Chương 4-ĐÁNH MÌN ĐƯỜNG SỐ 6 Cuối năm 1951, quân Pháp nhảy dù đánh chiếm thị xã Hòa Bình, lập các đồn bốt kiên cố dọc đường số 6.Từ thị xã Hòa Bình chúng tỏa ra các vùng xung quanh, càn quét, lập tề dõng vùng đồng bào các dân tộc, ngăn chặn đường liên lạc của ta giữa khu Ba và khu Tư, âm mưu đánh chiếm đường 41, từ thị xã Hòa Bình lên cao nguyên Mộc Châu, vì Mộc Châu chúng đã chiếm từ trước.
Sau khi địch nhảy dù chiếm thị xã Hòa Bình, ta đã mở chiến dịch bao vây đánh phá âm mưu địch, để nối liền Liên khu Ba và khu Tư, ngăn chặn không cho địch nối liên lạc với Mộc Châu.
Tình hình địch: Thị xã Hòa Bình bị pháo binh của ta công kích mạnh.Bộ đội của ta bao vây tiêu diệt các cánh quân đi càn quét, buộc chúng phải chuyển quân , vũ khí, lương thực…từ Hà Nội lên bằng đường số 6.Vì đường rừng núi, mỗi lần vận chuyển, chúng phải tổ chức từng đoàn, từ 15 đến 30 xe vận tải, có xe tăng, bộ binh yểm hộ, ngoài ra còn có bọn địch đóng quân ở các đồn bốt dọc theo đường 6 từ Đầm Huống đến Pheo.Chúng hành quân bộ, có máy dò mìn, để giữ an toàn đường giao thông của chúng.
Quy luật của chúng là: Sáng từ 8 giờ đến 10 giờ, bộ binh đi dà soát đường.Từ 2 đến 3 ngày có một đoàn xe quân sự hành quân từ Hà Nội lên Hoà Bình vào thời gian từ 13 giờ đến 15 giờ trong ngày.
Địa hình rừng núi.Địch phát hai bên đường quang, trống trải, đường xá bị băm nát vì xe xích đi nhiều, rất dễ ngụy trang khi ta chôn mìn.
Tình hình ta :Bộ đội ta gồm bộ binh , công binh, tập kết ở khu vực xã Yên Mông, bờ nam sông Đà, vượt sông bằng thuyền nan ở bến Nụng, hay còn gọi là bến Cây Đa đôi, để đánh giặc trên đường số 6.
Quyết tâm của ta: Sử dụng trung đội 41, thuộc đại đội 17, tiểu đoàn 333 công binh, dùng mìn đánh giao thông địch.Trung đội 41 do Nam Sao làm trung đội trưởng, được giao nhiệm vụ đánh mìn quãng đường từ đồn Pheo đến Đầm Huống.Mục tiêu chiến đấu với xe tăng , xe vận tải địch.Nếu mìn nổ, thì xe đổ, và phá đường, một đòn được cả hai điểm:
-Phá xe cơ giới,diệt bộ binh , vũ khí địch
-Phá đường,ngăn cản giao thông, làm chậm việc vận chuyển chi viện của đich lên thị xã Hòa Bình.
Đồng chí Nam Sao,trung đội trưởng òa Bình công binh trung đội 41 được đồng chí Đinh Khang ,tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 333 công binh trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ huy trung đội thực hiện nhiệm vụ trên.
Sử dụng vũ khí: 100kg thuốc nổ đúc,kíp mìn sử dụng loại đầu nổ của mìn địch ta thu được trước đây.Kỹ thuật,sáng tạo thành mìn tự động,đè nổ.
Chuẩn bị chiến đấu:Sau khi vượt sông tới vị trí tập kết,trung đội trưởng Nam Sao và ba tiểu đội trưởng: Khôi,Hải,Nhê,đi trinh sát thực địa,hạ quyết tâm địa điểm chôn mìn.Trung đội phó Ích ở nhà phổ biến nhiệm vụ và chuẩn bị chiến đấu.
Liên kết bộc phá theo sáng kiến của Nam Sao được anh em đã bàn bạc nhất trí,mỗi quả mìn phá xe cơ giới tự động gói 15 kg thuốc nổ, chỉ tác dụng phá xe cơ giới, bộ binh dẵm lên không nổ,máy dò mìn cũng không có tác dụng với loại mìn do ta sáng tạo này.
-19 giờ xuất phát.Sử dụng 2 tiểu đội đem theo cuốc chim,xẻng tay,bao đựng cát,4 quả bộc phá nặng 60 kg,đã liên kết thành từng quả mìn tự động theo nguyên lý đè nổ.
20 giờ tới vị trí chôn mìn,đường số 6,đã được đánh dấu từ hôm đi trinh sát thực địa.
20 giờ 10,triển khai tác nghiệp ở vị tri chiến đấu.Phân công mỗi tiểu đội chôn 2 quả mìn,tiểu đội 1 chôn ở phía bắc đường,chịu trách nhiệm gác đầu đường phía bắc,tiểu đội 2 chôn mìn ở phía nam,chịu trách nhiệm gác đầu đường phía nam,trung đội trưởng Nam Sao và trung đội phó Ích chỉ huy chung.
Nam Sao nhắc lại dự kiến tình huống phải sử trí cho các tiểu đội trưởng chú ý, anh đến từng tổ chôn mìn để theo dõi nhắc nhở và động viên các chiến sỹ
-Trường hợp đang triển khai ở hiện trường,thấy địch từ xa đến,nhưng ta không bị lộ,thì ẩn nấp giữ bí mật,sau đó lại tiếp tuc chôn mìn.
- Trường hợp đang chôn mìn, đào đường,bị địch đi tuần bằng cơ giới,thì ẩn nấp ở bên cạnh,lợi dụng địa hình,với tư thế nằm sẵn sàng chiến đấu,chủ yếu là dùng lựu đạn đánh địch.Nếu địch đi qua thì tiếp tục chôn mìn.
- 22 giờ chôn xong được 4 quả mìn an toàn,thực tế địch không dám hành quân và tuần tiễu ban đêm.
Kỹ thuật gói thuốc nổ:
-Khối bộc phá gói vuông,mỗi bề 30cm,liên kết: trong gói bằng giấy bạc,ngoài gói bằng lá chuối đã hơ lửa,gói theo kiểu bánh trưng,buộc bằng giây giang tước mỏng,bện kiểu giây thừng buộc ngoài.Ở giữa khối thuốc dùi một lỗ bằng ngón chân cái,sâu bằng ½ gói thuốc,tra vừa cái kíp mìn nhẩy của Pháp,ta lấy được ở xung quanh hàng rào các đồn của địch trước đây, theo nguyên lý đè nổ.
Kỹ thuật chôn:
Đào một hố ở một bên vệt bánh xe.Hố đào vát,hình cái thuyền nan nhỏ.Sâu khoảng 45 cm,ở giữa đặt một hòn đá bằng phẳng.Hai bên đặt hai ống nứa tròn 5-6cm,chiều dài vừa bằng gói thuốc nổ.Đặt gói thuốc nổ bên trên hòn đá,phía trên lấp một lớp đất tại chỗ dầy từ 5 đến 6 cm,rồi ngụy trang cho giống mặt đường.
Tác dụng kiểu chôn mìn này là: Khi có xe cơ giới đè lên một phía trên,lực truyền qua lớp đất,qua khối thuốc nổ,làm dập hai ống nứa,đồng thời kíp đập vào hòn đá,là khối thuốc nổ tung.
-Cự ly mỗi quả mìn cách nhau 30m.
-22 giờ 16 phút thu dọn dụng cụ,trung đội trưởng Nam Sao cùng trung đội phó Ích đi kiểm tra lần cuối cùng.Rồi anh lệnh cho trung đội rút về vị trí tập kết.Cử một tổ quan sát ở mỏm đồi phía bắc,do Nam Sao trực tiếp ở lại quan sát,trung đội phó dẫn quân về.
Diễn biến chiến đấu: Ngày hôm đó trời quang, về trưa hửng nắng, pháo địch ở Đầm Huống,loại bô-pho bắn hàng loạt về phía xung quanh thị xã Hòa Bình,ven sông Đà,khu xã Yên Mông và bắn dọn đường,đường số 6.Đồng thời pháo binh của ta cũng bắn mạnh vào thị xã Hòa Bìnhvà phản pháo vào Đầm Huống.Máy bay phóng pháo của địch lồng lộn bắn phá vào một số điểm chúng tình nghi.
-10 giờ,một toán bộ binh địch từ đồn Pheo đi tuần kiểm tra đường,vừa tới trận địa chôn mìn, thì gặp một toán chừng 2 tiểu đội từ đồn Đầm Huống đi tới.Hai toán gặp nhau,bàn giao gì đó.Xong, toán lính ở đồn nào thì về đồn đó.Thái độ lúc đi thì thận trọng,lò dò.Khi về thì lộn xộn chủ quan.
- 12 giờ,một máy bay trinh sát loại 4 cánh bay lượn dọc đường số 6.
-12 giờ 30 tiếng cơ giới xuất hiện từ phía Đầm Huống .
-13 giờ,một xe tăng vào trận địa phục kích ,quả mìn đầu tiên nổ,một xe tăng đổ,làm cản đường,cả đoàn xe 30 chiếc phải dừng lại,bắn loạn xạ.Các trận địa pháo binh của ta phát hiện có đoàn xe của địch bị dừng lại.Hàng loạt pháo của ta bắn vào đội hình xe của địch.Đoàn xe chở bộ binh và cơ giới rối loạn,đối phó không có mục tiêu .Thế là một trận địa pháo diễn ra,bắn qua,bắn lại, tới 15 phút.
- 14 giờ,địch khắc phục xong đường và vật cản xe tăng đổ,kéo ra vệ đường.
- 14 giờ 10,đoàn xe nổ máy.Xe tăng thứ hai di chuyển,lại vấp phải quả mìn thứ hai, bị dệ ra dìa đường,vì đoạn này lề đường rộng,đoàn xe tiếp tục di chuyển.Đi đầu là một xe GMC chở hai mươi lính Tây, liền vấp phải quả min thứ ba nổ tung xe,lật ra ngoài đường,lính ngồi trên xe chết và bị thương.Cả đoàn xe dừng lại khắc phục hậu quả,không dám hành quân.Bọn địch gọi máy bay bắn loạn xạ.Bộ binh địch xuống xe bố trí đào công sự hai bên đường.Đài quan sát công binh tiếp tục quan sát hiện trường,còn một quả mìn thứ tư,nhưng trời tối không quan sát được.
- 19 giờ 30,nghe một tiếng nổ lớn.
- 7 giờ sáng hôm sau, ở đài quan sát,Nam Sao mới nhìn thấy quả mìn thứ tư đã nổ tung một xe Jép ở đồn Pheo đi về phía đoàn xe,bị nổ ,để lại một hố sâu và rộng chừng 3m.Toán địch đang khắc phục hậu quả.
- 7 giờ 30,pháo binh của ta và địch thi nhau bắn vào mục tiêu của đối phương,tiếng nổ không phân biệt của ta hay địch.Đài quan sát công binh,quan sát lần cuối cùng,rồi rút về vị trí tập kết với chiến thắng vẻ vang.
Kết thúc trận phục kích mìn:
Địch: bị phá hai xe tăng,một xe GMC,một xe Jép.Khoảng 35 tên chết,trong đó có một quan ba ở đồn Pheo đi xe Jép ra kiểm tra đường.Vũ khí,phương tiện phá hủy không kiểm tra được.Còn đoàn xe lại bị thiệt hại do pháo binh ta bắn.Vì rừng núi che khuất nên không quan sát được.Làm chậm cuộc hành quân chi viện của địch lên thị xã Hòa Bình mất 20 giờ.
Ta: trung đội công binh an toàn. .
Nhận xét: . -Sử dụng công binh dùng kỹ thuật đánh xe cơ giới địch trên đường độc đạo giao thông là đúng.
-Chọn trận địa giữa đồn Pheo và đồn Đầm Huống là hai đồn mạnh của địch trên đường số 6,chính là yếu tố bất ngờ mà đơn vị công binh thành công
-Sáng tạo gói bộc phá,tận dụng vũ khí của địch đánh địch( ngòi nổ của địch),lợi dụng nền đường bị bắn nát,ngụy trang thành công .Cả 4 quả mìn với thời gian dài mà địch không phát hiện được .
-Nếu kết hợp các binh chủng,bộ binh và pháo binh cùng hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ thì còn thắng lợi nhiều hơn.Có thể tiêu diệt toàn bộ đoàn xe. Rất tiếc!.
Mở đường Điện Biên Phủ Chuyện kể của Nam Sao :Sau chỉnh huấn mùa hè năm 1953 vào một ngày đầu thu, đơn vị công binh chúng tôi từ làng Vàng ( suối Rút) ra đi.Tới Việt Bắc thì lại chuyển sang phía Tây.Qua Âu Lâu,20-11-1953 và lại tới Thượng Bằng La, bọn tôi samg trú quân ở một đồn điền cũ tại Hát Lót, thì hàng đàn máy bay Pháp qua đầu chúng tôi.Chúng cứ bay đi bay lại.Sau này chúng tôi được trên cho biết là địch đã nhảy dù xuống Điện Biên Phủ sáu tiểu đoàn Âu Phi ( khoảng 4.500 tên).Tưởng rằng bọn tôi phải đi lên Sơn La, ai dè lại quay lại Tạ Khoa, nơi cách đây mấy ngày chúng tôi vừa đi qua .Con đường bên bờ phíaTây Bắc phà này thật là đẹp, một bên dốc đứng ngoằn ngoèo cứ dọc sông đi mãi, một bên là sông nước trong xanh ,nhưng cũng là đoạn đường trọng điểm phải bảo đảm của chúng tôi.Đại đội chúng tôi là đại đội 270 của tiểu đoàn 333 thuộc trung đoàn 151công binh chủ lực của cả nước ta lúc bấy giờ.
-Bảo đảm ở bến Tạ Khoa bảy ngày thì lại hành quân, lần này thì đi Sơn La thật, tới đèo Sơn La còn gọi là đèo Trang, đơn vị bạn mười ba người bị thương vong vì bom nổ chậm, một đơn vị bạn dự kiến vào thay ca cho đại đội 313, lại cũng bị một trận bom ở Cò Nòi, mất sức chiến đấu khoảng một phần ba quân số. Bọn tôi được lệnh dừng lại đây, tạm thay đơn vị bạn.
Đèo Trang từ đầu mút thị xã cứ lên cao dần, khoảng bốn ki lô mét thì ngoằn ngoèo đứng tầng trên nhìn rõ tầng dưới, đường uốn khúc một bên là vách núi đất, một bên là vực sâu cây cối um tùm, chúng ta đã sửa lại và xe cơ gíới của bộ phận tiền phương đi qua, nên địch cũng bắt đầu đánh phá.
Trung đội 9 của chúng tôi trú quân ở thung lũng phía Nam đèo trong một rừng cây nhỏ lúp xúp gần cánh đồng cao nguyên.Đài quan sát của đơn vị đặt trên đỉnh một mỏm núi đá cao cách nơi trú quân hơn một cây số.Ngay hôm vừa đến máy bay cổ ngỗng của địch đã dến lượn vòng ném một số bom phá, đồng chí Cồ ,một anh cao to gần như tôi, làm cấp dưỡng lúc đó đuổi theo con lợn của đơn vị khiêng theo để ăn, chạy hút vào cánh đồng, về đến nơi thì tai hại thay, nồi nấu cơm do anh em tự sản xuất bằng đuya ra, nhẹ, đẹp, lại phù hợp với công binh, đã bị cháy ngay trên bếp.
Ngày 16 tháng 12 năm 1953, địch đến bắn phá ba đợt, lúc đó ta chưa có hỏa lực phòng không như hiện nay, thậm chí cả 12,7 ly cũng chưa trang bị rộng rãi nên chúng nó làm chủ bầu trời, thôi thì muốn bay đâu thì bay, ném đâu thì ném tùy nó ,công binh chỉ còn cách là nó phá ta sửa ta đi, sửa không xong đêm thì sửa cả ngày.Song địch cũng xoàng và thiên nhiên ở đây cũng gây khó khăn cho chúng, sương mù dầy đặc và thấp, chỉ trưa và chiều mới quang đãng, máy bay và bom thì không phải loại hiện đại siêu âm gì, bom nổ chậm Mỹ giúp Pháp cũng có mức độ, nên phi công ném bom nổ chậm cũng it chứ không nhiều như những năm qua ( 1965-1972), và cũng chỉ có một loại là bom lắp ngòi nổ chậm Mỹ ký hiệu M125A1.Nổ chậm dài nhất là sau 144 giờ với nhiệt độ20 độ C.Nhưng sương mù có hại cho địch cũng khó cho ta.Nó ném buổi chiều, ta ra khắc phục xong thì đã về đêm, nào là đèn, nào là đuốc, nào đi lại vv…được cái lượng xe đi cũng ít.Trận đầu đến vớí chúng tôi toàn bom phá nổ ngay, có hai quả trúng mặt đường, một quả phá hủy hoàn toàn mặt đường , một quả sát ta luy, theo thông báo của trên , đêm đó không có xe vượt.Anh Nguyễn Văn Nở đại đôi phó, quê ở thôn Tháp Linh ,tổng Sâm Linh ( nay là xã Minh Tân huyện Đồ Sơn) đã lệnh cho để nguyên hiện trường lừa địch, còn đơn vị cứ chuẩn bị dụng cụ ( đan ky, sọt, dành , vì nứa rất nhiều thoải mái đan),anh đan rất giỏi , sau này khi về hưu đầu năm 1973, vừa làm bí thư đảng ủy xã, vừa là người đan rổ , rá, nơm , giỏi nhất toàn xóm .Nghe đâu chính anh là người đã mò mẫm thành công việc khoán sản nông nghiệp sau tỉnh Vĩnh Phú ,là tiền đề cho nghị quyết 100 của trung ương .Xã anh khoán sớm vào những năm 77 cơ.
Ngày hôm sau từ máy bay Kinh-cô-bờ -ra giặc lái nhìn xuống thấy mặt đường vẫn còn nguyên hố bom, chúng bay qua và không thèm quay lại.Chiều hôm đó đơn vị cử một bộ phận ra san lấp hố bom rồi ngụy trang lại và khoảng mười giờ đêm thì lại nhấc sọt ngụy trang ra cho xe đi, cũng chỉ vài xe là hết, đoàn xe này đi vào Thuận Châu.
Ngày 17 tháng12 năm 1953, phát hiện ra xe ta đã vượt đèo, dấu vết bánh xe trên đất mới rất rõ, địch lại cho máy bay đến ném bom, trận này có thêm cả bom nổ chậm.Đài quan sát ghi nhận có bốn quả không thấy nổ, thời gian ném lúc 16 giờ, vị trí cụ thể không rõ, chỉ biết ở tầng đường số 12,vì đài không có ống nhòm.
Từ đài quan sát chúng tôi lao xuống mặt dường xác định quả thứ nhất nằm ở mép đường phía vực, chỉ ngập có hai phần ba quả, quả thứ hai và thứ ba rơi xuống vực, còn quả thứ tư thì tệ hại hơn, nó chui sâu vào lòng mặt đường, cách đáy tả luy vách độ một mét, đường xe lúc này nhỏ chỉ hơn ba mét cả lề đường.Nếu quả này nổ sẽ hỏng mặt đường và sẽ bay một xe tải loại Gát 63 nếu qua đúng thời điểm.Bom nổ chậm Mỹ sau này có tác dụng nằm phục tới vài chục ngày đến trăm ngày, còn hồi đó dài nhất cũng trọn tám ngày đêm.
Hồi 17 giờ hơn cùng ngày, lệnh đại đội trưởng Phan Quốc Sử phải bảo đảm thông xe ngay trong đêm nay, vì một số đoàn xe của Bộ chuyển gấp vũ khí vào Thuận Châu.Đội phá bom 93 cử đồng chí Vũ Văn Am, quê đâu ở mạn Vĩnh Bảo xuống chi viện , chúng tôi đề ra phương án thông đường là:
-Quả bom ở vệ đường phía vực thì đào lên và lăn xuống cho nổ dưới vực đỡ phải tốn công.- Quả chui xuống mặt đường thì chui xuống đặt lượng nổ cho nổ, rồi san lấp tạm cho xe qua, nếu địch không cài chốt chống tháo thì tháo luôn, cứ thế cho xe qua, xong sẽ đào lấy bom lên, vội quá thì lấp luôn , đánh dấu cả ở sơ đồ và thực địa, giải quyết sau.- Nếu có khó khăn thì cứ cắm tiêu cho xe vượt nhanh qua ,bom có nổ thì để ngụy trang luôn-càng đỡ mất công.
Cả hai cách đều có thể sảy ra hy sinh, nào ai có thể biết địch để thời gian chậm nổ bao lâu, chỉ khi nào cầm gọn trong tay cả bộ ngòi nổ mới đọc rõ con số thời gian nó cài.Nếu hi sinh một người hay một người và một xe vũ khí, người lính công binh chọn cách hy sinh một, đó là mệnh lệnh của trái tim.Trên cũng cho biết khoảng 24 giờ thì xe đầu có thể cập ba ri e của đèo Trang.
-19 giờ một bộ phận sẵn sàng cuốc,sẻng,ky,sọt .Một bộ phận có đồng chí Am và tôi ,cùng hai chiến sỹ tới hút bom mặt đường và một bộ phận đào lăn bom xuống vực
-19 giờ 15 phút,dây chão buộc vào bụng đồng chí Am xong, đồng chí Am nhích sâu đầu xuống hút bom,bỗng một tiếng nổ rất đanh,bụi đất ,cành cây bay rào rào lẫn cả tiếng rít của mảnh bom.
-Bom nổ ở đâu ?-Liên lạc Bản chạy đến hỏi-Chúng tôi đang tập trung toàn bộ vào hút bom nên chưa rõ nổ quả nào,chắc chắn không phải quả ở đây vì bọn tôi đang thả dây cho đồng chí Am chui xuống hố.Thì ra quả bom được vần xuống vực,sau vài phút nổ -Hú vía!- Liệu có chênh nhau vài phút không ,nếu địch cài thế thì nguy.Người lính công binh chỉ được phép sơ xuất có một lần -châm ngôn Nga đã từng nói vậy.
-Dây kéo bỗng rung mạnh,tín hiệu lôi lên,chúng tôi xúm lại kéo ngược đồng chí Am lên-Mẹ ơi! – một người kỳ lạ,mặt mũi đen nhẻm sừng sững dưới hố chui lên.
-Phá thôi ! nó cài chốt chống tháo rồi,hỏng ăn !- Anh Am nói trong hơi thở-Nói chưa xong ,hai tay Am đã lao về phía trước ôm gói thuốc nổ 5kg,kíp đã lọt sâu vào trong lượng nổ,dây cháy chậm cứ tở ra từng vòng,anh Am lại chui xuống ,moi góc đuôi thân bom để đặt lượng nổ,thay cho lèn.Thời gian cứ nhích dần,mới có vài phút mà bọn tôi tưởng mấy tiếng đông hồ,chịu đựng sự tham quan này còn ghê gớm hơn là mặt đối diện với quân thù.
-Lại rung dây,lại một lần nữa người lại lôi lên mặt đất theo kiểu chân kéo lên trước,đầu lên sau,hai tay phải giữ cho chùng của độ dây cháy chậm khỏi bị căng tuột khỏi lượng nổ.Một hồi mõ ngắn vang lên 6 tiếng,tôi và anh Am đốt dây cháy chậm,
- Lửa sáng xanh ,tiếng xì xì,mùi thuốc quen thuộc lại đến và hai bóng người chúng tôi lao về góc ngoặt gần đó. Một phút ,hai phút ,ba phút,im ắng hoàn toàn ,cả đoạn đèo không thấy tiếng động,thờì gian sao mà chậm quá,tưởng chừng hai anh em tôi đã ngồi đây mấy tiếng mà vẫn chỉ thấy vắng lặng,chúng tôi thèm tiếng nổ lớn quá. Gần sáu phút,hai tiếng nổ gần như cùng một lúc,lửa sáng ,đất đá,cành cây rào rào bay hỗn độn,cả hai người đều thở phào nhẹ nhõm cùng phát ra.Anh Am và tôi lao vội về phía bom vừa nổ.Toàn bộ một đường gần tròn rộng tám mét,một đoạn vách núi bị phá rơi lộn xuống hố bom,thật là quý nhân phù hộ,đỡ cho bọn tôi khoảng vài mét khối san lấp.Khung cảnh tấp nập lại tiếp tục,đuốc thắp sáng một vùng,đất đá được san xuống hố bom
-24 giờ,một đoạn đường dốc đã hiện rõ màu đỏ,lấp đi màu tối của hố bom,cùng một lúc chiếc xe đầu tiên đã tới trạm ba ri e của đèo..Lệnh thông xe của tiểu đoàn trưởng Lê Trung Ngôn vang lên trong máy nói. Biển “có bom nổ chậm” được cất đi và ngáng ba ri e được nâng lên,chiếc xe Gát 63 được phủ kín bạt lăn bánh sau ánh sáng vàng của đèn chống sương mù tiến vào hố bom đã san lấp,xe hai cầu nên đi qua chỉ hơi lún,công binh lại tiếp tuc lấp thêm đất đá,đoàn xe qua an toàn.
-Chúng tôi về nơi trú quân sau khi đã quẳng ngổn ngang những cành cây,hòn đá để ngụy trang-có lẽ mọi người ngày nay cho là ấu trĩ quá đáng,song thời điểm đó lại rất nghệ thuật,vì máy bay chưa có loại trinh sát hiện đại,cây nhiệt đới cũng chưa sản xuất,trong điều kiện rừng núi Tây Bắc,máy bay động cơ của Pháp thì việc làm này có giá trị.Tôi sẽ kể tiếp các anh nghe con đường đưa pháo vào Tà Lùng.
Bảy ngay sau,lệnh vào phá đá gấp,chúng tôi lại ra đi,cũng chẳng kịp chờ bàn giao cho đơn vị anh Tăng Văn Bén đang hành quân đến.Đèo Phạ Đin,con đường trời và đất gặp nhau đã đi vào lịch sử.Ngày bọn tôi đến cũng chỉ thấy cao vời vợi,vực thì sâu,bản làng thì xa.Chúng tôi đã trú quân ở ngay dốc cao của đèo,khoảng cây số 53,theo một khe nước chảy cách mặt đường hơn cây số,cố nhiên là leo dốc thoải mái.
Đêm 28 tháng 12 năm 1953 sau khi địch ném 6 quả bom nổ chậm chui sâu vào lòng đường,lúc này xe qua lại cũng chưa nhiều,bọn tôi tổ chức bạt rộng ở đỉnh đèo để dấu xe nếu cần,và cứ bom nổ quả nào thi ào ạt san lấp quả đó.Công binh chúng tôi hồi đó thích san lấp ban ngày hơn ban đêm,vì nó ném bom quan sát rõ hơn và lại lượng bom có hạn mà địch rải suốt từ bắc bản Ban,Cò Nòi, Tạ Khoa, Sơn La,Phạ Đin… nên cũng hạn chế,chả được như bọn Ních Sơn chỉ một trận nó rải xuống vài trăm quả cỡ 250 kg trở lên.
Đã hai giờ sáng,quả bom thứ sáu vẫn cứ im ắng,cứ phải cho xe vượt thôi,bom chui sâu,đá núi đào thế nào.
4giờ xe con của đồng chí Phạm Ngọc Mậu,chính ủy đại đoàn công pháo tới,cách 20m thì quả bom lại nổ,xe chết dí luôn,người chỉ kinh hoàng vì bom nổ quá sâu.Khiêng thôi ,xe nhẹ mà,bọn tôi khiêng xe rồi đẩy luôn vào nơi dấu xe ,ngụy trang lại,và mời anh Mậu về lán nghỉ,chờ đêm sau lại ra đi.Và chuyện tiếu lâm ,khói thuốc lào lại tỏa đầy lán,anh Mậu vốn là cây tiếu lâm và cũng khoái thuốc lào.Gặp anh Mậu,chúng tôi lại nhớ một đêm,đơn vị tôi ở đèo Trang,Sơn La đã có may mắn kỳ lạ được dẫn đường cho Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp vượt đèo theo đường mòn lên tiền phương.Đại tướng khỏe , vui và nhắc nhở bọn tôi cố gắng lên sẽ có những bước ngoặt mới và những thắng lợi lớn lao mà ngườì đi trước vẫn là lính công binh.Với giọng nói miền Trung,đại tướng nói ít và tạm biệt chúng tôi,tới đầu dốc bên kia,xe lại đón đồng chí đi tiếp vào chỉ huy sở tiền phương.Đồng chí qua đây chắc chắn là chiến dịch nào sắp mở,chả biết đâu,bọn tôi cứ bàn tán rì rầm cả đêm cả ngày.
Lại bảy ngày sau,chúng tôi lại hành quân tiếp qua ngã ba Tuần Giáo,đi bên phải hay rẽ trái không khí chiến trường ở đây cũng đã nhộn nhịp,hàng đoàn bộ đội tất bật qua đây.Đơn vị chúng tôi hướng về Điện Biên Phủ làm nhiệm vụ mở rộng đường cho xe có đuôi,chủ yếu bằng choòng búa xẻng cuốc và thuốc nổ,song phải nổ vào thời điểm có lợi nhất cho việc giữ bí mật con đường.Yêu cầu của Bộ phải làm gấp liên tục ngày đêm .Các cán bộ cấp cao,phái viên Tổng cục chính trị xuống cơ sở đốc chiến.Đồng chí Nguyễn Anh Bảo(sau này là Cục trưởng cục Thông tin liên lạc) truyền đạt ý kiến cho chúng tôi:”Trung đoàn 151 công binh phải bằng mọi gía mở cho được con đường này với một thời gian rất ngắn.dù có phải trải vàng ra mặt đường cũng rải”,vì yêu cầu bảo đảm hàng hóa cũng đã lớn,song cái lớn hơn là phải bảo đảm cho pháo lớn vào mặt trận mới chiến thắng được tập đoàn cứ điểm mang tên SONO này.(Điện Biên Phủ).
Trung đội 9 của tôi bắt đầu mở đường này bằng việc bắc một cây cầu chân gía qua con suối ở khoảng cây số 16,17.Gỗ thì vô tận,song dụng cụ thì có hạn,cưa dứt ,thước vuông , rìu,đinh cầu đều quá thiếu,dây thì dây rừng cũng nhiều vô kể.Chỉ huy bắc cầu là tôi và anh Nở,dụng cụ kỹ thuật là lá chuối gấp lại thay thước vuông và dây buộc đá để thay quả dọi-Cầu tuy ngắn,song hơi cao,cột tới 3m,đường vào cầu lại hơi ngoặt,nhưng rồi cũng xong,cũng đã kịp thông xe sau hai ngày.
Rồi lại cuốn chiếu,trên sáu mươi cây số,đơn vị chúng tôi cứ phân đoạn ra làm,anh nào xong lại vượt qua anh kia,rồi lại vượt,cứ thế vào sâu phía Him Lam,thôi thì suốt ngày đêm đốt đuốc,lợi dụng khoảng trống sáng trăng,đục chòong phá đá,cây cối và đá đều hất xuống vực,sửa lại mép tả luy.Dân công chi viện toàn chị em người Thái,xinh thì có xinh,khối anh lộn cổ,song năng xuất thì thấp quá,mỗi cô chỉ gánh mươi cân vài hòn là hết mức,dân công dưới xuôi thì chưa lên ,vì bí mật cũng là vì gạo chưa vào sâu, chưa đủ ,nên cứ tại chỗ là tiện.Mê mải làm liên miên mà khối lượng cứ thấy ùn ùn phát sinh,cơn ngủ thì đè nặng luôn luôn chập chờn,anh Nở có lần dụi thuốc lá cháy cả áo quần bạn,đồng chí Sơn tiểu đội trưởng quai búa vào đầu anh cầm chòong,bố Khoáng ,chiến sỹ đã ngoài bốn mươi tuổi,quê mãi Đức Thọ,Hà Tĩnh,chốc lại “Nác đây,nác đây”( nước ,tiếng địa phương ) cũng có lần ngủ ngay cạnh thùng đựng nước uống. CậuTới và cậu Lân thì lên rừng kiếm quả chua cũng đã ngủ thiếp đi trong rừng,đơn vị may mà tìm ra không thì đã làm bạn cùng lũ hổ(!)
Có lẽ gấp lắm rồi,chúng tôi đã được trên cho tăng thêm lần nổ mìn.Chỗ nào xe Gát qua được tàm tạm là vượt luôn ,mở tiếp.Gặp suối nhỏ thì cứ gỗ và dây rừng làm cầu,suối to thì bạt dốc xếp kè cho xe vượt ngầm,cây nứa cứ cắm tiêu cho xe đi ở giữa,đường cua thì cứ kéo cả cây luồng dài,không chệch ra mép là đi được hết.Anh em lái xe quả là tuyệt vời,có đoạn chỉ vừa khít hai bánh xe,thành xe chìa ra mép đường vô cùng nguy hiểm thế mà xe cứ đi và lại đi an toàn.Các cậu lái xe Điện Biên,sau hòa bình lập lại,lên giá ra trò,cơ quan nào cũng muốn xin cho kỳ được.
Kể từ ngày thi công,sau mười một ngày đêm,đường tới ngã ba Tả Lùng đã mở,chiếc xe chở gạo đã vào để tiếp tế cho các đơn vị bao vây Điện Biên Phủ,đêm đi qua chỗ bọn tôi đã gạt luôn một xe thồ xuống vực sâu,có lẽ vì tay ngai dài quá,may mà anh dân công an toàn. Và cứ tiếp tục đêm này qua đêm khác,xe có đuôi cũng cứ phủ kín lá ngụy trang ùn ùn vào quanh khu vực địch đang xây dựng công trình phòng thủ.
Đơn vị tôi lại trụ ở một đoạn dài hơn mười cây số,lần này thì vui rồi.Một đại đội dân công gái quê ở tỉnh Thanh Hóa,luôn luôn hò hát ,làm thì say mê,khỏe mạnh,đã phối hợp cùng chúng tôi,và những mối tình trong sáng,chân thực lẫn mối tình lở dở cũng cứ ập đến với bọn chúng tôi.Cô đại đội trưởng cứ hội ý suốt ở chỗ tôi,nào là thiếu dụng cụ,nào là thiếu muối vv…làm tôi cứ bồn chồn cả người,lắm lúc không ngủ được,pháo sáng thì cứ lửng lơ đến khó chịu.
Ngày 29 Tết (2-2-1954) anh Nở và tôi,mỗi người hai bánh trưng gói thịt .Được lệnh làm đường kéo pháo và làm hầm cho pháo.Đường do chúng tôi phát tuyến và làm cố vấn kỹ thuật còn do lực lượng đại đoàn 316 thi công.Còn thì giờ đâu mà vẽ nữa ,cứ áng áng gọi nhau thấy thưa là cứ cắm tuyến,căng dây rồi phát quang tý là cầm bản thả dây trên vòng cung chia tỷ lệ cho luôn,bộ binh cũng làm ngay.Cha mẹ ơi ,có lần dốc cứ tưởng là ngon,ai ngờ cao quá,bộ binh các tướng ấy chửi cho bọn tôi một trận ra trò,lại còn khoản gỗ chống lầy nữa,bắt chặt ở xa vác về cho đỡ lộ bí mật,thì bộ binh lại toát luôn.Ấy thế rồi đâu cũng vào đấy.Đường làm gấp,thật gấp,chứ chả chỉ có gấp không đâu.
Ngày 25/1/1954 pháo đã bắt đầu kéo ra,đường tới đâu là pháo lại nhích vào tới đó.Ngụy trang đường này thì tuyệt ,cứ cây tại chỗ cho vào dành đất,sáng thì bê ra xếp ở đường,tối đến lại bê vào tưới tắm,xe đi xong lại bê ra,thế mà bịt mắt được bọn giặc lái khá lâu .
-Anh có dự kéo pháo ra không? Nghe nói ly kỳ lắm hả anh- Một chiến sỹ ngồi bên cạnh hỏi anh Nam Sao.
-Không được kéo mới buồn chứ ! Nhưng làm đường để kéo pháo vào,cũng phải sửa đường để kéo pháo ra,rồi lại làm đường để kéo pháo vào trận địa khác cũng bở hơi tai rồi.Công binh với pháo binh cứ cặp kè với nhau,còn lực lượng kéo thì đã có pháo binh và bộ binh chi viện.
Tôi lại nhận lệnh đi vào phía trong gặp trung đoàn 174 để chỉ đạo kỹ thuật làm hầm cho pháo 105 ly.Trung đoàn này do anh Nguyễn Hữu An chỉ huy(sau này là thượng tướng),người đã chỉ huy đánh đồi A1 ở Điện Biên Phủ,giai đoạn sau có cả trung đoàn 88 nữa.
Tôi lại được phân công vào cùng các đơn vị bộ binh của đại đoàn 316 làm con đường gấp từ Nà Nham đến Mường Phăng,sườn phía Đông của Mường Thanh.
Các công sự thường ở lưng trừng đồi,được phủ nóc bằng những cây gỗ rất to,có cây đường kính đến 40-50 cm ,trên nóc rải các bó cành cây và phủ đất .Trong đợt làm này có một sự sơ hở là ta cho đất vô ý để rơi xuống suối chảy vào trung tâm.Khi phát hiện nước đục trôi về ,chúng cho pháo cứ lần theo con đường suối đánh.Tôi vừa chia tay cùng đồng chí chính trị viên đại đội sang khẩu số hai,thì một loạt đạn pháo rơi trúng cửa hầm số một làm ba người bị thương.Thật là một thiếu sót lẽ ra tránh được,song gấp quá vì thời gian nổ súng cứ nhích dần.
Sau khi đã làm xong đường gấp cho các trận địa pháo 105.Tôi lại trở về đơn vị.Đơn vị lúc này đang đảm nhiệm một đoạn đường từ cây số 24 đến cây số 40,một đoạn đường dài so với một trung đội,đặc biệt chúng tôi có cả bộ phận súng máy cao xạ cùng phối hợp,vì con đường Tuàn Giáo –Điện Biên Phủ đã thực sự trở thành con đường vận tải,kéo pháo đi lại nhiều lần,địch cũng biết rõ và chúng cũng quyết tâm phá hủy.
Nhờ có đài quan sát nên chúng tôi nắm tương đối chinh xác bom rơi,thật ra lúc này địch ném bom nổ chậm có phần hạn chế vì tuyến đường rất dài,hơn tám mươi ki lô mét.Chúng phá đoạn đường này thì phải bỏ đoạn khác .Những ngày mưa thì lại chuyển sang chống lầy,có đoạn vừa dốc lại vừa nhão,đá ở vách tả luy lại là đá vỉa non,nên phải khai thác đá ở nơi xa.
Khi ta bắt đầu nổ súng đợt một vào các cứ điểm Him Lam ,Độc Lập,thì máy bay địch cũng tập trung vào nơi sảy ra chiến sự,do đó doạn đường chúng tôi đảm nhiệm cũng có phần dễ dàng hơn so với giáp khu chiến sự ( Hồi đó Pháp cũng ít bom,ít máy bay ,cho nên tập trung ở đoạn này thì lại bỏ trống đoạn khác) .
Đoạn đường này có nhiều kỷ niệm với tôi,cô con gái ông già người Thái,có búi tóc dài sau gáy,với đôi mắt luôn luôn ướt,chả biết tôi có số đào hoa thế nào mà cô ta cứ quẩn quanh mãi.Khốn khổ nào có sơ múi gì đâu mà ông chính trị viên đại đội tôi quê đâu vùng Nghệ An thì phải,khi chúng tôi về đến Phú Gia,ngoại thành Hà Nội đóng quân chờ tiếp quản Thủ đô,cứ khêu gợi tôi làm bản tự kiểm điểm suốt,thật là còn trẻ lại có chút trí thức,cũng lắm điều oan trái.Tôi đã bị ức chế về vấn đề chính trị vì có anh trai đang trong hàng ngũ đich ,nên đã bị định kiến nhiều.Mặc dầu tôi đã lập nhiều công,có hai huân chương chiến công,đã mấy lần chuẩn bị được kết nạp Đảng nhưng lại bị tổ chức gạt bỏ,nhất là mấy ông chính trị viên đại đội thì luôn “theo dõi sát sao” (!) nên tôi không dám làm điều gì sơ xuất để bị tai tiếng hay bị kỷ luật cả,đành phải cắn răng chịu đựng và quyết tâm chiến đấu đến cùng,thà hy sinh không bao giờ để mất danh dự.
Ngày 7-5-1954,cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên nóc hầm Đờ Cát.Diễu binh lịch sử ở Mường Phăng xong,các đơn vị chủ lực lại lần lượt ra đi,tiến về các hướng.
Đại đội công binh chúng tôi lại cùng nhau ở lại sửa chữa cầu Be –lây cho Mường Thanh,và phục vụ cho đoàn quay phim Các Men,Liên Xô. Rồi cũng đến lượt bọn tôi trở lại đường xưa đèo cũ,vừa vượt qua thì xe con trung đoàn phó Phạm Văn Tiến đi vào gặp bọn tôi ở đỉnh dốc,anh hồ hởi báo một tin vô cùng phấn khởi” Hòa bình đã lập lại,hiệp định Giơ ne vơ đã được ký kết,chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần xứng đáng cho phái đoàn Việt Nam giành thắng lợi ở hội nghị Pari.”
Cuộc hành quân lại vẫn tất bật đi suốt ngày,đi tuốt tới ngoại thành Hà Nội,sẵn sàng tiếp quản Thủ đô.
Lời hẹn ước trước giờ nổ súng Trong dịp làm đường kéo pháo vào Điện Biên Phủ và chiến đấu ở đồi Him Lam và Độc Lập.Nam Sao có gặp gỡ Trần Kính Hiền và Nguyễn Bách là hai sỹ quan trẻ mà anh rất mến .Sau đây là chuyện kể về họ:Trần Kính Hiền có một người bạn rất thân Đó là Nguyễn Bách, thừơng gọi là” Bách lùn”, vì anh cao chưa tới 1m60, người đậm , da đen, chuyên tập tạ nên có thân hình rất vạm vỡ, ngực nở to đẹp như ngực con gái; có tài ghi ta, thường làm quản ca của đại đội cùng Lê Thăng, Hoàng Đình Châu, lại là nhạc sỹ nghiệp dư nữa.Bài hát “Tổ tâm giao” ra đời trong những ngày hăng say học tập ở Phụng Minh Thôn,Vân Nam,Trung Quốc(2-1951)Lời bài hát có đoạn như sau:
“Gần bên nhau cùng đoàn kết, ta quyết thề sống chết cùng nhau.Thề chung vai cùng xây đắp mỗi tình tâm giao cho thắm tươi vững bền.Ta kết đoàn giúp nhau khuyết ưu sai lầm, rồi cùng nhau rèn cho ta quyết tâm, vì dân ta đắp xây lập trường, hy sinh suốt đời giành tự do…”
Hiền với Bách thân nhau từ dạo ấy;Bách không nóng giận với ai bao giờ, lúc nào cũng cười khanh khách, cười khi tập thể dục thể thao, cười khi chơi bóng bàn ,bóng chuyền, cười khi múa hát…Hiểu hoàn cảnh gia đình của nhau, lại hợp nhau về tính tình, gắn bó với nhau trong những ngày học tập.Mãn khóa về nước, mỗi đứa đi một đại đoàn, Hiền về đại đoàn 308, Bách về đại đoàn 312, nhưng vẫn thường xuyên thư từ cho nhau trước và sau mỗi chiến dịch.Đầu năm 1953chuẩn bị đi chiến dịch Thượng Lào, giải phóng Sầm Nưa,Hiền đóng quân ở Phú Thọ,Bách đóng quân ở Thái Nguyên, hai đứa đều xin phép nghỉ 7 ngày, hẹn gặp nhau ở Bờ Giạ, Thái Nguyên.Mỗi người phải đi bộ ba ngày ( 100km),Hiền không nhớ rõ ngày cụ thể, chỉ biết rằng sau ba ngày đi bộ, hai đứa ở đầu hai tỉnh đã gặp nhau ở cầu Bờ Giạ trong đêm trăng đầu tháng.Ngồi với nhau hết một đêm và một buổi sáng.Chiều ngày hôm sau hai đứa chia tay, mỗi đứa một hướng về lại đơn vị, ba ngày đi đường nữa, vừa đủ 7 ngày nghỉ, trả phép đúng hạn.Một kỳ nghỉ phép của hai người lính không gia đình là như vậy.
Họ luôn luôn động viên nhau, đừng bao giờ là kẻ hèn nhát.Cho đến chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954,Sau ba năm ra trường, Hiền được thăng một cấp,Bách được thăng hai cấp.Trước Điện Biên Phủ, Bách đã là đại đội phó của trung đoàn 165, đại đoàn 312.
Ngày 14-3-1954 là ngày không thể nào quên của lịch sử trung đoàn 88 đại đoàn 308và của trung đoàn 165 đại doàn 312,bởi là ngày quân ta tiêu diệt gọn cứ điểm đồi Độc Lập ( Gabriel ) trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; ngày thứ hai của chiến dich, sau chiến thắng Him Lam.Trận đánh đồi Độc Lập, chủ công là trung đoàn 88, phối hợp phía nam là trung đoàn 165.
Với riêng Hiền còn là một kỷ niệm để đời, đã chi phối cuộc đời anh sau này:
23 giờ ngày 13-3-1954, sau khi hai cánh quân nam, bắc đã cơ bản triên khai xong trận địa, bộ đội bắt đầu đào công sự.Từ sở chỉ huy trung đoàn 88 , lợi dụng máy điện thoại kiểm tra cánh quân phối hợp của trung đoàn 165, sau khi nhận đầy đủ báo cáo,Trần Kính Hiền tranh thủ hỏi Nguyễn Bách, lúc đó là đại đội phó chủ công của 165 ở phía nam.Bách cũng đã trực tiếp kiểm tra từng vị trí của chiến sỹ bộc phá,hỏa lực ,xung kích… của đơn vị xong.Hiền gọi Bách lên Chỉ huy sở trung đoàn để gặp nhau trước giờ nổ súng.
Đêm 13-3 trời Điện Biên sáng rực vì những đèn dù, pháo sáng do phi cơ thả, chỉ có lợi cho quân ta quan sát và có lợi cho các đơn vị uốn nắn đội hình triển khai ở tuyến xuất phát tấn công .
Là trợ lý tham mưu thường trực nắm báo cáo của các cánh các mũi, nên Hiền không rời điện thoại phút nào.Từ lúc Bách gác máy tìm đường lên Chỉ huy sở đến lúc hai đứa gặp nhau mất gần hai tiếng đồng hồ, sang ngày 14 rồi.Còn hơn 3 tiếng nữa là đến giờ “G”.Cạnh miệng hầm chỉ huy trước lúc xung trận, hai đứa gặp nhau ,hàng trăm chuyện muốn nói, nhưng cũng chỉ nói được những điều thông thường của những người lính trước khi vào cõi chết, động viên hứa hẹn với nhau phải dũng cảm, nếu có hy sinh phải hy sinh xứng đáng.Rồi Hiền trao cho Bách 1 chiếc bánh chưng, 1 chiếc đèn pin,1 chiếc mũ nồi;Bách trao cho Hiền chiếc đồng hồ Nikle và một nửa bánh thuốc lào Vĩnh Bảo.Điều hẹn nhau cuối cùng là: nếu trận này cả hai còn sống thì sẽ tính chuyện sau, nhưng nếu một trong hai đứa chết, đứa còn lại, phải tìm về báo gia đình sau ngày giải phóng Thủ đô và kết nghĩa bằng cách lấy em gái của nhau – có nghĩa là nếu Hiền chết,Bách sống thì Bách phải tìm gia đình Hiền báo tin và lấy em gái Hiền;Ngược lại Bách hy sinh,Hiền sống cũng phải tìm bằng được gia đình báo tin và lấy em gái Bách .Họ.trao cho nhau địa chỉ, tên tuổi, cha mẹ và các em.
Trọng pháo của mặt trận vẫn đều đều bắn vào các trận địa pháo của địch ở Mường Thanh, vào Chỉ huy sở của đich, vào trận địa 120ly ở cứ điểm Độc Lập; các loại pháo bắn thẳng; sơn pháo 75, các loại DKZ sẵn sàng ngắm kỹ các mục tiêu chờ đến giờ cấp tập, tiêu điệt các lô cốt,ụ súng yểm trợ cho bộ binh mở cửa xung phong.
3 giờ 30 phút đợt cấp tập cuối cùng của trọng pháo 105 và tất cả các loại pháo bắn thẳng của mặt trận, của sư đoàn và trung đoàn, kết hợp bộc phá hai mũi nam bắc đồng loạt phá hàng rào mở cửa.Chướng ngại vật bao quanh cứ diểm Độc Lập gồm 12 lớp hàng rào kẽm gai các loại: mái nhà,cũi lợn, bùng nhùng, lò so, xen giữa là các bãi mìn từ mép ruộng lên đến lưng chừng đồi, chiều dầy hàng trăm mét.Cánh trung đoàn 165 thuận lợi hơn, mở cửa xong trước hướng chủ yếu .Trời bắt đầu mưa, cửa mở phía trung đoàn 88 bị lệch hướng do mưa, do khói đen đặc không nhìn chuẩn. .Đại đội 217 chủ công của trung đoàn 88 đánh trên 30 quả bộc phá rồi vẫn chưa hết hàng rào? Mà tại sao lại không gặp bãi mìn?Hóa ra anh em đánh lệch cứ theo dọc hàng rào chứ không đánh cắt ngang; khi chấn chỉnh xong, đánh được thẳng hướng thì chiến sỹ bị thương và hy sinh đã khá nhiều(Anh hùng bộc phá Nguyễn Văn Ty xuất hiện trong trận này).4 giờ 30 phút hướng trung đoàn 165 phá xong cửa mở đã đánh xong tiền duyên, đang phát triển vào tung thâm,thì bên trung đoàn 88 mới hoàn thành cửa mở bắt đầu xung phong đánh chiếm đầu cầu và tiền duyên, tiến hành thọc sâu vào Chỉ huy sở địch,vào trận địa cối 120 ly- nơi hợp điểm của 2 trung đoàn.
Từ Chỉ huy sở trung đoàn bắc ống nhòm Hiền nhìn rõ từng cán bộ chiến sỹ lao lên, và nhìn rõ mỗi chiến sỹ ngã xuống; đau dớn xót xa nhưng phấn chấn vì đã thấy được khoảng 20 anh em khuất trong chiến hào, đánh địch bằng tiểu liên , bằng thủ pháo, lưỡi lê.Khoảng 6 giờ một phi cơ oanh tạc của Pháp bị hỏa lực cao xạ 37 ly của ta bắn trúng, cháy rực, rơi xuống cánh phía nam.
Kết quả trận đánh cứ điểm kiên cố đồi Độc Lập ta đã tiêu diệt hoàn toàn tiểu đoàn Âu phi tinh nhuệ nhất của địch, tiêu diệt 2 quan tư (1 lên thay phiên chưa kịp rút), bắt toàn bộ tù binh, thu toàn bộ vũ khí, chỉ có một ít tháo chạy về phía nam khi có 4 xe tăng ra phản kích..
Hàng trăm việc phải làm tiếp, theo kế hoạch, theo hợp đồng và những ứng phó khi tình huống diễn biến.Với những người chỉ huy và những trợ lý giúp việc, đầu tiên là nắm thật chắc kết quả trận đánh.Hiền là ngưới tổng hợp báo cáo, nên nắm chắc kết quả của từng cánh, từng mũi về ta,về địch.Sung sướng phấn khởi vì đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc;buồn, đau đớn xót xa vì mới hôm qua bao nhiêu bạn thân thương vừa gặp nhau khi triển khai trận địa nay không còn nữa ! Trong đó có Nguyễn Bách .Anh hy sinh ngay ở cửa phía nam hồi 4 giờ 30 phút ngày 14-3-1954 do đạn thẳng từ lô cốt vệ tinh bắn chéo.7 giờ 40 phút ngày 14-3 Hiền điện kiểm tra việc thu dọn thương binh, tử sỹ lần cuối thì được báo cáo đã đưa hết thương binh về tuyến phẫu , tử sỹ đã chôn cất chu đáo ở nơi quy định, có bia gỗ đánh dấu..Bộ đội hai bên triển khai củng cố lại trận địa, có đơn vị đang đánh phản kích.Đạn pháo hai bên vẫn không ngừng bắn….
Trần Kính Hiền và Nguyễn Bách là lớp đàn em thân thiết của Nam Sao, quen nhau trong dịp làm đường kéo pháo và mở đường vào đánh đồi Him Lam và đồi Độc Lập.Họ rất quý và tôn trọng Nam Sao,người trung đội trưởng công binh nhiều tuổi quân và tuổi đời hơn họ,có một hoàn cảnh éo le ,vì có người anh trai ở bên hàng ngũ địch,nên chậm tiến bộ ,chậm phong chức,nhưng rất dũng cảm và hăng hái nhiệt tình ,lúc nào cũng vui tươi dí dỏm và tôn trọng lớp sỹ quan trẻ ở trường Lục quân ra. Họ là hai chàng trai Hà Nội,đồng niên đồng tuế, đồng sàng,họ cùng nhập ngũ , cùng học lớp Lục quân khóa 6,lại cùng được chọn ở lại học tiếp lớp Sỹ quan Tham mưu khóa đầu tiên.Cuối năm 1951 ra trường,được phân công đi các đơn vị chiến đấu các chiến trường,và gặp lại nhau ở chiến dịch Điện Biên Phủ. Giây phút gặp nhau trứơc giờ nổ súng đánh đồi Độc Lập là giây phút thiêng liêng nhất của đời các anh.
Đến10-10-1954,tiếp quản Thủ đô, sau một tuần lễ Trần Kính Hiền đã tìm được gia đình Nguyễn Bách ở 204 Bà Triệu (nay là 282) , gặp cha mẹ và ba đứa em , hai gái ,một trai: 10,11, và 14 tuổi.Phải nửa năm sau Hiền mới dám báo tin thật :Bách đã hy sinh ở Điện Biên.Hiền tình nguyện là một thành viên trong gia đình , được bố mẹ và gia đình Bách chấp nhận.Người em gái kế Bách mới 14 tuổi đang học đệ nhất trường Trưng Vương.Tình cảm của họ cứ thấm đượm và lớn dần lên theo năm tháng,theo vóc dáng con người,chẳng ai hiểu nổi lời hẹn ước của hai người bạn ở chiến hào năm nào,với “âm mưu” của người lính trẻ vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh ra sao? Yêu vụng nhớ thầm từ 1954 đến 1958 ,hai “anh em” mới thổ lộ tình cảm và ôm hôn nhau lần đầu ở cửa tòa soạn báo Tiền Phong.Vâng tình yêu của người lính năm 1954 là thế đấy,yêu nhau 4 năm gia đình không biết,sáu tháng sau nụ hôn đầu tiên họ mới báo cáo cha mẹ.Khi cha mẹ hai bên đã đồng tình, họ đã thắp hương trước bàn thờ tổ tiên để xin phép và thắp hương trước bàn thờ liệt sỹ Nguyễn Bách.Trần Kính Hiền khấn với anh rằng: “tôi đã thực hiên đúng lời hẹn cuối cùng” ở đôi Độc Lập trước giờ nổ súng. Đám cưới của họ được tổ chức ở khách sạn Phú Gia đêm 29-11-1958
Hàng năm, đến ngày kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Trần Kính Hiền lại kể lại cho con cháu nghe về tình bạn chiến đấu của hai người lính Điện Biên năm xưa ,và .một lần nữa ông thắp hương lên bàn thờ và rì rầm khấn trước di ảnh người liệt sỹ :
“ - Xin thưa với hương hồn anh Nguyến Bách rằng: thằng bạn thân của anh đã trở thành em rể của anh từ năm 1958 rồi, nay đã vào tuổi “cổ lai hy”, tóc đã bạc như cước, mắt đã mờ, chân đã chậm, nhưng vẫn làm những việc tình nghĩa cuối đời với đồng đội , với bạn bè và làm nghĩa vụ với gia đình.Em gái anh , cô nữ sinh má lúm đồng tiền năm xưa, nay đà là bà, là cụ của hơn chục cháu chắt nội ngoại rồi…
Vào dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên Phủ ,vợ chồng tôi mới tìm thấy tên anh bằng chữ đồng mạ vàng ở nghĩa trang A1 Điện Biên.Các cụ nhà ta đã về cả với tổ tiên, chúng tôi vẫn để anh ở trên đó, để cả nước và bạn bè thế giới đến thăm viếng.Hàng năm cứ đến ngày 14-3 là gia đình cúng giỗ anh.Anh mãi mãi vẫn là một chàng trai hào hoa của thủ đô Hà Nội, vẫn là một nhạc sỹ nghiệp dư, là quản ca của tập thể hương hồn các liệt sỹ nơi nghĩa trang uy nghiêm ấy, các anh vẫn giữ biên cương của đất nước. Tổ Quốc và nhân dân đời đời nhớ công ơn các anh!” .Sau này trong chiến tranh chống Mỹ, Nam Sao cũng có đôi lần gặp lại Trần Kính Hiền, và anh cũng đã có dịp lên thăm lại đồi A1,thắp hương cho Nguyễn Bách,một sỹ quan trẻ tuổi mà anh rất quý.