Sau khi được chẩn đoán bệnh gan, những câu hỏi đầu tiên mà người bệnh thường hỏi là tập trung vào chế độ dinh dưỡng và tập luyện. Thông thường những câu hỏi được hỏi bao gồm: thức ăn nào thì tốt cho gan? Có những thức ăn có hại cho gan không? Bổ sung vitamin thì hữu ích không? Bao nhiêu protein tôi nên ăn cho bữa ăn của mình? Tập luyện có phải là một ý kiến tốt? Những môn thể thao nào thì nên tránh ? Thật không may, nhiều bác sĩ thiếu những kiến thức chuyên môn để cung cấp những câu trả lời cụ thể cho những câu hỏi này hay tương tự như vậy. Một lý do cho điều này là vì hầu hết các trường y đã không dành đủ thời gian cho vấn đề về chế độ ăn, dinh dưỡng và luyện tập.
Mọi thức ăn khi vào cơ thể đều phải đi qua gan để chuyển hóa. Chức năng gan như một cái máy lọc để bảo vệ cơ thể khỏi những chất có hại, và chịu trách nhiệm cho việc sản xuất và sử dụng các chất dinh dưỡng. Vì vậy mọi thứ được tiêu hoá đều có một ảnh hưởng đến gan: có tốt, có xấu. Đó là lý do tại sao cần sự phù hợp cho mọi người ăn những thức ăn có lợi cho sức khỏe của gan. Đó là sự thật quan trọng khi gan bị tổn thương
. Hiểu những vấn đề cơ bản về dinh dưỡng là cần thiết để có những chọn lựa thức ăn sáng suốt mà sẽ tốt cho gan. Vì vậy những quy định của FDA là nhãn của những thức ăn bao gồm thông tin dinh dưỡng. Một người với bệnh gan nên luôn đọc những nhãn này cẩn thận. Vì vậy, hầu hết mọi người với bệnh gan cần phải hạn chế một vài thức ăn trong những chế độ ăn kiêng của họ. Điều này không nên xem như một sự trừng phạt mà như một bước dẫn đến một gan khỏe mạnh. Việc tập luyện là một tiến hành quan trọng trong việc chiến đấu chống lại bệnh gan. Việc tập luyện đều đặn sẽ tăng những mức năng lượng, giảm stress đối với gan, và trong nhiều trường hợp thậm chí là chậm cả sự bùng phát những biến chứng chắc chắn liên quan với bệnh gan.
Càng hiểu biết về dinh dưỡng và tập luyện, thì càng biết cách sống để cho sức khỏe tốt nhất và bệnh tật ít nhất. Đấy là tại sao mà chương này thảo luận về những vấn đề quan trọng này. Nó cung cấp những thông tin đúng tập trung vào protein, carbohydrate, mỡ, các vitamin, và những khoáng chất và những yêu cầu dinh dưỡng khác nhau phụ thuộc vao bệnh gan cụ thể. Cuối cùng, sự quan trọng của tập luyện, cả aerobic và tập nặng, cho những người bệnh gan được bàn luận.
I.CÓ MỘT CHẾ ĐỘ TỐI ƯU CHO NHỮNG NGƯỜI BỆNH GAN KHÔNG?
Thật không may, một người không thể mong muốn đi bộ đến phòng khám bác sĩ và yêu cầu “ một chế độ ăn kiêng cho bệnh gan”. Một chế độ ăn kiêng toàn diện đơn giản thì không thể tồn tại. Nhiều yếu tố được coi không khả thi đối với một chế độ ăn kiêng gan được chuẩn hóa, bao gồm những thay đổi giữa những loại khác nhau của bệnh gan (ví dụ: bệnh gan rượu khác với bệnh xơ gan mật nguyên phát) và các giai đoạn của bệnh gan (ví dụ: bệnh gan ổn định không có nhiều tổn thương thì ngược với xơ gan mất bù không ổn định). Thậm chí một trong những rắc rối y khoa khác của những người này mà không liên quan đến bệnh gan của họ, như tiểu đường hay bệnh tim, cũng phải được chú ý trong chế độ ăn. Mỗi một người có những yêu cầu dinh dưỡng cá nhân của bản thân, và những yêu cầu này có thể thay đổi cùng thời gian.
Hầu hết mọi người với bệnh gan đều thấy rằng ăn nhiều bữa nhỏ trong suốt cả ngày thì là phương pháp tốt nhất, đạt tốt đa mức năng lượng và khả năng tiêu hoá và hấp thu thức ăn. Tuy nhiên, nếu một người yêu cầu ăn ba bữa trong một ngày thì hãy cố gắng theo câu nói “Ăn sáng như một ông vua, ăn trưa như một hoàng tử, và ăn tối như một người cùng khổ”.
Điều quan trọng là nhớ sự khác nhau ở thành phần calori giữa những nhóm thức ăn khác nhau. Trong khi protein và carbohydrate cung cấp 4 caroli trên 1 gram, thì mỡ cung cấp 9 caroli trên 1 gram. Cũng quan trọng để biết rằng 1 gram cồn tương đương với 7 calori. Vì vậy cồn thật sự cũng cung cấp nhiều năng lượng trong cấu trúc năng lượng cho cơ thể hơn protein và carbohydrate và hơn nhỏ hơn một chút so với cung cấp của mỡ. Tuy nhiên, trong khi cồn có thể cung cấp trong một người với một vài mức năng lượng thì nó hoàn toàn không có giá trị dinh dưỡng. Vì vậy, cồn được coi là cung cấp “những calori vô nghĩa”.
II.NHỮNG HƯỚNG DẪN DINH DƯỠNG NÓI CHUNG ĐỐI VỚI BỆNH GAN
Cho dù thông tin ở trên, một chế độ ăn tối ưu cho một người với bệnh gan ổn định có thể bao gồm tất cả những yếu tố được liệt kê bên dưới. (bạn sẽ chú ý thấy rằng chế độ ăn kiêng này tương tự một chế độ ăn cho sức khỏe nói chung đối với mọi người- thậm chí cả người không bệnh gan. Và, thực tế, nó chính xác là như thế..)
60 đến 70% carbohydrate- tổng carbohydrate cơ bản, như mì ống và bánh mì làm từ ngũ cốc. 20 đến 30% protein - chỉ thịt nạc động vật và/ hay protein thực vật 10 đến 20% mỡ đa không bão hòa 8 đến 12 ly nước (200—250ml) mỗi ngày 1000 đến 1500 miligram natri mỗi ngày Tránh số lượng quá nhiều các vitamin và khoáng chất, đặc biệt là vitamin A, vitamin B3 và sắt. Không rượu Tránh những thực phẩm đã được chế biến Sử dụng thoải mái những trái cây và rau tươi Tránh sử dụng caffein quá mức - không nhiều hơn 1 đến 3 ly caffein - chứa trong những túi đồ uống mỗi ngày. Bổ sung vitamin D và calcium Vitamin C Chất chống oxy hoá như vitamin E hay CoQ10 Glucosamin chondroitin
Khi con người ăn một chế độ ăn nhiều loại thức ăn, gan phải thường xuyên hoạt động để chuyển hóa và cân bằng để đảm bảo rằng dinh dưỡng tốt đến các cơ quan thích hợp. Ở một người khoẻ mạnh, hoạt động cân bằng này xảy ra một cách tự động. Nhưng khi gan đã bị yếu hay suy yếu, nó sẽ có rắc rối trong việc sắp đặt lại những chất dinh dưỡng khác nhau. Đấy là nơi mà chế độ ăn kiêng của một người có vấn đề về gan là cần thiết. Nếu cô ấy ăn những thức ăn cân bằng một cách đúng đắn, thì gan của cô ấy sẽ không phải làm việc vất vả. Dinh dưỡng là một mặt của bệnh tật nơi một người có nhiều mức độ điều khiển và có thể tham gia tích cựcvào tốc độ hồi phục bệnh và thu nhỏ khả năng những tổn thương thêm vào. Những phần sau thảo luận những chất dinh dưỡng khác nhau một cách chi tiết.
1/Protein Những Protein là những khối xây dựng chính mà cơ thể dùng để tạo những thành phần cơ thể như cơ, tóc, móng, da và máu. Các protein cũng tạo nên những thành phần quan trọng của hệ miễn dịch được gọi là kháng thể, nó giúp chống lại bệnh tật. Các protein được tạo nên từ những khối xây dựng nhỏ hơn được gọi là những amino acid. Việc ăn protein bình thường thì quan trọng để xây dựng và duy trì khối cơ và chữa lành bệnh và tái tạo lại. Gan mang trách nhiệm đầu tiên cho việc tạo ra một cách chắc chắn là những protein cũ đã bị phá huỷ và tái tạo lại và những protein mới này thì luôn sẵn sàng. Những protein cũng có thể được dùng như một nguồn năng lượng, mặc dù chúng không có hiệu quả như carbohydrate và mỡ. Chúng chỉ được dùng như một nguồng năng lượng ở một hoàn cảnh sau, như thiếu ăn hay tại giai đoạn cuối của bệnh gan khi cơ thể bắt đầu phá huỷ bản thân cơ của chính nó ở trong tình huống tuyệt vọng để duy trì sự sống. Được biết như hủy cơ, đấy là biểu hiện rõ ràng của cơ thể khi gầy sa sút, thiếu hụt cơ bắp. Những người với việc huỷ cơ thì thường được coi trông giống như “da bọc xương”.
Khi protein như là một thành phần sống còn của cơ thể, thì nhiều người tin tưởng một cách sai lầm rằng họ ăn nhiều protein hơn thì sẽ tốt hơn. Không chỉ sự tin tưởng đó là hướng dẫn sai lầm mà đối với một vài người gan suy yếu thì việc tiến hành dinh dưỡng như thế có thể nguy hiểm thật sự. Rắc rối là một gan suy yếu thì không thể chuyển hoá được nhiều protein như một cái gan khỏe mạnh. Và khi một gan suy yếu quá tải với protein thì bệnh não có thể xảy ra. Cuối cùng, những chế độ ăn cao protein đã được chứng minh làm kiệt sức hoạt động của hệ thống enzyme cytochrome P-450, hệ thống có trách nhiệm chuyển hoá thuốc. Hoạt động quá sức này làm gia tăng khả năng mà thuốc quay trở thành độc tố bởi sản phẩm do gan tổn thương tạo ra.
2/Những đề nghị chế độ ăn đối với protein Khi một người nghĩ đến protein, một cái hamburger ngon lành hay một con gà quay có thể được nghĩ đến. Tuy nhiên, nhớ rằng protein có nguồn gốc thực vật thì cũng tốt như protein có nguồn gốc từ động vật (xem bảng 23.1 dùng cho những chất chứa protein của những thức ăn thông thường). ăn prtein phải được điều chỉnh theo cân nặng của cơ thể và mức độ của biểu hiện suy yếu gan. Khoảng 0,8 gram protein trên kg cân nặng cơ thể (2,2 pounds) được đề nghị cho chế độ ăn mỗi ngày của những người với bệnh gan ổn định. Tổng lượng protein ăn vào vào khoảng 40 đến 100 gram mỗi ngày - tương đương từ 20 đến 30 % số calori có nguồn gốc từ protein mà một người nên ăn vào thật sự.
Khi chọn ăn đạm động vật, điều quan trọng là chọn những miếng nạt của thịt (mỡ thấp) như cá, thịt gà trắng, và thịt gà tây trắng. Hãy giữ quan điểm là cho dù những miếng thịt nạt nhất của thịt đỏ thì lượng mỡ cũng cao. Trên thực tế, xấp xỉ 50 đến 75% lượng calori từ hầu hết thịt đỏ đến thật sự từ mỡ! Thậm chí một miếng thịt xén lọc thật kỹ của thịt nạc đỏ có thể nguồn gốc khoảng 50% số lượng calori có từ mỡ. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với những người có bệnh gan bởi vì sẽ thừa cân nặng, khi một chế độ ăn nhiều mỡ có thể gây ra những bất thường liên quan đến gan của một người Những người với bệnh gan không ổn định (xơ gan mất bù) cần giảm phần trăm đạm động vật ăn vào và cần ăn hầu hết là đạm có nguồn gốc thực vật. Một chế độ ăn đạm động vật cao (nó chứa nhiều amoniac) có thể thúc đẩy một giai đoạn của bệnh não ở những người này. Những nhà nghiên cứu thì không chắc chắn là đó là nguyên nhân gây ra bệnh não, nhưng họ nghi ngờ là một lượng quá lớn anomiac trong cơ thể có thể là một trong những lý do để bùng phát bệnh. Một vài chế độ ăn cho người sụt cân bao gồm việc ăn một lượng lớn thịt đỏ (đạm động vật). Những người xơ gan được khuyên tránh bất kỳ những chế độ ăn như thế.
Bảng 23.1. Số lượng protein của những thức ăn thông thường
Thức ăn
Lượng
Số lượng protein
Bánh mì (hoàn toàn lúa mì)
1 miếng
2,5 g
Bông cải xanh (luộc chín, rút nước)
4 ounce
3,4 g
Pho mát (cheddar)
1 ounce
7,1 g
Thịt gà (thịt sẫm màu, quay, không da)
4 ounce
31,0 g
Thịt gà (thịt trắng, quay, không da)
4 ounce
35,1 g
Trứng (được luộc chín)
1 cái lớn
6,0 g
Cá bơn (bỏ lò, nướng hay lò vi sóng)
4 ounce
27,4 g
Giăm bông (được quay)
4 ounce
28,4 g
Hamburger (nướng vừa vừa)
4 ounce
27,3 g
Cừu non (được nóng)
4 ounce
27,8 g
Sữa (hoàn toàn)
1 tách
8,0 g
Peas (đông lạnh, được nấu rồi)
4 ounce
4,0 g
Khoai tây (đã nướng, cả vỏ)
4 ounce
2,6 g
Tôm (hấp)
4 ounce
23,7 g
Gạo (trắng, đã nấu chín)
4 ounce
3,1 g
Mì spaghetti (đã nấu)
4 ounce
5,4 g
Thịt bò (thịt thăn, nướng)
4 ounce
34,4 g
Cá ngừ (khoanh mỏng với dầu thực vật, hấp)
6 ounce
49,8 g
* 1 ounce= 28 g
Chế độ ăn chay, ở một mặt khác, có số lượng amoniac thấp và được xem thấp hơn chế độ ăn đạm động vật để gây ra bệnh não. Chất xơ thực vật biểu hiện một nguyên tắc trong việc giúp thải trừ những chất thừa có hại, như amoniac ra khỏi cơ thể. Vì vậy, những người có khuynh hướng bệnh não được khuyên duy trì một bữa ăn cao protein động vật và ăn thấp đạm động vật để trở thành những người ăn chay. Loại ăn kiêng này sẽ giúp kiểm soát những triệu chứng tâm thần ở những người trải qua từ vài mức độ của bệnh não cũ. Nhiều xơ, những chế độ ăn protein thực vật có thể giảm mức đường ở một vài người và có thể đặc biệt hữu ích với bệnh tiểu đường có xơ gan và có thể ở những người bệnh mỡ gan không phải rượu (NAFD). Tuy nhiên, cho dù đạm thực vật không hiệu quả và cũng có thể là vấn đề làm giới hạn chế độ ăn. Hằng định, nếu một người đột nhiên phát triển bệnh não, thì có thể cần giới hạn ăn đạm đến 20 gram hay ít hơn mỗi ngày, cho đến khi giai đoạn này được giải quyết.