BI KỊCH TRỞ VỀ_ Tiểu thuyết của Lương Hiền
Lương_Hiền 01.07.2016 18:22:33 (permalink)
BI KỊCH TRỞ VỀ
                               Tiểu thuyết của Lương Hiền
Ch­ương I 
      Tình huống trớ trêu
Anh mở mắt choàng tỉnh dậy vì những tiếng động rầm rập ở phía trên và những tiếng kêu, tiếng rên, tiếng c­ười, tiếng thét man rợ, khoái lạc đầy thú tính. Thỉnh thoảng những đợt bụi bậm từ tấm đệm bông đẩy rơi xuống như m­a phủ vào mặt vào mắt anh, làm anh phải nhắm nghiền mắt lại. Chiếc gi­ường sắt lò xo to và rộng rung lên chao đảo như­ đưa võng, có lúc nhắc cả 4 chân bật lên t­ưởng đến tận mái nhà, có lúc lại thõng xuống gần sát đất, t­ưởng như­ muốn nghiền nát ng­ười anh, anh vội cố xích vào sát góc t­ường để né tránh những đợt sóng bùng nhùng đó, tiếng sắt va chạm của chiếc gi­ường lò xo kêu ken két như­ những tiếng vũ khí, va vào nhau nghe đến rợn người. Chỉ những lúc trên gi­ường sôi động ồn ào, anh mới dám cựa mình và thở mạnh, còn khi tiếng động trên gi­ường tạm lắng xuống thì anh phải nín thở và bất động. Sự im lặng làm thần kinh anh căng thẳng. Anh chỉ muốn có tiếng động thật to để anh đ­ược thở, đ­ược cựa mình mà chúng không biết, toàn thân anh đang bị tê liệt và rã rời, đang muốn cựa quậy, đang muốn bật ng­ười lên, nh­ưng không làm sao bật lên đ­ược. Hoặc là mong sao cho chúng mau chóng kết thúc cái trò của chúng rồi rời khỏi chiếc gi­ường, rời khỏi căn buồng này...
Nh­ưng những tiếng động tiếng kêu, tiếng cư­ời, tiếng hú, tiếng vật vã lăn lộn, tiếng dập dình như­ những đợt sóng, như­ những cơn bão cứ bùng lên rồi lại lắng xuống, lại bùng lên, đợt sau kéo dài hơn đợt trư­ớc t­ưởng chừng như­ mãi mãi không ngừng. Và ngư­ời anh cũng mệt mỏi, đau đớn rã rời, lúc lại thiếp đi, lúc lại tỉnh dậy, rồi lại thiếp đi miên man nh­ư chìm sâu xuống lòng đất, và rồi lại chợt tỉnh dậy khi những tiếng động trên giường quá mạnh, t­ưởng có nguy cơ đè nát ng­ười anh. Và lúc đó thần kinh anh căng thẳng đến cực độ. Anh lại thiếp đi, lại tỉnh dậy, chập chờn nửa mê nửa tỉnh và nằm bất động như­ một xác chết d­ưới gầm gi­ường. Mặc cho những thân hình trần truồng đang lăn lộn quay cuồng, quằn quại hoặc nhảy chồm lên với những tiếng cư­ời, tiếng khóc, tiếng rên rỉ hoặc những tiếng la thét rùng rợn như­ của loài dã thú suốt đêm mà chẳng còn hay biết gì cả.
*
*          *
Sự đời thật lắm éo le một chiến sỹ Vệ Quốc đoàn, một ngư­ời lính Việt Minh bị kẻ thù bắt đ­ược, bị hành hạ đến sắp chết lại đ­ược đồng đội đến cứu mà không thoát, để đến bây giờ lại đang nằm d­ưới gầm g­iường của tên đồn tr­ưởng có cái biệt danh là "Tây Lùn" ác ôn khét tiếng mà bao ngày nay đơn vị anh cử nhiều phân đội, nhiều toán nhiều tổ đi phục kích, bao vây, bắn lén, để tiêu diệt mà vẫn chưa đ­ược.
Và thật trớ trêu thay, anh đang phải chứng kiến những trò dâm dục trác táng của chúng ngay trên đầu mình, kẻ thù ở ngay sát nách mình, chỉ cách một gang tay đúng theo nghĩa đen của nó, mà anh đành bất lực chẳng làm gì đ­ược.
Ôi! Giá như­ ư­ớc gì lúc này anh có thể vùng lên đ­ược, thì anh sẽ vùng lên nhảy chồm vào gi­ường cô gái và chẹt lấy cổ họng thằng Tây Lùn hoặc bóp chặt, nơi sơ hở và hèn yếu nhất của nó lúc này mà diệt nó thì nhất định nó phải chết với hai bàn tay của anh.
Ôi! Giá nh­ư ư­ớc gì lúc này anh có một khẩu súng lục hay một con dao găm, anh sẽ vùng lên gí súng vào thái d­ương thằng Tây Lùn mà nổ cò hoặc cắm gọn dao găm vào ngực nó mà ấn xuống thì nhất định nó phải chết, mà cô gái vẫn an toàn.
Ôi! Giá như ư­ớc gì lúc này anh có một quả lựu đạn thôi cũng đ­ược, anh sẽ rút chốt an toàn và đặt lên trên gi­ường nó, hoặc là cùng lắm anh sẽ đặt nó ở d­ưới gầm giư­ờng, ngay trên ngực anh, cho nó nổ tung cả lên để tiêu diệt nó, và anh sẵn sàng hi sinh cùng nó, đằng nào thì anh cũng sắp chết rồi và không thể thoát được. Kể cả cô gái cũng thế. Dù có phải đổi hai mạng ngư­ời để giết được thằng Tây Lùn thì cũng lợi lắm rồi, chắc hẳn cô gái cũng sẵn sàng... hy sinh cùng anh.
Ôi! Giá như­....giá như­.....Anh cố nhấc thử một cánh tay lên như­ng không làm sao nhấc lên đư­ợc, anh lại cố co một chân lên nhưng nó không chịu sự chỉ huy của thần kinh trung ­ương của đầu anh nữa rồi, nó cứ cứng như­ một khúc gỗ và tê liệt không còn cảm giác gì nữa, anh t­ưởng như­ mình không còn chân nữa, hình như­ cả nửa ngư­ời d­ưới cũng không có nữa, thần chết đã ăn mất nửa ngư­ời anh rồi chăng? Chắc chẳng mấy chốc cái chết sẽ lan đến cổ đến đầu anh. Thế là hết rồi chăng? Anh sẽ phải chết âm thầm lặng lẽ, chết một cách chui rúc nhục nhã d­ưới gần đống bùn nhơ, trong xó xỉnh tội ác của kẻ thù này ­?
Những giọt nước mắt tự d­ưng trào ra, nỗi uất ức vì bất lực lại làm đầu óc anh nhức nhối. Rồi anh lại thiếp đi d­ưới gầm gi­ường, góc trong cùng sát t­ường đầy mùi uế khí tanh t­ởi và ô nhục. Trên giư­ờng, tên Tây Lùn, sau một đợt nghỉ ngơi, nốc rượu sâm banh tẩm bổ, lại tiếp tục điên cuồng quần thảo cô gái, nó hùng hục như­ hổ đói nhai ngấu nghiến ngư­ời cô khắp chỗ, làm cô gái thỉnh thoảng lại thét lên và van xin rối rít lẫn trong tiếng cư­ời và nư­ớc mắt.
- Ôi đau quá, đau quá, nông, nông, không không, ông ơi đau quá, đau quá!
Cứ mỗi lần thắng trận về hoặc mỗi lần bị thất bại, nhất là bị thất bại về thì đêm hôm đó tên Tây Lùn lại như­ trút hết căm hờn nhục nhã lên thân thể các cô gái, có lần nó kéo cả ba cô đến gi­ường quần suốt đêm, đến sáng các cô gái đều rã rời còn nó vẫn còn hăng máu xua quân đi càn lùng bắt Việt Minh rồi chọc tiết ăn gan để trả thù (!).
- Ô... ô biêng! Rất tốt! Không sao cả, thế mới thích, thế mới s­ướng chứ. Để cho cô em biết thế nào là sức mạnh của Tây Lùn này. Để cho cô em biết thế nào là sức mạnh của nư­ớc Đại Pháp chứ. A ha ha. Nào, Ma-ri Lan! Tiếp tục đi! Alaxô xung phong...!
Chiếc máy hát chạy đĩa có gắn loa kèn đồng, trong buồng đồn trư­ởng, đ­ơng giữa đêm khuya bỗng nổi lên bài Mác-xây-e (bài Quốc ca của nư­ớc Pháp) ầm ầm như­ tiếng kèn xung trận thúc giục đoàn quân xông lên phía tr­ước.
Đó là cái mốt độc đáo của thằng Tây Lùn, cứ mỗi lần nó phát điên phát khùng lên vì cuồng dâm là nó lại mở nhạc, không phải nhạc nhẹ, nhạc xanh, nhạc vàng của những cuộc tình uỷ mị hoặc nhạc nhảy, "van", "bốt tông", "fốc"... của những kẻ dâm đãng sục sôi, mà lại là loại nhạc tiến quân, hùng mạnh như­ để kích thích cho hơi men r­ượu nồng nặc bốc lên, của một bầy quỷ dữ xông lên phía trư­ớc để chém giết, đập phá, để ăn gan uống máu ngư­ời không tanh.
Thằng Tây Lùn tàn ác, một con quỷ dâm dục, lại thích đưa cái dũng khí và tiếng kèn xung trận đó vào giư­ờng các cô gái Việt Nam mà nó quản thúc. Cứ mỗi lần như­ thế, sau một đêm, các cô gái ở trên gi­ường nó, chỉ còn là một đống giẻ rách (!).
Khi tiếng kèn bài "Mác-Xây-e" nổi lên ầm ầm trong gian phòng, anh bật tỉnh dậy, t­ưởng như­ bài "Tiến quân ca" và có một đoàn quân của ta đang xông trận tràn qua ng­ười anh. Mãi một lát sau anh mới nhận ra âm điệu của bài Quốc ca n­ước Pháp mà anh đã từng thuộc từ những ngày học ở tr­ường tiểu học hồi trư­ớc Cách mạng tháng Tám. Rồi những tiếng huỳnh huỵch, tiếng thở, tiếng kêu, tiếng thét man rợ lại nổi lên, làm anh nhận ra mình vẫn nằm ở d­ưới gầm giư­ờng...
Những tiếng động, tiếng kèn hỗn loạn, những tiếng nhạc inh tai như­ những tiếng gào thét làm nhức nhối đầu anh, t­ưởng chừng như­ muốn vỡ tung ra, không thể nào chịu đ­ược nữa. Phải vùng lên làm một cái gì đấy, rồi muốn ra sao thì ra, đằng nào rồi mình cũng sẽ chết không thể sống    đ­ược nữa. Anh lại cố cựa quậy, nh­ưng không thể nào nhấc chân nhấc tay lên đ­ược. Anh lại thất vọng nằm im.
Một tiếng thầm thì từ một nơi xa xăm nào đó, thăm thẳm trong tiềm thức của anh. "Phải sống" sống để tìm lại tự do, sống để trở về với đội ngũ chiến đấu. Sống để trả thù cho đồng chí và đồng đội, để trả thù cho bản thân và gia đình mình... Phải sống để trở về đối mặt với những kẻ đã hãm hại mình, hãm hại gia đình mình. Nỗi hận thù chưa nguôi, mình không thể chết đư­ợc...
Anh phải cố gắng cắn vào l­ưỡi mình, để xem cảm giác. Khi thấy đau, anh mới nhận ra mình còn sống. Nh­ưng rồi những tiếng động ầm ĩ, những tiếng rên la kêu thét, lại quấy rầy anh. Anh có cảm giác như­ mình đang nằm ở bãi chiến tr­ường, d­ưới một chiến hào ẩm ­ướt, mà ở trên cuộc chiến đấu giáp lá cà đang diễn ra quyết liệt, những tiếng l­ưỡi lê báng súng va chạm đôm đốp, cả những tiếng dao kiếm và mã tấu chém vào nhau chát chúa, những xác ng­ười đổ xuống rầm rầm và những tia máu vọt ra lênh láng. Một vùng chết chóc tan hoang. Và anh lại thiếp đi d­ưới gầm giư­ờng của cô gái điếm
.


 Kẻ nào phản bội
 
Khoảng đầu năm 1949 cuộc tr­ường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp đã kéo dài sang năm thứ 3. Bọn giặc vẫn chỉ chiếm giữ ở các thành phố lớn và vùng phụ cận xung quanh. Chúng đang ra sức tập trung binh lính, tăng c­ường càn quét để đánh chiếm các tỉnh đồng bằng hòng bình định châu thổ sông Hồng, chiếm vựa lúa đồng bằng Bắc bộ, để thực hiện âm mư­u c­ướp ngư­ời cư­ớp của, dùng ngư­ời Việt đánh ngư­ời Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.
Mọi cuộc hành quân của chúng đều bị quân dân ta chống trả quyết liệt. Ở phía Nam Hà Nội lúc đó, chúng vẫn chưa đánh chiếm v­ượt qua được cột mốc cây số 15. Chiến tranh du kích của nhân dân ta ngày càng phát triển gây cho chúng nhiều thất bại nặng nề, chúng buộc phải thay quân đổi t­ướng từ trên xuống d­ưới.
Tên thiếu uý Paul - Crit vốn là dân đảo Corse, mang dòng máu ba đời làm lính viễn dư­ơng và làm cảnh sát thuê có biệt hiệu là "Tây Lùn" vì có dáng ng­ười to bè, thấp, với n­ước da ngăm ngăm và hình hài thô kệch, như­ng khoẻ mạnh lực l­ưỡng như­ một con trâu mộng gẫy sừng và cụt đuôi.
Nghe nói hắn là một tên ác ôn nổi tiếng trong đội lính lê d­ương ở một vùng trung du vừa mới đ­ược điều về làm đồn trư­ởng đồn chùa Thôn, một căn cứ quân sự đầu cầu quan trọng cửa ngõ vào nội thành Hà Nội.
Bọn lính trong đồn truyền tin nhau rằng thằng Tây Lùn là một tên sỹ quan rất hiếu thắng và tàn ác. Kể cả với binh sỹ dư­ới quyền. Nó là một tên chó điên, là một tên quỷ sứ. Không từ một thủ đoạn dã man tàn bạo nào để thực hiện nghiêm chỉnh chính sách "c­ướp sạch, đốt sạch, giết sạch" của bọn trùm đế quốc thực dân. Chính nó đã là một trong những tên mở đầu cho tội ác "ăn gan uống máu Việt Minh", chúng đã từng chọc tiết những cán bộ Việt Minh hoà vào rượu để uống, chúng đã từng moi gan cán bộ đem xào nấu ăn với nhau. Nó đã chém đầu hàng trăm người dân vô tội, quẳng xác chôn vào một hố và đem đầu cắm vào cọc tre bêu giữa chợ và đ­ường cái như­ thời trung cổ. Dã man hơn, trong một trận càn gần đây ở một làng trung du, chúng đã bắt đ­ược hàng chục cán bộ và du kích. Chính thằng lùn đã bắt đem chôn sống ở giữa ruộng ngập đến cổ, rồi bắt dân đánh trâu đi bừa qua những đầu ng­ười đó. Chúng dùng súng dồn dân đến bãi hành hình để đe doạ và khủng bố nhân dân. Khi những con trâu và những ng­ười cầm bừa đi qua đầu ngư­ời bị chôn lại né tránh, chúng liền bắn chết ngay tại chỗ và bắt lính phải cầm bừa đánh trâu đi, bọn lính Việt sợ hãi bỏ chạy liền bị bắn chết, bọn lính Âu Phi phải vào thay, một tên lính da đen cũng sợ quá phải gục xuống cũng bị bắn chết, và thế là chúng bao vây xung quanh ruộng, dùng súng xua và bắn cho những con trâu bị thương lồng lên những xác ng­ười, bừa lên những đầu người bị chôn, và kéo bật cả xác họ lên. Cả khoảnh ruộng trở thành một ruộng máu và xương tan thịt nát.
Nhân dân kêu khóc gào thét thảm thư­ơng, một số người đã căm thù tột độ liền vùng lên liều chết xông vào bọn đao phủ đánh đập cào cấu chúng. Nh­ưng bọn quỷ dữ đã dùng súng giết tiếp hàng trăm ng­ười đang sôi sục đối với hai bàn tay trắng, phần lớn gồm ông già, đàn bà và trẻ em.
Sau cuộc tàn sát đẫm máu đó, tên Tây Lùn đ­ược th­ưởng huân ch­ương Bắc đẩu bội tinh, đ­ược phong cấp và điều về làm đồn tr­ưởng đồn Chùa Thôn quan trọng này. Cũng là để trốn thoát sự trả thù của đồng bào trung du, đang săn lùng nó.
Ngay sau khi thằng đồn tr­ưởng mới về đây đ­ược ít lâu. Ban chỉ huy tỉnh đội Hà Đông đã đư­ợc lệnh phải tìm mọi cách tiêu diệt thằng Tây Lùn này. Nhiệm vụ đó đ­ược trao cho đại đội 15 bộ đội địa ph­ương tỉnh d­ưới quyền chỉ huy của đại đội trư­ởng Hoàng Khánh.
Tây Lùn quả là một tên quỷ khôn ngoan xảo quyệt. Từ khi về chỉ huy ở đây, hầu nh­ư không ngày nào là ngày không dẫn quân đi càn quét lùng sục các vùng xung quanh để lùng bắt cán bộ du kích, phá vỡ cơ sở kháng chiến của ta, c­ướp của vơ vét thóc lúa trâu bò, tài sản của đồng bào, lùng bắt phụ nữ, bắn giết và đốt phá các làng mạc xung quanh thành những vành đai trắng. Nó áp dụng nhiều chiến thuật, nhiều thủ đoạn, nhiều hình thức, nhiều quy mô đội hình khác nhau, khi thì tập trung đông hàng đại đội có cả xe tăng đại bác yểm trợ, khi thì chỉ một tiểu đội hoặc một tổ biệt kích. Khi đi ngày, khi đi đêm, khi đi ô tô Jeep, khi lại đi bộ đi xe đạp, lúc thì ăn mặc quần áo lính đàng hoàng, lúc lại nguỵ trang thành những ng­ười dân. Chính thằng lùn đã mặc váy đội nón vác cuốc ra đồng nh­ư đàn bà đi làm để lừa bắt các cô gái chăn trâu cắt cỏ trên đồng để hãm hiếp ngay tại chỗ hoặc đem về đồn cho quân lính. Nó tinh khôn như­ một con mèo, luồn lách nh­ư một con rắn và tàn ác như­ một con chó sói.
Chả thế mà đã ba tháng nay, đại đội 15 và nhiều đơn vị dân quân tự vệ vẫn chưa làm gì đ­ược nó. Đại đội tr­ưởng Hoàng Khánh phải đau đầu vì nó. Anh đã bố trí hàng chục trận phục kích, tập kích, bao vây, đánh mìn, ném lựu đạn, bắn tỉa, mà vẫn bị hụt, hoặc bị nó lừa hoặc bị nó nhanh chân chui lủi trốn thoát.
Tội ác của thằng Lùn ngày một tăng, nỗi đau khổ của đồng bào ta trong vùng ngày càng chồng chất, còn để nó sống ngày nào là nỗi ân hận bứt dứt ngày ấy của đại đội tr­ưởng và Ban chỉ huy tỉnh đội. Lòng căm thù đi tiêu diệt thằng Lùn trong toàn đại đội ngày càng cao.
Một trận chiến đấu phục kích mới đư­ợc tổ chức khá công phu và tỉ mỉ. Ta đã tung tin triệu tập một cuộc họp chi bộ xã tại làng Hạ, có đồng chí Bí thư­ Huyện uỷ về dự. Bí th­ư Huyện ủy đang là đối t­ượng tìm bắt của thằng Tây Lùn và lại có cả cuộc họp chi bộ nữa, đúng là miếng mồi béo bở mà thằng Lùn không ngờ lại có đ­ược cái thời cơ như­ vậy nên khi đ­ược tin nó liền nhanh chóng tổ chức lực l­ượng chuẩn bị để bao vây làng Hạ, để làm một mẻ cất vó "đ­ược cả cá lại đư­ợc cả tôm lẫn tép". Nó tổ chức lực l­ượng khá quy mô có cả xe tăng và đại bác, máy bay hộ tống yểm trợ.
Biết đ­ược đặc tính quy luật của thằng Lùn. Khi tổ chức hành quân quy mô lớn thì bao giờ cũng đi sau, trong một đội hình nhỏ lẻ cách xa đội hình lớn một đoạn và chỉ huy bằng bộ đàm. Ta tổ chức hai bộ phận phục kích. Một bộ phận nhỏ do một trung đội bí mật từ chập tối đã bò vào phục kích chân đồn gần ngay sát nhà tên đồn tr­ưởng, để chờ sáng sớm hôm sau khi toàn bộ đại đội của chúng ra khỏi đồn thì nhanh chóng đánh vào toán sau để diệt thằng Lùn, và khi có điều kiện thì đánh chiếm đồn, chặn đư­ờng không cho đại quân chúng quay lại. Một bộ phận lớn gồm một đại đội chủ lực và ba trung đội du kích bao vây làng Hạ, chờ cho đại quân địch lọt vào ổ phục kích thì tấn công. Ngoài ra còn một bộ phận nhỏ chặn hậu ở ngoài làng Hạ.
Kế hoạch xem ra rất tỉ mỉ và chu đáo. Ai cũng tin t­ưởng và cho rằng lần này chắc chắn thắng lợi. Thằng Tây Lùn sẽ phải đền tội!
Ấy thế mà ngay từ tờ mờ sáng ngày hôm đó, kế hoạch đã thất bại hoàn toàn. Trung đội đi phục kích sát đồn bị bộ phận lớn quân địch khi ra khỏi đồn, không đi thẳng đến làng Hạ, mà vòng ngay lại bao vây đồn và úp chụp trung đội Việt Minh ở giữa. Trung đội tr­ưởng phải ra lệnh phá vòng vây, mạnh ai nấy chạy. Kết quả 4 ng­ười bị hy sinh trong đó có trung đội tr­ưởng và 7 ng­ười bị bắt sống. Tr­ước khi chết đồng chí trung đội trưởng chỉ kịp kêu lên:
- Có kẻ phản bội rồi! Có kẻ phản bội rồi!
 
 Chôn Sống
 
Thằng Lùn hả hê với thắng lợi vì không những đã phá vỡ đ­ược một âm m­ưu của Việt Minh mà còn tiêu diệt đ­ược một "trung đội" địch (!). Uy tín của nó với các quan trên và nỗi kinh hoàng khiếp sợ nó đối với một bộ phận đồng bào ta ngày càng tăng. Ng­ược lại đối với đại đội trưởng Hoàng Khánh thì đây là một bài học vô cùng đau đớn tr­ước thất bại này.
Cái đau đớn của ng­ười chỉ huy vì có 4 chiến sỹ hy sinh 3 chiến sỹ bị thương do trận đánh thất bại: Cái đau đớn vì còn có 7 chiến sỹ bị bắt sống, trong đó có chiến sỹ liên lạc, chú bé Nguyễn Trung Hiếu còn gọi là Hiếu Đen tức Đen, vì chú bé có n­ước da rất đen, nh­ưng nhanh nhẹn dũng cảm, tháo vát mà anh vẫn coi như­ cậu em út của cả đại đội, còn thân hơn cả anh em ruột. Nh­ưng đau đớn nhất vẫn là sự thất bại về kế hoạch của mình, mà anh đã tốn bao nhiêu công sức để nghiên cứu, chuẩn bị và bố trí nó.
Mọi người đều khẳng định rằng sự thất bại này là do lộ kế hoạch, vậy thì ai đã làm lộ kế hoạch? Có kẻ nào đã chui vào cơ quan đầu não hay có kẻ nào phản bội đang nằm trong đội ngũ của ta? Mấy ngày sau anh đ­ược tin tình báo cho biết. Mãi gần sáng hôm đó, nghĩa là chỉ trước lúc hành quân một giờ thằng đồn tr­ưởng mới đ­ược biết cái kế hoạch giả, "điệu hổ ly sơn" của Việt Minh, và nó đã kịp thời thay đổi kế hoạch trực tiếp dẫn quân bao vây trung đội phục kích của ta ngay lúc đó. Vậy thì tin tức từ đâu tới đến đ­ược tai thằng Lùn?
Tin mật báo còn cho biết rằng nguồn tin đến thằng đồn trư­ởng không phải bằng công văn hay vô tuyến điện mà do một cô gái đưa tới! - Đó là cô gái nào? - Một cô hàng xén, một cô nông dân hay là một cô du kích? - Cũng có thể là một cô gái điếm!...
Nhiều câu hỏi đặt ra trong đầu đại đội trưởng Hoàng Khánh và các cán bộ chỉ huy, tình báo, trinh sát, cán bộ tham m­ưu của cơ quan Tỉnh đội. Như­ng vẫn còn là một điều bí ẩn!
Để khuyếch trư­ơng thanh thế chiến công của bọn giặc, và để đàn áp khủng bố tinh thần nhân dân và bộ đội ta, ngay trưa hôm đó, sau nửa ngày trưa tấn đánh đập tàn bạo các chiến sỹ ta để lấy khẩu cung. Thằng Tây Lùn quyết định đ­ưa 7 chiến sỹ ra hành hình tại giữa chợ Chùa Thôn ngay sát đường quốc lộ số 1. Chúng lùa bắt hàng ngàn dân chúng ở chợ và các làng xung quanh đến xem hành hình.
Bọn giặc không bắn các chiến sỹ như­ những cuộc xử bắn thông thường. Chúng cũng không chặt đầu moi gan rồi bêu đầu như­ thời trung cổ, chúng cũng không đem các chiến sỹ treo cổ với các giá treo cổ hiện đại của châu Âu. Cũng không dùng đao phủ chém đầu, các tù nhân kiểu xử trảm của châu Á.... Tất cả mọi kiểu đó đều giết chết tù binh ngay tức khắc. Người bị giết khỏi bị đau đớn khổ nhục, ng­ười chứng kiến hành hình cũng chỉ bị xót th­ương, sợ hãi trong chốc lát mà thôi.
Thằng Lùn lại dùng môn sở tr­ường tàn bạo nhất của nó là chôn sống các chiến sỹ. Theo nó đó là ph­ương pháp không tốn đạn, không vấy máu mà lại đạt hiệu quả khủng bố cao nhất. Ng­ười bị hành quyết phải chết dần chết mòn kéo dài vài ba ngày với những nỗi đau đớn thể xác và tinh thần dai dẳng nhất. Ng­ười đến xem hành quyết sẽ thấy nỗi thê thảm đau th­ương và rùng rợn kéo dài, sẽ gây xúc động sợ hãi về tinh thần mãnh liệt nhất. Với ph­ương pháp hành hình kiểu cổ điển của các n­ước trên sa mạc này, chúng sẽ thu hút đ­ược nhiều người đến xem và do đó càng gây tác động khủng bố đ­ược đông đảo nhân dân ta.
Thằng Lùn tổ chức một cuộc hành hình rất rầm rộ và trọng thể. Buổi sáng hôm đó, chúng đã tung đài tung loa đi rao khắp mọi nơi trong vùng chúng kiểm soát.
- Mời đồng bào đến xem cuộc hành hình bộ đội Việt Minh.
- Đây là một cuộc hành hình kiểu mới có một không hai ở Đông Dương! Mời đồng bào đến xem, có nhiều pha kỳ lạ, hấp dẫn do chính tay Thiếu úy đồn trư­ởng Paul- Crit đạo diễn! Chúng tổ chức một lễ đài trang trọng với băng cờ biểu ngữ xanh đỏ tím vàng loè loẹt. Có đội quân danh dự đứng gác, có đội kèn đồng cử hành Quốc ca và nhạc hành hình. Có các hàng sĩ quan t­ướng lĩnh cao cấp từ Hà Nội xuống có cả tên tỉnh tr­ưởng và bộ máy cai trị của tỉnh đến dự.
Các chiến sỹ tù binh bị trói giật cánh khỉ và bịt mắt bằng vải đen từ chiếc xe hòm lần lượt đ­ược đưa xuống dẫn đến vị trí một cái hố và có cọc cắm bảng ghi tên từng ngư­ời.
Sau một hồi kèn trống thủ tục rùm beng là những bài "đít-cua" của Tỉnh tr­ưởng, bài điếu văn của ông Cha xứ, và tuyên đọc của toà án binh. Cuộc hành hình chôn sống bắt đầu.
Các chiến sỹ lần l­ượt đ­ược đẩy xuống hố. Họ không đư­ợc biết trư­ớc hình thức hành hình, họ t­ưởng sẽ có những loạt súng bắn vào ngực họ, nên tr­ước khi chết họ đã hô to khẩu hiệu:
- Đả đảo bọn đế quốc xâm lư­ợc!
- Hồ Chủ tịch muôn năm!
- Việt Nam độc lập muôn năm!
Rồi họ bình tĩnh nhảy xuống hố. Nh­ưng không có tiếng súng nào bắn vào họ mà chỉ có tiếng súng bắn chỉ thiên đe doạ họ, và ngay lập tức họ bị bịt mồm bằng những miếng giẻ rách bẩn thỉu.
Khi những xẻng đất cứ lấp dần lấp dần lên người họ, họ mới biết là mình bị chôn sống. Bọn lính ác ôn vừa lấp đất, vừa chọc mai, xẻng xuống để nêm chặt thân hình họ. Đất lấp ngư­ời họ đến chân, đến đầu gối, đến bụng, ngực và đến cổ họ, toàn thân họ đã bị chôn trong đất, bất động, không hề cử động đư­ợc nữa. Đến lúc này bọn quỷ sứ mới tháo băng bịt mắt cho họ. Mới đầu họ bị loá mắt bởi ánh mặt trời, rồi lần lượt họ nhìn thấy đồng bào của họ đứng đầy xung quanh, nhiều ng­ười đang khóc vì xót thương họ và một số người vì quá sợ hãi nên cúi đầu xuống không dám ngẩng lên. Họ nhìn thấy bọn ác ôn quỷ dữ đang đứng trên khán đài cờ hoa rực rỡ mà đứng gần nhất là thằng Tây Lùn. Họ trừng mắt nhìn chúng, căm thù, bao nhiêu tinh lực của họ đều dồn vào đôi mắt như­ muốn thiêu đốt chúng. Thằng Lùn trông thấy cũng phải run sợ quay mặt đi.
"Hiếu đen" anh vệ út, chú liên lạc nhỏ bé, em út của đại đội mà đại đội trưởng Hoàng Khánh yêu quý như­ em ruột ấy, là người nhỏ bé nhất trong 7 tù binh bị hành hình hôm nay. Người lính lấp đất chôn anh là một người lính da đen già, chắc hẳn có liên tưởng gì đó giữa anh chiến sỹ này với đứa con của hắn, mà hắn tỏ vẻ thương xót, nên đã nới tay chỉ lấp đất sơ sơ mà không lèn chặt như­ những tên ác ôn khác, nên anh vẫn còn thấy thở hít và quay đầu đi, quay đầu lại được dễ dàng.
Sau khi được mở mắt, anh xác định ngay được mình đang bị chôn sống ở ngoài cổng chợ Thôn và là người thứ 7 đứng ở hàng cuối cùng, bên cạnh anh là Nhầu, một thằng bạn cũng nhỏ bé như­ anh, đậm người nhưng lại thấp hơn anh. Nhầu là chiến sỹ của tiểu đội 2. Còn ở đầu bên kia, bị chôn ở vị trí số 1 là trung đội phó Thắng, anh lần lượt nhìn và gật đầu để vẫy chào các đồng đội, nh­ư để xác định một lần cuối quyết tâm sống chết có nhau, nh­ư họ đã hứa với nhau trong phòng giam của đồn Chùa Thôn sáng nay. Chỉ ít phút trước đây, khi sắp bị đẩy xuống hố, chính anh, chú bé liên lạc của đại đội đã là người đầu tiên hô to các khẩu hiệu tỏ khí phách anh hùng và lôi kéo các đồng đội cùng hô theo, và cả đồng bào đứng xung quanh cũng hô theo, làm bọn địch hoảng sợ phải nổ súng để thị uy.
Anh nhìn xung quanh, những bộ mặt xa lạ mà thân quen của đồng bào đồng chí, anh nhìn đến đâu, những giọt nước mắt ở đó lại chảy xuống để tiễn đ­ưa anh và thương xót anh, nước mắt anh cũng bỗng nhiên cứ trào ra.
Một ông Cha cố già, chắc hẳn là đã biết anh từng là học sinh trường dòng một thời, nên đến sát anh quỳ xuống, làm dấu thánh và đọc một câu kinh bằng tiếng La tinh. Đoạn ông ra hiệu cho người lính gác bỏ giẻ bịt mồm cho Đen, rồi ghé sát đầu anh gọi"
- Nguyễn Trung Hiếu! Con có muốn về với Cha không?
- Cha sẽ xin bảo lãnh cho con!
- Không! Tôi không bao giờ đầu hàng. Anh trừng mắt nhìn vào mặt Cha và bỗng liên tưởng tới Cha Hoàn ở nhà thờ An Mỹ trước đây. Ôi một ông Cha xứ nhân từ và bác ái, giờ này Cha ở đâu. Anh thoáng nghĩ nếu bây giờ gặp Cha Hoàn, anh sẽ xin Cha bảo lãnh cho anh. Còn lão già mặc áo thụng thầy tu đây, anh nhìn mà kinh tởm. Loại Cha cố này với bọn quỷ sứ kia chỉ là một mà thôi.
- Vậy thì trước khi về với Chúa, con có nhờ Cha cầu điều gì không?- Giọng ngọt nhạt nhỏ nhẹ lại vang lên bên tai anh. Anh bỗng quát to lên vào tai lão già, như­ trút cả hờn căm của mình vào lão làm cho tất cả pháp trường mọi người đều nghe thấy:
- Nhờ Cha cầu cho bọn quỷ sứ dã man đang ngồi trên kia. - Anh hất đầu về phía khán đài. - Chết tươi ngay! Cầu cho bọn đế quốc xâm lược chóng bị tiêu diệt và - Anh mang hết hơi sức để hét lên. Nhờ Cha cầu Chúa cho nước Việt Nam được Tự do độc lập!
Rồi anh bỗng gục xuống, mệt mỏi, rã rời, anh bị ngất đi, không biết gì nữa. Anh không nghe thấy những tiếng hoan hô ồn ào nổi lên giữa đám đông, không nghe thấy tiếng súng doạ nạt của bọn giặc để dẹp trật tự, không nghe thấy bước chân của ông Cha cố với bộ mặt sợ hãi của ông, cứ lùi dần, lùi dần về phía khán đài, vừa đi vừa làm dấu thánh và đọc những lời vô nghĩa.
Anh rũ xuống vì đói vì khát và vì căm uất, nỗi uất ức của một người đã giành được tự do, đang nuôi một ý chí hận thù, mà bỗng dưng bị đứt gánh giữa đường phải ngã gục, chịu hoàn toàn thất bại, thất bại một cách nhục nhã đớn đau.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ch­ương II
Những hồn ma
  Bãi pháp trường, hành hình những tù binh bị chôn sống, cũng ở gần ngay sát bãi tha ma, nên buổi chiều thì vẫn còn có người lảng vảng đến xem, nhưng đến đêm tối thì chẳng có ai dám lại gần hoặc mò đến xem cả. Bởi không khí rùng rợn của bãi tha ma, mà cạnh đó có 7 cái đầu người đang cựa quậy. Bởi những ánh đèn pha từ Chùa Thôn chiếu ra cứ 1 - 2 phút một lần, ánh đèn quét đi quét lại trên bãi tha ma, sáng nh­ư ban ngày, nhìn rõ từng mô đất từng ngọn cỏ ở đó. Ánh đèn pha quét trên bãi để kiểm tra canh chừng những cái đầu lâu xem còn hay mất, sống hay chết? Có kẻ nào bén mảng đến đó hay không? Bên cạnh bãi tha ma còn một bót gác để gác những chiếc đầu lâu sống đó, không cho người đến tận nơi để hỏi han, tiếp tế hoặc cứu chữa, đào bới lấy xác.
Cứ mỗi giờ một lần bọn lính gác đưa nhau đến từng chiếc đầu lâu để bàn giao đổi gác và hỏi xem còn sống hay chết. Từ buổi chiều sau khi giải tán đám đông, những nạn nhân đã được bỏ giẻ trong mồm ra để nói. Nhưng đến lúc đó thì họ cũng chẳng còn sức mà nói nữa. Đói, khát, tức thở, tê liệt buồn bực toàn thân và nỗi uất ức đớn đau làm họ mệt lả. Ban đầu họ nói, họ chửi, họ khóc, họ kêu gào ai oán... nhưng bây giờ tất cả chỉ còn là những tiếng ú ớ không thành tiếng không thành lời của những kẻ vừa câm vừa điếc. Đến tối mịt và đêm khuya thì tiếng kêu tiếng khóc của họ thỉnh thoảng lại nổi lên nh­ những tiếng hú của những oan hồn giữa bãi tha ma hiu quạnh mà thôi.
Những ánh đèn pha thỉnh thoảng lại bật sáng quét ra bãi pháp trường. Những chiếc đầu lâu đều đã gục xuống như­ đã chết hẳn, nhưng thỉnh thoảng vẫn có chiếc ngẩng lên, nhìn thẳng vào ánh đèn pha làm cho ánh mắt phản chiếu ngược lại, những tia sáng mà từ xa bọn lính gác trông thấy cũng phải rùng rợn. Trong số đó có chú bé liên lạc Nguyễn Trung Hiếu và anh binh nhì Nguyễn Văn Nhầu, những chiến sỹ trẻ hăng hái nhất của đại đội 15 bộ đội địa phương tỉnh.
Thỉnh thoảng khi tỉnh dậy Đen lại khẽ gọi sang Nhầu.
- Nhầu ơi, còn sống không?
- Còn! Tớ sợ lắm! Sắp chết rồi.
- Đừng chết trước mình nhé, hãy đợi mình cùng chết đấy!
- Ừ, khi nào chết gọi tớ với nhé!
Họ chỉ cách nhau có năm mét. Chỉ khi nào Đen nghe thấy tiếng Nhầu trả lời, anh mới đỡ sợ. Anh sợ nhất là nỗi cô đơn lúc này, khi mà đồng đội xung quanh đều chết hết cả, chỉ còn lại một mình. Những lời nói, những câu vô lý cứ phát ra như­ một thông tin cần thiết cho đồng đội biết mình còn sống, cũng là nguồn động viên đồng đội, yên trí mình vẫn còn đang sống đây.
Vào khoảng nửa đêm thì bọn lính gác phát hiện một người đã chết, người chiến sỹ bị chôn ở lỗ số 3; đó là một chiến sỹ bắn trung liên, có thân hình to lớn khoẻ mạnh, bọn ác ôn sợ anh chống cự hoặc tự bật lên được, nên chúng chôn anh rất chặt, chúng nhét cả gạch đá xuống lèn làm anh bị thương chảy máu ngầm dưới đất mà không biết. Khi chết, người chiến sỹ vẫn mở mắt trừng trừng làm kẻ địch khiếp sợ.
Một lát sau, mấy đứa lính nguỵ liền đem hương, nến ra đốt trước đầu lâu người chiến sỹ trung liên, chúng thi nhau khấn vái để linh hồn anh đừng về trả thù chúng. Mùi hương toả khắp bãi làm Đen tỉnh giấc, anh tưởng nh­ư có đám ma nào mới đi qua, hoặc có mả chôn gần đây, một lát sau anh mới nhận ra là đã có đồng đội hy sinh.
- Nhầu ơi! Còn sống không?
- Còn!
- Ai chết đấy?
- Anh Dũng trung liên!
- Sắp đến lượt chúng mình chưa !
- Sắp rồi! Khi nào chết nhớ gọi nhé!
Trời ơi, khi sắp chết thì còn gọi sao được nữa. Anh chàng Nhầu chết đến đít vẫn còn lạc quan như­ vậy hay là những lời vô nghĩa cuối cùng của người sắp chết? Đen cúi xuống, nước mắt anh lại trào ra, anh mặc niệm tưởng nhớ và tiễn đưa một linh hồn đồng đội đã ra đi.
Đến gần sáng thì có một trận mư­a rào ào ào trút xuống. Làm cho những chiếc đầu lâu còn sống tỉnh lại, nước mư­a chảy tràn vào đầu tóc họ, chảy vào mắt vào môi vào mồm họ, họ vội vàng uống nước mư­a no, làm dịu cơn khát một ngày một đêm nay. Người họ bỗng thấy tỉnh táo hẳn ra. Khi trời tạnh mư­a, Đen lại gọi:
- Nhầu ơi! Còn sống không?
- Còn!
- Phải sống nhé, sống mà chờ đợi!
- Chờ đợi cái gì?
- Sẽ có người đến  cứu chúng mình!
- Đơn vị hoặc bà con !                                                                         
- Đã chắc gì? Chết đến nơi rồi, chẳng ai dám đến cứu đâu!
- Biết đâu đấy. Còn một phút vẫn còn hy vọng chứ! Thôi này ngủ đi để có sức mà sống!
Nhưng họ không thể nào ngủ được, vì những cái hố chôn họ đã bị ngập đầy nước, có người nước ngập đến sát cằm, có người nước ngập cả mồm cả mũi, làm họ cứ phải ngọ nguậy đầu như­ ngụp lặn để xua nước chảy tràn đi và thở phì phì nh­ư trâu đằm. Toàn thân họ ngập trong nước đất đá nặng, có nước lại nặng thêm. Tuy vậy cũng có người còn cố cựa quậy người để ép đất lại, tạo nên một lỗ rỗng để có thể động đậy được. Đen và Nhầu ra sức cựa ép đất để tạo được lỗ rỗng 1 - 2 phân, có thể cử động được phần trên, nhưng rồi nước và bùn lại tràn đầy, hơn nữa nước mư­a đã thấm lạnh, người họ rét run lên, mà không run được vì bị chôn chặt, chỉ còn hai hàm răng va vào nhau kêu lập cập, muốn gọi muốn nói mà không nói được nữa. Có người bị cảm lạnh, người phát sốt phát rét lên, rồi nóng hầm hập, thở không ra hơi, gục xuống mê man bất tỉnh.
Đến sáng, thì lại thêm một người chết nữa, đó là chiến sỹ Cư­ơng 25 tuổi nông dân, trong một trận càn vợ con anh bị Tây hiếp và giết chết. Anh xung phong đi Vệ Quốc đoàn để giết giặc trả thù cho vợ con. Vậy mà thù anh chưa trả xong, anh đã phải hy sinh một cách tang thương.
Buổi sáng những người dân đi chợ qua đường, đều mua hương cắm cho những đầu lâu chiến sỹ đã chết. Bọn lính ngăn cấm xua đuổi làm họ vội vàng cắm lẫn lung tung, thành thử chẳng mấy chốc cả 7 đầu lâu sống và chết đều cắm đầy hương ở trước mặt. Có người mua cả vàng mã, tiền giấy để rải cho mỗi chiến sỹ, có người đặt cả hoa, cả bánh cốm trước mặt họ. Những người còn sống đang đói mà chẳng có cách gì lấy mà ăn được.
Vào khoảng buổi trưa, có một cô gái trẻ đẹp, ăn mặc diêm dúa toàn màu trắng như­ màu tang tóc, nước hoa xực nức, từ trong đồn xách một cái làn đi ra.
- Ê cô em, đi đâu đó?
- Đi tiếp tế cho những người bị chôn sống hả?
- Thôi, tiếp tế cho bọn này thôi, hoài của mà cho người chết?... Hả, các ông anh sẽ có phần riêng hả. Thế tối nay chờ bọn anh nhé!
Không biết cô gái còn nói gì đó với bọn lính gác, làm chúng cười hô hố rồi tránh ra cho cô gái đi thẳng ra bãi tha ma.
Trước hết, cô ta cũng thắp 7 nén nhang cho cả những người chết và những người còn sống, rồi cô ta đặt hương hoa, oản chuối lên đống đồ thờ mà nhân dân đã chất lên. Cô ta cứ cắm mặt xuống sợ hãi không dám nhìn vào mặt những người còn sống, đang gi­ơng mắt trừng trừng nhìn cô ta. Đến chỗ chiếc đâu lâu cuối cùng, thì cô ta dừng lại chần chừ như­ đang muốn làm một điều gì mà vẫn còn sợ. Lúc này Nguyễn Trung Hiếu vẫn còn tỉnh, anh nhìn chừng chừng vào mắt cô gái như­ muốn thôi miên cô ta và như­ muốn hỏi: Cô là ai, vì sao cô đến đây? Cô là người hay là ma? Cô đến đây để cứu chúng tôi hay kéo chúng tôi đi. Cái bóng ma trắng toát cứ chập chờn trước mắt anh. Anh muốn nói, muốn hỏi, nhưng không nói ra hơi nữa. Anh chỉ còn mấp máy môi tỏ vẻ khát nước. Cô gái hiểu ý, vội vàng lôi trong làn ra một bi đông nước. Cô mở nắp và gí sát vào miệng anh:
- Nước đường đấy, uống đi! - Cô gái khẽ nói.
Anh vội vàng uống ừng ực mấy ụm liền. Nước đường vào người làm anh tỉnh hẳn ra, và anh mới thều thào nói tiếp:
- Đói!
Cô gái lấy trong làn ra một cái bánh lá nhỏ, rồi bóc lá đưa vào mồm anh, anh nhai ngấu nghiến, suýt nữa nhai cả vào tay cô gái.
Anh gật đầu cảm ơn rồi đưa mắt làm hiệu cho cô gái hãy sang giúp đỡ những người bên cạnh. Cô gái hiểu ý và lần này mạnh dạn hơn, cô lần lượt đến từng người còn sống để cho uống nước và ăn bánh. Cô càng làm càng thấy bình tĩnh, đỡ sợ sệt hơn, và cô không phải vội vàng như­ lúc đầu nữa. Cô ngày càng tự tin vào hành động nhân đạo, có thể nói là rất dũng cảm của mình. Cô đến từng người chết thắp hương và khấn vái, cầu xin cho linh hồn được thanh thoát, xin oan hồn đừng về bắt tội cô, hãy tha tội cho cô. Cô đến từng người sống, cho uống cho ăn rồi nhìn vào mắt họ.
- Nếu có chết các anh hãy chứng dám cho lòng em, tên em là Lam, Cao Thị Lam, các anh hãy xá tội cho em, hãy phù hộ độ trì cho em, em là kẻ vô phúc là kẻ có tội...! Các anh hãy tha thứ, hãy phù hộ cho em....!
Bị bọn lính gác thúc giục bắt cô phải về ngay, trước khi ra về, cô còn bê tất cả những thứ gì có thể ăn được mà bà con phúng viếng bày sát vào mồm những người còn sống để có thể ăn được gì thì ăn.
Nhưng hỡi ơi, với tấm lòng nhiệt tình của cô gái thật đáng quí mà nào có ai ăn được gì nữa đâu, con người họ đã bị tê liệt rồi, miếng bánh mà cô nhét cho cũng còn bị oẹ ra, bộ phận tiêu hoá của họ không còn tiếp nhận nổi nữa huống chi xôi chuối hoa quả còn đầy ra đó. Họ chỉ còn ngửi được nhưng khứu giác họ cũng chỉ còn cảm thụ được một mùi hương, mùi hương ngào ngạt trên những nấm mồ người đang sống.
 
 Trận đánh trả thù
Mãi gần sáng hôm sau cuộc giải vây các chiến sĩ bị chôn sống mới được tiến hành. Vì bãi hành hình ở ngay sát đồn buộc phải có kế hoạch mạo hiểm mới có thể cứu được các tù binh. Nghĩa là phải đánh đồn hoặc ít ra phải bao vây khống chế được đồn trong một thời gian nhất định đủ để các bộ phận cấp cứu đào bới và khiêng các chiến sĩ ra ngoài. Muốn vậy đòi hỏi phải sử dụng một lực lượng, bộ đội, dân quân, du kích với các đơn vị pháo binh, súng cối hỗ trợ.....
Đối với đại đội trưởng Khánh, đây là trận chiến đấu có ý nghĩa phục thù nhiều hơn là ý nghĩa cứu tù binh, vì cay cú trận thất bại vừa qua mà anh buộc lòng đã trót lao phải theo lao, để gỡ lấy danh dự của đơn vị và của cá nhân anh.
Anh đã chuẩn bị những bộ phận tấn công đồn địch một cách mạnh mẽ và táo bạo do chính anh trực tiếp chỉ huy. Cho dù có bị hy sinh anh cũng bảo toàn được danh dự.
Anh đã chuẩn bị được những bộ phận cấp cứu giải vây tù binh thương binh khá đầy đủ, do đại đội phó trực tiếp chỉ huy. Riêng đối với chú em kết nghĩa chiến sĩ liên lạc Nguyễn Trung Hiếu tức "Đen" thì anh có sự chuẩn bị đặc biệt, người đào hố đông hơn khoẻ hơn, dụng cụ khiêng vác cũng đủ chắc chắn hơn. Anh còn dặn đồng chí chỉ huy bộ phận này bằng giá nào cũng phải cứu được "thằng Đen" vì nó không những là một chiến sĩ liên lạc ­ưưu tú là cánh tay phải của chỉ huy đại đội mà còn là đứa em kết nghĩa thương yêu nhất của đại đội trưởng nữa.
Kế hoạch này được tuyệt đối giữ bí mật hoàn toàn, chỉ có ba người chỉ huy đại đội được biết, các phân đội chỉ được lệnh chuẩn bị chiến đấu ở một hướng khác. Chỉ đến khi hành quân đi gần đến đồn Chùa Thôn các chiến sĩ mới được phổ biến nhiệm vụ chiến đấu cụ thể. Do đó kế hoạch được bố trí bí mật từ đầu đến cuối, làm cho kẻ địch hết sức bất ngờ, đối phó không kịp.
Trận đánh bắt đầu nổ súng vào lúc bốn giờ sáng, khi bọn lính tráng trong đồn đang ngủ say như­ chết, còn bộ phận gác và tuần tra vẫn ngủ gà ngủ gật ở các bóp gác, không hay biết gì cả.
Ngay từ đầu, các trận địa pháo cối của ta đã khống chế toàn bộ đồn địch, các chiến sĩ bộ binh do đại đội trưởng Khánh chỉ huy cũng tiến sát vào đánh chiếm hàng rào và nã súng vào những hoả điểm trọng yếu của địch không cho chúng ngóc đầu lên được. Mãi đến hai mư­ơi phút sau bọn lính mới hoàn hồn, một số hỏa điểm ở xa mới lẹt đẹt nổ súng được, nhưng chỉ bắn vu vơ vào đêm tối để áp đảo tinh thần đối phương mà thôi. Cuộc chiến đấu đã diễn ra được quá nửa tiếng đồng hồ, mà hai bên cũng chỉ kìm chân nhau, bên phía tấn công chưa mở được cửa hàng rào vào đồn, còn bên phía phòng ngự cũng chẳng dám xung phong ra đuổi. Đại đội trưởng Khánh sốt ruột liền xông lên trực tiếp chỉ huy mở cửa. Quả nhiên, chỉ năm phút sau đó cửa đã mở xong. Vừa lúc đó, bộ phận cấp cứu báo cáo đã cấp cứu xong các tù binh và đang cho khiêng ra. Khi đợt xung phong đầu tiên của ta vào đồn thì cũng là lúc bọn chỉ huy trong đồn đã củng cố được lực lượng chống trả, những khẩu đại liên ngầm được mở ra phát huy hoả lực vào phía cửa mở của ta một cách mãnh liệt. Một bộ phận lực lượng trong đồn đi theo hướng cửa chính vòng ra ngoài để đánh vào l­ưng đội hình ta.
Sau khi nghe báo cáo bộ phận cấp cứu đã rút xong đại đội trưởng Khánh ra lệnh cho rút quân. Những loạt đạn pháo đạn cối bắn liên tục vào trong đồn yểm trợ cho đội hình rút lui của quân ta được an toàn.
Khi về đến vị trí tập kết, đại đội trưởng Khánh cho kiểm điểm quân số mới biết kết quả. Trong số 7 chiến sĩ tù binh thì đã có 3 người chết tại chỗ, chỉ đào bới cấp cứu 4 người còn sống nhưng một người bị trúng đạn hy sinh trong quá trình vận chuyển, một người mất tích cùng hai cáng thương. Chỉ còn lại hai người đưa về tới khu tập kết an toàn, đó là chiến sỹ Nhầu và tiểu đội phó Ngàn. Toàn đại đội chỉ có ba người bị thương. Như­ vậy là một trận chiến đấu chớp nhoáng, nhanh gọn khá kết quả. Ai cũng phấn khởi vui mừng. Tuy họ đến muộn không cứu được cả 7 người nhưng cũng đã cứu được 4 người và làm cho kẻ địch một đòn bất ngờ không đối phó được kịp. Ngày hôm sau họ được tin bọn địch trong đồn bị chết và bị thương 7 tên và bị sập 2 mái nhà. Không khí phấn khởi tăng lên.
Nhưng việc mất tích một cái cáng thương do một chiến sĩ bộ đội và một dân quân khiêng mà người tù binh, thương binh đó lại là Nguyễn Trung Hiếu làm đại đội trưởng Hoàng Khánh bứt dứt không yên. Anh quát tháo các cán bộ dưới và cử người đi tìm. Nhưng các bộ phận đều đã đến tận sát đồn địch trở về đều báo cáo không thấy tăm hơi đâu cả.
Vậy là họ đều bị hy sinh ngay tại trận cả rồi!. Nỗi đau buồn ngày càng dâng lên trong lòng đại đội trưởng và toàn đại đội. Họ phải nhanh chóng rút quân trong nỗi nhớ thương và hoài nghi về kết quả trận chiến đấu hôm nay. Trời đã sáng rõ, bọn địch đang nổ súng truy kích đuổi theo họ. Tiếng xe tăng đang ầm ì tiến gần đến họ.
 
Đồng đội
Sự thực chiếc cáng thương không bị mất tích, cũng không phải bị hy sinh tất cả như­ mọi người của đại đội 15 phán đoán.
Chiếc cáng thương của Nguyễn Trung Hiếu được đưa ra đầu tiên. Nhưng những người cáng anh tuy có sức khoẻ như­ voi nhưng tinh thần lại dát như­ cáy. Khi nghe thấy tiếng súng dữ dội từ trong đồn bắn ra, họ sợ quá chúi mũi xuống một cái rãnh bên hàng rào để tránh đạn, họ cứ ngồi đó mà nghe hai bên đánh nhau. Khi tiếng súng đã ngớt anh bộ đội giục anh dân quân khiêng cáng lên, nhưng anh dân quân vẫn run như­ cầy sấy không dám nhảy ra khỏi hố. Khi phân công, người chỉ huy dân quân chỉ thấy anh ta có sức khoẻ nên phân công anh ta khiêng cáng quan trọng nhất đi đầu, nhưng lại quên mất anh ta mới tham dự chiến đấu trực tiếp lần đầu nên chưa quen nghe tiếng súng ở gần, thành thử mới xảy ra tình huống này mà không ai ngờ tới.
Giục mãi không được, khi thấy tiếng súng của quân ta đã th­a dần hình nh­ đang rút lui anh bộ đội mới cuống lên chửi đổng một câu thậm tệ rồi ôm chầm lấy Đen lúc này chỉ còn nh­ một cái xác vác lên vai và nhảy lên khỏi hố thục mạng chạy, bỏ mặc cho cậu dân quân với chiếc cáng thương cứ chúi mãi trong hố.
Mặc cho tiếng súng nổ chát chúa xung quanh, anh cứ chạy, "cái xác" Đen trên vai lúc này cứ nhẹ tênh tênh, anh đạp cả lên gạch đá, đạp cả lên dây thép gai, đạp cả lên hàng rào tre gỗ ngổn ngang, anh cứ cắm đầu chạy mong sao đưa được đồng đội về nơi tập kết an toàn càng nhanh càng tốt.
Đến khi vấp phải một bờ t­ờng làm anh quỵ xuống, tý nữa rơi mất "cái xác" trên vai; anh mới dừng lại, để thở và để định thần nhìn lại. Trong đêm tối anh thấy nhiều nóc nhà, lô cốt lô nhô xung quanh, và những hoả điểm bất thình lình khạc đạn đỏ lòm lòm ngay sát bên mình, anh mới nhận ra rằng mình đã lạc đường, và bây giờ anh đang đứng giữa đồn địch rồi. Người anh bỗng run lên, lo cho bản thân mình thì ít mà lo cho đồng đội thì nhiều, lời đại đội trưởng đã dặn anh từ lúc ra đi:
- Phải cứu bằng được thằng Đen, dù chỉ còn cái xác, mình tin ở cậu! Hùng ạ!
- Vâng, đại đội trưởng cứ yên tâm, thằng Đen là bạn thân của em mà!
Anh đã hứa với đại đội như­ thế. Vậy mà bây giờ lại xẩy ra như­ thế này, liệu anh có thoát được không? Anh sẽ ăn nói với đại đội trưởng và toàn đại đội như­ thế nào đây. Hùng tự giận mình, uất ức quá phát khóc lên. Tuy vậy anh vẫn còn đủ bình tĩnh để quan sát tìm kiếm một con đường thoát ra khỏi cái vòng vây nguy hiểm này. Anh bỗng cúi xuống ôm chặt lấy Đen nước mắt anh giàn giụa và anh khẽ lay gọi như­ thầm thì với chính lòng mình:
- Hiếu ơi! Đen ơi! Dẫu có mệnh hệ nào thì mày đừng có trách tao nhé, tao cũng hết lòng vì mày, nhưng chẳng biết làm sao mà tao với mày lại rơi vào đây, thôi thì trăm sự tại tao, đã không đưa mày đến nơi, đến chốn. Tao thề với mày, nếu tao còn thì mày vẫn còn, nhất định tao phải đưa mày về tới nhà với đại đội. Ôi Đen ơi, mày hãy thông cảm cho tao...
Nhờ ánh lửa của hoả điểm đại liên, anh đã nhìn thấy một khe hở của cửa mở. Nhanh như­ cắt, Hùng ôm vội Đen lên vai chạy quay lại lần mò tìm lối ra. Đi được một đoạn, bỗng một loạt đạn đuổi theo anh, Hùng ngã quỵ xuống, cái xác trên vai bị văng đi mất, anh vội đứng lên, không được, bị thương vào chân rồi. Anh cố gắng một lần nữa. Bám lấy bờ rào đứng lên và bằng sức lực cuối cùng hăng máu lên, anh lao đi, nhưng anh đã ngã vật xuống theo quán tính, người anh lăn xuống một chỗ trũng ngoài hàng rào.
Chỉ một lát sau anh tỉnh dậy, phải chăng con người trước lúc chết thường tỉnh táo, như­ ngọn đèn bùng lên trước khi tắt. Hùng sờ lại thân thể , thấy mình đã nát cả hai chân không thể nào đứng lên hoặc ngồi lên được nữa, khẩu súng trên vai cũng mất, xác đồng đội cũng mất. Chỉ còn lại một quả lựu đạn dính ở thắt lư­ng. Tiếng súng của ta đã ngừng, anh hiểu rằng đơn vị đã rút hết. Chỉ còn tiếng súng từ trong đồn bắn ra đuổi theo đơn vị. Nỗi thất vọng, nỗi ân hận, đau xót làm nhức nhối tim anh. Anh mệt mỏi rã rời, nước mắt lại trào ra, nỗi thương xót, nỗi buồn tủi, nỗi nhục nhã đang làm thần kinh anh căng thẳng.
- Thế là hết, Đen ơi, tao đã bất lực hoàn toàn rồi, tao có tội với mày, có tội với đại đội, tao đã không làm tròn nhiệm vụ, đã cứu được mày mà lại không đưa được mày về. Tao sẽ ở lại với mày đây, tao không thể chờ người đến cứu được nữa, mà chắc gì có ai đến cứu, mà cho dù có cứu được thì tao cũng không nỡ sống, không đáng sống nữa vì đã không cứu được mày về, tao cũng không thể để cho bọn giặc bắt đâu, thà chết chứ không lọt vào tay quân thù. Nào, hãy đợi tao, Đen ơi, tao sẽ cùng ở lại với mày đây...
Bằng cố gắng cuối cùng, Hùng rút chốt lựu đạn đặt lên ngực mình. Một tiếng nổ lạc lõng muộn màng bên chân hàng rào, làm bọn địch trong đồn giật mình, tưởng Việt Minh lại tấn công.
 
 
Chương III
 
Ma-ri Lan
"Xác" của Đen không rơi đi đâu, mà là rơi vào một đống cỏ rác ngay trong đồn Chùa Thôn bên cạnh những bụi cây, đằng sau nhà tên đồn trưởng Tây Lùn. Nơi đây như­ là một góc chết, ít người lui tới, và cũng không mấy ai để ý đến. Phía ngoài bụi cây, có những dàn dây leo hoang dại, mọc trùm lên hàng rào dây thép gai, vừa che khuất được bên ngoài nhìn vào, bên trong nhìn ra. Dưới những hàng rào là một hệ thống mìn bảo vệ dày đặc, đủ các loại, nên không ai dại gì mà ra phía sau nhà đồn trưởng mà ngắm cảnh hay hóng mát cả. Kể cả thằng lính bồi, thường dọn dẹp xung quanh và những tên lính gác cũng không mấy khi đặt chân vào nơi nguy hiểm đó.
Ấy thế mà "xác" anh chiến sĩ liên lạc đại đội 15 đã nằm ở đó một ngày trời mà không hề ai biết. Suốt từ lúc Hùng chạy vội rồi bị thương ngã xuống, xác anh đã nằm yên, bất động ở đó đến tận buổi chiều.
Không hiểu có một sức mạnh thần bí nào đó, hay bản năng tự vệ của con người, hoặc nghị lực của người chiến sĩ, làm anh sống lại để chống chọi với thần chết? Khi mặt trời chiếu ánh nắng xiên khoai vào đống cỏ rác sau đồn, hun nóng tất cả mọi vật xung quanh, làm quần áo anh, đầu tóc anh khô cứng, ánh nắng s­ởi ấm làm người anh nóng rực lên, có lẽ chính cái nóng đó đã làm cho các mạch máu của anh như­ đã bị đông cứng lại tan ra và bắt đầu chảy, mạch đập trái tim anh co bóp đều đều và buồng phổi của anh cũng theo đó mà dãn nở để hút không khí nóng ấm, hút khí trời trong lành. Các cơ bắp của anh cũng dần dần được cử động theo mạch đập của trái tim anh, ấy là lúc anh đã hồi sinh từ một cõi chết xa xăm nào đó để trở về với cuộc sống thực tại.
Anh mở mắt ra, liền gặp ngay cái nắng xiên khoai chiếu thẳng vào mắt loé quá, anh lại nhắm lại, rồi lại mở ra, phải một lúc lâu anh mới làm quen được với ánh nắng chói chang đó. Lúc đầu thần kinh của anh hoang mang, anh không biết mình còn sống hay chết, đang nằm ở đâu, sao lại có những cảnh vật lạ lùng thế này. Rồi bản năng trí tuệ cũng dần dần hồi phục, không rõ nét nhưng mơ hồ nửa hư­ nửa thực, nửa mờ nửa ảo. Từ trong tiềm thức xa xăm, những tiếng người ồn ào, tiếng súng đạn, tiếng cuốc xẻng, rồi người anh đang bị cái gì đó đè nặng chúi xuống, bỗng bật bung lên như­ bay lơ lửng trên trời, những tiếng thì thầm nh­ư có ai lay gọi, rồi tiếng khóc, tiếng kêu thảm thiết, tiếng chạy tiếng gọi của bạn bè xa vời... Tất cả, tất cả từng đoạn đứt nối đó, làm anh nhớ lại và ý thức được rằng mình đã được cứu sống, nhưng lại đang nằm ở một nơi nguy hiểm không an toàn. Có lẽ đồng đội đã tưởng mình chết và vứt xác mình lại đây rồi chăng? Và bản năng sinh tồn lại thúc giục anh: Phải cố mà sống, sống để trở về với đội ngũ... Anh cựa mình, thấy mình đã cử động được chút ít, nhưng rồi lại bất lực, anh nằm im để thở và để nghe ngóng tình hình xem đây là đâu, ý thức cảnh giác của người lính đã kìm anh lại không kêu la lên, ấy là anh tưởng mình còn kêu la được chứ thực ra anh chẳng thể nói câu nào ra hơi được nữa...
*
*           *
Kể từ lúc ra bãi tha ma để lễ những người tù binh chết và sống trở về đồn, cô gái Cao Thị Lam bị cảm sốt và ngất đi, sau đó cô nh­ư người bị ma làm, thần kinh cô trở nên căng thẳng, lúc tỉnh lúc mơ, cô cứ nói cười, lễ bái van xin rối rít.
- Lạy các anh tha tội cho em, lạy các anh phù hộ độ trì cho em, kìa, sao mắt các anh cứ thao láo ra thế, sao cứ trừng trừng nhìn em thế, em là kẻ có tội, xin các anh tha tội cho em...
Cô cứ lảm nhảm như­ thế, ở trong nhà, ngoài đường, ngoài sân hễ gặp ai, lính ta hay lính tây cô đều chắp tay vái lạy và xin tha tội... Làm nhiều người lính thấy mủi lòng và thương hại cho cô. Cũng chẳng ai có thể biết nguyên nhân vì sao cô lại sinh bệnh ra thế. Họ chỉ đoán vì rằng cô bị ma làm, ma Việt Minh, nhất là từ lúc cô ra bãi tha ma về.
Với danh nghĩa là vợ một người lính, nhưng thực chất Cao Thị Lam là gái điếm chung chạ trong cái đồn cả Tây lẫn ta này. Do hoàn cảnh chiến tranh đưa đẩy từ một cô gái nông thôn xinh đẹp 22 tuổi này, Lam đã trở thành một cô gái làng chơi sành sỏi. Từ khi bị bắt, bị cư­ỡng hiếp rồi bị ép buộc, cô đã sa ngã và trở thành vợ lính chuyền tay hết người này đến người khác, từ quan đến lính, từ Tây đến ta, và bây giờ là một gái mại dâm trong đồn, có thể tiếp tất cả các loại người. Tuy vậy, cô ta vẫn có một người chồng, một người chồng danh nghĩa, để có người sai bảo hầu hạ như­ một tên bồi.
Người bạn thân nhất của Lam trong đồn là cô Lan, còn gọi là Ma-ri-a-Lan, Ma-ri Lan. Chả là vì Lan là người thành thị trước đây đã một thời đi học và nữ sinh lúc đó đua nhau lấy tên Tây, hơn nữa bọn con trai thường hay nịnh các cô gái xinh đẹp bằng những cái tên Tây cho có vẻ Tây (!). Rồi một khi bị hoàn cảnh lôi kéo, các cô gái đã sa đà vào làng chơi, rồi lấy lính Tây, bọn lính Âu Phi cũng muốn đặt cho họ một cái tên Tây, để tưởng nhớ đến các cô vợ ở Tổ quốc xa xôi hoặc để khi làm tình vẫn có cảm giác đó là các cô gái ở quê hương xứ sở (!).
Ma-ri Lan cũng thế, cô vốn là một học sinh xuất thân trong gia đình khá giả bị phá sản, bị bán vào nhà thổ làm nghề bán trôn nuôi miệng rồi bị sa ngã nên phải lấy Tây. Nghe nói mẹ Lan trước đây là một cô gái xinh đẹp. Khi có chồng rồi vẫn còn bị quan Tây theo đuổi, bà chống đối, bị nó lừa vào tròng làm cho chồng phải đi tù, bà phải đến hiến thân cho nó, chồng mới được tha. Nên cô con gái bà có nét mặt xinh đẹp nhưng giống Tây. Ông chồng cay cú quá, chống đối lại nó, liền bị nó tìm cách chèn ép làm ông phải phá sản. Trong trường hợp của Lan thì cái tên Ma-ri-a hay Lan đều đúng cả. Thông thường bọn con trai thường hay gọi cô là Ma-ri, còn cánh con gái thì chỉ thích gọi cô là Lan. Thằng Tây Lùn đồn trưởng Chùa Thôn là người chồng thứ tư­ thứ năm gì đó, hắn mua lại cô của một thằng sĩ quan người Đức đã chán cô để đi tìm một cô gái khác.
Ma-ri Lan là một cô gái khá xinh đẹp, lại còn trẻ, xấp xỉ tuổi cô Lam, so với thằng Tây Lùn như­ bố với con, nên thằng Tây Lùn hết sức chiều chuộng, nhưng cũng giày vò hành hạ cô hết mức tận cùng. Cứ cái đà làm tình như­ hổ đói thế này thì cô đến chết mất, chắc không sống nổi một năm với nó. Cô đang suy nghĩ xem có cách gì thoát thân hay hạn chế nó mà cô chưa nghĩ ra. Cái chức bà đồn trưởng khá nhiều quyền hành và thu lợi ngay trong cái đồn này, chứ chưa nói ra ngoài. Cô đang cố gắng lợi dụng để tích góp lấy một số vốn để phòng thân, nhưng chưa được bao nhiêu. Thằng Tây Lùn là một tên ác ôn tinh ma , đã ở Việt Nam gần hai chục năm, nên nói tiếng Việt thạo như­ người Hà Nội, lại khôn ngoan xảo quyệt, khó có cái gì có thể che mắt được nó. Tuy nhiên Ma-ri Lan đang là cô gái đáng yêu và xinh đẹp nhất của đời nó, lại mới sống với nhau được vài tháng kể từ khi về đây, nên bà đồn trưởng đang được cư­ng chiều hết mực, muốn gì được nấy. Có hôm nó say mê cô đến điên cuồng, đội cô lên cả đầu mà đi rong khắp đồn trước sự bravô, hoan hô của binh lính.
- Ôi đời con gái, đời một con điếm, sống được ngày nào hay ngày ấy, sướng được ngày nào thì cứ sướng ngày ấy, tội gì! - Cô thường nói với các cô gái trong đồn nh­ thế. Đó cũng là chân lý của cô, là cuộc sống của cô, là lý tưởng của những cô gái điếm (!).
Từ khi Cao Thi Lam bị ma làm đến giờ, người chăm sóc gần nhất vẫn là Ma-ri Lan. Cô nhảy sang buồng cô Lam ở nhà dưới. Một lũ lính gác đang xúm quanh cô Lam.
- Trời ơi, giữa lúc người ta đang bị thần kinh, ốm đau như­ thế kia mà mấy ông còn đòi hành lạc, không sợ tội sao? - Ma-ri Lan thét lên với bọn lính.
- Hề hề, bà chị ơi, cứ cho cô ta vài liều thuốc của bọn em là khỏi ngay thôi ấy mà! - Mấy thằng ẫm ờ nửa đùa nửa thật.
- Cút hết bọn bay đi, để cho nó nằm yên một tý xem nào.
- Dạ bà đồn trưởng làm gì mà nóng thế, chúng con xin đi ngay ạ.
Nói rồi bọn chúng cười hùng hục khả ố kéo nhau ra. Ma-ri phải dìu cô Lam sang nhà mình để cho yên tĩnh và trông nom săn sóc cô. Ông đồn trưởng còn đưa quân đi truy kích đuổi bọn Việt Minh từ sáng sớm, chắc đến đêm mới về .
Ma-ri lấy nước đá ra chờm cho Lam và để cho Lam nằm ở cái giư­ờng một ở gian nhà khách để cho thoáng gió. Lam nằm yên được một lát thì tỉnh dậy, cô đã tỉnh táo và đòi ra phía sau nhà để đi giải. Cô chạy ra phía góc vắng rồi vội vàng tụt quần ra đái. Bỗng nhiên thấy lùm cây động đậy, cô trố mắt nhìn vào, bỗng phát hiện ra có một người nằm trong đó. Cô bỗng thụt người lại không đi được nữa. Há hốc mồm ra, không kêu lên được. Tưởng là một xác chết của lính hay Việt Minh từ đêm còn nằm lại; nhưng lại thấy động đậy, chắc là chưa chết, cô liền kéo quần đứng lên, tiến lại gần, trố mắt nhìn xem. Cô nhìn thấy một thân hình tiều tuỵ đầy đất cát nằm cứng đơ, một bộ mặt non choẹt và đôi mắt sắc sảo đang trừng trừng nhìn cô, đôi môi cứ mấp ma mấp máy, và cái đầu cứ gật gật ra hiệu, như­ van xin, như­ cầu cứu.
Cô nhận ra người tù binh Việt Minh bé nhất đã bị chôn sống, mà hôm qua cô đã đến thắp hương, lễ sống và bón nước bón bánh cho anh. Phút chốc thần kinh cô lại bị căng thẳng, mắt cô mờ đi, cô lại chắp tay vái lạy van xin rối rít.
- Em lạy anh, em lạy anh,tha tội cho em, em là kẻ có tội, xin anh phù hộ cho em...!
Ma-ri Lan đang ở trong nhà nghe thấy cô Lam lại bị thần kinh, liền chạy ra phía sau để dìu cô Lam vào nhà. Thấy người chạy ra, theo bản năng bảo vệ, một bản năng cứu vớt, bừng tỉnh trong đầu Lam, cô chạy lại ôm chầm lấy Ma-ri bịt mồm cô bạn lại và chỉ về phía bụi cây nói khẽ:
- Chị ơi, có người, kia kìa, cái anh bé nhất bị chôn sống đấy, không biết sao họ lại để anh ta ở lại đây, anh ta vẫn còn sống, đấy, chị xem mắt anh ta đang chớp chớp, mồm anh ta đang mấp máy đấy. Làm thế nào bây giờ, chị Ma-ri ơi! Phải cứu người ta với, tội nghiệp, chị làm ơn làm phúc cứu người ta với, đừng để người ta bị bắt lại thì tội nghiệp. Em sợ lắm, chị ơi, em là kẻ có tội, em sợ lắm, chị Ma-ri ơi cứu người ta với, em van chị, cứu người ta là cứu em đấy chị ơi, em xin chị...
Cô Lam vừa nói vừa khóc, cứ ôm chầm lấy Ma-ri mà van mà xin rối rít.
Nét mặt Ma-ri từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Nhưng trước đôi mắt hiền từ đang cầu cứu của người bị nạn, và trước những lời van xin của cô bạn, nét mặt của Ma-ri từ sợ hãi chuyển sang thương cảm và đang có chiều đắn đo suy nghĩ. Cô phải an ủi bạn!
- Thì cứ bình tĩnh đã nào, làm gì mà cuống lên vậy, được rồi, để bàn xem làm thế nào có thể cứu được anh ta đây.
Lam nhìn Ma-ri với vẻ biết ơn, cô kéo Ma-ri ngồi xuống, rồi thì thầm to nhỏ bàn bạc với nhau khá lâu. Vấn đề là không thể đưa anh ta ra khỏi đồn giữa ban ngày ban mặt này được, mà trước hết là phải cấp cứu cho anh ta tỉnh táo và bồi dưỡng cho anh ta lại sức đã. Sau đó mới tìm cách liên lạc cho người đưa anh ta ra ngoài được. Cứ để anh ta ở ngoài bụi này có được không? Không thể được vì nắng đã vậy còn m­a làm sao, hơn nữa việc đi lại của các cô sẽ bị lộ, lại còn chó béc giê đánh hơi thấy hoặc kẻ nào đó vô tình nhìn thấy cũng đều có thể rầy rà cho anh ta. Vậy thì phải kéo anh ta vào nhà, vào đâu? Ở đâu đó có thể ít người đi lại nhất đỡ bị lộ. Chỉ có cách tốt hơn hết là để anh ta ngay trong nhà đồn trưởng là an toàn nhất. Họ sẽ phải dọn một xó bếp cho anh ta nằm ở đó, rồi che đậy củi đóm lên. Thằng Tây Lùn không bao giờ xuống bếp cả.
Sau khi đã bàn bạc với nhau xong, hai cô gái liền lấy nước chanh pha đường cho anh ta nhấp miệng một chút cho tỉnh, rồi lấy một mảnh bạt đặt anh ta nằm lên, rồi vừa kéo vừa khiêng anh ta vào nhà. Lúc này đồn rất vắng, đại bộ phận đi hành quân hết, chỉ còn lại một trung đội thường trực canh gác bảo vệ mãi phía cổng chính, nên không ai hay biết gì việc làm của các cô gái giàu lòng nhân đạo đó. Trong khi chờ dọn xó bếp, họ tạm khiêng anh ta vào buồng ngủ của Ma-ri cho kín đáo, đề phòng có người đến bất chợt ở phòng khách. Hai người thay nhau thường trực cấp cứu và bồi dưỡng cho anh. Họ cho anh uống nước Chanh đường, uống sữa, uống thuốc B1 và Vi-ta-min C, họ phải xúc từng thìa nhỏ bón cho anh. Anh tỉnh lại dần dần trước sự vui mừng của hai cô gái. Họ lấy nước nóng lau mặt cho anh, lấy chổi quét bụi, đất trên người cho anh, rồi lấy dầu cao hổ cốt xoa mặt, xoa đầu, xoa chân tay cho anh, họ đem lại sức sống trên mặt mũi của anh, trên thân thể anh.
Sau hai giờ cấp cứu, anh đã tỉnh lại, đã nhúc nhắc được đầu một cách dễ dàng hơn, đã thều thào nói được mấy câu:
- Cảm ơn! Cảm ơn!
Đó là tiếng nói đầu tiên của anh, làm các cô khe khẽ reo lên vui mừng, họ lại tiếp tục chăm sóc và cấp cứu cho anh. Nhưng rồi anh lại bị sốt, họ cặp nhiệt kế, nhiệt độ lên đến 40 độ. Người anh cứ hầm hập, Ma-ri phải lấy nước đá chờm trán, chờm mặt cho anh. Mãi đến chiều tối anh mới tỉnh lại. Cô Lam đã dọn xong xó bếp, họ đang định khiêng anh xuống bếp để cho anh nằm và ngủ một giấc cho đỡ mệt. Thì bất thình lình tên Tây Lùn dẫn quân đi càn về. Vì trận càn thất bại, không đuổi kịp đơn vị bộ đội, cũng chẳng bắt được tên cán bộ Việt Minh nào, nên nó tức tối cho quân cư­ớp phá và đốt sạch một làng ở cách đồn 5 km rồi kéo quân về. Vừa về đến đồn thằng Lùn đã quát tháo ầm ĩ từ ngoài cổng đồn về đến nhà. Nó đi như­ chạy về nhà.
Không kịp khiêng người tù binh xuống bếp được nữa, Ma-ri và Lam vội vàng đẩy anh vào trong gầm gi­ường của Ma-ri. Còn lại mảnh vải bạt và những vết đất bùn vư­ơng vãi, không kịp quét nữa. Thằng Lùn đã gọi ở cửa:
- Ma-ri! Em thân yêu ra đón anh chứ!
Nhanh như­ chớp, một ý nghĩ của cô Lam vừa nảy ra. Lam liền nằm ngay xuống đất giãy đành đạch, vừa cởi quần áo lăn vào các đống đất, mồm lại gào lên như­ lên cơn thần kinh!
- Tôi lạy các ông, các ông hãy tha tội cho tôi, ối ối hú...! Các ông các bà ơi!...
Ma-ri đã hiểu ý bạn, cô nhanh chóng nhập cuộc:
- Paul Crit! Em đây, nhanh vào đây giúp em một tay, con Lam nó lại lên cơn rồi, may quá anh đã về, nhanh giúp em một tay nào anh!
Rồi cô nhảy bổ ra ôm chầm lấy thằng Lùn mà hôn nó, rồi kéo nó vào buồng nhìn cảnh con Lam đang giãy giụa lên cơn.
Ma-ri gọi người khiêng con Lam về nhà nó và tự mình quét dọn căn buồng, cô vẩy thêm nhiều nước hoa và bột xà phòng thơm, cô còn cắm hoa tươi trên đầu gi­ờng để đánh át cái mùi hôi thối của người tù binh.
 
Trên trần nhà tắm
Ngày hôm sau tên Tây Lùn lại đi càn, nhưng thời gian muộn hơn. Nó đang tích cực lập công trong chiến dịch bình định của các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ này, và đang mong chờ cái lon trung uý sắp tới.
Mãi đến tám giờ sáng Ma-ri và Lam mới kéo được người tù binh của mình ra khỏi gầm giư­ờng. Lúc đầu họ tưởng anh đã chết cứng, nhưng sau một hồi làm hô hấp nhân tạo và xoa bóp dầu cao khắp người anh mới tỉnh lại được. Họ tiếp tục cho anh uống thuốc, ăn sữa ăn cháo. Rồi khiêng anh xuống xó bếp mà họ đã dọn sẵn từ chiều hôm qua.
Buổi trưa hôm đó anh đã tỉnh hẳn, cô Lam đun nước nóng và khiêng anh vào buồng tắm để tắm rửa và lau chùi cho anh. Khi cởi hết quần áo ra, họ mới thấy anh chỉ còn là một chú bé con gày còm ốm yếu.
- Trời ơi, sao em còn nhỏ thế mà dám đi bộ đội Việt Minh! - Ma-ri hỏi nhỏ vào tai anh. Anh chỉ biết gật đầu.
- Có phải em là liên lạc không?
Cô Lam lại hỏi tiếp, anh cũng chỉ gật đầu.
Trong buồng tắm họ thay nhau kỳ cọ xoa bóp tắm gội cho anh, họ vừa làm vừa nói chuyện, hoặc hỏi anh, hoặc nói những lời thương xót. Có khi họ nói cả những lời tục tĩu và cười với nhau. Anh chỉ biết nằm im, mặc cho họ chăm sóc tắm rửa cho mình mà chẳng nói nên lời.
Giá lúc đó ở ngoài nhà tắm có ai đi qua, cũng chỉ nghe thấy hai cô gái đang tắm trong nhà tắm cũng chỉ đoán chắc lại nhỏ to hú hí với nhau. Cô Lam kiếm đâu ra một bộ quần áo lính rằn ri, mặc cho anh, và đem chôn bộ quần áo Vệ Quốc đoàn của anh ở một nơi kín đáo.
- Cùng bất đắc dĩ thì nói là chú em ở đơn vị cơ động tỉnh về chơi với chị rồi bị ốm! - Cô Lam nói phòng xa như­ vậy. Buổi chiều hôm đó anh đã ăn được một bát cháo, và đã giơ được tay lên, nhưng vẫn chưa ngồi dậy được.
Cô Lam đã ra chợ và ngoài phố nghe ngóng tình hình, nhưng vẫn chưa dám hỏi ai để bắt liên lạc, và cũng chưa tìm được giải pháp gì để có thể đưa anh ra ngoài. Khiêng bằng cáng hoặc đưa bằng xe cứu thương đều có thể bị lộ, không những anh ta bị bắt lại, bị chết ngay mà các cô còn bị liên quan rất nguy hiểm cho tính mạng của các cô nữa.
Anh vẫn trong tình trạng bị sốt, lúc mê lúc tỉnh. Cũng may làm sao bằng một linh tính thần diệu nào đó mà anh đã ức chế được thần kinh, không để những phản xạ, tiếng kêu, tiếng rên hoặc tiếng mê ú ớ bột phát thành tiếng. Phải chăng sức anh còn quá yếu nên chưa đủ sức phát âm những điều đó.
Nếu vẫn cứ để anh nằm đất trong nhà bếp thì khả năng hồi phục sức khoẻ càng chậm, nên ngày hôm sau họ lại khiêng anh lên giấu trên nhà sàn gác buồng tắm trong nhà. Ở đây kín đáo hơn, không ai dòm ngó đến. Họ cho anh uống thêm thuốc bổ, pô-li-vi-ta-min và họ còn đổ cả rượu sâm của tên Tây Lùn cho anh nữa, vì thế anh đã ăn được nhiều hơn, sữa, cháo, trứng gà, cam, chuối....
- Ăn đi em, ăn đi cho chóng khoẻ, rồi các chị đưa em ra ngoài mà về với gia đình.
- Ôi em còn nhỏ quá, đi làm gì cho khổ, chẳng may chết mất xác thì bố mẹ gia đình biết là đâu. Nào ăn nữa đi em. - Cô Lam bế đầu anh đặt lên đùi cô, và bón cho anh từng thìa cháo, từng múi cam và thân ái tận tình nh­ một người chị gái với đứa em trưai. Có lúc cô còn ôm anh vào lòng mà khóc nức nở như­ đang có một nỗi lòng oan ức gì đó mà chưa nói lên được. Làm anh bùi ngùi cảm động. Ôi, những giọt nước mắt tủi hờn, hãy chảy đi, cứ khóc nữa đi, khóc để cho vơi nỗi sầu thương, cho dịu những nỗi niềm đớn đau cô quạnh. Khóc đi, chị sẽ thấy được lòng mình thanh thản nhẹ nhõm hơn, hỡi những người chị, hỡi những tấm lòng vị tha, hỡi những con người bị xa đoạ hết tột cùng vẩn đục mà tâm hồn còn đầy nhân ái. Nước mắt của anh cũng trào ra, anh gục đầu vào lòng chị mà cảm thấy được chở che êm ấm.
Khi các cô gái đưa anh lên ẩn trên nóc buồng tắm trong nhà, đã không biết rằng ở đó có một góc chéo có thể nhìn được toàn bộ căn phòng của Ma-ri và có những khe hở nhìn xuống thấy cả các góc trong buồng tắm. Do đó có lúc anh buộc phải trông thấy toàn bộ hình hài trần truồng của các cô trong nhà tắm. Anh chỉ nhìn ngắm như­ nhìn những bức t­ợng khoả thân cử động được, mà chẳng có một cảm giác khêu gợi gì, bởi vì anh còn ốm yếu quá. Anh chỉ tiếc rằng anh chẳng có một thứ vũ khí gì trong tay và anh cũng chưa cử động được nên Chưa đủ sức để tiêu diệt thằng Tây Lùn ngay trong buồng tắm của nó.
Đau đớn nhất là ngay buổi tối hôm đó anh phải chứng kiến một cảnh cuồng dâm rất dã man và kinh tởm. Thằng Lùn đi càn bắt về được hai cô bé nhỏ nhắn và khá xinh mới chỉ khoảng 15-16 tuổi. Hắn mời thêm một thằng bạn của nó từ Hà Nội về cùng đi theo trận càn, không biết tên là gì nhưng có biệt hiệu là Tây Xồm vì nó để râu xồm xoàm xung quanh mồm dầy đặc trông gớm giếc. Chúng mở tiệc ăn mừng gồm thằng Tây Lùn, thằng Tây Xồm, cô Ma-ri, cô Lam và hai cô bé gái mới đem về. Hại cô gái lúc đầu mới về đồn còn bị trói, sau đó được hai cô Ma-ri và Lam cởi trói và dụ dỗ ngon ngọt gì đó, khá lâu. Sau đó hai cô bé theo các cô vào nhà đồn trưởng. Ở đó, cỗ bàn sâm panh rượu bia đầy la liệt dưới ánh điện nê ông sáng choang. Chúng uống với nhau lúc đầu còn nghiêm túc, rồi cợt nhả bừa bãi dần, càng về sau càng hỗn độn. Nhạc nổi lên, chúng nhảy với nhau. Cô Ma-ri và thằng Lùn, còn cô Lam và thằng Xồm. Còn hai cô bé thì cứ ngơ ngác nhìn. Chúng quay cuồng la hét theo tiếng nhạc và một lát sau thì cởi hết cả quần áo chỉ còn trần truồng như­ nhộng. Hai cô bé cũng bị lột hết quần áo, các cô bị nốc rượu say mềm nhũn và mỗi cô nằm gọn trong lòng thằng Lùn và thằng Xồm, bên cạnh cô Ma-ri và cô Lam cũng trần truồng tiếp rượu và tiếp thức ăn cho chúng. Anh cố nhắm mắt lại để không nhìn thấy cảnh trên và cố ru mình ngủ đi một giấc cho quên và anh đã thiu thiu ngủ. Nhưng bỗng nghe thấy tiếng thét thất thanh xen trong tiếng nhạc của hai cô bé thì anh choàng mắt dậy. Dưới nền nhà, hai thằng Tây đang giở trò đồi bại với hai cô bé. Tiếng cười, tiếng khóc, tiếng thét, tiếng hú, xen lẫn tiếng nhạc, lại bài "Mác-Xây-e" hùng dũng như­ tiếng kèn xung trận, tất cả những âm thanh hỗn độn và những bầy dã thú đang lăn lộn trên sàn nhà làm đầu anh nhức nhối, mắt anh tối tăm lại, thần kinh anh căng thẳng.
Ôi giá như­...ư ­ớc gì anh có một khẩu súng anh sẽ nhằm đúng vào đầu thằng Lùn và thằng Xồm mà bắn. Hay ­ước gì anh có một quả lựu đạn, anh sẽ ném tung vào bọn người ma quỷ đang quay cuồng dưới chân anh. Hoặc ư­ớc gì anh có một trái mìn, anh sẽ cho nổ tung cả căn nhà này cho bay hết cả mái nhà, cho bay hết cả cái bầy quỷ dữ kia đi... Ôi, sống làm gì mà cảm thấy uất ức, kẻ địch ngay bên cạnh mà chẳng làm gì chúng được. Chúng gây tội ác kinh tởm trước mắt mình mà đành phải đắng cay nhịn nhục mà thôi. Chưa bao giờ anh thấy mình bất lực và đau đớn như­ lúc này.
Mãi lúc đêm khuya, anh lại giật mình tỉnh dậy, có lẽ trời gần sáng, vì nghe tiếng thằng Tây Lùn đang nói chuyện với cô Lam. Hình như­ chúng đang nói chuyện về một công việc hoặc một con người nào đó, làm anh chú ý lắng nghe.
- Ê, cô Lam! Mai cô lại ra hòm thư­ A tìm gặp thằng B7 nhé.
- B7 nào, a thằng Bội C15 Việt Minh đầu hàng ấy à.
- Phải rồi nó đầu hàng từ tháng trước, nhưng nó đã tình nguyện ở lại làm điệp viên cho tôi. Cô còn nhớ địa điểm hòm thư­ chứ!
- Em sợ lắm, hôm nọ chẳng biết nó vào đồn bằng đường nào, nó không lên gặp ông mà lại nhảy vào buồng em, làm em hết hồn.
- Vì nó mê cô đấy thôi "quen mui bén mùi ăn mãi" mà. Lần trước nó đã được cô chiều với những ngón tài nghệ thuật của cô thì thằng nào mà chả thích. Trưa mai cô cứ đi, tôi sẽ cho người hộ tống, cô cứ đi một lần nữa. Về sẽ có thưởng to. Hãy cố lên chứ!
- Dạ có việc gì cần mà phải gấp thế ạ!
- Cần chứ, trước hết nhắc nhở nó phải hoạt động sẽ có thưởng, sau đó là cần nó chỉ điểm để bắt mấy thằng Việt Minh đầu sỏ!
- Ê, suỵt, mai sẽ trao nhiệm vụ cụ thể. Nào lại đây cô em!
Cô Lam gỡ tay thằng Xồm đang ngủ say, chạy lại bên thằng Lùn. Thằng Lùn nốc một hơi hết một chai rượu rồi ôm chầm lấy Lam và trèo lên người cô. Tất cả bọn đều đã ngủ say như­ chết, cả một bầy trơ trẽn. Chỉ còn thằng Lùn với cô Lam lại đang vật nhau... Thằng Xồm xem ra thua kém bạn bè. Chỉ riêng thằng Lùn, cái dòng máu xứ đảo Coóc xơ xem ra ghê gớm, nó đã lần lượt quần đảo lên cả bầy này, cả bầy đều gục mà nó vẫn như­ thường.
*
*   *
Anh không ngủ lại được nữa không phải vì bọn thằng Lùn làm quấy động, mà mải suy nghĩ về câu chuyện của thằng Lùn với cô Lam. Anh bỗng mỉm cười vui sướng vì tình cờ anh lại phát hiện ra kẻ phản bội trong đơn vị anh chính là thằng Bội, thằng Phan Văn Bội, tiểu đội phó thuộc trung đội 2, cái trung đội hôm nọ đi phục kích đồn rồi bị phản phục kích nên thất bại ấy. Anh suy nghĩ, phán đoán và chắp nối lại các sự kiện, các lời nói để nhìn rõ hành động của kẻ phản bội xem có đúng lô gíc không và để khẳng định tội phạm của nó, để về báo cáo với đại đội trưởng Hoàng Khánh và có kế hoạch trừng trị nó. Ôi, thì ra thằng Bội, thằng Bội đã đầu hàng và phản bội đồng đội, làm gián điệp cho Tây, nên tao mới bị như­ thế này đây. Hỡi thằng phản bội, hãy đợi đấy tao sẽ trở về trừng trị mày.
 
 
Chương IV
Bất lực
Thằng Bội là con một thằng Lý trưởng phản động, năm khởi nghĩa Cha nó đã bị cách mạng bắn chết, một năm trước nó xung phong vào Vệ Quốc đoàn vì phong trào, nhưng vì sợ chết và ngấm ngầm nuôi hận thù cách mạng. Từ lâu, nó đã nhặt một tờ truyền đơn "Letxê pát xê" giấy thông hành, mà bọn Pháp thả xuống ở vùng Chợ Tía dạo đó, giấu kỹ vào trong người. Một tháng trước trong một chuyến đi trinh sát, nó đã lừa đồng đội đưa đội hình của tổ vào trước đồn nên bị bọn giặc bắt cả tổ. Nhưng nó đưa tờ giấy thông hành ra trình rồi bí mật đầu hàng giặc. Thằng Tây Lùn thưởng nó một đêm ngủ với cô Lam và giao nhiệm vụ cho nó làm gián điệp ở đơn vị và trực tiếp liên lạc với cô Lam qua hòm thư­ kín. Nó được đặt bí số là B7 và hòm thư­ A ở một góc chùa làng Bằng Khê. Ngày hôm sau, bọn giặc bố trí một cuộc trốn giả rất tinh vi mà cả tổ đều không ai phát hiện được. Khi về đến đơn vị, nó là người có công vì đã vào tận đồn địch trinh sát được tình hình lại cứu được cả tổ thoát khỏi nhà giam của giặc, vì thế nó được khen thưởng và được tín nhiệm, cất nhắc lên làm tiểu đội phó.
Trong đợt tấn công đồn của Chùa Thôn vừa rồi, sau khi nghe được kế hoạch chiến đấu, nó đã đến hòm thư­ bí mật để báo tin về toàn bộ kế hoạch của ta, nhưng nó chưa kịp liên lạc thì đã có lệnh hành quân. Nó cuống lên vì không báo tin kịp cho địch. Đến vị trí phục kích, nó liền liều lĩnh tìm cách chui vào đồn bằng con đường bọn lính vẫn hay chui rào ra giếng tắm và lẻn đi chơi gái mà tình cờ ở nhà cô Lam lần trước nó đã trông thấy. Nó phải thận trọng và loay hoay mãi để tìm lối, nên mãi gần đến giờ nổ súng nó mới vào được trong đồn. Nó nhảy vào buồng cô Lam và ra lệnh cho cô phải lên báo tin và đưa thư­ cho đồn trưởng ngay.
Cô Lam thấy nó nhảy vào bất ngờ thì giật mình lo sợ. Ngay từ lần trước, cô đã thấy ghét tên phản bội này, đối với cô những kẻ hai lòng là những kẻ bất nhân và tồi tệ, nhưng trước sức ép của đồn trưởng và món tiền 100 đồng khá hậu nên cô mới tiếp. Lần này cô không muốn tiếp nó cũng không muốn làm tay sai cho nó để phản bội đồng bào.
Nhưng nó gí súng vào ngực cô và doạ:
- Nếu mày không lên tao sẽ bắn chết, thư­ đây đi ngay đi.
- Tại sao ông không lên gặp thẳng đồn trưởng có hơn không?
- Không được, nếu tao ra cửa bây giờ sẽ bị lộ, hỏng bét, mà có khi còn toi mạng, hơn nữa bọn Việt Minh trông thấy thì rầy rà.
"Thôi nào đi ngay đi, rồi về anh chờ, sẽ có phần thưởng cho em đây". - Nó vỗ vào túi của nó cho cô tin, rồi mở cửa buồng đẩy cô ra.
Ra đến sân, cô cảm thấy việc này có cái gì nguy hiểm và tội lỗi, nên cô ngần ngừ, định quay lại, nhưng thằng Bội vẫn giư­ơng súng chĩa vào cô và bắt đầu giục cô đi nhanh. Thế là cô sợ quá, vội chạy một mạch sang nhà đồn trưởng rồi gõ cửa. Khi mở cửa, cô chỉ kịp dúi lá thư­ vào tay Ma-ri, rồi chạy về nhà mình để định hỏi xem chuyện có ghê gớm không, thì tên Bội đã chuồn mất rồi. Nó phải về chiến hào kẻo đồng đội sinh nghi. Cô nhìn sang thấy đèn ở trong buồng đồn trưởng bật sáng, và chỉ chưa đầy một giờ sau tiếng súng đã nổ váng, cô nhảy đại xuống hầm ngồi run sợ cho đến sáng.
Sáng hôm sau khi tiếng súng đã yên, cô mới bò ra khỏi hầm và nhìn thấy 7 người tù binh Việt Minh đã bị bắt. Cô thấy mình có liên quan tội lỗi. Giá như ­ khi đêm cô không chịu cầm thư­ sang nhà đồn trưởng, hoặc giá như­ cô cầm thư­ nhưng không nộp cho đồn trưởng mà đem vứt đi hoặc giữ lại đến sáng mới nộp, thì có lẽ không xẩy ra chuyện này. Giá như­... giá như­... cô cảm thấy mình đã trực tiếp tiếp tay cho bọn Tây Lùn gây nên tội ác này.
Và đến chiều khi những người lính bị chôn sống, thì nỗi giày vò, day dứt, ân hận trong lòng cô ngày càng tăng, làm thần kinh cô căng thẳng quá, cô phải xin đi thắp hương lễ sống họ để sám hối. Khi ra bãi tha ma, cô đã run sợ phát khiếp lên và vái lạy rối rít, xin tha tội, cô làm hết sức mình cho những người đã chết và những người còn sống để mong chuộc lại lỗi lầm tội ác của cô.
Ở bãi tha ma về cô bị thần kinh thực sự và có lúc phát điên lên, đi lại, ăn nói lung tung. Nhưng khi gặp lại người tù binh bé nhỏ bị lạc đường sau nhà Ma-ri thì cô hồi tỉnh, cô thấy đây là dịp may do trời đất thần linh tạo cho cô có thời cơ sám hối, lập công chuộc tội, do đó cô hăng hái và vận động cả cô bạn Ma-ri cùng tận tình cứu chữa người tù binh này. Cô hy vọng rằng, nếu cứu chữa được anh ta và đưa anh ta thoát ra ngoài an toàn, thì cô mới xoá được nợ với những người đã chết, cô mới được xá tội trên thiên đình và dưới âm phủ, cô mới được thanh thản trong cuộc sống đầy nhơ bẩn và tội lỗi mà cô đã bị đoạ đầy mấy năm nay.
Nguyễn Trung Hiếu nở một nụ cười trong lòng anh, vì anh đã hệ thống được cái đường dây giữa kẻ phản bội và cô gái điếm. Anh tin tưởng rằng anh sẽ được cứu sống. Cô gái nhân từ này sẽ không thể phạm sai lầm lần thứ hai nữa.
Với nghị lực của một con người có ý chí, muốn tồn tại, muốn vư­ơn lên trong cuộc sống, sang ngày thứ ba, người anh đã khá hơn, đã ăn được một bát cháo trứng gà, trên gư­ơng mặt anh, các cô đã thấy có chút máu mặt, có sự sống, và anh đã mỉm cười với các cô. Đầu óc anh thấy tỉnh táo, hai tay đã cử động nhẹ, các cô đã đỡ anh ngồi dựa t­ờng được, nhưng hai chân vẫn còn cứng đơ, chưa nhấc lên nổi. Anh thấy tin tưởng mình có thể sống được. Mà anh phải sống, sống để trở về với đồng đội với gia đình, để trở về với đội ngũ chiến đấu, để rửa hận, để trả thù. Cái ý chí ấy luôn luôn nhắc nhở anh ngay từ lúc còn đang bị chôn sống, dù còn một phút, anh cũng vẫn tin tưởng, lạc quan, cái tinh thần lạc quan đó đã động viên anh và động viên cả anh bạn Nhầu của anh, và bây giờ còn động viên lại cả những người đang chăm sóc giúp đỡ anh.
Những lúc đầu óc được tỉnh táo, thì anh lại suy nghĩ và buồn thương cho cái hoàn cảnh của mình và lại tự giày vò mình. Hừ, một người lính đi chiến đấu để tiêu diệt kẻ thù, đã không tiêu diệt được chúng lại còn bị chúng bắt và hành hạ, được đồng đội đến cứu nhưng không thoát, may sao còn sống, và bây giờ đang được các cô gái điếm cứu mạng và che chở, các cô ấy lại sống bằng sự bố thí của kẻ thù, bằng đồng tiền nhơ nhuốc của các cô, và trớ trêu thay, anh lại đang sống ngay trong nhà tên đồn trưởng, một tên ác ôn tàn bạo đã giết hại bao nhiêu người dân l­ơng thiện và đồng đội của anh, một kẻ thù không đội trời chung với anh, hàng ngày anh lại ăn cơm uống nước của nó, hàng ngày anh nhìn thấy những hành động dã man của nó, ở ngay sát nó mà không làm gì được nó, không giết được nó... Anh cảm thấy nỗi bất lực và uất ức trào lên trong lòng, dâng lên tận cổ mà không nói lên được. Ôi thời cơ ngàn năm có một, thuận lợi biết bao, mà không làm gì được nó, thì nỗi hận này đến bao giờ nguôi. Anh cảm thấy mình có tội với đồng bào đồng chí vì có thời cơ tốt đẹp như­ vậy mà không giết được nó, cứ để nó tồn tại ngày nào là gây nên bao nhiêu tội ác ngày ấy.
Ý chí anh đòi hỏi anh phải hành động, lư­ơng tâm người lính đòi anh phải hành động, và cả tấm lòng nhân hậu của các cô gái cũng đòi anh phải hành động. Nhưng hành động bằng cách nào, trong tay không có một tấc sắt, không có một thứ vũ khí nào, đến gạch đá cây que cũng không có, mà có thì sức anh cũng chưa thể làm nổi, cánh tay của anh chưa cầm nổi bát cơm thì làm sao có thể đánh địch được. Anh lại thất vọng nằm xuống, rã rời, mồ hôi vã ra nh­ tắm, uất ức trào lên, anh nằm tủi thân khóc thầm một mình.
 
Chiếc quan tài
 
Thằng Tây Lùn là một tên lính thực dân cáo già, rất thành thạo phong tục tập quán của Việt Nam. Nó biết ăn bún chấm mắm tôm, rất thích ăn thịt chó, uống rượu nút lá chuối khô, không thích ăn bánh mì pa tê mà lại thích ăn cơm tám giò chả, không thích chim quay gà tần mà lại mê ba ba, lư­ơn ếch, không thích chơi chó béc- giê mà lại thích chơi cá vàng, cây cảnh.
Hàng ngày đi hành quân đi càn xung quanh vùng, nó không thích ăn khẩu phần đồ hộp của sĩ quan mà hôm nào nó cũng được cô vợ trẻ xinh đẹp Ma-ri chuẩn bị cho một ăng gô thức ăn, để ăn trưa, ở dã ngoại mà nó rất ư ­a thích. Khi thì là cơm tám giò chả, khi thì xôi chè đường, lúc lại bánh dày bánh giò... toàn những thức ăn Việt Nam ngon rất phù hợp với sở thích của nó. Anh tù binh Đen trên gác theo dõi, thấy ngày nào Ma-ri cũng chuẩn bị cho nó và chỉ đến khi sắp hành quân, tên lính bồi mới đến xách ăng gô thức ăn đó lên xe.
Chiều hôm đó, trong khi cô Lam tắm rửa cho anh, nhân lúc chỉ có hai người trong nhà tắm, anh mạnh dạn ngỏ ý nói với chị tìm cho anh một quả lựu đạn, làm cô trố mắt lên kinh ngạc.
- Trời ơi, đi không được, bò không được, đến ngồi cũng không xong mà còn đòi lấy lựu đạn làm gì? Thôi chị van em, đừng nghĩ đến chuyện súng đạn nữa, chị sợ lắm.
- Nhưng cũng phải đề phòng chứ chị ơi, nhỡ em bị lộ chúng nó đến bắt thì em đành chịu để chúng bắt lại hành hạ à. Thà em chịu chết ngay còn hơn. Em sợ bọn chúng đánh đập tàn nhẫn lắm!
- Ôi, em đừng nghĩ thế, tội nghiệp, em đừng để chị mang thêm tội, em đừng để chị và Ma-ri liên quan đến chuyện này. Thôi, từ bỏ ý định tự sát ấy đi, các chị sẽ tìm mọi cách đưa em ra được.
- Quân tử phòng thân chị ơi, em thề không bao giờ để liên luỵ đến các chị, những người ân nhân của em.
- Không được đâu, nhỡ ra... chị sợ lắm!
Nhưng rồi không biết anh chàng Đen tán tỉnh, lừa phỉnh cô Lam như­ thế nào, mà đến buổi chiều cô Lam đã đưa đến cho anh ta một quả lựu đạn OF, là loại lựu đạn khói(!) làm cho Đen thất vọng nói với cô Lam:
- Hừ, loại này thì chỉ mù mắt thôi, chẳng giết được ai đâu.
- Thì em bảo chỉ để tự vệ thôi mà!
Chính là cô Lam chủ ý chỉ đưa cho Đen quả lựu đạn này thôi, để Đen không thể làm to chuyện được, nhỡ ra cô và Ma-ri sẽ bị liên quan, rầy rà to.
Đen đành nhận quả OF cất vào một góc nhà. Anh nghĩ tuy vậy nếu nổ ở gần thì vẫn có thể bị chết người, và nếu ta bỏ thêm những mảnh sắt xung quanh cho bắn ra như­ những mũi tên thì cũng chẳng kém gì lựu đạn phá. Anh yên trí nằm chờ thời cơ.
Chiều hôm đó anh đòi các cô cho xuống nằm ở dưới đất để tiện việc vệ sinh đại tiểu tiện. Các cô đồng ý khiêng anh vào xó bếp cũ, có kê thêm một tấm ván để nằm và che đậy bằng những bó củi dựng đứng khá cao.
Buổi sáng hôm sau, như­ thường lệ, Ma-ri vào bếp tự nấu nư­ớng cho thằng Lùn ăn sáng và chuẩn bị thức ăn trưa cho nó. Chiếc ăng gô đã được nhét đầy bún và chả, cả nước mắm, hạt tiêu, chanh ớt, Ma-ri đậy nắp lại để ở nền bếp, rồi cô bư­ng xúp lên cho thằng Lùn ăn.
Lợi dụng lúc hai vợ chồng tên đồn trưởng đang ăn xúp, nói cười vui vẻ ở nhà trên, anh liền bò ra kéo chiếc ăng gô lại phía mình, mở nắp ra, đặt quả lựu đạn vào ăng gô, anh vơ mấy cái cùi dìa phóng xét gẫy ở quanh đó đặt lên trên, thêm dăm chiếc đinh rỉ và một nắm đá sỏi mà anh đã chuẩn bị ném vào ăng gô; anh nhẹ nhàng rút chốt an toàn, để chiếc mỏ vịt ngửa lên trên và từ từ đóng nắp ăng gô lại thật chặt. Không hiểu nghị lực nào đã giúp anh được bình tĩnh và thận trọng nhưng lại nhanh nhẹn trong lúc này, vì động tác tháo chốt an toàn và đóng nắp ăng gô giữ mỏ vịt là rất khó, anh chưa hề làm bao giờ. Chỉ mới nghĩ ra từ sáng nay mà thôi. Nếu làm không cẩn thận, chỉ sơ hở một tý là nắp ăng gô bật ra, dễ chết như­ chơi. Âu cũng là bước đường cùng, phải liều vậy, không còn con đường nào khác.
Sau khi hoàn thành cái việc nguy hiểm đó, anh lại đưa ăng gô về chỗ cũ rồi lại chui vào cái xó ẩn náu của mình nằm im. Mấy phút sau thằng lính bồi đến lấy ăng gô đi theo thằng Lùn trên chiếc xe Jeep phóng ra cổng đồn. Hôm nay thằng Tây Lùn chỉ huy quân đi càn ở phía gần ga Thường Tín, cách đồn khoảng 7-8 cây số, chúng đang ra sức lập vành đai và cắm các tháp canh trên trục đường giao thông để mở tuyến đường Hà Nội - Nam Định.
Vào khoảng 12 giờ trưa chiếc xe Jeep hộc tốc chạy về, lao vào đồn báo cho Ma-ri một cái tin khủng khiếp. Đơn vị hành quân đến nghỉ trưa ở một ngôi chùa, mọi người lấy lư­ơng khô ra ăn, ông đồn trưởng ngồi ở một gốc cây bàng có bóng mát cách xa bọn lính một đoạn. Như­ thường lệ, ông lấy ăng gô thức ăn do tên lính hầu đưa đến, nhưng ông vừa mới mở ăng gô ra chưa kịp ăn thì bị lựu đạn bẫy của Việt Minh bắn tới, trúng đầu, làm ông bị tử vong ngay, vỡ cả đầu, nát bét cả mặt, cả cái ăng gô cũng vỡ tan bay mất, may quá, tên lính hầu đứng cách xa đó khoảng 10 mét nên chỉ bị thương nhẹ, một mảnh lựu đạn bắn vào làm rách một mảnh áo.
Ông đồn phó lệnh cho đưa một chiếc quan tài trong kho dự phòng đến ngay và mời bà Ma-ri Lan theo xe đến hiện trường, bộ phận ở nhà dọn dẹp phòng lớn để đưa quan tài ông đồn trưởng về.
Ma-ri nghe tin tái mặt đi, và cô bị ngất xỉu, cô Lam phải đỡ cô dậy và an ủi cô. Nước mắt cô rơi lã chã không phải vì buồn thương nhớ tiếc thằng Tây Lùn, mà vì buồn thương cho cô, đang ôm mộng làm giàu bằng của phù du, đang muốn vư­ơn lên mà giữa đường lại đứt gánh. Cô gào khóc thằng Tây và gào khóc cho thân phận cô.
Trong khi những người lính đi khiêng chiếc quan tài rỗng lên xe và cô Ma-ri đi chuẩn bị một dải băng đen theo phong tục Tây và một mảnh khăn xô theo phong tục Việt Nam và cho người mua hương nến, vòng hoa, thì cô Lam chạy lại chỗ chú em tù binh Đen, để báo tin cho Đen biết về cái chết của thằng Paul đồn trưởng và cũng là báo động cho anh biết địa điểm này không được an toàn nữa rồi, phải đi chuyển ngay.
Từ lúc cái xe Jeep quay về đưa tin, Đen đã nghe láng máng và biết kết quả trận đánh của riêng anh, lòng anh vô cùng phấn khởi, và anh cũng biết rằng nơi ẩn náu của anh đã bị báo động. Nghe cô Lam thông báo, anh biết là cô không hề nghi ngờ về quả lựu đạn đã cho anh, nên anh yên tâm và đề nghị cô cho anh tạm vào trong buồng Ma-ri để bàn tính, Lam đồng ý và dìu anh đi, không hiểu sức mạnh nào đã giúp anh đứng lên và bám vào người Lam mà bước đi, chầm chậm từng bước một được. Hai chị em ngồi trong buồng Ma-ri nghĩ mãi chưa ra kế gì thì chợt Đen nhìn thấy chiếc quan tài đã để sẵn trên xe trước cửa nhà, anh liền nảy ra một ý định táo bạo:
- Chị hãy cho em vào quan tài kia kìa?
- Hả, em nói gì mà gở như­ vậy, quan tài để liệm xác thằng Paul đấy.
- Thì em sẽ nằm trước, rồi nó nằm sau cũng được chứ sao, chị cứ đưa em ra khỏi đồn rồi em sẽ có cách, không liên quan gì đến các chị đâu, chị cứ yên tâm đi; không còn cách nào khác, nhanh lên chị kẻo họ về đến nơi bây giờ.
- Chị sợ lắm, nhỡ em làm sao thì chị ân hận suốt đời, công lao các chị nuôi em công cốc mất!
Tuy nói vậy, nhưng Lam cũng phải đồng ý với kế hoạch rợn người của Đen. Trong khi bảo Lam ra ngoài sân nghe ngóng tình hình động tĩnh xung quanh, Đen vội vàng lật tấm đệm trên đầu gi­ường Ma-ri, một con dao găm hiện ra, và cả một khẩu súng ám sát cỡ nhỏ rất xinh nữa. Có lẽ của Ma-ri hoặc của Paul để ở đó để đề phòng bất trắc.
Anh nhớ mang máng cái đêm đầu tiên anh nằm ở dưới gầm giư­ờng, có lúc tỉnh dậy, anh thấy dưới gầm đệm có hình một con dao găm, lúc đó chưa thấy khẩu súng. Nhưng rồi anh quên đi, mãi sáng nay khi gài quả lựu đạn đi rồi thấy cần có một loại vũ khí thay thế, anh mới chợt nhớ tới con dao. May quá lại có cả khẩu súng, thật là ư­ớc được mong thấy. Anh nhặt khẩu súng kiểm tra đạn, còn đầy nguyên 6 viên, anh lên đạn và giắt vào cạp quần, còn con dao anh cuộn vào một chiếc khăn trải giư­ờng. Khi cô Lam chạy vào báo tín hiệu an toàn, cả sân trại vắng vẻ, lính canh đang chúi vào gốc cây phía ngoài cổng tránh nắng, một số tên đang quét dọn nhà lớn, tên lái xe đang về nhà ăn cơm.
Anh yêu cầu chị cởi hết quần áo lính ra cho anh, chỉ để anh mặc một chiếc quần đùi và một cái áo lót rồi lấy khăn trải giư­ờng phủ trùm lên đầu anh, đưa anh ra nằm vào quan tài và phủ vải trắng lên, coi như­ là số vải để chuẩn bị liệm vứt vội vàng vào trong đó. Anh còn dặn chị tuyệt đối không cho chị Ma-ri biết, vì chị đang bối rối, nhỡ hỏng việc, và anh yêu cầu ngoài hai chị lên xe không cho người nào nữa đi theo. Đen còn nói thêm:
- Chị ơi, có gì quý giá chị nên mang theo đi, tình hình này có khi đánh nhau to đấy!
- Chị có gì nhiều đâu mà mang em ơi!
Nói vậy nhưng chị cũng chạy vội về phòng mình, xách một cái túi sắc khá đẹp và sang. Chỉ vài phút sau, Lam đưa anh ra nằm vào quan tài, phủ vải lên, rồi đậy nắp lại, mọi việc vừa xong thì Ma-ri và một số lính cũng mang các thứ về, băng đen, vải xô, vài vòng hoa, hương nến, lỉnh kỉnh cứ chất đầy lên xe. Khi tên lái xe chạy đến giục mọi người. Cô Lam đã chủ động tuyên bố:
- Chỉ cần bà Đồn và tôi lên xe ra đó thôi, ở ngoài đó đã có đồn phó và nhiều người rồi, các anh ở nhà chuẩn bị nghi lễ để đưa thi hài ông đồn về.
Ma-ri gật đầu tán thành, Lam dẫn Ma-ri vào nhà mặc quần áo đại tang cho cô rồi dìu cô lên xe. Chiếc xe Jeep nổ máy đem theo chiếc quan tài "người sống" lao ra khỏi cổng đồn. Bọn lính gác đứng nghiêm chào, khi chiếc xe đi qua còn vẳng lại tiếng bọn lính nói với nhau:
- Mẹ kiếp, bà đồn mặc quần áo đại tang trông càng xinh chúng mày ạ!
- Đù mẹ! Đẹp mấy thì cánh lính tráng cũng chẳng xơ múi gì, lại đến lượt đồn trưởng mới mà thôi!
 
Trở về
Khi nằm trong quan tài, Đen đã cố ý nằm úp mình xuống để cho dễ hoạt động, đề phòng anh chưa đủ sức lật người lại được. Trong lúc xe còn ở trong đồn, nỗi lo sợ làm thần kinh anh căng thẳng, anh chỉ lo bị lộ không thoát được mà lại tai vạ đến hai chị Ma-ri và Lam. Mãi đến khi xe nổ máy chạy ra khỏi cổng đồn, anh mới yên tâm. Lợi dụng tiếng xóc của xe anh vội vàng làm công tác chuẩn bị chiến đấu. Anh rút dao găm ra định khoét một lỗ xuyên qua gỗ để dí nòng súng vào bắn chết tên lái xe, rồi tìm đường trốn. Nhưng anh nhận ra ngay ý nghĩ đó là điên rồ, bởi lẽ gỗ dày quá, anh khoét mãi mà không được; và hơn nữa nếu bắn chết tên lái xe thì xe có thể bị đâm đổ, cả 3 tính mạng trên xe không được an toàn. Hơn nữa anh không muốn giết người khi không cần thiết, dù sao anh ta cũng chỉ là người lính, lại đang bị động đưa anh trở về đội ngũ của anh. Anh đành nằm im để giữ sức và chuẩn bị tinh thần.
Chiếc xe đang chạy bon bon trên đường không có v­ớng mắc gì cả, khi xe đi đến xóm lẻ làng Hạ, đúng như­ lời dặn của Đen, cô Lam bỗng kêu mót đái và yêu cầu lái xe dừng lại. Chiếc xe phanh đột ngột dúi đầu về phía trước, vừa lúc đó lợi dụng quán tính của xe, chiếc nắp quan tài bị bật hất sang một bên và Đen ngồi bật dậy, tay cầm khẩu súng ngắn chĩa vào gáy tên lái xe quát:
- Mọi người hãy bình tĩnh, lái xe chú ý làm theo lệnh tôi!
Mọi người đều giật mình, tên lái xe theo bản năng vội cúi xuống định cầm khẩu tiểu liên, nhưng Đen đã gí sát khẩu súng lục vào gáy hắn: "Ngồi yên, không được sờ vào súng! Còn Ma-ri và Lam thì cứ há hốc mồm ra mà ngạc nhiên và nhìn Đen, mặt các cô đều tái nhợt. Tuy cô Lam có biết trước, nhưng không ngờ Đen lại có súng và càng không ngờ sao Đen lại có thể bật dậy được và nói một cách mạnh mẽ như­ người bình thường vậy. Đen nói nhỏ nhưng dõng dạc và đanh:
- Xung quanh đây đang có trận địa mai phục của Việt Minh để đón tôi, nếu dở chứng thì chiếc xe này sẽ tan xác. Người lái xe bỗng run lên, anh ta đã xuýt chết nhiều lần. Bây giờ hãy nổ máy, lái xe ngoặt vào sát ngôi chùa xóm Hạ kia, và để yên cho tôi xuống, lấy cớ vào lấy vòng hoa rồi vòng quay ra. Nào nổ máy đi, đừng có mà liều lĩnh, bình tĩnh mà lái kẻo xe xuống ruộng đấy.
Tên lái xe run quá, nổ máy mấy lần mới được; rồi lái xe đi theo chỉ dẫn của Đen. Chiếc xe chỉ rẽ vào cách đường cái khoảng năm chục mét rồi dừng lại bên sân chùa.
- Không được tắt máy, nào đưa khẩu súng cho bà Đồn- Tên lái xe đưa súng cho Ma-ri. Chị Ma-ri cứ ngồi yên. Nào chị Lam giúp em một tay.
Cô Lam hiểu ý liền nhanh nhẹn đỡ cho Đen bước ra khỏi quan tài, thực ra là Lam bế thẳng Đen ra rồi đặt xuống đất.
- Chị Ma-ri canh chừng đấy, chị Lam cầm lấy một vòng hoa dìu em vào cổng chùa đi.
Lam một tay cầm vòng hoa, còn một tay ôm bổng Đen lên và đặt anh ngồi dựa vào cổng chùa. Đen vội vàng nói giọng bùi ngùi:
- Em cảm ơn hai chị, chị Ma-ri ơi, chị Lam ơi, hãy về cùng với em đi, đừng ở trong đồn nữa khổ lắm.
- Chị không thể đi lúc này được - Paul chết rồi, trước sau chị cũng phải đi, nhưng chị đã mang được gì đâu, tất cả còn ở trong đồn cả.
- Còn chị không thể bỏ rơi Ma-ri trong lúc đang tang gia bối rối này được. Thôi em cứ về đi, chúc em chóng hồi phục và may mắn. Em về nhà đi, đừng đi làm cách mạng theo Việt Minh nữa khổ lắm, em không chịu nổi đâu.
- Anh lái xe- Giọng Đen nói cứng nhắc. Nếu hai chị này có điều gì thì anh sẽ phải đền tội. Hãy liệu hồn đấy! Tên lái xe chỉ còn biết vâng vâng dạ dạ - Ma-ri bảo Đen:
- Em cứ yên tâm, lái xe không dám làm gì được chị đâu. Thôi chào, ô-rơ- voa! Tạm biệt! bai! bai! Chị Ma-ri và Lam dơ tay vẫy vẫy lại anh.
Đen tần ngần đứng nhìn theo chiếc xe ngoặt ra đường cái rồi lao nhanh về phía Thường Tín. Khi Đen quay lại thì đã thấy rất nhiều bà con trong xóm chạy ra đứng đằng sau anh. Một bà mẹ ở cơ sở nhận ra Đen, vội chạy lại ôm chầm lấy anh mà khóc.
- Trời ơi, thằng Đen con còn sống mà về đấy ­? Thế mà người ta đồn rằng con đã bị chết mất xác rồi.
Đen cảm động rư­ng rư­ng nước mắt. Anh đứng không vững nữa, anh mệt quá, ngã vào lòng bà mẹ.
Mấy ngày sau, Đen được tin tình hình trong đồn Chùa Thôn: Bọn giặc đưa thằng Tây Xồm, trung uý về thay làm đồn trưởng. Nó điều tra ra vụ Tây Lùn bạn nó không phải chết vì Việt Minh đánh mìn mà vì bẫy lựu đạn gài trong ăng gô thức ăn. Tên lính bồi bị đưa ra xử bắn, còn cô Ma-ri và Lam cùng với anh lính lái xe bỏ trốn ngay trong đêm đó.
Họ đi đâu về đâu? Sống hay chết, còn hay mất? Những năm sau này Nguyễn Trung Hiếu tức Đen, suốt những năm dài chiến tranh anh đều lư­u ý kiếm tìm họ, nhưng đều không thấy. Chắc hẳn họ đều đã phiêu bạt, mỗi người, mỗi nơi, khắp nẻo đường đất nước. Dù cuộc đời họ có gặp nhiều bất hạnh, biết bao đắng cay và tủi nhục, dù hoàn cảnh có đưa đẩy cuộc sống của họ bị cuốn theo dòng thác loạn và họ phải sống bằng những đồng tiền nhơ nhuốc từ những vũng bùn lầy tăm tối hôi tanh, nhưng nhân phẩm con người của họ vẫn còn chỗ đứng trong tâm hồn họ, có lúc có nơi đã bùng lên, bột phát, và lòng nhân hậu của những kẻ bần cùng, còn muôn vàn đáng yêu đáng quý, đáng trân trọng hơn những lời từ bi sáo rỗng của những kẻ mũ cao áo dài, quyền cao chức trọng mà táng tận     lư­ơng tâm, giết người không gươm, ăn sống nuốt tươi nhau còn ác độc hơn những loài dã thú.
Dù thời gian có trôi đi, dù năm tháng có xoá mờ, có làm tàn phai xuân sắc và con người họ, nhưng tấm lòng cao cả của họ sẽ không bao giờ tàn phai. Và phải chăng ở đời này: những người có tấm lòng nhân hậu thì không bao giờ phải bất hạnh hoàn toàn; chắc hẳn về cuối đời họ sẽ gặp được may mắn và họ sẽ được sống thanh thản tâm hồn. Nhiều đêm không ngủ Đen thường thổn thức và thầm gọi:
"Chị Ma-ri ơi, chị Lam ơi, giờ này chị ở đâu? Năm tháng có thể làm các chị tàn phai sắc đẹp, nhưng tấm lòng của các chị mãi mãi còn hằn sâu trong trái tim em và ký ức em không bao giờ phai mờ bóng hình các chị!Chị Ma-ri ơi, chị Lam ơi, giờ này chị ở đâu?"
 
 
 
 


Chương V
 
Tin dữ đồn xa
Nguyễn Trung Hiếu về tới cơ sở ở xóm lẻ thôn Hạ, ngày hôm trước, thì hôm sau tin tức đã đồn về đơn vị và hôm sau nữa đồn lên đến Ban chỉ huy Tỉnh đội và lan đến một vài nơi cơ sở, mà Đen quen thuộc vẫn đi lại. Người ta thì thào to nhỏ, nói vào tai nhau, một truyền năm, năm truyền m­ời, nhất là cái tin có vẻ ly kỳ giật gân nh­ư vậy nào là:
- Thằng Đen không chết, thằng Đen vẫn sống đàng hoàng, mạnh khoẻ, thằng Đen được thằng Tây đồn trưởng cho ô tô đưa về tận nhà!
- Thằng Đen đi xe của nhà binh Pháp, lại có cả hai cô gái trẻ đẹp đi theo, lại còn tặng hoa và ôm hôn nhau thắm thiết nữa!
- Thằng Đen đầu hàng và làm tay sai cho Tây rồi, Tây đưa nó đi Hà Nội chơi về... Cứ nh­ư thế, họ truyền đi nhiều chi tiết giật gân kỳ lạ, và chú bé Đen liên lạc của đại đội 15, người tù binh trẻ tuổi dũng cảm vừa được những tấm lòng nhân từ cứu sống, người chiến sĩ khôn ngoan m­ưu mẹo đã giết được thằng Tây Lùn, một tên ác ôn mà ba tháng nay làm đau đầu các cấp chỉ huy lãnh đạo của cả tỉnh này, với nhiều lực lượng, nhiều trận đánh mà vẫn chưa giết được nó. Anh còn lợi dụng được thời cơ tự cứu mình trốn thoát khỏi nanh vuốt giặc trong khi vẫn còn bán thân bất toại!
Những ngày đầu Đen chưa hề biết gì về những tin đồn đại ấy. Anh được cơ sở bí mật đưa về một ngôi chùa hẻo lánh gần đê sông Hồng do một bà vãi già trông nom nuôi d­ưỡng, đồng thời cơ sở cũng đã báo cáo về đại đội 15 để cho người xuống đón.
Anh được nằm trong một gian buồng ở dãy nhà dưới, nơi dành cho những người ăn người làm, bà vãi, khách thập phương đến cúng lễ và thăm vãn cảnh chùa. Niềm vui khi được trở về làm anh phấn khởi, về đến đây anh mới thấy mình được sống, được tự do và hết mọi lo âu buồn phiền, mà anh cứ phải nơm nớp lo sợ trong bốn ngày sống ẩn náu ở trong đồn, anh thấy sung s­ướng và thoải mái vô cùng. Cảnh chùa thanh vắng, sạch sẽ, mát mẻ và đẹp đẽ, làm tâm hồn anh được thảnh thơi yên tĩnh và tăng thêm nghị lực chữa bệnh, rèn luyện để anh sớm được trở về đội ngũ chiến đấu.
Đen lần theo bờ t­ường, bậc cửa, những hàng cột trong nhà để tập đi tập đứng, như­ những ngày trẻ thơ, tập bước vào đời. Những thang thuốc nam, những nắm lá xoa bóp và những miếng cơm bát cháo của bà vãi Hạ nh­ư tấm lòng bà mẹ chăm con và những lời thăm hỏi động viên giúp đỡ của các vị tăng ni đạo hạnh, là những tâm hồn s­ưởi ấm trái tim anh làm tăng thêm nghị lực cho anh.
Một lần anh đang tập đi, tuy đã mệt mà anh vẫn còn tập thêm, mồ hôi vã ra như­ tắm nhưng anh vẫn cố đi, đến nỗi bị ngã vật xuống sân chùa, đầu đập xuống gạch đau điếng, anh không ngồi dậy và đứng lên được nữa. Cũng may lúc đó có một cô tiểu đang dọn dẹp ở quanh đó vội chạy ra đỡ anh dậy.
- Mô Phật, anh có đau lắm không?
- Mô Phật, cũng khá đau!- Mãi một lát sau anh mới nói được và nhìn vào mặt "chú tiểu", làm anh xấu hổ mặt đỏ nhừ lên. Trời, cô tiểu trẻ và xinh quá, nước da trắng như­ trứng gà bóc. Cô có một đôi mắt rất u buồn, như­ chứa chất một nỗi lòng sâu thăm thẳm, chắc hẳn cô mới nhập thiền, bộ quần áo nâu sồng còn khá mới và chưa được gọn gàng suôn sẻ như­ các tăng ni lâu năm. Thấy Đen nhìn mình khá lâu, nh­ư tò mò, như­ dò hỏi làm cô cũng đỏ bừng mặt lên và quay đi nơi khác.
- Nào tôi đỡ anh lên, mô Phật! Đi chầm chậm thôi, tôi đưa anh vào trong nhà nghỉ nhé. Anh tập vừa thôi, này mồ hôi ­ướt hết cả quần áo rồi đây này.
Anh dựa vào người cô tiểu và cô ta dìu anh từng bước, từng bước về phòng, hai người đều không dám nhìn vào mặt nhau. Vào buồng, cô lại lấy nước cho anh rửa, và bảo anh thay quần áo để cô giặt hộ.
Hàng ngày cô tiểu quét sân chùa, lại dìu anh đi một lúc và giúp đỡ anh những việc lặt vặt cơm nước giặt giũ, mỗi khi bà vãi Hạ đi vắng.
Với nghị lực của anh và sự giúp đỡ tận tình của nhà chùa, chỉ sau một tuần lễ, anh đã đi lại được bình thường, tuy nhiên đi vẫn còn chậm và loanh quanh ở trong nhà, ngoài sân chùa.
Cô tiểu còn đi m­ượn sách báo cho anh đọc để anh đỡ buồn, chẳng biết cô lấy đâu ra khá nhiều sách báo, vài số báo "Độc lập" báo "Vệ Quốc đoàn", còn phần lớn là sách tiểu thuyết, kiếm hiệp như­: Lan và Điệp, Thuỷ hử, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Lỡ bước sang ngang... Phần lớn những truyện anh đều đã đọc và thuộc, nên xem lại cũng thấy chán, anh lại đi dạo quanh chùa.
Thú nhất, là mỗi buổi chiều anh được ra ngồi ngoài cửa chùa hóng mát bên bờ con sông Kim Giang chảy qua cửa chùa, dòng nước hững hờ trôi, thỉnh thoảng cuốn theo một đám bèo tây hoặc một búp cỏ rác vật vã trôi theo dòng. Và anh lại nghĩ đến những ngày tháng qua.
Cuộc đời anh tuy còn trẻ, quá trẻ so với cả một đời người bình thường, vậy mà anh đã phải trải qua những bước thăng trầm đường đời giông bão, anh gặp những điều không may, như­ một cánh diều đứt dây, bị gió cuốn mư­a sa vùi dập xuống đến tận cùng của đau đớn tủi hận, những tưởng đã bị chôn vùi mất xác trong ngục tù của cả hai chiều gió.
Và số phận anh cũng lại gặp may, cứ đến cái phút tận cùng giữa cái sống và cái chết thì anh lại được những tấm lòng nhân từ đón lấy anh và cứu vớt anh. Họ đã đưa anh từ một tên tử tù trở về một công dân tự do, họ đã đưa anh từ một tên tù binh trở lại một người chiến sĩ và họ đã đem anh từ cõi chết trở về cuộc sống của con người. Thật không có lời nào tả xiết, không có giấy bút nào ghi hết những nỗi khổ đau và những niềm hạnh phúc trở lại làm người của anh.
Và anh cũng cảm thấy nghị lực và niềm tin của mình, sẽ vư­ơn lên và vượt qua tất cả. Một khi, một con người đã không có nghị lực, không còn ý chí thì chẳng bao giờ làm nên một điều gì tốt đẹp cả. Một khi, một con người đã không còn niềm tin, niềm tin vào con người, niềm tin vào chân lý thì chẳng bao giờ còn sức lực mà sống, mà đấu tranh, để v­ươn lên những tầm cao của con người và thời đại.
Ôi! Niềm tin của ta, nghị lực của ta, hãy mãi mãi theo ta đến trọn đời!
Khi những ánh trăng đang toả xuống dòng sông ánh nước long lanh, anh lại thích thú ngồi xuống bên bậc thềm cầu ao, bên cạnh gốc cây si già đang toả xuống những chòm dây dài và rậm rịt xuống tận đáy sông. Và thả hai chân xuống nước mà khua, mà khoắng cho những bọt nước tung lên trắng xoá trông như­ những đụn bông và những giọt nước bắn lên cao lấp lánh như­ những ánh hào quang nhiều màu, sáng chói. Anh nhớ lại ở quê anh cũng có một cây si già chẳng biết bao nhiêu tuổi, 100 năm hay 200 năm? Chỉ thấy các cụ già bảo rằng, từ bé chúng tao đã thấy thế, mà hồi nhỏ, bọn trẻ chăn trâu các anh thường hay tết những chòm rễ si lại với nhau thành những chiếc đu dây để thi đánh đu, hoặc tết thành những cái võng mà ngủ trưa thì thật tuyệt. Anh thích nhất là trèo lên ngọn cây si mà nhảy "brông dông" xuống thì rất khoái, có lần anh đã bị cắm đầu xuống tận đất ở đáy sông sâu hàng 6-7 thư­ớc. Tuổi thơ và những kỷ niệm của tuổi thơ bao giờ cũng làm cho anh nguôi những nỗi đau lòng trên đường đời...
Mượn gió bẻ măng
Cuộc đời cũng thật lắm éo le, mà quả đất thì bao giờ cũng tròn. Và con người lại cứ quanh quẩn gặp nhau, trái với ý muốn của mỗi người. Có những tình cảm, những tấm lòng, muốn tìm lại nhau để thương để nhớ, để ân để nghĩa và để tiếp nối cho nhau những tâm hồn, những ý tưởng mạnh mẽ, để cho con người ngày càng cao đẹp hơn. Như­ cái ­ước mong của anh chiến sĩ Nguyễn Trung Hiếu tức Đen với hai cô gái điếm trong đồn Chùa Thôn mà mãi nhiều năm sau này, anh vẫn không tìm thấy.
Có những sự việc đau lòng, có những nỗi ân hận âm thầm trắc trở mà người ta muốn lãng quên, muốn chôn vùi trong dĩ vãng và cả trong ký ức của họ thì nó lại cứ hay đến, hay trở lại một cách bất ngờ. Khiến người ta phải kinh hoàng sửng sốt, người ta phải lo sợ cái quá khứ ác nghiệt đó, và người ta lại phải tìm cách chống đỡ, chắn che, thậm chí đến điên cuồng và tàn bạo.
Sự đời là thế, con người ta nếu không giữ trọn được một lần thì lần sau lại càng tái diễn, nặng nề hơn lần trước, và nếu một người nào đó đã vi phạm tội lỗi, đạo đức, mà không biết ăn năn hối hận, mà không dám thú nhận, cứ che giấu mãi thì rồi có ngày nó cũng bật ra và một lần dối trá thì sẽ có thể dẫn đến hàng chục lần dối trá tiếp theo, một lần tội lỗi thì có thể dẫn đến hàng trăm lần tội lỗi tiếp theo. Nếu không biết ăn năn hối hận, không biết dừng lại kịp thời thì sẽ dẫn đến mất cả tính người; Và rồi cuối cùng cũng vẫn phải phơi bày, phải bộc lộ, bởi lẽ những cái xấu bao giờ cũng bị nguyền rủa và tội ác bao giờ cũng phải trả giá. Đó là quy luật của muôn đời.
Ấy là trường hợp của anh chàng Nguyễn Văn Quân, tức "Quân dát", cái anh chàng dân quân có vóc người to lớn mà nhát nh­ư cáy ấy, cái anh chàng khiêng cáng thương với anh chiến sĩ Hùng để cứu Đen cái đêm công đồn giải vây thương binh, tù binh ấy. Đêm hôm đó, anh ta cứ chúi mũi xuống cái hố sâu để tránh đạn, bỏ mặc thương binh và mặc cho anh bộ đội Hùng thúc giục, anh ta cũng không ngóc đầu lên được. Khi yên tiếng súng, anh ta mới ngẩng đầu lên thì đã thấy mất cả Hùng, mất cả Đen chẳng biết họ đi đâu, chỉ còn lại cái cáng không bên cạnh. Anh ta lo quá, chắc họ bị hy sinh bắn mất xác cả rồi chăng? Anh ta cố ngóc đầu lên nhìn xung quanh, trong ánh lửa của hoả điểm bọn địch bắn ra, anh ta nhìn thấy lờ mờ bóng Hùng đang vác Đen chạy đi, nhưng hình nh­ư chạy lạc đường, rẽ vào trong đồn ấy, anh ta cảm thấy thế và định gọi Hùng quay lại, nhưng anh ta lại sợ tiếng của anh ta làm lộ mục tiêu và sẽ thu hút đạn của địch về phía này, thành thử anh ta lại thôi. Anh tin rằng Hùng sẽ tìm được lối ra và đem được thương binh về. Nhưng anh ta bỗng toát mồ hôi lo sợ, nếu họ bị đạn trong đồn thì sao, họ có thể bị hy sinh mất, trời ơi biết làm thế nào bây giờ, anh đã mạnh dạn đứng lên để gọi, nhưng khi đứng lên thì bóng Hùng đã mất hút vào trong đồn rồi chẳng biết đằng nào mà gọi nữa.
"Rủi họ có hy sinh thì cũng là điều may cho mình!" - Anh ta lẩm nhẩm như­ vậy, rồi nằm ép xuống đất, ngắm định phương hướng và chờ đợi thời cơ. Khi tiếng súng đã lắng xuống, Quân cũng không dám đứng lên để vọt chạy, mà anh ta cứ bò, bò mãi, kéo theo cái cáng thương, anh bò cả ở trên bùn, bò cả ở dưới nước, bò cả ở trong ruộng ngô, ruộng mạ, bò hết cả một cánh đồng, đến nỗi quần áo bị rách tư­ơm, mặt mũi chân tay đầy bùn đất. Đến mãi sáng, Quân mới dám đứng lên, ngó thấy đồn đã xa và tiếng súng đã chuyển về phía Nam, anh ta mới vội cắm đầu chạy. Anh ta không dám chạy theo đơn vị, vì phía đó vẫn có tiếng súng, chắc là bọn Tây đang đuổi. Mà anh ta luồn lách ở trên cánh đồng, tìm các đường vắng ngõ hẻm mà đi, vừa đi vừa lẩn tránh những người qua đường; đến chiều tối thì anh ta mới về đến làng. Nhưng anh ta vẫn còn phải ẩn náu chờ đến đêm khuya, anh ta mới dám bò về nhà, trước sự ngạc nhiên của mẹ và vợ anh ta.
- Chết hết rồi! May mà còn được cái xác về đây! Khi mẹ và vợ anh hỏi, anh vừa run rảy vừa trả lời bừa như vậy, làm mẹ anh và vợ anh mừng quá, vội vàng chăm sóc anh từng li từng tý, đun nước tắm, giặt giũ quần áo, và giết gà nấu xôi ăn mừng anh thoát chết. Bà mẹ thắp nén hương khấn vái trên bàn thờ để cảm ơn trời Phật, tổ tiên ông bà, thần linh đã cứu anh tránh được hòn tên mũi đạn mà trở về.
Thế là, anh chàng Quân ăn no ngủ kỹ, đóng cửa nằm tịt trong nhà mấy ngày liền không dám ngó mặt ra ngoài, chỉ cho vợ đi nghe ngóng tình hình thăm dò tin tức để anh còn suy tính bài bản ứng phó kịp thời cho cái tội bỏ đồng đội, bỏ trận địa, đảo ngũ trốn chạy về nhà nằm.
Mãi ba ngày sau, khi các đơn vị bộ đội và dân quân hoàn thành nhiệm vụ trở về, anh mới dám ló mặt ra ngoài, hoà chung vào với dòng người và huyênh hoang về chuyện chiến đấu, chuyện cứu thương...
Anh tung tin rằng: anh đã dũng cảm dưới làn đạn của địch để đào bới và cứu các chiến sĩ bị chôn sống, rằng anh đã băng mình dưới làn đạn bắn sát mặt đất để khiêng thương binh, rằng anh đã dùng thân mình che chở cho thương binh, rằng đồng chí thương binh và đồng chí bộ đội bị một quả pháo bắn tan xác ngay ở sát hàng rào cổng đồn Chùa Thôn, rằng anh đã nghe thấy tiếng đạn rơi, nên nhảy xuống hố kịp thời nên mới thoát, rằng anh đã ở lại nhặt xác đồng đội nhưng chẳng còn gì cả, rằng anh đã thương xót đồng đội mà khóc rồi chạy lung tung tìm xác nên mới bị lạc....
Đối với các cán bộ và chiến sĩ đã dày dạn chiến đấu thì chuyện của Quân chẳng đánh lừa được họ, nhưng họ không chấp bởi vì đằng nào Đen và Hùng cũng hi sinh rồi, nhưng đối với... với những người chưa tham dự chiến đấu nhiều và với bà con nhân dân trong làng Hạ, cái làng quê của anh thì họ lại tin sái cổ. Và trong đợt bình công khen thưởng, Quân cũng được tuyên dư­ơng và trên cấp giấy khen "Vì đã có thành tích dũng cảm chiến đấu cấp cứu thương binh"(!).
Anh chàng Quân chưa kịp tận hưởng hết niềm vinh dự về "thành tích" của mình, mới chỉ trong vài ngày, thì bỗng nhiên chiếc xe Jeep của đồn trưởng Tây Lùn đỗ xịch về làng Hạ, đưa anh Vệ Quốc đoàn bé nhỏ Đen như­ dưới âm phủ chui lên trở về, làm cho Quân giật nảy mìmh chết ngất vì lo sợ. Anh ta phải đến tận nơi nhìn cho rõ, nhưng phải che nón sụp xuống, không để lộ mặt, thực ra thì Đen cũng có biết mặt ai khiêng mình đâu kể cả Hùng và Quân. Thôi đúng rồi, đích thực là anh bộ đội bé nhỏ ấy đấy rồi. Quân nhớ rằng khi khiêng anh ta nhẹ như­ một đứa bé con, và lúc đó anh ta chỉ còn là một cái xác mà thôi. Vậy mà bây giờ anh ta đã về, da đỏ hồng hào tươi tỉnh và đã đi khập khễnh được rồi.
Quân phải đóng cửa trốn tịt ở nhà mấy buổi suy nghĩ cách đối phó.
Rồi những lời bàn tán xôn xao dư­ luận trong bà con về chuyện Đen đi xe của tên đồn trưởng, có lính của đồn đi bảo vệ, Đen có hai cô gái đi kèm, Đen được các cô tặng hoa và ôm hôn các cô ấy... Lúc đầu chính Quân cũng không tin Đen có thể phản bội được và cũng không tin bọn Tây có thể dụ dỗ mua chuộc một chú bé Đen để làm tay sai cho chúng được. Nhưng rồi bản năng tự vệ, ý thức chống đối lại đồng đội, và tính hèn hạ ích kỷ đã trỗi dậy làm Quân thấy những dư­ luận xì xào đó càng có lợi cho mình, nếu đó là sự thật thì anh lại càng khoái chí vì trăm dâu đổ vào đầu Đen cả. Trước sau Đen cũng sẽ bị cách mạng trừng trị. Chả khối người chỉ có việc cỏn con bị vu vạ không đâu ở cái đất tự do kháng chiến này mà còn bị bắt bị đày chết mục xương trong tù, thì cái chuyện tày đình này, ở trong đồn giặc, đi ô tô của giặc, lại có lính giặc đi hộ tống thì dù không phản động cũng có trời mà thanh minh nổi. Trước sau thì anh ta cũng sẽ phải đi tù, mà cái xác còm cõi chỉ còn xương bọc da ấy thì được mấy nỗi? Có chịu nổi vài đòn tra tấn của cánh công an áo đen không? Thôi thì đằng nào anh ta cũng bị rồi, mình phải mượn gió bẻ măng, dậu đổ bìm leo để bảo vệ lấy cái uy tín chính trị của mình. Mà nếu thoát được lần này, không khéo đợt sau lại được phong chức chỉ huy dân quân nữa chứ chả chơi (!).
Ôi, giá như­ mình - Quân nghĩ nh­ư vậy - thì mình ở lại mẹ nó trong đồn, làm lính đồn có hơn không, nếu không muốn làm lính nữa thì tìm cách chuồn, chuồn đi thật xa nào ai biết, vào tận khu 4 hay Việt Bắc ấy. Tội gì mà vác xác về, chẳng bị chết vì Tây thì cũng bị chết vì Việt Minh mà thôi. Dại, thật là dại, trẻ người non dạ có khác, đã dại thì cho chết luôn thể, mẹ kiếp (!).
Thế là Quân nghiền ngẫm suy nghĩ và suy diễn mãi ra những hành động những bằng chứng, hùng hồn để chứng tỏ là Hùng và Đen đã có ý định đầu hàng phản bội ngay từ đầu. Phải quy tội cho Hùng là chủ yếu vì Hùng đã chết rồi, buộc tội cho người chết thì chỉ có trời và ma quỷ chứng giám và hơn nữa lúc đó Đen bất tỉnh chẳng biết gì. Tuy nhiên, Quân còn suy diễn bịa đặt ra nhiều chi tiết ly kỳ hấp dẫn nữa, làm cho người nghe phải thán phục là Quân đã phát hiện ra một âm mưu và ngăn chặn được một âm mưu phản bội to lớn, rằng Quân đã có công to trong trận chiến đấu đó, nếu không thì cả đại đội đã bị tiêu diệt hoàn toàn...
Sau khi chuẩn bị các chứng lý đầy đủ. Quân nhanh chóng bí mật đi tìm và báo cáo với Ban chỉ huy đại đội 15. Phải báo cáo nhanh để cho các chỉ huy có căn cứ và xử lý kịp thời vụ "Gián điệp Đen" này. Sau 2 ngày dò hỏi mãi Quân mới tìm đến được căn cứ của đại đội 15 đóng tại chợ Bến, Quân liền xin gặp chỉ huy ngay.
Người tiếp Quân là chính trị viên đại đội Nguyễn Văn Chính, đại đội trưởng Hoàng Khánh đi vắng. Trong trận chiến đấu giải vây tù binh hôm đó, chính trị viên Chính làm nhiệm vụ đôn đốc hậu cần phía sau, nên các tình huống diễn biến phía trước sát chiến hào không rõ cụ thể, chỉ nghe tiếng anh em kể lại về sau mà thôi.
Từ hôm qua, anh Chính đã được nghe cái dư luận về chuyện cậu Đen này rồi và đang hoang mang không biết thực hư­ ra sao. Hôm nay lại được nghe Quân báo cáo tỉ mỉ những điều mắt thấy tai nghe này, thì anh thực sự bàng hoàng sửng sốt cả người. Anh tin vào đồng chí dân quân "trung thực" ở cơ sở này, cơ sở là quần chúng tin cậy nhất. Đảng đã chẳng chỉ rõ điều đó rồi sao? Anh tin vào những chi tiết mà Quân đã khẳng định:
- Nếu không có ý định đầu hàng phản bội thì tại sao Hùng lại vác Đen chạy thẳng vào trong đồn, mặc dầu em đã kêu gọi đã can ngăn nhưng "chúng" không nghe, không quay lại, mà cứ chạy thẳng vào hướng nhà tên đồn trưởng. Em đã có ý định tiêu diệt những tên phản bội đó nhưng rất tiếc là lúc đó em không có súng (!).
- Nếu không phản động làm tay sai cho chúng thì tại sao thằng đồn trưởng lại cho xe Jeep của nó đưa về tận chùa làng Hạ, chính mắt em đã trông thấy có một tên lính cầm tiểu liên đi bảo vệ trên xe, chính mắt em trông thấy hai cô gái đi đưa tiễn, hình nh­ư một cô là vợ tên đồn trưởng. Chính mắt em nhìn thấy chúng dìu nhau vào chùa, tặng hoa cho nhau và ôm hôn nhau thắm thiết. Chúng còn cười nói với nhau bằng cả tiếng Pháp, vẫy chào nhau và hẹn gặp nhau một ngày nào đó. Ngay lúc đó em đã căm thù muốn tiêu diệt cả cái xe lẫn bọn giặc cái, nhưng rất tiếc là lúc đó trong tay em không có vũ khí, hơn nữa vì cần phải bảo vệ cơ sở bí mật, nên em đành phải nhắm mắt cho chúng nó đi, nếu không thì chúng phải tan xác với em rồi (!).
- Anh bảo tại sao thằng Đen chưa chỉ điểm để phá cơ sở của ta ­? Theo em nghĩ chúng nó chưa ăn non thế đâu, chúng còn phải gài thằng Đen nằm vùng, chờ cơ hội chui sâu leo cao mới phá ta một cú lớn mới ác chứ! Đó là âm mưu xảo quyệt của bọn địch. Nhân danh những cán bộ cơ sở, những cốt cán của Đảng và đồng bào làng Hạ, em đề nghị các cấp chỉ huy phải cấp tốc chặn ngay bàn tay vấy máu của chúng, phá tan âm mưu thâm độc của giặc, cho bắt ngay thằng Đen tống giam và trị tội phản bội Tổ quốc làm tay sai cho giặc của nó...
Trước khi ra về, Quân còn nắm chặt tay chính trị viên Nguyễn Chính và hứa:
- Vâng, em xin nhận nhiệm vụ tiếp tục điều tra thu thập tin tức về "thằng Đen phản bội", và trực tiếp bí mật theo dõi giám sát nó, nếu có hành động gì khả nghi sẽ kịp thời ngăn chặn và trừng trị ngay, xin chính trị viên cứ tin vào em.
Rời căn cứ đại đội 15 ra về, Quân phấn khởi vui mừng, chạy nh­ư bay. Về đến nhà, anh ta lại bảo mẹ và vợ giết gà nhắm rư­ợu ăn mừng thắng lợi.
- Khà khà, thế là mình đã kịp thời cứu nguy được một bàn thua trông thấy!
 
 Lập trường cô để ở đâu
Chính trị viên Nguyễn Văn Chính, sau khi tiễn đưa Quân về, anh rất phấn khởi đồng thời cũng rất lo lắng. Phấn khởi vì đã có những quần chúng tốt, những cán bộ cốt cán của Đảng ở cơ sở đã phát huy được tinh thần chủ động cảnh giác đánh địch, sau đợt này anh phải khen thưởng và đề nghị cất nhắc cậu Quân và đề nghị địa phương kết nạp cậu ta vào Đảng. Đó là những quần chúng ­ưu tú, kiên định "lập trường đấu tranh giai cấp và giai cấp đấu tranh". Phấn khởi vì anh là người chỉ huy đầu tiên, trước cả đại đội trưởng, nắm bắt được tình hình, thu thập được những tin tức khẳng định về "nhóm phản bội Hùng- Đen" và tên gián điệp Đen, đang được địch thả về gài vào cơ sở và đội ngũ của ta. Phấn khởi vì đã có thêm cái cớ để đấu tranh với đại đội trưởng Hoàng Khánh vì tội lơ là mất cảnh giác cách mạng, đã tin tưởng vào thằng Đen, sử dụng nó như­ một cánh tay phải và lại còn kết nghĩa anh em với nó nữa. Lần này phải kiên quyết đưa đại đội trưởng ra kiểm điểm giáo dục trước cấp uỷ và chi bộ đại đội, rồi xét kỷ luật nghiêm khắc.
Anh phấn khởi vì đã có thể tìm ra nguyên nhân thất bại về trận chiến đấu bao vây và tiêu diệt tên Tây Lùn trước đây. Nếu không phải là do "nhóm phản bội" này thì còn ai nữa, và trách nhiệm đó trước hết là do đại đội trưởng đã làm lộ kế hoạch chiến đấu cho liên lạc biết, nên chúng đã kịp thời thông báo để đối phó lại ta.
Anh lại còn được cung cấp thêm tin tức trong khi bị chôn sống cùng với đồng đội, thằng Đen vẫn được một cô gái trong đồn ra cho ăn uống và còn được một lão cố đạo đến thì thầm nói chuyện trao đổi với nhau hoặc củng cố tinh thần cho nó, lão nói với thằng Đen bằng tiếng Tây, y như­ đọc kinh ấy. À thì ra, việc thằng Đen bị bắt, bị chôn sống chỉ là "khổ nhục kế" mà thôi (!). Âm mưu bọn địch, quả là xảo quyệt thật, hèn nào, sau đó chúng nuôi dưỡng thằng Đen trong đồn chỉ sau mấy ngày đã đi được, thế mà cậu Nhầu và cậu Ngàn thì ta chữa hơn một tuần nay vẫn chưa đi lại được. Anh cũng nhận thấy âm mưu thủ đoạn địch thật là thâm độc, thật là tinh vi và ghê gớm. Anh càng ân hận về việc quản lý giáo dục tư tưởng trong chi uỷ chi bộ và đại đội chưa được đề cao, nhất là trong hàng ngũ cán bộ chủ trì chỉ huy quân sự, đặc biệt là đại đội trưởng, còn mang nặng đầu óc giai cấp học sinh tiểu tư­ sản. Thằng Đen cũng là dân học sinh, nghe nói lại còn học trường dòng, nên dễ dàng phù hợp tính cách tiểu tư sản với đại đội tr­ưởng. Cũng may phát hiện ra vụ thằng Đen sớm, mới cứu được đại đội trưởng, nếu không anh này sẽ bị thằng Đen dụ dỗ mua chuộc rồi sẽ đầu hàng giặc hoặc làm tay sai cho giặc thì nguy to (!).
- Ha ha, đây là một phát hiện mới, một thành tích bất ngờ, đã ngăn chặn được một âm mưu địch lôi kéo cán bộ chủ trì làm tay sai cho chúng!
Chính trị viên Chính bất ngờ cười một cách phấn khởi thật sự. Để tán thưởng mình, anh gọi cô y tá đại đội "quen thuộc" của anh tên là Thường mở ngay một hộp sữa bò để khao hai người - anh và cô - và để bồi dưỡng tăng cường sức lực để còn đấu tranh giai cấp "trong vụ việc nghiêm trọng này. Cô y tá được niềm vui bất ngờ của anh tràn sang làm cô vui lây, nhảy tâng tâng cái dáng người "thon thon mình vại" của cô làm cho bộ ngực đồ sộ của cô cứ bập bùng nh­ư hai quả bóng. Cô nũng nịu ghé sát người vào và hôn lên má chính trị viên kêu đánh chụt một cái.
- Em chẳng ăn đâu, em nhường anh cơ, để còn lấy sức mà "chiến đấu" với em đêm nay chứ, nếu không thì em gí... êt. - Cô dí một ngón tay vào trán Chính, và nở một nụ cười lẳng lơ và nhũng nhẵng. - Tối nay mấy vị kia chưa về đâu, anh tha hồ tự do. Em chỉ dành riêng trái tim em cho Đảng thôi đấy (!).
Rồi cô lại cười khanh khách vẻ chờ đón mãn nguyện và tự hào vì có người tình là chính trị viên, người có quyền lực tối cao ở cái đại đội này.
Bên cạnh niềm vui chính trị viên Nguyễn Văn Chính cũng rất lo lắng, cái lo lắng của một người cán bộ có trách nhiệm, vì đơn vị, vì phong trào, vì cách mạng.
Cái lo lắng trước hết là sợ thằng Đen chỉ điểm phá vỡ phong trào, phá vỡ một số căn cứ, cơ sở của đại đội, của địa phương, cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng nhân dân, và một số căn cứ lương thực, vũ khí, đạn dược mà nó biết, vì nó là liên lạc của đại đội, nên hầu hết các cơ sở của đại đội nó đều biết, nó còn biết một số cơ sở của các huyện và tỉnh nữa.
Cái lo lắng thứ hai là làm sao canh giữ quản thúc được nó, không nên đánh động nó, cần phải theo dõi những âm mưu và hành động của nó, nhất là xem nó liên lạc quan hệ với những ai, ở đâu, để tìm ra một màng l­ới gián điệp của giặc mà bắt và tiêu diệt. Nếu sơ ý để nó thấy động, nó sẽ chuồn mất, thì sôi hỏng bỏng không?
Cái lo thứ ba của chính trị viên là làm sao để đơn vị không mất cảnh giác, không để một người nào bị nó mua chuộc dụ dỗ, lôi kéo. Bởi vì thằng Đen có sức thuyết phục nhân tâm rất khá. Mọi người trong đại đội đều tin yêu quý mến nó. Các bạn bè thân thiết không dễ gì xác nhận nó là phản bội đầu hàng và phản động làm tay sai cho giặc nếu không có chứng cớ bắt quả tang hành động phản bội của nó ở ngay trong vùng tự do này. Các chứng cớ trong đồn địch và khi nó bị bắt đều là hùng hồn đáng tin cậy nhưng không phải ai cũng thuyết phục được và còn nhiều lo lắng nữa.
Cốc sữa cô y tá Thường pha đã để nguội lạnh mà chính trị viên vẫn quên chưa uống làm cô phải giục:
- Gì mà suy nghĩ dữ thế anh, nào uống sữa đi kẻo nguội hết rồi đây này, uống xong em pha cho cốc nữa để lấy sức mà "chiến đấu trường kỳ" tối nay... em chờ!
- Thôi đừng đùa nữa, anh đang rối cả đầu lên đây này.
- Có mỗi thằng oắt con bị bắt về còn đang sắp chết, phản động gián điệp gì cái thằng Đen ấy mà cứ cuống cả lên.
- Này này, ăn nói cẩn thận, không khéo lại ăn phải bả tuyên truyền của nó đấy, coi chừng mất cảnh giác đấy, quan điểm lập trường giai cấp của cô để ở đâu?
- À, quan điểm lập trường giai cấp em để ở đây... này! - Vừa nói Thường vừa chỉ vào hai bầu vú như­ hai trái dừa quá cỡ của cô và cười ha hả.
- Thôi đùa mãi nỡm ạ, để yên người ta làm việc, về đi, tối anh đến!
Cô ngủng ngoẳng bước ra khỏi nhà, còn quay lại nguýt một cái dài!
- Gián điệp, chỗ nào cũng thấy gián điệp, không khéo anh cũng nghi cả em làm gián điệp để mua chuộc quyến rũ anh nữa cũng nên đấy!
*
*        *
Việc cần phải làm trước tiên của chính trị viên Nguyễn Chính là phải thông báo ngay cho các cơ sở là có kẻ phản bội để đề phòng, phải cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, phải sơ tán tài liệu, vật chất trang bị, kho tàng và sẵn sàng di chuyển địa điểm các cơ quan đầu mối...
Nghĩ sao làm vậy, anh liền khẩn trương triệu tập một số cán bộ chiến sĩ đến để quán triệt nhiệm vụ và phổ biến tình hình, phân công các hướng các mũi phải đi ngay. Việc đó phải làm mãi đến hết buổi chiều mới xong.
Sau khi cử các bộ phận đi rồi, anh mới thắp đèn ngồi vào bàn viết báo cáo lên cấp trên là việc cần phải làm tiếp theo, rằng theo cơ sở các địa phương báo cáo anh đã cho người đi thẩm tra các tài liệu tin tức chính xác, rằng đại đội đã có thành tích, phối hợp cùng với địa phương phát hiện được một tổ chức phản bội đầu hàng địch và làm gián điệp cho địch, nằm ngay trong đơn vị; rằng do đại đội trưởng thiếu cảnh giác, mơ hồ quan điểm lập trường đấu tranh giai cấp và giai cấp đấu tranh (!) nên đã làm lộ kế hoạch tác chiến, để bọn phản động nắm được và đã nộp cho địch, nên dẫn đến trận thất bại ngày...và lại tin cẩn dùng bọn gián điệp làm tay chân đắc lực cho mình. Rằng hiện nay tên gián điệp đã đội lốt tù binh được trả về... hiện đang ẩn náu, ngấm ngầm hoạt động và chờ thời cơ chui sâu lên cao để phá hoại cách mạng. Rằng quán triệt quan điểm "lập trường đấu tranh giai cấp và giai cấp đấu tranh", mặc dầu đại đội trưởng đi vắng, đồng chí chính trị viên đã chủ động, đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, đã triệu tập một hội nghị quan trọng để nhận định tình hình quán triệt nhiệm vụ, và cho phân tán đi các cơ sở để thông báo tình hình nhiệm vụ, sẵn sàng chiến đấu... Rằng đại đội đã chủ động cử những chiến sĩ và cốt cán giám sát, theo dõi tên gián điệp đang ẩn náu tại chùa.... để phát hiện những âm mưu hành động của địch và kịp thời ngăn chặn những hành động phá hoại của chúng...
Rằng việc này rất nghiêm trọng và khẩn cấp. Yêu cầu Ban chỉ huy tỉnh đội phải nhanh chóng cử các cán bộ trinh sát, tình báo, tác chiến... xuống để phối hợp cùng đại đội... đồng thời phải thông báo gấp cho các cơ quan đầu não của tỉnh, huyện triệt để sơ tán, đề cao cảnh giác đề phòng địch mở chiến dịch lớn, có sự chỉ điểm của bọn gián điệp, càn quét phá hoại cơ sở, căn cứ của ta... và vân vân...
Bản báo cáo của chính trị viên Chính dài đến 3 - 4 trang giấy, mà cái vốn văn hoá "thoát nạn mù chữ" của anh phải viết đến nửa đêm mới xong, anh đọc đi đọc lại, bổ sung thêm bớt rồi hài lòng ký một chữ ký thật oách ở dưới. Rồi gọi văn thư­ đóng dấu, niêm phong lại, đóng dấu hoả tốc hẹn giờ, anh cho gọi một tổ liên lạc, đả thông giao nhiệm vụ khẩn trương đi ngay.
Lúc đó vào khoảng 12 giờ đêm, anh mới thấy thảnh thơi trút một hơi dài khoan khoái, hài lòng về mình và vẫn thấy mình tỉnh táo, anh vội vàng uống nốt cốc sữa cô y tá pha từ tối còn lại đã nguội tanh.
Anh làm một hơi hết và cảm thấy mát lòng mát dạ. Anh mở tủ lấy chai r­ượu bổ, rót một chén đầy và uống một hơi. Anh cảm thấy nóng mặt, người lâng lâng. Anh mỉm một nụ cười mãn nguyện, rồi lần mò sang nhà cô y tá.
 
 Điều may mắn kỳ lạ
Phan Văn Bội một lần nữa lại gặp may.Sau khi đã gây được tín nhiệm với Ban Chỉ huy đại đội và cán bộ chiến sĩ trong đơn vị, nó thấy phấn khởi và thích thú, tuy nhiên vì được tín nhiệm nên lại được đại đội trưởng thường xuyên cử đi trinh sát tình hình địch, mà việc đi trinh sát không phải lúc nào cũng dễ dàng thuận lợi, nếu không bám sát đội hình địch thì không nắm được tình hình mà cứ ở xa rồi báo cáo láo thì lại càng nguy hiểm hơn, sẽ bị lộ tẩy và bị kỷ luật như­ chơi, thậm chí còn bị tù tội, thì mọi mưu đồ, âm mưu của hắn bị phá vỡ tan tành. Mà cứ theo đuổi cái nghề đi trinh sát và làm anh lính chiến này thì chẳng chóng thì chày, sẽ đến lúc chẳng chết mất xác thì cũng bị thương, mọi hy vọng sẽ như­ bọt xà phòng, bao nhiêu ý đồ, công lao sẽ mất hết.
Vì vậy, tên Bội đang có ý định tìm cách liên lạc với bọn giặc và xin với "ông chủ" cho "dinh tê" vào thành càng sớm càng tốt, trước hết là để tránh xa nơi trận mạc, sau đó tìm một việc gì đó nhẹ nhàng mà dễ tiến thân, mà vẫn nuôi được hy vọng trở về trả thù khi quân Pháp đã chiếm đóng làng quê hắn.
Trong chuyến đi trinh sát hôm nay, đang là thời cơ để hắn thực hiện ý định, nếu có điều kiện là chuồn ngay. Hắn đã có một số tài liệu về cơ sở của ta còn đem nộp cho địch để lập công, đặt điều kiện cho việc chuồn của hắn, sớm muộn hắn cũng không thể nào ở lại trong hàng ngũ Việt Minh được.
Vì thế, Bội đã bố trí cho hai chiến sĩ cùng tổ với mình, mỗi người đi trinh sát một hướng cách xa hắn, để hắn có điều kiện thực hiện ý định. Sau khi hai tổ viên đã đi xa rồi, hắn liền chọn địa điểm ở chùa làng Thượng để đón địch, chờ cho bọn địch tập kết nghỉ ăn trưa ở đấy, hắn sẽ giơ tín hiệu, một lá cờ trắng bằng khăn mặt, để đến liên lạc, và ám hiệu, mật khẩu xin gặp trực tiếp tên Tây Lùn để báo cáo riêng. Hắn chờ ở đó suốt từ sáng đến trưa, mãi vẫn chưa thấy bọn Tây đến, liền rẽ vào một nhà dân để kiếm chút gì đó ăn cho đỡ đói. Nhân dân đi tản cư­ hết, mọi lương thực, thực phẩm họ đều cất giấu kỹ, không có cái gì có thể ăn ngay được. May quá, hắn tìm thấy một ổ gà đẻ, hắn định bắt gà mẹ nhưng chẳng may tuột tay nó bay đi mất, hắn đành luộc ổ trứng đó ăn tạm, ổ trứng hơn chục quả, hắn chỉ ăn hết 6 quả, còn lại hắn cho vào túi đeo theo người để ăn dần. Hắn ra bể nước làm một gáo nước m­ưa rồi nằm ngả lư­ng ở chiếc chõng đầu hè của nhà dân nghỉ, nhưng rồi thiu thiu ngủ lúc nào không biết, vì hắn phải suy nghĩ nhiều quá, đầu óc luôn luôn căng thẳng. Hắn ngủ và hắn mơ thấy một giấc mơ tuyệt đẹp. Hắn đang ở Hà Nội, trong một ngôi biệt thự cực kỳ sang trọng và những cô gái đẹp đang vây quanh hắn, trong đó có cô Lam, cái cô mà hắn đã từng chung đụng, hắn đi trên một chiếc xe du lịch về làng quê, trên xe có một cô gái đang cười như­ nắc nẻ, rồi hắn làm lý trưởng, không, làm chánh tổng, tất cả cánh đồng lúa mênh mông bát ngát đều là của hắn, hắn cư­ỡi ngựa đi thăm đồng, bỗng con ngựa nhảy chồm lên rơi xuống một cái hồ nước, làm hắn ­ướt như­ chuột, và những tiếng súng bắn loạn xạ làm hắn choàng tỉnh dậy. Hắn giật mình và bàng hoàng vừa sợ sệt vừa lo lắng, hắn đã vi phạm một điều quan trọng trong nghề trinh sát. Ngủ quên và mất cảnh giác. Cũng may không có người dân nào trở về và cũng không có tên lính nào vào đây. Hắn đã nghe thấy những tiếng lao xao và hô hét của bọn lính xung quanh chùa Thư­ợng. Biết là bọn Tây đã tập kết về nghỉ trưa, hắn vội đứng dậy, sửa sang lại bộ quần áo nâu nông dân mà cánh lính khi đi làm nhiệm vụ trinh sát thường mặc để cải trang làm dân thường, giấu khẩu súng vào một đống rơm, vác một cái cuốc cầm một cái que làm cán cờ và đội một cái nón rách, đi ra gần chùa, chọn một chỗ ẩn nấp để quan sát và chờ thời cơ giơ tín hiệu "xin hàng" để liên lạc với tên đồn trưởng.
Hắn đã chọn được một địa điểm ẩn nấp rất kín đáo và lại quan sát rất tiện, ấy là góc nhà bếp của một căn hộ ở gần chùa, từ đó hắn có thể nhìn thấy toàn bộ hoạt động của bọn địch ở quanh chùa. Kia rồi, thăng Tây Lùn đồn trưởng đã đến, nó đang đi lại gốc bàng ngồi nghỉ?. Bọn lính thì đang ngồi hoặc nằm lăn ra hè, ra sân, bên các gốc cây, giở đồ hộp ăn uống và nói cười huyên náo, có thằng đã nằm ngủ, chụp mặt bằng cái mũ vải rộng vành của lính.
Thằng lính bồi đang mang chiếc ăng gô chứa suất ăn trưa của đồn trưởng, thằng Lùn đang chuẩn bị mở ăng gô để ăn. Mình phải chờ cho nó ăn xong rồi mới ra tín hiệu liên lạc, thằng Bội đang suy tính nh­ư vậy.
Bỗng một tiếng nổ "oàng" bật lên, khói mù mịt cả gốc cây bàng, thằng Tây Lùn ôm lấy mặt bê bết máu rồi gục xuống và giãy chết ngay không kịp ngáp.
Thằng Bội quan sát rõ từ đầu đến cuối, nó giật mình vì tiếng nổ, không biết từ đâu đưa tới. Không có lẽ du kích đang ở quanh đây sao? Hay họ đã gài mìn và bỏ chạy rồi?
Bọn lính hoảng hốt nằm rạp cả xuống đất, bắn súng loạn xạ và hò hét inh ỏi "Việt Minh" A- la- xô! "Xung phong!" Nhưng chẳng có đứa nào dám đứng lên và tiến ra xung quanh cả.
Thằng Bội cũng phải nằm chúi mũi xuống đất để tránh đạn, không khéo lại bị chết oan bây giờ, nó suy nghĩ thế và không dám ngẩng đầu lên.
Thằng Tây Lùn bị chết bất ngờ, làm đổ vỡ hết kế hoạch của thằng Bội, làm nó cảm thấy bàng hoàng và lúng túng. Nó chỉ trực tiếp làm việc với đồn trưởng, còn bọn lính tráng không ai biết hắn. Ra "liên lạc" lúc này là nguy hiểm, khéo chừng bọn chúng còn đổ vạ cho mình giết thằng Lùn nữa. Chúng có thể giết mình ngay tức khắc, thật là tai vạ! Hay là ta tìm đường "dinh tế" thẳng vào thành. Không được, có cái bảo bối là thằng Tây Lùn giới thiệu thì đã mất rồi, đứa nào dám nhận mình, có khi còn bị nghi ngờ là tình báo Việt Minh thì lại càng toi.
Thằng Bội cứ nằm gục trong xó bếp suy nghĩ mà chẳng tìm được biện pháp gì khả dĩ để chuồn được cả. Nó chán nản, thất vọng và đành quyết định: Phải trở về đơn vị để chờ một thời cơ khác vậy.
Mãi đến chiều khi bọn địch cho xe ô tô đến chở xác thằng đồn trưởng và toàn bộ quân giặc đã rút hết, thằng Bội mới bò ra khỏi "đài quan sát" xó bếp của nó. Đến sân chùa, quan sát lại hiện trường thằng Tây Lùn bị chết, chỉ còn lại vết máu lênh láng và những mảnh ăng gô bị vỡ bắn rải rác xung quanh, không có một dấu vết gì tỏ ra là có mìn chôn dưới đất hay là bẫy gài trên cây cả. Thằng Bội cũng gọi xem có du kích nào ở xung quanh đây không, nhưng cũng chẳng có ai thư­a cả, do đó thằng Bội đi đến phán đoán rằng, thằng Tây Lùn bị chết không phải do du kích hay Việt Minh mà có thể là do một tai nạn bất ngờ, có thể là do chính thằng Tây Lùn làm rơi quả lựu đạn OF của nó, hoặc của thằng lính bồi đánh rơi, rồi nó nhặt lên sơ ý bị nổ, rõ ràng là OF rồi, vì khói nhiều lắm, mà lựu đạn khói thì ít có khả năng làm thương vong nặng như­ vậy, hoặc cũng có thể là do có kẻ đặt bẫy ngay trong cái ăng gô cơm để ám sát nó. Người đó có thể là thằng bồi, hoặc có kẻ nào đó đã tráo ăng gô thì thằng bồi phải là tòng phạm hoặc là phải chịu trách nhiệm tai vạ. Vậy thì thằng bồi có phải là người của Việt Minh không? Có thể lắm chứ. Mà cho dù người của ai thì thế nào thằng bồi cũng sẽ bị bắt và bị giết, nếu không kịp thời trốn ngay.
Đêm hôm đó, thằng Bội còn bám theo quanh đồn để nghe ngóng tình hình.
Đúng nh­ư dự đoán của hắn, đến sáng hôm sau thì thằng Bội được tin, tên lính bồi của thằng Tây Lùn đã bị bắt và bị xử bắn. Phán đoán của tổ trưởng trinh sát thật là chính xác.
Giữa lúc đang chán nản vì kế hoạch chuồn bị thất bại, chưa nghĩ ra cách nào khác, sau khi nghe tin thằng lính bồi đã bị bắt và sẽ bị bắn thì thằng Bội lại nảy ra được một "sáng kiến" hay: "Chính nó sẽ là thủ phạm giết thằng Tây Lùn"(!). Thằng lính bồi chết rồi thì chẳng có ma nào phủ định được "chiến công" của nó nữa. Hắn sung sướng quá nhảy cẫng lên vì cái "sáng kiến" ấy, và tự nhủ hãy ở lại hàng ngũ Việt Minh, dùng chiến công này lấy đà bật lên cao, lên cao nữa; nhất định nó sẽ thắng.
Thằng Bội liền gọi các chiến sỹ trinh sát trong tổ về và kể lại thành tích trận chiến đấu đơn phương độc mã của nó trước một đại đội lính Lê D­ương mà nó đã bắn chết được thằng Tây Lùn như­ thế nào. Nó kể và diễn tả lại hay như­ đóng kịch làm hai chiến sĩ trinh sát kia không những tin mà còn nằm bò ra mà bái phục m­ưu trí của tổ trưởng.
- Đây là "chiến công chung" của tổ ta, các đồng chí đều có thành tích trong trận này. Chúng ta đã chiến đấu hợp đồng chặt chẽ cả tổ, hai đồng chí đã khống chế địch ở lại hai bên s­ườn để tôi mở đường đột kích vào trung tâm, vừa bắn vừa ném lựu đạn tiêu diệt ngay tên Tây Lùn ác ôn. Sau đó các đồng chí đã yểm trợ cho tôi rút lui an toàn...!
Hai chiến sĩ trinh sát càng thêm thán phục trước tính khiêm tốn "lập công tập thể" của đồng chí tổ trưởng và rất phấn khởi vì mình cũng có phần công sức trong chiến công đó.
Bội còn vỗ vai các tổ viên nói thêm:
- Chiến công này rất to lớn, tôi không muốn hưởng một mình, mà chia cho các đồng chí cùng h­ưởng. Thôi cứ thống nhất báo cáo trước sau nh­ư thế nhé. Chúng ta đã "lập công tập thể" thì từ nay trở đi sống chết phải có nhau, các đồng chí có đồng ý như­ thế không?
Ba người nắm chặt tay nhau, cùng gật đầu và cười ha hả.
Ai mà chẳng muốn nhận phần thưởng vẻ vang, nhất là trước một chiến công to lớn, mà mình lại chẳng tốn một giọt mồ hôi nào (!).
Từ đó, hai chiến sĩ trinh sát đã trở thành tay chân đắc lực của Phan Văn Bội. Cùng với chiến công giết Tây Lùn, lại thêm thành tích phát triển được hai đối t­ượng đáng tin cậy, thằng Bội tin rằng, rồi đây hắn sẽ còn gặp nhiều may mắn bất ngờ và kỳ lạ hấp dẫn nữa.
 
 Xôn xao dư luận
Cái tin Phan Văn Bội và tổ trinh sát đã giết được tên Tây Lùn, làm chấn động cả dư luận trong bộ đội địa phương tỉnh và ngoài nhân dân. Coi như­ một chiến công thần kỳ mà từ x­a tới nay ở vùng này chưa từng có, mà những chiến sĩ trinh sát của đại đội 15, đặc biệt là của tổ trưởng Phan Văn Bội được coi như­ những người anh hùng, gan dạ, m­ưu trí, dũng cảm và táo bạo. Dám đánh địch giữa ban ngày, dám xông vào giữa hang ổ giặc giữa đội hình dày đặc của một đại đội lính Âu Phi trang bị đầy súng đạn.... Người ta ca ngợi Bội dũng mãnh như­ Tr­ương Phi, táo bạo như­ Triệu Tử Long và m­ưu trí như­ Gia Cát Lượng (!). Bởi vì giết được thằng Tây Lùn quả là một chiến công rất lớn, một chiến công vĩ đại (!).
Chẳng vĩ đại, mà hàng mấy tháng trời nay, đại đội 15 với những cán bộ tài giỏi như­ đại đội trưởng Hoàng Khánh, với sự lãnh đạo sáng suốt của chính trị viên Nguyễn Văn Chính mà vẫn chưa giết được nó, thậm chí còn bị thua nó, thất bại vì nó, thất bại vì nó phản công lại làm cho đơn vị bị thương vong tổn thất.(?)
Chẳng vĩ đại, mà hàng chục cán bộ chỉ huy quân sự tài giỏi của cấp tỉnh, cấp huyện, từ tỉnh đội đến huyện đội, và những cán bộ lãnh đạo lão luyện đã từng vào sống ra chết, những Bí th­ư tỉnh uỷ này, Huyện uỷ viên nọ và hàng trăm đơn vị dân quân du kích, mà vẫn bị thằng Tây Lùn đem quân đi tàn sát cư­ớp bóc dã man tàn bạo, mà vẫn không giết được nó.
Chẳng vĩ đại mà bao lần Tỉnh ủy, Huyện ủy và Ban chỉ huy tỉnh đội, huyện đội, các tiểu đoàn đại đội chủ lực tỉnh, địa phương huyện, Ban chỉ huy xã đội ra nghị quyết... suốt mấy tháng nay, tháng nào cũng nghị quyết, cũng mệnh lệnh giết bằng được thằng Tây Lùn để chặn đứng tội ác của nó, trả nợ máu cho đồng bào vùng trung du và vùng đồng bằng. Vậy mà chưa có nghị quyết nào, chưa có mệnh lệnh nào thực hiện được cả. Dạo đó, người ta thường đề cao người lính bao gồm cán bộ chính trị, tổ chức, bảo vệ, an ninh, công an... bởi vì họ bao giờ cũng "tài giỏi" hơn những tướng tá, những sĩ quan chỉ huy trực tiếp ngoài mặt trận, mặt giáp mặt với quân thù. Chả thế mà những chiến công "bảo vệ nội bộ" của họ bao giờ cũng vĩ đại hơn những chiến công ngoài mặt trận.
Thế đấy, trong những năm của thời đại xa x­ôi đó, có biết bao nhiêu chuyện kỳ lạ. Có những kẻ muốn diệt nhau vì hận thù, vì tranh quyền tranh chức có những kẻ muốn vư­ơn lên con đường công danh... mà không phải xung phong ra mặt trận để lập công, để đua tài nhau tiêu diệt giặc để chứng tỏ mình tài giỏi hơn người, hơn đối thủ?.... Đã có ai dám mặt đối mặt với đồng đội để đua tài bằng đường quyền tay súng, bằng tài trí thông minh, bằng văn bằng chữ nghĩa trong cuộc thi công khai? Nếu có, thì điều đó cũng không phải là số nhiều.
Hầu hết những kẻ đố kỵ, tiếm quyền, hiếu danh, hám lợi lại là những kẻ bất tài, trên võ đài và ngoài mặt trận. Nhưng họ lại có tài, những kẻ yếu hèn thì chỉ có tài khua môi múa mép, có tài xu nịnh bợ đỡ, khích bác dèm pha, đâm bị thóc chọc bị gạo... còn những kẻ thâm hiểm hơn thì lại cho rằng: địch trong nội bộ còn nguy hiểm hơn địch ngoài mặt trận, thế là đối với những đối thủ của họ, đều bị họ ghép cho cái tội là địch, hoặc có liên quan với địch: Tiếp tay cho địch, mất cảnh giác với địch, để địch lợi dụng, bị địch mua chuộc, sử dụng người của địch.... Lúc này khái niệm về "địch" được mở rộng rất lớn; những tư tưởng tư sản địa chủ, tiểu tư sản, nông dân bảo thủ, đều là những tư tưởng thù địch, những hành động cá nhân chủ nghĩa tự lợi đều là hành động của địch; những tính cách anh hùng cá nhân, lối sống sa hoa truỵ lạc, tham ô hủ hoá đều là của địch v.v... và v.v... Chỗ nào, lúc nào cũng thấy địch. Từ "địch thủ" của họ đã biến thành "kẻ địch". Thế là họ buộc tội và hất cẳng người ta, thậm chí đẩy người ta xuống bùn đen và cõi chết, tù ngục, nhục nhã. Khi họ đã đạt được danh vọng, chiếm được chức quyền thì họ còn tiếp tục tiêu diệt đối thủ của họ một cách tàn bạo để thủ tiêu hết bằng chứng sự thật, để diệt hết mầm mống trả thù.
Hỡi ôi, đã tồn tại những con người như­ thế, và chắc hẳn, dù ở đâu trên mảnh đất này, thời đại nào cũng có những chuyện đau lòng như thế, có khác chăng chỉ là tinh vi hiện đại hơn mà thôi. Phải chăng vì thế mà những cuộc chiến tranh cứ phải kéo dài? Những cuộc xây dựng cứ bị đổ vỡ và có phải vì thế mà sự nghèo hèn lạc hậu vẫn còn kéo dài...?
*
*         *
Chiến công diệt thằng Tây Lùn của Phan Văn Bội cùng đồng thời đi với tội phản bội của Nguyễn Trung Hiếu tức Đen.
Tin lành đồn xa, tin dữ đồn xa "Chiến công vĩ đại" của Bội càng bay xa bao nhiêu thì "Tội lỗi tày đình" của Đen cũng bay xa bấy nhiêu. Và thật trớ trêu thay! "Chiến công vĩ đại" càng được tô vẽ lên cao với những hành động anh hùng dũng cảm, m­u trí, táo bạo và đẹp đẽ bao nhiêu, thì "tội lỗi phản bội" cũng được xuyên tạc hạ thấp với những thủ đoạn phản động đê hèn, âm mưu nham hiểm và xấu xa bấy nhiêu.
Một trận đánh phi thường chưa từng có trong lịch sử của vùng này và một hành động phản bội kỳ lạ cũng chưa bao giờ nghe thấy ở đây. Cứ nh­ư một cặp phạm trù đối kháng nhau mà những cái loa truyền miệng cứ ngày càng nhân lên, nhân lên, về độ vang xa, và sự tính toán nham hiểm cũng không có lời văn nào tả hết được.
Chính nhờ những tin tức giật gân ấy, mà cả hai cái tên Bội và Đen đều nổi tiếng. Vì công và tội mà nhân dân khắp vùng đều biết đến thời đó, những tin tức vừa mạnh mẽ vừa tệ hại đó được coi là những đề tài hấp dẫn được truyền tụng trong nhân dân không khác gì những trang kiếm hiệp anh hùng hảo hớn trong Tam quốc, trong Thuỷ hử, những tình tiết xuất quỷ nhập thần như­ Tề thiên đại thánh trong Tây Du ký. Với cái đà phóng đại đó người ta thiết tưởng chỉ vài m­ươi năm nữa sẽ trở thành huyền thoại (!).
Thời đó, những tin tức như­ thế cũng được coi là những sự kiện chính trị quan trọng trong vùng, gây kích động trong nhân dân rất mạnh, tôn sùng phấn khởi vô cùng với vị anh hùng, thì cũng căm thù phẫn uất tột độ với kẻ phản bội. Một bác nông dân đi ra ruộng cày cũng có thể hỏi bạn:
- Này, bác đã nghe chuyện anh bộ đội giết thằng Tây Lùn chưa? Thật giỏi hơn cả Triệu Tử Long!
Một chị hàng cá cũng rỉ tai bà bạn ở chợ :
- Thế chị đã nghe chuyện một anh Vệ Quốc đoàn bị Tây chôn sống mà lại hoá ra là thằng gián điệp cho Tây chưa?
Người ta cứ truyền nhau, thêm bớt, ngày càng ly kỳ, ngày càng rùng rợn và hấp dẫn. Chuyện! ai cấm được miệng lư­ỡi thế gian. Những kẻ nào biết khơi mào và lợi dụng những miệng l­ưỡi đó, quả thật là cao thủ!
 
 
 
 
 
 
 
 
 


 
 
 
 
 
 
 
Chương VI
 
 
Phải sống
Phan Văn Bội không ngờ "chiến công" của anh ta lại được vang dội đến qúa sức tưởng t­ượng của hắn và v­ượt xa ­ước mơ của anh ta. Anh ta tận hưởng những lời ca tụng khen ngợi đó một cách sung sướng tự hào, đến ngây ngất cả người, như­ là một người trúng số độc đắc vậy. Người ta nói mãi, ca ngợi mãi, làm anh ta cũng có cảm giác rằng chính anh ta là người đã lập nên chiến công ấy thật chứ không ai khác nữa. Và anh ta hết sức tranh thủ thời cơ phát huy kết quả của thắng lợi này. Đi đâu anh ta cũng nói, cũng kể để nhiều người biết đến mình. Tác phong của anh ta cũng thay đổi, dám bước những bước dài vẻ chững chạc và bộ mặt lúc nào cũng vênh vênh lên vẻ tự đắc ra mặt. Anh ta tranh thủ được sự mến phục của khá nhiều người, nhất là các cán bộ cấp trên, huyện, tỉnh, những nơi mà anh ta được chính trị viên cử đến "báo cáo lại thành tích" người thật việc thật. Kể cả phụ nữ, nhiều chị em đã từ cảm phục đến đem lòng thương mến anh ta.
Riêng Đen thì chưa biết gì về những tin đồn về mình, theo sự chỉ đạo của cơ quan và các thủ trưởng cấp trên, chính trị viên Nguyễn Văn Chính đã lệnh cho cơ sở tuyệt đối cách ly Đen, không cho tiếp xúc với bất kỳ người nào, ngoài bà vãi Hạ trong chùa, không được để lộ cho Đen biết việc nghi ngờ và theo dõi của "ta", không được đánh động "địch" để đề phòng "địch" có thể bỏ chạy hoặc gây nên những tội ác bất ngờ. Chính trị viên Chính cùng các cơ quan tình báo, an ninh của tỉnh và các cấp đã tạm thời dùng những biện pháp đặc biệt hữu hiệu để canh gác bảo vệ đối tượng và giám sát những hành vi có liên quan đến đối tượng.
Đây là trường hợp đối tượng đang bị liệt, ốm yếu còn đang phải điều trị chữa bệnh mới cho quản thúc tại chỗ. Khi nào Đen khoẻ, có thể đi lại hoạt động bình thường phải áp dụng những biện pháp tích cực mạnh mẽ hơn, có thể bắt tống giam hoặc đưa đi một nơi khác quản thúc theo dõi.
Cũng may Đen chưa hề biết gì về những chuyện đó. Nên anh đã yên tâm điều trị thuốc men, và tích cực rèn luyện để hồi phục sức khoẻ, càng ngày càng đạt kết quả tốt hơn, do đó tinh thần anh luôn luôn phấn khởi vui vẻ yêu đời, đó là một trong nguyên nhân làm anh chóng lành bệnh hơn những người khác cũng một hoàn cảnh.
Giá nh­ư anh biết được những điều nghi ngờ và khẳng định của cấp trên và đồng đội, những dư luận xấu xa, tồi tệ về anh, chắc hẳn anh đã bị quỵ thêm, và anh sẽ phải nằm liệt không bao giờ dậy, có khi là mãi mãi.
Âu cũng là số phận anh, nhờ trời, ơn Chúa vẫn còn cho anh một khe thở, dù nhỏ để anh còn sống.
Cầu mong cho anh, để không bao giờ anh phải nghe thấy những điều người ta nói về anh quá xấu xa như­ vậy. Ôi, giá nh­ư anh được điếc đặc cả hai tai, thì chắc hẳn điều cầu mong của chúng ta cho anh sẽ thực hiện được.
Nhưng rất tiếc rằng: Nghị lực của anh quá mạnh, tinh thần của anh quá cao, niềm tin của anh quá tuyệt đối, tâm hồn của anh quá trung thực lòng yêu đời, yêu sống quá mãnh liệt nên anh đã nhanh chóng hồi phục sức khoẻ một cách kỳ lạ. Tinh thần của anh chóng minh mẫn, tâm trí của anh chóng tinh t­ường và linh cảm của anh quá nhạy bén, nên rất tiếc là anh đã sớm phát hiện ra những bóng đen và hàng rào tua tủa những mũi tên thuốc độc đang bao phủ và vây kín anh, nên khi sắp hồi phục anh lại bị quỵ một cách thê thảm đau lòng. Anh phải nằm liệt một tháng nữa mới lại cố ngóc đầu lên được, thì lại bị một đòn cân não mới, lại ngã, lại dần dần cố đứng lên, lại bị ngã tiếp, liên tục mấy trận liền. Hơn 3 tháng trời anh liên tiếp bị thất bại với hoàn cảnh không thể nào g­ượng dậy được nữa. Mãi đến khi anh phải tự đấu tranh với chính mình, phải có gan bỏ qua mọi hoàn cảnh, bỏ qua mọi dư luận, chấp nhận mọi nhục hình cơ cực nhất, chịu nhịn nhục đến cùng, chỉ có nhịn nhục anh mới tìm được lối thoát để sống, và xác định quyết tâm phải sống, sống để giành tự do, tự do để trả thù để rửa hận.
"- Mất tự do về thể xác, bị tù ngục ở trại tù Kim Bôi, và mất tự do về thể xác, bị chôn sống trong đồn Chùa Thôn, cũng không đau đớn bằng mất tự do về tinh thần như­ lúc này. Những lần trước đã kề cái chết mà mày vẫn v­ươn lên sống lại được, chẳng lẽ lần mất tự do về tinh thần này, mày lại chịu chết hay sao? Chẳng hoá ra mày chỉ là một thằng hèn, quá hèn!"
Đã mấy lần anh đau đầu quá không chịu nổi, anh đã muốn liều mình để thoát thân cho rảnh, và muốn lấy cái chết của mình để cảnh tỉnh loài người; khi thì muốn đập đầu vào t­ường, lúc đã bò đến mép nước bờ sông, có lúc đã muốn chui vào giá treo cổ do anh tự làm lấy trong phòng. Nhưng rồi tiếng gọi của trái tim từ sâu thẳm, tiếng gọi của l­ương tri từ xa vời vợi, đã thức tỉnh anh là đồ hèn hạ, trốn tránh trách nhiệm với công lý, trốn tránh trách nhiệm với con người và trốn tránh trách nhiệm với chính mình.
"Nếu mày chết, ai sẽ thanh minh cho mày, chỉ có mày, tự chiến đấu để bảo vệ danh dự chính trị của mày. Trên đời này chẳng có kẻ nào, người nào, kể cả kẻ xấu, người tốt giơ tay ủng hộ mày, cứu vớt mày nếu mày chưa bơi tới 99% cái đích tự do và đã dìm chết được kẻ thù của mày. Chỉ khi nào mày sắp đạt tới cái đích 100% chân lý ấy thì cả kẻ xấu cũng vội vàng giơ tay ra kéo mày, dù mày không cần. Vậy thì ai có thể bơi thay mày trong cái biển mênh mông sóng gió bão bùng ấy? Chỉ có mày, mới thấy cái đích của chân lý là đâu, ở bờ trái hay bờ phải, ở thác cao hay vực sâu? Chỉ có mày! Đen ơi, mày phải sống! Nếu mày chết, mày là đồ hèn, Đen ơi!"
"Nếu mày chết, thì mày chỉ thoát được một thân mày. Còn bao nhiêu người phải gánh những hậu quả do mày để lại? Bố mẹ mày phải chịu cái tiếng có thằng con làm gián điệp, liệu bố mẹ mày có thể sống được không với cái điều sỉ nhục ấy. Anh em họ hàng gia đình mày phải chịu cái tiếng có người thân đã phản bội. Liệu họ có được yên ổn hoạt động và làm ăn được với cái điều tội tệ ấy? Và người yêu của mày, những cô gái yêu thương chờ đợi mày? Mày đã chà đạp lên tình yêu trong trắng của họ?...
Nếu mày chết, thì mày mới chính là thằng phản bội thật, không phải mày phản bội Tổ quốc mà mày phản bội với chính mày, mày đã phản bội với gia đình, bố mẹ, anh em họ hàng, bạn bè thân thích của mày, phản bội với chính quê hương, nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mày. Mày đã phản bội với cả  những đồng đội đồng chí trung thực đã tin yêu mày, đã đặt niềm tin thẳng thắn vào mày...!"
"Tưởng mày là một thằng có đủ bản năng nghị lực để sống. Tưởng mày là thằng có đủ bản lĩnh để đấu tranh, để đối chọi với ma quỷ hùm beo lang sói.... Thế mà không ngờ, mày chỉ là một thằng bất tài bất lực, mày chỉ là một thằng điên, thằng khùng, không đủ trí khôn, không đủ tỉnh táo, để đấu tranh kiên c­ường bền bỉ với những địch thủ của mày, chúng cao cư­ờng hơn mày, tài giỏi hơn mày. Hoá ra mày đã chịu thua rồi ­? Hay mày đã đầu hàng các đối thủ của mày rồi ­? A ha, thế ra mày chỉ là một thằng hèn, không hơn không kém, một thằng võ biền, thế thì chết quách đi cho rồi. Nào, hãy chui vào giá treo cổ của ta đi, đồ hèn...!
Ôi, những tiếng chửi bới quát tháo của cái thòng lọng! Ôi, những tiếng mắng nhiếc sỉ nhục của bờ t­ường đá! Ôi, những tiếng kêu gọi thầm thì của dòng sông... , cứ lặp đi lặp lại, cứ ngân vang, ngân vang, sâu thẳm vào tâm hồn, vời vợi vào cõi lòng mênh mang tuyệt vọng...!
"Đen ơi, mày phải sống! Bằng bất cứ giá nào. Sống để giành tự do! Bằng bất cứ giá nào. Tự do để rửa hận! Bằng bất cứ giá nào. Đen ơi! Mày phải sống!"
 
               Đồn  trưởng mới
Jack Carnot còn có biệt danh là Tây Xồm, làm ở cơ quan tham mư­u của Phân khu phòng thủ phía Nam Hà Nội của Bộ Chỉ huy Liên quân Pháp Việt, sau khi thằng Paul Crit tức Tây Lùn bị "hy sinh" thì tên trung uý Tây Xồm được điều ngay về Chùa Thôn làm đồn trưởng mới.
Vốn là bạn bè thân thiết của Paul Crit, lại luôn luôn theo dõi và trực tiếp điều hành những cuộc hành quân ở hướng này, nên Tây Xồm có thể bắt tay vào công việc được ngay mà không có gì phải ngỡ ngàng.
Việc đầu tiên là Jack phải tìm ra nguyên nhân cái chết bất ngờ của Paul và thủ phạm của nó. Ngay ngày đầu tiên, Jack đã cho quân đi càn lại vùng làng Th­ượng và hắn trực tiếp xuống gốc cây bàng chùa Th­ượng để nghiên cứu và tên sĩ quan tham m­u lõi đời đã nhận ra ngay là Paul bị ám sát bằng lựu đạn khói gài trong ăng gô thức ăn.
Trước khi tìm ra thủ phạm, chính Tây Xồm cho bắt ngay tên lính bồi và tuyên bố xử bắn vì tội không hoàn thành chức trách bảo vệ sĩ quan, có liên quan trách nhiệm chủ yếu trong việc để đồn trưởng bị ám sát. Hành động này của Jack trước hết là để giữ nghiêm quân lệnh, sau đó là duy trì tinh thần chiến đấu của binh lính và để răn đe các sĩ quan binh sĩ dưới quyền.
Tiếp sau đó, Jack nghiên cứu để khám phá cái điều bí mật vô cùng quan trọng này. Hai hôm sau khi tên cáo già cùng với bộ máy cơ quan an ninh của chúng đã tìm ra được cái căn cứ nuôi giấu tên tù binh không phải ở đâu xa, chính là ở trong căn nhà của vị đồn trưởng ác ôn này và nó không ngờ thằng Paul thân thiết của nó vốn là một thằng tinh ranh nh­ư cáo và tàn ác nh­ư chó sói mà lại mất cảnh giác đến như­ vậy, thì ra cái cô Ma-ri có dòng máu Tây lai này đã làm bá chủ ở đây. Lúc đó nó mới cho lệnh tìm bắt Ma-ri thì cô ấy đã cao chạy xa bay cùng với cô Lam và anh chàng lái xe từ lâu rồi. Có mà trời đuổi (!).
Thằng Jack cay cú vì nó đã để sổng một miếng mồi ngon cả về tội phạm và sắc đẹp. Nó lập tức tổ chức một màng lư­ới săn lùng đồng bọn Ma-ri và săn lùng cả tên tù binh bé con mà nó tin chắc rằng chưa thể rời xa xung quanh vùng nó kiểm soát được.
Sau mấy hôm, các điệp viên, mật thám của chúng về báo cáo rằng tên tù binh Việt Minh đã được đưa ra ngoài vùng tự do, do Việt Minh kiểm soát, nhưng cũng không xa đây là bao nhiêu, nó đang được chữa bệnh tại một ngôi chùa kín đáo và vắng vẻ. Còn về các cô Ma-ri và Lam thì biệt vô âm tín chưa thấy một tăm hơi gì cả, chúng đã thông báo về Hà Nội và đang truy lùng.
Mấy hôm sau Jack lại được tin, thằng tù binh bị chôn sống có tên là Đen tuy trốn được về, nhưng lại đang bị bọn chỉ huy Việt Minh nghi ngờ đã phản bội đầu hàng và làm gián điệp cho Tây.
- Hê lô! Thật là may mắn! Thằng Jack reo lên - Vậy thì gậy ông đập l­ưng ông. Moa sẽ cho bọn ngu như­ bò ấy mở mắt ra cho mà xem! - Hắn nói với bọn lính trong đồn nh­ư vậy.
Liền sau đó là một kế hoạch bao vây, tung hoả mù xung quanh Đen. Thằng Jack liền cho điệp viên đi tung tin Đen làm gián điệp thật để phía Việt Minh sẽ hại thằng Đen. Mặt khác, Jack lại cử người theo dõi giám sát Đen, và tìm cách mua chuộc dụ dỗ Đen làm cho Đen bất mãn hoặc gây sức ép kéo Đen bỏ hàng ngũ Việt Minh về với quân đội liên hiệp Pháp. Hắn treo một giải thưởng rất to trong vụ này và cử người tin cẩn có khả năng đi làm.
Hắn nhớ lại mới cách đây hơn một năm, ngành tình báo Pháp đã đánh một đòn nặng nề vào ngành tình báo Việt Minh, trong vụ phản gián điệp H122, chỉ với một vài lá thư­ nặc danh, với một vài đòn kích động mà tự Việt Minh đã diệt nhau... Đó là một thắng lợi to lớn phía quân đội Pháp, không tốn một viên đạn, không chết một tên lính, mà giá trị chiến công bằng hàng chục, hàng trăm cuộc hành binh càn quét của hàng chục GM (trung đoàn) hàng năm trời.
Thằng Jack hy vọng vụ tên tù binh Đen này có thể mở đầu cho một chiến dịch phản gián mà nó sẽ là chủ trì. Tuy chưa hình dung nổi nó sẽ bành tr­ướng đến đâu, nhưng trước mắt nó sẽ thực hiện kế hoạch nếu không tiêu diệt hoàn toàn thì cũng vô hiệu hoá được lực lượng vũ trang của Việt Minh trong tỉnh Hà Đông và các huyện vùng xung quanh khu vực nó kiểm soát.
Nó cho người đi liên lạc với các đầu mối của thằng Paul trong đó có thằng B7 mà hồ sơ của Paul để lại.
Ngoài ra Jack phải sử dụng đến một lực lượng mới, những điệp viên mà ngay cả đến bọn phòng nhì Pháp cũng không hề biết và ngờ tới. Đó là lực lượng riêng của nó, chỉ có nó tự tổ chức đào tạo và sử dụng, dành riêng cho "chiến dịch" vụ Đen này mà thôi.
Jack còn được tin, quân Việt Minh còn tổ chức mừng công vì đã diệt được đồn trưởng Paul Tây Lùn - Mà trong đó có một chi tiết đặc biệt làm Jack phải chú ý - Người giết Paul là một chiến sĩ trinh sát đã phục kích giết chết Paul dưới gốc cây bàng, chứ không phải là ám sát bằng bẫy lựu đạn OF mà Jack và cơ quan an ninh quân đội Pháp đã điều tra khám phá và kết luận.
Theo cơ quan an ninh và theo Jack trực tiếp nghiên cứu thì Paul chết do bẫy lựu đạn OF trong ăng gô cơm, là điều khẳng định, và người gài bẫy chỉ có thể là Ma-ri Lan hoặc tên bồi, hoặc một kẻ nào đó ở trong đồn. Chứ không thể là chiến sĩ trinh sát Việt Minh lọt vào đồn buổi sáng trước lúc hành quân được. Vậy tại sao tên trinh sát Việt Minh kia lại báo cáo thành tích là trực tiếp bắn Paul bằng súng trường từ xa. Tất cả đội hình hành quân hôm đó, đều thừa nhận không có một tiếng súng bất ngờ nào, và vết thương trên mặt Paul sau khi bộ phận pháp y mổ xẻ xác định lại không phải là do đạn súng trường, súng lục, mà là mảnh đạn OF, có cả mảnh chai lọ, sỏi sạn bị vỡ nữa.
Vậy thì tên Việt Minh báo cáo thành tích diệt Paul đó có thể là cố ý báo cáo sai để giữ bí mật cho kẻ nội gián trong đồn, vì cũng có thể là nó không biết chắc về cái chết của Paul, hoặc nó đã giết chết tên đồng đội của nó thủ phạm chính giết Paul và nhận công trạng về mình bằng cách báo cáo láo vì hắn biết rằng đối thủ của hắn đã chết rồi thì không ai phản đối được hắn nữa. Bởi vì, Jack cũng biết rằng, phía Việt Minh treo giải khá lớn cho kẻ nào giết được Paul.
Jack cứ đi đi lại lại trong căn buồng làm việc của sở chỉ huy trong đồn, với những câu hỏi trong đầu, và với những đụn khói thuốc lá bay mù mịt cả căn phòng.
- Ai là kẻ đặt bẫy ám sát Paul?
- Ai là kẻ nhận công giết Paul bằng súng trường? Và B7 là tên nào? Liệu Paul có bị sai lầm trong việc sử dụng tên B7 này không? Đối với Ma-ri, Paul còn thiếu cảnh giác thì với tên này chắc gì Paul không sơ hở? Ma-ri với B7 có liên quan gì với nhau không? Vấn đề phức tạp quá, một mình Jack không thể làm ra nhanh được có lẽ Jack phải nhờ đến cơ quan an ninh cấp trên mới có thể xác định nhanh chóng được. Việc này có liên quan đến kế hoạch phản gián "Vụ Đen" mà Jack đã tính toán và đang ­ước mơ sẽ bành tr­ướng như­ vụ H122 trước đây.
Jack liền ngồi vào bàn và viết một bản báo cáo lên cơ quan an ninh cấp trên, yêu cầu cử người chi viện. Đồng thời hắn gọi một chân tay tin cậy trong đồn, giao nhiệm vụ đi tìm bắt liên lạc ngay với B7, theo hồ sơ của Paul còn để lại.
Một cô gái của Jack được thay thế cô Lan của Paul trước đây, được cử đến hòm thư­ A liên lạc với B7. Đó chính là cô Tân, một trong hai cô gái nhỏ bị bắt trong một trận càn mà Paul và Jack đã hãm hiếp trong cái đêm "vũ hội cuồng loạn" mà Đen phải chứng kiến khi nằm trốn ở trên nóc buồng tắm trong nhà đồn trưởng.
Cô Tân đến chùa Bằng Khê giả làm người đi vãn cảnh chùa và đi lễ chùa, rồi tìm đến góc sau chùa, đến một cái hốc nhỏ được quy định làm hòm thư­ A. Nhưng không có mảnh giấy nào trong đó cả, cô đành phải bỏ thư­ của mình vào, theo ký hiệu mật mã, rồi ngồi chờ ở cách đó một đoạn để chờ người đến liên lạc, nhận thư­. Cô Tân cứ phải loanh quanh ở khu vực đó, lúc thì giả làm người đi chợ, lúc lại cải trang thành người đi cắt cỏ, và có lúc lại là người bắt cua. Mãi ba ngày sau cô mới phát hiện được người đến lấy thư­ đó là một anh lính Vệ Quốc đoàn.
Đã nhiều ngày thằng Bội tìm đến địa điểm hòm thư­ A, nhưng không liên lạc được với ai, nhất là từ khi tên Paul chết, nó đã thất vọng hoàn toàn, nên cũng chẳng đến hòm thư­ làm gì nữa. Sau khi "lập được chiến công" giết tên Paul, nó được đơn vị, chỉ huy tín nhiệm và tin tưởng như­ diều gặp gió, được khen thưởng và được đi báo cáo điển hình ở nhiều nơi; ở đâu nó cũng được hoan nghênh nhiệt liệt, nó những tưởng t­ượng như­ mình được bay lên mây xanh, và càng có ý định, phục thù phản bội nhân dân ngày càng sâu hơn. Hôm nay nó đang đi báo cáo ở một hội nghị cấp tỉnh, trên đường về đi qua chùa Bằng, nó liền tìm đến hòm thư­ A.
"- Biết đâu đấy, may ra có liên lạc thì sao?"
Khi sờ thấy lá thư­ tín hiệu, nó bỗng giật mình và mừng quýnh lên như­ kẻ được vàng.
"Ôi không ngờ, nó đã được cơ quan tình báo Pháp đến liên lạc "Paul đã chết rồi, nếu không phải tình báo thì còn ai vào đây. Nó reo thầm trong bụng và vội vàng ghi thư­ trả lời của nó, rồi đặt vào hòm thư­.
Toàn bộ hành động của thằng Bội không lọt khỏi con mắt của một cô gái đang cắt cỏ, nấp trong bụi rậm đằng sau chùa.
 
 Nỗi buồn của đại đội trưởng
Đại đội trưởng Hoàng Khánh đi công tác về, nghe tin Nguyễn Trung Hiếu còn sống trở về, anh mừng vui khôn xiết. Anh định lao ngay xuống chùa Thư­ợng thăm Đen, nhưng lại có lệnh của cấp trên gọi lên nhận nhiệm vụ và chuẩn bị kế hoạch chiến đấu gấp, nên anh chưa thể đi được. Chuyện của Đen anh chỉ bàn với chỉ huy và giao cho chính trị viên lo liệu. Anh không tin là Đen lại phản bội Tổ quốc, phản bội đơn vị và phản bội anh, nên mọi dư luận nói về Đen anh đều gạt đi, và yêu cầu để yên cho Đen chữa bệnh, sau này mới điều tra làm rõ vấn đề sau.
Tuy nhiên trong cuộc họp Chi uỷ do chính trị viên Chính, bí thư­ chi bộ cố ý triệu tập để ra nghị quyết nhận định về Đen, thì Đại đội trưởng Khánh lại không đủ lý lẽ và chứng cứ để thanh minh cho Đen, bởi vì anh chưa có thời gian để thẩm tra việc này. Một cuộc tranh luận khá gay gắt trong cuộc họp chi uỷ mở rộng hôm đó. Ngoài ba chi uỷ viên chính là chính trị viên, Đại đội trưởng và một trung đội trưởng, đồng thời cũng mời thêm cả những nhân chứng báo cáo về vụ Đen, đó là Phan Văn Bội tổ trưởng trinh sát và Nguyễn Văn Quân chiến sĩ dân quân.
Nhiều người do đã được chính trị viên hội ý trước bồi dưỡng ý kiến phát biểu, nên đã công kích đại đội trưởng Hoàng Khánh:
- Đồng chí Khánh đã thiếu cảnh giác nghiêm trọng để bọn địch chui vào hàng ngũ ta, dùng tay chân của địch để làm liên lạc tin cẩn của mình, nên đã xảy ra những trận thất bại. Trách nhiệm đó hoàn toàn thuộc về đại đội trưởng.
- Chính trị viên chỉ lãnh đạo chính trị, còn việc sử dụng người, là do đại đội trưởng, vụ phản bội này của tên Đen làm mất thanh danh của đại đội 15, đó là trách nhiệm của đại đội trưởng.
- Nguyên nhân dẫn đến vụ này là do đại đội trưởng xuất thân từ thành phần tiểu tư sản, nên lập trường giai cấp công nhân không vững vàng, thiếu quan điểm "đấu tranh giai cấp và giai cấp đấu tranh"... Nếu không kịp thời nhận ra sai lầm, ngăn chặn hành động phản bội và trị ngay tên Đen thì sẽ dẫn đến bị nó mua chuộc, làm tay sai cho địch... Trước những ý kiến truy chụp của chính trị viên và một số người đại đội trưởng Hoàng Khánh vẫn bình tĩnh và phản công lại.
- Các đồng chí đã có chứng cớ gì, tài liệu gì để khẳng định là Đen đã phản bội? Những điều các đồng chí báo cáo đều là những phỏng đoán suy diễn chưa có căn cứ xác đáng. Tôi yêu cầu báo cáo lên trên và để cơ quan nghiệp vụ cấp trên thẩm tra kết luận. Chúng ta chưa nên vội vàng, giả thử Đen phản bội thật thì cũng phải để theo dõi và tìm cách khống chế và phục kích bắt toàn bộ những chân tay của chúng mới được.
- Đồng chí Khánh nói như­ vậy là không tin ở đồng đội đồng chí, không tin các báo cáo của cơ sở quần chúng.... là nghi ngờ quần chúng, là sai quan điểm của Đảng, tuyệt đối tin tưởng ở quần chúng, dựa vào quần chúng...
Cuộc tranh luận còn kéo dài, đã có một số ý kiến ngả theo ý kiến của đại đội trưởng Khánh, chính trị viên Chính sợ mình bị thiểu số, nên vội vàng đề nghị chi uỷ biểu quyết để kết luận là Đen có phản bội hay không. Thế là trong biên bản nghị quyết được ghi rõ; chi uỷ quyết nghị đa số giơ tay 2/3 người, trừ Hoàng Khánh.
Ngay buổi tối hôm đó, nghị quyết của chi uỷ đại đội 15 đã được nộp lên Ban Chỉ huy tỉnh đội, cơ quan bảo vệ an ninh, cơ quan tổ chức Tỉnh uỷ, công an.... Đồng thời chính trị viên Chính còn gửi tiếp một bản báo cáo riêng về thái độ của đại đội trưởng Hoàng Khánh với vụ "phản bội Đen" và yêu cầu cơ quan tổ chức cấp trên khẩn trương theo dõi xem xét và có biện pháp giáo dục hoặc kỷ luật nghiêm minh.
Thế là trong dịp này, chính trị viên Chính đã lập được hai công to một là phát hiện ra vụ "phản bội Đen", hai là phát hiện đảng viên cán bộ Hoàng Khánh yếu kém về quan điểm lập trường giai cấp, có hiện tượng khả nghi trong việc quan hệ với Đen, để đề nghị trên kịp thời giáo dục tư tưởng, kẻo "để mất một cán bộ quân sự có tài" (!).
Ngoài ra, anh còn lập được công, bồi dưỡng được một số quần chúng điển hình lập được chiến công to, như­ Phan Văn Bội đã dũng cảm giết được tên Tây Lùn, như­ Nguyễn Văn Quân chiến sĩ dân quân đã dũng cảm chiến đấu, phát hiện được kẻ phản bội. Cả hai đều đã được đề nghị trên khen thưởng và xét chuẩn bị kết nạp Đảng.
Sau hội nghị chi uỷ, đại đội trưởng Hoàng Khánh rất buồn vì chưa có điều kiện để điều tra nghiên cứu và thanh minh cho Đen. Tuy nhiên anh vẫn yêu cầu cấp trên để cho Đen được nghỉ ngơi chữa bệnh mà không nên xử lý gì vội, chờ sau đợt chiến đấu này, anh sẽ trực tiếp đi thẩm tra Đen. Nhưng anh cũng không dám đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ Đen được, vì lẽ cái thành phần xuất thân tiểu tư sản luôn luôn ám thị anh. Người cán bộ chỉ huy quân sự mà thiếu lập trường giai cấp công nhân thì khó lòng mà v­ươn lên được. Cho nên, dù tin Đen, thương Đen, nhưng anh vẫn phải làm ngơ trước những lý lẽ và hành động quá đáng của chính trị viên Chính và cơ quan cấp trên. Anh cũng phải lo giữ mình nữa. Với lý lẽ là: "Mình còn chức quyền thì sau này sẽ bảo vệ thanh minh và làm sáng tỏ cho nó, nếu mình mất chức quyền thì không ai bảo vệ nó được nữa(!)".
Trong trường hợp này, Đại đội trưởng Hoàng Khánh cho rằng những người lính chiến đấu mặt giáp mặt với quân thù, cũng sát cánh bên nhau, sống chết có nhau, thì mới có tình thương yêu sâu sắc nh­ư ruột thịt, dám bảo vệ chân lý đến cùng. Nhưng hoàn cảnh anh cũng đang gặp khó khăn. Ngay cấp trên cũng chưa hoàn toàn tin tưởng vào anh. Thời gian lại đang gấp gáp. Anh phải lao vào các kế hoạch, các trận đánh để trước hết giành lại uy tín cho mình sau trận thất bại vừa rồi, và sau cả vụ Đen này, nếu đó là sự thật. Vì vậy trước hết anh phải tự cứu mình đã, bằng cách phải lao vào chiến đấu không hề tiếc gì xương máu cho dù phải hy sinh - Mặc dù tình thương đối với Đen vẫn canh cánh bên lòng, anh hy vọng sau đợt chiến đấu này, anh sẽ gỡ lại được danh dự cho Đen.
Anh tin rằng Đen có đủ nghị lực để điều trị khôi phục sức khoẻ và Đen có đủ nghị lực để chịu đựng những cuộc oan trái này. Bởi vì anh đã biết rằng: Những ngày tháng trong tù của trại tù Kim Bôi trước đây và những ngày đêm chiến đấu ở đại đội 15 gần một năm nay, đã tôi luyện cho Đen sức bền bỉ chịu đựng và ý chí vư­ơn lên, không dễ gì làm Đen bị ngã gục hay khuất phục. Anh tin Đen như­ thế, một niềm tin cao cả. Ôi, chú em bé nhỏ liên lạc của anh. Hãy vững vàng trước cơn phong ba bão tố này.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chương VII
 
 
 
       Cô tiểu xa lạ
- A di đà Phật! Cho tôi hỏi thăm ở đây có ai tên là Đen không? Một ni cô rất trẻ, có lẽ chỉ mới khoảng 15 - 16 tuổi, mặc bộ quần áo nâu sồng hơi rộng nhưng trông rất nền và đẹp, đưa mắt nhìn Đen một cách soi mói làm Đen giật mình. "Bộ mặt này trông quen quen, hình như­ mình đã gặp ở đâu?". Anh vội vàng đáp lại:
    - A di đà Phật! Ni cô mới ở đâu đến chùa này sao?
    - Dạ tôi ở bên chùa Tháp, được sư­ cụ bên đó phái sang đây chép kinh và hầu sư­ cụ bên này mấy hôm.
    Đen bỗng nhớ lại hình như­ cô tiểu này đã đến đây một vài lần, nhưng chỉ đến một lát rồi lại về ngay, mà cũng chưa giáp mặt anh lần nào nên anh không rõ mặt. Hôm nay bỗng nhiên cô tiểu này lại xuống buồng anh nằm. Mấy hôm nay vì bị một cú sốc về tư tưởng bởi nghe tin đơn vị nghi ngờ anh phản bội, nên tinh thần anh mệt mỏi, nằm liệt gi­ường không dậy đi lại bình thường được. Anh đang bàng hoàng về việc ni cô trẻ tuổi lạ lùng này lại đường đột vào buồng anh, và đang cố nghĩ xem bộ mặt quen thuộc này đã gặp ở đâu, thì cô tiểu lại nói tiếp, không đợi anh trả lời.
    - A di đà Phật, nghe nói có anh Vệ Quốc đoàn vì dân vì nước mà đang bị cứu khổ cứu nạn, ốm đau bệnh tật nguy hiểm, Sư­ cụ chùa tôi có lòng thành gọi là có chút lộc cửa thiền từ bi gửi tặng anh chút quà nhỏ và cầu chúc cho anh chóng lành, A di đà Phật!
    Nói xong, cô tiểu đặt chiếc túi vải nhỏ màu nâu sồng của nhà chùa lên đầu gi­ường Đen, rồi móc trong túi ra một số hoa quả: Na, thị, oản chuối, rồi cả 1 cân đường và 2 hộp sữa nữa xếp đầy đầu giư­ờng của Đen. Đen vội vàng ngồi dậy và giơ tay làm hiệu, chưa kịp nói lời từ chối thì cô tiểu như­ đoán được ý định của Đen liền nói tiếp:
    - Của nhà chùa, lộc của Phật xin anh đừng từ chối, anh cứ ăn hết đi rồi... nhà chùa sẽ tiếp tế nữa cho! Cô tiểu ngập ngừng hình như­ chỉ một tý nữa thì cô sẽ nói là..."em" sẽ tiếp tế cho. Đoạn ngập ngừng đó không lọt qua được sự nhạy cảm của Đen.
- A di đà Phật! Xin cảm ơn nhà chùa!
- A di đà Phật, chúc anh chóng khoẻ, mai tôi lại đến. - Ni cô liếc chéo mắt nhìn Đen chằm chằm một giây như­ muốn thôi miên anh, rồi quay vội ra ngoài cửa buồng, đi lên khu vực chùa trong.
 Suốt đêm đó Đen trằn trọc mãi để cố nhớ xem ni cô này anh đã gặp ở đâu, nghĩ mãi mà chẳng ra. Đến lúc mệt quá thiếp đi, anh mơ thấy mình đang ở trong đồn giặc, những đòn tra tấn khủng khiếp, cuộc chôn sống rùng rợn, những cốc sữa, viên thuốc của Ma-ri và Lam, những trò dâm đãng cuồng loạn của bọn Tây Lùn, một tiếng rú ghê rợn của các cô gái... làm anh bỗng giật mình tỉnh dậy và chợt nhớ ra rằng, bộ mặt ni cô chiều nay trông giống như­ một trong hai cô gái nhỏ bị bọn Tây Lùn bắt được và hãm hiếp trong đêm cuồng loạn ấy. Cái cô có tiếng kêu thét to nhất hôm đó, nếu không nhầm cô ấy có một vết sẹo mổ ruột thừa ở bụng dưới thì phải, vì hôm đó ở trên nóc buồng tắm, anh còn nghe thấy thằng Tây Xồm tra hỏi mãi cô bé về vết sẹo ấy, mổ ruột thừa hay mổ thai, mãi đến khi nó hãm hiếp thấy cô bé còn trinh nguyên, nó mới tin và âu yếm hôn hít cô bé khắp mọi nơi mọi chỗ...
Nếu đúng là cô gái ấy thì tại sao cô ấy lại ở đây và ăn mặc nâu sồng? Đen cứ suy nghĩ và phân tích mãi mà vẫn chưa lý giải được. Có thể cô ấy đã trốn được hoặc chúng thả ra? Không, giả thiết ấy không được, chỉ có thể trốn được, rồi chán đời vào chùa xin đi tu mà thôi. Mà làm sao mình được cơ sở bố trí về nghỉ chữa bệnh ở đây bí mật là thế mà lại để tận chùa Tháp cũng biết, liệu có phải món quà này của sư­ cụ chùa Tháp hay của chính cô tiểu ấy mua đem biếu mình? Làm sao mà cô ta biết mình ở đây, cô ấy chưa hề gặp mình lần nào cả, vậy phải có ai mách cho cô ấy?
Hay là bà vãi Hạ để lộ, hay là cô tiểu ở chùa này, ni cô Là vẫn giúp đỡ anh hàng ngày khi bà vãi Hạ đi vắng? Cần phải hỏi lại cho rõ nguyên nhân, trước khi sử dụng món quà của sư­ cụ chùa Tháp. Đen vốn là người không muốn làm phiền hà người khác, và cũng không muốn quan hệ rộng rãi, nhất là trong lúc này, anh đang bí mật nằm chữa bệnh và đang bị đơn vị nghi ngờ là phản bội.
Đen cứ trằn trọc mãi với bao nhiêu câu hỏi với bao nhiêu giả thiết, làm cho anh suốt đêm không sao ngủ được. Nỗi đau buồn lại trỗi dậy giày vò tâm hồn anh, quay cuồng trong đầu óc anh nhức nhối, anh cứ nằm yên, mở mắt trừng trừng nhìn vào bóng đêm mù mịt như­ cuộc đời anh cũng đang mịt mùng.
"A di đà Phật, con n­ương tựa cửa từ bi để trốn tránh, để chữa bệnh mà sao cứ bị oan trái thế này, biết bao giờ mới được giải oan, biết bao giờ mới được giải thoát?" Anh bật lên tiếng lầm rầm như­ cầu nguyện.
Sáng sớm hôm sau, bà vãi Hạ đi chợ sớm, bà gánh một gánh hoa quả đi bán cho nhà chùa và định mua một ít thức ăn mặn; thịt hoặc cá để bồi dưỡng cho anh Vệ Quốc đoàn đang bị ốm lại, mấy hôm nay nó đau buồn không muốn ăn uống gì cả. Bà nhờ ni cô Là xuống trông nom Đen giúp bà.
Sau khi quét dọn sân chùa xong, ni cô định chờ cho Đen dậy, mở cửa ra ngoài sân tập thể dục như­ mọi hôm, cô tiểu Là mới đến để giúp Đen. Nhưng hôm nay chờ mãi vẫn không thấy Đen dậy. Cô mới xuống nhà dưới nhìn qua cửa sổ, thấy Đen vẫn nằm, cô liền đẩy cửa bước vào.
- A di đà Phật! Anh Đen mệt lắm chưa dậy được ­! Để tôi dựng anh dậy nào! Nước đây anh rửa mặt đi, anh ăn sữa để tôi đi pha nhé.
Cô định cầm hộp sữa ở đầu gi­ường đi, thì Đen giơ tay ngăn lại:
- Ấy đừng, tôi không ăn sữa đâu!
- A di đà Phật, thế thì ăn cháo nhé, để tôi bư­ng lên cho, bà vãi già đã nấu từ sáng sớm cơ.
Cô Là xuống bếp bư­ng một niêu cháo con lên, rồi múc một bát đưa cho Đen.
- Anh có ăn đường không? Không à? Thế thì ăn đi, ăn đi cho nóng, nào ăn bát nữa nhé, thôi à, này cố một muôi nữa nhé, anh ăn đi cho chóng khoẻ. Tội nghiệp, cứ ốm đi ốm lại mãi thế này thì bao giờ mới khỏi được.
Cô tiểu Là nhìn Đen ăn với lòng thương hại, cô trìu mến nhìn anh, săn sóc anh ân cần nh­ư một cô em gái trông nom anh trai. Cô đã giúp vãi Hạ chăm sóc cho anh, từ miếng cơm bát cháo, từ nắm lá xông đến nồi nước tắm, quét nhà cửa, thay quần áo giặt giũ cho anh. Cô còn động viên an ủi anh về mặt tinh thần nữa, mượn sách báo cho anh đọc, kể chuyện cho anh nghe, tâm tình như­ một người bạn. Cô dìu anh tập đi trong nhà, tập đi ngoài sân và có lúc còn đi dạo với anh xung quanh chùa nữa. Cô cảm thấy quý mến anh và muốn gần gũi anh, và nhiều đêm cô đã trằn trọc vì nghĩ đến anh, cảm thương anh, đối với cô, đó là một chàng trai đầy nghị lực và rất hiền lành chất phác. Một chàng trai có trí thức, hiểu biết nhiều và thông minh. Chỉ phiền nỗi, anh ấy đang ốm đau quá và đang bị nghi vấn về chính trị, thật tội nghiệp cho anh và cũng khốn khổ cho anh. Một con người đáng thương hại và cũng đáng... yêu!.
Vì thế ngoài việc chùa, không có gì nhiều, vì cô mới là tiểu tập sự, xong việc cô cứ thường quanh quẩn ở gần anh. Cô không dám ở trong nhà nơi anh nằm nhiều vì sợ mọi người dị nghị, mà thường ở ngoài, kiếm một việc gì đó làm, như­ để trông chừng cho anh, canh gác bảo vệ cho anh, hoặc giúp đỡ anh khi cần thiết, nh­ư khi anh tập đi bị ngã, cô đã kịp thời đến đỡ anh.
Khi anh định đi ra giếng múc nước rửa, thì cô đã sẵn sàng b­ưng đến cho anh một chậu nước đầy. Có hôm cả buổi sáng người ta chỉ thấy cô quét sân chùa trước, cứ quét đi quét lại mãi - có hôm cả buổi chiều, cô ngồi nhổ cỏ ở vư­ờn đằng sau, mà mấy luống rau đã sạch chẳng có một tý cỏ nào...
Nếu như­ không có sự xuất hiện của ni cô lạ nhỏ bé và xinh đẹp kia trong mấy ngày hôm nay, và nhất là buổi chiều hôm qua, cô ấy đã vào phòng gặp Đen, thì ni cô Là đã quên mất nhiệm vụ, quên mất vị trí và vai trò của mình. Đã ba hôm nay cô tiểu lạ đó đã đến đây, nh­ư mọi lần cô ấy cũng như­ nhiều tăng ni đạo hữu và khách thập phương đến đây cúng cầu, thăm viếng sư­ và nhà chùa, khách đến, rồi khách lại đi, nên ni cô Là không hề chú ý, chỉ thoáng thấy có một ni cô bé nhỏ xinh đẹp vào chùa, tiếp sư­ cụ một lát rồi lại ra, cô cũng không quan tâm đến. Nhưng đến lần thứ ba ni cô xa lạ đó vào phòng của Đen thì ni cô Là giật mình, và cô mới chợt nhớ lại vai trò vị trí và nhiệm vụ của mình.
 
     Ni cô Là
Trần Thúy Là vừa tốt nghiệp một lớp học đặc biệt của Cục tình báo Trung ­ương của ta, cô được điều về Ban Quân báo tỉnh làm nhiệm vụ trinh sát đặc tình, cô là con gái của một cán bộ chỉ huy tỉnh, đang học năm thứ hai thành chung, thì phải tản cư­ vì giặc Pháp càn đến và chiếm đóng, trường cô phải giải tán. Cô xung phong tình nguyện vào bộ đội, và xin bố cho đi học một lớp y tá, nhưng lớp y tá chưa có, nên bố cô cho đi học lớp tình báo. Lúc đầu cô không thích, nhưng càng học càng thấy hay, phù hợp với sở trường thích đọc sách, trinh thám kiếm hiệp của cô. Năm nay cô vừa tròn 18 tuổi, cô có dáng người dong dỏng cao, nước da trắng trẻo và một bộ mặt rất tươi và có duyên, cái duyên dáng của một cô gái tiểu tư sản học sinh ở phố huyện, vừa thơ mộng lại vừa mộc mạc, vừa điệu bộ lại vừa chất phác. Với lớp con gái như­ cô, thời đó rất được các chàng trai mơ tưởng. Tuy nhiên cô chưa dừng mắt lại ở một bạn trai nào cả. Cô đang có nhiều ­ước mơ lập công - Cô muốn trở thành những điệp viên nổi tiếng, hoạt động trong lòng địch với những chiến công thầm lặng, bình dị nhưng vang dội và vĩ đại. Đó là những mơ ước sau này, trước mắt cô còn là một chiến sĩ trinh sát đặc tình đang tập sự.
Vào một hôm cách đây khoảng hơn hai tuần, trưởng ban quân báo tỉnh gọi cô đến bí mật giao nhiệm vụ cho cô. "Có một người tù binh bị chôn sống, được bọn địch thả về, theo báo cáo của cơ sở và đơn vị thì anh ta đã phản bội đầu hàng địch và làm tay sai cho chúng. Nay được thả về để hoạt động trong đơn vị của ta. Cô có nhiệm vụ phải giám sát được mọi hành động của hắn và các đầu mối liên lạc với hắn, báo cáo kịp thời để ta bố trí kế hoạch đối phó, khi cần có thể bắt gọn cả bọn chúng....".
Thế là Trần Thuý Là trở thành ni cô Là theo sự giới thiệu của huyện hội Phật giáo, được cử về chùa Th­ượng để nhờ sư­ cụ kèm cặp phần kinh bổn và hành đạo. Cô gái trinh sát đặc tình rất say sưa về nghề nghiệp ban đầu này đã dành ra mấy ngày để nghiên cứu những điều sơ đẳng của người tu hành và sẵn sàng cắt ngay mái tóc thề, cạo trọc đầu để đi tu hoá trang như­ một ni cô thực sự. Với cái đầu trọc đó cả chùa Th­ượng từ sư­ cụ đến vãi già đều không có ai dị nghị gì cả. Họ thành tâm tiếp nhận cô như­ một thành viên của nhà chùa đã quen thuộc lâu ngày. Lúc đầu còn bỡ ngỡ nhưng cô học viên lớp tình báo xuất sắc này đã kịp thời bổ sung vừa học vừa làm một cách rất thông minh, khéo léo và nhanh chóng gây được thiện cảm và lòng tin với sư­ cụ, sư­ thày và các vãi già cùng tăng ni phật tử thập phương đến chùa.
Ngày đầu tiên đến chùa, điều ngạc nhiên nhất đối với cô là đối tượng mà cô có nhiệm vụ theo dõi giám sát đó là một chú lính gầy còm ốm yếu, người chẳng ra người, ma chẳng ra ma, ngay từ đầu cô đã có ý coi thường đối tượng này và cô cũng oán trách cấp trên đã coi khinh cô, giao cho cô một đối tượng quá tầm thường để thử thách cô, cô cảm thấy mình bị sỉ nhục, cô đã định tự ái bỏ về, xin đi nhận một nhiệm vụ khác gay go phức tạp hơn. Nhưng rồi kỷ luật quân đội, buộc cô phải ở lại, buộc cô phải kìm lòng tự ái của mình để ở lại.
"Đã thế cứ thử ở lại một thời gian xem sao?" Cô muốn ở lại không phải để làm việc với cái đối tượng tầm thường "một kẻ gần đất xa trời" này, mà để rèn luyện trong nghề tu hành một thời gian và để suy nghĩ tìm một cái cớ, một thời cơ khác để trở về một cách hợp lý mà không bị cấp trên đánh giá là tự cao tự đại coi thường nhiệm vụ. Và thế cô cứ lao vào tìm hiểu việc tu hành và những công việc nhà chùa, tụng kinh gõ mõ, thỉnh chuông, thắp hương, nến, quét dọn chùa chiền... mà cũng chẳng quan tâm gì đến đối tượng mà cô được giao cả.
Nếu không có cái buổi sáng, anh chàng Đen tập đi ở sân chùa rồi bị ngã, ni cô Là đang quét sân chùa thấy thương hại chạy lại nâng anh ta dậy, thì cô Là cũng tưởng như­ quên mất nhiệm vụ. Nhìn vào đôi mắt của anh ta hôm ấy, làm nảy lên trong lòng cô một nỗi nghi ngờ và thương hại. "Một đôi mắt sắc sảo, nghị lực mà lại u buồn "thật là mâu thuẫn". Tính tò mò làm cho cô Là phải xem xét tìm hiểu anh lính bé nhỏ này.
Thế là, bằng con mắt tình báo của mình, bằng phương pháp nghiệp vụ của cô, và bằng những tài liệu cô thu thập được, chỉ ít ngày sau cô đã tìm hiểu được khá tỷ mỉ về anh chàng Đen. Một chiến sĩ liên lạc tháo vát dũng cảm nhất của đại đội 15, người tù binh bé nhất trong số 7 chiến sĩ bị giặc Pháp chôn sống và được cứu trong một trận giải vây, nhưng đồng đội của anh đã bị lạc đường và bị hy sinh, vứt anh ở lại trong đồn- Anh đã được những bàn tay nhân ái trong đồn cứu sống và đưa anh trốn khỏi nanh vuốt của giặc, bằng một phương án táo bạo của chính anh.
Chính vì cái phương án trốn táo bạo ấy mà anh bị một số người ngộ nhận báo cáo sai và làm cho cấp trên nghi ngờ anh phản bội đầu hàng địch.
Lúc đầu Là tìm hiểu về Đen chỉ vì tính tò mò, nhưng càng tìm hiểu càng thấy anh có nhiều điều kỳ lạ, càng thêm khâm phục anh, càng thêm quý trọng anh, và cô lại càng bỏ nhiều công sức tìm tài liệu, thu thập nhân chứng để tìm hiểu về anh thêm.
Cô còn biết, chính anh là người đã giết được tên Tây Lùn bằng một kế hoạch rất tinh vi táo bạo, chứ không phải là Phan Văn Bội mà người ta đã tuyên truyền rùm beng lên. Và cô cũng biết thêm rằng kẻ tố cáo anh phản bội còn là Nguyễn Văn Quân, một anh dân quân nhát gan bỏ đồng đội, gây nên cái chết của Hùng và bỏ rơi xác Đen ở trong đồn... Hiện nay tên Bội và tên Quân đang được những người chỉ huy và cơ quan chính trị ­ưu ái và tin cậy. Chúng đang muốn hãm hại Đen để che giấu tội lỗi của mình, chúng đang lừa dối những người chỉ huy dốt nát để dùng gậy ông lại đập l­ưng ông và đang muốn v­ươn lên cao bằng xương máu của người khác.
Cô cũng biết, mâu thuẫu giữa đại đội trưởng và chính trị viên của đại đội 15 về quan điểm tư tưởng và nhất là cách đánh giá về Đen. Đại đội trưởng tin tưởng Đen, muốn bảo vệ Đen nhưng đang bị những thế lực chính trị ngăn cản và dèm pha tố cáo anh.
Càng điều tra càng thấy thương anh, càng thấy thông cảm với nỗi đau khổ của anh, và lúc này cô lại thấy mình cần ở lại để săn sóc anh giúp đỡ anh, động viên an ủi anh, và sẽ tìm cách bảo vệ anh, góp phần thanh minh cho anh. Lúc này hình như­ anh không còn là "đối tượng chiến đấu" của cô nữa, mà anh chỉ còn là "một tình thương" của cô. Nếu giả thử cô là ni cô thực, người tu hành thực, thì cô lại càng phải ra sức giúp đỡ anh, cứu giúp anh - Huống chi cô còn là đồng đội của anh. Trước hết cô phải ở lại để giúp đỡ săn sóc anh mau chóng hồi phục sức khoẻ đã, rồi sau sẽ liệu, cô sẽ trực tiếp về báo cáo với cấp trên; trực tiếp thu thập các chứng cứ để thanh minh và khôi phục danh dự cho anh.
Tuy nhiên, cô vẫn không được để lộ tung tích của mình cho Đen biết, bởi vậy, trước mắt anh, cô vẫn chỉ là sư­ tiểu Là, ni cô Là.
- A di đà Phật, anh Đen sao lắm quà của ai cho thế? Anh có gặp người nhà đến thăm à! Hay đơn vị gửi đến cho anh? Cô hỏi theo quán tính nghề nghiệp của cô, chứ cô biết thừa là của ni cô xa lạ cho từ chiều hôm qua rồi; nhưng cô vẫn phải hỏi, phải kiểm tra, đó là nhiệm vụ của cô.
- Làm gì có người nhà, làm gì có người đơn vị. - Đen bỗng bực mình với câu hỏi có vẻ soi mói của Là, anh liền trả lời trống không và sẵng giọng. - Của cái cô tiểu nào đó, nói là của sư­ cụ chùa Tháp gửi đến cho. Quái lạ, tại sao cái ông sư­, bà sư­ chùa Tháp nào đó lại biết tôi ở đây mà cho biếu quà cáp chứ? Chắc hẳn nhà chùa ở đây đã để lộ cho họ biết có tôi ở đây. Tôi đã yêu cầu nhà chùa rồi, không để cho ai biết tôi nằm chữa bệnh ở đây. Vậy mà...
- A di đà Phật! Xin anh đừng nóng, chùa Tháp cũng chẳng xa đây là bao, hai chùa như­ một, chắc tăng ni đạo hạnh nào đó đến đây được biết rồi về tâu lại với sư­ cụ. Sư­ cụ bên đó cũng là nữ gia hành đạo, là chân tu thành kính, rất có uy tín trong vùng, lại là bạn thuở hàn vi của sư­ cụ bà chùa này. Là người có đức độ nhân từ, sẵn lòng c­ưu mang chúng sinh khốn khó. Nên anh cứ yên tâm, chẳng có điều gì đáng lo ngại cả. Mô Phật!
- Xin lỗi, tôi hơi nóng, nhưng cô Là có biết cái cô tiểu bé nhỏ đó không?
- A di đà Phật, tôi mới gặp lần đầu, cũng chưa tiếp kiến với nữ đạo đó nên cũng chưa biết gì về đạo hữu đó.
- Cô ấy nói là cô ta sang đây học kinh và hầu hạ sư­ cụ ở đây ít ngày. Cô ấy nói "hôm nay lại đến" chỗ tôi nữa.
- A di đà Phật, những người tu hành đều làm việc thiện, chắc hẳn được đạo hữu đó đến thăm, anh Đen càng vui, càng chóng khỏi bệnh chứ sao?
- Mô Phật!
- Kìa, đạo hữu đó đang xuống đây, ni cô xinh đẹp thế nào cũng vào thăm anh đấy. Anh chuẩn bị tiếp đón cô ấy đi, tôi đi đây, mô Phật!
Cô Là nói với một giọng pha chút mỉa mai, mà mãi sau này Đen mới nhận ra đó là thái độ ghen tuông, nhưng hôm đó anh chỉ cho là Là không thích cô tiểu xinh đẹp hơn mình mà thôi. Nói xong, cô Là vội vàng bước ra khỏi buồng Đen, rồi đi nhanh khuất bóng về phía v­ườn sau, không để cho ni cô chùa Tháp nhìn thấy mình.
Đen bỗng thấy làm lạ, tại sao Ni cô Là lại như­ chạy trốn tránh mặt ni cô chùa Tháp kia, phải chăng các ni cô trẻ tuổi, dẫu sao cũng vẫn mang tính đàn bà, con gái. Không muốn giáp mặt nhau trước một người con trai, mặc dù người đó chỉ là một thương bệnh binh đang thân tàn ma dại gầy gò yếu ốm, và mặc dù hai người đều là người tu hành.
Những ngày ở đây, nếu không có ni cô Là thì cuộc sống của anh thật là buồn tẻ, cho dù bà vãi Hạ đã tận tình trông nom săn sóc anh như­ con đẻ, đó là tình mẫu tử, anh thấy linh hồn mẹ anh trong đôi tay của bà mẹ Hạ. Tấm lòng mẹ thật cao cả, tình thương của mẹ thật mênh mông. Nhưng dù sao vẫn không thể thiếu ni cô Là được, cô là chỗ dựa tinh thần cho anh trong những ngày chữa bệnh này. Anh đã tìm thấy ở ni cô Là tấm lòng của một người tu hành và tấm lòng của một người bạn. Nghị lực của anh đã được Là tiếp sức, động viên an ủi thêm, để anh vư­ợt qua được những cơn sóng gió phũ phàng, tưởng chừng như­ đã nhấn chìm anh mãi mãi không ngóc đầu lên được. Vậy mà anh đã chiến thắng, trước hết là chiến thắng bản thân mình không được dao động chùn bước hoặc ngã gục, sau đó là chiến thắng với mọi dư luận ghê gớm và khủng khiếp, làm cho anh có thể phát điên lên được. Vậy mà bàn tay của ni cô Là đã đắp khăn ­ướt lên trán anh, làm lòng anh dịu lắng xuống, cô đã đun nước xông cho anh để anh hạ cơn sốt và dần dần khôi phục lại sức khoẻ, anh lại tập đi, lúc bị ngã, ni cô Là lại sẵn sàng đỡ anh dậy và dìu cho anh đi từng bước, từng bước.
Có lúc Đen tự hỏi. Tại sao người như­ cô Là lại phải đi tu? Trong đôi mắt của cô, anh chưa nhìn thấy những nỗi uẩn khúc hay tuyệt vọng như­ những nhà s­ư nữ mà anh thường gặp. Đôi mắt của cô tiểu sao mà tinh anh thế? Không thấy những nét sầu muộn mà chỉ thấy những nét nghi ngờ và gần đây thấy đôi chút vấn v­ương, cũng có lúc trong đôi mắt trong sáng ấy lại ánh lên một vẻ thương hại cho một cuộc đời nào đó. Có lúc thấy rất gần gũi ngay cạnh mình, mà có lúc lại thấy xa vời vợi không với tay tới được. Thật là một con người khó hiểu và đáng nghi ngại và nhiều v­ương vấn?
Ôi! Cho dù sau này cuộc đời có ra sao đi nữa thì anh sẽ không bao giờ quên những ngày tháng này, anh sẽ không bao giờ quên được bóng dáng, nụ cười và tấm lòng của một ni cô chân thành và nhiệt tình nh­ư thế, xin dốc lòng cầu nguyện cho ni cô Là, ôi, ni cô Là, mô Phật!
 
 
 


 
 
 
 
 
 
 
Chương VIII
 
    Cô gái xinh đẹp
- Mô Phật, anh Đen đã ăn sáng gì chưa? Em đem cho anh bát chè của sư­ cụ cho anh đây, mời anh ăn đi nào!
Ni cô chùa Tháp đi thẳng vào phòng của Đen, rồi đặt bát chè xuống bàn, Đen đang nằm đọc sách, liền dừng lại nhìn trân trân vào mắt ni cô chùa Tháp, như­ để kiểm tra lại trí nhớ của mình.
- Này, chè đậu xanh đây, ngon lắm cơ, nhà chùa nấu riêng cho s­ư cụ đấy, sư­ cụ bảo đem cho anh một bát, nào anh ăn đi, em lấy thìa cho nhé, nào.
- Tôi ăn cháo rồi! - Đen bỗng trả lời sẵng giọng - Cô mang trả lại cho sư­ cụ đi.
- Mô Phật, của Phật, của Bồ tát, phóng sinh, sao anh lại nỡ từ chối, có phải ai cũng được s­ư cụ chiếu cố đến đâu. Thương anh là bộ đội vì dân vì nước ốm đau bệnh tật sư cụ mới đoái hoài, sao anh nỡ phụ lòng người?
- Thế tại sao gần một tháng nay, chẳng thấy sư cụ đoái hoài gì đến tôi, cớ sao hôm nay người lại rộng lượng thế?
- Mô Phật, thì ai cũng phải có thời gian mới để người khác hiểu mình được chứ. Đến cả tăng ni đạo hữu cũng phải có thời gian xem xét, mới biết ai lòng lành, ai giả dối, ai chính, ai tà Phật Bà Quan âm mới mở lượng từ bi chiếu cố người khổ hạnh được chứ?
Xem ra cô bé này cũng ứng khẩu đối đáp nhanh nhẹn và cứng cỏi đây, mình vô cớ không thể căng thẳng mãi với cô ta được, kẻo cô ta giận dỗi bỏ đi thì khó cho việc thẩm tra của mình. Nghĩ như­ thế nên Đen liền hạ giọng.
- Mô Phật, xin cảm ơn! Nhưng tôi đã ăn cháo rồi, còn ăn vào đâu được nữa?
- Có phải cháo của cô tiểu Là nấu không? Em vừa thấy cô ta ở đây ra mà!
- Cháo của vãi Hạ nấu cho đấy, tiểu Là chỉ b­ưng giúp tôi thôi.
- Còn bón cháo cho anh nữa chứ? - Giọng Ni cô chùa Tháp có vẻ châm biếm diễu cợt - Này, anh Đen quen cô ta lâu chưa? Cô ta ở đâu đến đấy?
- Từ khi về đây! Tôi thấy tiểu Là vẫn ở đây từ trước!
- Không đúng đâu! Chính xác hơn là sau khi anh về đây bốn ngày, cô ta mới được phái đến để...
- Này cô là ai? Mà sao hay tò mò thế, để làm gì?
- Hớ hớ hớ, thì hôm qua em đã chả nói với anh rồi, em ở chùa Tháp, gần đây thôi mà. Thấy anh đau ốm thì em thương, gặp chúng sinh cứu khổ cứu nạn giữa đường mà còn chẳng làm ngơ được nữa là anh Vệ Quốc đoàn vì dân vì nước mà đang đau khổ về cơ thể lẫn tâm hồn thì ai mà chả thương, chả quan tâm. Đến cô tiểu Là cũng còn thương anh nữa là em. Mô Phật, người tu hành chúng em thường hay giàu lòng thương cảm, mủi lòng từ bi, mô Phật.
- Mô Phật!
- Thôi, anh không ăn bây giờ thì để chốc nữa ăn vậy, em phải lên đài với sư cụ đây, lúc khác em xuống. Ô kìa, sao quà hôm qua em đưa đến anh cũng chưa ăn tý gì sao? Để đầy gầm bàn kia kìa. Này sợ em đầu độc hay sao thế? Hay là chê không ăn, này chê của nhà chùa là độc lắm đấy, mà nghi ngờ lộc Phật thì lại càng tà tâm đấy. Mô Phật, em đi đây!
Nói rồi, cô tiểu nguýt dài một cái với cái liếc mắt sắc như­ dao, làm Đen phải giật mình, cô vội bước ra khỏi phòng.
- Này, cô gì ơi! - Đen bất thình lình gọi làm cô ta giật mình quay ngoắt lại, Đen trố mắt ra nhìn.
- Gì đấy?
- Xin lỗi, pháp danh nhà chùa của cô là gì nhỉ?
- Em chưa có tên Phật, tên em là Tân, anh cứ gọi em là Tân, tên ngoài đời đấy, tên cúng cơm cha sinh mẹ đẻ đấy, em chẳng giấu anh Đen đâu.
- Vâng Tân, ni cô Tân. Mô Phật!
- Không dám, cứ gọi em là tiểu Tân thôi, em mới vào chùa mà, còn phải tu hành nhiều lắm.
Vừa lúc đó, có tiếng chuông thỉnh ở chùa trong, làm cô Tân phải vội vàng - Em đi đây, đến chiều em xuống nhé.
Tân mặt đỏ bừng bừng, hấp tấp quay đi, một lần nữa lại để lộ một mớ tóc đen xoăn xoăn đằng sau gáy, mà chiếc khăn nâu bịt đầu không che kín. Khi Đen cố tình gọi giật giọng, làm cô bất ngờ quay lại, chiếc khăn bi văng mạnh nên bị lỏng suýt tuột, làm lộ mớ tóc cặp rất khéo ra.
Cô Tân đi rồi, Đen còn lại một mình, hết sức ngỡ ngàng, cái điều bí mật về mớ tóc khám phá ra làm anh vừa mừng vừa lo. Thì ra ni cô Tân chưa cắt tóc, chưa cạo đầu trọc, khác với ni cô Là chính mắt anh đã nhìn thấy cái đầu trọc của Là khi gội đầu dưới ao chùa. Vậy là cô Tân chưa hẳn đã đi tu, hoặc mới đi tu như ­ lời cô ấy nói. Nhưng chưa được làm lễ cắt tóc cạo đầu ­? Hay đang đội lốt một vai trò gì ở đây? Nhưng mà sao cô Tân tuy còn trẻ mà lại ăn nói có vẻ thông lầu kinh kệ nhà chùa làm vậy. Mà cô ấy cũng ăn nói sàm sỡ chẳng có ý tứ sư, tiểu gì cả - cứ anh anh em em hoài thôi là thế nào. Khác hẳn cô Là, lúc nào cũng rụt rè ý tứ mô Phật cung kính.
Về nét mặt cô Tân thì Đen nhận ra rất giống cô gái bị bắt trong đồn chùa Thôn rồi. Mà sao cô bé ngây thơ sợ sệt đêm ấy lại có thể là một ni cô ăn nói có vẻ thông thạo hoạt bát như­ bây giờ?
Về mặt quan hệ với nhà chùa, tại sao cô Tân mới đến đây mấy hôm mà đã thân thiện với sư cụ làm vậy, còn cô Là thì hình nh­ư cố ý lảng tránh sư cụ, rất ít thấy cô lên chùa trong, thường chỉ hay quanh quẩn ở chùa ngoài, và chỉ làm những công việc lao động, những việc vặt vãnh dọn dẹp chùa chiền?
Theo cô Tân thì cô Là cũng mới đến chùa này, sau khi anh đến đây được bốn hôm. Còn cô Tân thì lại xuất hiện ở đây sau khi anh đến đã hai tuần lễ. Có phải vì chùa này thiêng, nổi tiếng và có sư cụ thông thái nên các tăng ni đạo hữu đến đây tìm thầy học đạo nhiều hơn không? Những thời gian trước có như­ vậy không? Theo vãi Hạ nói thì đã lâu, chùa này không mấy khi nhận thêm tăng lữ. Đã ba năm nay vẫn chỉ có ba người, sư cụ, sư­ thày và bà vãi Hạ, còn đạo hữu đến lễ thì đông nhưng cũng chỉ như­ khách thập phương đến rồi lại đi ngay, chẳng mấy ai l­ưu lại đây lâu, hoạ chỉ một hai đêm là nhiều. Vậy tại sao hai ni cô này lại xuất hiện cùng thời gian với anh và ở hẳn lại đây?
Qua tiếp xúc với Là và Tân, Đen thấy hình như­ hai người này chưa gặp nhau, nhưng lại có thể đã hiểu kỹ về nhau khá t­ường tận, mà lại ra vẻ chưa biết gì nhau trước mặt Đen. Và thật là trớ trêu, hai ni cô đều xinh đẹp, đều trẻ trung và lại đều có kiểu nói bóng gió nh­ư kiểu ghen tuông trước một anh lính ốm đau gầy còm như­ một chú bé còi xương.
Họ còn giống nhau ở điểm, cả hai đều rất quan tâm đến Đen, hoặc thái độ kín đáo, hoặc thái độ bạo dạn nhưng đều tỏ vẻ ân cần với anh, họ đều thương hại anh và đều chân tình với anh. Tuy trong mắt họ, anh đều thấy những điều còn kín đáo, đáng nghi ngờ, khó hiểu, nhưng anh chưa đọc thấy điều gì giả dối, đó là sự nhạy cảm của lư­ơng tâm anh, đó là sự linh cảm của tâm hồn anh.
Và họ còn giống nhau ở điểm, cả hai đều rất tò mò, tò mò về lai lịch của anh, và tò mò về lai lịch cả cô này với cô kia nữa. Có lúc họ hỏi rất khôn khéo kín đáo như­ những điệp viên lão luyện, nhưng có lúc lại sơ hở ngờ ngệch như­ những cô gái ngây thơ mới vào đời, hoặc mới chớm tuổi yêu đ­ương.
    ... Ôi, thật là khó hiểu, cả hai ni cô này, họ là ai, tiểu Là và tiểu Tân, ai là ni cô giả, ai là ni cô thật? Họ từ đâu đến, đến để làm gì? Có phải họ là người của ta hay của địch? Họ đến đây để theo dõi ta và khống chế ta chăng? Ta có gì mà phải theo dõi, ta là cái thớ gì mà phải kiểm tra, phải thử thách, phải bao vây, phải giám sát? Ta chỉ là một thằng lính quèn, một thằng tù binh bị chôn sống, được cứu thoát và còn sống sót?"
"- Phải, mày chỉ là một thằng lính quèn, nhưng mày là một thằng phản bội, mày đang có nhiều nghi vấn, vì mày đã dám sống, dám liều lĩnh đánh địch bằng những đòn táo bạo mà chưa ai dám làm nh­ư thế, nên người ta không tin, cả phía quân Việt Minh, cả phía quân Pháp. Không phía nào có thể tin rằng mày còn sống được, mà lại càng không tin mày đã làm họ thua. Mày dám sống lại để làm đổ vỡ những âm mưu kế hoạch của họ; nên có kẻ phải tìm cách tiêu diệt mày bằng mọi cách, giá như­ mày cứ chết như­ thằng Dũng, thằng Kiên, thằng Hùng, mày sẽ được nêu tên tuổi như­ những người liệt sĩ anh hùng hoặc chí ít cũng được khói hương trên nấm mồ những người chiến sĩ vô danh, trên đài liệt sĩ sau này.
Nhưng vì mày dám sống, dám là người chiến sĩ kiên cư­ờng dũng cảm hơn họ, cả ta và Tây, thì mày phải chết, cái chết nhục nhã của một kẻ phản bội..."
"... Không phải vì mày phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân, phản bội đồng đội nh­ư nhiều kẻ đã vu cáo đã buộc tội cho mày mà vì mày đã phản bội với cái chết của chính mày... Vậy thì kẻ phản bội phải chết, chết một cách nhục nhã..."
Mải suy nghĩ, làm anh đau đầu, rồi phát sốt lên, cơn sốt quật anh ngã xuống gi­ường không ngóc đầu lên được, cơn sốt làm anh mê sảng. Trong cơn mê, anh thấy khuôn mặt hai ni cô, lúc ẩn lúc hiện, khi họ là tăng lữ, khi họ lại là hai cô gái đời thường, lúc họ lại là hai ông hộ pháp đứng ở trước cửa chùa, một bên là cô Là, một bên là cô Tân đang đứng cầm gươm cầm giáo, đâm chém anh, lúc họ lại là hai cô tiểu th­ư xinh đẹp, đang cùng đi học với anh, hoặc đi dạo với anh bên bờ sông, có lúc họ là Ma-ri Lan và cô Lam, có lúc họ lại là hai cô gái bị hãm hiếp trong đêm cuồng loạn của Tây Lùn và Tây Xồm trong đồn chùa Thôn.
Và cuối cùng, họ vẫn lại là hai cô tiểu ở chùa Thư­ợng. Khi anh mở mắt tỉnh dậy, lúc đó đã là buổi chiều. Một điều vừa bất ngờ vừa lạ lùng, người anh ư­ớt sũng quần áo như­ ngã xuống sông. Còn hai ni cô thì đang đứng bên cạnh gi­ường anh. Cô Là đang cầm khăn lau mồ hôi trán cho anh, còn cô Tân đang cầm tay anh bắt mạch cho anh. Cả hai đều thốt lên hồ hởi.
- A di đà Phật! Anh Đen tỉnh lại rồi!
- Anh sống lại rồi!
Đen cũng thều thào đáp lại
- Mô...ô Phật...ật!
 
      Đối thủ trước cửa Phật
Lần đầu tiên họ giáp mặt nhau, hai bộ quần áo nâu sồng, trước một chàng trai đang bị sốt nặng, tưởng chừng như­ đang hấp hối. Khi nghe thấy bà vãi Hạ kêu lên: "Trời ơi, thằng bé sốt nặng quá" ở cửa buồng Đen, thì lập tức họ từ vị trí ẩn náu của mỗi người, nói đúng hơn là họ từ vị trí quan sát của mỗi người đều bật nhảy vội ra, lao vào trong phòng của Đen. Trong một giây đầu tiên, họ đều phát hiện ra vị trí ẩn giấu của nhau để theo dõi đối phương. Ni cô Là đang nhổ cỏ ở một góc sân chùa phía sau buồng của Đen nằm, mọi người ra vào buồng Đen và tiếng nói chuyện trong buồng đều không thể lọt qua tai mắt của Là.
Còn ni cô Tân thì lại đang đứng trong cửa buồng chùa trong, với cái phất trần trong tay để quét mạng nhện cho những pho t­ượng Phật ở gần đó, nhưng mắt lại luôn luôn quan sát về cửa buồng của Đen, ai đi qua đấy hoặc vào buồng Đen, cô đều nhìn thấy mà ngược lại họ không thấy cô.
Vậy mà tiếng kêu của bà vãi Hạ đã làm cả hai cô mất cảnh giác, quên mất vị trí nhiệm vụ của mình. Cả hai đều chạy đến buồng Đen, cả hai đều làm lộ vị trí của mình cho đối phương nhìn thấy.
Họ vào buồng Đen, cũng không nhớ là ai vào trước, ai vào sau, họ đều hốt hoảng lo lắng, như­ muốn cứu vớt một sinh linh đang thoi thóp. Họ chỉ khẽ liếc trộm nhìn nhau, không ai bảo ai, không ai nói một câu gì, họ chỉ như­ hai người đang cúi đầu mặc liệm trước một vong linh đang trở về cõi Phật. Trong lòng họ đều có nỗi ngỡ ngàng e thẹn với nhau trước một người con trai đang mê man bất tỉnh, chứ không thấy ánh mắt hận thù hoặc hằm hè coi chừng nhau. Lúc này họ chỉ như­ hai nhà tu hành đang mở hết lòng từ bi để thỉnh cầu chư­ Phật xuống cứu giúp người hoạn nạn. Hai khuôn mặt họ lúc này mới đẹp đẽ làm sao, mới thánh thiện làm sao. Và hai tâm hồn họ lúc này mới trong sạch và thanh cao, mới nhân từ đức hạnh làm sao. Giá lúc này Đen tỉnh dậy, chắc anh sẽ nhận được nụ cười của hai thiên thần mà Bồ tát phái xuống ban phúc lành cho anh, mà cả đời anh sẽ không bao giờ có được.
Mãi đến khi bà vãi Hạ vào, bà cuống quýt nhờ các cô mỗi người một tay để cứu giúp Đen thì các cô mới bừng tỉnh và quên hết ng­ượng ngùng giữa đối phương. Mỗi người một tay cùng bà vãi lao vào cấp cứu cho Đen. Cô thì dấp nước khăn ư­ớt đắp trán cho anh, cô thì lấy dầu cao hổ cốt xoa khắp chân tay mặt mũi cho anh; Rồi cạy mồm cho anh uống thuốc, rồi đắp chăn, rồi ôm giữ lấy anh, để anh khỏi run bật người, bắn xuống đất... Cả hai ni cô đều tận tuỵ như­ những cô y tá hộ lý lành nghề trong bệnh viện, dưới sự chỉ huy điều khiển của mẹ Hạ. Cả hai đều nhiệt tình như­ những cô em gái săn sóc người anh trai ruột thịt của mình.
Trong lúc này, trước cơn sốt nguy kịch của Đen, không ai có thể ngờ rằng họ là hai đối thủ của nhau. Không những đối địch, mà còn là tình địch của nhau nữa.
Ở ngoài đời họ là những người lính đối địch nhau, giữa hai mặt trận phi nghĩa và chính nghĩa, giữa hai chiến hào súng đạn một mất một còn, cũng có thể cả hai đều chết cho lý tưởng của họ.
Ở trong chùa, trước cửa tu hành, cho dù họ là những nhà tu hành giả thì họ đối kháng với nhau về đua tài nghề nghiệp tụng kinh gõ mõ, niệm Phật thỉnh chuông, xem ai là người thành thạo hơn, ai là người tiếp thu nhanh hơn. Và thực chất là để xem ai là người chiếm được lòng tin của những người tu hành và tăng ni đạo hữu hơn. Họ như­ hai tráng sĩ múa gươm đấu kiếm trước cửa chùa để tỏ ra cho mọi người biết ai là võ sĩ giỏi hơn. Nói đúng ra là họ ra sức đọ nhau trong việc đánh lừa mọi người, kể cả lừa dối đức Phật Nh­ư Lai rằng mình là người chân tu thành tâm, chính hiệu.
Còn trước mặt một người con trai, một người chiến sĩ đầy nghị lực kiên c­ường, một chàng trai trung thực hiền lành, một tấm lòng cao th­ượng quảng đại, một tâm hồn đang bị đau khổ tột cùng cả về thể xác lẫn tinh thần, thì cả hai cô đều là những cô gái giàu lòng nhân ái, đưa sầu đưa cảm, thương xót chàng trai. Và cả hai cô đều là những cô gái nhạy cảm, thực lòng cảm phục và mến thương chàng Đen khốn khổ. Họ đều muốn chia sẻ nỗi đớn đau với anh; họ đều muốn gánh chịu một phần đau xót cho anh - Và cả hai đều muốn tình nguyện hy sinh quyền lợi của mình, thậm chí cuộc sống của mình để cứu vớt anh ra khỏi vòng oan khiên đang ràng buộc cuộc đời anh.
Tuy nhiên, họ trở thành đối địch với nhau trong tình cảm. Ai cũng muốn, chỉ một mình mình, cứu vớt linh hồn anh, chỉ một mình mình là ân nhân của anh, và trái tim của anh, cũng chỉ thuộc về một mình mà thôi.
Ôi con người đau khổ, anh có biết chăng có hai trái tim đang cùng thổn thức vì anh?
Họ ở bên cạnh nhau lặng lẽ, chăm sóc cho Đen, mà hầu như­ không nói với nhau một lời. Tuy vậy một cuộc đối thoại khá gay gắt tuy chỉ âm thầm không nói thành lời nhưng trong lòng mỗi người đều sôi động và thách thức.
"... Này cô bé xinh đẹp ơi, cô không thể che nổi mắt tôi bằng bộ quần áo nâu sồng được đâu, tôi đã thừa biết cô là ai rồi! Cô là điệp viên của bọn giặc Pháp, nhưng cô là người của phòng nhì hay là người của riêng đồn trưởng Jack có biệt hiệu Tây Xồm? Không thể là người của phòng nhì được, vì cô còn trẻ quá và còn ngờ nghệch quá. Bọn phòng nhì không bao giờ sử dụng người một cách bừa bãi mà lại chưa qua huấn luyện nh­ư thế. Vậy thì cô chỉ là một điệp viên bất đắc dĩ của Tây Xồm mà thôi. Tại sao cô đang là một kẻ bị bắt, bị hãm hiếp, mà lại cam tâm làm tay sai cho kẻ đê hèn hãm hại cô ấy? Có phải vì tiền, vì danh vọng không? Nó thưởng cho cô trong chuyến đi này được bao nhiêu? Và chắc hẳn nó hứa sẽ cư­ới cô làm vợ chứ? Nó sẽ đưa cô đi Hà Nội, đi Sài Gòn hay sang Pháp chăng? Ôi cô bé xinh đẹp còn ngây thơ quá. Tuy vậy cô cũng khá thông minh đấy, cô đã nhanh chóng nhập vai và ăn nói cũng lư­u loát đấy chứ! Có phải trước khi bị bắt cô đã từng sống ở một chùa chiền nào đó?
Cô là trẻ mồ côi hay con hoang của một nhà sư­ nào đó? Cũng có thể cô là con một bà vãi già trong cảnh khốn cùng đã đến n­ương nhờ cửa Phật, nên cô mới khá thành thạo công việc nhà chùa. Cô đã chiếm được lòng tin của sư cụ và của nhiều người ở chùa này?
Nhưng cô đến đây để làm gì? Hỡi cô điệp viên bất đắc dĩ? Có phải Tây Xồm giao nhiệm vụ cho cô để theo dõi giám sát Đen không? Cô sẽ làm quen với Đen và tìm cách lung lạc dụ dỗ Đen đầu hàng quân giặc một cách thực sự phải không? Thằng Tây Xồm còn giao nhiệm vụ cho cô theo dõi những người của Việt Minh đến với Đen nữa chứ, và khi cần nếu Đen không nghe theo cô, không đầu hàng địch, thì cô còn có nhiệm vụ cùng chân tay khác ám sát Đen để giữ bí mật cho những tên tay sai của chúng đang ở trong hàng ngũ C15 mà Đen đã biết để bịt đầu mối?
Mà hình như­ Đen cũng đã nhận ra cô rồi đấy, nên anh ta không muốn tiếp xúc với cô, cô không thể nào khuất phục nổi anh ta đâu. Một con người như­ anh ta, vào tù ra tội nhiều lần, chiến đấu dũng cảm kiên c­ường, không dễ gì mà đánh bại được anh ta đâu. Cô tin vào sắc đẹp của cô có thể thuyết phục được Đen? Cứ thử xem, tôi tin rằng bằng sắc đẹp cô lại càng không thể thuyết phục được Đen đâu. Anh ta đã bị oan trái nhiều, bị vấp ngã nhiều nên anh ta cảnh giác lắm: Đến ngay bản thân tôi đây với lòng chân thành thực sự cũng hy vọng chiếm lòng tin của Đen, mà đã nửa tháng trời nay vẫn chưa nắm bắt được anh ta đây.
Vậy thì cô chỉ còn có phương án hai phải không? Thủ tiêu Đen rồi tung tin là Việt Minh xử trí anh ta, để cho cái tin đồn là Đen phản bội do những kẻ xấu tung ra và được thằng Tây Xồm lợi dụng xuyên tạc. Kể cả phương án cuối cùng này cô cũng không thể đạt được mục đích đâu, cô em ạ! Vì còn có tôi đây, tôi sẽ bảo vệ cho Đen, tôi sẽ đem cả sức lực của mình để bảo vệ tính mạng và tinh thần cho Đen. Cô và bọn Tây Xồm đừng hòng hãm hại được Đen. Tôi đang chờ các người tới đây, tôi sẽ có biện pháp tóm gọn bọn giết người đê tiện. Nào cô em, hãy nhanh chóng liên lạc báo cáo với cấp trên của em và lao đầu vào thòng lọng đi, tôi sẵn sàng chờ đợi từ lâu rồi..."
"... Á à, này bà chị Việt Minh ơi! Chị cũng đừng hòng che nổi mắt tôi bằng bộ nâu sòng và cái đầu lông lốc bình vôi, mà thỉnh thoảng chị lại bày ra cho mọi người xem đâu. Lão Tây Xồm đã báo trước cho tôi biết chị là điệp viên của Việt Minh rồi, và ông ta đang muốn dùng tôi làm một con thiêu thân để nhử Việt Minh đây. Có lẽ chị cũng đoán đúng đấy. Tôi là con hoang của một nhà sư­ bị đem bỏ ngoài chùa và được một bà mẹ nhặt về nuôi, nhưng cuộc sống cùng cực quá nên mẹ đem tôi lên ăn mày cửa Phật, mẹ làm vãi già và nuôi tôi bằng kinh bổn và lộc chay của Bồ Tát. Vì thế nên tuy tôi chưa cắt tóc và ít tuổi hơn chị, nhưng tôi vẫn có dáng của người tu hành hơn chị. Cho nên các s­ư cụ, sư­ thày và vãi già ở đây đều kính nể tôi và tin tưởng tôi. Vì điều này, chị hẳn thua tôi bởi trong lớp đào tạo điệp viên của chị cũng không thể nào học được, cho dù chị quả là thông minh và rất say sưa nghiệp vụ, dám hy sinh sắc đẹp con gái, dám cạo trọc đầu để cải trang, nhưng chỉ lừa được người trần mắt thịt thôi, chứ đối với các nhà s­ư thì chị sao lừa nổi, chẳng qua vì Hội Phật giáo giới thiệu chị đến công tác đặc biệt, họ sợ Việt Minh mà phải tiếp nhận chị vậy. Ngay cả đối với Đen, anh ta cũng chẳng tin chị là nhà tu hành đâu, nhưng ngoài chị còn có ai ở đây để anh ta bấu víu vào tinh thần và thể xác. Vì chị đã khôn ngoan, tận tình giúp đỡ anh ta nên đã lấy lòng được anh ta, còn niềm tin thì chưa hẳn đâu. Chị cứ nhìn vào mắt anh ta khi nhìn chị thì thấy đấy, còn nhiều nghi vấn lắm.
Chị hỏi tại sao tôi lại làm tay sai cho kẻ hãm hại đời tôi ­? Phải, tôi làm tay sai cho Tây Xồm đấy? Tôi còn có con đường nào hơn, khi đời tôi đang trong cảnh cá chậu chim lồng? Tôi đã bị bắt, bị hãm hiếp và bị c­ưỡng bức làm gái chơi cho thằng Tây Xồm. Tôi đã sống ở trong đồn, được nghe binh lính kể cho nhau nghe chuyện về những người Việt Minh bị chôn sống, trong đó có một người lính bé nhỏ là Đen. Và họ khâm phục anh ta như­ là ma quỷ hiện hình. Và chính thằng Tây Xồm trong một đêm vui thú, nó đã kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện Đen được chị Ma-ri và chị Lam che chở nuôi dưỡng ở ngay ngôi nhà tôi đang ở đây, và chính Đen đã lập m­ưu giết thằng Tây Lùn và kế hoạch chạy trốn bằng cách chui vào áo quan rất khôn ngoan và độc đáo đó. Chính thằng Tây Xồm cũng phải ca ngợi Đen là một con người thông minh dũng cảm, nó nói với tôi rằng "giá trong tay có vài người lính như Đen thì còn giá trị hơn hàng đại đội, tiểu đoàn Âu Phi, cần phải thuyết phục Đen, kéo nó về với quân đội liên hiệp Pháp..." Tôi chẳng biết giá trị của Đen thế nào, nhưng chuyện kể của Tây Xồm, của binh lính trong đồn đã nhen lên trong lòng tôi một sự khâm phục, tuy chưa biết mặt anh ta, nhưng tôi đã hình dung Đen như­ một thần t­ượng, người anh hùng trẻ tuổi, nh­ư Kim Đồng, như­ Lê Văn Tám... Những anh hùng thiếu niên mà trước đây tôi đã được nghe, được học ở trường. Và tôi ước ao giá mà gặp được con người ấy nhỉ, chẳng biết để làm gì, mà chỉ là thích một cách vu vơ đó thôi.
Giữa lúc đó thằng Tây Xồm đang cần một điệp viên đến liên lạc với Đen. Tôi đã xung phong xin đi, lúc đầu nó không tin tôi, vì tôi còn trẻ quá; nhưng tôi nói là tôi đã ở chùa và quen nhiều nhà sư­, hơn nữa Tây Xồm cũng không tìm được ai hơn nên đành đồng ý để tôi đi. Chị hỏi tại sao tôi lại nhận làm điệp viên, một công việc nặng nề và nguy hiểm ­? Lúc đầu tôi cũng chẳng biết nữa, cái tuổi 16 của tôi có cần phải suy tính gì nhiều đâu! Trước hết là được ra khỏi đồn đã, phải trốn khỏi sự giày vò của thằng Tây Xồm đã, chẳng ngày nào, chẳng đêm nào nó tha tôi, nhiều đêm nó hành tôi suốt đêm từ tối đến sáng, chẳng làm sao mà chịu đựng được nữa, sau đó với tính tò mò, tôi muốn biết anh chàng Đen là người thế nào mà ghê gớm thế, làm cả đồn khiếp sợ. Tôi phải tỏ ra là kẻ tham tiền tham của và thề sống thề chết trung thành với Tây Xồm, nó hứa nếu thuyết phục được Đen, nó sẽ thưởng cho tôi ba lạng vàng và cho tôi sang Pa-ri học tập sinh sống. Tôi cứ nhận tràn đi. Nhưng trong thâm tâm tôi còn một ý nghĩ: Chị Ma-ri, chị Lam còn cứu giúp Đen được, thì tại sao mình lại không cứu giúp anh ta tiếp nhỉ. Nếu để kẻ khác đi, anh ta sẽ bị thủ tiêu, vì tôi tin rằng một con người như­ Đen thì không bao giờ đầu hàng. Chính vì thế tôi muốn làm người cứu khổ cứu nạn cho Đen. Tôi còn hy vọng là mình sẽ trốn thoát, vì tôi lại quen thuộc nhiều chùa chiền, mà đất Phật thì bao la và tĩnh tại. Tôi đã thấy nhiều người được Đức Phật bao che mà thoát nạn.
Tôi hy vọng được đi một mình, sẽ dễ bề xoay sở, nhưng không ngờ thằng Tây Xồm đã cử người đi kèm theo tôi, không phải là một mà là hai thằng lính ác ôn nữa, chị chưa phát hiện ra chúng nó ­? Một thằng già phụ trách và một thằng trẻ, vẫn đang ngày đêm lảng vảng xung quanh chùa đấy. Về điều này chắc chị còn chưa thấy đâu, bà chị Việt Minh ạ. Kia kìa, một đứa đang giả làm khách thập phương, dắt một bà cụ già vào lễ trong chùa, đi ngang qua đây này; ôi đôi mắt của bà chị chẳng thấy cảnh giác tý nào cả. Thế mà cũng gọi là điệp viên (!). Hàng ngày khi muốn tiếp xúc với Đen, tôi phải canh chừng, không phải vì sợ bà chị đâu, mà cái chính là phải xem bọn lính đi kèm có nhìn thấy tôi hay không mà thôi.
Ôi, giá mà chị biết cho tấm lòng tôi, giá mà chị phối hợp cùng tôi, nhanh chóng tìm cách đưa Đen đi xa khỏi nơi này đi, nơi cạm bẫy chúng đang căng đầy xung quanh này. Riêng tôi từ đây, tôi có thể bất kỳ lúc nào cũng trốn khỏi được cạm bẫy này, kể cả màng l­ưới của chị. Nhưng còn Đen, ai bảo vệ anh ta? Liệu chị có bảo vệ nổi anh ta không, chị cũng có nhiệm vụ thủ tiêu Đen, nếu cần cơ mà, chủ tr­ương của Việt Minh là thế đấy. Tây Xồm cũng nói cho tôi biết thế mà. Vì thế tôi muốn cứu Đen thoát khỏi cả hai cạm bẫy nguy hiểm và ác độc này, mà chưa tìm được cách nào để thoát đây. Chỉ còn lòng thành kính cầu đức Phật Bà Quan Âm mở lượng từ bi cứu khổ nạn cho anh ta. Mô phật!
"- Này cô em xinh đẹp, chị còn đọc trong mắt em thấy những tia sáng của tình yêu như­ những tia la de đang bao trùm lên Đen đấy! Cô em đừng có từ chối cãi chị. Nhưng không bao giờ Đen thuộc về em đâu. Cho dù cô em có yêu Đen hàng trăm lần hơn chị, thì em cũng không thể che chở bảo vệ cho Đen được, em chỉ làm hại cho Đen mà thôi, hãy liệu tìm đường mà đi đi, hãy để cho Đen được yên, nếu Đen có mệnh hệ nào thì cô em đừng có trách chị nhé...."
".... Hớ hớ hớ, bà chị của em ghen rồi, ghen thật rồi, trông đôi mắt của chị như­ mắt quỷ Sa Tăng kia kìa, đầy oán thù và căm giận. Người ta chỉ có thể chiếm được tình yêu bằng đọ sức đua tài mà thôi, chứ không thể nào chiếm tình yêu bằng c­ướp đoạt hay hận thù được đâu chị ạ. Đúng, em từ cảm phục Đen, đến yêu Đen, ngay từ hôm đến đây, gặp Đen em đã thấy thương hại xen lẫn thương yêu, và những lần gặp sau này, càng ngày em càng quý mến Đen, và em hy vọng được Đen yêu lại. Ôi em chỉ là một kẻ bị ức hiếp, bị sa ngã, bị đẩy vào vòng khổ hạnh, chắc gì đã được Đen yêu... Nhưng cho dù xấu xa, em vẫn không thể nào thiếu tình yêu của Đen được. Ai là người cứu sống được Đen. Người đó sẽ có tình yêu. Em có thể thua chị về đấu gươm, đấu súng. Nhưng về mặt này, em sẵn sàng đua tài cùng chị - Nào xin mời bà chị ra tay. Mô Phật..."
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chương  I X
       Mất một niềm tin
Tin đại đội trưởng Hoàng Khánh bị hy sinh trong trận tấn công chùa Thôn đến với Đen như­ một tiếng sét đánh. Sức khoẻ anh mới được khôi phục, đang có triển vọng sắp khỏi bệnh, bỗng lại bị suy sụp hoàn toàn. Nỗi đớn đau thương nhớ người đại đội trưởng kính yêu, mà anh vẫn coi nh­ư người anh ruột thịt làm cho anh không ăn không ngủ được. Còn đau xót hơn mất một người thân trong gia đình. Bởi lẽ mất đại đội trưởng, là mất đi một nguồn hy vọng, mất một niềm tin vào con người. Thế là hết, không còn ai có thể gỡ được mối dây oan nghiệt đang ràng buộc thắt trói anh, không còn ai có thể thanh minh cho danh dự chính trị của anh, không còn ai nâng đỡ dìu dắt anh trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ hy sinh và éo le phức tạp này.
Trong cuộc đời non trẻ của anh, tuy việc tham gia hoạt động cách mạng và chiến đấu chưa được bao năm, vậy mà anh đã gặp biết bao con người, những người đã dìu dắt anh tham gia hoạt động, nhưng đều bỏ lại anh bơ vơ giữa đường, người thì hy sinh, người thì đã phải điều đi công tác xa, nên anh không còn chỗ dựa, không còn chỗ bấu víu hỏi han, không có người bảo ban giúp đỡ, những ngày còn ở quê hương hoạt động trong đội thiếu niên và đội du kích địa phương. Anh đã phải dựa vào sự giúp đỡ dắt dìu của những người anh lớn tuổi, những bạn bè đồng chí của anh trai anh, những người con nuôi đỡ đầu của bố mẹ anh. Nhưng rồi phần lớn những người đó đều để cho anh những điều không tốt, nếu không phải căm ghét thì cũng không còn đáng khâm phục nếu không phải là xa lánh thì cũng không còn được niềm tin. Họ chỉ là những kẻ cơ hội, "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai?"
Mới ngày hôm qua, họ còn ăn cơm ở nhà anh, còn mẹ mẹ con con với bố mẹ anh, còn anh anh em em với anh. Thế mà hôm nay khi anh bị oan ức, bị nghi ngờ vì một chuyện vu vơ nào đó, bị bắt, bị tra hỏi, thế là họ liền vội vàng cao chạy xa bay, không còn dám liên quan gì đến nữa. Mặc dù họ biết anh oan ức, nhưng họ không dám đứng ra bảo vệ chân lý, bảo lãnh cho anh, thậm chí cung cấp những điều nhận xét trung thực của họ, họ cũng không dám chỉ vì họ lo cho cái ghế của họ bị lung lay... Họ cứ để mặc cho anh tự xoay sở, tự chết chìm hoặc tự nổi lên giữa dòng xoáy cuộc đời. Đến khi anh tự mình đấu tranh giành lại chân lý thì họ giơ tay lên hoan hô, khen ngợi, và họ lại tranh giành nhau tâng công với anh, với gia đình anh, rằng họ đã cố gắng chạy chọt, đấu tranh với cửa này với cửa nọ, nên anh mới được trở về, được tự do được minh oan....
Thế đấy, những người như­ anh Sức, những kẻ như­ anh Khả, đều là những huyện uỷ viên, đều là con đỡ đầu của bố mẹ anh, mà đã cam tâm bỏ mặc anh cho bọn người áo đen hành hạ và bị tù tội đấy thôi. Còn những kẻ như­ tên Kiêng thôn đội trưởng thì mượn gió bẻ măng, tìm cách hãm hại anh để che giấu tội lỗi tư­ tình với người vợ tảo hôn của anh, như­ tên Bần người đeo cây thánh giá thì còn bần tiện hơn, đã lợi dụng giậu đổ bìm leo, để tống tiền bố mẹ anh, làm khuynh gia bại sản nhà anh. Ôi, trên đời này sao lắm kể xấu, người hèn? Anh mãi chẳng gặp được những người hào hiệp? Họ ở nơi đâu?
Cho đến khi anh đi bộ đội, rồi vào đại đội 15 chiến đấu, anh mới gặp được đại đội trưởng Hoàng Khánh. Chỉ sau một vài trận chiến đấu, Hoàng Khánh đã rất gắn bó với anh và Đen cũng coi đại đội trưởng Khánh nh­ư anh trai của mình.
Đen nhớ lại lần đầu tiên gặp đại đội trưởng Khánh.
- Ê chú liên lạc! đại đội trưởng nói - từ đây đến phố Văn Trai khoảng 15 ki-lô-mét, từ Văn Trai về làng Trần quê chú khoảng 10 cây. Tôi cho chú về qua nhà để báo cho gia đình biết chú đã ở đơn vị 15 chủ lực tỉnh. Nhưng chú phải đi qua phố Văn Trai, đếm xem có bao nhiêu nóc nhà, và tìm xem - Đại đội trưởng nháy nháy mắt vẻ hóm hỉnh - Cô gái nào xinh đẹp nhất phố, và phải mang về đấy một bằng chứng của cô ấy - Bây giờ là 5 giờ chiều, chậm nhất là 5 giờ sáng mai phải có mặt ở đơn vị để báo cáo. Rõ chưa?
- Rõ!
- Đây là mệnh lệnh, thi hành ngay đi!
- Báo cáo tôi đi!
Thật là một mệnh lệnh kỳ lạ, lúc đầu Đen cũng chẳng biết nếp tẻ thế nào, cứ "rõ" tràn đi, rồi vội vàng giơ tay chào nhận lệnh, người giao cũng chẳng bắt nhắc lại, người nhận cũng không kịp hỏi thêm. Thấy nói được về qua nhà, Đen sướng quá, nhảy cẫng lên rồi vội vã đi liền. Đi ra khỏi khu vực đóng quân một đoạn mới thấy mệnh lệnh này kỳ lạ quá và cũng hết sức vô lý và rắc rối, Đen vừa đi vừa nhẩm tính: 15 cây + 10 cây là 25 cây số, nhân hai lần là 50 cây số. Đi nhanh cũng phải mất 10 giờ, đi chậm mất 17 giờ, bình quân mất 14 giờ, mà thời gian chỉ được phép có 12 giờ ban đêm, thì riêng việc đi cũng không đủ thời gian, lại còn phải đếm nóc nhà, lại còn phải tìm một cô gái xinh đẹp nhất phố, lại còn phải tán gái để lấy bằng chứng thì có khi cả ngày mai cũng không xong, vậy thì không thể thực hiện được. Chưa thấy ông chỉ huy nào giao nhiệm vụ cho liên lạc như thế này. Anh vừa thấy giận đại đội trưởng, "gì mà hắc thế" lại thấy bực cho mình sao mà ngu vậy cứ nhận bừa đi.
Đen định quay trở lại trả mệnh lệnh cho đại đội trưởng và tranh luận với ông ta về cái vô lý ấy. Nhưng anh bỗng lại tự ái, tại sao mình lại không hỏi lại, tại sao mình lại chấp hành đi ngay? Rõ ràng là tại mình chấp hành một cách mù quáng, còn kêu ai. Rồi anh lại tự bào chữa: Biết đâu đây chả là một mệnh lệnh đầu tiên để thử thách mình? Vậy thì mình phải tìm mọi cách chấp hành bằng được, cứ thử xem sao? Đã đánh đố thì mình phải có cách giải của mình chứ, chơi thì chơi chứ sợ gì. Đen vừa vắt óc, nát đầu suy nghĩ, vừa cắm cổ chạy trên đường chiều vắng vẻ lao vào đêm tối...
Đúng 5 giờ sáng hôm sau, khi đại đội trưởng Khánh còn chưa ngủ dậy, Đen đã gõ cửa:
- Báo cáo đại đội trưởng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ trở về!
- Hả! Ông lỏi con, nói giỡn đấy chứ, cậu không về nhà à, hay cậu bỏ cuộc chưa đi hả? - Đại đội trưởng liền vùng dậy và hỏi có vẻ nóng nẩy vì phá giấc ngủ muộn của anh.
- Báo cáo tôi đã chấp hành nghiêm chỉnh, mệnh lệnh của đại đội trưởng - Đen báo cáo một cách dõng dạc - Bố mẹ tôi vẫn khoẻ và xin có lời cảm ơn đại đội trưởng, đây là một bị khoai lang và lạc luộc gia đình gửi biếu Ban Chỉ huy làm quà ăn sáng nay. - Đen đưa cái bị cói đựng khoai lên tấm phản giữa nhà đại đội trưởng nằm - Còn đây la bao thuốc lá cô-táp của cô Lan Hương, cô hàng cà phê xinh đẹp nhất phố Văn Trai gửi biếu thủ trưởng và có th­ư của cô ta gửi kèm - Đen rút trong túi áo ra bao thuốc lá và lá th­ư nhỏ, hai tay trịnh trọng đưa cho đại đội trưởng rồi nói tiếp - Cô ấy ở số nhà 78 trong tổng số 106 nóc nhà của phố Văn Trai - báo cáo hết, tôi xin phép đi nghỉ - Nói xong Đen giơ tay chào, rồi vội quay ra, anh định về dưới nhà ngủ, để ngủ một giấc.
Đại đội trưởng vẫn nghe Đen báo cáo, cứ há hốc mồm ra từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Khi nghe đến tên Lan Hương thì anh đỏ bừng cả mặt vừa phấn khởi vừa xấu hổ, vì đó chính là người yêu của đại đội trưởng. Anh vội vàng giở mảnh giấy ra đọc:
- Anh thân yêu!
Tai sao anh lại ra một cái mệnh lệnh kỳ cục thế, làm chú Đen vất vả suốt cả đêm, anh phải trả công đền bù xứng đáng cho chú ấy đấy. Gửi anh nhiều cái hôn.
Em Lan Hương!
Đúng là chữ của Lan Hương rồi! - Ôi sung sướng quá. Khi thấy Đen quay ra ngoài cửa, anh liền vội vàng gọi:
- Ấy Đen! Quay lại đây đã!
Khi Đen đã quay lại, Khánh vừa vui mừng phấn khởi vừa chưa hết ngạc nhiên, anh nhẹ nhàng hỏi với một giọng băn khoăn vẻ ân hận:
- Tôi không hiểu chú làm thế nào mà lại thực hiện được cái mệnh lệnh kỳ quặc của tôi làm vậy.
- Dạ, báo cáo đại đội trưởng - Giọng Đen trở nên vui vẻ và hóm hỉnh, anh vừa cười vừa trả lời - Mệnh lệnh kiểu gì thì cũng phải có cách thực hiện kiểu ấy chứ ạ!
- A ha, chú mày giỏi! Thế bây giờ hãy kể cho anh nghe xem chú em đi như­ thế nào và bằng cách nào nào?
- Em xin phép anh cho em về đi ngủ cái đã, mệt lắm rồi, đến chiều em sẽ kể cho mà nghe - Giọng Đen có vẻ bí mật và mệt mỏi - Anh cứ đọc thư­, ăn khoai ăn lạc và hút thuốc lá đi đã, chị Lan Hương quả là một người con gái xinh đẹp nhất mà em chưa từng thấy đấy! Thôi em đi ngủ đây. - Nói rồi Đen chạy vội ra ngoài, không kịp cho đại đội trưởng gọi lại, mà anh cũng không nỡ gọi Đen quay lại nữa. Cậu ta buồn ngủ rũ ra còn gì.
Mãi buổi chiều, sau khi ngủ đẫy giấc, dậy ăn cơm no và tắm mát về, Đen mới đến chỗ đại đội trưởng; đã thấy đại đội trưởng phần Đen một cốc bột đậu xanh và mấy quả chuối.
- Nào chú em ăn đi, rồi giải đáp thắc mắc cho anh xem nào?
Đen vừa ăn, uống vừa nói chuyện vui vẻ cởi mở.
- Có khó gì đâu anh, đi đến giữa đường, cái khó mới ló cái khôn, em mới nghĩ ra là đến Văn Trai sẽ nhờ hoặc thuê một chiếc xe đạp, đạp về nhà xin tiền bố mẹ trả; và sẽ tìm hỏi cánh thanh niên ở phố sẽ biết ngay ai là người xinh đẹp nhất thôi. May quá đến đầu phố, em lại gặp một thằng bạn học cũ, nhà nó có xe đạp, thế là mọi việc xong xuôi ngay. Em và nó đèo nhau về nhà em, rồi lại đến nhà chị Lan Hương rồi nó đưa em về đến đây mới quay về. Bọn em còn được mấy bữa rượu đàng hoàng nữa chứ, ở nhà nó ở nhà em, lại còn được chị Lan Hương chiêu đãi uống cà phê giải khát nữa chứ.
- Mà làm sao chú lại biết chị Lan Hương là người yêu của anh chứ?
- Ồ, cái ấy thì quá dễ, ở đâu mà chả có tai vách mạch rừng hả anh!
- Tuyệt, tuyệt, chú em quả là thông minh và tháo vát. Này thế có gặp con Liên Hương em Lan Hương không, nó cũng khá xinh đấy chứ? Liệu chú em có dám làm cọc chèo cùng anh không?
- Rất tiếc cô em chỉ ngủ khì không dậy, nên không gặp. Nếu được ông anh bà chị chiếu cố, Đen này sợ gì mà không dám chèo với chống, chỉ sợ cô em lại chê thằng Đen này đen mà thôi!
 
        Thử thách lần hai
Mấy hôm sau đại đội trưởng lại giao nhiệm vụ:
- Chú hãy đưa lá thư­ này đến một cơ sở ở thị xã Hà Đông theo địa chỉ ở trong thư­, sau đó về Văn Điển chờ tôi ở địa chỉ điểm Y. Vào 10 giờ trưa mai để đi trinh sát tình hình địch ở đồn Thanh Trì. Tín hiệu liên lạc là: Gãi đầu ba lần, vuốt tóc ba lần "mật khẩu hỏi: Anh có gì bán không? Đáp: Chẳng có gì cả, anh có mua cái này không?
- Rõ!
- Nhắc lại nhiệm vụ đi!
Đen nhắc lại nhiệm vụ đúng như­ đại đội trưởng giao.
- Được, thư­ đây, phải học thuộc lòng, khi cần thiết thì phải thủ tiêu không được để lọt vào tay địch. Bây giờ là bốn giờ chiều, chú đi ăn cơm trước đi rồi chuẩn bị đi.
- Mấy giờ phải trao thư­ cho cơ sở thị xã Hà Đông ạ?
- Chậm nhất trước 6 giờ sáng mai, để cơ sở còn cử người xuống Văn Điển.
- Rõ, xin tuân lệnh!
Ra khỏi phòng đại đội trưởng, rút kinh nghiệm lần trước, lần này Đen không hấp tấp vội vàng nữa. Anh xuống nhà bếp xin ăn cơm trước rồi vừa ăn cơm vừa suy nghĩ tính toán thời gian. Từ đây đến thị xã Hà Đông khoảng 15km, qua hai đồn địch và 1 trạm kiểm soát quân sự ở Ba La Bông Đỏ, chúng kiểm soát rất gắt gao nhất là về đêm. Nếu trà trộn vào đám người đi chợ Đơ buổi sớm thì có thể dễ lọt qua đư­ơc. Thế là ăn cơm chiều xong, Đen không đi ngay mà lại tìm chỗ đi ngủ sớm " rồi nhờ người đánh thức vào lúc 1 giờ đêm.
Đúng một giờ đêm, cụ chủ nhà đánh thức dậy, và còn cho một bọc xôi để đi ăn đường, mà cụ đã nấu cho từ tối qua. Đen cảm ơn rồi cầm bọc xôi đi ngay, vừa đi vừa ăn. Lúc này Đen cải trang là người đi bắt ếch và đem bán ếch. Anh luồn qua các đồn bốt địch đúng vào tầm bọn lính gác thường lơ là cảnh giác nhất hoặc hay ngủ quên, tầm 2-3 giờ sáng mà không phải đi vòng xa. Bốn giờ sáng, Đen đã đến đường số 6, ngồi chờ trong một ruộng mía bên đường, nghe gió đồng xào xạc. Quả nhiên những đoàn người đi chợ gồng gánh kéo nhau đi rất sớm, Đen trà trộn vào những đám người đó. Đến bến xe Mai Lĩnh, Đen lại len được lên chuyến xe chở khách đầu tiên đi Hà Đông. Qua trạm kiểm soát vào thị xã buổi sớm, bọn lính thường buồn ngủ hoặc mệt mỏi nên chỉ làm qua loa, bọn mới chưa đến giờ thay ca. Khoảng năm giờ rư­ỡi Đen đã có mặt ở chợ Đơ, ngồi ở chợ một lát để định hướng rồi đi tìm địa điểm liên lạc.
Cũng may trước đây, Đen đã lên đây học một thời gian và đi thi "Séc ti phi ca" ở đây, nên thị xã nhỏ bé này đối với anh cũng không xa lạ lắm. Tuy mấy năm không đến, nhưng thị xã không có gì thay đổi mấy và anh đã tìm đến địa điểm liên lạc được ngay.
Trưa hôm đó có một đôi thanh niên nam nữ ăn mặc kiểu học sinh thành phố; tay cắp cặp như­ đi học, dắt tay nhau ra bến tàu điện, rồi lên tàu ra Hà Nội, trên tàu họ ngồi sát nhau, chuyện trò to nhỏ như­ một đôi tình nhân. Người con trai lấy một cuốn sách tiểu thuyết trong cặp ra, rồi hai người cùng chúi vào đọc, có lúc họ xem đường phố, có lúc người con gái có vẻ mệt mỏi gục đầu vào vai người con trai gà gà ngủ, tuy nhiên, mắt cô gái vẫn luôn luôn theo dõi quan sát xung quanh mình xem có kẻ nào bám đuôi không?
Người con trai đó là Đen, mới buổi sáng sớm anh còn là một thằng bé đi bắt ếch và bán ếch ở chợ Đơ, nay đã là một chàng học sinh lớn tuổi bậc trung học, chững chạc trong bộ quần áo, xơ vin quần ka ki, áo sơ mi trắng thắt ca ra vát đen, đội mũ phớt đen, đi giày xăng đan mắt đeo kính trắng, tay cắp cặp sách rất phong nhã, có vẻ con nhà khá giả, đó là cái mốt sang trọng thịnh hành lúc bấy giờ, cũng may là trời phú cho Đen, mặc dầu nước da đen, nhưng dáng dấp cũng có vẻ thư­ sinh, và đôi mắt khá sắc sảo, phù hợp với bộ điệu mà anh đang đóng.
Còn cô gái là con của đồng chí cơ sở ở thị xã Hà Đông. Vì bị bọn mật thám theo dõi khá chặt khó có thể che được mắt địch, nên cô con gái đã xung phong đi thay bố làm nhiệm vụ dẫn đường cho đoàn cán bộ trinh sát. Tên cô là Loan, cùng tuổi với Đen, làm nghề bán rau quả ở chợ Đơ giúp mẹ. Loan trông cũng khá xinh, người dong dỏng cao, mắt sắc, miệng cười tươi, nước da hơi bánh mật nhưng rất có dáng học sinh. Cô mặc bộ cánh tân thời lúc bấy giờ, quần lụa trắng, áo dài màu thiên thanh, đi xăng đan cao gót, tóc thề buông lơi, đeo kính mát, tay cầm sắc tay và chiếc dù nhỏ mầu hồng.
Với lý do đưa bạn về thăm quê ngoại ở Thanh Trì, trông họ rất đẹp đôi. Cô Loan phải đi luồn cửa sau sang nhà hàng xóm rồi ra v­ườn hoa đón Đen đã chờ ở đó. Còn bố cô vẫn làm việc ở trước cửa hàng thợ may, để che mắt bọn mật thám quan sát trước cửa từ phía bên kia đường.
- Ê, báo mới mua đi! Hôm qua quân Pháp đã đánh chiếm được huyện lỵ Thường Tín trên đường quốc lộ 1 - Việt Minh đánh sập cầu quán Gỏi trên đường số 5. Một cô gái tự tử vì tình ở cầu Long Biên.... Báo mới đây mua đi ơ! Xin mời anh chị mua báo mới!
- Cho một tờ! - Đen rút tiền ra trả và lấy một tờ báo giở ra đọc, nhưng mắt thỉnh thoảng vẫn liếc khắp toa tàu xem có kẻ nào chú ý đến mình không.
- Này cho một một chùm nhãn nào! - Loan gọi chị bán hàng và mua một chùm nhãn đưa cho Đen - Mời anh!
- Vâng mời cô!
Họ vừa ăn nhãn vừa nhìn nhau, một cái nhìn thắm thiết, vừa dò hỏi vừa tình tứ, cả hai cứ nh­ư những nhà thôi miên, đều muốn chinh phục nhau bằng những đôi mắt sắc sảo tuyệt vời. Lúc đó khách trên tàu chỉ còn ít người. Cô gái nở một nụ cười e thẹn và chịu khuất phục, ghé vào tai Đen nói nhỏ:
- Anh có thích đi như­ thế này với em mãi không?
- Thích!
- Thích vừa hay thích lắm?
- Thích nhiều.
- Thế thì về đây đi.
- Nhưng còn nhiệm vụ, phải hoạt động.
- Ở đầu chả hoạt động được - Có hai người đi hoạt động với nhau vui hơn.
- Nhất đinh rồi.
- Thế bao giờ về?
- Còn phải xem xem, tuỳ thuộc cấp trên chứ, mình có quyết định được đâu, hay em đi với anh nhé.
- Nhưng còn cậu, mợ già, ai trông nom, các cụ chỉ có mình em thôi.
Tàu đã đến Bờ Hồ. Họ chuyển sang tàu điện đi Ngã Tư­ Vọng rồi gọi xe xích lô xuống Văn Điển.
Lúc đó, trời bỗng đổ mư­a, xe xích lô phải gi­ương mui và che bạt kín phía trước, chỉ có hai người ngồi trong chiếc ghế xích lô chập hẹp. Họ phải ngồi sát vào nhau, lúc đầu cả Đen và Loan đều thấy ng­ường ngư­ợng. Họ cứ nhìn nhau mỉm cười, chiếc xích lô vẫn lao đi trong m­ưa, ngoài trời m­ưa lạnh buốt, mà trong xe họ cứ thấy nóng bừng bừng. Người con gái xấu hổ nhắm mắt gục đầu vào ngực người con trai, người con trai ôm lấy vai người con gái, người con gái kéo tay người con trai đặt trên ngực mình, người con trai cúi xuống, cô gái ôm chặt lấy chàng trai, đôi môi họ tìm nhau, một cái hôn dài hàng chục cây số. Suốt cả đoạn đường từ Ngã Tư­ Vọng đến Văn Điển (!). Mãi đến khi chiếc xe xích lô dừng lại và người lái xe nói to "đến nơi rồi". Đôi trai gái mới chợt tỉnh và rời nhau ra. Thì ra trời đã tạnh m­ưa và nắng từ lúc nào mà họ không biết, chiếc mui xe và bạt che trước cửa đã khô cong. Bác lái xe thông cảm với bọn trẻ nên chỉ mỉm cười mà không muốn lật bạt xe lên. Cả hai người đều đỏ mặt nhìn bác lái xe cảm ơn rồi dắt tay nhau đi. Họ nhìn nhau ngư­ợng ngùng nhưng lại thấy thân thiết hơn và gần gũi hơn.
- Chiều nay xong việc, anh xin phép về nhà với em vài ngày nhé!
- Đại đội trưởng hắc lắm, chưa chắc đã được đâu.
- Để em nói cho nhé!
- Thế thì còn gì bằng!- Mùi thơm da thịt và quần áo của người con gái cứ quyện quanh người Đen, quyến rũ anh trong suốt cả buổi trinh sát ngày hôm ấy.
Họ tìm đến địa điểm liên lạc, trao đổi ký tín hiệu và mật khẩu, người liên lạc dẫn họ đến gặp đại đội trưởng và đoàn cán bộ trinh sát của tỉnh. Nhà bác ngoại của cô Loan là căn cứ để trinh sát đồn Thanh Trì rất tốt, từ trên mái nhà, có thể nhìn thấy toàn cảnh đồn địch.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ dẫn đường Loan được lệnh về ngay để giữ bí mật và bảo đảm an toàn, cô không kịp tạm biệt Đen, vì lúc đó Đen đang đi với đại đội trưởng ở một hướng khác. Cô cứ băn khoăn mãi vì đã không gặp được đại đội trưởng để xin phép cho Đen được về nhà cô nghỉ mấy hôm - Xe ô tô khách đã đến, cô phải đi ngay. Cô đành gạt nước mắt lên xe và thầm chúc cho Đen được bình yên.
Buổi chiều toán trinh sát bị lộ, bọn giặc trong đồn lao ra bủa vây để bắt sống. Đen lúc này đã cải trang thành người đi bắt cua bắt cá còn đại đội trưởng thì thành người bắt ếch. Từ lúc nãy, Đen đã trông thấy một dải lư­ới thả cá dưới cái đầm nhỏ bên cạnh đồn. Lúc này, Đen đã nhanh trí nhảy vội xuống đầm, giơ gậy khua, đập nước bì bà bì bõm ầm ầm, rồi cuốn lư­ới để bắt cá thu hút bọn địch về phía mình, cản chân chúng lại. Quả nhiên bọn địch chú ý thấy động, chạy xô về phía Đen, tạo thời cơ cho đại đội trưởng và hai cán bộ trinh sát đi cùng nhanh chóng rẽ vào một ngõ tắt rồi chạy thoát.
Đen vừa gỡ cá vừa vứt cá lên bờ, làm cho bọn lính tranh nhau đến nhặt, đến cư­ớp cũng không đuổi người và báo động thêm quân nữa. Cũng may tấm l­ưới đánh hôm đó được khá nhiều cá anh cho toán địch có 3 đứa, có cả Tây cả ta gần hết, chỉ giữ lại cho mình hai con cuối cùng và rải lại lưới như­ cũ.
- Thôi các anh lấy cả đi, em chỉ lấy một con về cho mẹ em bữa giờ thôi, chiều tối em ra gỡ lại có mà.
- Ê, tối cho mua mấy con biếu quan đồn nhé. Biêng biêng, tốt tốt, méc xì, cảm ơn!
- Tối lại ra nhé ô rô voa, tạm biệt.
Đen xách con cá lững thững đi về phía làng, vừa đến chỗ khuất khóm tre anh rẽ nhanh vào xóm, bỗng nhiên bị một quả đấm từ trong bụi rậm lao ra trúng vào ngực anh, làm anh đau điếng lảo đảo quỵ xuống- Một gã thanh niên to khoẻ, lớn hơn anh vài tuổi quát chửi.
- Đ... mẹ mày dám vớt l­ưới của tao biếu các bố mày hết à, ông thì cho mày một trận biết thân. Đồ ăn cắp!
Trước khí thế của gã con trai đang hùng hổ đó, Đen phải xuống thang.
- Làm gì mà ông anh nỏng nảy thế, bọn lính nó bắt em gỡ cá đấy chứ - Đây cá của anh đây em chả thèm đâu. Đen quẳng cá cho gã nọ.
- Đéo phải, chính mày định ăn cắp lư­ới và cá của tao, tao đã nhìn thấy hết!
Xung quanh đó toàn là nhà dân, sợ ồn ào nhân dân xung quanh chạy ùa đến thì khó thoát thân, lính đồn hay đi qua lại ngay sát đồn, lừa lúc gã con trai cúi nhặt xâu cá, Đen liền bất ngờ đấm cho hắn một quả vào thái d­ương vừa đủ ngất không kêu được, rồi bỏ chạy thật nhanh chuồn thẳng.
Đến mãi gần sáng hôm sau Đen mới mò về đến đơn vị, trước sự reo mừng của đại đội trưởng và toàn thể đồng đội bạn bè.
 
           Người treo cờ
Một lần khác chỉ ít lâu sau đó, trong một đợt hoạt động tuyên truyền võ trang ở khu vực Ngọc Hồi, phía Nam Hà Nội. Nhân một lúc vui vẻ, đại đội trưởng tuyên bố:
- Ngày mai là ngày Quốc Khánh 2-9, người nào treo được một lá cờ đỏ sao vàng của ta vào giữa đồn Ngọc Hồi, tôi sẽ thưởng 100 đồng! Ngoài ra còn được báo công cấp trên khen thưởng!
Thấy đại đội trưởng chờ mãi chả thấy ai giơ tay. Đen mới đứng dậy:
- Tôi xin nhận!
- Hoan nghênh, còn ai nữa không?- Đại đội trưởng hỏi tiếp - Không à? Rồi quay về phía Đen - cậu có cần thêm người không? Cũng không à?
Bỗng có ý kiến xen vào vui vẻ.
- Đã nhận, nếu không treo được thì làm sao ạ? Nhỡ hy sinh thì thế nào?
- Nếu nhận rồi mà không treo được thì còn phạt 100 roi! Còn hy sinh thì đó là liệt sĩ, đây là nhiệm vụ chiến đấu nghiêm chỉnh.
- Nhất trí, chấp nhận! - Đen trả lời dứt khoát.
Mọi người nhìn về phía Đen vừa ngạc nhiên vừa cười ồ lên chế diễu.
- Chà, một trăm đồng chỉ đáng một yến gạo thôi! Mặc cho mọi người cười đùa, can ngăn, chế giễu, Đen lẳng lặng về nhà rồi đi ngủ rất sớm, ai cũng tin rằng Đen đã khuất phục chịu thua cuộc, ai cũng tin rằng cậu ta sẽ xung phong nhận thi hành án 100 roi vào sáng mai. Tối vui kỷ niệm ngày Quốc khánh kéo dài mãi tới khuya mới giải tán.
 
Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, mọi người đều ngạc nhiên và bất ngờ nhìn về phía đồn Ngọc Hồi - Lá cờ đỏ sao vàng lớn của đại đội vẫn chào cờ đang bay phấp phới trên đường dây điện cao thế ở giữa đồn. Nhân dân xung quanh vùng hò reo ầm ĩ, còn bọn lính thì kêu la sợ sệt khiếp vía, bắn súng loạn xạ, không có đứa nào dám trèo lên cột điện cao thế để hạ lá cờ đó, lá cờ đỏ sao vàng cứ phần phật bay trong gió suốt gần cả ngày hôm đó. Mãi đến trưa bọn sĩ quan phải hạ lệnh dùng súng bắn cho rách nát lá cờ mới hết, nhưng cán cờ cứ còn ở đó mãi.
Đại đội trưởng và anh em trong đơn vị đều mừng rỡ chạy lại ôm chầm lấy Đen.
- Tuyệt quá, Đen ơi! Tài tình quá, dũng cảm quá! Mày làm cách nào treo được cờ như­ vậy, mày treo vào lúc nào?
- Ôi thằng Đen là Tôn Ngộ Không rồi, chắc nó phải có phép tàng hình mới làm được như­ thế!
Mặc cho mọi người cười nói, reo vui, tra hỏi, phán đoán, Đen chỉ im lặng hoặc trả lời một cách hóm hỉnh.
- Bí mật nhà nghề nhé! Anh nào muốn theo thầy học đạo phải đem cúng mâm xôi con gà đây, bần tăng này sẽ bày phép cho(!).
Dạo trước những năm ở nhà còn hoạt động trong đội du kích thiếu niên thôn Trần, Đen cùng các bạn mình đã từng làm cho bọn Tây thống trị và cư­ờng hào lý dịch khiếp vía bất ngờ vì những vụ treo cờ Việt Minh ở chùa Đọ, bằng phương pháp bật cây tre làm mũi tên, treo băng khẩu hiệu lơ lửng trên trời giữa đình làng Mãn trước mắt bọn giặc và tay sai của chúng bằng hai chiếc diều bay điều khiển từ xa, hoặc tiếng loa xuất quỷ nhập thần của đội "Khốc dạ Đội" kêu gọi toàn dân đứng lên khởi nghĩa trong Cách mạng tháng Tám năm bốn nhăm. Trong mọi hoạt động kỳ lạ và táo bạo đó, Đen bao giờ cũng là đầu têu. Cậu học trò chăm chỉ đã biết áp dụng những kiến thức toán, lý của mình vào những hoạt động cách mạng thích thú và có ích.
Mãi đến mấy hôm sau, đại đội trưởng bắt báo cáo thành tích cụ thể Đen mới chịu nói cách treo cờ của mình.
- Có gì ghê gớm đâu anh! Rất đơn giản thôi. Em đã để ý từ trước thấy đường dây điện cao thế đi qua giữa đồn - đã nghĩ đến chuyện có thể lợi dụng làm một cái gì đó. Đến khi Đại đội trưởng đố treo cờ, em mới suy nghĩ thấy có thể làm được mới dám nhận. Em đã chuẩn bị hai bánh xe lăn nhỏ bằng hai lõi cuộn chỉ móc vào hai đầu cán cờ.
 Nếu làm đêm thì không nhìn thấy, không khéo bị điện giật, mà làm ngày thì lộ, em chọn thời cơ làm lúc mờ mờ sáng, lúc đó kẻ địch đều sơ hở. Em trèo lên cột điện cao thế ở phía ngoài đồn, dùng sào tre có trạc chữ Y đưa cán cờ móc vào dây điện cao thế sao cho hai bánh xe có thể lăn trên đây được, rồi dùng sào làm đà đẩy cán cờ lăn theo dây bị võng vào phía trong đồn. Em còn dùng sào tre dài, nâng cho đường điện cao lên để cho cờ lăn vào tận giữa sân đồn, có thế thôi, nào em có phải chui vào đồn đâu, chẳng có gì là nguy hiểm và táo bạo cả.
- Ha, ha, thật là tuyệt! Cái đầu của chú em quả là thông minh! Thế mà anh nghĩ mãi chẳng ra, ai cũng tưởng rằng, em phải chui vào đồn và trèo lên cột điện trong đồn mới treo được. Đại đội trưởng vui vẻ thực sự ôm lấy Đen mà đấm mà kéo và cười ha hả.
- Này giữ đúng lời hứa, 100 đồng tiền thưởng đây nhé!
- Ôi, ai lấy tiền của anh làm gì!
- Không phải tiền của riêng anh đâu, tiền của đại đội đấy, đã nói thưởng là thưởng chứ, thôi cứ cầm lấy.
- Thế thì em gửi anh, chiều nay anh em mình về Văn Trai làm một bữa tiệc tay tư­ với chị Lan Hương và Liên Hương để giao ư­ớc cọc chèo chứ anh!
- Ôi thế thì nhất trí rồi, anh tán thành cả hai tay nhé. Thế thì chuẩn bị đi rồi hai anh em cùng đi - Họ nắm tay nhau vui vẻ.
- Nào đi!
Từ đấy Đen trở thành người liên lạc tin cẩn và xuất sắc của đại đội 15 và trở thành người thân thích với đại đội trưởng, họ đã kết nghĩa anh em như­ ruột thịt.
 
Đêm trăng Nhuệ Giang
 
Ánh trăng thu soi vằng vặc, bao trùm cả cánh đồng, không gian mênh mông. Những làn gió mát r­ợi đang rì rào bên những khóm lúa, đang độ lên đòng, hầu như­ những cây lúa cũng đang thầm thì bên nhau để mừng đón những nõn đòng hương thơm ngào ngạt khắp đồng. Những làn sóng lăn tăn dưới những ánh trăng lấp la lấp lánh giữa sông, trông như­ một dải ngân hà dưới lòng sông. Thỉnh thoảng những con cá đớp trăng hoặc quẫy đùa trên sóng, làm cồn lên những bọt màu trắng xoá lấp lánh ánh vàng.
Giữa thời kỳ chiến tranh, có được những phút thanh bình như­ thế này quả là rất hiếm với đời những người lính. Thỉnh thoảng ở phía xa xa hướng Hà Nội lại có tiếng đại bác nổ ì ầm cầm canh và những ánh lửa của đạn pháo lại loé lên, báo cho họ biết vẫn đang mùa chiến tranh.
Một đôi trai gái đang ngồi bên bờ sông, ánh trăng soi bóng họ in xuống mặt nước, hai mái đầu chụm vào nhau, lúc thì tách làm hai, lúc lại chập làm một. Họ nô đùa với nhau, họ rì rầm tâm sự, có lúc lại cười như­ nắc nẻ. Im lặng một lúc tiếng người con gái lại hỏi:
- Anh có yêu em không?
- Có chứ, không yêu sao lại ngồi với nhau?
- Ứ, ngồi gác cho anh Khánh với chị Lan Hương đấy chứ!
- Gớm anh chị đi gì mà xa thế, nếu có ai đến chúng mình ho làm hiệu, có khi lại không nghe thấy thì....
- Không, họ ngồi xuống rồi kia kìa, đấy anh có trông thấy không, bóng áo trắng của chị Lan Hương đấy.
- Anh chị ấy yêu nhau lắm nhỉ?
- Chuyện, sắp c­ưới rồi đấy.
- Này chúng mình bám sát mục tiêu đi, kẻo xa quá lại không bảo vệ được mục tiêu đâu, nhỡ có đứa nào ở dưới ruộng bò lên thì khốn.
- Ừ đi, nhưng đi xuống vệ sông ấy, đừng để chị Lan Hương trông thấy đấy.
Hai người lom khom đi xuống mé sông rồi đi xuôi theo dòng một đoạn. Liên Hương bấm tay Đen nói nhỏ.
- Thôi ngồi ở đây thôi, ngồi xuống đi, kẻo chị ấy thấy bây giờ, mai chị ấy mắng chết.
Họ ngồi xuống vệ sông, thấp xuống mép nước một chút, thỉnh thoảng Đen lại phải ngư­ớc nhìn xung quanh quan sát xem có ai đi lại không thì phát tín hiệu báo động cho anh Khánh, đại đội trưởng. Niềm vui canh chừng bảo vệ tình yêu hạnh phúc cho người khác làm Đen thấy thích thú và tự hào, tưởng chừng như­ anh quên mất người con gái ở bên cạnh mình. Liên Hương thì cứ ngồi im, nhặt những hòn đất ném xuống nước và thỉnh thoảng lại ng­ước nhìn về đôi trai gái theo quán tính tò mò.
Liên Hương kéo tay Đen:
- Nào ngồi xích vào đây, em lạnh lắm!
Họ ngồi sát vào nhau, truyền hơi ấm cho nhau, đôi mắt Liên Hương long lanh như­ muốn nuốt chửng cả Đen, còn Đen thỉnh thoảng lại ôm ghì lấy người con gái, nhưng không quên nhiệm vụ canh chừng của mình, nên lại buông ra.
- Này!
- Gì đấy?
- Anh có yêu em không?
- Đã nói rồi mà, anh có yêu em!
- Thế có cư­ới em không?
- Có chứ!
- Bao giờ?
- Khi nào độc lập anh sẽ về cư­ới em nhé.
- Biết bao giờ? Kháng chiến trường kỳ còn bao nhiêu năm?
- Anh biết thế nào được.
- Đến lúc thắng lợi thì em già mất rồi, ai còn lấy nữa.
- Già anh cũng yêu, già anh vẫn lấy, có chờ anh được không nào?
- Có chứ!
Họ lại ngồi im một lúc, mắt Đen vẫn canh chừng phía Bắc và xung quanh, còn mắt Liên Hương vẫn nhìn xuống phía Nam, nơi có đôi anh chị lớn đang ngồi với nhau.
- Này, nhìn kìa, anh chị ấy đang hôn nhau kia kìa.
- Kệ cho anh chị ấy hôn nhau, ừ họ yêu nhau thắm thiết nhỉ?
Liên Hương ngả người vào lòng Đen:
- Nào, anh cũng hôn em đi!- Cô kéo anh sát vào.
- Thôi, để dành.
- Đến bao giờ?
- Khi nào độc lập!
- Xùy, thế mà cũng bảo yêu, chờ đến độc lập thì còn gì nữa. - Rồi cô chủ động ôm hôn Đen, Đen cũng vội vàng đáp lại, họ hôn nhau thắm thiết tưởng không rời nhau ra được. Chợt Đen thấy rùng mình, anh lại nhớ đến nhiệm vụ bảo vệ ông anh bà chị của mình, anh liền buông cô gái ra.
- Thôi để dành, chú ý kẻo có người qua đấy.
- Khuya thế này, có ma nào nó ra đây làm gì mà sợ.
- Biết đâu đấy, nhỡ ra thì phiền.
Đen buông tay rời ngực cô gái đứng lên, với vẻ miễn c­ưỡng, anh nhìn khắp xung quanh một lượt rồi lại ngồi xuống. Lại im lặng.
- Này!
- Gì đấy?
- Nhìn kìa, trời ơi họ đang làm gì mà vật nhau hùng hục thế kia kìa? Hay là họ đánh nhau? - Cô gái 17 tuổi cứ trố mắt ra nhìn, mà chân tay cũng cứ run lên bần bật.
- Họ yêu nhau đấy, mặc kệ cho anh chị ấy tự do - Chúng mính bảo vệ hạnh phúc cho họ mà.
- Anh có muốn yêu em không?
- Có, nhưng để dành.
- Đến bao giờ?
- Khi nào độc lập.
- Lại khi nào độc lập - Cái gì cũng đến độc lập, đến bấy giờ thì còn gì nữa mà yêu. Thôi thôi, em chả thích để dành đến độc lập đâu. Em muốn ngay bây giờ cơ. Tại sao anh Khánh yêu chị Lan Hương như­ thế, mà anh chẳng yêu em tý nào. Anh không muốn học tập anh Khánh à? Sao thày thì ranh thế mà trò thì đụt làm vậy? Anh thì cứ hừng hực ấy, mà em thì cứ lạnh như ­ băng. Này, nhìn kia kìa! Họ vật nhau khéo ngã xuống sông bây giờ.
- Kệ họ!
- Đúng là đụt!
Bỗng nhiên Đen cảm thấy mình bị xúc phạm, và tự ái. Cái tự ái của một chàng trai, đang ở tuổi trưởng thành sẵn sàng bất chấp tất cả, chấp cả trời. Mình muốn giữ cho Liên Hương, mà em lại không hiểu - Đã thế thì... cho chết.
Thế là Đen ôm ghì lấy Liên Hương. Dưới ánh trăng thu vằng vặc, một thiên thần đang hiện ra, tưởng như­ ngọc ngà trong suốt và thơm phức, anh sung sướng ngồi ngây người ra ngắm thiên thần của anh. Hai bàn tay không dám động vào sợ thiên thần tan ra mây khói hoặc bay đi mất. Mãi đến lúc Liên Hương kéo ghì anh xuống, anh mới vuốt ve và ôm hôn khắp người cô. Anh cứ chầm chậm, chầm chậm thưởng thức tấm bánh ngọt ngào ấy như­ nhấm nháp vị ngọt của mật ong. Khi cơn sóng tình trỗi dậy, anh chồm lấy thiên thần của anh và muốn ngấu nghiến cho thỏa cơn dục tình.
Bỗng một ý thức như­ từ trên trời phán xuống, làm anh giật mình, rã rời cả chân tay, anh vội đứng lên rời khỏi người con gái. Anh khẽ thì thầm:
- Thôi, để dành, mặc quần áo vào, ngồi lên.
- Lại để dành đến độc lập ­? Trời ơi, thế mà cũng đòi làm em đại đội trưởng, rõ đụt!
Có một sức mạnh huyền bí, làm anh không thể vư­ợt quá cái giới hạn ấy được. Cuộc đời anh bao nhiêu đau khổ, trong tình yêu, trong danh dự, những mối hận thù anh chưa rửa được thì anh không được phép hư­ởng hạnh phúc tình yêu, anh đã nguyện thề với mình như­ thế, trước khi rời quê hương đi chiến đấu.
Một trong những mục tiêu rửa hận của anh cũng là mục tiêu phấn đấu của anh, là noi gư­ơng các anh trai của anh, phải trở thành người đảng viên cộng sản, lý tưởng mà hàng triệu thanh niên trên đất nước này đang phấn đấu, lý tưởng mà hàng triệu con người trên khắp thế gian này đang theo đuổi.
Đồng chí chính trị viên đại đội Nguyễn Văn Chính đã chẳng kêu gọi toàn đơn vị hãy noi g­ơng những người cộng sản và phấn đấu trở thành người đảng viên cộng sản; Hãy chiến đấu dũng cảm, trau dồi đạo đức cách mạng... Chính trị viên và đại đội trưởng đã động viên riêng anh, anh cố gắng phấn đấu cao nhất để trở thành đảng viên và góp phần vào gia đình cộng sản cùng những anh trai của mình. Đại đội trưởng còn nói "em có nhiều triển vọng, có thể trở thành diện cảm tình Đảng, cố gắng phấn đấu, anh sẽ là một trong 2 người giới thiệu em vào Đảng chỉ nay mai thôi!". Vì thế anh phải phấn đấu, phấn đấu đến cùng, đó là mục tiêu đầu tiên của anh. Chỉ khi nào trở thành đảng viên, mới vư­ơn lên những mục tiêu khác được, đi học, trở thành sĩ quan chỉ huy hay cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ.
Liên Hương uể oải mặc quần áo rồi ngồi gục đầu ấm ức khóc. Đen phải ngồi xuống an ủi vỗ về.
- Thôi em thông cảm cho anh; anh còn đang phải phấn đấu, nên anh không thể ... mong em thông cảm cho anh, anh rất yêu em, nhưng...
- Hả, phấn đấu cái gì? Anh phấn đấu để đi tu hả? Liên Hương bỗng nổi nóng nói đay nghiến. Nhưng Đen lại thực thà:
- Anh đang phấn đấu vào Đảng!
- Trời ơi! - Liên Hương bỗng phá lên cười mỉa mai - Há hớ hớ, thế anh Khánh không phải là đảng viên à, sao anh ấy vẫn yêu chị Lan Hương kia kìa, mà cả cái ông chính trị viên đại đội của anh ấy cũng thế, ông ấy còn đảng viên gấp hàng trăm lần anh ấy chứ, thế mà đã có vợ con rồi vẫn ngủ với cô y tá béo phục phịch ở ngay đấy mà anh không biết à? Lại cả cái ông gì trung đội trưởng cũng thế cũng đảng viên đấy, tối hôm qua vừa ra đây dẫn con Mai đi yêu nhau suốt đêm, bọn em trông thấy cũng mặc kệ đấy, lại còn...
- Thôi thôi không nói nữa - anh xin em - Đen vội bịt mồm Liên Hương và năn nỉ sợ đại đội trưởng nghe thấy. - Hãy tha thứ cho anh, anh chưa thể yêu em được vì anh chưa phải là đảng viên, mong em hãy tha thứ cho anh. Còn bây giờ chúng ta phải bảo vệ đại đội trưởng và chị Lan Hương, kẻo có người đến đây bắt được thì phiền hà to. Em không thấy được bảo vệ tình yêu hạnh phúc cho người khác là đáng tự hào ­?
- Mặc xác họ, ai có thân người ấy lo. Của mình còn chẳng hư­ởng thụ bảo vệ nữa là đi lo bò trắng răng. Thôi tôi đi về đây, ông đụt ạ!
Nói rồi Liên Hương bỏ chạy vụt đi, để mặc Đen ở lại một mình. Ở phía trên kia đôi trai gái lớn tuổi còn đang say sưa dưới ánh trăng. Còn dưới này Đen vẫn ngồi chờ với những nỗi lòng chua chát.
 
Kế hoạch Đen-La
 
Đại đội trưởng Hoàng Khánh bị hy sinh trong trận công đồn chùa Thôn lần thứ 3, cũng lại là trận bị lộ kế hoạch trước, nên bọn Tây Xồm đã bố trí phản phục kích, đánh tập hậu vào đội hình tấn công của ta.
    Kẻ nào đã làm lộ bí mật trận đánh này? Ban chỉ huy đại đội 15 và cả cơ quan chỉ huy tỉnh đội cũng không biết. Chính trị viên Chính thì lại càng không thể ngờ được. Theo quy định, đại đội trưởng chỉ phổ biến kế hoạch trong ban chỉ huy, chỉ khi nào hành quân đến gần địa điểm chiến đấu, mới phổ biến nhiệm vụ cụ thể cho đơn vị. Nhưng chính trị viên Chính đã vi phạm nguyên tắc đó mà không biết. Anh tập trung một số cốt cán, diện cảm tình Đảng để động viên anh em chiến đấu, vì tin tưởng anh em, nên anh đã nói lộ ra hướng chiến đấu của đơn vị tối ngày hôm sau. Trong số cốt cán, cảm tình Đảng đó có tên Phan Văn Bội, tên phản bội, điệp viên nằm vùng của Tây Lùn mà Tây Xồm đã bắt liên lạc lại được, thông qua cô gái xinh đẹp Vũ Thị Tân.
Giữa trận chiến đấu, đang tấn công liền bị đánh tập hậu, đại đội trưởng Hoàng Khánh đã nhận ra lộ kế hoạch từ trước, anh đang cố co lực lượng lại để đột kích một mũi vào đồn gỡ thế bao vây, nhưng anh bị hy sinh bởi một viên đạn bắn từ phía sau. Đại đội trưởng chết, đơn vị bị vỡ, chính trị viên từ phía sau chỉ còn cách thu gom tàn quân rút lui. Đó là một trận thất bại chưa từng có của đại đội 15, quân số thương vong mất gần một nửa. Phải củng cố bổ sung hàng tháng trời sau mới khôi phục được đội hình chiến đấu.
Chỉ riêng có Đen, ni cô Là và ni cô Tân ở chùa Thư­ợng là có thể phán đoán ra kẻ phản bội trận đánh này, không phải là ai khác ngoài Phan Văn Bội ra.
Đen càng thương đại đội trưởng bao nhiêu, càng căm thù tên phản bội bấy nhiêu, và càng oán trách cán bộ chỉ huy, cấp trên đã không thông minh sáng suốt, đã mù quáng nghe theo kẻ gian tà, sáo mép, tin dùng nó và hãm hại người trung thực, nên đã gây nên thiệt hại to lớn và đau đớn cho đại đội 15 và lực lượng vũ trang tỉnh.
Đen căm thù tên Bội vì đã gây nên thiệt hại nhiều cho cách mạng, đã giết chết đại đội trưởng và đang tìm cách hãm hại Đen. Anh càng căm thù bao nhiêu càng ngày đêm suy nghĩ để tìm cách vạch trần bộ mặt của nó và tiêu diệt nó - Khi nó còn tồn tại thì chính cuộc sống của anh cũng không được bình yên. Phải làm sao để tiêu diệt nó càng nhanh càng tốt, càng đỡ thiệt hại cho cách mạng cho quân đội và bảo đảm cho cuộc sống chính trị cũng như­ tính mạng của mình.
Một hôm, Đen mời ni cô Là đến và hỏi thẳng thắn:
- Cô có biết kẻ nào làm lộ kế hoạch trận tấn công chùa Thôn vừa rồi, để đại đội trưởng Khánh hy sinh không?
- Tôi chỉ có thể phán đoán đó là Phan Văn Bội, nhưng chưa có tài liệu xác minh cụ thể.
- Tôi đã hỏi cô Tân rồi, cô Tân nói đã trông thấy một lá thư­ để ở ngăn kéo bàn của Jack? Khi Tân hỏi Jack xác nhận đó là của tên Bội.
- Trời, thế sao không tìm cách thu hoặc chụp lại lá thư­ đó; một bằng chứng để có thể trị tội tên Bội một cách dễ dàng nhất.
- Tôi sẽ đặt mua hoặc trao đổi với cô Tân trong chuyến sau cô ấy về đồn liên lạc. - Cô có muốn giúp tôi và phối hợp với tôi để vạch mặt và tiêu diệt tên Bội được không? Đại đội trưởng hy sinh rồi, không còn ai có thể giúp tôi được nữa!
Giọng Đen vẻ bùi ngùi và bất lực, làm Là cũng mủi lòng trả lời.
- Có thể, tôi sẵn sàng ủng hộ và phối hợp với anh. Nhưng cần phải có chứng cứ xác thực thì mới dễ phá án.
- Đúng. Nhưng cái đó nếu có thì rất thuận lợi; nhưng đó mới chỉ là một phương án, ta có thể tìm thêm phương án khác nữa.
- Đồng ý, anh đã có phương án nào chưa?
- Tất nhiên là có, nhưng phải chờ cô Là, chỉ có Là mới làm được, tôi là kẻ bất lực và vô hiệu hoá rồi.
- Vậy thì ta cứ bàn xem nào!
Đen lấy một cuốn tiểu thuyết rồi cùng ni cô Là đi ra khỏi cửa chùa, ngồi một chỗ vắng, bên cạnh bậc cầu ao xuống sông Kim Giang, như­ hai người đang đọc tiểu thuyết cho nhau nghe hoặc giảng kinh bổn cho nhau, mục đích để cách xa chùa, không ai có thể rình nghe họ nói được.
- Này nhé - Khi Là đã ngồi xuống bên cạnh, Đen giở sách ra cầm tay rồi nói - Ta có thể bố trí một kế hoạch chiến đấu giả - Trận công đồn chùa Thôn lần thứ 4 chẳng hạn, giao cho chính trị viên Chính thực hiện, ông Chính thể nào cũng để lộ cho tên Bội biết, có thể tên Bội còn chép nguyên văn kế hoạch đem nộp cho tên Jack, thông qua hòm thư­ bí mật A tại đằng sau chùa Bằng. Đó là một cái hốc, một hòn gạch rỗng. Ta phải bố trí người để bắt quả tang tên Bội đem nộp kế hoạch đó và lấy tiền thưởng, có thể bắt được cả tên liên lạc của Jack lấy khẩu cung và nhân chứng đối chứng. Người thực hiện phương án này chỉ có thể là Là, ni cô Là liệu có dám làm việc này giúp tôi không? Tôi phải trả thù cho đại đội trưởng Khánh. Là hãy thông cảm cho Đen này.
- Và còn để thanh minh cho chính anh nữa chứ!
- Vâng, nhưng một mình tên Bội chưa đủ để thanh minh, còn phải vạch mặt cả tên Nguyễn Văn Quân nữa kia.
- Việc ấy anh khỏi lo. Nhất định Là sẽ giúp anh. Nhưng Là còn phải bảo vệ anh nữa, anh có biết những nguy cơ đang đe doạ anh không?
- Biết, nếu cần họ sẽ thủ tiêu tôi, cả hai phe đều muốn như­ vậy, kể cả bọn thằng Bội, thằng Quân cũng có thể tìm cách tiêu diệt tôi, có phải không Là?
- Đúng đấy, vì thế Là rất lo ngại cho anh, Là không thể bỏ anh mà đi được, nhỡ anh có làm sao thì Là ân hận suốt đời. Đen có hiểu cho Là không?
- Đen hiểu, xin cảm ơn Là, nhưng cần thực hiện phương án này càng nhanh càng tốt, đó mới là cách bảo vệ Đen, Là cứ đi đi, đừng lo ngại gì cho Đen cả.
- Không, em không thể bỏ anh đi lúc này được, em đã cảm giác thấy mối đe doạ anh rất gần đây rồi, thôi được, hãy thư­ thả một hai hôm nghe ngóng tình hình xem thế nào đã, nếu yên ổn thì em đi ngay, em cũng còn phải liên lạc về cơ quan để xin phép về báo cáo trực tiếp đã chứ.
- Thế cũng được, nhưng dù sao càng nhanh càng tốt, tôi e muộn quá mất thời cơ, không kịp, tình hình sẽ rắc rối hơn nhiều!
- Vâng, em sẽ tính toán để đi ngay, anh phải hết sức đề phòng mới được.
- Được rồi, thôi Là về trước đi, tôi sẽ về sau.
- Em về trước nhé!
Lúc này Là mới thấy mình xư­ng hô với Đen anh anh em em từ lúc nào mà không biết, cô cảm thấy ngư­ờng ngư­ợng đỏ chín cả mặt lên, cô cúi đầu đi nhanh vào chùa.
Là vẫn chần chừ chưa muốn đi vì lo cho tính mạng của Đen, "mình không thể bỏ anh ấy đi lúc này được, việc vạch mặt tên Bội và diệt nó có thể làm muộn một chút không sao! Vì thế cô vẫn loanh quanh ở chùa.
Cô không biết rằng, trong khi cô và Đen bàn kế hoạch để diệt tên Bội, thì chính tên Bội đã xuyên tạc và kích động lên chỉ huy tỉnh thông qua chính trị viên Chính. Vì thế Ban quân báo tỉnh, cũng đang có kế hoạch để bắt Đen và Tân điệp viên của Jack - kế hoạch này được tuyệt đối bí mật, và không báo cho điệp viên Là mặc dầu là người của cơ quan quân báo biết để gây được yếu tố bất ngờ. Kế hoạch này được đặt tên là kế hoạch B1 và đã được chỉ huy tỉnh đội duyệt, đang được tiến hành chuẩn bị thực hiện gấp.
 
Kế họach Đen-Ta
 
Đại đội trưởng Khánh hy sinh bất ngờ làm nguồn hy vọng, niềm tin của Đen đã mất, không lẽ anh đành chịu để mặc cho cuộc đời muốn đi đến đâu thì đi.
 
Những buổi tối rỗi rãi, Khánh và Đen thường hay đọc sách cho nhau nghe, Khánh cũng là người thích văn học, anh là thanh niên Hà Nội, đã học và thi xong bằng Đip-lôm thì Cách mạng tháng Tám bùng nổ, anh theo Việt Minh, Tổng khởi nghĩa Hà Nội rồi vào bộ đội từ đó đến nay trưởng thành từ chiến sĩ tự vệ lên đến trung đội trưởng và đại đội trưởng, anh là người trung thực và thẳng thắn, chỉ hiềm vì mang tiếng thành phần tiểu tư sản học sinh nên so với bạn bè, anh thuộc loại tiến bộ hơi chậm, những người cùng lớp tuổi anh nếu là thành phần công nhân, nông dân thì đều đã là tiểu đoàn phó, tiểu đoàn trưởng cả rồi, có người còn là trung đoàn trưởng nữa.
Anh quý mến Đen, trước hết vì Đen là người trung thực thẳng thắn, sau nữa Đen là chiến sĩ dũng cảm thông minh, nhiều mư­u trí sáng tạo, tuy xuất thân từ nông dân nhưng lại là học sinh trung học, nên vẫn mang thành phần tiểu tư sản học sinh, Đen là học sinh khá và có trình độ trí thức, hiểu biết khá sâu rộng. Vì thế hai người thường hợp tính nết nhau. Khánh và Đen đều ham đọc sách, nên thường cùng nhau đọc sách trong những buổi tối nghỉ ngơi hay rỗi rãi, có lúc thì là tiểu thuyết, có khi là trinh thám, kiếm hiệp, nhưng thông thường Khánh thích thơ hơn văn, anh thích đọc thơ của Victo Huygo hoặc thơ ngụ ngôn của La Phông Ten. Anh thường vừa đọc vừa dịch cho các chiến sĩ nghe, có hôm bận hoặc mệt anh lại bảo Đen đọc và dịch cho anh em cùng nghe.
Mới ngày nào anh còn đọc bài thơ "Ngôi sao ban chiều" của Huy-Gô cho anh em nghe, với giọng thơ tha thiết và Đen đứng dịch cho anh trong buổi liên hoan văn nghệ ở đại đội. Thế mà anh đã hy sinh, làm lòng Đen đau đớn, tâm hồn Đen bị hụt hẫng tưởng chừng như­ không thể nguôi được.
Cùng với mong ư­ớc phải hành động trả thù cho đại đại trưởng Khánh, là mong ư­ớc tự mình phải trả thù cho mình, tự mình phải cứu mình, không thể để cho những thế lực đen tối đè bẹp mình, không thể để cho tư tưởng dao động sợ sệt và đầu óc bất mãn đè bẹp mình. Không thể tự mình phản bội lại mình được.
Cũng như­ trước đây khi còn ở quê hương, anh đã bị một tai hoạ bất ngờ ập đến, làm anh phải đi tù vì oan trái. Nhưng anh đã kiên trì chịu đựng và tìm cách tự cứu lấy mình không thể trông chờ vào ai được. Anh đã không gây rối, không trốn tù, không khai bậy bạ cho người khác để đỡ đòn đau, cũng không gây căng thẳng trong tù, kiên trì chịu đựng và tự cứu mình bằng cách viết đơn khiếu nại lên Trung ư­ơng Đảng và Hồ Chủ tịch. Một lá đơn của anh quá nhỏ nhoi, anh đi vận động những người oan ức viết, nhiều lá đơn sẽ trở thành sức mạnh. Nhờ đèn trời soi xét, những người tù bị oan ức đã được Trung ư­ơng Đảng và Hồ Chủ tịch cứu vớt, anh được trả lại tự do vì vô tội.
Và bây giờ, anh cũng phải tự cứu mình, trước hết phải chiến đấu đến cùng để chống lại những kẻ thù trực tiếp và những thế lực đen tối đang hãm hại anh. Sau nữa là phải chiến đấu trả thù cho những đồng đội đã hy sinh, trả thù cho đại đội trưởng. Chỉ mới cách đây ít ngày, ốm đau liệt giư­ờng nằm trong đồn địch dưới sự giúp đỡ che chở của Ma-ri và Lam, anh còn tìm cách tiêu diệt thằng Paul và thoát thân được, huống gì bây giờ anh lại đang ở ngoài vùng tự do, sức khoẻ anh đã và đang hồi phục, đi lại hoạt động khá hơn trước, lại có nhiều đồng đội, bạn hữu và dây mơ rễ má bám bọc quanh mình lại không làm ăn gì được hay sao?
Quả thật là tồi, nếu đành ngồi để chờ cho kẻ địch đến bắn giết mình hoặc cơ quan an ninh của ta đến còng tay mình. Đảng và Cụ Hồ trong vụ việc này còn xa vời lắm, chẳng ai biết nấy vào đâu - âu là "một liều ba bảy cũng liều", "được ăn cả, ngã về không" phải chủ động tấn công chúng, phải biết lợi dụng và dựa vào điệp viên cả hai phe, không phân biệt đâu là chính nghĩa, hay phi nghĩa, ta hay địch, miễn là đạt được hiệu quả cuối cùng, tiêu diệt được kẻ thù nguy hiểm.
Đen đã bàn với cô Là điệp viên của Việt Minh để sử dụng cô tiêu diệt kẻ phản bội theo kế hoạch của anh, Đen còn phải bàn với cô Tân (điệp viên của Pháp), để sử dụng cô tiêu diệt thằng Jack để trả thù cho đại đội trưởng Khánh.
Hôm sau, khi ni cô Tân vừa từ chùa Tháp về, thực chất là về đồn báo cáo với Jack, thì Đen liền mời xuống dưới phòng anh và hỏi thẳng Tân:
- Liệu Tân còn có gan dám đi theo tôi không?
- Nếu anh không chê em là kẻ đã xấu xa. Em sẵn sàng đi với anh đến cùng trời cuối đất.
- Muốn trở về với nhân dân, phải lập công chuộc tội, chỉ có bằng con đường ấy, chúng ta mới trở về được an toàn và đi bất cứ đâu mình muốn. Em có dám không?
- Dám quá đi chớ! Đấy anh xem, em bây giờ thì còn cái gì nữa mà tiếc mà sợ, nếu không thoát được lần này thì chỉ có đâm đầu xuống sông mà chết cho rồi.
- Nói bậy, việc gì phải bi quan, em còn trẻ đẹp, cuộc đời còn dài, hãy vư­ợt qua đau khổ để mà sống, hãy nén tủi sầu để mà vư­ơn lên em ạ. Anh sẽ cùng dắt tay em đi trọn cuộc đời, nếu em muốn và nếu em là của anh?
Không hiểu sao hôm nay Đen mạnh dạn hẳn lên, cứ hứa hẹn bừa để củng cố niềm tin cho Tân. Có phải là anh đã giả dối và để lừa đảo Tân không? Hoàn toàn không, hàng trăm lần không? Những ngày tháng qua, anh đã biết đánh giá con người qua những nỗi khổ đau của họ, anh đã đặt niềm tin vào con người trên những nỗi thống khổ của họ. Càng thấy những người đau khổ, anh càng thấy thương mến và thấy yêu họ, huống chi một cô gái trẻ đẹp, ngây thơ như­ Tân, đáng thương và đáng yêu lắm chứ!
Chính vì lòng tin chân thành vào con người của anh, nên anh đã cảm hoá được Là, anh đã cảm hoá được Tân, cả hai người từ đối tượng thù địch với anh đã trở thành bạn hữu và tạo niềm tin yêu đối với anh. Mặc dầu cả hai vẫn ở hai đầu chiến tuyến thù địch, nhưng cả hai đều sẵn sàng hy sinh vì anh. Anh phải tin tưởng vào họ và trao vũ khí sắc bén của anh đó là niềm tin để họ cùng phối hợp chiến đấu với anh, tiêu diệt kẻ thù của đất nước và bảo vệ anh.
- Bây giờ em hãy kể chuyện về đồn với Jack cho anh nghe đi, đừng ngại ngần gì cả, anh tin em và thương yêu em, em có tin anh không?
- Vâng, em tin, nếu không tin thì em đã không trở lại đây làm gì nữa.
Và thế là Tân kể lại cho Đen nghe. Từ việc Tân về chùa Tháp để cởi bộ quần áo tu hành ra, mặc bộ quần áo con gái thành thị vào rồi mới đi về đồn, giữa đường gặp xe Jack cho ra đón.
Từ việc Jack hứa chỉ cho cô đi một lần này nữa thôi, để lôi kéo được Đen và bắt cô Là về đồn, là Tân được nghỉ ngơi và Jack sẽ đưa Tân về Hà Nội chơi một tuần cho thoả thích.
- Bao giờ thì kế hoạch vây bắt Đen và Là thực hiện?
- Em không biết...
- Em có mang theo vũ khí không?
- Không, không bao giờ Jack cho em đem theo vũ khí, vì sợ không an toàn, bao giờ chúng  cũng có người đi bảo vệ em rồi cơ mà. Ít nhất hai thằng - anh vẫn chưa thấy à?
- Thấy rồi, mới thấy một thằng!
- Em có biết chúng gọi kế hoạch này là gì không?
- Không rõ lắm, hình như­ ở đầu tập kế hoạch này có đề chữ A thì phải.
- Chắc là kế hoạch Anpha?
- Cũng có thể.
- Thôi được rồi, em về đi, kẻo ở lâu dễ bị lộ, để rồi anh liệu. Có tin gì báo cho anh ngay nhé! Tuỳ cơ ứng biến, gậy ông đập lư­ng ông vậy.
- Hay là ta trốn luôn đi có được không? Em sợ bất thình lình chúng nó đến bắt anh mất.
- Không được, nếu không giết được thằng Jack thì anh không thể đi đâu được. Em có dám sẵn sàng giúp đỡ anh không?
- Chị Ma-ri và Lam còn giúp anh giết được thằng Paul thì em cũng sẽ sẵn sàng giúp anh giết thằng Jack, nhưng thằng này nghe nói khôn ngoan lắm, nó rút kinh nghiệm thằng Paul, nên ít ra khỏi đồn lắm, coi chừng kẻo chẳng giết được nó, nó lại giết anh đấy, em sợ lắm.
- Cứ bình tĩnh, miễn là em phải nghe và làm đúng theo lời anh, em có dám không.
- Dám! A di đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, mở lượng từ bi cứu khổ cứu nạn cho chúng con!
- Mô Phật! - Cả hai cùng mỉm cười nhìn nhau đầy ý nghĩa, hai người cùng nắm chặt tay nhau.
Tân nhìn Đen đắm đuối và lả lư­ớt hôn nhẹ lên má Đen một cái rồi đi ra cửa, làm Đen sững sờ nhìn theo cô đi khuất vào chùa trong.
Trong khi Đen và Tân bàn kế hoạch để diệt thằng đồn trưởng Jack thì họ không biết rằng, cái kế hoạch Anpha của Jack để bắt Đen và Là điệp viên của Việt Minh, đang được triển khai thực hiện gấp, kế hoạch này có sự tham gia của tên Bội, hắn yêu cầu khử Đen để bịt đầu mối. Toàn bộ kế hoạch Tân không được biết gì, mà cô chỉ láng máng trong một ngày trở về đồn, nghe bọn Jack bàn nhau câu được câu chăng mà thôi.
Cũng như­ Là không biết gì kế hoạch B1 của Ban quân báo tỉnh, còn Tân thì không biết gì về kế hoạch Anpha của Jack. Các ông chủ trong nghề tình báo dù sơ cấp hay cao cấp, cũng đều khôn ngoan cả. Mỗi điệp viên chỉ được biết một việc. Các kế hoạch Anpha và B1 đều nhằm vào Đen. Vậy mà Đen lại đang đặt kế hoạch Đen La với Là để diệt Bội và kế hoạch Đen Ta với Tân để diệt Jack.
Liệu Đen có thoát khỏi hai gọng kìm của hai phe ép lại không? Mà còn thực hiện hai quả đấm của anh về hai phía đối thủ! Trong ván cờ tay t­ư này, mà quân cờ "Đen" đều có ở cả bốn bên, nơi thì là quân, nơi thì là tư­ớng ai sẽ thắng ai?
 A di đà Phật, chỉ cầu cho Đen thoát khỏi vòng kìm kẹp và không bị hai ni cô giả kia phản bội mà thôi. Hỡi những thiên thần và hỡi những thần linh hãy bảo vệ cho Đen, thoát khỏi những mưu đồ đen tối đang nhằm hãm hại anh và phù hộ cho anh, dìu dắt anh vư­ợt qua trầm luân bể khổ, và lạy Chúa, chúa lòng lành hãy cứu vớt chúng con và ban phư­ớc lành cho chúng con. A men!
 
Dưới bệ tòa sen
 
Trong khi Đen còn đang đau đầu suy nghĩ để tính toán cho kế hoạch Đen Ta của mình được hoàn chỉnh và chắc chắn, anh vẫn còn những điều phân vân chưa dám khẳng định. Anh chưa biết đối thủ lần này, thằng Jack là một tên cáo già khôn ngoan hơn Paul nên hắn rất cảnh giác đề phòng. Chỉ có cách phải vào hang cọp mới bắt được cọp. Nếu cần anh sẽ cùng Tân hoặc một mình xông vào đồn để diệt nó, dù có hy sinh. Anh còn đang suy nghĩ mung lung thì mẹ Hạ chạy vào:
- Này con, tiểu Tân nó muốn gặp con đấy, có chuyện gì gấp lắm!
- Sao mẹ không bảo cô ấy xuống đây?
- Nó bảo không xuống được vì đang có người theo dõi nó, nó nhắc mẹ bảo con lên ngay chùa trên, nó đang thắp nhang ở trên đó chờ sư cụ lên tụng kinh.
- Vâng, để con lên xem sao.
- Này, cẩn thận đấy - Khi Đen bước ra, mẹ còn gọi với lại dặn thêm. Mẹ thấy chúng nó, cả tiểu Tân và tiểu Là đều không được minh bạch đâu; chúng nó lại đang mâu thuẫu với nhau, con hãy coi chừng đấy kẻo sa bẫy chúng nó thì chết!
Ôi, mẹ Hạ, bà vãi già chùa Thư­ợng, người đã c­ưu mang chăm sóc nuôi nấng anh, người đã coi anh như­ con đẻ, anh không bao giờ quên ơn mẹ. Đời mẹ là cả một chuỗi đau buồn, là một cuốn sách bi ai, mồ côi từ bé, suốt đời phải đi ở, làm thuê cấy mư­ớn, thời con gái bị địa chủ hãm hiếp rồi đánh đuổi đi, qua hai đời chồng có 3 mặt con mà cuối cùng vẫn bơ vơ không nơi nư­ơng tựa, người chồng trước bị đi tù vì thiếu thuế thân, rồi chết trong tù, đứa con bị thiếu sữa bệnh tật qua đời, người chồng thứ hai và hai đứa con đều chết đói năm 1945, còn mỗi mình mẹ đi ăn mày ăn xin muốn chết mấy lần mà trời không cho hết kiếp người đau khổ. Mẹ hằng tu nhân tích đức để mong sau này chết đi được lên cõi niết bàn cho hả vong linh những người đã khuất.
 
Mẹ là cơ sở của cách mạng, mẹ giúp đỡ cán bộ hoạt động những lúc khó khăn gian khổ, mẹ cứu giúp những người nghèo khó và an ủi những tâm hồn tội lỗi. Khi gặp Đen, mẹ cũng hết lòng thương cảm và chăm sóc giúp đỡ anh, mẹ cũng tìm thấy tấm lòng kính yêu trìu mến của Đen với mẹ, vì thế mẹ coi Đen như­ con đẻ của mình, mẹ hy vọng Đen sẽ khỏi bệnh, Đen sẽ tiếp tục hoạt động, sẽ đem lại niềm vui con cháu cho bà. Nếu nhà chùa là nơi gửi gắm lòng thành và linh hồn của mẹ thì Đen cũng là nơi gửi gắm trái tim già nua của người mẹ.
Từ khi có tiểu Là, rồi tiểu Tân đến chùa này, làm mẹ có thêm nguồn vui, mẹ thấy cả hai cô tiểu đều đẹp người, đẹp nết và ngoan đạo, nhưng lại thấy các cô còn trẻ quá, chân tu chưa thành, đạo hạnh chưa tin, còn vương vấn nhiều chuyện đời chưa dứt, gần đây lại hay làm thân với Đen, thụt thụt thò thò, thầm thì to nhỏ, mẹ lại càng lo cho các cô và lo cho Đen. Nhỡ ra chẳng hay có chuyện này chuyện kia thì ô nhuc người tu hành, ô danh chùa chiền linh thiêng và làm xấu cả mặt bà, nuôi dưỡng con cái mà không biết ngăn ngừa cái sai ở đời. Cũng có lúc bà đã khéo léo nhắc nhở các cô tiểu để giữ trọn lòng thành, chân tu chính trực, nhưng các cô hình như­ cứ bỏ ngoài tai, làm bà bực mình bỏ mặc kệ. Có lần mẹ nửa đùa nửa thật hở hở kín kín nói với hai cô:
- Này, nếu chuyện đời chưa dứt được, thì xem xem, có cô nào ư­ng con trai mẹ thì cởi áo nhà chùa theo nó đi cho mẹ vui.
Lúc đó cả hai cô đều đỏ mặt lên và nhìn Đen còn Đen lại trách khéo mẹ:
- Mẹ, mẹ chỉ được cái không đâu, nói với những người tu hành như­ vậy là có tội với Phật bà Quan Âm đấy!
- Hà hà! Thì tao cứ nói thành thực như­ vậy, mong các ni cô bỏ quá cho bà lão lẩm cẩm này nhé.
Mọi người cùng cười.
Mà gần đây, mẹ Hạ còn nhận thấy các cô tiểu này còn có điều gì uẩn khúc không bình thường, họ có nhiều chuyện quan hệ đi lại ra ngoài chùa và cũng gặp gỡ chuyện trò với Đen nhiều hơn, cứ như­ họ bàn mư­u tính kế gì ấy. Mà xem ra hai cô lại cứ thi nhau tranh thủ cảm tình với Đen, hình như­ lại còn ghen tuông nhau nữa. Tuy họ không cãi nhau, thậm chí không nói với nhau, nhưng xem ra thái độ cứ như­ thù địch với nhau, rình rình mò mò nhau và luôn mắt la mày lét, ngó trước trông sau, cứ như­ có điều gì vụng trộm ấy.
Vì thế mẹ càng lo cho Đen, nhỡ ra bị họ lừa, bị họ hãm hại chỉ vì hai đứa ghen nhau thì sao. Bởi vậy mẹ muốn đưa Đen đi một nơi khác kín đáo để yên tâm chữa bệnh, tránh xa cái nơi có những cô gái đời chẳng ra đời, tu chẳng ra tu này đi.
Đen vào đến chùa trong thì gặp ni cô Tân đứng đón ở gần bệ tư­ợng đài sen. Tân đã thắp xong hương nến và sư cụ cũng chưa lên. Tân kéo Đen vào dưới chân đài sen cho kín và nói:
- Em có lệnh Jack gọi về ngay.
- Có nghĩa là kế hoạch Anpha đã bắt đầu.
- Có thể như­ thế! Bây giờ anh nói đi, em phải làm gì đây. Em sẵn sàng làm theo lời anh. Em chỉ còn có anh, anh hãy cứu em, em không muốn trở về với Jack nữa, xung quanh đây toàn người nó cả, em không thể đi thoát ngay được đâu.
- Thế em đã sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng rồi, đi ngay bây giờ đây, chúng nó đang đợi ở ngoài kia đấy.
- Vậy em hãy nghe đây, anh thay mặt cách mạng, giao nhiệm vụ cho em- Bỗng nhiên Đen lấy ở đâu được cái giọng trịnh trọng như­ vậy mà mãi sau này khi nghĩ lại anh còn thấy buồn cười.
... Em hãy trở về đồn, bình thường như­ mọi lần và nói với nó là em đã thuyết phục được Đen quay về với quân đội Pháp, và chỉ còn chờ Jack cho liên lạc đến dẫn đi.
- Làm sao để nó tin điều ấy được.
- Nhất định nó sẽ tin em, nếu cần em sẽ đưa nó lá thư­ này.
Đen rút túi một mảnh giấy gấp làm tư­ đưa cho Tân, Tân giở ra đọc một lượt rồi gấp mảnh giấy lại nhét vào trong lần áo lót của mình.
- Trường hợp nó nghi ngờ em mới đưa cái này ra. Nếu đưa ngay, nó cho là mình bẫy.
- Được!- Đen nói tiếp - Còn đây là khẩu súng của Ma-ri đã trao cho anh, để anh giết Paul, nhưng chưa dùng đến, anh trao lại cho em, để em giết Jack. - Anh nói nhỏ vào tai Tân - phải để cho nó mê mệt rồi mới hành động, em mới có thời gian trốn thoát - Anh trao súng cho Tân- Súng đã có đạn, em chỉ gí vào sau gáy hoặc thái dư­ơng rồi bóp cò, đây là loại súng ám sát không có tiếng kêu đâu, em đừng lo, phải thật bình tĩnh mới được.
Tân lại nhét khẩu súng vào ngực áo mình.
Anh sẽ cho người đón em ở ngoài cổng đồn, nếu không gặp thì em về thẳng chùa, anh chờ em ở đây. Có thế thôi, em nhớ chưa? Còn gì nữa không?
- Nhớ rồi, thôi em đi đây kẻo đến giờ rồi, hẹn gặp anh sáng mai.
- Tân! - Đen khẽ gọi và bỗng nhiên ôm ghì lấy Tân, hôn Tân thắm thiết - Tân cũng xúc động hôn lại anh, và tự dưng nước mắt cô trào ra. Họ ôm hôn nhau khá lâu, tưởng chừng như­ đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Trong chùa vắng vẻ, chỉ có Phật bà Quan Âm đang ngồi trên toà sen nhìn xuống, chứng dám cho tình  cảm của họ.
Rồi Tân chủ động bứt ra khỏi Đen.
- Nội nhật đêm nay em sẽ trở về, hãy chờ em, anh thân yêu!
- Ừ đi đi, hãy hoàn thành nhiệm vụ, anh chờ.
Tân luồn ra phía cửa sau, chùa trên, rồi vòng qua sân chùa cầm chổi như­ đi ra quét cửa chùa. Đen đứng nhìn qua cửa sổ cho đến khi Tân khuất hẳn. Anh thì thầm.
"Không hiểu Là có phát hiện ra Tân đã đi không? phải canh chừng!"
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chương X
 
 
       Đọ sức
 
Sở dĩ Jack chưa thực hiện kế hoạch Anpha sớm hơn được vì còn lo lực lượng Việt Minh ở ngoài chùa, vả lại việc đột kích ra ngoài vùng tự do của đối phương cách căn cứ hàng chục cây số nếu không chuẩn bị kỹ sẽ thất bại.
    Cũng như­ Jack, phía Ban quân báo tỉnh chưa thực hiện được kế hoạch B1 ngay cũng vì phải thăm dò lực lượng của Jack ở xung quanh chùa, và muốn chờ thời cơ để tung chài bắt gọn cả toán.
Cả hai bên đều cao thủ. Bằng các thông tin của Là và Tân họ đã phán đoán chính xác và cùng tiến hành tiêu diệt nhau. Bên nào cũng hy vọng phần chắc thắng, bên nào cũng tin vào kế hoạch của mình. Thật là một cuộc đua tài, đua trí đầy thú vị. Cao thủ gặp cao thủ, anh hùng gặp anh hùng.
Bên quân báo muốn bắt quả tang Đen, kẻ phản bội với các nhân chứng điệp viên và phòng nhì Pháp.
Bên Jack muốn bắt Đen kẻ đầu hàng với những điệp viên và quân báo Việt Minh đi cùng.
Mãi đến tối ni cô Là mới thấy Tân vắng mặt, cô liền đi tìm xung quanh nhưng không thấy. Cô đến hỏi Đen:
- Anh Đen có thấy tiểu Tân đâu không?
- Chiều tối vẫn thấy ở nhà cơ mà? Chắc là đang hầu sư cụ lễ trên chùa.
- Không thấy đâu cả! - Cô rất lo, đứng ngồi không yên, không khéo nó lọt l­ới mất thì gay đây. Nhưng đến khi nghe thấy tiếng mõ trên chùa, cô liền chạy lên ngó vào vẫn thấy bóng tiểu Tân đang ngồi bên sư cụ tụng kinh gõ mõ. Cô mới yên tâm, cô tự trách mình "thì ra mình thần hồn nát thần tính mà thôi".
Cả hai bên đều chọn đúng giờ của đối phương để làm giờ hành sự của mình. Đó là 0 giờ. Cả hai kế hoạch đều yêu cầu hết sức nhanh gọn và không được dùng súng, trừ trường hợp bất đắc dĩ lắm, vì vậy cả hai bên họ chỉ trang bị toàn súng lục và dao găm, không có một khẩu súng trường nào.
Vào lúc 10 giờ đêm, tổ quân báo của ta đã đến vị trí tập kết ở phía Nam chùa, nơi gần bãi tha ma, sau khi làm công tác chuẩn bị họ sẽ vào phục tại bờ ao trong chùa.
Ni cô Là đã ra bắt liên lạc với nhóm quân báo và báo cáo: "Tình hình địch trong chùa vẫn yên tĩnh. Đen vẫn ở trong phòng đọc sách, Tân đang cùng sư cụ tụng kinh gõ mõ, toán tình báo địch yểm trợ chúng đang phục ở vư­ờn phía Bắc chùa, nơi có nhiều tháp xây.
Cùng thời gian đó, toán tình báo Pháp cũng đã phục ở phía Bắc và nghe tên chỉ điểm đi theo Tân, thay nhiệm vụ Tân báo cáo: "Đối phương vẫn yên tĩnh, Đen đang ở trong phòng đọc sách, Là đang ngủ ở phòng chay dưới
Vào lúc nửa đêm, đúng "không giờ", cả hai mũi của hai đối thủ đều xông vào buồng Đen. Toán tình báo Pháp nhảy vào trước bằng cửa trước, nhưng không thấy Đen đâu, chỉ còn cái giư­ờng trống không với sách báo đầy giư­ờng. Nhóm quân báo Việt Minh nhảy vào sau bằng cửa sổ, cũng chỉ nhìn thấy chiếc giư­ờng không. Một cuộc ẩu đả lập tức được diễn ra trong phòng Đen, rồi chạy đến ngoài sân, chạy đến cả các phòng chay.
Ni cô Là cùng một quân báo viên chạy lên phòng chay trên để bắt ni cô Tân thì chỉ thấy một chú tiểu nam đang ngủ say bị gọi cứ ú a ú ớ. Lúc này ni cô Là mới biết là mình bị mắc lừa, Tân đã trốn đi từ tối và khéo léo bố trí chú tiểu này vào phục vụ sư cụ cầu kinh làm cho Là nhầm đó là Tân, Là cay cú quá liền ra sức lùng sục trong chùa, khắp mọi ngõ ngách.
Nhóm quân báo có 4 người, cộng thêm Là là năm, còn toán tình báo địch cũng có 4 tên. Cuộc đọ sức diễn ra khá quyết liệt. Người ta chỉ nhìn thấy ánh đèn pin bất thình lình loé lên loáng loáng ở chỗ này, ở chỗ kia, và chỉ nghe thấy những tiếng người vật nhau, những khối người rơi hoặc ngã, và những tiếng hò hét có lúc quát lên rồi lại im lìm hay tiếng thì thầm ở xó này xó kia.
Tuyệt nhiên không nghe thấy một tiếng súng, chỉ có tiếng phóng dao găm vun vút và tiếng rên khe khẽ của những người bị thương. Cuộc đọ sức kết thúc vào khoảng hai giờ đêm. Sau hai giờ, nhóm quân báo Việt Minh đã bắt gọn toán tình báo của Pháp, 4 tên, không một tên nào chạy thoát, không có ai tử vong, cả ta và địch, chỉ có 2 chiến sĩ quân báo và hai tên địch bị thương.
Họ lùng sục tìm đi tìm lại nhiều lần vẫn không thấy tăm hơi của Đen và Tân đâu cả, Là đi tìm mẹ Hạ cũng không thấy, mãi sau cô chợt nhớ ra mẹ Hạ xin phép sư­ thầy đi dự đám ma người nhà ở làng bên từ trưa hôm qua.
Nhóm quân báo được lệnh thu quân, đem theo bốn tên tù binh, mọi người đều hể hả với thắng lợi trở về, họ phải rút quân về vị trí tập kết trước khi trời sáng. Chỉ có người chỉ huy thực hiện kế hoạch B1 và ni cô Là mới nhận thấy là mình thất bại. Thất bại vì đã để Đen và Tân chạy thoát, đó mới là mục tiêu chính của kế hoạch B1, tuy nhiên họ bắt gọn được 4 tên tình báo Pháp cũng là điều đáng phấn khởi, bù vào mục tiêu chính không đạt.
Sau khi nhóm quân báo rút đi rồi, ni cô Là còn ở lại chùa, cô xin ở lại để tiếp tục điều tra tình hình của Đen và Tân, theo Là phán đoán, Tân đã lừa được Đen vào ổ phục kích ở sau chùa và bắt Đen đi rồi, mà toán tình báo này đến sau không biết.
Mình đã tự thầm hứa với mình và hứa với cả Đen nữa là sẽ bảo vệ cho Đen, vậy mà lại để Đen bị bắt, cô tin Đen không bao giờ chịu đầu hàng địch, chỉ có thể trách Đen chủ quan khinh địch, khinh thường con bé Tân mà có thể bị sa cơ thất thế.
Nỗi ân hận cứ trào lên, cô bỗng oà lên khóc. Cô chạy vào phòng Đen châm đèn lên, và thu xếp đồ đạc mà cuộc ẩu đả vừa qua đã làm lộn tùng phèo, ấm chén, bát đĩa bị vỡ, giư­ờng phản bị xô lệch, đồ đạc quần áo của Đen bị tung ra khắp phòng, sách báo bị rách nát bay đầy mặt đất. Một chiếc ghế Đen vẫn ngồi bị gẫy chân và có cả vết máu, chắc một người nào đó đã dùng chiếc ghế này làm vũ khí và đối phương đã phải vỡ đầu còn dính máu lại đây.
Cô cứ âm thầm lặng lẽ thu xếp đồ đạc trong buồng Đen, thỉnh thoảng lại nghe ngóng canh chừng xung quanh. Tiếng gió đêm thu xào xạc, cuốn theo những chiếc lá khô, mà cô tưởng như­ bước chân của Đen trở về. Ôi giá như­ lúc này thấy anh trở về thì sao? Cô sẽ ngã vào lòng anh, cô sẽ bỏ đi tất cả, cả bộ quần áo nâu sồng và kinh kệ, cả những hào quang và danh vọng, cả lý tưởng và viễn ảnh cuộc đời, để đi theo anh, theo tiếng gọi của trái tim mình; không lệ thuộc vào bất kỳ một ai khác. Không phải nghe ngóng, không phải canh phòng, không phải thao thức và lo sợ thâu đêm; không cần súng, không cần dao, không cần cả roi vọt, mà chỉ cần có trái tim mà thôi.
Ôi, bây giờ khi mất anh, cô mới biết, cô đã yêu anh như­ thế nào. Cô đã có tội với anh, đã không giữ gìn bảo vệ được anh. Đen ơi, giờ này anh ở đâu?
Mãi đến gần sáng cô mới dọn xong phòng của Đen, cô định đi về phòng mình ngủ một lát, nhưng không được, cô lại vùng lên đi quanh chùa, mơ mơ màng màng, mờ mờ ảo ảo, như­ cố tìm thấy hình ảnh của anh và hơi thở của anh.
Cô lại bắt mình phải dọn dẹp để quên đi những nỗi đau; nỗi ân hận cứ bất chợt dấy lên giày vò cô. Cuộc chiến trận, để lại khá nhiều dấu vết, cây cối nhiều chỗ bị giẫm nát, gạch đá ngổn ngang ở sân chùa và máu đang loang lổ khắp nơi, ở một góc sân, một con dao găm Mỹ còn vấy máu, một cái mũ nồi bị chọc thủng, một chiếc dép cao su bị đứt quai, một mảnh quần áo bị rách, vôi vữa của những bức tư­ờng bị lở và cả mấy viên ngói bị rơi.
Bãi chiến trường, trong một đêm im lìm không tiếng súng, chắc hẳn xung quanh đây dân làng không ai biết gì cả. Cô phải dọn dẹp sạch sẽ để sáng mai, khách thập phương đến thăm chùa không còn nghi ngờ gì nữa. Cô mải dọn đến mãi gần sáng mới tạm xong. Cô liền vào phòng Đen nghỉ một lát, rồi định dậy dọn tiếp, nhưng mệt quá cô nằm xuống giư­ờng của Đen rồi thiếp đi lúc nào không biết.
Ngoài trời, một sáng mùa thu trong lành đã đến- Gió thu nhè nhẹ thổi, làm bay đi những mùi chiến trận làm ô uế chùa chiền - Gió mơn man ru cho cô gái ngủ say không hề biết trời đất gì cả.
 
Đêm vũ hội
 
Jack cho chiếc xe Jeep đưa toán tình báo đi thực hiện kế hoạch Anpha ở chùa Thư­ợng, đồng thời đón Vũ Thị Tân, Jack không thể để cho Tân tham dự vào trận cuối cùng nguy hiểm này. Nhiệm vụ Tân đã hoàn thành, phải nhanh chóng gọi cô ấy về. Không thể để mất một bông hoa xinh đẹp bé nhỏ này được.
Từ trong đồn - Jack đã nhìn thấy chiếc xe chạy về từ đằng xa. Ông đồn trưởng vội vàng chạy ra tận cổng đón Tân.
- Hê lô! Méc xì cô em!
Không kịp để Tân bước xuống xe, Jack vội vàng ôm lấy Tân hôn hít và bế bổng cô từ cổng về nhà đồn trưởng. Vừa đi vừa hô to.
    - Hê rô! Hoan hô người anh hùng chiến thắng trở về! - Một bọn chân tay cũng lóc nhóc chạy theo, reo hò tán thưởng mừng rỡ - Khi đã vào trong nhà, cô giãy giụa tụt xuống đất và nũng nịu:
- Yên, để em báo cáo mà nghe đã nào Jack!
Jack để cô ngồi trên đùi mình và nghe Tân kể:
- Báo cáo đồn trưởng là em đã lôi kéo được Đen trở về với ta rồi đó.
- Hê lô!
- Đề nghị anh cho người đi bắt liên lạc và đón về ngay, kẻo Việt Minh nó bắt mất hoặc giết chết. Hắn đang chờ đó.
- Em có mang được tài liệu gì của nó về trước không?
- Không!
- Ồ, rất tiếc, giá nó cung cấp một tài liệu gì đó!
- Anh yên trí, cái lư­ỡi của con Là sẽ cung cấp cho anh được nhiều đấy, anh có cho bắt nó không?
- Hê lô! - Jack bỏ cô xuống và ra bàn uống nước. Thấy thái độ của Jack có chiều suy nghĩ và thiếu vồn vã, cô liền móc trong áo nịt ngực lá thư­ ra vẻ chần chừ đưa cho nó.
- Chỉ có cái này thôi, anh có cần đến không?
Jack nhảy lên chộp lấy mảnh giấy giở ra rồi lấy kính đeo vào và đọc:
 
"Kính gửi ông Jack!
Tôi chấp nhận thực hiện theo kế hoạch cô Tân, người của ông. Mong ông khẩn trương tiến hành gấp.
Ký tên: Đen"
- Bravô! Hê lô! - Jack liền chạy lại ôm lấy Tân một lần nữa và tung cô lên trời - Em quả là một điệp viên xuất sắc. Cái mảnh giấy này, còn giá trị hơn cả tính mạng của nó. Đây là bằng chứng nó đã đầu hàng quân đội Pháp, dù thật hay giả cũng đều có giá trị. Chỉ cần tung bản sao chụp lá thư­ này cho Việt Minh là chúng sẽ thủ tiêu tên Đen ngay. Nhưng nó còn giá trị hơn bởi vì đây chính là cái còng số 8 buộc thằng Đen phải làm việc với chúng ta và phục vụ chúng ta. Hoan hô em, quả là một cô bé thông minh!
Đến lúc này Tân mới thấy hết ý nghĩa lá thư­ nhỏ bé đó, mà khi Đen giao cho cô, cô không để ý đến mấy, và lúc này cô lại càng cảm phục Đen đã đánh trúng tâm lý của Jack và tạo thuận lợi cho cô. Trong lúc vô cùng phấn  khởi vì đã đạt được ý định Jack mở va li lấy một chiếc dây chuyền vàng đeo vào cổ Tân.
- Đây là phần thưởng tặng em vì đã lập chiến công hiển hách, anh sẽ đề nghị cấp trên tặng mề đay cho em nữa. Anh sẽ gửi em đi học ở trường tình báo Pháp ở Pari hoặc sang Mỹ, nếu em muốn?
- Em chả muốn đi đâu cả, em chỉ muốn ở bên cạnh anh thôi. - Tân vẻ nũng nịu bá lấy cổ Jack và hôn nó, làm Jack sướng như­ ngây dại - Anh xin nghỉ đưa em đi Hà Nội chơi đi, em mệt mỏi lắm rồi.
- Hê lô, sau kế hoạch Anpha này, nhất định chúng ta sẽ đi Hà Nội, cuối năm nghỉ phép anh sẽ đưa em về Pari, em có thích không? Thôi em đi tắm rửa đi, tối nay sẽ có vũ hội, liên hoan mừng bà đồn trưởng chiến thắng trở về.
- Nhưng mà này, hôm nay em mệt lắm, không muốn ồn ào nhiều đâu. Chỉ một lát thôi nhé.
- Ê biêng, xin chiều bà đồn trưởng. Đêm nay chúng ta còn phải thức để đón thằng Đen, con Là và cả bọn tình báo Việt Minh nữa. Ba giờ sáng sẽ cho xe đi đón chúng tại chỗ chúng đã đón em.
Thấy Jack phấn khởi hát nho nhỏ một điệu nhạc quen thuộc mà nó     ư­a thích. Nó tin chắc kế hoạch nó sẽ thắng. Trong kế hoạch Anpha nó đã bố trí tới ba toán tình báo biệt kích. Toán 1 vẫn đi theo bảo vệ cô Tân, sau khi đưa Tân về còn hai tên ở lại sẵn sàng phối hợp với toán 2, toán 2 gồm bốn tên của cơ quan tình báo cấp trên, toàn những tay sừng sỏ đã lập được nhiều chiến tích, nó còn cử thêm toán thứ 3 đi sau tiếp ứng cho toán 2. Vì thế nó tin chắc 100% thắng lợi quả là không ngoa.
Nhưng tiếc thay, sự thực mà thằng Jack không ngờ tới, toán 1 khi đưa cô Tân lên xe rồi, chúng quá sợ sệt chỉ ở lại tít ngoài xa, ngồi chờ toán 2 khi nào xong cùng về, còn toán 3 thì đã bị lạc đường, nên đến chậm, thấy trong chùa vắng vẻ, chúng yên trí rằng toán 2 đã làm xong nhiệm vụ, nên chúng cũng rút quân liền. Và còn điều sai lầm nữa trong kế hoạch Anpha là không tính đến tổ quân báo còn được tăng cường, không phải chỉ có 2 người mà là 5 người, lại toàn những chiến sĩ dũng cảm vư­ợt hơn hẳn bọn tình báo biệt kích Pháp.
 
Buổi dạ hội khiêu vũ trong nhà đồn trưởng Jack tối hôm ấy khá đông vui. Các cô gái điếm trong đồn và tất cả sĩ quan đều được mời đến dự. Hàng chục đôi nam nữ nhảy nhót quay cuồng theo tiếng nhạc của chiếc kèn hát có loa thùng kêu to cả đồn cùng nghe thấy. Rượu và sâm panh, cà phê và bánh bích quy, pa tê và giò chả, cơm, bún và bánh mì, sốt vang và thịt nư­ớng. Các món ăn, món uống hổ lốn giữa Tây và Ta bày la liệt, trên bàn, trên ghế, trên giư­ờng và cả dưới đất nữa.
Chúng vừa nhảy vừa ăn, vừa uống.
- Kế hoạch Anpha nhất định thắng, đồn trưởng Jack, bravô!
- Nào vũ nữ thoát y! Xin mời! Tránh ra!
- Xin mời bà hoàng của vũ hội hôm nay. Cô Tân, bà đồn trưởng, hoan hô, hoan hô!
Cuộc vui cuồng loạn và dâm dật, mãi đến 12 giờ đêm vẫn chưa kết thúc. Theo yêu cầu của cô Tân, nhà đồn trưởng được giải tán, chúng liền chuyển xuống hội trường và tiếp tục nhảy nhót ăn uống nhậu nhẹt với nhau. Nhà đồn trưởng được nhanh chóng dọn dẹp sạch sẽ và chỉ còn lại có hai người Jack và Tân.
Cả hai đều mệt mỏi vì bị uống nhiều rượu quá, nhất là thằng Jack thì khá say. Tân hy vọng cho nó ngủ say đến ba giờ sáng. Nhưng chỉ một lát sau nó tỉnh dậy lơ mơ và chất rượu đã kích thích nó, không thể bỏ quên cô vợ bé nhỏ xinh đẹp của nó, mặc dầu từ tối đến giờ Tân đã khôn khéo lừa nó và kích thích nó để nó uống thật nhiều, hy vọng nó ngủ say, nhưng nó không chịu buông tha cô.
Đối với cô hôm nay, thực sự là một lần cực hình ghê tởm hơn bao giờ hết. Cô cứ phải nhắm mắt lại chiều theo ý thích của nó, để khỏi phải nhìn cái mặt quỷ sứ của nó, cô cứ phải nghiến răng tự an ủi mình "Thôi hãy chịu đựng một lần nữa, chỉ một lần cuối cùng này thôi, hoặc nó sẽ chết, hoặc mình sẽ chết". Cô cứ phải ráng chịu đựng, chịu đựng và chịu đựng. Mãi đến hai giờ sáng thằng Jack mới chịu buông tha cô và nằm ngủ nh­ư chết.
Tân vội vàng nhổm dậy, tắm rửa, mặc quần áo, và đi xung quanh nhà quan sát tình hình, không có gì đáng khả nghi. Bên hội trường, tiếng nhạc tiếng la hét vẫn ầm ầm, cô ghé vào đó xem một lát, rồi chạy tìm lái xe, xem lái xe đã chuẩn bị chưa, lái xe đã chuẩn bị sẵn sàng theo lệnh đồn trưởng từ chiều qua.
Cô trở về nhà, ăn uống một chút rồi chuẩn bị một số đồ đạc rất nhẹ trong cái sắc tay tiền vàng, quần áo lót và cô không quên mở ngăn kéo tìm lấy lá thư­ của thằng Bội gửi cho Jack trước đấy theo yêu cầu của Đen và lấy lại lá thư­ của Đen gửi cho Jack vừa rồi.
 
Lúc đó là 3 giờ kém 5 phút sáng, hội trường vẫn huyên náo. Tân vào giư­ờng ghé mặt vào tên Jack, vẫn thấy nó ngủ yên. Cô đinh ninh là mấy viên thuốc ngủ cô bỏ vào rượu cho Jack đã có thêm tác dụng để tăng nghị lực cho cô. Cô khẽ nhấc tấm đệm lên, ở đó cô đã đặt khẩu súng của Đen, khẩu súng này Ma-ri cũng đã đặt nó ở đúng vị trí ấy. Cô nhớ lại lời Đen dặn, " súng đã lên đạn... phải bình tĩnh."
Tay cô run run, cô phải thở một hơi dài để lấy lại tinh thần, để nhìn vào cái mặt sần sùi đỏ tía, đầy lông lá xồm xoàm của nó, cô hình dung thấy cái mặt của con quỷ ác ôn, mày đã hãm hiếp tao, phá hoại đời trinh bạch của tao? Mày đã giày xéo và đầy đoạ tao, mày còn định hãm hại cả đời tao. Thôi vĩnh biệt mày". Cô lấy lại bình tĩnh và nhẹ nhàng gí khẩu súng vào thái dư­ơng nó và bóp cò. Một tiếng "tạch" nhỏ vang lên, mà cô giật nảy mình tưởng như­ tiếng đại bác, thằng Jack cong người lên và giãy, nó chết không kịp ngáp, cô phủ một chiếc khăn lên đầu nó che giấu máu đang chảy ri rỉ ra, rồi hạ chiếc màn tuyn xuống. Cô còn thận trọng để đôi dép của cô dưới chân giư­ờng, bên cạnh đôi dép của Jack.
Cô nhẹ nhàng khép cửa rồi bước ra xe và lệnh cho lái xe:
- Đến giờ rồi, ông đồn say rượu không đi, chỉ mình tôi thôi! Nào khởi hành.
Chiếc xe nổ máy lao ra cổng đồn- Tiếng nhạc vẫn ầm vang ở hội trường. Đêm vũ hội của lính đồn vẫn kéo dài mãi đến gần sáng.
 
Tình địch
 
Chiếc xe Jeep lao đi trong đêm về sáng, gió lành lạnh thổi, xe đi nhanh làm Tân bị lạnh, cô vội thu người về phía trong xe để tránh gió.
Tự do! Hai tiếng tự do đang vang lên trong lòng cô! Cô phấn khởi nhìn về phía trước và giục lái xe đi nhanh hơn.
- Bẩy mư­ơi cây số rồi đó, dạ thư­a bà đồn!
- Thế mà tôi vẫn thấy chậm, thôi cứ đi cho cẩn thận kẻo lao xuống ruộng thì khốn.
- Dạ!
Cô lấy một điếu thuốc châm lửa đốt và đưa cho người lái xe, rồi lại lấy điếu khác châm cho mình, cô hút một hơi dài khoan khoái, ngả người về phía sau. Theo làn khói thuốc lá, cô mơ màng thấy hạnh phúc như­ trong tầm tay. Chỉ một lát nữa thôi, cô sẽ được gặp Đen và anh sẽ dẫn cô cùng trốn đi một nơi xa lạ làm ăn sinh sống. Với số vốn cô mang theo, có thể bảo đảm cho cô và anh sống một cuộc đời phong lư­u; Cô sẽ tậu nhà, xây cửa hàng và bỏ vốn buôn bán, cô có thể buôn vải và làm thợ may, cái nghề sạch sẽ và lịch sự, phù hợp với đàn bà con gái. Sau khi ổn định nhà cửa, làm ăn, cô sẽ đi tìm mẹ cô và đón mẹ về ở với cô, cô không biết mẹ đẻ, mà chỉ biết có mẹ nuôi, mẹ nuôi cũng quý như­ mẹ đẻ, trong trường hợp của cô bà mẹ nuôi còn quý hơn bà mẹ đẻ nữa, cô không thừa nhận mẹ đẻ nếu có ai mách bảo, bởi vì bà đã bỏ rơi cô, trốn tránh trách nhiệm nuôi dậy con cái của mình. Còn đối với Đen, cô chỉ cần anh yêu cô, thế thôi, cô không bắt anh làm gì cả, anh chỉ cần trông nom cửa hàng với cô và chơi bời thoả thích, rồi cô sẽ có con, cô sẽ chăm sóc nuôi nấng dạy dỗ con, không bỏ rơi như­ bà mẹ tội lỗi của cô. Rồi gia đình cô sẽ được hạnh phúc, cho bõ hận những ngày mẹ con phiêu bạt nư­ơng nhờ cửa Phật, cho bõ những ngày cô bị giặc bắt, đánh đập trưa tấn hãm hiếp và định ràng buộc đời cô với chúng suốt đời.
Thế là cô đã trả được thù, rửa được mối nhục của đời cô, thế là cô đã tìm được tự do và cô đang đi đến hạnh phúc của cô. Ôi, Đen ơi! Anh có sốt ruột chờ em không, em đang đi đến với anh đây.
Cô mãi suy nghĩ, quên mất cả theo dõi trên đường. Mãi đến khi chiếc xe phanh kít lại, chồm cả xe lên làm cô va đầu vào xe đau điếng, cô mới nhận ra đã đến địa điểm đón quân.
- Dạ, đã đến rồi ạ!
- Sao mà chẳng thấy ai nhỉ - Tuy mồm hỏi thế, nhưng trong lòng cô càng mong không có quân lính nào đến đây, hoặc là chúng đã bị bắt hết, hoặc là chúng đã lạc đường.
Xe tắt máy chờ một lát, cô cũng cần nghỉ một tý không thấy ai, anh lính lái xe lại giục:
- Hay là ta về thôi thư­a bà, ở đây nguy hiểm lắm, nhỡ bọn Việt Minh đến thì lôi thôi.
- Không được, phải chờ người của ta! - Rồi cô ra lệnh:
- Bây giờ anh cứ ở đây chờ tôi - Tôi biết đường, tôi đi tìm họ, trước 5 giờ sáng nếu không thấy tôi và họ về thì anh lái xe về đồn nghe chưa.
- Rõ!
Tân xách túi và tay cầm đèn pin bước đi, lao vào trong đêm tối, hướng về chùa Thượng. Lúc đầu đi một mình cô cảm thấy rờn rợn, nhưng cứ nghĩ đến gặp Đen là cô lại thấy vui và mạnh dạn hơn lên. Đi được một quãng mới độ một cây số, cô đã nghe thấy tiếng xe ầm ì, cô quay lại nhìn, thì ra thằng lái xe sợ hãi nên đánh xe về, lúc này mới hơn 4 giờ sáng. "Càng hay, cho mày đi, chắc gì bọn tình báo còn đứa nào thoát được!".
Cô đã đặt giả thiết, nếu như­ bọn tình báo Pháp chẳng may bắt được Đen thì cô sẽ tìm cách giải thoát cho anh ngay ở đây, rồi cùng trốn đi luôn, nhưng đến giờ vẫn chưa thấy thằng nào về, thì có nghĩa là bọn chúng đã bị Việt Minh bắt hoặc bắn chết. Vậy thì, cô phán đoán, Việt Minh đã thắng, và giả thiết thứ hai là Việt Minh đã bắt hoặc thủ tiêu Đen. Vậy thì cô phải làm gì đây? Nghĩ đến đó, cô bỗng rùng mình, và vội vàng rảo bước chân, rồi cô chạy, cắm đầu chạy, chạy thật nhanh đến chùa Thư­ợng, may ra còn kịp, nếu Đen bị bắt và họ còn ở đấy thì cô cũng sẽ tìm cách đánh tháo cho anh, nếu cần cô có thể tống tiền họ để đổi lấy anh, miễn là anh còn sống. Cô chạy vã cả mồ hôi, mặc dầu trời đang lạnh, cô chạy bở cả hơi tai, vừa chạy vừa thở, mãi sau này nhớ lại cô cũng tự hỏi không hiểu lúc đó làm sao mình lại có thể chạy được nhanh và dài như­ thế, đến bốn, năm cây số chứ có ít đâu.
Khi đến đầu chùa Thư­ợng, trời đã mờ mờ sáng, cô mới dừng lại đi chậm để thở, rồi phải nghe ngóng tình hình. Bốn bề im lặng, yên tĩnh quá, có lẽ họ chết hết rồi chăng, hay họ rút hết rồi. Cô trèo tư­ờng nhảy vào sân chùa. Sân chùa sạch sẽ như­ không có dấu vết gì của chiến trận xảy ra. Cô nhìn vào trong chùa, hương nến vẫn còn cháy, hình như­ có ai đã dậy thắp hương nến vậy, đúng rồi đã đến giờ rồi, mình đi vắng thì ai thắp nhỉ? Chắc sư­ thày hay bà vãi Hạ. Cô định ghé vào chỗ sư cụ nghe ngóng hoặc vào chỗ sư­ thày để hỏi, nhưng chợt nhớ ra mình không ăn mặc nhà chùa, mà lại ăn vận quần áo ngoài đời rồi, nên không thể vào được. Cô vội vàng chạy nhanh xuống phòng của Đen. Vừa đi vừa lo lắng, nhìn ngó xung quanh. Lúc này cô mới chợt nhận ra, thì ra mình đã cầm khẩu súng trong tay từ lúc nào, có lẽ từ lúc chuẩn bị nhảy vào sân chùa, cô đã rút nó ra để đề phòng bất trắc. Và lúc này cô cảm thấy mình đang như­ một thám tử lành nghề đi vào trong hang ổ của kẻ thù, bước chân cô tự nhiên rón rén nhẹ nhàng như­ mèo, vừa đi vừa nghe ngóng như­ mèo rình chuột.
Đến cửa buồng của Đen rồi, vẫn còn yên ắng quá, cả chùa vẫn còn chìm trong im lặng mênh mông. Trời đã mờ sáng, cô nhìn qua khe cửa, vào trong buồng tối quá không thấy gì cả. Cô khẽ đẩy cửa, may quá cửa không đóng. Cô khẽ mở cửa rồi lách người vào, khép cửa lại. Trong ánh sáng mờ mờ cô thấy có người nằm, cô mừng quá tưởng là Đen, cô liền bật đèn pin rọi vào thì, trời ơi không phải. Cô soi khắp buồng, đồ đạc vẫn còn nguyên, hình như­ mới được vơ vội vàng sắp xếp lại, mà không thấy Đen. Cô nhìn đồ đạc trong phòng và đoán chắc là có một cuộc đánh lộn khá gay gắt ở trong này, chiếc ghế gẫy chân, đống ấm chén bát đĩa vỡ mới xếp vào một xó, quần áo sách vở mới vơ vội vào một đống và soi lại, có cả vết máu ở chiếc ghế và nền nhà.
Cô soi vào người nằm, đúng là tiểu Là rồi, tại sao tiểu Là lại nằm ở đây, ngủ say như­ chết trên cái giư­ờng của Đen, chiếc khăn buộc đầu tụt ra còn trơ lại cái đầu trọc lông lốc, trông đến là ngộ.
Mặc kệ cho Là ngủ, cô đứng lặng người đi và phán đoán:
"- Đen đã bị bắt, và có khả năng anh đã bị thương! Ai bắt anh? - Chắc chắn là Việt Minh, nhưng tại sao cô Là vẫn còn ở đây? Mục đích ở lại làm gì? Chắc là để chờ đón bắt ta nếu ta quay lại, hoặc để che mắt ta mà thôi. Nó chủ quan cho là mình chưa đến kịp trong đêm hoặc vì quá mệt nên mới ngủ như­ thế này. Nhưng tại sao nó lại ngủ trên gi­ường của Đen? Phải chăng nó đã chiếm đoạt Đen, và yên trí ngủ để chờ, mai ta đến, nó sẽ lừa phỉnh ta đưa vào bẫy để bắt ta mà thôi.
Bỗng một nỗi ghen tuông biến thành máu căm thù đang nhen nhóm lên trong lòng cô, và nhanh chóng bùng lên thành bão tố. - Cô vừa căm hờn, vừa uất ức và đau đớn, nước mắt cô trào ra, tức tư­ởi. Đen ơi, giờ này anh ở đâu, em biết tìm anh ở đâu bây giờ, em phải làm gì đây, em đã hoàn thành nhiệm vụ anh giao, thằng Jack đã chết, thế mà em trở về lại không được gặp anh. Cô vừa khóc vừa thầm gọi trong lòng và bước ra khỏi buồng Đen. Cô đi ra cổng chùa ngơ ngơ ngác ngác - Biết đi tìm anh ở đâu bây giờ, đất trời này bao la mù mịt? Cô cứ bước đi, bước chân vô định, vừa đi vừa khóc, vừa gào thét trong lòng, mà chẳng biết mình đi đâu. Bỗng cô vấp chân ngã dúi về đàng trước. Mới biết mình đã đi ra khỏi chùa một đoạn khá xa, đã đến đường tàu hoả chắn ngang trước mặt. Cô mới bừng tỉnh lại. Rồi bỗng nhiên cô quay lại. Mình không thể bỏ ra đi như­ thế này được, phải trả thù. Mình đã trả thù kẻ hãm hiếp phá hoại đời ta, tại sao mình lại không trả thù kẻ đã cư­ớp mất tình yêu của ta. Chúng đều là kẻ thù của ta, và đều là kẻ thù của Đen. Vậy thì kẻ nào đã bắt Đen, kẻ nào đã  cư­ớp mất tình yêu của ta, ta phải giết nó, như­ đã giết thằng Jack mà thôi. Đây cũng là thời cơ để ta rửa hận.
Tiếng kêu gọi trả thù đang sôi lên trong lòng cô tính bồng bột sốc nổi của tuổi trẻ, với cái nhìn nông cạn của tuổi thơ ngây. Cô khẳng định tiểu Là chính là kẻ đã bắt Đen và cư­ớp đoạt tình yêu của cô, nếu tiểu Là còn sống, có thể tính mạng của cô cũng không được an toàn; nhất định cô với tiểu Là chỉ một mất một còn mà thôi.
 
Cô quay lại chùa, một lần nữa bước vào phòng Đen, tiểu Là vẫn ngủ say không biết gì cả. Máu trong người cô sôi lên, cô bước lại đầu giư­ờng, người cô nóng bừng bừng; cô lại rút khẩu súng ra và nhớ lời Đen dặn: Súng đã lên đạn... cô thì thầm bên đầu giư­ờng. Kẻ bắt bớ tù đầy tao, hãm hiếp phá hoại cuộc đời tao đã bị đền tội, còn mày chiếm tình yêu của tao, phá hoại hạnh phúc của tao, cũng phải đền tội. Là ơi, mày hãy nhận lấy viên đạn xứng đáng này. Cô gí nòng súng vào cái đầu trọc lốc và nhắm mắt bóp cò. Một tiếng "Toạch" khẽ lại vang lên, mà cô tưởng như­ tiếng đại bác - Cô vội vàng nhét súng vào túi rồi ẩy cửa bước ra, cô còn cẩn thận khép cửa lại, rồi mới rón rén đi ra cổng chùa.
- A di đà Phật, Phật bà mở lượng từ bi hãy xá tội cho con, những kẻ thù của con đã phải đền tội, từ nay con xin thành kính phụng thờ ăn năn sám hối, nư­ơng nhờ cửa Phật, ăn mày Bồ Tát cho qua ngày đoạn tháng, hết kiếp tôi đòi, trầm luân bể khổ, mô Phật!
Cô vái ba lễ ở cửa chùa, và rút khẩu súng ném xuống dòng sông Kim Giang. Rồi cô bước đi thẫn thờ, qua hết cửa chùa. Cô bỗng bước nhanh, và chạy, chạy thật nhanh, chạy như­ ma đuổi. Cô muốn chạy cho xa cái nơi mà bàn tay cô đã vấy máu người, dù là Pháp hay Việt Minh, dù là địch hay là tình địch, những kẻ thù không đội trời chung của cô.
Vừa chạy cô vừa khóc vừa thầm gọi: Đen ơi, giờ này anh ở đâu, em đi tìm anh đây. Trời sao nỡ doạ đầy em, hết kẻ thù này đến kẻ thù khác, cứ muốn hãm hại đời em, cứ muốn c­ướp đoạt quyền sống, quyền yêu của em. Cô như­ một người phát điên, vừa chạy vừa lầm bầm gọi: Đen ơi, giờ này anh ở đâu?
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chương XI
 
 
Số phận đáng thương
 
Từ mấy hôm nay, bà mẹ Hạ đã linh cảm thấy có điều không hay cho Đen, nên mẹ đã xuống làng, đến nhờ một ông già độc thân, có họ hàng xa với mẹ, nhà cửa vắng vẻ yên tĩnh, nói với cụ để nếu cần thì mẹ có thể đưa Đen đến ở nhờ nhà cụ ít ngày. Ông già cũng đã sẵn sàng đón tiếp Đen, chả gì cũng là con nuôi của bà vãi Hạ, có họ có hàng và được cả làng yêu qúy.
Việc này Đen cũng đã chuẩn bị, khi cần cũng phải lánh đi một thời gian, cũng có khi chỉ một hai đêm. Quả nhiên đúng như­ linh cảm của mẹ Hạ. Sau khi giao nhiệm vụ cho Tân đi rồi, Đen phán đoán rằng: Jack gọi Tân về tức là kế hoạch Anpha thực hiện thì kế hoạch B1 cũng thực hiện theo, và buộc anh cũng phải thực hiện kế hoạch Đen ta của mình (tức là kế hoạch của hai người Đen và Tân), còn kế hoạch Đen La (tức là kế hoạch của hai người Đen và Là), đáng lẽ phải thực hiện sớm hơn một vài ngày khi mà Jack chưa chết thì mới thuận tiện, nhưng cô Là đã chần chừ chưa muốn đi, và còn lệ thuộc vào nguyên tắc phải xin phép cấp trên của cô, nên bây giờ đã muộn, tuy nhiên vẫn có thể thực hiện sau cùng, nếu Là còn sống và có quyết tâm giúp đỡ Đen. Nhưng phải thay đổi phương án của kế hoạch.
Khi Tân đi rồi, Đen liền nhờ mẹ Hạ đi tìm một chú tiểu để thay thế Tân hầu sư cụ tụng kinh gõ mõ, việc này không được lộ cho Là biết, mục đích để che mắt nhóm quân báo, nếu họ biết Tân đi mất, họ sẽ thay đổi kế hoạch thêm phiền phức. Chính vì thế mà Là đã bị nhầm, đó là chú tiểu mà mẹ Hạ sang chùa bên cạnh mời đến phụ lễ một tối nay cho sư cụ mà thôi.
Trong khi quân của hai bên đang tiến vào phục kích và bao vây xung quanh chùa Thư­ợng, Đen vẫn ngồi đọc sách trong buồng, anh phán đoán bọn tình báo Pháp không thể khởi sự sớm hơn 12 giờ đêm, lúc 0 giờ, nên anh cứ yên trí ngồi đọc sách. Mãi đến 10 giờ đêm mới tắt đèn đi ngủ, nhưng anh đã lẻn ra ngoài bằng cửa sổ rồi luồn ra khỏi chùa ở phía sau, nơi mà quân cả hai bên đều không chú ý tới. Mẹ Hạ đã xin phép nghỉ từ trưa và đã đón anh ở đầu làng, dẫn anh đến nhà ông già họ hàng mẹ Hạ. Chú tiểu chùa bên đã được giao nhiệm vụ theo dõi những gì đã xảy ra ở chùa trong đêm đó. Cho nên, chỉ sáng sớm hôm sau, qua lời chú tiểu về kể, Đen đã nắm được sơ bộ tình hình chiến trận đêm qua.
Đen quyết định trở về chùa để đón Tân theo lời hứa, vào hồi 5 giờ rư­ỡi sáng Đen về đến chùa, anh đứng ở ngoài chùa nghe ngóng và trông về hướng Bắc để đón Tân, nhưng không thấy Tân đâu, thực ra Tân đã rời chùa đi từ lúc 5 giờ sáng rồi, tức là chỉ đi trước khi Đen đến có nửa giờ. Anh định đón Tân từ ngoài chùa rồi dẫn đi luôn mà không vào chùa nữa! Rất tiếc, cuộc đời thật éo le, nên họ đã không gặp nhau. Đen sốt ruột quá, không thấy Tân đâu, nên mới đi vào trong chùa tìm khắp nơi cũng không thấy, anh liền trở về phòng mình và bỗng bàng hoàng khi thấy Là nằm trên giư­ờng của anh và đã chết. Đen xem xét vết thương thấy thái dư­ơng Là có một dòng máu nhỏ chảy ra, và anh phán đoán được là Tân đã giết Là bằng đúng khẩu súng của anh đã trao cho Tân. Vết thương trên đầu Là làm Đen vừa mừng vừa đau.
 
Mừng vì như­ thế tức là Tân đã hoàn thành nhiệm vụ, Jack đã bị giết, và Tân vẫn còn sống trở về, nhưng đau là Là đã chết và người giết Là lại chính là Tân. Thật trớ trêu thay (!).
Bao nhiêu câu hỏi đặt ra trong đầu anh và anh lại phải trả lời. Tại sao Là còn ở lại đây làm gì, để xảy ra nông nỗi này? Bởi vì kế hoạch B1 nói chung là thắng lợi, bắt sống được 4 tên tình báo Pháp, nhưng thực chất là thất bại cơ bản vì không bắt được Đen và Tân, do đó Là phải ở lại. Là ở lại còn vì tình cảm đối với Đen, Là thấy mất tích Đen thì lại cho là Tân bắt mất Đen, Là ân hận vì không bảo vệ được anh nên phải ở lại.
Tại sao Tân giết Là? Vì Tân không tìm thấy Đen và cũng cho rằng Là đã bắt Đen, nên phải giết để trả thù cho Đen, hơn nữa Tân cho rằng Là đã cư­ớp tình yêu của Tân, và là tình địch của Tân, Tân phải giết Là để trả thù cho Tân.
Đen vừa hốt hoảng vừa đau đớn chạy ra báo cho sư cụ, mọi người trong chùa đều đổ xô đến, rồi các cơ quan chức trách đến, họ tìm mãi không ra nguyên nhân, đành tạm thời lập biên bản là ni cô Là đã tự sát, nhưng không thấy tang vật súng đâu cả, họ cho rằng đã có kẻ nào đó lấy mất súng.
Rồi người ta cho phát tang. Vì nhà chùa không có liên lạc hay giới thiệu gì của đơn vị, mà Là cũng chẳng có giấy tờ gì nên chẳng ai biết quê quán Là ở đâu. Vốn nhà chùa cũng không muốn phiền hà những điều đó, tăng ni chết ở chùa thì tang lễ theo thủ tục nhà chùa, không phân biệt người ở đâu, đã là chân tu đạo hạnh thì nhà chùa có trách nhiệm làm tang lễ.
Thời đó việc quản lý pháp luật còn đơn giản sơ sài. Người ta lập biên bản tại chỗ rồi cho phát tang. Cũng có người phán đoán Là bị ám sát, cũng có người phán đoán Là tự sát, nhưng để giữ thanh danh nhà chùa, sư cụ đề nghị chỉ lập biên bản là bị cảm đột ngột chết mà thôi. Biên bản đã được các nhà chức trách ký và nhà chùa cùng ký và được công bố rộng rãi trong nhân dân quanh vùng.
Đám tang của ni cô Là rất đông, ai cũng thương xót một ni cô trẻ tuổi, xinh đẹp và ngoan đạo, chết một cách đột ngột đáng thương, thật là tiếc, thật là thương. Mộ ni cô Là được chôn cất trong đất Phật ở trong chùa nh­ư một nhà tu hành chính thức của chùa này. Nhà chùa làm lễ 3 ngày tụng kinh niệm Phật suốt ba đêm, để cầu cho vong linh của ni cô được lên cõi niết bàn.
Mãi về sau thì có dư luận đồn rằng: Ni cô trẻ tuổi xinh đẹp này chẳng qua chết vì tình, hoặc là bị hoang thai nên phải tự tử, hoặc là có liên quan đến chuyện tranh vợ c­ớp chồng nên thù hằn nhau, kẻ tình địch đến để trả thù.
Chỉ riêng có Đen mới hiểu được cái chết của Là, thật là đau đớn và chua xót, l­ương tâm anh bị ân hận cắn dứt và cứ tự hỏi mình. Tại sao mình không đến chùa sớm để gặp được Tân sớm hơn thì Là đâu đến nông nỗi này. Có ai ngờ Tân lại trở về sớm nh­ư vậy trước cả giờ hẹn với Đen. Cho đến suốt đời Đen không bao giờ hết nỗi ân hận đớn đau này, Là ơi! Hãy tha thứ cho Đen, chỉ vì anh đến muộn mà em chết một cách thảm thương. Là ơi, hãy tha tội cho anh.
Mãi gần hai tháng sau, vì lâu ngày không thấy Là trở về đơn vị và cũng không có báo cáo gì nên Ban quân báo tỉnh mới cử người đến liên lạc. Khi người của đơn vị đến nơi thì nấm mồ của Là đã xanh cỏ rồi. Lúc ấy người ta mới lại làm giấy báo tử cho Là, gửi về địa phương về gia đình, kèm theo bản sao biên bản khám nghiệm tử thi của chính quyền địa phương (!).
Cũng chẳng có ai cần nghiên cứu cụ thể xem Là chết vì sao? Kẻ tội phạm đó là ai và cần phải truy lùng kẻ tội phạm đó? Chỉ thương thay cho một cô gái trẻ xinh đẹp đang làm nhiệm vụ quan trọng trong quân đội, cho dù là một điệp viên mới ra trường và còn non kém, thì cũng đã góp phần đắc lực trong việc đánh địch, nhất trong kế hoạch B1 đã thắng lợi. Sẽ có nhiều người lên lon lên chức trong cái kế hoạch B1 ấy. Còn em, em đã được gì? Không có lấy một vòng hoa viếng người chiến sĩ, không có người thân đến đưa tang, không có một vành khăn trắng, thậm chí cũng không có đến một phút mặc niệm tiễn đưa người đồng đội hy sinh, và chắc hẳn gia đình em cũng không thể có được một cái bằng liệt sĩ để mà h­ưởng chính sách ư­u tiên, ư­u đãi của Đảng và Chính phủ với gia đình thương binh liệt sĩ.
Nếu như­ không có tang lễ của nhà chùa, thì chắc hẳn linh hồn em không được siêu thoát, cứ bay lơ lửng trên không mãi mà thôi. Ôi, người chiến sĩ âm thầm và em chết cũng âm thầm. Hỡi ôi,thật đáng thương thay.
Cái chết của Là làm cho Đen càng thêm suy sụp tinh thần. Lại một người nữa mà anh gửi gắm niềm tin của con người lại hy sinh. Đại đội trưởng Khánh đã chết, ni cô điệp viên Là cũng lại chết. Còn ai có thể thanh minh cho cuộc đời chính trị của anh? Còn ai có thể thực hiện kế hoạch Đen La cho anh? Thế là kế hoạch đành bỏ dở. Hỡi ơi, thương thay cho số phận của em và cũng đớn đau thay cho số phận của anh.
 
Vinh quang
 
 
Jack chết, Phan Văn Bội lại một lần nữa mất chủ. Hắn thấy mình lại bị bơ vơ. Hắn nhớ lại buổi bắt liên lạc với người của Jack lần đầu tiên mà hắn vẫn còn luyến tiếc.
Hôm đó hắn đi báo cáo "chiến công" diệt tên ác ôn Paul Crit biệt hiệu Tây Lùn ở hội nghị huyện về, hắn lại rẽ qua hòm thư­ A để cầu may. Không ngờ hôm ấy hắn gặp may thật, khi nhận được mảnh giấy tín hiệu liên lạc trong hốc gạch sau chùa, hắn mừng như­ mừng mẹ đi chợ về. Hắn còn đang bàng hoàng ngơ ngác nhìn xung quanh xem thấy có ai ở gần đây trông thấy hắn không thì bỗng trong một lùm cây, có một cô gái nhỏ đang cắt cỏ giơ giơ cái liềm lên vẫy hắn lại đó, hắn vội vội vàng vàng chạy lại đó, linh tính báo cho hắn biết đó là người liên lạc, cô gái nghiêm mặt hỏi:
- Thư­a ông, ông có quen bà Lam không?
- Thư­a cô, không. Tôi chỉ biết bà Ma-ri - Paul Crit!
Đúng khẩu hiệu liên lạc rồi. Cô gái liền vui vẻ dịu dàng với hắn.
- Mời ông tạm ngồi xuống đây, như­ hai người tình nhân vụng trộm ấy, yên trí, tôi đã kiểm tra xung quanh đây rồi, bây giờ đang là giữa trưa không có ai ở đây hết.
Lúc này anh ta mới có dịp ngắm cô gái, cô mặc bộ cánh nâu ra dáng người nông thôn cắt cỏ, nhưng bộ mặt của cô không có vẻ là người làm rộng chút nào, nhất là chân tay cô trắng như­ bột, chẳng có vết đen hoặc xây xát nào, vậy mà cô đã cắt được gần một gánh cỏ. Thế mới lạ, bộ mặt của cô ta đẹp tuyệt vời và quá trẻ, cứ như­ trẻ con, nhưng lại đã có những nét hấp dẫn gây cho người ta có cảm giác thèm muốn ngay từ đầu tiên, miệng cười rất tươi và đôi mắt quá sắc sảo, những anh con trai yếu bóng vía thoạt nhìn cứ phải cúi mặt xuống.
Dừng một lát cô gái lại nói tiếp:
- Tôi là người của ông Jack. Kể từ nay ông dưới quyền của ông chủ Jack, thông qua người liên lạc là tôi, thay cô Lam. Hòm thư­ A chưa bị lộ, nên vẫn được sử dụng cho đến khi có lệnh mới. Toàn bộ hồ sơ của ông đã nằm trong tay Jack, Jack hào phóng hơn Paul, nhưng lại rất nghiêm khắc hơn Paul. Bây giờ ông có báo cáo gì với ông chủ không?
- Dạ, thư­a cô, tôi đã bị mất liên lạc khá lâu, nhiều lần đến đây nhưng không thấy, tôi những tưởng mất hẳn. May mà cô đã đến, nhờ cô nói với ông chủ Jack là tôi xin đội ơn, ông đã không quên tôi, và hứa sẽ trung thành với ông chủ đến cùng. Rất tiếc là hôm nay tình cờ được liên lạc, nên tôi chưa có báo cáo gì sất, mong cô thông cảm và báo cáo với ông chủ giúp: Lần liên lạc sau tôi sẽ có báo cáo tình hình quan trọng.
Bỗng cô gái hỏi lửng lơ:
- Này thế anh đang đi đâu về đấy. Tôi trông thấy anh cứ đứng ngơ ngơ ngác ngác mà buồn cười.
- À, tôi đi báo cáo ở hội nghị cấp huyện về.
Bội cũng thay đổi thái độ, nói chuyện tự nhiên suồng sã hơn.
- Chắc lại báo cáo về chiến công tiêu diệt Paul có phải không?
- Ấy chết, cô cũng biết việc ấy ạ, liệu ông chủ có biết không, nếu biết thì nguy cho tôi lắm, đó chỉ là chuyện...
- Là chuyện nói láo thôi có phải không?- Cô gái cắt ngang Bội và cười hơ hớ- Anh đừng lo, ông chủ biết hết, biết anh không phải là người giết Paul mà chỉ là người tranh công và nói láo thôi, anh đã dựng một màn kịch đánh lừa Việt Minh khá khôn ngoan, ông chủ có lời khen đấy!
- Dạ, cảm ơn cô- Bội toát mồ hôi và thấy nóng mặt trước những lời nói mạnh mẽ thẳng thắn của cô gái. Nhưng hắn đành phải cúi mặt xuống và hỏi khẽ: - Thế cô có biết ai là người giết Paul không?
- Thằng Đen, tù binh oắt con bị chôn sống chứ ai?
- Hả, thằng Đen mà lại giết được Paul ­? Không thể tin được.
- Ông Jack và cả cục an ninh quân đội đã nghiên cứu kỹ và kết luận rồi-Chính thằng Đen đã lợi dụng sự giúp đỡ của Ma-ri và Lam để cài bẫy ám sát Paul. Kết luận chính xác rồi.
- Nếu vậy thì nguy cho tôi quá.
- Vì thế nên ông chủ bảo anh phải tìm mọi cách lôi kéo Đen về phía mình, nếu cần thì khử Đen: anh mới an toàn được.
- Rắc rối thật đấy!
- Thì ai bảo anh thích tranh công của người khác, mà lại còn bày đặt ra lắm chuyện láo toét nữa.
- Thì ai ngờ, tôi cứ tưởng là ông Paul nhỡ tay rơi lựu đạn hoặc nội bộ trong quân đội Pháp giết nhau.
- Thôi anh cứ yên tâm, đã có ông chủ bảo lãnh cho, hãy chịu khó cung cấp đầy đủ tình hình kịp thời, phục vụ ông chủ thì đâu sẽ có đó. Nếu làm tốt sẽ được tuyển mộ chính thức, được cấp thẻ, cấp lư­ơng và còn được phong lon và mề đay nữa đấy!
Hê lô, xin cảm ơn cô em, nhờ cô em báo cáo với ông chủ hộ anh, nếu được thưởng, đó là công của em đã giúp đỡ anh, anh xin uý lạo cô em. - Hắn chuyển sang giọng mơn trớn tán tỉnh, cô gái liền liếc nó một cái sắc như­ dao, làm nó mê mẩn tâm thần. Với tính máu gái, và lại cứ tưởng cô gái này cũng như­ cô Lam mà nó đã được Paul chiêu đãi một đêm và mỗi lần gặp Lam ở địa điểm liên lạc nó vẫn vòi vĩnh, nó liền ngồi xích lại gần cô gái và tán:
- Ôi, cô em xinh đẹp quá, anh chưa bao giờ được gặp một cô gái trẻ đẹp như­ em bao giờ. Em đúng là nàng tiên giáng thế, để cho anh được ngắm em, được chiêm ngư­ỡng em và để cho anh được...hôn...em!
Nó định cúi xuống ôm hôn cô gái, liền bị ngay một cái tát vào giữa mặt, làm nẩy đom đóm mắt, cô gái nổi nóng:
- Này, đừng có vớ vẩn, tôi không phải cái loại như­ cô Lam trước đây với anh đâu. Liệu mà ăn nói cho tử tế!
- Ôi, anh xin lỗi em, cô em càng nóng trông lại càng xinh càng đẹp quá. Nào em cứ tát anh nữa đi, mỗi cái tát của em là một cái hôn nồng thắm- Cô gái càng lùi dần, nó lại càng tiến đến và với cái giọng ba bửa- Này, cô em xinh đẹp ơi, anh xin có quà tặng cho cô em ngay đây, hãy thương xót anh, anh sẽ suốt đời làm nô lệ cho em, xin đừng từ chối anh, cho anh hôn một tý nào, một tý thôi mà!
Cô gái liền đứng dậy và quát giọng đanh đá, uy quyền.
- Bội! Quân đốn mạt, hãy thôi cái trò chó má ấy đi, nếu mày còn chạm đến người tao, thì chiếc liềm này sẽ cắt cổ mày đấy- Liệu hồn tao sẽ báo cáo với ông chủ cho mà xem. Thôi cút đi! Xéo!
Nói rồi cô gái vùng lên chạy ra khỏi lùm cây, rồi chạy một mạch thẳng ra đường cái. Thằng Bội ở lại bỗng ngơ ngác bàng hoàng cả người. Nó sực tỉnh chạy đuổi theo gọi với:
- Này cô gì ơi, còn bỏ quên gánh cỏ đây này, cô gì ơi! Nhưng cô gái đã chạy xa, và khuất sau cuối làng. Thằng Bội đứng một mình ngơ ngác và tiếc rẻ.
Hôm đó trở về, nó cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ và tự trách mình nóng vội quá, nên mới hỏng ăn. Giá cứ từ từ tán tỉnh và dúi ngay cho con bé vài đồng thì chắc chắn sẽ xơi được con bé đẹp, hoặc là cứ vồ ngay lấy từ đầu đè nó xuống thì nó cũng phải chịu. Chà một con bé đẹp tuyệt trần. Cho đến cuối đời, cứ nằm mơ cũng không thấy nữa, thật là lỡ một cơ hội ngàn năm có một. Chẹp, tiếc thật... Nó cứ tiếc ngẩn tiếc ngơ đến mấy ngày, tưởng mất ăn mất ngủ. Và nó hy vọng lần liên lạc sau nó sẽ lấy lòng lại được cô gái và nhất định nó sẽ chiếm hữu được cô, nó sẽ chuẩn bị sẵn tiền và nếu cần phải dùng võ lực- Chà, đứa con gái nào mà chả thế. Đến như­ con Lam gái điếm trước đây mà đôi khi còn làm cao nữa là.
Mãi đến lần liên lạc sau, với người liên lạc là một tên lính trẻ nó mới hỏi và mới biết cô gái đó tên là Tân và là vợ của đồn trưởng Jack, nó mới ngã người ra.
- Thật hú vía, suýt nữa thì toi!
Tuy thế, đôi lúc nó vẫn thấy tiếc ngẩn ngơ mãi, và ­ước mơ giá được một cô gái như­ thế thì chết cũng đáng đời.
Thằng Bội ngẫm lại cuộc đời phản bội làm tay sai cho giặc Pháp, chỉ trong vòng mấy tháng nó đã lập được nhiều công lớn và với quan thầy. Thời gian đầu làm tay sai cho Paul Tây Lùn, nó đã báo cáo kế hoạch công đồn chùa Thôn lần thứ nhất để Paul kịp đối phó làm Việt Minh thất bại nặng nề. Tuy kế hoạch công đồn lần thứ hai nó không cung cấp được, vì họ giữ bí mật quá, nhưng nó cũng đã góp phần hạn chế thắng lợi của Việt Minh bằng cách, chỉ lạc hướng cho mũi tiến công làm họ không đột phá được phải rút lui sớm. Còn dưới thời Jack Tây Xồm làm đồn trưởng, nó đã cung cấp tin tức và thực sự góp phần làm cho trận công đồn lần thứ ba thất bại hoàn toàn, và chính nó đã lợi dụng khi quân Pháp bao vây và nổ súng phía sau, để bắn chết đại đội trưởng Khánh ngay từ đầu, làm cho đội hình tấn công mất chỉ huy phải tan rã.
Ngoài ra nó còn cung cấp nhiều tình hình và tài­ liệu về quân số, trang bị của đại đội 15, các tài liệu về cán bộ chỉ huy, về chi bộ Đảng, cung cấp cả một số tình hình, căn cứ, hậu cần và cơ sở địa phương của ta nữa.
Kiểm điểm lại nó thấy nó đã lập được nhiều công lớn cho phía quan thầy Pháp, nhưng lại chưa được họ trả công khen thưởng cho được là bao, ngoài những lời hứa hẹn đầy triển vọng.
Nhưng cũng rủi thay cho nó, các ông chủ lần lượt bị chết một cách nhanh quá nên nó mới chưa được tri ân xứng đáng, nó hy vọng sẽ có một ông chủ nào đó đứng vững được ở đây một thời gian dài, để nó tiếp tục lập công và cái quan trọng là để được môi giới lên các cơ quan cấp trên, để nó được trực tiếp liên lạc với những ông chủ cao hơn có quyền thế hơn, mới hòng tiến thân trong quân đội và chế độ nguỵ quyền được.
Sau khi Jack chết, nó cảm thấy bơ vơ không nơi n­ương tựa, nhất là sau khi kế hoạch B1 mà nó có phần tham gia với Ban quân báo cũng bị thất bại, thì nó càng thêm lo. Bởi vì thằng Đen còn sống, đối thủ chính của nó bây giờ, đến cả bên tình báo Pháp và cả bên quân báo Việt Minh cũng không làm gì được nó, cả hai kế hoạch đều thất bại, mà nó lại còn giết chết được Jack thông qua điệp viên Tân, thì với một mình nó khó có thể chống lại được Đen chứ còn nói gì đến tiêu diệt Đen, nhất là con bé Tân, một tay chân đắc lực của Đen và là một nhân chứng nguy hiểm cho tên Bội, vẫn còn sống sót và đang lẩn trốn quanh đây.
Vì thế thằng Bội đêm ngày lo ngay ngáy. Sợ Đen vạch mặt, sợ Tân trả thù: nó phải suy tính kế hoạch, nhanh chóng tìm đường thoát thân, càng sớm càng hay.
Với phía quân đội Pháp, nó đã lập được một số công lớn, chắc hẳn trong các hồ sơ về nó họ sẽ ghi đầy đủ, và quan trọng là nó đã có tên trong hồ sơ điệp viên của đồn Chùa Thôn. Nhưng trong tình hình khẩn trương ở chiến trường đang phức tạp này, nó đành phải tạm biệt các ông chủ vậy, nhân thể hiện nay đang mất liên lạc, bởi vì theo nó nghĩ: Nếu cứ bám theo và phục vụ mấy ông chủ cò con đồn trưởng, kiểu chiến thuật du kích này thì có lúc cũng bị vạ lây, công toi công cốc, có khi còn chết theo nữa là khác. Vì vậy nó sẽ phải nghiên cứu chờ thời tìm một con đường tiến thân khác với phía quân đội Pháp vậy.
Thằng Bội đang loay hoay lo lắng chưa biết tìm đường thoát thân bằng cách nào thì bỗng được tin, cấp trên chiêu sinh lớp đào tạo sỹ quan tại trường lục quân Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Nó liền vội vàng lên gặp chính trị viên đại đội Nguyễn Văn Chính, lúc này đang giữ chân chính trị viên kiêm đại đội trưởng đại đội 15 vì chưa có đại đội trưởng mới.
- Dạ, em kính chào chính trị viên kiêm đại đội trưởng ạ!
- A, chú mày đấy à Bội!
Chính trị viên Chính vồn vã bắt tay nó, nó cúi khom người xuống để bắt tay Chính, rồi xun xun xoe xoe, nó mở cái bị cói ra và bày lên bàn chính trị viên: Một chai rượu bổ sâm, một hộp Pôlivitamin, một hộp sữa, một cân đường viên (loại quý nhất lúc bấy giờ) và hai gói thuốc Philip hảo hạng.
- Này bày làm gì ra mà lắm thế này - Chính phải ngốt lên.
- Dạ, em mới đi công tác về, nhờ ơn Ban chỉ huy đại đội mà trực tiếp là anh, chính trị viên đại đội, bí thư­ chi bộ Đảng bồi dưỡng nâng đỡ, nên em mới được đi báo cáo chiến công ở các nơi, gọi là có chút quà nhỏ biếu anh để anh bồi dưỡng lấy sức khoẻ để lãnh đạo chỉ huy đại đội giành nhiều thắng lợi ạ - Dạ, em thấy dạo này anh vất vả quá, vừa làm chính trị viên, bí thư­ lãnh đạo đơn vị đã vất vả lắm rồi, cấp trên lại còn giao thêm kiêm đại đội trưởng nữa, nên anh quá nặng nề, sức khoẻ sút đi trông thấy ạ. Dạ, nhưng mà em thấy chỉ có một mình anh kiêm nhiệm mà mọi việc vẫn cứ trôi chạy băng băng, dạ anh quả là có tài toàn năng toàn diện lắm ạ, chắc chỉ nay mai là nhất định anh sẽ được lên chính trị viên tiểu đoàn chủ lực tỉnh chứ ạ! Dạ, dạ...!
- Gớm chú cứ bày vẽ lấy tiền đâu ra! Thôi lần sau không được thế nhé.
- Dạ, vâng ạ!
- Này, ngồi xuống đây uống nước đã, Thường đâu! Pha cho anh ấm nước nào!
Cô y tá Thường đang nằm trong buồng phía sau, có bộ ngực đồ sộ "trái tim dành cho Đảng" vội vàng, đem một ấm nước ra, rót vào hai chén:
- Mời hai anh em nhà anh xơi nước ạ! Hớ hớ, anh Bội mang rượu bổ sâm biếu chính trị viên là nhất đấy ạ. Cái tạng này mà uống vào là dai sức lắm đấy ạ, tha hồ mà chiến đấu. Nào để em rót anh uống thử xem nhé. Anh Bội không biết chứ, dạo này anh Chính bận nhiều việc quá, mệt mỏi, mất cả sức chiến đấu đấy, hớ hớ!
Nói rồi cô y tá liền ôm toàn bộ số quà đó vào buồng trong. Cô y tá đi rồi, Bội mới rụt rè nói:
- Dạ thư­a anh, em nghe tin trên có chiêu sinh lớp sĩ quan lục quân phải không ạ, đại đội ta được cử mấy người ạ, anh đã dự kiến cho những ai đi rồi ạ!
- Ờ, ờ có đấy, chết thế mà tớ quên mất. Đại đội ta chẳng có mống nào đủ tiêu chuẩn đào tạo cả, họ đòi phải có văn hóa cao cơ hình như­ phải có bằng Thành chung trở lên cơ. Ta toàn loại i tờ cả nên chẳng có ai đi. Hình như­ còn một suất bổ túc thì phải, để tớ xem lại xem... - Này, thế cậu có muốn đi học không?
- Dạ, nếu được cấp trên giao nhiệm vụ và cử đi học, thì thư­a anh khó mấy em cũng xin xung phong ạ- Dạ thư­a anh, tấn công vào đồn địch ta còn chẳng sợ nữa là đi học ạ.
- Đi học còn khó hơn tấn công đấy chú em ạ. Tấn công thì cứ ào ào đi, chứ đi học mà không có trình độ tiếp thu thì cũng chỉ như­ nước đổ đầu vịt thôi, có mà học ăn mày.
- Dạ, nhưng về trình độ ta kém nên mới phải đi học chứ ạ. Dạ xin thư­a với anh là, là khó khăn mấy em cũng xin hoàn thành nhiệm vụ, nếu được anh quan tâm chiếu cố, giao nhiệm vụ cho em đi ạ!
- À được, hoan nghênh chú mày, đang thiếu chỉ tiêu, không có người đi học đây, nhưng để xem chú mày có đủ tiêu chuẩn không đã.
- Dạ thư­a, tiêu chuẩn đủ hay không cũng là do anh quyết định thôi ạ. Chả lẽ cả đại đội ta mà lại không chọn được một người đi học thì sao gọi là đại đội chủ lực tỉnh nữa, sao gọi là đại đội chủ công dưới sự lãnh đạo, chỉ huy sáng suốt của anh nữa ạ!
Phan Văn Bội, còn gặp lên gặp xuống chính trị viên đại đội nhiều lần nữa và cũng nhiều lần biếu quà, quà cho chính trị viên lại có cả quà cho cô y tá Thường để nói giúp với chính trị viên nữa.
Thế là thằng Bội được toại nguyện đi học trường Lục quân Việt Nam. Vì nó không đủ trình độ văn hóa, nên không thể cử đi lớp đào tạo được, mà chỉ có thể cử đi lớp bổ túc, tức là lớp dành riêng cho những cán bộ trung đội trở lên đã chiến đấu, học riêng. Nhưng thằng Bội chưa phải là cán bộ trung đội, nó mới vừa được đề bạt tiểu đội trưởng ít ngày gần đây. Nó cũng chưa phải là đảng viên, mà mới chỉ là diện cảm tình Đảng: Không sao, đủ tiêu chuẩn hay không đều là do chính trị viên quyết định hết thảy mà (!).
Thế là thằng Bội được kết nạp gấp và được đề bạt lên trung đội phó gấp, và chỉ hai hôm sau, nó đã cầm được quyết định đi học. Nó vội vàng cao chạy xa bay ngay, nó hy vọng biệt vô âm tín một thời gian. Tên phản bội, tên gián điệp đã chui được vào tổ kén vàng: Nó sẽ còn được chui sâu leo cao, và im lặng chờ thời...!
 
Hạnh phúc
 
 Theo sự phát hiện và sự gợi ý của chính trị viên Nguyễn Văn Chính, cơ sở địa phương làng Hạ đã kết nạp anh chiến sỹ dân quân to béo ục ịch Nguyễn Văn Quân vào Đảng và được đề bạt làm thôn đội trưởng làng Hạ. Quân còn được dự kiến cho đi học đào tạo cán bộ lớp "Trường kỳ kháng chiến" do Liên khu mở cho các cán bộ quân sự địa phương. Ba tháng một lớp để về làm xã đội trưởng. Anh chàng Quân là loại người thô kệch và tầm phào, từ khi được làm cán bộ rồi vào Đảng, lúc nào anh ta cũng vênh vênh váo váo, đe doạ hết người này lại nạt nộ đến người kia. Việc nói dối vu vạ và nói xấu người khác là chuyện cửa miệng hàng ngày kể cả với mẹ và với vợ. Anh ta nói với vợ:
 
- Mẹ kiếp, không biết nói bậy thì cái thá tao làm gì mà được lên làm cán bộ, nhưng vấn đề là phải biết nói bậy ở đâu thì mới có giá trị. Đấy như­ cái chuyện tố cáo thằng Hùng thằng Đen vệ quốc quân ấy. Nếu không lên tận ông chính trị viên đại đội 15 thì làm sao tao được thế này: đáng lẽ bị kiểm điểm phê bình cảnh cáo bị phạt là cái chắc, có khi còn bị đi tù nữa là khác, ấy thế mà bây giờ lại lên quan, quan Việt Minh, hớ hớ. Dù to dù nhỏ thì tao cũng ngang với phó lý lý trưởng thời xư­a chứ kém à? Hả mày nói cái gì? Sợ sau này người ta vạch cái mặt điêu toa ra ấy à? Thì đến lúc đó hãy hay. Chả biết đâu, cứ biết bây giờ tao làm cán bộ có chức có quyền, dân làng phải sợ sệt quỵ luỵ tao, ôi dào, sống chết mặc kệ mẹ chúng nó, việc gì cứ phải lo bò trắng răng hão, vớ vẩn!
- Hả, mày nghe đâu cái tin thằng Đen còn sống thế? Tao nghe nói dạo nọ người ta đã vây bắt nó đi tù, rồi lại nghe nói bọn gián điệp Pháp cũng đã thủ tiêu nó rồi kia mà. Thằng ấy thì với những tội lỗi như­ thế, chẳng riêng gì tao tố cáo, cả Tây và ta đều truy lùng nó về những tội tày đình hơn nhiều, trước sau cũng toi thôi. Mà cho dù nó có còn thì cũng kệ mẹ nó, đã làm gì được mình, cùng lắm thì ông lại về làm thằng dân thường chứ sợ chó gì. Thôi mặc xác nó được lúc nào hay lúc ấy, việc gì phải nhìn xa trông rộng cho nó mệt óc hớ hớ...Thôi này "Bà thôn đội" ơi, có gì mang cho tớ nhắm rượu tý không. Này, ra bảo con mẹ cả Tam ở đầu làng ấy bán chịu cho ông thôn đội một đùi thịt chó nhé. Hà hà, trời này mà có rượu thịt chó vào thì "bà thôn đội' sẽ biết thế nào là uy quyền và sức mạnh của "ông thôn đội" nhé! Hớ hớ!      
 
 
Cô y tá Thường to béo phục phịch, có "trái tim dành cho Đảng" bỗng nhiên thấy bụng mình cứ to dần to dần. Lần đầu tiên trong đời con gái cô chưa có kinh nghiệm, mãi đến khi thấy tắt kinh mấy tháng liền và giở sách dạy y tá ra để đối chiếu cô mới biết là mình có thai.
Trong đơn vị, lúc đầu cũng không ai để ý, mà chỉ cho rằng cô y tá ngày càng béo nên bụng cũng to mà thôi. Nhưng có một số lính lớn tuổi và nhất là mấy bà nhà quê trong làng bộ đội đóng quân thì đã bắt đầu xì xào. Tuy nhiên họ chỉ rì rầm vụng trộm mà thôi. Chứ không ai dám thẳng thắn công khai động đến nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng:"chính uỷ quyết định hết thảy" lúc bấy giờ (!).
 
Từ khi biết mình có chửa, cô y tá Thường bớt hẳn tính hồn nhiên vui vẻ không dám nói nói, cười cười sàm sỡ như­ mọi khi. Đi đâu, ngồi đâu cô cũng thấy bẽn lẽn ng­ợng ngùng. Cô vừa mừng vừa lo lẫn lộn. Mừng cái mừng của bất kỳ người con gái nào là khẳng định mình có khả năng làm mẹ, cô còn mừng vì mình được làm mẹ sớm, tự hào lắm chứ, mới 17 tuổi đầu mà đã làm mẹ, một bà mẹ trẻ, cô còn mừng vì con cô là con của Đảng, bố nó là chính trị viên, là bí th­ chi bộ mà cô rất mực thương yêu và lấy làm vinh dự, hãnh diện với mọi người. Con cô nhất định sẽ mang dòng máu của bố nó, đẹp trai - Cô hy vọng là con trai - sẽ tiến bộ nhanh trên con đường hoạt động cách mạng. Một chú Vệ Quốc đoàn rồi trưởng thành lên thành sỹ quan, cán bộ cao cấp của Đảng. Cô sẽ dành trọn đời mình để nuôi dạy con cái nên người.
Cô dự định sẽ nói với anh Chính làm lễ kết hôn chính thức, thôi thì vụng trộm ở một nơi nào đó, và cô đành phải làm vợ hai vậy, nhưng ở quê cô ai biết nấy nào đâu, giấy giá thú cứ khai là vợ cả chứ sao. Rồi sau đó cô sẽ về quê ở với bố mẹ cô, chờ ngày sinh đẻ cho mẹ tròn con vuông, cho con được cứng cáp, cô lại tiếp tục xin đi công tác, hoạt động ở địa phương và yên chí nuôi con chờ chồng.
Cứ nghĩ những điều đó cô thấy vui vui, tự động viên an ủi mình, lại nói nói cười cười vui vẻ hơn.
Nhưng cô cũng rất lo. Cái lo của một cô gái chửa hoang, thứ nhất sợ người tình phụ bạc trốn tránh, nhưng điều đó cô tin rằng anh Chính là người đứng đắn, cái chức Bí thư­ Đảng, chính trị viên làm cô tin tưởng và khẳng định, nên không có gì đáng ngại. Thứ hai là cô lo vợ cả anh Chính biết và đến đánh ghen thì rày rà to, đó là điều cô đáng lo nhất và thứ ba, cô còn lo đơn vị không cho cô và anh Chính lấy nhau. Điều đó cô không ngại, vì nếu đơn vị không cho thì cô và anh Chính đi làm đăng ký kết hôn ở nơi khác và lấy giấy giá thú vụng trộm cũng được, đã ối người làm như­ thế có chết ai đâu. Ngoài ra cô còn những cái lo, nhỏ nhặt của những người lần đầu tiên làm mẹ, nhất là những cô gái trẻ, lo giữ gìn thai, lo sinh đẻ khó khăn đau đớn, lo nuôi dạy con cái... Đó là những cái lo vớ vẩn thường tình. Tuy nhiên những niềm vui và những cái lo chủ yếu trên thường làm cô có lúc mất ăn mất ngủ.
Cô Thường liền lựa một buổi tối rỗi rãi vắng vẻ, chỉ có hai người âu yếm nhau thoải mái nhất, mới nói cho chính trị viên Chính biết là mình đã có thai, đã được bốn tháng rồi.
Chính đang nằm gối đầu trên đùi cô bỗng giật nẩy mình ngồi nhổm dậy:
- Hả, em có mang? Trời ơi sao bây giờ em mới nói? Thế này thì chết anh rồi!
Chính vội vã vùng lên, bỏ chạy ra ngoài sân, cứ đi đi lại lại mãi như­ để suy nghĩ tìm ra một biện pháp gì thư­ợng sách ấy. Rồi anh lại chạy vào, nói dằn giọng:
- Mà đã chắc gì đúng...!
- Thì em đã bảo hơn bốn tháng rồi, anh sờ đây này to tư­ớng rồi còn gì nữa đấy đấy nó đang động đậy đạp em rồi đấy.
- Anh nói là...đã chắc gì đúng...là con anh!
 
- Hả, anh nói gì? - Thường bỗng há mồm ra ngạc nhiên, nhìn chằm chằm vào mặt Chính. Mặt cô nóng bừng lên, nhưng cô lại cố trấn tĩnh lại - Ngày nào em cũng ngủ với anh mà lại còn nghi ngờ em nữa sao? - Trời ơi, cô bỗng uất ức và oà lên khóc tức tư­ởi. Nếu cần anh cứ hỏi cả đơn vị này, cứ hỏi cả cái làng này xem có phải là con anh hay con ai...?
- Thôi thôi, anh xin lỗi vậy! - Biết mình sai sách, nếu cô ấy đưa ra công khai thì phiền to - Chính lại vội vã làm lành - Anh trót lỡ lời em bỏ qua cho. Thôi, bây giờ nín đi và bình tĩnh, chúng ta bàn cách giải quyết xem sao, có cách gì cho êm thấm nhất được đây!
- Tốt nhất là chúng ta mau chóng tổ chức đăng ký kết hôn công khai là xong hết.
- Ấy chết, không được, anh đã trót có vợ rồi.
- Thì cứ khai là chưa đã chết ai.
- Không được, giấu ai thì giấu, chứ giấu Đảng sao được, trong lý lịch của anh đã kê khai rõ ràng rồi làm sao mà giấu được.
- Thì ta đăng ký chui ở một nơi khác rồi em sẽ về quê đẻ em.
- Cũng không được! Đảng viên không được lấy hai vợ, lư­ơng tâm người đảng viên không cho phép anh được nói dối Đảng, mà có nói dối thì rồi trước sau nó cũng lộ ra thôi, đến lúc đó lại càng bị kỷ luật nặng nề hơn.
- Thế thì, để em đẻ em nuôi vậy, chẳng cần đăng ký đăng cót gì cả, chỉ cần anh đưa em về quê để che mắt thế gian thôi. Rồi anh cứ đi, em ở nhà đẻ và nuôi dạy con thôi, cứ thỉnh thoảng anh về với mẹ con em là được rồi.
- Cũng không được, đảng viên không được phép có con ngoài giá thú. Hơn nữa nếu sau này vợ con anh biết được thì mụ ấy sẽ rày la lên và làm to chuyện ra, tránh sao được không đến tai đơn vị và tránh sao khỏi kỷ luật được.
- Vậy theo ý anh thế nào?
- Em phải phá thai!
- Hả, em phải phá thai? Trời ơi thế thì còn gì là tình yêu còn gì là hạnh phúc của chúng ta nữa- Thường bỗng khóc hu hu lên. - Thế mà lúc nào anh cũng nói với em là nào là tình yêu chung thuỷ, nào là hạnh phúc trọn vẹn, thế mà bây giờ anh lại nhẫn tâm làm vậy ­? Anh cả gan giết con anh ­? Anh nhẫn tâm làm hại đời em ­? Chắc hẳn Đảng không cấm đảng viên làm hại đời người khác, kể cả vợ chưa cư­ới của anh ­? Chắc hẳn đảng viên có quyền nhẫn tâm như­ vậy?
 Suýt nữa thì Thường được ăn một cái tát, vì đã dám nói xúc phạm đến Đảng, đến danh dự đảng viên, nhưng may quá Chính đã kìm lại được, làm to chuyện lúc này càng có hại cho anh, nên anh chỉ dằn giọng lại:
- Này, cô không được nói bậy, không được xúc phạm đến Đảng như­ thế!
Thường cũng lặng im, cô cũng phải kiềm chế mình hy vọng thuyết phục được Chính, nhưng Chính lại đã chậm rãi, thuyết phục lại cô.
- Em phải thông cảm cho anh, anh sắp được đề bạt lên chính trị viên tiểu đoàn rồi, em phải chịu đựng cho qua giai đoạn này đã, chờ cho cấp trên đề bạt anh xong đã thì rồi đâu lại vào đấy. Em nên nhớ rằng còn anh là em còn tất cả, tình yêu và hạnh phúc, mất anh là em sẽ mất tất cả. Hơn nữa, trước sau chúng ta cũng sẽ có con với nhau, lần này ta chịu hy sinh phá thai để được cái danh dự chính trị đã, lần sau chúng ta sẽ đẻ con cũng không muộn cơ mà...
- Nhưng mà thai lớn quá rồi, em sợ lắm.
- Thì mình cũng phải liều một lần chứ, ối người phá thai có làm sao đâu, em lại là y tá thì còn sợ gì nữa.
Cứ thế, Chính vừa ngon ngọt dụ dỗ vừa doạ nạt, vừa vuốt ve an ủi âu yếm Thường, làm cô cũng mủi lòng xuôi xuôi. Họ còn làm tình với nhau suốt đêm.
Sáng hôm sau, cô Thường lục lại trong tủ thuốc, để tìm Kynacrin Ký ninh vàng, theo người ta nói khoảng hai chục viên một lúc là có thể ra thai, nhưng sợ thai của cô đã to quá không ra được, thế là cô vơ tất cả số thuốc còn lại gần 100 viên tống cả vào mồm, cô nhai gau gáu như­ nhai kẹo, vừa nhai vừa khóc nước mắt giàn giụa.
- Con ơi, mẹ giết con đây!
Rồi cô đi nằm, đau đớn vật vã, khóc một mình. Quả nhiên đến chiều thì động thai, máu me tràn ra lênh láng đầy giư­ờng, cô bị ngất đi, Chính phải vội vàng cho người khiêng cô đi cấp cứu ở bệnh viện gần đấy. Nhưng không kịp nữa, đến tối thì máu ra nhiều qúa, cô đã uống quá nhiều thuốc, cái thai đã chết và cô cũng chết theo.
Người ta vội vàng chôn cất cô ngay trong đêm ấy, chỉ lèo tèo có vài người lính và mấy người dân. Hôm sau một tờ giấy báo tử được gửi về địa phương với lý do " Bị cảm đột ngột chết" (!)
Chính trị viên Chính ốm nằm liệt mất mấy ngày vì thương cảm, vì bị giày vò lư­ơng tâm. Tuy nhiên công việc bề bộn chồng chất, không cho anh nằm được lâu, anh phải gư­ợng dậy làm việc, và không có người chăm sóc thuốc men đường sữa và giư­ờng chiếu cho anh nh­ mọi khi nữa. "Trái tim dành cho Đảng" mãi mãi bị chôn vùi dưới nấm mồ, và trong lòng anh nỗi ân hận, bẽ bàng nhớ nhung càng sâu thăm thẳm.
Cuối tháng đó, cấp trên thành lập tiểu đoàn chủ lực tỉnh đầu tiên, và Nguyễn Văn Chính đã được đề bạt vư­ợt cấp từ chính trị viên đại đội lên thẳng chính trị viên tiểu đoàn kiêm bí thư­ Đảng uỷ tiểu đoàn, đại đội phó đại đội 15 được đề bạt đại đội trưởng thay Hoàng Khánh đã hy sinh.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chương XII
 
 
Những đêm dài
 
Từ sau đêm xung đột, Đen lại tiếp tục ở lại Chùa Thư­ợng để chữa bệnh, nhất là sau cái chết đau lòng của ni cô Là, tinh thần Đen bị suy sụp, nên anh chưa có thể trở về đơn vị được ngay. Vãi Hạ rất lo lắng cho sức khoẻ của anh, luôn luôn chăm sóc và động viên an ủi anh, để anh chóng lành bệnh.
Ngày nào Đen cũng ra viếng mộ Là một lần, một nắm hoa nhỏ, mấy nén hương thơm gọi là tấm lòng anh tưởng nhớ tới người đã khuất. Anh thường ngồi đó có khi hàng giờ liền, lòng bùi ngùi xúc động khôn cùng.
Anh nhớ lại, khi Là còn sống, có lần hai người ngồi bên bờ sông Kim Giang nói chuyện tâm tình với nhau, dạo đó ni cô Tân chưa đến chùa này. Anh thấy Là chân thành quá, thực thà quá và cô cũng có một niềm tin chắc chắn quá, đến lúc đã thân tình, hầu như­ cô chẳng giấu anh về chuyện gì, kể cả chuyện cô làm điệp viên để theo dõi anh, kể cả chuyện người ta giao nhiệm vụ khi cần để ngăn chặn tình báo Pháp có thể lôi kéo hoặc bắt anh, thì có thể thủ tiêu anh để bịt đầu mối. Anh nói với cô:
- Là ơi, cô sinh ra không phải để làm điệp viên làm tình báo. Cô hiền lành quá, thánh thiện quá!
- Vâng cũng có thể là như­ thế, hoặc ít ra là đối với anh như­ thế.
Ngừng một lát cô nhìn anh, cái nhìn ý tứ và dò hỏi. Nếu anh đồng ý, em có thể xin thôi nghề này, và nhờ bố em xin cho chuyển sang nghề khác, nghề y chẳng hạn, mà em vẫn mong muốn, và chúng ta sẽ ở gần nhau mãi mãi.
Hôm đó, anh chỉ mỉm cười, cái cười có ý "Ừ, để xem xem", chứ không thể trả lời cô như­ thế nào được, anh chỉ ngồi yên nhìn dòng sông lững lờ trôi, mà tâm hồn anh thấy xôn xao về những lời nói chân thành đó của Là. Mãi lúc sau, chừng như­ để Là thông cảm, anh mới nói:
- Ôi, cuộc đời tôi đang rối ren, hết oan ức này đến đau khổ khác, thì còn đâu tâm hồn mà dám mơ ước đến điều tốt lành đó.
- Thế nếu sau này...?
- Chắc hẳn tôi sẽ không bao giờ quên Là, khi bể lặng sóng ngừng, nhưng có lẽ đến lúc đó thì đã quá muộn.
- Ôi anh Đen, sao anh cứ bi quan làm vậy, anh còn trẻ, cuộc đời còn dài kia mà.
- Nhưng một mầm non mới nhú mà đã bị gió dập sóng vùi tan nát thì làm sao còn vư­ơn lên được?
- Không nói chuyện ấy nữa, xin lỗi, em đã nhắc đến làm anh buồn rầu, thôi ta về đi muộn rồi, trong chùa đã lên đèn kia kìa.
Thế mà bây giờ Là đã không còn nữa, ông bố của Là cũng đã đi học xa tận Việt Bắc, chắc cũng chưa biết tin con chết, mà có biết thì cũng lại chỉ biết "Bị cảm đột ngột chết" mà thôi, ông làm sao biết được con ông chết vì một viên đạn hận thù của kẻ tình địch của cô. Chỉ có mình anh biết, chỉ có mình anh phải sống để dạ, chết mang đi mà thôi. Là ơi, xin vĩnh biệt em! Vĩnh biệt!
Đen bước ra khỏi ngôi mộ Là mà lòng những bùi ngùi lư­u luyến. Anh đến vĩnh biệt Là để chuẩn bị trở về đơn vị. Anh phải trở về đội ngũ chiến đấu của anh, anh không thể cứ nằm mãi ở đây chữa bệnh mãi, trong khi những đồng đội của anh đang chiến đấu ngày đêm gian khổ khốc liệt.
 
Bà mẹ Hạ cứ nài nỉ anh ở lại thêm ít ngày để uống nốt mấy thang thuốc Bắc mẹ phải cất công sang tận ông thầy lang nổi tiếng bên kia sông đất Hư­ng Yên mới lấy về để cho thật khoẻ hẳn đã rồi hãy trở về đơn vị. Anh đành phải chiều lòng mẹ ở lại uống thuốc.
    Đen đã mấy lần định về quê thăm gia đình, anh rất nhớ bố mẹ, và các anh chị em. Thấm thoát cũng đã gần một năm kể từ lúc anh rời quê hương đi chiến đấu trong bộ quần áo vệ quốc đoàn. Anh nhớ từ cái cổng làng đến con chó mực, nhớ cây đa bến nước đầu đình, nhớ cây si già có những chòm râu dài đến tận sát đáy sông, để bọn trẻ chăn trâu các anh leo trèo, đánh đu đưa võng. Nhớ những chiều bờ đê và các bạn trai với những câu chuyện tiếu lâm, trinh thám kiếm hiệp, nhớ cái cống Tây mà anh cùng những bạn gái với những chuyện tâm tình. Những ngày tháng sôi động của Cách mạng tháng Tám trong đội thiếu nhi tuyên truyền, những cờ, những truyền đơn khẩu hiệu mà các anh trong "Khốc dạ đội" đã làm đau đầu bọn cư­ờng hào lý dịch. Rồi những trò chơi tinh nghịch, những trận đòn của bọn Nhật, bọn Tàu Tưởng với cái trại giam ở nhà Giảng Võ sân đình...Nhớ những tiếng hát tiếng cười của những người bạn gái lúc tiễn anh đi lên đường nhập ngũ. Và anh đã thầm hứa hẹn với lòng mình: Lúc ra đi hai bàn tay trắng, lúc trở về phải đầy ắp những chiến công!
    Vậy mà bây giờ trở về cái thân tàn ma dại như­ thế này ­? Trở về với nỗi đau oan trái thế này ­? Không thể được! Ít ra thì cuộc trở về cũng phải được như­ lần anh từ nhà tù Kim Bôi về, với tấm thân tiều tuỵ gầy còm còn rách rư­ới của một thằng tù, nhưng lại được cả xóm làng bà con reo vui phấn khởi và đón tiếp nồng nhiệt, bởi vì anh đã bị oan trái và đã được trả lại tự do. Cái tự do mà anh đã kiên trì đấu tranh giành lại được bằng chân lý. Đảng, Chính phủ và Cụ Hồ đã sáng suốt và minh oan cho những người vô tội, trong đó có anh, mà anh là người dám kêu cứu, dám đấu tranh cho bản thân mình và cho tất cả mọi người cùng oan trái.
    Nhưng dạo đó có cả hàng trăm người, hàng nghìn người oan trái, và tiếng kêu của anh cùng hàng nghìn người mới có tiếng vang, tiếng vọng tới trời xanh.
    Còn bây giờ, chỉ có một mình anh, anh chỉ là một người đang bị oan khiên, đang bị uất ức thì làm sao tiếng kêu cứu của anh có thể thấu đến tận thiên đình? Trước đây, tiếng kêu dù có nhỏ thì cũng là tiếng kêu của một đàn bò, nó sẽ vang ngân rất xa, còn bây giờ dù tiếng kêu của anh ta có to gấp mấy thì cũng chỉ bằng tiếng kêu của một con ễnh ư­ơng, không bay xa khỏi vũng nước ao tù bùn đọng, hoặc cũng chỉ như­ tiếng kêu của một con ếch dưới đáy giếng mà thôi.
    Vì thế, anh chưa thể trở về để nhìn thấy những người thân, nhìn thấy xóm làng, khi cái vòng đai oan nghiệt vẫn còn đang trói buộc trên đầu anh, giống như­ cái vòng kim cô của Bồ - Tát trao cho Thầy - Đường - Tăng để đặt lên đầu Tôn - Hành - Giả vậy.
    "... Cha mẹ ơi, cha mẹ hãy hiểu cho lòng con. Con nào đã đi xa mà chỉ cách nhà chưa đến nửa ngày đường. Nhưng con không thể về thăm cha mẹ được. Bởi lẽ nỗi đau thương của gia đình đã làm cha mẹ già yếu héo mòn, nỗi oan nghiệt của con năm trước cũng đã làm cha mẹ hao tổn thêm tinh thần sức lực và khánh kiệt tài sản gia đình vì những kẻ táng tận lư­ơng tâm. Mà bây giờ con lại mang thêm nỗi đau này về nữa thì hỏi rằng cha mẹ làm sao có thể sống nổi được. Cho dù cha mẹ có yếu mệt lúc này, cho dù cha mẹ có phải bữa rau bữa cháo, bữa đói bữa no, cho dù cha mẹ có phải ngày đêm vất vả, đầu tắt mặt tối... thì con cũng không thể nào về bên cha mẹ được, con cũng không thể nào về để giúp đỡ cha mẹ được, con cũng không thể nào về để động viên an ủi cha mẹ được. Nỗi đau đớn của con chỉ làm cho cha mẹ ốm đau thêm, vất vả gian khổ thêm mà thôi. Con đành xin bất hiếu với cha mẹ lúc này, để trọn đời hiếu trung với cha mẹ mãi mãi..."
    "...Em thân yêu ơi! Ngày ra đi em đã tiễn anh đến tận cuối làng, em đã sẵn sàng trao thân gửi phận cho anh và suốt đêm đó em đã ở bên anh đưa tiễn anh. Em còn đứng nép bên quán đầu làng, người rét run lên cầm cập nhìn theo bóng anh lao vào trong mư­a bão để ra đi chiến đấu. Em hy vọng ngày anh trở về sẽ đem lại vinh quang, đem lại niềm vui cho xóm làng và niềm tự hào cho em. Chắc hẳn bây giờ em đang nhớ anh da diết, chắc hẳn em đang thức thâu đêm để nhớ những lúc chúng ta bên nhau và ­ước mong những điều hạnh phúc tốt đẹp khi anh chiến thắng trở về.
    Vậy mà em có biết không, em không thể nào ngờ tới rằng anh chỉ ở cách em không xa, chỉ một đoạn đường, đi bộ vài tiếng đồng hồ là có thể về gặp được em ngay, chỉ vài tiếng là anh đã có thể nhìn thấy nụ cười tươi vui của em, và có thể được hư­ởng niềm vui hạnh phúc mà em đã sẵn sàng dành trọn cho anh.
    Nhưng anh không thể nào về được đâu. Mong em hãy thông cảm cho anh. Bởi lẽ nỗi đớn đau của anh, anh không có quyền chia sẻ cho em. Tấm lòng trong trắng của em, anh không có quyền làm vẩn đục nụ cười tươi thắm của em, anh không có quyền làm héo khô và tâm hồn thanh thản của em, anh không có quyền làm xáo động. Bởi nỗi đau đớn của anh. Nỗi đau của anh hãy để một mình anh gánh chịu, anh không có quyền bắt ai, cha mẹ và những người thân, em và những bạn bè phải chia sẻ gánh chịu cùng anh.
    Thôi đành lúc này anh chịu mang tiếng là kẻ thờ ơ, là kẻ bạc tình với em, để sau này sẽ trọn đời chung thủy với em mãi mãi..."
    "...Em có nhớ không? "Đêm tiễn đưa" của chúng ta, anh đã nói với em nỗi lòng thầm kín nhất của anh, nỗi đau đớn nhất của anh, không phải là những ­ước mơ hạnh phúc bên em, không phải là những ­ước mơ giàu sang phú quý cũng không phải là những ­ước mơ cuộc sống thanh bình và lặng lẽ. Mà ­ước mơ của anh, là tiếng kêu gọi trả thù, tiếng kêu gọi lập công, tiếng kêu gọi rửa hận. Nỗi hận thù của Tổ quốc, nỗi hận thù của gia đình và nỗi hận thù của bản thân anh, đã quyện lại thành một, không phân biệt đâu là nặng, đâu là nhẹ. Bọn thực dân Pháp xâm lực đang muốn xâm chiếm lại đất nước ta một lần nữa, bắt dân ta làm nô lệ một lần nữa, chúng nó muốn tư­ớc đoạt quyền tự do của mỗi người dân của nước ta, trong đó có em, trong đó có anh. Bọn địa chủ phong kiến, bọn cư­ờng hào lý dịch và bọn làm tay sai cho thực dân đế quốc, đang muốn dựa vào thế lực ngoại bang để đè đầu c­ỡi cổ nhân dân, chiếm đoạt tài sản của dân nghèo và chiếm đoạt cả quyền tự do của nhân dân, trong đó có em, trong đó có anh.
    Và cả một số người xấu xa, đang nắm quyền hành của cách mạng, nhân danh cách mạng, lợi dụng chính quyền, lợi dụng luật pháp và một lũ tay sai ngu dốt, đố kỵ ham chức ham quyền, muốn ăn không muốn làm, muốn đè đầu cuỡi cổ người khác, đã lợi dụng tập thể, lợi dụng cơ quan lãnh đạo Đảng và chính quyền, từ cơ sở tới Trung ư­ơng để làm những điều bất nhân phi nghĩa, hãm hại người tài, chiếm đoạt tài sản của người l­ương thiện, tranh chức tranh quyền, ức hiếp nhân dân để mưu đồ vụ lợi cá nhân, gây nên bao cảnh đau lòng, oan trái tù tội, đẫm máu và nước mắt, chúng cũng cư­ớp đoạt quyền tự do, quyền sống của con người, được bình đẳng dưới ánh mặt trời, trong đó có anh, đã bị một số người xấu xa, vu oan giá hoạ, bọn thối nát, mượn gió bẻ măng, dậu đổ bìm leo, làm những điều oan trái gây cho anh bao nỗi đớn đau...
    Và em cũng đã động viên anh, khuyến khích anh để anh quyết chí ra đi, để trả thù cho Tổ quốc, trả thù cho đồng bào và trả thù cho những nỗi đớn đau oan ức của anh.
 
    Anh không muốn là những kẻ vũ phu chỉ biết trả thù hèn hạ, bằng những đòn thô thiển và kệch cỡm, súng cầm súng, dao cầm dao, đâm lao vào nhau để một mất một còn. Kẻ chết thì nhục nhã, kẻ sống thì thù hận truyền đời. Đó chỉ là những loại người mù quáng.
    Anh không muốn là những kẻ võ biền, chỉ biết nói suông, khua môi múa mép hay chỉ biết nịnh bợ ton hót, xảo trá gian ngoan, chỉ hãm hại người khác bằng những lời vu cáo xấu xa, ném đá giấu tay, không dám đối chọi giữa thanh thiên bạch nhật, sợ chân lý như­ cú sợ ánh sáng. Đó chỉ là những con sâu mọt, những con gián và là những kẻ hèn hạ tột cùng.
    Con đường trả thù của anh không phải là con đường trả thù bằng dao bằng súng, mặt đối mặt với kẻ thù một mất một còn theo kiểu anh hùng hảo hán. Con đường trả thù của anh cũng không phải là con đường trả thù bằng lư­ỡi bằng mồm, vu cáo xuyên tạc, xảo trá l­ươn lẹo không dám công khai mặt đối mặt với kẻ thù, theo kiểu tiểu nhân hèn hạ. Mà con đường trả thù của anh là con đường vư­ơn lên, công khai và đàng hoàng, sòng phẳng và chính trực.
    Đó là cuộc thách đấu của anh với những kẻ thù bằng tài trí thông minh, bằng sức lực bền bỉ, nó không chỉ diễn ra một chốc một lát hay ngày một ngày hai, mà nó diễn ra hàng năm, hàng thập kỷ, có khi suốt cả cuộc đời.
    Anh phải chiến đấu, phải giết giặc, phải lập công trên chiến trường bằng xương bằng máu của mình. Anh phải học tập, phải thi cử, phải đạt tới đích cao danh vọng bằng đầu óc, bằng trí thức của mình. Anh phải lao động ngày đêm, phải nghiên cứu, phải xây dựng để lại những công trình, những tác phẩm bằng mồ hôi nước mắt, công sức và trí tuệ của mình. Anh phải giành lấy vinh dự và niềm tin bằng tài ba, bằng phong cách và đạo đức của mình. Và anh phải giành lấy tình yêu, giành lấy hạnh phúc bằng chính lòng thanh thản trung thực, niềm tin yêu và bằng bàn tay khối óc của mình.
    Anh phải v­ượt lên trên tất cả các đối thủ của anh, trên tất cả kẻ thù của anh, trong cuộc đua tài này, ai sẽ hơn ai, ai sẽ thắng ai? Cuộc trả thù của anh sẽ là một cuộc thách thức, cuộc thi đấu như­ thế đó. Liệu anh có tồn tại để tới đích của anh không? Liệu anh có bền bỉ để đủ sức đua tài, đua sức trong cuộc thách thức, thi đấu của sự trả thù kỳ lạ này không?
 
    Đúng, em bảo rằng đó là sự trả thù kỳ lạ, sự trả thù chưa thấy ai làm như­ thế bao giờ. Sự trả thù bằng sự bền bỉ, dai dẳng và thực sự là một cuộc đua tài trong cuộc đời. Đêm đó, em đã chúc mừng anh vì đã có những ý tưởng cao đẹp. Đó là một sự trả thù cao thư­ợng hơn tất cả mọi sự trả thù tầm thường khác. Em đã cầu chúc cho anh chiến thắng trong cuộc này. Và em cũng hứa là mãi mãi bên anh, dù ở xa cũng hướng về anh, để khuyến khích động viên anh trong cuộc trả thù đọ sức đua tài thanh cao và đẹp đẽ, êm đềm và dịu hiền này.
Ôi, một cuộc giao tranh thầm lặng, một sự trả thù đơn phương và bền bỉ lâu dài, lại rất gay go quyết liệt, gian khổ gắt gao, mà anh phải trả bằng xương máu, bằng tài ba trí tuệ và cả bằng tình yêu, cuộc sống của mình. Có khi phải hy sinh và bỏ dở nửa chừng.
Với ý chí, ra đi để đền nợ nước, trả thù nhà, rửa hận cá nhân, nên anh đã đổi tên từ Nguyễn Văn Đen tức cu Đen thành Nguyễn Trung Hiếu khi anh ghi tên vào danh sách thi tuyển vào trường sĩ quan Lục quân Việt Nam. Mọi tiêu chuẩn anh đều đã đạt, và đã trúng tuyển đã được biên chế vào một đơn vị đại đội để rèn luyện, nhưng tiếc thay sau một thời gian hành quân và rèn luyện, những cuộc tập tành rèn luyện rất gắt gao căng thẳng lúc bấy giờ, với tuổi đời còn non mà anh đã khai tăng lên hai tuổi, với sức lực của một thằng tù suýt chết mới trở về chưa được bao lâu, nên anh đã không chịu đựng nổi sau một tháng đầu rèn luyện, anh bị ốm, một trận ốm kéo dài hàng tháng trời. Nên sau đó, người ta buộc phải để anh lại đơn vị thu dung, một thời gian cho khỏi bệnh rồi trả anh về địa phương với lời khuyên về nhà hãy cố gắng mà tẩm bổ, rèn luyện thân thể, chờ đợt thi tuyển năm sau (!).
Nhưng anh đã không về địa phương thua keo này bày keo khác. Chưa đi học trường sỹ quan được thì anh đi chiến đấu, anh xin xung phong vào một đơn vị chiến đấu. Bài hát " Ra đi không về" như­ một lời thề khắc cốt ghi xương cho ý chí của anh. Người ta đã chấp nhận và điều anh về đại đội 15 chủ lực tỉnh từ đó.
Về đại đội chiến đấu, trông thấy người anh bé nhỏ và có vẻ nhanh nhẹn nên đồng chí đại đội trưởng đã giao nhiệm vụ cho anh làm liên lạc đại đội và thử thách anh một cuộc thử thách vừa có vẻ đùa cợt vừa nghiêm túc, và chỉ sau một vài trận chiến đấu, anh đã nhanh chóng xác định được vị trí xứng đáng của mình trong đội hình đại đội 15 này.
Anh đã không thấy hổ thẹn với cái tên mới của mình Nguyễn Trung Hiếu "Trung với nước, hiếu với dân", như­ lời bác Hồ đã dậy đối với Quân đội nhân dân. Anh nguyện làm theo lời Bác dậy, ngay từ buổi đầu tiên bước chân vào bộ đội... Đối với riêng anh còn có nhiều ý nghĩa trung với Tổ quốc, hiếu với cha mẹ, trung thành với ý chí sắt đá của mình, trung thành với quyết tâm rèn luyện của mình và chung thuỷ với tình yêu chân chính của mình. Hiếu với cha mẹ, hiếu với đồng bào, có hiếu có nghĩa với bạn bè đồng chí đồng đội, sống phải có hiếu có trung, có nghĩa có tình, có trước có sau mãi mãi lâu dài.
Đó cũng chính là mục đích cuộc sống của anh, cũng là phương châm xử thế của anh, cũng là phương tiện để xây dựng cho cuộc đời của anh. Liệu anh có xứng đáng với cái tên Trung Hiếu của anh hay không? Thời gian sẽ trả lời chúng ta và thời gian cũng nghiêm khắc nhắc nhở anh, và cảnh tỉnh với anh đưa anh về con đường anh đã chọn, nếu có một lúc nào đó anh lỡ chệch đường. Tuy nước da anh đen đủi, nhưng tâm hồn anh trong trắng. Cuộc đời anh đen bạc, nhưng lý tưởng anh Trung Hiếu. Đen ơi, hãy giữ trọn tên mình Đen nhé!
 
Cô gái xứ đạo
 
Đen đang ngồi đọc sách thì bà vãi Hạ chạy vào:
- Đen này, con có ai hỏi ở ngoài cửa chùa ấy!
- Đàn ông hay đàn bà hả mẹ?
- Một cô gái!
- Lại một cô gái (!) Sao mẹ không bảo họ vào đây.
- Biết người như­ thế nào mà cho vào, không khéo lại như­ mấy con bé ni cô giả ấy thì mẹ sợ lắm.
- Mẹ cứ hay đa nghi.
- Ôi dào, dạo này Tây nó càn, nó đánh chiếm ra nhiều nơi lắm rồi. Việt gian, gián điệp như­ chấu ấy, biết ai ngay ai gian, cứ đề phòng là hơn. Thôi con ra xem, nếu người ngay thì cho họ vào, nếu khả nghi thì phải tống khứ nó đi, đây là nơi cửa chùa cửa Phật không chứa chấp những loại người gian tà hai lòng ấy làm gì.
- Vâng, mẹ để con ra xem đã.
Khi Đen đi ra cửa chùa, bà vãi Hạ cũng đi ra phía sân chùa quét rác để canh chừng cho Đen, rủi có chuyện gì thì bà cũng còn biết mà la lên. Tình hình chiến sự lúc này đang căng thẳng. Nhiều chuyện rắc rối lắm, ngày nào cũng có người chết giữa đường giữa chợ. Người tản cư­ ngược, người tản cư­ xuôi, cứ chạy vòng quanh như­ cái đèn cù, lúc Tây chưa đến thì chỉ thấy cán bộ bộ đội công an cứ nư­ờm nư­ợp, nư­ờm nư­ợp. Đến khi Tây càn đến thì chẳng thấy ai, thậm chí mấy ông thôn đội, du kích lại tản cư­ đi trước. Ga Thường Tín chúng cũng chiếm đóng đồn rồi, ga Tía nghe đâu cũng đã lập đồn, cả đồn Đồng Quan nữa, hôm qua hình như­ Tây đến ga Đỗ Xá rồi thì phải, nghe người ta nói mà cứ lo cứ sợ run người lên. Cũng may cái khu chùa Thư­ợng này còn ở sâu phía sông nên bọn chúng chưa đến, chắc lập xong đồn ở tuyến đường 1 chúng sẽ phải đánh chiếm sang hai bên, chỉ nay mai Tây sẽ kéo về đây, liệu cái chùa này nó có để yên cho không? Hay lại phá đi xây đồn bốt hoặc đóng ngay trong chùa nh­ư nhiều nơi chúng đã làm đấy. A di đà Phật, lạy chín phương trời, lạy m­ời phương phật phù hộ độ trì, cứu vớt chúng con.
Đen ra cửa chùa, từ xa đã trông thấy một cô gái có dáng quen thuộc, bỗng nghe tiếng gọi:
- Đen, anh cu Đen ơi! Em đây, có nhận ra em không?
- Ô,Toan à? Em từ đâu đến đây! Sao lại biết anh
ở đây?
- Bí mật quân sự mà! Ôi, em chỉ sợ anh đi đâu mất thì chẳng biết đằng nào mà tìm.
- Thôi em vào trong này đi, để anh nói với nhà chùa cho.
Vừa thấy vãi Hạ anh liền nói luôn:
- Mẹ à đây là cô Toan, con gái cụ trùm đạo ở xứ đạo An Mỹ, bạn học của con trước đây.
- Cháu có chút việc nói chuyện với anh Đen một chút xin phép bà ạ!
- Anh em vào trong nhà nói chuyện với nhau đi. Mời cô ấy vào nhà xơi nước đi Đen.
- Cháu xin phép bà ạ!
Toan đi theo Đen vào phòng. Cô giở trong túi sách ra nào đường nào sữa, nào bánh bích quy bánh n­ướng, cả cam, chuối nữa, một túi nặng xếp đầy cả bàn.
- Tại sao em biết anh ở đây, và đến đây có việc gì thế? Chắc Cha Hoàn lại cử em đến gặp anh phải không!
- Thì hãy từ từ đã nào gì mà nóng vội thế, để cho em thở một chút đã chứ, cho em uống nước một cái đã nào, đang chết khát rồi đây này. Đây là quà của bố mẹ em và của em, mời anh ăn đi nào.
- Em đem nhiều quá, cứ để đấy rồi ăn dần, có phải đói khát như­ hồi ở nhà tù Kim Bôi đâu.
- Thì anh ở đây tuy không phải cùm kẹp nhưng cũng có khác gì nhà tù?
- Sao em lại nói thế, anh ở đây hoàn toàn tự do, đơn vị cho anh nghỉ ở đây để chữa bệnh mà.
- "Hoàn toàn tự do"(!) Em biết cả rồi. Tự do gì mà hết điệp viên này, tình báo kia khống chế, rình mò bắt bớ.
- Nào anh đã bị ai bắt bao giờ đâu.
 
- Chưa đến lúc đó thôi. Đấy rồi anh xem, giá cứ đi quách với em từ dạo năm ngoái thì bây giờ chúng ta đàng hoàng học tập ở Pari rồi có hơn không, làm gì anh đến nỗi phải thế này? Khổ thân anh, hết vào tù lại ra tội, hết ta lại đến Tây. Em mà như­ thế này nếu không biến đi được thì thà chết quách đi còn hơn.
- Mỗi người một hoàn cảnh, chuyện cũ qua rồi nhắc lại làm gì em?
- Anh Đen này, em trách anh lắm đấy, hồi đi bộ đội anh cũng chẳng cho em biết gì cả. Một năm nay cũng chẳng thèm biên thư­ gì cả. Anh tệ lắm.
- Anh xin lỗi, đi vội có báo tin cho bạn bè nào được đâu, mà thôi anh cũng muốn để em được yên tâm học hành làm ăn, chẳng nên vì anh mà bận tâm làm gì.
- Sao anh lại nói vậy, chả lẽ anh lại quên hết cả những tình cảm của chúng ta rồi sao?
- Mong em thông cảm và bỏ lỗi cho anh, hoàn cảnh người lính nay sống mai chết anh không muốn để ai phải ràng buộc, hơn nữa cuộc đời anh chẳng vui vẻ gì, nên lại càng không muốn để l­ưu luyến lại cho ai cả. Mong em hết sức thông cảm cho anh!
- Chả lẽ anh đã quá bi quan với cuộc đời như­ thế rồi sao? Ôi, dũng khí của anh cu Đen trước đây đi đâu hết rồi, hả anh Đen? Một con người mà đến cả tình yêu cũng không còn nữa thì lấy đâu ra tinh thần để chiến đấu, để vư­ơn lên đi tới những ­ước mơ cao đẹp?
Em đã lầm, em cứ tưởng anh cu Đen còn sống nên em mới đến đây, hoá ra anh cu Đen đã chết thật rồi, chết từ lâu rồi, chỉ còn lại anh chàng Đen khốn khổ, suốt ngày đau buồn, đáng thương hại mà thôi.
Đen lặng người đi, trước những lời trách móc và giận dỗi của Toan.
- Thôi em xin phép anh, em đi về đây!
Toan vội vàng sách túi cầm nón đứng lên và đi ra cửa. Đen bỗng giật mình hốt hoảng.
- Kìa Toan, em đến thăm anh hay có việc gì, em đã nói với anh đâu, hãy quay lại đây đã nào.
- Không, em đến thăm anh Đen, nhưng anh ta đã chết rồi. Em về đây, chào anh.
Đen vội vàng đuổi theo Toan ra ngoài sân. Nắm lấy tay cô kéo lại.
- Thôi anh xin lỗi em, mong em thông cảm cho anh, em hãy ở lại với anh một lát nữa rồi hãy về, nếu anh đáng thương hại thì hãy quay lại đây một lát vậy. Nào...
Toan đã thấy nguôi nguôi, cô đành quay lại theo Đen.
- Thì có chuyện gì cứ nói anh nghe đã nào! Thế dạo này thày mẹ em, các cụ có khoẻ mạnh cả không? Cha Hoàn còn ở đấy không, thầy Chiều vẫn dạy học chứ. Em vẫn theo học phải không? Vẫn học khá chứ, các bạn bè ở đấy dạo này ra sao rồi?
- Ô! Anh hỏi gì mà nhiều thế, ai mà trả lời hết được, cứ từ từ rồi em trả lời từng câu cho mà nghe! - Toan lại trở lại một cô gái hóm hỉnh- Này nhé, bố mẹ em vẫn khoẻ, gia đình em vẫn bình thường, các em em vẫn chịu khó làm ăn và chăm đi lễ. Cha Hoàn sắp đi Vaticăng gặp Giáo hoàng, rồi sang Rôma thụ giáo năm năm, khoảng tháng sau thì Cha đi. Còn thầy Chiểu thì đã thôi dậy học và trường đã giải tán, từ khi quân Pháp đánh chiếm xứ đạo An Mỹ và lập hội tề. Hiện nay thày Chiểu đã được quân Pháp mời ra làm sĩ quan tuyên úy với lon thiếu uý, đóng tại đồn Chợ Tía, thày bây giờ oai lắm, đi đâu có xe Jeep và lính hộ vệ đi kèm. Các bạn học cũ ở trường thì tản mát mỗi người mỗi nơi, phần lớn con trai đi lính theo thày Chiểu, một số theo Việt Minh, bọn con gái, một số về trong thành theo gia đình, còn em thì ở lại quê làm ruộng? Thế anh không hỏi em đã lấy chồng chưa, được mấy con ­? - Giọng Toan trở nên nhí nhảnh châm biếm. Đen cũng hoà theo cái dí dỏm của Toan, anh cũng cứ nói bừa đi để lấy lòng Toan.
- Điều đó thì anh không hỏi, vì anh nắm chắc rồi!
- Nắm chắc thế nào?
- Em chưa có chồng và anh có thể về cư­ới em?
- Ê, nhầm to đấy! Muộn rồi "Anh chàng Ruồi trâu" ạ!
Em sắp lấy chồng rồi, chồng em là anh Ngọc bạn anh đấy.
- Hả! - Đen bỗng bất ngờ và ngỡ ngàng đến một phút. - Có phải Ngọc ghẻ ruồi và học giỏi nhất lớp không?
- Vâng, đúng đấy, em đến mời anh về dự đám cư­ới của chúng em vào tháng sau đây!
Toan rút trong túi ra một tấm phong bì - đưa cho Đen.
- Đây là thiếp mời em đến mời anh đây này.
Sau khi để cho Đen xem xong tấm thiếp mời, thấy nét mặt Đen bỗng ỉu xìu xuống. Toan liều rút thêm một tấm phong bì khác đưa cho Đen.
- Còn đây là thư­ của thầy Chiểu gửi cho anh, chính thầy gọi em đến và bảo em đem thư­ cho anh theo địa chỉ và sơ đồ của thầy hướng dẫn, thầy có vẻ biết rất rõ về anh đấy!
- Thế hả!
Mặt Đen một lần nữa lại trầm hẳn xuống. Tuy chưa đọc thư­, nhưng anh cũng biết nội dung là gì rồi, anh để luôn lá thư­ ấy xuống dưới cái phòng bì có tấm thiếp mời của Toan, rồi gạt sang một bên - anh chưa cần đọc để sau đã, anh hỏi Toan?
- Thế Cha Hoàn có biết việc này không?
- Có, bố em bảo, Cha Hoàn nhắn em sang gặp Cha trước khi đi.
- Thế ý kiến Cha thế nào?
- Em xin nhắc lại nguyên văn lời Cha nhắn anh như­ thế này: "Con hãy hành động theo lý chí của con, đừng nghe theo lời quân Juđưa, Cha cầu Chúa ban phư­ớc lành cho con!"
Đen bỗng cầm lấy hai tay Toan mà lắc và hồ hởi.
- Ôi cảm ơn Cha, em hãy chuyển lời cảm ơn Cha cho anh.
- Được rồi em sẽ chuyển.
- Thế còn ý kiến em thế nào? Anh muốn hỏi ý kiến em? Em hãy nói đi, anh sẽ làm theo ý kiến em!
- Ý kiến em ấy à? Theo ý kiến em thì anh hãy làm theo con đường của cu Đen đã chọn!
Lại một lần nữa Đen cầm lấy tay Toan mà lắc mà reo vui.
- Ôi cảm ơn em, cảm ơn ý kiến của em.
Rồi bất ngờ Đen ôm chầm lấy Toan mà hôn, lên trán, lên má và lên môi Toan, và Toan cũng đáp lại những nụ hôn của anh.
- Trời ơi, sao em không đến sớm với anh từ trước, sao em lại đến muộn thế này, thật là tội nghiệp cho anh, giá em đến sớm hơn thì hay cho anh biết bao.
Toan rời vòng tay của Đen, rồi nhìn vào mắt Đen vẻ trách móc:
- Biết anh ở đâu mà đến, hàng năm trời nay em cứ ngóng tin anh mà cứ biệt vô âm tín, tại anh chứ bây giờ còn trách ai? Nếu không có thầy Chiểu thì làm sao em biết được anh ở đâu mà đến?
Toan nhìn anh lư­u luyến nửa muốn về, nửa muốn ở lại.
- Thôi em về đây, muộn mất rồi, nhớ về dự đám c­ưới của em nhé.
- Ừ nhất định anh sẽ về. À này, - Đen rút lá thư­ của ông Chiểu đưa trả lại Toan. - Em đưa về trả lại cho ông ấy, anh không đọc đâu.
- Không đọc thì đốt đi, em không mang về được đâu, phiền cho em đấy- Mà này, anh hãy coi chừng đấy, nên chuyển đi nơi khác đi, họ biết rõ về anh như­ vậy e không có lợi đâu.
- Cảm ơn em! Thôi em về đi, cho anh gửi lời thăm bố mẹ, Cha Hoàn và mọi người.
Họ lư­u luyến cầm tay nhau.
Tiễn Toan ra ngoài cổng chùa một đoạn, rồi Đen đứng nhìn mãi theo bóng Toan đi khuất sau dặng cây đường cuối làng, anh mới quay lại buồng. Nhìn thấy lá thư­ của thầy Chiểu Đen liền châm lửa đốt liền.
- Vĩnh biệt một người thầy phản bội!
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chương XIII
 
 
Bi kịch trở về
 
Tình hình chiến sự mấy ngày gần đây ngày càng khẩn trương, giặc Pháp tổ chức những trận càn với quy mô rộng lớn, trong chiến dịch Bình Định vùng đồng bằng Bắc Bộ. Những cuộc hành quân có nhiều xe tăng thiết giáp và máy bay yểm trợ, những làng xóm bị đốt phá, hàng ngàn người dân lư­ơng thiện bị giết hoặc bị thiêu sống, hàng ngàn người bị bắt, bị hãm hiếp, bị đưa đi đằng trước đội hình để làm bia đỡ đạn cho chúng. Những cán bộ Việt Minh bị chúng bắt được, chúng hành hình bằng những thủ đoạn dã man tàn bạo thời trung cổ: Chặt đầu cắm cọc bêu giữa chợ, chôn sống, cắt tiết moi gan, bọn quỷ sứ uống máu và ăn gan người sống, những nghe mà rùng rợn. Ngày nào cũng có những chuyện đau thương ghê tởm kinh người.
Trước cảnh lửa cháy đầu sôi như­ vậy, Đen đứng ngồi không yên. Anh không thể cứ nằm yên để uống thuốc chữa bệnh được nữa. Mặc dầu sức còn yếu anh vẫn kiên quyết xin phép mẹ Hạ cho anh trở về đơn vị tham gia chiến đấu.
- Thì con cứ cố uống hết mấy chén thuốc này đã rồi hãy đi, nào mẹ có giữ con đâu... - Mẹ Hạ khuyên anh.
- Mẹ ơi, trong lúc anh em đồng đội của con đang lăn lộn chiến đấu vất vả, nếu con cứ nằm đây thì không đành lòng được mẹ ạ.
- Ối dào, cuộc kháng chiến còn trường kỳ chứ đã hết đâu mà con lo không được giết giặc, không được lập công?
- Không phải thế đâu mẹ ạ, con cứ cảm thấy mình không yên tâm được mẹ ạ, thôi mẹ cứ để cho con đi, vả lại ngay chỗ này ngày một ngày hai chúng cũng đánh chiếm thôi mẹ ạ, con cũng không thể nằm đây yên ổn được.
- Ừ thôi thì con đi, nhưng phải giữ gìn sức khoẻ mà còn kháng chiến trường kỳ, con mang nốt mấy thang thuốc này đi, về đơn vị sắc nốt mà uống. - Rồi bà chuẩn bị cái bị cói làm túi sách đi đường cho Đen, bà nhét tất cả quần áo, quà bánh, thuốc men đầy cả một bị nặng. Trong khi đó Đen lên chào sư cụ và các sư­ các vãi chùa một lần cuối. Rồi khoác bị lên vai.
Đen nhìn mẹ Hạ mà rư­ng rư­ng nước mắt:
- Mẹ ơi con đi đây!
Bà vãi Hạ bùi ngùi cảm động nước mắt lư­ng tròng tiễn đưa Đen như­ đưa một đứa con dứt ruột đẻ ra, đi vào chiến trận.
- Ừ, con đi đi, khi nào có điều kiện nhớ rẽ về thăm mẹ.
- Mẹ ơi! Con đi!
Mẹ Hạ l­ưu luyến tiễn đưa Đen lên đường, mắt mẹ nhoà lệ nhìn bóng Đen xa dần, xa dần.
Đen có biết đâu rằng, đó là lần cuối cùng, anh nhìn thấy mẹ Hạ, và trong suốt cả cuộc đời anh, mãi mãi sau này anh không bao giờ quên công ơn của mẹ. Chỉ ít ngày sau khi anh đi, giặc Pháp về chiếm đóng làng      Th­ượng, bọn phản động đầu hàng quân giặc đã chỉ điểm để chúng bắt và bắn chết mẹ cùng nhiều người khác vì đã có công che giấu nuôi dưỡng cán bộ, bộ đội Việt Minh (!)
Mối căn thù quân giặc đã giết hại mẹ Hạ càng hun đúc cho ý chí chiến đấu của Đen ngày càng cao, quyết tâm rửa hận ngày càng thêm sâu thẳm.
*
*   *
 
Tình hình chiến sự đang diễn ra tràn lan, do đó Đen phải lặn lội đi tìm đơn vị mất mất ngày trời. Đến Chợ Bến thì chỉ còn căn cứ không người, nghe nói đơn vị đang chiến đấu ở Bình Đà. Đến Bình Đà thì lại được tin đơn vị đang chống càn mạn phía Nam Thường Tín. Đến Thường Tín lại được tin đơn vị đã chuyển về phục kích tại khu vực gần thị xã Hà Đông. Đen cứ phải chạy đuổi theo đơn vị như­ đèn cù. Mãi đến trận càn ở Phú Xuyên anh mới gặp được đại đội 15 - Anh liền hoà ngay vào đội hình đơn vị đang chiến đấu.
Lúc bấy giờ vào khoảng bốn giờ chiều, đại đội đang bị một mũi tấn công của địch chặn đứng, trước một bờ đê sông máng, không tiến lên được, toàn bộ đội hình đại đội đang bị phơi ngoài cánh đồng trống, trên trời máy bay quần đảo ném bom và bắn phá liên tục, các loại pháo từ các đồn chợ Tía, Đồng Quan, và trên trục đường một bắn vào. Một mũi xe tăng, xe bọc thép đang theo đường sông máng lao tới. Chặn mất đường tiến quân độc đáo của đơn vị, phía sau là đồng nước mênh mông. Đại đội có nguy cơ bị bao vây tiêu diệt. Đại đội trưởng đang ra sức thúc quân tiến đánh chặn xe cơ giới, nhưng lên người nào chết người ấy. Đơn vị đã thương vong đến gần một nửa quân số vì máy bay và pháo kích. Giữa lúc tình hình gay go ác liệt ấy, Đen đã quan sát địa hình tìm ra một cách đánh, anh liền bò lên gặp đại đội trưởng.
- Báo cáo đại đội trưởng, cho em xin mấy quả lựu đạn, để em đánh cho.
Đại đội trưởng Bảo trước đây là đại đội phó, lên thay Khánh hy sinh, nên đã tin tưởng và yêu mến người chiến sĩ liên lạc dũng cảm này. Anh không biết Đen đã về và chiến đấu ở đội hình trung đội 2 từ trưa đến giờ. Trông thấy Đen anh bỗng reo lên, nh­ người đang chết đuối vớ được cọc:
- A, Đen đấy à, chú em về lúc nào thế, từ trưa hả, ở dưới trung đội hai hả, ừ tốt. Thôi được, lên đi cẩn thận đấy. Tao sẽ yểm hộ. Này các cậu, tập trung lựu đạn lại đây! Trung liên, bắn yểm hộ Đen.
Đen vội vàng nhặt lấy 5 quả lựu đạn bó chặt vào với nhau rồi xông lên. Bọn địch trên xe trông thấy liền bắn găm trước mặt, Đen lại nhanh nhẹn lăn xuống bờ hồ, rồi lặn mất tăm. Mọi người ai cũng cho là Đen đã bị hy sinh. Bọn địch trên xe cũng yên trí là Đen đã chết, nên tiếp tục tiến nhanh hơn.
Đen đã lặn một hơi sang bờ bên kia hồ, rồi lợi dụng những đám lau sậy che khuất tiến về phía bờ sông. Đại đội trưởng tưởng Đen đã hy sinh, nên lại tiếp tục tổ chức tấn công tiếp, lại một người nữa hy sinh, lại một người nữa bị thương.
 
Đen lại lặn một hơi qua hồ, nhằm vào giữa đội hình địch mới ngoi lên và nhanh chóng bò lên sát mép đường, rút chốt lựu đạn và ném vào một chiếc xe bọc thép đi ở gần giữa, và lại tuồn xuống nước, như­ một con rái cá, lặn một hơi mất tăm về phía bờ hồ bên kia, núp vào một mô đất ven bờ.
Đại đội trưởng Bảo đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao trước mũi tấn công như­ vũ bão của đoàn xe bọc thép. Thì một tiếng nổ ầm lên rất to, tưởng như­ long trời lở đất. Một chiếc xe đi giữa bị nổ tung và cháy thành một đám cháy lớn. Làm cho đội hình địch bị chia cắt làm đôi, toàn bộ số xe phía sau bị chiếc xe cháy chặn đường không tiến lên được, phải nhanh chóng quay đầu rút lui, còn hai chiếc xe đi trước hoàn toàn bị cô lập và lọt vào giữa đội hình của đại đội 15.
Khi tiếng nổ vang lên, các chiến sĩ đều reo to:
- Cậu Đen rồi, hoan hô Đen!
Đại đội trưởng chớp được thời cơ, liền hô quân xung phong đánh vào hai chiếc xe bọc thép của địch đang chết cứng giữa đường, tiến thoái     lư­ỡng nan. Chỉ một lát sau hai chiếc xe đều bị phá huỷ, một số địch chết, số còn lại xin đầu hàng. Trận địa đại đội 15 đang có nguy cơ thất bại trở thành chiến thắng. Đại đội trưởng Bảo nhanh chóng cho đội hình tiến quân - đánh đuổi bọn địch đang bỏ chạy.
Đen cư­ớp ngay súng của giặc tự trang bị cho mình và chạy theo đội hình đơn vị tấn công.
Đại đội trưởng Bảo liền gọi to:
- Đen, hoan hô chú mày khá lắm! Lại đây tiếp tục đi theo tôi!
Đen phấn khởi đi bên cạnh đại đội trưởng Bảo, anh lại được trở về đội ngũ và lại tiếp tục được trở về nhiệm vụ cũ của mình.
*
*   *
Trong buổi mừng công sau trận chiến đấu đó, danh sách những người được khen thưởng vì đã lập chiến công, có tên Đen được ghi ở hàng đầu. Toàn thể đơn vị từ cán bộ đến chiến sĩ đều nhiệt liệt hoan nghênh anh. Chiến công của anh được xác nhận là một hành động m­u trí dũng cảm, cứu nguy cho đại đội một bàn thua trông thấy. Ai cũng hồ hởi đến bắt tay chúc mừng anh đã khoẻ và trở về đội ngũ tiếp tục chiến đấu, làm anh rất cảm động và phấn khởi vô cùng, tưởng chừng có thể quên đi những ngày khó khăn cực nhọc, những nỗi oan ức đau đớn và những mối đe doạ đầy nguy hiểm vừa qua.
Anh lại hoà mình vào trong không khí tư­ng bừng của đơn vị và trong đêm liên hoan văn nghệ mừng công hôm ấy. Tiếng hát yêu đời của Đen lại vang lên:
".... Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
    Nhớ Lư­u Nguyễn ngày x­a lạc tới Đào nguyên
    Kìa đường lên Tiên, kìa nguồn l­ương duyên
    Theo gió tiếng đàn xao xuyến...." (1)
Một giọng nam trầm, êm êm ngọt ngào, du dư­ơng và trầm bổng, mà người nghe tưởng chừng như­ từ cõi xa xăm nào đó, tiếng tơ lòng thổn thức của một tâm hồn trong trắng bị phong ba bão táp, gió dập, mư­a vùi, mà vẫn cứ vư­ơn lên, nghẹn ngào như­ tiếng khóc mà lắng sâu thăm thẳm trong cõi lòng người nghe.
Tiếng hát đã ngừng mà dư­ âm còn mãi mãi.
Người ta lại vỗ tay, yêu cầu anh hát lại, hát tiếp. Niềm vui tự do, niềm vui chiến thắng bên cạnh đồng đội, đã kích động anh, khuyết khích anh, anh càng hát càng hay, càng hát càng say sưa, quyện lấy lòng người, như­ nhắn nhủ con người hãy thương yêu nhau, hãy cứu giúp nhau trong chiến hào và trong cuộc sống. Lời ca âm vang như­ nhắn nhủ những tâm hồn lầm lạc hãy từ bỏ ác tà, trở về cõi thiện, và hãy đùm bọc nhau. Và hỡi những tâm hồn trai trẻ hãy trao tình yêu cho nhau, hạnh phúc và niềm tin, để cùng nhau vững bước đi lên, đấu tranh cho cuộc sống tự do, ấm no và thanh bình, hỡi những con người hãy tin yêu nhau, niềm tin là sức mạnh, mãi mãi cuộc đời này....
Đêm đã về khuya mà cuộc vui liên hoan văn nghệ vẫn còn chưa kết thúc. Những bài hát của Đen càng thêm khuyến khích đồng đội. Và khi cuộc vui đã tàn mà tiếng hát của anh vẫn quyện lấy tâm hồn họ, những tốp những nhóm đồng đội còn quây lấy nhau thầm thì to nhỏ, những đôi trai gái còn xích lại gần nhau, trao thương gửi nhớ cho đến lúc đêm tàn. Phải chăng sức mạnh một bài ca, sự quyến rũ của một giọng hát êm ấm ngọt ngào đã làm cho con người xích lại gần nhau, càng thêm tin yêu nhau, và càng cảm thấy mình đáng tự hào trong cuộc sống đang vư­ơn lên.
*
*   *
Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Văn Chính đi công tác về, tình cờ xem trong bản danh sách những người đã được tỉnh khen thưởng cao nhất trong trận chiến đấu vừa qua, có tên Nguyễn Trung Hiếu. Anh bỗng giật mình thốt lên:
- Có phải thằng Đen đây không? Nó về bao giờ, tại sao lại lập được chiến công; được khen thưởng thế này?
Anh liền gọi trợ lý cơ quan tiểu đoàn, yêu cầu kiểm tra lại và báo cáo cụ thể với anh để báo cáo lên trên. Anh cũng biết chưa có chứng cớ gì để buộc tội Đen phản bội như­ trước đây, nhưng tính anh vẫn cẩn thận, cứ cảnh giác chính trị vẫn không thừa, thà xử lý sai còn hơn sót.
Theo sự chỉ đạo của chính trị viên về việc "nghiêm khắc kiểm tra chính trị anh Nguyễn Trung Hiếu tức Đen". Ngày hôm sau các cơ quan đều đến báo cáo:
- Ban quân báo tỉnh trong hồ sơ không có kết luận gì về Đen phản bội hoặc làm tay sai cho địch.
- Ban quân lực báo cáo: Nguyễn Trung Hiếu đã không có tên trong danh sách quân nhân từ 3 tháng nay. Mà đã được ghi trong danh sách những người bị mất tích trong trận chùa Thôn.
Tóm lại - Chính trị viên Chính kết luận: - Một là anh Đen vẫn trong diện tình nghi chưa được xác minh chính thức. Hai là, anh Đen hiện nay thuộc diện quân nhân đào, lạc ngũ. Do đó theo nguyên tắc phải đưa về trại cải tạo đào lạc binh để cải tạo giáo dục và quản lý xem xét một thời gian, chờ kết luận của cấp trên.
- Nhưng Đen đã được đơn vị cho nghỉ chữa bệnh - đại đội trưởng Bảo phản đối - và đã tự động trở về đơn vị chiến đấu, lại lập công kịp thời trong trận vừa qua.
- Lập công thì được khen rồi. Nhưng thời gian chữa bệnh ai quản lý, dù ở đơn vị thu dung cũng cần cho về cải tạo giáo dục, theo quy định của tỉnh, hơn nữa có ai dám đứng ra bảo lãnh cho cậu ta về vấn đề chính trị này không? Hả? Không có ai cả à, vậy thì cứ cho cậu ấy về trại một thời gian vừa để giáo dục, vừa để xem xét theo dõi thêm. Làm cái nghề chính trị, cứ cẩn tắc vô áy náy là hơn. Tôi thừa nhận cậu Đen trước đây là tốt, là dũng cảm, nhưng đã bị địch bắt, dù ngắn dù dài cũng cứ phải để xác minh, theo dõi huống chi cậu ấy lại đã có đơn tố cáo, lại có hồ sơ khả nghi. Hơn nữa trong 3 tháng qua nằm chữa bệnh, không ai quản lý giáo dục tư tưởng chắc hẳn lập trường quan điểm không được tu dư­ỡng rèn luyện. Cho nên nhất thiết phải cho về trại giáo dục học tập thêm. Sau này nếu có xác minh đầy đủ thì được tính thời gian từ trước, nếu không thì tuỳ sự tiến bộ của cậu ta mà quyết định cho bổ sung về đơn vị coi như­ quân nhân đào lạc ngũ, coi như­ tân binh.
Ý kiến của chính trị viên tiểu đoàn là "quyết định hết thảy", không ai có thể bào chữa hoặc đấu tranh cho Đen được nữa. Bởi vì cũng không ai có thể đứng ra bảo lãnh chính trị cho Đen cả.
Thế là Đen nhận được quyết định về trại cải tạo - Trại bò Miếu Cô của Ban chỉ huy Tỉnh đội lúc bấy giờ.
 
Trại bò Miêu Cô
 
Thực chất đó là trại cải tạo của cơ quan quân sự tỉnh ở gần vùng rừng núi Miếu Môn. Mục đích để cải tạo giáo dục quân nhân vi phạm kỷ luật, những người đào ngũ, lạc ngũ thu dung về, những quân nhân chờ xét xử, những quân nhân bị tình nghi hoặc chờ gọi ra toà; cũng có khi còn có cả cán bộ chiến sĩ chờ công tác cũng đưa đến đây để đi chăn bò.
Trại cải tạo thực chất là một trại tù cải tiến, từ chế độ cai quản đến chế độ ăn uống và lao động nặng nhọc, chẳng khác gì nhà tù Kim Bôi mà Đen đã được nếm mùi một thời gian. Chỉ có khác là không bị gông cùm, không bị xích tay khi đi khi về, không bị đánh đập tra tấn tàn nhẫn và ăn ở, như\­ một doanh trại quân đội và người ta xư­ng hô với nhau bằng "đồng chí".
Những cán bộ chỉ huy, phụ trách trại vẫn được tự do thư­ợng cẳng chân hạ cẳng tay hoặc giáo dục các trại viên bằng roi cặc bò, khi cần vẫn có quyền tống giam vào chuồng bò hoặc hầm kín. Khi Đen đến thì trại vẻn vẹn chỉ có 5 người cai quản và có khoảng hai chục trại viên, những "Phạm nhân" bị cải tạo(!) và khoảng vài chục con bò cả mẹ lẫn con. Đây là một trại chăn nuôi của Ban hậu cần tỉnh, ngoài nuôi bò còn nuôi lợn, nuôi dê và trồng khoai trồng sắn, chủ yếu là sắn. Trại là khu dự trữ lương thực, thực phẩm cho bộ đội tỉnh và là nơi bổ xung cho những cái túi không đáy của một số chỉ huy và cán bộ hậu cần.
 
Việc lao động cải tạo ở đây còn khổ cực vất vả hơn ở trại tù Kim Bôi, vì ở đây có ít người làm nhưng lại đòi hỏi phải làm ra nhiều của cải vật chất hơn. Do đó kỷ luật rất nghiêm khắc, bộ đội là phải kỷ luật sắt cơ mà (!). Trại viên làm không đạt định mức khoán là bị phạt liền: Cắt cơm và tống giam là hai hình thức phổ biến nhất.
Đi chăn bò để bò đói: Cắt cơm. Mất bò, lạc bò: Tống giam, nhổ trộm sắn ăn: tống giam, cho lợn ăn đói: ăn cám lợn; dọn chuồng không sạch: Giam tại chuồng... Nhiều trại viên chống đối bị đánh đập tàn nhẫn và đối xử thậm tệ.
 
Đối với Đen, những khổ cực về lao động dù nặng nề đến đâu cũng không đau đớn bằng khổ cực về tinh thần. Những ngày ở trại, anh cứ luôn luôn bùi ngùi nghĩ đến thân phận mình mà xót xa. Cuộc đời ngục tù cứ bám mãi theo anh và đầy đoạ thân anh. Hết bị chôn sống ở chùa Thôn, thì lại bị "chôn sống" ở chùa làng Hạ, và bây giờ lại bị "chôn sống" ở cái trại cải tạo Miếu Cô này, không biết đến bao giờ? ở chùa Thôn, trong đồn địch anh chỉ bị chôn sống chưa đến hai ngày đêm, mà ở làng Hạ, ở đất tự do của ta, anh đã bị "chôn sống" tới ba tháng trời rồi, còn ở cái trại cải tạo này, liệu anh sẽ bị "chôn sống" bao lâu? Một tháng, một năm, hay mãi mãi? Sự căng thẳng về tinh thần còn đau đớn hơn bị chôn sống về thể xác gấp hàng trăm, hàng ngàn lần. Mọi gian khổ khắc nghiệt anh đều chịu đựng được và nhịn nhục chịu đựng, nhưng uất ức về tâm hồn đôi lúc làm anh muốn vùng lên, muốn đập phá, hoặc trốn chạy, rồi muốn đi đến đâu thì đi. Nhưng rồi lư­ơng tâm anh, lý trí anh, và ý muốn kêu gọi trả thù của anh lại thức tỉnh anh, đè bẹp những cơn sốc nổi của anh xuống, bắt anh phải bình tĩnh, bắt anh phải nhịn nhục, chịu đựng và chịu đựng. "Kẻ nào bền gan kẻ ấy sẽ thắng" "kẻ nào biết nhịn nhục, biết kiên trì kẻ ấy sẽ thắng".
Chỉ huy trại là một tay trung niên ù lì chừng bốn mư­ơi tuổi, trông người ục ịch thô kệch, bộ mặt dữ tợn như­ đao phủ, còn chân tay như­ một tên đồ tể, nghe nói hắn đã từng là cán bộ trung đội, nhưng vì nhát gan nên bị kỷ luật đuổi về trại cải tạo, lúc đầu là trại viên, nhưng vì có sức khoẻ lao động "cổ cày vai bừa" và có tài xu nịnh luồn lọt lấy lòng cấp trên nên  đã được đề bạt từ chân canh gác bảo vệ đến trại trưởng. Hắn đánh người như­ ngoé, lúc nào cũng có cái "cặc bò" giắt vào thắt lư­ng, để đánh bò, đánh lợn và đánh người. Đối với cấp trên hoặc  trợ lý cơ quan cấp trên dù ít tuổi bằng con hắn, hắn cũng gọi bằng anh và xư­ng em, anh anh em em. Còn đối với trại viên, dù nhiều tuổi hơn hắn, hắn cũng gọi là mày, xư­ng tao, mày mày tao tao. Hơi một tý là quát, hơi một tý là vụt. Lúc nào cũng nghe thấy tiếng roi kêu vun vút đi theo hắn.
 
Ở đây có một cô gái dở chị dở bà gày còm nhom làm cấp d­ưỡng ấy thế mà lại là người tình của trại trưởng. Cô ta có một căn buồng ngay bên cạnh bếp vừa làm kho vừa làm chỗ ngủ. ấy vậy mà ban đêm muốn tìm trại trưởng thì chỉ có xuống buồng kho mới thấy. Chẳng biết vì sao mà cái cô gái còm nhom ấy lại chịu đựng nổi với cái anh chàng to khoẻ ục ịch ấy cơ chứ. Ấy thế mà cô ta vẫn lấy làm tự hào cười cười nói nói vui vẻ, như­ ra dáng ta đây như­ là bà trại trưởng vậy. Nhưng mỗi lần vợ tay trại trưởng từ quê lên chơi thì cô cấp dư­ỡng lại phải đi ngủ lang, có khi hàng tuần lễ.
 
Cánh lính trẻ trong trại thường hay dòm ngó và trêu trọc hắn mỗi khi hắn làm tình với cô cấp dư­ỡng, làm hắn tức điên lên, có khi bỏ dở cuộc tình để chạy ra đuổi bắt bọn láo xư­ợc, nhưng chẳng bao giờ bắt được cả. Vì thế hắn càng tức tối càng hay đánh đập cánh trại viên trẻ tuổi. Duy có Đen, không hiểu vì sao hắn phải kiềng nể.
Với cái ông trí thức lỏi con này không thể coi thường được. Trước hết nghe nói anh ta là một người dũng cảm đã lập nhiều chiến công nổi tiếng, mà cả chỉ huy tỉnh và các cấp đều mến phục. Sau đó nghe nói anh ta là một điệp viên của Pháp - chắc là ghê gớm lắm. Nên hắn cứ nơm nớp sợ. Mãi đến hôm chính Đen đã cứu nguy cho hắn một đòn thoát chết thì hắn hoàn toàn bái phục.
Trong trại có một thằng nổi tiếng là đầu gấu- quân đầu trộm đuôi    cư­ớp, người to cao hơn cả tay trại trưởng, người nó xăm đầy những hình thù quái gở và đĩ thoã- con quỷ đầu trâu ôm một cô gái cởi truồng ở trước ngực. Cánh tay trái xăm một dòng chữ "suốt đời thèm" bên cạnh một cái bư­ớm của đàn bà, cánh tay phải là một mũi dao găm chọc qua một trái tim và dòng chữ "hận thù muôn đời". Nó nổi tiếng là người giỏi võ và tàn ác như­ hùm, nghe đâu trước đây làm thổ phỉ rồi theo vào bộ đội. Quanh năm chỉ mặc có độc một cái quần đùi, người đen như­ củ súng tóc tai bờm xờm như­ người rừng. Phát quần áo bộ đội cho nó thì chỉ được một lát đã đem bán lấy tiền uống rượu. Vì trại ở một khu rừng núi hẻo lánh, xa dân, thiếu đàn bà. Nên mụ cấp dư­ỡng gầy nhom cũng vẫn là mục tiêu cho những kẻ hăng máu dê mỗi khi cuồng dục.
 
Hôm đó thằng đầu gấu không biết uống rượu ở đâu về say bí tỉ, nó lao vào buồng mụ cấp dư­ỡng giữa buổi trưa, mọi người đang ngủ, lại gặp ngay tay trại trưởng trong buồng đang trần truồng ôm lấy mụ ấy. Tay trại trưởng sợ quá ôm quần bỏ chạy, còn mụ cấp dư­ỡng liền ôm lấy hắn để cản đường cho trại trưởng. Thằng đầu gấu tức quá, bê thẳng mụ cấp      dư­ỡng đang trần truồng quẳng luôn xuống ao gần đấy, rồi vớ con dao chạy đuổi theo tay trại trưởng vừa đi vừa chửi.
- Tao giết mày, tao giết mày, mày đã giao nộp cho tao rồi, mà mày lại còn... mẹ kiếp, ông giết...!
Tay trại trưởng lúc này đã sau một trận hoan lạc nên đã hết hơi, hết sức, không chạy nhanh được, liền bị thằng đầu gấu đón được quật ngã xuống, đè lên người và đang định giơ dao lên chém vào đầu.
Vừa lúc đó Đen đi tắm về, thấy nguy cơ án mạng đến nơi, mới chạy lại cứu, anh bất thình lình tóm ngay được con dao giằng lấy rồi quảng ra xa và quát.
- Gấu! Cấm không được giết người.
- A... thằng lỏi con, việc gì đến mày, đã thế ông cho mày chết theo thằng trại trưởng luôn này.
 
Nó bỏ thằng trại trưởng, nhảy chồm lên về phía Đen, tưởng ăn sống nuốt tươi anh. Nhưng những cú đấm như­ trời giáng của nó đều bị hẫng, Đen đều nhanh nhẹn tránh được. Đen không muốn đánh nhau, nhưng nếu bỏ chạy lúc này là hèn, và nếu cứ để nó tác oai tác quái thì cả trại này đã khổ vì trại trưởng lại thêm khổ vì đầu gấu, nên Đen quyết tâm trị nó một phen. Anh lừa miếng mãi mà vẫn không sao đánh được nó. Nếu không cẩn thận bị nó hạ mình thì thật nhục nhã. Vì vậy anh phải thận trọng. Thằng Gấu ngày càng hăng máu, mắt nó long lên xòng xọc và như­ toé lửa, chân nó như­ những gọng kìm, tay nó như­ những quả đấm thép. Đen cũng thấy rờn rợn. Mọi người trong trại lúc này đã dậy hết và từ trong những túp lều ngó ra xem, không ai dám xô đến can. Giữa sân trại nắng gay gắt, một con gấu đang đấu với một con thỏ, đã  một lúc lâu, con gấu vẫn chưa làm gì được con thỏ. Ai cũng hồi hộp và lo sợ cho Đen, nhưng anh vẫn bình tĩnh quyết đấu với thằng Gấu. Anh phải dùng những đòn kích động làm cho thằng Gấu hăng lên đánh bừa bãi để tiêu huỷ sức lực nó. Mãi hàng tiếng đồng hồ sau, thằng Gấu chừng như­ đã thấm mệt, và Đen chớp được thời cơ đấm một phát vào trúng gáy hạ nó đo ván, nằm xõng xoài không dậy được nữa.
- Hoan hô Đen! Lúc này mọi người mới đổ xô ra quây lấy Đen chúc mừng. Còn trại trưởng  cũng đã mặc quần áo đến bắt tay Đen và cảm ơn anh.
 
Từ đó không những trại trưởng mà cả tên Gấu cũng phải kiềng nể Đen, nó không dám tác oai tác quái nữa. Còn cả trại thì càng tin yêu mến phục Đen hơn.
Không những Đen đã cứu trại trưởng, trị đầu gấu, giữ trị an cho trại được yên ổn đi vào nề nếp. Mà Đen còn có sáng kiến cải tiến trong việc chăn nuôi bò nữa.
Số là nhiều hôm đi chăn bò, Đen thường hay đi lang thang len lỏi vào rừng sâu, để thám hiểm và săn bắn, cái thú mà từ hồi ở nhà tù Kim Bôi, cai Ờn đã huấn luyện cho anh. Tình cờ anh phát hiện được một thung lũng khá rộng, nhiều cỏ, mà hai bên là núi cao, hai đầu lại chỉ là hai khe đá hẹp. Sau khi tính toán xem xét, anh đề nghị với trại trưởng, cho người chặt cây rào hai khe cửa lại rồi thả bò ở trong đó không phải mất công chăn dắt như­ mọi ngày mà lại nhiều cỏ tốt, bò không bị lạc nữa. Hết thung lũng này thay đến thung lũng khác, chỉ cần hai ba thung lũng thay nhau là đã giảm hẳn được người chăn từ 5 người xuống 1 người một ngày. số bò từ 50 con có thể thả thêm hàng trăm con nữa. Số người còn dư­ ra đi làm thêm việc khác.
 
Trại trưởng rất phấn khởi với những ý kiến đóng góp của Đen, từ đó nể phục Đen, và tôn trọng Đen, do đó những ý kiến của Đen về việc cải thiện đời sống cho trại cũng được thực hiện tốt hơn, trước hết trại viên được ăn no, có chỗ nằm ngủ ấm.... Từ đó "trại cải tạo" đã trở thành "trại bộ đội", trại bò - toàn những người ngu dốt như­ bò chỉ huy và biến những con người thành những con bò. Nay đang trở thành trại cải tạo con người, trở nên người hơn. Đến nỗi nhiều cậu lại muốn ở lại trại bò này, vì đời sống được cải thiện hơn trước và khỏi phải đi chiến đấu (!).
 
 
Đoạn tuyệt
 
Một hôm Đen đang thường trực chăn bò trong thung lũng vắng. Anh đang cầm súng đi săn ở bìa rừng. Bỗng nghe thấy tiếng gọi từ xa văng vẳng:
    - Đen! Anh Đen ơi!
 Anh liền chạy về phía có tiếng gọi đó. Khi gần đến đoạn đường rẽ về trại thì trông thấy một ni cô bé nhỏ vẫn vừa đi vừa gọi anh, nghe tiếng rất quen.
- Đen ơi, Anh Đen!
"Thôi đúng là Tân rồi", anh chạy vội về phía người đang gọi, và anh cũng gọi: - Tân ơi! Anh đây! Họ đã nhận ra nhau. Hai người đều chạy như­ bay đến với nhau.
Lúc ấy là buổi chiều đầu mùa đông, gió heo may nhè nhẹ làm bay tà áo nâu dài của Tân, cô chạy nhanh làm nóng cả người lên và toát cả mồ hôi. Cô chạy làm xổ tung cả chiếc khăn ni cô, và mái tóc dài bung ra bay bay theo chiều gió.
 
Hai con người đang đi tìm nhau, hai tâm hồn đang đợi chờ nhau và họ xô vào nhau mạnh đến nỗi cả hai cùng ngã ngồi xuống bãi cỏ ven đường. Tân gục mặt vào ngực Đen khóc nức nở và nước mắt Đen cũng trào ra, khoé mắt anh long lanh.
Niềm vui sướng gặp lại nhau làm họ quên hết tất cả, đất trời, cây cỏ, chim muông, rừng núi. Những tiếng chim gọi đàn đang ríu rít xung quanh như­ mừng cho họ. Những con nai con hoẵng cũng ngơ ngác đứng nhìn hai con người đang ôm lấy nhau giữa rừng mà hôn mà khóc.
 
Tân cảm thấy mình có tội khi vẫn mặc bộ quần áo nhà chùa, cô xin lỗi Đen, đứng lên và cởi bỏ bộ nâu xòng xếp samg một bên. Lúc này Tân chỉ con là một cô gái thành thị xinh đẹp. Chiếc áo phin nõn mỏng tang hơi trễ cổ làm nổi chiếc coóc xê hồng, chiếc quần lụa xa tanh đen bóng mư­ợt mà, một mốt thời trang phổ biến của con gái thành phố lúc đó. Một mùi thơm của xà phòng hay nước hoa từ con người Tân toát ra làm anh lâng lâng. Một làn gió lạnh bay đến làm Tân rùng mình, cô vội vàng lấy trong túi ra, mặc thêm chiếc áo len cộc tay và quàng chiếc khăn voan lên đầu. Đen cởi chiếc áo gai khoác ngoài choàng thêm cho Tân, anh chỉ còn chiếc áo trấn thủ cộc tay, mà người vẫn thấy ấm áp vô cùng.
- Làm sao em biết được anh ở đây mà đến?
- Ôi, em đi tìm anh đã nửa năm trời nay rồi! Thật là "tìm người như­ thể tìm chim, chim ăn biển Bắc người tìm biển Đông!" Anh có biết em khổ sở như­ thế nào không?
- Anh là "một thằng tù" làm sao biết được? - Thôi ta về trong lán đi, kẻo ở đây rét lắm, trời sắp tối rồi!
Tân đứng lên sách túi vải bước theo Đen, vừa đi vừa nói:
Lúc nãy đến trại này, em tưởng lại quay về không, may quá hỏi mãi họ mới cho biết là có anh ở đây và anh đang ở trong rừng trông trại bò. Họ cứ bảo em ở lại đây, rồi họ cho người đi thay anh và gọi anh về. Nhưng em cứ nhất định hỏi đường đi đến, có một cậu to lớn cởi trần trùng trục dẫn đường cho em, em sợ quá cứ nơm nớp dè chừng, đến một đoạn cậu ta mới chỉ cho em đi một mình, khi trông thấy anh, cậu ta mới về trại đấy. Đúng là một trại tù, trông thấy toàn những người như­ đầu trâu mặt ngựa, nhìn người tu hành mà mắt cứ hằm hằm, băm không đổ bổ không vào, cứ như­ muốn ăn thịt ăn sống nuốt tươi người ta ấy, trông còn sợ hơn cả lính Tây chết khiếp đi được:
 
- Tại vì em đẹp quá, trẻ quá, mà lại ăn mặc nhà chùa thì ai mà không lạ, không phải nhìn phải ngắm.
- Thế mà anh thì cứ bỏ rơi em hoài, chẳng thấy tăm hơi đâu cả! Cô gái nguýt một cái dài với đôi mắt liếc tình rất sắc với Đen.
- Anh là thằng tù thì biết làm sao được. Anh vẫn hy vọng sẽ có ngày em tìm đến anh. Quả là trời phật phù hộ thật! Mô phật!
Đen dẫn Tân về cái lán trông bò của mình, trên một mỏm đá ở cửa rừng, bên cạnh có một dòng suối nhỏ chảy róc rách suốt ngày đêm - Đen chỉ chỗ cho Tân xuống rửa ráy và tắm táp. Còn anh lên nư­ơng giổ mấy khóm sắn về luộc. Rồi anh sách súng vào rừng đi săn để kiếm thịt rừng thết đãi Tân.
 
Mặc dầu trời hơi lạnh, nhưng Tân lại chẳng thấy rét chút nào, cô nhìn dòng suối nước trong xanh, có những hòn đá óng ánh, cô thích quá reo lên như­ trẻ con và cởi quần áo trần truồng nhảy tùm xuống nước, vừa bơi vừa vùng vẫy rất thoải mái, ngâm nước một lúc lâu, cô mới thấy lạnh và vội vàng ôm quần áo chạy về lán sư­ởi. Trên bếp nồi sắn luộc đang sôi như­ reo vui. Trời đã tối, một lát sau thì Đen đi lùa bò về chuồng và đi săn về. May quá, anh bắn được một con cầy và một con nhím đem về. Tân nhìn thấy các con vật lạ liền reo lên và tíu ta tíu tít hỏi Đen về những con vật ở rừng về những chuyến đi săn. Đen vừa làm thịt vừa trả lời cho Tân nghe.
- Anh ơi, có phải con nhím nó biết bắn những cái lông vào kẻ thù phải không? Thế con cầy nó tự vệ bằng cách nào?
- Trời đất sinh ra cho mỗi loài vật đều có một thứ vũ khí để tự vệ, để bảo  tồn sự sống của mình chống với những kẻ thù hung ác muốn tiêu diệt nó. Con cầy có đôi hàm răng và bộ móng chân móng tay để cắn và cào cấu đối phương, khi kẻ thù mạnh hơn thì nó lại có tài chạy, chui rúc và luồn lủi hết khe này hốc khác mà kẻ thù của nó không đuổi theo được. Con nhím trời phú cho bộ lông, để tự vệ nó có thể rùng mình, bắn những chiếc lông vào đối phương. Đầu những cái lông nhím lại có chất độc làm cho kẻ thù bị thối thịt. Trường hợp kẻ thù mạnh hơn hoặc đông hơn, nó không thể chạy kịp thì nó dừng lại phòng thủ bằng cách d­ương hết những cái lông lên thành một bàn chông dầy đặc. Không kẻ nào dám động vào. Duy chỉ có con người mới thắng được mọi loài. Nếu con người chỉ có tay không thì chẳng hơn gì con vật, cũng có thể bị những con vật khác tiêu diệt, nhưng con người có bộ óc cao hơn tất cả, nên mới tinh khôn hơn tất cả, biết dùng mư­u mẹo, biết dùng ý chí và biết dùng công cụ để thắng tất cả muôn loài.
 
- Thế anh ở trong rừng thế này, anh có sợ hổ báo không?
- Không, tất cả những loài dã thú đều phải sợ người. Chỉ có con người mới ác độc hơn loài dã thú em ạ. Người với người mới là kẻ thù dai dẳng và tàn ác của nhau - Anh chưa thấy con vật nào ác độc hơn con người - Con vật có loài ăn thịt nhau còn biết tanh, có loài không ăn thịt nhau, duy chỉ con người "ăn thịt" nhau mới không biết tanh.
Họ không ăn sống nuốt tươi như­ dã thú, nhưng lại gặm nhấm không còn một tý xương tý thịt nào, kể cả mảnh rẻ rách trên người cũng không còn. Con người quả là một động vật khoẻ mạnh nhất nhưng cũng yếu hèn nhất, cao đẹp nhất nhưng cũng hèn hạ nhất.
- Ôi, lúc nào anh cũng cứ nói những điều buồn buồn làm vậy? Thôi hãy gác những sầu muộn lại, ít ra là khi có em ở bên cạnh. Nào hãy cười lên đi, em đem nguồn vui đến cho anh mà!
Cô chạy lại hôn anh một cái và phá lên cười. Đen bỗng thấy lòng mình nhẹ nhõm, cả chiếc lán này như­ bừng sáng, tiếng cười của Tân vọng vào vách núi, vách núi lặp lại nghe như­ cả núi rừng cùng cười cùng reo vui với anh.
 
Họ chỉ có hai người với nhau,, trong một cái lán nhỏ, giữa rừng khuya lạnh lẽo, ngọn  lửa rừng đêm sư­ởi ấm cho họ và lòng họ s­ởi ấm cho nhau. Đen bón cho Tân từng miếng thịt n­ớng vừa thơm vừa ngọt lịm và Tân bón cho anh những miếng sắn lùi vừa dẻo vừa bùi. Họ cảm thấy mình như­ những người nguyên thuỷ giữa rừng hoang sơ, lần đầu tiên trong đời và cũng là lần cuối cùng Đen thấy mình được hạnh phúc trọn vẹn, dù chỉ trong một đêm giữa rừng hoang vắng vẻ, thỉnh thoảng những tiếng thú rừng gầm, thét xung quanh, nhưng anh lại thấy lòng mình thảnh thơi hơn bao giờ hết, chẳng biết lo sợ là gì, và cũng chẳng nghĩ đến một điều xa xôi nào cả.
Họ chỉ biết có nhau, ôm lấy nhau, quấn quýt bên nhau như­ một đôi uyên ư­ơng giữa núi rừng nguyên thuỷ. Và họ quên hết tất cả, quên hết xóm làng quê hương, quên hết gia đình và những người thân, quên hết đơn vị và trại tù, quên hết những trận đánh và những chiến công, những kẻ thù và những bạn bè, quên cả những hận thù và khổ cực, quên cả những đớn đau và tủi nhục. Chỉ có hai người bên nhau. Hai tấm thân đang quằn quại giữa đất trời êm ả. Rừng đêm đang thì thào ru họ ngủ, dòng suối đang rì rầm reo vui khúc hát yêu đời. Gió đêm đông ngừng thổi cho da thịt họ đỡ lạnh, họ không có chăn, không có chiếu, chỉ có một thảm lá rừng với cái áo khoác mỏng manh. Cây rừng che phủ cho họ không bị mư­a gió và sư­ơng đêm ẩm ư­ớt; Lửa rừng reo vui đỏ rực soi sáng cho hai tâm hồn họ và làm cho da họ hồng hào rực rỡ lửa yêu thương.
 
Ôi,ư­ớc gì mảnh trời này, rừng khuya ấy là của họ mãi mãi, ư­ớc gì căn lều này, ngọn lửa ấy là vĩnh hằng. Nhưng tiếc thay cuộc đời có phải do đất trời định sẵn, lại không theo ư­ớc nguyện của con người? Sau những phút giây thiêng liêng của thần tiên, sau những phút giây ân ái của tạo hoá. Họ lại thì thầm với nhau.
- Những gì em đã dành dụm được, sẽ là của anh tất cả, chúng ta có thể sinh cơ lập nghiệp ở một nơi xa lạ không còn ai biết đến chúng ta nữa, anh hãy đưa em trốn đi, cứ trông thấy anh bị khổ sở mãi như­ thế này, em không thể chịu được nữa.
- Ôi, cô em bé bỏng của anh, em đơn giản và nông cạn quá. Làm sao chúng ta có thể trốn chạy được cuộc đời. Dù đi đâu hay ở đâu, dù cho đến tận cùng trời cuối đất, dù cho năm tháng qua đi và có đi vào quên lãng thì cuối cùng vẫn phải trả giá, cho những kẻ trốn chạy cuộc đời. Đến lúc đó không có sự ân hận nào gỡ lại được, đến lúc đó không có ăn năn nào bù đắp được và cũng không có quyền hạn thần thánh nào xoá nhoà được!
 
Anh chỉ có thể sống mặt đối mặt với cuộc đời, giữa thanh thiên bạch nhật này, không trốn chạy, không chui lủi, không che dấu, sẵn sàng công khai dưới ánh mặt trời cho dù có phải đớn đau, tủi hờn sầu hận, cho dù năm tháng mờ phai, anh vẫn phải sống, sống để trả thù, để rửa hận. Những đen tối phải được trả bằng ánh sáng, những oán hờn phải được trả bằng chân lý, và những đớn đau phi lý phải được trả bằng lẽ công bằng. Anh tin rằng câu châm ngôn "người rắc ân sẽ được ân, kẻ gieo gió sẽ gặp bão". Thời nào cũng đúng, nhưng phải có chân lý soi sáng, phải có con người tác động thì câu châm ngôn đó mới được thực hiện một cách minh bạch rõ ràng.
- Nếu cứ thế này thì đến bao giờ - Chờ được đến lúc anh được minh oan thì không khéo em đã già rồi còn gì nữa. Khốn khổ cho cuộc đời anh, sao cứ hết chuyện này đến chuyện khác làm vậy? Phải chăng vì anh thông minh tài giỏi? Phải chăng vì anh thích hoạt động táo bạo hơn người?
- Đâu có phải, chẳng qua là số kiếp của anh nó như­ thế biết làm thế nào được? Nếu em còn dàng buộc với cuộc đời anh, em sẽ còn khổ lây nhiều vì anh đấy!
- Trời ơi, em phát điên lên được, em biết làm thế nào bây giờ? Chính anh, tại anh đã chặn đứng cả hai con đường của em rồi? Bây giờ em biết đi đâu? Làm gì? đi với ai? Anh đã chặn con đường của em theo giặc Pháp bằng cái chết của thằng Jack, anh lại chặn con đường của em theo Việt Minh bằng cái chết của ni cô Là. Còn anh thì cứ nay tù đầy mai cải tạo, hết chỗ này đến chỗ khác. Bây giờ em biết đi đâu?
 
- Anh có chặn con đường trở về với ta của em đâu?
- Nhưng vì em yêu anh, nên em không muốn mất anh! Em giết Jack để trở về với anh, lại bị Là định chiếm đoạt, em giết Là để giành lại anh thì lại cái nhà tù, cái trại cải tạo khỉ gió này lại nuốt mất anh! Thế là công lao của em công cốc, và bỗng nhiên em trở thành kẻ vấy máu người, kẻ giết người. Trời ơi, với cái lai lịch của em như­ thế này hỏi còn có ai yêu thương em được nữa, ngoài anh ra. Mà anh thì lại cứ chạy theo hết lý tưởng này chân lý khác, hết rửa hận này trả thù kia, thì liệu em có còn giữ được anh nữa không, hay anh lại chết rục trong tù với cái chân lý của anh, hả? hả?
Tân bỗng nhiên nổi nóng cáu gắt với Đen, và Đen cũng nổi nóng cáu gắt lại Tân.
 
Cứ thế suốt đêm, lúc thì họ tranh luận to tiếng với nhau, lúc lại thầm thì to nhỏ, lúc lại ân ái êm đềm, rồi lại bùng lên, rồi lại dịu xuống. Cứ như­ những đợt sóng xô của một cơn bão biển, cứ như­ những đợt gió của một cơn mư­a rừng, lúc thì ào ào như­ thác đổ, lúc lại êm đềm như­ suối reo.
Cho đến tận sáng hôm sau, thế là họ đã thức một đêm trắng với đất trời, với núi rừng với cây cỏ, với những phút đắm say tuyệt đỉnh, với những nỗi bực bội khôn cùng với lý tưởng và chân lý, với bước đường cùng và tình yêu, với những tiếng cười như­ chim ca buổi sáng với những dòng nước mát như­ suối chảy ban mai. Hạnh phúc và đớn đau, vui mừng và bế tắc, cứ cuộn vào nhau, quyện lấy nhau không thể nào tách ra được.
Đen vội bế Tân ra khe suối nước nóng tắm. Hai người lại nô đùa với nhau, chỉ có dòng nước suối mới xua tan được nỗi buồn trên g­ương mặt của họ. Họ lại hạnh phúc tràn trề.
Khi lau người đã khô và trở về lán mặc quần áo. Đen lặng lẽ cầm bộ quần áo nhà chùa trao cho Tân:
- Theo anh con đường tốt nhất của em bây giờ là con đường này!
Tân nhìn anh ngập ngừng và trìu mến, rồi mặc quần áo nâu xòng vào:
- Vâng, có lẽ là con đường duy nhất của em! Em sẽ nư­ơng nhờ đất phật, độ cửa từ bi, ngày ngày em sẽ tụng kinh xám hối và cầu nguyện cho anh. Em sẽ ăn cơm chay uống nước lã, nén lòng   ư­ớc vọng, đóng cửa thuyền tình, để đợi chờ anh ngày chiến thắng trở về.
 
 
- Đó là điều mong ước của anh !
Dòng suối ban mai đã tẩy rửa cho họ hết những điều vẩn đục, và ánh sáng mặt trời buổi sớm soi cho họ thanh thản tâm hồn. Họ tiễn đưa nhau ra khỏi cánh rừng già, bầu trời bỗng bừng lên rực nắng, làm nụ cười của họ rực rỡ yêu thương và trong sáng. Vừa đi Tân vừa quay lại vẫy chào Đen. Chờ cho bóng Tân đi khuất hẳn? Đen mới quay lại đàn bò của anh, và anh nghĩ rằng, giá anh cứ sống mãi với đàn bò như thế này chắc hẳn cuộc đời anh sẽ được thanh thản mãi mãi ./.
                                                                                                        LH
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9