Chương tám Bầu nhiệt huyết Ba tôi cất cái mái tranh này đã được ba hôm, với sự trợ giúp vật liệu cùng công sức của mấy bác và ông tôi. Ông dượng thì cho tiền mua tre, tranh, phên, các thứ cần thiết khác và xin phép sơ qua làng xóm. Mấy bác cùng ba tôi hì hục khiêng tre gánh lá đến một nơi mà ba tôi đã chọn. Chỗ đó khoảng khoát và bằng phẳng nằm bên cạnh đường rầy xe lửa đã bỏ hoang từ lâu, cách xa ga Hà Lam chừng ba bốn trăm thước. Đất rộng ra một khoảnh nhỏ vừa cất đủ một mái nhà tranh chừng 4m x 10m. Cất xong vừa đúng ba ngày. Hôm sau cả nhà bèn dọn lên trên đó. Nói dọn cho oai chớ vài ba cái chõng tre, một rương đồ đạc áo quần, cái giường mây đặc biệt của mẹ tôi cùng nồi niêu chén bát. Gia tài chỉ có vậy. Ăn ở ngủ ngáy buôn bán cùng một chỗ. Mái tranh nhỏ hẹp nhưng cũng đủ ấm cho cả gia đình tôi, tản cư mà! gói ghém chật chội thế nào cũng xong. Nỗi vui mừng hơn hết là mẹ tôi nay đã đi lại được, tuy không đi được xa nhưng ra vào trong nhà là tốt lằm rồi. Nỗi vui thứ hai là tránh được cái “mẹt” của mụ Tấn cho thuê nhà, hết nghe tiếng chửi đổng mỗi ngày: “Cái nậu tản cư!”
Vài hôm sau yên vị đâu đó, ba tôi dắt tôi ra chợ Hà Lam mua chén dĩa, nồi niêu soong chảo cùng thịt thà rau quả về để cho má tôi mở cửa hàng. Lúc đó bạn hàng buôn bán vô ra tuyến Đà nẵng-Tam Kỳ đều phải dùng đường bộ. Quốc lộ 1 thì Tây đóng chốt, và tối thì Việt minh công đồn, nên bạn hàng không ai dám đi. Chỉ còn có một con đường duy nhất là men theo đường rầy gánh hàng đi mà không bị Tây ruồng bắt. Họ vô ra nườm nượp, kẻ buôn thuốc Tây lậu ngoài thành mang vô Tam Kỳ bán cho con buôn lẻ rồi mua thổ sản đem ra Đà nẵng. Họ mua bán đủ thứ, cái gì người tiêu dùng cần thiết mà có thể gánh đi được là họ bán tuốt luốt. Vì thế nên ngay hôm đầu quán tôi khai trương bạn buôn hàng chạy (tiếng mẹ tôi quen dùng) dừng lại ngồi đen nghẹt hết chỗ, ba tôi phải kiếm thêm ghế để ra đằng trước sân. Cũng nhờ mẹ tôi khéo xoay xở, bà nấu chè nấu cháo, mì, bún v.v…bán cho khách buôn qua đường ghé chân lại trong ngày. Một hôm ba tôi ra chợ Hà Lam mua ít thực phẩm thì gặp lại một người chị bà con xa của tôi đang đi lang thang trong chợ. Chị gặp ba tôi mừng rỡ rối rít. Sau mấy phút hỏi han về gia cảnh, chị nắm tay ba tôi khóc ròng và cho biết rằng ba chị đi theo kháng chiến cả năm nay, mẹ bỏ đi lấy chồng, chị đi ở đợ cho gia đình người lối xóm. Họ đánh chửi dữ quá nên cuối cùng chị phải bỏ đi. Chị lưu lạc đến chợ này đã hai ngày, ban ngày phụ giúp với bạn hàng bán trong chợ, bữa đói bữa no, tối ngủ lại trên sạp chợ. Quần áo thì chỉ có một bộ mặt trong mình, một bộ đem theo với mấy đồ dùng lặt vặt bị quân gian lấy trộm mất tối qua. Tên chị là Bẻo, chị năm nay khoảng 18, 19 tuổi gì đó nhưng nom chị như đứa con nít 15 vì ốm o thiếu ăn mặt xanh lè xanh lét. Người chị lại cao lêu nghêu, khi ngồi xổm hai đầu gối của chị cao hơn cái đầu. Ba tôi thấy hoàn cảnh chị thật đáng thương bèn bảo chị về ở với ba mẹ và giúp đỡ lặt vặt cho mẹ tôi trong lúc nhà đang có cái quán. Chị gật đầu nhận lời ngay. Thế là gia đình chúng tôi được thêm một người giúp việc, trong lúc ba tôi đang lo lắng vì không có ai phụ giúp mẹ tôi trong công việc chạy bàn, rửa chén bát v.v...
Hai đứa tôi cũng phụ ba mẹ, nhưng chỉ có tôi còn sai vặt được, thằng em tôi còn nhỏ quá nên chẳng giúp được gì, có khi lại làm bận bịu thêm. Khi chị Bẻo về nhà phụ giúp má tôi thì tôi vui lắm, vì được rảnh rang đi câu cá bắn chim và cũng không còn đi hốt rác cho nhà nữa. Mọi việc vặt vãnh đã có chị Bẻo giúp đỡ rồi. Tôi yên chí dắt em đi chơi.! Sau cơn mưa trời lại sáng, anh em chúng tôi đỡ cực và rảnh rỗi hơn trước. Từ ngày mở quán hàng nhà có đồng ra đồng vào chúng tôi cũng không còn ăn cơm ghế sắn (*) khoai như trước. Hai năm vật vã với sắn cùng khoai nên từ đó trở đi cho đến về già hễ tôi thấy khoai với sắn là ngán ngấy đến tận cổ!!
Một chiều nọ có một đoàn văn nghệ thanh niên tiền phong đến làng, dùng đình làng để sửa soạn cho một buổi trình diễn kịch và hát. Một số anh chị em lo dàn dựng sân khấu, số còn lại đi vào làng đến từng nhà mời bà con tối ra xem hát. Tối đó chị Nhàn tất tả qua nhà xin phép ba mẹ cho tôi đi cùng với chị. Đêm hôm đó chị mặc một chiếc áo dài trắng tinh, chân đi đôi guốc mộc sơn láng, trên đầu chị cài lược có điểm mấy bông hoa màu xanh đỏ. Nom chị y hệt như một nữ sinh trường áo trắng. Cái dáng dấp quê mùa của chị biến đi đâu mất! Tôi nhìn chị nhoẻn miệng cười khen chị hôm nay đẹp gái. Chị cười, cũng nụ cười thuần hậu.
Đây là lần đầu tiên tôi đi đêm (nghĩa đen) với một người con gái lớn hơn tôi đến sáu tuổi. Tôi mới 11 còn ngây thơ và chẳng nghĩ ngợi gì, chỉ thấy được đi chơi và xem hát là vui, lại còn hối thúc ba mẹ cho đi với chị kẻo muộn. Tuổi thơ nào có biết e dè gì đâu nhất lại mình là con trai nên chẳng chút ngại ngùng. Tôi cầm tay chị hối đi kẻo trời tối họ hát mất mình đến xem không còn chỗ ngồi. Mà thật, lúc chúng tôi đến thì trong đình làng đã đầy nhóc bà con trong xóm. Chị Nhàn và tôi len lỏi đám đông một chặp cũng tìm được một chỗ đứng không xa lắm với sân khấu, lại có chỗ chị tựa lưng vào cây cột đình. Lúc còn ở Đà Nẵng, chỉ có một lần duy nhất được đi xem hát cùng ba mẹ. Lúc đó có gánh hát cải lương của đoàn hát Nam Phong do nghệ sĩ Năm Châu và cô Phùng Há ở trong Nam ra Trung trình diễn. Năm đó nước mình chưa có chiến tranh, tỉnh thị thanh bình chẳng ai biết đến mùi súng đạn. Và một lần nữa thì được đi xem đoàn xiệc của gánh Tạ duy Hiển mà thôi. Rồi từ đó trở đi, lúc vào Nam theo ba tôi, lúc ra Huế và về lại Đà Nẵng phần vì má tôi đau nặng, phần giặc giã phải lo tản cư nên đâu có thì giờ mà xem hát với xướng!
Khán giả nói chuyện ào ào, chỉ chỏ tứ tung. Có người hút thuốc lá vấn, phà cả khói vào mặt nhau, cũng có người nhai trầu bỏm bẻm. Bên cạnh tôi có hai anh thanh niên mặt mũi nom trắng trẻo, dường như ở thành vào đây tản cư chứ không phải người ở quê vì cung cách ăn nói bặm trợn hơn. Họ đang cãi nhau nho nhỏ nhưng rất dữ dội về Việt Minh và Việt cộng. Một anh cho là Việt Minh đánh Tây dành độc lập. Anh kia cãi lại là Việt Minh Cộng sản chớ không phải là Việt Minh. Anh nọ không nhường:
"Đ..m, mi không biết cái c…gì thì im đi!
Việt Minh là Việt Minh còn Cộng sản là cộng sản chớ Việt Minh Cộng sản là cái thứ chi? "
Anh kia không chịu thua nói tiếp:
“Mi không biết chứ Việt Minh là nói chung chung, chớ còn VMCS là những người ư..ư”
Nói đến đó anh thấy anh bạn kia nháy mắt bảo im, nên anh nọ bèn đánh trống lãng quay sang hỏi bà ngồi bên cạnh:
“Mấy giờ họ mới hát hả chị? "
Bà kia lắc đầu trả lời không biết.
Bỗng ba tiếng “cộc cộc cộc” nổi lên. Giọng nói của một thanh niên vang lên trong hậu trường:
“Kính thưa bà con cô bác, buổi trình diễn bắt đầu.”
Màn kéo ra. Một đoàn thanh niên năm người đứng nghiêm giữa sân khấu, người đứng giữa tay cầm cây cờ nghiêng ra đằng trước. Một tiếng hô lớn:
“Xin bà con đứng dậy chào quốc kỳ”.
Mọi người lục tục đứng lên. Người thanh niên cầm cờ phất thẳng lá cờ dựng đứng. Bài quốc ca trổi lên với tiếng hát rập ràng của đoàn thanh niên tiền phong trong hậu trường vang vang cùng tiếng đệm của mấy cây đàn giây, mandoline và guitar. Sau phần chào cờ đến phần mặc niệm, tiếng đàn réo rắt với bài Chiêu hồn tử sĩ. Màn đóng lại, mọi người ngồi xuống, tiếng nói cười râm ran trở lại cùng vài ba tiếng ghế xê dịch rột roạt. Tôi nhìn chị Nhàn nhoẽn miệng cười. Chị cũng nhìn tôi, tay chị bóp nhẹ vào tay tôi. Đêm hôm đó tôi nhớ rất nhiều anh chị em thanh niên trong đoàn ra trình diễn đơn ca, hợp ca, toàn những bài ca hùng tráng như: Tiến quân ca, Nhớ chiến khu v.v.. Có một chị ăn mặc như người Thượng hay Lào gì đó ra ngâm thơ và hát một bài hát ngắn với mấy câu tiếng Lào (?) mà đến nay sau hơn 60 năm tôi vẫn còn nhớ rõ bản hát ấy. Bài ca như vầy:
“Sam siếc clai… khâm pí qua da nạ, dần pon dà..
Mênh hành ha pằng những tua vải mo..
Pạch pày pù ta po hết rương, phát tán khơ moi phè
Mền thu sắc khổ nua, riềm lòng âu leo sự.
Khai tháng ngoi…”
Trên đây là bản hát mà tôi nhớ âm điệu và chữ thì âm theo (phonetic) tiếng Việt chứ không phải là như vậy. (Nếu ai có biết và nhớ đó là bài hát gì, tiếng nước nào hay dân tộc gì xin cho tôi biết). Tôi chỉ nghe và nhớ như trên và từ đó trở đi có vài lần tôi hát cho một vài người Thượng, Thái hoặc Miên thì họ bảo rằng đó là tiếng Lào, diễn tả một hoàn cảnh gia đình bị chiến tranh cướp mất người thân yêu, khởi đầu bằng mấy chữ dịch ra tiếng Việt là: “Thảm thiết thay!...”
Tiếng hoan hô vang dội cả đình làng, sau khi một nhóm thanh nữ ra trình diễn một màn bi kịch nói về hai thanh niên nam nữ ở thành thị vừa mới lấy nhau được trên một năm. Sau nhiều đắn đo suy nghỉ, anh chồng nhất quyết rủ áo thê nhi đi theo tiếng gọi của non sông, tòng quân đi bộ đội đánh giặc Pháp. Anh đi để lại một mẹ già, người vợ thân yêu và đứa con trai chưa đầy hai tháng. Hai thanh nữ, một đóng vai anh chồng, người kia đóng vai vợ. Được tin chồng công đồn giặc Tây và bị thương gần chết, người vợ nghe hung tin vội chạy xông ra chiến trường ôm lấy chồng. Trên sân khấu sau tiếng bom đạn xé trời anh trúng đạn bị thương nằm ngắc ngoải trên tay người vợ. Anh trối trăn với vợ bằng một bài thơ bi ai, giọng ngâm trong vắt nhưng não nùng ai oán:
“Này em ạ, giờ nay anh đã chết!
Chết vì non sông, nghĩa vụ làm trai.
Danh thơm ấy không bao giờ tiêu diệt
Em vui đi lo lắng việc ngày mai…”
Anh nấc mấy tiếng, máu trong miệng trào ra. Anh tiếp:
“Việc gia đình, anh nhờ em gánh hộ
Dù trăm năm vất vả chớ phiền than!
Con khôn lớn em vui lòng dạy dỗ
Biết yêu người yêu cả non sông!
Nếu nó hỏi người cha yêu đâu tá?
Thì cứ bảo anh bỏ mạng chốn sa tràng
Cho con thấy tấm lòng hỉ xả
Mà noi gương gìn giữ non sông!”
Đến đây tay chân anh run lẩy bẩy, anh thiếp đi một chốc và tỉnh dậy thều thào:
“Thôi từ nay… em âm thầm… chăn gối lẻ
Vĩnh biệt mình... ta vĩnh biệt ngàn thu…”
Ngâm đến đấy anh nấc lên một tiếng rồi ngoẹo đầu vĩnh viễn ra đi. Chỉ còn nghe tiếng chị vợ hét lên.
"Anh…anh ơi !!!"
Xem đến đó thì nước mắt tôi ràn rụa, cảnh vật trên sân khấu nhạt nhòa. Tôi không còn thấy gì nữa, ngay cả khi chiếc màn vải đã đóng lại tự bao giờ. Tôi thẫn thờ như một người vừa thoát khỏi cơn mộng du. Khán giả trong đình làng im phăng phắc, có tiếng khóc nức và tiếng sụt sùi xịt mũi trong hàng ghế trên cùng. Con thạch sùng trên bờ tường chắc lưỡi một tràng. Im lặng rồi đột nhiên có tiếng vỗ tay rộ lên. Hàng trăm người đứng dậy vỗ tay theo ào ào như cơn mưa rào, chen lẫn tiếng la ơi ới của đám nhỏ sau hàng ghế chót!
Tôi đứng lọt trong vòng tay chị Nhàn từ lúc nào không biết. Dựa sát vào người chị, tôi cảm thấy âm ấm sau lưng. Chị ôm tôi vào lòng và cũng sụt sịt như tôi. Tôi ngước lên nhìn chị, bấy giờ tôi mới cảm thấy người tôi tự nhiên nóng ran. Một cảm giác kỳ diệu lạ lùng khó tả. Mặt tôi đỏ gay như người say rượu, tôi lính qua lính quýnh nửa muốn gỡ đôi tay chị ra nửa muốn không! Tôi đứng như trời trồng một lúc lâu, đến khi chị cúi đầu bảo tôi:
“Thôi mình về đi em.”
Tôi tần ngần một lát rồi líu ríu bước theo chị, tay tôi nắm chặt tay chị.
Đêm đó tôi về nhà ngủ mơ, mớ kêu tên chị om sòm đến nỗi ba tôi phải quay qua vỗ vào vai tôi:
"Con, con...đừng có mớ nữa.."
Tôi nghe thấy tiếng má tôi trở mình và cằn nhằn:
“Cho nó đi coi kịch làm chi về tối mớ om sòm”.
Sáng hôm sau thức dậy ba tôi hỏi:
“Tối qua con đi coi kịch gì mà về nằm mơ mớ dữ rứa?”
Tôi dạ dạ nói giả lả, hỏi lại ba:
“Ủa rứa chớ con mớ cái chi?”
Ba tôi cười, nói:
“Mi kêu tên con Nhàn!”
Tôi mắc cở quá, vội lẩn ra trước sân. Từ đó về sau hễ mỗi lần tôi thấy chị Nhàn là tôi lẩn tránh chị, cũng có cả tháng trường. Lần cuối cùng tôi gặp lại chị là hôm chị lên quán báo cho ba mẹ tôi biết chị sắp đi lấy chồng. Mấy tháng sau, trước khi gia đình tôi quyết định trở về thành, tôi nghe tin chị lấy một người nông dân xóm trên, không cân xứng với chị nhưng do cha mẹ quyết định để về nhà lo việc đồng áng giúp ông bà gia nhà vợ. Anh ở rể trong gia đình ba má chị. Từ đó trở đi tôi bặt tin chị, cuộc đời đã đưa tôi đi xa rất xa và không biết bao giờ có dịp quay trở lại nơi chốn mà một thời tôi là chú nhà quê bất đắc dĩ!
Từ hôm có đội thanh niên tiền phong về đình hát, cổ võ khích lệ đồng bào đứng lên kháng chiến chống Tây, tôi thấy xóm tôi ban đêm thanh niên trai gái trong làng tụ tập thật đông ở sân vận động. Sóng bước hàng một họ tập đi như lính, tập hô to khẩu hiệu chống Pháp, tập bắn bằng súng gỗ. Cũng có người vác theo tầm vông vót nhọn đi tập. Khí thế chống Tây bùng lên trong đám thanh niên thanh nữ trong làng. Hầu hết đêm nào sân vận động cũng nghẹt người. Một số thiếu niên chúng tôi tò mò đến xem, có thằng ngỏ ý cho nó đi với, nhưng mấy anh lớn nói không được, mày còn nhỏ lắm. Nói chung hồi đó cao trào chống Pháp đang dâng cao, mọi người đều cùng chung lý tưởng hăng say muốn giải phóng đất nước giành lại độc lập sau bao nhiêu năm bị quân Pháp đô hộ áp bức, song dân quê đã được trang bị gì đâu, ngoài một tấm lòng cùng niềm phấn khởi.
Sau đó một thời gian tự nhiên một số thanh nữ trong làng thi nhau có bầu! Cả làng hoảng hốt nhốn nháo cả lên! Một số gia đình có con gái bị chửa hoang đem con đi làng khác tìm cách phá thai, một số bỏ xóm đi biệt tích không trở về! Mấy gia đình có con gái may mắn không bị chửa hoang vì đã ngăn cấm và không cho con mình đi họp đêm, lên mặt dạy đời:
“Thấy không? Tụi tui đã nói mà! Có con gái hơ hớ mà không biết giữ, cứ cho con đi đêm cho lắm vào, thì mang cái trống cà rùng chớ reng?"
Quán bán mấy tháng đầu đắt khách lắm, nhưng từ những tháng sau trở đi thì khựng lại. Lý do là người đi buôn dạo rày bị bắt dữ. Tây bắt có, Việt Minh bắt có. Lý do Tây bắt thì bảo là VM trà trộn trong số người đi buôn để về thành làm nội gián. Việt Minh bắt thì bảo là có một số người lợi dụng đi buôn để làm mật thám cho Tây. Thôi thì một cổ đôi ba tròng, tiếng đồn rối bung cả lên. Cũng vì thế mà một số con buôn sợ nên nghỉ việc, tuyến đường Đà nẵng-Tam Kỳ thưa thớt hẳn. Nhiều hôm cuối ngày chè cháo còn dư lại không thể để đến mai, nên tụi tôi lại được dịp ăn cố. Tuy vậy, cũng không nhiều nhỏi chi, vì với sức trai mới lớn tôi ăn nhiều mà chẳng thấy mập!
Một hôm có một người lái buôn gánh hàng tên là chú Tư Thịnh hay ghé lại ăn uống nên quen mặt. Ba tôi hỏi thăm anh Thịnh tình hình ngoài thành và than thở rằng dạo rày buôn bán ế ẩm quá. Ông hỏi ba tôi sao quán không thấy bán trái cây như xoài, mít, ổi mận v.v..? Ba tôi nói rằng ngoài chợ thì họ bán lẻ mắc lắm, đây chẳng ai bán sỉ, mua về bán không kiếm lời được. Ông ta cho biết rằng phía ngoài Tam Kỳ mấy cây số có một cái làng trồng thơm (dứa) gọi là Chưn Đờn. Chỗ ấy họ trồng thơm ngọt lắm, có bán sĩ nữa, sao anh không đi mua về mà bán. Ba tôi lắc đầu nói, nhà đơn chiếc quá đâu có ai đi mua được, tôi lại phải ở nhà lo cho quán và vợ tôi thì không khỏe lắm, sức khỏe bả ngày đực ngày cái nay ốm mai đau. Ông trầm ngâm một chút rồi nói:
“Anh có thể cho thằng nhỏ,” ông chỉ vào tôi, “đi theo tôi, tôi sẽ chỉ cho nó mua vài chục trái gánh về mà bán.”
Ba tôi lắc đầu nói:
"Nó còn nhỏ đi xa chưa chắc được đâu, vả lại còn phải gánh gồng, sợ nó chưa quen.”
Ông nhìn tôi cười, nhưng tôi nói liền với ba tôi:
“Được mà ba, con đi mua được mà, nhất lại có chú Tư đây chỉ đường cho con. Vô trỏng con mua rồi gánh về liền, đâu có sao”.
Tôi tiếp:
“Với lại theo đường xe lửa thì đâu có lạc đi đâu mà sợ? Có mươi cây số mà!”
Tôi nói vậy, nhưng ba tôi không chịu cho liền, thối thác rằng tôi chưa quen việc gánh gồng sợ không kham nổi; rồi xoay qua anh bạn hàng cám ơn, xin để cho ông nghĩ lại, chuyến sau anh vào sẽ tính và cho nó theo. Sau khi chú Tư Thịnh đi rồi, tôi nài nỉ ba tôi lần tới ổng có vào thì cho tôi đi theo để tôi mua thơm về bán. Tôi thấy mình lớn rồi, lại ăn không ngồi rồi đâu có làm gì lợi cho mẹ cha. Bây giờ có cơ hội, lại là lúc quán hàng đang ế ẩm nên tôi nhất quyết xin ba cho đi. Ông đồng ý và rồi đi kiếm cho tôi hai cái thúng, một cái đòn gánh và đôi quai gióng. Tôi không đợi lâu, chỉ mấy hôm sau thì thấy ông Tư Thịnh gánh hàng từ ngoài Đà Nẵng vô và ghé lại quán tôi uống nước ăn bánh. Ba tôi nhắc lại chuyện hôm nọ và ngỏ lời với anh cho tôi theo vô Chưn Đờn mua thơm. Sau khi chú Tư ăn uống xong tôi liền lên đường quang gánh theo ông.
Mới mười giờ sáng mà sao trời lại nóng nực quá chứng. Tôi men theo đường mòn sát bên con đường rầy xe lửa đã hoen rỉ, chạy lúp xúp theo sau lưng chú Thịnh. Đi mới độ một hai tiếng đồng hồ chi đó mà miệng tôi thì đã khô queo, mắt tôi hoa và chân thì bắt đầu kéo dép nghe lẹp kẹp. Khổ nỗi đôi dép mo của tôi cũng chẳng êm ái gì, hai quai trước cọ vào khe giữa của ngón chân cái và ngón kế, đỏ lên và bắt đầu rát. Tôi xin chú Tư dừng lại một chút cho tôi nghỉ và uống vài hớp nước. Ông đồng ý và bảo tôi ngồi nghỉ một chút, chớ đừng uống nước nhiều óc ách khó đi. Tôi tu một ngụm nước mang theo trong chiếc bầu khô mà thấy cổ họng mát rợi. Trời nắng chói chang, trên đường xe lửa không có một bóng cây để nấp mát. Nhìn theo hai thanh sắt con đường rầy, hơi nóng bốc lên mờ mờ ảo ảo. Tôi hoa cả mắt vì đây cũng là lần đầu tiên tôi đi bộ xa nhà để học đi buôn. Tôi nghĩ ngợi mông lung thì tiếng chú Tư lôi tôi về thực tại.
“Thôi đi đi em, cũng còn độ dăm cây số nữa là tới”.
Tôi nghe dăm cây số nữa thì trong bụng cũng mừng, vì lúc ra đi là khoảng 10 giờ, bây giờ đã quá trưa. Sáng nay có lót lòng bát cơm nguội và lúc đi thì cũng làm vài củ khoai. Tôi mang theo một ít cơm rang và định bụng nếu có quán hàng hay cây cối gì cạnh con đường sẽ xin nghỉ ăn vội ba miếng. Nhưng con đường mòn sao nó dài thăm thẳm, đi mãi mà chẳng thấy hết, phần thì cái nắng chang chang, tôi mệt quá chừng nhưng không dám ngừng lại cứ lúp xúp chạy theo sau chú Tư, chốc chốc lại hỏi:
“Tới chưa chú?”
Ông chỉ ra đằng trước một cái quán lá nhỏ nằm ven vệ đường rầy và nói:
“Đó, chỗ nớ đó, sắp tới rồi đó!”
Nhìn theo ngón tay ông trỏ, tôi thấy xa xa độ một cây số, có một mái tranh nhô ra trên đường rầy. Mừng quên cả mệt và khát tôi cố gắng lầm lũi theo ông và không dám hỏi nữa. Đến nơi chú Tư dắt tôi vô quán. Tôi quăng đôi thúng và gióng vô một góc, dựng cây đòn gánh lên bệ tường tranh, rồi theo ổng bước vào. Bây giờ tôi lại là khách của cái quán ọp ẹp này. Bà chủ quán thấy người chạy ra nhanh nhẩu:
“Cha con uống chi nì? Có ăn chi không?”
Chú Tư đi buôn cười, ngồi xuống trên chiếc chõng tre, thong thả dở chiếc nón xuống quạt phành phạch rồi nói:
“Chị Nho mạnh khỏe không? Cho tôi xin bát nước chè với lại tô mì, còn cậu ni không phải con tui. Con ông bạn đi theo tui vô đây mua thơm Chưn Đờn.”
Bà chủ quán quay qua tôi hỏi:
“Rứa à? Rứa cậu có ăn chi không?”
Tôi nói cám ơn chưa đói và chỉ xin bát nước chè. Chú Tư đi buôn nói tiếp:
“À, bà chủ quán chỉ dùm cho cậu ni vô trong xóm mua thơm. Cậu ấy muốn mua vài chục rồi còn phải gánh về ngay.”
Bà chủ quán vui vẻ đáp:
“Dạ được, để rồi tui bảo tụi nhỏ chỉ cho cậu vô nhà ông Thức mà mua, ông có thơm ngon mà lại bán rẻ nữa.”
Tôi ngỏ lời cám ơn bà và vừa uống nước vừa đợi. Chú Tư đi buôn uống nước ăn mì xong thì sửa soạn đi ngay. Chú kiếu chủ quán và tôi dặn mua xong rồi lại về ngay kẻo trời tối. Vì chú Tư còn phải đi một khoảng 8 cây số nữa mới tới Tam Kỳ. Lấy hàng xong chiều mai chú lại trở ra. Có khi gặp hàng con buôn dặn gấp chú lại phải đi suốt đêm để đem hàng về cho kịp bán. Tôi cám ơn chú rồi ngồi nghỉ chờ con bà chủ quán dắt vô nhà ông Thức. Một chốc thấy thằng nhỏ khoảng đâu 7, 8 tuổi chi đó đang dắt trâu vô sau quán. Bà chủ quán đon đả bảo nó cột trâu sau nhà rồi chỉ đường cho cậu này vô nhà ông Thức mua thơm. Bà vừa nói vừa chỉ vào tôi. Thằng nhỏ dạ rồi bảo tôi chờ một chút cột trâu lại rồi đi.
Tôi theo thằng nhỏ hỏi nó tên chi? Nó đáp tên Liếng. Tui nói:
"Chắc là em liến thoắng lắm phải không? Chăn trâu có vui không em?"
Nó cười rồi vừa đi vừa kể rằng sáng ni có một thằng chăn trâu bạn nó giận con trâu sao đó, đánh nó, nó báng cho một cái thằng nọ kịp thời nhảy tránh được chớ không là chết rồi. Tôi sực nhớ lại vụ tôi trèo lên lưng con trâu thằng Nẩm bị nó hất cho té ê đít ê càng! Tôi cười một mình rồi hỏi nó tiếp:
“Rứa chăn trâu có cực không em?”
Nó đáp:
“Cực chi mà cực, khỏe re à, cứ đánh trâu ra đồng rồi có khi ngủ gục luôn trên lưng trâu tới chiều mới về”.
Tôi nghe mà bắt phì cười.
Vào đến nhà ông Thức tôi biểu thằng nhỏ về và cám ơn nó. Nó chần chờ, tôi nói tiếp:
“Anh biết đường ra mà, đừng lo. Cám ơn em, thôi về đi.”
Hắn đi rồi tôi chờ không lâu gặp ông Thức mua 20 chục trái thơm. Một chục là 12 trái. Trả tiền xong tôi chia mỗi bên 12 trái bỏ vô thúng và gánh về. Vừa gánh ra khỏi nhà ông Thức một quãng tôi thấy xây xẩm và tối tăm mày mặt. Tôi hết hồn dừng lại ngồi bên vệ đường đất nghỉ một chút. Sờ trên đầu tôi thấy đầu nóng ran như lửa. Mồ hôi tôi vã ra như tắm. Tôi lấy cái nón xuống quạt lấy quạt để rồi ráng đứng dậy tiếp tục gánh thơm đi. Ra tới quán bà Nho tôi quăng đôi thúng cái phịch rồi ngồi bệt xuống đất cạnh cái chõng tre. Bà Nho thấy tôi ra mặt mày xanh lè xanh lét, lúc đó người tôi hết nóng, giờ đổi qua lạnh. Tôi run và nói với bà chủ quán làm ơn cho tôi nằm một chút. Bà ra ngoài nhìn vào tôi và hỏi:
“Cháu thấy trong mình ra răng?” Tôi đáp:
“Dạ không biết răng hồi nãy tới quán đã thấy mệt lử rồi. Vô tới nhà ông Thức cháu thấy trong người nóng hổi và khi ra về thì toát mồ hôi. Bây chừ lại thấy lạnh run. Chắc cháu bị cảm.”
Bà Nho vừa nói vừa sờ lên đầu tôi rồi tiếp:
“Chắc bị say nắng rồi, kiểu nắng như ri mà đi mấy tiếng suốt ngoài đường rầy thì say nắng là cái chắc”.
Rồi với một giọng quở trách, bà nói bâng quơ:
“Con cái nhà ai còn nhỏ mà đã cho đi buôn?”
Nói rồi bà bảo tôi nằm đại xuống đó mà nghỉ. Tôi trèo lên cái chõng tre bên cạnh nằm co quắp và run bần bật. Tôi thiếp đi không biết bao lâu thì thấy có người lay tôi dậy. Tôi mở mắt thấy bà chủ quán. Bà hỏi:
“Chớ cậu ở mô, cha mẹ tên chi, để tui nhắn bạn đi buôn cho cha mẹ cậu biết?”
Tôi thở mệt nhọc và cho bà biết tôi là con ông Minh có cái quán bán chè cháo trên đường rầy ở Hà Lam. Bà đáp:
“À, thôi tui biết rồi, để có ai đi ngang tui nhắn dùm cho”.
Tôi nhìn cây đèn dầu trong quán biết rằng trời đã tối. Bà Nho nói tiếp:
“Giờ ni bạn đi buôn đi vô chớ chưa có ai đi ra, thôi cháu nằm đỡ đây sáng mai có ai qua sớm thì tui kêu nhắn ra dùm cho.”
Tôi cám ơn bà và xây lưng vô vách phên nằm ngủ tiếp. Tiếng thằng Liếng hỏi bên tai tôi:
“Anh ơi, má hỏi anh có ăn cháo được không nì?”.
Tôi bèn xoay ra cám ơn nó nói tôi không đói. Vả lại tôi còn mệt và cảm thấy đầu nhức như búa bổ.
Đêm đó tôi ngủ thiếp tại quán bà Nho cho đến sáng thì có ai đánh thức tôi dậy. Tôi uể oải mở mắt nhìn lên thì thấy ba tôi đang ngồi cạnh giường, tôi ngạc nhiên hỏi sao ông biết tôi đau và ba vào tự bao giờ? Ông sờ vào đầu tôi rồi lòn tay vào mình và rờ xuống tới chân, vừa sờ vừa nói.
“Thì sáng ni có người đi ngang cho ba biết con đau nằm trong ni, ba tức tốc vô liền.”
Tôi hỏi ông bây giờ là mấy giờ rồi, ông đáp:
“Cũng khoảng 8 giờ sáng”.
Nhìn thấy ông lo lắng tôi muốn bật khóc, nhưng kềm lại được. Ba tôi lắc đầu rồi nói:
“Con, dậy uống miếng thuốc rồi ba gánh về. Ba tôi cằn nhằn: Tại mi không chịu nghe lời tau, đòi đi cho được nên bị say nắng đây. Thôi cái đầu mát rồi, ngồi dậy được không mà đi về?"
Tôi bảo với ba tôi rằng tôi đói vì từ chiều hôm qua đến giờ tôi không ăn uống chi. Ông gật đầu rồi nói vọng vô với bà chủ quán xin nấu cho tôi một miếng cháo trắng để ăn với đường thẻ. Bà chủ quán vui vẻ đi nấu ngay và thuật lại đầu đuôi nội vụ cho ba tôi nghe. Ba tôi cám ơn bà chủ quán mấy lần. Tôi cũng cám ơn bà Nho đã cho tôi ngủ lại đêm và hứa rằng lần tới tôi hết bịnh sẽ vô mua thơm và thăm bà. Ba tôi bắt tôi ngồi trong một cái thúng, còn lại cái kia ông bỏ hết thơm vô và quảy tôi đi. Ông không quên đem theo một cái khăn vải lớn như chiếc “ra” giường quấn từ đầu gióng xuống quanh cái thúng tôi ngồi. Tôi ngồi trong thúng ngủ dật dờ, thỉnh thoảng ba tôi hỏi tôi có mệt không? Vừa về đến quán nhà thì má tôi đã hớt hải chạy ra hỏi rân:
“Chu choa, có răng không ông?”.
Ba tôi lắc đầu bảo:
"Không răng mô!"
Má tôi hỏi tới:
“Hắn bị cảm nắng chớ chi? Đã biểu đừng đi mà tài lanh! Đi vô trong nằm đắp mền lại cho ấm rồi tau nấu nồi nước xông và cạo gió cho.”
Rồi bà gọi chị Bẻo:
“Bẻo ơi, mi lấy cho tau gói lá xông để trên bếp đó xuống. Bắc cho tau cái nồi nấu một nồi nước sôi nghe!”
Bà rối rít quên cả mấy anh bạn đi buôn đang ngồi chờ ăn bún. Tôi lê thân vào giường mỏi mệt nằm xuống. Thằng em tôi ở đâu chạy tới hỏi:
“Anh hai đau hả, ai biểu đi nắng… Má ở nhà lo quá chừng!”
Tôi không trả lời thằng em, xoay vô phên cố dỗ giấc ngủ. Tôi thiệt không có số đi buôn! Mới ra quân mà đã ngã ngựa!
(*) Sắn (tiếng miền Trung) là khoai mì
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.03.2016 01:06:17 bởi mythanh >