KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 40 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 21.07.2016 09:05:00
Chương 13-THÁNG NGÀY LÊNH ĐÊNH

Năm chiếc thuyền câu lượn đi lượn lại, vừa gõ thuyền vừa xua đuổi, vừa té nước, vừa dềnh sóng quanh một đoạn sông Lèn, của một nhóm người đang thả lưới đánh cá, cứ như là một trò chơi của trẻ nhỏ trong những ngày lễ hội trên sông, chỉ khác là không có đông khán giả trên bờ hoan hô cổ vũ reo hò và những loa truyền thanh vang dội, mà chỉ có  năm người họ với nhau.Các tuyển thủ xem ra rất điêu luyện, họ đứng thẳng người trên chiếc thuyền câu bé nhỏ mà không ngã, như người làm xiếc, tay cầm sào, lúc bơi, lúc đẩy, lúc lại đập nước bì bõm, người họ uốn éo vừa dập dềnh vừa đưa thuyền đan đi đan lại với nhau như mắc cửi, mà không va chạm vào nhau, nước sông  bắn tung tóe lên soi ánh mặt trời lấp la lấp lánh như những ánh hào quang chớp nhoáng, làm  họ liên tưởng như những ánh lửa của đạn bom nổ trên sông nước  trong những năm tháng  chiến tranh trên chính khúc sông này.Cuộc quần lộn đuổi cá kéo dài đến mười lăm, hai mươi phút, thì một người đứng tuổi, cầm  chiếc mũ cối đã bạc trên đầu, dơ lên quay quay mấy vòng rồi hô:
- Thu lưới!
Tất cả đều ngồi xuống bơi bằng  hai dầm về đầu phao của mình, bắt đầu cuốn lưới và gỡ cá.Người nào cũng ngậm lấy mõ lưới vào mồm, một tay kéo từng phao lưới mắc vào mõ, những con cá mắc lưới được kéo lên thuyền   được gỡ ra, lùa vào gầm xạp ngồi, nhiều chú cá to rãy đành đạch trong thuyền nghe rất vui tai, những cánh lưới được kéo lên nhịp nhàng như những dải lụa phơi dưới nắng óng a óng ánh, xen lẫn  những con cá bị lưới quấn  vẫn còn rãy lõm bõm làm bắn nước vào mặt người vớt lưới, những tia nước nhỏ soi trong ánh mặt trời lóe lên những tia màu ngũ sắc, như một bông hoa xanh đỏ tím vàng…Khoảng mươi phút sau thì việc gỡ lưới bắt cá xong, trên sông  lại nổi lên tiếng rít của điếu cày sòng sọc, và những làn khói thuốc lào tỏa ra khoan khoái, bay bay trên mặt nước.Họ cụm lại với nhau và trao đổi kết quả của mẻ lưới vừa rồi. Mọi người đều vui vẻ. Nam Sao lại hô:
-Tiếp tục lên đầu nguồn, làm vài mẻ nữa!
-  Vâng, nào đi anh em ơi!
Năm chiếc thuyền câu lại cúi rạp mình bơi nối đuôi nhau ngược dòng sông Lèn lên phía ngã ba Bông, lại tiếp tục rải lưới  quây cá, lại tiếp tục dềnh thuyền,  rỡn sóng, đập nước xua đuổi, ồn ã cả một khúc sông. Có lúc hứng lên, họ còn hát , còn hò theo giọng hò của dân chài  kéo lưới ngoài khơi:
-Dô hò là hò, ta hò kéo lưới, ới khoan dô khoan ,
Kéo lưới ra khơi, kiếm khoang cá đầy, ới khoan hò khoan
Nuôi chồng nuôi vợ, nuôi cái nuôi con, ới khoan dô khoan,
Nuôi cả xóm làng, ới khoan dô khoan , ới khoan hò khoan…
Họ cứ đứng trên thuyền mà dập dềnh, mà hò mà hát, đi đi lại lại, như những vũ điệu của dân chài ven sông, ven biển , cho bớt đi những nỗi mệt nhọc đầu tắt mặt tối.Rồi lại vớt lưới bắt cá, rồi lại bơi lại chèo, lại giăng lại thả, lại đập lại xua, lại hò lại hát, cho đến khi nắng lên cao họ mới nghỉ.Bơi thuyền đem cá về bến chợ gần nhất để bán, rồi lấy tiền đó đong gạo, mua rau muối  thuốc lào và mua quà cho trẻ con… Họ kéo thuyền lên bờ rồi gánh lưới gánh thuyền về trong làng, phơi lưới ,cơm nước, nghỉ trưa.Buổi chiều, họ lại tu sửa vá lưới, rồi lại chuẩn bị thuyền thúng cho buổi đánh cá chiều hoặc tối, có hôm đánh cả đêm, tùy theo con nước dòng hay cả, cá nhiều hay cá ít.Nhiều buổi thức cả đêm, đến sáng ra họ đã có cá đem ra chợ bán rồi.
Đây là một nhóm bộ đội công binh thuộc đơn vị của Nam Sao trước đây, nay đã về hưu hay phục viên về địa phương, không có nghề nghiệp gì, chỉ trông vào mấy sào ruộng,  làm  theo kiểu hợp tác xã, ba cọc ba đồng không đủ sống.  Nhân dịp  Nam Sao về quê vợ chơi thấy thế, bèn bàn với   mấy anh em làm thêm  nghề    phụ là đánh cá .Mấy anh em đều kêu lên:
- Xem ra nghề ấy cũng được đấy, nhưng chúng em có biết mô tê gì về cá với mú đâu. Nam Sao bèn mỉn cười:
-Miễn là các cậu có quyết tâm, còn tay nghề đã có  anh giúp đỡ các chú, cái gì chứ làm giầu thì khó, chứ kiếm ăn đủ sống qua ngày thì không  khó. Mấy chú còn nhớ hồi ở đơn vị đi B, ta còn kiếm được cá ăn, huống chi bây giờ về có điều kiện hơn nhiều.
-Ừ nhỉ, dạo đó dù ít dù nhiều ngày nào thủ trưởng cũng kiếm được cá ăn  cho bếp chỉ huy tiểu đoàn, hôm thì câu, lúc thì khua lưới.. lúc thì thả  đăng, thả lờ cá, lại có khi còn  bắn cá nữa… Chả thế mà liên lạc tiểu đoàn ngày nào cũng đi xin, đi hái lá chua về kho, nấu cá.-Mấy anh lính cũ xôn xao nhớ lại, chen nhau kể.
Mọi người đều lấy làm phấn khởi,  đồng thanh nói:
-Đề nghị thủ trưởng ở lại đây dậy chúng em kiếm cá nhá !-Nam Sao nhìn vào mắt các đồng đội cũ thăm dò quyết tâm của họ rồi thong thả nói:
-Nếu các chú có quyết tâm cao, cùng làm ăn với nhau, thì tôi xin ở lại đây cùng kiếm sống  với các chú và hướng dẫn các chú bao giờ các chú thành thạo nghề  rồi tôi mới về hoặc đi đâu thì mới đi. Các chú có nhất trí không ?
- Thế thì hoan hô thủ trưởng, chúng em hoàn toàn nhất trí ạ !.Thế là năm sáu cánh tay dơ ra nắm chặt lấy nhau cùng hô như những ngày còn ở đơn vị :-Quyết tâm ! Quyết tâm !

Đò Lèn 3-4-1965
Sau vụ Mỹ dựng lên sự kiện vịnh Bắc bộ, chỉ là cái cớ để tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, và cũng từ đây máy bay trinh sát nhiều lần vào đất liền, sâu vào những vùng nhà máy công trường, nhưng chủ yếu là đường giao thông, hệ thống cầu đường và những trận địa phòng không của ta.
Về phía ta, các đơn vị bộ đội và nhân dân đã được lệnh chuyển thời bình sang sinh hoạt thời chiến .Một số nơi trọng điểm cầu cống lớn, các trận địa cao xạ đã triển khai và sẵn sàng hạ máy bay Mỹ ngay từ loạt đạn đầu.
Nhân dân các địa phương đã đào công sự những nơi công cộng  và một số gia đình đào ở mức độ không kiên cố.
    Sông Đò Lèn  rộng 150m, bờ Bắc là huyện Hà Trung, bờ Nam là huyện Hậu Lộc.Sông Lèn là một nhánh của sông Mã, từ ngã ba Bông một nhánh chảy về phía Hàm Rồng rồi ra biển, một nhánh chảy qua cầu  Lèn rồi ra lạch Sung.
Cầu Đò Lèn bắc trên truc đường số 1.Bốn phía  Đông Tây Nam Bắc  đều  có núi, cách xa cầu Lèn  từ 2 đến 3 km, một số núi đã trồng thông.Làng mạc: bờ Bắc là xã Hà Ngọc, Hà Phong, bờ Nam là xã Đồng Lộc, Châu Lộc.
Đường số 1 tính từ Hà Nội vào là ga Bỉm Sơn, ga Đò Lèn, cầu Lèn, ga Nghĩa Trang đi Cầu Tào, cầu Hàm Rồng vào thị xã Thanh Hóa.Đường số 1 và đường sắt chạy song song cách nhau một rãnh thoát nước.
Cầu Đò Lèn là  hệ cầu mới bắc trước 1-2 năm, dài 200m, trông đồ sộ và kiên cố,cầu có trọng tải xe hỏa và các loại ô tô vận tải 30-40 tấn.
Tình hình địch:Trước ngày 3-4 máy bay trinh sát đã nhiều lần bay lượn trên sông Lèn.Đến ngày 1-4, hồi 7 giờ, một máy bay trinh sát phản lực bay rất thấp từ biển vào bay qua cầu Lèn, tiếp ngày 2-4 không thấy có hiện tượng gì.Đến 9 giờ ngày 3-4-1965, nhiều tốp máy bay Mỹ đánh phá  cầu Đò Lèn.
 Các cỡ súng của ta bắn trả máy bay Mỹ, một chiếc trúng đạn, máy bay rơi, một phi công đã bị dân quân bắt sống.Song chúng vẫn ngoan cố, hết đợt này đến đợt khác lao vào đánh phá, nào bom, rốc két, tên lửa…
Suốt từ 8 giờ sáng ngày 3-4 đến 3 giờ chiều, không mấy lúc ngớt tiếng bom đạn ở khu vực cầu Đò Lèn .Đúng 3 giờ chiều ngày 3-4-1965 cầu Đò Lèn bị sập một nhịp gần mố phía Nam.Giao thông vận tải từ xe hỏa đến ô tô tuyến đường1 qua cầu Đò Lèn bị tắc
 Tình hình ta: Hàng ngày những chuyến xe lửa, hàng đoàn xe ô tô vận tải từ Bắc vào Nam đều phải qua cầu Đò Lèn, lưu lượng qua lại mỗi một ngày phải tính hàng nghìn.Cầu Đò Lèn bị sập lúc 3 giờ chiều thì hàng trăm xe cơ giới đã bị ùn lai hai bên đầu cầu, không những xe cơ giới mà còn các loại xe đạp , xe ba gác,xe cải tiến và người qua lại, cũng bị ùn lại, phải tìm cách qua sông Lèn.
 Tin địch đánh Thanh Hóa, Quân khu ba, Bộ tổng tham mưu điều động các đơn vị cao xạ vào tăng cường, 5 giờ chiều  ngày 3-4 đã tới Bắc cầu Đò Lèn.Đó là cao xạ pháo 14,5 ly bốn nòng gồm 10 khẩu 15 xe  và một tiểu đoàn 37 ly.Trên đường vào cầu Hàm Rồng, đều bị tắc, nằm triển khai tại chỗ phía Bắc Cầu Lèn
  Tiểu đoàn cao xạ 37 ly của sư đoàn 304 chiến đấu từ sáng tới 3 giờ chiều ở cầu Đò Lèn, hạ một máy bay Mỹ nhưng ta bị hy sinh một đồng chí chính trị  viên phó tiểu đoàn là đồng chí Lăng.
16 giờ 30, đồng chí Hiều, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa đến quan sát khu vực cầu.Về phía sư đoàn 304 có đồng chí Tham mưu trưởng sư đoàn, Chủ nhiệm công binh sư đoàn  và tiểu đoàn trưởng  tiểu đoàn 15 công binh Nam Sao
Hội nghị giữa địa phương và quân đội triển khai ở xã Hà  Phong, thành phần gồm: Chủ tịch, Bí thư, Xã đội trưởng và huyện đội Hà Trung , Hậu Lộc  là hai huyện và bốn xã Nam Bắc cầu Đò Lèn.
Quyết tâm:-Bảo đảm vượt sông, trước mắt giao cho tiểu doàn 15 sư doàn 304 ngay đêm nay thông xe.Sau đó Ty giao thông Thanh Hóa điều phà lập bến ở sông Lèn, mười ngày sau phải có phà và bến.- Việc sửa đường hai bên đầu cầu và đường lên xuống bến, điều quân bốn xã Hà Phong, Hà Ngọc, Đồng Lộc, Châu Lộc đảm nhiệm.- Công binh bắc xong cầu hoặc ghép xong phà, ưu tiên cho các đơn vị cao xạ sang sông chi viện cầu Hàm Rồng trước.
Sử dụng lực lượng công binh tổ chức vượt sông:
-17 giờ  ngày 3-4-1965,tiểu đoàn 15 sư đoàn 304 từ trước đã đóng quân ở thôn Kim Đề xã Hà Ngọc ở bắc cầu Đò Lèn 2km.đến ngày 1-4 tiểu đoàn đã di chuyển lên Hùng Lý cách cầu Lèn 15 km ,chỉ để lại doanh trại cũ và 16 đông chí  kỹ thuật máy đẩy.
Vào 15 giờ 15 phút ngày 3-4. Tiểu đoàn 15 công binh sư 304 báo động đại đội 29 cầu thuyền hành quân gấp xuống cầu Lèn.Như vậy lực lượng bảo đảm vượt sông đêm nay ở bến Lèn là đại đội 29 và 16 kỹ thuật máy đẩy của tiểu đoàn 15 sư đoàn 304
-Chỉ huy vượt sông là đồng chí Nam Sao, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 15.
-Sử dụng khí tài vượt sông:
-Thuyền sắt 100  gồm 10 cái x 3 khoang = 30 khoang.
-Máy đẩy                     2 cái
-Toàn  bộ dầm ván  đủ cho hai phà.
Diễn biến chiến đấu vượt sông:
Dùng phương pháp ghép hai phà, mỗi phà bốn thuyền sắt 100,  còn hai thuyền làm dự bị.
22 giờ 30 phút hai  chiếc phà được ghép xong, mỗi phà lắp một máy đẩy 14 mã lực.Lúc này đường lên xuống bến hai bên đầu mố chưa làm xong.Sau đó có cả công nhân hạt giao thông của hai huyện phối hợp  cùng làm, trước chỉ có 4 xã gần đầu cầu .Tới lúc này mỗi bên phải có tới 5-6 xã, xã nào cũng muốn góp sức vào việc thông đường,thông phà, nhất là các đơn vị cao xạ đang chờ ở đầu mố.
 Thời kỳ này  địch chưa đánh ban đêm, cầu Đò Lèn như ngày hội, chỗ cuốc, chỗ đào, người gánh, người đội.Tiếng gọi nhau í ới, trẻ em đều ra xem không khí lao động tối nay ở bến cầu Lèn khác với những buổi lao động thường vì có không khí chiến đấu khẩn trương.
-24 giờ 30 ngày 3-4-1965chiếc xe con được chở đầu tiên, cũng là chiếc xe của đoàn kiểm tra của Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa Hoàng Văn Hiều và xe của thủ trưởng sư đoàn 304 cũng đi kiểm tra.
Chuyến xe thứ  hai là pháo cao xạ, sang đến mố bờ Nam bị lầy sụt, lại phải sửa chữa lại đường mố cầu, nhưng cũng phải ngừng lại  chuyển hai máy đẩy vào một phà mởi đủ sức đẩy phà 4 thuyền mà trước đây chỉ đẩy hai thuyền .Do khó khăn về đường bến và phà nên  chỉ chở được 10   xe cao xạ qua sông thì trời sáng.Còn lại hai tiểu đoàn và hàng trăm xe bị ứ đọng hai bên đầu mố  cầu  Đò Lèn.
Các tối tiếp  sau  do tiểu doàn 27 công binh cầu phà quân khu đảm nhiệm, và công chính sau đó 10 ngày cũng đưa phà công chính xuống và hoàn thành làm bến.
 Kết thúc: 3 giờ chiều ngày 3-4 địch đánh sập cầu, ngay đêm hôm đó đã thông phà  cho pháo cao xạ qua sông.
-Buổi huy động dân quân bảo đảm giao thông ngay trong  trận đầu, đã có giá trị về cách sử dụng lực lượng tại chỗ chống chiến tranh phá hoại  của đế quốc Mỹ
-Thiết lập được hai đầu mố phà và đường lên xuống bến  dài mỗi bên khoảng 100m, trên cơ sớ  có nền và đường lên xuống , sau này củng cố và sử dụng tiếp  những ngày chống chiến tranh phá hoại
-Là một buổi ban đầu chống chiến tranh phá hoại  của tỉnh Thanh Hóa.Nó còn kết quả về mặt rút kinh nghiệm về cách tổ chức huy động lưc lượng và sử dụng khí tài để bảo đảm giao thông.


Nhận xét:- Huy động lực lượng  phối hợp ba thứ quân: bộ đội công binh, hạt giao thông, và dân quân du kích cùng bảo đảm giao thông.
-Đơn vị tiểu đoàn 15 công binh sư 304 tuy dóng quân ở gần, nhưng chưa được phân công  bảo đảm  vượt sông bến Lèn, nên ban đầu  có lúng túng, nhưng sau đó đã kịp thời khẩn trương triển khai chiến đấu, đưa  ngay được cao xạ qua sông là một cố gắng lớn.Tiểu đoàn trưởng Nam Sao đã trực tiếp  chỉ huy đơn  vị  đại đội 29  vượt sông trong ngày đầu tiên đã thắng, bảo đảm an toàn cho đơn vị bạn qua sông.
                                                          
 Tổ đánh cá sông Lèn
                                                                                                                                                                   Kể từ ngày nhận quyết định nghỉ hưu với cái lon thượng úy ở tỉnh đội Thanh Hóa, Nam Sao buồn bã trở về làng  Lễ  ở Hải Dương, đưa cho vợ cái sổ hưu còm cõi lúc bấy giờ chỉ với mấy chục đồng.Rồi bỏ làng ra đi lang thang để thăm lại các chiến trường xưa, nơi anh đã cùng đồng đội chiến đấu và công tác mấy chục năm qua.Nơi đầu tiên anh đến là quê vợ anh, cũng là nơi anh đã chiến đấu với giặc Mỹ sứt đầu mẻ  trán, trong những ngày chống chiến tranh phá hoại bằng không quân  ác liệt.Anh định cũng chỉ ở lại đây chơi dăm ngày thăm bố mẹ vợ và anh em họ hàng bên  ngoại, rồi lại đi, thăm các đồng đội ở nơi khác.Nhưng  thấy đời sống của đồng đội cũ ở đây đang gặp nhiều khó khăn, nên anh tình nguyện ở lại dậy nghề cho anh em biết nghề phụ đánh cá, một nghề truyền thống của quê anh, mà anh đã  học được từ hồi còn nhỏ do bố anh đã truyền lại. Cái khó khăn nhất của anh em ở đây là đã không biết nghề, lại không có vốn ban đầu để mua sắm đồ nghề dụng cụ tối thiểu, như mua thuyền mua lưới.Nghề gì cũng vậy, muốn làm ăn lớn phải có vốn nhiều, trong những năm chiến đấu  anh được biết sông suối ở đây rất nhiều cá, muốn đánh cá phải ra sông lớn mới đánh được nhiều, mà  cá lại to, muốn đánh cá to phải có lưới to, vốn lớn.Nhưng anh em lại không có , nên anh phải dậy họ từ bước đi ban đầu là đánh cò con ở trong đồng ruộng, trong vũng, trong khe, để tích lũy vốn rồi mới ra sông to nước lớn  được. Anh liền bàn với gia đình vợ và đứng ra vay một số vốn tối thiểu đủ mua dăm tấm lưới mới, trang bị cho mỗi người một tấm, còn que, vợt, thời giỏ… thì của ai người nấy tự kiếm.Thế là  lớp học đánh cá của các cựu chiến binh bên sông Lèn bắt đầu, theo phương pháp vừa học vừa làm do giáo viên Nam Sao hướng dẫn.Vốn đã thạo nghề , lại là con nhà lính, việc quân sự  đã quen, anh vận dụng phương pháp huấn luyện  trực quan cụ thể vào đây, nên các học viên đều tiếp thu rất nhanh.Đầu tiên anh dẫn học viên ra  một vũng nhỏ giữa đồng để thực hành khoa mục “khua lưới”, rồi anh xắn quần áo lội xuống ,cầm lưới làm thị phạm, rải đến đâu nói đến đó, rồi khua, đập nước, chọc nước, đuổi cá .Rồi vớt lưới, bắt cá, phơi lưới, rũ lưới v v…Sau đó anh cho các học viên tự làm, anh đứng trên bờ quan sát, hướng dẫn cho các học viên thành thạo mới thôi . Tuy lý thuyết chỉ đơn giản thế thôi, nhưng muốn đánh được nhiều cá thì phải tích lũy nhiều kinh nghiệm.Nam Sao đều nói cho anh em nghe, không dấu một chút nào, với giọng châm biếm hóm hỉnh xen lẫn tiếu lâm  nên ai cũng thích, cũng vui cười.Chẳng mấy chốc họ đã thành thạo khoa mục khua lưới trên đồng ruộng, rồi lao vào kiếm sống và tích lũy vốn.Nam Sao quy ước với anh em là, trong những ngày tháng đầu, dù được nhiều hay ít cá đều không được ăn, mà phải mang bán để tích lũy vốn, mua sắm lưới to hơn và thuyền thúng để vươn ra sông, làm ăn lớn hơn.Được mọi người đều nhât trí . Chỉ hơn một tháng sau cần cù làm ăn tích cóp, và vay mượn thêm, giúp đỡ lẫn nhau, trong tổ ai cũng xắm được  thuyền câu, được lưới ba màn, rộng dài hơn để vươn ra sông .Nam Sao lại  huấn luyện họ các khoa mục: bơi thuyền, đứng trên thuyền thúng, quây lưới đánh cá ban ngày ,thả lưới đánh cá ban đêm, ven sông ven suối …Anh còn dậy họ cả bài  đứng trên thuyền thúng  câu vút, mà anh là một tay sở trường và thiện nghệ.
 Khoảng một tháng sau,  mấy anh em lính cũ ở gần đấy nghe tin Nam Sao lập “tổ đánh cá cựu chiến binh” liền đến xem, thấy hay, cũng đề nghị xin vào tổ,Nam Sao và  anh em trong tổ đều đồng ý, thế là tổ kết nạp thêm thành sỹ số mười người.Nam Sao cử  anh  Lê Thân là cán bộ trung đội trưởng công binh cũ về phục viên làm tổ trưởng chung của tổ sông  Lèn, và phân chia mỗi người kèm cặp, giúp đỡ thêm một tổ viên mới cả về dạy nghề và ứng vốn cho vay để mua sắm trang thiết bị đánh lưới. Chỉ  hơn một tháng sau nữa các tổ viên mới cũng đều thành thạo tay nghề và nhanh chóng hoàn vốn hơn các tổ viên cũ.Tiếng lành đồn xa, tiếng giữ đồn xa, những người lính cũ của Nam Sao  ở quanh vùng Thanh Hóa nghe tin tiểu đoàn trưởng cũ của mình đang dậy nghề đánh cá ở sông Lèn, cũng vội vàng tìm đến thăm, họ mừng mừng tủi tủi gặp nhau, trong hoàn cảnh đất nước đang khó khăn về kinh tế sau những năm tháng chiến tranh, những người lính trở về quê hương, gia đình đều bị nghèo đói, họ đề nghị thủ trưởng cũ giúp đỡ họ có thêm nghề phụ này để  thóat khỏi cảnh bần cùng  trong lúc khó khăn này.Nam Sao thấy mủi lòng thương anh em đồng đội cũ.Nhưng xét thấy bản thân mình,”ốc cũng không mang nổi mình ốc còn đâu sức mang cọc cho rêu”, nhưng  nhìn thấy anh em, bỏ thì thương, vương thì tội. Anh đã sa đà vào lập tổ đánh cá sông Lèn này đã năm sáu tháng trời, khi anh em đã yên ổn thành nghề kiếm ăn tạm được  rồi, anh cũng đang muốn bay nhảy đi thăm thú các nơi chiến trường xa, bạn bè cũ, cho thỏa chí tang bồng, liệu sau này còn sức mà đi không.Nhưng trước hoàn cảnh của anh em chiến hữu trong vùng quê đang nghèo đói này, anh sao nỡ bỏ đi. Sau một đêm suy nghĩ, anh quyết định ở lại, đem sức tàn của mình phuc vụ cho đời, cứu vớt những bạn bè đồng đội còn khó khăn hơn mình ở ngay trên mảnh đất chiến trường xưa  ác liệt này. Anh nẩy ra một sáng kiến:Tổ chức các  tổ theo kiểu dây truyền, người đi trước hướng dẫn và giúp đỡ người đi sau như kiểu  ở tổ cựu chiến binh trên sông Lèn mà anh đã làm gần đây. Hôm sau Nam sao tập hợp anh em lại và nói rõ ý định của mình, anh phân tích:
 -Địa hình ở tỉnh Thanh này tuy xa nhau  dăm sáu chục cây số, thậm chí có nơi gần trăm cây số nhưng vẫn trong một tỉnh nhà, quen thuộc, quan hệ liên lạc với nhau dễ dàng.
-Sông suối có nhiều, nhưng đều có thể thông thương với nhau bằng đường nước, có thể đi thuyền đánh cá từ sông này sang sông khác hàng tháng trời, mà sông suối ở đây lại rất nhiều cá,ven sông nào cũng có chợ mua bán cá. -Ở sông nào cũng có một vài  lính công binh hoặc thanh niên xung phong , hoặc công nhân giao thông của ta ở đó, hoặc có cơ sở của ta trước đây làm căn cứ đóng quân nay có thể  nhờ trú ngụ  qua lại.-Những đồng đội của ta đều có tình thương yêu gắn bó trong những năm tháng chiến tranh, nay gặp lại nhau  trong hoàn cảnh khó khăn đều sẵn lòng giúp đỡ nhau trong làm ăn kiếm sống… Vì vậy ở mỗi dòng sông chúng ta đều có thể tổ chức một tổ  đánh cá theo kiểu ở sông Lèn này. Nơi nào có người trước, có nhu cầu trước, ta tổ chức trước, nơi nào có người sau, có nhu cầu sau, ta tổ chức sau. Vậy bây giờ nơi nào cần tổ chức trước nào ? Có mấy người nhao nhao  lên:
- Em ạ ! em ở Cẩm Thủy ven sông Mã, chúng em có một tổ ba người rồi ạ, toàn quân đại đội ba cũ cả, nhờ thủ trưởng giúp chúng em trước ạ! Tên em là Cầm  trước là tiểu đội trưởng tiểu đội một ạ!-Một anh khác dơ tay luôn:
-Em ở phà Ghép cũ,”bến phà Thép” của thủ trưởng làm  bến trưởng trước đấy ạ .Nam Sao hỏi tiếp:
- Có mấy người rồi ? Tên chú là gì nhỉ?
- Dạ tên em là Thế ạ. Chúng em  cũng có ba người rồi, hai lính công binh ở C1và một Thanh niên xung phong ở bến phà Ghép phối hợp với ta  trước đây ạ!- Lại một đồng chí ngồi ở góc trong cùng, vội vàng đứng lên:
- Còn em nữa ạ!  em  ở Cổ Tế, mà hồi chiến tranh vẫn gọi là bến phà “khổ thế” đấy ạ !Nhóm chúng em  có bốn đồng chí vẫn liên lạc với nhau, ba là lính công binh, một là lính cao xạ tăng cường cho tiểu đoàn ta, bảo vệ bến trước đây, nhưng hai người đã lên rừng làm sơn tràng rồi cũng vất vả lắm mà kiếm chẳng được bao nhiêu, còn hai người chúng em ở nhà chưa có việc gì làm cả, ở bến sông ấy lắm cá lắm ạ, em cũng muốn đi đánh cá, nhưng chưa biết làm thế nào ạ !- Nam Sao liền hỏi:   
- Các đồng chí ở ven sông Bưởi có phải không ?
- Vâng, đúng đấy ạ !Tên em là Tề, trước là lính của đại đội 2  chuyên phá bom  đấy ạ !
 -Sông Bưởi trước đây mỗi lần địch thả bom rơi xuống sông , quân ta vớt hàng mấy tạ cá liền, cả tiểu đoàn ăn mấy bữa không hết.
- Vâng, thủ trưởng còn nhớ kỹ quá!
- Còn ai nữa không nhỉ? Không hả, thôi cứ thế đã nhá. Nam Sao nhìn đồng đội xung quanh xem còn ai nói gì không,  thấy anh em im lặng,  anh nói tiếp:
- Theo đề nghị của các đồng chí như vậy là ta cần thành lập thêm ba “ tổ đánh cá cựu chiến binh” nữa là : một tổ ở  sông Mã, Cẩm Thủ, một tổ ở sông Ghé, bến phà Ghép và một tổ ở  sông Bưởi, bến Cổ Tế phải không ạ?- Đúng thế ạ!- Mọi người đều nói.
–Để tiện liên lạc và tổ chức, mỗi nơi tạm thời có một tổ trưởng đứng ra tổ chức, tôi đề nghị đồng chí  Cầm phụ trách tổ sông Mã, đồng chí Thế phụ trách tổ sông Ghép và đồng chí  Tề phụ trách tổ sông Bưởi.Trước mắt mỗi tổ của ta cứ tổ chức ba đến bốn người làm nòng cốt, rồi phát triển dần thêm sau, không nên ồ ạt, vì còn phải học tập, làm thử rồi rút kinh nghiệm và phải đầu tư vốn, phải hỗ trợ giúp đỡ nhau thì mới làm được.Kinh nghiệm như ở tổ sông Lèn, cứ một người đi trước giúp một người đi sau thì thuận lợi nhất, tuy chậm nhưng chắc, còn tổ chức và đầu tư ồ ạt sẽ dẫn  đến làm ăn không kết quả lại sinh ra công nợ thì sẽ mất đoàn kết và sẽ tan ngay mà thôi.Các đồng chí có nhất tri thế không?- Nhất trí đấy ạ!- Mọi người đều đồng thanh.
- Còn việc giúp đỡ huấn luyện và hướng dẫn kỹ thuật tôi xin sẵn sàng ở lại với các đồng chí, nhưng một mình tôi, tôi không thể  chia ra ba nơi cùng một lúc đượ, cho nên tôi kêu gọi và đề nghị các đồng chí ở tổ sông Lèn, vì tình đồng đội, hãy chia người ra đi giúp đỡ các tổ mới một thời gian, vừa là kết nghĩa cũng vừa  là để các đồng chí đi khai phá một vùng đất mới cho quen thông thổ, để rộng tay làm ăn lớn hơn.  Tôi sẽ luân phiên đến các tổ mới, để cùng các đồng chí tiểu giáo viên tổ sông Lèn, hướng dẫn giúp đỡ thêm các đồng chí nắm bắt được tay nghề nhanh chóng hơn.- Thế thì hay quá rồi !- Mọi người lại đồng thanh.- Các đồng chí ở tổ sông Lèn có nhất trí như thế không?Đồng chí Lê Thân tổ trưởng tổ sông Lèn đứng lên phát biểu:
- Tôi thấy phương án của thủ trưởng Nam Sao rất là hay, lấy anh em tổ cũ giúp đỡ các tổ mới, dưới sự chỉ huy chỉ đạo chung của thủ trưởng cho tất cả các tổ thì mới phát triển nhanh được.Rút kinh nghiệm của tổ tôi, thủ trưởng phải dậy từ đầu và kèm cặp cho tất cả anh em thì phải mất tới sáu bảy tháng trời mới làm ăn  được, đồng chí nào cũng có thể kiếm sống được rồi.Nếu cứ làm như của tổ tôi trước đây ,thì thủ trưởng phải đi mỗi tổ mất bảy tháng, ba tổ mất hai mươi mốt tháng, thì quá lâu và vất vả cho thủ trưởng quá.Còn làm theo phương án mới của thủ trưởng vừa trình bày thì chỉ hết bốn năm tháng, là cả ba tổ mới  đều được rèn luyện tay nghề và có thể kiếm sống ngay được rồi.-Đúng đấy, đúng đấy, hay lắm, hoan hô thủ trưởng !-Toàn thể anh em đều vỗ tay- Anh Thân nói tiếp:
- Thay mặt anh em tổ sông Lèn xin ủng hộ và chấp hành ý kiến thủ trưởng, sẵn sàng đi giúp đỡ các đồng chí tổ mới ở bất cứ nơi đâu .Cụ thể chúng tôi sẽ phân công sáu đồng chí  đến ba tổ, mỗi tổ hai đồng chí, mang theo đầy đủ dụng cụ đồ nghề của chúng tôi để vừa làm vừa hướng dẫn các đồng chí,và cũng để các đồng chí thực tập bằng đồ nghề của chúng tôi cho quen, rồi mới đầu tư vốn mua sắm đồ nghề mới của các đồng chí.- Nam Sao bỗng cười lên ha hả:
- Trúng ý quá, hoan nghênh và cảm ơn các đồng chí tổ sông Lèn ! Bây giờ các đồng chí tổ trưởng hiệp đồng với nhau cụ thể đi.Chậm nhất là năm ngày nữa ,các tổ đồng loạt ra quân.Tôi sẽ đến với tổ sông Mã trước, tôi cũng mang theo đầy đủ lương thực, thực  phẩm và đồ nghề thuyền lưới của tôi để hướng dẫn các đồng chí và cùng kiếm sống với các đồng chi. Các đồng chí không phải lo gì cho tôi đâu!

Ngược dòng

Đúng năm ngày sau,Nam Sao cùng hai đồng chí ở tổ sông Lèn là, Thân tổ trưởng và Minh tổ viên, mỗi người một thuyền thúng và đầy đủ đồ nghề đánh lưới , xoong nồi bát đĩa và gạo muối đem theo vài ngày, bơi thuyền ngược dòng sông Lèn lên ngã ba Bông rồi rẽ sang sông Mã, ngược lên Cẩm Thủy.Nam Sao đã xem con nước,vào giờ thủy triều lên là xuất phát, để lợi dụng sức nước, tuy ngược sông, nhưng không phải ngược dòng nên bơi thuyền rất nhẹ nhàng. Lúc đó khoảng bốn giờ sáng,bắt đầu hành quân.Những người cựu chiến binh này vẫn còn tác phong quân sự, họ đi theo một hàng dọc.Thân đi trước  tiền tiêu, quan sát xem có chướng ngại vật trôi sông gì không, thì báo cho cả tổ biết mà tránh.Nam Sao đi giữa, Minh đi sau cùng.Hôm ấy, trăng về sáng, ánh trăng bao phủ mặt sông mênh mông, gió nhè nhẹ thổi, gợn sóng lăn tăn hiền hòa, trông rất thanh bình.Ấy vậy mà dòng sông này mới mấy năm gân đây thôi, đã sục sôi bom đạn bởi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, chính những người lính này đã phải chiến đấu gian khổ ác liệt trên những dòng sông ở đây, để bảo vệ cầu phà , đưa xe pháo ra tiền tuyến, chi viện miền Nam. Khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc  bị thất bại, lại chính họ đã lên đường vào Nam chiến đấu, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.Ngày nay đất nước được hòa bình, may mắn họ  còn sống, được  trở về quê hương, lại đang đi kiếm sống để khôi phục lại kinh tế gia đình  đang nghèo đói khó khăn. Đang bơi, cậu Thân  bơi chậm lại, quay đầu hỏi:
-Thủ trưởng Sao ơi, thủ trưởng còn nhớ khúc sông này không? Chỗ cây đa bên bờ Nam kia kìa ! Nam Sao hỏi lại :
-Sao cơ?- Thân nói tiếp:
-Đây chính là tuyến cầu giả, mà hôm ấy thủ trưởng lệnh cho tổ em căng dây  ngang qua sông  để ngăn những mảng  lửa phốt pho ùn lại thành một tuyến dầy đặc, bọn máy bay  Mỹ tưởng là cầu thật của ta, liền chút xuống đây mấy chục quả bom,bị quân ta bắn rơi hai máy bay, chúng chuồn thẳng, tưởng là phá được cầu của ta ,nhưng cầu của ta ở phía thượng lưu gần một cây số vẫn an toàn .
- À, nhớ rồi! Lần ấy các cậu  cũng rất nhanh chân, nếu không thì cầu của ta bị tan
hết .- Minh cũng nói xen vào:
- Em cũng còn nhớ  chứ, cái trận phá tan tuyến lửa trên sông ấy đúng là một trận nhớ đời, chính em cũng bị cháy mất một mảng tóc, mấy tháng sau mới mọc  đấy!- Minh nhớ lại- sau bao nhiêu lần chúng dùng bom đạn bắn phá cầu ta không được, đêm đó bọn giặc sảo quyệt, kéo hàng đàn máy bay đến, ném hàng trăm quả bom lân tinh và phốt pho, cháy  rực đỏ cả một khúc sông, đỏ cả một vùng dài hơn hai cây số ở phía thượng lưu, những mảng cháy lớn nổi lềnh bềnh trên mặt nước  trôi xuống, có nguy cơ gặp cầu phao của ta sẽ bị đọng lại ngang sông, làm mục tiêu để chúng phá cầu .Nhưng vỏ quýt dầy có móng tay nhọn, tiểu đoàn trưởng Nam Sao đã nhanh trí lệnh cho toàn đơn vị, mỗi người cầm một cây sào hoặc một  cành cây  nhảy xuống nước bơi ra giữa sông đập tan những mảng lửa vụn ra, một trung đội đứng trên cầu cầm sào gạt chúng chui qua gầm cầu trôi đi.Anh cũng lệnh cho một tổ chạy xuống dưới hạ lưu thực hiện phương án hai đã chuẩn bị sẵn, căng dây qua sông cho lửa đọng lại để đánh lừa máy bay địch.Lệnh xong , anh cầm một cây sào rồi hô lớn:
-Tất cả nhảy xuống sông!
Toàn tiểu đoàn đều noi gương anh  nhảy xuống, cả các cô thanh niên xung phong cũng nhảy xuống.Mọi người đều tả xung hữu đột, thật là một trận đại hồng chiến, hàng mấy trăm con người  lăn lộn dưới  sông chui vào lửa vừa hô vừa đập, có người bị cháy cả tóc, cháy cả quần áo, phải lặn xuống nước  cho  lửa tắt, cho đỡ rát, có người bị thương vẫn tiếp tục đập, người nọ dìu người kia ,vẫn đập.Cho đến khi bom nổ  dưới tuyến cầu giả hạ lưu, họ mới dìu nhau nhảy lên cầu, ôm lấy nhau, vừa mừng vừa sợ, vừa cười vừa khóc vì đã vượt qua một trận chiến đấu với lửa lạ lùng và ác liệt. Nhịp cầu phao của ta vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục thông cầu chở xe, pháo nối nhau ra tiền tuyến.
Ba chiếc thuyền nan vẫn bơi đều đều, vừa đi vừa kể chuyện.Qua những địa điểm, những trận chiến đấu xưa lòng họ thấy bùi ngùi và xúc động nhớ lại những đồng đội, kẻ còn người mất, nhưng vẫn thấy mình còn hạnh phúc , vì mình vẫn còn , lại đang dìu dắt nhau đi kiếm sống và thăm lại chiến trường xưa như hôm nay. Thân lại hỏi Nam Sao:
-Liệu đến chiều, lúc thủy triều rút ta có đến nơi được không thủ trưởng?
- Thừa sức, mình đã tính toán rồi, chúng mình còn đủ thời gian đánh lưới kiếm vài cân cá để  chiều đến liên hoan gặp mặt với  tổ thằng Cầm chứ.
- Ôi thế thì hay quá !- Minh reo lên- Đề nghị thủ trưởng cho đánh thôi, đánh sớm cho mát !
- Ừ được, các cậu ngắm xem dọc sông có cái vụng nào thì ta quây một mẻ đi, bây giờ cũng đã sáng rồi-Nam Sao trả lời.
-A, có vụng đây rồi thủ trưởng ơi !-Thân kêu to- Nhìn  đằng trước kìa, phía bên tay phải ấy ,ta mở hàng một mẻ đi  các anh ạ.
Họ đi một đoạn nữa, rồi dừng lại bên bờ vụng chuẩn bị rải lưới.Ba người rải ba mặt quây xung quanh vụng, rồi họ tác nghiệp đánh cá.Chỉ mười phút sau họ vớt lưới.Đây là một vụng ở gần ngã ba sông lớn, nên khá nhiều cá và cá lại to, mẻ đầu tiên cả ba thuyền cũng được dăm cân .
-Thế là mở hàng thắng lợi rồi các thủ trưởng ơi!-Minh reo lên- Chiều nay tha hồ mà liên hoan.Họ cụm nhau trên sông uống nước hút thuốc và ăn sáng.
Có xôi  của mẹ đĩ nhà em  thổi cho mang đi đây, mời các thủ trưởng ăn sáng đi- Minh vừa nói vừa đưa cho mỗi người một nắm .
Lại còn túi khoai sọ chấm muối vừng  nữa đây này- Thân tiếp.
-Thôi, khoai để dành đến trưa, khỏi phải nấu cơm-Nam Sao cũng nói-chiều gặp gỡ liên hoan một thể.
 Ăn sáng xong họ lại bơi hành quân trên sông. Vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ.Anh chàng Minh trẻ tuổi nhất còn hứng khởi lên hò hát theo giọng hò sông Mã nữa khi thấy các cô gái chèo thuyền đi qua :
   Ơ hò… Tiếng ai như tiếng tơ vàng
    Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh…ơ hò…
Dọc đường họ còn dừng lại  đánh  hai mẻ lưới nữa, cũng được kha khá.Đến khoảng bốn giờ chiều thì đến địa điểm tập kết ở ngoài thị trấn Cẩm Thủy theo đúng hẹn.Cả tổ ba người của Cầm ra đón tận bờ sông.Mọi người đều hồ hởi ôm chầm lấy nhau, những người đồng đội cũ gặp nhau xiết bao cảm động:
-Chào thủ trưởng Nam Sao !
-A…chú mày là thằng Hùng liều phải không ? Vẫn còn sống à, tưởng mày chết trong trận phá  bom năm ấy ở cầu Tào rồi cơ mà.
-Vâng, em là Hùng đây, hôm ấy em chỉ bị thương ngất đi thôi,khi tỉnh dậy thì nghe anh em bảo thủ trưởng đã hành quân đi B rồi.
Nam Sao lại quay sang một chú khác:
- Còn mày là thằng Huy lái xe bị bom lật đổ  ở cầu Đồi mà không chết có phải không?
-Vâng, chính em đây ạ, thủ trưởng còn nhớ   lính quá!
- Nhớ chứ sao quên được, chúng ta còn sống, còn khỏe mạnh thế này là mừng.
-Nhưng nghèo đói lắm thủ trưởng ạ!
-Thế mới phải rủ nhau đi kiếm ăn, mình cũng đến đây để kiếm ăn và giúp  các cậu kiếm ăn đó thôi.
-Vâng ạ, thủ trưởng  về rồi mà vẫn còn vất vả với các chiến sỹ  chúng em quá, cảm ơn thủ trưởng.
- Đồng đội sống chết còn có nhau, huống chi bây giờ. Vừa lúc đó Minh gọi to:- Mang rổ và quang gánh  ra khiêng cá đi các cậu ơi!- Cả tổ của Cầm đều hỏi:
- Cá ở đâu mà nhiều thế?
-Cá ở sông Mã của các cậu chứ ở đâu, bọn mình vừa đi vừa tranh thủ đánh vài mẻ để lên liên hoan với các cậu đây.
Sau khi bốc cá khiêng lên bờ Huy và Hùng nói to :
-Phải đến trên một yến đấy, toàn cá ngon thôi, liên hoan  một bữa chiều nay sao hết được ?
- Chia cả cho ba  nhà  các đồng chí cùng ăn mữa chứ!- Nam Sao gọi to với  cánh Huy Hùng đang khiêng cá- Ăn cá nhiều vào để mà nổi máu kiếm cá đấy !  Nam Sao đến thăm các gia đình của tổ sông Mã đều ở gần quanh  trong làng đó và động viên mọi người cố gắng làm ăn để tự cứu lấy mình thoát đói khỏi nghèo.Bữa liên hoan chiều hôm đó tổ chức tại nhà Cầm diễn ra rất vui vẻ và  ấm tình đồng đội.Họ kể chuyện đến mãi khuya mà vẫn không bao giờ hết chuyện.Nam Sao phải nhắc :
-Thôi ngủ đi để giữ sức, mai bước vào một trận chiến đấu mới, trận chiến trong thời bình để kiếm sống ! Nói với anh em như vậy, nhưng anh trằn trọc suốt đêm không ngủ được vi thấy thương hoàn cảnh các đồng đội ở đây nghèo khổ quá, anh suy nghĩ tìm cách nào để giúp đỡ họ mau chóng vượt qua được. Ngay từ sáng sớm hôm sau  các tổ viên đã lục đục kéo đến ra quân.Từ tối qua, tổ trưởngThân, tổ  sông Lèn đã bàn, có sẵn ba thuyền,  mỗi thuyền kèm một tổ viên sông Mã bắt đầu thực tập rải lươi trên sông.Nhưng Nam Sao bảo :
- Chưa được, phải dành một tuần lễ học cơ bản đã, cũng như học quân sự ấy, muốn chiến đấu giỏi phải học từng động tác  bài bản từ đầu rồi mớí tập tổng hợp được.Những động tác cơ bản ở đây  trước hết là tập bơi thuyền thúng thành thạo đã, bơi ngồi, bơi đứng, bơi khom, bơi xuôi dòng, bơi ngược dòng, bơi trong gió mưa bão táp, bơi trong đêm tối mù mịt, bơi để không va chạm vào thuyền khác và cũng tránh để không bị thuyền khác va vào mình và sử trí tình huống khi thuyền bị lật, bị chìm, phải tự cứu lấy mình mà không bị trôi mất đồ nghề, kể cả cá đã đánh được làm sao không bị mất…  Ở con sông Mã rất rộng và mùa nước rất hung dữ này, nếu không có bản lĩnh thì mất nghiệp như chơi, mà có khi còn mất mạng nữa.-Mọi người đều lắng nghe và hưởng ứng ý kiến của Nam Sao. Cậu Hùng liều liền vội vàng hỏi:- Thưa thầy, các điều thầy nói em đều hiểu, còn việc  giữ cá không bị mất khi đã bị lật thuyền rồi thì làm thế nào cơ ạ?- Đơn giản, khi thấy thời tiết không thuận lợi  thì cho cá vào lồng ,buộc dây vào cáng thuyền cho chắc ăn.- À ra thế, em hiểu rồi ạ! – Nam Sao lại tiếp:
- Động tác cơ bản của việc rải lưới là rải xuôi dòng, rải ngược dòng, rải ngang sông, khi nào rải nông , khi nào rải sâu, việc sử trí khi lưới bị vướng vào vật cản trôi sông, bị cá to lôi đi xa, hoặc bị chìm xuống đáy sông, nếu không có biện pháp sử lý khéo và kịp thời thì sạt nghiêp hết, mất cả chì lẫn chài.Ngay cả việc ,gõ lưới  đuổi cá cũng phải có bài bản chứ không phải gõ lung tung, đuổi lung tung , cá  không chạy vào lưới mà lại chạy ra ngoài cả  thì không ăn thua, có gõ cả ngày cũng chẳng được mấy . Các cử tọa ngồi nghe Nam Sao nói cứ há hốc mồm ra, cứ xít ra xít vào.Anh lại nói tiếp:
- Ngay cả việc vớt lưới bắt cá cũng phải có nghề, khi nào thì kéo nhanh, khi nào thì kéo chậm, có lúc gặp cá to còn phải bơi theo cá, rồi nhẹ nhàng kéo lên mặt nước và dùng vợt chụp lấy ngay, nếu không nó rãy, rách toạc cả lưới, mất cả cá đấy !… Nghe xong tầm quan trọng của việc học cơ bản, ai cũng nhất trí với thầy Nam Sao, dành một tuần lễ đầu tiên để học các động tác cơ bản mà không nóng vội thực tập tổng hợp ngay. Buổi sáng đầu tiên Nam Sao dùng ba thuyền nan cho ba tổ viên của tổ sông  Mã tập bơi đơn thuần, không mang theo đồ nghề gì cả.Các giáo viên hướng dẫn từng động tác cụ thể, từ cách ngồi cách đứng, cách cầm dầm bơi, cầm sào.Cách bơi tiến, bơi lùi, bơi ngang, bơi một tay, bơi lượn vòng…Họ tập ở chỗ nước đứng dần dần mới ra chỗ nước chảy chậm, nước chảy nhanh,bơi ngang sông, bơi đi bơi về hàng chục vòng, rồi bơi dọc sông hàng chục cây số.Chiều về anh nào anh nấy đều mệt bở hơi tai, nhưng vẫn động viên nhau kiên trì luyện tập, họ đã quen với tác phong huấn luyện của tiểu đoàn trưởng Nam Sao từ hồi trong quân ngũ.Buổi chiều tối để ba học viên nghỉ lấy sức cho buổi tập ngày mai.Ba giáo viên lại lấy thuyền đi  thả lưới  quanh vụng gần đó để lấy cá về bồi dưỡng cho anh em luyện tập và các giáo viên huấn luyện.Đêm đó họ cũng đánh được hơn một yến cá, chia cho các gia đình để kho ăn dần trong  mấy ngày huấn luyện.Vào ngày thứ ba thì gặp trời mưa, tổ trưởng Cầm đề nghị với thầy Nam Sao cho nghỉ, nhưng anh gạt đi mà bảo:
-Đây là  thời cơ cho chúng ta luyện tập, phải tận dụng mọi thời tiết để rèn luyện. Trước đây trong quân ngũ chúng ta phải tranh thủ mọi thời gian, mọi thời tiết để huấn luyện chiến đấu vì tổ quốc.Bây giờ  xuất ngũ rồi, chúng ta cũng phải tận dụng mọi thời gian, mọi thời tiết để rèn luyện vì cuộc sống mưu sinh của chúng ta .Mình phải tự lo cho mình thôi, chẳng ai lo cho mình cả !
-Em chỉ sợ các giáo viên mệt thôi !
- So với thời gian huấn luyện trong quân ngũ thì đã thấm vào đâu, các đồng chí hãy cố gắng lên, không phải lo cho chúng tôi đâu, các đồng chí thành nghề thì chúng tôi mới vui và hết mệt!-Quả nhiên hôm ấy trời mưa to, anh em mặc áo mưa đội mũ cối đều lao ra sông tập suốt cả ngày hôm ấy trong mưa to gió lớn, các giáo viên đều tận tình ngồi cùng thuyền để hướng dẫn sử trí tình huống thuyền bị lật trong mưa gi, đến chiều tối mới về, người nào người ấy đều ướt sũng, nhưng rất hả hê vì đã biết cách sử lý trong tình huống mưa to gió bão.
 Sau ba ngày ở Cẩm Thủy để giúp đỡ huấn luyện cho tổ sông Mã.Theo kế hoạch đã bàn từ trước, ngày thứ tư Nam Sao bàn giao lại cho hai huấn luyện viên của tổ sông Lèn ở lại tiếp tục giúp đỡ cho tổ sông Mã .Còn anh lại chuyển đi kiểm tra và giúp đỡ tổ sông Bưởi, anh dặn hai tổ trưởng Thân và Cầm:
- Hết tuần lễ học cơ bản, đến tuần học tổng hợp là có thể kiếm cá được rồi, nhưng không vì say kiếm cá mà quên mất học tập bài bản, không nóng vội ăn sổi, sau mỗi lần tập và đánh cá, đều phải rút kinh nghiệm tìm ra ưu khuyết điểm để kịp thời khắc phục cho mẻ sau, lần tập sau.Phải học nghiêm túc thì mới chóng thành nghề, tôi sẽ lên với các đồng chí sau hai tuần nữa.
 Sáng hôm sau tạm biệt tổ sông Mã và các giáo viên, Nam Sao lại một mình một thuyền xuôi dòng sông Mã về sông Bưởi, anh phải bơi gần hai mươi cây số qua ngầm Eo Lê gần thành nhà Hồ rồi rẽ vào sông Bưởi, trên đường đi có một mình , lại xuôi nước, nên anh đi khá nhanh.Anh cũng dừng lại  đánh mấy mẻ lưới để kiếm cá làm quà cho tổ của Tề buổi chiều nay.Khoảng năm giờ chiều anh đã tới nơi tập kết ở một làng  phía Nam bến Cổ Tế.Cả bốn tổ viên và hai giáo viên của tổ sông Lèn đều đã đón chờ đông đủ.Họ ôm chầm lấy nhau vui cười ríu rít, Tổ trưởng Tề giới thiệu:
 -Có cả hai đồng chí đã đi làm sơn tràng nghe tin thủ trưởng đến chỉ bảo, cũng  bỏ về học nghề đánh cá của thủ trưởng rồi đấy ạ !
- Đâu đâu, hai cậu ấy đâu?- Chúng em đây ạ!
- Tưởng là ai, hóa ra là thằng Kim và thằng Nhạn à? Các chú trước kia đều là lính của đội trưởng phá bom  Đoàn Văn Lộc  có phải không?
-Vâng đúng đấy ạ, thủ trưởng nhớ chiến sỹ quá!
 - Các chú còn nhớ liệt sỹ phá bom Lê Thanh Sơn ở đây không, mộ có còn hay mất, hãy còn à, tí nữa chúng ta phải ra thắp hương cho chú ấy nhá ! Đang nói chuyện ở trên bến thì nghe thấy cá rẫy đành đạch ở dưới thuyền, mọi người đều nhìn ra :
-Cái gì thế nhỉ, hình như thủ trưởng đánh cả cá đem về à ? Tổ trưởng Tề hỏi.
- Mình thấy trời còn sớm , nên đánh mấy mẻ về để các cậu uống rượu cho vui
.-Ôi, hế thì nhất thủ trưởng rồi! Hoan hô thủ trưởng ! Ngay sau đấy  họ kéo nhau đến thắp hương cho mồ liệt sỹ Lê Thanh Sơn, rồi kéo về nhà tổ trưởng Tề. Đêm đó họ lại liên hoan, lại tâm sự suốt đêm như ở tổ Cẩm Thủy.Sớm hôm sau ,Nam sao kiểm tra việc huấn luyện của hai giáo viên của tổ sông Lèn với bốn học viên của tổ sông Bưởi trong ba ngày qua.Biểu dương các huấn luyện viên và học viên đã tích cực và nghiêm túc thực hiện theo chương trình đã vạch ra, và góp ý bổ sung thêm một số điểm cơ bản trong học tập, để nhanh chóng thành nghề , kiếm ăn xóa đói giảm nghèo cho bản thân và gia đình mình. Nam Sao cũng ở lại đây ba ngày huấn luyện , rồi lại chia tay tổ Sông Bưởi, một mình lại bơi thuyền đến tổ Sông Ghép cách đó gần ba mươi cây số.Trên đường đi,  anh còn dừng lại ở cầu Hàm Rồng, thả lưới đánh cá và để nhớ lại một trận tháo thủy lôi trôi trước đây.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2016 15:00:23 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 21.07.2016 09:29:12
Chương 14-THÁO GỠ THỦY LÔI TRÔI 30-5-66

Cầu Hàm Rồng nằm trên quốc lộ số 1 bắc qua sông Mã.Mố bờ Bắc thuộc xã Hoằng Long – huyện Hoằng Hóa, mố bờ Nam thuộc xã Đồng Sơn –huyện Đông Sơn.Đường bộ và đường sắt vào cầu bên bờ Bắc độc đạo, một bên là chân núi Ngọc dốc đứng, một bên là tả luy dốc xuống sông Mã.Phía bờ Nam cách mố 200m là nhà máy điện Hàm Rồng.Phía hạ lưu cách cầu  100m là bến phà Hàm Rồng.Khu vực này thành một cụm giao thông, kinh tế quan trọng của tỉnh Thanh Hóa .
Giặc Mỹ thường xuyên dùng máy bay đánh phá, chúng dùng nhiều thủ đoạn, bay ngày, bay đêm, sử dụng nhiều kiểu loại bom đạn khác nhau nhằm mục đích phá hoại và ngăn cản  giao thông từ Bắc vào Nam của ta.Trận đánh lớn nhất là hai ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965  rồi tiếp tục hàng năm trời.Đánh phá các công trình khu vực Hàm Rồng hỏng đi, hỏng lại nhiều lần nhưng vẫn không phá được cầu, ta vẫn khắc phục nhanh chóng bảo đảm giao thông thông suốt.Nên giặc Mỹ  cay cú, phải nghiên cứu chế tạo một loại vũ khí mới để chuyên đánh cầu Hàm Rồng.Trận ác liệt bắt đầu từ ngày 29-5-1966, chúng sử dụng nhiều tốp máy bay ném bom mật độ dầy đặc, tập trung vào khu cầu, nhưng cầu chỉ bị thương nhẹ, bom rơi nhiều ở hai bên bờ và thượng hạ lưu cầu, rơi dưới sông.Khoảng 1 giờ đêm, từ Tỉnh đội cách xa cầu 15km nghe thấy những tiếng nổ lớn dồn dập cách nhau 5-10 phút một tiếng nổ.Phán đoán tiếng nổ nằm trên mặt đất hoặc mặt nước, khác với tiếng nổ của bom là nổ to và đanh.Năm giờ sáng nhận được báo cáo  của đài quan sát Hàm Rồng:Vào lúc 0 giờ 15 phút ngày 30-5-1966, 1 máy bay C130 thả một vệt thủy lôi theo dọc sông về phía thượng lưu, cách cầu Hầm Rồng khoảng 3km.Đến 1 giờ thì xuát hiện tiếng nổ, mà tiếng nổ cứ trôi dần về phía cầu, đếm  được 5 tiếng nổ, khu vực Hàm Rồng lại yên tĩnh.Trời sáng hẳn, mới quan sát thấy, trên mặt sông cách cầu khoảng 200m, thấy một quả thủy lôi chưa nổ màu đen bị giữ lại không trôi được nữa.
   Tình hình ta: Lệnh của  đồng  chí  chỉ huy trưởng Tỉnh đội, việc đi lại trên cầu ,trên sông tạm dừng hoạt động.Tỉnh tổ chức ngay một bộ phận trinh sát và khắc phục bom đạn sẵn sàng làm nhiệm  vụ.Đồng chí Phạm Văn Thứ Tham mưu phó tổ chức bộ phận này để xuống hiện trường, thành phần gồm: hai sỹ quan  trợ lý công binh:Đào Xuân Nhật, Nguyễn Văn Xuân và một  sỹ quan trợ lý tác  chiến Phạm Văn Dũng, do chủ nhiệm công binh Nam Sao phụ trách ra ngay hiện trường cầu HàmRồng.
   Tổ chức trinh sát: 7 giờ tất cả đã có mặt ở hiện trường, đứng trên bờ sông quan sát  hiện vật, dáng như một chiếc thuyền thúng cách bờ khoảng 100m ở giữa dòng chảy, hôm ấy nước sông to, do mưa trên nguồn từ mấy hôm trước chảy về có lưu tốc nước mạnh, làm cho quả thủy lôi cứ bập bềnh muốn rời khỏi vị trí.
   Sau một giờ ngồi trên bờ trao đổi, để nhận dạng và phán đoán đó là loại thủy lôi gì ?.Cuối cùng không ai kết luận được một cách chính xác, mà chỉ phán đoán đó là một loại thủy lôi trôi..Đào Xuân Nhật phát biểu:
- Có thể đây là loại thủy lôi có  sừng va chạm để gây nổ đánh  các phương tiện đi trên sông  biển .đề nghị chúng ta phải trực tiếp đến hiện vật để xem xét, đứng trên bờ không thể kết luận được và không thể có biện pháp khắc phục .Trường hợp này ta không nên dùng biện pháp  phá nổ bằng cách bắn súng hay bộc phá,như vậy ta không nghiên cứu được đây là loại vũ khí mới của địch.Tôi đề nghị giữ lại hiện vật để tìm cách chống, phá, khi địch đánh sau này.Đồng chí Thứ điện về báo cáo với chỉ huy trưởng và dự kiến phương án khắc phục theo ý kiến của Đào Xuân Nhật.Được cấp trên chấp nhận.
   Tổ kỹ thuật được thành lập ngay trên bờ sông do đồng chí Đào Xuân Nhật phụ trách, đồng  chí Nguyễn Văn Xuân tổ viên và đồng chí Cư trung sỹ công an khu vực Nam Ngạn Hàm Rồng, tổ  viên.Đội hình đi đã được bố tri sẵn sàng.
Dự kiến một số tình huống có thể sảy ra:
-Thủy lôi chưa va chạm vào mục tiêu nên chưa nổ.
-Thủy lôi đang làm việc và chờ thời gian tự hủy.
-Trong khi người và phương tiện tiếp xúc thủy lôi có thể gây thủy lôi nổ và thương vong.
Quyết tâm ra khơi vẫn không thay đổi.
Đội hình gồm: Đồng chi Xuân cán bộ kỹ thuật công binh, đồng chí Cư công an chèo thuyền. Mọi  người trên bờ sông đã được lệnh vào vị trí ẩn nấp phía sau bờ đê .
Trận chiến đấu bắt đầu :
Thuyền rời khỏi bờ chếch về phía thượng lưu 100m so  với thủy lôi, lợi dụng sức nước chảy đưa thuyền tiếp cận thủy lôi, sợi dây bảo hiểm buộc vào thuyền và từ từ tở ra theo thuyền .Thời gian căng thẳng tính theo giây phút, vì đây là một cuộc chiến đấu giáp lá cà với địch.Sợi dây bảo hiểm vẫn từ từ tở ra.Thời điểm tiếp xúc giữa thuyền và thủy lôi đã đến gần.Sự im lặng của mọi người trên bờ đã lo lắng thực sự.Không biết mọi hành động của hai người trên thuyền khi chèo sát vào thủy lôi, có bình tĩnh làm đúng các động tác đã thống nhất trên bờ không, mọi người ngó đầu lên để quan sát.
  Thuyền đã tiếp xúc thủy lôi một cách chính xác,sợi dây bảo hiểm theo dòng chảy thành hình vòng cung nổi trên mặt nước, thuyền và thủy lôi thành một khối dừng lại.Đồng chí Xuân rời khỏi thuyền, bước lên mặt quả thủy lôi xem xét tổng thể và ghi chép một số hình dáng cấu tạo bên ngoài của thủy lôi.Thời gian diễn ra 5 phút, đồng chí Xuân bước xuống thuyền, dây bảo hiểm kéo thuyền vào bờ.
Đồng chí Xuân báo cáo :- Mặt quả thủy lôi hình 8 cạnh(bát giác)-Đường kính khoảng 1,8m-2,2m.Ở giữa lõm xuống một bậc khoảng 20cm theo hình 8 cạnh ,đường kính khoảng 1,2 m-Ở trung tâm trên mặt có 1 ô tròn, đường kính khoảng 30 cm, chứa 7 mặt kính lồi ( 1 cái ở giữa ô, 6 cái xung quanh), khi nhìn vào thấy xuất hiện màu sắc : xanh- tím-vàng - đỏ,  khác nhau-Trên thành có 1 vòng cáp lụa nhỏ có thể được nối thông vào bên trong quả.-Thủy lôi bị giữ lại trên dòng chảy  là do chiếc dù giảm tốc chưa tách rời khỏi thủy lôi, vì dây dù bị vướng vào một vật thể dưới đáy sông, làm cho thủy lôi không trôi đi được.
Qua báo cáo của đồng chí Xuân, tổ kỹ thuật trao đổi cần nắm thêm một số cấu tạo bên ngoài của thủy lôi một cách tỉ mỉ hơn nữa để làm cơ sở lập kế hoạch tháo gỡ ,báo cáo cấp trên.Tổ chức trinh sát tiếp tục lần thứ hai: đội hình như cũ, thêm đồng chí Nhật tổ trưởng .Khi thuyền tiếp cận, Nhật và Xuân cùng bước lên quả thủy lôi, sức nổi  của quả thủy lôi thay đổi không đáng kể, hai người cùng  nhau xem xét cấu tạo bên ngòai kỹ hơn.
-Phần nổi trên mặt nước khoảng 30-35 cm
- Sáu ổ khóa dây dù vẫn đóng chặt
Vòng cáp lụa trên thành thủy lôi có một sợi dây thép luồn qua .Phán đoán: khi tách dù, sợi dây thép sẽ giật vòng cáp ra, để đưa thủy lôi vào trạng thái chờ nổ.
Nhật đi xung quanh, vịn tay vào thành thủy lôi, đưa hai chân xuống nước, sờ bằng chân vào xung quanh xem có gì vướng không, không có gì, chỉ có cấu tạo của vỏ thành và đáy quả thủy lôi thôi.
Qua hai lần trực tiếp trinh sát, đã có số liệu báo cáo Bộ chỉ huy quân sự tỉnh và Quân Khu.Đồng thời Ban công binh tỉnh tiến hành lập kế hoạch tháo gỡ.
   Tổ chức tháo gỡ:Sáu giờ sáng hôm sau Nam Sao, trưởng ban công binh nhận được lệnh của tỉnh và quân khu cho tổ chức tháo gỡ.Việc tổ chức được thành lập ngay.Thành phần gồm:
        -Thiếu tá Trần Khắc Biểu, phó phòng công binh Quân khu.Chỉ huy chung.
        - Thượng úy Nguyễn thế Huấn, trợ lý bom mìn Quân khu.
        -  Thượng úy Phạm Mạnh Quỳnh, trợ lý bom mìn Bộ tư lệnh công binh.
        -  Thượng úy  Nguyễn Nam Sao, trưởng ban công binh Bộ chỉ huy quân sự Thanh Hóa.
        - Chuẩn úy Đào Xuân Nhật, trợ lý bom mìn tỉnh Thanh Hóa.
        - Chuẩn úy Nguyễn Văn Xuân, trợ lý công binh tỉnh Thanh Hóa.
Được trang bị: 1 thuyền nan, 150m dây bảo hiểm,150m dây cáp lụa, 1 tời bằng sắt quay tay, các dụng cụ tháo phá bom mìn.
Thứ tự các bước tiến hành:
Bước một:Đưa thủy lôi vào mép nước bờ sông, là những người đã trinh sát:Nhật và Xuân, làm các động tác an toàn cho người xong, bơi thuyền nan kéo theo hai sợi dây:1 dây cáp, 1 dây thừng, ra vị trí của thủy lôi, nhanh chóng thao tác, quàng một vòng cáp qua mặt quả, trượt xuống xung quanh thành xuống đáy ngoài của quả thuỷ lôi.Buộc dây thừng vào móc thành thủy lôi.Xong bơi thuyền vào bờ.Lệnh tời cáp.Sợi cáp được từ từ cuốn lại theo tời và căng dần ra tới mức nhất định, nó co kéo làm đứt hệ thống dây dù nối vào ổ khóa thành thủy lôi, chiếc dù vẫn mắc vào vật thể  ở đáy sông, nằm lại đó.Quả thủy lôi đã buộc sẵn  dây bảo hiểm kéo vào bờ.
  Lệnh cho các đồng chí phuc vụ cho việc tời, kéo quả thủy lôi, thu dọn dụng cụ về vị trí quy định phía sau.Các đồng chí cán bộ kỹ thuật công binh của Bộ, quân khu và tỉnh chuẩn bị cho việc nghiên cứu tháo gỡ. Tổ trinh sát  kỹ thuật gồm các đồng chí Quỳnh, Huấn, Nhật và Nam Sao quây quanh qủa thuỷ lôi nghe đồng chí Nhật, giới thiệu khái quát những điểm đã trinh sát được ngày hôm qua, về hình dáng và hiện trạng lúc thủy lôi còn đang ở giữa sông.Nhìn vào hiện vật ,các đồng chí trao đổi khái niệm về nguyên lý  gây nổ của các loại thủy lôi này như:
-Nổ do điều khiển từ xa bằng vô tuyến.
-Nổ do hiện hình màn quang trên các kính bố trí trên mặt thủy lôi, khi vào gầm cầu nổ hất tung cầu lên.
- Nổ do cảm ứng điện từ, và nổ tự hủy, khi đã hết thời gian quy định nằm ở đất đối phương, như 5 quả nổ ngày hôm qua, để bảo đảm bí mật loại vũ khí mới.
 Tại sao quả này chưa nổ được là vì vòng cáp an toàn chưa được rút ra để nối thông mạch cho hệ thống của máy thủy lôi làm việc.
 Những ý kiến nói trên, tổ kỹ thuật đều nhất trí  đi đến kết luận là có cơ sở khoa học, của loại vũ khí mới của đế quốc Mỹ.Ta mới tiếp xúc lần đầu, cần phải tháo ra để nghiên cứu học tập và tìm cách đối phó với địch.Đồng chí Quỳnh đã được phép của Bộ, tranh thủ ý kiến của đồng chí Biểu và đồng chí Nam Sao thống nhất với tỉnh  cho tổ chức thực hành tháo gỡ.
Hiện trường tháo gỡ, được chuẩn bị chu đáo.Quả thuỷ lôi được đưa đến một chỗ lõm dưới nước, thuộc đất bãi ven sông phía bờ Bắc cách Hàm Rồng 500m về phía thượng lưu.
Tổ kỹ thuật tháo gỡ do đồng chí Quỳnh phụ trách, 2 tổ viên Huấn và Nhật, Đồng chí Nam Sao giám  sát chung và bảo đảm an toàn.
  Bước hai:
Thời gian bắt đầu lúc 13  giờ ngày 30-5-1966.
Thứ tự tiến hành:
-Chụp ảnh quả thủy lôi xong , mang máy ảnh để ở phía sau quả thủy lôi cách 100m, đề phòng thủy lôi nổ trong khi chưa tháo xong, sẽ tồn tại hình ảnh đã chụp được.
-Ba đồng chí bước xuống quả thủy lôi, đồng chí Quỳnh là người tháo , đồng chí Nhật và Huấn phuc vụ và trao đổi kỹ thuật trong quá trình tháo gỡ.
-Dùng cờ lê vặn các ê cu liền ốc mở các nắp trên thành thủy lôi (chụp ảnh )
-Dùng tay lấy những bánh xốp màu trắng ghép sát nhau bên trong thủy lôi ( đề phòng thủy lôi khi bị thủng vẫn nổi được).Lúc này thấy các ô chứa máy lộ ra.
-Dùmg cờ lê vặn các ốc nắp máy và mở nắp máy, thấy các hệ thống đường dây điện thông vào các buồng chứa máy ở quanh thành quả thủy lôi và buộc thành từng nhóm dây lại với nhau ( dừng lại chụp ảnh)
-Nam Sao đề nghị tổ kỹ thuật nghỉ ít phút để trao đổi rút kinh nghiệm, bổ sung cho bước tháo tỉ mỷ, thận trọng và chuẩn xác hơn, có thể chỉ một sơ xuất nhỏ, chập mạch điện, gây nổ thủy lôi.Máy ảnh đưa về vị trí cất dấu xong lại tiếp tục tháo gỡ.
-Tách riêng ra từng sợi dây điện và cắt rời không cho chúng nối thông mạch với nhau, các đầu dây đều quấn cách điện.
-Lần tìm điểm đầu và điểm cuối của dây, xem nối vào những bộ phận nào,
-Tìm thấy mạch điện nối thông kíp với thuốc nổ mồi,  nằm trên lượng thuốc nổ của thủy lôi.(dừng lại chụp ảnh)
-Cắt từng sợi dây tách khỏi nguồn nối với kíp.
-Lấy hộp kíp và bánh thuốc mồi ra.Trên mặt lượng thuốc nổ, mạng màu trắng bố trí ở toàn bộ phần đáy của thủy lôi.Đã tháo được kíp nổ và phát hiện không còn đường dây nào tới lượng nổ nữa.Ai cũng thở phào nhẹ nhõm.mọi động tác tháo lúc này tự tin hơn và chắc thắng.Nam Sao nói với mọi người :
-Nhưng không được chủ quan !
-Lần lượt tháo các hộp máy ở trong buồng chứa máy, mang ra.Bảo quản và đánh dấu thứ tự  vị trí của chúng .Lúc này quả thủy lôi biến thành một cái nồi đựng thuốc nổ.Mọi người mới hể hả cười vang: Thành công rồi !chiến thắng rồi!
Nam Sao lệnh cho chiếc xe tải của Bộ tư lệnh công binh đã chờ sẵn, lùi xuống gần quả thủy lôi, Xuân và Nhật nhanh chóng bắc hai ván trượt.Nam Sao tập trung mọi người kéo và đẩy nó lên xe, chằng buộc lại thật chắc chắn.Các phụ kiện đóng hộp để riêng một chỗ, có người bảo quản cẩn thận.Xe nổ máy đưa về Viện nghiên cứu , Bộ tư lệnh công binh.
Kết thúc tháo gỡ quả thủy lôi trôi lúc 17 giờ cùng ngày. Tổ kỹ thuật thu dọn dụng cụ về vị trí rút kinh nghiệm trận đánh.
Nhận xét:Các đồng chí chỉ huy và các đồng chí tham gia khắc phục hậu qủa sau trận đánh bằng thủy lôi của địch đã thống nhất đi đến kết luận:
-Địch dùng loại thủy lôi trôi kiểu mới chứa lượng nổ to và sức nổ mạnh.Trọng lượng cả vỏ là 5.000 LBS (bảng Anh), nhằm vào mục đích phá cầu Hàm Rồng.Dự đoán nguyên lý gây nổ là: Khi thủy lôi trôi đến gầm cầu, gây thay đổi ánh sáng trên mặt quả thủy lôi, các bộ phận máy bên trong làm việc, gây thủy lôi nổ.
- Sau trận đánh, đài quan sát đã kịp thời phát hiện và báo cáo về Sở chỉ huy.
-Các đồng chí chỉ huy của  các cấp nghiệp vụ công binh:Tỉnh, Quân khu, Bộ tư lệnh công binh đã nhanh chóng kịp thời chỉ đạo giải quyết hậu quả.
-Các đồng chí trinh sát kỹ thuật lúc ban đầu kiên quyết dũng cảm, thông minh sử trí tình huống trong khi làm nhiệm vụ, đã giúp cho việc thực hành tổ chức tháo gỡ có hiệu quả tốt, kết quả này làm tiền đề cho việc nghiên cứu tài liệu của Bộ, phổ biến rộng rãi cho các đơn vị để sẵn sàng  dùng các biện pháp chống lại loại vũ khí mới này của địch.
   Nam Sao vẫn nhớ như in từng giờ phút của trận phá gỡ thủy lôi trôi này:
0 giờ 15  phút ngày 30 -5-1966 một máy bay C130  thả một vệt 6 quả thủy lôi trôi  vào Hàm Rồng,bị nổ 5 quả chưa đến chân cầu, 1 quả bị mắc lại và không nổ.Phá đoán như sau:
5 quả nổ là do tự hủy- chưa trôi đến gầm cầu, nên chưa có tác động màn ánh sáng-Tự hủy là do thả xa quá, mà thời gian tự hủy lại để ngắn.1 quả không nổ vì chưa cắt được dù, nên chưa đưa đầu nổ vào vị trí chiến đấu, có thể do dù mở chưa hết, nên khi xuống bị mắc cây ngầm dưới sông. Cũng có thể còn do gió ngược với nước ( nước xuôi, gió ngược)nên thủy lôi trôi chậm hơn theo tốc độ nước chảy (Vm/s) của nước, hoặc bọn Mỹ tính thủy triều lúc đó sai, nên tốc độ chậm , bị nổ trước khi đến cầu.
Cay cú vì bị thất bại ngày 30-5-66, bọn giặc lái không phá nổi cầu Hàm Rồng.Bọn chỉ huy lầu năm góc Mỹ lại thúc  ép bọn giặc lái tiếp tục thả trận thứ hai:
0 giờ 45 phút ngày 31-5-66 địch lại cho một máy bay C130 đi thả thủy lôi tiếp để phá cầu Hàm Rồng.Thủ đoạn, máy bay đi vòng theo hướng khác, vào sườn Nam núi Nưa thuộc huyện Triệu Sơn, rồi vòng ra Hàm Rồng, để tránh cao xạ ta.Nhưng đến Triệu Sơn thì bị một tiểu đoàn cao xạ  ta đang huấn luyện tại đó ,liền bắn cháy chiếc C130 này, máy bay rơi tại chỗ tổ giặc lái đều chết hết.Thế là tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa .Số thủy lôi bị nổ 5 quả, còn lại một quả nguyên vẹn bắn ra đất.Phòng công binh Quân khu liền tổ chức thu dọn, cẩu những bộ phận của chiếc C130 này về triển lãm ở Hà Đông, trong đó có 1 quả thủy lôi còn nguyên.( quả thủy lôi ngày 30-5 đưa về Bộ tư lệnh công binh) Đồng chí Nguyễn Tuyên được giao nhiệm vụ nghiên cứu tính năng tác dụng và nguyên lý nổ của các loại thủy lôi này đã viết thành tài liệu phổ biến kịp thời trong lực lượng công binh.Ban công binh tỉnh do đòng chí Nam Sao làm trưởng ban đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan sát, trinh sát và kịp thời phối hợp với cán bộ kỹ thuật bom mìn Quân khu và Bộ bảo đảm việc tháo gỡ thủy lôi nhanh chóng an toàn.


Hàm Rồng tháng 10-1967

Ngày 4-4-1965 không quân Mỹ mở đợt đánh phá xuống khu vực cầu Hàm Rồng liên tục, thả nhiều bom đạn, nhưng cầu vẫn hiên ngang.Các đoàn xe vận tải từ Bắc vào Nam, chở đầy lương thực, vũ khí, phân đạm.Lại có cả các xe chở các loại pháo, vẫn bon bon trên cầu Hàm Rồng.Địch đánh , ta sửa ta đi .Địch lại đánh, ta lại sửa ta đi.Địch đánh ngày, ta sửa ngày.Địch đánh đêm, ta sửa đêm.Địch đánh ít, thì máy bay rơi ít, địch đánh nhiều, thì máy bay rơi nhiều.Hàng trăm chiếc máy bay Mỹ đã bị quân dân ta bắn rơi, hàng vài chục giặc lái đã bị ta bắt sống tại đây.
 Đường giao thông của ta vẫn thông suốt, không quân Mỹ càng tức tối, tập trung máy bay đánh phá ác liệt từng đợt.Những trận ném bom, tên lửa, kể cả pháo kích từ biển vào khu vực cầu Hàm Rồng ngày 21,22,23-10-1967.Số máy bay đã tăng mỗi toán  từ 35-40 chiếc.Trong một ngày 6 lần đánh phá.Mỗi lần chúng ném bom dọc bờ sông Mã và hai bên núi.Cánh đồng khói bốc lên nghi ngút mỗi bề hai cây số.Khi máy bay Mỹ đến, các hỏa lực phòng  không của ta lại bắn bao vây chúng, cái thì cháy,cái thì rơi, số còn lại tháo chạy ra biển.Những đòn đích đáng vào không lực Hoa Kỳ.Thế  mới biết sức mạnh của nhân dân Thanh Hóa anh hùng.
   Ngày 21 -10 hồi 9 giờ sáng,một đoạn đường ô tô khu vực đồi không tên bị trúng 3 quả bom, phá 50m đường.
   Ngày 22-10, một đoạn đường số 1, cách cầu Hàm Rồng 500m, đường sắt và đường bộ trúng bom phá 30m .
   Ngày 23-10 , cầu Hàm Rồng bị thương nặng, mố phía Nam, xe không qua được, đồng thời đường tránh khu vực  đồi không tên hỏng hàng trăm mét.Bom bi, bom chưa nổ, rải rác ở khu vực đồi không tên cầu Hàm Rồng.Đây là một trong hàng trăm trận, quân Mỹ đánh ác liệt nhất, và cũng trong một ngày máy bay Mỹ  bị hạ 9 chiếc, cầu chỉ bị chúi xuống, chưa bị sập.
   Chủ trương kế hoạch của ta:Phán đoán được âm mưu mở chiến dịch lớn, đánh phá giao thông của địch.Ta đã bố trí sẵn những lực lượng bảo đảm giao thông,gồm có:Đại đội công binh 21, bộ đội địa phương tỉnh Thanh Hóa.Đội cầu đường sắt.Đội công nhân giao thông hạt thị xã.Đội cầu phao ty giao thông.Ngoài ra Quân khu còn bố trí tiểu đoàn 27 công binh cầu phà, sắn sàng chi viện cho Hàm Rồng, Đò Lèn.Còn một đội  quân ngoài biên chế là dân quân và nhân dân hai huyện thị, Hoằng Hóa, thị xã Đông Sơn.Cần thiết sau hai giờ có hàng vạn người ra ứng cứu.Một sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở khu vực Hàm Rồng Thanh Hóa.     
   Ban chỉ đạo trên mặt trận chống chiến tranh phá hoại gồm có phó chủ tịch Hoàng Văn Hiều, tỉnh đội, ty giao thông , công an , ty y tế vv…Thường xuyên thường trực chỉ đạo và chỉ huy.Thượng úy Nam Sao là chủ nhiệm công binh tỉnh Thanh Hóa là ủy viên thường trực cho ban chỉ đạo, và trực tiếp chỉ huy, điều động các lực lượng  công binh và giao thông để sử lý các tình huống.
   Quyết tâm và sử dụng lực lượng:Địch tập trung đánh phá khu vực Hàm Rồng 3 ngày liền .Ban chỉ đạo tỉnh Thanh Hóa hạ quyết tâm:Huy động mọi lực lượng bảo đảm giao thông thông suốt không được để tắc quá đêm.Sử dụng lực lượng:- Đại đội 21 công binh Thanh Hóa chuyên về phá gỡ bom đạn các loại -Quân khu 3 chi viện tiểu đoàn 27 bảo đảm bến vượt nặng ở thượng lưu cầu Hàm Rồng 2km.-Hạt giao thông Hoằng Hóa, thị xã sửa đường hai đầu mố.-Đội cầu phao giao thông :Sửa và bắc cầu phao hạ lưu cầu Hàm Rồng 1km, cho người và xe cải tiến qua(cầu Nam Ngạn).-Đội cầu sắt sửa chữa cầu Hàm Rồng.-Dân quân tự vệ được huy động phối hợp làm đường, làm trận địa, vận chuyển vật liệu.- Riêng đại đội 21 công binh: Làm đường,phá bom đạn địch còn lại, thu nhặt bom bi trên toàn khu vực Hàm Rồng, tập trung lại phá hủy.
   Diễn biến:- Từ 8 giờ sáng ngày 21-10-1967, không quân Mỹ đánh phá không ngớt đến đợt cuối  cùng là 16 giờ .Khu vực HàmRồng, khói bom, khói súng, tiếng nổ to, tiếng nổ nhỏ, trên trời , dưới đất ầm vang.-Đại đội 21 đóng quân ở xã Hoằng Hợp, được báo động, xuất quân từ đợt ném bom hồi 8 giờ ngày 21, cán bộ chiến sỹ suốt ngày ở khu vực Hàm Rồng, đânh dấu  bom, phá hủy bom bi, một tổ xung kích dùng bộc phá lấy  đất lấp hố bom.Đồng chí Nam Sao, chủ nhiệm công binh tỉnh, kỹ sư Phạm Chân, trợ lý công binh, trợ lý bom đạn  Đào Xuân Nhật, trợ lý cầu đường, kỹ sư Võ Như Sáu đều có mặt trực tiếp chỉ đạo ngay tại khu  vực Hàm Rồng.
18 giờ toàn bộ các lực lượng triển khai. Tiểu đoàn 27 công binh quân khu, hành quân ban ngày bằng cơ giới, 20 giờ đã  tới bến nặng, làm phà cách thượng lưu Hàm Rồng 2km.Sau một giờ, các đoàn cao xạ và xe vận tải đã qua sông. Từ bờ Bắc vào Nam .Còn từ bờ Nam ra Bắc,  đi theo tuyến phà giao thông, người đi bộ qua cầu phao.Tất cả an toàn.
Sáng ngày 22-10 không quân Mỹ tiếp tuc đánh phá.Cầu sắt Hàm Rồng lại hỏng, đường tránh sườn Nam đồi không tên hỏng hàng trăm mét, phía Bắc đường xuống bến phà hỏng nặng.
 Bốn tiểu đoàn cao xạ:pháo 57ly và 37 hai nòng   của Bộ tăng cường cho khu vực Hàm Rồng, phải qua sông Mã để bố trí ở khu vực cánh đồng Nam Ngạn và đồi không tên.Tiểu đoàn 27 công binh quân khu chuyên chở cả ban ngày, từ sáng  đến gần tối.Đại đội 21 phải sửa đường ban ngày .Cứ sau mỗi đợt đich  đánh, thì lại xuất hiện chiến sỹ công binh và lực lượng giao thông phối hợp sửa đường .
   Thật thi gan  với địch.Ngớt tiếng bom thì đã thấy  công binh, công nhân sửa cầu, làm đường.Dưới sông tiểu đoàn 27 chở phà.Trên đầu bến phía Bắc thì hàng đoàn xe pháo cao xạ triển khai tại chỗ bắn máy bay, phối hợp với trận địa cao xạ cụm Hàm Rồng do đồng chí Khuy, trung doàn trưởng chỉ huy.
-Ngày 23, địch tiếp tục đánh, ta tiếp tục sửa  chữa. Hôm đó, có đoàn công  binh Cu Ba vào Thanh Hóa, đòi ra tham quan Hàm Rồng.Ta bảo vệ các đồng chí bạn không  cho ra, nhưng lợi dụng xe con , các đồng chí yêu cầu, cứ cho các đòng chí ra học tập.Tại chiến hào, các đồng chí Cu Ba nói:”Phi đen cát tơ rô bảo : Phải ra chiến hào cùng Việt Nam”, thế là các đồng chí Cu Ba ra Hàm Rồng khói lửa. Chính mắt các  đồng chí Cu Ba trông thấy bom Mỹ  vừa đánh xong, thì ở dưới sông đã xuất hiện, tiểu đoàn 27 công binh chở phà, những khẩu cao xạ 57 với xe xich cồng kềnh ở phà công binh trên sông Mã.Tiếng búa giao thông chữa cầu.Bóng anh công binh đại đội 21, cầm cờ nhỏ đánh đấu bom.Đồng chí Cu Ba chạy   tắt đón một chiến sỹ của đại đội 21 tên là Hòa xách cái bị cói, tay cầm cờ, đến lúc đồng chí Cu Ba xem trong túi thấy toàn bom bi chưa nổ.Đồng chí đó nói:”Học tập Việt Nam anh dũng”.
Kết quả,:Tuy máy bay Mỹ đánh liên tục ba ngày 21,22,23-10-1967. đường giao thông của ta qua sông Mã, Hàm Rồng vẫn thông suốt.Riêng cầu sắt Hàm Rồng,ngày thứ ba, bị hỏng nặng.Ta chữa 7 ngày lại thông  tàu hỏa. Bốn tiểu đoàn cao xạ qua sông ban ngày kịp thời chiến đấu.Các đoàn xe vận tải chi viện cho miền Nam qua Hàm Rồng thông suốt..Trong ba ngày ta bắn rơi 14 chiếc máy bay, bắt sống 9 giặc lái.
Nhận xét:Phối hợp bộ đội và công nhân, dân quân ,cao xạ  tạo thành lực lượng tổng hợp trong chiến tranh nhân dân, trên mặt trận bảo đảm giao thông, chống  chiến tranh phá hoại  của giặc Mỹ, nhất định sẽ giành thắng lợi.Chỉ đạo chống chiến tranh phá hoại: Luôn chủ động , bố trí lưc lượng mạnh, đối phó kịp thời, chỉ đạo đúng thời cơ.Đại đội 21 công binh và tiểu đoàn 27 vượt sông dũng cảm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được nhân dân mến yêu.
Như vậy sau 4 năm gây chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ( 1964-1968) và gần 2 năm chiến tranh phá hoại lần thứ hai (1971-1973), quân và dân Hàm Rồng đã bắn rơi 117 máy bay Mỹ các loại. Riêng trong hai ngày 3và 4-4-1965 Mỹ bắt đầu đánh Hàm Rồng với 454 lần /chiếc, bị ta hạ 47 chiếc.Đúng là :Hàm Rồng nỗi kinh hoàng của không lực Hoa Kỳ! Giao thông của ta vẫn không bị ngừng trệ, chi viện vào chiến trường miền Nam.


Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 21.07.2016 09:35:46
Chương 15- CON HƠN CHA LÀ NHÀ CÓ PHÚC
 
1- Con trai đầu của Nguyễn Văn Thuận là Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1956,giữa mùa cải cách ruộng đất ở nông thôn, gia đình ông nội bị quy là thành phần địa chủ, bị tịch thu tất cả tài sản nhà cửa ruộng đất, phải ăn ở chui rúc trong xó vườn xó bếp, thiếu thốn cực khổ nên ông bà bố mẹ nuôi nấng con cháu rất chật vật, mẹ thiếu sữa vì cả nhà thiếu ăn, nên những ngày tháng đầu mới sinh  bị còi cọc ốm đau  nhiều, mãi đến khi sửa sai , gia đình được hạ thành phần xuống phú nông, được trả lại nhà cửa ruộng vườn.Với sức lao động dồi dào, tháo vát và chí tiến thủ làm ăn cần cù nhẫn nại thông minh . Chẳng bao lâu, cả gia đình lại nhanh chóng khôi phục lại được kinh tế đầy đủ no ấm hơn người, dần dần lại có bát ăn bát để hơn trước cải cách ruộng đất, lại khối người đến cầu cạnh. Gia đình hai cụ Ruy, Sen và anh chị Thuận, Roãn  sẵn sàng gạt bỏ hiềm khích hận thù, lại cưu mang nhừng người nghèo khó như trước đây.Cháu Vĩnh lại được ông bà cha mẹ chăm sóc nuôi dậy no đủ, dần dần lớn lên khỏe mạnh thông minh.Anh chị Thuận Roãn chỉ tập trung cho con học tập chăm chỉ nên người, hạn chế các sinh hoạt đoàn thể  chính trị, nhi đồng thiếu niên, chơi bời đàn đúm.Nỗi day dứt vì gia đình có liên quan  chính trị vì  người bác theo Pháp rồi vào Nam theo Mỹ bị làng xóm xì xào cách ly, lớn lên Vĩnh cũng nhận biết được thái độ phân biệt đối sử của cán bộ Đảng và chính quyền trong thôn xã với gia đình mình.Chính vì thế nên em càng có ý chí vươn lên không chịu thua kém người, thua kém bạn bè.Em chịu khó học tập  hơn người, lao động chăm chỉ  và trông nom  dìu dắt các em  để giúp đỡ cha mẹ. Thời kỳ còn học phổ thông, tuy đi học nhưng em vẫn là người lao động  chăm chỉ giỏi giang nhất thôn xóm, dù là việc của hợp tác xã hay việc của gia đình.Sau này lên đại học tuy ở xa nhưng Vĩnh vẫn tranh thủ ngày nghỉ về  giúp đỡ cha mẹ những việc nặng nhọc, và luôn luôn quan tâm săn sóc các em trong việc học hành và lao động. Ngay từ ngày học  phổ thông Vĩnh đã có nguyện vọng, theo nghề của bố, nhưng ở tầm cao hơn, nên học xong lớp mười, cuối cấp ba lúc đó, anh đã thi vào đại học xây dựng  và được trúng tuyển với số điểm khá cao.Sau bốn năm anh đã tốt nghiệp lấy bằng kỹ sư loại ưu. Trong thời gian học tập anh đặc biệt học tập sâu về kết cấu thép và nghề hàn thép, theo anh đó là xu hướng mới trong nghề xây dựng tương lai .Vì thế vừa học đại học anh lại vừa học thêm nghề thợ hàn. Cuối khóa anh vừa tốt nghiệp kỹ sư xây dựng  loại ưu, lại vừa tốt nghiệp thợ hàn bậc 4. Ra trường Vĩnh xin đi làm  ở một số công trường xây dựng, vừa làm kỹ sư vừa làm thợ hàn mục đích để rèn luyện tay nghề. Vốn tính cần cù nhẫn nại, lao động chăm chỉ, vừa làm vừa học thêm kinh nghiệm của những đồng nghiệp lâu năm và các thợ già,  nên thu nhập  lương cũng kha khá so với bạn bè mới ra trường.Sau một năm lăn lộn trên một số công trường trong nước.Nguyễn Văn Vĩnh nhận  thấy việc xây dựng trong nước còn có khuynh hướng trì trệ  chậm phát triển so với  nước ngoài, nên anh  có ý định xin đi lao động nước ngoài để học tập thêm.Anh về  trình bày nguyện vọng với  gia đình, được bố mẹ đồng ý, thế là anh đăng ký xin đi lao động ở Liên xô, lúc bấy giờ thuận lợi hơn, được chấp nhận .Sang nước bạn, đầu tiên anh chỉ làm thợ hàn để xem xét và nghe ngóng việc làm ăn ra sao.Lần đầu tiên tiếp xúc với các công trường lớn và lao động theo tác phong công nghiệp không lề mề chậm chạp như ở nhà.Tuy vất vả nhưng anh thấy thích thú, anh lại hăng say lao động và tích cực  học tập thêm  ở các thầy các thợ giỏi nước ngoài, nên chỉ sau một năm lao động, trong đợt thi kiểm tra tay nghề tại nước bạn, Vĩnh  đã vinh dự đạt tiêu chuẩn thợ hàn bậc bảy trên bảy của Liên xô, được bạn bè trong và ngoài nước nhiệt liệt  chúc mừng.Từ đó trên các công trường anh được chỉ định phụ trách kíp trưởng, đội trưởng, hoặc  từng hạng mục công trình riêng.Vốn là kỹ sư xây dựng anh có thể  phát hiện và tham gia với các kỹ sư một vài chi tiết chịu lực hoặc thay đổi quy trình hàn để tăng thêm độ bền vững của công trình, được các kỹ sư nước bạn hoan nghênh, tán thành và tin tưởng.Sau một thời gian Nguyễn Văn Vĩnh được tín nhiệm với các nhà thầu, có thể ký kết hợp đồng nhận thi công các công trình kết cấu từ đơn giản đến phức tạp như các công ty xây dựng khác.Anh đã huy động các thợ người nước ngoài cùng làm, trong đó ưu tiên thợ người Việt để tương trợ và giúp đỡ bạn bè trong nước , nhưng với điều kiện kỷ luật lao động cao, chất lượng công trình là nghiêm  khắc, được mọi người tôn trọng và tin tưởng, xin theo anh làm khá đông.
Để việc làm ăn được phát triển hơn, anh quyết định về nước cưới vợ, rồi đưa vợ sang Liên xô cùng sinh sống và làm việc với anh để bảo đảm cuộc sống gia đình được ổn định và làm ăn được bền vững hơn.
Vợ Nguyễn Văn Vĩnh là người cùng quê  tên là Đỗ Thị Thúy, kém anh ba tuổi, học sau anh một cấp, họ đã quen nhau từ thời học phổ thông, hoàn cảnh gia đình  ông bà  nội trước đây trong cải cách ruộng đất cũng bị quy oan là địa chủ, sau sửa sai  hạ xuống là trung nông.Thúy là một cô gái xinh đẹp nết na hay lam hay làm, học hành cũng vào loại khá, thường hay đến nhờ anh Vĩnh giảng bài, phụ đạo hộ nên rất thân nhau.Khi Vĩnh học đại học thì cô Thúy còn học cấp ba, hai gia đình cũng đã đồng ý cho quan hệ đi lại và thương yêu nhau.Sau khi Vĩnh tốt nghiệp ra trường rồi đi làmThúy yên trí là anh sẽ gần gũi mình nhiều hơn.Nhưng đột nhiên Vĩnh lại xin đi lao động nước ngoài làm Thúy hơi hoang mang .Trước khi đi họ đã gặp nhau để bàn chuyện tương lai.Thúy bảo Vĩnh :
-Em tưởng anh cứ làm ở trong nước, anh cũng đã khối việc rồi làm không xuể,  cần gì phải đi lao động nước ngoài để phải xa nhau, bao giờ mới về được?
-Em cứ yên tâm, cứ làm việc ở trong nước thì anh cũng chỉ là con  trâu con bò kéo cày suốt ngày, được một mớ rơm mớ cỏ nhai đi nhai lại mà thôi. Anh muốn mình phải  trở thành một cỗ xe  có tốc độ cao, chạy nhanh và làm được nhiều việc, chở được nhiều tiền của hơn người, muốn vậy chỉ có đi ra nước ngoài mới  mở rộng tầm nhìn để tìm hiểu  và học tập thêm nhiều nữa, thì mới phát triển được. Em cứ ở nhà học tập cho chu đáo, chỉ một vài năm , anh tìm được hướng làm ăn tốt thì sẽ về đón em sang cùng anh.Chúng ta dù đi đâu, ở đâu cũng phải có một gia đình vững chắc thì việc làm ăn mới phát triển bền vững được .
-Em chỉ sợ một mình anh ở xa xôi gặp nhiều khó khăn trắc trở không có người thân động viên an ủi...
-Em đừng lo, bố mẹ anh còn gặp bao nhiêu nỗi đắng cay tủi nhục, mà vẫn bền bỉ vươn lên được, anh là con há lại không noi gương được bố mẹ hay sao? Thời nay đã khác không bị trù úm ràng buộc như bố mẹ trước đây, nhất định anh phải vươn lên tầm cao hơn, để làm vui lòng bố mẹ, làm vẻ vang cho ông bà tổ tiên họ hàng làng xóm ta.Em còn lo gì nữa không nào?
-Em vẫn còn lo...Thúy mỉn cười nhìn vào mắt Vĩnh, vẻ hóm hỉnh- sợ khí hậu không hợp  và sợ... gái Tây nó chài mất anh thôi ...-Vĩnh bỗng cười ha hả, nhìn thẳng vào mắt Thúy rồi nháy nháy mắt trêu lại:
-Điều đó thì phải hỏi em mới đúng ! Nếu lâu lâu mà không có liên hệ với anh thì có khi anh cũng bị gái Tây nó chài thật đấy!-Cả hai cùng cười xòa, ôm hôn nhau thắm thiết.Thúy bỗng nói nhỏ vào tai Vĩnh:
-Anh có muốn... ăn cơm trước kẻng không ?
-Không , chẳng giải quyết được cái gì cả, cứ để... dành đấy cho anh .Trước mắt chúng ta là sự nghiệp  còn dài, đừng vì những háo hức nhỏ nhen nhất thời mà có khi  phá vỡ cả cuộc đời.Tình yêu của chúng ta phải trong sáng tự hào trước hai gia đình và bàn dân thiên hạ.
-Ôi em cảm ơn anh, em sung sướng tự hào vì có anh, người yêu, người chồng lý tưởng của em !
Sau khi sang nước ngoài được gần một năm, trước mắt Nguyễn Văn Vĩnh nhìn thấy một nền kinh tế thị trường của nước bạn đầy xôi động, nhiều người Viêt Nam sang đây  một số tay nghề chuyên môn kỹ thuật yếu, nên  đã chuyển sang buôn bán ,chạy chợ cũng kiếm ăn được.Anh nghĩ  đây cũng là một hướng có thể phát triển được, nếu như có thêm người anh sẽ cho làm thêm hướng phụ, cũng như ở trong nước bố mẹ anh đã làm ,nông nghiệp và công nghiệp, trang trại và xí nghiệp gạch ngói song song cùng tồn tại và hỗ trợ cho nhau . Nguyễn Văn Vĩnh liền điện về cho Đỗ Thị Thúy, nói Thúy nên đi học thêm  một khóa học Cao đẳng  về thương mại nữa.Chả là trước đây  thấy Vĩnh học nghề xây dựng nên Thúy cũng thi vào đại học xây dựng để cùng theo nghề của anh và hỗ trợ cho anh .Nhưng nay thấy Vĩnh gọi điện về trao đổi như vậy,Thúy cũng tán thành. Cô đang học đại học xây dựng năm thứ ba, cô liền xin vào học thêm  một lớp Thương mại  cấp tốc trong hai năm nữa, tuy học có vất vả nhiều nhưng cô lại thấy rất vui  vì Vĩnh đang làm ăn phát triển, vì sự nghiệp của hạnh phúc tình yêu của  hai người cô tập trung  sức lực vào học tập, bỏ cả những chuyện chơi bời giao lưu bạn bè, và bí mật không cho các bạn bè biết là mình đang học thêm nghề thương mại . Hàng tuần, hàng tháng Vĩnh luôn luôn gọi điện về thăm hỏi, chi viện và động viên Thuý, là nguồn nghị lực giúp cho Thúy ngày đêm  phấn đấu học hành đạt kết quả tốt của cả hai chương trình.
Bẵng đi hai năm, đối với những người rỗi rãi thì cũng thấy khá lâu, nhưng đối với người hăng say lao động như Vĩnh ở bên  nước ngoài và người chăm chỉ học tập như Thúy ở trong nước thì, cả hai đầu nỗi nhớ đều thấy rất nhanh .
Thúy đã học xong đại học, thi tốt nghiệp cũng được bằng đỏ ,sau vài tháng cô cũng tốt nghiệp bằng thứ hai ở trường thương mại đạt loại ưu, trước sự phấn khởi vui mừng của cả hai gia đình đặc biệt của Vĩnh.Trước đó một thời gian anh cũng đã hoàn thành thủ tục hồ sơ chuẩn bị  thành lập công ty xây dựng  Viễn  Phương tại Liên xô chuyên môn nhận thầu xây dựng những nhà xưởng, kho tàng lớn bằng kết cấu thép là chủ yếu, thu hút từ 300 đến 400 thợ kỹ thuật với đầy đủ các trang thiết bị hiện đại của các nước tiên tiến . Mọi việc đã chuẩn bị xong, chỉ chờ đưa Thúy sang là công ty sẽ ra đời.Anh muốn dành một bất ngờ cho Thúy, người vợ yêu quý của anh.Vĩnh giành thời gian một tháng để về cưới vợ và thăm gia đình, bạn bè làng xóm quê hương.
Đám cưới  của Nguyễn Văn Vĩnh và Đỗ Thị Thúy diễn ra khá linh đình  ở  cả hai nơi :quê hương làng Lễ và tại một phòng cưới sang trọng ở Hà Nội, trước sự vui mừng của hai gia đình và họ hàng của  Vĩnh và Thúy cùng các thầy cô và bạn bè  thân bằng cố hữu ở quê và ở các trường học.Họ không tổ chức  tuần trăng mật ở các khu du lịch như nhiều đôi trai trẻ khác, mà chỉ dành thời gian thăm các cụ các ông các bà, chú bác cô dì, anh em  trong họ hàng làng xóm quê hương và đến thăm, cảm tạ các thầy cô đã dậy học và rèn rũa mình nên người.Vĩnh đặc biệt đến thăm và cảm ơn các kỹ sư cũ và các bác thợ già đã truyền kinh nghiệm cho mình trưởng thành trở nên người kỹ sư giỏi và người thợ giỏi.Sau hai mươi ngày ở nhà  làm xong mọi thủ tục theo lệ làng nước, anh xin phép hai gia đình đưa Thúy  sang Liên xô để kịp ra mắt công ty và nhận đấu thầu  một công trình quan trọng mà một người bạn bên đó cùng công ty vừa điện về gấp.
Vĩnh và Thúy bay sang Liên Xô trong không khí vui mừng của hai gia đình  đưa tiễn khà đông đủ ở sân bay Nội Bài và bạn bè làm ăn đón ở sân bay Domodedovo nước Nga. Hai ngày sau Công ty Viễn Phương được ra mắt và sau đó là một hợp đồng xây dựng một khu kho xưởng lớn được ký kết,Vĩnh phải huy động và thuê tới  trên mười kỹ sư và trên 400 công nhân làm việc ở công trường.
Vĩnh định cho Thúy  nghỉ ngơi và đi tham quan du lịch một vài nơi .Nhưng Thúy không nghe, vốn cũng là con nhà ham công tiếc việc và cũng là kỹ sư xây dựng ,nên máu nghề nghiệp nổi lên cô chẳng cần nghỉ mà lao ngay  vào tìm hiểu công trình cùng  Vĩnh  để làm quen và giúp đỡ chồng dần dần trong công việc.
-Chúng ta còn nhiều thời gian mà anh.  Em muốn khi nào công việc vào nề nếp rồi thì mỗi ngày nghỉ anh đưa em đi tham quan du lịch một nơi cũng không muộn mà!
-Thế cũng được, hoan nghênh em.Nào chúng ta cùng bắt tay vào việc nhé.Trước mắt em hãy xem và sửa lại cho anh bản tiến độ thi công công trình khu  xưởng A,rồi phóng to lên bảng điện tử để chúng ta theo rõi hàng ngày...Thúy tỏ ra nhanh nhẹn và  say sưa thích thú bên cạnh chồng mà cũng như một người thầy kèm cặp cho cô ngay tại công trường, cô như một thực tập sinh trên công trường của nhà mình nên rất vui thích, hòa mình vào với các kỹ sư , kỹ thuật và anh chị em công nhân, chuyện trò cởi mở  hồ hởi với mọi người, được anh chị em gần gũi thân mật ,không hề có chút gì tỏ ra là bà chủ nhà cả. Vì vậy Thúy được các  kỹ sư và công nhân người Nga  rất tôn trọng và quý mến.
Thời gian thấm thóat trôi qua, sau một năm Thúy đã phát triển tay nghề  kỹ sư xây dựng của mình lên một bước khá nhanh, cô đã thành thạo trong công việc chỉ đạo ,kiểm tra, hướng dẫn trên công trường bằng tiếng Nga thay chồng được.Cũng là lúc công trình khu xưởng A đã hoàn thành vượt thời gian theo yêu cầu của bên A,dưới sự nghiệm thu kiểm tra của của cơ quan tư  vấn kỹ thuật do bên A chủ trì, bảo đảm chất lượng an toàn tốt.Nhờ vậy uy tín về chất  lượng và thời gian của công ty Viễn Phương được nhiều khách hàng càng tín nhiệm .Vĩnh lại tiếp tục ký hợp đồng và triển khai các công trình khác với nhiều bạn hàng mới.
Rồi một hạnh phúc mới nữa là Thúy đã đến ngày sinh nở một bé trai bụ bẫm làm cho hai vợ chồng Vĩnh Thúy và gia đình bè bạn đều phấn khởi vui mừng, họ lấy ngay tên của công ty đặt tên cho con là Viễn Phương, cũng là điều mơ ước sau này cho con kế tục sự nghiệp của mẹ cha. Ở trong nước, ông bà Thuận Roãn được tin cháu Viễn Phương ra đời, liền tổ chức một buổi liên hoan cả nhà cả họ để báo tin và chia vui, mừng cho con, cháu ở nơi xa.
Vĩnh yêu cầu Thúy nghỉ ở nhà chăm con không phải lo nghĩ gì về các công trình xây dựng nữa.Mọi việc anh đã bố trí giao cho các kỹ sư và các tổ trưởng thợ lo liệu đầy đủ. Anh hướng cho Thúy nếu rỗi thời gian, thì ôn lại kiến thức  thương mại mà Thúy đã học theo sự chỉ đạo của Vĩnh trước đây. Chờ cho Thúy khỏe mạnh và cu con cứng cáp, thì anh sẽ bàn với Thúy chuyển sang đề án hai mà Vĩnh đã ấp ủ từ trước, khi chưa về nước cưới vợ .
Sau sáu tháng cu con Viễn Phương hay ăn chóng lớn đã khá cứng cáp, và sức khỏe của Thúy cũng đã hồi phục tốt, trong khi đó Thúy  vừa trông con lại vừa ôn lại những kiến thức thương mại mà cô đã học xong.Cô liền thuê người trông con ở nhà, rồi tự động một mình lái xe con đi  tham quan một số chợ  và trung tâm thương mại  gần đó để thăm dò tìm hiểu cách thức buôn bán ở đất nước này ra sao.Cô đến thăm một số bạn bè người Việt để thăm hỏi họ cách làm ăn thế nào.Các bạn bè đều phấn khởi vui mừng  kể chuyện và trao đổi kinh nghiệm với Thúy, không hề dấu diếm gì cả mà còn khuyến khích Thúy nên đi theo con đường kinh doanh thương mại cho có bạn bè. “Phi thương bất phú”,”buôn có bạn bán có phường”... là những câu tục ngữ bất hủ của cha ông ta đời xưa đã nói,nay Thúy lại được nghe những người bạn nói ở đây, làm Thúy cũng thấy hứng khởi. Cô cũng suy nghĩ quyết tâm theo con đường của Vĩnh người chồng thông minh của mình đã có định hướng và gợi ý mình từ trước.Nghĩa là noi gương bố mẹ ở nhà: Bố làm công nghiệp, mẹ làm nông nghiệp, hai bên cùng song song hỗ trợ cho nhau.Thì ở đây Vĩnh làm xây dựng, mình làm thương mại, hai bên cũng song song hỗ trợ cho nhau.Nhưng làm thương mại thì nên buôn bán cái gì cho phù hợp với sở trường của mình, mà lại hỗ trợ cho chồng được. Suy nghĩ mãi mấy hôm liền,Thúy bỗng bật ra một ý nghĩ:buôn vật liệu xây dựng .Thật là tuyệt, chồng làm xây dựng ,vợ buôn vật liệu xây dựng thì không chạy đi đâu được, vừa buôn bán vừa cung cấp vật tư xây dựng cho các công trường của công ty Viễn Phương.Buôn tận gốc, ăn tận ngọn .không phải qua khâu trung gian ở giữa nữa.Tất nhiên buôn vật tư xây dựng thì đòi hỏi phải có kho xưởng rộng để chứa hàng. Việc đó cần phải đầu tư. Khi Thúy đem ý định đó bàn với chồng , thì được Vĩnh đồng ý và hoan nghênh ngay:
-Ôi đầu óc của vợ anh qủa là sáng suốt thật, coi như em đã làm cung ứng vật tư, một nửa phần việc của anh rồi đó còn gì.Cảm ơn em!-Còn về kho tàng em không lo , trước mắt và bao giờ ta cũng có một số nhà xưởng chưa bàn giao  cho bên A cơ mà, tạm thờì ta vẫn sử dụng được.Sau này vào nề nếp ta sẽ đầu tư lớn hơn và có quy củ hơn.
Thúy sung sướng quá ôm chầm lấy chồng mà hôn mà vò mớ tóc của chồng  rối bù lên một cách  thắm thiết.
Thế là từ đó Công ty Viễn Phương mở rộng , có hai hình thức kinh doanh: Một là xây dựng cơ bản, hai là cung ứng vật tư xây dựng. Mỗi người phụ trách một việc.Vĩnh phụ trách việc ký kết hợp đồng và chỉ huy xây dựng,Thúy chuyên trách về buôn bán vật tư xây dựng,Hàng tuần có giao ban trao đổi tình hình xây dựng và kinh doanh để cả hai vợ chồng cùng nắm được công việc của hai bên để cùng giải quyết những khó khăn và thống nhất chủ trương phương hướng phát triển mới. Câu ca của các cụ ta ngày xưa đã nói “ Thuận vợ thuận chồng ,tát bể đông cũng cạn” quả là không sai. Chỉ trong vòng ba năm  công ty Viễn Phương của vợ chồng Vĩnh đã nổi đình đám về uy tín và làm ăn  đứng hàng nhất nhì trong số Việt kiều ở Liên xô lúc đó, mà nhiều công ty bản xứ cũng phải kính nể.Vĩnh đã mua được cả dinh thự của đại sứ quán Việt Nam khá khang trang  để làm nhà ở và kinh doanh lâu dài. 

 

   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2016 15:24:36 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 21.07.2016 10:02:35
2--Trang tri vt tri
 
Nguyễn Văn Thuấn sinh năm 1958,sau anh trai là Nguyễn Văn  Vĩnh hai năm, từ bé  đến lớn học hết phổ thông ở quê.Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.Đang ở nhà làm trang trại với mẹ thì được Ban chỉ huy xã đội gọi lên nói là:-  gia đình anh chưa có ai đi lính chiến đấu cả, nên đợt này anh phải đi lính nghĩa vụ  bảo vệ Tổ quốc  như mọi người..Thuấn liền trả lời một cách thẳng thắn: - Vâng đúng thế ! Vì gia đình ông nội tôi trước đây bị quy là thành phần bóc lột, và có liên quan đến chính trị nên không ai được đi , ngay bố Thuận tôi ngày còn trẻ đã xung phong mấy lần cũng không được đi ,chứ nhà tôi không ai trốn tránh cả.Nay nhà nước có chính sách bình đẳng, thì chúng tôi sẵn sàng đi ngay không ngại gì cả.
-Vậy thì hoan hô anh Thuấn! –Anh xã đội trưởng nói tiếp:- Về chuẩn bị đi, ngày mai lên đường.
-Đi ngay bây giờ  cũng được , đã sẵn sàng rồi !
Thế là Nguyễn Văn Thuấn gác việc đi học đại học nông nghiệp lại, vác ba lô lên đường nhập ngũ.Sau  ba  tháng huấn luyện quân sự, lăn lê bò toài, ném lựu đạn, đánh bộc phá và bắn các loại súng bộ binh...,môn nào anh cũng đạt được loại khá giỏi .Rồi cả tiểu đoàn anh được bổ sung cho các đơn vị sang chiến đấu tại Căm pu chia, giúp nước bạn tiêu diệt bọn diệt chủng Pôn pốt- Yêng xa ri .Trong chiến đấu Thuấn tỏ ra rất  xông xáo và dũng cảm lập được nhiều chiến tích, được tặng thưởng huân chương chiến công và được đề bạt lên Tiểu đội trưởng. Sau hơn hai năm hoàn thành nhiệm vụ  quốc tế, đơn vị anh được trở về nước.Cấp trên có ý định cho anh đi học đào tạo sỹ quan, nhưng anh không muốn,  mà xin giải ngũ về để đi học đại học nông nghiệp rồi trở về làm trang trại theo nghề của mẹ mà anh đã tham gia  phụ giúp mẹ được mấy năm trước khi  đi nhập ngũ rồi. Cũng giống như anh Vĩnh,  chỉ đạo cho người yêu  học khác nghề để rộng tay xoay sở làm ăn ,Thuấn đạo diễn cho người yêu của mình là Bùi Thị Vân đi học đại học tài chính.Còn anh sau khi giải ngũ  trở về tiếp tục học đại học nông nghiệp mà anh đã thi đỗ trước đây.Anh vừa học vừa làm, phụ giúp mẹ trong trang trại của gia đình trong những ngày nghỉ.Đồng thời anh vẫn nghiên cứu một hướng riêng cho trang trại của mình, đi sâu vào những cây con quý hiếm và đặc sản. Sau bốn năm học tập, thi tốt nghiệp anh đạt loại ưu.Nhà trường có ý định giữ anh lại làm cán bộ giảng dậy tại trường.Anh rất cảm ơn Ban giám hiệu  nhà trường, mà xin về nông thôn  để thực hiện đề án trang trại của riêng mình.Vợ anh, Bùi Thị Vân cũng vừa tốt nghiệp trường tài chính, anh xin cho vợ vào biên chế nhà nước ở gần nhà, vẫn có thời gian trông nom con cái và phụ giúp, cố vấn hỗ trợ cho anh khi cần thiết, như việc vay vốn ngân hàng để kinh doanh thủ tục được thuận lợi hơn. Sau này chị phát triển trở thành giám đốc ngân hàng huyện, thì càng có điều kiện quản lý  giám sát  tài chính hỗ trợ  cho anh hơn.
Trở về quê hương, anh vẫn làm cán bộ kỹ thuật  về chăn nuôi và trồng trọt trong trang trại của mẹ được ngày càng phát triển.Đồng thời anh chuẩn bị cho trang trại của mình.Về trồng trọt, anh chọn trồng cây vải thiều, lúc đó đang mới nổi lên ở Thanh Hà, bước đầu anh mới quyết định trồng  hai hec ta, nhân giống bằng phương pháp khoa học cấy phôi mà anh đã nghiên cứu và học tập được tại trường đại học .Sau khi trồng xong hai hec ta quanh nhà chỉ phải thuê một hai người trông nom  chăm bón .Còn anh lên vùng Bắc Giang hợp tác với  bạn bè cũng là kỹ sư nông nghiệp thuê đất của hợp tác xã mở nông trang trồng đại trà khoảng   hai trăm  hec ta do anh làm Chủ nhiệm  Tổ hợp kiêm trưởng ban kỹ thuật, hợp tác với trường đại học nông nghiệp để cung cấp giống, thuốc và phân bón.
   Về chăn nuôi, anh chọn nuôi vịt trời, một loại động vật đặc sản chưa ai nuôi bao giờ, là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng lớn và kinh tế cao, sinh sản lại rất nhanh Anh chọn thuê hai hec ta hồ nước làm trang trại vịt trời. Cắm cọc bê tông  và giằng thép như một  khung nhà lớn, căng chắn lưới thép xung quanh và che phủ trên nóc cao tám mét, vịt có thể bay trong không gian hạn chế.Dưới bờ có chuồng ổ  nhiều ngăn nhiều tầng cho vịt ngủ và đẻ trứng. Thuấn đã huy động lực lượng đi  đặt mua ở những tổ chuyên săn bắt vịt trời ở  các đầm lầy Ninh Bình ,Hòa Bình...ban đầu về được hơn một trăm con làm giống .Sau  đó cho ấp trứng để lấy vịt con.Xây lò ấp kiểu trứng vịt nhà, thời gian được nhanh nhiều hơn và đạt tỷ lệ nở cao hơn .Anh đã phải hợp đồng mua mỗi ngày hàng tạ cá lẹp tươi các loại để thả xuống hồ  cho đàn vịt trời mò ăn, đồng thời cũng mua hàng tạ thức ăn để nuôi cá.
 Chỉ chưa đầy một năm, đàn vịt trời của anh đã đông hàng vài trăm con.Đã có thể xuất bán cho các cửa hàng đặc sản ở các thành phố với giá trị cao gấp  bốn năm lần vịt nhà.Đồng thời anh cũng đầu tư xây dựng tiếp thêm hai ba nhà trại vịt trời nữa ,để nâng sỹ số vịt trời nuôi hàng vài nghìn con.Vừa cung cấp thực phẩm cho các nhà hàng đặc sản vừa cung cấp giống nuôi cho các trang trại vịt trời mới, mà nhiều người đến tham quan và xin anh cho làm đại lý nuôi vịt trời, mở rộng ra ở nhiều nơi.
Những năm sau, khi trang trại của Thuấn đã phát triển lớn, thì Thuấn không thể phụ giúp cho trang trại của mẹ được nữa mà đã có các em gái thay thế anh phụ giúp mẹ.Bởi vì  riêng trang trại của anh hàng năm đã  cung cấp cho thị trường vài tấn vịt trời và hàng vài trăm tấn vải thiều, kể cả sản xuất và thu mua bán đi khắp nơi trong nước và xuất khẩu sang nước ngoài nữa.
Riêng vịt trời sau này anh còn nghiên cứu thêm cách cắt tỉa lông cánh hoặc buộc thêm nhẫn chì nặng vào chân để cho chúng không thể bay cao được nữa, mà bay là là mặt nước như vịt nhà .Sau đó anh còn phát triển chăn nuôi thêm chim cút nuôi trong hồ, le le và chim cốc là loại chuyên  ăn mò như vịt trời, có giá trị cung cấp nhiều dinh dưỡng cho thực phẩm đặc sản và cũng có giá trị kinh tế cao hơn nữa.Anh cũng đang nghiên cứu nuôi chim trĩ dài đuôi, là loại đặc sản cao hơn cả các loại vịt trời, chim cốc...
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2016 15:25:03 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 21.07.2016 10:14:00
3-Người trưởng tàu xe la Bc Nam.
 Nguyễn Văn Trình là con trai thứ ba của Nguyễn Văn Thuận, kém anh trai thứ hai là  Thuấn ba tuổi, từ bé tới lớn cũng học tập hết phổ thông ở quê .Dáng người cũng to cao như bố và các anh, có phần trắng trẻo đẹp trai  và trông vẻ thư sinh hơn các anh.Học tập chăm chỉ và luôn luôn dẫn đầu trong tốp ten của các lớp ở trường.Trong thời gian ở nhà, vừa học tập vừa phụ giúp bố trông nom xưởng gạch ngói, nhất là những việc về thống kê kế toán sổ sách...Những ngày nghỉ cũng tham gia lao động như một công nhân và anh cũng nhanh chóng nắm bắt được các kỹ thuật đun đốt lò gạch ngói. Ông Thuận rất vui mừng vì sau này sẽ có Trình thay thế quản lý  công ty gạch ngói Thuận Bằng này.Ông Thuận cũng hướng cho Trình đi học đại học xây dựng như anh Vĩnh để sau này có thể giữ vững và phát triển được công ty gạch ngói lên cao hơn.Nhưng  Trình lại không muốn chôn vùi mình ở xóm làng quê hẻo lánh này, mà muốn được tung tăng bay nhảy đi khắp nơi khắp chốn để mở rộng tầm nhìn và tham quan phong cảnh đep đẽ ở các nơi, trong và ngoài nước.. Thế là anh thi vào trường đại học giao thông vận tải, chuyên ngành lái xe lửa.  Khi người ta đã có mục tiêu ý định rõ ràng thì việc học tập cứ nhẹ như lông hồng,Trình chăm chỉ say sưa học tập mà vẫn thấy thảnh thơi thoải mái,anh luôn luôn đứng đầu lớp , mà còn hướng dẫn phụ đạo thêm cho các bạn yếu cùng lớp nữa.Sau bốn năm ra trường anh được Ban tổ chức cán bộ Tổng cục đường sắt đến tận trường xin về Đoạn toa xe Hà Nội cùng một số sinh viên ưu tú khác.Đó cũng là thời gian ta mới giải phóng Sài Gòn thống nhất đât nước , mở ra cho ngành đường sắt một chân trời rộng lớn.Nguyễn Văn Trình được bố trí làm trưởng tàu một đoàn tàu khách chạy suốt Bắc Nam. Lần đầu tiên được chỉ huy một đoàn tàu chạy khắp chiều dài của Tố quốc, lòng anh lâng lâng khó tả.Anh thức trắng cả đêm cả ngày để quan sát các cung đường, ngắm nhìn các phong cảnh đất nước mà lòng anh phơi phới , như những người chiến sỹ đang ra trận năm nào, chắc hẳn anh Thuấn mình trên đường đi chiến đấu cũng có tâm trạng vui như mình đây. Ôi tổ quốc ta bao la hùng vỹ quá. “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay...” Bất giác anh cất lên một câu hát quen thuộc, hòa với nhịp điệu con tàu chạy xình xich, xình xịch..đều đều, như múa như reo trong lòng anh. Hành trình du lịch trên con tàu của anh bắt đầu là như thế đó mà mãi mãi anh không bao giờ quên lần đầu tiên ấy. Chuyến tàu chạy suốt Bắc Nam  do anh chỉ huy lần đầu đã hoàn thành tốt đẹp không hề có va vấp gì trên đường cũng như về trật tự trị an trên tàu  đều được an toàn. Được  Ban lãnh đạo Đoạn đường sắt Hà Nội –Sài Gòn biểu dương người trưởng tàu trẻ.Anh rất phấn khởi và vui sướng vì mình đã nghiêm túc tuân thủ các quy định, hoàn thành nhiệm vụ một cách trọn vẹn.
Từ đó đội tàu của anh luôn luôn bảo đảm thời gian an toàn và năng xuất chạy tàu  Thống nhất trên tuyến Bắc Nam.Cuối năm trong hội nghị thi đua được bầu là Đội tàu thống nhất xuất sắc nhất. Anh cũng là chiến sỹ thi đua xuất sắc. Cũng  cuối năm đó hạnh phúc đã đến với Trình, vợ anh là một nữ nhân viên  trên tàu trong đội tàu của anh là thợ kiểm tra kỹ thuật đầu máy toa xe, là một cô gái trẻ xinh đẹp, tốt nghiệp trường trung cấp giao thông, khoa đường sắt, cũng mới ra trường và cùng chuyến đi xuyên Việt đầu tiên với anh. Họ mến nhau ngay từ ngày đầu tiên mới gặp nhau, nhưng anh không tỏ ra vội vã mà cứ để theo dõi thử thách  xem cô nhân viên này ra sao đã.Đỗ Thị Thủy –tên cô ấy- tỏ ra là một cô gái thông minh, nhanh nhẹn, tính tình rất dịu dàng và đứng đắn, thẳng thắn, không xô bồ đùa rỡn  như các cô gái khác.Làm việc hết mình và có trách nhiệm cao. Mãi sáu tháng sau, anh mới thổ lộ tình cảm của mình.Cô gái lấy làm hãnh diện vì được anh trưởng tàu tài hoa đẹp trai này chính thức đặt vấn đề quan hệ yêu đương với mình, phấn khởi quá suốt đêm hôm ấy cô không ngủ được, thỉnh thoảng lại dậy lấy gương ra soi và mỉm cười một mình.Nhưng Thủy cố kìm hãm mình không nên tỏ ra là vồ vập quá, sợ anh ấy lại khinh cho, nhưng từ ngày hôm sau trở đi người cô lúc nào cũng thấy mặt mình như bừng bừng khí thế và hay cười  hay nói hơn trước.Công việc càng thấy nhẹ băng băng, từ đó những giờ nghỉ hay ngày nghỉ họ thường đi chơi với nhau, hoặc đi du lịch, hoặc đi thăm bạn bè của nhau.Cả đơn vị anh em bạn bè đồng đội đều mừng cho đôi trai tài gái sắc ấy, thật là đẹp đôi.Cuối năm ấy họ cưới nhau trước sự vui mừng của hai gia đình, họ hàng và cán bộ công nhân viên trong đơn vị đến dự đông vui ở một khách sạn sang trọng ở Hà Nội.
  Tuần trăng mật của họ không chỉ có ý nghĩa là hưởng hạnh phúc mà còn có một ý nghĩa quan trọng khác nữa là đi tìm phương hướng phát triển kinh tế làm ăn, theo truyền thống của gia đình, bố mẹ và các anh đều là những người làm kinh tế giỏi, chả lẽ họ lại phải chịu bám lấy nghề lái tàu này trong biên chế, lương ba cọc ba đồng này mãi hay sao? Vậy làm sao đủ sống và  sau này còn nuôi con cái ăn học  bằng người ? Phải noi gương bố mẹ, phải học tập các anh, các em.Không thể trở về bám lấy bố mẹ  ở cái làng quê ấy được, phải tìm lấy con đường riêng của mình , nếu không hơn thì chí ít cũng phải tương đối bằng anh bằng em.Bố mẹ cũng đã nuôi mình ăn học thành người mà chịu thua anh kém em hay sao?.Những câu hỏi đó luôn luôn dằn vặt trong đầu óc Nguyễn Văn Trình và cũng truyền sang cô vợ trẻ xinh đẹp của anh.Họ quyết định đi du lịch trên một chuyến tàu liên vận sang Trung quốc, từ Bắc Kinh đến Thượng Hải ... về Quảng Đông đến Vân Nam.Ỏ đâu cũng thấy tràn ngập hàng hóa các kiểu loại, đặc biệt là xe cộ máy móc công nghiệp ,nông nghiệp rất nhiều.Trình liền nói với Thủy:
 - Chúng ta đều là nghề lái tàu, là thợ cơ khí cơ điện cả, nên chỉ làm nghề điện máy là hợp nhất. Thủy cũng trả lời:
- Vâng, hiện nay đất nước ta đang khôi phuc kinh tế, nên rất cần máy móc, nếu chúng ta buôn được các thứ máy móc này về thì chắc ăn rồi. Trình liền nắm  lấy tay Thủy , hai vợ chồng xiết chặt tay nhau cùng mỉn cười nhất trí ý hợp tâm đồng. Thế là họ lao vào tìm chọn các đối tác.Muốn làm ăn lớn phải tìm đến các công ty ,nhà máy lớn, và nghiên cứu giá cả thị trường. Cũng may là trong thời gian học đại học, Trình nhận ra rằng ngành đường sắt của ta thì liên quan nhiều đến Trung quốc,  do đó anh đã học ngoại ngữ đầu  tiên là tiếng Hoa, nên việc giao dịch với anh lúc này khá thuận lợi. Hơn nữa trong thời gian công tác  Trình và  Thủy cũng hay đi dạo quanh thị trường điện  máy trong nước để tìm hiểu nhu cầu và giá cả thị trường rồi.  Hai vợ chồng liền vào thăm và liên hệ  với  một tổng công ty điện máy lớn ở Bắc Kinh, là nơi trung tâm kinh tế của cả nước Trung quốc. Tổng công ty này rất nhiệt tình đón tiếp vợ chồng Trình khi biết ý định của  hai  vợ chồng trẻ này muốn làm ăn kinh tế lâu dài với họ.Họ cũng  cảnh giác và khôn khéo kiểm tra xem trình độ hiểu biết về máy móc của khách hàng này ra sao.Trình và Thủy cũng đều thực thà thao tác biểu diễn một số máy cho  cho họ biết để tạo lòng tin cho đối tác.Và cuối cùng khi họ nhìn thấy tấm bằng đỏ trưởng tàu xe lửa của Trình và bằng thợ máy hỏa xa củaThủy thì họ hoàn toàn tin tưởng vào hai vị khách hàng đẹp đôi này, mà không dám coi thường hoặc dở mánh khóe buôn bán  bịp bợm  nhà nghề ra với họ nữa. Trình và Thủy cũng thận trọng từng bước để không bị mắc lừa  trong khi ký kết hợp đồng sơ bộ với đối tác. Sau khi ở đó một tuần lễ  để khảo sát và học tập cách  kinh doanh, được Tổng công ty Hoa Phong này nhiệt tình hướng dẫn  giúp đỡ và thỏa thuận các cách liên lạc giao lưu, trao đổi hàng hóa, các thủ tục xuất nhập khẩu và  thỏa thuận ban đầu xong.Bên  Hoa Phong muốn giao  ngay một lô hàng đầu tiên cho vợ chồng Trình trực tiếp áp tải về nước  ngay, mà không cần đặt tiền trước. Nhưng Trình không vội vàng  ăn sổi  chưa nhận ngay, mà mời một đại diện của tổng công ty Hoa Phong sang  Hà Nội khảo sát thị trường , cùng về  với Trình ngay, bởi vì một số thủ tục về kinh doanh ở trong nước Trình chưa kịp làm. Bởi  anh nghĩ đã làm thì làm cho chắc chắn, công khai và hợp pháp, không phải chui  lủi lẩn trốn như một số người đã làm hiện nay trên tàu  mà anh đã gặp.Sau khi thủ tục hợp pháp rồi thì đã đánh là đánh lớn, đánh chắc, ăn chắc ngay. Bên Hoa Phong nghe Trình nói thì tán thành ngay và rất hoan nghênh quan điểm làm ăn mạnh dạn và chững chạc của anh.Họ càng thêm tin tưởng và cử một Giám đốc  khảo sát thị trường cùng  về Việt Nam với vợ chồng Trình. Trong một chuyến tàu tốc hành Bắc Kinh –Hà nội.  Thế là tuần trăng mật của  đôi uyên ương Trình Thủy  đã làm  một cuộc đổi đời như vậy đấy.
Công ty điện máy Bình Minh của Trình và Thủy ra đời và hoàn thành thủ tục pháp lý  chỉ trong vòng  một tuần lễ.Hai người về quê để ra mắt họ hàng nội ngoại sau ngày cưới và cũng là báo cáo xin phép bố mẹ về việc làm ăn mới .Đề nghị bố mẹ chi viện cho vay  một số vốn ban đầu khoảng một tỷ đồng để làm vốn pháp định khi xin thành lập công ty với nhà nước và ngân hàng, trong vòng ba đến sáu  tháng sẽ xin hoàn lại trả bố mẹ đầy đủ.Hai ông bà Thuận Roãn rất vui mừng phấn khởi vì các con đã có chí thú, chủ động kinh doanh làm ăn, không bám  vào biên chế nhà nước lâu dài, nhất trí chi viện vốn ban đầu cho vợ chồng Trình ngay . Các thủ tục đăng ký môn bài, thuế má được tiến hành nhanh.Ngay sau  đó tìm các bạn hàng tiêu thụ trong nước, tập hợp lại nhu cầu trước mắt, rồi mới ký kết hợp đồng chính thức với tổng công ty Hoa Phong ,Trung quốc . Ngoài ra còn phải tuyển chọn một số nhân viên giao dịch và bán hàng , phần lớn là những bạn bè chân tay thân tín cùng học nghề với mình mà Trình và Thủy đã nhằm sẵn từ trước.Đồng thời phải thuê một cửa hàng giao dịch và một khu kho tạm thời, ở các kho của nhà ga hiện nay đang rỗng, có bảo vệ chắc chắn,.Chuyến hàng đầu tiên gồm các máy điện nước và công cụ, công nghiệp và nông nghiệp khoảng hai nghìn chiếc, chở trên  chuyến tàu hàng  do tổng công ty Hoa Phong  áp tải đến biên giới Bằng Tường,làm thủ tục xuất khẩu bàn giao cho công ty Bình Minh nhận chuyển tiếp về Hà Nội  do Trình và Thủy dẫn một số nhân viên lên hướng dẫn tiếp nhận lần đầu để làm quen thủ tục và giới thiệu bạn hàng hai bên với nhau.Do công tác tổ chức của Trình rất tỷ mỉ và khoa học nên chuyến hàng đầu tiên về tới ga Hà Nội chỉ phải dừng lại ở trong ga  một đêm  một ngày thì phân phối hết.Các bạn hàng trong nước  đã chuẩn bị sẵn xe cộ và lực lượng  vận chuyển khá đầy đủ và nhanh chóng giải phóng bốn toa xe hàng điện máy, lập một kỷ lục mới trong ngành đường sắt lúc bấy giờ.
 Trong đăng ký xin thành lập công ty  điện máy Bình Minh,Trình đã thống nhất để cho Thủy đứng tên làm giám đốc.Nên sau khi hoàn thành thủ tục Thủy phải làm đơn  xin nghỉ phép một thờì gian rồi sau đó xin thôi việc để chuyên việc quản lý kinh doanh.Còn Trình vẫn ở lại tiếp tục làm  trưởng tàu Bắc Nam, rồi xin chuyển sang làm trưởng tàu liên vận quốc tế, để có thể quán xuyến hỗ trợ việc vận chuyển hàng của tổng công ty Hoa Phong và công ty Bình Minh.Sau chuyến hàng đầu tiên  được xuôn xẻ.Công ty Bình Minh  lại ký kết thêm nhiều mặt hàng mới, như máy nghiền xàng đá, máy gặt đập, máy xúc húc loại nhỏ, máy làm gạch ngói ... Hàng được liên tục trở về Hà Nội, có nhiều chuyến, nhiều toa tàu chạy thẳng tới Huế, Đà Nẵng, Sài gòn...  giao cho các đại lý của công ty Bình Minh. Mọi việc giao dịch và liên lạc đều thông qua máy vi tính và điện thoại di động mà không phải trực tiếp đi lại như trước, nên với một bộ máy gọn nhẹ  chỉ hơn chục người, có cả người nước ngoài mà Trình và Thủy vẫn điều hành được công ty với doanh số hàng chục tỷ đồng chạy đều liên tục, không sảy ra trục trặc gì lớn, không nợ hay chậm tiền thuế với nhà nước, tiền cước vận tải với đường sắt, nhà ga đều sòng phẳng, không có điều  tiếng gì .Trong nội bộ công ty được đoàn kết chặt chẽ cùng làm ăn, thương mến nhau như trong một gia đình.
   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.07.2016 15:30:30 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
.. - 21.07.2016 11:54:48
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.07.2016 16:50:09 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
.. - 22.07.2016 16:01:57
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.07.2016 16:51:16 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
.. - 22.07.2016 16:19:30
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.07.2016 16:57:26 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
.. - 22.07.2016 18:18:03
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.07.2016 16:58:16 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
.. - 25.07.2016 19:21:15
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.07.2016 16:56:36 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
.. - 25.07.2016 19:26:41
.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.07.2016 16:54:14 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
.. - 25.07.2016 21:03:40
..
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.07.2016 11:54:17 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 16:13:36
Công viêc đang làm ăn thuận lợi thì chiến tranh biên giới phia Bắc xảy ra, quan hệ giữa ta với Trung quốc bị  gián đoạn , việc giao lưu hàng hóa bị ngừng trệ.Nhưng công ty Bình Minh vẫn tiếp tục tồn tại.Với số vốn đã kiếm ăn được trong mấy năm qua đã kha khá, họ không chịu ngồi yên, nhu cầu nền kinh tế trong nước vẫn đòi hỏi cao.Họ chuyển hướng sang buôn bán với  các nước khác như Thái Lan, Đài Loan, Úc vân vân...Những hợp đồng qua đường biển, đường hàng không  được giao dịch ký kết .Mặc dầu chiến tranh biên giới chưa kết thúc, nhưng trên thị trường Việt Nam đã  lại tràn ngập hàng hoá của các nước khác. Chỉ có Trung quốc là bị mất đi một thị trường Việt Nam đáng kể mà thôi. Những kỳ nghỉ phép năm của Trình được dồn lại trong những chuyến cùng Thủy đi  du lịch nước ngoài như Thái Lan, Australia, Pháp, Đức... ,vừa có ý nghĩa là du lịch nhưng lại cũng có  mục đích là đi tìm nguồn hàng và ký kết hợp đồng cho công ty Bình Minh.
Sau chiến tranh biên giớ phía Bắc, tình hình chính trị trong nước  đã tạm thời ổn định, nhưng tình hình kinh tế lại càng trong giai đoạn khó khăn, nạn đói kém, thất nghiệp diễn ra ngày càng nhiều .Trong nội bộ các cơ sở, công trường , nhà máy ,đơn vị... thường diễn ra tranh công tranh việc, đố kị tị nạnh  lẫn nhau gây nên mất đoàn kết, bè phái cục bộ và tham nhũng nảy nở ngày càng nhiều... Giữa lúc đó trưởng tàu hỏa xa vào loại giỏi giang có tín nhiệm nhất  nhì và đang có triển vọng phát triển lên cao hơn của Đoạn đường sắt  Hà Nội, Nguyễn Văn Trình làm đơn xin thôi việc, với lý do  xin về tự túc làm ăn, để nhường việc cho các đồng chí khác hoàn cảnh khó khăn hơn. Tính đến nayTrình mới vào biên chế nhà nước được tám năm, cũng là tám năm làm trưởng tàu, luôn luôn là chiến sỹ thi đua, chưa hề bị kỷ luật lần nào .Mọi người  mới ngã ngửa người ra .Quái, cái anh chàng trưởng tàu còn trẻ mới ba mươi hai tuổi này bị hâm hay sao, người ta phải cạy cục xin vào biên chế chả được anh ta lại xin ra, người ta muốn ở lại bám lấy đồng lương nhà nước, và sau này có chế độ về hưu, để con cái còn được nhờ vả mà anh ta lại không muốn. Anh ta tài hoa như thế lại đang có triển vọng được đề bạt lên cán bộ cấp cao hơn nữa, nhưng anh ta lại bỏ xin về, chả hâm là gì? Lãnh đạo đoạn đường sắt  tưởng là anh ta có bất mãn gì liền đến động viên  anh ta ở lại, chẳng gì cũng là một trưởng tàu giỏi, cho về thì tiếc quá, nhưng Trình nhất định xin về.Một số người biết Trình có công ty kinh doanh đang làm ăn khá thì khuyên  Trình cứ để vợ làm cũng được rồi, còn anh nên ở lại để đi hai chân , quân tử phòng thân đi hai chân là hơn cả, đề phòng chân  này bị sa sảy thì đã có chân khác đỡ. Anh trả lời : đó chỉ là lợi  dụng nhà nước, đánh lừa nhà nước, chỉ có bọn tham nhũng mới hay lợi dụng kiểu ấy mà thôi. Một cán bộ lãnh đạo cấp cao của ngành  Giao thông vận tải hỏi anh một cách thân mật:- Cậu nghĩ thế nào mà lại xin thôi việc.Trình cũng trả lời thật thà:- Tôi tự thấy mình có thể về làm ăn kiếm sống bằng việc khác để nuôi dậy con cái sau này  được, để dành việc cho người khác làm mà thôi!  Động viên ở lại mãi không được , cơ quan cũng đành phải cho anh về nghỉ thôi việc , không có chế độ gì cả.Anh rất vui vẻ cảm ơn cơ quan và chào mọi người ra về một cách thanh thản.                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                         
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.07.2016 16:17:09 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 16:26:38
Chương 16- CẦU HỔ ,TĨNH GIA  5-66
 
Lực lượng bảo đảm giao thông phục  vụ chiến đấu từ 1966  đến 1967 của đại đội 19 công binh Thanh Hóa, thuộc Quân khu Ba.Trên cung đoạn từ phà Ghép vào cầu Hổ thuộc quốc lộ 1A  trên dải đất huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
 Cầu Vằng, cầu Hổ nằm trên đoạn đường giao thông chủ yếu quan trọng , tại đây gồm có 3 đường: Đường bộ, đường sông và đường sắt giáp nhau, bên cạnh là ga xe lửa Khoa Trường.
 Việc giao thông vận tải vào chiến trường phục vụ chiến đấu bằng các loại  ô tô, xe lửa, sà lan, thuyền dân, đều phải vượt qua đây. Khu vực này được mệnh danh là túi bom đạn của máy bay Mỹ gieo xuống.Bất kể ai đi qua lại đều phải có sự quan sát từ xa và chuẩn bị một tư thế  khẩn trương để vượt qua phà Ghép, cầu  Vằng và cầu Hổ, để bảo đảm an toàn cho tính mạng.Cầu Hổ nằm trên đoạn sông  cong, vừa chịu đựng xe ô tô trên mặt cầu, dưới chân cầu là thuyền bè , sà lan ra vào va quệt, dễ bị sập đổ.
 Tình hình địch: Trên không thì ngày đêm máy bay địch săn đuổi xe cộ, tàu thuyền, ngăn chặn sự chi viện của ta vào chiến trường.Ngoài biển thì pháo hạm địch cũng thường xuyên bắn phá đe dọa  xe pháo và những người qua lại, cũng như bà con nhân dân sản xuất.Thời gian  quy luật máy bay địch bắn phá thường là từ  8 giờ sáng đến 11-12 giờ trưa, và  từ 16 đến 17 giờ chiều.Chúng còn tập kích đánh lén vào lúc 20 đến  21 giờ đêm.
Tình hình ta : Tỉnh đội Thanh Hóa tổ chức tiểu đoàn 47 công binh.Bước đầu do Nam Sao, Trưởng ban công binh tỉnh kiêm tiểu đoàn trưởng, gồm có đại đội 19 và đại đội 12.Riêng đại đội 12 mới thành lập, sau đảm nhiệm khu vực cầu Lựu vào khe Nước Lạnh-Hoàng Mai.
Đại đội  19 đảm nhiệm  từ phà Ghép vào cầu Đồi, cầu Đại Thủy, cầu Vằng, cầu Hổ.Vào cuối năm 1966-1967 thì trọng tâm là cầu Vằng, Cầu Hổ.

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 16:35:49
 Từng giai đoạn lại có đại đội pháo phòng không 37 hoặc 57 ly phục kích sẵn đánh máy bay địch và yểm hộ công  binh bảo đảm giao thông bắc cầu.Lực lượng dân sự có đội cầu 1 của Ty giao thông Thanh Hóa, đóng quân tại xã Nguyên Bình và phần lớn đóng tại xã Tân Trường, giáp đại đội 19.
Nhiệm vụ chủ yếu của đại đội 19 là bảo đảm giao thông, lấp hố bom, làm đường tránh, sửa chữa và bắc cầu, khắc phục hậu quả do bom đạn Mỹ trên tuyến.
Quyết tâm, kế hoạch và biện pháp:
-Trong quá trình bảo đảm giao thông  phục vụ chiến đấu .Đơn vị đã trải qua nhiều trận khắc phục sửa những đoạn đường lớn và nhiều cầu do địch bắn phá.Sự đoàn kết hợp đồng giữa đại đội 19 và đội cầu 1 đã có những bước  phát triển tốt đẹp trong việc hoàn thành nhiệm vụ.
Tuy nhiên cũng nhiều phen đấu tranh gay gắt trên lĩnh vực tư tưởng và kỹ thuật xây lắp cầu, cống không tránh khỏi chê bai lẫn nhau.Có hiện tượng không tin là bộ đội bắc được cầu, hoặc những việc kỹ thuật  khó khăn.
Trong một trận thử sức quyết liệt đấu tranh về tư tưởng giữa đại đội 19 và đội cầu 1 để bắc lại cầu Hổ do địch đánh sập lúc 8 giờ ngày 13-8-1966:Ngay sau khi cầu sập, 20 phút sau, cán bộ đại đội 19 kiểm tra cụ thể .Điện báo cáo về ban công binh tỉnh đội.Lệnh của Tỉnh đội: đại đội 19  bàn bạc hiệp đồng với đội cầu 1 để bắc lại cầu khẩn trương thông xe.
Khoảng 13 giờ 30 phút, ban chỉ huy đại đội 19 gồm  có các đồng chí Lê chí Đạo đại đội trưởng, Nguyễn Văn Vượng chính trị viên, Phạm Thành Cư đại đội phó ,Nguyễn Thức đại đội phó; cùng đồng chí Truy đội trưởng đội cầu 1 giao thông,  cùng phối hợp kiểm tra để xác định quyết tâm .Thì đồng chí Văn Bằng tỉnh đội phó và đồng chí Nam Sao chủ nhiệm công binh tỉnh xuống kiểm tra, xây dựng quyết tâm cho bộ đội khắc phục hậu quả cầu Hổ.
Quá trình  kiểm tra khảo sát lòng sông tại vị trí bắc cầu thì bê tông sắt thép đất đá ngổn ngang ở đáy sông, nhất là  những tảng bê tông to lớn vướng mắc không thể đóng cọc được do cầu cũ bị bom đạn đánh sập.
Mặt khác, sông Ngự tuy nhỏ nhưng gần cửa biển nên nước thuỷ triều lên xuống trên dưới 2m Sông cạn, chiều tối nước lên cao, mức thông thuyền phải đạt từ 2,5m đến 3m.Như vậy chân cầu cao tới trên 5m, đó là chưa kể dưới đáy sông, bùn đất hố bom, phải đóng cọc trụ sâu từ 2,5 tới 3m.Tuy vậy khẩu độ nhịp cầu phải dược mở rộng từ 4m đến 9m hoặc 10 m, để thuyền bè, sà lan qua lại cầu được an toàn
Ngoài yếu tố địa chất thủy văn, kỹ thuật kết cấu cầu, thì nguyên vật liệu như gỗ làm chân trụ, phải dài 8 đến 10m, đường kính 25 -30 cm, yêu cầu thẳng và dầm cầu bằng  đường ray xe lửa, khó kiếm ngay được một lúc.
Trước khó khăn vậy, đồng chí Thai, kỹ sư đội phó đội cầu 1, nêu ra những yếu tố quan trọng trong khâu kỹ thuật và đủ các mặt khó khăn, thời gian không làm được, mức độ chuẩn bị và thi công phải từ nửa tháng trở lên  mới giải quyết được.
Chẳng lẽ bó tay trước cái khó , mà yêu cầu vận chuyển vào chiến trường thì xe mong đợi từng giờ.Không  thể thuyết phục được đồng chí Thai.Ban chỉ huy đại đội 19 đã nêu ở ngay đầu cầu phương án tại chỗ,: Tự khảo sát lòng song, vẽ mặt cắt đáy sông, tự thiết kế cầu bằng dầm sắt đường ray xe lửa ( cứ 3 ray bó lại thành một dầm), số lượng 8 cái, trụ cầu bằng gỗ để bảo đảm cho xe 8-12 tấn đi qua.
Tuy vậy,  cũng bị đồng chí Thai bác bỏ về khâu kỹ thuật và đưa ra lý luận  về lực tĩnh lực động vv…khi xe qua cầu không bảo đảm.
(Thay đỏi trang:sang trang 2)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.07.2016 19:29:31 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 18:46:06
Ban chỉ huy đã xin ý kiến của đồng chí Văn Bằng tỉnh đội phó, và đồng chí Nam Sao  chủ nhiệm công binh, được đồng chí Bằng và đồng chí Sao nhất trí và còn động viên bộ đội xây dựng quyết tâm để phục vụ chiến đấu ở chiến trường.Khó mà chỉ bàn lý thuyết xuông,  không quyết tâm thực hành thì hỏng việc.Đồng chí Bằng còn nói đùa vui với anh em bộ đội: “ Các cậu cứ làm đi, đổ cầu thì bắc lại, không ai bắt tù tội các cậu đâu mà lo, máy móc dập khuôn thì mất thời cơ chiến đấu”
Đại đội 19 đã yêu cầu  đội cầu 1 Ty giao thông cấp đủ vật liệu như cọc trụ, dầm ray sắt , ván lát , dây thép vv…Do đại đội 19 tự thiết kế tự thi công và chịu trách nhiệm hoàn toàn với cấp trên.Đồng chí Truy và Thai đã thỏa thuận và cho công nhân chuyên trách làm cầu Vằng.
Diễn biến chiến đấu:Đồng chí Cư đại đội phó và hai chiến sỹ Thơm và Tư trực tiếp bơi lội đo đạc lòng sông, tự vẽ tự thiết kế cầu.
Ở vị trí đóng cọc  bị các tảng bê tông chắn không đóng cọc được, anh em đã moi gầm bê tông rồi gói bộc phá, do không có kíp điện, nên dùng dây cháy chậm đốt trên mặt nước, sau lặn xuống đặt vào gầm tảng bê tông, lên bờ chạy ra xa bảo đảm an toàn.
Cầu được thiết kế 3 nhịp, hai nhịp bờ Bắc và Nam là chân mố gỗ xếp làm nhịp đầu cầu, còn nhịp giữa là hai vì chân trụ, kết cấu vững vàng, trên trụ cầu được đặt cố định 8 dầm, lát ván ngang, ván vệt.Đêm xe chạy, ngày dỡ mặt cầu sơ tán, chống máy bay địch bắn phá.
Phương pháp thi công: ghép sàn đạo, dựng giá vồ ĐB45đóng cọc, dùng cưa máy cắt đầu cọc, lắp xà đầu vì cố định, lao dầm vv…
Kết quả: Chính thức thi công và chuẩn bị vật liệu  từ  17  giờ ngày 23-8 đến 23 giờ ngày 24-8-1966, cầu được thông xe bảo đảm an toàn cho hơn 7.000 lượt xe qua lại trên cầu.Sau đó lại bị địch phóng rốc két làm hỏng mố và một nhịp cầu bờ Nam, đại đội 19 đã sửa chữa ngay, ngày đêm vẫn thông suốt.
Đại đội 19 đã được thủ trưởng Tỉnh đội biểu dương khen thưởng, được hội đồng chính phủ tặng danh hiệu đơn vị quyết thắng, đón nhận huân chương chiến công hạng nhất năm 1966.
Nhận xét:Quyết tâm của cán bộ chiến sỹ rất cao, đã được trải qua rèn luyện  thử thách trước bom đạn, lại được huấn luyện chu đáo về chuyên môn, địa hình quen thuộc.
Tinh thần tư tưởng dũng cảm quyết tâm cao.Đoàn kết nhất trí , hiệp đồng lập công xuất sắc.Thi công đạt yêu cầu kỹ thuật, đúng thời gian thông xe.Làm cho cán bộ công nhân đội cầu 1 tin tưởng ở bộ đội công binh, không những cầm súng chiến đấu,phá gỡ bom đạn địch, mà còn có đủ khả năng thi công xây dựng được những cầu có trọng tải lớn hơn.
Khuyết điểm: Kiến thức trong kỹ thuật xây dựng  của bộ đội quá hạn chế, nhất là một số cán bộ ở bộ  binh mới chuyển sang công binh  chưa được huấn luyện mấy về công binh..Mặt khác  vật liệu do giao thông quản lý,  ta không thể chủ động giải quyết .Khi  quan hệ trao đổi xây dựng quyết tâm  còn nóng vội , chưa thuyết phục được  sức lực và trí tuệ của cán bộ công nhân đội cầu 1.
Kết luận:
Có tư tưởng và ý chí quyết tâm cao, lại được rèn luyện thử thách  trong huấn luyện và trong thực tiễn .
Nắm vững được yếu tố kỹ thuật xây dựng cầu đường, trong xây dựng cơ bản gắn liền và áp dụng  nhậy bén vào trong chiến đấu.
Quyết tâm tư tưởng phải được gắn liền với kiến thức cơ bản về kỹ thuật, thông suốt mục đích ý nghĩa nhiệm vụ  thì sẽ hoàn thành.Ngược lại kỹ thuật chuyên môn đơn thuần máy móc dập khuôn  sẽ mất thời cơ, hỏng việc, không hoàn thành  nhiệm vụ chiến đấu. 

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 18:51:14
Trận Cầu Vằng
 Đó là câu chuyện về cầu Vằng trên đường quốc lộ 1A, đoạn ga Khoa Trường đi cầu Hổ, thuộc huyện Tĩnh Gia ,Thanh Hóa.Một thái độ xem thường bộ đội, bằng giọng mỉa mai chua chát của anh kỹ sư đội  phó đội cầu 1.
Ai cũng biết một khu vực bãi lầy sú vẹt, nước thuỷ triều lên xuống hàng ngày trên dưới 2m.Một khu vực có 3 trục giao thông thủy bộ, đường sắt giáp nhau.Khu vực của túi bom đạn làm ái ngại cho xe cộ và mọi người phải qua lại ! Ai cũng nơm nớp mắt trước mắt sau vượt cho nhanh để qua khu vực nguy hiểm này.
Cầu Vằng từ thời Pháp là loại cầu bê tông cốt thép cho xe tải trọng lớn đi qua.Cầu gồm 3 nhịp dầm bê tông có 4 lõi thép  đường kính 30-40 ly.Chân trụ là  một cụm cọc bê tông gồm 16 cái.Khi Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, chúng đã nhiều lần đánh phá.Đội cầu 1 cũng đã sửa chữa khắc phục cho xe đi lại hàng chục lần.Có lần bọn Mỹ ném xuống cầu, đổ một mảng hạ lưu và mố, nhưng lần hỏng nặng nhất là ngày 5 tháng 9 năm 1966..Dầm cầu, chân cầu, sắt thép, bê tông đổ vỡ ngổn ngang, khó mà dùng sức lực của con người để dọn dẹp cũng như cắt bỏ làm mới một cách dễ dàng.
Quyết tâm và kế hoạch chiến đấu: Đại đội 19 công binh nhận thấy muốn giải quyết được nhanh chóng chỉ có thể dùng bộc phá, nhưng trong tay lại không có bộc phá .Tuy là một đơn vị bảo đảm giao thông sửa chữa cầu đường, nhưng mọi vật liệu như sắt thép, gỗ và thuốc nổ đều phải liên hệ qua giao thông cấp phát.
Sau khi bàn bạc với đồng chí Đạo đại đội trưởng, đồng chí Truy đội trưởng và đồng chí kỹ sư đội phó đội cầu, để quyết tâm  sửa chữa.Anh kỹ sư đội phó cho rằng không thể làm được, cái gì cũng phải có thời gian xem xét kỹ càng, chứ không thể nói ra  đã là xong như người ta  bê những hòn đất tí xíu ,mà nhất là bê tông cốt thép ngổn ngang, vậy mà đòi thông xe đêm mai đêm mốt, thật là một sự mơ tưởng. Khi tính toán thuốc nổ, anh nói : Thuốc nổ phải dùng hàng tấn .
-Tốn kém cũng phải dùng, ta  không thể tắc cầu  đường lâu dài được-anh em bên công binh nói.- Nhưng anh đội phó vẫn khăng khăng:
-Tốn mà đánh không dứt, lại còn sơ xác ra, phải tháo gỡ dọn dẹp hàng tuần…nhưng chắc gì đã đạt theo ý muốn của các anh ! – Bọn tôi tiếc gì thuốc nổ.
-Trước yêu cầu nóng bỏng của chiến trường, mà cầu đường bế tắc, không thể vòng tránh đi đường khác được.Xe vận chuyển phải đợi từng giờ. Đồng chí Cư đại đội phó bàn với đại đội trưởng Lê Chí Đạo, ”Tôi xin đảm nhận”.
Vừa lúc đó thì đoàn cán bộ của Tỉnh đội xuống kiểm tra đôn đốc , do đồng chí Nam Sao, chủ nhiệm công binh dẫn đầu. Sau khi xem xét tình hình cụ thể tại hiện trường và nghe  Ban chỉ huy đại đội 19 báo cáo và ý kiến của đội trưởng đội cầu1.Đặc biệt nghe đại đội phó Cư trình bày phương án  khắc phục phá gỡ cầu đổ và  kỹ thuật thi công cầu.Đồng chí chủ nhiệm công binh hoàn toàn nhất trí cho phép đại dội 19 thực hiện phương án này.Anh nói :  -Theo chỉ thị của trên, bằng giá nào cũng phải thông cầu càng sớm càng tốt, để đưa hàng đoàn xe pháo đang ùn tắc vào chiến trường ngay. Anh quay lại  dặn thêm đại đội phó Cư : Phương pháp này ở trường công binh đã huấn luyện rồi, cứ mạnh dạn mà làm.Nhưng phải bảo đảm tuyệt đối an toàn.
Đại đội trưởng Lê Chí Đạo và đại đội phó Nguyễn Thành Cư rất phấn khởi và khẩn trương triển khai ngay.
 Một tiểu đội công binh được tổ chức chuẩn bị lĩnh thuốc,  gói buộc 4 lượng nổ dài= 300kg để cắt dầm vá mặt cầu gần hai mố 4 lượng nổ tập trung=400kg đánh chân cầu, áp dụng theo phương pháp đánh cụm cọc.Hơn 300kg = 4 lượng đánh cắt các dầm và mặt bản cong vênh ngổn ngang phía giữa.
Một điều khó khăn  là không có dây, kíp điện  nên không thể bố trí nổ đồng loạt được.Do đó phải dùng dây cháy chậm loại tốt ( qua đốt thử vài đoạn theo dõi tốc độ cháy của dây)
Quá trình  tổ chức chuẩn bị gói buộc và cố định lượng nổ, có đại đội trưởng Đạo và đội trưởng Truy, là niềm cảm hứng động viên tin tưởng.
Diễn biến chiến đấu:
Thứ tự, lúc 15 giờ 30 phút đánh 8 quả đoạn giữa dầm, và chân trụ, cắt đứt theo ý định tạo thế cho đợt sau.Kết quả đứt băng theo ý định.
Còn lại hai đầu gần mố, lúc 20 giờ cùng ngày cho nổ tiếp.Trong đêm tối một đống lửa bùng lên sáng rực khu cầu Vằng, một tiếng nổ rung động đã hất  gọn toàn bộ những bê tông sắt thép, cắt đứt đúng như ý định mong muốn.Sức con người không phải dọn dẹp, không phải lo nghĩ hàng tuần như anh đội phó đã nêu ra.

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 19:09:53
-Phương pháp cho nổ: đặt mỗi lượng 2-3 kíp để hứng nồ dây chuyền
-Các lượng nổ cắt dây  cháy chậm bằng nhau, đấu đầu từng đôi một.Dùng các đoạn dây cháy chậm đốt xì vào điểm hỏa các lượng nổ.
-Tổ chức cảnh giới hai đầu cách xa lượng nổ 1.000m, báo động ẩn nấp chu đáo.Theo lệnh của đại đội trưởng điểm hỏa và đủ thời gian chạy về nơi ẩn nấp quan sát.
Kết quả :Chỉ sau đó hai ngày đêm đại đội 19 công binh đã dùng gỗ xếp cũi, bỏ đá, đặt xà đầu vì, cố định dầm ray, lát ván… Thông xe.
Vị trí cầu trở nên  dễ thi công, chân cầu thấp thu gọn lại còn một nhịp, từ đấy khi cầu bị hư hỏng, việc sửa chữa trở nên thông thường hơn.
Ưu điểm:- Mạnh dạn táo bạo, in tưởng vào khả năng tập thể , tin ở mình.
Giải quyết nhanh gọn an toàn tuyệt đối nhanh chóng thông xe.
Một số hỏa cụ thiếu đã sáng tạo áp dụng phương pháp nổ truyền.
Gây lòng tin đối với cán bộ chiến sỹ, là sự trả lời đối với kỹ thuật máy móc không mạnh dạn, trì trệ, ảnh hưởng đến sức chiến đấu.
Tin tưởng vào kỹ thuật và uy lực của bộc phá, cán bộ công binh đã qua học tập ở trường quân sự và thực nghiệm nhiều lần.
Có sự chỉ đạo động viên của đồng chí Nam Sao, Chủ nhiệm công binh tinh, sự chỉ huy cúa đại đội trưởng  Lê Chí Đạo và sự đồng tình ủng hộ của đồng chí Truy,  đội trưởng đội cầu 1.
Có bài học thành công của cầu Hổ trước đây mấy ngày.
 
   Phà Ghép đêm 21-9-1966
  Bến phà Ghép nằm trên đường quốc lộ 1A về phía Nam thị xã Thanh Hóa 24 km, là bến phà giáp cửa biển, nước thủy triều lên xuống.Từ trước  chỉ có một bến phà chính, không có cầu nổi.Là một trong những bến chiến lược  từ hậu phương lớn ra tiền tuyến.
  Cuối năm 1965 ta đã làm một đường vòng tránh qua xã Quảng Trung và một bến phà hai, gọi là bến Ngọc Trà ở sâu trong nội địa 200m so với bến chính, đường vòng dài hơn 3km là đoạn đường cấp phối đơn giản.
   Tiểu doàn 27  công binh Quân khu ba lần đầu tiên bắc cầu nổi bằng thuyền sắt ở đâ, giữa năm 1966, để bảo đảm lượng xe đi ngày càng nhiều.Giao thông tỉnh Thanh Hóa đã bắc cầu nổi hỗn hợp luồng và thuyền sắt ở bến Ngoc Trà để xe nhẹ ra vào, xe quá tải vẫn vượt sông bằng phà ở bến chính.
Phương tiện của bến ngoài cầu nổi có 2 phà, 2 ca nô 90 mã lực, mỗi phà chở được 6 xe không có đuôi.Bến này do đoạn bảo dưỡng  đường bộ  của Ty giao thông tỉnh Thanh Hóa phụ trách từ trước đến nay.
Hai bờ Nam Bắc của bến rất trống trải toàn sú vẹt khó  ngụy trang.
Đế quốc Mỹ đã liên tiếp đánh phá bến phà Ghép  với âm mưu từng đợt cất đứt giao thông từ Bắc vào Nam Thanh Hóa.Thủ đoạn của địch là thường xuyên cho máy bay trinh sát, ban đêm thả pháo sáng  để pháo hạm có thể bắn pháo vào đoàn xe ,vào bến, khi thấy có xe ra vào lại tiếp tục ném bom, bắn phá cả ngày lẫn đêm,kết hợp các loại bom phá , bom mảnh vụn đủ loại để phá hủy bến, phá phương tiện và uy hiếp tinh thần nhân viên phụ vụ tại bến.
Chủ trương kế hoạch của ta :
Theo chỉ thị số147 TTg ngày 1/12/1965  của phủ thủ tướng, bến phà này giao cho quân đội đảm nhiệm, bên giao thông cấp phương tiện, nhân viên kỹ thuật.Tỉnh đội Thanh Hóa thành lập ban chỉ huy bến gồm có:
   Nam Sao, Công binh, Chỉ huy trưởng;  Lê Hiền, Giao thông , Chỉ huy phó; Phạm Sế, Công an, Chỉ huy phó ;Nguyễn Lương,Thiếu úy, Chính trị viên.
Ngoài lực lượng bến phà sẵn có, bổ sung thêm một tiểu đội công binh làm nhiệm vụ quan sát, phá gỡ bom đạn chưa nổ.Hai bờ Nam Bắc có một đại đội cao xạ bảo vệ và một số ụ súng  bắn máy bay tầm thấp của dân quân
Ban chỉ huy thống nhất, trừ trường hợp bất thường, còn thường xuyên xe nhẹ sẽ qua sông bằng cầu nổi tại bến Ngọc Trà, xe quá tải sẽ qua sông bằng phà.Trừ khi có lệnh xe chạy ban ngày, còn thường xuyên chập tối lắp cầu, đưa phà vào bén và sáng sớm lại dỡ đưa đi cất dấu. Giữa hai bến phà có một cầu phao cho người đi để bảo đảm  thông suốt hai bờ và một đường dây điện thoại hữu tuyến.Dọc đường xuống bến cấu trúc một số hầm kèo nhà để mở nắp.
Diễn biến chiến đấu : Ngày 21-9-1966 địch đã bắn phá một lần vào bến Ngọc Trà và bờ Nam bến chính nhưng không trúng, ta an toàn.
17giờ 30 ta cho phà vào bờ Bắc bến chính và cho hàn khẩu cầu nổi bến phụ.
18 giờ chuyến phà đầu tiên chở 6 xe tải rời bến.Đồng chí Lương cùng tổ 1 đi với phà, đồng chí Hướng ở bờ Bắc; Khẩu súng máy đặt trên nóc ca nô  do đồng chí Lương trực tiếp  điều khiển.Phà vừa rời bến được quá nửa sông, thì máy bay địch đến bắn phá, phà vừa tiến vừa bắn trả, phà cập bến bờ Nam, 5 xe vừa lên khỏi phà  thì địch bắn trúng phà, máy không nổ, các thủy thủ và lái xe chạy lên hầm ẩn nấp Đồng chí Lương bị bom nổ hất xuống sông, khẩu súng máy rơi xuống mặt phà.Dây điện thoại qua sông bị đứt. Đồng chí Nam Sao chạy qua cầu người đi bộ sang bờ Nam nắm tình hình và ra lệnh cho tổ 1 tiếp tục sửa chữa, một lát thì sửa chữa xong , cho nổ máy ngay.Máy bay địch bay khỏi ta lại tiếp tục chuyên chở xe qua sông.
19 giờ 40 phút chuyến phà thứ ba qua sông, máy bay địch lại đến bắn phá, lần này phà bị thủng , nước tràn vào một khoang, cùng lúc đó cầu nổi ở bến Ngọc Trà bị hư hỏng nhẹ một số phao.Tình hình lúc đó ở bờ Bắc ùn nhiều xe, có cả xe kéo pháo, bờ Nam còn ít  nếu cứ chở phà thì không  bảo đảm số lượng xe còn lại.

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 19:15:20
20 giờ đồng chí Nam Sao hội ý ban chỉ huy, nêu ý kiến dỡ cầu nổi bến Ngọc Trà ghép hỗn hợp với bến chính để xe kéo đuôi vào cho nhanh, vì đường Ngọc Trà xấu ,đi vòng lại chậm.Lúc đầu một số đồng chí  không nhất trí, nhưng đồng chí  Nam Sao đã nói” Tôi xin chịu trách nhiệm với Đảng về việc này “ và  quyết định  điều các phao nổi xuống bến chính lắp ghép cầu.Một mặt cứ chuyên chở bằng phà còn lại, để tăng thêm lượt xe vào ra.Nhưng do phà bị nước vào, nên thời gian qua sông kéo dài , lượng xe vẫn ùn đông.
23 giờ  cầu nổi đã lắp ghép và hàn khẩu xong tại bến chính.Từ lúc đó đến sáng đoàn xe liên tục vượt cầu nổi an toàn.
4 giờ sáng ngày 22/9/1966 ta dỡ cầu nổi và chuyển đi cất dấu..
Kết quả: Bảo đảm an toàn cho 900 xe vào ra, phần lớn xe vào là có đuôi.Một chiếc phà bị bắn thủng một khoang , phải sửa chữa.
Nhận xét, cán bộ chiến sỹ, công nhân đều  dũng cảm, đoàn kết hiệp đồng , có tinh thần chủ động, kiên quyết thông xe tại bến chính .Bến trưởng phải quyết đoán. Dám chịu trách nhiệm trước Đảng và  nhân dân. Kỹ thuật phù hợp, bắc hỗn hợp cầu nổi và phà để bảo đảm chiều dài của cầu.               
 
Bến trưởng “Bến phà Thép”
    Bến phà  Ghép qua con sông Ghép cách biển 3km cắt ngang đường số một, cuối huyện Quảng Xương, đầu huyện Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa .Sông rộng 250m, nước thủy triều lên xuống nhiều.Khi lên cao sông rộng 300m, khi nước ròng còn 200m, hai bên bờ, bến bãi thoải và lầy lội.
   Hai bên đầu bến phà, địa  hình trống trải, chỉ có cây sú vẹt mọc lưa thưa, không có tác dụng làm vật che khuất.Còn phương tiện vượt sông như cầu, phà, ca nô, ở khu vực bến Ghép này thì dễ bị lộ.Làng xóm cách xa bến phà hai bên bờ từ 500m đến một cây số.Bờ Bắc cách bến phà Ghép 1500m, có một đường nhánh dài 2km, có thể tổ chức  bến phà thứ ba qua sông ở đây.
  Từ đường nhánh xuống bến 2, đi thẳng đường số một, cách phà Ghép 800m có một đường nhánh qua xóm Nghĩa, qua  thượng lưu phà Ghép, đoạn sông này bắc cầu phao dài 200m.Qua cầu phao đi 5 km đến một cầu gỗ dài 30m, qua kênh nhà Lê, đi một cây số nữa  gặp đường số một tại ngã ba xóm Kho.Như vậy một đoạn sông dài 5 km có ba bến vượt sông
   Ngày 3-4-1965  không quân Mỹ bắt đầu đánh phá cầu Đò Lèn, cầu Hàm Rồng, bến phà Ghép.Sau đó chúng đánh phá các cầu cống trên dọc đường số một trên đất Thanh Hóa  .Riêng khu vực bến phà Ghép, ngày đầu chúng đánh phá mức độ bình thường. Việc bảo đảm giao thông  tuy có trở ngại, nhưng do ta đã có kế hoạch từ trước nên không đáng kể.
   Nhưng về cuối năm 1967, do chiến trường đòi hỏi  chi viện ngày càng lớn .Việc vận chuyển của ta trên  tuyến đường một, đường sông ngày càng cao hơn.Chúng càng thất bại ở chiến trường miền Nam bao nhiêu, thì  việc đánh phá bằng không quân ở miền Bắc càng ác liệt bấy nhiêu.Ở bến phà Ghép có ngày chúng đánh từ 6 đến 8 trận Thủ đoạn đánh phá của chúng: trước còn phá phương tiện như phà, cầu phao, ca nô chúng phá hai bên đầu bến phà, ta vẫn khắc phục được, chúng  chuyển sang phá đường vào bến phà, ta vẫn khắc phục được,Chúng chuyển sang đánh phối hợp: Ban ngày máy bay chuyên đi lùng sục phương tiện vượt sông của ta, bắn rốc két, đạn 20 ly, ban đêm thả pháo sáng rồi thả bom, bom nổ ngay, bom nổ châm, bom bi.Có nhiều đêm  chúng thả 14-15 lần pháo sáng. Người ở bến phà Ghép tưởng như trời sáng trăng đêm rằm.Cứ dòng dã như vậy, địch phá, ta sửa, địch đánh bến này, ta đi bến khác. Chỉ tính một đợt sáu tháng, không quân Mỹ đã đánh khu  vực  bến phà Ghép 900 lần, bình quân mỗi ngày đêm 5 trận, mỗi trận ít nhất 2  máy bay, nhiều là 6-8 chiếc.Mỗi máy bay Mỹ mang từ 8-16 quả bom .Tính bình quân trong một đợt 6 tháng cuối năm 1967;Không quân Mỹ đã đánh, thả, một khối lượng bom đạn ở một khu vực bến Ghép rộng 4 km2 là 7.200 quả bom, không kể đạn rốc két, 12 lần thả bom bi, mỗi lần hàng nghìn quả.Chúng đã phá phương tiện vượt sông của ta: 15 cái phà, 12 cái cầu phao,10 cái ca nô đầu kéo, 15 lần phá đầu mố cầu, đầu bến, phá hoại hàng10.000m đường vận chuyển, bắn chìm 3 thuyền nan trọng tải 20 tấn ở khu  vực phà Ghép và kênh đào nhà Lê .  Chúng gây trở ngại cho  việc bảo đảm giao thông, vượt sông qua bến phà Ghép  vô cùng khó khăn.
    Quyết tâm bảo đảm giao thông, của lực lượng công binh, lực lượng giao thông, và nhân dân Thanh Hóa.
  Biện pháp tổ  chức lực lượng bảo đảm giao thông.Trước ngày địch  bắn phá,bến phà Ghép vẫn do Ty giao thôngThanh Hóa  đảm nhiệm.Ở bến phà này có 16 anh em công nhân, bến trưởng là đồng chi Cừ.Đến khi có chiến tranh phá hoại tăng lên 30 công nhân.Một bộ phận chở phà bến chinh (bến1)dọc đường số một.Còn các bộ phận khác thì chuẩn bị vật liệu, làm các bến phụ số2, số3.Đến tháng 5-1967, hình thành ba bến:bến một, bến hai, bến ba,và dự trữ một cầu phao cho xe cơ giới có trọng tải nhẹ qua.Việc bắc cầu phao bến Nghĩa ( bến 2 ) không thường xuyên, nếu lưu lượng xe vận tải đi ít, thì chỉ giải quyết bến chính số , hoặc hôm nào địch bắn phá bến chính  nặng, thì cầu phao bến 2 mới bắc cho thông xe.Còn bến phà ba vẫn là bến dự bị.

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 28.07.2016 19:25:14
Phủ thủ tướng ra quyết định cho Bộ quốc phòng và Bộ giao thông: Quân đội đảm nhiệm một sô bến phà trọng điểm.Ở Thanh Hóa chủ nhiệm công binh quân khu Hữu ngạn, trung tá Lê Trung Ngôn, trực tiếp giao cho  lực lượng công binh Thanh Hóa 5 bến phà: Đò Lèn, Hàm Rồng, bến Ghép, Mục Sơn, Cẩm Thủy .Đồng  chí Nam Sao, chủ nhiệm công binh tỉnh được tỉnh giao nhiệm vụ kiêm bến trưởng bến phà Ghép,  anh chị em công nhân ở các bến phà này được quân sự hóa. Đều dưới sự chỉ huy, lãnh đạo nghiệp vụ chuyên môn của Tỉnh đội. Riêng Ty giao thông vẫn còn trách nhiệm về phương tiện lớn như  ca nô, phà vv…Bến phà Ghép, thời kỳ này lưu lượng xe vận tải, xe kéo pháo, binh kí kỹ thuật khác ùn ùn chi viện vào tuyến trong.Địch đánh phá khốc  liệt hơn, không những bằng không quân, mà còn đạị bác tầm xa từ hạm đội ngoài biển bắn vào khu vực bến phà Ghép, đòi hỏi cán bộ  và  chiến sỹ  công  binh ở bến phà phải đối phó quyết liệt.
    Khi ty giao thông bàn giao 90 công nhân sang quân đội, tổ chức  thành đại đội tăng cường bốn trung độị, hai trung đội phụ trách phà, một trung đội phụ trách cầu phao, một trung đội điều khiển ca nô, kèm phà và các khí tài khác.Với khí thế mới, anh em công binh giao thông xưng hô với nhau, tiểu đội trưởng, trung đội trưởng ,thủ trưởng, anh nuôi, y tá, vv…cùng nhau lao vào chiến đấu với quân thù .
 Một tình huống xảy ra , do  chuyển vị trí, bến trưởng cũ và anh em công nhân từ trước đến nay vẫn ở xóm Bắc phía đông đường số một, gần chỗ ba-ri-e, nay được đồng chí Nam Sao, bến trưởng mới, ra lệnh di chuyển chỉ huy sở về xóm Đồng Văn, thuộc xã Quảng Trung.Vì chỉ huy sở trước đây ở vào vị trí tam giác, địch dễ dàng đánh phá, mà nguy cơ địch thả bến một và bến hai dễ bị sai lệch.Một sự việc gây lòng tin tưởng của các anh em và cũng là giảm xương máu cho đơn vị.Chiều hôm đó di chuyển xong và nói với nhân dân là vào đây để đào công sự được kiên cố hơn.Thì tối hôm sau,12 giờ đêm địch thả 8 quả bom rơi trúng vị trí cũ.Một quả trúng giữa gian nhà ban chỉ huy bến ở cũ, gia đình này chết hết, trong đó có cụ gìa70 tuổi.Còn xóm làng sơ xác, 25 người bị chết.Sáng hôm sau anh em trở về, giúp đỡ bà con hàng xóm cũ bị tai nạn.Cũng từ đó anh em công binh mới này rất tin tưởng vào sự chỉ huy lãnh đạo của quân đội, của đồng chí Nam Sao, bến trưởng mới và đã hăng háí chở  phà kéo ca nô, bắc cầu.Nhiều đêm lưu lượng tới 800 xe ở bờ Bắc, nằm dài theo đường số 1 tới 4 km, mà ở bến phà 1 và 2, pháo sáng địch thả liên tục hết đợt này đến đợt khác, bom  phá, rốc két thi nhau đánh phá, nhưng những anh em công binh giao thông này vẫn dũng cảm tác nghiệp lắp ghép cầu, chèo chở phà,.Kiên quyết giữ đúng vị trí, động viên nhau giữ vững giao thông, giải phóng 300 xe ứ ở bờ Bắc.Cũng đêm nay anh em công binh đã bị hi sinh một đồng chí, bị hất xuống sông bốn người, đơn vị kịp thời cấp cứu.Một ca nô bị thương ở mũi, trúng bom, nhưng không chìm.Có nhiều hôm vì lượng xe bờ Bắc vào, bờ Nam ra, mỗi đầu bến vài trăm xe, phải chạy cả ba bến từ tối đến 5 giờ sang, anh em liên tục  bảo đảm, không có người thay ca.Một điều đáng nói là 5 giờ sáng mới giải phóng xong xe qua sông ,Anh em còn phải cất dấu ngụy trang phương tiện, đánh phà xa 6 km, ngụy trang xong đã 11-12 giờ trưa.Còn cầu phao, tháo một phần ba đi cất dấu, để ban ngày máy bay địch trinh sát không thấy gì, trống lòng sông, chúng mới không đánh phá.
Cứ đich đánh ta sửa.Địch bắn phá bến phà anh em cao xạ bắn máy bay. Những chiến công bắn rơi máy bay của bến phà Ghép.Anh em mắt thấy máy bay rơi, phi công nhẩy dù, bắt giặc lái… anh em công binh lại càng tin tưởng vào sức  của mình.
   Trong 6 tháng cuối năm  1967, là đỉnh cao không quân địch đánh ác liệt, chúng đánh bằng đủ thủ đoạn, có lẽ đế quóc Mỹ đã dở cẩm nang đến trang cuối cùng, thả bom nổ ngay, xen kẽ bom nổ chậm xuống bến phà, dưới lòng sông, trên đường 1A ,trong làng xóm, ngoài cánh đồng, chúng thả bom bi, chúng tưởng đánh đến thế là ta bó tay.Nhưng không, nhân dân và Đảng bộ xã Quảng Trung, huyện Quảng Xương vẫn bảo đảm sản xuất, quyết không bỏ ruộng hoang.Có những thửa ruộng gần bến phà Ghép, cứ cấy xong , bom thả, lại cấy, bom lại phá.Mười một lần, đến lần thứ mười hai, chính tay đồng chí nữ chủ tịch Ủy ban nhân dân xã và đồng chí bí thư Đảng ủy, trực tiếp ra ruộng cấy, thi gan với không quân Mỹ- quả là không lực Hoa kỳ thua.Đến mùa gặt, thóc vẫn đầy bồ, nuôi dân, nuôi bộ đội.
   Một sự kiện đáng ghi nhớ, bom nổ chậm TNT, bom từ trường địch thả xuống lòng sông, một số thuyền nan vận tải qua bến 3, bến 1, vào kênh đào nhà Lê vào tuyến trong, bị đánh chìm, thiệt người, hỏng phương tiện, mất lương thực, nhưng chưa nguy hiểm bằng và quan trọng hơn là  bộ đội ở miền Nam thiếu vũ khí, lương thực để chiến đấu.
   Trước tình huống này, cán bộ chiến sỹ công binh bến phà Ghép, đề nghị với thủ trưởng Tỉnh đội  và Ty giao thông, cử một tổ lái ca nô  dùng tốc độ chạy nhanh cho bom nổ, để khai thông luồng kênh đào nhà Lê. Được Tỉnh ủy Thanh Hóa chấp nhận.Đơn vị bến phà và địa phương tổ chức lễ truy điệu sống đồng chí Út quê ở xã Quảng Tường, xung phong nhận nhiệm vụ lái ca nô đầu tiên. Buổi  truy điệu sống này được tổ chức long trọng có đủ các đại biểu Tỉnh đội,Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, các đoàn thể các cấp của huyện Quảng Xương, xã Quảng Trung, có cả gia đình đồng chí Út, bố mẹ, anh chị em đồng chí Út.Sau buổi lễ, ca nô đồng chí Út được làm nhiệm vụ ngay trước đông đủ các đại biểu và gia đình. Bến trưởng Nam Sao cảm động ôm hôn đồng chí Út và tiễn đưa đồng chí ấy xuống ca nô, mọi người không khỏi lo lắng, nhất là bố mẹ đồng chí Út  thì dán mắt nhìn thằng con trai 22 tuổi đời ấy không chớp mắt..Ca nô nổ máy, mọi người nín thở, ca nô tới khu vực bom nổ chậm, Út vẫn nhịp nhàng điều khiển ca nô, tăng tốc độ lướt nhanh trên mặt nước.Bỗng những tiếng nổ bùng lên, ca nô bỗng vọt cao như bay, để lại những cột nước do bom nổ tung cao từ 20 m đến 30m. Các đại biểu đứng trên bờ vỗ đến rát cả tay,  hoan hô khản cả tiếng.Gần 2km từ bến 3, qua bến Ghép 1, qua cửa kênh đào nhà Lê, ca nô mới từ từ hãm lại mé bờ Bắc, Đồng chí Út ung dung bước lên bờ, dơ cao hai tay và tươi cười nói lớn:”Đế quốc Mỹ thua rồi !”   Bến trưởng Nam Sao chạy vội lại phía ca nô , vui sướng ôm chầm lấy Út,  rồi anh bế thốc Út lên, reo vang;”Hoan hô người anh hùng !“ .Mọi người đều hô “Hoan hô !”.Thế là mười hai quả bom từ trường nổ sau ca nô.Các bến bãi cửa sông đều thông luồng. Đến tối lại tấp nập qua lại.Nhịp cầu lại bắc, ca nô lại nổ máy, kênh đào nhà Lê  lại rộn rã các thuyến xuôi vào miền Nam. Đoàn xe cơ giới từ bờ Bắc qua bến Ghép vào Nam lại nối đuôi nhau qua cầu phao thẳng tiến.
   Kết quả : Sáu tháng cuối năm 1967, các lực lượng công binh tỉnh Thanh Hóa  đã kiên quyết dũng cảm bảo đảm giao thông, thông suốt ở một bến phà trọng điểm. Không quân địch  đánh phá ác liệt ngày đêm bằng đủ các loại bom đạn, trái phá.-Các lực  lượng đoàn kết phối hợp chặt chẽ với nhau, bộ đội công binh, công nhân giao thông, dân quân và nhân dân xã Quảng Trung nói riêng, huyện Quảng Xương và huyện Tĩnh Gia nói chung, đã khắc phục khó khăn, dũng cảm hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm giao thông.- Sự chỉ đạo  của Quân khu Hữu ngạn, Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh ,Tỉnh đội,Ty giao thông, tỉnh Thanh Hóa đã chỉ đạo, chỉ huy, động viên kịp thời các đơn vị bến phà Ghép.- Trong điều kiện quân địch có bom đạn, máy bay hiện đại, cố tình đánh phá một bến phà, hòng làm tắc đường, cản trở giao thông của ta,Nhưng công binh và nhân dân tỉnh Thanh Hóa nói chung, khu vực  bến phà Ghép nói riêng đã quyết  tâm khắc phục mọi khó khăn nguy hiểm, tận dụng vật liệu thô sơ thắng hiện đại.-Trong 6 tháng cuối năm 1967,  bến phà Ghép đã bảo đảm cho thông hàng chục nghìn xe  cơ giới các loại, chở vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm …và mọi thứ cần thiết cho chiến trường, bảo đảm an toàn.Được nhà nước tặng thưởng huân chương chiến công.Được Ủy ban nhân dân tỉnh khen thưởng và đặt tên cho bến phà Ghép là “Bến phà Thép.” Từ đó Nam Sao đã được cán bộ, chiến sỹ yêu mến cảm phục, mãi mãi gọi  là “Bến trưởng bến phà Thép”.
 

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 12:14:53
“ Eo cửa tử ”
Núi Thổi thuộc xã Bình Minh huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa.Đứng trên núi Thổi có thể nhìn được xa mặt biển những ngày quang trời trông  rõ tàu chiến Mỹ đậu ngoài khơi, ban đêm trông rõ đèn ở tầu chiến thành từng chùm sáng.Tây Nam núi Thổi là đường 1A và đường sắt, ở khu vực Khoa Trường và có con kênh đào nhà Lê, đường cho thuyền nan hai tấn chở hàng vào chi viện miền Nam
Địch đánh bằng không quân và bắn pháo vào khu vực núi Thổi đều gây thiệt hại một trong ba mục tiêu giao thông của ta, vì ba muc tiêu  :đường sắt cách đường số một từ ba đến năm trăm mét, đường kênh đào nhà Lê chạy vòng ôm lấy đường số một.Địa hình này có lợi cho địch, một đòn ăn ba điểm.
  Trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, ở khu vực tỉnh Thanh Hóa là rất ác liệt, vì là cái cuống họng giao thông, tập trung các đầu mối : đường sắt, đường bộ, đường thủy.Nhất là phía Nam Thanh Hóa, khu vực Tĩnh Gia thì lại càng ác liệt hơn.Không ngày nào máy bay Mỹ không bắn phá, lúc thì bắn xe hỏa, xe ô tô  vận tải trên đường, lúc thì săn bắn thuyền nan trên kênh đào nhà Lê, khi thì săn tàu thuyền của ta chạy ven biển.Có thể nói : phương tiện  vận chuyển của ta đi cũng nhiều, mà địch đánh ta cũng lắm.
“Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn”  Địch xuất hiện loại nào ngăn cản vận chuyển của ta thì ta tìm cách đánh lại chúng, để ta thực hiện kế hoạch của ta: Địch dùng tàu chiến, ta dùng pháo lớn bắn lại địch.
  Tàu chiến xâm phạm bờ biển của ta, có ngày chúng vào cách bờ 10 đến 12 cây số, dùng ống nhòm trông rõ cả nhãn hiệu, mầu sơn, cả đại bác và cờ của chúng.
   Chủ trương của ta  dùng pháo có tầm bắn xa trị bọn tàu chiến Mỹ( đại bác 130 ly).Vì phải đối phó với cả giặc trên trời và dưới biển, thậm chí cả biệt kich phá hoại.Trước đây có lần chúng đã dùng biệt kích  ngụy định phá cầu Hang thuộc xã Hải Lĩnh, huyện Tĩnh Gia,Thanh Hóa.
  Đánh chắc thắng phải có hầm hố kiên cố và canh phòng cẩn mật, rồi mới đưa vũ khí loại  nặng vào vị trí chiến đấu.Trong chiến tranh phá hoại, việc giữ gìn lực lượng, nhất là con người, vì kẻ thù dùng vũ khí tối tân giết người hàng loạt, mà kẻ  thù chỉ tốn vũ khí chứ không tốn người.Nếu như ta đánh lại chúng mà thiệt hại  thì không giỏi.Đó là một vấn đề phải tính toán, tìm đủ mọi cách để bảo vệ người và vũ khí, bảo đảm đánh thắng mà ta giảm thiệt hại đến mức thấp nhất, tiến tới không thiệt hại.
Quyết tâm và sử dụng lực lượngcủa ta là:
-Làm hầm và đường cho đại bác tầm xa vào khu vực núi Thổi, thì không thể ồ ạt đem nhiều người cùng làm một lúc được và cũng không thể lấy lực lượng dân công đươc, vì nhiều nguyên nhân:
- Khu vực núi Thổi không quân Mỹ đánh phá ngày đêm, muốn vào khu  vực này phải qua một eo núi tuy ngắn, nhưng không quân Mỹ loại AD6 suốt ngày bay lượn bắn phá, nên bộ đội và nhân dân gọi là “eo cửa tử “.Chúng thường bắn rốc két và giải bom bi theo dọc eo men theo biển, đã có đến vài chục người bị thương vong ở đây,vì là con đường đi ra biển làm ăn, mà không  có đường tránh nào khác, nên nhân dân vẫn cứ phải liều đi.
-Khu vực núi Thổi địa hình trống trải, tàu chiến địch quan sát và phát hiện rõ ràng các hoạt động của ta .Vì điều kiện phòng gian  bảo mật, bảo đảm đánh thắng, nên không thể ồ ạt như các công trường khác.
Sử dụng lực lượng: Bộ tư lệnh quân khu  quyết định giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 25 công binh, dưới sự chỉ đạo của phòng công binh Quân khu.Sau khi nghiên cứu mọi mặt, tiểu đoàn 25 giao cho đại đội 2 đảm nhiệm.
Biện pháp làm:Dùng lưới ngụy trang cả khu vực  rộng, che mắt không quân địch, che mắt cả bọn tàu chiến địch, đồng thời canh gác che mắt cả bọn địch ở mặt đất.
Sử dụng nhân lực, dụng cụ cuốc xẻng, xe cải tiến, quang gánh, một số máy cần thiết, và dùng thuốc nổ  với lượng lớn để phá đá, kết hợp giữa dụng cụ thô sơ và máy móc cùng làm.
   Diễn biến:Về kỹ thuật muốn kéo pháo 130 ly ra đặt ở phía đông núi, theo thiết kế  đào một đường hầm kéo pháo dài 120m từ phía Tây sang phía Đông núi từ đó tỏa đi 5 hầm pháo.Nếu tính toán làm theo kiểu này thì một đại đội phải làm hai năm mới kéo pháo vào trận địa được, mà tốn kém, lại mất thời cơ tiêu diệt địch.Phòng công  binh Quân khu và cán bộ chiến sỹ tiểu đoàn 25 họp bàn nghiên cứu đề nghị một phương án: Làm một đường vòng qua “Eo cửa tử”, khắc phục những mỏm đá nhô ra cản trở để kéo pháo  bằng cơ giới vào trận địa.Tổ chức làm công sự trận địa trước làm  đường, theo phương án này.Phải đòi hỏi tinh thần dũng cảm của cán bộ chiến sỹ của đại đội 2, vì đại bác địch và máy bay địch bắn phá liên tục ngày đêm, không mấy khi ngớt.
Đại đội 2 công binh hạ quyết tâm dù có phải hy sinh đến tính mạng, nhưng bảo đảm công trình nhanh, có thời cơ diệt địch  nhất là tàu chiến Mỹ cộng hưởng cứ lấn dần, có lần chúng vào cách bờ 8km
  Được trên chuẩn y, đại đội 2 bắt tay thực hiện phương án.Từ chỗ đóng quân tới công trình xa 2 km thay nhau ba ca suốt hai mươi bốn giờ liên tục.Trên đường đi nhiều lần bị máy bay Mỹ đánh phá và đại bác ở tàu chiến bắn vào đội hình đại đội 2 , đã có một số đồng chí bị thương vong. Nhưng gian khổ hy sinh anh em vẫn quyết tâm làm xong trong thời gian ngắn, kịp bàn giao cho đơn vị pháo 130 ly  vào chiếm lĩnh bắn tàu chiến Mỹ.Còn sau đó đại đội 2 sẽ rút về sau núi làm đường hầm cho bộ binh mà không phải làm đường hầm  pháo xuyên qua núi nữa.
Sau hai tuần lễ khoan đục đào hố chôn mìn theo đúng thiết kế tính toán, đợn vị đã nhồi một lượng thuốc nổ bằng 1.000 kg  TNT, đấu dây và kíp nổ điện theo phương pháp nổ đồng loạt để cộng hưởng, đánh tung “eo cửa tử” hất đất đá  xuống biển.
Bộ phận  canh gác bảo đảm an toàn do  chính trị viên và đại đội phó phụ trách đã triển khai các ngả các hướng.Từ tối hôm trước đã làm viêc với địa phương cấm biển quanh khu vực núi Thổi 3km, yêu cầu nhân dân không cho thuyền bè và người qua lại.Một tổ tuần tra do bộ đội và công an đi ca nô kiểm soát các ngõ ngách dưới biển, ven bờ, cầm loa kêu gọị mọi người tránh xa ...
 Sau khi kiểm tra  các trạm canh gác đã báo cáo  xong, tín hiệu an toàn được bắn lên.Lệnh điểm hỏa bắt đầu; Một cột khói lên cao và tiếng nổ  tưởng như long trời lở đất bùng lên, toàn bộ mỏm núi “Eo cửa tử” bị hất tung xuống biển, chỉ còn trơ lại một đoạn đường rộng, bằng phẳng đủ cho xe kéo pháo đi qua.Mọi người dều thở phào nhẹ nhõm và reo lên: Eo cửa tử bay rồi!- Thắng lợi rồi ! Hoan hô!...
Đại đội 2 tập trung lực lượng  nhanh chóng san sửa đường cho bằng phẳng,Đơn vị pháo 130ly cũng nhanh chóng chuẩn bị  đưa xe pháo vào trận địa và sẵn sàng đối phó với tàu chiến Mỹ  ngay nếu chúng kéo đến.
Trong đoàn cán bộ Quân khu và tỉnh đến theo dõi và giám sát công trình có đồng chí Nam Sao Chủ nhiệm công binh tỉnh Thanh Hóa, có trách nhiệm quản lý và bảo vệ công trình này trên đất địa phương.Sau khi hết tiếng nổ và đất đá đã rơi xuống hết, Nam Sao  vội chạy đến bắt tay Trần Hiền Quang, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 25 để chúc mừng Một số cán bộ chiến sỹ gần đó phấn khởi liền hỏi:
-Các thủ trưởng ơi, tiếng nổ ở đây có to bằng tiếng nổ trên đồi A1 hồi Điện Biên Phủ không?
-To hơn nhiều!- Nam sao liền trả lời- Cũng một tấn thuốc nổ, nhưng hồi ở đồi A1, bọn mình chỉ nghe đến ục một cái rất sâu ở trong lòng đất, vì chôn ở dưới hầm ngầm  nên rung chuyển cả mặt đất.  Còn ở đây, cũng một tấn thuốc nổ, nhưng  vì mặt thoáng rộng, lại có núi đá cao ở gần nên nghe rất to và vang, lại thêm đất đá tung lên  nhiều,  chẳng khác gì bom tấn bọn Mỹ vẫn thả cả- Ngừng một lát, anh lại nói thêm- Chỉ có khác là tiếng nổ ở đồi A1 đã kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi đem lại hòa bình ở Đông Dương, còn tiếng nổ  lớn ở đây sẽ đi đến đâu?- Anh nhìn các chiến sỹ hỏi- các đồng chí có biết không? –ai nói nào ?- Một chiến sỹ thấp nhỏ và đen nhẻm, cười lộ hàm răng trắng muốt liền nói ngay:
- Trước mắt là giềng cho bọn tàu chiến Mỹ hết huênh hoang phải câm họng cái đã…
- Và sau đó- một chiến sỹ khác tiếp lời- góp phần vào giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đấy ạ.
  -Trúng ý quá !- Mọi người đều hoan hô vui vẻ.
   Quả nhiên sau đó ít ngày, pháo tầm xa của ta ở đây đã đánh cho bọn tàu chiến Mỹ thất điên bát  đảo, hai chiến hạm  trúng đạn, bị thương phải bỏ chạy.Từ đó không dám nghênh ngang bén mảng vào  vùng biển gần  của ta nữa.
Trong đợt làm công trình trận địa pháo này, đại đội 2 tiểu đoàn 25  công binh làm được một đường tránh cơ giới kéo pháo vào trận địa dài 1000m, xe kéo pháo an toàn.-Xây dựng xong 5 hầm pháo 130 ly, đưa pháo vào chiếm lĩnh, giảm được  ba phần tư thời gian so với đề án cũ.Đào một đường hầm cho bộ  binh dài 120m, so với làm hầm  kéo pháo qua núi Thổi giảm một phần hai thời gian, và giảm50% kinh phí vật tư cho quốc phòng. Đại đội 2 hy sinh 4 đồng chí và bị thương 6 người vì mảnh bom, pháo và bom bi…
 Đươc Quân khu nhận xét;Đại đội 2 tiểu đoàn 25 công binh, quyết tâm cao, dũng cảm kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ nhanh gọn.Tinh thần cách mạng cao, dành khó khăn gian khổ hy sinh về mình, tạo thuận lợi, thời cơ cho đơn vị bạn diệt địch. Kỹ thuật tốt, có sáng kiến, giảm bớt thời gian tác nghiệp, đưa pháo vào chiếm lĩnh sớm. Từ đó rút ra kinh nghiệm là đã có kế hoạch, có phương tiện, có khí tài, có kỹ thuật, còn phải biết tổ chức giỏi, quyết tâm cao và sáng tạo thì mới dành đươc thắng lợi.    
                                                     *                            
 Nam Sao tiếp tục làm  nhiệm vụ kiểm tra huấn luyện, bồi dưỡng tay nghề  đánh cá cho các chiến sỹ cũ của mình, một cách tận tụy và trách nhiệm như hồi còn quân ngũ.Dọc đường anh cũng  tranh thủ thả vài mẻ lưới lấy cá làm quà cho tổ của Thế, những người đồng đội trên mảnh đất, anh đã từng làm bến trưởng bến phà, được tôn vinh là “bến phà Thép”, một thời oanh liệt.Một tuần lễ sau, anh lại quay vòng đi đôn đốc kiểm tra việc huấn luyện của các tổ và bàn cách hỗ trợ dần dần cho các tổ. Rồi mỗi tháng anh lại đến thăm mỗi nơi  một lần  cùng ở, cùng làm nghề với các đồng đội để kèm cặp anh em chóng thành thạo, bản thân anh cũng phải kiếm sống, chứ không nhờ vả vào anh em. Khoảng ba tháng sau, được sự bàn bạc hỗ trợ của bạn bè tay nghề cũ và vay mượn thêm ít nhiều của những người thân và gia đình, việc đầu tư vốn ban đầu đã  thực hiện được .Tất cả các tổ viên của ba tổ mới: Cẩm Thủy, Cổ Tế , Bến Ghép, đều đã mua sắm được dụng cụ  thuyền lưới, bước đầu tự  làm nghề, tự kiếm sống được. Cuối năm đó các gia đình của các tổ cựu chiến binh nghề cá này đã tạm thời ổn định về kinh tế, có gia đình còn tích lũy được ít nhiều cho con cái ăn học và dự phòng khi ốm đau. Bản thân Nam Sao cũng vừa hướng dẫn huấn luyện vừa đánh cá, không những tự nuôi sống mình mà còn dành dụm được chút ít gửi về cho vợ con, qua con đường liên lạc của cậu em vợ.
Chỉ trong vòng một năm sau, những tổ đánh cá cựu chiến binh ở trong tỉnh Thanh
Hóa đã phát triển từ bốn tổ đã nhân lên  lên thành mười tổ ở khắp các triền sông
mỗi tổ từ mười tớí mười lăm tổ viên. Theo cách của Nam Sao, tổ này giúp đỡ tổ
khác, người cũ dậy nghề cho người mới, mà nòng cột là những người lính công
binh, rồi phát triển đến các đồng đội ở các binh chủng khác, thanh niên xung phong
,công nhân giao thông…,phần lớn những người  đã quen với  sông nước cầu phà
trước  đây, nay xuất ngũ không có công ăn việc làm, gia đình khó khăn.Nam Sao
vẫn thường xuyên đi vòng quanh các  tổ để kiểm tra  giúp đỡ  phát triển nghề được
vững chắc hơn.Các đồng đội  đều yêu mến và kính trọng Nam Sao gọi anh là :
“Tiểu đoàn trưởng dậy nghề”, “Thủ trưởng đánh cá” Một năm sau, các tổ đánh cá
ở đây đã đi vào nề nếp và kiếm sống được ổn định, anh mới ra đi theo ý tưởng của
anh.

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 12:21:02
Chương 17-NỖI ĐAU CHIẾN TRANH CỦA NAM SAO
 
Chào tạm biệt các đồng đội cũ vùng Thanh Hóa, anh lại ra đi theo tiếng gọi của các
chiến trường xưa, bến sông cũ.
Mặc cho ở quê hương anh, bà con làng xóm muốn nói gì về anh, anh cũng mặc
kệ.Nghe tin một vài người nói lại:
- Ông Nam Sao bị kỷ luật quân đội, nên chẳng muốn vác mặt về làng. Hoặc :
- Ông Nam Sao bỏ vợ con, đi lang thang  sống với các bà khác rồi và còn nhiều
những câu thậm tệ khác nữa.
Nhưng Nam Sao đều bỏ mặc ngoài tai, chỉ mỉn cười mà không nói lại một điều gì.
Anh sống với lương tâm của anh, với  lý tưởng của anh.Mấy chục năm qua, anh ra
sống vào chết nhưng chưa  có điều tiếng gì về anh, chưa một đơn vị nào, một cấp
trên nào có điều gì chê trách anh huống chi là kỷ luật, thậm chí chưa một đồng đội
,bạn bè thân thiết nào  phàn nàn  hoặc thờ ơ với anh.Hàng chục tấm huân chương
chiến công qua hai cuộc kháng chiến là điều minh chứng cho tinh thần  bền gan
chiến đấu của anh.Mặc dầu hoàn cảnh của anh có những điều bất công về chính
trị, nhưng vẫn được đứng trong hàng ngũ  của đảng, tuy hơi muộn.Mặc dầu điều đó
nó chẳng mang lại lợi lộc gì cho anh cụ thể cả, nhưng nó minh chứng cho anh đã
được đảng, tập thể  và nhân dân tín nhiệm, là một trong những người đứng trong
hàng ngũ tiên phong của cuộc  cách mạng, chiến đấu dành độc lập cho dân tộc.
Trong lương tâm anh, anh không có một điều gì ân hận cả, cả về lý tưởng, cả về tư
cách đạo đức về tình yêu và cả về lối sống .Những điều đó anh rất thanh thản trong
lòng. Anh chỉ  có một nỗi đau, đó là “nỗi đau vì chiến tranh”, dẫn đến “nỗi đau  số
phận” của anh. Nhiều đêm nằm anh suy nghĩ, giá như đất nước này không có chiến
tranh,hẳn hai anh em của anh, Hữu và Bạn cũng  không bị chia ly ra hai ngả : bạn
và thù của nhau, mỗi người đi theo một số phận riêng của mình , đối lập nhau, bỏcả quê hương , bỏ cả gia đình bố mẹ già, con cái bơ vơ, không trông nom nuôi dưỡng không thờ cúng tổ tiên.Giá như đất nước này không có chiến tranh, thì cả ba anh
em nhà anh, đều ở nhà, yên tâm học tập mở mang kiến thức khoa học kỹ thuật, tập
trung vào xây dựng và phát triển kinh tế, thì cả nhà anh đều giầu có, như chú em
trai thứ ba Nguyễn văn Thuận của anh đang ở quê hiện nay.Chỉ vì sống giữa hai
làn gió của hai phe chiến tranh, vì tính đố kỵ của hai bên, mà chẳng phe nào chấp
nhận cho Thuận tham gia hoạt động, nên chỉ yên phận tập trung vào học tập và chí
thú làm ăn,trở nên người có kiến thức, có sức khỏe và có kinh nghiệm làm giầu, đã
trở nên một gia đình giàu có nhất làng,  nhất xã, rất chính đáng mà chẳng ai có điều
tiếng  gì về việc làm ăn cả. Sau này, con cháu của Thuận đều trở thành các doanh
nhân, làm ăn  lớn trong vùng và ở khắp đất nước, mấy đứa còn đầu tư phát triển
sang cả nước ngòai, làm ăn khá. Dạo đó  thiên hạ còn đi xe đạp, xe máy là chủ
yếu, xe con chưa phổ biến lắm, thế mà ngày giỗ ngày tết nhà chú Thuận có đến năm
sáu xe con của các con cháu về đỗ chật cả sân vườn.Ngay từ khi còn chiến tranh
nông thôn còn mâu thuẫn hai phe,Thuận đã  làm công việc từ thiện giúp đỡ những
người tàn tật, già cả đói nghèo  và những gia đình khó khăn của cả hai phe, không
phân biệt người của phe chính nghĩa hay người của phe phi nghĩa. Chú ấy còn giải
quyết cho nhiều gia đình lao động thất nghiệp có công ăn việc làm, thoát khỏi cảnh
đói nghèo.Vì thế tuy Thuận chẳng có một vai vế gì trong làng trong xã cả, mà được
bà con trong làng xã tin yêu kính trọng, hơn cả nhiều người  lãnh đạo trong chính
quyền của hai phe đối lập, lúc bấy giờ và cả  sau này khi đất nước đã được hòa
bình nữa. Trong khi đó người anh trai cả là  Nguyễn Văn Hữu, mặc đầu đã phát
triển đến đại tá trong hàng  ngũ cán bộ cao cấp có tín nhiệm của chính quyền miền
Nam, một tay chân đắc lực của tổng thống Thiệu, mà khi kết thúc chiến tranh giải
phóng Sài Gòn , bị Mỹ và Nguyễn văn Thiệu bỏ rơi không di tản  được, nhà cửa bị
tan nát,của cải tích lũy được bị mất hết,vợ con phải sống chui rúc trong nhà cũ đổ
nát tạm bợ ,bản thân thì bị bắt rồi bị  giam trong trại cải tạo của chính quyền cách
mạng. Còn bản thân  mình, là người con trai thứ hai của gia đình bố mẹ, thì như thế
này đây , tuy không mất cả, không có điều gì đáng hổ thẹn với lương tâm, nhưng
cũng chẳng còn cái gì đáng tự hào.Nghĩa là cả hai anh em ở hai phía, ở hai đầu
chiến tranh, phi nghĩa hay chính nghĩa , khi kết thúc thì đều chẳng còn gì cả, cũng
may ơn nhờ phúc ấm tổ tiên, vẫn còn hai cái đầu trở về trong cảnh đói nghèo, gian
nan vất vả cả . Bản thân anh cũng phải  lận đận đi kiếm sống tháng ngày như thế
này đây. Anh chỉ còn một niềm vui, sống với tình đồng đội, tình chiến hữu bạn
bè.Mình đã khó khăn, nhưng đồng đội cũ còn khó khăn hơn mình, nên anh phải
mang chút vốn liếng nhỏ nhoi của ông cha để lại cho mình là nghề đánh cá, để lăn
lộn kiếm sống và giúp đỡ những đồng đội bạn bè cùng  kiếm sống. Âu cũng là cái
nghiệp hay số phận của mình ?
                                                         *
 
Ôi nỗi đau chiến tranh .Khát vọng hòa bình, khát vọng bình yên, luôn luôn bùng
lên, nhức nhối trong tâm hồn anh.Anh không sợ chết,  thực tế mấy chục năm qua
anh cũng chưa bao giờ lùi bước trước         quân thù.Nhưng hàng triệu người chết, hàng
chục triệu người chết, hàng chục triệu người  bị thương , tàn phế  để lại, hậu quả cho
xã hội đau đớn biết chừng nào.Anh chỉ ước vọng đất nước mình không còn chiến
tranh.Anh ước vọng cả thế giới này cũng không còn chiến tranh.Không còn tranh
chấp lãnh thổ của nhau .Không còn nước nào sản xuất vũ khí, trước mắt là những
vũ khí giết người hàng loạt, như bom nguyên tử , bom khinh khí và các loại chất độc
hóa học...Chỉ riêng ở Nhật, hậu quả của nguyên tử mà bảy mươi năm nay cũng
chưa giải quyết hết .Còn ở Việt Nam và Mỹ, hàng mấy triệu người bị tàn phế và
ảnh hưởng chất độc da cam.Hỏi hàng trăm năm nữa đã chắc gì giải quyết  hết hậu
quả ?Mà còn tổn hại đến bao nhiêu nền kinh tế bị chậm chễ hoặc đình đốn nữa ?
Chiến tranh không chỉ là nỗi buồn, mà là nỗi đau, nỗi đau cho toàn thể nhân loại
không từ một nước nào.Nước bị trực tiếp chiến tranh thì bị nặng nề nhất, nhưng
những nước gây nên chiến tranh và tham gia chiến tranh bằng mọi hình thức, cũng
bị những hậu quả khôn lường.Nói ngay như nước Mỹ, mạnh nhất , giầu nhất và hiếu
chiến nhất.Nhưng những hậu quả do chiến tranh Việt Nam gây nên, sau hơn bốn
mươi năm qua, hỏi đã được yên? Kể cả các nước đồng minh của Mỹ, theo đóm ăn
tàn   cũng vậy. Không những bị hậu qủa mà còn bị nhân dân trong nước nước đóvà
nhân dân thế giới  muôn đời nguyền rủa. Ôi nỗi đau chiến tranh!-Khát vọng bình
yên !-Khát vọng hòa bình! .Các nhà khoa học vũ trụ trên thế giới này đã ước tính
rằng : Nếu không có chiến tranh, nếu không có chạy đua vũ trang trên thế giới này
,thì loài người đã đưa người lên mặt trăng sinh sống từ lâu rồi (?)
 

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 12:26:00
                                                          *

                                                     *         *

Nỗi đau chiến tranh, một nỗi đau còn âm ỉ suốt nhiều đêm làm anh không ngủ. Gần
đây được đọc trong một tài liệu của cả hai phe, chiến thắng và chiến bại. Nam Sao
thấy giật mình, vì số người chết quá nhiều, trước đây vì công tác  tuyên truyền nên
cả hai phe đều dấu số lượng thương vong.Nhưng giờ đây dân chúng đòi hỏi chính
sách thương binh tử sỹ, nên cả hai bên đều phải thống kê  tương đối rõ ràng, tỉ mỷ
hơn, tuy nhiên vẫn chưa hoàn toàn chính xác .Các chính phủ đều phải tung ra một
số tiền lớn để hỗ trợ cho  các thương binh và các gia đình có người thân hy sinh
ngoài mặt trận. Theo tài liệu  lich sử Kháng chiến chống Mỹ(1954-1975) của nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, có: 1,1triệu quân nhân chết ( trong đó có 300.000 mất
tích chưa tìm thấy xác)và 600.000 quân nhân bị thương hoặc bị bệnh. Theo Bộ lao
động thương binh xã hôi Việt Nam.Kể từ sau năm 1945 ( chiến tranh Đông
Dương, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biêngiới
Việt Trung, một số chiến dịch chống thổ phỉ và Ful-Rô.Cả nước có: một triệu một
trăm bốn mươi nghìn liệt sỹ. Nam Sao tìm đọc tỷ mỉ những con số thương vong
trong chiến tranh Việt Mỹ sau đây theo thống kê của người Mỹ .Quân đội Mỹ
thương vong 362.939 người,trong đó chết 57.939 người,bị thương 305.000
người.Quân đồng minh bao gồm Hàn quốc,thương vong 16.331 người, trong đó
chết 5.099 ngườì, bị thương 11.232 người.Thái lan:1.709 thương vong, trong đó
351 người chết,1.358 bị thương. Úc:3.500 thương vong, trong đó 500 người
chết, 3.000 bị thương.Philippines 1.752 thương vong , trong đó 552 chết, 1.200 bị
thương.Newzealand 267 thương vong, trong đó 55 chết, 212 bị thương. Tổng cộng
cả Mỹ và đồng minh: 381.498 người thương vong, trong đó 64.496 chết,317.002 bị
thương.Theo tài liệu trong chiến tranh chống Pháp (1946-1954).Quân Pháp thương
vong 140.992 người,trong đó 75.867 người chết,65.125 bị thương.Quân chư
hầu,  thuộc địa  của Pháp gồm Angẻrie,Tunisie,Maroc, Sénégal,Guinnée…:31.716
người thương vong,trong đó 18.714 chết,13.002 bị thương.Tổng cộng cả quân
Pháp và chư hầu:172.708 ngườì thương vong, trong đó 94.581 chết,78.127 bị thương.
 Trong 30 năm chiến tranh Việt Nam, chống Pháp và chống Mỹ, quân dân ta đã tiêu
diệt:554.206 quân Pháp , Mỹ và các đồng minh chư hầu, trong đó có159.077 tên bị
chết,395.129 tên bị thương,chưa kể bắt hàng vạn tù binh, phóng thích hoặc trao
trả.
Quân đội Việt Nam (cả miền Bắc và miền Nam) thương vong:2.700.000
người,trong đó 1.100.000  bị chết,1.600.000 bị thương.Quân lực Việt nam cộng
hòa (quân ngụy):1.486.000 thương vong,trong đó 316.000 bị chết,1.170.000 bị
thương. Cộng cả hai đối phương  của quân đội Việt Nam ( quân ngụy và quân ta)
là:3.186.000 người thương vong,trong đó 1.146.000 bị chết,2.770.000 bị thương.
-Tổng cộng: Quân độị Pháp và chư hầu+ Quân đội Mỹ và đồng minh+quân lực
Việt nam cộng hòa+Quân đội Việt nam(cả hai miền) thì tổn thất về nhân mạng
trong chiến tranh(của 4 bên quân đội ) là:4.186.000 người thương vong,trong đó
1.575.000 bị chết,2.129.129 bị thương.
-Dân thường:  ( cả hai miền) Trong chống Pháp 250.000 người chết,1.triệu 400
nghìn người bị thương.
 Trong chống Mỹ 4triệu người chết,(miền Bắc 2 triệu ,miền Nam 2triệu), 2 triệu
người bị thương, 2 triệu người bị nhiễm chất độc da cam
 Cộng cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.Dân thường bị chết:4 triệu
250 nghìn người,bị thương 3 triệu 400 nghìn người.2 triệu người bị nhiễm chất độc
da cam.(được coi là bị thương)
 Tính riêng người Việt Nam bị thương vong trong cuộc chiến tranh này (quân đội
hai phe và dân thường)là: 13.324.000 thương vong.Trong đó 5.795.077 người
chết,7.529.129 bị thương(trong đó có 2 triệu người bị nhiễm chất độc da cam)
Trong 30 năm chiến tranh người nước ngoài gồm quân đội Pháp và chư hầu+ quân
đội Mỹ và đồng minh chỉ bị thương vong :524.206 người.Trong khi đó ngươì Việt
Nam bị thương vong 13.324.000 người, cả dân thường. Thêm vào đó năm 1945dân
ta bị chết đói hai triệu người.Như vậy chỉ trong vòng ba mươi năm dân Việt Nam
bị chết  và bị thương khoảng mười lăm triệu người.Một thiêt hại về sinh mạng rất
lớn.(!) Nhiều đêm Nam Sao giật mình nhớ lại nạn đói năm 1945,người chết nằm la
liệt dọc đường,đến nỗi có buổi sáng sớm còn mờ mờ đất , anh đi hoc còn dẵm phải
xác người chết đói nằm ở giữa đường,ở cổng làng,anh phải hét rú lên vì sợ, rồi bỏ
chạy.Trong cái lò vôi bỏ hoang ở đầu làng có vài chục bộ xương người chết
đói,những chiếc đầu lâu trắng hếu,cứ nhe những bộ hàm răng ra như cười trông
đến khủng khiếp.
Có đêm anh lại chợt nhớ tới những đồng đội của anh bị hy sinh ở chiến trận,đủ các kiểu chết,người mất đầu ,người mất chân tay.Có lần anh bạn Bản,cũng là trung đội trưởng với anh , trong lúc đi trinh sát thực địa, đánh phục kích ở đường 6 năm 1951, bị địch phát hiện được , bắn đại bác trúng đội hình làm bốn cán bộ bị hy sinh.Trong đó có thằng Bản là bạn thân của anh.Sau khi trinh sát trận địa xong, anh quay lại tìm xác nó, nhưng xác nó bị tung làm nhiều mảnh.Anh ôm được người nó về vị trí tập kết xác tử sĩ ở gần đó, rồi quay lại tìm cái đầu.Trong rừng trời tối đen như mực, không ai được bật đèn pin, lộ bí mật, bị ăn đạn ngay.Anh cứ dùng hai tay mò mẫm từ chỗ nó đứng ra xung quanh mấy vòng,mới giật mình sờ thấy một cái đầu đầy máu đã đông lại  cách chỗ nó đứng độ hai mươi mét.Anh vừa khóc vừa ôm đầu nó về, ghép vào cái thân, sờ lại, mới thấy mất một cánh tay.Anh lại vội vàng quay lại tìm.Tìm mãi, tìm mãi đến hơn ba mươi phút sau, một bàn tay anh bỗng giật bắn lên, tưởng là sờ phải  rắn .Anh trấn tĩnh một lát rồi mới dám sờ lại, mới biết là cánh tay.Anh mừng quá lại ôm lấy cánh tay đó mang về ghép vào thân.Bảo anh  em tải thương sờ lại một lần nữa  cho chắc chắn.Lại phát hiện ra thiếu mất một bàn chân.Anh lại vừa khóc vừa quay lại và thầm gọi :
-Bản ơi, sao mày chết khổ chết sở thế này?- Một chiến sỹ tải thương cùng quay lại với anh tìm.Hai người phải tìm mất hàng tiếng đồng hồ.Anh lại phải lẩm rẩm cầu khấn:- Bản ơi, bàn chân mày nằm ở đâu thì bảo chúng tao, để mang về cho mày chết được toàn thân! Chẳng biết lời cầu khấn của anh có được linh thiêng không  ,hay hai người cứ kiên trì tìm, cứ mò mẫm, dờ dẫm quanh đó mãi đến nỗi cả hai người đều dờ phải tay nhau, cùng rú lên.Chính đó lại là bàn chân của Bản.Hai người vội vàng mang về ghép vào thân cho liệt sỹ. Nam Sao lấy một tấm chăn niệm cho Bản rồi bó lại chặt chẽ, rồi mới trao cho đội cáng thương vận chuyển đi.
Lại một lần khác, trong một trận hành quân chiến đấu ở dốc Phạ Đin, một trong những dốc cao nhất ở vùng Tây Bắc, đại đội anh bị máy bay giặc Pháp đến oanh tạc, đơn vị bị hy sinh  mất 8 người, còn một đồng chí bị mất tích.Đơn vị đã  cử một  bộ phận ở lại chôn cất tử sỹ, còn toàn đơn vị phải hành quân gấp để kịp nhiệm vụ chiến đấu.Ba hôm sau hoàn thành nhiệm vụ đơn vị quay lại đoạn đèo này .Được nhân dân phát hiện còn xác  một tử sỹ chết trên dốc núi cao.Đơn vị cho người lên kiểm tra thì nhận ra đó là đồng chí  Xá chiến sĩ trinh sát của trung đội 9, đi trước làm nhiệm vụ cảnh giới chứ không phải là người mất tích .Đồng chí Chính trị viên phó đại đội biết là xác tử sỹ  đã bị  có mùi thối rữa nên nhiều người  rất sợ mang vác.Liền kêu gọi các đoàn viên thanh niên, đang trong diện cảm tình Đảng:- Nào các đồng chí thanh niên, ai xung phong lên mang xác đồng chi Xá xuống khu tập trung chôn cất liệt sỹ dưới chân đồi ?- Chính trị viên phó nói đến lần thứ hai, vẫn chưa có thanh niên nào lên tiếng.Anh kêu gọi tiếp:- Vì tình thương yêu đồng đội, ai xung phong hoàn thành nhiệm vụ này, sẽ được chi bộ xét kết nạp Đảng viên tại trận ngay!-Dừng một lát, chỉ thấy có một thanh niên  trong diện cảm tình nhưng người thấp bé nhẹ cân tên là Thái đứng lên:-Tôi xung phong! Nói xong Thái chạy ngay lên dốc núi, trước sự ngạc nhiên và cảm phục của mọi người, chính trị viên phó  thì  khẽ vỗ tay hoan nghênh. Ngay lúc đó một phản ứng của Nam Sao thốt lên :- Thái ! mày bé thế kia thì làm sao vác nổi thằng Xá ?-Nó to gấp đôi mày đấy! .Nói xong Nam Sao liền chạy theo  cậu Thái, anh chẳng có ý thức gì về việc kết nạp Đảng cả, dẫu rằng anh cũng đang là cán bộ ngoài đảng.Anh chỉ lo cho thằng Thái, là chiến sỹ của trung đội anh, nó làm sao mà vác nổi thằng Xá.Để nó kéo xác liệt sỹ thì càng tội nghiệp.Nam Sao đuổi kịp rồi hỏi Thái :- Cậu định vác thế nào?- Nếu không vác được thì em kéo chứ lo gì.Chả lẽ lại không có ai xung phong vác thằng Xá xuống hay sao?- Thôi được rồi, tớ sẽ hỗ trợ cậu. Hai người lên tới chỗ xác  liệt sỹ  nằm. Xá bị thương gãy một cẳng chân lại bị một mảnh bom bắn vào đầu, máu ra nhiều bị chết tại chỗ, xác đã bị thối rữa, thú rừng đến cào xé và quạ đen đến rỉa từ  ba hôm nay, chỉ còn da với xương nằm dưới gốc cây, đầy ruồi nhặng đến bâu.Mùi  uế khí bốc lên khắp khu rừng. Thái trông thấy liền òa lên khóc, còn Nam Sao thì nước mắt rơi lã chã. Thái chưa biết sử lý thế nào. Vì xác liệt sỹ đã rữa không thể khiêng lên được.Thì Nam Sao nhanh chóng cởi chiếc võng bằng  vải dù ngụy trang của mình đang quàng ở trên cổ xuống căng ra đưa cho Thái một đầu, phủ kín lên xác chết, lại đốt một  đống lửa để đuổi ruồi nhặng và bớt mùi hôi thối. Sau đó hai người lần tay đưa vải dù luồn xuống dưới gầm xác chết, dần dần lật xác vào trong lòng  võng rồi túm hai đầu khênh lên, lấy dây rừng bó chặt lại như niệm.Tìm một cành cây làm đòn khiêng.Nam Sao cao lớn đi trước ở dưới dốc.Thái nhỏ bé đi sau ở trên dốc. Nước trong võng đã chảy ra thấm vào lưng áo Nam Sao, nhưng anh không hề  nói để cho cậu Thái đỡ sợ.Đi xuống được gần hết  dốc thì thấy Chính trị viên phó và mấy  chiến sỹ cảm tình Đảng nữa chạy lên.Chính trị viên phó hô mấy chiến sỹ khiêng thay Nam Sao và Thái, đưa xuống bãi chôn đã được đào hố sẵn.Họ đặt cả võng và đòn khiêng xuống huyệt rồi lấp đất và làm thủ tục an táng liệt sỹ một cách vội vàng rồi tiếp tuc hành quân  đuổi theo đơn vị. Trong  đời lính của Nam Sao đã hàng trăm lần tiễn đưa các cán bộ chiến sỹ của mình  đã ngã xuống ngoài mặt trận.Hàng chục lần tìm xác của đồng đội bị hy sinh ,như trường hợp của liệt sỹ Bản và liệt sỹ Xá, có người không còn gì chỉ còn mảnh áo rách.
Nhất là trong thời kỳ chống Mỹ, độ tàn khốc ác liệt còn gấp hàng ngàn lần hồi chiến tranh chống Pháp.   Như câu chuyện Bi kịch lạc quan và khốc liệt mà anh phải chứng kiến  và giải quyết hậu quả dưới đây:
 


Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 15:29:23
 Bi kịch lạc quan
 Kể từ tháng 8 năm 1965 bọn giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và tàu chiến.Mặt trận Công trình quốc phòng được lệnh phải đẩy mạnh tộc độ thi công để đưa công trình vào sẵn sàng chiến đấu. Phải khẩn trương thiết kế, phát triển  và thi công gấp các công trình pháo phòng thủ bờ biển.Các trung đoàn, sư đoàn thi công công trình được phép tuyển  lực lượng dân quân tự vệ và Thanh niên xung phong ở các địa phương vào các đợn vị, tổ chức huấn luyện một  thời gian ngắn, rồi bổ sung cho các công trường thi công các công sự và đường hầm, thay thế dần lực lượng bộ đội rút đi  chi viện chiến trường miền Nam.Sau vài tháng lao động và tác nghiệp, lực lượng dân quân tự vệ và thanh niên xung phong đã thành thạo và có năng xuất tốt không kém gì các chiến sỹ bộ đội chủ lực.Lực lượng chiến tranh nhân dân tham gia xây dựng công trình quốc phòng tăng lên gấp đôi lực lượng bộ đội trước đây, mà tiến độ thi công ở các công trường ngày càng được phát triển không ngừng.
 Hôm đó,vào khoảng đầu tháng sáu năm 1966, giữa mùa hè .Thượng úy Nam Sao, Chủ nhiệm công binh tỉnh Thanh Hóa, đến khu vực Sơn Ca để kiểm tra các công trình bờ biển.Nam Sao cùng thượng sỹ Nguyễn  Bột (sau này là phó phòng tác chiến quân khu, đại tá về hưu, lúc đó là nhân viên đo đạc của công trường) vác máy đi với anh, xuống đại đội  2, tiểu đoàn 1, gồm đa số  chiến sỹ là  thanh niên xung phong nữ, chỉ có cán bộ đại đội, kỹ thuật viên và thợ máy là bộ đội, chị em đang  thi công đào đường hầm pháo 101 dưới sự chỉ huy của trung đội trưởng trung đội hai làTrần Thị Tâm làm ca một hôm nay . Bột cho Nam Sao biết, Tâm là cô gái  22 tuổi, người tầm thước, chắc khỏe, mặt mũi xinh xắn, nghe nói đã có người yêu là bộ độ đi B. Theo đại đội trưởng Xuân Hùng báo cáo với Nam Sao khi ở nhà chỉ huy đại đội là: trung đội 2 của cô Tâm, mấy tuần nay đang vượt lên dẫn đầu về năng xuất đào hầm trong toàn đại đội.Nên anh muốn vào thăm xem chị em làm ăn ra sao.Đồng thời kiểm tra lại tim công trình có  được thẳng hướng không.Sau khi  đo đạc một số điểm chuẩn trên đỉnh núi,Nam Sao định xuống núi, để vòng ra bờ biển, vào cửa chính của hầm .Nhưng thượng sỹ Bột gọi:
     - Anh ơi, đi lối cửa thông hơi cho nhanh !
     -  Cửa đã rào rồi chứ ? .
      - Vâng ! rào rồi, nhưng em chỉ bới một tý là xong thôi mà.Đi vòng xuống chân đồi xa lắm !
     - Ừ,thi đi !
 Thế là Nam Sao và Bột loay hoay dỡ cửa rào mất độ mươi  phút, rồi cả hai cùng chui xuống đường hầm.Vì là ngách hầm thông hơi từ giữa đỉnh núi xuống, nên độ dốc thiết kế gần sáu mươi độ, lại chưa xây bậc, nên rất khó đi, ánh sáng trong hầm lại tối .Các anh phải bám chặt hai tay vào vách hầm mà do dẫm đi từng bước tụt xuống dần dần .Mãi đến khi xuống tới gần đường hầm chính, thì mới nhìn thấy ánh đèn điện sáng.Đồng thời nghe thấy tiếng chòong búa đập vào nhau rộn rã vang cả hầm, như tiếng nhạc reo vui trong đêm lễ hội.Xuống một đoạn nữa, họ bỗng giật thót mình vì quá bất ngờ.Bột khẽ  kêu :- Ối anh ơi họ sao thế kia!- Nam Sao phải vội bấm vào tay Bột quát khẽ:- Xuỵt !  ngồi xuống im lặng!.Hai người khẽ ngồi xuống, Bột nắm chặt lấy tay Nam Sao. Cả hai đều trố mắt ra nhìn.Trước mắt họ,  là một tổ ba cô gái , đầu đều quấn khăn bịt tóc, nhưng  cởi trần trùng trục, chỉ mặc đồ lót ,hai cô đang ra sức quai búa rất nhịp nhàng nhưng chắc nịch, mồ hôi các cô toát ra lấp lánh dưới ánh điện, một cô cầm chòong vừa xoay vừa hô như giữ nhịp theo một điệu hò, hình như là điệu hò sông Mã thì phải.Một cảnh tượng mà họ chưa nhìn thấy bao giờ Nam Sao bỗng reo lên khe khẽ vào tai  Nguyễn Bột:Đúng là một điệu múa “ thiên thần quai búa trong hầm” đẹp quá ! Bột bấu chặt vào  tay Nam Sao, người  họ như cùng run lên trước ba thiên thần đang lao động.Nam Sao vội cầm ống nhòm dơ lên:-Trời ơi, toàn bộ dọc đường hầm.toàn các cô gái cởi trần, quần lót và quai búa , như một bầy tiên vũ khúc, nhịp điệu thiên cung.Bột cũng đưa máy lên nhòm, cậu ta khẽ xuýt xoa:-Tiếc quá không có máy ảnh ! Cảnh tượng vừa lạ vừa đẹp, nhưng cũng cảm thấy xót xa  .Nam Sao bỗng mỉn cười nhận ra một điều: Thì ra các cô gái đã tác nghiệp theo kiểu này để vượt năng xuất lao động lên cao đây, một sáng kiến hay một sự vui đùa liều lĩnh.Anh cảm thấy vui vui nhưng cũng mủi lòng .Một lát sau Nguyễn Bột bấm tay Nam Sao nói nhỏ:-Ta xuống kiểm tra tim hầm chứ anh?.Nam Sao vội lắc đầu, không được, nếu chúng ta xuống bây giờ, điều gì sẽ sảy ra, có khi lại có nguy cơ sảy ra tai nạn không biết chừng.Anh ra lệnh khẽ :Rút !- Bột bảo :-Từ từ đã anh. Nam Sao nói- Không được! Bây giờ mà họ đến giờ  nghỉ giữa ca  là lộ hết, càng nguy hiểm !.Rồi anh kéo tay Bột tỏ vẻ quay lại đi nhanh, càng nhanh càng tốt.Hai người phải khe khẽ lần mò trèo lên dốc cố gắng để không phát ra tiếng động, mãi mươi phút sau họ mới lên được đỉnh đồi, nhanh chóng rào lại cửa ngụy trang xong mới ngồi thở và bò ra cười như hai thằng ăn trộm bị bắt quả tang đang chạy trốn và bị đuổi.Trên đường về doanh trại đại đội, Nam Sao bảo Bột:
-Cấm không được để lộ chuyện này ra làm chị em xấu hổ đấy, để mình khẽ nói với đại đội, nhắc nhở về bảo hộ lao động thôi -Bột nhất trí.
Về tới đại đội, Nam Sao hỏi nhỏ với đại đội trưởng và chính trị viên:
-Các anh có biết vì sao trung đội 2 năng xuất lao động lên cao đột biến thế không?
-Chị em quyết tâm đẩy mạnh tinh thần thi đua-Chính trị viên Toàn nói- để lập thành tích chào mừng đại hội Đảng trung đoàn sắp tới.
-Các đồng chí đó có sáng kiến :quai búa đều tay, luân phiên thay đổi cầm chòong, không nghỉ vặt…- Đại đội trưởng nói.
-Động viên  công tác chính trị hò vè vui vẻ- Chính trị  viên tiếp.
-Còn gì nữa không-Nam Sao hỏi.- Cả hai anh đều im lặng .Nam Sao nói:
-Chị em còn có sáng kiến cởi trần tác nghiệp, không mặc quần áo lao động, các anh có biết không?- Cả hai đều ngạc nhiên :
-Ồ thế à !  …
Nam Sao liền thuật lại cho các anh nghe chuyến đi đo đạc kiểm tra  đường hầm của các anh  chiều nay và nói tiếp:- Yên trí, chúng tôi rút lui rất bí mật không ai biết đâu, đề nghị các anh đừng để chị em biết là có người nhìn thấy, chị em sẽ xấu hổ mà ảnh hưởng tới khí thế thi đua. Các anh cùng đồng ý.
Nhưng chính trị viên Toàn nóng nảy, ngay  buổi tối hôm đó liền cho gọi trung đội trưởng Tâm lên nhà ban chỉ huy đai đội và hỏi:
-Tại sao đồng chí không cho chị em mặc quần áo bảo hộ lao động trong khi tác nghiệp? -Tâm ớ người ra một lát, rồi bỗng nhiên đỏ bừng mặt lên, nhưng cô đã thông  minh và nhanh chóng nhận ra: chắc có người đã nhìn thấy, hoặc chị em nào đã  nói lộ ra.Cô bình tĩnh trả lời  nhỏ nhẹ và khéo léo:
-Báo cáo chính trị viên, chiều nay trong hầm nóng quá, nên chị em mới đề nghị cho  cởi trần tác nghiệp  cho mát, mà năng xuất vẫn bảo đảm, có khi còn cao hơn đấy ạ.
-Chết chết ! Thế nhỡ các thủ trưởng cấp trên xuống kiểm tra thấy thì còn tác phong lễ tiết gì nữa?
-Làm sao thấy được ạ! Chúng em đã cho người gác ngoài cửa hầm rồi cơ mà, nếu có người đến thì thổi còi báo động , để mọi người nhanh chóng  mặc quần áo vào ngay  rồi lại tác nghiệp, thì làm sao mất lễ tiết được ạ.
-Thế quần áo bảo hộ lao động trên phát cho để làm gì? Nhỡ đất đá bắn vào người, chị em sứt chân mẻ tay thì làm sao? Vừa bị thương lại vừa mất công lao động, đồng chí không lo cho chị em sao ?..
Tâm yên lặng một lát rồi ngần ngừ nói :
- Càng tiết kiệm quần áo chứ sao!-Cô bỗng nói nhỏ - báo cáo anh, quần áo  của  chị em ở nhà mang đi đã rách hết cả rồi, chỉ còn mỗi bộ quần áo lao động trên phát cũng đã gần sáu tháng nay, nhiều người cũng đã bị sờn rồi, nên chúng em phải để dành, lúc sinh hoạt còn mặc cho tươm tất một chút chứ, nếu cứ mặc quai búa mãi cũng chẳng được bao lâu.

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 15:35:33
-À ra thế ! -Nét mặt của chính trị viên dịu lại- Anh nói tiếp-Tăng năng xuất lao động là tốt, nhưng cô vẫn phải bảo vệ lao động cho chị em.Mãi cuối năm mới được phát quần áo lao động tiếp cơ.
- Vâng ạ !
   Tâm chào chính trị viên ra về, cứ suy nghĩ mãi xem đứa nào để lộ bí mật của trung đội mình, phải họp truy cho ra.Thế là bí quyết tăng năng xuất lao động bị lộ mất rồi, không khéo các trung đội khác nó cũng bắt chước mất thôi, còn gì là tiên tiến nữa.
    Điều lo ngại của trung đội trưởng Tâm quả không sai.Ở trung đội ba mấy chiến sỹ đang bàn tán nhau. Cái Lan nói:
-Chúng mày ạ, bọn chúng nó ở trung đội hai, hết ca về đi tắm, chẳng thấy đứa nào lấm bẩn bụi đá cả, quần áo vẫn sạch sẽ như không, mà mình thì bụi trắng cả quần áo, trắng cả đầu tóc, cứ như Bạch mao nữ, thế mới lạ chứ.
-Ừ nhỉ!- Cái Mai tiếp-phải theo rõi xem chúng nó làm thế nào mà học tập chứ.-Phải đấy  -Nhiều cô cùng vào hùa theo.
   Đến hôm sau, chính cái Mai bỗng kéo mấy cái đầu túm tụm vào nhau nói nhỏ: -thì ra bọn nó bên b2  “cởi truồng”chúng mày ạ,conTý nó nói nhỏ với tao thế, vừa mát vừa làm thoải mái, lại đỡ hại quần áo.
-Hẳn nào, mấy tuần nay, năng xuất chúng nó vượt trội hẳn lên, đẫn đầu toàn đại đội.
-Chúng mình cũng bắt chước chứ chịu thua chúng nó à.-Mấy cô đều nhao nhao lên.Phải bảo trung đội trưởng Hạnh biết chứ, không chịu thua chúng nó .
 Thế là ngày hôm sau, trung đội ba cũng làm như trung đội hai, nghĩa là cởi trần tác nghiệp, vừa mát vừa khỏe. Rồi trung đội một cũng làm theo.Các trung đội thi đua nhau, năng xuất cứ lên cao vùn vụt.
      Có thuận  lợi là cửa đường hầm  hướng ra biển, nên có  gió biển thổi vào rất mát.Đến khi đường hầm vào sâu mới phải chạy máy quạt gió.Chị em rất phấn khởi tác nghiệp.Mỗi tổ ba người, một cầm chòong, hai quai búa, liên tục hối hả suốt cả ngày, cả đêm.Ban đầu  mới mở đầu hầm, còn ở ngoài trời, diện tích rộng, có thể triển khai nhiều người,10 đến 15 tổ rất đông vui, nhộn nhịp.Nhưng việc phòng tránh máy bay  lại mất mhiều thời gian,vì bọn giặc lái Mỹ thường xuyên đến quấy rối.Chúng  ở ngoài biển lao thẳng vào bắn phá và thả bom các loại .Chúng đã phát hiện ra lực lượng của ta đang tích cực đào hầm hào phòng tránh và xây dựng các công trinh phòng thủ bờ biến.Lực lượng phòng không và các phân đội  bộ binh bắn máy bay bay thấp,vẫn luôn luôn thường trực không rời trận địa, để đối phó với mọi âm mưu thủ đoạn của địch .Ngày nào chúng cũng đến quấy rối vài ba  trận, có hôm nhiều hơn,Bên ta  hầu như ngày nào cũng có thương vong một hai người, không ở trận địa này thì ở trận địa khác.Mặc dầu bọn giặc đã bị ta bắn rơi 2 chiếc máy bay và bắn bị thương 3 chiếc bỏ chạy ra biển, nhưng chúng vẫn như những con thiêu thân lao vào bắn phá trận địa công trình của ta.
 Đến giai đoạn công trình đường hầm đã chui sâu vào lòng đất, thì việc phòng tránh của ta đỡ vất vả hơn.Các tổ đội cứ yên trí ở trong hầm tác nghiệp, mặc cho bọn máy bay gầm rít bắn phá bên ngoài hầm, vẫn bảo đảm an toàn.Hầm càng chui sâu thì việc thông hơi quạt gió càng khó khăn, máy phải chạy liên tục mới  đủ gió mát cho các chiến sỹ tác nghiệp và phun nước để thổi bụi đá hoặc lắng xuống,theo nước chảy ra ngoài, mặc đầu các chiến sỹ đã đeo khẩu trang trong khi tác nghiệp, nhưng vẫn bị bụi  khó thở.Ánh sáng, thời gian đào hầm chủ yếu là dùng đèn đất, mỗi tổ một, hai chiếc.Chỉ đến giai đoạn xây lát đường hầm bằng bê tông mới dùng máy phát điện và căng giây khắp dọc đường hầm.
Để tiết kiệm xăng dầu chị em có sáng kiến, chỉ khi thông gió, thổi bụi hoặc sau khi nổ mìn, mới chạy máy, mỗi ca một hai lần.Còn trong lúc tác nghiệp thì cởi quần áo ngoài để làm,vừa mát vừa tiện động tác, lại đỡ rách quần áo.Muốn vậy mỗi ca phải cử một người gác từ ngoài cửa hầm, không phải để gác máy bay, mà gác những người khác giới vào trong hầm.Nếu có các thủ trưởng hoặc cán bộ kỹ thuật vào  thăm, tham quan, hoặc kiểm tra công trình thì phải báo động, để chị em dừng tay mặc quần áo vào đã rồi mới cho vào, để giữ vững  tác phong và lễ tiết quân sự.
Một hôm, tấm chắn ngụy trang cửa hầm  bằng phên tre luồng và gỗ ván, bị máy bay giặc Mỹ bắn đạn 12,7 ly và 14,5ly vào làm hỏng và đổ sụp xuống, để trơ cửa hầm lộ ra  trống huếch trống hoác, làm mục tiêu cho bọn giặc lái phát hiện được cửa đường hầm .Đơn vị chưa kịp sửa chữa lại ngụy trang. Thì bị bọn giặc Mỹ cho máy bay trinh sát chup ảnh  xác định cửa hầm, rồi cho máy bay khu trục đến oanh tạc, lần này chúng không chỉ bằn đạn 12,7 ly và 14,5 ly  như mọi lần nữa, mà bắn thẳng bằng rốc-két 75 ly, rốc két 90 ly. Chúng dùng nhiều tốp  máy bay, bắn nhiều loạt trúng cửa hầm, hàng mấy  chục quả. Chúng còn bắn cả đầu đạn hơi ngạt vào trong hầm . Đầu đạn rốc - két nổ trong hầm liên tục làm trấn động cả hầm và tỏa sức nóng trên hai trăm độ, đốt hết không khí trong hầm, làm toàn bộ cả kíp làm chiều hôm đó của trung đội ba do cô Hạnh làm trung đội trưởng bị hy sinh tất cả .Khi máy bay đi rồi, mọi người mới xô vào đường hầm cấp cứu,Nhưng bụi mù mịt không nhìn thấy gì cả và sặc mùi hơi ngạt, ai cũng bị ho không thể thở được lại phải chạy ra.Đơn vị phải cho chạy máy nổ để đuổi khói và thông hơi một lúc lâu mới vào được Không  có một tiếng động hay tiếng rên la kêu khóc, mà chỉ thấy im lặng đến rùng rợn, cứ như một nhà mồ thờì trung cổ.Cả 27 ngườì chết  một cách tàn khốc và thảm thương, không còn ai sống sót.Không người nào còn một mảnh  che thân, bởi sức công phá của rốc két nhiều đợt đã xé nát cả những đồ lót của chị em.Không có má, không sứt chân mẻ tay, nhưng toàn thân đều bị mềm nhũn, ngã xuống nền đường hầm, mỗi người một tư thế khác nhau  trông rất đau đớn.Người nằm sấp, người nằm ngửa, người nằm nghiêng, có người lại cắm đầu xuống hố thoát nước trong hầm đầu tóc rũ rượi.Có chỗ cả tổ ba người nằm  lên nhau tay vẫn ôm choòng búa . Nỗi đau buồn và thảm khốc là:  da dẻ người nào cũng bị đen sạm và héo khô, như không còn một giọt máu nào.Toàn là các cô gái  trẻ, mới 20-22 tuổi .Nam Sao đề nghị trung đoàn cấp phát quân trang mới để niệm đầy đủ cho từng liệt sỹ một .Ngay trong đêm đó trung đoàn phải tổ chức chôn cất và làm lễ an táng các liệt sỹ trong nghĩa trang liệt sỹ ở địa phương.Phải điều một tiểu đoàn ra đào huyệt  và lấp mồ. Nam Sao ở lại hiện trường để theo dõi và đôn đốc việc chôn cất và làm lễ an táng các liệt sỹ chu đáo xong mới về. Không khí đau thương và tang tóc bao trùm lên công trường và xóm làng xung quanh kéo dài hàng tháng trời.
Sau đó rút kinh nghiệm, Nam Sao đề nghị với công trường phải thiết kế xây những tấm tường chắn  bằng bê tông vững chắc che chắn cửa hầm ngay từ ban đầu .Từ đó mới hạn chế được thương vong.

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 15:40:55
Khốc liệt
Phan Trúc nhớ lại, trong một trận bảo đảm cầu phà hồi cuối năm 1967 tại bến Lèn, lúc đó Phan Trúc còn là trợ lý tham mưu đi cùng tiểu đoàn trưởng Nam Sao trên một chiếc xe cóc, xe con lội nước đang đi trinh sát bến chuẩn bị cho đại đội 2 bắc cầu. Bến bãi ở đây đã quá quen thuộc với những người lính tiểu đoàn cầu phà. Từ năm 1965,  rồi 1966 đơn vị đã nhiều lần trụ tại bến này để bắc cầu và chở phà đảm bảo cho xe pháo qua sông. Có đợt liên tục hàng mấy tháng liền, vừa bắc cầu bảo đảm giao thông vừa huấn luyện cho một tiểu đoàn thanh niên xung phong về bắc cầu cho đến khi đơn vị thanh niên xung phong thành thạo bắc được cầu rồi, giao lại bến cho bến giao thông đảm nhiệm, đơn vị mới được lệnh rút đi bến khác … Sau đó về làm lực lượng dự bị, cơ động nhanh; ở đâu tắc bến là tiểu đoàn nhanh chóng đến ngay, bảo đảm gấp cho một đoàn pháo binh, tên lửa vượt sông xong lại rút về, hoặc đến mở bến, mở đường, phá gỡ bom đạn, khắc phục hậu quả xong lại bàn giao lại cho bến giao thông hoặc đoàn thanh niên xung phong.
Lần này Nam Sao và Phan Trúc đến bến đã quá ngỡ ngàng, bến bãi không còn mảnh đất nào nguyên vẹn, không còn đoạn đường nào được ngay thẳng, tất cả đều bị cày sới nhiều lần, lộn xộn, Nam Sao lệnh cho Phan Trúc về điều máy húc C100 đến để húc lại mặt đường và đắp lại bến. Đồng thời hiệp đồng với bến phà giao thông huy động lực lượng thanh niên xung phong và công nhân bến phà đem cuốc xẻng ra san lấp hố bom, đắp nền đường.
“... Dô hây nào, dô hầy nào ...!
Ai về Thanh Hóa, Thanh Hoá anh hùng...”
Trong lúc lao động, tiếng hò tiếng hát lại vang lên khắp bến bãi đường xá. Đúng là “tiếng hát át tiếng bom” chẳng ngoa một chút nào.
Chiếc xe con của Nam Sao liền bị chị em thanh niên xung phong quây lại, ai cũng tranh nhau cầm micrô trên xe hát, tiếng loa phát ra ầm vang làm không khí trên công trường làm đường làm bến sôi động nhộn nhịp.Vốn là người yêu văn nghệ, Nam Sao đã cho lắp một bộ amply, loa, đài ngay trên xe con chỉ huy của mình để vừa làm loa chỉ huy, vừa làm văn hóa văn nghệ ở các bến sông, trên dọc đường, cho các đơn vị bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân bến phà, trong làng xóm nơi đóng quân…được mọi mgười yêu thich. Nhất là cánh lính trẻ thanh niên xung phong, ai cũng muốn hát.
- Cho em hát với, em hát với.
- Nào xin mời các ca sĩ cây nhà lá vườn.
Cô gái tên là Huề, có nước da trắng trẻo, lông mày lá dăm đang vừa hát song ca với Phan Trúc bài “Vàm Cỏ Đông” thì trên đồi cao có kẻng báo động.
Mọi người đều dừng lại tản ra chạy về hố ẩn nấp cá nhân ở quanh đó. Chiếc xe con phóng nhanh về phía đồi thông, chưa chạy được bao xa thì một loạt bom do máy bay Mỹ rải xuống. Tiếng súng các trận địa cao xạ xen lẫn tiếng bom nổ ầm ầm. Có một quả bom rơi trúng ngay giữa đường ở sát ga Lèn, nơi  các cô đang sửa đường và chiếc xe con dừng lại cho các cô thanh niên xung phong hát.
Khi máy bay đã đi xa, Nam sao cho xe chạy lại nơi khói bom còn dày đặc, Nam Sao và Phan Trúc đều nhảy xuống vừa chạy tìm kiếm xung quanh, vừa gọi:     
- Ơi các cô ơi !...
- Ơi cô Huề ơi !... .ơi... !
Không có tiếng trả lời, trước mặt các anh là một hố bom sâu thẳm đen ngòm ở ngay giữa lòng đường.
Nam Sao và Phan Trúc bỗng dưng nước mắt trào ra. Các anh cố lần mò xung quanh một lúc lâu, cũng chỉ được một vài vốc thịt nát đầy máu,vài mảnh quần áo rách màu cỏ úa.Nam Sao lấy một mảnh ni lông gói lại rồi chôn ở cạnh vệ đường.Đắp lên một nấm mồ nhỏ tượng trưng.
Thế là cô Huề và toàn tiểu đội của mình, mười hai  cô gái đã bị bom Mỹ giết hại tan mất xác. Nỗi đau đớn cảm thương còn theo các anh trong suốt ngày hôm đó và mãi mãi sau này, mỗi lần đi qua đây họ lại dừng lại một phút để thắp hương và tưởng nhớ tiểu đội thanh niên xung phong của cô Huề.
 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.07.2016 15:42:47 bởi Lương_Hiền >

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 15:48:15
Ngày càng khốc liệt
Cách đấy không lâu, trong một trận chiến đấu khác, cũng ở bến Lèn này Nam Sao dẫn một đại đội - đại đội 3 – cấp tốc đến bảo đảm cho một tiểu đoàn tên lửa vượt sông gấp sang bờ nam để bảo vệ cầu Hàm Rồng.
Bến phà đã bị tắc từ hai hôm nay, khi đoàn xe thuyền của đại đội 3 mới đến khoảng rừng thông, còn cách xa bến 3km nữa thì đường đã tắc nghẽn vì xe đậu để chờ qua sông, ở các đường tránh, trong rừng, trong làng xóm, các xe còn ùn ùn kéo ra thêm, đã tắc càng thêm tắc.
- Báo cáo tắc đường thế này thì làm sao tới bến được ạ ! Đại đội trưởng đại đội 3 lúc đó là Nguyễn Xuân Hồng báo cáo với Nam Sao. Nếu xe công binh không đến được bến có nghĩa là không đưa được tên lửa qua sông, có nghĩa là đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ, tức là thất bại.
Tiểu đoàn trưởng Nam Sao triệu tập cán bộ lại để bàn mưu tính kế. Ai cũng lắc đầu, cho là hết cách rồi, chỉ có cách chờ đợi hoặc quay về, báo cáo với Quân khu.Nhưng  Nam Sao quyết không lùi bước:
-“Quân lệnh như sơn” – chúng ta phải tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ.
Anh tổ chức ngay 1 đội quân cảnh, hàng chục người ăn mặc tề chỉnh, quân hàm, quân hiệu, phù hiệu công binh đeo băng đỏ, tay cầm cờ đỏ hiệu, đội mũ sắt, đeo súng dương lê nghiêm chỉnh. Tiểu đoàn trưởng Nam Sao: thượng úy công binh, cầm cờ lệnh đứng trên đầu xe lội nước, xe chỉ huy, cầm loa tay và còi dẫn đầu đoàn xe.
- Yêu cầu các xe dẹp sang một bên nhường đường cho xe công binh lên bắc cầu. A lô - a lô !
Các chiến sĩ cảnh vệ xuống đất, đi dẹp từng xe cho xe chỉ huy đi qua, đồng thời đoàn xe phía sau bám sát không được rời nửa mét. Chiếc xe “bab” lội nước đi sau xe chỉ huy, thét còi ủ cùng các xe nhất loạt phát còi thúc giục.
Cũng có anh bướng không chịu nhường, nhưng quay lại thấy một đoàn xe thuyền toàn bằng sắt thì cũng khiếp nên phải tránh vậy. Nam Sao điện cho tiểu đoàn tên lửa phải bám sát đội hình đoàn xe thuyền của công binh.
Bằng cách ấy vừa kêu gọi, vừa vận động, vừa hăm doạ kể cả cãi cọ nhau. Sau một giờ đoàn xe thuyền đã tới bến phà, và chỉ sau hai giờ lắp ghép phà và chèo chở bảo đảm cho tên lửa vượt sông. Đang vượt sông thì máy bay Mỹ đến bắn phá ác liệt, nhưng các chiến sĩ công binh và tên lửa không ai lùi bước, các cán bộ và công nhân điều vận bến phà vẫn dũng cảm đứng nguyên vị trí. Pháo cao xạ xung quanh và tất cả súng bộ binh cũng đều bắn lên buộc máy bay địch phải lên cao, không đánh trúng mục tiêu lợi dụng pháo sáng, quân ta tắt đèn đóm vẫn lầm lũi vượt sông nhanh chóng,bảo đảm cho tiểu đoàn tên lửa qua sông an toàn.Lại kết hợp cho hàng trăm xe tải khác qua sông… Vừa lúc đó có điện, lệnh của quân khu: “Cho đơn vị về ngay, chuẩn bị khí tài để bảo đảm cho xe tăng qua bến M gấp.” Thế là đại đội ba phải dỡ phà, bàn giao lại bến cho phà giao thông chở tiếp.
Sau hơn 40 phút bốc dỡ khí tài lên xe, đội hình xe thuyền lại quay về khu rừng thông được đầy đủ. Đại đội trưởng Nguyễn Xuân Hồng đề nghị cho anh em nghỉ, sáng sớm mai về sớm. Nhưng Nam Sao đã động viên cán bộ chiến sĩ đại đội ba phải nhanh chóng  hành quân trở về căn cứ trước khi trời sáng. Lúc này đã là 4 giờ sáng cố gắng về tới địa điểm trú quân trước 6 giờ 30. Nam Sao linh tính thấy sự nguy hiểm khi trời sáng ở khu vực này:
- Mục tiêu tên lửa hành quân đã bị lộ.
- Xe cộ đang bị ùn tắc lại, không kịp thời sơ tán.
Quả nhiên, đúng như phán đoán của Nam Sao, sáng hôm sau máy bay giặc Mỹ làm một cuộc tập kích huỷ diệt khu vực bến Lèn. Hàng trăm xe bị cháy tan tành, trong đó có cả mấy xe chở khách không kịp sơ tán. Nỗi khốc liệt tang thương bao trùm lấy khu vực bến Lèn và làng xóm nhân dân trong vòng 3 km. Cũng may đơn vị tên lửa vượt sông đã kịp triển khai trận địa trước khi trời sáng và đã bắn rơi 2 chiếc máy bay F105 khi chúng đánh phá huỷ diệt bến Lèn.
Những ngày khốc liệt còn theo mãi trên những tuyến đường, những dòng sông và những bến phà của các chiến sỹ giao thông,thanh niên xung phong và công binh .

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 15:53:37
Lính châu thổ sông Hồng
 
Nghe tin Nam Sao, tiểu đoàn trưởng cũ đã về hưu, đang tổ chức huấn luyện đánh cá ở Thanh Hóa .Một số cán bộ chiến sỹ cũ của anh ,quê ở vùng đồng bằng sông Hồng, cũng rủ nhau vào Thanh Hóa tìm đến thăm thủ trưởng cũ và xem cung cách làm ăn của  anh em trong ấy như thế nào ? Họ đã tìm được Nam Sao và đến thăm các tổ đánh cá, thấy các đồng đội đều làm ăn được dưới sự hướng dẫn giúp đỡ của anh .Họ đề nghị mời anh về các tỉnh đồng bằng giúp đỡ họ  để kiếm sống  như anh em ở trong này.Họ bảo:
-Thủ trưởng ơi,  thủ trưởng bỏ rơi chúng em à ?-Nam Sao cười nói:
- Anh không bỏ rơi các chú đâu ! Nếu chú nào muốn học nghề thì về chuẩn bị sẵn sàng  đi, mỗi nơi tổ chức một tổ vài người, rồi tôi và các chú trong  này ra hướng dẫn theo kiểu dây truyền , như kinh nghiệm ở đây đã làm.
-  Cảm ơn thủ trưởng, chúng em đã sẵn sàng cả rồi !
Nam Sao liền hiệp đồng cụ thể với các cựu chiến binh ở các tỉnh phía ngoài châu thổ sông Hồng: Trước hết là khu vực Hà Nam Ninh:Sông Đáy, sông Nhuệ, sông Châu, thuộc Hà Nam.Sông Vân, sông Hoàng Long thuộc Ninh Bình.Sông Đào, sông Ninh Cơ thuộc Nam Định.Mỗi sông tổ chức một tổ cựu chiến binh đánh cá ( coi như một tiểu đội).Mỗi tỉnh hợp thành một đội(coi như một trung đội).Tổ trưởng ,đội trưởng do anh em tự bầu lấy .Ở khu vực Hải Hưng,Thái Bình: Sông Hồng,sông Luộc thuộc Hưng Yên.Tứ giác sông Hồng,sông Đáy,sông Đào,sông Ninh Cơ thuộc Nam Định.Sông Trà Lý,sông Tiên Hưng thuộc Thái Bình.Mỗi tỉnh tổ chức một đội,mỗi đội có hai đến ba, bốn tổ tùy theo số người tham gia .Đội trưởng và tổ trưởng cũng do anh em tự bầu lấy. Mỗi khu vực bầu một Trưởng ban liên lạc ( coi như đại đội để tiện liên lạc).Trước mắt tạm thời chỉ định đồng chí Phạm Văn Bình, nguyên đại đội trưởng công binh tiểu đoàn 15, sư 304 làm trưởng ban liên lạc khu vực Hà Nam Ninh.Đồng chí Vũ tiến  Hưng nguyên đại đội phó  thuộc tiểu đoàn 2072 Tây Ninh về, làm trưởng ban liên lạc khu vực Hải Hưng Thái Bình.Kế hoạch dậy nghề tương tự như huấn luyện quân sự trong quân đội.Trước hết tập huấn cán bộ từ tổ trưởng, đội trưởng đến trưởng ban liên lạc.Sau đó các cán bộ về huấn luyện lại cho các tổ viên, có các giáo viên đã thạo nghề theo dõi kèm cặp giúp đỡ cùng làm ăn, cùng kiếm sống.Mỗi lớp tập huấn một tháng.Khu vực Hà Nam Ninh tập huấn trước, tháng sau đến khu vực Hải Hưng Thái Bình.Học cụ huấn luyện, do các giáo viên đem đến như thuyền thúng,  lưới các loại và dụng cụ đồ nghề.Mỗi học viên, tổ viên, tùy theo khả năng,có thể mượn , hoặc mua sắm một số  đồ nghề cũ để làm dụng cụ học tập thì càng hay.
Nam Sao vận động các cựu chiến binh ở Thanh Hóa đã thạo nghề xung phong đi làm giáo viên  cho các tỉnh ngoài sông Hồng cùng với anh. Các tổ trưởng cũ Lê Thân, Đinh Cầm,Trịnh Thế và VũVănTề,nay đã là đội trưởng và một số tổ trưởng mới khác… ở các khu vực, đều nhiệt tình xung phong đi làm giáo viên  cùng Nam Sao để giúp đỡ đồng đội cũ ở các tỉnh phía ngoài.Lớp tập huấn đầu tiên cho khu vực Hà Nam Ninh là ở ngã ba sông Đáy và sông Hoàng Long,địa điểm liên lạc là nhà đồng chí Bình, gần cầu Đoan Vỹ.  Theo tác phong quân sự, Nam Sao cũng hẹn đúng giờ G  chiều ngày N  các giáo viên và học viên đều phải có mặt đông đủ.Cũng như trước đây, các giáo viên đều mang theo đầy đủ đồ nghề  dụng cụ kiếm sống của mình, kể cả gạo muối cho cơ số dự  trữ mấy ngày  đầu.Các học viên cũng mang tiền mang gạo cho tuần lễ đầu học cơ bản ,năm đến bảy ngày.Còn sau đó  giáo viên và học viên  vừa học vừa làm vừa kiếm sống nuôi nhau để  học và truyền nghề cho nhau, như kiểu anh em  cựu chiến binh ở Thanh Hóa đã làm.Thực chất là giáo viên bỏ vốn, bỏ công sức ra để  đánh cá kiếm sống và nuôi dậy học viên.Chỉ có những người đồng đội, nnhững người nghèo khó  thương nhau mới có nhiệt tình như vậy được. Vậy mà chỉ có một mình Nam Sao với ý tưởng của anh, anh cùng các đồng đội đã thực hiện được.Trong vòng hơn một năm qua , anh đã kiếm sống và truyền dậy nghề  cho hàng chục tổ đội, hàng trăm cựu chiến binh biết cách kiếm sống trên các dòng sông quê hương của mình,tạm thời xóa đói giảm nghèo trong hoàn cảnh kinh tế của đất nước đang khó khăn này.
Lớp tập huấn khu vực Hà Nam Ninh ban đầu có 10 học viên và có 5 giáo viên gồm: Thân, Cầm, Thế, Tề  và Nam Sao.Bình quân mỗi giáo viên kèm cặp 2 học viên.Qua một tuần đầu, dành thuyền thúng đồ nghề cho học viên học  động tác cơ bản  vào ban ngày.Ban đêm các giáo viên  đi đánh cá lấy thực phẩm  bồi dưỡng cả lớp.Tuần thứ hai, mỗi giáo viên kèm hai học viên  thực tập đánh cá, một ca sáng, một ca chiều, rồi một ca ngày, một ca đêm.Cứ một giáo viên kèm một học viên, hai người một thuyền, cùng nhau đánh cá kiếm sống nuôi nhau học tập.Từ tuần thứ tư trở đi thì để học viên tự tác nghiệp lấy, giáo viên chỉ kiểm tra nhắc nhở .Sau một tháng tập huấn các học viên trở về quê, vay mượn đầu tư vốn tối thiểu mua sắm  thuyền lưới , đồ nghề kiếm sống.Sau hai ba  tháng , các cán bộ tổ đội kiếm sống được rồi, mới tổ chức huấn luyên  cho các tổ viên, học tập,theo quy trình như trên. 
 Sau một tháng tập huấn của khu vực Hà Nam Ninh xong .Tiếp đến  một tháng tập huấn cho khu vực Hải Hưng  Thái Bình.Nam Sao lại dẫn cả tổ giáo viên bơi thuyền ngược sông Đáy đến Phủ Lý, rẽ sang sông Châu, ngược lên phà Yên Lệnh ra sông Hồng, xuôi xuống ngã ba sông Luộc với sông Hồng, gần nhà trưởng ban liên lạc Vũ Tiến Hưng. Họ lại vừa đi vừa đánh cá để đến liên hoan với các học viên ở khu vực Hải Hưng Thái Bình.Ở đây có 12 học viên đã tập trung đủ đang ngóng chờ các giáo viên…Lại tay bắt mặt mừng, liên hoan cá  và cá, với những câu chuyện kỷ niệm không bao giờ tắt của chiến trường, của tình đồng đội. Vẫn theo chương trình giáo án đã  thực hiện. Ở lớp này có khác lớp trước là có một nửa học viên đã đi mượn hoặc mua sắm được đồ nghề, nên việc học tập được tiến triển nhanh hơn. Lớp tập huấn ngã ba sông Luộc đã tiến hành gần hai tuần, thì có thêm ba cựu chiến binh  công binh ở Hà Tây, cũng là quân cũ của Nam Sao nghe tin, liền bơi dọc sông Hồng, mò đến gặp Nam Sao:
-Thủ trưởng ơi! Cho chúng em học tập mấy, chúng em đã chuẩn bị đủ dụng cụ đồ nghề rồi, nhưng chưa biết làm ăn ra sao  đây.
- Đồng ý, thế thì hay quá, mời các đồng chí vào đây học tập luôn đi-Nam Sao đồng ý. Sau đó anh phân công  một giáo viên cùng anh trực tiếp bồi dưỡng cho các đồng chí này.Quả nhiên chỉ mấy ngày đầu bỡ ngỡ, sau đó đuổi kịp được anh em cả lớp ngay.
Sau một tháng huấn luyện và thực tập, đa số anh em đều được thành thạo hơn. Tuy nhiên sau các lớp tập huấn.Nam Sao cùng các giáo viên vẫn phân chia nhau, luân phiên xuống các tổ đội cùng làm ăn kiếm sống với anh em để kèm cặp giúp đỡ thêm trong vòng  vài ba tháng đầu.Riêng Nam Sao  thì cùng lăn lộn với anh em cùng kiếm sống ở khu vực này  hàng năm trời.Hết sông này đến sông khác, hết đội này đến tổ kia. Ở khu vực đồng bằng sông Hồng này, sau hơn một năm, bằng phương pháp tập huấn  và dậy nghề dây truyền, anh cũng đã đào tạo và giúp đỡ cho hơn hai trăm  đồng đội cựu chiến binh  nữa có công ăn việc làm để kiếm sống, xóa đói giảm nghèo.Thế là trong vòng gần ba năm trời, vừa lang thang kiếm sống , vừa đào tạo dậy nghề cho trên ba trăm đồng đội của mình, có công ăn việc làm, tự kiếm sống được.Với số lượng người đó, đã tương đương bằng quân số một tiểu đoàn công binh của anh thời còn trong quân ngũ.Anh thấy rất vui, vì mình đã giúp được một phần cho các  đồng đội trong lúc đang khó khăn nghèo đói này.Anh thấy mình dẫu sao cũng còn có ích cho đời, cho bạn bè đồng đội. Mãi đến khi anh em ở khu vực đồng bằng, đã kiếm sống ổn định rồi, anh mới lại ra đi…  đến những vùng xa xôi hẻo lánh khác. Anh lại tiếp tục con đường lang thang theo ý tưởng của anh: Ngao du những dòng sông, thăm lại chiến trường xưa và gặp lại đồng đội cũ.
 

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 15:59:19
Chương 18-“ĐÊM TÌNH YÊU” VEN SÔNG ĐÀ
 
Suốt cả ngày 14 tháng 12 năm 1951, dưới chân núi Yên Mông, huyện Kỳ Sơn ,òa BìnhGti tỉnh Hòa Bình, trong một khu rừng gần bến Mỵ  người ta thấy từng cặp, từng đôi, một trai, một gái, cứ cặp kè đi với nhau, lúc đứng, lúc ngồi, họ cứ rì rầm nói chuyện với nhau, cười nói vui vẻ và hứng thú, nhưng không được nói to, sợ làm lộ bí mật, cũng không được đi quá xa trong khu rừng đó, sợ mất liên lạc, hoặc lạc nhau không tìm thấy nhau, không tìm được đơn vị.Đó là những anh bộ đội công binh thuộc đại đội 270, tiểu đoàn 333, trung đoàn 151 măc quần áo màu xanh lính, và các cô gái trai trẻ thuộc đại đôi dân quân của huyện  Lâm Thao, tỉnh  Phú Thọ mặc quần áo màu nâu.Một trăm cô gái và một trăm chàng trai khỏe mạnh, cường tráng  đang  sung sức, họ có nhiệm vụ phải tìm hiểu nhau, làm quen với nhau, phải nhớ mặt, nhớ tên và quen thuộc bóng dáng nhau, ban ngày cũng như ban đêm, để có thể nhận ra nhau ngay trong lúc khó khăn nguy hiểm, vượt sông và chiến đấu.Họ có thể bị đắm thuyền  do máy bay oanh tạc, hay bị pháo bắn hoăc tàu thủy của đich tuần tiễu trên sông bắn, họ phải bơi lội để cứu  vớt nhau và  cứu thuyền và các nạn nhân cùng những  trang bị vũ khí nặng nề.Đó là những anh lính công binh  đã được rèn luyện bơi lội giỏi và những cô gái được tuyển chọn của mấy xã ven sông Hồng đã quen nghề sông nước và  đã trải qua những mùa mưa lũ bão lụt, những cô gái chèo lái thuyền nhanh nhẹn và thông thạo.
 Những người mới đến, trông xa cứ tưởng là những đôi uyên ương, trai tài gái sắc  đang tìm hiểu nhau, thật là tình tứ.Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ này đã mấy khi  có những cảnh, những bức tranh đẹp đẽ  như thế này? Biết  đâu trong số họ có mặt hôm nay, sau này cũng có những cặp thành đôi thành  lứa, hạnh phúc gia đình trọn vẹn, thì đó là điều may mắn lắm thay. Vì họ đã được cùng sống và chiến đấu bên nhau, dù trong một trận hay một mùa chiến dịch.Đó là thử thách lớn nhất của tình yêu trong thời chiến tranh  gian khổ và ác liêt này.
 Trung đội trưởng trung đội 41, Nam Sao là người hay tán chuyện vui tếu nhất:
-Này, có cô cậu nào sau này thành đôi lứa, thành lứa, thì nhớ đặt tên con là bến Mỵ hoặc đèo Mông , sông Đà nhé ! Mọi người đều cười ồ lên, có cô còn thẹn thùng đỏ mặt  trông thật là duyên-Tiểu đội trưởng tiểu đội một Đăng Nụ hưởng ứng ngay:
-Thủ trưởng gương mẫu làm trước nhá, chiến sỹ xin đi theo đấy ạ !
- Thế còn cô Huệ  ở Tu Vũ thì thủ trưởng  bàn giao lại cho em nhé ! - Một chiến sỹ khác cũng chen vào.Cánh nữ dân quân cũng không vừa, một cô  xem ra sắc sảo và mồm mép nhất lên tiếng:
-  Này các anh ơi,
                            Gái Lâm Thao làm cao lắm đấy,
                             Có anh nào muốn lấy thì theo
    Ngay lập tức một  chú lính khác lém lỉnh cũng trả miếng ngay:
-Này, các cô em ơi,
                            Gái  Lâm Thao làm cao thì ế,
                           Có cho không cũng chẳng bế về đâu. !
   Đến chiều tối thì lệnh đại đội tập họp cả bộ đội và dân quân, để quán triệt nhiêm vụ một lần nữa.Đôi nào vào đôi ấy, trung đội nào vào trung đội nấy.Trung đôi 41 của Nam Sao với trung đội1 của dân quân.Trung đội 42 của Lê Dũng với trung đôi 2 của dân quân.Trung đội 43 của Đinh Cầm với trung đội 3 của dân quân.  Mỗi trung đội ghép thành một ca kíp vượt sông.Mỗi kip phân tán  đứng ra một khu vực ,các trung đội trưởng kiểm tra lại quân số và  nhắc lại mệnh lệnh  và các quy định ,điều lệnh trước khi vượt sông.Theo phân công của đại đội  : Trung đội 41 là ca vượt sông thí điểm đầu tiên từ 8 giờ tối đến 12 giờ đêm. Sau đó là trung đội 42 tiếp tục chèo chở từ 12 giờ đêm đến  4 giờ sáng. Còn trung đội 43 là đơn vị dự bị, khi có tình huống bất trắc xảy ra và phối hợp với trung đội 42 khiêng  cất dấu thuyền lên rừng, xóa dấu chân  người trên bãi cát để ngụy trang trước khi trời sáng.
   Nam Sao  tập hợp trung đội, kiểm tra từng cặp từng đôi, rồi nhắc lại các quy định và phương pháp sử trí các tình huống, cho bộ đội nai nịt gọn gàng . Rồi cho bộ đội khiêng  30 chiếc thuyền từ trong rừng ra hạ thủy xuống sông khi trời đã tối , còn 10 thuyền nữa để dự bị.Đôi nào, thuyền ấy, một người chèo, một người lái, tất cả lên thuyền ngồi chờ  các đơn vị bộ binh hành quân đến . Lúc đó là 8 giờ đêm, ánh trăng trung tuần tiết mùa đông, vằng vặc soi ngắm 30 con thuyền nan cắm sào đợi.Trong khung cảnh một nam một nữ, một thuyền, sóng nước lăn tăn êm đềm và thơ mộng.
              Thật là: Long lanh  đáy nước in trời
                          Thành xây khói biếc non khơi ánh vàng.
 

Lương_Hiền
  • Số bài : 160
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.06.2016
  • Nơi: diễn đàn văn học
Re:KHÁT VỌNG BÌNH YÊN(Tập II)_Tiểu thuyết _Lương Hiền - 29.07.2016 16:06:33
Chương19-THUYỀN TRÈO LÊN NON
Một cuộc hành quân của bộ đội công binh về huyện Lâm Thao để vận động nhân dân  huy động thuyền dân và lực lượng dân quân  phối hợp vận chuyển và chèo chở thuyền vượt sông.Nam Sao lại xung phong dẫn đầu một tổ trinh sát cấp tốc đi trước, mang theo mệnh lệnh của Chỉ huy chiến dịch về gặp Ủy ban và huyện đội Lâm Thao trước, để địa phương kịp chuẩn bị huy động lực lượng và thuyền dân nhanh chóng kịp thời gian.Toàn đại đội 270 sẽ hành quân đến sau.
Mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch được lãnh đạo huyện Lâm Thao chấp hành tích cực.Tất cả cho tiền tuyến, là khẩu hiệu chung cả nước thời bấy giờ, được nhân dân các xã ven sông nhiệt liệt hưởng ứng và xung phong đi ngay. Các đoàn thanh niên nô nức đi ngay, hầu hết là con gái, vì con trai phần lớn đã ra tiền tuyến hết cả rồi.
Mấy cô gái xúm lại quanh tổ trinh sát của Nam Sao hỏi:
-Này các anh bộ đội ơi, chở cái gì mà huy động lắm thuyền nan thế?
-À, chở gạo và thực phẩm tiếp tế cho bộ đội đánh giặc thôi !
- Có đi lâu không?
 -  Cứ  mang quần áo, vải mưa  đi theo có thể lâu đấy, cơm nước bộ đội lo rồi không sợ đói đâu !- Một cô gái trẻ nhất trong đám đứng đó  có vẻ lo ngại xa nhà lâu ngày, liền hỏi luôn:
- Nhưng mà ở mãi đâu cơ ?...để em bào cho thầy bầm em biết để các cụ khổi lo.
 -  Ở xa đấy!... Xuỵt ! – Khắc đi khắc đến thôi, không được nói địa điểm cho  người nhà biết, lộ bí mật đấy …
  Chỉ trong vòng một buổi chiều, đia phương đã tập họp được  một đại đội dân quân đủ một trăm người, toàn những tay chèo thuyền thành thạo, và huy động được bốn mươi thuyền dân hai cáng đến ba cáng có hai đến ba mái chèo, mỗi thuyền chở được sáu đến mười người theo yêu cầu của tổ trưởng tổ tiền trạm Nam Sao. Anh đề nghi địa phương tập trung ở ba khu vực cho phân tán.Đến tối thì toàn đại đôị công binh đến nơi.Anh đề nghị chỉ huy đại đội phân công cho mỗi trung độị công binh  kết hợp với  một trung đội dân quân, cứ bốn người một thuyền, hai nam, hai nữ ,khiêng thuyền lên vai và hành quân, số còn lại  vác dầm, sào, vác ván, sạp và đài múc nước, dây dợ…theo thuyền và sẵn sàng thay thế  đổi vai cho nhau. Cuộc hành quân ngay trong đêm đó.Cán bộ địa phương và người nhà ra tiễn đưa khá bịn rịn ,nhưng đều chúc các anh các chị lên đường an toàn và chiến thắng.
 Cuộc hành quân phải im lặng  để giữ bí mật, mọi  mệnh lệnh chỉ huy đều phải nói nhỏ và truyền từ người đi trước tới người đi sau.Mỗi tiếng nghỉ mười phút trên đường,  không ai được la cà vào nhà dân dọc đường dễ làm lộ bí mật.Chỉ đến trạm nghỉ dừng chân nấu ăn ở nơi rừng vắng mới được nói chuyện vui vẻ và làm quen với nhau.
Trung đội trưởng Nam Sao lại dẫn một tiểu đội công binh đi nhanh về trước để tìm đường  vác thuyền qua núi Yên Mông xuống bờ sông đến khu tập kết cất giấu thuyền trong khu rừng rậm kín đáo.
Sau một ngày một đêm, đại đội công binh và đại đội dân quân đã hành quân gần ba mươi cây số, vác thuyền tới chân núi Yên Mông vào khoảng gần bốn giờ chiều.
Dãy núi Yên Mông không cao lắm, chỉ ở bình độ 30m so với mặt biển, nhưng đường mòn qua núi cũng dài đến gần mười cây số, cả lên và xuống, có chỗ lại dốc đứng, nhất là lên gần đỉnh núi.Rừng lại rậm rạp không thể khiêng thuyền len lỏi qua được .Nam Sao đề nghị đại đội cho anh chị em nghỉ ngơi dưới chân núi để lấy sức vác thuyền qua núi.Lấy hai trung đội công binh lên sửa đường, trung đôi một lấy dao lên phát cây rộng sang hai bên mỗi bên một mé, thành đường rộng hai mét, thì mới khiêng thuyền qua đươc.Trung đội hai tập trung xẻng cuốc để đánh hàng mấy trăm  bậc lên xuống cho dễ đi  Chỉ hơn hai giờ sau thì hai trung đội công binh đã hoàn thành việc mở đường .Đại đội hạ lệnh cho các trung đội công binh và dân quân bí mật hành quân, vác thuyền trèo qua núi.Có chỗ thì vác, có chỗ thì khiêng ,có chỗ kê  con lăn, kéo lăn thuyền trên mặt đất .Cuộc vác thuyền ngược núi có một không hai này của đơn vị công binh và dân quân khá vất vả , mệt nhọc. Một tiểu đội trưởng  công binh tên là An Huy lúc đó đã  bật lên câu ca dao:
                        “ Công binh có chuyện ngược đời
                        Voi thời xuống nước ,thuyền thời trèo non”
 Chả là pháo binh ( thường gọi là voi ) phải tháo rời ra để xuống thuyền qua sông, còn thuyền đang phải vác trèo qua núi  Yên Mông như đêm nay. Lúc đó ai cũng thấy thích câu ca dao đó, thật là hợp cảnh hợp tình, nhưng không ai dám đọc to mà chỉ  rì rầm cười nói với nhau thôi .
 .Nam Sao cùng các cán bộ của đại đội và trung đội phải chạy lên chạy xuống, để đôn đốc hoặc đỡ vai cho anh chị em, nhất là các cô dân quân thấp bé nhẹ cân phải bước lên, bước xuống  những bậc cao thấp hẫng hụt.Thời tiết đang là mùa đông giá lạnh , mà mồ hôi đã thấm ướt cả áo xanh bộ đội  và áo nâu dân quân, nhưng các chiến sỹ vẫn cố gắng ì ạch, nặng nề khiêng vác thuyền vượt núi
Qua một đêm vật lộn với bốn mươi cái thuyền.Đến sáu giờ sáng hôm sau tức ngày 14 tháng 12, đại đội công binh và đại đội dân quân  đã  đưa đủ số thuyền xuống gần bờ sông an toàn và cất dấu  kín đáo.
 
 Đứa nào bắn cá?
 
 Một tình huống bất ngờ sảy ra. Nửa buổi hôm đó các chiến sỹ công binh và các cô dân quân  đang từng đôi, từng đôi gặp gỡ làm quen với nhau vui vẻ, thì phía ngoài sông bỗng có một tiếng nổ ầm dưới nước khá to. Đơn vị báo động, mọi người phải nhanh chóng nhảy xuống hố cá nhân để ẩn nấp. Chưa biết là chuyện gì, chờ một lát không thấy  tiếng nổ tiếp.Mọi người nhận định không phải là pháo địch bắn.Nam Sao và một chiến sỹ chạy vội ra mé  bờ, nhìn xuống sông thấy cá nổi trắng cả khúc sông, thấy mấy người đang nhảy xuống vớt cá . Nam Sao vội quát:
-Đứa nào bắn cá đấy ?  . Mấy cậu nghe tiếng quát to thì giật mình vội nói:
-Chúng em đây mà ! Nhìn thấy  đống quần áo, mũ trên bờ, biết ngay là lính ta cả, chắc là đơn vị bạn cũng trú quân ở gần đây .
-Đơn vị nào mà vô kỷ luật thế  ? Rồi Nam Sao quay sau gọi liên lạc:
-Về gọi  một tổ đem súng ra ngay bắt bọn này đi!
-Vâng ạ !- Liên lạc vội chạy về rừng. Tốp lính vô kỷ luật đang bắt cá nghe thấy tiếng gọi cho người ra bắt, thì vội chạy lên bờ, thi nhau nhặt cá cho vào bao tải rồi vác lên vai và ôm cả đống quần áo  cứ tồng ngồng chạy vội chạy vàng .Nam Sao biết là lính ta chắc đang đói và thèm  ăn cá quá nên mới dám làm liều như vậy ,nên cũng bỏ qua không quát nữa.Khi tổ công binh mang súng chạy ra đến nơi bờ sông, thì toán ném cá vô kỷ luật đã chạy xa vào trong rừng rồi,Nam Sao bảo không phải đuổi nữa.Mấy cậu lính trông thấy đám cá chết  còn nổi trắng trên sông đang trôi xuôi dòng vội thốt lên:
-Phí quá, đề nghị thủ trưởng cho chúng em xuống bắt một it về cải thiện đi ! – Vừa lúc đó nghe tiếng máy bay “bà già” đang bay đến,Nam Sao biết là có chuyện không hay rồi, liền quát to:
- Quay về  rừng ngay, bảo mọi người xuống hầm ẩn nấp mau, kẻo máy bay oanh tạc đến bây giờ.- Đúng như phán đoán của anh, một lát sau chiếc máy bay bà già bắn pháo hiệu chỉ điểm đồng thời gọi đại bác “bô pho” từ đồn Đầm Huống dưới Hòa Bình bắn lên hàng loạt đạn pháo nổ dồn dập vào khúc  sông và cả khu rừng ta đang dấu quân, khói bụi mịt mù.Cũng may Nam Sao đã cảnh báo cho quân ta xuống hầm ẩn nấp kịp thời, nên không ai bị thương vong, nhưng hỏng mất hai chiếc thuyền nan .Một số ý kiến cho rằng ta đã bị lộ, nhưng sau không thấy bọn địch bắn nữa, và  chỉ thị của trên điện xuống cũng nhận định ta chưa bị lộ, đo đó công binh tiếp tục làm công tác chuẩn bị .Điện cấp trên cũng yêu cầu cử  một tổ làm quân cảnh  ra bờ sông đi lùng bắt anh em vô kỷ luật ném cá xem của đơn vị nào để sử lý cho nghiêm . Nhưng  tổ quân cảnh đi một lúc trở về vì không tìm thấy toán ném cá đâu cả.Chắc rằng cánh lính vô kỷ luật đó hôm nay được một bữa cá tươi thoải mái.Chỉ khổ cho đại đội công binh và dân quân thì méo mặt vì phải ngụy trang lại những con thuyền, sợ lộ bí mật và còn phải bảo đảm vượt sông ngay tối nay.

(Thay đổi trang:Chuyển trang 3) 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.07.2016 17:19:47 bởi Lương_Hiền >

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 40 bài trong đề mục