ mãi mãi không bao giờ là bờ. Thế rồi tuổi đời người người -đến đến – đi đi cứ mộng vờ, hoang tưởng hão huyền một thứ bờ bờ - bến bến, không biết nơi nào để neo lại một thân thể phiêu bồng.
    Có thể bến cho em và bờ cho tôi. Tôi cứ mãi đi và em ở lại. Cái thân phận thuyền quyên ấy đừng làm đau xót đời. Cuối cùng, trong cõi mông lung mờ mờ ảo ảo, em vẫn chính là cái bến hư ảo một cách vẹn toàn mà tôi có lúc mỏi mệt sẽ tìm về nương tựa.
    “ Ru đời đi nhé cho ta nương nhờ lúc thở than”…
    Cái bờ ru lời hiu quạnh lau lách. Cái bến ru chập chờn một đốm lửa chiều…
    Trong một giấc ngủ bồng bềnh không giờ giấc của mùa xuân, tôi thảng thối thấy bờ bến bỗng rã tan thành những cánh bèo mông lung vô định. Em tôi không bến và tôi không bờ. Em trôi đi và tôi cũng trôi đi. Em và tôi cũng là bến. Em và tôi cũng là bờ. Chúng ta tan biến vào nhau thành một khối bến bờ không còn chia lìa nữa. Trong em không còn trí nhớ về bến. Trong tôi cũng mất hết những ký ức về bờ. Bến ở đâu và bờ ở đâu?


    [image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/14769/18C921E4859643E5A958EE697E3C888E.jpg[/image]
    Attached Image(s)
    #62
      hoaha 31.03.2007 00:21:53 (permalink)
      Nỗi lòng của tên tuyệt vọng

      Trịnh Công Sơn, 1972. Thay lời tựa tập nhạc "Tự tình khúc" (*)

      Tiếng nói thầm kín của một người nhiều khi suốt cuộc đời không thể nào bày tỏ. Có khi bày tỏ được thì cũng là những tiếng nói dở dang. Có người giấu bặt. Tôi chưa hề quên cái hiệu lệnh muôn đời: "Cái ta đáng ghét". Tuy nhiên trong cuộc sống thường nhật nơi đây, ngoài những ngày hét la to đầy nộ khí, vẫn có những giây phút lui về muốn thở than. Phải chăng thở than cũng là niềm bí ẩn của con người.



      Mỗi đời sống ẩn giấu một định mệnh. Có những định mệnh đời đời là cây kiếm sắc. Một đôi lần trong giấc mơ tôi, bừng lên những ánh thép đó. Nhưng tôi biết rõ rằng tôi chỉ là một loài chim nhỏ hót chơi trên đầu những ngọn lau. Không ai muốn mình là kẻ tuyệt vọng. Nhưng tôi tự nguyện làm tên tuyệt vọng. Bởi nhiều khi sớm mai tôi thức dậy không thấy được hoa quả khai sinh trong trái tim người.

      Tôi lại biết thêm rằng, dù là người chiến thắng hay chiến bại, suốt cuộc đời cũng không thể vui chơi. Hạnh phúc đã ngủ yên trong những ngăn kéo của quên lãng.

      Nơi đây, chúng ta đang sống thêm một thứ định mệnh mới. Định mệnh Việt Nam. Thứ định mệnh đã khép lại những nụ cười. Đã dạy dỗ ta những điều mang trá. Thứ định mệnh đêm rao bán ở công viên, trong những ngõ tối, dưới những khung cửa thấp và chật hẹp. Nhưng may mắng thay, vẫn còn làm nở ra, đây đó, những đời người đẹp đẽ.

      Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi thường rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy mình lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm. Khi quanh tôi, mọi người đã yên ngủ. Và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh.

      Mỗi ngày sống tới, mỗi ngày tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm. Ðời sống thật sự không tiềm ẩn điều gì mới lạ. Có lẽ vì thế, vì sự quen mặt mỗi lúc mỗi gần gũi, thắm thiết hơn, nên tôi càng thấy yêu mến cuộc đời. Như đứa con ngoan không tuyệt tình nổi với rẫy sắn nương khoai, nơi có bà mẹ suốt đời mắt không sáng nổi một ngày trẩy hội.

      Có những ngày tuyệt vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau. Từ buổi con người sống quá rẻ rúng tôi biết rằng vinh quang chỉ là điều dối trá. Tôi không còn gì để chiêm bái ngoài nỗi tuyệt vọn g và lòng bao dung. Hãy đi đến tận cùng của tuyệt vọng để thấy tuyệt vọng cũng đẹp như một bông hoa. Tôi không muốn khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng mỗi chúng ta hãy thử sống cùng một lúc vừa kẻ chiến thắng vừa kẻ chiến bại. Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường.

      Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là người bạn. Ðôi khi tôi là người tình. Chúng tôi cùng học vẽ lại chân dung của nhân loạị Vẽ lại con tim khối óc. Trên những trang giấy trắng tinh khôi chúng tôi không bao giờ còn thấy bóng dáng của những đường kiếm mưu đồ, những vết dao khắc nghiệt. Chúng tôi vẽ những đất đai, trên đó đời sống không còn bạo lực.

      Như thế, với cuộc đời, tôi đã ôm một nỗi cuồng si bất tận. Mỗi đêm, tôi nhìn trời đất để học về lòng bao dung. Nhìn đường đi của kiến để biết về sự nhẫn nhục. Sông vẫn chảy đời sông. Suối vẫn trôi đời suối. Ðời người cũng để sống và hãy thả trôi đi những tị hiềm.

      Chúng ta đã đấu tranh. Ðang đấu tranh. Và có thể còn đấu tranh lâu dài. Nhưng tranh đấu để giành lại quyền sống, để làm người, chứ không để trở thành anh hùng hay làm người vĩ đại. Cõi nguồn từ khước tước hiệu đó.

      Chúng ta đã đấu tranh như một người trẻ tuổi và đã sống mệt mỏi như một kẻ già nua. Tôi đang muốn quên đi những trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ. Ở đó có hai con đường. Một con đường dẫn ta về ca tụng sự vinh quang của đời sống. Con đường còn lại dẫn về sự băng hoại.

      Nhân loại, mỗi ngày, đang cố bày biện những tiệm tạp hóa mới. Ðóng thêm nhiều kệ hàng. Người ta bán đủ loại: đói kém, chết chóc, thù hận, nô lệ, vong thân...
      Những đấng tối cao, có lẽ đã ngủ quên cùng với chân lý.

      Tôi đã mỏi dần với lòng tin. Chỉ còn lại niềm tin sau cùng. Tin vào niềm tuyệt vọng. Có nghĩa là tin vào chính mình. Tin vào cuộc đời vốn không thể khác.

      Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi lòng của tên tuyệt vọng.


      Trịnh Công Sơn

      11/1972


      (*) Lời tựa của TCS do chúng tôi nhan đề

      http://www.tcs-home.org/writings/NoiLongCuaTenTuyetVong/
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 00:37:16 bởi hoaha >
      #63
        hoaha 31.03.2007 01:01:04 (permalink)
        Mê hoặc bằng sự giản dị




        Tự nhận là "người hát rong đi qua trần gian". Trịnh Công Sơn rao truyền thông điệp "sống để yêu thương" của mình bằng một thứ âm nhạc giản dị trong trẻo nhất. Nó rất gần với âm nhạc của những người hát rong trên khắp thế giới này.
         

        Không phải vì Trịnh Công Sơn không học "chính quy" ở một trường nhạc nào nên âm nhạc của anh mới "không phức tạp" như vậy. mà vì bản chất của âm nhạc đường phố lại rất gần với nhạc trong giáo đường: nó rao truyền thông điệp bằng chính sự giản dị và bằng sự cuốn hút của đức tin. Người hát rong có thể hát để kiếm tiền độ nhật, nhưng lớn hơn, họ còn hát vì một đức tin muốn đưa tới người nghe một thông điệp mà có khi chính họ không ý thức hết.
         
        Trịnh Công Sơn là người từng học ban Triết học, từng viết văn và nhất là làm thơ, nên chắc chắn anh có ý thức khi muốn rao truyền thông điệp của mình. Vậy mà tôi vẫn có cảm giác anh là người hát rong hồn nhiên. Âm nhạc của anh dù đôi khi như rao giảng nhưng lại luôn vô tình, không cố ý. Âm nhạc ấy không buộc người nghe phải nhọc công tìm kiếm một ý nghĩa sâu xa nào. Nó chinh phục người nghe tức khắc, đúng như bản chất nguyên thủy của âm nhạc.
         
        Còn nhớ, có lần tôi đã nghe vài nhạc sĩ chuyên nghiệp nhận xét nhạc Trịnh Công Sơn chưa chuyên nghiệp lắm. Họ cũng nhận xét về âm nhạc Phạm Tuyên như vậy. Đó là hai nhạc sĩ có vẻ rất khác nhau. Âm nhạc Phạm Tuyên nghiêng hẳn về ngợi ca lạc quan, trong khi âm nhạc Trịnh Công Sơn nghiêng về những dằn vặt đau đớn của phận người. Nhưng đã bao giờ ẩn sâu giữa những cung bậc ngợi ca đầy lạc quan của Phạm Tuyên một nỗi đau ngấm ngầm, còn giữa những giai điệu đầy day dứt u sầu của Trịnh Công Sơn một giọng ngợi ca sáng láng và chìm lắng? Đó là hai nhạc sĩ viết từ hai phía số phận dân tộc Việt, cứ ngỡ họ xa nhau mà hóa ra lại gần, rất gần nhau. Nói như thế e có nhạc sĩ hay nhà phê bình âm nhạc chuyên nghiệp sẽ phản bác, cho là tôi nói… tào lao. Nhưng thực sự, tôi nghe được như vậy từ âm nhạc của hai nhạc sĩ này. Và tôi có quyền nghe được như vậy, theo cảm thụ của riêng tôi.
         
        Chỉ riêng một ca khúc Huyền thoại mẹ của Trịnh Công Sơn thôi, tôi nghĩ, Người Mẹ Việt Nam, người mẹ yêu nước, người mẹ thương những đứa con không phải do mình dứt ruột đẻ ra, người mẹ kháng chiến đã được ngợi ca ở những cung bậc cao nhất và trầm nhất, nhưng lại không vượt quá nhịp đập bình thường của trái tim con người. Chỉ với một bài hát ấy thôi, Trịnh Công Sơn đã xứng đáng với một giải thưởng cao nhất dành cho âm nhạc. Nhưng Trịnh Công Sơn đâu chỉ có mỗi bài Huyền thoại mẹ. Anh còn có hàng trăm bài hát để đời khác, những bài hát đủ sức làm say mê, day dứt, lay tỉnh nhiều thế hệ người Việt. Nhưng cũng như Phạm Tuyên, anh vẫn không có một giải thưởng cụ thể nào, dù ta có thể nói anh đã nhận được một giải thưởng cao nhất: đó là tình yêu của hàng triệu người Việt và không phải người Việt dành cho âm nhạc của anh.
         
        Bạn tôi, nhà thơ Vũ Ân Thy đã có bài viết rất hay nhằm "giải mã" ca từ trong âm nhạc Trịnh Công Sơn, khi anh tìm trong ca từ ấy thể thơ 3 chữ hay 4 chữ của đồng dao, 5 chữ hay 6 chữ của thể thơ kể chuyện trong thơ ca dân gian người Việt. Đúng là nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn là ca khúc đồng dao, nhiều ca khúc khác là những câu chuyện kể bằng âm nhạc rất bình thường, giản dị. Âm nhạc ấy đòi hỏi ca sĩ thể hiện không chỉ "bắt đúng kênh" mà còn phải tự biết "quên mình" hay "nhập hồn" vào ca khúc. Và phải hát thật giản dị, đúng như kiểu những người hát rong đã hát.

        Tôi nhớ, ngày mới giải phóng Sài Gòn, một băng cassette nhạc Trịnh Công Sơn và một chiếc máy cassette cũ đã theo tôi và nhà thơ Ngô Thế Oanh lang thang khắp miền Nam. Phải nghe nhạc Trịnh Công Sơn trong trạng thái hồn nhiên hoang dại và di chuyển liên tục như chúng tôi hồi ấy mới thấy… sướng. Nghĩa là người nghe cũng phải "nhập vai" người hát rong, cũng lang thang và "được tháo gỡ" mọi vướng víu, kể cả chuyện không biết trưa nay mình có được ăn cơm không và ăn ở đâu, thì lúc đó dường như âm nhạc Trịnh Công Sơn mới vào ta một cách trọn vẹn.
         
        Thanh Thảo

        http://www2.thanhnien.com.vn/Chaobuoisang/2007/3/25/186265.tno
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 01:09:32 bởi hoaha >
        #64
          hoaha 31.03.2007 01:12:04 (permalink)
          Giải mã nhạc thơ Trịnh Công Sơn


          Trịnh Công Sơn (24.2.1939 - 1.4.2001), nhạc sĩ tài hoa, nhà thơ xứ Huế. Gần 50 năm qua khi tác phẩm đầu tay Ướt mi xuất hiện, nhất là 5 năm trở lại đây từ khi nhạc sĩ qua đời, nhiều nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn được dàn dựng trên các sân khấu ca múa nhạc, băng đĩa..., sách viết về ông liên tục xuất bản. Tại sao nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn có sức lan truyền, thẩm thấu, lay động...?


          Nghe và gặp

          Thời kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong chiến khu, tôi may mắn làm việc, tiếp xúc với đời sống sinh hoạt văn nghệ các vùng tạm bị chiếm, các đô thị miền Nam. Ngay sau ngày 30.4.1975, tại ngôi nhà nay là trụ sở của Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM, các văn nghệ sĩ từ Hà Nội vào trong đó có nhà văn Hà Mậu Nhai, Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, nhà thơ Chế Lan Viên, nhà thơ Xuân Diệu, nhà văn Nguyễn Đình Thi, nhạc sĩ Hồ Bắc, nhà văn Hồng Duệ, nhà văn Thái Thành Đức Phổ, họa sĩ Mai Văn Hiến, Nguyễn Sáng cùng cánh văn nghệ sĩ trong R ra là họa sĩ Thanh Châu, Cổ Tấn Long Châu, Phạm Đỗ Đồng, Nguyễn Quang Sáng, Hoài Vũ, Giang Nam, Thanh Thảo... trò chuyện và im lặng mở băng, nghe nhạc Trịnh Công Sơn say sưa.

          Đã nhiều lần gặp và uống rượu với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, từ những nhận xét đột ngột của nhiều người, tôi hát, đàn, đọc, nghe... để tìm cho mình cách giải mã tác phẩm của ông. Có lần cùng Nguyễn Quang Sáng ở nhà Nguyễn Duy; có lần cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngân Vịnh, Thanh Quế... ở Đà Nẵng, có lần cùng Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Lâm, Nguyễn Khắc Phục, họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi ở nhà Hoàng Yên Di bên Nhà Bè và không ít lần ngồi quán cóc lề đường với Nguyễn Nhật Ánh...

          Sau bộ phim truyện của đạo diễn Hoàng Tích Chỉ về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Báo Thanh Niên lần đầu tiên đưa chương trình Duyên dáng Việt Nam về Quảng Nam - Đà Nẵng giới thiệu. Trịnh Công Sơn cùng ở chung với chúng tôi gồm Lê Nhược Thủy, ca sĩ Cẩm Vân, Quốc Triệu, Hồng Nhung, người đẹp Thanh Mai... Đỗ Trung Quân,... và tôi. Tối đến, bên bãi biển Thanh Khê, Mỹ Khê hay bên sông Hàn, xuống Hội An bên sông Hoài, lúc nào anh Sơn cũng uống rượu Chivas. Anh uống không ăn, chỉ nghe và nói rất ít khi có câu hỏi cần trả lời. Anh Sơn vui thích bất kỳ ai hát bài của mình và bao giờ anh cũng khen hay. Có nhiều đêm nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và nhà thơ Đỗ Trung Quân thức trắng uống rượu và trò chuyện. Tôi ngồi lắng nghe...

          Truyền thống từ thơ dân gian, dân ca

          Có thể dễ nhận biết được ca từ trong các bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn như là những bài thơ, khổ thơ ta thường gặp trong các bài thơ dân gian, dân ca miền Trung, mà Huế là một trung tâm văn hóa nổi trội. Bắt đầu từ những vần thơ dân gian, dân ca miền Trung xứ Huế: "...Trước bến Vân Lâu. Ai ngồi ai câu. Ai sầu ai thảm. Ai thương ai cảm. Ai nhớ thương ai...". Hay câu ca ví dặm Nghệ Tĩnh "Giận thì giận (nì). Mà thương thì thương. Anh ngược Đò Lường. Em không chịu nổi...".

          Các nhà thơ miền Trung đều có thơ hay thể loại 4, 5 chữ, như Xuân Diệu (Hà Tĩnh): "Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng vàng nhạt. Tôi muốn buộc gió lại. Cho hương đừng bay đi"; Lưu Trọng Lư (Quảng Bình): "Mưa chi mưa mãi. Lòng nhớ thương hoài?”, hay "Em không nghe mùa thu. Dưới trăng mờ thổn thức”; Hàn Mạc Tử (Quảng Bình): "Trước sân anh thơ thẩn. Đăm đăm trông nhạn về. Mây chiều còn phiêu bạt. Lang thang trên đồi quê..." đều là những áng thơ hay giàu truyền thống dân gian.

          Chúng ta thử đọc những bài... thơ hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Nào là thơ 3 chữ như đồng dao: Trời ươm nắng/Cho mây hồng/Mây qua mau/Em nghiêng sầu/Còn mưa xuống/Như hôm nào/Em tới thầm/Mang gió lên"; Thơ 4 chữ: "Mẹ ngồi ru con/Ru mây vào hồn/Lạy trời mưa tuôn..."; "Hà Nội mùa thu. Cây cơm nguội vàng. Cây bàng lá đỏ. Nằm kề bên nhau"... hay thơ 5 chữ: "Gió heo may đã về. Chiều tím loang vỉa hè. Và gió hôn tóc thề"...; "Đêm chong đèn (ngồi) nhớ lại. Từng câu chuyện ngày xưa. Mẹ về đứng dưới mưa. Che đàn con nằm ngủ..."...

          Từ tình ca, tâm ca cho đến những bài nhi ca... Trịnh Công Sơn đều làm thơ 3, 4, 5 chữ quen thuộc. Từ thơ cơ bản 3, 4, 5 chữ, chuyển hóa. Thơ 3 chữ: "Trời trong xanh. Đất hiền hòa. Bàn chân em. Đi nhè nhẹ...", biến hóa thành thơ 7 chữ hoặc ngược lại: "Em sẽ là mùa xuân của mẹ. Em sẽ là màu nắng của cha. Em đến trường học bao điều lạ. Môi mỉm cười là những nụ hoa"... Có khi thơ 4 chữ biến hóa thành 8 chữ "Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao... Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá vẫn cần có nhau”... Có khi thơ 5 chữ biến thành 10 chữ "Một người về đỉnh cao một người về vực sâu. Để cuộc tình chìm mau như bóng chim cuối đèo...". Thơ 3, 4, 5 chữ thoắt ẩn thoắt hiện, huyền ảo "Từ trên đất này những con người mới. Mọc lên tựa tia nắng cuối chân trời..." hay "Từ Bắc vô Nam nối liền cánh tay. Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà...

          Là gì nếu không phải là tính dân tộc đậm đà, đặc sắc, độc đáo trong thơ Trịnh Công Sơn - một hồn thơ Huế, một hồn thơ miền Trung, một hồn thơ Việt Nam.

          Cấu trúc nghệ thuật lập thể Picaso

          Ca khúc Trịnh Công Sơn dễ thuộc, trước hết vì thơ Trịnh Công Sơn dễ nhớ. Trịnh Công Sơn lại biết cách hát thơ đa dạng, phong phú nên nhạc ông càng long lanh sắc màu. Thơ - nhạc Trịnh Công Sơn là những khúc tư tình chân thành, say đắm và có chất của thiên tài mê hoặc. Cái chất mê hoặc nhiều khi... khó hiểu chính là ông kết hợp giữa tính dân tộc với quốc tế; tính độc đáo cá biệt với tính phổ biến hiện đại.

          Nhiều lần trò chuyện với bạn bè trong giới họa sĩ bạn thân của ông (bản thân ông cũng là một họa sĩ), được biết ông rất mê danh họa Picaso, ông tổ của một phương pháp nghệ thuật đã làm thay đổi, cách tân quan điểm cổ điển kinh viện của nghệ thuật thế giới - Nghệ thuật lập thể ! Cùng với nghệ thuật đồng hiện, nghệ thuật lập thể cho phép nghệ sĩ trên một không gian cụ thể, thời gian cụ thể, một mặt phẳng giới hạn... có thể biểu hiện tất cả các góc cạnh của hiện thực cuộc sống, lịch sử qua thế giới quan của chính mình.

          Thi pháp của Trịnh Công Sơn thực chất là thơ dân gian 4, 5 chữ truyền thống, nhưng được thể hiện và xây dựng trên nền tảng nghệ thuật lập thể, cho nên vừa truyền thống, vừa hiện đại, vừa độc đáo vừa phổ biến. Những tứ thơ, đoạn thơ lập thể của Trịnh Công Sơn tạo nên bề dày của ý tứ: "Rồi từ đây em gọi. Tình yêu cánh chim bay. Gọi thân hao gầy. Gọi hồn ngất ngây... Ôi tóc em dài đêm thần thoại"; "Tôi thu tôi bé lại. Làm mưa tan giữa trời. Tôi xin làm đá cuội mà lăn theo gót hài"... hay: "Người ngồi xuống hai vai gầy. Ôi yêu thương nghe đá buồn... Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao. Còn gì nữa đâu sương mờ đã lâu. Em đi về cầu mưa ướt áo. Đường phượng bay mờ không lối vào. Hàng cây lá xanh gần với nhau..." hay "... Ngày chủ nhật buồn. Còn ai còn ai. Đóa hoa hồng. Tàn hôn lên môi. Em gầy ngón dài. Lời ru miệt mài...", "Mây bay trên đầu và nắng trên vai. Đôi chân ta đi sông còn ở lại. Con tim yêu thương vô tình chợt gọi. Lại thấy trong ta hiện bóng con người...".

          Hiện nay, nhiều chương trình hòa tấu nhạc Trịnh Công Sơn được thực hiện bài bản và chuyên nghiệp. Nhận xét chung là đều gợi nhớ lời thơ của bài hát, hay có cảm giác đơn điệu (monotone). Tại sao vậy. Có lẽ vì người ta đã quen nghe nhạc phẩm. Và nhạc Trịnh Công Sơn cũng dùng để hát (nghĩa có lời). Trịnh Công Sơn làm thơ để hát cho nên ca từ đều là những bài thơ hoàn chỉnh. Và ngay việc phổ biến của bài hát Trịnh Công Sơn cũng có giới hạn nhất định - Ấy là chất thị thành của thanh niên học sinh sinh viên, trí thức trẻ.
          Sinh thời, Trịnh Công Sơn tâm sự: "Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những tình cảm của mình". Tác phẩm Trịnh Công Sơn là sự kết hợp hài hòa giữa gia đình (mẹ già, tiếng mõ tụng kinh), quê hương của người Minh Hương lập ấp xây làng tại Thừa Thiên - Huế, văn hóa Pháp, văn hóa phương Tây, của đời sống trí thức thị dân... và cuộc chiến tranh ác liệt...
           
          Vũ Ân Thy

           
          http://www2.thanhnien.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=181804
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 01:14:09 bởi hoaha >
          #65
            hoaha 31.03.2007 01:25:06 (permalink)
            Giây phút sáng tạo: trước tiên là sự ám ảnh...


            Với một nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 ca khúc – mà phần lớn được yêu thích ngay từ khi ra mắt lần đầu - lắm lúc người ta phải tự hỏi sức mạnh nào đã đưa ông đi đến những bờ cõi tuyệt vời của sáng tạo không ngừng ấy ?
             
            Trong triết học Mật tông có nói đến khái niệm về sự bùng nổ ý thức; tương tự, sáng tạo của con người cũng có những giây phút bùng nổ như vậy. Tất nhiên trước đó ta phải mang nặng trong tâm trí những ý tưởng, hình ảnh, triết lý... liên quan đến đề tài cần sáng tạo. 
             
            Trong sáng tác ca khúc chẳng hạn, trước khi viết ra một bài hát, tôi cũng phải suy nghĩ về nó rất dài lâu. Khoảng thời gian đó là vô hạn định, có thể là một ngày, một năm hay lâu hơn nữa. Đến khi tác phẩm hoàn toàn rõ ràng trong đầu thì việc chép ra có thể chỉ trong phút giây. Đó chính là giây phút bùng nổ quan trọng nhất của sáng tạo, nó vỡ ra tất cả những gì chưa giải quyết được còn dồn lại trong đầu bấy lâu. Nếu chỉ nhìn vào thời gian tác phẩm được ghi lại – có thể là một giờ, một ngày - người ta có thể cho rằng việc sáng tạo thật ngắn ngủi và dễ dàng, nhưng có ai tưởng được rằng tất cả những điều đó đã được tích lũy qua năm tháng. Bất cứ tác phẩm nào cũng phải như thế cả. Sáng tác nào không được phát thảo trước trong ý thức như vậy, thì khi nó ra đời cũng chẳng có giá trị gì.
             
            Đôi khi ai đó thấy tôi lang thang trên phố, đứng ngắm một bức tranh hay che tay đứng nhìn một ngọn nắng; cứ tưởng là chơi, nhưng đó là những lúc trí óc tôi đang loay hoay với đề tài mà mình đang suy tưởng. Trên 600 ca khúc tôi viết – ví dụ như bài Hoa Xuân Ca hay Quỳnh Hương - đều ra đời như vậy, từ một hội ngộ kín đáo giữa tôi và cuộc đời trong một dịp ngẫu nhiên nào đó. Nhìn thấy một ánh nắng, một giọt mưa hay một người con gái trên đường, trong tôi có thể bỗng vỡ vạc những cảm giác cuối cùng ập đến, khơi mở, hoàn thiện cho một cái mới. Muốn được như vậy tôi phải làm một chứng nhân của nắng mưa, của sáng chiều, sớm tối. Những cái tưởng chừng lặng lẽ đó đầy sức sống và ban tặng cho mình vô vàn những điều sâu sắc. Tôi cũng làm chứng nhân về những người già, em bé, những người thiếu nữ, sự hạnh phúc, cái chết, sự sống. Mỗi khi ghi nhận những hình ảnh đó vào trí nhớ, tôi bao giờ cũng bị giam, bị vây nhiều giờ phút nghĩ về con người và soi rọi lại mình để hình thành một ca khúc.
             
            Cũng có những tác động tưởng chừng là bất ngờ ập đến, tạo ra một niềm cảm hứng. Nhưng hãy ngẫm nghĩ mà xem, nếu như không có sự tư duy, nuôi dưỡng từ trước thì cảm hứng chẳng thể nào trào dâng lên được. Ngược lại, sự ngỡ ngàng do cái mới bất ngờ ập đến chỉ có thể tạo nên sự trống rỗng, vô hồn, hoặc chỉ đơn thuần ghi chép lại chứ không là sáng tạo.
             
            “Một hôm thấy ta là lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do...”, tôi còn nhớ ca khúc này và sự chiêm nghiệm của mình như là một tổng kết những gì mà tôi cảm nhận được từ cuộc đời của tôi, của mọi người. Thực lòng mà nói, tôi chịu ảnh hưởng của Albert Camus trong bài hát này. Trong tác phẩm « Ghi chép ở Angiêri » (« Notes d’Algérie »), ông ghi lại những tiếng chó sủa ban đêm, những bước chân đi mà ai cũng có thể một lần nghe thấy trong đời mình nhưng không mấy người nhìn ra được điều đó từ chúng. Ngẫm lại đời mình, tôi thấy tôi nhiều muộn phiền. Không hiểu vì sao tôi đã ray rứt về sự ra đi, ở lại của cuộc đời từ rất sớm. Tôi đã chọn hình tượng lá cỏ để ví với mình. Vì sao lại là lá cỏ? Có thể cuộc đời rộn ràng có quá nhiều điều để ta phải lưu ý, nhưng trong đó không thể không có sự góp mặt của những điều nhỏ nhoi. Ngọn cỏ, lá cây hay cây đa đều có bổn phận của nó với cuộc đời. Cỏ có bổn phận cỏ, lá có bổn phận lá. Tôi không mơ ước gì to lớn, mà nghĩ mình như một phận cỏ hèn. Vì hèn mọn nên nó không phải to lớn và có bổn phận nặng nề như cây đa, vì vậy nó tự do lắm. Và vì sao lá cỏ lại hát? Bài hát là phương tiện để bày tỏ lòng mình với cuộc đời, có gì đẹp hơn chiếc lá cỏ nhỏ nhoi nhưng tự do ca hát với đời mình? Rũ bỏ những muộn phiền và thảnh thơi đời mình , điều này đã ám ảnh tôi từ lâu, lâu lắm rồi, nhưng chỉ đến khi viết được những câu hát như vậy tôi mới thấy nhẹ lòng. Ý tưởng này quanh quẩn trong tôi nhiều năm và chỉ được giải tỏa khi sáng tạo vụt đến và bật được thành những giai điệu như vậy.
             
            Tôi cũng muốn nói với các bạn trẻ sáng tác sau này, ngoài sự tư duy về tác phẩm, về đề tài, còn phải tạo cho mình một nền tảng về triết học. Chính từ đây mà trong tác phẩm của mình mới có được sự sâu sắc. Nếu như ít đọc sách thì mình chẳng thể nhận thêm những chiêm nghiệm sâu sắc của người khác. Một mình mình suy nghĩ thôi thì không đủ vốn liếng với cuộc đời. Chính tôi cũng không thể đứng ngoài con đường ấy được...
             
            Phỏng vấn Trịnh Công Sơn,
            Tuấn Anh ghi.

            Tuổi Trẻ Chủ Nhật
            số đề ngày 10/11/1996)
             
            http://www.tcs-home.org/writings/giay-phut-sang-tao/

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.03.2007 01:26:23 bởi hoaha >
            #66
              hoaha 19.04.2007 23:10:34 (permalink)
              6 năm nhớ Trịnh, cảm xúc vẹn nguyên
               
              Tối qua, hơn 4.000 khán giả đến với đêm nhạc "Nhẹ nhàng như mây..." diễn ra tại Hội quán Hội ngộ Bình Quới (TP HCM). Giản dị, đẹp và sang trọng là ấn tượng mà gần 20 nghệ sĩ, ngôi sao làng nhạc thành phố mang đến cho các tấm lòng yêu nhạc Trịnh.

              Hồng Nhung xuất hiện trong chiếc áo dài trắng đơn sơ và hát Tuổi đá buồn, Diễm xưa với chất giọng "nhẹ như mây...". Nếu không có đôi mày hơi nhíu để cố kìm nén cảm xúc lúc hát, lúc tâm sự vài kỷ niệm nhỏ về Trịnh Công Sơn, nàng "Bống" trông trẻ trung, tươi tắn như không có tuổi. "Bống" khóc sau khi kết thúc Diễm xưa.  
               






              6 năm nhớ Trịnh, Bống hát với giọt nước mắt trên mi.
              Sau "Bống" là những gương mặt quen thuộc khác như: Lan Ngọc, Mỹ Hạnh, Đức Tuấn, AC&M, Trần Mạnh Tuấn, nhóm Mặt trời đỏ, Thủy Tiên, hai chị em song sinh Minh Thư - Minh Tú (Tam ca áo trắng), nhạc sĩ - ca sĩ hải ngoại Đức Huy... Họ đã biểu diễn hết sức mình trên một sân khấu thiết kế đơn giản hình chiếc lá màu trắng, dụng ý làm phông nền cho hình ảnh những đồng mạ non xanh mát, biển sóng ầm ào, rừng thu lá vàng xao xác... 
              Năm nay, thời tiết đẹp tuyệt vời là một thuận lợi lớn cho ca sĩ. Giữa những đèn lồng to rải đều trước sân khấu và treo trên nhành cây, chiếc "đèn" đẹp nhất, to nhất chính là nàng trăng của đêm trước ngày thanh minh, tròn trong vành vạnh treo lơ lửng ngay trên sân khấu. Chắc có lẽ đó là lý do khiến người ta dù đã nghe Trịnh quanh năm suốt tháng, nghe Trịnh trong những phòng trà ấm cúng lẫn khán phòng sang trọng, hay cà phê cóc, thì họ vẫn muốn về nơi lá gió của Hội quán, để giữa xào xạc cây trời mà tiếp tục lắng lòng cùng giai điệu của ông. 






              Trần Mạnh Tuấn chơi kèn giữa đèn lồng, trăng cao và người đẹp.
              Nhiều khán giả nhận xét, MC Đỗ Trung Quân nói chuyện duyên hơn các năm. Không phải chỉ vì dẫn chương trình cùng anh còn có cô gái xinh đẹp, MC Xuân Hiếu của đài HTV, mà vì dường như ở "người đàn ông có vẻ đẹp tiều tụy" này (như anh tự nhận xét về mình), việc làm MC cho những đêm nhạc tưởng nhớ Trịnh tại Bình Quới là hình ảnh quá quen thuộc với mọi người.
              Đỗ kể về một chuyến ra Hà Nội, vô tình được bạn dẫn đến Cuối Ngõ, một quán cà phê nhạc Trịnh. Ông chủ quán từng là dân anh chị, vì mê nhạc Trịnh đã "gác kiếm hoàn lương" về mở quán cà phê, lập bàn thờ Trịnh, ngày ngày thắp hương cho người nhạc sĩ tài hoa. Đó không phải là chuyện của ngày Cá tháng 4, mà là sự thật về một tấm lòng giống như nhiều tấm lòng khác. 






              Nhạc sĩ - ca sĩ Đức Huy giành được nhiều tình cảm của khán giả bằng giọng hát êm đềm và phong cách giản dị.
              Khi mỗi bài hát kết thúc, hoặc đến đoạn nghệ sĩ biểu diễn hay quá, tiếng vỗ tay lan xa từ những bãi cỏ kéo dài đến gần khán đài, nghe như từng đợt sóng. Hàng nghìn người ngồi trong trật tự. Người chiếm được góc gần sân khấu thì hể hả ra mặt. Có người chấp nhận đứng. Có người ngồi xa khuất trên những thảm cỏ, không xem chỉ cúi đầu nghe. Đêm nhạc kết thúc, dòng người đổ ra con đường nhỏ của khu Hội quán, không quá ồn ào, náo nhiệt và có những lời hẹn "năm sau lại đến nghe...".
               
              Bài, ảnh: Anh Vân
               
              http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/2007/04/3B9F4B42/
               
               
              #67
                hoaha 19.04.2007 23:37:45 (permalink)
                Bài hát đầu tiên
                Sâm Thương

                Năm 1958, Sơn sáng tác ca khúc Ứớt Mi được Nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sàigòn năm 1959. Thật ra, theo như lời Sơn kể lại thì trước đó Sơn cũng đã sáng tác một số bài như Sương Đêm, Chơi Vơi “Rất nhiều bài hát đã được viết trước bài ‘‘ Ướt Mi” nhưng riêng bài Ướt Mi thì tồn tại như một số phận của nó và của tôi”(1), do đó có thể coi Ướt Mi là tác phẩm đầu tay của Trịnh Công Sơn chính thức được công bố.
                Trong một tối, Trịnh Công Sơn đã cùng một vài người bạn đến Mỹ Cảnh, một phòng trà nổi tiếng của Sàigòn thời ấy để uống rượu và nghe nhạc. Tình cờ Sơn được nghe tiếng hát của một ca sĩ chỉ mới 15 tuổi, người Huế : Thanh Thúy, người mà Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã dành một chương trong trong tác phẩm Nhận Định IV (2) mang tên Ảo Ảnh Thanh Thúy để viết về cô:
                “ (…) Thường một ca sĩ ra hát, bao giờ cũng cố gắng làm sao cho người khác để ý đến mình, không những chỉ bằng sự hiện diện trước mặt họ mà còn bằng những cử động, những cái nhìn, nụ cười chiếu thẳng vào khán giả mong làm hài lòng khán giả như mời gọi, quyến rũ. Đứng trước máy vi âm, ca sĩ chú ý đến khán giả mong làm hài lòng khán giả bằng sự phô trương tất cả con người của mình.
                Trái lại Thanh Thúy ra hát, dĩ nhiên cũng là hát cho khán giả, nhưng làm ra vẻ không chú ý đến khán giả, không tự giới thiệu, đi đến với khán giả bằng cử chỉ nụ cười, cái nhìn Thanh Thúy e lệ, kín đáo, bước ra rụt rè như con cò, tiến đến gần máy vi âm, mà không đưa mắt nhìn vào khán giả. Lúc hát không làm một cử động nào, hai tay luôn luôn nắm lấy cây sắt của máy vi âm, mắt nhìn xuống đất hoặc nhìn ngang, thỉnh thoảng mới nhìn lên lướt qua rất nhanh khán giả mà không cố ý nhìn một ai. Thanh Thúy không nhìn ai, để trở thành vật được nhìn của tất cả. Hình như đôi lúc Thanh Thúy lại nhắm mắt hay chỉ mở lim dim…
                (…) Đứng trướcThanh Thúy, nghe Thanh Thúy hát những bài buồn buồn bằng một giọng trầm, với những nét mặt xa vắng, khán giả như thấy bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi nhưng cũng rất gần gũi quen thuộc, một dĩ vãng dệt một hình ảnh rung động, cảm nghĩ gắn liền với lịch sử đất nước, với thôn quê , đồng ruộng , với sông Hương , núi Ngự, tiêu biểu cho những gì là dân tộc, cá tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định…Thanh Thúy là hiện thân của nỗi buồn đó.

                Giọng ca trầm buồn và phong cách trình diễn của Thanh Thúy đã gây cho Sơn một ấn tượng đặc biệt. Ngay trong đêm nhạc đó, Sơn đã viết một mảnh giấy nhỏ đề nghị Thanh Thúy hát bài Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong. Thanh Thúy nhỏ nhẹ cám ơn, rồi cất tiếng hát. Khi hát do có tâm sự riêng, nghe đâu cha cô vừa mất trước đó vài tháng và mẹ cô bị lao phổi đang trong tình trạng trầm trọng. Cô đã không kiềm chế được cảm xúc, cứ để cho tình cảm tràn đầy, cô vừa hát vừa khóc.
                Sau khi quay về Huế, có lẽ vào một đêm mưa, cơn mưa của Huế, Sơn đã nhớ lại những giòng nước mắt lăn dài trên má của cô ca sĩ trẻ với số phận bất hạnh, “những giọt nước mắt ấy như một cơn mưa nhỏ trên tâm hồn mỏng manh của tôi đã khiến tôi phải lùi xa hơn nữa về một cõi đời nào còn xa xôi hơn đã từng làm tôi nhỏ lệ.
                Phải có một nỗi tuyệt vọng nào đó khởi đầu để tôi không ngừng dan díu với những giọt nước mắt của đời làm của cải riêng tư. Eva ăn trái cấm và sự sống thành hình. Tôi e cũng đã từng nuốt những giọt nước mắt để biết tận tình nói về những giọt nước mắt kia (3).
                Những giọt nước mắt đó đã trở thành một ám ảnh, một thôi thúc làm bùng lên ngọn lửa sáng tạo đang âm ỉ cháy trong Sơn. Và, Sơn đã viết ra như không kiềm giữ được:


                Buồn ơi trong đêm thâu
                Ôm ấp giùm ta nhé
                Người em thương mưa ngâu
                Hay khóc sầu nhân thế
                Tình ta đêm về có ấm
                từng cơn mưa em chưa (…)
                Ướt Mi (4)

                Bài hát Ướt Mi ra đời trong một hoàn cảnh như thế, và nó đã được giới trẻ miền Nam đón nhận nồng nhiệt vào những năm 1959-1960, đặc biệt khán giả Nhật Bản cũng rất thích bản nhạc này, một phần do dàn nhạc giao hưởng của Nhật đã thu và trình diễn. Với âm điệu đó, ngôn từ đó hình như anh đã nói thay họ những gì trong cái góc riêng tư, sâu kín nhất nhưng lại như có vẻ giản dị, dễ cảm thông mà họ không thể nói được.
                Tiền bản quyền của ca khúc Ướt Mi mà Nhà xuất bản An Phú đã trả cho Sơn là 5.000 đồng (5), một số tiền quá lớn. Anh đã bất ngờ với số tiền mà mình nhận được. “Dạo ấy, trong đầu hoàn toàn chưa có một khái niệm nào về tiền tác quyền. Ở tuổi hai mươi, trong tâm trí đang còn phơi phới những ý đồ hiệp sĩ. Số tiền năm ngàn hồi ấy quá lớn đã được dùng một phần tặng người ca sĩ và phần còn lại chia đều cho các bạn cùng ở trọ. Mỗi tháng tiền ăn ở cho một học sinh, sinh viên chỉ có năm sáu trăm đồng.
                Nguồn cảm hứng đầu tiên ấy đã làm cơ sở cho một loạt những cảm xúc khác thành hình. Như một khu rừng mùa thu yên tĩnh được một cơn gió thổi bùng lên đánh thức lớp lá vàng dậy, tâm hồn tôi đã bắt đầu biết xôn xao theo những tín hiệu, dù nhỏ nhất của cuộc sống. Tôi không còn nhìn ngắm cuộc sống một cách lơ đãng như trước nữa mà càng lúc càng thấy mình bị cuốn về phía những tình cảm phức tạp của con người.
                Những trái cây đầu mùa ấy còn vụng về, chưa có vóc dáng riêng, nhưng nó mang đến niềm thích thú để từ đó sẵn lòng làm một cuộc hành trình dài lâu đi vào cái bề sâu của âm thanh và ngôn ngữ.” (6)

                Một năm sau, năm 1959, một lần nữa, Sơn viết một bài khác, cũng để tặng người đã hát bài hát đầu tiên của mình. Bóng dáng người nữ ca sĩ nhỏ nhắn đêm đêm sau xuất hát hấp tấp bước vào ngõ tối trên đường Cao Thắng trở về nhà với mẹ. Đó là ca khúc Thương Một Người như để chia sẻ trên đôi vai cô ca sĩ trẻ sớm gánh chịu nỗi nhọc nhằn.

                Thương ai về ngõ tối
                Sương rơi ướt đôi môi
                Thương ai buồn kiếp đời
                lạnh lùng ánh sao rơi.
                (...)
                Thương ai về xóm vắng
                Đêm nay thiếu ánh trăng
                Đôi vai gầy ướt mềm
                người lạnh lắm hay không.
                Thương một người (7)

                Với Thanh Thúy, tình cảm mà Trịnh Công Sơn đã dành cho cô không biết có phải là tình yêu hay nỗi niềm cảm thông trước số phận nghiệt ngã của người đồng điệu? Hình như chính Sơn cũng không phân định được.

                Sâm Thương

                ____________

                (1) Trịnh Công Sơn, Trịnh Công Sơn, Người hát rong qua nhiều thế hệ, Nhà Xuất Bản Trẻ, 2003, tr.16.
                (2) Nguyễn Văn Trung, Nhận Định IV , Nam Sơn xuất bản, 1966, tr. 148-150.
                (3) Trịnh Công Sơn, Sđd, Nhà Xuất Bản Trẻ, 2003, tr16.
                (4) Trịnh Công Sơn, Ướt Mi, Nhà Xuất bản An Phú,1959.
                (5) Theo thời giá năm 1956, một lượng vàng khoảng hơn 1.000 đồng .
                (6) Trịnh Công Sơn, Trái Đầu Mùa, Bản thảo viết tay.
                (7) Trịnh Công Sơn, Thương một người, Nhà xuất bản An Phú, 1960.

                 


                #68
                  hoaha 19.04.2007 23:49:35 (permalink)
                  Tình yêu đầu tiên
                  Sâm Thương


                  Nhờ mối quan hệ với Hà Thanh, một ca sĩ của đài phát thanh Huế, cũng là ca sĩ đã hát những bản nhạc đầu tiên của Sơn vào thời kỳ đó. Sơn quen và yêu Ph. Th., em gái của Hà Thanh. Nhà Ph. Th. ở trên đường Huyền Trân Công Chúa, gần ga xe lửa Huế, trước mặt nhà là con đường, tiếp giáp với một nhánh nhỏ của sông Hương chảy qua Bến Ngự, Phủ Cam, về An Cựu, bên kia sông là trường Pellerin. Lúc quen với Sơn, Ph. Th. mới học đệ tam (lớp 10) trường Đồng Khánh, 16 tuổi và Sơn chỉ mới 18 tuổi chứ không phải tuổi 15 như Sơn viết trong Nhật ký tuổi 30 (1)

                  Mối tình của đôi trai gái mới lớn, chớm nở giữa một khung trời rất ư thơ mộng với những con đường thẳng tắp, những hàng cây xanh mướt, những dòng sông, những chiếc cầu, những con đò, những lăng tẩm thành quách cổ kính, đến những lá thư hò hẹn, và những nụ hôn vụng về thơ dại… cùng với không biết bao nhiêu buộc ràng thành kiến …

                  Trong nắng vàng chiều nay
                  anh nghe buồn mình trên ấy
                  Chiều cuối trời nhiều mây
                  đơn côi bàn tay quên lối
                  đưa em về nắng vương nhè nhẹ
                  Đã mấy lần thu sang
                  công viên chiều qua rất ngắn
                  Chuyện chúng mình ngày xưa
                  anh ghi bằng nhiều thu vắng
                  đến thu này thì mộng nhạt phai(…)
                  Nhìn những muà thu đi (2)

                  Hoặc

                  Em đứng lên mùa thu tàn tạ,
                  hàng cây khô cành lá bơ vơ,
                  hàng cây đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô.
                  Em đứng lên mùa xuân vừa mở
                  nụ xuân xanh cành thênh thang
                  chim về vào ngày tuổi em trên cành bão bùng
                  Gọi tên bốn muà (2)

                  Sau khi đậu tú tài bán phần Ph. Th. chuyển qua học lớp đệ nhất trường Quốc Học niên khóa 1961-1962, học chung lớp với nhà thơ Phan Duy Nhân, Trần Vàng Sao, Châu Văn Thuận và luôn với D., người yêu sau này của Sơn. Vì trước niên khóa 1963-1964 ở Huế chỉ có trường Quốc Học mới có lớp đệ nhất (lớp 12) nên tất cả các nam nữ học sinh đậu tú tài bán phần ở Huế, bao gồm cả Quảng Trị, Đà Nẵng đều được nhận vào đệ nhất ở Quốc Học. Kể từ niên khóa 1963-1964 không còn tình trạng nam nữ học chung, trường Đồng Khánh cũng đã bắt đầu có các lớp đệ nhất.
                  Niên khóa 1961-1962, Ph. Th. học đệ nhất C2 thì tôi mới học đệ nhị B9, sau Ph. Th. một năm. Nhưng hình ảnh cô với mái tóc thề buông xoã bờ vai, trong chiếc áo dài lụa trắng với dáng đi tha thướt, quý phái giữa đám đông, mỗi sáng mỗi chiều trước giờ học từ cổng trường (cổng chính chỉ dành cho giáo sư và nữ sinh) đi vào vị trí xếp hàng chào cờ của lớp mình. Bước chân cô đi thật nhẹ, tà áo bay bay đã làm xao động biết bao tâm hồn nhạy cảm của đám bạn bè cùng trang lứa với tôi thuở ấy.

                  Mối tình giữa Sơn và Ph. Th. vẫn lãng mạn và thánh thiện. Đó là mối tình đầu với biết bao nhiêu e ấp vụng dại, chưa định hình như bao mối tình thuở học trò thời đó. Dù lúc ấy, tên tuổi Sơn đã được nhiều người biết đến, nhất là với một thành phố nhỏ như Huế. Sơn vẫn như bao chàng trai xứ Huế khác vào tuổi đó, chưa có kinh nghiệm đời, Sơn cũng chưa bao giờ dùng kinh nghiệm đời của anh trong tình yêu. Anh chỉ biết yêu và hiến dâng, chưa bao giờ toan tính. Cho đến khi Ph. Th. đi lấy chồng, một giáo sư đại học, Sơn mới giật mình, chợt hiểu ra mình đã mất đi tình yêu, nó đã để lại những dư vị đắng cay đối với Sơn. ‘‘Thời gian mơ ước được làm người lớn cũng là thời gian của mối tình đầu tiên. Cũng là thời gian được yêu và được nhìn người yêu mình đi lấy chồng. Cuộc tình duyên không cân xứng về tuổi tác nhưng cân xứng về danh vọng và nhan sắc. Điều này đã trở thành cổ điển và không gây thêm được một chút ngạc nhiên nào trong xã hội nho nhỏ của thành phố. Tuy thế, riêng tôi, là một thất vọng không lường được. Sau đó là những mối tình khác nhau nhưng tôi vẫn khó xóa được mặc cảm (tuy càng ngày càng mỏng dần trong tôi) đối với thành phố này …” ( 1 )

                  Ph. Th. hiện sinh sống ở Mỹ, sau khi chồng mất vẫn ở vậy nuôi con ăn học. Năm 2000 Ph. Th. có trở về Việt Nam. Cuộc gặp gỡ giữa Ph. Th. và Sơn lần nầy chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ, khơng hẹn trước sau mấy chục năm, tôi có mặt trong buổi cơm thân mật hôm đó. Nhìn gương mặt Ph. Th. tôi đã cố nhớ lại dáng vẻ của cô trong tà áo lụa trắng, với chiếc cặp ôm trước ngực trên sân trường Quốc Học năm nào. Thời gian có phần nào làm Ph Th. thay đổi, nhưng ở cô vẫn giữ dáng vẻ dịu dàng, đoan hạnh và vẫn chất giọng Huế quen thuộc.

                  Sâm Thương

                  ________________________
                  (1) Trịnh Công Sơn, Nhật ký tuổi 30, Tuổi Trẻ Chủ Nhật, 8.4.2001.
                  (2) Trịnh Công Sơn, Những bài ca không năm tháng, nxb Âm nhạc, 2000.
                   
                  http://www.tcs-home.org/ban-be/sam-thuong/tinh-yeu-dau-tien
                  #69
                    hoaha 19.04.2007 23:54:52 (permalink)
                    Người vẫn quanh đây
                     
                    30-03-2007 22:45:55 GMT +7
                     
                     
                    Sáu năm, thời gian đủ để nhiều người lãng quên một cuộc tình, song với nhiều người yêu nhạc, Trịnh Công Sơn vẫn còn hiển hiện . Các ca khúc của anh vẫn còn đó, trên sân khấu, ở quán cà phê, trong lời thầm thì của những lứa đôi... Từng ngày đi qua, những ca khúc của anh vẫn vang vọng tưởng chừng như anh chưa hề có chuyến đi xa.


                    Những năm tháng cuối cùng trước khi trở về cát bụi, Trịnh Công Sơn đã có một bài viết ngắn như những lời tạ từ cái cõi tạm mang tên trần gian mà anh đã sống trọn đời bằng tất cả yêu thương và tận hiến. Bài viết đó mang tựa đề: “Tôi đã mơ thấy chuyến đi của mình”.
                    Vẫn là chữ nghĩa của Trịnh Công Sơn nhẹ nhàng, sâu lắng, chẳng lẫn vào đâu được, anh mở đầu thật buồn bã: “Càng sống nhiều ta càng thấy cái chết dễ dàng đến với bất cứ một ai. Chết quá dễ mà sống quá khó. Hôm qua gặp nhau đấy ngày mai lại mất nhau. Sống thì có hẹn hò hôm nay hôm mai. Chết thì chẳng có cuộc hẹn hò nào trước...”. Rồi đang trăn trở về lẽ tử sinh của kiếp người, anh lại nói về tình yêu với một chút đắng cay nhưng ngập tràn độ lượng: “...Càng yêu ta càng thấy có tình yêu thì khó mà mất tình thì quá dễ. Hôm qua mới yêu nhau đấy, hôm nay đã mất rồi. Mất sạch như người đi buôn mất hết vốn liếng. Cứ tự an ủi mình khi nghĩ rằng mình đau khổ thì có kẻ khác đang hạnh phúc... Có người bỏ cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Có người bỏ cuộc tình mà đi như người đãng trí. Dù sao cũng đã lãng quên một nơi này để đi về một chốn khác. Phụ đời và phụ người hình như cũng vậy mà thôi...”. Quả thực, không dễ dàng để thuộc lòng một bài văn xuôi như những tình khúc bất hủ của anh, nhưng không ít người đã đọc đi đọc lại đoạn văn này nhiều lần bởi họ đã bắt gặp nỗi niềm của riêng mình trong đó.


                    “Con đường duy nhất đi đến với người khác trên mặt đất không phải là sự độc ác mà chính là lòng nhân ái vô biên” (Trịnh Công Sơn)
                    Bây giờ đã là ngày cuối tháng ba, chỉ còn một hôm nữa là đến ngày cá tháng tư (l-4), ngày nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bỏ cuộc đời mà đi như một giấc ngủ quên. Mới đó mà đã sáu năm tròn, thời gian đủ để nhiều người lãng quên một cuộc tình. Thế mà với Trịnh Công Sơn thì dường như chỉ mới hôm qua, vẫn mơ hồ chưa có cuộc chia ly nên cho dù anh đã xa mặt vẫn chưa đủ để cho người ở lại cảm thấy cách lòng. Tính ra, kể từ năm 1958, khi viết ca khúc đầu tiên mang tên Ướt mi cho đến ngày tim anh ngừng đập, Trịnh Công Sơn đã có 43 năm sống thủy chung với dòng nhạc riêng mình bằng cảm xúc ca từ tuyệt vời đến độ xuất quỷ nhập thần. Không ai có thể đưa ra được con số chính xác trong suốt 43 năm sáng tác đó, Trịnh Công Sơn đã để lại cho đời bao nhiêu ca khúc? Có người nói 800, có người nói 1.000, nhưng cho dù là bao nhiêu đi nữa thì âm nhạc của anh đã lắng sâu vào lòng người để trở thành bất tử. Năm 1972, người Nhật trao tặng anh giải Đĩa Vàng với bài hát Ngủ đi con (dành cho đĩa nhạc nước ngoài phát hành trên hai triệu bản) và người Pháp đã trân trọng ghi tên anh vào từ điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde cũng đủ để xác nhận Trịnh Công Sơn là một trong những thiên tài âm nhạc của nhân loại. Nhưng anh lại là một con người quá cô đơn, cô đơn bởi tâm hồn anh quá lớn, khó tìm được một tri kỷ để chứa đựng hết cảm xúc, trăn trở chất chứa trong tim. Vì thế mà anh độ lượng với đời, chan hòa với người, gửi gắm, sẻ chia, với từng bằng hữu, mỗi người một ít, dù thân hay sơ cũng được anh đón nhận bằng tất cả chân tình.
                    Không ít người chưa một gần gặp Trịnh Công Sơn, nhưng khi anh đi rồi, họ lại tiếc thương như một người ruột thịt. Trên đường Âu Cơ, quận Tân Bình - TPHCM, một cô gái chủ một quán cà phê đã đúc một pho tượng Trịnh Công Sơn bằng đồng đặt chính diện quán, suốt ngày nghi ngút khói hương. Một nhà giáo trên đường Nguyễn Đình Chiểu, quận 3 đã làm hai trang thờ đối diện nhau trong phòng khách với hai bức di ảnh được phóng lớn: một bên là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, một bên là nhà thơ Bùi Giáng...
                    Với nhiều người yêu nhạc, Trịnh Công Sơn mãi mãi vẫn còn trong tim họ, vẫn còn hiển hiện giữa đời. Từng ngày đi qua, những ca khúc của anh vẫn vang vọng tưởng chừng như anh chưa hề có chuyến đi xa. Và như thế Trịnh Công Sơn đã quá linh thiêng khi thảng thốt viết lên những lời tiên tri: “Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây...”
                     
                    ĐOÀN THẠCH HÃN
                     
                    http://www.nld.com.vn/tintuc/van-hoa/184593.asp
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2007 00:00:15 bởi hoaha >
                    #70
                      chuthuongthoi` 16.05.2007 19:57:49 (permalink)
                      Trịnh công Sơn !
                      từng một thời với tôi là thần tượng . . .
                      Xin được post lên đây một bài viết vừa tình cờ đọc được .
                      sống trên đời cần một tấm lòng
                      chẳng cho ai cả
                      chẳng làm gì hết

                      chỉ để gió cuốn đi thôi !

                      (Trịnh công Sơn vô ( ! ) tâm thế đấy !)

                      Theo chỗ tôi biết, trong số những người viết về cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh trong thời gian dạy học, chỉ có bốn người mới có thể có nhiều tài liệu sống về Trịnh Công Sơn, còn hầu hết đều cưỡi ngựa xem hoa, hoặc cặm cụi mày mò, đào xới trong các bài viết của nhiều người, cóp chỗ này một ít, chỗ kia vài chi tiết và đem các ca từ của họ Trịnh ra, sợi tóc chẻ làm tám, rồi dùng ngòi bút thần kỳ hô phong, hoán vũ, tô lục, chuốc hồng mà thôi.

                      Bốn người đó là: Hoàng Phủ Ngọc Tường - Khánh Ly - Trịnh Cung - Đinh Cường.


                      Thời gian Trịnh công Sơn còn sống, báo chí hải ngoại viết rất nhiều về người nhạc sĩ này, cả khen lẫn chê, nhiều khi đến độ gay gắt. Tôi cố tìm đọc những bài của ông Đinh Cường để xem lập trường của ông, nhưng không thấy. Mới đây ông Nguyễn văn Liễu tức họa sĩ Trịnh Cung có phát biểu một số điều tại Cali trong dịp tưởng niệm Trịnh Công Sơn. Trong đó có một số sự việc ông không phản ảnh đúng sự thật. Tôi nghĩ rằng ông quên hoặc ông suy diễn.

                      Mãi đến khi tờ Hợp Lưu, số 59, phụ trang đặc biệt Trịnh Công Sơn "Một cõi đi về", tôi mới được đọc một bài duy nhất của ông Đinh Cường. Cả hai ông Trịnh Cung và Đinh Cường đều nói là bạn lâu năm với Trịnh Công Sơn, từng cưu mang, chia ngọt, xẻ bùi cùng nhau cho đến ngày nhạc sĩ họ Trịnh từ giã cuộc đời. Nhưng tuyệt nhiên, người ta không thấy hai ông đả động gì tới vấn đề Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không?

                      Ca sĩ Khánh Ly hết lời ca tụng người nhạc sĩ này là điều đương nhiên, dễ hiểu. Nếu không có nhạc Trịnh Công Sơn chắp cánh cho Khánh Ly bay cao, thì suốt đời Khánh Ly chỉ là một cô bé "nhếch nhác", như lời ông Cung mô tả, ở tại Đà Lạt mà thôi. Ngược lại, nếu nhạc Trịnh Công Sơn không nhờ Khánh Ly "lăng xê chùa" trên Đài Phát Thanh Đà Lạt, ròng rã ba năm liền, từ 1964 đến 1967, và "đi chân đất" về Sài Gòn hát miễn phí cho sinh viên nghe thì liệu nhạc của họ Trịnh có được phổ biến rộng rãi như ngày nay không? Cần nhắc ở đây là trước 1964, từ cái thuở mới mười bảy tuổi, Trịnh Công Sơn đã có những bản nhạc rất hay như "Ướt Mi", "Thương Một Người", "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi" mà nào có tăm tiếng gì. Có chăng là những bạn bè trong giới Sư phạm hoặc một vài thân hữu chuyền tay nhau hát!
                      Người có thẩm quyền nhất để giải đáp thắc mắc của nhiều người liệu Trịnh Công Sơn có là Cộng Sản hay không chính là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng đến giờ này, tôi không thấy ông lên tiếng xác nhận. Hoặc có mà tôi không biết chăng?

                      Hai Năm Tại Trường Sư Phạm Qui Nhơn 1962-1964
                      Tôi học chung một khóa Sư phạm với Trịnh Công Sơn. Khóa I, ngày 22 tháng 4 năm 1962, khóa đầu tiên được mở ra tại thành phố Qui Nhơn, tỉnh Bình Định. Tên gọi khóa học là "Thường Xuyên", học hai năm, để phân biệt với "Khóa Cấp tốc", học một năm. Tiêu chuẩn tối thiểu để nộp đơn là Tú Tài I. Tuy nhiên khóa đầu tiên ấy đa số đã có Tú Tài II. Một vài người đã có một, hai chứng chỉ Đại học. Sĩ số giáo sinh là ba trăm người. Đa phần là người Huế, tỷ lệ có lẽ chiếm 60%. Số còn lại rãi rác ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa... lên tận các tỉnh cao nguyên Đà Lạt, Lâm Đồng, PleiKu, KonTum...

                      Trịnh Công Sơn theo ban Pháp văn. Tôi theo ban Anh văn. Hiệu trưởng là thầy Đinh Thành Chương. Ông này rất tôn sùng tổng thống Ngô Đình Diệm. Mỗi sáng thứ hai, chào cờ, Ông thường có những bài phát biểu trước giáo sinh, ca tụng công đức Ngô Chí Sĩ hết lời. Ngược lại, em Ông, giáo sư Đinh Thành Bài lại thiên Cộng. Trong những giờ dạy Sư phạm lý thuyết, thầy thường xen vào những lời ca ngợi chế độ Cộng Sản.

                      Năm 1963, phong trào Phật Giáo nổi lên, lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Một nhóm giáo sinh tổ chức tố khổ thầy Đinh Thành Chương, buộc Ông phải từ chức. Trịnh Công Sơn cũng bị lôi kéo theo trong vụ này. Mấy tuần sau, Bộ Giáo Dục phải bổ nhiệm giáo sư Mẫn mới từ Hoa Kỳ về, thay thế thầy Chương, nội vụ mới êm.

                      Còn nhớ, ngày nhập học đầu tiên, thầy Đoàn Nhật Tấn, dạy môn tâm lý giáo dục, đọc tặng học trò hai câu thơ:
                      Dưa leo chấm với cá kèo,
                      Bởi con nhà nghèo mới học Normal! (Sư phạm)

                      Đúng vậy! Đa số chúng tôi lúc ấy đều là con nhà nghèo. Hoặc học hành dang dở, hoặc cha mẹ không đủ khả năng tài chánh để gửi con ra Huế hay vào Sài Gòn tiếp tục học lên Đại học. Vì vậy chúng tôi đều cố thi vào Sư phạm để chắc chắn rằng sau hai năm sẽ có công ăn việc làm cho bản thân và có thể giúp gia đình. Tưởng cũng nên nói rõ ở đây tại sao chúng tôi cố thi vào Sư phạm. Thời gian đó hai ngành Y Tế và Giáo dục rất thiếu nhân viên. Khóa nào vừa đào tạo xong là được bổ nhiệm đi làm ngay. Trong khi các ngành khác như Công Chánh, Nông-Lâm-Súc, Kỹ Thuật Phú Thọ... ra trường, nằm nhà mấy năm vẫn chưa được bổ nhiệm.

                      Có một nghi vấn ở đây: Không biết ông Trịnh Cung vin vào đâu mà bảo rằng Trịnh Công Sơn vào được trường Sư phạm Qui Nhơn để núp bóng là nhờ hai ông Tường và Kha giúp đỡ. Có lẽ ông Cung đã nghe ông Tường, ông Kha hay là Sơn kể lại chăng?

                      Nói thêm một chút về chuyện thi vào Sư phạm. Đề thi thật ra không khó, nhưng để lọt được vào cửa ải, mỗi thí sinh phải chọi lại ít nhất mười đối thủ. Tính từ Quảng Trị, Trung Trung Phần đến miền cao nguyên hơn mười bốn tỉnh, Bộ chỉ chọn có ba trăm người. Vậy theo tiết lộ của ông Cung, người ta nghĩ đến hai vấn đề:

                      1/ Ông Tường hoặc ông Kha đã thi dùm cho Sơn? Hoặc hai ông có chân trong Ban Giám khảo, chấm cho Sơn đậu?

                      - Tại sao lại phải vào trường Sư Phạm núp bóng mà không là Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế? Nơi mà ông Cung với ông Cường theo học.

                      Ông Đinh Cường từng xác nhận là Sơn có tài hội họa, vậy thì thi vào Mỹ thuật có khó khăn gì, thi chi vào Sư phạm để phải nhờ đến sự giúp đỡ của hai ông Tường và Kha?

                      Thứ nữa, ông Cung chê nghề dạy học không xứng đáng với tài năng của Sơn (lúc ấy?). Và ông còn cho biết đã cưu mang Sơn.
                      Tôi không biết ông nói chữ "cưu mang" với một nghĩa nào. Theo chỗ tôi biết, đem chỉ số lương ra so sánh thì lương của Sơn phải hơn hẵn.

                      2/ Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp bóng. Cả hai ông Cung và Cường đều nói như thế. Vậy Trịnh Công Sơn vào Sư Phạm để núp ai? và núp cái gì? Sẽ có hai giải thích được đặt ra cho hai chữ "núp bóng"

                      a/ Sơn vào Sư Phạm để tạm thời trốn lính.

                      b/ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Văn Liễu (Trịnh Cung) và Đinh Cường đã có mưu đồ gài Sơn vào Sư Phạm để thực hiện sách lược "học đường vận"?

                      Giải thích một: không vững. Lúc đó Sơn đã có Tú Tài I. Đâu phải ở vào trường hợp "Rớt tú tài anh đi trung sĩ". Sơn có thể theo học bất cứ một trường Trung Học tư nào để thi lấy Tú Tài II vẫn được hoãn dịch theo luật định. Nếu cuối năm, thi hỏng, thì a-lê, mời anh vào Thủ Đức, vác Garant M1 đi "ắc ê" chín tháng quân trường. Sau đó mang lon chuẩn úy, đi "mút chỉ cà tha", bốn vùng chiến thuật, trả nợ nước non. Còn nếu anh bợ được cái Tú Tài II, thì anh cứ tà tà lên Đại Học. Chí ít cũng được hoãn dịch bốn năm nữa. Chính phủ Việt Nam Cọng Hòa đâu có chủ trương lùa hết trẻ, già, trai, gái, lớn, bé đi "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" như ở miền Bắc.

                      Ông Cường nói vì tình hình, thời cuộc lúc đó... lại càng khiên cưỡng. Những ai sinh từ năm 1940 trở về trước đều biết rất rõ rằng: Miền nam được hưởng một thời gian mấy năm rất thanh bình, kể từ ngày Ông Diệm chấp chánh (54-63) cho đến lúc Ông bị đám "Thập nhị Sứ quân" giết.

                      Giải thích hai: có lẽ thuyết phục hơn, nếu xét theo bề dày "thành tích" Sơn đã cúc cung tận tụy, phục vụ chế độ sau tháng Tư, bảy lăm. Nhưng suốt những tháng, năm sống chung với Sơn, tôi không thấy Sơn có một hành động cụ thể nào khả dĩ gọi là có vẽ "Việt Cộng". Trừ khoảng thời gian giữa năm 1965, Sơn nhận được nhiều thư từ của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và tiếp theo là những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc bí mật tại một trang trại ở Phim Nôm, gần Tùng Nghĩa, Đà Lạt với một nhân vật, Sơn dấu tên. Sau đó, Sơn mới vội vã sáng tác tập "Ca Khúc Da Vàng" trong vòng có ba tháng hè năm 1965. Loại trừ hai giải thích trên, Sơn vào Sư phạm với một lý do hết sức đơn giản là:

                      Dưa leo chấm với cá kèo.
                      Bởi con nhà nghèo mới học "Sư phạm".

                      (Cái sĩ diện hão của đa số người Huế cứ mơ về một thời vàng son làm "ôn" làm "mệ" cố che dấu cái hiện tại suy tàn đã đành. Còn ông Liễu là dân Nha Trang-Cầu Đá-Chụt chính tông mà cũng lập lờ "đánh bùn sang ao" quả là chuyện lạ)

                      Nhắc lại hai câu thơ của thầy Đoàn Nhật Tấn đã dẫn nhập để thấy rằng lúc ấy nhà Sơn đang lâm vào cảnh ngặt nghèo. Cha bị tai nạn mất sớm, gia đình khánh kiệt. Má Sơn phải chật vật lắm mới nuôi nỗi đàn con còn nhỏ dại. Sơn là con trưởng, phải bỏ dở chương trình học để lấy nốt cái Bac II Philosophie, về lại Huế để phụ giúp mẹ. Sư phạm Qui Nhơn là con đường ngắn nhất có thể giúp Sơn đạt được ý nguyện này. Những ngày mưa gió ủ ê, đất nhão, không đi ra ngoài được, nằm khoèo ở nhà, Sơn tỉ tê kể cho tôi nghe về cuộc đời của Sơn nhiều buồn vui lẫn lộn. Trong đó có cả điều thất vọng và thất tình về cô Diễm. Từ đó mới có bài ca thất tình diễm lệ "Diễm xưa".

                      Dù bất cứ ai, vô tình hay hữu ý, che dấu hay huyền thoại hóa Trịnh Công Sơn trong giai đoạn học Sư phạm và dạy học bằng những lý do rất "mờ mờ, ão ão" để đánh hỏa mù dư luận với mục đích thần tượng hóa đời thường của một nghệ sĩ, cũng cần cơm ăn, áo mặc... như mọi người, đều không giúp ích gì được trong việc cung cấp tài liệu để viết lại tiểu sử một người nghệ sĩ tài ba được nhiều người mến mộ. Có khi lại phản tác dụng.
                      Trường Sư Phạm và trường Kỹ Thuật Qui Nhơn được ngân sách Mỹ tài trợ, xây cất rất qui mô và tân kỳ. Hai trường nằm gần nhau tại Khu Sáu, sát bờ biển, khoảng giưã đường từ phố Gia Long đến Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử an nghỉ giấc ngàn thu. Qua khỏi Ghềnh Ráng là làng Qui Hòa, làng dành riêng cho người mắc bệnh cùi. Ở đó có nhiều bà "xơ" hy sinh một đời, tận tụy chăm sóc cho bệnh nhân.

                      Lúc bấy giờ, 1962, thành phố Qui Nhơn hãy còn tiêu điều xơ xác. Ngay con đường chính Gia Long, chạy dài từ Núi Một (Ga xe lửa) đến bến cảng hãy còn nhiều ngôi nhà vô chủ, đổ nát hoang tàn trong chiến tranh chưa có ai dọn dẹp. Đường Lê Lợi chạy từ trung tâm phố thẳng ra biển còn rất nhiều nhà tranh, vách lá.

                      Vẽ lại một vài hình ảnh cũ để cho thấy chính phủ lúc ấy có dụng ý khi cho xây cất hai ngôi trường đồ sộ tại đây. Mỗi năm hai trường qui tụ hơn một ngàn giáo sinh và học sinh kỹ thuật khắp nơi đổ về. Nền kinh tế tại đây đã nhanh chóng phục hồi.

                      Để quảng bá rộng rãi cho nhiều nơi biết về trường Sư Phạm, Ban Giám Đốc nhà trường cho thành lập một ban văn nghệ. Trịnh Công Sơn được bầu làm trưởng ban, chịu trách nhiệm tổng quát. Thanh Hải, phó ban thứ nhất, trách nhiệm về nhạc. Võ Văn Phòng, phó ban thứ hai, trách nhiệm về kịch. Một vỡ kịch thơ dài 45 phút nhan đề "Tiếng Cười Bao Tự" được dàn dựng. Tôi được chọn để thổi sáo đệm thơ. Nhân dịp này tôi mới biết và quen với Trịnh Công Sơn.

                      Một chương trình đại qui mô gồm đủ các tiết mục ca, múa, nhạc, kịch được Ban Văn nghệ hoạch định. Thêm vào đó là một tổ phụ trách ánh sáng. (Lúc đó rất hiện đại và tân kỳ. Dùng đèn chiếu slide làm hậu cảnh thay đổi mỗi màn trình diễn khác nhau. Dùng đèn quay, chớp chớp đổi màu rất đẹp mắt) Buổi trình diễn được ra mắt đúng ngày "Song Thất" năm đó, chứ không phải ngày mãn khóa như ông Đinh Cường nói.

                      Trong thời gian này, Trịnh Công Sơn sáng tác trường ca "Tiếng Hát Dã Tràng" hay gọi gọn hơn là "Dã Tràng Ca" để làm tiết mục mở màn. Đây là tiết mục công phu và đặc sắc nhất. Ban hợp xướng gồm năm mươi người gồm nam lẫn nữ do Sơn thử giọng tất cả các mầm non văn nghệ và chọn lọc. Anh đã khổ công tập ráo riết trong ba tháng trời, xen kẻ giữa những giờ học, và đã thành công vượt mức trước sự ngạc nhiên đầy thích thú và khen ngợi của quan khách và công chúng. Tiếng vỗ tay đã kéo dài rất lâu.

                      Rất tiếc, tôi không có chân trong ban hợp xướng, nên không thuộc trường ca này. Chỉ nhớ lõm bõm vài câu, xin ghi lại cho vui.


                      Tiếng Hát Dã Tràng hay Dã Tràng Ca.
                      (Tiếng vọng) Dã tràng... Dã tràng... Dã tràng...
                      Dã tràng xe cát biển Đông... Dã tràng xe cát hoài công...
                      (Tiếng trống Bass dồn dập, thúc dục):
                      Trùng dương ơi... Trùng dương ơi vỗ sóng vào bờ...
                      ....(quên)...
                      Thôi... còn gì nữa đâu... Còn gì nữa đâu... Đời lên cơn đau! Xuân, Hạ, Thu, Đông bốn mùa làm rét mướt... Tôi gọi tên tôi giữa nước non ngàn...

                      Tôi chỉ nhớ đại khái vậy. Hiện nay, tại thành phố Lawrence, Mass, có anh Nguyễn Văn Tấn, Cali có chị Hồ thị Nghị trước ở trong ban hợp xướng, chắc còn nhớ. Bốn mươi năm đã qua rồi, còn gì!

                      Cũng trong thời gian học Sư Phạm, Sơn còn sáng tác thêm những nhạc phẩm khác như "Biển Nhớ", "Nhìn Những Mùa Thu Đi", "Nắng Thủy Tinh". Hầu như tất cả giáo sinh đều biết và ngâm nga những bài này. Ngoài ra Sơn cũng sáng tác một vài bài vui, ngắn để chúng tôi khi đi thực tập tại các trường dạy cho các em hát.

                      Tôi xin ghi lại đây một bài tượng trưng:
                      Ông Tiên vui
                      Ông Tiên vui,
                      Ông có cái râu dài.
                      Đêm ông thường ngủ yên trên đỉnh mây.
                      Ông Tiên vui,
                      Ông thường hay nhắc đến.
                      Chốn thiên đình chẳng có tháng ngày vui.
                      Ông Tiên vui,
                      Ông có cái căn nhà.
                      Trên ngọn đồi hằng đêm Ông ghé qua.
                      Hôm em lên,
                      Ông chợt đi đâu vắng!
                      Lúc em về, em buồn đến ngẩn ngơ.

                      Xin nhắc lại ở đây, Qui Nhơn lúc ấy còn nghèo lắm. Cả thành phố có mỗi quán kem duy nhất, vừa bán kem, vừa bán cà phê, thuốc lá, bia, trà. Đó là quán Phi Điệp, nằm trên đường Phan Bội Châu, đối diện với hội trường Qui Nhơn, nơi đã trình diễn văn nghệ.

                      Mỗi buổi chiều, chúng tôi, anh chị em nào có chút tiền còm thì kéo nhau vào quán, kêu bình trà, ngồi nhâm nhi nghe nhạc. Khá một chút nữa thì kêu một chai bia với tô bò viên gân, ngầu pín của ông Ba Tàu đậu xe trước quán. Thế là sang lắm rồi. Anh chị nào "bô xu" thì ra biển ngồi ngắm trăng suông. Biển Qui Nhơn là biển bùn nên cát ở đó có màu vàng xỉn trông dơ dáy, không trắng như cát biển Nha Trang. Dọc theo bờ biển là một hàng dương, chạy dài từ khu quân sự đến bệnh viện Nguyễn Huệ. Trước bệnh viện là xóm chài. Bờ biển không có một lều quán hay kiosque nào. Ông Đinh Cường nói cùng Trịnh Công Sơn và Bích Khê ra đó uống cà phê ngắm trăng là nói nhầm.

                      Ba Năm Tại B'lao (Bảo Lộc, Lâm Đồng)
                      Sau hai năm, mãn khóa, chúng tôi tốt nghiệp ra trường. Tôi và Trịnh Công Sơn cùng bốn giáo sinh khác là Lê Thị Ngọc Trinh (Huế), Nguyễn Văn Sang, Trương Khắc Nhượng, Đỗ Thị Nghiên (NhaTrang) cùng được bổ nhiệm chung một sư vụ lệnh, đáo nhậm nhiệm sở Ty Tiểu học Lâm Đồng. Sự vụ lệnh mang số 961-GD/NV/38/SVL tạm thời tuyển bổ do Ông Nguyễn Hữu Quyến, Xử Lý Thường Vụ Hiệu Trưởng Trường Sư Phạm ký ngày 14 tháng 8 năm 1964.

                      Sau hai năm tập sự, chúng tôi được điều chỉnh tuyển dụng bằng Nghị Định mang số 596-GD/NV/BC/QĐ do XLTV Đổng Lý Văn Phòng, Phụ Tá Chuyên Môn, Phạm Văn Thuật ký ngày 6/5/1966.

                      Đến năm 1967, chúng tôi mới được chính thức bổ dụng bằng Nghị Định mang số 687/GD/NV/3B/NĐ kể từ ngày 01/9/1966 do T.U.N Ủy Viên Giáo Dục Đổng Lý Văn phòng Huỳnh Ngọc Anh ký ngày 7/4/ 1967.

                      Với chỉ số lương 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao lúc bấy giờ, chúng tôi lãnh được năm ngàn hai trăm đồng ($5.200) mỗi tháng, tương đương với hai lạng rưỡi vàng Kim Thành. Vật giá lại rất rẽ. Tiền ăn, ở mỗi tháng chỉ hết 600 đồng. Chai bia Con Cọp 3 đồng. Một dĩa thịt bò lúc lắc bốn người ăn giá 7 đồng. Tô phở 3 đồng. Cà phê loại ngon, một ly/1 đồng. Cơm bữa với ba món, 6 đồng. Thời gian từ 1964 đến 1967, chúng tôi sống sung sướng, tiêu pha rộng rãi mà vẫn còn rủng rỉnh.

                      Tôi từ Nha Trang lên, theo đường Nha Trang-Đà Lạt-Bảo Lộc. Trịnh Công Sơn, từ Huế bay vào Sài Gòn, rồi từ Sài Gòn đi xe đò lên Bảo Lộc.

                      Không hẹn mà gặp lại nhau trên bến xe vắng vẻ, thưa thớt bóng người. Lâu lâu mới thấy dăm người Thượng lầm lũi nối đuôi nhau, lặng lẽ rảo bước về một bản làng nào đó. Chúng tôi nhìn nhau, lòng thầm nghĩ: Trời ơi! Cái thiên đường mà mình tưởng tượng khi nắm trong tay tờ Sự Vụ Lệnh là đây sao? B"lao-Bảo Lộc là đây sao? Một phố quận vào chiều thứ sáu sao mà vắng lặng, buồn hiu hắt. Chuyến xe cuối cùng đổ khách xuống đây rồi lẫn mất. Ai cũng tản mác về nhà. Chỉ còn trơ lại Sơn và tôi, trơ trọi, cô độc. Trời lại đang mưa lâm râm, lành lạnh. Hai chúng tôi, mỗi người một va li quần áo nhẹ tênh. Lang thang tìm người hỏi đường đến Ty Tiểu Học Lâm Đồng. Lúc bấy giờ, thị xã Đà Lạt thuộc tỉnh Tuyên Đức. Lâm Đồng là một tỉnh chỉ có vỏn vẹn hai quận là Djiring (Di Linh) và B'lao (Bảo Lộc). Trước năm 1960, Tòa Hành Chánh đặt ở Di Linh. Sau dời về Bảo Lộc được mấy năm, trước khi chúng tôi đến.

                      Khi chúng tôi tìm được đến Ty Tiểu Học thì trời đã sụp tối mặc dù chưa tới sáu giờ. Sương mù bốc lên từ mặt đất, bay là là dưới chân. Ty chỉ cách bến xe non nửa cây số. May mắn, lúc ấy bác lao công đang khóa cửa chuẩn bị ra về. Khi biết chúng tôi là giáo viên mới đổi đến, bác ân cần mời chúng tôi theo bác.

                      - Mấy thầy cũng may! -Bác nói- Chút nữa là tôi về rồi. Mai thứ bảy Ty nghỉ. Mấy thầy biết trọ nơi đâu. Đi theo tôi, tôi sẽ giới thiệu hai thầy với mấy ông giáo cũng vừa mới đổi tới đây mấy hôm trước.

                      Chúng tôi theo chân Bác vào ngõ Tiên Dung (gọi là ngõ Tiên Dung vì đầu ngõ có tiệm chụp hình mang tên ấy). Đi sâu vào khoảng hai trăm thước, con hẽm hẹp, trơn trợt vì cơn mưa buổi chiều, xoai xoãi lên dốc dần. Bác dừng chân trước một căn nhà mái tole, vách ván. Trong nhà vẳng ra tiếng cười nói vui nhộn của đám đông. Bác cai bước vào trước. Tiếng huyên náo im bặt. Bác ra hiệu cho chúng tôi vào nhà. Trong nhà chỉ có một chiếc giường gỗ khá rộng. Trên giường bốn mạng đang nằm, ngồi lổn nhổn. Mọi người nhìn bác cai chờ đợi. Bác đưa tay về chúng tôi rồi hướng về một anh lớn nhất trong đám giới thiệu:

                      - Thầy Lãng à! Mấy thầy này mới đổi tới hồi chiều. Ty đóng cửa rồi, không trình diện được. Thầy giúp dùm cho mấy thẩy ở tạm qua đêm được không? Nhà tôi chật quá, không có chỗ ngủ.
                      Lãng tung chăn, ngồi dậy, giọng hơi cà lăm:
                      - Thế à! Được... được! Bác cứ về! Để... để tụi này thu xếp.

                      Sau khi bác cai quay lưng ra khỏi cửa, tôi với Sơn sực nhớ ra chưa nói lời nào cám ơn sự giúp đỡ của bác, bèn vội nói vói theo:
                      - Cám ơn bác nghe!
                      Không thấy tiếng trả lời. Có lẽ bác đã đi khá xa. Chợt Lãng lên tiếng:
                      - Ối giời! Nhà bác ấy cũng gần ngay đây thôi! Sáng mai, thế nào bác ấy cũng sang đây. Các anh vào đây đã. Sao cứ đứng mãi thế. Để... để cái va li vào góc này!

                      Chúng tôi theo lời anh đem hành lý đặt vào góc nhà. Thế rồi cả bốn người bu quanh hỏi thăm rối rít.
                      - Sư Phạm Qui Nhơn hả?
                      - Vâng!
                      - À, có anh Sang cũng Sư Phạm Qui Nhơn đây, mới trình diện hôm kia. Còn bọn này Sư Phạm Sài Gòn. Cũng lên trước mấy ngày thôi.

                      Tôi nhìn qua Sang. Cũng dân Nha Trang, nhưng tôi chưa gặp mặt lần nào tại Qui Nhơn. Sang ốm và cao như cây tre miễu. Nước da đen nhẽm. Mắt tròn xoe, tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Còn hai người kia mới thoạt nhìn cứ tưởng là hai anh em. Cả hai đều tròn lẵn, chắc nịch. Da mặt hồng hào, bóng lưỡng. Một anh tên là Nguyễn Đức Hinh, nãy giờ chỉ đứng nhìn chúng tôi cười cười, không nói gì, nét mặt lộ vẽ thân thiện. Còn anh kia là Đỗ Danh Đạo, người hoạt bát, nói năng vui vẻ. Anh giới thiệu với chúng tôi người này, người nọ bằng một giọng đặc biệt Bắc pha Sài Gòn nghe rất tếu:
                      - Ông này là Nguyễn Tiến Lãng, -anh chỉ tay về phía đầu giường, Lãng đang quấn mền, ngồi dựa lưng vào vách.- Lãng là thổ địa kỳ cựu sáu năm ở đây, có biệt danh là ông Trùm. Đang dạy tại trường Nam Bảo Lộc.
                      Có lẽ đoán được sự thắc mắc của chúng tôi qua nét mặt ngơ ngác, Đạo giải thích:
                      - Sở dĩ ông Lãng lên tới chức Ông Trùm là vì ông ở đây lâu, thổ nhưỡng Lâm Đồng tặng cho ông bệnh sốt rét kinh niên. Cứ tới năm giờ chiều là ông phải trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường. Ngày nắng hay ngày mưa cũng đều đặn.

                      Mọi người cười rộ lên qua lời tếu của Đạo. Quay qua cặp mập và ốm ngồi cạnh nhau, Đạo tiếp:
                      - Còn hai ông này là Sang và Hinh, đang làm vua một cõi tại Lạc An, cách đây bảy cây số. Một tuần về phố một lần để du hí. Tạm trú tại "am" của em và bác Lãng.

                      Không khí dần dần cởi mở, thân mật. Chúng tôi thấy ấm lòng và quên ngay nỗi buồn nặng nề buổi chiều, mới cách đây có hai tiếng đồng hồ. Chợt Hinh lên tiếng:
                      - Này ông, ông giới thiệu người khác lung tung, sao ông không nói gì về ông hết?
                      Đạo đỏ mặt rần lên, phất tay lia lịa:
                      - Thôi tha cho nhà em, nhà em đâu có gì để mà nói!
                      Nhưng Hinh đâu có chịu tha:
                      - Hai anh nè! Hắn là Đỗ Danh Đạo, tự là Đạo Sữa. Hôm mẹ hắn dẫn hắn lên đây giao cho bác Lãng trông nom, có dặn dò bác Lãng nhắc chừng hắn uống đều đặn mỗi ngày ba lần sữa, sữa Guigoze chính hiệu bà Lang Trọc đấy.
                      Nói xong, anh chỉ cho chúng tôi thấy hai thùng sữa tổ bố nằm dưới gầm bàn.

                      Thoáng chốc, chúng tôi thấy gần gũi và thân tình như đã quen nhau tự bao giờ. Mọi người dục chúng tôi đi tắm rữa rồi dẫn đi ăn tối. Đi ngược lại hẽm Tiên Dung. Phía bên kia đường là quán ăn Ngọc Hương, nằm bên phải đầu cầu. Buổi chiều, lầm lũi theo bác cai nên chúng tôi không để ý. Cầu có tên là Cầu Đất, vì bên dưới không có sông hay suối gì cả. Người ta dùng xe ủi, ủi đất lấp đầy một quãng, nối liền hai trái đồi, thành một lối đi, hai bên có thành che chắn cho khỏi ngã xuống hố, trông giống như cây cầu. Sương buổi tối đã dâng lên dầy đặc. Cả phố Bảo Lộc thắp thoáng ẩn hiện trong sương giống như cảnh tiên bồng trong xi nê. Quán ăn Ngọc Hương lập lòe ánh điện, văng vẳng tiếng nhạc phát ra, nghe như lúc gần lúc xa. Còn nhớ hình như bản "Những Bước Chân Âm Thầm". Vì lời ca, tiếng nhạc với cái khung cảnh lúc bấy giờ nó hòa nhập vào lòng người lần đầu tiên đặt chân lên miền cao nguyên, sơn cước... Trước mắt tôi, một cảnh trí hoàn toàn lạ lẫm, đầy huyền ão và thơ mộng mà từ thuở nhỏ đến giờ, sống ở miền gió biển, cát trắng, sóng vỗ quanh năm, tôi chưa từng được thấy. Có chăng cũng chỉ là tưởng tượng ra những hình ảnh mơ hồ qua bản nhạc "Ai Lên Xứ Hoa Đào" của nhạc sĩ Hoàng Nguyên mà thôi.

                      Những hình ảnh buổi chiều đứng co ro nơi bến xe vắng ngắt bóng người, nó ảm đạm thê lương bao nhiêu, bây giờ trở thành thơ mộng, lãng mạn bấy nhiêu. Nào con đường đất đỏ quanh co lẫn khuất dần trong ngõ vắng. Nào sương mù là là bay từng đám dưới chân. Nào những con đường lên dốc, xuống dốc khiến những mái nhà trồi lên, hụp xuống theo, y như những con thuyền tròng trành lượn theo giợn sóng xa xa ngoài biển.

                      Đang đói suốt một ngày đi đường, tôi và Sơn, vèo một cái, mỗi người đã ăn hết một dĩa cơm sườn nướng một cách ngon lành. Trong lúc mọi người đang nhâm nhi cà phê, nghe nhạc. Họ đã ăn từ chiều. Chúng tôi tiếp tục uống cà phê và trò chuyện. Sơn ít nói, chỉ ngồi nghe. Thỉnh thoảng góp vài câu gọi là. Có lẽ lần đầu còn giữ kẽ chăng? Ba anh: Lãng, Hinh, Đạo chốc chốc lại ngó chăm chăm vào Sơn, nửa như tò mò, nửa như quan sát. Phải chăng cái phong thái nghệ sĩ của Sơn đã gây cho người ta cái ấn tượng đầu tiên? Đối với tôi hay Sang, cái hình ảnh Trịnh Công Sơn, với một khuôn mặt ngăm đen, đôi mắt nhỏ mơ màng sau cặp kính cận khổ lớn, gọng đồi mồi che gần hết nửa khuôn mặt, trong hai năm học tại Qui Nhơn đã quá quen thuộc. Nhưng giờ đây, với những người bạn mới, chân chỉ hạt bột, mới rời ghế nhà trường, lần đầu tiên bước chân ra ngoài xã hội thì hình ảnh một ngươi nghệ sĩ như Sơn tự nhiên với mái tóc thưa, hơi dài, cái trán hói cao, đôi kính cận to quá khổ, hàng ria mép lưa thưa, vừa như râu, vừa như lông, mãnh và mịn khiến người ta thấy lạ nhưng ưa nhìn và có cảm tình ngay.

                      Gần chín giờ, mọi người dục về. Tôi và Sơn muốn nán lại chút nữa để được hưởng thêm cái hương vị ngọt ngào, đậm đà kỷ niệm của ngày đầu tiên đặt chân lên xứ Thượng. Nhưng anh Lãng cho biết, đúng chín giờ là nhà máy điện sẽ cúp.

                      Đêm đó, chúng tôi trãi chiếu, chăn xuống thềm nhà, năm người bạn trẻ, trừ anh Lãng nằm trên giường, tuổi sàng sàng từ hai bốn đến hai sáu, cùng nhau trao đổi những chuyện quê hương đi dần từ Sài Gòn ra đến Huế rồi thiếp vào giấc ngủ. Lúc bừng mắt dậy đã chín giờ sáng.

                      Sáng thứ Hai, trình diện tại Ty để chờ bổ nhiệm, chúng tôi gặp hầu hết các bạn khác từ các nơi cũng đã đến từ thứ Bảy, Chủ Nhật. Sư phạm Qui Nhơn đủ mặt: Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng. Sư phạm Sài Gòn: Nam có Nguyễn Hảo Tâm, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Nghị. Nữ có: các cô Nguyệt, Châu, Hải, Trang... Sư phạm Long An chỉ có một ngoe là Ngô Thanh Bạch.

                      Ty Trưởng đương nhiệm là Ông Trương Cảnh Ngôn, sắp về hưu. Đỗ Thị Nghiên, Trương Khắc Nhượng, Nguyễn Hảo Tâm và tôi cùng được bổ nhiệm về trường Tân Bùi, xứ Tân Bùi, cách trung tâm Bảo Lộc chừng năm cây số. Lê Thị Ngọc Trinh bổ về trường Nữ Bảo Lộc ngay trung tâm phố. Nguyễn Văn Ba phụ chân kế toán tại Ty. Riêng Trịnh Công Sơn được "biệt nhãn" hơn bổ về một trường Sơ Cấp Thượng, ở sát nách Ty, chừng non cây số. Với chức vụ là Trưởng Giáo. (Xin chú ở đây, theo qui chế Bộ Giáo Dục bấy giờ: một trường chỉ có lớp bốn trở xuống gọi là trường Sơ cấp. Đứng đầu là Trưởng Giáo, phải dạy lớp và không có phụ cấp chức vụ 200$. Trường từ năm lớp trở lên mới được gọi là trường Tiểu học. Đứng đầu là Hiệu Trưởng có phụ cấp chức vụ, vẫn phải đứng lớp. Truờng có từ mười lớp trở lên, Hiệu Trưởng mới được miễn dạy.

                      Ngạch chúng tôi là Giáo Học Bổ Túc, chỉ số lương tập sự là 320, ngân sách do Bộ Quốc Gia Giáo Dục đài thọ, như đã nói ở trên.
                      Sau khi phân bổ xong, Ty cho chúng tôi được nghỉ một tuần để thu xếp nơi ăn chốn ở. Thứ hai tuần tới sẽ trình diện nhiệm sở mới.
                      Khi về đến nhà, chúng tôi bò lăn ra cười với cái chức Trưởng giáo của Sơn. Lần đầu nghe tới chức Trưởng Giáo, ai cũng liên tưởng tới chức Trưởng Lão Hộ Pháp trong Ma Giáo, truyện chưởng Kim Dung.

                      Mấy ngày thong thả, tôi và Sơn đi dạo khắp nơi để tìm nhà trọ. Thật đúng như lời của một bản nhạc "đi dăm phút đã trở về chốn cũ..." Phố Bảo Lộc nằm dọc theo quốc lộ, chỉ có một đoạn ngắn chưa đầy nửa cây số. Bắt đầu từ trường Nông Lâm Súc, chạy thoai thoải xuống dốc, đến cuối dốc là một cái hồ nước, trông giống như cái lòng chão là hết. Lên dốc, hai bên là những đồi trà ngút ngàn. Lâm Đồng là xứ trà. Xưa kia B"Lao do người Pháp khai khẩn trồng trà và chế biến trà. Họ có nhiều trang trại lớn và có cả sân bay tư nhân. Năm chúng tôi được bổ về đây thì chỉ còn hai người Pháp già lấy vợ Việt Nam là còn ở lại. Những trại chủ khác đã bán lại cơ sở cho người Việt hoặc bỏ hoang để về nước vì không chịu nổi Việt Cộng thu thuế.

                      Bảo Lộc là đọc theo âm Việt của tên Thượng là B"Lao. Năm 1954, ông Diệm đưa số người Bắc di cư lên đây khẩn hoang lập nghiệp. Họ toàn là người Công Giáo. Dẫn đầu là một cha xứ. Người xứ nào ở ngoài Bắc thuộc làng gì thì lên đây qui tụ lại thành một xứ, lấy tên làng mình ghép thêm chữ Tân để thành tên của xứ mình. Ví dụ: làng Bùi Chu thành Tân Bùi. Theo thứ tự, hướng từ Định Quán lên cao dần, qua khỏi khu vực sông La Ngà là đèo Ma Đa Gui, ranh giới tỉnh Lâm Đồng. Quận Bảo Lộc bắt đầu từ xứ Tân Bùi. Tiếp theo là Tân Hà. Phố Bảo Lộc nằm giữa. Rồi đến Tân Thanh, Tân Phát. Xa vào tận buôn Thượng còn thêm Tân Rai và Tân Lú. Tôi chưa đến đó bao giờ. Chỉ đọc thấy trên bản đồ hành chánh. Mỗi xứ đạo do một cha xứ cai quản, cả phần hồn lẫn phần xác. Phụ tá có các ông trùm. Xứ có lực lượng vũ trang riêng để tự vệ an ninh và đánh trả Việt Cộng. Chung quanh xứ bảo bọc bởi hàng rào tre kiên cố. Kẻ lạ muốn vào xứ phải có người trong xứ quen và hướng dẫn. Xứ được xây dựng theo đồ hình bát quái. Trung tâm là nhà thờ. Dưới mỗi nhà đều có đường hầm ăn thông với đường hầm chính dẫn tới nhà thờ. Đường hầm được đào và xây dựng rất rộng rãi, chắc chắn. Suốt những năm ông Diệm chấp chánh, không một tên du kích nào dám bén mãng đến quấy rối. Nghe nói lúc đầu cũng có vài tên cố thâm nhập nhưng đều bị giáo dân tóm cổ tức khắc. Trong khi đó, tại trung tâm phố, khu tập trung đông đảo dân Nam, Ngãi, Bình, Phú, Thừa Thiên theo đạo Phật đa số thì Việt Cộng lại dễ dàng trà trộn rãi truyền đơn và treo cờ. Kể từ năm 1964, khi chúng tôi dạy học tại đây, trở về sau, những chính quyền kế tiếp không chú trọng đến kế hoạch ấp chiến lược nữa, thu hồi toàn bộ vũ khí của các xứ, nên vấn đề an ninh lỏng lẽo dần.

                      Trở lại chuyện chúng tôi đi tìm nhà trọ. Suốt mấy ngày, Sơn và tôi lang thang khắp ngõ để tìm nhà thuê, nhưng không nơi nào vừa ý. Nhất là nhà vệ sinh thì khiếp quá. Tất cả các nhà đều đào hố xí sau vườn. Gác ngang miệng hố là hai thanh gỗ. Che chung quanh bằng những tấm cót tre. Không có mái che. Ngày mưa phải đội nón lá mà ngồi. Nhặng xanh hằng ngàn con bay vù vù từ dưới hố lên, bu cả vào người. Dòi bọ trắng nhởn to bằng đầu đũa, bò lổn nhổn khắp mặt đất. Eo ơi! Còn những ngày nắng oi nồng, cái mùi xú uế từ dưới xông lên càng khiếp đảm.

                      Trong lúc loay hoay tìm nhà, có ai đó mách chúng tôi, ở về phía Ty Công Chánh có ngôi biệt thự vừa xây xong, chủ nhà muốn cho thuê nhưng hơi đắt. Sơn và tôi đến ngay. Nhà rất đẹp, tọa lạc trên một khu quang đãng, thoáng tầm nhìn. Chung quanh hàng rào bao bọc, phía trước có cổng. Nhà có ba phòng ngủ, một phòng khách. Nhà bếp rộng chia làm hai, một nửa là bếp, một nửa là phòng tắm và vệ sinh. Chủ nhà là một người đàn bà tuổi trạc độ ba mươi, người mãnh dẽ. Bà hiện là Trưởng Phòng Kế Toán của Ty Công Chánh Lâm Đồng. Bà sống với đứa con gái nhỏ sáu tuổi tên Đào. Chồng bà đang làm việc ở Sàigòn, bà cho biết. Sau khi nói chuyện độ dăm phút, chúng tôi bằng lòng thuê toàn bộ căn nhà, trừ một phòng cho bà và đứa con gái để ở, với giá 1.200 đồng. Nếu muốn ăn cơm tháng thì bà nấu luôn cho. Ngày ba bữa, mỗi người trả thêm ba trăm đồng. Chúng tôi ra về với lòng thơ thới vì đã tìm được nơi ăn ở vừa ý. Trên đường về Sơn cứ lẩm bẩm: Đàn bà mà tên Phi lại lót Thị, Thị Phi... Thị Phi!

                      Sơn tủm tỉm cười một mình. Tôi biết Sơn đang nghĩ gì về bà chủ nhà trẻ, sống một mình. Chúng tôi rủ thêm hai người bạn nữa để chia bớt phòng và chia bớt tiền. Hai anh Nguyễn Hảo Tâm và Nguyễn Văn Ba đến xem nhà và đồng ý ngay. Sơn và tôi có công tìm nhà, nên được ưu tiên ở căn phòng trước, có cửa sổ quay ra mặt đường. Tâm và Ba ở căn kế. Bà chủ nhà căn trong cùng. Ba phòng ăn thông ra phòng khách. Phòng khách có cửa hông thông với nhà bếp. Từ lúc chúng tôi về ở, trừ những lúc dọn cơm cho chúng tôi hay những lúc đi làm chạm mặt ở phòng khách, bà chủ cùng đứa con gái đóng cửa im ỉm, nói chuyện rầm rì ở trong buồng, ít khi ló mặt ra ngoài. Mấy tháng sau, bà thuê được một cô người làm. Cô này độ chừng hơn hai mươi, có da thịt, tính tình hiền hậu, hơi quê mùa nhưng dễ thương. Cô giúp bà chủ đi chợ nấu ăn cho chúng tôi. Cô ngủ ở nhà bếp.

                      Nhớ lại một mẫu chuyện vui. Có lần bà chủ nghỉ phép nửa tháng về Sài Gòn với gia đình, bà yêu cầu chúng tôi tìm chỗ ăn tạm trong thời gian này. (lúc đó chưa có cô giúp việc) Bốn chúng tôi thay phiên nhau đi chợ nấu ăn mỗi người một ngày. Sở dĩ chúng tôi không đi ăn tiệm là vì hai lý do. Thứ nhất là làm biếng đi xa. Từ nhà đến tiệm ăn xa hơn đến chợ. Thứ hai, có cơ hội để thử mình có khả năng tự lực cánh sinh hay không? Đầu tiên, tôi xung phong trước. Bữa ăn có cá chiên dầm mắm tỏi ớt, chắm với dưa leo, rau sống, xà lách. Hội đồng chấm điểm: Tạm được! Ngày thứ hai, Nguyễn Văn Ba. Thịt ba chỉ kho hột vịt ăn với dưa cải và cà pháo muối mặn. Điểm: Khá. Đêm đó chúng tôi lục đục thức dậy uống nước và đi tiểu suốt. Nguyễn Hảo Tâm người Sài Gòn, giả giọng Bắc của Ba, ngâm ư ử chọc Văn Ba:
                      Em ơi! Mở cửa cho anh ra!
                      Kẻo anh chết khát trong vại cà nhà em!

                      Ngày thứ ba, Hảo Tâm vác chiếc bụng phệ đi chợ. Vậy mà thoáng cái đã về, xăn tay áo vào bếp. Trưa hôm đó chúng tôi được thưởng thức món hột vịt luộc, dầm xì dầu ớt chanh, chấm với giá chua, rau sống. Sơn rên rỉ : Chắc cái rô bi nê nước của bà chủ nhà đêm nay hư quá! Văn Ba được dịp trả thù câu chọc tối qua của Hảo Tâm:
                      - Này ông Tâm! Cái câu "Kẻo anh chết khát trong hủ giá chua nhà em" tối nay đọc nghe trúc trắc quá, ông ráng sửa lại nghe cho êm tai nhá!
                      Tâm cười giả lả:
                      - Nè... nè tráng miệng với chuối bồ hương đi! Ngon lắm đó.

                      Ngày thứ tư đến lượt Sơn. Anh rũ tôi đi cho có bạn. Hóa ra anh chàng mắc cỡ. Anh thủ sẵn trong túi hồi nào không hay một cái bao bằng giấy xi măng. Miệng ngậm ống vố phì phèo, tay chắp sau đít, anh lững thững vào chợ như người đi dạo cảnh. Tôi theo sau không ý kiến, mắt đảo quanh đám người Thượng, xem họ mua bán đổi chác những thổ sản mang từ trên núi xuống. Nhiều nhất là phong lan. Nhưng chỉ là những loại thường như hoàng lan, hoàng điệp, hàm rồng, long tu, địa lan... Mấy thứ này rẽ tiền. Chỉ năm, mười đồng một nhánh. Tháng đầu tôi ham, mua về treo đầy trong phòng. Song nó cứ rũ ra, chết dần. Có người bày cách, phải treo nó ngoài trời cho có đủ sương và nắng gió nó mới sống. Tôi làm theo. Nhưng mấy chục nhánh cũng lần lượt héo sầu, đổi sang màu vàng rồi chết khô. Có lẽ nó nhớ bạn, nhớ rừng chăng?

                      Sơn xăm xăm đi tới hàng đồ khô, gia vị và nói với bà bán hàng:
                      - Bà cho tôi một chục trứng gà, một ít củ hành và tỏi. Tính hết bao nhiêu?
                      Bà bán hàng nói giá tiền và hỏi lại:
                      - Cậu có cái gì đựng không? Đi chợ mà đi hai tay không vậy?
                      Sơn nhanh nhẹn rút trong túi quần ra cái bị giấy xi măng đưa cho bà bán hàng và nói:
                      - Bà bỏ hết vô đây là được rồi.

                      Trả tiền xong, Sơn quành qua hàng thịt mua một miếng thịt ba chỉ. Trở lại hàng rau mua thêm mấy trái cà chua.
                      - Xong! Ông thấy tôi có nghề không? Sơn hỏi tôi mà không cần câu trả lời.
                      Vừa về đến nhà đã thấy hai chàng Tâm và Ba chờ sẵn.
                      - Nào! Bữa nay coi anh chàng nhạc sĩ của mình nấu nướng ra làm sao!
                      Sơn cười hì hì:
                      - Được rồi! Mấy ông vô hết trong này coi tôi trổ tài nghe.

                      Sơn vào bếp chỉ huy ba chúng tôi, người này lột vỏ hành, tỏi, người kia rửa cà, thái lát mỏng, người nọ cắt thịt ba chỉ thành sợi như chiếc đũa. Chúng tôi làm theo răm rắp. Mọi việc đâu vào đấy. Và giục Sơn ra tay vì trời đã khá trưa rồi. Sơn bắt đầu đổ dầu chiên vào chão. Trong khi chờ đợi dầu nóng, Sơn giảng giải cách làm các món:
                      - Các ông sẽ được thưởng thức món hột gà "ốp la" và hột gà đổ chả nghe! (Sơn thường đệm tiếng "nghe" ở cuối câu rất nhẹ và rất dễ thương) Phải đợi dầu thật nóng, bốc khói, rồi khử dầu bằng vài tép tỏi đập dập cho thơm-Sơn nói tiếp:
                      - Bây giờ mấy ông coi nghe!
                      Sơn cầm lấy một trứng gà bằng hai tay, vừa làm vừa giảng tiếp:
                      - Mình phải cầm trứng bằng tám ngón tay như thế này, từ ngón trỏ đến ngón út, hai ngón tay cái bấm vào trứng để bóp quả trứng. Nè! Chú ý nè!

                      Chúng tôi ngó theo bàn tay Sơn, những ngón tay thuôn dài đang ôm lấy quả trứng. Những ngón tay khô, xương và da. Phải cho có thêm một ít thịt thì bàn tay Sơn chắc đẹp không thua gì bàn tay con gái. Sơn bóp mạnh hai ngón tay. Lòng trắng, lòng đỏ trứng gà thay vì lọt vào chão, lại vọt xuống đất đánh "bạch" một tiếng. Một trứng đi đời. Sơn bào chữa:
                      - Tại tôi bóp mạnh quá!
                      Chúng tôi khuyến khích:
                      - Làm lại! Làm lại!
                      Sơn làm thêm hai lần nữa, tình trạng vẫn y như cũ. Một đống trứng nhầy nhụa dưới chân. Ba la lên:
                      - Thôi! Thôi! Ông Sơn ơi, làm ơn tránh ra cho chúng tôi làm. Mà ông có biết làm không thì bảo?
                      Sơn nói:
                      - Hồi nhỏ tôi thấy má tôi làm như vậy mà!
                      Tâm hỏi lại:
                      - Mà ông đã làm thử lần nào chưa?
                      - Chưa!
                      - Vậy mà cũng bày!

                      Tôi chọc quê Sơn bằng cách hát nhại "Dã Tràng Ca": "Thôi! Còn gì nữa đâu! Còn gì nữa đâu! Mà không ăn rau..."
                      Sơn nổi cáu, xì nẹt:
                      - Thôi cha! Cha sửa lời làm hư hết bản nhạc của tôi đó cha.

                      Sau đó chúng tôi đập hết những trứng còn lại vào trong một cái tô lớn. Trộn thêm đường, hành củ, cà chua, thịt ba chỉ, tiêu, xì dầu đánh đều lên thành một món hổ lốn, đổ vào chảo thành hai lượt cho mau chín và không bị cháy phía dưới. Không ngờ bữa cơm ấy lại vui và ngon ra phết. Ai nấy vừa ăn vừa nhắc lại cảnh Sơn bóp trứng mà cười. Dứt bữa ăn, Sơn trịnh trọng đứng lên tuyên bố:
                      - Bắt đầu chiều nay đi ăn cơm tiệm!
                      Không ngờ cái lệnh vô tình ấy lại hợp cả cho chúng tôi. Không ai bảo ai, cả ba chúng tôi đồng thanh vừa cười, vừa hô to:
                      - Ăn cơm tiệm! Đã đảo đi chợ!

                      Những ngày chúng tôi sống chung với nhau trong "ngôi biệt thự" của bà Trần Thị Phi thật là vui nhộn. Cũng chính trong căn phòng có khung cửa sổ ngó ra con đường đất đỏ của căn nhà này, Trịnh Công Sơn đã sáng tác các nhạc phẩm để đời: "Chiều Một Mình Qua Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết Lăn Trầm"- và "Ca Khúc Da Vàng."

                      **********************************************8

                      * Bài viết " một quãng đời của Trịnh Công Sơn " của tác giả / cựu thày giáo / đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn khá dài ( phần trích dẫn ở trtên chĩ khoảng 1/4 ) chủ yếu tác giả nêu ra , đưa lên , mô tả chân thực một khoảnh ngắn trong cuộc đời của con người danh tiếng như cồn này đó là quãng đời của thày giáo Trịnh Công Sơn sống giữa lòng bạn bè của mình . Nhũng kỷ niệm rất nhỏ nhưng rất người được tác giả viết rất tỷ mỷ khiến cho người đọc có quyền tin vào độ chính xác chân thực rất cao ( từ chuyện hai người / tác giả và TCS / ngày đầu tiên nhận nhiệm sở đến chuyện hai người đi thuê nhà . bữa cơm và tài làm món trứng của T.C.S v.v và v.v. ) . Thế mà than ôi chỉ năm năm sau thôi khi vừa có chút tiếng tăm con người sống chỉ cần một tấm lòng ấy chẳng còn nhớ gì nữa cả . . (năm 1972 . triển lãm tranh ở Nha Trang . TCS đã vờ đi không nhận ra ( ?) không nhớ ra người bạn của mình . .)
                      Ban đầu tôi định post đầy đủ bài viết trên , nhưng nay cũng từ ý anh NHĐoàn và tự mình cũng nhận thấy là thừa thãi nên chỉ trích dẫn lại những đoạn có thể làm câu trả lời cho những định đề tôi đưa ra ở bên trên thôi :


                      Trịnh Công Sơn và Tình Bè Bạn
                      Sau một tuần, anh em lục tục lên đủ mặt.
                      Bữa tiệc tẩy trần thật tưng bừng. Chúng tôi thầu hết tầng lầu trên của Câu Lạc bộ. Bây giờ thì ăn nói thoải mái, không còn phải e dè mấy tên du đãng tép riu. Sau vài ly máy nóng, chúng tôi tha hồ kể "chuyện nhà binh". Chuyện khói lửa bốn vùng chiến thuật nguội dần. Có anh sực nhớ tới Trịnh công Sơn, hỏi trống không:
                      - Có ai biết anh chàng Sơn nhà mình bây giờ ở đâu, làm gì không hè?
                      Hiện đáp:
                      - Tôi biết. Sơn bây giờ nổi tiếng lắm. Không những trong nước mà cả thế giới cũng biết.
                      Bạch không tin:
                      - Thôi cha! Xạo vừa vừa thôi! Thằng chả trốn lính, làm ăn gì được mà nổi tiếng!
                      Hiện vẫn bằng cái giọng rề rà bỡn cợt, nửa đuà nửa thật:
                      - Tôi làm việc ở cơ quan ninh quân đội, địa bàn Sài Gòn- Chợ Lớn, nên biết một ít về ông Sơn nhà mình. Đầu tiên ông ta được một tay có cở trong không quân che chở, cấp cho một cái thẻ "Chứng chỉ tại ngũ" chức vụ binh nhì lèo.
                      Có tiếng lao nhao:
                      - Ai vậy? Ai vậy? Ông biết không?
                      - Sao lại không! Đại Tá Lưu Kim Cương chớ ai vào đây nữa! Cảnh sát biết thừa đi chứ. Nhưng không dám đụng vào ổ kiến lửa.
                      Hiện cười cười, tợp thêm một ngụm bia rồi tiếp:
                      - Sau tay này tịch. Cụ Sơn nhà mình bèn làm một bản nhạc để tạ ơn người che chở mình. Bản nhạc có tên là "Cho một người nằm xuống".
                      Tín nhảy vô vòng chiến:
                      - Ông rề rà bỏ mẹ! Thế thì tôi hỏi ông nhé! Bao nhiêu năm ông già Thống còng lưng dạy thế cho ông ấy, để ông ấy lo việc công danh của mình, ông ấy có làm bản nhạc nào tên là "Cho một người dạy thế" để tạ ơn ông Thống không?
                      Hiện vẫn đũng đỉnh:
                      - Ấy! Cái này thì tôi không biết. Nhưng ông Thống chưa tịch thì làm gì có nhạc để tặng? Còn ông Sơn sẽ làm hay không thì có dịp gặp mặt tôi sẽ hỏi lại rồi cho ông biết sau.
                      Tín thở hắt ra:
                      - Nói như ông chán bỏ mẹ!
                      Đạo sốt ruột:
                      - Sau khi Lưu Kim Cương chết rồi thì ai là cái ô dù của ông Sơn?
                      - Cái ô dù hãy còn bé lắm. Phải nói là cây đa cổ thụ mới đúng.
                      Nói tới đây, Hiện dừng lại, thong thả rót bia vào ly mình một cách chậm rãi để bọt khỏi tràn miệng ly rồi nâng ly lên làm mấy tợp, mặc cho bao nhiêu con mắt đang hau háu chờ đợi.
                      Nghị nóng nảy văng tục:
                      - Mẹ! Cứ vờ vịt! Ông đấm buồi vào!
                      Hiện khà một tiếng sảng khoái, đưa tay chùi mép rồi mới tiếp:
                      - Cây đa cổ thụ là tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đấy.
                      - À ra thế đấy! Nhiều tiếng xì xào.
                      Lãng từ đầu đến giờ vẫn ngồi im lặng nhâm nhi ly bia lắng nghe anh em kể chuyện "đường xa xứ lạ" thích lắm vì không được cái "hân hạnh", "Tòng quân giết giặc" để "Dong vó ngựa trên đường chinh chiến", bây giờ mới lên tiếng:
                      - Moa... moa thì "mo phú" tay nào che chở cho ông Sơn. Việc bắt ông Sơn là việc của mấy ông "cớm". Moa... moa thì moa bực cái ông Sơn nhà mình. Bực lắm cơ. Moa có mua mấy tập nhạc của ông ấy khi mới xuất bản. Tập nào cũng ghi tiểu sử có đủ thứ trên đời mà không thấy tập nào ghi lấy một dòng như "dạy học tại Bảo Lộc từ năm 1964 đến 1967" họặc "Học Sư phạm Qui Nhơn" chẳng hạn. Moa bực là nghĩ: Chẳng lẽ ông ta có mặc cảm xấu hổ với nghề dạy học chăng?
                      . . . .
                      . . . . . .
                      Tiếng cười nói lại xôn xao, náo nhiệt. Sực nhớ ra điều gì, Tín vùng nói lớn giữa tiếng ồn ào:
                      - Này các cụ! Còn em bé Đỗ thị Nghiên "cúng" cây đàn ghi ta cho ông Sơn ba năm có được xơ múi gì không?
                      Đạo là người rời Bảo Lộc sau cùng nên biết chuyện này, đáp ngay:
                      - Em Nghiên trước khi theo chồng về Huế có đến đòi lại cây đàn. Cũng còn may! Nếu không thì ông Sơn cũng đã quên.
                      Tín quay sang tôi móc lò:
                      - Còn ông mãnh này! Ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu ba năm trời có được xơ múi gì không?
                      Tôi thật thà trả lời:
                      - Có! Hồi đầu tiên Sơn có tặng cho tôi và ông Lợi, mỗi người một bản "Chiều Một Mình Qua Phố".
                      Tín vặn:
                      - Bấy nhiêu thôi à! Thế mấy tập Tình ca-Ca khúc da vàng không tặng sao?
                      - Sơn nói nhà xuất bản cho ít quá nên không đủ tặng.
                      Hiện tiếp lời:
                      - Mấy ông đừng trách! Ông Sơn bây giờ bạn đông lắm, đếm không hết. Ông ấy bây giờ đi đâu cũng có một đám bu quanh như nhặng xanh bu c. ngựa vậy.
                      Anh chàng Sang ngồi im từ đầu đến cuối, bây giờ như cóc mở miệng:
                      - Mấy cha cứ nói chuyện trên trời, dưới đất. Hồi còn ở đây, ông Sơn đã dự đoán sau hai mươi năm nội chiến, những người còn lại đều là một "lũ bội tình". Thì ông ấy có chút bạc ơn với nghề dạy học và chút bạc nghĩa với những người bạn ở cái xứ Thượng heo hút này cũng là chuyện nhỏ trong cuộc đời "vĩ đại" của ông ấy mà thôi. Có đáng gì đâu mà nhắc tới!
                      Câu chuyện nhạt dần, không khí cũng lắng dần. Có lẽ mọi người đã ngấm say. Lần đầu tiên trở lại Bảo Lộc, sau ba năm, tôi thấy anh Lãng không còn đòi về trước để trùm mền và xoa dầu Nhị Thiên đường như xưa. Có lẽ anh đã từ chức "ông Trùm" rồi chăng? Mừng cho anh.

                      . . .
                      . . . .

                      Giã Từ
                      Tháng 11 năm 1991, tôi đem hết gia đình vào Sài Gòn để chờ máy bay. Thời gian này, tôi gặp lại Lãng, Hinh, Tâm lùn và Sang. Lãng vẫn tiếp tục dạy học vì anh không có "nợ máu" với nhân dân. Anh được chuyển sang dạy cấp hai. Nay anh đã có vợ và hai con. Tâm cùng vợ bán sữa đậu nành sống lây lất qua ngày. Tối hì hục xay đậu. Sáng hì hục đẩy xe ba gác ra chợ Bà Chiểu bán. Sang cũng tốt nghiệp từ một trại Cải Tạo miền Nam, về vớ được một bà lỡ thì, bán chuối ở chợ Ông Tạ. Ngày ngày phụ với vợ vác những quầy chuối bán từ đầu chợ đến cuối chợ. Hinh cũng đã có vợ và một con. Phụ một chân sai vặt cho "ông bà bô" bán hàng trong một quán cóc ở Gò Vấp, kiếm cơm ngày hai bữa.

                      Trong một bữa nhậu chia tay cuối cùng gần cổng xe lửa số 6 (bò bảy món Ánh Hồng xưa) thăm hỏi những bạn bè cũ còn lại được những ai, thì được biết Đỗ Danh Đạo vượt biên, nay đang ở Tây Đức. Còn bao nhiêu thất tán trong trận cuồng phong thổi vào Sài Gòn tháng tư, bảy lăm. Bấy lâu không gặp lại một ai. Bữa ăn thật buồn. Tâm lùn cố pha trò nhưng vẫn không đánh tan nỗi u sầu nặng trĩu trong lòng mọi người. Lãng vẫn còn nói lắp:
                      - Thế... thế, trước khi rời khỏi Việt Nam, ông có định đến thăm Trịnh Công Sơn lần chót không?

                      Mọi người lúc ấy mới chợt nhớ ra là mình còn một người bạn tên là Trịnh công Sơn. Tôi hơi e ngại chuyện đến thăm. Sợ bị hiểu lầm dựa hơi, nhờ cậy. Tôi kể lại chuyện gặp hai ông Trịnh ở Nha Trang năm 1970, Sơn không thấy tôi hay không nhận tôi. Sang chép miệng:
                      - Đọc báo thấy nói ổng quen toàn những văn nghệ sĩ từ cái thời Nhân văn Giai phẩm ngoài Bắc như Văn Cao, Phùng Quán, Hoàng Cầm... không hà!
                      Sang lại chửi đổng:
                      - Mẹ! Thấy sang bắt quàng làm họ!
                      Hinh tiếp lời:
                      - Tôi có lần đến cà phê của anh ta. Chung quanh anh ta lúc nào cũng có một đống bu quanh.
                      Tâm hỏi:
                      - Thế anh ta có nhìn thấy ông không?
                      Hinh tặc lưỡi:
                      - Anh ta lúc nào cũng bận tíu tít với cái đám bung xung thì làm gì có thì giờ nhìn thấy tôi!
                      Tâm phấn khích quay sang tôi:
                      - Ngày mốt ông lên máy bay hả? Được rồi, trưa mai 12giờ, dẹp hàng xong, tôi chở ông lên chỗ ông Sơn ở, ông vào xem thử ra sao! Bây giờ Nhà nước cấp cho ông ta một cái vi la to lắm không biết của ai chạy bỏ lại. Mẹ! Không biết làm đến chức gì mà ngon thế? Tâm lại chửi đời. Các bạn xúm nhau mỗi người một câu, xúi tôi đi thử:
                      - Ông cứ đi thử cho biết tình đời! Chết thằng tây đen nào mà sợ!

                      Trưa hôm sau, Tâm chạy chiếc xe Honda cà tàng, xành xạch chở tôi đến vi la của Sơn đang ở. Tâm dừng xe bên kia đường chói chang nắng gắt giữa trưa, bảo tôi qua bấm chuông. Căn biệt thự có tường vây cao quá đầu bao bọc. Dọc bên trong có trồng trúc kiểng cao quá tường. Tôi bấm chuông. Cánh cửa sắt hé mở. Dưới tàn một khóm trúc ngay cổng, hai thanh niên vạm vỡ đang ngồi nhâm nhi. Chai Whisky vơi quá nửa. Một người hỏi tôi:
                      - Ông hỏi ai? Có việc gì?
                      - Tôi là bạn của ông Sơn lâu lắm rồi. Đến thăm thôi, không có việc gì cả!
                      - A! Anh Sơn đang nghỉ trên lầu! Ông đứng đây chờ một chút. Tôi lên thông báo rồi cho ông hay.
                      Anh ta bỏ ly rượu xuống bàn, bước vào nhà. Độ hai phút trở ra nói:
                      - Anh Sơn đang mệt cần nghỉ ngơi, sáng giờ uống hơi nhiều. Nếu ông cần gì, xin viết giấy để lại, chúng tôi sẽ trình với anh Sơn.

                      Nói xong anh ta xé trong tập sổ tay một tờ giấy con đưa cho tôi và cây viết Bic. Tôi lưỡng lự không biết phải viết cái gì. Nhìn qua bên kia đường thấy Tâm đang đưa tay quẹt mồ hôi trán, lòng tôi bất nhẫn. Tôi lia ngay một hàng không nghĩ ngợi: "Anh Sơn! Từ năm 1967 đến nay mới có dịp vào Sài Gòn. Ngày mai tôi sẽ lên máy bay đi Hoa Kỳ, nên ghé thăm anh tí chút, nhưng không được gặp. Thôi, xin hẹn lại kiếp sau". Đưa trả lại tờ giấy cho ngươì bảo vệ, tôi quay lưng đi thẳng.

                      Trên đường về, Tâm hỏi:
                      - Sao? Không có Sơn à?
                      - Có! Nhưng tên bảo vệ nói là Sơn sáng nay uống rượu hơi nhiều nên mệt, cần nghỉ ngơi. Hắn bảo tôi cần gì thì viết giấy để lại.
                      - Ông có viết không?
                      - Ban đầu tôi định không viết. Nhưng nhìn thấy ông đứng ngoài nắng nhễ nhại mồ hôi, tôi đâm bực, viết đại một câu cho bỏ ghét. Bây giờ nghĩ lại thấy cải lương quá!
                      - Câu gì mà cải lương?
                      - Xin hẹn lại kiếp sau!
                      Tâm cười ha hả:
                      - Thì đúng boong! Ông qua Mỹ rồi, làm gì có ngày về lại Việt Nam để gặp lại nhau? Không là kiếp sau à!
                      Tâm lại hỏi:
                      - Ông có nghĩ rằng họ sẽ đưa tờ giấy đó cho ông Sơn không?
                      - Không! Tôi nghĩ là không! Lúc tôi viết mấy chữ đó, liếc mắt thấy nó nhếch mép cười. Tôi chắc rằng khi quay lưng đi, chúng nó sẽ vất vào giỏ rác ngay. Vã lại, với chức quyền như Sơn hiện giờ thì ngày nào lại chẳng có khối thằng đến xưng là bạn để cầu cạnh, lợi dụng. Họ bận tâm làm gì!
                      Tâm vẫn ức:
                      - Ông Sơn làm nhạc thì ăn cái dải gì mà cầu cạnh?
                      Tôi phì cười vì cái ý nghĩ đơn giản của Tâm:
                      - Bán sữa đậu nành như ông, bán chuối lề đường như ông Sang thì không cần. Nhưng ông viết văn, làm nhạc thì phải khom lưng cười cầu tài đó!
                      - Sao ông biết?
                      - Tôi không biết ông Sơn đang nắm giữ chức vụ gì, nhưng cứ suy đoán thì thấy ngay. Này nhé! Cứ đem so sánh với những tay một đời theo đảng, mấy ai đã được ân sũng như thế? Vi la này! Những hai bảo vệ này! Còn vô khối bỗng lộc ngõ trước, ngõ sau thì đủ biết Sơn đang giữ chức vụ lớn và quan trọng lắm.
                      - Mới tới đây có mấy phút mà nghe ông nói như thánh nói!
                      - Cần gì phải thánh mới biết! Cứ nhìn đầy tớ gác cổng mà uống whisky thì biết ngay đời sống của thầy!

                      .*********************************************** . . . . . .

                      anh  hoang lien  công  viết



                      khi đọc bài này , có thể ta hơi bị bất ngờ. Nhưng nhân tài thì vẫn có sai sót, và những sai sót bé bỏng và đáng yêu.

                      HLC.

                      ***************************************
                      ( anh   ngo  huu  đoàn  viết  )



                      Tui đã đọc qua bài này, không biết bài viết này còn khúc nào nữa hay không, hay là chỉ bấy nhiêu, nếu chỉ bấy nhiêu mọi người có thể bàn luận, kẻo như lần trước, ý kiến xong lại nghe "còn tiếp ..." thì hơi kẹt!

                      Theo thiển cận (tạm gọi cho đỡ trách nhiệm) của tôi:

                      - Mấy ý đầu là đưa vấn đề
                      - Phần thứ 2, dài sau đó, kể về kỷ niệm, hồi ức, khúc này hay và chi tiết lắm
                      - Phần thứ 3, phần chí để giải quyết vấn đề, phần này đưa ra 3 ý chính
                      a. Cuộc triển lãm tranh TCS ở Nha Trang
                      b. Lần đến thăm TCS sau nhiều năm ko gặp trước khi tác giả đi Hoa Kỳ diện H.O
                      c. TCS với các mối quan hệ: Lưu Kim Cương, Nguyễn Cao Kỳ, Võ Văn Kiệt, Lê Thanh Hải.

                      Trong ý chính này tôi thấy tác giả cũng không đủ thuyết phục

                      a'/ Tại cuộc triển lãm tranh mà cho rằng TCS "cố quên bạn" thì nghe hơi có vẻ áp đặt, Vì sao? vì trong bài không có câu đối thoại nào của TCS với tác giả bài viết này. Điều đó có nghĩa là có thể TCS không thấy thật trong lúc triễn lãm đông đúc người.
                      b'/ Lần đến thăm mà ko gặp được TCS vì lý do 2 bảo vệ cho biết ông đang nghĩ vì mới uống rượu nhiều cũng là chuyện bình thường. Vì lúc đó, ông chưa biết bạn ông là ai, đương lúc mệt cũng có thể xử lý thông tin bằng cách đó. 2 bảo vệ uống whisky cũng không là chi tiết quan trọng (nếu có). Uống whisky cũng ko sao, và biết đâu vỏ whisky ruột chuối hột thì sao?
                      c'/ Nói tới cái này là cái quan trọng, nhưng nói bấy nhiêu đó thì ít thông tin quá. Theo tui biết thì tác phẩm TCS bị cấm phổ biến không những ở chính quyền Miền Bắc mà còn bị cấm dữ dội ở Miền Nam. Những người này chơi với TCS là do TCS hay là do họ ngưỡng mộ tài năng âm nhạc thì cũng không xác định được. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng là người của chính quyền Miền Bắc nhưng là bạn thân với TCS, nhiều lần ông này đã che chở TCS trong những lần đi Âu, Mỹ bị người Việt hải ngoại phản kháng (phản kháng vì những câu đại khái như "em ra đi nơi này vẫn thế/ lá vẫn xanh trên con đường nhỏ". Nếu nói TCS thân Miền Nam để được yên ổn thì tại sao 30/4/75 ông ko đi, trong khi nhiêu người tình nguyện tới chở, sau này còn bảo lãnh? Nếu thân Miền Bắc để hưởng lợi thì tại sao ông phải bị khổ sở vì những câu đại khái như "sẽ có một ngày mùa thu Hà Nội trả lời cho tôi/ sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi". Những chương trình của ông cũng không được nhà nước "mặn mà" dù ông là một nhạc sỹ tài năng sáng giá của VN. Có lần Phạm Duy đã phá đám ông bằng cách cho đàn em cướp sân khấu trong lúc giải lao để hát bài "cớ gì mà buồn (?)" ( của Phạm Duy) trong khi chương trình của ông là Ca khúc da vàng, Kinh Việt Nam. Có người đã cúp điện khi tiết mục của ông bắt đầu tại Nhà văn hóa Thanh Niên (sau 75). Có người tới chơi nhà ông rồi đái lên tranh của ông. Nếu ông là người như mọi người bình thường (chứ chưa kể tầm thường) thì mấy vụ đó ẩu đả xảy ra là ko tránh khỏi, và công chúng quên sao được?

                      - Một ý là TCS không hề đề cập tới thơì gian làm trưởng giáo ở B'lao, tôi cũng chưa rõ vì sao không thấy ông viết về công việc này?

                      Nếu ông TCS xấu thì những người ganh tỵ ông đã lên tiếng lâu rồi, bên cạnh đông đảo bạn bè yêu quý ông thì cũng có một ít người ganh tỵ tài năng không, thì họ (người ganh tỵ) đã "khai thác" lâu rồi chứ không phải đợi đến hôm nay để cho tác giả bài trên lên tiếng. Có người (nhạc sỹ) đã tuyên bố viết nhạc như TCS họ có thể viết 10 bài/ngày, cả sự nghiệp của TCS họ chỉ làm trong 3 tháng!. Tôi nghĩ, những người ngưỡng mộ TCS thì hãy yên trí tin rằng TCS là một tài năng lớn, một nhân cách lớn, vì TCS đã qua "thử thách" nhiều rồi!

                      Bài này bạn guest post cho tui thấy được và tin hơn ông Nguyễn Đắc Xuân, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về TCS, giai đoạn dạy học ở B'Lao.

                      Cảm ơn bạn nhiều !



                      **************************************************
                      nguyetthao viết

                      * Nguyêtthao chẳng biết quan điểm của anh H.L.C anh N.H. Đ về tình " bẳng hữu " như thế nào , chứ riêng nguyetthao có vài người bạn trai , tất cả họ đều nâng niu kính quí hai chữ bằng hữu này vô cùng . Tình cha mẹ con cái anh chị em có máu mủ buộc chặt Tình vợ chồng phu thê có nợ và nghĩa trói ràng , nhưng riêng tình bằng hữu thì chỉ có mỗi một tấm lòng nghĩ về nhau đối với nhau là thiêng liêng màu nhiệm . Chẵng biết anh H.LC nghĩ sao mà bảo rằng việc quên hẳn cả một thời gian , quên hẳn tất cả những người bạn hàn vi của mình như vậy là một sai sót nhỏ bé đáng yêu . Nguyêtthao mong rằng trong cuộc đời anh đửng bao giờ có những nét đáng yêu như vậy ?!
                      * Hai phần a và b mà anh N.H.Đ lập luận nguyetthao miễn bàn / một ý là áp đặt và một ý là cãi lỳ thì tranh luận muôn đời không hết . Cứ để thiên hạ phán xét thôi . nguyetthao chỉ nêu ra hai khía cạnh: một là có một gã muốn quên đi tất cả và hai là có những con người không muốn ( không có ý định ) vơ vào .
                      * Cái điềm thứ ba / cái điều mà anh NHĐ CHO LÀ QUAN TRỌNG NHẤT thì anh NHĐ lạc đề rồi . Toàn bộ bài viết không đặt ra vấn đề tcs ở " phe " nào / CS hay MỸ Nguỵ / tất cả bài viết chỉ nói về tình bạn bè bằng hữu / và chinh cung cách cư xủ của tcs đối với bạn bè / cũng như đối với thời hàn vi của mình / không dám nghỉ tới không dám nhớ tới / đủ noí lên bản chất đam mê DANH và LỢI ở con người này rồi .

                      Những người này chơi với TCS là do TCS hay là do họ ngưỡng mộ tài năng âm nhạc thì cũng không xác định
                      được


                      Những danh tánh Đạo - Lãng - Sang - Hiện - Tín -cô giáo Nghiên và tác giả Ng t Ty v. v. không phải là những người chơi với tcs hay fan của tcs mà đó là những nhà giáo đồng nghiệp của tcs / Cuộc đời họ sống bằng nghề giáo / hảnh diên là thày giáo ( khác hẳn với kẻ không dám nhận mình là thày giáo bởi vì mình là một vĩ nhân ) . Rõ ràng thì chỉ những con người to lớn cỡ NG q Sáng mới xứng đáng là bạn của tcs thôi .
                      Những danh tánh trên không làm nghề nhạc sỹ cũng chẳng ganh tỵ chút gì về tăm tiếng của tcs cả .
                      *Công khai bài hồi ký này , tác giả không có ý định , ý đồ lật mặt nạ tcs ( nếu có ý đó thì đã làm lâu rồi ) bơỉ vì không nhờ vả gì nên cũng chẳng cay cú oán hận gì ( xem cách viết thì rõ ) . Bài hồi ký này xuất hiện do chủ ý tác giả muốn đòi lại BẢN QUYỀN ( tức là những dữ liệu ,sự kiện trong bài viết ) đã vô tình bị một người khác đánh cắp .

                      * Nguyetthao hoàn toàn tôn trong quyền tự do sùng bái . Và từ bao đời nay rồi sự thật thì cũng luôn luôn phũ phàng .





                      *******************************************
                      anh  hoang  lien  cong  viêt


                      Bạn nói gì tôi thật sự không hiểu, những ngừoi bạn đó có vẻ tự ti , mặc cảm quá hay sao, đợi đến khi người ta chết mới đào mồ người ta lên xử hay sao, những chuyện riêng tư giữa họ chỉ thật sự có vậy thôi sao, tôi hy vọng bạn lý giải được chỗ này bạn sẽ thấy nhạc sĩ Trịnh công Sơn đáng yêu biết bao nhiêu. Một người bạn chân chính bao giờ hơn ai hết phải hiểu bạn mình, là ngừoi cho ta sự tin tưởng,và hành xử với ta sự cao thượng,chứ không phải đi đào ra những sự tỵ hiềm cá nhân.
                      nhạc Trịnh công Sơn là một thứ văn học và là một thứ thánh giáo cho tôi, tất nhiên tư cách của ông là điều tôi học hỏi, tôi yêu nhạc của ông há rằng tôi lại không thấy trong đó một tính cách vĩ đại.
                      để tóm lại câu chuyện này, tôi trích ý trong điếu văn của nhạc sĩ Trần long Ẩn đọc trong ngày tang lễ nhạc sĩ Trịnh công Sơn. -Trịnh công Sơn vĩnh biệt chúng ta đó là một mất mát lớn,ông là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng vượt lên trên hết đó là một "nhân cách" lớn đã để lại cho cuộc đời chúng ta.


                      HLC.


                      **************************************************

                      nguyetthao  viết


                      Anh H.LC .
                      Chúgta có thể kết thúc tranh luận ở đây .
                      Đạo đức nhân cách một con ngưyơì không thể do người này ( Ng Q. Sáng phán ) không thể nghe(Tr. L Ẩn đọc) . Nhân cách một con người thể hiện qua tấm lòng họ đối xử với bằng hửu bạn bè với cộng đồng xã hội .
                      Mê tín sùng bái là quyên mỗi người .
                      Tài năng không phải nhân cách ( như phạm duy ấy là giống gì )
                      Anh bào nhửng người bạn của tcs trong bài viết trên là tự ty là mặc cảm . Không đâu . họ không phải hạng người mê say danh lợi thấy bạn mình sang mà vơ vào ( như tcs vơ vao trịnh cung . luu kim cuong lê thanh hai vo van kiêt ).

                      Theo nguyetthao thì anh hãy đọc kỹ bài viết trên .
                      nhân cách tcs tuỳ thuộc vào độ chuẩn xác chân thực của bài viết này . Không nên nghe người này phán người kia bảo kẻ nọ tung ho rồi mình tung hô theo .
                      Anh cố gắng giảm bớt sự mê tín . hảy cùng nguyetthao tìm ra sự thật .
                      Còn tranh luận kiểu u lỳ như anh viết thì cho nguyetthao xin thôi .

                      nguyetthao





                      *************************************************
                      nguyetthao  viet



                      Nguyetthao không nghĩ là trình độ như anh HLC anh NHĐ mà lại cứ cố u lỳ ngây thơ như vây .

                      GIa đình đang yên ấm , nguyetthao đang đường đường là dâu thảo vợ hiền từ mẫu . Bỗng đâu nhận được một lá thư thế này :
                      "Tối ngày 29/2/2008 chúng tôi thấy cô nguyễn thị nguyetthao cùng một người đàn ông bước vào kách sạn NumberOne ở đường số 2 quận 3. Hai người lên phòng 405 ( lầu 3 ) và ở chung với nhau từ 22g đến 5g sáng ngày 01/ 03 . hoá đon thanh toán num . . total 1000000đ . Tại sỗ trực của khách sạn vả sổ luư tạm trú địa phương danh tánh 2 người đăng ký ngủ phòng 405 theo C.MND thì người đàn ông tên là Ng X còn đàn bà tên nguyễn thi nguyetthao. "

                      Để gỡ lại danh dự cho mình / công việc đầu tiên nguyetthao làm không phải là đi tim tác giả bức thư là ai ? ở đâu ? động cơ gì ?
                      Mà trước nhất nguyetthao phải chứng minh : đây là lá thư có tính cách vu khống .
                      Có 3 sự viêc phải minh chứng :
                      1/ người đàn bà ấy không phải là tôi ./ tôi aliby / bởi vì tối ấy ( đêm ấy ) tôi ở đâu /với ai /làm công việc gì
                      2/ Ở quận 3 mình không có cái khách sạn nào tên NOne . / NOne là một nhà nghì nhỏ không có lầu 3 nên cũng không có phòng 405.
                      3/Lần ngược dấu vết thì người đàn ông tên Ng X thì hoàn toàn không có thực

                      Đây là những dẫn chứng / theo nguyetthao /tốt nhất thanh minh cho mình .
                      ( Nếu không thanh minh được thì bào chữa . Bào chữa kiểu : tại chồng tôi đủ thứ bất lực / bỏ bê gia đình / nhậu nhẹt . . chứng minh được như vậy thì người ta sẽ thông cảm cho )


                      Còn theo anh HLC và anh NHĐ thì không nhất thiết phải như thế : bởi vì " ngốc quá nguyetthảo ơi là nguyetthão . tại sao lại không :
                      1/ Nhờ tổng thống Bush bảo Bill xác nhận cho mấy câu " Không thể như thế được một thiên tài window như cô nguyetthảo này thì không bao giờ làm chuyện tầm bậy đó cả . ( Bill nói là thánh nói mà )
                      2/ Đến Geneve nhờ ban quàn lý giải thưởng NOBEL bảo lãnh cho " " một nhà thơ thiên tài như cô nguyetthao đang được đề nghị trao giải thưởng văn chương này thì không thể nào có hành động ngoại tình như thế đựoc .
                      3/Ra Hanôi nhờ một nữ tổng bí thư danh tiêng tiếng nào đó " bao năm nay nguyetthao nổi tiếng là dâu thảo vợ hiền , đẽ hai đứa con là cháu ngoan , Năm năm liền đạt danh hiệu phụ nữ 3 đảm , được tổ dân phố tuyên dương . uỷ ban phường khen thưởng . . . Một con người như thế thì / nhân danh tổng bí thư tôi bảo đảm / không thể nào . hư hỏng được .
                      Theo nguyetthao . nếu chúng ta cứ ngoan cố mỗi bên theo một phương pháp ( kiểu như trên ) thì chẳng đến đâu cả . Nên kết thúc là tốt nhất .

                      Tuy nhiên trước khi kết thúc nguyetthao muốn đặt lại 2 vấn đề

                      Một /
                      ý là TCS không hề đề cập tới thơì gian làm trưởng giáo ở B'lao, tôi cũng chưa rõ vì sao không thấy ông viết về công việc này? .

                      Câu trả lời chì có thể là :
                      1/ VVới ai thì nghề dạy học là cao quý chư với vỹ nhân với thiên tài tcs thì đó là cái nghề hèn " Không lẽ ta đây mà có thời phải làm thày dạy học mấy thằng thượng con à "
                      2/ Có thể cái nghề dạy học không đến nỗi hèn lắm , nhưng nhắc đến cái nghề đó là lại phải nhắc đến cái đám bạn thày giáo mạt hạng !

                      nguyetthao không nhớ đọc ở đâu câu này : " quá khứ , nguồn cội là sương sống hình thành nhân cách con người "

                      Hai /
                      Ngoại trừ những người có lý tưởng và có nhiệm vụ về điệp báo ( như các anh hùng Phạm X. Ân - Phạm N. Thảo v.v. )phải chấp nhận một lối sống thế nào đó ( để hoàn thành nhiệm vụ công tác ) . Còn ông nhạc sỹ tcs này chẳng phải là điệp viên gì cả mà ông ta khéo luồn cúi đến độ cả hai thời kỳ ông toàn là em cháu / con / bạn / lính lác / hay tài lọt gì đó cho các ông lớn không ? hai anh có bao giờ suy nghĩ vấn đề này chưa nhỉ ? Thêm nữa biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ công cán đày trời mà ân huệ hưởng chẳng bao nhiêu chỉ riêng ông nhạc sỹ này công cán bao nhiêu mà được cấp căn nhà to đùng thế nhỉ ?!
                      Cứ chậm rãi nghiền ngẫm đi rồi chân lý sẽ loé ra từ bóng tối !

                      nguyetthao

                      *****************************************
                      anh  hoang  lien  cong  viết


                      tôi yêu cầu bạn hãy cẩn thận trong cách nói năng, mỗi người có một quan điểm riêng của mình và hãy bảo vệ nó, và tôi nhắc lại điều này - ở chợ có văn hoá của chợ, và ở đây không phải là một cái chợ.
                      Riêng câu chuyện của Trịnh công Sơn. Tôi nhớ lại một câu nói này không biết của ai, nhưng tôi tâm đắc nó,- muốn đấu tranh(đấu tranh giải phóng dân tộc,trong đó bao gồm cả trí thức và văn nghệ sĩ nữa) thì trước hết mình phải sống (tồn tại) đã.Người đấu tranh cho dân tộc thì phải biết đâu là điểm trọng yếu nên đi và đâu là điểm nên nhịn. lịch sử Trung hoa có Hàn tín , lịch sử Việt nam có Quan Trung có Nguyễn Trãi, đó là những tấm gương lớn để cho thế hệ đời sau học hỏi.
                      nói đến Trịnh công Sơn tôi nhớ một câu chuyện, khi Khánh Ly ở Hải Ngoại có đăng bài viết ca ngợi về ông, nhưng ông đã lên tiếng trong báo giới trong nước rằng - tôi với khánh ly gặp nhau đó là một cuộc hạnh ngộ trong đời, chúng tôi yêu thương và coi như ruột thịt, nhưng những gì Khánh Ly nói là để ca ngợi về một người đã chết. vâng các bạn thấy đó , đó là sự yếu mềm , sự bé bỏng của một con người có phải không, ( ta thấy ở đây một sự hờn giận và cố tránh đi một tơ lòng sâu nặng của ông).
                      Và một câu chuyên nữa trong một bài viết của nhà thơ Lâm thị Mỹ Dạ kể rằng, có một lần Trịnh công Sơn nhớ Khánh Ly trong nỗi nhớ ray rức ông đã viết hai chữ Khánh Ly lên đầy một trang giấy, điều này bạn có thấy bé bỏng và đáng yêu không các bạn.
                      Vĩ nhân cũng có lúc yếu mềm và " tôi ơi đừng tuyệt vọng", và "ngừoi ấy" tại sao lại để cho các bạn của ông phải phàn nàn thế. và thưa ông có nhiều người đang bảo vệ cho ông , thưa ông.


                      **********************************
                      phương  lạc  viêt


                      môt /

                      Tôi thấy là trong khi cô nguyetthao muốn đưa vấn đề - muốn :

                      a/ nhấn mạnh về độ chuẩn xác , về tình chân thực của bài viết để tìm ra một phần nào " chân lý "
                      b/ được đọc lại những phản biện ( bào chữa )về cung cách hành xử ( theo nội dung trong bài viết kiểu như tại sao tcs phải thế này , tại sao phải thế kia thì " phía bên kia " chỉ có biết cả vú lấp miệng em .
                      tôi khuyên nguyetthao stop lại là tốt nhất .

                      hai /

                      Trở lại câu nói làm nên sự " bất hủ ?! " của con người tcs :

                      Sống trên đời , con người cần có một tấm lòng !
                      có ai đó hỏi ": để làm gì "
                      Phải chăng khi đang ba hoa về một thứ đạo giáo tcs nào đó con người ông nhạc sỹ này bất chợt giật mình nhớ đến thuở mình làm thày mấy thằng thượng con , nhớ đến ơn nghĩa của cái đám thày giáo mạt hạng ( bạn bè của tcs thế này ư ) và một chút lương tâm hối hận khiến ( hoặc là sợ hố hàng ) vĩ nhân của chúng ta phán một câu lãng nhách :
                      " chỉ để gió cuốn đi thôi "
                      Kính xin các tín đồ của tcs " giải mã " cho "danh ngôn " này

                      ba/

                      nhưng những gì khánh ly nói là để ca ngợi về một t người đã chết

                      Lại phải chăng con người ta củng có một lúc nào đó phải trở về cái tính bổn thiện của mình . Khi nói câu này chính là lúc vỹ nhân của chúng ta bị lương tâm dày vò cắn rứt khủng khiếp đây .
                      về một người đã chết !
                      "thằng " ngưòi tcs nào đã chết ?
                      lúc này tăm tiếng và uy thế nhạc sỹ ưu tú` tcs đang lưng danh thiên hạ mà !
                      chính là "thằng" thày giáo tcs đã chết đấy !

                      bốn /

                      Dầu gì tcs - với tôi - cũng có điều đáng nể :
                      - thứ nhất sống thật với lòng mình khi dám quẳng vào mặt bạn bè " tấm lòng tôi chỉ để gió cuốn đi thôi ". .
                      - thứ hai còn một chút liêm sỉ khi dám xác nhận rằng : đã có một thằng bội bạc trong tôi đã chết

                      năm /

                      Phương lạc sẵn sàng thưa chuyện hầu chuyện . Nhưng đừng bao giờ xử dụng cái kiểu tranh luận cả vú lấp miệng em .
                      ******************************************
                      hoang  lien  cong  viết







                      Thưa tất cả các bạn , như các bài của tôi đã viết , tôi không cố tranh luận về vấn đề này, cho dù câu chuyện này có thật hay không, thiết nghĩ , một người như Trịnh công Sơn quá đủ để cho tôi ngưỡng mộ, nhân vô thập toàn, mỗi người có một quan điểm riêng để sống. tôi dựa vào câu nói của thi hào goocki :'" văn học là nhân học", vậy thì âm nhạc của trinh công Sơn đủ cho tôi thấy nhân cách của một con người,
                      trở lại với câu"sống trong đời sống cần … để gió cuốn đi" tôi không cho đó là môt câu hay, và tôi chẳng bao giờ cho rằng câu này là một cao đạo gì hết. và thực tế như vậy, không phải thiên tài thì câu nói nào cũng đúng cũng hay, nhân câu chuyện này tôi liên hệ tới câu chuyện danh hoạ picasso.,có một lần nguời bạn của ông đem một bức hoạ và hỏi ông bức hoạ này có đẹp không, ông trả lời không đẹp, người kia bảo rằng bức hoạ này chính do ông vẽ , và picasso trả lời, tranh của picasso không phải cái nào cũng đẹp. và tôi cũng chưa thấy một nhà bình luận văn học nào,(có hoặc chưa có) bình luận câu nói trên của Trịnh công Sơn để cho tôi có thể tâm đắc. và tôi chắc chắn tôi không bao giờ bị lạc đề trong câu nói này.
                      Nếu ở đây chỉ tranh luận có hay không có cho một vấn đề theo tôi là phải có nhiều bằng cớ, và bằng cớ thì không thể dựa trên một văn bản xa tít với đông đảo công luận. ít ra là nó phải đựoc đăng tải trên các báo có uy tín v,v.

                      Kẻ nào chưa tìm được ra bằng cớ manh mối xác đáng mà đã vội vàng hạ uy tín của một con người là một tội lỗi.

                      Thưa các bạn , cái lớn lao nó nằm ở đâu phải phân định cho ràch ròi.
                      Phạm Xuân Ẩn và Trịnh công Sơn là ở cùng một chiến tuyến, nhưng sự đấu tranh của họ nằm trên những bình diện khác nhau.
                      Phạm xuân Ẩn là một thành tích có thể nhìn thấy và hiểu được .còn Trịnh công Sơn đấu tranh cho dân tộc lại phải đươc hiểu trên một bình diện khác, nó không được hiểu như một logic sẵn có. Những bản nhạc , " Người con gái Việt nam da vàng, người già em bé, đại bác ru đêm, v.v.." càng nghe càng bị cuốn hút và có một sự khai mở cho tâm hồn, chứ nó không phải là những logic suy diễn để rồi nghi ngờ. Sự đấu tranh cho độc lập dân tộc không chỉ đơn thuần dựa vào vũ lực mà hãy thức tỉnh tiềm năng trong lòng dân. Đây là một đức tính yêu nước của người Việt mà tôi ngưỡng mộ ở Trịnh công Sơn; tôi lại phải tranh luận câu chuyện trên kia để làm gì, và tôi cũng không phản đối việc tranh luận của các bạn, tôi chỉ nói quan điểm của tôi với sự việc này, và đối với tôi đó là việc vô bổ.

                      *************************************************

                      View Member Profile Find Member's Posts ipsmenu.register( "post-member-8384", '', 'popmenubutton-new', 'popmenubutton-new-out' );







                       


                      1





                      #71
                        chuthuongthoi` 20.05.2007 10:43:42 (permalink)
                        nguyethao  viết ( từ  thotre. com)
                        ( nhân  chuyện  Trinh  Công  Sơn viết  về  hai  chữ  nhân  cách )

                        một

                        Hồi nào tới giờ , thú thật nguyêtthao mơ hồ lắm về cái từ Nhân Cách , cứ nghĩ nhân cách là nhân cách thôi , rồi buôn chuyện ở đâu cũng đế vào một câu cho ra vẻ am tường : " mệnh phụ phu nhân có nhân cách của bà mệnh phụ phu nhân - cô gái điếm có nhân cách của nàng gái điếm !? )
                        Cho đến ngày ông tcs mất . trong điếu văn cho vỹ nhân này nguyetthao lượm ra được một từ mới " nhân cách lớn " á hà té ra nhân cách cũng có nhiều hạng nhân cách : nhân cách lớn , nhân cách vừa vừa , nhân cách hơi nhỏ , nhân cách nhỏ v.v. Thế là lại thêm phần phức tạp rồi , ai làm ơn giảng giải cho nguyetthao biết cách phân biệt các cỡ : lớn , vừa vừa , hơi nhỏ và nhỏ ở đây với .

                        hai

                        Đọc cũng khá nhiều bài viết về vỹ nhân tcs , những minh chứng về thiên tài của ông thì vô số , nhưng tìm mỏi con mắt vẫn chưa ( xin lưu ý chữ chưa )thấy một dữ liệu nhỏ nhoi nào nêu ra được cái nhân cách lớn của ông nhạc sỹ thể hiện ra ở thời gian nào không gian nào hoàn cảnh nào với ai trong trường hợp nào tình huống nào .
                        Không hẳn thế , cũng có hai lần cái nhân cách vừa vừa thôi được thể hiện ra qua lời kể của hai nhân vật .
                        * Một là nhà văn Lâm t. Mỹ Dạ kể ràng đã chứng kiến cái nhân cách của tcs thễ hiện vào cái ngày ông nhạc sỹ nghe tin Khánh Ly chết vì vượt biên chung quanh chỗ ông ngồi , tràn ngập căn phòng ông ở cơ man những tờ giấy ông nhạc sỵ nghuệch ngoạc hai chữ K.L . - Xin được nghiêng mình bái phục , ít nhất trong đời mình cũng đã một lần nguyetthảo thể hiện nhân cách vừa vừa của mình cho thế giới thấy . Đó là cái ngày thằng bồ cưới vợ nguyetthao cũng làm sạch boong một gram 500 tờ giấy y cheng như vậy .
                        .

                        **Lần thứ hai nhân cách vừa vừa của tcs được thể hiện khi ông thày giáo - thày của lũ thượng con - dứt khoát từ chối yêu cầu của ông đại tá tỉnh trưởng lâm đồng trong một dịp lễ lạc nào đó - Tiếc thay lời kể này chỉ là của một gã thày giáo chưa có được cỡ 1% uy tín so với những người nổi tiếng cùng đẳng cấp tcs như Trịnh Cung - Ng. q Sáng - Trần Long Ân v. v. nên cần phải xem xét lại . Chưa biết chừng cái gã thày giáo cùng đinh này lại chỉ có ý đồ lợi dụng nhân cách lớn của trịnh vỹ nhân để chứng tỏ chút nhân cách nhỏ của mình cũng nên chăng ! Khổ thật ! nhân tài thì dư giả nhân cách còn con người bình thường hơi khó đấy đa .

                        ba

                        Tìm thày giáo cũ , nhờ thày giảng lại cho hai từ Nhân Cách . Giảng tới giảng lui vẫn chẳng thông lại xin thày dẫn chứng cho hai(2)cái Nhân Cách có tên tuổi cụ thể nhất . Thày hỏi tại sao là hai (2) . Thưa : chỉ hai (2) nhưng phải đối nghịch nhau như bà mệnh phụ và cô gái điếm ấy để mai mốt nguyetthảo dễ ứng dụng mà đi loè thiên hạ . Thày kể ( theo thày thì ) :
                        - Chính phái - tức phe ta ấy - Thày ái mộ nhân cách của anh hùng Phạm Xuân Ân nhất . Con người này có một cuộc sống thượng lưu ngay giữa trong lòng địch ( thời làm pv báo Time ) nhưng tuyệt đối không quên nghĩa vụ đối với tổ quốc mình . Khi đến những ngày sắp chiến thắng lại đau đáu nghỉ đến ( số phận ) những người mà mình đã tưng thọ ân . .
                        - Tà Phái - tức phe địch ấy - Thày khâm phục nhân cách bà văn sỹ Nhã Ca - chồng học tập . người đàn bà trẻ sống với mấy đứa con thơ trong tình cảnh ngặt nghèo không hề sợ liên luỵ tai tiếng , không hề sợ hậu quả khủng khiêp vẫn dung chứa bao bọc cho người anh , người bạn hồi nào của vợ chồng mình . Chưa hết còn nhường cả cái xuất vượt biên vô cùng đắt đò của con gái mình cho người bạn này nữa ( Đọc hồi ký của nhà văn Hữu Loan thời Nhân Văn Gia Phẩm mới thấy thắm thía nhân tình nhân cách đời con người )

                        bốn

                        Lại hỏi thày về phương pháp đánh giá so sánh lớn nhỏ trong nhân cách - thày lắc đầu - Không còn cách nào khác , nguyetthảo bắt bí thày xem sao : " người ta bảo tcs nhân cách lớn thế thì nhân cách Khánh Ly ở hạng nào , vừa vừa , hơi nhỏ hay nho nho nhỏ ạ "
                        Thày ngẫm nghĩ thật lâu rồi mới e dè ngài ngại : " So giữa hai người này thì không biết nhân cách tcs lớn tới đâu , tới cỡ nào nhưng có một điều chắc chắn nhân cách Khánh Ly lớn hơn nhân cách tcs một tý chút .'
                        - Sao lại vậy được thưa thày !
                        - Cái thời mà tcs uy vũ lừng danh trong nước thì Khánh Ly cũng vẫn giữ được vị thế của mình ở hải ngoại ( phải nói rõ ra như vậy để phân biệt với đám thày giáo -đồng nghiêp của tcs hồi xưa - không khéo có người lại bênh vực bảo Khánh Ly bợ đỡ để nhờ vả dựa hơi họ trinh ) khi bất cứ có ai hỏi đến sự nghiệp ( tcs-KLy ) thì trong trả lời của Khánh Ly luôn luôn là " nhờ tcs , nhờ nhạc tcs mả KL mới có . . . còn ngược lại trong trả lời của vỹ nhân này người ta chưa thấy ông nhạc sỹ mạnh dạn nói đến tiếng nhờ KL , nhờ có giọng ca KL . . Chỉ từng ấy thôi đủ xếp hạng nhân cách ai lớn hơn ai rồi .



                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 20.05.2007 10:47:27 bởi chuthuongthoi` >
                        #72
                          hoaha 31.08.2007 08:19:17 (permalink)
                          Xin mời các bạn vào đường Link để xem một số bài viết về Trịnh Công Sơn trên Vnexpress:
                           
                          http://vnexpress.net/Search/?fMC=true&fMT=false&fSD=&fED=&fC=&fDS=1&fRPP=10&p=1&r=57&a=1&s=Tr%26%237883%3Bnh%20C%26%23244%3Bng%20S%26%23417%3Bn
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.08.2007 08:26:16 bởi hoaha >
                          #73
                            hoaha 22.03.2008 23:31:47 (permalink)
                            Miếng đòn khiến Trịnh Công Sơn trở thành nhạc sĩ
                             
                            Cú té ngã gần 50 năm trước đã khiến người nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh nằm liệt, phải từ bỏ ước mơ võ sư, để rồi sau đó "vịn" âm thanh đứng dậy.
                            Bên cạnh những người bạn thân quây quần trong ngôi nhà lớn đèn đuốc rỡ ràng của gia đình tại Sacramento, thủ phủ tiểu bang California (Mỹ), Trịnh Quang Hà, em trai kế của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói về "miếng đòn định mệnh" đã đưa Trịnh Công Sơn từ giấc mơ võ sư sang đời nhạc sĩ.
                            Thời 1956-1957, cả hai anh em Sơn và Hà (cách nhau hai tuổi) đều học võ thuật tại Huế, quyết chí trở thành thày võ. Trịnh Công Sơn khi ấy chẳng quan tâm về âm nhạc. Theo lời kể của Trịnh Quang Hà, "Anh Sơn đã lớn, 18-19 tuổi rồi mà chỉ thấy anh mê võ. Nhà có một cây đàn guitar gỗ cũ nhưng rất ít khi anh Sơn sờ tới. Anh thường mân mê cặp găng boxer, tập đi bài quyền của phái Vovinam, nghiên cứu và luyện võ theo sách nhu đạo. Anh thường xuyên nói chuyện võ chứ không nghe anh nói chuyện nhạc bao giờ".
                            Cho đến "một buổi sáng mùa hè năm 1957, anh Sơn và tôi tập nhu đạo để chuẩn bị thi lên đai "ma-rông" ở sân nhà trên đường Phan Bội Châu (ngã giữa Huế). Sau một hồi hai anh em tập dượt, quần thảo thì sự cố xảy ra. Khi tôi dùng sức đưa cú đấm "đơ-dem-ê-côn" thì anh Sơn cũng dùng hết sức chặn. Tôi rị lại, té nhào trên mình anh Sơn và không cưỡng nổi quán tính của đường quyền đang chuyển động, cùi chỏ của tôi theo đà ấn xuống, đập một đòn chí mạng vào ngực anh. Anh Sơn thổ huyết lai láng (gần cả thau) và nằm ngục ngay tại chỗ".





                            Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngày còn sống. Ảnh: photobucket
                            Sau biến cố này, Trịnh Công Sơn nằm liệt giường suốt hai năm. Trong suốt cả năm đầu ông phải húp cháo lỏng và ăn uống cần người đút. Khi Trịnh Công Sơn gượng dậy được thì thú vui của ông là "cây đàn bỏ quên".
                            Với kiến thức nhạc lý căn bản trong những năm học trung học trường Tây, Trịnh Công Sơn tìm vào thế giới âm thanh như một lối thoát, một khúc quanh, một ngã rẽ tình cờ của thân phận vô thường.
                            Ngày rời giường bệnh cũng là ngày mà Trịnh Công Sơn "vịn" âm thanh đứng dậy. Nhạc của ông đã có đường bay nghệ thuật riêng. Ca từ của Trịnh có mãnh lực diệu kỳ cuốn hút người thưởng ngoạn nghệ thuật.
                            Nhiều người thắc mắc tại sao người ta yêu thích ca từ của Trịnh Công Sơn ngay cả khi không hiểu tác giả muốn nói gì. Trịnh Công Sơn đã thổi hồn phách vào lời nhạc mà không thông qua những khái niệm đời thường của ngôn ngữ. Khi người ta quên ký hiệu ngôn ngữ để chỉ còn nhớ lời ca của Trịnh được hát lên, tấu lên thành giai điệu đầy ắp mà không cần phân tích lý luận "lời buồn thánh", "cỏ xót xa đưa" là gì thì chính là khi Trịnh Công Sơn ca khúc khải hoàn.
                            Đời đã và sẽ có bao nhiêu nụ hôn, bao nhiêu miếng đòn, bao nhiêu cuộc hẹn, sự đời biến cố mang tính "định mệnh" làm thay đổi con người và hoàn cảnh như trường hợp Trịnh Công Sơn?
                            (Theo Pháp Luật TP HCM)
                             
                            http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/Guong-mat-Nghe-sy/2008/02/3B9FF211/
                            #74
                              hoaha 05.04.2008 20:29:18 (permalink)
                              Ca sĩ Hồng Nhung trả lời trực tuyến

                              Vào lúc 15h ngày 4/4/2008 ca sĩ Hồng Nhung đã có buổi giao lưu trực tuyến cùng thính giả nhacSO.net
                              Dưới đây là nội dung buổi giao lưu:




                              Ca sĩ Hồng Nhung
                              - Nguyễn Tiến Thọ (Vũng Tàu): Chào chị Hồng Nhung. Em là 1 người còn rất trẻ tuổi nhưng rất thích nhạc Trịnh mà đặc biệt qua sự thể hiện của chị. Các ca khúc của nhạc sĩ TCS rất sâu sắc. Em muốn xin hỏi chị 1 câu. Cơ duyên nào đã đưa chị đến với nhạc Trịnh, và bằng cách nào chị thể hiện hay và truyền cảm đến như vậy. Vì theo em biết nhạc Trịnh rất khó thể hiện. Có nhiều ca sĩ hát nhưng không thành công không phải vì họ không có kỹ thuật thanh nhạc... Theo chị là do đâu. Chào chị và chúc chị luôn thành công trong sự nghiệp.
                              Hồng Nhung
                              Xin gửi lời chào thân mến đến khán giả của nhacSO.net va Hồng Nhung cũng xin cảm ơn những người biên tập chương trình để cho Hồng Nhung có dịp trò chuyện trực tiếp với khán giả gần xa.
                              Xin chào bạn Tiến Thọ ở Vũng Tàu là người đã gửi câu hỏi đầu tiên. Đúng như bạn nghĩ, Hồng Nhung cũng cho rằng âm nhạc Trịnh Công Sơn không chỉ dành cho một lứa tuổi nào bởi từng nốt nhạc và ca từ đều được viết lên từ những rung động giản dị và chân thật của một tâm hồn nhạy cảm luôn khao khát yêu thương. Có nhiều bài hát đã nổi tiếng anh viết khi mới ở lứa tuổi đôi mươi nên những đồng cảm mà bạn có được cho nhạc Trịnh Công Sơn là rất tự nhiên.
                              Hồng Nhung may mắn được gặp gỡ và trở thành người trò, người bạn của nhạc sĩ trong suốt 10 năm và nhờ đó đã được tiếp xúc và học tập về âm nhạc Trịnh Công Sơn một cách đặc biệt. Có lẽ vì thế mà những bài hát Nhung thể hiện dễ được quí khán giả chấp nhận và đồng cảm. Theo Nhung thì để hát nhạc Trịnh Công Sơn, yếu tố tình cảm quan trọng hơn nhiều kỹ thuật thanh nhạc. Nếu bạn yêu những nốt nhạc giản dị đó bạn có thể hát rất hay mà không cần kỹ thuật gì cả.
                              - Phạm Quang Huy (Hà Nội): Chào chị Nhung, được biết, chị là người gắn bó với khá nhiều bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Theo chị, để chuyển tải được cái hồn của nhạc Trịnh và gắn kết nó sâu sắc với người nghe, một ca sĩ cần phải làm gì?
                              Hồng Nhung
                              Chào bạn Huy !
                              Như Nhung vừa nói, có lẽ để chuyển tải được đúng tính chất của nhạc Trịnh thì người hát nhất thiết phải yêu bài hát, đồng cảm với thông điệp về tình yêu mà bài hát định nói, và sẽ hay khi mỗi người hát lại đưa vào đấy tình cảm và cách nghĩ rất riêng của mình. Bạn có thấy thế không ?
                              - Nguyễn Trọng (Hà Nội): Chào chị Hồng Nhung. Tôi là một người rất thích nghe nhạc Trịnh qua giọng hát của chị. Tuy nhiên, tôi lại chỉ được nghe chị hát qua băng đĩa hay truyền hình mà không có nhiều dịp để nghe live. Chị có ý định tổ chức một liveshow về nhạc Trịnh tại Hà Nội không vì lâu lắm rồi, không được nghe Hồng Nhung hát tại Hà Nội, nhất lại là hát nhạc Trịnh.?
                              Hồng Nhung
                              Mặc dù hát rất nhiều những bài hát của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhưng quả thật Nhung không có nhiều CD nhạc hay liveshow cho dòng nhạc riêng này. Lí do vì càng yêu mến và càng hát nhiều thì lại càng thận trọng hơn trong việc trình diễn, có thể gọi là "kiệm" hơn. Vừa rồi Nhung có chương trình mang tên "Như Cánh Vạc Bay" tại nhà hát Thành Phố. Sau đó là "Vì Ta Cần Nhau" (cùng ca sĩ Quang Dũng) trong đó nhiều ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã được thể hiện theo phong cách song ca tạo không khí mới lạ và không kém phần cảm động.
                              Trong năm nay Nhung hy vọng sẽ cùng với những người bạn đồng nghiệp của mình thực hiện một chương trình nhạc Trịnh có tính cách gần gũi hơn là biểu diễn, để có thể đến với mọi người bằng cách giản dị nhất mà trước đây anh Sơn đã từng làm.




                              - Nguyễn Đắc Hiệp (HCM): Chị Bống ơi! Live show Thuở Bống Là Người 2003 tại Bình Quới của Chị rất thành công. Nhiều khán giả ở xa không xem được rất tiếc và hy vọng Chị sẽ phát hành DVD Live Show này. Sau Như Cánh Vạc Bay Chị có dự án nhạc Trịnh nào nữa không? Chúc Chị vui khỏe và may mắn.
                              Hồng Nhung
                              Đêm "Thuở Bống Là Người 2003" là một đêm mà Nhung sẽ không bao giờ quên ! Cảm ơn bạn đã có mặt và chia sẻ kỉ niệm thật đẹp này cùng 5000 người trong đêm hội ngộ ấy đúng vào ngày sinh nhật của Hồng Nhung, đã làm nên một sinh nhật đầy âm nhạc và tình người.
                              Chương trình này không có DVD cho nên chỉ có thể ở lại trong mọi người như một kí ức đẹp đẽ.
                              Tuy vậy "Vì Ta Cần Nhau" DVD sẽ được phát hành trong tháng sau trong đó những bài hát như "Phôi Pha", "Ru Tình", "Như Một Lời Chia Tay" ... đã được thể hiện trên sân khấu lung linh của đạo diễn Phạm Hoàng Nam.
                              Cũng xin chúc bạn vui khỏe, may mắn và luôn giữ tình yêu không bao giờ xưa cũ với nhạc Trịnh.
                              - Nguyển Ngọc Đính (Đồng Nai): Hồng Nhung ơi, Sao Nhung hát nhạc Trịnh hay dữ vậy? Và tôi muốn hỏi rằng liệu nỗi nhớ Anh Sơn có làm cho Nhung phải "trống vắng" không? Chừng nào mới có một nhạc sĩ thánh thiện như Anh Sơn?
                              Hồng Nhung
                              Thưa chú !
                              Xin được chia sẻ ý nghĩ của chú về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thánh thiện.
                              Hồng Nhung cũng vì được gần gũi với dòng nhạc này mà cách nhìn và cách nghĩ về đời sống có nhiều thay đổi. Được hát nhạc Trịnh là một điều may mắn đối với Hồng Nhung, còn có thấy hay hay không là xin nhờ vào những người khán giả yêu nhạc Trịnh tự cảm nhận với cách riêng của mỗi người. Xin cảm ơn chú Đính đã có lời khen khích lệ cho Hồng Nhung.
                              Sự ra đi của nhạc sĩ đã để lại sự "trống vắng" trong tâm hồn rất nhiều người và riêng đối với Hồng Nhung, đã để lại một khoảng trống không thể lấp đầy !
                              Hồng Nhung nghĩ cách thiết thực nhất để thể hiện tình cảm với người nhạc sĩ có một không hai này là hát lên những ca khúc của anh bằng tình cảm yêu mến trân trọng và say đắm.
                              - Minh Hiếu (Thanh Hoá): Chào chị Nhung, em rất thích nghe chị hát những ca khúc da vàng của bác Trịnh như Ngủ đi con, người già và em bé.... Liệu có abum nào dành riêng cho mảng ca khúc này không ạ, lần trước nghe chị nói đang thực hiện cùng Hoài Sa một abum nhạc Trịnh những bài hát này
                              Hồng Nhung
                              Trước đây nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có nói chuyện và giảng giải cho Hồng Nhung rất nhiều về những Ca Khúc Da Vàng, chở cả một sự rung động lớn của một tâm hồn nhạy cảm trước chiến tranh, bom đạn, cái chết, và những mất mát không gì thay thế được. Những tình ca đã mạnh mẽ bao nhiêu thì những Ca Khúc Da Vàng lại càng quyết liệt hơn. Còn có rất nhiều Ca Khúc Da Vàng còn chưa được cho phép. Hy vọng sẽ thực hiện được album này vào một ngày gần nhất.
                              - Hoàng Trường Giang (Hà Nội): Gửi chị Hồng Nhung! Ca khúc "Đóa hoa vô thường" có phải nhạc sỹ Trịnh Công Sơn dành riêng cho chị không? (Vì em đã nghe nhiều người hát bài này nhưng không ai hát hay bằng chị)
                              Hồng Nhung
                              Bài hát này đã có từ lâu trước khi Hồng Nhung gặp gỡ với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ngay lần thu đầu tiên Hồng Nhung đã hát với những rung động mới mẻ và có nhiều phần nữ tính. Không ngờ đấy là cách hợp nhất với bài hát này cho Hồng Nhung. Vì vậy mình cứ hát tự nhiên và tha thiết cứ như bài hát được viết dành riêng cho mình. Nếu bạn yêu bài hát và nghe kĩ, có thể bạn sẽ có cảm giác bài hát được viết dành riêng cho mình.




                              - Phương Thảo (Thanh Hoá): Chị hát rất hay và cảm động trong abum và live show Như cánh vac bay, tuy nhiên ca sỹ Siu Black trả lời phóng vấn có nói rằng: Diva nhạc Trịnh hát rất thiếu cảm xúc,đó là cảm xúc diễn, rất giả.....Chị nghĩ sao về điều này, sự thay đổi cách hát rất mới của mình với nhạc trịnh là nhẹ nhàng, mộc mạc, nữ tính liệu có được tiếp tục ?
                              Hồng Nhung
                              Chị Siu Black là người rất dễ thương ngoài đời. Với Hồng Nhung chị là một ca sĩ có giọng hát tuyệt vời, và diễn xuất sân khấu đầy lửa. Nhung luôn luôn là một khán giả hâm mộ của chị Siu. Có thể chị có cách nhìn khắt khe hơn với những ca sĩ hát nhạc Trịnh nên có những nhận xét như vậy...
                              Cảm ơn Phương Thảo đã đến dự liveshow "Như Cánh Vạc Bay".
                              Hồng Nhung sẽ giữ cách hát mới của mình là nhẹ nhàng, mộc mạc và nữ tính. Theo bạn như vậy có được không ?
                              - Nguyễn Hồng Thúy (Hà nội): Được chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nhận xét là người làm mới những ca khúc của ông và phù hợp với hiện tại - chị làm được điều đó bằng chính sự tìm tòi của bản thân hay có sự giúp đỡ của người khác?
                              Hồng Nhung
                              Chính nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người đã từng khuyến khích và nâng đỡ cho cách làm mới những ca khúc của ông khi Hồng Nhung bắt đầu hát, còn quá trẻ và vô tư để chỉ hát thật thà như là cách mình cảm nhận. Không ngờ chính nhạc sĩ cho rằng cách hát này làm âm nhạc của ông không phải chỉ dừng lại ở trong quá khứ mà sống với hiện tại. Làm được điều đó, Hồng Nhung được sự giúp đỡ của rất nhiều người: bên cạnh nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là các nhạc sĩ hòa âm phối khí, kể cả các bạn ca sĩ đồng nghiệp.
                              - Trần Liên (Huế): Em xin hỏi chị Hồng Nhung một câu hỏi: những ca sĩ hát nhạc Trịnh thường hát những dòng nhạc trữ tình. Ý kiến của chị ra sao khi hiện nay có rất nhiều ca sĩ ở các thể loại khác nhau cũng muốn thử giọng dòng nhạc này. Mặc dù nhạc Trịnh không phải ai cũng có khả năng hát được. Nhất là khi nghe một số ca sĩ (em xin không nêu tên) hát với những phong cách rất lạ, cải biên cũng có. Thành ra khi nghe hát thấy có một thứ gì đó nghe rất chướng tai. Ý kiến chị ra sao khi thấy một hiện tượng như vậy?
                              Hồng Nhung
                              Theo Nhung tất cả các ca sĩ đều có thể hát được nhạc Trịnh. Kể cả những người không phải là ca sĩ cũng hát được. Hồng Nhung nhớ một lần đi cùng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đến một cafe nhạc ở ngoại ô, có một cô gái lên sân khấu nhỏ cầm micro hát "Như Cánh Vạc Bay" còn sai cả nốt, mà nhạc sĩ vẫn rất thích vì cô gái hát rất thiết tha, cứ như chỉ có một mình với bài hát của mình mà thôi.
                              Vậy ai cũng có quyền yêu và hát nhạc Trịnh theo cách của mình. Khán giả sẽ là người lựa chọn cách thể hiện nào mà họ dễ cảm nhận nhất.
                              - Khánh Phượng (HCM): Em yêu thích những ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất nhiều là bởi giọng hát đầy truyền cảm của chị Hồng Nhung. Bây giờ chị hát nhạc Trịnh khác so với những ngày đầu chị hát nhạc Trịnh như thế nào?
                              Hồng Nhung
                              ... Nhẹ nhàng hơn, giản dị hơn và tập trung nội lực cho tình cảm trong bài hát, càng không có những biểu diễn kỹ thuật mà thiên về hát như nói.
                              - Trần Anh Tuấn (An Giang): Tôi tuy còn trẻ nhưng rất thích nghe dòng nhạc Trịnh, tôi đã nghe chị Nhung hát nhạc Trịnh này hơn 3 năm rồi, nhưng có 1 điều tôi thắc mắc muốn hỏi Chị: "Sao tôi nghe nhạc Trịnh nhiều lần nhưng vẫn không hiểu hết nội dung bài hát tôi nghĩ rằng mình con quá trẻ" không biết mỗi khi chị trình bày một bài nào đó nhạc Trịnh chị có lột tả hết nội dung bài hát không? Rất mong nhận được câu trả lời của chị. Gửi lời chúc sức khỏe đến chị. Mến Chào.
                              Hồng Nhung
                              Khi anh Sơn còn sống, Nhung cũng nhiều lần hỏi anh về nhiều ca từ hay đoạn thơ trong rất nhiều bài hát mà mình không hiểu được. Có khi nhạc sĩ giải thích, có khi lại nói giỡn là: "cái này moi (tiếng Pháp - tôi) còn không hiểu làm sao toi (tiếng Pháp - cô) hiểu".
                              Vì vậy Nhung chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể lột tả hết nội dung của bài hát, mà chỉ có thể thể hiện được sự rung động riêng của mình đối với mỗi bài hát mình yêu mến. Có điều may mắn là đã có nhiều người đồng cảm và thích cách hát ấy.
                              Có những quãng thời gian khác nhau trong cuộc đời ta có cách nghĩ và cách nhìn thay đổi, điều này cũng làm ảnh hưởng đến cách cảm nhận một bài hát mà mình đã từng hát từ lâu, để bỗng nhiên bài hát lại được trình bày với một hơi thở mới hoàn toàn.




                              - Tấn Sơn (HCM): Chị Nhung ơi, em rất thích nhạc Trịnh, nhất là các ca khúc do chính chị hát, em xin hỏi, với tư cách là người đại diện cho gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn giữ gìn tất cả các nhạc phẩm của nhạc sĩ, chị nghĩ thế nào khi nhận nhiệm vụ này, chị có gặp những khó khăn nào trong việc lưu trữ lại hay không? Chị có nghĩ mình sẽ hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc không?
                              Hồng Nhung
                              Chào bạn Tấn Sơn !
                              Hồng Nhung không phải là người đại diện cho gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, mà chỉ là ca sĩ của ông đã và sẽ tiếp tục trình bày các nhạc phẩm của nhạc sĩ để đưa đến cho người nghe với phong cách chuyên nghiệp, tình cảm và trân trọng.
                              - Ngô Hà Trung (Bắc Ninh): Chị gắn bó với dòng nhạc Trịnh cũng đã lâu và đã để lại được dấu ấn riêng trong lòng người hâm mộ. Chị nhận xét thế nào về sự thể hiện các ca khúc nhạc Trịnh của các ca sĩ trẻ bây giờ? Chị có kế hoạch ra tiếp album nhạc Trịnh nữa không?
                              Hồng Nhung
                              Nhung nghĩ hầu hết các ca sĩ đều hát nhạc Trịnh vì thích những bài hát hay này. Tuy nhiên để hát đúng tinh thần dòng nhạc này có lẽ cũng cần có sự nghiên cứu tìm hiểu một cách nghiêm chỉnh, và cần có chút kinh nghiệm sống cộng với một tâm hồn biết rung cảm trước những cái đẹp giản dị trong con người và đời sống.
                              - Nguyễn Khoa Linh (Hà Nôi): Chị thể hiện các bài hát của Trịnh Công Sơn gây được cảm tình của nhiều bạn nghe nhạc. Không mấy ca sĩ làm được điều đó. Từ đâu mà chị có được cảm súc sâu sắc với nhạc trịnh để thể hiện thành công đến như vậy?
                              Hồng Nhung
                              Cảm ơn bạn Khoa Linh !
                              Hồng Nhung đã nhận được sự đồng cảm và khích lệ từ những khán giả như bạn, đã là một động lực rất quan trọng để Hồng Nhung tiếp tục hát những bài hát của Trịnh Công Sơn.
                              Bí quyết để hát nhạc Trịnh theo Nhung là tình cảm và sự giản dị.
                              - Y Phong (HCM): Hồng Nhung là người Hà Nội, Nhung hát nhạc HN rất hay, nhưng để tìm một CD hát về HN của Nhung thì khó quá. Nhung hãy đầu tư để làm 1 album video clips về HN đi. Với su hướng chạy đua với những sáng tác "rẻ tiền" bây giờ, Nhung nghĩ gì về những ca khúc một thời để nhớ?
                              Hồng Nhung
                              Bạn Y Phong có thể tìm CD "Đoản Khúc Thu Hà Nội" là CD đã phát hành cách đây mấy năm trong đó Hồng Nhung hát 10 bài hát về Hà Nội.
                              Đúng là trong nhiều dòng nhạc mới xuất hiện, có những phong cách âm nhạc kiểu dễ dãi, nhạc thì "lai", lời thì lủng củng, tạo nên luồng không khí kém chất lượng cho âm nhạc Việt nói chung. Tuy nhiên bạn đừng lo giá trị nghệ thuật thật mới có thể tồn tại.
                              - Phạm Hồng Dương (Hà Nội): Chào chị Hồng Nhung. Em xin có 1 câu hỏi dành cho chị: Điều gì ở nhạc sĩ Trịnh Công Sơn khiến cho chị khâm phục nhất? Và chị nuối tiếc nhất điều gì ở mình với người nhạc sĩ tài hoa?
                              Hồng Nhung
                              Điều làm cho Hồng Nhung khâm phục nhất chính là con người của anh và tài năng của anh.
                              Điều nuối tiếc nhất là anh đã ra đi quá sớm !
                              - Nguyễn Thị Hương (HCM): Em chào chị Hồng nhung em đã em rất phen hâm mộ của chị từ nhỏ, em rất thích giọng hát của chị và chị chị có bí quyết gì mà trẻ mãi vậy chị?
                              Hồng Nhung
                              Chắc là vì mình luôn luôn được bao quanh bởi âm nhạc.
                              Thêm một bí quyết nữa là thể thao nhé ! Mỗi ngày tập thể thao là một điều không thể thiếu được của Nhung.
                              Thế bạn bắt đầu một ngày của mình thế nào ? Có âm nhạc không ? có thể thao không ?
                              - Tuấn (HCM): Được một nhạc sĩ tài hoa viết riêng cho mình một câu chuyện cổ tích với một chùm 3 ca khúc về Bống. Hồng Nhung là người thật hạnh phúc với báu vật này. HN có buồn không khi có vài ca sĩ khác cũng thích khám phá báu vật riêng này, nhưng tiếc rằng họ không thể diễn đạt hết cái hồn và cái tình mà nhạc sĩ TCS muốn gửi gắm vào trong ấy?
                              Hồng Nhung
                              Câu chuyện cổ tích này nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết cho Hồng Nhung bằng âm nhạc trở thành câu chuyện "Cá Bống thứ 2" (chuyện trước đọc từ hồi còn bé). Đây là món quà vô giá mà chính Hồng Nhung cũng không ngờ mình được đón nhận. Có một số ca sĩ cũng hát những bài hát này. Điều này rất dễ thương làm cho Nhung thấy vui ! Có người còn cho Nhung nghe bản thu để hỏi ý kiến. Và tất nhiên họ có toàn quyền thể hiện bằng cách riêng của mình.
                              - Nguyễn Quốc Linh (Quy Nhơn): Xin chào Ca Sĩ Hồng Nhung. Có người cho rằng ca sỹ là một trong những "người tình" trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn. Chị nghĩ như thế nào về điều đó? Và duyên cớ nào đã đưa chị đến với những ca khúc nhẹ nhàng sâu lắng của Trịnh Công Sơn. Xin chân thành cảm ơn chị. Chúc chị luôn thành công trong sự nghiệp.
                              Hồng Nhung
                              Nhung nghĩ rằng không cần phải là "người tình" mới được xuất hiện trong các sáng tác của nhạc sĩ. Ví dụ như bài "Tuổi Đá Buồn", chính anh Sơn đã kể cho Nhung về cô gái trong bài hát mà anh không hề quen biết.
                              Chính âm nhạc và con người của nhạc sĩ đã làm cho Hồng Nhung vô cùng cảm mến, trân trọng - có lẽ đó là cái duyên cớ để cho mình đến và không bao giờ ra đi nữa.




                              Xin cảm ơn các khán giả đã gửi tình cảm, sự khích lệ của mình cho Hồng Nhung qua những câu hỏi gửi đến nhacSO.net. Cảm ơn BBT và các bạn trẻ trong trung tâm nhacSO.net đã đón tiếp và giúp đỡ Hồng Nhung "nối cầu" với quí khán giả.
                              Xin chúc mọi người sức khỏe tốt, may mắn trong công việc và nhiều niềm vui trong cuộc sống.
                               
                              http://nhacso.net/Music/News/2008/04/05F663A6/


                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 06.04.2008 08:31:42 bởi hoaha >
                              #75
                                Thay đổi trang: << < 456 > | Trang 5 của 6 trang, bài viết từ 61 đến 75 trên tổng số 84 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9