TÌNH YÊU VÀ CON ĐƯỜNG
Tiểu thuyết_Lương Hiền CHƯƠNG MỞ ĐẦU
Lúc đó vào khoảng 9 giờ sáng, một buổi sáng mùa đông. Ánh mặt trời vừa mới bừng lên, le lói trong khu rừng già, xuyên qua những vòm lá chiếu thành những tia song song, dọi xuống mặt đất còn ẩm ướt sương đêm thành từng chùm, từng chùm ánh sáng. Những giọt sương mồ côi thỉnh thoảng lại loé lên rồi tắt hẳn. Tiếng chim bỗng ríu rít reo vui đón chào những tia nắng và tiếng bầy vượn trên núi cao cũng léo nhéo gọi nhau đi kiếm ăn. Những cành cây thấp bé, như đang ngủ gục trong rừng lạnh cũng mở ra đón ánh nắng. Núi rừng lao xao, báo hiệu một ngày nắng ấm.
Ánh nắng đã dọi vào Đèo Thung, nơi con đường đang mở, đất đá ngổn ngang, mùi đất mới hăng hăng, mùi khói, mùi thuốc súng lẫn lộn với mùi mồ hôi người, mùi xăng dầu, và hơi đất ẩm ướt, làm người ta có cảm giác như đấy là một trận địa đang chiến đấu chứ không phải là quang cảnh của một công trường đang thi công làm đường, mà trọng điểm của nó là cái Đèo Thung này.
Từ dưới thung lũng nhìn lên đỉnh đèo cao hàng trăm mét. Nếu tinh mắt, hoặc phải nhìn bằng ống nhòm, sẽ thấy một số đông người lố nhố chạy đi chạy lại, chạy lên chạy xuống, mà bóng họ in trên nên trời và thỉnh thoảng những tia nắng chiếu vào kim loại làm loé lên những ánh phản chiếu đến chói mắt.
Giữa biển mây trắng đục, đang tan dần bởi ánh nắng chiếu vào, nổi lên những đỉnh núi, những mỏm đá và những rừng cây, trông tựa như những hỏn đảo nhấp nhô giữa biển cả mờ mờ ảo ảo. Nhìn lên đèo Thung người ta bỗng liên tưởng đến Hoa quả sơn, trong bộ phim nói về Tây du ký. Ở đó ó những hang động, những con đường sơn thuỷ hữu tình đẹp như trong truyền thuyết.
Trong thời đại chúng ta, có biết bao nhiêu sự tích anh hùng và những kỳ tích xây dựng. Rồi đây, nếu như sau một trăm năm, kỳ tích về nhà máy thuỷ điện sông Đà trở thành huyền thoại chung đó, có cái Đèo Thung, mà con cháu của người dân bản Nai, bản Thung sẽ mãi mãi kể cho nhau nghe, như một chuyện cổ tích đời sau này sang đời khác. Và truyền thuyết Đèo Thung sẽ sống mãi với thời gian.
Ấy là chuyện sau này hàng thế kỷ, hàng chục thế kỷ,. Còn bây giờ, ở cái thời điểm mà chúng ta đang xem, đó là khởi đầu, là cái sơ khai, để sản sinh ra cái truyền thuyết, cái huyền thoại Đèo Thung sau này. Đó là một bộ phận của đội 4 công nhân giao thông ,thuộc công ty xây dựng cầu đường, đang làm nhiệm vụ chuẩn bị phá nổ để bóc từng lớp, từng lớp đá ở Đèo Thung. Họ đã dùng choòng búa, máy khoan, búa máy, để đục, khoan những lỗ mìn, rồi những lỗ đó được tống đầy mìn, và những tiếng nổ liên tục rền vang.
Đội trưởng Đội 4, Công ty xây dựng Cầu đường số 1,Kỹ sư Lê Thành Đốc, khoảng 26-27 tuổi, có dáng dấp của một anh chàng lực điền, người to đậm và chắc nịch như một cái giò nạc, khuôn mặt quắc thước, nước da tái xạm, dấu vết của những trận sốt rét Trường Sơn. Đôi mắt sáng, vẻ tinh nhanh và tự tin, phong thái đĩnh đạc chứng tỏ là người đã từng trải chiến trường. Anh đứng trên mỏm đá cao, quan sát các công nhân đang tác nghiệp, thỉnh thoảng lại ra những khẩu hiệu ngắn gọn, để đôn đốc nhắc nhở các công nhân những công việc, những động tác cụ thể. Cứ trông cái cung cách chỉ huy rất chững chạc của anh, người ta đã thấy tin tưởng ở người đội trưởng có nhiều kinh nghiệm trong việc mở đường này.
Sau khi đưa mắt quan sát toàn bộ trận địa một lát cuối. Lê Thành Đốc thổi một hồi còi dài rồi hô lớn:
- Tất cả về vị trí, theo kế hoạch điểm hoả đã phân công, các đồng chí rõ chưa?
- Rõ ...!
Các công nhân nhanh chóng về các vị trí, và đồng thanh hô, rồi ai nấy đều làm phần việc của mình.
- Triển khai chuẩn bị điểm hoả! – Các số chuẩn bị xong báo cáo!
Đội trưởng Đốc vẫn đứng nguyên tại chỗ, anh chỉ dùng mắt để kiểm tra, theo dõi các động tác của các công nhân. Một lát sau các công nhân lần lượt báo cáo:
- Số 1 báo cáo xong! – Được !
- Số 2 báo cáo xong! – Số 3 báo cáo xong!
- Só 4 báo cáo xong ! – Số 5 báo cáo xong !...
- Số 10 báo cáo xong ! ...
Cứ mỗi lần các số “báo cáo xong” – Đốc lại đáp “được”. Cho đến số cuối cùng – Anh bước lên một bước, như để làm các công nhân chú ý, rồi dõng dạc hô:
- Chuẩn bị ...!
Bỗng một công nhân gác rất trẻ, có tên là Châu hốt hoảng kêu lên từ phía dưới đèo một đoạn:
- Báo cáo đội trưởng, có người đang đi tới!
- Yêu cầu họ quay lại! – Đốc gắt lên.
Một cô gái đang từ phía chân đèo đi lên, gần đến chỗ người gác:
- Quay lại! ... ô kìa đã bảo quay lại!
Nhưng cô gái vẫn cứ đi đến sát người công nhân gác:
- Chào anh, anh cho tôi hỏi thăm một tỷ - Cô gái vội nói:
- Một tý cũng không được, ô kìa cái cô này hay thật, đã bảo quay lại! – Nhưng cô gái mặt vẫn tỉnh bơ, cứ như không nghe thấy gì cả; cô nhìn thẳng vào người công nhân gác:
- Có ai là Đốc, Lê Thành Đốc ở đây không hả đồng chí?
Nghe thấy tên mình, Đốc liền quay lại nhìn xuống và bỗng kêu lên:
Kìa Huyền!
- Anh Đốc! – Cô gái cũng reo lên.
- Sao em lại ở đây?
- Bọn em đang thi công dọn lòng hồ thuỷ điện Sông Đà... Vừa lúc đó, một tổ công nhân vác xẻng, vác cuốc cũng từ chân đèo đi lên, đến chỗ người gác. Một người có dáng cao cao hơi gầy gầy báo cáo với đội trưởng:
- Báo cáo đội trưởng, ca hai đến nhận bàn giao! Cô gái bỗng nhìn vào người vừa báo cáo và gọi:
- Anh Cương! Anh không nhận ra em à?
- Huyền! Anh chàng tổ trưởng có cái tên Cương cũng thốt lên một cách ngỡ ngàng, rồi nét mặt anh ta đang tươi tỉnh bỗng nhiên sa sầm lại – Vâng, đã có một thời – anh ta thầm nói với mình – hình ảnh cô ấy đối với tôi thật là rực rỡ đẹp đẽ biết bao, đó là hy vọng, là niềm tin yêu của trái tim tôi. Nhưng bây giờ tất cả đã qua rồi, đã qua rồi – Anh ta nhìn chằm chằm vào cô gái trẻ như giận dỗi đang muốn điều gì đó, nhưng lại thôi và với một giọng nặng nề:
- Thôi, chào chị! – Rồi bước đi về phía sườn đồi.
- Kìa, anh Cương! Cô gái nhìn theo Cương và gọi với một giọng gần như khóc. Lúc này, Đốc đã chạy lại gần cô gái, anh nhìn vào mắt cô như dò hỏi:
- Cương à? Có phải cậu ấy đấy phải không em?
Cô gái định gật đầu, nhưng rồi bỗng lại lắc đầu mạnh một cái, làm cho mái tóc vung xoà ra, đập vào mặt cô, và giọng cô trầm hẳn xuống như thì thầm:
- Không, có lẽ em đã nhầm. Thôi em về đây!
- Thôi được, em cứ về đi, rồi anh sẽ sang bên ấy, có khi phải nhờ vả em đấy!
Chờ cho cô gái gật đầu chào mọi người rồi quay ra, đi xuống núi. Đốc lại hô to:
- Ca hai lùi về phía sườn đồi chờ ở đó – Các số chuẩn bị... Bỗng từ phía sườn núi, một công nhân có tên là Vinh, gác phía đó lại báo cáo:
- Báo cáo đội trưởng, có người đang đi đến!
- Lại người, yêu cầu họ quay lại! Đốc giọng gay gắt quát to lên:
- Quay lại, này có nghe thấy gì không đấy?
Cậu gác cũng quát lên:
- Kìa, đã bảo quay lại cơ mà!
Một thanh niên người nhỏ nhắn, nước da trắng trẻo, vẻ thư sinh, mặc bộ bảo hiểm còn mới, đi đến phía Vinh, người công nhân gác bên sườn núi phía Tây, ngước nhìn lên phía người gác, vừa đi vừa hỏi:
- Chào đồng chí. Đồng chí cho tôi hỏi thăm: Có phải đội 4 đang làm đường ở đây không?
- Thế ông không nhìn thấy cái làn dưới chân đèo, có cái cổng chào “Đội 4 quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ” to tướng đấy à? Vinh vẻ bực bội:
- Tôi muốn gặp đội trưởng Lê Thành Đốc?
- Lính mới hả?
- Vâng, lính mới tò te!
- Biết ngay mà, anh chàng Vinh ra vẻ hiểu đời, lên giọng lính cũ – sắp sửa điểm hoả mà cứ lớ ngớ bò lên có ngày mất “ca bin” như chơi. Thôi lên đây, đội trưởng Đốc kia kìa, ông ấy nổi tiếng ở Trường Sơn đấy.
Anh chàng “lính mới” nháy Vinh một cái, rồi chạy vội về phía Đốc:
- Báo cáo đội trưởng, tôi kỹ sư Vũ Bá Đồng được điều về đội ta công tác!
Đốc buộc lòng phải tiếp Đồng lúc này, anh bắt tay Đồng với vẻ miễn cưỡng. Đồng lúc này cũng chợt nhận ra Cương, anh tổ trưởng ca hai đang lên chờ thay ca, còn đang đứng đó:
- Kìa Cương, Cương cũng ở đây à? Có nhận ra mình không?
Cương cũng bất ngờ nhận ra Đồng:
- À ra anh, người giáo viên Khoa thi công cơ giới trường Trung cấp giao thông và là người yêu của cô Minh Huyền. Câu sau Cương nói với một giọng mỉa mai đầy vẻ bực tức.
- Đúng mình đã yêu cô ấy, nhưng cô ấy lại yêu cậu cơ mà?
- Sao đổi ngôi rồi, đồng chí kỹ sư ạ - Giọng Cương có vẻ giễu cợt – Anh đến thăm cô ấy đấy chứ, tiếc quá cô ấy vừa mới ở đây xong.
- Hả, Huyền cũng ở đây à? Hay quá nhỉ - Đồng nói với giọng thực thà – Không, mình được điều về đây hẳn cùng các anh đấy.
Đốc đang từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, lúc này vừa chứng kiến cảnh Huyền và Cương gặp nhau – Tuy Huyền chối phăng lời anh hỏi, nhưng linh tính báo anh biết, Cương đúng là người mà Huyền đã có lần biên thư cho anh biết. Và bây giờ lại chứng kiến cảnh Đồng và Cương gặp nhau, với những lời đối đáp chủng chẳng với nhau – Anh nhìn vào cả hai người:
- Vậy là các đồng chí đã biết nhau rồi hả?
- Vâng! Cương và Đồng đều đáp – Cương nói thêm – Không những thế, bọn em còn là đồng hương của đội trưởng nữa đấy. Người cùng xã Phù Vân mà, Anh Đốc không nhận ra sao? Đốc trố mắt nhìn hết người này lại sang người kia, như cố nhớ xem có nhận ra họ không, nhưng anh lắc đầu và thốt lên vẻ vui sướng:
- Ồ, hay quá nhỉ, xin lỗi các bạn trẻ nhé, có lẽ tại mình đi lâu nên không nhận ra được, gần mười năm rồi còn gì – Thế là hai cậu đều đã biết và yêu em gái mình? Anh nhìn vào Đồng và Cương nháy mắt vẻ hóm hỉnh – nhưng nó biết chọn ai ? Rắc rối thật, và cái rắc rối ấy lại gặp nhau ở đây, trên cái công trường với nhiệm vụ phức tạp này. Thôi, khi nào thông đường ta sẽ nói chuyện tình yêu nhé – Lúc đó anh em chiến sỹ đều chăm chú theo dõi diễn biến cuộc gặp gỡ họ tưởng rằng ông đội trưởng tính “Trương Phi” này sẽ quát cho mấy ông kia một trận, nhưng lại thấy Đốc cười nói, điệu bộ như đóng kịch, anh em đều cười ồ lên tán thưởng:
- Phải đấy, khi nào thông đường ta sẽ nói chuyện tình yêu!
- Thôi, các đồng chí về vị trí – Đốc thổi một hồi còi dài rồi hô: Các số chuẩn bị ... Điểm hoả !
Một phút sau, từ đằng xa nhìn vào, khu vực Đèo Thung như đang bị một trận cấp tập liên hồi của hàng chục đợt máy bay B52 nối đuôi nhau rải thảm. Đất đá văng lên cao, rồi rơi xuống rừng ào ào, khói thuốc nổ mù mịt, bao chùm lấy đỉnh đèo. Tất cả chìm trong biển khói mây.
CHƯƠNG I
Tối một lúc thì chiếc xe chở khách dừng lại, hành khách ngủ gà, ngủ gật choàng tỉnh dậy cất giọng còn ngái ngủ hỏi nhao nhao:
- Xuống đây à bác tài ơi?
- Xuống hết! Bến xe sơ tán ở đây! – Người lái xe đã đứng tuổi trả lời giọng cáu kỉnh.
Chiếc đèn nhỏ ở trên xe đã bật sáng. Mọi người ồn ào thu xếp hành lý. Huyền, một cô gái bộ đội với lấy ba lô, mũ, rồi trèo qua mấy chiếc đệm xe cũ, tòi cả lớp cỏ nhồi bên trong. Chờ cho mọi người xuống hết cô mới thong thả chui ra.
Trăng mùa xuân mờ và ẩm ướt, những đám mây xám nặng trĩu hơi nước đang tản mát bay qua một cánh rừng, nhấp nhô cây phi lao, một anh bộ đội Hải quân giơ tay cho Huyền vịn trèo xuống và hỏi:
- Tôi về Phù Vân, đồng chí có đi cùng đường không?
- Nhà tôi ở gần đây, qua bãi phi lao kia là đến. Cô gái trả lời bằng một giọng vui vui và dịu dàng.
- Đồng chí có uống nước không? Đưa chiếc bi đông cho người con gái, anh Hải quân cố nhìn một dáng hình thon thả, trong bộ quân phục gọn gàng, trên ve áo có đính quân hàm hạ sỹ quân y, anh lẩm bẩm một câu gì như cố nhớ lại xem mình đã gặp cô này ở đâu.
Huyền ngửa cổ uống ngon lành vài ngụm nước lạnh, mỉm cười trả lại bi đông, cám ơn và chào đồng chí Hải quân rồi rẽ xuống con đường đi qua ngôi trường cấp II ven đường đê.
Đây là một ngôi trường lộng gió và thoáng đãng, xung quanh trồng phi lao, dẫy hành lang dài, chạy suốt những phòng học giống nhau. Từ chiếc bảng đen treo trên tường, đến dẫy bàn ghế học sinh, bao giờ cũng nhằng nhịt những nét vẽ ngộ nghĩnh, những câu thơ bát nháo. Dưới chân đê là dòng mương nhỏ, dòng mương mang nhiều màu sắc. Khiến người ta cứ muốn ngắm nó mãi, chỗ thì thẫm lại, nép dưới bóng dâm của những cây cơm nguội, cây mâm sôi. Chỗ thì sáng rực, xao động, lấp lánh dưới nắng. Những quả sung, quả vả trôi dập dềnh một cách thú vị và vô tư.
Ở đây Huyền đã học những năm cuối phổ thông, trước khi vào học trường quân y. Cuộc sống thường có những sự việc, những ý nghĩ đến đột ngột như một tia chớp bất ngờ loé sáng, làm xoay chuyển trong chốc lát, những điều đã được suy tính kỹ lưỡng.
Trước đây Huyền là một cô gái mảnh dẻ, ưa mơ mộng và rút rát, học ở phổ thông, Huyền giỏi môn văn. Trong lòng cô đầy ắp những mơ ước về văn học. Tuy vậy mỗi lần nghĩ đến điều ấy, cô thường đỏ mặt và không hề dám nói với ai, dù là người bạn thân thiết. Huyền say mê đọc báo, cô giành hầu hết thời gian rảnh rỗi cho sách báo. Chính những trang sách lại làm Huyền thấy con đường ấy xa vời vợi, sức cô không thể nào đi tới.
Huyền học hết lớp 10, cô được xếp vào loại học sinh khá, cô đợi giấy báo đi học nước ngoài, vào một học viện đúng như cô mong muốn. Hồi ấy Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc và ngày càng khốc liệt hơn. Đêm đêm từ sân nhà mình, Huyền nhìn thấy những luồng sáng đục nhập nhoạng ở phía xa. Từ nơi đó thỉnh thoảng dội lại những tiếng nổ ầm ầm, nặng nề, anh Đốc bảo phía ấy là miền Trung, là Thanh Hoá, Quảng Bình… Những đêm như thế, thường làm mọi người trong nhà khó ngủ, khuya lắm, Huyền vẫn thấy mẹ nhai trầu. Bên giường anh Đốc, chốc chốc lại có tiếng cựa mình. Huyền ngỡ rằng vết thương cũ của anh lại tấy lên, tính nết anh có gì hơi khác lạ, lầm lỳ và cau có.
Nửa tháng sau, một buổi chiều anh Đốc từ xưởng máy về nhà, trên khuôn mặt tai tái của anh, đôi mắt anh cứ bừng lên một niềm vui đến là trẻ trung. Anh trở lại vui vẻ đáng yêu như lần đầu anh đến gặp chị Minh – anh đã có lệnh gọi tái ngũ.
Bữa ấy, bố và anh Đốc thức đến khuya, hai người nói chuyện lâu lắm. Huyền nghe tiếng anh Đốc hỏi bố giọng trầm trầm xúc động:
- Bố cho là, ở binh chủng nào hơn hả bố? Ông bố, một Đảng viên, cán bộ quân giới vừa về hưu trả lời con trai:
- Ở đâu đánh Mỹ nhiều, là ở binh chủng ấy tốt nhất!
Bà mẹ kêu đau lưng đi nằm sớm. Bà vốn ít nói, từ lúc biết tin anh Đốc tái ngũ trở lại bộ đội, nhìn vào mắt của mẹ, Huyền thấy có điều gì thật lạ, vừa thông minh, vừa hiền hậu, giờ đây cứ ánh lên một tia sáng mới.
Những ngày sau đó, việc chờ đi học của Huyền không còn thảnh thơi nữa. Máy bay Mỹ bay gần hơn, nhiều hơn, các cơ quan đổi giờ làm việc, ở thành phố, đèn điện ban đêm cứ tắt, rồi lại sáng, các bạn anh Đốc đến chơi, người nào cũng vội vã cười nói ồn ào, họ chuẩn bị nhập ngũ. Bố suốt ngày mê mải tìm chọn gì trong đống sách cũ đã gói từ lâu. Còn mẹ bận việc nhà và lo sắm sửa cho người sắp đi. Ai có việc nấy, mọi người như đã quên bẵng mất cô học sinh rút rát, ưa mơ mộng, sắp đi học nước ngoài. Huyền thấy mình trở nên thừa, lạc lõng với xung quanh, điều đó dẫu chỉ là một ý niệm. Cho đến lúc cô thấy việc thích đi xa là ích kỷ, hơn nữa là một sự lẩn tránh, những khó khăn thiếu thốn mà những người thân yêu đang phải gánh chịu. Ờ! mà cũng không hẳn thế, nghe nói bên ấy có những “đêm trắng”. Đêm trắng ra sao nhỉ? Chắc sẽ không có bóng đêm tím ngắt, ru ngủ bờ tre bằng tiếng gió, xao xác mà dịu dàng, và tiếng con chim tìm vịt, cất giọng xao xuyến, tha thiết suốt đêm gọi bạn, ở cây xoan sau nhà. Cả tiếng ấm ầm quen thuộc của máy bay ta mỗi lần cất cánh. Cuộc sống thường ngày làm sao có thể thiếu được, những điều tưởng chừng nhỏ nhặt nhưng lại hết sức thân yêu quen thuộc ấy.
Huyền quyết định ở lại, cô xin đi học trường quân y, cô trở thành y tá và những bỡ ngỡ trở nên quen thuộc: Đời sống bộ đội thời chiến, những ca mổ xẻ. Trong chiếc lán dựng tạm thời dưới lòng đất, sự hồi hộp khi vượt bom nổ chậm và những đêm hành quân cô thích nghi với tất cả những điều mới mẻ đó, bằng sự ngạc nhiên, vui thích rất thành thật. Đôi khi trong những giờ rảnh rỗi hiếm hoi, với tính ưa mơ màng, trong đôi mắt mở to, có cái vẻ bối rối đến dễ thương, như đang cháy lên một khát vọng. Sau dãy núi kia, mình chưa được nghe những sự tích anh hùng, mình thích đến đấy, ước gì mình được đến đấy...
Huyền bước lên đỉnh gò gần bờ đê, sân trường đây rồi, ngôi trường có vẻ yên tĩnh và hoang vắng. Hành lang đầy rác rưởi và lá phi lao khô, ngói vỡ, chắc có trận địa pháo, nòng pháo và mặt đất cắt nền trời thành những góc hình học.
Tất cả đã thay đổi, ngay cả mình cũng khác trước nhiều – cô nghĩ và nhớ đến anh Đốc cũng học ngôi trường này. Bây giờ anh đi chiến đấu nơi xa rồi, ngay cả cô, cô cũng sắp đi được đến đấy. Chính vì thế, cô được về phép thăm mẹ, gần hai năm rồi cô không về, những cây phi lao quanh trường lớn bổng hẳn lên, dưới bầu trời xam xám nặng hơi nước, những cây phi lao nghiêng ngả lay động chúng reo lên khe khẻ như lời chào hỏi ân cần...
Lá phi lao loà xoà lướt chạm vào người cô, những cái vuốt ve ẩm ướt, cô bỗng thấy rặng phi lao này rất giống ở những làng ven biển ở khu 4, những nơi cô đã đi qua.
* *
*
Con chó Mực tinh khôn chạy xô đến nhận ra chủ, nó chum hai chân sau, nhảy chồm lên, bám lấy Huyền vẫy đuôi rối rít. Huyền lần tay qua bờ rào, mở cánh cổng, chiếc cổng tre rít lên khe khẽ, quen thuộc làm cô cảm động, cô hít một hơi dài cố trấn tĩnh. Trong nhà vẫn còn ánh sáng đèn, cô ghé nhìn qua khe cửa. Bà mẹ đang chăm chú khâu vá gì dưới đèn, mũi kim run rẩy chậm chạp, mẹ gần như chẳng có gì thay đổi cả, y hệt như từ nơi xa cô vẫn nhớ về mẹ. Như từ những ngày nào, cô đã phân biệt được tiếng bước chân mẹ, trong tiếng nói cười của những người hàng xóm đi chợ về.
Vẫn đôi mắt vừa thông minh, vừa hiền hậu, chỉ có vòng tóc cuốn trên đầu là bé đi và ngắn lại, và đường kim nơi tay mẹ chừng như dè dặt hơn …
Cô đứng lặng bối rối, những muốn chạy vào hét tướng lên một tiếng: “mẹ” nhưng cô vẫn đứng im, cô mỉm cười gõ cửa:
- Ai đấy?
- Cháu đây ạ, cháu đi công tác qua, bà làm ơn cho cháu ngủ nhờ, cô cố làm cho tiếng nói khác đi.
Tiếng lạch cạch mở then cửa. Bà mẹ cầm đèn ra, Huyền phì cười, mẹ ngạc nhiên giơ cao đèn ngang mặt mới nhận ra đứa con út, khuôn mặt mẹ xao động, rạng rõ, mẹ túm lấy tay con gái.
- Ôi! con Huyền, cha bố mày, đánh lừa cả mẹ!
Chiếc đèn Hoa kỳ trong tay mẹ rung lên bần bật, mẹ đỡ ba lô cho cô, quai đeo làm mẹ lúng túng, chiếc ba lô rơi tuột xuống chân bà. Huyền cởi quân phục, chiếc áo sơ mi trắng ngắn lót trong hằn rõ cái cổ thon thả rám nắng. Cô đi đi, lại lại trong nhà. Tất cả đều gợi cho cô một cảm giác ấm áp dễ chịu. Mùi khoai khô đã bắt đầu mốc, chiếc bàn gỗ dán cũ kỹ, có vệt mực đỏ và khung cửa sổ trông ra bờ ao, có cây ổi còng. Cô mỉm cười trước bức ảnh nửa người của mình chụp khi thi hết cấp III, cô gái trong ảnh nhìn cô vẫn nụ cười rụt rè, trong sáng như ngày nào. Niềm vui đột ngột làm bà mẹ cuống lên, bà vội vã thu dọn đồ khâu, nhưng kỳ thực lại vứt bừa bộn ra giường, miệng lẩm bẩm, nửa ra hỏi, nửa ra mắng yêu con gái.
Huyền quay lại cầm lấy tay mẹ, nghe mạch đập chầm chậm ở bàn tay khô gầy, nhẽo nhèo ấy, my mắt cô bỗng dưng nóng ran. Bà mẹ ngồi xuống bên cô, đôi mắt mẹ vốn trầm tĩnh, giờ đây sáng bừng lên. Nó đã về đây rồi, đứa con gái út bé bỏng của mẹ, con đã về thật, trong một buổi tối vắng lặng này, hay chỉ là nỗi nhớ mong đằng đẵng, làm mẹ tưởng ra như vậy! Con ơi! Chắc mày không hiểu thấu mẹ, hằng lo lắng nhắc nhở đến chúng mày. Từng ngày mẹ thầm đoán, con đã đi đến đâu, từng giờ mẹ thầm hỏi con đang làm gì? Con sẽ ăn ngủ ra sao, ở những nơi xa lạ, liệu cái tính nết trẻ con hay làm nũng, hay giận dỗi, có làm phiền lòng những người xung quanh con? Nhiều đêm mẹ chợt thức giấc vì một tiếng lá rơi, một tiếng gió đập lạch cạch ngoài cửa.
Mẹ chăm chú nhìn từng bước đi của cô, bằng linh cảm của một người mẹ, bà nhận thấy sự đổi thay trong mỗi bước chân, giờ đây không còn bỡ ngỡ rụt rè, nhìn kia những bước người đi ung dung, trầm tĩnh của con một con người đã biết suy nghĩ và tự tin ở mình. Chính điều đó, làm mẹ vừa vui sướng, vừa như phảng phất một nỗi lo lắng rất mơ hồ.
Bà mẹ gỡ tay con gái, lật bật dờ khắp mặt con. Bà vuốt những sợi tóc, xoa xoa bên tai, giắt lên chiếc kẹp cho con, bàn tay vuốt vuốt xuôi xuống đôi vai cô, rồi bám chắc ở đấy. Mùi tóc quyện hơi người và hơi nóng từ thân thể trẻ trung của người con gái toả ra, làm bà mẹ yên lòng, nó đã về thật! Trái tim bà cứ đập rộn lên vì vui sướng bàng hoàng. Hai mẹ con ôm lấy nhau. Chiếc đèn Hoà Kỳ thỉnh thoảng nổ lách tách, lúc sau chợt nhớ ra, bà mẹ kêu lên:
- Chết thật! mày ăn gì bây giờ hả con? ăn cháo nhé, hay cơm nếp?
- Không – gượm đã mẹ! Cô nói, vẫn bám chặt lấy mẹ.
- Bố con đâu rồi?
Bà mẹ nói rằng, ông bố đến xưởng máy, thay anh Đốc dạy lớp bổ túc nghiệp vụ cho công nhân. Thuận tay, Huyền cầm lấy bài giảng đang soạn dở của bố đặt ở trên bàn, trên đầu trang, có viết dòng chữ đậm nét “độ bền của gang” có đóng khung mực đỏ. Cô hỏi mẹ:
- Ngày nào bố con cũng đi hả mẹ?
- Một tuần hai buổi thôi nhưng phải đi xa, xưởng máy cũng sơ tán rồi, mẹ nấu cơm cho mày ăn nhé.
- Còn cơm nguội không mẹ?
- Còn, hay để mẹ rang cơm cho mà ăn – Bà mẹ lật đật cầm đèn đi.
- Mẹ! Bà mẹ quay lại – không, chẳng có gì đâu, mẹ đi đi, con đói lắm rồi – Cô gái vừa nhí nhảnh, vừa làm nũng.
Bà mẹ cười, ra nó vẫn trẻ con, vẫn bé bỏng, thắm thiết như thế.
Cô nằm ngả lưng lên đống quần áo mẹ đang khâu dở. Trong bóng tối, lắng nghe âm thanh của tiếng mẹ ngọt ngào, êm dịu, và cô lại cảm thấy những điều cô sẽ phải nói với mẹ thật là khó. Mẹ sẽ sống ra sao, khi mẹ biết cả hai đứa con cũng sẽ phải đi xa, xa lắm! đoạn đường dài dằng dặc, tin tức đi về thường chậm. Mẹ yên lặng, hay mẹ sẽ khóc? hay lại dặn dò con gái, những điều hết sức tỷ mẩn, mà cô không thể làm theo được. Ví như chuyện, con gái thì không nên dậy muộn, phải phơi phóng ở chỗ kín đáo, khi mưa xuống, nắng lên thì không được dầm nước, sẽ rỗ gan bàn chân v.v…
Không được nói đêm nay, ngày mai cũng chưa nên nói, đợi bố về đã, - cô nghĩ. Mẹ đang vui, những giờ vui này thật hiếm hoi, vô giá. Cô không muốn dù chỉ một câu nói làm mẹ phải nghĩ ngợi, điều đó làm cô hết sức băn khoăn. Ánh lửa trong bếp sáng bừng lên, mỡ sôi sèo sèo. Bóng bà mẹ in trên vách to lớn, dị dạng đến buồn cười. Bà vẫn ít nói, chính vì thế, mỗi lần nghĩ về mẹ, cô thấy xúc động và cứ ngỡ rằng mình chưa hiểu đầy đủ về mẹ, về sự can đảm, gan góc, chịu đựng của mẹ, cuộc đời của mẹ chất chồng bao nhiêu vì cay đắng, nhớ thương, có lẽ chính vì vất vả, lo toan ngay từ bé đã để lại dấu vết trong đôi mắt mẹ, đôi mắt bao giờ cũng đọng nhiều suy nghĩ.
*
* *
Bà mẹ là con một ông lang. Mỗi người thày thuốc thường có môn thuốc độc đáo của mình, ông cụ nổi tiếng về môn bó xương gẫy. Tiếng tăm vang đến kinh đô. Triều đình Huế vời cụ về kinh, nhưng cụ dứt khoát từ chối phẩm hàm của bọn vua quan nhà Nguyễn, bà cụ lang khóc lóc, vất vả dắt con gái chạy theo toán người bị bắt mà người ta gọi là giặc Bãi Sậy. Ông cụ bị nhốt trong cũi sắt cùng với những người cầm đầu nghĩa quân, ông cụ vẫn thản nhiên, im lặng. Triều đình Huế và bọn xâm lược đã chém đầu người thày thuốc ấy về tội làm loạn.
Mảnh trời sau khung cửa sổ chợt tối đi, mảnh trăng vừa bị mây che khuất, gió lùa qua song cửa, thổi xù lông con mèo tam thể, nó gừ gừ, vẻ khoái trá. Gió mùa xuân mang theo mùi hương của hoa bưởi, đến là sao xuyến. Huyền vẫn nghĩ về mẹ, sau này khi mẹ lấy chồng, rồi có con vẫn là những ngày sống thật gay gắt. Dạo ấy bố còn trẻ, hăng hái và kiên quyết. Làm cách mạng bí mật trong lòng địch, vừa nguy hiểm khó khăn, mà còn phải có nhiều mưu trí, cùng với các đồng chí của mình, họ đều là những người tốt bụng, đứng đắn. Rồi bố đi tuyên truyền kháng chiến phá tề, chỉ huy du kích đánh Tây, phá đồn. Đêm đến, đen tối và kinh hãi, bà mẹ ôm chặt cả hai đứa con vào lòng, suốt đêm không hề chớp mắt, run rẩy mỗi lần có tiếng chó sủa rộ, bọn Tây bọn dõng di lùng khắp làng.
Bà mẹ không hiểu hết việc làm của chồng, nhưng biết rõ, tai ương bất ngờ có thể xảy đến nhà mình. Sau khi bố bị bắt, mẹ lại tần tảo, chạy vạy nuôi con. Ôi! nói sao cho hết cực nhọc của một người đàn bà trẻ, là vợ một người tù Việt minh cộng sản trong tay không một đồng, một chữ. Dạo ấy anh Đốc mới đứng lên ngực mẹ. Một lần mẹ bắt gặp đứa con trộm gạo nếp. Dạo ấy bộ đội cụ Hồ đang đánh mạnh ở biên giới.
- Con lấy gạo nếp làm gì? Mẹ hỏi:
- Con nấu cháo mẹ ạ - Con đói.
- Không đúng – nhà vẫn còn cơm nguội – Con lấy gạo nếp làm gì?
Đứa con khóc, gạo nếp rơi tung, trắng xoá dưới chân mẹ - Con nấu hồ, để dán truyền đơn, mẹ ơi! Bố dặn con làm thế. Mẹ bật khóc nức nở. Bà vốn quý và nể chồng. Với chồng, bà vẫn đinh ninh một điều, mọi việc ông đã làm đều là đúng.
- Mẹ ơi! Bố dặn con làm thế. Truyền đơn bố để trong kèo nhà – đứa con lại thì thầm đôi mắt nhìn mẹ, van lơn, cầu khẩn.
- Mẹ đừng sợ… con vẫn làm đấy. Con còn bé, chúng nó không để ý đâu – Mẹ ôm con vào lòng, nước mắt mẹ rơi xuống ướt mái tóc, quện mùi nắng, mùi mồ hôi, khét khét của đứa con trai. Nó còn bé bỏng lắm, đến bữa ăn còn mải trêu em, lẽ nào mai này chúng nó sẽ trói ghì lấy đôi cánh tay bé nhỏ của con mẹ, và máu của nó…. không! chính là máu của mẹ sẽ ướt đầm mái tóc khét mùi nắng này con ơi!
- Mẹ - Bố dặn con phải làm thế - đứa con nhắc lại, nhấn mạnh chữ “phải” một cách bướng bỉnh.
Bà mẹ lờ mờ cảm thấy đây là một việc hệ trọng, hệ trọng như thế nào, bà không thấu hiểu, nhưng là một việc cần phải làm. Không còn cách nào khác, bà đứng dậy lau khô nước mắt, lặng lẽ xúc gạo nếp cho con.
Mỗi người đi theo cách mạng bằng con đường riêng của mình, chẳng ai giống ai. Với bà, con đường ấy bắt nguồn từ lòng yêu nước tha thiết, lòng quý nể chồng và sự ngoan ngoãn của người vợ, đó là một sự thông hiểu không cần phải giải thích, không khoa trương, ồn ào, rất lặng lẽ song hết sức chí tình. Trong suốt những năm kháng chiến, chồng ra mặt trận, bà dắt con đi tản cư, đói, no, thiếu thốn, vẫn một lòng đi theo kháng chiến. Sống với mẹ, Huyền thấy ít có những lần mẹ không kiềm chế được tình cảm của mình, ấy là những lần hiếm hoi. Sau khi bố trốn khỏi nhà tù, ông liền đi lên Việt Bắc tham gia kháng chiến, rồi từ chiến khu về qua nhà, hoặc anh Đốc sau này đi bộ đội đánh Mỹ, từ mặt trận trở về, người nồng nặc mồ hôi, rám nắng và cao lớn, mẹ ngồi trong bếp mỉm cười, nhưng trước mắt cứ giàn giụa. Bà lắng nghe tiếng nói trầm trầm của đứa con trai từ trên nhà vẳng xuống. Mỗi lần anh và bố ra đi, mẹ lại cố giữ vẻ thản nhiên, lo lắng mọi thứ lặt vặt cho người đi xa. Nhìn vào mắt mẹ, Huyền thấy sự im lặng. Cái im lặng thật vô giá.
Huyền nằm xuống cạnh mẹ, bên cửa sổ, trông ra cái ao nhỏ, có cây ổi còng, cô có một ý thức đặc biệt như vậy, đằng sau khung cửa là một mảng trời, vài ngôi sao lọt qua kẽ lá. Và trong đêm ấy, cứ thay đổi từng khắc một, vừa quen thuộc, vừa lạ lùng, khiến cô nhiều khi hối tiếc, vì đã ngủ quên đi. Bà mẹ nằm bên cô, bàn tay mẹ lần lần mái tóc con gái. Cô ngoan ngoãn nằm im, nghe hơi thở thơm mùi trầu của mẹ thoảng qua mặt mình, lâu lắm Huyền mới được ngủ với mẹ, sau những đêm căng thẳng vì công việc những ca mổ xẻ, tiếng dao kéo loảng xoảng, và mùi thuốc gây mê. Cô cảm thấy thật dễ chịu và hết sức thoải mái, nếu như không có câu chuyện cô sẽ phải nói với mẹ.
Mỗi một người lính được gọi đi tiền tuyến, họ đều hết sức sung sướng trả lời: “Chúng tôi đã sẵn sàng”. Khi nhận được quyết định, Huyền vui sướng lẫn hồi hộp, hơn cả mỗi lần bước vào kỳ thi trước đây, hay mỗi lần thành công sau một ca mổ khó hiện nay.
Khuya, trăng đã lên hết khung cửa sổ, hai mẹ con vẫn còn thức, bà mẹ hỏi con gái, những câu lẩn thẩn:
- Huyền này! mày vẫn ăn chậm thế ư con?
- Sao cơ?
- Bộ đội phải ăn nhanh, nó đánh ù cái thì thôi, ờ - hồi mày mới vào bộ đội, cứ quen dềnh dàng người ta có mắng không?
Huyền cười khúc khích:
- Phê bình chứ ai lại mắng.
- Ừ - thì phê bình. Con gái vô nết – ăn mà người ta nói cho thì xấu hổ ấy chứ? – Nằm một lúc, mẹ lại thủ thỉ:
- Huyền này!
- Dạ
- Lâu lắm thằng Đốc có viết thư cho mày không? chẳng biết hồi này nó còn bị cái chứng nhức đầu không? Ngày nó còn ở nhà, mẹ vẫn phải đi kiếm lá ngải khô cho nó. Bây giờ mẹ đã gây được một bụi rồi, hay là … hôm nào con đi, chịu khó đem theo nắm lá ngải khô, may có gặp anh thì đưa cho nó.
Huyền cảm thấy nhẹ nhõm, mẹ vẫn chưa hay biết gì về sự đau đớn anh Đốc đã gặp phải. Cô thầm cảm ơn anh mình về điều ấy mà cô nghĩ đến một chuyện bất ngờ thật khó quên.
*
* *
Đến phiên trực ở Viện quân Y, Huyền vội đến gian lán làm nơi phẫu thuật, ở đây vừa chuyển đến một thương binh mới. Đồng chí ấy bị sức ép nặng, người ta vừa làm phẫu thuật tìm gắp mấy viên bi trong người anh. Huyền đến, anh đã ngủ yên, anh nằm quay mặt vào trong, một đồng chí bộ đội ngồi bên giường anh, vẻ mặt bồn chồn, lo lắng, anh nắm lấy tay người con gái khẩn khoản.
- Báo cáo đồng chí, đây là trung đội trưởng ở đơn vị tôi, đề nghị các đồng chí hết sức quan tâm cho. Có gì đột biến xin báo cấp tốc cho đơn vị tôi theo hòm thư số… và dường như thấy cần phải giải thích thêm, anh kể Huyền nghe:
- Chúng tôi thuộc tiểu đoàn công binh cầu đường có nhiệm vụ bắc cầu, bảo đảm đường, chốt giữ tại ngã ba đoạn đường 15B và bến cầu bắc qua sông Mã. Từ một trung đội cầu phà, được tiểu đoàn cử ra huấn luyện thành một trung đội phòng không, súng 12 ly 7 để bắn máy bay bay thấp, chủ động bảo vệ trực tiếp bến cầu, phối hợp với các đơn vị cao xạ và bảo vệ tầm cao ở xung quanh. Đơn vị chúng tôi bố trí trên một mỏm đồi, một bên sườn đồi dựng đứng, tiếp giáp với bờ sông, bên kia chạy thoai thoải xuống một cánh rừng. Chà! vị trí ấy thật tuyệt, chúng tôi đã giã cho chúng nó những vố nên thân, anh cười nho nhỏ - Mỗi lần muốn ném bom qua cầu, tất chúng phải bổ nhào trước mặt chúng tôi, bọn tôi chờ lúc ấy, lúc xườn nó phơi tênh hênh trước mặt, lúc cái đầu nó đen chui chũi, bắt vào đường tim dọc, đúng lúc ấy chúng tôi được lệnh bắn. Đồng chí ấy có tiếng hô lạ lắm, hơi trầm xuống. Thật gọn và nặng như thể bao nhiêu sức lực, căm thù, tình cảm lắng đọng từ nơi nào, sâu kín, sâu kín lắm, được dịp bột phát.
- Bắn ! Chiếc cờ đỏ nơi tay đồng chí ấy phất mạnh. Từ một trung đội trưởng cầu phà giỏi đồng chí ấy đã xung phong chuyển sang và trở thành trung đội trưởng đội phòng không chẳng kém gì dân cao xạ chính cống cả. Dừng một lát, anh bỗng hỏi cô gái một cách đột ngột:
- Này! Đã bao giờ đồng chí được tận mắt nhìn máy bay Mỹ rơi tại chỗ chưa? Còn chúng tôi, chúng tôi đã trông thấy nó rơi ngay trước mũi súng, nó trúng đạn, lúc đang lao xuống. Cứ thế cắm phập xuống lòng sông, rất gọn, rất nhanh, chỉ có lòng sông hơi nghiêng đi, phồng lên, chòng chành một chút. Cái thằng Mỹ ấy, có lẽ đến lúc nước ùa vào bịt kín mọi khe hở, cũng chưa kịp ngạc nhiên kia, bọn tôi gọi thế là nhào lộn.
Anh bộ đội dừng lại một lúc và lại kể tiếp:
- Sau rồi chúng nó cũng phát hiện ra trận địa. Chúng nó trả thù, nhưng vì chúng tôi ở trên mỏm đồi nhỏ, sườn đồi dốc, nhờ thế chúng tôi vẫn an toàn, chỉ đôi bờ sông và vạt rừng bị vằm nát ra thôi. Đồng chí hỏi vì sao đồng chí chỉ huy bị thương ư? Anh bộ đội châm một điếu thuốc rồi kể tiếp:
- Chúng tôi ở trên ấy đã gần một năm. Trong suốt thời gian ấy, nhiều anh em chưa hề xuống núi, không phải vì ngại xa, thôn Yên ở ngay dưới chân đồi, nhưng chúng tôi có báo động luôn, chẳng anh nào muốn vắng mặt khi chúng nó đến. Tuy vậy điều đó chẳng có gì đáng phàn nàn, cái khổ nhất của người lính: thứ nhất là phải sống xa dân, thứ hai là thiếu nước. Chúng tôi phải chia nhau nước uống. Đồng chí bảo sao à? – Chúng tôi có thể nhờ dân, nhưng cứ nhìn sườn đồi trơ trọi, loang lổ hố bom thì cậu nào cũng tự thấy, thà thiếu thốn một chút còn hơn. Sau này, khi làm xong hào giao thông xuống núi, thì đời lính tươi hơn nhiều. Trong điều kiện ấy, đồng chí trung đội trưởng, là nguồn vui của đơn vị, con người ấy thật lạ. Trong lúc đánh địch, anh cứ thử bắn chậm hoặc nhanh một chút, hoặc giả công sự anh đào chưa đúng tiêu chuẩn xem, đồng chí ấy “quát” cho mê tơi ấy chứ. Thế đấy! nhưng chúng tôi rất mến đồng chí chỉ huy, anh ấy rất vui tính và có tài kể chuyện, chuyện của con nhà lính. Những chuyện như vậy, anh ấy biết vô khối, chả là lính tái ngũ mà, cười chán, bọn tôi lấy lá nguỵ trang tặng nhau, lính lại tặng lính, anh ấy ôm một bó lá tươi, giả giọng phụ nữ nói uốn éo:
“Chúng em là đoàn đại biểu phụ nữ Thôn Yên lên thăm các anh, xin tặng các anh ít lá nguỵ trang để kỷ niệm tình quân dân thắm thiết ạ!”
Nghe giọng nói ồm ồm và dáng người cao lớn của anh ấy chúng tôi không sao nhịn cười được.
Hôm trước đây, chúng nó đến ném bom xuống thôn Yên – quân khốn nạn – đồng chí bộ đội văng một câu chửi tục. Tối hôm ấy cả trung đội tập trung lại, đồng chí chỉ huy nói chuyện trước đơn vị. Bằng cái giọng trầm trầm cố nén. Đấy là những lúc anh ấy xúc động lắm. Chúng tôi nhất loạt quay nòng súng về thôn Yên, nhớ đến đồng bào vừa bị thiệt mạng, trong lòng anh nào cũng sôi sục cả lên, hôm sau và hôm sau nữa, chúng nó không đến. Bọn tôi vẫn đợi, nắng dữ dội và đợi chờ nung nấu làm chúng tôi dễ phát bẳn. Ngày thứ ba thì chúng nó đến rất nhiều, bọn nó đổi chiến thuật đánh, vừa đánh cầu, vừa đánh trận địa cả trận địa 12.7 ly và trận địa cao xạ 37 ly. Chúng bay lướt trên đầu chúng tôi, thả hàng loạt bom bi và bom chùm, cứ thế chúng bay qua rồi vòng lại. Bom rơi như vãi mực, lá nguỵ trang rách tướp héo quắt và rơi lả tả. Trong chốc lát, đất đá từ lưng đồi bắn vọt lên, rồi đổ ập xuống, đã có những mảnh bom rơi phía ngoài công sự, mảnh bom cắm chi chít xung quanh. Tuy vậy, chúng tôi không mắc lừa, không bắn những chiếc bay vượt qua đầu, chúng tôi chú ý những chiếc đánh cầu, bình tĩnh chờ hai sườn nó phơi tênh hênh trước mặt – “Bắn – vẫn là tiếng hô trầm xuống, mà thật gọn nặng. Lá cờ đỏ trong tay anh ấy quật mạnh, kiên quyết và giận giữ. Mỗi lần bụi khói tản đi tôi lại nhìn thấy bóng dáng cao lớn của anh ấy, cao hơn hẳn thành công sự, công sự của anh ấy đã bị bom phá vỡ. Tôi ngạc nhiên và lo sợ. Còn anh ấy hình như chẳng biết đến điêu ấy. Một giây sau: khi quả bom nổ rất gần tôi thấy anh ấy lạng người đi, tôi vừa định gọi y tá thì đã nghe lệnh “bắn” vẫn bằng cái giọng trầm quen thuộc, tôi ngỡ mình trông lầm.
Mặt trời gần lặn thì nó bị rơi một chiếc, đến lúc một chiếc nữa rơi cắm đầu xuống sông thì chúng hoảng chuồn thẳng, tôi quay lại thì không thấy đồng chí trung đội trưởng đứng đấy nữa, y tá và chúng tôi vội chạy đến, anh ấy khuỵ xuống đúng chô anh ấy chỉ huy…
*
* *
Huyền im bặt, bà mẹ vội hỏi giọng xúc động.
- Anh ấy còn sống không?
- Còn mẹ ạ – Anh ấy đã lành và đi chiến đấu xa rồi.
-Ờ!
Bà mẹ trở dậy lần tìm miếng trầu, không hỏi gì thêm. Trong bóng tối nắp âu trầu cứ va vào nhau lạch cạch. Huyền nhìn mãi vào khung trời bên ngoài cửa sổ, bây giờ đã tối thẫm lại. Hình như gió thổi mạnh hơn, mùi hoa bưởi thoảng vào tràn ngập trong nhà, mùi thơm hoa bưởi đến là xao xuyến. Cô đã giấu mẹ một điều quan trọng. Đồng chí chỉ huy ấy là con trai của mẹ.
Suốt thời gian anh nằm viện, những lần thay băng và mổ lại anh không rên rỉ một tiếng nhỏ, nhưng Huyền nhận thấy một sự đau đớn ghê gớm. Trong đôi mắt anh, đôi mắt vốn rất vui và ấm áp, lúc ấy tối hẳn lại, những lúc ấy anh gọi Huyền lại, yêu cầu em gái kể chuyện về mẹ. Dường như những kỷ niệm về mẹ làm anh bớt đau, anh mỉm cười, vẻ mặt tươi sáng. Trở lại, anh nhắm mắt như muốn ngủ, Huyền lẳng lặng quay ra lại nghe anh gọi:
- Huyền này?
- Anh ngủ đi!
- Huyền đừng nói với mẹ anh bị thương nhé.
Đừng để mẹ buồn, khi nào khỏi hẳn anh sẽ về thăm mẹ.
Bà mẹ vẫn ngồi nhai trầu, im lặng. Bên ngoài cửa sổ mưa bắt đầu rơi, mưa mùa xuân, xôn xao phơi phới. Những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại rơi mà như nhảy nhót, hạt nọ tiếp hạt kia, đậu xuống lá cây ổi còng, mọc lả xuống bờ ao. Mùa đông xám xỉn và khô héo đã qua, mặt đất đã kiệt sức bừng tỉnh dậy, âu yếm đón lấy những giọt mưa ấm áp, trong lành. Đất trở lại dịu mềm, lại cần mẫn, tiếp nhựa cho cây cỏ. Mưa mùa xuân đã mang lại cho chúng cái sức sống ứ đầy, tràn trề. Trên các nhánh lá, mầm non của cây trả nghĩa cho mưa bằng cả mùa hoa thơm, trái ngọt.
Huyền quay người lại, nằm sát vào mẹ, mẹ đặt một cánh tay ôm lấy người con gái, cô đang buồn ngủ. Mưa vẫn rơi, tiếng mưa nghe như lúc xa, lúc gần, êm nhẹ thẫn thờ.
* * *
* *
Huyền trở dậy không thấy mẹ, chỉ có bếp lửa đang cháy, nồi trên bếp sôi lục bục, hơi nước trắng đục tản đi. Cô đưa mắt nhìn quanh, chợt để ý đến mấy bộ quân phục lạ đã bạc màu xếp, gấp cẩn thận ở cuối giường. Huyền ngồi dậy đẩy lửa một lúc thì mẹ về, bà ôm một ôm cây sắn tươi, quần áo ướt nhèm, đất bùn dính đầy, Huyền hỏi mẹ:
-Luộc nhiều sắn thế hả mẹ?
Bà không đáp, mẹ đang dựng cây sắn tươi vào bờ rào, nên không nghe tiếng hỏi. Lúc sau, bà vào ngồi cạnh con hơ quần áo.
- Mày chắt nước rồi à? Mẹ hỏi.
- Vâng! Bà mẹ cầm que cời than, tãi ra xung quanh cho khỏi bén nồi, đôi mắt đọng nhiều suy nghĩ, cứ nhìn mãi vào bếp than rực đỏ, Huyền định hỏi lại thì nghe mẹ nói.
- Thằng Tường nhà dì Hà nó sắp đi bộ đội, thấy bảo đợt này nó đi xa lắm, lát nữa mày chạy lại đằng ấy mời dì lại ăn cơm, bảo thằng Tường nó đến sớm, mẹ nhờ nó cắt tiết con gà thiến. Nó đi đằng dì quạnh lắm, mẹ sẽ bảo dì lại ở đây cho vui, ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu?
Mẹ ngừng lại, với tay lên gác bếp lấy cái rổ vớt sắn, gần đầy cạp rổ sắn đã bóc vỏ trắng ngần, bốc hơi thơm phức, mẹ đưa cho Huyền một củ, bảo:
- Con ăn đi, ăn cho chán, sắn mẹ vỡ đất hoang trồng đấy. Tiện thể, lát nữa mẹ ra trận địa trả quần áo, mang cho các anh ấy ít sắn nóng, gọi là cây nhà lá vườn. Ngừng một lát, mẹ lại nói, lần này bằng một giọng trang nghiêm:
- Bây giờ thì ai cũng vất vả, cũng phải cố gắng hơn. Bố mẹ ở nhà cố gắng, các con cũng vậy, nhiều đêm, mẹ nhớ chúng mày không sao ngủ được. Còn thằng Mỹ thì mọi người còn khổ. Bà con trong kia còn khổ hơn mình nhiều, anh em chúng mày liệu mà bảo nhau. Đấy! cứ trông gương anh bộ đội mày kể cho mẹ nghe tối qua đấy. Các con yên tâm, đừng lo gì ở nhà.
Huyền luống cuống để rơi tuột củ sắn xuống đất. Cô cảm động ôm lấy vai mẹ, câu chuyện cô vẫn băn khoăn, giờ đây vô cùng đơn giản, cô lại thấy ân hận vì chưa hiểu đầy đủ về mẹ, mẹ giống như những trang sách làm người đọc phải ngạc nhiên và suy nghĩ mãi…
Mấy ngày nữa, Huyền sẽ lên đường, thật ra chẳng phải đợi hết nghỉ phép cô mới ra đi, chính những lời nói của mẹ khiến cô tính đến chuyện ra đi nay mai.
Ngày đi xa thường mang theo trong lòng những kỷ niệm nho nhỏ, những hình ảnh thân yêu, về mẹ, về một ngôi trường lộng gió có dòng mương nhỏ ở chân đê. Một góc nhà bé nhỏ, có khung cửa sổ, trông ra bờ ao nơi có cây ổi còng, ở đó có mùi khoai khô sắp mốc, có tiếng mưa rơi nhè nhẹ, thì thầm, chính những điều đó sẽ tạo ra sức mạnh và lòng căm thù cháy bỏng của người lính. Người ta sẽ nhắc đến chiến công của anh, nhưng có những chiến công không được nhắc đến, đó là sự gan góc, nhẫn nại, đợi chờ những hy sinh thầm lặng, nhưng hết sức cao quý của người mẹ.
Một cơn mưa nữa lại đến, mùa xuân là những trận mưa nồng ấm nối tiếp nhau, mới đầu là những hạt mưa nhỏ rơi mà như nhảy nhót, mưa dần lớn hơn, hối hả xôn xao, rộn ràng, nghe như bước chân của cả đoàn quân đang ra trận.
CHƯƠNG II
Thời tiết đã thay đổi. Những đám mây chậm chạp trôi đi, tụ thành những mảng lớn, có mảng trông như một dải lụa chăng ngang những sườn núi, có mảng ở trên đỉnh cao, mờ mờ ảo ảo, có mảng lại xà xuống tận chân đồi, chùm lên cả dẫy lán của công trường. Rồi mặt trời đột ngột hiện ra. Sương sớm ánh lên, long lanh như tuyết, cánh rừng giẻ, rừng sồi lấp lánh như xanh hơn những rừng cây thấp phía sau.
Doanh trại đội 4, là những dẫy lán dài, nằm ở phía nam Đèo Thung, cách đỉnh đèo khoảng một kilômét. Nơi đây có một bãi rộng bằng phẳng có thể tập kết xe máy, lại gần một con suối, nhánh của Suối Hoa, nước lúc nào cũng trong xanh, và rì rầm như những đôi trai gái tâm tình nhỏ to suốt ngày đêm không mệt mỏi. Ở ngay cổng doanh trại, có một tấm biến lớn bằng gỗ đặt ngang qua hai thân cây lớn, tạo thành một chiếc cổng chào với dòng chữ:
“Đội 4 quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ” – viết bằng sơn đỏ, ngay ngắn, chững chạc, vừa như để giới thiệu bản doanh của đội 4 cầu đường, cũng vừa như để nhắc nhở mọi người cái quyết tâm hành động ở đây.
Ở một góc ngoài gần cổng, nơi có vài cái máy đang đứng và những bãi dầu mỡ loang lổ đầy sân là lán của tổ máy húc C100. Tổ này do Cương làm tổ trưởng. Hầu hết anh em trong tổ đang lên công trường làm việc. Chỉ có một công nhân khoảng 18 – 19 tuổi, tên là Thiết đang ngồi cặm cụi bên một chiếc bàn để vẽ can lại một tấm bản đồ.
Thiết đang mải mê vẽ thì có hai công nhân khác trạc tuổi anh vẻ mệt nhọc bước vào lán:
- Các cậu đi làm về muộn thế? Thiết hỏi:
- Thế mà vẫn không đạt định mức đấy! Một công nhân có tên là Vinh trả lời.
- Lại không đạt định mức, chuyến này thì “phi đội C100”mất cờ như chơi! – Thiết vừa cúi xuống bản đồ vừa nói, giọng lửng lơ:
- Cả đội không đạt định mức chứ riêng gì tổ mình? – Vinh cãi lại, vẻ bực tức, nặng nề.
Một công nhân khác có tên là Châu, thấy không khí chừng như có vẻ không vui, liền chuyển băng, hỏi Thiết với vẻ đàn anh:
- Chú em đun nước chưa đấy?
- Đun rồi, ở bi đông ấy? Thiết trả lời
- Chè Vằng hả, khá lắm, kém gì chè móc câu Thái Nguyên. Biểu dương chú Thiết. Này muốn làm em rể tớ thì chịu khó phục vụ anh nghe chú!
- Không biết cô Lan Anh thế nào! Tên nghe thì cũng búa bổ đấy, nhưng lại giống ông anh, cái mũi cà chua nằm chồm chỗm chiếm một phần ba diện tích cái mặt thì có các thêm cái xe Đi-a-măng vào đấy em cũng xin bỏ của chạy lấy người thôi ạ!
- Không, không, không! Chú em cứ yên trí, nghĩa là cái eo của nó thì miễn góp ý – Châu dề cái môi ra, hai tay làm một điệu bộ như bê thân hình cô em gái về phía cậu Thiết.
- Thiết nó chê thì ông gả quách cho thằng Vinh tồ này vậy – Vinh nói chen vào – Chả là cậu ta có dáng người to lớn phục phịch hơn anh em nên được gọi biệt danh là “Vinh tồ”. Tồ không những vì to còn vì ngờ nghệch nữa, nhưng ngẫm cho kỹ chữ “tồ” ở đây còn có nghĩa là “thật thà ngay thẳng” nữa.
Xong rồi – Châu nói – Xin chú em một hơi Phù Đổng.
- Thưa ông anh, vét kho còn mỗi xuất thuốc lào.
- Thôi cũng được, bưng điếu đóm ra đây.
Vinh đi tìm chiếc điếu cày trong chân giường, đưa ra cho Châu và một điều thuốc lào còn giắt ở mang tai, lúc nãy vừa xin được ở ngoài công trường. Châu trịnh trọng cầm lấy vê vê điếu thuốc cho vào nõ điếu rồi chạy đến chỗ Thiết.
- Xin tý lửa! – Châu nhìn vào bản đồ một cái rồi với vẻ châm biếm - Ờ mà cậu vẽ cái quái gì như Trạng Quỳnh vẽ giun thế này?
- Bản đồ khu vực bọn mình đang ở đấy!
- Thế cái Đèo Thung nó ở chỗ nào?
- Đây! – Thiết móc túi quần lấy bật lửa, bật một cái chìa về phía Châu – Này châm đi.
Châu châm lửa vào đóm, rồi dơ điếu cày lên hút một hơi dài, chiếc điếu kêu sòng sọc, rồi chìa điếu cho Vĩnh tồ - Vinh cầm lấy hút tiếp – Châu ngả người ra thành ghế, đôi mắt lờ đờ say thuốc, rồi thở ra một hơi khói dài, khoan khoái.
- Cha mẹ ơi, mỗi lần đi làm leo lên đến đỉnh là mồm với mũi tranh nhau tập thể dục, mà cậu vẽ trông thấp lè tè thế này người ta lại tưởng mình đang húp mỳ tôm (?).
- Đây là mặt cắt ngang, vẽ theo tỷ lệ 1/1.500 cậu hiểu chưa? Thiết chõ vào tai Châu, vẫn còn đang lờ đừ say thuốc lào – Thôi bây giờ mình thử đóng vai kỹ sư thuyết trình các cậu nghe xem nhé!
Thiết căng tấm bản đồ lên vách, dắt que giữ, rồi lùi ra xa ngắm, sửa lại cho cân, anh cầm lấy một cái thước làm bằng nứa, thay cho que chỉ bản đồ.
Những ngày còn học ở trường phổ thông Thiết vốn là một học sinh có năng khiếu vẽ, nên được các thầy cô giáo quan tâm bồi dưỡng từ những tờ báo tường của Đoàn, của Đội ở trường đến các băng khẩu hiệu ở làng ở xóm, Thiết đều được nhà trường hoặc cán bộ xã giao cho làm hoặc nhờ Thiết làm giúp. Rồi khi vào công nhân, sở trường này lại được phát huy, từ cái biển khẩu hiệu ở cổng, đến những tờ bích báo của tổ,của đội cũng đến tay Thiết và bây giờ, kỹ sư Vũ Bá Đồng đội phó thấy Thiết có hoa tay kẻ vẽ nên lại nhờ Thiết vẽ can lại tấm bản đồ Đèo Thung này. Nét vẽ của Thiết tuy chưa được đẹp, nhưng Thiết làm cẩn thận, rõ ràng và sạch sẽ. Các kỹ sư mà vớ được những công nhân như thế này thì cũng khoái lắm rồi, nhất là mấy ông mới ra trường, tuổi trẻ, thích bay nhảy rất ngại ngồi vẽ, vả lại tấm bản đồ khái quát này là để giới thiệu cho đông đảo cán bộ công nhân xem, chứ không phải là bản vẽ kỹ thuật nên cũng có thể châm chước được, màu sắc hơi loè loẹt tý cũng chẳng sao.
- Ừ, trông ra dáng lắm! – Vinh tồ ngắm Thiết đứng bên bản đồ.
- Đây là đường số 6 – Thiết cầm que chỉ lên bản đồ và nói – Tại điểm Km 25+500 đi từ thị xã Hoà Bình về chợ Bờ, rẽ tay trái là con đường về bản Nai. Cách đây 4 năm, Ty Lâm nghiệp Hoà Bình đã tổ chức thi công tuyến đường này, đề khai thác gỗ trong rừng nguyên thuỷ bản Ong. Nhưng bị chặn đứng bởi Đèo Thung, các kỹ sư cầu đường lâm nghiệp dự đoán phải chi phí vào đây hơn 10 triệu đồng và thời gian là 3 năm. Do dự toán quá cao, không mang lại hiệu quả kinh tế nên ngành lâm nghiệp đành phải bỏ dở công trình.
- Tớ bổ sung thêm nhé – Vinh chen vào – Cậu phải nói rõ Đèo Thung với độ cao 125 mét, vách dựng đứng.
- Ê cái đại biểu kia không được phép nói leo nhé.
- Nghe chí lý đấy, trình bày tiếp đi! – Châu nói.
Để cho Châu và Vinh dồn nhau xong, lấy lại yên lặng một lát, Thiết mới lại tiếp tục, ra vẻ trịnh trọng:
- Trong tình hình mới, để chuẩn bị khởi công Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình do Liên Xô giúp đỡ, một nhà máy thủy điện lớn nhất vùng Đông Nam Á, một công trình thế kỷ đầu tiên của nước ta, sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Bộ Giao thông nhận với nhà nước, với công trường đưa lực lượng Công nhân giao thông tham gia xây dựng công trình có ý nghĩa lịch sử to lớn này – Đồng chí Bộ trưởng và đồng chí Trưởng ty Giao thông tỉnh đã trực tiếp xuống thực địa và giao nhiệm vụ cho kỹ sư Bính, Giám đốc công ty cầu đường tỉnh ,có nhiệm vụ khai thông đường Đèo Thung – Suối Hoa với tổng số chiều dài gần 100 kilômét, đặc biệt Đèo Thung phải mở đường xong trước mùa mưa lũ năm nay, tức là trong vòng 90 ngày đêm. Mục đích ý nghĩa của con đường này: Một là, làm đường vòng tránh hồ thuỷ điện thay thế đường số 6 sẽ bị ngập chìm trong lòng hồ - Hai là, làm đường cơ động sẵn sàng chiến đấu cho quân đội, khi có tình huống chiến tranh xảy ra trên biên giới của Tổ Quốc. Ba là, khai thác gỗ ở rừng nguyên thuỷ Bản Ong, giải phóng hàng chục vạn mét khối gỗ quý cho đất nước. Đấy là ba ý nghĩa chiến lược quan trọng của cái đèo Thung này, các cậu rõ chưa nào? Ấy là chưa kể đến ý nghĩa là mở mang giao thông kinh tế đem lại văn minh cho đồng bào dân tộc thuộc xã Đèo Thung và các làng bản xung quanh theo dọc con đường hàng trăm cây số này lên đến tận Sơn La.
Sau khi nhận lệnh của Bộvà của Ty Giao thông tỉnh, Kỹ sư Bính,giám đốc công ty liền đưa một lực lượng hùng mạnh bậc nhất của công ty vào đây …
- Và cái đội 4 vang lừng danh tiếng, chưa hề nếm mùi thất bại này, đã nửa tháng trôi qua mới chỉ gãi ghẻ cho Đèo Thung. Cậu Châu bỗng chen vào với giọng mỉa mai xen lẫn bi quan.
- Còn “phi đội C100” của chúng tôi , Vinh cũng tiếp – với các tay lái kỳ cựu như: Cương liều, Thiết “lý sự”, Châu “ba toác” và Vinh “tồ”, đang được bổ túc lái xe cút kít, mệt bởi hơi tai, khiến ông anh vợ tôi mặt thuỗn ra như mất sổ gạo (!) – Châu bổ sung:
- Tớ mà là chỉ huy công trường, sẽ cho đào một con đường hầm xuyên vào lòng núi, đại khái như kiểu hồi đánh Điện Biên Phủ, đánh đồi A1, chất đầy thuốc nổ vào, táng một phát là bay hết.
- Thưa đồng chí kỹ sư “mất bằng”, nếu sử dụng lượng nổ quá lớn sẽ gây nên chấn động rạn nứt lòng hồ chứa nước, trên công trường thuỷ điện Sông Đà.
- Lên thẳng Bộ tư lệnh không quân xin một chiếc cần cẩu bay nhắc luôn mấy chiếc C100 – lên đỉnh, “phi đội” ta xuất kích chỉ hai tháng là xong béng, ô tô qua tốt.
- Cậu làm như xin chiếc cần cẩu bay, cứ dễ dàng như thò tay vào túi mình mà lấy ra ấy. Máy bay còn dành cho nhiệm vụ chiến đấu chứ ai người ta dành cho việc làm đường kinh tế nhỏ bé này?
- Trên giấy tờ tính toán thì nghe thật kỳ diệu, nhưng thực tế thì lại không như thế, ngày nào cũng mệt bở hơi tai mà không đạt định mức – Khó xơi thế, lâm nghiệp họ phải bỏ cuộc cũng phải.
- Các cậu không tin vào phương án của đội trưởng à?
- Tớ ủng hộ ý kiến anh Cương, phải tung máy húc vào thi công ngay từ giai đoạn đầu, kết hợp với bộc phá liên hoàn mới hy vọng hoàn thành nhiệm vụ, đúng thời hạn được.
- Anh Cương sắp chuyển đi đơn vị khác rồi.
- Tin vịt, anh Cương là thợ máy giỏi nhất đội này?
- Tớ biết! Vinh tồ nói với giọng bí mật và ân hận – Thứ nhất là đã tự động giải quyết cho mình đi phép mà chưa được đội phê duyệt, thứ hai là bướng, làm thợ chỉ có “nhất ừ tư gật” bướng chỉ có dại.
- Này Vinh, cậu đừng có đánh trống lảng – Anh chàng Thiết bỗng nghiêm mặt lại – Chính vì mấy cái quả bưởi mà cậu lấy trộm của dân, cậu hiểu không? Đồ tồi!
- Mình chỉ lấy qủa bưởi đã rụng xuống đất…Vinh cãi lại.
- Thế nó rụng ở vườn người ta, chứ tự nhiên lại nhảy tót vào miệng cậu à?
Châu cũng nghiêm khắc nói với Vinh – lên ngay đội mà nhận khuyết điểm đi!
- Ừ thì các cậu giã cho mình một trận mình lại thấy sướng hơn – Vinh tồ, vẻ mặt dầu dầu, hối hận, cúi gằm xuống, nói nhỏ - Từ trước đến nay, mọi vệc đến với mình chỉ như một cơn mưa bóng mây. Vậy mà mấy quả bưởi nhỏ mọn nó cứ dằn vặt mình mãi.
- Thôi đi đi ! – Thiết quát.
Tổ trưởng Cương đã từ hiện trường về anh đang múc nước rửa chân tay phía sau lán, rồi định vào trong lán nghỉ nhưng nghe thấy các chiến sỹ của mình đang tranh luận sôi nổi, anh thấy vui vui, nên ngồi lại phía sau, vừa rửa, vừa lắng nghe. Bỗng thấy công nhân Thiết mắng mỏ Vinh về tội mấy quả bưởi và quát Vinh bắt anh ta phải lên đội nhận khuyết điểm làm cho Vinh lúng túng – lúc này Cương mới xuất hiện để ngăn cậu ta lại và hỏi:
- Vinh, cậu định đi đâu đấy?
Các công nhân lúc này mới thấy tổ trưởng, họ trố mắt nhìn Cương, Vinh, giọng run run:
- Tôi lên báo cáo với đội, tôi sẽ nhận hết, rồi kỷ luật thế nào cũng được.
Cương giơ tay ngăn Vinh lại, vẻ kiên quyết:
- Chuyện qua rồi, quay lại, không phải báo cáo với ai hết.
- Tôi hèn quá, anh tha lỗi cho tôi!
Vinh nhìn Cương với vẻ van xin cầu khẩn. Nhưng Cương đã hất đầu ra hiệu không cần và xua tay, vẻ thân thiết:
- “Xin lỗi, bỏ quá, thông cảm”, không phải là ngôn ngữ của người thợ nói với người thợ đâu. Đừng bắt mình phải dằn vặt bởi những vấn đề không cần thiết. Cương quay lại với các công nhân:
- Các cậu nói đúng, mọi việc rồi sẽ qua đi như một cơn mưa bóng mây.
Nói xong, Cương chạy lại vách, với lấy cây đàn ghi ta treo ở đầu giường, bấm phím, thử dây, nét mặt bỗng đăm đăm, gượng gạo như cố làm cho vui để quên đi, xua tan đi một điều gì đó ẩn dấu trong lòng, anh nói to:
- Nào hát lên đi các cậu ơi!
Cương bấm dạo đầu bài “Tim con đường” rồi cất lên câu hát đầu tiên và tất cả cùng hòa theo, tươi vui và nhộn nhịp hẳn lên, làm cho các lán đều đổ xô về lán tổ máy húc, không hiểu họ có điều gì phấn khởi mà vừa mới đi làm về đã hát vang lên ấy nhỉ, chẳng biết mệt là gì cả sao?
Đường tim, đường trong tim Có tim ra nên vững tim đường Qua bao tháng ngày bom thù cày phá Tình của đất cho ta nguồn sức mạnh Cho ta yêu nhịp bánh xe quay… (1)
*
* *
Nhóm thợ máy húc, với sự đệm đàn của Cương, đang ca hát sôi nổi thì Vũ Bá Đồng cũng từ ngoài công trường về doanh trại, thấy ở lán tổ máy húc có hát hò vui vẻ thì anh bước vào hoà chung với công nhân, anh vồn vã, nói to át cả tiếng hát:
- Xin chào nhóm ca khúc tuổi trẻ “phi đội C100”.
Mọi người đều ngừng hát và quay về phía Đồng:
- Xin chào đội phó !
Thấy Đồng đến, nét mặt Cương đang vui bỗng xịu hẳn xuống, lại trở về cái dáng đăm đăm khó hiểu, anh ta dừng tay đàn, rồi đứng dậy treo đàn lên vách và lặng lẽ bước ra khỏi lán. Không khí trong lán bỗng như chìm đi, các công nhân ngơ ngác nhìn nhau. Đồng hiểu rằng, không khí trầm xuống là do mình bước vào, và do Cương đã bỏ đi, anh chàng này vẫn nghi ngờ anh là tình địch của anh ta, về chuyện cô Huyền hay vì ngại anh làm lộ cái chuyện kỷ luật cũ trước đây mà trong lý lịch công nhân anh ta không khai, cũng không muốn giáp mặt với Đồng, anh ta tìm cách né tránh không tiếp xúc với anh, Cương bỏ đi đột ngột, trong lúc này vừa chứng tỏ thiếu nhiệt tình với đồng đội, đồng chí bạn bè, vừa thiếu lễ tiết tác phong đối với người chi huy cấp trên, – không những thế thái độ Cương còn có vẻ vừa như khinh mạn, kiêu căng lại vừa như thách thức đối với Đồng làm cho Đồng cũng bị hẫng, mặt anh thoáng một chút không vừa ý, nhưng anh đã trấn tĩnh lại ngay, cố gắng hoà vào với những người thợ.
Các công nhân thấy thái độ của Cương như vậy làm họ cũng thấy ngượng, liền vội vàng quây lấy Đồng. Anh chàng Thiết lý sự lại lên tiếng trước, phá tan bầu không khí nặng nề:
- Mời đội phó thưởng thức chè móc Đà Bắc ạ.
Thiết rót nước ra bát mời Đồng, Đồng nhận bát nước uống một hơi liên và khoan khoái:
- Đang cơn khát, với chè Vằng ngon đáo để!
- Chè ngon uống chay kể cũng chán lắm phải không cấp trên! Anh chàng Châu giọng xun xoe lém lỉnh.
- Lại muốn moi thuốc hả? – Đồng nói và rút trong túi ra một bao thuốc lá cuốn loại rẻ tiền. Thú thật chỉ có loại này thôi – Anh chìa thuốc ra cho anh em. Thiết đỡ lấy bao thuốc và reo lên:
- Chính hãng con gà rừng! Chè Vằng mà hút với loại này mới đồng bộ, đội phó ạ - Thợ mà lại, hơn nữa ở cái xó núi này, có thuốc lá cuốn đã là quý lắm rồi!
Vừa lúc đó, Cương quay vào – Thiết liền chìa bao thuốc cho Cương:
- Nào, kính lão đắc thọ, mời ông anh Cương!
- Nhưng Cương xua tay với giọng nặng nề.
- Cảm ơn!
Thiết lại quay sang Châu:
- Nào mời ông anh vợ - Châu rút một điều, Thiết lại đưa cho Vinh – chi Cậu một điều, còn đây …. mình giữ hộ đội phó – nói rồi hắn đút luôn gói thuốc còn khoảng 2-3 điếu vào túi áo mình.
Các công nhân xúm nhau lại châm lửa hút thuốc, thở ra những vòng tròn khói, khoan khoái.
Trong khi đó Đồng nhìn vào bản vẽ sơ đồ Đèo Thung mà anh đã nhờ Thiết vẽ can lại từ hai hôm nay.
- Thiết này, khi can bản đồ có ghi hết cao độ không đấy?
- Dạ, tôi ghi đầy đủ đấy kỹ sư ạ - Thiết trả lời, rồi chỉ vào bản đồ đọc một vài con số cho Đồng nghe để chứng to sự tỷ mỷ của mình, Đồng gật đầu tỏ vẻ tán thành: “Được! được!”
Lúc này Cương bỗng thấy mình lạc lõng, anh ta vội tìm một cớ khác để tránh mặt Đồng, anh ta chạy lại dây phơi lấy khăn mặt, rồi cố gắng lấy lại vẻ tươi cười hóm hỉnh hô lớn:
- Ra suối Hoa tắm bài ba đi các cậu ơi!
- Ờ đi đi! – Các công nhân đều hưởng ứng – Nào, mời đội phó cùng đi tắm đi – Ôi, mình để ý từ hôm về đến nay, đội phó nhà ta kiêng nước các cậu ạ - Nào khiêng anh Đồng ra suối làm lông đi các cậu ơi!
- Thôi, thôi, thôi, xin khất các cậu đến chiều, bây giờ mình phải lên công trường đã.
Thế là toán thợ trẻ ồn ào theo Cương đi ra suối – còn Đồng cuộn tấm bản đồ lại, rồi cũng vội vàng đi ra công trường.
*
* *
Vừa lúc đó thì Đốc từ công trường hối hả chạy về, mặt đỏ gay mồ hôi lấm tấm trên trán, trên má. Vừa trông thấy Đồng, Đốc vội kêu lên:
- Trời ơi, đã hẹn chiều nay lên công trường, mà ông lại vẫn còn ở đây làm tôi chạy đi tìm toát mồ hôi, sôi nước mắt – Đồng vội thanh minh:
- Tôi qua bên uỷ ban xã hợp đồng với lực lượng dân công phát tuyến giờ mới về đến đây.
- Cậu bố trí thế nào mà chiều nay chỉ có một máy khoan trên đỉnh đèo.
- Anh Đốc ạ! tôi muốn bàn với anh, ta phải thay đối phương án thì công.
Đốc liền quay ngoắt lại, nhìn chằm chằm vào Đồng giọng mỉa mai:
- Hả? Cậu định thay đổi thế nào? Cậu nhớ rằng nay đã là 15 tháng 1, hết tháng 3 mà không xong thì công trình của chúng ta chỉ còn là một con đường vào hồ thuỷ điện để ngâm thơ câu cá. Nhưng Đồng cũng mạnh dạn nói vẻ chắc nịch:
- Vâng, chính vì vậy mà không thể tiếp tục phương án cũ được!
- Tại sao?
- Muốn tạo ra độ dốc của máy húc lên được đèo để thi công vào giai đoạn 2, với tốc độ này thì phải hết tháng 2 chúng ta mới làm xong con đường công vụ.
- Vì thế Ty mới cho phép ta tăng hệ số thuốc nổ lên gấp 5 lần – Đốc nói như khẳng định.
- Tôi biết, Đồng dở tấm bản đồ đưa về phía Đốc – Rõ ràng anh cần khối lượng đất đá bạt ở trên đỉnh phải được tập trung ở đây - Đồng chỉ vào bản đồ - để kéo dài độ dốc.
– Đúng ! Đốc thừa nhận, máy húc sẽ được sử dụng vào giai đoạn 2
- Vậy thì càng tăng thuốc nổ, đất đá càng bay tản mạn, con đường công vụ khó lòng hoàn thành để tạo điều kiện đưa máy lên đỉnh thì công vào giai đoạn hai.
Đốc im lặng một lúc, chừng như ý kiến của Đồng làm anh cũng phải suy nghĩ. Nhưng anh chưa nhận ra việc sai đúng trong ý kiến của Đồng, dưới con mắt của anh, Đồng tuy cũng là một kỹ sư nhưng còn trẻ chưa có kinh nghiệm, chưa từng trải, nhất là lại chưa qua chiến đấu. Đối với anh, có lẽ chỉ có những người đã qua chiến tranh gian khổ ác liệt thì mới có đầy đủ kinh nghiệm, có lý lẽ vững chắc và chân lý bao giờ cũng thuộc và họ. Anh nói với Đồng vẻ ôn tồn nhưng thái độ như một người thày dạy học trò:
- Đồng ạ! Là kỹ sư xe máy, cậu có thể nắm được sức bền của từng loại vật liệu sắt thép, nhưng còn con người và thuốc nổ thì cậu chưa hình dung được sức mạnh của nó đâu. Nếu được vào Trường Sơn trong những năm đánh Mỹ, cậu mới hiểu được người lính giao thông, chỉ có cái cuốc cái xẻng và thuốc nổ đã làm nên con đường kỳ diệu mang tên Bác – Con đường mà hàng vạn tấn bom Mỹ đã trút xuống, nhưng nó vẫn hiên ngang đứng vững, góp phần quyết định vào thắng lợi của dân tộc.
- Vâng, về tính năng của thuốc nổ anh là người dạn dày kinh nghiệm – Đồng thực thà thừa nhận và cảm phục Đốc, tuy vậy anh vẫn giữ ý kiến của mình và mạnh dạn tranh luận với Đốc – Nhưng ở đây có thể do điều kiện địa hình phức tạp, núi đá vôi bị phong hoá lâu đời, lại nhiều hang hốc, nên phương án bộc phá liên hoàn của anh, nói thật, tôi e khó lòng thực hiện được theo tiến độ.
- Cậu mới về, nên chưa hiểu được sức mạnh của đội 4 – Đốc nói với giọng tự mãn – Chính trong những điều kiện khó khăn nhất, người ta cho rằng khó lòng hoàn thành nhiệm vụ ấy, thì nó lại làm nên những điều thật kỳ diệu. Đó là truyền thống của đội: ngọn cờ đầu của Công ty – Đốc còn muốn nói thêm rằng, cái đội do tôi làm đội trưởng hai năm nay, tôi đã xây dựng nó, rèn luyện nó từ một đội yếu kém vươn lên thành đội khá giỏi và dẫn đầu toàn công ty. Rằng cái đội này ngoài tôi ra không ai có thể xây dựng và giữ vững được truyền thống như thế … Nhưng Đồng đã nói chen vào:
-Là một người đang chập chững đi vào thực tế có lẽ vì thế mà tôi chưa hiểu được cái bất ngờ ấy tại sao lại được nảy sinh từ một khách quan nào đó, dù là gặp may đi chăng nữa thì ít ra nó cũng được chuẩn bị từ một cơ sở chủ quan.
- Cậu cứ nói trắng ra đi, có nghĩa là cậu không tin vào phương án ấy của tớ chứ gì? Đốc sốt ruột, nói vẻ hơi gay gắt. Nhưng Đồng vẫn bình tĩnh:
- Theo tôi, ta phải tung số máy húc lên đỉnh Đèo Thung ngay từ bây giờ chứ không phải giai đoạn 2 thì mới hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian.
- Chắc cậu yêu cầu trên chi viện cần cẩu bay – Đốc trề môi ra giọng mỉa mai.
- Không, trên bản đồ khu vực – Đồng chỉ bản đồ, Đốc cúi xuống xem - ở phía đông đỉnh Đuôi Lươn có ghi các cao độ chênh lệch theo chỉ số bậc thang có khả năng ta tạo được con đường công vụ ở đây với thời gian ngắn nhất.
- Cậu hiểu rằng các kỹ sư ngành Lâm nghiệp – Đốc nói – đã đi trước chúng ta 4 năm, chính họ đã phát tuyến. Vậy nếu có cái khả năng cậu nói ấy thì họ sẽ không phải bỏ dở công trình và cũng không đến lượt chúng ta.
- Chúng ta không thể lặp lại thất bại của những người đi trước. Tôi nghĩ rằng – Đồng nói – rừng núi bạt ngàn thế này, con đường ấy đâu phải ngay trong tầm mắt của ta, nếu ta không trực tiếp đi tìm nó.
- Cậu cho mình là quan liêu? – Đốc đỏ mặt lên – Nhưng Đồng vẫn giữ được bình tĩnh, cái bình tĩnh của người có bản lĩnh khoa học kỹ thuật.
- Anh Đốc ạ! Được về sống với anh, người chiến sĩ của Trường Sơn năm xưa, một đội trưởng suất sắc của công ty, tôi rất mừng vì mình sẽ được trưởng thành. Chính vì quý trọng anh mà tôi dám nói thẳng: Chúng ta là những người chịu trách nhiệm trước cấp trên, tổ chức và chỉ huy đơn vị thực hiện nhiệm vụ, ta phải tìm ra phương án tối ưu nhất.
- Cậu cho rằng, khi không hoàn thành nhiệm vụ - Đốc có vẻ gay gắt – khuyết điểm ấy tôi sẽ chia đều cho cậu hay sao. Là đội trưởng, tôi sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn trước cấp trên điều đó.
- Không, tôi không nghĩ đến thành tích hay khuyết điểm của cá nhân, anh hay tôi – Đồng vẫn từ tốn nói – Vinh quang của bất cứ một ai cũng không phải chỉ do người ấy làm nên, dù đó là vĩ nhân. Tôi đề nghị anh cho tôi đồng chí Cương, tổ trưởng máy húc đi trinh sát thực địa với tôi.
Hừ, anh chàng kỹ sư, ngựa non háu đá này lại muốn đề cao vai trò của mình cho nổi bật lên đây. Mà sao cậu ta lại còn muốn dùng cậu Cương? Đốc bảo thẳng với Đồng:
- Đó là một công nhân vô kỷ luật không thể để ở đơn vị xe máy được. Tôi đề nghị công ty chuyển cậu ta sang đơn vị khác.
- Đồng chí Cương là một thợ máy giàu kinh nghiệm, sống trung thực thẳng thắn, tuy nhiên trong cách sống còn có một số nhược điểm từ hồi học Trung cấp giao thông cùng tôi đã vậy. Cá tính ấy chúng ta sẽ giúp đồng chí đó sửa chữa. Tôi đề nghị anh để cậu ấy ở lại.
- Tôi đã hiểu mối quan hệ cũ của hai người – Đốc nhìn sói vào Đồng vẻ bề trên – Tôi nói thật để cậu biết: Chọn Cương làm đồng minh cho phương án của mình là sai lầm đấy.
- Vâng, về quá khứ có những điểm cậu ấy chứa hiểu tôi – Đồng thực thà nói – Nhưng đó là quan hệ cá nhân. Tôi tin rằng, một con người trung thực không bao giờ lấy cái mâu thuẫn nhỏ bé của mình cản trở bước đi lên của đơn vị.
- Cậu nói rất hay, và trong hiện tại cuộc sống nhiều người lấy ngôn ngữ của mình để làm một thứ đồ trang sức – Đốc nói giọng mỉa mai châm chọc – Nhưng trang sức chỉ đẹp, chỉ tô điểm cho cái mẽ bề ngoài chứ không có tác dụng… Nhưng thôi, dù sao mình cũng vẫn đồng ý để cậu đi tìm cái con đường “công vụ” trong bộ óc giầu trí tưởng tượng của cậu.
*
* *
Đốc quay về lán Chỉ huy của đội, bỏ mặc cho Đồng đứng lại một mình với tấm bản đồ, Đồng quay người về phía Đốc gọi với theo:
- Anh Đốc! – Nhưng Đốc vẫn vội vã đi, không quay lại. Đồng khoát tay vẻ thất vọng, và đứng yên lặng suy nghĩ. Vậy là anh ta thách đố mình đây định bỏ mặc mình tự đi mà tìm lấy – Tất nhiên là mình phải tự đi và nhất định phải tìm bằng được. Nhưng rồi liệu anh ta có ủng hộ mình không, nếu sau khi đã tìm được tuyến đường công vụ ấy. Hay anh ta vẫn cứ bám vào cái phương án bộc phá liên hoàn ấy , cũng không có gì sai, nhưng thời gian sẽ không bảo đảm được. Chỉ còn hai tháng nữa làm sao kịp tiến độ được. Đã đành rằng nếu không hoàn thành thì sẽ do anh ta chịu trách nhiệm, vì anh ta là đội trưởng, là chỉ huy cao nhất ở đây. Và phương án bộc phá cũng là phương án của anh ta. Cái kinh nghiệm Trường Sơn ấy quả là quý báu thật, nhưng trong hoàn cảnh này, nếu chỉ dừng lại ở kinh nghiệm thì không thể xong được.Phải có suy nghĩ mới,phù hợp với thời gian yêu cầu và nhiệm vụ,thì kinh nghiệm mới có sức sống, mới tồn tại và phát triển được.
Đồng đang đứng suy nghĩ một mình, thì thấy Cương từ ngoài suối đi tắm về, tay cầm khăn mặt và quần áo ướt. Đồng quay lại bảo Cương:
- Anh Cương! lại đây nhờ một tý!
Cương ngần ngại bước lại gần Đồng , vẻ mặt như dò hỏi – Còn Đồng với thái độ chân thành, anh hỏi Cương:
- Anh có nhiều kinh nghiệm thi công cơ giới, anh thấy phương án hiện nay thế nào?
- Điều ấy anh phải hỏi chính anh chứ? – Cương vẫn mặc cảm, cố chấp nhủng nhẳng – Nhân tiện đây tôi muốn hỏi anh một việc: Bao giờ thì tôi đi đấy/
- Đi đâu?
- Tôi sẵn sàng đi bất cứ đâu cũng được.
- Tại sao anh cứ muốn đi khỏi đội 4? Đồng hỏi với vẻ thân tình. Anh không muốn sống chung với tôi? Phải chăng anh cho rằng sự tan vỡ giữa anh và Minh Huyền là do tôi gây nên?
- Trong cuộc sống ai chả chọn phần hơn – Đó là lẽ thường tình – Cương với giọng triết lý, mặt tỉnh bơ.
- Tôi không muốn gặp anh để thanh minh. Thời gian tự nó sẽ nói. Nhưng dù sao đây cũng là việc riêng của hai chúng ta. Tôi mong rằng đừng để ảnh hưởng đến công việc chung của đơn vị. Tôi muốn anh tham gia tìm con đường cho máy lên đỉnh Đèo Thung.
- Đó là quyền hạn của anh – Cương vẫn với cái giọng bất cần – Nhưng nói thẳng, anh có thể chọn người khác, tôi chẳng thể giúp gì cho anh được đâu.
- Nhưng tôi vẫn tin ở anh, đi ngay bây giờ được chứ?
- Tuỳ anh!
Cương vội vàng phơi quần áo, khăn mặt và chuẩn bị trang phục, đi giầy vải leo núi, tìm con dao rừng và vài thứ lặt vặt. Còn Đồng cuộn tấm bản đồ lại, nai nịt lại quần áo giầy mũ, chặt một cây hóp rừng ở đầu nhà làm hai cái gậy chống, vừa chặt vừa nói đùa:
- Phải có cái gậy Trường Sơn này mới ổn, đây anh một cái, tôi một cái. Gậy Trường Sơn xưa cha anh ta đi đánh Mỹ, còn bây giờ, cánh ta đi làm đường, làm kinh tế. Nào ta đi luôn đi.
Cương lầm lũi theo Đồng ra khỏi cổng và lên núi, không nói câu gì.
CHƯƠNG III
Cánh thợ trẻ của tổ máy húc, tổ được mệnh danh là “phi đội C100” ấy, bao giờ cũng vui nhộn vô tư, bởi cái lý lẽ: “làm lính chẳng cần tính toán”, “binh nhì nghĩ làm gì cho mệt” hay là như ông cha ta thương nói “làm lính chỉ đâu đánh đấy”. Nhưng ấy là lính đời xưa,thợ đời xưa ,những người nông dân đi chân đất, một chữ bẻ đôi cũng không biết, bọn phong kiến đế quốc dùng chính sách ngu dân, đào tạo người thợ như một cái máy chỉ biết phục tùng mệnh lệnh “chỉ đâu đánh đấy”. Chứ còn người thợ ngày nay khác xưa nhiều lắm. Người ta đua nhau đi lính,đi công nhân, tình nguyện đi làm cách mạng, đi chiến đấu để giải phóng đất nước, để bảo vệ tổ quốc, đó là những ngày hội tòng quân, ngày hội lên đường, cả làng cả xóm tưng bừng tiễn đưa con em mình ra trận Sau chiến tranh,họ lại đua nhau đi công nhân đi xây dưng quê hương ,làm giầu cho Tổ quốc. Nó khác xa những cảnh bắt phu bắt lính thời xưa. Hơn nữa người lính,người thợ bây giờ gồm toàn những thanh niên có văn hoá cao, phần lớn là những “ông tú, ông cử” hết cấp III và đại học, chí ít cũng học hết cấp II phổ thông cơ sở, có trình độ chính trị và xã hội khá, cho nên khả năng nhận thức về văn học kỹ thuật nói chung và quân sự nói riêng, nhận thức về những vấn đề xã hội đời sống và nhiệm vụ đều rất nhanh chóng, nhạy bén và thông minh. Chẳng có việc gì mà người lính,người thợ không bàn đến. Từ việc to đến việc nhỏ, từ chuyện trên trời dưới đất, thôi thì trăm thứ bà rằn, những người lính,người thợ đều nói đến, đều bàn tán, đều bình luận được cả.
Cho đến hôm nay, tốp thợ trẻ lái máy húc của “phi đội C100” đang tắm bài 3, tức là tắm truồng ở dưới suối về, thôi thì đủ các thứ chuyện.
- Này, các cậu thấy ông Đồng mới về cũng dễ chịu đấy chứ? – Anh chàng Vinh tồ hỏi các bạn.
- Ờ, ông cán bộ nào mới về chả qua giai đoạn “phòng ngự”, chuyển qua thời kỳ “cầm cự” rồi mới “tấn công” – Châu ba toác ra vẻ am hiểu trả lời.
- Ừ, cậu nói thế chứ, như đội trưởng Đốc thì sao? Mới về đến nơi đã “dập quy lát” đánh đốp một cái đâu vào đấy mà bọn mình vẫn quý anh ấy.
Bỗng Châu nhìn thấy Vinh tồ chui vào bụi dậm giấu quần áo, rồi nháy mắt ra hiệu giữ bí mật.
Châu bảo Vinh:
- Này, cậu giấu cả quần dài lẫn quần lót cậu Thiết hả?
- Ừ, giam cu cậu ngoài suối một mẻ - Vinh tồ giọng tinh nghịch – Gần bữa cơm chiều mới mang cho nó về.
- Cậu ác nó vừa vừa chứ - Châu trách – có đùa thì cũng để lại cho nó cái quần lót cho nó về chứ.
- Cậu có biết, hôm nọ nó giấu khẩu súng canh gác của tớ, làm người ta đi tìm phát điên lên không?
- Nó cảnh cáo cái tội gác đêm cứ ngủ gà ngủ gật của cậu thế là đích đáng rồi.
- Vậy thế là một đều ….
Vinh tồ nhìn về phía đường dưới chân đèo đi lên. Bóng dáng một người con gái đang đi tới, Vinh hất đầu làm hiệu cho Châu:
- Ai như chị Huyền ở công trường lòng hồ kìa Châu ơi – Rồi cậu ta gọi to – Chị Huyền ơi! lên đây chơi, có người đồng hương của chị mới về đấy.
Vinh và Châu đều dừng lại đợi. Lát sau cô gái lên đến nơi. Các công nhân mời Huyền vào lán chơi. Châu và Vinh đi thay quần áo, chải đầu tóc tử tế. Khi trông thấy mấy cậu thợ trẻ mọi hôm vẫn bẩn lọ lem, mà hôm nay trông lại sạch sẽ - Huyền kêu lên:
- Chà, hôm nay trông các em ra dáng trai Hà Nội quá đấy! Mấy cậu nghe vậy mặt đỏ lên. Châu vội vàng đánh trống lảng:
- Chị Huyền này, chị có quen ai là Vũ Bá Đồng ở Long Biên không đấy?
- Có phải anh Đồng ở bãi giữa sông phải không? Huyền hỏi.
- Đúng rồi! - Vinh nói.
- Thầy giáo của mình đấy!
- Nhưng còn là gì nữa chứ…? Châu nghi ngờ hỏi luôn.
- Chẳng là gì cả - Huyền trả lời thành thật vô tư – Anh ấy là người tốt, một giáo viên nhiệt tình, mình quý trọng anh ấy, thế thôi.
- Đội phó của chúng em đấy.
- Thật không?
- Anh ấy mới về mấy hôm nay thôi chị ạ.
Rồi Châu và Vinh kể chuyện xoay quanh anh đội phó của họ mới về ra sao cho Huyền nghe.
Một lát sau, Châu tò mò hỏi:
- Chị Huyền ơi, sao là con gái mà chị lại chọn cái nghề cơ giới thế?
- Ấy dạo trước, hồi đi bộ đội, mình làm nghề y cơ mình làm y tá ở quân y viện Trường Sơn. Nhưng đến năm 1973, hội nghị Pari phát lệnh ngừng bắn ở Việt Nam cấp trên cho bọn mình chuyển ngành đi học. Mình muốn tiếp tục nghề y, nhưng thi không được thế là người ta điều đi học trung cấp giao thông, làm nghề thi công cơ giới. Lúc đầu bọn con gái chúng mình cũng chẳng thích chút nào, nhưng cứ học đại đi, thôi thì nghề gì cũng được miễn là có cái bằng, chẳng đại học thì trung cấp cũng được, cốt để lấy cái lương và chỗ làm sau này. Nhưng càng học, mình thấy càng hay và cuối cùng là mình thấy say mê, cho nên học xong, mình xin ra công trường xây dựng ở miền núi ngay chẳng nề hà gì cả, vì mình cũng đã ở Trường Sơn mấy năm quen rồi. Này nhé, các cậu thử nghĩ xem: Huyền dừng lại một chút như để cho các cậu lính trẻ tập trung nghe cô thuyết giáo – Bằng máy móc, mọi mấp mô được san bằng, những hố bom sâu hoắm được lấp đi làm nền móng cho những công trình vươn cao, nhìn những căn nhà có ô cửa màu xanh mình thấy đẹp sao.
- Nhưng – Châu cũng triết lý – bằng máy móc làm sao có thể san phẳng những ghồ ghề khúc khuỷu trong lòng người phải không chỉ?
Bỗng anh chàng Thiết từ bờ suối chạy về, vì không tìm thấy quần áo đâu cả, nên đành phải quây mình bằng tấm ni lông như một cái váy, nữa kín, nửa hở xồng xộc vào lán, vừa chạy vừa la chửi:
- Mẹ cha cả làng thằng Vinh nhé! mày dấu quần áo của ông hả? Chợt trông thấy Huyền, Thiết bỗng thét lên hãi quá: Ôi! Chị Huyền, em xin lỗi chị nhé! – Rồi Thiết vội chạy về phía sau lán, khuất vào trong rừng.
Châu và Vinh thấy vậy đấm nhau cười ngặt nghẽo. Huyền cũng cười theo và thốt lên:
- Công nhân các anh sống hồn nhiên thật!
Châu chạy lại phía đầu giường lấy một cái áo treo trên móc đi lại phía Huyền, giọng nhỏ nhẹ cầu khẩn:
- Chị Huyền ơi, em có cái áo rách, vợ thì chưa có, mẹ già thì ở xa, chị vá giùm em nhé.
- Để mình mang về nhà, ở đây không mang kim chỉ - Huyền cầm lấy áo và trả lời.
- Ở đây có đủ cả chị ạ! – Châu nói, rồi lật đầu giường lấy ra một gói có một cuộn chỉ và cái kim đưa cho Huyền.
Thiết đã vận quần áo chỉnh tề từ ngoài sân chạy vào xông thẳng đến chỗ cậu Vinh và hướng mắt về phía Huyền:
- Xin lỗi chị Huyền nhé. Em phải giã cho thằng này một trận. Vinh vội đứng lên chạy quanh vừa chạy vừa nói:
- Vậy là một đều, cậu hiểu chưa?
Thiết đuổi không bắt được Vinh – nhưng Châu đã tóm hộ và hô:
- Đây rồi!
- Bỏ ra, bỏ ra! – Vinh vùng vẫy cố thoát khỏi vòng tay của Châu. Thừa dịp đó Thiết xông đến, đấm vào lưng Vinh thùm thụp, vừa đấm vừa thét:
- Chừa chưa?
- Chừa rồi ạ! – Châu buông Vinh ra – Vinh vùng chạy ra ngoài lán, Thiết đuổi theo sang lán bên cạnh, rồi đuổi nhau vào rừng. Châu quay ra với Huyền:
- Chị Huyền ơi, áo của anh Cương đấy!
- Thật áo của anh Cương ư ? – Châu gật đầu, rồi cũng bỏ ra đuổi theo Thiết và Vinh, họ nô đùa đuổi nhau í ới khắp rừng. Còn lại một mình Huyền, với chiếc áo của Cương. Cô tần ngần dở chiếc áo ra xem xét chỗ rách chuẩn bị kim chỉ, và xúc động nhớ lại quá khứ - “ … Anh Cương! anh còn nhớ không, lần đầu tiên gặp anh trong đêm dạ hội của Công ty. Hôm ấy thay mặt đoàn thực tập, em hát bài “Bài ca hy vọng” và anh là người đệm đàn. Tình yêu bắt đầu từ đấy, nhưng rồi những kỷ niệm đẹp đẽ đó đã chôn vùi trong dĩ vãng. Vậy là đã hết thật rồi phải không anh…”
*
* *
Đồng và Cương trèo đồi, lội suối, luồn lách trong rừng suốt bốn, năm tiếng liền không nghỉ. Họ lạc vào một vùng rừng già nguyên thuỷ. Những cây cao vút che kín hết cả bầu trời và những cây dây leo chằng chịt. Họ phải bám vào từng mỏm đá, từng cành cây, có chỗ phải đánh đu vượt qua khe bằng những rễ cây, dây rừng, chiếc gậy Trường Sơn và con dao rừng vẫn còn trong tay họ. Phong cảnh rừng già thật là đẹp và hùng vĩ, nhưng họ cũng chẳng còn thì giờ để ngắm nhìn, để thưởng thức nữa, họ chỉ tập trung vào địa hình mà mục đích của họ để tìm mở một con đường công vụ, để đưa máy húc lên đỉnh Đèo Thung, dù có phải đi vòng vèo xa hàng 5 – 10 km. Họ có hai người, âm thầm và lặng lẽ. Mỗi người theo đuổi một suy tư riêng, thỉnh thoảng hoặc bất đắc dĩ lắm họ mới trao đổi với nhau vài câu, như có vẻ miễn cưỡng.
Nhưng họ vẫn lầm lũi đi, Đồng đi trước, Cương đi sau – Vừa đi, vừa phát cây đánh dấu đường. Thỉnh thoảng Đồng lại dừng lại dở bản đồ và địa bàn ra xem. Đến một đoạn rừng thưa Đồng bỗng đứng lại và thốt lên:
- Có lẽ gần đến mỏm cụt núi Đuôi Lươn rồi đây Cương ơi khả năng ở khu vực này đây – Rồi quay lại phía Cương, Đồng hỏi như thúc giục – Ta đi tiếp chứ ? Cương bỗng trả lời cụt lủn:
- Tôi mệt lắm rồi! Cương ngồi ngay xuống một tảng đá to sạch sẽ, Đồng ngần ngừ một lát, rồi nhìn Cương vẻ thương hại và thông cảm nói:
- Vậy anh ngồi nghỉ ở đây chờ tôi quay lại nhé.
Nói xong Đồng đi nhanh về phía cửa rừng, phía dưới có những vạt đồi đã khai hoang trồng ngô, sắn.
Cương ngồi lại một mình vẻ mệt mỏi, anh nằm dài ra phiến đá cho đỡ mỏi lưng rồi lại ngồi lên, nhìn theo bóng Đồng khuất dần về phía cửa rừng, ven đồi thấp rồi khuất hẳn. Cuộc leo núi miễn cưỡng này làm anh chóng mỏi mệt và đói – Trông thấy mặt và đối thoại với kẻ tình địch đã thấy khó khăn, huống chi lại phải đi với anh ta, nhất là lại phải cùng trèo đèo lội suối, không gì khó xử bằng phải chấp hành mệnh lệnh của kẻ tình địch mà mình lại là người dưới quyền. Nỗi day dứt trong lòng Cương giữa hai tình cảm: ủng hộ và chống đối. Chống đối vì anh ta là kẻ cướp mất người yêu của mình, là kẻ có thể một mất một còn với nhau, nhưng lương tâm người thợ lại đòi hỏi phải trung thực với những điều tốt lành và cái phương án đúng đắn mà anh ta đã đề ra, đang thực hiện, liệu có thể trả thù anh ta bằng cách không ủng hộ hoặc phá tan mục tiêu kỹ thuật mà anh ta đang đi chăng?
Cương nằm ngả người vào một gốc cây, đôi mắt lim dim, đầu óc anh như đang chơi vơi, suy nghĩ mung lung, toàn thân ê ẩm nặng trĩu, người như thiếp đi … Có một tiếng vọng từ trên những vòm cây tán lá um tùm hùng vĩ hay từ trong sâu thẳm cõi lòng anh, cuộc đối thoại trong đầu anh như mơ như tỉnh.
“… Anh Cương! Sao anh lại nằm đây, anh bị quỵ rồi ư? Hãy đứng lên mà đi chứ? “Ai đấy, kìa ai đấy” – “Tôi là những gì tốt đẹp ở trong anh” – “Nhưng anh muốn gì tôi cơ chứ?”
- “Tôi muốn anh sống sao cho trong sáng đẹp đẽ. Anh hãy nhìn kia, anh Đồng đang lăn lộn tìm đường, con đường chính anh cũng đã nhìn thấy nó rồi đấy: Tại sao anh lại không nói ra và cùng anh ta đi tới chỗ ấy”.
“- Không, không bao giờ tôi phải ủng hộ, phải báo cáo với một con người đã làm tan vỡ tình yêu của tôi, làm rỉ máu trái tim tôi. Tình thương của gia đình, tình yêu của một cô gái… đều là giả dối. Tình đồng chí trước đây đối với tôi trừu tượng như một ảo ảnh hão huyền thì giờ đây được là người thợ, nó gần gũi với tôi và nó chẳng đã làm tổn thương trái tim tôi là gì? Vậy rồi vết thương lòng đang lên da non thì lại tấy lên đau nhức, quá khứ được vùi sâu trong dĩ vãng nay lại bật dậy …”
*
* *
Vào một đêm mùa hè, Cương đứng chờ Huyền trên bờ hồ chùa Bầu cũng đúng vào cái chỗ có cây liểu rủ chùm xuống nước, nơi hò hẹn ban đầu. Bấy giờ đã tám giờ tối, rồi chín giờ trôi qua… Cương hồi hộp, thổn thức rồi bực tức chạy đi chạy lại quanh đó, vừa sốt ruột vừa lo lắng …. Mãi đến chín giờ rưỡi: Khi Cương quyết định ra về, anh đã đi được một đoạn thì mới thấy Huyền vội vàng chạy đến, nhận ra Cương đang đi về, cô đuổi theo và hổn hển gọi.
- Anh Cương! anh Cương! quay lại em bảo.
- Thôi muộn rồi, cô về đi …! Cương trả lời một cách lạnh lùng, làm Huyền sững lại, người như muốn quỵ xuống, cô ngồi thụp xuống ngay lòng đường nghẹn ngào nức nở. Cương buộc phải quay lại và cảm thấy mình có lỗi, anh nói với giọng ân hận:
- Sao thế Huyền? Nói anh nghe nào? Có chuyện gì đấy? Kìa, khổ quá người đi đường người ta cười cho kia kìa.
- Anh đi đi – Huyền bỗng gắt lên.
- Nhưng tại sao bây giờ em mới đến?
- Thôi đừng hỏi nữa, em khổ tâm lắm! Cô im lặng một lúc lâu. Cương cũng kiên nhẫn chờ đợi, anh cúi xuống nâng cô dậy và dìu cô vào mé bờ hồ, nơi có cây liễu rủ sát xuống mặt nước. Lau khô nước mắt, Huyền tiếp: Tối nay sau bữa cơm em đã định đi, nhưng mẹ không cho đi. Bố mẹ mời cả bác Long lại để bàn chuyện của chúng mình. Cách đây hai hôm, ông Ngọ ở xí nghiệp anh, có quen với bố đến nói chuyện là anh làm hỏng máy nên bị đình chỉ công tác, anh bỏ đi sống lang bạt, ăn tiêu bừa bãi… Cả nhà không ai đồng ý cho em được yêu anh.
- Anh biết, ông Ngọ đến nhà em là theo sự mua chuộc của tay Đồng.
- Anh đừng hiểu lầm, anh Đồng là người tốt, không bao giờ anh ấy lại… Cương cười gằn: Tốt! đúng! vì cậu ấy là kỹ sư mà tôi chỉ là anh chàng thợ máy quèn.
- Anh Cương! Anh nói hay nhỉ? – Huyền nhìn Cương ngỡ ngàng.
Thôi cô đừng đóng kịch với tôi nữa. Tôi biết, cô bắt đầu yêu tôi từ khi về Công ty thực tập, với sự kèm cặp của tôi và bây giờ hết thời gian thực tập, chúng ta “gút bai” như thế là sòng phẳng lắm cô Huyền ạ! Huyền bỗng nấc lên: - Anh Cương, anh thật là tàn nhẫn. Cương vẫn cái giọng lạnh như tiền:
- Vâng tôi tàn nhẫn hay chính cô thủ đoạn với tình yêu, cái vẻ ngây thơ hồn nhiên thật dễ thương, cùng với giọng đầy màu sắc giả tạo ấy đã một thời gian nhen nhóm trong tôi một niềm tin yêu tha thiết cuồng vọng đến ngu muội, thì giờ đây tôi thấy ghê tởm nó vô cùng. Vâng, vậy là đủ rồi, xin vĩnh biệt cô!
Nói rồi Cương vội bước đi, như chạy trốn. Huyền gọi với theo “Anh Cương!” và cô cũng vùng lên chạy đuổi theo anh, vừa đi vừa gọi: Anh Cương! Anh Cương … ! Cương cố chạy nhanh hơn, lẫn vào trong đêm tối, tiếng gọi xa dần, xa dần…
Cương giật mình tỉnh dậy, người toát cả mồ hôi. Có tiếng gọi đâu đây như tiếng kêu cứu thất thanh, hay tiếng hú. Anh định thần lại lắng nghe. Đúng là có tiếng hú rất xa, mé dưới đồi thấp của rừng. Như một phản xạ tự nhiên, anh bỗng hú lại trả lời:
- Hú u u ú ! Hú u u ú!
Một linh cảm rờn rợn trong anh, hẳn là tay Đồng có chuyện gì chăng? Anh vội vàng chạy về phía có tiếng hú đang kêu gọi và anh tiếp tục hú đáp lại. Cương chạy sấp sấp ngửa ngửa bị vấp mấy lần, một nỗi ân hận đang trỗi dậy trong lòng anh. Tại sao mình lại bỏ Đồng đi một mình?
Nhỡ xảy ra chuyện gì thì biết ăn nói với đơn vị, với anh em làm sao đây. Nỗi dày vò trong lòng làm bước chân anh càng chạy nhanh hơn về phía có tiếng hú.
Linh tính của Cương không sai, quả nhiên khi đi ra khỏi cửa rừng một đoạn, từ đằng xa anh đã nhìn thấy một cụ già người dân tộc đang cõng Đồng trên vai đi về phía anh.
- Cái công nhân ấy à? Giúp mình một tay nào. Cụ già gọi Cương.
Cương vội lao đến ôm chồm lấy Đồng trên vai cụ già:
- Trời! Anh Đồng! Anh ấy làm sao đấy già bản?
- Già đang làm nương, nó đi qua nó hỏi thăm cái đường mòn mình thường hay đi qua cái đèo Thung sang bản Ong, già bảo nó, có đấy, nhưng nó không quen không đi được đâu, nhưng nó cứ nhất định bảo già chỉ cho và nó đi liền. Một lúc sau nghe thấy tiếng đá lở, già biết ngay là nó bị tai nạn rồi, già vội chạy vào khe thì nó đã bị ngã và bị đá đè. già liền bới đá lôi nó ra, ngực nó còn phập phồng nó chưa chết đâu. Công nhân trông nó ở đây già về lấy rượu ngâm mật gấu ra cho nó uống nhé. Đưa tạm nó vào lán của già ở dưới kia kìa.
- Vâng, già đi nhanh lên. Mong già cứu lấy cán bộ Đồng này, chúng cháu xin đội ơn già lắm lắm, già đi đi ,nhanh lên – Cương cuống quýt giục già bản.
Khi ông già đi về bản, Cương vội vàng lấy súng bắn ba phát lên trời làm tín hiệu cấp cứu cho đơn vị biết rồi quay lại bế Đồng vào một cái lán trông nương của ông già gần đấy, vừa lay, vừa gọi Đồng:
- Anh Đồng, anh Đồng! Anh tỉnh lại đi! – Nhưng Đồng vẫn bất động. Nước mắt Cương tự nhiên trào ra, lòng ân hận của anh đang trào lên. Anh tự xỉ vả mình là “thằng hèn” đã bỏ rơi đồng đội, đã bỏ người chỉ huy đi một mình để đến nỗi xảy ra như thế này.
Cụ già bản Nai gần 70 tuổi mà vẫn nhanh nhẹn như một con nai rừng. Chỉ hơn hai giờ sau, cụ đã về nhà lấy rượu mật gấu và thuốc xoa bóp đến chữa cho Đồng, theo sau cụ còn có bốn thanh niên trai tráng trong làng mang cáng cấp cứu vừa chặt và đan bằng nứa để khiêng Đồng xuống núi về đơn vị.
Cương lầm lũi đi theo sau cáng, lòng anh nặng trĩu mặt rầu rầu như đưa ma.
*
* *
Trong lán y tế ở đầu khu vực doanh trại đội 4, xế vào một góc đồi yên tĩnh, có kê một chiếc giường cá nhân và vài hòm gỗ làm ghế ngồi, bàn cũng làm bằng hòm gỗ đang để một ít thuốc, bông băng, một phích nước nóng và một vài dụng cụ y tế đơn giản. Cô y tá Hoài có nét mặt bầu bĩnh và nước da trắng trẻo đang bằng bó cho Đồng. Tổ trưởng Cương và công nhân Thiết cũng đang có mặt tại đây chăm sóc Đồng, cả hai đều ngồi im lặng.
Đồng đã được cụ già bản Nai cho uống mật gấu và xoa bóp, nên đã tỉnh lại. Nhưng còn mê sảng, thỉnh thoảng lại la hét lên.
- Thôi đi đi … Cương ơi … không, đừng hiểu lầm tôi Đốc… anh Đốc. (Đồng bỗng ngồi bật dậy) nhìn ngơ ngác, như người không hồn.
- Nằm xuống anh Đồng, anh đang mệt mà, anh uống tí nước nhé – Y tá Hoài dịu dàng nói với Đồng – Nhưng Đồng vẫn mê:
- A nó đây rồi … Cương ơi … cá nhân là hèn … Huyền ơi, anh ấy là người tốt mà – Đồng lại thiếp đi, nằm xuống.
- Anh Đồng! anh Đồng! – Thiết lao vào lay gọi.
- Liệu có làm sao không hả Hoài? – Cương khẽ khàng hỏi.
- Anh ấy cứ mê sảng thế này làm em sợ lắm – Hoài trả lời – Mà mãi không thấy anh Đốc quay lại nhỉ? Không biết đã điều được xe về chưa?
- Hay chúng mình cứ túm chăn làm cáng đưa anh ấy đi nhé?
- Vâng phải đưa anh ấy đi bệnh viện cấp cứu mới được!
Thiết và Cương vội vàng ra khỏi lán để đi làm cáng thương. Bỗng Đồng lại tỉnh dậy và gọi:
- Anh Cương đâu rồi! Cương ơi!
- Nằm xuống đi anh! – Hoài van nỉ Đồng.
- Hoài đấy à, ờ sao lại trói tôi thế này?
- Anh bị thương đấy, phải băng bó nhiều lắm, anh Đốc đang đi điều xe đưa anh đi viện đấy.
- Không, tôi có làm sao đâu mà phải đi viện.
- Từ đêm đến giờ anh toàn mê sảng. Vết thương khá nặng không đi viện sao được. Anh uống tí sữa cho đỡ mệt.
- Không, tôi hoàn toàn tỉnh táo mà … ai đấy
Vừa lúc đó Huyền đến, cô vội vàng lao vào lán, cô bỗng sững lại, nhìn thấy Đồng đang bị băng bó đầy người, cô nấc lên, chạy lại ôm lấy Đồng:
- Anh Đồng! Anh không nhận ra em à, cô học trò nhỏ của anh ngày nào…
- Ồ Huyền! Biết tin em ở đây nhưng anh chưa sang chơi được … hơn hai năm rồi phải không em?
- Vâng hơn hai năm rồi …! Không ngờ gặp lại anh trong hoàn cảnh này.
Khi ấy Cương vừa đi chuẩn bị cáng xong, liền quay lại, bỗng trông thấy Huyền, anh ta liền dừng lại, đứng khuất sau một thân cây bên lán. Đồng nói với Huyền:
- Em khóc đấy à? Anh có làm sao đâu mà em khóc… Huyền này.
- Sao anh?
- Anh Cương cũng ở đây đấy, em gặp anh ấy chưa? Đồng hỏi.
- Dạ! Chúng em còn gì với nhau nữa đâu anh.
- Huyền cúi đầu buồn rầu.
- Sao vậy em? – Thấy Huyền im lặng. Đồng nói tiếp với giọng chân tình; anh đã yêu em, điều đó anh cũng chẳng tự dấu lòng mình. Anh biết rằng, đó chỉ là tình yêu đơn phương, nhưng từ bỏ suy nghĩ đó đối với anh đâu phải là một chuyện dễ dàng … Thế rồi em yêu Cương. Nói thực lòng, lúc đầu anh cũng không hiểu nổi tình yêu đấy bắt nguồn từ một cái gì. Nhưng rồi những ngày phụ trách lớp thực tập ở Công ty, em nhớ chứ, cái lần chiếc máy húc HĐ 583 bị sự cố, trước hội đồng kỷ luật anh ấy đã nhận lỗi thuộc về mình và bị đình chỉ công tác. Thực ra một người thợ máy giàu kinh nghiệm như Cương, anh ấy có thể đưa ra những bằng chứng để chứng minh mình hoàn toàn vô tội. Nhưng anh ấy không làm như vậy chỉ vì một lý do, người gây nên sự cố là bác Ngọ, trong khi cả cái gia đình sáu miệng ăn chỉ trông vào đồng lương bác ấy. Đã có lòng nhân hậu bao giờ cũng là người trung thực phải không em?
- Vâng, chính lúc anh ấy bị Công ty đình chỉ công tác, đáng lẽ em phải là chỗ dựa, niềm an ủi động viên của anh ấy thì em lại hoang mang dao động trước uy tín của gia đình, em lảng tránh những lần gặp gỡ … anh ấy nói đúng: Một kẻ dám tin vào những gì mình đặt niềm hy vọng, không dám bảo vệ những gì mình yêu quý thì đấy chỉ là một thứ tình yêu giả tạo.
- Em hãy đến với Cương đi!
Huyền đang muốn nói với Đồng điều gì đó, bỗng nghe tiếng Đốc ở ngoài lán gọi to như quát:
- Có xe rồi, thôi đưa cậu ấy ra xe ngay đi!
Huyền quay lại phía Đốc gật đầu chào anh. Đốc bước vào lán nhìn Đồng với thái độ không vui. Không vui vì Đồng bị tai nạn, làm anh phải liên quan trách nhiệm, vì anh là đội trưởng, người chỉ huy cao nhất ở đây. Không phải chỉ vì phải đổ xương máu một cách vô ích, một cách quá đắt, mà còn bị tốn công sức, tốn thời gian của đơn vị mà còn mất khí thế của cán bộ và công nhân trong đội nữa. Hừ, trận chiến mới bắt đầu được ít lâu, đang gặp khó khăn mà đã bị thương vong, mà thương vong lại ở cái phương án không đâu cơ chứ, chẳng ra làm sao cả. Từ lúc Đồng bị thương đến bây giờ Đốc như người dẫm phải bàn chông, đứng ngồi không yên, hết lo trách nhiệm báo cáo với cấp trên, với công ty, lại lo công việc đang bị trì trệ, tiến độ thi công đã bị chậm lại, còn phải lo cấp cứu sao cho Đồng không những không bị chết mà còn phải mau khỏi để giảm nhẹ tại nạn thương vong trong lao động … Đầu óc Đốc căng thẳng làm cho thái độ anh trở nên nóng nảy, cáu gắt có lúc như mất bình tĩnh.
Đồng thấy Đốc vào lán, anh cố gắng ngồi dậy, hướng về phía đội trưởng, giọng thều thào:
- Anh Đốc, phía đông đỉnh núi Đuôi Lươn …
- Cậu vẫn nghĩ đến con đường ấy à? – Đốc cắt ngang lời Đồng.
- Vâng. Có khả năng anh ạ.
- Mình sẽ nghiên cứu cụ thể nhưng bây giờ cậu phải đi viện đã.
- Có đồng chí Hoài biết đấy, tôi chỉ bị qua loa thôi.
Cô y tá Hoài bỗng xen vào:
- Báo cáo đội trưởng, anh Đồng bị thương nặng mất nhiều máu mà anh ấy vẫn tỉnh thế này thì em lo lắm.
- Các đồng chí hiểu cho – Đồng năn nỉ - Không phải vắng tôi đơn vị ta sẽ không hoàn thành nhiệm vụ, mà vì thực tế chúng ta đang gặp khó khăn, tôi mới về đã bị tai nạn, nếu đi viện sẽ ảnh hưởng tới khí thế đơn vị.
Đốc nói với giọng trịch thượng:
- Đồng ạ, trong báo cáo về công ty, chúng tôi không coi tại nạn của cậu là do xuất phát từ một động cơ cá nhân “muốn làm nổi bật mình lên bằng một phương án mới” ! Không, cậu cứ yên tâm mà đi đi!
Đồng bỗng ngỡ ngàng trước thái độ gay gắt của Đốc, anh nói với giọng chua xót.
- “Muốn làm nổi bật mình bằng một phương án mới” ? Chả lẽ mọi người lại đánh giá tôi như vậy sao? Vâng, cứ cho rằng tôi, chỉ vì tôi đi chăng nữa thì tôi vẫn nghĩ rằng, mở được con đường công vụ lúc này là ta đã phá được cửa mở của trận đánh.
- Trước đây chưa có cậu, đội 4 đã gặp những khó khăn còn to lớn hơn nhiều nhưng chưa bao giờ không hoàn thành nhiệm vụ cả.
Trước thái độ kiêu kỳ và giọng kiên quyết của Đốc, Đồng như sụp hẳn người xuống. Anh như bị nghẹt thở, dốc lên:
- Vâng! Tôi sẽ đi… Hoài ơi, cho tôi xin ngụm nước! Cảm ơn – Cho tôi xin ngụm nữa – Anh vớ lấy ca nước của Hoài đưa cho uống ừng ực.
- Thôi ráng chịu – Hoài can ngăn – Bị mất máu, uống nước nhiều không được đâu.
- Nhưng tôi khát quá… Ôi, cổ họng tôi như có lửa đốt, cho tôi xin một ca nữa, một ca nữa thôi, nước..! Sao đồng chí với nhau mà cay nghiệt thế. Nói xong Đồng ngất đí. Hoài và mọi người đều xúm lại lay gọi.
- Anh Đồng!
- Thôi, đưa cậu ấy ra xe – Đốc giục – Nhanh lên!
Mọi người bế Đồng vào một cái cáng thương bằng vải bạt vừa đưa đến, rồi khiêng Đồng lên xe, Hoài thu dọn thuốc dụng cụ đi theo lên xe. Cương, Thiết, Huyền, người ôm chăn, người ôm chiếu, người khoác ba lô của Đồng đưa lên xe. Chiếc xe tải nổ máy – Đốc vội nhảy lên ca bin xe, lệnh cho lái xe khởi hành ngay. Những người trên xe ngồi quây lấy cáng và giữ cho Đồng khỏi bị xóc. Chiếc xe tải cấp cứu Đồng lao nhanh về phía thị xã Hoà Bình.
CHƯƠNG IV
Cô y tá Hoài thấy nét mặt của Đốc cứ đăm đăm, còn lái xe cũng chẳng nói gì, sau khi đã đưa Đồng vào viện cấp cứu xong, cô cảm thấy yên tâm, tính hồn nhiên của con gái trở lại với cô.Trên đường quay về đội ,cô lợi dụng lúc xe xóc mạnh liền ngồi xích lại gần đội trưởng rồi trêu:
- Ôi, làm sao mà cứ như đâm lê thế anh Đốc? Kể chuyện gì vui cho em nghe mấy nào?
Mặc cho cô y tá Hoài cứ nằn nỉ mãi, nhưng Đốc vẫn không sao rời khỏi những suy tư của mình, anh bồi hồi nhớ lại những ngày đã qua, nhớ bến sông Rạt ngày 27 – 4 ở chiến trường năm 1975.
Đại đội anh được lệnh bắc cầu, bảo đảm cho các đơn vị xung kích tiến đánh Sài Gòn. Bình thường, khúc sông nhỏ này đối với anh không có gì là khó khăn lắm. Nhưng hôm nay bọn địch như đã biết được ý định tấn công của bộ đội ta, chúng tập trung nhiều phi pháo quần đảo, liên tục bắn phá vào bến, đơn vị của anh thiếu khí tài và bị bọn địch đánh hỏng nhiều không khắc phục được. Đốc cho anh em vận động nhân dân huy động hết số thuyền bè và vật liệu sẵn có ở địa phương tổ chức những đợt vượt sang bờ Nam trước. Chỉ huy các phân đội nhỏ đánh tập kích trên sông để chiếm đầu cầu và lấy xuồng của địch để bắc cầu, nhiều chiến sĩ của đơn vị bị thương có những đồng chí đã hy sinh. Sắp đến giờ bắc cầu, mà số khí tài vẫn chưa đủ. Đốc ra sức thúc các phân đội tìm kiếm. Người anh bừng bừng tưởng chừng như đành chịu bó tay.
Lúc đó, ở bờ Bắc có một đại đội công binh cầu phà hành quân đến, họ có nhiệm vụ hộ tống xe tăng ở mũi thọc sâu vào thành phố. Đồng chí chính trị viên đại đội đang ở bờ Bắc liền đến thảo luận xin chi viện. Trước tình hình khẩn trương và khó khăn của đơn vị anh. Tuy không phải nhiệm vụ ở tuyến này, nhưng đồng chí đại đội trưởng công binh đồng ý cử một trung đội hạ khí tài, phối hợp với đơn vị anh bắc cầu. Còn Đốc xông lên phía trước để chỉ huy đơn vị mở đường, khi Đốc quay lại thì đại đội công binh ấy đã được lệnh hành quân theo đơn vị xe tăng ngay sau khi thông cầu, anh không được gặp trung đội đó nữa, chỉ được nghe anh em kể lại:
- Trung đội công binh ấy toàn lính trẻ, thế mà họ làm cả đại đội mình lác cả mắt. Động tác họ mới điêu luyện làm sao, cứ như là làm xiếc vậy. Công binh hiện đại có khác, thích thật!
Và anh em ca ngợi nhiều nhất là đồng chí trung đội trưởng.
Sau khi bắc cầu xong nửa cầu phía Bắc, chính đồng chí trung đội trưởng người bé nhỏ đã dẫn một tổ chi viện nửa cầu phía nam cho cánh mình, một quả bom nổ gần cầu hất anh ấy xuống sông, mà không hiểu sao anh ấy vẫn ghìm dây giữ được mấy khoang thuyền không bị trôi. Bị thương chảy máu đầu mà vẫn chỉ huy bắc cầu được ngay, thật là một chỉ huy nhanh nhẹn, tháo vát và dũng cảm!
Đốc nghe chuyện, lòng đầy cảm phục và chỉ ân hận một điều là không được gặp các đồng chí ấy.
Hôm ấy cầu đại đội anh hoàn thành, bảo đảm đúng giờ G quy định các đơn vị tăng, pháo và bộ binh xung kích đã kịp thời vượt sông chiến đấu. Ngày lúc đó đại đội Đốc được Bộ chỉ huy mặt trận điện khen ngợi, các đơn vị bạn rầm rập tiến qua sông nhìn mà sướng mắt.
*
* *
Bẵng đi vài năm, nhân một chuyến đi phép từ Sài Gòn ra Bắc. Đốc xuống ga Phủ Lý, rẽ theo đường 21 ghé về thăm đơn vị cũ – Một tiểu đoàn công binh quen thuộc và lưu luyến của anh năm xưa. Đốc quyết định về thăm đơn vị cũ trước khi về thăm gia đình, không phải chỉ vì tiện đường đến trước, mà vì từ những ngày chập chững của đời lính cho đến lúc trưởng thành, anh đã để lại đây nhiều kỷ niệm vui buồn. Ở đây còn có “Vĩnh còm” một thằng bạn nối khố từ thời chăn trâu cắt cỏ. Hai đứa ở cùng làng và cùng tuổi với nhau nhưng vóc người cậu ấy yếu nên mới được bọn trẻ gọi là “Vĩnh còm”. Ngày ấy Vĩnh phải tôn Đốc làm “sư phụ”. Nhiều keo vật trên đồng cỏ, bao giờ Vĩnh cũng bị Đốc “vỗ bụng” còn ở trường thì Vĩnh không chịu kém, luôn luôn đuổi điểm sát nút Đốc kể cả môn bắn súng tự vệ.
Học xong cấp 3, Vĩnh máy Đốc:
“Này, có cách nào để tao cùng đi với mày đợt này chứ, mày định bỏ tao đi một mình à?”.
Đốc đáp: “Yên trí, tao không bỏ rơi mày đâu”! Đốc bắt tay nó, nhưng khó nghĩ quá, hôm cân thử ở sân kho hợp tác xã Vĩnh chỉ nặng có 40kg thì đi làm sao được. Bọn họ phải bày một trò “xiếc” theo mẹo của Vĩnh sẽ đánh tráo Đốc vào khám thay tên cậu ấy. Quả nhiên Vĩnh trúng tuyển nhưng cũng phải lén lút bí mật lắm mới nhảy được lên xe về đơn vị. Hai người được vào công binh – binh chủng nặng nhọc này đối với Vĩnh thật vất vả. Tuy nhiên có Đốc ở cùng tổ, rồi sau Đốc lại là tiểu đội trưởng nên cũng “san sẽ” “đỡ đần” cậu ta được ít nhiều. Nhớ hôm đi, bà mẹ Vĩnh có dặn Đốc:
- “Anh cố gắng dìu dắt em nó, cho bằng anh bằng em. Dạo ấy bố nó là du kích vừa hy sinh trong trận chóng càn, tôi sinh nó ở dưới hầm bí mật, bọn Tây lùng bắt phải chạy trốn hết xó này xó khác, đói khổ, thiếu thốn nên em nó gầy yếu chẳng bằng người”.
Vì thế cái ý nghĩ “đỡ đần” Vĩnh còn làm Đốc vui vui và xem là trách nhiệm của anh.
Dạo cuối năm ngoái nghe tin Vĩnh vẫn còn ở đơn vị cũ. Sau ngày giải phóng Sài Gòn, anh đã biên thứ về cho Vĩnh vắn tắt nói là: “Mình còn sống, làm ăn khá, đợi mình về cùng nghỉ phép”. Chẳng biết “tay còm” có nhận được không?
Đốc còn có một băn khoăn nữa là không hiểu tình hình đơn vị cũ bây giờ ra sao? Liệu đã cũng cố được chất lượng và làm ăn khấm khá như dạo anh còn ở đấy không? Dọc đường hăm mốt Đốc “cuốc bộ” rất khoẻ, bao chuyện xưa ẩn hiện trong ký ức anh. Đốc còn nhớ một chuyện cách đây ba năm về trước.
Dạo ấy, tiểu đoàn anh cử một đại đội mạnh đi chi viện chiến trường – đó là đại đội 4, một đại đội đặc biệt – Đốc được biết trong cuộc họp Đảng uỷ tiểu đoàn, khá gay gắt về việc san xe chất lượng đơn vị như thế nào? – Nhưng mệnh lệnh cấp trên vẫn được thực hiện nghiêm chỉnh. Cán bộ chiến sỹ đều là những tay có “máu mặt” và cỡ cự phách trong các đại đội rút lên. Một đại đội mạnh toàn diện, chỉ huy cừ, kỹ thuật giỏi, trẻ, khoẻ để ưu tiên tất cả cho chiến trường. Các đại đội còn lại tưởng chừng như rỗng. Những người ở lại cứ nhìn các anh mà thèm. Hôm sắp lên đường Đốc và Vĩnh còn ôm nhau tâm sự suốt một đêm. Buổi chia tay Vĩnh dặn Đốc.
- Cậu cứ đi đi, nhớ phát huy truyền thống làng ta và đơn vị đấy nhé!
- Cứ yên trí, cậu khỏi lo cho mình. Ngược lại tớ chỉ lo cho cậu ở lại. Đốc định nói thêm: “Cậu không có chỗ dựa của tớ nữa”. Nhưng lại thôi. Nắm chặt tay Vĩnh, anh chỉ nhắc:
- Nhớ lời giao ước đấy, hay là ở ngoài này, gần gũi quê nhà mày lại… Vĩnh vội xua tay lia lịa và giơ ngón tay chỏ ra – Hai đứa móc tay nhau cười. Trước khi rời quê hương nhập ngũ, họ cuộc với nhau rằng “Khi nào hết chiến tranh, nước nhà thống nhất hai đứa sẽ cùng về nhà và cùng .. lấy vợ”. Nỗi lo lắng cho đơn vị và cho Vĩnh cứ ám ảnh Đốc trong những năm ở chiến trường, không biết tiểu đội 3, cái tiểu đội cỡ đàn anh của mình và liệu thằng Vĩnh còn giữ được không?
Hôm nay về thăm đơn vị cũ, lòng Đốc tràn ngập một niềm vui xốn xang như trở về nhà mình vậy. Đốc hình dung đến những nét mặt thân quen, những nụ cười hân hoan chào đón anh. Đốc dự định trước hết đến thẳng chỗ ở của Vĩnh bên góc hồ. Qua Vĩnh, anh sẽ nắm được tình hình đơn vị ai mất, ai còn. Đốc sẽ ghi tên vào sổ vàng truyền thống của tiểu đoàn về những chiến công đã lập được ở chiến trường, rồi sẽ đi thăm các đại đội, chắc anh em sẽ rất vui mừng và nồng nhiệt đón tiếp mình. Những người chiến thắng từ tiền tuyến về mà lại. Đốc sẽ kể cho anh em về chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Rất tiếc cho anh em ở đây không được tham dự! Và nhất là Đốc sẽ kể về nhịp cầu sống Rạt lừng lẫy rất đáng tự hào của đại đội anh, của bản thân anh…
Trong suốt cả chiến dịch, nhịp cầu này của các anh đã trở nên nổi tiếng. Những cánh xe tăng, pháo binh, tên lửa thì truyền cho nhau chuyện: Một chiếc cầu kỳ lạ, như có phép thần, các loại thuyền, phao, bỗng dưng ở đâu xuất hiện ùn ùn đến, rồi chưa kịp hút xong một điếu thuốc lá đã thấy lệnh thông cầu. Cánh lái xe thủ thỉ với nhau: Chính mặt họ trông thấy tại đại đội trưởng công binh trẻ tuổi, nhanh nhẹn như con thoi trên cầu. Bom ném cạnh chỗ tay trung đội trưởng công binh bé nhỏ, anh ta liền nhảy đại xuống nước lặn một hơi dài ra xa tránh bom rồi lại ngoi lên! Đốc cứ áy náy mãi, rất tiếc cho Vĩnh giá cậu ta được vô Nam như anh chắc cũng làm nên nhiều chuyện. Đốc sẽ xin cho Vĩnh cùng về phép, hai thằng sẽ cùng về quê coi như vẫn cùng một đơn vị cũ, ở chiến trường về.
*
* *
Khi về tới đơn vị cũ, Đốc bỗng ngạc nhiên, sững sờ tưởng mình đi nhằm lối. Trước mắt anh là một khu doanh trại lớn bằng gạch ngói, to đẹp đàng hoàng. Những hàng dừa xanh in bóng trên mặt hồ lung linh. Phía bên kia hồ, khu vực đại đội cũ, một toà nhà bốn tầng, sừng sững hiên ngang, nâng bức tượng Bác Hồ to lớn trên cao. Soi bóng xuống mặt hồ, trông thật nguy nga. Đốc đang ngỡ ngàng ngắm phong cảnh thì có tiếng gọi phía sau:
- A Đốc! Đồng chí Đốc đã về!
Đốc quay lại và reo lên:
Ôi, chính trị viên Tiệm, chào thủ trưởng Tiệm! Đó là chính trị viên Trần Huy Tiệm, anh đang cùng một số bộ đội xây nhà. Đốc chạy lại ôm chầm lấy anh. Những anh em đang làm việc gần đấy cũng ùa lại vây quanh lấy Đốc.
- Hoan hô anh Đốc, hoan hô những chiến sĩ từ thành phố Hồ Chí Minh chiến thắng trở về! Hoan hô – Những tràng vỗ tay reo vang. Mặt Đốc đỏ bừng lên. Lòng anh bỗng dưng hân hoan khó tả. Trong số những người xúm xít quanh anh phần lớn là anh em trẻ mới lạ nhưng hầu như rất nhiều người biết tên anh.
Trước đây khi còn ở đơn vị, bọn anh mới chỉ dám ước mơ được ở một doanh trại tương đối chính quy, và các chi đoàn thanh niên lúc đó đang có dự định lao động xây dựng nhà truyền thống. Để kỷ niệm ngày Bác Hồ về thăm đơn vị năm 1966 và Bác tặng lẵng hoa cho tiểu đoàn năm 1969 đó là nguyện vọng của mọi người. Ai cũng muốn để lại một kỷ niệm đáng tự hào ấy. Trong vòng mấy năm đơn vị đã thực hiện vượt quá những ước mơ của các anh trước đây. Và thật không ngờ Vĩnh còm, thằng bạn gầy yếu của anh, không những giữ vững được tiểu đội nề đầu đàn của đơn vị mà nó lại trở thành tay thợ xây giỏi, trong thời gian xây dựng khu doanh trại này và nhiệm vụ công trường khác của quân khu. Bỗng Đốc thấy vui lây và thầm khen “Không được đi chiến trường, ở lại làm được thế là tốt”: Nói thế nhưng có một cái gì nhen nhúm trong lòng Đốc, anh bỗng chớm có sự so sánh giữa anh với Vĩnh. “Thế là Vĩnh hơn mình một điểm, vừa có thành tích xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, lại vừa có tay nghề thợ xây”. Đốc vội bổ đi tìm Vĩnh.
Bỗng anh đứng sững lại, khi nghe một chiến sĩ trả lời:
- Anh ấy cũng đang ở chiến trường miền Tây cơ ạ! – Hỏi ra mới biết, ngay từ đầu mùa xuân 1975, tiểu đoàn đã liên tục bảo đảm cầu phà vào chiến dịch, trong nhiều tình huống ác liệt. Sau đó được cử một đại đội đi hộ tống xe tăng vào Sài Gòn. Còn toàn tiểu đoàn được lệnh chuyển sang miền Tây, chi viện quốc tế để phối hợp ba chiến trường. Tiểu đoàn bây giờ do Ngô Doãn Hanh và Nguyễn Hữu Vược chỉ huy. Đó là hai thủ trưởng đại đội 2 cũ của Đốc. Riêng chính trị viên Tiệm, sau ngày toàn thắng thì được trên cho về nghỉ chờ hưu. Nhưng anh đã ở lại tình nguyện như một chiến sĩ, tham gia xây dựng nhà bảo tàng, tượng đài và những công trình cho xong. Đốc bỗng thương người chính trị viên già. Trong suốt thời gian mười năm qua làm chính trị viên ở đây đã bồi dưỡng cho bao lớp trẻ tiến lên, nay tuy đã được nghỉ, nhưng anh vẫn dừng lại đây, cống hiến nốt sức mình cho đơn vị. Đốc nghĩ đến các đồng chí ở bên kia: “Chà, giữa mùa mưa lúc này, anh em mình bên ấy khá gay go ác liệt đấy” – Đốc bỗng thấy thương Vĩnh còm, liệu có chịu nổi với những thời tiết khắc nghiệt bên ấy không “Tiếc quá, mình không được đi như nó – hiện nay đất nước đã thanh bình rồi thì sự chi viện quốc tế càng có nhiều ý nghĩa, thằng Vĩnh lại tha hồ mà lắm chuyện hay”.
Đến khi theo chính trị viên Tiệm lên thăm nhà truyền thống và tượng đài Bác Hồ. Vào các phòng trưng bày, Đốc bỗng ngạc nhiên trước một hiện vật – đó là một đoạn dây neo, được đặt trang trọng trên nền nhung, trong một hộp kính với dòng thuyết minh:
“Đoạn dây neo cầu Rạt trong chiến dịch Hồ Chí Minh, do trung độ 2, đại đội 1 phối hợp với một đại đội công binh sư đoàn Y, bắc chiều ngày 27-4- 1975”.
- “Trời” – Đốc reo lên – hoá ra là đơn vị ta ư? – thế mà anh tìm mãi không thấy – Đốc bỗng dưng bàng hoàng như trong cơn mê. Một lát sau, anh mới bồi hồi nhớ lại chuyện bắc cầu sống Rạt mà bao nỗi vui buồn xen lẫn trong anh với một giọng đầy xúc động. Đốc kể cho mọi người đang đứng dưới chân tượng đài nghe:
- Vâng, đúng ngày hôm ấy là ngày 27-4-1975 đại đội chúng tôi được lệnh bắc cầu sông Rạt…
Mọi người đều chăm chú lắng nghe Đốc kể, đôi lúc có những ánh mắt, nụ cười và những câu xuýt xoa tán thưởng. Và không hiểu sao. Đốc bỗng ngập ngừng chỉ kể về đoạn một đại đội công binh đi qua và một trung đội chi viện đơn vị anh.
- … Tôi ân hận mãi vì không được gặp, các đồng chí đó: Vậy mà về đây thật không ngờ…
- Đó là đại đối 1 do đại đội trưởng Lê Đức Tài chỉ huy đấy! Chính trị viên Tiệm nói với anh:
- Đại đội 1 à? Có phải Lê Đức Tài, tiểu đội trưởng lái xe nổi tiếng toàn quân, cùng thời với tôi đấy ư? Đốc hết ngỡ ngàng này đến lạ lùng khác.
- Còn đồng chí trung đội trưởng kia là ai?
- Đó là Phạm Ngọc Vĩnh của cậu đấy chứ còn ai nữa. Bây giờ đang là đại đội phó ở miền Tây đấy!
- Ôi! Vĩnh còm của tôi ấy à! – Thánh thật! – Trời! Sao mà nó im hơi lặng tiếng thế?
Mọi người bỗng phá lên cười trước bộ mặt ngơ ngác của Đốc. Ai đó thốt lên:
- Cậu lạ lắm à, con chị nó đi con dì nó lớn, chứ! Cậu cứ tưởng… Đốc tíu tít hỏi chuyện của Vĩnh. Anh em cho anh biết thêm khi đi chiến đấu về, Vĩnh chỉ kể về sự táo bạo của một đại đội công binh mà không nói gì về chuyện cậu bị thương để được cấp trên cho sang chiến trường miền Tây. Khi viết thuyết minh về đoạn dây neo trong nhà truyền thống, có đồng chí đã viết là do trung đội 2 bắc và ghi cả tên người chỉ huy Phạm Ngọc Vĩnh nhưng Vĩnh đã xóa tên đi, yêu cầu viết lại và nói:
- Đây là chiến công chung của đơn vị có riêng gì của người chỉ huy đâu.
Nghe tới đấy Đốc hơi thẹn với sự tự hào “vô Nam” của mình vì chiến công bến Rạt đâu phải của riêng Đốc mà có Vĩnh, có cả bao đơn vị đánh vào đây nữa chứ!
Đốc ngước mắt nhìn lên tượng đài Bác Hồ trên cao, gió lồng lộng thổi. Người anh lặng đi xúc động: nghẹn ngào, quì xuống dưới chân tượng đài, trước đồng đội cũ và bạn bè của anh. Đốc thầm cảm ơn Vĩnh anh nhận thấy: Chính Vĩnh mới là niềm tự hào của anh….
*
* *
Cô y tá Hoài giục:
- Ơ kìa! Về đến đơn vị rồi, mở cửa xe ra đi anh! Đốc giật mình, mải suy nghĩ xe về đến nhà mà chưa biết. Anh vội vàng tìm nắm đấm mở cửa xe. Nhưng cô Hoài đã nhoài qua người anh để mở lấy, bộ ngực căng phồng của cô như ép chặt vào ngực Đốc, làm anh nghẹt thở, tóc của cô bung ra, quấn cả vào đầu vào cổ anh. Một mùi thơm con gái bao trùm lấy anh. Đốc vội vàng đẩy cửa xe ra.
Cô y tá nguýt một cái dài, gần chạm vào mặt anh, cô không bằng lòng với thái độ hốt hoảng của anh.
CHƯƠNG V
Trên đỉnh Đèo Thung.
Đội trưởng Lê Thành Đốc đang đứng một mình ngắm quang cảnh đỉnh đèo, của địa hình xung quanh, rừng, núi, đèo… Những vách đá dựng đứng như bức tường thành đang chắn lối của con đường, đang chắn bước đi của đội 4 công ty cầu đường, đang chặn bước đi của đội trưởng Đốc, một đội trưởng chưa tửng biết đến chiến bại trong thời gian chống Mỹ ở Trường Sơn, cũng như đội 4 chưa từng bị lùi bước trên mỗi nẻo đường, bến sông của Tổ Quốc trong mấy năm qua. Vậy mà, không lẽ bây giờ nó lại bị bại trước cái Đèo Thung này chăng? Đầu óc Đốc đang căng thẳng suy nghĩ – anh đứng lên,lại ngồi xuống.
“… Vậy là cậu Đồng đi rồi – Đốc lẩm bẩm như đang tự độc thoại với mình – cậu ta đi rồi. Và cái con đường phía Đông đỉnh Đuôi Lươn được gọi bằng một cái tên khá kêu: “Cửa mở chiến dịch Đèo Thung” cũng đi theo cậu ấy.
Thời gian cứ vùn vụt trôi đi, mà đội 4 vẫn bị sa lầy trên một đỉnh đèo đá phong hóa, hay chính tôi đang bị sa lầy vào phương án của mình. Có lúc tôi đã nghĩ đến “con đường cửa mở” của cậu Đồng. Nhưng đưa máy lên bằng con đường ấy thì khác gì mình chấp nhận một sự thất bại. Cả một quá khứ rực rỡ, chói lọi vụt tắt đi cùng với sự sụp đổ của phương án tối ưu. Không! Một con người đã đứng vững ở một trọng điểm của Trường Sơn năm xưa thì không thể bất lực trước cái Đèo Thung trong điều kiện còn thuận lợi hơn nhiều. Đúng! Chỉ có đánh những lượng thuốc nổ tập trung lớn hơn quy định. Mà làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến khu vực lòng hồ chứa nước của công trình thủy điện Sông Đà. Đó là điều nguy hiểm mà trong hoàn cảnh cùng quẫn, tôi đã thực hiện…chưa bao giờ tôi lại phải sống trong một tâm trạng dằn vặt đến như vậy, còn gay cấn hơn cái trọng điểm bến sông Rạt năm xưa…!”. Có một tốp công nhân đang khênh thuốc nổ đến công trường. Đó là các công nhân của tổ máy có biệt hiệu là “phi đội C100”. Đáng lẽ công việc của họ là điều khiển máy, san húc những lớp đất đá khổng lồ này đi,nhưng họ lại phải đào đất khuân đá, khiêng thuốc nổ .. làm những việc lao động đơn giản bằng chân tay. Nghe thấy tiếng ồn ào của lớp thợ trẻ, Đốc không muốn giáp mặt họ, trong lúc đầu óc đang bề bộn, rối tơ vò, anh ngồi tránh sang một tảng đá, phía trên cao, để họ không nhìn thấy.
Tốp thợ trẻ cũng tình cờ không biết có người ở trên đỉnh, họ đang hò nhau trèo lên dốc, theo con đường mòn phía ngang sườn núi, đi đến đâu chuyện rôm rả như pháo rang đến đấy.
- Nghỉ giải lao tý đã các cậu ơi! Công nhân Thiết gọi, liền được công nhân Châu hưởng ứng và bốc đồng lên:
- Nhất trí nghỉ đã! Này các cậu thấy chưa? Ngay từ đầu cứ làm theo phương án của “Châu lý sự” này thì có phải sắp xong rồi phải không?
Công nhân Vinh làm ra vẻ tán thưởng:
- Ừ cậu nói nghe cũng có lý!
- Làm thì làm nhưng mình vẫn không thông – Thiết vừa nói liền bị Châu vặn lại:
- Sao lại không thông? Đây là phương án hay nhất, vừa nhanh lại tiết kiệm xăng dầu và bây giờ cánh thợ máy chúng mình lại giỏi thêm khoa học phá nổ.
- Nhưng mình lo sử dụng lượng nổ lớn như thế sẽ ảnh hưởng tới khu vực lòng hồ chứa nước của thủy điện Sông Đà. Sự rạn nứt lòng hồ tác hại như thế nào các cậu có hiểu không?
- Ừ cậu nói nghe cũng có lý!
- Thế chẳng lẽ chắp tay vái Đèo Thung ba vái rồi đánh bài chuồn à. Hết mùa lá khô không xong, mùa mưa chỉ ngồi mà nhai củ chuối rừng.
- Mình cho rằng – Công nhân Thiết ra vẻ lý luận và quan trọng – mở con đường phía đông đỉnh núi Đuôi Lươn đưa máy húc lên đỉnh Đèo Thung, tổ chức thi công ba ca liên tục cũng vẫn chưa muộn.
- Có thế mà không hiểu – Châu với giọng mỉa mai – Thực hiện phương án của anh Đồng, tức là đội trưởng chấp nhận sự đổ vỡ phương án của mình còn gì.
- Cậu nói bậy! Thiết cãi lại – Đội trưởng Đốc là một người cán bộ mẫu mực, xông xáo. Một con người đã được rèn luyện thử thách ở Trường Sơn năm xưa thì không bao giờ lại suy nghĩ tầm thường như vậy.
- Cái vinh quang, choáng ngợp của quá khứ, đôi khi cũng làm người ta nhỏ bé đi trước hiện tại.
- Cậu nói nghe cũng có lí! Anh chàng Vinh ba phải lại nhắc lại cái điệp khúc đó.
- Không phải ai cũng vậy! Thiết khẳng định.
- Đúng! Nhưng không phải là không có, có phải không? Châu cũng khẳng định.
- Thôi đi các cậu ơi, cãi nhau làm gì – Anh chàng Vinh ba phải dàn hòa và giục các bạn đi.
Vừa lúc đó Huyền từ phía bên kia Đèo Thung cũng đi sang, mọi người đều vồn vã chào Huyền - “Chào chị Huyền” – Huyền đáp lại “Vâng, chào các anh” và hỏi tiếp:
- Anh Đốc có ở trên này không các anh?
Lúc này Đốc đang ngồi trên đỉnh đèo nghe cánh lính trẻ bàn tán với nhau, nên không muốn lộ mặt, nhưng khi thấy em gái xuất hiện trên đỉnh đèo này thì anh bật đậy gọi:
- Kìa Huyền!
Các công nhân bỗng giật mình, thấy đội trưởng như từ trên trời rơi xuống họ vội chào đội trưởng, rồi nhìn nhau, nháy mắt ra hiệu, phải chuồn cho nhanh, khéo chuyện tào lao ông ấy nghe hết rồi đấy, liệu hồn.
- Chào đội trưởng!
- Chào chị Huyền nhé!
Họ rối rít chào hai anh em Đốc và Huyền, rồi lại ào ào như cái chợ kéo nhau đi ra phía công trường.
Chờ cho các công nhân đi khuất trong rừng Huyền mới rút trong túi ra đưa cho Đốc một cái phong bì và nói:
- Bác Phong, giám đốc xí nghiệp dọn lòng hồ bận họp trên Bộ, nhờ em gửi thư cho anh và mời anh sang bên ấy chơi.
Đốc cầm phong bì, mở thư ra đọc – Công việc bộn bề thế này còn đi chơi sao được.
- Thời gian gần đây, bên này các anh sử dụng lượng nổ lớn quá, gây ảnh hưởng chấn động tới công trình lòng hồ bên em đấy – Huyền nói.
- Em biết không – Đốc thanh minh – Hết tháng 3 này mà không chọc thủng được cái Đèo Thung thì đội 4 không hoàn thành nhiệm vụ , và anh sẽ là người chịu trách nhiệm trước công ty và Bộ.
- Em vừa hỏi các công nhân đang vận chuyển thuốc nổ lên đây, tốp trước kia, họ nói, các anh chiều nay sẽ cho lượng nổ tập trung hàng mấy tấn , làm bật tung cái Đèo Thung này đi có phải không?
- Họ dọa em đấy! Đốc đánh trống lảng để dấu em gái.
- Không, ai cũng nói như vậy, em tin họ, nếu đúng như vậy là các anh phá hủy công trình lòng hồ thủy điện Sông Đà!
- Em khép tội cho anh đấy phải không? Đốc bỗng gắt lên.
- Sự cố xảy ra sẽ khép tội các anh! Huyền nói cụt lủn vẻ kiên quyết làm cho Đốc phải hạ giọng vẻ thanh minh:
- Anh đã tính tới sóng xung kích, sóng chấn động và cả mảnh văng của lượng nổ, không ảnh hưởng tới công trình lòng hồ của em đâu!
- Anh cho biết lượng nổ đánh chiều nay là bao nhiêu?
- Điều đó em không cần biết và anh cũng không phải báo cáo với em. Thôi em về đi, và báo cáo cho ông giám đốc của em là hãy lo lấy công việc của ông ấy, đừng có nhúng mũi vào việc của chúng tôi. Bên này, chúng tôi chỉ biết chấp hành theo mệnh lệnh cấp trên – Đốc bỗng trở lên gay gắt. Những bực bội trong mình như được dịp nổ tung ra.
- Anh Đốc! Huyền cũng gằn giọng một cách chậm rãi – Trước đây em vẫn hằng quý trọng anh. Bố mẹ vẫn thường lấy anh làm mực thước cho chúng em noi theo. Mỗi khi làm việc gì sai trái em đều thấy hổ thẹn. Em vẫn tự nhủ mình phải sống làm sao cho xứng đáng với anh… Nhưng đến bây giờ… em cảm thấy… anh tầm thường quá!
-Huyền! Em không được vô lễ thế! – Đốc bỗng hét lên, mặt đỏ gay. Huyền cảm thấy mình có lỗi vì quá lời, nhưng cô vẫn nói giọng mỉa mai:
- Vâng, xin lỗi anh! Em đã chạm tới lòng tự trọng của anh, nhưng em nghĩ, thuốc nổ với tính năng của nó, nếu sử dụng đúng nó sẽ giúp người ta lập nên những chiến công, nhưng cũng có khi nó sẽ giúp làm tiêu tan đi một quá khứ dù cho là chói lọi, một việc dù là rực rỡ.
- Thôi vậy là đủ rồi! – Đốc lại gắt lên, vẻ giận dữ - Đừng đến đây mà dậy khôn … cô đi đi.
- Vâng! Huyền kiên quyết – Nhưng em sẽ không cho anh thực hiện lượng nổ chiều nay đâu! – Huyền bỗng nấc lên, mắt đỏ hoe, rồi cô lao nhanh xuống núi, về phía công trường lòng hồ, bên kia Đèo Thung, cách đấy không xa, để mặc cho Đốc đứng trơ trọi một mình đau đớn, mắt anh nhòe đi. Bỗng Đốc bừng tỉnh – anh nhìn theo hướng Huyền, gọi to:
- Huyền!... Huyền…!
Nhưng Huyền đã đi xa không hề ngoái lại. Đốc bực mình, ngã xuống tảng đá trên đỉnh núi, anh cảm thấy như bị sụp đổ, người mệt mỏi bơ phờ, chân tay rã rời, bụng đói, miệng khát. Những câu nói của Huyền đang dày vò anh và cả những câu bàn tán của toán chiến sỹ lúc nãy, cũng đang xáo động tâm hồn anh “… Hừ, các công nhân họ cũng còn khinh mình và nói với mình những điều vô lễ như vậy … tại sao? Tại sao?...”
Anh cố bứt ra khỏi những suy nghĩ mung lung trong đầu và vùng lên đi nhanh về phía công trường. Nơi các công nhân dang chuẩn bị lượng nổ. Có lẽ phải tính toán lại, không thể làm liều như những ngày ở Trường Sơn được. Dạo đó, trong chiến tranh người ta chỉ cần lấy tinh thần dũng cảm là được, người ta có thể châm chước những yếu tố kĩ thuật. Bởi vì mọi thương vong mất mát đều có chỗ để đổ lỗi. Tất cả đều do kẻ địch gây nên. Chiến tranh mà, sự tổn thất là có cơ sở, là có lí, chà thương vong là điều tất nhiên, tránh sao khỏi. Chiến tranh cơ mà, có phải thường đâu, sự tàn khốc, sự ác liệt của chiến tranh là ở chỗ ấy, và thật trớ trêu thay, nhiều khi sự trì trệ bảo thủ, gàn dở, cũng được chiến tranh che phủ.
Đốc đang miên man suy nghĩ và nhớ lại những kỉ niệm ở chiến trường xưa, thì bỗng nhìn thấy một toán người đang đi lên dốc, về phía mình. Trong toán người đó, anh đã nhận thấy một người thấp lùn, da đen, béo đậm với dáng đi nặng nề đang leo lên dốc, đó là ông Bính,giám đốc công ty, Đốc ngỡ ngàng, vội chạy nhanh xuống đón thù trưởng công ty.
*
* *
Khi đến gần toán người đang lên dốc, Đốc lên tiếng chào to vừa giơ tay lên vành mũ theo thói quen hồi còn ở quân ngũ ,vẻ hồ hởi:
- Chào giám đốc,giám đốc mới lên à!
- Mình lên đây lúc 7 giờ sáng. Bính đáp lễ rồi chạy lại bắt tay Đốc.
- Sao giám đốc lên mà không điện báo trước cho chúng tôi biết?
Gặp anh em nói cậu ở trên này, mình lên đây xem tình hình ở trên này thế nào? Vất vả lắm hả? Gầy xọp đi nhiều quá – Rồi với giọng bông lơn, giám đốc nháy nháy mắt với Đốc và nói tiếp – xong công trình này, đi phép xem có đám nào mà cưới luôn đi, kẻo không thì già mất đấy!
- Báo cáo giám đốc, chúng tôi vẫn đảm bảo định mức theo tiến độ thi công, với khả năng là có thể hoàn thành sớm hơn trước thời gian quy định từ 3 đến 5 ngày đấy ạ! – Đốc mạnh dạn báo cáo theo kế hoạch cũ của mình.
- Tốt! khánh thành công trình thế nào Bộ trưởng và Trưởng ty cũng lên đây dự đấy… Ngừng một lát,giám đốc Bính tiếp: - Mình có rẽ qua chỗ cậu Đồng nằm, sức khỏe cậu ấy cũng khá rồi. Cậu ta nóng ruột cứ đòi về, nhưng bác sĩ không đồng ý. Cậu ấy gửi cho cậu bao Sông Cầu đây này, ở đây thèm thuốc lá lắm phải không? – Ông Bính móc túi trao cho Đốc bao thuốc lá bị bẹp dúm dó. Đốc nhận rồi vuốt vuốt gói thuốc cho vuông vắn lại, rồi bóc gói thuốc mời giám đốc và anh em xung quanh.
Đốc cũng rút một điếu thuốc và cầm bật lửa mồi cho giám đốc.
- Đốc này! – Hút xong một hơi thuốc, ông Bính vừa tiếp tục leo đồi vừa hỏi – Máy húc vẫn ở thê đội Hai à?
- Vâng ạ, khả năng đến giai đoạn hai mới sử dụng đến máy húc – Đốc vừa bước theo vừa trả lời:
- Sức khỏe, tư tưởng anh em thế nào?
- Báo cáo nói chung là tốt, có trường hợp đồng chí Cương, tôi đã báo cáo với Công ty. Cậu ta ỷ lại là thợ máy, ngại lao động chân tay, đôi khi ngang bướng, chấp hành mệnh lệnh không nghiêm, gây cản trở cho đơn vị.
- Là thanh niên thủ đô đấy – Bính nói – đồng chí có biết hoàn cảnh cụ thể của cậu ấy không?
- Trước đây là thợ máy húc ở xí nghiệp cát An Dương, sống bạt tử, làm hỏng máy, bị đình chỉ công tác, chán đời cậu ta xung phong đi Thanh niên xung phong một thời gian,hết chiến tranh ,xin chuyển ngành về đây.
- Không phải hoàn toàn thế đâu – Bính nói – mẹ mất sớm, bố đi bước nữa ra Hà Nội ở với bà ngoại, cậu ấy tự lập nuôi thân từ bé. Sau này vào xí nghiệp cát học tập thành thợ máy húc. Lương cũng kha khá. Bà chết, còn một mình, cậu ăn uống sinh hoạt tự do phóng túng. Nhưng được cái tốt bụng với anh em, ai có khó khăn là giúp luôn. Đây là một thanh niên tốt, thẳng thắn có tay nghề giỏi ta rất cần, tuy nhiên cũng có nhiều nhược điểm ta cần giáo dục giúp đỡ. Bề ngoài cậu ta có vẻ phớt đời nhưng thực ra lại thiếu thốn tình cảm, khao khát có một sự chăm sóc ân cần.
Nghe tới đó, Đốc thấy ngỡ ngàng và hỏi Bính:
Sao giám đốc lại biết tỉ mỉ thế?
- À, mình đến gặp tay Phấn – Bính trả lời thong thả - giám đốc xí nghiệp cát An Dương, hóa ra là bạn chiến đấu cũ với nhau. Anh Phấn cho biết tất cả, anh ấy cũng rất quý cậu Cương. Ngừng một lát, Bính nhìn vào mắt Đốc nói tiếp:
- Làm cán bộ gặp phải cái anh cấp dưới ương bướng lắm lúc cũng bực lắm phải không? –Ông Bính gật đầu, nháy nháy mắt với Đốc – Như cậu chẳng hạn, có cái gì không nhất trí với công ty là bật lò xo lên ngay, không nể một ai. Nhưng mình vẫn quý, vì thấy cái ương bướng ấy là bướng có trách nhiệm, có năng lực. Ớn nhất là là mấy ông “nhất ừ tư gật”, gọi dạ bảo vâng, nhưng đụng đến công việc thì ì ra, chỉ lo thu vén cá nhân. Này, hình như cậu Cương nó yêu em gái của đội trưởng phải không?
- Vâng ạ, nhưng chúng nó đang có cái gì khúc mắc với nhau.
- Gia đình nhà cậu không nhất trí, đến ông anh là đồng chí đồng đội với nhau còn có ác cảm, nói gì đến người khác. Không biết cô em gái của đội trưởng thế nào, chứ tay Cương là được đấy, ông phải làm hậu thuẫn cho gia đình mới được.
- Đường chưa thông mà đi làm ông tơ bà nguyệt thì tôi chịu. Đốc giãy nẩy lên.
- Ấy, ấy,…! Tư tưởng, mệnh lệnh đơn thuần rồi. Không có tình yêu của con người – Giám đốc Bính có vẻ triết lí hóm hỉnh – thì cuộc đời chúng ta trở nên vô nghĩa, không có mục đích, lý tưởng… mình già rồi mà vẫn thấy yêu đấy, yêu vợ yêu con, yêu đồng chí, yêu quê hương đất nước, lý thuyết quá phải không? Không đâu, người ta có yêu mới hăng được. Thôi chuyện này để lại sau. Bây giờ ta sang vấn đề thứ hai nhé – Giám đốc Bính lấy lại giọng nghiêm trang hỏi: Gần đây các cậu đã sử dụng lượng nổ lớn hơn cho phép phải không?
- Tôi đã tính toán bán kính an toàn của các lượng nổ theo “ ba rem” rồi.
- Thế lượng nổ chiều nay định đánh có bán kính là bao nhiêu? – chưa kịp để Đốc trả lời, Bính đã nói tiếp với giọng chân tình – Tìm mọi cách quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ là tốt. Nhưng đừng nghĩ đến lợi ích cục bộ của đơn vị mình mà ảnh hưởng tới đơn vị bạn. Tôi chưa nói đến công trường thủy điện Sông Đà, có thể họ đề nghị truy tố tôi và anh trước Tòa án về tội phá hoại công trình trọng điểm quốc gia, không phải cậu không biết điều đó, nhưng cứ làm. Đây là một vấn đề nghiêm trọng mà thời gian qua, công ty vì phân tán trên nhiều nhiệm vụ nên chưa bám sát chỉ đạo đội 4, tôi cũng có khuyết điểm.
- Nhưng địa chất ở đây, đá cứng lắm, nếu không sử dụng lượng nổ lớn thì không hoàn thành đúng thời gian được. Đốc lý lẽ trả lời.
- Chẳng lẽ không còn cách nào khác hay sao? Bính nhún vai, rồi im lặng một lát, ông lại tiếp:
- Tôi chi viện hỏa lực mạnh nhất của công ty cho anh cả bốn chiếc C100, mới qua thời kì rà trơn mà anh không biết sử dụng. Tại sao cho đến bây giờ anh máy húc vẫn chưa lên được đến đỉnh Đèo Thung? – Ông Bính hỏi một cách gay gắt, làm Đốc cũng thấy chờn, anh hơi run:
- Dạ báo cáo, chưa tạo được con đường công vụ ạ!
- Thế địa hình phía Đông đỉnh Đuôi Lươn thế nào? Nếu không đi thẳng được thì phải đi vòng chứ?
- Chắc cậu Đồng đã báo cáo với giám đốc? Chính cậu ấy đã bị ngã ở đấy.
- Không! Cậu Đồng không nói gì, mà chính anh em chiến sỹ người ta đề xuất đấy.
- Cậu Cương?
- Đúng!
“Lại một kiểu tâng công!” Đốc bực tức với ý nghĩ mỉa mai.
- Chính cậu ấy đề xuất với cậu – Bính nói giọng khúc chiết, nhưng ý kiến đó không được cậu chấp nhận.
- Đấy là một địa hình nguy hiểm độ dốc cao. Một bên là vực thẳm, người leo còn ngã huống chi là máy?
- Nhưng nếu cải tạo được với thời gian ngắn nhất con đường công vụ ấy và tung máy húc lên đỉnh đèo Thung thì sao?
- Tôi hoàn toàn nhất trí, Đốc miễn cưỡng đồng ý.
- Vậy thì tôi và đồng chí cùng đồng chí trợ lý máy đến tận nơi xem xét cụ thể ngay bây giờ đi. Chắc cậu cũng chưa đến đấy nghiên cứu có phải không? Đốc ậm ừ, không trả lời vào câu hỏi của ông Bính, anh vượt lên trước và đánh trống lảng:
- Nào xin mời thủ trưởng đi lối này ạ!
Ông Bính ì ạch bước theo đội trưởng Đốc. Đi được một đoạn., Đốc đi gần lại ông Bính hỏi một cách chiếu lệ:
- Giám đốc bao giờ về công ty ạ?
- Tôi sẽ ở lại Đội 4 cho đến khi nào đưa được máy húc lên đỉnh đèo. Đồng chí tổ chức đơn vị thực hiện ngay đi, càng nhanh càng tốt.
- Rõ!
Họ đi về phía Đông đỉnh Đuôi Lươn, qua cửa rừng nguyên thủy, đén cái nơi kỹ sư Đồng bị ngã và được cụ già bản Nai cấp cứu.
*
* *
Sáng hôm sau.
Toàn thể đội 4 được tập hợp ở sân bóng đá trong doanh trại từ sáng sớm, nghe đội trưởng đả thông nhiệm vụ và mệnh lệnh về kế hoạch mở đường công vụ khẩn cấp. Vốn là người không hay dài dòng văn tự trước hàng ngũ. Đội trưởng Đốc chỉ vắn tắt nói lại ý định của đội, đã được giám đốc công ty trực tiếp xem xét địa hình và duyệt phương án tại chỗ từ chiều hôm qua và thay mặt đơn vị, đội trưởng đã hứa với giám đốc công ty quyết tâm thực hiện trong 3 ngày sẽ hoàn thành nhiệm vụ mở đường công vụ, để đưa máy húc lên đỉnh đèo, mở cửa mở cho chiến dịch tấn công Đèo Thung. Cuối cùng anh hạ lệnh:
- Kế hoạch mở đường công vụ như sau:
Tổ 1 phát tuyến, tổ 2 đào hố chôn mìn, tổ 3 triển khai máy khoan đá. Theo nhiệm vụ đã phân công các tổ triển khai thực hiện!
- Rõ …! tất cả các tổ trưởng đều đồng thanh hô, rồi lần lượt báo cáo đội trưởng và dẫn tổ mình đi ra hiện trường, trong khí thế ra quân sôi nổi và hào hứng.
Trong khi đả thông nhiệm vụ, tuyệt nhiên đội trưởng không nhắc gì đến toán trinh sát địa hình của Đồng và Cương. Cũng không nói gì đến phương án của Đồng, anh mặc nhiên coi như phương án này là của Ban lãnh đạo đội, của anh đã có ý định từ trước và đã được giám đốc công ty phê chuẩn. Rồi suốt cả buổi tối hôm qua, lãnh đạo họp, cấp ủy họp để bàn quyết tâm thực hiện ý định của giám đốc công ty.
Kế hoạch mở đường công vụ khi đội phó kỹ sư Đồng còn ở nhà, đề ra thì có một nửa còng nhân đồng tình, nhất là các công nhân thợ máy, còn một nửa vẫn cho phương án của đội trưởng là ưu việt hơn. Nhưng đến khi giám đốc Bính quyết định duyệt phương án của Đồng, thì mọi người đều cho đó là phương án tối ưu nhất, và họ phấn khởi thực hiện theo phương án đó. Ngay từ đêm qua, công nhân các tổ đã chuẩn bị dụng cụ đồ nghề thật đầy đủ, thật chu đáo, thật sắc bén để hôm nay ra quân là đánh thắng ngay từ trận đầu ngày đầu.
Toàn đội dốc sức ra hiện trường, tiếng chòong, tiếng búa, tiếng máy khoan vang động một khu rừng tĩnh mịch hàng ngàn năm nay. Nhiều công nhân phải buộc người đánh đu vào dây rừng để trèo lên những vách đá để chặt cây, để cưa gỗ, để khoan lỗ mìn. Họ vừa làm vừa hò reo ầm ĩ, rồi tiếng mìn phá đá, tiếng cây đổ, tiếng đá rơi cứ ầm ầm như một trận đánh công đồn liên tục cả ngày không ngớt.
Đến gần trưa thì có thêm hai đội dân quân của hai bản: bản Nai và bản Ong cùng ra tham gia làm đội 4, số là, giám đốc công ty, sau khi duyệt phương án mở đường xong, ông giao lại cho đội trưởng Đốc thực hiện còn ông cùng trợ lí công ty đến thăm chính quyền địa phương và bàn với đảng ủy, ủy ban xã cho lực lượng ra phối hợp với đội 4 để mở đường.
Một cô gái Mường, áo trắng váy thâm, mặt mũi sáng sủa, vai vác cuốc, dẫn đầu đoàn người đến công trường.
- Mình chào các cán bộ công nhân!
- Đốc vội chạy lại:
- Chào ủn! ủn đi đâu đấy!
- À, thanh niên ở cái bản Ong mình đến cùng công nhân làm cái đường mà. Cái cán bộ phân công các mình làm đi.
- Hoan nghênh các bạn, mời các bạn đến đây – nói xong, anh dẫn các cán bộ thanh niên đi phân công nhiệm vụ cho họ tại hiện trường, bổ xung vào cùng làm với các tổ công nhân cho vui vẻ và tăng thêm khí thế. Chẳng mấy chốc, những bóng áo trắng, áo chàm xen lẫn vào bóng áo xanh công nhân, không khí lao động sôi nổi hẳn lên, năng xuất của các tổ thi đua với nhau, ngày càng tăng cao tăng lên vùn vụt.
Đội trưởng Đốc lúc này mới thấy phấn khởi thực sự, anh cười nói vui vẻ, đôn đốc chỗ này, nhắc nhở chỗ kia, vai trò chỉ huy của anh luôn quán xuyến và bao quát toàn hiện trường.
- Vừa làm vừa hát cho vui đi các bạn ơi!
Đồng chí bí thư chi đoàn thanh niên của đội đã nhanh chóng bắc được chiếc loa to ở mé trên đỉnh núi. Và tiếng hát, tiếng cười, tiếng chòong búa, cuốc xẻng hòa lẫn tiếng máy nổ, tiếng mìn được loa của bí thư chi đoàn tăng âm lên gấp hàng trăm lần, chỉ có đội 4 đang lao động mở đường mà tưởng chừng như có hàng trăm đội 4, như hàng sư đoàn, hàng binh đoàn đang chiến đấu ở khu rừng Đèo Thung này.
Tiếng động, tiếng loa được truyền đến công trường lòng hồ gần đấy, nơi giám đốc Bính cũng đang bàn với giám đốc công trường về phối hợp giữa 2 công ty và tự vệ công trường để bảo vệ trật tự trị an, an toàn khu vực và phối hợp để mở đường và thu dọn lòng hồ hoàn thành, đạt và vượt mức thời gian quy định của nhà nước.
Huyền rất vui mừng vì đã ngăn chặn được một vụ liều lĩnh của anh trai, vì phương án của Đồng đã được thực hiện. Nhưng cô vẫn còn lo cho sức khỏe của kỹ sư Đồng. Đến trưa ngày thứ ba thì con đường công vụ đã cơ bản hoàn thành. Trên cái loa vẫn oang oang tiếng đàn, tiếng hát, rồi tiếng đội trưởng vang lên :
Với sự phối hợp giúp đỡ của nhân dân bản Ong và bản Nai, chúng ta đã hoàn thành con đường công vụ sớm hơn thời gian quy định một nửa ngày.
- Tiếng hoan hô trong và ngoài loa đều vang lên ầm ĩ. Toàn đội về tập hợp tại chân đèo, tổ máy húc chuẩn bị sẵn sàng cho một xe lên mở đường trước. Các công nhân thu dọn dụng cụ trang bị,chuẩn bị quần áo, giày mũ chỉnh tề đi về phía chân núi, nơi những chiếc máy húc đang bò dần đến đó.
Một cô gái Mường đang dìu một cụ già đi đến gần chiếc máy húc đang đỗ: - Chào cái công nhân! ồ chào các bạn! cô hướng về công nhân, rồi lại hướng về toán thanh niên nam nữ ở gần đó.
- Chào ủn! ủn ti no hẩy? ( cô đi đâu đấy)
Một lái xe xán đến cô gái xinh đẹp ấy.
- Mình đưa ông mình đến xem cái con máy húc à! Cô quay lại cụ già đang ngồi nghỉ ở một tảng đá bên vệ đường gần đó gọi – Ông ơi lại đây! Cụ già chống gậy đứng lên đi về phía cháu gái.
- Kính chào già bản! Chào già bản! Mọi người đều chào cụ
- Chào cái công nhân! Nghe nói công nhân làm đường có cái máy húc to như con voi ấy, già bảo cháu nó dẫn đến xem mà! Rồi cụ lại gần chiếc máy húc, sờ mó vào nó, nói nói, cười cười rất vui với các thanh niên trong bản, và cứ gật gật đầu chào mấy chú lái xe.
Lúc đó chiếc xe con của giám đốc Bính cũng vừa mới tới nơi, trong xe có cả đội phó Đồng cùng về. Mọi người đều hướng về giám đốc công ty.
Đội trưởng Đốc hô toàn thể công nhân: Tấ cả chú ý, rồi chạy lại báo cáo giám đốc theo kiểu như điều lệnh quân đội.
Ông Bính giơ tay đáp lễ rồi chạy lại phía cụ già người Mường:
- Chào già bản! – chào các cán bộ! Ông giơ tay lên cao vẫy vẫy – Cái bụng người Mường biết ơn Đảng, ơn Cụ Hồ, ơn cái công nhân quá à – già bản nói với ông Bính và mọi người xung quanh – Ngày trước mình muốn sang bản Nai, phải đi qua cái Đèo Thung này, phải bò, phải leo, phải lê, phải toài, phải cắm cái mặt xuống đất mà đi à, trượt chân là ngã chết thôi à. Nay cái đèo này nó phải khom lưng xuống rồi, người bản mình mới được ngẩng cái mặt mà đi à.
Ông Bính dắt già bản đi xem máy – Mời gìa bản lại đây xem máy húc, nó húc khỏe lắm!
Lúc này Đốc và Đồng đang nói chuyện với nhau – Đốc nói to, hướng về phía tổ máy đang tập hợp trước xe, do Cương đứng đầu:
- Đồng chí Đồng nói đúng – Mở được con đường công vụ là mở được “cửa mở” cho trận đánh. Lấy tinh thần xung phong, đồng chí nào nhận lái chiếc máy C100 đầu tiên lên đỉnh Đèo Thung nào?
Tất cả tổ giơ tay như đồng thanh: Tôi!
- Là người đã phạm khuyết điểm, đây là cơ hội lập công đề nghị đội giao máy cho tôi. Công nhân Vinh vội nói trước. Nhưng Cương lại nói:
- Báo cáo đội trưởng. Tôi xin phép được lái chiếc máy đầu tiên lên đỉnh đèo mà trên con đường anh Đồng đã tìm thấy nó.
- Chính đồng chí mới là người phát hiện con đường này! đội trưởng Đốc nói và nhìn vào mặt Cương.
- Vâng! Nhưng tôi không có niềm tin, chính anh Đồng đã cho tôi niềm tin ấy! Cương chân thành trả lời.
- Ai cũng xung phong. Đốc hướng về phía ông Bính – xin ý kiến giám đốc – Ông Bính hằng giọng một cái, rồi nói to:
- Các đồng chí nhường cho tôi phần vinh dự, chỉ định người lái chiếc máy đầu tiên làm tôi rất cảm động. Như các đồng chí đã biết, đây là con đường kinh tế quan trọng, đồng thời cũng là con đường mang nhiều niềm vui đến với dân bản, con đường lâm nghiệp sẽ khai thác hàng vạn mét khối gõ vận chuyển về, con đường đó sẽ được hoàn thành. Người lái chiếc máy húc đầu tiên chiếm lĩnh trận địa, người mà chúng ta tin tưởng lựa chọn phải là đồng chí Cương.
- Hoan hô! Toàn đội như reo lên. Cương vội chạy lại báo cáo với giám đốc:
- Báo cáo giám đốc, tôi đi! Bính bắt tay Cương – Cương quay sang Đốc: - Anh tin tôi chứ?
- Mình tin cậu, - Đốc cũng nắm tay Cương – chú ý lái theo xi nhan của mình. Nổ máy!
Huyền hớt hải từ đâu chạy tới, tay ôm một bó hoa rừng tươi thắm, có lẽ cô vừa mới hái được, cô rẽ đám đông chạy vào chỗ Bính:
- Chào bác ạ! Chào các anh!
- A, cháu Huyền! chào cháu! Những tiếng “ chào chị Huyền”. “chào cô Huyền” cũng bật lên. Ông Bính tiếp: cháu mang hoa đi tặng người lái máy húc đầu tiên phải không?
- Vâng! Ai được chọn lái chiếc máy húc lên đỉnh đèo đầu tiên hả bác?
- Cháu đoán xem! Ông Bính dí dỏm
- Cháu chịu!
- Cậu Cương đấy!
Mặt Huyền thoáng nở một nụ cười. Bỗng lúc đó có tiếng kêu to của cậu Thiết ở phía trên lưng chừng dốc.
- Máy bị ba ti nê rồi! Phanh lại!
- Sao máy cứ bị tụt thế kia, phanh lại, kẻo rơi xuống vực bây giờ. Mọi người đều nhìn lên và toát mồ hôi, chiếc máy húc cứ trôi lùi tụt xuống dốc, có lúc ra sát bờ vực làm cho tim mọi người đều như ngừng đập. Huyền phải nhắm mắt lại, mặt tái đi như không còn giọt máu nào – ông Bính hô to:
- Tất cả hãy bình tĩnh, để đồng chí ấy xử trí!
Chiếc xe được phanh lại ở giữa lòng đường, đội trưởng Đốc đang giơ tay làm hiệu xi nhan cho Cương. Tiếng xe lịm đi, rồi lại rộn lên khỏe khoắn. Xe chồm lên vượt qua bãi đá trượt, rồi từ từ bò lên, lên dần, lên dần… làn khói xanh tỏa ra như những cánh lụa mỏng, vẫy tay chào mọi người cùng ùa theo lên đỉnh đèo.
- Lên rồi! Hoan hô, lên rồi! Hoan hô anh Cương, hoan hô anh Cương!
Tất cả đều reo hò ầm ĩ, công nhân và nhân dân,cả cụ gìa và trẻ em ở các bản xung quanh cũng kéo nhau đến xem như ngày hội.
Cương tắt máy ở đỉnh đèo, rồi nhảy ra khỏi máy, bị anh em quây lấy, kông kênh anh lên.
- Kìa bỏ ra, các bạn!
Kỹ sư Đồng cũng đã kịp chạy lên đỉnh đèo, bỗng gặp già bản, anh chào: - Chào già bản, già bản có nhận ra cháu không?
- Ồ, cái cán bộ bị ngã núi đấy à, khỏe rồi à? Vui quá nhỉ. Đồng len lên chỗ Cương – Bỗng Huyền gọi to:
- Anh Đồng! Huyền chạy lại phía Đồng tặng hoa cho Đồng – Em chúc mừng anh!
- Kìa Huyền! ấy sao lại tặng anh! Phải tặng cho người lái máy húc lên đỉnh Đèo Thung chứ!
Cương vừa chạy đến chỗ Đồng và Huyền:
- Anh Đồng, anh nhận lấy, anh mới xứng đáng là người được tặng hoa!
Đội trưởng Đốc cũng len vào chỗ Đồng, Cương và Huyền, anh gọi to:
- Kìa Đồng! máy húc đã lên được đỉnh Đèo Thung rồi – Đốc nháy nháy mắt với Đồng và Cương – Nào bây giờ ta lại nói chuyện tình yêu nhé – Rồi anh tuyên bố trịnh trọng: Thay mặt gia đình, tôi nhất trí cho Cương được làm em rể của tôi! Huyền đỏ bừng mặt bẽn lẽn:
- Kìa anh Đốc! cô dịu dàng đứng sát vào Cương. Giám đốc Bính, mãi lúc này mới ì ạch lên đến nơi, vừa nghe cánh trẻ nói chuyện rôm rả. Ông cũng cười ha hả và xen vào một cách văn hoa tế nhị:
- Không phải máy húc lên được đỉnh đèo mới nói chuyện đến tình yêu. Tình yêu với con đường vốn đã có từ lâu. Đối với người công nhân giao thông, con đường và tình yêu chỉ là một… Mỗi một con đường, mỗi một bến sông đều có tình yêu. Không một con đường nào không có chuyện yêu đương hạnh phúc. Không một bến sông nào không có một chuyện bi thảm đau thương. Các bạn có biết vì sao không? Ai đó thốt lên tiếp lời giám đốc.
- Bởi vì tim con đường và tim người công nhân giao thông là một!
- Đúng! Đúng! Hoan hô! Văn nghệ lắm, ý nghĩa lắm! Tiếng cười nói ồn ào lại dậy lên vang động khắp một vùng rừng nguyên thủy.
CHƯƠNG VI
Cho đến suốt đời, Minh Huyền sẽ không bao giờ quên cái mùa hè năm 1980 ấy, đó là một mùa hè tình yêu, một mùa hè hạnh phúc, nó còn in sâu vào tâm khảm cô, cho đến hơi thở cuối cùng.
Đó là những ngày tháng thi công sôi nổi, trên công trường mở đường Đèo Thung của Cương và trên công trường dọn lòng hồ thủy điện của Huyền. Từ khi giám đốc Bính và giám đốc Phong gặp gỡ nhau, việc trao đổi tiếp xúc giữa cán bộ với chỉ huy, công nhân hai công ty với nhau ngày càng mật thiết, thông cảm và gần gũi nhau như người nhà. Họ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, khi bên này gặp khó khăn và bên kia có điều kiện. Họ ủng hộ nhau, chi viện cho nhau và thi đua với nhau trong khí thế chung của tập thể công trường thủy điện Hòa Bình.
Những buổi chiều sau giờ làm việc và những ngày nghỉ, ở lán trại công nhân đội 4 thấy xuất hiện nhiều bóng áo xanh công nhân thu dọn lòng hồ và ngược lại ở lán trại công nhân lòng hồ không mấy khi vắng mặt công nhân làm đường Đèo Thung. Những trái tim trai trẻ gặp gỡ nhau kéo theo những lời ca tiếng hát và nhịp sống ồn ào của lứa tuổi thanh niên.
Cả Cương và Huyền đều làm việc hết mình cho công việc chung và cùng sống hết mình cho tình yêu. Mối tình của họ được mọi người ở hai công trường đều biết đến, đều xây dựng và vun đắp cho họ. Anh em bạn bè của Cương và bạn gái của Huyền cũng đều yêu thương và trân trọng cho mối tình của họ. Thật là một đôi uyên ương, xứng đôi vừa lứa. Đến nỗi không ít đôi sau này đã lấy họ làm tiêu chuẩn mẫu mực để noi theo và cũng không ít người đố kị ghen ghét dèm pha họ, nhất là những cô gái quá lứa lỡ thì, lên công trường để tìm nguồn an ủi và để tránh xa quá khứ lụi tàn.
Nếu bên công trường của đèo Thung, Cương luôn luôn được biểu dương là người thợ máy đạt năng suất cao, an toàn, tiết kiệm và lãnh đạo “phi đội C100” của mình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thì ở bên công trường long hồ, Huyền cũng luôn luôn được biểu dương là một cán bộ kỹ thuật giỏi, đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao và được lãnh đạo tín nhiệm, quần chúng tin yêu. Tình yêu của họ đã chắp cánh cho nhau bay lên, để đạt những đỉnh cao năng suất và kế hoạch. Tình yêu của họ cũng tắm mát cho nhau để có tinh thần dẻo dai, có sức khỏe bền bỉ để chịu đựng những khó khăn gian khổ trên công trường trong những ngày bão táp, mưa rừng suối lũ. Tình yêu của họ đã sưởi ấm cho nhau, để cuộc sống của họ được tươi vui phấn khởi thắm đượm tình người. tình yêu của họ như luồng gió âm thanh thổi vào làm cho tiếng đàn của Cương càng thêm âm vang và giọng hát của Huyền ngày càng thêm ngọt ngào sâu lắng. Tình yêu của họ như dòng suối mơn man bao trùm xung quanh, làm họ đắm say mơ màng, thân thể họ luôn luôn gần gũi đan quyện vào nhau và tâm hồn họ luôn luôn bay bổng trên không trung vô tận.
Ấy là một buổi chiều, như bao buổi chiều khác trên công trường, họ dắt tay nhau dạo chơi, họ cứ đi, đi mãi, đi sâu vào rừng thẳm, mỗi ngày họ lại khám phá thêm nhiều cái mới lạ của thiên nhiên, của núi rừng và cả của cả chính họ. Họ đuổi nhau, bay nhảy, chơi trò ú tim như trẻ con. Hàng trăm gốc cây, tảng đá đã ghi tên họ bằng mũi dao, bằng đá phấn. Con đường mòn len lỏi trong rừng già dẫn họ đến suối Hoa, một con suối êm đềm trong rừng nguyên thủy, màu sắc lạ kỳ đẹp như suối mơ, với nhiều hoa thơm, cỏ lạ, như con suối trong truyện cổ tích, nước trong xanh nhìn suốt đáy, những màu đá ngũ sắc lấp lánh như gương. Họ ngồi với nhau trên một bãi cỏ rêu, bằng phẳng và mịn màng như tấm thảm len màu xanh huyền ảo, tiếng suối rì rào, như kể cho họ nghe những điều bí mật trong rừng, và như thúc giục họ tìm về cội nguồn hạnh phúc. Họ nhìn nhau dắm đuối, người con gái tự nhiên thấy mê mẩn trước cái nhìn của người con trai, ngực cô phập phồng, quá sức đến nỗi khi bàn tay của người con trai vừa đụng đến thì nịt áo ngực đã tự động bật nút cài ra đúng lúc hiến dâng cho đôi bàn tay thô nháp của thợ lái máy húc, mà sao lúc này mềm mại diệu kỳ. Trái tim người con trai muốn tận hưởng và tâm hồn người con gái cũng muốn hiến dâng. Ngày cưới của họ cũng chẳng còn bao xa. Họ đã hứa với nhau khi hoàn thành công trường Đèo Thung, cả hai đơn vị sẽ tổ chức cho họ. Cương không thể đợi được nữa kể từ ngày họ nối lại tình yêu với nhau, đã được gần một tháng, lần đầu tiên, họ khám phá ra con suối đẹp kỳ lạ và huyền ảo này có phải chăng là cảnh sắc thần tiên đã đưa tâm hồn họ bay bổng tới vườn đào và thúc giục con người muốn được khám phá cái tận cùng của tình yêu. Khi sự thôi thúc của người con trai như một trận cuồng phong, thì sự chống đỡ của người con gái đang yêu chỉ còn là những tiếng vô nghĩa rời rạc…
* *
*
Những năm sau này, mỗi lần nhớ lại, Lê Thành Đốc vẫn còn ân hận, bởi cái quyết định của anh và mỗi khi nhìn thấy Huyền, em gái anh, anh lại thấy day dứt trong lòng, “giá như mình kiên quyết không đồng ý cho cậu ấy đi thì đâu đến nỗi ấy!” và “giá như … giá như!”. Nỗi thương tâm trong anh thỉnh thoảng lại dấy lên, làm anh thêm nhức nhối và ân hận, cứ như chính anh là kẻ thủ phạm đã gây cái tai họa ấy cho Huyền.
Đó là những ngày tháng cuối cùng trên công trường mở đường Đèo Thung, một giai đoạn sôi nổi nhất mà lần đầu tiên trong đời chỉ huy của anh mới có.
Sau khi đưa được chiếc máy húc đầu tiên lên đỉnh Đèo Thung, anh tiếp tục tung hết cả ba máy rồi năm máy lên đèo, kết hợp giữa phá nổ và máy móc, đã đưa năng suất mở đường lên ngày càng cao gấp hai ba lần, rồi gấp chục lần so với phá nổ đơn thuần như phương án của anh trước đây. Toàn đội đều phấn khởi lao động, khí thế thi đua của các , tổ,nhóm như nước lũ trào dâng. Phương án kỹ thuật của Đồng kết hợp với phương án của Đốc thật hòa hợp nhịp nhàng, đẩy mạnh tiến độ thi công ngày càng cao. Những con số kỷ lục, năng suất cứ reo vui nhảy nhót suốt ngày đêm trên chiếc loa của bí thư chi đoàn thanh niên của đội, oang oang cả khu rừng. Ban đêm điện sáng rực một vùng, đơn vị tổ chức làm ba ca suốt ngày đêm không nghỉ. Trong cái khí thế chung của đội, bao giờ cũng nổi bật lên là tổ máy húc có biệt hiệu “phi đội C100” do Cương làm tổ trưởng, mà trong đó Cương bao giờ cũng là máy đầu đàn.
Chỉ sau hơn hai tháng thi công mà cái đỉnh Đèo Thung sừng sững cao vút là thế, nay đã bị bạt thấp xuống gần đến khe sâu, và hàng chục kilômét đường tiếp theo cũng đã hình thành, công việc của đội 4 ở Đèo Thung, công trường trọng điểm của công ty trên toàn tuyến, đã hoàn thành được hơn 80%. Chuyến xe đầu tiên vượt qua Đèo Thung để đưa vật liệu thi công vào tuyến trong đã được tổ chức như một ngày hội, một tràng pháo dài nổ giòn tan, khi chiếc xe đã vượt qua đèo, một chiếc xe chở đầy máy móc, thuốc nổ và cuốc xẻng chòong búa được phủ đầy hoa như một chiếc xe đám cưới, hoa rừng, hoa giấy, hoa vải và cả hoa tươi từ Hà Nội đưa lên nữa. Trên chiếc xe hoa ấy người ta thấy nổi lên anh chàng lái máy húc Cương và cô cán bộ kỹ thuật Huyền, em gái đội trưởng, đứng sát bên nhau, cùng một số người lao động xuất sắc đang vẫy chào mọi người đứng ở hai bên, cả công nhân, và nhân dân các dân tộc trong các bản làng xung quanh.
- Xe hoa! – xe đám cưới! – hoan hô!
Những tiếng hò reo vang lên dậy trời. sau đó hàng trăm tiếng mìn phá đá nổ ầm ầm.
Chỉ còn khoảng hai tuần nữa là đoạn đường Đèo Thung sẽ hoàn chỉnh, Công ty đã lệnh cho Đốc chuyển bớt máy vào các đoạn đường phía trong của rừng nguyên thủy bản Ong. Một buổi sáng, chiếc xe con của giám đốc công trường lòng hồ đến doanh trại đôi 4, bác Phong cùng Huyền bước xuống xe, Đốc đang chuẩn bị đi làm, vội chạy ra đón:
- Chào bác Phong, có việc gì mà giám đốc sang sớm thế?
- Chào các anh! – Phong vừa bắt tay Đốc vừa nói luôn – có việc khẩn cấp cần cầu cứu đây! Nhờ các anh chi viện giúp đỡ!
- Vâng, mời bác vào nhà uống nước đã!
Sau khi uống “chè vằng” và hút thuốc “con gà” với thợ xong, bác Phong bảo cô Huyền giở tấm bản đồ ra giường, trình bày với Đốc và chỉ huy của đội 4 yêu cầu của mình. Họ xúm quanh lại chiếc bản đồ của công trường dọn lòng hồ.
Số là, trận mưa bão cách đây mấy hôm, làm sập tả luy một số đoạn đường của công trường, làm ảnh hưởng việc vận chuyển gỗ của công trường ra bến sông chợ Bờ, mà nhu cầu gỗ cho công trường thủy điện đang đòi hỏi khẩn cấp, hơn nữa nếu không vận chuyển kịp thì e rằng trận mưa lũ tới có thể làm ngập và bị cuốn trôi hàng vạn mét khối gỗ. Trong khi đó mấy chiếc máy của công trường bị hỏng hóc luôn làm không xuể. Công trường yêu cầu đội 4 chi viện cho vài ca máy để san gạt đoạn đường bị lấp chủ yếu nhất để kịp giải phóng gỗ vào ngày mai theo điện khẩn của Bộ.
Quan hệ giữa công trường lòng hồ với công trường Đèo Thung vốn đã thân thiết như người nhà, việc chi viện giúp đỡ nhau là chuyện thường tình. Công trường bác Phong đã giúp đội như: cho một số gỗ làm lán trại, doanh cụ khi đơn vị mới đến, cung cấp gỗ làm cầu trên tuyến đường, làm giàn giáo phá đá, cho lực lượng phối hợp phát tuyến, đào đất, cử thợ sang sửa chữa máy bị hỏng hóc, cho vay lương thực, thực phẩm khi công ty chưa đưa đến kịp v.v…
Do đó việc chi viện giúp đỡ lại là việc cần thiết. Ban lãnh đạo đội hội ý và nhất trí cử một máy húc sang giúp công trường lòng hồ ngay, làm xong đoạn sạt lở ra bến chợ Bờ trong 2-3 ca, “Phi đội C100” rất hăng hái trong việc đi chi viện này, ai cũng xung phong đi nhưng cuối cùng Cương vẫn thắng thế, bởi lẽ Cương là “chàng rể tương lai” của công trường, nên cần phải tỏ ra “hảo hớn”, thành thử anh em đều nhường cho Cương. Với ý nghĩa đem chuông đi đấm nước người, đã làm thì ra làm, đã giúp thì ra giúp, hơn nữa chiếu cố tới cô em gái, nên đội trưởng Đốc cũng đồng ý để Cương đánh máy đi chi viện bên công trường lòng hồ.
Sau khi bác Phong về rồi, chiếc máy C100 do Cương lái và do Huyền dẫn đường và chỉ huy thì cũng ầm ầm đi theo ngay. Ngồi trên chiếc máy C100, vừa chậm chạp, ì ạch bò như rùa, vừa bị tiếng nổ inh tai nhức óc, lại bị dầu mỡ bôi bẩn cả quần áo diện của Huyền, nhưng Huyền vẫn cứ thích. Cô cảm thấy tự hào khi được ngồi trên chiếc máy của anh, ngồi bên cạnh anh và được làm việc cùng anh. Họ cùng ăn chung một chiếc bánh mỳ do Huyền chuẩn bị và cùng uống chung một bi đông nước do Cương mang theo.
- Để em lái đỡ một đoạn nhé!
- Xong rồi!
Huyền lại trở lại là một cô học trò nhỏ năm nào, đến công ty Cát An Dương thực tập, dưới sự hướng dẫn của “thầy” Cương. Lúc đầu,vì đã bỏ lâu không cầm lái, Huyền bỡ ngỡ trong công việc tăng giảm số, côn phanh, một tí nữa thì đâm xuống suối, làm Cương phải nghiêm khắc quát tướng lên như một thầy giáo thực thụ. Nhưng Huyền cũng đã phanh được máy, lấy lại được bình tĩnh, chỉ một lát sau, chiếc máy ngoan ngoãn theo sự điều khiển của cô, chả gì cô cũng được điểm 4, điểm khá khi kiểm tra môn lái máy ở trường kia mà. Bây giờ chiếc C100 do Huyền lái cũng như reo vui cùng trái tim cô, chạy ầm ầm trên con đường quốc lộ số 6 về chợ Bờ, làm khách đi đường ai cũng ngạc nhiên thán phục. Một cô gái nhỏ nhắn ăn mặc diện mốt và sạch sẽ mà lái nổi chiếc máy kềnh kàng, cười như nắc nẻ với một chàng trai , không kém phần khôi ngô tuấn tú. Họ thật là đẹp đôi.
Khi chiếc xe về qua công trường lòng hồ, làm cả bác Phong và cán bộ công nhân ở đây ngạc nhiên. Không ngờ cô Huyền mà cũng lái được máy thành thạo như vậy, chị em bạn của Huyền rất thích thú, còn mấy chàng thanh niên đa tình thì lác cả mắt, sái cả cổ.
Suốt cả ngày lao động, húc dọn đất đá trên mặt đường, Huyền vừa là người chỉ huy, vừa là người phụ lái, cũng là người phục vụ cho Cương – Khi Cương mệt ,cô lại lên lái thay, tuy cô làm chậm chạp không bằng Cương, nhưng cô không muốn dừng máy mà Cương vẫn được nghỉ ngơi, công việc lại đang đòi hỏi khẩn trương, hơn nữa cô cũng muốn được nâng cao tay nghề cho mình nữa. Cô lo cho Cương từng bữa ăn, từng chai nước giải khát thật chu đáo, ngoài tiêu chuẩn của công trường cho, cô còn bỏ thêm tiền dành dụm của cô để bồi dưỡng lao động cho Cương. Họ cùng ăn, cùng nghỉ với nhau. Buổi chiều sau giờ lao động họ dắt tay nhau ra bờ suối Hoa, nơi bãi tắm kỉ niệm riêng của họ, một nơi hẻo lánh trong rừng sâu nguyên thủy. Chỉ có hai người với nhau, họ nô đùa vật lộn nhau trên tấm thảm cỏ rừng quen thuộc, bơi lội dưới suối trong vắt, nhìn rõ cả tấm thân nõn nà của Huyền. Cương thích ôm lấy Huyền, cả hai ngâm mình trong dòng nước chảy. Nước suối mơn man bao quanh họ. Những tiếng cười, tiếng thét vì thỏa mãn, sung sướng lại vang lên làm cho những đàn vượn, đàn khỉ cũng xúm lại để ngắm nhìn họ, bắt chước họ. Đêm về họ lại bàn nhau chuẩn bị cho ngày cưới, chỉ còn ít ngày nữa, công trường Đèo Thung sẽ hoàn thành, ngày khánh thành công trường, cũng sẽ là ngày cưới của họ. Họ muốn được đông đủ bạn bè quan khách, cấp trên cấp dưới đến tham dự ngày vui này.
- Anh hái tặng em tòan hoa rừng nguyên thủy, em có thích không?
- Thích! Nhưng phải có cả hoa Hà Nội nữa cơ!
- Đám cưới của chúng ta chỉ cần hoa rừng thôi, thế mới vui, thế mới độc đáo, một nhà hoa rừng, một xe ô tô hoa rừng, em thử tưởng tượng xem, một đám cưới có một không hai, ngay tại công trường này. Anh không muốn có một chút hoa thành thị nào chen vào đây.
- Ừ, thế thì hay đấy nhỉ, một đám cưới độc đáo làm các bạn em sẽ trố mắt mà nhìn! Rồi em sẽ nghiên cứu sắp xếp và bó những bó hoa rừng thật đẹp chẳng kém gì hoa Hà Nội cho anh xem.
Thế thì tuyệt vời! chỉ có những bông hoa rừng nguyên thủy mới xứng đáng với tâm hồn trong trắng mà em đã dành cho anh!
Ôi những ngày hạnh phúc đó, mãi mãi in sâu vào kí ức của Huyền không bao giờ quên, cho dù sóng gió bão bùng, mưa nguồn suối lũ.
* *
*
Nhưng sự đời thật đắng cay, Minh Huyền chưa được hưởng những ngày hạnh phúc bao nhiêu thì lại bị vùi dập, làm cô đau khổ và ân hận suốt đời. Cô mới biết một chút hạnh phúc của tình yêu, chứ chưa biết gì về hạnh phúc gia đình, của tình vợ chồng. Cô mới chỉ được nếm mùi tình yêu vụng trộm, mà chưa được hưởng tuần trăng mật của lứa đôi đàng hoàng sau ngày cưới. Cái hạnh phúc mà cô đã xây dựng, vun đắp, giữ gìn và đang bước tới tột đỉnh tình yêu thì bỗng dưng bị bước hẫng, rơi xuống vực sâu thăm thẳm, mãi mãi không bao giờ còn thấy nữa. Hình ảnh của Cương, người yêu quý nhất của cô, người chồng sắp cưới của cô chỉ còn lại trong những giấc mơ của cô, còn thân thể của anh đã tan biến vào trong cõi hư vô mà cô không bao giờ có thể nắm bắt được hoặc trông thấy nữa. Sự mất mát to lớn đó, ngày càng dày vò cô, làm cô ân hận, làm cô đau đớn, nỗi ân hận đau đớn ngày càng tăng dần theo năm tháng. Bởi lẽ cô cho rằng vì cô, chỉ tại cô, nên Cương mới bị hy sinh…
Đó là một buổi sáng. Sau ba ca chi viện dọn đất đá sụt lở mở đường ở cây số 1 cho công trường dọn lòng hồ đưa gỗ ra bến chợ Bờ xong, Huyền, một phần muốn được gần gũi người yêu thêm, một phần vì muốn cho công việc của công trường được hoàn thành tốt đẹp, nên cô đã đề nghị Cương ở lại để dọn nốt một đoạn đường sụt lở cây số 2, đoạn đường xuyên vào rừng chỉ hết một ca máy là xong. Đáng lẽ Cương đã cho máy về đội từ sáng, nhưng anh đã chiều theo ý Huyền, đồng ý ở lại làm thêm một ca nữa, đến chiều mới về đèo Thung. Anh cũng đã nhờ người về báo cáo với chỉ huy,và tin chắc rằng anh Đốc cũng đồng ý. Hôm đó, công trường đang dồn dập hàng đoàn xe đi lại như con thoi để vận chuyển gỗ ra bến, sau khi Cương đã húc xong đoạn sụt lở ở cây số 1. Bác Phong giám đốc trực tiếp chỉ huy bốc dỡ vận chuyển gỗ. Bác rất phấn khởi đến bắt tay và mời thuốc Cương.
- Cảm ơn chú em nhé. Tao sẽ làm cho chú mày một căn buồng hạnh phúc đẹp nhất công trường này!
Cương nhận một điếu thuốc và đáp lại cử chỉ thân mật của ông Phong, anh chỉ mỉm cười hết nhìn Huyền lại nhìn ông Phong, vâng vâng, dạ dạ không biết nói gì. Sau đó Huyền cũng đi theo ông Phong ra bến bốc xếp gỗ. Chỉ còn lại một mình Cương, anh nhảy lên máy và tiếp tục làm việc, tiếng máy nổ giòn tan như reo vui phấn khởi cùng Cương, lưỡi ben húc vào lòng đất băng băng không mệt mỏi.
Huyền cũng chỉ định ra bến bốc xếp gỗ một lúc xem có khó khăn gì thì cùng bác Phong giải quyết, rồi sau đó cô lại quay về với Cương vì cô không muốn rời xa Cương một lúc nào cả, nhất là anh đang làm cho công trường, đang làm theo đề nghị thêm của cô, cô còn muốn gần anh để giúp dỡ, săn sóc anh và lái thay cho anh đỡ mệt.
Giữa lúc Huyền đang chỉ huy một chiếc cần cẩu, cẩu gỗ xuống xà lan thì bỗng có tiếng nổ rất to như một tiếng mìn, không, một tiếng bom, to hơn cả tiếng mìn nổ hàng ngày, vang lên ở đoạn sụt lở ở cây số 2 làm cô giật mình, mọi người cũng đều giật mình. Một linh tính nhạy cảm làm cô tái mặt đi, hoảng hốt, cô vội bỏ cả việc ở bến, chạy như bay về phía đoạn Cương đang mở đường vào rừng. Cô chạy, chạy mãi, không biết là mình đang đi chân đất, đôi dép rơi mất từ bao giờ, hai bàn chân cô vấp vào đá bị rớm máu, cô cũng mặc. Trong đầu óc cô lúc này chỉ còn nghĩ đến Cương. Khi chạy đên chỗ gần Cương làm việc, cô dừng lại nghe ngóng, không thấy tiếng máy C100 nổ hay là tai cô bị ù, cô lại chạy, cô lại dừng lại nghe, vẫn không thấy tiếng máy nổ, cô cắm đầu chạy, chỉ còn khoảng hai cây số mà sao chạy mãi không đến, nước mắt cô đã trào ra chảy xuống môi mằn mặn. cả mồ hôi lẫn nước mắt đang chảy giỏ từng giọt xuống mặt đường theo vết chân cô. Đến đoạn đường dốc thì cô phải cúi đầu xuống như người bò lên, hai chân cứ ríu vào nhau muốn khựng xuống, cô đã chạy như một cuộc chạy thi. Cô cứ cắm đầu chạy, không biết rằng sau cô, bác Phong giám đốc và anh em công nhân cũng đang chạy theo cô, và có cả xe ô tô cũng đang đuổi theo phía sau nữa.
Khi vừa đến đoạn sụt lở cây số 2, Huyền mờ cả mắt, cô vội gạt nước mắt và mồ hôi, không tin vào mắt mình nữa: Chiếc máy húc C100 bị nằm bẹp dúm chổng ngược ở một bên vệ đường, cạnh đó là hố bom sâu hoắm. Nhìn quanh không thấy Cương đâu, Huyền bỗng thét lên:
- Anh Cương!
Rồi cô ngất đi, gục xuống hố bom bất tỉnh. Vừa lúc đó ông Phong và mọi người cũng vừa chạy tới. Ông bàng hoàng trước cảnh tai nạn này. Nhưng ông còn đủ bình tĩnh để xử trí mọi công việc. Trước hết ông cho cấp cứu Huyền, đồng thời cho mọi người tìm Cương. Mãi một lúc sau, người ta mới tìm được xác Cương bị đất đá vùi lấp bên cạnh chiếc máy húc, gần miệng hố bom.
Mấy hôm sau các cán bộ kỹ thuật công binh trên tỉnh xuống, đã xác định, đó là quả bom của giặc Pháp để lại. Từ hồi chiến dịch Điện Biên Phủ, con đường số 6 là một con đường chiến lược quan trọng tiếp tế cho quân ta. Bọn giặc Pháp đã huy động nhiều máy bay bom đạn để đánh phá, khống chế hòng cắt đứt con đường mạch máu này, chúng không từ một thủ đoạn, thả bom nổ ngay, bom nổ chậm, bom bươm bướm và các cỡ hỏa lực trên máy bay để đánh phá ta. Khu vực bến chợ Bờ là một trọng điểm bị địch đánh phá nhiều nhất. Đây là một quả bom nổ chậm còn lại, mà chiếc máy húc của Cương đã húc phải. Sau đó, một tổ công binh của Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh được cử đến dò và đã phá gỡ được hàng chục quả bom như thế của Pháp để lại ở khu vực này.
Đám tang của Cương được cử hành trọng thể. Cả hai công trường đều nghỉ việc một ngày để tổ chức lễ viếng và tiễn đưa người liệt sỹ về nơi an nghỉ cuối cùng. Toàn thể dân bản Nai, bản Ong cũng đều ngậm ngùi thương xót và đi tiễn đưa Cương. Người ta đặt nấm mộ của Cương ở mỏm đồi phía Đông đỉnh Đuôi Lươn, để Cương được chứng kiến ngày khánh thành Đèo Thung chỉ sau đó có bẩy ngày. Và để cho mỗi người đi qua Đèo Thung đều nhìn thấy nấm mộ của anh, tưởng nhớ tới anh như người liệt sỹ đã mở đường và mãi mãi đứng canh giữ Đèo Thung. Toàn thể bạn bè trong đơn vị, công trường và dân bản đã cùng với Huyền hàng ngày đều hái và đắp lên mộ Cương những vòng hoa và những bó hoa rừng tươi thắm, hoa chất thành gò, thành đống, thành đồi hoa, như một núi hoa, một rừng hoa, đúng như ước vọng của Cương đã bàn với Huyền, rừng Hoa nguyên thủy dành cho anh.
CHƯƠNG VII
Mười năm sau.
Hội trường Sở Giao thông tỉnh H, có một hội nghị quan trọng. Bãi để xe có nhiều ô tô con đứng chật cả sân hội trường. Trong số đó có nhiều chiếc “Motxcovich”, “Lada”, “Toyota” … Tính chất quan trọng của hội nghị còn được thấy ở chỗ cửa ra vào có các đồng chí công an đứng gác.
Trong hội trường lớn, tấm phông căng sau bàn chủ tịch đoàn có dòng chữ vàng: “HỘI NGHỊ KHOA HỌC ĐƯỜNG 6B”. Bàn chủ tịch đoàn dài và được kê rất cao, trên phủ nhung xanh mịn và cắm nhiều hoa tươi. Đồng chí kỹ sư Đồng ngồi cạnh Bộ trưởng bộ giao thông vận tải và Giám đốc sở giao thông vận tải tỉnh.Tham gia chủ tịch đoàn còn có một số cán bộ của Bộ và Sở đã có tuổi.
Một vị mặc com lê, mang kính trắng, trán cao từ từ đi đến bục của diễn giả. Ông trịnh trọng nói:
- Kính thưa đồng chí bộ trưởng.
- Thưa các đồng chí cán bộ khoa học . Chúng ta đã được nghe thuyết trình của kỹ sư Vũ Bá Đồng và quá trình thi công công trình tổ hợp đường số 6B – Chúng ta cũng được nghe hơn hai mươi tham luận của các giáo sư tiến sĩ, cán bộ khoa học của trường Đại học Giao thông, trường Đại học Thủy lợi, trường Đại học Xây dựng, trường Đại học Kinh tế kế hoạch. Căn cứ vào những luận điểm trên, Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước long trọng quyết định: Với nhóm công trình, tổ hợp này, kỹ sư Vũ Bá Đồng đủ tư cách để bảo vệ ba đồ án phó tiến sĩ, đồ án về xử lí công trình móng bê tông mảng lớn trên nền cát chảy diện tích rộng, đồ án về tổ chức thi công trên đại công trường thủ công thời gian ngắn trong điều kiện hoàn cảnh của nước ta, đồ án về lắp ghép loại cầu bê tông trụ cao bằng phương tiện đơn giản tại chỗ. Riêng phần thứ ba này các đồng chí ở đại sứ quán Cu Ba điện là phía bạn yêu cầu được đến tham quan ngay hạng mục loại này của chúng ta.
Người nói vừa dứt lời cả hội trường đứng dậy vỗ tay rào rào. Đồng chí Bộ trưởng ôm hôn kỹ sư Đồng. Những người đứng sau Bộ trưởng lần lượt chờ đến mình được dành riêng sự trân trọng cho con người là linh hồn của hội nghị.
* *
*
Sau hội nghị khoa học , kỹ sư Đồng và một số kỹ sư,cán bộ kỹ thuật về nhà khách của Tổng công ty giao thông chờ quyết định công tác mới. Khu nhà này nằm ở một khu đất chân đồi. Nhà ngói lẫn với nhà giấy dầu. Nó vừa là nhà khách, vừa là nơi tạm ở chờ công tác, vừa là chiêu đãi sở để vợ con cán bộ đến thăm người thân.
Một sáng chủ nhật, tốp kỹ sư trong đó có Đồng vừa đi chơi vừa mua thức ăn về cải thiện thêm thì cô công vụ đến bảo:
- Mời anh Đồng lên làm việc với Tổng giám đốc Thận. Trong đám kỹ sư có người nói:
- Chắc là lên nghe quán triệt để đi nước ngoài. Người đó nói, rồi vỗ vào vai Đồng:
- Cố mà bảo vệ lấy ba bằng phó tiến sĩ nhé.
- Thôi cứ làm lấy một bằng là ăn chắc! Một người khác chen vào.
Một cán bộ dắt xe ra hộ Đồng. Anh ta vẫn tay sờ râu quai nón mới cạo nhưng đã lởm chởm đầy mụn chân râu đùa:
- Có đi được thì mua hộ mình cái bàn cạo râu điện của Liên Xô chứ râu mình dao phay phạt cũng phải cùn.
Lại một cán bộ khác thêm vào:
- Lần này thì gặp minh chủ rồi nhé. Bọn tớ sẽ chờ cơm cậu. Coi như hôm nay là liên hoan chia tay luôn.
Từ những đùa vui chân tình rất “tếu” của bạn bè, Đồng chỉ gật đầu cười trừ rồi dắt xe đạp theo công vụ lên gặpTổng giám đốc.
Những cán bộ ở lại, mỗi người một tay, vịt được cắt tiết, vặt lông, rau sống được nhặt cọng và ngâm nước sát trùng. Công việc cứ tíu tít kèm thêm những bình luận:
- Lần này ông Thận rộng rãi thế cũng là sự lạ.
- Nghe đâu ý kiến của Bộ trưởng đấy chứ…
- Mà có mất gì của ông Thận đâu…
Khi ấy ở phòng khách của Tổng công ty giao thông, một người thấp, mặt to và ngắn, tóc đã mảng muối tiêu, khoảng ngoài năm mươi tuổi đang làm việc với Đồng. Người này cũng có mặt trên đài chủ tịch đoàn hôm có hội nghị về đường 6B ở hội trường Sở Giao thông tỉnh H. Người này là ông Vũ Thận, người mà cô công vụ xuống báo kỹ sư Đồng lên gặp.
Ông Thận có giọng nói đều đều. Ông đang nói với Đồng:
- Có hai việc cần trao đổi với đồng chí. Việc thứ nhất là vấn đề tăng lương. Tôi có ý định đề nghị tăng lương cho đồng chí nhưng nghe đâu chuyện vợ con của đồng chí lằng nhằng thế nào chưa kịp xác minh được. Thế đấy! – Ông Vũ Thận ngước nhìn Đồng.
Thấy ông Thận không nói thêm. Đồng bình tĩnh hỏi:
- Lằng nhằng thế nào xin tổng giám đốccho biết rõ hơn ạ?
- Tôi chưa dám kết luận vì chưa xác minh cụ thể thế nào – vẫn giọng đều đều ông nói tiếp – còn chuyện thứ hai có thể gọi là tin vui – Chúng tôi quyết định cho đồng chí đi học thêm ngoại ngữ ở Hà Nội ba tháng. Trong thời gian đó đồng chí kết hợp giải quyết công việc gia đình cho xong đi, cái gốc gia đình không vững, không làm việc gì được đâu.
- Thưa đồng chí tôi muốn hỏi những công trình tôi đã làm và chuẩn bị tài liệu lâu nay, liệu có được bảo vệ một luận án nào đó?
- Chưa cần đồng chí ạ. Ai chả biết tài năng của đồng chí… đồng chí đi học ngoại ngữ lúc này cần hơn,rồi mới đi bảo vệ luận án được
- Nhưng học ba tháng thì biết được bao nhiêu!
- Cốt học lấy cái ngữ pháp, phép tắc, cách cú rồi về đây chúng tôi tạo điều kiện cho đồng chí tự học thêm – Ông Thận dừng một chút rồi tỏ ra rất trịnh trọng – chúng tôi biết công lao của đồng chí nhưng cũng lưu ý đồng chí là đừng vì nó mà để cho những ý nghĩ phi vô sản lẩn quất trong đầu. Trong lúc này được đi học dù là ba tháng hay một ngày cũng là hạnh phúc rất lớn đấy đồng chí ạ.
Ông Thận lại dừng và quan sát diện mạo của Đồng, thấy Đồng ngồi nghe như bỏ ngoài tai lời lẽ của ông, ông vội hỏi.
- Đồng chí có nghe tôi nói không?
- Báo cáo có nghe đủ ạ.
- Vậy ý kiến của đồng chí?
- Báo cáo tôi biết nói thế nào. Thôi thì để đồng chí khỏi phải chỉ thị, tôi xin tuân lệnh – Anh nói xong liền hỏi luôn – Nếu không có việc gì nữa thì xin tổng giám đốc cho tôi về?
- Muốn tâm sự với Đồng đôi điều nhưng mình phải sang tỉnh họp liên tịch bây giờ. Thôi Đồng đi cố học cho tốt và giải quyết việc nhà cho ổn thỏa – Ông Thận nói rồi nhấp nhổm đứng dậy.
… Đồng về đến nhà khách thì đám cán bộ ùa ra. Có người còn cầm cả chai rượu bổ huyết trong tay.
Anh kỹ sư râu quai nón hỏi:
- Thế nào, lên gặp minh chủ để đi Đức hay đi Liên Xô?
- Minh… chủ! Đồng dài giọng đầy vẻ chán nản!
- Làm sao?
- Ông Thận cho mình đi học ngoại ngữ.
- Thì có học tiếng ngoại thì mới đi nước ngoài được chứ! Học tiếng Nga thì chắc là đi Liên Xô mà học tiếng Tây Ban Nha là đi Cu ba. Cu ba họ cần người như cậu lắm.
- Học ba tháng để biết ngữ pháp, phép tắc cách cú rồi về đơn vị thủ trưởng sẽ tạo điều kiện cho tự học thêm… – Đồng nhề mồm nhại lại lời ông Vũ Thận.
Những tiếng “xì” ớ ra. Đám sĩ kỹ sư tiu nghỉu nhìn Đồng bằng tất cả sự cảm thông. Không khí như lặng đi mấy giây, rồi một người bình luận:
- Chung quy là ông ấy ưa nịnh mà cậu thì hay nói thẳng. Hôm nọ đọc báo cáo chẳng chịu thưa ông ấy lấy một câu.
- Nghe nói ông ta mới thêm một bậc lương rồi, thêm một bậc và làm tổng giám đốc tổng công ty.
- Khỉ thật! – Người kỹ sư có bộ râu quai nón hăng hái – Mai tớ về bộ họp phải hỏi vụ cán bộ cho ra nhẽ. Không thì cứ gặp thẳng Bộ trưởng xem sao. Rõ ràng sau hội nghị - tớ thấy Bộ trưởng nói với ông Thận là “ Nên tạo điều kiện cho Đồng ra nước ngoài mấy năm, cái vốn này quý lắm” và ông Thận “dạ” ran chấp hành rồi mà.
- Thôi các cậu à. Dù sao thì mình cũng được đi học rồi, “học lấy ngữ pháp, cách cú rồi về thủ trưởng đơn vị tạo điều kiện cho học thêm” thế là sướng rồi. Ta vào ăn cơm đi – Đồng gượng cười nói với đồng đội.
Những kỹ sư vẫn còn bực, họ đến chỗ mâm cơm với những lời bình phẩm chẳng tốt đẹp về ông Vũ Thận.
* *
*
Đồng về đến Hà Nội vào khoảng bốn giờ chiều. Nhà anh ở một xóm ngoại thành phía bắc thành phố. Căn nhà gạch một gian, tường bị nước ngấm nước, chỗ thì ố vàng, chỗ thì thâm sỉn lại. Dưới mái phải ốp một lớp ni lông để chống dột. Đồ đạc trong nhà ít ỏi: một chiếc tủ đứng đóng bằng gỗ thường, tuy có đánh véc ni nhưng mộng mẹo đã hở nhiều. Phía đầu giường có treo một chiếc gương rất mới. Bên cạnh gương là chiếc hộp có dấu chữ thập màu đỏ dùng làm tủ thuốc gia đình. Thấy Đồng, một chú bé độ mười tuổi đang ngồi học bài, reo lên:
- Bố! Bố về.
Một cụ già ngoài sáu mươi có gương mặt phúc hậu đang rửa rau ở bể nước lên tiếng:
- Anh Đồng về đấy à?
- Thưa mẹ, vâng ạ.
Bà cụ cắp rổ rau đi vào, Đồng hỏi:
- Nhà con đi đâu rồi mẹ nhỉ?
- Nó bảo đi thi bổ túc văn hóa.
Đồng lấy trong túi cóc ba lô ra một chai rượu thuốc có nhãn hiệu nhiều màu sắc đưa cho bà cụ:
- Con biếu mẹ.
- Tiền đâu mà cứ bày vẽ quà cáp – bà cụ ngập ngừng nhận quà.
Thằng bé sà vào lòng bố. Đồng lấy kẹo cho con. Nó vừa ăn, vừa ôm lấy cổ bố.
- Đừng quấy bố, Quyết – Bà cụ đe cháu và nói với Đồng - Anh đi tắm rửa đi, cả thằng Quyết nữa cùng tắm với bố đi. Mẹ phải đi thổi cơm kẻo bên này các em chúng nó đi làm cũng sắp về - Bà cụ nói và mang rổ rau trên đặt chai rượu đi vào nhà.
Cu Quyết khoe:
- Mẹ mới mua gương. Gương to lắm: Bố lại mà xem.
Hai bố con Đồng đang vui đứng trước gương thì vợ anh về. Đó là một thiếu phụ khoảng ngoài ba mươi tuổi, người dong dỏng cao, khuôn mặt bầu bầu có những đường nét rất thanh tú. Chị trang điểm bằng thứ phấn màu hồng nhạt và viền quanh mi mắt được kẻ màu xanh nhờ nhờ làm cho đôi mắt chị sáng long lanh hẳn lên nhưng nhìn kỹ thì đôi mắt ấy như có một màu mỏng tang của một người sắp khóc. Thoáng nhìn chị, những người đàn ông hiếu sắc sẽ nhận ra
ngay là ở chị có nhiều “chất đàn bà”. Đó là cách nhận xét thiên về hình thể hơn là “chất đàn bà” dịu dàng truyền thống của phụ nữ.
Thấy vợ về, Đồng vội vã ra khoe:
- Em thấy con mình có ngoan không?
Chị lạnh lùng không ra mắng mỏ mà cũng không ra nựng.
- Học thì dốt, chỉ được cái nghịch ngợm thì không ai bằng:
Anh vẫn hồ hởi hỏi:
- Em đi thi có tốt không?
- Thi cái gì? – ai bảo anh thế?
- Nghe mẹ nói.
- Mẹ thì biết cái gì. Anh mới về nghe mẹ nói linh tinh làm gì?
Đồng vẫn nhẫn lại nhìn vẻ mặt cáu cẳn của vợ. Cáu thì cáu nhưng vợ anh đẹp thật. Một thoáng tự hào, mãn nguyện hiện ra trong cặp mắt của Đồng. Anh bế con lại chỗ ba lô lấy gói quà đưa cho vợ:
- Phần em đây, sắp này anh về Hà Nội học ngoại ngữ.
Cầm gói quà, vẻ mặt vợ Đồng nhuần lại nhưng chị vẫn nói bằng giọng lạnh lùng;
- Anh học để đi nước ngoài à?
- Không, học ba tháng rồi lại trở về công ty.
Vợ Đồng chép miệng:
- Học gì mà học lắm thế?
- Trên cử đi thì phải chấp hành, với lại nhân tiện anh cũng muốn sửa lại mái nhà.
- Tiền đâu mà sửa. Còn cái xe đạp của em mai em bán nốt nuôi con rồi muốn ra sao thì ra. Em chán lắm rồi.
- Không đến nỗi bi quan thế đâu Huyền ạ. Mai anh sẽ trang bị lại cái xe cho em. Lúc ra tầu mua được chiếc lốp, tưởng mất đến nơi, may mà… Chuyện trộm cắp đến buồn cười. May mà…
Huyền ngắt lời chồng:
- Thôi phải đi nấu cơm đây – Tối em còn phải đi họp công đoàn – Nói rồi Huyền ngúng nguẩy đi vào bếp.
* *
*
Buổi truyền hình vở cải lương kết thúc. Bà cụ, mẹ vợ Đồng không chờ phát thanh viên giới thiệu tiếp chương trình tối sau mà đứng dậy ra về.
Khi ấy tại nhà Đồng, anh đang ngồi ôm con. Thằng bé mê man sốt. Đồng một tay ôm con đi lại chỗ hộp đựng thuốc. Anh mở ra chỉ thấy trong đấy mấy lọ nước hoa, lọ còn, lọ đã hết, một vài cục son sử dụng cẩu thả để lộn xộn trong đó. Anh ngao ngán bế con lại giường. Nghe tiếng kẹt cửa nhà bên anh gọi:
- Mẹ ơi, cu Quyết sốt quá mẹ ạ?
- Mẹ nó đi đâu? Bà cụ vừa tất tả đi vào vừa hỏi.
- Nhà con nói là đi họp công đoàn.
Bà cụ thở dài theo Đồng vào trong nhà. Bà sờ trán cháu rồi trở ra. Lúc sau bà mang vào mấy lá trầu và củ gừng. Mặt thằng bé đỏ bừng, đôi mắt dậy lên những vẩy nhỏ. Nó thở khò khè, mệt mỏi. Bà lão vừa sát trầu không vò với nước gừng vào lưng cháu vừa ngập ngừng nói:
- Sắp này anh về được lâu, mẹ đành nói thật với anh… Bà lão nghèn nghẹn một lúc rồi chép miệng, nói tiếp – Thôi thì cha mẹ sinh con trời sinh tính… Nó, nó mà cứ còn theo cái thằng chết tiệt ấy nữa là mẹ từ … Mà anh cũng chẳng cần nuối tiếc làm gì? Mẹ thì mẹ luôn coi anh như con đẻ.
Nói được những lời này tâm trạng bà lão như trút được một phần đoạn trường khúc mắc. Mắt bà hấp háy như muốn khóc.
Đồng nói an ủi mẹ vợ.
- Mẹ ơi, con tin là Huyền chưa đến nỗi hỏng hẳn…
Đồng khuyên bà cụ nhưng chính ruột gan anh đang rối bời. Những cơ gân trên má, trên thái dương anh giật giật từng đợt và da mặt anh bợt ra như màu bạch lạp
.
Bóng Đồng lầm lũi đi trong đêm. Đang đi nghe tiếng xe máy phanh ken két từ phía dốc, anh dừng lại. Một đôi phóng xe lướt qua anh. Dưới ánh sáng của sao đêm anh nhận ra người ngồi phía sau là vợ anh. Tim Đồng như thắt lại, hai tay anh nắm chặt. Trên đường về, anh lại thấy hai bóng đen đứng sát nhau bên gốc cây. Đồng nghe tiếng đàn ông hỏi:
- Em lạnh phải không?
Không có tiếng trả lời chỉ thấy cúi đầu thấp hơn gục vào cái bóng cao.
Đêm yên ắng, nghe rõ tiếng côn trùng cựa mình trong lá ẩm và kêu rỉ rả.
Cái động tác gục đầu và im lặng ấy khiến Đồng cắm cúi đi thẳng về nhà. Anh nhẹ nhàng vào màn ngủ với con.
Lúc sau có tiếng người múc nước giếng rửa chân và tiếng bà cụ:
- Huyền, mày còn dám vác mặt về nữa à?
Con sốt như lò than mà mày bỏ đi theo trai.
Tiếng Huyền đối đáp rất nhỏ:
- Mẹ buồn cười thật. Con đi họp mà mẹ cứ nói linh tinh.
- Tôi biết cái thứ họp hành của cô rồi. Họp ở bụi cây ghế đá ấy.
Huyền xối nước ào ào át cả lời bà cụ. Rồi nghe tiếng cửa bị đẩy rõ mạnh. Huyền vào nhà bật đèn. Bên ngoài tiếng guốc của bà lão lẹp kẹp đi về nhà mình.
Đồng ngồi đậy. Anh đi lại bàn. Không ai chào ai. Huyền vén màn nhưng Đồng nói:
- Con vừa ngủ xong. Em lại đây anh nói chuyện.
Huyền cúi xuống sờ chán con rồi nấn ná một lúc mới đi lại bàn.
- Em đi đâu về đấy? Đồng nhìn vào mặt vợ hỏi.
- Đi chơi, đi theo trai!
- Em nói năng cho cẩn thận. không ăn nói kiểu ấy được đâu.
- Thì anh đi rình anh đã thấy, anh còn bảo tôi nói như thế nào, nào?
- Dù sao chúng ta cũng là người có văn hóa và anh đang hỏi em rất bình tĩnh.
- Tôi khổ quá rồi. Anh tha cho tôi. Những phần xấu xa tôi nhận hết. Anh giải thoát cho tôi! Đồng cắn môi nghĩ ngợi rồi kiên nhẫn thuyết phục.
- Huyền à. Nghe anh nói đây, vun đắp chỉ bền chặt chứ phá phách thì chẳng được mấy nả. Anh biết anh chưa giúp em được nhiều nhưng anh sẽ cố gắng dành hết phần lương cho em và con. Nhà cửa thì sắp này anh sẽ chữa lại đàng hoàng.
- Anh chữa thì anh ở. Còn, lương bổng thì anh đừng nói nữa. Lương anh bây giờ không đủ mua một hộp phấn rởm đâu – Huyền nói xong kèm theo một tiếng “hực” thách thức và khinh mạn.
Câu nói này của Huyền khiến Đồng ngồi lặng đi hồi lâu. Huyền lại giục.
- Anh còn nói gì nữa thì nói đi cho tôi đi ngủ?
Đồng vẫn ngồi lặng lẽ và khẽ gật đầu.
Huyền đứng phắt dậy như một động tác thể dục nhịp điệu mạnh. Nghe tiếng guốc chị lê trên nền gạch đủ biết ý chị, chị đang thách thức quyết liệt với chồng.
* *
*
Ngày hôm sau, Huyền và một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi từ hiệu ăn đi ra. Người đàn ông có dáng cao lớn,cân đối. Anh ta mặc quần nhung nâu, đi giầy da. Chiếc áo sơ mi may theo mốt kiểu áo của người cô – dắc màu sang được bỏ vào trong quần. Phải nói là người đàn ông này đẹp trai và biết ăn mặc. Mái tóc dầy, quăn được ốp xuống gáy, trông rậm rạp mà không bù xù. Anh ta có bộ mặt lạnh lùng toát ra một sự oai vệ của người sang trọng.
Ra đến đường, người đàn ông nổ xe máy chờ cho Huyền ngồi lên xe rồi mới đi. Nét mặt vợ Đồng rầu rầu. Chị ta không tỏ thái độ gì trước sự chu đáo của người đàn ông.
Hai người đi được một đoạn, vợ Đồng cắm cẳn:
- Anh tìm lối hẻm mà đi. Chứ phơi mặt ra giữa đường lớn thế này sao tiện?
Người đàn ông không nói, cho xe rẽ vào một phố vắng đi rất chậm. Họ đi với nhau một lúc mà không ai nói với ai câu nào. Mặt người nào cũng khó đăm đăm như người mất của. Cuối cùng vợ Đồng lên tiếng:
- Sắp này chồng em về lâu. Anh dứt khoát thì dứt khoát đi. Cứ vụng trộm mãi thế này khổ lắm!
Người đàn ông im lặng một lúc rồi mới trả lời:
- Cho anh suy nghĩ kĩ đã. Tình yêu không nói ra mới là tình yêu lung linh chứ.
- Anh sợ à?
- Sợ thì anh không sợ nhưng phải chờ thời cơ đã.
- Một năm trước anh nói như thế. Sáu tháng trước, ba tháng trước, tuần trước anh nói như thế. Bao giờ thì thời cơ đến, anh nói rõ đi? Anh nói đi!
- Huyền, tại sao em lại tự nhiên nổi đóa lên như thế? Chúng ta đến với nhau tự nguyện cơ mà – Người đàn ông dừng xe lại, vẻ mặt anh ta đã bày tỏ sự bực bội, Huyền nhảy xuống, nhìn thấy diện mạo người tình như thế, chị ta quay phắt đi, vùng vằng lủn củn bước dấn lên phía trước.
- Huyền … Huyền! Người đàn ông khe khẽ gọi theo.
Nhưng Huyền không dừng, không quay lại. Người đàn ông đứng ngần ngại nhìn theo rồi anh ta quay ngược lại nổ máy phóng đi. Mối tình vụng trộm nhẽ ra được kết thúc thầm lặng ở đây vì mỗi người đã im lặng đi về mỗi ngả, nhưng không, đi đến cuối phố Huyền bỗng quay lại. Mặt chị ta biến sắc vì không thấy người đàn ông ấy lẽo đẽo theo sau như mọi lần khi chị giở cơn nóng lạnh của một phụ nữ có nhan sắc luôn lấy việc bắt kẻ khác giới chiều chuộng, săn đón làm điều thỏa mãn nữa.
Từ vẻ mặt biến sắc chuyển sang trạng thái hốt hoảng và cuối cùng ở gương mặt đẹp ấy hằn lên sự nanh ác, căm giận, chị ta đón đường vẫy chiếc xích lô.
Chiếc xích lô đưa chị ta đến trước một tòa nhà lớn. Huyền tất tả đi vào và lợi dụng lúc người thường trực đang phát báo chị ta leo lên tầng hai và gõ cửa văn phòng có biển đề “ Phòng vật tư” không chờ có tiếng trả lời Huyền đẩy cửa bước vào, với một vẻ dằn dỗi chưa một chút vợi đi.
Người đàn ông vừa đi ăn với Huyền đang đọc báo thấy Huyền vào, tái mặt. Trong phòng có hai người đàn ông ngồi trước những chồng tài liệu và một cô gái gõ máy chữ. Thấy khách vào đường đột họ ngơ ngác nhìn.
- Xin lỗi anh các anh các chị, tôi xin phép gặp anh Hoàng một chút.
Nói rồi chị sấn lại chỗ người đàn ông có tên là Hoàng hỏi giật giọng:
- Anh có yêu tôi không, trả lời đi?
Sau phút hốt hoảng người đàn ông lấy lại bình tĩnh đứng dậy. Anh gỡ kính ra vừa điềm đạm nói:
- Cô này thật lạ. Cô theo đuổi tôi chứ ai nào yêu cô. Đây là cơ quan Nhà nước chứ không phải nơi đòi ăn vạ.
“Bốp”! một cái tát nảy lửa từ tay Huyền.
- Thằng bạc tình! Huyền tát và nói rít qua kẽ răng. Xong rồi cô chào mọi người trong phòng rồi chầm vập đi ra. Cửa theo cô đóng sập lại nghe “rầm” một tiếng như một quả pháo đùng nổ.
Tình nhân của Huyền choáng váng vội lắp kính vào mắt để che đi sự bối rối.
Hai người đàn ông trong phòng vẫn còn ngơ ngác nhìn. Cô nhân viên đánh máy so vai lại, môi bĩu ra như không thể nào hiểu nổi.
* *
*
Thấm thoát đã mười năm trời, kể từ cái ngày còn ở công trường Đèo Thung, mở con đường 6B, con đường vòng tránh lòng hồ, trên công trình thủy điện sông Đà – Nơi kĩ sư Đồng đã nổi tiếng về kỹ thuật thi công công trình tổ hợp công trường 6B này, người ta đã phải mở cả một hội nghị khoa học để nghiệm thu, đánh giá chất lượng và thừa nhận những đồ án của anh – Ở nơi đây, lần đầu tiên anh đã va chạm với Đốc, người đội trưởng là lính Trường Sơn cũ, về phương án kỹ thuật Đèo Thung – Anh đã va chạm với Cương, người thợ máy tài giỏi về tình yêu – Nhưng rồi mọi chuyện cũng qua đi, như một cơn mưa bóng mây, phương án của Đồng được Đốc ủng hộ, và tình yêu của Huyền lại trở về với Cương. Nhưng sắp đến ngày hoàn thành Đèo Thung thì Cương đã hy sinh, để lại cho Huyền nỗi đau đớn vô hạn vì mất đi người chồng yêu quý mà chỉ còn bảy ngày nữa họ cưới nhau. Cương mất đi còn để lại giọt máu cho Huyền. Đó là một niềm an ủi cho cô, nhưng cũng là điều đau khổ cho cô về sau này. Hàng tháng trời, Huyền như người mất hồn, cô đội khăn tang chồng đi khắp rừng hái hoa đắp lên mộ Cương – Mọi người, cả hai công trường, ai cũng thương và thông cảm với hoàn cảnh của cô, và người săn sóc cô nhiều nhất là Đồng, người thầy dậy, cũng là người đã từng yêu cô trước đây, sau đó là Đốc, anh trai cô. Nỗi đau thương làm Huyền sa sút cả về tinh thần và thể lực, cô ốm đau hoài, không thể làm việc được nữa, buộc Đốc phải đưa em gái về nhà ở Hà Nội để tĩnh dưỡng, và để tránh xa nấm mộ của Cương ở phía Đông mỏm Đuôi Lươn mà không ngày nào cô không đến đó. Bố của Đốc và Huyền thì đã mất do bom B52 của giặc Mỹ, sau khi về hưu và chuyển gia đình lên Hà Nội ở mới được vài năm. Nhà chỉ còn mẹ ở một mình. Bà mẹ rất thương con gái và dồn cả sức lực vốn liếng vào chăm sóc Huyền. Cuối năm đó, Huyền sinh một cậu con trai, hậu quả tình yêu của Cương – Cô đặt tên con là Quyết, theo vần vởi tên bố nó, và cũng là điều tâm niệm cho cô, cương quyết ở vậy thờ chồng nuôi con – Ít lâu sau, cô xin chuyển công tác về Hà Nội và làm ở một xí nghiệp xây dựng cầu đường thành phố.
Kỹ sư Đồng thường xuyên về thăm Huyền, để động viên an ủi cô, và là cha đỡ đầu của thằng Quyết, con của Cương, một người thợ, một người bạn mà anh mến phục, anh đã dồn hết tình cảm của mình cho thằng Quyết và ngược lại thằng Quyết cũng chỉ biết anh là người cha duy nhất của nó.
Những năm đầu, khi thằng Quyết còn nhỏ, Đồng rất tôn trọng tình cảm Huyền dành cho Cương, mặc dầu anh vẫn yêu Huyền và càng thương Huyền hơn. Nhưng anh không hề đả động đến chuyện yêu đương gì cả. Mãi đến khi thằng Quyết lên 5 tuổi, vì thương con, muốn con được hưởng tình yêu thương của bố mẹ trọn vẹn, và nỗi nhớ thương Cương cũng đã nguôi dần, và do cả hai gia đình, mẹ và anh khuyên bảo nên hai người mới chính thức lấy nhau. Từ đó tưởng chừng như họ sống với nhau hạnh phúc trọn đời. Cả hai đều thống nhất kế hoạch chưa đẻ thêm con, chờ bao giờ cu Quyết 10 tuổi mới có em và chỉ cần một đứa nữa thôi. Cả hai gia đình, bạn bè đều mừng cho hạnh phúc của họ và thường lấy họ làm gương về tình bạn, tình yêu và cuộc sống vợ chồng.
Nhưng rồi hoàn cảnh kinh tế gia đình của Đồng ngày càng khó khăn, điều kiện công tác , nay đây mai đó, lại phải đi công tác lưu động luôn, nên anh chẳng dành dụm tiền gửi về giúp đỡ vợ con được là bao – Hai mẹ con Huyền chỉ sống bằng đồng lương công nhân của Huyền – cu Quyết càng lớn càng đòi hỏi chi nhiều hơn, quà bánh, ăn uống, học hành, quần áo… Rồi tiền điện, tiền nước, tiền đóng góp xã hội… trăm thứ bà rằn của một gia đình ở thành phố, chỉ trông vào đồng lương của Huyền sao nổi, mà giá cả thị trường cứ tăng vùn vụt trong lúc cuộc sống thành thị ngày càng đòi hỏi cao. Huyền đã đem hết sức mình ra lao động thêm ngoài giờ, không nề hà công việc gì cả, phu hồ, bốc vác, quét dọn vệ sinh, may vá quần áo v.v.. Nhưng hai mẹ con cũng chỉ sống một cách cực khổ qua ngày. Những lúc con ốm đau lại phải bán đồ đạc, mà có được là bao, Huyền đã bán cái đài của Đồng được thưởng, bán cả bộ com lê của Đồng … chỉ còn lại cái xe đạp của cô để đi làm là tài sản cuối cùng, có lẽ cũng phải bán nốt, nếu năm tới cu Quyết được vào học cấp 2, hoặc một trong hai mẹ con phải đi viện.
Giữa lúc khó khăn đó, một người đàn ông khác đã tìm cách len lỏi vào cuộc sống của gia đình Đồng. Đó là anh trưởng ban vật tư của công ty xây dựng nơi cô công tác. Thực ra không phải chỉ có mình anh ta theo đuổi người thiếu phụ xinh đẹp này mà anh ta phải đương đầu, đấu loại với hàng chục đối thủ khác mới tranh thủ được tình cảm của người đàn bà kiêu kì ấy, anh ta đã phải dùng đủ mọi mánh khóe, lừa lọc, dối trá và hy sinh vật chất một cách phong lưu, kể cả những lời hứa viển vông, mới giữ được cô nàng trong vòng tay hàng năm trời nay.
Một khi người đàn bà đã để cho cái vật chất tầm thường nó khuất phục mình rồi, thì chẳng còn gì là tình yêu, lòng thủy chung và hạnh phúc gia đình bền vững nữa. Lần một rồi lần hai, đã chót thì phải chét. Một liều ba bảy cũng liều, Huyền chẳng còn niềm tin, hy vọng gì đối với người chồng đáng yêu đáng quý nữa. Đối với cô, Đồng chỉ còn là anh chàng hiệp sỹ Đông – ky – sốt, chỉ thích lao vào những cuộc phưu lưu mạo hiểm viển vông, chẳng đem lại lợi ích thiết thực gì cho mình,cho vợ con được nhờ,mà chỉ tổ làm cho nhiều kẻ đố kị, kèn cựa, thêm thù ghét, dèm pha hãm hại mà thôi. Cô chẳng còn hy vọng gì với anh về cuộc sống nữa. Đành rằng anh vẫn rất yêu thương cô và quyến luyến với con. Nhưng nếu cứ kéo dài mãi tình cảnh khốn quẫn này thì con cô sẽ phải khổ cực không vươn lên được, mà đến cô cũng không tồn tại được nữa. Thôi đành vậy, con cô, cô phải nuôi lấy, cô phải đảm bảo cho nó tuy không được bằng con người ta nhưng không bắt nó phải quá cực khổ - Cô sẽ có lỗi với người đã khuất, mà cô đã nguyện trước nấm mộ của anh từ ngày ấy. Vì dù sao tình yêu của cô với Cương vẫn mãi mãi, vĩnh hằng…
CHƯƠNG VIII
Đồng trở về cơ quan một buổi chiều. Trời đã trở lạnh. Các cán bộ và công nhân của cơ quan đã mặc trang phục đông. Anh đeo ba lô vào thẳng nhà lãnh đạo Tổng công ty.
Cô công vụ đang pha nước nóng vào chậu men. Trong nhà một người mặc áo len xanh cao cổ khoảng gần năm mươi tuổi cầm khăn mặt đi ra. Trông thấy Đồng người đó niềm nở bắt tay:
- Cậu Đồng đấy à? Khỏe chứ.
- Báo cáo anh vâng ạ. Tổng giám đốc Thận có nhà không hả anh?
- Cứ vào đó rồi mình vào ngay thôi.
Đồng đeo ba lô vào trong phòng. Anh tìm chỗ đặt ba lô. Căn phòng này không có gì mới thêm như lần ông Vũ Thận tiếp anh.
Người mặc áo len đi vào nói:
- Anh Vũ Thận chuyển đi làm giám đốc Sở Giao thông tỉnh H. rồi. Hiện nay mình chịu trách nhiệm phụ trách Tổng công ty.
Đồng đứng dậy:
- Xin chúc mừng anh.
Người mặc áo len mỉm cười đón cái bắt tay của Đồng và đi lại khoác chiếc áo khoác vào. Khi ngồi đối diện với Đồng, ông nói:
- Trước khi đi anh Thận có nói cho Đồng đi học và tiện thể giải quyết việc gia đình cho ổn thỏa vậy chuyện gia đình đến đâu rồi?
- Báo cáo anh Bính (người làm việc với Đồng có tên là Bính, giám đốc công ty hồi ở công trường Đèo Thung trước đây), tôi cũng đã hết mức thuyết phục nhưng vợ tôi cứ một mực đưa đơn ra tòa. Cô ấy đòi phải có cuộc sống giàu sang an nhàn, mà khả năng đó người cán bộ, công nhân như chúng ta làm sao có thể làm thỏa mãn được nên tôi đã kí đơn và chúng tôi đã ly hôn.
- Chết, chúng tôi định đưa đồng chí xuống làm giám đốc một công ty nhưng chuyện đồng chí bỏ vợ như thế sợ rồi anh em không phục.
- Báo cáo anh tôi bị vợ bỏ chứ không phải bỏ vợ - có giấy của tòa án đây ạ. Đồng nói và móc túi định lấy giấy tờ.
- Thôi, cái đó để nộp cho ban tổ chức cán bộ. Bây giờ đồng chí cứ tạm về nhà khách nghỉ và chờ xác minh.
- Báo cáo đồng chí tổng giám đốc tôi sẽ không về nhà khách nữa.
Ông Bính ngạc nhiên hỏi:
- Thế đồng chí đi đâu?
- Đi lao động, đi biên giới, đi Campuchia, đi làm nuôi quân, khai hoang… gì cũng được miễn là được làm việc.
- Nhưng phải chờ có sự phân công, giám đốc các công ty đã có cả rồi.
- Chúng tôi chờ đã quá lâu. Để một bộ phận cán bộ ngồi chơi đánh cờ ngày hai bữa chờ kẻng đi ăn cơm, đêm nằm dài tán róc là có tội với nhà nước đấy đồng chí Bính ạ.
- Điều đó thì chúng tôi hiểu hơn đồng chí. Thôi được nếu đồng chí muốn hành động thì… Ông Bính ngẫm nghĩ rồi quyết định – đồng chí sẽ về xí nghiệp đá vôi thay cho đồng chí Đốc rút về phòng vật tư. Việc đấy, đồng chí có nhận không?
- Tôi xin nhận – Đồng nói ngay không cần suy nghĩ gì thêm.
Ông Bính dặn dò:
- Anh Vũ Thận có nói là cậu có đầu bốc lửa, thế là quý, nhưng nhớ là cái gì cũng phải từ từ, “tả”, quá là hỏng.
Đồng cười không nói gì.
Ông Bính nhìn Đồng nghi ngờ hỏi:
- Đồng chí cười gì?
- Tôi buồn cười là cách nói của đồng chí hệt như phiên bản từ đồng chí Vũ Thận.
- Đừng vơ đũa cả nắm như thế - Ông Bính phật ý đứng dậy, ông giận dỗi nói tiếp – Tôi là tôi chứ không là ai, đồng chí đừng có hàm hồ. Tôi rất hiểu đồng chí đấy! – Nói rồi ông Bính vội quay đi hướng khác bởi vì trên gương mặt của ông thoáng những nét bối rối.
Đồng lại khẽ mỉm cười. Anh đứng dậy sửa soạn ba lô rồi chào ông Bính ra về. Ra đến cửa như sực nhớ. Anh quay lại hỏi:
- Thưa đồng chí tổng giám đốc, có cần nộp kết quả học tập cho đồng chí không ạ.
- Đồng chí đem nộp cho ban tổ chức cán bộ, cả cái quyết định cho ly hôn của tòa án nữa.
*
Tiếng mìn nổ phá đá ầm ầm. Khói và bụi vôi trắng xóa tung lên trời từng đụn lớn. Không khí lao động sản xuất ở đây thật náo nhiệt. Bộ trưởng và Đồng đi bách bộ trên con đường đầy bụi vôi, hai bên là những lò vôi đang nhả khói, khuất phía sau là những dãy nhà mới xây..
- Ngày mai đồng chí về Bộ và tôi sẽ làm việc với đồng chí Bính về công trình lấn biển đê 41 và làm đường ra đảo Cát.
- Thưa Bộ trưởng, tôi đang chờ kỷ luật. Với lại chết thì chết tôi cũng không làm việc với anh Bính được.
Đồng ạ, không riêng anh Ngọc Bính và cả tổng giám đốc Vũ Thận ngày xưa của anh nữa. Tôi không đẩy anh đến chỗ chết đâu. Lỗ vỡ ở đê 41 và con đường ra đảo cần có anh đến.
- Thưa Bộ trưởng nhưng tôi sẽ làm được gì dưới quyền những con người như thế?
- Bây giờ khác rồi. Ông Bính không phải là ông trời, ông Vũ Thận cũng thế. Tôi chính thức đi tìm đồng chí. Đồng chí có dám đến đó không?
- Thưa Bộ trưởng… - Đồng nói và ngước nhìn vị bộ trưởng – Người ta bảo tôi có cái đầu bốc lửa. Có phải thế mà Bộ trưởng chiếu cố tìm đến tôi?
- Cái đó chỉ một phần, cái chính hơn là ở trí thức và bản lĩnh. Sự nghiệp của chúng ta cần lắm những cái đó.
Tiếng mìn nổ đá lại ầm ầm vang lên, vị Bộ trưởng và người kỹ sư vẫn tiếp tục đi giữa công trường ầm ã của một ngày làm việc. Họ đi và cử chỉ của họ như đang tranh luận, và gặp nhau những tương đắc.
*
Bộ trưởng làm việc với hai vị khách trong văn phòng của mình.
Đó là ông Vũ Thận – Bí thư Đảng ủy kiêm giám đốc Tổng công ty giao thông ngày trước. Rồi ông xin chuyển sang làm giám đốc Sở Giao thông tỉnh H. Nhưng vì muốn được gần nhà,theo đề nghị của ông, nên người ta lại chuyển ông về làm giám đốc Sở Thủy lợi tỉnh P. ở quê hương ông. Ông mặc thường phục. Bộ ốt – pho màu ghi áo ngắn tay, có cầu vai đai lưng và đính cúc kim loại màu nâu. Trông ông không già đi mấy so với hồi còn ở tổng công ty mà còn béo trắng ra. Tóc ông có lẽ nhuộm nên trông rất đen, điều hiếm hoi gặp được ở những người gần lục tuần. Mái tóc ấy được chải rẽ ra hai bên để biểu lộ vầng trán. Người thứ hai là ông Ngọc Bính tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng giao thông, ông mặc sơ vin.áo sơ mi xanh da trời bỏ trong quần. Ông Bính không được cường tráng như Vũ Thận nhưng trông cũng còn khỏe mạnh. Bộ trưởng đang nói với hai ông.
- … Tôi không nhất trí với hai anh là để công trình kéo dài đến sau mùa mưa. Con đê này sẽ hỏng mất. Lỗ vỡ 80 mét này qua các kỳ mưa bão sẽ rộng ra 200 mét thậm chí còn hơn.. Khó khăn như thế nào và còn tình huống gì các anh đặt ra nữa đi.
- Thưa Bộ trưởng – Ông Vũ Thận nói – Vốn là cán bộ lâu năm của ngành giao thông, tôi luôn ý thức trách nhiệm nghề nghiệp của mình, nhưng tình hình rất khó khăn. 6 mét rưỡi, lúc triều lên gần mười mét. Nước vào ra mạnh đến nỗi đập gẫy đôi chiếc sà lan. Chúng tôi phải thực hiện phương án hai, đợi đến mùa khô là như thế.
- Ý kiến anh Bính?
- Thưa Bộ trưởng, Đây là công trình địa phương và Quân đội cùng làm, quân đội chỉ là ủng hộ, giúp đỡ làm xung kích. Chúng ta không chỉ đơn thuần hoàn thành để đảm bảo ý nghĩa chính trị mà còn tính đến cả hạch toán kinh tế nữa. Vì quyền lợi của đôi bên nên tôi ủng hộ ý kiến anh Vũ Thận.
Bộ trưởng suy nghĩ mấy giây rồi nói:
- Còn một điểm nữa cách anh chưa tính đến.
Con đường này sẽ đưa pháo, đưa tên lửa ra đảo Cát. Nếu trong tương lai có chiến tranh, kẻ thù sẽ bị tiêu diệt cách đất liền thêm 20 cây số nữa. Vì thế Bộ quốc phòng yêu cầu phải làm cho nhanh. Kéo dài là không kinh tế và chả có ý nghĩa gì nữa cả. Nhất là trong tình hình biên giới đang căng thẳng hiện nay. Vì thế bên quân đội mới đưa một sư đoàn đến đây chứ…
- Nhưng… Thưa Bộ trưởng – Ông Vũ Thận nói – Chúng tôi đã hết cách. Chỉ còn biết chờ mùa khô, thời tiết ổn định và cái chính là tìm cách lấp thế nào.
- Bây giờ tôi bổ sung cho các anh một chuyên gia giao thông và thủy lợi loại khá, các anh có dám quyết tâm không?
- Thế thì tuyệt quá! – Ông Vũ Thận phấn chấn.
- Đồng chí Đồng, tổng công trình sư đường 6B, anh Thận còn nhớ không?
Nghe nói đến tên Đồng, ông Bính giật thót một cái còn ông Vũ Thận vui vẻ:
- Có lẽ cậu ấy bây giờ là giám đốc công ty rồi phải không ạ?
- Giám đốc xí nghiệp thôi – Ông Bính chen vào – Cậu ta xây nhà cửa linh tinh ở xí nghiệp, nên thanh tra đang phải làm việc. Bộ trưởng đã biết điều đó chưa ạ?
- Biết rồi, chính anh đẩy cậu ấy xuống xí nghiệp ấy chứ ai. Cũng may, không có cậu ta thì không thể có hơn hơn 2 vạn mét khối đá cho con đường chiến lược T83 vừa qua được. Và bây giờ cái xí nghiệp của cậu ta đang phát triển gấp 3 – 4 lần so với xí nghiệp trước đây dưới quyền chỉ huy của anh. Còn hôm nay, chính tôi đưa đồng chí ấy về đây. Hy vọng rằng các anh mới cũ đều là cán bộ trong ngành cả, công việc sẽ có kết quả.
Hai ông “vâng dạ” nhưng cả hai nét mặt đều mất một phần thần sắc. Phải chăng Đồng đến họ phải đối phó gì chăng?
*
Chiếc ca nô băng băng rẽ nước vào bờ, nơi có con đê chắn biển sừng sững. Chỗ lỗ vỡ, nước từ phía trong xối xả như thác.
Chiếc ca nô càng vào gần càng thấy rõ người ngồi. Đó là ông Vũ Thận và người trợ lí mang cặp cho ông, là ông Bính và Đồng. Khi ca nô ép mạn vào bờ. Nhường cho mọi người lên trước, Đồng kéo cáp buộc ca nô lại. Ông Thận vừa lấy cao xoa xoa vào thái dương vừa nói với Đồng:
- Mấy hôm nay chúng ta khảo sát địa hình, chế độ thủy triều, Đồng đã kết luận được gì chưa?
- Phải đóng được một hàng cọc để làm kè, anh ạ.
- Điều đó thì ai chả nghĩ ra. Vấn đề là đóng thế nào. Cậu xem kia, hàng chục chiếc sà lan còn không ăn nhằm gì nữa là – Ông Thận nói và chỉ những chiếc sà lan nằm ngổn ngang trên bãi sú cách đó xa xa.
- Vậy thì phải tìm cách đóng – Đồng nói:
- Nhưng còn thời gian, Bộ trưởng đã chẳng giục chúng ta đó sao? Nếu không làm được thì cậu cứ nói thẳng với Bộ trưởng,cậu có chuyên môn, cậu có sức thuyết phục hơn.
Trong lúc ông Thận nói chuyện với Đồng thì người trợ lý và ông Bính đi lại chỗ chiếc xe Toyota của Sở Thủy lợi để cách đó không xa.
- Cái thằng đi đến đâu cũng muốn làm cách mạng – Ông Bính buột miệng nói.
- Ai cơ ạ? – Người trợ lý cơ quan của ông Thận hỏi.
- Cậu Đồng. Hắn ta về đây rồi sẽ rối tinh lên tất cả.
- Thủ trưởng của tôi cũng đang lo như thế.
- Họ đến chỗ chiếc xe ô tô. Người lái đang cật lực quay mà chiếc xe con cứ giật lên từng đợt không nổ được.
Ông Thận cũng đã đi đến.
- Anh thấy thế nào? Ông Bính hỏi ông Thận.
- Anh là thủ trưởng trực tiếp của cậu ta thì phải có cách chứ.
- Nhưng cậu ta được Bộ trưởng che ô cho.
- Bộ trưởng coi cả một bộ ,một ngành của cả nước chứ đâu có riêng một cái công trình này. Phải gỡ ra. Tôi sẽ giúp anh một tay – À mà nghe nói em gái anh lằng nhằng với cậu ta.
- Yêu mới nhục chứ - Ông Bính nói giọng vừa đau đớn mà giễu cợt.
- Thế đấy – Kiếp sau có nhận chức vụ gì thì để lấy ba ngày mà chọn ê kíp cho mình. Tại sao anh lại đưa cậu ta đi làm giám đốc xí nghiệp vôi đá, cứ để ở chiêu đãi sở giải quyết béng cho về một cục, có hơn không?
- Vâng, - Ông Bính thú nhận – Cái đó tôi quả thực không bằng anh.
Người lái xe vẫn cố gắng quay ma – ni – ven, nhưng chiếc xe vẫn cứ nằm ì ra đấy và run lên bần bật theo đà quay của tài xế. Chiếc xe thoạt nhìn còn mới nhưng các mép tôn đã sờn gỉ cả. Chừng như nó mới được sơn, mạ lại. Máy móc đã cũ nên mới làm người lái xe nhọc nhằn như thế:
- Có lẽ phải đẩy một đoạn để khởi động bác ạ.
Người lái xe mặt đầm đìa mồ hôi đi lại nói với ông Thận.
- Chết, hai ông già này thì đẩy làm sao được.
Ông Thận lo lắng nói, rồi bất chợt ông nhìn về phía Đồng và mấy đồng chí bộ đội đang căng lều bạt ở chỗ đê vỡ - Cậu lại nói với mấy anh em kia đến giúp đi.
Người lái xe vẻ mặt mừng rỡ hẳn lên, anh vội chạy đi.
*
Xe ông Bính dừng lại trước tòa nhà có chữ “Hội Trường” trong khu xí nghiệp đá, nơi Bộ trưởng đã gặp đồng chí Đồng dạo nọ.
- Ông Bính từ trong xe bước ra, đi rất vội vào gian trái của hội trường, nơi trên cửa sổ đề chữ “ Thư viện” và thời gian biểu làm việc phía dưới.
Ông không gõ cửa mà tự đẩy vào.
Căn phòng lớn được ngăn làm hai. Một bên là các ngăn sách có đính thư mục chủng loại. Một là các dãy bàn kê cho độc giả.
Một cô gái đã lớn tuổi ngồi sau bàn cho mượn sách đang cắt những miếng bìa cứng làm tích kê cho những quyển sách mới.
Thấy có người vào, cô gái ngẩng lên và chào không niềm nở lắm.
- Anh.
- Chị đi đâu rồi? – Ông Bính hỏi.
- Chị bảo đi ra ngoài chợ khoảng bốn giờ sẽ về.
Ông Bính kiếm một cái ghế ngồi cạnh cô gái còn cô vẫn chăm chú làm việc. Trên mặt cô đã thoáng những nếp nhăn li ti ở trán và đuôi mắt.
Cô không phải là một thiếu nữ đẹp nhưng hiền lành dễ thương.
Ông Bính nhìn cô dắn đo một hồi rồi nói.
- Tối nay anh về tổng công ty. Những điều anh chị khuyên em lúc sáng em có chịu nghe không? Vào đời không đơn giản, em chưa hiểu được mặt trái của nó đâu.
Cô gái mặt buồn rười rượi nói:
- Năm em hai mươi tuổi anh chị bảo em còn trẻ không cho yêu đương lăng nhăng sợ hư hỏng. Năm em hai sáu tuổi, hai bảy tuổi có người thương em, anh chê nghèo hèn nhà quê. Bây giờ ngoài ba mươi tuổi anh chị lại bảo chờ nơi môn đăng hộ đối… Nói đến đây cô gái gục đầu xuống khóc.
- Anh cả là cha, chị cả là mẹ. Anh chị phải có trách nhiệm với em. Tưởng đưa em về đây làm tai mắt cho anh nào ngờ em lại đi yêu cái thằng ba bửa coi anh như rác.
- Anh Đồng xấu với anh cái gì nào? – Cô gái ngẩng lên, nước mắt chan hòa.
- Xấu tốt! Nó không đủ tư cách làm em rể tôi. Nói rồi ông Bính hạ giọng, tỏ ra rất thân mật:
- Thôi nào, hãy nghe anh. Ở chỗ anh có loạt kỹ sư trẻ mới bổ sung về. Nghe nói anh có em gái, chúng nó cứ săn đón… Anh sẽ giới thiệu…
Tuyết đứng dậy nói như thét:
- Trời ơi, anh thôi đi – Rồi cô lại gục xuống – Cha mẹ ơi sao con khổ thế này.
- Đừng có mau nước mắt. Thanh tra đang làm việc về cậu Đồng đấy. Không sớm thì muộn cũng sẽ đi tù như tay Đốc trên phòng vật tư – Nói rồi ông Bính bực tức bỏ ra.
* *
*
- Đồng chí phải biết thực lực của chúng tôi nữa chứ. Một lúc đồng chí yêu cầu một nghìn cọc gỗ dài mười mét thì lấy ở đâu ra. Sẽ chưa có đâu. Một cái cũng chưa có! – Ông Vũ Thận oang oang với Vũ Bá Đồng khi hai người vừa chui ra khỏi chiếc lều bạt trên hiện trường.
Đồng nhìn vào mặt ông Thận hỏi:
- Hơn một tuần rồi, phía sở không cung cấp cho chúng tôi bất cứ một thứ vật liệu gì. Tôi hỏi thật, có phải đồng chí ra lệnh tẩy chay chúng tôi không?
- Làm việc phải có trên có dưới. Chưa có thì phải chờ. Anh thiếu cái gì đề xuất lên anh Bính giám đốc tổng công ty, anh Bính làm việc với tôi. Không được bạ đâu cũng đòi vật liệu. Đó là tiền của nhân dân, sử dụng phải có chỉ tiêu kế hoạch.
- Có lẽ anh sợ mình bé nên hay nói to. Anh ạ, một nghìn cái cọc gỗ chúng tôi có thể liên hệ với địa phương xin ở các bãi phi lao kia hoặc chạy lên gặp Chủ tịch tỉnh hoặc gặp Bộ trưởng, nhưng chúng tôi chưa làm vì muốn là chúng ta tạo điều kiện cho nhau làm việc. Nếu anh cứ cho dây dưa trong việc cung cấp, bắt buộc chúng tôi phải có những đề xuất.
- Cậu đừng lấy cái ô Bộ trưởng ra dọa tôi. Cậu nên nhớ cậu là lính của tôi trước khi là người ưu ái của Bộ trưởng.
- Đừng nóng anh Thận à. Cứ nóng lên là anh lại kể lể ân huệ, ô nọ dù kia nghe buồn cười lắm. Bây giờ thì xin anh trả lời giúp là bao giờ có đủ cọc gỗ và rọ đá?
- Tôi chỉ trả lời kế hoạch đó khi phía đồng chí Bính,giám đốc tổng công ty, thủ trưởng trực tiếp của cậu đề nghị. Nói rồi ông Thận bực bội quay đi.
Một công nhân từ lều bạt thò đầu ra gọi:
- Anh Đồng có điện thoại.
Đồng vội chạy vào.
Trong lều Đồng trả lời ống nghe.
- Vâng, tôi là Đồng đây.
Và càng nghe mặt Đồng càng hiện lên những nét thoảng thốt.
Trong ống nghe vọng ra tiếng lí nhí.
- Đồng chí nhắc lại xem nghe có đủ không nào?
- Vâng, tôi xin nhắc lai: Tòa án gọi anh về Hà Nội ngay. Có phải nhắc lại lần nữa không ạ?
Đồng nặng nề đặt ống nghe xuống. Anh ngồi thần ra một lúc “Hừ, giữa lúc đê đang vỡ, chưa khắc phục được, thì bới ra chuyện kiểm tra, tòa án ra… chắc lại có kẻ nào đó nhúng tay vào chuyện này nhằm trì hoãn việc hàn đê nối đường ra đảo đây, họ muốn đẩy mình ra khỏi công trường này…” Rồi như đã xác định được điều gì đó, anh đi ra ngoài nói với tổ ca nô:
- Các đồng chí đi nghiên cứu xem cách cắm cọc rạo của dân chài thế nào. Tôi phải về Hà Nội bây giờ. Nhanh cũng mất vài ngày mới quay lại được.
Nói rồi anh quay vào lều bạt, kéo chiếc ba lô ở góc ra, bần thần sửa soạn hành lí, làm mọi người ngơ ngác, họ xúm lại hỏi anh, anh chỉ trả lời vắn tắt, làm khí thế của tổ kỹ thuật ỉu hẳn đi. Có một giọng bực bội chửi đổng:
- Mẹ kiếp, giữa lúc nước sôi lửa bỏng thế này , mà kỹ sư trưởng bỏ đi, thì còn làm ăn gì được nữa!
* *
*
Ông Thận và ông Bính từ trong nhà ông Bính đi ra chiếc xe Toyota đỗ ơ ngoài cổng. Ngôi nhà được chát bằng đá rửa, trông chắc chắn đường vệ khá đẹp.
- Bộ trưởng đi kiểm tra các tỉnh phía nam. Cậu Đồng phải về Hà Nội theo giấy gọi của tòa án, đúng hơn là theo giáy gọi của ông, chắc ông đã kích động vợ cậu ta đúng không? – Ông Bính gật đầu xác nhận, ông Thận tiếp – Thế là tôi và ông có thể ngủ ngon để đợi đến mùa khô rồi đấy.
- Vâng cậu ấy ít nhất một tháng mới quay lại đây được. Tôi sẽ cử đi chi viện cho công trình phòng thủ biên giới. Nhưng mà này – Ông Bính đắn đo mấy giây rồi hỏi – Tại sao anh không thích hoàn thành công trình này sớm hơn nhỉ?
- Ông ngây thơ quá. Vấn đề là kinh phí cho toàn bộ con đường này. Mình làm kế hoạch với Bộ ba năm, Bộ đã cấp kinh phí, bây giờ rút lại, kinh phí sẽ dôi ra. Trên sẽ cho mình là không thực tế. Đừng dại để lộ sự non kém của mình ra cho họ thấy. Nhất là lúc này, còn điều quan trọng hơn là công trình này giữ cái ghế cho mình ít nhất cũng ba năm nữa, và có kéo dài công trình này thì mới có điều kiện xây dựng giúp đỡ cho cán bộ trong ngành và cho con cái mình nữa chứ!
Ông Bính gật đầu có vẻ khâm phục nói:
- Anh có những nước tính thần diệu nên làm việc mà cứ nhẹ như không ấy.
- Cũng oằn lưng gồng bên nọ, đỡ bên kia đấy, không thế làm sao ngồi vững được cái ghế trị thủy của một tỉnh. Ông Thận nói và thân mật bắt tay ông Bính rồi dặn:
- Anh nên tranh thủ dịp này ra Đồ Sơn nghỉ ngơi lấy ít bữa.
Vâng chúng tôi cũng đã có kế hoạch rồi ạ.
* *
*
Phiên tòa xử vụ kiện li hôn của Huyền vợ cũ của Đồng khác với những cuộc xử án hình sự. Bị cáo không phải đứng trước vành móng ngựa. Không khí phiên tòa nghiêm túc nhưng không căng thẳng như vụ án hình sự lớn.
Ngồi ghế chánh án là một phụ nữ đã ngoài năm mươi. Các ghế hội thẩm cũng là phụ nữ.
Phía dưới hội trường có một số người đến xem.
Bà chánh án đang nói với Huyền:
- Sau khi ly hôn với ông Vũ Bá Đồng sáu tháng thì bà kết hôn với ông Trần Đình Nam cán bộ thuế vụ chợ Sông.
- Vâng, nhưng chúng tôi đã ly hôn.
- Bà có thể cho tòa biết thêm vì sao bà ly hôn với ông Nam?
- Thưa quý tòa, vì y theo gái phản bội tôi.
- Bà Huyền, cũng như vụ ly hôn với ông Vũ Bá Đồng, vụ ly hôn này là do bà đưa đơn. Vậy bà có thể cho biết vì sao bà đưa đơn đòi xét lại vụ ly hôn với ông Đồng?
- Thưa quý tòa… Tôi thấy tôi còn tình yêu với anh Đồng.
- Tòa cho bà ngồi xuống – Bà chánh án nói và quay sang phía Đồng hỏi:
- Tòa xin hỏi ông Vũ Bá Đồng.
Đồng đứng dậy.
- Theo đơn của bà Huyền thì hiện nay ông có quan hệ với cô Lê Thị Tuyết nhân viên thư viện nơi ông công tác. Ông có thể nói rõ mối quan hệ đó được không?
- Thưa tòa, cô ấy yêu tôi và tôi cũng rất yêu cô ấy.
- Ông có tính đến việc hôn nhân với cô Tuyết không?
- Mục đích của chúng tôi là như thế. Thưa tòa, ở lứa tuổi này tôi không biết đùa bỡn với tình yêu nữa.
- Xin mời ông ngồi xuống.
Bà chánh án giở tập hồ sơ xem cái gì đó rồi nói:
- Bà Huyền trong đơn xin ly hôn với ông Vũ Bá Đồng cách đây 5 năm bà viết là chưa bao giờ bà có tình yêu với ông Đồng, nay lại có đơn đòi tòa tái hôn với lý do là còn tình yêu với ông Đồng, bà có thấy mâu thuẫn trong tình cảm của mình không?
- Thưa quý tòa! Người ta khôn dại có mùa – Huyền chống chế - Càng ngày tôi càng nhận thức được tôi chỉ có tình yêu với anh Đồng thôi.
Câu nói của Huyền khiến những nhân chứng và người xem “phì” cười.
Bà chánh án lại hỏi Đồng:
- Trước lý lẽ của bà Huyền, tòa xin hỏi ông Đồng có ý kiến gì không?
Đồng im lặng không trả lời.
Hội trường râm ran tiếng xì xào bàn tàn của người xem.
Một phụ nữ ngồi ở giữa phòng giơ tay xin phát biểu. Người ấy nói;
- Thưa quý tòa. Hôm nọ tôi đi mua được quyển sách “ Chuyện kể của người thẩm phán” chuyện kể rằng có một cuộc hôn nhân do ép buộc từ một phía, sau những năm dài sống bất hạnh họ đã ly hôn. Người đàn ông gặp được người phụ nữ khác nhưng lúc hai người đang chuẩn bị tổ chức cưới thì người vợ cũ viết đơn kháng án. Tòa xử hủy bản án cũ và buộc hai người phải đoàn tụ. Nhưng những ngày sau đó họ tiếp tục sống những ngày bất hạnh. Và mặc dù ngoài 60 tuổi người đàn ông phải viết đơn ra tòa. Lần này thì tòa xử cho họ được ly hôn vĩnh viễn, tôi thấy trường hợp tòa đang xử có phần cần tham khảo câu chuyện trên nên cứ mạo muội nêu ra.
Hội trường im lặng lắng nghe từng lời của người phụ nữ đó. Đến khi chị kết thúc mọi người vẫn giữ nguyên thái độ chăm chú ấy.
Yên ắng một lúc nữa mới thấy có một cô gái rất trẻ giơ tay xin phát biểu. Cô nói:
- Thưa quý tòa. Tôi chưa tròn hai mươi tuổi chưa hiểu thế nào là tình yêu và hôn nhân. Là một phụ nữ đáng lẽ ra tôi phải bênh vực quyền lợi của phái mình, nhưng ở đây tôi thấy tình cảm của chị Huyền rất phức tạp. Trong vòng năm năm trời chị đã ly hôn với một người để kết hôn với người khác, rồi lại bỏ chồng mới để tái hôn với chồng cũ, người mà chị viết đơn với lí do là chưa bao giờ có tình yêu. Qủa thật tôi không hiểu nổi, chả lẽ giới nữ chúng ta lại phức tạp đến thế?
- Oắt con! – Huyền phẫn nộ đứng dậy ngoái lại phía cô gái đanh đá nói – Còn đời cô đấy!
- Bà Huyền, tòa chưa hỏi bà.
- Nhưng, thưa quý tòa… đó là lời độc địa chia rẽ vợ chồng…
- Bà sẽ được trình bày khi tòa hỏi.
Huyền nặng nề ngồi xuống.
Phía sau hai ba chục cánh tay giơ lên xin phát biểu ý kiến khiến bà chánh án không biết chọn ai. Lưỡng lự một lúc rồi bà tìm ra giải pháp:
- Trong ý kiến của chúng ta có ý kiến nào khác với ý kiến của các vị vừa rồi không ạ?
Không có ai đứng lên cả. Bà chánh án đợi mấy giây nữa rồi nói.
- Thưa các vị đại biểu. Tòa án và xã hội chúng ta làm hết sức mình để hàn gắn những nứt vỡ trong hôn nhân. Cái khó của những người làm công tác xét xử các vụ này là không thể áp dụng các điều mục luật pháp một cách đơn thuần. Bà Huyền, tòa xin hỏi bà, qua dư luận thì bà có cuộc tiếp xúc với anh trai và chị dâu cô Tuyết, người yêu hiện nay của ông Đồng, vậy bà có xác nhận dư luận đó là đúng không và nếu có thì nội dung như thế nào?
- Thưa tòa – Huyền đứng lên khẳng định – Đó là dư luận không chính xác ạ.
- Vâng xin ghi nhận lời bà. Tòa xin hỏi bà một lần nữa. Bà vẫn còn yêu ông Đồng?
- Thưa vâng.
- Cho phép bà ngồi xuống. Tòa xin hỏi ông Đồng, ông có thể phát biểu ý kiến của mình.
Đồng từ từ đứng dậy. Anh lạnh lùng nói:
- Thưa quý tòa, xin cho cô Huyền một bát nước đầy rồi đổ xuống đất, nếu cô Huyền bốc lại được đầy như cũ thì tôi mới tin là cô còn tình yêu với tôi và tôi có thể sống hạnh phúc với cô. Còn bây giờ tôi cũng xin chấp nhận yêu cầu của cô Huyền để cho đứa con của cô ấy mà tôi đang nuôi được gọi mẹ, nhưng trước tòa hôm nay tôi xin kiến nghị rằng nếu tòa gọi tôi lần thứ ba thì tôi dứt khoát không ra… - Nói rồi không chờ kết luận gì nữa anh lùi lũi đi ra.
Cả hội trường nhướn lên nhìn theo anh, còn Huyền chỉ gục đầu xuống nức nở khóc:
- Vậy thì hết tất cả rồi, không còn gì cứu vãn được nữa! – Rồi cô vùng lên chạy vọt ra ngoài đuổi theo Đồng, vừa chạy vừa gọi:
- Anh Đồng, Anh Đồng…ồng!
Nhưng Đồng vẫn lầm lũi bước đi, không hề ngoái lại – Huyền ngã gục xuống bên vệ đường.
Ở tòa án đi ra, Đồng rẽ vào Bảo tàng Quân đội. Anh đứng rất lâu ở gian trưng bày những cọc gỗ cắm trên sông Bạch Đằng. Lúc sau anh gõ cửa xin vào phòng “Nghiên cứu tư liệu”, và ở lỳ trong đó hết cả ngày, mãi đến tối khuya mới về.
CHƯƠNG IX
Khu nhà nghỉ mát nằm sát bờ biển, trên sườn đồi thông thoai thoải. Nhà ở đây cao nhất là ba tầng còn thường là một hai tầng, tất cả hướng nhà đều trở ra phía biển. Từ đây nhìn ra biển mênh mông nhập với chân trời bằng một màn sương nhẹ. Những chiếc thuyền như chiếc lá nhỏ đang đậu im lìm trên những dãy cọc rạo. Thỉnh thoảng lại có một chiếc tàu lớn ra cảng đi qua vùng eo biển này. Mặt trời đã lên cao nhưng lớp sương mỏng trên biển vẫn chưa tan hết, ánh nắng chiếu xuống mặt nước tạo nên thứ màu sầm sậm như phù sa loãng. Nước biển vùng cửa sông thường có màu như thế.
Ở hiên một ngôi nhà nhỏ nhưng xây dựng chắc chắn và cấu trúc như kiểu biệt thự, mái đổ bê tông, hiên rộng, cửa sổ - trong kính, ngoài chớp, tiền sảnh có nhiều chậu cúc, một người khoảng gần năm mươi tuổi ngồi như chờ đợi ai. Người này, mặt gầy, hơi đen và có đôi mắt nhìn rất buồn. Ông ta vừa ngồi chờ vừa bẻ ngón tay rôm rốp.
Lúc sau cửa hé mở rất nhẹ, một phụ nữ khoảng tuổi năm mươi, người phục phịch, cổ rụt, đầy những nếp ngấn. Bà ta mặc quần áo ở nhà, chiếc áo cộc tay màu hoa khá sặc sỡ, cổ khoét rộng để lộ ra vòng dây chuyền lấp lánh. Khép nhẹ cửa ở phía sau lưng lại, bà ta cất giọng đài các hỏi:
- Chú là cán bộ của tổng công ty phải không?
- Vâng ạ, tôi là Đốc đây mà.
Người phụ nữ chăm chú nhìn vào người khách và dường như không nhận ra người quen, bà ta nói:
- Khách của tổng giám đốc thì nhiều, tôi không nhớ hết. Chú cần gì?
- Dạ, tôi muốn được gặp tổng giám đốc , chị ạ.
- Hỏi gì thì phải về nơi làm việc, ông ấy không giải quyết ở đây đâu.
- Dạ, hôm kia, thủ trưởng dặn là 8 giờ sáng nay cho tôi gặp ở cơ quan của tổng công ty, nhưng được biết tổng giám đốc đi nghỉ đột xuất nên tôi lần mò tìm ra đây.
- Thế thì tổng giám đốc không đồng ý tiếp rồi.
Tôi khuyên chú nên chờ ít hôm nữa. Ông ấy cáu sẽ không được việc đâu. Tôi nói thật đấy.
- Đường đến đây cũng xa, tôi cố chờ xem chị ạ.
- Mười giờ ông ấy mới dậy mà chúng tôi có kế hoạch đi thăm bà con lúc mười rưỡi. Ông nhà tôi không tiếp khách ngày hôm nay đâu.
Người khách ngần ngại đứng dậy. Ông ta biết có nói nữa cũng vô vọng nên đành dặn lại:
- Xin nhờ chị nói hộ với tổng giám đốc, tôi là Đốc, Lê Thành Đốc ạ!
- Tôi nhớ!
Người khách dắt chiếc xe đạp cũ và rệu rã bước đi. Theo bước chân ông ta, tiếng lạch cạch của xích va vào chắn dầu phát ra đều đều như một trò chơi khôi hài.
Đối diện với người khách, một đôi trai gái đi tắm biển về. Người con trai khoác chiếc phao màu đỏ, người con gái một tay xách túi, tay kia khoác vào tay người con trai. Vừa đi người con gái vừa chuyện, vừa cười.
Anh con trai ném chiếc phao vào góc hiên nhà rồi ngồi ngả lưng lên chiếc ghế bành bằng mây. Cô gái cũng đặt chiếc túi và sán lại ngồi cạnh.
Người con trai rút trong túi ra quyển album. Anh ta giở ra, người con gái ghé đầu vào vai anh trầm trồ:
- Đẹp quá!
- Cái này anh chụp ở Bãi Cháy, em thấy nước biển ở đấy xanh không?
Cô gái ự ự trong cổ tán đồng.
Anh con trai giở tiếp thì Bộ trưởng xuất hiện. Ông mặc đơn giản, chiếc áo trắng cộc tay có hai túi dưới. Bộ trưởng xin lỗi và hỏi họ:
- Bác Bính nghỉ ở đây phải không các cháu?
- Chú cần gì? Không ngẩng đầu lên, người con trai hỏi?
- Chú có chút việc muốn gặp bác ấy.
- Hôm nay chủ nhật ông già không tiếp khách đâu – Người thanh niên quay lại nói với cô gái – cái này được không?
- Trông “bụi” nhưng rất đàn ông! Cô gái khen.
Dường như thấy vị khách vẫn còn đứng đó, người thanh niên ngẩng lên:
- Chú cần gì thì đến chỗ làm việc, không thì ông già cáu đấy. Chú không biết hôm nay là ngày nghỉ à?
- Này cậu – Bộ trưởng nói – Cậu có biết cậu đang ăn nói với ai đấy không?
- Việc gì … phải biết?
- Cậu cần nên biết, vì cậu đang nói chuyện với một người hơn tuổi cậu rất nhiều và người đó nói năng rất lễ độ với cậu.
Người đàn bà lúc nãy lại khẽ hé cửa bước ra, hỏi:
- Chú là cán bộ hay công nhân?
Bộ trưởng cười:
- Tôi là công nhân, chị ạ.
- Nhà tôi đang ngủ, nếu chú muốn gặp thì chiều nhé. Chú ở đâu?
- Tôi cùng nghỉ ở dưới này?
- Ở khu sơ cấp hay trung cấp?
Bộ trưởng lại cười:
- Ở khu an dưỡng chị ạ.
- Được tôi sẽ nói lại với tổng giám đốc, chứ gặp lúc này không được đâu.
- Vâng, thế thì xin phép chị tôi đi.
Bộ trưởng đi rồi, người con trai nhìn theo, môi anh bĩu ra và hãnh diện nói.
- May phúc mà bố anh chưa dậy, công nhân mà cứ lớ sớ đến đây là ông riềng phải biết.
- Trong phòng ngủ, người đàn bà, vợ “tổng giám đốc” nhẹ nhàng thu dọn cốc chén trên bàn. Ở góc bàn có một lọ hoa lớn, một bình rượu trong đó có mấy con rắn nằm cuộn tròn. Chất bổ từ các con rắn tiết ra đã làm cho rượu ngả màu vàng sanh sánh như màu dầu ma dút. Trên tường có treo áo khoác lụa cộc tay .
- Người nằm ngủ cựa mình rồi hỏi:
- Mấy giờ rồi bà nhỉ?
- Mười giờ kém năm ông ạ.
- Mát trời, tôi thiếp đi lâu quá – Ông Bính vùng dậy. Mặc đồ ngủ trông gầy hơn thường ngày. So với Bộ trưởng quả là ông già hơn rất nhiều.
Ông ngồi lại bàn làm một động tác súc miệng rất cẩu thả rồi lấy thuốc hút. Bà vợ phốp pháp của ông mang đến một cốc trứng đánh kem. Bà rót trong hũ rượu rắn ra một chén đầy rồi mời.
- Ông ăn sáng đi. Tôi và các con đã ăn để chúng nó đi tắm rồi.
Khi ông đưa chén rượu lên nhắm thì vợ ông sực nhớ ra nhắc ông:
- Có khách đấy ông ạ. Cái chú gì quen quen tên là Đốc, là Đốc gì ấy. Tôi bảo chú cần gặp thì đến cơ quan, chỗ làm việc của ông.
- Bà giải quyết thế là đúng đấy. Thằng cha này đi tù về đang đến để mè nheo quyền lợi đấy mà.
- Còn một chú nữa – bà vợ tiếp – còn trẻ hơn ông. Chú ấy bảo là công nhân, nhưng lại mặc áo thường có vẻ cán bộ , người tầm thước. Chú này tôi cũng thấy ở đâu rồi đấy.
- Chết tôi rồi! Ông Bộ trưởng đấy. Sao bà lại gọi là chú!
- Thì thấy trẻ hơn ông, nói năng lại lễ phép tôi tưởng lính của ông.
- Lính với tráng, bà chỉ được cái hay nhận xằng. Mà thằng lái xe nhà mình đâu nhỉ?
- Ông cho về đến tối mới lên kia mà.
Ông Bính vò đầu chép miệng. Bà vợ của ông cũng lo lắng không yên. Ông bực bội mở cửa đi ra ngoài. Thấy đôi trai gái mặc quần áo tắm đang vồ vập hôn nhau, ông quát:
- Thằng Bông, mày ăn mặc thế à? Lúc có khách mày cũng thế à?
Rồi không chờ cậu con trai có phản ứng gì, ông lại bực tức quay vào. Ông hỏi bà câu đã hỏi:
- Cậu lái xe đâu nhỉ?
Bà trả lời câu đã trả lời với ông:
- Ông cho về đến tối mới lên kia mà.
Buổi sáng hè lồng lộng gió biển, rừng thông vi vu êm ả như lọc cho không khí thêm trong lành vậy mà đối với ông Bính, tất cả đều nực nội khó chịu. Vừa chớm ngồi xuống ghế ông đã bật dậy tuyên bố với bà:
- Về ngay bây giờ. Ra bến ô tô khách. Về để còn làm việc.
* *
*
Ông Đốc ngần ngại một chút rồi mạnh bạo đi vào.
- Xin chào Bộ trưởng ạ.
Bộ trưởng nhìn ông Đốc mấy giây. Mấy giây ấy đối với ông ta thật nặng nề. Đôi vai vốn gầy của ông càng dô lên
-Thưa … thưa Bộ trưởng … ông Đốc lúng túng.
- Thôi mời anh vào trong này – Bộ trưởng nói và nhìn người khách bằng cái nhìn thông cảm và độ lượng.
Trong phòng khách, ông Đốc lấy lại được bình tĩnh nhưng khi trình bày, lời ông vẫn run run.
- Thưa Bộ trưởng! Suốt cả tuần nay tôi chờ chực gặp tổng giám đốc Bính không được. Tôi … tôi liều mạng lên gặp Bộ trưởng… - Ông Đốc ngước mặt nhìn Bộ trưởng thăm dò rồi im lặng cúi đầu xuống.
- Thế anh đến gặp tôi có việc gì?
- Thưa Bộ trưởng, tù tội thì tôi đã qua. Tôi biết đời tôi đã hết. Tôi chỉ đến xin Bộ trưởng vài lời chứng nhận “quá trình công tác” may ra về địa phương người ta còn linh động cho phép mở cái quán nước nuôi thân ạ.
- Mới tạm giam thôi, chưa thể gọi là tù tội. Anh có thấy oan ức gì không?
- Thưa Bộ trưởng, kể ra thì cũng có oan nhưng oan thì kêu ai. Kêu trời – trời cao, kêu đất – đất dày – giọng ông Đốc buồn đến nẫu ruột.
- Vậy là anh đến kêu tôi.
- Thưa Bộ trưởng! Tôi không dám ạ. Tôi chỉ đến xin Bộ trưởng cái “ quá trình công tác”
- Cả tuần nay anh chờ gặp ông Bính không được sao mấy năm trước được gọi lên phụ trách vật tư , hậu cần cho ông ấy anh lại nhận lời?
- Thưa Bộ trưởng! – Mặt ông Đốc đỏ ran. Ông lúng túng nói tiếp – Tưởng là làm được, với lại được đề bạt tôi cũng thích, ai ngờ công việc cứ rối như mớ bòng bong, kẻ xấu lợi dụng đục khoét.
Bộ trưởng cười độ lượng:
- Khả năng của anh là làm cầu,làm đường, phá đá, nung vôi chứ đâu là chạy vật tư máy móc xăng xe,cơm áo gạo tiền.. Người ta đặt anh sai chỗ nên anh làm hỏng – Bộ trưởng ngừng một chút rồi nói tiếp – Tôi đã xem lại hồ sơ vụ này. Quả thật anh có bị lợi dụng. Tôi sẽ trả lại thẻ Đảng cho anh và trả anh lại xí nghiệp vôi đá, với chức vụ giám đốc của anh – Bộ trưởng vỗ vai người cán bộ cũ thân mật – Còn khỏe lắm, chưa nên ngồi bán nước vội…
Từ đôi mắt u buồn của người lính già những dòng lệ lả tả ứa ra. Những giọt nước mắt của người già. Bởi vì “những hạt lệ như sương” ấy chỉ ứa ra khi cuộc đời gặp lại những tuyệt đỉnh hạnh phúc hoặc tận cùng của đau khổ mà thôi.
Mười năm trôi qua kể từ ngày ở bộ đội chuyển ngành về Công ty giao thông, rồi chỉ huy công trường Đèo Thung, hai mươi năm trôi qua kể từ ngày tái ngũ, khi chiến tranh đánh phá miền Bắc của giặc Mỹ bắt đầu và hai mươi nhăm lăm trôi qua kể từ khi làm anh lính nghĩa vụ trong những năm đầu tiên có luật nghĩa vụ. Vậy là đã hai mươi nhăm lăm đời lính và công nhân, có mười năm ở chiến trường miền Nam, đối với Lê Thành Đốc, có biết bao nhiêu vinh quang và tủi nhục, có biết bao nhiêu hạnh phúc và khổ đau?
Ôi, có thể nói những năm ở chiến trường đối với anh là một thời kỳ sôi nổi đầy vinh quang, đối với tuổi trẻ của anh, trong bom đạn ác liệt mà sao anh cảm thấy nhẹ nhàng, sự hy sinh chẳng hề đắn đo tính toán. Với cương vị người lính, anh đã đào xúc hàng ngàn mét khối đất đá làm đường, anh đã đánh hàng ngàn khối thuốc nổ, anh đã phá gỡ hàng trăm quả bom… mà chẳng mấy cực nhọc, nguy hiểm là gì, mà cũng chẳng hề suy nghĩ trước và sau đó là gì, có lệnh cũng làm, không có lệnh cũng tự động làm, làm xong, ăn no ngủ kỹ, thật là vô tư, thật là thanh thản. Với cương vị chỉ huy, anh đã từng đứng vững bên bờ sông Nậm Bạc, ở đỉnh đèo The Mé, đã trụ trên nhiều cao điểm ở Trường Sơn đã vượt sông Cò Rạt trong chiến dịch Hồ Chí Minh …tất cả, đối với anh chỉ là thắng lợi, chưa hề nếm mùi vị thất bại bao giờ. Đồng đội của anh, chiến sĩ của anh,thật là sôi nổi hăng hái, thật là hùng mạnh, chỉ cần hô một tiếng, là trăm người như một, công việc cứ chạy băng băng, chẳng nề hà bom đạn tàn khốc, bão táp dập vùi, anh chỉ huy trong chiến tranh mà cảm thấy nhẹ nhàng hơn hàng trăm lần, so với việc chỉ huy làm đường ở Đèo Thung – Đường 6B, và cũng dễ dàng hơn hàng ngàn lần so với xí nghiệp vôi đá trong thời bình. Những cán bộ chiến sĩ,công nhân dưới quyền anh, trong đơn vị anh, tất thảy đều vô tư trong sáng, chẳng mấy ai suy nghĩ đến riêng mình.
Những chiến công trong những năm khói lửa là niềm tự hào mãi mãi trong đời anh, mà những tấm huy chương và những phần thưởng là dấu ấn của cuộc đời.
Rồi hòa bình đến, đất nước được thống nhất, anh những tưởng được rời quân ngũ trở lại với bàn tay người thợ của anh ở một xí nghiệp mà cha anh đã truyền nghề cho anh. Nhưng vì cấp trên trân trọng cái thành phần cơ bản, giai cấp công nhân của anh và nhất là tôn trọng cái kinh nghiệm người lính công binh của anh, nên người ta đã giữ anh ở lại với các đơn vị giao thông làm đường, xây dựng cơ bản, làm kinh tế. Cho dù tuyến đường 6B có khó khăn, nhất là ở Đèo Thung, kỹ thuật khá phức tạp.
Cho dù việc phá đá, nung vôi còn nhiều bỡ ngỡ, với việc tính toán lỗ lãi trong sản xuất, nhưng nó vẫn còn là đúng nghề nghiệp giao thông và công binh của anh, anh còn có thể làm được, cho dù lúc đầu có vấp váp, có đấu tranh, cãi cọ nhau nhưng rồi cũng sẽ làm được, cũng sẽ xong từng bước, từng bước phát triển.
Còn từ khi ông Bính, vốn là giám đốc công ty cũ cũ lên phụ trách Tổng công ty lại kéo anh về phụ trách Vật tư , thì quả là anh ăn phải quả đắng từ đó, và cũng là nỗi nhục của anh từ đây – Ông Bính kéo anh về phòng Vật tư để làm việc cho ông. Nhưng khốn nỗi anh có biết gì về “ vật tư máy móc, xăng xe củi đóm…”, chả nhẽ trên giao lại không nhận, vả lại trong toàn ngành này, hỏi có ai được đề bạt lên cấp lên chức mà lại từ chối không? Có người họ chỉ cần được đề bạt ở cái chức nào đó (cho dù họ chẳng hiểu biết gì về công việc cả) để làm đà cho một cái chức cao hơn, có chức có cấp thì có quyền có thế, có bổng lộc. Đối với Đốc, cái ngày nhận chức phó phòng phụ trách trưởng phòng Vật tư Tổng công ty là một ngày bất hạnh. Và chỉ hơn một năm sau, tai họa đã dáng lên đầu anh bởi anh lúc đó cũng hám chức, hám quyền, chủ quan, dốt nát, cứ tưởng mình sẽ làm được tất cả, sẽ đổi mới tư duy, sẽ thay đổi được cả thế giới chứ đâu chỉ đổi mới cái phòng Vật tư này. Và anh đã được trả giá cho cái đầu hám danh vọng của mình, một số cấp dưới lọc lõi và xảo quyệt của anh đã lợi dụng khe hở ngu dốt của anh để làm bậy mà anh không biết, mà anh vẫn ký để chúng tham ô, móc ngoặc với nhau, mà người chịu hậu quả lại là anh.
Thật cũng may cho anh, trên đời này vẫn còn nhiều người tốt và anh đã rơi vào vòng quản lí của một vị Bộ trưởng công minh, sáng suốt, nên đã gỡ tội cho anh, và lại trả anh về với cương vị cũ của anh, nghề cũ của anh, cái nghề công nhân phá đá, mở đường mà anh đã từng làm trên hai mươi năm, không mấy người trong ngành kỹ thuật này đã đuổi kịp kinh nghiệm của anh.
Thế là anh lại được trở về xí nghiệp vôi đá của anh. Lại còn một may mắn nữa, đó là kể từ khi kỹ sư Đồng, người bạn, người đồng đội mà anh đã kính phục từ công trường Đèo Thung, cậu em rể của anh về thay anh làm giám đốc đến nay thì xí nghiệp đã ăn nên làm ra gấp ba bốn lần so với trước đây, vì thế nên cách làm ăn, mối quan hệ được rộng rãi hơn. Sau hai năm ra đi, anh lại trở về tiếp quản xí nghiệp của Đồng, chính Đồng đã tạo thế cho anh để anh gỡ lại những tai tiếng mà anh đã gánh chịu, khôi phục lại cái “uy tín ” của anh. Anh thầm cảm ơn Đồng, chỉ tiếc rằng chúng nó lại hục hặc với nhau. Nghe mẹ nói, anh biết rằng Huyền, em gái anh đã có sai lầm, sa ngã, mà lại còn chủ động đòi cắt đứt với Đồng. Anh đã nhiều lần biên thư và gặp gỡ khuyên nhủ, thậm chí cả mắng chửi Huyền, nhưng cô ta vẫn chứng nào tật ấy, và lại một lần nữa hỗn láo với anh trai:
- Anh hãy sờ vào gáy, và hãy giữ lấy vợ anh ấy! Đã tưởng đẹp mắt lắm sao mà còn dạy khôn tôi. Anh em kiến giải nhất phận, ai có thân người ấy lo!
Câu nói của Huyền làm anh nhức nhói trong lòng, và phải im lặng – Bởi vì, cái đường tình yêu, cái đường hạnh phúc của mình, nào có êm thấm gì hơn Đồng đâu.
* *
*
Mối tình đầu của anh là đối với Minh, một cô giáo cấp 2 dạy ở ngay làng anh. Hai người rất yêu nhau, đã từng đi lại chung đụng với nhau, chỉ còn chờ ngày cưới. Vậy mà Minh đã tuột khỏi tay anh, chỉ vì gia đình Minh và Minh không muốn cho anh ở bộ đội – Mối hận đó, làm Đốc ghét cay, ghét đắng bọn con gái. Mãi đến khi thống nhất đất nước từ chiến trường trở về, gia đình giục anh lấy vợ, nhưng anh vẫn thờ ơ, mặc dầu đã ngoài ba mươi tuổi.
Cho đến thời kỳ làm đường ở Đèo Thung, chẳng hiểu bằng cách nào, mà cái cô y tá có khuôn mặt tròn xinh và thân hình “thon thon hình vại” ấy đã bắt mất hồn đội trưởng, và chắc hẳn được cô em gái Huyền của anh vun đắp nhiều. Tuy nhiên, cũng mãi đến hai năm sau, với Hoài – tên cô y tá ấy , họ mới cưới nhau, và Hoài cũng được chuyển về một bệnh viện huyện quê Hoài công tác – Từ đó vợ chồng lính cứ biền biệt xa nhau, năm thì mười họa Đốc mới được về phép hoặc tranh thủ một hai ngày – Khi Đốc về xí nghiệp vôi đá, cũng muốn đưa vợ về xí nghiệp cho gần gũi nhau, cùng trông nom dạy dỗ con cái. Nhưng chết nỗi dạo đó cơ quan không cho tuyển người ngoài ngành, hơn nữa xí nghiệp cũng chưa có khu gia đình thì ăn ở vào đâu?
Mặc khác cái bệnh sĩ của Đốc cũng không muốn phiền hà xí nghiệp và cấp trên, ê kíp này, ô dù nọ… thành thử vợ chồng cứ xa nhau mãi, xa hàng hai trăm cây số. Sau bảy năm lấy vợ, có hai mặt con mà vẫn chưa xích được lại gần nhau để được ăn cơm nhà, để được hàng ngày nhìn thấy nhau. Đối với người khác thì đã hòa bình từ lâu. Với riêng anh vẫn còn chiến tranh, cuộc chiến tranh không có tiếng súng, chẳng có ai đâm chém đánh đập nhau, mà vợ chồng con cái vẫn phải xa nhau, nỗi đau cho cuộc sống gia đình của họ, trong hoàn cảnh đất nước ngày càng khó khăn, kinh tế thiếu thốn. Với đồng lương của Hoài nuôi ba mẹ con thì quá là chật vật. Đốc cũng vẫn dành dụm gửi về, nhưng cũng chỉ đủ đóng tiền học, tiền mẫu giáo, gửi trẻ và mua quần áo cho trẻ. Hoài đã phải nuôi lợn, nuôi gà, trồng rau để cải thiện đời sống mà vẫn thấy vất vả và kham khổ.
Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, đã túng đôi khi cũng phải tính, Hoài chạy thêm thuốc men ngoài kế hoạch để bán kiếm đồng lời, có khi cũng bớt thuốc trong kho, giảm thuốc của bệnh nhân để tích góp lại bán kiếm đồng quà bánh cho con. Còn một nguyên nhân làm cho Hoài bị tai vạ nữa. Ấy là cái thân hình phốp pháp trời phú cho, trông cô như một cái giò nạc, với bộ ngực quá cỡ, với bộ mông, bộ mặt trắng trẻo có duyên với đôi mắt sắc như dao. Toàn bộ thân thể Hoài trông thật hấp dẫn, mà lúc nào trông cô cũng hừng hực khí thế của một sự thèm khát chưa bao giờ được thỏa mãn.
Với một bà vợ như thế, mà đức ông chồng lại ở xa hàng trăm cây số, hàng hai, ba tháng mới về một lần, thì làm sao mà bọn ma quỷ ở xung quanh chịu để yên mà chẳng tấn công. Tấn công trực diện không được thì chúng dùng mọi mưu ma chước quỷ để đặt bẫy giăng lưới. Nhất ở cái nghề y, một nghề vốn coi thân thể lõa lồ của người ta là chuyện bình thường. Bọn người máu mê, ham của lạ, cứ giăng bẫy mãi từ nhỏ đến to, khi thì mấy gói quà cho trẻ nhỏ, lúc thì ít thuốc thừa kiểm kê, ít tiền bồi dưỡng, sự chiều chuộng chăm sóc của bề trên, rồi có thể bị quy tội lỗi tham ô, ăn hối lộ, thụt kho… sẽ bị kỷ luật hoặc truy tố, rồi một bàn tay cứu vớt để ghi sâu ân huệ, mong trả nghĩa, trả tình thậm chí có lúc dùng thủ đoạn nghề nghiệp để kích dục nữa. Cứ bị lưới bủa vây xung quanh, thì cảnh vợ lính biền biệt xa chồng, nhất là cô vợ ấy lại có thân hình mạnh mẽ, sức khỏe dẻo dai, đòi hỏi sự cân bằng sinh lý là lẽ tự nhiên của trời đất.
Sự xa lưới của Hoài rất êm dịu, Hoài vẫn cố gắng giẫy giụa, như con cá, càng giẫy càng bị lưới quấn vòng thêm. Nhưng Hoài vẫn chống đỡ, chỉ thi thoảng mới chịu nhượng bộ mà thôi. Đó là với anh chàng trưởng khoa ngoại mà Hoài là y tá phòng mổ. Đó là một chàng trai trẻ khỏe mạnh, có một sức bền bỉ dẻo dai, phi thường, mà Hoài chưa từng thấy. Hắn có thể làm cô thỏa mãn ngay trên bàn mổ trong suốt buổi chiều, khi không có bệnh nhân. Tuy nhiên những buổi làm tình đó vẫn chỉ thưa thớt và vẫn giữ được kín đáo.
Nhưng đến khi cái tin Đốc bị bắt đi tù bay về đến quê, bay đến bệnh viện thì bọn đầu trâu, mặt ngựa ra sức tung hoành, chúng lợi dụng hoàn cảnh đau buồn và khó khăn của Hoài, không những không có tiền lương gửi về cho vợ con, mà lại còn phải tiếp tế cho chồng ở trại giam nữa, cô phải chạy vạy vay người này người nọ. Không phải chỉ khó khăn về kinh tế mà còn liên quan về chính trị nữa, luôn luôn bị đe dọa đuổi khỏi bệnh viện, vì là vợ một thằng tù. Cứ thế bọn ma vương, quỷ sứ thi nhau tìm cách đập phá, cắn xé tâm hồn cô, trấn lột thể xác cô, không phải chỉ một thằng muốn mà nhiều thằng muốn. Giữa lúc đau buồn và khốn khổ cùng quẫn, cô đã phó mặc cho đời, muốn đến đâu thì đến. Trước đây cô chỉ cho dấm dúi ban ngày trong giờ làm việc một cách kín đáo. Bây giờ cô cho cả ban đêm, thậm chí kéo cả về nhà mình. Cứ thả sức cho nó mệt bở hơi tai ra, rồi ngủ chẳng biết trời đất là gì nữa, để khỏi phải suy nghĩ nhức đầu.
Nhưng sự đời, cái gì cũng có giới hạn của nó, nhất là cái sự chơi bời mà quá đáng, thì lại càng có tác hại ngược lại. Những sự chung đụng với nhiều người, nhiều nơi, những cuộc liên hoan rượu chè thâu đêm, suốt sáng và những cuộc làm tình thái quá, đã không để cho cô được “yên ổn, quên sự đời” mà ngược lại đã làm cô mệt mỏi triền miên, rồi cô bị ốm đau thật sự, càng ốm càng suy nghĩ, càng suy nghĩ càng đau. Chỉ trong vòng hơn tháng trời, Hoài quỵ hẳn, nằm liệt giường, và sau đó hai tuần, cô Hoài chỉ còn là một cái thân tàn, ma dại, người gày dộc đi hẳn, từ năm nhăm cân chỉ còn trên ba mươi cân. Đôi mắt cô sâu thẳm, trắng dã và đờ đẫn. Nước da đen xạm và chân tay mặt mũi nhăn nheo như một bà lão.
Lúc này chẳng còn thấy ma quỷ nào đến chơi bời tán tỉnh, thăm hỏi nữa, họa chăng chỉ có mấy cô bạn thương tình thi thoảng đến thăm nom – chỉ khổ cho bà mẹ già và hai đứa con nhỏ thay nhau trông nom cô. Tình hết, tiền hết. Người ở tù khắc khoải vì chờ đợi tiếp tế. Người ở nhà vật vã khóc than cho số phận lạc loài. Ở cả hai đầu đều vô vọng. Chẳng biết trời có thấu hiểu được chăng?
Khi được phục hồi chức giám đốc xí nghiệp, Giám đốc Đốc được cấp một căn hộ trong khu gia đình – Khu này do kỹ sư Đồng chủ trương xây dựng suýt nữa cũng bị đi tù – Ông Đốc liền xin phép Bộ trưởng cho đưa vợ con lên xí nghiệp. Khi thấy chiếc xe con của ông Đốc đi về quê, bọn ma quỷ đã tàn phá cuộc đời cô Hoài liền chạy trốn hết, sợ bị ông trả thù. Ông được nghe những chuyện trên do chính vợ ông nói ra qua dòng nước mắt, và được bà con hàng xóm cung cấp thêm. Ông không nói được một lời nào vì uất ức, vì tủi nhục. Ông lặng lẽ thu xếp đưa vợ con và bà mẹ vợ lên xe từ biệt bãi chiến trường đau khổ của Hoài lên đường về xí nghiệp.
Ông càng thương Hoài và tận tình dốc sức chữa chạy cho Hoài, mãi ba tháng sau cô mới ra hồn người và phải hơn một năm sau mới hồi phục thân thể Hoài lại được béo tốt và duyên dáng như xưa – Nhưng trên trán cô đã hằn lên những nếp nhăn oán hờn, không sao phẳng lại được.
CHƯƠNG X
Trên tầng hai của một ngôi nhà kiểu như chiếc vi-la nhỏ, một cô gái khoảng 27 tuổi đang chọn những quyển sách xếp lại từng loại. Phía tường có đóng một miếng gỗ nhỏ bào nhẵn chạm mấy nét hoa văn, trên có đặt tấm ảnh viền khung tang. Người trong ảnh là một nữ đại úy, ngực đeo nhiều huân chương. Ở một góc khác của căn phòng kê chiếc giường một, trên cọc màn có treo chiếc áo quân phục, với cấp hiệu thượng úy gắn trên ve.
- Bố bố! – cô gái bỏ việc chạy ôm chầm lấy Bộ trưởng khi ông đẩy cửa bước vào.
- Các con về lúc nào đấy? Em Quân con đâu?
- Nhà con tối mai mới về được. Em Quân dặn khoảng sáu giờ sẽ về ạ. Chết, nó cứ đi suốt ngày bố ạ.
- Ừ, có mấy ngày phép cho nó thoải mái một chút.
- Bố ơi – con gái Bộ trưởng đưa hai tay một gói nhỏ cho ông nói – Vừa rồi anh Tình con đi Tây Nguyên mua mấy lạng sâm Ngọc Linh biếu bố.
Bộ trưởng cảm động nói:
- Cảm ơn các con nhưng bố chưa phải dùng thuốc.
Cô gái nhìn bố rất lâu rồi phàn nàn:
- Bố ơi, dạo này trông bố già đi nhiều quá! Gía như hồi năm 75 con không ích kỉ… - Giọng cô gái bùi ngùi – bây giờ có phải có người chăm sóc bố?
Bộ trưởng vui vẻ cho con gái yên lòng.
- Thì đã có chế độ nhà nước và các con chăm lo cho bố rồi. Sức bố còn đủ để đọ với chú lính biên giới nhà mình đấy.
Cô gái vẫn giọng lo lắng.
- Sắp tới con và anh Tình sẽ chuyển vào trong Vũng Tàu. Em Quân thì còn “hám” quân đội lắm. Bố ạ, với lại nghe người ta nói : “con nuôi cha, không bằng bà nuôi ông”
- Con gái nói buồn cười quá. Đến cái tuổi này còn lo lấy vợ… Buồn cười, buồn cười quá con ạ.
Ông nói rồi cười ngất, nhưng gương mặt ông hồng tía lên. Bộ trưởng đã bối rối trước lý lẽ của con gái.
Giữa lúc ấy, một thanh niên khoảng 23,24 tuổi mặc quần bò áo phông có nhiều vệt sọc cắt ngang nhiều màu sắc.
- Bố! – Người thanh niên reo lên rồi chạy ào lại phía Bộ trưởng. Ba bố con quấn quýt lấy nhau, Bộ trưởng vuốt mái tóc cắt ngắn của con trai đùa:
- Lính tráng mà ăn mặc thế này trông có vẻ trai lơ quá đấy.
- Hết hôm nay thôi bố ạ. Cô bạn gái rủ con đi quán phong lan mà.
- Đùa cậu chút thôi, chứ bố mà là con gái nhìn thấy tóc cậu, bố đoán ngay là bộ đội hoặc công an, cậu có mặc giời đi nữa cũng không giấu được. Nói chung là ăn chơi không đồng bộ.
Câu đùa của Bộ trưởng khiến cả ba cha con cùng cười. Bộ trưởng hỏi Quân:
- Tham mưu trưởng tiểu đoàn thử báo cáo cho Bộ trưởng xem bây giờ mặt trận biên giới cần gì nào.
- Con muốn là xe của bố lên được tận các chốt.
- Nghĩa là đồng chí tham mưu trưởng cần những con đường tốt?
- Vâng ạ. Và nữa là những căn hầm to như cái mái nhà này, chúng con sẽ tổ chức thư viện, câu lạc bộ…
Bộ trưởng gật đầu tán thành.
- Và còn điều này nữa bố ạ…
- Quân, em quên chuyện ấy rồi à? – Con gái Bộ trưởng hỏi cắt ngang.
- Vâng vâng… - Quân phấn chấn nói – Bố ơi, con và chị Hằng đã bàn. Có cô Thuận ở thành hội rất hợp với chúng con. Bố đồng ý đi. Con và chị Hằng sẽ làm chủ hôn cho bố.
- Mà cô ấy cũng rất quý bố! – Hằng nhanh nhảu ủng hộ.
Nghe các con nói, vẻ mặt Bộ trưởng như buồn hẳn đi. Hằng dò hỏi: - Hay là bố còn giận chuyện hồi năm 75 con ngăn cô Liên…
- Không đâu các con ạ - Bộ trưởng âu yếm nhìn hai con rồi xúc động nói tiếp – Các con ạ, người ta ai cũng có một nguồn cội, để thờ phụng. Đừng chê bố là nệ cổ. Liệu các con có tìm cho bố được một người như mẹ con không?
Bộ trưởng đột ngột im lặng. Hằng lén chùi nước mắt, còn Quân cũng ngồi ngây ra rồi cậu trách móc:
- Tại chị Hằng đấy!
- Quân con… - Bộ trưởng nhìn con trai như muốn nói thêm điều gì đó thì chuông điện thoại réo vang một hồi dài. Ông đi lại cầm máy nói.
- Alô. Vâng tôi đây. Anh Bính đấy à? Sao? Cậu Đồng cho phá đê à? Sao? Đồng chí đề nghị cho bắt giữ à? Không cần thiết? Sao? Lại ngăn bộ đội không ra cứu đê à? Hừ!
Trong lúc Bộ trưởng nói chuyện. Hai con ông đứng theo dõi và đã đoán ra gần hết câu chuyện. Quân mặc quân phục còn Hằng chuẩn bị áo mũ cho bố. Dường như họ đã quen với tác phong khẩn trương trong những hoàn cảnh bất ngờ của người cha suốt đời tận tụy.
Thượng úy Quân và Bộ trưởng vội vã đi ra khỏi nhà. Ngoài trời mưa gió gào rít.
* *
*
Buổi sáng hôm sau trời quang mây tạnh. Trong và ngoài con đê nước ngập mênh mông ở chỗ lỗ vỡ, nước triều đã lên đầy và dừng lại. Mặt nước phẳng lặng không còn chảy xiết nữa.
Trên hai chiếc xà lan nhỏ, Đồng chỉ huy các công nhân và chiến sỹ cứ hai người một cọc có quấn hai đoạn chão ở phần ngọn. Họ dòng cây cọc dài hơn 10m xuống nước thận trọng cho bám vào đất rồi một người trèo lên ngọn cọc, hai người đứng ở hai xà lan kéo đi kéo lại. Chiếc cọc từ từ lún xuống như chiếc mũi khoan lớn khoan vào lòng đất. Họ làm rất khẩn trương vì chỉ ít phút nữa khi nước triều xuống, nước trong đồng theo lỗ vỡ này chảy ra, và chính ở đây sẽ biến thành một thác nước.
- Bộ trưởng! Bỗng Đồng reo lên khi ngước nhìn lên thấy vị bộ trưởng đã đứng đó từ bao giờ.
- Các đồng chí! – Ông nói và lần theo lối mòn định nhảy xuống chỗ sà lan.
- Báo cáo – Đồng vội ngăn Bộ trưởng – nước sắp rút ra rồi. Chúng tôi cho kéo sà lan ra ngay bây giờ ạ. – Nói rồi anh hạ lệnh cho công nhân và bộ đội kéo sà lan ra.
Mặt nước đã hơi nghiêng và bắt đầu chảy. Lên bờ rồi, Đồng chạy lại chỗ Bộ trưởng nói:
- Báo cáo, chỉ một phút nữa chỗ này sẽ trở thành một dòng thác.
Cậu tính thế nào mà cho phá một đoạn đê nữa?
- Thưa Bộ trưởng, chúng tôi đã tính rồi, với mức chảy như ở đây thì không có cách gì để cắm được hàng cọc xuống mà thả các rọ đá, nên chúng tôi san dòng chảy ra hai nơi rồi áp dụng cách đóng cọc trên sông Bạch Đằng ngày xưa của cha ông. Đóng xong cọc ở cả hai lỗ vỡ chúng tôi sẽ tiến hành lấp cùng một lúc.
Bộ trưởng nghe xong gật đầu tán thưởng:
- Sáng tạo. Như thế này chắc chắn là được.
Tôi bổ sung cho các đồng chí hai đội cơ giới hạng nhẹ và tiến hành lấp ngay ngày mai được không? Hay lại chối từ như đêm qua?
- Thưa Bộ trưởng bây giờ thì tôi nhận lực lượng tăng viện. Xin báo cáo thêm với Bộ trưởng, đêm qua tôi không nhận viện trợ của tổng giám đốc Bính vì lẽ đưa anh em ra ngồi gió rét để canh đê khi không đáng canh – Đồng nói xong bất giác nhìn xuống chỗ đê vỡ.
Nước đã bắt đầu chảy xiết, cồn lên từng đụn lũm xoáy. Nhưng những cây cọc được cắm sâu trong lòng đất vẫn đứng vững chắc. Phía bên kia lỗ vỡ, những người công nhân và bộ đội đang chuyển những chiếc rọ đá sát mép bờ.
Bộ trưởng đi đi lại lại, ông nhìn ra xa. Nước triều rút để lại phía ngoài đê một bãi bồi màu mỡ rộng mênh mông. Ông bỗng phấn chấn nắm lấy tay Đồng:
- Đồng chí hãy nắm lấy đơn vị. Miền đất này đang cần có những con đê như thế này. Đồng có dám nghĩ mười năm nữa chúng ta ra hòn đảo kia bằng một chiếc cầu không?
- Vâng, thưa Bộ trưởng, đó là một ước mơ lãng mạn có đủ hiện thực thuyết phục. Nhưng thưa đồng chí, là một người công nhân giao thông, chúng tôi vẫn luôn luôn nhớ là mình còn nợ những đồng đội của mình ngoài biên giới. Bộ trưởng cho chúng tôi được thực hiện những dự án đã trình bày với đồng chí.
- Đồng yên tâm. Điều đó chính con trai tôi cũng đã nhắc tôi rồi.
* *
*
Lại có một hội nghị khoa học được tổ chức trong một hội trường lớn. Dòng chữ lớn cắt bằng giấy bạc dán trên nền phông bằng vải nhung đỏ. “HỘI NGHỊ KHOA HỌC VỀ ĐÊ LẤN BIỂN &MỞ ĐƯỜNG RA ĐẢO CÁT” là tinh thần của hội nghị.
Trên bàn đại biểu có khoảng mười người ngồi, trong đó có ông Bính.
Ông Thận đang kết thúc hội nghị:
- Qua hai ngày làm việc khẩn trương, khoa học và chất lượng chúng tôi xin phép được tuyên bố hội nghị của chúng thành công tốt đẹp.
Một tràng vỗ tay rôm rả cắt ngang lời. Chờ cho tràng vỗ tay kết thúc, ông Thận ngẩng cao đầu, lời ông rành rọt, ngữ điệu hung hồn:
- Xin phép được cảm ơn chân thành các vị đại biểu, các nhà khoa học đã đem đến hội nghị những đóng góp quý báu nhằm hoàn thiện lý luận. Một lần nữa kính chúc các vị đại biểu dồi dào sức khỏe, thành công, trong công tác và phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp khoa học.
Lại một tràng vỗ tay như pháo nổ.
Những phút nồng nhiệt trôi qua. Các đại biểu lần lượt đứng dậy.
Ở chỗ cửa hội trường, hai thiếu nữ áo dài thướt tha kính cẩn đưa bằng hai tay những túi quà biếu mỗi đại biểu khi ra về.
Khi mọi người về hết, chỉ còn lại hai người.
Ông Bính nắm tay ông Thận lắc lắc:
- Hôm nay anh nói giỏi quá! Đúng là xứng đáng với tầm cỡ một Phó chủ tịch Tỉnh.
Ông Thận phấn chấn:
- Khả năng đó là trong tầm tay. Bây giờ thì anh phải giúp tôi. Vấn đề muôn thủa vẫn là ê kíp anh ạ - anh kéo được cậu Đồng ra nữa thì tốt.
- Sao? Anh bảo kéo cậu Đồng ra làm gì?
Nhẹ cho chúng mình rất nhiều. Hôm qua tôi nằm đọc lại Tam Quốc thấy mình còn ngây thơ trong việc dùng người lắm. Anh rỗi thì nên đọc lại.
- Vâng! Riêng phần tôi thì chuyển được lúc này là tốt. Tổng công ty sắp phải đi làm đường biên giới rồi. Sức tôi thế này anh bảo chống chọi được mấy hả.
- Được rồi tôi sẽ có kế hoạch với tỉnh. Vấn đề là tính cách chuyển thế nào cho ngọt. Năm nay anh bao nhiêu nhỉ?
- Năm sáu anh ạ.
- Tốt, còn được bốn, năm năm nữa.
- Xin cảm ơn anh trước – Ông Bính nói và lại cầm tay ông Thận lắc lắc trước khi ra khỏi hội trường.
* *
*
Văn phòng của Bộ trưởng. Vị bộ trưởng đang ngồi nghe ông Bính trình bày. Có lẽ đã kết thúc một vấn đề nào đó nên ông ngồi lặng đi một lúc. Trên gương mặt ông thoáng những nét đăm chiêu – Bộ trưởng hỏi:
- Chắc anh còn muốn đề đạt điều gì phải không?
- Thưa Bộ trưởng – Ông Bính nói – trong lúc đang có hiện tượng cán bộ trẻ xin ra, cán bộ già xin ở lại. Tôi cũng có suy nghĩ nhiều. Hôm nay thành thật xin Bộ trưởng cho tôi được nghỉ. Tôi thấy mình cũng yếu rồi, ở lại sợ mang tiếng là sức cùng lực kiệt mà vẫn giữ chỗ.
Nghe xong Bộ trưởng chưa trả lời vội mà im lặng giây lát rồi hỏi:
- Ngoài nguyện vọng đó anh có còn đề xuát gì nữa không?
- Thưa Bộ trưởng – giọng ông Bính phấn chấn hẳn lên – Dạ, nếu như anh Thận chưa báo cáo với Bộ trưởng thì tôi cũng xin mạnh dạn đề nghị là bên thủy lợi tỉnh P. đang thiếu người vì sắp tới anh Vũ Thận sẽ được đề bạt cao hơn. Xin phép Bộ trưởng cho tôi ra đó vừa làm vừa nghỉ để đợi hưu.
- Sao? Đi trị thủy cho một tỉnh mà lại vừa làm vừa nghỉ để đợi hưu à? Bộ trưởng khôi hài hỏi:
- Dạ… Ông Bính lung túng nhưng ông kịp chống trả - Đó là cách nói khiêm tốn thôi ạ. Thưa Bộ trưởng, cái chính là trong ngành tôi không có đất.
Sắc mặt Bộ trưởng trở nên nghiêm trang
- Chả lẽ ở cái tuổi này tôi còn nặng lời điều ân nghĩa với anh – Bộ trưởng nói – mấy chục năm anh ở trong quân đội rồi chuyển ngành sang giao thông cũng đã hơn chuc năm rồi .Kể cả hồi ở trong quân đội và sang giao thông, anh toàn được ngủ giường ở cơ quan không biết chiến trường, không biết biên giới là đâu, vậy mà cũng đã được đứng ở địa vị tổng giám đốc một tổng công ty lớn của Bộ. Nếu giao thông không có đất cho anh thì anh ở đâu?
Bộ trưởng đứng dậy đi đi lại lại. Cuối cùng ông quyết định.
- Tôi đồng ý cho anh chuyển.
Mắt ông Bính sáng lên những tia rất lạ lùng. Ông đứng dậy và lắp bắp nói:
- Cảm…ơn Bộ trưởng.
- Anh cứ ngồi xuống đã.
Ông Bính hồi hộp ngồi xuống. Hai con mắt ông chăm chú nhìn Bộ trưởng. - Yên tâm. Anh sẽ được ra thôi. Nhưng nhắc anh hai việc. Việc thứ nhất có tính chất mệnh lệnh là anh phải giải tán ngay tổ cần vụ, chỉ giữ lại một người, trả các cán bộ đang ngồi chơi xơi nước ở các chiêu đãi sở về đơn vị để họ sản xuất, công tác. Đừng bắt người thay anh phải giải quyết tiền lệ này nữa. Còn điều thứ hai là tâm sự từ đáy lòng đồng chí, với tình cảm ấy tôi nhắc anh là việc trị thủy cho một tỉnh không dễ hơn chỉ huy một đơn vị tổng công ty đâu. Ông Bính “vâng dạ” luôn miệng. Thật quả đối với ông lúc này biểu lộ thái độ như vậy là khôn ngoan nhất.
* *
*
Đi bộ đội, nói chung đối với mọi người là một con đường đầy gian lao vất vả, là con đường đầy chông gai ác liệt, đầy gian khổ hy sinh, là con đường của máu và nước mắt, đó là con đường dài theo năm tháng của chiến tranh và của đời lính, là con đường vươn dài theo khắp nẻo đường đất nước từ Nam chí Bắc, từ biên giới đến hái đảo, từ Trường Sơn đến Cửu Long, từ rừng U Minh đến mỏm cao Mèo Vạc, nơi tận cùng đất đai của Tổ quốc.
Có nhiều người đã đi hết con đường đời bộ đội của mình và cũng đi hết các nẻo đường của Tổ quốc. Nhưng cũng có nhiều người đã không đi hết con đường của mình, họ đã ngã xuống ở giữa đường đời của họ, và ở khắp các nẻo đường chiến tranh. Dòng máu của họ đã tiếp sức cho những người còn sống, là đồng đội của họ trên chiến hào, là thân nhân của họ ở quê hương.
Thế mà riêng “con đường đời bộ đội” của ông Bính thì lại thật là đơn giản, là con đường rất nhẹ nhàng, đầy hoa tươi và nụ cười, đầy ấm no và hạnh phúc. Nó nghịch lý với chính cái tên gọi của nó, và khó tin đến nỗi không thể tin được - Ấy vậy mà nó đã có thật đấy, nó đã chạy suốt cả cuộc đời của ông Bính, nó chạy song song bên ria cuộc chiến tranh, và nó cũng chỉ chạy quanh quanh trong phạm vi địa bàn huyện, địa bàn tỉnh của ông – Thật là kỳ lạ. Gần bốn mươi năm đời lính, quân đội và giao thông, đã trải qua ba cuộc chiến tranh, mà lúc nào người ta cũng có thể gọi ông là “bộ đội xóm” bởi vì thông thường ông chỉ đóng quân xa nhà từ 5 đến 10 cây số, có thể đạp xe về ăn cơm nhà được, khi xa nhất cũng chỉ 20 – 30 cây số, trong địa bàn tỉnh, vẫn có thể đi ô tô về ăn cơm và ngủ nhà được, khi ấy ông đã có xe đưa xe đón. Thật là kỳ lạ, ba mươi năm đời lính, ông chưa hề biết biên giới ở đâu – Thậm chí ông còn chưa biết bắn thành thạo khẩu súng trường, ngay cả khẩu sung ngắn mà ông đeo kè kè bên hông chứ đừng nói gì đến trung đại liên hay bom mìn lựu đạn nữa - Ấy vậy mà trên ngực ông cũng đỏ rực huân chương không kém gì người ở chiến trận về; huân chương niên hạn thì đã đành rồi, nhưng ông lại còn có cả huân chương chiến công, huân chương quân công nữa mới lạ chứ. Ấy vậy mà ông cứ lần lượt được lên chức lên cấp, leo những nấc thang danh vọng còn nhanh hơn những người đang đổ máu ở chiến trường nữa.
Có người bảo rằng: ấy là nhờ mồ mả tổ tiên nhà ông, ấy là nhờ hồng phúc của ông cha ông để lại, ông có số đỏ, ông có vạch vàng, nhà ông có mả làm quan. Lại cũng có người bảo rằng, nhà ông là dân kẻ chợ, bố mẹ ông là dân buôn, ngay từ bé ông đã tiếp thu được cái năng khiếu của bố mẹ. Nên ông đã hơn hẳn bố mẹ ông. Nếu trước đây bố ông về giàu có chỉ đứng vào hàng nhất nhì trong làng xã, và chức quyền cao nhất cũng chỉ là chân phó lý mua được, thì bây giờ về giàu có ông đã đứng vào hạng nhất nhì trong hàng huyện, hàng tỉnh, và chức quyền thì ông hơn hẳn loại quan huyện quan tỉnh thời Tây.
Những lời đồn đại tai vách mạch rừng kể lại rằng. Bằng mọi mánh khóe, ông Bính đã né tránh, vượt qua được cả ba cơn lốc chiến tranh, không phải xông pha trận mạc. Những ngày đầu tiên vào lính, ấy là những năm chống Pháp, ông tình nguyện làm chức “hỏa đầu quân” tức là chân nấu bếp, với lý do, ông là con ông lò mổ, ông liền xin bố đánh mấy bát tiết canh, đem biếu các cấp chỉ huy để trổ tài nấu nướng của mình, liền được các vị chỉ huy ưng ý và chỉ định ngay. Thời đó, cuộc sống của bộ đội đầy khó khăn thiếu thốn, cơm ăn thường chỉ hai miệng bát, quần áo chỉ một bộ, mà phải tập luyện và đánh giặc suốt ngày. Nhưng cánh nuôi quân của Bính lúc nào cũng được no nê căng bụng, mà chẳng phải lăn lê bò toài gì cả. Khi có quân giặc đến càn thì cánh hậu cần bao giờ cũng được chạy đi trước về nơi an toàn, nấu cơm xong, nắm lại, chờ người về lấy, rồi chui xuống hầm ung dung nằm nghe tiếng súng nổ.
Những năm chiến tranh chống Mỹ, khi đó ông Bính đã lên tới chức đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, lúc thì là công binh, lúc thì là bộ binh, rồi cả thông tin, trinh sát nữa – Ông rất tự hào về nghề nghiệp binh chủng toàn năng của mình, mà chẳng biết kỹ cái gì cả. Bởi lẽ ông sinh ra và lớn lên trong quân đội ở ngay doanh trại của cái phố huyện này, ở mảnh đất quê hương ông. Mỗi lần đơn vị ra đi, lại phải cần người ở lại để trông nom doanh trại, quản lý tài sản, cơ sở vật chất của quân đội, để chờ bàn giao cho cấp trên hoặc đơn vị bạn, chỉ có ông ở lại, vì là người địa phương người ta mới nể, bọn trộm cướp mới sợ không dám vào phá. Rồi đơn vị mới đến ở huấn luyện hoặc công tác, rất cần có một người nắm chắc cơ sở vật chất ở đây để quản lí, lại cần có một người quen địa phương để làm công tác dân vận, quan hệ với cơ quan cấp ủy chính quyền địa phương, cần một người quen thuộc địa hình thông thổ, để làm công tác trị an và sẵn sàng chiến đấu tại chỗ. Cả ba cái nhu cầu đó, ngoài ông ra, chẳng có ai xứng đáng, thế là đơn vị mới lại làm công văn xin ông về làm chỉ huy phó cho đơn vị mới. Ông vẫn ở đó mà nghiễm nhiên được đề bạt lên cao hơn. Đến khi đơn vị đi chiến đấu thì ông lại có lý do là không có nghiệp vụ binh chủng chuyên môn, và cái điệp khúc “người ở lại” cứ diễn ra như thế.
Cứ mỗi lần cấp trên gọi ông lên, đả thông cho ông đi học, ông lại đến gặp cơ quan cán bộ và thủ trưởng phụ trách cán bộ, báo cáo rằng:
“Dạ thưa, rất cảm ơn các thủ trưởng quan tâm ạ”. Rồi ông trình bày là tình hình đơn vị hiện nay đang còn mặt yếu này ạ, mặt kém kia ạ, rằng đồng chí cấp phó này chưa chỉ huy đơn vị quen ạ, hoặc đơn vị đang có những rắc rối này, rắc rối khác ạ, hay đang nợ nần nhiều… nên xin hoãn lại đến sang năm, để bồi dưỡng cho đơn vị có trình độ, bồi dưỡng cho đồng chí thay thế có năng lực, hoặc ở nhà giải quyết cho xong vụ này vụ khác, rồi sẽ đi học mới yên tâm trách nhiệm ạ! Thậm chí có khi chính ông tự gây nên một vụ bê bối, kiểu Oa-tơ-gết, để buộc cấp trên phải để ông lại để giải quyết, gỡ rối”!.
Hoặc có khi ông phải bày đặt ra việc xây dựng các công trình, các kế hoạch sản xuất, rồi triển khai, bỏ dở dang nhiều khó khăn… để lấy cớ chỉ có ông ở lại mới làm xong dứt điểm công trình, kế hoạch đó được.
Ông ở lại chịu làm cấp phó một thời gian, rồi tìm cách đánh đổ hoặc cầy bẫy cấp trưởng đi để ông ngoi lên. Khi đã nắm được quyền bính trong tay rồi, ông liền đẩy hết những nguy cơ lật đổ ông, bằng cách cho đi học, giải quyết phục viên, xuất ngũ, về hưu non… nhất là những cán bộ có năng lực mà lại kế cận thay thế ông, thì phải cho chúng cao chạy xa bay – ông luôn luôn giữ một khoảng cách, khoảng cách an toàn cho cái ghế của ông – Nếu như ông làm cấp trưởng thì cấp phó của ông không thể là một kỹ sư giỏi hay cán bộ đã có học vị quân sự, cấp phó của ông chỉ có thể là người kém hơn ông, dốt hơn ông, tháng bảy cũng ư, tháng tư cũng gật, gọi dạ bảo vâng không hề biết chống đối là gì. Nếu như ông là cấp thiếu tá thì cấp phó của ông chỉ là cấp đại úy mới, hoặc chỉ là thượng úy càng tốt, nghĩa là niên hạn còn xa dăm ba năm không bao giờ đuổi kịp ông. Do đó cấp phó của ông không còn nghĩa là đồng cấp đồng sàng nữa, mà thực chất chỉ còn là tình anh anh, em em, chú chú, bác bác, thậm chí tình cha con, bố bố con con nữa. Thế mới toàn quyền, thế mới độc đoán, thế mới gia trưởng được. Nghĩa là bao giờ ông cũng phải hơn hẳn một cái đầu thì mới chỉ huy lãnh đạo được, chứ cứ cá mè sàn sàn một lứa là không chơi, nó hất cẳng mình lúc nào chẳng biết.
Vì như chuyện về Lê Thành Đốc và Vũ Bá Đồng cách đây mười năm là chỉ huy của đội 4 thuộc công ty cầu đường, khi đó ông là quyền giám đốc công ty.Đốc và Đồng là hai cán bộ có năng lực, một anh có nhiều thành tích, kinh nghiệm ở Trường Sơn, một kỹ sư có kỹ thuật giỏi vốn là hai thứ anh đều thua kém họ.Bởi vì khi chuyển ngành sang giao thông,ông cũng phải kiếm một cái bằng đại học,chẳng biết ông xoay sở thế nào mà chỉ hơn năm sau ,học hàm thụ ,bữa đực bữa cái mà ông cũng kiếm được cái bằng kỹ sư cầu đường để lòe cán bộ công nhân trong công ty. Tuy lúc đầu Đốc và Đồng có thắc mắc va chạm với nhau, nhưng đều là những tâm hồn cao quý. Ông đã biết lợi dụng, hòa giải kết hợp họ với nhau để họ hoàn thành việc mở đường ở Đèo Thung và công trình đường 6B, vượt thời gian quy định, chất lượng cao. Đem lại vinh quang cho công ty và riêng ông được chính thức quyết định là Giám đốc Công ty và được tăng lương,từ đó làm đà cho ông lên tổng công ty. Đáng lẽ ra ông phải biết ơn họ và khen thưởng đề bạt cất nhắc họ và giữ họ lại làm nòng cốt, làm nguồn phát triển cán bộ của công ty. Nhưng ông đã lo xa, sau khi tận dụng hết tài năng của họ, rồi ông ban ơn họ bằng cách: tặng bằng khen, giấy khen và biểu dương hết lời, nhưng sau đó lại đẩy họ đi học, với lý do đi học bổ túc văn hóa,bổ túc chính trị, để về làm nguồn phát triển cán bộ của công ty, họ cũng cứ đinh ninh về lòng ưu ái của ông nên chấp hành một cách thoải mái. Nhưng ông đã lên tổng công ty, bí mật đề nghị với phòng cán bộ, sau khi đi học về sẽ điều đi đơn vị khác. Thế là ông đã trừ được một hậu họa.
Một lần trong chiến tranh, cấp trên quyết định toàn đơn vị đi chiến trường B khẩn cấp, buộc ông phải đi, dư luận hàng phố tưởng rằng chuyến này thì ông Bính không thoát được, có chạy đằng trời. Ấy vậy mà chỉ mấy tuần sau người ta lại thấy ông vác mặt về nhà, rồi về doanh trại. Cùng bất đắc dĩ ông đã có bài của ông, rất hăng hái lên đường, ông luôn luôn dẫn đầu đơn vị, đi tiền trạm trước, đến hết đoạn đường miền Bắc bỗng nhiên xe ông bị tai nạn, xe ông chỉ có hai người, lái xe và ông không ai chết cả, xe bị đổ xuống suối và hai người bị thương nặng, máu me đầy mình, những người đi đường đã vẫy xe đưa đi cấp cứu ở bệnh viện, và tìm cách thông báo cho đơn vị biết. Khi đơn vị hành quân đến nơi thì chỉ còn cái xe bị bẹp, đành phải điện về báo cáo tình hình tổn thất đau thương, hứa với trên, cấp phó lên thay, vẫn kiên quyết hành quân theo kế hoạch và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Còn ông Bính khi ra viện, đã có đầy đủ các giấy chứng thương, xác nhận hợp lí còn cả thẻ thương binh nữa, thật là ma quỷ không bằng.
Rồi ông lại cứ tiếp tục cái điệp khúc ấy, cứ ở, cứ lên, lên nhanh như phản lực, lên tại chỗ như trực thăng cứ vù vù, làm thiên hạ chóng cả mặt. Sau chiến tranh,ông tiên đoán là thời kinh tế sẽ phát triển.Nên ông tìm cách xin chuyển ngành ra các ngành kinh tế,để có cơ hội làm giầu. Với nghề công binh,ông chuyển ngành ra giao thông liền được chấp nhận ngay.Tổ chức bố trí ông làm phó giám đốc công ty cầu đường . Rồi con đường “trực thăng vận” của ông lại tiếp tục phát triển ở môi trường mới.
Một người bạn rất thân, đồng cảnh đồng sàng như ông Vũ Thận với ông Bính, nhân một hôm ngà ngà say đã hỏi ông một cách bỗ bã:
- Này ông Bính, làm thế chó nào mà ông vẫn đứng vững được ở cái chính sách “trực thăng vận” thế, ông có bí quyết gì chăng?
Ông Bính cười khà khà, cái cười của kẻ thỏa mãn cuộc đời, ông ra vẻ khiêm tốn:
- Nào có bí quyết bí quyệt gì đâu? – Bỗng ông chửi đổng một câu rồi cười vang.
- Mẹ kiếp, chẳng chó nào chê cứt, chẳng người nào chê nịnh chê tiền.
Nhưng lần này cái bí quyết cũ của ông đã không thực hiện được, và đo đó cái ghế “trực thăng vận” của ông đang bị lung lay – Cả tổng công ty đi làm, đường biên giới, mà tổng giám đốc lại không đi sao – giá như ông còn trẻ thì ông cũng đi cố lấy một lần, còn bây giờ thì đã già rồi, đi sao nổi. Thực ra, ông chẳng ngại việc đi lại lắm, nhưng cái yếu kém của ông sẽ bộc lộ ra, ông sẽ bị thất bại có khi lại còn mất mạng nữa. Chi bằng, ba mươi sáu chước, ông chọn lấy chước chuồn là hơn. Vừa được tiếng khiêm tốn, lại vừa được có chức có quyền, một cương vị mới ở địa phương. Cái chức giám đốc Sở, tuy không oai bằng tổng giám đốc của Bộ, nhưng lại hái ra tiền, nếu biết cách làm ăn xoay xở, mà cái này thì ông chẳng thua kém gì ai.
Và ông không ngờ, Bộ trưởng, đã đồng ý cho ông chuyển ra ngoài. Thế là ông lại thắng rồi. Ngọn cờ “trực thăng vận” của ông vẫn phấp phới bay trên đầu ông.
Ra khỏi nhà Bộ trưởng, ông mỉm một nụ cười tự mãn.
Sau bữa cơm sáng khá thịnh soạn, ông Bính thay quần áo chuẩn bị một chuyến đi quan trọng. Ông mặc bộ “pho” màu cà phê nhạt, quần dài trùm gần kín gót giầy, áo cộc tay có đai lưng, cầu vai may hơi chẽn và có nhiều cúc kim loại như bộ ông Vũ Thận, giám đốc Sở Thủy lợi thường mặc.
Cậu con trai đã chuẩn bị xăng cho chiếc “Cup 70” xong, khẽ gẫy chân cho máy nổ, bấm còi và ấn các đèn xi nhan. Tuy thế khi ông cắp cặp từ trong nhà đi ra, cậu vẫn hỏi:
- Sao bố không đi ô tô cho oai?
- Xe trả cho Tổng công ty rồi con ạ. Nhưng chiều nay sẽ có chiếc Toyota bác Vũ Thận thường đi đấy. Bố thay bác ấy mà. Bác ấy lên phó chủ tịch sẽ đi xe Von-ga.
Bà vợ cùng theo ra, dặn con:
- Đi chầm chậm thôi con nhé. Bố mày chưa quen đi thế này đâu.
Cậu con trai gật đầu. Hai bố con chào bà, phóng xe đi, bà nhìn theo, vẻ mặt tỏ vẻ lo âu cho sức khỏe và an toàn giao thông của ông.
Câu con trai đã không tuân theo lời dặn của mẹ, cậu phóng vun vút, luôn luôn bóp còi inh ỏi, mặc dù thành phố đang lúc đông người. Thành ra ông phải dùng một tay ôm eo cậu con, một tay giữ cho chiếc mũ phớt khỏi bay.
Đến Sở Thủy lợi ông gật đầu với người thường trực gác cổng và đi vào nhưng ông này đòi xem giấy tờ.
Cậu con trai đứng ở đường bên kia đã thấy bừng bực. Cậu định dắt xe qua đường nhưng lúc ấy có một chiếc ô tô phóng rất nhanh nên cậu phải dừng lại. Rồi cậu nhìn thấy bố cậu cũng đã được người bảo vệ cho vào.
Cậu dắt chiếc “Cub” lại một quầy sách nhỏ ở gần đó. Người bán hàng là một cô gái khá xinh. Trông thấy cậu, người con gái reo lên.
- Anh Bông, đi đâu mà mất mặt lâu nay không thấy?
- Anh đi “chạy việc” cho ông già. Ông cụ sẽ về làm Giám đốc ở đây đấy. Em có thích vào cơ quan bố anh không?
- Được thì tuyệt quá. Chứ bán mấy thứ này ôi người ra anh ạ.
- Thế thì em về đây nhé. Anh bảo ông già cho làm lễ tân tha hồ mà vi vu.
- Cô gái cười và dành cho con trai ông Bính một cái nhìn rất lẳng.
- Bông!
Bên kia đường, ở chỗ thường trực, ông Bính đã ra từ bao giờ. Ông gọi và vẫy tay ra hiệu cho con trai. Trông ông có vẻ không được vui lắm. Con trai ông gật đầu chào cô gái bán báo, rồi khẽ lẩy xe máy, quành một đường rất điệu và đột ngột dừng lại trước mặt người bố. Anh ta còn vẫy vẫy tay cho cô gái, trong lúc ông Bính ngồi lên xe. Cô gái cũng vẫy tay lại.
Hai cha con lại phóng đi. Ông Bính nói gì với cậu con, từ xa cô gái nghe không rõ, chỉ thấy chiếc xe mở hết tốc độ vun vút lao trên đường.
* *
*
Mặt trời đứng bóng, hai bố con ông Bính bập bênh trên chiếc Cub vì đường vào khu vực mỏ đá, lò vôi là đường rải đá dăm, lại có nhiều ổ gà. Kể ra nếu đi từ từ, chịu khó quanh lượn cho đúng lối mòn thì cũng không đến nỗi, đằng này cậu con trai ông Bính cứ mở lối thẳng mà đi, bụi phía sau xe bốc mù lên, đá dăm bắn ra tua tủa. Đến được khu mổ đá, lò vôi, hai bố con như bị nhuộm trong bụi. Ông Bính, trông hốc hác đi một cách dễ sợ.
Hai cha con dắt xe vào khu nhà giám đốc.
Ông Đốc, nhân vật ngồi chờ ông ở nhà nghỉ bữa nọ, nay là giám đốc, người ông to béo trở lại, quần áo là thẳng nếp, da dẻ hồng hào tươi tỉnh.
Thấy khách vào, ông Đốc niềm nở ra đón. Ông bắt tay ông Bính, vui vẻ nói.
- Nghe nói tổng giám đốc chuyển sang làm giám đốc Sở Thủy Lợi tỉnh. Xin chân thành chúc mừng tổng giám đốc.
Ông Bính xua tay:
- Thôi đừng tổng giám đốc gì nữa anh Đốc ạ. Tôi muốn đến hỏi anh: anh làm cách gì để Bộ trưởng dùng lại anh?
Ông Đốc nhìn ông Bính đầy vẻ cảnh giác, và ngập ngừng hỏi:
- Thưa tổng giám đốc có chuyện gì đấy ạ?
- Chuyện riêng thôi anh Đốc ạ. Chuyện của tôi ấy mà. Anh Vũ Thận mời tôi ra làm việc bên Thủy lợi còn anh ấy có dự kiến sẽ lên làm phó chủ tịch tỉnh, nhưng hôm nay tôi đến thì được biết anh ấy sẽ nghỉ hưu, một đồng chí khác đã thay anh ấy làm giám đốc, thành ra mình bị … nhỡ. Bây giờ tôi muốn trở lại tổng công ty, chứ anh bảo nghỉ hưu lúc này thì không đủ lương ăn. Anh đã làm gì để Bộ trưởng phục chức? Có thể cho tôi biết bí quyết ấy được không?
- Ông Đốc vẫn chưa hết hoài nghi lời nói của ông Bính, nhưng rồi ông cũng giãi bày:
- Quả thật chả có bí quyết gì đâu ạ. Hôm chờ xin gặp tổng giám đốc không được, tôi liều mạng lên gặp Bộ trưởng, nghĩ là được ăn cả, ngã về không. May sao, sau lúc trình bày Bộ trưởng bảo: “Còn khỏe lắm chưa ngồi bán nước được đâu” rồi cho tôi được về lại làm giám đốc xí nghiệp vôi đá như cũ.
Bây giờ đến lượt ông Bính lại hoài nghi lời ông giám đốc xí nghiệp. Ông Bính gặng hỏi:
- Đến nước này thì có gì anh nói thật, nói thật là cứu tôi anh Đốc ạ. Tôi hỏi anh để còn biết đường đi nước bước mà lên gặp Bộ trưởng. May ra … - Ông Bính ngập ngừng và vẻ mặt ông thiểu não một cách thảm hại.
Ông Đốc vẫn thật thà giãi bày thêm:
- Tổng giám đốc ạ, tôi lên, chỉ mong là xin Bộ trưởng được bản nhận xét quá trình công tác để vể địa phương yên thân mà kiếm kế sinh nhai. Bộ trưởng bảo đã nghiên cứu hồ sơ vụ án của tôi và nói với tôi lời tôi đã nói với tổng giám đốc rồi đó.
Ông Bính im lặng một lúc rồi ông hỏi:
- Anh có thân cậu Đồng không? Phải gặp cậu ấy may mới gỡ được.
- Cậu Đồng trước là em rể tôi đấy. Nhưng từ khi hai đứa bỏ nhau, tôi cũng ít quan hệ. Theo tôi, thủ trưởng cứ gặp hẳn Bộ trưởng vẫn hơn.
Ông Bính vừa xìn xịt hít hơi vào như người bị lạnh, vừa gật đầu nhất trí với cách gợi ý của ông Đốc.
- Rất cảm ơn anh Đốc, có điều gì không phải trước đây xin anh đừng chấp – Ông Bính ngường ngượng nói.
- Tôi không nghĩ gì đâu tổng giám đốc ạ. Tổng giám đốc và cháu ở lại ăn cơm với chúng tôi.
- Thật lòng không còn bụng dạ nào cơm nước nữa anh ạ. Mà thôi anh đừng gọi tôi là tổng giám đốc nữa… Xin tạm biệt anh – Ông Bính chìa tay nắm tay ông Đốc. Một cái bắt tay rất chặt.
Tạm biệt ông Đốc, hai bố con ông Bính lại vội vã phóng xe đi.
Về đến nhà, ông bảo cậu con chờ sẵn ở ngõ. Ông vào nhà, bà niềm nở ra đón nhưng nhìn thấy dung nhan của ông, vẻ mặt đang vui của bà tái đi, bà run run hỏi:
- Có việc gì xảy ra thế ông?
- Bà đến xí nghiệp vôi đá nói với con Tuyết bảo nó về hộ tôi. Đừng có nói chuyện gì với nó về cậu Đồng cả.
Bà tò mò hỏi:
- Để làm gì hở ông?
- Nghiêm trọng, bà chuẩn bị đi. Bảo tôi ốm nặng thì nó mới về đấy.
Nói rồi ông lập cập chạy vào nhà mở tủ lấy bộ com lê ra thay. Ông lúng túng nên đã vội càng thêm lâu, cúc nọ ăn với khuyết kia, chỉnh đi chỉnh lại mãi mới được.
Bà đã thay áo, từ trong nhà đi ra cầm cốc nước vừa đi vừa ngoáy thìa cho đá tan.
- Thôi bà đi đi, nước nôi để lúc khác, nói rồi chạy ra ngõ nơi chiếc xe máy của con trai vẫn đang phình phịch nổ.
Chiếc cub lại vút đi, để lại phía sau một lùm khói khét lẹt màu xanh lam. Bà vợ ông ỉu xìu đứng trông và sực nhớ đến nhiệm vụ của mình, bà vội vào nhà dắt xe đạp ra.
* *
*
- Chầm chậm lại con: - Xe đang phóng nhanh, ông Bính giật giật eo lưng con trai nói vì phía trước trên một sân vận động người và xe tập trung rất đông. Những hàng quân ngay ngắn đứng trước những chiếc xe tải quân sự và dân sự phủ bạt.
Ông Bính bảo con trai đỗ xe ở một gốc cây, cách chỗ tập trung công nhân và thanh niên xung phong một tầm mắt.
Ông nhìn rõ thấy em gái ông có mặt trong đám những người đưa tiễn người ra trận. Còn Đồng, trong bộ trang phục mới cứng màu cỏ úa. Anh đứng trước hàng quân hô một tiếng “nghiêm” rất dài và quay lại báo cáo với đồng chí Bộ trưởng.
- Báo cáo đồng chí Bộ trưởng, tôi Vũ Bá Đồng, đoàn trưởng đoàn xây dựng công trình quốc phòng chi viện biên giới báo cáo, đơn vị đã tập hợp xong, xin chỉ thị đồng chí!
- Bộ trưởng đáp lễ và tiến đến trước hàng quân…
Trông đến đây, ông Bính quay lại phía cậu con trai buồn bã nói:
- Thôi đi về con ạ.
Chiếc xe lại phóng vút đi. Ông Bính ôm chặt lấy con trai áp sát người vào lưng con.
Phía sau ông,những chiếc xe tải hùng dũng vào đội hình.
Không gian vang lên hào hùng lời hát
: ”…Anh đi lên biên cương,mở đường ra tiền tuyến, xây đắp những công trình,bảo vệ cho quê hương….” ĐOẠN KẾT
Vào dịp Tết Thanh minh năm ấy. Một chiếc xe U-oát từ phía Cao Bằng trở về xí nghiệp vôi đá.Rồi sáng hôm sau lại từ xí nghiệp vôi đá đi thẳng lên Hòa Bình,qua thị xã rẽ vào đường số 6B-chạy thẳng lên đỉnh đèo Thung.Đó là một buổi chiều nắng nhạt,bao trùm khu rừng nguyên thủy xưa kia,nay đã trở thành những đồi hoang,đầy lau sậy và cỏ rác.Những cơn gió lạnh cuối mùa thỉnh thoảng lại xào xạc,thì thầm cùng cây cỏ như khóc thương những cô hồn xót xa ai oán.
Vũ bá Đồng cùng con trai là Vũ Bá Quyết và cô nhân viên thư viện Lê Thị Tuyết,vợ sắp cưới của anh, xuống xe, rồi tìm đường leo lên mỏm đồi phía đông đỉnh Đuôi Lươn – Nơi đây đã có thêm một nấm mộ mới, cỏ xanh mới mọc ,bên cạnh một nấm mộ cũ,cây cối um tùm.
Cả ba người cùng dọn dẹp sửa sang trồng cây và vun đắp cho hai nấm mộ được sạch sẽ gọn gàng, rồi đốt hương thắp nến,và phủ lên những bó hoa tươi đem từ Hà Nội lên.Cô Tuyết buộc lên đầu cháu Quyết hai chiếc khăn tang chồng lên nhau,và bảo con quỳ xuống lễ vong hồn bố mẹ đẻ.Tuyết cũng rì rầm khấn vái,như nói chuyện với người nằm dưới mộ .Đồng quỳ xuống và ngồi yên giữa hai nấm mộ.Những giọt nước mắt bỗng tự nhiên chảy dài xuống má anh.
“…Cương ơi, tôi có lỗi với anh nhiều lắm,tôi đã không bảo vệ chăm sóc được vợ con anh trọn vẹn, như lời hứa với anh cách đây mười năm trước,cũng tại nơi này bên nấm mộ anh. Xin anh hãy thông cảm và tha thứ cho tôi.Bởi lẽ cuộc đời tôi cũng ba chìm bảy nổi có lúc nào được yên ổn để thay anh chăm sóc vợ con cho toàn vẹn.Số phận chớ trêu đã kéo mất cái hạnh phúc ấm êm tưởng chừng như vững bền mãi mãi ra khỏi tay tôi.Thật đau khổ biết chừng nào. Cương ơi, nếu anh còn sống liệu anh có giữ gìn được hạnh phúc,hay rồi cũng như tôi…”
*
* *
Dân bản Nai kể rằng,cách đây gần một năm, có một người đàn bà điên, tóc rũ rượi, đầu chít khăn tang, không biết từ đâu tới,hàng ngày cứ đến nấm mồ trên đỉnh Đèo Thung kêu khóc thảm thiết, rồi bà ta đi lang thang trong rừng, hái nhiều hoa rừng phủ lên nấm mồ. Bà ta lẩn tránh tất cả mọi người, không ai đến gần hoặc nói chuyện được với bà ta. Khoảng một tháng sau, người ta đã thấy bà ta chết gục bên nấm mồ của Cương.Dân bản kéo đến xem,mới nhận ra là cô Huyền, cán bộ kỹ thuật của công trình lòng hồ ngày trước.
Bà con thương xót cô cũng như đã thương xót Cương trước đây, dân bản chôn cất cô tử tế và chăm sóc cho cô được mồ yên mả đẹp Người ta trồng lên hai nấm mộ trên đỉnh Đèo Thung trong khu rừng nguyên thủy, những cây hoa rừng đẹp nhất./.
Tác giả: LƯƠNG HIỀN Họ và tên: Nguyễn Lương Hiền
Bút danh khác: Lê Phương, Nguyễn Lương, Lương Dung Thảo...
Sinh năm: 1934 (Giáp Tuất)
Nguyên quán: Minh Cường - Thường Tín - Hà Nội
Trú quán: Phủ Lý - Hà Nam
Kỹ sư giao thông, kỹ sư thuỷ lợi. Tổng công trình sư Quốc phòng,
Đại tá, nguyên Chủ nhiệm Công binh Quân khu 3, Cục trưởng Cục kinh tế Quân khu 3
Hội viên Hội nhà văn Việt Nam
Hội viên Hội kiến trúc sư Việt Nam
Hội viên Hội nhà báo Việt Nam
Hội viên Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam
Nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT Hà Nam - Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ Sông Châu
Địa chỉ hiện nay: Số 52 ngõ 31,phố Nguyễn Cao,,P.Bạch Đằng, Q.Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: 0975.429.042
.E-Mail:luonghien0108@ gmail.com
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT Giải nhất truyện ngắn “Tiếng bom hòa bình” Văn nghệ Quân đội 1984
5giải ”Kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội”.Từ 1970- 1986.Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng.Gồm:
giải nhất:Chiều sâu một bức tranh 1970. giải nhì:Gia tài của mẹ 1975,giải nhì :Đường qua bãi mìn 1979.giải ba:Vĩnh biệt đèo Lũng Lô 1984.giải nhì:Đêm thứ 100 –Binh chủng công binh 2016.
1 giải báo chí:Truyện ngắn Bức tranh vẽ trên một bến sông,báo QĐND 1970
1giải Liên hiệp các hội VHNT toàn quốc: giải nhì:Văn nghệ Dân gian Trấn Sơn Nam xưa ,tập 2 (2004)
10giải Nguyễn Khuyến (Hà Nam Ninh,Nam Hà,Hà Nam),1990,1995,2000,2005,2010.Gồm:
5 tiểu thuyết ( Vĩnh biệt tình yêu,Đường đời giông bão,Cửa ngõ thiên đường,Một đoạn đời,Thời sôi nổi)
1tập truyện ngắn:Khát vọng làm giầu,
1 tập Văn nghệ Dân gian:Văn nghệ dân gian Trấn Sơn Nam xưa tập3,
3tập nhạc:Tình yêu trên những tuyến đường,Tình ca xanh,Hà Nam quê hương tôi.
4giải chuyên đề: Công nhân 2: (Truyện ngắn Dốc cổng trời,Nhạc Huyền thoại đá).Nông thôn 2:(Thơ Lúa và hoa, Thơ Đồng chiêm)
1 Huy chương Đồng ảnh “Làng nghề Trống Đọi”.Sông Hồng 2001
6 giải tạp chí Nhiếp ảnh,từ 1999-20004.
1 Huân chương Chiến công hạng 3 về VHNT trong Quân đội 1986
1Bằng khen của Chính phủ về VHNT ở Hà Nam 2000.
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Kiến trúc công trình quốc phòng ( giai đoạn 1956-1986) năm 2005.
NHỮNG TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN
*Tập truyện ngắn, truyện ký 1.
Những chuyến vượt sông
Nxb Tác phẩm mới
1981
2.
Có những con đường, có những dòng sông
Nxb QĐND
1984
3.
Tiếng bom Hoà bình
Hà Nam Ninh
1985
4.
Đường qua bãi mìn
Nxb Hải Phòng
1985
5.
Những người mở bến
Nxb Hải Phòng
1986
6.
Những mũi tên chỉ đường
Nxb Quảng Ninh
1987
7.
Điều anh muốn nói
Nxb Phụ nữ
1987
8.
Chặng đường vẻ vang
Nxb QĐND - QK3
1988
9.
Bến bờ yêu thương
Nxb Quảng Ninh
1989
10.
Bài ca lính thợ
Nam Hà
1995
11.
Quảng Lợi một chặng đường
Nxb Lao động
2003
12.
Dấu ấn một vùng than (chủ biên)
Nxb Hội Nhà văn
2006
13.
Khát vọng làm giàu
Nxb Hội Nhà văn
2010
14.
Câu chuyện văn nghệ và kỷ niệm sâu sắc
Nxb Thanh niên
2013
15
Truyện ngắn chọn lọc
Nxb
2014
*Tiểu thuyết 1.
Tiếng gọi từ đáy sông
Hà Nam Ninh
1987
2.
Vĩnh biệt tình yêu
Nxb Hải Phòng
1998
3.
Đường đời giông bão
Nxb Hội Nhà văn
1990
4.
Duyên nợ hai số phận
Nxb Quảng Ninh
1990
5.
Cửa ngõ thiên đường
Nxb Thanh niên
1991
6.
Hãy để tâm hồn thanh thản
Nxb QĐND
1991
7.
Ngọt ngào
Nxb Thanh niên
1993
8.
Một đoạn đời
Nxb Lao động
2000
9.
Những nẻo đường số phận
Nxb Lao động
2001
10.
Bến hồng nhan
Nxb Hội Nhà văn
2003
11.
Thời sôi nổi
Nxb Hội Nhà văn
2005
12.
Tuổi mênh mông
Nxb Hội Nhà văn
2006
13.
Thiên đường ngọt ngào
Nxb Thanh niên
2010
14.
Trần gian êm dịu
Nxb Thanh niên
2012
*Thơ, Truyện thơ
1.
Gửi gió
Nam Hà
1993
2.
Đường ra trận (chung)
Nam Hà
1994
3.
Thung Mơ
Nxb VHTT
1995
4.
Sông Châu
Nxb VHTT
1995
5.
Anh ở Đọi Sơn, em Điệp Sơn
Nxb VHTT
1995
6.
Nhớ về Ngọc Lũ
Nxb VHTT
1995
7.
Núi non
Nxb VHTT
1995
8.
Bà mẹ Anh hùng
Nxb VHTT
1995
9.
Cố hương
Nxb VHTT
1995
10.
Vô tình
Nxb Văn học
1994
11.
Một cõi tâm linh
Nxb VHTT
1996
12.
Ninh Giang - miền quê thương nhớ
Nxb VHTT
1996
13.
Sóng lòng
Nxb Văn học
1997
14.
Gia huấn ca
Nxb VHTT
1997
15.
Hai trăm bài thơ hoa
Nxb Lao động
1999
16.
Trường ca thương nhớ
Nxb Thanh niên
2010
17.
Lá rơi
Nxb Hội nhà văn
2010
18.
Xanh mãi niềm tin
Nxb Thanh niên
2013
* Nghiên cứu sưu tầm, Văn nghệ dân gian 1.
Quốc mẫu Đại vương
Nxb VHTT
1994
2.
Thuỵ Nương công chúa
Nxb VHTT
1995
3.
Thiên Xung Vương hoàng đế
Nxb VHTT
1996
4.
Sự tích đền Cát Linh từ
Nxb VHTT
1996
5.
Đinh Tiên Hoàng vạn thắng Hoàng đế
Nxb VHTT
1996
6.
Đại Hành hoàng đế
Nxb VHTT
1996
7.
Nguyễn Minh Quang phó thập đạo tướng quân
Nxb VHTT
1996
8. Đinh Điền, Đinh Bang, Nhữ Nương công chúa
Nxb VHTT
1996
9.
Linh Lang Đại Vương
Nxb VHTT
1996
10.
Trung Thành Đại Vương
Nxb VHTT
1996
11.
Hà Nam ngũ sắc
Hà Nam
1997
12.
Sự tích chùa Bà Đanh
Nxb VHTT
1998
13.
Nhân vật lịch sử Văn hoá Hà Nam (Chủ biên)
Nxb Hội nhà văn
2000
14.
Danh thắng chùa Đọi
Nxb VHTT
2001
15.
Hồ Xanh - Nhà giáo, nhà báo, nhà thơ cách mạng
Nxb VHTT
2003
16.
Danh thắng Tây Thiên
Nxb VHTT
2003
17.
Truyện dân gian trấn Sơn Nam xưa I
Nxb VHDT
2004
18.
Truyện dân gian trấn Sơn Nam xưa II
Nxb Lao động
2005
19.
Truyện dân gian trấn Sơn Nam xưa III
Nxb Lao động
2009
20.
Danh sĩ đương đại Hà Nam
NxbHội nhà văn
2007
21.
Văn hoá làng I
SVHTT Hà Tây
2004
22.
Văn hoá làng II
SVHTT Hà Tây
2006
23.
Văn hoá làng III
SVHTT Hà Tây
2008
24.
Sự tích Thiên Bảo Tự - Chùa Bầu
Nxb VHTT
2010
25.
Văn hóa dân gian – làng nghề Địa Mãn
Nxb Thanh niên
2013
* Nhạc:
1.
Băng Cassette: Ca khúc Lương Hiền
Đài TNVN
1986
2.
Tập ca khúc: Tình yêu trên những tuyến đường
Nxb Âm nhạc
1993
3.
Tập ca khúc: Tình ca xanh
Nxb Âm nhạc
1996
4.
Tập ca khúc: Hà Nam quê hương tôi
Nxb Âm nhạc
2000
5.
Đĩa CD thơ nhạc: Quảng Lợi yêu thương
TCCT
2003
6.
Đĩa CD nhạc: Đông Bắc - Bài ca lính thợ
TCCT
2004
7.
Đĩa CD nhạc: Khe Sim bản tình ca
TCCT
2004
8.
Tập ca khúc: Tình ca xanh khe Sim
Nxb Âm nhạc
2004
9.
Tập ca khúc: Mảnh đất tình yêu
Nxb Âm nhạc
2005
10.
Đĩa CD: Bài ca chiến sĩ công trình
Đài TNVN
2005
* Kịch bản phim: -
Tiếng bom Hoà Bình - Xưởng phim truyện Việt Nam đã dựng
1985
-
Hà Nam ngũ sắc - Phim tài liệu Đài truyền hình Việt Nam (VTV1)
1997
-
Sự tích chùa Bà Đanh - Phim tài liệu (VTV1)
2002
-
Quảng Lợi một chặng đường - Phim tư liệu (VTV3)
2003
-
Bài ca lính thợ vùng Than - Phim ca nhạc (VTV3)
2004
-
Làng nghề trống Đọi (VTV1)
2005
-
Long Đọi Sơn, bức thông điệp của người xưa (VTV3)
2005
*Triển lãm ảnh nghệ thuật: 1.”Khoảnh khắc đọng mãi trong tôi” 73 ảnh Hà Nam 14-1-2006
2.”Trở về cội nguồn” 79 ảnh,Chi nê,Hòa Bình 19-5-2007
- 100 ảnh treo trong các triển lãm toàn quốc và địa phương.
-Còn 80 ảnh đen trắng thời chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.07.2016 18:56:36 bởi Lương_Hiền >