.KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập III)_Tiểu thuyết _Lương Hiền
Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 54 bài trong đề mục
Lương_Hiền 02.07.2016 23:49:58 (permalink)
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.07.2016 18:31:03 bởi Lương_Hiền >
#1
    Lương_Hiền 21.07.2016 15:54:52 (permalink)
    Chương24-MỞ ĐỘT PHÁ KHẨU ĐỒN ĐẠI BỤC

    Vùng Tây bắc trên tuyến đường sắt Yên Bái Lào Cai,tả ngạn sông Hồng.Thực dân Pháp đánh chiếm lập nhiều đồn bốt và hành lang tuyến đường này, để khống chế đường sắt , đường sông Hồng , đường biên giới, chia rẽ đồng bào các dân tộc,chúng lập tề , dõng ,lập khu tự trị.Trong mấy năm chiếm đóng không có  bộ đội chủ lực ta đánh .Nên chừng nào chúng đã thực hiện được việc bình định .
    Địa hình,đoạn sông Hồng từ thị xã Yên Bái tới Lào Cai, nằm song song với tuyến đường sắt và đường bộ, có nhiều thác lớn, sông rộng từ 150đến 200m, mùa nước lũ thì  rộng hơn và nước chảy xiết.Đường sắt và đường bộ qua nhiều rừng núi rậm rạp,đường nhỏ,hoang vắng ,cây cối  mọc chiếm mất cả mặt đường,như đoạn từ ga Mậu A lên dọc đường sắt tới Lào Cai, gây cho việc đi lại gặp nhiều khó khăn.Việc vận chuyển vũ khí, lương thực của ta chủ yếu bằng sức người mang vác.Còn kẻ địch thì vận chuyển bằng lừa ngựa.
    Đồn Đại Bục nằm về phía hữu ngạn sông Hồng,từ ga Mậu A qua sông Hồng,đi bảy cây số, toàn đường rừng, qua rừng quế mới tới đồn Đại Bục, rồi đến đồn Đại Phác, và một số đồn khác .Các vị trí án ngữ hữu ngạn sông Hồng và hành lang vào khu vực Nghĩa Lộ .
     Bộ đội ta hành quân chiến đấu trên khu vực địa hình này, có lợi về mặt vận động bí mật giữ kín được lực lượng, tiếp cận gần địch, nhưng khó khăn về vận chuyển lương thực, vũ khí và không thuộc đường xá, khi chiến đấu dễ bị thất lạc.
        Bọn địch đóng trên đồi Đại Bục một đại đội, địa hình đồi thoải,dưới đồi là cánh ruộng cày cấy của đồng bào dân tộc.Xung quanh đồn chúng rào ba lớp rào bằng nứa vót nhọn, mỗi lớp dầy ba mét gọi là hàng rào lông nhím .Có bố trí mìn nhảy vướng nổ, khi nổ nhảy cao từ 70- 80 phân, nên bộ đội ta thường  gọi là mìn cóc hay mìn nhảy .Phía trong đồn đắp một lớp tường đất nện, dầy 60  phân, cao hai mét,có các lỗ châu mai bắn răng cài.Có một cổng ra vào rộng ba mét.Chúng dồn dân ở phía ngoài như một bản bảo vệ đồn.Thành phần binh lính có 1 quan ba người Pháp và một trung đội Âu phi, còn lại là lính ngụy, người các dân tộc khắp nơi .
       Hàng ngày chúng phái từng trung đội  đi lùng sục các dân bản và cơ sở của ta, cướp bóc lương thực, bắt phụ nữ về đồn, đồng thời đánh phá các cơ sở cách mạng của ta, nhất là chia rẽ mất đoàn kết giữa miền ngược và miền xuôi , một chính sách thâm độc của thực dân Pháp.
       Đứng trên đồi cao quan sát xuống đồn Đại Bục như một thành cổ của thế kỷ trước, yên tĩnh nên bọn địch ở đây rất chủ quan khinh địch với kiểu đồn bốt kiên cố kiểu cổ này, đối phương không thể lọt vào đồn được, với ba lớp hàng rào lông nhím  nhọn hoắt này dầy tới 9 mét.Tưởng chừng đối phương có cánh mới bay vào đồn được, nên bọn chúng ung dung chè chén, trai gái trác táng…
       Bộ đội ta được Hồ chủ tịch phái vào Tây bắc, để giải phóng cho đồng bào thoát khỏi vòng áp bức của thực dân Pháp, trong đó có tiểu đoàn 79 bộ đội địa phương do đồng chí Lương Nghị làm tiểu đoàn trưởng.Tiểu đoàn 60 chủ lực, do đồng chí Vũ Yên làm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 54 chủ lực, do đồng chí Vũ Lăng làm tiểu đoàn trưởng.Dưới quyền chỉ huy của đồng chí Cao Văn Khánh,lấy tên là chiến dịch sông Thao 1949.
      Trước khi hành quân, bộ đội ta được học mục đích ý nghĩa và chỉ thị của Hồ chủ tịch, học tập chính sách dân tộc của Đảng ta… Cuối cùng xác định quyết tâm chiến đấu, nhằm hướng  Tây Bắc vùng Lào CaiYên Bái, hành quân đánh thắng giặc Pháp ,giải phóng đồng bào Tây Bắc khỏi ách kím kẹp của địch, xứng đáng là bộ đội cụ Hồ.
    Vào đầu tháng 5năm1949 các đơn vị  hành quân tới khu ga Mậu A và chuẩn bị bước vào chiến dịch.Lực lượng của ta được sử dụng như sau:
      Tiểu đoàn 60 được phân công đánh đồn Khe Phịa.Tiểu đoàn 54 đánh đồn Đại
    Bục.Tiểu đoàn 79 bộ đội địa phương tăng cường làm nhiệm vụ  dẫn đường, phối
    hợp chiến đấu.
      Trung đội công binh tiểu đoàn 54 có nhiệm vụ mở đột phá khẩu đồn Đại Bục.
     Chuẩn bị chiến đáu đồn Đại Bục: Ngày 15-5-1949, được bộ đội địa phương và nhân dân địa phương dẫn đương đi trinh sát thực địa, gồm có tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng, cán bộ cấp trưởng trong tiểu đoàn, trong đó có cán bộ trung đội công binh và tiểu đội trưởng công binh..Sau khi đi trinh sát về, đắp sa bàn thu nhỏ trên một bãi bằng ở khu vực ga Mậu A.Khi phổ biến nhiệm vụ bộ đội ta nhìn sa bàn với 3 lớp rào lông nhím dầy đặc, biểu thị sự lo lắng,băn khoăn vì chướng ngại vật của địch.Còn  tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng khi giao nhiệm vụ cho công binh đã khẳng định:Công binh phải phá bằng được 3 lớp rào lông nhím của địch, phá được ba cửa mở mỗi cửa rộng 3m là thắng lợi 50%.rồi.
    Công binh thực tập phá rào mở cửa khẩu:
    Trung đội trưởng công binh là đồng chí Mai Xuân Tám, người Hà Nội chỉ huy, cán
    bộ tiểu đội có đồng chí Văn, đồng chí Thục người Hà Nộivà đồng chí Nam Sao
    người Hải Dương,cụm đầu vào nhau bàn kế hoạch mở đột phá khẩu đồn Đại
    Bục.Quyết định lấy dây rừng, nứa làm một trận địa hàng rào kích thước ba lớp
    giống như thật cho bộ đội thực tập.Bắt đầu tập theo kiểu liên tục bộc phá và giả
    định các tình huống thay thế, chiến sỹ số một thương vong thì thay chiến sỹ số
    hai, tiểu đội trưởng bị thương thì  tiểu đội phó lên thay, một chiến sỹ khác lên thay
    tiểu đội phó ,.Đồng chí Nam Sao được dự kiến thay  thế trung đội phó ,từ đó anh
    em cứ đùa gọi Nam Sao là trung đội phó hai, mà vẫn cứ phải vác mìn è cổ.
    Việc thực tập trong hai ngáy phải nói là thuần thục như người cầm bát đũa ăn
    cơm.Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng  xuống kiểm tra trung đội công binh luyện  tập đã
    khen ngợi và tin tưởng công binh sẽ hoàm thành tốt nhiệm vụ.
    Công binh mở đột phá khẩu:
    -Thuốc nổ các loại, tháo đầu đại bác cũ, thuốc đinamít,TNT…vì thời gian này còn
    hiếm thuốc nổ, phải huy động khắp nơi, quý thuốc nổ để phá cửa mở như ngườicần
    gạo nấu cơm.
    Tất cả huy động thuốc nổ làm được 6 quả bộc phá ống ,mỗi ống dài 2m, đường
    kính 6-8 cm.Cách làm là chẻ ống nứa ngộ ra đổ thuốc nổ vào trong lòng ống,rồi
    liên kết  kẹp lại,buộc bằng lạt giang. Đật kíp và nụ xòe theo nguyên lý giật nổ.
    Cách đánh, mỗi cửa mở  chỉ được đánh một ống,3 cửa 3ống,còn 3 ống dự bị trong
    trận , nếu thừa để  dành đánh trận khác.
    Tiểu đội do tiểu đội trưởng Nam Sao đánh quả thứ nhất, trung đội trưởng giao đích
    thân tiểu đội trưởng Nam Sao đánh, sau đó đồng chí Tám hay đùa:Chuyến này  các
    đồng chí to cao đánh bộc phá mở đầu ,và đồng chí Sao là người to cao nhất lại hay
    vui tính thì nhất định chúng ta sẽ thắng lợi…
    Từ   ba giờ chiều ngày 18-5-1949,lợi dụng rừng núi,toàn đơn vị vượt sông Hồng, đoạn trên ga Mậu A một cây số, 8 giờ mới vượt sông xong,vì vượt bằng mảng và thuyền độc mộc do dân địa phương chèo chở.
      Mười giờ vượt qua rừng quế, lần đầu tiên bộ đội ta vào rừng quế, đồng chí nào cũng thích bẻ một cành, gậy một miếng, có đồng chí không có gì để gậy, liền cạo cạo vỏ ngoài rồi ghé mồm vào gặm một miếng…Thế là cả đoàn quân thơm nức mùi quế.Tiểu đoàn trưởng Vũ Lăng hạ lệnh vứt quế đi, và phải tẩy hết mùi quế thơm, nếu không thì địch dễ phát hiện, thế là phải dốc ống nước uống mang theo, để rửa mồm ,rửa tay .Anh em cười bảo nhau :”Người ta thì tẩy uế , còn mình thì tẩy thơm “.
      Bốn giờ sáng ngày 19-5-1949 tới vị trí chiếm lĩnh trận địa, hình thành thế bao vây
    đồn Đại Bục, cán bộ, phái viên suốt ngày đôn đốc việc giữ bí mật, và hạn chế ăn cơm uống nước ,vì chỉ có một nắm cơm nhỏ mà sáng ăn hết,đến chiều đánh nhau sợ
    đói,nên việc ăn cơm uống nước phải chờ lệnh, không một đồng chí nào dám tự tiện
    sử dụng.Mặc dầu nắm cơm, ống nước đeo bên mình, mà bụng đói , miệng
    khát, nhưng anh em vẫn kiên trì chờ lệnh.
       Công sự cá nhân được triển khai với tư thế nằm bắn, công sự đào xong , anh em
    nằm chờ lệnh công đồn, ai cũng phấp phỏng , căng thẳng.
       Ba giờ chiều ngày 19-5-1949 được lệnh ăn cơm, đồng thời các đồng chí chính trị viên phổ biến ý nghĩa ngày sinh nhật Bác Hồ, ngày 19-5.
       Được ăn cơm uống nước xong , lại được nghe phổ biến ngày sinh nhật Bác
    Hồ.Khí thế anh em hừng hực như hổ vồ mồi, cán bộ chiến sỹ ai nấy đều quyết tâm
    san bằng đồn Đại Bục, giải phóng đồng bào thoát ách kìm kẹp của địch,  lập chiến
    công dâng ngày sinh nhật của Hồ chủ tịch.
       Bốn giờ chiều ngày 19-5-1949, lệnh công đồn bắt đầu bằng một tiếng nổ của cối
    82 ly bắn vào đồn, và 3 phát pháo hiệu đỏ vút lên trời.
       Các cỡ súng thi nhau rót vào đồn địch  mù mịt, sau 5 phút, đồn địch bắn trả mãnh
    liệt,pháo ta bắn mỗi lúc một nhiều.Tiếng kèn lệnh xung phong bắt đầu.
    Trung độicông binh  đi đầu, băng qua một thửa ruộng trống,dưới sự chi viện của bộ binh.hàngrào thứ nhất được công binh phá tung, rồi đến hàng rào thứ hai bị bay, hàng rào thứba bị phá tan từng mảng.
    Một tình huống phải sử lý, địch tung giây thép gai bùngnhùng ra bịt cửa mở.Đồng chí Mai Xuân Tám  gọi Nam Sao điều ống dự bị, Nam Sao liền  cầm lấy  ống bộc phá dự bị của chiến sỹ Lương Văn Mậu rồi nhanh chóng  xông vào trận địa, một tiếng nổ lớn tung lên, phá bung hàng rào giấy thépgai bùng nhùng, bộ  binh kịp thờì xung phong như vũ bão tràn vào đồn tiêu diệtđịch.
        Năm giờ chiều ngày 19-5-1949 trận đánh kết thúc, công binh được thêm một
    nhiệm vụ: phá hết các  lô cốt, ụ súng, san bằng đồn Đại Bục.Đồn Khe Phịa do tiểu
    đoàn 60 đánh , cũng đang bốc cháy.Tới 6 giờ 30 phút, đồn Đại Bục chỉ còn là một
    đống tro tàn, cây cối nhà cửa ngổn ngang.Kết thúc trận đánh.
       Đồng bào các dân tộc ở phía chân đồi bị địch bắt tập trung, bây giờ đứng hoan hô
    bộ đội cụ Hồ bằng tiếng địa phương, nồng nhiệt và phấn khởi, chuẩn bị kéo nhau về làng cũ.
    Kết quả: Ta phá tan đồn Đại Bục , phá thế án ngữ của hệ thống phòng ngự tuyến
    Lào Cai –Yên Bái, diệt 60 tên địch trong đó có 1 quan 3 người Pháp, bắt sống 30
    tên, thu toàn bộ vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng, lương thực.Công binh thu
    được 30 kg thuốc nổ và một khẩu badôka.Ta thương vong  8 đồng chí , trong đó có
    3 chiến sỹ công binh ( 1 hy sinh ,2 bị thương )
    Trong số chiến lợi phẩm thu được 30 kg thuốc nổ và một khẩu badôka, công binh
    đã phát huy tác dụng ngay trong trân tấn công  đánh đồn Đốm và đồn Làng Giàng
    sau đó mấy ngày.Ở đồn Đốm Nam Sao đã trực tiếp  dùng badôka bắn xập 3lô cốt
    và bắn tan  3 lớp hàng rào bùng nhùng.Còn ở trận công đồn Làng Giàng thì dùng
    ngay thuốc nổ thu được mở 2 cửa mở qua 5 hàng rào kẽm gai, và phá sập một nhà
    chỉ huy, chi viện cho bộ binh xung phong tiêu diệt địch.
                                                             
        Ngược sông Hồng                                               
      
    Sáng sớm hôm sau, Nam Sao dậy từ bốn giờ sáng trước sự chia tay bịn rịn của vợ chồng Lân- Hoa.Anh bơi thuyền dọc sông Hồng hướng về phía Bắc lên Yên Bái.Vừa đi, anh lại vừa đánh cá kiếm ăn, theo sở trường và thói quen của anh.Đến nửa buổi, anh đánh được  vài mẻ cá, liền ghé vào một chợ ven sông để bán cá, rồi vào một quán cơm bình dân ăn  cơm, theo kiểu gạo chợ nước sông đã quen.Phơi lưới và nghỉ trưa một lát bên cạnh một gốc cây râm mát.
    Khoảng hai giờ chiều, anh lại cuốn lưới, tiếp tục hành quân.Chiều hôm đó anh đã lên đến vùng Hạ Hòa, bán cá và nghỉ nhờ một gia đình ven sông. Được ông bà chủ nhà cùng cảnh bộ đội về, nên đã nhiệt tình đón tiếp.Tối , anh nấu cơm ăn cho chắc bụng và để dành một bát đến sớm mai.Đêm, ông chủ còn muốn  chuyện trò về  bộ đội mãi, nhưng bà chủ tâm lý bảo chồng:
    - Thôi để bác ấy đi ngủ sớm, mai còn phải đi xa .
    - Vâng cảm ơn ông bà.Nhưng khốn nỗi, cánh bộ đội cũ đã gặp nhau thì chẳng bao
    giờ hết chuyện.Hơn nữa ai đã gặp Nam Sao  thi cứ há hốc mồm mà nghe. Chuyện
    trên trời, dưới đất, đông tây kim cổ gì, anh cũng góp được.Mà anh lại có duyên nói
    chuyện, giọng tếu táo, dí dỏm , xen kẽ tiếu lâm, làm ai cũng phải cười, phảithích…
    Bà chủ phải nhắc lần thứ hai,ông chủ mới để yên cho anh ngủ.Anh ngủ một giấc ngon lành , theo thói quen, đúng bốn giờ sáng anh lại dậy.Cảm ơn ông bà chù và tạm biệt lên đường. Ông bà chủ còn dặn theo:
    - Khi nào quay về thì  nhớ vào đây chơi vài ngày rồi hãy về nhé !Một con người
    đến là tình nghĩa và chịu thương chịu khó lạ !
    Chiều hôm đó Nam Sao đã đến ga Mậu A sớm, anh buộc thuyền ở bờ sông , rồi lên
    xóm dân tộc Thổ phía sau ga, tìm đến nhà Lương văn Màn, người chiến sỹ cũ của
    tiểu đội anh, khi đánh đồn Đại Bục hơn ba mươi năm về trước. Vừa vào đến đã
    thấy một ông già, râu ria xồm xoàm từ trong nhà chạy ra ôm chầm lấy anh rồi reo
    lên:
    - Ối, anh Nam Sao, có phải là tiểu đội trưởng Nam Sao đây không?
    - Màn! Mày là thằng Màn có phải không?
    - Đúng Màn đây, Màn đây!
    - Sao mày già thế này?
    -Già à, thế này còn trẻ chán đấy, khối thằng còn già hơn nhiều, như thằng Leng
    , thằng Nõn ấy,chúng nó cũng ở gần cả đây thôi. Nghèo đói , thiếu thốn thì già chứ
    sao!Anh Nam Sao vẫn còn khỏe nhỉ.Dào ơi, còn nhớ đây mà về cơ à, hay đi đâu
    qua đây đấy?
    - Chẳng đi đâu qua đây cả, nhớ Đại Bục, nhớ chiến dịch Sông Thao, nhớ cáccậu
    thì tìm lên thăm các cậu đây thôi!
    -Anh vừa xuống tàu ở ga à?
    - Không mình đi thuyền thúng lên đây đấy!
    -Phạ ơi! Đi thuyền thúng lên đây (?) Nghe nói quê anh mãi tận Hải Dương cơ
    mà, từ nhà anh lên đây bao nhiêu ngày?
    -Xa lắm! Đi hàng mấy năm trời mới tới đây đấy !
    -Ối lạ quá, lạ qúa! Thôi vào trong nhà  nghỉ ngơi uống nước đã rồi nói chuyện sau.Đã lên đây thì phải ở đây chơi vài ngày.Màn kéo tay Nam Sao vào trong nhà, một ngôi nhà lá đơn sơ tuyềnh toàng, trông đến thương hại(!)
    - Liệu có đủ cơm gạo mà nuôi mình không?
    -Dào ơi, chẳng có cơm gạo thì có khoai sắn chứ lo gì, trên nương khối, anh cứ ở vài năm cũng không đói đâu, khắc làm khắc ăn thôi mà.
    Vừa lúc đó thì một bà già và hai cô gái  trẻ đi nương về, mỗi người đều đeo một
    địu xắn tươi nặng vừa nhổ còn lấm đất, tay cầm dao phát hoặc cuốc.Màn liền chỉ
    vào từng người rồi giới thiệu:
    - Đây là vợ em và  cháu này là con gái, cháu này là con dâu, chồng nó  mới nhập
    ngũ, đang ở trên biên giới.Màn lại vỗ tay lên vai người khách:
    - Còn đây là bác Nam Sao, tiểu đội trưởng của mình từ thời đánh đồn Đại Bục bên
    kia sông từ thời hơn ba mươi năm trước cơ.Mọi người đều gật đầu  chào:chào
    anh,chào bác ,rồi đều ồ lên có vẻ kinh ngạc,trố mắt lên nhìn người khách lạ. Nam
    Sao tươi cười vui vẻ:
    -Chào  chị, chào các cháu, chị và các cháu lạ lắm à? Đời lính chúng tôi đã sống
    chết với nhau ở mặt trận là như thế đấy!
    Mọi người đang  tíu tít quây lấy anh, hỏi thăm về gia đình về sức khỏe,  được một
    át .Nam Sao chợt nhớ ra ,anh gọi:
    -Chú Màn,cầm cái giỏ xuống sông với tôi một tý
    - Đề làm gì cơ?
    -Khắc đi khắc biết ! -Anh dẫn Màn ra bờ sông, đến chỗ thuyền đậu, rồi vớt lên đầy
    một giỏ cá:
    -Anh vừa đi vừa đánh cá lên làm quà cho chú và gia đình đây.
    - Phạ ơi, anh giỏi quá !
    -Thì nghề kiếm sống của anh mà ! -Nam Sao sách cả túi gạo hai cân dự trữ của anh
    đưa cho Màn:
    -Cầm  về thổi bữa cơm liên hoan cả nhà cùng ăn chiều nay cho vui!
    Sáng hôm sau,Nam Sao bảo Màn dẫn anh đi thăm nhà chú Leng và chú Nõn,ở
    trong bản ,cách đây vài cây số. Mớí thoạt nhìn Nam Sao tưởng là hai tên thổ
    phỉ, đầu tóc bù xù , râu ria xồm xoàm, người gầy khẳng khiu, không nhận ra là ai
    .Mãi đến khi nghe tiếng nói, anh mới nhận ra là hai chiến sỹ cũ của mình. Họ gặp
    nhau mừng mừng tủi tủi, cùng nhau ôn lại những chuyện xưa, kỷ niệm cũ .Leng
    nói:
    - Em  còn nhớ khi tiểu đội trưởng hô em lên đánh quả bộc phá thứ hai, em vội vàng xông lên, giật nụ xòe rồi chạy ra, một tiếng nổ ầm lên làm điếc cả tai, hàng rào của chúng bay hết, bộ binh xông lên như mãnh hổ.Mấy hôm sau em vẫn còn điếc tai mãi.- Nam Sao thấy thương hại , nhìn cảnh nhà Leng và Nõn còn sơ sài hơn cả nhà Màn. Màn liền rủ Leng và Nõn sang nhà mình chơi,uống rượu với cá của anh Sao đánh lên cho.Leng và Nõn đều ngạc nhiên và mừng rỡ.Anh liền hỏi:
    - Các chú có biết đánh cá không? Cả ba người đều nói:
    -Ồ, biết chứ ! nhưng chỉ đánh được cá nhỏ  ở ruộng ở khe thôi.
    -Phải ra sông ra ngòi cơ, thì mới nhiều cá và  có cá to.
    - Cái đó thì chúng em chưa biết làm.Anh dậy cho chúng em với nhá!
    - Nếu các chú quyết tâm học nghề để xóa đói giảm nghèo,thì tôi sẵn sàng ở lại đây cùng làm ăn kiếm sống với các chú và dậy các chú biết đánh cá.
    - Thế thì cảm ơn anh nhiều lắm, hoan hô tiểu đội trưởng !
    Hôm sau họ vượt qua sông  Thao, đi thăm lại chiến trường xưa, đồn Đại Bục.Chẳng còn dấu vết gì là đồn giặc cả, bởi vì ngay từ hồi đó, họ đã được lệnh phá hủy và đốt cháy hết đồn rồi Tuy nhiên họ vẫn hình dung vài nét về đồn xưa.Nay đã bị nhân dân lấn chiếm làm nhà cửa và ruộng nương  canh tác cả rồi.Chuyến đi thăm này chỉ còn tác dụng thắt chặt thêm tình đồng đội của những người lính chiến đấu  mà thôi.Nam Sao đi sâu và rừng, thăm lại rừng quế, vẫn còn bạt ngàn xanh tốt hơn xưa.Anh bẻ cành chặt lấy một khúc cho vào túi làm thuốc dự phòng khi bị đau bụng đau bão, hoặc khi trờì gió lạnh . Rồi anh dẫn mọi người đi  tìm nứa và dây rừng, bốn anh em cùng khai thác mỗi người một vác nứa  to gộc và một cuộn dây rừng, đem về để đan thuyền thúng đánh cá. Ở trên này không có người chuyên làm và bán thuyền như ở dưới xuôi, nên Nam Sao phải hướng dẫn các chiến hữu tự đan lấy thuyền,rồi vào rừng tìm sơn ta,đến xưởng gỗ xin mùn cưa để chạt  lấy thuyền.
    Chỉ trong vòng hơn chục ngày thì ba chiếc thuyền đã làm xong, vừa nhẹ, vừa kín nước, vừa chắc chắn, với đầy đủ các đồ nghề:dầm,sạp,sào, giỏ,be tát nước… ,chỉ còn thiếu lưới phải mua thôi. Nam sao bắt đầu cho anh em học cơ bản vài ngày cho quen, được cái anh em đều là dân miền núi lại ở sát sông, toàn người đứng tuổi cả, nên việc bơi lội đều thành thạo.Sau đó anh cho mỗi người một tấm lưới của anh, mang theo dự trữ, để họ học cách thả lưới, gõ thuyền, thu lưới, bắt cá, giặt lưới, phơi lưới…
    Anh em miền núi rất thông minh, và cần cù lao động .Nên chẳng bao lâu, chỉ chưa đầy một tháng, cả ba người đều làm được cả  .Anh bắt đầu tổ chức đánh cá tập thể, trên khắp các  thùng vụng trên sông Thao và các ngòi gần quanh đó, như Ngòi Thia,Ngòi Hóp,Ngòi Lao,rồi ngược lên tận Ngòi Hút…Anh quy ước mỗi người  chỉ mang theo khoai sắn đủ ăn trong ngày, còn cá kiếm được đều phải  đem bán, để dành tiền mua lưới mới , lưới tốt.Bản thân anh cũng vậy, chỉ mua khoai sắn ăn cùng anh em, để dành tiền mua lưới và dự trữ . Anh còn huấn luyện thêm cho anh em biết khâu vá lưới, buộc phao, kẹp chì, những việc của người đánh lưới không thể thiếu được.Thế là chỉ ba,bốn tháng sau, mỗi người đều có thể tự đi kiếm ăn được, ai cũng mua được thêm lưới mới loại ba màn, và hỗ trợ gia đình được ít nhiều. Mỗi yến cá có thể mua được vài ba yến gạo, đời sống các gia đình ngày càng được cải thiện , no đủ hơn.Tuy nhiên Nam Sao còn ở lại cùng kiếm ăn và kèm cặp anh em dăm sáu tháng nữa, cho đến khi mọi người đều thoát nghèo khổ và khấm khá hơn .Anh mới lại  ra đi.Trong bữa cơm liên hoan của cả ba gia đình Màn, Leng, Nõn để chia tay anh tại nhà Màn, tổ trưởng.Nam Sao yêu cầu:
    -Trước khi liên hoan, các chú cắt tóc cạo râu đi cho ra dáng một anh cựu chiến binh.Các chú thấy không , anh nhiều tuổi hơn các chú, gian khổ hơn các chú ,mà anh vẫn cứ đàng hoàng như thường!
     Quả nhiên sau một tiếng đồng hồ  ra phố ga về.Cả ba anh chàng “thổ phỉ” đã biến thành ba chàng đàn ông đẹp trai, chững chạc và tươi tỉnh.Làm cho các bà vợ và lũ trẻ con vỗ tay hoan hô và cười như nắc nẻ.Mấy bà reo lên:
    -Hoan hô bác Nam Sao, chỉ có bác mới cải tạo được mấy ông “đười ươi” này trở lại thành người thôi!-Buổi liên hoan đầm ấm và lưu luyến kéo dài mãi đến khuya.
     Sáng sớm hôm sau, rời  tổ đánh cá cựu chiến binh Sông Thao anh lại ra đi…Anh đi về đâu?- Có trời  biết !
     Lại một mình một chiếc thuyền nan, xuôi dòng sông Thao, sông Hồng, rẽ vào sông Đà.Vừa đi vừa kiếm ăn, ghé qua thăm lại ông bạn lính nhiệt tình ở Hạ Hòa ,thăm các tổ đánh cá xem họ làm ăn đến đâu .Anh rất phấn khởi thấy tổ của Lân- Hoa, rồi tổ của anh trai và con của Huệ ở Tu Vũ cũng đều làm ăn tốt.Anh biểu dương và khen ngợi họ.Con bé Mai xem ra là người nhanh nhẹn và tháo vát nhất, anh rất mừng vì có một học sinh xuất sắc như vậy.Gần một tháng sau thì anh đã về tới bến Tạ Khoa.

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 01.08.2016 10:51:44 bởi Lương_Hiền >
    #2
      Lương_Hiền 21.07.2016 16:07:28 (permalink)
      Chương 25-CẦU TẠ KHOA 15- 11-1953

         Mùa Đông năm 1953 ta mở chiến dịch Tây Bắc, đại quân của ta được sự giúp đỡ và phối hợp của lực lượng địa phương các dân tộc.Đã anh dũng chiến đấu phá tan hệ thống phòng ngự của địch từ Nghĩa Lộ đến Quang Huy, Bắc Yên, Vạn Yên,Tạ Khoa …Dồn địch về tả ngạn sông Đà, quân ta làm chủ hữu ngạn sông Đà.
      Để phát huy thắng lợi các binh đoàn của ta tràn sang hữu ngạn tiêu diệt địch, các đơn vị công binh đảm nhiệm  phần vượt sông, bắc cầu phao cho bộ đội, dân công ,pháo binh sang sông diệt địch trong đó có trung đội 8 công binh thuộc đại đội 270 tiểu doàn 333 trung doàn 151 công binh.
      Đã nói đến Tây Bắc  thì phải nói đến núi cao rừng rậm suối sâu.Hai bên bờ sông Đà từ Vạn Yên ngược thượng lưu đến bến Tạ Khoa, cũng nằm trong địa hình bờ sông chỗ thoải chỗ hoắm, chỗ bãi cát bồi đoạn thì nhô lên toàn đá.Mức nước sông Đà mùa nước lũ tháng 6 tháng 7 ta, có đoạn nước  dâng cao  kéo rộng lòng sông tới 500m, nước chảy như đâm lao  có khi tới 3-4 mét /giây.Mùa nước cạn dòng sông thu hẹp 200m, dòng nước sông đã uốn khúc, lưu tốc cạn 2m/giây.Khoảng trống trải ra trên mặt sông rất khó mgụy trang , nhất là ngụy trang các cầu phao nứa dài gần 200m,còn máy bay trinh sát, máy bay phóng pháo của địch thì tự do hoạt động, vì ta giữ kín lực lượng
        Bờ hữu ngạn sông Đà từ Vạn Yên đến Tạ Khoa do ta làm chủ.Một số đồn lân cận địch đã  rút co lại, nhưng quân ta chưa sang, nên hàng ngày chúng vẫn phải đưa hàng đại đội đi tuần bờ sông, thường xuyên sảy ra  giữa đội trinh sát bắc cầu công binh và bọn tuần tra của địch, nhưng không nổ súng vì ta còn giữ bí mật để đánh lớn những đòn quyết định.
         Máy bay địch thường xuyên bay lượn trên vùng trời Tây Bắc.Nhưng mục tiêu vẫn là tuyến sông Đà, một bên là đồn bốt  và binh lính của chúng, một bên là lực lượng bộ đội dân công của ta, nên mỗi ngày các loại  máy bay trinh sát, phóng pháo, oanh tạc phải bay từ tám đến mười lần.Có hôm đồng chí Phạm Văn  Hải tiểu đội trưởng công binh, hồi mười hai giờ trưa, cởi trần mặc quần đùi bơi qua sông để trinh sát bờ địch  đã bị máy bay phát hiện đuổi bắn, đồng chí Hải phải lặn xuống nước bơi đi một đoạn xa, mới ngoi lên thở, nhưng bọn địch vẫn không tha, chúng quay đi quay lại săn đuổi  bắn  đồng chí Hải mãi đến bị thương rồi chìm xuống sông một lát chúng mới bay đi . Trung đội trưởng Nam Sao phải huy động anh em chiến sỹ bơi lặn giỏi nhanh chóng ra vớt đồng  chí Hải đưa đi cấp cứu kịp thời. Hay một dây  cáp căng  qua sông để chuẩn bị bắc cầu phao, ban ngày cũng bị máy bay phát hiện được, đem bom để phá…
        Về phía ta, tiểu đoàn 333 công binh do đồng chí Lê Trung Ngôn làm tiểu đoàn trưởng, tiểu doàn gồm có ba đại đội là: đại  đội 250 , đại đội 260 và đại đội 270 làm nhiệm vụ bảo đảm cho chiến dịch Tây Bắc tấn công đợt hai là Hữu ngạn sông Đà.Tiểu đoàn  có nhiệm vụ bảo đảm vượt sông và làm đường cơ động. Cụ thể là :Đại đội 260 bắc cầu phao bến Vạn Yên, đại đội 250 bắc cầu phao bến Tạ Khoa, đại đội 270 làm đường cơ động.Theo kế hoạch đêm N tháng  11 năm 1953 các bến phải có cầu phao cho các binh đoàn vượt sông.
        Kế hoạch của tiểu đoàn là ngày N-3 : đại đội 260 phải  tới bờ tả ngạn bến Vạn Yên, đại đội 250 tới bến Tạ Khoa, đại đội 270 triền khai làm đường  từ bến Vạn Yên theo hướng  Tạ  Khoa.
      Các bước tiến hành:- Cán bộ đại đội  cấp trưởng đi trinh sát thực địa đem theo tiểu đội trinh sát, quyết định vị trí cầu.
          - Khu vực bãi kết cấu cầu phao bằng tre nứa, phải bằng phẳng, rộng rãi, điều kiện ngụy trang kín đáo.Phải nói rằng chọn được một bãi có điều kiện trên ở địa hình rừng núi thật không dễ dàng.
      -Chọn khu vực cất dấu cầu  ở mép nước, phải dễ đưa cầu ra vào, ngụy trang che mắt địch, cũng đòì hỏi nhiều yếu tố nhất là che mắt địch phảỉ bảo đảm kỹ thuật chuyên môn, bí mật bất ngờ.
      -Đại đội phó và các trung đội phó  ở nhà chỉ huy bộ đội chuẩn bị vật liệu.Hàng vạn cây nứa, hàng ngàn bó nứa đã được bộ đội và dân công khai thác trong rừng, bí mật vận chuyển ra hai bên bờ sông kín đáo
      Quyết định kiểu cầu, chiều dài cầu và các  kế hoạch bắc cầu, các bước làm trong hai ngày phải xong.
      -Thực hành và diễn biến vượt sông:
      -Đêm N-2 đại dội 260 thực tập nội bộ bắc cầu  Vạn Yên , đến  chin giờ tối thì xong  , đại đội cho bộ đội tập dượt hành quân vận  động trên cầu, được trung đoàn, tiểu đoàn công nhận đạt yêu cầu.
      Cũng đêm N-2 đại đội 250 bắc cầu nội bộ  ở bến Tạ Khoa.Mãi đến bốn giờ sáng, phía bờ địch một cánh cầu phao vẫn không bắc được, vì lưu tốc nước mạnh quá, trời gần sáng phải đưa cầu đi cất dấu, ngụy trang  đề phòng máy bay địch bắn phá.Trong khi chờ cầu phao để vượt sông, các binh đoàn, các binh chủng pháo binh, dân công, những bộ phận đi đầu đã đến Tạ Koa chờ sang sông.
      -Trước tình hình khó khăn của đại đội 250 vượt sông đêm N-2 không thành công.Tiểu đoàn quyết định điều trung đôi 8 công binh của đại đội 270 do đồng chí  Nam Sao làm trung đội trưởng tăng cường cho bến Tạ Khoa.Trung đội 8 công binh lúc này đang làm đường ở khu vực bến Vạn Yên, nhận lệnh xong , từ  bờ sông Vạn Yên hành quân theo ven sông Đà nhằm hướng bến Tạ Khoa, khẩu hiệu hành quân cấp tốc, mười bảy giờ ngày N-2 tới địa điểm đại đội 250 làm nhiệm vụ, đồng thời nhận bàn giao
      Diễn biến bắc cầu đêm N-1:
       Trung đội 8 đại đội 270 tăng cường nhận nhiệm vụ quay cầu phía bờ địch, một nửa cầu dài chin mươi mét đã liên kết xong, chỉ còn quay hai bên cầu nối vào nhau thành một cầu phao cho bộ đội sang dài một trăm tám mươi mét qua sông Đà.Nhưng vì dòng nước chảy xiết về phía địc, nên một trung đội do đồng chí Viên ( biệt hiệu là Viên mù,vì đồng chí Viên phải đeo kính ) làm trung đội trưởng, trong hai đêm không ăn khớp với bờ Bắc, là vì đã quay không ăn khớp thì nước lại dồn về một phía, lưu tốc tăng lên, nếu không có biện pháp khắc phục thì không thể bắc được cầu.
        Sau khi nghiên cứu, đồng chí Nam Sao trung đội trưởng trung đội 8, phổ biến nhiệm vụ, tổ chức phân công trong trung đội, rút kinh nghiệm tại sao một trung đội của đơn vị bạn không quay được cầu.?
      Chỉ còn hai giờ nữa là quay cầu, nào là phái viên tác chiến của đại đoàn bộ binh, có cả phái viên của Bộ tổng tham mưu, của trung đoàn, tiểu đoàn công binh tham dự cuộc họp của trung đội 8, một động cơ thôi thúc cán bộ chiến sỹ công binh trung đội 8 là, hồi nhập nhoạng tối ở bờ Bắc Tạ Khoa  một số đơn vị theo kế hoạch vượt sông đã hành quân ra bến, khó khăn nhất vẫn là các đơn vị dân công mất trật tự  nhiều ở bến.
      8giờ 30đêm N lệnh quay cầu, 9 giờ hai thân cầu đặt sẵn  ở thượng lưu, lợi dụng sức nước đầu cầu gặp nhau, nhưng phía bờ địch ra đến giữa sông trôi vút xuống hạ lưu, cầu không bắc được.
      Một sự ồn ào ở bờ Bắc bến Tạ Khoa, bộ đội, dân công, phái viên các cấp, còn có cả cán bộ cao cấp đêm nay cũng sang sông,Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
      9 giờ 30 phút trung đội 8 công binh quyết định tập họp rút kinh nghiệm tìm nguyên nhân:- hai bên cùng quay thì bên bờ địch bị dồn nước lưu tốc trước đã chảy xiết hơn bờ ta, nay tăng thêm nên trôi cầu.- Trời giá cóng tay chiến sỹ công binh, khi cầu quay ra giữa sông cóng tay không ép được con nín vào dây.
       Mười lăm phút rút kinh nghiệm xong  đề nghị với đại đội trưởng đại đội 250 cho bờ ta quay sau năm phút, còn trung đội 8 thay thế một số chiến sỹ yếu sức cóng rét ,giao cho đồng chí Vũ Đăng Nụ thay thế.Đồng chí Nam Sao trung đội trưởng, trước đứng chỉ huy giữa cầu, nay ra đầu mép cầu cụt để đối phó với nước lướt qua, các biện pháp được thực hiện, đề nghị được chấp nhận.
      10 giờ  đêm N lệnh quay cầu lần thứ hai được phát ra theo tín hiệu của đèn pin người chỉ huy chung.Phút chờ đợi vượt sông của các đơn vị bộ đội dân công, các phái viên cấp trên ra bờ sông đứng như xem hội, càng thôi thúc cán bộ chiến sỹ công binh quay cầu.
        Lần này có sự bố trí chỉ huy và biện pháp kỹ thuật kịp thời, nên chỉ sau mười lăm phút, cầu đã bắc xong và liên kết chắc chắn an toàn.Chiến sỹ công binh phân công cứ năm mét một người đứng bảo vệ cầu,  như cọc tiêu lan can hay hàng rào danh dự suốt dọc cầu.Tiểu đoàn trưởng công binh Lê Trung Ngôn chạy lại báo cáo với  Đại tướng tổng tư lệnh :
      - Báo cáo Anh cầu đã thông ! .Lúc này là 10 giờ 30 phút đêm N tức ngày 15tháng 11 năm 1953. Đại tướng tổng tư lệnh bắt tay tiểu đoàn trưởng Lê Trung Ngôn và trung đội trưởng Nam Sao và nói : -Các đồng chí làm tốt lắm.Đúng giờ quy định.Tôi biểu dương và khen ngợi toàn đơn vị.Mong rằng các đồng chí cố gắng giữ vững nhip cầu này, bảo đảm chiến dịch thắng lợi.Lê Trung Ngôn cùng Nam Sao đều đáp lại :- Xin vâng ! Đại tướng bước xuống cầu, cùng với một số cán bộ và bảo vệ.Tiểu đoàn trưởng Lê Trung Ngôn và trung dội trưởng Nam Sao cùng tiễn đưa đại tướng qua cầu.Trước khi lên bờ, đại tướng còn quay lại bắt tay hai người một lần nữa và dặn: -Cố gắng giữ vững nhịp cầu nhé.Hai người đều đồng thanh:
      - Chúng tôi xin hứa. Chúc thượng cấp khỏe mạnh, lên đường bình an!( vì giư bí mật nên không được nói tên và chức vụ của đại tướng ra.)
      Chiếc cầu phao bộ binh qua sông Đà ở bến Tạ Khoa trong chiến dịch Tây Bắc, cho đại quân ta vượt sông diệt địch ở hữu ngạn sông Đà và đường 41, địch rút về  cụm lại ở Điện Biên Phủ.Bến Tạ Khoa thành bến phà cho xe cơ giới của ta vượt sông tiến vào giải phóng Điện Biên .  
       Trong trận đó đơn vị được cấp trên nhận xét là- Bảo đảm được đúng kế hoạch đêm N các đơn vị vượt sông –Trung đội 8 công binh khắc phuc khó khăn, sáng tạo hoàn thành nhiệm vụ.- Tổ chức vượt sông cho các binh đoàn lớn qua sông bằng vật liệu tại chỗ, tre ,nứa, gỗ, mang tính kế thừa của tổ tiên ta đánh giặc.
                                                                 
      Vào bản người Thái                                                                  
      Nam Sao tìm vào một bản người Thái ở gần bờ sông.Mấy chục năm qua mà bản
      vẫn không có gì thay đổi mấy.Tuy nhà cửa có đông thêm chút ít nhưng toàn nhà
      sàn nhỏ , những nhà sàn cao rộng đời xưa không còn nữa, vì chiến tranh  chống
      Pháp đã tàn hoang.Đến chiến tranh chống Mỹ cũng bị bắn phá quấy rối, không ai
      muốn làm nhà to, nhà lớn .Mà kinh tế ngày càng khó khăn.Người ta chỉ lo miếng ăn còn không đủ, thì lấy đâu tiền của xây dựng nhà khang trang.
      Anh gặp một cụ già hỏi thăm nhà anh thương binh Phạm Văn Hải ở chỗ nào?  Cụ già rất nhiệt tình vừa chỉ đường vừa dẫn anh đến tận nơi. Anh đứng dưới sân gọi với lên:
       - Có phải nhà anh Hải đây không?-Không có tiếng trả lời.Anh liền trèo lên cầu
      thang,. rồi bước thẳng vào trong nhà.Một người đàn ông đang nằm, tung chăn ngồi
      dậy, khuôn mặt gầy gò, mắt trũng sâu, cứ nhìn chằm chằm vào anh không nói.Nam
      Sao vội nói to sợ chủ nhà không nghe thấy:
      -Tôi hỏi khí không phải anh có phải là Phạm Văn Hải không?- Bỗng người ấy nhận
      ra giọng nói của Nam Sao, vừa nói vừa gật đầu,giọng yếu ớt :
       - Vâng ,em là… Hải, Phạm văn Hải… đây!Anh là…trung đội trưởng ...Nam Sao…phải không ?
      -Đúng rồi,Nam Sao đây! -Trời , chú làm sao mà gày gò,  ốm yếu khổ sở thế này ?
      - Em…bị ốm … mười ngày.. nay rồi !
      - Thế chị và các cháu đâu?
      - Nhà em đi hái thuốc…các cháu đi làm nương!..  Cũng sắp về rồi đấy!-Hải vội và
      gạt chăn sang một bên, rồi cố đứng dậy lê bước ra bếp giữa nhà .Nam Sao chạy lại
      đỡ Hải, cảm động quá, cả hai cùng ôm lấy nhau , đứng lặng một lúc lâu, rồi bỗng
      nhiên cả hai người , nước mắt  cứ trào ra. Nam Sao đỡ cho Hải ngồi xuống ghế lùn
      cạnh bếp,anh cũng ngồi xuống một ghế  bên cạnh.Hải dúi mấy cây củi đang cháy
      dở vào bếp, lửa bùng lên.Trong ánh lửa.khuôn mặt Hải hồng lên và đỡ hốc  hác hơn lúc ngồi trên tấm đệm ở góc nhà sàn.Nam Sao  lại nói trước:
      -Mình có gặp một số anh em  nói chuyện cậu, sau khi đi điều trị, rồi về đơn vị thu
      dung cho ra quân vì mất sức chiến đấu.Ở dưới quê giặc đang chiếm đóng,cậu
      không về được, nên quay lại Tạ Khoa lấy vợ Thái ở đây rồi ,nên mình mới tìm đến
      đây để thăm lại chiến trường xưa thôi, chứ cũng không hy vọng còn gặp cậu.May
      là quả đất tròn , trời phật lại xui khiến,chúng ta lại gặp nhau, sau mấy chục năm trời.
      -Vâng đúng như thế, hôm đấy em bị thương rồi chìm xuống đáy sông,chắc chắn là
      chết.May được trung đội trưởng cùng  mấy đồng chí lặn xuống  vớt lên rồi đưa lên
      bản này nhờ bà con dân tộc cấp cứu, em tỉnh lại .Trung đội trưởng cho người cáng
      em về trạm quân y tiền phương điều trị một tháng, rồi chuyển về đội điều dưỡng
      hai tháng nữa mới khỏi.Em xin về đơn vị tiếp tục chiến đấu,nhưng trên không cho
      vì em bị gãy đùi và một vết vào mạng sườn, không thể chạy nhảy được nữa,Đơn vị
      an dưỡng sư đoàn cho ra quân.Em chẳng biết đi đâu,ở quê  nhà em địch đang
      chiếm đóng,nếu em về cũng bị địch bắt ngay.Nên em đành quay lại bản Tạ Khoa
      này, ở nhờ cụ chủ nhà đã cấp cứu ban đầu cho em.Các cụ biết hoàn cảnh của em
      nên thương và được địa phương cũng ủng hộ giúp đỡ, nên sau đó ít lâu em trở
      thành con rể của cụ.Nay các cụ đã mất cả rồi, chỉ còn chúng em và các cháu.
      - Thế cô chú được mấy cháu ?
      -Dạ , chúng em được hai cháu, một trai lớn đi bộ đội đang ở trên biên giới phía
      bắc, còn một cháu gái ở nhà làm ăn với mẹ.
      - Sao không cho  cháu đi học?
      - Cháu  cũng đã học hết cấp 1 rồi, ở nhà làm ruộng nương thôi, hoàn cảnh nhà em
      neo đơn, túng bấn lắm.Với lại tập quán trên này, chỉ cho học thế thôi, rồi ở nhà đi
      lấy chồng là được rồi.
       -Thế dưới quê còn ai không?
      - Sau năm 1954 , hòa bình được lập lại, chúng em đã về quê rồi định ở quê làm ăn
      sinh sống ,nhưng nhà em nó không quen, nên lại kéo nhau lên đây.Các cụ nhà em
      cũng mất cả rồi, chẳng còn ai nữa.Có một mảnh vườn nhỏ , hợp tác xã đã lấy cả từ
      thời cải cách cơ.Họ bảo đi bộ đội rồi không còn hộ tịch ở nhà nữa nên không có
      ruộng, đất,cũng chẳng có phần trăm trồng rau, vì không phải là xã viên (!)
      -Thế tình hình trung đội trưởng thế nào?- Phạm Văn Hải nói tiếp - Sao hôm nay lại
      có điều kiện đến thăm em thế này, làm em cảm động quá.
      -Chuyện của tôi thì dài dòng lắm, cứ từ từ tôi sẽ kể chú nghe… Vừa lúc đó thì vợ
      và  con gái của Hải đi làm nương về, mỗi người đều đeo một địu nặng, khoai, sắn,
      rau, quả… Thấy khách lạ đến nhà đều chào niềm nở.Nam Sao vội chạy xuống
      thang :
      -Chào bà chủ và  cháu!
      Phạm văn Hải liền giới thiệu bác Nam Sao với vợ con, và ngược lại giới thiêu vợ
      con với anh .Sau một lát trao đổi chuyên trò thăm hỏi chủ khách. Hải liền bảo vợ
      con bắt một con gà làm cơm đãi khách .Nam Sao nghe thấy vội gạt đi:
      -Thôi thôi, để dành gà bữa khác, hôm nay tôi đã có thứ đãi cả nhà rồi.
      -Bác có thứ gì đãi chúng em đấy?-Vợ Hải lấy làm ngạc nhiên liền hỏi lại
      - Có đấy, rồi sẽ biết! Nào cháu gái, mang hộ bác một cái giỏ ra bờ sông với bác
      đi!-Cháu Lài cũng vội cầm giỏ đi theo Nam Sao.Sau khi hai bác cháu đi một lát đã
      thấy hai bác cháu khiêng một giỏ cá tươi  đầy, đang rẫy đành đạchvề
      -A lúi, cá đâu mà nhiều thế bác Nam Sao ơi!
      - Bác ấy đánh lưới đấy mẹ ạ, bác để thuyền dưới bờ sông ấy.Tài ghê!
      Hải ngồi trên sàn nhìn xuống sân cũng kêu lên :- Bác Sao giỏi thật đấy!
      -Đó là nghề kiếm sống của anh đấy cô chú và cháu ạ!- Thím Lả ơi, thím phải chọn con cá ngon nhất nấu cháo cá cho chú Hải ăn, mới chóng lại sức đấy. Còn cả nhà cứ thả sức ăn cá, không phải để dành đâu, mai tôi lại đánh.
      -Nhưng bác ơi, nhiều thế này thì ăn một lúc sao hết được, hay là em  buông vào thùng nước ăn dần có được không bác.
      -Tùy thím thôi. À mà này, xem hàng xóm thân quen mà khó khăn, cho người ta vài con cùng ăn cho vui, mai ta lại có lo gì. Tôi sẽ ở lại đây vực cho chú Hải khi nào khỏe rồi đi đánh cá với tôi được tôi mới đi.Cô chú không phải lo gì cho tôi đâu, gạo nước mắm muối tôi đều có đủ cả.Thế là nhờ món cháo cá của bác Nam Sao, chỉ mười ngày sau chú Hải khổi ốm và dần dần lại sức, mười ngày nữa thì Hải khỏi hẳn, có thể đi làm ăn được.Nam Sao vừa động viên vừa khuyến khích Hải theo mình học nghề đánh cá để xóa đói giảm nghèo.Ít ngày sau có vài người bộ đội về phục  viên thấy Phạm Văn Hải theo thày Nam Sao học nghề đánh cá cũng đến nói với Hải xin  cùng học theo với.Nam Sao đồng ý. Cho thành lập một tổ đánh cá Tạ Khoa. Gồm 4 người, do Phạm Văn Hải làm tổ trưởng.Nam Sao lại vận dụng kinh nghiệm của tổ sông Thao, cho lên rừng chặt nứa đan thuyền thúng và các dụng cụ đồ nghề, tìm sơn trên rừng, xin mùn cưa để chạt thuyền, rồi vay mượn tiền mua lưới.Dưới sự huấn luyện cúa anh, chỉ năm sáu tháng sau tổ đánh cá Tạ Khoa đã thành nghề, và kiếm sống dần dần nuôi sống gia đình, ngày càng no đủ hơn.Anh lại ra đi,  xuôi về Chợ Bờ- Suối Rút.

      #3
        Lương_Hiền 21.07.2016 16:13:06 (permalink)
        Chương 26-BẾN SUỐI RÚT 15/3/1954

        Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ  đang bị quân ta bao vây có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt .Đường vận chuyển chi viện quân lính, lươmg thực vũ khí và dụng cụ chiến tranh của bọn địch chủ yếu bằng máy bay.
         Còn lực lượng ta bao vây Điện Biên Phủ gồm các đại đoàn chủ lực, bộ binh, pháo binh, thông tin, hậu cần… Đường vận chuyển chủ yếu của quân ta bằng đường bộ, xe ô tô vận tải, xe đạp thồ , dân công gánh, đồng bào các dân tộc thì gùi sau lưng, bằng các ngả đường, từ đồng bằng,Việt Bắc,Khu Tư,TâyBắc, vận chuyển nhằm hướng Điện Biên đi tới.Quân ta bao vây địch ở Điện Biên Phủ phải tập trung một số lượng người khá đông, tiêu thụ mọi mặt khá lớn, đòi hỏi việc vận chuyển rất nhiều, nhất là về mặt vũ khí đạn dược, các binh khí kỹ thuật tiêu thụ  một khối lượng trong ngày phải tính bằng hàng ngàn tấn.
        Các nơi vận chuyển tới Điện Biên Phủ đường quá xa so với các người gồng gánh và xe thồ, do đó ta phải tận dụng và khắc phục bom đạn địch để vận chuyển bắng ô tô, nhất là về vũ khí đạn dược, mới kịp thời chiến đấu.Mà vận chuyển bằng cơ giới  thì vấn đề bảo đảm giao thông trong điều kiện địch đánh phá ngăn chặn giao thông trở nên vô cùng quan trọng.
        Địa hình, dọc đường 4, khu vực Chợ Bờ, suối Rút, bãi Sang, trên đoạn đường này có nhiều rừng núi hiểm trở, từ thị xã Hòa Bình qua bến phà chợ Bờ  đi ven tả ngạn sông Đà 6km,lại qua phà suối Rút.Là những mục tiêu cho không quân Pháp đánh phá, mà chính bản thân địa hình trên trục đường giao thông  đã gây cho ta nhiều khó khăn về vận chuyển bằng cơ giới.Nhất là đường xá bỏ lâu ngày không tu sửa, mặt đường bị các cây cối ven đường  mọc um tùm lấn chiếm ,nền đường tuy trước đây có giải đá dăm, song bỏ lâu ngày  bị phong hóa, cho đến khi ta sử dụng, lại vận chuyển nhiều , nền đường trở nên bị lầy lội.Riêng nước sông Đà khu vực chợ Bờ ,suối Rút chảy xiết  vì có nhiều đoạn đã bị thu hẹp lòng sông, thuyền bè đi lại vô cùng khó khăn và nguy hiểm.
          Hoạt động của địch, Bến phà chợ Bờ- đoạn đường 6km , tả ngạn sông Đà gọi là đèo Hút gió, qua bến phà suối Rút đến bãi Sang là trọng điểm bắn phá của các loại bom phá đường, phá bến phà, bom nổ chậm , bom bi, còn bắn 20 ly cả ngày lẫn đêm, chủ yếu không quân giặc Pháp  hoạt động hàng ngày liên tục từ 10 đến 12 lần Nhất là khi Điện Biên Phủ đang  bị ta bao vây vào tháng 3, tháng 4 năm 1954, vận chuyển của ta bằng cơ giới  trên tuyến đường 41 qua chợ Bờ, suối Rút càng nhiều thì địch bắn phá khu vực này càng ác liệt hơn.
        Thủ đoạn bắn phá của địch: Ngoài việc phá hoại đường xá, bến phà, còn bắn phá phương tiện vận chuyển, phương tiện  vượt sông, cầu phao, bè mảng, thuyền, phà. ca nô, không quân lùng sục hai bên bờ sông bắn phá, gây cho ta nhiều khó khăn thiệt hại, nhất là phương tiện vượt sông cho cơ giới qua sông, chủ yếu là phà đã bị máy bay địch  bắn phá làm đắm vài lần rồi, mỗi lần vớt được phà lên  cũng mất từ 7 đến 10 ngày, vì phà là phương tiện vượt sông cồng kềnh khó vận chuyển và  khó cất dấu.
         Về tình hình ta : Vào cuối tháng 3 năm 1954, ở chiến dịch điện Biên Phủ đã đến giai đoạn quyết định, cần nhiều vũ khí để áp đảo quân địch trong đợt tổng công kích  sắp tới.Việc dùng cơ giới vận chuyển vũ khí là chủ yếu, mỗi tối bến suối Rút phải  bảo đảm từ 15 đến 20 chuyến ô tô từ đèo Hút gió qua bến suối Rút  sang bãi Sang.
        Việc sử dụng lực lượng:Đại đội công binh 250 và đại đội công binh 270 thay phiên nhau bảo đảm bến phà Suối Rút, bảo đảm đoạn đường từ đèo Hút gió đến khu vực bãi Sang, như vậy nhiệm vụ gồm có: - Bảo đảm vượt sông bến suối Rút-Bảo đảm đoạn dường trọng điểm, đèo Hút gió tới bãi Sang, sửa đường , lấp hố bom, phá bom nổ chậm, chống lầy vv…
         Phương tiện khí tài vượt sông gồm có:- Một phà trọng tải mười hai tấn chở bằng tay-Một thuyền chở mườì lăm người- Từ năm đến mười mảng nứa, mỗi mảng chở bốn đến năm người, bộ binh.- Một dây cáp dài ba trăm mét bắc qua sông , gọi là dây quá giang.
        Diễn biến chiến đấu:Tháng 3 năm 1954 đại đội 270 do đồng chí Huy làm đại đội trưởng, gồm có: trung đội 7, trungđội 8, trung đội 9, phụ trách bảo đảm vượt sông trong đợt vận chuyển vũ khí mới loại K50 có súng và đạn, gồm có 20 xe, hạn trong hai đêm phải qua bến suối Rút.
        -Sáng ngày 25/3/1954 nhận lệnh vượt sông.
        - 15 giờ chiều 25/3/1954 , bốn máy bay địch dánh phá trong một giờ đồng hồ.Hậu quả đoạn đường đèo Hút gió bị phá hoại 120m  cách đoàn xe vận tải vũ khí mới 250m.Bến suối Rút hai đầu bến bị bom phá khoét sâu 3-4 m mặt đường lên xuống bến.Một phà 12 tấn bị đắm, hi sinh hai chiến sỹ công binh.Một chiến sỹ là Ờn  người Mường người Hòa Bình và một chiến sỹ là Năm người Hà Đông.
        - 15 giờ 30, trời mưa to, đường sụt lở thêm, cây cối bị máy bay bắn  gẫy đổ ngổn ngang, đoạn đường  càng trở nên lầy lội
        -18 giờ, lệnh của trên xuống: Bằng mọi cách công binh đại đội 250, đại đội 270, tiểu đoàn 333, phải bảo đảm thông đường , thông bến, giải phóng đoàn xe bị tắc ở  quãng đèo Hút gió.
        Như vậy là đoàn xe 20 chiếc, chở đầy vũ khí mới K50của Liên Xô chi viện cấp tốc cho chiến trường Điện Biên Phủ, chuyến đầu tiên đang bị mắc kẹt ở đoạn đèo Hút gió, trên đoạn đường 6km, phía sau là bến chợ Bờ, phía trước là bến suối Rút, thì sớm muộn cũng bị địch đánh phá , mà có kinh nghiệm là, nếu địch đánh trúng một xe  bị cháy, khói đen bốc lên thì chúng bâu vào đánh liên tục hết đợt này đến đợt khác, ta không thể cứu chữa được.
        -18 giờ 30  ngày 25/3/1954, thủ trưởng tiểu đoàn 333 công binh và các đại đội trưởng của các đại đội 250 và 270 họp cáp tốc .Hạ quyết tâm sử dụng : đại đội 270 bảo đảm vượt sông qua  bến suối Rút.Đại đội 250 sửa đường lấp hố bom, chống lầy, 23 giờ phải thông đường  và chuyến xe thứ nhất qua sông..
        Trong lúc các cấp trưởng họp, thì  các cấp phó ở nhà chuẩn bị tinh thần tư tưởng mọi mặt và hạ quyết tâm bất kỳ nhận nhiệm vụ nào cũng phải hoàn thành  xuất sắc.Riêng anh nuôi, nấu cơm chiều xong, nấu thêm một nắm nữa cho bộ đội ăn đêm.Khi các cấp trưởng họp xong, triển khai bộ đội chuẩn bị.Đại đội 250 nhanh chóng  sửa đường đèo Hút gió, bãi Sang.Đại đội 270 bảo đảm trục vớt phà đắmvà làm đường hai đầu lên xuống bến phà.
        -19 giờ triển khai,  đại đội 270 phân công như sau: trung đội 7 do đồng chí Cổ làm trung đội trưởng, san lấp hố bom , bảo đảm đường lên xuống bến phía Nam, trung đội 9  do đồng chí Cầm làm trung đội trưởng làm đường lên xuống bến bờ Bắc  .Trung đội 8 do đồng chí Nam Sao làm trung đội trưởng làm nhiệm vụ trục vớt phà đắm sau đó chở cơ giới qua sông.
        19 giờ 30 phút, chuẩn bị vớt phà.Tình hình phà bị đắm cách bến phía thượng lưu 100m dưới bụi cây che khuất.Chợ Bờ, bến hoắm, sóng đánh vào mạnh, sau khi cho sào dài nối vào nhau cắm xuống  để đo chiều sâu và tìm vị trí phà đắm, thì phà bị chìm sâu 6m.
        Hiệp đồng, việc làm đường hai đầu bến phà và vớt phà phải tiến hành song song.Sau khi vớt phà xong , bến xong, thì trung đội 8 phụ trách chở phà, còn trung đội 7 và trung đội 9 làm lực lượng dự bị và chi viện cho đại đội 250 làm đường.
        Biện pháp vớt phà: - Cấp tốc đẵn một cây gỗ đường kính 10- 12 cm làm tời, hai tiểu dội bạt đất mé bờ sông, dùng dây cáp 16 ly buộc vào tời, một đầu buộc vào phà, sau đó dùng tời kéo phà nổi lên khỏi mặt nước, rồi dùng thùng múc nước cho phà nổi lên.
        -Một khó khăn lặn xuống 6m  buộc dây cáp vào phà là một vấn đề khó, ai có nhiều hơi và phải quen lặn. Lần thứ  nhất là trung đội trưởng Nam Sao lặn, mang được  dây cáp  xuống vị trí liên kết vào đầu phà, chưa liên kết được thì hết hơi phải lên, lặn lần thứ hai thì không xuống tới phà, vì trời rét xuống sâu, buốt lộng óc.
        Nam Sao họp toàn trung đội lại, nói rõ tình hình và lấy tinh thần xung phong.Đồng chí Đồng Văn Đường, người Bến Thủy tỉnh Nghệ An, gia đình đồng chí làm nghề chài lưới từ nhỏ , đồng chí Đường bơi lặn đã quen, đồng chí Đường xung phong lặn.
         -20 giờ,  đồng chí Đường đem theo một đầu dây cáp lặn xuống ( ký hiệu buộc xong giật dây cáp 2 lần để trên bờ biết).Đồng chí Đường lặn khá lâu  không thấy đầu dây cáp động, anh em  sợ đồng chí Đường chết cóng.Đang lo lắng thì đầu dây động,và đồng chí Đường nhô lên mặt nước, thấy tay đồng chí với vớí, anh em đưa sào ra đồng chí vịn lấy, anh em kéo vào bờ, đồng chí Đường đã mệt lử,bụng chướng nước- đưa đồng chí đi cấp cứu mớí biết là đồng chí Đường mặc dầu đã hết hơi, uống mấy ụm nước, nhưng kiên quyết liên kết dây cáp vào phà bằng được.
        Lệnh tời kéo phà bắt đầu, đang tời thì máy bay  địch đến thả 4 quả bom ở bến, anh em cứ kéo ( nói đúng hơn là liều chết), vì tời phà dở dang mà ngừng kéo thì nước tràn vào, thậm chí trông thấy những con cá chết bom to bằng quạt mo nổi trắng ở mạn phà, anh em tuy thiếu thốn thực phẩm nhưng cũng không dám rời phà để vớt cá.
        -20 giờ 30 phà nổi, tập trung tát nước, 23 giờ phà nổi hẳn.23giờ 30 đưa phà sang bờ Bắc, chở chuyến phà thứ nhất qua sông  an toàn, anh em đều thở phào nhẹ nhõm.
        -23giờ 40 phút thay phiên nhau ăn cơm nắm, vẫn tiếp tuc chở phà cho xe vận tải qua sông.Và cũng quãng thời gian này, thông báo của tiểu đoàn là, đại đội 250 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ  bảo dảm lấp hố bom trên hai đoạn đường bị phá hoại.
        Kết quả :- Trong năm giờ ba mươi phút ( từ 6 giờ đén 11 giờ ba mươi phút ) đại đội 270 đã kiên quyết , cán bộ và chiến sỹ hăng say đồng tâm nhất trí khắc phục khó khăn trục vớt được phà đắm, do bom nổ sóng xô làm phà đắm, bảo đảm  từ 23giờ 30 đêm đến năm giờ sáng hôm sau, cho 20 xe chở vũ khí mới qua sông, chi viện cho quân ta đang bao vây Điện Biên Phủ. 
        Đào đắp lấp hố bom gần 8 m3 đất đá ở hai bờ bến.Đại đội 250 với tinh thần bảo đảm giao thông đã đào đắp hàng trăm mét khối đất đá san lấp hố bom hợp đồng chặt chẽ cho đoàn xe vận tải qua sông.
        Các đại đội 270, 250, tiểu đoàn 333 công binh, đã kiên quyết bảo đảm giao thông, ngày đêm chống với không quân giắc Pháp, cho thông đường chở quân ta vận chuyển qua sông, góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhân xét: Quyết tâm cao cán bộ chiến sỹ công binh không ngại khó khăn gian khổ, hy sinh, vì bảo đảm giao thông chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ.-Trung đội 8 công binh đại đội 270  do đồng chí Nam Sao làm trung đội trưởng chịu trách nhiệm vớt phà đắm, có nhiều sáng tạo, kế hoạch sát, sử dụng chiến sỹ đúng năng lực vào nhiệm vụ, đắc biệt đồng chí Đường đã mang lại thành công trong việc trục vớt phà,Sau về bình công ,đồng chí Đường đã được thưởng huân chương chiến công hạng ba  rất xứng đáng. Sau đó trung đội 8 đã  chèo chở phà đưa toàn bộ đoàn xe đặc biệt chở vũ khí mới qua sông an toàn, theo đúng thời gian quy định của cấp trên.
           
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2016 16:33:21 bởi Lương_Hiền >
        #4
          Lương_Hiền 21.07.2016 16:38:54 (permalink)
          (Chương 26 tiếp)     Xuôi về bến cũ
          1-Con thuyền thúng đơn độc của Nam Sao lại xuôi dòng sông Đà một cách nhẹ nhàng êm trôi.Anh vẫn vừa đi vừa đánh cá kiếm sống một cách cần cù và thanh thản.Chiều hôm sau đã tới bến phà Suối Rút.Anh lên bờ ngắm toàn cảnh bến phà cũ.Suy nghĩ và nhớ lại những tình huống chiến đấu năm xưa trên bến phà này.Anh nhớ tới hai chiến sỹ đã hy sinh vì máy bay giặc bắn.Đó là chiến sỹ Ờn, người Hòa Bình và chiến sỹ Năm, người Hà Đông.Dạo đó đơn vị cho mai táng tại mé rừng ,cách bến phà khoảng một trăm mét. Chẳng biết sau này hài cốt đã đưa về địa phương, về nghĩa trang liệt sỹ chưa ?Anh quay xuống thuyền lấy một nắm hương anh đã mua sẵn từ hôm qua, rồi lần theo lối mòn lên sườn núi tìm mộ của hai liệt sỹ, do chính  anh cùng tiểu đội 1, tổ chức chôn hồi đó.Anh còn cho anh em khắc chữ vào gốc cây sát đó để đánh dấu mộ chí, cho những người tìm mộ dễ thấy.Anh loay hoay tìm một lúc, mới nhận ra gốc cây đó vẫn còn, nó đã rất to cao, lừng lững giữa rừng.Chẳng còn thấy hai nấm  mộ nữa.Ở gốc cây nơi khắc tên các liệt sỹ cũng không còn rõ nữa, chỉ thấy một khối u xù xì, lòi ra từ thân cây  ở độ cao hàng chục mét.Anh phán  đoán chính là dấu khắc chữ  đã mọc  cao lên như vậy.Nam Sao bật lửa, đốt cả bó hương rồi cắm xuống gốc cây, vái mấy vái rồi thì thầm : “Đồng chí Ờn và đồng chí Năm ơi ! Tôi là Nam Sao, trung đội trưởng của các đồng chí đây.Mấy chục năm qua, may mắn tôi còn sống trở về .Bây giờ trên đường đi kiếm sống , mới có dịp quay trở lại, thăm chiến trường xưa và đến viếng mộ các đồng chí đây.Sống khôn chết thiêng, các đồng chí hãy phù hộ cho những người thân trong gia đình và anh em đồng đội được mạnh khỏe, đủ sức kiếm ăn, xóa đói giảm nghèo, phù hộ cho đất nước mình ngày càng phồn vinh…” Nam Sao đang rì rầm khấn vái thì có tiếng léo nhéo ở phía sau  .Anh quay lại , thấy ba bốn cô gái Mường đang gánh củi từ trên rừng đi xuống .Đến gần gốc cây, họ đặt xuống nghỉ.Thấy anh mặc quần áo  bộ đội, đội mũ cối, họ đều chào:
          - Chào anh bộ đội!
          - Chào các ủn, các ủn đi kiếm củi về à !
          -Vâng ạ!-Một cô lớn tuổi nhất, trông thấy nắm hương đang tỏa khói nghi ngút ở gốc cây liền hỏi:
          -Anh bộ đội thắp hương cho ai thế? Có phải đồng đội cũ chết ở đây không?
          -Đúng thế, một đồng chí tên là Ờn và một đồng chí tên là Năm.Hy sinh từ  đầu
          năm năm mươi tư, hồi chiến dịch Điện Biên Phủ cơ.Các ủn có biết gì về hai nấm
          mồ ở đây không?-Vẫn cô lớn tuổi nói:
          - Em biết chứ ! Anh Ờn là anh trai của em mà.Sau chiến tranh, ở xã đã đưa cả hai
          nấm mộ này vào nghĩa trang liệt sỹ rồi.
          -Ôi thế thì hay quá.Nhà em có gần đây không,bố mẹ vẫn còn chứ.Anh muốn đến
          thăm gia đình có được không?
          -Nhà em ở trong bản gần đây thôi, bố mẹ em vẫn còn.Mời anh vào chơi .Gặp được
          bạn của anh Ờn chắc là các cụ vui lắm!
          Nam Sao mừng quá liền theo các cô về bản.Vừa đi anh vừa hỏi cô gái lớn tuổi:
          - Em tên là gì nhỉ,là con gái út của các cụ à ?
          -Em tên Đương, vâng em là con út.
          -Được mấy cháu rồi?
          -Em mới được một cháu trai tên là Đường, thì nhà em hy sinh trong chiến trường
          K. Cháu đang học lớp mười, thấy bố mất nó bỏ học rồi, nó muốn đi làm nhưng
          chẳng xin được việc gì, chỉ ở nhà làm ruộng làm nương với mẹ  thôi.- Vừa lúc đó
          đi đến đầu ngõ, Đương tiếp: -Nhà bố mẹ em đây, mời anh vào chơi.Cô đặt gánh củi
          ngoài ngõ, rồi dẫn Nam Sao vào sân, cô gọi to:-Bố ơi! Có bạn anh Ờn đến thăm đây này !-Một cụ già khoảng bảy mươi tuổi từ trên nhà sàn bước vội xuống cầu thang ngơ ngác nhìn người khách lạ.Nam Sao vội chạy lại:
          - Chào cụ ạ! Cháu cùng đơn vị của chú Ờn trước đây, là chỉ huy chở phà Suối Rút, đưa xe pháo vào Điện Biên .Naymới có dịp lên viếng mộ chú Ờn và thăm cụ cùng gia đình -.Anh nắm lấy hai tay cả cụ ông và cụ bà rung rung
          -Thấy các cụ còn khỏe mạnh thế này là cháu rất mừng.-Hai cụ già cười hớn hở:- Quý hóa quá , quý hóa quá! Mấy chục năm rồi mà
          vẫn còn nhớ đến em nó và chúng tôi, thật là mừng.Anh vẫn còn ở bộ đội chứ ?
          Không , cháu đã nghỉ hưu rồi, mới có điều kiện đi  chơi xa, thăm chiến trường xưa
          ,thăm bạn bè cùng gia đình đồng đội được chứ ạ!- Thế anh lên bằng ô tô à, xe để
          đâu?- Không, cháu đi bằng thuyền thúng đánh lưới ạ.-Hả, đi bằng thuyền thúng? Cả hai cụ đều ngạc nhiên
          - Vâng cháu đi mấy năm nay rồi, đi hết sông này bến nọ, thămnhiều bạn bè đồng đội, vừa đi vừa kiếm sống, nay mới đến đây mà.Cụ  già lại kêu
          lên :- Kỳ lạ quá ,kỳ lạ quá! Các thủ trưởng người ta đi hết  xe con này đến xe con
          khác , còn có người đi cả ô tô to nữa, nhà nước thiếu gì xe, thiếu gì người lái.Thế mà ông thủ trưởng này lại không đi xe cơ quan , không đi xe nhà nước, mà lại tự bơi thuyền thúng đi viếng liệt sỹ , đi thăm đồng đội và gia đình đồng đội , thăm chiến trường xưa .Thật là lạ kỳ, có một không hai .Quý hóa quá, quý hóa quá !
          – Dân bản nghe tin có một ông thủ trưởng của anh Ờn từ mấy chục năm trước, nay vẫn lên viếng và thăm gia đình, họ kéo đến đầy cả nhà  đầy cả sân để chúc mừng bố mẹ anh Ờn, và chào người đồng đội của anh Ờn, sao mà nghĩa tình ,sao mà quý hóa làm vậy.
          Chuyện râm ran một lúc thì bà con  chào ra về, chỉ còn mấy cụ già lên sàn ngồi
          uống nước và kể chuyện từ cái thời Điện Biênvới anh bộ đội già.Nam Sao tiếp các
          cụ một lúc rồi xin phép xuống sân.Anh gọi Đương mang một cái giỏ theo anh ra
          bãi sông lấy cá.Đương hỏi :- Cá ở đâu thế anh ?
          - Cá của anh đánh mà! - Anh cũng biết đánh cá à?-Nghề kiếm sống của anh đấy! Hai người đang khiêng giỏ cá lên bờ, Nam Sao bảo Đương dừng lại, anh quay xuống thuyền xách nốt túi gạo nhỏ lên đưa cho Đương: -Em nấu cơm cho cả nhà ăn tối nay, cả mẹ con em nữa nhé, liên hoan mà. -Nhà cũng có gạo mà, anh để lại mai đem đi mà ăn chứ.-Mai anh lại đong lo gì, gạo chợ nước sông mà !- Khi hai người khiêng giỏ cá về  đến sân làm cho bố mẹ Ờn và các cụ già đều chạy xuống  xem, rồi ngạc nhiên kêu lên:-A lúi!...Ây dồ!... Ông thủ trưởng mà cũng đánh cá giỏi ghê! - Nam Sao lại dúi cho Đương mấy đồng, rồi  nói nhỏ : Em mua ít rượu về mời cả các  cụ ở đây uống rượu cho vui nhé . Cụ Ờn nghe thấy liền nói:- Không phải mua rượu nữa đâu , nhà hãy còn, đủ uống.Xin mời các cụ ở lại đây  liên hoan với anh thủ trưởng cho vui nhé. Mấy cụ già hàng xóm cũng vội nói: -Mẹ cu Đường không phải mua rượu nữa.Các cụ về nhà góp mỗi người một chai thì uống cả đêm cũng chả hết. Mấy chục năm nay, mới thấy một người đồng đội của con trai cụ Ờn tốt như vậy đến thăm, thì phải uống rượu mừng chứ, hà hà… hà hà…Thế là các cụ già đều xúm xít lại, mỗi người một tay, người mổ cá, người xiên cá, người đốt lửa, người cời than, người tìm rau thơm rau ghém, làm nước chấm…Nam sao xin phép các cụ trời còn sớm, tranh thủ ra nghĩa trang thắp hương cho các liệt sỹ Ờn và Năm.Bố Ờn  gọi:
          - Mẹ Đương dẫn anh thủ trưởng, xin lỗi anh tên gì nhỉ?
          - Cháu là Nam Sao, cứ gọi cháu là Sao cũng được
          - Ờ mẹ Đường dẫn anh Sao ra nghĩa trang cho nhanh, rồi về uống rượu. Ở nhà đã có các cụ lo, qua nhà gọi cháu Đường sang giúp ông một tay nhé.
          -Vâng ạ !-  Cô Đương, người mẹ trẻ , lên nhà lấy một nắm hương thơm, rồi xuống
          cầu thang , vui mừng kéo tay Nam Sao đi, mặt  cô tự nhiên  hơi ửng đỏ, người cô
          thấy lâng lâng khó tả, mới gặp anh bộ đội đứng tuổi này từ chiều mà cứ như đã
          quen lâu ngày vậy.Đi qua nhà Đương, cô dẫn anh ghé vào chơi, một ngôi nhà sàn
          nhỏ đơn giản nhưng gọn gàng sạch sẽ.Thằng Đường ở trên sàn vội chạy xuống
          chào:
          - Cháu chào bác ạ !
          - Chào cháu, cháu là Đường hả ?
          - Vâng ạ! Chiều cháu đã sang nhà ông ngoại, biết bác đến chơi rồi.Bác là thủ trưởng của bác Ờn cháu. Mẹ Đương vội bảo con:
          - Con sang nhà ông đi, giúp ông bà làm cơm với các cụ, mẹ dẫn bác ra nghĩa trang
          một lát.Tối về bác kể chuyện bác Ờn cho mà nghe!
          - Vâng ạ! Thằng Đường vội vàng chạy ra cổng. Nam Sao hỏi Đương :
          - Cháu bao nhiêu tuổi rồi?
          - Khi đẻ nó em mới mười bảy tuổi, năm nay cháu mười lăm tuổi rồi.
          - Một thanh niên mới lớn, đẹp trai, giống mẹ.Thế mà bỏ học giữa chừng, nó đã
          không muốn học thì có bắt buộc cũng chả được, đành phải kiếm nghề cho cháu
          thôi.
          - Em chưa biết xoay sở thế nào cả.
          -Văn hóa thấp đi làm nhà nước không ai lấy đâu.Ở nhà mà cứ kiếm ra tiền là được
          rồi, mẹ con trông lấy nhau .Còn phải trông nom ông bà nữa chứ!
          - Vâng ,ông bà nội thì mất cả rồi, chỉ còn ông bà ngoại thôi .
          - Ông bà nào thì con cháu  cũng phải trông nom. Nếu em đồng ý thì anh sẽ dậy cho
          cháu nghề đánh cá.
          -Anh ở lại đây với mẹ con em chứ?
           -Anh sẽ ở lại đây dậy thằng Đường biết đánh cá kiếm sống  được thì thôi.
          - Vâng thế cũng được.Em chỉ mong được như thế thôi.Em cảm ơn anh rất nhiều.
          Trong lòng cô Đương còn mong nhiều hơn thế nữa, nhưng cô chưa dám nói ra .Cô
          tin rằng cô sẽ dần dần chinh phục được anh, đến đó sẽ hay, nếu trời phù hộ cho cô.
          Đến nghĩa trang,hai người đều thắp hương cho liệt sỹ  Ờn  và liệt sỹ Năm, cùng các
          nấm mồ liệt sỹ ở xung quanh.Nam Sao rì rầm khấn vái trước nấm mồ của Ờn  và
          Năm .Cô Đương cũng rì rầm khấn vái, ngoài việc cầu xin  hương hồn anh Ờn và
          các liệt sỹ phù hộ cho bố mẹ cô được khòe mạnh sống lâu trăm tuổi, phù hộ cho mẹ con cô được khỏe mạnh làm ăn  được no đủ yên lành.Cô còn  cầu  anh trai và các liệt sỹ,trong đó có cả người chồng của cô đã hy sinh, hãy phù hộ  để người đồng đội tốt bụng của anh Ờn được ở lại và yêu thương  mẹ con cô đến trọn đời!

          <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2016 11:03:40 bởi Lương_Hiền >
          #5
            Lương_Hiền 22.07.2016 10:34:53 (permalink)
            2-Khi hai người ở nghĩa trang về thì các cụ và cháu Đường làm cơm nước đã xong xuôi, mà chủ đề là cá nướng và cháo cá, là hai món ăn ngon sở trường của dân tộc ở vùng này . Cuộc liên hoan kéo dài, với những câu chuyện từ thời đánh Pháp ,đánh Mỹ tới tận đêm khuya.Nam Sao xin phép đi nghỉ để sáng mai còn đi đánh cá sớm. Ngày hôm sau thì việc bàn bạc  lập tổ đánh cá của các con em liệt sỹ được thực hiện gồm toàn thanh thiếu niên trẻ tuổi gồm  bốn cháu do cháu Đường làm tổ trưởng và do giáo viên Nam Sao huấn luyện.Việc huấn luyện các cháu phải làm khá kỹ từ khâu cơ bản đến tổng hợp.Nam Sao phải huấn luyện từ việc đan thuyền thúng đến làm các dụng cụ đồ nghề cho các cháu. Sau đó anh bỏ tiền ra mua lưới ban đầu cho các cháu.Sau ba tháng thì các cháu đã có thể tự đi kiếm cá được.Nhưng anh còn phải ở lại đây hàng năm trời để vừa kiếm sống vừa kèm cặp các cháu kiếm sống thành thạo. Trong số các học viên  thì cháu Đường là học sinh xuất xắc nhất, vừa thông minh vừa cần cù,ngày nào cháu cũng kiếm được dăm bảy cân cá, có khi được hàng yến, mẹ phải đi chợ bán cá mấy lần liền.Buổi chiều, cháu Đường vừa bơi thuyền cập bến đã gọi Nam Sao:
            - Bố ơi, con tiếc quá, một con cá to đến năm sáu cân mắc lưới rồi mà không bắt được, nó quẫy mạnh quá chạy thóat, rách cả lưới.
            - Sao con không lấy vợt xúc nó lên ?
            - Nó dài quá ,vợt không xúc vừa.
            -Thế thì  con phải dùng cạnh dầm bơi  mà bổ vào óc nó cho nó chết ngất đi chứ .
            - Ừ nhỉ, bố đã dậy rồi mà lúc đó con luống cuống quên mất.
            - Thôi rút kinh nghiệm, lần sau thì cứ bình tĩnh mà sử lý, không được vội vàng, cứ phải nhẹ nhàng kéo nó vào rồi xúc lên thuyền, hoặc tìm cách đập cho nó chết rồi mới nhấc lên thuyền mà gỡ.
            -Vâng ạ ! –Đường và các bạn trẻ đều gọi Nam Sao là bố từ bao giờ cũng không biết nữa.Cũng có thể là do mẹ Đương dặn. Cả tổ đánh cá đều gọi bố Sao , mẹ Đương quen mồm, cứ như một gia đình đông con vậy.Riêng Đương thì rất thich, nhưng Nam Sao thì vẫn làm ngơ. Anh vẫn thân mật quý mến Đương và các cháu như con cái mình.Nhưng anh không thể chiều lòng Đương được.Bởi vì anh cũng có một gia đình ấm cúng và  đang đau khổ vì anh.Anh không thể phụ lòng người vợ hiền tần tảo, đã vì anh mà nuôi dậy con cái thay anh. Anh đành phải xa vợ con ,xa quê hương để quên đi những nỗi đau  của chiến tranh và những nỗi buồn, tủi cực, day dứt trong lòng. Không muốn để vợ con phải chịu đựng những nỗi đau buồn của riêng anh.Nhưng anh vẫn phải kiếm sống cho bản thân mình và cho vợ con.Hàng tháng hoặc một vài tháng anh vẫn tích cóp gửi tiền về cho vợ qua những người quen hoặc qua đường bưu điện, để đỡ đần  cho vợ được ít nhiều, nuôi con cái ăn học. Trên đường lênh đênh rong ruổi để kiếm sống và làm từ thiện với bạn bè đồng đội.Anh hết sức tránh những quyến rũ tình cảm của những cô gái xinh đẹp ,hay những phụ nữ đa tình. Ngay từ thời trong quân ngũ, anh đã coi đó là một tai họa nguy hiểm, mà anh phải tuyệt đối  tránh. Bởi lẽ, những người có quyền thế và những kẻ đố kỵ dèm pha , định kiến, chỉ luôn luôn rình rập anh, chờ thời cơ anh sơ hở là chúng ra  tay tố cáo, tiêu diệt anh.

            <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2016 11:04:22 bởi Lương_Hiền >
            #6
              Lương_Hiền 22.07.2016 10:46:12 (permalink)
              3-Tính cảnh giác đó anh đã rèn luyện quen rồi.Cho dù bây giờ anh đã về hưu, không còn vòng kim cô cương tỏa nữa.Nhưng anh không thể cho phép anh được vi phạm đi ra ngoài vòng luân thường đạo lý và lẽ sống  mà anh đã rèn luyện được từ trước tới nay.Để tránh những tai tiếng hoặc những điều vui đùa xằng bậy không hay.Ở đâu anh cũng chọn ở thuê hoặc ở nhờ những gia đình có người già cả, hay cô đơn.Ngay ở Suối Rút này, bố mẹ Ờn và mẹ con Đương vẫn mời anh sang ngủ nhà Đương cho vui.Nhưng  anh vẫn ngủ nhờ bên nhà  các cụ, nên chẳng có điều tiếng gì cho anh và cho cả mẹ con Đương.
              Sau một năm thì tổ đánh cá Suối Rút đã tăng lên sỹ số mười người, do các em tự đào tạo lấy nhau theo phương pháp của thầy Nam Sao, trong đó anh vẫn là cố vấn về phương pháp làm ăn để mau chóng phát triển.Một may mắn là thời kỳ này hồ thủy điện Hòa Bình đang triển khai thi công, nước dần dần được nâng cao, cá các loại được phát triển nhanh chóng , hồ tích tụ nhiều màu, cá mau lớn.Một năm ,tổ đánh cá đã có trên hai chục tổ viên,  .Họ chia làm hai nhóm: nhóm già và nhóm trẻ cho dễ sinh hoạt và hợp tính hợp nết nhau hơn.Khi các nhóm đã làm ăn đi vào nề nếp và đang phát triển mạnh, thì Nam Sao lại chia tay tổ đánh cá Suối Rút  lên đường.Mặc đầu ở đây đang là thời cơ anh kiếm cá được nhiều nhất.

              <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2016 11:22:23 bởi Lương_Hiền >
              #7
                Lương_Hiền 22.07.2016 11:01:59 (permalink)
                 
                4-Anh lại xuôi dòng sông Đà trở về sông Hồng, rồi rẽ sang sông Đuống, ngược lên sông Cầu , sông Thương, sông Lục nam, xuống sông Kinh Thầy, sông Thái Bình.Cứ hoạt động  quanh vùng Lục đầu giang này hàng năm trời.Nơi đây anh đã từng chiến đấu thời chống Pháp,rồi tiễu phỉ thời hòa bình.Đã từng phá bom nổ chậm, bom từ trường thời chống Mỹ để giải phóng những luồng lạch, thông suốt những dòng sông.Để đưa hàng ngàn thuyền bè,phà, tàu thủy, ca nô, xà lan các loại…Vận tải chuyên chở hàng triệu tấn hàng, vũ khí đạn dược lương thưc ,thực phẩm…cho các vùng đồng bằng, hải cảng và xa hơn , chi viện vào chiến trường miền Nam, trong những ngày giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại miền Bắc,và phong tỏa các đường giao thông vận tải của ta.
                 Anh cũng đã đến thăm một số bạn bè đồng đội thời chống Pháp, nhưng không còn mấy, chỉ gặp các chiến sỹ thời chống Mỹ thì nhiều hơn.Cũng như ở các nơi anh đã qua.Gặp những hoàn cảnh khó khăn anh đều tận tình giúp đỡ, truyền nghề cho anh em biết làm ăn kiếm sống, bằng cái nghề truyền thống của mình.Ở mỗi dòng sông ,anh cũng lại lập được một tổ đánh cá của cựu chiến binh hoặc con em liệt sỹ. Ở đâu , anh cũng vừa tự mình kiếm sống, lại vừa kèm cặp họ, cho đến khi nào họ kiếm sống được  mới lại ra đi .
                Không nhận một đồng tiền công, không nhận một lời ân huệ.Thậm chí không nhờ vả phiền hà một ai, mọi việc đều sòng phẳng với  tấm lòng thương yêu đùm bọc lẫn nhau, trên tinh thần bạn bè đồng đội đồng chí, đã từng vào sinh ra tử với nhau trên mọi nẻo chiến trường.Anh đã sống vì đồng chí đồng đội nghèo khó  như thế.Đó là mục tiêu sống của anh.Chính vì thế nên tâm tư, tình cảm anh lúc nào cũng được thoải mái vô tư, bớt lo nghĩ những điều buồn phiền tủi cực đã qua .Nhờ  thế sức khỏe anh được cường tráng dồi dào, ngày đêm làm ăn bền bỉ không biết mệt mỏi.Đôi lúc cũng có trái nắng giở trời, nhưng đối với anh, một vài viên thuốc dự phòng là qua khỏi ngay. Anh luôn luôn ăn uống điều độ và biết giữ gìn, rèn luyện hàng ngày bền bỉ, không bao giờ lâm li, cũng không bao giờ thái quá .Bởỉ “sức khỏe là mẹ thành công”, “một nụ cười bằng mười thang thuốc”.Ngày xưa bố anh đã dậy như thế và trong cuộc đời quân ngũ, anh cũng đã rèn luyện mình được như thế.  Tuy anh đã ở tuổi chi thiên mệnh, năm hai, năm ba tuổi rồi, đã về hưu hàng chục năm trời nay.Đang lênh đênh hết dòng sông này đến dòng sông nọ.Những dòng sông lại nối tiếp những dòng sông .Nhưng anh vẫn cảm thấy mình còn dẻo dai và minh mẫn.Cho nên lúc nào anh cũng lạc quan yêu đời, lúc nào cũng đùa vui dí dỏm, chuyện tiếu lâm, châm biếm, tếu táo…Bởi vậy, ở đâu anh cũng được từ người già đến trẻ em  đều yêu quý.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2016 11:06:27 bởi Lương_Hiền >
                #8
                  Lương_Hiền 26.07.2016 16:43:15 (permalink)
                  Chương 27-TÌM NGƯỜI NHƯ THỂ TÌM CHIM

                  Một hôm Nguyễn Văn Thuận sang gặp chị Ngữ , vợ anh Nam Sao :- Chị có biết anh ấy bây giờ ở đâu không ? Phải tìm anh ấy về thôi, lang thang mười năm trời rồi còn gi!Chị Ngữ: -Biết anh ấy ở đâu mà tìm ! – Thế anh ấy gửi tiền về cho chị và các cháu gần đây nhất là ở đâu? – Không biết, chỉ thấy giấy báo chuyển tiền từ bưu điện Mậu A thôi!- Bưu điện Mậu A là ở đâu nhỉ?-Hình như ở Yên Bái thì phải.-Yên Bái, Mậu A , thì rộng mênh mông biết đâu mà tìm.- Thấy cậu  Hà ở trong Hà Trung trước đây nói là anh ấy đi dậy cho các bạn cựu chiến binh của anh ấy đánh cá thì phải .-Giúp đỡ ban bè thì tốt thôi , nhưng còn phải nghĩ đến gia đình mình nữa chứ-Tính anh chú , chú còn lạ gì.-Suy nghĩ một lát rồi Thuận nói:- Em phải vào Thanh Hóa  gặp cậu Hà một chuyến, may ra mò được manh mối gì chăng, chị cho  một cháu đi với em,vào thăm các cụ trong ấy một thể.- Thế cũng được, để tôi cho cháu Nga đi với chú, nó bé nhưng nhanh nhẹn tháo vát hơn, chú định bao giờ đi?-Càng sớm càng tốt chị ạ, chị xin phép cho cháu nghỉ học vài hôm để đi nhá.Cứ nói với cô giáo là cháu đi tìm bố với chú,  là cô yên tâm cho đi ngay, cô giáo còn lạ gì gia đình mình nữa.
                  Thế là ngày hôm sau, hai chú cháu Thuận và Nga lên tàu  đi Hà Nội rồi chuyển tàu về Đò Lèn thăm gia đình  ông bà ngoại của các cháu. Đến chiều thì về đến nơi. Cháu Nga hớn hở  đi trước dẫn đường.Vừa vào đến cổng nó đã gọi ông bà ríu ra ríu rít.Ông bà mừng rỡ đón chú Thuận và cháu Nga niềm nở.Chú Thuận cũng nói rõ mục đích của chuyến đi này của hai chú cháu về đây .Trước hết là thăm hai ông bà và gia đình, sau nữa là  hỏi tìm manh mối địa chỉ cúa anh Nam Sao để đón anh về , củng cố xây dựng lại gia đình.Các cụ đều vui vẻ đồng tình ý  kiến của chú   Thuận.Trong khi Thuận ngồi nói chuyện với ông bà thì cháu Nga chạy đi tìm chơi với các em con cậu Hà.Chiều tối thì mợ Hà đi làm đồng về.Một lát sau thi cậu Hà cũng đi đánh cá về.Hà sách giỏ cá khá nặng. Thuận khen :-Cậu đánh được nhiều cá thế! Hà vui vẻ bảo :-Đây cũng là nhờ công lao dậy bảo của anh Nam Sao đây! Mợ Hà và cháu Nga vào bếp làm cơm.Chú Thuận nói với cậu Hà về ý định của mình. Nghe xong Hà nói :-Em cũng không rõ hành trình của anh Sao đâu, có lẽ em phải gọi mấy cậu lính của anh ấy đến đây chơi rồi hỏi xem. Nói rồi cậu Hà đi một lúc quanh làng xóm rồi về.Sau khi cả nhà cơm nước xong,đến tối thì có các anh  trong tổ đánh cá cựu chiến binh đến chơi.Chuyện vui rôm rả, ai cũng khoe với Thuận:- Không có anh Nam Sao thì chúng tôi còn gặp khó khăn nhiều.Chỉ riêng vùng Thanh Hóa này anh ấy đã đào tạo dậy nghề cho một đại đội lính, hơn trăm người có công ăn việc làm,và giúp xóa đói giảm nghèo cho hơn trăm gia đình rồi.- Anh ấy còn đi xa hơn nữa -Nghe nói anh ấy đã đi khắp nơi chiến trường xưa và dạy nghề cho hơn một tiểu đoàn đánh cá rồi.Thuận liền cắt ngang các ý kiến đang rôm rả :- Thế có ai biết đích xác bây giờ anh ấy ở đâu không?-Đích xác thì không biết, nhưng anh ấy đã đi hết khu vực đồng bằng song Hồng rồi, hôm nọ gặp một cậu ở Hà Tây nói anh ấy đang lên khu vực sông Đà.  Một anh khác nói:- Gần đây tôi nghe cậu An bảo, nhận được thư của một anh trên Phú Thọ nói : -Có một ông lính già đang dậy cựu chiến binh đánh cá ở sông Thao cơ, chắc là anh ấy đấy. Sau một hồi bàn bạc nhận định và trao đổi,Thuận nói: -Tôi xin cảm ơn các đồng chí cựu chiến binh, đề nghị với các anh, ai có tin tức gì về anh Nam Sao thì báo cho cậu Hà ở đây, rồi cậu Hà sẽ báo lại cho tôi, hoặc nếu có điều kiện,các anh trực tiếp viết thư báo cho tôi  biết , theo địa chỉ tôi đã ghi trong mảnh  giấy này.Vừa nói Thuận vừa đưa cho mỗi người một mảnh giấy nhỏ ghi sẵn địa chỉ. Sáng hôm sau chú cháu Thuận xin phép gia đinh ông bà và cậu mợ Hà về ngay để  cho cháu Nga đi học và bố trí người đi tìm.Lại đi tàu về Hà Nội, rồi chuyển tàu về nhà. Chiều hôm sau Thuận và cháu Nga về đến nhà, trước sự vui mừng của chị Ngữ và cả gia đình. Chị Ngữ  và thím Roãn,vợ Thuận  bàn với Thuận, để cử các con, cháu đi tìm anh Nam Sao cũng được.Nhưng Thuận gạt đi mà nói :-Việc này tôi phải trực tiếp đi mới được,vì tình cảm anh em còn nói với nhau được,chứ để các cháu đi có khi bác ấy còn mắng cho, rồi đuổi về không biết chừng . Bà Ngữ và bà Bằng nghe ra thấy phải, nên nhất trí. Bà Roãn nói:- Vậy thì ông phải bố trí người trông nom  công việc của nhà máy sao cho hợp lý thì mới đi được- Việc ấy tôi đã bố trí mấy cô chú ở cơ quan nhà máy rồi, bà không phải lo. Hơn nữa tôi đi xe nhà nên cơ động và nhanh, đi đi về về  luôn được mà, không phải đi xa lâu đâu,vẫn quán xuyến được công việc của nhà máy mà! Ông Thuận cũng hơi chủ quan, cứ tưởng mình có xe con, phương tiện của nhà thì chỉ đi lại vài lượt, vài hôm là tìm được ông anh thôi. Không ngờ ông phải đi đi lại lại hàng tháng trời,mới tìm ra tung tích của ông  Nam Sao.  Thoạt đầu ông đi ô tô con lên vùng sông Thao, từ ga Mậu A trở lên.Ông và lái xe  hai người cứ theo dọc sông mà quan sát, hễ nhìn thấy những thuyền đánh cá nào thì đến gần, đặc biệt những người đội mũ cối đánh cá, tức là cựu chiến binh thì gọi  người ta đến  để hỏi:-  Anh (hoặc bác) làm ơn cho tôi hỏi thăm có biết ông Nam Sao dậy cựu chiến binh đánh cá ở vùng này không ?.Hỏi đến hai ba người  ,họ đều không biết, họ toàn là người già hoặc mượn mũ cối của con cháu đội cho tiện làm việc.Lại lên xe đi ngược dòng sông hàng chục cây số.Hỏi đến người thứ năm thì gặp đúng là anh cựu chiến binh, đồng đội của Nam Sao thật.Anh ta nói:
                  - Anh Nam Sao đã ở đây dạy và kèm cặp chúng tôi hàng năm sáu tháng trời.Nhờ có anh mà chúng tôi đã hết khổ, mời anh ấy ở lại với chúng tôi, nhưng anh ấy không ở.Anh ấy bảo, các chú biết làm ăn được rồi, đỡ  nghèo đói  rồi, thì tôi lại phải đi giúp các đồng chí khác đang nghèo đói hơn!Thuận hỏi: -Thế bây giờ anh ấy ở đâu, anh có biết không?- Anh ấy đi cách đây bốn  tháng rồi, đi đâu anh ấy cũng không nói, hình như anh ấy đi ngược lên mạn Trái Hút rồi thì phải.Hai cha con ,Thuận và lái xe lại lao đi lên mạn Trái Hút.Tìm chỗ ăn uống , ngủ trọ,rồi sáng sớm mai mới ra bờ sông tìm.May quá gặp được một nhóm hai người cựu chiến binh đang bơi thuyền vào chợ  gần bờ sông bán cá.Thuận liền hỏi:- Xin lỗi hai anh, hai anh có biết anh Nam Sao không?Hai người giật mình trố mắt lên nhìn ông khách lạ ăn mặc sạch sẽ có vẻ sang trọng, còn đang đắn đo không ai nói gì.Thuận lại nhắc lại câu hỏi vừa rồi.Một anh mới nhìn thẳng vào mắt Thuận như để kiểm tra tư cách người lạ mà hỏi:
                  - Anh là ai mà hỏi ông Nam Sao?Thuận nghe hỏi thế thì  biết ngay là trúng tủ rồi.Anh mừng quá lắp bắp trả lời:
                  - Tôi …tôi là em trai anh Nam Sao đây! Tôi đang có việc cần gặp anh ấy.Các anh làm ơn chỉ cho tôi biết anh ấy ở đâu?Hai người bán cá ngờ ngợ, ngắm nhìn Thuận, thấy anh cũng to cao giống anh Nam Sao thì có vẻ tin, mới nói: - Anh Nam sao có ở đây dạy chúng tôi đánh cá sáu tháng, khi chúng tôi biết làm ăn được thì anh ấy lại đi rồi.
                  -Đi lâu chưa, đi đâu cơ?- Đi cách đây  độ năm tháng, anh ấy bảo anh ấy đi thăm lại đồn Tu Vũ trên sông Đà, năm xưa anh ấy bắc cầu ở đấy.
                  -Có đi với ai không?_-Không! Anh ấy đi một mình thôi.Thuận phấn khởi vì đã biết một địa chỉ chính xác, đồn Tu Vũ, trên sông Đà.Anh cảm ơn hai đồng chí bán cá, rồi lên xe quay về.Anh định quay về Phú Thọ rồi hỏi thăm đường lên sông Đà ngay.Nhưng lái xe nhắc:-Bác có cuộc họp với đối tác vào 10 giờ sáng ngày mai đấy ạ!- Ừ nhỉ, thôi quay về vậy, họp xong sáng ngày kia ta lại đi, biết địa chỉ chính xác rồi không lo gì nữa.Đến chiều thì về đến nhà, cả nhà tíu tít hỏi: Đã gặp ông Nam Sao chưa, bao giờ ông ấy về?- Gặp thì chưa gặp, nhưng biết chính xác địa chỉ gần đây nhất rồi.Tôi về họp xong, mai lại đi thì chắc là gặp.Mọi người đều vui mừng.Sau khi họp xong ,  giải quyết công việc kinh doanh ổn thỏa, hôm sau ông Thuận và cậu lái xe lại lên đường từ sáng sớm.Sau khi đã hỏi thăm đường lên sông Đà,hai cha con chạy thẳng  lên, thị xã Hòa Bình,rồi hỏi thăm đường  dọc theo sông rẽ sang Tu Vũ.Cũng như hôm trước,cứ đi dọc sông quan sát, thấy ai đánh cá đội mũ cối thì gọi vào hỏi thăm.Cũng phải hỏi thăm đến người đội mũ cối thứ ba mới biết, người ấy nói:
                  - Có, anh Nam Sao  thì chúng tôi không bao giờ quên được,vì anh ấy đã giúp đỡ chúng tôi thoát khỏi cảnh nghèo đói…Thuận thấy sốt ruột liền cắt ngang lời anh ta : -Xin lỗi anh ấy còn ở đây không?- Thế ông cần gì mà hỏi anh Nam Sao thế, chắc lại mời về dậy đánh cá chứ gì, anh ấy chỉ dậy cho các cựu chiến binh nghèo khổ thôi, loại các ông, trông no đủ thế này thì anh ấy không dạy đâu!Thuận phải kiên nhẫn , từ tốn nói với anh ta:- Không phải tôi mời về dậy đánh cá đâu.Tôi là em trai anh Nam Sao đây, có việc gia đình, nên mới lên tìm anh ấy đây, anh ấy còn ở đây không? Người cựu chiến binh ngớ người ra một lát, rồi lắc lắc đầu:- Thế thì tiếc quá , anh ấy đã đi rồi!-Đi lâu chưa , đi đâu cơ anh có biết không ?- Đi cách đây bốn tháng rồi, hình như anh ấy lên mạn  Tạ Khoa  thì phải.- Tạ Khoa ở đâu, anh có thể chỉ cho tôi được không?- Cũng dọc sông Đà này thôi, ở phía thượng lưu ấ, cách đây khoảng  hơn một trăm cây số đấy, nghe nói thế thôi , chứ tôi cũng chưa đến bao giờ. Cảm ơn người cựu chiến binh.Thầy trò Thuận lại quay về Hòa Bình,vào hiệu sách tìm mua một tấm bản đồ để xem đường xá.Dò trên tấm bản đồ, thấy bến Tạ Khoa đây rồi, còn khá xa, đường số 6 quanh co và gồ gề khó đi, trời lại sắp tối rồi, nên thày trò Thuận và Hoan, tên chú lái xe, lại phải nghỉ lại tại thị xã Hòa Bình.Sáng hôm sau họ lại lên đường sớm , mãi gần trưa mới tới nơi.Lại ngắm nhìn những người đánh cá trên sông Đà để hỏi thăm, không thấy ông đội mũ cối nào ,trông thấy ai cũng cứ hỏi, may lại gặp được một người đội nón, đã đứng tuổi, gần tuổi Nam Sao, cũng cứ hỏi.Người đó trả lời:-Ồ, anh Nam Sao thì chúng tôi biết chứ, ân nhân của chúng tôi mà, anh ấy đã cứu tôi hồi chiến tranh, vừa rồi tôi bị ốm ,anh ấy lại cứu tôi khỏi bệnh bằng món cháo cá đấy, trung đội trưởng cũ của tôi mà.Sau năm tháng dậy và kèm cặp tôi đánh cá thành thạo, anh ấy lại đi rồi.Các anh hỏi anh ấy đi đâu ấy à?- Vâng, lại đi giúp đồng đội cũ mà.- Anh ấy xuôi về Chợ Bờ Suối Rút rồi! Cũng được đến ba bốn tháng nay rồi đấy.Mời các anh ở lại đây chơi đã , mai hãy về . Các anh đừng lo, nhà tôi bây giờ cũng đỡ khổ rồi, gạo cũng đủ ăn ,nhưng cá thì không thiếu, ở lại chơi đi.  Không ở lại được à, phải đi ngay à! thế thì các anh cứ  xuôi dọc sông nàymà tìm thì sẽ thấy thôi , gần thị xã  Hòa Bình mà. Nếu gặp anh Nam Sao thì cho tôi gởi lời thăm và cảm ơn anh ấy.Nói với anh ấy là nhờ an , chiến sỹ của anh vẫn làm ăn tốt.Vâng, chào các anh.Thế là  “hai thầy trò Đường Tăng” Thuận và Hoan lại từ biệt người cựu chiến binh sôi nổi nhiệt tình và mau mồm ở bến Tạ Khoa, quay xe về  Chợ Bờ Bờ- Suối Rút.Chỉ khác là hai thầy trò Đường Tăng thì đi lấy kinh, còn hai thầytrò Thuận Hoan thì đi  tìm chim, tìm cánh chim bằng của anh Nam Sao.Thật đúng là tìm người như thể tìm chim thật.Về qua Mộc Châu khoảng chục cây số, thì một tình huống bất chắc xảy ra, đường bị sạt lở tả luy từ trên sườn núi, đất đá sạt xuống làm lấp mất cả đường, khoảng gần một trăm mét, xe cộ không qua được, nguyên nhân là do mấy hôm trước trời mưa to , đất bị thấm nhiều nước nên bị sạt lở, trời lại sắp tối.Thuận phải quay xe lại Mộc Châu , vào nhà trọ ngủ. Sáng mai trở về đến đoạn đượng bị lở,công nhân giao thông vẫn chưa khắc phục xong.Phải chờ đến trưa mới thông xe,nhưng đường trơn,xe  con lại bị ba-ti nê trượt xuống rãnh đường, phải nhờ xe tải kéo mới lên được .Thuận liền bảo lái xe  chạy thẳng về nhà để kiểm tra, sửa xe, và tiếp xăng dầu  đồng thời xem ở nhà có việc gì không.Nhưng mọi công việc ở nhà vẫn chạy bình thường, không có điều gì vướng mắc.NênThuận và Hoan lại phi lên Suối Rút.Đến nơi may lại gặp được một tốp cựu chiến binh đang đánh cá tập trung ở ngã ba  suối Rút và sông Đà. Họ phải ngồi chờ gần một giờ cho tốp đánh cá xong mấy mẻ lưới ở phía bên sông, rồi bơi sang bên này vào chợ bán cá,Thuận mới lân la đến hỏi thăm được .Cánh cựu chiến binh này rất nhiệt tình, khi biết Thuận là người nhà của anh Nam Sao họ đều niềm nở bắt tay chào, rồi mời vào một gia đình cựu chiến binh  gần đó uống nước.Họ kể chuyện về anh Nam Sao với vẻ thân thương , đầy lòng trìu mến và biết ơn :- Không có thủ trưởng Nam Sao thì chúng tôi còn nghèo đói vất vả.- Bảo thủ trưởng ở lại đây vài tháng nữa để kiếm thêm một món kha khá, vài nghìn bạc nữa gửi về cho các cháu rồi hãy đi, vì ở đây sẵn cá và dễ kiếm lắm,-Thủ trưởng đánh cứ như chơi ấy mà vẫn được nhiều cá ra phết.- .Nhưng thủ trưởng bảo:- Các chú đã kiếm ăn được rồi, thì tôi ở lại làm gì nữa, ở chỗ khác anh em còn khó khăn hơn.Thế là thủ trưởng đi thôi-.Thủ trưởng đi hai tháng nay rồi.-Hình như thủ trưởng  đi về mạn sông Đuống, haysông Cầu hay  gì đó.Thuận cũng thăm hỏi từng gia đình các cựu chiến binh,bảo lái xe Hoan ra chợ mua một số quà bánh gửi biếu mỗi anh một gói đem về làm quà cho các cháu và định xin phép ra về.Nhưng  gia đình đã bưng cơm ra, mọi người co kéo nhất định  giữ hai thầy trò ở lại xơi cơm với anh em cựu chiến binh bến Suối Rút chúng tôi.Chẳng có thịt thà gì đâu, toàn là cá do anh em chúng tôi vừa kiếm đấy.Trước thịnh tình của các cựu chiến binh, đồng đội của anh Nam Sao,Thuận và Hoan đều phải ở lại ăn một bữa cơm đơn giản, toàn cá tươi rất ngon, rồi mới ra về. Mang theo nhiều tình cảm rất xúc động về những người đồng đội của ông anh mình.
                  Về nhà,Thuận phải nghỉ vài ngày cho đỡ mệt mỏi vì đã lâu anh không đi những chuyến đi dài như vừa qua , và kết hợp xử lý các công việc của nhà máy, xí nghiệp ở nhà.
                  Sau đó  anh còn phải đi hàng chục lượt nữa, nay sông Cầu, mai sông Đuống. Rồi bến Bình, bến Phả Lại, nơi Thuận đã đem quân đi đóng gạch năm nào, cũng là nơi, anh đã từng nghiên cứu học tập cách làm lưới ba màn,về tự sản xuất lấy.Tự đem đi đánh ở sông,ở hồ, có đêm được hàng tạ cá, mang về cho vợ đi bán, hàng mấy năm trời. Chị Roãn vợ anh đã bán cá, tích lũy được hàng chục cây vàng, để khi cần mới đem ra làm vốn, xây dựng nhà máy gạch đầu tiên, rồi phát triển kinh doanh như ngày nay.Mấy chuyến đi liền,Thuận vẫn chưa gặp được anh Nam Sao, mà chỉ gặp những người cựu chiến binh, bạn bè đồng đội nghĩa tình của anh mà thôi.Thuận vẫn không nản, anh vẫn đi. Cứ quanh khu vực Lục Đầu giang mà săn tìm anh Nam Sao.Nghe anh em cựu chiến binh nói, trước đây anh Nam sao đã phá bom và bắc cầu ở khu vực này nhiều lần.NênThuận và lái xe cứ vòng quanh, hết sông Thái Bình, đến sông Kinh Thầy, khi sông Thương , khi sông LụcNam lại quay về sông Cầu, sông Đuống, sông Thương… Chỗ nào Thuận cũng gặp cựu chiến binh đánh cá nói về Nam Sao, toàn những lời tốt đẹp, nhưng  anh vẫn chưa gặp mặt được ông anh của mình.Cuối cùng Thuận phải nhờ các cựu chiến binh  ở quanh khu vực Lục đầu giang cùng đi tìm với anh thì mới gặp được anh Nam Sao đang huấn luyện tay nghề đánh cá cho một tiểu đội cựu chiến binh trên sông Lục Nam .Hai anh em gặp nhau, mừng mừng tủi tủi ôm lấy nhau, cả hai đều tràn nước mắt, trước đám đông các cựu chiến binh trên Lục đầu giang, nhiều đồng đội cũng bùi ngùi rơi nước mắt chứng kiến phút cảm động ngọt ngào của hai anh em Nam Sao và Thuận sau gần mười năm trời xa nhau. Thuận mời anh hai về nhà để bàn việc củng cố lại gia đình.Nam Sao đồng ý,nhưng hẹn sau một tháng nữa anh sẽ về,vì còn dở dang lớp tập huấn đánh cá cho tiểu đội cựu chiến binh trên  sông Lục Nam.Thuận biết tính Nam Sao, đã làm việc gì thì phải làm đến nơi đến chốn, huống chi là việc dậy nghề ,để xóa đói giảm nghèo cho các đông đội cựu chiến binh.Nên anh nhất trí với  anh hai, không làm thay đổi kế hoạch của anh và làm mất khí thế và lòng tin của các cựu chiến binh đang tập huấn. Ngay chiều hôm đó Thuận xin phép anh Nam Sao về nhà ngay để báo tin mừng cho cả nhà vui.
                  #9
                    Lương_Hiền 26.07.2016 16:51:00 (permalink)
                    Chương 28-NGÀY TRỞ VỀ
                    Sau một tháng, theo đúng lời hẹn với chú Thuận.Anh Nam Sao đã trở về làng Lễ, trước sự vui mừng của vợ con và cả gia đình, họ hàng.Trước khi về, anh đã hoàn thành việc huấn luyện và kèm cặp cho một tiểu đội cựu chiến binh đánh cá trên sông Lục Nam, được thành thạo có thể kiếm sống được.Đây cũng là tổ cuối cùng được anh huấn luyện trên khu vực Lục đầu giang này.Khi ra về anh cũng tặng lại toàn bộ dụng cụ đồ nghề đánh cá của anh cho đồng chí Giàng, một cựu chiến binh gia đình khó khăn nghèo đói nhất.Toàn bộ anh em cựu chiến binh đánh cá ở khu vực Lục đầu giang do anh đào tạo huấn luyện đều tập trung về liên hoan chia tay với anh Nam Sao, một người thủ trưởng,một người thầy, một người anh cả nhiệt tình, hết lòng vì đồng đội, vì các em.Tận tâm,tận sức giúp đỡ, xóa đói giảm nghèo cho mọi người, không nề hà khó khăn gian khổ xa vợ con , xa gia đình hàng chục năm trời, mà không đòi hỏi bất kỳ một điều kiện nào cả.Anh chỉ có một niềm vui , khi thấy đồng đội có công ăn việc làm, gia đình bớt khó khăn gian khổ, và ngày càng phát triển.Đồng đội chia tay nhau trong không khí cảm động và bịn rịn, nhiều người rơi nước mắt:
                    -Chúc thủ trưởng về mạnh khỏe, xây dựng lại gia đình  đầm ấm yên vui.Khi nào có điều kiện chúng em sẽ về thăm thủ trưởng và gia đình.Cho chúng em gửi lời thăm và cảm ơn tới chị và các cháu- Nam Sao cũng cảm động nói:
                    -Tôi chúc các chú ở lại làm ăn bền bỉ và phát triển.Nhớ đoàn kêt giúp đỡ lẫn nhau cùng xóa đói giảm nghèo, thương yêu nhau khi về nhà cũng như khi còn ở chiến trường.Bao giờ các chú làm ăn khấm khá, tôi sẽ có dịp lên thăm.- Anh em còn tiễn chân anh ra tận bến xe ô tô.Các chiến hữu còn gửi nhiều quà về cho các cháu, Nam Sao không muốn nhận.Nhưng anh em nói mãi, anh đành phải nhận một túi nặng.Khi xe chuyển bánh, những cánh tay dơ lên vẫy chào, náo nhiệt cả bến xe:
                    -Xin chào thủ trưởng !-Chào anh!
                    -Chào các đồng chí !- Chào các chú!
                    Ngồi trên xe dọc đường, anh vẫn còn lưu luyến và nhớ từng người, từng người một.Mỗi ngườì một hoàn cảnh, nhưng đều chăm chỉ làm ăn.Anh thấy thương bạn bè đồng đội vô cùng, hoàn cảnh đất nước ta vừa mới thoát khỏi chiến tranh, kinh tế còn đang nghèo nàn lạc hậu, mỗi người lính trở về phải biết tự vươn lên mà sống, chứ không thể chờ đợi chế độ chính sách của nhà nước được.Hành động của anh đi lang thang các nơi để truyền nghề cho bạn bè đồng đội, cũng chính là truyền cho họ một ý chí để tự vươn lên mà sống.Mình phải tự cứu lấy mình, không thể trông chờ vào ai được cả.
                    Anh trở về nhà, những tưởng nhà cửa hoang toàng cỏ dại hoặc xiêu vẹo.Nhưng không ngôi nhà đã cũ nhưng vẫn gọn gàng, ngăn nắp sạch sẽ .Chị Ngữ vợ anh, quả là một con  người đảm đang tháo vát.Với đồng lương thượng úy của anh lúc bấy giờ còm cõi, cộng với số tiền ít ỏi, vài ba tháng anh gửi về một lần.Thế mà chị đã tần tảo, xoay sở làm ăn, nuôi sống và dậy dỗ  một đàn con ở nhà, tuy không  hơn người, nhưng cũng không đến nỗi  thua kém nhiều trẻ em trong làng,trong xóm.Nam Sao vẫn biết vợ anh là người buôn thúng bán mẹt giỏi khi còn ở quê ngoại Thanh Hóa.Một mình nuôi con cho chồng đi đánh giặc, lúc đó chưa hề có đồng lương nào.Chị dựa vào ông bà ngoại trông nom con nhỏ.Còn chị chạy chợ đủ đường, khi thì buôn rau buôn quả, khi thì gánh hàng cá hàng tôm, lúc lại tráng bánh đa, bánh cuốn, lúc lại củ khoai củ sắn…Suốt ngày ở chợ, từ sáng sớm đến chiều tối mới về.Còn từ khi được cụ Ruy, ông nội của các cháu vào tận nơi đón về quê nội, cho một mảnh vườn và căn nhà cũ, so vớí làng xóm cũng là tạm ổn .Dạo đó anh vẫn còn trong quân ngũ, biền biệt đi xa, vả lại chiến tranh đang diễn ra ác liệt, nên chưa ai nghĩ và cũng không có điều kiện xây dựng khang trang hơn.Ngoài sự tần tảo của chị Ngữ còn được ông bà  chăm sóc nuôi nấng dậy dỗ con cháu nên người .Khi ông bà quy tiên, cả anh cả và anh hai (Hữu và Nam Sao) đều ở  hai chiến tuyến xa xôi.Mọi việc ma chay, an táng, cúng giỗ, đều do chú ba là chú Thuận gánh vác cùng họ hàng làng xóm.Sau này khi ông bà đã qua đời,chú Thuận lại phải trông nom, cưu mang các cháu con của hai ông anh, Hữu và Nam Sao.Chủ yếu  là kiếm công ăn việc làm cho các cháu và hướng các cháu học hành đến nơi đến chốn .
                    Trên đời này thường lắm chuyện éo le.Chú Thuận vì bị kẹt giữa hai làn gió chính trị, chẳng phe phái nào chấp nhận.Nên không mất thời gian hoạt động, không đua chen vai vế trong làng.Đành chịu là người ngoài lề chính trị, măc cho mọi người khinh bỉ, là anh cổ cày vai bừa. Thế nên mới được tự do, tự do học hành, tự do lao động, rồi tự do trở thành “lão nông chi điền”, người làm ăn chăm chỉ nhất và giỏi giang nhất làng, nhất xã.Như châm ngôn đã nói : Lao động là vinh quang.Người giỏi lao động là người giầu có nhất.Chú Thuận trước mắt cưu mang con cháu trong nhà , sau đó là cưu mang những người nghèo khổ trong làng xóm.Uy tín của chú ngày càng cao, trong làng xóm ai ai cũng nể phục, kể cả cán bộ chình quyền của cả hai phe đối lập nhau (!) Nam Sao biết rõ điều đó, anh rất biết ơn chú ba, đã thay hai anh lớn trông nom gia đình, lo liệu mọi việc trong gia đình.
                    Khi chú Thuận bàn về việc xây dựng lại nhà cửa và củng cố việc làm ăn trong vườn trong sân.Lúc đầu Nam Sao cũng thấy ngại, vì không có tiền:-Thôi ở thế này cũng vẫn tạm được rồi.Khi nào con cái lớn lên làm ăn được hãy hay.Nhưng Thuận không nhất trí:- Mọi việc em sẽ lo tất cả.Cứ coi như đầu tư vốn cho anh chị vay, bao giờ có thì trả.Hơn nữa bây giờ đã  hòa bình rồi, đất nước được thống nhất, không lẽ ông thượng úy về hưu, ông cán bộ tiền khởi nghĩa, cứ ở mãi ngôi nhà cũ nát này sao?.Còn phải tạo điều kiện cho các cháu có nơi chốn học hành đàng hoàng chứ! Lại còn phải có nơi thờ cúng tổ tiên, ông bà ông vải và bố mẹ là nơi tôn nghiêm chứ! Chưa kể còn có nơi tiếp khách, bạn bè đồng đội xa gần đến cũng phải khang trang nữa cơ mà. Còn phải quy hoạch lại vườn tược trồng cây trồng cối, chăn nuôi lợn gà cho quy củ và sạch sẽ, thì năng xuất mới tăng, mới đủ chi dùng trong nhà.Thuận và Nam Sao còn bàn đi bàn lại nhiều lần.Lại thêm ý kiến của chị Ngữ và các con cái của cả hai gia đình đều đồng tình.Sau một tuần lễ suy nghĩ ,Nam Sao mới nhất trí với ý kiến của Thuận và chị Ngữ.Thực ra thì Thuận và chị Ngữ cùng các con anh đã bàn bạc chuẩn bị đầy đủ cả rồi, chỉ chờ anh Nam Sao đồng ý là có thể khởi công ngay.Về ý định thiết kế thì Thuận nhường cho anh Sao muốn làm thế nào  là tùy anh, vì anh là chủ gia đình.Còn Thuận sẽ lo bảo đảm đầy đủ nguyên vật liệu và toàn bộ công thợ cho anh.
                     Thế là chỉ sau bốn tháng, một ngôi nhà cấp bốn khang trang và khu trang trại nhỏ đứng vào hàng nhất nhì làng Lễ lúc bấy giờ đã ra đời, trước sự ngạc nhiên của dân làng, về tốc độ thi công và thiết kế mỹ thuật.Ngày khánh thành thật đông vui, ngoài anh em họ hàng, còn khá đông người trong làng đến chúc mừng gia đình Nam Sao .Người ta cảm phục tình thương yêu của chú ba Thuận hết lòng vì anh trai và con cháu ở nhà .Đặc biệt,nghe tin Nam Sao khánh thành nhà mới,Hầu hết các tổ cựu chiến binh đánh cá ở các bến sông, đều cử đại biểu về chúc mừng.Đoàn đại biểu cũng đến ba bốn chục người, mỗi người đại diện cho một tổ, mỗi tổ mười tới mười lăm người, ở khắp các vùng mà Nam Sao đã đến huấn luyện truyền nghề đánh cá cho đồng đội. Đoàn đại biểu cựu chiến binh này đến  làm cho Nam Sao rất ngạc nhiên.Bởi vì anh không hề báo tin này cho bất kỳ một ai biết cả.Một đại biểu nói: - Chúng em biết là do bạn bè chuyền cho nhau thôi!Một đồng chí khác :
                    - Chúng em đã thống nhất, đúng ngày khánh thành nhà thủ trưởng thì về chúc mừng, làm cho thủ trưởng ngạc nhiên và vui thôi!Một đặc biệt nữa là :-Quà mừng toàn là cá, ở gần thì cá tươi, ở xa thì cá khô, cá nướng .Mỗi đại biểu chỉ mang có hai đến ba cân thôi, mà tổng cộng có đến hàng tạ cá, toàn loại ngon thôi.Bữa tiệc khánh thành nhà Nam Sao lại thêm nhiều món cá, thật là linh đình.Càng làm cho dân làng Lễ mới vỡ ra là ông Nam Sao đi đâu trong mười năm qua? Không phải vì ông bất mãn, ông chán đời, mà vì ông nhân hậu mình đã khổ mà các đồng đội còn khổ hơn, nên ông đã đi kiếm sống và truyền nghề kiếm sống cho các đồng đội có công ăn việc làm, để xóa đói giảm nghèo cho gia đình bạn bề đồng chí.Ông quả là có tấm lòng, nhân từ, bác ái: thương người như thể thương thân.Nghe chuyện kể lại của các đồng đội của ông từ tứ xứ kéo về chúc mừng, dân làng mới thấy ông kiên trì nhẫn nại, quên thân mình giúp đỡ bạn bè đồng đội.Mọi người đều yêu quý ông và biết ơn ông xiết bao.Họ còn cảm ơn dân làng Lễ này đã sinh ra ông là người biết quý trọng yêu thương con người.Khi chiến tranh mang xương máu đi chiến đấu hy sinh vì tổ quốc đồng bào.Khi về hưu, khi hòa bình còn đem sức mình cứu giúp đồng đội, bạn bè nghèo khó.Từ đó những chuyện đồn đại về ông  trước kia bị quên lãng dần.Dân làng ai cũng qúy trọng ông,yêu mến ông. Khi nhà cửa vườn tược xong xuôi.Chú Thuận lại bàn với bác Nam Sao về cung cách làm ăn cho ra tấm ra miếng.Trồng những cây gì vừa cho thu hoạch cao lại vừa đẹp cảnh đẹp nhà.Chăn nuôi thì chọn con giống nào, thức ăn ra sao, phòng trị bệnh bằng thuốc gì.Bảo đảm môi trường vệ sinh như thế nào.Chủ yếu chú Thuận hướng dẫn lại cho anh Nam Sao biết cách chăn nuôi trồng trọt trong vườn trong sân như thế nào cho có hiệu quả để anh trông nom cùng con cái.Cũng giống như anh đã đi huấn luyện bồi dưỡng các cựu chiến binh đồng đội của anh nghề đánh cá vậy.Vì hồi trẻ ở nhà anh còn bận đi học, lớn lên thì đi bộ đội rồi, đã biết làm ruộng thông thạo đâu.Chỉ có nghề đánh cá là cha dậy từ nhỏ nên Nam Sao thành thạo hơn.Còn con cái nhà Nam Sao cũng như con cái nhà Thuận, và nhà anh Hữu nữa, thì từ bé vừa đi học vừa bám đồng ruộng, nhất là từ khi vợ chồng Thuận- Bằng phát triển làm ăn ngay ở làng ở xã , thì các con cháu đều có công ăn việc làm trong xí nghiệp hoặc trang trại  gia đình nên các cháu  đều khá thành thạo cả.Sau khi xây dựng và củng cố gia đình một thời gian, thì mọi mặc cảm về làng xóm quê hương đối với anh cũng nguôi đi.Nam Sao lại tham gia sinh hoạt với các đoàn thể.Trước mắt là  sinh hoạt Đảng, rồi hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi trong làng, xã…Khi gia đình đã ổn định ,đi vào nề nếp rổi.Anh lại về thăm quê ngoại, thăm các đồng đội ở các tổ đánh cá một thời gian và lại hướng dẫn cậu em nhỏ nâng cao tay nghề đánh cá.
                     Có đư­ợc gì không?- Không đ­ược gì cả ! -Nếu vậy thì đi !
                    Vào khoảng tháng 3 năm 1983 - Lúc đó đang là mùa đánh cả ở đồng, ở sông rất rộ - Nam Sao, từ làng Lễ xã Kim Anh, huyện Kim Môn, đang vào quê vợ ở Hà Trung, Thanh Hóa để  dạy cho cậu em trai vợ nâng cao tay nghề đánh cá. Thì ở nhà, chị Ngữ - vợ anh Nam Sao - nhận đ­ược một công văn do một đồng chí trong Ủy ban nhân dân xã chuyển đến, như­ sau:
                            "...Cơ quan Chủ nhiệm Công binh Quân khu 3 - Kính gửi đồng chí Nguyễn Nam Sao, cán bộ quân đội về h­ưu - Chấp hành Chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư­ lệnh quân khu và chỉ đạo của Bộ T­ư lệnh Công binh - về việc viết lịch sử quân sự - Cơ quan chủ nhiệm Công binh Quân khu 3 - tổ chức Trại viết  chiến lệ Công binh quân khu 3 nhằm mục đích ghi chép lại những trận đánh của Công binh trong 3 cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ và chống quân bành tr­ướng Trung Quốc xâm l­ược, để góp phần tổng kết lịch sử quân sự chung của Quân khu và của binh chủng toàn quân. Rút kinh nghiệm chiến thuật, kỹ thuật để góp phần xây dựng các ph­ương án chiến đấu, bảo đảm công trình phòng thủ bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn Quân khu, bảo đảm cho sẵn sàng chiến đấu trư­ớc mắt và lâu dài.
                            Kính mời đồng chí chuẩn bị thu xếp công việc gia đình để đến tham dự trại. Sẽ mở vào cuối năm 1983. (Địa điểm, thời gian cụ thể sẽ thông báo sau).
                            Đề nghị đồng chí suy nghĩ nhớ lại và chuẩn bị đề c­ương viết về: - Những trận đánh mìn trên đ­ường 5 trong chống Pháp và bảo đảm giao thông khu vực Đò Lèn - Hàm Rồng  và Tĩnh Gia trong chống Mỹ.
                            Vì lòng yêu binh chủng, vì sự nghiệp của quân đội, vì thế hệ mai sau, đề nghị đồng chí cố gắng thu xếp công việc và đến gặp gỡ bạn bè, đồng đội cũ, tham gia hội thảo và dự trại viết, góp phần với binh chủng.
                            Cơ quan Quân khu sẽ bào đảm đầy đủ việc ăn, ở, sinh hoạt, ph­ương tiện đi lại, lệ phí đi đ­ường và sẽ có thù lao thích đáng.
                                                                                            Ký tên
                                                                                    Chủ nhiệm Công binh
                                                                                    Trung tá Nguyễn Lư­ơng
                            Chiếc công văn này đã làm chấn động dư­ luận nhân dân ở xã Kim Anh.
                            Kể từ năm 1972, giữa lúc chiến sự còn đang diễn ra ác liệt, tiểu đoàn trưởng Nam Sao từ chiến trư­ờng miền Nam ra, nhận đư­ợc quyết định về hư­u. Bà con xóm làng thì thào nhiều về con ngư­ời đã từng tham gia khởi nghĩa cư­ớp chính quyền ở địa phư­ơng, rồi gia nhập quân đội liên tục từ năm 1945 đến nay. Cùng lớp người đó, nhiều ngư­ời đã lên t­ướng, lên tá, riêng Nam Sao vẫn với quân hàm thượng úy về h­ưu(!)
                            Bà con phỏng đoán chắc hẳn có những chuyện gì đây, có ngư­ời cho là anh ta bị kỷ luật nên mới bị thải hồi.... Kẻ thông cảm, ngư­ời thư­ơng hại, kẻ xót thư­ơng, ng­ười an ủi.
                            Trong điều kiện gia đình khó khăn,nỗi đau chiến tranh của  Nam Sao  cứ âm ỉ đốt cháy tâm hồn anh,dằn vặt anh.Anh chỉ  đưa về cho vợ một sổ lương hưu còm cõi lúc bấy giờ,  rồi tháng ngày lênh đênh đi thăm lại chiến trường xưa.Yên phận làm ăn sinh sống và giúp đỡ các đồng đội xóa đói giảm nghèo.Mặc cho địa phương quên đi nh­ư một kẻ vô danh tiểu tốt bình thư­ờng khác.Thế mà thấm thoát đã mười năm trời…
                            Tờ công văn, giấy mời nhỏ bé ấy tự dư­ng làm xôn xao dư­ luận bà con lối xóm.
                            - Chẳng biết ông Sao, ông ấy làm gì mà Quân khu lại có công văn về mời đi? Không khéo Quân khu lại mời tái ngũ cũng nên(!)...
                            Họ khuyên chị Ngữ điện thoại gọi anh ấy về xem sao để mà chuẩn bị... Thế là chị Ngữ điện gọi anh Sao về thật. Anh Sao, tháng ngày đang lênh đênh trên con sông Lèn dậy cậu em đánh cá kiếm tiền, thì nhận đư­ợc điện: "Về ngay có việc cần". Vừa mới ở nhà đi mấy tháng nay, ở nhà vẫn yên ổn cơ mà, chắc là gia đình có ai ốm đau hoặc tai nạn gì rồi? - Thế là Nam Sao rời Thanh Hóa, về ngay quê.
                            - Này, về chuẩn bị nhanh nhanh mà đi tái ngũ! - Từ đầu làng, bà con gặp gỡ đã mách bảo
                              - Hề hề…Có tái ngũ xuống âm phủ thì xuống ! Nam Sao chỉ cười nói vui.
                            Về nhà, Nam Sao đọc đi đọc lại nhiều lần cái công văn mời trên. Anh vừa ngạc nhiên vừa cảm động.
                            - Quái, cái anh chàng ký giấy mời đây là ai nhỉ? Tại sao lại biết tên tuổi, quê quán mình mà mời? - Anh cố lục lọi trong trí nhớ, như­ng cũng không sao nhớ người ký tên, đóng dấu ở công văn đư­ợc.
                            Hôm sau, anh đem công văn lên báo cáo Đảng ủy, Ủy ban xã, xin ý kiến các đồng chí xem có nên đi không. Anh lên huyện gặp một ông bạn cũ hiện làm ở Huyện ủy. Xem xong công văn, anh ta mách:
                            - Tư­ởng là ai, chứ Nguyễn Lư­ơng là tiểu đoàn tr­ưởng tiểu đoàn 27 tr­ước đây đấy! Dạo ấy ông làm chủ nhiệm công binh Thanh Hóa mà không nhớ ông ấy à?
                            - Thế à? Có phải cái cậu đen đen, cao cao trước làm công trình sư quốc phòng ở Quân khu ấy phải không?
                            - Đúng rồi!
                            - Làm sao anh ta lại biết đư­ợc mình đánh mìn trên đư­ờng 5 nhỉ?
                            - Thế mới là Chủ nhiệm Công binh của thời đại này!
                            - Nếu vậy thì nên đi chứ anh?
                            - Nên đi quá chứ lị!
                            Huyện, xã và bà con ai cũng khuyên anh như­ thế.
                            Thế là từ hôm đó, bà con xã Kim Anh mới biết là xã mình cũng có một ông đánh mìn trên đư­ờng 5 nổi tiếng từ những ngày đầu chống Pháp. Cánh thanh niên, tr­ước đây hay đến nhà ông để làm quen với con gái ông, thì nay chúng đến đông hơn, lâu hơn, để đòi nghe ông kể chuyện về đánh mìn trên đường 5 và những cuộc chiến đấu khác.
                            - Gớm, bác Nam Sao kín tiếng thế!
                            - Chuyện, những ngư­ời có chiến công ng­ười ta thư­ờng khiêm tốn và ẩn dật như­ vậy đấy!
                            Không những cánh trẻ, mà cả cánh già cũng lấy nhà Nam Sao làm nơi gặp gỡ chuyện trò, ôn lại những chuyện chiến đấu năm xư­a, ôn lại truyền thống của xã Kim Anh, của huyện Kim Thành, của Đư­ờng 5.     
                            Kể từ tháng t­ư trở đi, chị Ngữ đã phải chi tiền chè, tiền thuốc lào tăng gấp bốn, năm lần những tháng trư­ớc đây. Tuy có tốn kém hơn, như­ng chị cũng rất vui, vì thấy chồng phấn khởi hẳn ra - anh không lì xì như­ tr­ước đây, và thấy bà con hàng xóm, láng giềng, cán bộ xã, huyện cũng kính nể anh hơn.
                            Tuy vậy Nam Sao vẫn còn băn khoăn: "Liệu mình đi như­ thế này, có sợ bị mang tiếng là cố đấm ăn xôi không? Chậc! Suốt cả ngày đầu tắt mặt tối còn chả ăn ai, huống chi còn một chốc một lát khi trời sắp tối?"
                            Anh còn đang băn khoăn, chư­a quyết định đi hay không, thì một hôm có một chiếc xe con đến tận cổng. Rồi đích thân đồng chí Chủ nhiệm Công binh Quân khu đến thăm và mời anh đi dự Trại viết chiến lệ. Lúc này anh mới nhận ra ng­ười quen. Hóa ra chẳng phải ai xa lạ: Cũng là cùng hội cùng thuyền dân công binh cả. Tuy nhiên anh cũng chỉ biết qua Nguyễn Lư­ơng chứ không thân quen. Anh tin rằng Nguyễn L­ương với anh cũng như­ thế. Hơn nữa, Nguyễn Lương kém anh năm tuổi, là lớp đàn em của anh, thì làm sao anh biết đ­ược. Tuy vậy, thái độ khiêm tốn và hòa nhã của Nguyễn Lư­ơng đã chinh phục đ­ược anh ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên này. Như­ng anh vẫn còn một chút vư­ớng mắc trong việc đư­ợc, mất, sợ mang tiếng ăn thua.
                            Nam Sao hỏi thẳng Nguyễn Lư­ơng:
                            - Vậy tôi đi như­ thế này có đ­ược lợi lộc gì không?
                            Nguyễn Lư­ơng nhìn thẳng vào mặt Nam Sao và điềm tĩnh trả lời:
                            - Chẳng đư­ợc lợi lộc gì cả.
                            Trúng ý quá! - Nam Sao bỗng phá lên cư­ời vang: - Nếu vậy thì đi!
                     
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.07.2016 17:16:34 bởi Lương_Hiền >
                    #10
                      Lương_Hiền 26.07.2016 17:29:25 (permalink)
                      Sáu Đậu là ai?
                              Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cả vùng đư­ờng 5 này, bao gồm cả tỉnh Hư­ng Yên và Hải D­ương, rồi cả vùng đồng bằng Liên khu 3 đã lừng danh một người ,được quần chúng suy tôn là "Vua mìn" đầu tiên trên đường 5 - Đó là Sáu Đậu!
                              Như­ng Sáu Đậu là ai? Vì sao anh ta lại đ­ược lừng danh như­ vậy?
                              Câu chuyện bắt đầu từ Nam Sao kể lại.
                              Khi đến trại viết, ngay từ những ngày đầu, ngư­ời ta yêu cầu Nam Sao viết về đánh mìn trên đư­ờng 5. Nam Sao đã không viết về mình trư­ớc, mà lại viết về Sáu Đậu, về trận đánh mìn đầu tiên trên đư­ờng 5 của Sáu Đậu, mà Nam Sao  là người hướng dẫn kỹ thuật và cùng tham gia với Sáu Đậu…
                               Vào khoảng cuối năm 1948, do một nguyên nhân nào đó (hoặc sức khỏe, hoặc gia đình, hoặc t­ư tư­ởng), Sáu Đậu đã bỏ đư­ờng 5, bỏ đồng đội, ra ngoài,.tản cư  lên tận Việt bắc làm ăn kiếm sống . Khi hòa bình lập lại, về bán thịt chó ở một chợ quê, đến ngoài bảy mư­ơi tuổi thì già yếu ốm chết.
                              Năm 1964, tỉnh và quân khu có mở trại viết và in sách hồi ký về chiến đấu. Trong số những tập sách đ­ược in và phát hành thời kỳ đó, kể cả tập "Sấm đường 5", ngư­ời ta đều không tìm thấy tên tuổi hay bóng dáng của Sáu Đậu trong một trang sách nào cả,huống gì đến Nam Sao (!).
                              Trong đợt viết chiến lệ vào năm 1983 này, tên tuổi Sáu Đậu và những trận đánh mìn của anh đư­ợc nêu lên hàng đầu. Bởi vì quả mìn đầu tiên nổ trên đư­ờng 5 không thể là quả mìn nào khác và ngư­ời đầu tiên dám đánh mìn giết giặc trên con đư­ờng ấy không thể thay tên là ai, ngoài Sáu Đậu đư­ợc.Mặc dầu Sáu Đậu đã chết,nhưng nhân chứng sống  là Nam Sao,người hướng dẫn Sáu Đậu đánh quả mìn đó , vẫn còn đây.
                      "Vua mìn" và chuyện tiếu lâm
                              "Cứ thế mà đi"!
                       
                              Đó là Nguyễn Văn Thòa, một ông "Vua mìn" trẻ nhất, mà cũng là già nhất trong kháng chiến chống thực dân Pháp, từ một anh chiến sĩ du kích năm 1946 được   sự hướng dẫn của Nam Saovề đánh mìn, rồi chiến đấu trư­ởng thành đến huyện đội phó Kim Thành năm 1954.
                              Nguyễn Văn Thòa sinh năm 1920, quê ở xã Đại Đức thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải D­ương. Một đặc điểm của ông "Vua mìn" vùng Kim Thành này là ở cách xa đư­ờng 5 những mư­ời ki-lô-mét, chứ không phải là ngư­ời ở sát đ­ường 5như những người khác.
                              Năm 1946, khi địch phản bội Hiệp ư­ớc 14-9 ký tại Phông-ten-nơ-blô, đánh chiếm và bình định xong Hải Phòng, chúng mở những cuộc càn để đánh chiếm và bình định ra xung quanh, trư­ớc hết là đánh chiếm con đ­ường giao thông huyết mạch từ Hải Phòng lên Hà Nội - con đư­ờng 5. Từng đoàn xe tăng, xe bọc thép hộ tống những đại đội, tiểu đoàn, binh đoàn quân Pháp đi bắn phá, chém giết và thiêu hủy, triệt hạ những xóm làng trên dọc đư­ờng 5 một cách dã man, tàn khốc.
                              Trong khi những ngư­ời dân đ­ường 5 vội vàng sợ hãi bỏ chạy đi tản cư­ cách xa đư­ờng 5, kể cả những thanh niên trai tráng, thì những ng­ười du kích của các xã phía trong lại chạy ngư­ợc lại, ra bám lấy đư­ờng 5 để chặn đánh bằng giáo mác và vũ khí thô sơ...
                              Nguyễn Văn Thòa đã đánh hàng trăm trận trên đư­ờng 5 và xung quanh đường 5, các hành lang bảo vệ con đư­ờng chiến l­ược quan trọng bậc nhất này, trong đó có rất nhiều trận nổi tiếng. Trận lớn nhất là "trận địa lôi cuối năm" trước Tết 1954.
                              Dạo đó ta đang đánh mạnh ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Bộ Tổng t­ư lệnh phát động một phong trào đánh phối hợp với Điện Biên Phủ trong toàn quốc, để căng địch ra mà đánh, buộc địch phải đối phó khắp nơi, ngăn chặn và hạn chế sự chi viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo thế cho quân ta tiêu diệt chúng.
                              Nguyễn Văn Thòa đã nghiên cứu kỹ địa hình, tìm hiểu quy luật hoạt động đư­ờng sắt của địch. Và với kinh nghiệm của mình, anh đã bày binh bố trận, đánh một trận mìn tuyệt đẹp trên đoạn đ­ường sắt ở ga Phạm Xá. Đó là ngày 31-1-1954, tức ngày 28 Tết âm lịch, một tổ đánh mìn của bộ đội Kim Thành có ba ngư­ời, gồm Trư­ờng, Đoàn do Thòa chỉ huy, đã giật mìn làm đổ một đoàn tàu hỏa ba m­ươi mốt toa, tiêu diệt 1.017 tên địch gồm toàn bộ tiểu đoàn Âu-Phi vừa từ Ma-rốc sang Đông Dư­ơng, đi tăng c­ường bổ sung cho Điện Biên Phủ, và làm tắc đư­ờng giao thông trong hai ngày.
                              Trận độn thổ đánh mìn ở gần cống Ngọ Dư­ơng trên đư­ờng 18 nối ra đường 5 ngày 25-12-1950 do Nguyễn Văn Thòa đóng giả làm một cô gái cắt cỏ để chỉ huy. Thòa đã chờ bọn địch đến gần để tán tỉnh, ve vãn, rồi bất ngờ vén váy rút tiểu liên ra bắn chết hai tên địch, ba tên bị thư­ơng. Đồng thời một tiểu đội du kích đội hầm nhảy lên đánh địch bằng mã tấu, gậy gộc, dao găm, diệt gần một trung đội địch.
                              Nguyễn Văn Thòa không những nổi tiếng về tài mư­u trí dũng cảm đánh giặc, mà anh còn nổi tiếng là một cây tiếu lâm, rất vui nhộn và nghịch ngợm, ngay cả trong sinh hoạt và trong lúc đánh địch.
                              Một hôm, đội du kích tập trung của anh tổ chức diễn kịch cho nhân dân xem. Có hai cô gái nấu ăn cho đội, sau khi thu dọn xong, vội vàng đi tắm rửa để kịp ra đình xem kịch. Lợi dụng lúc nhá nhem tối và không có ngư­ời ở nhà, hai cô liền cởi quần áo xuống ao tắm truồng. Giữa lúc đó Thòa từ ngoài đình về thay áo để đóng kịch, thấy tiếng léo nhéo dư­ới ao, biết là các cô gái, anh rón rén bước ra định làm một trò ú tim cho các cô hết hồn. Như­ng ra đến nơi, chính Thòa lại há hốc mồm ra, khi thấy những thân hình trăng trắng lờ mờ d­ưới cầu ao. Thòa vội vàng ngồi thụp xuống bên gốc chuối, không dám lên tiếng. Hai cô đã tắm xong, đứng lên vuốt nước cho khô trư­ớc khi mặc quần áo. Một cô đập vào bụng mình bôm bốp và bảo cô kia:
                              - Giá cứ để thế này mà đi xem kịch nhỉ?
                              - Ừ nhỉ, thế thì cả làng chạy hết!
                              Các cô đấm bóp nhau rồi cư­ời khúc khích, làm  Thòa cũng tức bụng nén hơi xuýt nữa bật thành tiếng. Anh phải chờ cho các cô mặc quần áo xong, đi ra cổng, rồi mới lặng lẽ đi sau ra đình lên sân khấu.
                              Trư­a hôm sau, trong lúc hai cô đang nấu cơm, Thòa đi trinh sát về, anh múc nư­ớc, cởi trần rửa mặt lau ngư­ời. Nhân lúc vắng ngư­ời, chỉ có hai cô, nhớ lại chuyện tối qua, Thòa cũng lấy tay đập vào bụng mình bôm bốp và nháy các cô gái:
                              - Cứ để thế này mà đi xem kịch thì hay nhỉ?
                              Hai cô gái bỗng ngạc nhiên ngớ ra, trong giây phút các cô hiểu ngay là  tối hôm qua mình đã lộ bí mật với anh chàng đội trư­ởng này. Thế là các cô đỏ bừng mặt lên, đấm vào nhau thùm thụp.
                              - Khỉ gió cái nhà anh này, đứng đâu mà ngư­ời ta không biết!
                              Một cô xấu hổ quá, bỏ chạy một mạch về nhà mình ở làng dư­ới, không dám quay lại nấu cơm cho đội nữa.
                              Từ đó đội du kích có thêm chuyện tiếu lâm “Cứ thế mà đi xem kịch”.
                              Sau khi hòa bình lập lại, Tỉnh đội tổ chức mừng công. Ngư­ời ta nhắc đến chiến công đánh tàu ở ga Phạm Xá. Và ngư­ời đ­ược khen thư­ởng cao nhất lúc đó là chiến sĩ tân binh Nguyễn Văn Trư­ờng với lý do: Chính Trư­ờng mới là ng­ười cầm dây giật mìn (!). Còn Thòa chỉ là ngư­ời chôn, quan sát và chỉ huy, chứ không trực tiếp giật, như­ng cũng đư­ợc khen thư­ởng nhưng thấp hơn.Còn Trường được khen thưởng  ngày càng cao, đư­ợc “bồi dư­ỡng thành tích từ ít thành nhiều, từ nhỏ thành lớn, rồi đư­ợc bầu là chiến sĩ thi đua ở huyện, tỉnh, đến quân khu và toàn quốc. Song song với khen th­ưởng là kết nạp Đoàn, Đảng và đề bạt phong cấp phong chức.
                              Năm 1955, khi Nguyễn Văn Thòa vì trình độ văn hóa kém không xây dựng quân đội chính quy hiện đại đư­ợc, nên cho chuyển ngành ra ngoài, làm công tác bảo vệ, gác cổng cho  một Công ty nuôi cá, thì Nguyễn Văn Trư­ờng đã lên tới chức chính ủy một đơn vị tàu biển ,rồi đư­a vợ con ra làm ăn sinh sống ở Hải Phòng. Tuy nhiên, hàng năm Trư­ờng vẫn đánh xe con đư­a vợ con về quê ăn tết với gia đình. Như­ng gần ba mư­ơi năm nay chư­a bao giờ Nguyễn Văn Thòa gặp lại ngư­ời chiến sĩ cũ của mình, mặc dù quê họ chỉ cách nhau chư­a đầy ba ki-lô-mét (!).
                           Nguyễn văn Thòa rất vui mừng vì gặp lại Nam Sao ở trại viết chiến lệ công binh, người thầy dậy mình đánh mìn đầu tiên, từ  năm 1946.Tay bắt mặt mừng,tình cảm của những người lính cũ gặp nhau thật là thắm thiết.
                      Mãi về sau này ,sau hòa bình ,thống nhất đất nước , mãi đến thập kỷ 80. Nguyễn văn Thòa và Nguyễn Văn Viện mới  được nhà nước phong tặng danh hiệu : « Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân » vì chiến công đánh mìn lật đổ đoàn tàu của địch ở ga Phạm Xá,tiêu diệt 1.017 tên địch ,đầu năm 1954 .Mặc dầu hai ông đếu đã về hưu và Nguyễn Văn Thòa đã chết vì tuổi già sức yếu ( !)
                      Ba mươi năm sau
                              Một chiếc xe con chở Trung tá Chủ nhiệm Công binh Quân khu và đồng chí Nam Sao - nhóm trưởng nhóm viết chiến lệ đường 5 của Trại viết Công binh Quân khu 3 - hỏi thăm đến nhà bà Đào Thị Lự ở thôn Vũ Xá, xã Ái Quốc. Xe dừng lại cạnh một sân kho.
                              - Thế các ông hỏi gì bác Lự cháu đấy? - Một bà trạc trung tuổi đang vác cuốc ra đồng, lo lắng hỏi.
                              - Về bắt bà ấy đây!
                              - Ấy chết, sao lại bắt, bác cháu có tội gì cơ ạ?
                              - À, bà ấy có tội đánh mìn làm đổ một đoàn tàu của Pháp ở gần đầu cầu Phú Lương, có phải không?
                              - Ôi, đúng rồi! Tưởng tội gì, chứ tội ấy thì mừng cho bác cháu quá rồi!
                              - Khổ quá, mấy chục năm nay có ai nhắc gì đến bác cháu đâu?
                              - Ôi, các ông các bà này, xe của bộ đội! Các ông ở tỉnh hay quân khu?
                              - Ở quân khu cơ à? Ở tận quân khu đón bác Lự đây này!
                              - Thế thì vinh dự cho bác cháu lắm! Chúng tôi cũng mừng cho bác ấy. Đấy, các ông cứ đi theo ngõ này cho đến chỗ cái bia đá rẽ tay trái theo bờ ao là đến nhà bác cháu đấy!
                              - Hình như bác cháu cũng vừa đi làm đồng về đấy!
                              Khá nhiều người xúm lại quanh chiếc xe con, hồ hởi hỏi thăm và kể chuyện.
                              Đoàn cán bộ quân khu vào đến nhà bà Lự. Bà đang dọn chuồng phân cùng cô con gái vừa tốt nghiệp bác sĩ Y Thái Bình đang nghỉ phép ở nhà. Chỉ có ông chồng - cán bộ phòng Văn hóa huyện Nam Sách về hưu - đón tiếp đoàn.
                              Sau khi nghe rõ mục đích, ý nghĩa và nhận giấy mời bà Lự thản nhiên trả lời:
                              - Ôi, tôi chả dám đi đâu. Dạo đó tôi chỉ tham gia đánh mìn có một trận thôi mà, còn chủ yếu tôi chỉ làm liên lạc chạy công văn bí mật thôi... - Dừng một lát, bà ngập ngừng nói tiếp: - Mà trận ấy tôi cũng chỉ là phối hợp, phục vụ cho các anh bộ đội tỉnh thôi, chứ tôi đã biết đánh mìn là gì đâu? Giá mà các anh mời được anh Ngung nhỉ? Anh ấy làm tổ trưởng đánh trận ấy đấy! Tội nghiệp cho anh ấy quá!
                              - Làm sao cơ? – Nam Sao hỏi.
                              - Ngay sau khi tàu đổ, khi rút lui, anh ấy bị bắt rồi bị đi đày ở đảo Phú Quốc. Hòa bình lập lại, còn sống, được trao trả tù binh. Nhưng từ khi về đến nay vẫn hai bàn tay trắng.
                              - Sao?!
                              - Khổ quá, không có chứng cớ gì, cũng không có ai xác nhận, đảm bảo cho cả, nên chẳng có thành tích gì, chẳng được hưởng quyền lợi gì hết!
                              - Sao bà biết?
                              - Cách đây mấy tháng, có một ông thầy lang xuống đây chữa bệnh, bác Ngung mới nhờ ông lang đến hỏi thăm tôi xem cũng nghe tin là tôi cũng bị bắt.
                              - Thế sao bà không chứng nhận thành tích chiến đấu cho bác ấy?
                              - Tôi cũng đang muốn như thế. Tôi sẵn sàng xác nhận ngay, nhưng biết thủ tục nên làm ra sao, nói với ai, đưa lên đâu bây giờ? Nên vẫn còn băn khoăn và thương hại cho bác ấy quá!
                              - Thế thì bác hãy cùng cơ quan Quân khu chúng tôi làm thủ tục xác nhận lại cho bác Ngung nhé!-Chủ nhiệm công binh quân khu nói.
                              - Thế thì còn gì bằng! Tôi sẵn sàng ký nhận cả hai tay. Tội nghiệp cho bác ấy quá! Nghe ông lang nói là từ khi đi tù ở Phú Quốc về, bác ấy cứ bị đau ốm luôn vì bị tra tấn tàn nhẫn, lại thêm mất hết quyền lợi chính trị nên buồn chán, càng ốm yếu thêm, cứ định khỏe sẽ xuống tìm tôi hỏi xem sao, nhưng mãi vẫn chưa đi nổi.
                      #11
                        Lương_Hiền 26.07.2016 17:34:44 (permalink)
                        Đi tìm người cùng xóm

                            Trại viết chiến lệ Công binh quan khu 3 mở được ít lâu, đồng chí chủ nhiệm Công binh đặc biệt quan tâm đến nhóm đường 5 là một trọng tâm trong đợt đầu tiên thí điểm này. Khoảng một tháng sau, số lượng chiến lệ đường 5 cũng đã viết được kha khá, gần ba mươi bản, nhưng chỉ mới tập trung và nổi lên ở khu vực Kim Thành mà thôi.
                            Chủ nhiệm Công binh băn khoăn:
                            - Nói đến đường 5 là phải nói đến tất cả các địa phương theo chiều dài của đường, chứ đâu phải chỉ có Kim Thành. Đành rằng Kim Thành là điểm nổi bật nhất.
                            Từ đó, anh liền cùng Nam Sao xuống các cơ sở của Hải Hưng tìm hỏi và gặp gỡ một số cán bộ cũ ở đường 5.
                        - Có đấy! Khu vực Cầm Giàng – Hưng Yên dạo đó có một đơn vị công binh chuyên môn đánh mìn. Gọi là đơn vị S20. – Một cán bộ cũ của tỉnh đội Hải Hưng nói với đồng chí Chủ nhiệm Công binh.
                            Sau đó, đồng chí cũng kể ra được một số tên người, nhưng kẻ mất, người còn, bây giờ không biết ở đâu.
                            Và thế là Nam Sao được cử ở lại, chống gậy đi tìm S20. Anh đi dọc theo con đường sắt từ Hải Dương đi Cẩm Giàng, Lạc Đạo, Đỉnh Dù. Lại đi theo con đường 5 từ Phố Nối trở về Quán Gỏi, đến Hải Dương. Trong mười lăm ngày la cà ở các địa phương, Nam Sao đã tìm hiểu, ghi chép được một số trận đánh, bắt mối tìm được một số người cũ. Bác Hai ở ga Cẩm Giàng bảo tìm đến bác Phúc ở ga Lạc Đạo. Bác Phúc lại bảo tìm bà Bảy ở Sặt, v.v... Cứ như thế, người  này truyền người kia, mỗi người lại bổ sung thêm một vài trận đánh, một vài mẩu chuyện hoặc những chi tiết về hoạt động đánh mìn của đơn vị S20 và của du kích địa phương, mỗi người lại bổ sung thêm một vài tên người đã trực tiếp hoặc tham gia chiến đấu, hoặc biết về những trận đánh hồi đó.
                            Sau hàng chục người giới thiệu, để tìm ra manh mối người cuối cùng tìm được về đơn vị S20 thì chẳng phải là ai xa lạ, lại chính là người cùng quê với Nam Sao, ở xã Kim Anh, Kim Thành. Đó là Nguyễn Văn Ninh ở cách nhà Nam Sao chưa đầy hai trăm  mét, xóm trên, xóm dưới chỉ cách nhau một cánh đồng.
                            Nam Sao và Nguyễn Văn Ninh đã từng sinh hoạt Đảng cùng một đảng bộ với nhau, thỉnh thoảng họp hành ở địa phương vẫn gặp nhau, và trong sinh hoạt hàng ngày trong làng ngoài xóm vẫn chào hỏi nhau. Cũng chỉ biết là cùng cảnh cán bộ, bộ đội về hưu, thế thôi. Còn mải làm ăn, ai lo phận ấy, gia đình con cái, con lợn con gà... làm gì có thời gian mà gặp gỡ tìm hiểu sự tích chiến đấu và quá khứ của nhau, trừ những trường hợp có người nào đó có chuyện gì đột xuất nổi lên về chính trị, xã hội hoặc cuộc sống như: được đơn vị cũ đến mời đi, cơ quan thuế vụ đến khám nhà, bỗng dưng chết đột tử v.v... thì người ta mới xúm lại bàn tán xì xào, và lúc đó lý lịch của chủ nhân lại theo đà của sự kiện “giậu đổ bìm leo” mà được nhân lên, tô hồng hoặc bôi đen rất nhanh, nếu cán bộ điều tra thẩm tra không có con mắt tinh tường và cái tai trong suốt thì dễ bị sa vào những chuyện ảo ảnh hoang đường, phán xét người theo hướng chủ quan, chỉ gây rối thêm sự việc.
                            Nguyễn Văn Ninh và Nam Sao không có trong số những người đó. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, đời sống vật chất buộc họ chỉ chí thú yên phận làm ăn, ít lo nghĩ gì công việc của người khác và của xã hội.
                            Khi chiếc xe con dừng lại ở cổng nhà, thì Nguyễn Văn Ninh đang vẽ nốt tấm bản đồ quy hoạch ruộng đất của hợp tác xã. Trong quân đội, anh là sĩ quan tham mưu tác chiến, về xã anh đã tìm được việc hợp với sở trường mình và cũng để kiếm thêm công điểm, thêm thóc nuôi một đàn chín đứa con lóc nhóc.
                            Khi Nam Sao giới thiệu đồng chí Chủ nhiệm Công binh và Chủ nhiệm Công binh mời Ninh đi dự Trại viết, anh sẵn sàng nhận ngay, nhưng chỉ còn băn khoăn có một điều:
                            - Dạo đó tôi mới chỉ là tiểu đội trưởng, phụ trách một mũi, một hướng, nên không thể nắm hết được toàn bộ các trận đánh của S20, mà S20 thì đánh nhiều lắm.
                            - Điều đó không lo, biết đến đâu nói đến đấy; nhớ đến đâu ghi đến đấy, chúng tôi sẽ tạo điều kiện để các đồng chí nhớ lại được, và cũng sẽ lần mối tìm thêm nhiều đồng chí nữa.
                            Nguyễn Văn Ninh chỉ xin lui lại một tuần để hoàn chỉnh tấm bản đồ ruộng đất giao cho xã và để bàn giao một số việc của Chi ủy cho đồng chí khác, vì Ninh phụ trách bí thư Chi bộ đảng của Đội sản xuất trong xóm anh.
                            Đúng hẹn, một tuần sau,Nam Sao đi chiếc xe con  của cơ quan về đón Nguyễn Văn Ninh đến Trại viết, trong khi đó Ninh cũng đã chuẩn bị được một số tài liệu ghi vào giấy, anh mang theo bản nháp, đầu tiên của cuộc đời anh kể từ ba mươi năm qua đến Trại.

                            S20 là gì?

                            Nguyễn Văn Ninh kể lại: Vào khoảng cuối năm 1953 , chiến dịch Điện Biên Phủ đã bắt đầu và đang diễn ra quyết liệt. Bọn địch tăng cường đồn bốt trên đường 5 để giữ vững mạch máu giao thông chiến lược này, để chở quân tăng viện và tiếp tế vũ khí đạn dược từ Hải Phòng lên Hà Nội, rồi từ Hà Nội bằng máy bay lên Điện Biên.
                            Trước đây, các đơn vị công binh, các đội du kích đánh mìn trên đường 5 - cả đường bộ và đường sắt - thường dùng dây để giật cho mìn nổ. Muốn vậy phải căng dây từ quả mìn ra đến vị trí điểm hỏa có một cự ly an toàn cho người giật phải từ  một trăm đến một trăm rưởi mét.
                            Trước đây địch còn canh gác sơ sài, tuần tra thưa thớt, nên việc chôn mìn, căng dây và ngụy trang còn che được mắt địch. Nhưng đến nay, sau khi bị thất bại nhiều, chúng đã xảo quyệt hơn, tăng cường bố phòng chặt chẽ bằng cách phát quang, san ủi hai bên đường thành vành đai trắng cách xa năm trăm mét không cho dân cư ở, để cho ta không còn nơi che khuất ẩn nấp, để cho các tổ dò mìn, cào dây của công binh địch được dễ dàng phát hiện mìn ta. Đồng thời, chúng tăng cường đóng thêm nhiều đồn bốt, chỉ cách nhau ba, bốn li-lô-mét một đồn, mỗi ki-lô-mét một tháp canh, mỗi cột điện là một tên lính gác. Mặt khác, tăng việc tuần tra trên đường, tăng cường các tổ, đội công binh dò, gỡ mìn. Có hôm có tàu, xe đặc biệt thì chỉ mười lăm phút chúng đi lại dò, gỡ mìn trên đường một lần.
                            Vì vậy việc đánh tàu, xe trên đường 5 ngày càng khó khăn, nhất là ở khu vực Kim Thành, số lượng tàu, xe địch bị diệt giảm xuống quá ít, số lượng tàu, xe địch chạy thoát quá nhiều. Việc đánh mìn giật dây không thực hiện được, chỉ còn cách nghiên cứu cách đánh mìn tự động, cho tàu, xe đi vào là nổ ngay.
                            Ban chỉ huy Tỉnh đội Hải Dương quyết định thành lập một trung đội công binh đánh mìn tự động trên đường 5, hoạt động ở khu vực Cẩm Giàng, lấy biệt hiệu là S20. S là ký hiệu con đường 5, giống chữ số 5 viết tháu (xanh cò). Còn 20 là, đơn vị thành lập ngày 20. Trung đội này được lựa chọn kỹ, gồm những đồng chí đã có kinh nghiệm đánh mìn, phần lớn là người Kim Thành và một số người địa phương Cẩm Giàng thành thạo địa hình. Chỉ huy trung đội đầu tiên gồm đồng chí Nguyên - chính trị viên, đồng chí Tuy - trung đội trưởng và đồng chí Trường - trung đội phó.
                            Việc làm ăn (đánh mìn) trên đường 5 lúc này ngày càng khó khăn. Công tác tổ chức chiến đấu phải hết sức tinh vi, chặt chẽ, nếu không sẽ bị thất bại. Từ việc trinh sát theo dõi nắm quy luật địch đến việc tổ chức bố trí mìn, từ việc ngụy trang đến việc đi lại, phải dùng nhiều biện pháp khôn khéo, nghi binh đánh lừa địch. Đây chính là việc đấu trí với địch, một kẻ địch rất khôn ngoan, xảo quyệt.
                            Sau một thời gian nghiên cứu, huấn luyện và chuẩn bị chiến trường, S20 ra quân trận đầu tiên ngày 12-12-1953, quyết tâm lập thành tích chào mừng ngày thành lập quân đội 22-12 và phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ. Đó là trận đánh mìn tự động tại khu vực đường sắt Đồng Liêu đi Cao Xá.
                            Bộ phận trinh sát nằm ở Thạch Lỗi, Kim Đôi, Bằng Quả, Phú Quân, thường xuyên bám sát dân, bám sát địch ngày đêm và điều tra nắm quy luật hoạt động của địch. Đơn vị cử một tiểu đội mười người và hai du kích Kim Đôi do trung đội phó Trường chỉ huy. Trang bị bốn súng trường, ba tiểu liên, một mìn tự động 20 kg, một cạm tự động điểm hỏa do đơn vị vừa mới nghiên cứu sản xuất bằng gỗ và một mìn gỉả bằng củ chuối.
                            Kế hoạch đêm thứ nhất mới đặt mìn giả để xem hôm sau địch có phát hiện được không. Đêm thứ hai mới đặt mìn thật. Do kỹ thuật chôn mìn của các chiến sĩ ta rất thành thạo và thận trọng nên địch không phát hiện được gì. Tám giờ sáng ngày hôm sau, 12-12-1953, một đoàn xe hỏa chở đầy vũ khí của địch tới. Một tiếng mìn nổ dữ dội, khói chìm cả đầu máy, đoàn tàu và ngọn lửa bốc cháy, khói cao đen sì. Kết quả: một đầu máy và bốn toa xe bị lật nhào xuống đường, bốc cháy cả, còn lại bốn toa khác cũng bị đổ nghiêng xô lên nhau gãy nát, một tiểu đội địch đi bảo vệ tàu bị chết, đường sắt bị tắc suốt một ngày hôm đó.
                            Nguyễn Văn Ninh còn viết được khá nhiều trận về S20, trong đó nhiều trận thắng lợi và có cả những trận thất bại của chính tiểu đội trưởng Ninh lúc bấy giờ, làm anh cùng đơn vị đều bị kỷ luật.
                            Đó là trận đánh mìn trên con đường An Điền đi Mai Chung ngày 20-1-1954. Vì muốn đánh trúng từng toa tàu theo ý định, nên đơn vị đã gây nổ bằng dây điện, đấu với hộp pin một trăm quả. Nhưng do sơ suất về kỹ thuật, trình độ hiểu biết về điện kém, nối dây điện bị hở nên mìn không nổ. Sau đó, bị địch phục kích bắn làm hy sinh và bị thương một số. Chúng đã dò và đào gỡ mất ba quả mìn, đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ.
                            - Đó là bài học xương máu của tôi. - Nguyễn Văn Ninh nói - Tôi ghi lại để đời sau rút kinh nghiệm. Có tinh thần dũng cảm đánh địch chưa đủ, mà còn phải có trình độ kỹ thuật thành thạo và công tác tổ chức chỉ huy giỏi mới thắng được địch. Nhất là đối với chiến tranh tương lai sử dụng nhiều binh khí kỹ thuật hiện đại.
                         Nam Sao không ngờ rằng từ một quả mìn bằng đầu đại bác thô sơ mà anh và Sáu Đậu đã đánh từ năm 1946 trở đi ,quân dân ta đã thiên biến vạn hóa, phát triển không ngừng trong việc đánh mìn trên đường 5,làm cho giặc Pháp thất bại nặng nề,góp phần vào chiến thắng vẻ vang của toàn dân tộc.Trong những chiến công đó,có một phần đóng góp của mình.,một huấn luyện viên đánh mìn  đầu tiên.
                                                                                    *
                              Nam Sao ở trại viết  là trong lớp người nhiều tuổi,nhưng anh lại là  người có thâm niên trong quân đội sớm nhất,tính tình lại luôn luôn vui vẻ hòa nhã.Nên anh em trong trại viết đều quý mến.Suốt gần một năm trời ở trại viết,anh miệt mài viết những trận chiến đấu mà mình đã tham gia,hoặc viết cho những đồng chí già yếu hơn kể lại,hoặc cũng có khi anh kể cho các đồng chí trẻ viết hộ.Anh cũng là người xông xáo đi khai thác tài liệu,và tìm được nhiều nhân chứng sống trên đường 5.Đặc biệt trong những cuộc đi thẩm tra tài liệu tại thực địa ,do đồng chí Chủ nhiệm công binh Quân khu chủ trì,thì anh Nam Sao là người đóng góp được nhiều chi tiết và phản biện xác đáng nhất,để bảo đảm tính trung thực của tài liệu .Điều đó chỉ có ở những người có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu thực tế ở ngoài chiến trường và những nhà khoa học kỹ thuật của binh chủng mới có .Các tập chiến lệ của trại viết,viết  ra được in ấn đầy đủ,có tiếng vang lớn trong các đơn vị và trong binh chủng công binh toàn quân.Lấy đó làm tài liệu tham khảo trong huấn luyện của binh chủng lâu dài.Rồi trong các cuộc hội thảo chuyên đề về :”Chiến đấu bảo vệ đường 5”,”Chống phong tỏa thành phố cảng Hải Phòng”,”Bảo đảm công trình phòng thủ biên giới”… do Quân khu tổ chức,đều lấy các tài liệu đó  để dẫn chứng cho các đại biểu tham gia hội thảo.Trong đó Nam Sao là một trong những diễn giả được vỗ tay hoan nghênh nhiều nhất .Tiếng lành đồn xa…Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Hải Hưng trực tiếp đến mời đồng chí  Nam Sao về tham gia viết sử,viết truyền thống chiến đấu của tỉnh nhà ,tại cơ quan Bộ chỉ huy hàng năm trời,Sau đó Ban tuyên huấn tỉnh lại mời đi nói chuyện về lịch sử Cách mạng và chiến đấu của quê hương ở khắp nơi trong tỉnh,được nhiều khán giả hoan nghênh nhiệt liệt.Từ đó anh có trong chân được Tuyên huấn tỉnh thường xuyên mời dự các cuộc phổ biến tình hình thời sự thế giới và trong nước và trở thành Báo cáo viên  thời sự của tỉnh. Được nhân dân các nơi tín nhiệm.Đặc biệt trong các cuộc họp Đảng ,họp chính quyền ở địa phương.Cuộc họp nào anh cũng được mời kể tóm tắt về tình hình thời sự thế giới và trong nước thời gian qua khoảng 20 đến 30 phút,trở thành món ăn tinh thần  không thể thiếu được trong các cuộc họp của thôn xã nhà.Đó cũng là một nét văn hóa đẹp,đặc biệt lớp người cao tuổi thường ưa thích.Nam Sao còn được  Hội người cao tuổi thôn xã bầu làm tổ trưởng tổ thơ, hàng tháng đều có sinh hoạt để bình thơ, rồi đi giao lưu với các xã bạn, huyện bạn hoặc toàn quốc ở Hà Nội, rất là vui.Bản thân anh cũng đã sáng tác được ba tập thơ, in tại các nhà xuất bản trung ương, được đông đảo bạn bè ưa thích.Tuổi ngày càng cao, công việc ở địa phương lại bận rộn, đến nỗi chẳng còn thời gian đi xa  đến các bạn đồng đội cựu chiến binh đánh cá  được nữa.Nhưng  anh vẫn luôn quan tâm biên thư thăm hỏi, và biết họ đã phát triển tốt . Anh rất hài lòng , động viên anh em cố gắng xóa đói giảm nghèo, tiến lên no đủ và làm giầu.Thỉnh thoảng lại có người về chơi thăm anh, làm lòng anh và cả nhà anh  rất vui! 
                        Trong khi sinh hoạt thơ ca  với các câu lạc bộ tỉnh nhà .Anh rất vui mừng gặp lại Vũ Đăng Nụ, người đồng đội  cũ thuộc  tiểu đoàn công binh 333 thời chống Pháp.Lúc đó Nụ là chiến sỹ của anh  khi anh còn là tiểu đội trưởng.Khi anh lên trung đội trưởng thì Nụ là tiểu đội trưởng tích cực dũng cảm nhất của trung đội anh mà anh rất quý mến.Ngược lại Nụ cũng rất khâm phục người chỉ huy trung đội,đại đội của mình , cũng rất thương anh Nam Sao vì lý lịch có anh trai ở hàng ngũ địch, nên dẫu có tài vẫn bị  cấp trên định kiến về chính trị nên không phát triển lên cao được.Rồi mỗi người đi mỗi ngả chiến trường xa nhau.Sau ngày đất nước được thống nhất về quê gặp lại nhau, lúc đó Vũ Đăng Nụ đang là Chủ nhiệm công binh Quân đoàn 9, rồi về làm trung đoàn trưởng trung đoàn công binh 148 thuộc Quân khu Ba .Sau chiến tranh biên giới phía Bắc,  về hưu với quân hàm đại tá.Gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi, vì còn sống trở về.Nhưng cũng  buồn thương cho ông bạn già, người chỉ huy cũ của mình,vẫn dậm chân tại chỗ cho tới lúc về hưu. Nhưng Nam Sao vẫn vui cười tếu táo như ngày nào mà nói:- Cũng may còn cái gáo trở về là quý lắm rồi ! – Vũ Đăng Nụ cũng cười  đồng tình:- Vâng, còn người là còn tất cả anh ạ! – Cả hai cùng cười vui vẻ.Trong những ngày tháng cuối đời, bộ ba lính công binh già: Nam Sao ,Vũ Đăng Nụ,Nguyễn Lương, tuy ở xa nhau, nhưng vẫn luôn luôn liên lạc và thỉnh thoảng gặp nhau, ý hợp tâm đầu, lấy thơ ca làm niềm vui tuổi già, lấy những chuyện chiến trường xưa làm bài ca tâm sự !
                                                                                      *
                        Vào một ngày giáp tết âm lịch, một chiếc xe con quân sự rẽ vào làng Lễ rồi rẽ vào ngõ nhà Nam Sao.Bỗng trông thấy Nam Sao đang  đi  ra ngõ vẻ không vui, chiếc xe dừng lại.Người lái xe bước  ra khỏi xe  kêu lên rất to:
                        - Ơ, anh Nam Sao, tôi  đi công tác biên giới  xa mới về Quân khu, nghe tin anh chết(?) nên mớí vội vàng  đến thắp hương cho anh đây.Hóa ra anh vẫn còn sống chờ chờ ra đây thôi !Đồng chí chủ nhiệm công binh quân khu nói xong, ôm chầm lấy Nam Sao mà quay tít thò lò:- Ôi mừng quá, mừng quá  !- Nam Sao vội nói với giọng buồn buồn :- Không phải tôi, mà là nhà tôi!
                        – Ôi thế thì lại buồn rồi! Nguyễn Lương buông Nam Sao ra và hỏi :  Tưởng chị vẫn đang công tác ở trại nuôi cá  cơ mà- Chị mất lâu chưa ? Ốm đau làm sao lại đi đột ngột thế? 
                         - Không, nhà tôi vì sức yếu đã xin nghỉ một thời gian rồi. Bà ấy  mới mất một tuần naythôi , ung thư dạ dầy, đã phát hiện lâu rồi, nhưng bà ấy cứ dấu mãi không chịu đi chữa vì ngại tốn kém, đến  giai đoạn cuối, mới phát hiện ra, không kịp chữa thì đã đi mất.Khổ thế đấy! Cũng vì hoàn cảnh khó khăn  cứ gắng gượng mãi.Bây giờ  gia đình đã ổn định, nhà cửa khang trang rồi thì bà ấy lại bỏ đi, khốn khổ thân tôi chưa?-.Nam Sao vừa nói vừa khóc  :
                        - Cũng vì tôi bỏ đi xa lâu ngày, một mình bà ấy gánh vác tất cả nên mới ra nông nỗi này.Tôi ân hận quá!
                        - Thôi, số phận chị ấy như vậy biết làm sao được! .Nguyễn Lương an ủi Nam Sao ,trên đường vào nhà.Nam Sao xếp cả đồ lễ là tất cả bánh trái, rượu, và các thứ mà Nguyễn Lương được quân khu phân cho tiêu chuẩn ngày Tết mang đến, chỉ mua thêm hương, hoa,  xếp lên ban thờ, vừa xếp anh vừa khấn :
                         - Bà Ngữ ơi, đây là đồ lễ mà anh Nguyễn Lương mang đến để  cúng tôi, không ngờ bà lại đi trước tôi, nên cúng bà trước đây…! Nguyễn Lương kính cẩn thắp ba nén nhang cắm lên ban thờ, rồi vái ba vái, giọng bùi ngùi:
                        -Chị Ngữ ơi, chị là một người đàn bà, trung hậu đảm đang, thay chồng nuôi con ,chăm sóc gia đình để chồng yên tâm đi đánh giặc, nay đã yên hàn, anh ấy đã trở về ,gia đình đã xây dựng khang trang, con cái đã trưởng thành, chưa được bao lâu thì chị lại ra đi.Ôi số phận chị thật đáng kính phục biết bao, hy sinh tất cả vì chồng vì con, đáng thương biết nhường nào  . Chị có linh thiêng thì hãy phù hộ độ trì cho anh và các cháu mạnh khỏe làm ăn phát đạt…!
                         Sau khi củng cố gia đình ổn định, con cái học hành, làm ăn đi vào nề nếp  và trưởng thành .Chỉ mấy năm sau các  con của Nam Sao: một trai, bốn gái  đều đã phát triển mạnh mẽ .
                         Cô Nguyễn Thị  Thanh là chị lớn, cùng chồng làm công nhân ở nhà máy xi măng Hoàng Thạch, có kỹ thuật cao,  lại chịu khó lao động nên thu hoạch đều khá giả.Con cái đều học hành tốt, làm ăn thành đạt.

                        #12
                          Lương_Hiền 26.07.2016 17:45:31 (permalink)
                          Chương 29-NẤM MỒ TRÊN ĐỈNH PHONG LAN
                          Vật lộn với sóng nước khá lâu anh mới bơi được vào bờ,vẫn thấy đồng chí Đông, lính trinh sát  đứng chờ ở trên bờ reo lên:-  A! anh Phong đây rồi, tôi tưởng anh bị trôi ra biển mất rồi, lo quá, trời tối chẳng biết đằng nào mà tìm. – Hút chết , sóng                to quá ! – Phong vừa thở không ra hơi vừa trả lời. –Đông nhìn Phong hỏi tiếp– Thế súng ống đâu rồi ? – Tớ gửi hà bá rồi ! –Hả,… rơi mất rồi à, súng là vợ, đạn là con ,phải bất ly thân cơ mà, thế thì về đơn vị  lôi thôi to đấy ! – Không phải rơi đâu, mà tớ để lại cho nhẹ đấy.  Yên trí không lo đâu sáng mai lại ra lấy thôi, tớ đã đánh dấu tọa độ rồi mà, súng với lựu đạn nặng không thể trôi được đâu. –Đông nói tiếp:- Thế là anh vẫn còn khôn đấy, nếu không trôi mất cả người cả súng ra biển ấy chứ .Thôi về đơn vị cứ im không nói gì nhé!-Đông nắm chặt tay Phong tỏ vẻ thông cảm, hai người mò mẫm  hơn hai giờ sau, gần nửa đêm, mới trở về đến trận địa.
                          Con thứ hai của Nam Sao là Nguyễn Nam Phong đi bộ đội  theo gen  của bố .Mãi sau ngày thống nhất đất nước được vài năm.Phong mới học xong phổ thông trung học, lại đang sảy ra chiến tranh biên giới phía Bắc, vừa tròn 18 tuổi, anh liền xung phong đi bộ đội, và thi vào trường sỹ quan lục quân, khóa 42. (năm19 82-19 84 ) .Năm đó cũng là năm đầu tiên nhà trường tuyển sinh đại học vào .Anh làm bài thi tốt, đã trúng tuyển với số điểm cao. Nên được phân vào học khoa trinh sát. Noi gương cha, và  cảm thông với nỗi buồn của cha khi về hưu.Anh quyết tâm học tập và kiên trì rèn luyện để vươn lên, để gỡ lại danh dự cho gia đình, quyết không chịu lập lại số phận như của cha trước đây.Trong suốt bốn năm học tại trường, môn nào anh cũng đều đạt loại khá giỏi. Cuối khóa thi tốt nghiệp anh đạt là học viên xuất sắc. Sau đó, các sỹ quan trẻ được đi thực tập thực tế tại chiến trường.Nguyễn Nam Phong được   cử về mặt trận biên giới Quảng Ninh, được tăng cường cho sư đoàn 323 chiến đấu  bảo vệ biên giới ở khu vực Tổ Chim, Móng Cái .Anh được biên chế vào đơn vị trinh sát của trung đoàn 769 . Trong một trận, anh  cùng một trung đội trưởng trinh sát  tên là Đông ( còn gọi là Đông lùn ),người to khỏe, đi phục kích  bên bờ sông Ka Long , với ý định phải bắt bằng được một tên địch từ bên kia biên giới mò sang  ta trinh sát để khai thác tài liệu. Anh chọn một địa hình bãi sú rất xa trận địa mà kẻ địch không ngờ tới.Nhưng phục kích suốt một ngày trời không thấy bóng dáng tên địch nào cả.Trời đã tối rồi, nước thủy triều lại lên cao.Hai người phải bơi qua sông rút về, mỗi người theo một hướng  để phân tán muc tiêu.Thủy triều  dâng lên nhanh, sóng lại to, vũ khí mang trên người lại nặng, bụng lại đói, người mệt mỏi, bơi không nhanh được , Phong đã bị sóng dìm và uống nước mấy lần, trời tối mù mịt, lần đầu tiên trong đời, một mình  bơi trên sóng biển chơi vơi ,có nguy cơ  bị sóng cuốn ra khơi dìm chết hoặc lạc hướng về.Trong lúc đang thần hồn nát thần tính ấy,bỗng anh liền nảy ra  một sáng kiến. Anh vội nhìn xung quanh tìm mục tiêu. Theo bài học trinh sát mà anh đã học, dóng theo  hướng đỉnh núi và một cây cao  vuông góc với nhau , xác định  lại  vị trí bãi sông, để đánh dấu Rồi anh  đành phải thả khẩu súng và cả thắt lưng bao đạn và bốn quả lựu đạn xuống sông tập trung một chỗ, để bơi thoát thân vào bờ, hy vọng sáng mai nước rút sẽ ra mò lấy lại được .Lần đầu tiên trong đời lính, anh phải liều rời vũ khí để cứu lấy mạng sống của mình .
                          Sáng sớm hôm sau, mới tờ mờ sáng,Phong và Đông đã ra bãi  bờ sông .Lúc này nước đã rút, chỉ lội đến ngang ngực.Phong dóng lại tọa độ, hướng lại mục tiêu, xác định đúng vị trí, rồi hai người cùng quờ chân và mò xung quanh đó để tìm vũ khí.Nhưng quờ, mò mãi khá lâu, hàng tiếng đồng hồ vẫn không thấy, Phong đã lo sợ toát cả mồ hôi: - Quái ! không lẽ súng lại trôi được à?- Anh xác định lại xem có đúng vị trí không ? – Đông cũng sốt ruột hỏi lại – Vị trí  thì chính xác rồi không sai đâu. -Không lẽ Hà bá lại ăn trộm mất súng à? – Đông  nói đùa. Chợt Phong lại nghĩ ra và  bảo Đông: - Dận, phải dận cát để tìm, có khi bị sóng đánh , phủ cát lên rồi.-Ừ đúng đấy, phải dận sâu xuống một tý  .-Thế là hai người, cứ  rún rún người ,dận chân xung quanh, cứ như người đánh rậm vậy.Một lúc lâu, bỗng nhiên Đông kêu lên khe khẽ :- Thấy rồi! –Đông cúi xuống móc lên : -Thắt lưng và bao đạn đây rồi,cả lựu đạn nữa đủ cả .-Cùng lúc đó Phong cũng reo lên : - Súng đây rồi !  Mừng quá, hai người nhìn nhau cùng cười. Phong phấn  khởi qúa, dơ súng lên trời, kéo thử quy lát rồi bấm cò. Một tràng tiểu liên bỗng nhiên nổi lên, kéo hết cả băng đạn  30 viên, giữa lúc trời vừa sáng . Quân ta ở  các chiến hào trận địa gần đó cứ tưởng bọn địch đã tấn công sớm.
                           Hôm nay, Phong bàn với Đông chuyển sang hướng khác để phục kích.Phong nói:- Có khi ta phải sang bờ địch mới chắc ăn, chứ ở bờ ta mãi, bọn chúng không dám sang đâu? Đông cũng đồng tình:- Phải đấy anh ạ, muốn bắt cọp thì phải vào hang cọp mới bắt được, nhưng…- Đông ngần ngừ..-Tiểu đoàn lệnh là ta chỉ phục kích ở bờ ta thôi  đấy! – Nhưng trên  cũng lệnh là ta phải bắt  được một “tài liệu sống” cơ mà !- Phong  trả lời rồi nhìn Đông : -Cậu có ngại gì không? –Đông trả lời  vẻ mạnh dạn: -Chẳng ngại gì cả, ta đi thôi anh.Phong chìa tay nắm  tay Đông  :-   Hôm naychưa bắt được địch chưa về nhé !-Đông  cũng nắm chặt tay Phong:- Nhất trí ! Họ cùng nhau lội qua sông, đoạn nông nhất chỉ đến đầu gối,rồi chạy nhanh ẩn nấp vào rừng sú vẹt um tùm.Lúc này trời còn đang mù sương, cả phía ta và phía địch, chẳng bên nào nhìn thấy họ cả. Họ đi trong rừng sú men theo dọc sông  đến gần một nơi, có một lối  mòn đi xuống bến, họ phục kích ở cách đó khoảng   dăm chục mét,  có thể quan sát được đường xuống bến và xung quanh. Trong khi chờ đợi, họ lấy lương khô và nước uống ra ăn sáng, rồi kín đáo,  im lặng và kiên trì  chờ đợi.  Họ chờ mãi vẫn không thấy gì.Quái, hôm nay trên các trận địa   ta và địch giáp nhau cũng  chưa  nghe thấy tiếng súng, có lẽ bọn  địch đang chuẩn bị một cuộc tấn công mới, quy mô lớn hơn chăng? Đến khoảng gần trưa, trời nắng và nóng bức, thì có bóng một  người đi ra bến sông, Phong “xuỵt”làm hiệu cho Đông sẵn sàng chuẩn bị.Khi bóng người đến gần thì  ra là một cô gái người Hoa, mặc quần áo xanh chàm, đội nón, đang vác một chiếc đòn gánh.Cô ta chạy vội xuống bến sông dừng lại, một tay chống đòn gánh, một tay cầm nón quạt mát, mắt nhìn xuống sông như ngắm cảnh .Một lát, rồi nhìn ngang nhìn ngửa xung quanh,  cảnh giác, không thấy có người, cô ta liền ngả đòn gánh và nón xuống  đất , từ từ cởi quần áo ngoài  vứt vào nón ,  rồi lội xuống nước , được vài bước, lưỡng lự một chút, cô tặc lưỡi ,lại quay  lên bờ cởi nốt cả quần áo lót vứt vào đống quần áo, rồi chạy ào xuống nước tắm.Cô cứ tồng ngồng  lội ra chỗ nước sâu, mới dìm người xuống tắm và gội đầu.Phong và Đông bấm nhau.Phong vẫn phải nhìn trên bờ cảnh giác, thỉnh thoảng mới dám quay lại , còn Đông thì đôi mắt cứ chằm chằm nhìn vào cô gái.Thật là tình cờ và cũng trớ trêu thay, trong lúc đang làm nhiệm vụ bí mật khẩn trương , các anh  bỗng được ngắm một “bức họa Maja khỏa thân”  mà các chàng lính trẻ  chưa từng thấy bao giờ (!) Phải nói rằng đó là một cô gái  trẻ có thân hình khá đẹp, nước da trắng với mái tóc ngắn, trông có duyên, có lẽ cô ta là một học sinh đi phu lao động ngoài trận địa gì đó .Ấy là mãi sau này khi về trận địa rồi, hai người mới dám tán với nhau như thế, chứ lúc này, cả hai chàng trai đều  đỏ mặt lên, phải cắn răng im lặng mà ngắm bức tượng thôi !  Đông ghé vào tai Phong nói nhỏ:-Hay ta bắt con  này, biết đâu nó cũng là  lính  giả dân làm thám báo thì sao, trông có vẻ lấc lơ lấc láo nhìn nhìn ngó ngó  mãi, tắm gì mà tắm  lâu thế ?.Phong lắc đầu:- Không phải, có phải cũng không thèm bắt, quân lính mình nó cười cho, hèn! Vừa lúc đó lại thấy có người từ xa đi tới, Phong đưa mắt ra hiệu cho Đông, cả hai cùng quan sát: Một tên lính mặc quần áo đại cán vàng, mũ mềm, đeo súng ngắn, có vẻ là một sỹ quan trẻ. Phong ra hiệu cho Đông chuẩn bị vũ khí sẵn sàng.Tên lính  đi thong thả như  đi dạo, vừa đi vừa quan sát đia hình, hắn  đang đi về hướng của Phong và Đông, bỗng nhiên hắn trông thấy  cô gái tắm truồng dưới sông, xa ngoài bãi cát, hắn  liền rẽ  ngay sang hướng cô gái, hắn đi chậm lại, dò dẫm như  rình mồi, trông thấy nón quần áo thì hắn ngồi thụt xuống nấp sau một bụi cây thấp, mắt vẫn chằm chằm nhìn xuống  bãi sông, nơi cô gái đang nô đùa bơi lội hình như chưa biết gì, trên bờ đang có người nhìn mình .Đông và Phong nháy mắt nhìn nhau gật đầu, đây là thời cơ chiến đấu tốt nhất.Phong ra hiệu cho Đông vòng phía sau lưng tên địch, còn anh tấn công ngang sườn.Hai người đi khom tiếp cận đến cách khoảng 10m thì bò, trong bãi cát và rừng sú, không một tiếng động, tới sát tên địch.Tên địch vẫn chăm chú nhìn  xuống sông, há hốc mồm, xem cô gái bơi lội.Chỉ còn cách tên địch chừng 5m.Phong còn đang  định dùng thế võ “đả hậu”, thì tên địch đột nhiên đứng lên và quay sang phía anh, hắn bỗng nhìn thấy anh, nó trợn tròn mắt lên, há hốc mồm ra lo sợ.Nhanh như cắt, anh vùng lên, cầm súng tiểu liên  lao nhanh đâm vào bụng dưới hắn, thằng địch bị bất ngờ ngã ngửa ra đất, Đông từ phía sau lao tới  giật tay,  lật hắn úp mặt xuống rồi ngồi đè lên người nó, bẻ quặt   hai tay nó ra đằng sau.Phong nhanh chóng lấy mũ mềm đặc công trong túi  tống vào mồm nó, buộc quặt ra sau gáy và lấy mũ đặc công bịt mắt nó lại, làm nó không kịp kêu, rồi tịch thu khẩu súng ngắn và bao đạn.Đông lấy cuộn dây dù trói chặt hai tay kẻ địch về phía sau, rồi kéo nhanh  nó vào rừng sú vẹt, khuất tầm nhìn của cô gái đang tắm dưới sông. Tất cả các hành động đó  của các anh  chỉ diễn ra trong vòng không đầy  một phút, làm tên địch hết sức ngỡ ngàng, chắc cô gái cũng không hề biết bởi  khuất bụi cây.Trong khi Phong dẫn tên địch vào rừng .Đông cảnh giới đề phòng cô gái, nhưng không thấy cô ta có phản ứng gì cả.Hai chiến sỹ nhanh chóng dẫn tên tù binh len lỏi trong  bãi sú ngược lên phía thượng lưu .Nơi góc khuất có một cái  mảng nứa nhỏ nằm trên bãi gần mép nước, mà buổi sáng các anh đã  nhìn thấy.Phong bảo Đông:-  Cậu trói tên này  nằm lên mảng, rồi đun nó qua sông đi .để tớ cảnh giới  và yểm hộ phía sau cho.Đông  đẩy tên địch lên mảng,vừa trói  vừa bảo: -Anh chú ý xem cô gái đã lên chưa, coi chừng nó chạy về báo động đưa người ra đuổi  thì nguy!- Phong nhìn về phía cô gái một lát rồi bảo:- A nó đang lên rồi, nhanh chóng qua sông đi.!Đông đẩy mảng xuống nước, ra đến giữa sông  thì nước đã dâng lên ngập bụng anh rồi.Phong lên quy lát quay lại hướng sau cảnh giới.Lúc đó khoảng 12 giờ trưa,trời nắng chang chang, khắp bến sông không một bóng người. Một lát Đông đã  qua sông, anh dẫn tên tù binh lên bờ, chạy nấp vào một bụi cây, ở đó có chiến hào của quân ta đã đào sẵn, anh trói tên địch ở dưới hào, rồi lên bờ, dơ tay làm hiệu và cảnh giới, yểm hộ cho Phong qua sông.Phong nhanh chóng qua sông, anh vừa chạy vừa bơi, vừa đi dích dắc, đề phòng địch bắn  tỉa, lên bờ anh chạy nhanh nhảy vào chiến hào, trước sự vui mừng của Đông. Hai người dẫn tên địch theo chiến hào đi sâu vào trận địa, gặp một hầm ẩn nấp có nắp. Phong quyết định nghỉ tại đây đến chiều tối mới dẫn tù binh về  đơn vị, để bảo đảm an toàn, đề phòng bọn địch có thể bắn pháo sang tiêu diệt ta và thủ tiêu tù binh. Họ nghỉ ngơi, còn ít lương khô và nước uống, họ lấy ra ăn và bón cho cả tên tù binh cùng ăn uống nữa. Quả nhiên một lát sau thì bọn địch bắn pháo sang bến sông truy kích  quân ta và những chỗ chúng nghi là ta sẽ đi qua.Nhưng quân ta yên chí, thay nhau đánh một giấc ngủ trưa trong hầm kiên cố.Mãi chiều tối hai ngườì mới dẫn tù binh và chiến lợi phẩm về sở chỉ huy trung đoàn ở gần đồn biên phòng 211 , cách đó hơn  cây số. Các chiến sỹ biên phòng định xông vào đánh tên  thám báo, nhưng Phong và Đông gạt đi không cho đánh.Bộ phận của Cục 2 thường trực ở đó liền lấy khẩu cung, khai thác tài liệu  ngay trong đêm.Thì ra đó là một tên sỹ quan tham mưu trẻ  tuổi đẹp trai của quân đoàn 50 mới  từ phía bắc Trung quốc hành quân đến, chuẩn bị mở đợt tấn công lớn sang ta. Sau cuộc hỏi cung của đại diện Cục 2, Phong hỏi thêm qua phiên dịch: - Anh ra bờ sông làm gì?-Hắn trả lời:-Tôi đi quan sát tìm đường,để tung thám  báo sang trận địa đối phương.- Tại sao anh lại dừng lại ở bờ sông? – Tại vì… “một bông hồng đẹp”  đang ở trước mặt, ở dưới  nước, nên phải dừng lại chiêm ngưỡng.-Anh có  ý định chiếm đoạt cô ta à ? – Có chứ, lính nào mà chả muốn ! Nhưng hôm nay tôi không may.- Vì anh hám gái nên mới bị chúng tôi bắt.  Hắn cúi gầm mặt xuống , nói nhỏ:- Vâng, đúng thế, một giá quá đắt (!) Phong còn nghĩ thầm trong bụng, thế là chúng tao còn cứu được cô gái thoát nạn của mày nữa.
                           Sau trận đi tập sự, thử thách đầu tiên đó, Phong  ( cùng Đông) đươc  chỉ huy sư đoàn khen thưởng: Vì đã  mưu trí, dũng cảm, vượt sông đột nhập sang vùng địch, bắt được thám báo quan trọng.Đáng lẽ được bằng khen, nhưng  có khuyết điểm chưa  được phép cấp trên, đã tự ý vượt sông, nên chỉ được giấy khen, do  trung tá ,sư phó Tham mưu trưởng sư đoàn Nguyễn Thế Trị ký ngày 19-5-1984.Sau đợt thực tập, về trường tổng kết và nhận bằng tốt nghiệp.Phong cũng được nhà trường biểu dương. Tờ giấy khen đó đang đượcTrường lục quân lưu giữ  ở Phòng truyền thống để làm gương cho các thế hệ sau, một tấm gương sáng khi đi thực tập.
                           Tốt nghiệp ra trường Phong được điều về sư đoàn 312 đang chiến đấu ở mặt trận Hà Giang từ tháng 7 năm 1987 đến tháng 4 năm 1988.Với cấp bậc trung úy, trung đội trưởng, thuộc đại đội 20,trung đoàn 165.
                          Vừa vác ba lô tới đơn vị, anh được đại đội trưởng giao nhiệm vụ :-Đồng chí lên nhận bàn giao thay phiên cho  đồng chí Khôi làm đài trưởng đài quan sát trung đoàn, tại cao điểm1.098 gần Thanh Thủy.- Đài này ta xây dựng từ bao giờ? –Phong hỏi.-Đài này ta nhận bàn giao của đơn vị trước đã hơn một tháng nay-Đại đội trưởng trả lời và tiếp:-.Đã mấy lần bị bọn địch mò lên đánh chiếm, anh em đã chiến đấu quyết liệt để đẩy lùi bọn chúng, nhưng ta cũng hy sinh mất hơn mười đồng chí.Gần đây trên trung đoàn phàn nàn là ta ít phát hiện được địch từ xa để chúng đến gần biên giới mới biết, có thể do anh em lơ là cảnh giác, nhưng bọn địch cũng dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt, mưu kế thâm hiểm bất ngờ, làm ta khó phát hiện. Đồng chí lên đấy tìm hiểu, và chấn chỉnh lại giờ giấc cảnh giới củng cố lại trận địa, quyết không để bọn địch tấn công lên lần nữa…-Vâng, tôi xin cố gắng tìm hiểu, đề nghị cho tôi một ngày để học tập và nghiên cứu, rồi mới nhận bàn giao, có gi tôi xin đề đạt sau.-Đại đội trưởng :- Nhất trí ! -Ngay sau đó một chiến sỹ liên lạc dẫn đường cho Phong lên đâì quan sát.  Lần đầu tiên leo núi chưa quen, phải mất gần nửa ngày trời, Phong mới tới được đài quan sát, vừa đi vừa hỏi chiến sỹ liên lạc về tình hình ta, địch gần đây, tình hình đại đội và các đài quan sát do đại đội đảm nhiệm.Nhờ đó Phong hình dung ra toàn cảnh trận địa của trung đoàn và tình hình thương vong khốc liệt gần đây.Anh cũng biết đây là đài quan sát chính của trung đoàn, là tai mắt chủ yếu giúp chỉ huy nắm được tình hình địch để đối phó kịp thời.Gần trưa mới tới đài quan sát.Sau nghi thức làm quen nhanh chóng và thắm thiết  của những người lính ở trận địa.Trạm trưởng Khôi dẫn Phong ra ngay máy quan trắc, giới thiệu địa hình,mục tiêu , toàn bộ  phạm vi nhiệm vụ của đài,và bàn giao quân số vũ khí trang bị một cách nhanh chóng,trong vòng 30 phút xong.Khôi định chuẩn bị xuống núi ngay, nhưng Phong nói:- Tôi đã xin phép và được đại đội trưởng đồng ý 12 giờ trưa mai, tôi mới chính thức nhận nhiệm vụ, còn hôm nay xin lên trước một ngày là để học tập các đồng chí và nghiên cứu, tìm hiểu lại vị trí đài xem sao.Mong đồng chí  ở lại cùng trao đổi thêm với tôi vì đồng chí đã quen và có nhiều kinh nghiệm hơn tôi.- Khôi trả lời : -Thế cũng được, sẵn sàng thôi.Thực ra đại đội trưởng đã gọi điện thoại cho Khôi từ sáng nay rồi, nên Khôi không thể từ chối được. Phong lại ra máy quan trắc nhìn một lần nữa, rồi hỏi Khôi:- Anh Khôi này, có phải hướng Tây bắc, bị hòn núi chắn ngang, lấp mất một phần ba lối vào đường biên không ?- Lấp mất non một nửa ấy chứ !-Khôi trả lời liền- Phong gật gật đầu hiểu ra :-Hèn chi, bọn địch đến  hướng ấy ta không phát hiện từ xa được ,mãi vào trong sát đường biên ta mới biết.- Đúng đấy !- Khôi nói, Phong hỏi luôn:- Sao ta không chuyển đài ra chỗ khác nhìn cho rõ hơn ?- Làm gì có thì giờ mà chuyển, mấy lại sức đâu mà chuyển.Ta tiếp quản của sư đoàn 316 đấy chứ, người ta đã xây dựng sẵn rồi, ta cứ thế mà dùng thôi!- Khôi tranh cãi.Phong nghĩ thầm: Hẳn nào, cả  hai sư đoàn đều bị sứt đầu mẻ trán, lao đao, chắc vì chỗ này đây (!) Vào trong hầm, Phong liền xem lại bản đồ một lúc lâu, rồi hỏi Khôi :- Anh đã lên cao điểm 1.612 phía sau cao điểm 1.098 này chưa?- Khôi trả lời:- Thì giờ đâu mà lên, phải vòng xuống thung lũng rồi mới lên được, toàn dốc đứng thôi, cao lắm!-Vậy, anh cho tôi một đồng chí cùng tôi lên trinh sát cao điểm này ngay xem sao.-Phong đề nghị.Khôi gật đầu:-Nhất trí !-rồi gọi:- Cậu Mụa, đi với anh Phong nhé!- Có tôi!- Một chiến sỹ trẻ nhất người rắn chăc, trông mặt trắng như con gái trả lời- Khôi nói thêm: -Ăn trưa xong rồi hãy đi!-   Ấy dồ, mang lương khô vừa đi vừa ăn thôi mà, tranh thủ thời gian kẻo tối không đi về được đâu á!.-Mụa nói, rồi hướng về phía Phong :-Ta đi thôi, cái thủ trưởng ơi!-Thôi cứ đi từ từ thôi, thủ trưởng Phong mới lên núi chưa quen, mà cậu cứ trèo nhanh như con sóc ấy, không khéo lạc mất thủ trưởng đấy!-Một cậu cao cao, tầm tuổi Mụa, nước da đen đen cười nói. Phong để lại ba lô, hai người chỉ trang bị nhẹ rồi lên đường, theo hướng bản đồ mà anh và Khôi vừa thống nhất vạch ra, tức là vòng sang phía sau núi có cao điểm 1.612 rồi mới đi lên. Vai khoác súng, túi bản đồ, vải mưa ni lông , cổ đeo ống nhòm, lương khô và bi đông nước đeo thắt lưng, tay cầm dao phát đánh đấu đường.Phong và Mụa dơ tay chào mọi người :-Chúng tôi đi nhé! - Mọi người cùng chào lại:- Chúc mừng thắng lợi !- Cậu chiến sỹ trẻ Mụa, quả là một chiến sỹ tháo vát nhanh nhẹn,Phong hỏi ra mới biết cậu là người dân tộc  Mông ngay trên đất Hà Giang này mới được bổ sung vào mấy tháng gần đây, khi quân số đơn vị  bị thương vong thiếu hụt, anh em thường gọi đùa là  Mèo.Mụa  thổi khèn mèo rất thạo .Trên đường đi  Mụa luôn luôn bước trước và dắt Phong vượt qua những chỗ khó khăn. Phải mất gần ba tiếng sau hai người mới lên tới  lưng chừng núi .Đã khá mệt, bỗng họ nhìn lên, thấy một hốc núi hõm vào, Phong  chỉ tay bảo Mụa:- Chỗ kia có thể có hang  đấy, ta lên tiếp đi ! – A lúi! Còn cao đến năm sáu chục mét nữa đấy- Càng cao càng tốt.- Phong nói!-  Thế là, Phong và Mụa  lại hăm hở lên mục tiêu hang đá.Nửa giờ sau họ đã lên tới nơi, lúc này cao điểm 1.098 đã ở dưới chân họ.Phong dơ ống nhòm ra nhìn.Tầm nhìn sang đối phương đã vươn ra xa hơn hàng chục cây số, đường biên phía trong cũng không chỗ nào bị che khuất nữa.Mụa cũng lấy ống nhòm Phong đưa cho, nhìn một lúc reo lên :-Hay quá rồi cáí thủ trưởng ơi, thế này thì bọn Tàu không trèo lên  đây được nữa.Hai ngươi lính ôm lấy nhau vui mừng phấn khởi.Mụa bảo :- Đề nghị  cái thủ trưởng về cho chuyển trạm  lên đây đi. – Ta vào hang xem đã!- Mụa lại xung phong vào trước, vừa đi vừa phát cây.-Ấy không được phát cây đâu, lộ bí mật bây giờ, cứ để nguyên đấy, rẽ cây mà vào thôi .Hai người len vào.Không ngờ là một cái hang  khá rộng, khoảng trên 10 m2, cao khoảng 2 đến 3 mét có thể đủ cho cả tiểu đội đài quan trắc ở rộng rãi.Phía ngoài lại có  cây cối rậm rạp che khuất kín đáo.Phong ngắm lại địa hình, xác định lại bình độ của hang ,  ở khoảng  giữa bình độ 1.500 đến 1.600, đánh dấu vào bản đồ .Anh còn xác định một số vật chuẩn gần, vật chuẩn xa từng hướng xung quanh , tọa độ của hang, vẽ sơ đồ, ghi chép đầy đủ vào giấy để về báo cáo cấp trên .- Xuống núi thôi, kẻo sắp tối rồi đấy cái thủ trưởng à !-Mụa nói,Phong vội gấp bản đồvà sơ đồ  lại :- Ừ, thắng lợi rồi ta về thôi! Hai người quay xuống núi, theo dấu đường mà chiến sỹ Muạ đã đánh dấu lúc lên.Phấn khởi vì đã tìm được vị trí mới, lại đi xuống , nên họ đi rất nhanh, chỉ hơn hai giờ sau đã về tới vị trí đài vào lúc chập tối, trước sự vui mừng của mọi người trong đài.Đài trưởng Khôi  cười nói:- Tôi tưởng hai người ngủ trong rừng cơ! -Phong cũng phấn khởi nói :- Nếu không tìm được thì cũng đến ngủ trong rừng thật.Nhưng may quá, tìm thấy rồi anh ạ, nên chúng tôi về ngay, để báo cáo toàn đài chúng ta cùng bàn bạc và xin ý kiến cấp trên.-Khôi dục :-Sao tình hình thế nào, nói luôn đi!.-Vâng !-Phong liền giở bản đồ và sơ đồ cho Khôi và mấy anh em  cùng xem nói :-Đây, các anh  xem ! Rồi vừa chỉ bản đồ, vừa chỉ thực địa, vừa trình bày cho mọi người nghe một cách mạch lạc, rõ ràng.Anh kết luận :- Theo chúng tôi, đây là một vị trí đặt đài quan sát là tốt nhất.Chỉ có điều ở khá cao, phải hành quân  tăng thêm một giờ rưỡi đến hai giờ nữa mới tới, so với vị trí cũ hiện nay! - Mọi người đều à lên : - Chà cao quá ! Tha hồ mà leo! - Khôi nói luôn:-Vấn đề là quan sát được rộng hơn, xa hơn là cái chắc.Còn cao thì không sợ ! - Ta sẽ đề nghị đại đội tăng cường thêm lực lượng tiếp tế hậu cần hàng ngày .-Phong cũng bổ sung.Một chiến sỹ khác nói tiếp:- Lên cao,bọn địch càng khó leo lên tập kích đánh phá, đài của ta tha hồ an toàn. - Chỉ sợ chúng dùng máy bay bắn phá  như bọn Mỹ trước đây thôi .- Bọn Tàu thì mấy sức, nếu cần thì ta xin trung, đại liên lên đây  sẽ trị được chúng thôi… Anh em còn bàn tán nhiều nữa, nhưng Khôi dục:- Thôi đi ăn cơm đi, anh Phong và cậu Mụa sắp chết đói rồi còn gì.Trừ người gác còn tất cả xô vào mâm cơm nguội đơn giản, nhưng rất phấn khởi. Sau đó Phong gọi điện về báo cáo với đại đội trưởng. Cả Khôi nữa cũng báo cáo:- Nếu đại đội nhất trí với phương án của đồng chí Phong ,thì tôi xin xung phong ở lại một, hai ngày nữa, cùng đồng chí Phong tổ chức di chuyển đài xong mới xuống núi. Chỉ huy đại đội báo cáo lên chỉ huy trung đoàn, được trung đoàn nhất trí và bố trí các đài khác tăng cường quan sát thay thế , trong khi đài của Phong di chuyển.Đại đội cũng tăng cường thêm một tổ tiếp tế hậu cần và một tiểu đội nữ dân quân người Mông,  rất thạo việc leo núi làm nhiệm vụ vận chuyển di chuyển đài cho nhanh.Phong bàn với Khôi kế hoạch di chuyển ngay từ sáng hôm sau, vừa di chuyển mà vẫn không ngừng viêc quan sát, đề phòng bất trắc bọn địch tấn công.Trước hết là tổ thông tin  rải đường dây hữu tuyến đi trước và một tổ sửa đường , đánh bậc thang  những chỗ khó.Cậu Mụa xuống núi dẫn đường cho tổ tiếp tế và tiểu đội nữ dân quân gùi mấy chuyến: gạo, thực phẩm và nước lên vị trí mới , sau đó chuyển dụng cụ và máy móc từ vị trí cũ lên…Sáng sớm ngày thứ hai thì  chuyển máy quan trắc và máy thông tin vô tuyến, đến trưa thì lên đến nơi.Các chiến sỹ nhanh chóng triển khai tác nghiệp đặt  máy và quan sát thử được ngay.Phong trực tiếp kiểm tra , đọc các chỉ số kỹ thuật của các địa hình xung quanh, đúng như dự kiến của Phong, không còn bị khuất một góc nào cả.Bỗng nhiên Phong phát hiện, về phía Tây bắc  hai mươi độ, cách xa  16,5 cây số, có hiện tượng địch chuyển động, tập trung quân khá đông, xe pháo  di chuyển nhiều .Phong đưa  Hòa, chiến sỹ quan trắc xem lại, đúng như thế , có khả năng bọn địch chuẩn bị một cuộc tấn công mới vào sáng sớm mai ?Hòa nôi luôn :- Đứng vị trí đài cũ thì không thể phát hiện được góc này, vì vướng hòn núi trước mặt,-Đúng thế!-Phong tán thành rồi cầm máy vô tuyến gọi ngay cho trực ban tác chiến của sở chỉ huy trung đoàn .Trung đoàn  gọi lên sư đoàn.Sư đoàn cho kiểm tra xác định lại,c hính xác, liền có kế họach  cho pháo chủ động  tấn công “đánh phá chuẩn bị “của bọn địch vào lúc 15 giờ chiều.Cả ba trận địa pháo của sư đoàn đều dồn dập tấn công .Bọn địch vì chủ quan bất ngờ, nên bị thương vong khá nhiều..Ngày hôm sau tin tình báo cho biết, địch bị tan tành một trung đoàn,thương vong khoảng  3.000 tên, phải hủy cuộc tấn công cấp sư đoàn sang ta sáng hôm sau .Chỉ huy sư đoàn điện biểu dương khen thưởng đài  quan sát mới của trung đoàn 165 do Phong làm đài trưởng.Tin thắng lợi đầu tiên làm anh em toàn đài phẩn khởi reo mừng quên cả mệt nhọc, tiếp tục xây dựng trận địa bảo vệ đài cho vữngchắc.
                          #13
                            Lương_Hiền 26.07.2016 17:55:43 (permalink)
                            Hôm đó một cuộc giao lưu với tiểu đội nữ dân quân người Mông và anh em trên đài rất vui vẻ và phấn khởi.Một cô gái tên là Mỵ, khi đi học lên cấp hai mới đổi tên là Lan,nhưng chị em vẫn gọi là Mỵ Lan (cho có vẻ học sinh người Kinh), tiểu đội trưởng, khá xinh đẹp, cô lấy trong gùi ra một cành hoa phong lan nói:-Sáng nay trên đường lên núi, em nhìn thấy cành hoa  đẹp này, mới chặt đem lên, xin tặng anh Phong và anh Mụa, hai người đầu tiên tìm ra hang đá cho đài ở đây.Lan trao hoa cho Phong.Mọi người đều reo lên vui vẻ. và tấm tắc khen: -Chà ,cành phong lan đẹp quá !-Cậu Hòa lém liền lên tiếng:- Thế thì ta đặt tên  cho đài này là đỉnh Phong Lan vậy nhé!-Hay đấy, hay đấy, để kỷ niệm trận đầu tiên, vừa mới lên,chúng ta đã phát hiện kịp thời kẻ địch tập trung chuẩn bị tấn công, và chỉ điểm mục tiêu cho quân ta tiêu diệt địch một trận tơi bời.- Một chiến sỹ khác nói tiếp:- Còn nữa, kỷ niệm lần đầu tiên tình cảm quân dân, phối hợp chiến đấu chặt chẽ giữa đài và tiểu đội nữ dân quân người Mông nữa chứ.-Mà đại diện là đài trưởng  và tiểu đội trưởng dân quân, tình cờ ghép tên lại thành hoa Phong Lan  rất hay !-Đề nghị hai người đứng dậy xích gần vào nhau, thế, thế , trông đẹp đôi lắm! Hoan hô !hoan hô! Mọi người đều vỗ tay vang dội.Chiếc đàn măng đô lin trong tay  tiểu đội trưởng Hùng còi bỗng vang lên.Mọi người đều hát theo bài :Anh đi lên biên cương,xây đắp những công trình ,bảo vệ cho quê hương… Rồi tiếng khèn mông của chiến sỹ Mụa, tiếng kèn lá của Mỵ Lan và các cô dân quân cứ ngân lên, ngân lên, du dương, kỳ ảo, bài ca trong hang đá: Ơ... dù trời có sao nhiều sao sáng ơ…dù núi kia có  hai người… ,hai người yêu… nhau…Đó là   giọng hát của Mỵ Lan  hòa vào giọng hát của Nam Phong, lắng đọng lòng người,Họ nhìn nhau  say xưa lưu luyến, những chàng trai và những cô gái trẻ , từng cặp từng đôi làm cho âm thanh cứ sâu thẳm  vang xa, vang xa trong rừng đêm mênh mông  vô tận…
                            Rút kinh nghiệm của vị trí đài cũ bị mấy lần địch mò lên đột kich .Ngay ngày hôm sau.Phong cho anh em cạy đá để xây công sự chiến đấu và bảo vệ máy móc. Điện xin trung đoán chi viện xi măng, cát vàng do tiểu đội dân quân xuống vận chuyển.Anh cũng cho rải mìn ở xung quanh để chống biệt kích thám báo, xây  cả ụ súng  bắn máy bay nữa, không thể chủ quan lơ là với bọn  kẻ thù nguy hiểm xảo quyệt này được! Địa hình ở đây toàn đá không thể chôn mìn được, mà chỉ rải mìn vào từng hốc đá, thậm chí có chỗ không mò xuống được, mà chỉ đổ mìn xuống vệ ,cho mìn rơi  sâu xuống vách núi để ngăn chặn địcn  mà thôi (!)Ít ngày sau lại được cấp trên bổ sung cho một máy viễn vọng đo xa, có thể nhìn sâu vào trận địa  địch trên 30 km.Đài quan sát trên đỉnh Phong lan lại phát huy thêm nhiều công dụng.Bọn địch luôn luôn bị quân ta phong tỏa, tiêu diệt từ xa tới gần, gây nhiều thiệt hại, hàng tháng trời không dám hùng hổ tấn công ta trên hướng đó nữa.Tuy nhiên bọn chúng không chịu thất bại, chúng càng nhiều âm mưu xảo quyệt, bằng những phương tiện tinh vi, nhiều ngày sau chúng cũng đã phát hiện ra Đài quan sát mới của ta, cái gai làm cho chúng bị nhiều lần thất bại .Chúng tim mọi cách để triệt phá đài của ta bằng mọi thủ đoạn: pháo binh, biệt kích, thám báo…như những lần trước ở vị trí đài cũ.Đài trưởng Phong cho anh em luôn luôn cảnh giác: vừa làm nhiệm vụ quan sát cảnh giới chiến trường, vừa luôn canh gác sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đài.
                             Mấy hôm nay, thấy pháo binh tầm xa của địch luôn bắn về phía chân cao điểm 1.612.Đài trưởng Phong liền nói với tiểu đội trưởng Hùng, đài phó :-Hình như chúng đang dọn đường lên thăm chúng ta đấy!-Vâng! có lẽ thế-Hùng nói-lần trước ở đài cũ cũng có hiện tượng như thế! - Phong nghiến răng lại:- Vậy chúng ta phải sẵn sàng tiếp đón các “nỉ hảo” này thôi! .Phong bảo Hùng tập họp anh chị em lại để anh quán triệt nhiệm vụ.Hôm ấy tiểu đội nữ dân quân cũng vừa gùi hàng tiếp tế lên một lúc.-Hay quá ta lại có lực lượng tăng cường về đây rồi!-Hùng reo lên.Tiểu đội trưởng Mỵ Lan cũng nói luôn:- Chúng em thấy đại bác nó bắn nhiều,nên vội vàng hành quân lên ngay để sẵn sàng chiến đấu cùng các anh! Khi  mọi người đã tập hợp đủ Phong nói:- Chúng ta không thể ngồi chờ địch đến nơi mới đánh, mà phải đánh địch từ xa, quyết tâm không cho bọn chúng mò lên được như lần trước ở đài cũ !Trận địa chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng hàng tháng nay rồi, các đồng chí có quyết tâm bảo vệ đài đến cùng không ?-Mọi người đều đồng thanh:- Quyết tâm! Quyết tâm!Quyết tâm!...Phong tiếp:- Theo phương án đã phân công và diễn tập từ trước,các tổ các tiểu đội nhanh chóng làm công tác chuẩn bị súng, đạn, lựu đạn, min…khẩn trương, đầy đủ, bốn giờ sáng mai, phải triển khai vào chiếm lĩnh trận địa như đã phân công! Một tiếng:- Rõ!.. hùng dũng .vang lên đồng loạt.Mọi người hồ hởi làm công tác chuẩn bị nhưng vẫn nói cười vui vẻ lạc quan, nhất là cánh nữ dân quân cứ í a i ới gọi nhau bằng tiếng địa phương , như tiếng chim ríu rít.Chỉ  hai mươi phút sau công tác chuẩn bị đã xong.Phong lệnh cho anh chị em đi ngủ, để lấy sức sớm mai chiến đấu.Mọi người đều vào trong hang, lên sàn yên lặng nằm ngủ. Phong cũng vào nằm một lát, nhưng không ngủ được, anh vùng dậy ra ngoài hang, vẫn thấy Hùng  và tổ gác trực chiến  sẵn sàng bên các máy quan trắc, các chiến sỹ thông tin thì ngồi ôm lấy máy vô tuyến điện, điện thoại ngủ.Anh nhìn các chiến sỹ của mình thấy lòng trìu mến, thương cảm và tin tưởng vào cuộc chiến sớm mai.Anh đứng nhìn bầu trời đêm hè đầy sao lấp lánh, xa xa những tiếng đại bác nổ cầm canh của hai trận tuyến, mà thấy lòng mình trĩu nặng, Quay vào một hốc núi che khuất , anh bật lửa châm một điếu  thuốc lá, rít một hơi dài, thấy khoan khoái lâng lâng, ngồi xuống bờ công sự lắng nghe rừng đêm xào xạc âm u.Bỗng một bàn tay thon nhỏ,  nhẹ nhàng đặt lên vai anh im lặng, một mùi hoa hoàng lan quen thuộc tỏa ra  thoang thoảng tràn phủ xung quanh, làm hồn anh như chơi vơi, bay lên tận trời sao mênh mông,  anh tận hưởng phút dây êm đềm ngắn ngủi đó, đến khi hút hết hơi thuốc cuối cùng, ném tàn xuống đất, anh mới nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn vẫn đặt trên vai anh .Phong bỗng nhớ lại một chuyện mà anh đã đọc từ lâu,người lính trước giờ ra trận, không được đụng đến đàn bà.Anh quay lại khẽ thì thầm vào tai bông hoa phong lan đó:-Thôi về ngủ đi  em, lấy sức mai còn chiến đấu! Họ cùng đứng dậy ,dắt tay nhau chầm chậm bước vào trong hang  về chỗ ngủ của mình.
                            Đúng bốn giờ kém mười lăm,đài phó Hùng thổi một hồi còi đánh thức toàn đơn vị dậy,đã thấy đài trưởng Phong nai nịt gọn gàng,đứng chờ sẵn ở cửa hang, nhắc nhở mọi người:- Nhớ mang lương khô và nước uống để chiến đấu lâu dài cả ngày. Chỉ mười lăm phút sau, các chiến sỹ đã vùng dậy, xúc miệng ,lau mặt và nai nịt gọn gàng, tâp hợp từng tổ báo cáo: - Trận địa một đủ!-Trận địa hai đủ!-Trận địa ba đủ! Phong đi vòng một lượt qua các tổ để kiểm tra, xong, anh hô ngắn gọn :- Hành quân chiếm lĩnh trận địa! -Những địu và ba lô đầy đạn, lựu đạn , mìn nặng chĩu trên vai các chiến sỹ, những khẩu súng trường, tiểu liên khoác trước ngực  và các trang bị khác dắt đầy người, cả nam lẫn nữ .Theo thứ tự :tuyến 1, tuyến 2,bắt đầu hành quân lướt qua đài trưởng , đài phó, những bàn tay nắm chặt dơ lên tỏ vẻ quyết tâm và hứa hẹn.Cuối cùng Phong quay lại  Hùng : -Nhớ theo dõi  ký tín hiệu nhé! -Hùng gật đầu.Hai người chỉ huy  nắm chặt tay nhau chắc nịch. Phong lao xuống núi chỉ huy trận địa 1 và 2.Hùng ở lại thường trực đài và chỉ huy trận địa 3,anh cho các chiến sỹ về từng vị trí và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Mặc dầu các chiến sỹ đã quen đường,nhưng trời còn tối, nên mãi 30 phút sau mới xuống tới trận địa 2 do  tiểu đội trưởng Bằng chỉ huy cùng hai chiến sỹ  và hai dân quân, là năm tay súng. Rồi 45 phút sau mới xuống tới trận địa 1 ,do tiểu đội phó Mụa và tiểu đội trưởng dân quân Mỵ Lan chỉ huy cùng hai chiến sỹ và hai dân quân nữa .Đài trưởng Phong trực tiếp chỉ huy tuyến 1,tổng cộng bảy tay súng. Anh cho các chiến sỹ triển khai chiếm lĩnh các trận địa đã làm sẵn, củng cố lại vị trí nắp hầm  ẩn nấp, đề phòng pháo địch bắn, củng cố lại các bẫy đá rải khắp chiến hào mà anh đã nghiên cứu học tập các trận địa thời trung cổ. Mìn và lựu đạn bày sẵn trước mặt.Trận địa tuyến 1 này ở bình độ  khoảng 150 mét, cao hơn mặt đất dưới chân núi khoảng  gần 100 mét, vách núi lại đốc đứng, có thế trận  cao, quan sát địch rất rõ .Vừa chiếm lĩnh trận địa xong thì cũng là lúc pháo binh, súng cối địch bắn cấp tập vào trận địa ta mở đường cho bộ binh địch .Các chiến sỹ ngồi thụt trong công sự ẩn nấp an toàn mà vẫn không ngừng quan sát địch.Khoảng ba mươi phút sau, pháo địch chuyển làn lên tuyến sau để yểm hộ cho bộ binh địch tiến .Phong quan sát thấy khoảng một tiểu đoàn bộ binh địch im lặng  lò dò mò lên núi,Đại đội đi đầu dàn hàng ngang, bám lấy gốc cây mô đá trèo lên, có chỗ chúng phải đùn đít nhau hoặc co kéo nhau  mới lên được, có thằng trèo lên lại bị tụt xuống, thậm trí ngã ngửa tênh hếnh xuống.  Các cô dân quân ta trông thấy cũng phải bật cười, một cô nói tiếng Mông:- Cho chúng mày chết, có giỏi cứ leo lên.Phong phải ra hiệu cho các chiến sỹ tuyệt đối im lặng, không để lộ mục tiêu.Bọn chỉ huy địch ở phía sau, cầm súng lục cứ huơ huơ lên và quát tháo bọn lính tiến, kèn dê kêu inh ỏi  thúc dục, nhưng bọn lính cứ trèo được một hai bước lại phải dừng lại nghỉ lấy hơi, rồi mới trèo tiếp được .Khoảng gần ba mươi phút sau đại đội đi đầu của địch đã trèo lên hết.Tiểu đội phó Mụa, nói nhỏ với Phong:- Cho đánh chứ thủ trưởng, ngon quá rồi!-Phong  xua tay làm hiệu chưa được, cứ để chúng lên  cao nữa!-Nhìn xuống núi thấy đại đội thứ hai của địch cũng đang trèo lên, chúng hăng hái hơn bọn đi đầu, nhưng càng trèo nhanh càng ngã nhiều, chúng vẫn cố sống cố chết trèo lên. Các chiến sỹ thấy sốt ruột quá  rồi, tay ai cũng để vào cò súng, sẵn sàng nhả đạn.Mỵ Lan nhìn Phong :- Đánh đi anh!chúng sắp đến chiến hào ta rồi?-Phong vẫn nghiến răng  nhìn xuống núi,quờ tay ra nắm lấy tay Mỵ bóp chặt và nói nhỏ:- Cứ bình tĩnh em, cho chúng lên nữa đi, càng đông càng tốt ! Trông kìa, đại đội thứ ba của chúng cũng đang dàn hàng ngang leo lên rồi.Cứ để cho chúng leo lên một đoạn nữa đi !Một lát sau, khi toàn bộ tiểu đoàn 1 của địch đã lọt vào trận địa ta, đang ở lưng chừng núi.Một tiểu đoàn phía sau cũng  vào tới chân núi.Đại đội đi đẩu của chúng chỉ còn cách chiến hào ta chừng năm đến mười mét, thì bỗng nhiên một loạt mìn của ta đã gài sắn nổ tung lên.Đây chính là thời cơ nổ súng.Phong quay sang Mỵ gật đầu  và bắn một băng tiểu liên đầu tiên, vừa hô to:- Bắn ! bắn mãnh liệt vào ! – Bảy tay súng đồng loạt, nhằm thẳng vào bọn đich  bắn tới tấp,vừa bắn vừa reo lên những tiếng Mông xen lẫn những tiếng Kinh  đầy phấn khích và hồ hởi:- Cho chúng mày chết này! Có giỏi cứ leo nữa lên đây !-Cánh bên trái Mụa liên tục bắn cung tên của dân tộc miền núi, dây cung cứ rung lên xoành xoạch, tên cứ lao đi vun vút,  mỗi mũi tên của Mụa bay đi lại hạ một tên địch bị gục , hàng chục tên địch bị chết bởi mũi tên của Mụa, nghe thấy cả bọn địch kêu khóc  rống lên vì trúng mũi tên độc. Phong nhìn thấy Mụa gọi to;-Mụa ơi, hay lắm, cậu quả là một chàng trai thiện xạ cừ khôi!Thôi để dành tên, còn bắn chim, cò liên hoan nữa chứ !- Ấy dồ, em còn khối tên  ở  nhà, khi nào về lại lấy-Mụa trả lời !-Diệt hết bọn địch ở gần ,Mụa mới lấy súng bắn bọn địch ở xa.Ở cánh bên phải Mỵ cũng chẳng kém gì Mụa, cô ngắm chậm nhưng bắn rất chắc, bắn phát nào trúng phát ấy.Mỗi tên địch ngã, Mỵ lại reo lên:-Một thằng  này, hai thằng  này, ba thằng này… chin thằng này…Phong cũng nói to  khuyến khích :- Hoan hô Mỵ, em giỏi lắm ! Một cô gái bên cạnh còn cười lên khanh khách, nói với Phong:- Nó đi thi dân quân bắn súng giỏi nhất xã chúng em đấy thủ trưởng ạ!-Loạt súng và mìn đầu tiên đã tiêu diệt và đẩy toàn bộ đội hình của đại đội 1 của địch bị lăn xuống núi. Đại đội 2 và 3 của chúng vẫn cố sống cố chết xông lên. Phong liền cho các chiến sỹ  của ta  thả bẫy đá từ trên cao cứ ầm ầm lăn xuống tới tận chân núi, đá lăn đến đâu kéo xác bọn địch xuống theo, bọn chúng xô nhau chạy, ngã lăn lông lốc, lại bị các chiến sỹ ta tới tấp ném lựu đạn và cả mìn xuống, làm chúng đè cả lên nhau mà chết.Thê đội 1 của chúng hầu như hoàn toàn bị tiêu diệt,Thê đội 2 của chúng thổi kèn dê inh ỏi cố xông lên cũng bị đẩy lùi xuống chân núi. Cuộc chiến đấu đã kéo dài trên ba tiếng đồng hồ, bọn địch vẫn không lên được Chúng đang có hiện tượng  bỏ chạy.Ngay lúc đó có tiếng kèn đồng vang lên Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 165 theo hợp đồng với Phong  từ trước, đã từ cánh trái. phía Tây bắc xông ra  truy kích thê đội hai của địch,đồng thời pháo binh và súng cối của ta cũng bắn chặn vào đội hình của chúng không cho chúng rút qua biên giới.  Đến quá trưa thì trận đánh kết thúc. Phong cho bắn ba phát pháo hiệu xanh báo tin vui thắng trận cho  các trận địa toàn trung đoàn,sư đoàn biết. Phấn khởi quá, anh chị em  toàn đài ôm chầm lấy nhau nhảy múa reo vui mừng thắng lợi, ngay trên chiến hào.Kết quả trận đánh:  Quân ta đã  phối hợp giữa đài quan sát và một tiểu đoàn bộ binh,  cùng  pháo binh tiêu diệt hai tiểu đoàn của địch , trong đó đài quan sát đã chủ động, đánh lui và tiêu diệt gần một  tiểu đoàn địch.  Mà  chỉ bị thương  nhẹ  có hai người:một chiến sỹ và một dân quân,vì bị mảnh pháo của địch bắn trúng. Phong  cho thu dọn chiến trường,cấp cứu thương binh,và củng cố ngay lại trận địa sẵn sàng chiến đấu với địch tiếp theo. Sau đó về trên đài tập trung còn đầy đủ cả  mười tám người,chin nam bộ đội cùng chin nữ  dân quân, không thiếu một ai. Mọi người đã trải qua một trận chiến quyết liệt không cân sức, ai cũng mừng vui trào cả nước mắt. Họ ôm lấy nhau, hôn hít nhau,sờ nắn nhau xem còn nguyên vẹn không, rồi cùng cười ha hả, tuy chưa được ăn cơm trưa,nhưng không ai thấy đói.Họ cứ ôm lấy  nhau mà  nhảy múa, mà reo vui như điên như dại. Ngay sau đó, điện thoại, và vô tuyến điện reo lên liên hồi. Phong  nhận được điện của  Chỉ huy Sư đoàn 312 và Trung đoàn 165,tuyên dương  ngay tại trận,và sau đó, lệnh  cho đơn vị tổ chức  bình công để khen thưởng kịp thời.Đang vui, Mụa chạy vào hang lấy cung tên và rủ một chiến sỹ đến nói với Phong:-  Ây dồ, thủ trưởng  cho chúng em đi săn kiếm vài con gì đó về nướng uống rượu mừng thắng lợi nhá!-Phong cũng reo lên :- Ừ phải đấy,các cậu đi đi, nhưng phải cẩn thận đấy, không được chủ quan!- Vâng ạ! - Mụa và cậu chiến sỹ cùng nói rồi kéo nhau đi. Phong nói tiếp: -Bây giờ hãy còn sớm, đài phó Hùng ở nhà thường trực chiến đấu  và cho anh em thu dọn tiếp, để cánh này xuống sông kiếm ít cá về liên hoan một bữa  cho đã chứ!- Hùng và mọi người đều vỗ tay :- Hoan hô , thế thì nhất rồi.Thủ trưởng Phong đánh cá thì không chê vào đâu được !-Phong cùng hai chiến sỹ xách túi đồ nghề và bao tải đi xuống núi.Vừa đi một đoạn thì có tiếng gọi:- Eng Phong ơi, chờ em với!- Quay lại thì hóa ra là cô Mỵ và một cô nữa đang đeo địu chạy theo.Mỵ nói: - Cho chúng em đi xem đánh cá mấy!-Cô gái đi cùng Mỵ cũng nói vui dí dỏm:- Ấy dồ,đánh cá thì phải mang địu mới chở hết lố,cái thủ trưởng à ! Thế là cả  lũ cùng xuống núi, vừa đi vừa cười nói vui vẻ thanh thản, chẳng có vẻ gì là họ vừa mới trải qua một trận chiến đấu gay go và ác liệt, ngàn cân treo sợi tóc, kề cái chết  ngay sáng nay cả. Phong  quay lại, dắt tay Mỵ cùng đi, vừa cười vừa nghĩ thầm: Chiến trận thật là gian khồ ác liệt , và cũng thật là vui như thế này đây!
                            Khoảng nửa tiếng sau họ xuống tới bờ sông Thanh Thủy, gần sát biên giới giữa ta và địch.Nơi đây là đầu nguồn sông Lô chảy về xuôi Hà Giang,Tuyên Quang ,Việt trì, dòng sông ở đây khá hẹp và sâu, nước trong xanh biếc, có chỗ nhìn tận đáy sâu  hàng chục thước. Dân ven hai bên bờ sông thường đánh cá bằng lưới  có dậu dài sâu từ thước rưỡi tới ba thước, có nhiều cá to khoảng hai ba cân trở lên , có con hàng chục cân. Hồi chiến tranh biên giới mới sảy ra,quân lính ta kéo nhau lên đông, nhiều cánh vô kỷ luật rủ nhau đi đánh cá bằng  thuốc nổ.họ đánh những khối thuốc lớn hàng kg, cá chết rất nhiều, nhưng không vớt được mấy, vì cá to, chết chìm xuống tận đáy sông, không ai có thể lặn xuống sâu hàng chục thước để vớt cá được ,đành phải bỏ.Mãi sau này, quân ta mới nghĩ ra cách thả mồi nổi hoặc khua nước động, cho cá nổi lên mặt nước kiếm ăn.Lúc đó mới ném khối  thuốc nhỏ khoảng một hai lạng, làm sao cho nổ trên mặt nước làm cá chết, rồi nhảy xuống, dùng mọi phương tiện  như vợt, rổ, bao tải hoặc giây sâu… ra vớt thật nhanh,khi cá chưa kịp chìm xuống sâu.Thường phải có nhiều người cùng nhảy xuống vớt cá thì mới vớt được kịp, được nhiều, không bị lãng phí.Nhưng kỹ thuật ném cho thuốc nổ, nổ trên mặt nước lại là một nghệ thuật, không dễ dàng gì ai cũng làm được.Nhiều người háu ăn, cắt dây cháy chậm ngắn quá, chưa kịp ném đã nổ trên tay  làm mình bị thương, hoặc nổ trên không, cá không chết . Việc này thi đài trưởng Nguyễn Nam Phong lại là bậc thầy.Từ khi lên đài quan sát.Anh đã trổ tài một vài lần cho chiến sỹ biết tay rồi. Khi xuống tới mép sông,Phong lại dẫn cả toán đến khu vực quen thuộc cũ, chỗ này có một bãi đất sát mép nước, tiện cho việc tác nghiệp.Anh nhanh chóng gói buộc 2 lượng nổ, cắt dây cháy chậm  theo ý định.Bảo hai cô gái đứng lùi vào phía trong cho an toàn.Còn ba chàng trai cởi hết quần áo ngoài, chỉ mặc độc quần lót.Bảo hai chiến sỹ ném mấy hòn đá xuống khua cho động nước.Khi thấy đàn  cá con  lởn vởn đến thì ném mấy thanh lương khô đã bóp nát xuống gần bờ.Phong bắt đầu đốt dây cháy chậm ,rồi cầm ở tay,cho dây xi xì ,các cô nhìn thấy ,ai cũng lo cho Phong.Trong khi đó đàn cá con xúm xít  đến ăn mồi lương khô nổi, rồi đàn cá lớn hơn từ dưới sâu kéo lên đớp cá con.Lúc đó cũng là lúc dây cháy chậm chỉ còn độ 2 cm, tức là bằng thời gian còn  2 giây,Phong liền ném xuống nước ,chỗ đàn cá xúm đông vào nhất.Bánh thuốc nổ chỉ chìm xuống mặt nước khoảng 20 cm thì nổ,tung cả cá nhỏ lên trên  không , còn cá lớn hơn  thì bị sức ép, dãy chết đâm nháo nhào, trôi lơ lửng trên mặt nước, rồi chìm dần xuống sâu .Phong cùng hai chiến sỹ nhảy ào xuống nước, thi nhau bơi, lặn, vớt cá.Ở gần thì ném lên bờ  cho hai cô gái ra nhặt bỏ vào gùi, ở xa bờ thì có người cho vào bao tải, có người cầm đoạn dây sâu, sâu luôn vào mang cá.Phong còn lặn xuống nước vừa bắt cá vừa sâu mấy con liền, mới trồi lên thở  lấy hơi , rồi lại lặn xuống bắt tiếp.Chỉ một lúc thì bắt gần hết cá, họ lội lên bờ trút cá vào gùi, ước được khoảng hơn một yến cá.Anh chị em bảo:-Thôi tha hồ ăn rồi về thôi!-Nhưng Phong bảo:-Đánh mẻ nữa, để nướng, làm quà cho các cô dân quân, có lệnh trên, mai các cô xuống núi ,về địa phương, thay quân rồi!-Mọi người đều ồ lên:- Ấy dồ,thế thì tiếc quá nhỉ,đồng ý đánh tiếp!-Họ dẫn nhau xuống hạ lưu ,cách  chỗ vừa đánh một đoạn.Chỉ mất khoảng hơn hai mươi phút sau, thì đánh xong mẻ thứ hai,lại được nhiều cá và cá to hơn.Họ phải san sang hai gùi cho hai cô mang, mỗi cô phải gùi trên một yến.Trên đường về, các chiến sỹ đòi  gùi thay các cô ,nhưng các cô nhất định không cho, vui quá cứ chạy băng băng lên núi. Về tới đài mọi người đều reo lên phấn khởi. Toán đi săn của Mụa cũng đã về ,xách một  túi chim nặng.Họ xúm nhau vào thổi cơm, làm cá, làm chim. Chẳng mấy chốc đã có tiếng hô:-Cơm chín rồi!- ,Cá nấu , cá nướng  cũng đã xong rồi đây ! Cả thịt chim quay nữa  đây này,chà thơm quá- Anh chàng “Bằng rượu” cũng sách can  chạy ra:-Rượu đây rồi, rượu đây rồi, cứ dấu mãi, hôm nay chiến thắng mới được đài trưởng cho uống đấy!-Mọi người đều vỗ tay:- Hoan hô!-.Bữa cơm liên hoan mừng thắng lợi hôm nay, cũng là bữa cơm chia tay  các bạn gái dân quân đây.Thật là vui, nhưng cũng thật là buồn.Lúc đầu diễn ra trầm lặng, nhưng rồi rượu vào lời ra, khí thế dần dần tăng lên, đến giữa bữa thì ồn ào như vỡ chợ. Nhưng đến khi xong tiệc, họ tiếp tục  liên hoan văn nghệ thì không khí lại lắng xuống: Những tiếng đàn, tiếng khèn, tiếng hát cứ  như những lời thi thầm tâm sự, như những lời ru chia tay ấm áp ngọt ngào và sâu lắng.Đã quá nửa đêm, không ai muốn ngủ, tiếng kèn môi của các cô gái cứ ngân mãi , ngân mãi lời tâm sự da diết ,họ ngồi cạnh nhau,cầm tay nhau,có đôi đã ôm lấy nhau nước mắt vòng quanh  hẹn hò tha thiết.
                             Mỵ ngồi sát vào Phong thầm thì ước vọng: - Anh có khi nào về thăm quê em không ?... Cái  dẻo cao nghèo đóí này chắc anh chả đến làm gì?-  Có chứ ,khi nào hết chiến tranh ,anh sẽ đến thăm quê em và gia đình em  chứ ! Em đẹp lắm và quê em cũng đẹp lắm! - Bao giờ hết chiến tranh?
                            -Bọn kẻ thù truyền kiếp còn nhiều âm mưu thâm độc lắm! Nhưng sớm muộn gì   chúng  cũng thất bại, phải rút lui thôi- Giá ước gì em được về quê anh chơi ,nghe nói xa lắm có phải không?- Ừ xa lắm !. Anh sẽ lên đón em về!... Họ cứ rì rầm,rì rầm cũng như những đôi khác, nói những chuyện không đâu vào đâu thế thôi,mà chả ai buồn ngủ, mặc dầu họ đã chiến đấu và lao động suốt cả ngày hôm nay mệt nhọc vất vả, nhưng họ vẫn cứ tỉnh như sáo, cả trong hang và ngoài hang đều như thế cả…
                             Cho đến lúc đồng chí trực gác trận địa thổi còi báo thức  thì họ vùng lên đồng loạt,vươn vai thể dục vội vàng,làm vệ sinh, rồi ăn sáng , và hò nhau chuẩn bị chia tay.Lúc này không khí nhộn nhịp hẳn lên,tiếng í ới gọi nhau ríu rít.Các nữ dân quân, mỗi người được tặng  một con cá nướng to, về làm quà, bọc trong giấy báo ,chuẩn bị từ chiều qua.Những lá thư ,những mảnh giấy ghi địa chỉ, những lời nhắn nhủ hẹn hò, những cái bắt tay thắm thiết ,và cả những cái hôn vội vã trao cho nhau  hết lượt này đến lượt khác, hết  người này đến người khác, thật là dùng dằng, lưu luyến thiết tha. Trực ban hô tập họp hai hàng  nhìn vào nhau .Đài trưởng Phong  đọc điện thông báo của chỉ huy trung đoàn vừa gửi đến: -Trong trận chiến  đấu thắng lợi vừa qua toàn đài đều được đề nghị ghi công khen thưởng, trong đó hai đồng chí được  tặng huân chương chiến công hạng ba là:tiểu đội phó Sùng a Mụa,tiểu đội trưởng dân quân Giàng Mỵ Lan,và  15 bằng khen của sư đoàn cho các đồng chí còn lại .Riêng đài trưởng Nguyễn Nam Phong được tặng thưởng huân chương chiến công hạng hai.Phong chưa kịp rứt lời thì mọi người đều nhảy cẫng lên hoan hô và chạy lại ôm chầm lấy nhau reo vui ,chẳng còn hàng lối gì cả.Để cho niềm vui được tràn ngập một lát, Phong mới dơ tay làm hiệu, cho mọi người về hàng , anh nói đôi lời  cảm ơn các cán bộ , chiến sỹ bộ đội và dân quân đã đoàn kểt dũng cảm chiến đấu bảo vệ đài.Đặc biệt cảm ơn các đồng chí dân quân  đã hiệp đồng chặt chẽ, là nguồn động viên  sâu sắc để tạo nên chiến thắng  chưa từng có này.Hôm nay chúng ta chia  tay… Nhưng tình cảm chúng ta còn mãi mãi, không bao giờ  quên…Phong vừa nói tới đó thì ngập ngừng, bỗng nhiên nước mắt của anh chảy vòng quanh.Và thế là cả hàng quân đều sụt sùi rơi nước mắt, nhất là các cô gái thì có người khóc thành tiếng.Phong phải dơ tay làm hiệu mãi, những tiếng sụt sùi mới lắng dần xuống.Phong  hô to:- Giờ hành quân đã đến.Đồng chí  Mụa  và đồng chí Mỵ dẫn tiểu đội  dân quân xuống núi về trung đoàn  bàn giao. Còn lại ,tất cả về vị trí  sẵn sàng chiến đấu ngay, đề phòng địch bắn pháo và tấn công tiếp! -Mụa vừa dơ tay chào theo nghi lễ :- Báo cáo ,chúng tôi đi !Vừa xong ,thì mọi người chạy xô lại bắt tay chào tiễn đưa nhau, tiểu đội dân quân vừa đi vừa ngoái lại, những cánh tay bộ đội cứ dơ lên vẫy mãi, vẫy mãi…
                            #14
                              Lương_Hiền 26.07.2016 18:01:23 (permalink)
                                Lúc đó  là khoảng  7 giờ 10 phút, một sớm mùa hạ không khí  mát mẻ, bầu trờì trong xanh, núi rừng đang yên lặng.Bỗng nhiên tiếng đại bác  ầm ầm từ bên kia biên giới bắn sang, dồn dập vào trận địa của đài quan sát trên đỉnh Phong Lan, loạt xa , loạt gần, loạt trái , loạt phải … Phong và Hùng đang đứng ở trên chiến hào .liền nhảy xuống công sự phòng tránh.Phong bỗng kêu lên:- A, chúng đã kéo pháo tầm xa tới sát biên giới để quấy rối đài chúng ta rồi, chúng đang chỉnh làn đấy,phải nhanh chóng xác định tọa độ, báo cho pháo ta khử chúng mới được.-Đúng rồi!- Hùng vừa trả lời vừa nhảy vào vị trí máy quan trắc điều khiển máy ngắm. Một loạt pháo nữa rơi vọt về phía sau núi, Phong bỗng giật mình:- Thôi chết, loạt pháo  này có thể rơi vào đường lên xuống của ta  mất.Tiểu đội dân quân vừa xuống núi  một đoạn (?) Anh lo lắng bồn chồn, linh tính như báo điềm không may.Anh vội nhảy lên bờ chiến hào, đội mũ sắt rồi chạy băng xuống núi.Được một lát,khoảng trăm mét, thì gặp Mụạ cùng chị em  đang kêu khóc ầm ĩ và khiêng xác  một người quay lên đài.Anh chạy bổ xuống , ôm chầm lấy xác đó xem ai ,thì hóa ra là Mỵ Lan.Anh tái mét mặt, như muốn ngất sỉu, lặng người đi, lảo đảo không nói được câu nào, nước mắt chảy ròng ròng. Mụa báo cáo:- Một quả pháo mồ côi của địch rơi vào trước đội hình, chỉ một mình Lan đi đầu bị trúng đạn ngã gục ngay tại chỗ.Lan còn hô được một câu :-Mọi người nằm xuống tránh đạn, rồi tắt thở luôn. Phong  cùng  Mụa đỡ xác  Lan nhanh chóng đưa về quàn trong hang để làm thủ tục khâm niệm.Nghe thấy tiếng khóc ầm ĩ kéo lên, anh em trong đài  biết là có chuyện không hay, đều chạy ùa ra đón .Ai cũng khóc  và xót thương cho Lan : Một cô gái trẻ tuổi, dũng cảm và xinh đẹp. Phong phân công :một bộ phận tiếp tục quan sát chiến đấu, chỉ thị các mục tiêu  cho pháo binh và bộ binh tiêu diệt địch do Hùng phụ trách , còn Phong trực tiếp phụ trách bộ phận làm thủ tục khâm niệm và mai táng cho Mỵ Lan ngay, không thể để lâu làm ảnh hưởng tới tinh thần chiến đấu của các chiến sỹ.Mà tiểu đội nữ dân quân cũng phải xuống núi  thay quân theo mệnh lệnh của trung đoàn ngay.Hai cô gái ở lại lấy chăn bộ đội  của Phong để khâm niệm cho Lan ,còn sáu cô theo Phong và Mụa ra một khe núi cách đó khoảng hơn  chục mét, cạy đá cát để xây mộ cho Lan.Khoảng một giờ sau thì mọi việc chuẩn bị đã xong.Phong  gọi Hùng cho tất cả anh chị em tập trung làm lễ an táng cho liệt sỹ Mỵ Lan,trừ đồng chí cảnh giới. Hương nến được đốt lên nghi ngút .Phong nói lời tiễn đưa Lan về cõi vĩnh hằng đầy ngậm ngùi  thương sót.Đài trưởng khóc,tất cả mọi người đều khóc thành tiếng, các cô gái thì cứ gào lên như cha chết mẹ chết.Phong cho bắn ba phát súng trường để tiễn đưa người đồng đội.Sau phút mặc niệm cuối cùng ,Việc làm lễ an táng vội vàng tại trận trên đỉnh núi chỉ trong vòng hơn  mười phút đã xong.Một tiếng còi vang lên,Phong lấy lại bình tĩnh hô to :- Tất cả về vị trí chiến đấu. Tiểu đội dân quân do  đồng chí Mụa và đồng chí Lủa tiểu đội phó dân quân chỉ huy tiếp tục xuống núi theo kế hoạch. Phong chỉ định tiếp hai  chiến sỹ  Hải và Công ở lại  xây mộ liệt sỹ  bằng cát đá xi măng,vật liệu làm công trình còn lại .
                               Pháo ta lại nổ vang dền, phản pháo vào trận  địa pháo tầm xa của địch, dưới sự quan sát chỉ thị mục tiêu của đài quan sát trên đỉnh Phong Lan như để tiễn đưa và trả thù cho liệt sỹ Mỵ Lan .Hôm sau ,mộ Lan được xây xong với biển đề: “Liệt sỹ Giàng Mỵ Lan, hy sinh ngày12 tháng 6 năm1984”.Phong đem cành hoa phong lan của Mỵ tặng, ra trồng phủ lên mộ Lan, ngày nào anh cũng ra thắp  hương trên mộ Lan và ngồi đó một lúc lâu để tưởng niệm một mối tình trẻ trung  ngây thơ dang dở đó.Chỉ mấy ngày sau thì các chiến sỹ  trên đài quan sát đã đi khắp rừng sưu tầm phong lan  các loại, đưa về trồng xung quanh mộ của Lan.Cành thì treo ,cành thì buộc ghép vào các gốc cây hoặc trồng vào các khe đá.Ngày nào cũng có người ra tưới tắm và chăm bón  cho lan sống và tươi tốt .Phong còn ở lại chiến đấu trên đài quan sát  bốn  tháng nữa.Vừa làm tốt nhiệm vụ  là tai mắt của chỉ huy trung đoàn ,sư đoàn,vừa chỉ huy chiến đấu đánh lui mấy trận tấn công của địch nữa để  bảo vệ  đài trụ vững trên đỉnh Phong lan .Rồi được đề bạt làm đại đội trưởng đại đội trinh sát trung đoàn.Trước khi xuống núi anh đến thắp hương cho Mỵ Lan, và bàn giao lại cho đài trưởng Hùng kế tiếp trông nom phần mộ của Lan, như trao lại cả tấm lòng thành kính,và thương cảm của mình với người liệt sỹ trên đỉnh Phong Lan, mà hương thơm lưu luyến còn tỏa mãi với gió ngàn.
                                Khi chiến tranh biên giớí kết thúc, trước khi đơn vị được điều về xuôi.Phong đã  dành một ngày, trèo lên đỉnh núi 1.612 trở lại thăm đài Phong lan, chiến trường cũ, và đặc biệt là thăm ngôi mộ của liệt sỹ Giàng Mỵ Lan.nơi đây hoa phong lan vẫn đang phát triển tươi tốt, hương thơm ngào ngạt, lan tỏa một vùng, chắc hẳn mai đây sẽ mọc thành rừng bao phủ cả mộ và đài. Phong  thắp hương nến, rồi ngồi xuống bên nấm mộ, nghẹn ngào trào nước mắt.Anh ngồi khá lâu hết nén hương này đến nén hương khác để nhớ về em. Anh bày cả hoa quả bánh trái và chai rượu để cúng và mời em về cụng ly như bữa tiệc liên hoan mừng chiến thắng ngày nào ,cũng là bữa tiệc chia tay định mệnh của đời em.Anh đốt vàng mã lửa cháy bừng bừng như  soi rõ mặt em đang nhìn bọn địch xông lên mà bắn, còn nghe tiếng em cười ròn tan đếm từng tên địch bị ngã gục trước nòng súng của em.Anh cụng ly với mộ, như cụng ly với em, uống một hớp rượu, mà thấy  đắng cay sầu muộn, lại cụng ly lần nữa, rồi lần nữa.Nhưng càng uống càng sầu, nỗi buồn càng sâu thăm thẳm, như muốn nhấn chìm tâm hồn anh.Anh liền cầm cả chai rượu tưới tràn  khắp ngôi mộ  em, để chia tay em một lần nữa và chắp tay vái trời vái  đất phù hộ độ trì cho linh hồn em được thanh thản vĩnh hằng.Anh lại cúi gục xuống mộ để thì thầm với em  và  vĩnh  biệt em lần cuối cùng .Anh gục một lúc lâu mà thổn thức.Bỗng có tiếng chim kêu ríu rít rủ nhau về tổ, anh mới ngẩng dậy,thấy mặt trời đã ngả về chiều, anh mới vùng lên. Anh bỗng gọi to tên em, vang cả núi rừng: Giàng Mỵ Lan...Giàng Mỵ… Lan…Vĩnh… biệt… ! rồi lao xuống núi.
                               Những năm sau, Nguyễn Nam Phong được đào tạo trở thành cán bộ trung cao cấp trong quân đội, trải qua nhiều cương vị ở các đơn vị huấn luyện, chiến đấu, rồi  được điều về làm chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự huyện Kim Thành cho đến lúc về hưu, với quân hàm đại tá. Nặng lòng với người đã khuất, mãi đến năm gần ba mươi tuổi Phong mới lấy vợ, người cùng quê là Đoàn thị Đào, kém anh tám tuổi, là người vợ hiền thục nết na, thông minh, học giỏi.Học hết đại học,chị lại lao vào  học nghề và lao động hăng say  tich cực, nên chẳng bao lâu chị đã trưởng thành, trở thành Giám đốc, một công ty may mặc xuất khẩu sang châu Âu có tín nhiệm.Anh chị sinh được hai con gái là Nguyễn Thị Nam Hồng và Nguyễn Thị Nam Anh.Hai chị em đều xinh đẹp, học tập giỏi giang và ngoan ngoãn. Trước hai năm Phong nhận quyết định nghỉ hưu cũng là năm con gái lớn Nam Hồng đã tốt nghiệp đại học, đi làm và lấy chồng, một bác sỹ quân y, ý hợp tâm đầu, cùng thành phố.  Cả nhà đều giầu sang thuận hòa vui vẻ và bình yên. Như  khát vọng bình yên của bố anh, cả đời ông  khát vọng mà chẳng được bình yên (!)
                              (Chú ý ,thay đổi trang,sang trang 2,mời đọc tiếp )

                               
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 26.07.2016 19:03:27 bởi Lương_Hiền >
                              #15
                                Thay đổi trang: 123 > >> | Trang 1 của 4 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 54 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9