trích từ website www.vanhoaphuongdong.com
của bạn Amtinh Coi theo âm lich. Sinh vật sống trên trái đất trong đó bao gồm cả loài người chúng ta đều bị chi phối bởi những quy luật của vũ trụ. Mà vũ trụ được hình thành bởi không gian và thời gian. Vì vậy ta có thể nói rằng chúng ta đang bị không gian và thời gian chi phối.
Trái đất xoay quanh mặt trời một vòng là một năm, bằng 365 ngày. Trong một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông thay nhau luân chuyển, trong mùa có tháng, trong tháng có ngày và đêm.
Dưới ánh sáng mặt trời, vạn vật trên trái đất đều tìm được sự sống và sinh sôi, nảy nở. Các thiên thể trong vũ trụ luôn vận hành theo một quy luật nhất định, theo chu kỳ tuần hoàn. Tứ hiện tượng tròn, khuyết của mặt trăng đến mùa Xuân hoa nở, mùa Thu kết trái và mùa Xuân năm sau lại tới, cây cối lại nở hoa. Chính những hiện tượng lặp đi lặp lại ấy là quy luật vận hành của thiên thể (trong đó có trái đất). Người Trung Quốc cổ đại đã quan sát những quy luật chu kỳ tuần hoàn của thiên thể, từ đó phát minh ra lịch. Vào khoảng năm 1100 trước Công Nguyên, người Trung Quốc cổ đại (thời Ân Thương) đã biết tính lịch bằng cách kết hợp giữa Thiên Can và Địa Chi.
Thiên Can gồm có: Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Địa chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Thiên Can và Địa Chi tuần tự kết hợp với nhau từ Giáp Tý, ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Ty, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân,
Quý Dậu, Giáp Tuất, ất Hợi, Bính Tý... 10 can và 12 chi kết hợp với nhau như vậy 60 năm thì hết một vòng gọi là một hoa giáp, đến năm thứ 61 lại là năm Giáp Tý.
Lịch ra đời đã góp phần xác lập khái niệm về thời gian. Tiếp đó, người Trung Quốc cổ đại cũng đã phát hiện thấy "chất" của thời gian.
Người phương Đông, đặc biệt là người Trung Quốc cổ đại rất coi trọng tới vấn đề "chất" của thời gian. Một tiếng đồng hồ cua mùa Hạ và một tiếng đồng hồ của mùa Đông, tuy có độ dài thời gian bằng nhau nhưng tính chất của chúng lại khác nhau rất nhiều.
Ví dụ vào lúc hai giờ chiều giữa mùa Hè và hai giờ chiều giữa mùa Đông, tuy cùng trong một thời gian (hai giờ chiều) và cùng trên một địa điểm nhưng vào lúc hai giờ chiều giữa mùa hè, trời nóng như thiêu như đốt, còn hai giờ chiều giữa mùa Đông, dù bạn có đứng ra giữa trời đầy ánh
nắng thì vẫn cảm thấy rét run. Nếu vào giữa hai thời điểm ấy bạn quan sát hoa cỏ quanh mình, bạn sẽ càng thấy sự khác biệt nhau rất rõ của chúng. Một năm có 365 ngày là quãng thời gian để trái đất bay quanh mặt trời đủ một vòng, nhưng các năm cũng có sự khác biệt nhau rất rõ. Có năm thì được mùa, có năm lại mất mùa, đói kém. Chính những hiện tượng này đã giúp người Trung Quốc cổ đại nhận thức được chất của thời gian.
Cùng là một khái niệm về thời gian nhưng người phương Tây chỉ coi thời gian là một khái niệm của độ dài" còn người Trung Quốc lại nghĩ đến "chất" của nó, nhưng điểm không giống nhau này cũng được thể hiện ở thuật chiêm tinh của người phương Tây và thuật chiêm tinh của người phương Đông.
II. SỰ RA ĐỜI CỦA MƯỜI HAI CON GIÁP Sau khi người Trung Quốc cổ đại phát hiện chất của thời gian, liền đó họ lại náy sinh ra một nghi vấn mới. Vậy vấn đề chất của thời gian rốt cuộc có ảnh hưởng gì tới đới sống, tư chất tính cách của mỗi con người hay không? Họ liền ngược thời gian hàng trăm, hàng ngàn năm, tìm tới thời điểm của các cuộc chiến tranh, những năm được mùa, mất mùa, địa chấn, lụt lội để tìm hiểu, tính toán và cuối cùng đã phát hiện ra những sự kiện trên đều xảy ra theo một chu kỳ nhất định của nó.
Đồng thời, họ cũng dần phát hiện thấy tính cách chung của những người sinh ra trong cùng một năm.
Tuy mọi sinh vật trên địa cầu đều phải chịu ảnh hưởng bức xạ vũ trụ (bức xạ của các thiên thể), cộng thêm tác động của thời gian. Chỉ với hai điểm này, người ta có thể tính ra những người được sinh ra trong cùng một năm có những tính cách gì giống nhau. Cùng với sự phát triển của ngành thống kê học, các nhà khoa học chứng minh: Có quy luật về tính cách và vận mệnh con người do sự chi phối của quy luật tự nhiên.
Người Trung Quốc cổ đại đã sắp xếp Thiên can và Địa chi vào lịch, gọi những người sinh vào năm Tý là cầm tinh con chuột, năm Sửu là cầm tinh con trâu, v.v... để hoàn thành hình tượng của mười hai con giáp như ngày nay. Mười hai con giáp xuất hiện sớm nhất trong Bát quái của Kinh dịch, đó là phương pháp phỏng sinh ghi năm còn gọi là cầm tinh con giáp. Dưới đây xin giới thiệu đôi nét cơ bản quan niệm của người phương Đông xưa về tính cách của con người theo các tuổi và sự sinh khắc giữa các tuổi theo Ngũ Hành Bát Quái.
1.Tuổi Chuột: Vui vẻ xởi lởi dễ gần, dễ mến nhưng hay lo vặt vãnh nên cũng dễ cáu giận. Tự tin và tự trọng.
Thích làm đẹp làm sang cho bản thân nhưng trong khuôn khổ cho phép. Tuổi Chuột hợp với các tuổi Khỉ, Rồng, Trâu, ky các tuổi Rắn, Chó và Lợn, đặc biệt tối kỵ tuổi Ngựa.
2. Tuổi Trâu: Là người nhẫn nại, ít lời, không hay khoe mẽ về mình dễ tranh thủ được sự giúp đỡ của người khác.
Tính nóng và cục tính. Chăm làm, khéo tay và quyết đoán, không nhún nhường. Công việc đối với họ là chính, tình cảm là chuyện thứ yếu nên họ khó lấy vợ. Tuổi Trâu hợp với tuổi Chuột, tuổi Gà.
Không nên lấy tuổi Chó và kỵ tuổi Lợn.
3. Tuổi Hổ: Là người nhậy cảm, đa tình có đời sống nội tâm cao. Tuổi hổ trọng người ít tuổi. Quả cảm, kiên trì nhưng có vẻ ích kỷ. Tuổi này dủ vía, ma quỷ cũng phải tránh đường, do đó người xưa thường cầu mong trong gia đình có người tuổi Hổ. Tuổi Hổ hợp duyên với tuổi Ngựa và Rồng, khắc tuổi Trâu, Rắn, Khỉ.
4. Tuổi Mèo: Là tuổi thành đạt, nhã nhặn, khiêm nhường, hiếu thảo và giao thiệp rộng. Đời nhiều may mắn nhưng hay ba hoa, ít cáu giận, dễ đi vào kinh doanh buôn bán. Chăm học, chăm đọc sách song ít tài năng đặc biệt. Rộng rãi trong giao tiếp song bảo thủ, so đo. Hợp với tuổi Chó, Dê, Lợn, khắc với tuổi Chuột, Gà và không hợp tuổi Rồng.
5. Tuổi Rồng: Khỏe mạnh, năng nổ, xốc vác, dễ bị kích động, nói năng không thận trọng. Vừa ngang tàn vừa độ lượng dễ giàu và dễ có tiếng, dễ bị lôi kéo vào việc xấu. Tuổi này về già thì nhàn. Nên lấy người tuổi Chuột, Rắn, Khỉ, Gà. Tránh tuổi Rồng, Trâu, Chó.
6. Tuổi Rắn: Khôn ngoan, có ý chí, gặp may nhiều và dễ thành đạt. Thích lòe loẹt, phô trương nhưng ích kỷ và keo kiệt, đa nghi. Họ rất thích khen nịnh lãng mạn. Phụ nữ tuổi Tỵ thường xinh đẹp "mỹ nhân tuổi Tỵ". Họ hợp tuổi Trâu, Gà, xung khắc với tuổi Hổ, Lợn.
7. Tuổi Ngựa: Vui tính, nói nhiều, dễ nổi tiếng và dễ được cảm tình. Giỏi kinh doanh, giỏi đoán ý đồ của người khác để "lựa lời mà nói". Tuổi Ngựa nhiều tài nhưng khó tính, cầu kỳ trong ăn mặc, cầu toàn trong công việc nên họ coi tình yêu là thứ yếu. Họ hợp với tuổi Hổ, tuổi Chó, tuổi Dê. Kỵ tuổi Chuột.
8. Tuổi Dê: Nhạy bén, tinh tế, nhiệt tình nhưng dễ thất vọng, bi quan. Cuộc đời ít gặp may. Đời sống vật chất tạm ổn. Họ hợp với tuổi Mèo, Lợn, Ngựa, không hợp tuổi Chuột, Chó, Trâu.
9. Tuổi Khỉ: Thông minh, hiểu nhiều biết rộng nhưng không để tâm nhiều đến cống việc. Nhớ thì làm, quên thì cho qua luôn mặc dù khi xử lý công việc thì khá nhanh. Dễ hòa. nhập, quảng giao, trí nhớ tốt. Đường nhân duyên không lấy gì làm may mắn. Gặp tuổi Chuột hoặc tuổi Rồng thì tốt, gặp tuổi Lợn, Rân thì kém may mắn, gặp tuổi Hổ thì không tốt.
10. Tuổi Gà: Tuổi bận rộn, lo toan, tham công tiếc việc, việc gì cũng muốn làm, dễ bi quan, thất vọng. Thích hoạt động xã hội. Tự tin nhưng lại ít tin người. Luôn luôn tỏ ra viển vông, kỳ cục. Tiêu pha hoang toàng nhưng thực thà trọng nghĩa. Hợp người tuổi Trâu, Rắn, Rồng. Tránh Tuổi Gà, Chuột, Chó. Kỵ nhất tuổi Mèo.
11. Tuổi Chó: Ngay thẳng, chân thành, biết mình, biết người, có đức tin và có độ tin cậy cao. Tuổi Chó ít giao du, sống kín đáo, bướng bỉnh, thẳng thắn, giỏi quản lý, giỏi hoạt động xã hội. Họ hợp tuổi Hổ, Mèo, Ngựa, không hợp tuổi Trâu, Gà, kỵ nhất tuổi Rồng, Dê.
12. Tuổi Lợn: Kiên định, kiên trì, cuộc đời tuổi lợn mang tính mục đích rõ rệt. ít bạn nhưng có tình, sẵn sàng hy sinh vì bạn, ít nói nhưng kín đáo. Tuổi Lợn không thích cãi vã. Đường tình duyên không thuận. Họ hợp tuổi Mèo, Dê, tránh tuổi Khỉ, đại kỵ tuổi Rắn.
Mười hai con giáp là do người phương Đông xưa nghĩ ra, nhưng trải qua mấy nghìn năm lịch sử đã trở thành dấu ấn không phai trong tâm lý, tình cảm của con người. Hiện tượng văn hoá mười hai con giáp không chỉ ảnh hưởng tới một con người mà còn ảnh hưởng tới tâm lý, khí chất, nếp nghĩ, phong tục, tập quán của cả một cộng đồng, một dân tộc và trở thành nét văn hoá rất riêng của phương Đông.