Nhà văn Nguyễn Lương Hiền có nhơ tôi đăng giúp. Thể theo nguyện vọng của ông tôi in đăng cuốn tểu thuết này KHÁT VỌNG BÌNH YÊN ( Bản mới) Tiểu thuyết-Lương Hiền
Chương 1
HAI CHUYẾN TÀU ĐỊNH MỆNH
Ngay sau ngày anh chàng có cái tên cúng cơm là Nguyễn Văn Bạn, khi đi học, vào đầu cấp hai mới đổi tên là Nguyễn Văn Nam cho nó oai. Nhưng bạn bè không chỉ gọi là Nam, mà lại gọi là Nam sào, vì người anh ta cao lêu đêu như cái sào tre. Lúc đầu Nam cũng không thích gọi như thế, nhưng ở lớp có hai Nam: một Nam sào, một Nam lùn, nên phải gọi như thế để dễ phân biệt. Nhiều người gọi, lâu dần thành quen nên Nam cũng bỏ qua, gọi thế nào thì gọi: Nam sào hay Nam kều cũng chẳng sao, miễn là học giỏi là được. Hôm ấy ,anh chàng cũng đeo gậy tre thay súng, cũng cầm cờ đỏ sao vàng bằng giấy, theo cả làng ,cả tổng kéo lên huyện lị Kim Thành ,theo đoàn quân Việt Minh đi cướp chính quyền huyện. Rồi đi mít tinh ,tuần hành thị uy mấy vòng quanh phố huyện. Vừa đi vừa vẫy cờ ,dương biểu ngữ, vừa hô khẩu hiệu: -Đả đảo thực dân Pháp! - Đả đảo phát xít Nhật! - Việt Nam độc lập muôn năm!... đến mãi chiều tối mới giải tán .Vừa về đến nhà ,anh chàng Nam sào liền chạy sang nhà ông anh rể, hỏi mượn thanh kiếm bằng thép to bản, trông gần giống như một thanh mã tấu, của những đồ tể thời trung cổ. Chả là ông anh rể ,hồi chiến tranh thế giới lần thứ hai ,bị bắt đi lính sang tận bên Tây đánh trận ba năm, được phong hàm là “bếp”( tương đương với tổ trưởng tổ ba người của bộ đội ta). Khi được mãn hạn về nước có mang theo thanh kiếm đó về làm kỉ niệm. Treo trang trọng trong phòng khách ,trông thật là oai, cả làng ai cũng kính nể . Ông anh rể liền hỏi :
- Cậu mượn kiếm làm gì?
- Anh cho em mang đi vào Vệ quốc đoàn !
-Hả, nếu cậu mang đi chơi thì tôi không cho, còn nếu cậu mang đi vào Vệ quốc đoàn thì tôi đồng ý! Thế là mang kiếm Tây đi đánh Tây, được đấy, gậy ông lại đập lưng ông đấy ,cậu có hiểu không ? Các cậu còn trẻ, hăng hái, nên đi là phải. Còn tôi đã già rồi không đi được nữa, nhưng tôi ủng hộ. Khà khà…
Thế là anh chàng Nam sào sung sướng quá vác thanh kiếm lên vai đi về nhà. Trên đường ghé qua cổng chợ, nhờ thằng bạn quen làm thợ may, may cho một chiếc mũ ca lô bằng vải nâu, rồi tự tay anh ta xin giấy màu cắt một cái huy hiệu cờ đỏ sao vàng hình tròn to hơn đồng xu đồng, gián lên bìa các tông cho cứng, rồi khâu vào mũ ca lô giống như các anh Việt Minh hôm qua thấy ở trên huyện. Sau đó anh chàng Nam sào vội chạy về nhà xuống bếp lục vét được hai bát cơm nguội ,chén với cà muối. Rồi lên nhà lục tìm một bộ quần áo nâu tương đối lành lặn mặc vào, cho áo trong quần, bên ngoài thắt một thắt lưng da, rất gọn gàng .Lại lấy dây nịt cao xu bó ống quần lại. Trông cứ như là “Anh em trong đoàn quân du kích, cùng vác súng lên nào!...” Nhìn xuống chân ,chả lẽ lại đi chân đất. Anh chợt nghĩ ra, liền chạy xuống nhà ông thầy giáo già ở cuối làng để xin một đôi giầy măng tút cũ thầy đã bỏ, tuy rách một chút nhưng xỏ vào cũng thấy oai ra phết. Thế là Nam sào liền vác kiếm đi ngay lên huyện ,cách nhà khoảng gần ba cây số. Dáng đi rất hiên ngang chững chạc, gặp ai quen cũng chào hỏi và khoe:
- Tôi xung phong đi vệ quốc đoàn đây!
Anh đi rất nhanh ,khoảng 40 phút sau thì đã đến cổng huyện. Có một đồng chí đội mũ ca lô, sao vàng giống như Nam sào, vai khoác súng trường. Có lẽ là người gác cổng ,nhưng lại đang cười nói vui vẻ với mấy cô gái trẻ đang xúm xít xung quanh. Nam sào cứ lẳng lặng đi qua vào sân. Anh gác cổng liếc nhìn thấy Nam sào, cũng không nói gì, chắc tưởng là đồng đội, lại quay sang nói chuyện với các cô gái. Trong sân không gặp ai ,Nam sào đi thẳng vào trong nhà huyện đường. Chỉ thấy vài người đang mải mê thu dọn sách vở, tài liệu gói buộc cẩn thận. Anh nhìn họ ,cũng chẳng thấy ai nói gì, chắc họ cũng tưởng anh là bảo vệ, nên lại cặm cụi làm việc. Anh liền mở một cửa buồng bên cạnh. Thấy một người trung tuổi đang cắm cúi viết lách, anh liền chào to:
- Chào đồng chí !- Người kia bỗng giật mình ngẩng lên ,thoáng trông thấy một người to cao đang cầm kiếm đứng sát trước mặt, thì thần hồn nát thần tính, tái mặt đi, liền quát hỏi:
- Anh là ai? Vào đây làm gì? Rồi gọi ra cửa:- Bảo vệ đâu, bảo vệ đâu? Sao lại cho người vào đây thế này!- Nam sào vội nói nhanh :
- Báo cáo đồng chí ,tôi đến đây xung phong vào Vệ quốc đoàn ! Vừa lúc đó anh gác cổng vội chạy vào, tưởng là có án mạng, liền dơ súng chỉ vào ngực Nam sào và hô:
- Bỏ ngay vũ khí xuống ,dơ tay lên ,nếu không tôi bắn . Ai cho anh vào đây, giấy tờ đâu, tại sao vào đây không trình cổng gác?- Trước tình cảnh người cán bộ hiểu lầm đang sợ hãi và thái độ hung hăng của người gác cổng. Nam sào phải đặt kiếm xuống mặt bàn. Nghe người gác nói như vậy chứng tỏ anh ta sợ trách nhiệm, rõ ràng anh ta thấy mình rồi nhưng không nói gì mà còn mải tán gái. Đã thế phải bẩy cho anh này một trận. Anh tươi cười và nói một cách từ tốn:
-Thưa các đồng chí, hôm qua tôi cũng đã vào đây để biểu tình cướp chính quyền theo đoàn quân Việt Minh. Nghe người ta kêu gọi thanh niên phải xung phong tòng quân vào Vệ quốc đoàn. Nên hôm nay tôi mới đến đây để xung phong vào vệ quốc đoàn đây. Tôi đi qua cổng gác không thấy ai hỏi gì cả ,chỉ thấy mấy cô gái đang cười đùa thôi, anh vừa nói vừa mỉm cười với người gác cổng. Lúc này đồng chí cán bộ đã bình tĩnh lại, nhìn trừng trừng vào người gác cổng có ý trách móc ,canh gác không nghiêm túc. Rồi nhìn lại chàng trai trẻ đứng trước mặt, thấy hiền lành chất phác không có điều gì đáng nghi ngờ cả .Anh cán bộ thay đổi thãi độ, đứng lên bắt tay Nam sào:
- Thế thì hoan nghênh đồng chi!-Rồi anh hạ giọng :-Chú mày tên gì ? bao nhiêu tuổi ,quê ở đâu? Lấy kiếm ở đâu ra mà đẹp thế, sao lại mang kiếm đi vào vệ quốc đoàn?- Trước thái độ nhiệt tình của anh cán bộ, Nam sào cũng từ tốn trả lời:
- Báo cáo anh, tên em là Nguyễn Nam …Sào, à quên Nguyễn Nam Sao ạ! Anh chợt nhớ tới người thầy giáo già, khi trưa nay anh xuống xin đôi giầy măng tút rách, thầy hoan nghênh và khuyên anh vào Vệ quốc đoàn, thầy đọc một câu, như thơ:” Anh vệ quốc đoàn, là ngôi sao tỏa sáng trời Nam”. Anh đã học chữ nho một thời gian do thầy dậy, nên thấy câu thơ này hay và sâu sắc lắm. Anh liền có ý định khi vào Vệ quốc đoàn sẽ đổi tên là Nam Sao theo ý thơ của thầy. Anh nhắc lại trước người cán bộ:-Tên em là Nguyễn Nam Sao, năm nay em mười bảy tuổi, quê em ở làng Lễ ngay gần đây thôi . Thanh kiếm này là của anh rể em trước đây bị bắt đi lính sang Tây đánh trận, đem về làm kỷ niệm, nay cho em để em đi vệ quốc đoàn đánh Tây. Em nghĩ rằng Vệ quốc đoàn ta hiện nay vẫn chưa có nhiều súng, thì thanh kiếm này cũng có thể diệt được Tây chứ ạ!-Anh cán bộ mỉm cười rồi nói tiếp:
-Chú mày khá lắm, vệ quốc đoàn ta hiện nay đang rất cần nhiều người để đánh giặc cứu nước, em về vận động thêm càng nhiều càng tốt. Hiện nay ở huyện chưa được tổ chức vệ quốc đoàn, chỉ mới tổ chức tự vệ thôi. Anh sẽ giới thiệu em lên Hà Nội để tuyển Vệ quốc đoàn của Bộ quốc phòng. Nói xong anh cán bộ ngồi vào bàn lấy một tờ giấy, rồi ghi chép một lát ,xong gấp tờ giấy lại thành bốn, rồi đưa cho Nam Sao:
-Em hãy về nhà chuẩn bị ,mang thêm một hai bộ quần áo và đồ dùng cá nhân, vận động thêm người cùng đi cho vui. Nội nhật ngày mai phải có mặt ở Hà Nội, tìm đến Ban tuyển sinh ở nhà hát lớn, theo địa chỉ anh đã ghi trong giấy này. Nhớ mang theo mấy nắm cơm đi đường khỏi đói. Còn thanh kiếm thì em để lại ở nhà cho khỏi cồng kềnh, sau này du kích làng xã có thể cần dùng đến. Em vào vệ quốc đoàn sẽ được phát súng ,phát lựu đạn và các trang bị gọn gàng hơn. Em còn hỏi gì nữa không?
-Không ạ, em nhớ rồi. Em xin cảm ơn anh ,nhất định ngày mai em sẽ đến.
- Chúc mừng em thành công ,đạt được ước mơ !-.Anh cán bộ bắt tay Nam Sao một lần nữa và tiễn anh ra cửa.
- Em xin chào anh!
-Chào chú Vệ quốc đoàn!-Nam Sao lao nhanh ra cửa . Anh cán bộ nhìn theo lòng đầy trìu mến. Anh mỉm cười lắc lắc đầu, xuýt nữa thì mình gây nên một tai họa.
*
Nam Sao qua cổng mỉm cười với anh lính gác ,lúc nãy khi thấy anh cán bộ bắt tay Nam Sao thì anh gác cổng đã im lặng rút lui ra ngoài. Bây giờ hai người dơ tay chào nhau có ý giảng hòa. Lúc này trời đã quá chiều, sắp gần tối rồi ,nên Nam Sao đi rất nhanh về nhà, vừa đi vừa mừng vui. Anh đi những bước đi vững chắc, chẳng mấy chốc đã về tới nhà. Vừa về tới sân ,Nam Sao đã reo vui gọi to:
-Bố mẹ ơi, cả nhà ơi! Con đã trúng tuyển Vệ quốc đoàn rồi, ngày mai lên tập trung ở Hà Nội, nhận nhiệm vụ của Bộ quốc phòng đây này. Vừa nói anh vừa lấy mảnh giấy trong túi áo ra dơ lên cho mọi người tin. Vừa lúc đó ông anh rể cũng vừa đến liền hỏi:
- Trúng rồi à? Bao giờ cậu đi ,ngày mai à? Xin chúc mừng cậu! Nam Sao liền cầm thanh kiếm đưa cho anh rể:
- Em gửi lại anh thanh kiếm này, anh cứ để dành sau này có khi du kích làng ta cần đến, còn em ,vào vệ quốc đoàn sẽ được phát súng và lựu đạn. Nam Sao hỏi chị Cả là vợ anh Hữu:
-Anh Hữu đâu rồi nhỉ, bảo anh về chuẩn bị ,mai đi tàu sớm.-Chị Cả trả lời Nam Sao:
- Anh chú đang đi bừa ở ngoài đồng ấy ,cũng sắp về rồi.
-Để em chạy ra tìm anh về ngay! Nam Sao vội chạy ra đồng tìm. Chả là hôm trước trong khi đi biểu tình cướp chính quyền, anh Hữu là anh cả ,hơn Nam Sao hai tuổi, đã bàn với Nam Sao, em trai thứ hai, là hai anh em cùng xung phong đi Vệ quốc đoàn đợt này để làm rạng danh cho làng Lễ cơ mà. Ra tới đồng, Nam sao vừa đi vừa gọi :
- Anh Hữu ơi…anh Hữu ơi…! Về đi Vệ quốc đoàn thôi! Khi tới nơi thì anh Hữu cũng đang tháo ách trâu, cuộn chão vào bừa. Nam Sao vừa đưa tờ giấy cho anh Hữu xem vừa nói:
- Ngày mai phải có mặt tập trung ở nhà hát lớn để nhận nhiệm vụ. Anh Hữu xem xong tờ giấy cũng reo lên:
- Thế là hai anh em mình cùng ở chung một đơn vị thì hay quá rồi. Nào ,em dắt trâu cho anh, để anh vác bừa, về nhanh lên kẻo tối rồi. Vừa đi ,anh Hữu vừa hỏi :
-Sáng mai đi tàu hay đi ô tô?
- Đi tàu lúc 5 giờ sáng anh ạ.
-Từ ga Hàng Cỏ đến nhà hát lớn nghe nói cũng xa đấy. Ta thuê xe tay hoặc xích lô đi ,họ sẽ đưa mình đến tận nơi em nhỉ. À này, em nhớ nhắc anh xin mẹ một ít tiền đi phòng thân nhé –Vâng ạ!
Khi hai người về đên nhà thì đã thấy bố đang cắt tiết gà, mẹ đang vo gạo nếp thổi xôi, để sắp lễ, cúng thần linh và tổ tiên ông bà phù hộ độ trì cho hai con lên đường được chân cứng đá mềm mạnh chân khỏe tay, bền bỉ dẻo dai, hòn tên mũi đạn phải tránh xa, không bị ốm đau bệnh tật, chiến đấu thắng lợi lập được nhiều chiến công, an toàn không bị thương tật, đến ngày thắng lợi trở về, xây dựng gia đình hạnh phúc. Đến tối thì anh em họ hàng gần xa, bà con láng giềng trong làng ngoài xóm kéo nhau đến thăm hỏi chúc mừng gia đình gương mẫu có hai con trai vào vệ quốc đoàn, làm vẻ vang cho họ hàng làng xóm, quê hương. Bên cạnh bát nước chè tươi, ống điếu thuốc lào, câu chuyện của các ông cứ rôm rả. Nào chuyện thế giới hai phe bốn mâu thuẫn, chuyện Nhật đầu hàng đồng minh, đến chuyện quân Tàu ô vào giải giáp quân Nhật. Rồi đến chuyện trong nước, từ nạn đói tràn lan, nhất là ở Thái Bình, đâu đâu cũng thấy người chết đói nằm la liệt ,đến chuyện Quốc dân đảng đang dựa và thế quân Tàu để gây bạo loạn ở Tuyên Quang ,Phú Thọ… Chuyện miên man đến mãi khuya mới kéo nhau về ,để cho các anh đi ngủ, mai còn đi sớm. Nhưng cả nhà chẳng ai ngủ được chỉ trừ bọn trẻ con, các cháu thì đã ngủ sớm ,sau khi ăn xôi của bà cho. Ông bà thì thắp hương và lầm rầm khấn vái cả đêm. Nam Sao thì bị các bạn trai rủ đi tâm sự chia tay với các bạn gái ở mãi bờ hồ ngoài đình. Anh Hữu thì đang rì rầm trong buồng, khuyên nhủ chị Cả yên tâm ở nhà làm ăn, trông nom bố mẹ và nuôi nấng con cái, anh đi sau một hai năm chiến thắng anh sẽ về, cũng giống như anh rể trước đây sang tận bên Tây đánh trận ba năm lại về đấy thôi. Nam Sao đi chơi khuya về, mới nằm được một lúc, thì chuông nhà thờ xóm đạo đã đổ một hồi, báo hiệu bốn giờ sáng. Anh vội vùng lên gọi mọi người dậy chuẩn bị cho hai anh em lên đường để kịp đi chuyến tàu 5 giờ. Chị Cả đang thổi cơm dưới bếp để cho hai người ăn và nắm cơm mang đi lên tàu. Cơm đã chín ,Nam Sao dục chị dọn cơm ăn ngay còn đi ,vì từ nhà ra ga cách ba cây số ,đi nhanh cũng phải mất bốn mươi phút. Chị Cả vừa dọn cơm xong, anh Hữu và Nam Sao ngồi xuống ăn. Nhưng Nam Sao chỉ ăn vội một bát cơm, rồi cầm miếng cháy vừa ăn vừa chạy vào trong nhà chào bố mẹ, rồi xách một cái bị cói tòong teng ra sân. Anh Hữu bảo :
-Chờ anh nắm xong cơm đã rồi hãy đi.
-Thôi muộn rồi-Nam Sao nói-Em ra trước mua vé tàu, anh nắm cơm xong ra ngay!
- Thôi thế cũng được, xong anh đi ngay.
*
Nam Sao cứ sợ muộn tàu, thì mất thời cơ vào vệ quốc đoàn, nên anh đi rất nhanh, có đoạn lại chạy, dọc đường gặp người chào hỏi ,anh cũng chẳng kịp trả lời .Cũng may buổi sớm mát trời, nên đi không thấy mệt. Khoảng bốn mươi phút sau thì anh đã đến ga, Khách đi tàu đã lục đục lên tàu. Nam Sao vào ga mua hai vé tàu rồi ra sân ga đứng chờ anh Hữu. Một lúc sau thì còi báo hiệu tàu sắp chuyển bánh. Nam Sao sốt ruột cứ chạy đi chạy lại ngó ra cửa ga, anh cầm chiếc vé trên tay để đưa cho anh Hữu ,nhưng chưa thấy anh Hữu đâu .Tàu đã chuyển bánh, anh vội vàng nhảy lên tàu, đứng ở bậc lên xuống, một tay vịn lan can ,một tay vẫn cầm vé nhìn ra cửa ga ,nếu thấy anh Hữu thì ném vé xuống cho anh. Tàu đã chạy nhanh Nam Sao bỗng khóc òa lên như trẻ con, làm hành khách ngỡ ngàng chẳng biết vì sao, họ đoán chắc là xa vợ hay xa người yêu chăng?. Nhân viên trên tàu thấy vậy dìu anh vào ghế ngồi, anh vẫn thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn xuống sân ga cứ xa dần xa dần, rồi mất hút…Một lát sau, Nam Sao phán đoán ,anh Hữu sẽ đi chuyến tàu sau, hoặc đi ô tô khách ,đến ga Hàng Cỏ ,lên đó anh sẽ chờ anh Hữu vẫn kịp, thế là anh yên trí dựa vào ghế thiu thiu ngủ, vì đêm qua chẳng ngủ được tí nào.
Khoảng hai tiếng sau thì tàu đến ga Hàng Cỏ. Nam Sao ra ngoài cửa ga chọn một chỗ dễ quan sát nhất để đón anh Hữu. Nhưng chờ mãi, đến tám giờ không thấy, cứ sốt ruột chạy đi chạy lại mãi quanh cửa ga ,đến chín giờ ,rồi mười giờ vẫn không thấy. Nam Sao phán đoán chắc là có sự cố gì rồi, nên ang Hữu mới không đến kịp Bây giờ đã muộn rồi, mình phải đi thôi, không được cả hai thì một vậy, chả nhẽ trượt cả thì còn ra sao nữa, đã chia tay với gia đình làng xóm cả rồi. Nam sao hỏi đường đến nhà hát lớn, có lẽ hơi xa, anh định thuê xe đi cho nhanh, nhưng sờ túi chẳng còn một xu nào. Lúc ở nhà anh yên trí là anh Hữu sẽ mang tiền, anh chỉ cầm đủ tiền mua hai vé tàu thôi. Đành đi bộ vậy, vừa đi vừa hỏi từng đoạn. Nhưng chết nỗi bây giờ bụng lại đói rồi, vì buổi sáng chỉ ăn vội có một bát, đành nén bụng chịu vậy. Thế là Nam sao cứ cặm cụi đi cho nhanh đến nỗi không kịp ngắm cả đường phố nữa. Chỉ khoảng một tiếng thì đến nơi, Nhà hát lớn đây rồi, anh trông thấy ngôi nhà nguy nga ,tráng lệ mà phấn khởi, quên cả đói ,quên cả mệt. Ngoài cửa có căng một băng màu đỏ chữ vàng “nơi tuyển vệ quốc đoàn” Nam Sao vội đi vào trong nhà, thấy một dẫy bàn và bốn năm anh vệ quốc đoàn đang làm việc với một số thanh niên đang khám tuyển. Người thi đo chiều cao, người cân thể lực, người khám sức khỏe.
- Chào các đông chí! –Nam sao chào mọi người rồi đứng xếp hàng sau hai người khám tuyển, anh là người cuối cùng. Đến lượt anh vào khám thì có chuông đồng hồ báo hết giờ làm việc. Đồng chí trưởng ban khám tuyển đứng lên công bố:
-Hết giờ làm việc, thôi nghỉ đến chiều lại khám tiếp. Nam Sao hốt hoảng vội chạy đến chỗ đồng chí trưởng ban :
- Báo cáo anh, còn em nữa, đề nghị các anh khám tuyển cho em luôn, em ở xa lắm,
bây giờ mới lên tới đây! Trưởng ban hỏi:
- Đồng chí quê ở đâu?
- Dạ em ở mãi Hải Dương cơ ạ.
-Năm nay bao nhiêu tuổi?
-Dạ em mười chín ạ! – Một người ở bàn bên cạnh liền nói xen vào:
- Chàng trai này trẻ tuổi, lại to cao đẹp trai, người cân đối ,chẳng phải khám cũng tuyển được rồi đấy, thử hỏi từ mấy hôm nay, có tuyển được người nào như chàng trai này không, đề nghị cho lấy luôn thôi ạ.- Mọi người đều nói :
- Đồng ý !- Trưởng ban lại nói tiếp:
- Nêu vậy thì các đông chí làm thủ tục hồ sơ tuyển ngay đi. Sau đó đồng chí quản trị dẫn về nơi tập trung và báo cơm trưa nay luôn
- Vâng ạ!- Thế là chưa đầy mười phút sau, hồ sơ khám tuyển đã làm xong. Nam Sao vui mừng phấn khởi nói: -Em xin cảm ơn và chào tất cả các đồng chí ạ!-Đồng chí quản trị liền dẫn Nam Sao ra chiếc xe jeep đậu ở ngoài sân ,dẫn về nơi tập trung cách đó không xa. Một ngôi nhà rộng như là công xưởng. Ở đây đã có một tiểu đoàn tân binh vừa mới tuyển trong ba ngày nay. Nam sao được tạm thời biên chế vào : tiểu đội 9 ,trung đội 3,đại đội 45, tiểu đoàn 36,trung đoàn Thủ đô. Ngay bữa trưa hôm đó Nam Sao được ăn bữa cơm đầu đời lính của anh, tuy đơn giản nhưng rất là ngon. *
Chị Cả cầm đưa mảnh mo cau chuyên để nắm cơm cho anh Hữu, anh vội vàng xới cơm, nắm hai nắm ,mỗi nắm gói vào một mảnh lá chuối chị Cả đã hơ lửa, rồi xếp vào bị cói. Anh vào nhà uống một ngụm nước, chào bố mẹ, rồi xuống dưới buồng thơm hai đứa con gái nhỏ sàn sàn năm một, đang ngủ ngon, sách túi quần áo ra sân khẽ nói với chị Cả:- Thôi mình ở nhà tôi đi nhé ,có gì tôi sẽ biên thư về ! rồi lao vút ra cổng. Anh bước vội để cố đuổi kịp chú hai, chắc chú ấy đã gần ra đến tàu rồi. Khoảng ba mươi phút sau đến chợ Neo ,chỉ còn cách ga một đoạn ngắn nữa thì anh Hữu nghe thấy tiếng tàu xả hơi nước xì xì, chắc là tàu sắp chạy rồi. Anh vội vàng co chân lên cổ chạy nhanh sợ lỡ tàu, Buổi sáng trời mát như vậy, mà mồ hôi mồ kê anh Hữu tóa ra như tắm.
Anh vẫn cố chạy. Đến cửa ga rồi, lại thấy tàu hú còi ,chuẩn bị chuyển bánh, mà cửa bán vé và cửa soát vé đều đã đóng .Anh vội nói với người nhân viên nhà ga :
- Cho tôi ra với ,cho tôi ra với !-Nhân viên quát :
-Vé đâu? - Thằng em tôi nó đã mang lên tàu rồi!
– Không được! – Thấy bộ mặt người nhân viên hằm hằm khó chịu, Hữu liền móc túi đưa cho anh nhân viên tờ một đồng Đông Dương, bình thường có thể mua được ba bốn vé(!),Người nhân viên chẳng nói chẳng rằng vội cầm lấy tiền đút túi rồi mở cửa ,hất đầu ra hiệu cho Hữu ra cửa lên tàu . Hữu băng nhanh mấy đường ke rồi nhảy lên tàu, trong thi đó tàu đang chuyển bánh. Anh vội chen vào trong toa tìm ghế ngồi, rồi sẽ tìm chú em sau, nhưng tàu đông khách quá anh cứ len mãi ,len mãi ,nên cũng chẳng biết tàu chạy hướng nào, ngược hay xuôi. Anh vẫn đinh ninh là tàu đi Hà Nội. Thôi đành chờ đến ga Hàng Cỏ, xuống ga tìm chú em sau vậy.
Nhưng sự đời thường lắm bất ngờ và éo le .Chuyến tàu đi Hà Nội đã chạy cách đây mười bẩy phút, mang theo Nam Sao ,chú em trai thứ hai của anh Hữu, còn chuyến tàu mà Hữu nhảy lên lại là chuyến tàu đi Hải Phòng .Nó đã đến ga Phú Thái từ trước khi tàu Hà Nội đến và đậu ở đường ray ngoài cùng ,để bốc một số hàng, và chờ đón một đoàn người khá đông xuống Hải Phòng biểu tình. Khi tàu Hà Nội đến ga , chỉ dừng lại ba phút để lấy khách rồi chuyển bánh về Hà Nội ngay. Còn đoàn tàu Hải Phòng vẫn phải chờ vì đoàn người đi biểu tình chưa đến hết. Đoàn tàu này sẽ đi thẳng tới Hải Phòng mà không dừng ở các ga dọc đường nữa. Anh Hữu vẫn yên trí là mình đang đi Hà Nội. Tàu chạy khá nhanh, chỉ khoảng nửa giờ thì tàu vào ga rồi dừng lại. Hành khách xô nhau xuống tàu hết. Anh Hữu lấy làm lạ ,mới hỏi mọi người: - Ga này là ga nào ? Có mấy thanh niên lớn tuổi hơn anh mới hỏi
- Thế cậu định đi đâu?
-Tôi đi Hà Nội!
-Thế thì nhầm tàu rồi cậu quỷnh nhà quê ạ!- Lúc này Hữu mới ngã ngửa người ra, anh như người chết đứng, ngơ ngơ ngác ngác, chẳng biết đi đâu. Anh ân hận tự trách mình vội vàng không hỏi kỹ từ ga Phú Thái nên mới sảy ra nông nỗi này. Vừa buồn vừa chán, suy nghĩ một lúc ,anh mới nghĩ ra, liền chạy lại phía mấy thanh niên lớn tuổi hỏi một câu ngớ ngẩn:
- Ở đây có tàu đi Hà Nội không các anh? -Bọn họ cười ồ lên :- Đúng là cậu nhà quê, nhà ga sao lại không có tàu. Một cậu cứng tuổi hơn trông có vẻ hiền lành hỏi:
- Thế cậu định đi đâu ,đi làm gì?- Hữu liền trả lời:
- Tôi lên Hà Nội đi vệ quốc đoàn, không may lại nhầm tàu, liệu bây giờ có tàu đi Hà Nội không, chiều nay có lên kịp không ? Mấy người đều à lên một tiếng rồi tranh nhau nói:
- A! cậu đi vệ quốc đoàn à? Thì chúng tớ cũng đi vệ quốc đoàn đây!
- Cần gì phải lên Hà Nội mới có vệ quốc đoàn, ở ngay Hải Phòng cũng có vệ quốc đoàn, lại gần nhà không phải đi xa .-Chúng tớ cũng đều xung phong đi cứu nước đây. Cậu bao nhiêu tuổi rồi?
-Tôi hai mươi ba!
-Ôi trẻ quá, cậu lại to cao đẹp trai như thế này thì ở đâu người ta cũng nhận- Chỉ cần tích cực hăng hái, thì chóng lên quan lên chức lắm đấy!-Một anh từ cửa nhà ga chạy đến :
-Đến chiều mới có tàu đi Hà Nội. Một anh khác:- Này các cậu ơi, đi kiếm một chút “La cay” cho có khí thế, rồi đi biểu tình đi ,sắp đến giờ rồi -Ừ phải đấy! Thế là họ kéo nhau đi. Một anh kéo tay Hữu:
- Thôi đi với chúng tớ làm một chén rồi đi biểu tình cứu nước đi ,chiều mới có tàu , cậu lên Hà Nội vẫn kịp mà. Thế là Hữu cũng đi theo chúng. Ừ thì đi xem sao ,ở đây họ biểu tình thế nào có giống ở quê mình không? .Đằng nào mình cũng lỡ rồi, chiều mới có tàu đi Hà Nội cơ mà. Cả toán hơn chục người kéo nhau vào một nhà hàng ven đường gọi mấy chai rượu ra uống, rồi tranh luận nhau rất to, một anh đưa cho Hữu một chén ,anh cũng uống ,rồi anh khác đưa chén nữa ,chén nữa… anh cũng uống. Sau thấy mấy người tranh nhau trả tiền .Rồi họ lại kéo nhau ra đường phố, cứ xếp hàng đi ở giữa đường , các xe cộ đều phải dừng lại tránh sang vệ đường, chờ đoàn người di qua rồi mới đi. Nhiều người ở dọc đường cứ nhập vào đông dần, đông dần. Một tiếng hát được xướng lên, mọi người cùng hát rất to, rất hùng dũng : “ Này thanh niên ơi quốc gia đến ngày giải phóng. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì xương máu…” Họ cứ hát đi hát lại bài này. Hữu cũng hát theo, tuy không thuộc, nhưng hát cho hơi rượu bốc ra . Một lá cờ đỏ sao vàng ở đâu có cán cao, dơ lên trên đầu hàng. Gió thổi phần phật bay trong nắng sớm .Càng đi ,người càng nhập vào đông hơn ,đã có đến hàng trăm người, đủ cả nam phụ lão ấu ,nhưng đông nhất vẫn là lớp thanh niên và thiếu nhi. Đoàn người đi qua một đường phố nữa , thêm mấy lá cờ đỏ sao vàng. Lại có cả một ban nhạc kèn đồng của nhà thờ, gần chục người nhập vào đoàn biểu tình, nhạc kèn kêu vang cả đường phố, dân phố đổ xô ra xem ,người đi đường cũng dừng lại xem. Đoàn người đi biểu tình càng đông hơn, có đến hàng trăm người. Lại thêm vài lá cờ xuất hiện, nhưng là cờ vàng ba sọc đỏ, chen lẫn với cờ đỏ sao vàng. Cờ nào thì cờ, đều là cờ của Việt Nam cả (!).Bài hát “Tiếng gọi thanh niên” vẫn cứ vang lên theo nhịp kèn đồng và người hát đến khản cả cổ. Người ta còn hô vang các khẩu hiệu:- Việt Nam độc lập muôn năm!- Đả đảo phát xít Nhật! - Đả đảo thực dân Pháp!-Đại Việt muôn năm!- Đế quốc Việt Nam muôn năm!- Ủng hộ Việt Minh! - Ủng hộ Quốc dân Đảng! Nghĩa là cờ quạt cũng lộn xộn, khẩu hiệu cũng lộn xộn. Không phân biệt của phe phái nào cả. Cứ thấy người kéo nhau đi là đi theo, cứ thấy hô khẩu hiệu là hô theo, chẳng cần biết đúng hay sai. Cái thời mới khởi nghĩa cướp chính quyền, những ngày đầu tiên, ở một số nơi , nó như thế đấy !Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim(do Nhật dựng lên bị đổ),chính quyền các nơi tan rã, không còn cảnh sát, không còn quân đội, không còn chính quyền. Tất cả đều bỏ chạy hoặc nằm im chờ đợi .Mặt trận Việt Minh do đảng Cộng sản lãnh đạo cướp chính quyền, chưa đủ lực lượng làm đồng loạt ở các nơi trong toàn quốc. Ngày 19 tháng 8 năm 1945 mới cướp được chính quyền ở Hà Nội và một số vùng lân cận. Quốc dân Đảng ( của Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam) cũng đang dựa vào thế quân Tàu, danh nghĩa đồng minh vào giải giáp quân Nhật, để tranh với Việt Minh cướp chính quyền .Nhưng họ đã bị thất bại ở Hà Nội ngày 19-8 .Cay cú một số người của phe quốc dân Đảng liền kéo xuống Hải Phòng, kết hợp với phe đảng Đại Việt(thân Nhật) định tổ chức cướp chính quyền ở Hải Phòng. Họ mới tổ chức nên cuộc tuần hành thị uy trên đường phố để tập hợp lực lượng. Họ biết lúc đó thế Việt Minh rất mạnh, nên phải dương cờ đỏ sao vàng lên trước, để lôi kéo quần chúng đi theo mình cho đông, rồi mới đưa cờ vàng ba sọc ra theo kiểu lập lờ đánh lận con đen như thế. Nhưng những người Cộng sản và mặt trận Việt Minh thành phố Hải Phòng đã kịp thời phát hiện ra âm mưu của phe Quốc dân Đảng và Đại Việt .Liền dùng chiến thuật gậy ông đập lưng ông. huy động một số đông quần chúng, cầm nhiều cờ đỏ sao vàng và một số tự vệ ( mới thành lập mấy hôm) đeo súng ra nhập vào đoàn người, và chỉ hô vang những khẩu hiệu Cách mạng:
-Ủng hộ Việt Minh!
- Việt Nam độc lập muôn năm!
- Nước Việt Nam của người Việt Nam !
-Chính quyền phải về tay nhân dân!... Qua vài đường phố nữa, cờ đỏ sao vàng và quần chúng nhân dân ngày càng nhập vào đông hơn. Khi đoàn biểu tình đi đến nhà hát lớn thành phố ,thì tự nhiên những lá cờ ba sọc biến đi đâu hết, chỉ còn cờ đỏ sao vàng. Cánh Quốc dân Đảng và Đại Việt biết mình bị hố, bị thất bại, sợ bị Việt Minh bắt nên đã bí mật cuốn cờ chuồn thẳng , Nguyễn Văn Hữu cũng bị chúng lôi kéo đi theo chúng. Đoàn biểu tình dừng lại trước nhà hát lớn ,biến thành cuộc mít tinh. Tiểu đội tự vệ cầm súng đứng hiên ngang làm hàng rào danh dự. Một cán bộ Việt Minh đứng trên bục cao, cầm loa tay .đọc lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của Việt Minh. Ngay sáng hôm sau,ngày23 tháng 8,Mặt trận Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Cộng sản Hải Phòng, đã huy động hàng ngàn quần chúng nhân dân và đội tự vệ võ trang. Xông vào tòa thị chính cướp chính quyền, lật đổ chính quyền cũ ,lập chính quyền mới thắng lợi.
Nguyễn Văn Hữu bị cánh Quốc dân Đảng và Đại Việt lừa phỉnh lôi kéo theo họ, tạm thời trốn tránh ở Hải Phòng không lộ mặt, để chờ thời. Hàng ngày đi làm thuê làm mướn kiếm ăn .Rồi được các lực lượng thân Pháp bắt mối làm tay sai bí mật phục vụ cho quân Pháp chuẩn bị trở lại Hải Phòng .Tháng 10 năm 1946 giặc Pháp đánh chiếm lại Hải Phòng, Hữu mới công khai trở thành nhân viên cảnh sát, rồi một thời gian sau lên đồn trưởng đồn cảnh sát của chính quyền bù nhìn thuộc Pháp tại Hải Phòng. Lấy vợ hai là chiến sỹ du kích của đội du kích Hoàng Ngân tỉnh Hưng Yên đang trốn tránh vào Hải Phòng .Cho đến năm 1954 Pháp bị thua ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Nguyễn Văn Hữu đã đeo lon trung úy ngụy quân. Mang vợ con theo Pháp rút vào miền Nam ,rồi phục vụ cho chính quyền Việt Nam cộng hòa, do Mỹ chỉ huy và chi viện.
Thế là cùng một ngày 22 tháng 8 năm 1945.Tại ga Phú Thái, có hai chuyến tàu, chạy hai hướng ,mang theo hai anh em ruột, chia thành hai số phận đối ngược nhau đến cuối đời.
Chương 2
QUẢ MÌN ĐẦU TIÊN
Đó là ngày 1-12-1946. Sau khi bọn địch đã nổ súng đánh chiếm lại Hà Nội, chúng liền mở rộng bàn đạp, đánh chiếm ra các vùng lân cận và các tỉnh xung quanh. Chúng đã lập được một số đồn bốt trên dọc đường 5 và đang thực hiện các cuộc hành quân bình định các làng xóm trên dọc đường 5 và đường 39. Hôm đó chúng định hành quân vào càn quét khu vực cầu Lực Điền trên đường 39. Chúng cho một trung đội lính Âu - Phi có xe tăng và xe cơ giới đi hộ tống.
Lúc bấy giờ Sáu Đậu là chiến sĩ tự vệ huyện, được Nam Sao là cán bộ tiểu đội phó của Vệ quốc đoàn đem về cấp cho huyện một quả mìn bằng đầu đạn 105 mm mang từ quân khu về, và huấn luyện cho cách đánh. Đồng chí Nam Sao cũng vừa mới được tỉnh cử đi học ở quân khu về, muốn được thực hiện lập công ngay. Người xung phong đánh trận mìn đầu tiên này với Nam Sao là Sáu Đậu. Sáu Đậu hơn Nam Sao gần mười tuổi, anh tự xác định mình là bậc đàn anh của Nam Sao, nên đã chủ động nhận quả mìn này và bàn với Nam Sao hướng dẫn tìm cách đánh.
Được Nam Sao giúp đỡ kỹ thuật. Sáu Đậu quyết định chọn trận địa ở phố Nối, chếch vào đường 39, vì anh phán đoán nhất định bọn địch sẽ phải qua đấy.
Anh đề nghị Nam Sao hướng dẫn tỷ mỉ để anh vừa làm vừa học, tự tay chôn mìn, rải dây đấu kíp nổ và ngụy trang .Sau khi Nam Sao cùng Sáu Đậu kiểm tra cẩn thận xong. Sáu Đậu ngụy trang và nằm phục kích ở một bãi tha ma cách đó khoảng 150 mét bên cạnh một gò đất thấp ở giữa cánh đồng, còn Nam Sao làm nhiệm vụ canh gác, quan sát địch ở cách đó một đoạn và sẵn sàng phát tín hiệu cho nổ. Lúc bấy giờ nguyên tắc là chỉ được một người xuất hiện, không đưa nhiều người, để bảo đảm an toàn, bí mật, đề phòng địch bắt sống hoặc bắn, đỡ thiệt hại.
Vào khoảng bảy giờ ngày 31-12-1946, địch từ đồn Bần Yên Nhân cử một đại đội hành quân triển khai đội hình đi càn, đến gần ngả ba Phố Nối thì trúng quả mìn của Sáu Đậu giật nổ. Chúng hỏng một xe GMC, năm tên chết và ba tên bị thương. Bên ta, Sáu Đậu và Nam Sao chạy về an toàn.
Đây là trận mìn đầu tiên trên đường 5, nên bộ đội và nhân dân rất phấn khởi và tin tưởng.
Sau đó Sáu Đậu đánh liên tiếp mấy trận đều thắng lợi. Tư tưởng cũng dần dà chủ quan. Một hôm, chôn mìn xong, căng dây ngồi chờ xe địch đến. Vì nghiện rượu nên lúc nào anh cũng có một bi đông rượu kèm bên mình và thông thường hay mua mấy cái đậu để nhắm rượu. Hôm đó, anh mua sáu chiếc đậu rán, xuyên dây treo cổ, còn rượu thì đeo ở thắt lưng. Trong khi chờ đợi, anh định mang đậu và rượu ra nhắm, nhưng không kịp, xe địch đã đến trận địa. Anh vội vàng giật mìn rồi bỏ chạy. Trong khi chạy, vì luống cuống bị vấp ngã, rơi mất sáu cái đậu. Mãi đến lúc về chỗ an toàn rồi mới biết.
Nam Sao và một số người hỏi anh:
- Anh có tiếc là quả mìn vừa rồi diệt được ít địch không? Sáu Đậu thản nhiên trả lời:
- Không tiếc, chỉ tiếc sáu cái đậu đánh rơi lúc nào không biết, nên phải uống rượu suông đây.
Nam Sao bỗng tóa lên cười và nói :
=Thế thì từ nay gọi bí danh của anh là Sáu Đậu nhé !- Tất cả mọi người cùng reo lên :
- Ừ hay đấy ,đến bố Tây cũng chẳng biết là ai nữa, càng bí mật !
Từ đó mới có cái biệt hiệu là "Sáu Đậu".
Tên thật Sáu Đậu là Nguyễn Như Khuê, quê ở gần thị trấn Yên Mỹ. Lúc bấy giờ anh khoảng 26, 27 tuổi, gia đình nghèo, phải đi cày thuê cuốc mướn. Cách mạng tháng Tám cướp chính quyền anh Khuê là một trong những người đầu tiên tham gia tự vệ võ trang ở địa phương.
Một lần khác, Sáu Đậu chôn mìn đánh địch. Vì sơ ý nên để địch phát hiện được, chúng gỡ mất quả mìn. Trận đó, anh bị kỷ luật vì để vũ khí rơi vào tay quân thù. Đồng chí trung đội trưởng giao cho Sáu Đậu nhiệm vụ phải treo được cờ đỏ sao vàng vào chính giữa đồn Pháp ở Bần Yên Nhân, để lập công chuộc tội, nếu không sẽ bị phạt nặng hơn.
Sáu Đậu nghĩ mãi cuối cùng ra được một kế. Anh rất bí mật, không cho ai hay biết. Suốt cả đêm chì ngồi trầm ngâm uống rượu, không đi ngủ. Một số chiến sĩ được giao nhiệm vụ phải thức và đi cùng để theo dõi và bảo vệ Sáu Đậu, nhưng cũng chẳng biết kế hoạch anh ra sao. Họ tin rằng anh không thể treo được cờ, vì bọn địch gác rất cẩn mật, các lần giao gác cũng rất chặt chẽ, không thể lọt không thể hở một cơ hội nào cả. Các đồng chí chiến sĩ trẻ thấy bất lực, lần lượt ngủ hết, chỉ còn lại mình anh vẫn ngồi uống rượu chờ đợi.
Mãi đến 5 giờ sáng, trong đồn Pháp thổi kèn báo thức "tí te...tí te". Bọn lính dậy đi ngoài và chuẩn bị tập thể dục buổi sáng. Lúc đó mấy đồng chí của ta gác theo dõi, bỗng không thấy Sáu Đậu đâu cả, ai cũng lo không biết anh ấy đi đâu, nhỡ bị địch bắt thì sao. Chỉ một lát sau, bỗng thấy trong đồn có lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên và đang bay phấp phới trong gió sớm và ánh bình minh rất đẹp. Rồi người ta thấy anh Sáu Đậu mặc quần đùi, áo may-ô xuất hiện.
Lúc này anh em mới vỡ lẽ là Sáu Đậu đã lợi dụng lúc địch vừa báo thức, trời còn nhá nhem, quân lính dậy đi lại lộn xộn, anh đã mặc đúng như bọn lính trong đồn, quần đùi, áo may-ô trắng, lần vào treo cờ làm chúng chẳng biết ai vào ai. Kéo cờ xong, anh ung dung đi ra ngoài như lính trong đồn đi đại tiện vậy.
Sáu Đậu được Nam Sao hướng dẫn giúp đỡ đánh rất nhiều trận trên đường 5, trận nào cũng gan dạ, dũng cảm, tiêu diệt được nhiều địch. Anh được cấp trên tin tưởng, nhân dân tin yêu, quân ta thán phục và kẻ địch khiếp sợ, nên đã được tuyên dương công trạng ở tỉnh, ở quân khu, được quần chúng nhân dân suy tôn là ông "Vua mìn" đầu tiên trên đường 5. Ngay chính bọn địch cũng phải gọi anh là ông "Vua mìn" đáng sợ, và ra sức vây ráp, càn quét, lùng bắt anh, treo giải thưởng lấy đầu anh rất cao.
Nam Sao lại được cử đến các đôi du kích và tự vệ khác trên dọc đường 5 để huấn luyện và phát triển đánh mìn. Anh đã hướng dẫn đào tạo được hàng chục cán bộ chiến sỹ tự vệ khác đánh mìn giỏi, và cũng trở thành một số vua mìn nữa. Việc đánh mìn càng ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn, làm cho bọn giặc Pháp phải khiếp vía kinh hồn về “sấm đường 5” trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp chín năm trời.
Dạo đó, sau một thời gian hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện và tham gia đánh mìn trên đường 5, Nam Sao được tỉnh cử đi học lớp đào tạo cán bộ Quân chính Liên khu, ba tháng và sau đó được điều về đơn vị công binh Bộ, thuộc Cục giao thông công chính do ông Hoàng Đạo Thúy chỉ huy, tiền thân của Cục công binh, rồi Bộ tư lệnh Công binh sau này.
Ba mươi năm sau, khi đã về hưu, anh mới được gặp lại những cán bộ chiến sỹ cũ và mới trong một trại viết về chiến lệ công binh trên đương 5 ,do cơ quan Công binh Quân khu Ba tổ chức và mời anh là một trong những người đánh mìn đầu tiên trên đường 5 về dự.
Phục kích ở Phục Linh
Thu đông năm 1947,giăc Pháp nhảy dù xuống Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang, tạo thành thế tam giác bao vây ta. Địch nhảy dù két hợp cả thủy ,lục, không quân. Hàng ngày tung quân đi lùng sục, càn quét nhằm phát hiện lực lượng ta, nhất là cơ quan trung ương của ta. Bộ binh địch hình thành một mũi hành quân từ Hà nội lên đánh chiếm Thái Nguyên. Thủy quân dùng tàu chiến từ Việt Trì theo sông Lô qua Bình Ca đánh chiếm Tuyên Quang. Chỉ huy cuộc hành quân nhảy dù lên Việt Bắc là tên đại tá Pô Pơ Kê (Popeker).Sau khi nhảy dù, địch chốt các mục tiêu quan trọng, phái các toán quân từ đại đội đến tiểu đoàn, lùng sục ,đốt phá ,bắn giết, nhân dân tàn nhẫn, nhằm áp đảo tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Pháo binh, súng cối địch bắn thị uy khắp rừng núi. Từng đoàn lừa ngựa vận chuyển súng đạn. Từng đội kị binh len lỏi ,phóng vào các chòm ,bản càn quét với thái độ ngông nghênh ,kiêu ngạo. Địa hình núi rừng Việt Bắc trùng điệp, hiểm trở. Ai hiểu nó , biết sử dụng nó, thì thế quân sự sẽ nghiêng về người đó, và ngược lại. Hệ thống đường xá từ Thái Nguyên qua ngã ba Bờ Đậu, qua phố Ngữ đi Bắc Cạn, từ phố Ngữ đi quán Vuông, chợ Chu, từ quán Vuông qua quán Ông Già, đường Bờ Đậu Đại Từ, đèo Khế ,Bình Ca, là những con đường xuyên qua rừng núi ,đông thời là những con đường mà đoàn Pô Pơ Kê hành quân càn quét trong thu đông năm1947.
Đoạn đường địch bị công binh phối hợp với bộ binh phục kích là ở Phục Linh-Đại Từ. Từ ngã ba Cao Minh qua thị trấn Đại Từ, đường tương đối bằng, gần phố Đại Từ có một cánh đồng bằng phẳng, nổi lên ngọn núi Hùng Sơn. Từ đồi Hùng Sơn, quan sát và khống chế mỗi bề 4-5 km .Đây cũng là ngã ba Đại Từ đi Tam Đảo, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
Từ ngã ba Đại Từ , qua cầu Huy Ngạc, Phục Linh ,Bờ Đậu. Đường tuy bằng, nhưng qua nhiều rừng rậm, đồi thấp ,tà luy đường dựng đứng. Quả đồi Phục Linh cách Đại Từ 4 cây số, phải qua cầu Huy Ngạc Nơi đây chọn làm trận địa phục kích đánh binh đoàn Pô Pơ Kê, rút lui từ chợ Chu qua Đại Từ về Thái Nguyên vào ngày10 tháng 12 năm 1947.
Ta quyết tâm phát động nhân dân đánh địch bằng mọi vũ khí như sung kíp ,tên nỏ, cạm bẫy vv…Dựa vào thế hiểm trở của rừng núi, nhân dân ta nổi lên đánh địch ở khắp nơi, tiêu hao nhiều sinh lực địch, làm cho địch ngày càng gặp nhiều khó khăn. Thương binh địch ngày càng đông, Địch phải thả dù tiếp tế lương thực. Tuy dù chỉ rơi cách nơi chúng đóng quân 50-100m,cũng nhiều lần bị du kích ta chiếm đoạt, địch phải rút lui.
Trước tình hình địch đã nao núng, Trên chỉ đạo quyết tâm dùng bộ đội chủ lực đánh những trận lớn, tiêu diệt hàng đại đội ,tiểu đoàn địch.
Trong trận phục kích ở Đại Từ ta có: tiểu đoàn 54 bộ binh do đồng chí Vũ Lăng làm tiểu đoàn trưởng. Một trung đội công binh do đồng chí Đặng Ngọc Ban làm trung đội trưởng và đồng chí Nguyễn Kênh là trung đội phó.
Sử dụng vũ khí công binh: 15 quả mìn giật nổ, chế bằng đầu đại bác 75 ly, chiếm được của Pháp ,Nhật. Mỗi chiến sỹ công binh trang bị 10 lựu đạn chày do xưởng quân giới Phan đình Phùng của ta chế tạo. Xẻng cuốc và súng trường.
Chuẩn bị phục kích:
Ngày 3 tháng 12 -1947.Địch rút lui từ chợ Chu qua quán Vuông tới quán Ông Già đã bị tiểu đoàn 54 đánh cho một trận, thương vong hàng trăm tên, gây cho địch rất nhiều khó khăn về nhân lực vì phải vận chuyển rất nhiều thương binh. Trước tình hình đó ,địch có ý định đi gấp đến Đại Từ, chiếm đồi Hùng Sơn trú quân, dùng số binh lính, và gọi máy bay tiếp tế và chở thương binh về Hà Nội.
Ngày 4 tháng 12Tiểu đoàn 54 đánh thắng địch ở quán Ông Già. Đồng chí Vũ Lăng hạ lệnh hành quân gấp để chặn đầu địch. Trận phục kích ở khu núi Phục Linh cách Đại Từ 4km,qua cầu Huy Ngạc dài 30m.
Ngày 5/12Tiểu đoàn 54 và trung đội công binh triển khai địa hình có lợi phục kích đánh mìn.
Ngày 6/12 Trận địa phục kích triển khai đã hoàn chỉnh, trung đội công binh bố trí 15 quả mìn giật nổ, cự ly 20m một quả, trận địa mìn dài 300m.Trên quả đồi cạnh trận địa mìn là đại đội bộ binh của tiểu đoàn 54.Tất cả đều sẵn sàng, chờ kẻ thù dẫn xác tới.
Thời kì này thông tin của ta còn nhiều khó khăn. Chỉ có đường dây điện thoại đến cấp tiểu đoàn. Trong trận này từ đài quan sát, cách cầu Huy Ngạc 1500m,cách đơn vị tiền tiêu là 300-400m,phải sử dụng giây rừng chăng trước mặt các chiến sỹ phục kích. Kí hiệu quy định là: Địch bắt đầu vào trận địa sẽ giật giây một lần ; địch lọt vào giữa trận địa giật giây hai lần. Lệnh giật mìn là giật giây liên tục. Lệnh xung phong bằng kèn đồng của Pháp ta lấy được.
Hai ngày chờ đợi chưa thấy địch đến. Ngày 7/12.Một tổ trinh sát phối hợp gồm hai chiến sỹ bộ binh và một chiến sỹ công binh, được phái sang Đại Từ điều tra địch. Tổ gồm có: Khản ,tổ trưởng; Bẩy ,tổ viên và Nam Sao ,tổ viên. Từ trận địa phục kích tổ trinh sát qua cầu Huy Ngạc hướng tới đồi Hùng Sơn.
Hồi 3 giờ sáng 8/12 tổ trinh sát phát hiện địch báo động: Ngựa hí, binh lính đi lại lộn xộn. Dấu hiệu địch chuẩn bị hành quân. Cùng lúc đó, bọn địch trong đồn thấy cây động đậy, chúng nghi ngờ có trinh sát ta, liền bắn súng máy từ vọng gác tới, làm hai đồng chí trong tổ trinh sát là Khản và Bẩy bị hy sinh ngay tại chỗ. Còn một mình đồng chí Nam Sao phải lăn mấy vòng tránh đạn, rồi kín đáo bò toài ra ngoài đường cái, chạy được về báo cáo với đồng chí Vũ Lăng, tình hình địch sắp hành quân.
Diễn biến chiến đấu:
-7 giờ 30 ngày 8/12,toàn bộ binh đoàn địch đóng ở đồi Hùng Sơn, hành quân rút lui theo đường Bờ Đậu. Trời quang đãng, sương sớm chưa tan hẳn ,đã thấy máy bay bà già lượn nhiều vòng trên quãng đường này.
-Tin địch hành quân về phía trận địa phục kích, làm mọi người phấn chấn. Có đồng chí bày lựu đạn đã mở nắp lên trước mặt mình như bán hàng. Các chiến sỹ công binh cầm sẵn sàng giây điểm hỏa.
- Giây rừng giật lần thứ nhất: Mọi người hồi hộp. Mặt đồng chí nào cũng bừng bừng khí thế. Họ nhìn nhau bằng đôi mắt tràn đầy niềm tin tất thắng.
-Giây rừng “thông tin” giật lần thứ hai. Địch đã lọt vào trận đi. Bộ binh ta ghếch súng nhằm vào đội hình địch, từng mục tiêu đang di động. Các chiến sỹ công binh kéo căng giây điểm hỏa.
-Giây rừng giật liên tục, Hàng loạt mìn nổ. Lựu đạn và các cỡ súng đổ lửa vào đội hình địch.
Bất ngờ bị đòn trời giáng, địch hoảng hốt kêu la ầm ĩ. Đội hình rối loạn không đối phó kịp. Lừa ngựa chạy lung tung vào rừng, có con còn thồ cả nòng đại bác và lương thực chạy điên loạn. Kèn đồng ta vang dội núi rừng, quân ta xông lên như vũ bão, phút chốc đã làm chủ cả đoan đường hàng cây số.
Kết quả trận đánh: Ta diệt 300 tên địch, thu và phá huỷ nhiều vũ khí của địch. Công binh lấy được 20 đầu đạn đại bác, về chế thành mìn, tiếp tục chiên đấu
Nhận xét: Công binh phối hợp với bộ binh chặt chẽ. Kỹ thuật chôn mìn và ngụy trang tốt, địch vào trận địa không phát hiện được mìn. Tạo được bí mật bất ngờ. Lấy vũ khí địch đánh địch. Đặc biệt đồng chí Nam Sao đã dũng cảm, hoàn thành nhiệm vụ trinh sát địch, chạy nhanh về báo cáo cho chỉ huy và đơn vị sẵn sàng chiến đấu kịp thời cơ.
Đột kích vào Thất Khê
Trước chiến dịch biên giới, bọn thực dân Pháp đã đánh chiếm đường số 4.Từ Lạng Sơn, Thất Khê, Đông Khê, Cao Bằng, chúng đã xây dựng đồn bốt cứ điểm kiên cố. Về mặt cai trị chúng đã lập ngụy quân ngụy quyền những xã ven đường số 4.Đàn áp cướp bóc nhân dân ,trâu bò lợn gà, phu phen tạp dịch ,đồn dân đến cùng cực.
Về phía nhân dân ta, phong trào du kích của đồng bào dân tộc ít người, dưới sợ lãnh đạo của Đảng đã dược tổ chức, đang ngày đêm đánh lại chúng ở khắp vùng rừng núi. Đường số 4 nói chung là rừng núi. Riêng thị trấn Thất Khê là một cánh đồng rộng hình vuông ,mỗi chiều rộng khoảng 5 km , hình lòng chảo, có hai khu phố và chợ ,khu Nà Cạn có sân bay dã chiến gọi là sân bay Thất Khê ,phía Bắc có con sông rộng khoảng 100m,mùa nước to chảy như thác, mùa cạn có thể lội qua được. Xung quanh thị trấn Thất Khê là vùng rừng núi bao bọc, rất tiện cho pháo binh của ta chiếm lĩnh ưu thế. Đường số 4 chạy qua thị trấn Thất Khê,, ngoài ra còn có một con đường xe con đi được chạy xuống Văn Mịch, là hậu phương của ta.
Ngày 16-9-1950 tiếng súng của ta mở đầu chiến dịch biên giới, tiêu diệt và san phẳng đồn Đông Khê. Đồn Đông Khê bị tiêu diệt, địch ở thị xã Cao Bằng do tên đại tá Lơ Pa chỉ huy bị cô lập. Quân ta thừa thắng tiến lên bao vây Cao Bằng. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, địch ở Cao Bằng phải rút lui. Thế là cả một binh đoàn đóng chiếm một thị xã 5 năm trời, tốn bao công sức xây dựng cứ điểm, có cả một pháo đài kiên cố, nay phải rút chạy.
Binh đoàn Xác Tông đóng ở thị trấn Thất Khê hành quân lên phía Đông Khê để đón binh đoàn Lơ Pa. Quân ta chặn đánh cả hai toán quân này. Trước nguy cơ thất bại của hai binh đoàn Lơ Pa và Xác Tông. Bọn chỉ huy Pháp ở Hà Nội buộc phải lệnh điều một binh đoàn do Đờ La Môn ở Lạng Sơn lên ứng cứu tiếp viện, Ngày 25-9-1950 binh đoàn Đơ La Môn đã đóng quân tại thị trấn Thất khê để chi viện cho hai binh đoàn Lơ Pa và Xác Tông đang bị quân ta bao vây ở núi Nà Phá
Máy bay chiến đấu các loại: Hen cát, Kinh cô bơ ra,B26 luôn luôn bay lượn bắn phá những nơi chúng nghi có quân ta.
Đại đoàn Quân tiên phong (308),cùng một số bộ đội địa phương và các binh chủng: pháo binh ,thông tin ,trinh sát, công binh và dân quân du kích đang thắt chặt vòng vây ở khu vực núi Nà Phá và truy lùng quân tan rã của địch trên đường số 4,đoạn từ Thất Khê tới Cao Bằng.
Tiểu đoàn công binh 333được nhiệm vụ phối thuộc cho các đơn vị chủ lực làm nhiệm vụ:-Làm chỉ huy sở cho Bộ chỉ huy chiến dịch. -Đi theo bảo vệ Bác Hồ , trung ương Đảng và đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Quyết tâm chiến đấu của Bộ chỉ huy chiến dịch là tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa và Xác Tông. quyết chiến điểm tại khu vực núi Nà Phá.- Dùng một bộ phận chặn đường binh đoàn Đờ La Môn từ Lạng Sơn lên chi viện, đang trú quân tại Thất Khê. Chỉ thị còn nhận định địch đang hoang mang thì ta phải đánh những đòn chí tử, để địch hoang mang cao độ, nhất là cánh quân từ xa đến là quân Đờ La Môn, phải đánh đòn phủ đầu. Giao cho công binh dùng một lượng bộc phá lớn, đột nhập thị trấn Thất khê, làm rung chuyển ,áp đảo tinh thần quân tiếp viện.
Tiểu đoàn công binh 333 do Đinh Khang làm tiểu đoàn trưởng, Lê Trung Ngôn làm tiểu đoàn phó. Có 3 đại đôi tung đi các mũi, các nhiệm vụ trong chiến dịch, như các đại đội 250,260,270.Riêng đại đội 270 do Mai Sơn làm đại đội trưởng ,Lê Thọ làm chính trị viên, được nhận nhiệm vụ vào thị trấn Thất Khê, vì đại đội 270 phối thuộc cho đại đoàn 308.
Hồi 13 giờ ngày 26-9-1950 nhận được lệnh của đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ:
Mệnh lệnh: Đại đôi 270 cử một bộ phận, dùng một lượng bộc phá một tạ trở lên. Đêm 27-9-1950 Xâm nhập vào thị trấn Thất Khê, đánh vào toán lính Đờ La Môn, phải gây những tiến nổ làm rung chuyển cả thị trấn Thất Khê, làm bạc nhược tinh thần binh lính địch-Phá ,một số công sự, diệt một số binh lính và phá vũ khí ,khí tài của địch.
Hồi 14 giờ ngày 27-9-1950 đại đội trưởng Mai Sơn và chính trị viên Lê Thọ gọi Nguyễn Nam Sao ,trung đội phó của trung đội 41 lên nhận lệnh. Nội dung lệnh của đại đội 270 giao cho Nam Sao sau đây :
-Truyền đạt nguyên văn lệnh của đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ
- Chỉ định tiểu đội 3 do Phạm Lạc làm tiểu đổi trưởng (đồng chí Lạc là chi ủy viên),trong tiểu đội có bốn đảng viên. Dưới quyền chỉ huy của trung đội phó Nam Sao ( Nam Sao lúc này chưa phải là đảng viên ,vì có quan hệ chính trị ,anh trai đi lính ngụy làm tay sai cho Pháp, nhưng về mặt chiến đấu thì Nam Sao rất có uy tín trong toàn đại đội và được chỉ huy đại đội rất tin tưởng.)
- Quân số, tiểu đội 3 có bảy người và trung đội phó là tám người
- Sử dụng vũ khí ,khí tài: Súng trường 4 khẩu ,lựu đạn chày mỗi người hai quả; Thuốc nổ TNT bánh đúc 400gram,tất cả 120kg.một hộp kíp số 8 (100cái),Nụ xòe 100 cái, Giây cháy chậm 20m Vải để gói bộc phá, loại vải xanh 10m;Dây buộc 2 cuộn to; dao bài nhỏ 5 con; Gậy làm nạng bộc phá 10 cái, to 5cm,dài 1m;Bản đồ một mảnh vùng biên giới ;Địa bàn 1 cái; Lương thực gạo một ngày.
Diễn biến chiến đấu: 17 giờ ngày 27-9-1950,tiểu đội 3 công binh chuẩn bị xong và lên đường. Buổi tiễn đưa tiểu đôi 3 trung đội 41 đại đội 270 do trung đội phó Nam Sao chỉ huy đánh vào thị trấn Thất Khê, gồm có: tiểu đoàn trưởng Đinh Khang ,tiểu đoàn phó Lê Trung Ngôn và Ban chỉ huy đại đội 270,vừà kiểm tra vừa động viên. Tiểu đoàn phó Lê Trung Ngôn nói:
- Vinh dự cho tiểu đoàn công binh ta cũng là vinh dự cho các đồng chí, lần đầu tiên công binh được độc lập dùng khối bộc phá lớn, xâm nhập vào đồn địch, chúc các đồng chí chiến thắng.
Trung đội phó Nam Sao thay mặt anh em hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ dù có gian khổ hy sinh cũng kiên quyết chiến đấu thắng lợi.
- 17 giờ 30 ngày 26-9-1950 lên đường. Từ vị trí xuất phát ở khu Bản Xiển đến Thất Khê tính theo đường chim bay là mười cây số, tới địa hình rừng núi, lại không có người địa phương dẫn đường, lại vì trình độ sử dụng bẩn đồ và địa bàn của cán bộ kém, nên đến 24 giờ ngày 26-9,toàn đội công binh đi lạc vào hướng đồn Bông Lau cách đồn 300m.Vừa đi mò mẫm đường rừng vừa ngờ ngợ, thấy có ánh đèn, lệnh cho dừng lại bố trí im lặng .Nam Sao lên nhà, gặp chủ nhà ,hỏi đường vào Thất Khê. Chủ nhà liền kêu lên:
- A lúi ! bộ đội đi lạc đường rồi. Ở đây cách đồn Bông Lau rất gần, mà từ Bông Lau đến Thất Khê còn khoảng sáu cây số nữa cơ. Sau đó Nam Sao phải vận động anh Ma Văn Lý-tên chủ nhà đồng thời cũng là dân quân ở khu vực này dẫn đường .Anh Lý dẫn đội công binh quay lại hai cây số đường rừng và chỉ con đường mòn đi về hướng thị trấn Thất Khê, còn anh Lý phải quay trở lại để bám địch ở đồn Bông lau.
-Lúc này trời đã gần sáng. Ban ngày hành quân đến mười hai giờ trưa 27/9/1950 nghỉ nấu cơm và nắm hai bữa.
- 2 giờ chiều, hành quân tiếp
- 6 giờ chiều toàn đội tiếp cận cách trung tâm thị trấn Thất Khê 2km đứng trên đồi, quan sát thấy cánh đồng lúa, một cánh đồng quang đãng, lòng chảo nhìn rõ cả hệ thống đồn bốt và quân lính ra vào trong thị trấn.
-7 giờ tối họp tiểu đội và làm công tác chuẩn bị bộc phá để vào chiến đấu.
-8 giờ tối tiếp cận. Vì 120kg bộc phá, gói làm 6 gói ,phân công 6 chiến sỹ mang. còn tiểu đổi trưởng mang dụng cụ liên kết. Phải nói là một tiểu đội nặng nề. Đội hình hành quân tiếp cận địch: Đi đầu trung đội phó ,mang một khẩu súng trường; Rồi đến tiểu đội trưởng, một khẩu súng trường; các chiến sỹ mang bộc phá đi giữa; tiểu đội phó một khẩu súng đi sau…
-Đội hình công binh lợi dụng cánh đồng lúa gần chín hành quân.
-9giờ30 tối cách đồn địch 300m.Lúc này thị trấn Thất Khê có điện máy nổ , đèn sáng, tiếng xe chạy ầm ì nghe rất rõ. Toàn đội hình dừng lại Một khó khăn mới phát hiện, hàng rào giây thép gai của địch toàn loại mái nhà và cũi lợn vây kín xung quanh, mà toàn đội chưa trinh sát trước. Một câu hỏi đề ra cho Nam Sao: Đội hình tiểu đội vào đồn bằng đường nào? Và đánh mục tiêu những lô cốt nào đây? Ban ngày nhìn thấy nhiều lô cốt ,cái nổi ,cái chìm. Nam Sao đã chỉ mục tiêu cho các chiến sỹ rõ. Nhưng bây giờ vào đến gần thì mất hướng mục tiêu. Còn đang tính toán, phải vào sát hàng rào trinh sát cụ thể . Nam Sao liền lệnh cho toàn đội nằm im để tự mình vào trinh sát .Đang chuẩn bị bò vào trinh sát thì một tình huống bất ngờ sảy ra:
- 10giờ 30 đêm .Toàn đội hình tiểu đội công binh triển khai một hàng dọc; Nam Sao và một chiến sỹ mò vào trinh sát, mới xuất phát được 50 m, dưới ánh đèn điện trong đồn, Nam Sao nhìn thấy một bóng người từ phía đồn đi ra, đối diện với tổ trinh sát. Nam sao liền nghĩ ra một kế : bắt sống, dù nó là lính hay là phu ,nó có lối ra ,thì mình có lối vào.
Nam Sao và chiến sỹ trinh sát liền nằm nấp vào ruộng lúa gần chín, ruộng khô, mỗi người cách nhau năm mét, một người đi đền gần, khoác tiểu liên mát, rõ là lính ngụy, tên lính lọt vào đội hình ,lập tức bị Nam Sao và chiến sỹ quật ngã ,tên này nằm ở dưới ruộng lúa lạy van rối rít .Sau cho nó ngồi dậy, hỏi nó đi đâu? Thì hóa ra tên lính trốn trại tên là Ma văn Iềng, về với vợ ở bản mà đội công binh vừa đi qua ban chiều. Sau khi thuyết phục, nói rõ yêu cầu tên Iềng dẫn đường thì sẽ tha chết, hắn tỏ ra ngoan ngoãn ,dẫn đường tổ trinh sát tiến vào sát hàng rào địch.
-12 giờ đêm ngày 27/9/1950,tiểu đội do Lạc chỉ huy dừng lại cách hàng rào năm mươi mét, lợi dụng một gờ đất làm vật chắn đỡ. Còn Nam Sao và tên lính ngụy vào trong đồn địch. Tên Iềng dẫn vào một lối mà bọn lính làm bí mật ,chuyên để trốn trại, cách cổng chính 100m.
Lọt được vào đồn ,thấy lô cốt địch, lừa ngựa rất đầy trong nhà, lính địch ngủ cả ra vỉa hè. Bọn quân Đờ La Môn ở Lạng Sơn lên toàn là lính Ma rốc.
Trung đội phó Nam sao hạ quyết tâm đánh 5 mục tiêu lô cốt, một mục tiêu chuồng ngựa. Phương pháp đánh theo kiểu liên tục bộc phá cuốn chiếu.
-12 giờ 30 đêm, toàn tiểu đội được giao nhiệm vụ chuẩn bị bộc phá: cắt giây cháy chậm theo số thứ tự: số 1 cắt 10cm,số 2 cắt 20cm,số 3 cắt 30cm,số 4 cắt 40cm,số 5 cắt 50cm.Còn một quả chuồng ngựa trên dường rút mới đánh,vì chuồng ngựa gần lối ra. Lô cốt và ụ súng địch ở khu vực Nà Cạn, bố trí dích dắc, cách nhau từ 30m đến 50m.
Đội hình đi lọt vào trong đồn, bí mật rải quân ,mỗi chiến sỹ công binh một khối bộc phá 20kg,phụ trách đánh một lô cốt ,ngồi tại chỗ. Sau khi rải quân xong ,tới người cuối cùng là lô cốt. Trung đội phó Nam Sao ra lệnh điểm hỏa: số 5 điểm hỏa xong, Nam Sao cùng chiến sỹ công binh và tên ngụy đi từ số 5 ra, cứ thế điểm hỏa cuốn chiếu đến số 1.Năm tiếng nổ theo cắt giây cháy chậm nên nổ cũng theo thứ tự, những tiếng nổ của 20kg bộc phá TNT làm rung chuyển cả nhà cửa và ầm vang cả núi rừng thị trấn Thất Khê. Sau những tiếng nổ máy điện tắt ngấm. Bồi thêm một khối 20kg vào nhà chứa ngựa, tiếng ngựa kêu, hí và gầm rú chạy toán loạn. Ngoài ra không có một tiếng động tĩnh nào, quân địch bị choáng, phải nằm im. Thị trấn Thất Khê lúc này có hàng ngàn tên địch, ngựa xe đông như thế mà lúc này tựa như không có người.
Còn tiểu đội công binh do Nam Sao chỉ huy rút lui- Nhưng khốn nỗi điện tắt ngấm, tối như bưng, cả tên lính ngụy cũng không tìm ra lối nữa. Nam Sao quyết định ra lối cổng chính.
Toàn tiểu đội theo hướng cổng chính rút, ở cổng chính cũng chẳng thấy tên lính nào gác, toàn tiểu đội rút ra cách 500m,mới có tiếng súng ở trong đồn bắn ra. Vì đơn vị đã hoàn thành kế hoạch nên hơi lạc quan tếu một chút, cán bộ chiến sỹ quay lại chửi bọn địch ầm lên. Bọn địch trước tưởng loại pháo hạng nặng của ta bắn vào, sau đó xung phong ,nhưng chúng đợi tới 15-20 phút không thấy quân ta ,lúc đó chúng mới bắn, còn ta rút lui an toàn.
Năm giờ sáng ta rút xa 2km, mang theo một tù binh ,một khẩu súng tiểu liên mát, về chỉ huy sở báo cáo tin chiến thắng.
Kết quả ta phá sập 5 ụ súng và lô cốt của địch ,phá sập một góc nhà ngựa, làm chết gục trên hai mươi con ,còn lại bị thương và mất tinh thần, như phát điên ,người không điều khiển được. Số lính Tây đen, Ma rốc ở trong lô cốt và ở ngoài gần lô cốt hàng chục mét đều bị chết và bị thương khoảng gần một đại đội. Hôm sau theo dõi thấy cả ngày xe hồng thập tự chở binh lính địch chết và bị thương đi chôn và cấp cứu. Binh đoàn Đờ La Môn hầu hết sỹ quan và binh lính đều hoang mang giao động, mất tinh thần. Theo một tên hàng binh sau này kể lại: đáng lẽ ngày 28/9 thì binh đoàn Đờ La Môn hành quân theo hướng Bông Lau để phá vây cho hai binh đoàn Lơ Pa và Xác Tông. Nhưng đêm 27/9 đã bị bộc phá đánh, nên mất tinh thần không hành quân được. Sau đó phải rút về Lạng Sơn, bỏ mặc hai binh đoàn Lơ Pa và Xác Tông ở núi Nà Phá bị quân ta tiêu diệt và bắt sống toàn bộ ,kết thúc chiến dịch biên giới 1950.
Tiểu đội 3 công binh được đại đoàn 308 khen thưởng. Riêng trung đội phó Nam Sao được thưởng huân chương chiến công hạng ba.
Chương 3
GIỮA HAI LÀN GIÓ
Nguyễn Văn Thuận là người con thứ ba trong gia đình vừa mới thi tốt nghiệp bằng Sơ học yếu lược xong, thì Cách mạng tháng 8-45 nổ ra, em mới 11 tuổi, còn bé đi học chưa biết gì về cách mạng, về du kích cả, cậu chỉ biết đi học, rồi theo bố mẹ đi tản cư, mỗi khi quân Pháp tấn công càn quét. Sau khi hai anh lớn đi rồi, còn Thuận ở nhà, ông bà chỉ còn dồn tình thương chăm sóc thằng con nhỏ, quyết tâm cho nó học hành đến nơi đến chốn, chẳng cho đi chơi bời bè bạn hoặc tham gia thiếu niên nhi đồng gì hết. Ông bà thường nghĩ: Thằng Hữu coi như bỏ đi, thằng Bạn chắc gì còn sống mà về, chỉ còn lại thằng ba, làm chỗ nương tựa tuổi già, nên không muốn cho nó đi đâu hết, học hành rồi ở nhà nuôi bố mẹ. Nhờ sự chăm sóc và định hướng của bố mẹ, nên Thuận ít chơi bời giao du với bạn bè, luôn luôn là học sinh giỏi, chẳng mấy chốc cậu đã học hết cấp 2 hồi đó, tương đương với lớp 5,lớp 6 bây giờ. Lúc đó ở vùng thôn quê, cái làng Lễ của cậu, cũng chỉ có mình cậu là được học như thế, cậu trở thành người học cao nhất làng, nhất xã lúc bấy giờ.
Khi bé tuy không biết gì, nhưng sống trong gia đình có hai người anh hoạt động, rồi không khí cách mạng sôi nổi khắp làng xã, cậu cũng tham gia nhi đồng cứu quốc, cũng cầm cờ đỏ sao vàng bằng giấy và đi theo đội trống ếch hô vang khẩu hiệu xung quanh làng, cũng nuôi cho cậu mầm mống cách mạng. Người ta tổ chức các đội Thiếu niên nhi đồng ở trong thôn , xã , cậu là một trong những người tham gia đầu tiên, tổ chức những buổi học hát, rồi tập quân sự, vác những khẩu súng gỗ đi một hai, một hai quanh làng ,quanh sân đình, hát những bài ca cách mạng,” anh em trong đoàn quân du kích”, ”Đoàn quân Việt Nam đi” “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng”…
Sang năm 1946 Thuận đã 12 tuổi ,cậu là người có văn hóa, lại viết chữ đẹp, nên anh Nhự phụ trách Đoàn thanh niên cứu quốc xã, lấy cậu lên để viết ngược chữ lên giấy nến , rồi in li- tô trên bàn bằng bánh đúc. Tổ tuyên truyền văn hóa thường in những truyền đơn kêu gọi yêu nước, in những khẩu hiệu bướm để dán lên mũ hoặc nón đi mít tinh, còn in cả Tuyên ngôn Độc lập, và lời kêu gọi của cụ Hồ để phát cho các thôn ,xóm làm tài liệu học tập ,và truyền đơn kêu gọi những người theo giặc Pháp, làm hại đồng bào hãy giác ngộ trở về với chính nghĩa với nhân dân…
Thời đó máy chữ chưa được phổ biến, chỉ có ở nơi công quyền, cấp huyện trở lên mới có, nên muốn in làm nhiều bản, người ta thường in bằng li-tô bằng đá hoặc bằng thạch hay bánh đúc. Ở xã này có công nghệ in bằng bánh đúc cũng là sang lắm rồi, tuy có nhòe nhoẹt một chút cũng là oai hơn ,nhiều nơi phải chép bằng tay, vừa chậm ,vừa nguệch ngoạc khó đọc. Thuận trở thành một tay thư ký văn phòng cho đoàn thanh niên cứu quốc xã, viết li-tô có hạng được tín nhiệm ở cái xã này, đó cũng là công lao, góp phần tham gia hoạt động văn hóa xã. Anh Nhự thời gian sau bị giặc Pháp bắt trong một lần về cà quét làng Lễ, chúng bắt anh rồi đầy anh ra đảo Phú Quốc giam giữ , đánh đập tra tấn dã man tàn khốc ,nhưng anh vẫn không khai, một mực trung thành với Tổ quốc, cuối cùng anh đã hy sinh trong tù. Về sau này anh đã được nhà nước công nhận là liệt sỹ.
Năm sau các anh chị phụ trách thiếu nhi còn bầu Thuận làm đội trưởng thiếu nhi nữa. Đội trưởng Thuận đã đẩy mạnh phong trào ca hát ,diễn kịch, thể dục thể thao lên cao. Đặc biệt tờ bích báo do Thuận làm chủ bút, đi thi được giải nhất toàn huyện.
Nhưng một sự kiên đột xuất xảy ra, người anh cả là anh Hữu cũng xung phong đi vệ quốc đoàn, nhưng đi lầm chuyến tàu xuống Hải Phòng, rồi bị cánh Quốc dân đảng ,Đại Việt lừa phỉnh dụ dỗ ở lại Hải Phòng rồi đầu hàng quân Pháp , sau anh Hữu làm cảnh sát cho giặc . Tin đó đồn về quê làm sáo động cả làng Lễ, làm cho gia đình Thuận lao đao. Người ta bàn tán xôn xao: thằng Hữu làm tay sai cho giặc rồi, nó sẽ dẫn Tây về đánh chiếm làng này, xã này. Dân làng coi khinh gia đình Thuận vì có người theo giặc, họ cách ly, dè bỉu, không chơi với gia đình có người phản cách mạng. Thuận bị khai trừ ra khỏi đội thiếu nhi, vì gia đình liên quan đến chính trị. Thuận buồn rầu chẳng muốn ra khỏi nhà nữa. Từ khi Thuận bị rời khỏi đội ,phong trào thiếu nhi sụt hẳn xuống, không được sôi nổi như trước nữa. Đội trưởng mới là cậu An, bạn thân của Thuận trước đây ,vẫn thì thụt đến nhờ Thuận vẽ hộ tờ báo tường để đi thi, Thuận nể bạn , vẫn sẵn sàng giúp, nhưng rồi có người xì xào, nên Thuận bảo bạn:
Thôi tớ không làm nữa đâu, phiền cho cậu đấy!
Cậu không giúp tớ nữa thì tớ cũng đến bỏ thôi. Thằng An buồn bã trả lời. Rồi nó cũng bỏ thật, vì chả có thằng nào làm được cả.
Cô đơn giữa lũy tre làng
Rồi dần dần lớn lên, với tri thức học được cậu biết phân biệt được hai phe đối lập, đâu là chính nghĩa, đâu là phi nghĩa. Cậu quyết theo con đường của anh Bạn để gỡ lại danh dự cho gia đình, có người con đi theo giặc. Nhưng tiếc thay sự hăng hái nhiệt tình của cậu không được chấp nhận, cái lý lịch có anh trai phản bội, đầu hàng địch, chặn đứng cậu đi theo con đường cách mạng, không đoàn thể thanh thiếu niên nào chấp nhận cậu. Chán nản, buồn rầu, có những lúc cậu tức mình, cay cú muốn làm ngược lại, vậy thì phải làm một cái gì đó ở phe đối lập, miễn là không cầm súng giết người, làm một viên chức quèn cũng được, kiếm đồng lương, cậu là người có học, chả nhẽ lại chịu lép vế hay sao. Nhưng phe đối lập cũng không sử dụng cậu, bởi lẽ cậu có cái lý lịch, anh thứ hai là Việt minh cộng sản.
Vì thế, cậu ở giữa hai làn gió, ở giữa hai phe, phe nào cũng không chấp nhận cậu, sợ cậu, rồi coi thường cậu và khinh cậu. Cậu bị bỏ rơi giữa hai trào lưu chính trị; rồi đến tình cảm anh em họ hàng bạn bè cũng bỏ rơi, không bên nào dám quan hệ đi lại với cậu và gia đình cậu. Cậu bị cô đơn giữa luỹ tre làng và những người thân của mình. Năm 1949 Thuận đã 15 tuổi, nhân đoàn tuyển quân về huyện ,cậu xung phong đi vệ quốc đoàn, nhưng không đủ tuổi và thiếu cân, người ta không lấy. Ít ngày sau ,cậu lại xung phong đi thiếu sinh quân, nhưng bị tắc đường do Tây càn quét và chiếm đóng nên không đi được, đành phải ở lại làng.
Bố mẹ chỉ biết an ủi và khuyên cậu: “Cố gắng học hành, rồi ở nhà làm ruộng, trông nom gia đình, hai anh mày đi rồi, chắc gì có ngày về, nếu mày đi nốt thì bố mẹ trông cậy vào ai, Thành thì còn nhỏ dại quá”
Chính vì thương bố mẹ anh đã không bỏ nhà đi, để hoặc theo bên này, hoặc theo bên kia, làm một cái gì đó cho xứng đáng với tài trai ở thời đại tao loạn này, anh đành phải ru rú ở nhà làm thân phận con sâu cái kiến cho dân làng khinh bỉ? Thương bố mẹ, anh chỉ biết lao vào học hành, sau khi học hết cấp hai, anh không đi học thêm được nữa vì phải xa nhà, xa bố mẹ, anh đành phải ở nhà làm ruộng và chăm nom bố mẹ.
Nhờ có sức khỏe, tuổi trẻ hăng hái, và nhờ trí thức, lại không bận bịu vào những việc xã hội, làng xóm, nên chẳng bao lâu anh đã trở thành: “ một lão nông tri điền” mặc dầu anh còn rất trẻ, ruộng của anh bao giờ cũng tốt hơn xung quanh, lúa của anh bao giờ cũng nhiều hơn hàng xóm, trâu bò, lợn gà của anh bao giờ cũng béo tốt,
Năm mười bảy tuổi anh lấy vợ, vợ anh cũng là một gia đình hai phe như anh, cũng được học hành, tuy kém anh một cấp; vì thế hai người tâm đầu ý hợp không những trong tình yêu mà cả trong việc làm ăn và sự suy nghĩ về cuộc đời.
Anh chịu khó đọc sách báo ,nghiên cứu học tập các phương pháp khoa học về trồng trọt và chăn nuôi gia súc, gia cầm ,sao cho phù hợp với đồng đất làng mình ,quê mình. Anh cũng chăm học hỏi kinh nghiệm của các cụ già ,người cao tuổi trong làng trong xóm ,và những lãng xã quanh vùng, rồi mày mò nghiên cứu thí điểm ,sao cho ruộng lúa, màu của mình tươi tốt hơn người, sản lượng cao hơn. Sao cho trâu bò của mình luôn luôn được béo tốt khỏe mạnh, gia súc gia cầm của mình hay ăn chóng lớn và ít bị dịch bệnh…
Có sức khỏe, có lao động, có kiến thức, vợ chồng lại đồng lòng, bố mẹ, vợ con lại hoà hợp, nên chẳng bao lâu gia đình anh trở thành một gia đình giầu có trong làng trong xã, bằng chính sức lao động của mình, mà không ai chê trách, bới móc về đường làm ăn được.
Khi người ta đã có một đồng tiền bát gạo hơn người, thì lại có khối kẻ đến cầu thân. Cuộc chiến kéo dài, càng ngày càng làm kiệt quệ nông thôn, nhất là những gia đình có người trực tiếp cầm súng phải đi xa, ở cả hai phe. Cánh Việt Minh đến vận động ủng hộ kháng chiến, phe bảo hoàng đến vận động ủng hộ quốc gia. Anh khéo léo từ chối tất cả hai bên, mà chỉ giúp đỡ những người nghèo khó nhất ở trong làng, bất kỳ là họ ở bên nào. Tuy nhiên việc giúp đỡ cũng phải có chừng mực và kín đáo, kẻo lại gây nên tai hoạ.
Anh đã giúp đỡ bà cụ Nguyễn Thị Cải, ngoài bảy mươi tuổi, có con là liệt sỹ chống Pháp, gia đình cô đơn không có người nương tựa. Mỗi vụ anh cho vợ mang sang biếu cụ một thùng thóc đủ ăn đến vụ sau, nhưng phải kín đáo không cho ai biết, và cứ nói với cụ là, cháu cho vay khi nào có thì trả, để cụ khỏi mặc cảm, mới dám nhận.
Anh cũng đã giúp cụ ông Phạm Văn Bứa, bảy mươi tư tuổi ,có con đi lính Tây bị chết trận ,không có tiêu chuẩn gì ở phía bên kia, gia đình độc thân ,không người trông nom, nuôi dưỡng phải đi ăn mày ăn xin, đầu đường ,xó chợ, đói khổ, chẳng ai đoái hoài vì có con đi lính theo giặc mà chết. Anh cũng thương tình, giúp cụ khi thì vài bò gạo, lúc thì dăm ba đồng ,khi bát cơm ,lúc manh áo cho cụ sống qua ngày.
Hoặc có những gia đình khó khăn đói kém vụ giáp hạt, lại ốm đau bệnh tật chẳng trông vào đâu được. Vợ chồng anh cũng cưu mang giúp đỡ ,cho vay cho mượn ít nhiều ,nhưng không bao giờ lấy lãi…
Cuộc chiến ngày càng kéo dài, cả hai bên đều bị thương vong nhiều, cần phải bổ sung quân số cho chiến trận. Phía Việt Minh thì tuyên truyền giác ngộ những thanh niên trai trẻ yêu Tổ quốc, đi tòng quân giết giặc cứu nước. Còn phía quân Pháp thì cũng tuyên truyền dụ dỗ thanh niên vì “quốc gia”, thực chất là làm lính đánh thuê cho giặc cướp nước, nên chẳng được bao nhiêu .Chúng phải dùng cách bắt lính. Đi càn ,đi vây bắt cả trẻ con và người trung tuổi để bổ sung cho chiến trường đang thiếu hụt binh lính. Ở làng Lễ cũng bị Tây về, bao vây , càn quét nhiều lần để cướp người ,cướp của, và nhất là lùng bắt lính. Mỗi lần Tây càn là thanh niên trai tráng phải tản cư, chạy trốn hết. Nguyễn Văn Thuận cũng trong số ấy. Anh đã chạy trốn nhiều lần mới thoát Nhưng xem chừng khó bề yên ổn .Nên anh tìm cách trốn ra Hải Phòng để học thợ may…trước mắt là kiếm nghề sinh sống tạm thời ở thành phố, sau này để dậy nghề cho các con ở quê, phát triển nghề thủ công cho nhàn hạ ,nhất là đối với bọn con gái sẽ lớn lên. Ra Hải Phòng Thuận gặp một ông thầy hơn anh khoảng mười tuổi, chưa có vợ, nhưng có tay nghề rất giỏi, mà rất nhiệt tình dậy bảo. Thầy dậy giỏi ,trò lại rất thông minh và chịu khó ,học ngày học đêm. Nên chẳng bao lâu Thuận đã học được việc cắt may quần áo thông thường và kiên trì học một thời gian nữa, anh đã cắt may được cả bộ com –lê và đã thực tập ngay ở cửa hàng của thầy ,đã được nhiều khách hàng ưa chuộng và tín nhiệm.
Xuýt nữa bố đi tù
Năm 1954,chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng, rồi hòa bình lập lại ở Đông Dương, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, cũng là lúc Nguyễn Văn Thuận đã học được nghề may vững chắc, anh trở về quê hương, định mở nghề may ở làng Lễ, đồng thời với phát triển làm ruộng trên quy mô lớn, mà anh đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong nhiều năm.
Nhưng một tai họa bất ngờ sảy ra, chỉ vào khoảng một hai tháng sau, sau cái ngày về ấy của Thuận .Cơn bão tố cải cách ruộng đất tràn về đồng bằng, lan đến làng Lễ ,quê hương của anh, mà tốc độ của nó như một trận bão lớn, chưa từng có.
Không ! Nếu chỉ như một trận bão thông thường lướt qua thì dù có tàn phá đến đâu, sau đó sự sống vẫn nhanh chóng được hồi sinh. Nó còn tồi tệ hơn, giống như hai quả bom nguyên tử của Mỹ thả xuống Hỉrôsima va Nagadaki trên đất Nhật, không những tiêu diệt hết những gì trên mặt đất, mà còn để lại những di chứng cho sự sống của xã hội lâu dài về sau, không ai có thể lường được hậu quả.
Gia đình Nguyễn Văn Thuận bị rơi vào trung tâm của cơn bão tố đó.
Đoàn cán bộ cải cách như những “hung thần” từ trên trời rơi xuống, chỉ trong một thời gian ngắn đã làm thay đổi toàn bộ ,bộ mặt nông thôn, đến mức sau đó Đảng phải ra những nghị quyết và những chủ trương chính sách để sửa sai.
Những cuộc đấu tố ,truy bức và đánh đập xảy ra làm không khí nông thôn náo động.
Gia đình Thuận bị quy là địa chủ phản động, địa chủ vì cấy ba mẫu ruộng ,trong đó có một mẫu tư điền từ đời ông cha để lại, và hai mẫu công điền, địa chủ vì bóc lột sức lao động của nông dân, dưới hình thức là con dâu. Phản động vì có hai anh trai Thuận đi lính, một cho Pháp và một cho Việt Minh (!).Bố Thuận là cụ Ruy ngoài sáu mươi tuổi bị tình nghi là liên quan đến một vụ án, thằng cháu họ Nguyễn tự tử, đội cho là cụ Ruy xúi giục. Nhà cửa, tài sản bị tịch thu hết. Đội chẳng cần xét xử đúng sai, cứ thế bắt trói cụ Ruy, rồi đọc lệnh bắt đi tù mười năm ở tận Thái Nguyên. Khi hai người nông dân cầm súng áp giải cụ lên đến Thái Nguyên thì may sao, Giám thị nhà tù lại tuyên bố là Đảng và Chính phủ đã có lệnh sửa sai rồi, cụ được tha ,không phải đi tù nữa, thôi về đi. Thế là hai nông dân đi áp tải và cụ, cùng vui mừng cười hớn hở ,kéo nhau về làng.
Về đến nhà mới biết là đội đã giảm thành phần nhà cụ từ địa chủ xuống phú nông và được trả lại toàn bộ tài sản, nhưng đã bị nông dân tẩu tán gần hết, chỉ còn cái xác nhà tềnh toàng. Phú nông vẫn được coi là thành phần bóc lột nhân công, vẫn là tầng lớp trên không được quyền lợi chính trị ngang với nông dân, nhất là cụ lại có con trai lớn đi lính đánh thuê cho bọn giặc hiện nay đã theo giặc vào Nam.
Cụ Ruy nhớ lại, hồi cụ còn nhỏ ,gia đình, bố mẹ cụ nghèo lắm, cơm không đủ ăn .áo không đủ mặc, bố mẹ cụ phải đi làm thuê làm mướn quanh năm để kiếm ăn. Vào năm cụ Ruy khoảng mười tuổi, trông cậu bé sạch sẽ ,khôi ngô tuấn tú. Có một gia đình hào phú, quan lại, đi qua trông tháy liền xin về nuôi ở tận Bắc Giang, thực chất là đi ở cho nhà chủ để hầu hạ các con chủ cũng còn bé. Cậu rất ngoan ngoãn và chăm chỉ, trung thực thật thà, lại sáng dạ và thông minh, nên các con chủ học gì cậu cũng học mót theo, chỉ dăm năm sau cậu cũng đọc thông viết thạo được cả chữ Hán nôm và chữ quốc ngữ, có thể đọc và viết văn tự cho cụ chủ khi các con cụ chủ đi vắng. Lớn lên cậu rất khỏe mạnh và xốc vác, trở thành lực điền của chủ nhà. Việc gì cậu cũng làm được, từ việc cày bừa làm ruộng ,làm nương, đến việc lên rừng xẻ gỗ, làm mộc, xây nhà cho chủ. Được gia đình chủ tin yêu và quý mến rồi giao cho cậu làm quản gia, trông nom nhà cửa và quản lý thợ thuyền khá đông.
Cụ chủ còn muốn gán ghép cưới vợ cho cậu để ăn đời ở kiếp ở trên đó để phục vụ cho nhà chủ suốt đời. Nhưng cậu không nghe cứ xin về quê lấy vợ ,để còn phụng dưỡng bố mẹ già, và trông nom mồ mả tổ tiên. Mặc dầu bố mẹ cậu đã lên xin về nhiều lần, nhưng cụ chủ nhà không nghe, mà cứ muốn giữ cậu thêm mươi năm nữa. Mãi đến khi cụ chủ đã về già, ốm yếu rồi mất. Cậu cùng gia đình nhà chủ chăm sóc tận tụy, rồi làm ma chay chu đáo cho tròn với chữ nghĩa, đối với người đã có công cưu mang cụ từ tấm bé. Khi đó, cụ Ruy đã tròn ba mươi tuổi, mới được trở về quê lấy vợ, và sinh con đẻ cái, trông nom gia đình, phụng dưỡng bố mẹ mình cho tròn chữ hiếu .
Nhờ có sức khỏe ,lại có kinh nghiệm làm ăn trên vùng rừng núi, và quan hệ bạn bè rộng rãi nên chỉ trong vòng hơn mười năm cụ Ruy đã xây dựng được gia đình khang trang ,no đủ, trong ấm ngoài êm, con cái chăm chỉ thuận hòa, có bát ăn bát để hơn người ở cái làng Lễ này, được dân làng tin yêu kính phục về đường lối làm ăn, giáo dục con cái và đối nhân sử thế, trong làng ngoài xóm không ai mất lòng.
Vậy mà cơn bão tố cải cách đã tràn về, làm rối tung và đảo ngược tất cả làng xóm, lại còn bắt cụ xuýt đi tù. Rất may, Đảng và chính phủ đã nhận ra sai lầm ,kịp thời sửa sai. Cụ Ruy suy ngẫm và nói với con cháu rằng -
-Trong một đời người ,chẳng mấy ai không có sai lầm ,dù ít dù nhiều, nhưng chủ yếu là có kịp thời phát hiện ra sai lầm không và có kịp thời sửa chừa sai lầm đó không, để mà tiến lên xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc trong gia đình, trong làng, ngoài nước. Đảng ta, chính phủ ta đã làm được việc đó ,Bác Hồ đã trực tiếp xin lỗi toàn dân vì bệnh ấu trĩ máy móc giáo điều của trung ương. Đó là hạnh phúc của dân tộc ta ,đất nước ta đấy các con ạ.
Nông dân không biết cày
Khi giặc Pháp hoàn toàn thất bại cuộc chiến tranh kết thúc ở miền Bắc, những người lính ở cả hai phe: phe chiến thắng và phe chiến bại, rồi cũng lần lượt trở về gia đình, với quê hương làng xóm. Phe chiến thắng thì phấn khởi, reo mừng, phe chiến bại thì ỉu xìu, như mèo cắt tai, nhưng họ vẫn phải bám lấy đồng quê, xóm làng, chẳng biết đi đâu được. Chỉ những gia đình có người bị hy sinh, bị chết ở cả hai bên là thiệt thòi và khó khăn hơn cả. Dù vui sướng hay đau buồn, thì cũng phải củng cố lại gia đình đã bị chia ly tàn phá đổ vỡ bởi chiến tranh chín mười năm trời.
Người ta xây dựng lại làng xóm quê hương và để khôi phục kinh tế, nhân dân vui mừng phấn khởi thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng đề ra đưa nhân dân ta thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên ấm no hạnh phúc. Trước hết là cải tạo bộ mặt nông thôn. Phong trào tổ đổi công, rồi hợp tác xã ra đời. Một mâu thuẫn ban đầu diễn ra là đại đa số lực lượng lao động trẻ khỏe là những người lính trở về, lại không có tay nghề làm ruộng, mới lớn lên họ đã xung phong vào bộ đội, hoặc bị bắt đi lính, người ta chỉ dậy họ cầm súng ở chiến trường, nay họ rời tay súng, cầm tay cầy còn bỡ ngỡ, lúng túng, phải có người hướng dẫn, người chỉ đạo. Đó là những ông già bà cả, có kinh nghiệm nhưng đã già yếu rồi, đó là những phụ nữ đảm đang xốc vác mọi việc trong thời chiến, nay hoà bình họ phải làm chức năng của người vợ, người mẹ mà chiến tranh đã tước đi cái quyền của họ một thời. Người ta chọn những “Lão nông tri điền” để làm tổ trưởng tổ đổi công, rồi những người cầy giỏi làm đội trưởng đội cầy, và những người thực sự có kinh nghiệm làm nông nghiệp để lãnh đạo hướng dẫn bà con từ việc chọn giống, gieo mạ, tưới nước bón phân… làm sao cho phù hợp với đồng đất làng mình và đạt năng suất cao. ở cái làng Lễ này, hỏi có mấy người làm ăn giỏi như anh Nguyễn Văn Thuận. Người lãnh đạo thức thời ở địa phương xã đã biết tận dụng sự hiểu biết và tài năng lao động của anh. Lúc đầu anh chỉ đảm nhận làm tổ trưởng tổ đổi công, rồi anh làm đội trưởng đội cầy, hướng dẫn đào tạo mấy chục thanh niên rời tay súng về, biết cầm cày thành thạo một cách nhanh chóng.
Anh Lê văn Bộ đi vệ quốc đoàn từ thời chống Pháp, lúc ấy anh mới mười bảy tuổi, sau chín năm chống Pháp, phục viên trở về, nay anh đã hai mươi sáu tuổi. Lần đầu tiên vác cày ra ruộng, anh cứ lúng ta lúng túng chẳng biết mắc cày vào trâu ra sao liền gọi:
-Anh Thuận ơi ! Mắc cày thế nào đây, ra bảo tôi mấy. Thuận đang đi ở đằng sau ,vội chạy lên:
-Cứ bình tĩnh ,tôi sẽ hướng dẫn cho. Nói xong ,Thuận cầm lấy cày của Bộ, đặt xuống ruộng, rồi đặt bắp cày vào vị trí theo mô hình cho đễ hiểu ,sau đó hướng dẫn cách mắc ách vào trâu, kiểm tra thừng ,chão cho vừa phải, Thuận nói đến đâu, làm đến đấy, hướng dẫn tỉ mỉ cho Bộ nhìn, như người thầy giáo đang giảng bài và làm thị phạm cho khoa mục quân sự vậy.
Thuận còn cầm tay cày với bộ ,đi vài xá cày cho Bộ quen dần rồi mới bỏ tay ra cho Bộ tự đi. Bộ đang cày ,bỗng dựng lưỡi cày lên cho cày ăn sâu xuống .Thuận vội quát lên:
-Không được dựng mũi cày lên ,gãy cày bây giờ.! Quả nhiên ,Thuận vừa nói xong, thì mũi cày của Bộ đã cắm sâu xuống ruộng, làm trâu nặng quá phải dừng lại, nếu trâu cố kéo nữa thì gãy cày ngay.
-Họ..ọ,.! Thuận họ trâu lùi lại ,rồi kéo lùi thân cày lên. Anh giải thích cho Bộ nguyên nhân sảy ra và cách sử trí tình huống này. Bộ gật gật đầu nhận ra sai lầm của mình.
Thuận phải mất mấy buổi theo Bộ để hướng dẫn. Thuận đánh trâu đi trước cày vài xá đi trước, cho Bộ đi theo sau ,Bộ mới tạm cày được ,sau một tuần lễ Bộ mới cày được khá hơn, nhưng tốc độ còn chậm.
Lại có một ông tên là Bóc, nhiều tuổi hơn Thuận, trước là du kích đánh mìn trên đường năm rất giỏi ,đã lập nhiều chiến công, nhưng nay về nhà ,chẳng biết làm cái gì. Vào hợp tác xã thì không biết cày ,bừa cũng không, đưa vào tổ nào cũng không ai nhận, vì sợ ảnh hưởng tới công điểm của tổ, mà làm việc vặt thì công điểm chẳng được bao nhiêu, thu hoạch ít thì con cái đói. Thuận phải ra tay cưu mang, nhận về tổ cày của mình, chả nhẽ để nhà ông Bóc chết đói à . Thế là mất hàng tháng trời, Thuận kèm cặp cho ông Bóc mới biết cày ,bừa, mới kiếm được chút công điểm để nuôi con. Đến vụ sau ,ông Bóc mới cày được thuần thục, đủ công điểm của thợ cày.
Thuận làm đội trưởng đội cày mấy vụ liền, mới đào tạo được đội ngũ thợ cày bừa giỏi, đủ làm kịp thời vụ cấy hái của hợp tác xã.
Rồi đến khâu giống má cũng rất quan trọng, người ta lại điều anh sang đội trưởng đội giống, rồi đội thuỷ lợi, đội phân bón… cứ nơi nào yếu nhất của hợp tác xã, anh lại được điều sang phụ trách, và chỉ một thời gian ngắn anh lại đưa chỗ yếu thành mạnh. Dân làng tín nhiệm về khả năng kỹ thuật nông nghiệp ,ngành nghề của anh, họ cảm phục anh về tư cách đạo đức, về tác phong làm việc và về tinh thần hết lòng vì hợp tác xã, vì làng xóm quê hương. Những định kiến về chính trị, dần dần tự nhiên bị mất hết.
Khi công việc làm ăn của gia đình và hợp tác xã tương đối ổn định ,đi vào nề nếp rồi, Thuận mới nghĩ việc phát triển thêm thủ công nghiệp, đó là nghề may mà Thuận đã bỏ công đi học từ mấy năm trước, vừa để kinh doanh ,vừa để dậy cho con cái nhà Thuận biết làm. Nhưng muốn mở tiệm may, phải đăng ký kinh doanh, thời đó ,phải xin phép chính quyền và thuế vụ xã. Thuận cũng làm đơn xin xã ,nhưng chờ lâu mà xã không cho. Mãi sau này mới nghe tin là có vài ông vài bà cán bộ chính quyền nói: nhà nó, tuy bây giờ là thành phần phú nông, vẫn là thành phần bóc lột, tuy chẳng bóc lột được ai nữa, nhưng nhà nó đông con, nhiều người làm, lại làm khỏe, nhiều công điểm nhất làng, đã giầu rồi, cho nhà nó làm thêm thợ may ,để nhà nó càng giầu thêm nữa à ? Thì ra tính đố kỵ cứ theo các ông các bà ra đến tận ngoài đồng rồi lại còn muốn chui vào nhà người ta nữa đấy . Thuận cũng chẳng thèm xin thêm lần nữa làm gì. Anh chỉ mua một máy khâu cũ để trong nhà để khâu vá cho cả nhà và cho con cháu học thêm máy may. Chẳng bao lâu cả nhà anh nhất là bọn con gái đều biết may vá cho mình và còn may vá giúp đỡ bạn bè hàng xóm nữa, uy tín nhà Thuận càng ngày càng được tăng lên. Chỉ khổ mấy ông bà ghen ghét đố kỵ cứ trắng mắt ra mà nhìn và xuýt xoa mà thèm muốn thôi. Có khi lại còn đến nhờ may vá hộ nữa (!)
Chương 4
ĐÁNH MÌN ĐƯỜNG SỐ 6
Cuối năm 1951, quân Pháp nhảy dù đánh chiếm thị xã Hòa Bình ,lập các đồn bốt kiên cố dọc đường số 6.Từ thị xã Hòa Bình chúng tỏa ra các vùng xung quanh, càn quét, lập tề dõng vùng đồng bào các dân tộc ,ngăn chặn đường liên lạc của ta giữa khu Ba và khu Tư, âm mưu đánh chiếm đường 41,từ thị xã Hòa Bình lên cao nguyên Mộc Châu, vì Mộc Châu chúng đã chiếm từ trước.
Sau khi địch nhảy dù chiếm thị xã Hòa Bình, ta đã mở chiến dịch bao vây đánh phá âm mưu địch, để nối liền Liên khu Ba và khu Tư, ngăn chặn không cho địch nối liên lạc với Mộc Châu.
Tình hình địch: Thị xã Hòa Bình bị pháo binh của ta công kích mạnh. Bộ đội của ta bao vây tiêu diệt các cánh quân đi càn quét, buộc chúng phải chuyển quân ,vũ khí ,lương thực…từ Hà Nội lên bằng đường số 6.Vì đường rừng núi, mỗi lần vận chuyển, chúng phải tổ chức từng đoàn, từ 15 đến 30 xe vận tải, có xe tăng, bộ binh yểm hộ, ngoài ra còn có bọn địch đóng quân ở các đồn bốt dọc theo đường 6 từ Đầm Huống đến Pheo. Chúng hành quân bộ, có máy dò mìn, để giữ an toàn đường giao thông của chúng.
Quy luật của chúng là: Sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, bộ binh đi dà soát đường. Từ 2 đến 3 ngày có một đoàn xe quân sự hành quân từ Hà Nội lên Hoà Bình vào thời gian từ 13 giờ đến 15 giờ trong ngày.
Địa hình rừng núi. Địch phát hai bên đường quang ,trống trải. đường xá bị băm nát vì xe xích đi nhiều, rất dễ ngụy trang khi ta chôn mìn.
Tình hình ta :Bộ đội ta gồm bộ binh , công binh, tập kết ở khu vực xã Yên Mông, bờ nam sông Đà, vượt sông bằng thuyền nan ở bến Nụng, hay còn gọi là bến Cây Đa đôi, để đánh giặc trên đường số 6.
Quyết tâm của ta: Sử dụng trung đội 41,thuộc đại đội 17,tiểu đoàn 333 công binh, dùng mìn đánh giao thông địch. Trung đội 41 do Nam Sao làm trung đội trưởng, được giao nhiệm vụ đánh mìn từ quãng đường từ đồn Pheo đến Đầm Huống, Mục tiêu chiến đấu với xe tăng, xe vận tải địch. Nếu mìn nổ, thì xe đổ, và phá đường, một đòn được cả hai điểm:
-Phá xe cơ giới, diệt bộ binh , vũ khí địch
-Phá đường, ngăn cản giao thông, làm chậm việc vận chuyển chi viện của địch lên thị xã Hòa Bình.
Đồng chí Nam Sao ,trung đội trưởng òa Bình công binh trung đội 41 được đồng chí Đinh Khang ,tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 333 công binh trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ huy trung đội thực hiện nhiệm vụ trên.
Sử dụng vũ khí: 100kg thuốc nổ đúc, kíp mìn sử dụng loại đầu nổ của mìn địch ta thu được trước đây. Kỹ thuật, sáng tạo thành mìn tự động, đè nổ.
Chuẩn bị chiến đấu: Sau khi vượt sông tới vị trí tập kết, trung đội trưởng Nam Sao và ba tiểu đội trưởng: Khôi, Hải, Nhê ,đi trinh sát thực địa, hạ quyết tâm địa điểm chôn mìn. Trung đội phó Ích ở nhà phổ biến nhiệm vụ và chuẩn bị chiến đấu.
Liên kết bộc phá theo sáng kiến của Nam Sao được anh em đã bàn bạc nhất trí, mỗi quả mìn phá xe cơ giới tự động gói15 kg thuốc nổ, chỉ tác dụng phá xe cơ giới, bộ binh dẫm lên không nổ, máy dò mìn cũng không có tác dụng với loại mìn do ta sáng tạo này.
-19 giờ xuất phát. Sử dụng 2 tiểu đội đem theo cuốc chim, xẻng tay, bao đựng cát,4 quả bộc phá nặng 60 kg, đã liên kết thành từng quả mìn tự động theo nguyên lý đè nổ.
20 giờ tới vị trí chôn mìn, đường số 6,đã được đánh dấu từ hôm đi trinh sát thực địa.
20 giờ 10,triển khai tác nghiệp ở vị tri chiến đấu. Phân công mỗi tiểu đội chôn 2 quả mìn, tiểu đội 1 chôn ở phía bắc đường, chịu trách nhiệm gác đầu đường phía bắc, tiểu đội 2 chôn mìn ở phía nam, chịu trách nhiệm gác đầu đường phía nam, trung đội trưởng Nam Sao và trung đội phó Ích chỉ huy chung.
Nam Sao nhắc lại dự kiến tình huống phải sử trí cho các tiểu đội trưởng chú ý, anh đến từng tổ chôn mìn để theo dõi nhắc nhở và động viên các chiến sỹ
-Trường hợp đang triển khai ở hiện trường, thấy địch từ xa đến, nhưng ta không bị lộ, thì ẩn nấp giữ bí mật, sau đó lại tiếp tục chôn mìn.
- Trường hợp đang chôn mìn, đào đường, bị địch đi tuần bằng cơ giới, thì ẩn nấp ở bên cạnh, lợi dụng địa hình, với tư thế nằm sẵn sàng chiến đấu ,chủ yếu là dùng lựu đạn đánh địch. Nếu địch đi qua thì tiếp tục chôn mìn.
- 22 giờ chôn xong được 4 quả mìn an toàn, thực tế địch không dám hành quân và tuần tiễu ban đêm.
Kỹ thuật gói thuốc nổ:
-Khối bộc phá gói vuông ,mỗi bề 30cm,liên kết: trong gói bằng giấy bạc, ngoài gói bằng lá chuối đã hơ lửa, gói theo kiểu bánh trưng, buộc bằng giây giang tước mỏng, bện kiểu giây thừng buộc ngoài. Ở giữa khối thuốc dùi một lỗ bằng ngón chân cái ,sâu bằng ½ gói thuốc, tra vừa cái kíp mìn nhảy của Pháp ,ta lấy được ở xung quanh hàng rào các đồn của địch trước đây, theo nguyên lý đè nổ.
Kỹ thuật chôn:
Đào một hố ở một bên vệt bánh xe. Hố đào vát, hình cái thuyền nan nhỏ. Sâu khoảng 45 cm, ở giữa đặt một hòn đá bằng phẳng. Hai bên đặt hai ống nứa tròn 5-6cm,chiều dài vừa bằng gói thuốc nổ. Đặt gói thuốc nổ bên trên hòn đá, phía trên lấp một lớp đất tại chỗ dày từ 5 đến 6 cm, rồi ngụy trang cho giống mặt đường.
Tác dụng kiểu chôn mìn này là: Khi có xe cơ giới đè lên một phía trên, lực truyền qua lớp đất, qua khối thuốc nổ, làm dập hai ống nứa, đồng thời kíp đập vào hòn đá, là khối thuốc nổ tung.
-Cự ly mỗi quả mìn cách nhau 30m.
-22 giờ 16 phút thu dọn dụng cụ, trung đội trưởng Nam Sao cùng trung đội phó Ích đi kiểm tra lần cuối cùng. Rồi anh lệnh cho trung đội rút về vị trí tập kết. Cử một tổ quan sát ở mỏm đồi phía bắc, do Nam Sao trực tiếp ở lại quan sát, trung đội phó dẫn quân về.
Diễn biến chiến đấu: Ngày hôm đó trời quang, về trưa hửng nắng, Pháo địch ở Đầm Huống ,loại bô-pho bắn hàng loạt về phía xung quanh thị xã Hòa Bình, ven sông Đà, khu xã Yên Mông và bắn dọn đường, đường số 6.Đồng thời pháo binh của ta cũng bắn mạnh vào thị xã Hòa Bình và phản pháo vào Đầm Huống. Máy bay phóng pháo của địch lồng lộn bắn phá vào một số điểm chúng tình nghi.
-10 giờ, một toán bộ binh địch từ đồn Pheo đi tuần kiểm tra đường, vừa tới trận địa chôn mìn, thì gặp một toán chừng 2 tiểu đội từ đồn Đầm Huống đi tới. Hai toán gặp nhau ,bàn giao gì đó. Xong, toán lính ở đồn nào thì về đồn đó. Thái độ lúc đi thì thận trọng, lò dò. Khi về thì lộn xộn chủ quan.
- 12 giờ ,một máy bay trinh sát loại 4 cánh bay lượn dọc đường số 6.
-12 giờ 30 tiếng cơ giới xuất hiện từ phía Đầm Huống .
-13 giờ, một xe tăng vào trận địa phục kích ,quả mìn đầu tiên nổ, một xe tăng đổ, làm cản đường, cả đoàn xe 30 chiếc phải dừng lại, bắn loạn xạ, Các trận địa pháo binh của ta phát hiện có đoàn xe của địch bị dừng lại. Hàng loạt pháo của ta bắn vào đội hình xe của địch. Đoàn xe chở bộ binh và cơ giới rối loạn, đối phó không có mục tiêu .Thế là một trận địa pháo diễn ra, bắn qua, bắn lại, tới 15 phút.
- 14 giờ ,địch khắc phục xong đường và vật cản xe tăng đổ.
- 14 giờ 10,đoàn xe nổ máy. Xe tăng thứ hai di chuyển ,lại vấp phải quả mìn thứ hai, bị xệ ra dìa đường, vì đoạn này lề đường rộng, đoàn xe tiếp tục di chuyển. Đi đầu là một xe GMC chở hai mươi lính Tây , liền vấp phải quả min thứ ba nổ tung xe, lật ra ngoài đường ,lính ngồi trên xe chết và bị thương. Cả đoàn xe dừng lại khắc phục hậu quả, không dám hành quân. Bọn địch gọi máy bay bắn loạn xạ. Bộ binh địch xuống xe bố trí đào công sự hai bên đường. Đài quan sát công binh tiếp tục quan sát hiện trường, còn một quả mìn thứ tư, nhưng trời tối không quan sát được.
- 19 giờ 30 ,nghe một tiếng nổ lớn.
- 7 giờ sáng hôm sau, ở đài quan sát, Nam Sao mới nhìn thấy quả mìn thứ tư đã nổ tung một xe Jép ở đồn Pheo đi về phía đoàn xe, bị nổ ,để lại một hố sâu và rộng chừng 3m.Toán địch đang khắc phục hậu quả.
- 7 giờ 30,pháo binh của ta và địch thi nhau bắn vào mục tiêu của đối phương, tiếng nổ không phân biệt của ta hay địch. Đài quan sát công binh, quan sát lần cuối cùng,rồi rút về vị trí tập kết với chiến thắng vẻ vang.
Kết thúc trận phục kích mìn:
Địch: bị phá hai xe tăng, một xe GMC, một xe Jép. Khoảng 35 tên chết, trong đó có một quan ba ở đồn Pheo đi xe Jép ra kiểm tra đường. Vũ khí, phương tiện phá hủy không kiểm tra được. Còn đoàn xe lại bị thiệt hại do pháo binh ta bắn. Vì rừng núi che khuất nên không quan sát được. Làm chậm cuộc hành quân chi viện của địch lên thị xã Hòa Bình mất 20 giờ.
Ta: trung đội công binh an toàn. .
Nhận xét:
-Sử dụng công binh dùng kỹ thuật đánh xe cơ giới địch trên đường độc đạo giao thông là đúng.
-Chọn trận địa giữa đồn Pheo và đồn Đầm Huống là hai đồn mạnh của địch trên đường số 6, chính là yếu tố bất ngờ mà đơn vị công binh thành công
-Sáng tạo gói bộc phá, tận dụng vũ khí của địch đánh địch ( ngòi nổ của địch),lợi dụng nền đường bị bắn nát, ngụy trang thành công .Cả 4 quả mìn với thời gian dài mà địch không phát hiện được .
-Nếu kết hợp các binh chủng bộ binh và pháo binh cùng hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ thì còn thắng lợi nhiều hơn. Có thể tiêu diệt toàn bộ đoàn xe . Rất tiếc!
Mở đường Điện Biên Phủ
Muốn Mở đường Điện Biên Phủ
Chuyện kể của Nam Sao :Sau chỉnh huấn mùa hè năm 1953 vào một ngày đầu thu, đơn vị công binh chúng tôi từ làng Vàng ( suối Rút) ra đi. Tới Việt Bắc thì lại chuyển sang phía Tây. Qua Âu Lâu.20-11-1953 và lại tới Thượng Bằng La, bọn tôi sang trú quân ở một đồn điền cũ tại Hát Lót, thì hàng đàn máy bay Pháp qua đầu chúng tôi. Chúng cứ bay đi bay lại. Sau này chúng tôi được trên cho biết là địch đã nhảy dù xuống Điện Biên Phủ sáu tiểu đoàn Âu Phi ( khoảng 4.500 tên).Tưởng rằng bọn tôi phải đi lên Sơn La, ai dè lại quay lại Tạ Khoa, nơi cách đây mấy ngày chúng tôi vừa đi qua .Con đường bên bờ phía Tây Bắc phà này thật là đẹp, một bên dốc đứng ngoằn ngoèo cứ dọc sông đi mãi, một bên là sông nước trong xanh ,nhưng cũng là đoạn đường trọng điểm phải bảo đảm của chúng tôi. Đại đội chúng tôi là đại đội 270 của tiểu đoàn 333 thuộc trung đoàn 151công binh chủ lực của cả nước ta lúc bấy giờ.
-Bảo đảm ở bến Tạ Khoa bảy ngày thì lại hành quân ,lần này thì đi Sơn La thật, tới đèo Sơn La còn gọi là đèo Trang, đơn vị bạn mười ba người bị thương vong vì bom nổ chậm, một đơn vị bạn dự kiến vào thay ca cho đại đội 313,lại cũng bị một trận bom ở Cò Nòi, mất sức chiến đấu khoảng một phần ba quân số. Bọn tôi được lệnh dừng lại đây, tạm thay đơn vị bạn.
Đèo Trang từ đầu mút thị xã cứ lên cao dần, khoảng bốn ki lô mét thì ngoằn ngoèo đứng tầng trên nhìn rõ tầng dưới, đường uốn khúc một bên là vách núi đất, một bên là vực sâu cây cối um tùm, chúng ta đã sửa lại và xe cơ giới của bộ phận tiền phương đi qua, nên địch cũng bắt đầu đánh phá.
Trung đội 9 của chúng tôi trú quân ở thung lũng phía Nam đèo trong một rừng cây nhỏ lúp xúp gần cánh đồng cao nguyên. Đài quan sát của đơn vị đặt trên đỉnh một mỏm núi đá cao cách nơi trú quân hơn một cây số. Ngay hôm vừa đến máy bay cổ ngỗng của địch đã đến lượn vòng ném một số bom phá, đồng chí Cồ ,một anh cao to gần như tôi, làm cấp dưỡng lúc đó đuổi theo con lợn của đơn vị khiêng theo để ăn , chạy hút vào cánh đồng, về đến nơi thì tai hại thay, nồi nấu cơm do anh em tự sản xuất bằng đuya ra, nhẹ ,đẹp, lại phù hợp với công binh, đã bị cháy ngay trên bếp.
Ngày 16 tháng 12 năm 1953, địch đến bắn phá ba đợt, lúc đó ta chưa có hỏa lực phòng không như hiện nay, thậm chí cả 12,7 ly cũng chưa trang bị rộng rãi nên chúng nó làm chủ bầu trời ,thôi thì muốn bay đâu thì bay ,ném đâu thì ném tùy nó ,công binh chỉ còn cách là nó phá ta sửa ta đi, sửa không xong đêm thì sửa cả ngày. Song địch cũng xoàng và thiên nhiên ở đây cũng gây khó khăn cho chúng, sương mù dày đặc và thấp, chỉ trưa và chiều mới quang đãng, máy bay và bom thì không phải loại hiện đại siêu âm gì, bom nổ chậm Mỹ giúp Pháp cũng có mức độ, nên phi công ném bom nổ chậm cũng ít chứ không nhiều như những năm qua ( 1965-1972),và cũng chỉ có một loại là bom lắp ngòi nổ chậm Mỹ ký hiệu M125A1.Nổ chậm dài nhất là sau 144 giờ với nhiệt độ20 độ C. Nhưng sương mù có hại cho địch cũng khó cho ta. Nó ném buổi chiều, ta ra khắc phục xong thì đã về đêm, nào là đèn ,nào là đuốc ,nào đi lại vv… được cái lượng xe đi cũng ít. Trận đầu đến với chúng tôi toàn bom phá nổ ngay, có hai quả trúng mặt đường, một quả phá hủy hoàn toàn mặt đường ,một quả sát tả luy, theo thông báo của trên ,đêm đó không có xe vượt. Anh Nguyễn Văn Nở đại đôi phó, quê ở thôn Tháp Linh ,tổng Sâm Linh ( nay là xã Minh Tân huyện Đồ Sơn) đã lệnh cho để nguyên hiện trường lừa địch, còn đơn vị cứ chuẩn bị dụng cụ ( đan ky ,sọt, dành ,vì nứa rất nhiều thoải mái đan),anh đan rất giỏi ,sau này khi về hưu đầu năm 1973,vừa làm bí thư đảng ủy xã ,vừa là người đan rổ ,rá, nơm ,giỏi nhất toàn xóm .Nghe đâu chính anh là người đã mò mẫm thành công việc khoán sản nông nghiệp sau tỉnh Vĩnh Phú ,là tiền đề cho nghị quyết 100 của trung ương .Xã anh khoán sớm vào những năm 77 cơ.
Ngày hôm sau từ máy bay Kinh-cô-bờ -ra giặc lái nhìn xuống thấy mặt đường vẫn còn nguyên hố bom, chúng bay qua và không thèm quay lại. Chiều hôm đó đơn vị cử một bộ phận ra san lấp hố bom rồi ngụy trang lại và khoảng mười giờ đêm thì lại nhấc sọt ngụy trang ra cho xe đi, cũng chỉ vài xe là hết ,đoàn xe này đi vào Thuận Châu.
Ngày 17 tháng12 năm 1953,phát hiện ra xe ta đã vượt đèo, dấu vết bánh xe trên đất mới rất rõ, địch lại cho máy bay đến ném bom, trận này có thêm cả bom nổ chậm. Đài quan sát ghi nhận có bốn quả không tháy nổ ,thời gian ném lúc 16 giờ, vị trí cụ thể không rõ, chỉ biết ở tầng đường số 12,vì đài không có ống nhòm.
Từ đài quan sát chúng tôi lao xuống mặt dường xác định quả thứ nhất nằm ở mép đường phía vực, chỉ ngập có hai phần ba quả, quả thứ hai và thứ ba rơi xuống vực, còn quả thứ tư thì tệ hại hơn, nó chui sâu vào lòng mặt đường, cách đáy tả luy vách độ một mét, đường xe lúc này nhỏ chỉ hơn ba mét cả lề đường. Nếu quả này nổ sẽ hỏng mặt đường và sẽ bay một xe tải loại Gát 63 nếu qua đúng thời điểm. Bom nổ chậm Mỹ sau này có tác dụng nằm phục tới vài chục ngày đến trăm ngày ,còn hồi đó dài nhất cũng trọn tám ngày đêm.
Hồi 17 giờ hơn cùng ngày, lệnh đại đội trưởng Phan Quốc Sử phải bảo đảm thông xe ngay trong đêm nay, vì một số đoàn xe của Bộ chuyển gấp vũ khí vào Thuận Châu. Đội phá bom 93 cử đồng chí Vũ Văn Am ,quê đâu ở mạn Vĩnh Bảo xuống chi viện ,chúng tôi đề ra phương án thông đường là:
-Quả bom ở vệ đường phía vực thì đào lên và lăn xuống cho nổ dưới vực đỡ phải tốn công.- Quả chui xuống mặt đường thì chui xuống đặt lượng nổ cho nổ, rồi san lấp tạm cho xe qua, nếu địch không cài chốt chống tháo thì tháo luôn, cứ thế cho xe qua, xong sẽ đào lấy bom lên, vội quá thì lấp luôn ,đánh dấu cả ở sơ đồ và thực địa, giải quyết sau.- Nếu có khó khăn thì cứ cắm tiêu cho xe vượt nhanh qua ,bom có nổ thì để ngụy trang luôn-càng đỡ mất công.
Cả hai cách đều có thể sảy ra hy sinh, nào ai có thể biết địch để thời gian chậm nổ bao lâu, chỉ khi nào cầm gọn trong tay cả bộ ngòi nổ mới đọc rõ con số thời gian nó cài. Nếu hi sinh một người hay một người và một xe vũ khí, người lính công binh chọn cách hy sinh một ,đó là mệnh lệnh của trái tim. Trên cũng cho biết khoảng 24 giờ thì xe đầu có thể cập ba ri e của đèo Trang.
-19 giờ một bộ phận sẵn sàng cuốc , xẻng, ky ,sọt .Một bộ phận có đồng chí Am và tôi ,cùng hai chiến sỹ tới hút bom mặt đường và một bộ phận đào lăn bom xuống vực
-19 giờ 15 phút, dây chão buộc vào bụng đồng chí Am xong, đồng chí Am nhích sâu đầu xuống hút bom, bỗng một tiếng nổ rất đanh, bụi đất ,cành cây bay rào rào lẫn cả tiếng rít của mảnh bom.
-Bom nổ ở đâu ?-Liên lạc Bản chạy đến hỏi-Chúng tôi đang tập trung toàn bộ vào hút bom nên chưa rõ nổ quả nào, chắc chắn không phải quả ở đây vì bọn tôi đang thả dây cho đồng chí Am chui xuống hố. Thì ra quả bom được vần xuống vực, sau vài phút nổ -Hú vía!- Liệu có chênh nhau vài phút không ,nếu địch cài thế thì nguy. Người lính công binh chỉ được phép sơ xuất có một lần -châm ngôn Nga đã từng nói vậy.
-Dây kéo bỗng rung mạnh, tín hiệu lôi lên, chúng tôi xúm lại kéo ngược đồng chí Am lên-Mẹ ơi! – một người kỳ lạ, mặt mũi đen nhẻm sừng sững dưới hố chui lên.
-Phá thôi ! nó cài chốt chống tháo rồi, hỏng ăn !- Anh Am nói trong hơi thở-Nói chưa xong ,hai tay Am đã lao về phía trước ôm gói thuốc nổ 5kg,kíp đã lọt sâu vào trong lượng nổ, dây cháy chậm cứ tở ra từng vòng, anh Am lại chui xuống ,moi góc đuôi thân bom để đặt lượng nổ, thay cho lèn. Thời gian cứ nhích dần, mới có vài phút mà bọn tôi tưởng mấy tiếng đông hồ ,chịu đựng sự tham quan này còn ghê gớm hơn là mặt đối diện với quân thù.
-Lại rung dây, lại một lần nữa người lại lôi lên mặt đất theo kiểu chân kéo lên trước, đầu lên sau, hai tay phải giữ cho chùng của độ dây cháy chậm khỏi bị căng tuột khỏi lượng nổ. Một hồi mõ ngắn vang lên 6 tiếng, tôi và anh Am đốt dây cháy chậm,
- Lửa sáng xanh ,tiếng xì xì, mùi thuốc quen thuộc lại đến và hai bóng người chúng tôi lao về góc ngoặt gần đó. Một phút ,hai phút ,ba phút, im ắng hoàn toàn ,cả đoạn đèo không thấy tiếng động, thời gian sao mà chậm quá, tưởng chừng hai anh em tôi đã ngồi đây mấy tiếng mà vẫn chỉ thấy vắng lặng ,chúng tôi thèm tiếng nổ lớn quá. Gần sáu phút ,hai tiếng nổ gần như cùng một lúc, lửa sáng ,đất đá, cành cây rào rào bay hỗn độn, cả hai người đều thở phào nhẹ nhõm cùng phát ra. Anh Am và tôi lao vội về phía bom vừa nổ. Toàn bộ một đường gần tròn rộng tám mét, một đoạn vách núi bị phá rơi lộn xuống hố bom, thật là quý nhân phù hộ, đỡ cho bọn tôi khoảng vài mét khối san lấp. Khung cảnh tấp nập lại tiếp tục, đuốc thắp sáng một vùng, đất đá được san xuống hố bom
-24 giờ, một đoạn đường dốc đã hiện rõ màu đỏ, lấp đi màu tối của hố bom, cùng một lúc chiếc xe đầu tiên đã tới trạm ba ri e của đèo.. Lệnh thông xe của tiểu đoàn trưởng Lê Trung Ngôn vang lên trong máy nói. Biển “có bom nổ chậm” được cất đi và ngáng ba ri e được nâng lên, chiếc xe Gát 63 được phủ kín bạt lăn bánh sau ánh sáng vàng của đèn chống sương mù tiến vào hố bom đã san lấp, xe hai cầu nên đi qua chỉ hơi lún, công binh lại tiếp tục lấp thêm đất đá, đoàn xe qua an toàn.
-Chúng tôi về nơi trú quân sau khi đã quẳng ngổn ngang những cành cây ,hòn đá để ngụy trang-có lẽ mọi người ngày nay cho là ấu trĩ quá đáng, song thời điểm đó lại rất nghệ thuật, vì máy bay chưa có loại trinh sát hiện đại, cây nhiệt đới cũng chưa sản xuất, trong điều kiện rừng núi Tây Bắc, máy bay động cơ của Pháp thì việc làm này có giá trị. Tôi sẽ kể tiếp các anh nghe con đường đưa pháo vào Tà Lùng.
Bảy ngay sau ,lệnh vào phá đá gấp, chúng tôi lại ra đi ,cũng chẳng kịp chờ bàn giao cho đơn vị anh Tăng Văn Bén đang hành quân đến. Đèo Pha Đin, con đường trời và đất gặp nhau đã đi vào lịch sử. Ngày bọn tôi đến cũng chỉ thấy cao vời vợi, vực thì sâu ,bản làng thì xa. Chúng tôi đã trú quân ở ngay dốc cao của đèo, khoảng cây số 53,theo một khe nước chảy cách mặt đường hơn cây số, cố nhiên là leo dốc thoải mái.
Đêm 28 tháng 12 năm 1953 sau khi địch ném 6 quả bom nổ chậm chui sâu vào lòng đường, lúc này xe qua lại cũng chưa nhiều, bọn tôi tổ chức bạt rộng ở đỉnh đèo để dấu xe nếu cần ,và cứ bom nổ quả nào thi ào ạt san lấp quả đó. Công binh chúng tôi hồi đó thích san lấp ban ngày hơn ban đêm ,vì nó ném bom quan sát rõ hơn và lại lượng bom có hạn mà địch rải suốt từ bắc bản Ban ,Cò Nòi ,Tạ Khoa, Sơn La ,Pha Đin… nên cũng hạn chế, chả được như bọn Ních Sơn chỉ một trận nó rải xuống vài trăm quả cỡ 250 kg trở lên.
Đã hai giờ sáng ,quả bom thứ sáu vẫn cứ im ắng,. cứ phải cho xe vượt thôi, bom chui sâu, đá núi đào thế nào.
4giờ xe con của đồng chí Phạm Ngọc Mậu, chính ủy đại đoàn công pháo tới, cách 20m thì quả bom lại nổ, xe chết dí luôn, người chỉ kinh hoàng vì bom nổ quá sâu. Khiêng thôi ,xe nhẹ mà, bọn tôi khiêng xe rồi đẩy luôn vào nơi dấu xe ,ngụy trang lại, và mời anh Mậu về lán nghỉ, chờ đêm sau lại ra đi. Và chuyện tiếu lâm , khói thuốc lào lại tỏa đầy lán ,anh Mậu vốn là cây tiếu lâm và cũng khoái thuốc lào.
Gặp anh Mậu ,chúng tôi lại nhớ một đêm ,đơn vị tôi ở đèo Trang ,Sơn La đã có may mắn kỳ lạ được dẫn đường cho Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp vượt đèo theo đường mòn lên tiền phương. Đại tướng khỏe , vui và nhắc nhở bọn tôi cố gắng lên sẽ có những bước ngoặt mới và những thắng lợi lớn lao mà ngườì đi trước vẫn là lính công binh. Với giọng nói miền Trung, đại tướng nói ít và tạm biệt chúng tôi, tới đầu dốc bên kia, xe lại đón đồng chí đi tiếp vào chỉ huy sở tiền phương. Đồng chí qua đây chắc chắn là chiến dịch nào sắp mở, chả biết đâu ,bọn tôi cứ bàn tán rì rầm cả đêm cả ngày.
Lại bảy ngày sau, chúng tôi lại hành quân tiếp qua ngã ba Tuần Giáo, đi bên phải hay rẽ trái không khí chiến trường ở đây cũng đã nhộn nhịp, hàng đoàn bộ đội tất bật qua đây. Đơn vị chúng tôi hướng về Điện Biên Phủ làm nhiệm vụ mở rộng đường cho xe có đuôi, chủ yếu bằng choòng búa xẻng cuốc và thuốc nổ ,song phải nổ vào thời điểm có lợi nhất cho việc giữ bí mật con đường. Yêu cầu của Bộ phải làm gấp liên tục ngày đêm .Các cán bộ cấp cao, phái viên Tổng cục chính trị xuống cơ sở đốc chiến. Đồng chí Nguyễn Anh Bảo(sau này là Cục trưởng cục Thông tin liên lạc) truyền đạt ý kiến cho chúng tôi:” .Trung đoàn 151 công binh phải bằng mọi gía mở cho được con đường này với một thời gian rất ngắn. dù có phải trải vàng ra mặt đường cũng rải”, vì yêu cầu bảo đảm hàng hóa cũng đã lớn, song cái lớn hơn là phải bảo đảm cho pháo lớn vào mặt trận mới chiến thắng được tập đoàn cứ điểm mang tên SONO này.(Điện Biên Phủ).
Trung đội 9 của tôi bắt đầu mở đường này bằng việc bắc một cây cầu chân gía qua con suối ở khoảng cây số 16,17.Gỗ thì vô tận, song dụng cụ thì có hạn, cưa dứt ,thước vuông .rìu, đinh cầu đều quá thiếu. dây thì dây rừng cũng nhiều vô kể. Chỉ huy bắc cầu là tôi và anh Nở, dụng cụ kỹ thuật là lá chuối gấp lại thay thước vuông và dây buộc đá để thay quả dọi-Cầu tuy ngắn, song hơi cao ,cột tới 3m,đường vào cầu lại hơi ngoặt, nhưng rồi cũng xong, cũng đã kịp thông xe sau hai ngày.
Rồi lại cuốn chiếu, trên sáu mươi cây số, đơn vị chúng tôi cứ phân đoạn ra làm, anh nào xong lại vượt qua anh kia, rồi lại vượt, cứ thế vào sâu phía Him Lam, thôi thì suốt ngày đêm đốt đuốc, lợi dụng khoảng trống sáng trăng, đục chòong phá đá, cây cối và đá đều hất xuống vực, sửa lại mép tả luy. Dân công chi viện toàn chị em người Thái, xinh thì có xinh, khối anh lộn cổ xong năng xuất thì thấp quá, mỗi cô chỉ gánh mươi cân vài hòn là hết mức, dân công dưới xuôi thì chưa lên, vì bí mật cũng là vì gạo chưa vào sâu, chưa đủ ,nên cứ tại chỗ là tiện .Mê mải làm liên miên mà khối lượng cứ thấy ùn ùn phát sinh, cơn ngủ thì đè nặng luôn luôn chập chờn, anh Nở có lần dụi thuốc lá cháy cả áo quần bạn, đồng chí Sơn tiểu đội trưởng quai búa vào đầu anh cầm chòong, bố Khoáng ,chiến sỹ đã ngoài bốn mươi tuổi, quê mãi Đức Thọ, Hà Tĩnh, chốc lại “Nác đây ,nác đây”( nước ,tiếng địa phương ) cũng có lần ngủ ngay cạnh thùng đựng nước uống. Cậu Tới và cậu Lân thì lên rừng kiếm quả chua cũng đã ngủ thiếp đi trong rừng, đơn vị may mà tìm ra không thì đã làm bạn cùng lũ hổ(!)
Có lẽ gấp lắm rồi, chúng tôi đã được trên cho tăng thêm lần nổ mìn. Chỗ nào xe Gát qua được tàm tạm là vượt luôn ,mở tiếp. Gặp suối nhỏ thì cứ gỗ và dây rừng làm cầu, suối to thì bạt dốc xếp kè cho xe vượt ngầm, cây nứa cứ cắm tiêu cho xe đi ở giữa, đường cua thì cứ kéo cả cây luồng dài, không chệch ra mép là đi được hết. Anh em lái xe quả là tuyệt vời, có đoạn chỉ vừa khít hai bánh xe, thành xe chìa ra mép đường vô cùng nguy hiểm thế mà xe cứ đi và lại đi an toàn. Các cậu lái xe Điện Biên, sau hòa bình lập lại ,lên giá ra trò, cơ quan nào cũng muốn xin cho kỳ được.
Kể từ ngày thi công ,sau mười một ngày đêm, đường tới ngã ba Tả Lùng đã mở, chiếc xe chở gạo đã vào để tiếp tế cho các đơn vị bao vây Điện Biên Phủ, đêm đi qua chỗ bọn tôi đã gạt luôn một xe thồ xuống vực sâu, có lẽ vì tay ngai dài quá, may mà anh dân công an toàn. Và cứ tiếp tục đêm này qua đêm khác, xe có đuôi cũng cứ phủ kín lá ngụy trang ùn ùn vào quanh khu vực địch đang xây dựng công trình phòng thủ.
Đơn vị tôi lại trụ ở một đoạn dài hơn mười cây số, lần này thì vui rồi. Một đại đội dân công gái quê ở tỉnh Thanh Hóa, luôn luôn hò hát ,làm thì say mê, khỏe mạnh, đã phối hợp cùng chúng tôi, và những mối tình trong sáng, chân thực lẫn mối tình lở dở cũng cứ ập đến với bọn chúng tôi. Cô đại đội trưởng cứ hội ý suốt ở chỗ tôi, nào là thiếu dụng cụ, nào là thiếu muối vv…làm tôi cứ bồn chồn cả người, lắm lúc không ngủ được, pháo sáng thì cứ lửng lơ đến khó chịu.
Ngày 29 Tết (2-2-1954) anh Nở và tôi ,mỗi người hai bánh trưng gói thịt .Được lệnh làm đường kéo pháo và làm hầm cho pháo. Đường do chúng tôi phát tuyến và làm cố vấn kỹ thuật còn do lực lượng đại đoàn 316 thi công.. .Còn thì giờ đâu mà vẽ nữa ,cứ áng áng gọi nhau thấy thưa là cứ cắm tuyến, căng dây rồi phát quang tý là cầm bản thả dây trên vòng cung chia tỷ lệ cho luôn, bộ binh cũng làm ngay. Cha mẹ ơi ,có lần dốc cứ tưởng là ngon, ai ngờ cao quá, bộ binh các tướng ấy chửi cho bọn tôi một trận ra trò, lại còn khoản gỗ chống lầy nữa, bắt chặt ở xa vác về cho đỡ lộ bí mật, thì bộ binh lại toát luôn. Ấy thế rồi đâu cũng vào đấy. Đường làm gấp, thật gấp, chứ chả chỉ có gấp không đâu.
Ngày 25/1/1954 pháo đã bắt đầu kéo ra, đường tới đâu là pháo lại nhích vào tới đó. Ngụy trang đường này thì tuyệt ,cứ cây tại chỗ cho vào dành đất, sáng thì bê ra xếp ở đường, tối đến lại bê vào tưới tắm, xe đi xong lại bê ra ,thế mà bịt mắt được bọn giặc lái khá lâu .
-Anh có dự kéo pháo ra không? Nghe nói ly kỳ lắm hả anh- Một chiến sỹ ngồi bên cạnh hỏi anh Nam Sao.
-Không được kéo mới buồn chứ ! Nhưng làm đường để kéo pháo vào, cũng phải sửa đường để kéo pháo ra, rồi lại làm đường để kéo pháo vào trận địa khác cũng bở hơi tai rồi. Công binh với pháo binh cứ cặp kè với nhau, còn lực lượng kéo thì đã có pháo binh và bộ binh chi viện.z
Tôi lại nhận lệnh đi vào phía trong gặp trung đoàn 174 để chỉ đạo kỹ thuật làm hầm cho pháo 105 ly. Trung đoàn này do anh Nguyễn Hữu An chỉ huy(sau này là thượng tướng),người đã chỉ huy đánh đồi A1 ở Điện Biên Phủ, giai đoạn sau có cả trung đoàn 88 nữa.
Tôi lại được phân công vào cùng các đơn vị bộ binh của đại đoàn 316 làm con đường gấp từ Nà Nham đến Mường Phăng, sườn phía Đông của Mường Thanh.
Các công sự thường ở lưng trừng đồi, được phủ nóc bằng những cây gỗ rất to, có cây đường kính đến 40-50 cm ,trên nóc rải các bó cành cây và phủ đất .Trong đợt làm này có một sự sơ hở là ta cho đất vô ý để rơi xuống suối chảy vào trung tâm. Khi phát hiện nước đục trôi về ,chúng cho pháo cứ lần theo con đường suối đánh. Tôi vừa chia tay cùng đồng chí chính trị viên đại đội sang khẩu số hai ,thì một loạt đạn pháo rơi trúng cửa hầm số một làm ba người bị thương. Thật là một thiếu sót lẽ ra tránh được, song gấp quá vì thời gian nổ súng cứ nhích dần.
Sau khi đã làm xong đường gấp cho các trận địa pháo 105.Tôi lại trở về đơn vị. Đơn vị lúc này đang đảm nhiệm một đoạn đường từ cây số 24 đến cây số 40,một đoạn đường dài so với một trung đội, đặc biệt chúng tôi có cả bộ phận súng máy cao xạ cùng phối hợp ,vì con đường Tuần Giáo –Điện Biên Phủ đã thực sự trở thành con đường vận tải, kéo pháo đi lại nhiều lần, địch cũng biết rõ và chúng cũng quyết tâm phá hủy.
Nhờ có đài quan sát nên chúng tôi nắm tương đối chinh xác bom rơi, thật ra lúc này địch ném bom nổ chậm có phần hạn chế vì tuyến đường rất dài, hơn tám mươi ki lô mét. Chúng phá đoạn đường này thì phải bỏ đoạn khác .Những ngày mưa thì lại chuyển sang chống lầy, có đoạn vừa dốc lại vừa nhão, đá ở vách tả luy lại là đá vỉa non, nên phải khai thác đá ở nơi xa.
Khi ta bắt đầu nổ súng đợt một vào các cứ điểm Him Lam ,Độc Lập, thì máy bay địch cũng tập trung vào nơi sảy ra chiến sự, do đó đoạn đường chúng tôi đảm nhiệm cũng có phần dễ dàng hơn so với giáp khu chiến sự ( Hồi đó Pháp cũng ít bom ,ít máy bay ,cho nên tập trung ở đoạn này thì lại bỏ trống đoạn khác) .
Đoạn đường này có nhiều kỷ niệm với tôi, cô con gái ông già người Thái, có búi tóc dài sau gáy, với đôi mắt luôn luôn ướt, chả biết tôi có số đào hoa thế nào mà cô ta cứ quẩn quanh mãi. Khốn khổ nào có sơ múi gì đâu mà ông chính trị viên đại đội tôi quê đâu vùng Nghệ An thì phải ,khi chúng tôi về đến Phú Gia ,ngoại thành Hà Nội đóng quân chờ tiếp quản Thủ đô, cứ khêu gợi tôi làm bản tự kiểm điểm suốt, thật là còn trẻ lại có chút trí thức, cũng lắm điều oan trái. Tôi đã bị ức chế về vấn đề chính trị vì có anh trai đang trong hàng ngũ địch , nên đã bị định kiến nhiều. Mặc dầu tôi đã lập nhiều công, có hai huân chương chiến công, đã mấy lần chuẩn bị được kết nạp Đảng nhưng lại bị tổ chức gạt bỏ, nhất là mấy ông chính trị viên đại đội thì luôn “theo dõi sát sao” (!) nên tôi không dám làm điều gì sơ xuất để bị tai tiếng hay bị kỷ luật cả, đành phải cắn răng chịu đựng và quyết tâm chiến đấu đến cùng, thà hy sinh không bao giờ để mất danh dự.
Ngày 7-5-1954,cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên nóc hầm Đờ Cát. Diễu binh lịch sử ở Mường Phăng xong, các đơn vị chủ lực lại lần lượt ra đi ,tiến về các hướng.
Đại đội công binh chúng tôi lại cùng nhau ở lại sửa chữa cầu Be –lây cho Mường Thanh, và phục vụ cho đoàn quay phim Các Men ,Liên Xô. Rồi cũng đến lượt bọn tôi trở lại đường xưa đèo cũ, vừa vượt qua thì xe con trung đoàn phó Phạm Văn Tiến đi vào gặp bọn tôi ở đỉnh dốc, anh hồ hởi báo một tin vô cùng phấn khởi” Hòa bình đã lập lại, hiệp định Giơ ne vơ đã được ký kết, chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần xứng đáng cho phái đoàn Việt Nam giành thắng lợi ở hội nghị Pari.”
Cuộc hành quân lại vẫn tất bật đi suốt ngày, đi tuốt tới ngoại thành Hà Nội, sẵn sàng tiếp quản Thủ đô.
Chương 5
ĐẸP LẮM THAY EM LÀ HOATHỦY LỢI
Để phát triển nông nghiệp ,nhà nước chủ trương đẩy mạnh công tác thủy lợi. là ưu tiên hàng đầu theo câu ca của các cụ trước đây là : “ Nhất nước ,nhì phân ,tam cần, tứ giống”.
Hệ thống Bắc Hưng Hải là công trình lớn đầu tiên, tưới tiêu cho một nửa đồng bằng Bắc Bộ gồm các tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên , Hải Dương. mà công trình đầu mối là cống Xuân Quang, lấy nước của sông Hồng vào tưới cho các cánh đồng của ba tỉnh trên. và cống Cầu Xe là cống cuối cùng để giữ nước khi cày cấy và thoát nước khi lũ lụt. Các công trình đầu tiên này phải nhờ tới các chuyên gia Trung Quốc giúp đỡ về thiết kế ,quy hoạch ,còn về kỹ thuật thi công và thợ thuyền nhân lực thì do ta đảm nhiệm. Thợ kỹ thuật thì do các công ty của Bộ Thủy lợi đảm nhiệm. Riêng về nhân lực thủ công thì phải huy động hàng vạn dân công thủy lợi gọi là dân công 202( theo chỉ thị số 202 của chính phủ ) Mỗi xã của các tỉnh phải tổ chức một đội dân công chuyên nghiệp, gồm toàn các lực lượng trẻ khỏe khoảng một trăm đến hai trăm người do một đội trưởng chỉ huy và các người giúp việc: đội phó ,thống kê, nấu ăn…Đội nào đội ấy, phải mang vật liệu từ nhà đến công trường để làm lều lán ăn ngủ, suốt thời gian lao động ở công trường, còn phải mang đầy đủ dụng cụ đào đất xúc đất vận chuyển và dụng cụ nấu ăn, kinh phí, gạo nước sẽ do công trường nuôi, công cụ lao động công trường sẽ thanh toán và bổ sung.
Công trình khởi công đầu tiên là cống Xuân Quang, trên bờ đê tả ngạn sông Hồng. Xã Kim Anh tổ chức một đội dân công 202 gồm một trăm năm mươi người, gồm một trăm hai mươi nữ và ba mươi nam, toàn là thanh niên trẻ khỏe do Nguyễn Văn Thuận làm đội trưởng, chia làm bốn tổ ,mỗi thôn một tổ, mỗi tổ bầu một tổ trưởng để quán xuyến lao động. Ở các xã khác các đội đều có đội phó, thống kê, và ít nhất cũng phải có một tổ Đảng viên ,ba đến năm người đi lao động ,để lãnh đạo. Riêng đội của xã Kim Anh thì chỉ có một mình đội trưởng, không có đội phó, kể cả thống kê cũng không, còn đảng viên thì chẳng có một mống nào (!) Nguyên nhân là lãnh đạo xã không cử ai cả, còn đội trưởng thì không có quyền chỉ định. Nghe nói ,chủ tịch xã lúc đầu cũng định cử ban bệ lãnh đạo hẳn hoi. Nhưng Bí thư đảng ủy thì bảo:
-Cứ cử một ông đứng tuổi làm đội trưởng thời kỳ đầu và cử tay Thuận vào đội 202,chỉ cần một mình tay Thuận làm trợ thủ đắc lực là được hết. Anh ta vừa có trình độ văn hóa lại vừa có kinh nghiệm tổ chức làm ăn. Cứ nhìn gia đình anh ta thì biết, cả cái xã này đã ai hơn được anh ta phỏng ?tổ chức thêm gián tiếp chỉ tổ lãng phí, mà làm cho mấy ông thêm lười ra. Còn đảng viên đi lãnh đạo ư ?có mà đi quấy rối thì có, chứ mấy vị đảng viên trẻ còn non choẹt, thì lãnh đạo sao nổi ông Thuận. Thôi cứ để mình ông ấy “nhất nguyên chế” cho dễ làm việc, khỏi rối bận ông ta ra. Cứ thử làm một thời gian đầu xem sao. Nếu cần thì thay đổi vẫn không sao cơ mà.
Chẳng biết đồng chí Bí thư mê tín Nguyễn Văn Thuận đến mức nào, hay là muốn đầy đọa ,hoặc thách đố anh ta trên công trường này đây? Thuận vốn là con người hiền lành, chịu đựng, nhưng cũng là con người năng động, say xưa làm việc lạ ,thì cứ thử làm một lĩnh vực mới này xem sao? Anh sẵn sàng đi vào mọi thách thức trên công trường mới lạ này. Sau năm tháng ở trên công trường, đội 202 chủ lực của xã Kim Anh, được biểu dương, khen thưởng nhiều lần. Do được sự giúp đỡ của anh Thuận nên ông đội trưởng già được hưởng vinh dự đó và ông đã được kết nạp vào Đảng. Sau đó ông già thấy mình không thể bằng Thuận nên xin nghỉ, phần vì bận nhiều việc gia đình, giao lại chức đội trưởng cho Nguyễn Văn Thuận. Được Đảng ủy và Ủy ban xã hoàn toàn nhất trí.
Trên công trường ngàn hoa là hoa ngát hương
Mà sao chỉ có em là hoa là hoa sáng ngời
Anh với em cùng nhau ta hát ca
Đẹp biết bao em là hoa là hoa thủy lợi
Càng mến yêu em là hoa là hoa công trình…
Tiếng hát tốp ca nữ của đội Kim Anh luôn luôn được vang trên loa đài của công trường ngày và đêm. Đó cũng là nguồn động viên anh chị em trong lúc lao động mệt nhọc và trong sinh hoạt ,Ở lán trại đội Kim Anh lúc nào cũng đông vui ,đầy tiếng cười ,tiếng hát .Năng xuất lao động của họ luôn luôn đứng ở tốp hàng đầu của công trường. Hàng tháng họ đều nhận cờ thi đua xuất sắc, không xáy ra tai nạn lao động nào lớn cũng như không có tai nạn xã hội nào sảy ra .
Đội trưởng Nguyễn Văn Thuận được lãnh đạo và chỉ huy công trường rất tín nhiệm và tin tưởng, không hề có vụ việc nào tiêu cực ở đội Kim Anh. Thông thường ở công trường thường sảy ra nhiều hiện tượng tiêu cực như làm ít khai nhiều, làm không bảo đảm chất lượng ,không bảo đảm tiến độ, có cán bộ đội còn đút lót, móc ngoặc với cán bộ kỹ thuật ăn gian khối lượng, ăn cắp vật liệu của công trường, cờ bạc tiêm chích nghiện hút, gái gú, chửi bới đánh đập nhau ,gây gổ trên công trường và trong nhân dân sở tại… Trong suốt thời gian lao động ,đội của Thuận không bao giờ bị nêu tên trên bảng đen hoặc nhắc nhở trên loa đài của công trường.
Thấm thoát sáu năm trời. Nguyễn văn Thuận đã chỉ huy và lãnh đạo đội thủy lợi 202 của xã Kim Anh qua hai công trường cống Xuân Quang và cống Cầu Xe đều hoàn thành nhiệm vụ và giành được cả hai lá cờ thi đua: đơn vị xuất sắc nhất của công trường và của tỉnh trao. Sau đó đội lại chuẩn bị đi tiếp sang công trình mới, nhưng Thuận được tin bố bị ốm nặng, nên xin nghỉ, bàn giao cho người khác thay thế làm đội trưởng ,để về nhà chăm sóc ,nuôi dưỡng cụ Ruy, được hai tháng sau do tuổi già ,sức yếu ,nên cụ đã qua đời ở tuổi bảy mươi ba.
Nguyễn Văn Thuận phải chủ trì đứng lên cùng mẹ già và các chị, em cùng họ hàng làm tang lễ đưa cụ về nơi chín suối một cách linh đình, được các cơ quan Đảng , chính quyền và nhân dân địa phương đến phúng viếng, tiễn đưa rất đông. Chỉ tiếc rằng hai người anh lớn đang ở rất xa, và đang chiến đấu trên hai chiến tuyến đối lập nhau, có linh cảm gì về bố đã mất không? Theo tục lệ cổ truyền gia đình đã đặt hai chiếc mũ rơm và hai cây gậy vông bên cạnh linh cữu của cụ, tượng trưng cho hai con trai về tiễn đưa cha cho tròn chữ hiếu, hỡi ôi !
Ông chủ lò gạch
Trước đây hợp tác xã đã xây dựng một lò gạch và tổ chức một đội sản xuất gạch, kinh doanh cho hợp tác xã, một lò nhỏ thôi ,nhưng cũng có tiền chi tiêu cho hợp tác. Nhưng việc quản lý không được chặt chẽ, ai cũng muốn ưu tiên cho người này ,người khác, thấy tiền ai cũng muốn dây máu ăn phần. Sổ sách , ghi chép chi tiêu không đầy đủ rõ ràng. Cuối cùng khi thanh tra ,kiểm tra thì đội trưởng và kế toán mắc vào tội tham ô ,đội trưởng bị truy tố và kết án đi tù. Thế là giải thể đội gạch mấy năm nay rồi, lò gạch bị bỏ hoang, sụt lở hư hỏng.
Nay đất nước hòa bình rồi, nhu cầu xây dựng rất là lớn . Ban quản trị hợp tác xã bàn xây dựng lại lò gạch, và tiến tới cả lò ngói nữa, nhưng tìm chưa ra đội trưởng. Các xã viên đều sợ cái dớp của ông đội trưởng cũ đi tù ,nên chẳng ai dám nhận. Huy động lại số thợ đóng gạch cũ đã được mười sáu người ,nhưng không bầu ai làm đội trưởng được. Trong cuộc họp Ban quản trị, bỗng có ý kiến:
-Cứ giao cho tay Thuận là được đấy ! -Ý kiến khác phản đối:
-Tay Thuận đã làm gạch bao giờ đâu mà biết làm.
-Thì làm thủy lợi anh ta cũng đã làm bao giờ đâu, sao mấy năm vừa rồi anh ta lại làm tốt thế!
-À, làm thủy lợi chỉ là đào đất ,đắp đất thôi, chứ ở lò gạch còn khâu đun đốt ,phải có kỹ thuật cơ, nếu không thì lỗ chổng gọng ra ấy chứ.
-Thế thì bầu trong số người ở tổ lò gạch cũ không được à ?
-Chẳng anh nào dám nhận, với cung cách làm việc của Ban quản trị hợp tác này thì lại dễ đi tù lắm, chúng tôi chịu thôi.
-Thế thì hỏi ý kiến anh chị em trong đội gạch xem định bầu ai nào?
-Đội gạch chúng tôi đã thống nhất bầu anh Nguyễn Văn Thuận đấy ạ !
Thế là Ban quản trị thống nhất bầu Thuận làm đội trưởng đội lò gạch. Chủ nhiệm hợp tác xã và Bí thư Đảng ủy xã đến tận nhà để trao đổi với Thuận và vận động Thuận ra làm đội trưởng giúp hợp tác xã. Thuận liền gạt đi mà nói:
-Tôi đã biết đóng gạch bao giờ đâu mà làm ?- Bí thư Đảng ủy liền nói luôn:
-Trăm sự nhờ bác Thuận thôi, ở cái xã này xem ra chẳng có máu mặt nào đảm nhiệm được, mà có làm thì cũng lúng túng ,rồi cũng đến phá sản như ông đội trưởng cũ thôi. Chúng tôi tin ở bác, bác cứ làm đi ,có khó khăn gì thì lãnh đạo chúng tôi cùng góp sức và cùng bàn với bác. Nếu chúng ta cùng đồng lòng thì khó khăn mấy cũng giải quyết được. Đấy, cứ như làm thủy lợi ấy ,nếu không có bác làm đội trưởng 202 suốt sáu năm trời, thì làm gì xã ta được khen thưởng và nhận cờ xuất sắc nhất toàn tỉnh
Lời đồng chí Bí thư Đảng ủy nói cứ ngọt như mía lùi khiến Nguyễn Văn Thuận cũng mủi lòng, vốn tính cả nể và sẵn sàng chấp nhận những khó khăn thách thức, khi người khác đã có ý nhờ vả đến mình. Âu cũng là một thử thách mới ,một công việc mới, ta cứ thử làm xem sao. Thuận khiêm tốn và nhẹ nhàng nói:
-Vâng, đồng chí Bí thư và đồng chí Chủ nhiệm đã nói hết lời như vậy ,thì tôi cũng xin nhận để làm thử và vừa học vừa làm, có gì khó khăn ,mong các đồng chi cùng đồng tâm hiệp lực giúp đỡ.
Bí thư và chủ nhiệm bỗng cười ha hả , sảng khoái:
-Ừ, có thế chứ, không có việc gì khó khăn mà bác Thuận không dám nhận cả. Nào ,chúng ta cùng dốc sức đưa cái lò gạch này nhanh bốc khói lên cao.
Ba người cùng nắm tay nhau lắc một cách vui vẻ và hồ hởi.
Thế là Nguyễn Văn Thuận bắt tay vào làm ông chủ cái lò gạch này. Việc đầu tiên là khôi phục tu sửa chiếc lò cũ để lấy ngắn nuôi dài rồi mới phát triển thêm, đồng thời cho làm đất đóng gạch chuẩn bị cho một lò đầu tiên hai vạn viên. Anh lao vào vừa học vừa làm ,lao động như xã viên không nề hà đào vác đất, thái đất, đóng gạch, đóng than, khiêng củi, xúc lò xây gạch, che phên… Chỉ trong vòng một tuần lễ sau anh đã quen và làm được các việc thổ mộc ngoài lò. Anh chịu khó học hỏi thêm ở ngay các xã viên cũ, rồi đi sang các vùng xung quanh, chỗ nào có lò gạch anh cũng đến lân la hỏi chuyện học kinh nghiệm của những người già và cả người trẻ có tay nghề giỏi. Anh cũng tìm sách báo để nghiên cứu kỹ thuật đun đốt lò sao cho chín đều không bị phồng hay bị sống. Anh còn ra tận Kiến An để tham quan xí nghiệp gạch ngói của Quân khu ba, học tập từng bước áp dụng cho mình về kỹ thuật cũng như về quản lý.
Về tổ chức, xã này có lối làm việc kỳ lạ, khi đã bổ nhiệm Nguyễn Văn Thuận làm đội trưởng thì không bao giờ có đội phó và thống kê. Mọi việc đều do đội trưởng Thuận kiêm hết, bởi lẽ mấy ông lãnh đạo xã thấy Thuận chưa phải là Đảng viên, nên không muốn để anh khó sử trong mối quan hệ trong đảng và ngoài đảng, hoặc là muốn tận dụng hết khả năng của anh cán bộ ngoài đảng này, gì cũng làm được hết, lại tiết kiệm nhân lực ,bộ máy khỏi cồng kềnh (?)
Chỉ sau nửa tháng lò gạch đầu tiên đã bốc khói, lãnh đạo xã đều có mặt như đã hứa. Họ mang một bình rượu ra lò để chúc mừng. Rồi nửa tháng sau nữa, họ lại đến để chúc mừng lò gạch đầu tiên đã ra lò, trước sự mừng vui của mọi người: Chất lượng gạch rất đẹp: chín mươi tám phần trăm là gạch loại A. Chủ nhiệm hợp tác xã tặng cho lò một con chó và mấy lít rượu để ăn mừng lò gạch đầu tiên thành công .
Phát huy thắng lợi đầu tiên Thuận bàn với anh em tiếp tục đun lò thứ hai ở lò cũ ,đồng thời xây lò mới thứ hai ngay cạnh đó để thực hiện mỗi tháng hai lò, rồi nâng lên mỗi tháng ba lò, rồi bốn lò… Nhân dân trong làng xã đua nhau xây nhà gạch, nhà ngói lên tới tấp, làng xóm đẹp khang trang. Hợp tác xã kinh doanh phát đạt, không có hiện tượng tranh mua, tranh bán, móc ngoặc tham ô như trước nữa.
Không làm như kế hoạch của Đảng ủy được
Sau giải phóng Sài gòn được ít lâu, cả nước đang tưng bừng đón mừng ngày thống nhất đất nước. Các nơi đang nô nước xây dựng lại trụ sở khang trang.
Sáng hôm đó, Nguyễn Văn Thuận đang đôn đốc toàn đội mấy chục anh chị em xã viên vào lò gạch ,thì có một cô văn thư ở xã đem ra cho anh một giấy mời, nội dung là: Mời đồng chí Nguyễn Văn Thuận về ngay văn phòng họp Đảng ủy mở rộng để bàn về việc xây dựng khu trung tâm văn hóa và trụ sở xã. Ký tên Bí thư Đảng ủy. Cô văn thư còn dặn: anh về ngay đi, đồng chí bí thư đang chờ đấy. Thuận gật đầu với cô văn thư:
-Cô cứ về trước đi, đã có người nào đến chưa?
-Đông lắm rồi anh ạ, chỉ thiếu mình anh thôi.
-Được rồi ,tôi đi ngay đây !
Anh vội vàng thu xếp công việc, giao cho các tổ trưởng phụ trách, rồi về ngay văn phòng để họp. Vừa đi vừa suy nghĩ, trước đây mình có bao giờ được mời họp đảng ủy mở rộng bao giờ đâu, sao lần này lại trịnh trọng thế không biết, chắc là có việc rất quan trọng đây, mà sao các bố ấy nước đến chân mới gọi là thế nào. Chắc là coi thường cán bộ ngoài đảng, nên bây giờ mới gọi đây. Cứ đến xem sao nào.
Khi Thuận đến trụ sở thì mọi người đã đông đủ rồi:
Chào các đồng chí, báo cáo tôi có mặt.-Anh nói to ,rồi ngồi xuống vỉa hè, cạnh mấy người đến sau..
- Ấy chết ,mời đồng chí Thuận vào trong này, còn ghế phần đồng chí đây-Bí thư Đảng ủy vội đưa tay ra mời Thuận. Rồi nhiều người cùng nhao nhao lên :
Anh Thuận vào trong kia đi, vai trò của anh hôm nay là quan trọng lắm đấy !
-Thôi thôi, tôi ngồi đây cũng nghe rõ lắm rồi.
-Không được ,các đồng chí né ra cho anh Thuận vào nào-.Lại đồng chí Bí thư nói –Ngồi trong này mới nhìn rõ thiết kế . Nể quá ,trịnh trọng quá, Thuận cũng cố lách vào ,ngồi cạnh ghế đồng chí Bí thư. Khi Thuận đã ngồi yên xong ,đồng chí Bí thư đứng lên:
-Thưa các đồng chí ,hôm nay Đảng ủy họp mở rộng để quán triệt nhiệm vụ xây dựng khu trung tâm văn hóa và trụ sở xã. Để tranh thủ thời gian, tôi xin giới thiệu đồng chí phó bí thư kiêm chủ tịch xã trình bày bản kế hoặch mà Đảng ủy đã thông qua, các đồng chí nghe cho rõ để còn thực hiện. –Rồi Bí thư hướng về phía chủ tịch- Nào ,xin mời đồng chí.
Đồng chí chủ tịch đứng lên, kính thưa kính gửi một loạt ,rồi ôm một mớ tài liệu rất dày dơ lên cho mọi người trông thấy, có nhã ý nói kế hoạch này rất đầy đủ, mà chúng tôi đã chuẩn bị chu đáo, hôm nay chỉ phổ biến để thực hiện thôi. Rồi đồng chí chủ tịch dở một tài liệu ra đọc một thôi một hồi ,nào mục đích ý nghĩa của việc xây dựng khu văn hóa trung tâm và trụ sở ủy ban. Rồi quyết tâm của đảng ủy ,ủy ban ra sao. Việc chạy lên huyện lên tỉnh xin chủ trương và kinh phí như thế nào vân vân và …vân vân .Gần hai tiếng đồng hồ chủ tịch nói khản cả cổ, ông ngừng lại, cầm cốc , hớp một ngụm nước dấp giọng, rồi hỏi: Ai có ý kiến gì hỏi không ? Mọi người chưa kịp hỏi thì ông lại nói tiếp.- Nếu không có ý kiến gì thì việc ai người nấy cứ thế mà làm. Đồng chí Bí thư vội đứng lên:
-Công việc thì nhiều, ta bàn dần từng việc. Trước mắt hôm nay ta bàn về việc sản xuất gạch cái đã, khối lượng thì nhiều ,mà ta phải sản xuất lấy, chứ không mua ở đâu được.
Đồng chí chủ tịch lục trong đống tài liệu ra một bản thống kê vật liệu rồi đọc to: - Nhu cầu về số lượng gạch là ba mươi lăm vạn viên. Kế hoạch sán xuất là, giao cho đội lò gạch sản xuất tại lò và vận chuyển về khu trung tâm. Thời gian làm trong mười tháng phải xong. kể từ tháng thứ nhất đã phải có gạch để xây móng ,và đủ gạch xây tường theo tiến độ.- Mọi người trong phòng họp đều òa lên:- Chà chà, nhiều quá ,thế thì làm sao kịp được?- Sắt ,thép xi măng thì nhà nước cấp rồi, cát đá gỗ thì mua, ta chỉ phải sản xuất gạch, ngói thôi ,mà ngói thì ta lại chưa làm bao giờ. Mọi người còn bàn tán nhiều. Riêng Thuận vẫn ngồi yên, anh đang suy nghĩ một phương án mới.
Đồng chí Bí thư nhìn về phía Thuận và hỏi :
-Ý kiến đồng chí Thuận thấy thế nào? Liệu kế hoạch như thế có làm được không ?- Thuận buộc lòng phải đứng lên, anh từ tốn nói :
-Thưa các đồng chí, hôm nay được các đồng chí mời họp Đảng ủy mở rộng, tôi thấy rất phấn khởi về chủ chương xây dựng khu trung tâm văn hóa và trụ sở của xã. Với khối lượng ba mươi lăm vạn gạch kể thì lớn đấy, nhưng tôi có thể làm được. Nhưng không thể làm theo kế hoạch của Đảng ủy đã nêu ra được. Thuận tạm dừng lại. Bí thư đảng ủy hỏi luôn :
-Thế thì làm bằng cách nào, anh có sáng kiến gì mới ,cứ trình bày luôn xem -nào !-Mọi người cũng dục Thuận: Cứ trình bày xem nào, có gì ta cùng bàn.!
-Vâng theo ý tôi là thế này, từ khu lò gạch hiện nay vào khu trung tâm văn hóa xa hơn một cây số ,lại không có đường kéo xe bò hay xe cải tiến ,mà chỉ có thể gánh bộ mà thôi. Nếu gánh bộ ba mươi lăm vạn gạch thì tốn rất nhiều công lao động. Nên tôi muốn sản xuất gạch ngay tại khu trung tâm. Đằng nào ta cũng phải đào hồ thả cá và làm cảnh quan cho đẹp như thiết kế đã vẽ. Vậy đề nghị các anh đo đạc cụ thể xem nơi nào đào hồ, chúng tôi xin nhận đào để lấy đất sản xuất gạch, một công đôi việc, chúng tôi sẽ xây lò tại chỗ, khi xong sẽ phá ra lấy gạch làm đường vòng quanh hồ và làm công trình phụ. Thời gian không hết mười tháng mà chỉ hết sáu bảy tháng thôi, lại tiết kiệm được một nửa công lao động. Thuận vừa nói xong thì cả hội trường vỗ tay hoan hô vang lên
-Đúng là sáng kiến hay ,tuyệt quá !- đồng chí bí thư đứng lên ôm chầm lấy Thuận .Đồng chí chủ tịch cũng bắt tay Thuận rất chặt: - Thế mà tôi nghĩ mãi không ra, cái đầu của anh quả là thông minh thật!
Kế hoạch của Thuận được Đảng ủy nhất trí cao .Ngay ngày hôm sau Thuận cùng đồng chí chủ tịch và tổ đo đạc kỹ thuật đến đo đạc và cắm mốc khu trung tâm để chuẩn bị đào hồ ,xây lò sản xuất gạch ngay tại chỗ. Theo đề nghị của anh ,hợp tác xã tăng nhân công cho đội gạch lên một trăm hai mươi người lao động Giai đoạn cuối còn tăng cường thêm ba mươi người nữa thành một trăm năm mươi người.
Riêng Thuận vẫn chỉ có một mình làm đội trưởng không cần đội phó và thống kê gì cả mà công việc vẫn cứ chạy đều. Chân rết chính của anh là các tổ trưởng và tấm lòng thẳng thắn chân tình của anh ,nên đã thuyết phục được toàn thể anh chị em trong đội tin yêu mình và chấp hành mệnh lệnh một cách nghiêm chỉnh.
Sau khi nhận mặt bằng khu trung tâm Thuận cho triển khai ngay. Chỉ chưa đầy nửa tháng sau anh đã cho xây xong một lò gạch bốn vạn viên, để đốt một tháng /hai lò là tám vạn viên. Xây xong một lò ngói ,công xuất hai vạn viên để đốt mỗi tháng /một lò. Cứ như vậy ,chỉ trong vòng sáu tháng ,đội ngói đã hoành thành nhiệm vụ, sản xuất đủ bốn mươi vạn gạch, vượt kế hoạch năm vạn viên. Sản xuất mười vạn viên ngói, vượt kế hoạch ba vạn viên. Cung cấp đủ cho công trình trung tâm văn hóa và trụ sở xã
Ngoài ra còn bán cho nhân dân xây dựng nông thôn mới.
Song song với việc sản xuất gạch ngói ,đội gạch còn hòan thành việc đào hồ làm cảnh và nuôi cá của trung tâm. Đúng như dự kiến kế hoạch của Nguyễn Văn Thuận đã báo cáo tại hội nghị Đảng ủy mở rộng từ đầu năm, trước sự phấn khởi vui mừng của cán bộ và nhân dân trong xã.
Quần chúng xét kêt nạp đảng viên (!)
Đảng ủy xã thấy cần phải tăng cường hạt nhân lãnh đạo trong đội lò gạch. Nhiều người thấy Nguyễn Văn Thuận, nếu không vướng lý lịch có người anh là phản động ,đi lính cho Pháp, rồi sau này cho Mỹ ,thì có thể kết nạp vào đảng được. Ai cũng tiếc cho anh, nhưng đã là điều lệ nguyên tắc rồi thì không ai có thể vi phạm được. Nhưng đội lò gạch đã có một trăm hai mươi lao động mà lại không có đảng viên nào lãnh đạo ư ? Thế thì công tác lãnh đạo của đảng, của chi bộ quá yếu lắm sao? Vì vậy Đảng ủy xã quyết định phải phát triển đảng trong đội lò gạch .Muốn vậy phải đưa ra hội nghị công khai để hỏi ý kiến quần chúng .Nếu được quần chúng tín nhiêm. Thì mới kết nạp đảng được. Thế là cuộc họp của toàn thể lao động của lò gạch được triệu tập. một đồng chí Bí thư chi bộ của thôn đó tới chủ trì buổi họp, để lấy ý kiến quần chúng xem ai có thể xứng đáng là đảng viên. Đồng chí Bí thư chi bộ nói hàng tiếng đồng hồ về tiêu chuẩn đảng viên và vận động quần chúng phát hiện những người tốt cho đảng. Nhưng cả buổi tối cũng chẳng ai nói gì cả. Đồng chí bí thư đành phải hổi ý kiến của đội trưởng Thuận, nhờ đội trưởng nhận xét cho hai người để chi bộ xét kết nạp. Thuận cũng đành phải chiều lòng, giới thiệu hai công nhân ,một nam ,một nữ là hai lao động tích cực nhất của đội đẻ đề nghị chi bộ kết nạp đảng, Thuận nói:
-Tôi giới thiệu anh Ca và chị Hát là hai lao động tích cực, có nhiều ngày công lao động nhất, tư cách đạo đức tốt không vi phạm khuyết điểm gì, ai đồng ý thì giơ tay.
Thế là tất cả mọi người đều giơ tay theo ý kiến của Thuận.
-Trăm phần trăm đấy ạ ! Đồng chí bí thư chi bộ :
-Xin cảm ơn cấc đồng chí ! Đề nghị các đồng chí cho một tràng vỗ tay nào. Cả hội trường đều vỗ tay. Xong một buổi xét kết nạp đảng viên ( ? )
Thế là từ đó đội lò gạch có hai đảng viên đi sát lãnh đạo xã viên (!) Gọi là chi bộ kết nạp đảng viên ,chứ thực chất là Nguyễn văn Thuận, quần chúng ngoài đảng nhận xét và đề nghị chi bộ kết nạp, chứ có đảng viên nào đi sát giúp đỡ đâu ! Có khác gì chính Thuận đã kết nạp các đảng viên đó ,thật là chuyện ngược đời ở cái xã này (!)
Chương 6
VỔ QUÝT DẦY: HẦM CỐ THỦ
Cuộc tiến công A1lần thứ nhất: từ đêm 30 đến trưa ngày 31tháng 4-1954.Cũng là mở đầu đợt tiến công lần thứ hai trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Sáng ngày 30, các đơn vị hoả lực trung đoàn đã lợi dụng sương mù và trời mưa chiếm lĩnh trận địa xong hồi 11 giờ. Tiếp đó, 15 giờ 30 phút các tiểu đoàn bộ binh từ vị trí tập kết bắt đầu tiến ra trận địa xuất phát tiến công, song không thể bí mật tiến ra chiếm lĩnh trận địa xuất phát xung phong được vì trời còn sáng, trận địa ở dưới thấp công sự sơ sài, quân Pháp lại chiếm mỏm cao ở đồi Cháy, quan sát rất rõ toàn bộ trận địa.
Trung đoàn trưởng trung đoàn 174 Nguyễn Hữu An được lệnh phải ở lại chỉ huy sở hậu phương chờ nhận thông báo giờ nổ súng thống nhất. Nhưng chờ đến 16 giờ 40 phút cũng chưa nhận được lệnh của đại đoàn, điện thoại bị đứt, thấy toàn trung đoàn đã chiếm lĩnh xong nên hồi 17 giờ, trung đoàn trưởng lệnh thu máy để ra chỉ huy sở tiền phương của mình.
Tới 17 giờ 30 phút trung đoàn vẫn chưa liên lạc được với đại đoàn và đại đội lựu pháo 105mm. Lúc này, theo kế hoạch toàn mặt trận đã nổ súng được 35 phút. Nhận thấy pháo của Bộ đã chuyển sang bắn vào A1 theo kế hoạch hiệp đồng, tại các cứ điểm khác, các đơn vị bạn cũng đã tiến hành đột phá xong, đang chiến đấu trong trung tâm, trung đoàn trưởng quyết định ra lệnh cho toàn bộ hoả lực của trung đoàn bắn theo kế hoạch đã quy định và các đơn vị tiến vào vị trí xuất phát xung phong bắt đầu tiến hành đánh bộc phá mở cửa.
Lúc này, pháo binh Pháp đã hồi sức, bắn dữ dội vào cửa mở. Các lô cốt, ụ súng ở tiền duyên dồn đạn về phía các chiến sĩ bộc phá đang lùa những ống thuốc nổ phá hàng rào. Phải mất hơn nửa giờ, hai mũi tiến công của các tiểu đoàn 251 và 249 mới vượt qua một trăm mét rào và bãi mìn lọt vào đồn. Lực lượng Việt Nam bị tổn thất nặng khi vượt qua cửa mở.
Những binh lính Ma-rốc và lính lê dương dù thuộc tiểu đoàn 1 trung đoàn 4 dưới sự chỉ huy của Nicôla (Nicolas) ra sức chống cự quyết liệt. 2 bên giành giật nhau từng ngách hào, từng ụ súng, quân Pháp núng thế lùi dần. Quá nửa đêm, cuộc chiến đấu tại A1 diễn ra giằng co, mỗi bên chiếm nửa đồi.
Tới đỉnh đồi, quân Pháp biến đi sau một ụ đất cao (sau này Việt Nam mới biết là quân Pháp có hầm cố thủ bí mật ở đây). Giữa lúc ấy đại bác 105mm từ Hồng Cúm và súng cối 120mm từ Mường Thanh dồn dập trút xuống đỉnh đồi. Bộ đội bị thương vong nhiều vì đạn pháo. Trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quyết định đưa tiểu đoàn dự bị 255 vào chiến đấu. Lúc này cuộc chiến đấu trên những cao điểm khác đã kết thúc, quân Pháp dồn tất cả hỏa lực đại bác và súng cối vào A1 mong giữ được cao điểm cuối cùng. Các đợt xung phong của tiểu đoàn 255 cũng không thể vượt qua hàng rào lửa đại bác.
Đến 4 giờ 30 phút ngày 31, phía Trung đoàn 98 đột phá sang C2 cũng bị chặn lại, Đại đoàn 312 đã ngừng tiến công, các trận địa pháo của chiến dịch vẫn tiếp tục kiềm chế các trận địa pháo Pháp nhưng ít hiệu quả vì đạn dược có hạn. Trung đoàn trưởng trung đoàn 174 nhận thấy lực lượng của trung đoàn không còn khả năng giải quyết được A1 nữa nên quyết định ngừng tiến công, để tiểu đoàn 5 ở lại ngăn chặn quân Pháp phản xung phong yểm hộ cho tiểu đoàn 9 và tiểu đoàn 1 rút khỏi cứ điểm, đồng thời cũng cho mang hết thương binh tử sĩ và các lực lượng không chiến đấu ra ngoài. Kết thúc cuộc tiến công thất bại lần 1!
Sau này, những tài liệu của phương Tây cho biết nửa đêm 30 tháng 3, tại A1 chỉ còn một nhóm lính Bắc Phi và lính dù, đều nghĩ là sắp bị tiêu diệt. Quân Pháp không tin ở mắt mình khi thấy bộ đội Việt Nam tạm ngừng tiến công, rút từ trong đồn ra ngoài. Lăng-gơ-le, chỉ huy khu trung tâm, đã viết trong hồi ký: "Nếu Điện Biên Phủ đã không bị mất đêm đó là do kẻ thù bị bất ngờ vì giành được những mục tiêu chỉ định quá nhanh chóng nên không đủ khả năng khai thác những thắng lợi ban đầu."
Thất bại lần thứ hai
Tiến công lần thứ 2:từ đêm 31 đến trưa ngày 1 tháng 4/1954.Sau đêm đầu tiên của đợt hai chiến dịch Điện Biên Phủ, Quân đội ta đã tiêu diệt C1, D1, E1 và mũi thọc sâu của tiểu đoàn 11 Trung đoàn 141 đã phát triển vào tới 210. Ngay cạnh A1, Trung đoàn 98 đã chiếm được C1, nhưng tiến công sang C2 không thành công, trung đoàn đang đánh phản kích tại C1. Trên dãy đồi phía đông quân Pháp còn giữ được các cứ điểm A1, C2, D2, D3 và Mâm Xôi.
Tại cứ điểm A1, tiểu đoàn Bắc Phi (1/4 RTM) chỉ còn lại hơn 1 trung đội nên quân Pháp điều tiểu đoàn dù 6 (6è BPC) lên thay thế, có tăng cường thêm một bộ phận của tiểu đoàn dù thứ nhất (1er BDP). Công sự của quân Pháp ở phía đông bị phá hủy phần lớn nhưng quân Pháp không dám ra củng cố và chiếm lại.
Lực lượng Trung đoàn 174 qua đợt chiến đấu vừa qua bị tổn thất nặng chưa củng cố được, chỉ còn đại đội 674 của tiểu đoàn 1 là tương đối còn nguyên vẹn. Hoả lực trung đoàn vẫn ở các trận địa cũ đã tiến hành củng cố và bổ sung đạn dược. Căn cứ vào tình hình trên, Bộ chỉ huy Mặt trận quyết định sử dụng Trung đoàn 102 Đại đoàn 308 có tăng cường thêm bộ phận còn lại của Trung đoàn 174 tiếp tục tiến công A1.
Sau khi nhận lệnh, trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 cùng chính ủytrung đoàn và tiểu đoàn trưởng 18 đã tới gặp ban chỉ huy Trung đoàn 174 để nhận kế hoạch bàn giao và nghe phổ biến lại kế hoạch tác chiến và kinh nghiệm chiến đấu ở A1. Tuy nhiên, do thời gian gấp nên nội dung rất sơ sài, chưa xác định được nguyên nhân làm cho trận đánh không thành công mà chỉ cho rằng trận đánh không thắng vì địch có hầm ngầm kiên cố và hoả lực chi viện mạnh. Căn cứ vào tình hình lúc đó, trung đoàn trưởng 102 Hùng Sinh quyết tâm tác chiến theo kế hoạch cũ của Trung đoàn 174. Cụ thể: Trung đoàn 102 có 4 đại đội bộ binh làm hướng điểm, đột phá vào phía đông cứ điểm (lực lượng của tiểu đoàn 18 và tiểu đoàn 54 tổ chức thống nhất thành một tiểu đoàn do tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 18 chỉ huy chung, lấy đại đội 267 tiểu đoàn 54 làm đại đội chủ công); Trung đoàn 174 còn 4 trung đội bộ binh làm hướng diện, đột phá vào hướng đông nam.
22 giờ 30 phút ngày 31, cuộc tiến công A1 lần 2 bắt đầu. Sau 3 phút hoả lực trung đoàn tiến hành bắn chế áp, bộ binh bắt đầu xung phong vượt cửa mở. Quân Pháp bị bất ngờ trước đợt hoả lực chế áp, thương vong một số và đối phó lúng túng. Sau 15 phút xung phong cả hai mũi đã đột nhập được trận địa, chiếm lĩnh được khu A, bắt 15 lính Pháp. Lúc này Pháp đã củng cố lại và bắt đầu đối phó mãnh liệt. Mũi điểm (đại đội 267 tiểu đoàn 54) do tiểu đoàn phó chỉ huy tiếp tục phát triển về phía bắc khu B và một bộ phận đánh thẳng vào khu hầm ngầm. Cũng như đêm trước, bộ đội không tìm thấy hầm ngầm và đánh bộc phá nhầm vị trí, bị hoả lực trong cứ điểm kết hợp với pháo binh chi viện phong toả không phát triển được.
Trung đoàn trưởng Nguyễn Hùng Sinh của Trung đoàn 102 đề nghị đại đoàn cho kiềm chế pháo binh Pháp ở Hồng Cúm và Mường Thanh, ra lệnh cho toàn bộ hoả lực trung đoàn tiếp tục chế áp vào các mục tiêu đã quy định ở phía tây cứ điểm, yểm hộ cho hai mũi điểm và diện đánh thẳng vào hầm ngầm chiếm lấy khu vực này, không cho quân Pháp có chỗ dựa để phản xung phong.
Dưới sự chi viện của hoả lực trung đoàn, hai mũi xung phong chiếm được một số ụ súng trước mặt tuyến ngang và liên tiếp tổ chức bốn đợt xung phong để tiếp cận hầm ngầm nhưng đều bị pháo kích phong toả không tiến lên được, thương vong ngày càng tăng. Lực lượng cả hai đại đội chủ công của hai mũi còn ít không đủ khả năng tiếp tục phát triển, lực lượng tiếp sau vẫn chưa lên kịp. Trận chiến đấu lại diễn ra trong thế giằng co như đêm trước.
Đến 4 giờ 30 phút, sức chiến đấu cả hai mũi đều đã giảm sút nhiều, đại bộ phận công sự bị hoả lực Pháp phá hủy, bộ đội không thể trụ lại, phải rút về ngã ba giao thông hào gần khu vực đột phá khẩu. Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 18 thấy đại đội 267 đã bị thương vong nhiều nên đã cho bộ phận còn lại của đại đội này rút ra ngoài cứ điểm để củng cố lại làm lực lượng dự bị cho trung đoàn.
Phát hiện thấy sức chiến đấu của lực lượng ta bị giảm sút, không còn khả năng tiến công, thê đội tiếp sau bị chặn lại ở phía sau, quân Pháp lập tức tổ chức một cuộc phản kích lớn hòng chiếm lại nửa A1 bị mất. 5 giờ sáng ngày 1 tháng 4, hai xe tăng cùng bộ binh từ Mường Thanh lên, chia làm hai cánh đánh vào hai đột phá khẩu. Quân Pháp dùng hoả lực bắn thẳng của xe tăng chế áp đột phá khẩu của cả hai mũi, đồng thời dùng pháo binh trong trung tâm bắn dồn dập vào cứ điểm về phía đông tạo thành một lưới lửa dày đặc.
Bên cánh phải, Trung đoàn 102 do trung đoàn trưởng vừa vào trung tâm trực tiếp chỉ huy đã chờ quân Pháp tới gần mới tập trung hoả lực tiêu diệt, chặn đứng cuộc phản kích. Bên cánh trái, Trung đoàn 174 bám chắc trận địa, dùng hoả lực chia cắt bộ binh Pháp với xe tăng, yểm hộ cho hai chiến sĩ dùng súng không giật bắn cháy 1 xe tăng, khiến bộ binh Pháp phải rút lui. Sau khi đã đánh bại đợt phản kích lớn, lực lượng ta phản công thì lại bị quân Pháp dùng hoả lực chặn lại, chỉ tiến lên được chừng 15m.
Lúc 9 giờ 30 phút quân Pháp lại tổ chức phản xung phong lần thứ 2 nhưng cũng bị đẩy lùi, từ đó tới 15 giờ quân Pháp chỉ dùng hoả lực pháo binh bắn vào trận địa từng đợt một. Tới 15 giờ ngày 1 tháng 4, quân Pháp lại cho 2 xe tăng lên phía nam khu B dẫn theo hai đại đội bộ binh từ Mường Thanh lên phối hợp với lực lượng trong cứ điểm tiến hành phản kích, sử dụng pháo binh và hai phi cơ thả bom và bắn phá khu đồi Cháy và trận địa đối phương, rồi mới cho quân tiến lên.
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 đã trực tiếp chỉ huy bộ phận còn lại trong cứ điểm đánh tan được đợt phản xung phong của Pháp, chiếm lại toàn bộ trận địa giành được buổi sáng. Sau khi đánh bại đợt phản kích, thấy lực lượng trực tiếp tham chiến trong cứ điểm của Trung đoàn 174 còn rất ít (cả đại đội 674 chỉ còn lại 8 người), trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 đã cho bộ phận này giao lại nhiệm vụ phòng ngự cho tiểu đoàn 18 để rút ra ngoài cứ điểm củng cố lại lực lượng. Hình thái giữa 2 bên vẫn ở thế giằng co như trên cho đến tối. Thất bại lần thứ hai.
Thất bại lần thứ ba.
Trận tiến công lần thứ 3:từ đêm 1 tháng 4 đến trưa ngày 2 tháng 4/1954.: Cho đến chiều ngày 1 tháng 4, trên dãy đồi phía đông quân Pháp chỉ còn giữ được C2 và A1. Tại A1, sau những đợt phản kích lớn thất bại, quân Pháp lại dồn về khu hầm ngầm dựa vào công sự kiên cố để cố thủ và dùng hoả lực pháo binh phong tỏa cứ điểm. Tuy lực lượng phản kích có bị thiệt hại nặng nhưng quân Pháp đã kịp thời bổ sung.
Về phía quân đội ta, các đơn vị đã ngừng chiến đấu từ đêm trước. Trung đoàn 174 và Trung đoàn 102, lực lượng đều bị tổn thất nặng, tổ chức xộc xệch phải bổ sung thêm cả các lực lượng vận tải vệ binh vào các đại đội chiến đấu. Tiểu đoàn 79 Trung đoàn 102 từ phía tây cũng đã vận động sang nhưng lực lượng cũng chỉ còn hơn một đại đội. Lực lượng chung của 2 trung đoàn tổ chức ghép lại được 3 đại đội chiến đấu.
Căn cứ theo mệnh lệnh của đại đoàn, trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 quyết tâm dùng toàn bộ lực lượng còn lại tiếp tục tiến công. Theo kế hoạch cũ: Trung đoàn 102 còn 2 đại đội đánh địch trên hướng điểm, Trung đoàn 174 còn 1 đại đội đánh địch trên hướng diện. Sau khi hoả lực của trung đoàn chế áp 3 phút, bộ đội sẽ xung phong ngay. Để phối hợp với mặt phía đông, đêm 1 tháng 4 Trung đoàn 36 Đại đoàn 308 cũng có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt cứ điểm 106 ở phía tây Mường Thanh.
Theo kế hoạch, 22 giờ 30 phút ngày 1 tháng 4, các mũi bắt đầu hành quân tiếp cận thay phiên cho phân đội phòng ngự trên cứ điểm để đúng 24 giờ bắt đầu xung phong. Nhưng đại đội của Trung đoàn 174 tổ chức không kịp (mãi đến 5 giờ ngày 2.4 mới tới bờ suối), nên trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 quyết định dùng 2 đại đội của trung đoàn làm thê đội 1 (1 đại đội đánh mũi điểm, 1 đại đội đánh mũi diện), còn đại đội của Trung đoàn 174 tới sau sẽ làm thê đội 2.
Sau khi hoả lực của trung đoàn tiến hành bắn chế áp, hai mũi xung phong phát triển nhanh chóng. Nhưng khi gần tới khu hầm ngầm, quân Pháp lại dựa vào tuyến ngang ngăn chặn, quân ta vẫn không đánh được vào hầm ngầm, do đó bộ đội chững lại không tiến lên được.
Đến 3 giờ sáng ngày 2 tháng 4, quân Pháp từ khu C và D tiến ra phản kích dưới sự chi viện đắc lực của pháo binh. Lực lượng ta bị thương vong nhiều, chỉ còn gần 1 trung đội nên phải lui về ngã ba giao thông hào gần đột phá khẩu, dựa vào trận địa còn lại dưới sự chỉ huy trực tiếp của trung đoàn trưởng ngăn chặn đợt phản kích. Gần một đại đội của tiểu đoàn 79 Trung đoàn 102 lên tăng cường cũng chỉ đủ khả năng phối hợp cùng bộ phận còn lại ngăn chặn không cho quân Pháp tiến xuống.
Lúc 8 giờ sáng ngày 2 tháng 4, quân Pháp bắt đầu một đợt phản kích mới. Sau khi cho pháo kết hợp với hoả lực của xe tăng bố trí ở C2 bắn dồn dập, hơn 2 trung đội bộ binh, từ khu C và B tiến ra đánh vào phía bắc khu vực phòng ngự củaquân đội ta. Vì bị uy hiếp mạnh, tiểu đoàn 18 dao động bỏ chạy về phía đột phá khẩu. Nhân lúc đội hình chiến đấu của ta đang bị rối loạn, quân Pháp truy kích sát gót. Trung đoàn trưởng chỉ huy bộ phận còn lại kiên quyết chiến đấu, cuộc chiến đấu giáp lá cà đã diễn ra ác liệt. Bản thân trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 Nguyễn Hùng Sinh cũng phải dùng tiểu liên, lựu đạn trực tiếp tác chiến, vừa chiến đấu vừa chỉ huy, hướng dẫn cho tân binh cách sử dụng vũ khí đánh địch, giúp động viên được tinh thần chiến đấu của chiến sĩ. Cuộc chiến đấu trở lại thế giằng co như trước.
Hồi 11 giờ quân Pháp lại tổ chức một đợt phản xung phong lớn bằng lực lượng tăng viện từ Mường Thanh lên kết hợp với lực lượng bản thân cứ điểm từ khu D và khu C tiến ra, đánh bật bộ phận của Trung đoàn 174 và bộ phận phòng ngự chính diện lùi xuống gần cửa đột phá. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 102 đã sử dụng 1 trung đội của Trung đoàn 174 vừa tăng cường lên ngăn chặn, khôi phục lại hình thái phòng ngự lúc đầu.Thất bại lần thứ ba.
Thất bại lần thứ tư.
Trận tiến công lần thứ 4 :từ đêm 2tháng 4 đến trưa ngày 3 tháng 4/1954.Ngày 2 tháng 4, những lực lượng tăng viện của Pháp từ Mường Thanh lên phối hợp với lực lượng cố thủ, ra sức mở nhiều đợt phản kích đẩy lực lượng ta ra khỏi A1. Trên trận địa, quân đội ta chỉ còn lại hơn 50 người. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của trung đoàn trưởng, cán bộ, chiến sĩ chia thành nhiều tổ phụ trách từng đường hào. Những cán bộ như tiểu đoàn phó Ngô Thế Lương, tiểu đoàn phó Phạm Hưng, tiểu đoàn phó Lê Sơn và cả trung đoàn trưởng Nguyễn Hùng Sinh, nhiều lần dùng tiểu liên, thủ pháo, bộc phá ống cùng bộ đội đánh phản kích như các chiến đấu viên.
Trước tình hình đó trung đoàn trưởng quyết tâm tập trung toàn bộ lực lượng còn lại động viên tinh thần chiến đấu kiên quyết tiêu diệt A1 trong đêm. Vẫn tác chiến theo kế hoạch cũ, nhưng sau khi bộ đội chuẩn bị xong, tiếp cận là xung phong ngay, không qua giai đoạn pháo bắn chế áp để tranh thủ yếu tố bất ngờ. Lực lượng tác chiến chủ yếu là đại đội bộ binh mới tổ chức, kết hợp với bộ phận còn lại trong cứ điểm.
Sau một thời gian tổ chức lực lượng, các lực lượng tập hợp được lợi dụng đêm tối tiến vào trung tâm. Khi đã tiếp cận được bàn đạp, trung đoàn trưởng ra lệnh xung phong, bộ đội tiến vòng về phía đông hầm ngầm để đánh bộc phá nhưng vẫn đánh nhầm vào thành vại như đêm trước. Mặc dù đã đánh liên tiếp 80 kg bộc phá, quân Pháp vẫn không bị thiệt hại gì, tiếp tục từ hầm ngầm và các hố tránh pháo tiến ra tuyến ngang dùng lựu đạn, tiểu liên kết hợp với pháo chi viện ngăn chặn không cho phía quân đội ta phát triển và thực hành phản xung phong từ hai hướng bắc và nam hầm ngầm ra. Cuộc chiến đấu lại diễn ra như đêm trước.
Tới 4 giờ sáng ngày 3 tháng 4, lực lượng ta đã yếu nhiều. Thấy không còn đủ khả năng tiếp tục tiến công tiêu diệt A1 ngay, được sự đồng ý của đại đoàn, trung đoàn trưởng Nguyễn Hùng Sinh quyết định ngừng tiến công, để lại 1 trung đội tổ chức phòng ngự giữ vững trận địa còn lại, còn đại bộ phận rút ra ngoài cứ điểm mang theo thương binh, tử sĩ. Đến đây, cuộc tiến công A1 trong đợt 2 chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc. Thất bại lần thứ tư.
Chương 7
MÓNG TAY NHỌN: ĐÀO ĐƯỜNG HẦM
Sau 4 lần tiến công thất bại, vẫn không chiếm được đồiA1, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần trao đổi trong cơ quan tham mưu về cao điểm này. Một người dân địa phương ngày trước đã tham gia xây dựng ngôi nhà trên đồi này, kể lại đó là một ngôi nhà tuy kiên cố, nhưng không có gì là đặc biệt, khi mới xây, không có hầm ngầm. Nghe bộ đội tả lại căn hầm, người này cho rằng có thể quân Nhật trong thời gian đóng ở Điện Biên Phủ đã xây dựng căn hầm này đề phòng máy bay Mỹ ném bom, hoặc có thể quân Pháp đã cải tạo hầm đựng rượu cũ thành hầm ngầm. Về sau mới biết, trong hai tháng xây dựng công sự, quân Pháp đã dùng những gạch, đá từ ngôi nhà trên đồi, biến hầm rượu thành một căn hầm trú ẩn tương đối kiên cố với rất nhiều đất đổ bên trên...
Công binh đề nghị đào một đường hào men theo đường 41, tách rời A1 với A3, cũng là cắt đứt đường tăng viện của quân Pháp. Trung đoàn 174 đề nghị đào thêm một đường hầm từ trận địa tại A1 tới dưới hầm ngầm, đưa bộc phá với số lượng lớn vào đặt rồi cho nổ. Công binh của đơn vị tính toán sẽ hoàn thành công trình này trong vòng 14 ngày, và bảo đảm đào đúng hướng.
Đơn vị thực hiện nhiệm vụ đào hầm ngầm và đánh bộc phá là Đại đội công binh M83 của Trung đoàn công binh 151 thuộc Đại đoàn 351. Một đội đặc biệt gồm 30 cán bộ, chiến sĩ do Nguyễn Phú Xuyên Khung, cán bộ công binh của Bộ, trực tiếp làm đại đội trưởng chỉ huy, đã tiến hành công việc ngay trước mũi súng quân Pháp, trong tầm kiểm soát của lựu đạn
Trung đội trưởng .NguyễnNam Sao xung phong chọn một tiểu đội khỏe nhất của trung đội 1 của mình vào tham gia đào hầm cùng với hai tiểu đội khác lựa chọn những chiến sỹ khỏe trong toàn đại đội,còn 2 tiểu đội của trung đội 1 của Nam Sao làm nhiệm vụ ngụy trang cửa hầm và canh gác ,chiến đấu bảo vệ bên ngoài do Nam Sao trực tiếp chỉ huy. Phối hợp với cánh trái còn có lực lượng bộ binh ngăn chặn không cho bọn địch tấn công ra hướng cửa hầm
Đêm 20/4, công việc đào hầm ngầm bắt đầu. Mọi người phải làm trong tư thế ngồi nghiêng như móc hàm ếch. Để đảm bảo bí mật, an toàn cho hầm ngầm, công việc ngụy trang cửa hầm được làm rất công phu; ngoài cửa hầm có mái che phủ đất để vừa chống lựu đạn và mảnh pháo từ trên cao ném xuống vừa che mắt Pháp; đất đá đào ra đều cho vào bao dù đưa ra ngoài, sau khi đổ còn ngụy trang rất kỹ. Nguyễn Nam Sao cùng các chiến sỹ lấy những cây cỏ và những mảnh bạt ,mảnh dù vương vãi xung quanh để che phủ kín những lùm đất từ trong hầm đưa ra, sao cho bọn địch từ xa và máy bay trên cao cũng không nhìn thấy, mới giữ được bí mật đường hầm .
Đất đồi A1 cực kỳ rắn. Tiểu đội trưởng công binh Lưu Viết Thoảng lựa chọn một tổ khỏe nhất mở cửa hầm. Cả đêm đầu chỉ khoét được vào vách núi mỗi chiều 90 cm. Quân Pháp không ngừng bắn súng và ném lựu đạn, 3 người bị thương. Bản thân Thoảng cũng bị ngất vì sức ép của lựu đạn. Ba đêm mới đào xong cửa hầm. Khi đào sâu vào lòng núi được mười mét, bắt đầu phải khắc phục thêm khó khăn: thiếu không khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, sau phải dùng đèn pin, số đất moi từ lòng núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân Pháp phát hiện. Các chiến sĩ phòng ngự tại A1 đã có kế hoạch chiến đấu không cho quân Pháp tiến xuống cửa hầm, dù phải hy sinh tới người cuối cùng, để bảo vệ bí mật tuyệt đối ý đồ đặt bộc phá. Trung đội trưởng Nguyễn Nam Sao trực tiếp chỉ huy trung đội 1 công binh còn lại của mình ,vừa ngụy trang đất đá trong hầm ra vừa cảnh giới chiến đấu, bắn tỉa những tên Pháp liều lĩnh bò đến hướng cửa hầm. Có ngày hàng chục tên định mò đến, đều bị quân ta bắn chết từ cách xa hàng trăm mét .Có lúc chúng theo đường hào mò đến tầm ném lựu đạn. Nam Sao cùng chiến sỹ ta cảnh giác kịp thời, nhặt lựu đạn của địch ném trả lại địch, hoặc quăng ra xa.
Càng đào vào sâu, công việc càng khó khăn vì vừa thiếu ánh sáng vừa thiếu không khí, nên bộ đội phải liên tục thay nhau ra ngoài để thở. Về sau phải tăng cường thêm lực lượng đào hầm, thay cho các đồng chí bị mệt hoặc bị sây sát trong lúc tác nghiệp ra ngoài nghỉ Trên chiến hào, nơi nào thuận lợi có thể quan sát địch đều bố trí lực lượng bắn tỉa, một tổ chừng 4-5 người để yểm trợ thêm cho công binh đào hầm. Đường hầm khi hoàn thành dài tới 82m và dẫn lên tận đỉnh đồi, nơi đặt khối bộc phá. Phần lớn lòng đường hầm rất nhỏ hẹp,50-60 cm chỉ đủ cho một người lách trườn lên và cào kéo đất ra. Cách khoảng 5m lại đào một ngách ngang rộng 40-50cm, để tránh nhau khi đi lại, vào ra.
Tiếng hát xuyên hầm
Tổ một của Nam Sao vừa thay ca vào đào hầm được một lát, thì nghe tin có văn công sư đoàn đến biểu diễn ngay tại trận địa của đại đội đang đào hầm. Đã lâu ạnh em không được xem văn công, mà lần này các đồng chí lại ra tận chiến hào, nên trong tổ bàn tán sôi nổi, rất tiếc một dịp may hiếm có này.
Vừa lúc đó thì lệnh từ hầm đại đội báo lên: “Chuẩn bị cho anh em xem văn công”. Anh em đang phân vân: Đại đội định cho cả tổ nghỉ về xem hay cho văn công vào hầm biểu diễn? Nếu cho nghỉ việc về xem thì tổ không đạt kế hoạch. Quyết tâm chiến đấu của tổ đêm nay đã hứa với đại đội là đào sâu ba mét hầm.
Cả tổ đều không ai muốn nghỉ, khi chưa thực hiện được giao ước thi đua với các tổ bạn. Còn trường hợp đưa văn công vào hầm biểu diễn thì càng không được, vì hầm đã vào sâu trong trung tâm đồn địch rồi, đến choòng búa cũng không được đập mạnh nữa là múa hát, phải giữ bí mật, đề phòng địch phát hiện được hướng đường hầm thì ảnh hưởng cả chiến dịch, vả lại đường hầm chật chội thế này cũng không thể múa hát vào đâu được.
Cả tổ còn đang vừa làm vừa bàn cãi nhau, thì có tín hiệu từ hầm chỉ huy. Đồng chí chính trị viên gọi qua ống nói: “Đại đội ưu tiên cho tổ xung kích được xem văn công trước, lần lượt cho anh em thay phiên nhau nghe hát qua ống nói”.
Bấy giờ các chiến sỹ mới vỡ lẽ, và cảm động với sự quan tâm của đại đội. Cả tổ ai cũng muốn nhường nhau cho đồng chí khác nghe trước, cuối cùng toàn tổ dành cho An được ưu tiên nghe đầu, vì An là người luôn luôn có năng suất lao động cao nhất.
Ống nói vốn làm bằng hai ống bơ gắn vào hai đầu dây điện, để làm tín hiệu truyền lệnh đơn giản, thay cho máy điện thoại, chuông kêu to dễ lộ bí mật. Từng giờ tổ đào hầm nhận được lệnh và báo cáo bằng ống nói về sở chỉ huy đại đội.
An đang nghe văn công hát được một lát thì bỗng nảy ra một sáng kiến. An đặt ống nói vào trong lòng thùng xách nước bằng sắt tây. Như một cái loa, tiếng hát được tăng âm lên một chút, nhưng cũng đủ cho cả tổ cùng chụm đầu lại nghe chung một lúc.
Đây là tiếng hát của Thuý Chung qua bài “Quê em miền Trung du” ấm áp; ngọt ngào. Đây là bài “Thời cơ đến” quen thuộc, mà sao nghe mạnh mẽ lạ thường như thôi thúc các chiến sỹ tiến sâu vào lòng đất. Rồi tiếng đàn, tiếng sáo, cả tiếng trống chèo đem theo hương vị của quê hương, như có những người thân đang cùng cấc chiến sỹ chiến đấu dưới hầm sâu. Buổi biểu diễn kết thúc bằng bài cò lả bay bổng dịu dàng. Hầm như rộng ra, không ai bảo ai, cùng khe khẽ hoà theo.
Rồi cả tổ vừa làm vừa khe khẽ hát, mãi cho đến lúc tổ bạn lên thay mới biết hết giờ. Ai cũng phấn khởi, không ngờ ca hôm nay của tổ An lại đào được gần bốn mét xuyên vào lòng đất, năng suất vượt 30 phần trăm.
Săn tìm thuốc nổ
Vừa đào hầm, Đại đội công binh M83 vừa lo đi tìm bom chưa nổ để gỡ thuốc làm bộc phá vì theo thiết kế, khối bộc phá phải đủ 1 tấn thuốc nổ mới đủ mạnh để đánh sập lô cốt, nhưng lúc ấy trong kho chỉ còn có 500 kg. Đơn vị pháo phòng không đến báo vừa bắn rơi một chiếc máy bay B-24 gần đồi Độc Lập. Máy bay vẫn còn bom, lại rơi rất gần trận địa pháo, vì vậy yêu cầu công binh đi gỡ bom để đảm bảo an toàn cho trận địa.
Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bạch nghe vậy liền xung phong dẫn 4 chiến sĩ đến chỗ chiếc máy bay rơi. Tới nơi, thấy trên thân máy bay còn nguyên 5 quả bom tạ. Phải mất một tuần với 5 quả bom tạ, tổ gỡ bom đem về gần 5 tạ thuốc nổ, coi như đủ lượng thuốc nổ cần dùng .Trung đội trưởng Nguyễn Nam Sao được lệnh đưa lực lượng ra vận chuyển thuốc bom từ đồi Độc Lập do tổ Nguyễn Văn Bạch tháo được, đưa về nơi tập kết gần đường hầm đồi A1.,toàn phải đi thấp trong chiến hào và phải truyền nhau từng gói thuốc nổ đi từng đoạn, để bảo đảm an toàn.
Lại phải mất thêm 3 ngày đêm liên tục và rất khó khăn để đưa bộc phá đến vị trí bố trí bộc phá ở cuối đường hầm. Trong hào đi phải khom lưng, mỗi người đem từng quả bộc phá nặng khoảng 5 kg xếp hàng ngay ngắn cho tới khi đủ 1.000 kg. Tuy nhiên, một tình huống mới lại xảy ra khi dùng máy phát điện 100W điểm hỏa thử trên mô hình thì khối bộc phá lại không nổ theo đúng yêu cầu. Để cho chắc chắn, chỉ còn một cách là cho người trực tiếp vào giật nụ xòe, một công việc rất nguy hiểm.
Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bạch nhớ lại: "Đưa được 1.000kg thuốc nổ vào cuối hầm, cả đại đội trưởng Khung, tổ trưởng Đảng Lưu Viết Thoảng và tôi bò vào cuối hầm kiểm tra kỹ thuật lần cuối. Yêu cầu chỉ điểm hỏa một lần phải gây nổ được cả khối bộc phá gắn với năm đường dây cháy chậm và năm nụ xòe. Hai đồng chí đồng ý cho tôi xung phong ở ngoài cửa hầm điểm hỏa bằng nụ xòe. Nếu không nổ, tôi sẽ ôm 3kg thuốc nổ bò vào cuối hầm điểm hỏa bằng người như chiến sĩ cảm tử".
Chương 8
CUỘC CHIẾN ĐÊM CUỐI CÙNG
Mở đầu kế hoạch đợt 3(đêm 6-5 tới rạng 7-5 ) Quân đội ta tiếp tục hoàn thành nốt những nhiệm vụ đã đề ra cho đợt 2: tiêu diệt hoàn toàn hai cao điểm A1 và C1, đồng thời đánh chiếm thêm một số cứ điểm ở phía tây và phía đông thu hẹp thêm nữa phạm vi chiếm đóng của quân Pháp, chuẩn bị cho tổng công kích.
Các đơn vị đều chuẩn bị xong, nhiều mũi hào đã luồn sâu dưới hàng rào dây thép gai của Pháp. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định đúng ngày N các đơn vị cứ nổ súng, triệt để áp dụng chiến thuật đánh lấn để giảm nhẹ thương vong, riêng A1 sẽ đánh khi đường hầm ở A1 hoàn thành.
Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1954, tiểu đoàn 25 của trung đoàn 174 phòng ngự gần nửa đồi A1 suốt 34 ngày đêm , được lệnh rút qua Đồi Cháy làm lực lượng dự bị. Tiếng nổ của khối bộc phá trên đồi A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối hôm đó.
Tối 6-5-1954, ba người trong tổ bộc phá thầm lặng men tới đồi A1. Trung đội trưởng Nam Sao hỏi tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Bạch: "Có dặn (trăng trối) lại gì không?", Tiểu đội trưởng Nguyễn văn Bạch khảng khái đáp: "Không!". Nghe mệnh lệnh xong, Bạch đi vào trong hầm ngầm, nơi sẽ giật nụ xòe, cách cửa hầm tới 20 mét chờ lệnh. Nếu nụ xòe hỏng, theo kế hoạch 2, tiểu đội trưởng Bạch sẽ phải chấp nhận hy sinh tính mạng mình để tiến hành điểm hỏa trực tiếp bằng tay.
Theo kế hoạch phối hợp tác chiến, khi pháo binh bắn dồn dập vào trận địa Pháp trên đồi A1, khối bộc phá sẽ được điểm hỏa. Sau khi bộc phá nổ, bộ binh sẽ xung phong. Rồi thời điểm cũng đến, pháo bắt đầu bắn dồn dập, nhưng không bắn vào đồi A1. Chờ khoảng 5 phút, Bạch mới chắc đấy là pháo lệnh, liền dồn sức giật nụ xòe, lúc đó là 20h30’ ngày 6/5/1954.Sau này ông Bạch kể lại: "Lúc ấy tôi chỉ nghe thấy ầm một tiếng, cảm giác như đang ngồi trong cái trống; nhìn lên thấy lửa khói mù mịt đang bốc lên như hình cây rơm. Đất trời lặng đi vài giây. Tôi nghe một tiếng nổ không to lắm nhưng cảm nhận được sức ép dữ dội"
Trước giờ G năm phút, các chiến sĩ ở chiến hào xuất phát xung phong được lệnh quay lưng về A1, nhắm mắt, há mồm đề phòng sóng xung kích và ánh chớp của ngàn cân bộc phá. Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, không phải dữ dội như chờ đợi. Trên đồi A1 có một đám khói lớn đang phụt lên.
Trung đoàn trưởng trung đoàn 174 Nguyễn Hữu An lập tức ra lệnh cho pháo của trung đoàn nổ súng. Mấy ngày trước đó, bộ binh đã tiêu diệt một số hỏa điểm hướng về phía tiền duyên, nên lần này pháo của trung đoàn chỉ bắn chế áp mạnh trong vòng 15 phút, rồi bộ binh xung phong.
Ở phía đông - nam, hướng tiến công chủ yếu, tiểu đoàn 249, do tiểu đoàn trưởng Vũ Đình Hòe chỉ huy, chia thành hai cánh tiến lên đồi hình thành thế bao vây quân Pháp. phía tây - nam, tiểu đoàn trưởng Dũng Chi đưa tiểu đoàn 251 tiến theo giao thông hào mới đào trên mặt ruộng ven đường 41, thọc một mũi dùi cắt rời A1 khỏi Mường Thanh.
Khối bộc phá nổ cách hầm ngầm vài chục mét thổi bay chiếc lô cốt bên trên, và tiêu diệt phần lớn đại đội dù 2 của Étmơ đóng ở đây. Pugiê ngồi trong hầm ngầm bỗng thấy quả đồi rung rinh, một tiếng nổ trầm át mọi tiếng động khác kéo dài vài giây. Một lát sau mới hiểu ra, và biết mình vừa thoát chết.
Khối bộc phá 1 tấn đã tiêu diệt một phần tuyến ngang gây khó khăn cho các đơn vị đánh A1 trong đợt trước, tạo nên một cửa mở quan trọng giúp cho hai đại đội của tiểu đoàn 249 xung phong thuận lợi. Nhưng càng lên gần đỉnh đồi thì những đất đá từ hố sâu bốc lên đã làm thay đồi biến dạng địa hình và trở nên rất khó đi. Lợi dụng lúc đó, những lính dù còn sống sót của đại đội 2 Pháp liên tiếp khai hỏa đại liên. Đại đội 316 đánh vào trận địa súng cối. Đại đội 317 đánh vào khu thông tin gần hầm ngầm. Đại đội 3 của Pu giê đóng trên đỉnh đồi và từ phía hầm ngầm tiến ra phản kích. Cuộc chiến giáp lá cà bằng tiểu liên, lựu đạn, lưỡi lê lại diễn ra trên từng thước chiến hào, từng ụ súng.
Phía tây - nam, các chiến sĩ bộc phá tiểu đoàn 251 nhiều lần tiến lên mở đường về phía lô cốt "Cây đa cụt" đều bị thương vong. Nếu hạ lô cốt này thì cứ điểm hoàn toàn cô lập, sớm muộn cũng bị tiêu diệt. Tiểu đoàn quyết định đưa ĐKZ lên bắn sập chiếc lô cốt.
Khẩu đại liên bên trong đã hoàn toàn im lặng. Nhưng khi bộ đội lên phá tiếp hàng rào lại bị hỏa lực không biết từ đâu chặn lại. Tiểu đội trưởng Phấn cùng đại đội phó bí mật bò lên quan sát, phát hiện được một ụ súng ngầm được ngụy trang kỹ, ở ngay gần lô cốt. Phấn đề nghị cho mình được tiêu diệt ụ súng, bằng bộc phá, để mở đường cho đơn vị. Đại đội tổ chức hỏa lực yểm hộ cho Phấn ôm bộc phá vào sát ụ súng, rồi giật nụ xòe lăn ra ngoài, bộc phá nổ ,làm bay ụ súng ngầm. Phấn hoàn thành nhiệm vụ an toàn. Các chiến sỹ xông lên .Tiểu đoàn 251 đã cắt đứt con đường tiếp viện của Pháp từ Mường Thanh lên.
Quá nửa đêm, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quyết định đưa đại đội dự bị của tiểu đoàn 249 vào giải quyết trận đánh. Bộ đội chia thành từng tổ nhỏ tiêu diệt dần dần từng ụ đề kháng của Pháp.
Tại Mường Thanh, trước tình hình nguy ngập của nhiều cứ điểm ở phía đông và cả phía tây, Lănggơle quyết định tập hợp tại Ê pécviê những bộ phận còn lại của tiểu đoàn dù 6 mới được tăng viện chưa lâu, và tiểu đoàn dù 8. Lănggơle ra lệnh cho hai đại đội của tiểu đoàn dù 8, mỗi đại đội chỉ còn lại 40 người, lập tức lên Êlian 2. Nhưng con đường lên đồi A1 đã bị chốt chặt. Lănggơle đành cho đại đội này chuyển sang Êlian 4, nơi Brêxinhắc cũng đang khẩn thiết đòi tăng viện.
Sau khi tiêu diệt được vị trí Cây đa cụt, tiểu đoàn trưởng 251 Dũng Chi quyết định đưa một lực lượng xuống uy hiếp A3, đồng thời tổ chức một mũi đánh lên đỉnh đồi dồn quân Pháp ở A1 vào thế giữa hai gọng kìm.
4 giờ sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pugiê chỉ còn lại 34 lính dù. Pugiê gọi bộ đàm một lần nữa cho Mường Thanh, yêu cầu phải tăng viện ngay một đại đội nếu không cứ điểm sẽ bị tràn ngập. Ở đầu dây là tham mưu trưởng Vađô: "Ông muốn tôi tìm đâu ra một đại đội! Tất cả đều không còn gì"
Quân dù đã sử dụng đến những viên đạn, quả lựu đạn cuối cùng. Viên chỉ huy Pugiê bị thương nặng và bị bắt, trước khi trời sáng trận đánh kết thúc. Sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trên cao điểm A1, báo hiệu giờ tàn sắp tới của tập đoàn cứ điểm.
Oanh liệt và khốc liệt
Kết quả, toàn bộ trận chiến đấu ở A1 ,kể cả thời gian phòng ngự và đợt tiến công cuối cùng vào đêm 6 rạng sáng ngày 7.5 . Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 828 lính Pháp (bị chết 376, bị thương và bị bắt 452), thu toàn bộ vũ khí . Tổ trưởng tổ đào hầm đặt bộc phá Lưu Viết Thoảng được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, còn tiểu đội trưởng châm bộc phá Nguyễn Văn Bạch được tặng huân chương Hồ Chí Minh.
Về phía Ta, tổng số thương vong của cả 36 ngày đêm, chủ yếu là ở các đợt tiến công từ 30 tháng 3 đến 3 tháng 4 là 2.516 người (hy sinh 1.004, bị thương 1.512), trong đó của Trung đoàn 174 là 1.620 người, Trung đoàn 102 là 890 người. Tổn thất về vũ khí cũng khá lớn. Đây là trận đánh mà quân đội ta chịu thiệt hại lớn nhất trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nhưng cũng là dễ hiểu vì A1 là cứ điểm được Pháp xây dựng kiên cố nhất, bố trí các lực lượng tinh nhuệ nhất cũng như được họ liên tục tăng viện cả quân số lẫn hỏa lực để cố thủ tới cùng.
Với việc chiếm được A1, trung tâm đề kháng Eliane phía đông tập đoàn cứ điểm đã hoàn toàn sụp đổ, Quân đội ta gần như đã nắm chắc phần thắng vì chỉ còn cách sở chỉ huy cứ điểm (Hầm Đờ Cát) vài trăm mét. Sáng 7/5/1954 lá cờ Quyết chiến quyết thắng tung bay trên đồi A1.Hồi 17 giờ chiều cùng ngày ,ngọn cờ Quyết chiến quyết thắng lại tung bay trên nóc hầm Đờ Caxtơri ( De Castries) kết thúc Điện Biên Phủ toàn thắng.
( Chú thích: Diện tích Đồi A1: dài 200m,rộng 80m,cao độ 490m so với mặt biển,diện tích hình thoi,trong vòng trận địa rộng khoảng 4000 m2 .Thương vong của ta khoảng 3000, +của Pháp khoảng 1000=khoảng 4000.Bình quân thương vong :1người/m2/. So với số báo cáo thì thương vong còn nhiều hơn nữa. So sánh tỷ lệ thương vong giữa ta và địch: ta 3/ địch 1 ).
Chương 9
ĐƯỜNG VỀ PHẢ LẠI
Nhà nước cho xây dựng nhà máy nhiệt điện Phả Lại, là nhà máy nhiệt điện lớn nhất ở miền Bắc lúc bấy giờ. Nhu cầu gạch xây dựng rất lớn. Tỉnh Hải Dương huy động một lực lượng lao động sản xuất gạch khá đông, để cung cấp cho nhà máy kịp tiến độ thi công. Mỗi xã trong toàn tỉnh tổ chức một đội khoảng trên dưới một trăm người lên sản xuất gạch tại chỗ cung cấp cho nhà máy, dưới danh nghĩa là huy động “dân quân đi lao động xã hội chủ nghĩa”. Đây chắc hẳn là Bộ chỉ huy quân sự tỉnh xin với Tỉnh ủy cho đăng cai nhận nhiệm vụ này để lấy khí thế và đẩy mạnh phong trào quân sự của địa phương, đồng thời kết hợp tổ chức huấn luyện quân sự cho dân quân các xã theo kế hoạch, lấy kinh phí trong việc thu hoạch lợi nhuận bán gạch cho nhà máy ra. Đúng là một công đôi việc, tiện lợi đủ đường, mà Bộ chỉ huy lại không phải bỏ ra một chút kinh phí nào mà vẫn có thành tích huấn luyện quân sự cho dân quân hàng năm .
Chả là cách đây ít lâu .Bộ chỉ huy tỉnh này có vào tham quan tỉnh Thanh Hóa, ở một công trình thủy lợi Quảng Châu ,tầm cỡ quốc gia .Người ta đã sử dụng lực lượng quân đội vào làm kinh tế kết hợp với quốc phòng .Một trung đoàn nhận thi công một hệ thống công trình tưới tiêu lớn. Trong đó ngoài lực lượng quân đội làm nòng cốt kỹ thuật ra ,còn huy động tám ngàn dân công 202 làm liên tục trên công trường. sáu tháng trời. Trong đó có một hạng mục đào một con sông dài hai mươi ki lô mét, rộng một trăm mét, sâu bảy mét từ thị xã Thanh Hóa ra cửa Hới, thi công vào giai đoạn cuối cùng Tổng công trình sư là cán bộ quân đội đã ưu tiên giành cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh , được nhận tổ chức thi công đào sông ,để lấy kinh phí kết hợp với huấn luyện quân sự cho lực lượng dân quân địa phương tỉnh.
Phương án của Tổng công trình sư là: Huy động lực lượng tám vạn người, dưới danh nghĩa số người này là lực lượng dân quân tự vệ. Toàn tỉnh có hai mươi huyện thị thì mỗi huyện phải huy động khoảng bốn nghìn người tổ chức thành một trung đoàn dân quân, do chủ tịch huyện làm trung đoàn trưởng và bí thư huyện uỷ làm chính uỷ. Chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự huyện làm trung đoàn phó tham mưu trưởng, một huyện uỷ viên làm phó chính uỷ và một phó chủ tịch làm trung đoàn phó hậu cần. Trung đoàn tổ chức thành bốn, năm tiểu đoàn tuỳ theo từng cụm, mỗi xã là một đại đội…
Toàn tỉnh sẽ tổ chức một cuộc diễn tập thực binh mà không đụng đến ngân sách của bộ chỉ huy tỉnh. Dân quân tự vệ trên công trường xây dựng kinh tế sẽ tiến hành huấn luyện xen kẽ với lao động ngay tại hiện trường.
Phương án trên đó được Bộ chỉ huy quân sự tỉnh hoan nghênh nhiệt liệt và phê duyệt ngay. Chỉ huy trưởng đã đích thân đứng ra tổ chức và chỉ huy cuộc diễn tập rất rầm rộ. Ông đã huy động toàn bộ cơ quan bộ chỉ huy tỉnh vào làm bộ tham mưu cho chiến dịch được mệnh danh là: “Chiến dịch đào sông Hoà Bình” với khẩu hiệu: “Lập thành tích toàn diện cả quân sự cả kinh tế chào mừng Quốc khánh 2-9 và Đại hội Đảng IV toàn quốc” Đài phát thanh và báo chí địa phương đưa tin trang trọng và liên tục hàng ngày.
Các huyện thị, làng xã, xí nghiệp thi đua nhau, kéo quân như trẩy hội ra đào sông, cờ khẩu hiệu dăng đỏ rực trời suốt cả chiều dài con sông. Từ xa trông cứ như một dòng sông đỏ.
Cuối cùng chỉ trong vòng hai tháng, con sông đã đào xong. Binh đoàn dân quân tự vệ, hai mươi trung đoàn, còn dành được thời gian thêm nửa tháng để huấn luyện và diễn tập quân sự, với kinh phí của công trường, đạt kết quả cao, bảo đảm về các mặt.
Sau khi kết thúc chiến dịch mỗi chiến sĩ dân quân tự vệ nữ được thưởng một quần xa-tanh, nam được thưởng một áo sơ-mi pô-pơ-lin. Thật là một cuộc diễn tập có một không hai ở tỉnh ấy.
Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hải Dương đã học tập kinh nghiệm ấy để tổ chức đợt làm gạch này cho công trường Phả Lại và kết hợp huấn luyện quân sự cho dân quân
Lãnh đạo xã Kim Anh đắn đo mãi, lấy dân quân thì không đóng được gạch, mà lấy thợ đóng gạch thì lại không hẳn là dân quân.Nhưng cuối cùng vẫn phải sử dụng đội gạch của Nguyễn Văn Thuận bằng cách: Đội lò gạch tổ chức thành một đại đội dân quân,biên chế đầy đủ cán bộ chỉ huy từ tiểu đội đến đại đội.Đảng ủy xã quyết định bổ nhiệm Nguyễn Văn Thuận làm xã đội phó,có nhiệm vụ cùng xã đội trưởng nghiên cứu tổ chức ,quyết định sắp xếp đủ cán bộ cho đại đội, chỉ lấy trong số quân của đội gạch ,rồi tổ chức hành quân đưa đại đội dân quân đi làm nhiệm vụ trên công trường Phả Lại ,bao gồm cả sản xuất gạch và huấn luyện quân sự.Khi làm gạch thì theo các tổ trưởng tổ sản xuất chỉ huy, khi huấn luyện quân sự thì do các cán bộ chỉ huy dân quân các cấp từ tiểu đội đến đại đội đảm nhiệm.Xã đôi phó phụ trách chỉ huy lãnh đạo chung.
Thật là một bài toán hay, người ta chẳng cần lưu ý rằng Nguyễn Văn Thuận chưa bao giờ được vào dân quân ,vì vướng tiêu chuẩn chính trị, và cũng chưa bao giờ được làm cán bộ lãnh đạo ở xã,mà bây giờ lại có quyền quyết định cán bộ từ tiểu đội đến đại đội dân quân,lại còn chỉ huy lãnh đạo đại đội này huấn luyện quân sự nữa,anh đã bao giờ được tập một lớp quân sự nào đâu ,đến đi một hai còn chả biết huống chi lăn lê bò toài...Chẳng khác gì chuyện anh chỉ là quần chúng ngoài đảng mà lại được giới thiệu người vào đảng trước đây vậy. Ấy thế mà anh đã giới thiêu tới bốn năm người vào đảng rồi đấy, ở đây có chuyện thật lạ kỳ (!)
Thuận nhớ lại có một lần, một cô thầy bói đã phán là: “trông thấy dáng và vẻ mặt anh, người ta đã thấy có cái uy , cái oai của anh làm người khác phải tôn trọng và kính nể”.Có thật như thế không? Chả nhẽ con người ta còn có một cái vía như thế sao ? Anh chỉ nghiệm thấy rằng : “mình ăn ở tử tế đứng đắn, biết tôn trọng người khác,thì người khác cũng tử tế đứng đắn và tôn trọng lại mình” mà thôi. Bố mẹ anh từ bé đã dậy anh như thế và suốt đời anh cũng tâm niệm và làm như thế.
Trận sản xuất gạch và kế hợp huấn luyện quân sự cho dân quân ở Phả Lại được tiến hành thuận lợi và kết quả tốt đẹp.Suốt ba tháng dòng,Thuận đã chỉ huy đại đội dân quân xã Kim Anh sản xuất và bàn giao cho nhà máy được bảy vạn gạch chất lượng tốt, đủ số lượng và vượt thời gian quy định,đồng thời cũng tổ chức huấn luyện được mười lăm ngày như kế hoạch của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh,bảo đảm an toàn tuyệt đối.Kết quả cuối cùng đã mang về cho xã được hai bằng khen,một do nhà máy cấp vì hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ sản xuất gạch và một do Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh cấp vì hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ huấn luyện quân sự dân quân hàng năm .Riêng Nguyễn Văn Thuận trong trận này chả thấy ai khen,nhưng cũng học tập được hai cái mới: Một là đốt lò gạch theo kiểu Triều Tiên vừa tiện vừa nhanh, và lần đầu tiên trong đời được học quân sự, biết lăn lê bò toài , tập ngắm súng và ném lựu đạn gỗ xa trúng đích nhất .
“Xí nghiệp gạch ngói Kim Anh”(!)
Sau khi hoàn thành nhiêm vụ sản xuất bảy vạn gạch để cung cấp cho nhà máy nhiệt điện Phả Lại,và huấn luyện quân sự, theo kiểu kết hợp kinh tế với quốc phòng.Nguyễn Văn Thuậnvà đại đội dân quân lại trở về lò ngói của mình.Nhiệm vụ xã đội phó của Thuận cũng đã hoàn thành và chấm dứt,anh lại trở về với cương vị đội trưởng đội lò gạch ngói của anh.Các cán bộ tiểu đội ,trung đội,đại đội, cũng đã hoàn thành nhiệm vụ và chẩm dứt các cương vị chỉ huy,giống như chấm dứt vai diễn hề của màn kịch trên sân khấu vậy,họ lại về vị trí xã viên đóng gạch của mình.Trong lúc sản xuất họ vẫn gọi tên nhau và xưng hô với nhau đội trưởng ,tổ trưởng với tổ viên,nhưng trong lúc vui đùa ,có khi hứng chí lên, họ lại gọi nhau bằng chức vụ quân sự mà họ đã đóng cho nó oai oai một tý :- Báo cáo đồng chí xã đội phó !- Báo cáo đồng chí đại đội trưởng !- Báo cáo đồng chí... tiểu đội phó !... kể cũng vui vui ,mang tính chất quân sự hóa (!)
Đất nước hòa bình,viêc xây dựng kiến thiết ngày càng phát triển ,ở thành thị cũng như ở nông thôn.Gạch ngói đắt như tôm tươi.Hợp tác xã nông nghiệp xã Kim Anh đã thức thời .Ban quản trị liền bàn nhau phát triển và mở rộng kinh doanh gạch ngói,trên cơ sở đội gạch ngói đã có.Đề án này được đưa ra lấy ý kiến dân chủ của hội nghị xã viên toàn xã.Được toàn thể xã viên nhất trí cao,biểu quyết một trăm phần trăm. Thành lập xí nghiệp gạch ngói gọi tên là: xí nghiệp gạch ngói Kim Anh.Đã gọi là xí nghiệp thì phải có bộ máy độc lập riêng ,phải có ban giám đốc,có cơ quan hành chính sự nghiệp,các phòng ban: tài chính kế toán,vật tư,bảo vệ vv... nghĩa là phải có đầy đủ cơ quan ban bệ theo sách vở quy định mà nhà nước đã ban hành và nhiều nơi đã thực hiện.
Nhưng khi báo cáo đề án thành lập xí nghiệp gạch ngói Kim Anh với Đảng ủy và Ủy ban xã thì có nhiều ý kiến phải bàn đi bàn lại,cuộc họp Đảng ủy với chính quyền kéo dài đến một ngày trời,mà vẫn chưa được ngã ngũ.vì lý do: Thứ nhất ,nếu thành lập xí nghiệp thì phải do chính quyền xã nắm,chứ không thể do hợp tác xã nắm được,có nghĩa là theo quy định của nhà nước hợp tác xã nông nghiệp không có quyền thành lập xí nghiệp công nghiệp hoặc thủ công nghiệp là cấp dưới của hợp tác xã được,bởi vì đã là xí nghiệp thì lực lượng lao động phải là công nhân ,làm công ăn lương ,chứ không phải là xã viên làm công hưởng theo công điểm như nông nghiệp được,ngoài ra công nhân còn nhiều chế độ chính sách khác nữa,mà xã viên nông nghiệp không có .Hợp tác xã chỉ có thể tổ chức các tổ, đội ngành nghề thủ công vẫn ăn theo công diểm như các xã viên nông nghiệp khác thôi,kiểu như đội lò gạch của ông Thuận vẫn làm,các xã viên đóng gạch vẫn hưởng theo công điểm quy ra thóc như những người làm ruộng khác. Thứ hai,nếu thành lập xí nghiệp gạch ngói như đề án thì phải tách ra khỏi hợp tác xã nông nghiệp,và do chính quyền xã quản lý,phải mua đất đai của hợp tác xã để lấy mặt bằng xí nghiệp và lấy đất làm nguyên liệu sản xuất ,Xí nghiệp do ban giám đôc xí nghiệp điều hành,chứ ban quản trị hợp tác xã không còn quyền hành gì nữa ,có nghĩa là hợp tác xã mất quyền lợi ( và ban quản trị cũng chẳng sơ mú gì nữa), thì ban quản trị chẳng dại gì (!).Thứ ba, về tổ chức cán bộ, nếu thành lập xí nghiệp,thì trước hết phải chọn ai làm giám đốc ? Vấn đề này thì bàn cãi khá nhiều,nhất là đồng chí Bí thư và các đồng chí trong Đảng ủy xã . Có một số ý kiến đề nghị Đảng ủy lên xin tỉnh hoặc huyện cử cho một giám đốc có kinh nghiệm về làm là ăn chắc nhất.Ý kiến đó liền bị bác bỏ,chẳng dại gì làm cỗ cho người khác xơi,phải là người của xã ta làm giám đốc,có thể cử hoặc bầu một đồng chí trong ban quản trị hợp tác xã ra làm giám đốc.Đồng chí Bí thư liền hỏi:
-Cử ai nào,có đồng chí nào xung phong làm giám đốc nào ? Hoặc đề cử ai ? Cả hội nghị đều im lặng một lúc ,dường như để suy nghĩ xem ,mình có nên ứng cử không? Hoặc chờ xem có ai đề cử mình không ? Bỗng có một ý kiến nói có vẻ bâng quơ :
-Mấy năm trước ,chỉ có mỗi một lò gạch cỏn con mà đã một ông đi tù,một ông bị khai trừ và một bà bị cảnh cáo rồi,liệu xí nghiệp này mở ra thì... bao nhiêu người bị nữa đây ?..Làm giám đốc không dễ ăn đâu. Có một ý kiến phản đối lại ngay:
-Nhưng mấy năm nay ta đã làm gần bốn mươi vạn gạch và mười vạn ngói xây dựng trung tâm văn hóa và trụ sở xã thì có ai đi tù đâu ! Có thêm vài ý kiến phù họa theo:
-Lại còn bảy vạn gạch cho nhà máy nhiệt điện Phả Lại nữa chứ,có ai làm sao đâu?
-Đội gạch ngói của hợp tác xã chúng ta mấy năm nay cũng làm hàng triệu viên gạch ngói chứ có kém gì xí nghiệp Đồng Tâm của thị trấn huyện đâu !
Đồng chí phó bí thư kiêm chủ tịch xã đứng lên nói :
-Như các đồng chí đã nêu là rất đúng, vậy là mấy năm nay chúng ta cũng đã làm gạch ngói tốt rồi phải không ? Vậy những ai đã chủ trì làm việc đó?
Nhiều ý kiến trả lời ngay cùng một lúc :
-Đội trưởng Nguyễn Văn Thuận chứ còn ai nữa !
-Vâng đúng đấy, công bằng mà nói, chỉ có anh ta mới làm được như vậy!
-Anh ta còn thay đổi cả kế hoạch của đảng ủy trong đợt làm ba mươi lăm vạn gạch cho trung tâm văn hóa đấy thôi, mà lại còn vượt kế hoạch,vượt thời gian nữa.
-Phải nói anh ấy rất tháo vát,có nhiều sáng kiến ,có trách nhiệm và rất đứng đắn,có tham ô hay thâm hụt tý nào đâu.
Đồng chí Bí thư cũng gật gật đầu và hỏi tiếp:
-Vậy có thể đề cử để anh Thuận làm giám đốc xí nghiệp được không?
Nhiều người cùng lại chen nhau nói:
-Tay này được đấy, anh ta thừa sức làm.
-Ngay đội gạch của anh ta làm trong bốn năm qua còn nhiều hơn cả xí nghiệp Đồng Tâm của phố huyện ấy chứ lại.
Bí thư đảng ủy lại đứng lên,dơ dơ tay có ý cho mọi người im lặng, đồng chí đó lắc lắc đầu, có vẻ đáng tiếc:
-Rất đáng tiếc là anh Thuận chưa phải là đảng viên,vẫn là quần chúng ngoài đảng.Mà theo quy định của Ban tổ chức Tỉnh ủy thì giám đốc phải là bí thư hoặc phó bí thư của đảng ủy xí nghiệp,chí ít cũng phải là đảng ủy viên.
Có một ý kiến mạnh bạo hỏi:
-Vậy chúng ta có thể kết nạp anh Thuận được chứ ạ? Trước đây thì không được vì anh ấy có anh trai đi lính cho Pháp, rồi vào Nam theo Mỹ,nhưng điều lệ Đảng đã sửa đổi từ năm 1966 rồi ,trong một gia đình có thể tồn tại hai phe đối kháng,ai làm người ấy chịu trách nhiệm,người khác không bị liên quan, nếu đủ tiêu chuẩn thì vẫn kết nạp được. Nghe nói anh trai thứ hai của anh ấy là anh Bạn ,cũng đã được kết nạp trong quân đội từ lâu rồi.Vậy bây giờ ta kết nạp anh Thuận vào đảng vẫn chưa muộn cơ mà !
-Cũng có thể được đấy-Bí thư trả lời-nhưng cũng chưa thể làm giám đốc ngay được, phải chờ mấy năm mới vào cấp ủy được.- Ngừng một lát,bí thư nói tiếp -Thôi việc này để thường vụ đảng ủy chúng tôi bàn thêm và còn phải xin ý kiến của huyện ủy nữa .Cả việc có nên lập xí nghiệp gạch ngói hay không cũng phải xin ý kiến của huyện đấy. Thôi hôm nay tạm dừng ở đây. Bây giờ vẫn theo tổ chức như cũ mà làm, các đồng chí phải lãnh đạo tư tưởng đảng viên và quần chúng phải ổn định sản xuất tốt, không hoang mang giao động và trì trệ công việc.
Hội nghị giải tán một cách mệt mỏi,nhiều người lắc đầu: “chẳng đâu vào đâu cả” “Có khác gì hội đồng chuột đâu”(!)
Thế rồi bẵng đi hơn một tháng ,chẳng biết thường vụ đảng ủy nghiên cứu bàn bạc đến đâu và việc xin ý kiến của huyện ủy ra sao, chẳng thấy ai nói gì đến cả. Nghe nói cánh đảng ủy và chính quyền xã thì muốn thành lập xí nghiệp gạch ngói,trực thuộc xã, có nghĩa là nẫng tay trên của Hợp tác xã, mọi doanh thu do chính quyền xã quản lý. Nhưng còn giám đốc ,thì nửa muốn sử dụng tài năng của Nguyễn Văn Thuận, nửa không muốn kết nạp đảng cho Thuận, vì tính đố kị ,thành kiến, chỉ sợ người ta hơn mình,mà xin giám đốc nơi khác về thì sợ mất phần ,mất ăn,chẳng dại gì. Còn phe hợp tác xã thì không muốn thành lập xí nghiệp nữa vì hợp tác xã sẽ mất cả chì lẫn chài,bởi vì mất cả ruộng đất ,mất cả xã viên làm gạch lành nghề ,lại mất cả tay đội trưởng giỏi, đã làm lợi nhiều cho hợp tác xã mấy năm nay, cứ để nguyên như vậy thì hợp tác xã còn có lợi ,mà Ban quản trị cũng còn có ít nhiều chấm mút,chứ tách ra thì mất hết, nên chẳng dại gì.
Thế là chính sách “nguyễn y vân” mà làm.Vẫn là đội sản xuất gạch ngói,với hai lò gạch và một lò ngói, cứ tuần tự như tiến,mỗi tháng một,hai lò là được rồi.
Nhưng đội trưởng Nguyễn Văn Thuận vốn là con người xông xáo, thích hành động, không muốn dừng lại một chỗ,nên chỉ sau một thời gian vài tháng củng cố lại các lò cũ, anh lại muốn nghiên cứu phát triển ,Cũng như ở Kiến An, mà anh đã đến tham quan lần trước,nay anh lại đến xem xét học tập các xí nghiệp quanh vùng Hải Dương... và rút ra một kết luận: đội của mình vẫn có thể tăng sản lượng ngang bằng với các xí nghiệp vừa và nhỏ ở quanh vùng được. Anh liền lập một đề án đưa công xuất của đội gạch từ ba mươi lăm vạn viên/ năm, lên một triệu viên/năm. Bằng cách tăng lò nung và tăng nhân lực xã viên từ một trăm hai mươi lên hai trăm người .Mà không cần phải thành lập xí nghiệp, biên chế cồng kềnh nữa. Anh đem dự án này trao đổi với Chủ nhiệm hợp tác xã, được chủ nhiệm hợp tác xã vui sướng quá reo lên:
-Ôi thế thì tuyệt quá rổi, hoan nghênh cái đầu của anh Thuận. Để tôi bàn riêng trong nội bộ ban quản trị ngay xem sao.
-Vâng các anh cứ bàn kỹ đi, nếu thống nhất thì ta làm, anh chị em trong đội lò gạch sẵn sàng ngay thôi.- Thuận trả lời.
Ngay ngày hôm sau, ban quản trị họp riêng, tại nhà một phó chủ nhiệm ,bên cạnh một chai rượu với mấy cái chén và một đĩa lạc rang, cho nó kín. Khi chủ nhiệm trình bày đề án không cần thành lập xí nghiệp mà vẫn phát triển như Nguyễn Văn Thuận đã nói với ông ( nhưng ông không nói là ý kiến của Thuận mà coi như ý kiến của mình đề xuất ),mọi người đều hoan nghênh, cho là rất sáng suốt và nhất trí quyết định sẽ thực hiện ngay. Nhưng sau một hồi rượu vào ngà ngà,lại bàn đi bàn lại.Có một ý kiến xem chừng chín chắn nói:
-Hay thì hay thật,nhưng cũng không thể thực hiện ngay tắp lự được đâu các ông ạ, phải từ từ từng bước ,vừa làm vừa nghe ngóng xem có dư luận gì không đã,rồi mới phát triển dần dần. Có ý kiến khác cũng tiếp:
-Vuốt mặt còn phải nể mũi, chả nhẽ đảng ủy mới bàn lần trước, bây giờ mình lại gạt phắt đi ngay thì bất tiện ,mà trước đây mình đã lấy ý kiến xã viên nhất trí cả rồi,mà bây giờ lại thay đổi thì thử hỏi đề án trước của ban quản trị mình nghiên cứu chẳng ra sao nữa.
Còn vài ý kiến nữa, còn bàn đi bàn lại. Mãi đến khi chai rượu thứ hai đã cạn cũng là lúc kết thúc. Chủ nhiệm kết luận:
-Chúng ta thống nhất trên cơ sở như cũ mà phát triển, không cần phải thay đổi tổ chức xí nghiệp nữa ,nhưng phương hướng phát triển cũng từ từ không vội vã,mỗi năm phát triển thêm một hai lò, sản lượng tăng từ hai mươi đến hai nhăm phần trăm là được,trừ khi nào có hợp đồng lớn thì mới phải mở rộng lớn hơn.
Moị người đều nhất trí tán thành và hể hả ra về.
Thế là Nguyễn Văn Thuận cứ làm đội trưởng và cứ phát triển đội của mình theo phương hướng của mình,được ban quản trị đã bí mật thống nhất với nhau,coi là của ban quản trị. Còn cái đề án thành lập xí nghiệp gạch ngói bị lãng quên đi không ai nhắc đến bao giờ nữa.
Nhiệm kỳ của Đảng ủy, Chính quyền và của Hợp tác xã nữa... cứ năm năm lại bầu lại một lần. Hết người này nghỉ lại đến người khác lên. Ở trung ương, chính phủ, thì phần lớn nhiều người làm đến hai khóa hay hai nhiệm kỳ chứ ở cái xã này chẳng có ông nào làm được đến nhiệm kỳ thứ hai của một chức trách cả, nhưng họ cũng có cách bám trụ riêng của họ, thành một tục lệ hoặc một quy định ngầm với nhau vây. Như một khóa làm phó chủ tịch xã, khóa sau lên chủ tịch xã ,đến khóa sau nữa lên bí thư Đảng ủy xã, rồi mới nghỉ hưu, mặc dù nhiều tuổi hay ít tuổi. Cái tục lệ hay quy định ngầm ấy nó làm trì trệ bộ máy lãnh đạo và chính quyền địa phương, buộc người ta phải tuần tự như tiến miễn là ai đó đã vào được cái vòng dây leo đó ( bằng cách gì đấy ,chính đáng hoăc không chính đáng) thì cứ yên chí được bám trụ vào đó hai ba nhiệm kỳ nữa,kể cả ông chẳng có tài ba gì nữa, mà cứ ở đó để kìm hãm ,làm trì trệ xã hội mà thôi.Cái vòng dây leo đó nó không có đột biến,không có nhẩy vọt .Nó làm cho thui chột những tài năng trẻ,kìm hãm những người có tài, không cho họ nhẩy vượt bậc được ,mà cứ phải chờ,chờ mãi đến lượt mình thì đã cỗi rồi ,sức tàn ,lực tận rồi, chẳng còn minh mẫn, cống hiến cho xã hội được mấy nữa .Cái tục lệ hay quy định ngầm ấy nó làm trì trệ kìm hãm xã hội rất nhiều. Mặc dầu ông chẳng có hoặc chẳng còn tài cán gì nữa ,nhưng một khi đã lọt vào vòng dây leo thì cứ ngồi đó để hưởng thụ, để kìm hãm những lớp trẻ, kìm hãm xã hội .
Trong lao động và sản xuất ,chức đội trưởng quản đốc phân xưởng đến phó giám đốc, giám đốc cũng ít người đứng tại chỗ tới hai ba nhiệm kỳ, mà ai cũng phải phấn đấu vươn lên chức cao hơn để được tăng lương, để được quyền cao chức trọng hơn, để được bổng lộc nhiều hơn.
Ấy thế mà trên đời này lại có người không màng những danh vọng ấy, mặc dầu anh ta có khả năng vượt lên trên nhiều người cùng lứa, cùng hoàn cảnh ,cùng môi trường ấy. Nhưng anh ta không vươn lên được,bởi bao thế lực kèn cựa, đố kị và thành kiến ,định kiến. Nhưng anh ta vẫn kiên trì, bền bỉ lao động chịu đựng không kêu ca phàn nàn,hay phá ngang để tìm một môi trường khác dễ sống dễ thở hơn và cũng được giầu sang phú quý hơn .Anh ta vẫn kiên trì bền bỉ, bám trụ lấy làng quê nơi chôn rau cắt rốn của anh. Bởi ở đó còn có cha mẹ vợ con anh,còn có mảnh đất và ban thờ của tổ tiên nhà anh, mặc dầu anh không phải là con trưởng,nhưng anh vẫn phải đảm nhiệm giữ gìn hương hỏa và thờ cúng tổ tiên thay hai anh trai ở hai chiến tuyến đối địch với nhau ở xa
.Người đó chỉ có một không hai ở cái xã này ,đó là Nguyễn Văn Thuận .Nếu các vị chức sắc ở các ngành của xã này, như chủ tịch bí thư, chủ nhiệm,hoặc trưởng ban trưởng ngành thậm chí cả đội trưởng ,tổ trưởng sản xuất đi nữa cũng chỉ ở hai nhiệm kỳ. Vậy mà Nguyễn Văn Thuận đã ở cương vị đội trưởng đội gạch ngói của hợp tác xã Kim Anh này những hai mươi năm ,bằng bốn nhiệm kỳ năm năm của các vị chức sắc trong làng ,trong xã.Hỏi có ai làm được như anh ta không? Suốt hai mươi năm, đội gạch của Thuận mà sản lượng và kinh doanh cũng ngang tầm ,không kém gì với một xí nghịêp trung bình của các xã,huyện vừa phải, mà không hề có điều tiếng gì về tham ô ,lãng phí hay thâm hụt,không có vi phạm gì về pháp luật và môi trường.Đội Gạch ngói chỉ có một đội trưởng,mà đội trưởng Thuận như người ta thường đánh giá thì không khác gì một giám đốc của các xí nghiệp xung quanh. Nhưng giám đốc của người ta là làm công ăn lương, có nhiều chế độ và hưởng nhiều bổng lộc. Còn chức đội trưởng”giám đốc” của Thuận thi cũng làm công nhưng không ăn lương mà hưởng theo công điểm như các xã viên nông nghiệp khác, chẳng có chế độ gì và khi về hưu không có lương hưu ( ! )
Câu lạc bộ trang trại gia đình
Tuy vẫn làm việc trong hợp tác xã ,với cương vị đội trưởng đội gạch ngói.Nhưng công việc trong gia đình Thuận vẫn chỉ đạo sản xuất đâu vào đấy.Chị Bằng vợ anh là một người vợ đảm đang và là một người mẹ chăm nuôi con cái rất mẫu mực và chu đáo. Gia đình đông con ,ngoài việc cho các con ăn học đến nơi đến chốn, anh chị còn rèn luyện cho con cái biết lao động từ bé.Sau mỗi buổi đi học về, các cháu đều có công việc trong gia đình ,tùy theo sức của mỗi đứa. Làm vườn trồng rau trồng màu đỗ lạc, nuôi lợn nuôi gà, chăn trâu cắt cỏ...Các cháu đến tuổi lớn thì tham gia lao động của hợp tác xã,cày bừa, cấy hái hoặc đóng gạch ,đốt lò...Ngoài giờ học ra không có cháu nào chơi không cả.Anh chị Thuận Bằng không chỉ rèn luyện cho các con biết lao động ,yêu lao động mà còn chỉ dẫn cho các con có ý thức tổ chức quản lý và mày mò sáng kiến trong lao động,theo đúng cách thức phát triển và kinh nghiệm của bố mẹ .Đúng là giỏ nhà ai quai nhà ấy, sau này lớn lên khi trưởng thành các cháu đều có công ăn việc làm đầy đủ và tự chủ lấy đời sống của mình mà không phải phụ thuộc vào bố mẹ . Rồi sau đó hầu hết các cháu đều phát triển và đều trở nên giầu có,đóng góp nhiều công sức cho nhà nước và bảo đảm gia đình no ấm thuận hòa.
âầu hết các châ
Công việc của tổ lò gạch ngói hợp tác xã do anh Thuận làm đội trưởng đang trôi chảy thì đến nhiệm kỳ đại hội Đảng xảy ra. Người ta bầu lại các chức sắc mới, trong Đảng và ngoài chính quyền của xã,một lớp người mới được thay thế, đại đa số là lớp trẻ, nhưng kiến thức thì chưa được học hành mấy, vẫn là lớp ăn đong ,tại chỗ,chưa được học bài bán ,lại chưa có kinh nghiệm bao nhiêu. Đảng ủy xã yêu cầu phải bố trí đảng viên trẻ làm tổ trưởng đội gạch ngói để thực hiện chế độ đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện (!). Con trai ông chủ tịch mới được bầu ,được chỉ định làm đội trưởng thay thế anh Thuận. Anh Thuận rất vui vẻ bàn giao lại cho đội trưởng mới và xin nghỉ một thời gian để về củng cố lại gia đình . Thật may mắn cho anh ,nếu cứ đeo đẳng mãi cái lò gạch ấy thì nhà anh đang có nguy cơ sụt giảm kinh tế.Anh chị có sáu đứa con ,ba trai ,ba gái,mà ba đứa lớn đã và đang vào đại học, còn ba đứa nhỏ đang học phổ thông .Nếu bố mẹ chỉ theo đuổi công điểm của hợp tác xã thì gia đình không đủ nuôi con ăn học đến nơi đến chốn. Cũng may anh đã phát triển kinh tế gia đình từ rất sớm, nên cũng đỡ khó khăn so với nhiều người khác Nhưng bây giờ nuôi sáu đứa con ăn học ngày càng tốn kém không phải là chuyện đơn giản. Đây chính là thời cơ để anh có thời gian chăm sóc gia đình, nuôi dạy con cái ăn học. Việc đầu tiên là anh củng cố và phát triển trang trại theo mô hình : vườn ao chuồng mà anh vẫn làm hàng chục năm trước đây , nay mua thêm và mở rộng từ một mẫu đến hai héc ta canh tác. Anh nghiên cứu và phát triển chăn nuôi những loại giống mới , mua những thúc ăn gia súc tăng trọng theo công nghệ tiên tiến . Anh còn sáng chế ra máy băm bèo chạy bằng động cơ điện, hàng ngày băm hàng tấn rau , bèo nuôi hàng đàn lợn từ một trăm đến một trăm năm mươi con , mỗi con nuôi lớn đến hai , ba tạ , mỗi năm xuất hàng bốn năm tấn lợn. Chuồng trại của anh lúc nào cũng sạch sẽ bời hệ thống máy bơm rửa trong chuồng thường xuyên, nhiều người mê chuồng lợn nhà anh, thích ngồi chơi ngay trong chuồng với lợn mà không hề hôi thối. Dưới chuồng lợn là ao nuôi cá cũng rộng hàng mẫu, nuôi các loại cá ngon , hay ăn chóng lớn như trôi mè , chắm, chép... mỗi năm ao của anh cũng thu hoặc hàng tấn cá. Anh còn ngăn khu nuôi gà riêng, có chuồng trại hẳn hoi, nuôi những giống gà Đông Cảo, gà tre từng khu vực riêng, mỗi năm cũng dăm bảy tạ gà... Trong vườn chủ yếu trồng rau sạch cho người ăn và chăn nuôi gia súc. Anh chỉ để cạnh nhà, trong sân một số cây cảnh quý hiếm cho vui mắt , cũng kinh doanh nhưng chỉ là phụ . Lao động chính trong trang trại này chủ yếu là vợ chồng anh và các con phụ giúp , thỉnh thoảng mới phải thuê một hai người hàng xóm , láng giềng vài công.
Từ khi nghỉ lò gạch ngói ,chỉ năm sáu tháng sau Nguyễn Văn Thuận lại nổi tiếng về “trang trại gia đình”,có nhiều người đến tham quan học tập.Bản thân anh nghe đâu có trang trại là anh tìm mọi cách lao đến học tập,trao đổi kinh nghiệm với bạn bè để nâng cao sản phẩm và chất lượng của trang trại mình,đồng thời cũng phổ biến kinh nghiệm của mình cho các trang trại khác.Chính vì mối giao lưu rộng rãi đó mà anh đã học tập thêm được rất nhiều về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi cho trang trại mình.chẳng bao lâu sau ,chính trong làng Lễ này đã có một số người đến hoc tập anh và phát triển thêm vài trang trại gia đình nhỏ nữa.Anh Thuận sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm trong làng xóm,giúp đỡ cấp vốn ,cấp giống cho họ.Rồi họp nhau lại trở thành tổ “câu lạc bộ trang trại gia đình” trong làng Lễ ,cùng sinh hoạt và giúp đỡ nhau phát triển kinh tế gia đình ngay ở trong làng xóm mình ,họ bầu Nguyễn Văn Thuận làm tổ trưởng. Thực tế Thuận vừa là tổ trưởng vừa là người thầy trong việc làm ăn kiểu trang trại này.
Tình hình kinh tế chung của đất nước sau chiến tranh ngày càng suy thoái . Thời bao cấp không còn phù hợp nữa , đời sống ngày càng khó khăn nghèo khổ, kiểu làm ăn đánh trống ghi tên của hợp tác xã không thể tồn tại , vì không công bằng người làm khỏe cũng chỉ thu nhập bằng người làm yếu, người có tài có khi thu nhập kém người chây lười. Trong nội bộ nhân dân phát sinh nhiều mâu thuẫn ,nông dân chán làm ruộng,người ta kéo nhau ra thành phố làm thuê làm mướn,.nhưng cũng không đủ ăn .Đời sống ngày càng khó khăn nhất là ở nông thôn .Đảng và chính phủ đang tìm đường đổi mới nền kinh tế, trước mắt là nông nghiệp, làm sao để bảo đảm đủ lương thực cho đất nước. Nhưng đường lối chủ chương đổi mới chưa được định hướng còn đang mày mò. Ông Kim Ngọc bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phú có sáng kiến đề ra chủ trương khoán ruộng cho nông dân thì bị Trung ương phản đối, coi là đi sai đường lối xã hội chủ nghĩa và bị kỷ luật gây nên cái chết thảm thương cho ông Kim Ngọc. Nhưng rồi những nhà lãnh đạo của đất nước cũng chưa tìm ra được đường lối chủ trương nào khác cho nông nghiệp phát triển .Mãi đến mười năm sau ,ở một huyện của Hải Phòng, người ta mạnh dạn chia ruộng ,khoán cho nông dân làm thử thì thấy được : lúa tốt ,sản lượng tăng đời sống nông dân được cải thiện.Thành ủy Hải Phòng cho áp dụng khoán đại trà trong tỉnh đạt kết quả : không những nông dân được no đủ mà còn đủ lương thực nuôi cả nhân dân toàn thành phố. Lúc này trung ương mới thấy Hải Phòng làm đúng, làm hay và đề ra nghị quyết số 100,mà nộị dung chủ yếu là khoán ruộng cho nông dân .Nhiều người lầm tưởng đó là sáng kiến đầu tiên của Hải Phòng,nhưng Vĩnh Phú mới là nơi sản sinh ra chủ trương khoán đầu tiên, mà tác giả đó chính là ông Kim Ngọc, sau này nhà nước và nhân dân có phục hồi lại danh dự cho ông Ngọc, nhưng đất nước mất một nhân tài,ai chịu trách nhiệm đây? Những người kỷ luật ông Kim Ngọc thì đều đã chết hết cả rồi - Không còn ai chịu trách nhiệm cả -.Ôi thật đáng thương thay !
Hợp tác xã toàn xã Kim Anh cũng rơi vào tình trạng suy thoái chung của cả nước. Ruộng thì nhiều nhưng xã viên không muốn làm ruộng ,vì làm không đủ ăn, nên người ta phải tìm cách xoay sở khác,đến mùa thu hoạch thì ít mà ban quản trị lại chia bôi không công bằng ,chỉ dồn vào mấy ông cán bộ chia chác tư túi với nhau,rồi nội bộ mâu thuẫn nhau gây lên hiềm khích,thù hằn nhau... Cái lò gạch do con ông chủ tịch làm đội trưởng lúc đầu cũng tưởng là dễ ăn, như cái thời anh Thuận phụ trách,nên các ông mới tranh giành nhau cho con cái mình làm, hy vọng chuyến này kiếm chác được lớn. Không ngờ chưa đầy một năm thì đổ vỡ, bởi đội trưởng không có trình độ kỹ thuật và năng lực quản lý cũng không, cứ tùy tiện bán cho người này người kia theo cảm tình cá nhân, rồi lại tùy tiện chi tiêu vô nguyên tắc. Mặc dầu đã cử ra kế toán ,thủ quỹ,thủ kho ,quản lý vật tư , bảo vệ ...có ban có bệ hẳn hoi tới bốn năm người gián tiếp, toàn là con cái cán bộ cả, mà vẫn không quản lý được lò gạch, gây nên thâm hụt như cái thời mấy năm trước,trước khi anh Thuận chưa làm đội trưởng. Nhưng có khác là lần này chưa có ai đi tù và cũng chưa có ai bị kỷ luật,vì tranh công đổ lỗi cho nhau,và bảo vệ lẫn nhau, con tôi đi tù thì con anh cũng phải đi tù, thế là hòa cả làng , không ai chịu trách nhiệm cả. Xã viên nông nghiệp không muốn làm ruộng ,vì công điểm thấp không đủ ăn ,thì xã viên thủ công đóng gạch ngói cũng chịu vạ lây vì công điểm thấp cũng không đủ sống,nên người ta cũng bỏ cả gạch ngói để đi làm thuê ,làm mướn kiếm ăn qua ngày. Đến nỗi trước đây đội gạch ngói có tới một trăm đến một trăm năm mươi người,mà nay chỉ không còn đến một phần ba người làm,lại thiếu tiền mua than ,củi để đốt lò,mỗi lần đốt lò ra gạch ngói lại bị lỗ vốn, hiện nay còn nợ ngân hàng một số tiền kha khá,thành thử ban quản trị đành phải tạm đình chỉ đội gạch ngói lại không sản xuất nữa, tìm phương hướng sau.
Chương 10
ĐƯỜNG ĐI B ĐÁNH MỸ
Chiến tranh chống Mỹ cứu nước ở miền Nam ngày càng mở rộng. Chiến thắng càng lớn, càng đòi hỏi phải có nhiều quân để thay thế cho số thương vong càng ngày càng cao. Sức người ,sức của từ miền Bắc đổ vào miền Nam là vô cùng vô tận. Những khung huấn luyện tân binh ở miền Bắc ngày càng phát triển, mỗi tỉnh thường có một trung đoàn đến một sư đoàn cán bộ khung, chuyên việc tuyển quân ,huấn luyện, rồi dẫn quân đưa vào miền Nam bổ sung cho các đơn vị chiến đấu ngày càng thiếu hụt quân số trầm trọng. Có những đơn vị huấn luyện quân tốt thì khi vào chiến trường các chiến sỹ đỡ đổ máu. Ngược lại đơn vị nào huấn luyện chưa thật tốt thì khi vào trận địa các chiến sỹ bị thương vong nhiều. Khẩu hiệu “Thao trường đổ nhiều mồ hôi thì chiến trường đỡ đổ máu” là phương trâm học tập và huấn luyện của những người lính, trước khi vào chiến trường. Các đơn vị phải lãnh đạo động viên các cán bộ chiến sỹ huấn luyện tốt đã là rất vất vả. Sau đó là việc dẫn quân vào chiến trường còn trăm bề khó khăn hơn. Nếu ở các địa phương có khẩu hiệu “Thóc không thiếu một cân ,quân không thiếu một người” để chi viện chiến trường, thì các đơn vị huấn luyện và dẫn quân đi B ( đi chiến trường) cũng có những chỉ tiêu gắt gao: ”Hành quân không hụt một chân, giao quân không hụt một người”. Những năm 1969-1970 trên đường mòn Hồ Chí Minh (đường dây 559) cùng một lúc trên đường dài hàng ngàn cây số, luôn luôn có hàng trăm tiểu đoàn hành quân nối đuôi nhau ra mặt trận. Bọn máy bay giặc Mỹ ráo riết săn lùng để bắn phá hòng ngăn chặn không cho ta đưa quân và vũ khí khí tài vào Nam. Việc phòng tránh máy bay trên đường hành quân quả là nhiều khó khăn và khốc liệt. Lại còn phải tránh đụng độ với bọn biệt kích ,thám báo và bọn địch phục kích trên đường hành quân ở trong vùng sâu, vùng xa càng thêm khó khăn, không phải đơn vị nào cũng tránh được để đến vị trí giao quân được đầy đủ vẹn tròn. Thượng úy Nguyễn Nam Sao, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 15 công binh sư đoàn 304 đã được điều về làm Chủ nhiệm công binh Tỉnh đội Thanh Hóa để chỉ đạo, chỉ huy phá gỡ bom đạn, bảo đảm giao thông trên tuyến đầu mút đường chi viện vào chiến trường, trên các tuyến đường 1A, đường 59 và đương 15, nối vào đường Trường Sơn. Sau bốn năm làm chủ nhiệm công binh tỉnh, anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: Lúc thì trực tiếp xuống làm bến trưởng bến phà của lực lượng công binh nhân dân, bao gồm cả. bộ đội công binh ,lực lượng giao thông, thanh niên xung phong, dân quân tự vệ và cả nhân dân các địa phương cùng phối hợp ,như bến phà Ghép đã được mệnh danh là bến phà Thép. Khi thì chỉ huy bắc cầu ứng cứu giao thông, ở hầu hết các bến phà thuộc tỉnh Thanh Hóa. Lúc thì tháo gỡ bom đạn ở bến Lèn, bến Kiểu…khi lại gỡ thủy lôi trôi ở bến Hàm Rồng…Bao nhiêu khó khăn nguy hiểm anh đều vượt qua và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đơn vị được khen thưởng và cá nhân anh cũng được khen thưởng, được cấp trên tin tưởng và cấp dưới mến yêu. Vậy mà đã quá thời hạn phong cấp phong chức, bạn bè đồng đội cùng lứa ,đều đã vượt lên trên anh một hai cấp, thậm chí có những người dưới anh mà cũng đã vượt qua, lên cao hơn anh mấy bậc. Vì sao vậy? Nam Sao tự thấy cái nguyên nhân, vì anh có người anh trai tham gia quân đội ngụy đánh thuê cho Pháp trước đây, sau này là đánh thuê cho Mỹ ngày nay, anh bị tổ chức cán bộ định kiến, nghi ngờ vào bản lĩnh chính trị của anh, mặc dầu anh đã được kết nạp đảng viên đảng Cộng Sản từ năm 1966,khi điều lệ đảng đã sửa lại ,trong một gia đình có người tham gia hai phe đối lập, thì ai làm người ấy chịu, anh em họ hàng không phải chịu thay. Vậy mà ở đây, các cán bộ chính trị họ lại cố tình không hiểu điều đó, mà cứ định kiến mãi .Họ lấy sự việc của Nam Sao, kìm hãm anh ,để tỏ ra là ta có quan điểm lập trường giai cấp của đảng,thực ra họ cũng chỉ là mượn cớ Nam Sao để buôn bán chính trị .Có khác gì mượn vốn Nam Sao để đi buôn chính trị, kiếm lời ,để nâng mình lên hơn người ,sống bằng mồ hôi nước mắt của Nam Sao ngoài mặt trận để đề cao uy tín của mình, cướp sao cướp gạch của cấp dưới mà thôi. Nam Sao không thể chịu nổi những cấp trên ,khi giao nhiệm vụ thì thơn thớt nói cười ,đề cao cấp dưới để họ gánh vác nhiệm vụ thay mình, sau khi hoàn thành nhiệm vụ lại xoen xoét biểu dương, nhưng lại lợi dụng chiến công của anh để làm đà tiến lên của họ ,mà không trả công hợp lý cho anh ,họ còn lợi dụng anh để tiếp tục làm tay sai cho họ trong nhiều việc khó khăn nguy hiểm sau này nữa. Anh vốn là người thẳng thắn và sòng phẳng, không thể chịu dưới quyền chỉ huy lãnh đạo cúa các loại cấp trên như thế .Anh liền làm đơn xin tình nguyện đi chiến trường B, như nhiều người đã nói: “Ra trận, hoặc xanh cỏ ,hoặc đỏ ngực”, ”thà làm liệt sỹ ngoài mặt trận, còn hơn làm tay sai cho kẻ khác lợi dụng.” Một số người động viên anh ở lại với lý do ở ngoài Bắc cũng là chiến đấu, cũng gian khổ hy sinh, cứ gì miền Nam mới chiến đấu, nhưng anh không nghe, mà nói:
-Tớ muốn thay đổi không khí, các cậu không thấy Đảng đang kêu gọi tất cả cho tiền tuyến hay sao ,chứ cứ ở ngoài này mãi cũng chỉ là nước sông công lính mà thôi! Thế là buộc lòng chỉ huy Tỉnh đội cũng điều anh xuống làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn huấn luyện và dẫn quân đi B. Anh vui vẻ vác ba lô đến nhận đơn vị ngay.
Thông thường, một tiểu đoàn có ba đại đội, mỗi đại đội có ba trung đội, mỗi trung đội có ba tiểu đội, mỗi tiểu đội có ba tổ ,mỗi tổ có ba người và một tiểu đội trưởng là mười người .Một trung đội có ba tiểu đội là ba mươi người, cộng với trung đội trưởng, trung đội phó là ba mươi hai người. Một đại đội có ba trung đội là chín mươi sáu người, cơ quan đại đội có một tiểu đôi cấp dưỡng ,một tổ liên lạc, một y tá, một văn thư ,một quân giới, chỉ huy gồm đại đội trưởng ,chinh trị viên ,đại đội phó và chính trị viên phó đại đội .Cộng là một trăm hai mươi người. Một tiểu đoàn có ba đại đội là ba trăm sáu mươi người, cộng cơ quan và chỉ huy tiểu đoàn gồm bốn mươi người là bốn trăm người. Nhưng Nam Sao xin nhận thêm một đại đội nữa để huấn luyện, thành trên năm trăm người.
Tại sao chỉ đạt yêu cầu?
Sau khi nhận quân ,biên chế tổ chức, cán bộ chiên sỹ đầy đủ xong, bước vào huấn luyện ngay. Trước hết Nam Sao quán triệt trong Đảng ủy tiểu đoàn và toàn thể cán bộ quân chính của đơn vị là phải huấn luyện thật nghiêm túc, kỷ luật .Quan điểm của anh là nói rõ cho mọi cán bộ chiến sỹ đây là huấn luyện cho chính cá nhân mình và cho đơn vị mình để chiến đấu chứ không chỉ là lấy thành tích riêng trong huấn luyện thôi hoặc là huấn luyện để bàn giao cho người khác. Khẩu hiệu : “Thao trường đổ mồ hôi ,chiến trường đỡ đổ máu”. Chính vì thế anh rất nghiêm khắc trong việc rèn luyện và uốn nắn từng động tác cơ bản cho chiến sỹ tỉ mỉ ,bao giờ làm được thành thạo mới thôi, kiên quyết không nhân nhượng hay lơ là trên thao trường ,bãi tập. Như một hôm kiểm tra môn bắn đạn thật súng trường bài một của đại đội hai ở trường bắn. Trong một ụ súng có tới ba chiến sỹ chỉ bắn được vòng sáu điểm hay vòng bảy điểm, theo chỉ tiêu cũng là đã đạt yêu cầu nên cán bộ đại đội cũng cho qua,nhưng tiểu đoàn trưởng bắt dừng lại và hỏi:
-Tại sao chỉ đạt yêu cầu ?
-Có lẽ khẩu súng này bị lệch, không chính xác !-Cán bộ đại đội trả lời- Nam Sao không nói gì,anh chạy lại ụ súng ,cầm lấy súng và gương mẫu làm đúng động tác nằm ngắm bắn,rồi bắn liền ba phát. Còi báo bia:
-Điểm mười!
-Điểm mười !
-Điểm chín !
Tất cả mọi người ở quanh đó đều trố mắt nhìn, rồi hoan hô tiểu đoàn trưởng. Như thế có nghĩa là súng tốt, chỉ do chiến sỹ luyện tập chưa tốt mà thôi. Đại đội trưởng xin nhận khuyết điểm huấn luyện chưa tốt, và hứa sẽ huấn luyện lại kỹ hơn. Tin đó vang cả thao trường làm cho anh em chiến sỹ cán bộ thêm tin tưởng vào tiểu đoàn trưởng và quyết tâm huấn luyện đạt thành tích cao hơn.
Trong việc rèn luyện hành quân bộ mang vác nặng, tiểu đoàn trưởng Nam Sao cũng luôn luôn gương mẫu. Anh cho anh em vào nhà dân vận động xin tre về đan sọt, vừa chắc vừa bền, sau huấn luyện bốn tháng vẫn còn tốt ,để lại cho các đơn vị sau sử dụng. Sọt rèn của anh lúc nào cũng nặng ba mươi cân trở lên, vừa đi anh còn vừa động viên cán bộ chiến sỹ hăng hái hành quân.
… Sớm tối trên vai tôi đeo cái sọt rèn
Như đeo trên mình bao tình nghĩa quê hương
Này là nan tre ,ở bụi tre bên bờ ngõ
Mà bố vợ tôi đan thức suốt đêm khuya.
Còn là quai đây vợ tôi ghi hàng chữ ,
Chúc anh luyện rèn để thắng Mỹ xâm lăng
Như nhắc nhủ tôi luôn nhớ rằng
Đừng quên bao mối tình hậu phương
Đừng quên bao mối tình hậu phương …
Bài hát “Chiếc sọt rèn” do anh sáng tác trong thời gian đó cùng với bài “Chiếc gậy Trường Sơn” của nhạc sỹ Phạm Tuyên đã cổ vũ làm nức lòng các chiến sỹ chăm chỉ luyện rèn hành quân không mệt mỏi .
Sau bốn tháng huấn luyện sôi nổi và rèn luyện bền bỉ. Kết thúc khóa huấn luyện. Sư đoàn tổ chức hội thao kiểm tra ,tiểu đoàn 2072 của Nam Sao đạt loại giỏỉ, đứng đầu toàn sư đoàn, gồm mười sáu tiểu đoàn cùng huấn luyện đợt đó.
Ngày lên đường đơn vị đã bảo đảm một trăm phần trăm quân số. Các cán bộ chiến sỹ đều làm đơn tình nguyện hành quân tới chiến trường bảo đảm đầy đủ người và vũ khí trang bị.
Theo chế độ các cán bộ và chiến sỹ đều được về phép năm ngày để từ biệt gia đình và làng xóm quê hương. Đêm chia tay rất vui vẻ, anh em đều hứa hẹn trở về phép đúng thời gian quy định để lên đường lập công .Một số cán bộ chính trị rất lo lắng, sợ anh em không về đầy đủ như một số đơn vị khác trước đây .Nhưng Nam Sao thì rất tin tưởng vào cán bộ chiến sỹ của mình. Bởi trong bốn tháng qua anh đã cùng ăn cùng học tập huấn luyện với các chiến sỹ, anh đã đi sâu đi sát anh em, động viên anh em kiên trì học tập giỏi, nâng cao được kỹ năng chiến đấu của mình, thì anh em cũng nâng cao được bản lĩnh chính trị của mình. Một người chiến sỹ không được chuẩn bị kỹ về kỹ thuật chiến đấu giỏi thì cũng không thể củng cố được lòng tin vào cuộc chiến thắng lợi. Việc rèn luyện nghiêm khắc các khoa mục huấn luyện cũng chính là rèn luyện lòng tin vào bản lĩnh chiến đấu của mình và niềm tin vào người chỉ huy của mình. Nam Sao đã gây được tình cảm và lòng tin của các cán bộ và chiến sỹ, sẵn sàng ra trận cùng anh. Quả nhiên ,trước ngày lên đường không có một ai vắng mặt, có người còn về sớm hơn quy định, có gia đình còn đưa cả con em mình lên đơn vị và chào các cán bộ chỉ huy và tỏ lòng tin tưởng vào đơn vị, cùng tiễn đưa các chiến sỹ lên đường trong không khí rất vui vẻ, khí thế hừng hực ra quân. Dạo đó ở các địa phương có khẩu hiệu để chi viện chiến trường “Thóc không thiếu một cân ,Quân không thiếu một người”, thì ở các đơn vị hành quân và giao quân cũng có khẩu hiệu “Hành quân đến không thiếu một chân ,Ra trận không thiếu một người”. Cũng như bao đơn vị khác, tiểu đoàn 2072 cũng đã trải qua gần bốn tháng hành quân với bao nỗi cực nhọc nguy hiểm và gian khổ để vào tới tận chiến trường B2 , mà khu vực Tây Ninh là trung tâm chiến đấu .Có biết bao nhiêu chuyện buồn vui trên dọc đường hơn một trăm mười ngày đêm hành quân trên con đường mòn Hồ Chí Minh vĩ đại ,kể sao cho hết nỗi cực khổ nguy hiểm ác liệt, phải có mưu trí sáng tạo để chiến đấu vởi kẻ thù luôn rình rập ngày đêm để tiêu diệt ta hoặc ngăn chặn ta không cho ta vào chi viện chiến trường đánh chúng. Lại còn phải chiến đấu với rừng già cũng không kém phần nguy hiểm, nếu cán bộ chỉ huy không kiên quyết và khôn khéo trong việc giữ gìn kỷ luật hành quân và chiến đấu thì sẽ bị thương vong thiệt hại rất nhiều và không hòan thành nhiệm vụ. Nhiệm vụ chính của tiểu đoàn trong giai đoạn này là bảo đảm hành quân tới chiến trường, bảo đảm an toàn trăm phần trăm quân số khỏe để có thể chiến đấu ngay với quân thù trong các trận địa theo mệnh lệnh của cấp trên. Muốn vậy nhiệm vụ chủ yếu là phòng tránh địch, cả máy bay ,bộ binh , biệt kích thám báo và mọi vũ khí, khí tài hiện đại nhất của địch tung ra để luôn ngăn chặn từng giờ từng phút ,tiêu hao ,tiêu diệt quân ta, không cho ta tiến quân vào tới chiến trường. Vì vậy cán bộ, chiến sỹ không được ham đánh địch trên đường, trừ những trường hợp đặc biệt bị địch bao vây hoặc ngăn chặn ,không có đường vòng tránh, thì mới được cử một bộ phận chiến đấu , mở đường mà tiến.
Trước hết việc giữ gìn kỷ luật nấu cơm không khói để phòng tránh máy bay địch thời gian đầu khá vất vả, mặc dầu trong thời gian huấn luyện đã rèn luyện kỹ và thành thạo rồi, nhưng trên đường hành quân, một số chiến sỹ mệt nhọc sinh chủ quan, không chịu chuẩn bị củi đóm tốt, đến chặng nghỉ cứ vội vàng tống cả củi tươi vào để đốt thật to làm khói um , bốc lên cao .Giữa lúc đó tiếng kẻng báo động có máy bay từ xa, mọi người đều hô hét ầm ĩ ,một chiến sỹ vẫn tiếc nồi cơm đang xôi không chịu dập lửa ngay. Tiểu đoàn trưởng Nam Sao đang ở gần đó, thấy vậy liền chạy vội lại đá hất nồi cơm đổ ụp xuống bếp dập tắt được ngọn lửa và lấy cây san gạt bếp ra để dập khói, cứu nguy một bàn thua trông thấy, vừa khi đó một tốp máy bay Mỹ bay vụt qua, mọi người đều hoảng hồn. Tiểu đội trưởng bị phê bình nghiêm khắc, cả tiểu đội phải nhịn không có cơm ăn. Cũng may ,một số anh em tiểu đội khác bớt bát nhường cho vài miếng đỡ đói. Từ đó việc chuẩn bị củi nấu cơm dọc đường đã đi vào nề nếp, chỉ cần mỗi người nhặt một vài nắm củi khô ở dọc đường, là khi đến chỗ nghỉ, cả tiểu đội sẽ có cơm ăn ,nước uống được ngay .Đời lính lại vui tươi ca hát.
Đến mỗi binh trạm đều được phổ biến nội quy ,kỷ luật phòng tránh địch cho phù hợp tình hình từng binh trạm. Đến trạm nghỉ nào cũng phải đào công sự phòng tránh, hầm hố ẩn nấp. Đơn vị đến trước ,đào trước ,đơn vị đến sau đào bổ sung hoặc củng cố thêm cho vững chắc. Cứ như thế nên ở các bãi khách luôn luôn có đầy đủ hầm hố phòng tránh an toàn, suốt trên dọc đường Trường Sơn ,từ Bắc đến Nam. Ở các bãi khách còn có đầy đủ các thiết bị cây, cọc, sào… để căng võng ,mắc màn chống vắt , chống muỗi đốt ,và cả cây que để căng bạt che mưa hoặc làm lều tránh nắng khi cần. Ở binh trạm nào cũng phổ biến tình hình địch ở khu vực đó và những kỷ luật chiến trường ở đó cần phải chấp hành. Ví dụ như không được nhặt và phá gỡ bom bi ,không nhặt bom lá, không chọc bom bướm trên cây … mọi việc đó đã có bộ phận công binh trên các binh trạm giải quyết khắc phục hậu quả, mục đích để bảo đảm an toàn cho đơn vị hành quân được nhanh chóng đúng thời gian quy định từng chặng đường. Trường hợp đặc biệt gặp địch thả bom vào đội hình, mà công binh chưa đến kịp ,thì phải cử một tổ kỹ thuật nhẹ nhàng nhặt một số bom vướng đường đi ,tập trung vào một chỗ bên lề đường để công binh đến phá hủy ,còn đội hình hành quân vẫn cứ tiếp tuc tiến. Kể cả gặp “cây nhiệt đới” là loại khí tài Mỹ thả xuống để phát hiện các tiếng động của đơn vị hành quân và xe máy của ta đi qua, cây nhiệt đới tự động báo tín hiệu về trung tâm chỉ huy của địch ,để điều động máy bay kịp thời đến đánh phá, ngăn chặn ta. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn, các chiến sỹ công binh trên đường dây các binh trạm đã có sáng kiến lấy gậy ông đập lưng ông. Các chiến sỹ ta liền nhặt nhạnh các cây nhiệt đới đó dồn vào một khu vực cách xa đường giao liên, rồi dùng máy phát cho chạy tiếng động của đoàn quân hoặc đoàn xe ô tô chạy qua ,làm cho bọn địch bị mắc lừa, vội vàng điều máy bay đến bắn phá cả một khu rừng không có người, tốn bao nhiêu bom đạn. Chúng bị mắc lừa nhiều lần như vậy, cuối cùng cây nhiệt đới cũng chịu thua trí sáng tạo thông minh của chiến sỹ ta .
Việc nuôi quân trên đường hành quân cũng được tiểu đoàn trưởng Nam Sao và các chỉ huy của tiểu đoàn 2072 quan tâm lãnh đạo. Ngoài chế độ tiêu chuẩn của quân đội đã quy định, không được vi phạm ,không được ăn bừa bãi, thừa hoặc thiếu để bảo đảm sức khỏe cho bộ đội lâu dài. Ngoài ra còn động viên chiến sỹ tìm hái nhiều rau rừng đào củ rừng ăn được để tăng thêm chất tươi,vi ta min ,cho bộ đội, ngoài ra những ngày nghỉ hoặc ban đêm ,tập trung một số anh em thiện xạ đi săn bắn, hoặc bắt cá sông, cá suối về cải thiện cho anh em các bếp. Riêng về nghề săn bắt thì tiểu đoàn trưởng Nam Sao là một cây thiện xạ .Trong ba lô của anh bao giờ cũng có một tấm lưới đánh cá một cuộn cước và mấy chùm lưỡi câu các loại. Mỗi lần đến trạm giao liên hoặc các binh trạm, bao giờ tiểu đoàn trưởng cũng phải đến chỉ huy trạm để báo cáo tình hình hành quân và nhận nhiệm vụ tiếp theo hoặc hiệp đồng canh gác ,cảnh giới chiến đấu. Cùng đi có chú liên lạc tên là Tân đi theo. Mỗi lần trên đường đi đến trạm hoặc binh trạm, hai người đều quan sát địa hình sông suối xem có chỗ nào có thể bắt cá được thì thả lưới sẵn, đến khi làm việc xong quay về thì cha con mới vớt lưới, cũng có khi ,lúc quay về mới quây thả lưới rồi hai cha con cởi quần áo nhảy xuống suối khua nước ầm ĩ để dồn cá ,lần nào cũng được ít nhiều cá, có khi được hàng cân hoặc vài cân về chia cho anh em cùng ăn. Hoặc đến bãi sông suối thuận lợi đặt ba lô xuống là Nam Sao đã cầm cần câu, mắc mồi thả cần câu ngay. Có đêm anh cắm cần câu được hàng yến cá đem về chia đều cho các đại đội. Noi gương tiểu đoàn trưởng ,mỗi đại đội đều tổ chức một tổ săn bắt cá ,một tổ săn bắt thú để cải thiện đời sống cho bộ đội trên dọc đường hành quân. Anh em còn quan tâm ưu tiên bồi dưỡng cho các đồng chí ốm đau ,bệnh tật trên đường để anh em có sức khỏe hành quân theo kịp đơn vị… Trong việc săn bắt thú cũng có nhiều hình thức, anh nào giỏi bắn chim, bắn thú thì bắn chim bắn thú, anh nào giỏi bắn cá thì bắn cá, có anh giỏi bắt rắn thì chuyên bắt rắn, có anh lại chuyên bắt chuột thì bắt chuột. Có đêm cả tiểu đội hoặc trung đội đi bắt ếch, thế là hôm sau cả đại đội ,có khi cả tiểu đoàn được ăn thịt ếch. Tất nhiên trong quá trinh đi săn bắt đó đều phải có tổ chức cảnh giới máy bay, hoặc bọn biệt kích thám báo đến quấy nhiễu, phải kịp thời xử lý phòng tránh hoặc rút lui ngay không được để lộ mục tiêu cho kẻ địch biết. Nhờ việc tích cực cải thiện cuộc sống đó mà sức khỏe của bộ đôi luôn luôn được bảo đảm quân số khỏe cao .ít ốm đau bệnh tật trên đường. Việc phòng bệnh cũng được các cấp chỉ huy quan tâm và nghiêm khắc giữ gìn kỷ luật phòng bệnh như : Tuyệt đối không được uống nước lã ,nước suối. Các tiểu đội phải nấu đủ nước sôi mang theo, phải mắc màn kỹ chống muỗi đốt, xoa dầu chống vắt… Cá biệt cũng có trường hợp có người bị sốt rét, đau bụng ỉa chảy, có người bị rắn rết cắn, hoặc bị trượt chân ngã bị trẹo chân sứt tay trên đường hành quân ,thì đã có quân y đại đội ,quân y tiểu đoàn cấp thuốc .Ngoài ra Nam Sao còn còn tổ chức một đội ngũ “ thầy lang vườn” tập hợp những anh em có nghề truyền thống của gia đình, chữa các bệnh bằng đông y ,thuốc nam. Trước khi hành quân cho về gia đình động viên các bố mẹ chuẩn bị sẵn một túi thuốc mang theo để cấp cứu cho đơn vị, ngoài ra anh em nào thạo, thì kiếm ngay lá trên rừng để chữa cho anh em trong đơn vị kịp thời. Các tổ “thầy lang vườn” của các đại đội cũng góp phần đắc lực vào việc bảo đảm sức khỏe cho cuộc hành quân của đơn vị. Một mặt khác tinh thần tương thân tương ái được đề cao trong các đơn vị , hễ có ai ốm đau là anh em chia nhau mang vác ba lô, vũ khí, hoặc thay nhau khiêng cáng các đồng chí ốm hành quân đi cùng, kiên quyết không để thiếu một người ở lại thu dung trong các binh trạm .Do đó cuộc hành quân của tiểu đoàn 2072 đi suốt từ Bắc tới Nam không có ngày nào báo cáo vắng mặt một người khi đến các trạm, binh trạm. Làm cho các chỉ huy trạm, binh trạm đều hài lòng về đơvi có một không hai này của tiểu đoàn 2072.Đến đâu cũng được các chỉ huy trạm, binh trạm biểu dương khen ngợi kịp thời.
Thấm thoát gần bốn tháng trời ngày đêm hành quân không mệt mỏi ,tiểu đoàn trưởng Nam Sao và ban chỉ huy tiểu đoàn cùng sự nỗ lực của các cán bộ trong toàn tiểu đoàn đã đưa đơn vị đến địa điểm tập kết, đúng nơi quy định ở khu vực rừng Tân Biên thuộc Tây Ninh, bảo đảm hành quân đúng lịch trình quy định của các binh trạm ,không chậm một ngày, không thiếu một người, được các thủ trưởng mặt trận B2 rất phấn khởi , nhiệt liệt hoan nghênh và ngợi khen cổ vũ. Toàn tiểu đoàn náo nức lập công sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu được ngay. Mặt trận cho nghỉ ba ngày, để bồi dưỡng sức khỏe và củng cố đơn vị về tinh thần tư tưởng cũng như về vật chất ,ôn luyện và kiểm tra lại những kỹ thuật và chiến thuật cơ bản đã học để sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu, và chiến đấu thắng lợi.
Bám thắt lưng địch mà đánh!
Trận đầu thử lửa là tiểu đoàn được, giữ nguyên đơn vị ,được mặt trận bổ sung thêm hỏa lự,đại liên ,súng cối ,súng chống tăng và các trang bị khác như lựu đạn ,bộc phá, mìn đạn dược đầy đủ… Tiểu đoàn được tăng cường cho một trung đoàn bộ đội địa phương có ba tiểu đoàn ,thêm tiểu đoàn 2072 là bốn tiểu đoàn, có nhiệm vụ phục kích chặn đánh một trung đoàn hỗn hợp lính Mỹ ngụy do cố vấn Mỹ chỉ huy hành quân cơ giới trên đường 22B từ Tây Ninh lên đánh chiếm Tân Biên. Tiểu đoàn một có nhiệm vụ chặn đầu, hai tiểu đoàn đánh giữa và tiểu đoàn 2072 có nhiệm vụ khóa đuôi . Sau khi nhận lệnh, tiểu đoàn trưởng Nam sao liền tổ chức cán bộ đi trinh sát thực địa cụ thể kỹ càng và bàn phương án chiến đấu tại trận địa tỉ mỉ . Đúng giờ quy định cho bộ đội hành quân đến vị trí triển khai trận địa phục kích vào bốn giờ sáng. Ba đại đội phục kích và một đại đội dự bị, sẵn sàng tăng cường cho hướng chủ yếu và truy kích địch khi chúng rút lui…
Phục kích là sở trường của Nam Sao, người chỉ huy công binh này từ thời chống Pháp, nên anh cho đơn vị chuẩn bị khá kỹ lưỡng. Mặc dầu thời gian còn rất ngắn, nhưng trước khi ra trận ,ở căn cứ trong rừng dù chỉ còn một giờ, anh cũng bắt các cán bộ cho anh em tập ôn lại cách chôn mìn chống xe tăng , xe cơ giới và chống bộ binh ,sao cho nhanh gọn, ngụy trang kín đáo che được mắt địch. Chuẩn bị các hỏa cụ cho thật tỉ mỉ, kíp mìn ,dây điểm hỏa, cách đấu dây ,máy điểm hỏa và pin dự bị….Đó là bài học kinh nghiệm của anh khi còn là tiểu đội trưởng, trung đội trưởng và đại đội trưởng từ thời chống Pháp vẫn còn giá trị đến ngày nay ,chỉ khác là vũ khí bây giờ hiện đại hơn ngày xưa nhiều, càng có thuận lợi cho bộ đội ta hơn. Những bài học về đánh mìn trên đường 5 từ năm 1946,phục kích ở Phục Linh năm 1947,đánh mìn trên đường 6 năm 1951, đánh min ở Điện Biên Phủ năm 1954…đã nhắc nhở cho Nam Sao những kinh nghiệm xương máu, để bây giờ truyền lại cho các chiến sĩ trong trận đầu ra quân đánh Mĩ này. Trong chiến đấu, bao giờ cũng vậy ,công tác chuẩn bị càng chu đáo tỉ mỉ bao nhiêu, thì trận chiến càng chắc thắng bấy nhiêu. Anh tâm niệm điều đó, đã trên hai mươi năm trong quân ngũ rồi, và anh cũng chưa bao giờ bị thất bại một trận chiến đấu nào .Trước giờ phút ra trận ,người chỉ huy phải luôn quan tâm tới tình cảm và lòng tin của mình với các chiến sĩ, có như vậy mới gây được lòng tin của các chiến sĩ với cấp chỉ huy của mình ,họ không có một điều gì băn khoăn trước lúc ra trận, chỉ có một niềm tin chắc thắng!
Có một tình huống thay đổi trong đội hình hành quân của địch. Khi ra chiếm lĩnh trận địa rồi mới được chỉ huy trung đoàn thông báo:
-Tiểu đoàn lính Mĩ không đi đầu, mà đi sau đội hình hành quân. Quân ta vẫn giữ nguyên vị trí chiến đấu không thay đổi. Nam Sao hội ý chỉ huy nhận định ngay:
-Thế có nghĩa là bọn Mĩ sợ không dám đi trước mà đùn cho bọn ngụy dẫn đầu, còn có nghĩa là tiểu đoàn 2072 chúng ta phải khóa đuôi tức là trực tiếp chiến đấu với bọn Mĩ! Chính trị viên tiểu một vài người tỏ vẻ băn khoăn vì là trận đầu. Nhưng Nam Sao nói ngay:
- Thế thì càng thuận lợi chứ sao ! Rồi anh phân tích :-Bọn Mĩ mất tinh thần nên mới đùn cho bọn ngụy đi trước. Một tình huống có thể sảy ra, khi tiểu đoàn 1 đánh chặn đầu nổ súng, thì bọn Mĩ sẽ dừng lại nghe ngóng, nếu thuận lợi thì tiến ,nếu nguy kịch thì chúng sẽ lui quân ngay. Đây chính là thời cơ cho tiểu đoàn ta lập công. Anh nói thêm:
-Bọn Mĩ sẽ được phi pháo chi viện trực tiếp nhiều hơn bọn ngụy. Nhưng chúng ta đã có kinh nghiệm của các đơn vị đánh Mĩ trước,” cứ bám thắt lưng địch mà đánh” đó là khẩu hiệu rút ra từ trận đầu đánh Mĩ ở Pờ -lây -me. (PLây- cu ,1965)Bám sát thắt lưng địch ta sẽ không bị phi pháo bắn ở vòng ngoài đỡ bị thương vong, bám thắt lưng địch làm bọn Mĩ càng hoang mang bỏ chạy, ta càng phải tích cực đuổi đánh tiêu diệt địch tới cùng!- Sau đó Tiểu đoàn trưởng Nam Sao nhắc lại nhiệm vụ của đại đội 4 làm nhiệm vụ dự bị, chính là khóa đuôi toàn đội hình hành quân của chúng, cũng lại là chặn đầu bọn Mĩ nếu chúng có ý định rút lui, nên phải tăng cường thêm mật độ rải mìn nhanh trên mặt đường, cách đội hình rút lui của chúng khoảng một cây số trở lại, phải tác nghiệp thật nhanh, cho chúng không kịp trở tay đến khắc phục dò gỡ mìn được.
Trận chiến đấu bắt đầu sảy ra vào khoảng 8 giờ sáng, bọn máy bay đi trước đánh phá dọn đường, trong lúc này các chiến sỹ ta đã bố trí xong trận địa mìn và đang ẩn nấp dưới công sự phòng tránh, ngụy trang khá kín đáo .Toán xe tiêm binh của địch đi trước cũng không phát hiện được gì, chúng đều vọt nhanh lên trước. Đến đội hình hàng trăm xe cơ giới phía sau chở đầy quân lính hùng hổ nối đuôi nhau tiến trên đường do hai xe tăng đi trước dẫn đường. Đoạn đầu của chúng tới trận địa tiểu đoàn 1.Tiểu đoàn 1 cho nổ mìn đồng loạt và nổ súng chặn đầu, một xe tăng bị cháy Đội hình hành quân của địch như con rắn bị đánh rập đầu chùn lại , gồng mình lên đánh trả quyết liệt. Các tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 3 đồng thời xuất trận. Các loại mìn và súng chống tăng ,chống xe cơ giới được phát huy tích cực, ngay loạt đạn đầu đã phá hủy hàng chục xe của bọn địch. Bọn bộ binh địch còn sống sót nhảy xuống đường lợi dụng địa hình bắn trả quyết liệt. Chờ cho đội hình của tiểu đoàn Mĩ đi cuối chùn lại, các xe co cụm vào nhau
Đúng thời cơ đó, tiểu đoàn trưởng Nam Sao mới phát lệnh điểm hỏa bãi mìn đồng loạt và các súng chống tăng ,chống xe cơ giới cùng phát huy hết tác dụng, các loại cối và súng bắn thẳng cũng nhất tề bắn liên tục. Tiểu đoàn trưởng ,các đại đội trưởng đều phất cờ lệnh. Tiếng hô lớn:
- Xung… phong..!- Xung… phong…!
-Bám thắt lưng địch mà diệt!.. được vang lên trên khắp trận địa. Quân ta nhất tề nhảy lên khỏi hầm trú ẩn, vừa chạy vừa bắn vừa hô xung phong vang dậy cả núi rừng, các chiến sĩ đều dương lê xông vào địch đánh giáp lá cà với địch ,mặc cho bọn máy bay và pháo binh địch chỉ bắn ở vòng ngoài .Đoạn đuôi tiểu đoàn Mĩ có hiện tượng cho lùi xe hoặc quay xe rút lui. Đúng như dự kiến của Nam Sao đã nhận định ,Nhưng anh đã cho đại đội 4 của tiểu đoàn 2072, kịp thời vận động rải mìn phía sau lưng quân địch từ trước, nên một số xe của Mĩ đã quay lui, chỉ đi được một đoạn vài trăm mét, liền vấp phải trận địa mìn của đại đội 4. Xe Mĩ lại đổ hàng loạt, còn lại cái nào cũng bị ùn tắc lại không thoát đi được. Đại đội 4 xông ra, các đại đội 2,đại đội 3 cùng quay lại truy kích bọn Mĩ tháo chạy phối hợp bao vây với đại đội 4, chỉ để lại đại đội 1 giải quyết tiêu diệt nốt bọn Mĩ còn lại ở đầu đội hình tiểu đoàn Mĩ. Trận chiến còn giằng co quyết liệt, bọn địch co cụm vào nhau cố thủ từng đoạn một. Các chiến sĩ ta cũng không chịu lùi bước, hình thành thế bao vây từng cụm từng toán địch một, bám sát địch mà tiêu diệt.
Trận phục kích của trung đoàn diễn ra trong vòng hơn hai tiếng đồng hồ thì kết thúc. Lệnh cho các đơn vị nhanh chóng bắt tù binh thu hồi vũ khí, và giải quyết mang vác thương binh tử sĩ rồi rút vào trong rừng ngay về trận địa ẩn nấp đã được chuẩn bị sẵn, để tránh máy bay và pháo binh địch đánh đuổi và oanh tạc trả thù.
Kết quả trận đánh: Trung đoàn bộ đội địa phương Tây Ninh được tăng cường tiểu đoàn 2072 mới từ ngoài Bắc hành quân vào, tham dự chiến đấu ngay. Đã tiêu diệt hoàn toàn trung đoàn Mĩ ngụy hỗn hợp, bẻ gãy mũi tấn công lên đánh chiếm Tân Biên, hòng phá tan chỉ huy sở tiền phương của mặt trận Tây Ninh. Bắn hỏng và phá hủy 4 xe tăng, 80 xe cơ giới của địch, thu hồi 16 xe. Tiêu diệt 620 quân ngụy và 202 tên Mĩ, bắt sống 154 quân ngụy và 198 quân Mỹ. Số quân ngụy chạy thoát khoảng 200 tên. Thu hồi nhiều vũ khí đạn dược và trang bị. Ta bị hy sinh 35 người ,bị thương 74 người. Tổng kết ,đó là một trận phục kích thắng lợi lớn, đánh nhanh diệt gọn. Một thắng lợi chưa từng có ở mặt trận này từ trước tới nay. Các tiểu đoàn đều lập công xuất sắc, đặc biệt tiểu đoàn 2072 lập công đầu xuất sắc nhất, chỉ huy đã dũng cảm ,mưu trí linh hoạt chặn đứng được cuộc rút lui của quân địch, và tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn thiện chiến Mỹ. Riêng tiểu đoàn 2072 có hiệu xuất chiến đấu cao nhất, tiêu diệt 202 tên Mỹ ,bắt sống 198 tên Mỹ .Ta chỉ bị hy sinh 10 chiến sỹ và bị thương 16 người. Ngày hôm sau , trung đoàn tổ chức tổng kết trận đánh, rút kinh nghiệm và bình công. Riêng tiểu đoàn 2072 được bình trên một trăm cán bộ chiến sỹ là “Dũng sĩ diệt Mĩ” và “Dũng sĩ diệt xe cơ giới địch”. Mười người được tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng ,trong đó có tiểu đoàn trưởng Nam Sao được đề nghị tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng hai.
Ngay chiều hôm đó, Nam Sao cho mỗi đại đội cử một tổ ra sông Bến Đá và Suối Mây là những nhánh sông đổ ra sông Vàm Cỏ Đông , đánh bắt cá về để liên hoan mừng chiến thắng, cùng với bà con nhân dân quanh vùng đóng quân, đồng thời đem một số lương thực chiến lợi phẩm vừa thu được tặng cho người già và trẻ em nghèo khổ. Đêm liên hoan diễn ra rất là sôi nổi và thắm thiết tình quân dân kéo dài mãi đến khuya.
Chương 11
CUỘC HÀNH QUÂN THẦN TỐC
Ngày hôm sau đơn vị lại được lệnh chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu một trận mới ở cách đó không xa. Thì chỉ huy tiểu đoàn nhận được mật lệnh điện khẩn cấp từ Bộ tổng tham mưu từ ngoài Bắc gửi vào qua Bộ tư lệnh mặt trận .Nội dung điện khẩn đại ý như sau: “ Bộ biểu dương và khen ngợi, tiểu đoàn 2072 đã hành quân nhanh gọn vào chiến trường đúng thời gian quy định, bảo đảm 100% quân số khỏe. Đến nơi tham gia chiến đấu được ngay trong đội hình trung đoàn, và đã tiêu diệt gọn 1 tiểu đoàn quân Mỹ. Nay lệnh cho các cấp trưởng từ trung đội trở lên, bàn giao đơn vị lại cho các cấp phó lên phụ trách thay, tiểu đoàn chính thức trực thuộc trung đoàn Tây Ninh. Các cán bộ cấp trưởng đã bàn giao ,tổ chức hành quân gấp về miền Bắc để nhận đơn vị mới khẩn cấp vào sau .Ký lệnh : Trung tướng, Phó tổng tham mưu trưởng”. Tiểu đoàn trưởng Nam Sao đọc đi đọc lại mấy lần bức điện khẩn rồi đưa cho chính trị viên tiểu đoàn .Anh bỗng thừ người ra phân vân “ thế này là thế nào ?”. Công mình bỏ bao sức lực tâm huyết để huấn luyện, xây dựng rèn luyện đơn vị đưa được vào tới đây, vừa mới thử sức trận đầu thắng lợi, mà đã phải bàn giao cho người khác, không được sử dụng cùng nó chiến đấu nữa. Lại phải quay về xây dựng một đơn vị mới toanh, thì mất thời gian, mất thời cơ chiến đấu lập công để thay đổi số phận cuộc đời bị long đong mãi mấy chục năm nay. Liệu mình còn đủ sức và còn cơ hội xây dựng được một đơn vị như thế này nữa không…? Đồng chí trợ lý quân lực mặt trận trực tiếp cầm điện lệnh xuống đưa cho Nam Sao, thấy nét mặt đăm chiêu của đồng chí tiểu đoàn trưởng, liền rỉ tai Nam Sao nói thêm: Ý định của Bộ xây dựng các sư đoàn mới, mạnh hơn ,đưa vào ngay để thành lập các binh đoàn đánh lớn, nên phải gọi các cán bộ có kinh nghiệm về ngay mới xây dựng kịp được… Thượng úy Phạm Tuấn Minh, Chính trị viên tiểu đoàn nghe thấy thế bỗng reo lên:
-Hay! Đúng sách lược quá! Rồi quay sang nói với Nam Sao: Lệnh trên là sáng suốt rồi, chúng ta đành phải quay về thôi anh ạ! Không còn cách nào khác ,quân lệnh như sơn mà anh!
- Đã đành là như thế! -Nam Sao trả lời, giọng hơi bùi ngùi: Anh không thấy tiếc công sức rèn quân của mình à? Đến lúc được sử dụng , đang sử dụng tốt thì mình lại bị nẫng tay trên, phải bàn giao, liệu tôi với anh có xây dựng lại được một đơn vị như thế này nữa không ?
- Nhất định sẽ được chứ anh!
-Tất nhiên là sẽ được, nhưng phải mất bao nhiêu thời gian nữa, và cái chính là mất thời cơ ở lại chiến trường? Liệu tôi và anh chắc có được thời cơ như hôm nay nữa chứ ?-Nam Sao nói thầm trong bụng với người đồng cấp rằng, anh còn trẻ hơn tôi ,anh lại không bị một mối dây oan nghiệt nào ràng buộc, hẳn anh còn nhiều thời cơ hơn tôi, còn tôi năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi rồi ,thì còn đâu sức lực và thời cơ nữa .Nhưng anh cố nhịn không nói lên lời. Đồng chí trợ lý quân lực mặt trận có vẻ thông cảm với người tiểu đoàn trưởng già, nên động viên anh: Đợt này lệnh trên tổng động viên vào gấp đấy anh ạ, phải đánh mạnh để chuyển tình thế. Hồi Mậu Thân năm1968 ta đã lỡ mất một thời cơ rồi vì ta chưa có các binh đoàn chủ lực vào để giữ đất. Nghe nói đợt này Bộ đưa liền mấy sư đoàn cơ, các anh về nhanh vẫn kịp thời cơ đấy ,mà đánh trong đội hình lớn thì càng thuận lợi hơn chứ các anh!
- Vâng !-Nam Sao thong thả trấn tĩnh lại và nói tiếp: -Anh cứ báo cáo với cấp trên là chúng tôi sẽ bàn giao hoàn chỉnh và động viên anh em ở lại chiến đấu tốt, giữ vững truyền thống của tiểu đoàn 2072. Còn chúng tôi sẽ tìm mọi cách hành quân về nhanh nhất, đồng chí ạ. - Anh nói nói với đồng chí trợ lý quân lực một cách nghiêm túc và ra vẻ thanh thản, nhưng trong lòng vẫn không được vui.
Ngay sau đó cuộc họp cán bộ toàn tiểu đoàn đã được triệu tập ngay để truyền đạt mệnh lệnh khẩn cấp của cấp trên, sau đó các đại đội quán triệt nhiệm vụ của đơn vị trong giai đoạn tới. Các cán bộ và chiến sỹ đều vỡ òa ra ,ôm lấy nhau, mừng mừng tủi tủi, gần một năm trời gắn bó với nhau, lại trải qua trận chiến đấu đầu tiên thắng lợi, như đốt cháy giai đoạn tưởng chừng như đã sống với nhau hàng mấy năm rồi. Những người ở lại thì đều mừng và phấn khởi vì mình đã trưởng thành, được phát triển, nhưng cũng có những mối lo, mới thử thách trận đầu, kinh nghiệm chưa được bao nhiêu ,lại phải xa những cán bộ dạn dày như những người anh đã kèm cặp dìu dắt mình trong suốt cuộc hành quân qua và nhất là trong trận chiến đấu vừa rồi. Tình cảm sâu nặng nhất của những người ở lại là dành cho người tiểu đoàn trưởng già nghiêm khắc ,nhưng rất bao dung, như một người anh của đơn vị ,và cũng như một người cha thân thiết của đa số các chiến sỹ trẻ trong đơn vị ,mà họ đã quý phục ,tin tưởng .Họ vẫn mong muốn được chiến đấu dưới sự chỉ huy của anh, để được anh dìu dắt bảo ban ,thậm chí có lúc anh nghiêm khắc mắng chửi nhưng họ vẫn thấy yêu thương quý trọng. Số cán bộ cấp trưởng được lệnh gọi về miền Bắc, thì hầu hết cũng có tâm trạng như tiểu đoàn trưởng của mình, không muốn rời xa đơn vị mà mình đã bỏ bao công sức xây dựng để có được thành tích hành quân và chiến đấu như hôm nay, đã gắn bó như anh em ruột thịt, nay đã vội phải xa, biết bao giờ gặp lại. Và cũng có tâm trạng liệu mình có thời cơ xây dựng lại một đơn vị được như đơn vị này không?
Đêm chia tay thật bùi ngùi xúc động, họ không liên hoan ca hát, thậm trí cả không nói to, chỉ ôm lấy nhau thủ thỉ rì rầm to nhỏ, nói với nhau những điều da diết trong lòng, thậm chí xin lỗi nhau vì mình đã ăn nói và có thái độ không vừa lòng bạn trước đây. Họ ghi địa chỉ gia đình làng xóm của nhau, hẹn khi chiến thắng trở về sẽ tìm đến gia đình nhau. Nhiều chiến sỹ trẻ đã đến bá vai bá cổ ,ôm lấy tiểu đoàn trưởng mà khóc và gọi:
-Bố ơi! bao giờ chúng con mới được gặp lại bố đây! Chúng con thương bố lắm!- Trước những tình cảm sâu nặng của cán bộ ,chiến sỹ trẻ, Nam Sao cũng rất mủi lòng, nhưng anh phải cố gắng tỏ ra không ủy mị để động viên anh em:
-Các đồng chí hãy đoàn kết thương yêu nhau ,cố gắng lập công ,chúng tôi sẽ vào ,rất nhanh thôi ,hẹn gặp nhau trong ngày toàn thắng nhé.
Trong đời người lính có biết bao cuộc chia ly, trên hai mươi năm trong quân ngũ ,Nam Sao đã có hàng chục ,hàng trăm cuộc chia ly như thế này, chia ly các bạn bè đồng ngũ là liệt sỹ tử vong, chia ly các bạn bè đồng ngũ trưởng thành đi xây dựng đơn vị mới, kể cả những cuộc chia ly những đồng chí bị thương tật ,già yếu được xuất ngũ về quê hương. Những cuộc chi ly nào cũng đều vì sự phát triển của quân đội ,của cách mạng để dẫn đến ngày toàn thắng. Nhưng cuộc chia ly hôm nay ,như có một linh cảm mách bảo gì đó, làm cho lòng anh nặng trĩu không nói lên lời. Anh vẫn hòa mình vào với các chiến sỹ, nói chuyện đùa vui, tếu táo hoặc rủ rỉ tâm tình, để cố quên đi nỗi cay đắng, sầu muộn trong tâm hồn.
Cuộc hành quân trở về của đoàn cán bộ cấp trưởng ,bí mật khởi hành vào lúc ba giờ sáng, để không làm náo động cả đơn vị và làm mất khí thế các đơn vị đang sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu. Hai mươi hai cán bộ cấp trưởng từ trung đội trở lên, cũng tổ chức thành một trung đội nhẹ hai tiểu đội, mỗi tiểu đội mười người, do tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn làm trung đội trưởng và trung đội phó, cũng trang bị đầy đủ như một trung đội chiến đấu. Theo quy định của cấp trên là đi theo đường dây của các binh trạm, các trạm theo đúng lịch trình mỗi ngày một chặng, như vậy lại phải mất một trăm mười ngày nữa mới về tới miền Bắc. Nam Sao quyết định hành quân theo kiểu thần tốc, không lệ thuộc hành quân theo đường mòn của các binh trạm mà bám theo các trục đường ô tô, để tận dụng đi nhờ các xe vận tải ,được chặng nào hay chặng ấy. Không nhất thiết chỉ đi ban đêm mà phải tận dụng hành quân ban ngày là chủ yếu. Sáng kiến ấy được toàn thể anh em đồng tình nhất trí. Ai cũng muốn được nhanh chóng trở về để kịp nhận đơn vị mới đưa vào chiến trường càng sớm càng tốt . Nam Sao luôn liên lạc với các binh trạm, và đón xe dọc đường để xin đi nhờ. Tờ mật lệnh khẩn cấp của Bộ tổng tham mưu và giấy giới thiệu của các binh trạm là bảo bối để các anh liên lạc với các trạm và các đoàn xe. Lại với một tổ chức rất chặt chẽ trên đường hành quân và có giao liên đi cùng, nên không có ai nghi ngờ rằng đây là một tốp đào lạc binh hay bộ đội đào ngũ chuồn về Bắc. Được các đoàn xe ủng hộ giúp đỡ, có ngày vượt được hai ba chặng đường, nhưng cũng có ngày phải dừng lại vì bị địch oanh tạc bắn phá đường, Nam Sao phân công các cán bộ đều tham gia sửa chữa cầu đường cùng các chiến sỹ công binh và anh chị em thanh niên xung phong trên dọc đường không nề hà mệt nhọc gian khổ. Bằng nhiều biện pháp tích cực chủ động như vậy, nên khi hành quân vào thì hết một trăm mười ngày đêm, nhưng khi ra đoàn cán bộ của Nam Sao chỉ đi hết có hai mươi sáu ngày đêm ,một kỷ lục chưa từng có cho các đơn vị hành quân ra, trên đường gặp máy bay địch bắn phá trên mười trận, nhưng không ai bị hy sinh chỉ có hai người bị thương ,nhưng anh em vẫn khiêng vác dìu dắt nhau trên đường, không bỏ ai lại dọc đường, bảo đảm quân số về cũng đủ trăm phần trăm, trước sự ngạc nhiên của chỉ huy và cán bộ của sư đoàn. Khi ra tới ga Vinh ,lên tàu hỏa rồi, cũng có ý kiến đề nghị cho anh em tranh thủ tạt qua nhà ít ngày, rồi mới về đơn vị ,với lý do là đoàn đã hành quân vượt thời gian nhiều ngày rồi, nên có thể linh động cho anh em về mà không báo cáo sư đoàn. Như nhiều đơn vị trước đây cũng đã làm như vậy. Có đơn vị tự động cho anh em về nghỉ hàng tháng trời ,rồi mới tập trung về đơn vị. Nam Sao kiên quyết gạt bỏ ý kiến này, anh nói : Ta không thể lừa dối đơn vị như vậy được ,điều đó chỉ làm hư chính con người của chúng mình đi, một lần bất tín là vạn sự bất tin. Vả lại mệnh lệnh yêu cầu chúng ta về gấp ,thì chúng ta phải chấp hành nghiêm chỉnh .Hơn nữa khi chúng ta đã có thành tích giữ nghiêm kỷ luật ,thì cấp trên cũng chả hẹp hòi gì với chúng ta một vài ngày đâu các đồng chí ạ, hãy cứ tin lời tôi. Tất cả các cán bộ đều thấy Nam Sao nói phải, nên cũng hưởng ứng tán thành, và càng thêm tôn trọng người tiểu đoàn trưởng già, như người anh cả của đơn vị mà mọi người hằng tôn kính quý mến. Hôm sau ,khi về gần đến căn cứ cũ, anh cho đơn vị dừng lại bên cạnh bờ sông, cho anh em nghỉ ngơi, tắm táp rửa dáy chân tay mặt mũi, chỉnh đốn lại trang phục và vũ khí súng đạn nghiêm chỉnh gọn gàng ,giương cao cờ chiến thắng của quân giải phóng đi trước, toàn đơn vị sắp hàng nghiêm túc đi đằng sau với khí thế hiên ngang trở về, qua cổng doanh trại sư đoàn trước sự ngạc nhiên của mọi người. Trông thấy Nam Sao và ngọn cờ đang tiến vào sân, nhiều tiếng hô lớn vang lên: -A…đoàn 2072 đã về rồi, Nam Sao đã về rồi ,hoan hô đoàn quân chiến thắng đã về! -Nhiều tiếng vỗ tay và reo vui cùng nổi lên, người ta đổ xô ra đón tiếp đoàn quân đang tiến vào. Sư đoàn trưởng và chính ủy sư đoàn đang họp trong nhà, nghe thấy tiếng reo cũng vội vàng dừng lại, chạy ra sân hồ hởi đón đoàn. Vừa lúc đó Nam Sao cho bộ đội dừng lại ,rồi hô to cho đơn vị “nghiêm”, anh hiên ngang tiến về phía chỉ huy sư đoàn, dơ tay chào theo đúng điều lệnh:
-Báo cáo, đoàn cán bộ của 2072 đã hành quân đủ về tới sư đoàn theo đúng mệnh lệnh của Bộ tổng tham mưu!
Các chỉ huy sư đoàn đáp lễ lại, rồi cảm động quá chạy lại ôm chầm lấy Nam sao và các cán bộ trong hàng quân rồi thân mật reo lên:
-Ôi !các cậu đi thế nào mà nhanh thế ,bay à? mới tháng trước, nhận được điện của Bộ báo là các cậu đã hành quân về rồi, mà nay chưa đầy tháng đã thấy các cậu về đến nơi, đúng là thần tốc rồi, con cháu vua Quang Trung có khác ! Hoan hô các đồng chí. Bây giờ hãy cho anh em về căn cứ nghỉ ngơi, sư đoàn sẽ xuống thăm và giao nhiệm vụ sau!
Chỉ huy và các cán bộ trong cơ quan sư đoàn bộ còn quay quần lấy Nam Sao và đoàn cán bộ trở về khá lâu, reo vui ,cười nói, thăm hỏi hàng tiếng đồng hồ liền. Đây cũng là sự kiện đầu tiên có một không hai của sư đoàn này. Sau đó đoàn cán bộ lại trở về trú quân ở một làng nhỏ, là căn cứ cũ của tiểu đoàn ở Thọ Xuân, cách sư đoàn bộ không xa. Khi về tới nơi lại được bà con nhân dân ở đó reo vui chào đón một lần nữa, một mối tình quân dân thắm thiết đầy cảm động. Nam Sao lại về gia đình cụ chủ nhà vui tính và tốt bụng ,mọi người đều vây quanh hỏi han tíu tít:
- Chào các anh đã về! Đi B mà sao nhanh thế nhỉ? cứ như đi chợ ấy ,nhanh thật đấy, thế đã về qua nhà chưa?
- Trông anh nào cũng gầy và đen, chắc là vất vả lắm! - Một cô gái sồn sồn chạy lại:
-Ôi anh Nam Sao, thế mà có tin đồn anh hy sinh rồi cơ ,thế mà vẫn còn sống trở về lừng lững đây này, chị ấy chuyến này tha hồ mà vui! -Một cô khác lại nói chen vào
- Ông Nam Sao ấy à, có trời đánh thánh vật cũng chả chết ,bao nhiêu năm đánh Pháp gian khổ là thế mà vẫn còn ,thì bọn Mỹ lần này làm gì ông ấy được!-Một cô gái bụ bẫm, xem chừng lém lỉnh nhất, cười toe toét, nháy nháy mắt với Nam Sao và các cán bộ trẻ, giọng ỡm ờ nhí nhảnh:
-Nghỉ ngơi đi rồi lại đấu cờ người với chúng em nhé ,chuyến này thì chắc là thua thôi, còn gầy yếu lắm! -Chuyện vui tào lao, đùa nghịch tếu táo cứ rôm rả quanh làng xóm…
Hôm sau đồng chí chính ủy sư đoàn cùng một số cán bộ cơ quan xuống thăm và làm việc với “những người anh hùng chiến thắng” trở về, Sau khi nghe báo cáo tình hình cụ thể, chính ủy thay mặt đảng ủy và chỉ huy sư đoàn nhiệt liệt biểu dương ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm và chấp hành mệnh lệnh trở về một cách nghiêm túc .Đặc biệt có sáng kiến hành quân thần tốc và giữ nghiêm kỷ luật để trở về, không tụt ngang tụt ngửa như một số đơn vị khác trước đây. Sư đoàn cho phòng hậu cần đem xuống úy lạo cho đoàn một con lợn 50kg để liên hoan, bồi dưỡng sức khỏe, và sau đó cho toàn đoàn được nghỉ phép về thăm gia đình mười lăm ngày. Còn tặng cho mỗi người một xuất quà, kẹo bánh, lương khô, mang về biếu bố mẹ và cho con cái. Yêu cầu các đồng chí trở về đơn vị đúng phép để nhận nhiệm vụ mới gian khổ hơn nhưng phấn khởi và lạc quan hơn. Chính ủy nói xong tất cả anh em đều đứng dậy hoan hô reo vui vang cả nhà. Nam Sao thay mặt anh em cảm ơn sư đoàn và hứa với chính ủy giữ nghiêm kỷ luật ,đi đến nơi về đến chốn. Khi đồng chí chính ủy về rồi, một số anh em trẻ mới quây quần lấy Nam Sao và bế thốc anh lên:
-Hoan hô bố già! người nói không sai ,kẻ có công chồng không phụ, sư đoàn rất hay, rất thoáng. Chúng em xin đi theo bố già chiến đấu đến cùng!
Sau mười lăm ngày phép cả hai mươi hai người đều trả phép đúng thời gian quy định. Trước niềm vui phấn khởi của mọi người ,sau một ngày ổn định ăn ở, đồng chí Tham mưu trưởng và chủ nhiệm chính trị sư đoàn đến thăm và giao nhiệm vụ .Mỗi người đều được thăng một chức và lên một cấp, trung đội trưởng lên đại đội phó ,đại đội trưởng lên tiểu đoàn phó, Chính trị viên đại đội lên chính trị viên phó tiểu đoàn, đồng chi chính trị viên tiểu đoàn lên chủ nhiệm chính trị trung đoàn. Mỗi người đều có quyết định về đơn vị mới nhận quân để huấn luyện và tiếp tục dẫn quân đi B trong đội hình của các sư đoàn và binh đoàn chủ lực.
Riêng đồng chí Nam Sao đã bốn mươi tư tuổi, quá tuổi đào tạo cán bộ cấp tá, nên cấp trên chiếu cố cho về nghỉ hưu với nguyên chức nguyên cấp, thượng úy tiểu đoàn trưởng, vì tuổi già sức yếu(!) Cả đoàn cán bộ đều sửng sốt và lấy làm lạ cho quyết định của cấp trên về anh Nam Sao. Mọi người đều hiểu rằng Nam Sao đã giữ chức tiểu đoàn trưởng hơn mười năm nay và đã giữ cấp thượng úy từ năm 1958 đợt phong quân hàm đầu tiên cách đây mười bốn năm ,khi đó anh đã là đại đội trưởng. Đành rằng anh đã bốn mươi tư tuổi nhập ngũ từ năm 1945,trải qua cuộc chiến đấu chống Pháp, rồi chống Mỹ, nhưng thử hỏi có cán bộ trung đoàn ,sư đoàn nào, kể cả các cán bộ tiểu đoàn trẻ nào đã khỏe bằng anh và có nhiều kinh nghiệm huấn luyện và chiến đấu bằng anh? Đợt huấn luyện và dẫn quân đi B chiến đấu của tiểu đoàn 2072 vừa qua đã chứng minh điều đó. Anh em trong đoàn đều xôn xao về số phận của người tiểu đoàn trưởng nhiều tuổi, đầy kính yêu và quý mến của mình, họ bàn tán mãi với nhau về nguyên nhân vì sao anh lại bị đối xử như vậy. Đành rằng chính sách cho cán bộ già nghỉ hưu, nhưng chí ít cũng phải trả quân hàm cho người ta đã làm tiểu đoàn trưởng hàng chục năm nay, với cái lon đại úy chứ, cũng đã là rất thiệt thòi rồi. Cùng lứa với anh đã có nhiều người lên chức trung đoàn ,sư đoàn, cá biệt đã có người lên cấp tướng, mà anh vẫn cứ lẹt đẹt mãi cái lon thượng úy tiểu đoàn trưởng, Ngay đồng chí thượng úy Nguyễn Tuấn Minh, chính trị viên tiểu đoàn cùng anh, trước khi đi B cũng đã được cơ quan tổ chức bảo vệ đả thông bí mật theo dõi giúp đỡ Nam Sao xem có bất mãn hay tiêu cực nào có liên quan tới người anh trai đang chiến đấu ở phía hàng ngũ bên kia, đối địch với ta không, nhưng Tuấn Minh thấy không hề có một biểu hiện gì hết, mà chỉ thấy Nam Sao tích cực ,chiến đấu dũng cảm ,mưu trí sáng tạo linh hoạt nên mới chiến thắng ,tiêu diệt một tiểu đoàn lính Mỹ trong trận chiến đấu ở Tân Biên vừa qua đó thôi. Với lòng cảm phục, tin tưởng và thương hại người đồng cấp già, Tuấn Minh đã lên sư đoàn gặp chính ủy và các cơ quan bảo vệ tổ chức, lấy đầu mình ra để bảo đảm cho lai lịch chính trị của Nam Sao trong đợt đi chiến đấu vừa qua và đề nghị trên sử lý công bằng với Nam Sao như mọi người khác. Đồng chí chính ủy và các cơ quan bảo vệ, tổ chức cũng thông cảm và tin tưởng Tuấn Minh báo cáo đúng sự thật, nhưng trả lời rằng : đây là quyết định của cấp trên nữa ,chứ sư đoàn không có quyền quyết định được .Tuấn Minh đành quay về nói cho anh em cán bộ biết và chỉ còn cách động viên an ủi Nam Sao mà thôi. Tất cả cán bộ trong đoàn đều đau lòng và thông cảm an ủi người cán bộ già .Nhiều cán bộ trẻ đã ôm lấy Nam Sao mà sụt sùi :
-Bố ơi ,chúng con thương bố lắm!- Nam Sao cũng bùi ngùi nói;
- Cảm ơn các con . Số phận của bố như vậy,biết làm sao được!
Sự kiện Nam Sao, còn để lại dư âm mãi về chế độ chính sách bất công của các cấp lãnh đạo trong quân đội ta mãi về sau này.
Chính nghĩa và phi nghĩa
Trong cuộc chiến tranh nào cũng thế, giữa hai phe đối nghịch nhau, một bên được coi là chính nghĩa ,một bên được coi là phi nghĩa, có khi cũng đều là phi nghĩa cả, chẳng qua tranh chấp vì quyền lợi của một dòng họ ,hay một tập đoàn kinh tế hoặc tập đoàn chính trị nào đó mà thôi .Bên nào cũng tự xưng mình là chính nghĩa cả, nhưng bên nào được nhân dân ủng hộ nhiều là bên ấy có lợi thế hơn về chính trị, bên nào có tiềm lực kinh tế vũ khí nhiều hơn ,mạnh hơn thì dành được lợi thế nhất định trong giai đoạn nào đó mà thôi. Cuối cùng ai bền bỉ nhất ,sẽ là người chiến thắng . Và chính nghĩa thuộc về người chiến thắng! Nhìn ra thế giới trong thế kỷ hai mươi gần đây nhất. Có ba nước cùng hoàn cảnh như ta bị chia cắt làm hai miền, đó là Đông Đức và Tây Đức; Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên; Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam. Chính quyền của mỗi nửa nước đều tự xưng mình là chính nghĩa, và gọi nửa phía bên kia là phi nghĩa. Cuộc đấu tranh ,hoặc chiến tranh đều kéo dài hàng chục năm trời. Cuối cùng Tây Đức thắng và thôn tính được Đông Đức và xây dựng đất nước thống nhất được giầu mạnh. Vậy trước đó, ai là chính nghĩa ,ai là phi nghĩa ? Đông Đức không thể bảo vệ được chính nghĩa của mình nữa rồi .Còn Nam Bắc Triều Tiên thì song song tồn tại thành một nước riêng biệt, mỗi nửa nước đều có thế mạnh riêng ;miền Bắc thì có thế mạnh về quân sự ,miền Nam thì có thế mạnh về kinh tế không ai chịu ai .Có thể nói họ đều là chính nghĩa với nửa nước của họ ,và cũng có thể nói họ đều là phi nghĩa với Tổ quốc thống nhất mà tổ tiên mình để lại chăng (?) Điều đó còn là khó nói khi một đất nước đang bị chia cắt(!)
Trên thế giới này , từ cổ chí kim ,chưa ở đâu có cuộc chiến tranh nào kéo dài như ở Việt Nam, suốt ba mươi năm trời. Chiến đấu chống quân xâm lược Pháp mười năm ,rồi chống Mỹ hai mươi năm. Lại chiến đấu tiếp với kẻ thù xâm lấn bờ cõi ở biên giới Tây nam và biên giới phía Bắc tuy không lớn nhưng cũng kéo dài hàng chục năm nay vẫn không yên. Cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ cứu nước ,từ đời ông ,đời cha đến đời con, ba thế hệ ,tuy đã kết thúc thắng lợi, và đang ra sức xây dựng trong hòa bình Nhưng những kẻ thù khác lại đang dòm ngó xâm phạm bờ cõi của ông cha ta để lại, đời con cháu chúng ta lại phải lên đường sẵn sàng bảo vệ tổ quốc.
Trong chiến tranh ở nước ta, bọn giặc xâm lược bao giờ cũng thực hiện chính sách :’’ Lấy người Việt trị người Việt ,lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” .Trong nội bộ nhân dân một đất nước bị xâm lược bao giờ cũng bị phân hóa, một phần vì bị đối phương o ép bắt lính ,một phần vì cuộc sống mưu sinh nghèo đói nên phải đi lính đánh thuê để nuôi vợ nuôi con. Trong một gia đình phát sinh ra hai thái cực đối kháng nhau, có người phục vụ trong quân đội “cách mạng”, mà đối phương gọi là “Việt Minh”, sau này là “Việt cộng” .Lại có người phục vụ trong quân đội “quốc gia” mà phía cách mạng gọi là : lính đánh thuê cho quân Pháp rồi quân Mỹ. Thực chất họ cũng là một đội quân chính quy của một nửa quốc gia bị chia cắt. Nhiều người trong họ không phải chỉ là lính đánh thuê, mà họ cũng là những người có hoài bão xây dựng một đất nước theo kiểu mẫu của họ. Họ cũng được học hành đào tạo chính quy ở những trường quân sự danh tiếng nhất nhì thế giới và kiến thức của họ không phải chỉ như những người nông dân ăn đong chắp vá bữa đực bữa cái như ngoài bắc. Chính sách sỹ quan của họ cũng không phải là loại vơ bèo vạt tép mà phải thông qua thi cử trí thức hẳn hoi. Ai có tài thì được trọng dụng ,không định kiến hẹp hòi như trong quân đội ta mà đa số là nông dân lãnh đạo chỉ huy. Hẳn mọi người còn nhắc đến hai cái tên nổi tiếng là Cao Văn Viên và Cao Văn Khánh là hai anh em ruột trong một gia đình trí thức lớn, nhưng mỗi người đi theo một chí hướng. Cao Văn Viên theo quốc gia đã phát triển lên đến cấp đại tướng tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam cộng hòa .Còn Cao Văn Khánh trong quân đội Cách mạng cũng là một tướng giỏi, ông không hề bị phê bình hay khiển trách bao giờ, nhưng chỉ dừng lại với quân hàm trung tướng tổng tham mưu phó về hưu, khi mất đi, lại không được chôn trong nghĩa trang Mai Dịch, những người có công với nước , chỉ vì ông có người anh em trong hàng ngũ đối phương (!) Những chuyện tương tự như thế này có hàng trăm ví dụ trong hai bờ chiến tuyến trên đất nước ta. ở miền Bắc cũng có, ở miền Nam thì càng nhiều hơn. Ngay trong gia đình Nam Sao là một điển hình, người anh cả là Nguyễn văn Hữu, sinh năm 1922 ,người anh thứ hai tên khai sinh là Nguyễn Văn Bạn ( tức Nam Sao) sinh năm 1926. Cách mạng khởi nghĩa năm 1945,Hữu đã 23 tuổi và Bạn mới 19 tuổi đang là tuổi mới lớn rất nhiệt tình hăng hái, nghe theo tiếng gọi của Việt Minh cùng xung phong tham gia cướp chính quyền, rồi cùng xung phong vào quân đội Cách mạng để đánh giặc cứu nước. Người em đi trước ra ga Phú Thái ở gần nhà, nhảy lên tàu, thì gặp tàu chạy lên Hà Nội rồi trở thành anh vệ quốc đoàn. Còn người anh đi sau để nắm cơm nắm cho hai anh em mang đi, rồi cũng vội chạy ra ga để đuổi kịp em trai. Cũng thấy tàu vội nhảy lên ,thì hoá ra tàu lại chạy về hướng Hải Phòng vào vùng của quân Pháp còn chiếm giữ. Họ cũng tổ chức lực lượng bộ đội nhưng lại là bộ đội bảo hoàng của chính quyền Bảo Đại cũ, cũng kêu gọi cứu nước, cứu đồng bào. Thế là hai anh em lạc nhau, do trình độ nông dân, nhận thức hiểu biết chính trị lúc bấy giờ không rõ ràng, nên cứ đành theo số phận đưa đẩy, mỗi người theo một nơi, rồi trở thành hai chiến tuyến đối địch nhau, mỗi người đều phấn đấu theo chí tiến thủ của mình, và a dua theo thời cuộc. Nguyễn Văn Hữu rơi vào cánh quân đội nhà nghề, theo kiểu khôn sống mống chết, và trong hàng ngũ đó họ ít đố kị rèm pha, định kiến ,ai giỏi thì được sử dụng, được cất nhắc, không lệ thuộc lý lịch, không thành phần chủ nghĩa, nên năm 1955 hòa bình lập lại ở Đông Dương, Nguyễn Văn Hữu đã đeo lon trung úy ngụy quân. Đã chót lao phải theo lao, Hữu đưa vợ hai di cư vào Nam tiếp tục phục vụ cho chế độ công hòa miền Nam Việt Nam và làm tay sai cho đế quốc Mỹ. Trong khi đó Nguyễn Văn Bạn tức Nam Sao cũng bền bỉ phục vụ trong quân đội Cách mạng, ra sức chiến đấu, lập nhiều chiến công, nhưng vẫn bị định kiến là người có liên quan chính trị vì có người anh trai ở phía quân đội đối phương ,cần phải đề phòng, không đáng tin cậy ,không được vào đảng, không được cất nhắc ,trả công xứng đáng cho những chiến công anh đã đạt được như những người khác. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ ,anh vẫn chỉ là cấp trung đội trưởng .Cái nham hiểm nhất của một số người lãnh đạo cấp trên là, nếu anh ta không đáng tin cậy thì loại hẳn anh ta ra, cho về làm việc khác như một dân thường. Nhưng họ lại không cho về, mà vẫn vận động anh ta ở lại, vẫn lợi dụng tài năng và tinh thần dũng cảm của anh ta ,lợi dụng cả mồ hôi xương máu của anh ta, vẫn động viên anh ta cố gắng lập công, vì nước vì dân sẽ được đền bù thích đáng và công bằng. Nhưng Nam Sao thiệt thòi bao nhiêu, không được như những lời người ta động viên. Bị cướp công nhiều, bị ăn chặn, ăn hớt nhiều công lao sức lực của anh. Mà anh chỉ chịu đựng số phận, cố nén trong lòng không hề kêu ca phàn nàn hay đòi hỏi yêu sách nào cả. Quả là một con người gan lỳ và kiên định hiếm có. Trong khi thượng úy tiểu đoàn trưởng Nam Sao huấn luyện và dẫn tiểu đoàn 2072 vào chiến đấu ở miền Nam ,thì người anh cả Nguyễn Văn Hữu đã là cán bộ cao cấp trong quân đội Sài Gòn, với lon đại tá, trưởng phòng tình báo điện tử bên cạnh tổng thống Thiệu. Thật trớ trêu thay(!)
Nguyễn Nam Sao không biết những điều đó, anh chỉ đau buồn cho số phận của mình, có khác gì một kẻ đi làm không công mà thôi ! Hôm sau Phạm Tuấn Minh còn đi thu lượm được một số tin tức ngoài dư luận ,về kể lại cho Nam Sao nghe hòng xoa dịu nỗi buồn của anh. Dư luận kể rằng, trong chiến trường miền Nam, bọn địch rất xảo quyệt, hàng ngày chúng cho máy bay ra rả kêu gọi các chiến sỹ Việt cộng hãy về chiêu hồi với quốc gia, sẽ được bảo đảm an toàn tính mệnh, được vợ đẹp con khôn ,được giầu sang phú quý vv… Cũng đã có nhiều tên là cán bộ chiến sỹ hèn nhát ,đã bị bả vinh hoa đó quyến rũ, bỏ hàng ngũ ta về chiêu hồi đầu hàng kẻ thù. Trong đó có một câu chuyện điển hình về sư đoàn một trước đây. Sau khi đánh trận tiêu diệt một trung đoàn Mỹ đầu tiên ở Pơ lây me, nơi xuất phát ra khẩu hiệu “Bám thắt lưng Mỹ mà đánh” nổi tiếng. Ấy thế mà sau trận ấy, tên chính ủy sư đoàn lại về chiêu hồi theo quốc gia, đi theo có một liên lạc vẫn làm công vụ kiêm bảo vệ cho chính ủy, họ đi đến một đầu cầu ranh giới giữa ta và địch, chính ủy bảo liên lạc:
-Tao đi sang phía bên kia đây! Tùy cậu muốn đi theo tao hay về đơn vị cũng được. Chiến sỹ liên lạc lúc này mới bất ngờ ngã người ra, nhìn thấy thủ trưởng đã là tên phản bội, liền giương súng lên bắn. Chính ủy quát lên
- Súng không có đạn đâu, thôi về đi, liệu mà giữ lấy cái đầu! Một tiếng nổ đến tạch, quả nhiên súng không có đạn, tên phản bội đã tháo ra từ trước rồi . Cậu chiến sỹ bị lừa nghiến răng lại ,vừa chạy vừa khóc về trận địa ta. Tên chiêu hồi vội bước qua cầu ,có xe ô tô jeep của bọn địch đón sẵn. Sau đó vị trí đóng quân nào của sư đoàn một, cũng đều bị máy bay và pháo kích bắn phá dữ dội. Cấp trên phải tuyên bố giải tán xóa phiên hiệu sư đoàn một ,điều các trung đoàn sang đơn vị khác. Thực chất là sư đoàn một đã bị tiêu diệt gần hết .Điều phiên hiệu các trung đoàn sang các sư đoàn khác để khỏi bị lộ là sư đoàn một bị tiêu diệt hết . Có lẽ vì thế nên mối nghi ngờ những người có liên quan với đối phương, của những nhà bảo vệ chính trị cứ định kiến mãi ,họ lo người ta chạy sang hàng ngũ địch. Nhưng trong thực tế chưa có trường hợp nào những người có liên quan tới đối phương lại chạy về đầu hàng đối phương cả,chỉ thấy những kẻ hèn nhát chẳng có dây mơ dễ má gì với đối phương sang chiêu hồi mà thôi (!).
Hơn bốn chục năm sau, có một tướng Mỹ già, vốn là chỉ huy của trung đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ bị thất bại ở Pơ lây me trước đây, sang thăm Việt Nam , thăm lại chiến trường thất bại xưa, và xin được gặp một trong những người chỉ huy trận đánh đó, để tỏ lòng khâm phục sự tài giỏi của quân đội Việt Nam. Vì ,theo ông nói, lịch sử thành lập trung đoàn thủy quân lục chiến này từ thời chiến tranh thế giới lần thứ hai, đã đánh đông dẹp bắc khắp thế giới ,chưa bao giờ bị thất bại .Chỉ đến khi sang Việt Nam mới bị thất bại lần đầu tiên. Trung đoàn này về sau được thành lập lại và còn tồn tại, nhưng bài học Pơ lây me vẫn là hội chứng về nỗi đau thất bại và là vết nhơ cho quân đội Mỹ đến bây giờ mà các tướng lĩnh Mỹ vẫn chưa nguôi. Tin về ông tướng Mỹ già đó được báo cáo lên Bộ quốc phòng, lên chính phủ, các nhà lãnh đạo nhà nước ta mới ồ lên, người Mỹ người ta còn khâm phục đến như thế, mà ở ta thì lại hầu như lãng quên? Mấy ông nhà nước liền hỏi lại:
-Vậy hồi đó ai đánh? -Viên lịch sử quân sự tra cứu một hồi mới trả lời:
- Sư đoàn một đánh!
- Sư đoàn một bây giờ ở đâu? Cần phải được tuyên dương!
Rất tiếc ,sư đoàn một đã bị giải thể hóa, sau vụ tên chính ủy chiêu hồi quốc gia rồi.
- Cần phải được tập hợp nòng cốt lại để tuyên dương.
Thế là sau gần ba tháng, các cơ quan mới tìm lại được hơn chục người, trong đó có đồng chí sư trưởng hồi mới thành lập đầu tiên, đã về hưu ,nay đã ngoài chín mươi tuổi, yếu sức đi lại rất khó khăn, còn các cán bộ chỉ huy sư đoàn ,trung đoàn hồi đánh Pơ lây me đều đã hy sinh hoặc về hưu già yếu ,mất cả rồi. Người ta hỏi các hội cựu chiến binh từ trung ương đến địa phương xem còn ai ở sư đoàn một, thời đó nữa không. Sư đoàn một lúc đó có ba trung đoàn, sau đó bị giải thể điều đi các sư đoàn khác. Cựu chiến binh thuộc các trung đoàn thì có đấy ,nhưng mới bổ sung vào sau này, khi trung đoàn mới được thành lập lại mà không được chiến đấu thời Pơ lây me. Không sao ,miễn là có hơi hướng con em của sư đoàn một là được rồi. Thế là văn phòng nhà nước phát giấy mời ,triệu tập được gần hai mươi người, về phủ chủ tịch họp mặt ,công bố quyết định của chủ tịch nước tuyên dương: “Sư đoàn một , đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, do chính tay chủ tịch nước Trương Tấn Sang trịnh trọng gắn huân chương anh hùng lên quân kỳ .Sau đó là chụp ảnh lưu niệm và tặng quà cho các cựu chiến binh, rồi về Bộ quốc phòng chiêu đãi trọng thể. Nhiều người trong số được mời về rất lấy làm phấn khởi, vì được vinh dự lây với chiến công của sư đoàn một trước đây, chứ họ có biết Pờ lây me ở đâu đâu (!)
Lủi thủi ra về
Hôm sau, sau khi chia tay các cán bộ mới được đề bạt, các chiến hữu cùng đơn vị 2072 cũ lên đường đi nhận nhiệm vụ mới ở các đơn vị trong sư đoàn. Nam Sao được gọi về cơ quan tỉnh đội để nhận quyết định về hưu. Thượng tá Trịnh Phàn, tỉnh đội trưởng vừa mới đeo lon đại tá mới toanh ,trông thấy Nam Sao từ đằng xa đã reo lên:
-A, chào người anh hùng chiến thắng trở về !- Rồi hồ hởi chạy lại ôm chầm lấy Nam Sao ra vẻ thân mật lắm. Nam Sao buộc lòng phải chào hỏi theo phép lịch sự và lễ tiết quân nhân.
- Vâng ,tôi lên nhận quyết định về hưu đây . Anh trao ngay cho tôi để tôi về.
- Cứ bình tĩnh ,vào đây uống nước , rồi kể chuyện chiến đấu đã .Cơ quan cán bộ sẽ đưa giấy tờ sau.- Thực lòng Nam Sao không muốn tiếp xúc với người tỉnh đội trưởng hay sơn sớt nói cười này. Đã bốn năm làm chủ nhiệm công binh trước đây đủ cho anh hiểu về con người này. Anh ta cũng cùng trà tuổi với Nam Sao, cùng quê với anh, chỉ cách nhau một cánh đồng, ở xã trên và xã dưới, cùng đi cướp chính quyền ở huyện và cùng nhập ngũ với nhau từ năm 1945. Bố anh ta trước đây là cường hào gian ác có tiếng một thời của chế độ cũ, sau này giải phóng miền Bắc bị quy là địa chủ phản động gian ác và bị nông dân sử bắn ngay từ đợt đầu tiên. Anh ta tỏ vẻ ăn năn, làm đơn tuyên bố cắt đứt quan hệ với gia đình, lại có tài nịnh nọt cấp trên rất khéo léo, nên không phải ra đơn vị chiến đấu bao giờ, mà suốt đời chỉ làm anh trợ lý dân quân từ huyện này đến tỉnh khác, rồi trưởng thành lên chỉ huy dân quân từ cấp huyện đến cấp tỉnh .Anh ta cũng có tiếng là chuyên gia lật đổ cấp trên để tiếm quyền. Cách đây dăm năm khi gặp lại Nam Sao, anh ta đã là tỉnh đội trưởng một tỉnh lớn ở miền Bắc đó là tỉnh Thanh Hóa .Khi đó Trịnh Phàn đeo quân hàm thượng tá, còn Nam Sao vẫn đeo quân hàm thượng úy bạc màu. Qua hỏi thăm bạn bè. Trịnh Phàn biết Nam Sao ở binh chủng Công binh ,chiến đấu giỏi ,lập nhiều chiến công trong kháng chiến chống Pháp và nhiều thành tích huấn luyện trong thời bình, đang là tiểu đoàn trưởng công binh của một sư đoàn đóng quân tại địa phương. Trịnh Phàn cũng biết anh trai của Nam Sao đang ở hàng ngũ đối phương ,trước theo Pháp ,rồi nay theo Mỹ ,vì thế Nam Sao bị liên quan chính trị, khó ngóc đầu lên được, Trịnh Phàn còn biết Nam Sao tuy chưa được vào Đảng, nhưng vẫn được cất nhắc lên là cán bộ tiểu đoàn, vì khả năng và thành tích chiến đấu của anh ta và nhất là trong thời kỳ huấn luyện quân đội chính quy và hiện đại ngày nay. Năm 1965 giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân, đánh phá ác liệt nhất là tỉnh Thanh Hóa, hòng ngăn chặn đầu mút giao thông chi viện vào chiến trường miền Nam. Tiểu đoàn 15 công binh của Nam Sao thuộc sư đoàn 304 đóng quân ngay trên đất Thanh Hóa được lệnh đi khắc phục hậu quả, sửa chữa cầu đường, phá gỡ bom đạn, bảo đảm giao thông. .Chiến tranh phá hoại ngày càng phát triển, việc bảo đảm giao thông ngày càng khó khăn, tỉnh đội cần phải tổ chức lực lượng công binh chỉ đạo nhiệm vụ nặng nề này. Trịnh Phàn liền gặp Nam Sao và rủ Nam Sao về tỉnh đội với mình, với những lời hứa hẹn ngon ngọt đầy tình bạn hữu, Nam sao cũng muốn thay đổi môi trường ,nên đồng ý, Trịnh Phàn liền làm công văn đề nghị với Quân Khu xin đích danh Nam Sao về làm chủ nhiệm công binh tỉnh đội. Nam Sao vừa là chấp hành mệnh lệnh ,vừa là tình cảm bạn bè đồng hương nên vác ba lô về tỉnh đội và bắt tay vào việc ngay ,hy vọng ông bạn đồng hương này thông cảm với hoàn cảnh mình mà gỡ mối dây oan nghiệt cho mình được chăng. Nhưng Trịnh Phàn, bề ngoài thì thơn thớt nói cười, tỏ vẻ thương hại và thông cảm với Nam Sao, và hứa sẽ tích cực giúp đỡ anh để cởi trói cho anh khỏi gông cùm oan nghiệt đó. Nhưng thực tế lại ngược lại, bản thân anh ta trước đây cũng bị thành phần là con nhà địa chủ cường hào ác bá, nên anh ta tìm mọi cách xoay sở, bằng cách ton hót ,đút lót xu nịnh cấp trên, và luôn luôn tỏ ra là lập trường giai cấp vững chắc, bằng cách rèm pha ,hắt hủi những người cùng cảnh ngộ như mình, để gây được lòng tin của một số cán bộ hay ưa nịnh, không tài giỏi gì ,rồi cứ tuần tự như tiến lên cấp lên chức trong các cơ quan dân quân ,mà chẳng phải ra mặt trận, chẳng tốn một tí mồ hôi xương máu nào. Anh ta có tài ăn nói lưu loát, báo cáo với cấp trên rất hay và động viên rất khéo cấp dưới để họ lao vào khó khăn nguy hiểm chiến đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ cho mình. Rồi lại biểu dương, động viên khen thưởng, ca ngợi họ hết lời. Nhưng cuối cùng họ cũng chỉ được những lời nói suông hoa mĩ mà thôi .Còn báo cáo lên trên thì thành tích chủ yếu lại là do Đảng ủy và chỉ huy lãnh đạo giỏi, tức là của anh ta nên mới đạt được. Còn cấp chức là do cấp trên ,cấp quân khu ,cấp Bộ quyết định chứ anh ta không có thẩm quyền, anh ta chỉ lập danh sách đề nghị ,những chân tay ,vây cánh của anh ta mà thôi. Khi một người bạn của Nam Sao nói thẳng với Trịnh Phàn rằng :
- Các ông nỡ để cho Nam Sao mang quân hàm suốt mười bốn năm trời, từ khi phong quân hàm đến nay chỉ ở một cấp thôi sao, ông ta chẳng có tội tình gì, mà chiến công và khen thưởng thì mấy người đã được bằng ông ta?- Trịnh Phàn liền cười khà khà lấp liếm mà nói lớn rằng:
- Còn có một người nữa từ khi phong quân hàm đến nay cũng chỉ có một cấp đó, các ông biết ai không?
- Ai cơ ?
- Thì đại tướng Võ Nguyên Giáp đấy chứ ai? cụ ấy có thắc mắc gì đâu nào?
-Nói như ông thì hết chỗ nói rồi !Ai lại bì với một lãnh tụ được (!). Nam Sao sang ban cán bộ nhận quyết định về hưu, mới biết giấy tờ người ta ký sẵn từ mấy tháng trước rồi, có lẽ lúc đó anh còn đang chỉ huy chiến đấu ở Tây Ninh. Trưởng ban cán bộ hỏi:
-Anh có thắc mắc gì không ? hoặc có kiến nghị gì không? Nam Sao liền trả lời:
- Tôi chẳng có thắc mắc gì cả, mấy chục năm chiến đấu trong quân đội ,mà còn được cái đầu trở về ,để nay được về hưu thế này, là may mắn ,hạnh phúc lắm rồi. Nhiều đồng chí đã hy sinh, bản thân và gia đình họ còn thiệt thòi ,đau khổ biết bao nhiêu, mình phải cảm ơn họ.
- Anh có đề nghị gì không?
- Chẳng đề nghị gì cả, giấy tờ đã ký từ cách đây mấy tháng rồi, thử hỏi đề nghị còn có nghĩa lý gì ?
Anh liền chào và ra về luôn, từ chối lời mời vuốt đuôi của Trịnh Phàn và anh em cơ quan,
mời ở lại ăn bữa cơm liên hoan chia tay. Thực chất là khao Trịnh Phàn mới lên lon đại tá (!)
Chương 12
CÔNG TY GẠCH NGÓI THUẬN BẰNG
Trong tình hình kinh tế khó khăn của đất nước .Đảng và nhà nước đã đề ra chính sách mở cửa, cho phép phát triển nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân. Nhiều địa phương đã tìm ra lối thoát, bước đầu thí nghiệm cho kinh tế tư nhân phát triển. Riêng hợp tác xã Kim Anh còn đang loay hoay chưa tìm ra lối thoát. Nhưng rồi cái khó ló cái khôn, nghe đồn ở đâu đó người ta đã đổi mới cách làm ăn, bằng cách bán hóa giá tài sản và một số ruộng đất cho các doanh nghiệp hoặc tổ hợp tư nhân để chuyển đổi sản xuất, mà hợp tác xã và Ủy ban xã vẫn được hưởng lợi nhuận phần trăm theo mức thuế của nhà nước quy định. Thế là Ban quản trị hợp tác xã đi nghiên cứu thăm dò thấy có thật như thế. Rồi về bàn nhau thống nhất ,trước hết là bán đấu giá khu lò gạch để lấy tiền trả nợ ngân hàng ,sau nữa là vẫn giải quyết công ăn việc làm cho một số xã viên .Đề án này được thông qua Đảng ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã đều nhất trí ,để giải quyết khó khăn cho hợp tác xã trong tình hình chung hiện nay .Nghị quyết được cấp trên huyện,tỉnh chuẩn y và cung cấp cho đầy đủ các văn bản quy định của nhà nước ,rồi công bố trong các cuộc họp xã viên, các đoàn thể và trong nhân dân .Chỉ còn chờ đợi các cá nhân, doanh nghiệp ,tổ hợp đến đăng ký làm thủ tục mua bán thôi.
Nhưng rồi một tháng ,hai tháng, ba tháng... cũng không thấy ai đến đăng ký mua. Thời bấy giờ ,đất nước còn nghèo, việc làm ăn kinh doanh chưa được phát triển, chưa có kinh nghiệm .Số người giầu có cũng chưa có nhiều, bỏ một số tiền lớn ra để mua bất động sản cũng đã khó ,lại còn phải có vốn kinh doanh nữa,không phải ai cũng dám bỏ ra .Mặt khác người ta còn phải nghe ngóng xem chế độ này có thực lòng cho phát triển kinh doanh cá thể không, hay lại như cải cách ruộng đất ,hay lại như cải tạo công thương nghiệp trước đây đã làm,chỉ là lấy của người giầu cho người nghèo, nhưng rồi cũng chẳng làm ăn được gì ,mà chỉ là phá hoại kinh tế ,phá hoại sản xuất mà thôi nên những người có tài và những người có khả năng có tiền cũng còn đắn đo nghe ngóng xem sao đã. Ban quản trị hợp tác xã ,Đảng ủy, Ủy ban xã cũng sốt ruột trước tình hình kinh tế của nông thôn đang ngày càng khó khăn, việc tìm kiếm công ăn việc làm cho nông dân và vấn đề xóa đói giảm nghèo đang đi vào con đường bế tắc .Bao nhiêu cuộc họp lớn nhỏ, mở rộng củả ban quản trị ,của đảng ủy và ủy ban,vẫn chưa tìm ra được phương sách khả dĩ. Một ý kiến đề ra:
-Phải đi vận động, phải đi mời những người có tài ,có khả năng đứng ra đảm nhiệm cho làng cho xã may ra mới có người dám làm. -Ý kiến này xem ra được mọi người tán thành. Họ cử ra một tổ có chức quyền đi vận động gồm: Bí thư Đảng ủy xã, Chủ tịch xã và Chủ nhiệm hợp tác xã, là những người có chức có quyền cao nhất để vận động và thương thuyết ,giải đáp những vấn đề có liên quan đến chính sách và luật pháp của nhà nước mới được. Trước hết ưu tiên đi vận động trong làng xã rồi mới đến bên ngoài. Trong làng xã ,người ta điểm danh đến các vị có chức sắc hiện hành, và những người có máu mặt xem có ai dám đứng ra làm được không, cũng có người dám đứng ra làm đấy nhưng lại không có khả năng làm kinh tế lớn và nhất là không có vốn. Cuối cùng nhiều ý kiến cho rằng chỉ có một người có thể làm được ,đó là Nguyễn Văn Thuận,anh này vừa có vốn lại vừa có năng lực làm kinh tế, hiềm một nỗi là anh ta đang lao vào làm trang trại ,không biết anh ta có dám làm lò gạch nữa không ?- Cứ thử vận động xem sao. Thế là ba ông lãnh đạo của xã thống nhất cùng đến thăm trang trại của Thuận Bằng.
Một buổi sáng mùa hè đẹp trời, gió hiu hiu mát rượi. Ba ông cán bộ xã đạp xe đạp đến thăm nhà ông Thuận, vừa tới cổng ,các ông đã xuống xe đạp và gọi lớn:
-Ông Thuận có nhà không đ ...ới !
Ông Thuận đang cắt tỉa cây cảnh ở ngay trong sân nhìn ra cổng nhận ra ba ông cán bộ to của xã ,liền trả lời: - có đây có đây!-Rồi vội vàng chạy ra mở cổng và tươi cười đón khách: - Xin mời các anh vào chơi xơi nước. Chà hôm nay chắc là một ngày tốt đẹp ,nên rồng mới đến nhà tôm đông thế này. Mà vinh dự cho gia đình tôi lại được đón cả ba vị lãnh đạo cao nhất xã thế này thì rất là vui và chắc là một điềm tốt lành rồi.-Ông Thuận dẫn khách vào trong nhà khách,rồi mời : Mời các anh vào trong nhà,mời các anh ngồi ! -Ông Thuận nhanh chóng phà trà và rót ra chén đưa mời từng khách: - Rước các anh xơi nước! -Mùi trà thơm phức lan tỏa khắp phòng, hơi từ các chén bốc lên nghi ngút nhẹ nhàng.
-Nào mời các ông xơi nước đi! Sau khi nhấp trà xong ,đồng chí Bí thư đảng ủyxã nói: -Hôm nay thường vụ xã đến đây trước hết là thăm trang trại của bác, sau đó là bàn với bác về phát triển công nghiệp cho xã ta đây! -Đồng chí chủ tịch xã tiếp lời: -Trang trại của nhà bác thì từng người chúng tôi cũng đã đến thăm nhiều lần rồi, hôm nay mới có điều kiện để cả ban thường vụ Đảng ủy đến bàn với bác về vấn đề gạch ngói đây. Rồi đến đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã cũng tiếp luôn : - Về mặt nông nghiệp mà nói thi bác đang là ngọn cờ đầu của xã ta rồi, mà trang trại của bác có khi còn nhất nhì của cả huyện đấy. Hôm nay chúng tôi đến đây là muốn mời bác tham gia vào phát triển công nghiệp cho xã nữa đây.
-Vâng, xin mời các anh xơi nước đã, rồi đề nghị các đồng chí cứ cho ý kiến trước đi. - Ông Thuận từ tốn nói tiếp -Tôi xin lắng nghe và tiếp thu để bàn bạc trong gia đình với bà ấy nhà tôi và các cháu cho thống nhất. Các cụ đã dậy: Thuận vợ thuận chồng thì tát bể đông cũng cạn cơ mà.
-Vâng, bác đã nói như vậy thì được rồi, hôm nay chúng ta cứ thẳng thắn bàn bạc nhá -Đồng chí bí thư cười hà hà rồi nói tiếp. Chắc các thông báo gần đây của Đảng ủy, chính quyền và của hợp tác xã bác đã được nghe ,được xem rồi.Tình hình kinh tế hiện nay của hợp tác xã và của cả xã ta hiện nay không nói bác cũng đã rõ, vấn đề là nông dân hiện nay cũng thất nghiệp ,đời sống nhân dân đang gặp nhiều khó khăn, không có công ăn việc làm. Nếu chúng ta phát triển được nhiều trang trại như nhà bác, trang trại chăn nuôi , rồi trang trại trồng lúa, trang trại trồng màu ,đồng thời phát triển thêm công nghiệp ,trước mắt là xưởng gạch ngói thì mới giải quyết được việc làm cho bà con,mới có thu nhập để nâng cao đời sống cho xã viên được. Việc phát triển trang trại thì bác đã đi đầu rồi và đang dìu dắt một số trang trại nhỏ.Thế là rất tốt, thay mặt lãnh đạo xã chúng tôi rất hoan nghênh và cảm ơn bác. Nhưng hôm nay, Đảng ủy ,ủy ban và hợp tác xã cũng đã bàn rồi ,ở xã này bây giờ chỉ có bác và gia đình bác là đủ khả năng và tài sức đứng ra lập xưởng gạch ngói làm ăn theo quy mô tương đối lớn, trước mắt là giải quyết công ăn việc làm cho một số bà con,từ đó mới xóa đói giảm nghèo phần nào cho xóm làng, rồi mới dần dần phát triển sang các nghành nghề khác được.
Rồi đồng chí chủ tịch và đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã cũng còn nói thêm nhiều nữa , đại khái cũng như đồng chí bí thư đã nói. Chung quy cũng chỉ là đề cao vai trò ông Thuận lên như kiểu chỉ có ông Thuận là người cứu tinh của làng xã lúc này thôi. Ông Thuận ngồi nghe hàng tiếng đồng hồ, cũng chỉ vâng vâng dạ dạ để đỡ lời cho vui vẻ. Ông Thuận nghĩ mà buồn, giá như trước đây một hai năm các ông lãnh đạo xã này cũng biết điều như bây giờ ,thì xã này không đến nỗi khó khăn và thua kém nhiều nơi .Trước đây đang yên đang lành thì họ hất cẳng ông Thuận để cho con cái vào làm, tưởng là vơ vét được,nào ngờ con cái các ông lại làm đổ vỡ cả và hậu quả bây giờ là các ông phải đi vận động mà cứ như phải đi van xin ông Thuận đứng ra gánh vác công việc đổ vỡ khó khăn này cho làng cho xã vậy.
-Vậy ý kiến bác Thuận thế nào ? –có khó khăn gì không ?
Có khó khăn gì bác cứ nêu ra rồi chúng ta cùng bàn bạc. Lãnh đạo xã chúng tôi hoàn toàn tín nhiệm bác, chúng tôi sẽ tạo mọi điều kiện để bác đứng ra làm vì làng vì xã. - Ông chủ nhiệm sốt ruột chưa thấy ông Thuận nói gi liền gợi ý - Hay là bác tạm dừng phát triển trang trại một thời gian để tập trung vào phát triển công nghiệp gạch ngói đã ,có được không ?
Ông Thuận tiếp nước chè vào các chén của khách rồi từ tốn mời khách:
-Mời các anh cứ uống nước đi ,để tôi xin có ý kiến thế này, các đồng chí đã nói như vậy tôi xin tiếp thu để: một là đọc lại các văn bản của nhà nước cho rõ ràng,hai là để bàn bạc trong gia đình với nhà tôi và các cháu cho đồng thuận đã và xin phép được trả lời với xã sau mười ngày nữa. Tôi cũng xin nói thêm là ,nếu được nhà nước cho mở cửa làm ăn với phương châm ích nước lợi nhà, bảo đảm sòng phẳng theo chính sách đã ban hành, thì chúng tôi rất hoan nghênh và thấy có thể làm được, chỉ còn vấn đề là làm ở quy mô nào? Mười triệu viên năm hay hơn nữa? Phải làm bằng máy móc ,chứ không thể làm bằng thủ công như trước được ,như thế đòi hỏi phải có thời gian huấn luyện công nhân,phải cóthời gian xây dựng cơ bản cho hầm lò, nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị , việc bảo đảm hợp đồng điện, xăng dầu chất đốt vân vân ...Sau mười ngày nữa tôi xin trả lời và sẽ có đề án cụ thể báo cáo với xã rồi sẽ bàn chương trình ký kết hợp đồng cụ thể sau. Bây giờ xin mời các đồng chí xem như thế có được không ạ?
-Thế thì hay quá rồi ,hoan nghênh bác Thuận -Bí thư đảng ủy nói - Bác cứ bàn bạc với bác gái và gia đình cho thống nhất, vấn đề là trong lúc đất nước kinh tế đang khó khăn này, cần phải có người vì dân vì nước mà dám bỏ tiền bạc,bỏ công sức ra làm, với khẩu hiệu ích nước lợi nhà ,hai bên cùng có lợi.
-Cảm ơn bác Thuận –Chủ tịch xã nói -như thế là có người dám xung phong đi trước, đứng mũi chịu sào rồi, chỉ còn vấn đề là quy mô sản xuất đến đâu thôi ,bác cứ làm đề án cụ thể rồi lãnh đạo xã sẽ cùng góp sức với bác tháo gỡ khó khăn để làm bằng được cái công nghiệp hóa đầu tiên của xã ta này để làm đà cho những ngành nghề khác.
-Nếu mấy ông lãnh đạo xã trước đây không lắm thầy thối ma - Chủ nhiệm hợp tác xã nói tiếp- thì xã ta cũng có xí nghiệp gạch ngói do bác Thuận làm giám đốc rồi, thì bây giờ chúng ta chỉ việc phát triển lên, chứ không phải gây dựng từ đầu như thế này. Cũng may nhà nước đã mở cửa cho phát triển kinh tế tư nhân ,kinh tế gia đình, thì những người có năng lực như bác Thuận tha hồ mà vùng vẫy làm cho dân giầu nước mạnh, dân có giầu thì nước mới mạnh được. Bác Thuận đã có trang trại tương đối giầu rồi nay phát triển thêm công nghiệp nữa thì trở thành đại gia nhất xã đấy, như thế là bác đi cả hai chân nông nghiệp và công nghiệp đều mạnh, dân xã ta có nhờ công ăn việc làm thì chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo của xã ta cũng đỡ khó khăn...
Vừa lúc đó thì bà vợ ông Thuận và hai cháu gái bưng mâm từ dưới bếp lên .Bà Bằng nhanh nhẩu chào mời:
- Chào các ông ,thôi mời các ông tạm nghỉ ,chả mấy khi các ông đến thăm trang trại, gọi là có lưng cơm rượu nhạt mời các ông dùng với trang trại cho vui.- Mấy ông khách đều đồng thanh niềm nở chào:
-Chào bà chị !,chào bác gái!. Chào các cháu,!thế này thì quý hóa quá ! Cơm rượu trang trại thì nhất định là ngon rồi, bà với các cháu làm lúc nào mà nhanh thế nhỉ.!
-Mời các đồng chí sang bàn ăn -Ông Thuận mời từng người vào ghế ngồi ở bàn ăn ngoài sân có mái che và vườn hoa cây cảnh ở xung quanh trông rất nên thơ ..Ông Thuận rót rượu vào từng chén và mời :
- Nào mời các anh,các đồng chí nâng chén .Mọi người cùng nâng chén.
–Nào xin mời !
-Ấy xin mời cả bác gái và các cháu cùng ăn cho vui -Mấy ông khách đều nói - Thôi xin phép các anh , bà ấy nhà tôi và các cháu ăn ở dưới nhà, còn nhiều việc nữa ạ! -Ông Thuận đỡ lời - Ở đây chỉ có bốn chúng ta thôi, vừa ăn vừa bàn công việc cho tiện. Nào xin mời !
-Xin mời! – Chúc các bác mạnh khỏe ! Trang trại ngày càng phát triển.!
-Chúc cho việc xây dựng công nghiệp xã nhà thành công tốt đẹp! Cả khách và chủ đều cạch chén: Chúc mừng ! -Bữa cơm rượu kéo dài đến quá trưa thì các ông lãnh đạo xã cũng đã ép ông Thuận đồng ý nhận lời làm, mười ngày sau chỉ là để báo cáo đề án và bàn ký kết hợp đồng thôi. - Các ông ra về đều vui vẻ hể hả vì đã vận động được người đứng ra gánh vác công việc nặng nhọc này cho xã,và các ông đều có một niềm tin là ông Thuận nhất định sẽ làm được.
Tối hôm đó ông Bí thư đảng ủy già đã về hưu cách đây gần mười năm đến chơi nhà ông Thuận. Sau vài tuần trà, ấm nước, mới ngồi khề khà với nhau. Ông bí thư cũ nhắc lại những chuyện xa xưa ,thời ông còn công tác,ông nói với ông Thuận giọng có vẻ bùi ngùi luyến tiếc:
-Giá dạo ấy “chúng tôi” quyết tâm xây dựng xí nghiệp gạch ngói và bầu ông làm giám đốc thì xã ta đã phát triển mạnh và giầu có hơn nhiều, chứ không lạch bạch mãi như thế này. Thế mới biết chưa có cái anh công nghiệp hóa là chậm phát triển ngay. Ông Thuận nhìn ông bí thư già vẻ thăm dò và nói :
-Thì dạo ấy bác làm bí thư đảng ủy chứ ai ? -Ông bí thư già thật thà:
-Vâng , dạo ấy tôi làm bí thư thật, nhưng mình tôi có quyết định được đâu.,còn nhiều cơ chế chính sách ,lại nhiều ý kiến bàn ra tán vào ,lắm thầy thối ma lắm. Ông bí thư dừng lại một lát như để suy ngẫm rồi nói với giọng nhỏ hẳn đi và với vẻ ân hận, hối tiếc :
-Đúng, tôi dạo ấy cũng thiếu kiên quyết đấu tranh, còn mải lo cho cái ghế chức quyền của mình, mà không nghĩ đến bà con dân xã trước nên đã sảy một ly đi một dậm ,thế đấy ! Ông bí thư cũ nói xong ,lắc lắc cái đầu tỏ vẻ không bằng lòng với mình, rồi trút ra một hơi thở dài như bớt được một gánh nặng khi ông nói hết ra nỗi dằn vặt của mình bấy lâu nay. Ông Thuận bỗng cười to như để xua tan không khí nặng nề :
-Thôi bác ạ ,mọi chuyện đã qua rồi ,nhắc lại làm gì cho thêm mệt Thế mới biết các cụ đời xưa đã dậy rằng: ” Điều gì có thể bảo vệ cho lẽ phải mà không dám nói ngay thì còn ân hận suốt đời”
-Vâng, điều ông nói chí lý lắm .Chỉ tiếc là tôi bây giờ thì chẳng còn làm gì được nữa! Đến lúc này tình hình kinh tế suy thoái, các ông lãnh đạo xã mới ,và bà con trong làng xóm càng thấy tài năng của ông. Không làm gạch của hợp tác thì về ông lại làm trang trại, chỉ mấy tháng sau thì trang trại nhà ông đã to nhất xã ,hỏi cả làng cả xã này về mặt làm giàu thì ai đã hơn ông .Bây giờ xã đã đến vận động ông thì ông cũng nên vì làng vì xã mà nhận lấy việc khó khăn này đi. Mọi người đều tin rằng ông sẽ làm được tốt, hãy làm một nhà máy gạch ngói to vào để mở mày mở mặt làng xã ta đi, cho các nơi biết thế nào là Kim Anh. Ý ông thế nào?
Ông Thuận từ bấy giờ vẫn nghe ông bí thư già nói lên những điều ân hận của ông ,thời ông còn làm việc, để xoa dịu tinh thần của ông Thuận và bây giờ ông cũng thực lòng ủng hộ ông, để gây lại lòng tin của ông. Ông Thuận cũng không khách sáo thành thật trả lời: - Làm thì làm được thôi, nhưng còn phải suy nghĩ tính toán làm đề án hẳn hoi, tôi đã hứa với lãnh đạo xã mười ngày nữa tôi sẽ báo cáo đề án vớí xã và chuẩn bị ký kết hợp đồng với xã rồi.
-Hoan hô ! Tôi đã bảo với các ông ấy là ông sẽ nhận và nhất định làm được mà!- Ông bí thư Đảng ủy già nắm chặt lấy tay ông Thuận. Xin chúc mừng ông. Cuối cùng thì vẫn phải đến tay ông, chứ chẳng có ai dám nhận và làm được đâu!
Ngay ngày hôm sau Nguyễn Văn Thuận liền làm cuộc hành trình đi đến một số xí nghiệp, nhà máy gạch ngói quen biết quanh khu vực để tham khảo quy cách thiết kế các lò xưởng và liên hệ hợp đồng chi viện xây dựng ban đầu,trong đó có xí nghiệp gạch ngói Kiến An , nhà máy gạch Cầu Mây, ra cả nhà máy gạch ngói Giếng Đáy...Mỗi nơi ông đều nghiên cứu một tới hai ngày để học tập và bàn với các nhà máy, xí nghiệp cử chuyên gia, kỹ sư giỏi giúp đỡ chi viện về kỹ thuật xây dựng cơ bản và một số thợ nòng cốt sản xuất bước đầu. Đặt mua một số máy móc tối thiểu trước mắt. Ở mỗi nơi ông đề nghị giúp đỡ một việc, là việc ưu thế nhất của nhà máy đó mà không làm ảnh hưởng tới việc sản xuất của nhà máy xí nghiệp đó.Việc mua sắm trang thiết bị cũng vậy, đặt mua đồng bộ cho cả nhà máy sắp tới nhưng nhận hàng từng bước theo yêu cầu sản xuất, mà không phải bỏ vốn ban đầu ra cùng một lúc.
Sau một tuần lễ đi tìm kiếm nguồn lực và trí lực đó, ông Thuận đã hình thành sơ bộ trong óc quy mô nhà máy của mình.Về nhà ông mới tập trung làm đề án và kế hoạch xây dựng. Rồi bàn bạc với vợ con về cách làm ăn sắp tới. Phân công cụ thể như sau: Bà Bằng sẽ chuyên trách quản lý trang trại, ông Thuận sẽ chuyên trách quản lý nhà máy gạch ngói. Hai việc cùng song song với nhau và hỗ trợ cho nhau,như kiểu nông nghiệp và công nghiệp trong một gia đình,nhưng vẫn lấy nông nghiệp làm cơ bản ,lấy công nghiệp làm chủ trì phát triển. Các con vẫn tập trung học hành nhưng phân công lúc rảnh rỗi một nửa phụ giúp mẹ ,một nửa phụ giúp cha,sau này sẽ thay thế cha mẹ khi cha mẹ già yếu. Còn trước mắt thì thuê mượn nhân viên kỹ thuật, nghiệp vụ và công nhân lao động là chủ yếu. Bà Thuận và các con đều vui vẻ đồng lòng với ý kiến của ông Thuận .Bố mẹ và các con đều hiểu rằng đây là thời cơ để làm giầu mà trời phú cho gia đình mình,đây cũng là kết quả của việc rèn luyện trí tuệ, bản lĩnh và công sức lao động của bố mẹ đã trải qua mấy chục năm qua mới có thời cơ này.
“Thuận dái cá”
Về tiền nong để mua đất đai và làm vốn kinh doanh ,ông Thuận bàn với bà Bằng xuất quỹ tiết kiệm của ông bà có dăm triệu và dăm chục cây vàng ra,và xuất bớt vài tấn lợn lớn trong trang trại... tổng số hơn chục triệu cũng đủ số vốn ban đầu. Ông Thuận có ngờ đâu công sức đánh cá của ông hàng chục năm trước đây mà bà Bằng đã dành dụm được một số vàng đáng kể để bây giờ khi cần mới tung ra .Ở làng Lễ này, trước đây ông Thuận không chỉ là một tay cày bừa,làm ruộng giỏi mà còn là một tay kiếm cá cừ khôi bằng đủ các kiểu: từ câu cá ,kéo vó , úp nơm, đến thả lưới ,đánh cụp, chắn đăng đơm đó, mùa cạn thì đánh dậm ,mò tát thùng đấu, mùa rét bắt cá cóng ,mùa nắng thì bắt cá chui hang ,rúc bùn...Nghề này là do cụ Ruy bố đẻ truyền dậy cho từ khi bé. Thuận hay đi theo bố xách thời , xách giỏ rồi được bố bày vẽ cho cách kiếm cá,rồi anh được bạn bè trong làng xóm gọi là “Thuận dái cá” từ bao giờ không biết. Chỉ biết rằng bạn bè cùng rủ nhau đi kiếm cá thì bao giờ dỏ của Thuận cũng đầy cá hơn các bạn.
Khi hai anh trai lớn đi thoát ly rồi, anh cả đi lính Pháp,anh thứ hai đi bộ đội Vệ quốc đoàn, bố cũng đã già yếu không đi kiếm ăn được nữa, chỉ còn mình Thuận vừa cày bừa cấy hái ngoài đồng vẫn kiếm cá làm thức ăn hàng ngày cho cả nhà, mùa nào cá nấy, hôm nào bận quá thì cũng có vài mớ tôm mớ tép để ăn tạm vài bữa. Thời gian làm đội trưởng đội gạch ngói hợp tác xã ,ban ngày chỉ đạo và lao động sản xuất ,ban đêm trông nom canh gác lò là thời gian kiếm cá được nhiều nhất. Những năm đó nước to,hoặc những trận mưa lớn,nước ngập tràn cả thùng đấu lò gạch ,có khi ngập cả sân bãi của lò, cá mú tràn vào nhiều vô kể.Thuận vừa đặt lờ vữa kéo vó suốt đêm đến sáng mỗi đêm được hàng thúng cá cho vợ đem ra chợ bán chỉ để lại nhà một ít đủ ăn.
Một lần đang làm gạch ở Phả Lại, đi chơi ra thăm bờ sông ,thấy một thuyền đánh cá cỡ khá lớn , mới ghé xuống thăm và hỏi chuyện đánh cá, được chủ thuyền vui vẻ tiếp chuyện. Thuận bỗng thấy cả một khoang thuyền lưới đầy ắp những lưới là lưới. Thuận mởi hỏi :
- Bác đánh cá gì mà dùng nhiều lưới thế này ? Mà lưới gì lại dài thế này nữa?- Ông chủ thuyền thấy có người quan tâm đến nghề nghiệp của mình ,cũng hồ hởi trả lời:
-Đánh các loại cá bình thường thôi, nhưng tôi dùng loại lưới ba màn này kiếm tốt lắm !
-Lưới ba màn à, nó như thế nào ,bác cho tôi xem một cái được không?
-Sẵn sàng thôi , anh cứ xem . Nói rồi ông chủ thuyền liền kéo ra một đầu tấm lưới đưa cho Thuận cầm .- Đây anh xem đi ,nhưng mỗi tấm dài một trăm mét cơ đấy, anh cứ kéo một đoạn ra mà xem. Thuận liền kéo ra một đoạn dài hết hai khoang thuyền, vừa xem vừa hỏi tỷ mỉ từng màn từng lớp một. Ông chủ thuyền cũng vui vẻ giảng giái cho Thuận từng chi tiết của lưới. Sau khi xem và nhập tâm xong Thuận hỏi ông chủ thuyền:
- Vậy một đêm bác thường đánh được bao nhiêu cá ?
- Khoảng một đến hai tạ cá các loại -Ông chủ thuyền cười và trả lời vởi vẻ phấn khởi tự hào.
-Thế thì Bác để đâu hết tiền?
- Không thế thì làm sao nuôi nổi một đàn con tám đứa, lại còn tiền vốn mua lưới cũng khá tốn chứ.
-Bác giỏi thật đấy, phục tài bác!
Sau chuyến đó, về nhà Thuận quyết tâm tự nghiên cứu đan lấy một tấm lưới ba màn giống như của ông chủ thuyền đánh cá ở Phả Lại. Thuận đạp xe ra Hải Phòng tìm mua mấy cân sợi cước và một ít sợi dường, phao ,chì... về để làm.Vốn là con nhà chài lưới nên Thuận và người nhà cũng đều biết đan cả,chỉ phải hướng dẫn cụ thể mà thôi . Sau một tháng hoàn thành được năm mươi mét lưới ba màn ,một mặt vẫn đan tiếp,một mặt anh đem thử nghiệm trên đồng đất quê mình. Chỉ một đêm đầu tiên anh đã đánh được khoảng sáu mươi cân cá các loại, làm cho cánh bạn cùng đánh cá phải hốt lên; Thế này thì cánh mình phải bỏ nghề mất thôi ,có ít cá nào thì tay Thuận nó vét hết cả rồi. Từ đó Thuận còn đan thêm lưới ba màn dài nữa, rồi ban ngày đi lao động ngoài lò gạch ,ban đêm lại đi đánh cá ngoài đồng ,ngoài sông quần quật suốt ngày đêm không biết mệt là gì .Đến nỗi hôm nào vợ con cũng phải gánh hàng gánh cá ra chợ bán. Mỗi lần bán cá chị Bằng lại tích tiền lại rồi mua vàng để dành làm vốn .Giá vàng hồi đó rẻ, ngày ít ngày nhiều, bình quân mỗi ngày trong mùa cá chị mua được một chỉ, có khi hơn, mỗi năm cũng được tới ba bốn cây. Số vàng tích được cả hai vợ chồng đều nhất trí không tiêu pha gì đến số vàng đó. Bẵng đi hơn hai mươi năm trời tích lũy cũng được kha khá, vẫn cứ giữ nguyên đấy .Bây giờ mới là lúc cần đến, đủ sức góp vào vốn ban đầu để xây dựng xí nghiệp gạch ngói này.
Đúng mười ngày sau ,một cuộc họp ở hội trường của xã để nghe Nguyễn Văn Thuận báo cáo về đề án xây dựng Công ty trách nhiệm hữu hạn gạch ngói Thuận Bằng. Thành phần gồm : Cả ban đảng ủy xã, ban chính quyền xã, ban chủ nhiệm hợp tác xã, các cán bộ đầu ngành của xã, thôn, gồm khoảng trên hai mươi người do chủ tịch xã chủ trì. Cuộc họp diễn ra gần một ngày trời. Sau lời tuyên bố lý do của chủ tịch xã và ý kiến phát biểu của bí thư đảng ủy về tầm quan trọng của việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn gạch ngói Thuận Bằng mở đầu cho việc phát triển kinh tế giai đoạn mở cửa của xã nhà. Đây là bước đột phá đầu tiên để rút kinh nghiện và mở ra cho nhiều tổ hợp ,xí nghiệp ,ngành nghề khác cho xã nhà phát triển...Tiếp đó là bản báo cáo đề án của Nguyễn Văn Thuận, được trình bày bằng sơ đồ khổ lớn treo trên bảng, kèm theo văn bản.Ông Thuận cầm một thước dài bằng gỗ nói đến đâu chỉ đến đấy, làm cho mọi người dễ nhận dễ hiểu, cứ như một thầy giáo giảng bài cho học trò nghe, nhiều người thấy gật gù có vẻ nhất trí và thán phục cách trình bày của ông Thuận. Liên tục gần hai giờ đồng hồ ông Thuận báo cáo đầy đủ tỷ mỉ nhiều mặt về cách thức thiết kế lò ,xưởng, thời gian và từng giai đoạn hoàn thành, thời gian bước vào sản xuất, công xuất gạch ngói bước đầu là mười triệu viên/ năm, sau đó tùy theo thị trường sẽ phát triển lên. Nhu cầu nhân công ,vật liệu, kinh phí các mặt. Yêu câu về thủ tục các bước cần được ký kết, thời gian bàn giao mặt bằng....Sau đó lãnh đạo và các cử tọa chấp vấn, khá nhiều ý kiến phát biểu ,ngược có ,xuôi có .ông Thuận đều trả lời đến nơi đến chốn ,công khai không hề dấu diếm một bí quyết nào cả .Ông như một sinh viên đang bảo vệ đồ án tốt nghiệp, phải trả lời đầy đủ trước mọi ý kiến phản biện của các giáo sư ,các thầy giáo mà không bị vấp váp nào .Ông nghĩ rằng mình cứ thật thà trình bày cho mọi người nghe, để tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của mọi người, mà không sợ người ta mánh lới hoặc làm khó dễ cho mình. Chính với thái độ dịu dàng thành khẩn đó nên ông Thuận được mọi người tín nhiệm và ủng hộ ,cũng như trước đây gần hai mươi năm ông làm đội trưởng đội gạch ngói của hợp tác xã chưa hề bị sai phạm gì và cũng chưa làm mất lòng ai bao giờ. Đến bây giờ tình hình kinh tế khó khăn, ông dám bỏ tiền của và công sức ra làm để cứu vãn cuộc sống của nông thôn đang ngày càng khó khăn, người ta cho đó là một nghĩa cử cao cả vì dân làng dân xã mà đứng ra gánh vác để bà con có công ăn việc làm,để xóa đói giảm nghèo ,đó chẳng phải là một hành động nghĩa hiệp cao thượng đó ư ? Đến trưa hội nghị tạm giải lao xơi cơm rượu với gia đình trang trại,đã được bà Bằng và các cháu bố trí sẵn ở gian sau hội trường trụ sở ủy ban.
Buổi chiều hội nghị tiếp tục với kết luận của chủ tịch xã và bí thư đảng ủy xã.Mọi người đều hoan nghênh ông bà Thuận đã xung phong ,dám nghĩ dám làm, đi tiên phong trong nền công nghiệp của xã nhà, tạo điều kiện có công ăn việc làm cho bà con trong làng xã. Lãnh đạo xã và hợp tác xã sẽ tạo mọi điều kiện ủng hộ giúp đỡ trong khuôn khổ chế độ chính sách của nhà nước, tạo thuận lợi cho Công ty Thuận Bằng phát triển bền vững. Mọi thủ tục pháp lý sẽ được tiến hành nhanh nhất. Riêng việc ký kết hợp đồng với xã sẽ được làm ngay trong ngày mai, và sau đó ban chủ nhiệm của hợp tác xã tiến hành bàn giao mặt bằng cho ông Thuận ngay, để ông Thuận có thể thực hiện biện pháp, trước mắt vừa khôi phục thủ công vừa xây dựng hiên đại để bà con có công ăn việc làm sớm, không bị thất nghiệp, những xã viên làm gạch ngói trước đây đều được thu nhận vào sản xuất ngay từ sau khi ký kết hợp đồng một ngày ,với danh nghĩa là công nhân của công ty Thuận Bằng ,do công ty trả lương.Sau khi ký hợp đồng lao động ,mỗi công nhân được ứng trước một tháng lương để tạm thời ổn định đời sống gia đình. Bà con đều phấn khởi kéo nhau đi làm rất đông, ngày đầu tiên đã có gần hai trăm xã viên đóng gạch cũ đến ký hợp đồng làm công nhân của công ty .Họ bảo nhau : cứ đi làm theo ông Thuận thì không bao giờ sợ chết đói ! Bà con quây quần lấy ông Thuận reo vui và chúc mừng giám đốc Thuận và hứa với ông sẽ lao động hết mình cùng góp công góp sức xây dựng xí nghiệp gạch ngói này bền vững lâu dài. Ngày khai trương công ty Thuận Bằng vui mừng như một một ngày hội của cả làng cả xã, vì mở đầu một thời kỳ làm ăn mới, thời kỳ mở cửa cho mọi người dân ,cho mọi thành phần kinh tế được tự do phát triển đem lại ấm no cho toàn dân ,tiến tới dân giầu nước mạnh,hạnh phúc bền vững lâu dài.Các cơ quan đoàn thể ,từ Đảng ủy đến chính quyền,hợp tác xã và nhiều bà con trong thôn xã kéo đến chúc mừng Công ty có cả hoa ,cả rượu,chúc mừng ông bà Thuận Bằng nhộn nhịp suốt cả ngày hôm đó, có cả đoàn cán bộ của chính quyền huyện do ông phó chủ tịch huyện dẫn đầu về thăm và chúc mừng công ty Thuận Bằng ngay chiều hôm đó. Ông Thuận liên tiếp đón các đoàn khách và luôn luôn cảm ơn các đoàn thể cán bộ và bà con dân làng đến chúc mừng và hứa sẽ bảo đảm công ăn việc làm cho một số bà con có tay nghề và kêu gọi mọi người ủng hộ giúp đỡ để công ty ngày càng phát triển làm vẻ vang cho làng xã nhà.
Ngày hôm sau theo hợp đồng đã ký kết với xã và hợp tác xã ông Thuận và bà Bằng đem nộp tiền mặt trả cho hợp tác xã sáu mươi phần trăm số tiền mua bất động sản ,mặt bằng của xí nghiệp, còn bốn mươi phần trăm theo hợp đồng sẽ trả hết vào cuối năm,cùng với tiền thuế môn bài và thuế doanh thu theo quy định của nhà nước. Nhờ số tiền đó hợp tác xã đã thanh toán xong nợ nần với ngân hàng tồn lại từ hai năm nay,còn lại một số để dành làm công quỹ.
Một tháng sau thì mọi thủ tục về giấy tờ kinh doanh theo quy chế của nhà nước đã được hoàn thành đầy đủ từ tỉnh đến huyện đến xã.Đồng thời ông Thuận cũng đã triển khai xong mặt bằng,lần lượt gọi các toán thợ ở các xí nghiệp bạn đến chi viện xây dựng cơ bản mà ông đã hợp đồng từ trước .Trong khi đó lò gạch thủ công cũ của hợp tác xã cũng bắt đầu đun lò gạch thứ nhất của công ty.
Ba tháng sau thì việc xây dựng lò xưởng mới cũng đã cơ bản hoàn thành Một kỷ lục mới chưa đâu làm được nhanh như thế. Khâu sản xuất gạch thành phẩm bằng máy cho lò nung liên hoàn cũng đã xen kẽ thực hiện ngay từ khi nhà xưởng đã dựng xong. Có thể nói ông Thuận đã nghiên cứu phương pháp liên hoàn xen kẽ rất hợp tình hợp lý, không để thời gian chết .Lúc này đã có trên ba trăm công nhân ,nhưng không ai rỗi viêc,không có thiết bị nào thừa hoặc bỏ không ,phải nghỉ .Cả xí nghiệp như một công trường xây dựng nhộn nhịp nhưng rất nhịp nhàng,đâu vào đấy không lộn xộn như nhiều xí nghiệp công trường khác. Mà giám đốc Nguyễn Văn Thuận vẫn thảnh thơi,nhẹ nhàng chứ không túi bụi như người khác. Nhiều người bảo : Ông Thuận chỉ huy lao động cứ nhẹ tênh tênh,làm việc đấy mà vẫn như chơi vậy. Cái tài của ngưới chỉ huy là ở chỗ ấy đấy! Cái tài ấy của ông xuất phát từ cái tâm của ông và tính thật thà ngay thẳng,trong sáng của ông , ông biết tôn trọng người khác, thì người khác cũng sẽ tôn trọng mình,biết tin tưởng người khác thì người khác cũng tin tưởng mình,dẫu là người ăn người làm ,người nghèo khổ càng phải tôn trọng và quý mến người ta .Ông đã từng giúp đỡ nhiều người ,nhiều gia đình trong lúc khó khăn hoạn nạn mà không hề kể công hay coi thường họ,nên những người già thường lấy tấm gương của ông bà Thuận để dăn dậy con cháu ở đời. Cái tài của ông còn biết tổ chức cầm quân như một tướng lĩnh ở ngoài mặt trận. Ông Thuận chưa bao giờ được đi bộ đội hay đi lính ở phe này hoặc phe kia như hai người anh đang đối địch nhau, nhưng ông lại có tài thu phục nhân tâm ,thu phục lòng người dẫu là người già ,người trẻ, đàn ông hay đàn bà, trẻ em bằng tấm lòng ngay thẳng thật thà và trong sáng của mình.Mình hết lòng vì mọi người thì mọi người cũng hết lòng vì mình. Minh chứng là trong những năm làm hợp tác xã,ông không nề hà công việc nào, chỉ là một người ngoài đảng ,nhưng việc gì giao ông cũng nhận,việc gì ông cũng làm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,không hề có điều tiếng gì,được lãnh đạo thôn xã và bà con dân làng mến phục. Ông là một tấm gương tự mình lao động giỏi mà còn dẫn dắt mọi người lao động theo mình cũng giỏi. Các tổ ,đội của ông do ông phụ trách bao giờ cũng làm ăn chăm chỉ, lao động siêng năng,công điểm bao giờ cũng cao hơn và cuộc sống của họ đều khấm khá hơn các tổ đội khác .Vì thế khi nghe tin ông nhận xây dựng xí nghiệp gạch ngói, nhiều người đã đến gặp ông để xin đi làm cùng ông hoặc đề nghị ông cho con cháu mình được vào làm ở công ty ông . Ai ông cũng thương và ai ông cũng nhận ,người khỏe làm việc khỏe ,người yếu làm việc yếu,người có tài tháo vát thì làm ở những khâu chủ yếu, người kém hơn thì làm ở những nơi đòi hỏi kỹ thuật ít hơn, ông trả tiền lương hợp tình hợp lý không ai kêu ca được ,nhưng ông lại khuyến khích những tay nghề yếu phải học tập phát triển hoặc bố trí xen kẽ người khỏe người yếu tương trợ lẫn nhau mà không ghen tỵ đố kị lẫn nhau.Những năm đó hiếm thấy có một xí nghiệp mà giữa chủ và thợ lại đoàn kết gắn bó thân tình với nhau như bạn bè như người trong nhà. Ông rèn luyện những tổ trưởng ,đội trưởng, phân xưởng trưởng là những cánh tay đắc lực tin cậy nhất nhưng cũng giầu lòng nhân ái tình nghĩa với công nhân,nên cán bộ, công nhân, chủ và thợ đều coi nhau thân tình như anh em trong nhà, có khó khăn gì trong gia đình hoặc trong xí nghiệp cũng đều bộc lộ, để anh em cùng bàn bạc giải quyết giúp đỡ hoặc khắc phục. Trong quá trình sản xuất các tổ đội đểu thi đua nhau bảo đảm chất lượng sản phẩm là hàng đầu là sống còn của xí nghiệp, nên hàng sản xuất ra bán hết ngay. Số đơn đặt hàng ngày càng nhiều,làm không kịp.
Với cách chỉ huy và quản lý như thế, chủ và thợ ,cán bộ và công nhân đều đồng tâm hiệp lực nên chỉ hơn một năm sau công ty Thuận Bằng đã thu hồi được vốn ban đầu và tiếp tục phát triển xây dựng thêm hai lò gạch và một lò ngói liên hoàn nữa với lưu lượng năm trăm công nhân lao động chính ,chưa kể lao động phụ khi cần từ một đến hai trăm người nữa. Công ty đã mua sắm được bốn ôtô vận tải để chạy vật liệu và đưa hàng đến tận công trường cho người dùng và một xe con để đi giao dịch.
Chương 13
THÁNG NGÀY LÊNH ĐÊNH
Năm chiếc thuyền câu lượn đi lượn lại, vừa gõ thuyền vừa xua đuổi, vừa té nước, vừa dềnh sóng quanh một đoạn sông Lèn, của một nhóm người đang thả lưới đánh cá, cứ như là một trò chơi của trẻ nhỏ trong những ngày lễ hội trên sông, chỉ khác là không có đông khán giả trên bờ hoan hô cổ vũ reo hò và những loa truyền thanh vang dội, mà chỉ có năm người họ với nhau. Các tuyển thủ xem ra rất điêu luyện, họ đứng thẳng người trên chiếc thuyền câu bé nhỏ mà không ngã, như người làm xiếc ,tay cầm sào, lúc bơi ,lúc đẩy, lúc lại đập nước bì bõm, người họ uốn éo vừa dập dềnh vừa đưa thuyền đan đi đan lại với nhau như mắc cửi ,mà không va chạm vào nhau, nước sông bắn tung tóe lên soi ánh mặt trời lấp la lấp lánh như những ánh hào quang chớp nhoáng, làm họ liên tưởng như những ánh lửa của đạn bom nổ trên sông nước trong những năm tháng chiến tranh trên chính khúc sông này. Cuộc quần lộn đuổi cá kéo dài đến mười lăm , hai mươi phút, thì một người đứng tuổi, cầm chiếc mũ cối đã bạc trên đầu, dơ lên quay quay mấy vòng rồi hô:
- Thu lưới!
Tất cả đều ngồi xuống bơi bằng hai dầm về đầu phao của mình, bắt đầu cuốn lưới và gỡ cá. Người nào cũng ngậm lấy mõ lưới vào mồm,một tay kéo từng phao lưới mắc vào mõ, những con cá mắc lưới được kéo lên thuyền được gỡ ra ,lùa vào gầm xạp ngồi, nhiều chú cá to rãy đành đạch trong thuyền nghe rất vui tai ,những cánh lưới được kéo lên nhịp nhàng như những dải lụa phơi dưới nắng óng a óng ánh,xen lẫn những con cá bị lưới quấn vẫn còn rãy lõm bõm làm bắn nước vào mặt người vớt lưới ,những tia nước nhỏ soi trong ánh mặt trời lóe lên những tia màu ngũ sắc, như một bông hoa xanh đỏ tím vàng…Khoảng mươi phút sau thì việc gỡ lưới bắt cá xong,trên sông lại nổi lên tiếng rít của điếu cày sòng sọc, và những làn khói thuốc lào tỏa ra khoan khoái, bay bay trên mặt nước. Họ cụm lại với nhau và trao đổi kết quả của mẻ lưới vừa rồi. Mọi người đều vui vẻ. Nam Sao lại hô:
-Tiếp tục lên đầu nguồn ,làm vài mẻ nữa!
- Vâng ,nào đi anh em ơi!
Năm chiếc thuyền câu lại cúi rạp mình bơi nối đuôi nhau ngược dòng sông Lèn lên phía ngã ba Bông, lại tiếp tục rải lưới quây cá, lại tiếp tục dềnh thuyền, rỡn sóng, đập nước xua đuổi, ồn ã cả một khúc sông. Có lúc hứng lên, họ còn hát ,còn hò theo giọng hò của dân chài kéo lưới ngoài khơi:
-Dô hò là hò ,ta hò kéo lưới, ới khoan dô khoan ,
Kéo lưới ra khơi, kiếm khoang cá đầy, ới khoan hò khoan
Nuôi chồng nuôi vợ, nuôi cái nuôi con, ới khoan dô khoan,
Nuôi cả xóm làng, ới khoan dô khoan ,ới khoan hò khoan…
Họ cứ đứng trên thuyền mà dập dềnh, mà hò mà hát, đi đi lại lại, như những vũ điệu của dân chài ven sông, ven biển , cho bớt đi những nỗi mệt nhọc đầu tắt mặt tối. Rồi lại vớt lưới bắt cá, rồi lại bơi lại chèo, lại giăng lại thả ,lại đập lại xua ,lại hò lại hát ,cho đến khi nắng lên cao họ mới nghỉ. Bơi thuyền đem cá về bến chợ gần nhất để bán, rồi lấy tiền đó đong gạo, mua rau muối thuốc lào và mua quà cho trẻ con… Họ kéo thuyền lên bờ rồi gánh lưới gánh thuyền về trong làng, phơi lưới ,cơm nước, nghỉ trưa. Buổi chiều, họ lại tu sửa vá lưới, rồi lại chuẩn bị thuyền thúng cho buổi đánh cá chiều hoặc tối, có hôm đánh cả đêm ,tùy theo con nước dòng hay cả, cá nhiều hay cá ít. Nhiều buổi thức cả đêm , đến sáng ra họ đã có cá đem ra chợ bán rồi.
Đây là một nhóm bộ đội công binh thuộc đơn vị của Nam Sao trước đây ,nay đã về hưu hay phục viên về địa phương, không có nghề nghiệp gì ,chỉ trông vào mấy sào ruộng , làm theo kiểu hợp tác xã, ba cọc ba đồng không đủ sống. Nhân dịp Nam Sao về quê vợ chơi thấy thế, bèn bàn với mấy anh em làm thêm nghề phụ là đánh cá .Mấy anh em đều kêu lên:
- Xem ra nghề ấy cũng được đấy, nhưng chúng em có biết mô tê gì về cá với mú đâu. Nam Sao bèn mỉn cười:
-Miễn là các cậu có quyết tâm, còn tay nghề đã có anh giúp đỡ các chú, cái gì chứ làm giầu thì khó, chứ kiếm ăn đủ sống qua ngày thì không khó. Mấy chú còn nhớ hồi ở đơn vị đi B , ta còn kiếm được cá ăn ,huống chi bây giờ về có điều kiện hơn nhiều.
-Ừ nhỉ, dạo đó dù ít dù nhiều ngày nào thủ trưởng cũng kiếm được cá ăn cho bếp chỉ huy tiểu đoàn, hôm thì câu,lúc thì khua lưới… lúc thì thả đăng, thả lờ cá ,lại có khi còn bắn cá nữa… Chả thế mà liên lạc tiểu đoàn ngày nào cũng đi xin, đi hái lá chua về kho ,nấu cá. -Mấy anh lính cũ xôn xao nhớ lại ,chen nhau kể.
Mọi người đều lấy làm phấn khởi,đồng thanh nói:
-Đề nghị thủ trưởng ở lại đây dậy chúng em kiếm cá nhá ! -Nam Sao nhìn vào mắt các đồng đội cũ thăm dò quyết tâm của họ rồi thong thả nói:
-Nếu các chú có quyết tâm cao, cùng làm ăn với nhau, thì tôi xin ở lại đây cùng kiếm sống với các chú và hướng dẫn các chú bao giờ các chú thành thạo nghề rồi tôi mới về hoặc đi đâu thì mới đi. Các chú có nhất trí không ?
- Thế thì hoan hô thủ trưởng, chúng em hoàn toàn nhất trí ạ ! Thế là năm sáu cánh tay dơ ra nắm chặt lấy nhau cùng hô như những ngày còn ở đơn vị : -Quyết tâm ! Quyết tâm !
Đò Lèn 3-4-1965
Sau vụ Mỹ dựng lên sự kiện vịnh Bắc bộ, chỉ là cái cớ để tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, và cũng từ đây máy bay trinh sát nhiều lần vào đất liền, sâu vào những vùng nhà máy công trường, nhưng chủ yếu là đường giao thông, hệ thống cầu đường và những trận địa phòng không của ta.
Về phía ta, các đơn vị bộ đội và nhân dân đã được lệnh chuyển thời bình sang sinh hoạt thời chiến .Một số nơi trọng điểm cầu cống lớn, các trận địa cao xạ đã triển khai và sẵn sàng hạ máy bay Mỹ ngay từ loạt đạn đầu.
Nhân dân các địa phương đã đào công sự những nơi công cộng và một số gia đình đào ở mức độ không kiên cố.
Sông Đò Lèn rộng 150m, bờ Bắc là huyện Hà Trung, bờ Nam là huyện Hậu Lộc. Sông Lèn là một nhánh của sông Mã ,từ ngã ba Bông một nhánh chảy về phía Hàm Rồng rồi ra biển, một nhánh chảy qua cầu Lèn rồi ra lạch Sung.
Cầu Đò Lèn bắc trên trục đường số 1. Bốn phía Đông Tây Nam Bắc đều có núi, cách xa cầu Lèn từ 2 đến 3 km, một số núi đã trồng thông. Làng mạc: bờ Bắc là xã Hà Ngọc, Hà Phong, bờ Nam là xã Đồng Lộc ,Châu Lộc.
Đường số 1 tính từ Hà Nội vào là ga Bỉm Sơn, ga Đò Lèn, cầu Lèn, ga Nghĩa Trang đi Cầu Tào, cầu Hàm Rồng vào thị xã Thanh Hóa. Đường số 1 và đường sắt chạy song song cách nhau một rãnh thoát nước.
Cầu Đò Lèn là hệ cầu mới bắc trước 1-2 năm, dài 200m,trông đồ sộ và kiên cố, cầu có trọng tải xe hỏa và các loại ô tô vận tải 30-40 tấn.
Tình hình địch: Trước ngày 3-4 máy bay trinh sát đã nhiều lần bay lượn trên sông Lèn. Đến ngày 1-4, hồi 7 giờ ,một máy bay trinh sát phản lực bay rất thấp từ biển vào bay qua cầu Lèn, tiếp ngày 2-4 không thấy có hiện tượng gì. Đến 9 giờ ngày 3-4-1965, nhiều tốp máy bay Mỹ đánh phá cầu Đò Lèn.
Các cỡ súng của ta bắn trả máy bay Mỹ, một chiếc trúng đạn, máy bay rơi, một phi công đã bị dân quân bắt sống. Song chúng vẫn ngoan cố, hết đợt này đến đợt khác lao vào đánh phá, nào bom , rốc két ,tên lửa…
Suốt từ 8 giờ sáng ngày 3-4 đến 3 giờ chiều, không mấy lúc ngớt tiếng bom đạn ở khu vực cầu Đò Lèn . Đúng 3 giờ chiều ngày 3.4.1965 cầu Đò Lèn bị sập một nhịp gần mố phía Nam , giao thông vận tải từ xe hỏa đến ô tô tuyến đường 1 qua cầu Đò Lèn bị tắc.
Tình hình ta : Hàng ngày những chuyến xe lửa , hàng đoàn xe ô tô vận tải từ Bắc vào Nam đều phải qua cầu Đò Lèn , lưu lượng mỗi ngày qua lại phải tính hàng nghìn. Cầu Đò Lèn bị sập lúc 3 giờ chiều thì hàng trăm xe cơ giới đã bị ùn lại hai bên cầu, không những xe cơ giới mà còn các lạo xe đạp , xe ba gác, cải tiến và người qua lại cũng bị ùn lại , phải tìm cách qua sông Đò Lèn.
Tin địch đánh Thanh Hóa, Quân khu ba, Bộ tổng tham mưu điều động các đơn vị cao xạ vào tăng cường,5 giờ chiều ngày 3-4 đã tới Bắc cầu Đò Lèn. Đó là cao xạ pháo 14,5 ly bốn nòng gồm 10 khẩu 15 xe và một tiểu đoàn 37 ly. Trên đường vào cầu Hàm Rồng, đều bị tắc ,nằm triển khai tại chỗ phía Bắc Cầu Lèn
Tiểu đoàn cao xạ 37 ly của sư đoàn 304 chiến đấu từ sáng tới 3 giờ chiều ở cầu Đò Lèn, hạ một máy bay Mỹ nhưng ta bị hy sinh một đồng chí chính trị viên phó tiểu đoàn là đồng chí Lăng.
16 giờ 30 ,đồng chí Hiền, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đến quan sát khu vực cầu. Về phía sư đoàn 304 có đồng chí Tham mưu trưởng sư đoàn, Chủ nhiệm công binh sư đoàn và tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 15 công binh Nam Sao
Hội nghị giữa địa phương và quân đội triển khai ở xã Hà Phong, thành phần gồm: Chủ tịch, Bí thư, Xã đội trưởng và huyện đội Hà Trung ,Hậu Lộc là hai huyện và bốn xã Nam Bắc cầu Đò Lèn.
Quyết tâm: -Bảo đảm vượt sông, trước mắt giao cho tiểu đoàn 15 sư đoàn 304 ngay đêm nay thông xe. Sau đó Ty giao thông Thanh Hóa điều phà lập bến ở sông Lèn, mười ngày sau phải có phà và bến. - Việc sửa đường hai bên đầu cầu và đường lên xuống bến ,điều quân bốn xã Hà Phong ,Hà Ngọc, Đồng Lộc, Châu Lộc đảm nhiệm. - Công binh bắc xong cầu hoặc ghép xong phà , ưu tiên cho các đơn vị cao xạ sang sông chi viện cầu Hàm Rồng trước.
Sử dụng lực lượng công binh tổ chức vượt sông:
-17 giờ ngày 3-4-1965, tiểu đoàn 15 sư đoàn 304 từ trước đã đóng quân ở thôn Kim Đề xã Hà Ngọc ở bắc cầu Đò Lèn 2km. Đến ngày 1-4 tiểu đoàn đã di chuyển lên Hùng Lý cách cầu Lèn 15 km ,chỉ để lại doanh trại cũ và 16 đông chí kỹ thuật máy đẩy.
Vào 15 giờ 15 phút ngày 3-4. Tiểu đoàn 15 công binh sư 304 báo động đại đội 29 cầu thuyền hành quân gấp xuống cầu Lèn. Như vậy lực lượng bảo đảm vượt sông đêm nay ở bến Lèn là đại đội 29 và 16 kỹ thuật máy đẩy của tiểu đoàn 15 sư đoàn 304.
-Chỉ huy vượt sông là đồng chí Nam Sao ,tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 15.
-Sử dụng khí tài vượt sông:
-Thuyền sắt 100 gồm 10 cái x 3 khoang = 30 khoang.
-Máy đẩy 2 cái
-Toàn bộ dầm ván đủ cho hai phà.
Diễn biến chiến đấu vượt sông:
Dùng phương pháp ghép hai phà, mỗi phà bốn thuyền sắt 100, còn hai thuyền làm dự bị.
22 giờ 30 phút hai chiếc phà được ghép xong, mỗi phà lắp một máy đẩy 14 mã lực. Lúc này đường lên xuống bến hai bên đầu mố chưa làm xong .Sau đó có cả công nhân hạt giao thông của hai huyện phối hợp cùng làm, trước chỉ có 4 xã gần đầu cầu .Tới lúc này mỗi bên phải có tới 5-6 xã, xã nào cũng muốn góp sức vào việc thông đường, thông phà, nhất là các đơn vị cao xạ đang chờ ở đầu mố.
Thời kỳ này địch chưa đánh ban đêm, cầu Đò Lèn như ngày hội, chỗ cuốc ,chỗ đào, người gánh ,người đội.Tiếng gọi nhau í ới, trẻ em đều ra xem không khí lao động tối nay ở bến cầu Lèn khác với những buổi lao động thường vì có không khí chiến đấu khẩn trương.
-24 giờ 30 ngày 3-4-1965chiếc xe con được chở đầu tiên, cũng Là chiếc xe của đoàn kiểm tra của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa Hoàng Văn Hiều và xe của thủ trưởng sư đoàn 304 cũng đi kiểm tra.
Chuyến xe thứ hai là pháo cao xạ, sang đến mố bờ Nam bị lầy sụt, lại phải sửa chữa lại đường mố cầu, nhưng cũng phải ngừng lại chuyển hai máy đẩy vào một phà mởi đủ sức đẩy phà 4 thuyền mà trước đây chỉ đẩy hai thuyền .Do khó khăn về đường bến và phà nên chỉ chở được 10 xe cao xạ qua sông thì trời sáng. Còn lại hai tiểu đoàn và hàng trăm xe bị ứ đọng hai bên đầu mố cầu Đò Lèn.
Các tối tiếp sau do tiểu doàn 27 công binh cầu phà quân khu đảm nhiệm ,và công chính sau đó 10 ngày cũng đưa phà công chính xuống và hoàn thành làm bến.
Kết thúc: 3 giờ chiều ngày 3-4 địch đánh sập cầu,ngay đêm hôm đó đã thông phà cho pháo cao xạ qua sông.
-Buổi huy động dân quân bảo đảm giao thông ngay trong trận đầu ,đã có giá trị về cách sử dụng lực lượng tại chỗ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ
-Thiết lập được hai đầu mố phà và đường lên xuống bến dài mỗi bên khoảng 100m ,trên cơ sớ có nền và đường lên xuống ,sau này củng cố và sử dụng tiếp những ngày chống chiến tranh phá hoại
-Là một buổi ban đầu chống chiến tranh phá hoại của tỉnh Thanh Hóa. Nó còn kết quả về mặt rút kinh nghiệm về cách tổ chức huy động lưc lượng và sử dụng khí tài để bảo đảm giao thông.
Nhận xét: - Huy động lực lượng phối hợp ba thứ quân: bộ đội công binh,hạt giao thông, và dân quân du kích cùng bảo đảm giao thông.
-Đơn vị tiểu đoàn 15 công binh sư 304 tuy đóng quân ở gần,nhưng chưa được phân công bảo đảm vượt sông bến Lèn ,nên ban đầu có lúng túng,nhưng sau đó đã kịp thời khẩn trương triển khai chiến đấu,đưa ngay được cao xạ qua sông là một cố gắng lớn.Tiểu đoàn trưởng Nam Sao đã trực tiếp chỉ huy đơn vị đại đội 29 vượt sông trong ngày đầu tiên đã thắng ,bảo đảm an toàn cho đơn vị bạn qua sông.
Tổ đánh cá sông Lèn
Kể từ ngày nhận quyết định nghỉ hưu với cái lon thượng úy ở tỉnh đội Thanh Hóa, Nam Sao buồn bã trở về làng Lễ ở Hải Dương ,đưa cho vợ cái sổ hưu còm cõi lúc bấy giờ chỉ với mấy chục đồng. Rồi bỏ làng ra đi lang thang để thăm lại các chiến trường xưa ,nơi anh đã cùng đồng đội chiến đấu và công tác mấy chục năm qua.Nơi đầu tiên anh đến là quê vợ anh ,cũng là nơi anh đã chiến đấu với giặc Mỹ sứt đầu mẻ trán ,trong những ngày chống chiến tranh phá hoại bằng không quân ác liệt. Anh định cũng chỉ ở lại đây chơi dăm ngày thăm bố mẹ vợ và anh em họ hàng bên ngoại ,rồi lại đi, thăm các đồng đội ở nơi khác. Nhưng thấy đời sống của đồng đội cũ ở đây đang gặp nhiều khó khăn ,nên anh tình nguyện ở lại dậy nghề cho anh em biết nghề phụ đánh cá, một nghề truyền thống của quê anh, mà anh đã học được từ hồi còn nhỏ do bố anh đã truyền lại. Cái khó khăn nhất của anh em ở đây là đã không biết nghề ,lại không có vốn ban đầu để mua sắm đồ nghề dụng cụ tối thiểu, như mua thuyền mua lưới. Nghề gì cũng vậy, muốn làm ăn lớn phải có vốn nhiều, trong những năm chiến đấu anh được biết sông suối ở đây rất nhiều cá, muốn đánh cá phải ra sông lớn mới đánh được nhiều, mà cá lại to, muốn đánh cá to phải có lưới to, vốn lớn. Nhưng anh em lại không có ,nên anh phải dậy họ từ bước đi ban đầu là đánh cò con ở trong đồng ruộng, trong vũng, trong khe, để tích lũy vốn rồi mới ra sông to nước lớn được. Anh liền bàn với gia đình vợ và đứng ra vay một số vốn tối thiểu đủ mua dăm tấm lưới mới, trang bị cho mỗi người một tấm, còn que ,vợt, thời giỏ… thì của ai người nấy tự kiếm. Thế là lớp học đánh cá của các cựu chiến binh bên sông Lèn bắt đầu, theo phương pháp vừa học vừa làm do giáo viên Nam Sao hướng dẫn. Vốn đã thạo nghề ,lại là con nhà lính ,việc quân sự đã quen ,anh vận dụng phương pháp huấn luyện trực quan cụ thể vào đây, nên các học viên đều tiếp thu rất nhanh. Đầu tiên anh dẫn học viên ra một vũng nhỏ giữa đồng để thực hành khoa mục “khua lưới”, rồi anh xắn quần áo lội xuống ,cầm lưới làm thị phạm , rải đến đâu nói đến đó, rồi khua, đập nước ,chọc nước, đuổi cá . Rồi vớt lưới , bắt cá, phơi lưới ,rũ lưới v v…Sau đó anh cho các học viên tự làm, anh đứng trên bờ quan sát, hướng dẫn cho các học viên thành thạo mới thôi . Tuy lý thuyết chỉ đơn giản thế thôi, nhưng muốn đánh được nhiều cá thì phải tích lũy nhiều kinh nghiệm. Nam Sao đều nói cho anh em nghe, không dấu một chút nào, với giọng châm biếm hóm hỉnh xen lẫn tiếu lâm nên ai cũng thích, cũng vui cười. Chẳng mấy chốc họ đã thành thạo khoa mục khua lưới trên đồng ruộng ,rồi lao vào kiếm sống và tích lũy vốn. Nam Sao quy ước với anh em là, trong những ngày tháng đầu, dù được nhiều hay ít cá đều không được ăn ,mà phải mang bán để tích lũy vốn, mua sắm lưới to hơn và thuyền thúng để vươn ra sông ,làm ăn lớn hơn. Được mọi người đều nhất trí . Chỉ hơn một tháng sau cần cù làm ăn tích cóp ,và vay mượn thêm ,giúp đỡ lẫn nhau, trong tổ ai cũng xắm được thuyền câu, được lưới ba màn .rộng dài hơn để vươn ra sông .Nam Sao lại huấn luyện họ các khoa mục: bơi thuyền ,đứng trên thuyền thúng, quây lưới đánh cá ban ngày ,thả lưới đánh cá ban đêm ,ven sông ven suối …Anh còn dậy họ cả bài đứng trên thuyền thúng câu vút, mà anh là một tay sở trường và thiện nghệ. Khoảng một tháng sau, mấy anh em lính cũ ở gần đấy nghe tin Nam Sao lập “tổ đánh cá cựu chiến binh” liền đến xem, thấy hay ,cũng đề nghị xin vào tổ, Nam Sao và anh em trong tổ đều đồng ý, thế là tổ kết nạp thêm thành sỹ số mười người. Nam Sao cử anh Lê Thân là cán bộ trung đội trưởng công binh cũ về phục viên làm tổ trưởng chung của tổ sông Lèn, và phân chia mỗi người kèm cặp, giúp đỡ thêm một tổ viên mới cả về dạy nghề và ứng vốn cho vay để mua sắm trang thiết bị đánh lưới. Chỉ hơn một tháng sau nữa các tổ viên mới cũng đều thành thạo tay nghề và nhanh chóng hoàn vốn hơn các tổ viên cũ. Tiếng lành đồn xa,tiếng giữ đồn xa ,những người lính cũ của Nam Sao ở quanh vùng Thanh Hóa nghe tin tiểu đoàn trưởng cũ của mình đang dậy nghề đánh cá ở sông Lèn, cũng vội vàng tìm đến thăm, họ mừng mừng tủi tủi gặp nhau, trong hoàn cảnh đất nước đang khó khăn về kinh tế sau những năm tháng chiến tranh ,những người lính trở về quê hương,gia đình đều bị nghèo đói, họ đề nghị thủ trưởng cũ giúp đỡ họ có thêm nghề phụ này để thóat khỏi cảnh bần cùng trong lúc khó khăn này.Nam Sao thấy mủi lòng thương anh em đồng đội cũ. Nhưng xét thấy bản thân mình,” ốc cũng không mang nổi mình ốc còn đâu sức mang cọc cho rêu”, nhưng nhìn thấy anh em ,bỏ thì thương ,vương thì tội. Anh đã sa đà vào lập tổ đánh cá sông Lèn này đã năm sáu tháng trời ,khi anh em đã yên ổn thành nghề kiếm ăn tạm được rồi, anh cũng đang muốn bay nhảy đi thăm thú các nơi chiến trường xa ,bạn bè cũ, cho thỏa chí tang bồng, liệu sau này còn sức mà đi không. Nhưng trước hoàn cảnh của anh em chiến hữu trong vùng quê đang nghèo đói này, anh sao nỡ bỏ đi. Sau một đêm suy nghĩ ,anh quyết định ở lại, đem sức tàn của mình phục vụ cho đời, cứu vớt những bạn bè đồng đội còn khó khăn hơn mình ở ngay trên mảnh đất chiến trường xưa ác liệt này. Anh nẩy ra một sáng kiến: Tổ chức các tổ theo kiểu dây truyền, người đi trước hướng dẫn và giúp đỡ người đi sau như kiểu ở tổ cựu chiến binh trên sông Lèn mà anh đã làm gần đây. Hôm sau Nam sao tập hợp anh em lại và nói rõ ý định của mình, anh phân tích:
-Địa hình ở tỉnh Thanh này tuy xa nhau dăm sáu chục cây số, thậm chí có nơi gần trăm cây số nhưng vẫn trong một tỉnh nhà, quen thuộc, quan hệ liên lạc với nhau dễ dàng.
-Sông suối có nhiều, nhưng đều có thể thông thương với nhau bằng đường nước, có thể đi thuyền đánh cá từ sông này sang sông khác hàng tháng trời, mà sông suối ở đây lại rất nhiều cá... ven sông nào cũng có chợ mua bán cá.-Ở sông nào cũng có một vài lính công binh hoặc thanh niên xung phong ,hoặc công nhân giao thông của ta ở đó ,hoặc có cơ sở của ta trước đây làm căn cứ đóng quân nay có thể nhờ trú ngụ qua lại.-Những đồng đội của ta đều có tình thương yêu gắn bó trong những năm tháng chiến tranh, nay gặp lại nhau trong hoàn cảnh khó khăn đều sẵn lòng giúp đỡ nhau trong làm ăn kiếm sống…Vì vậy ở mỗi dòng sông chúng ta đều có thể tổ chức một tổ đánh cá theo kiểu ở sông Lèn này. Nơi nào có người trước, có nhu cầu trước, ta tổ chức trước ,nơi nào có người sau ,có nhu cầu sau, ta tổ chức sau. Vậy bây giờ nơi nào cần tổ chức trước nào ? Có mấy người nhao nhao lên:
- Em ạ ! em ở Cẩm Thủy ven sông Mã, chúng em có một tổ ba người rồi ạ, toàn quân đại đội ba cũ cả ,nhờ thủ trưởng giúp chúng em trước ạ! Tên em là Cầm trước là tiểu đội trưởng tiểu đội một ạ!-Một anh khác dơ tay luôn:
-Em ở phà Ghép cũ,” bến phà Thép” của thủ trưởng làm bến trưởng trước đấy ạ .Nam Sao hỏi tiếp:
- Có mấy người rồi ? Tên chú là gì nhỉ?
- Dạ tên em là Thế ạ. Chúng em cũng có ba người rồi, hai lính công binh ở C1và một Thanh niên xung phong ở bến phà Ghép phối hợp với ta trước đây ạ!- Lại một đồng chí ngồi ở góc trong cùng, vội vàng đứng lên:
- Còn em nữa ạ! ,em ở Cổ Tế, mà hồi chiến tranh vẫn gọi là bến phà “khổ thế” đấy ạ !Nhóm chúng em có bốn đồng chí vẫn liên lạc với nhau, ba là lính công binh, một là lính cao xạ tăng cường cho tiểu đoàn ta, bảo vệ bến trước đây, nhưng hai người đã lên rừng làm sơn tràng rồi cũng vất vả lắm mà kiếm chẳng được bao nhiêu, còn hai người chúng em ở nhà chưa có việc gì làm cả, ở bến sông ấy lắm cá lắm ạ, em cũng muốn đi đánh cá, nhưng chưa biết làm thế nào ạ !- Nam Sao liền hỏi:
- Các đồng chí ở ven sông Bưởi có phải không ?
- Vâng ,đúng đấy ạ !Tên em là Tề ,trước là lính của đại đội 2 chuyên phá bom đấy ạ !
-Sông Bưởi trước đây mỗi lần địch thả bom rơi xuống sông ,quân ta vớt hàng mấy tạ cá liền, cả tiểu đoàn ăn mấy bữa không hết.
- Vâng ,thủ trưởng còn nhớ kỹ quá!
- Còn ai nữa không nhỉ? Không hả ,thôi cứ thế đã nhá. Nam Sao nhìn đồng đội xung quanh xem còn ai nói gì không , thấy anh em im lặng .anh nói tiếp:
- Theo đề nghị của các đồng chí như vậy là ta cần thành lập thêm ba “ tổ đánh cá cựu chiến binh” nữa là : một tổ ở sông Mã ,Cẩm Thủy ,một tổ ở sông Ghép, bến phà Ghép và một tổ ở sông Bưởi, bến Cổ Tế phải không ạ?- Đúng thế ạ!- Mọi người đều nói.
–Để tiện liên lạc và tổ chức, mỗi nơi tạm thời có một tổ trưởng đứng ra tổ chức, tôi đề nghị đồng chí Cầm phụ trách tổ sông Mã, đồng chí Thế phụ trách tổ sông Ghép và đồng chí Tề phụ trách tổ sông Bưởi. Trước mắt mỗi tổ của ta cứ tổ chức ba đến bốn người làm nòng cốt, rồi phát triển dần thêm sau ,không nên ồ ạt, vì còn phải học tập, làm thử rồi rút kinh nghiệm và phải đầu tư vốn, phải hỗ trợ giúp đỡ nhau thì mới làm được. Kinh nghiệm như ở tổ sông Lèn, cứ một người đi trước giúp một người đi sau thì thuận lợi nhất, tuy chậm nhưng chắc, còn tổ chức và đầu tư ồ ạt sẽ dẫn đến làm ăn không kết quả lại sinh ra công nợ thì sẽ mất đoàn kết và sẽ tan ngay mà thôi. Các đồng chí có nhất tri thế không?- Nhất trí đấy ạ!- Mọi người đều đồng thanh.
- Còn việc giúp đỡ huấn luyện và hướng dẫn kỹ thuật tôi xin sẵn sàng ở lại với các đồng chí, nhưng một mình tôi, tôi không thể chia ra ba nơi cùng một lúc được, cho nên tôi kêu gọi và đề nghị các đồng chí ở tổ sông Lèn, vì tình đồng đội, hãy chia người ra đi giúp đỡ các tổ mới một thời gian , vừa là kết nghĩa cũng vừa là để các đồng chí đi khai phá một vùng đất mới cho quen thông thổ, để rộng tay làm ăn lớn hơn. Tôi sẽ luân phiên đến các tổ mới, để cùng các đồng chí tiểu giáo viên tổ sông Lèn, hướng dẫn giúp đỡ thêm các đồng chí nắm bắt được tay nghề nhanh chóng hơn.- Thế thì hay quá rồi !- Mọi người lại đồng thanh.- Các đồng chí ở tổ sông Lèn có nhất trí như thế không? Đồng chí Lê Thân tổ trưởng tổ sông Lèn đứng lên phát biểu:
- Tôi thấy phương án của thủ trưởng Nam Sao rất là hay, lấy anh em tổ cũ giúp đỡ các tổ mới, dưới sự chỉ huy chỉ đạo chung của thủ trưởng cho tất cả các tổ thì mới phát triển nhanh được. Rút kinh nghiệm của tổ tôi, thủ trưởng phải dậy từ đầu và kèm cặp cho tất cả anh em thì phải mất tới sáu bảy tháng trời mới làm ăn được, đồng chí nào cũng có thể kiếm sống được rồi. Nếu cứ làm như của tổ tôi trước đây ,thì thủ trưởng phải đi mỗi tổ mất bảy tháng ,ba tổ mất hai mươi mốt tháng, thì quá lâu và vất vả cho thủ trưởng quá. Còn làm theo phương án mới của thủ trưởng vừa trình bày thì chỉ hết bốn năm tháng, là cả ba tổ mới đều được rèn luyện tay nghề và có thể kiếm sống ngay được rồi.-Đúng đấy ,đúng đấy, hay lắm, hoan hô thủ trưởng !-Toàn thể anh em đều vỗ tay- Anh Thân nói tiếp:
- Thay mặt anh em tổ sông Lèn xin ủng hộ và chấp hành ý kiến thủ trưởng , sẵn sàng đi giúp đỡ các đồng chí tổ mới ở bất cứ nơi đâu .Cụ thể chúng tôi sẽ phân công sáu đồng chí đến ba tổ ,mỗi tổ hai đồng chí, mang theo đầy đủ dụng cụ đồ nghề của chúng tôi để vừa làm vừa hướng dẫn các đồng chí, và cũng để các đồng chí thực tập bằng đồ nghề của chúng tôi cho quen, rồi mới đầu tư vốn mua sắm đồ nghề mới của các đồng chí.- Nam Sao bỗng cười lên ha hả:
- Trúng ý quá, hoan nghênh và cảm ơn các đồng chí tổ sông Lèn ! Bây giờ các đồng chí tổ trưởng hiệp đồng với nhau cụ thể đi. Chậm nhất là năm ngày nữa ,các tổ đồng loạt ra quân. Tôi sẽ đến với tổ sông Mã trước, tôi cũng mang theo đầy đủ lương thực ,thực phẩm và đồ nghề thuyền lưới của tôi để hướng dẫn các đồng chí và cùng kiếm sống với các đồng chi. Các đồng chí không phải lo gì cho tôi đâu!
Ngược dòng
Đúng năm ngày sau, Nam Sao cùng hai đồng chí ở tổ sông Lèn là Thân tổ trưởng và Minh tổ viên, mỗi người một thuyền thúng và đầy đủ đồ nghề đánh lưới , xoong nồi bát đĩa và gạo muối đem theo vài ngày, bơi thuyền ngược dòng sông Lèn lên ngã ba Bông rồi rẽ sang sông Mã, ngược lên Cẩm Thủy. Nam Sao đã xem con nước, vào giờ thủy triều lên là xuất phát, để lợi dụng sức nước ,tuy ngược sông ,nhưng không phải ngược dòng nên bơi thuyền rất nhẹ nhàng. Lúc đó khoảng bốn giờ sáng, bắt đầu hành quân. Những người cựu chiến binh này vẫn còn tác phong quân sự, họ đi theo một hàng dọc. Thân đi trước tiền tiêu, quan sát xem có chướng ngại vật trôi sông gì không, thì báo cho cả tổ biết mà tránh. Nam Sao đi giữa ,Minh đi sau cùng. Hôm ấy, trăng về sáng, ánh trăng bao phủ mặt sông mênh mông, gió nhè nhẹ thổi, gợn sóng lăn tăn hiền hòa, trông rất thanh bình. Ấy vậy mà dòng sông này mới mấy năm gần đây thôi ,đã sục sôi bom đạn bởi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chính những người lính này đã phải chiến đấu gian khổ ác liệt trên những dòng sông ở đây ,để bảo vệ cầu phà , đưa xe pháo ra tiền tuyến ,chi viện miền Nam. Khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bị thất bại, lại chính họ đã lên đường vào Nam chiến đấu ,góp phần giải phóng miền Nam ,thống nhất đất nước. Ngày nay đất nước được hòa bình, may mắn họ còn sống, được trở về quê hương, lại đang đi kiếm sống để khôi phục lại kinh tế gia đình đang nghèo đói khó khăn. Đang bơi, cậu Thân bơi chậm lại, quay đầu hỏi:
-Thủ trưởng Sao ơi, thủ trưởng còn nhớ khúc sông này không? Chỗ cây đa bên bờ Nam kia kìa ! Nam Sao hỏi lại :
-Sao cơ?- Thân nói tiếp:
-Đây chính là tuyến cầu giả ,mà hôm ấy thủ trưởng lệnh cho tổ em căng dây ngang qua sông để ngăn những mảng lửa phốt pho ùn lại thành một tuyến dày đặc ,bọn máy bay Mỹ tưởng là cầu thật của ta, liền chút xuống đây mấy chục quả bom, bị quân ta bắn rơi hai máy bay, chúng chuồn thẳng ,tưởng là phá được cầu của ta ,nhưng cầu của ta ở phía thượng lưu gần một cây số vẫn an toàn .
- À ,nhớ rồi! Lần ấy các cậu cũng rất nhanh chân, nếu không thì cầu của ta bị tan hết .- Minh cũng nói xen vào:
- Em cũng còn nhớ chứ, cái trận phá tan tuyến lửa trên sông ấy đúng là một trận nhớ đời, chính em cũng bị cháy mất một mảng tóc, mấy tháng sau mới mọc đấy!- Minh nhớ lại- sau bao nhiêu lần chúng dùng bom đạn bắn phá cầu ta không được, đêm đó bọn giặc sảo quyệt, kéo hàng đàn máy bay đến, ném hàng trăm quả bom lân tinh và phốt pho, cháy rực đỏ cả một khúc sông, đỏ cả một vùng dài hơn hai cây số ở phía thượng lưu, những mảng cháy lớn nổi lềnh bềnh trên mặt nước trôi xuống, có nguy cơ gặp cầu phao của ta sẽ bị đọng lại ngang sông, làm mục tiêu để chúng phá cầu .Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn, tiểu đoàn trưởng Nam Sao đã nhanh trí lệnh cho toàn đơn vị, mỗi người cầm một cây sào hoặc một cành cây nhảy xuống nước bơi ra giữa sông đập tan những mảng lửa vụn ra ,một trung đội đứng trên cầu cầm sào gạt chúng chui qua gầm cầu trôi đi. Anh cũng lệnh cho một tổ chạy xuống dưới hạ lưu thực hiện phương án hai đã chuẩn bị sẵn, căng dây qua sông cho lửa đọng lại để đánh lừa máy bay địch. Lệnh xong ,anh cầm một cây sào rồi hô lớn:
-Tất cả nhảy xuống sông!
Toàn tiểu đoàn đều noi gương anh nhảy xuống, cả các cô thanh niên xung phong cũng nhảy xuống. Mọi người đều tả xung hữu đột, thật là một trận đại hồng chiến, hàng mấy trăm con người lăn lộn dưới sông chui vào lửa vừa hô vừa đập, có người bị cháy cả tóc ,cháy cả quần áo, phải lặn xuống nước cho lửa tắt, cho đỡ rát, có người bị thương vẫn tiếp tục đập, người nọ dìu người kia ,vẫn đập. Cho đến khi bom nổ dưới tuyến cầu giả hạ lưu, họ mới dìu nhau nhảy lên cầu, ôm lấy nhau, vừa mừng vừa sợ ,vừa cười vừa khóc vì đã vượt qua một trận chiến đấu với lửa lạ lùng và ác liệt. Nhịp cầu phao của ta vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục thông cầu chở xe ,pháo nối nhau ra tiền tuyến.
Ba chiếc thuyền nan vẫn bơi đều đều, vừa đi vừa kể chuyện. Qua những địa điểm, những trận chiến đấu xưa lòng họ thấy bùi ngùi và xúc động nhớ lại những đồng đội ,kẻ còn người mất, nhưng vẫn thấy mình còn hạnh phúc ,vì mình vẫn còn , lại đang dìu dắt nhau đi kiếm sống và thăm lại chiến trường xưa như hôm nay. Thân lại hỏi Nam Sao:
-Liệu đến chiều, lúc thủy triều rút ta có đến nơi được không thủ trưởng?
- Thừa sức, mình đã tính toán rồi, chúng mình còn đủ thời gian đánh lưới kiếm vài cân cá để chiều đến liên hoan gặp mặt với tổ thằng Cầm chứ.
- Ôi thế thì hay quá !- Minh reo lên- Đề nghị thủ trưởng cho đánh thôi, đánh sớm cho mát !
- Ừ được ,các cậu ngắm xem dọc sông có cái vụng nào thì ta quây một mẻ đi, bây giờ cũng đã sáng rồi-Nam Sao trả lời.
-A, có vụng đây rồi thủ trưởng ơi !-Thân kêu to- Nhìn đằng trước kìa, phía bên tay phải ấy, ta mở hàng một mẻ đi các anh ạ.
Họ đi một đoạn nữa, rồi dừng lại bên bờ vụng chuẩn bị rải lưới. Ba người rải ba mặt quây xung quanh vụng, rồi họ tác nghiệp đánh cá. Chỉ mười phút sau họ vớt lưới. Đây là một vụng ở gần ngã ba sông lớn, nên khá nhiều cá và cá lại to, mẻ đầu tiên cả ba thuyền cũng được dăm cân .
-Thế là mở hàng thắng lợi rồi các thủ trưởng ơi!-Minh reo lên- Chiều nay tha hồ mà liên hoan. Họ cụm nhau trên sông uống nước hút thuốc và ăn sáng.
Có xôi của mẹ đĩ nhà em thổi cho mang đi đây ,mời các thủ trưởng ăn sáng đi- Minh vừa nói vừa đưa cho mỗi người một nắm .
Lại còn túi khoai sọ chấm muối vừng nữa đây này- Thân tiếp.
-Thôi ,khoai để dành đến trưa, khỏi phải nấu cơm -Nam Sao cũng nói-chiều gặp gỡ liên hoan một thể.
Ăn sáng xong họ lại bơi hành quân trên sông. Vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Anh chàng Minh trẻ tuổi nhất còn hứng khởi lên hò hát theo giọng hò sông Mã nữa khi thấy các cô gái chèo thuyền đi qua :
Ơ hò… Tiếng ai như tiếng tơ vàng
Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh…ơ hò…
Dọc đường họ còn dừng lại đánh hai mẻ lưới nữa, cũng được kha khá. Đến khoảng bốn giờ chiều thì đến địa điểm tập kết ở ngoài thị trấn Cẩm Thủy theo đúng hẹn. Cả tổ ba người của Cầm ra đón tận bờ sông. Mọi người đều hồ hởi ôm chầm lấy nhau, những người đồng đội cũ gặp nhau xiết bao cảm động:
Chào thủ trưởng Nam Sao !
A…chú mày là thằng Hùng liều phải không ? Vẫn còn sống à, tưởng mày chết trong trận phá bom năm ấy ở cầu Tào rồi cơ mà.
Vâng, em là Hùng đây, hôm ấy em chỉ bị thương ngất đi thôi, khi tỉnh dậy thì nghe anh em bảo thủ trưởng đã hành quân đi B rồi.
Nam Sao lại quay sang một chú khác:
- Còn mày là thằng Huy lái xe bị bom lật đổ ở cầu Đồi mà không chết có phải không?
-Vâng, chính em đây ạ, thủ trưởng còn nhớ lính quá!
- Nhớ chứ sao quên được, chúng ta còn sống ,còn khỏe mạnh thế này là mừng.
-Nhưng nghèo đói lắm thủ trưởng ạ!
-Thế mới phải rủ nhau đi kiếm ăn, mình cũng đến đây để kiếm ăn và giúp các cậu kiếm ăn đó thôi.
-Vâng ạ, thủ trưởng về rồi mà vẫn còn vất vả với các chiến sỹ chúng em quá, cảm ơn thủ trưởng.
- Đồng đội sống chết còn có nhau, huống chi bây giờ. Vừa lúc đó Minh gọi to:- Mang rổ và quang gánh ra khiêng cá đi các cậu ơi!- Cả tổ của Cầm đều hỏi:
- Cá ở đâu mà nhiều thế?
-Cá ở sông Mã của các cậu chứ ở đâu ,bọn mình vừa đi vừa tranh thủ đánh vài mẻ để lên liên hoan với các cậu đây.
Sau khi bốc cá khiêng lên bờ Huy và Hùng nói to :
-Phải đến trên một yến đấy, toàn cá ngon thôi, hoan một bữa chiều nay sao hết được ?
- Chia cả cho ba nhà các đồng chí cùng ăn nữa chứ!- Nam Sao gọi to với cánh Huy Hùng đang khiêng cá- Ăn cá nhiều vào để mà nổi máu kiếm cá đấy! Nam Sao đến thăm các gia đình của tổ sông Mã đều ở gần quanh trong làng đó và động viên mọi người cố gắng làm ăn để tự cứu lấy mình thoát đói khỏi nghèo. Bữa liên hoan chiều hôm đó tổ chức tại nhà Cầm diễn ra rất vui vẻ và ấm tình đồng đội. Họ kể chuyện đến mãi khuya mà vẫn không bao giờ hết chuyện. Nam Sao phải nhắc :
-Thôi ngủ đi để giữ sức, mai bước vào một trận chiến đấu mới, trận chiến trong thời bình để kiếm sống ! Nói với anh em như vậy, nhưng anh trằn trọc suốt đêm không ngủ được vi thấy thương hoàn cảnh các đồng đội ở đây nghèo khổ quá, anh suy nghĩ tìm cách nào để giúp đỡ họ mau chóng vượt qua được. Ngay từ sáng sớm hôm sau các tổ viên đã lục đục kéo đến ra quân. Từ tối qua , tổ trưởng Thân, tổ sông Lèn đã bàn, có sẵn ba thuyền, mỗi thuyền kèm một tổ viên sông Mã bắt đầu thực tập rải lưới trên sông. Nhưng Nam Sao bảo : Chưa được, phải dành một tuần lễ học cơ bản đã, cũng như học quân sự ấy, muốn chiến đấu giỏi phải học từng động tác bài bản từ đầu rồi mới tập tổng hợp được. Những động tác cơ bản ở đây trước hết là tập bơi thuyền thúng thành thạo đã, bơi ngồi ,bơi đứng ,bơi khom, bơi xuôi dòng ,bơi ngược dòng, bơi trong gió mưa bão táp, bơi trong đêm tối mù mịt, bơi để không va chạm vào thuyền khác và cũng tránh để không bị thuyền khác va vào mình và sử trí tình huống khi thuyền bị lật ,bị chìm ,phải tự cứu lấy mình mà không bị trôi mất đồ nghề, kể cả cá đã đánh được làm sao không bị mất… Ở con sông Mã rất rộng và mùa nước rất hung dữ này ,nếu không có bản lĩnh thì mất nghiệp như chơi, mà có khi còn mất mạng nữa. Mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng ý kiến của Nam Sao. Cậu Hùng liều liền vội vàng hỏi:- Thưa thầy ,các điều thầy nói em đều hiểu, còn việc giữ cá không bị mất khi đã bị lật thuyền rồi thì làm thế nào cơ ạ?- Đơn giản, khi thấy thời tiết không thuận lợi thì cho cá vào lồng ,buộc dây vào cáng thuyền cho chắc ăn.- À ra thế ,em hiểu rồi ạ! – Nam Sao lại tiếp:
- Động tác cơ bản của việc rải lưới là rải xuôi dòng ,rải ngược dòng, rải ngang sông, khi nào rải nông ,khi nào rải sâu, việc sử trí khi lưới bị vướng vào vật cản trôi sông, bị cá to lôi đi xa, hoặc bị chìm xuống đáy sông, nếu không có biện pháp sử lý khéo và kịp thời thì sạt nghiệp hết ,mất cả chì lẫn chài. Ngay cả việc ,gõ lưới đuổi cá cũng phải có bài bản chứ không phải gõ lung tung ,đuổi lung tung ,cá không chạy vào lưới mà lại chạy ra ngoài cả thì không ăn thua, có gõ cả ngày cũng chẳng được mấy. Các cử tọa ngồi nghe Nam Sao nói cứ há hốc mồm ra, cứ xít ra xít vào. Anh lại nói tiếp:
- Ngay cả việc vớt lưới bắt cá cũng phải có nghề, khi nào thì kéo nhanh ,khi nào thì kéo chậm, có lúc gặp cá to còn phải bơi theo cá, rồi nhẹ nhàng kéo lên mặt nước và dùng vợt chụp lấy ngay, nêu không nó rãy, rách toạc cả lưới ,mất cả cá đấy… Nghe xong tầm quan trọng của việc học cơ bản ,ai cũng nhất trí với thầy Nam Sao, dành một tuần lễ đầu tiên để học các động tác cơ bản mà không nóng vội thực tập tổng hợp ngay. Buổi sáng đầu tiên Nam Sao dùng ba thuyền nan cho ba tổ viên của tổ sông Mã tập bơi đơn thuần, không mang theo đồ nghề gì cả. Các giáo viên hướng dẫn từng động tác cụ thể, từ cách ngồi cách đứng, cách cầm dầm bơi , cầm sào. Cách bơi tiến ,bơi lùi, bơi ngang, bơi một tay, bơi lượn vòng…Họ tập ở chỗ nước đứng dần dần mới ra chỗ nước chảy chậm ,nước chảy nhanh, bơi ngang sông, bơi đi bơi về hàng chục vòng, rồi bơi dọc sông hàng chục cây số. Chiều về anh nào anh nấy đều mệt bở hơi tai, nhưng vẫn động viên nhau kiên trì luyện tập, họ đã quen với tác phong huấn luyện của tiểu đoàn trưởng Nam Sao từ hồi trong quân ngũ. Buổi chiều tối để ba học viên nghỉ lấy sức cho buổi tập ngày mai. Ba giáo viên lại lấy thuyền đi thả lưới quanh vụng gần đó để lấy cá về bồi dưỡng cho anh em luyện tập và các giáo viên huấn luyện. Đêm đó họ cũng đánh được hơn một yến cá, chia cho các gia đình để kho ăn dần trong mấy ngày huấn luyện. Vào ngày thứ ba thì gặp trời mưa, tổ trưởng Cầm đề nghị với thầy Nam Sao cho nghỉ, nhưng anh gạt đi mà bảo:
-Đây là thời cơ cho chúng ta luyện tập, phải tận dụng mọi thời tiết để rèn luyện. Trước đây trong quân ngũ chúng ta phải tranh thủ mọi thời gian ,mọi thời tiết để huấn luyện chiến đấu vì tổ quốc. Bây giờ xuất ngũ rồi, chúng ta cũng phải tận dụng mọi thời gian, mọi thời tiết để rèn luyện vì cuộc sống mưu sinh của chúng ta .Mình phải tự lo cho mình thôi ,chẳng ai lo cho mình cả !
-Em chỉ sợ các giáo viên mệt thôi !
- So với thời gian huấn luyện trong quân ngũ thì đã thấm vào đâu, các đồng chí hãy cố gắng lên, không phải lo cho chúng tôi đâu, các đồng chí thành nghề thì chúng tôi mới vui và hết mệt! Quả nhiên hôm ấy trời mưa to, anh em mặc áo mưa đội mũ cối đều lao ra sông tập suốt cả ngày hôm ấy trong mưa to gió lớn, các giáo viên đều tận tình ngồi cùng thuyền để hướng dẫn sử trí tình huống thuyền bị lật trong mưa gió, đến chiều tối mới về, người nào người ấy đều ướt sũng, nhưng rất hả hê vì đã biết cách sử lý trong tình huống mưa to gió bão.
Sau ba ngày ở Cẩm Thủy để giúp đỡ huấn luyện cho tổ sông Mã. Theo kế hoạch đã bàn từ trước, ngày thứ tư Nam Sao bàn giao lại cho hai huấn luyện viên của tổ sông Lèn ở lại tiếp tục giúp đỡ cho tổ sông Mã .Còn anh lại chuyển đi kiểm tra và giúp đỡ tổ sông Bưởi, anh dặn hai tổ trưởng Thân và Cầm:
- Hết tuần lễ học cơ bản ,đến tuần học tổng hợp là có thể kiếm cá được rồi, nhưng không vì say kiếm cá mà quên mất học tập bài bản, không nóng vội ăn sổi, sau mỗi lần tập và đánh cá, đều phải rút kinh nghiệm tìm ra ưu khuyết điểm để kịp thời khắc phục cho mẻ sau ,lần tập sau. Phải học nghiêm túc thì mới chóng thành nghề, tôi sẽ lên với các đồng chí sau hai tuần nữa.
Sáng hôm sau tạm biệt tổ sông Mã và các giáo viên, Nam Sao lại một mình một thuyền xuôi dòng sông Mã về sông Bưởi, anh phải bơi gần hai mươi cây số qua ngầm Eo Lê gần thành nhà Hồ rồi rẽ vào sông Bưởi, trên đường đi có một mình ,lại xuôi nước ,nên anh đi khá nhanh. Anh cũng dừng lại đánh mấy mẻ lưới để kiếm cá làm quà cho tổ của Thế buổi chiều nay. Khoảng năm giờ chiều anh đã tới nơi tập kết ở một làng phía Nam bến Cổ Tế. Cả bốn tổ viên và hai giáo viên của tổ sông Lèn đều đã đón chờ đông đủ. Họ ôm chầm lấy nhau vui cười ríu rít, Tổ trưởng Tề giới thiệu:
-Có cả hai đồng chí đã đi làm sơn tràng nghe tin thủ trưởng đến chỉ bảo ,cũng bỏ về học nghề đánh cá của thủ trưởng rồi đấy ạ !
- Đâu đâu ,hai cậu ấy đâu?- Chúng em đây ạ!
- Tưởng là ai ,hóa ra là thằng Kim và thằng Nhạn à? Các chú trước kia đều là lính của đội trưởng phá bom Đoàn Văn Lộc có phải không?
-Vâng đúng đấy ạ, thủ trưởng nhớ chiến sỹ quá!
- Các chú còn nhớ liệt sỹ phá bom Lê Thanh Sơn ở đây không, mộ có còn hay mất, hãy còn à, tí nữa chúng ta phải ra thắp hương cho chú ấy nhá ! Đang nói chuyện ở trên bến thì nghe thấy cá rẫy đành đạch ở dưới thuyền ,mọi người đều nhìn ra :
-Cái gì thế nhỉ, hình như thủ trưởng đánh cá cá đem về à ? Tổ trưởng Tề hỏi.
- Mình thấy trời còn sớm ,nên đánh mấy mẻ về để các cậu uống rượu cho vui
.-Ôi, thế thì nhất thủ trưởng rồi! Hoan hô thủ trưởng ! Ngay sau đấy họ kéo nhau đến thắp hương cho mồ liệt Lê Thanh Sơn, rồi kéo về nhà tổ trưởng Tề. Đêm đó họ lại liên hoan ,lại tâm sự suốt đêm như ở tổ Cẩm Thủy. Sớm hôm sau ,Nam sao kiểm tra việc huấn luyện của hai giáo viên của tổ sông Lèn với bốn học viên của tổ sông Bưởi trong ba ngày qua. Biểu dương các huấn luyện viên và học viên đã tích cực và nghiêm túc thực hiện theo chương trình đã vạch ra, và góp ý bổ sung thêm một số điểm cơ bản trong học tập, để nhanh chóng thành nghề ,kiếm ăn xóa đói giảm nghèo cho bản thân và gia đình mình. Nam Sao cũng ở lại đây ba ngày huấn luyện ,rồi lại chia tay tổ Sông Bưởi, một mình lại bơi thuyền đến tổ Sông Ghép cách đó gần ba mươi cây số. Trên đường đi ,anh còn dừng lại ở cầu Hàm Rồng, thả lưới đánh cá và để nhớ lại một trận tháo thủy lôi trôi trước đây.
Chương 14
THÁO GỠ THỦY LÔI TRÔI 30-5-66
Cầu Hàm Rồng nằm trên quốc lộ số 1 bắc qua sông Mã. Mố bờ Bắc thuộc xã Hoằng Long – huyện Hoằng Hóa, mố bờ Nam thuộc xã Đồng Sơn –huyện Đông Sơn. Đường bộ và đường sắt vào cầu bên bờ Bắc độc đạo, một bên là chân núi Ngọc dốc đứng, một bên là tả luy dốc xuống sông Mã. Phía bờ Nam cách mố 200m là nhà máy điện Hàm Rồng. Phía hạ lưu cách cầu 100m là bến phà Hàm Rồng. Khu vực này thành một cụm giao thông, kinh tế quan , trọng của tỉnh Thanh Hóa .
Giặc Mỹ thường xuyên dùng máy bay đánh phá ,chúng dùng nhiều thủ đoạn, bay ngày ,bay đêm, sử dụng nhiều kiểu loại bom đạn khác nhau nhằm mục đích phá hoại và ngăn cản giao thông từ Bắc vào Nam của ta. Trận đánh lớn nhất là hai ngày 3 và4 tháng 4 năm 1965 rồi tiếp tục hàng năm trời. Đánh phá các công trình khu vực Hàm Rồng hỏng đi, hỏng lại nhiều lần nhưng vẫn không phá được cầu ,ta vẫn khắc phục nhanh chóng bảo đảm giao thông thông suốt. Nên giặc Mỹ cay cú ,phải nghiên cứu chế tạo một loại vũ khí mới để chuyên đánh cầu Hàm Rồng. Trận ác liệt bắt đầu từ ngày 29-5-1966,,chúng sử dụng nhiều tốp máy bay ném bom mật độ dày đặc, tập trung vào khu cầu, nhưng cầu chỉ bị thương nhẹ, bom rơi nhiều ở hai bên bờ và thượng hạ lưu cầu, rơi dưới sông. Khoảng 1 đêm, từ Tỉnh đội cách xa cầu 15km nghe thấy những tiếng nổ lớn dồn dập cách nhau 5-10 phút một tiếng nổ. Phán đoán tiếng nổ nằm trên mặt đất hoặc mặt nước, khác với tiếng nổ của bom là nổ to và đanh. Năm giờ sáng nhận được báo cáo của đài quan sát Hàm Rồng: Vào lúc 0 giờ 15 phút ngày 30-5-1966,1 máy bay C130 thả một vệt thủy lôi theo dọc sông về phía thượng lưu, cách cầu Hầm Rồng khoảng 3km. Đến 1 giờ thì xuất hiện tiếng nổ, mà tiếng nổ cứ trôi dần về phía cầu, đếm được 5 tiếng nổ, khu vực Hàm Rồng lại yên tĩnh. Trời sáng hẳn, mới quan sát thấy, trên mặt sông cách cầu khoảng 200m, thấy một quả thủy lôi chưa nổ màu đen bị giữ lại không trôi được nữa.
Tình hình ta: Lệnh của đồng chí chỉ huy trưởng Tỉnh đội, việc đi lại trên cầu ,trên sông tạm dừng hoạt động. Tỉnh tổ chức ngay một bộ phận trinh sát và khắc phục bom đạn sẵn sàng làm nhiệm vụ. Đồng chí Phạm Văn Thứ Tham mưu phó tổ chức bộ phận này để xuống hiện trường, thành phần gồm: hai sỹ quan trợ lý công binh: Đào Xuân Nhật, Nguyễn Văn Xuân và một sỹ quan trợ lý tác chiến Phạm Văn Dũng do chủ nhiệm công binh Nam Sao phụ trách ra ngay hiện trường cầu Hàm Rồng.
Tổ chức trinh sát: 7 giờ tất cả đã có mặt ở hiện trường, đứng trên bờ sông quan sát hiện vật, dáng như một chiếc thuyền thúng cách bờ khoảng 100m ở giữa dòng chảy ,hôm ấy nước sông to, do mưa trên nguồn từ mấy hôm trước chảy về có lưu tốc nước mạnh, làm cho quả thủy lôi cứ bập bềnh muốn rời khỏi vị trí.
Sau một giờ ngồi trên bờ trao đổi , để nhận dạng và phán đoán đó là loại thủy lôi gì ? Cuối cùng không ai kết luận được một cách chính xác, mà chỉ phán đoán đó là một loại thủy lôi trôi…Đào Xuân Nhật phát biểu:
- Có thể đây là loại thủy lôi có sừng va chạm để gây nổ đánh các phương tiện đi trên sông biển .đề nghị chúng ta phải trực tiếp đến hiện vật để xem xét, đứng trên bờ không thể kết luận được và không thể có biện pháp khắc phục .Trường hợp này ta không nên dùng biện pháp phá nổ bằng cách bắn súng hay bộc phá, như vậy ta không nghiên cứu được đây là loại vũ khí mới của địch. Tôi đề nghị giữ lại hiện vật để tìm cách chống, phá ,khi địch đánh sau này. Đồng chí Thứ điện về báo cáo với chỉ huy trưởng và dự kiến phương án khắc phục theo ý kiến của Đào Xuân Nhật. Được cấp trên chấp nhận.
Tổ kỹ thuật được thành lập ngay trên bờ sông do đồng chí Đào Xuân Nhật phụ trách, đồng chí Nguyễn Văn Xuân tổ viên và đồng chí Cư trung sỹ công an khu vực Nam Ngạn Hàm Rồng, tổ viên. Đội hình đi đã được bố tri sẵn sàng.
Dự kiến một số tình huống có thể xảy ra:
-Thủy lôi chưa va chạm vào mục tiêu nên chưa nổ.
-Thủy lôi đang làm việc và chờ thời gian tự hủy.
-Trong khi người và phương tiện tiếp xúc thủy lôi có thể gây thủy lôi nổ và thương vong.
Quyết tâm ra khơi vẫn không thay đổi.
Đội hình gồm: Đồng chi Xuân cán bộ kỹ thuật công binh ,đồng chí Cư công an chèo thuyền. Mọi người trên bờ sông đã được lệnh vào vị trí ẩn nấp phía sau bờ đê .
Trận chiến đấu bắt đầu :
Thuyền rời khỏi bờ chếch về phía thượng lưu 100m so với thủy lôi, lợi dụng sức nước chảy đưa thuyền tiếp cận thủy lôi, sợi dây bảo hiểm buộc vào thuyền và từ từ tở ra theo thuyền .Thời gian căng thẳng tính theo giây phút ,vì đây là một cuộc chiến đấu giáp lá cà với địch. Sợi dây bảo hiểm vẫn từ từ tở ra. Thời điểm tiếp xúc giữa thuyền và thủy lôi đã đến gần. Sự im lặng của mọi người trên bờ đã lo lắng thực sự. Không biết mọi hành động của hai người trên thuyền khi chèo sát vào thủy lôi ,có bình tĩnh làm đúng các động tác đã thống nhất trên bờ không, mọi người ngó đầu lên để quan sát.
Thuyền đã tiếp xúc thủy lôi một cách chính xác…sợi dây bảo hiểm theo dòng chảy thành hình vòng cung nổi trên mặt nước, thuyền và thủy lôi thành một khối dừng lại. Đồng chí Xuân rời khỏi thuyền, bước lên mặt quả thủy lôi xem xét tổng thể và ghi chép một số hình dáng cấu tạo bên ngoài của thủy lôi. Thời gian diễn ra 5 phút, đồng chí Xuân bước xuống thuyền, dây bảo hiểm kéo thuyền vào bờ.
Đồng chí Xuân báo cáo :- Mặt quả thủy lôi hình 8 cạnh(bát giác) -Đường kính khoảng 1,8m-2,2m. Ở giữa lõm xuống một bậc khoảng 20cm theo hình 8 cạnh ,đường kính khoảng 1,2 m-Ở trung tâm trên mặt có 1 ô tròn, đường kính khoảng 30 cm, chứa 7 mặt kính lồi ( 1 cái ở giữa ô,6 cái xung quanh), khi nhìn vào thấy xuất hiện màu sắc : xanh- tím-vàng – đỏ, khác nhau-Trên thành có 1 vòng cáp lụa nhỏ có thể được nối thông vào bên trong quả.-Thủy lôi bị giữ lại trên dòng chảy là do chiếc dù giảm tốc chưa tách rời khỏi thủy lôi ,vì dây dù bị vướng vào một vật thể dưới đáy sông ,làm cho thủy lôi không trôi đi được.
Qua báo cáo của đồng chí Xuân, tổ kỹ thuật trao đổi cần nắm thêm một số cấu tạo bên ngoài của thủy lôi một cách tỉ mỉ hơn nữa để làm cơ sở lập kế hoạch tháo gỡ ,báo cáo cấp trên. Tổ chức trinh sát tiếp tục lần thứ hai: đội hình như cũ, thêm đồng chí Nhật tổ trưởng .Khi thuyền tiếp cận, Nhật và Xuân cùng bước lên quả thủy lôi, sức nổi của quả thủy lôi thay đổi không đáng kể, hai người cùng nhau xem xét cấu tạo bên ngoài kỹ hơn.
-Phần nổi trên mặt nước khoảng 30-35 cm
- Sáu ổ khóa dây dù vẫn đóng chặt
Vòng cáp lụa trên thành thủy lôi có một sợi dây thép luồn qua ,Phán đoán: khi tách dù, sợi dây thép sẽ giật vòng cáp ra, để đưa thủy lôi vào trạng thái chờ nổ.
Nhật đi xung quanh, vịn tay vào thành thủy lôi ,đưa hai chân xuống nước, sờ bằng chân vào xung quanh xem có gì vướng không, không có gì, chỉ có cấu tạo của vỏ thành và đáy quả thủy lôi thôi.
Qua hai lần trực tiếp trinh sát, đã có số liệu báo cáo Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và Quân Khu. Đồng thời Ban công binh tỉnh tiến hành lập kế hoạch tháo gỡ.
Tổ chức tháo gỡ: Sáu giờ sáng hôm sau Nam Sao, trưởng ban công binh nhận được lệnh của tỉnh và quân khu cho tổ chức tháo gỡ. Việc tổ chức được thành lập ngay. Thành phần gồm:
-Thiếu tá Trần Khắc Biểu ,phó phòng công binh Quân khu. Chỉ huy chung.
- Thượng úy Nguyễn thế Huấn, trợ lý bom mìn Quân khu.
- Thượng úy Phạm Mạnh Quỳnh, trợ lý bom mìn Bộ tư lệnh công binh.
- Thượng úy Nguyễn Nam Sao, trưởng ban công binh Bộ chỉ huy quân sự Thanh Hóa.
- Chuẩn úy Đào Xuân Nhật, trợ lý bom mìn tỉnh Thanh Hóa.
- Chuẩn úy Nguyễn Văn Xuân, trợ lý công binh tỉnh Thanh Hóa.
Được trang bị: 1 thuyền nan ,150m dây bảo hiểm,150m dây cáp lụa ,1 tời bằng sắt quay tay, các dụng cụ tháo phá bom mìn.
Thứ tự các bước tiến hành:
Bước một: Đưa thủy lôi vào mép nước bờ sông, là những người đã trinh sát: Nhật và Xuân, làm các động tác an toàn cho người xong, bơi thuyền nan kéo theo hai sợi dây: 1 dây cáp ,1 dây thừng, ra vị trí của thủy lôi, nhanh chóng thao tác, quàng một vòng cáp qua mặt quả, trượt xuống xung quanh thành xuống đáy ngoài của quả thuỷ lôi. Buộc dây thừng vào móc thành thủy lôi. Xong bơi thuyền vào bờ. Lệnh tời cáp. Sợi cáp được từ từ cuốn lại theo tời và căng dần ra tới mức nhất định, nó co kéo làm đứt hệ thống dây dù nối vào ổ khóa thành thủy lôi, chiếc dù vẫn mắc vào vật thể ở đáy sông, nằm lại đó. Quả thủy lôi đã buộc sẵn dây bảo hiểm kéo vào bờ.
Lệnh cho các đồng chí phục vụ cho việc tời ,kéo quả thủy lôi, thu dọn dụng cụ về vị trí quy định phía sau. Các đồng chí cán bộ kỹ thuật công binh của Bộ, quân khu và tỉnh chuẩn bị cho việc nghiên cứu tháo gỡ. Tổ trinh sát kỹ thuật gồm các đồng chí Quỳnh, Huấn, Nhật và Nam Sao quây quanh qủa thuỷ lôi nghe đồng chí Nhật, giới thiệu khái quát những điểm đã trinh sát được ngày hôm qua, về hình dáng và hiện trạng lúc thủy lôi còn đang ở giữa sông. Nhìn vào hiện vật ,các đồng chí trao đổi khái niệm về nguyên lý gây nổ của các loại thủy lôi này như:
-Nổ do điều khiển từ xa bằng vô tuyến.
-Nổ do hiện hình màn quang trên các kính bố trí trên mặt thủy lôi ,khi vào gầm cầu nổ hất tung cầu lên.
- Nổ do cảm ứng điện từ, và nổ tự hủy, khi đã hết thời gian quy định nằm ở đất đối phương, như 5 quả nổ ngày hôm qua, để bảo đảm bí mật loại vũ khí mới.
Tại sao quả này chưa nổ được là vì vòng cáp an toàn chưa được rút ra để nối thông mạch cho hệ thống của máy thủy lôi làm việc.
Những ý kiến nói trên, tổ kỹ thuật đều nhất trí đi đến kết luận là có cơ sở khoa học, của loại vũ khí mới của đế quốc Mỹ. Ta mới tiếp xúc lần đầu ,cần phải tháo ra để nghiên cứu học tập và tìm cách đối phó với địch. Đồng chí Quỳnh đã được phép của Bộ, tranh thủ ý kiến của đồng chí Biểu và đồng chí Nam Sao thống nhất với tỉnh cho tổ chức thực hành tháo gỡ.
Hiện trường tháo gỡ, được chuẩn bị chu đáo. Quả thuỷ lôi được đưa đến một chỗ lõm dưới nước, thuộc đất bãi ven sông phía bờ Bắc cách Hàm Rồng 500m về phía thượng lưu.
Tổ kỹ thuật tháo gỡ do đồng chí Quỳnh phụ trách ,2 tổ viên Huấn và Nhật, Đồng chí Nam Sao giám sát chung và bảo đảm an toàn.
Bước hai:
Thời gian bắt đầu lúc 13 giờ ngày 30-5-1966.
Thứ tự tiến hành:
-Chụp ảnh quả thủy lôi xong ,mang máy ảnh để ở phía sau quả thủy lôi cách 100m, đề phòng thủy lôi nổ trong khi chưa tháo xong, sẽ tồn tại hình ảnh đã chụp được.
-Ba đồng chí bước xuống quả thủy lôi, đồng chí Quỳnh là người tháo ,đồng chí Nhật và Huấn phục vụ và trao đổi kỹ thuật trong quá trình tháo gỡ.
-Dùng cờ lê vặn các ê cu liền ốc mở các nắp trên thành thủy lôi (chụp ảnh )
-Dùng tay lấy những bánh xốp màu trắng ghép sát nhau bên trong thủy lôi ( đề phòng thủy lôi khi bị thủng vẫn nổi được). Lúc này thấy các ô chứa máy lộ ra.
-Dùng cờ lê vặn các ốc nắp máy và mở nắp máy, thấy các hệ thống đường dây điện thông vào các buồng chứa máy ở quanh thành quả thủy lôi và buộc thành từng nhóm dây lại với nhau ( dừng lại chụp ảnh)
-Nam Sao đề nghị tổ kỹ thuật nghỉ ít phút để trao đổi rút kinh nghiệm, bổ sung cho bước tháo tỉ mỉ, thận trọng và chuẩn xác hơn, có thể chỉ một sơ xuất nhỏ, chập mạch điện, gây nổ thủy lôi. Máy ảnh đưa về vị trí cất dấu xong lại tiếp tục tháo gỡ.
-Tách riêng ra từng sợi dây điện và cắt rời không cho chúng nối thông mạch với nhau, các đầu dây đều quấn cách điện.
-Lần tìm điểm đầu và điểm cuối của dây ,xem nối vào những bộ phận nào,
-Tìm thấy mạch điện nối thông kíp với thuốc nổ mồi, nằm trên lượng thuốc nổ của thủy lôi (dừng lại chụp ảnh).
-Cắt từng sợi dây tách khỏi nguồn nối với kíp.
-Lấy hộp kíp và bánh thuốc mồi ra. Trên mặt lượng thuốc nổ, mạng màu trắng bố trí ở toàn bộ phần đáy của thủy lôi. Đã tháo được kíp nổ và phát hiện không còn đường dây nào tới lượng nổ nữa. Ai cũng thở phào nhẹ nhõm. mọi động tác tháo lúc này tự tin hơn và chắc thắng. Nam Sao nói với mọi người :
-Nhưng không được chủ quan !
-Lần lượt tháo các hộp máy ở trong buồng chứa máy ,mang ra. Bảo quản và đánh dấu thứ tự vị trí của chúng .Lúc này quả thủy lôi biến thành một cái nồi đựng thuốc nổ. Mọi người mới hể hả cười vang: Thành công rồi !chiến thắng rồi!
Nam Sao lệnh cho chiếc xe tải của Bộ tư lệnh công binh đã chờ sẵn, lùi xuống gần quả thủy lôi, Xuân và Nhật nhanh chóng bắc hai ván trượt. Nam Sao tập trung mọi người kéo và đẩy nó lên xe, chằng buộc lại thật chắc chắn. Các phụ kiện đóng hộp để riêng một chỗ, có người bảo quản cẩn thận. Xe nổ máy đưa về Viện nghiên cứu , Bộ tư lệnh công binh.
Kết thúc tháo gỡ quả thủy lôi trôi lúc 17 giờ cùng ngày. Tổ kỹ thuật thu dọn dụng cụ về vị trí rút kinh nghiệm trận đánh.
Nhận xét: Các đồng chí chỉ huy và các đồng chí tham gia khắc phục hậu qủa sau trận đánh bằng thủy lôi của địch đã thống nhất đi đến kết luận:
-Địch dùng loại thủy lôi trôi kiểu mới chứa lượng nổ to và sức nổ mạnh. Trọng lượng cả vỏ là 5.000 LBS (bảng Anh), nhằm vào mục đích phá cầu Hàm Rồng. Dự đoán nguyên lý gây nổ là: Khi thủy lôi trôi đến gầm cầu, gây thay đổi ánh sáng trên mặt quả thủy lôi, các bộ phận máy bên trong làm việc, gây thủy lôi nổ.
- Sau trận đánh, đài quan sát đã kịp thời phát hiện và báo cáo về Sở chỉ huy.
-Các đồng chí chỉ huy của các cấp nghiệp vụ công binh: Tỉnh, Quân khu, Bộ tư lệnh công binh đã nhanh chóng kịp thời chỉ đạo giải quyết hậu quả.
-Các đồng chí trinh sát kỹ thuật lúc ban đầu kiên quyết dũng cảm, thông minh sử trí tình huống trong khi làm nhiệm vụ, đã giúp cho việc thực hành tổ chức tháo gỡ có hiệu quả tốt, kết quả này làm tiền đề cho việc nghiên cứu tài liệu của Bộ, phổ biến rộng rãi cho các đơn vị để sẵn sàng dùng các biện pháp chống lại loại vũ khí mới này của địch.
Nam Sao vẫn nhớ như in từng giờ phút của trận phá gỡ thủy lôi trôi này:
0 giờ 15 phút ngày 30 -5-1966 một máy bay C130 thả một vệt 6 quả thủy lôi trôi vào Hàm Rồng, bị nổ 5 quả chưa đến chân cầu,1 quả bị mắc lại và không nổ. Phá đoán như sau:
5 quả nổ là do tự hủy- chưa trôi đến gầm cầu ,nên chưa có tác động màn ánh sáng-Tự hủy là do thả xa quá, mà thời gian tự hủy lại để ngắn.1 quả không nổ vì chưa cắt được dù, nên chưa đưa đầu nổ vào vị trí chiến đấu, có thể do dù mở chưa hết, nên khi xuống bị mắc cây ngầm dưới sông. Cũng có thể còn do gió ngược với nước ( nước xuôi ,gió ngược)nên thủy lôi trôi chậm hơn theo tốc độ nước chảy (Vm/s) của nước, hoặc bọn Mỹ tính thủy triều lúc đó sai, nên tốc độ chậm ,bị nổ trước khi đến cầu.
Cay cú vì bị thất bại ngày 30-5-66,bọn giặc lái không phá nổi cầu Hàm Rồng. Bọn chỉ huy lầu năm góc Mỹ lại thúc ép bọn giặc lái tiếp tục thả trận thứ hai:
0 giờ 45 phút ngày 31-5-66 địch lại cho một máy bay C130 đi thả thủy lôi tiếp để phá cầu Hàm Rồng. Thủ đoạn, máy bay đi vòng theo hướng khác, vào sườn Nam núi Nưa thuộc huyện Triệu Sơn, rồi vòng ra Hàm Rồng, để tránh cao xạ ta. Nhưng đến Triệu Sơn thì bị một tiểu đoàn cao xạ ta đang huấn luyện tại đó ,liền bắn cháy chiếc C130 này, máy bay rơi tại chỗ tổ giặc lái đều chết hết. Thế là tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa .Số thủy lôi bị nổ 5 quả, còn lại một quả nguyên vẹn bắn ra đất. Phòng công binh Quân khu liền tổ chức thu dọn, cẩu những bộ phận của chiếc C130 này về triển lãm ở Hà Đông, trong đó có 1 quả thủy lôi còn nguyên.( quả thủy lôi ngày 30-5 đưa về Bộ tư lệnh công binh) Đồng chí Nguyễn Tuyên được giao nhiệm vụ nghiên cứu tính năng tác dụng và nguyên lý nổ của các loại thủy lôi này đã viết thành tài liệu phổ biến kịp thời trong lực lượng công binh. Ban công binh tỉnh do đòng chí Nam Sao làm trưởng ban đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan sát ,trinh sát và kịp thời phối hợp với cán bộ kỹ thuật bom mìn Quân khu và Bộ bảo đảm việc tháo gỡ thủy lôi nhanh chóng an toàn.
Hàm Rồng tháng 10-1967
Ngày 4-4-1965 không quân Mỹ mở đợt đánh phá xuống khu vực cầu Hàm Rồng liên tục ,thả nhiều bom đạn, nhưng cầu vẫn hiên ngang. Các đoàn xe vận tải từ Bắc vào Nam, chở đầy lương thực, vũ khí, phân đạm. Lại có cả các xe chở các loại pháo, vẫn bon bon trên cầu Hàm Rồng. Địch đánh ,ta sửa ta đi .Địch lại đánh, ta lại sửa ta đi. Địch đánh ngày ,ta sửa ngày. Địch đánh đêm, ta sửa đêm. Địch đánh ít ,thì máy bay rơi ít, địch đánh nhiều ,thì máy bay rơi nhiều. Hàng trăm chiếc máy bay Mỹ đã bị quân dân ta bắn rơi, hàng vài chục giặc lái đã bị ta bắt sống tại đây.
Đường giao thông của ta vẫn thông suốt, không quân Mỹ càng tức tối, tập trung máy bay đánh phá ác liệt từng đợt. Những trận ném bom ,tên lửa, kể cả pháo kích từ biển vào khu vực cầu Hàm Rồng ngày 21,22,23-10-1967.Số máy bay đã tăng mỗi toán từ 35-40 chiếc. Trong một ngày 6 lần đánh phá .Mỗi lần chúng ném bom dọc bờ sông Mã và hai bên núi. Cánh đồng khói bốc lên nghi ngút mỗi bề hai cây số. Khi máy bay Mỹ đến, các hỏa lực phòng không của ta lại bắn bao vây chúng, cái thì cháy, cái thì rơi ,số còn lại tháo chạy ra biển. Những đòn đích đáng vào không lực Hoa Kỳ. Thế mới biết sức mạnh của nhân dân Thanh Hóa anh hùng.
Ngày 21 -10 hồi 9 giờ sáng, một đoạn đường ô tô khu vực đồi không tên bị trúng 3 quả bom, phá 50m đường.
Ngày 22-10,một đoạn đường số 1,cách cầu Hàm Rồng 500m,đường sắt và đường bộ trúng bom phá 30m .
Ngày 23-10 ,cầu Hàm Rồng bị thương nặng, mố phía Nam ,xe không qua được, đồng thời đường tránh khu vực đồi không tên hỏng hàng trăm mét.Bom bi, bom chưa nổ, rải rác ở khu vực đồi không tên cầu Hàm Rồng. Đây là một trong hàng trăm trận, quân Mỹ đánh ác liệt nhất, và cũng trong một ngày máy bay Mỹ bị hạ 9 chiếc, cầu chỉ bị hỏng nhẹ, chúi xuống, chưa bị sập.
Chủ trương kế hoạch của ta: Phán đoán được âm mưu mở chiến dịch lớn, đánh phá giao thông của địch. Ta đã bố trí sẵn những lực lượng bảo đảm giao thông, gồm có: Đại đội công binh 21, bộ đội địa phương tỉnh Thanh Hóa. Đội cầu đường sắt. Đội công nhân giao thông hạt thị xã. Đội cầu phao ty giao thông. Ngoài ra Quân khu còn bố trí tiểu đoàn 27 công binh cầu phà, sắn sàng chi viện cho Hàm Rồng, Đò Lèn. Còn một đội quân ngoài biên chế là dân quân và nhân dân hai huyện thị, Hoằng Hóa ,thị xã Đông Sơn. Cần thiết sau hai giờ có hàng vạn người ra ứng cứu. Một sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở khu vực Hàm Rồng Thanh Hóa.
Ban chỉ đạo trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại gồm có phó chủ tịch Hoàng Văn Hiều. tỉnh đội, ty giao thông ,công an ,ty y tế vv…Thường xuyên thường trực chỉ đạo và chỉ huy. Thượng úy Nam Sao là chủ nhiệm công binh tỉnh Thanh Hóa là ủy viên thường trực cho ban chỉ đạo, và trực tiếp chỉ huy, điều động các lực lượng công binh và giao thông để sử lý các tình huống.
Quyết tâm và sử dụng lực lượng: Địch tập trung đanh phá khu vực Hàm Rồng 3 ngày liền .Ban chỉ đạo tỉnh Thanh Hóa hạ quyết tâm: Huy động mọi lực lượng bảo đảm giao thông thông suốt không được để tắc quá đêm. Sử dụng lực lượng:- Đại đội 21 công binh Thanh Hóa chuyên về phá gỡ bom đạn các loại -Quân khu 3 chi viện tiểu đoàn 27 bảo đảm bến vượt nặng ở thượng lưu cầu Hàm Rồng 2km. -Hạt giao thông Hoằng Hóa, thị xã sửa đường hai đầu mố. -Đội cầu phao giao thông : Sửa và bắc cầu phao hạ lưu cầu Hàm Rồng 1km, cho người và xe cải tiến qua(cầu Nam Ngạn).-Đội cầu sắt sửa chữa cầu Hàm Rồng. -Dân quân tự vệ được huy động phối hợp làm đường ,làm trận địa ,vận chuyển vật liệu. - Riêng đại đội 21 công binh: Làm đường, phá bom đạn địch còn lại, thu nhặt bom bi trên toàn khu vực Hàm Rồng tập trung lại phá hủy.
Diễn biến:- Từ 8 giờ sáng ngày 21-10-1967, không quân Mỹ đánh phá không ngớt đến đợt cuối cùng là 16 giờ .Khu vực Hàm Rồng, khói bom ,khói súng, tiếng nổ to, tiếng nổ nhỏ, trên trời ,dưới đất ầm vang. -Đại đội 21 đóng quân ở xã Hoằng Hợp. được báo động, xuất quân từ đợt ném bom hồi 8 giờ ngày 21,cán bộ chiến sỹ suốt ngày ở khu vực Hàm Rồng, đánh dấu bom, phá hủy bom bi, một tổ xung kích dùng bộc phá lấy đất lấp hố bom. Đồng chí Nam Sao ,chủ nhiệm, công binh tỉnh, kỹ sư Phạm Chân, trự lý công binh, trợ lý bom đạn Đào Xuân Nhật, trợ lý cầu đường, kỹ sư Võ Như Sáu đều có mặt trực tiếp chỉ đạo ngay tại khu vực Hàm Rồng.
18 giờ toàn bộ các lực lượng triển khai. Tiểu đoàn 27 công binh quân khu ,hành quân ban ngày bằng cơ giới, 20 giờ đã tới bến nặng, làm phà cách thượng lưu Hàm Rồng 2km. Sau một giờ ,các đoàn cao xạ và xe vận tải đã qua sông. Từ bờ Bắc vào Nam .Còn từ bờ Nam ra Bắc, đi theo tuyến phà giao thông, người đi bộ qua cầu phao. Tất cả an toàn.
Sáng ngày 22-10 không quân Mỹ tiếp tục đánh phá. Cầu sắt Hàm Rồng lại hỏng, đường tránh sườn Nam đồi không tên hỏng hàng trăm mét, phía Bắc đường xuống bến phà hỏng nặng.
Bốn tiểu đoàn cao xạ: pháo 57ly và 37 hai nòng của Bộ tăng cường cho khu vực Hàm Rồng, phải qua sông Mã để bố trí ở khu vực cánh đồng Nam Ngạn và đồi không tên. Tiểu đoàn 27 công binh quân khu chuyên chở cả ban ngày ,từ sáng đến gần tối. Đại đội 21 phải sửa đường ban ngày .Cứ sau mỗi đợt địch đánh ,thì lại xuất hiện chiến sỹ công binh và lực lượng giao thông phối hợp sửa đường .
Thật thi gan với địch. Ngớt tiếng bom thì đã thấy công binh, công nhân sửa cầu, làm đường .Dưới sông tiểu đoàn 27 chở phà. Trên đầu bến phía Bắc thì hàng đoàn xe pháo cao xạ triển khai tại chỗ bắn máy bay, phối hợp với trận địa cao xạ cụm Hàm Rồng do đồng chí Khuy ,trung đoàn trưởng chỉ huy.
-Ngày 23,địch tiếp tục đánh ,ta tiếp tục sửa chữa. Hôm đó, có đoàn công binh Cu Ba vào Thanh Hóa, đòi ra tham quan Hàm Rồng. Ta bảo vệ các đồng chí bạn không cho ra, nhưng lợi dụng xe con ,các đồng chí yêu cầu, cứ cho các đòng chí ra học tập. Tại chiến hào, các đồng chí Cu Ba nói:” Phi đen cát tơ rô bảo : Phải ra chiến hào cùng Việt Nam”, thế là các đồng chí Cu Ba ra Hàm Rồng khói lửa. Chính mắt các đồng chí Cu Ba trông thấy bom Mỹ vừa đánh xong, thì ở dưới sông đã xuất hiện, tiểu đoàn 27 công binh chở phà, những khẩu cao xạ 57 với xe xích cồng kềnh ở phà công binh trên sông Mã. Tiếng búa giao thông chữa cầu. Bóng anh công binh đại đội 21, cầm cờ nhỏ đánh đấu bom. Đồng chí Cu Ba chạy tắt đón một chiến sỹ của đại đội 21 tên là Hòa xách cái bị cói, tay cầm cờ, đến lúc đồng chí Cu Ba xem trong túi thấy toàn bom bi chưa nổ. Đồng chí đó nói:” Học tập Việt Nam anh dũng”.
Kết quả: Tuy máy bay Mỹ đánh liên tục ba ngày 21,22,23-10-1967. đường giao thông của ta qua sông Mã, Hàm Rồng vẫn thông suốt. Riêng cầu sắt Hàm Rồng, ngày thứ ba ,bị hỏng nặng. Ta chữa 7 ngày lại thông tàu hỏa. Bốn tiểu đoàn cao xạ qua sông ban ngày kịp thời chiến đấu…Các đoàn xe vận tải chi viện cho miền Nam qua Hàm Rồng thông suốt…Trong ba ngày ta bắn rơi 14 chiếc máy bay, bắt sống 9 giặc lái.
Nhận xét: Phối hợp bộ đội và công nhân, dân quân ,cao xạ tạo thành lực lượng tổng hợp trong chiến tranh nhân dân, trên mặt trận bảo đảm giao thông, chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, nhất định sẽ giành thắng lợi. Chỉ đạo chống chiến tranh phá hoại: Luôn chủ động ,bố trí lực lượng mạnh, đối phó kịp thời, chỉ đạo đúng thời cơ. Đại đội 21 công binh và tiểu đoàn 27 vượt sông dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được nhân dân mến yêu.
Như vậy sau 4 năm gây chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ( 1964-1968) và gần 2 năm chiến tranh phá hoại lần thứ hai (1971-1973),quân và dân Hàm Rồng đã bắn rơi 117 máy bay Mỹ các loại. Riêng trong hai ngày 3và 4-4-1965 Mỹ bắt đầu đánh Hàm Rồng với 454 lần /chiếc, bị ta hạ 47 chiếc. Đúng là :Hàm Rồng nỗi kinh hoàng của không lực Hoa Kỳ! Giao thông của ta vẫn không bị ngừng trệ, chi viện vào chiến trường miền Nam.
Chương 15
CON HƠN CHA LÀ NHÀ CÓ PHÚC
Con trai đầu của Nguyễn Văn Thuận là Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1956, giữa mùa cải cách ruộng đất ở nông thôn, gia đình ông nội bị quy là thành phần địa chủ, bị tịch thu tất cả tài sản nhà cửa ruộng đất, phải ăn ở chui rúc trong xó vườn xó bếp, thiếu thốn cực khổ nên ông bà bố mẹ nuôi nấng con cháu rất chật vật,mẹ thiếu sữa vì cả nhà thiếu ăn, nên những ngày tháng đầu mới sinh bị còi cọc ốm đau nhiều,mãi đến khi sửa sai, gia đình được hạ thành phần xuống phú nông ,được trả lại nhà cửa ruộng vườn.Với sức lao động dồi dào,tháo vát và chí tiến thủ làm ăn cần cù nhẫn nại thông minh ,chẳng bao lâu, cả gia đình lại nhanh chóng khôi phục lại được kinh tế đầy đủ no ấm hơn người, dần dần lại có bát ăn bát để hơn trước cải cách ruộng đất, lại khối người đến cầu cạnh. Gia đình hai cụ Ruy và anh chị Thuận sẵn sàng gạt bỏ hiềm khích hận thù,lại cưu mang nhừng người nghèo khó như trước đây. Cháu Vĩnh lại được ông bà cha mẹ chăm sóc nuôi dậy no đủ, dần dần lớn lên khỏe mạnh thông minh. Anh chị Thuận Bằng chỉ tập trung cho con học tập chăm chỉ nên người, hạn chế các sinh hoạt đoàn thể chính trị ,nhi đồng thiếu niên ,chơi bời đàn đúm. Nỗi day dứt vì gia đình có liên quan chính trị vì người bác theo Pháp rồi vào Nam theo Mỹ bị làng xóm xì xào cách ly, lớn lên Vĩnh cũng nhận biết được thái độ phân biệt đối xử của cán bộ Đảng và chính quyền trong thôn xã với gia đình mình. Chính vì thế nên em càng có ý chí vươn lên không chịu thua kém người ,thua kém bạn bè. Em chịu khó học tập hơn người và lao động chăm chỉ và trông nom dìu dắt các em để giúp đỡ cha mẹ. Thời kỳ còn học phổ thông, tuy đi học nhưng em vẫn là người lao động chăm chỉ giỏi giang nhất thôn xóm, dù là việc của hợp tác xã hay việc của gia đình. Sau này lên đại học tuy ở xa nhưng Vĩnh vẫn tranh thủ ngày nghỉ về giúp đỡ cha mẹ những việc nặng nhọc, và luôn luôn quan tâm săn sóc các em trong việc học hành và lao động. Ngay từ ngày học phổ thông Vĩnh đã có nguyện vọng ,theo nghề của bố,nhưng ở tầm cao hơn, nên học xong lớp mười, cuối cấp ba lúc đó, anh đã thi vào đại học xây dựng và được trúng tuyển với số điểm khá cao.Sau bốn năm anh đã tốt nghiệp lấy bằng kỹ sư loại ưu. Trong thời gian học tập anh đặc biệt học tập sâu về kết cấu thép và nghề hàn thép, theo anh đó là xu hướng mới trong nghề xây dựng tương lai .Vì thế vừa học đại học anh lại vừa học thêm nghề thợ hàn. Cuối khóa anh vừa tốt nghiệp kỹ sư xây dựng loại ưu, lại vừa tốt nghiệp thợ hàn bậc 4. Ra trường Vĩnh xin đi làm ở một số công trường xây dựng ,vừa làm kỹ sư vừa làm thợ hàn mục đích để rèn luyện tay nghề, Vốn tính cần cù nhẫn nại, lao động chăm chỉ, vừa làm vừa học thêm kinh nghiệm của những đồng nghiệp lâu năm và các thợ già, nên thu nhập lương cũng kha khá so với bạn bè mới ra trường. Sau một năm lăn lộn trên một số công trường trong nước. Nguyễn Văn Vĩnh nhận thấy việc xây dựng trong nước còn có khuynh hướng trì trệ chậm phát triển so với nước ngoài nên anh có ý định xin đi lao động nước ngoài để học tập thêm. Anh về trình bày nguyện vọng với gia đình ,được bố mẹ đồng ý, thế là anh đăng ký xin đi lao động ở Liên xô, lúc bấy giờ thuận lợi hơn, được chấp nhận .Sang nước bạn, đầu tiên anh chỉ làm thợ hàn để xem xét và nghe ngóng việc làm ăn ra sao. Lần đầu tiên tiếp xúc với các công trường lớn và lao động theo tác phong công nghiệp không lề mề chậm chạp như ở nhà.Tuy vất vả nhưng anh thấy thích thú, anh lại hăng say lao động và tích cực học tập thêm ở các thầy các thợ giỏi nước ngoài,nên chỉ sau một năm lao động, trong đợt thi kiểm tra tay nghề tại nước bạn Vĩnh đã vinh dự đạt tiêu chuẩn thợ hàn bậc bảy trên bảy của Liên xô, được bạn bè trong và ngoài nước nhiệt liệt chúc mừng.Từ đó trên các công trường anh được chỉ định phụ trách kíp trưởng, đội trưởng ,hoặc từng hạng mục công trình riêng.Vốn là kỹ sư xây dựng anh có thể phát hiện và tham gia với các kỹ sư một vài chi tiết chịu lực hoặc thay đổi quy trình hàn để tăng thêm độ bền vững của công trình ,được các kỹ sư nước bạn hoan nghênh ,tán thành và tin tưởng. Sau một thời gian Nguyễn Văn Vĩnh được tín nhiệm với các nhà thầu, có thể ký kết hợp đồng nhận thi công các công trình kết cấu từ đơn giản đến phức tạp như các công ty xây dựng khác. Anh đã huy động các thợ người nước ngoài cùng làm, trong đó ưu tiên thợ người Việt để tương trợ và giúp đỡ bạn bè trong nước ,nhưng với điều kiện kỷ luật lao động cao, chất lượng công trình là nghiêm khắc, được mọi người tôn trọng và tin tưởng ,xin theo anh làm khá đông.
Để việc làm ăn được phát triển hơn, anh quyết định về nước cưới vợ, rồi đưa vợ sang Liên xô cùng sinh sống và làm việc với anh để bảo đảm cuộc sống gia đình được ổn định và làm ăn được bền vững hơn.
Vợ Nguyễn Văn Vĩnh là người cùng quê tên là Mai Lan Phương , kém anh ba tuổi ,học sau anh một cấp, họ đã quen nhau từ thời học phổ thông, hoàn cảnh gia đình ông bà nội trước đây trong cải cách ruộng đất cũng bị quy oan là địa chủ,sau sửa sai hạ xuống là trung nông. Phương là một cô gái xinh đẹp nết na hay lam hay làm, học hành cũng vào loại khá, thường hay đến nhờ anh Vĩnh giảng bài ,phụ đạo hộ nên rất thân nhau. Khi Vĩnh học đại học thì cô Phương còn học cấp ba ,hai gia đình cũng đã đồng ý cho quan hệ đi lại và thương yêu nhau. Sau khi Vĩnh tốt nghiệp ra trường rồi đi làm, Phương yên trí là anh sẽ gần gũi mình nhiều hơn. Nhưng đột nhiên Vĩnh lại xin đi lao động nước ngoài làm Phương hơi hoang mang .Trước khi đi họ đã gặp nhau để bàn chuyện tương lai. Phương bảo Vĩnh :
-Em tưởng anh cứ làm ở trong nước, anh cũng đã khối việc rồi làm không xuể , cần gì phải đi lao động nước ngoài để phải xa nhau ,bao giờ mới về được?
-Em cứ yên tâm, cứ làm việc ở trong nước thì anh cũng chỉ là con trâu con bò kéo cày suốt ngày, được một mớ rơm mớ cỏ nhai đi nhai lại mà thôi. Anh muốn mình phải trở thành một cỗ xe có tốc độ cao, chạy nhanh và làm được nhiều việc, chở được nhiều tiền của hơn người ,muốn vậy chỉ có đi ra nước ngoài mới mở rộng tầm nhìn để tìm hiểu và học tập thêm nhiều nữa , thì mới phát triển được. Em cứ ở nhà học tập cho chu đáo, chỉ một vài năm ,anh tìm được hướng làm ăn tốt thì sẽ về đón em sang cùng anh. Chúng ta dù đi đâu, ở đâu cũng phải có một gia đình vững chắc thì việc làm ăn mới phát triển bền vững được .
-Em chỉ sợ một mình anh ở xa xôi gặp nhiều khó khăn trắc trở không có người thân động viên an ủi...
-Em đừng lo, bố mẹ anh còn gặp bao nhiêu nỗi đắng cay tủi nhục mà vẫn bền bỉ vươn lên được ,anh là con há lại không noi gương được bố mẹ hay sao? Thời nay đã khác không bị trù úm ràng buộc như bố mẹ trước đây, nhất định anh phải vươn lên tầm cao hơn ,để làm vui lòng bố mẹ, làm vẻ vang cho ông bà tổ tiên họ hàng làng xóm ta. Em còn lo gì nữa không nào?
-Em vẫn còn lo...Phương mỉn cười nhìn vào mắt Vĩnh, vẻ hóm hỉnh - sợ khí hậu không hợp và sợ... gái Tây nó chài mất anh thôi ...-Vĩnh bỗng cười ha hả , nhìn thẳng vào mắt Phương rồi nháy nháy mắt trêu lại:
-Điều đó thì phải hỏi em mới đúng ! Nếu lâu lâu mà không có liên hệ với anh thì có khi anh cũng bị gái Tây nó chài thật đấy! -Cả hai cùng cười xòa, ôm hôn nhau thắm thiết. Phương bỗng nói nhỏ vào tai Vĩnh:
-Anh có muốn... ăn cơm trước kẻng không ?
-Không ,chẳng giải quyết được cái gì cả,cứ để... dành đấy cho anh .Trước mắt chúng ta là sự nghiệp còn dài ,đừng vì những háo hức nhỏ nhen nhất thời mà có khi phá vỡ cả cuộc đời. Tình yêu của chúng ta phải trong sáng tự hào trước hai gia đình và bàn dân thiên hạ.
-Ôi em cảm ơn anh, em sung sướng tự hào vì có anh, người yêu ,người chồng lý tưởng của em !
Sau khi sang nước ngoài được gần một năm ,trước mắt Nguyễn Văn Vĩnh nhìn thấy một nền kinh tế thị trường của nước bạn đầy xôi động, nhiều người Viêt Nam sang đây một số tay nghề chuyên môn kỹ thuật yếu, nên đã chuyển sang buôn bán, chạy chợ cũng kiếm ăn được. Anh nghĩ đây cũng là một hướng có thể phát triển được, nếu như có thêm người anh sẽ cho làm thêm hướng phụ, cũng như ở trong nước bố mẹ anh đã làm ,nông nghiệp và công nghiệp ,trang trại và xí nghiệp gạch ngói song song cùng tồn tại và hỗ trợ cho nhau . Nguyễn Văn Vĩnh liền điện về cho Mai Lan Phương, nói Phương nên đi học thêm một khóa học Cao đẳng về thương mại nữa. Chả là trước đây thấy Vĩnh học nghề xây dựng nên Phương cũng thi vào đại học xây dựng để cùng theo nghề của anh và hỗ trợ cho anh .Nhưng nay thấy Vĩnh gọi điện về trao đổi như vậy, Phương cũng tán thành, Cô đang học đại học xây dựng năm thứ ba ,cô liền xin vào học thêm một lớp Thương mại cấp tốc trong hai năm nữa ,tuy học có vất vả nhiều nhưng cô lại thấy rất vui vì Vĩnh đang làm ăn phát triển, vì sự nghiệp của hạnh phúc tình yêu của hai người cô tập trung sức lực vào học tập, bỏ cả những chuyện chơi bời giao lưu bạn bè ,và bí mật không cho các bạn bè biết là mình đang học thêm nghề thương mại . Hàng tuần ,hàng tháng Vĩnh luôn luôn gọi điện về thăm hỏi, chi viện và động viên Phương là nguồn nghị lực giúp cho Phương ngày đêm phấn đấu học hành đạt kết quả tốt của cả hai chương trình.
Bẵng đi hai năm, đối với những người rỗi rãi thì cũng thấy khá lâu,nhưng đối với người hăng say lao động như Vĩnh ở bên nước ngoài và người chăm chỉ học tập như Phương ở trong nước thì, cả hai đầu nỗi nhớ đều thấy rất nhanh .
Phương đã học xong đại học, thi tốt nghiệp cũng được bằng đỏ, sau vài tháng cô cũng tốt nghiệp bằng thứ hai ở trường thương mại đạt loại ưu ,trước sự phấn khởi vui mừng của cả hai gia đình đặc biệt của Vĩnh.Trước đó một thời gian anh cũng đã hoàn thành thủ tục hồ sơ chuẩn bị thành lập công ty xây dựng Viễn Phương tại Liên xô chuyên môn nhận thầu xây dựng những nhà xưởng, kho tàng lớn bằng kết cấu thép là chủ yếu, thu hút từ 300 đến 400 thợ kỹ thuật với đầy đủ các trang thiết bị hiện đại của các nước tiên tiến . Mọi việc đã chuẩn bị xong, chỉ chờ đưa Phương sang là công ty sẽ ra đời. Anh muốn dành một bất ngờ cho Phương, người vợ yêu quý của anh. Vĩnh giành thời gian một tháng để về cưới vợ và thăm gia đình ,bạn bè làng xóm quê hương.
Đám cưới của Nguyễn Văn Vĩnh và Mai Lan Phương diễn ra khá linh đình ở cả hai nơi :quê hương làng Lễ và tại một phòng cưới sang trọng ở Hà Nội, trước sự vui mừng của hai gia đình và họ hàng của Vĩnh và Phương cùng các thầy cô và bạn bè thân bằng cố hữu ở quê và ở các trường học. Họ không tổ chức tuần trăng mật ở các khu du lịch như nhiều đôi trai trẻ khác, mà chỉ dành thời gian thăm các cụ các ông các bà, chú bác cô dì, anh em trong họ hàng làng xóm quê hương và đến thăm ,cảm tạ các thầy cô đã dậy học và rèn rũa mình nên người,Vĩnh đặc biệt đến thăm và cảm ơn các kỹ sư cũ và các bác thợ già đã truyền kinh nghiệm cho mình trưởng thành trở nên người kỹ sư giỏi và người thợ giỏi. Sau hai mươi ngày ở nhà làm xong mọi thủ tục theo lệ làng nước,anh xin phép hai gia đình đưa Phương sang Liên xô để kịp ra mắt công ty và nhận đấu thầu một công trình quan trọng mà một người bạn bên đó cùng công ty vừa điện về gấp.
Vĩnh và Phương bay sang Liên Xô trong không khí vui mừng của hai gia đình đưa tiễn khà đông đủ ở sân bay Nội Bài và bạn bè làm ăn đón ở sân bay Domodedovo nước Nga. Hai ngày sau Công ty Viễn Phương được ra mắt và sau đó là một hợp đồng xây dựng một khu kho xưởng lớn được ký kết, Vĩnh phải huy động và thuê tới trên mười kỹ sư và trên 400 công nhân làm việc ở công trường.
Vĩnh định cho Phương nghỉ ngơi và đi tham quan du lịch một vài nơi .Nhưng Phương không nghe, vốn cũng là con nhà ham công tiếc việc và cũng là kỹ sư xây dựng , nên máu nghề nghiệp nổi lên cô chẳng cần nghỉ mà lao ngay vào tìm hiểu công trình cùng Vĩnh để làm quen và giúp đỡ chồng dần dần trong công việc.
-Chúng ta còn nhiều thời gian mà anh. Em muốn khi nào công việc vào nề nếp rồi thì mỗi ngày nghỉ anh đưa em đi tham quan du lịch một nơi cũng không muộn mà!
-Thế cũng được, hoan nghênh em. Nào chúng ta cùng bắt tay vào việc nhé. Trước mắt em hãy xem và sửa lại cho anh bản tiến độ thi công công trình khu xưởng A, rồi phóng to lên bảng điện tử để chúng ta theo rõi hàng ngày...Phương tỏ ra nhanh nhẹn và say sưa thích thú bên cạnh chồng mà cũng như một người thầy kèm cặp cho cô ngay tại công trường, cô như một thực tập sinh trên công trường của nhà mình nên rất vui thích, hòa mình vào với các kỹ sư ,kỹ thuật và anh chị em công nhân, chuyện trò cởi mở hồ hởi với mọi người, được anh chị em gần gũi thân mật ,không hề có chút gì tỏ ra là bà chủ nhà cả. Vì vậy Phương được các kỹ sư và công nhân người Nga rất tôn trọng và quý mến.
Thời gian thấm thóat trôi qua, sau một năm Phương đã phát triển tay nghề kỹ sư xây dựng của mình lên một bước khá nhanh, cô đã thành thạo trong công việc chỉ đạo ,kiểm tra ,hướng dẫn trên công trường bằng tiếng Nga thay chồng được. Cũng là lúc công trình khu xưởng A đã hoàn thành vượt thời gian theo yêu cầu của bên A, dưới sự nghiệm thu kiểm tra của của cơ quan tư vấn kỹ thuật do bên A chủ trì ,bảo đảm chất lượng an toàn tốt. Nhờ vậy uy tín về chất lượng và thời gian của công ty Viễn Phương được nhiều khách hàng càng tín nhiệm .Vĩnh lại tiếp tục ký hợp đồng và triển khai các công trình khác với nhiều bạn hàng mới.
Rồi một hạnh phúc mới nữa là Phương đã đến ngày sinh nở một bé trai bụ bẫm làm cho hai vợ chồng Vĩnh Phương và gia đình bè bạn đều phấn khởi vui mừng,họ lấy ngay tên của công ty đặt tên cho con là Viễn Phương, cũng là điều mơ ước sau này cho con kế tục sự nghiệp của mẹ cha. Ở trong nước, ông bà Thuận Bằng được tin cháu Viễn Phương ra đời, liền tổ chức một buổi liên hoan cả nhà cả họ để báo tin và chia vui,mừng cho con ,cháu ở nơi xa.
Vĩnh yêu cầu Phương nghỉ ở nhà chăm con không phải lo nghĩ gì về các công trình xây dựng nữa. Mọi việc anh đã bố trí giao cho các kỹ sư và các tổ trưởng thợ lo liệu đầy đủ. Anh hướng cho Phương nếu rỗi thời gian, thì ôn lại kiến thức thương mại mà Phương đã học theo sự chỉ đạo của Vĩnh trước đây. Chờ cho Phương khỏe mạnh và cu con cứng cáp,thì anh sẽ bàn với Phương chuyển sang đề án hai mà Vĩnh đã ấp ủ từ trước, khi chưa về nước cưới vợ .
Sau sáu tháng cu con Viễn Phương hay ăn chóng lớn đã khá cứng cáp, và sức khỏe của Phương cũng đã hồi phục tốt, trong khi đó Phương vừa trông con lại vừa ôn lại những kiến thức thương mại mà cô đã học xong. Cô liền thuê người trông con ở nhà, rồi tự động một mình lái xe con đi tham quan một số chợ và trung tâm thương mại gần đó để thăm dò tìm hiểu cách thức buôn bán ở đất nước này ra sao. Cô đến thăm một số bạn bè người Việt để thăm hỏi họ cách làm ăn thế nào. Các bạn bè đều phấn khởi vui mừng kể chuyện và trao đổi kinh nghiệm với Phương, không hề dấu diếm gì cả mà còn khuyến khích Phương nên đi theo con đường kinh doanh thương mại cho có bạn bè. “Phi thương bất phú”, ”buôn có bạn bán có phường”... là những câu tục ngữ bất hủ của cha ông ta đời xưa đã nói, nay Phương lại được nghe những người bạn nói ở đây, làm Phương cũng thấy hứng khởi. Cô cũng suy nghĩ quyết tâm theo con đường của Vĩnh người chồng thông minh của mình đã có định hướng và gợi ý mình từ trước. Nghĩa là noi gương bố mẹ ở nhà: Bố làm công nghiệp ,mẹ làm nông nghiệp,hai bên cùng song song hỗ trợ cho nhau.Thì ở đây Vĩnh làm xây dựng, mình làm thương mại,hai bên cũng song song hỗ trợ cho nhau. Nhưng làm thương mại thì nên buôn bán cái gì cho phù hợp với sở trường của mình, mà lại hỗ trợ cho chồng được. Suy nghĩ mãi mấy hôm liền, Phương bỗng bật ra một ý nghĩ: buôn vật liệu xây dựng .Thật là tuyệt, chồng làm xây dựng ,vợ buôn vật liệu xây dựng thì không chạy đi đâu được, vừa buôn bán vừa cung cấp vật tư xây dựng cho các công trường của công ty Viễn Phương. Buôn tận gốc ,ăn tận ngọn .không phải qua khâu trung gian ở giữa nữa. Tất nhiên buôn vật tư xây dựng thì đòi hỏi phải có kho xưởng rộng để chứa hàng. Việc đó cần phải đầu tư. Khi Phương đem ý định đó bàn với chồng ,thì được Vĩnh đồng ý và hoan nghênh ngay:
-Ôi đầu óc của vợ anh qủa là sáng suốt thật, coi như em đã làm cung ứng vật tư, một nửa phần việc của anh rồi đó còn gì. Cảm ơn em! -Còn về kho tàng em không lo ,trước mắt và bao giờ ta cũng có một số nhà xưởng chưa bàn giao cho bên A cơ mà, tạm thờì ta vẫn sử dụng được. Sau này vào nề nếp ta sẽ đầu tư lớn hơn và có quy củ hơn.
Phương sung sướng quá ôm chầm lấy chồng mà hôn mà vò mớ tóc của chồng rối bù lên một cách thắm thiết.
Thế là từ đó Công ty Viễn Phương mở rộng ,có hai hình thức kinh doanh: Một là xây dựng cơ bản ,hai là cung ứng vật tư xây dựng. Mỗi người phụ trách một việc.Vĩnh phụ trách việc ký kết hợp đồng và chỉ huy xây dựng, Phương chuyên trách về buôn bán vật tư xây dựng. Hàng tuần có giao ban trao đổi tình hình xây dựng và kinh doanh để cả hai vợ chồng cùng nắm được công việc của hai bên để cùng giải quyết những khó khăn và thống nhất chủ trương phương hướng phát triển mới. Câu ca của các cụ ta ngày xưa đã nói “ Thuận vợ thuận chồng ,tát bể đông cũng cạn” quả là không sai. Chỉ trong vòng ba năm công ty Viễn Phương của vợ chồng Vĩnh đã nổi đình đám về uy tín và làm ăn đứng hàng nhất nhì trong số Việt kiều ở Liên xô lúc đó, mà nhiều công ty bản xứ cũng phải kính nể.Vĩnh đã mua được cả dinh thự của đại sứ quán Việt Nam khá khang trang để làm nhà ở và kinh doanh lâu dài.
Trang trại vịt trời
Nguyễn Văn Thuấn sinh năm 1958, sau anh trai là Nguyễn Văn Vĩnh hai năm, từ bé đến lớn học hết phổ thông ở quê. Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đang ở nhà làm trang trại với mẹ thì được Ban chỉ huy xã đội gọi lên nói là:- gia đình anh chưa có ai đi lính chiến đấu cả ,nên đợt này anh phải đi lính nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc như mọi người…Thuấn liền trả lời một cách thẳng thắn: - Vâng đúng thế ! Vì gia đình ông nội tôi trước đây bị quy là thành phần bóc lột , và có liên quan đến chính trị nên không ai được đi , ngay bố Thuận tôi ngày còn trẻ đã xung phong mấy lần cũng không được đi ,chứ nhà tôi không ai trốn tránh cả. Nay nhà nước có chính sách bình đẳng,thì chúng tôi sẵn sàng đi ngay không ngại gì cả.
-Vậy thì hoan hô anh Thuấn! –Anh xã đội trưởng nói tiếp: - Về chuẩn bị đi ,ngày mai lên đường.
-Đi ngay bây giờ cũng được ,đã sẵn sàng rồi !
Thế là Nguyễn Văn Thuấn gác việc đi học đại học nông nghiệp lại ,vác ba lô lên đường nhập ngũ. Sau ba tháng huấn luyện quân sự, lăn lê bò toài,ném lựu đạn, đánh bộc phá và bắn các loại súng bộ binh...,môn nào anh cũng đạt được loại khá giỏi .Rồi cả tiểu đoàn anh được bổ sung cho các đơn vị sang chiến đấu tại Căm pu chia, giúp nước bạn tiêu diệt bọn diệt chủng Pôn pốt- Yêng xa ri .Trong chiến đấu Thuấn tỏ ra rất xông xáo và dũng cảm lập được nhiều chiến tích, được tặng thưởng huân chương chiến công và được đề bạt lên Tiểu đội trưởng. Sau hơn hai năm hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, đơn vị anh được trở về nước. Cấp trên có ý định cho anh đi học đào tạo sỹ quan, nhưng anh không muốn, mà xin giải ngũ về để đi học đại học nông nghiệp rồi trở về làm trang trại theo nghề của mẹ mà anh đã tham gia phụ giúp mẹ được mấy năm trước khi đi nhập ngũ rồi. Cũng giống như anh Vĩnh, chỉ đạo cho người yêu học khác nghề để rộng tay xoay sở làm ăn ,Thuấn đạo diễn cho người yêu của mình đi học đại học tài chính. Còn anh sau khi giải ngũ trở về tiếp tục học đại học nông nghiệp mà anh đã thi đỗ trước đây. Anh vừa học vừa làm,phụ giúp mẹ trong trang trại của gia đình trong những ngày nghỉ. Đồng thời anh vẫn nghiên cứu một hướng riêng cho trang trại của mình, đi sâu vào những cây con quý hiếm và đặc sản. Sau bốn năm học tập, thi tốt nghiệp anh đạt loại ưu.Nhà trường có ý định giữ anh lại làm cán bộ giảng dậy tại trường.Anh rất cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, mà xin về nông thôn để thực hiện đề án trang trại của riêng mình.Vợ anh cũng vừa tốt nghiệp trường tài chính, anh xin cho vợ vào biên chế nhà nước ở gần nhà ,vẫn có thời gian trông nom con cái và phụ giúp ,cố vấn hỗ trợ cho anh khi cần thiết.như việc vay vốn ngân hàng để kinh doanh thủ tục được thuận lợi hơn. Sau này chị phát triển trở thành giám đốc ngân hàng huyện ,thì càng có điều kiện quản lý giám sát tài chính hỗ trợ cho anh hơn.
Trở về quê hương ,anh vẫn làm cán bộ kỹ thuật về chăn nuôi và trồng trọt trong trang trại của mẹ được ngày càng phát triển. Đồng thời anh chuẩn bị cho trang trại của mình.Về trồng trọt ,anh chọn trồng cây vải thiều, lúc đó đang mới nổi lên ở Thanh Hà, bước đầu anh mới quyết định trồng hai hec ta, nhân giống bằng phương pháp khoa học cấy phôi mà anh đã nghiên cứu và học tập được tại trường đại học .Sau khi trồng xong hai hec ta quanh nhà chỉ phải thuê một hai người trông nom chăm bón .Còn anh lên vùng Bắc Giang hợp tác với bạn bè cũng là kỹ sư nông nghiệp thuê đất của hợp tác xã mở nông trang trồng đại trà khoảng hai trăm hec ta do anh làm Chủ nhiệm Tổ hợp kiêm trưởng ban kỹ thuật, hợp tác với trường đại học nông nghiệp để cung cấp giống, thuốc và phân bón.
Về chăn nuôi, anh chọn nuôi vịt trời, một loại vật nuôi đặc sản chưa ai nuôi bao giờ, là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng lớn và kinh tế cao, sinh sản lại rất nhanh Anh chọn thuê hai hec ta hồ nước làm trang trại vịt trời. cắm cọc bê tông và giằng thép như một khung nhà lớn, căng chắn lưới thép xung quanh và che phủ trên nóc cao tám mét, vịt có thể bay trong không gian hạn chế. Dưới bờ có chuồng ổ nhiều ngăn nhiều tầng cho vịt ngủ và đẻ trứng. Thuấn đã huy động lực lượng đi đặt mua ở những tổ chuyên săn bắt vịt trời ở các đầm lầy Ninh Bình ,Hòa Bình...ban đầu về được hơn một trăm con làm giống .Sau đó cho ấp trứng để lấy vịt con. Xây lò ấp kiểu trứng vịt nhà ,thời gian được nhanh nhiều hơn và đạt tỷ lệ nở cao hơn .Anh đã phải hợp đồng mua mỗi ngày hàng tạ cá lẹp tươi các loại để thả xuống hồ cho đàn vịt trời mò ăn, đồng thời cũng mua hàng tạ thức ăn để nuôi cá.
Chỉ chưa đầy một năm ,đàn vịt trời của anh đã đông hàng vài trăm con. Đã có thể xuất bán cho các cửa hàng đặc sản ở các thành phố với giá trị cao gấp bốn năm lần vịt nhà. Đồng thời anh cũng đầu tư xây dựng tiếp thêm hai ba nhà trại vịt trời nữa ,để nâng sỹ số vịt trời nuôi hàng vài nghìn con, vừa cung cấp thực phẩm cho các nhà hàng đặc sản vừa cung cấp giống nuôi cho các trang trại vịt trời mới ,mà nhiều người đến tham quan và xin anh cho làm đại lý nuôi vịt trời, mở rộng ra ở nhiều nơi.
Những năm sau, khi trang trại của Thuấn đã phát triển lớn ,thì Thuấn không thể phụ giúp cho trang trại của mẹ được nữa mà đã có các em gái thay thế anh phụ giúp mẹ. Bởi vì riêng trang trại của anh hàng năm đã cung cấp cho thị trường vài tấn vịt trời và hàng vài trăm tấn vải thiều, kể cả sản xuất và thu mua bán đi khắp nơi trong nước và xuất khẩu sang nước ngoài nữa.
Riêng vịt trời sau này anh còn nghiên cứu thêm cách cắt tỉa lông cánh hoặc buộc thêm nhẫn chì nặng vào chân để cho chúng không thể bay cao được nữa,mà bay là là mặt nước như vịt nhà .Sau đó anh còn phát triển chăn nuôi thêm chim cút nuôi trong hồ ,le le và chim cốc là loại chuyên ăn mò như vịt trời, có giá trị cung cấp nhiều dinh dưỡng cho thực phẩm đặc sản và cũng có giá trị kinh tế cao hơn nữa. Anh cũng đang nghiên cứu nuôi chim trĩ dài đuôi, là loại đặc sản cao hơn cả các loại vịt trời, chim cốc...
Người trưởng tàu xe lửa Bắc Nam.
Nguyễn Văn Trình là con trai thứ ba của Nguyễn Văn Thuận, kém anh trai thứ hai là Thuấn ba tuổi, từ bé tới lớn cũng học tập hết phổ thông ở quê. Dáng người cũng to cao như bố và các anh,có phần trắng trẻo đẹp trai và trông vẻ thư sinh hơn các anh. Học tập chăm chỉ và luôn luôn dẫn đầu trong tốp ten của các lớp ở trường.Trong thời gian ở nhà ,vừa học tập vừa phụ giúp bố trông nom xưởng gạch ngói,nhất là những việc về thống kê kế toán sổ sách...Những ngày nghỉ cũng tham gia lao động như một công nhân và anh cũng nhanh chóng nắm bắt được các kỹ thuật đun đốt lò gạch ngói. Ông Thuận rất vui mừng vì sau này sẽ có Trình thay thế quản lý công ty gạch ngói Thuận Bằng này. Ông Thuận cũng hướng cho Trình đi học đại học xây dựng như anh Vĩnh để sau này có thể giữ vững và phát triển được công ty gạch ngói lên cao hơn. Nhưng Trình lại không muốn chôn vùi mình ở xóm làng quê hẻo lánh này, mà muốn được tung tăng bay nhảy đi khắp nơi khắp chốn để mở rộng tầm nhìn và tham quan phong cảnh đep đẽ ở các nơi, trong và ngoài nước.. Thế là anh thi vào trường đại học giao thông vận tải, chuyên ngành lái xe lửa. Khi người ta đã có mục tiêu ý định rõ ràng thì việc học tập cứ nhẹ như lông hồng,Trình chăm chỉ say sưa học tập mà vẫn thấy thảnh thơi thoải mái, anh luôn luôn đứng đầu lớp ,mà còn hướng dẫn phụ đạo thêm cho các bạn yếu cùng lớp nữa.Sau bốn năm ra trường anh được Ban tổ chức cán bộ Tổng cục đường sắt đến tận trường xin về Đoạn toa xe Hà Nội cùng một số sinh viên ưu tú khác. Đó cũng là thời gian ta mới giải phóng Sài Gòn thống nhất đât nước ,mở ra cho ngành đường sắt một chân trời rộng lớn.Nguyễn Văn Trình được bố trí làm trưởng tàu một đoàn tàu khách chạy suốt Bắc Nam. Lần đầu tiên được chỉ huy một đoàn tàu chạy khắp chiều dài của Tố quốc, lòng anh lâng lâng khó tả. Anh thức trắng cả đêm cả ngày để quan sát các cung đường ,ngắm nhìn các phong cảnh đất nước mà lòng anh phơi phới ,như những người chiến sỹ đang ra trận năm nào, chắc hẳn anh Thuấn mình trên đường đi chiến đấu cũng có tâm trạng vui như mình đây. Ôi Tổ quốc ta bao la hùng vỹ quá. “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay...”. Bất giác anh cất lên một câu hát quen thuộc, hòa với nhịp điệu con tàu chạy xình xich, xình xịch...đều đều , như múa như reo trong lòng anh. Hành trình du lịch trên con tàu của anh bắt đầu là như thế đó mà mãi mãi anh không bao giờ quên lần đầu tiên ấy. Chuyến tàu chạy suốt Bắc Nam do anh chỉ huy lần đầu đã hoàn thành tốt đẹp không hề có va vấp gì trên đường cũng như về trật tự trị an trên tàu đều được an toàn. Được Ban lãnh đạo Đoạn đường sắt Hà Nội –Sài Gòn biểu dương người trưởng tàu trẻ. Anh rất phấn khởi và vui sướng vì mình đã nghiêm túc tuân thủ các quy định, hoàn thành nhiệm vụ một cách trọn vẹn.
Từ đó đội tàu của anh luôn luôn bảo đảm thời gian an toàn và năng xuất chạy tàu Thống nhất trên tuyến Bắc Nam. Cuối năm trong hội nghị thi đua được bầu là Đội tàu thống nhất xuất sắc nhất. Anh cũng là chiến sỹ thi đua xuất sắc. Cũng cuối năm đó hạnh phúc đã đến với Trình, vợ anh là một nữ nhân viên trên tàu trong đội tàu của anh là thợ kiểm tra kỹ thuật đầu máy toa xe, là một cô gái trẻ xinh đẹp, tốt nghiệp trường trung cấp giao thông, khoa đường sắt, cũng mới ra trường và cùng chuyến đi xuyên Việt đầu tiên với anh. Họ mến nhau ngay từ ngày đầu tiên mới gặp nhau, nhưng anh không tỏ ra vội vã mà cứ để theo dõi thử thách xem cô nhân viên này ra sao đã. Bình –tên cô ấy tỏ ra là một cô gái thông minh,nhanh nhẹn,tính tình rất dịu dàng và đứng đắn, thẳng thắn , không xô bồ đùa rỡn như các cô gái khác.Làm việc hết mình và có trách nhiệm cao. Mãi sáu tháng sau ,anh mới thổ lộ tình cảm của mình. Cô gái lấy làm hãnh diện vì được anh trưởng tàu tài hoa đẹp trai này chính thức đặt vấn đề quan hệ yêu đương với mình, phấn khởi quá suốt đêm hôm ấy cô không ngủ được ,thỉnh thoảng lại dậy lấy gương ra soi và mỉm cười một mình. Nhưng cô cố kìm hãm mình không nên tỏ ra là vồ vập quá, sợ anh ấy lại khinh cho, nhưng từ ngày hôm sau trở đi người cô lúc nào cũng thấy mặt mình như bừng bừng khí thế và hay cười hay nói hơn trước. Công việc càng thấy nhẹ băng băng, từ đó những giờ nghỉ hay ngày nghỉ họ thường đi chơi với nhau,hoặc đi du lịch ,hoặc đi thăm bạn bè của nhau.Cả đơn vị anh em bạn bè đồng đội đều mừng cho đôi trai tài gái sắc ấy, thật là đẹp đôi.Cuối năm ấy họ cưới nhau trước sự vui mừng của hai gia đình, họ hàng và cán bộ công nhân viên trong đơn vị đến dự đông vui ở một khách sạn sang trọng ở Hà Nội.
Tuần trăng mật của họ không chỉ có ý nghĩa là hưởng hạnh phúc mà còn có một ý nghĩa quan trọng khác nữa là đi tìm phương hướng phát triển kinh tế làm ăn, theo truyền thống của gia đình, bố mẹ và các anh đều là những người làm kinh tế giỏi, chả lẽ họ lại phải chịu bám lấy nghề lái tàu này trong biên chế ,lương ba cọc ba đồng này mãi hay sao? Vậy làm sao đủ sống và sau này còn nuôi con cái ăn học bằng người ? Phải noi gương bố mẹ ,phải học tập các anh, các em. Không thể trở về bám lấy bố mẹ ở cái làng quê ấy được,phải tìm lấy con đường riêng của mình, nếu không hơn thì chí ít cũng phải tương đối bằng anh bằng em. Bố mẹ cũng đã nuôi mình ăn học thành người mà chịu thua anh kém em hay sao? Những câu hỏi đó luôn luôn dằn vặt trong đầu óc Nguyễn Văn Trình và cũng truyền sang cô vợ trẻ xinh đẹp của anh. Họ quyết định đi du lịch trên một chuyến tàu liên vận sang Trung quốc,từ Bắc Kinh đến Thượng Hải ... về Quảng Đông đến Vân Nam. Ở đâu cũng thấy tràn ngập hàng hóa các kiểu loại, đặc biệt là xe cộ máy móc công nghiệp ,nông nghiệp rất nhiều. Trình liền nói với Bình:
- Chúng ta đều là nghề lái tàu ,là thợ cơ khí cơ điện cả ,nên chỉ làm nghề điện máy là hợp nhất. Bình cũng trả lời:
- Vâng ,hiện nay đất nước ta đang khôi phuc kinh tế,nên rất cần máy móc, nếu chúng ta buôn được các thứ máy móc này về thì chắc ăn rồi. Trình liền nắm lấy tay Bình ,hai vợ chồng xiết chặt tay nhau cùng mỉn cười nhất trí ý hợp tâm đồng. Thế là họ lao vào tìm chọn các đối tác. Muốn làm ăn lớn phải tìm đến các công ty ,nhà máy lớn và nghiên cứu giá cả thị trường. Cũng may là trong thời gian học đại học,Trình nhận ra rằng ngành đường sắt của ta thì liên quan nhiều đến Trung quốc nên anh đã học ngoại ngữ đầu tiên là tiếng Hoa, nên việc giao dịch với anh lúc này khá thuận lợi. Hơn nữa trong thời gian công tác Trình và Bình cũng hay đi dạo quanh thị trường điện máy trong nước để tìm hiểu nhu cầu và giá cả thị trường rồi. Hai vợ chồng liền vào thăm và liên hệ với một tổng công ty điện máy lớn ở Bắc Kinh là nơi trung tâm kinh tế của cả nước Trung quốc. Tổng công ty này rất nhiệt tình đón tiếp vợ chồng Trình khi biết ý định của hai vợ chồng trẻ này muốn làm ăn kinh tế lâu dài với họ. Họ cũng cảnh giác và khôn khéo kiểm tra xem trình độ hiểu biết về máy móc của khách hàng này ra sao.Trình và Bình cũng đều thực thà thao tác biểu diễn một số máy cho cho họ biết để tạo lòng tin cho đối tác.Và cuối cùng khi họ nhìn thấy tấm bằng đỏ trưởng tàu xe lửa của Trình và bằng thợ máy hỏa xa của Bình thì họ hoàn toàn tin tưởng vào hai vị khách hàng đẹp đôi này, mà không dám coi thường hoặc dở mánh khóe buôn bán bịp bợm nhà nghề ra với họ nữa. Trình và Bình cũng thận trọng từng bước để không bị mắc lừa trong khi ký kết hợp đồng sơ bộ với đối tác. Sau khi ở đó một tuần lễ để khảo sát và học tập cách kinh doanh, được Tổng công ty Hoa Phong này nhiệt tình hướng dẫn giúp đỡ và thỏa thuận các cách liên lạc giao lưu ,trao đổi hàng hóa , các thủ tục xuất nhập khẩu và thỏa thuận ban đầu xong. Bên Hoa Phong muốn giao ngay một lô hàng đầu tiên cho vợ chồng Trình trực tiếp áp tải về nước ngay mà không cần đặt tiền trước. Nhưng Trình không vội vàng ăn sổi chưa nhận ngay mà mời một đại diện của tổng công ty Hoa Phong sang Hà Nội khảo sát thị trường ,cùng về với Trình ngay, bởi vì một số thủ tục về kinh doanh ở trong nước Trình chưa kịp làm. Bởi anh nghĩ đã làm thì làm cho chắc chắn , công khai và hợp pháp ,không phải chui lủi lẩn trốn như một số người đã làm hiện nay trên tàu mà anh đã gặp. Sau khi thủ tục hợp pháp rồi thì đã đánh là đánh lớn, đánh chắc, ăn chắc ngay. Bên Hoa Phong nghe Trình nói thì tán thành ngay và rất hoan nghênh quan điểm làm ăn mạnh dạn và chững chạc của anh. Họ càng thêm tin tưởng và cử một Giám đốc khảo sát thị trường cùng về Việt Nam với vợ chồng Trình. Trong một chuyến tàu tốc hành Bắc Kinh –Hà nội. Thế là tuần trăng mật của đôi uyên ương Trình Bình đã làm một cuộc đổi đời như vậy đấy.
Công ty điện máy Bình Minh của Trình và Bình ra đời và hoàn thành thủ tục pháp lý chỉ trong vòng một tuần lễ. Hai người về quê để ra mắt họ hàng nội ngoại sau ngày cưới và cũng là báo cáo xin phép bố mẹ về việc làm ăn mới .Đề nghị bố mẹ chi viện cho vay một số vốn ban đầu khoảng một tỷ đồng để làm vốn pháp định khi xin thành lập công ty với nhà nước và ngân hàng trong vòng ba đến sáu tháng sẽ xin hoàn lại trả bố mẹ đầy đủ. Hai ông bà Thuận Bằng rất vui mừng phấn khởi vì các con đã có chí thú ,chủ động kinh doanh làm ăn, không bám vào biên chế nhà nước lâu dài, nhất trí chi viện vốn ban đầu cho vợ chồng Trình ngay. Các thủ tục đăng ký môn bài ,thuế má được tiến hành nhanh. Ngay sau đó tìm các bạn hàng tiêu thụ trong nước, tập hợp lại nhu cầu trước mắt, rồi mới ký kết hợp đồng chính thức với tổng công ty Hoa Phong ,Trung quốc Ngoài ra còn phải tuyển chọn một số nhân viên giao dịch và bán hàng ,phần lớn là những bạn bè chân tay thân tín cùng học nghề với mình mà Trình và Bình đã nhằm sẵn từ trước. Đồng thời phải thuê một cửa hàng giao dịch và một khu kho tạm thời ,ở các kho của nhà ga hiện nay đang rỗng ,có bảo vệ chắc chắn. Chuyến hàng đầu tiên gồm các máy điện nước và công cụ, công nghiệp và nông nghiệp khoảng hai nghìn chiếc, chở trên chuyến tàu hàng do tổng công ty Hoa Phong áp tải đến biên giới Bằng Tường, làm thủ tục xuất khẩu bàn giao cho công ty Bình Minh nhận chuyển tiếp về Hà Nội do Trình và Bình dẫn một số nhân viên lên hướng dẫn tiếp nhận lần đầu để làm quen thủ tục và giới thiệu bạn hàng hai bên với nhau. Do công tác tổ chức của Trình rất tỷ mỉ và khoa học nên chuyến hàng đầu tiên về tới ga Hà Nội chỉ phải dừng lại ở trong ga một đêm một ngày thì phân phối hết. Các bạn hàng trong nước đã chuẩn bị sẵn xe cộ và lực lượng vận chuyển khá đầy đủ và nhanh chóng giải phóng bốn toa xe hàng điện máy, lập một kỷ lục mới trong ngành đường sắt lúc bấy giờ.
Trong đăng ký xin thành lập công ty điện máy Bình Minh,Trình đã thống nhất để cho Bình đứng tên làm giám đốc. Nên sau khi hoàn thành thủ tục Bình phải làm đơn xin nghỉ phép một thờì gian rồi sau đó xin thôi việc để chuyên việc quản lý kinh doanh. Còn Trình vẫn ở lại tiếp tục làm trưởng tàu Bắc Nam ,rồi xin chuyển sang làm trưởng tàu liên vận quốc tế ,để có thể quán xuyến hỗ trợ việc vận chuyển hàng của tổng công ty Hoa Phong và công ty Bình Minh. Sau chuyến hàng đầu tiên được xuôn xẻ. Công ty Bình Minh lại ký kết thêm nhiều mặt hàng mới,như máy nghiền xàng đá, máy gặt đập, máy xúc húc loại nhỏ, máy làm gạch ngói ... Hàng được liên tục trở về Hà Nội ,có nhiều chuyến, nhiều toa tàu chạy thẳng tới Huế ,Đà Nẵng, Sài gòn... giao cho các đại lý của công ty Bình Minh. Mọi việc giao dịch và liên lạc đều thông qua máy vi tính và điện thoại di động mà không phải trực tiếp đi lại như trước, nên với một bộ máy gọn nhẹ chỉ hơn chục người, có cả người nước ngoài mà Trình và Bình vẫn điều hành được công ty với doanh số hàng chục tỷ đồng chạy đều liên tục, không sảy ra trục trặc gì lớn, không nợ hay chậm tiền thuế với nhà nước, tiền cước vận tải với đường sắt ,nhà ga đều sòng phẳng, không có điều tiếng gì.Trong nội bộ công ty được đoàn kết chặt chẽ cùng làm ăn,thương mến nhau như trong một gia đình.
Công viêc đang làm ăn thuận lợi thì chiến tranh biên giới phia Bắc xảy ra, quan hệ giữa ta với Trung quốc bị gián đoạn ,việc giao lưu hàng hóa bị ngừng trệ nhưng công ty Bình Minh vẫn tiếp tục tồn tại. Với số vốn đã kiếm ăn được trong mấy năm qua đã kha khá, họ không chịu ngồi yên, nhu cầu nền kinh tế trong nước vẫn đòi hỏi cao. Họ chuyển hướng sang buôn bán với các nước khác như Thái Lan ,Đài Loan, Úc vân vân...Những hợp đồng qua đường biển, đường hàng không được giao dịch ký kết .Mặc dầu chiến tranh biên giới chưa kết thúc, nhưng trên thị trường Việt Nam đã lại tràn ngập hàng hoá của các nước khác. Chỉ có Trung quốc là bị mất đi một thị trường Việt Nam đáng kể mà thôi. Những kỳ nghỉ phép năm của Trình được dồn lại trong những chuyến cùng Bình đi du lịch nước ngoài như Thái Lan ,Australia, Pháp, Đức... ,vừa có ý nghĩa là du lịch nhưng lại cũng có mục đích là đi tìm nguồn hàng và ký kết hợp đồng cho công ty Bình Minh.
Sau chiến tranh biên giớ phía Bắc ,tình hình chính trị trong nước đã tạm thời ổn định,nhưng tình hình kinh tế lại càng trong giai đoạn khó khăn, nạn đói kém ,thất nghiệp diễn ra ngày càng nhiều .Trong nội bộ các cơ sở, công trường ,nhà máy ,đơn vị... thường diễn ra tranh công tranh việc,đố kị tị nạnh lẫn nhau gây nên mất đoàn kết, bè phái cục bộ và tham nhũng nảy nở ngày càng nhiều... Giữa lúc đó trưởng tàu hỏa xa vào loại giỏi giang có tín nhiệm nhất nhì và đang có triển vọng phát triển lên cao hơn của Đoạn đường sắt Hà Nội, Nguyễn Văn Trình làm đơn xin thôi việc,với lý do xin về tự túc làm ăn, để nhường việc cho các đồng chí khác hoàn cảnh khó khăn hơn. Tính đến nayTrình mới vào biên chế nhà nước được tám năm,cũng là tám năm làm trưởng tàu,luôn luôn là chiến sỹ thi đua, chưa hề bị kỷ luật lần nào .Mọi người mới ngã ngửa người ra .Quái, cái anh chàng trưởng tàu còn trẻ mới ba mươi hai tuổi này bị hâm hay sao, người ta phải cạy cục xin vào biên chế chả được anh ta lại xin ra, người ta muốn ở lại bám lấy đồng lương nhà nước, và sau này có chế độ về hưu, mà con cái còn được nhờ vả mà anh ta lại không muốn . Anh ta tài hoa như thế lại đang có triển vọng được đề bạt lên cán bộ cấp cao hơn nữa ,nhưng anh ta lại bỏ xin về, chả hâm là gì? Lãnh đạo đoạn đường sắt tưởng là anh ta có bất mãn gì liền đến động viên anh ta ở lại ,chẳng gì cũng là một trưởng tàu giỏi, cho về thì tiếc quá nhưng Trình nhất định xin về. Một số người biết Trình có công ty kinh doanh đang làm ăn khá thì khuyên Trình cứ để vợ làm cũng được rồi ,còn anh nên ở lại để đi hai chân , quân tử phòng thân đi hai chân là hơn cả, đề phòng chân này bị sa sảy thì đã có chân khác đỡ. Anh trả lời : đó chỉ là lợi dụng nhà nước ,đánh lừa nhà nước,chỉ có bọn tham nhũng mới hay lợi dụng kiểu ấy mà thôi. Một cán bộ lãnh đạo cấp cao của ngành Giao thông vận tải hỏi anh một cách thân mật :- Cậu nghĩ thế nào mà lại xin thôi việc. Trình cũng trả lời thật thà:- Tôi tự thấy mình có thể về làm ăn kiếm sống bằng việc khác để nuôi dậy con cái sau này được,để dành việc cho người khác làm mà thôi! Động viên ở lại mãi không được ,cơ quan cũng đành phải cho anh về nghỉ thôi việc ,không có chế độ gì cả. Anh rất vui vẻ cảm ơn cơ quan và chào mọi người ra về một cách thanh thản. Từ đó anh chỉ ở nhà phụ giúp cho vợ kinh doanh và trông nom nuôi dậy con nhỏ.Thực chất là anh làm kinh tế với cương vị như là chủ tịch hội đồng quản trị, còn vợ anh vẫn là giám đốc điều hành như các công ty cổ phần ngày nay.
Xưởng may cô gái út
Nguyễn Thị Lan là cô con gái út của ông bà Thuận Bằng, sinh ra trong một gia đình có truyền thống làm kinh tế giỏi, nên từ bé cô gái này đã hay lam hay làm và có chí học tập và làm ăn. Cái máy khâu mà ông Thuận mua về để con cái trong gia đình sử dụng, các cô con gái đều làm được, nhưng riêng cô Lan là thông thạo hơn cả. Từ năm mười tuổi cô đã cắt may lấy quần áo cho mình,mà không cần phải nhờ các anh các chị hay bố mẹ làm hộ. Hồi còn học phổ thông , cô vẫn phụ giúp mẹ làm trang trại gia đình, trừ thời gian học ở trường hoặc ở nhà ,còn lại cô lao vào làm trang trại, khi rỗi rãi lại may may vá vá luôn tay không mấy khi ngừng. Cô cắt quần áo cho người nhà, họ hàng và bạn bè không bao giờ lấy công. Tốt nghiệp phổ thông, cô xin đi học một lớp cao đẳng dậy nghề, chuyên về may mặc và thời trang. Sau khi lấy chồng là người cùng làng,về nhà chồng cô mở một tiệm may ở ngay đường cái cạnh làng, gần phố huyện, được bố mẹ đẻ cho một máy khâu loại tốt mhất ,coi như của hồi môn. Chẳng bao lâu cửa hàng của cô đã nổi tiếng và đông khách vì các mốt thời trang luôn phù hợp với lớp trẻ. Cô mua thêm vài máy khâu và dậy thêm hàng chục thợ học việc. Chỉ trong vòng hơn hai năm tiệm may của cô đã mở rộng khang trang với hàng chục công nhân ,thợ may giỏi.Vốn liếng đã có hàng vài trăm triệu đồng. Nhưng cô không muốn dừng ở đó. Nhân một chuyến đi thăm bạn bè đang làm cho một công ty liên doanh với nước ngoài ở Mỹ Hào Hưng Yên ,trên đường Năm, bạn bè đều khuyên cô tham gia với liên doanh này thì mới phát triển nhanh được. Sau khi nghiên cứu một ít ngày, thấy khả năng mình có thể làm với liên doanh này được ,nên cô đã ký hợp đồng liên doanh với nước ngoài, với điều kiện mở ngay xưởng sản xuất ngay tại làng mình để tạo công ăn việc làm cho chị em trong làng xóm và tiện việc quản lý đỡ phải đi xa. Cô bàn vớí chồng mua bán đổi chác một số ruộng đất của nhà và của hàng xóm để lấy mặt bằng làm xưởng trên hai ngàn mét vuông,vay mượn thêm của bố mẹ và các anh, chị em trong nhà để xây dựng xưởng và mua xắm máy móc, thiết bị các loại .tổng cộng hết trên hai tỷ. Được mọi người trong gia đình ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình,nên chỉ trong vòng sáu tháng sau “Xưởng may cô Lan” đã ra đời với trên ba trăm máy khâu và sáu trăm công nhân, hàng tháng cho ra đời hàng ngàn sản phẩm may mặc xuất khẩu ra nước ngoài. Được Tổng công ty liên doanh tín nhiệm và ký hợp đồng giao thêm nhiều việc nữa. Tuy vậy cô Lan vẫn không bỏ tiệm may thời trang “Lan Hương” của cô trước đây mà giao cho một cô em họ cũng đã là thợ may giỏi, quản lý và duy trì phát triển để phục vụ kịp thời cho khách hàng trong làng ngoài xóm cùng cả phố huyện đã quen biết tín nhiệm. Cũng là một nguồn thu đáng kể cho nguồn vốn của vợ chồng Nguyễn Thị Lan. Chỉ trong vòng dăm năm làm ăn, vợ chồng Lan đã có số vốn lên tới hàng chục tỷ đồng. Ngoài việc duy trì xưởng may và tiệm thời trang, họ đã xây dựng lại nhà cửa khang trang và góp vốn tham gia đầu tư thêm vào những công trình lớn ở Hà Nội và Sài Gòn.Ông bà nội ngoại, được khỏe mạnh đề huề ,con cái được no đủ học hành chu đáo. Đó là niềm ước mơ nhất của vợ chồng Nguyễn Thị Lan ,nay đã được thành đạt và triển vọng còn phát triển cao hơn nữa.
Chương 16
CẦU HỔ,TĨNH GIA 5-66
Lực lượng bảo đảm giao thông phục vụ chiến đấu từ 1966 đến 1967 của đại đội 19 công binh Thanh Hóa, thuộc Quân khu Ba. Trên cung đoạn từ phà Ghép vào cầu Hổ thuộc quốc lộ 1A trên dải đất huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Cầu Vàng ,cầu Hổ nằm trên đoạn đường giao thông chủ yếu quan trọng , tại đây gồm có 3 đường: Đường bộ đường sông và đường sắt giáp nhau ,bên cạnh là ga xe lửa Khoa Trường.
Việc giao thông vận tải vào chiến trường phục vụ chiến đấu bằng các loại ô tô , xe lửa, sà lan, thuyền dân, đều phải vượt qua đây. Khu vực này được mệnh danh là túi đạn của máy bay Mỹ gieo xuống. Bất kể ai đi qua lại đều phải có sự quan sát từ xa và chuẩn bị một tư thế khẩn trương để vượt qua phà Ghép, cầu Vàng và cầu Hổ, để bảo đảm an toàn cho tính mạng. Cầu Hổ nằm trên đoạn sông cong, vừa chịu đựng xe ô tô trên mặt cầu,dưới chân cầu là thuyền bè ,sà lan ra vào va quệt, dễ bị sập đổ.
Tình hình địch: Trên không thì ngày đêm máy bay địch săn đuổi xe cộ, tàu thuyền, ngăn chặn sự chi viện của ta vào chiến trường. Ngoài biển thì pháo hạm địch cũng thường xuyên bắn phá đe dọa xe pháo và những người qua lại, cũng như bà con nhân dân sản xuất. Thời gian quy luật máy bay địch bắn phá thường là từ 8 giờ sáng đến 11-12 giờ trưa, và từ 16 đến 17 giờ chiều. Chúng còn tập kích đánh lén vào lúc 20 đến 21 giờ đêm.
Tình hình ta : Tỉnh đội Thanh Hóa tổ chức tiểu đoàn 47 công binh. Bước đầu do Nam Sao, Trưởng ban công binh tỉnh kiêm tiểu đoàn trưởng, gồm có đại đội 19 và đại đội 12. Riêng đại đội 12 mới thành lập, sau đảm nhiệm khu vực cầu Lựu vào khe Nước Lạnh-Hoàng Mai.
Đại đội 19 đảm nhiệm từ phà Ghép vào cầu Đồi, cầu Đại Thủy, cầu Vàng ,cầu Hổ.Vào cuối năm 1966-1967 thì trọng tâm là cầu Vàng ,Cầu Hổ.
Từng giai đoạn lại có đại đội pháo phòng không 37 hoặc 57 ly phục kích sẵn đánh máy bay địch và yểm hộ công binh bảo đảm giao thông bắc cầu. Lực lượng dân sự có đội cầu 1 của Ty giao thông Thanh Hóa, đóng quân tại xã Nguyên Bình và phần lớn đóng tại xã Tân Trường, giáp đại đội 19.
Nhiệm vụ chủ yếu của đại đội 19 là bảo đảm giao thông,lấp hố bom ,làm đường tránh,sửa chữa và bắc cầu, khắc phục hậu quả do bom đạn Mỹ trên tuyến.
Quyết tâm, kế hoạch và biện pháp:
-Trong quá trình bảo đảm giao thông phục vụ chiến đấu .Đơn vị đã trải qua nhiều trận khắc phục sửa những đoạn đường lớn và nhiều cầu do địch bắn phá. Sự đoàn kết hợp đồng giữa đại đội 19 và đội cầu 1 đã có những bước phát triển tốt đẹp trong việc hoàn thành nhiệm vụ.
Tuy nhiên cũng nhiều phen đấu tranh gay gắt trên lĩnh vực tư tưởng và kỹ thuật xây lắp cầu, cống không tránh khỏi chê bai lẫn nhau. Có hiện tượng không tin là bộ đội bắc được cầu ,hoặc những việc kỹ thuật khó khăn.
Trong một trận thử sức quyết liệt đấu tranh về tư tưởng giữa đại đội 19 và đội cầu 1 để bắc lại cầu Hổ do địch đánh sập lúc 8 giờ ngày 13-8-1966: Ngay sau khi cầu sập ,20 phút cán bộ đại đội 19 kiểm tra cụ thể .Điện báo cáo về ban công binh tỉnh đội. Lệnh của Tỉnh đội: đại đội 19 bàn bạc hiệp đồng với đội cầu 1 để bắc lại cầu khẩn trương thông xe.
Khoảng 13 giờ 30 phút, ban chỉ huy đại đội 19 gồm có các đồng chí Lê chí Đạo đại đội trưởng, Nguyễn Văn Vượng chính trị viên, Phạm Thành Cư đại đội phó, Nguyễn Thức đại đội phó; cùng đồng chí Truy đội trưởng đội cầu 1 giao thông, cùng phối hợp kiểm tra để xác định quyết tâm thì đồng chí Văn Bằng tỉnh đội phó và đồng chí Nam Sao chủ nhiệm công binh tỉnh xuống kiểm tra, xây dựng quyết tâm cho bộ đội khắc phục hậu quả cầu Hổ.
Quá trình kiểm tra khảo sát lòng sông tại vị trí bắc cầu thì bê tông sắt thép đất đá ngổn ngang ở đáy sông,nhất là những tảng bê tông to lớn vướng mắc không thể đóng cọc được do cầu cũ bị bom đạn đánh sập.
Mặt khác, sông Ngự tuy nhỏ nhưng gần cửa biển nên nước thuỷ triều lên xuống trên dưới 2m Sông cạn ,chiều tối nước lên cao, mức thông thuyền phải đạt từ 2,5m đến 3m. Như vậy chân cầu cao tới trên 5m, đó là chưa kể dưới đáy sông, bùn đất hố bom , phải đóng cọc trụ sâu từ 2,5 tới 3m. Tuy vậy khẩu độ nhịp cầu phải được mở rộng từ 4m đến 9m hoặc 10 m, để thuyền bè ,sà lan qua lại cầu được an toàn
Ngoài yếu tố địa chất thủy văn, kỹ thuật kết cấu cầu, thì nguyên vật liệu như gỗ làm chân.trụ phải dài 8 đến 10m, đường kính 25 -30 cm, yêu cầu thẳng và dầm cầu bằng đường ray xe lửa,khó kiếm ngay được một lúc.
Trước khó khăn vậy ,đồng chí Thai ,kỹ sư đội phó đội cầu 1, nêu ra những yếu tố quan trọng trong khâu kỹ thuật và đủ các mặt khó khăn, thời gian không làm được, mức độ chuẩn bị và thi công phải từ nửa tháng trở lên mới giải quyết được.
Chẳng lẽ bó tay trước cái khó ,mà yêu cầu vận chuyển vào chiến trường thì xe mong đợi từng giờ. Không thể thuyết phục được đồng chí Thai. Ban chỉ huy đại đội 19 đã nêu ở ngay đầu cầu phương án tại chỗ: Tự khảo sát lòng sông vẽ mặt cắt đáy sông, tự thiết kế cầu bằng dầm sắt đường ray xe lửa ( cứ 3 ray bó lại thành một dầm), số lượng 8 cái, trụ cầu bằng gỗ để bảo đảm cho xe 8-12 tấn đi qua.
Tuy vậy, cũng bị đồng chí Thai bác bỏ về khâu kỹ thuật và đưa ra lý luận về lực tĩnh lực động vv…khi xe qua cầu không bảo đảm.
Ban chỉ huy đã xin ý kiến của đồng chí Văn Bằng tỉnh đội phó và đồng chí Nam Sao chủ nhiệm công binh, được đồng chí Bằng và đồng chí Sao nhất trí và còn động viên bộ đội xây dựng quyết tâm để phục vụ chiến đấu ở chiến trường, khó mà chỉ bàn lý thuyết xuông, không quyết tâm thực hành thì hỏng việc. Đồng chí Bằng còn nói đùa vui với anh em bộ đội: “ Các cậu cứ làm đi, đổ cầu thì bắc lại, không ai bắt tù tội các cậu đâu mà lo, máy móc dập khuôn thì mất thời cơ chiến đấu”
Đại đội 19 đã yêu cầu đội cầu 1 Ty giao thông cấp đủ vật liệu như cọc trụ , dầm ray sắt ,ván lát ,dây thép vv…Do đại đội 19 tự thiết kế tự thi công và chịu trách nhiệm hoàn toàn với cấp trên. Đồng chí Truy và Thai đã thỏa thuận và cho công nhân chuyên trách làm cầu Vàng.
Diễn biến chiến đấu: Đồng chí Cư đại đội phó và hai chiến sỹ Thơm và Tư trực tiếp bơi lội đo đạc lòng sông, tự vẽ tự thiết kế cầu.
Ở vị trí đóng cọc bị các tảng bê tông chắn không đóng cọc được, anh em đã moi gầm bê tông rồi gói bộc phá, do không có kíp điện, nên dùng dây cháy chậm đốt trên mặt nước, sau lặn xuống đặt vào gầm tảng bê tông,lên bờ chạy ra xa bảo đảm an toàn.
Cầu được thiết kế 3 nhịp, hai nhịp bờ Bắc và Nam là chân mố gỗ xếp làm nhịp đầu cầu, còn nhịp giữa là hai vì chân trụ, kết cấu vững vàng,trên trụ cầu được đặt cố định 8 dầm ,lát ván ngang, ván vệt. Đêm xe chạy, ngày dỡ mặt cầu sơ tán, chống máy bay địch bắn phá.
Phương pháp thi công: ghép sàn đạo,dựng giá vồ ĐB45 đóng cọc, dùng cưa máy cắt đầu cọc, lắp xà đầu vì cố định, lao dầm vv…
Kết quả: Chính thức thi công và chuẩn bị vật liệu từ 17 giờ ngày 23-8 đến 23 giờ ngày 24-8-1966, cầu được thông xe bảo đảm an toàn cho hơn 7.000 lượt xe qua lại trên cầu. Sau đó lại bị địch phóng rốc két làm hỏng mố và một nhịp cầu bờ Nam, đại đội 19 đã sửa chữa ngay, ngày đêm vẫn thông suốt.
Đại đội 19 đã được thủ trưởng Tỉnh đội biểu dương khen thưởng, được hội đồng chính phủ tặng danh hiệu đơn vị quyết thắng, đón nhận huân chương chiến công hạng nhất năm 1966.
Nhận xét: Quyết tâm của cán bộ chiến sỹ rất cao, đã được trải qua rèn luyện thử thách trước bom đạn, lại được huấn luyện chu đáo về chuyên môn, địa hình quen thuộc.
Tinh thần tư tưởng dũng cảm quyết tâm cao. Đoàn kết nhất trí ,hiệp đồng lập công xuất sắc. Thi công đạt yêu cầu kỹ thuật, đúng thời gian thông xe. Làm cho cán bộ công nhân đội cầu 1 tin tưởng ở bộ đội công binh, không những cầm súng chiến đấu, phá gỡ bom đạn địch ,mà còn có đủ khả năng thi công xây dựng được những cầu có trọng tải lớn hơn.
Khuyết điểm: Kiến thức trong kỹ thuật xây dựng của bộ đội quá hạn chế, nhất là một số cán bộ ở bộ binh mới chuyển sang công binh chưa được huấn luyện mấy về công binh… Mặt khác vật liệu do giao thông quản lý, ta không thể chủ động giải quyết .Khi quan hệ trao đổi xây dựng quyết tâm còn nóng vội ,chưa thuyết phục được sức lực và trí tuệ của cán bộ công nhân đội cầu 1.
Kết luận:
Có tư tưởng và ý chí quyết tâm cao, lại được rèn luyện thử thách trong huấn luyện và trong thực tiễn .
Nắm vững được yếu tố kỹ thuật xây dựng cầu đường ,trong xây dựng cơ bản gắn liền và áp dụng nhậy bén vào trong chiến đấu.
Quyết tâm tư tưởng phải được gắn liền với kiến thức cơ bản vè kỹ thuật,thông suốt mục đích ý nghĩa nhiệm vụ thì sẽ hoàn thành.Ngược lại kỹ thuật chuyên môn đơn thuần máy móc dập khuôn sẽ mất thời cơ, hỏng việc ,không hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu.
Trận Cầu Vàng 5-9-1966
Đó là câu chuyện về cầu Vàng trên đường quốc lộ 1A, đoạn ga Khoa Trường đi cầu Hổ, thuộc huyện Tĩnh Gia ,Thanh Hóa. Một thái độ xem thường bộ đội,bằng giọng mỉa mai chua chát của anh kỹ sư đội phó đội cầu 1.
Ai cũng biết một khu vực bãi lầy sú vẹt,nước thuỷ triều lên xuống hàng ngày trên dưới 2m. Một khu vực có 3 trục giao thông thủy bộ, đường sắt giáp nhau. Khu vực của túi bom đạn làm ái ngại cho xe cộ và mọi người phải qua lại ! Ai cũng nơm nớp mắt trước mắt sau vượt cho nhanh để qua khu vực nguy hiểm này.
Cầu Vàng từ thời Pháp là loại cầu bê tông cốt thép cho xe tải trọng lớn đi qua. Cầu gồm 3 nhịp dầm bê tông có 4 lõi thép đường kính 30-40 ly. Chân trụ là một cụm cọc bê tông gồm 16 cái. Khi Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc chúng đã nhiều lần đánh phá. Đội cầu 1 cũng đã sửa chữa khắc phục cho xe đi lại hàng chục lần. Có lần bọn Mỹ ném xuống cầu đổ một mảng hạ lưu và mố nhưng lần hỏng nặng nhất là ngày 5 tháng 9 năm 1966…Dầm cầu ,chân cầu, sắt thép, bê tông đổ vỡ ngổn ngang, khó mà dùng sức lực của con người để dọn dẹp cũng như cắt bỏ làm mới một cách dễ dàng.
Quyết tâm và kế hoạch chiến đấu: Đại đội 19 công binh nhận thấy muốn giải quyết được nhanh chóng chỉ có thể dùng bộc phá, nhưng trong tay lại không có bộc phá .Tuy là một đơn vị bảo đảm giao thông sửa chữa cầu đường,nhưng mọi vật liệu như sắt thép ,gỗ và thuốc nổ đều phải liên hệ qua giao thông cấp phát.
Sau khi bàn bạc với đồng chí Đạo đại đội trưởng, đồng chí Truy đội trưởng và đồng chí kỹ sư đội phó đội cầu, để quyết tâm sửa chữa. Anh kỹ sư đội phó cho rằng không thể làm được ,cái gì cũng phải có thời gian xem xét kỹ càng, chứ không thể nói ra đã là xong như người ta bê những hòn đất tí xíu, mà nhất là bê tông cốt thép ngổn ngang,vậy mà đòi thông xe đêm mai đêm mốt ,thật là một sự mơ tưởng. Khi tính toán thuốc nổ ,anh nói : Thuốc nổ phải dùng hàng tấn .
-Tốn kém cũng phải dùng, ta không thể tắc cầu đường lâu dài được-anh em bên công binh nói.- Nhưng anh đội phó vẫn khăng khăng:
-Tốn mà đánh không dứt ,lại còn sơ xác ra, phải tháo gỡ dọn dẹp hàng tuần…nhưng chắc gì đã đạt theo ý muốn của các anh ! – Bọn tôi tiếc gì thuốc nổ.
-Trước yêu cầu nóng bỏng của chiến trường,mà cầu đường bế tắc,không thể vòng tránh đi đường khác được. Xe vận chuyển phải đợi từng giờ. Đồng chí Cư đại đội phó bàn với đại đội trưởng Lê Chí Đạo ,”Tôi xin đảm nhận”.
Vừa lúc đó thì đoàn cán bộ của Tỉnh đội xuống kiểm tra đôn đốc ,do đồng chí Nam Sao ,chủ nhiệm công binh dẫn đầu. Sau khi xem xét tình hình cụ thể tại hiện trường và nghe Ban chỉ huy đại đội 19 báo cáo và ý kiến của đội trưởng đội cầu1. Đặc biệt nghe đại đội phó Cư trình bày phương án khắc phục phá gỡ cầu đổ và kỹ thuật thi công cầu. Đồng chí chủ nhiệm công binh hoàn toàn nhất trí cho phép đại dội 19 thực hiện phương án này. Anh nói : -Theo chỉ thị của trên ,bằng giá nào cũng phải thông cầu càng sớm càng tốt ,để đưa hàng đoàn xe pháo đang ùn tắc vào chiến trường ngay. Anh quay lại dặn thêm đại đội phó Cư : Phương pháp này ở trường công binh đã huấn luyện rồi, cứ mạnh dạn mà làm. Nhưng phải bảo đảm tuyệt đối an toàn.
Đại đội trưởng Lê Chí Đạo và đại đội phó Nguyễn Thành Cư rất phấn khởi và khẩn trương triển khai ngay.
Một tiểu đội công binh được tổ chức chuẩn bị lĩnh thuốc, gói buộc 4 lượng nổ dài= 300kg để cắt dầm vá mặt cầu gần hai mố 4 lượng nổ tập trung=400kg đánh chân cầu ,áp dụng theo phương pháp đánh cụm cọc. Hơn 300kg = 4 lượng đánh cắt các dầm và mặt bản cong vênh ngổn ngang phía giữa.
Một điều khó khăn là không có dây ,kíp điện nên không thể bố trí nổ đồng loạt được.Do đó phải dùng dây cháy chậm loại tốt ( qua đốt thử vài đoạn theo dõi tốc độ cháy của dây)
Quá trình tổ chức chuẩn bị gói buộc và cố định lượng nổ,có đại đội trưởng Đạo và đội trưởng Truy ,là niềm cảm hứng động viên tin tưởng.
Diễn biến chiến đấu:
Thứ tự ,lúc 15 giờ 30 phút đánh 8 quả đoạn giữa dầm và chân trụ, cắt đứt theo ý định tạo thế cho đợt sau. Kết quả đứt băng theo ý định.
Còn lại hai đầu gần mố, lúc 20 giờ cùng ngày cho nổ tiếp. Trong đêm tối một đống lửa bùng lên sáng rực khu cầu Vàng, một tiếng nổ rung động đã hất gọn toàn bộ những bê tông sắt thép, cắt đứt đúng như ý định mong muốn. Sức con người không phải dọn dẹp, không phải lo nghĩ hàng tuần như anh đội phó đã nêu ra.
-Phương pháp cho nổ: đặt mỗi lượng 2-3 kíp để hứng nồ dây chuyền.
-Các lượng nổ cắt dây cháy chậm bằng nhau,đấu đầu từng đôi một.Dùng các đoạn dây cháy chậm đốt xì vào điểm hỏa các lượng nổ.
-Tổ chức cảnh giới hai đầu cách xa lượng nổ 1.000m, báo động ẩn nấp chu đáo.Theo lệnh của đại đội trưởng điểm hỏa và đủ thời gian chạy về nơi ẩn nấp quan sát.
Kết quả :Chỉ sau đó hai ngày đêm đại đội 19 công binh đã dùng gỗ xếp cũi ,bỏ đá,đặt xà đầu vì, cố định dầm ray ,lát ván… Thông xe.
Vị trí cầu trở nên dễ thi công, chân cầu thấp thu gọn lại còn một nhịp,từ đấy khi cầu bị hư hỏng, việc sửa chữa trở nên thông thường hơn.
Ưu điểm:- Mạnh dạn táo bạo, tin tưởng vào khả năng tập thể ,tin ở mình.
Giải quyết nhanh gọn an toàn tuyệt đối nhanh chóng thông xe.
Một số hỏa cụ thiếu đã sáng tạo áp dụng phương pháp nổ truyền.
Gây lòng tin đối với cán bộ chiến sỹ là sự trả lời đối với kỹ thuật máy móc không mạnh dạn, trì trệ, ảnh hưởng đến sức chiến đấu.
Tin tưởng vào kỹ thuật và uy lực của bộc phá, cán bộ công binh đã qua học tập ở trường quân sự và thực nghiệm nhiều lần.
Có sự chỉ đạo động viên của đồng chí Nam Sao, Chủ nhiệm công binh tinh, sự chỉ huy cúa đại đội trưởng Lê Chí Đạo và sự đồng tình ủng hộ của đồng chí Truy, đội trưởng đội cầu 1.
Có bài học thành công của cầu Hổ trước đây mấy ngày.
Phà Ghép đêm 21-9-1966
Bến phà Ghép nằm trên đường quốc lộ 1A về phía Nam thị xã Thanh Hóa 24 km, là bến phà giáp cửa biển ,nước thủy triều lên xuống.Từ trước chỉ có một bến phà chính,không có cầu nổi. Là một trong những bến chiến lược từ hậu phương lớn ra tiền tuyến.
Cuối năm 1965 ta đã làm một đường vòng tránh qua xã Quảng Trung và một bến phà hai ,gọi là bến Ngọc Trà ở sâu trong nội địa 200m so với bến chính, đường vòng dài hơn 3km là đoạn đường cấp phối đơn giản.
Tiểu doàn 27 công binh Quân khu ba lần đầu tiên bắc cầu nổi bằng thuyền sắt ở đây, giữa năm 1966,để bảo đảm lượng xe đi ngày càng nhiều. Giao thông tỉnh Thanh Hóa đã bắc cầu nổi hỗn hợp luồng và thuyền sắt ở bến Ngoc Trà để xe nhẹ ra vào,xe quá tải vẫn vượt sông bằng phà ở bến chính.
Phương tiện của bến ngoài cầu nổi có 2 phà,2 ca nô 90 mã lực, mỗi phà chở được 6 xe không có đuôi.Bến này do đoạn bảo dưỡng đường bộ của Ty giao thông tỉnh Thanh Hóa phụ trách từ trước đến nay.
Hai bờ Nam Bắc của bến rất trống trải toàn sú vẹt khó ngụy trang.
Đế quốc Mỹ đã liên tiếp đánh phá bến phà Ghép với âm mưu từng đợt cất đứt giao thông từ Bắc vào Nam Thanh Hóa. Thủ đoạn của địch là thường xuyên cho máy bay trinh sát, ban đêm thả pháo sáng để pháo hạm có thể bắn pháo vào đoàn xe ,vào bến, khi thấy có xe ra vào lại tiếp tục ném bom, bắn phá cả ngày lẫn đêm, kết hợp các loại bom phá ,bom mảnh vụn đủ loại để phá hủy bến, phá phương tiện và uy hiếp tinh thần nhân viên phụ vụ tại bến.
Chủ trương kế hoạch của ta :
Theo chỉ thị số147 TTg ngày 1/12/1965 của phủ thủ tướng,bến phà này giao cho quân đội đảm nhiệm, bên giao thông cấp phương tiện ,nhân viên kỹ thuật. Tỉnh đội Thanh Hóa thành lập ban chỉ huy bến gồm có:
Nam Sao ,Công binh ,Chỉ huy trưởng; Lê Hiền ,Giao thông ,Chỉ huy phó; Phạm Sế, Công an, Chỉ huy phó ;Nguyễn Lương ,Thiếu úy ,Chính trị viên.
Ngoài lực lượng bến phà sẵn có, bổ sung thêm một tiểu đội công binh làm nhiệm vụ quan sát ,phá gỡ bom đạn chưa nổ. Hai bờ Nam Bắc có một đại đội cao xạ bảo vệ và một số ụ súng bắn máy bay tầm thấp của dân quân
Ban chỉ huy thống nhất, trừ trường hợp bất thường, còn thường xuyên xe nhẹ sẽ qua sông bằng cầu nổi tại bến Ngọc Trà, xe quá tải sẽ qua sông bằng phà.Trừ khi có lệnh xe chạy ban ngày ,còn thường xuyên chập tối lắp cầu, đưa phà vào bén và sáng sớm lại dỡ đưa đi cất dấu. Giữa hai bến phà có một cầu phao cho người đi để bảo đảm thông suốt hai bờ và một đường dây điện thoại hữu tuyến. Dọc đường xuống bến cấu trúc một số hầm kèo nhà để mở nắp.
Diễn biến chiến đấu ,Ngày 21-9-1966 địch đã bắn phá một lần vào bến Ngọc Trà và bờ Nam bến chính nhưng không trúng, ta an toàn.
17giờ 30 ta cho phà vào bờ Bắc bến chính và cho hàn khẩu cầu nổi bến phụ.
18 giờ chuyến phà đầu tiên chở 6 xe tải rời bến. Đồng chí Lương cùng tổ 1 đi với phà, đồng chí Hướng ở bờ Bắc; Khẩu súng máy đặt trên nóc ca nô do đồng chí Lương trực tiếp điều khiển. Phà vừa rời bến được quá nửa sông, thì máy bay địch đến bắn phá, phà vừa tiến vừa bắn trả, phà cập bến bờ Nam ,5 xe vừa lên khỏi phà thì địch bắn trúng phà, máy không nổ,các thủy thủ và lái xe chạy lên hầm ẩn nấp Đồng chí Lương bị bom nổ hất xuống sông, khẩu súng máy rơi xuống mặt phà. Dây điện thoại qua sông bị đứt Đồng chí Nam Sao chạy qua cầu người đi bộ sang bờ Nam nắm tình hình và ra lệnh cho tổ 1 tiếp tục sửa chữa, một lát thì sửa chữa xong ,cho nổ máy ngay. Máy bay địch bay khỏi ta lại tiếp tục chuyên chở xe qua sông.
19 giờ 40 phút chuyến phà thứ ba qua sông, máy bay địch lại đến bắn phá,lần này phà bị thủng ,nước tràn vào một khoang, cùng lúc đó cầu nổi ở bến Ngọc Trà bị hư hỏng nhẹ một số phao.Tình hình lúc đó ở bờ Bắc ùn nhiều xe ,có cả xe kéo pháo, bờ Nam còn ít nếu cứ chở phà thì không bảo đảm số lượng xe còn lại.
20 giờ đồng chí Nam Sao hội ý ban chỉ huy ,nêu ý kiến dỡ cầu nổi bén Ngọc Trà ghép hỗn hợp với bến chính để xe kéo đuôi vào cho nhanh vì đường Ngọc Trà xấu ,đi vòng lại chậm. Lúc đầu một số đồng chí không nhất trí nhưng đồng chí Nam Sao đã nói” Tôi xin chịu trách nhiệm với Đảng về việc này “ và quyết định điều các phao nổi xuống bến chính lắp ghép cầu. Một mặt cứ chuyên chở bằng phà còn lại ,để tăng thêm lượt xe vào ra. Nhưng do phà bị nước vào,nên thời gian qua sông kéo dài ,lượng xe vẫn ùn đông.
23 giờ cầu nổi đã lắp ghép và hàn khẩu xong tại bến chính.Từ lúc đó đến sáng đoàn xe liên tục vượt cầu nổi an toàn.
4 giờ sáng ngày 22/9/1966 ta dỡ cầu nổi và chuyển đi cất dấu..
Kết quả: Bảo đảm an toàn cho 900 xe vào ra,phần lớn xe vào là có đuôi. Một chiếc phà bị bắn thủng một khoang ,phải sửa chữa.
Nhận xét ,cán bộ chiến sỹ ,công nhân đều dũng cảm, đoàn kết hiệp đồng ,có tinh thần chủ động,kiên quyết thông xe tại bến chính .Bến trưởng phải quyết đoán. Dám chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân. Kỹ thuật phù hợp,bắc hỗn hợp cầu nổi và phà để bảo đảm chiều dài của cầu.
Bến trưởng “Bến phà Thép”
Bến phà Ghép qua con sông Ghép cách biển 3km cắt ngang đường số một,cuối huyện Quảng Xương ,đầu huyện Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa . Sông rộng 250m, nước thủy triều lên xuống nhiều. Khi lên cao sông rộng 300m, khi nước ròng còn 200m ,hai bên bờ ,bến bãi thoải và lầy lội.
Hai bên đầu bến phà, địa hình trống trải ,chỉ có cây sú vẹt mọc lưa thưa ,không có tác dụng làm vật che khuất. Còn phương tiện vượt sông như cầu, phà, ca nô, ở khu vực bến Ghép này thì dễ bị lộ. Làng xóm cách xa bến phà hai bên bờ từ 500m đến một cây số. Bờ Bắc cách bến phà Ghép 1500m, có một đường nhánh dài 2km, có thể tổ chức bến phà thứ ba qua sông ở đây.
Từ đường nhánh xuống bến 2, đi thẳng đường số một, cách phà Ghép 800m có một đường nhánh qua xóm Nghĩa qua thượng lưu phà Ghép, đoạn sông này bắc cầu phao dài 200m.Qua cầu phao đi 5 km đến một cầu gỗ dài 30m, qua kênh nhà Lê,đi một cây số nữa gặp đường số một tại ngã ba xóm Kho. Như vậy một đoạn sông dài 5 km có ba bến vượt sông
Ngày 3-4-1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá cầu Đò Lèn ,cầu Hàm Rồng ,bến phà Ghép. Sau đó chúng đánh phá các cầu cống trên dọc đường số một trên đất Thanh Hóa .Riêng khu vực bến phà Ghép, ngày đầu chúng đánh phá mức độ bình thường. Việc bảo đảm giao thông tuy có trở ngại ,nhưng do ta đã có kế hoạch từ trước nên không đáng kể.
Nhưng về cuối năm 1967, do chiến trường đòi hỏi chi viện ngày càng lớn Việc vận chuyển của ta trên tuyến đường một,đường sông ngày càng cao hơn.Chúng càng thất bại ở chiến trường miền Nam bao nhiêu, thì việc đánh phá bằng không quân ở miền Bắc càng ác liệt bấy nhiêu. Ở bến phà Ghép có ngày chúng đánh từ 6 đến 8 trận Thủ đoạn đánh phá của chúng: trước còn phá phương tiện như phà, cầu phao, ca nô chúng phá hai bên đầu bến phà ,ta vẫn khắc phục được, chúng chuyển sang phá đường vào bến phà, ta vẫn khắc phục được. Chúng chuyển sang đánh phối hợp: Ban ngày máy bay chuyên đi lùng sục phương tiện vượt sông của ta, bắn rốc két, đạn 20 ly, ban đêm thả pháo sáng rồi thả bom, bom nổ ngay, bom nổ chậm, bom bi. Có nhiều đêm chúng thả 14-15 lần pháo sáng. Người ở bến phà Ghép tưởng như trời sáng trăng đêm rằm. Cứ dòng dã như vậy ,địch phá ,ta sửa, địch đánh bến này ,ta đi bến khác. Chỉ tính một đợt sáu tháng không quân Mỹ đã đánh khu vực bến phà Ghép 900 lần, bình quân mỗi ngày đêm 5 trận mỗi trận ít nhất 2 máy bay ,nhiều là 6-8 chiếc. Mỗi máy bay Mỹ mang từ 8-16 quả bom. Tính bình quân trong một đợt 6 tháng cuối năm 1967. Không quân Mỹ đã đánh, thả, một khối lượng bom đạn ở một khu vực bến Ghép rộng 4 km2 là 7.200 quả bom ,không kẻ đạn rốc két ,12 lần thả bom bi, mỗi lần hàng nghìn quả. Chúng đã phá phương tiện vượt sông của ta: 15 cái phà ,12 cái cầu phao, 10 cái ca nô đầu kéo 15 lần phá đầu mố cầu. đầu bến, phá hoại hàng10.000m đường vận chuyển, bắn chìm 3 thuyền nan trọng tải 20 tấn ở khu vực phà Ghép và kênh đào nhà Lê . Chúng gây trở ngại cho việc bảo đảm giao thông, vượt sông qua bến phà Ghép vô cùng khó khăn.
Quyết tâm bảo đảm giao thông, của lực lượng công binh,lực lượng giao thông và nhân dân Thanh Hóa.
Biện pháp tổ chức lực lượng bảo đảm giao thông…Trước ngày địch bắn phá, bến phà Ghép vẫn do Ty giao thông Thanh Hóa đảm nhiệm. Ở bến phà này có 16 anh em công nhân, bến trưởng là đồng chi Cừ. Đến khi có chiến tranh phá hoại tăng lên 30 công nhân. Một bộ phận chở phà bến chính (bến1)dọc đường số một. Còn các bộ phận khác thì chuẩn bị vật liệu, làm các bến phụ số2, số3. Đến tháng 5-1967, hình thành ba bến: bến một ,bến hai ,bến ba và dự trữ một cầu phao cho xe cơ giới có trọng tải nhẹ qua.Việc bắc cầu phao bến Nghĩa ( bến 2 ) không thường xuyên, nếu lưu lượng xe vận tải đi ít, thì chỉ giải quyết bến chính số 1, hoặc hôm nào địch bắn phá bến chính nặng ,thì cầu phao bến 2 mới bắc cho thông xe. Còn bến phà ba vẫn là bến dự bị.
Phủ thủ tướng ra quyết định cho Bộ quốc phòng và Bộ giao thông: Quân đội đảm nhiệm một sô bến phà trọng điểm. Ở Thanh Hóa chủ nhiệm công binh quân khu Hữu ngạn, trung tá Lê Trung Ngôn, trực tiếp giao cho lực lượng công binh Thanh Hóa 5 bến phà: Đò Lèn,Hàm Rồng, bến Ghép,Mục Sơn ,Cẩm Thủy .Đồng chí Nam Sao, chủ nhiệm công binh tỉnh được tỉnh giao nhiệm vụ kiêm bến trưởng bến phà Ghép, anh chị em công nhân ở các bến phà này được quân sự hóa. Đều dưới sự chỉ huy, lãnh đạo nghiệp vụ chuyên môn của Tỉnh đội. Riêng Ty giao thông vẫn còn trách nhiệm về phương tiện lớn như ca nô, phà vv…Bến phà Ghép, thời kỳ này lưu lượng xe vận tải,xe kéo pháo ,binh kí kỹ thuật khác ùn ùn chi viện vào tuyến trong.Địch đánh phá khốc liệt hơn, không những bằng không quân, mà còn đạị bác tầm xa từ hạm đội ngoài biển bắn vào khu vực bến phà Ghép, đòi hỏi cán bộ và chiến sỹ công binh ở bén phà phải đối phó quyết liệt.
Khi ty giao thông bàn giao 90 công nhân sang quân đội, tổ chức thành đại đội tăng cường bốn trung đội, hai trung đội phụ trách phà, một trung đội phụ trách cầu phao, một trung đội điều khiển ca nô, kèm phà và các khí tài khác.Với khí thế mới, anh em công binh giao thông xưng hô với nhau,tiểu đội trưởng ,trung đội trưởng ,thủ trưởng, anh nuôi, y tá,vv…cùng nhau lao vào chiến đấu với quân thù .
Một tình huống xảy ra do chuyển vị trí, bến trưởng cũ và anh em công nhân từ trước đến nay vẫn ở xóm Bắc phía đông đường số một gần chỗ ba-ri-e, nay được đồng chí Nam Sao, bến trưởng mới, ra lệnh di chuyển chỉ huy sở về xóm Đồng Văn, thuộc xã Quảng Trung.Vì chỉ huy sở trước đây ở vào vị trí tam giác địch dễ dàng đánh phá, mà nguy cơ địch thả bến một và bến hai dễ bị sai lệch. Một sự việc gây lòng tin tưởng của các anh em và cũng là giảm xương máu cho đơn vị. Chiều hôm đó di chuyển xong và nói với nhân dân là vào đây để đào công sự được kiên cố hơn. Thì tối hôm sau, 12 giờ đêm địch thả 8 quả bom rơi trúng vị trí cầu. Một quả trúng giữa gian nhà ban chỉ huy bến ở cũ, gia đình này chết hết ,trong đó có cụ gìa70 tuổi. Còn xóm làng xơ xác, 25 người bị chết. Sáng hôm sau anh em trở về giúp đỡ bà con hàng xóm cũ bị tai nạn. Cũng từ đó anh em công binh mới này rất tin tưởng vào sự chỉ huy lãnh đạo của quân đội, của đồng chí Nam Sao, bến trưởng mới và đã hăng háí chở phà kéo ca nô, bắc cầu. Nhiều đêm lưu lượng tới 800 xe ở bờ Bắc, nằm dài theo đường số 1 tới 4 km, mà ở bến phà 1 và 2, pháo sáng địch thả liên tục hết đợt này đến đợt khác,bom phá,rốc két thi nhau đánh phá,nhưng những anh em công binh giao thông này vẫn dũng cảm tác nghiệp lắp ghép cầu ,chèo chở phà. Kiên quyết giữ đúng vị trí, động viên nhau giữ vững giao thông, giải phóng 300 xe ứ ở bờ Bắc. Cũng đêm nay anh em công binh đã bị hi sinh một đồng chí bị hất xuống sông bốn người, đơn vị kịp thời cấp cứu. Một ca nô bị thương ở mũi, trúng bom, nhưng không chìm. Có nhiều hôm vì lượng xe bờ Bắc vào ,bờ Nam ra, mỗi đầu bến vài trăm xe phải chạy cả ba bến từ tối đến 5 giờ sáng anh em liên tục bảo đảm ,không có người thay ca. Một điều đáng nói là 5 giờ sáng mới giải phóng xong xe qua sông. Anh em còn phải cất dấu ngụy trang phương tiện ,đánh phà xa 6 km, ngụy trang xong đã 11-12 giờ trưa. Còn cầu phao ,tháo một phần ba đi cất dấu, để ban ngày máy bay địch trinh sát không thấy gì, trống lòng sông,chúng mới không đánh phá.
Cứ đich đánh ta sửa. Địch bắn phá bến phà anh em cao xạ bắn máy bay. Những chiến công bắn rơi máy bay của bến phà Ghép. Anh em mắt thấy máy bay rơi, phi công nhẩy dù ,bắt giặc lái… anh em công binh lại càng tin tưởng vào sức của mình.
Trong 6 tháng cuối năm 1967 là đỉnh cao không quân địch đánh ác liệt, chúng đánh bằng đủ thủ đoạn, có lẽ đế quốc Mỹ đã giở cẩm nang đến trang cuối cùng, thả bom nổ ngay, xen kẽ bom nổ chậm xuống bến phà, dưới lòng sông, trên đường 1A ,trong làng xóm, ngoài cánh đồng, chúng thả bom bi, chúng tưởng đánh đến thế là ta bó tay. Nhưng không, nhân dân và Đảng bộ xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương vẫn bảo đảm sản xuất, quyết không bỏ ruộng hoang. Có những thửa ruộng gần bến phà Ghép, cứ cấy xong ,bom thả, lại cấy, bom lại phá. Mười một lần, đến lần thứ mười hai, chính tay đồng chí nữ chủ tịch Ủy ban nhân dân xã và đồng chí bí thư Đảng ủy ,trực tiếp ra ruộng cấy, thi gan với không quân Mỹ- quả là không lực Hoa kỳ thua, đến mùa gặt thóc vẫn đầy bồ, nuôi dân ,nuôi bộ đội.
Một sự kiện đáng ghi nhớ, bom nổ chậm TNT, bom từ trường địch thả xuống lòng sông, một số thuyền nan vận tải qua bến 3, bến 1, vào kênh đào nhà Lê vào tuyến trong, bị đánh chìm, thiệt người , hỏng phương tiện, mất lương thực, nhưng chưa nguy hiểm bằng và quan trọng hơn là bộ đội ở miền Nam thiếu vũ khí ,lương thực để chiến đấu.,
Trước tình huống này,cán bộ chiến sỹ công binh bến phà Ghép đề nghị với thủ trưởng Tỉnh đội và Ty giao thông, cử một tổ lái ca nô dùng tốc độ chạy nhanh cho bom nổ, để khai thông luồng kênh đào nhà Lê. Được Tỉnh ủy Thanh Hóa chấp nhận.đơn vị bến phà và địa phương tổ chức lễ truy điệu sống đồng chí Út quê ở xã Quảng Tường, xung phong nhận nhiệm vụ lái ca nô đầu tiên. Buổi truy điệu sống này được tổ chức long trọng có đủ các đại biểu Tỉnh đội,Tỉnh ủy,Ủy ban nhân dân tỉnh ,các đoàn thể các cấp của huyện Quảng Xương, xã Quảng Trung, có cả gia đình đồng chí Út ,bố mẹ , anh chị em đồng chí Út. Sau buổi lễ, ca nô đồng chí Út được làm nhiệm vụ ngay trước đông đủ các đại biểu và gia đình. Bến trưởng Nam Sao cảm động ôm hôn đồng chí Út và tiễn đưa đồng chí ấy xuống ca nô, mọi người không khỏi lo lắng,nhất là bố mẹ đồng chí Út thì dán mắt nhìn thằng con trai 22 tuổi đời ấy không chớp mắt. Ca nô nổ máy,mọi người nín thở, ca nô tới khu vực bom nổ chậm, Út vẫn nhịp nhàng điều khiển ca nô, tăng tốc độ lướt nhanh trên mặt nước. Bỗng những tiếng nổ bùng lên,ca nô bỗng vọt cao như bay, để lại những cột nước do bom nổ tung cao từ 20 m đến 30m. Các đại biểu đứng trên bờ vỗ đến rát cả tay, hoan hô khản cả tiếng. Gần 2km từ bến 3, qua bến Ghép 1, qua cửa kênh đào nhà Lê, ca nô mới từ từ hãm lại mé bờ Bắc. Đồng chí Út ung dung bước lên bờ,giơ cao hai tay và tươi cười nói lớn:”Đế quốc Mỹ thua rồi !”. Bến trưởng Nam Sao chạy vội lại phía ca nô ,vui sướng ôm chầm lấy Út, rồi anh bế thốc Út lên, reo vang:”Hoan hô người anh hùng !“ . Mọi người đều hô “Hoan hô !”. Thế là mười hai quả bom từ trường nổ sau ca nô. Các bến bãi cửa sông đều thông luồng. Đến tối lại tấp nập qua lại. Nhịp cầu lại bắc, ca nô lại nổ máy, kênh đào nhà Lê lại rộn rã các thuyến xuôi vào miền Nam .Đoàn xe cơ giới từ bờ Bắc qua bến Ghép vào Nam lại nối đuôi nhau qua cầu phao thẳng tiến.
Kết quả : Sáu tháng cuối năm 1967, các lực lượng công binh tỉnh Thanh Hóa đã kiên quyết dũng cảm bảo đảm giao thông, thông suốt ở một bến phà trọng điểm. Không quân địch đánh phá ác liệt ngày đêm bằng đủ các loại bom đạn, trái phá. -Các lực lượng đoàn kết phối hợp chặt chẽ với nhau ,bộ đội công binh, công nhân giao thông, dân quân và nhân dân xã Quảng Trung nói riêng ,huyện Quảng Xương và huyện Tĩnh Gia nói chung, đã khắc phục khó khăn, dũng cảm hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm giao thông. - Sự chỉ đạo của Quân khu Hữu ngạn, Tỉnh ủy ,Ủy ban tỉnh ,Tỉnh đội, Ty giao thông, tỉnh Thanh Hóa đã chỉ đạo, chỉ huy, động viên kịp thời các đơn vị bến phà Ghép.- Trong điều kiện quân địch có bom đạn, máy bay hiện đại, cố tình đánh phá một bến phà, hòng làm tắc đường, cản trở giao thông của ta. Nhưng công binh và nhân dân tỉnh Thanh Hóa nói chung ,khu vực bến phà Ghép nói riêng đã quyết tâm khắc phục mọi khó khăn nguy hiểm, tận dụng vật liệu thô sơ thắng hiện đại. -Trong 6 tháng cuối năm 1967, bến phà Ghép đã bảo đảm cho thông hàng chục nghìn xe cơ giới các loại ,chở vũ khí, đạn dược ,lương thực ,thực phẩm …và mọi thứ cần thiết cho chiến trường,bảo đảm an toàn.Được nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công.Được Ủy ban nhân dân tỉnh khen thưởng và đặt tên cho bến phà Ghép là “Bến phà Thép.” Từ đó Nam Sao đã được cán bộ , chiến sỹ yêu mến cảm phục ,mãi mãi gọi là “Bến trưởng bến phà Thép”.
“ Eo cửa tử ”
Núi Thổi thuộc xã Bình Minh huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa. Đứng trên núi Thổi có thể nhìn được xa mặt biển những ngày quang trời trông rõ tàu chiến Mỹ đậu ngoài khơi, ban đêm trông rõ đèn ở tầu chiến thành từng chùm sáng.Tây Nam núi Thổi là đường 1A và đường sắt, ở khu vực Khoa Trường và có con kênh đào nhà Lê, đường cho thuyền nan hai tấn chở hàng vào chi viện miền Nam.
Địch đánh bằng không quân và bắn pháo vào khu vực núi Thổi đều gây thiệt hại một trong ba mục tiêu giao thông của ta vì ba muc tiêu :đường sắt cách đường số một từ ba đến năm trăm mét, đường kênh đào nhà Lê chạy vòng ôm lấy đường số một. Địa hình này có lợi cho địch, một đòn ăn ba điểm.
Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở khu vực tỉnh Thanh Hóa là rất ác liệt vì là cái cuống họng giao thông, tập trung các đầu mối : đường sắt ,đường bộ, đường thủy. Nhất là phía Nam Thanh Hóa, khu vực Tĩnh Gia thì lại càng ác liệt hơn. Không ngày nào máy bay Mỹ không bắn phá, lúc thì bắn xe hỏa, xe ô tô vận tải trên đường, lúc thì săn bắn thuyền nan trên kênh đào nhà Lê ,khi thì săn tàu thuyền của ta chạy ven biển. Có thể nói : phương tiện vận chuyển của ta đi cũng nhiều mà địch đánh ta cũng lắm.
“Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn”. Địch xuất hiện loại nào ngăn cản vận chuyển của ta thì ta tìm cách đánh lại chúng, để ta thực hiện kế hoạch của ta: Địch dùng tàu chiến,ta dùng pháo lớn bắn lại địch.
Tàu chiến xâm phạm bờ biển của ta, có ngày chúng vào cách bờ 10 đến 12 cây số, dùng ống nhòm trông rõ cả nhãn hiệu, mầu sơn, cả đại bác và cờ của chúng.
Chủ trương của ta dùng pháo có tầm bắn xa trị bọn tàu chiến Mỹ( đại bác 130 ly). Vì phải đối phó với cả giặc trên trời và dưới biển, thậm chí cả biệt kich phá hoại. Trước đây có lần chúng đã dùng biệt kích ngụy định phá cầu Hang thuộc xã Hải Lĩnh, huyện Tĩnh Gia,Thanh Hóa.
Đánh chắc thắng phải có hầm hố kiên cố và canh phòng cẩn mật,rồi mới đưa vũ khí loại nặng vào vị trí chiến đấu.Trong chiến tranh phá hoại, việc giữ gìn lực lượng ,nhất là con người vì kẻ thù dùng vũ khí tối tân giết người hàng loạt, mà kẻ thù chỉ tốn vũ khí chứ không tốn người. Nếu như ta đánh lại chúng mà thiệt hại thì không giỏi. Đó là một vấn đề phải tính toán, tìm đủ mọi cách để bảo vệ người và vũ khí, bảo đảm đánh thắng mà ta giảm thiệt hại đến mức thấp nhất,tiến tới không thiệt hại.
Quyết tâm và sử dụng lực lượngcủa ta là:
-Làm hầm và đường cho đại bác tầm xa vào khu vực núi Thổi thì không thể ồ ạt đem nhiều người cùng làm một lúc được và cũng không thể lấy lực lượng dân công đươc , vì nhiều nguyên nhân:
- Khu vực núi Thổi không quân Mỹ đánh phá ngày đêm, muốn vào khu vực này phải qua một eo núi tuy ngắn, nhưng không quân Mỹ loại AD6 suốt ngày bay lượn bắn phá, nên bộ đội và nhân dân gọi là “eo cửa tử “.Chúng thường bắn rốc két và giải bom bi theo dọc eo men theo biển, đã có đến vài chục người bị thương vong ở đây vì là con đường đi ra biển làm ăn , mà không có đường tránh nào khác nên nhân dân vẫn cứ phải liều đi.
-Khu vực núi Thổi địa hình trống trải ,tàu chiến địch quan sát và phát hiện rõ ràng các hoạt động của ta .Vì điều kiện phòng gian bảo mật ,bảo đảm đánh thắng nên không thể ồ ạt như các công trường khác.
Sử dụng lực lượng: Bộ tư lệnh quân khu quyết định giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 25 công binh, dưới sự chỉ đạo của phòng công binh Quân khu. Sau khi nghiên cứu mọi mặt, tiểu đoàn 25 giao cho đại đội 2 đảm nhiệm.
Biện pháp làm: Dùng lưới ngụy trang cả khu vực rộng, che mắt không quân địch, che mắt cả bọn tàu chiến địch, đồng thời canh gác che mắt cả bọn địch ở mặt đất.
Sử dụng nhân lực, dụng cụ cuốc xẻng, xe cải tiến ,quang gánh, một số máy cần thiết và dùng thuốc nổ với lượng lớn để phá đá kết hợp giữa dụng cụ thô sơ và máy móc cùng làm.
Diễn biến:Về kỹ thuật muốn kéo pháo 130 ly ra đặt ở phía đông núi, theo thiết kế phải đào một đường hầm kéo pháo ,dài 120m từ phía Tây sang phía Đông núi, từ đó tỏa đi 5 hầm pháo. Nếu tính toán làm theo kiểu này thì một đại đội phải làm hai năm mới kéo pháo vào trận địa được ,mà tốn kém ,lại mất thời cơ tiêu diệt địch. Phòng công binh Quân khu và cán bộ chiến sỹ tiểu đoàn 25 họp bàn nghiên cứu đề nghị một phương án: Làm một đường vòng qua “Eo cửa tử”, khắc phục những mỏm đá nhô ra cản trở để kéo pháo bằng cơ giới vào trận địa.Tổ chức làm công sự trận địa trước làm đường, theo phương án này.Phải đòi hỏi tinh thần dũng cảm của cán bộ chiến sỹ của đại đội 2 vì đại bác địch và máy bay địch bắn phá liên tục ngày đêm không mấy khi ngớt.
Đại đội 2 công binh hạ quyết tâm dù có phải hy sinh đến tính mạng, nhưng bảo đảm công trình nhanh, có thời cơ diệt địch nhất là tàu chiến Mỹ cộng hưởng cứ lấn dần, có lần chúng vào cách bờ 8km.
Được trên chuẩn y ,đại đội 2 bắt tay thực hiện phương án.Từ chỗ đóng quân tới công trình xa 2 km thay nhau ba ca suốt hai mươi bốn giờ liên tục.Trên đường đi nhiều lần bị máy bay Mỹ đánh phá và đại bác ở tàu chiến bắn vào đội hình đại đội 2 ,đã có một số đồng chí bị thương vong. Nhưng gian khổ hy sinh anh em vẫn quyết tâm làm xong trong thời gian ngắn, kịp bàn giao cho đơn vị pháo 130 ly vào chiếm lĩnh bắn tàu chiến Mỹ. Còn sau đó đại đội 2 sẽ rút về sau núi làm đường hầm cho bộ binh mà không phải làm đường hầm pháo xuyên qua núi nữa.
Sau hai tuần lễ khoan đục đào hố chôn mìn theo đúng thiết kế tính toán, đợn vị đã nhồi một lượng thuốc nổ bằng 1.000 kg TNT, đấu dây và kíp nổ điện theo phương pháp nổ đồng loạt để cộng hưởng, đánh tung “eo cửa tử” hất đất đá xuống biển.
Bộ phận canh gác bảo đảm an toàn do chính trị viên và đại đội phó phụ trách đã triển khai các ngả các hướng. Từ tối hôm trước đã làm viêc với địa phương cấm biển quanh khu vực núi Thổi 3km, yêu cầu nhân dân không cho thuyền bè và người qua lại. Một tổ tuần tra do bộ đội và công an đi ca nô kiểm soát các ngõ ngách dưới biển, ven bờ, cầm loa kêu gọị mọi người tránh xa ...
Sau khi kiểm tra các trạm canh gác đã báo cáo xong, tín hiệu an toàn được bắn lên.Lệnh điểm hỏa bắt đầu; Một cột khói lên cao và tiếng nổ tưởng như long trời lở đất bùng lên, toàn bộ mỏm núi “Eo cửa tử” bị hất tung xuống biển ,chỉ còn trơ lại một đoạn đường rộng, bằng phẳng đủ cho xe kéo pháo đi qua. Mọi người dều thở phào nhẹ nhõm và reo lên: Eo cửa tử bay rồi!- Thắng lợi rồi ! Hoan hô!...
Đại đội 2 tập trung lực lượng nhanh chóng san sửa đường cho bằng phẳng. Đơn vị pháo 130ly cũng nhanh chóng chuẩn bị đưa xe pháo vào trận địa và sẵn sàng đối phó với tàu chiến Mỹ ngay nếu chúng kéo đến.
Trong đoàn cán bộ Quân khu và tỉnh đến theo dõi và giám sát công trình có đồng chí Nam Sao Chủ nhiệm công binh tỉnh Thanh Hóa, có trách nhiệm quản lý và bảo vệ công trình này trên đất địa phương.Sau khi hết tiếng nổ và đất đá đã rơi xuống hết, Nam Sao vội chạy đến bắt tay Trần Hiền Quang tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 25 để chúc mừng. Một số cán bộ chiến sỹ gần đó phấn khởi liền hỏi:
-Các thủ trưởng ơi ,tiếng nổ ở đây có to bằng tiếng nổ trên đồi A1 hồi Điện Biên Phủ không?
-To hơn nhiều!- Nam sao liền trả lời- Cũng một tấn thuốc nổ,nhưng hồi ở đồi A1, bọn mình chỉ nghe đến ục một cái rất sâu ở trong lòng đất,vì chôn ở dưới hầm ngầm nên rung chuyển cả mặt đất. Còn ở đây, cũng một tấn thuốc nổ nhưng vì mặt thoáng rộng lại có núi đá cao ở gần nên nghe rất to và vang, lại thêm đất đá tung lên nhiều, chẳng khác gì bom tấn bọn Mỹ vẫn thả cả- Ngừng một lát ,anh lại nói thêm- Chỉ có khác là tiếng nổ ở đồi A1 đã kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi đem lại hòa bình ở Đông Dương còn tiếng nổ lớn ở đây sẽ đi đến đâu?- Anh nhìn các chiến sỹ hỏi- các đồng chí có biết không? –ai nói nào ?- Một chiến sỹ thấp nhỏ và đen nhẻm, cười lộ hàm răng trắng muốt liền nói ngay:
- Trước mắt là giềng cho bọn tàu chiến Mỹ hết huênh hoang phải câm họng cái đã…
- Và sau đó- một chiến sỹ khác tiếp lời- góp phần vào giải phóng miền Nam ,thống nhất nước nhà đấy ạ.
-Trúng ý quá !- Mọi người đều hoan hô vui vẻ.
Quả nhiên sau đó ít ngày ,pháo tầm xa của ta ở đây đã đánh cho bọn tàu chiến Mỹ thất điên bát đảo, hai chiến hạm trúng đạn, bị thương phải bỏ chạy.Từ đó không dám nghênh ngang bén mảng vào vùng biển gần của ta nữa.
Trong đợt làm công trình trận địa pháo này ,đại đội 2 tiểu đoàn 25 công binh làm được một đường tránh cơ giới kéo pháo vào trận địa dài 1000m, xe kéo pháo an toàn. -Xây dựng xong 5 hầm pháo 130 ly, đưa pháo vào chiếm lĩnh, giảm được ba phần tư thời gian so với đề án cũ.Đào một đường hầm cho bộ binh dài 120m,so với làm hầm kéo pháo qua núi Thổi giảm một phần hai thời gian và giảm50% kinh phí vật tư cho quốc phòng. Đại đội 2 hy sinh 4 đồng chí và bị thương 6 người vì mảnh bom pháo và bom bi…
Được Quân khu nhận xét: Đại đội 2 tiểu đoàn 25 công binh quyết tâm cao ,dũng cảm kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ nhanh gọn.Tinh thần cách mạng cao, dành khó khăn gian khổ hy sinh về mình, tạo thuận lợi ,thời cơ cho đơn vị bạn diệt địch. Kỹ thuật tốt ,có sáng kiến ,giảm bớt thời gian tác nghiệp,đưa pháo vào chiếm lĩnh sớm. Từ đó rút ra kinh nghiệm là đã có kế hoạch, có phương tiện ,có khí tài ,có kỹ thuật ,còn phải biết tổ chức giỏi ,quyết tâm cao và sáng tạo thì mới dành đươc thắng lợi.
*
Nam Sao tiếp tục làm nhiệm vụ kiểm tra huấn luyện, bồi dưỡng tay nghề đánh cá cho các chiến sỹ cũ của mình ,một cách tận tụy và trách nhiệm như hồi còn quân ngũ. Dọc đường anh cũng tranh thủ thả vài mẻ lưới lấy cá làm quà cho tổ của Thế những người đồng đội trên mảnh đất, anh đã từng làm bến trưởng bến phà, được tôn vinh là “bến phà Thép”,một thời oanh liệt. Một tuần lễ sau, anh lại quay vòng đi đôn đốc kiểm tra việc huấn luyện của các tổ và bàn cách hỗ trợ dần dần cho các tổ. Rồi mỗi tháng anh lại đến thăm mỗi nơi một lần cùng ở ,cùng làm nghề với các đồng đội để kèm cặp anh em chóng thành thạo, bản thân anh cũng phải kiếm sống, chứ không nhờ vả vào anh em. Khoảng ba tháng sau,được sự bàn bạc hỗ trợ của bạn bè tay nghề cũ và vay mượn thêm ít nhiều của những người thân và gia đình, việc đầu tư vốn ban đầu đã thực hiện được .Tất cả các tổ viên của ba tổ mới: Cẩm Thủy,Cổ Tế ,Bến Ghép, đều đã mua sắm được dụng cụ thuyền lưới ,bước đầu tự làm nghề ,tự kiếm sống được. Cuối năm đó các gia đình của các tổ cựu chiến binh nghề cá này đã tạm thời ổn định về kinh tế, có gia đình còn tích lũy được ít nhiều cho con cái ăn học và dự phòng khi ốm đau. Bản thân Nam Sao cũng vừa hướng dẫn huấn luyện vừa đánh cá ,không những tự nuôi sống mình mà còn dành dụm được chút ít gửi về cho vợ con, qua con đường liên lạc của cậu em vợ.
Chỉ trong vòng một năm sau,những tổ đánh cá cựu chiến binh ở trong tỉnh Thanh Hóa đã phát triển từ bốn tổ đã nhân lên lên thành mười tổ ở khắp các triền sông mỗi tổ từ mười tớí mười lăm tổ viên,theo cách của Nam Sao, tổ này giúp đỡ tổ khác, người cũ dậy nghề cho người mới ,mà nòng cột là những người lính công binh, rồi phát triển đến các đồng đội ở các binh chủng khác, thanh niên xung phong ,công nhân giao thông…phần lớn những người đã quen với sông nước cầu phà trước đây, nay xuất ngũ không có công ăn việc làm, gia đình khó khăn.Nam Sao vẫn thường xuyên đi vòng quanh các tổ để kiểm tra giúp đỡ phát triển nghề được vững chắc hơn. Các đồng đội đều yêu mến và kính trọng Nam Sao gọi anh là : “Tiểu đoàn trưởng dậy nghề”, “Thủ trưởng đánh cá”. Một năm sau ,các tổ đánh cá ở đây đã đi vào nề nếp và kiếm sống được ổn định ,anh mới ra đi theo ý tưởng của anh.
Chương 17
NỖI ĐAU CHIẾN TRANH CỦA NAM SAO
Chào tạm biệt các đồng đội cũ vùng Thanh Hóa, anh lại ra đi theo tiếng gọi của các chiến trường xưa ,bến sông cũ.
Mặc cho ở quê hương anh , bà con làng xóm muốn nói gì về anh, anh cũng mặc kệ. Nghe tin một vài người nói lại:
- Ông Nam Sao bị kỷ luật quân đội, nên chẳng muốn vác mặt về làng. Hoặc :
- Ông Nam Sao bỏ vợ con, đi lang thang sống với các bà khác rồi và còn nhiều những câu thậm tệ khác nữa.
Nhưng Nam Sao đều bỏ mặc ngoài tai, chỉ mỉn cười mà không nói lại một điều gì. Anh sống với lương tâm của anh ,với lý tưởng của anh. Mấy chục năm qua ,anh ra sống vào chết nhưng chưa có điều tiếng gì về anh, chưa một đơn vị nào ,một cấp trên nào có điều gì chê trách anh huống chi là kỷ luật, thậm chí chưa một đồng đội ,bạn bè thân thiết nào phàn nàn hoặc thờ ơ với anh. Hàng chục tấm huân chương chiến công qua hai cuộc kháng chiến là điều minh chứng cho tinh thần bền gan chiến đấu của anh. Mặc dầu hoàn cảnh của anh có những điều bất công về chính trị nhưng vẫn được đứng trong hàng ngũ của đảng, tuy hơi muộn. Mặc dầu điều đó nó chẳng mang lại lợi lộc gì cho anh cụ thể cả ,nhưng nó minh chứng cho anh đã được đảng, tập thể và nhân dân tín nhiệm ,là một trong những người đứng trong hàng ngũ tiên phong của cuộc cách mạng, chiến đấu dành độc lập cho dân tộc. Trong lương tâm anh ,anh không có một điều gì ân hận cả ,cả về lý tưởng ,cả về tư cách đạo đức về tình yêu và cả về lối sống .Những điều đó anh rất thanh thản trong lòng. Anh chỉ có một nỗi đau, đó là “nỗi đau vì chiến tranh”, dẫn đến “nỗi đau số phận” của anh. Nhiều đêm nằm anh suy nghĩ, giá như đất nước này không có chiến tranh, hẳn hai anh em của anh. Hữu và Bạn cũng không bị chia ly ra hai ngả : bạn và thù của nhau, mỗi người đi theo một số phận riêng của mình ,đối lập nhau, bỏ cả quê hương ,bỏ cả gia đình bố mẹ già, con cái bơ vơ, không trông nom nuôi dưỡng không thờ cúng tổ tiên. Giá như đất nước này không có chiến tranh ,thì cả ba anh em nhà anh , đều ở nhà, yên tâm học tập mở mang kiến thức khoa học kỹ thuật, tập trung vào xây dựng và phát triển kinh tế,thì cả nhà anh đều giầu có, như chú em trai thứ ba Nguyễn văn Thuận của anh đang ở quê hiện nay. Chỉ vì sống giữa hai làn gió của hai phe chiến tranh , vì tính đố kỵ của hai bên, mà chẳng phe nào chấp nhận cho Thuận tham gia hoạt động, nên chỉ yên phận tập trung vào học tập và chí thú làm ăn, trở nên người có kiến thức, có sức khỏe và có kinh nghiệm làm giầu,đã trở nên một gia đình giàu có nhất làng, nhất xã, rất chính đáng mà chẳng ai có điều tiếng gì về việc làm ăn cả. Sau này, con cháu của Thuận đều trở thành các doanh nhân, làm ăn lớn trong vùng và ở khắp đất nước, mấy đứa còn đầu tư phát triển sang cả nước ngòai, làm ăn khá. Dạo đó thiên hạ còn đi xe đạp ,xe máy là chủ yếu, xe con chưa phổ biến lắm, thế mà ngày giỗ ngày tết nhà chú Thuận có đến năm sáu xe con của các con cháu về đỗ chật cả sân vườn. Ngay từ khi còn chiến tranh nông thôn còn mâu thuẫn hai phe,Thuận đã làm công việc từ thiện giúp đỡ những người tàn tật ,già cả đói nghèo và những gia đình khó khăn của cả hai phe ,không phân biệt người của phe chính nghĩa hay người của phe phi nghĩa. Chú ấy còn giải quyết cho nhiều gia đình lao động thất nghiệp có công ăn việc làm ,thoát khỏi cảnh đói nghèo.Vì thế tuy Thuận chẳng có một vai vế gì trong làng trong xã cả ,mà được bà con trong làng xã tin yêu kính trọng, hơn cả nhiều người lãnh đạo trong chính quyền của hai phe đối lập, lúc bấy giờ và cả sau này khi đất nước đã được hòa bình nữa. Trong khi đó người anh trai cả là Nguyễn Văn Hữu, mặc đầu đã phát triển đến đại tá trong hàng ngũ cán bộ cao cấp có tín nhiệm của chính quyền miền Nam, một tay chân đắc lực của tổng thống Thiệu, mà khi kết thúc chiến tranh giải phóng Sài Gòn , bị Mỹ và Nguyễn văn Thiệu bỏ rơi không di tản được, nhà cửa bị tan nát, của cải tích lũy được bị mất hết, vợ con phải sống chui rúc trong nhà cũ đổ nát tạm bợ ,bản thân thì bị bắt rồi bị giam trong trại cải tạo của chính quyền cách mạng. Còn bản thân mình,là người con trai thứ hai của gia đình bố mẹ ,thì như thế này đây ,tuy không mất cả ,không có điều gì đáng hổ thẹn với lương tâm, nhưng cũng chẳng còn cái gì đáng tự hào. Nghĩa là cả hai anh em ở hai phía, ở hai đầu chiến tranh, phi nghĩa hay chính nghĩa ,khi kết thúc thì đều chẳng còn gì cả, cũng may ơn nhờ phúc ấm tổ tiên, vẫn còn hai cái đầu trở về trong cảnh đói nghèo, gian nan vất vả cả . Bản thân anh cũng phải lận đận đi kiếm sống tháng ngày như thế này đây. Anh chỉ còn một niềm vui, sống với tình đồng đội, tình chiến hữu bạn bè. Mình đã khó khăn ,nhưng đồng đội cũ còn khó khăn hơn mình , nên anh phải mang chút vốn liếng nhỏ nhoi của ông cha để lại cho mình là nghề đánh cá, để lăn lộn kiếm sống và giúp đỡ những đồng đội bạn bè cùng kiếm sống. Âu cũng là cái nghiệp hay số phận của mình ?
*
Ôi nỗi đau chiến tranh .Khát vọng hòa bình , khát vọng bình yên, luôn luôn bùng lên, nhức nhối trong tâm hồn anh. Anh không sợ chết ,thực tế mấy chục năm qua anh cũng chưa bao giờ lùi bước trước quân thù. Nhưng hàng triệu người chết ,hàng chục triệu người chết, hàng chục triệu người bị thương ,tàn phế để lại, hậu quả cho xã hội đau đớn biết chừng nào. Anh chỉ ước vọng đất nước mình không còn chiến tranh. Anh ước vọng cả thế giới này cũng không còn chiến tranh. Không còn tranh chấp lãnh thổ của nhau .Không còn nước nào sản xuất vũ khí, trước mắt là những vũ khí giết người hàng loạt như bom nguyên tử ,bom khinh khí và các loại chất độc hóa học...Chỉ riêng ở Nhật ,hậu quả của nguyên tử mà bảy mươi năm nay cũng chưa giải quyết hết .Còn ở Việt Nam và Mỹ, hàng mấy triệu người bị tàn phế và ảnh hưởng chất độc da cam. Hỏi hàng trăm năm nữa đã chắc gì giải quyết hết hậu quả? Mà còn tổn hại đến bao nhiêu nền kinh tế bị chậm chễ hoặc đình đốn nữa? Chiến tranh không chỉ là nỗi buồn,mà là nỗi đau, nỗi đau cho toàn thể nhân loại không từ một nước nào. Nước bị trực tiếp chiến tranh thì bị nặng nề nhất, nhưng những nước gây nên chiến tranh và tham gia chiến tranh bằng mọi hình thức, cũng bị những hậu quả khôn lường. Nói ngay như nước Mỹ, mạnh nhất ,giầu nhất và hiếu chiến nhất. Nhưng những hậu quả do chiến tranh Việt Nam gây nên, sau hơn bốn mươi năm qua, hỏi đã được yên? Kể cả các nước đồng minh của Mỹ, theo đóm ăn tàn cũng vậy. Không những bị hậu qủa mà còn bị nhân dân trong nước nước đó và nhan dân thế giới muôn đời nguyền rủa. Ôi nỗi đau chiến tranh! -Khát vọng bình yên !-Khát vọng hòa bình! Các nhà khoa học vũ trụ trên thế giới này đã ước tính rằng : Nếu không có chiến tranh,nếu không có chạy đua vũ trang trên thế giới này ,thì loài người đã đưa người lên mặt trăng sinh sống từ lâu rồi (?)
*
* *
Nỗi đau chiến tranh, một nỗi đau còn âm ỉ suốt nhiều đêm làm anh không ngủ. Gần đây được đọc trong một tài liệu của cả hai phe, chiến thắng và chiến bại. Nam Sao thấy giật mình vì số người chết quá nhiều, trước đây vì công tác tuyên truyền nên cả hai phe đều dấu số lượng thương vong. Nhưng giờ đây dân chúng đòi hỏi chính sách thương binh tử sỹ nên cả hai bên đều phải thống kê tương đối rõ ràng, tỉ mỷ hơn. Tuy nhiên vẫn chưa hoàn toàn chính xác .Các chính phủ đều phải tung ra một số tiền lớn để hỗ trợ cho các thương binh và các gia đình có người thân hy sinh ngoài mặt trận. Theo tài liệu lich sử Kháng chiến chống Mỹ(1954-1975) của nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, có: 1,1triệu quân nhân chết ( trong đó có 300.000 mất tích chưa tìm thấy xác)và 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh. Theo Bộ lao động thương binh xã hội Việt Nam. Kể từ sau năm 1945 ( chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh biên giới Tây Nam ,chiến tranh biên giới Việt Trung, một số chiến dịch chống thổ phỉ và Ful-Rô. Cả nước có: một triệu một trăm bốn mươi nghìn liệt sỹ. Nam Sao tìm đọc tỷ mỉ những con số thương vong trong chiến tranh Việt Mỹ sau đây theo thống kê của người Mỹ .
Quân đội Mỹ thương vong 362.939 người,trong đó chết 57.939 người,bị thương 305.000 người.
Quân đồng minh bao gồm Hàn quốc, thương vong 16.331 người, trong đó chết 5.099 ngườì, bị thương 11.232 người.
Thái lan: 1.709 thương vong ,trong đó 351 người chết,1.358 bị thương.
Úc: 3.500 thương vong ,trong đó 500 người chết, 3.000 bị thương.
Philippines 1.752 thương vong ,trong đó 552 chết,1.200 bị thương.
Newzealand 267 thương vong ,trong đó 55 chết ,212 bị thương.
Tổng cộng cả Mỹ và đồng minh: 381.498 người thương vong , trong đó 64.496 chết, 317.002 bị thương.Theo tài liệu trong chiến tranh chống Pháp (1946-1954).Quân Pháp thương vong 140.992 người, trong đó 75.867 người chết, 65.125 bị thương.Quân chư hầu, thuộc địa của Pháp gồm Algerie,Tunisie, Maroc, Sénégal,Guinnée... 31.716 người thương vong, trong đó 18.714 chết,13.002 bị thương.Tổng cộng cả quân Pháp và chư hầu:172.708 ngườì thương vong, trong đó 94.581 chết,78.127 bị thương.
Trong 30 năm chiến tranh Việt Nam, chống Pháp và chống Mỹ, quân dân ta đã tiêu diệt: 554.206 quân Pháp ,Mỹ và các đồng minh chư hầu, trong đó có159.077 tên bị chết,395.129 tên bị thương. Chưa kể bắt hàng vạn tù binh ,phóng thích hoặc trao trả.
Quân đội Việt Nam (cả miền Bắc và miền Nam) thương vong:1.700.000 người, trong đó 1.100.000 bị chết,1.600.000 bị thương.Quân lực Việt nam cộng hòa (quân ngụy): 1.486.000 thương vong, trong đó 316.000 bị chết, 1.170.000 bị thương. Cộng cả hai đối phương của quân đội Việt Nam ( quân ngụy và quân ta) là :3.186.000 người thương vong, trong đó 1.146.000 bị chết, 2.770.000 bị thương.
-Tổng cộng: Quân độị Pháp và chư hầu+ Quân đội Mỹ và đồng minh+quân lực Việt nam cộng hòa+Quân đội Việt nam(cả hai miền) thì tổn thất về nhân mạng trong chiến tranh(của 4 bên quân đội ) là:4.186.000 người thương vong, trong đó 1.575.000 bị chết, 2.129.129 bị thương.
-Dân thường: ( cả hai miền) Trong chống Pháp 250.000 người chết, 1.triệu 400 nghìn người bị thương.
Trong chống Mỹ 4.triệu người chết,(miền Bắc 2 triệu ,miền Nam 2triệu), 2 triệu người bị thương, 2 triệu người bị nhiễm chất độc da cam
Cộng cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.Dân thường bị chết: 4 triệu 250 nghìn người,bị thương 3 triệu 400 nghìn người, 2 triệu người bị nhiễm chất độc da cam(được coi là bị thương)
Tính riêng người Việt Nam bị thương vong trong cuộc chiến tranh này (quân đội hai phe và dân thương)là: 13.324.000 thương vong. Trong đó 5.795.077 người chết, 7.529.129 bị thương(trong đó có 2 triệu người bị nhiễm chất độc da cam).
Trong 30 năm chiến tranh người nước ngoài gồm quân đội Pháp và chư hầu+ quân đội Mỹ và đồng minh chỉ bị thương vong :524.206 người. Trong khi đó ngươì Việt Nam bị thương vong 13.324.000 người, cả dân thường. Thêm vào đó năm 1945 dân ta bị chết đói hai triệu người. Như vậy chỉ trong vòng ba mươi năm dân Việt Nam bị chết và bị thương khoảng mười lăm triệu người.Một thiêt hại về sinh mạng rất lớn.(!) Nhiều đêm Nam Sao giật mình nhớ lại nạn đói năm 1945, người chết nằm la liệt dọc đường,đến nỗi có buổi sáng sớm còn mờ mờ đất , anh đi hoc còn dẵm phải xác người chết đói nằm ở giữa đường,ở cổng làng,anh phải hét rú lên vì sợ, rồi bỏ chạy. Trong cái lò vôi bỏ hoang ở đầu làng có vài chục bộ xương người chết đói, những chiếc đầu lâu trắng hếu, cứ nhe những bộ hàm răng ra như cười trông đến khủng khiếp.
Có đêm anh lại chợt nhớ tới những đồng đội của anh bị hy sinh ở chiến trận,đủ các kiểu chết, người mất đầu ,người mất chân tay. Có lần anh bạn Bản, cũng là trung đội trưởng với anh ,trong lúc đi trinh sát thực địa, đánh phục kích ở đường 6 năm 1951, bị địch phát hiện được ,bắn đại bác trúng đội hình làm bốn cán bộ bị hy sinh. Trong đó có thằng Bản là bạn thân của anh. Sau khi trinh sát trận địa xong, anh quay lại tìm xác nó,nhưng xác nó bị tung làm nhiều mảnh.Anh ôm được người nó về vị trí tập kết xác tử sĩ ở gần đó,rồi quay lại tìm cái đầu.Trong rừng trời tối đen như mực,không ai được bật đèn pin,lộ bí mật ,bị ăn đạn ngay. Anh cứ dùng hai tay mò mẫm từ chỗ nó đứng ra xung quanh mấy vòng,mới giật mình sờ thấy một cái đầu đầy máu đã đông lại cách chỗ nó đứng độ hai mươi mét. Anh vừa khóc vừa ôm đầu nó về,ghép vào cái thân, sờ lại, mới thấy mất một cánh tay. Anh lại vội vàng quay lại tìm. Tìm mãi ,tìm mãi đến hơn ba mươi phút sau, một bàn tay anh bỗng giật bắn lên, tưởng là sờ phải rắn .Anh trấn tĩnh một lát rồi mới dám sờ lại, mới biết là cánh tay. Anh mừng quá lại ôm lấy cánh tay đó mang về ghép vào thân. Bảo anh em tải thương sờ lại một lần nữa cho chắc chắn. Lại phát hiện ra thiếu mất một bàn chân. Anh lại vừa khóc vừa quay lại và thầm gọi :
- Bản ơi ,sao mày chết khổ chết sở thế này? - Một chiến sỹ tải thương cùng quay lại với anh tìm. Hai người phải tìm mất hàng tiếng đồng hồ. Anh lại phải lẩm rẩm cầu khấn:- Bản ơi,bàn chân mày nằm ở đâu thì bảo chúng tao ,để mang về cho mày chết được toàn thân! Chẳng biết lời cầu khấn của anh có được linh thiêng không ,hay hai người cứ kiên trì tìm, cứ mò mẫm ,dờ dẫm quanh đó mãi đến nỗi cả hai người đều dờ phải tay nhau, cùng rú lên. Chính đó lại là bàn chân của Bản. Hai người vội vàng mang về ghép vào thân cho liệt sỹ. Nam Sao lấy một tấm chăn niệm cho Bản rồi bó lại chặt chẽ, rồi mới trao cho đội cáng thương vận chuyển đi.
Lại một lần khác ,trong một trận hành quân chiến đấu ở dốc Phạ Đin, một trong những dốc cao nhất ở vùng Tây Bắc, đại đội anh bị máy bay giặc Pháp đến oanh tạc ,đơn vị bị hy sinh mất 8 người, còn một đồng chí bị mất tích. Đơn vị đã cử một bộ phận ở lại chôn cất tử sỹ, còn toàn đơn vị phải hành quân gấp để kịp nhiệm vụ chiến đấu. Ba hôm sau hoàn thành nhiệm vụ đơn vị quay lại đoạn đèo này .Được nhân dân phát hiện còn xác một tử sỹ chết trên dốc núi cao. Đơn vị cho người lên kiểm tra thì nhận ra đó là đồng chí Xá chiến sĩ trinh sát của trung đội 9 , đi trước làm nhiệm vụ cảnh giới chứ không phải là người mất tích .Đồng chí Chính trị viên phó đại đội biết là xác tử sỹ đã bị có mùi thối rữa nên nhiều người rất sợ mang vác. Liền kêu gọi các đoàn viên thanh niên, đang trong diện cảm tình Đảng: - Nào các đồng chí thanh niên ,ai xung phong lên mang xác đồng chi Xá xuống khu tập trung chôn cất liệt sỹ dưới chân đồi ?- Chính trị viên phó nói đến lần thứ hai ,vẫn chưa có thanh niên nào lên tiếng. Anh kêu gọi tiếp:- Vì tình thương yêu đồng đội, ai xung phong hoàn thành nhiệm vụ này, sẽ được chi bộ xét kết nạp Đảng viên tại trận ngay! -Dừng một lát, chỉ thấy có một thanh niên trong diện cảm tình nhưng người thấp bé nhẹ cân tên là Thái đứng lên: -Tôi xung phong! Nói xong Thái chạy ngay lên dốc núi, trước sự ngạc nhiên và cảm phục của mọi người ,chính trị viên phó thì khẽ vỗ tay hoan nghênh. Ngay lúc đó một phản ứng của Nam Sao thốt lên :- Thái ! mày bé thế kia thì làm sao vác nổi thằng Xá ?-Nó to gấp đôi mày đấy! Nói xong Nam Sao liền chạy theo cậu Thái, anh chẳng có ý thức gì về việc kết nạp Đảng cả, dẫu rằng anh cũng đang là cán bộ ngoài đảng. Anh chỉ lo cho thằng Thái ,là chiến sỹ của trung đội anh nó làm sao mà vác nổi thằng Xá. Để nó kéo xác liệt sỹ thì càng tội nghiệp.Nam Sao đuổi kịp rồi hỏi Thái :- Cậu định vác thế nào? - Nếu không vác được thì em kéo chứ lo gì. Chả lẽ lại không có ai xung phong vác thằng Xá xuống hay sao? - Thôi được rồi ,tớ sẽ hỗ trợ cậu. Hai người lên tới chỗ xác liệt sỹ nằm. Xá bị thương gãy một cẳng chân lại bị một mảnh bom bắn vào đầu, máu ra nhiều bị chết tại chỗ, xác đã bị thối rữa , thú rừng đến cào xé và quạ đen đến rỉa từ ba hôm nay ,chỉ còn da với xương nằm dưới gốc cây, đầy ruồi nhặng đến bâu. Mùi uế khí bốc lên khắp khu rừng. Thái trông thấy liền òa lên khóc, còn Nam Sao thì nước mắt rơi lã chã. Thái chưa biết sử lý thế nào. Vì xác liệt sỹ đã rữa không thể khiêng lên được thì Nam Sao nhanh chóng cởi chiếc võng bằng vải dù ngụy trang của mình đang quàng ở trên cổ xuống căng ra đưa cho Thái một đầu, phủ kín lên xác chết , lại đốt một đống lửa để đuổi ruồi nhặng và bớt mùi hôi thối. Sau đó hai người lần tay đưa vải dù luồn xuống dưới gầm xác chết, dần dần lật xác vào trong lòng võng rồi túm hai đầu khênh lên, lấy dây rừng bó chặt lại như niệm.Tìm một cành cây làm đòn khiêng. Nam Sao cao lớn đi trước ở dưới dốc.Thái nhỏ bé đi sau ở trên dốc. Nước trong võng đã chảy ra thấm vào lưng áo Nam Sao,nhưng anh không hề nói để cho cậu Thái đỡ sợ.Đi xuống được gần hết dốc thì thấy Chính trị viên phó và mấy chiến sỹ cảm tình Đảng nữa chạy lên. Chính trị viên phó hô mấy chiến sỹ khiêng thay Nam Sao và Thái, đưa xuống bãi chôn đã được đào hố sẵn. Họ đặt cả võng và đòn khiêng xuống huyệt rồi lấp đất và làm thủ tục an táng liệt sỹ một cách vội vàng rồi tiếp tuc hành quân đuổi theo đơn vị. Trong đời lính của Nam Sao đã hàng trăm lần tiễn đưa các cán bộ chiến sỹ của mình đã ngã xuống ngoài mặt trận.Hàng chục lần tìm xác của đồng đội bị hy sinh ,như trường hợp của liệt sỹ Bản và liệt sỹ Xá, có người không còn gì chỉ còn mảnh áo rách.
Nhất là trong thời kỳ chống Mỹ, độ tàn khốc ác liệt còn gấp hàng ngàn lần hồi chiến tranh chống Pháp. Như câu chuyện Bi kịch lạc quan và khốc liệt mà anh phải chứng kiến và giải quyết hậu quả dưới đây:
ai ngườHaih
Bi kịch lạc quan
Kể từ tháng 8 năm 1965 bọn giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và tàu chiến. Mặt trận Công trình quốc phòng được lệnh phải đẩy mạnh tộc độ thi công để đưa công trình vào sẵn sàng chiến đấu. Phải khẩn trương thiết kế, phát triển và thi công gấp các công trình pháo phòng thủ bờ biển. Các trung đoàn ,sư đoàn thi công công trình được phép tuyển lực lượng dân quân tự vệ và Thanh niên xung phong ở các địa phương vào các đợn vị ,tổ chức huấn luyện một thời gian ngắn, rồi bổ sung cho các công trường thi công các công sự và đường hầm ,thay thế dần lực lượng bộ đội rút đi chi viện chiến trường miền Nam. Sau vài tháng lao động và tác nghiệp, lực lượng dân quân tự vệ và thanh niên xung phong đã thành thạo và có năng xuất tốt không kém gì các chiến sỹ bộ đội chủ lực. Lực lượng chiến tranh nhân dân tham gia xây dựng công trình quốc phòng tăng lên gấp đôi lực lượng bộ đội trước đây,mà tiến độ thi công ở các công trường ngày càng được phát triển không ngừng.
Hôm đó, vào khoảng đầu tháng sáu năm 1966 giữa mùa hè .Thượng úy Nam Sao, Chủ nhiệm công binh tỉnh Thanh Hóa, đến khu vực Sơn Ca để kiểm tra các công trình bờ biển. Nam Sao cùng thượng sỹ Nguyễn Bột là nhân viên đo đạc của công trường vác máy đi với anh ,xuống đại đội 2, tiểu đoàn 1, gồm đa số chiến sỹ là thanh niên xung phong nữ, chỉ có cán bộ đại đội ,kỹ thuật viên và thợ máy là bộ đội, chị em đang thi công đào đường hầm pháo 101 dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng trung đội hai làTrần Thị Tâm làm ca một hôm nay . Bột cho Nam Sao biết, Tâm là cô gái 22 tuổi ,người tầm thước ,chắc khỏe,mặt mũi xinh xắn, nghe nói đã có người yêu là bộ độ đi B. Theo đại đội trưởng Xuân Hùng báo cáo với Nam Sao khi ở nhà chỉ huy đại đội là: trung đội 2 của cô Tâm, mấy tuần nay đang vượt lên dẫn đầu về năng xuất đào hầm trong toàn đại đội.Nên anh muốn vào thăm xem chị em làm ăn ra sao. Đồng thời kiểm tra lại tim công trình có được thẳng hướng không. Sau khi đo đạc một số điểm chuẩn trên đỉnh núi,Nam Sao định xuống núi, để vòng ra bờ biển ,vào cửa chính của hầm .Nhưng thượng sỹ Bột gọi:
- Anh ơi, đi lối cửa thông hơi cho nhanh !
- Cửa đã rào rồi chứ ? .
- Vâng ! rào rồi, nhưng em chỉ bới một tý là xong thôi mà. Đi vòng xuống chân đồi xa lắm !
- Ừ,thi đi !
Thế là Nam Sao và Bột loay hoay dỡ cửa rào mất độ mươi phút, rồi cả hai cùng chui xuống đường hầm.Vì là ngách hầm thông hơi từ giữa đỉnh núi xuống,nên độ dốc thiết kế gần sáu mươi độ,lại chưa xây bậc, nên rất khó đi ,ánh sáng trong hầm lại tối .Các anh phải bám chặt hai tay vào vách hầm mà do dẫm đi từng bước tụt xuống dần dần .Mãi đến khi xuống tới gần đường hầm chính thì mới nhìn thấy ánh đèn điện sáng. Đồng thời nghe thấy tiếng chòong búa đập vào nhau rộn rã vang cả hầm như tiếng nhạc reo vui trong đêm lễ hội. Xuống một đoạn nữa, họ bỗng giật thót mình vì quá bất ngờ. Bột khẽ kêu :- Ối anh ơi họ sao thế kia!- Nam Sao phải vội bấm vào tay Bột quát khẽ:- Xuỵt ! , ngồi xuống im lặng! Hai người khẽ ngồi xuống, Bột nắm chặt lấy tay Nam Sao. Cả hai đều trố mắt ra nhìn. Trước mắt họ, là một tổ ba cô gái ,đầu đều quấn khăn bịt tóc,nhưng cởi trần trùng trục,chỉ mặc đồ lót ,hai cô đang ra sức quai búa rất nhịp nhàng nhưng chắc nịch, mồ hôi các cô toát ra lấp lánh dưới ánh điện, một cô cầm chòong vừa xoay vừa hô như giữ nhịp theo một điệu hò ,hình như là điệu hò sông Mã thì phải. Một cảnh tượng mà họ chưa nhìn thấy bao giờ Nam Sao bỗng reo lên khe khẽ vào tai Nguyễn Bột: Đúng là một điệu múa “ thiên thần quai búa trong hầm” đẹp quá ! Bột bấu chặt vào tay Nam Sao, người họ như cùng run lên trước ba thiên thần đang lao động. Nam Sao vội cầm ống nhòm dơ lên: -Trời ơi, toàn bộ dọc đường hầm. toàn các cô gái cởi trần, quần lót và quai búa ,như một bầy tiên vũ khúc, nhịp điệu thiên cung. Bột cũng đưa máy lên nhòm, cậu ta khẽ xuýt xoa: -Tiếc quá không có máy ảnh ! Cảnh tượng vừa lạ vừa đẹp, nhưng cũng cảm thấy xót xa .Nam Sao bỗng mỉn cười nhận ra một điều: Thì ra các cô gái đã tác nghiệp theo kiểu này để vượt năng xuất lao động lên cao đây,một sáng kiến hay một sự vui đùa liều lĩnh.Anh cảm thấy vui vui nhưng cũng mủi lòng .Một lát sau Nguyễn Bột bấm tay Nam Sao nói nhỏ:-Ta xuống kiểm tra tim hầm chứ anh?.Nam Sao vội lắc đầu, không được,nếu chúng ta xuống bây giờ ,điều gì sẽ sảy ra,có khi lại có nguy cơ sảy ra tai nạn không biết chừng.Anh ra lệnh khẽ :Rút !- Bột bảo :-Từ từ đã anh. Nam Sao nói- Không được Bây giờ mà họ đến giờ nghỉ giữa ca là lộ hết, càng nguy hiểm ! Rồi anh kéo tay Bột tỏ vẻ quay lại đi nhanh, càng nhanh càng tốt. Hai người phải khe khẽ lần mò trèo lên dốc cố gắng để không phát ra tiếng động mãi mươi phút sau họ mới lên được đỉnh đồi, nhanh chóng rào lại cửa ngụy trang xong mới ngồi thở và bò ra cười như hai thằng ăn trộm bị bắt quả tang đang chạy trốn và bị đuổi.Trên đường về doanh trại đại đội, Nam Sao bảo Bột:
-Cấm không được để lộ chuyện này ra làm chị em xấu hổ đấy, để mình khẽ nói với đại đội ,nhắc nhở về bảo hộ lao động thôi -Bột nhất trí.
Về tới đại đội ,Nam Sao hỏi nhỏ với đại đội trưởng và chính trị viên:
-Các anh có biết vì sao trung đội 2 năng xuất lao động lên cao đột biến thế không?
-Chị em quyết tâm đẩy mạnh tinh thần thi đua -Chính trị viên Toàn nói- để lập thành tích chào mừng đại hội Đảng trung đoàn sắp tới.
-Các đồng chí đó có sáng kiến :quai búa đều tay,luân phiên thay đổi cầm chòong, không nghỉ vặt…- Đại đội trưởng nói.
-Động viên công tác chính trị hò vè vui vẻ- Chính trị viên tiếp.
-Còn gì nữa không -Nam Sao hỏi.- Cả hai anh đều im lặng .Nam Sao nói:
-Chị em còn có sáng kiến cởi trần tác nghiệp, không mặc quần áo lao động, các anh có biết không? - Cả hai đều ngạc nhiên :
-Ồ thế à ! …
Nam Sao liền thuật lại cho các anh nghe chuyến đi đo đạc kiểm tra đường hầm của các anh chiều nay và nói tiếp: - Yên trí,chúng tôi rút lui rất bí mật không ai biết đâu,đề nghị các anh đừng để chị em biết là có người nhìn thấy, chị em sẽ xấu hổ mà ảnh hưởng tới khí thế thi đua. Các anh cùng đồng ý.
Nhưng chính trị viên Toàn nóng nảy ,ngay buổi tối hôm đó liền cho gọi trung đội trưởng Tâm lên nhà ban chỉ huy đai đội và hỏi:
-Tại sao đồng chí không cho chị em mặc quần áo bảo hộ lao động trong khi tác nghiệp? -Tâm ớ người ra một lát,rồi bỗng nhiên đỏ bừng mặt lên,nhưng cô đã thông minh và nhanh chóng nhận ra: chắc có người đã nhìn thấy ,hoặc chị em nào đã nói lộ ra. Cô bình tĩnh trả lời nhỏ nhẹ và khéo léo:
-Báo cáo chính trị viên, chiều nay trong hầm nóng quá,nên chị em mới đề nghị cho cởi trần tác nghiệp cho mát,mà năng xuất vẫn bảo đảm ,có khi còn cao hơn đấy ạ.
-Chết chết ! Thế nhỡ các thủ trưởng cấp trên xuống kiểm tra thấy thì còn tác phong lễ tiết gì nữa?
-Làm sao thấy được ạ! Chúng em đã cho người gác ngoài cửa hầm rồi cơ mà,nếu có người đến thì thổi còi báo động ,để mọi người nhanh chóng mặc quần áo vào ngay rồi lại tác nghiệp,thì làm sao mất lễ tiết được ạ.
-Thế quần áo bảo hộ lao động trên phát cho để làm gì? Nhỡ đất đá bắn vào người, chị em sứt chân mẻ tay thì làm sao? Vừa bị thương lại vừa mất công lao động, đồng chí không lo cho chị em sao ?..
Tâm yên lặng một lát rồi ngần ngừ nói :
- Càng tiết kiệm quần áo chứ sao! -Cô bỗng nói nhỏ - báo cáo anh ,quần áo của chị em ở nhà mang đi đã rách hết cả rồi, chỉ còn mỗi bộ quần áo lao động trên phát cũng đã gần sáu tháng nay ,nhiều người cũng đã bị sờn rồi ,nên chúng em phải để dành ,lúc sinh hoạt còn mặc cho tươm tất một chút chứ, nếu cứ mặc quai búa mãi cũng chẳng được bao lâu.
-À ra thế ! -Nét mặt của chính trị viên dịu lại- Anh nói tiếp-Tăng năng xuất lao động là tốt,nhưng cô vẫn phải bảo vệ lao động cho chị em. Mãi cuối năm mới được phát quần áo lao động tiếp cơ.
- Vâng ạ !
Tâm chào chính trị viên ra về ,cứ suy nghĩ mãi xem đứa nào để lộ bí mật của trung đội mình, phải họp truy cho ra.Thế là bí quyết tăng năng xuất lao động bị lộ mất rồi, không khéo các trung đội khác nó cũng bắt chước mất thôi ,còn gì là tiên tiến nữa.
Điều lo ngại của trung đội trưởng Tâm quả không sai.Ở trung đội ba mấy chiến sỹ đang bàn tán nhau. Cái Lan nói:
-Chúng mày ạ, bọn chúng nó ở trung đội hai, hết ca về đi tắm ,chẳng thấy đứa nào lấm bẩn bụi đá cả, quần áo vẫn sạch sẽ như không, mà mình thì bụi trắng cả quần áo ,trắng cả đầu tóc, cứ như Bạch mao nữ ,thế mới lạ chứ.
-Ừ nhỉ!- Cái Mai tiếp-phải theo rõi xem chúng nó làm thế nào mà học tập chứ.-Phải đấy -Nhiều cô cùng vào hùa theo.
Đến hôm sau ,chính cái Mai bỗng kéo mấy cái đầu túm tụm vào nhau nói nhỏ: -thì ra bọn nó bên b2 “cởi truồng”chúng mày ạ, conTý nó nói nhỏ với tao thế, vừa mát vừa làm thoải mái, lại đỡ hại quần áo.
-Hẳn nào, mấy tuần nay ,năng xuất chúng nó vượt trội hẳn lên ,đẫn đầu toàn đại đội.
-Chúng mình cũng bắt chước chứ chịu thua chúng nó à. -Mấy cô đều nhao nhao lên. Phải bảo trung đội trưởng Hạnh biết chứ, không chịu thua chúng nó .
Thế là ngày hôm sau ,trung đội ba cũng làm như trung đội hai, nghĩa là cởi trần tác nghiệp ,vừa mát vừa khỏe. Rồi trung đội một cũng làm theo. Các trung đội thi đua nhau ,năng xuất cứ lên cao vùn vụt.
Có thuận lợi là cửa đường hầm hướng ra biển ,nên có gió biển thổi vào rất mát. Đến khi đường hầm vào sâu mới phải chạy máy quạt gió. Chị em rất phấn khởi tác nghiệp. Mỗi tổ ba người,một cầm chòong, hai quai búa, liên tục hối hả suốt cả ngày ,cả đêm.Ban đầu mới mở đầu hầm, còn ở ngoài trời ,diện tích rộng,có thể triển khai nhiều người,10 đến 15 tổ rất đông vui ,nhộn nhịp.Nhưng việc phòng tránh máy bay lại mất mhiều thời gian,vì bọn giặc lái Mỹ thường xuyên đến quấy rối. Chúng ở ngoài biển lao thẳng vào bắn phá và thả bom các loại .Chúng đã phát hiện ra lực lượng của ta đang tích cực đào hầm hào phòng tránh và xây dựng các công trinh phòng thủ bờ biến. Lực lượng phòng không và các phân đội bộ binh bắn máy bay bay thấp,vẫn luôn luôn thường trực không rời trận địa, để đối phó với mọi âm mưu thủ đoạn của địch .Ngày nào chúng cũng đến quấy rối vài ba trận ,có hôm nhiều hơn,Bên ta hầu như ngày nào cũng có thương vong một hai người, không ở trận địa này thì ở trận địa khác.Mặc dầu bọn giặc đã bị ta bắn rơi 2 chiếc máy bay và bắn bị thương 3 chiếc bỏ chạy ra biển, nhưng chúng vẫn như những con thiêu thân lao vào bắn phá trận địa công trình của ta.
Đến giai đoạn công trình đường hầm đã chui sâu vào lòng đất, thì việc phòng tránh của ta đỡ vất vả hơn. Các tổ đội cứ yên trí ở trong hầm tác nghiệp,mặc cho bọn máy bay gầm rít bắn phá bên ngoài hầm,vẫn bảo đảm an toàn. Hầm càng chui sâu thì việc thông hơi quạt gió càng khó khăn ,máy phải chạy liên tục mới đủ gió mát cho các chiến sỹ tác nghiệp và phun nước để thổi bụi đá hoặc lắng xuống,theo nước chảy ra ngoài, mặc đầu các chiến sỹ đã đeo khẩu trang trong khi tác nghiệp, nhưng vẫn bị bụi khó thở. Ánh sáng, thời gian đào hầm chủ yếu là dùng đèn đất, mỗi tổ một ,hai chiếc. Chỉ đến giai đoạn xây lát đường hầm bằng bê tông mới dùng máy phát điện và căng giây khắp dọc đường hầm.
Để tiết kiệm xăng dầu chị em có sáng kiến, chỉ khi thông gió ,thổi bụi hoặc sau khi nổ mìn, mới chạy máy, mỗi ca một hai lần. Còn trong lúc tác nghiệp thì cởi quần áo ngoài để làm, vừa mát vừa tiện động tác, lại đỡ rách quần áo. Muốn vậy mỗi ca phải cử một người gác từ ngoài cửa hầm, không phải để gác máy bay ,mà gác những người khác giới vào trong hầm. Nếu có các thủ trưởng hoặc cán bộ kỹ thuật vào thăm,tham quan, hoặc kiểm tra công trình thì phải báo động ,để chị em dừng tay mặc quần áo vào đã rồi mới cho vào, để giữ vững tác phong và lễ tiết quân sự.
Một hôm, tấm chắn ngụy trang cửa hầm bằng phên tre luồng và gỗ ván ,bị máy bay giặc Mỹ bắn đạn 12,7 ly và 14,5 ly vào làm hỏng và đổ sụp xuống,để trơ cửa hầm lộ ra trống huếch trống hoác, làm mục tiêu cho bọn giặc lái phát hiện được cửa đường hầm .Đơn vị chưa kịp sửa chữa lại ngụy trang. Thì bị bọn giặc Mỹ cho máy bay trinh sát chup ảnh xác định cửa hầm,rồi cho máy bay khu trục đến oanh tạc, lần này chúng không chỉ bằn đạn 12,7 ly và 14,5 ly như mọi lần nữa,mà bắn thẳng bằng rốc-két 75 ly, rốc két 90 ly. Chúng dùng nhiều tốp máy bay,bắn nhiều loạt trúng cửa hầm, hàng mấy chục quả. Chúng còn bắn cả đầu đạn hơi ngạt vào trong hầm Đầu đạn rốc - két nổ trong hầm liên tục làm trấn động cả hầm và tỏa sức nóng trên hai trăm độ, đốt hết không khí trong hầm ,làm toàn bộ cả kíp làm chiều hôm đó của trung đội ba do cô Hạnh làm trung đội trưởng bị hy sinh tất cả .Khi máy bay đi rồi ,mọi người mới xô vào đường hầm cấp cứu,Nhưng bụi mù mịt không nhìn thấy gì cả và sặc mùi hơi ngạt, ai cũng bị ho không thể thở được lại phải chạy ra.Đơn vị phải cho chạy máy nổ để đuổi khói và thông hơi một lúc lâu mới vào được Không cò một tiếng động hay tiếng rên la kêu khóc, mà chỉ thấy im lặng đến rùng rợn, cứ như một nhà mồ thờì trung cổ. Cả 27 ngườì chết một cách tàn khốc và thảm thương,không còn ai sống sót.Không người nào còn một mảnh che thân, bởi sức công phá của rốc két nhiều đợt đã xé nát cả những đồ lót của chị em. Không có máu ,không sứt chân mẻ tay ,nhưng toàn thân đều bị mềm nhũn, ngã xuống nền đường hầm,mỗi người một tư thế khác nhau trông rất đau đớn.Người nằm sấp ,người nằm ngửa ,người nằm nghiêng, có người lại cắm đầu xuống hố thoát nước trong hầm đầu tóc rũ rượi. Có chỗ cả tổ ba người nằm lên nhau tay vẫn ôm choòng búa Nỗi đau buồn và thảm khốc là: da dẻ người nào cũng bị đen sạm và héo khô, như không còn một giọt máu nào. Toàn là các cô gái trẻ,mới 20-22 tuổi .Nam Sao đề nghị trung đoàn cấp phát quân trang mới để niệm đầy đủ cho từng liệt sỹ một .Ngay trong đêm đó trung đoàn phải tổ chức chôn cất và làm lễ an táng các liệt sỹ trong nghĩa trang liệt sỹ ở địa phương. Phải điều một tiểu đoàn ra đào huyệt và lấp mồ. Nam Sao ở lại hiện trường để theo dõi và đôn đốc việc chôn cất và làm lễ an táng các liệt sỹ chu đáo xong mới về. Không khí đau thương và tang tóc bao trùm lên công trường và xóm làng xung quanh kéo dài hàng tháng trời.
Sau đó rút kinh nghiệm, Nam Sao đề nghị với công trường phải thiết kế xây những tấm tường chắn bằng bê tông vững chắc che chắn cửa hầm ngay từ ban đầu .Từ đó mới hạn chế được thương vong.
Khốc liệt
Phan Trúc nhớ lại, trong một trận bảo đảm cầu phà hồi cuối năm 1967 tại bến Lèn, lúc đó Phan Trúc còn là trợ lý tham mưu đi cùng tiểu đoàn trưởng Nam Sao trên một chiếc xe cóc, xe con lội nước đang đi trinh sát bến chuẩn bị cho đại đội 2 bắc cầu. Bến bãi ở đây đã quá quen thuộc với những người lính tiểu đoàn cầu phà. Từ năm 1965, rồi 1966 đơn vị đã nhiều lần trụ tại bến này để bắc cầu và chở phà đảm bảo cho xe pháo qua sông. Có đợt liên tục hàng mấy tháng liền, vừa bắc cầu bảo đảm giao thông vừa huấn luyện cho một tiểu đoàn thanh niên xung phong về bắc cầu cho đến khi đơn vị thanh niên xung phong thành thạo bắc được cầu rồi, giao lại bến cho bến giao thông đảm nhiệm, đơn vị mới được lệnh rút đi bến khác … Sau đó về làm lực lượng dự bị, cơ động nhanh; ở đâu tắc bến là tiểu đoàn nhanh chóng đến ngay, bảo đảm gấp cho một đoàn pháo binh, tên lửa vượt sông xong lại rút về, hoặc đến mở bến, mở đường, phá gỡ bom đạn, khắc phục hậu quả xong lại bàn giao lại cho bến giao thông hoặc đoàn thanh niên xung phong.
Lần này Nam Sao và Phan Trúc đến bến đã quá ngỡ ngàng, bến bãi không còn mảnh đất nào nguyên vẹn, không còn đoạn đường nào được ngay thẳng, tất cả đều bị cày sới nhiều lần, lộn xộn, Nam Sao lệnh cho Phan Trúc về điều máy húc C100 đến để húc lại mặt đường và đắp lại bến. Đồng thời hiệp đồng với bến phà giao thông huy động lực lượng thanh niên xung phong và công nhân bến phà đem cuốc xẻng ra san lấp hố bom, đắp nền đường.
“... Dô hây nào, dô hầy nào ...!
Ai về Thanh Hóa, Thanh Hoá anh hùng...”
Trong lúc lao động, tiếng hò tiếng hát lại vang lên khắp bến bãi đường xá. Đúng là “tiếng hát át tiếng bom” chẳng ngoa một chút nào.
Chiếc xe con của Nam Sao liền bị chị em thanh niên xung phong quây lại, ai cũng tranh nhau cầm micrô trên xe hát, tiếng loa phát ra ầm vang làm không khí trên công trường làm đường làm bến sôi động nhộn nhịp.Vốn là người yêu văn nghệ, Nam Sao đã cho lắp một bộ amply, loa, đài ngay trên xe con chỉ huy của mình để vừa làm loa chỉ huy, vừa làm văn hóa văn nghệ ở các bến sông ,trên dọc đường,cho các đơn vị bộ đội ,thanh niên xung phong,công nhân bến phà,trong làng xóm nơi đóng quân…được mọi mgười yêu thich. Nhất là cánh lính trẻ,thanh niên xung phong,ai cũng muốn hát.
- Cho em hát với, em hát với.
- Nào xin mời các ca sĩ cây nhà lá vườn.
Cô gái tên là Huề, có nước da trắng trẻo, lông mày lá dăm đang vừa hát song ca với Phan Trúc bài “Vàm Cỏ Đông” thì trên đồi cao có kẻng báo động.
Mọi người đều dừng lại tản ra chạy về hố ẩn nấp cá nhân ở quanh đó. Chiếc xe con phóng nhanh về phía đồi thông, chưa chạy được bao xa thì một loạt bom do máy bay Mỹ rải xuống. Tiếng súng các trận địa cao xạ xen lẫn tiếng bom nổ ầm ầm. Có một quả bom rơi trúng ngay giữa đường ở sát ga Lèn, nơi các cô đang sửa đường và chiếc xe con dừng lại cho các cô thanh niên xung phong hát.
Khi máy bay đã đi xa, Nam sao cho xe chạy lại nơi khói bom còn dày đặc, Nam Sao và Phan Trúc đều nhảy xuống vừa chạy tìm kiếm xung quanh, vừa gọi:
- Ơi các cô ơi !...
- Ơi cô Huề ơi !... .ơi... !
Không có tiếng trả lời, trước mặt các anh là một hố bom sâu thẳm đen ngòm ở ngay giữa lòng đường.
Nam Sao và Phan Trúc bỗng dưng nước mắt trào ra. Các anh cố lần mò xung quanh một lúc lâu, cũng chỉ được một vài vốc thịt nát đầy máu,vài mảnh quần áo rách màu cỏ úa.Nam Sao lấy một mảnh ni lông gói lại rồi chôn ở cạnh vệ đường.Đắp lên một nấm mồ nhỏ tượng trưng.
Thế là cô Huề và toàn tiểu đội của mình,mười hai cô gái đã bị bom Mỹ giết hại tan mất xác. Nỗi đau đớn cảm thương còn theo các anh trong suốt ngày hôm đó và mãi mãi sau này, mỗi lần đi qua đây họ lại dừng lại một phút để thắp hương và tưởng nhớ tiểu đội thanh niên xung phong của cô Huề.
Ngày càng khốc liệt
Cách đấy không lâu, trong một trận chiến đấu khác, cũng ở bến Lèn này Nam Sao dẫn một đại đội - đại đội 3 – cấp tốc đến bảo đảm cho một tiểu đoàn tên lửa vượt sông gấp sang bờ nam để bảo vệ cầu Hàm Rồng.
Bến phà đã bị tắc từ hai hôm nay, khi đoàn xe thuyền của đại đội 3 mới đến khoảng rừng thông, còn cách xa bến 3km nữa thì đường đã tắc nghẽn vì xe đậu để chờ qua sông, ở các đường tránh, trong rừng, trong làng xóm, các xe còn ùn ùn kéo ra thêm, đã tắc càng thêm tắc.
- Báo cáo tắc đường thế này thì làm sao tới bến được ạ ! Đại đội trưởng đại đội 3 lúc đó là Nguyễn Xuân Hồng báo cáo với Nam Sao. Nếu xe công binh không đến được bến có nghĩa là không đưa được tên lửa qua sông, có nghĩa là đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ, tức là thất bại.
Tiểu đoàn trưởng Nam Sao triệu tập cán bộ lại để bàn mưu tính kế. Ai cũng lắc đầu, cho là hết cách rồi, chỉ có cách chờ đợi hoặc quay về, báo cáo với Quân khu.Nhưng Nam Sao quyết không lùi bước:
-“Quân lệnh như sơn” – chúng ta phải tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ.
Anh tổ chức ngay 1 đội quân cảnh, hàng chục người ăn mặc tề chỉnh, quân hàm, quân hiệu, phù hiệu công binh đeo băng đỏ, tay cầm cờ đỏ hiệu, đội mũ sắt, đeo súng dương lê nghiêm chỉnh. Tiểu đoàn trưởng Nam Sao: thượng úy công binh, cầm cờ lệnh đứng trên đầu xe lội nước, xe chỉ huy, cầm loa tay và còi dẫn đầu đoàn xe.
- Yêu cầu các xe dẹp sang một bên nhường đường cho xe công binh lên bắc cầu. A lô - a lô !
Các chiến sĩ cảnh vệ xuống đất, đi dẹp từng xe cho xe chỉ huy đi qua, đồng thời đoàn xe phía sau bám sát không được rời nửa mét. Chiếc xe “bab” lội nước đi sau xe chỉ huy, thét còi ủ cùng các xe nhất loạt phát còi thúc giục.
Cũng có anh bướng không chịu nhường, nhưng quay lại thấy một đoàn xe thuyền toàn bằng sắt thì cũng khiếp nên phải tránh vậy. Nam Sao điện cho tiểu đoàn tên lửa phải bám sát đội hình đoàn xe thuyền của công binh.
Bằng cách ấy vừa kêu gọi, vừa vận động, vừa hăm doạ kể cả cãi cọ nhau. Sau một giờ đoàn xe thuyền đã tới bến phà, và chỉ sau hai giờ lắp ghép phà và chèo chở bảo đảm cho tên lửa vượt sông. Đang vượt sông thì máy bay Mỹ đến bắn phá ác liệt, nhưng các chiến sĩ công binh và tên lửa không ai lùi bước.các cán bộ và công nhân điều vận bến phà vẫn dũng cảm đứng nguyên vị trí. Pháo cao xạ xung quanh và tất cả súng bộ binh cũng đều bắn lên buộc máy bay địch phải lên cao, không đánh trúng mục tiêu lợi dụng pháo sáng, quân ta tắt đèn đóm vẫn lầm lũi vượt sông nhanh chóng,bảo đảm cho tiểu đoàn tên lửa qua sông an toàn.Lại kết hợp cho hàng trăm xe tải khác qua sông… Vừa lúc đó có điện ,lệnh của quân khu: “Cho đơn vị về ngay , chuẩn bị khí tài để bảo đảm cho xe tăng qua bến gấp.” Thế là đại đội ba phải dỡ phà,bàn giao lại bến cho phà giao thông chở tiếp.
Sau hơn 40 phút bốc dỡ khí tài lên xe, đội hình xe thuyền lại quay về khu rừng thông được đầy đủ. Đại đội trưởng Nguyễn Xuân Hồng đề nghị cho anh em nghỉ,sáng sớm mai về sớm. Nhưng Nam Sao đã động viên cán bộ chiến sĩ đại đội ba phải nhanh chóng hành quân trở về căn cứ trước khi trời sáng. Lúc này đã là 4 giờ sáng cố gắng về tới địa điểm trú quân trước 6 giờ 30. Nam Sao linh tính thấy sự nguy hiểm khi trời sáng ở khu vực này:
- Mục tiêu tên lửa hành quân đã bị lộ.
- Xe cộ đang bị ùn tắc lại, không kịp thời sơ tán.
Quả nhiên, đúng như phán đoán của Nam Sao, sáng hôm sau máy bay giặc Mỹ làm một cuộc tập kích huỷ diệt khu vực bến Lèn. Hàng trăm xe bị cháy tan tành, trong đó có cả mấy xe chở khách không kịp sơ tán. Nỗi khốc liệt tang thương bao trùm lấy khu vực bến Lèn và làng xóm nhân dân trong vòng 3 km. Cũng may đơn vị tên lửa vượt sông đã kịp triển khai trận địa trước khi trời sáng và đã bắn rơi 2 chiếc máy bay F105 khi chúng đánh phá huỷ diệt bến Lèn.
Những ngày khốc liệt còn theo mãi trên những tuyến đường, những dòng sông và những bến phà của các chiến sỹ giao thông,thanh niên xung phong và công binh .
Lính châu thổ sông Hồng
Nghe tin Nam Sao, tiểu đoàn trưởng cũ đã về hưu, đang tổ chức huấn luyện đánh cá ở Thanh Hóa .Một số cán bộ chiến sỹ cũ của anh ,quê ở vùng đồng bằng sông Hồng,cũng rủ nhau vào Thanh Hóa tìm đến thăm thủ trưởng cũ và xem cung cách làm ăn của anh em trong ấy như thế nào ? Họ đã tìm được Nam Sao và đến thăm các tổ đánh cá,thấy các đồng đội đều làm ăn được dưới sự hướng dẫn giúp đỡ của anh .Họ đề nghị mời anh về các tỉnh đồng bằng giúp đỡ họ để kiếm sống như anh em ở trong này.Họ bảo:
-Thủ trưởng ơi, thủ trưởng bỏ rơi chúng em à ?-Nam Sao cười nói:
- Anh không bỏ rơi các chú đâu ! Nếu chú nào muốn học nghề thì về chuẩn bị sẵn sàng đi,mỗi nơi tổ chức một tổ vài người,rồi tôi và các chú trong này ra hướng dẫn theo kiểu dây truyền ,như kinh nghiệm ở đây đã làm.
- Cảm ơn thủ trưởng,chúng em đã sẵn sàng cả rồi !
Nam Sao liền hiệp đồng cụ thể với các cựu chiến binh ở các tỉnh phía ngoài châu thổ sông Hồng: Trước hết là khu vực Hà Nam Ninh:Sông Đáy ,sông Nhuệ, sông Châu, thuộc Hà Nam.Sông Vân ,sông Hoàng Long thuộc Ninh Bình.Sông Đào,sông Ninh Cơ thuộc Nam Định. Mỗi sông tổ chức một tổ cựu chiến binh đánh cá ( coi như một tiểu đội).Mỗi tỉnh hợp thành một đội(coi như một trung đội). Tổ trưởng ,đội trưởng do anh em tự bầu lấy .Ở khu vực Hải Hưng,Thái Bình: Sông Hồng, sông Luộc thuộc Hưng Yên.Tứ giác sông Hồng,sông Đáy, sông Đào, sông Ninh Cơ thuộc Nam Định. Sông Trà Lý, sông Tiên Hưng thuộc Thái Bình. Mỗi tỉnh tổ chức một đội, mỗi đội có hai đến ba, bốn tổ tùy theo số người tham gia .Đội trưởng và tổ trưởng cũng do anh em tự bầu lấy. Mỗi khu vực bầu một Trưởng ban liên lạc (coi như đại đội để tiện liên lạc). Trước mắt tạm thời chỉ định đồng chí Phạm Văn Bình, nguyên đại đội trưởng công binh tiểu đoàn 15,sư 304 làm trưởng ban liên lạc khu vực Hà Nam Ninh. Đồng chí Vũ Tiến Hưng nguyên đại đội phó thuộc tiểu đoàn 2072 Tây Ninh về, làm trưởng ban liên lạc khu vực Hải Hưng Thái Bình.Kế hoạch dậy nghề tương tự như huấn luyện quân sự trong quân đội.Trước hết tập huấn cán bộ từ tổ trưởng,đội trưởng đến trưởng ban liên lạc. Sau đó các cán bộ về huấn luyện lại cho các tổ viên, có các giáo viên đã thạo nghề theo dõi kèm cặp giúp đỡ cùng làm ăn ,cùng kiếm sống .Mỗi lớp tập huấn một tháng.Khu vực Hà Nam Ninh tập huấn trước,tháng sau đến khu vực Hải Hưng Thái Bình.Học cụ huấn luyện, do các giáo viên đem đến như thuyền thúng, lưới các loại và dụng cụ đồ nghề.Mỗi học viên ,tổ viên, tùy theo khả năng, có thể mượn , hoặc mua sắm một số đồ nghề cũ để làm dụng cụ học tập thì càng hay.
Nam Sao vận động các cựu chiến binh ở Thanh Hóa đã thạo nghề xung phong đi làm giáo viên cho các tỉnh ngoài sông Hồng cùng với anh. Các tổ trưởng cũ Lê Thân ,Đinh Cầm, Trịnh Thế và VũVănTề ,nay đã là đội trưởng và một số tổ trưởng mới khác… ở các khu vực, đều nhiệt tình xung phong đi làm giáo viên cùng Nam Sao để giúp đỡ đồng đội cũ ở các tỉnh phía ngoài. Lớp tập huấn đầu tiên cho khu vực Hà Nam Ninh là ở ngã ba sông Đáy và sông Hoàng Long, địa điểm liên lạc là nhà đồng chí Bình,gần cầu Đoan Vỹ. Theo tác phong quân sự,Nam Sao cũng hẹn đúng giờ G chiều ngày N các giáo viên và học viên đều phải có mặt đông đủ. Cũng như trước đây ,các giáo viên đều mang theo đầy đủ đồ nghề dụng cụ kiếm sống của mình, kể cả gạo muối cho cơ số dự trữ mấy ngày đầu. Các học viên cũng mang tiền mang gạo cho tuần lễ đầu học cơ bản ,năm đến bảy ngày. Còn sau đó giáo viên và học viên vừa học vừa làm vừa kiếm sống nuôi nhau để học và truyền nghề cho nhau,như kiểu anh em cựu chiến binh ở Thanh Hóa đã làm. Thực chất là giáo viên bỏ vốn ,bỏ công sức ra để đánh cá kiếm sống và nuôi dậy học viên. Chỉ có những người đồng đội, những người nghèo khó thương nhau mới có nhiệt tình như vậy được. Vậy mà chỉ có một mình Nam Sao với ý tưởng của anh,anh cùng các đồng đội đã thực hiện được.Trong vòng hơn một năm qua ,anh đã kiếm sống và truyền dậy nghề cho hàng chục tổ đội, hàng trăm cựu chiến binh biết cách kiếm sống trên các dòng sông quê hương của mình.,tạm thời xóa đói giảm nghèo trong hoàn cảnh kinh tế của đất nước đang khó khăn này.
Lớp tập huấn khu vực Hà Nam Ninh ban đầu có 10 học viên và có 5 giáo viên.gồm: Thân, Cầm, Thế, Tề và Nam Sao.Bình quân mỗi giáo viên kèm cặp 2 học viên. Qua một tuần đầu,dành thuyền thúng đồ nghề cho học viên học động tác cơ bản vào ban ngày. Ban đêm các giáo viên đi đánh cá lấy thực phẩm bồi dưỡng cả lớp.Tuần thứ hai, mỗi giáo viên kèm hai học viên thực tập đánh cá,một ca sáng ,một ca chiều, rồi một ca ngày ,một ca đêm. Cứ một giáo viên kèm một học viên, hai người một thuyền, cùng nhau đánh cá kiếm sống nuôi nhau học tập.Từ tuần thứ tư tư trở đi thì để học viên tự tác nghiệp lấy, giáo viên chỉ kiểm tra nhắc nhở .Sau một tháng tập huấn các học viên trở về quê,vay mượn đầu tư vốn tối thiểu mua sắm thuyền lưới ,đồ nghề kiếm sống. Sau hai ba tháng , các cán bộ tổ đội kiếm sống được rồi, mới tổ chức huấn luyên cho các tổ viên, học tập, theo quy trình như trên.
Sau một tháng tập huấn của khu vực Hà Nam Ninh xong .Tiếp đến một tháng tập huấn cho khu vực Hải Hưng Thái Bình.Nam Sao lại dẫn cả tổ giáo viên bơi thuyền ngược sông Đáy đến Phủ Lý ,rẽ sang sông Châu,ngược lên phà Yên Lệnh ra sông Hồng, xuôi xuống ngã ba sông Luộc với sông Hồng,gần nhà trưởng ban liên lạc Vũ Tiến Hưng. Họ lại vừa đi vừa đánh cá để đến liên hoan với các học viên ở khu vực Hải Hưng Thái Bình.Ở đây có 12 học viên đã tập trung đủ đang ngóng chờ các giáo viên...Lại tay bắt mặt mừng ,liên hoan cá và cá ,với những câu chuyện kỷ niệm không bao giờ tắt của chiến trường ,của tình đồng đội. Vẫn theo chương trình giáo án đã thực hiện. Ở lớp này có khác lớp trước là có một nửa học viên đã đi mượn hoặc mua sắm được đồ nghề,nên việc học tập được tiến triển nhanh hơn. Lớp tập huấn ngã ba sông Luộc đã tiến hành gần hai tuần,thì có thêm ba cựu chiến binh công binh ở Hà Tây, cũng là quân cũ của Nam Sao nghe tin, liền bơi dọc sông Hồng ,mò đến gặp Nam Sao:
-Thủ trưởng ơi! Cho chúng em học tập mấy, chúng em đã chuẩn bị đủ dụng cụ đồ nghề rồi, nhưng chưa biết làm ăn ra sao đây.
- Đồng ý, thế thì hay quá, mời các đồng chí vào đây học tập luôn đi -Nam Sao đồng ý. Sau đó anh phân công một giáo viên cùng anh trực tiếp bồi dưỡng cho các đồng chí này.Quả nhiên chỉ mấy ngày đầu bỡ ngỡ,sau đó đuổi kịp được anh em cả lớp ngay.
Sau một tháng huấn luyện và thực tập, đa số anh em đều được thành thạo hơn. Tuy nhiên sau các lớp tập huấn. Nam Sao cùng các giáo viên vẫn phân chia nhau, luân phiên xuống các tổ đội cùng làm ăn kiếm sống với anh em để kèm cặp giúp đỡ thêm trong vòng vài ba tháng đầu. Riêng Nam Sao thì cùng lăn lộn với anh em cùng kiếm sống ở khu vực này hàng năm trời. Hết sông này đến sông khác,hết đội này đến tổ kia. Ở khu vực đồng bằng sông Hồng này, sau hơn một năm, bằng phương pháp tập huấn và dậy nghề dây truyền, anh cũng đã đào tạo và giúp đỡ cho hơn hai trăm đồng đội cựu chiến binh nữa có công ăn việc làm để kiếm sống ,xóa đói giảm nghèo. Thế là trong vòng gần ba năm trời,vừa lang thang kiếm sống ,vừa đào tạo dậy nghề cho trên ba trăm đồng đội của mình, có công ăn việc làm,tự kiếm sống được. Với số lượng người đó, đã tương đương bằng quân số một tiểu đoàn công binh của anh thời còn trong quân ngũ. Anh thấy rất vui vì mình đã giúp được một phần cho các đồng đội trong lúc đang khó khăn nghèo đói này. Anh thấy mình dẫu sao cũng còn có ích cho đời, cho bạn bè đồng đội. Mãi đến khi anh em ở khu vực đồng bằng, đã kiếm sống ổn định rồi, anh mới lại ra đi… đến những vùng xa xôi hẻo lánh khác. Anh lại tiếp tục con đường lang thang theo ý tưởng của anh: Ngao du những dòng sông,thăm lại chiến trường xưa và gặp lại đồng đội cũ.
Chương 18
“BẾN TÌNH YÊU” VEN SÔNG ĐÀ
Suốt cả ngày 14 tháng 12 năm 1951, dưới chân núi Yên Mông, huyện Kỳ Sơn ,òa BìnhGti tỉnh Hòa Bình ,trong một khu rừng gần bến Mỵ người ta thấy từng cặp ,từng đôi ,một trai ,một gái, cứ cặp kè đi với nhau, lúc đứng ,lúc ngồi,họ cứ rì rầm nói chuyện với nhau, cười nói vui vẻ và hứng thú nhưng không được nói to,sợ làm lộ bí mật, cũng không được đi quá xa trong khu rừng đó ,sợ mất liên lạc, hoặc lạc nhau không tìm thấy nhau,không tìm được đơn vị.Đó là những anh bộ đội công binh thuộc đại đội 270, tiểu đoàn 333 ,trung đoàn 151 măc quần áo màu xanh lính, và các cô gái trai trẻ thuộc đại đôi dân quân của huyện Lâm Thao,tỉnh Phú Thọ mặc quần áo màu nâu. Một trăm cô gái và một trăm chàng trai khỏe mạnh ,cường tráng đang sung sức, họ có nhiệm vụ phải tìm hiểu nhau, làm quen với nhau ,phải nhớ mặt ,nhớ tên và quen thuộc bóng dáng nhau ,ban ngày cũng như ban đêm ,để có thể nhận ra nhau ngay trong lúc khó khăn nguy hiểm ,vượt sông và chiến đấu. Họ có thể bị đắm thuyền do máy bay oanh tạc ,hay bị pháo bắn hoăc tàu thủy của đich tuần tiễu trên sông bắn,họ phải bơi lội để cứu vớt nhau và cứu thuyền và các nạn nhân cùng những trang bị vũ khí nặng nề. Đó là những anh lính công binh đã được rèn luyện bơi lội giỏi và những cô gái được tuyển chọn của mấy xã ven sông Hồng đã quen nghề sông nước và đã trải qua những mùa mưa lũ bão lụt, những cô gái chèo lái thuyền nhanh nhẹn và thông thạo.
Những người mới đến, trông xa cứ tưởng là những đôi uyên ương ,trai tài gái sắc đang tìm hiểu nhau ,thật là tình tứ. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ này đã mấy khi có những cảnh ,những bức tranh đẹp đẽ như thế này? Biết đâu trong số họ có mặt hôm nay, sau này cũng có những cặp thành đôi thành lứa,hạnh phúc gia đình trọn vẹn , thì đó là điều may mắn lắm thay,Vì họ đã được cùng sống và chiến đấu bên nhau, dù trong một trận hay một mùa chiến dịch.Đó là thử thách lớn nhất của tình yêu trong thời chiến tranh gian khổ và ác liêt này.
Trung đội trưởng trung đội 41, Nam Sao là người hay tán chuyện vui tếu nhất:
-Này , có cô cậu nào sau này thành đôi lứa ,thành lứa , thì nhớ đặt tên con là bến Mỵ hoặc đèo Mông ,sông Đà nhé ! Mọi người đều cười ồ lên,có cô còn thẹn thùng đỏ mặt trông thật là duyên -Tiểu đội trưởng tiểu đội một Đăng Nụ hưởng ứng ngay:
-Thủ trưởng gương mẫu làm trước nhá, chiến sỹ xin đi theo đấy ạ !
- Thế còn cô Huệ ở Tu Vũ thì thủ trưởng bàn giao lại cho em nhé ! - Một chiến sỹ khác cũng chen vào. Cánh nữ dân quân cũng không vừa,một cô xem ra sắc sảo và mồm mép nhất lên tiếng:
- Này các anh ơi,
Gái Lâm Thao làm cao lắm đấy,
Có anh nào muốn lấy thì theo.
Ngay lập tức một chú lính khác lém lỉnh cũng trả miếng ngay:
-Này,các cô em ơi,
Gái Lâm Thao làm cao thì ế,
Có cho không cũng chẳng bế về đâu. !
Đến chiều tối thì lệnh đại đội tập họp cả bộ đội và dân quân, để quán triệt nhiêm vụ một lần nữa.Đôi nào vào đôi ấy ,trung đội nào vào trung đội nấy. Trung đôi 41 của Nam Sao với trung đội1 của dân quân. Trung đội 42 của Lê Dũng với trung đôi 2 của dân quân. Trung đội 43 của Đinh Cầm với trung đội 3 của dân quân. Mỗi trung đội ghép thành một ca kíp vượt sông.Mỗi kip phân tán đứng ra một khu vực ,các trung đội trưởng kiểm tra lại quân số và nhắc lại mệnh lệnh và các quy định ,điều lệnh trước khi vượt sông.Theo phân công của đại đội : Trung đội 41 là ca vượt sông thí điểm đầu tiên từ 8 giờ tối đến 12 giờ đêm. Sau đó là trung đội 42 tiếp tục chèo chở từ 12 giờ đêm đến 4 giờ sáng. Còn trung đội 43 là đơn vị dự bị,khi có tình huống bất trắc xảy ra và phối hợp với trung đội 42 khiêng cất dấu thuyền lên rừng ,xóa dấu chân người trên bãi cát để ngụy trang trước khi trời sáng.
Nam Sao tập hợp trung đội, kiểm tra từng cặp từng đôi, rồi nhắc lại các quy định và phương pháp sử trí các tình huống, cho bộ đội nai nịt gọn gàng rồi cho bộ đội khiêng 30 chiếc thuyền từ trong rừng ra hạ thủy xuống sông khi trời đã tối ,còn 10 thuyền nữa để dự bị. Đôi nào ,thuyền ấy,một người chèo,một người lái, tất cả lên thuyền ngồi chờ các đơn vị bộ binh hành quân đến . Lúc đó là 8 giờ đêm, ánh trăng trung tuần tiết mùa đông ,vằng vặc soi ngắm 30 con thuyền nan cắm sào đợi. Trong khung cảnh một nam một nữ, một thuyền, sóng nước lăn tăn êm đềm và thơ mộng.
Thật là: Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non khơi ánh vàng.
Bến Mỵ đèo Mông
Đoạn sông Đà thuộc xã Yên Mông ,mùa nước thường rộng ba đến bốn trăm mét,nhưng mùa cạn này chỉ còn rộng khoảng hai trăm mét, hai bên còn lại là bãi cát rộng in rõ dấu chân người hay vật đi lại trên bãi,máy bay cào cào của giặc Pháp thấy có gì khả nghi là chúng gọi máy bay oanh tạc lên bắn phá,không cho nhân dân ta làm ăn sinh sống bình thường được. Phía bắc suối Phình ,cách bến khoảng bảy km,có đồn Lau Chẹ do 1 tiểu đoàn địch đóng án ngữ.Đối diện đồn Lau Chẹ ,bên khia sông là đồn Tu Vũ đã bị quân ta tiêu diệt.Phía đương số 6 có đồn Pheo,1 đại đội địch đóng. Cách 6 km là thị xã Hòa Bình ,có 2 tiểu đoàn địch đóng.
Khu vực xã Yên Mông nam bắc đoạn sông, bến vượt, đều là địa hình rừng núi,cây cối rậm rạp. Dân tộc Mường thưa thớt,phần lớn chạy tản cư ,sơ tán vào rừng rậm.Thời tiết tháng chạp rét mướt, nước sông cạn, bãi cát phơi trắng hai bên bờ mép nước.Bọn địch thường xuyên dùng ca nô liên lạc vận chuyển từ Trung Hà – núi Chẹ đến Hòa Bình.Trước đó một tháng bộ độ ta bắn chìm 1 tàu thủy LTC chở 1 đại đội Pháp từ núi Chẹ đi Hòa Bình ở khu vực xã Yên Mông. Sau này ca nô địch đi trên sông,chúng liên tục bắn thị uy hai bên bờ. Cũng có khi chúng dùng thủ đoạn tắt máy cho ca nô xuôi dòng nước ,về Hòa Bình,về Lau Chẹ.
Mở đầu chiến dịch Hòa Bình ta đã tiêu diệt đồn Tu Vũ, các đại đoàn 308,312 và các đơn vị pháo binh ,công binh,đang hết sức khẩn trương thi đua lập công theo chỉ thị của Đảng .Hồ chủ tịch đã nhận định :địch hành quân lên Hòa Bình là thò đầu ra cho ta chặt.Thực hiện chỉ thị của Người, các đơn vị ngày đêm diệt địch lập công, mặc dầu khó khăn thiếu thốn thế nào cũng vượt qua, để lập công dâng Bác.
Công binh được Bộ chỉ huy chiến dịch giao cho nhiệm vụ bảo đảm cho đại đoàn 312 v ượt sông Đà để đánh vào khu vực núi Ba Vì.
Vượt sông bằng gì ?
Bộ đội công binh ,từ năm 1951,tuy gọi tên là công binh,nhưng thực tế trang bị chỉ có xẻng cuốc và một ít thuốc nổ. Ngoài ra không có phương tiện gì để nổi trên mặt nước .Khác với binh chủng pháo binh ,tuy vũ khí không hiện đại,còn có khẩu đại bác cũ của Pháp hoặc của Nhật để lại, anh bộ binh còn có khẩu súng trường Nga,Nhật, Tàu …Còn công binh được giao nhiệm vụ chở một đại đoàn bộ binh và binh khí kỹ thuật,lúc đó thì quả là vô cùng khó khăn. Người ta nói rằng: Anh công binh lúc này tổ chức vượt sông cho bộ binh và binh khí kỹ thuật chỉ bằng bàn tay và khối óc mà thôi,quả là chẳng ngoa.
Nhiệm vụ vượt sông được giao cho tiểu đoàn công binh 333 do tiểu đoàn trưởng Đinh Khang và tiểu đoàn phó Lê Trung Ngôn phụ trách.Theo mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch: Công binh phải bảo đảm đêm ngày 14 và 15 cho đại đoàn 312 vượt qua sông Đà xong trước năm giờ sáng ngày 15 tháng 12.
Sau khi trinh sát bến bãi , địa hình địa vật xung quanh và nghiên cứu tình hình địch hoạt động trong thời gian gần đây.Một cuộc họp cán bộ từ trung đội trở lên của tiểu đoàn để phổ biến mệnh lệnh và lấy ý kiến dân chủ của cán bộ trong tiểu đoàn do tiểu đoàn trưởng Đing Khang chủ trì. Nhiều ý kiến bàn bạc sôi nổi. Vượt sông bằng gì ,được tranh cãi nhiều nhất.Có hai phương án đề ra ;
- Vượt sông bằng cầu phao nứa như trận Tu Vũ. Và vượt sông bằng thuyền nan.
Hội nghị thảo luận sôi nổi phân tích thuận lợi khó khăn của hai phương án đề ra. Nếu vượt sông bằng cầu phao nứa thì có hai thuận lợi: Một là vật liệu tại chỗ sẵn có trên rừng. Hai là vượt sông được liên tục, nhanh hơn.Nhưng khó khăn là không bảo đảm yếu tố bất ngờ,lộ bí mật bến bãi, lộ đường tiến quân của binh đoàn.
Nhiều người trông chờ vào ý kiến của Nam Sao vì họ cho rằng anh đã có kinh nghiệm bắc cầu phao nứa ở trận Tu Vũ giành thắng lợi giòn giã. Nhưng trong hội nghị này Nam Sao lại đề xuất ý kiến đầu tiên là vượt sông bằng thuyền nan.Anh phân tích:
-Nếu vượt sông bằng thuyền nan trước hết giữ được yếu tố bất ngờ với kẻ địch, sau là có lợi dễ cất dấu vật liệu, không cồng kềnh .tiến nhanh rút nhanh. Nhưng mỗi thuyền chỉ chở được ít người nên phải huy động nhiều thuyền và kéo dài thời gian chuyên chở.Vấn đề chủ yếu là phải huy động thuyền từ xa mang vác nặng đến,nếu không bảo đảm kín đáo cũng dễ bị lộ bí mật.
Một ý kiến hỏi Nam Sao :
-Tại sao Ngòi Lát bắc được cầu phao mà lần này sông Đà lại không bắc được?- Nam Sao trả lời luôn:
-Sông Đà rộng gần gấp mười lần Ngòi Lát, khối lượng nứa để bắc cầu rất lớn, phải chuẩn bị nhiều ngày trước,mang vác cồng kềnh rất dễ bị lộ, thiết kế cầu phải rộng mới an toàn, mục tiêu cầu ở giữa sông pháo binh địch rất dễ phát hiện và bắn trúng, nếu cầu bị đứt, thương vong sẽ rất lớn ,sửa chữa cầu rất khó khăn. Còn Ngòi Lát là bắc cầu trong hành tiến , là cầu bôn tập.Lại ở sát ngay hàng rào địch,khi pháo nổ súng tấn công , mới bắt đầu quay cầu đã bắc sẵn ven bờ qua sông ,chỉ mười lăm phút sau là bộ binh đã xung phong qua cầu ,mở cửa qua hàng rào địch ,bọn địch khó phát hiện sớm nên giữ được yếu tố bất ngờ…
Hội nghị còn tranh luận nhiều .Nhưng cuối cùng nhiều ý kiến thống nhất là vượt sông bằng thuyền như Nam Sao đã trình bày.Tiểu đoàn trưởng Đinh Khang quyết định giao cho đại đội 270,tổ chức chuẩn bị vượt sông bằng thuyền nan.
Chương19
THUYỀN TRÈO LÊN NON
Một cuộc hành quân của bộ đội công binh về huyện Lâm Thao để vận động nhân dân huy động thuyền dân và lực lượng dân quân phối hợp vận chuyển và chèo chở thuyền vượt sông.Nam Sao lại xung phong dẫn đầu một tổ trinh sát cấp tốc đi trước ,mang theo mệnh lệnh của Chỉ huy chiến dịch về gặp Ủy ban và huyện đội Lâm Thao trước, để địa phương kịp chuẩn bị huy động lực lượng và thuyền dân nhanh chóng kịp thời gian. Toàn đại đội 270 sẽ hành quân đến sau.
Mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch được lãnh đạo huyện Lâm Thao chấp hành tích cực.Tất cả cho tiền tuyến, là khẩu hiệu chung cả nước thời bấy giờ,được nhân dân các xã ven sông nhiệt liệt hưởng ứng và xung phong đi ngay. Các đoàn thanh niên nô nức đi ngay ,hầu hết là con gái, vì con trai phần lớn đã ra tiền tuyến hết cả rồi.
Mấy cô gái xúm lại quanh tổ trinh sát của Nam Sao hỏi:
-Này các anh bộ đội ơi, chở cái gì mà huy động lắm thuyền nan thế?
-À,chở gạo và thực phẩm tiếp tế cho bộ đội đánh giặc thôi !
- Có đi lâu không?
- Cứ mang quần áo,vải mưa đi theo có thể lâu đấy,cơm nước bộ đội lo rồi không sợ đói đâu !- Một cô gái trẻ nhất trong đám đứng đó có vẻ lo ngại xa nhà lâu ngày ,liền hỏi luôn:
- Nhưng mà ở mãi đâu cơ ?...để em bào cho thầy bầm em biết để các cụ khổi lo.
- Ở xa đấy!... Xuỵt ! – Khắc đi khắc đến thôi, không được nói địa điểm cho người nhà biết,lộ bí mật đấy …
Chỉ trong vòng một buổi chiều,đia phương đã tập họp được một đại đội dân quân đủ một trăm người ,toàn những tay chèo thuyền thành thạo ,và huy động được bốn mươi thuyền dân hai cáng đến ba cáng có hai đến ba mái chèo,mỗi thuyền chở được sáu đến mười người theo yêu cầu của tổ trưởng tổ tiền trạm Nam Sao. Anh đề nghi địa phương tập trung ở ba khu vực cho phân tán.Đến tối thì toàn đại đôị công binh đến nơi.Anh đề nghị chỉ huy đại đội phân công cho mỗi trung độị công binh kết hợp với một trung đội dân quân, cứ bốn người một thuyền,hai nam ,hai nữ ,khiêng thuyền lên vai và hành quân ,số còn lại vác dầm,sào, vác ván, sạp và đài múc nước, dây dợ…theo thuyền và sẵn sàng thay thế đổi vai cho nhau. Cuộc hành quân ngay trong đêm đó.Cán bộ địa phương và người nhà ra tiễn đưa khá bịn rịn ,nhưng đều chúc các anh các chị lên đường an toàn và chiến thắng.
Cuộc hành quân phải im lặng để giữ bí mật,mọi mệnh lệnh chỉ huy đều phải nói nhỏ và truyền từ người đi trước tới người đi sau. Mỗi tiếng nghỉ mười phút trên đường , không ai được la cà vào nhà dân dọc đường dễ làm lộ bí mật.Chỉ đến trạm nghỉ dừng chân nấu ăn ở nơi rừng vắng mới được nói chuyện vui vẻ và làm quen với nhau.
Trung đội trưởng Nam Sao lại dẫn một tiểu đội công binh đi nhanh về trước để tìm đường vác thuyền qua núi Yên Mông xuống bờ sông đến khu tập kết cất giấu thuyền trong khu rừng rậm kín đáo.
Sau một ngày một đêm ,đại đội công binh và đại đội dân quân đã hành quân gần ba mươi cây số, vác thuyền tới chân núi Yên Mông vào khoảng gần bốn giờ chiều.
Dãy núi Yên Mông không cao lắm,chỉ ở bình độ 30m so với mặt biển,nhưng đường mòn qua núi cũng dài đến gần mười cây số ,cả lên và xuống ,có chỗ lại dốc đứng, nhất là lên gần đỉnh núi. Rừng lại rậm rạp không thể khiêng thuyền len lỏi qua được .Nam Sao đề nghị đại đội cho anh chị em nghỉ ngơi dưới chân núi để lấy sức vác thuyền qua núi. Lấy hai trung đội công binh lên sửa đường , trung đôi một lấy dao lên phát cây rộng sang hai bên mỗi bên một mét,thành đường rộng hai mét, thì mới khiêng thuyền qua đươc. Trung đội hai tập trung xẻng cuốc để đánh hàng mấy trăm bậc lên xuống cho dễ đi. Chỉ hơn hai giờ sau thì hai trung đội công binh đã hoàn thành việc mở đường .Đại đội hạ lệnh cho các trung đội công binh và dân quân bí mật hành quân ,vác thuyền trèo qua núi. Có chỗ thì vác ,có chỗ thì khiêng ,có chỗ kê con lăn, kéo lăn thuyền trên mặt đất .Cuộc vác thuyền ngược núi có một không hai này của đơn vị công binh và dân quân khá vất vả ,mệt nhọc. Một tiểu đội trưởng công binh tên là An Huy lúc đó đã bật lên câu ca dao:
“ Công binh có chuyện ngược đời
Voi thời xuống nước, thuyền thời trèo non”
Chả là pháo binh( thường gọi là voi )phải tháo rời ra để xuống thuyền qua sông,còn thuyền đang phải vác trèo qua núi Yên Mông như đêm nay. Lúc đó ai cũng thấy thích câu ca dao đó,thật là hợp cảnh hợp tình, nhưng không ai dám đoc to mà chỉ rì rầm cười nói với nhau thôi .
Nam Sao cùng các cán bộ của đại đội và trung đội phải chạy lên chạy xuống, để đôn đốc hoặc đỡ vai cho anh chị em,nhất là các cô dân quân thấp bé nhẹ cân phải bước lên, bước xuống những bậc cao thấp hẫng hụt. Thời tiết đang là mùa đông giá lạnh ,mà mồ hôi đã thấm ướt cả áo xanh bộ đội và áo nâu dân quân,nhưng các chiến sỹ vẫn cố gắng ì ạch, nặng nề khiêng vác thuyền vượt núi
Qua một đêm vật lộn với bốn mươi cái thuyền. Đến sáu giờ sáng hôm sau tức ngày 14 tháng 12, đại đội công binh và đại đội dân quân đã đưa đủ số thuyền xuống gần bờ sông an toàn và cất dấu kín đáo.
Đứa nào bắn cá?
Một tình huống bất ngờ xảy ra. Nửa buổi hôm đó các chiến sỹ công binh và các cô dân quân đang từng đôi,từng đôi gặp gỡ làm quen với nhau vui vẻ , thì phía ngoài sông bỗng có một tiếng nổ ầm dưới nước khá to. Đơn vị báo động ,mọi người phải nhanh chóng nhảy xuống hố cá nhân để ẩn nấp. Chưa biết là chuyện gì.chờ một lát không thấy tiếng nổ tiếp.Mọi người nhận định không phải là pháo địch bắn.Nam Sao và một chiến sỹ chạy vội ra mé bờ, nhìn xuống sông thấy cá nổi trắng cả khúc sông,thấy mấy người đang nhảy xuống vớt cá . Nam Sao vội quát:
-Đứa nào bắn cá đấy ? . Mấy cậu nghe tiếng quát to thì giật mình vội nói:
-Chúng em đây mà ! Nhìn thấy đống quần áo ,mũ trên bờ, biết ngay là lính ta cả,chắc là đơn vị bạn cũng trú quân ở gần đây .
-Đơn vị nào mà vô kỷ luật thế ? Rồi Nam Sao quay sau gọi liên lạc:
-Về gọi một tổ đem súng ra ngay bắt bọn này đi!
-Vâng ạ !- Liên lạc vội chạy về rừng. Tốp lính vô kỷ luật đang bắt cá nghe thấy tiếng gọi cho người ra bắt, thì vội chạy lên bờ,thi nhau nhặt cá cho vào bao tải rồi vác lên vai và ôm cả đống quần áo chạy vội chạy vàng .Nam Sao biết là lính ta chắc đang đói và thèm ăn cá quá nên mới dám làm liều như vậy ,nên cũng bỏ qua không quát nữa. Khi tổ công binh mang súng chạy ra đến nơi bờ sông, thì toán ném cá vô kỷ luật đã chạy xa vào trong rừng rồi, Nam Sao bảo không phải đuổi nữa. Mấy cậu lính trông thấy đám cá chết còn nổi trắng trên sông đang trôi xuôi dòng vội thốt lên:
-Phí quá,đề nghị thủ trưởng cho chúng em xuống bắt một it về cải thiện đi ! – Vừa lúc đó nghe tiếng máy bay “bà già” đang bay đến, Nam Sao biết là có chuyện không hay rồi, liền quát to:
- Quay về rừng ngay, bảo mọi người xuống hầm ẩn nấp mau, kẻo máy bay oanh tạc đến bây giờ. - Đúng như phán đoán của anh, một lát sau chiếc máy bay bà già bắn pháo hiệu chỉ điểm đồng thời gọi đại bác “bô pho” từ đồn Đầm Huống dưới Hòa Bình bắn lên hàng loạt đạn pháo nổ dồn dập vào khúc sông và cả khu rừng ta đang dấu quân, khói bụi mịt mù. Cũng may Nam Sao đã cảnh báo cho quân ta xuống hầm ẩn nấp kịp thời nên không ai bị thương vong,nhưng hỏng mất hai chiếc thuyền nan .Một số ý kiến cho rằng ta đã bị lộ nhưng sau không thấy bọn địch bắn nữa và chỉ thị của trên điện xuống cũng nhận định ta chưa bị lộ ,do đó công binh tiếp tục làm công tác chuẩn bị .Điện cấp trên cũng yêu cầu cử một tổ làm quân cảnh ra bờ sông đi lùng bắt anh em vô kỷ luật ném cá xem của đơn vị nào để sử lý cho nghiêm . Nhưng tổ quân cảnh đi một lúc trở về vì không tìm thấy toán ném cá đâu cả.Chắc rằng cánh lính vô kỷ luật đó hôm nay được một bữa cá tươi thoải mái.Chỉ khổ cho đại đội công binh và dân quân thì méo mặt vì phải ngụy trang lại những con thuyền,sợ lộ bí mật và còn phải bảo đảm vượt sông ngay tối nay.
Đêm hội bơi chải
Đúng tám giờ rưỡi, đội hình đầu tiên của đại đoàn 312 đến bến. Ba mươi thuyền của ca một do trung đội trưởng Nam Sao chỉ huy cập bờ đón khách, mỗi chuyến chở một đại đội bộ binh với toàn bộ trang bị vũ khí và hậu cần nuôi quân. Lệnh vượt sông bí mật, không được nói chuyện hay gọi nhau to tiếng ,không được nô đùa, không được hút thuốc lá thuốc lào phát ánh sáng lộ mục tiêu,luôn luôn sẵn sàng tư thế đối phó với tình huống bị bom đạn địch bắn, hoặc lật thuyền,phải bình tĩnh cấp cứu người bị nạn.
Nam Sao ra lệnh vượt sông. Ba mươi thuyền cùng xuát phát Các cô gái chèo lái ở phía sau,các anh công binh bơi ở phía mũi thuyền,bộ binh bơi thêm một hai dầm hỗ trợ ở giữa .Dưới ánh trăng vằng vặc,ba mươi thuyền nan cùng đua nhau sải cánh . Xa xa có tiếng đại bác nổ như cầm canh,tựa như tiếng trống của ngày hội bơi chải ở các làng quê.Có khác là ở đây bơi chải vào ban đêm ,không có tiềng cầm nhịp hô “dô hầy dô hầy” và không có tiếng la hét của hàng ngàn cổ động viên ,đứng hai bên bờ với trống phách,thanh la cờ xí rợp trời…Những con thuyền vẫn mải miết bơi,đua nhau vượt nhanh tới đích. Những mái chèo khua nước, vung lên những ánh bạc nhịp nhàng , như những làn hoa sóng dưới ánh trăng trong.
Nam Sao vẫn đứng khom lưng trên một thuyền to đi ở giữa đội hình vượt sông để bao quát được toàn cảnh vượt sông. Kịp thời điều chỉnh cho các thuyền đi đúng hướng ,nhip nhàng.
Các thuyền đi nhanh vượt lên ,cho cập bến trước theo thứ tự, thuyền trước ở thượng lưu ,thuyền sau dưới hạ lưu, không chen chúc nhau như đã quy định trước. Các chiến sỹ công binh ghìm chặt thuyền cho bộ binh lên bờ an toàn. Chỉ hơn mười phút chuyến đầu tiên đã qua sông xong. Nam Sao mới thở phào nhẹ nhõm. Anh tập hợp các tiểu đội trưởng để rút kinh nghiệm và động viên các cán bộ chiến sỹ ,dân quân .Ai cũng thấy hồ hởi vì chuyến đầu tiên đã thắng lợi và quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ ca đầu tiên này. Anh nắm chặt tay các cán bộ tiểu đội công binh và dân quân gật đầu một cách thắm thiết để tỏ lòng tin tưởng vào anh chị em đêm nay.
Trong lúc quay thuyền trở về bến, chèo thuyền không ,anh cho anh chị em bơi nhẹ nhàng để dành sức cho chuyến đi nặng nề và khẩn trương hơn. Cứ thế, ca một của Nam Sao cứ chèo chở nhịp nhàng cho đến mười hai giờ đêm thì thay ca ,bàn giao thuyền cho ca hai của trung đội hai công binh và trung đội hai dân quân. Các cán bộ đại đội và trung đội đều rút kinh nghiệm của ca một phổ biến cho ca hai đỡ bỡ ngỡ. Anh chị em ca hai cũng đã ra xem trước một chuyến để học tậprút kinh nghiệm rồi, nên cũng không bị lúng túng Xuống thay ca là chèo chở được ngay từ mười hai giờ đêm đến sáng.
Vào lúc sáu giờ sáng ngày 15 tháng 12 thì kết thúc “đêm hội bơi chải trên sông” đêm đầu tiên.Ca một và ca hai đã đưa được một nửa đại đoàn 312 qua sông Đà an toàn,theo đúng kế hoạch của chỉ huy chiến dịch.
Đại đội công binh 270 và đại đội dân quân Lâm Thao, lướt thuyền qua sông cất dấu và ngụy trang xong lúc bảy giờ. Ca khúc khải hoàn ngày thứ nhất.
Chương 20
TÌNH HUỐNG BẤT NGỜ
Sau một đêm bảo đảm cho một nửa đại đoàn 312 qua sông. Anh chị em nghỉ ngơi, rút kinh nghiệm,đòng thời cũng được cấp trên biểu dương khuyến khích.Bộ tư lệnh đại đoàn 312 cử cán bộ chính trị đến thăm hỏi động viên và trao tặng cho lực lượng bảo đảm vượt sông một con lợn. Đại đội công binh 270 hứa với cấp trên: kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ. Chiều hôm đó lính công binh và chị em dân quân được bữa liên hoan ăn tươi ,người nào cũng phấn khởi vui vẻ.
Mười tám giờ ngày 15 tháng 12 đại đội công binh và đại đội dân quân tiếp tục triển khai khí tài chiến đấu.Từ tối đến mười hai giờ đêm ca một do trung đội 42và trung đội hai dân quân đảm nhiệm.Rồi đổi ca cho trung đội 41và trung đội một dân quân tiếp tục chèo chở. Các thuyền qua lại như mắc cửi thuận hòa.Ánh trăng sáng mênh mang với những làn sóng lăn tăn trên sông như reo vui, ủng hộ những người lính vượt sông đưa quân đi chiến đấu.
Nhưng đến bốn giờ sáng thì một tình huống chiến đấu bất ngờ tới. Ca nô địch ở Hòa Bình đã tắt máy, lợi dụng nước chảy cho ca nô im lặng trôi theo dòng nước.Anh em gác trên bờ không phát hiện được vì lúc đó
bóng núi cao trùm xuống dòng sông ,bị che khuất, lính gác không quan sát thấy ca nô địch. Công binh cứ tiếp tục chèo thuyền,cũng may, thuyển
chở bộ binh đã lên bờ hết,đây là chuyến cuối cùng.Anh chị em đang quay thuyền trở về bờ ta, vừa được một phần ba sông.thì cô Hoa dân quân trông thấy một đống lù lù trôi trên dòng nước,cô mới hỏi chiến sỹ công binh Hoàng Lân là “cái gì to lù lù ở giữa sông thế ?”.Tiếng cô Hoa vừa dứt thì bọn địch bắn ngay một loạt trung liên trúng ngay thuyền cô Hoa. Các thuyền khác đã phát hiện được canô địch từ trước nên đã ẩn nấp vào bờ.Thuyền cô Hoa bị thủng,chìm lập lờ,và chiến sỹ Lân bị thương vào chân .Bọn địch cũng tưởng chỉ có một thuyền cô Hoa,nên bắn chìm rồi bỏ đi. Nam Sao phải chờ cho bọn địch đi xa rồi mới vẫy thuyền quân ta nhanh chóng bơi về bờ ta,rồi cho thuyền đi cất dấu trước khi trời sáng.Kiểm lại quân số thấy thiếu thuyền cô Hoa và cậu Lân. Sau khi cho mấy anh em ngụy trang xóa dấu chân trên cát xong thì về nghỉ. Nam Sao và tiểu đội phó Mã ở lại bến sông chờ sáng để tìm thuyền cô Hoa và Hoàng Lân.
Người con gái sông Thao
Sau khi bị ca nô địch bắn trúng thuyền làm thuyền thủng rồi bị chìm, chiến sỹ Hoàng Lân bị thương vào chân may cô Hoa không việc gì. Nhưng cô rất bình tĩnh,người con gái sông Thao này bơi rất giỏi.Thuyền nan chỉ chìm bập bềnh Hoàng Lân bị thương vẫn ngồi trong thuyền ,bám vào thang thuyền.,còn cô Hoa một tay bơi, một tay dìu thuyền vào bờ,vì gần bờ bị bóng núi trùm kín,địch không phát hiện được. Cô Hoa đã dìu được Lân lên bờ cát,rồi cõng Lân vào đất liền phía bờ địch cách mép nước khoảng một trăm mét. Cô xé áo băng vết thương cho Lân, còn Lân khi bị thương đã tháo quần dài và áo cho nhẹ sợ chết chìm. Hai người sống suốt một ngày ở bờ địch. Đói rét gian khổ, còn sợ địch đi tuần phát hiện, cô Hoa cởi khăn trùm đầu của mình đắp lên người cho Lân đỡ rét.
Khi trời sáng hẳn, trung đội trưởng Nam Sao và tiểu đội phó Mã mới đi dọc bờ sông nhìn sang bờ địch để phát hiện ,tìm đấu vết con thuyền của cô Hoa và chiến sỹ Hoàng Lân nhưng trời mù quá nhìn mãi không thấy gì, hai người sốt ruột cứ chạy theo dọc sông mãi vẫn không thấy.Mãi đén lúc nửa buổi ,trời nắng to lên .Nam Sao và Mã thay nhau nhìn ống nhòm sang phía bờ địch mới phát hiện thấy một chiếc thuyền lập lờ ở mép sông vướng vào một bụi cây nhỏ. Họ nhận ra đúng là thuyền của ta rồi nhưng không thấy người đâu.Hai người mới phán đoán là ca nô địch bắn lúc bốn giờ sáng trúng thuyền, làm Hoa và Lân đã hy sinh cả rồi. Nhưng Nam Sao vẫn quyết định bơi sông sang tìm.Nhưng Mã nói:
-Biết đâu vẫn còn sống quanh quẩn ở đấy, đề nghị để em về lấy cơm mang sang ,nếu bị thương lên bờ được thì vừa đói vừa rét lắm rồi. Nam Sao đồng ý:
- Ừ phải đấy, Mã về lấy cơm và quần áo cho cả hai người đi, nhớ bảo y tá cho một lọ thuốc đỏ và gói bông băng nữa nhé, gói tất cả vào tấm vải nhựa cho kín để đưa sang ngay .
Tiểu đội phó Mã vộị chạy ù về rừng nơi đại đội đang nghỉ. Chỉ một lúc sau thì Mã đã ra đến bờ sông nhưng lúc này đã là chín giờ,trời quang đãng ,nước sông xanh. Máy bay bà già của địch cứ vè vè trinh sát trên dọc sông ,không thể bơi qua sông được. Chúng nhìn thấy là chúng bắn ngay.
Đến hai giờ chiều khi vắng máy bay ,Nam Sao và Mã mới cởi quàn áo bơi qua sông được. Tìm kiếm mãi đến bốn giờ chiều mới tìm thấy Lân đang cởi trần, mặc quần đùi nằm ở một bụi cây, trên người đắp một chiếc khăn vuông rồi phủ kín lá cây ,còn cô Hoa đang xé một ống quần đen của mình băng lại vết thương chân cho cậu Lân ,Lân chỉ bị thương một chân phải ,còn Hoa thì áo rách bươm,quần chỉ còn một ống, sắn lên tận bẹn .Nam Sao và tiểu đội phó Mã cảm động không cầm được nước mắt trước tinh thần đoàn kết chiến đấu quân dân của cô Hoa .Họ mừng rỡ ôm chầm lấy nhau, Hoa reo lên :
-May quá anh Lân ơi,sống rồi!
-Các anh ở đơn vị đang sang cứu mình đây này. Lân đang bị mệt vì đau, vội mở mắt ra nhìn, thấy Nam Sao và Mã, anh khẽ gật đầu chào rồi mỉm một nụ cười nói khẽ : Sống… rồi!.Họ vội vàng cấp cứu cho Lân. Mã cởi gói bông băng đưa cho Hoa để băng lại cho Lân. Nam Sao kiếm một ống bương ,ra bờ sông múc một ống nước. Sau khi băng lại vết thương cho Lân xong, Hoa lấy quần áo Mã đưa sang, ra một bụi cây để thay. Rồi Nam Sao cho Lân và Hoa ăn uống, hai người đã nhịn đói cả một ngày một đêm rồi ,lại vật lộn với sông nước, cõng Lân vào rừng rồi cấp cứu cho Lân ,nên Hoa cũng đã mệt mỏi bã cả người ra, nhưng cô vẫn cố gắng chăm sóc Lân, chỉ sợ Lân chảy nhiều máu quá rồi chết ,có lúc cô nhìn Lân đau đớn ,cô cũng rớm nước mắt gọi:- Anh Lân ơi ,cố gắng chịu đựng nhé, nhất định đơn vị sẽ sang cứu chúng ta. Bây giờ khi đã cơm nước xong, thấy Lân đã tỉnh táo lại, cô Hoa vui mừng lắm, mặt tươi tỉnh hẳn lên, nói cười tíu tít.
Nam Sao phân công Mã ở lại cùng Hoa trông nom Lân và cảnh giới bảo vệ cho hai người. Còn anh sẽ bơi về để điều thuyền sang .
Tối hôm đó Nam Sao cho một thuyền sang đón cả ba người về đơn vị, rồi cho một tổ cáng thương đưa chiến sỹ Hoàng Lân đi cấp cứu ở trạm quân y tiền phương ,cách đó mười cây số, Cô Hoa bịn rịn đưa tiễn Lân đi trạm quân y và dặn :
-Chúc anh mau khỏi để trở về đơn vị, nhớ biên thư về quê cho em, em chờ anh đấy ! Hoàng Lân cũng đáp lại:
- Cảm ơn em đã cứu anh, nếu còn sống,nhất định anh sẽ trở về !
Sau khi vượt sông Đà do công binh bảo đảm, ngay trong đêm 15 tháng 12. Đại đoàn 312 đã tiêu diệt một tiểu đoàn địch trong trận Ninh Mít và đánh thắng nhiều trận nữa trên phòng tuyến sông Đà ,đặc biệt tiêu diệt hai cứ điểm pháo của địch trên cao điểm 400và 600 trên núi Ba Vì vào đêm 30 tháng 12 năm 1951.
Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ,hòa bình lập lại Đông Dương. Anh thương binh Hoàng Lân đã trở về Lâm Thao gặp lại Đào thị Hoa trong niềm vui chiến thắng. Họ đã mời anh Nam Sao như một người anh cả, người đồng đội thân thương về làm chủ hôn cho đám cướí của họ.Và họ đã sống hạnh phúc đến trọn đời.
Trở về sông Đà
Chia tay các bạn bè đồng đội khu vực đồng bằng. Nam Sao lại một mình một thuyền lênh đênh bơi theo dọc sông Hồng rộng mênh mông, nước chảy êm đềm. Mùa thu sắc nước trong xanh mà lòng anh thanh thản vô bờ. Anhvừa đi vừa kiếm sống. Một tuần lễ sau mới tới huyện Lâm Thao. Anh tìm đến nhà Hoàng Lân và Đào Thị Hoa, là hai đồng đội cũ trong câu chuyện “Đêm tình yêu bên sông Đà” của hơn ba mươi năm về trước mà anh đã làm chủ hôn cho hai người, sau đó vì gia đình ở quê bị giặc Pháp giết hại hểt, nên Hoàng Lân ở lại định cư trên quê vợ ,làm ăn sinh sống. Gần đây Nam Sao đã biên thư cho vợ chồng Lân biết là anh sẽ lên chơi, thăm gia đình và thăm lại đèo Mông, ,bến Mỵ năm xưa nhưng không rõ ngày nào. Hôm nay bất ngờ thấy thủ trưởng cũ của mình đến ,không phải đi bằng ô tô con, ô tô khách , hoặc tàu hỏa hay xe đạp, mà lại bằng chiếc thuyền nan đánh cá bơi dọc sông Hồng lên. Lại còn mang theo một yến cá tươi vừa đánh làm quà nữa. Làm cho vợ chồng con cái nhà Lân –Hoa quá ngạc nhiên và cảm động rơi nước mắt. Mà cả họ hàng làng xóm cũng ngạc nhiên ,vì chưa thấy một ông thủ trưởng nào lên thăm chiến sỹ cũ như vậy cả. Họ kéo đến thăm rất đông,chật cả nhà cả sân, chúc mừng gia đình Lân Hoa và người thủ trưởng cũ đầy nhiệt tình hiếm có này. Sau một đêm hàn huyên không ngủ ,thăm hỏi cuộc sống gia đình đồng đội.Nam Sao biết hoàn cảnh gia đình Lân đông con,một thằng lớn đi bộ đội, thằng nhỏ chưa đến tuổi đi bộ đội ,cũng chưa có việc làm, hai đứa con gái còn nhỏ đang đi học. Cả nhà chỉ trông nom và mấy sào ruộng làm theo hợp tác xã ba cọc ba đồng .Bản thân Lân, thương binh đi khập khễnh ,không làm nặng nhọc được, nên đời sống cũng túng bấn lắm. Nam Sao liền gợi ý cho cả hai bố con học nghề đánh cá,anh sẽ trực tiếp dậy.Anh cũng hỏi Lân xem quanh đây có gia đình thương binh hoăc cựu chiến binh nào hoàn cảnh khó khăn muốn học nghề đánh cá thì cũng giúp cho họ học luôn .Lân bảo : có hai gia đình,một thương binh và một cựu chiến binh,nhưng đều già yếu cả rồi chắc không học được ,nhưng có một cháu trai cũng chưa có việc làm,có thể học được. Thế là tổ đánh cá sông Đà ra đời,gồm có ba học viên do Lân làm tổ trưởng. Sáng hôm sau có một cô gái mười bảy tuổi tên là Mai xồng xộc chạy đến nhà Lân gọi :
-Chú Lân ơi, chú nói thủ trưởng cho cháu học đánh lưới với !
- Mai, cháu con gái học đánh lưới thế nào được ?-Lân trả lời.
-Con gái sao không học được –Mai nói- Cháu đã thấy một bà già ở dưới Ghềnh đánh cá thạo lắm,chả lẽ cháu chịu hay sao?Bố cháu thương binh già yếu rồi không đi làm được nữa, nhà cháu bấn túng lắm.Chú cứ nói với chú thủ trưởng giúp cháu với. Nhà cháu đã có sẵn đồ nghề cũ rồi, trước cháu bảo bố cháu cho cháu làm nhưng bố cháu không cho vì không có người kèm cặp. Nay cả chú và bạn Bân cùng đi làm thì cháu không sợ nữa !- Nam Sao từ nãy giờ ngồi trong nhà nghe thấy vậy thì hỏi cái Mai:
-Thế bây giờ bố cháu có đồng ý cho cháu học nghề không?
-Có ạ, bố cháu bảo có người lớn đi kèm thì bố cháu đồng ý ạ!
-Thế thì được rồi, cháu về chuẩn bị đồ nghề đi, chiều nay bắt đầu học tập.
-Cháu cảm ơn thủ trưởng ạ ,cảm ơn chú Lân ạ !-Nói xong cô bé vui mừng chạy vội về nhà ngay.
Thế là lớp học có bốn người .Đáng lẽ sớm hôm sau Nam Sao định đi thăm bãi vượt sông năm xưa,nhưng thấy các học viên đều hồ hởi nên anh cho bắt tay vào huấn luyện ngay từ chiều nay để lùi việc thăm bến cũ vào mấy hôm sau ,khi các học viên đã đi thực tập đánh cá thì cùng đi một thể. Trong bước học cơ bản ở đây có thuận lợi là dân bên bờ sông thì đều giỏi chèo thuyền và bơi lội dưới nước như kiểu cô Hoa đã cấp cứu anh Lân trước đây ở bến vượt sông. Nên Nam Sao chỉ cần nói qua một vài tình huống cấp cứu thuyền đắm thôi ,còn chủ yếu hướng dẫn cách bơi lượn nhẹ nhàng, đổi hướng nhanh chóng và định hướng ban đêm không bị va vào chướng ngại vật trên sông. Hôm sau lại mượn thêm được một thuyền thúng cũ nữa nên năng xuất tập được nhanh hơn. Ngày thứ ba anh đã cho tập rải lưới, thu lưới từ từ nhẹ nhàng. Anh đặc biệt chú ý hướng dẫn cô gái con đồng chí thương binh già để cháu có thể kiếm sống thay bố được. Sau một tuần thì bắt đầu cho từng người thực tập rải lưới ,đánh cá. Trong đó cháu Mai là học viên tỏ ra xuất sắc nhất rồi đến cháu Bân ,con của Lân, cháu Chiến con của một cựu chiến binh. Còn Lân thì chậm hơn do chân khập khiễng đi lại khó khăn ,nhưng chắc chắn,động tác nào ra động tác ấy . Lúc này Lân cũng đã tìm mua được một bộ đồ nghề đánh lưới cũ, Nam Sao sửa chữa lại giúp và cho Lân hẳn một tay lưới mới của mình vừa mua để hai cha con Lân và Bân thay nhau tự đánh lưới. Sau tuần thứ ba,các học viên đã tương đối thành thạo thì Nam Sao cho đánh cá theo đàn ,theo tập thể ba bốn thuyền cùng quây ,cùng xua đuổi trong các vụng nước quẩn, cá hay hóng mồi ăn tập trung. Kiểu này làm cho bọn trẻ rất thích thú , vì cũng kiếm được nhiều cá hơn, ai cũng phấn khởi.Thích thú nhất là lúc đánh cá theo đàn. Sau khi rải lưới ,trước một vụng sâu, mọi người đều đứng trên thuyền, tay cầm sào vừa bơi, vừa đập nước, vừa dềnh sóng, lướt vòng quanh vụng, dồn đuổi cá. Nước bị bắn lên như những vòi phun tung lên trong nắng giống những bông hoa óng ánh giữa sông. Cái Mai uốn éo người rất dẻo, lúc cúi lom khom ,lúc thẳng người như cánh chim bay lượn trên mặt nước. Cùng với thằng Bân như đôi uyên ương lướt sóng trên sông ,trông rất đẹp mắt. Lân nhìn hai đứa ,rồi nháy mắt, nhìn bác Nam Sao cùng cười,hởi lòng hởi dạ.Khi dừng đuổi cá. Họ ngồi xuống thuyền vớt lưới.mọi người thường dùng một tay bơi,một tay vớt lưới,nhưng cô gái trẻ đã dùng được cả hai tay vớt lưới ,cứ thoăn thoắt không kém gì thầy Nam Sao, những mắt lưới cứ loang loáng dưới ánh nắng,trông cứ như cô đang vớt một dải lụa dài vô tận dưới sông lên.Hôm đó, cái Mai bắt được một con cá chép lớn độ hơn hai cân,để dành về biếu thầy Nam Sao, nhưng thầy Nam Sao bảo:
- Cháu mang về biếu bố cháu, cho bố cháu phấn khởi. Xem nào, ai bảo con gái không đánh được cá,con gái Lâm Thao vừa ngoan vừa giỏi cơ mà !
Mấy hôm sau,là ngày chủ nhật,các cháu bé được nghỉ học.Nam Sao cho cả tổ kéo nhau đi thăm lại bến Mỵ, vượt sông năm xưa trên sông Đà,có cả chị Hoa và các cháu nhỏ cùng đi, ngồi trên thuyền ba cáng do chị Hoa bơi.Khi đến nơi ,chị Hoa nhìn thấy một cây đa to ở ven sông mới nhận ra bến cũ, chị kêu lên:
- Đây rồi ,anh Nam Sao ơi! Nếu không có anh lên đây ,thì chúng em cũng chẳng bao giờ đến thăm lại bến này đâu.
- Chính vì thế nên tôi mới đưa các bạn và các cháu đến đây.Đây là chiến trường xưa ,bác và bố mẹ cháu đã chiến đấu để có hòa bình cho các cháu hôm nay. Nơi đây là khởi nguồn tình yêu của bố mẹ cháu. Bố cháu đã đổ máu ở đây,và mẹ cháu đã cứu được bố cháu còn sống ,để có các cháu ngày nay.Một nơi lịch sử của gia đình ,các cháu cần phải biết ,là niềm tự hào của gia đình cháu mà các cháu cần phải gìn giữ và noi gương bố mẹ, giữ vững truyền thống của gia đình.
Mọi người đều phấn khởi ,như đi một chuyến du lịch về cội nguồn. Lân và Hoa dẫn các con cháu đến từng nơi họ đã nằm trú ẩn suốt một đêm một ngày,đói khát và rét mướt. Họ kể lại cho các con và các cháu nghe tình hình chiến sự lúc đó,rồi được bác Nam Sao cùng chú Mã bơi qua sông ,tìm đón hai người sang sông,rồi đưa bố Lân đi cấp cứu.Đến trưa thì chị Hoa cho các cháu nhỏ về trước, còn bốn thuyền cá tiếp tục đánh lưới, đến mãi chiều tối mới về. Ít ngày sau Nam Sao còn đến xã Tu Vũ,thuộc huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ ,thăm lại trận địa công đồn đầu tiên của quân ta cuối năm 1951. Trong đó Nam Sao là trung đội trưởng,chỉ huy bắc cầu vượt qua Ngòi Lát để tiến công đồn Tu Vũ,cũng là lần đầu tiên công binh ta bắc cầu phao bôn tập ngay sát hàng rào đồn địch.
Chương 21
BẮC CẦU PHAO TU VŨ
-Xuỵt ! Tất cả im lặng !
Trung đội trưởng Nam Sao tách khỏi đội hình sang một bên đường,nhìn hàng quân một lượt ,rồi khẽ hô tiếp:
-Tuyệt đối bí mật,nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh hành quân,không nói to, không phát tiếng động ,không bật lửa. Ê, cậu nào hút thuốc kia? tắt ngay !
Một đêm sáng trời trăng sao lấp lánh soi đường cho các chiến sỹ hành quân.Đội hình kéo dài hàng chục cây số. Họ đang bí mật tiến vào chiếm lĩnh trận địa,vào sát đồn Tu Vũ rồi làm công tác chuẩn bị tấn công. Các đơn vị bộ binh thì mang vác tương đối nhẹ ,còn các đơn vị binh chủng thì đều mang vác nặng, đường mòn khó đi. Pháo binh ,công binh ,súng cối … còn phải khiêng súng đạn nặng nề, dò dẫm từng bước,có khi bước thấp ,bước cao, có lúc đường gập gềnh,xô nhau ngã dúi ,ngã dụi. Nhưng họ lại dắt nhau đứng lên, không kêu ca phàn nàn, cũng có cậu bị đau quá, chửi văng tục một câu , nhưng rất khẽ : mẹ bố mày đi thế à, lộ hết bí mật bây giờ ! Rồi họ lại lầm lũi đi ,âm thầm và lì lợm.
Riêng ở đội hình trung đội công binh thì xem ra nặng nề và cồng kềnh nhất. Bởi họ,trước hết phải vác những bó nứa to,khiêng những bó cây dài và nặng. Rồi sau đó, lại phải khiêng những mảng cầu được ghép lại bởi những bó nứa và cây tre ,luồng ,liên kết bằng những dây rừng và những con nín rất chặt chẽ và chắc chắn.
Khi trời xẩm tối, mấy bà con dân làng Tu Vũ đi làm đồng về trông thấy bộ đội ta hành quân từ xa cũng dừng lại nhìn và bàn tán:
-Bộ đội ta có cái súng ống gì mà vừa to ,vừa dài thế không biết, cứ đen xì xì ấy thôi – Chắc là súng đại bác vác vai rồi .Chuyến này thì đồn Tu Vũ sẽ đi đời nhà ma,hết thói đi lùng sục cướp bóc hãm hiếp đồng bào ta nữa. Còn mấy thằng bé tồng ngồng cũng chạy ra nhìn và đếm bộ đội rồi kêu:
-Mẹ bố nó ,bộ đội đi đâu mà đông thế ,đếm mãi chả hết !
- Bộ đội có cái súng to lắm, nhiều lắm chúng mày ạ ! – Dân trong làng cũng kéo ra nhìn, họ chuyện trò vui vẻ, hồ hởi và tin tưởng , cũng có người nói bâng quơ một câu :
-Chắc gì đánh được nó, chúng có xe tăng ,đại bác nhiều lắm ,liệu trứng chọi với đá có được không ?
- Nếu không đánh được chúng trận này thì bọn chúng sẽ san bằng cái làng ,cái xã này để trả thù,chứ chả yên với chúng nó đâu !
Khi tới một đoạn bãi tương đối bằng phẳng dưới một chân núi còn cách đồn Tu Vũ khoảng bốn cây số. Trung đội trưởng Nam Sao cho trung đội mình cùng trung đội du kích và cả bộ binh tăng cường mang vác vật liệu làm cầu giúp công binh dừng lại để làm công tác chuẩn bị ghép những bó nứa thành từng mảng cầu trên cạn.Mỗi mảng rộng 1m,dài 5m,cao 0,50 m .Liên kết bằng những đoạn cây tre,luồng hoặc gỗ cứng ,dùng dây rừng buộc và đánh nín chặt. Sau khi ghép các mảng cầu xong thì xếp đội hình bắc cầu ngay trên cạn.Phân công mỗi tiểu đội chịu trách nhiệm một đoạn cầu, mỗi tổ một nhịp cầu. Tiểu đội một của tiểu đội trưởng Vũ Đăng Nụ dẫn đầu rồi đến tiểu đội hai của tiểu đội trưởng Đinh Bá Nhô, tiếp theo là tiểu đội ba của tiểu đội trưởng Trần Văn Khôi rồi tiểu đội bốn của tiểu đội trưởng Phạm Văn Xuân ,là tiểu đội thuộc trung đội ba, được đại đội tăng cường cho trung đội một làm nhiệm vụ bắc cầu trận này Đây là một cuộc diễn tập ,dàn đội hình bắc cầu trên cạn trước khi tiếp cận vào sát đồn địch mà trung đội trưởng Nam Sao đã nghĩ ra cách đây hai ngày, sau khi đi trinh sát địa hinh Ngòi Lát chảy qua đồn Tu Vũ đổ ra sông Đà, cùng với trung đoàn trưởng bộ binh 88,ngày 8/12/51. Cùng đi có các đại đội trưởng bộ binh ,quan sát hàng rào,lô cốt ,hỏa điểm địch, còn công binh thì theo yêu cầu của chỉ huy binh chủng hợp thành bắc cầu qua Ngòi Lát để cho tiểu đoàn bộ binh 322 của trung đoàn vượt sông vào đánh chiếm khu C của đồn Tu Vũ.Sau khi trinh sát,trung đoàn trưởng bộ binh cho phép bắc cầu ở một trong hai đoạn sông,một đoạn rộng 25m ,một đoạn rộng 27m. Nam Sao quyết định chọn đoạn 27m.Anh cùng các tiểu đội trưởng bí mật lội xuống lòng sông để đo đạc chiều dài, chiều sâu và thăm dò tình hình dưới đáy sông xem có nhiều hàng rào giây thép gai và bẫy mìn không. Mọi việc trinh sát đều làm trong đêm tối và nhẹ nhàng nhanh chóng ,bọn địch trong đồn không hề hay biết gì cả.
Sau khi trinh sát xong ,khi về đơn vị anh gọi câc tiểu đội trưởng cùng bàn bạc về thiết kế cầu cụ thể,tính toán vật liệu,nhân lực ,rồi làm kế hoạch tỷ mỉ báo cáo quyết tâm với đại đội và tiểu đoàn.Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 333 trung đoàn công binh151 là Lê Trung Ngôn tới dự,anh nghe rất chăm chú và hỏi khá tỷ mỉ:
-Bao nhiêu mảng bắc cầu ,bao nhiêu mảng dự bi ?
-Bảy mảng bắc cầu và hai mảng dự bị ạ !-Nam Sao trả lời.
-Phương án bảo vệ cầu thế nào?
-Dạ, mỗi đầu cầu một tiểu đội, trang bị súng trường, tiểu liên và đào công sự chiến đấu đầy đủ ngay từ đầu, còn hai tiểu đội dự bị sửa chữa cầu và cơ động sẵn sàng chiến đấu…
Anh Ngôn còn hỏi thêm nhiều vấn đề nữa nhưng Nam Sao đều trả lời trôi chảy làm tiểu đoàn phó rất hài lòng:
-Được ! Phương án thế là tốt, cần bổ sung thêm 1 đến 2 mảng cầu dự bị nữa, đề phòng cuộc chiến đấu kéo dài, chuẩn bị tình huống có thể chiến đầu cả ban ngày.
Anh Ngôn rất tán thành và khen ngợi trung đội trưởng Nam Sao đã có quyết tâm bắc cầu phao bôn tập bằng tre nứa cho bộ binh vượt sông ngay sát hàng rào địch. Tuy cầu không lớn lắm nhưng nó là chiếc cầu đầu tiên mà binh chủng công binh Việt Nam tiến hành trong chiến đấu công kiên.,mở đầu trong chiến dịch Hòa Bình này.
Trong cuộc họp cán bộ chiều qua, để phổ biến nhiệm vụ của tiểu đoàn 333 công binh trong trận Tu Vũ này. Tiểu đoàn trưởng Đinh Khang đã quán triệt tỷ mỉ về nhiệm vụ của tiểu đoàn trong trận chiến đấu mở màn chiến dịch Hòa Bình này là bảo đảm mở đường, bắc cầu cho các đơn vị bộ binh tiến quân,đào công sự bắn cho các trận địa pháo binh và hầm chỉ huy sở cho chỉ huy trung đoàn bộ binh 88,bảo đảm mọi điều kiện thuận lợi cho trung đoàn chiến đấu tấn công thắng lợi.Trong đó có nhiệm vụ bắc cầu qua Ngòi Lát là khó khăn phức tạp nhất. Bởi vì binh chủng công binh chưa có trang bị cầu chế thức làm sẵn,mà phải vận dụng vật liệu tại chỗ để làm cầu,mà thời gian lại rất gấp, chỉ có hai ngày đêm cả trinh sát và chuẩn bị vật liệu. Tiểu đoàn trưởng Đinh Khang dừng lại một lát , nhìn khắp mặt các cán bộ đang chăm chú nghe. Rồi anh hỏi:
-Đồng chí nào có thể xung phong làm được cầu này ?
Tất cả hội nghị đều im lặng, như để suy nghĩ về biện pháp để làm cầu,mọi người nhìn nhau, bàn tán rì rầm. Bỗng một anh chàng cao to trắng trẻo đep trai dứng phắt lên và nói lớn:
-Tôi xin nhận ạ !
- A,Nam Sao, hoan hô tinh thần xung phong đầu tiên! -Mọi người đều nhìn về phía Nam Sao như để khuyến khích và hoan nghênh anh. Tiểu đoàn trưởng hỏi tiếp:
-Có ai xung phong nữa không ? -Ngừng một lát,chưa thấy ai xung phong tiếp,Đinh Khang hỏi Nam Sao :
-Vậy đồng chí định bắc cầu bằng phương pháp nào?- Nam Sao trả lời ngay:
- Cứ đi trinh sát rồi mới biết và sẽ có phương án ạ !
-Phải đi trinh sát đã ạ … trinh sát ạ ! Mọi người cùng nhao nhao lên.Tiểu đoàn trưởng dơ tay làm hiệu cho mọi người yên lặng rồi nói:
-Tôi nhất trí cho người xung phong đầu tiên, Nam Sao trung đội trưởng trung đội 41 của đại đội 270. Cứ đi trinh sát ,rồi làm phương án cụ thể ,tiểu đoàn trực tiếp duyệt, nếu cần sẽ tăng cường thêm các phân đội khác bổ sung. Có nhất trí không ?
-Nhất trí …ạ.! -Mọi người đêu cùng nói rồi quay ra bắt tay Nam Sao: Cố gắng nhé,chúng mình sẽ ủng hộ.
Tiểu đoàn phó Lê Trung Ngôn đã quen với tay trung đội trưởng cao to đẹp trai này từ lâu và rất có thiện cảm với anh ta.Việc gì anh ta cũng xung phong đi đầu,việc gì anh ta cũng làm đến nơi đến chốn.Thế mà anh ta vẫn chưa được vào đảng,chỉ vì trong lý lịch anh ta có một vết đen ,vì có một người anh trai đi lính ngụy, lính đánh thuê cho giặc Pháp ,nên anh ta bị ảnh hưởng, phải ngậm tăm mà chịu đựng mặc dầu anh ta rất hăng hái ,tháo vát,Nhiều cậu cùng lớp anh ta đã lên chức đại đội trưởng,đại đôi phó rồi. Riêng anh ta vẫn đứng mãi ở chức trung đội trưởng. Lê Trung Ngôn rất thương Nam Sao, nhưng cũng chỉ biết vậy chứ không thể can thiệp vào công việc của mấy ông chính trị viên được. Thỉnh thoảng gặp nhau ,anh cũng chỉ biết động viên Nam Sao:
-Cố gắng kiên trì, đừng bi quan chán nản ,gái có công chồng không phụ đâu.! Nam Sao cũng chỉ ừ hữ trả lời người thủ thưởng thân thiết của mình:
- Thủ trưởng cứ yên tâm, Nam Sao này đã nói là làm ! Số phận như vậy biết làm sao được! Trong thâm tâm ,anh còn muốn nói rằng : cứ thử xem mèo nào cắn mỉu nào, đảng viên hay ngoài đảng hơn. Nhưng anh đã kìm mình lại không nói ra câu ấy.
Bố ơi ! con đi bắc cầu cho
.
Sau thất bại ở biên giới Thu đông 1950, tiếp đó lại bị đánh mạnh ở Trung du, đường số 18, Hà Nam Ninh, quân Pháp lâm vào thế phòng ngự bi động. Để giành lại quyền chủ động, mùa đông năm 1951, chúng mở cuộc tiến công ra Hòa Bình, lập phòng tuyến sông Đà nối liền với phòng tuyến phòng thủ trung tâm Sông Đáy, nhằm tăng cường khả năng phòng thủ đồng bằng Bắc Bộ, cắt đứt đường liên lạc của ta giữa chiến khu Việt bắc với các Liên khu 3 và 4.Trước tình hinh đó, Bộ Chính tri Trung ương Đảng ta quyết đinh mở chiến dịch tiến công quân địch ở Hoà Bình. Mở màn chiến dịch, trung đoàn 88 đại đoàn 308 có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt cứ điểm Tu Vũ.
Cứ điểm Tu Vũ năm trên địa bàn xã Tu Vũ, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ , trên đường liên tỉnh Hòa Bình đi Phú Thọ, cách thi xã Hòa Bình 30 km về phía bắc, Cứ điểm ở ngay bên bờ sông Đà, trên bình độ 20, có chiều dài 250 m, chiều rộng 100 m.Đông bắc cứ điểm giáp sông Đà, phía bắc cách khoảng 300 m có các làng Tu Vũ, Đông Xuân, phía tây có làng Bò Ngang, qua bãi lau rộng khoảng 3 km là dãy núi Yên Lãng (cao 205 m so với mặt biển), tại đây ta có thề quan sát được toàn bộ cứ điểm và các khu vực xung quanh, làng bản ở đây bị địch đốt phá, phần lớn nhân dân đã sơ tán khỏi khu vực này.Đường liên tỉnh Hòa Bình đi Phú Thọ là một tuyến đường quan trọng chạy từ đông nam lên phía bắc, gần như song song với sông Đà và có những đoạn chạy sát bờ sông, đường rải đá cấp phối, mặt đường rộng khoảng 6m, xe cơ giới đi lại dễ dàng. Đoạn chạy qua cứ điểm Tu Vũ chia cứ điểm thành hai khu vực. Ngoài ra còn có các đường mòn chạy từ núi Yên Lãng qua bãi lau tới cứ điểm và từ điềm cao 313 ra khu C…Sông Đà chảy từ tây bắc qua thị xã Hòa Bình chảy ngược lên phía bắc đổ ra sông Hồng, đoạn chảy qua địa phận Tu Vũ rộng 400 - 500 m. Giữa sông có cồn cát lớn, từ Tu Vũ có thể lội sang được. Từ mép bờ sông đến chân cứ điểm là bãi cát rộng khoảng 150m.
Ngòi Lát bắt nguồn từ dẫy Yên Lãng chảy từ tây bắc xuống đông nam ra sông Đà, đoạn chảy qua cứ điểm chia cứ điểm thành hai khu vực (đông bắc và tây nam). Ngòi rộng 25 -27 m, sâu 2 -3 m, hai bên bờ dốc đứng, ở giữa đồn, có một cầu sắt (dầm gỗ) bắc qua. Cầu dài 10 m, rộng 5 m, cách mặt nước 7 m, có vị trí quan trọng nối liền hai khu vực của cứ điềm.Thời tiết lúc này đang trong mùa khô, đêm có trăng sáng, tiện cho ta hành quân vào chiếm lĩnh trận địa và quan sát, nhưng dễ bi lộ. Địa hình khu vực Tu Vũ tương đồi bằng phẳng, tiện cho ta cơ động lực lượng, nhưng dễ bi lộ nếu không ngụy trang tốt, Ngòi Lát có trở ngại cho việc tiếp cận cứ điểm. Có nhiều đường mòn dễ bị lạc.
*
* *
Sau khi đi trinh sát đồn địch về, Nam Sao đã cùng một liên lạc lên khu rừng phía bắc làng Tu Vũ để tìm nguồn vật liệu bắc cầu,đây là khu rừng nứa bạt ngàn.Sau đó vào làng tìm xã đội trưởng, để xin chi viện một trung đội dân quân du kích chặt nứa và vận chuyển,cùng tham gia bắc cầu với bộ đội.Được xã đội nhiệt tình ủng hộ:
-Các đồng chí cần một trung đội chứ cả đại đội cũng có ngay , đồng bào ta đang khổ vì bọn giặc lắm rồi.
- Vâng cảm ơn các đồng chí,chỉ cần một trung đội thôi ,đông quá càng dễ lộ bí mật. Vả lại các đồng chí còn phải chi viện lực lượng cho bộ phận cáng thương và cả cấp cứu thương binh nữa cơ.
Một cô gái đang đứng gần đó ,nghe thấy cũng vội chen vào:
- Bố ơi để trung đội du kích của con đi tham gia bắc cầu cho !
Nam Sao quay lại , nhìn thấy cô gái trẻ khỏe và xinh đẹp liền nháy mắt mỉm cười và gật đầu chào cô: -thế thì tốt quá! -Rồi quay sang xã đội trưởng cười nói và chuyển cách xưng hô: Vậy thưa bác,bác cho ngay trung đội của cô… tên em là gì nhỉ ?- Tên em nó là Huệ- xã đội trưởng xen vào- bác cho trung đội của em Huệ tham gia với công binh cùng cháu đi ạ.
-Nhất trí thôi, vậy cái Huệ đi gọi chị em lại ,mỗi người mang theo một con dao sắc để chặt nứa và cây rừng,tập trung ở mé sau đồi Lau để anh chỉ huy,,.À tên anh là gì nhỉ?-Dạ,tên cháu là Nam Sao ạ ,cứ gọi cháu là Sao ạ-Nam Sao trả lời- Ừ để anh Sao ,chỉ huy công binh hạ đạt mệnh lệnh cụ thể nhá ! À mà hai mươi phút nữa có mặt ,nhớ mang theo vũ khí đầy đủ và phải hết sức kín đáo, không cho ai biết trước nhé,kẻo lộ bí mật đấy.
- Vâng ạ! Con đi ngay đây,chào anh Sao nhé , cô nháy mắt một cái rất tình tứ ,hẹn gặp nhau sau hai mươi phút nữa nhé. Nói xong cô gái lao nhanh ra cổng,về phía trong làng.
Nam Sao thấy bước đầu hiệp đồng đã gặp thuận lợi,anh phấn khởi cùng liên lạc chào bác xã đội trưởng rồi kéo nhau về phía đồi Lau mang theo ánh mắt ,nụ cười của cô trung đội trưởng du kích Huệ.
* *
Cuộc chặt cây trong rừng đang tiến hành thuận lợi thì bỗng có tiếng kêu:
-Ối ,bị thương rồi !
-Ai đấy ?
-Anh bộ đội .!
Mấy cô gái gần đấy xúm xít lại ,một anh bộ đội bị nứa lao vào bắp chân ,máu chảy lênh loáng,một cô gái vội lấy cuộn băng quấn lại cho anh.Một cô khác nói:
-Tại anh không biết chặt nứa đấy mà ,thế anh chưa chặt nứa bao giờ à? Cũng may chỉ vào chân,nếu cứ đứng thẳng hướng cây lao xuống thì có khi thủng bụng đấy.
- Ở quê em có nứa đâu mà biết chặt- Chú bộ đội trẻ măng vừa xuýt xoa nhăn mặt vừa trả lời.
Nam Sao cùng cô Huệ rút kinh nghiệm rồi cùng đi kiểm tra nhắc nhở các chú bộ đội đang chặt nứa trong rừng.
Đến nửa buổi thì có thêm mấy cụ già trong làng lên rừng.Nam Sao vội vàng ra chào các cụ:
- Cảm ơn các cụ đến chi viện cho chúng con.
-Đánh giặc là việc của toàn dân,các cụ bô lão chúng tôi ra giúp bộ đội bó nứa ,cưa cây ,đan phên lát cầu đây… Ông xã đội trưởng vừa báo là chúng tôi đi ngay,biết là các anh chưa quen việc này,các lão ra đỡ một tay.
-Cảm ơn các cụ lắm,đúng là chúng con ít người thông thạo việc này có các cụ giúp sức thì mới nhanh được ạ.
Nam Sao cho gọi một số chiến sỹ lớn tuổi vác nứa ra cùng làm với các cụ,anh em vừa học vừa làm, được các cụ hướng dẫn ,chẳng mấy chốc mà anh em quen tay ngay.
Chỉ khoảng một tiếng sau khi trời đã xẩm tối, thì 40 bó nứa dài 5m đã được bó xong chặt chẽ ,hai đầu cưa cắt bằng phẳng ,40 m phên lát mặt cầu cũng đã được đan xong nhẵn nhụi ,phẳng lì, các cây nối liên kết ,bó vỉa và các cuộn dây để chằng buộc,đánh nín cầu cũng đã chuẩn bị xong đầy đủ,sắp sẵn thành từng đòn cho hai người khiêng cũng đã xong. Nam Sao và cô Huệ cảm ơn và tiễn các cụ già ra về, rồi cho bộ đội và du kích nghỉ ăn cơm nắm do các anh nuôi, chị nuôi đưa đến rồi chuẩn bị hành quân vào đồn địch
* *
Chiếm lĩnh trận địa
17 giờ, trung đoàn trưởng hạ lệnh cho các đơn vị hành quân vào chiếm lĩnh trận địa.
Tiểu đoàn 29 với 5 khẩu sơn pháo 75 mm, trung đội súng máy phòng không 12,7mm và sở chi huy trung đoàn đi theo đường xóm Né, Bò Ngang vào chiếm lĩnh trận địa ở phía tây khu B. Là hướng chính, mũi chủ công của trung đoàn.Đánh vào khu B, là chỉ huy sở của tiểu đoàn đich,trân địa pháo tập trung và một đại đội bộ binh địch.Tiều đoàn 23 cùng với 2 khẩu pháo 75 mm theo đường xóm Né Đồng Xuân vào chiếm lĩnh trận địa ở phía bắc khu A. Là hướng thứ yếu của trung đoàn.Đánh vào khu A, gồm một đại đội bộ binh địch.
Tiểu đoàn 322 cùng các lực lượng tăng cường gồm công binh và pháo đi cùng từ xóm Đồi Lau qua xóm Trại vào chiếm lĩnh trận địa ở phía tây nam khu C.Đánh chiếm khu C,gồm một đại đội bộ binh địch.
Cuộc hành quân của công binh chặng thứ nhất bắt đầu.Với số lượng 40 bó nứa ,40m phên lát mặt cầu và hàng chục đòn khiêng các vật liệu khác,chưa kể trang bị súng ống của cá nhân.Với khối lượng nhiều như thế thì , số lượng người của công binh và du kich của cô Huệ cũng không mang vác hết nên trung đội trưởng Nam Sao phải xin thêm một trung đội bộ binh nữa chi viện vận chuyển.Vì thế đội hình hành quân của bộ phận khiêng vác cầu dài lê thê,dài hơn cả đội hinh hành quân của đại đội bộ binh đi trước dẫn đường và bảo vệ bắc cầu,vì cứ cách một bó nứa hay một đòn khiêng mới có một người. Cô Huệ trung đội trưởng du kích cũng mang vác như chị em, cô vác rất khỏe và đôn đốc chị em đi nhanh cho kịp các anh bộ đội. Đội hình hành quân ,mang vác đều được ngụy trang kín đáo,trông như những lùm cây lòa xòa chuyển động. Cũng may trời sáng trăng và còn xa đồn địch nên đi được nhanh hơn. Đi được hơn 6 cây số thì đến vị trí tập kết thứ nhất, là một bãi bằng phẳng , trung đội trưởng Nam Sao cho dừng lại để triển khai tác nghiệp, chằng buộc các mảng cầu và xếp đội hình bắc cầu trên cạn,để các tiểu đội ,các chiến sỹ nhớ từng vị trí của mình. Lúc này chỉ còn cách vị tri địch 4 cây số nên trong khi công binh tác nghiệp cầu ,thì bộ binh triển khai bảo vệ phía trước và xung quanh
*
Tuy đã trinh sát kỹ, nhưng do địa hình trống trải, có nhiều đường ngang tất, nên trinh sát của bộ binh đã đưa tiểu đoàn 29 và tiểu đoàn 23 đi lạc đường và bị ùn tắc ở cuối sân bay. Anh em không giữ được bí mật, nên bi lộ.Tiều đoàn sơn pháo 75 mm và bộ phận súng cối gặp địch phục kích, chúng bắn vài loạt rồi bỏ chạy về cứ điểm. Tiểu đoàn 322 cũng gặp địch tuần tra ở gần cứ điểm.,nhưng chúng thấy đông quá ,chỉ bắn vu vơ rồi vội vàng bỏ chạy về đồn.
Đội hình hành quân của trung đoàn bi lộ khi chưa vào đến vị trí xuất phát tiến công. Pháo địch từ Chẹ, Đá Chông, Thủ Pháp bên kia sông Đà bắn mạnh vào đội hình của trung đoàn, tạo nên màn đạn bao quanh cứ điểm. Bộ đội phải đứng lại đào công sự tránh pháo, một số bị thương vong. Mặc dù đã dự kiến trước tình huống này nhưng cán bộ chi huy các đơn vị lúc đầu tỏ ra lúng túng, nhất là khi hệ thống thông tin bị gián đoạn.
22 giờ ngày 10 tháng 12 công binh bắt đầu xuất phát chặng hai . Đi đầu là đại đội bộ binh chủ công do đại đội trưởng Kỳ Vũ chỉ huy, tiếp sau là công binh.Ở chặng đường hành quân thứ hai này, chậm chạp hơn chặng thứ nhất bởi các bó nứa đã được ghép lại, thành các mảng cầu,cồng kềnh hơn, nặng nề hơn.Lại đi vào đồn địch,nên các chiến sỹ phải hết sức nhẹ nhàng kín đáo Trung đội trưởng Nam Sao và trung đội trưởng du kich Đào Thị Huệ, luôn luôn chạy lên chạy xuống để điều chỉnh đội hình bám sát ,tiến đều ,không bị gián cách hoặc ùn tắc. Đề phòng pháo địch bắn trúng ,giảm bớt thương vong. Càng gần tới đồn địch thì tốc độ càng chậm lại, gần tới bờ sông Ngòi Lát ,tất cả phải đi thấp người xuống,có đoạn phải bò. Đoàn khiêng vác cầu công binh cứ như rồng rắn , như một mũi tên, im lìm tiến sát bờ sông, sát vào đồn địch .
Hồi 23 giờ,đã sát đồn Tu Vũ,kẻ địch chưa hề động tĩnh gì. Bộ binh triển khai yểm hộ. Công binh bắt đầu bắc cầu.Tiểu đội trưởng Vũ Đăng Nụ dẫn tiểu đội một đi trước,lao nhịp cầu đầu tiên nhẹ nhàng xuống bờ sông,rồi nhịp cầu hai, liên kết lại với nhau , đến nhịp cầu ba,nhịp cầu bốn của tiểu đội trưởng Đinh Bá Nhô tiểu đội hai,tiếp đến nhịp cầu năm ,nhịp cầu sáu của tiểu đội trưởng Trần Văn Khôi, tiểu đội ba, rồi nhịp cầu bảy của tiểu đội trưởng Phạm Văn Xuân. Người nào người nấy, tổ nào tổ nấy cứ bí mật tác nghiệp liên kết ,chằng buộc các nhịp cầu và các cấu kiện với nhau bên mé bờ ta .Trung đội trưởng Nam Sao đi kiểm tra,sờ từng nút buộc của các chiến sỹ,từng mảng cầu của từng tổ, từng tiểu đội. Khi thấy chắc chắn rồi, anh mới yên lòng và ra lệnh chuẩn bị sẵn sàng cho quay cầu sang sông. Trung đội trưởng du kích Đào Thị Huệ kiểm tra các mảng cầu dự phòng cũng thường trực sẵn sàng ở trên bờ sông,Tất cả các chiến sỹ ,bộ đội và du kích đều phải đào hầm hố tránh đạn ngay tại vị trí chiến đấu và sẵn sàng súng ống hướng về phía đich.
Mọi công tác chuẩn bị bắc cầu và tác nghiệp của các chiến sỹ ta vẫn trong tâm pháo cầm canh của bọn địch ,nhưng chúng không phát hiên được gì,quân ta vẫn giữ được hoàn toàn bí mật, làm cho người chỉ huy các cấp thấy yên lòng.Nam Sao nghĩ bụng ,chắc các thủ trưởng đại đội ,tiểu đoàn công binh cũng đang nghe ngóng về nhịp cầu này đây. Anh nhủ thầm: Xin các thủ trướng cứ yên tâm,Nam Sao này đã ra quân là chiến thắng. Bởi anh tin tưởng vào cán bộ và các chiến sỹ của mình,.cả trung đội nữ du kích hôm nay cũng thật là đắc lực, phối hợp nhịp nhàng như đã quen biết nhau từ lâu. Đồng chí trung đội trưởng Đào Thị Huệ thật là hay một cô gái đẹp người ,đẹp nết rất nhanh nhẹn và tháo vát. Sau trận chiến đấu này ,nếu còn sống mình phải đến gia đình cảm ơn cô ta và ghi công cho trung đội du kích của địa phương mới được.
Chương 22
THỜI CƠ BẮC CẦU
Hai mươi bốn giờ, trong khi Nam sao đang miên man suy nghĩ thì,pháo binh ta bắt đầu bắn pháo chuẩn bị ,đợt thứ nhất bắn vào đồn địch ,nhằm triệt phá các hỏa điểm ở cả các khu A,B,C trong đồn Tu Vũ,đồng thời các hỏa lực trong đồn cũng bắn ra mãnh liêt,pháo binh địch ở các đồn xung quanh cũng lên tiếng rầm rộ. .Đây chính là thời cơ bắc cầu của công binh sát hàng rào địch. Qua ánh sáng của các loại pháo của ta và địch , các hỏa điểm trong đồn,Nam Sao đứng hẳn lên,quan sát lại đội hình của quân ta một lượt rồi dơ tay phất cờ chỉ huy ra lệnh bắc cầu.
Tiểu đội trưởng Vũ Đăng Nụ nhanh chóng dẫn chiến sỹ của tiểu đội một từ từ lộị xuống nước bám vào mảng cầu quay dần cầu sang bờ địch,không được để sóng lấp lánh dưới sông,vì ánh đèn điện trong đồn địch soi sáng cả một vùng sông nước ,đề phòng địch phát hiện thấy.Các chiến sỹ nhanh nhẹn đưa mố liên kết vào hai bên bờ và buộc thả neo chắc chắn. Chỉ trong vòng 15 phút sau, thì cầu phao công binh đã hoàn thành
* *
Phát hiện được cuộc tiến công của ta, địch bắn pháo ngày càng mạnh hơn, tạo nên các đoạn bắn chặn cố định và di động trên các hướng tiến quân của trung đoàn, tiểu đoàn trưởng và chính trị viên của tiều đoàn 23 hy sinh, tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn 29 bị thương. Tiểu đoàn pháo binh 90, và bộ phận cối 82 mm bị pháo địch cản đường, hai khẩu pháo đi đầu bị trúng đạn. Chiến sĩ khiêng pháo bí thương không vào trận địa triển khai được. Sở chỉ huy trung đoàn cũng bi pháo địch bắn, phải di chuyền ra cạnh Ngòi Lát. Trung đoàn trưởng hầu như mất liên lạc với các đơn vị suốt từ 19 giờ đến 22 giờ, các hướng tiến quân bị “phơi lưng” trước hỏa lực pháo binh của địch.
Một sồ đồng chí phái viên cấp trên cùng đi với trung đoàn đã nêu ý kiến: nên tổ chức đánh tiếp hay lui quân? Lúc 22 giờ tại sở chỉ huy trung đoàn, thường vụ đảng ủy trung đoàn họp dưới sự chủ toạ của đồng chí chính ủy kiêm bí thư Đặng Quốc Bảo. Sau khi nhận định tình hình, thường vụ khẳng định: khả năng đánh thắng địch vẫn còn, lui quân lúc này cũng thêm tổn thất và ảnh hưởng tới tư tưởng bộ đội và quyết định:
- Tiếp tục lãnh đạo trung đoàn thực hiện nhiệm vụ tiến công tiêu diệt cứ điểm Tu Vũ,đánh thắng trận mở màn chiến dịch.
- Về biện pháp: nhanh chóng củng cố tổ chức, chấn chỉnh đội hình, đưa bộ đội vào tiếp cận sát hàng rào để tránh pháo địch sát thương, khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bị sẵn sàng nổ súng khi có lệnh.
- Chuẩn bị kế hoạch đánh cả ngày hôm sau: Bộ tư lệnh đại đoàn nhất trí thông qua quyết tâm của trung đoàn và chỉ thị: tiếp tục động viên bộ đội khắc phục khó khăn. kiên quyết thực hiện nhiệm vụ tiến công địch trước lúc trời sáng. Lúc này thông tin giữa trung đoàn và các đơn vi vẫn chưa thông suốt, trung đoàn đã phân công cán bộ trực tiếp xuống từng đơn vi truyền đạt nghị quyết của thường vụ đảng ủy giúp đơn vi tổ chức chiến đấu và bổ sung cán bộ cho tiểu đoàn 23 thay thế các đồng chí đã hy sinh.
- Trung đoàn phó Hùng Sinh trực tiếp xuống chỉ đạo các đơn vi của tiểu đoàn pháo binh 90, nhanh chóng đưa pháo vào vi trí triển khai. Phó chính ủy Nguyên Bồng trực tiếp xuống chấn chỉnh các phân đội bi lạc do pháo địch bắn chặn, tổ chức cho bộ đội vào chiếm lĩnh trận địa quy định.
Trong khi thường vụ đảng ủy họp, các đơn vi mặc dù mất liên lạc với trung đoàn, lực lượng bị thương vong nhiều nhưng vẫn chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao theo kế hoạch, đưa bộ đội vượt qua làn pháo bắn chặn của địch tiến vào vị trí triển khai. Tiểu đoàn 29 và tiểu đoàn 23 sau khi vào vi trí triền khai đã nhanh chóng cho lực lượng mở cửa lên cắt gỡ hàng rào. Thường vụ đảng ủy tiểu đoàn 29 họp đánh giá tình hình và hạ quyết tâm ngay dưới làn đạn pháo của địch.
* *
Đã quá giờ nổ súng
Đã quá giờ nổ súng theo quy định nhưng trung đoàn chưa tổ chức xong đội hình tiến công, hệ thống thông tin chưa thông suốt tới các đơn vị. Riêng tiểu đoàn 322 chiếm lĩnh trận địa xong đúng giờ quy định nhưng mất liên lạc với trung đoàn, pháo địch bắn nhiều, không phân biệt đâu là tiếng bộc phá lệnh.ở phía khu B, hướng chủ yếu.
.Đại đội trưởng bộ binh Kỳ Vũ hạ lệnh cho đại đội chủ công 225của mình băng qua cầu công binh ,xung phong vào chuẩn bị phá hàng rào đánh chiếm khu C đồn địch . Các chiến sỹ công binh làm nhiệm vụ giữ cầu. Trung đội trưởng Nam Sao phân công :Tiểu đội một phía bờ hữu ngạn khu C đồn địch ,tiểu đội hai phía tả ngạn ,khu A đồn địch, tiểu đội ba và bốn sẵn sàng sửa chữa cầu.Trung đội du kích sẵn sàng cấp cứu thương binh và tải thương qua cầu. Cuộc chiến đấu đang diễn ra ác liệt
Chờ đến 23 giờ 05 phút, đồng chí Nam Hà Tham mưu trưởng trung đoàn hạ lệnh cho tiểu đoàn 322 cứ nổ súng tiến công khu C trước. Đại đội 225 và đại đội 227 dùng bộc phá mở cửa. Cửa mở xong xung kích của đại đội 225 vượt qua cửa mở đánh chiếm lô cốt đầu cầu và phát triển vào tung thâm. Địch dùng xe tăng và 1 tiểu đội ra phản kích đầy lùi mũi đột kích một của đại đội 225, đại đội phải sử dụng đột kích hai vào cùng đột kích một đẩy lùi quân địch phản kích và phát triển chiến đấu. Nhưng lại bị pháo và hỏa lực súng máy của địch bắn chặn, hai cán bộ trung đội hy sinh, lực lượng tiến công trên hướng này bị thương vong gần hết, phải tạm thời dừng lại.
Ở hướng đại đội 227, sau khi mở được cửa, đột kích một nhanh chóng đánh chiếm 2 ụ súng số 5 và số 6; đột kích hai đánh chiếm ụ súng số 7 rồi chia thành hai mũi đánh lô cốt E và ụ súng số 8, bắt liên lạc được với đại đội 225. Đột kích một sau khi đánh chiếm ụ súng số 5 vả số 6 gặp hầm ngầm đã để lại một bộ phận đánh hầm ngầm, sồ còn lại tiếp tục phát triền vào dãy nhà lính để tiêu diệt địch, đồng thời tiến ra bờ sông Ngòi Lát.
Trong khi bộ binh và tải thương đang qua cầu thì một tình huống sảy ra ,một quả đạn đại bác của địch bắn trúng giữa cầu,làm vỡ tung hai nhịp cầu làm gián đoạn đội hình bộ binh và tải thương làm một chiến sỹ bộ binh hy sinh ,một chiến sỹ bộ binh và một chiến sỹ công binh bị thương,Ngay lập tức Nam Sao lệnh cho một tổ xuống cấp cứu thương binh tử sỹ và lệnh hai tiểu đội ba và bốn lao hai nhịp cầu dự bị xuống để sửa chữa cầu ngay.trong khi các chiến sỹ đang sửa cầu dưới sông thì cô Huệ cho hai tiểu đội du kích vận chuyển tiếp hai nhịp cầu dự bị khác ra sát bờ sông,một tiểu đội cấp cứu thương binh tử sỹ.
Chỉ mười phút sau,tiểu đội ba và tiểu đội bốn đã sửa cầu xong. Các đơn vị bộ binh phía sau lại tiếp tục qua sông , đánh chiếm vào sâu trong đồn địch.Các tổ đội cáng thương lại nhanh chóng qua cầu về phía sau
Hiên ngang không bao giờ chết !
-Báo cáo có địch phản kích trong đồn ra ! –Tiểu đội trưởng tiểu đội một vội vàng báo cáo- Nam Sao nhìn về phía đồn địch thấy khoảng một tiểu đội địch lao ra phía đầu cầu của tiểu đội một .Anh hô to :
-Tiểu đôi một giữ vững trận địa ! tiểu đội ba tiến lên chi viện,đánh tạt sườn phía bên trái !-Nam Sao vừa hô vừa băng nhanh đến vị trí tiểu đội một. Tiếng súng của các chiến công binh đang dồn dập bắn về phía địch . Tiểu đội ba đang vọt lên bờ.Nam Sao hô rất to, át cả tiếng súng đạn :
-Xung …pho..o.. o ng !
Các chiến sỹ của tiểu đội ba và tiểu đội một đều xông lên và hô theo : Xung …phong ! . Bọn địch một số ngã, số còn lạị tháo lui ,liền bị quân ta dượt theo, dùng lưỡi lê báng súng quật ngã tiếp. Giữa lúc đó cô Huệ thấy Nam Sao cứ đứng mãi để chỉ huy, dưới ánh sáng của lửa đạn, bóng anh cứ cao lêu đêu, cô sợ quá, cô liền chạy khom người lao nhanh đến sát Nam Sao và gọi thất thanh :
- Anh Sao cúi xuống !- Vừa lúc đó hàng loạt đạn bắn tới tấp bay qua đầu hai người,cũng may Nam Sao đã kịp ngồi quỳ xuống bên cạnh cô.
- Anh hiên ngang quá , em lo cho anh lắm ! -Huệ nói với vẻ thán phục, tự hào.- Nam Sao bỗng buột miệng nói to như để nhắc nhủ mình và cũng là động viên tinh thần các chiến sỹ:
- Hiên ngang không bao giờ chết ! – Dũng cảm,mũi tên hòn đạn nó tránh mình!-.Rồi quay lại nói với Huệ:
- Cứ bình tĩnh em ! anh quen rồi, - Nam Sao vội chống chế -không đứng thì chỉ huy làm sao được !- Huệ nhìn Nam Sao lòng đầy cảm mến, cô ở luôn cạnh Nam Sao trong suốt trận đánh, như cố ý để bảo vệ anh.
Trong lúc này các tiểu đoàn bộ binh đánh khu A và khu B đang gặp khó khăn chưa tiếp cận vào trận địa được. Bọn địch ở đây đánh trả quyết liệt và pháo binh địch ở các đồn xung quanh và bên kia sông Đà bắn đồn dập như đổ đạn vào xung quanh đồn địch để ngăn chặn quân ta.
*
24 giờ 30, thấy mũi của đại đội 225 gặp khó khăn, tiều đoàn lệnh cho đại đội 229 vào tiếp sức chiến đấu cho đại đội 225. Chiến sĩ Ngọc đại đội 225 dùng quả bộc phá 20 kg đánh sập lô cốt trong tung thâm và anh dũng hy sinh. Đại đội 229 vào tới nơi liền chia thành 2 mũi. Mũi một đánh thắng vào phía đông đầu cầu bắc qua Ngòi Lát; Địch ra phản kích bị ta đánh bật trở lại. một số tên bị tiêu diệt, số còn lại tháo chạy sang khu B. Mũi hai đánh tạt sang 2 ụ súng số 9, sổ 10; địch ở đây tháo chạy sang khu B bị mũi một chặn lại tiêu diệt một số.
Khoảng 01 giờ ngày 11 tháng 12. tiều đoàn 322 làm chủ hoàn toàn khu C. Địch sợ ta tràn sang khu B nên đã dùng bộc phá phá cầu sắt giữa khu C sang khu A và cho pháo bắn trùm lên khu C.
Chiếc cầu sắt chỉ bị gẫy gục xuống Ngòi Lát.Tham mưu trưởng trung đoàn lệnh cho công binh lên khắc phục cầu để bộ binh băng qua,truy kích địch.
Lại một lần nữa,cầu phao bị trúng đạn pháo ở gần mố bờ ta,một nhịp cầu bị vỡ tung.
Trung đội trưởng Nam Sao liền lệnh cho tiểu đội ba và tiểu đội bốn ở lại sửa cầu phao, giao cho trung đội phó Phí Hải Long chỉ huy.Còn tiểu đội một và hai nhanh chóng sang khắc phục cầu sắt.Tiểu đội trưởng tiểu đội một Vũ Đăng Nụ dẫn một tổ ra trinh sát và dọn cầu gẫy ,còn lại tất cả vào trong đồn lùng sục tìm gỗ ,sắt, cây đổ, cột cờ ,cái gì có thể bắc cầu được thì vác ra ngay,kể cả cánh cửa,giường nằm….Cô Huệ cũng lệnh cho chị em du kích khiêng nốt nhịp cầu phao dự bị đến cho tiểu đội ba. Số còn lại cũng nhảy vào đồn tìm và khiêng vác vật liệu đem ra cho công binh bắc cầu sắt gẫy.Nam Sao đứng ngay ở đầu cầu sắt để chi huy các chiến sỹ. Chẳng mấy chốc cầu sắt đã khắc phục xong,các đơn vị bộ binh vội băng qua cầu truy kích bọn địch đang chạy ra bãi cát ,để lộị sang bãi bồi giữa sông, ta kịp thời tiêu diệt được một số đich,còn lại chúng bơi sang cồn cát giữa sông.
Đến lúc này vẫn không bắt liên lạc được với trung đoàn, để giảm bớt thương vong cho đơn vị, tham mưu trưởng Nam Hà hạ lệnh cho tiểu đoàn 322 thu chiến lợi phẩm, giải quyết thương binh tử sĩ rồi rời khỏi trận địa.
Chương 23
TÌNH HUỐNG ÁC LIỆT
Lúc 01 giờ 30 ngày 11 tháng 12, hai tiểu đoàn 29 và 23 mới chiếm lĩnh xong trận địa báo cáo về trung đoàn xin nổ súng. Lúc đó mạng thông tin hậu tuyến giữa trung đoàn với các đơn vị vẫn chưa triển khai xong; trung đoàn nhận được thông báo của đại đoàn: tiểu đoàn 322 đã tiêu diệt và làm chủ hoàn toàn khu C. Trung đoàn ra lệnh cho hai tiểu đoàn 29 và 23 cùng lực lượng pháo binh khẩn trương hoàn thành công tác chuẩn bi tiến công.
1 giờ 45 ngày 11 tháng 12, trung đoàn trưởng lệnh cho pháo binh thực hành pháo hỏa chuẩn bị. Lúc này trăng sáng nhìn đồn địch rất rõ. 4 khẩu pháo 75 mm và 6 khấu cối 82 mm bắn dồn dập vào khu A, khu B. Sau đó tiểu đoàn 23 và 29 được lệnh mở cửa và xung phong đánh chiếm các mục tiêu quy định.
Trên hướng tiều đoàn 23, ngay sau khi có lệnh nổ súng, đại đội 209 cho tổ bộc phá lên phá sạch 4 hàng rào ở cửa mở. Bộ phận đánh chiếm đầu cầu nhanh chóng xung phong đánh chiếm ụ súng số 14 rồi hình thành hai mũi, mũi một đánh chiếm nhà kho, mũi hai đánh chiếm ụ súng 1, sau đó phát triển sang hướng đại đội 213.
Cùng lúc đó đại đội 213 đánh chiếm các ụ súng số 15 và 16 rồi phát triển vào tung thâm khu A. Địch sử đựng hai xe thiết giáp và bộ binh ra phản kích vào bên sườn đại đội 213 cắt đội hình của đại đội ra làm hai (phía trước và phía sau). Ngay lúc đó khẩu ĐKZ đi cùng đại đội đã kịp thời nổ súng bắn cháy một xe thiết giáp, cùng với bộ binh đây lùi cuộc phản kích của địch. Bọn địch phải co về lô cốt H, chiếc xe thiết giáp còn lại cùng một sồ lính chạy ra bờ sông Đà. Đại đội 213 tổ chức một mũi truy kích tiêu diệt chiếc xe và tốp bộ binh đó. Một bộ phận của đại đội 209 bao vây và tiêu diệt địch ở lô cốt H, làm chủ hoàn toàn khu A.
Trên hướng tiểu đoàn 29, trong lúc pháo ta đang bắn mạnh vào cứ điểm, tổ bộc phá tiến lên mở nốt số hàng rào còn lại. Địch nổ súng chống trả quyết liệt, pháo địch từ Chẹ bắn sang hỗ trợ cho xe tăng địch ra bịt cửa mở. Tiểu đội bộc phá của đại đội 152 đánh hết 9 quả phá xong hàng rào, nhưng 12 đồng chí trong tiểu đội đã hy sinh. Đột kích một xung phong lên nhưng bị hỏa lực địch chặn lại. Ta thương vong nhiều nên đại đội 152 buộc phải dừng lại trước lô cốt A và B.
Đại đội 154 tiến dọc bờ ngòi Lát gặp bãi mìn phải dừng lại. Tiểu đoàn lệnh cho đại đội 156 theo đường cửa mở của đại đội 152 tiến vào đánh chiếm lô cốt Đ, đến đây cũng bị hỏa lực địch bắn chặn không phát triển được. Tiểu đoàn lệnh tiếp cho đại đội 154 tiến qua cửa mở của đại đội 152 đánh chiếm lô cốt E là nơi đặt sở chỉ huy tiểu đoàn địch. Lúc này phần lớn lực lượng của tiêu đoàn 29 đã vào trong khu B, hình thành các mũi tiến công đủ mạnh để đánh vào các cụm quân địch. Đồng chí Hảo chiến sĩ đại đội 152 ôm quả bộc phá 20 kg lao vào đánh sập hầm ngầm ở lô cốt A, diệt toàn bộ quân địch và đã anh dũng hy sinh.
Đại đội 154 sau khi vòng qua bãi mìn đã đưa badôca lên tiêu diệt chiếc xe tăng ở cạnh lô cốt C và bắn cháy xe thiết giáp cùng tốp bộ binh địch chạy ra phía sông Đà.
Đại đội 156 sau khi diệt lô cốt D đánh vòng sang lô cốt C hình thành một mũi đánh ra dọc sông Đà bao vây quân địch nhưng vì lực lượng mỏng yếu nên không phát triển được. Bọn địch sống sót ở khu A và khu B kịp thời rút ra cồn cát giữa sông, dựa vào công sự trận địa làm sẵn chống trả quyết liệt. Tiểu đoàn dùng hỏa lực tiêu diệt một số, số địch còn lại chen nhau lên ca nô rút về Chẹ.
04 giờ ngày 11 tháng 12 năm 1951, trung đoàn hoàn toàn làm chủ cứ điểm Tu Vũ, ra lệnh cho các đơn vị kiềm tra lại các vi trí chiến đấu, bắt tù binh, thu chiến lợi phẩm, giải quyết thương binh tử sĩ rồi rút về chân núi Yên Lãng, củng cố đơn vị sẵn sàng đánh địch ban ngày nếu chúng đưa quân lên chiếm lại cứ điềm.
Trung đội công binh của Nam Sao và trung đội du kích của Đào Thị Huệ vẫn giữ vững hai nhịp cầu,cầu phao nứa và cầu sắt trong suốt quá trình trận đánh,còn bảo đảm cho bộ binh và vận tải giải quyết thương binh liệt sỹ và thu dọn chiến trường xong.Nam Sao mới lệnh cho trung đội công binh và du kích rút..Bởi công binh thông thường, bao giờ cũng người rời khỏi trận địa cuối cùng.
Anh có về quê em ?
Kết quả chiến đấu: Ta tiêu diệt 159 tên địch, bắt sống 12 tên, bắn cháy 1 xe tăng, 2 xe thiết giáp, phá hủy 5 khẩu pháo từ 37 đến 57 mm; thu 1 DKZ. 1 ba dô ca 60 mm. 1 cối 60 mm, 1 trọng liên. 8 đại liên.
Ta hy sinh 152, bị thương 490 người; hỏng 3 khẩu pháo 75 mm và 2 khẩu cối 82 mm.
Trong đó trung đội công binh hy sinh 2,bị thương 6 người.trung đội du kích của cô Huệ hy sinh 1,bị thương 3 người. Do đào hố tránh đạn nông quá nên bị thương vong. Sau đó nhịp cầu phao cũng bị địch bắn pháo phá hủy,ta cũng bỏ ,vì đã hoàn thành nhiệm vụ.
Trên đường hành quân về vị trí tập kết phía sau núi Yên Lãng để củng cố lực lượng và sẵn sàng chiến đấu ban ngày,nếu địch đưa quân chiếm lại đồn Tu Vũ theo mệnh lệnh của đại đoàn.Nhưng bọn địch bị thất bại nặng nề,và các đồn xung quanh đều mất hết tinh thần,nên đã co cụm lại khồng dám chiếm lại đồn đã mất.Chúng chỉ tăng cường máy bay và pháo binh bắn phá theo đội hình lui quân của ta mà thôi
Viêc đầu tiên Nam Sao cho đưa nốt các thương binh về trạm cấp cứu và chôn cất các liệt sỹ ở khu tâp trung của tiểu đoàn và trung đoàn bộ binh theo quy định, làm đầy đủ các việc ghi chép ,đánh dấu mộ chí để gửi lên trên.Toàn thể đơn vị tập trung,ai cũng bùi ngùi mặc niệm và tiễn đưa linh hồn các liệt sỹ chết vì Tổ quốc ,nhiều người rơi nước mắt vì tiếc thương đồng đội,nhất là chị em phụ nữ du kích.
Trời đã hừng sáng ,vừng đông đang lên . Nam Sao cho công binh và du kích nhanh chóng rút vào rừng để tránh phi pháo địch, rồi tổ chức gặp gỡ chia tay tiễn đội du kích về làng. Họ hân hoan trong niềm vui chiến thắng,nói cười rôm rả, bây giờ mới biết mình còn sống ,ai cũng thấy mình như lớn lên sau trận chiến đấu. Họ ôm lấy nhau, nhảy múa, ca hát vui tươi, át cả tiếng máy bay,tiếng pháo, tiếng bom đạn vẫn gầm rít trên không. Họ gặp nhau, bộ đội và du kích ,trao thương gửi nhớ cho nhau, từng đôi ,từng đôi một,mới chỉ qua một trận đánh,qua một đêm cùng chiến hào ,mà tưởng như đã quen biết nhau từ bao giở bao giờ ,những lời nhắn nhủ, những tâm tình hò hẹn ,họ cầm tay nhau lưu luyến không muốn rời xa và có những đôi đã hôn nhau vội vã nhưng đầy thắm thiết. Ở cạnh một gốc cây gần đó, hai chỉ huy trung đội cũng đang gặp nhau.
-Các anh lại đi ngay bây giờ à ? –Huệ nói nhỏ với Nam Sao.
-Lính mà em ,đâu có giặc là ta cứ đi ,khi có lệnh là ta phải đến .-Nam Sao nhìn Huệ gật gật đầu cười vui rồi bỗng nhiên trả lời một cách văn hoa,cứ như là một định luật.
- Thế bao giờ anh mới về quê em chơi ?
-Nhất định anh sẽ về để cảm ơn các em và nhân dân đã nhiệt tình giúp đỡ các anh trong trận chiến đấu ác liệt này . Cho anh gửi lời cảm ơn bố em và các cụ bô lão trong làng .Họ im lặng suy tư một lát,rồi Huệ lại lên tiếng trước :
- Còn gì nữa không ?
-Còn chứ !
-Em sẽ rất nhớ anh, anh có nhớ em không?
-Anh cũng sẽ nhớ em… suốt đời. Nam Sao như nói thầm lại và nhìn Huệ đầy lưu luyến .Anh cũng muốn nói nhiều hơn nữa và ôm hôn cô gái xinh đẹp này một lần trước khi chia tay. Nhưng ý thức hệ trong anh nhắc nhở,anh đang là người có vấn đề trong lý lịch, nên không thể đi quá xa vùng cương tỏa của chiếc vòng kim cô mà Bồ tát đang đội trên đầu anh, giống như Tề Thiên Đại Thánh vậy. Nên anh không dám hứa hẹn một điều gì với cô gái đang đứng bên anh và sẵn sàng đi cùng anh tới cuối cuộc đời. Họ chỉ dám cầm tay nhau và nhìn nhau đắm đuối, mà chẳng nói thêm điều gì cả. Họ cứ đứng như thế nhìn nhau lưu luyến không dứt. Bỗng nhiên Huệ ôm chầm lấy Nam Sao , hôn anh một cái vào má và nói nhỏ:- Anh dũng cảm lắm ,em rất yêu anh…Rồi vội vàng bỏ ra, mặt cô đỏ tía tai,chạy nhanh về phiá đám đông bộ đội và dân quân ở ven rừng.
Quay lại Tu Vũ
Thấm thoát thế mà đã gần ba mươi năm ,anh mới có dịp trở lại nơi này Chẳng biết cảnh vật bây giờ thay đổi ra sao, những người xưa ai còn ai mất. Anh cứ mải miết bơi trên sông Đà và miên man suy nghĩ: Dạo đó,trước khi chia tay hành quân đi chiến đấu tiếp, anh có dặn người con gái ấy ,cô trung đội trưởng du kích rằng: Nếu còn sống,nhất định anh sẽ trở về, để cảm ơn bà con đã giúp đỡ cho đơn vị anh hoàn thành nhiệm vụ, tiêu diệt đồn Tu Vũ ,giải phóng đồng bào khỏi bị giặc kìm kẹp, và anh sẽ trở về thăm cô gái ấy…Nhưng rồi cuộc chiến kéo dài liên miên suốt ba mươi năm qua. Bây giờ khi trở về đời thường,anh mới có dịp trở lại, đã quá muộn màng,nhưng dẫu sao anh đã trở lại,tuy muộn còn hơn không.
Cửa Ngòi Lát đổ ra sông Đà đây rồi, anh cho thuyến bơi chậm lại,để ngắm và hình dung lại quang cảnh xưa.Địa hình vẫn không có gì thay đổi,nhưng chẳng còn dấu vết gì của một đồn địch năm xưa, cây cối mọc um tùm,đây đó những mảnh ruộng, nương canh tác của nhân dân quanh vùng,đang sinh sôi nảy nở ,đầy sức sống thanh bình. Sau khi đi vòng quanh đồn cũ ,anh tìm đường rẽ vào làng Tu Vũ.Anh vẫn còn nhớ đường vào nhà ông xã đội năm xưa căn nhà vẫn không có gì thay đổi, trông có phần tuyềnh toàng hơn, tuy rằng đã được sửa lại,những tàu cọ mới được thay và những nút lạt mới buộc lại. Trông thấy một ông già khoảng bảy mươi tuổi, nét mặt không thay đổi, Nam Sao nhận ra ngay là ông xã đội trưởng năm xưa,anh vội chào:
- Chào cụ ạ ! cụ có nhận ra ai đây không? Ông già bỡ ngỡ ngạc nhiên thấy một người đứng tuổi cao lớn, mặc quần áo bộ đội bạc màu, đứng trước mặt mình.Ông nhìn lại một lượt từ đầu đến chân, một lát ,rồi bỗng nhớ ra,ông reo lên và ôm chầm lấy người khách:
- Anh Sao! Có phải anh là Nam Sao,người bắc cầu phao diệt đồn Tu Vũ đây không?-Nam Sao cảm động quá, hóa ra ông già vẫn còn nhận ra mình, anh cũng reo lên:
- Vâng ,đúng là cháu đây!- Ông già vẫn nắm chặt lấy tay anh và nói tiếp:
- Sao đến bây giờ anh mới về? Con Huệ nó cứ chờ anh mãi, mãi gần ba mươi tuổi nó mới chịu đi lấy chồng, chồng nó đi B thì lại bị hy sinh, cũng may để lại một giọt máu được một thằng cu. Hôm nay mẹ con nó về bên nội, cũng gần đây, ở cuối làng. Nghe tin anh về là mẹ con nó về ngay thôi. Nói xong,ông già chạy ra mé cổng ,thấy một con bé khoảng hơn mười tuổi,ông vẫy tay nó lại rồi ghé vào tai nó nói nhỏ với nó,con bé “Vâng ạ” rồi chạy vụt đi. Ông còn dặn với thêm:
-Cứ bảo người ở trận Tu Vũ về ,là cô mày biết ngay đấy! Con bé vừa chạy vừa vâng mãi xa,nhỏ dần… Ông già quay vào nhà, pha nước chè mời khách,rồi nói chuyện về gia cảnh của mình: Bà già nhà tôi cũng được bảy mươi tuổi,nhưng bị bệnh ung thư ,nên đã mất cách đây hai năm.Nhà tôi chỉ có hai cháu,thằng lớn,đi bộ đội, rồi đi B về đã ra quân. Trước khi đi bộ đội cũng đã học xong cao đẳng nghề xây dựng. Nhưng khi về cũng chẳng tìm được công ăn việc làm gì,đành phải ở nhà làm ruộng theo hợp tác xã ba cọc ba đồng,nhà có hai cháu ,một trai một gái.Nhà nó ở riêng ngay phía sau nhà này thôi. Còn con Huệ thì ở nhà chồng,cũng chỉ còn mẹ chồng già và một em gái đã lấy chồng, bố chồng bị bom Mỹ bắn chết hồi đi làm thủy lợi tập trung. Chỉ còn ba mẹ con bà cháu,một mình cái Huệ làm quần quật suốt ngày cũng khôngđủđủng điểm hợp tác xã. Nhà cũng neo đơn ,vất vả lắm.
Cô Huệ vừa chạy vội vàng vào sân, bỗng đứng chững lại,Nam Sao từ trong nhà,thoáng trông thấy ,cũng vội bước ra sân. Hai người bỗng ôm chầm lấy nhau, nước mắt cô Huệ giàn giụa ,Nam Sao nước mắt cũng vòng quanh.Họ cứ đứng thế khá lâu ở ngoài sân ,không nói không rằng gì,chỉ nhìn nhau qua dòng nước mắt. Mãi đến khi ông bố dục:” hai đứa vào nhà đi, chết nắng bây giờ” thì họ mới dắt tay nhau vào trong nhà. Một lát sau, Nam Sao bảo Huệ tìm cái giỏ đi ra bờ sông với mình. Huệ ngạc nhiên hỏi:
-Để làm gì đấy?- Nam Sao chỉ trả lời lửng lơ:
-Khắc đi khắc biết !- Anh dẫn Huệ ra chỗ anh cắm thuyền,rồi bước xuống bắt đầy một giỏ cá tươi, cầm lên đưa cho Huệ:
- Quà của anh đây!
- Anh lấy đâu ra lắm cá thế ?
- Là nghề của anh mà!- Huệ hết ngạc nhiên này đến lạ lùng khác.Giỏ cá nặng, phải hai người cùng xách,mỗi người một bên quai,đi trông rất là hạnh phúc.Về đến sân, ông già càng ngạc nhiên hơn:
- Anh mua cá ở đâu mà nhiều thế ?
- Cá cháu đánh đấy !
- Hả ,anh cũng biết làm nghề cá à?
-Từ khi về hưu đến nay, đánh cá là nghề kiếm sống của cháu đấy ạ!
Thế là Nam Sao ở lại Tu Vũ dậy nghề đánh cá cho tổ Tu Vũ gồm bốn học viên :Con trai Huệ cùng hai bố con anh trai Huệ và một cháu con liệt sỹ khác ở cùng xóm. Anh ghép lớp tập huấn này với tổ của Hoàng Lân ở Lâm Thao để có bầu có bạn và hỗ trợ nhau học nghề theo kiểu dây truyền của anh, Riêng tổ đánh cá ở Tu Vũ đã đốt cháy của Nam Sao thêm tám tháng trời.Khi các học viên đã thành thạo nghề ,kiếm sống được .Như vậy Nam Sao đã
ở lại kiếm ăn trên sông Đà gần một năm trời,để kèm cặp thêm cho tổ của Lân thành thạo, rồi tổ Tu Vũ cũng thành thạo . Đến cuối năm, tổ của Lân còn phát triển thêm được 10 tổ viên nữa thành mười bốn người.Nam Sao lại ra đi ,mặc cho vợ chồng Lân- Hoa và cả của Huệ nữa cố giữ anh ở lại đây, hoặc khuyên anh về quê.Nhưng anh không nghe mà bảo: -Anh còn sức, anh còn đi , bạn bè đồng đội ta còn nhiều người gian khổ nghèo đói lắm các em ạ !
Chương24
MỞ ĐỘT PHÁ KHẨU ĐỒN ĐẠI BỤC
Vùng Tây bắc trên tuyến đường sắt Yên Bái Lào Cai,tả ngạn sông Hồng.Thực dân Pháp đánh chiếm lập nhiều đồn bốt và hành lang tuyến đường này, để khống chế đường sắt ,đường sông Hồng ,đường biên giới, chia rẽ đồng bào các dân tộc, chúng lập tề ,dõng ,lập khu tự trị. Trong mấy năm chiếm đóng không có bộ đội chủ lực ta đánh .Nên chừng nào chúng đã thực hiện được việc bình định .
Địa hình, đoạn sông Hồng từ thị xã Yên Bái tới Lào Cai, nằm song song với tuyến đường sắt và đường bộ, có nhiều thác lớn, sông rộng từ 150đến 200m,mùa nước lũ thì rộng hơn và nước chảy xiết. Đường sắt và đường bộ qua nhiều rừng núi rậm rạp, đường nhỏ, hoang vắng ,cây cối mọc chiếm mất cả mặt đường,như đoạn từ ga Mậu A lên dọc đường sắt tới Lào Cai, gây cho việc đi lại gặp nhiều khó khăn.Việc vận chuyển vũ khí ,lương thực của ta chủ yếu bằng sức người mang vác. Còn kẻ địch thì vận chuyển bằng lừa ngựa.
Đồn Đại Bục nằm về phía hữu ngạn sông Hồng,từ ga Mậu A qua sông Hồng,đi bảy cây số, toàn đường rừng,qua rừng quế mới tới đồn Đại Bục rồi đến đồn Đại Phác và một số đồn khác .Các vị trí án ngữ hữu ngạn sông Hồng và hành lang vào khu vực Nghĩa Lộ .
Bộ đội ta hành quân chiến đấu trên khu vực địa hình này ,có lợi về mặt vận động bí mật giữ kín được lực lượng,tiếp cận gần địch ,nhưng khó khăn về vận chuyển lương thực,vũ khí và không thuộc đường xá,khi chiến đấu dễ bị thất lạc.
Bọn địch đóng trên đồi Đại Bục một đại đội,địa hình đồi thoải, dưới đồi là cánh ruộng cày cấy của đồng bào dân tộc. Xung quanh đồn chúng rào ba lớp rào bằng nứa vót nhọn, mỗi lớp dầy ba mét gọi là hàng rào lông nhím .Có bố trí mìn nhảy vướng nổ, khi nổ nhảy cao từ 70- 80 phân,nên bộ đội ta thường gọi là mìn cóc hay mìn nhảy .Phía trong đồn đắp một lớp tường đất nện, dầy 60 phân ,cao hai mét, có các lỗ châu mai bắn răng cài. Có một cổng ra vào rộng ba mét. Chúng dồn dân ở phía ngoài như một bản bảo vệ đồn.Thành phần binh lính có 1 quan ba người Pháp và một trung đội Âu phi, còn lại là lính ngụy,người các dân tộc khắp nơi .
Hàng ngày chúng phái từng trung đội đi lùng sục các dân bản và cơ sở của ta,cướp bóc lương thực ,bắt phụ nữ về đồn, đồng thời đánh phá các cơ sở cách mạng của ta, nhất là chia rẽ mất đoàn kết giữa miền ngược và miền xuôi ,một chính sách thâm độc của thực dân Pháp.
Đứng trên đồi cao quan sát xuống đồn Đại Bục như một thành cổ của thế kỷ trước, yên tĩnh nên bọn địch ở đây rất chủ quan khinh địch với kiểu đồn bốt kiên cố kiểu cổ này,đối phương không thể lọt vào đồn được, với ba lớp hàng rào lông nhím nhọn hoắt này dầy tới 9 mét.Tưởng chừng đối phương có cánh mới bay vào đồn được, nên bọn chúng ung dung chè chén ,trai gái trác táng…
Bộ đội ta được Hồ chủ tịch phái vào Tây bắc để giải phóng cho đồng bào thoát khỏi vòng áp bức của thực dân Pháp, trong đó có tiểu đoàn 79 bộ đội địa phương do đồng chí Lương Nghị làm tiểu đoàn trưởng.Tiểu đoàn 60 chủ lực, do đồng chí Vũ Yên làm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 54 chủ lực, do đồng chí Vũ Lăng làm tiểu đoàn trưởng.Dưới quyền chỉ huy của đồng chí Cao Văn Khánh,lấy tên là chiến dịch sông Thao 1949.
Trước khi hành quân ,bộ đội ta được học mục đích ý nghĩa và chỉ thị của Hồ chủ tịch,học tập chính sách dân tộc của Đảng ta… Cuối cùng xác định quyết tâm chiến đấu , nhằm hướng Tây Bắc vùng Lào Cai Yên Bái, hành quân đánh thắng giặc Pháp ,giải phóng đồng bào Tây Bắc khỏi ách kím kẹp của địch,xứng đáng là bộ đội cụ Hồ.
Vào đầu tháng 5 năm 1949 các đơn vị hành quân tới khu ga Mậu A và chuẩn bị bước vào chiến dịch.Lực lượng của ta được sử dụng như sau:
Tiểu đoàn 60 được phân công đánh đồn Khe Phịa.Tiểu đoàn 54 đánh đồn Đại Bục.Tiểu đoàn 79 bộ đội địa phương tăng cường làm nhiệm vụ dẫn đường,phối hợp chiến đấu.
Trung đội công binh tiểu đoàn 54 có nhiệm vụ mở đột phá khẩu đồn Đại Bục.
Chuẩn bị chiến đáu đồn Đại Bục: Ngày 15-5-1949,được bộ đội địa phương và nhân dân địa phương dẫn đương đi trinh sát thực địa ,gồm có tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng, cán bộ cấp trưởng trong tiểu đoàn, trong đó có cán bộ trung đội công binh và tiểu đội trưởng công binh. Sau khi đi trinh sát về, đắp sa bàn thu nhỏ trên một bãi bằng ở khu vực ga Mậu A. Khi phổ biến nhiệm vụ bộ đội ta nhìn sa bàn với 3 lớp rào lông nhím dầy đặc,biểu thị sự lo lắng,băn khoăn vì chướng ngại vật của địch.Còn tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng khi giao nhiệm vụ cho công binh đã khẳng định: Công binh phải phá bằng được 3 lớp rào lông nhím của địch, phá được ba cửa mở mỗi cửa rộng 3m là thắng lợi 50%.rồi.
Công binh thực tập phá rào mở cửa khẩu:
Trung đội trưởng công binh là đồng chí Mai Xuân Tám,người Hà Nội chỉ huy, cán bộ tiểu đội có đồng chí Văn ,đồng chí Thục người Hà Nội và đồng chí Nam Sao người Hải Dương, cụm đầu vào nhau bàn kế hoạch mở đột phá khẩu đồn Đại Bục.Quyết định lấy dây rừng, nứa làm một trận địa hàng rào kích thước ba lớp giống như thật cho bộ đội thực tập. Bắt đầu tập theo kiểu liên tục bộc phá và giả định các tình huống thay thế,chiến sỹ số một thương vong thì thay chiến sỹ số hai, tiểu đội trưởng bị thương thì tiểu đội phó lên thay,một chiến sỹ khác lên thay tiểu đội phó. Đồng chí Nam Sao được dự kiến thay thế trung đội phó ,từ đó anh em cứ đùa gọi Nam Sao là trung đội phó hai,mà vẫn cứ phải vác mìn è cổ.
Việc thực tập trong hai ngáy phải nói là thuần thục như người cầm bát đũa ăn cơm. Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng xuống kiểm tra trung đội công binh luyện tập đã khen ngợi và tin tưởng công binh sẽ hoàm thành tốt nhiệm vụ.
Công binh mở đột phá khẩu:
-Thuốc nổ các loại ,tháo đầu đại bác cũ,thuốc đinamít,TNT…vì thời gian này còn hiếm thuốc nổ ,phải huy động khắp nơi, quý thuốc nổ để phá cửa mở như người cần gạo nấu cơm.
Tất cả huy động thuốc nổ làm được 6 quả bộc phá ống ,mỗi ống dài 2m, đường kính 6-8 cm. Cách làm là chẻ ống nứa ngộ ra đổ thuốc nổ vào trong lòng ống,rồi liên kết kẹp lại, buộc bằng lạt giang. Đật kíp và nụ xòe theo nguyên lý giật nổ.
Cách đánh ,mỗi cửa mở chỉ được đánh một ống, 3 cửa 3ống, còn 3 ống dự bị trong trận ,nếu thừa để dành đánh trận khác.
Tiểu đội do tiểu đội trưởng Nam Sao đánh quả thứ nhất,trung đội trưởng giao đích thân tiểu đội trưởng Nam Sao đánh, sau đó đồng chí Tám hay đùa: -Chuyến này các đồng chí to cao đánh bộc phá mở đầu ,và đồng chí Sao là người to cao nhất lại hay vui tính thì nhất định chúng ta sẽ thắng lợi…
Từ ba giờ chiều ngày 18-5-1949,lợi dụng rừng núi, toàn đơn vị vượt sông Hồng,đoạn trên ga Mậu A một cây số,8 giờ mới vượt sông xong vì vượt bằng mảng và thuyền độc mộc do dân địa phương chèo chở.
Mười giờ vượt qua rừng quế,lần đầu tiên bộ đội ta vào rừng quế,đồng chí nào cũng thích bẻ một cành,gậy một miếng, có đồng chí không có gì để gậy,liền cạo cạo vỏ ngoài rồi ghé mồm vào gặm một miếng…Thế là cả đoàn quân thơm nức mùi quế.Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng hạ lệnh vứt quế đi và phải tẩy hết mùi quế thơm, nếu không thì địch dễ phát hiện, thế là phải dốc ống nước uống mang theo để rửa mồm ,rửa tay .Anh em cười bảo nhau :”Người ta thì tẩy uế ,còn mình thì tẩy thơm “.
Bốn giờ sáng ngày 19-5-1949 tới vị trí chiếm lĩnh trận địa, hình thành thế bao vây đồn Đại Bục, cán bộ phái viên suốt ngày đôn đốc việc giữ bí mật và hạn chế ăn cơm uống nước ,vì chỉ có một nắm cơm nhỏ mà sáng ăn hết,đến chiều đánh nhau sợ đói nên việc ăn cơm uống nước phải chờ lệnh, không một đồng chí nào dám tự tiện sử dụng.Mặc dầu nắm cơm ,ống nước đeo bên mình,mà bụng đói ,miệng khát nhưng anh em vẫn kiên trì chờ lệnh.
Công sự cá nhân được triển khai với tư thế nằm bắn,công sự đào xong ,anh em nằm chờ lệnh công đồn, ai cũng phấp phỏng ,căng thẳng.
Ba giờ chiều ngày 19-5-1949 được lệnh ăn cơm ,đồng thời các đồng chí chính trị viên phổ biến ý nghĩa ngày sinh nhật Bác Hồ, ngày 19-5.
Được ăn cơm uống nước xong ,lại được nghe phổ biến ngày sinh nhật Bác Hồ.Khí thế anh em hừng hực như hổ vồ mồi, cán bộ chiến sỹ ai nấy đều quyết tâm san bằng đồn Đại Bục, giải phóng đồng bào thoát ách kìm kẹp của địch,lập chiến công dâng ngày sinh nhật của Hồ chủ tịch.
Bốn giờ chiều ngày 19-5-1949,lệnh công đồn bắt đầu bằng một tiếng nổ của cối 82 ly bắn vào đồn và 3 phát pháo hiệu đỏ vút lên trời.
Các cỡ súng thi nhau rót vào đồn địch mù mịt ,sau 5 phút, đồn địch bắn trả mãnh liệt, pháo ta bắn mỗi lúc một nhiều. Tiếng kèn lệnh xung phong bắt đầu. Trung đội công binh đi đầu,băng qua một thửa ruộng trống,dưới sự chi viện của bộ binh, hàng rào thứ nhất được công binh phá tung, rồi đến hàng rào thứ hai bị bay,hàng rào thứ ba bị phá tan từng mảng. Một tình huống phải sử lý , địch tung giây thép gai bùng nhùng ra bịt cửa mở. Đồng chí Mai Xuân Tám gọi Nam Sao điều ống dự bị, Nam Sao liền cầm lấy ống bộc phá dự bị của chiến sỹ Lương Văn Mậu rồi nhanh chóng xông vào trận địa, một tiếng nổ lớn tung lên ,phá bung hàng rào giấy thép gai bùng nhùng, bộ binh kịp thờì xung phong như vũ bão tràn vào đồn tiêu diệt địch.
Năm giờ chiều ngày 19-5-1949 trận đánh kết thúc ,công binh được thêm một nhiệm vụ: phá hết các lô cốt ,ụ súng, san bằng đồn Đại Bục. Đồn Khe Phịa do tiểu đoàn 60 đánh ,cũng đang bốc cháy.Tới 6 giờ 30 phút, đồn Đại Bục chỉ còn là một đống tro tàn, cây cối nhà cửa ngổn ngang.Kết thúc trận đánh.
Đồng bào các dân tộc ở phía chân đồi bị địch bắt tập trung, bây giờ đứng hoan hô bộ đội cụ Hồ bằng tiếng địa phương,nồng nhiệt và phấn khởi, chuẩn bị kéo nhau về làng cũ.
Kết quả: Ta phá tan đồn Đại Bục ,phá thế án ngữ của hệ thống phòng ngự tuyến Lào Cai –Yên Bái,diệt 60 tên địch trong đó có 1 quan 3 người Pháp ,bắt sống 30 tên, thu toàn bộ vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng, lương thực. Công binh thu được 30 kg thuốc nổ và một khẩu badôka. Ta thương vong 8 đồng chí ,trong đó có 3 chiến sỹ công binh ( 1 hy sinh ,2 bị thương )
Trong số chiến lợi phẩm thu được 30 kg thuốc nổ và một khẩu badôka,công binh đã phát huy tác dụng ngay trong trân tấn công đánh đồn Đốm và đồn Làng Giàng sau đó mấy ngày. Ở đồn Đốm Nam Sao đã trực tiếp dùng badôka bắn xập 3lô cốt và bắn tan 3 lớp hàng rào bùng nhùng. Còn ở trận công đồn Làng Giàng thì dùng ngay thuốc nổ thu được mở 2 cửa mở qua5 hàng rào kẽm gai ,và phá sập một nhà chỉ huy, chi viện cho bộ binh xung phong tiêu diệt địch.
Ngược sông Hồng
Sáng sớm hôm sau ,Nam Sao dậy từ bốn giờ sáng trước sự chia tay bịn rịn của vợ chồng Lân- Hoa. Anh bơi thuyền dọc sông Hồng hướng về phía Bắc lên Yên Bái.Vừa đi ,anh lại vừa đánh cá kiếm ăn ,theo sở trường và thói quen của anh. Đến nửa buổi ,anh đánh được vài mẻ cá, liền ghé vào một chợ ven sông để bán cá ,rồi vào một quán cơm bình dân ăn cơm, theo kiểu gạo chợ nước sông đã quen. Phơi lưới và nghỉ trưa một lát bên cạnh một gốc cây râm mát.Khoảng hai giờ chiều, anh lại cuốn lưới ,tiếp tục hành quân. Chiều hôm đó anh đã lên đến vùng Hạ Hòa,bán cá và nghỉ nhờ một gia đình ven sông. Được ông bà chủ nhà cùng cảnh bộ đội về, nên đã nhiệt tình đón tiếp.Tối ,anh nấu cơm ăn cho chắc bụng và để dành một bát đến sớm mai. Đêm, ông chủ còn muốn chuyện trò về bộ đội mãi,nhưng bà chủ tâm lý bảo chồng:
- Thôi để bác ấy đi ngủ sớm, mai còn phải đi xa .
- Vâng cảm ơn ông bà. Nhưng khốn nỗi cánh bộ đội cũ đã gặp nhau thì chẳng bao giờ hết chuyện. Hơn nữa ai đã gặp Nam Sao thi cứ há hốc mồm mà nghe. Chuyện trên trời, dưới đất ,đông tây kim cổ gì ,anh cũng góp được. Mà anh lại có duyên nói chuyện, giọng tếu táo, dí dỏm ,xen kẽ tiếu lâm, làm ai cũng phải cười, phải thích…Bà chủ phải nhắc lần thứ hai, ông chủ mới để yên cho anh ngủ. Anh ngủ một giấc ngon lành , theo thói quen ,đúng bốn giờ sáng anh lại dậy. Cảm ơn ông bà chủ và tạm biệt lên đường. Ông bà chủ còn dặn theo:
- Khi nào quay về thì nhớ vào đây chơi vài ngày rồi hãy về nhé !Một con người đến là tình nghĩa và chịu thương chịu khó lạ !
Chiều hôm đó Nam Sao đã đến ga Mậu A sớm, anh buộc thuyền ở bờ sông ,rồi lên xóm dân tộc Thổ phía sau ga, tìm đến nhà Lương văn Màn, người chiến sỹ cũ của tiểu đội anh ,khi đánh đồn Đại Bục hơn ba mươi năm về trước. Vừa vào đến đã thấy một ông già, râu ria xồm xoàm từ trong nhà chạy ra ôm chầm lấy anh rồi reo lên:
- Ối, anh Nam Sao ,có phải là tiểu đội trưởng Nam Sao đây không?
- Màn! Mày là thằng Màn có phải không?
- Đúng Màn đây ,Màn đây!
- Sao mày già thế này?
-Già à ,thế này còn trẻ chán đấy ,khối thằng còn già hơn nhiều, như thằng Leng ,thằng Nõn ấy,chúng nó cũng ở gần cả đây thôi. Nghèo đói ,thiếu thốn thì già chứ sao! Anh Nam Sao vẫn còn khỏe nhỉ. Dào ơi, còn nhớ đây mà về cơ à, hay đi đâu qua đây đấy?
- Chẳng đi đâu qua đây cả ,nhớ Đại Bục , nhớ chiến dịch Sông Thao ,nhớ các cậu thì tìm lên thăm các cậu đây thôi!
-Anh vừa xuống tàu ở ga à?
- Không mình đi thuyền thúng lên đây đấy!
-Phạ ơi! Đi thuyền thúng lên đây (?) Nghe nói quê anh mãi tận Hải Dương cơ mà, từ nhà anh lên đây bao nhiêu ngày?
-Xa lắm! Đi hàng mấy năm trời mới tới đây đấy !
-Ối lạ quá, lạ qúa! Thôi vào trong nhà nghỉ ngơi uống nước đã rồi nói chuyện sau. Đã lên đây thì phải ở đây chơi vài ngày. Màn kéo tay Nam Sao vào trong nhà, một ngôi nhà lá đơn sơ tuyềnh toàng,trông đến thương hại(!)
- Liệu có đủ cơm gạo mà nuôi mình không?
-Dào ơi ,chẳng có cơm gạo thì có khoai sắn chứ lo gì, trên nương khối, anh cứ ở vài năm cũng không đói đâu ,khắc làm khắc ăn thôi mà.
Vừa lúc đó thì một bà già và hai cô gái trẻ đi nương về ,mỗi người đều đeo một địu xắn tươi nặng vừa nhổ còn lấm đất, tay cầm dao phát hoặc cuốc. Màn liền chỉ vào từng người rồi giới thiệu:
- Đây là vợ em và cháu này là con gái ,cháu này là con dâu, chồng nó mới nhập ngũ ,đang ở trên biên giới. Màn lại vỗ tay lên vai người khách:
- Còn đây là bác Nam Sao, tiểu đội trưởng của mình từ thời đánh đồn Đại Bục bên kia sông từ thời hơn ba mươi năm trước cơ. Mọi người đều gật đầu chào: chào anh, chào bác ,rồi đều ồ lên có vẻ kinh ngạc,trố mắt lên nhìn người khách lạ. Nam Sao tươi cười vui vẻ:
-Chào chị ,chào các cháu, chị và các cháu lạ lắm à? Đời lính chúng tôi đã sống chết với nhau ở mặt trận là như thế đấy!
Mọi người đang tíu tít quây lấy anh ,hỏi thăm về gia đình về sức khỏe. được một lát .Nam Sao chợt nhớ ra ,anh gọi:
-Chú Màn, cầm cái giỏ xuống sông với tôi một tý
- Đề làm gì cơ?
-Khắc đi khắc biết ! -Anh dẫn Màn ra bờ sông ,đến chỗ thuyền đậu, rồi vớt lên đầy một giỏ cá:
-Anh vừa đi vừa đánh cá lên làm quà cho chú và gia đình đây.
- Phạ ơi ,anh giỏi quá !
-Thì nghề kiếm sống của anh mà ! -Nam Sao sách cả túi gạo hai cân dự trữ của anh đưa cho Màn:
-Cầm về thổi bữa cơm liên hoan cả nhà cùng ăn chiều nay cho vui!
Sáng hôm sau, Nam Sao bảo Màn dẫn anh đi thăm nhà chú Leng và chú Nõn, ở trong bản ,cách đây vài cây số. Mớí thoạt nhìn Nam Sao tưởng là hai tên thổ phỉ, đầu tóc bù xù ,râu ria xồm xoàm,người gầy khẳng khiu, không nhận ra là ai .Mãi đến khi nghe tiếng nói, anh mới nhận ra là hai chiến sỹ cũ của mình. Họ gặp nhau mừng mừng tủi tủi, cùng nhau ôn lại những chuyện xưa ,kỷ niệm cũ .Leng nói:
- Em còn nhớ khi tiểu đội trưởng hô em lên đánh quả bộc phá thứ hai, em vội vàng xông lên, giật nụ xòe rồi chạy ra, một tiếng nổ ầm lên làm điếc cả tai, hàng rào của chúng bay hết, bộ binh xông lên như mãnh hổ.Mấy hôm sau em vẫn còn điếc tai mãi. - Nam Sao thấy thương hại , nhìn cảnh nhà Leng và Nõn còn sơ sài hơn cả nhà Màn. Màn liền rủ Leng và Nõn sang nhà mình chơi, uống rượu với cá của anh Sao đánh lên cho. Leng và Nõn đều ngạc nhiên và mừng rỡ. Anh liền hỏi:
- Các chú có biết đánh cá không? Cả ba người đều nói:
-Ồ, biết chứ ! nhưng chỉ đánh được cá nhỏ ở ruộng ở khe thôi.
-Phải ra sông ra ngòi cơ, thì mới nhiều cá và có cá to.
- Cái đó thì chúng em chưa biết làm. Anh dậy cho chúng em với nhá!
- Nếu các chú quyết tâm học nghề để xóa đói giảm nghèo thì tôi sẵn sàng ở lại đây cùng làm ăn kiếm sống với các chú và dậy các chú biết đánh cá.
- Thế thì cảm ơn anh nhiều lắm ,hoan hô tiểu đội trưởng !
Hôm sau họ vượt qua sông Thao, đi thăm lại chiến trường xưa, đồn Đại Bục. Chẳng còn dấu vết gì là đồn giặc cả, bởi vì ngay từ hồi đó ,họ đã được lệnh phá hủy và đốt cháy hết đồn rồi. Tuy nhiên họ vẫn hình dung vài nét về đồn xưa. Nay đã bị nhân dân lấn chiếm làm nhà cửa và ruộng nương canh tác cả rồi. Chuyến đi thăm này chỉ còn tác dụng thắt chặt thêm tình đồng đội của những người lính chiến đấu mà thôi. Nam Sao đi sâu và rừng, thăm lại rừng quế, vẫn còn bạt ngàn xanh tốt hơn xưa. Anh bẻ cành chặt lấy một khúc cho vào túi làm thuốc dự phòng khi bị đau bụng đau bão ,hoặc khi trờì gió lạnh . Rồi anh dẫn mọi người đi tìm nứa và dây rừng ,bốn anh em cùng khai thác mỗi người một vác nứa to gộc và một cuộn dây rừng, đem về để đan thuyền thúng đánh cá. Ở trên này không có người chuyên làm và bán thuyền như ở dưới xuôi,nên Nam Sao phải hướng dẫn các chiến hữu tự đan lấy thuyền, rồi vào rừng tìm sơn ta, đến xưởng gỗ xin mùn cưa để chạt lấy thuyền. Chỉ trong vòng hơn chục ngày thì ba chiếc thuyền đã làm xong, vừa nhẹ, vừa kín nước, vừa chắc chắn, với đầy đủ các đồ nghề: dầm,sạp ,sào, giỏ, be tát nước… ,chỉ còn thiếu lưới phải mua thôi. Nam sao bắt đầu cho anh em học cơ bản vài ngày cho quen, được cái anh em đều là dân miền núi lại ở sát sông ,toàn người đứng tuổi cả, nên việc bơi lội đều thành thạo. Sau đó anh cho mỗi người một tấm lưới của anh, mang theo dự trữ ,để họ học cách thả lưới ,gõ thuyền, thu lưới, bắt cá, giặt lưới, phơi lưới…Anh em miền núi rất thông minh, và cần cù lao động .Nên chẳng bao lâu, chỉ chưa đầy một tháng, cả ba người đều làm được cả .Anh bắt đầu tổ chức đánh cá tập thể, trên khắp các thùng vụng trên sông Thao và các ngòi gần quanh đó như Ngòi Thia, Ngòi Hóp, Ngòi Lao, rồi ngược lên tận Ngòi Hút…Anh quy ước mỗi người chỉ mang theo khoai sắn đủ ăn trong ngày, còn cá kiếm được đều phải đem bán, để dành tiền mua lưới mới ,lưới tốt. Bản thân anh cũng vậy ,chỉ mua khoai sắn ăn cùng anh em, để dành tiền mua lưới và dự trữ . Anh còn huấn luyện thêm cho anh em biết khâu vá lưới, buộc phao ,kẹp chì, những việc của người đánh lưới không thể thiếu được.Thế là chỉ ba, bốn tháng sau ,mỗi người đều có thể tự đi kiếm ăn được, ai cũng mua được thêm lưới mới loại ba màn, và hỗ trợ gia đình được ít nhiều. Mỗi yến cá có thể mua được vài ba yến gạo,đời sống các gia đình ngày càng được cải thiện ,no đủ hơn. Tuy nhiên Nam Sao còn ở lại cùng kiếm ăn và kèm cặp anh em dăm sáu tháng nữa, cho đến khi mọi người đều thoát nghèo khổ và khấm khá hơn .Anh mới lại ra đi. Trong bữa cơm liên hoan của cả ba gia đình Màn, Leng , Nõn để chia tay anh tại nhà Màn, tổ trưởng Nam Sao yêu cầu:
-Trước khi liên hoan,các chú cắt tóc cạo râu đi cho ra dáng một anh cựu chiến binh. Các chú thấy không ,anh nhiều tuổi hơn các chú ,gian khổ hơn các chú ,mà anh vẫn cứ đàng hoàng như thường!
Quả nhiên sau một tiếng đồng hồ ra phố ga về. Cả ba anh chàng “thổ phỉ” đã biến thành ba chàng đàn ông đẹp trai, chững chạc và tươi tỉnh. Làm cho các bà vợ và lũ trẻ con vỗ tay hoan hô và cười như nắc nẻ. Mấy bà reo lên:
-Hoan hô bác Nam Sao ,chỉ có bác mới cải tạo được mấy ông “đười ươi” này trở lại thành người thôi! -Buổi liên hoan đầm ấm và lưu luyến kéo dài mãi đến khuya.
Sáng sớm hôm sau, rời tổ đánh cá cựu chiến binh Sông Thao anh lại ra đi…Anh đi về đâu?- Có trời biết !
Lại một mình một chiếc thuyền nan, xuôi dòng sông Thao, sông Hồng, rẽ vào sông Đà.Vừa đi vừa kiếm ăn, ghé qua thăm lại ông bạn lính nhiệt tình ở Hạ Hòa ,thăm các tổ đánh cá xem họ làm ăn đến đâu .Anh rất phấn khởi thấy tổ của Lân- Hoa, rồi tổ của anh trai và con của Huệ ở Tu Vũ cũng đều làm ăn tốt. Anh biểu dương và khen ngợi họ. Con bé Mai xem ra là người nhanh nhẹn và tháo vát nhất, anh rất mừng vì có một học sinh xuất sắc như vậy. Gần một tháng sau thì anh đã về tới bến Tạ Khoa.
Chương 25
CẦU TẠ KHOA 15- 11-1953
Mùa Đông năm 1953 ta mở chiến dịch Tây Bắc, đại quân của ta được sự giúp đỡ và phối hợp của lực lượng địa phương các dân tộc. Đã anh dũng chiến đấu phá tan hệ thống phòng ngự của địch từ Nghĩa Lộ đến Quang Huy ,Bắc Yên, Vạn Yên,Tạ Khoa …Dồn địch về tả ngạn sông Đà, quân ta làm chủ hữu ngạn sông Đà.
Để phát huy thắng lợi các binh đoàn của ta tràn sang hữu ngạn tiêu diệt địch,các đơn vị công binh đảm nhiệm phần vượt sông,bắc cầu phao cho bộ đội,dân công ,pháo binh sang sông diệt địch trong đó có trung đội 8 công binh thuộc đại đội 270 tiểu doàn 333 trung doàn 151 công binh.
Đã nói đến Tây Bắc thì phải nói đến núi cao rừng rậm suối sâu.Hai bên bờ sông Đà từ Vạn Yên ngược thượng lưu đến bến Tạ Khoa, cũng nằm trong địa hình bờ sông chỗ thoải chỗ hoắm,chỗ bãi cát bồi đoạn thì nhô lên toàn đá. Mức nước sông Đà mùa nước lũ tháng 6 tháng 7 ta,có đoạn nước dâng cao kéo rộng lòng sông tới 500m,nước chảy như đâm lao có khi tới 3-4 mét /giây.Mùa nước cạn dòng sông thu hẹp 200m, dòng nước sông đã uốn khúc,lưu tốc cạn 2m/giây.Khoảng trống trải ra trên mặt sông rất khó mgụy trang ,nhất là ngụy trang các cầu phao nứa dài gần 2000, còn máy bay trinh sát, máy bay phóng pháo của địch thì tự do hoạt động vì ta giữ kín lực lượng
Bờ hữu ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Tạ Khoa do ta làm chủ. Một số đồn lân cận địch đã rút co lại, nhưng quân ta chưa sang nên hàng ngày chúng vẫn phải đưa hàng đại đội đi tuần bờ sông, thường xuyên xảy ra giữa đội trinh sát bắc cầu công binh và bọn tuần tra của địch, nhưng không nổ súng vì ta còn giữ bí mật để đánh lớn những đòn quyết định.
Máy bay địch thường xuyên bay lượn trên vùng trời Tây Bắc. Nhưng mục tiêu vẫn là tuyến sông Đà, một bên là đồn bốt và binh lính của chúng,một bên là lực lượng bộ đội dân công của ta,nên mỗi ngày các loại máy bay trinh sát,phóng pháo ,oanh tạc phải bay từ tám đến mười lần. Có hôm đồng chí Phạm Văn Hải tiểu đội trưởng công binh ,hồi mười hai giờ trưa ,cởi trần mặc quần đùi bơi qua sông để trinh sát bờ địch đã bị máy bay phát hiện đuổi bắn, đồng chí Hải phải lặn xuống nước bơi đi một đoạn xa,mới ngoi lên thở, nhưng bọn địch vẫn không tha, chúng quay đi quay lại săn đuổi bắn đồng chí Hải mãi đến bị thương rồi chìm xuống sông một lát chúng mới bay đi . Trung đội trưởng Nam Sao phải huy động anh em chiến sỹ bơi lặn giỏi nhanh chóng ra vớt đồng chí Hải đưa đi cấp cứu kịp thời. Hay một dây cáp căng qua sông để chuẩn bị bắc cầu phao,ban ngày cũng bị máy bay phát hiện được, đem bom để phá…
Về phía ta ,tiểu đoàn 333 công binh do đồng chí Lê Trung Ngôn làm tiểu đoàn trưởng, tiểu doàn gồm có ba đại đội là: đại đội 250 ,đại đội 260 và đại đội 270 làm nhiệm vụ bảo đảm cho chiến dịch Tây Bắc tấn công đợt hai là Hữu ngạn sông Đà.Tiểu đoàn có nhiệm vụ bảo đảm vượt sông và làm đường cơ động. Cụ thể là : Đại đội 260 bắc cầu phao bến Vạn Yên , đại đội 250 bắc cầu phao bến Tạ Khoa,đại đội 270 làm đường cơ động. Theo kế hoạch đêm N tháng 11 năm 1953 các bến phải có cầu phao cho các binh đoàn vượt sông.
Kế hoạch của tiểu đoàn là ngày N-3 : đại đội 260 phải tới bờ tả ngạn bến Vạn Yên,đại đội 250 tới bến Tạ Khoa,đại đội 270 triền khai làm đường từ bến Vạn Yên theo hướng Tạ Khoa.
Các bước tiến hành:- Cán bộ đại đội cấp trưởng đi trinh sát thực địa đem theo tiểu đội trinh sát ,quyết định vị trí cầu.
- Khu vực bãi kết cấu cầu phao bằng tre nứa,phải bằng phẳng ,rộng rãi,điều kiện ngụy trang kín đáo. Phải nói rằng chọn được một bãi có điều kiện trên ở địa hình rừng núi thật không dễ dàng.
-Chọn khu vực cất dấu cầu ở mép nước, phải dễ đưa cầu ra vào, ngụy trang che mắt địch, cũng đòì hỏi nhiều yếu tố nhất là che mắt địch phảỉ bảo đảm kỹ thuật chuyên môn,bí mật bất ngờ.
-Đại đội phó và các trung đội phó ở nhà chỉ huy bộ đội chuẩn bị vật liệu. Hàng vạn cây nứa, hàng ngàn bó nứa đã được bộ đội và dân công khai thác trong rừng,bí mật vận chuyển ra hai bên bờ sông kín đáo
Quyết định kiểu cầu ,chiều dài cầu và các kế hoạch bắc cầu, các bước làm trong hai ngày phải xong.
-Thực hành và diễn biến vượt sông:
-Đêm N-2 đại dội 260 thực tập nội bộ bắc cầu Vạn Yên ,đến chin giờ tối thì xong ,đại đội cho bộ đội tập dượt hành quân vận động trên cầu,được trung đoàn ,tiểu đoàn công nhận đạt yêu cầu.
Cũng đêm N-2 đại đội 250 bắc cầu nội bộ ở bến Tạ Khoa. Mãi đến bốn giờ sáng,phía bờ địch một cánh cầu phao vẫn không bắc được vì lưu tốc nước mạnh quá,trời gần sáng phải đưa cầu đi cất dấu, ngụy trang đề phòng máy bay địch bắn phá. Trong khi chờ cầu phao để vượt sông ,các binh đoàn,các binh chủng pháo binh ,dân công ,những bộ phận đi đầu đã đến Tạ Koa chờ sang sông.
-Trước tình hình khó khăn của đại đội 250 vượt sông đêm N-2 không thành công. Tiểu đoàn quyết định điều trung đôi 8 công binh của đại đội 270 do đồng chí Nam Sao làm trung đội trưởng tăng cường cho bến Tạ Khoa.Trung đội 8 công binh lúc này đang làm đường ở khu vực bến Vạn Yên,.nhận lệnh xong ,từ bờ sông Vạn Yên hành quân theo ven sông Đà nhằm hướng bến Tạ Khoa,khẩu hiệu hành quân cấp tốc,mười bảy giờ ngày N-2 tới địa điểm đại đội 250 làm nhiệm vụ ,đồng thời nhận bàn giao
Diễn biến bắc cầu đêm N-1:
Trung đội 8 đại đội 270 tăng cường nhận nhiệm vụ quay cầu phía bờ địch,một nửa cầu dài chin mươi mét đã liên kết xong, chỉ còn quay hai bên cầu nối vào nhau thành một cầu phao cho bộ đội sang dài một trăm tám mươi mét qua sông Đà.Nhưng vì dòng nước chảy xiết về phía địch nên một trung đội do đồng chí Viên ( biệt hiệu là Viên mù,vì đồng chí Viên phải đeo kính ) làm trung đội trưởng, trong hai đêm không ăn khớp với bờ Bắc, là vì đã quay không ăn khớp thì nước lại dồn về một phía, lưu tốc tăng lên,nếu không có biện pháp khắc phục thì không thể bắc được cầu.
Sau khi nghiên cứu, đồng chí Nam Sao trung đội trưởng trung đội 8 ,phổ biến nhiệm vụ,tổ chức phân công trong trung đội, rút kinh nghiệm tại sao một trung đội của đơn vị bạn không quay được cầu.?
Chỉ còn hai giờ nữa là quay cầu, nào là phái viên tác chiến của đại đoàn bộ binh, có cả phái viên của Bộ tổng tham mưu, của trung đoàn, tiểu đoàn công binh tham dự cuộc họp của trung đội 8, một động cơ thôi thúc cán bộ chiến sỹ công binh trung đội 8 là, hồi nhập nhoạng tối ở bờ Bắc Tạ Khoa một số đơn vị theo kế hoạch vượt sông đã hành quân ra bến, khó khăn nhất vẫn là các đơn vị dân công mất trật tự nhiều ở bến.
8giờ 30đêm N lệnh quay cầu, 9 giờ hai thân cầu đặt sẵn ở thượng lưu, lợi dụng sức nước đầu cầu gặp nhau, nhưng phía bờ địch ra đến giữa sông trôi vút xuống hạ lưu,cầu không bắc được.
Một sự ồn ào ở bờ Bắc bến Tạ Khoa, bộ đội ,dân công ,phái viên các cấp,còn có cả cán bộ cao cấp đêm nay cũng sang sông, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
9 giờ 3o phút trung đội 8 công binh quyết định tập họp rút kinh nghiệm tìm nguyên nhân: - hai bên cùng quay thì bên bờ địch bị dồn nước lưu tốc trước đã chảy xiết hơn bờ ta,nay tăng thêm nên trôi cầu.- Trời giá cóng tay chiến sỹ công binh,khi cầu quay ra giữa sông cóng tay không ép được con nín vào dây.
Mười lăm phút rút kinh nghiệm xong đề nghị với đại đội trưởng đại đội 250 cho bờ ta quay sau năm phút, còn trung đội 8 thay thế một số chiến sỹ yếu sức cóng rét ,giao cho đồng chí Vũ Đăng Nụ thay thế. Đồng chí Nam Sao trung đội trưởng ,trước đứng chỉ huy giữa cầu ,nay ra đầu mép cầu cụt để đối phó với nước lướt qua,các biện pháp được thực hiện, đề nghị được chấp nhận.
10 giờ đêm N lệnh quay cầu lần thứ hai được phát ra theo tín hiệu của đèn pin người chỉ huy chung. Phút chờ đợi vượt sông của các đơn vị bộ đội dân công ,các phái viên cấp trên ra bờ sông đứng như xem hội,càng thôi thúc cán bộ chiến sỹ công binh quay cầu.
Lần này có sự bố trí chỉ huy và biện pháp kỹ thuật kịp thời ,nên chỉ sau mười lăm phút,cầu đã bắc xong và liên kết chắc chắn an toàn. Chiến sỹ công binh phân công cứ năm mét một người đứng bảo vệ cầu như cọc tiêu lan can hay hàng rào danh dự suốt dọc cầu. Tiểu đoàn trưởng công binh Lê Trung Ngôn chạy lại báo cáo với Đại tướng tổng tư lệnh :
- Báo cáo Anh cầu đã thông ! Lúc này là 10 giờ 30 phút đêm N tức ngày 15tháng 11 năm 1953. Đại tướng tổng tư lệnh bắt tay tiểu đoàn trưởng Lê Trung Ngôn và trung đội trưởng Nam Sao và nói : -Các đồng chí làm tốt lắm.Đúng giờ quy định.Tôi biểu dương và khen ngợi toàn đơn vị. Mong rằng các đồng chí cố gắng giữ vững nhip cầu này,bảo đảm chiến dịch thắng lợi. Lê Trung Ngôn cùng Nam Sao đều đáp lại : - Xin vâng ! Đại tướng bước xuống cầu ,cùng với một số cán bộ và bảo vệ. Tiểu đoàn trưởng Lê Trung Ngôn và trung dội trưởng Nam Sao cùng tiễn đưa đại tướng qua cầu. Trước khi lên bờ,đại tướng còn quay lại bắt tay hai người một lần nữa và dặn: -Cố gắng giữ vững nhịp cầu nhé.Hai người đều đồng thanh:
- Chúng tôi xin hứa. Chúc thượng cấp khỏe mạnh,lên đường bình an!( vì giư bí mật nên không được nói tên và chức vụ của đại tướng ra.)
Chiếc cầu phao bộ binh qua sông Đà ở bến Tạ Khoa trong chiến dịch Tây Bắc ,cho đại quân ta vượt sông diệt địch ở hữu ngạn sông Đà và đường 41, địch rút về cụm lại ở Điện Biên Phủ. Bến Tạ Khoa thành bến phà cho xe cơ giới của ta vượt sông tiến vào giải phóng Điện Biên .
Trong trận đó đơn vị được cấp trên nhận xét là- Bảo đảm được đúng kế hoạch đêm N các đơn vị vượt sông –Trung đội 8 công binh khắc phuc khó khăn ,sáng tạo hoàn thành nhiệm vụ.- Tổ chức vượt sông cho các binh đoàn lớn qua sông bằng vật liệu tại chỗ, tre , nứa, gỗ, mang tính kế thừa của tổ tiên ta đánh giặc.
Vào bản người Thái
Nam Sao tìm vào một bản người Thái ở gần bờ sông.Mấy chục năm qua mà bản vẫn không có gì thay đổi mấy. Tuy nhà cửa có đông thêm chút ít nhưng toàn nhà sàn nhỏ ,những nhà sàn cao rộng đời xưa không còn nữa, vì chiến tranh chống Pháp đã tàn hoang. Đến chiến tranh chống Mỹ cũng bị bắn phá quấy rối,không ai muốn làm nhà to, nhà lớn .Mà kinh tế ngày càng khó khăn.Người ta chỉ lo miếng ăn còn không đủ, thì lấy đâu tiền của xây dựng nhà khang trang. Anh gặp một cụ già hỏi thăm nhà anh thương binh Phạm Văn Hải ở chỗ nào? Cụ già rất nhiệt tình vừa chỉ đường vừa dẫn anh đến tận nơi. Anh đứng dưới sân gọi với lên:
- Có phải nhà anh Hải đây không? -Không có tiếng trả lời.Anh liền trèo lên cầu thang,.rồi bước thẳng vào trong nhà. Một người đàn ông đang nằm,tung chăn ngồi dậy, khuôn mặt gầy gò, mắt trũng sâu, cứ nhìn chằm chằm vào anh không nói. Nam Sao vội nói to sợ chủ nhà không nghe thấy:
-Tôi hỏi khí không phải anh có phải là Phạm Văn Hải không?- Bỗng người ấy nhận ra giọng nói của Nam Sao, vừa nói vừa gật đầu, giọng yếu ớt :
- Vâng ,em là… Hải,Phạm văn Hải… đây! Anh là…trung đội trưởng ...Nam Sao… phải không ?
-Đúng rồi, Nam Sao đây! -Trời ,chú làm sao mà gày gò ốm yếu khổ sở thế này ?
- Em…bị ốm … mười ngày.. nay rồi !
- Thế chị và các cháu đâu?
- Nhà em đi hái thuốc…các cháu đi làm nương, cũng sắp về rồi đấy! -Hải vội vã gạt chăn sang một bên, rồi cố đứng dậy lê bước ra bếp giữa nhà .Nam Sao chạy lại đỡ Hải, cảm động quá, cả hai cùng ôm lấy nhau , đứng lặng một lúc lâu, rồi bỗng nhiên cả hai người , nước mắt cứ trào ra. Nam Sao đỡ cho Hải ngồi xuống ghế lùn cạnh bếp ,anh cũng ngồi xuống một ghế bên cạnh. Hải dúi mấy cây củi đang cháy dở vào bếp, lửa bùng lên. Trong ánh lửa.khuôn mặt Hải hồng lên và đỡ hốc hác hơn lúc ngồi trên tấm đệm ở góc nhà sàn. Nam Sao lại nói trước:
-Mình có gặp một số anh em nói chuyện cậu ,sau khi đi điều trị , rồi về đơn vị thu dung cho ra quân vì mất sức chiến đấu.Ở dưới quê giặc đang chiếm đóng, cậu không về được, nên quay lại Tạ Khoa lấy vợ Thái ở đây rồi nên mình mới tìm đến đây để thăm lại chiến trường xưa thôi, chứ cũng không hy vọng còn gặp cậu. May là quả đất tròn ,trời phật lại xui khiến, chúng ta lại gặp nhau, sau mấy chục năm trời.
-Vâng đúng như thế, hôm đấy em bị thương rồi chìm xuống đáy sông, chắc chắn là chết. May được trung đội trưởng cùng mấy đồng chí lặn xuống vớt lên rồi đưa lên bản này nhờ bà con dân tộc cấp cứu, em tỉnh lại .Trung đội trưởng cho người cáng em về trạm quân y tiền phương điều trị một tháng ,rồi chuyển về đội điều dưỡng hai tháng nữa mới khỏi. Em xin về đơn vị tiếp tục chiến đấu,nhưng trên không cho vì em bị gãy đùi và một vết vào mạng sườn, không thể chạy nhảy được nữa, Đơn vị an dưỡng sư đoàn cho ra quân. Em chẳng biết đi đâu,ở quê nhà em địch đang chiếm đóng,nếu em về cũng bị địch bắt ngay. Nên em đành quay lại bản Tạ Khoa này, ở nhờ cụ chủ nhà đã cấp cứu ban đầu cho em. Các cụ biết hoàn cảnh của em nên thương và được địa phương cũng ủng hộ giúp đỡ, nên sau đó ít lâu em trở thành con rể của cụ. Nay các cụ đã mất cả rồi,chỉ còn chúng em và các cháu.
- Thế cô chú được mấy cháu ?
-Dạ ,chúng em được hai cháu ,một trai lớn đi bộ đội đang ở trên biên giớiphía bắc,còn một cháu gái ở nhà làm ăn với mẹ.
- Sao không cho cháu đi học?
- Cháu cũng đã học hết cấp 1 rồi, ở nhà làm ruộng nương thôi,hoàn cảnh nhà em neo đơn ,túng bấn lắm.Với lại tập quán trên này ,chỉ cho học thế thôi, rồi ở nhà đi lấy chồng là được rồi.
-Thế dưới quê còn ai không?
- Sau năm 1954 ,hòa bình được lập lại ,chúng em đã về quê rồi định ở quê làm ăn sinh sống ,nhưng nhà em nó không quen,nên lại kéo nhau lên đây. Các cụ nhà em cũng mất cả rồi, chẳng còn ai nữa. Có một mảnh vườn nhỏ ,hợp tác xã đã lấy cả từ thời cải cách cơ.Họ bảo đi bộ đội rồi không còn hộ tịch ở nhà nữa nên không có ruộng, đất,cũng chẳng có phần trăm trồng rau vì không phải là xã viên (!)
-Thế tình hình trung đội trưởng thế nào? - Phạm Văn Hải nói tiếp - Sao hôm nay lại có điều kiện đến thăm em thế này, làm em cảm động quá.
-Chuyện của tôi thì dài dòng lắm ,cứ từ từ tôi sẽ kể chú nghe… Vừa lúc đó thì vợ và con gái của Hải đi làm nương về, mỗi người đều đeo một địu nặng,khoai ,sắn rau ,quả… Thấy khách lạ đến nhà đều chào niềm nở. Nam Sao vội chạy xuống thang :
-Chào bà chủ và cháu!
Phạm văn Hải liền giới thiệu bác Nam Sao với vợ con ,và ngược lại giới thiêu vợ con với anh .Sau một lát trao đổi chuyên trò thăm hỏi chủ khách. Hải liền bảo vợ con bắt một con gà làm cơm đãi khách .Nam Sao nghe thấy vội gạt đi:
-Thôi thôi, để dành gà bữa khác, hôm nay tôi đã có thứ đãi cả nhà rồi.
-Bác có thứ gì đãi chúng em đấy?-Vợ Hải lấy làm ngạc nhiên liền hỏi lại
- Có đấy ,rồi sẽ biết! Nào cháu gái ,mang hộ bác một cái giỏ ra bờ sông với bác đi!-Cháu Lài cũng vội cầm giỏ đi theo Nam Sao. Sau khi hai bác cháu đi một lát đã thấy hai bác cháu khiêng một giỏ cá tươi đầy, đang rẫy đành đạchvề
-A lúi, cá đâu mà nhiều thế bác Nam Sao ơi!
- Bác ấy đánh lưới đấy mẹ ạ, bác để thuyền dưới bờ sông ấy.Tài ghê!
Hải ngồi trên sàn nhìn xuống sân cũng kêu lên : - Bác Sao giỏi thật đấy!
-Đó là nghề kiếm sống của anh đấy cô chú và cháu ạ!- Thím Lả ơi, thím phải chọn con cá ngon nhấtnấu cháo cá cho chú Hải ăn ,mới chóng lại sức đấy. Còn cả nhà cứ thả sức ăn cá ,không phải để dành đâu, mai tôi lại đánh.
-Nhưng bác ơi, nhiều thế này thì ăn một lúc sao hết được,hay là em buông vào thùng nước ăn dần có được không bác.
-Tùy thím thôi. À mà này, xem hàng xóm thân quen mà khó khăn, cho người ta vài con cùng ăn cho vui, mai ta lại có lo gì. Tôi sẽ ở lại đây vực cho chú Hải khi nào khỏe rồi đi đánh cá với tôi được tôi mới đi. Cô chú không phải lo gì cho tôi đâu,gạo nước mắm muối tôi đều có đủ cả. Thế là nhờ món cháo cá của bác Nam Sao, chỉ mười ngày sau chú Hải khổi ốm và dần dần lại sức,mười ngày nữa thì Hải khỏi hẳn, có thể đi làm ăn được. Nam Sao vừa động viên vừa khuyến khích Hải theo mình học nghề đánh cá để xóa đói giảm nghèo. Ít ngày sau có vài người bộ đội về phục viên thấy Phạm Văn Hải theo thày Nam Sao học nghề đánh cá cũng đến nói với Hải xin cùng học theo với.Nam Sao đồng ý. chothành lập một tổ đánh cá Tạ Khoa. Gồm 4 người, do Phạm Văn Hải làm tổ trưởng. Nam Sao lại vận dụng kinh nghiệm của tổ sông Thao, cho lên rừng chặt nứa đan thuyền thúng và các dụng cụ đồ nghề,tìm sơn trên rừng,xin mùn cưa để chạt thuyền,rồi vay mượn tiền mua lưới. Dưới sự huấn luyện cúa anh, chỉ năm sáu tháng sau tổ đánh cá Tạ Khoa đã thành nghề và kiếm sống dần dần nuôi sống gia đình ,ngày càng no đủ hơn. Anh lại ra đi, xuôi về Chợ Bờ- Suối Rút.
Chương 26
BẾN SUỐI RÚT 15/3/1954
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đang bị quân ta bao vây có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt .Đường vận chuyển chi viện quân lính, lươmg thực vũ khí và dụng cụ chiến tranh của bọn địch chủ yếu bằng máy bay.
Còn lực lượng ta bao vây Điện Biên Phủ gồm các đại đoàn chủ lực, bộ binh ,pháo binh ,thông tin ,hậu cần… Đường vận chuyển chủ yếu của quân ta bằng đường bộ, xe ô tô vận tải, xe đạp thồ ,dân công gánh, đồng bào các dân tộc thì gùi sau lưng, bằng các ngả đường, từ đồng bằng ,Việt Bắc, Khu Tư,TâyBắc, vận chuyển nhằm hướng Điện Biên đi tới. Quân ta bao vây địch ở Điện Biên Phủ phải tập trung một số lượng người khá đông, tiêu thụ mọi mặt khá lớn, đòi hỏi việc vận chuyển rất nhiều, nhất là về mặt vũ khí đạn dược, các binh khí kỹ thuật tiêu thụ một khối lượng trong ngày phải tính bằng hàng ngàn tấn.
Các nơi vận chuyển tới Điện Biên Phủ đường quá xa so với các người gồng gánh và xe thồ, do đó ta phải tận dụng và khắc phục bom đạn địch để vận chuyển bắng ô tô, nhất là về vũ khí đạn dược, mới kịp thời chiến đấu. Mà vận chuyển bằng cơ giới thì vấn đề bảo đảm giao thông trong điều kiện địch đánh phá ngăn chặn giao thông trở nên vô cùng quan trọng.
Địa hình ,dọc đường 41,khu vực Chợ Bờ ,suối Rút, bãi Sang,trên đoạn đường này có nhiều rừng núi hiểm trở, từ thị xã Hòa Bình qua bến phà chợ Bờ đi ven tả ngạn sông Đà 6km, lại qua phà suối Rút. Là những mục tiêu cho không quân Pháp đánh phá mà chính bản thân địa hình trên trục đường giao thông đã gây cho ta nhiều khó khăn về vận chuyển bằng cơ giới. Nhất là đường xá bỏ lâu ngày không tu sửa, mặt đường bị các cây cối ven đường mọc um tùm lấn chiếm, nền đường tuy trước đây có giải đá dăm, song bỏ lâu ngày bị phong hóa, cho đến khi ta sử dụng, lại vận chuyển nhiều ,nền đường trở nên bị lầy lội. Riêng nước sông Đà khu vực chợ Bờ ,suối Rút chảy xiết vì có nhiều đoạn đã bị thu hẹp lòng sông,thuyền bè đi lại vô cùng khó khăn và nguy hiểm.
Hoạt động của địch, Bến phà chợ Bờ- đoạn đường 6km ,tả ngạn sông Đà gọi là đèo Hút gió,qua bến phà suối Rút đến bãi Sang là trọng điểm bắn phá của các loại bom phá đường ,phá bến phà,bom nổ chậm ,bom bi,còn bắn 20 ly cả ngày lẫn đêm,chủ yếu không quân giặc Pháp hoạt động hàng ngày liên tục từ 10 đến 12 lần Nhất là khi Điện Biên Phủ đang bị ta bao vây vào tháng 3 ,tháng 4 năm 1954,vận chuyển của ta bằng cơ giới trên tuyến đường 41 qua chợ Bờ ,suối Rút càng nhiều thì địch bắn phá khu vực này càng ác liệt hơn.
Thủ đoạn bắn phá của địch: Ngoài việc phá hoại đường xá,bến phà ,còn bắn phá phương tiện vận chuyển ,phương tiện vượt sông ,cầu phao, bè mảng, thuyền ,phà. ca nô,không quân lùng sục hai bên bờ sông bắn phá, gây cho ta nhiều khó khăn thiệt hại,nhất là phương tiện vượt sông cho cơ giới qua sông, chủ yếu là phà đã bị máy bay địch bắn phá làm đắm vài lần rồi, mỗi lần vớt được phà lên cũng mất từ 7 đến 10 ngày vì phà là phương tiện vượt sông cồng kềnh khó vận chuyển và khó cất dấu.
Về tình hình ta : Vào cuối tháng 3 năm 1954,ở chiến dịch điện Biên Phủ đã đến giai đoạn quyết định, cần nhiều vũ khí để áp đảo quân địch trong đợt tổng công kích sắp tới.Việc dùng cơ giới vận chuyển vũ khí là chủ yếu, mỗi tối bến suối Rút phảỉ bảo đảm từ 15 đến 20 chuyến ô tô từ đèo Hút gió qua bến suối Rút sang bãi Sang.
Việc sử dụng lực lượng: Đại đội công binh 250 và đại đội công binh 270 thay phiên nhau bảo đảm bến phà Suối Rút, bảo đảm đoạn đường từ đèo Hút gió đến khu vực bãi Sang, như vậy nhiệm vụ gồm có: - Bảo đảm vượt sông bến suối Rút -Bảo đảm đoạn dường trọng điểm, đèo Hút gió tới bãi Sang, sửa đường ,lấp hố bom, phá bom nổ chậm,chống lầy vv…
Phương tiện khí tài vượt sông gồm có: - Một phà trọng tải mười hai tấn chở bằng tay -Một thuyền chở mườì lăm người - Từ năm đến mười mảng nứa ,mỗi mảng chở bốn đến năm người, bộ binh. - Một dây cáp dài ba trăm mét bắc qua sông ,gọi là dây quá giang.
Diễn biến chiến đấu: Tháng 3 năm 1954 đại đội 270 do đồng chí Huy làm đại đội trưởng, gồm có: trung đội 7,trung đội 8, trung đội 9, phụ trách bảo đảm vượt sông trong đợt vận chuyển vũ khí mới loại K50 có súng và đạn, gồm có 20 xe, hạn trong hai đêm phải qua bến suối Rút.
-Sáng ngày 25/3/1954 nhận lệnh vượt sông.
- 15 giờ chiều 25/3/1954 ,bốn máy bay địch dánh phá trong một giờ đồng hồ.Hậu quả đoạn đường đèo Hút gió bị phá hoại 120m cách đoàn xe vận tải vũ khí mới 250m.Bến suối Rút hai đầu bến bị bom phá khoét sâu 3-4 m mặt đường lên xuống bến. Một phà 12 tấn bị đắm, hi sinh hai chiến sỹ công binh. Một chiến sỹ là Ờn người Mường người Hòa Bình và một chiến sỹ là Năm người Hà Đông.
- 15 giờ 30 ,trời mưa to, đường sụt lở thêm ,cây cối bị máy bay bắn gẫy đổ ngổn ngang,đoạn đường càng trở nên lầy lội
-18 giờ, lệnh của trên xuống: Bằng mọi cách công binh đại đội 250,đại đội 270, tiểu đoàn 333, phải bảo đảm thông đường ,thông bến, giải phóng đoàn xe bị tắc ở quãng đèo Hút gió.
Như vậy là đoàn xe 20 chiếc, chở đầy vũ khí mới K50của Liên Xô chi viện cấp tốc cho chiến trường Điện Biên Phủ, chuyến đầu tiên đang bị mắc kẹt ở đoạn đèo Hút gió, trên đoạn đường 6km, phía sau là bến chợ Bờ, phía trước là bến suối Rút ,thì sớm muộn cũng bị địch đánh phá ,mà có kinh nghiệm là,nếu địch đánh trúng một xe bị cháy ,khói đen bốc lên thì chúng bâu vào đánh liên tục hết đợt này đến đợt khác ,ta không thể cứu chữa được.
-18 giờ 30 ngày 25/3/1954,thủ trưởng tiểu đoàn 333 công binh và các đại đội trưởng của các đại đội 250 và 270 họp cáp tốc .Hạ quyết tâm sử dụng : đại đội 270 bảo đảm vượt sông qua bến suối Rút. Đại đội 250 sửa đường lấp hố bom, chống lầy ,23 giờ phải thông đường và chuyến xe thứ nhất qua sông..
Trong lúc các cấp trưởng họp ,thì các cấp phó ở nhà chuẩn bị tinh thần tư tưởng mọi mặt và hạ quyết tâm bất kỳ nhận nhiệm vụ nào cũng phải hoàn thành xuất sắc.Riêng anh nuôi,nấu cơm chiều xong,nấu thêm một nắm nữa cho bộ đội ăn đêm.Khi các cấp trưởng họp xong,triển khai bộ đội chuẩn bị. Đại đội 250 nhanh chóng sửa đường đèo Hút gió,bãi Sang. Đại đội 270 bảo đảm trục vớt phà đắmvà làm đường hai đầu lên xuống bến phà.
-19 giờ triển khai, đại đội 270 phân công như sau: trung đội 7 do đồng chí Cổ làm trung đội trưởng, san lấp hố bom ,bảo đảm đường lên xuống bến phía Nam, trung đội 9 do đồng chí Cầm làm trung đội trưởng làm đường lên xuống bến bờ Bắc .Trung đội 8 do đồng chí Nam Sao làm trung đội trưởng làm nhiệm vụ trục vớt phà đắm sau đó chở cơ giới qua sông.
19 giờ 30 phút, chuẩn bị vớt phà.Tình hình phà bị đắm cách bến phía thượng lưu 100m dưới bụi cây che khuất. Chợ Bờ ,bến hoắm, sóng đánh vào mạnh.sau khi cho sào dài nối vào nhau cắm xuống để đo chiều sâu và tìm vị trí phà đắm thì phà bị chìm sâu 6m.
Hiệp đồng,việc làm đường hai đầu bến phà và vớt phà phải tiến hành song song. Sau khi vớt phà xong ,bến xong thì trung đội 8 phụ trách chở phà, còn trung đội 7 và trung đội 9 làm lực lượng dự bị và chi viện cho đại đội 250 làm đường.
Biện pháp vớt phà: - Cấp tốc đẵn một cây gỗ đường kính 10- 12 cm làm tời,hai tiểu dội bạt đất mé bờ sông, dùng dây cáp 16 ly buộc vào tời, một đầu buộc vào phà, sau đó dùng tời kéo phà nổi lên khỏi mặt nước, rồi dùng thùng múc nước cho phà nổi lên.
-Một khó khăn lặn xuống 6m buộc dây cáp vào phà là một vấn đề khó,ai có nhiều hơi và phải quen lặn. Lần thứ nhất là trung đội trưởng Nam Sao lặn, mang được dây cáp xuống vị trí liên kết vào đầu phà, chưa liên kết được thì hết hơi phải lên,lặn lần thứ hai thì không xuống tới phà, vì trời rét xuống sâu ,buốt lộng óc.
Nam Sao họp toàn trung đội lại, nói rõ tình hình và lấy tinh thần xung phong. Đồng chí Đồng Văn Đường ,người Bến Thủy tỉnh Nghệ An, gia đình đồng chí làm nghề chài lưới từ nhỏ ,đồng chí Đường bơi lặn đã quen, đồng chí Đường xung phong lặn.
-20 giờ ,đồng chí Đường đem theo một đầu dây cáp lặn xuống ( ký hiệu buộc xong giật dây cáp 2 lần để trên bờ biết). Đồng chí Đường lặn khá lâu không thấy đầu dây cáp động, anh em sợ đồng chí Đường chết cóng. Đang lo lắng thì đầu dây động và đồng chí Đường nhô lên mặt nước ,thấy tay đồng chí với vớí ,anh em đưa sào ra đồng chí vịn lấy , anh em kéo vào bờ, đồng chí Đường đã mệt lử, bụng chướng nước- đưa đồng chí đi cấp cứu mớí biết là đồng chí Đường mặc dầu đã hết hơi, uống mấy ụm nước nhưng kiên quyết liên kết dây cáp vào phà bằng được.
Lệnh tời kéo phà bắt đầu,đang tời thì máy bay địch đến thả 4 quả bom ở bến,anh em cứ kéo ( nói đúng hơn là liều chết) vì tời phà dở dang mà ngừng kéo thì nước tràn vào, thậm chí trông thấy những con cá chết bom to bằng quạt mo nổi trắng ở mạn phà, anh em tuy thiếu thốn thực phẩm nhưng cũng không dám rời phà để vớt cá.
-20 giờ 30 phà nổi,tập trung tát nước ,23 giờ phà nổi hẳn. 23giờ 30 đưa phà sang bờ Bắc ,chở chuyến phà thứ nhất qua sông an toàn, anh em đều thở phào nhẹ nhõm.
-23giờ 40 phút thay phiên nhau ăn cơm nắm, vẫn tiếp tuc chở phà cho xe vận tải qua sông.Và cũng quãng thời gian này, thông báo của tiểu đoàn là,đại đội 250 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo dảm lấp hố bom trên hai đoạn đường bị phá hoại.
Kết quả :- Trong năm giờ ba mươi phút ( từ 6 giờ đến 11 giờ ba mươi phút ) đại đội 270 đã kiên quyết ,cán bộ và chiến sỹ hăng say đồng tâm nhất trí khắc phục khó khăn trục vớt được phà đắm, do bom nổ sóng xô làm phà đắm, bảo đảm từ 23giờ 30 đêm đến năm giờ sáng hôm sau ,cho 20 xe chở vũ khí mới qua sông,chi viện cho quân ta đang bao vây Điện Biên Phủ.
Đào đắp lấp hố bom gần 8 m3 đất đá ở hai bờ bến. Đại đội 250 với tinh thần bảo đảm giao thông đã đào đắp hàng trăm mét khối đất đá san lấp hố bom hợp đồng chặt chẽ cho đoàn xe vận tải qua sông.
Các đại đội 270,250, tiểu đoàn 333 công binh,đã kiên quyết bảo đảm giao thông, ngày đêm chống với không quân giắc Pháp, cho thông đường chở quân ta vận chuyển qua sông, góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhân xét: Quyết tâm cao cán bộ chiến sỹ công binh không ngại khó khăn gian khổ,hy sinh, vì bảo đảm giao thông chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. -Trung đội 8 công binh đại đội 270 do đồng chí Nam Sao làm trung đội trưởng chịu trách nhiệm vớt phà đắm, có nhiều sáng tạo,kế hoạch sát,sử dụng chiến sỹ đúng năng lực vào nhiệm vụ, đắc biệt đồng chí Đường đã mang lại thành công trong việc trục vớt phà,Sau về bình công ,đồng chí Đường đã được thưởng huân chương chiến công hạng ba rất xứng đáng. Sau đó trung đội 8 đã chèo chở phà đưa toàn bộ đoàn xe đặc biệt chở vũ khí mới qua sông an toàn, theo đúng thời gian quy định của cấp trên.
Xuôi về bến cũ
Con thuyền thúng đơn độc của Nam Sao lại xuôi dòng sông Đà một cách nhẹ nhàng êm trôi. Anh vẫn vừa đi vừa đánh cá kiếm sống một cách cần cù và thanh thản. Chiều hôm sau đã tới bến phà Suối Rút. Anh lên bờ ngắm toàn cảnh bến phà cũ. Suy nghĩ và nhớ lại những tình huống chiến đấu năm xưa trên bến phà này. Anh nhớ tới hai chiến sỹ đã hy sinh vì máy bay giặc bắn. Đó là chiến sỹ Ờn, người Hòa Bình và chiến sỹ Năm, người Hà Đông.Dạo đó đơn vị cho mai táng tại mé rừng ,cách bến phà khoảng một trăm mét. Chẳng biết sau này hài cốt đã đưa về địa phương, về nghĩa trang liệt sỹ chưa ?Anh quay xuống thuyền lấy một nắm hương anh đã mua sẵn từ hôm qua,rồi lần theo lối mòn lên sườn núi tìm mộ của hai liệt sỹ , do chính anh cùng tiểu đội 1, tổ chức chôn hồi đó.Anh còn cho anh em khắc chữ vào gốc cây sát đó để đánh dấu mộ chí, cho những người tìm mộ dễ thấy. Anh loay hoay tìm một lúc,mới nhận ra gốc cây đó vẫn còn, nó đã rất to cao, lừng lững giữa rừng. Chẳng còn thấy hai nấm mộ nữa. Ở gốc cây nơi khắc tên các liệt sỹ cũng không còn rõ nữa, chỉ thấy một khối u xù xì, lòi ra từ thân cây ở độ cao hàng chục mét. Anh phán đoán chính là dấu khắc chữ đã mọc cao lên như vậy. Nam Sao bật lửa ,đốt cả bó hương rồi cắm xuống gốc cây,vái mấy vái rồi thì thầm : “Đồng chí Ờn và đồng chí Năm ơi ! Tôi là Nam Sao ,trung đội trưởng của các đồng chí đây.Mấy chục năm qua , may mắn tôi còn sống trở về .Bây giờ trên đường đi kiếm sống ,mới có dịp quay trở lại ,thăm chiến trường xưa và đến viếng mộ các đồng chí đây. Sống khôn chết thiêng, các đồng chí hãy phù hộ cho những người thân trong gia đình và anh em đồng đội được mạnh khỏe ,đủ sức kiếm ăn, xóa đói giảm nghèo, phù hộ cho đất nước mình ngày càng phồn vinh…” Nam Sao đang rì rầm khấn vái thì có tiếng léo nhéo ở phía sau .Anh quay lại ,thấy ba bốn cô gái Mường đang gánh củi từ trên rừng đi xuống .Đến gần gốc cây ,họ đặt xuống nghỉ. Thấy anh mặc quần áo bộ đội ,đội mũ cối, họ đều chào:
- Chào anh bộ đội!
- Chào các ủn, các ủn đi kiếm củi về à !
-Vâng ạ! -Một cô lớn tuổi nhất,trông thấy nắm hương đang tỏa khói nghi ngút ở gốc cây liền hỏi:
-Anh bộ đội thắp hương cho ai thế? Có phải đồng đội cũ chết ở đây không?
-Đúng thế, một đồng chí tên là Ờn và một đồng chí tên là Năm. Hy sinh từ đầu năm năm mươi tư, hồi chiến dịch Điện Biên Phủ cơ. Các ủn có biết gì về hai nấm mồ ở đây không? -Vẫn cô lớn tuổi nói:
- Em biết chứ ! Anh Ờn là anh trai của em mà. Sau chiến tranh, ở xã đã đưa cả hai nấm mộ này vào nghĩa trang liệt sỹ rồi.
-Ôi thế thì hay quá. Nhà em có gần đây không, bố mẹ vẫn còn chứ.Anh muốn đến thăm gia đình có được không?
-Nhà em ở trong bản gần đây thôi, bố mẹ em vẫn còn. Mời anh vào chơi .Gặp được bạn của anh Ờn chắc là các cụ vui lắm!
Nam Sao mừng quá liền theo các cô về bản.Vừa đi anh vừa hổi cô gái lớn tuổi:
- Em tên là gì nhỉ, là con gái út của các cụ à ?
-Em tên Đương, vâng em là con út.
-Được mấy cháu rồi?
-Em mới được một cháu trai tên là Đường, thì nhà em hy sinh trong chiến trường K. Cháu đang học lớp mười, thấy bố mất nó bỏ học rồi, nó muốn đi làm nhưng chẳng xin được việc gì, chỉ ở nhà làm ruộng làm nương với mẹ thôi.- Vừa lúc đó đi đến đầu ngõ,Đương tiếp: -Nhà bố mẹ em đây,mời anh vào chơi. Cô đặt gánh củi ngoài ngõ ,rồi dẫn Nam Sao vào sân, cô gọi to: -Bố ơi! Có bạn anh Ờn đến thăm đây này ! -Một cụ già khoảng bảy mươi tuổi từ trên nhà sàn bước vội xuống cầu thang ngơ ngác nhìn người khách lạ. Nam Sao vội chạy lại:- Chào cụ ạ! Cháu cùng đơn vị của chú Ờn trước đây là chỉ huy chở phà Suối Rút, đưa xe pháo vào Điện Biên .Nay mới có dịp lên viếng mộ chú Ờn và thăm cụ cùng gia đình - Anh nắm lấy hai tay cả cụ ông và cụ bà rung rung -Thấy các cụ còn khỏe mạnh thế này là cháu rất mừng. -Hai cụ già cười hớn hở: - Quý hóa quá ,quý hóa quá! Mấy chục năm rồi mà vẫn còn nhớ đến em nó và chúng tôi, thật là mừng. Anh vẫn còn ở bộ đội chứ ?-Không ,cháu đã nghỉ hưu rồi,mới có điều kiện đi chơi xa ,thăm chiến trường xưa ,thăm bạn bè cùng gia đình đồng đội được chứ ạ!- Thế anh lên bằng ô tô à,xe để đâu?- Không, cháu đi bằng thuyền thúng đánh lưới ạ. -Hả,đi bằng thuyền thúng? Cả hai cụ đều ngạc nhiên- Vâng cháu đi mấy năm nay rồi, đi hết sông này bến nọ, thăm nhiều bạn bè đồng đội, vừa đi vừa kiếm sống,nay mới đến đây mà. Cụ già lại kêu lên :- Kỳ lạ quá ,kỳ lạ quá! Các thủ trưởng người ta đi hết xe con này đến xe con khác ,còn có người đi cả ô tô to nữa, nhà nước thiếu gì xe, thiếu gì người lái.Thế mà ông thủ trưởng này lại không đi xe cơ quan ,không đi xe nhà nước, mà lại tự bơi thuyền thúng đi viếng liệt sỹ ,đi thăm đồng đội và gia đình đồng đội ,thăm chiến trường xưa .Thật là lạ kỳ ,có một không hai .Quý hóa quá,quý hóa quá ! – Dân bản nghe tin có một ông thủ trưởng của anh Ờn từ mấy chục năm trước, nay vẫn lên viếng và thăm gia đình, họ kéo đến đầy cả nhà đầy cả sân để chúc mừng bố mẹ anh Ờn và chào người đồng đội của anh Ờn, sao mà nghĩa tình ,sao mà quý hóa làm vậy.Chuyện râm ran một lúc thì bà con chào ra về, chỉ còn mấy cụ già lên sàn ngồi uống nước và kể chuyện từ cái thời Điện Biên với anh bộ đội già. Nam Sao tiếp các cụ một lúc rồi xin phép xuống sân. Anh gọi Đương mang một cái giỏ theo anh ra bãi sông lấy cá. Đương hỏi : - Cá ở đâu thế anh ?
- Cá của anh đánh mà! - Anh cũng biết đánh cá à? -Nghề kiếm sống của anh đấy! -Hai người đang khiêng giỏ cá lên bờ, Nam Sao bảo Đương dừng lại,anh quay xuống thuyền xách nốt túi gạo nhỏ lên đưa cho Đương: -Em nấu cơm cho cả nhà ăn tối nay, cả mẹ con em nữa nhé, liên hoan mà. -Nhà cũng có gạo mà,anh để lại mai đem đi mà ăn chứ . -Mai anh lại đong lo gì, gạo chợ nước sông mà ! - Khi hai người khiêng giỏ cá về đến sân làm cho bố mẹ Ờn và các cụ già đều chạy xuống xem ,rồi ngạc nhiên kêu lên: -A lúi!...Ây dồ!... Ông thủ trưởng mà cũng đánh cá giỏi ghê! - Nam Sao lại dúi cho Đương mấy đồng, rồi nói nhỏ : Em mua ít rượu về mời cả các cụ ở đây uống rượu cho vui nhé . Cụ Ờn nghe thấy liền nói: - Không phải mua rượu nữa đâu ,nhà hãy còn, đủ uống. Xin mời các cụ ở lại đây liên hoan với anh thủ trưởng cho vui nhé. Mấy cụ già hàng xóm cũng vội nói: -Mẹ cu Đường không phải mua rượu nữa. Các cụ về nhà góp mỗi người một chai thì uống cả đêm cũng chả hết. Mấy chục năm nay, mới thấy một người đồng đội của con trai cụ Ờn tốt như vậy đến thăm,thì phải uống rượu mừng chứ, hà hà… hà hà…Thế là các cụ già đều xúm xít lại, mỗi người một tay, người mổ cá, người xiên cá ,người đốt lửa,người cời than, người tìm rau thơm rau ghém, làm nước chấm…Nam sao xin phép các cụ trời còn sớm, tranh thủ ra nghĩa trang thắp hương cho các liệt sỹ Ờn và Năm. Bố Ờn gọi:
- Mẹ Đương dẫn anh thủ trưởng, xin lỗi anh tên gì nhỉ?
- Cháu là Nam Sao ,cứ gọi cháu là Sao cũng được
- Ờ mẹ Đường dẫn anh Sao ra nghĩa trang cho nhanh, rồi về uống rượu. Ở nhà đã có các cụ lo, qua nhà gọi cháu Đường sang giúp ông một tay nhé.
-Vâng ạ ! - Cô Đương,người mẹ trẻ ,lên nhà lấy một nắm hương thơm, rồi xuống cầu thang , vui mừng kéo tay Nam Sao đi, mặt cô tự nhiên hơi ửng đỏ, người cô thấy lâng lâng khó tả, mới gặp anh bộ đội đứng tuổi này từ chiều mà cứ như đã quen lâu ngày vậy. Đi qua nhà Đương, cô dẫn anh ghé vào chơi, một ngôi nhà sàn nhỏ đơn giản nhưng gọn gàng sạch sẽ, Thằng Đường ở trên sàn vội chạy xuống chào:
- Cháu chào bác ạ !
- Chào cháu,cháu là Đường hả ?
- Vâng ạ! Chiều cháu đã sang nhà ông ngoại, biết bác đến chơi rồi. Bác là thủ trưởng của bác Ờn cháu. Mẹ Đương vội bảo con:
- Con sang nhà ông đi, giúp ông bà làm cơm với các cụ, mẹ dẫn bác ra nghĩa trang một lát. Tối về bác kể chuyện bác Ờn cho mà nghe!
- Vâng ạ! Thằng Đường vội vàng chạy ra cổng. Nam Sao hỏi Đương :
- Cháu bao nhiêu tuổi rồi?
- Khi đẻ nó em mới mười bảy tuổi, năm nay cháu mười lăm tuổi rồi.
- Một thanh niên mới lớn, đẹp trai, giống mẹ. Thế mà bỏ học giữa chừng ,nó đã không muốn học thì có bắt buộc cũng chả được, đành phải kiếm nghề cho cháu thôi.
- Em chưa biết xoay sở thế nào cả.
-Văn hóa thấp đi làm nhà nước không ai lấy đâu. Ở nhà mà cứ kiếm ra tiền là được rồi,mẹ con trông lấy nhau .Còn phải trông nom ông bà nữa chứ!
- Vâng ,ông bà nội thì mất cả rồi, chỉ còn ông bà ngoại thôi .
- Ông bà nào thì con cháu cũng phải trông nom. Nếu em đồng ý thì anh sẽ dậy cho cháu nghề đánh cá.
-Anh ở lại đây với mẹ con em chứ?
-Anh sẽ ở lại đây dậy thằng Đường biết đánh cá kiếm sống được thì thôi.
- Vâng thế cũng được. Em chỉ mong được như thế thôi. Em cảm ơn anh rất nhiều. Trong lòng cô Đương còn mong nhiều hơn thế nữa, nhưng cô chưa dám nói ra .Cô tin rằng cô sẽ dần dần chinh phục được anh, đến đó sẽ hay,nếu trời phù hộ cho cô.
Đến nghĩa trang, hai người đều thắp hương cho liệt sỹ Ờn và liệt sỹ Năm, cùng các nấm mồ liệt sỹ ở xung quanh. Nam Sao rì rầm khấn vái trước nấm mồ của Ờn và Năm .Cô Đương cũng rì rầm khấn vái, ngoài việc cầu xin hương hồn anh Ờn và các liệt sỹ phù hộ cho bố mẹ cô được khòe mạnh sống lâu trăm tuổi,phù hộ cho mẹ con cô được khỏe mạnh ,làm ăn được no đủ yên lành.Cô còn cầu anh trai và các liệt sỹ, trong đó có cả người chồng của cô đã hy sinh, hãy phù hộ để người đồng đội tốt bụng của anh Ờn được ở lại và yêu thương mẹ con cô đến trọn đời!
Khi hai người ở nghĩa trang về thì các cụ và cháu Đường làm cơm nước đã xong xuôi,mà chủ đề là cá nướng và cháo cá ,là hai món ăn ngon sở trường của dân tộc ở vùng này . Cuộc liên hoan kéo dài ,với những câu chuyện từ thời đánh Pháp ,đánh Mỹ tới tận đêm khuya. Nam Sao xin phép đi nghỉ để sáng mai còn đi đánh cá sớm. Ngày hôm sau thì việc bàn bạc lập tổ đánh cá của các con em liệt sỹ được thực hiện gồm toàn thanh thiếu niên trẻ tuổi gồm bốn cháu do cháu Đường làm tổ trưởng và do giáo viên Nam Sao huấn luyện.Việc huấn luyện các cháu phải làm khá kỹ từ khâu cơ bản đến tổng hợp. Nam Sao phải huấn luyện từ việc đan thuyền thúng đến làm các dụng cụ đồ nghề cho các cháu. Sau đó anh bỏ tiền ra mua lưới ban đầu cho các cháu. Sau ba tháng thì các cháu đã có thể tự đi kiếm cá được.Nhưng anh còn phải ở lại đây hàng năm trời để vừa kiếm sống vừa kèm cặp các cháu kiếm sống thành thạo. Trong số các học viên thì cháu Đường là học sinh xuất xắc nhất, vừa thông minh vừa cần cù,ngày nào cháu cũng kiếm được dăm bảy cân cá, có khi được hàng yến, mẹ phải đi chợ bán cá mấy lần liền.Buổi chiều, cháu Đường vừa bơi thuyền cập bến đã gọi Nam Sao:
- Bố ơi, con tiếc quá, một con cá to đến năm sáu cân mắc lưới rồi mà không bắt được, nó quẫy mạnh quá chạy thóat, rách cả lưới.
- Sao con không lấy vợt xúc nó lên ?
- Nó dài quá ,vợt không xúc vừa.
-Thế thì con phải dùng cạnh dầm bơi mà bổ vào óc nó cho nó chết ngất đi chứ .
- Ừ nhỉ ,bố đã dậy rồi mà lúc đó con luống cuống quên mất.
- Thôi rút kinh nghiệm ,lần sau thì cứ bình tĩnh mà sử lý ,không được vội vàng,cứ phải nhẹ nhàng kéo nó vào rồi xúc lên thuyền ,hoặc tìm cách đập cho nó chết rồi mới nhấc lên thuyền mà gỡ.
-Vâng ạ ! –Đường và các bạn trẻ đều gọi Nam Sao là bố từ bao giờ cũng không biết nữa.Cũng có thể là do mẹ Đương dặn. Cả tổ đánh cá đều gọi bố Sao ,mẹ Đương quen mồm ,cứ như một gia đình đông con vậy.Riêng Đương thì rất thich, nhưng Nam Sao thì vẫn làm ngơ. Anh vẫn thân mật quý mến Đương và các cháu như con cái mình. Nhưng anh không thể chiều lòng Đương được. Bởi vì anh cũng có một gia đình ấm cúng và đang đau khổ vì anh. Anh không thể phụ lòng người vợ hiền tần tảo, đã vì anh mà nuôi dậy con cái thay anh. Anh đành phải xa vợ con ,xa quê hương để quên đi những nỗi đau của chiến tranh và những nỗi buồn, tủi cực, day dứt trong lòng. Không muốn để vợ con phải chịu đựng những nỗi đau buồn của riêng anh. Nhưng anh vẫn phải kiếm sống cho bản thân mình và cho vợ con. Hàng tháng hoặc một vài tháng anh vẫn tích cóp gửi tiền về cho vợ qua những người quen hoặc qua đường bưu điện, để đỡ đần cho vợ được ít nhiều, nuôi con cái ăn học. Trên đường lênh đênh rong ruổi để kiếm sống và làm từ thiện với bạn bè đồng đội. Anh hết sức tránh những quyến rũ tình cảm của những cô gái xinh đẹp ,hay những phụ nữ đa tình. Ngay từ thời trong quân ngũ, anh đã coi đó là một tai họa nguy hiểm,mà anh phải tuyệt đối tránh. Bởi lẽ ,những người có quyền thế và những kẻ đố kỵ dèm pha ,định kiến, chỉ luôn luôn rình rập anh, chờ thời cơ anh sơ hở là chúng ra tay tố cáo ,tiêu diệt anh.Tính cảnh giác đó anh đã rèn luyện quen rồi. Cho dù bây giờ anh đã về hưu, không còn vòng kim cô cương tỏa nữa. Nhưng anh không thể cho phép anh được vi phạm đi ra ngoài vòng luân thường đạo lý và lẽ sống mà anh đã rèn luyện được từ trước tới nay. Để tránh những tai tiếng hoặc những điều vui đùa xằng bậy không hay. Ở đâu anh cũng chọn ở thuê hoặc ở nhờ những gia đình có người già cả,hay cô đơn. Ngay ở Suối Rút này,bố mẹ Ờn và mẹ con Đương vẫn mời anh sang ngủ nhà Đương cho vui. Nhưng anh vẫn ngủ nhờ bên nhà các cụ,nên chẳng có điều tiếng gì cho anh và cho cả mẹ con Đương.
Sau một năm thì tổ đánh cá Suối Rút đã tăng lên sỹ số mười người, do các em tự đào tạo lấy nhau theo phương pháp của thầy Nam Sao, trong đó Anh vẫn là cố vấn về phương pháp làm ăn để mau chóng phát triển. Một may mắn là thời kỳ này hồ thủy điện Hòa Bình đang triển khai thi công, nước dần dần được nâng cao,cá các loại được phát triển nhanh chóng , hồ tích tụ nhiều màu, cá mau lớn. Nam sao đã kịp thời hướng dẫn cho các tổ viên thay đổi kích thước lưới ,dài hơn ,rộng hơn và phương pháp phải tỷ mỷ khéo léo hơn để đánh được nhiều cá to hơn.Tổ đánh cá của cựu chiến binh và con em thương binh liệt sỹ ở Suối Rút sau một năm đã phát triển thành hồ thủy điện Hòa Bình, có trên hai chục tổ viên,trong đó có thêm một số cựu chiến binh lớn tuổi cũng tham gia .Họ chia làm hai nhóm: nhóm già và nhóm trẻ cho dễ sinh hoạt và hợp tính hợp nết nhau hơn.Khi các nhóm đã làm ăn đi vào nề nếp và đang phát triển mạnh, thì Nam Sao lại chia tay tổ đánh cá Suối Rút lên đường. Mặc đầu ở đây đang là thời cơ anh kiếm cá được nhiều nhất.
Anh lại xuôi dòng sông Đà trở về sông Hồng ,rồi rẽ sang sông Đuống, ngược lên sông Cầu, sông Thương,sông Lục nam, xuống sông Kinh Thầy, sông Thái Bình.Cứ hoạt động quanh vùng Lục đầu giang này hàng năm trời. Nơi đây anh đã từng chiến đấu thời chống Pháp, rồi tiễu phỉ thời hòa bình.Đã từng phá bom nổ chậm , bom từ trường thời chống Mỹ để giải phóng những luồng lạch,thông suốt những dòng sông.Để đưa hàng ngàn thuyền bè, phà, tàu thủy ,ca nô ,xà lan các loại…Vận tải chuyên chở hàng triệu tấn hàng, vũ khí đạn dược lương thưc ,thực phẩm…cho các vùng đồng bằng,hải cảng và xa hơn ,chi viện vào chiến trường miền Nam,trong những ngày giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc,và phong tỏa các đường giao thông vận tải của ta. Anh cũng đã đến thăm một số bạn bè đồng đội thời chống Pháp, nhưng không còn mấy,chỉ gặp các chiến sỹ thời chống Mỹ thì nhiều hơn.Cũng như ở các nơi anh đã qua.Gặp những hoàn cảnh khó khăn anh đều tận tình giúp đỡ, truyền nghề cho anh em biết làm ăn kiếm sống, bằng cái nghề truyền thống của mình. Ở mỗi dòng sông ,anh cũng lại lập được một tổ đánh cá của cựu chiến binh hoặc con em liệt sỹ. Ở đâu ,anh cũng vừa tự mình kiếm sống, lại vừa kèm cặp họ, cho đến khi nào họ kiếm sống được mới lại ra đi .Không nhận một đồng tiền công, không nhận một lời ân huệ.Thậm chí không nhờ vả phiền hà một ai, mọi việc đều sòng phẳng với tấm lòng thương yêu đùm bọc lẫn nhau,trên tinh thần bạn bè đồng đội đồng chí,đã từng vào sinh ra tử với nhau trên mọi nẻo chiến trường. Anh đã sống vì đồng chí đồng đội nghèo khó như thế. Đó là mục tiêu sống của anh. Chính vì thế nên tâm tư ,tình cảm anh lúc nào cũng được thoải mái vô tư, bớt lo nghĩ những điều buồn phiền tủi cực đã qua .Nhờ thế sức khỏe anh được cường tráng dồi dào, ngày đêm làm ăn bền bỉ không biết mệt mỏi. Đôi lúc cũng có trái nắng giở trời, nhưng đối với anh ,một vài viên thuốc dự phòng là qua khỏi ngay. Anh luôn luôn ăn uống điều độ và biết giữ gìn,rèn luyện hàng ngày bền bỉ, không bao giờ lâm li,cũng không bao giờ thái quá .Bởỉ “sức khỏe là mẹ thành công”, “một nụ cười bằng mười thang thuốc”.Ngày xưa bố anh đã dậy như thế và trong cuộc đời quân ngũ, anh cũng đã rèn luyện mình được như thế. Tuy anh đã ở tuổi chi thiên mệnh, năm hai ,năm ba tuổi rồi ,đã về hưu hàng chục năm trời nay. Đang lênh đênh hết dòng sông này đến dòng sông nọ. Những dòng sông lại nối tiếp những dòng sông .Nhưng anh vẫn cảm thấy mình còn dẻo dai và minh mẫn. Cho nên lúc nào anh cũng lạc quan yêu đời, lúc nào cũng đùa vui dí dỏm, chuyện tiếu lâm ,châm biếm ,tếu táo…Bởi vậy, ở đâu anh cũng được từ người già đến trẻ em đều yêu thích và quý mến .
Chương 27
TÌM NGƯỜI NHƯ THỂ TÌM CHIM
Một hôm Nguyễn Văn Thuận sang gặp chị Ngữ ,vợ anh Nam Sao :- Chị có biết anh ấy bây giờ ở đâu không ? Phải tìm anh ấy về thôi,lang thang mười năm trời rồi còn gi!Chị Ngữ: -Biết anh ấy ở đâu mà tìm ! – Thế anh ấy gửi tiền về cho chị và các cháu gần đây nhất là ở đâu? – Không biết, chỉ thấy giấy báo chuyển tiền từ bưu điện Mậu A thôi!- Bưu điện Mậu A là ở đâu nhỉ? -Hình như ở Yên Bái thì phải.-Yên Bái,Mậu A ,thì rộng mênh mông biết đâu mà tìm.- Thấy cậu Hà ở trong Hà Trung trước đây nói là anh ấy đi dậy cho các bạn cựu chiến binh của anh ấy đánh cá thì phải . -Giúp đỡ ban bè thì tốt thôi ,nhưng còn phải nghĩ đến gia đình mình nữa chứ -Tính anh chú ,chú còn lạ gì.-Suy nghĩ một lát rồi Thuận nói:- Em phải vào Thanh Hóa gặp cậu Hà một chuyến, may ra mò được manh mối gì chăng, chị cho một cháu đi với em, vào thăm các cụ trong ấy một thể.- Thế cũng được, để tôi cho cháu Nga đi với chú, nó bé nhưng nhanh nhẹn tháo vát hơn,chú định bao giờ đi? -Càng sớm càng tốt chị ạ, chị xin phép cho cháu nghỉ học vài hôm để đi nhá.Cứ nói với cô giáo là cháu đi tìm bố với chú, là cô yên tâm cho đi ngay, cô giáo còn lạ gì gia đình mình nữa.
Thế là ngày hôm sau,hai chú cháu Thuận và Nga lên tàu đi Hà Nội rồi chuyển tàu về Đò Lèn thăm gia đình ông bà ngoại của các cháu. Đến chiều thì về đến nơi. Cháu Nga hớn hở đi trước dẫn đường.Vừa vào đến cổng nó đã gọi ông bà ríu ra ríu rít. Ông bà mừng rỡ đón chú Thuận và cháu Nga niềm nở.Chú Thuận cũng nói rõ mục đích của chuyến đi này của hai chú cháu về đây .Trước hết là thăm hai ông bà và gia đình,sau nữa là hỏi tìm manh mối địa chỉ cúa anh Nam Sao để đón anh về ,củng cố xây dựng lại gia đình. Các cụ đều vui vẻ đồng tình ý kiến của chú Thuận.Trong khi Thuận ngồi nói chuyện với ông bà thì cháu Nga chạy đi tìm chơi với các em con cậu Hà. Chiều tối thì mợ Hà đi làm đồng về.Một lát sau thi cậu Hà cũng đi đánh cá về.Hà sách giỏ cá khá nặng. Thuận khen :-Cậu đánh được nhiều cá thế! Hà vui vẻ bảo : -Đây cũng là nhờ công lao dậy bảo của anh Nam Sao đây! Mợ Hà và cháu Nga vào bếp làm cơm.Chú Thuận nói với cậu Hà về ý định của mình. Nghe xong Hà nói : -Em cũng không rõ hành trình của anh Sao đâu, có lẽ em phải gọi mấy cậu lính của anh ấy đến đây chơi rồi hỏi xem. Nói rồi cậu Hà đi một lúc quanh làng xóm rồi về. Sau khi cả nhà cơm nước xong, đến tối thì có các anh trong tổ đánh cá cựu chiến binh đến chơi. Chuyện vui rôm rả, ai cũng khoe với Thuận:- Không có anh Nam Sao thì chúng tôi còn gặp khó khăn nhiều.Chỉ riêng vùng Thanh Hóa này anh ấy đã đào tạo dậy nghề cho một đại đội lính, hơn trăm người có công ăn việc làm,và giúp xóa đói giảm nghèo cho hơn trăm gia đình rồi.- Anh ấy còn đi xa hơn nữa -Nghe nói anh ấy đã đi khắp nơi chiến trường xưa và dạy nghề cho hơn một tiểu đoàn đánh cá rồi.Thuận liền cắt ngang các ý kiến đang rôm rả :- Thế có ai biết đích xác bây giờ anh ấy ở đâu không?-Đích xác thì không biết,nhưng anh ấy đã đi hết khu vực đồng bằng sôngHồng rồi,hôm nọ gặp một cậu ở Hà Tây nói anh ấy đang lên khu vực sông Đà. Một anh khác nói:- Gần đây tôi nghe cậu An bảo ,nhận được thư của một anh trên Phú Thọ nói : -Có một ông lính già đang dậy cựu chiến binh đánh cá ở sông Thao cơ ,chắc là anh ấy đấy. Sau một hồi bàn bạc nhận định và trao đổi,Thuận nói: -Tôi xin cảm ơn các đồng chí cựu chiến binh , đề nghị với các anh, ai có tin tức gì về anh Nam Sao thì báo cho cậu Hà ở đây,rồi cậu Hà sẽ báo lại cho tôi, hoặc nếu có điều kiện, các anh trực tiếp viết thư báo cho tôi biết ,theo địa chỉ tôi đã ghi trong mảnh giấy này.Vừa nói Thuận vừa đưa cho mỗi người một mảnh giấy nhỏ ghi sẵn địa chỉ. Sáng hôm sau chú cháu Thuận xin phép gia đinh ông bà và cậu mợ Hà về ngay để cho cháu Nga đi học và bố trí người đi tìm.Lại đi tàu về Hà Nội ,rồi chuyển tàu về nhà. Chiều hôm sau Thuận và cháu Nga về đến nhà, trước sự vui mừng của chị Ngữ và cả gia đình. Chị Ngữ và thím Bằng,vợ Thuận bàn với Thuận, để cử các con, cháu đi tìm anh Nam Sao cũng được.Nhưng Thuận gạt đi mà nói :-Việc này tôi phải trực tiếp đi mới được,vì tình cảm anh em còn nói với nhau được, chứ để các cháu đi có khi bác ấy còn mắng cho, rồi đuổi về không biết chừng . Bà Ngữ và bà Bằng nghe ra thấy phải, nên nhất trí. Bà Bằng nói:- Vậy thì ông phải bố trí người trông nom công việc của nhà máy sao cho hợp lý thì mới đi được- Việc ấy tôi đã bố trí mấy cô chú ở cơ quan nhà máy rồi, bà không phải lo. Hơn nữa tôi đi xe nhà nên cơ động và nhanh, đi đi về về luôn được mà, không phải đi xa lâu đâu,vẫn quán xuyến được công việc của nhà máy mà! Ông Thuận cũng hơi chủ quan ,cứ tưởng mình có xe con, phương tiện của nhà thì chỉ đi lại vài lượt, vài hôm là tìm được ông anh thôi. Không ngờ ông phải đi đi lại lại hàng tháng trời,mới tìm ra tung tích của ông Nam Sao. Thoạt đầu ông đi ô tô con lên vùng sông Thao ,từ ga Mậu A trở lên. Ông và lái xe hai người cứ theo dọc sông mà quan sát,hễ nhìn thấy những thuyền đánh cá nào thì đến gần, đặc biệt những người đội mũ cối đánh cá ,tức là cựu chiến binh thì gọi người ta đến để hỏi:- Anh (hoặc bác) làm ơn cho tôi hỏi thăm có biết ông Nam Sao dậy cựu chiến binh đánh cá ở vùng này không ? Hỏi đến hai ba người ,họ đều không biết,họ toàn là người già hoặc mượn mũ cối của con cháu đội cho tiện làm việc.Lại lên xe đi ngược dòng sông hàng chục cây số. Hỏi đến người thứ năm thì gặp đúng là anh cựu chiến binh,đồng đội của Nam Sao thật. Anh ta nói:
- Anh Nam Sao đã ở đây dạy và kèm cặp chúng tôi hàng năm sáu tháng trời. Nhờ có anh mà chúng tôi đã hết khổ, mời anh ấy ở lại với chúng tôi,nhưng anh ấy không ở. Anh ấy bảo ,các chú biết làm ăn được rồi, đỡ nghèo đói rồi,thì tôi lại phải đi giúp các đồng chí khác đang nghèo đói hơn! Thuận hỏi: -Thế bây giờ anh ấy ở đâu ,anh có biết không?- Anh ấy đi cách đây bốn tháng rồi,đi đâu anh ấy cũng không nói,hình như anh ấy đi ngược lên mạn Trái Hút rồi thì phải. Hai cha con ,Thuận và lái xe lại lao đi lên mạn Trái Hút.Tìm chỗ ăng uống , ngủ trọ, rồi sáng sớm mai mới ra bờ sông tìm.May quá gặp được một nhóm hai người cựu chiến binh đang bơi thuyền vào chợ gần bờ sông bán cá.Thuận liền hỏi:- Xin lỗi hai anh,hai anh có biết anh Nam Sao không? Hai người giật mình trố mắt lên nhìn ông khách lạ ăn mặc sạch sẽ có vẻ sang trọng, còn đang đắn đo không ai nói gì.Thuận lại nhắc lại câu hỏi vừa rồi. Một anh mới nhìn thẳng vào mắt Thuận như để kiểm tra tư cách người lạ mà hỏi:
- Anh là ai mà hỏi ông Nam Sao? Thuận nghe hỏi thế thì biết ngay là trúng tủ rồi.Anh mừng quá lắp bắp trả lời:
- Tôi …tôi là em trai anh Nam Sao đây! Tôi đang có việc cần gặp anh ấy.Các anh làm ơn chỉ cho tôi biết anh ấy ở đâu? Hai người bán cá ngờ ngợ,ngắm nhìn Thuận, thấy anh cũng to cao giống anh Nam Sao thì có vẻ tin, mới nói: - Anh Nam sao có ở đây dạy chúng tôi đánh cá sáu tháng, khi chúng tôi biết làm ăn được thì anh ấy lại đi rồi.
-Đi lâu chưa ,đi đâu cơ?- Đi cách đây độ năm tháng,anh ấy bảo anh ấy đi thăm lại đồn Tu Vũ trên sông Đà,năm xưa anh ấy bắc cầu ở đấy.
-Có đi với ai không?_-Không! Anh ấy đi một mình thôi.Thuận phấn khởi vì đã biết một địa chỉ chính xác, đồn Tu Vũ, trên sông Đà. Anh cảm ơn hai đồng chí bán cá, rồi lên xe quay về. Anh định quay về Phú Thọ rồi hỏi thăm đường lên sông Đà ngay. Nhưng lái xe nhắc: -Bác có cuộc họp với đối tác vào 10 giờ sáng ngày mai đấy ạ! - Ừ nhỉ, thôi quay về vậy, họp xong sáng ngày kia ta lại đi, biết địa chỉ chính xác rồi không lo gì nữa. Đến chiều thì về đến nhà, cả nhà tíu tít hỏi: Đã gặp ông Nam Sao chưa ,bao giờ ông ấy về? - Gặp thì chưa gặp,nhưng biết chính xác địa chỉ gần đây nhất rồi. Tôi về họp xong ,mai lại đi thì chắc là gặp. Mọi người đều vui mừng. Sau khi họp xong ,giải quyết công việc kinh doanh ổn thỏa, hôm sau ông Thuận và cậu lái xe lại lên đường từ sáng sớm. Sau khi đã hỏi thăm đường lên sông Đà, hai cha con chạy thẳng lên ,thị xã Hòa Bình, rồi hỏi thăm đường dọc theo sông rẽ sang Tu Vũ. Cũng như hôm trước,cứ đi dọc sông quan sát,thấy ai đánh cá đội mũ cối thì gọi vào hỏi thăm. Cũng phải hỏi thăm đến người đội mũ cối thứ ba mới biết,người ấy nói:
- Có ,anh Nam Sao thì chúng tôi không bao giờ quên được, vì anh ấy đã giúp đỡ chúng tôi thoát khỏi cảnh nghèo đói…Thuận thấy sốt ruột liền cắt ngang lời anh ta : -Xin lỗi anh ấy còn ở đây không?- Thế ông cần gì mà hỏi anh Nam Sao thế,chắc lại mời về dậy đánh cá chứ gì,anh ấy chỉ dậy cho các cựu chiến binh nghèo khổ thôi, loại các ông, trông no đủ thế này thì anh ấy không dạy đâu!Thuận phải kiên nhẫn ,từ tốn nói với anh ta: - Không phải tôi mời về dậy đánh cá đâu.Tôi là em trai anh Nam Sao đây, có việc gia đình,nên mới lên tìm anh ấy đây,anh ấy còn ở đây không? Người cựu chiến binh ngớ người ra một lát,rồi lắc lắc đầu: - Thế thì tiếc quá ,anh ấy đã đi rồi! -Đi lâu chưa ,đi đâu cơ anh có biết không ? - Đi cách đây bốn tháng rồi, hình như anh ấy lên mạn Tạ Khoa thì phải. - Tạ Khoa ở đâu, anh có thể chỉ cho tôi được không?- Cũng dọc sông Đà này thôi, ở phía thượng lưu ấy, cách đây khoảng hơn một trăm cây số đấy,nghe nói thế thôi ,chứ tôi cũng chưa đến bao giờ. Cảm ơn người cựu chiến binh.Thầy trò Thuận lại quay về Hòa Bình,vào hiệu sách tìm mua một tấm bản đồ để xem đường xá. Dò trên tấm bản đồ ,thấy bến Tạ Khoa đây rồi, còn khá xa,đường số 6 quanh co và gồ gề khó đi, trời lại sắp tối rồi, nên thày trò Thuận và Hoan, tên chú lái xe, lại phải nghỉ lại tại thị xã Hòa Bình.Sáng hôm sau họ lại lên đường sớm,mãi gần trưa mới tới nơi. Lại ngắm nhìn những người đánh cá trên sông Đà để hỏi thăm,không thấy ông đội mũ cối nào ,trông thấy ai cũng cứ hỏi, may lại gặp được một người đội nón, đã đứng tuổi, gần tuổi Nam Sao, cũng cứ hỏi. Người đó trả lời: -Ồ,anh Nam Sao thì chúng tôi biết chứ,ân nhân của chúng tôi mà, anh ấy đã cứu tôi hồi chiến tranh, vừa rồi tôi bị ốm ,anh ấy lại cứu tôi khỏi bệnh bằng món cháo cá đấy, trung đội trưởng cũ của tôi mà. Sau năm tháng dậy và kèm cặp tôi đánh cá thành thạo, anh ấy lại đi rồi. Các anh hỏi anh ấy đi đâu ấy à?- Vâng , lại đi giúp đồng đội cũ mà.- Anh ấy xuôi về Chợ Bờ Suối Rút rồi! Cũng được đến ba bốn tháng nay rồi đấy. Mời các anh ở lại đây chơi đã ,mai hãy về . Các anh đừng lo, nhà tôi bây giờ cũng đỡ khổ rồi, gạo cũng đủ ăn ,nhưng cá thì không thiếu, ở lại chơi đi. Không ở lại được à, phải đi ngay à! thế thì các anh cứ xuôi dọc sông nàymà tìm thì sẽ thấy thôi , gần thị xã Hòa Bình mà. Nếu gặp anh Nam Sao thì cho tôi gởi lời thăm và cảm ơn anh ấy.Nói với anh ấy là nhờ anh ,chiến sỹ của anh vẫn làm ăn tốt. Vâng, chào các anh.Thế là “hai thầy trò Đường Tăng” Thuận và Hoan lại từ biệt người cựu chiến binh sôi nổi nhiệt tình và mau mồm ở bến Tạ Khoa, quay xe về Chợ Bờ Bờ- Suối Rút. Chỉ khác là hai thầy trò Đường Tăng thì đi lấy kinh,còn hai thầy trò Thuận Hoan thì đi tìm chim, tìm cánh chim bằng của anh Nam Sao.Thật đúng là tìm người như thể tìm chim thật.Về qua Mộc Châu khoảng chục cây số, thì một tình huống bất chắc xảy ra, đường bị sạt lở tả luy từ trên sườn núi,đất đá sạt xuống làm lấp mất cả đường, khoảng gần một trăm mét,xe cộ không qua được, nguyên nhân là do mấy hôm trước trời mưa to , đất bị thấm nhiều nước nên bị sạt lở,trời lại sắp tối.Thuận phải quay xe lại Mộc Châu , vào nhà trọ ngủ. Sáng mai trở về đến đoạn đượng bị lở, công nhân giao thông vẫn chưa khắc phục xong. Phải chờ đến trưa mới thông xe, nhưng đường trơn, xe con lại bị ba-ti nê trượt xuống rãnh đường,phải nhờ xe tải kéo mới lên được .Thuận liền bảo lái xe chạy thẳng về nhà để kiểm tra, sửa xe , và tiếp xăng dầu đồng thời xem ở nhà có việc gì không. Nhưng mọi công việc ở nhà vẫn chạy bình thường, không có điều gì vướng mắc. NênThuận và Hoan lại phi lên Suối Rút. Đến nơi may lại gặp được một tốp cựu chiến binh đang đánh cá tập trung ở ngã ba suối Rút và sông Đà. Họ phải ngồi chờ gần một giờ cho tốp đánh cá xong mấy mẻ lưới ở phía bên sông, rồi bơi sang bên này vào chợ bán cá,Thuận mới lân la đến hỏi thăm được .Cánh cựu chiến binh này rất nhiệt tình,khi biết Thuận là người nhà của anh Nam Sao họ đều niềm nở bắt tay chào,rồi mời vào một gia đình cựu chiến binh gần đó uống nước. Họ kể chuyện về anh Nam Sao với vẻ thân thương ,đầy lòng trìu mến và biết ơn : - Không có thủ trưởng Nam Sao thì chúng tôi còn nghèo đói vất vả. - Bảo thủ trưởng ở lại đây vài tháng nữa để kiếm thêm một món kha khá, vài nghìn bạc nữa gửi về cho các cháu rồi hãy đi, vì ở đây sẵn cá và dễ kiếm lắm, -Thủ trưởng đánh cứ như chơi ấy mà vẫn được nhiều cá ra phết. - .Nhưng thủ trưởng bảo: - Các chú đã kiếm ăn được rồi, thì tôi ở lại làm gì nữa,ở chỗ khác anh em còn khó khăn hơn. Thế là thủ trưởng đi thôi. -Thủ trưởng đi hai tháng nay rồi. -Hình như thủ trưởng đi về mạn sông Đuống, hay sông Cầu hay gì đó. Thuận cũng thăm hỏi từng gia đình các cựu chiến binh, bảo lái xe Hoan ra chợ mua một số quà bánh gửi biếu mỗi anh một gói đem về làm quà cho các cháu và định xin phép ra về. Nhưng gia đình đã bưng cơm ra, mọi người co kéo nhất định giữ hai thầy trò ở lại xơi cơm với anh em cựu chiến binh bến Suối Rút chúng tôi. Chẳng có thịt thà gì đâu ,toàn là cá do anh em chúng tôi vừa kiếm đấy. Trước thịnh tình của các cựu chiến binh,đồng đội của anh Nam Sao,Thuận và Hoan đều phải ở lại ăn một bữa cơm đơn giản, toàn cá tươi rất ngon,rồi mới ra về. Mang theo nhiều tình cảm rất xúc động về những người đồng đội của ông anh mình.
Về nhà ,Thuận phải nghỉ vài ngày cho đỡ mệt mỏi vì đã lâu anh không đi những chuyến đi dài như vừa qua ,và kết hợp xử lý các công việc của nhà máy ,xí nghiệp ở nhà.
Sau đó anh còn phải đi hàng chục lượt nữa, nay sông Cầu,mai sông Đuống. Rồi bến Bình, bến Phả Lại,nơi Thuận đã đem quân đi đóng gạch năm nào,cũng là nơi, anh đã từng nghiên cứu học tập cách làm lưới ba màn, về tự sản xuất lấy.Tự đem đi đánh ở sông, ở hồ, có đêm được hàng tạ cá, mang về cho vợ đi bán, hàng mấy năm trời. Chị Bằng vợ anh đã bán cá, tích lũy được hàng chục cây vàng ,để khi cần mới đem ra làm vốn, xây dựng nhà máy gạch đầu tiên ,rồi phát triển kinh doanh như ngày nay.Mấy chuyến đi liền ,Thuận vẫn chưa gặp được anh Nam Sao ,mà chỉ gặp những người cựu chiến binh,bạn bè đồng đội nghĩa tình của anh mà thôi.Thuận vẫn không nản,anh vẫn đi. Cứ quanh khu vực Lục Đầu giang mà săn tìm anh Nam Sao.Nghe anh em cựu chiến binh nói, trước đây anh Nam sao đã phá bom và bắc cầu ở khu vực này nhiều lần. NênThuận và lái xe cứ vòng quanh, hết sông Thái Bình, đến sông Kinh thầy,khi sông Thương ,khi sông Lục Nam lại quay về sông Cầu, sông Đuống, sông Thương… Chỗ nào Thuận cũng gặp cựu chiến binh đánh cá nói về Nam Sao, toàn những lời tốt đẹp,nhưng anh vẫn chưa gặp mặt được ông anh của mình.Cuối cùng Thuận phải nhờ các cựu chiến binh ở quanh khu vực Lục đầu giang cùng đi tìm với anh thì mới gặp được anh Nam Sao đang huấn luyện tay nghề đánh cá cho một tiểu đội cựu chiến binh trên sông Lục Nam .Hai anh em gặp nhau, mừng mừng tủi tủi ôm lấy nhau, cả hai đều tràn nước mắt, trước đám đông các cựu chiến binh trên Lục đầu giang ,nhiều đồng đội cũng bùi ngùi rơi nước mắt chứng kiến phút cảm động ngọt ngào của hai anh em Nam Sao và Thuận sau gần mười năm trời xa nhau. Thuận mời anh hai về nhà để bàn việc củng cố lại gia đình. Nam Sao đồng ý, nhưng hẹn sau một tháng nữa anh sẽ về,vì còn dở dang lớp tập huấn đánh cá cho tiểu đội cựu chiến binh trên sông Lục Nam.Thuận biết tính Nam Sao, đã làm việc gì thì phải làm đến nơi đến chốn,huống chi là việc dậy nghề ,để xóa đói giảm nghèo cho các đông đội cựu chiến binh. Nên anh nhất trí với anh hai,không làm thay đổi kế hoạch của anh và làm mất khí thế và lòng tin của các cựu chiến binh đang tập huấn. Ngay chiều hôm đó Thuận xin phép anh Nam Sao về nhà ngay để báo tin mừng cho cả nhà vui.
Chương 28
NGÀY TRỞ VỀ
Sau một tháng, theo đúng lời hẹn với chú Thuận. Anh Nam Sao đã trở về làng Lễ, trước sự vui mừng của vợ con và cả gia đình ,họ hàng. Trước khi về ,anh đã hoàn thành việc huấn luyện và kèm cặp cho một tiểu đội cựu chiến binh đánh cá trên sông Lục Nam ,được thành thạo có thể kiếm sống được. Đây cũng là tổ cuối cùng được anh huấn luyện trên khu vực Lục đầu giang này. Khi ra về anh cũng tặng lại toàn bộ dụng cụ đồ nghề đánh cá của anh cho đồng chí Giàng,một cựu chiến binh gia đình khó khăn nghèo đói nhất. Toàn bộ anh em cựu chiến binh đánh cá ở khu vực Lục đầu giang do anh đào tạo huấn luyện đều tập trung về liên hoan chia tay với anh Nam Sao, một người thủ trưởng,một người thầy, một người anh cả nhiệt tình ,hết lòng vì đồng đội ,vì các em Tận tâm, tận sức giúp đỡ ,xóa đói giảm nghèo cho mọi người, không nề hà khó khăn gian khổ xa vợ con ,xa gia đình hàng chục năm trời mà không đòi hỏi bất kỳ một điều kiện nào cả. Anh chỉ có một niềm vui ,khi thấy đồng đội có công ăn việc làm,gia đình bớt khó khăn gian khổ và ngày càng phát triển. Đồng đội chia tay nhau trong không khí cảm động và bịn rịn, nhiều người rơi nước mắt:
-Chúc thủ trưởng về mạnh khỏe, xây dựng lại gia đình đầm ấm yên vui. Khi nào có điều kiện chúng em sẽ về thăm thủ trưởng và gia đình. Cho chúng em gửi lời thăm và cảm ơn tới chị và các cháu - Nam Sao cũng cảm động nói:
-Tôi chúc các chú ở lại làm ăn bền bỉ và phát triển. Nhớ đoàn kêt giúp đỡ lẫn nhau cùng xóa đói giảm nghèo, thương yêu nhau khi về nhà cũng như khi còn ở chiến trường. Bao giờ các chú làm ăn khấm khá, tôi sẽ có dịp lên thăm. - Anh em còn tiễn chân anh ra tận bến xe ô tô. Các chiến hữu còn gửi nhiều quà về cho các cháu,Nam Saokhông muốn nhận. Nhưng anh em nói mãi, anh đành phải nhận một túi nặng. Khi xe chuyển bánh, những cánh tay dơ lên vẫy chào, náo nhiệt cả bến xe:
-Xin chào thủ trưởng !-Chào anh!
-Chào các đồng chí !- Chào các chú!
Ngồi trên xe dọc đường, anh vẫn còn lưu luyến và nhớ từng người ,từng người một.Mỗi ngườì một hoàn cảnh,nhưng đều chăm chỉ làm ăn. Anh thấy thương bạn bè đồng đội vô cùng, hoàn cảnh đất nước ta vừa mới thoát khỏi chiến tranh, kinh tề còn đang nghèo nàn lạc hậu, mỗi người lính trở về phải biết tự vươn lên mà sống, chứ không thể chờ đợi chế độ chính sách của nhà nước được.Hành động của anh đi lang thang các nơi để truyền nghề cho bạn bè đồng đội ,cũng chính là truyền cho họ một ý chí để tự vươn lên mà sống. Mình phải tự cứu lấy mình ,không thể trông chờ vào ai được cả.
Anh trở về nhà, những tưởng nhà cửa hoang toàng cỏ dại hoặc xiêu vẹo. Nhưng không ngôi nhà đã cũ nhưng vẫn gọn gàng, ngăn nắp sạch sẽ .Chị Ngữ vợ anh, quả là một con người đảm đang tháo vát.Với đồng lương thượng úy của anh lúc bấy giờ còm cõi, cộng với số tiền ít ỏi, vài ba tháng anh gửi về một lần.Thế mà chị đã tần tảo, xoay sở làm ăn, nuôi sống và dậy dỗ một đàn con ở nhà ,tuy không hơn người ,nhưng cũng không đến nỗi thua kém nhiều trẻ em trong làng,trong xóm. Nam Sao vẫn biết vợ anh là người buôn thúng bán mẹt giỏi khi còn ở quê ngoại Thanh Hóa. Một mình nuôi con cho chồng đi đánh giặc, lúc đó chưa hề có đồng lương nào. Chị dựa vào ông bà ngoại trông nom con nhỏ. Còn chị chạy chợ đủ đường, khi thì buôn rau buôn quả,khi thì gánh hàng cá hàng tôm, lúc lại tráng bánh đa ,bánh cuốn,lúc lại củ khoai củ sắn…Suốt ngày ở chợ , từ sáng sớm đến chiều tối mới về. Còn từ khi được cụ Ruy, ông nội của các cháu vào tận nơi đón về quê nội, cho một mảnh vườn và căn nhà cũ ,so vớí làng xóm cũng là tạm ổn .Dạo đó anh vẫn còn trong quân ngũ,biền biệt đi xa,vả lại chiến tranh đang diễn ra ác liệt, nên chưa ai nghĩ và cũng không có điều kiện xây dựng khang trang hơn. Ngoài sự tần tảo của chị Ngữ còn được ông bà chăm sóc nuôi nấng dậy dỗ con cháu nên người .Khi ông bà quy tiên, cả anh cả và anh hai (Hữu và Nam Sao) đều ở hai chiến tuyến xa xôi. Mọi việc ma chay ,an táng, cúng giỗ,đều do chú ba là chú Thuận gánh vác cùng họ hàng làng xóm. Sau này khi ông bà đã qua đời, Chú Thuận lại phải trông nom ,cưu mang các cháu con của hai ông anh, Hữu và Nam Sao. Chủ yếu là kiếm công ăn việc làm cho các cháu và hướng các cháu học hành đến nơi đến chốn .
Trên đời này thường lắm chuyện éo le. Chú Thuận vì bị kẹt giữa hai làn gió chính trị, chẳng phe phái nào chấp nhận. Nên không mất thời gian hoạt động, không đua chen vai vế trong làng.Đành chịu là người ngoài lề chính trị, măc cho mọi người khinh bỉ ,là anh cổ cày vai bừa. Thế nên mới được tự do, tự do học hành, tự do lao động,rồi tự do trở thành “lão nông chi điền”,người làm ăn chăm chỉ nhất và giỏi giang nhất làng ,nhất xã.Như châm ngôn đã nói : Lao động là vinh quang. Người giỏi lao động là người giầu có nhất. Chú Thuận trước mắt cưu mang con cháu trong nhà , sau đó là cưu mang những người nghèo khổ trong làng xóm. Uy tín của chú ngày càng cao,trong làng xóm ai ai cũng nể phục, kể cả cán bộ chình quyền của cả hai phe đối lập nhau (!) Nam Sao biết rõ điều đó,anh rất biết ơn chú ba, đã thay hai anh lớn trông nom gia đình ,lo liệu mọi việc trong gia đình.
Khi chú Thuận bàn về việc xây dựng lại nhà cửa và củng cố việc làm ăn trong vườn trong sân. Lúc đầu Nam Sao cũng thấy ngại vì không có tiền:-Thôi ở thế này cũng vẫn tạm được rồi. Khi nào con cái lớn lên làm ăn được hãy hay. Nhưng Thuận không nhất trí: - Mọi việc em sẽ lo tất cả. Cứ coi như đầu tư vốn cho anh chị vay, bao giờ có thì trả. Hơn nữa bây giờ đã hòa bình rồi, đất nước được thống nhất, không lẽ ông thượng úy về hưu, ông cán bộ tiền khởi nghĩa, cứ ở mãi ngôi nhà cũ nát này sao? Còn phải tạo điều kiện cho các cháu có nơi chốn học hành đàng hoàng chứ! Lại còn phải có nơi thờ cúng tổ tiên, ông bà ông vải và bố mẹ là nơi tôn nghiêm chứ! Chưa kể còn có nơi tiếp khách ,bạn bè đồng đội xa gần đến cũng phải khang trang nữa cơ mà. Còn phải quy hoạch lại vườn tược trồng cây trồng cối, chăn nuôi lợn gà cho quy củ và sạch sẽ ,thì năng xuất mới tăng ,mới đủ chi dùng trong nhà. Thuận và Nam Sao còn bàn đi bàn lại nhiều lần.Lại thêm ý kiến của chị Ngữ và các con cái của cả hai gia đình đều đồng tình.Sau một tuần lễ suy nghĩ ,Nam Sao mới nhất trí với ý kiến của Thuận và chị Ngữ.Thực ra thì Thuận và chị Ngữ cùng các con anh đã bàn bạc chuẩn bị đầy đủ cả rồi, chỉ chờ anh Nam Sao đồng ý là có thể khởi công ngay.Về ý định thiết kế thì Thuận nhường cho anh Sao muốn làm thế nào là tùy anh, vì anh là chủ gia đình.Còn Thuận sẽ lo bảo đảm đầy đủ nguyên vật liệu và toàn bộ công thợ cho anh.
Thế là chỉ sau bốn tháng,một ngôi nhà cấp bốn khang trang và khu trang trại nhỏ đứng vào hàng nhất nhì làng Lễ lúc bấy giờ đã ra đời, trước sự ngạc nhiên của dân làng, về tốc độ thi công và thiết kế mỹ thuật. Ngày khánh thành thật đông vui ,ngoài anh em họ hàng,còn khá đông người trong làng đến chúc mừng gia đình Nam Sao .Người ta cảm phục tình thương yêu của chú ba Thuận hết lòng vì anh trai và con cháu ở nhà .Đặc biệt, nghe tin Nam Sao khánh thành nhà mới. Hầu hết các tổ cựu chiến binh đánh cá ở các bến sông, đều cử đại biểu về chúc mừng. Đoàn đại biểu cũng đến ba bốn chục người, mỗi người đại diện cho một tổ, mỗi tổ mười tới mười lăm người, ở khắp các vùng mà Nam Sao đã đến huấn luyện truyền nghề đánh cá cho đồng đội. Đoàn đại biểu cựu chiến binh này đến làm cho Nam Sao rất ngạc nhiên. Bởi vì anh không hề báo tin này cho bất kỳ một ai biết cả. Một đại biểu nói: - Chúng em biết là do bạn bè chuyền cho nhau thôi! Một đồng chí khác :
- Chúng em đã thống nhất, đúng ngày khánh thành nhà thủ trưởng thì về chúc mừng, làm cho thủ trưởng ngạc nhiên và vui thôi! Một đặc biệt nữa là : -Quà mừng toàn là cá, ở gần thì cá tươi ,ở xa thì cá khô ,cá nướng .Mỗi đại biểu chỉ mang có hai đến ba cân thôi, mà tổng cộng có đến hàng tạ cá,toàn loại ngon thôi.Bữa tiệc khánh thành nhà Nam Sao lại thêm nhiều món cá,thật là linh đình.Càng làm cho dân làng Lễ mới vỡ ra là ông Nam Sao đi đâu trong mười năm qua? Không phải vì ông bất mãn, ông chán đời mà vì ông nhân hậu, mình đã khổ mà các đồng đội còn khổ hơn nên ông đã đi kiếm sống và truyền nghề kiếm sống cho các đồng đội có công ăn việc làm ,để xóa đói giảm nghèo cho gia đình bạn bề đồng chí. Ông quả là có tấm lòng, nhân từ , bác ái: thương người như thể thương thân. Nghe chuyện kể lại của các đồng đội của ông từ tứ xứ kéo về chúc mừng, dân làng mới thấy ông kiên trì nhẫn nại,quên thân mình giúp đỡ bạn bè đồng đội. Mọi người đều yêu quý ông và biết ơn ông xiết bao.Họ còn cảm ơn dân làng Lễ này đã sinh ra ông là người biết quý trọng yêu thương con người. Khi chiến tranh mang xương máu đi chiến đấu hy sinh vì tổ quốc đồng bào. Khi về hưu, khi hòa bình còn đem sức mình cứu giúp đồng đội,bạn bè nghèo khó.Từ đó những chuyện đồn đại về ông trước kia bị quên lãng dần.Dân làng ai cũng qúy trọng ông,yêu mến ông. Khi nhà cửa vườn tược xong xuôi.Chú Thuận lại bàn với bác Nam Sao về cung cách làm ăn cho ra tấm ra miếng.Trồng những cây gì vừa cho thu hoạch cao lại vừa đẹp cảnh đẹp nhà. Chăn nuôi thì chọn con giống nào, thức ăn ra sao,phòng trị bệnh bằng thuốc gì. Bảo đảm môi trường vệ sinh như thế nào.Chủ yếu chú Thuận hướng dẫn lại cho anh Nam Sao biết cách chăn nuôi trồng trọt trong vườn trong sân như thế nào cho có hiệu quả để anh trông nom cùng con cái. Cũng giống như anh đã đi huấn luyện bồi dưỡng các cựu chiến binh đồng đội của anh nghề đánh cá vậy.Vì hồi trẻ ở nhà anh còn bận đi học, lớn lên thì đi bộ đội rồi, đã biết làm ruộng thông thạo đâu. Chỉ có nghề đánh cá là cha dậy từ nhỏ nên Nam Sao thành thạo hơn. Còn con cái nhà Nam Sao cũng như con cái nhà Thuận và nhà anh Hữu nữa, thì từ bé vừa đi học vừa bám đồng ruộng, nhất là từ khi vợ chồng Thuận- Bằng phát triển làm ăn ngay ở làng ở xã ,thì các con cháu đều có công ăn việc làm trong xí nghiệp hoặc trang trại gia đình nên các cháu đều khá thành thạo cả. Sau khi xây dựng và củng cố gia đình một thời gian ,thì mọi mặc cảm về làng xóm quê hương đối với anh cũng nguôi đi. Nam Sao lại tham gia sinh hoạt với các đoàn thể. Trước mắt là sinh hoạt Đảng, rồi hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi trong làng ,xã…Khi gia đình đã ổn định ,đi vào nề nếp rổi. Anh lại về thăm quê ngoại, thăm các đồng đội ở các tổ đánh cá một thời gian và lại hướng dẫn cậu em nhỏ nâng cao tay nghề đánh cá.
Có được gì không?- Không được gì cả !
-Nếu vậy thì đi !
Vào khoảng tháng 3 năm 1983 - Lúc đó đang là mùa đánh cả ở đồng, ở sông rất rộ - Nam Sao, từ làng Lễ xã Kim Anh, huyện Kim Môn, đang vào quê vợ ở Hà Trung, Thanh Hóa để dạy cho cậu em trai vợ nâng cao tay nghề đánh cá. Thì ở nhà, chị Ngữ - vợ anh Nam Sao - nhận được một công văn do một đồng chí trong Ủy ban nhân dân xã chuyển đến, như sau:
"...Cơ quan Chủ nhiệm Công binh Quân khu 3 - Kính gửi đồng chí Nguyễn Nam Sao, cán bộ quân đội về hưu - Chấp hành Chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh quân khu và chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Công binh - về việc viết lịch sử quân sự - Cơ quan chủ nhiệm Công binh Quân khu 3 - tổ chức Trại viết chiến lệ Công binh quân khu 3 nhằm mục đích ghi chép lại những trận đánh của Công binh trong 3 cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và chống quân bành trướng Trung Quốc xâm lược, để góp phần tổng kết lịch sử quân sự chung của Quân khu và của binh chủng toàn quân. Rút kinh nghiệm chiến thuật, kỹ thuật để góp phần xây dựng các phương án chiến đấu, bảo đảm công trình phòng thủ bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn Quân khu, bảo đảm cho sẵn sàng chiến đấu trước mắt và lâu dài.
Kính mời đồng chí chuẩn bị thu xếp công việc gia đình để đến tham dự trại. Sẽ mở vào cuối năm 1983. (Địa điểm, thời gian cụ thể sẽ thông báo sau).
Đề nghị đồng chí suy nghĩ nhớ lại và chuẩn bị đề cương viết về: - Những trận đánh mìn trên đường 5 trong chống Pháp và bảo đảm giao thông khu vực Đò Lèn - Hàm Rồng và Tĩnh Gia trong chống Mỹ.
Vì lòng yêu binh chủng, vì sự nghiệp của quân đội, vì thế hệ mai sau, đề nghị đồng chí cố gắng thu xếp công việc và đến gặp gỡ bạn bè, đồng đội cũ, tham gia hội thảo và dự trại viết, góp phần với binh chủng.
Cơ quan Quân khu sẽ bào đảm đầy đủ việc ăn, ở, sinh hoạt, phương tiện đi lại, lệ phí đi đường và sẽ có thù lao thích đáng.
Ký tên
Chủ nhiệm Công binh
Trung tá Nguyễn Lương
Chiếc công văn này đã làm chấn động dư luận nhân dân ở xã Kim Anh.
Kể từ năm 1972, giữa lúc chiến sự còn đang diễn ra ác liệt, tiểu đoàn trưởng Nam Sao từ chiến trường miền Nam ra, nhận được quyết định về hưu. Bà con xóm làng thì thào nhiều về con người đã từng tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở địa phương, rồi gia nhập quân đội liên tục từ năm 1945 đến nay. Cùng lớp người đó, nhiều người đã lên tướng, lên tá, riêng Nam Sao vẫn với quân hàm thượng úy về hưu(!)
Bà con phỏng đoán chắc hẳn có những chuyện gì đây, có người cho là anh ta bị kỷ luật nên mới bị thải hồi.... Kẻ thông cảm, người thương hại, kẻ xót thương, người an ủi.
Trong điều kiện gia đình khó khăn,nỗi đau chiến tranh của Nam Sao cứ âm ỉ đốt cháy tâm hồn anh,dằn vặt anh. Anh chỉ đưa về cho vợ một sổ lương hưu còm cõi lúc bấy giờ, rồi tháng ngày lênh đênh đi thăm lại chiến trường xưa. Yên phận làm ăn sinh sống và giúp đỡ các đồng đội xóa đói giảm nghèo.Mặc cho địa phương quên đi như một kẻ vô danh tiểu tốt bình thường khác.Thế mà thấm thoát đã mười năm trời…
Tờ công văn, giấy mời nhỏ bé ấy tự dưng làm xôn xao dư luận bà con lối xóm.
- Chẳng biết ông Sao, ông ấy làm gì mà Quân khu lại có công văn về mời đi? Không khéo Quân khu lại mời tái ngũ cũng nên(!)...
Họ khuyên chị Ngữ điện thoại gọi anh ấy về xem sao để mà chuẩn bị... Thế là chị Ngữ điện gọi anh Sao về thật. Anh Sao, tháng ngày đang lênh đênh trên con sông Lèn dậy cậu em đánh cá kiếm tiền, thì nhận được điện: "Về ngay có việc cần". Vừa mới ở nhà đi mấy tháng nay,ở nhà vẫn yên ổn cơ mà, chắc là gia đình có ai ốm đau hoặc tai nạn gì rồi? - Thế là Nam Sao rời Thanh Hóa, về ngay quê.
- Này, về chuẩn bị nhanh nhanh mà đi tái ngũ! - Từ đầu làng, bà con gặp gỡ đã mách bảo
- Hề hề…Có tái ngũ xuống âm phủ thì xuống ! Nam Sao chỉ cười nói vui.
Về nhà, Nam Sao đọc đi đọc lại nhiều lần cái công văn mời trên. Anh vừa ngạc nhiên vừa cảm động.
- Quái, cái anh cháng ký giấy mời đây là ai nhỉ? Tại sao lại biết tên tuổi, quê quán mình mà mời? - Anh cố lục lọi trong trí nhớ, nhưng cũng không sao nhớ người ký tên, đóng dấu ở công văn được.
Hôm sau, anh đem công văn lên báo cáo Đảng ủy, Ủy ban xã, xin ý kiến các đồng chí xem có nên đi không. Anh lên huyện gặp một ông bạn cũ hiện làm ở Huyện ủy. Xem xong công văn, anh ta mách:
- Tưởng là ai, chứ Nguyễn Lương là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 27 trước đây đấy! Dạo ấy ông làm chủ nhiệm công binh Thanh Hóa mà không nhớ ông ấy à?
- Thế à? Có phải cái cậu đen đen, cao cao trước làm công trình sư quốc phòng ở Quân khu ấy phải không?
- Đúng rồi!
- Làm sao anh ta lại biết được mình đánh mìn trên đường 5 nhỉ?
- Thế mới là Chủ nhiệm Công binh của thời đại này!
- Nếu vậy thì nên đi chứ anh?
- Nên đi quá chứ lị!
Huyện, xã và bà con ai cũng khuyên anh như thế.
Thế là từ hôm đó, bà con xã Kim Anh mới biết là xã mình cũng có một ông đánh mìn trên đường 5 nổi tiếng từ những ngày đầu chống Pháp. Cánh thanh niên, trước đây hay đến nhà ông để làm quen với con gái ông, thì nay chúng đến đông hơn, lâu hơn, để đòi nghe ông kể chuyện về đánh mìn trên đường 5 và những cuộc chiến đấu khác.
- Gớm, bác Nam Sao kín tiếng thế!
- Chuyện, những người có chiến công người ta thường khiêm tốn và ẩn dật như vậy đấy!
Không những cánh trẻ, mà cả cánh già cũng lấy nhà Nam Sao làm nơi gặp gỡ chuyện trò, ôn lại những chuyện chiến đấu năm xưa, ôn lại truyền thống của xã Kim Anh, của huyện Kim Thành, của Đường 5.
Kể từ tháng tư trở đi, chị Ngữ đã phải chi tiền chè, tiền thuốc lào tăng gấp bốn, năm lần những tháng trước đây. Tuy có tốn kém hơn, nhưng chị cũng rất vui, vì thấy chồng phấn khởi hẳn ra - anh không lì xì như trước đây, và thấy bà con hàng xóm, láng giềng, cán bộ xã, huyện cũng kính nể anh hơn.
Tuy vậy Nam Sao vẫn còn băn khoăn: "Liệu mình đi như thế này, có sợ bị mang tiếng là cố đấm ăn xôi không? Chậc! Suốt cả ngày đầu tắt mặt tối còn chả ăn ai, huống chi còn một chốc một lát khi trời sắp tối?"
Anh còn đang băn khoăn, chưa quyết định đi hay không, thì một hôm có một chiếc xe con đến tận cổng. Rồi đích thân đồng chí Chủ nhiệm Công binh Quân khu đến thăm và mời anh đi dự Trại viết chiến lệ. Lúc này anh mới nhận ra người quen. Hóa ra chẳng phải ai xa lạ: Cũng là cùng hội cùng thuyền dân công binh cả. Tuy nhiên anh cũng chỉ biết qua Nguyễn Lương chứ không thân quen. Anh tin rằng Nguyễn Lương với anh cũng như thế. Hơn nữa, Nguyễn Lương kém anh bảy tuổi, là lớp đàn em của anh, thì làm sao anh biết được. Tuy vậy, thái độ khiêm tốn và hòa nhã của Nguyễn Lương đã chinh phục được anh ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên này. Nhưng anh vẫn còn một chút vướng mắc trong việc được, mất, sợ mang tiếng ăn thua.
Nam Sao hỏi thẳng Nguyễn Lương:
- Vậy tôi đi như thế này có được lợi lộc gì không?
Nguyễn Lương nhìn thẳng vào mặt Nam Sao và điềm tĩnh trả lời:
- Chẳng được lợi lộc gì cả.
Trúng ý quá! - Nam Sao bỗng phá lên cười vang: - Nếu vậy thì đi!
Sáu Đậu là ai?
Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cả vùng đường 5 này, bao gồm cả tỉnh Hưng Yên và Hải Dương, rồi cả vùng đồng bằng Liên khu 3 đã lừng danh một người ,được quần chúng suy tôn là "Vua mìn" đầu tiên trên đường 5 - Đó là Sáu Đậu!
Nhưng Sáu Đậu là ai? Vì sao anh ta lại được lừng danh như vậy?
Câu chuyện bắt đầu từ Nam Sao kể lại.
Khi đến trại viết, ngay từ những ngày đầu, người ta yêu cầu Nam Sao viết về đánh mìn trên đường 5. Nam Sao đã không viết về mình trước, mà lại viết về Sáu Đậu, về trận đánh mìn đầu tiên trên đường 5 của Sáu Đậu, mà Nam Sao là người hướng dẫn kỹ thuật và cùng tham gia với Sáu Đậu…
Vào khoảng cuối năm 1948, do một nguyên nhân nào đó (hoặc sức khỏe, hoặc gia đình, hoặc tư tưởng), Sáu Đậu đã bỏ đường 5, bỏ đồng đội, ra ngoài,.tản cư lên tận Việt bắc làm ăn kiếm sống . Khi hòa bình lập lại, về bán thịt chó ở một chợ quê, đến ngoài bảy mươi tuổi thì già yếu ốm chết.
Năm 1964, tỉnh và quân khu có mở trại viết và in sách hồi ký về chiến đấu. Trong số những tập sách được in và phát hành thời kỳ đó, kể cả tập "Sấm đường 5", người ta đều không tìm thấy tên tuổi hay bóng dáng của Sáu Đậu trong một trang sách nào cả,huống gì đến Nam Sao (!).
Trong đợt viết chiến lệ vào năm 1983 này, tên tuổi Sáu Đậu và những trận đánh mìn của anh được nêu lên hàng đầu. Bởi vì quả mìn đầu tiên nổ trên đường 5 không thể là quả mìn nào khác và người đầu tiên dám đánh mìn giết giặc trên con đường ấy không thể thay tên là ai, ngoài Sáu Đậu được. Mặc dầu Sáu Đậu đã chết,nhưng nhân chứng sống là Nam Sao, người hướng dẫn Sáu Đậu đánh quả mìn đó , vẫn còn đây.
"Vua mìn" và chuyện tiếu lâm
"Cứ thế mà đi"!
Đó là Nguyễn Văn Thòa, một ông "Vua mìn" trẻ nhất, mà cũng là già nhất trong kháng chiến chống thực dân Pháp, từ một anh chiến sĩ du kích năm 1946 được sự hướng dẫn của Nam Saovề đánh mìn, rồi chiến đấu trưởng thành đến huyện đội phó Kim Thành năm 1954.
Nguyễn Văn Thòa sinh năm 1920, quê ở xã Đại Đức thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Một đặc điểm của ông "Vua mìn" vùng Kim Thành này là ở cách xa đường 5 những mười ki-lô-mét, chứ không phải là người ở sát đường 5như những người khác.
Năm 1946, khi địch phản bội Hiệp ước 14-9 ký tại Phông-ten-nơ-blô, đánh chiếm và bình định xong Hải Phòng, chúng mở những cuộc càn để đánh chiếm và bình định ra xung quanh, trước hết là đánh chiếm con đường giao thông huyết mạch từ Hải Phòng lên Hà Nội - con đường 5. Từng đoàn xe tăng, xe bọc thép hộ tống những đại đội, tiểu đoàn, binh đoàn quân Pháp đi bắn phá, chém giết và thiêu hủy, triệt hạ những xóm làng trên dọc đường 5 một cách dã man, tàn khốc.
Trong khi những người dân đường 5 vội vàng sợ hãi bỏ chạy đi tản cư cách xa đường 5, kể cả những thanh niên trai tráng, thì những người du kích của các xã phía trong lại chạy ngược lại, ra bám lấy đường 5 để chặn đánh bằng giáo mác và vũ khí thô sơ...
Nguyễn Văn Thòa đã đánh hàng trăm trận trên đường 5 và xung quanh đường 5, các hành lang bảo vệ con đường chiến lược quan trọng bậc nhất này, trong đó có rất nhiều trận nổi tiếng. Trận lớn nhất là "trận địa lôi cuối năm" trước Tết 1954.
Dạo đó ta đang đánh mạnh ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Bộ Tổng tư lệnh phát động một phong trào đánh phối hợp với Điện Biên Phủ trong toàn quốc, để căng địch ra mà đánh, buộc địch phải đối phó khắp nơi, ngăn chặn và hạn chế sự chi viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo thế cho quân ta tiêu diệt chúng.
Nguyễn Văn Thòa đã nghiên cứu kỹ địa hình, tìm hiểu quy luật hoạt động đường sắt của địch. Và với kinh nghiệm của mình, anh đã bày binh bố trận, đánh một trận mìn tuyệt đẹp trên đoạn đường sắt ở ga Phạm Xá. Đó là ngày 31-1-1954, tức ngày 28 Tết âm lịch, một tổ đánh mìn của bộ đội Kim Thành có ba người, gồm Trường, Đoàn do Thòa chỉ huy, đã giật mìn làm đổ một đoàn tàu hỏa ba mươi mốt toa, tiêu diệt 1.017 tên địch gồm toàn bộ tiểu đoàn Âu-Phi vừa từ Ma-rốc sang Đông Dương, đi tăng cường bổ sung cho Điện Biên Phủ, và làm tắc đường giao thông trong hai ngày.
Trận độn thổ đánh mìn ở gần cống Ngọ Dương trên đường 18 nối ra đường 5 ngày 25-12-1950 do Nguyễn Văn Thòa đóng giả làm một cô gái cắt cỏ để chỉ huy. Thòa đã chờ bọn địch đến gần để tán tỉnh, ve vãn, rồi bất ngờ vén váy rút tiểu liên ra bắn chết hai tên địch, ba tên bị thương. Đồng thời một tiểu đội du kích đội hầm nhảy lên đánh địch bằng mã tấu, gậy gộc, dao găm, diệt gần một trung đội địch.
Nguyễn Văn Thòa không những nổi tiếng về tài mưu trí dũng cảm đánh giặc, mà anh còn nổi tiếng là một cây tiếu lâm, rất vui nhộn và nghịch ngợm, ngay cả trong sinh hoạt và trong lúc đánh địch.
Một hôm, đội du kích tập trung của anh tổ chức diễn kịch cho nhân dân xem. Có hai cô gái nấu ăn cho đội, sau khi thu dọn xong, vội vàng đi tắm rửa để kịp ra đình xem kịch. Lợi dụng lúc nhá nhem tối và không có người ở nhà, hai cô liền cởi quần áo xuống ao tắm truồng. Giữa lúc đó Thòa từ ngoài đình về thay áo để đóng kịch, thấy tiếng léo nhéo dưới ao, biết là các cô gái, anh rón rén bước ra định làm một trò ú tim cho các cô hết hồn. Nhưng ra đến nơi, chính Thòa lại há hốc mồm ra, khi thấy những thân hình trăng trắng lờ mờ dưới cầu ao. Thòa vội vàng ngồi thụp xuống bên gốc chuối, không dám lên tiếng. Hai cô đã tắm xong, đứng lên vuốt nước cho khô trước khi mặc quần áo. Một cô đập vào bụng mình bôm bốp và bảo cô kia:
- Giá cứ để thế này mà đi xem kịch nhỉ?
- Ừ nhỉ, thế thì cả làng chạy hết!
Các cô đấm bóp nhau rồi cười khúc khích, làm Thòa cũng tức bụng nén hơi xuýt nữa bật thành tiếng. Anh phải chờ cho các cô mặc quần áo xong, đi ra cổng, rồi mới lặng lẽ đi sau ra đình lên sân khấu.
Trưa hôm sau, trong lúc hai cô đang nấu cơm, Thòa đi trinh sát về, anh múc nước, cởi trần rửa mặt lau người. Nhân lúc vắng người, chỉ có hai cô, nhớ lại chuyện tối qua, Thòa cũng lấy tay đập vào bụng mình bôm bốp và nháy các cô gái:
- Cứ để thế này mà đi xem kịch thì hay nhỉ?
Hai cô gái bỗng ngạc nhiên ngớ ra, trong giây phút các cô hiểu ngay là tối hôm qua mình đã lộ bí mật với anh chàng đội trưởng này. Thế là các cô đỏ bừng mặt lên, đấm vào nhau thùm thụp.
- Khỉ gió cái nhà anh này, đứng đâu mà người ta không biết!
Một cô xấu hổ quá, bỏ chạy một mạch về nhà mình ở làng dưới, không dám quay lại nấu cơm cho đội nữa.
Từ đó đội du kích có thêm chuyện tiếu lâm “Cứ thế mà đi xem kịch”.
Sau khi hòa bình lập lại, Tỉnh đội tổ chức mừng công. Người ta nhắc đến chiến công đánh tàu ở ga Phạm Xá. Và người được khen thưởng cao nhất lúc đó là chiến sĩ tân binh Nguyễn Văn Trường với lý do: Chính Trường mới là người cầm dây giật mìn (!). Còn Thòa chỉ là người chôn, quan sát và chỉ huy, chứ không trực tiếp giật, nhưng cũng được khen thưởng nhưng thấp hơn.Còn Trường được khen thưởng ngày càng cao, được “bồi dưỡng thành tích từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn, rồi được bầu là chiến sĩ thi đua ở huyện, tỉnh, đến quân khu và toàn quốc. Song song với khen thưởng là kết nạp Đoàn, Đảng và đề bạt phong cấp phong chức.
Năm 1955, khi Nguyễn Văn Thòa vì trình độ văn hóa kém không xây dựng quân đội chính quy hiện đại được, nên cho chuyển ngành ra ngoài, làm công tác bảo vệ, gác cổng cho một Công ty nuôi cá, thì Nguyễn Văn Trường đã lên tới chức chính ủy một đơn vị tàu biển ,rồi đưa vợ con ra làm ăn sinh sống ở Hải Phòng. Tuy nhiên, hàng năm Trường vẫn đánh xe con đưa vợ con về quê ăn tết với gia đình. Nhưng gần ba mươi năm nay chưa bao giờ Nguyễn Văn Thòa gặp lại người chiến sĩ cũ của mình, mặc dù quê họ chỉ cách nhau chưa đầy ba ki-lô-mét (!).
Nguyễn văn Thòa rất vui mừng vì gặp lại Nam Sao ở trại viết chiến lệ công binh, người thầy dậy mình đánh mìn đầu tiên, từ năm 1946.Tay bắt mặt mừng,tình cảm của những người lính cũ gặp nhau thật là thắm thiết.
Ba mươi năm sau
Một chiếc xe con chở Trung tá Chủ nhiệm Công binh Quân khu và đồng chí Nam Sao - nhóm trưởng nhóm viết chiến lệ đường 5 của Trại viết Công binh Quân khu 3 - hỏi thăm đến nhà bà Đào Thị Lự ở thôn Vũ Xá, xã Ái Quốc. Xe dừng lại cạnh một sân kho.
- Thế các ông hỏi gì bác Lự cháu đấy? - Một bà trạc trung tuổi đang vác cuốc ra đồng, lo lắng hỏi.
- Về bắt bà ấy đây!
- Ấy chết, sao lại bắt, bác cháu có tội gì cơ ạ?
- À, bà ấy có tội đánh mìn làm đổ một đoàn tàu của Pháp ở gần đầu cầu Phú Lương, có phải không?
- Ôi, đúng rồi! Tưởng tội gì, chứ tội ấy thì mừng cho bác cháu quá rồi!
- Khổ quá, mấy chục năm nay có ai nhắc gì đến bác cháu đâu?
- Ôi, các ông các bà này, xe của bộ đội! Các ông ở tỉnh hay quân khu?
- Ở quân khu cơ à? Ở tận quân khu đón bác Lự đây này!
- Thế thì vinh dự cho bác cháu lắm! Chúng tôi cũng mừng cho bác ấy. Đấy, các ông cứ đi theo ngõ này cho đến chỗ cái bia đá rẽ tay trái theo bờ ao là đến nhà bác cháu đấy!
- Hình như bác cháu cũng vừa đi làm đồng về đấy!
Khá nhiều người xúm lại quanh chiếc xe con, hồ hởi hỏi thăm và kể chuyện.
Đoàn cán bộ quân khu vào đến nhà bà Lự. Bà đang dọn chuồng phân cùng cô con gái vừa tốt nghiệp bác sĩ Y Thái Bình đang nghỉ phép ở nhà. Chỉ có ông chồng - cán bộ phòng Văn hóa huyện Nam Sách về hưu - đón tiếp đoàn.
Sau khi nghe rõ mục đích, ý nghĩa và nhận giấy mời bà Lư thản nhiên trả lời:
- Ôi, tôi chả dám đi đâu. Dạo đó tôi chỉ tham gia đánh mìn có một trận thôi mà, còn chủ yếu tôi chỉ làm liên lạc chạy công văn bí mật thôi... - Dừng một lát, bà ngập ngừng nói tiếp: - Mà trận ấy tôi cũng chỉ là phối hợp, phục vụ cho các anh bộ đội tỉnh thôi, chứ tôi đã biết đánh mìn là gì đâu? Giá mà các anh mời được anh Ngung nhỉ? Anh ấy làm tổ trưởng đánh trận ấy đấy! Tội nghiệp cho anh ấy quá!
- Làm sao cơ? – Nam Sao hỏi.
- Ngay sau khi tàu đổ, khi rút lui, anh ấy bị bắt rồi bị đi đày ở đảo Phú Quốc. Hòa bình lập lại, còn sống, được trao trả tù binh. Nhưng từ khi về đến nay vẫn hai bàn tay trắng.
- Sao?!
- Khổ quá, không có chứng cớ gì, cũng không có ai xác nhận, đảm bảo cho cả, nên chẳng có thành tích gì, chẳng được hưởng quyền lợi gì hết!
- Sao bà biết?
- Cách đây mấy tháng, có một ông thầy lang xuống đây chữa bệnh, bác Ngung mới nhờ ông lang đến hỏi thăm tôi xem cũng nghe tin là tôi cũng bị bắt.
- Thế sao bà không chứng nhận thành tích chiến đấu cho bác ấy?
- Tôi cũng đang muốn như thế. Tôi sẵn sàng xác nhận ngay, nhưng biết thủ tục nên làm ra sao, nói với ai, đưa lên đâu bây giờ? Nên vẫn còn băn khoăn và thương hại cho bác ấy quá!
- Thế thì bác hãy cùng cơ quan Quân khu chúng tôi làm thủ tục xác nhận lại cho bác Ngung nhé!-Chủ nhiệm công binh quân khu nói.
- Thế thì còn gì bằng! Tôi sẵn sàng ký nhận cả hai tay. Tội nghiệp cho bác ấy quá! Nghe ông lang nói là từ khi đi tù ở Phú Quốc về, bác ấy cứ bị đau ốm luôn vì bị tra tấn tàn nhẫn, lại thêm mất hết quyền lợi chính trị nên buồn chán, càng ốm yếu thêm, cứ định khỏe sẽ xuống tìm tôi hỏi xem sao, nhưng mãi vẫn chưa đi nổi.
Đi tìm người cùng xóm
Trại viết chiến lệ Công binh quan khu 3 mở được ít lâu, đồng chí chủ nhiệm Công binh đặc biệt quan tâm đến nhóm đường 5 là một trọng tâm trong đợt đầu tiên thí điểm này. Khoảng một tháng sau, số lượng chiến lệ đường 5 cũng đã viết được kha khá, gần ba mươi bản, nhưng chỉ mới tập trung và nổi lên ở khu vực Kim Thành mà thôi.
Chủ nhiệm Công binh băn khoăn:
- Nói đến đường 5 là phải nói đến tất cả các địa phương theo chiều dài của đường, chứ đâu phải chỉ có Kim Thành. Đành rằng Kim Thành là điểm nổi bật nhất.
Từ đó, anh liền cùng Nam Sao xuống các cơ sở của Hải Hưng tìm hỏi và gặp gỡ một số cán bộ cũ ở đường 5.
- Có đấy! Khu vực Cầm Giàng – Hưng Yên dạo đó có một đơn vị công binh chuyên môn đánh mìn. Gọi là đơn vị S20. – Một cán bộ cũ của tỉnh đội Hải Hưng nói với đồng chí Chủ nhiệm Công binh.
Sau đó, đồng chí cũng kể ra được một số tên người, nhưng kẻ mất, người còn, bây giờ không biết ở đâu.
Và thế là Nam Sao được cử ở lại, chống gậy đi tìm S20. Anh đi dọc theo con đường sắt từ Hải Dương đi Cẩm Giàng, Lạc Đạo, Đỉnh Dù. Lại đi theo con đường 5 từ Phố Nối trở về Quán Gỏi, đến Hải Dương. Trong mười lăm ngày la cà ở các địa phương, Nam Sao đã tìm hiểu, ghi chép được một số trận đánh, bắt mối tìm được một số người cũ. Bác Hai ở ga Cẩm Giàng bảo tìm đến bác Phúc ở ga Lạc Đạo. Bác Phúc lại bảo tìm bà Bảy ở Sặt, v.v... Cứ như thế, người này truyền người kia, mỗi người lại bổ sung thêm một vài trận đánh, một vài mẩu chuyện hoặc những chi tiết về hoạt động đánh mìn của đơn vị S20 và của du kích địa phương, mỗi người lại bổ sung thêm một vài tên người đã trực tiếp hoặc tham gia chiến đấu, hoặc biết về những trận đánh hồi đó.
Sau hàng chục người giới thiệu, để tìm ra manh mối người cuối cùng tìm được về đơn vị S20 thì chẳng phải là ai xa lạ, lại chính là người cùng quê với Nam Sao, ở xã Kim Anh, Kim Thành. Đó là Nguyễn Văn Ninh ở cách nhà Nam Sao chưa đầy hai trăm mét, xóm trên, xóm dưới chỉ cách nhau một cánh đồng.
Nam Sao và Nguyễn Văn Ninh đã từng sinh hoạt Đảng cùng một đảng bộ với nhau, thỉnh thoảng họp hành ở địa phương vẫn gặp nhau, và trong sinh hoạt hàng ngày trong làng ngoài xóm vẫn chào hỏi nhau. Cũng chỉ biết là cùng cảnh cán bộ, bộ đội về hưu, thế thôi. Còn mải làm ăn, ai lo phận ấy, gia đình con cái, con lợn con gà... làm gì có thời gian mà gặp gỡ tìm hiểu sự tích chiến đấu và quá khứ của nhau, trừ những trường hợp có người nào đó có chuyện gì đột xuất nổi lên về chính trị, xã hội hoặc cuộc sống như: được đơn vị cũ đến mời đi, cơ quan thuế vụ đến khám nhà, bỗng dưng chết đột tử v.v... thì người ta mới xúm lại bàn tán xì xào, và lúc đó lý lịch của chủ nhân lại theo đà của sự kiện “giậu đổ bìm leo” mà được nhân lên, tô hồng hoặc bôi đen rất nhanh, nếu cán bộ điều tra thẩm tra không có con mắt tinh tường và cái tai trong suốt thì dễ bị sa vào những chuyện ảo ảnh hoang đường, phán xét người theo hướng chủ quan, chỉ gây rối thêm sự việc.
Nguyễn Văn Ninh và Nam Sao không có trong số những người đó. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, đời sống vật chất buộc họ chỉ chí thú yên phận làm ăn, ít lo nghĩ gì công việc của người khác và của xã hội.
Khi chiếc xe con dừng lại ở cổng nhà, thì Nguyễn Văn Ninh đang vẽ nốt tấm bản đồ quy hoạch ruộng đất của hợp tác xã. Trong quân đội, anh là sĩ quan tham mưu tác chiến, về xã anh đã tìm được việc hợp với sở trường mình và cũng để kiếm thêm công điểm, thêm thóc nuôi một đàn chín đứa con lóc nhóc.
Khi Nam Sao giới thiệu đồng chí Chủ nhiệm Công binh và Chủ nhiệm Công binh mời Ninh đi dự Trại viết, anh sẵn sàng nhận ngay, nhưng chỉ còn băn khoăn có một điều:
- Dạo đó tôi mới chỉ là tiểu đội trưởng, phụ trách một mũi, một hướng, nên không thể nắm hết được toàn bộ các trận đánh của S20, mà S20 thì đánh nhiều lắm.
- Điều đó không lo, biết đến đâu nói đến đấy; nhớ đến đâu ghi đến đấy, chúng tôi sẽ tạo điều kiện để các đồng chí nhớ lại được, và cũng sẽ lần mối tìm thêm nhiều đồng chí nữa.
Nguyễn Văn Ninh chỉ xin lui lại một tuần để hoàn chỉnh tấm bản đồ ruộng đất giao cho xã và để bàn giao một số việc của Chi ủy cho đồng chí khác, vì Ninh phụ trách bí thư Chi bộ đảng của Đội sản xuất trong xóm anh.
Đúng hẹn, một tuần sau,Nam Sao đi chiếc xe con về đón Nguyễn Văn Ninh đến Trại viết, trong khi đó Ninh cũng đã chuẩn bị được một số tài liệu ghi vào giấy, anh mang theo bản nháp, đầu tiên của cuộc đời anh kể từ ba mươi năm qua đến Trại.
S20 là gì?
Nguyễn Văn Ninh kể lại: Vào khoảng cuối năm 1953 , chiến dịch Điện Biên Phủ đã bắt đầu và đang diễn ra quyết liệt. Bọn địch tăng cường đồn bốt trên đường 5 để giữ vững mạch máu giao thông chiến lược này, để chở quân tăng viện và tiếp tế vũ khí đạn dược từ Hải Phòng lên Hà Nội, rồi từ Hà Nội bằng máy bay lên Điện Biên.
Trước đây, các đơn vị công binh, các đội du kích đánh mìn trên đường 5 - cả đường bộ và đường sắt - thường dùng dây để giật cho mìn nổ. Muốn vậy phải căng dây từ quả mìn ra đến vị trí điểm hỏa có một cự ly an toàn cho người giật phải từ một trăm đến một trăm rưởi mét.
Trước đây địch còn canh gác sơ sài, tuần tra thưa thớt, nên việc chôn mìn, căng dây và ngụy trang còn che được mắt địch. Nhưng đến nay, sau khi bị thất bại nhiều, chúng đã xảo quyệt hơn, tăng cường bố phòng chặt chẽ bằng cách phát quang, san ủi hai bên đường thành vành đai trắng cách xa năm trăm mét không cho dân cư ở, để cho ta không còn nơi che khuất ẩn nấp, để cho các tổ dò mìn, cào dây của công binh địch được dễ dàng phát hiện mìn ta. Đồng thời, chúng tăng cường đóng thêm nhiều đồn bốt, chỉ cách nhau ba, bốn li-lô-mét một đồn, mỗi ki-lô-mét một tháp canh, mỗi cột điện là một tên lính gác. Mặt khác, tăng việc tuần tra trên đường, tăng cường các tổ, đội công binh dò, gỡ mìn. Có hôm có tàu, xe đặc biệt thì chỉ mười lăm phút chúng đi lại dò, gỡ mìn trên đường một lần.
Vì vậy việc đánh tàu, xe trên đường 5 ngày càng khó khăn, nhất là ở khu vực Kim Thành, số lượng tàu, xe địch bị diệt giảm xuống quá ít, số lượng tàu, xe địch chạy thoát quá nhiều. Việc đánh mìn giật dây không thực hiện được, chỉ còn cách nghiên cứu cách đánh mìn tự động, cho tàu, xe đi vào là nổ ngay.
Ban chỉ huy Tỉnh đội Hải Dương quyết định thành lập một trung đội công binh đánh mìn tự động trên đường 5, hoạt động ở khu vực Cẩm Giàng, lấy biệt hiệu là S20. S là ký hiệu con đường 5, giống chữ số 5 viết tháu (xanh cò). Còn 20 là, đơn vị thành lập ngày 20. Trung đội này được lựa chọn kỹ, gồm những đồng chí đã có kinh nghiệm đánh mìn, phần lớn là người Kim Thành và một số người địa phương Cẩm Giàng thành thạo địa hình. Chỉ huy trung đội đầu tiên gồm đồng chí Nguyên - chính trị viên, đồng chí Tuy - trung đội trưởng và đồng chí Trường - trung đội phó.
Việc làm ăn (đánh mìn) trên đường 5 lúc này ngày càng khó khăn. Công tác tổ chức chiến đấu phải hết sức tinh vi, chặt chẽ, nếu không sẽ bị thất bại. Từ việc trinh sát theo dõi nắm quy luật địch đến việc tổ chức bố trí mìn, từ việc ngụy trang đến việc đi lại, phải dùng nhiều biện pháp khôn khéo, nghi binh đánh lừa địch. Đây chính là việc đấu trí với địch, một kẻ địch rất khôn ngoan, xảo quyệt.
Sau một thời gian nghiên cứu, huấn luyện và chuẩn bị chiến trường, S20 ra quân trận đầu tiên ngày 12-12-1953, quyết tâm lập thành tích chào mừng ngày thành lập quân đội 22-12 và phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ. Đó là trận đánh mìn tự động tại khu vực đường sắt Đồng Liêu đi Cao Xá.
Bộ phận trinh sát nằm ở Thạch Lỗi, Kim Đôi, Bằng Quả, Phú Quân, thường xuyên bám sát dân, bám sát địch ngày đêm và điều tra nắm quy luật hoạt động của địch. Đơn vị cử một tiểu đội mười người và hai du kích Kim Đôi do trung đội phó Trường chỉ huy. Trang bị bốn súng trường, ba tiểu liên, một mìn tự động 20 kg, một cạm tự động điểm hỏa do đơn vị vừa mới nghiên cứu sản xuất bằng gỗ và một mìn giá bằng củ chuối.
Kế hoạch đêm thứ nhất mới đặt mìn giả để xem hôm sau địch có phát hiện được không. Đêm thứ hai mới đặt mìn thật. Do kỹ thuật chôn mìn của các chiến sĩ ta rất thành thạo và thận trọng nên địch không phát hiện được gì. Tám giờ sáng ngày hôm sau, 12-12-1953, một đoàn xe hỏa chở đầy vũ khí của địch tới. Một tiếng mìn nổ dữ dội, khói chìm cả đầu máy, đoàn tàu và ngọn lửa bốc cháy, khói cao đen sì. Kết quả: một đầu máy và bốn toa xe bị lật nhào xuống đường, bốc cháy cả, còn lại bốn toa khác cũng bị đổ nghiêng xô lên nhau gãy nát, một tiểu đội địch đi bảo vệ tàu bị chết, đường sắt bị tắc suốt một ngày hôm đó.
Nguyễn Văn Ninh còn viết được khá nhiều trận về S20, trong đó nhiều trận thắng lợi và có cả những trận thất bại của chính tiểu đội trưởng Ninh lúc bấy giờ, làm anh cùng đơn vị đều bị kỷ luật.
Đó là trận đánh mìn trên con đường An Điền đi Mai Chung ngày 20-1-1954. Vì muốn đánh trúng từng toa tàu theo ý định, nên đơn vị đã gây nổ bằng dây điện, đấu với hộp pin một trăm quả. Nhưng do sơ suất về kỹ thuật, trình độ hiểu biết về điện kém, nối dây điện bị hở nên mìn không nổ. Sau đó, bị địch phục kích bắn làm hy sinh và bị thương một số. Chúng đã dò và đào gỡ mất ba quả mìn, đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ.
- Đó là bài học xương máu của tôi. - Nguyễn Văn Ninh nói - Tôi ghi lại để đời sau rút kinh nghiệm. Có tinh thần dũng cảm đánh địch chưa đủ, mà còn phải có trình độ kỹ thuật thành thạo và công tác tổ chức chỉ huy giỏi mới thắng được địch. Nhất là đối với chiến tranh tương lai sử dụng nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại.
Nam Sao không ngờ rằng từ một quả mìn bằng đầu đại bác thô sơ mà anh và Sáu Đậu đã đánh từ năm 1946 trở đi ,quân dân ta đã thiên biến vạn hóa, phát triển không ngừng trong việc đánh mìn trên đường 5, làm cho giặc Pháp thất bại nặng nề, góp phần vào chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.Trong những chiến công đó, có một phần đóng góp nhỏ bé của mình, một huấn luyện viên đầu tiên.
*
Nam Sao ở trại viết là trong lớp người nhiều tuổi,nhưng anh lại là người có thâm niên trong quân đội sớm nhất, tính tình lại luôn luôn vui vẻ hòa nhã. Nên anh em trong trại viết đều quý mến. Suốt gần một năm trời ở trại viết,anh miệt mài viết những trận chiến đấu mà mình đã tham gia hoặc viết cho những đồng chí già yếu hơn kể lại, hoặc cũng có khi anh kể cho các đồng chí trẻ viết hộ.Anh cũng là người xông xáo đi khai thác tài liệu và tìm được nhiều nhân chứng sống trên đường 5. Đặc biệt trong những cuộc đi thẩm tra tài liệu tại thực địa ,do đồng chí Chủ nhiệm công binh Quân khu chủ trì, thì anh Nam Sao là người đóng góp được nhiều chi tiết và phản biện xác đáng nhất, để bảo đảm tính trung thực của tài liệu .Điều đó chỉ có ở những người có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu thực tế ở ngoài chiến trường và những nhà khoa học kỹ thuật của binh chủng mới có .Các tập chiến lệ của trại viết, viết ra được in ấn đầy đủ,có tiếng vang lớn trong các đơn vị và trong binh chủng công binh toàn quân. Lấy đó làm tài liệu tham khảo trong huấn luyện của binh chủng lâu dài. Rồi trong các cuộc hội thảo chuyên đề về :”Chiến đấu bảo vệ đường 5”,”Chống phong tỏa thành phố cảng Hải Phòng”,”Bảo đảm công trình phòng thủ biên giới”… do Quân khu tổ chức, đều lấy các tài liệu đó để dẫn chứng cho các đại biểu tham gia hội thảo. Trong đó Nam Sao là một trong những diễn giả được vỗ tay hoan nghênh nhiều nhất .Tiếng lành đồn xa…Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hải Hưng trực tiếp đến mời đồng chí Nam Sao về tham gia viết sử, viết truyền thống chiến đấu của tỉnh nhà ,tại cơ quan Bộ chỉ huy hàng năm trời,Sau đó Ban tuyên huấn tỉnh lại mời đi nói chuyện về lịch sử Cách mạng và chiến đấu của quê hương ở khắp nơi trong tỉnh,được nhiều khán giả hoan nghênh nhiệt liệt.Từ đó anh có trong chân được Tuyên huấn tỉnh thường xuyên mời dự các cuộc phổ biến tình hình thời sự thế giới và trong nước và trở thành Báo cáo viên thời sự của tỉnh. Được nhân dân các nơi tín nhiệm. Đặc biệt trong các cuộc họp Đảng ,họp chính quyền ở địa phương.Cuộc họp nào anh cũng được mời kể tóm tắt về tình hình thời sự thế giới và trong nước thời gian qua khoảng 20 đến 30 phút, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong các cuộc họp của thôn xã nhà. Đó cũng là một nét văn hóa đẹp, đặc biệt lớp người cao tuổi thường ưa thích. Nam Sao còn được Hội người cao tuổi thôn xã bầu làm tổ trưởng tổ thơ, hàng tháng đều có sinh hoạt để bình thơ, rồi đi giao lưu với các xã bạn ,huyện bạn hoặc toàn quốc ở Hà Nội ,rất là vui. Bản thân anh cũng đã sáng tác được ba tập thơ ,in tại các nhà xuất bản trung ương, được đông đảo bạn bè ưa thích. Tuổi ngày càng cao ,công việc ở địa phương lại bận rộn, đến nỗi chẳng còn thời gian đi xa đến các bạn đồng đội cựu chiến binh đánh cá được nữa. Nhưng anh vẫn luôn quan tâm biên thư thăm hỏi và biết họ đã phát triển tốt . Anh rất hài lòng , động viên anh em cố gắng xóa đói giảm nghèo, tiến lên no đủ và làm giầu.Thỉnh thoảng lại có người về chơi thăm anh ,làm lòng anh và cả nhà anh rất vui! .
*
Vào một ngày giáp tết âm lịch,một chiếc xe con quân sự rẽ vào làng Lễ rồi rẽ vào ngõ nhà Nam Sao. Bỗng trông thấy Nam Sao đang đi ra ngõ vẻ không vui,chiếc xe dừng lại.Người lái xe bước ra khỏi xe kêu lên rất to:
- Ơ,anh Nam Sao, tôi đi công tác biên giới xa mới về Quân khu , nghe tin anh chết(?) nên mớí vội vàng đến thắp hương cho anh đây. Hóa ra anh vẫn còn sống chờ chờ ra đây thôi ! Đồng chí chủ nhiệm công binh quân khu nói xong, ôm chầm lấy Nam Sao mà quay tít thò lò: - Ôi mừng quá , mừng quá !
- Nam Sao vội nói với giọng buồn buồn : - Không phải tôi ,mà là nhà tôi! – Ôi thế thì lại buồn rồi! Nguyễn Lương buông Nam Sao ra và hỏi : - Chị mất lâu chưa ? Ốm đau làm sao lại đi đột ngột thế?
-Nhà tôi mất một tuần nay rồi, ung thư dạ dầy,đã phát hiện lâu rồi,nhưng bà ấy cứ dấu mãi không chịu đi chữa vì ngại tốn kém, đến giai đoạn cuối,mới phát hiện ra ,không kịp chữa thì đã đi rồi. Khổ thế đấy! Cũng vì hoàn cảnh khó khăn cứ gắng gượng mãi. Bây giờ gia đình đã ổn định ,nhà cửa khang trang rồi thì bà ấy lại bỏ đi, khốn khổ thân tôi chưa? -.Nam Sao vừa nói vừa khóc :
- Cũng vì tôi bỏ đi xa lâu ngày ,một mình bà ấy gánh vác tất cả nên mới ra nông nỗi này.Tôi ân hận quá!
- Thôi,số phận chị ấy như vậy biết làm sao được! Nguyễn Lương an ủi Nam Sao ,trên đường vào nhà. Nam Sao xếp cả đồ lễ là tất cả bánh trái,rượu, và các thứ mà Nguyễn Lương được quân khu phân cho tiêu chuẩn ngày Tết mang đến, chỉ mua thêm hương ,hoa, xếp lên ban thờ, vừa xếp anh vừa khấn :
- Bà Ngữ ơi ,đây là đồ lễ mà anh Nguyễn Lương mang đến để cúng tôi,không ngờ bà lại đi trước tôi, nên cúng bà trước đây… Nguyễn Lương kính cẩn thắp ba nén nhang cắm lên ban thờ, rồi vái ba vái,giọng bùi ngùi:
-Chị Ngữ ơi ,chị là một người đàn bà,trung hậu đảm đang,thay chồng nuôi con ,chăm sóc gia đình để chồng yên tâm đi đánh giặc, nay đã yên hàn ,anh ấy đã trở về ,gia đình đã xây dựng khang trang ,con cái đã trưởng thành, chưa được bao lâu thì chị lại ra đi. Ôi số phận chị thất đáng kính phục biết bao hy sinh tất cả vì chồng vì con ,đáng thương biết bao. Chị có linh thiêng thì hãy phù hộ độ trì cho anh và các cháu mạnh khỏe làm ăn phát triển…!
Bình yên, con lại hơn cha!
Sau khi củng cố gia đình ổn định, con cái học hành, làm ăn đi vào nề nếp và trưởng thành .Chỉ mấy năm sau các con của Nam Sao: một trai, bốn gái đều đã phát triển mạnh mẽ .
Cô Thanh là chị lớn ,cùng chồng làm công nhân ở nhà máy xi măng Hoàng Thạch,có kỹ thuật cao nên thu hoạch đều khá.
Rồi đến con trai trưởng là Nguyễn Nam Phong đi bộ đội theo gen của bố , nhưng hơn bố nhiều, nay đã phát triển lên Chỉ huy trưởng ban chỉ huy quân sự một huyện ,quân hàm đại tá.
Con gái thứ ba là Nguyễn Thị Nga, tuy lúc đầu vất vả về đường chồng con, nhưng lại là một cô gái xông pha thương trường như chiến trận, lên voi xuống chó,đánh đông dẹp bắc khắp mọi nơi, từ Quảng Ninh, Móng Cái ,Trung quốc, Hà Nội ,Sài Gòn, đến Lào Cai ,Yên Bái. Trong hơn mười năm năm lăn lộn, từ một cô buôn thúng bán mẹt với mẹ sau phát triến thành Tổng giám đốc của một tập đoàn thương mại xuất nhập khẩu ra hàng chục nước trên thế giới. Với tổng vốn hàng chục nghìn tỷ đồng .Hiện nay đang đầu tư trồng hàng ngàn hec ta rừng cao su trên biên giới phía bắc được nhà nước và các tỉnh hoan nghênh,tín nhiệm và đầu tư trọng điểm. Nguyễn Thị Nga cũng đã công đức để xây dựng nhiều đình chùa và góp phần vào quỹ xóa đói giảm nghèo ở các địa phương. Được chủ tịch nước tôn vinh là một trong những doanh nghiệptiên tiến hàng đầu của các ngành trong năm. Nguyễn Thị Nga còn bỏ tiền ra xây dựng nhà thờ tổ của gia đình ở quê và vườn hoa cây cảnh ,có cả quán hội thơ bên hồ câu bán nguyệt ,phong cảnh hữu tình, làm nơi để bố Nam Sao mời các cụ tổ thơ hàng ngày sinh hoạt câu lạc bộ thơ vui vẻ. Chồng Nga là một bác sỹ giỏi, nhưng cũng góp sức giúp cho nghề kinh doanh của vợ một cách đắc lực.Ba con gái đều đang hoc tập tốt.Cháu lớn chuẩn bị lấy chồng và nối nghiệp kinh doanh của mẹ.
Con gái thứ ba của Nam Sao là Nguyễn Thị Châm cũng là nhà doanh nghiệp hàng tỷ phú ở quê ,thành phố Hải Dương.
Con gái út Nguyễn Thị Luyến, tuy bé nhất ,nhưng lại là một cô gái thành đạt nhanh nhất.Từ một cô gái 17 tuổi học hết lớp 12 xin vào làm công nhân cho một doanh nghiệp nước ngoài ở địa phương , Cô không chịu dừng lại với mức lương ba cọc ba đồng. Mà đã phấn đấu vươn lên ,vừa học,vừa làm .Chỉ trong vòng ba,bốn năm từ một cô công nhân học việc đã trở thành Giám đốc một xí nghiệp đại lý, của doanh nghiệp Mỹ tại Sài Gòn, có ba bốn trăm công nhân. Doanh thu hàng tháng hàng chục tỷ đồng. Nhưng về mặt hạnh phúc gia đình, cô không gặp thuận lợi. Chồng cô là một tiến sỹ khoa học trẻ tuổi có tài,hai người rất yêu nhau ,họ đã có một con trai kháu khỉnh. Nhưng anh chồng chỉ suốt ngày,suốt tháng, mải mê đọc sách ,nghiên cứu khoa học theo lý tưởng của anh, mà không màng gì đến việc của vợ và gia đình.Thậm chí cả đến con trai cũng ít được sự chăm sóc của bố, hàng tuần dành thời gian hai vợ chồng đưa con đi chơi cũng không được ,mà chỉ phó thác cho người giúp việc nên tình cảm cha con bị nhạt nhẽo. Mà vợ thì suốt ngày ở xí nghiệp đầu tắt mặt tối không hết việc.Việc nhà cũng chỉ cũng chỉ sai khiến người quản gia. Đã nhiêu lần hai vợ chồng bàn nhau phân công việc gia đình.Nhưng không ai chịu ai .Vợ thì ham làm giầu ,chồng thì ham nghiên cứu khoa học .Họ sinh hoạt tình yêu như một cái máy không còn hứng thú gì cả mà cũng chẳng động viên giúp đỡ gì nhau được nữa .Tiền đối với họ thì quá thừa, kể cả hai người ,mà không mua nổi tình yêu hạnh phúc (!) Cực chẳng đã Nguyễn Thị Luyến phải chủ động xin ly hôn.Anh chồng cũng chấp nhận ngay mà chẳng hối tiếc gì, kể cả đứa con trai ba tuổi. Họ không hề cãi cọ nhau hay nặng lời với nhau gì cả, cứ êm thắm như không ,đến nỗi cả xí nghiệp cũng chẳng ai biết giám đốc ly dị chồng(!) Một mình Luyến nhận nuôi con,không cần gì đến người bố. Định luật khoa học về lĩnh vực điện học,bao giờ cũng có cực âm và cực dương thì mới hút vào nhau được .Ngược lại nếu cùng là hai cực âm hoặc hai dương cả ,thì tất nhiên sẽ đẩy nhau mà thôi. Trong hôn nhân và gia đình cũng vậy .Đó cũng là bài học ở đời cho lớp trẻ ngày nay!
Chương 29
NGƯỜI LẠC CHUYẾN TÀU
Như trên chúng ta đã biết ,Nguyễn Văn Hữu đáng lẽ đi chuyến tàu lên Hà Nội cùng em trai là Nguyễn Văn Bạn tức Nam Sao ,nhưng vì đi muộn ,nên nhỡ tàu,lại lạc sang chuyến tàu đi Hải Phòng. Rồi ở lại Hải Phòng theo lời dụ dỗ của cánh Quốc dân đảng và Đại Việt, định biểu tình rồi cướp chính quyền ở Hải Phòng .Nhưng bị cánh Việt Minh phát hiện ra và phá tan âm mưu đó.Rồi sáng hôm sau, ngày 23 tháng 8 năm 1945,Việt Minh đã lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền Hải Phòng thắng lợi. Bị thất bại, cánh Quốc dân đảng và Đại Việt đã tan rã, phải ẩn nấp trốn tránh. Rồi làm tay sai cho thế lực của thực dân Pháp còn lại ở Hải Phòng để chuẩn bị cho quân đội Pháp chiếm lại Hải Phòng vào năm 1946.Số phận của Nguyễn Văn Hữu cũng trôi theo dòng thác của cánh phản động đó .Hữu được lực lượng của Pháp ở lại, tuyển vào làm nhân viên Mật vụ bí mật tại Hải Phòng.Bề ngoài có lúc là kẻ làm thuê làm mướn kiếm ăn, có lúc lại tỏ ra là một kẻ ăn chơi trác táng ,cờ bạc rượu chè.Vốn là một thanh niên cao to đẹp trai, lại là con nhà khá giả ở làng quê,nên sa đà vào việc chơi bời từ bé kiểu anh chị ở xóm thôn.Nay ra thành phố càng được phát triển. Được bố mẹ cho đi học từ bé, cả chữ nho và quốc ngữ, tư chất tuy thông minh,nhưng tính nết lại nhát gan sợ chết, không muốn xông xáo vào hòn tên mũi đạn. Nên khi Pháp đánh chiếm Hải Phòng. Hữu đã khôn ngoan, chỉ xin làm cảnh sát ở thành phố mà không bị đẩy ra làm lính cầm súng ngoài mặt trận. Mặc dầu đã nhiều lần cấp trên muốn đẩy ra mặt trận ,nhưng Hữu đều khôn ngoan né tránh được, bằng cách hoàn thành tốt nhiệm vụ cảnh sát bí mật trong nội thành. Nhiều lần Hữu đã điều tra và phá được những vụ án Việt Minh tấn công vào nội bộ liên quân Pháp- Việt hoặc chỉ điểm bắt một số cán bộ Việt Minh quan trọng. Nhưng không bao giờ Hữu để lộ bí mật , ra công khai.Và cấp trên cũng đồng tình với Hữu như vậy để hoạt động được lâu dài hơn. Chính vì thế nên bà con nhân dân trong khu phố gần nhà không ai chê trách gì Hữu cả. Nhiều bà con đều nói:
-Cảnh sát gì cái tay Hữu ấy ,suốt ngày chỉ thấy nó chơi bời trác táng ,cờ bạc rượu chè, trai gái thôi. Quả thực Hữu là tay máu mê cờ bạc nhất trong đám cảnh sát của Hải Phòng.Có lần đã bị cấp trên kỷ luật, cảnh cáo làm gương cho dội ngũ cảnh sát. Nhưng Hữu vẫn không chừa, vẫn tiếp tục vi phạm. Đến nỗi anh ta bịTy cảnh đuổi về Thái Bình. Nhưng chỉ hai tháng sau anh ta lại cạy cục và được bạn bè giúp đỡ,kéo về Kiến An. Mấy tháng sau lại về Hải Phòng. Với cái vỏ bề ngoài ấy Hữu đã giữ được an toàn cho tính mệnh mình và những người thân trong gia đình ở quê và ở thành phố không bị nhân dân oán trách hoặc trả thù. Anh cũng là tay được học chữ Nho, chữ thánh hiền được chục năm, cũng hiểu và nhớ được câu danh ngôn :- “Ở hiền gặp lành ,Ác giả ác báo”. Nên Hữu luôn luôn giữ mình ,không bao giờ để vi phạm nặng nề. Chỉ những vụ việc nhẹ nhàng của đối phương bất đắc dĩ, anh mới đưa ra,và ngăn không cho cánh hiếu chiến trong nội bộ làm quá ,dẫn đến xử nặng tội hay chết tróc.Vì thế anh thấy lòng mình được tương đối thanh thản. Những vụ án nào thấy nguy hiểm nặng nề,anh đều trốn tránh ,phân công cho người khác làm . Hữu còn một biệt tài nữa để thu phục lòng người. Ấy là do anh được học chữ Nho ,nên đọc được sách tử vi bằng chữ Hán mà anh rất thích .Rồi cũng tập tọe, mày mò đoán tướng số cho bạn bè và những người xung quanh. Nhiều lần đoán cũng rất trúng, làm cho mọi người cảm phục và chịu tài của thầy tử vi cây nhà lá vườn.Từ đó gây được tín nhiệm của mọi người. Anh quyết tâm học tập thêm và đi sâu vào nghề này.trước hết là gây được cảm tình với nhiều người xung quanh, nhất là đối với các cấp trên .Để làm cái mộc che chắn cho mình khỏi phải lao vào những nơi nguy hiểm,hoặc bị đẩy đi xa, ra chiến trận … Ở đâu nghe có thầy tướng số giỏi là anh lại bí mật lần mò đến để học tập, nên trình độ ngày càng được nâng cao và có kinh nghiệm đối nhân sử thế ở đời, dễ được mọi người tin phục. Cấp trên nể nang và tin tưởng. Trước mắt là né tránh được những việc khó khăn phức tạp,và nguy hiểm không phải lao vào, không bị đẩy vào. Nhiều cấp trên ,nhất là những người mê tín,thường sử dụng Hữu như là cố vấn về tâm linh cho mình,không muốn rời bỏ anh nữa.
Ở gần nhà anh có một cô gái trẻ mới xuất hiện được ít lâu ở cách nhà anh một đoạn,vài số nhà. Cô gái làm nghề y tá, hàng ngày tiêm cho những người bệnh quanh hàng xóm. Lúc đó anh đã làm đồn trưởng Đồn cảnh sát thành phố. Được cấp dưới báo cáo:- Cô này tên Ngần làm y tá, đội viên đội du kích Hoàng Ngân thuộc tỉnh Hưng Yên, mới vào thành , ngấm ngầm hoạt động,để ám sát những sỹ quan của liên quân Pháp -Việt.Đề nghị cấp trên cho bắt ngay để điều tra và xử trí. Hữu liền gạt đi mà bảo:- Từ từ, cứ theo dõi đã,phải kín đáo kẻo đối phương hành động hoặc lẩn trốn. Moa sẽ trực tiếp thẩm tra lại xem sao đã. Hôm sau Hữu giả vờ ốm cho người sang mời cô y tá đến tiêm hộ để hỏi han tình hình .Nhưng cô Ngần rất kín đáo không hề nói lộ tông tích của mình ,mà chỉ nói là cháu ở quê lên thăm cô chú, nhờ cô chú ở lại đây làm ăn.
Hai hôm sau, nhân dịp về thăm gia đình và vợ con ở làng Lễ. Hữu mới hỏi một số người làng về đội du kích Hoàng Ngân. Một số bạn bè đáng tin cậy mới cho biết : -Trong một trận càn ở đường 39 đội du kích này đã phục kích đánh cho quân Pháp một trận thua nặng nề, tiêu diệt trên ba mươi quân Pháp bị thương vong. Bọn chỉ huy Pháp cay cú ,liền tổ chức một trận càn với quy mô một tiểu đoàn, bí mật bao vây thẳng vào căn cứ của đội du kích tại Văn Giang.Đội du kích không kịp trở tay ,bị bắn chết 10 người trong đó có đội trưởng Hoàng Ngân và bị bắt sống 6 người, còn lại tan rã chạy khắp nơi ,có người lên Hà Nội ,có người xuống tận Hải Phòng, hàng tháng trời nay không dám về. Hữu phán đoán cô này chỉ vì sợ hãi mà trốn tránh thôi, chứ chẳng có mưu đồ ám sát ai cả. Rồi Hữu nhận trực tiếp theo dõi giám sát cô, không để cho nhân viên theo dõi nữa.Thế là giải thoát cho cô Ngần. Cô Ngần cũng biết là Hữu đã bảo lãnh cho cô.Dần dần hai người hàng xóm quen nhau ,rồi thân nhau. Vẫn biết ữu đã có vợ con ở q uê HữuHhH Hữu đã có vợ con ở quê, nhưng cô Ngần vẫn có cảm tình, phải dựa vào đồn trưởng cảnh sát để được yên ổn làm ăn ở thành phố lâu dài,không dám trở về làng nữa. Mãi đến năm 1955, hòa bình lập lại ở Đông Dương. Sau 300 ngày tập kết tại Hải Phòng, quân Pháp mới rút lui khỏi miền Bắc. Nguyễn Văn Hữu lúc này đã đeo lon trung úy cảnh sát, mới mang theo cô Ngần vào Nam theo quân Pháp ,không cần cưới xin gì cả. Bỏ rơi vợ cả và ba đứa con gái ở quê làng Lễ. Họ sống với nhau hạnh phúc ở Sài Gòn.
Thầy Quỷ Cốc tiên sinh.
Hồi mới vào Sài Gòn, ban đầu Hữu cũng định rời khỏi cảnh sát và quân đội để chuyên hành nghề tướng số, mà ở Hải Phòng anh đã đạt được một số kêt quả ban đầu.Nhưng vì mới vào ,chưa quen thông thổ nên chưa có khách .Cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Chính quyền mới ở Sài Gòn lại tìm đến,biết anh là đồn trưởng Cảnh sát Hải Phòng có năng lực và uy tín,nên đã đến vận động và mời anh ra làm việc. Người ta bổ nhiệm anh làm đồn trưởng đồn cảnh sát giới tuyến Hiền Lương với quân hàm đại úy,đó là một đồn tiền phương phức tạp nặng nề nhất lúc bấy giờ. Anh nhận thấy ,thời đại chiến tranh này nếu không dựa vào chức quyền thì không thể sống yên ổn được ,nên anh sẵn sàng tái ngũ làm đồn trưởng và đưa vợ hai ra sinh sống tại Vĩnh Linh.
Ở đây anh lại phát huy sở trường tử vi của mình để thu phục nhân tâm và trừng trị những kẻ bất nhân, lòng dạ nham hiểm trong nội bộ và của cả đối phương. Nhưng anh né tránh không trực tiếp nhúng tay vào tội ác và máu, mà đùn cho bọn cấp dưới ác ôn thi hành những vụ việc cùng bất đắc dĩ phận sự anh không thể tránh được. Sau một năm trời, tình hình hoạt động của giới tuyến luôn luôn sôi động,làm tinh thần của anh căng thẳng quá và lương tâm người thầy tử vi bị day dứt và ân hận, nên anh sinh bệnh cáo ốm, phải đi điều trị tại bệnh viện hơn hai tháng trời. Hữu lấy cớ ốm đau đó ,làm đơn xin chuyển vùng. Cũng may gặp được một vị tướng do cảm phục nghề xem tử vi của anh. Đó là một lần ông tướng này đến kiểm tra tình hình giới tuyến, ông đang chuẩn bị đi ra thị sát một địa điểm cách Hiền Lương không xa. Sau khi nhìn nhân dạng của ông thấy có điềm xấu và xem giờ. Hữu bấm độn thấy nguy hiểm ,liền mạnh dạn thưa với ông
:- Bẩm thiếu tướng, xin thiếu tướng từ từ đã ,giờ này đi không có lợi đâu ạ.
-Tại sao ?
- Dạ thưa, em thấy có điềm báo không lành. Xin Thiếu tướng cứ ở lại đồn uống nước nghỉ ngơi khoảng một giờ nữa hãy đi .
- Sao anh biết?
- Em có học đôi chút về tử vi và tướng số.
- Hả, tử vi, tướng số à, những trò mê tín ấy tôi chưa tin đâu !
- Xin thiếu tướng cứ bình tĩnh chờ một lát xem sao đã! Nói xong Hữu gọi lính hầu ra pha ấm chè khác , đưa vài chai bia và thuốc ra mời thiếu tướng.Ông cũng cầm cốc bia uống, với vẻ mặt ngờ vực. Chính lúc đó Hữu nhìn thấy trên nét mặt ông xuất hiện điềm xấu rõ ràng hơn. Anh nghĩ thầm :Sắp đến lúc rồi .Nếu điềm này không đoán trúng thì mình cũng bị dầy dà đây. Anh cầm cốc bia lên chạm cốc với thiếu tướng.
- Chúc mừng thiếu tướng
- Vì lý do gì?
- Thiếu tướng được bình an ! Vừa lúc đó nghe tiếng súng đại bác nổ ầm ầm từ bờ bắc bắn qua sông Bến Hải khá lâu ,ở hướng ông thiếu tướng định đi tới.Cùng lúc đó,nét mặt ông tướng bị tái đi nhưng điềm nguy hiểm trên nét mặt ông cũng đã mất hẳn. Hữu nhìn thiếu tướng vởi vẻ tự tin vào tiên đoán của mình. Thiếu tướng đứng lên ,bắt tay Hữu:
- Cảm ơn đại úy!- Lát sau,có một chiếc xe jeep chạy vội về báo tin: Trận pháo kích của Việt cộng từ bờ Bắc bắn sang, trúng vào đội hình của Đoàn quân sự đang nghiên cứu địa hình, 5 sỹ quan bị tử vong,trong đó có một đại tá và 3 trung tá ,một thiếu tá, 2 xe jeep bị hỏng. Thiếu tướng lại nắm tay Hữu một lần nữa:
- Đại úy đã cứu tôi một bàn thua trông thấy,Cảm ơn ! -Tối hôm đó thiếu tướng ngủ lại đồn và nói chuyện với Hữu khá nhiều .Đặc biệt hỏi về tử vi ,về tướng số Hữu đã học lâu chưa ,có khó lắm không? Hữu cũng thực thà kể hết cho thiếu tướng nghe,ông lấy làm cảm phục, nhất là vụ cứu mạng ông vừa mới xong. Khi Hữu trình bày với ông về nguyện vọng muốn xin chuyển vùng, thì ông tán thành ngay và nôi một cách thân mật:
- Ủa,vị trí của mày không phải ngồi ở đây. Phí lắm ! phải về Sài Gòn, phải về Bộ Tổng Tham mưu…Ông hứa sẽ giúp đỡ một cách tích cực nhất. Tuy thế nhưng mãi ba tháng sau , Hữu mới có quyết định chuyển về tỉnh Mỹ Tho,làm đồn trưởng đồn cảnh sát thị xã.Bởi vì trong thư của ông thiếu tướng có nói là: Bộ tư lệnh Cảnh sát cũng muốn giữ chưa cho anh ra khỏi ngành,hãy tạm thế đã ,rồi sẽ tính sau. Đối với Hữu như thế cũng là tốt rồi,không căng thẳng như ở giới tuyến. Vợ chồng lại kéo nhau về đồn cảnh sát thị xã Mỹ Tho, cũng gần Sài gòn. Sau khi nhận bàn giao và ổn định tình hình trong đồn cánh sát thị xã xong. Hữu giao mọi việc cho cấp phó làm là chủ yếu .Hữu chỉ họp giao ban hàng ngày và giải quyết những vụ việc quan trọng. Còn toàn bộ thời gian tập trung vào học tập và nghiên cứu tử vi tướng số, quyết tâm theo nghiệp đến cùng .
Sau một thời gian tìm kiếm ở Sài gòn và các tỉnh miền Nam,Nguyễn Văn Hữu được nghe danh thầy tử vi tướng số nổi tiếng nhất ở Sài Gòn là Quỷ Cốc tiên sinh ỏ đường Trương Minh Giảng. Nghe nói thầy rất siêu đẳng ,đã làm cố vấn cho rất nhiều quan chức và nhiều tướng lĩnh cao cấp nhất của Việt Nam Cộng hòa. Hữu quyết định đến gặp mặt và xin học. Hữu chuẩn bị một bọc tiền khá lớn gấp hàng chục lần tiền lương đại úy của mình, anh vẫn biết rằng nó chẳng đáng là bao, nhưng là thành tâm của mình ,anh cứ mang đi.Tìm đến số nhà của Quỷ Cốc tiên sinh ở đường Trương Minh Giảng.Đó là một ông thầy tướng người gầy đét để tóc dài phủ xuống vai, mặc một bộ đồ thầy nho màu lụa đen, chân đi guốc mộc, trông khá lập dị. Đầu tóc quần áo và cả trong phòng đều sặc mùi hêroin, chứng tỏ thầy nghiện thuốc phiện nặng. Cổ thầy khẳng khiu với những đường mạch máu nổi cộm là khuôn mặt gầy choắt. Thầy khoảng độ ngoài sáu mươi tuổi. Thầy có đôi mắt cực sáng tỏa ra những ánh nhìn như luồng điện cực mạnh thu hút cả linh hồn người đối diện. Thầy đang ngồi trên ghế bành nhìn ra cửa . Hữu ăn mặc quần áo thường phục sạch sẽ, khẽ bước vào phòng khách,kính cẩn:
- Con chào thầy ạ!Rồi trịnh trọng quỳ xuống trước mặt thầy vái một vái dài và nói : - Con là Nguyễn Văn Hữu năm nay 33 tuổi ,quê quán ở ngoài bắc di cư vào đây, hiện là đại úy đồn trưởng đồn cảnh sát, đến xin học tử vi ,tướng số. Kính mong sư phụ chấp nhận! -Anh nâng gói phong bì đưa lên cao:
- Con xin có chút lễ mọn gọi là lòng thành ra mắt thầy! - Quỷ Cốc tiên sinh thấy một chàng thanh niên to cao đẹp trai, mắt sáng ,quắc thước ,ăn nói mạch lạc,tiếng sang sảng ,thì đã có chút hài lòng, liền khẽ cúi đầu đáp lễ, rồi chỉ tay ra hiệu đưa gói lên bàn và mời ngồi.:
-Anh đã học chữ Nho được bao nhiêu năm?.
- Dạ con đã học được mưới năm từ năm lên 10 đến năm 20 tuổi ở trường làng.
- Đã đọc được những sách gì về tử vi và tướng số rồi?
-Dạ ,con đã đọc : Tử vi thuật pháp,Tử vi tướng pháp trọn đời, Đàm thiên,thuyết địa, luận nhân ( đời Đường). Cẩm nang xem tướng, và một số sách tướng số,đoán vận mệnh con người… Anh kể một loạt sách chữ nho anh đã đọc. Thày còn hỏi một số nữa, để thẩm tra kiến thức, anh đều trả lời trôi chảy, cái gì biết thì nói ,cái gì chưa biết thi thôi. Sau khi kiểm tra học thức và nhìn tướng mạo của Hữu thầy nói;
- Trông tướng mạo của anh, anh cũng có tướng làm quan to đấy.Về hiểu biết tuy chưa nhiều,cái đó không lo , sẽ học thêm..Nhưng qua giao tiếp anh tỏ ra là người có ý chí.Thầy sẽ nhận dạy anh với các điều kiện sau đây: Một ,thày không lấy tiền công của anh. Hai, mỗi tuần học một buổi cả ngày từ sáng đến tối.Ba, không được ghi chép ,mà phải nhớ thuộc lòng.Bốn, chỉ cần mỗi buổi học là mua cho thầy 1kg giò nạc và 3 lít rượu đế. Để thầy ăn uống và giảng bài từ sáng đến tối. Thời gian học kéo dài khoảng mười năm, hoặc khi nào thầy chết thì thôi. Đấy, điều kiện có thế thôi. Anh suy nghĩ kỹ đi ,học được thì học không thì thôi! Nguyễn Văn Hữu không phải suy nghĩ gì cả. Anh liền quỳ xuống và vái dài một lần nữa:
- Con xin nguyện theo học sư phụ suốt đời ! Quỷ Cốc tiên sinh cúi xuống nâng anh dậy và cười ha hả:
- Ta đã biết anh có ý chí đến cùng mà. Phải bền bỉ mới thành công con ạ !
Buổi học đầu tiên từ ngay ngày hôm sau. Suốt từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối, tại nhà Quỷ Cốc tiên sinh. Thầy ngồi xếp bằng tròn trên ghế đệm, vừa nhắm rượu đế với giò nạc vừa giảng bài liên tục.giảng đi lại giảng lại tỉ mỉ rõ ràng cặn kẻ.Thỉnh thoảng dừng lại kiểm tra học trò bao giờ thuộc mới thôi. Buổi trưa cho trò nghỉ đi ăn cơm nửa giờ, còn thầy nghỉ hút thuốc phiện. Cả ngày thầy chỉ uống rượu với giò nạc ,đến tối thi hết cả 3 lít rượu và 1 kg gìò nạc, thầy chẳng ăn uống gì thêm cả. (!) Cứ thể Nguyễn Văn Hữu đã kiên trì học thầy Quỷ Cốc tiên sinh liên tục 8 năm trời vừa học vừa làm đệ tử cho thầy. Đến khi anh được cử sang Mỹ học một lớp Kỹ thuật điệp báo điện tử chiến lược 3 năm, anh mới xin phép thầy tạm dừng. Khi nào học xong trở về lại tiếp tục theo thầy học. Với tư chất sáng dạ và thông minh, trong thời gian học tập ,trình độ về tử vi ,tướng số của anh cũng ngày được nâng cao. Anh lại biết tận dụng thời gian ,phát huy sở trường vừa học vừa làm ngay trong môi trường cảnh sát và cuộc sống xung quanh mình .Bắt trước thầy ,anh không lấy tiền và quà biếu,mà chỉ làm ơn làm phúc cho thiên hạ mà thôi .Anh đã cứu được khá nhiều người tai qua nạn khỏi và ngăn chặn được nhiều vụ việc gây tác hại nghiêm trọng hoặc đổ máu.Cũng loại trừ được một số ác ôn nham hiểm ra khỏi các đơn vị cảnh sát.Đồng thời cũng khuyên bảo, cải tạo một số người hoàn lương ,không sa vào vòng tội ác. Vì thế anh được tín nhiệm trong đơn vị và các bạn bè cảm phục, được một số cấp trên tin tưởng, như ông tướng ở Bộ tổng tham mưu nói trên.Đến nỗi tư lệnh cảnh sát Sài gòn đã sử dụng anh như một cố vấn tâm linh trong mọi tình huống. Ở đâu cảnh sát có phong trào yếu kém do năng lực, hoặc nội bộ bất đồng ,anh lại được điều đến một thời gian làm đồn trưởng, hoặc quận trưởng ít nhất là năm ,sáu tháng hoặc một năm. Để thẩm tra nội bộ,giải quyết mâu thuẫn để đoàn kết ,làm trong sạch nội bộ và nâng cao tính chiến đấu của đơn vị, hoàn thành nhiệm vụ tốt của cảnh sát .Ổn định được địa bàn, cấp trên tin tưởng ,nhân dân cảm mến, ít kêu ca phàn nàn hoặc kiện cáo đấu tranh. Trong vòng 8 năm theo học thầy tử vi và thực hành tướng số, anh đã được điều đi hầu hết các tỉnh miền Nam và các quận của Sài gòn. Khi thì trực tiếp làm đồn trưởng hoặc quận trưởng cảnh sát,khi thì làm thanh tra ,kiểm tra các vụ việc đặc biệt. Góp phần làm trong sạch nội bộ và tăng sức mạnh của ngành cảnh sát miền Nam.
Phòngđiệpbáo
Được một số tướng lĩnh cảm tình và tín nhiệm đã kéo anh về Bộ tổng tham mưu ở một bộ phận của cơ quan nghiên cứu tình báo chiến lược. Thực chất bộ phận này là để thẩm tra con người theo phương pháp tử vi tướng số,dưới sự chỉ đạo bí mật của một hai người có uy quyền nhất ở Bộ tổng tham mưu. Một hôm Nguyễn Văn Hữu gặp Nguyễn Văn Thiệu khi đó còn là thiếu tướng tư lệnh Quân đoàn ba,kém Hữu một tuổi. Anh liền rỉ tai mách nhỏ cho Thiệu:
-Tôi xem tướng số của anh còn lên cao tột đỉnh, anh nên xây một ngôi đình ở làng ,để cầu thần thánh âm phù dương trợ nhiều thì sẽ thành đạt ! -Thiệu là tay rất mê tín vào tâm linh tướng số ,lại cũng đã nghe Hữu đang là thầy tử vi được mọi người tin phục. Nên nghe theo Hữu, về quê ở vùng Ninh Chữ ,Phan Rang ,cúng tiến tiền để dân làng xây dựng lại đình đang bị đổ nát. Công việc hoàn thành,Thiệu lên cấp lên chức vùn vụt nay đã là Tổng thống. Nhớ lại chuyện Hữu mách nước xây đình mấy năm trước. Nay lại thấy Hữu đang là đồ đệ của Quỷ Cốc tiên sinh, một thầy tử vi tướng số nổi tiếng nhất Sài Gòn mà Thiệu đang nhờ vả,nên càng cảm phục. Bèn tìm cách đưa Hữu vào dinh Tổng thống lâu dài, nên đã đạo diễn cho Bộ tổng tham mưu cho Hữu sang Mỹ học lớp điệp báo điện tử chiến lược .Sang Mỹ ,Hữu cùng một số sinh viên Việt Nam được vào học trong một trường đại học quân sự .Sau ba năm Hữu tốt nghiệp loại ưu,đứng đầu số sinh viên Việt Nam.Về nước được phong cấp từ trung tá lên đại tá và bổ nhiệm là trưởng phòng 2, phòng tình báo điện tử chiến lược do đại tá Trương văn Huy làm trưởng phòng 1. Toàn bộ việc quản lý vận hành máy móc tối tân đưa từ Mỹ về đều do Hữu phụ trách điều khiển. Nhưng thực chất Hữu còn làm cố vấn tâm linh cho Thiệu và đệ tử của Quỷ Cốc tiên sinh. Mỗi khi có việc khẩn, không mời tiên sinh vào được thì Thiệu hỏi ý kiến của Hữu ,hoặc là sai Hữu ra hỏi ý kiến của tiên sinh rồi về báo lại cho Thiệu. Những việc liên quan đến đại sự thì Hữu mới ra hỏi ý kiến tiên sinh,còn những việc thông thường thì tiên sinh dặn rằng:
- Con cứ nói theo ý kiến của con,nếu tổng thống có hỏi lại thì con trả lời là ta nói như vậy.Vì thầy tin con, có thể thay thầy được những việc đơn giản ,thông thường rồi mà!.Cứ thế Hữu vừa làm nhiệm vụ tình báo điện tử chiến lược, lại vừa làm thày tử vi tướng số. Cả hai việc đều có thể hỗ trợ cho nhau giúp Hữu hoàn thành cả hai nhiệm vụ đều tốt. Dàn máy tình báo điện tử chiến lược của Hữu có thể cung cấp những chiến sự diễn ra trên cả miền Bắc và miền Nam Việt Nam,từ Hà Nội đến Sài Gòn từng giờ từng phút ,giúp cho phán đoán bấm độn tướng số của Hữu được chính xác hơn và ngược lại khi bấm độn tướng số thấy có hiện tượng còn nghi vấn ,thì Hữu cho mở máy và sử dụng hệ thống tình báo đắc lực để kiểm tra ngay. Vì thế tin tức tình báo và tướng số của Hữu đều được khá chính xác.Hữu ngày càng được tín nhiệm với tổng thống Thiệu và các tướng lĩnh xung quanh.Luôn được biểu dương khen thưởng Cũng có lần Hữu ngăn tổng thống không đi một chuyến du hí ra ngoại thành:
- Xin tổng thống đừng đi vội!-Nhưng tổng thống không nghe vì đang nóng lòng đến dạ hội ,có người đẹp đang chờ,nên nói theo kiểu thân mật
:-Ủa,đi ăn tiệc mà đến muộn thì còn ra sao nữa.Tao cứ đi ,nếu không có vấn đề gì thì mi hãy liệu hồn, chết với tao!-Nói rồi Thiệu nhảy lên xe ra sân bay. Hữu không kịp ngăn lại nữa.Ra sân bay,Thiệu vội vàng bước lên máy bay trực thăng dục phi công bay luôn.Đi được khoảng ba phút,thì còi báo động trên máy bay, báo có trục trặc kỹ thuật.Thiệu tái mét mặt, lệnh cho quay lại sân bay ngay. Rồi trở về dinh tổng thống ,hủy bỏ buổi dạ hội đáng tiếc.Hữu gọi điện thoại:
- Chúc mừng tổng thống an toàn!-Thiệu trả lời cộc lốc:
- Cảm ơn!- Trong thời gian sang Mỹ học tập kỹ thuật ,Hữu còn tranh thủ thời gian tìm hiểu , gặp gỡ và làm quen ,học tập thêm với các thầy tử vi ,tướng số ở bên Mỹ.Gồm cả các thầy người Việt ,người Tàu ,người Ấn Độ và người Mỹ nữa.Anh cũng học hỏi thêm được nhiều kiến thức và kinh nghiệm về nghề nghiệp này,trong một nước công nghiệp hiện đại,càng phát triển cả tử vi ,tướng số (!)
Trở về nguồn cội
Năm 1975,chiến sự sảy ra ác liệt.Phòng điệp báo chiến lược của Hữu làm việc hết công xuất 24/24 giờ liên tục ,làm Hữu mệt bở hơi tai, mất ăn mất ngủ,không được nghỉ ngơi.Nhưng nghiệp tử vi tướng số của Hữu và thầy Quỷ Cốc tiên sinh cũng không được yên tĩnh,bởi tổng thống cũng như nhiều tướng lĩnh và các quan chức cao cấp trong chính quyền luôn luôn tìm gặp hoặc gọi điện hỏi liên tục, về vận mệnh của đất nước và sự sống còn của từng người.Hữu rất bận công việc điệp báo,ít thời gian dành cho tướng số,nên cứ phải hoãn binh,hoăc trả lời theo kiểu động viên an ủi,cứ bình tĩnh tin vào số phận và làm hết sức mình.Cầu chúa ban phước lành mà thôi! .Khi Sài Gòn sắp thất thủ.Thiệu bảo Hữu chuẩn bị tinh thần sẵn sàng ra đi cùng đoàn của Thiệu sang Mỹ, để thua keo này bày keo khác. Nhưng cuối cùng Thiệu đã cùng vợ là Mai Anh và một nhóm người thân cận đã bí mật lên máy bay C.118 của Mỹ từ Thái Lan sang Tân Sơn Nhất, đưa Thiệu đi Đài Bắc cư trú vào tối 25-4-1975. Hữu bị bỏ rơi một cách không thương tiếc.
Anh vẫn cố thủ ở phòng tình báo chiến lược với các đồng đội cho đến khi Sài Gòn thất thủ. Trong lúc nhốn nháo,quân hồi vô phèng. Hữu cũng chạy theo một đoàn sỹ quan cao cấp của bộ tổng tham mưu , chen chúc nhảy lên tàu thủy ra biển đi di tản.Nhưng đến lúc tàu sắp chạy thì Hữu mới chợt nhận ra là mình chỉ có một thân một mình với hai bàn tay trắng ,chẳng còn gì nữa cả. Bỏ cả hai bà vợ và sáu đứa con ở cả hai miền Nam Bắc,sẽ sống chết ra sao đây ? Thế là Hữu lại chen chúc mọi người để lên bờ.Mấy thằng bạn xung quanh đều hỏi:
- Hữu ,đi thôi ,lên bờ làm gì nữa ,tàu sắp chạy rồi! Hữu trả lời:
- Không ,tao ở lại ! Nhiều người cùng can ngăn :
- Ở lại thì chết là cái chắc ! Nhưng Hữu vẫn cố len lên:
- Chết tao cũng ở lại,không thể bỏ vợ bỏ con mà ra đi với hai bàn tay trắng được! Hữu dơ hai bàn tay không xua xua lên trời,tỏ vẻ mất hết.
- Thôi ,kệ nó ,cho nó chết! Khi bước lên bờ rồi ,Hữu còn quay lại đám đông nói to:
-Có chết ,tao cũng chết ở nước mình, chứ không chết trôi trên biển hay ở nước ngoài! - Rời bến cảng,anh vội vàng nhảy lên một chiếc xe ôm ,bảo lái xe phóng ngay về nhà.Đến nhà thấy bốn mẹ con cô Ngần đang ôm nhau khóc vì không biết bố đi đâu. Thấy anh về cả nhà mừng vui ríu rít.Anh bảo vợ con cùng dọn dẹp thu xếp,cất dọn đồ đạc trong nhà vào buồng ,khóa lại hoặc đậy điệm cho kín đáo , đóng cổng lại rồi canh chừng, đề phông quân đội cả hai bên , hoặc trộm cắp đến cướp bóc phá rối.Anh sẵn sàng ngồi ở nhà chờ đối phương đến bắt,mà không trốn chạy đi đâu hết.Bởi anh vẫn tin vào lá số tử vi của anh chưa đến hồi kết thúc.Anh cũng tin rằng , anh không làm điều gì tàn ác hoặc nợ máu đế đến nỗi phải chịu báo ứng .Anh cũng động viên vợ con bình tĩnh trước thời cuộc.
Ngày hôm sau thì đại tá Trương Văn Huy trưởng phòng1,phòng điệp báo điện tử chiến lược cùng với Hữu,ăn mặc quân phục đại tá Bắc Việt đủ quân hàm quân hiệu,lái xe đến nhà Hữu,làm mọi người ngạc nhiên.Hữu không ngờ Huy lại là điệp viên Việt cộng nằm vùng sát anh mấy năm nay.Nhưng Hữu thấy không có điều gì đáng ân hận vởi trưởng phòng Huy cả.Anh vui vẻ phấn khởi vì những nghi ngờ phán đoán về Huy nay mới bộc lộ,đúng như một lá số của Huy mà Huy đã nhờ anh bốc cho.Thật là hú vía ,và cũng thật là mừng .Huy bảo Hữu:
-Nè,tao tưởng mày đi cùng cả lũ rồi ,nhưng thấy mày quay lại tao rất vui.Bảo mấy đứa trẻ vần một tạ gạo mà một tạ xăng trên xe xuống mà sài, tao mang cho các con mày một ít đã,rồi liệu sau,trong lúc náo loạn này,khó khăn lắm đấy.
Hữu vồ lấy hai tay Huy mà lắc lắc:
- Cảm ơn anh ,cảm ơn anh! Anh đúng là cứu tinh của gia đình tôi rồi !
Các con Hữu vần xong gạo và xăng,Huy lại vội vã đi ngay. Sáng sớm hôm sau Huy lại đến sớm,bấm chuông, gọi ngoài cửa:
- Chị Ngần ơi! Chị Ngần ơi!- Nghe tiếng đại tá Huy, Ngần vội vàng dậy mở cửa,Hữu còn đang ngủ.Khi Ngần mở cửa xong Ngần hỏi :
- Có việc gì cần mà anh đến sớm thế ,mời anh vào trong nhà đã. Huy nói vội vàng:
- Có việc,tôi xin mượn chị anh ấy đi với tôi hai tiếng đông hồ thôi ,tôi sẽ đem trả lại ngay,không có gì nguy hiểm đâu !- Lúc này Hữu nghe thấy tiếng Huy đã vội dậy ngay:
- Anh chờ tôi mặc quần áo một chút.- Huy nhắc :
-Nhớ mang theo chìa khóa phòng điệp báo- Vâng ,có ngay đây! Chờ cho Hữu lên xe xong ,Huy nổ máy đi ngay,trước sự lo lắng của Ngần. Trên đường đi Huy nói với Hữu:
- Ta đến bàn giao cho Cách mạng toàn bộ máy móc của phòng điệp báo để sử dụng sau này.Anh vẫn giữ toàn bộ chìa khóa cả đấy chứ?
-Vâng ,anh đã giao cho tôi,thì làm sao tôi lại giao cho người khác được!
- Thế là tốt!- Hai người đi vào tòa nhà Bộ tổng tham mưu ,có lính Bắc Việt gác , thấy đại tá Huy,họ dơ tay chào nghiêm túc.Huy dơ thẻ ra vào cho người gác xem,rồi chỉ Hữu :
-Đây là nhân viên kỹ thuật đi cùng tôi!-Người gác né tránh cho hai người vào.Sau hơn một giờ dồng hồ Hữu đã kiểm kê bàn giao đủ 40 máy điệp báo hiện đại nhất của Mỹ cho cơ quan điệp báo của Bắc Việt,còn nguyên vẹn không hư hỏng một chút nào.Ngay sau đó Huy lái xe đưa Hữu về tận nhà trao trả cho chị Ngần và nói vui:
- Nè,chị Ngần,mượn đúng hai giờ nhé,không sai một phút nào ,cũng không mất một sợi tóc nào đâu nhé!
*
Hôm sau nữa thì ủy ban quân quản cho xe phóng thanh đi kêu gọi sỹ quan, binh sỹ và viên chức chính quyền cộng hòa ra đầu thú và khai báo sẽ được lượng khoan hồng.Anh ôm hôn và động viên vợ con cố gắng sống chờ ngày anh về,rồi đi đến trụ sở quận trình diện.Người ta không bắt bớ đánh đập ai cả,mà sau khi khai báo,các sỹ quan cao cấp đều được cho về nhà thu xếp việc gia đình,hẹn ngày đến tập trung đi trại cải tạo để học tập ở một nơi xa thành phố. Sau khi vào trại hai tháng thì được tin bà Ngần ở nhà bị cảm đột ngột chết.Trại trưởng cho xe đưa Hữu về làm ma cho vợ,và thu xếp việc ăn ở cho các con xong ,lại vào trại cải tạo đúng thời gian quy định.
Một hôm ,người liên lạc trại cải tạo đưa xuống cho Nguyễn Văn Hữu một tờ giấy hẹn,sau một giờ có mặt ở phòng lãnh đạo.Đúng một giờ sau Hữu có mặt,thì nghe một tiếng nói quen quen:
- Anh Hữu ,có nhận ra tôi không?- Hữu ngẩng lên , nhìn một lát rồi bỗng kêu lên:
- Tình! Có phải anh Tình không? -Người kia liền chạy lại cầm lấy hai tay Hữu:
-Đúng ,Tình ở lớp học chữ Nho thầy Vạn làng Lễ đây,chà ,xa nhau mấy chục năm rồi nhỉ.
- Trên ba mươi năm ,không ngờ chúng ta lại còn sống và gặp nhau ở đây nhỉ.Rồi Tình quay lại giới thiệu với người ngồi ở bàn bên cạnh:
- Báo cáo trại trưởng,anh Hữu đây là đồng hương của tôi,anh ở làng trên ,tôi ở làng dưới,cùng học chữ Nho với nhau gần mười năm trời,rồi mỗi người mỗi ngả,theo số mệnh khác nhau nay mới gặp lại nhau . Trại trưởng cũng vui vẻ nói :
- Chúc mừng các bạn!Đất nước loạn ly,mỗi người bị trôi theo một dòng thác ,may là còn giữ được cái đầu,nay được gặp lại nhau là quý lắm rồi.Anh Hữu cố gắng học tập ,lao động cải tạo cho tốt thì sẽ chóng được về với gia đình yên ổn làm ăn Có khó khăn gì ,nói với anh Tình ,cán bộ quản giáo của trại giúp đỡ ,chúng tôi sẽ chiếu cố.
- Vâng ạ! Tôi xin cố gắng -Hữu trả lời- mong các cán bộ nhiệt tình giúp đỡ ạ !- Thế là từ đó ở trại, Hữu cũng được quý nhân phù trợ .Ví như Hữu là tay nghiện thuốc lá,thường được Tình thỉnh thoảng đi đâu về lại đem cho một vài tút ,hoặc một vài bao… Đi lao động ,Tình thường phân cho Hữu việc nhẹ nhàng hơn.Rồi giao cho Hữu phụ trách một trại nuôi lợn,không phải trực tiếp làm mà chỉ cai quản điều khiển hơn chục trại viên nữ lao động hàng ngày… Một hôm trại lợn hết rau nuôi lợn,Hữu bảo mấy bà lao động ra ruộng rau muống của trại bên cạnh mà cắt một ít,ruộng rau rất tốt.Đang cắt thì bị quản giáo bắt được la lên là có người ăn cắp rau,định bắt lại.Giữa lúc đó nhìn trên mặt của người quản giáo xuất hiện điềm xấu,Hữu liền bảo quản giáo:
- Cán bộ ơi,cán bộ nên về nhà đi,bố cán bộ sắp chết rồi đấy !
- Sao anh biết ?
- Tôi học tử vi tướng số ,thấy trên mặt cán bộ có điềm xấu tôi mới mách,tin hay không tin ,cán bộ cứ về nhà đi sẽ biết! - Người quản giáo đó giật mình thấy tim mình rạo rực ,có lính tính không hay ,liền nói :
-Thôi được ,tôi tạm tha việc ăn cắp rau cho anh,tôi về xem sao đã, rồi trị anh sau. Nói rồi người quản giáo đó lên xin phép trại trưởng cho về nhà,quả nhiên bố đang hấp hối.Sau đó anh ta phải ở nhà làm tang cho bố 15 ngày.Rồi đưa quà lên cho ông Hữu 15 tút thuốc lá ,và cấm không cho ông Hữu đoán tướng số với người khác nữa. Nhưng ,đã vào nghề tử vi tướng số,mà thấy người xung quanh găp tai họa mà không cứu giúp, thi lòng mình cũng không yên,nên chỉ khi nào thấy những ca nguy hiểm,ông mới rỉ tai mách khẽ cho người ấy biết mà xử trí ,đề phòng, ông mới yên lòng .Nên ở trong trại tù ông cũng vẫn được nhiều người cảm mến,ngay cả đối với các cán bộ quản giáo.
Sau 8 năm ở trại tù binh còn gọi là trại cải tạo,Nguyễn Văn Hữu được phóng thích trở về nhà ở Sài Gòn với các con.Ra tù được một tháng thì ông Hữu bấm độn thấy có điều dữ ở quê, các con đều bận rộn học hành, làm ăn.Mặc dầu đang yếu ,một mình ông vẫn lên tàu về ngoài Bắc.Đến Hà Nội chuyển tàu về ga Phú Thái.Xuống ga mệt quá ông không về làng Lễ được, dù chỉ còn cách hơn hai cây số.Ông phải ngồi lại và nhắn người bảo chú Thuận và chú Bạn ra đón. Ông Thuận và ông Bạn ra đón anh trai về và hỏi :
- Anh còn đang yếu,mà vội về làm gì,thư thả cho khỏe rồi hãy về sao? Hữu vội trả lời :
- Tôi bấm độn ,thấy bà ấy sắp chết,nên mới phải về ngay.Tình nghĩa vợ chồng tôi đã bỏ rơi mẹ con bà ấy mấy chục năm rồi .Nay biết mà không về thì có chết tôi cũng không nhắm mắt được.- Ông bà và mấy bố con gặp nhau mừng mừng tủi tủi .Sau bảy ngày thì bà cả qua đời.Ông Hữu ở nhà làm tang lễ cho bà cả cũng chu đáo như với bà hai ở Sài Gòn. Lòng ông được thanh thản. Gia đình làng xóm đều cảm phục cái tình cái nghĩa của ông,biết trở về cội nguồn,dù đã muộn.
Cuộc hội kiến sau bốn mươi năm.
Sau đám tang bà cả, thư thả,ba anh em mới có điều kiện ngồi lại với nhau trước bàn thờ cha mẹ và tổ tiên,vẫn đặt ở nhà ông Thuận,em trai thứ ba. Ông Hữu trịnh trọng thắp ba nén hương lên bàn thờ vái tổ tiên,rồi ngồi xuống nói trước:
-Tôi cảm ơn chú Thuận đã trông nom giúp đỡ bà cả nhà tôi và các cháu ở nhà, trong mấy chục năm qua .Chú lại chi viện giúp tôi và các cháu vượt qua khó khăn sau chiến tranh ở Sài Gòn.Ngay cả việc về quê và lo tang lễ cho bà cả ,nếu không có chú thím và gia đình họ hàng giúp đỡ ,thì tôi cũng chẳng biết xoay sở như thế nào?- Ông Nam Sao cũng nói tiếp theo:
- Cả tôi cũng vậy , cảm ơn chú ba,nếu không được chú ba giúp đỡ bà ấy và các cháu ở nhà, có công ăn việc làm, và chi viện những lúc khó khăn thiếu thốn.Chú lại cất công đi tìm tôi về xây dựng củng cố lại gia đình,hướng dẫn và chỉ bảo tôi và các cháu biết cách làm ăn.Thì trong hơn mười năm qua, tôi đi lang thang kiếm sống,phó mặc gia đình cho mẹ con bà ấy.Nếu không có chú thím thì không biết mẹ con bà ấy sẽ ra sao? Có được như ngày nay không ?- Ông Thuận vội vàng gạt đi :
-Thôi thôi ,hai bác không phải nói đến những điều ơn huệ . Thời đại tao loạn,đất nước chiến tranh,hai bác đã ra đi chiến đấu ,dù ở bên này hay bên kia cũng đều vì tổ quốc , vì dân tộc, theo quan điểm của mỗi bên,nên phải gian khổ hy sinh.Em may mắn bị kẹt giữa hai làn gió ,nên bị ở nhà và được ở nhà,thì phải thay các anh trông nom bố mẹ và gia đình,đó là trách nhiệm của người ở lại.Nay đất nước được thống nhất ,hòa bình được trở lại.Ơn trời phật và tổ tiên ông bà, các anh đã được bình yên trở về,anh em ta lại được xum họp,sau bốn mươi năm chiến tranh và xa cách.Thế là hạnh phúc lắm rồi.còn hơn bao nhiêu gia đình khác phải mất mát hy sinh. Em chỉ mong rằng đất nước được bình yên rồi,thì gia đình chúng ta,đoàn kết hỗ trợ nhau cùng phát triển kỉnh tế,làm cho mỗi gia đình đều giầu có hơn ,góp phần đưa đất nước mạnh giầu, Xánh vai cùng năm châu bốn biển, Trên thế giới nàykhông bao giờ còn chiến tranh
.-Đó cũng là khát vọng hòa bình!- Ông Hữu thêm:- Khát vọng hòa bình chưa đủ!- Ông Nam Sao cũng tiếp:
- Mà phải là bình yên nữa mới phát triển được !
- Nhất trí… ! Khát vọng bình yên! Cả ba anh em cùng nói ,rồi nâng cốc và cười khà khà… vang cả nhà.
*
Ông Hữu đến nộp giấy tờ phóng thích cho ủy ban xã,và xin phép ở nhà một năm với ba cháu gái và các cháu ngoại.Ông đi thăm,các cụ già và bạn bè khắp làng xã.Dùng sở trường tử vi của mình giúp đỡ những người có điềm không may,nên được nhiều người mến phuc.Không ai mặc cảm với ông nữa,trước thái độ niềm nở và khiêm tốn của ông,các ông già bà cả trong làng vẫn coi ông như bố cái hĩm như bốn mươi năm về trước. Ông Hữu mới ở quê được bốn tháng,thì người con trai lớn ở Sài Gòn điện ông phải về Sài Gòn ngay: Chính quyền ta đồng ý cho ông sang Mỹ theo diện HO do bên Mỹ báo sang. Riêng ông còn ngần ngại,nhưng mọi người đều khuyên ông nên đi ,vì đây là thời cơ cho hai con trai sang Mỹ học tập để về xây dựng kinh tế sau này. Thế là ông cùng hai con Nguyễn thành Lễ và Nguyễn Thành Độ bay sang Mỹ.Sau khi ổn định ăn ở,ông thu xếp cho hai con trai vào các trường đại học. Còn ông sống một mình trong căn hộ chính phủ Mỹ phân cho .Với tiền trợ cấp 1.200 đô.Trừ tiền nhà và điện nước,mỗi tháng ông còn đươc 400đô đủ tiêu dùng. Ở đó những người Việt của chính quyền Sài Gòn cũ lưu vong, còn vận động ông đi học chính trị ,mỗi buổi được trợ cấp 500 đô.Ông buộc lòng phải đi một thời gian rồi lấy cớ cáo ốm để bỏ,bởi ông chẳng thích thú gì những trò hề đánh thuê rỗi hơi ấy nữa,chỉ tổ làm rối loạn thêm tình hình trong cộng đồng người Việt ở Mỹ và ở trong nước nhà mà thôi.Khi ông sang Mỹ , nhiều người Mỹ tìm đến thăm ông.Đó là những bạn bè trong chiến tranh , những bạn học ở trường đại học và các thày tử vi tướng số.Ông lại tiếp tục nghiên cứu tử vi và giúp đỡ những người gặp hoạn nạn,làm nguồn vui,làm phúc, làm đức không lấy tiền công của ai .Ông tránh xa không sa đà vào những việc chính trị lỗi thời để kiếm ăn như một số người lưu vong vô công rồi nghề khác.
*
Sau bốn năm học xong đại học và nghiên cứu, tìm hướng phát triển làm ăn .Nguyễn Thành Lễ xin bố về nước làm việc. Với tấm bằng ưu từ Mỹ về,anh được nhà nước chấp nhận tuyển vào làm trưởng phòng kỹ thuật của nhà máy que hàn lớn nhất Sài Gòn Tại đây anh rất phấn khởi và đã phát huy hết tài năng sáng tạo của mình.Sản phẩm của nhà máy anh, luôn được nâng cao chất lượng và có uy tín nhất trong nước . Nhưng rồi một xự cố sảy ra.Ông Giám đốc cũ đã đến tuổi về hưu,người ta đưa một ông giám đốc mới của một nhà máy que hàn khác về thay.Ông này lớn tuổi, vốn là một cựu chiến binh quân giải phóng, được đào tạo trong nước với bằng hàm thụ,thích công thần và hống hách,lại hay bảo thủ Một hôm va chạm về kỹ thuật,ông giám đốc bắt Lễ phải làm theo ý ông,Lễ không làm vì không đúng kỹ thuật.Một cuộc tranh cãi kỹ thuật to tiếng sảy ra,ông giám đốc thấy đuối lý ,nhưng không chịu phục thiện ,lại dùng uy quyền quát mắng Lễ, động đến cả tư cách chính trị của bố anh ,trước đây là quân ngụy phản động.Lễ cãi lại,bị ông ta tát cho một cái vào mặt khá đauvà mắng :-Đồ vô lễ!.Bị xúc phạm nhân phẩm,tuổi trẻ bồng bột của Lễ cũng bùng lên.Anh không kìm được nữa ,cũng dơ tay tát lại ông giám đốc nọ một cái tát nảy lửa,làm ông ta hộc máu mồm.Thế là ông ta la làng lên,kêu bảo vệ bắt Lễ.Sự việc đó ẫm ĩ cả nhà máy,rồi kiện cáo lên đến thành phố,lên đến tận Hà nội.Một đoàn kiểm tra của Bộ công nghiệp cấp tốc xuống.Trắng đen được rỏ ràng ,chân lý được phanh phui. Ông giám đốc nọ bị kỷ luật cảnh cáo và cho nghỉ hưu non.Nguyễn Thành Lễ cũng bị phê bình để rút kinh nghiệm,và được đề bạt lên làm giám đốc nhà máy ngay tức thời,mặc dầu anh chưa phải là đảng viên (!).Nhà máy que hàn Sài Gòn dưới sự chỉ huycủa giám đốc Nguyễn Thành Lễ ngày càng làm ăn phát triển ,gấp nhiều lần các đời giám đốc trước,đời sống cán bộ công nhân được cải thiện, doanh thu,nộp thuế đều tăng gấp đôi ,gấp ba trước đây.
Còn Nguyễn thành Độ là con trai thứ hai của ông Hữu thì ở lại Mỹ mở công ty: Thành Đạt,kinh doanh máy móc trang thiết bị cơ khí xây dựng .Xuất khẩu cả về Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Con gái ông Hữu ở Sài Gòn cũng là nhà doanh nghiệp vào hàng tỷ phú. Các con gái ở quê đã nhiều tuổi,sau hòa bình cũng đều phát triển,con cháu của họ đều no đủ và khá giả cả. Sau 8 năm ở bên Mỹ lo liệu cho các con trong nước và ngoài nước ăn học và làm ăn phát triển xong.Ông Hữu đã ngoài 80 tuổi, liền rời bỏ nước Mỹ trở về quê hương, sống với người con trai cả ở Sài Gòn bỏ lại tất cả nhà cửa và các chế độ của chính phủ Hoa kỳ ưu đãi cho những người cộng tác với Mỹ trong chiến tranh,mà không bàn giao lại hoặc ủy quyền cho ai cả .Có người bảo:
- Sao ông dại thế,ở bên đó ông vẫn được hưởng lương đầy đủ cho đến chết cơ mà.
Ông chỉ cười mà nói :
- Nhưng bên đó không phải là nhà của tôi,cũng không phải là quê tôi. Có chết cũng phải về quê mình mà chết, còn có con, có cháu và mồ mả ông bà tổ tiên!
Lần 1 : 31/12/2014 - 23,15/26/8/2015
Sửa bố cục: 6/9/2015
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.02.2016 05:16:58 bởi Ct.Ly >