Lưỡi Kiếm của Thần Shiva

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 62 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 04:31:12
0
Giới thiệu của người dịch: 
 
Lưỡi Kiếm của Thần Shiva, tên nghe giống như một truyện thuộc loại Tiên Hiệp hay Kiếm Hiệp, nhưng thật ra đây là một truyện thuộc loại ‘Quân Sự-Kỹ Thuật’ (tạm dịch từ chữ technothriller) của tác giả Jeff Edwards. Jeff Edwards là một cựu sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ. Sau khi rời Hải quân, ông đã viết bốn-năm cuốn sách thuộc loại technothriller, cuốn sau cùng vừa xuất bản vào tháng 6 năm 2016. Ngoài việc viết sách, ông làm tư vấn cho Hải quân Hoa Kỳ.
 
Truyện có vẻ thích hợp với tình trạng hiện tại ở biển Đông vì kể về một cuộc đụng độ giữa hải quân Trung quốc và Ấn Độ, với những vũ khí tân tiến nhất. Truyện được viết năm 2012 nên có vài tình tiết thời sự không được chính xác.
 
Truyện này do tôi tự dịch và đã đăng trên Tàng Thư Viện, nay đăng lên VN Thư Quán để góp vui.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2016 00:21:05 bởi Quang11 >

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 04:35:13
0
Thay lời tựa:
 
Nếu ánh sáng của một ngàn thái dương
Cùng bùng sáng trên bầu trời,
Đó cũng giống như sự hoa lệ của đấng vĩ đại.
Ta là Tử Vong,
Kẻ hủy diệt thế giới.

Chúa Shiva, Hủy Diệt Thần của Ấn giáo
(Kinh Bhagavad Gita)



Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 04:38:03
0
Chương Mở Đầu
Cao Nguyên Thanh Tạng, Vùng Tự Trị Tây Tạng
Thứ Ba, ngày 18 tháng 11; 16:49, giờ địa phương.
 
Jampa dán sát người vào mặt đất gần đông cứng và cảm thấy sự rung động của đoàn tàu đang đến gần thấu vào lồng ngực hắn. Bao tử hắn co rút lại trong căng thẳng. Tiếng tim đập thình thịch muốn át cả tiếng của mấy chiếc đầu máy xe lửa sắp đến.
 
Đây là giai đoạn mà hắn ghét: chờ đợi. Lát nữa, khi bắt đầu tấn công, sẽ không còn thời gian để sợ hãi nữa. Hắn sẽ quá bận rộn tiến hành kế hoạch. Cố gắng sinh tồn và đào tẩu. Mọi sự hoài nghi sẽ bị gạt sang bên bởi hành động và tốc độ. Nhưng trong những khoảnh khắc bất động cuối cùng này, tâm trí hắn có thời gian miên man đến những sự bất lợi có thể xảy ra, đủ mọi cách chết mà hắn và đồng đội có thể gặp phải, hay tệ hơn nữa, bị bắt sống.
 
Hắn đã cẩn thận lựa chọn địa điểm. Đường ray nằm cách hắn hai mươi mét. Đoàn xe lửa sẽ chạy qua hắn ở một khoảng cách an toàn. Mặc dù vậy, hắn vẫn không buông bỏ được cái cảm giác rằng con quái vật cơ giới kia đang xông thẳng vào nhóm người hắn.
 
Sự rung động tăng mạnh lên, dâng lên từ mặt đất đông cứng làm răng hắn va vào nhau lập cập và tai hắn ù đến đau đớn. Jampa tưởng tượng con tàu vùng lên khỏi đường ray như một con rồng sắt khổng lồ. Hắn cố nén sự thôi thúc ngẩng đầu lên, để lén nhìn đoàn tàu đang xông tới, để kiểm rõ rằng nó đã không rời khỏi đường ray và những bánh sắt nặng nề kia không lăn thẳng đến để nghiền nát hắn và đồng đội vào mặt đất đông cứng.
 
Hắn ghìm gò má xuống một nhúm cỏ đông teo ngắt và sờ tới khẩu súng phóng tên lửa 80 mm nằm cạnh bên hông. Ống phóng làm bằng sợi thủy tinh trơn láng và lạnh lẽo dưới các ngón tay đeo bao tay của hắn.
 
Đây là một khẩu súng phóng tên lửa chống thiết giáp PF-89 dành cho bộ binh, được chế tạo để chống xe tăng cho Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPNDTQ). Nó đã được mua chợ đen từ một sĩ quan tiếp liệu tham ô của QGPND. Điều này làm Jampa có một cảm giác nhân-quả thế nào ấy, khi hắn nghĩ đến giờ đây nó sắp được dùng để phá hủy một đoàn xe lửa chở bộ đội Trung quốc.
 
Bên phải, cách Jampa vài mét là Nima và Sonam, hai thành viên còn lại của nhóm xung kích, đang nằm. Nếu họ tuân theo lệnh của hắn, thì họ đang nằm sát mặt đất, trên người đắp áo choàng bằng vải thô để che giấu dáng người của họ trong đám cỏ khô của cao nguyên Tây Tạng.
 
Nima không phải là vấn đề. Lão là một người ‘dropka’, một trong những du mục lang thang trong thảo nguyên và dưới chân dãy Hi Mã Lạp Sơn, trông nuôi bò yak và cừu, và giành giật một cuộc sống nghèo nàn nơi cái vùng mà người nước ngoài gọi là ‘mái nhà của thế giới’.
 
Tinh thần sắt đá của lão du mục được rèn luyện qua cả một đời kham khổ. Lão có đầy đủ kiên nhẫn và chịu nghe chỉ thị. Jampa không hoài nghi rằng Nima đang nằm im rơ, duy trì ngụy trang cho đến khi lão nhận được mệnh lệnh tấn công.
 
Sonam thì không được kỷ luật như vậy. Gã là một chiến sĩ giỏi, nhưng gã còn trẻ và quá cứng đầu để hoàn toàn chịu chấp hành mệnh lệnh. Có thể gã đang nằm im theo lệnh của Jampa. Nhưng cũng có thể gã đã đứng xổm lên rồi, nôn nóng bắn phát súng đầu tiên vào mục tiêu.
 
Sonam lớn lên trong trại tị nạn Dharamsala rộng lớn như một thành phố, trong vùng núi phía bên Ấn Độ. Gã đã sống suốt cả cuộc đời trong cảnh lưu vong. Đối với gã, Tây Tạng không phải là quê hương, mà là lý tưởng.
 
Gã chiến đấu một cách không sợ hãi chống lại bọn Trung quốc xâm lược đã chiếm đóng đất nước của cha ông. Có lẽ ‘quá mức’ không sợ hãi. Sonam không chỉ sẵn sàng chiến đấu, gã hoan nghênh chiến đấu. Gã không hài lòng làm một sĩ binh đột kích. Gã muốn làm một dũng sĩ và sự nôn nóng chiến đấu làm gã thiếu thận trọng.
 
Trên chuyến xe lửa này, có hơn hai trăm quân sĩ và ngược với lời phủ nhận thường xuyên của Sonam, QGPND có kỷ luật, được huấn luyện bài bản và nguy hiểm. Gần như chắc chắn là một số trong hai trăm quân sĩ ấy sẽ sống sót sau vụ đột kích. Chúng sẽ chẳng tốn bao lâu để tập nã những kẽ đã tấn công chúng. Cách tốt nhất để sống sót là đánh chuyến xe lửa một đòn thật mạnh, mà không để lộ một dấu hiệu cảnh báo nào, rồi biến mất trước khi quân địch kịp hồi phục.
 
Nếu Sonam nghe theo chỉ thị của hắn, hi vọng trốn thoát vào cỡ 50-50. Nếu gã chiến sĩ trẻ làm điều gì ngu xuẩn, tỷ lệ có thể giảm xuống số không.
 
Jampa đã khổ sở giải thích cho Sonam hiểu vụ tập kích này có thể hỏng dễ dàng như thế nào, nếu mọi người không làm đúng theo kế hoạch. Hắn hi vọng một ít lời giải thích đã xuyên thấu vào cái sọ dày đặc của Sonam, nhưng hắn thật không có cách nào biết được.
 
Jampa đè nén ý muốn ngẩng đầu lên để kiểm tra. Nếu Sonam lột bỏ ngụy trang sớm, họ chỉ đành phải thích nghi với hậu quả. Jampa không thể nào cải thiện hoàn cảnh bằng cách vi phạm mệnh lệnh của chính mình được và tự mình lột bỏ ngụy trang.
 
Tiếng sấm sắt thép vang lớn lên. Jampa chờ đợi bằng một sự kiên nhẫn mà hắn không cảm thấy muốn chút nào. Chỉ có một cơ hội thôi. Nếu hắn ước tính thời gian sai lầm…
 
Tiếng sấm dường như đạt tới điểm cao, tiếng xe lao vun vút như đều với nhịp đập điên cuồng của con tim hắn. Chiếc đầu máy đầu tiên trong ba chiếc đầu máy có lẽ đang lao qua hắn ngay lúc này đây. Chưa được. Chưa… Được…
 
Hắn duy trì ngụy trang trong khoảng 6-7 nhịp tim. Rồi… Ngay bây giờ đây! Hắn gạt tấm vải choàng dày nặng qua một bên và đứng nhổm dậy, vừa đảo ống phóng tên lửa lên cao, vừa quát “Shi Yag!” (Chết!)
 
Hắn thấp thoáng thấy Nima và Sonam ném vải choàng đi và nhỏm vào tư thế khai hỏa, nhưng hắn không quan sát hai người thuộc hạ. Hắn đã đưa ống phóng lên vai phải, bàn tay phải nắm vào tay nắm, phần cao su mềm của ống nhắm dán vào mắt phải.
 
Ống kính phóng đại mục tiêu, làm cho chiếc xe lửa như còn gần hơn nữa. Các toa xe bỗng trở nên khổng lồ và có vẻ như lướt qua ngay trước mặt Jampa. Mặc dù hắn đã tập nhìn qua ống nhắm, cảnh tượng này vẫn lạ lẫm và làm hắn giật mình. Hắn đảo ống phóng sang trái vài độ và chợt nhận ra mình đang nhìn qua một khung cửa sổ ngay vào mắt một gã quân sĩ Trung quốc trẻ.
 
Thời gian chỉ có thể là một thoáng, nhưng khái niệm thời gian của Jampa đã bị méo mó bởi hoóc-môn adrenaline và sự hủy diệt mà hắn biết sắp xảy ra. Mỗi giây thời gian đã trở nên mềm dẻo và bị kéo dài thành phút, hay cả giờ không chừng.
 
Trong cái khoảnh khắc bị đình chỉ lại đó, hắn thấy vẻ mặt của gã quân sĩ trẻ chuyển từ bất ngờ, đến chợt hiểu, rồi khiếp sợ. Jampa đã từng là giáo viên môn Khoa Học, trước khi quân Trung quốc thiêu hủy ngôi trường của hắn. Hắn hiểu được khối óc của con người hoạt động như thế nào, đủ để hiểu rằng hắn không thể nào thấy và nhận định được bấy nhiêu chi tiết trong một phần giây. Cái này chắc chắn là do trí tưởng tượng của hắn rồi, chắc là cảm giác tội lỗi về việc mà hắn sắp làm, nhưng nó có vẻ thật quá. Nó cho cảm giác thật quá. Cái cảm giác như đang giết người.
 
Khung cửa sổ vụt qua và khuôn mặt của gã quân sĩ biến mất, để cho Jampa nhìn chằm chằm vào thành các toa xe đang chạy qua. Ngón tay hắn đặt trên cò súng, nhưng dường như hắn không thể nào bấm xuống.
 
Thuộc hạ của hắn cũng không khai hỏa. Họ đang chờ hắn bấm cò trước, có lẽ cho rằng thủ lãnh của họ có một lý do chiến thuật chính đáng nào đó mà quyết định trì hoãn.
 
Các toa xe tiếp tục chạy qua, nhưng khuôn mặt của gã binh sĩ đó đã in xâu vào trí nhớ của Jampa. Gã trẻ quá, không hơn gì một đứa con nít.
 
Nhưng rồi hắn nhớ lại ngôi trường nhỏ bé của hắn ở Amchok Bora. Hắn nhớ lại những khuôn mặt ở Chopa, Dukar, và các học sinh khác của hắn khi dân làng lôi những cái xác cháy đen của những đứa con trai nhỏ từ đống đổ nát còn bốc khói của ngôi trường. Hắn nhớ lại những bộ quân phục màu xanh ô-liu của binh sĩ QGPND khi chúng leo lên xe tải và rời đi. Những chiếc xe tải đã khuất dần nơi phương xa và không một binh sĩ nào quay đầu lại nhìn. Không một tên binh sĩ nào thèm nhìn lại những trẻ thơ đã chết và đang hấp hối, hay các dân làng đang gào khóc đau thương.
 
Và giờ đây, cách nơi Jampa đang đứng hai mươi mét là một chuyến tàu chở hơn hai trăm tên côn đồ mặc quân phục của cái gọi là QGPND. Lại một nhóm côn đồ chai lì, được chở từ Trung quốc xuống để thêm sức áp bức dân chúng Tây Tạng. Lại thêm một đám đốt trường học không có linh hồn, đến để tăng viện cho quân xâm lăng đang nghiền ép sức sống khỏi Tây Tạng.
 
Một làn hơi nóng phả qua mặt Jampa. Người hắn hơi thụt lại khi quả tên lửa vụt ra khỏi ống phóng. Hắn không nhớ đã nhấn cò khi nào, hay có quyết định nhấn cò hay không, nhưng hắn quả thật đã nhấn cò rồi. Hắn cũng chẳng biết đã nhắm quả tên lửa vào đâu nữa.
 
Quả tên lửa 80 mm lao vụt đi, kéo theo một dây khói mỏng, đâm vào bên dưới một toa xe chở người ngay bên trên nhóm bánh sắt. Phát nổ xảy ra ngay lập tức và mãnh liệt hơn là Jampa dự liệu. Phần đầu của toa xe nảy lên khỏi đường ray; khói đen phủ trùm và một cụm lửa bốc lên hình nấm.
 
Bên phải Jampa, hai dây khói khác cho thấy lão Nima và gã Sonam cũng đã tiến hành.
 
Chiếc toa xe đang vùng vẫy trong phát nổ đầu tiên, liền bị thổi ngang trong một bể tia lửa và tiếng kim loại bị xé toác. Nó thoáng chập choạng trên nhóm bánh sắt phía bên kia, rồi hoàn toàn rời khỏi đường ray và đổ nghiêng ra.
 
Mười tám toa phía sau vẫn lấn tới với tốc độ hơn 100 km/giờ. Hằng ngàn tấn lực biến các toa xe này thành như búa nện, tiếp tục xông tới trước không khoan nhượng. Chiếc toa khách trúng đạn vẫn đang cháy, nện vào mặt đất như lưỡi cày, bới lên cả núi đá và đất đông cứng. Sức ép khiến toa xe bằng thép và sợi thủy tinh thun lại.
 
Không còn nơi nào để đi và vẫn bị số toa còn lại đẩy tới, chiếc toa kế tiếp đổ nghiêng ra khỏi đường ray, gập cong lại ở phần giữa và cày vào đất như chiếc trước, để rồi sụp xuống thành đống phế thải.
 
Thoát khỏi phần lớn gông cùm, ba chiếc đầu máy phóng vọt đi, kéo lê theo hai toa chở khách tàn phá. Phía sau, vụ trật đường ray đã biến thành phản ứng dây chuyền. Khi mỗi toa xe trợt khỏi đường ray và dập vào mặt đất đông lạnh như giấy nhôm bị vò nát, các toa xe sau tiếp tục lao lên và tiếp tục trình tự lật nhào. Hết toa này đến toa khác dập vào đất và biến thành từng đống đổ nát không còn hình dạng gì.
 
Trong cả quá trình này, ngọn lửa xông lên. Đường ray Thanh-Tạng nằm trên độ cao hơn bất cứ đường xe lửa nào khác. Có nhiều chỗ, đường ray nằm 5.000 mét trên mực biển. Để tránh cho hành khách bị chứng say núi cấp tính ở các đoạn đường cao nhất, xe chở khách được ép không khí như máy bay chở khách vậy. Mỗi toa xe đều có hệ thống ép khí oxy và thùng chứa khí oxy ép riêng. Dưới nhiệt độ và lực lượng kinh khủng khi dập vào đất, các thùng khí oxy nổ tung, tạo thành từng cụm lửa suốt chiếu dài các toa xe bị lật.
 
Jampa im lặng nhìn tất cả, hai tai ù điếc vì những tiếng va đập và nổ mạnh liên tục, tâm trí hắn không thể nào hiểu được thảm họa đang diễn ra trước mắt. Thảm họa mà chính hắn đã tạo ra. Hắn mù mờ lắc lắc đầu. Hắn muốn trả thù. Nhưng không phải cái này…
 
Có ai đó nắm cánh tay hắn. Hắn chậm rãi quay đầu sang. Là lão Nima. Lão đang giật giật tay áo Jampa và kêu cái gì đó. Tiếng kêu của Nima nghe như tiếng xì xào. Jampa không nghe hiểu được lão du mục này đang nói gì, hoặc là vì hai tai hắn vẫn chưa hồi phục, hoặc đơn giản là do tâm trí hắn không thể thông hiểu được ngôn ngữ loài người nữa.
 
Sonam xuất hiện bên cạnh lão Nima, vừa múa may vừa la hét, nhưng hắn vẫn chẳng hiểu gì hơn.
 
Sương mù dần tan biến khỏi tâm trí Jampa và ý nghĩa của các lời nói và cử chỉ bắt đầu thấm vào tâm thức hắn. Đã đến lúc đào tẩu! Chiếc xe tải cũ kỹ được giấu phía bên kia một ngọn đồi nhỏ cách đó vài trăm mét. Nếu muốn có chút hi vọng thoát thân, thì họ phải bỏ chạy ngay lập tức.
 
Nhóm nhân viên lái tàu chắc đã phải gọi cầu cứu rồi. Máy bay trực thăng sẽ sớm xuất hiện và còn có những chiếc xe chạy nhanh hơn chiếc xe tải cũ nhiều. Muốn thoát thân thì cách duy nhất là càng chạy xa trước khi cuộc truy lùng bắt đầu, càng tốt. Bọn họ phải chạy được nửa đường đến biên giới Ấn Độ trước khi người Trung quốc kịp tổ chức phản ứng hữu hiệu.
 
Jampa gật đầu và buông lỏng các ngón thả ống phóng tên lửa rơi xuống đất. Hắn đảo mắt nhìn chung quanh để xác định vị trí, rồi bắt đầu chạy chậm về chỗ giấu chiếc tải. Sau khi loạng choạng vài bước, hắn bắt đầu chạy nhanh, lão Nima và gã Sonam vài bước đằng sau.
 
Hắn chạy được nửa đường đến chỗ giấu xe thì nghe một tiếng nổ nhỏ như tiếng máy xe hơi bị ngộp xăng ở nơi xa. Tiếng nổ vang thật nhỏ trong tai đang ù của hắn. Phải chăng lại là một tiếng nổ từ một toa xe? Hay đầu óc mụ mị của hắn đang mơ ra?
 
Nhưng khi hắn và lão Nima chạy đến đỉnh ngọn đồi nhỏ, Sonam không còn bên cạnh họ. Jampa ngoái đầu nhìn lại và thấy gã chiến sĩ trẻ cuồng nhiệt kia nằm sấp trên mặt đất.
 
Jampa đang định chạy ngược lại thì lão Nima đã nắm cánh tay hắn và lôi hăn về chiếc xe tải. Lão Nima lại gào lên cái gì đó nhưng Jampa vẫn chưa thể nghe rõ được lời của lão. Tuy nhiên hắn vẫn hiểu lão muốn nói gì. “Đi! Ngay lập tức! Chúng ta không thể quay lại được!”
 
Jampa nhìn gã Sonam giây lâu, không để ý đến lão Nima đang kêu gào. Sonam không nhúc nhích.
 
Cuối cùng, Jampa gật đầu và để mặc cho lão Nima đẩy hắn về phía chiếc xe tải.
 
Khi họ lái đi xa, hắn không quay lại nhìn lần nào nữa…
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 04:41:15
0
Chương 1
Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103)
Nam Biển Nhật Bản
Thứ Tư, ngày 19 tháng 11
13:41, giờ địa phương
 
Nửa giây sau khi trúng phi đạn, đèn trên trần tắt phụt, làm cho Combat Information Center (1, xem chú thích) (CIC) tối đen. Tiếng rơ-le điện kêu lách tách. Đèn khẩn cấp đỏ mờ bật lên thay thế ánh đèn chiến đấu xanh lam.
 
Tiếng ồn trong phòng hành quân CIC giảm xuống nhiều decibel sau khi gần phân nửa số màn ảnh điện tử trong phòng tắt phụt vì mất điện. Những chiếc quạt làm giảm nhiệt cho máy móc từ từ ngừng lại, tiếng rít của những hộp cung cấp điện cao thế tụt dần vào im lặng. Cả tiếng rầm rì của máy điều hòa không khí cũng nhạt đi khi máy nén hơi ở phòng bên cạnh dừng lại.
 
Những dấu hiệu cảnh báo đỏ và vàng bắt đầu nhấp nháy trên các màn ảnh điện tử còn hoạt động, báo cáo chi tiết các hư hại trong hệ thống điện tử và tín hiệu đang biến mất dần. Các màn ảnh khổng lồ của hệ thống chiến đấu Aegis (2) nhấp nháy lia lịa với những ký hiệu tác chiến hỗn loạn, rồi biến thành những đường sọc khi mất tín hiệu.
 
Trong bóng tối, hai-ba thủy thủ bị thương đang đau đớn rên siết. Đâu đó bên ngoài vách tường sắt của phòng hành quân CIC, còi báo động vang rền rĩ và những nhóm khống chế hư hại đang kêu gọi nhau. Vì khoảng cách xa, cùng với vách ngăn thép và mặt nạ bảo hộ, âm thanh của họ trở nên những tiếng xì xào vô nghĩa.
 
Tiếng nói của hạm trưởng Bowie xuyên qua bóng tối đỏ âm u: “Sĩ quan chỉ huy CIC, báo cáo thiệt hại cho tôi, lập tức! Tôi muốn biết chúng ta trúng phi đạn vào đâu và thiệt hại thế nào!”
 
Bowie không chờ viên trung úy trẻ đáp lời, đã ra mệnh lệnh tiếp: “TAO (3), báo cáo kiểm kê tất cả vũ khí và hệ thống cảm biến của ta. Chúng ta còn thấy được gì và còn thứ gì để chiến đấu?  Khi nào tra được, tôi muốn biết còn lại bao nhiêu Bogies (4) và chúng đang ở đâu!”
 
Viên sĩ quan Tác Chiến lập tức trả lời: “Hạm trưởng, ra-đa SPY đang hoạt động bằng nguồn điện phụ, nhưng Aegis không hoạt động vì máy điện toán đang khởi động lại. Pháo tháp 51 sẵn sàng chiến đấu và có vẻ như khẩu CIWS (5) phía sau bị hỏng. Khẩu CIWS phía trước thì còn tốt. Đề nghị chúng ta quay mũi về hướng mấy chiếc bogies còn lại và để khẩu CIWS phía trước phòng vệ phi đạn cho đến khi chúng ta bắt đầu thấy lại được.”
 
Bowie chỉ thoáng ngập ngừng, rồi: “Làm đi!”
 
Ngay lúc này, sĩ quan chỉ huy phòng hành quân CIC, trung úy Westfall báo cáo: “Hạm trưởng, tôi liên lạc được với CCS (6). Chỗ trúng đạn phỏng định là bên phải, ngay giữa thân tàu, gần mép nước. Cả hai máy bên phải đều hỏng và nhóm phòng máy báo cáo lửa cấp Bravo (7) ở phòng Máy số một. Chúng ta đang ngập nước tại nhiều khoang và phòng Tổng Đài số 2 bị hỏng vì nước ngập.” Sau khi thoáng ngừng: “Báo cáo thương vong là… CCS ước tính 41 người chết và khoảng gấp đôi bị thương, thưa Hạm trưởng. Sĩ quan chỉ huy phòng máy đã chết. Phó hạm trưởng bị thương ở đầu, có thể bị vỡ sọ và đang bất tỉnh.”
 
Bowie gật đầu: “Đã hiểu.”
 
Một giọng nói vang lên trong loa treo trên trần. “TAO, đây là phòng lái. Thủy thủ canh gác phía trước báo cáo nhìn thấy ba máy bay ở bên trái phía trước, vị trí ba-năm-bảy độ. Tốc độ tiếp cận rất nhanh.”
 
Bowie nhìn trung tá Silva.
 
Viên trung tá đang đứng, hai tay nhét sâu vào túi của bộ áo liền quần màu xanh dương đậm, dáng người thẳng tắp và nhanh nhạy, mắt nhanh chóng chuyển từ vị trí chiến đấu này qua cái khác. Nàng chạm ánh mắt với Bowie, rồi chuyển đi nơi khác. Nàng đang thu thập tất cả, như một cái máy quay phim ghi nhớ tất cả dữ liệu, mà không nhả ra lại bất cứ thứ gì.
 
“Đám bogies đang lao tới nhanh và thật thấp.” Bowie nói. “Chúng chuẩn bị tập kích chúng ta bằng một đợt phi đạn khác.”
 
Trung tá Silva gật đầu, nhưng không trả lời.
 
Bowie quay đầu đi. “TAO, tình trạng Aegis thế nào rồi?”
 
“Máy vi tính đã kích hoạt xong, thưa hạm trưởng.” Viên sĩ quan Tác Chiến nói. “Phải vài giây nữa ra-đa SPY mới liên kết và khóa cứng mục tiêu được.”
 
“Chúng ta không có vài giây nào hết.” Bowie nói. “Lệnh cho pháo tháp 51 xạ kích đám Bogies dùng video từ máy thu hình trên cột tàu. Lệnh cho nhóm Phòng Thủ Chống Tiểu Thuyền (8) xạ kích mọi mục tiêu bằng đại liên 12,7 mm ở phía trước, và cả hai khẩu đại bác nhẹ nữa.”
 
Bowie im lặng nghe viên TAO truyền đạt mệnh lệnh của hắn cho các vị trí súng. Đây là một bước tuyệt vọng. Khẩu pháo lớn 127 mm ở pháo tháp 51 trên boong trước có lẽ có khả năng tiêu diệt một máy bay đang lao tới nếu được ra-đa điều khiển. Muốn hạ ba chiếc máy bay địch mà chỉ dùng máy thu hình đen-trắng sao? Khó hơn nhiều! Nếu kể cả những hư hại của chiếc tàu, thì coi như vô vọng.
 
Mấy khẩu đại liên 12,7 mm ư? Có cầu nguyện cách mấy cũng chẳng hi vọng gì. Hai khẩu 25 mm cũng không hơn bao nhiêu. Bắn tán loạn có lẽ cũng chỉ tốn đạn thôi, nhưng chẳng lẽ họ cứ ngồi đó rung đùi mà không làm gì sao?
 
Chiếc USS Towers là một chiếc khu trục hạm hiện đại nhất. Đây là một chiếc chiến hạm tiên tiến từ đáy tàu được thiết kế bằng máy điện toán, cho đến chóp xéo của cột tàu. Nó được thiết kế và chế tạo cho tốc độ, hỏa lực và khả năng tàng hình. Trong khoảng thời gian hoạt động vài năm ngắn ngủi, nó đã trải qua số thực chiến nhiều hơn tổng số của bất cứ hai chiến hạm nào khác trong Hải Quân Mỹ.
 
Bowie mỉm cười hung tợn. Nếu chiếc Towers phải đắm, thì nó sẽ vừa đắm vừa chiến đấu.
 
Hắn rời ánh mắt khỏi những màn ảnh đã hỏng, đảo mắt tìm trong bóng tối đỏ cho đến khi hắn thấy dáng khổng lồ của một gã trung sĩ.
 
Chuyên viên tác chiến cấp hai Kenfield đã lớn lên trong một nông trại ở tỉnh Gordonsburg, tiểu bang Tennessee. Tên gã là Bruce, nhưng thủy thủ đoàn gọi gã là Ruộng Đồng Thênh Thang, một phần vì khổ người đáng kể của gã mà phần khác là vì giọng nói đặc sệt vùng quê miền Nam của gã. Trong thủy thủ đoàn vẫn lưu truyền câu chuyện đùa rằng Ruộng Đồng Thênh Thang không cần xe cày hay trâu bò để cày ruộng nhà gã; gã chỉ cần dùng sức lực khủng khiếp tự mình kéo cày và dùng hai tay sắn đất.
 
Hạm trưởng Bowie hất đầu về phía gã. “Này Ruộng Đồng Thênh Thang … hát cho chúng ta nghe một bài đi.”
 
Không khí trong CIC thật căng thẳng, nhưng gã thủy thủ khổng lồ vẫn nhe răng cười trắng ởn trong bóng tối đỏ. “Có phải là mệnh lệnh không, hạm trưởng?”
 
“Chứ còn gì nữa?” Bowie đáp.
 
Gã thủy thủ càng cười toét hơn nữa. “Aye-aye (9), hạm trưởng!”
 
Gã tằng hắng đầy kịch tính, rồi phát ra bài hát duy nhất mà người ta từng nghe gã khổng lồ này ca: một tiếng gầm rống chấn động.
 
Trung tá Silva còn chưa quen thuộc với nếp sinh hoạt của chiến hạm này, suýt nhảy nhỏm khi nghe tiếng gầm phá không gian này. Nhưng nhân viên trong phòng hành quân CIC đã có kinh nghiệm lâu rồi. Họ đã biết rõ gã Ruộng Đồng Thênh Thang này ca hát như thế nào. Trước khi dư âm tiếng rống tắt đi, họ đã thêm vào tiếng gào riêng của họ. Nam hay nữ, trẻ hay trung niên, già dặn hay non nớt, tiếng gào rú của họ cùng dâng lên, như một sự phản kháng chống lại những chiếc máy bay địch đang lao đến tấn công chiến hạm của họ.
 
Họ là một thủy thủ đoàn. Họ là một thể. Họ sẽ cùng chiến đấu. Họ sẽ chết cùng nhau. Mẹ nó chứ! Chiếc Towers là chiến hạm của họ!
 
Trung tá Silva ngắm nhìn các thành viên của phòng hành quân CIC. Vẻ mặt của nàng lộ rõ cảm nghĩ của nàng. Nàng là một sĩ quan từng trải, với hơn mười bảy năm trong quân ngũ. Nàng đã sống gần suốt quảng đời người trưởng thành ngoài đại dương và nàng đã thấy qua hầu hết những gì đại dương có thể cống hiến. Nhưng suốt những năm sống trong Hải quân, nàng chưa từng thấy qua cái gì như cái này. Thật là điên rồ. Thật là những cử chỉ vô ích. Nhưng Mẹ nó! Thật là đáng nể.
 
Silva hé môi, có lẽ để góp phần vào cuộc gầm thét, nhưng chưa kịp làm gì thì đã bị tiếng nói trong loa treo trên trần cắt ngang. “TAO, nhóm Điều Khiển Vũ Khí báo cáo. Aegis đã hoạt động. Có 5 Vipers (10), rất gần và đang tiếp cận! Lặp lại, 5 phi đạn đang tiếp cận, ước tính 20 giây trước khi bị trúng đạn.”
 
Tiếng reo hò lập tức ngưng bặt khi mọi người khẩn trương làm việc. Hai mươi giây quá ngắn để có làm gì hữu hiệu, nhưng điều đó không làm cho thành viên phòng hành quân CIC ngừng cố gắng.
 
Giọng nói của viên sĩ quan Tác Chiến xuyên qua mạng liên lạc: “Mọi vị trí chiến đấu, đây là TAO. Năm Vipers đang tiếp cận! Tôi lặp lại, có nhiều phi đạn đang tiếp cận! Nhóm Điều Khiển Vũ Khí, chuyển hệ thống Aegis qua tự động hoạt động. Cho CIWS tự động khai hỏa. Break (11). EW (12), cho tôi biết đường đi tốt nhất để giảm tối đa hình chiếu ra-đa (13), và chuẩn bị phóng chaff (14).”
 
Tiếng vâng dạ và những mệnh lệnh phụ thuộc lan truyền trên các mạng tác chiến. Phân nửa vị trí trong phòng hành quân CIC vẫn chưa hoạt động. Chiếc tàu đã tàn phế rồi. Một phần ba thủy thủ đoàn đã chết hay đang hấp hối, và tệ nhất là thời gian đã hết. Nhưng họ vẫn còn chiến đấu. Vẫn còn phản kích.
 
Giọng nói của viên sĩ quan chỉ huy nhóm Điều Khiến Vũ Khí vang lên trong loa. “Mọi vị trí chiến đấu, đây là nhóm Điều Khiển Vũ Khí. Chuẩn bị! Ước tính phi đạn sẽ trúng trong sáu… năm… bốn…”
 
Bowie khoanh tay và dựa vào một màn ảnh ra-đa đã hỏng. Hắn huýt sáo nhẹ qua kẽ răng, trong khi tiếng đếm ngược tiếp tục.
 
“Ba… Hai… Một…” Chữ cuối cùng gần như là một tiếng hét. “Trúng!”
 
Căn phòng đột nhiên sáng trưng lên khi dòng điện tràn vào các ngọn đèn.
 
Một giọng nói khác vang lên trên loa. “Mọi vị trí, đây là Tổng Huấn Luyện viên. Huấn luyện kết thúc. Lặp lại, huấn luyện kết thúc. Cho phần mềm ngưng lại. Ngưng đồng hồ. Bật điện lên, cho mọi hệ thống trở lại hoạt động bình thường. Huấn luyện chấm dứt lúc 13 giờ 25 phút 9 giây.”
 
Các thành viên trong phòng hành quân CIC chớp chớp mắt và che mắt chống lại ánh đèn bất ngờ. Khắp trong phòng, các nhân viên đã “chết” hay “bị thương” đứng dậy, phủi bụi trên quân phục và bắt đầu kích hoạt lại các máy móc.
 
Một trung sĩ tháo sợi dây tròng nơi cổ xuống và ngắm tấm bìa cứng màu vàng. Trên đó có dòng chữ in to: “Phòng hành quân CIC thương vong số 6 – phỏng vì điện giật, hôn mê do va chạm vật cứng, tử thương.”
 
Gã đưa tấm bìa cho một người mặc đồng phục màu cam, một thành viên trong nhóm Huấn Luyện. “Đây này, tôi không cần cái này nữa. Tôi hết chết rồi.”
 
Gã quan sát viên mặc đồ cam kẹp tấm bìa vào một sấp bìa tương tự, nói: “Hoan nghênh bạn trở về cõi sống. Nhưng nếu tôi là bạn, tôi sẽ tiếp tục chết cho đến giờ cơm. Như vậy, bạn sẽ không phải tốn cả buổi chiều quét dọn CIC.”
 
Gã chuyên viên Tác Chiến cấp Ba mỉm cười: “Ài, nếu giả chết có thể miễn lao động được thì tốt rồi! Có chết cũng không tránh khỏi lao động quét nhà đâu.” Nhún vai, nói tiếp. “Ít ra họ cho tôi chết sớm. Tôi cũng chợp mắt được một lúc trong khi mọi người khác còn đang cố gắng cứu tàu.”
 
Cách đó khoảng mười bộ, đại tá Bowie đang trò chuyện cùng trung tá Silva gần chỗ ngồi của viên sĩ quan Tác Chiến. Bowie nhướng mày. “Trung tá thấy sao?”
 
Silva gật đầu. “Đáng nể lắm, thưa đại tá. Tôi chưa từng thấy qua cái gì như thế này. Ông có một thủy thủ đoàn thật là giỏi đó.”
 
Bowie tủm tỉm cười: “Nói thật ra, họ quả thật rất đáng nể. Tôi hãnh diện được phục vụ chung với từng người bọn họ. Mỗi người nam hay nữ trên chiếc tàu này đều cống hiến 120% sức lực của mình.”
 
Hắn lắc đầu. “Nhưng mà họ chẳng còn là thủy thủ đoàn của tôi bao lâu nữa, phải không? Họ sẽ thuộc về cô chỉ trong khoảng hai tuần nữa mà thôi, trung tá.”
 
Mắt hắn đảo quanh phòng hành quân CIC, thật chậm, cố gắng thu nhận từng chi tiết như thể hắn sẽ không bao giờ thấy được quang cảnh tráng lệ như vậy nữa. Mà điều đó sẽ là sự thật trong chẳng bao lâu nữa. Lễ bàn giao chỉ cách đó 16 ngày nữa. Sau đó, chiến hạm này sẽ không còn là của hắn nữa.
 
Sau khi hai người chào nhau lần cuối trong buổi lễ bàn giao ấy, Đại tá Samuel Harland Bowie sẽ trở thành Chỉ Huy Phó hạm đội khu trục hạm số 15. Cùng lúc ấy, Trung tá Katherine Elisabeth Silva sẽ trở thành Hạm trưởng Silva, chỉ huy trưởng mới của chiếc USS Towers.
 
Quảng thời gian bi tráng nhất và quan trọng nhất trong quân nghiệp của Bowie sẽ chấm dứt. Ngay từ bây giờ, hắn đã biết là không gì có thể lắp đầy cái khoảng trống ấy trong cuộc đời của hắn. Và qua cả quá trình ấy, hắn sẽ phải tươi cười, với những phát biểu lịch sự, giả vờ rằng hắn vui lòng giao quyền lãnh đạo chiến hạm của hắn cho một người gần như xa lạ.
 
Khốn nạn! Thật khốn nạn! Hắn chậm rãi thở ra.
 
Hắn quay sang trung tá Silva, người lãnh đạo kế tiếp của chiếc USS Towers. “Chúng ta xuống phòng ăn đi. Chúng ta có thể uống một ly cà phê trong khi chờ đợi nhóm Huấn Luyện viết xong báo cáo.”
 
Silva bước theo hắn ra cửa. Bowie thả chậm bước để nàng tiến lên bên cạnh hắn. “Bạn bè gọi cô là Kate sao?”
 
Trung tá Silva mỉm cười. “Chỉ có bố tối là được quyền gọi như vậy thôi. Mọi người khác đều gọi tôi là Kat.” (trùng âm với ‘cat’, con mèo)
 
“Với chữ K chứ?”
 
“Đúng rồi. Với chữ K.” Nàng lại cười. “Đây là một câu chuyện dài.”
 
Bowie mở cánh cửa có thể ngăn nước (để phòng ngập lụt lan tràn nếu tàu bị nước vào) và ra hiệu cho nàng đi vào. Khi họ đã bước qua cửa, hắn lại gài cửa lại cẩn thận, rồi họ mới tiếp tục đi.
 
“Còn anh thì sao?” Silva hỏi. “Bạn bè gọi anh là Sam hả?”
 
Viên đại tá lắc đầu. “Không. Họ kêu tôi là Jim.”
 
Silva thoáng ngưng bước. “Họ gọi anh là Jim Bowie (15) sao? Thật vậy à?”
 
Đại tá Bowie ngoác miệng cười. “Thật mà!” Hắn lại tiếp tục đi về phía phòng ăn. “Đây cũng là một câu chuyện dài.”
-=-=-=-=-=-
Chú Thích:
(1) Combat Information Center (CIC): phòng hành quân trên tàu chiến Mỹ, trong hải quân Hoàng gia Anh quốc thì được gọi là Action Information Centre. Là trung tâm chỉ huy và kiểm soát của tàu chiến hoặc cả hạm đội dưới quyền. Từ bây giờ, dịch giả sẽ dùng ‘phòng hành quân CIC’ nếu nói về hải quân Mỹ. Không nên lầm với phòng điều khiển hay lái tàu.
 
(2) Hệ thống chiến đấu Aegis là hệ thống chiến đấu tiên tiến và phức tạp nhất thế giới, được bắt đầu trang bị cho hải quân Mỹ vào thập niên 1980 và được không ngừng cải tiến cho đến ngày nay. Hệ thống này dung hợp thông tin từ các loại hệ thống thông tin, ra-đa, sonar trên tàu, của cả hạm đội và từ mọi nguồn khác (vệ tinh, phi cơ, v.v.), phân chia cho các chiến hạm trong hạm đội các công tác tấn công và phòng thủ chống tất cả các loại nguy cơ trên và dưới mặt biển, trên không và cả ngoài khí quyển. Gần đây, hệ thống còn được triển khai trên đất liền để phòng thủ chống tên lửa đạn đạo và phi đạn hành trình, cũng như mọi mối đe dọa trên không khác. Xem thêm: vi.wikipedia.org/wiki/Hệ_thống_Chiến_đấu_Aegis
 
(3) Tactical Action Officer (TAO): sĩ quan Tác Chiến phụ trách hệ thống tác chiến của chiến hạm. Đây là một nhiệm vụ chỉ có trong hải quân. Quân đội Mỹ có thói quen dùng từ viết tắc trong khi nói chuyện để tiết kiệm thời giờ.
 
(4) Bogie hay bogey: tiếng lóng thường dùng trong quân đội Mỹ để chỉ máy bay hay phi đạn địch. Vì là tiếng lóng chuyên dụng, dịch giả sẽ không dịch.
 
(5) CIWS (phát âm là Xi-uy-zơ) hay Close-In Weapon System là hệ thống tự vệ chống phi đạn, tầm cực ngắn. CIWS bắt nguồn từ hải quân Mỹ vào những năm 1980, nhưng ngày nay nhiều quốc gia cũng có các hệ thống tương tự. CIWS của Mỹ có tên Phalanx gồm một khẩu súng 20 ly 6 nòng có thể bắn 4.500 viên/phút, có tầm hữu hiệu cỡ 2.000 mét; nhiệm vụ là tầng bảo vệ cuối cùng chống phi đạn nếu lọt lưới qua các hệ thống phòng thủ khác. Súng được tự động điều khiển bởi một hệ thống ra-đa độc lập. Gần đây, có vài hệ thống CIWS sử dụng phi đạn tầm ngắn thay thế súng, có lợi thế là tầm xa hơn và có thể đối phó nhiều phi đạn cùng lúc, nhưng mắc tiền hơn và số lượng lần bắn ít hơn (thể tích lớn hơn). Trên một chiến hạm Mỹ, thường có một khẩu ở phía trước và một khẩu phòng thủ phía sau, mỗi khẩu có thể xoay chuyển khoảng 240 độ. Gần đây, hệ thống phalanx được sử dụng trên bộ (Afghanistan) để phòng thủ các căn cứ chống tên lửa, đại bác và súng cối, cực kỳ hữu hiệu. Người Mỹ thường viết tắc nhưng cụm từ chuyên môn dài, rồi đọc luôn như một từ mới; trong trường hợp này, CIWS được phát âm thành Xi-Uy-Zơ.
 
(6) CCS là Crew Coordination System: dữ liệu về thủy thủ đoàn được lưu trữ trong hệ thống điện toán của tàu. Nhân viên điều hành có thể tùy thời kiểm tra và tổng hợp tình trạng thủy thủ đoàn theo từng ban ngành, vị trí, v.v.
 
(7) Bravo: Bắt đầu từ những năm 1950, để báo cáo qua điện đài một cách chính xác và tránh nhầm lẫn vì nghe lầm, quân đội Mỹ và đồng minh áp dụng cách phát âm chữ cái thống nhất cho quân đội như sau: A – Alpha, B – Bravo, C – Charlie, D – Delta, E – Echo, F – Foxtrot, G – Golf, H – Hotel, I – India, J – Juliet, K – Kilo, L – Lima, M – Mike, N – November, O – Oscar, P – Papa, Q – Quebec, R – Romeo, S – Sierra, T – Tango, U – Uniform, V – Victor, W – Whiskey, X – X-ray, Y – Yankee và Z – Zulu. Thí dụ: “Báo cáo, phát hiện 2 chiếc MIG, mike-india-golf (đánh vần để tránh nghe lầm), đang bay về hướng…”
 
(8) Phòng Thủ Chống Tiểu Thuyền: khu trục hạm Mỹ có vài đội thủy thủ có nhiệm vụ bảo vệ tàu chống lại những mục tiêu nhỏ và quá gần để sử dụng pháo 127 mm (pháo tháp 51) một cách hữu hiệu, như ghe nhỏ. Tàu được trang bị một số đại liên 12,7 mm (tầm hữu hiệu khoảng 1,000-1,500 mét) và hai khẩu súng máy 25 mm M242 Bushmaster có thể bắn 500 viên/phút (tầm hữu hiệu tối đa 3,000 mét). Có thể miễn cưỡng dùng chống máy bay hoặc phi đạn.
 
(9) Aye-aye: Thưa vâng. Đây là từ ngữ chỉ dùng trong hải quân Anh và Mỹ (và có thể Úc và các nước nói tiếng Anh khác) có nghĩa là “Thưa vâng!” hay “Dạ!” Chữ Aye có nghĩa là Yes (vâng) được dùng từ đầu thế kỹ 17, đến nay vẫn còn được dùng ở Tô Cách Lan, nhưng không rõ vì lý do gì lại biến thành chuyên dùng trong hải quân. Vì là từ ngữ chuyên dùng, dịch giã sẽ để nguyên.
 
(10) Viper: rắn độc. Tiếng lóng chỉ phi đạn địch. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch.
 
(11) Break: đứt, gãy. Trong khi liên lạc bằng điện đài, quân đội Mỹ dùng từ “break” này để cho biết rõ người nói đang chuyển đề tài. Thí dụ như ra lệnh cho đội một xong, “break” chuyển đến ra lệnh cho đội hai, rồi “break” chuyển đến lệnh cho đội ba. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch.
 
(12) Electronic Warfare (EW): đội phụ trách vũ khí điện tử. Thí dụ máy phát sóng phá rối tia laser, liên lạc điện đài của địch, ra-đa của địch, v.v….
 
(13) Hình ra-đa: mặt phẳng có diện tích càng lớn thì sẽ phản chiếu tia ra-đa càng mạnh, và do đó càng dễ trở thành mục tiêu cho phi đạn được ra-đa điều khiển. Một chiến hạm muốn giảm diện tích ra-đa có thể phản chiếu thì phải hướng mũi tàu về phía ra-đa, mà tránh để ra-đa chiếu vào hông tàu. Ngoài ra, các máy bay hay chiến hạm ‘tàng hình’ có thể giảm hình ra-đa bằng cách thiết kế hình dáng bên ngoài theo những góc độ đặc biệt để làm tia ra-đa bị trợt đi, thay vì dội ngược lại; và sơn một lớp sơn, hay lắp những tấm vật liệu có tính cách hấp thu tia ra-đa.
 
(14) Chaff: một loại đạn phòng thủ chống ra-đa, bên trong đầu đạn chứa hằng vạn sợi kim loại chiều dài bất đồng. Khi được bắn ra, đạn nổ cách chiến hạm không xa và hằng vạn sợi kim loại được tung ra thành một vầng mây kim loại phản chiếu đủ loại làn sóng ra-đa (do chiều dài bất động của sợi kim loại), làm nhiễu loạn ra-đa của địch. Nếu thành công, ra-đa của địch sẽ tỏa định vào một sợi kim loại nào đó và bay lạc hướng khỏi chiến hạm. Chaff cũng thường được dùng để bảo vệ máy bay chống phi đạn.
 
(15) Jim Bowie là một anh hùng hi sinh trong trận đánh phòng vệ thành Alamo, tiểu bang Texas trong cuộc cách mạng Texas, năm 1836. Đây là lúc Texas tách ly khỏi Mexico và trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ. James (gọi tắt là Jim) Bowie là một trong hai viên chỉ huy lực lượng phòng thủ Alamo, gồm khoảng từ 180 đến 257 người. Số người này gồm một ít quân đội và phần còn lại là chiến sĩ tự nguyện khác kể cả David Crockett, một nhân vật truyền kỳ khác. Họ đẩy lui 2 đợt tấn công của 1800 quân chính quy Mexico, giết chết khoảng 600 người, trước khi thất thủ trong đợt tấn công thứ ba. Có từ 5 đến 7 quân phòng thủ bị bắt sống, nhưng bị hành quyết ngay lập tức. Jim Bowie còn là người chế ra loại dao chiến đấu mang tên ông, “dao Bowie”. Tuy chiều dài lưỡi dao có thể từ 13 phân đến 60 phân, đặc điểm của dao này là sống dày, rất bén, có hình dáng hơi giống đao dùng trong võ thuật Trung Hoa nhưng lưỡi thẳng. Ngày nay, loại dao Bowie vẫn còn là loại dao thường thấy nhất trong dao dã ngoại.
 
(16) Bầy Sói (wolfpack): chiến thuật sử dụng tàu ngầm do đô đốc Karl Donitz của Quốc Xã Đức đề xuất trong đệ nhị Thế Chiến, tiếng Đức là Rudeltaktik. Trước kia, tàu ngầm được sử dụng riêng lẻ. Nhận thấy từng chiếc tàu ngầm bị lần lượt phát hiện và đánh chìm, đô đốc Donitz đề xuất cho cả toán tàu ngầm (có khi cả mấy chục chiếc) bao vây và tấn công các đoàn tàu tiếp tế qua lại từ nước Anh qua Mỹ, và gọi nó là chiến thuật Bầy Sói. Chiến thuật này cực kỳ hữu hiệu làm phân tán lực lượng phòng vệ cho đoàn tàu quân đồng minh.
 
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:04:27
0
Chương 2
 
Quảng Trường Barkhor, Thành phố Lhasa, Tây Tạng
Thứ Tư, ngày 19 tháng 11, 15:34, giờ địa phương
 
Chiếc trực thăng bay đến thấp và nhanh, chỉ cách các mái nhà vàng kim, được trang trí tỉ mỉ của chùa Jokhang 4-5 mét. Bay gần kiến trúc cổ 1300 năm này như thế đã vi phạm cả chục điều luật và sắc lệnh một cách trắng trợn. Bất cứ chiếc máy bay nào khác mà dám bay như vậy đã bị cưỡng ép đáp xuống, hoặc đã bị bắn rơi bởi không quân hay bộ binh rồi. Hôm nay, mọi điều luật hay sắc lệnh gì cũng miễn hết. Miễn áp dụng cho chiếc trực thăng này.
 
Đó là một chiếc HC-120 Colibri có vẻ tầm thường, phòng hành khách tròn trịa rõ ràng phong cách Âu châu, nhưng màu sơn và huy hiệu thì rõ ràng là Trung quốc. Tuy nhiên mọi sĩ quan công an hay quân đội đều biết ai đang ngồi trên ghế hành khách của chiếc trực thăng này và không một người nào điên khùng đến nổi muốn chất vấn cái gì.
 
Viên phi công đã được lệnh phải đáp càng nhanh càng tốt và sử dụng đoạn đường ngắn nhất. Gã đang thành thật chấp hành chỉ thị này. Gã áp xuống gắt, gần như phớt qua đỉnh bia đá cao dựng ở cổng chùa.
 
Bia đá bên trên hình tròn, cũng gần cổ xưa bằng chính ngôi chùa. Nó được vua Relpachen cho dựng lên vào năm 822, để kỷ niệm hòa ước Trung-Tạng đã cam kết rằng Trung Hoa và Tây Tạng sẽ vĩnh viễn tôn trọng biên giới giữa hai nước. Mặc cho bao thế kỷ mưa, gió và tuyết bào mòn, những dòng chữ khắc trên mặt đá xám vẫn còn đọc được. Bản tuyên dương của Trung Hoa về quyền tự chủ của Tây Tạng vẫn còn rõ rành rành cho cả thế giới đọc được. Mĩa mai thay, lực lượng chiếm đóng của Trung quốc không chú ý gì tới. Tuy vậy, dân bản địa Tây Tạng thì sẽ không dễ quên như vậy.
 
Một bãi đáp đã được dọn sạch sẽ giữa quảng trường Barkhor. Đám đông khách du lịch, hành hương và người bán hàng thường thấy ở đây đã bị đẩy dạt ra bên rìa quảng trường. Họ chỉ có thể nhìn từ xa sau những rào gỗ, có hàng trăm binh sĩ Trung quốc kiểm soát với vẻ khắc nghiệt.
 
Nơi trung tâm khu trống tạm thời này, chiếc trực thăng hạ xuống vài mét cuối cùng, lắc lư trong một ngọn gió thổi tạt qua, rồi đáp xuống mặt sân lót đá. Động cơ chỉ mới chạy chậm lại thì một chiếc xe quân dụng màu xanh đã trờ tới bên cạnh. Một viên thiếu tá bộ binh nhảy xuống xe, khom người tránh cánh quạt còn đang quay và nhỏ bước chạy đến cửa bên phía hành khách của chiếc trực thăng.
 
Chiếc xe này là một chiếc Dongfeng EQ2050, hầu như sao y nguyên bổn của chiếc xe Mỹ Humvee. Chính thức được gọi là một sản phẩm được Trung quốc hoàn toàn thiết kế và sản xuất từ các bộ phận chế tạo tại Trung quốc. Trên thực tế, khoảng phân nửa số bộ phận được nhập từ hãng Mỹ AM General, ở thành phố South Bend, tiểu bang Indiana – hãng chế tạo chiếc Humvee gốc. Chi tiết này được mọi người lãng quên để tránh gánh lấy sự không vui của đảng.
 
Cửa trực thăng mở ra và viên thiếu tá đứng nghiêm.
 
Người đàn ông bước ra trong cơn lốc do cánh quạt trực thăng không có vẽ lợi hại đặc biệt nào. Lão vào khoảng 65 tuổi, gầy mà khỏe mạnh; mái tóc đen nhánh và da mặt trơn láng như rút bớt nhiều năm tuổi. Bộ com-lê sậm màu và chiếc sơ-mi trắng ủi thẳng được cắt may khéo léo, nhưng hàng vải không phải thuộc hạng đắt tiền lắm. Lão chỉ có một điểm trưng diện là chiếc cà-vạt bằng lụa đỏ thắm. Trông lão như một thương gia giàu có vừa phải, mặc một bộ com-lê khá thông thường.
 
Gió lốc từ cánh quạt thổi tung tóc lão. Lão không buồn để ý tới, chỉ bước nhanh đến chiếc xe. Lão cũng không cúi đầu khi đi dưới cánh quạt. Lão đi với dáng thẳng tắp. Có lẽ lão tự tin rằng không có một cái gì trong quân đội Trung quốc dám tổn thương cái đầu của lão. Hay là, tâm trí lão đang đặt ở nơi xa xôi và lão không để ý đến nguy hiểm của cánh quạt trực thăng.
 
Lão tên là Lu Shi và là đệ nhất phó Chủ Tịch của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Trên nguyên tắc, điều này cho thấy rằng lão là người hùng mạnh thứ hai trong chính phủ Trung quốc, chỉ dưới Chủ Tịch Xiao Qishan mà thôi. Trên thực tế, vai trò thuộc hạ cho Chủ Tịch Xiao của lão Lu chẳng qua chỉ là một tấm bình phong trang nhã mà thôi.
 
Chủ Tịch Xiao đã không còn trẻ nữa rồi và sức khỏe của lão cứ suy thoái dần sau lần đau tim sau cùng kia. Con mãnh long già này đã đạt được địa vị Chủ Tịch của lão và các tôn vinh của cái địa vị đó. Lão Lu vui lòng để lão Xiao tiếp tục mang cái chức vị ấy trong những tuần hay tháng còn lại. Tuy nhiên không một ai trong cao tầng của đảng có chút hoài nghi nào rằng ai mới là người nắm quyền trên đất nước này.
 
Mà cho dù có ai hoài nghi chăng nữa, lão Lu là Chủ tịch Ủy Ban Trung Ương Quân Sự. Trên thực tế, chức vị này làm lão trở thành Tổng Tư Lệnh của toàn bộ quân đội Trung quốc. Khi mọi bình phong được gở xuống, lão Lu Shi không đứng dưới bất cứ ai cả.
 
Hơi thụt phía sau Phó Chủ Tịch Lu là hai gã đàn ông vạm vỡ, mặc com-lê xanh dương đậm y như nhau. Mặt họ không có biểu tình gì, mắt đảo qua đám đông và nhóm quân đội với cùng vẻ ngờ vực như nhau. Đây là hai viên hộ vệ của lão Lu.
 
Lu Shi chui vào khoang xe sau, hai viên hộ vệ theo sau, rồi viên sĩ quan cũng vào xe. Đám đông chung quanh chu vi rào gỗ tò mò nhìn, nhiều người thắc mắc không hiểu người thương gia đầy quyền thế bay trực thăng đến là ai. Lão già này là ai mà có thể chấn nhiếp quân đội và công an như thế? Đối với phần đông những kẻ đang nhìn, thắc mắc của họ sẽ không bao giờ có đáp án.
 
Bọn lính dời một số rào gỗ đi, trông chừng đoàn xe cho đến khi chúng đã rời khỏi quảng trường và biến mất trong dòng xe cộ trong thành phố Lhasa.
 
Cánh quạt của chiếc trực thăng lại tăng tốc. Hai-ba phút sau, nó bốc lên bầu trời. Sau khi nó bay mất dạng, bọn lính bắt đầu thu gom lại các rào gỗ. Lại thêm vài phút nữa, bọn lính cũng bỏ đi mất và dân chúng lại ùa vào quảng trường. Ngoài trừ những lời bàn tán tò mò của đám đông, chẳng còn dấu vết gì của sự việc bất thường đã diễn ra.
 
*****
 
Qua cửa sổ xe, Lu Shi nhìn đường phố Lhasa một cách xa vắng. Các màu sắc và hình ảnh chạy thoáng qua tầm nhìn của lão mà không để lại một cảm nhận nào trong tâm trí lão. Mắt lão không có tiêu cự, mà tư duy của lão cũng vậy.
 
Với một người có trí thông minh gần như trong thần thoại, sự nhạy bén yếu ớt như thế gần như chưa từng nghe qua. Lần đầu tiên trong đời, Lu Shi không cách nào cưỡng ép mình suy nghĩ được. Mà hơn nữa, lão cũng không muốn suy nghĩ.
 
Một trong các bánh xe to quân dụng lọt vào một ổ gà. Dàn nhún cứng rắn của chiếc xe không giảm xóc được bao nhiêu, làm cho cú xóc nảy truyền qua ghế hành khách thẳng vào cột sống của từng người. Đoạn đường không bằng phẳng chút nào; mà ghế xe thì lại không êm ái như loại xe sang trọng mà Lu Shi thường sử dụng. Nhưng lão không để ý.
 
Các ngón tay lão lơ đảng đùa nghịch chiếc cà-vạt bằng lụa đỏ. Đó là một món quà từ nhiều năm trước do Lu Jianguo tặng lão. Vừa nghĩ đến tên con trai làm tay lão run lên.
 
Những hình ảnh xông vào óc lão ngoài ý muốn. Những bức hình chụp các toa xe cháy đen và cong queo… Những đoạn phim quay lại hiện trường… Những lọn khói còn bốc lên từ những toa xe chở khách cháy rụi. Binh sĩ và nhân viên cấp cứu đang khiêng những băng-ca chở thi thể của những người chết và bị thương.
 
Lu Shi nhắm nghiền mắt lại để hi vọng chặn lại những hình ảnh máu me và thịt nát.
 
Không một bức hình nào hay đoạn phim nào mà lão đã xem chứa mặt mày của Lu Jianguo cả. Lão thầm tạ ơn trời là lão không phải nhìn hình ảnh thân thể tàn hủy của nhi tử lão. Tuy nhiên Lu Jianguo quả thật đã ở nơi ấy, trong số những người chết và bị thương, không được nhóm cấp cứu xuất hiện đầu tiên tại hiện trường nhận ra. Khi ấy, đối với đám lính và nhân viên y tế, gã chỉ là một người bị thương khác, một nạn nhân khác trong vụ thảm họa ấy mà thôi.
 
Ở một nơi sâu xa trong tâm trí của Lu Shi, bên dưới tầng ý thức, những sự sợ hãi, phẫn nộ và đau đớn đang vờn quanh như những con cá mập hung ác. Nhưng hiện tại, mọi xúc động của lão cũng bị tê liệt như khả năng suy luận của lão vậy.
 
Các ngón tay của lão cứ kéo thẳng cà-vạt, thắt chặt gút lại, vuốt thẳng vải lụa, rồi lại nới lỏng nó ra một chút, rồi lại bắt đầu mọi thao tác lại từ đầu.
 
Một lúc lâu sau, một bàn tay chạm vào vai lão. “Thưa đồng chí Phó Chủ Tịch, chúng ta đã đến nơi rồi.”
 
Lu Shi ngước lên, cố gắng trấn tỉnh lại. Chiếc xe đang ngừng trước cửa một tòa nhà quét vôi trắng có cửa kính hình vòm. Lão liếc nhìn tấm biển để xác nhận rằng đây quả thật là bệnh viện nhân dân Tây Tạng, rồi đảo mắt đi. Các ngón tay lại tìm đến chiếc cà-vạt lụa đỏ.
 
Cửa xe sau mở ra và Lu Shi theo gã thiếu tá ra khỏi xe, vượt qua một lề đường ngắn, đi qua cửa kính đôi đến tiền sảnh.
 
Một nhóm nhân viên bệnh viện mặc y phục trắng cung kính cúi đầu và tiến đến đón lão. Có lẽ có vài người là bác sĩ hay giám đốc của bệnh viện, nhưng hai tên cận vệ của Lu Shi không để ý. Chúng tiến lên tạo thành một bức rào giữa lão Phó Chủ Tịch và những người kia.
 
Hai gã cận vệ không nói một lời, nhưng vẻ mặt và tư thế của chúng cho thấy rõ ràng nếu bất cứ kẻ nào dám vượt qua một chu vi vô hình nào đó quanh người được chúng bảo vệ, chúng sẽ không ngần ngừ hạ sát thủ.
 
Gã thiếu tá ngẫu nhiên chỉ một người mặc y phục trắng. “Ông này! Đưa chúng ta lên phòng đi!”
 
Người đàn ông kia vội vã gật đầu, miệng lắp bắp không rõ ràng.
 
Lu Shi, hai tên cận vệ và viên thiếu tá đi theo người đàn ông vào hành lang và vào thang máy. Sau khi đi lên ba tầng, gã đàn ông đưa họ ra khỏi thang máy, vòng qua một bàn làm việc tròn của y tá đến cửa một căn phòng. Gã mở cửa phòng và nép qua bên nhường lối cho lão Phó Chủ Tịch và đám thủ hạ.
 
Lu Shi đứng yên trước cửa phòng. Lão đang ở ngưỡng cửa, trên nghĩa đen cũng như nghĩa bóng. Chính là nơi này. Lão đã đến nơi mà tiềm thức của lão cứ cố gắng trì hoãn hay hoàn toàn chối bỏ.
 
Các giác quan của lão đã bị sự mệt mỏi mài mòn, nay bắt đầu ngo ngoe. Khung cửa, các vách tường và cả người lạ mặc y phục trắng từ từ hiện lên rõ nét hơn. Lúc trước, thính giác của lão đã lọc đi phần lớn các tiếng động chung quanh, nay bắt đầu trở về. Lão bắt đầu nghe được những mẫu đối thoại xì-xào nơi xa, những tiếng máy điện âm ỉ và – lão thật không muốn nghe cái này – âm thanh xì-xì của máy hô hấp.
 
Cái âm thanh này vừa ghê tởm, lại vừa như thôi miên người ta. Tiếng rít ở tần số cao khi máy cưỡng ép hít vào, rồi tiếng róc-rách khi máy hút hơi ra, rồi lại tiếng rít ép hít vào của chu kỳ kế tới. Cái khái niệm một cái máy bơm hơi vào phổi người ta rồi lại hút ra, có vẻ tục tỉu làm sao ấy.
 
Lu Shi rùng mình một cách vô ý thức, rồi chợt nhận ra là khứu giác của lão cũng đã trở về. Cũng với những hình ảnh và âm thanh tràn về, một dòng thác mùi vị ào xuống. Mùi cồn sát trùng cay mũi. Mùi máu tanh chất đồng. Mùi thối của con người đau đớn.
 
Sự tê tái bắt đầu rút đi, nhưng lão chưa sẳn sàng để nó biến mất. Lão chưa chuẩn bị xong để suy nghĩ, cảm nhận và chắc chắn là lão chưa sẳn sàng bước qua khung cửa ấy. Lão chợt ý thức được các ngón tay đang nghịch với chiếc cà-vạt và lão thả tay xuống.
 
Không ai nói một tiếng nào.
 
Hai tên cận vệ đứng bên cạnh lão như đôi sư tử bên cổng chùa, sẳn sàng phản ứng trong nháy mắt hay chờ đợi ngàn năm, bao giờ cũng trên ranh giới hành động sấm sét.
 
Viên thiếu tá cũng chờ đợi. Gã là một loại chiến sĩ khác. Thân thể và tư duy của gã không được huấn luyện để hành động trong nháy mắt. Là một binh sĩ, gã sẳn sàng chiến đấu hay hi sinh khi đến lúc hay đến nơi mà gã cần phải chiến đấu hay chết. Nhưng hiện tại không phải là lúc ấy và nơi này không phải là nơi đó. Hiện tại, nhiệm vụ của gã là chờ thượng cấp làm hành động kế tiếp, hay phát ra mệnh lệnh kế tiếp.
 
Người đàn ông mặc y phục trắng cũng đứng yên, không nói năng gì. Gã không có cái kỷ luật kinh người của hai tên cận vệ hay của tên thiếu tá. Nhưng gã không phải là một người ngu. Gã sẽ đứng đó, giữ cánh cửa mở rộng. Gã sẽ không nói một lời; gã sẽ không nhúc nhích; mà chắc chắn là gã sẽ không để cho cánh cửa xập vào mũi vị Phó Chủ Tịch của nước CHNDTH.
 
Cảm giác mất phương hướng tan biến một cách nhanh chóng, thay thế bằng một sự chờ đợi đầy lo sợ.
 
Lu Shi cũng đã phải tranh đấu để giành quyền thế hiện có, mà sự tranh đấu này cũng không phải là nhẹ nhàng gì. Lão không xa lạ gì đấu đá và nghịch cảnh. Lão không dễ gì sợ hãi, nhưng lão lo sợ cái mà lão sẽ gặp phải bên kia khung cửa.
 
Lão cố đè xuống sự nô nức muốn quay lưng và bỏ chạy. Lão thở ra thật chậm, trấn định lại tâm thần. Trước khi kịp đổi ý, lão bước nhanh tới, xuyên qua khung cửa.
 
Căn phòng này rõ ràng được thiết kế cho ba bệnh nhân, nhưng nay chỉ chứa một người thôi. Mấy cái giường kia có lẽ đã được nhét vào một phòng chứa đâu đó, để dành chỗ cho nhi tử của Phó Chủ Tịch Lu. Nhân viên bệnh viện đã hiểu rõ rằng đây là bệnh nhân quan trọng nhất mà bệnh viện được săn sóc, bây giờ và cả trong tương lai nữa.
 
Chiếc giường duy nhất được kê gần cửa sổ, chung quanh đầy những giá treo ống truyền máu, dụng cụ đo đạc và nhiều máy móc khó nhận diện khác. Tất cả những thứ này được gắn chồng chéo nhau bằng ống cao su, dây điện và những ống hơi trong suốt.
 
Trên giường, dưới một tấm ga xanh lục, có một dáng người. Trong khi tiến tới giường, Lu Shi tránh nhìn cái dáng người này. Lão chưa chuẩn bị sẳn sàng. Vẫn chưa. Lão tập trung chú ý vào những máy móc y khoa bí hiểm. Gần như mỗi chiếc máy này đều có một sợi dây hay một cái ống chạy ngoằn ngoèo trên mặt đất, rồi biến mất bên dưới tấm ga xanh lục. Bệnh nhân – Lu Shi vẫn chưa chịu nhìn nhận là cái thân thể im lìm kia là con trai lão – bị gắn đầy ống và dây điện như con chuột trong một cuộc thử nghiệm kinh tởm nào đó vậy.
 
Cuối cùng, Lu Shi cố tự ép mình nhìn suốt chiếc giường, ghi nhận mọi chi tiết. Lão thoáng dừng mắt lại khi nhìn đến chỗ đầu gối, hay đúng hơn là chỗ mà đáng lý phải có đầu gối. Chiếc ga nằm bẹp vào nệm giường. Không có một chỗ nhô lên hay hình dáng của đôi chân.
 
Lu Shi thoáng cảm thấy nghẹn. Lão đã nghe qua báo cáo về thương tích của con trai lão, nhưng nghe là một chuyện, nhìn thấy sự thật lại là chuyện khác hẳn.
 
Mắt lão tiếp tục tiến lên cao hơn, lướt qua hai khối nhô lên cho thấy lớp băng bó nơi đôi chân bị cưa. Khi lên đến phần thân, cánh tay trái được đặt bên trên tấm ga, được băng bó nhưng coi như toàn vẹn, ít ra là ở bề ngoài. Lớp băng bên tay phải thì dày hơn nhiều và giống như đôi chân, lớp băng ngưng lại bên trên cổ tay.
 
Lu Shi lại nhìn lên hơn nữa, vào khuôn mặt, nếu khối thịt bầy nhầy và sưng vù ấy có thể được gọi là mặt. Một cái đai dày giữ cái cổ cứng lại, làm cho cái đầu hơi ngửa ra sau, để một đám ống nhựa luồn vào lỗ mũi và miệng.
 
Mắt phải và lỗ tai phải được quấn băng, những phần có thể nhìn thấy của gương mặt sưng vù, bầm tím và ngang dọc những vết chỉ may. Con mắt trái mở to, nhìn lên trần phòng một cách mờ mịt.
 
Khi lão nhìn chăm chú vào con mắt ấy, Lu Shi cảm thấy một sự nhìn nhận mà lão rất khó chấp nhận. Bệnh nhân trong đúng lứa tuổi: khoảng từ 35 đến 40; nhưng Lu Shi lập tức quyết định rằng cho dù có cùng tuổi cũng không chứng minh điều gì. Lão không muốn nhận ra khuôn mặt này. Lão muốn rằng đó là khuôn mặt của một kẻ lạ; phải là kẻ lạ!
 
Một tia hi vọng vẫn lập lòe ở một nơi sâu xa trong tâm lão, chỉ một tia… Đây có thể không phải là Lu Jianguo mà. Có thể là một sự nhầm lẫn lý lịch kỳ lạ nào đó. Có lẽ người nào đó đã nhận lầm kẻ khốn khổ này là nhi tử của lão. Và có lẽ, ở đâu đó Lu Jianguo vẫn đang an toàn, toàn vẹn và sống khỏe.
 
Lu Shi chợt cảm thấy lệ nóng trên má. Cầu mong là thế. Ôi, cầu mong là thế… Cầu mong rằng con người tàn phế này là bất cứ ai khác hơn là Lu Jianguo.
 
Nhưng rồi niềm hi vọng cuối cùng của lão tắt lịm. Lão cảm thấy cái tia hi vọng nhỏ xíu ấy bị bóng tối chôn vùi. Gương mặt của người đàn ông nằm trên giường đã bị tàn phá và méo mó, nhưng không phải là gương mặt của một người lạ. Những sự từ chối cuối cùng bị giật ra khỏi lão như bởi một cơn gió lốc. Cái vật này… Cái khối thịt người này… chính là Lu Jianguo rồi.
 
Tận nơi sâu thẳm trong lòng Lu Shi, một cái gì đó chợt đứt gãy, một cái gì không thể định nghĩa được và vô cùng dễ vỡ. Lão không biết gọi nó là gì và lão cũng không biết nó là gì. Nhưng lão biết ngay lão đã mất nó và lão không chút hoài nghi là không thể nào gắn liền nó lại được nữa. Mọi thứ đã không còn như xưa.
 
Lão nhìn xuống con vật đã từng là nhi tử của lão. Lụa đỏ của chiếc cà-vạt thật mềm mại trong các ngón tay chới với của lão.
 
Khi còn nhỏ, Lu Jianguo đã tặng cho phụ thân của gã thật nhiều món quà của trẻ nít… những cái gạt tàn thuốc lá tự tay hắn làm… những món đồ trưng bày làm bằng giấy đủ màu… những khung ảnh đính vỏ xò… Biết bao vật vô giá mà trẻ con làm cho cha mẹ chúng. Nhưng chiếc cà-vạt thì lại khác, chẳng những vì nó đắt tiền mà còn vì sự cẩn thận hắn bỏ ra khi lựa chọn nó cho lão. Nó là lần đầu tiên Lu Jianguo cố gắng tìm hiểu ý thích và sự mong mỏi của phụ thân. Nó là hành vi nam nhân đầu tiên của đứa bé trai. Khi ấy, Lu Jianguo mới có chín tuổi.
 
Khi ấy, Lu Shi biết rằng lão đã chọn đúng tên cho con rồi. Jianguo (Kiến Quốc) có nghĩa là ‘xây dựng quốc gia’. Nhìn vào đôi mắt của nhi tử, Lu Shi đã thấy mình khôn khéo làm sao khi chọn cái tên ấy vì Lu Jianguo thật sự sẽ xây dựng đất nước. Và khi ấy, Lu Shi đã không hề hoài nghi là lão đang đứng trước vị lãnh tụ tương lai của Trung quốc.
 
Lu Shi nháy mắt và ký ức của cái ngày xa xưa ấy tan biến. Ngày ấy, lão đã tin chắc rằng lão đã biết được tương lai của Trung quốc… tương lai của nhi tử.
 
Giờ đây, nhìn vào cái thân hình được đắp tấm ga xanh của Lu Jianguo, Lu Shi không còn biết cái gì là chắc chắn nữa. Sau suốt đời người hoạch định và chuẩn bị cho tương lai, Lu Shi chợt khám phá ra là không có tương lai gì cả. Chỉ có những giấc mơ và kế hoạch có thể sụp đổ mà không có một tiếng báo động nào. Tương lai đã bị cướp mất từ trong tay của Lu Shi, của Lu Jianguo và của Trung quốc nữa. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Lu Shi không màng đến ngày mai.
 
Lão chợt nhận ra rằng đôi mắt lão đã trở về chỗ tấm ga phẳng phiu trên giường, phủ nơi chân cụt của con trai lão. “Chúng đâu rồi?” Lão thản nhiên hỏi.
 
Người đàn ông mặc y phục trắng nhìn theo ánh mắt của Lu Shi. Gã lo lắng tằng hắng. “Đôi chân của ông ấy, phải không ạ? Thưa đồng chí Phó Chủ Tịch, tôi… tôi thật sự không rõ. Một cái đã bị đứt trước khi ông ấy được đưa đến đây. Còn cái kia…”
 
Lu Shi trừng mắt nhìn người đàn ông làm gã câm nín. “Không phải chân con tôi!” Lão rít lên. Lão quay sang viên thiếu tá.
 
Gã này cứng người lại. “Vâng, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch?”
 
“Những kẽ đã làm ra việc này đâu?” Lu Shi hỏi. “Những tên tội phạm…” Lão chợt dừng, rồi lại nói tiếp gần như thì thào. “Những tên khủng bố… đã làm ra việc này… Chúng đâu rồi?”
 
Viên thiếu tá nuốt ực nước miếng rồi mới đáp. “Chúng tôi… À… Chúng tôi nghĩ rằng chúng định vượt qua núi sang Ấn Độ. Với thời tiết hiện nay, có lẽ chúng sẽ đi qua sơn đạo Nathu La.”
 
“Thì ra là vậy.” Lu Shi nói nhẹ. “Như vậy là anh không biết chúng ở đâu?”
 
Viên thiếu tá lắc đầu. “Chưa biết, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Tướng quân Zhou đã cho người và máy bay càn quét mọi sơn đạo từ đây đến biên giới Ấn Độ. Tướng quân đã hạ lệnh tăng cường kiểm tra bằng vệ tinh ở mọi con đường chúng có khả năng dùng để đào tẩu nhất. Chúng ta sẽ tìm được bọn khủng bố, thưa đồng chí. Chúng không thể trốn tầm mắt chúng ta mãi đâu.”
 
Lu Shi chậm rãi gật đầu. “Còn tên tù thì sao? Tên khủng bố mà các anh đã bắt được ấy… Nó đã bị bẻ gãy chưa?”
 
“Chưa, thưa đồng chí.” Viên thiếu tá đáp. “Nhưng nó sẽ.”
 
Lu Shi đảo mắt trở lại chiếc giường. “Thông báo cho tướng quân Zhou là quân đội phải giao tên tù nhân cho bộ An Ninh Quốc Gia ngay lập tức.”
 
Viên thiếu tá nói với giọng thản nhiên, nhưng mặt nhăn nhó. “Thưa đồng chí Phó Chủ Tịch, cái đó không cần đâu. Tôi xin cam đoan là các chuyên viên thẩm tra của chúng tôi sẽ lấy được tin tức chúng ta cần.”
 
Lu Shi không thèm nhìn gã. “Tôi không đề nghị với anh đâu, thiếu tá. Tôi trực tiếp hạ lệnh cho anh. Không phải tôi muốn sẽ sớm được biết tin tức ấy. Mà tôi muốn nó ngay bây giờ. Anh hiểu chưa?”
 
Viên thiếu tá đứng nghiêm và đưa tay chào theo quân lễ. “Dạ, thưa đồng chí!”
 
Gã quay ngoắc đi và bước nhanh ra khỏi phòng.
 
Sau khi gã đi khỏi, Lu Shi đứng yên lặng nhiều phút. Âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng rít và róc-rách của máy hô hấp. Cuối cùng, lão ngẩng đầu lên và nhìn vào mắt người đàn ông mặc đồ trắng. “Tháo máy đi.”
 
Mặt gã kia như trướng lên vì hoảng sợ. “Đồng chí Phó Chủ Tịch, chúng ta không thể làm thế! Những máy móc này tối cần thiết để duy trì sự sống. Nếu chúng ta tắt chúng đi, con trai đồng chí sẽ chết đó!”
 
Lu Shi quay nhìn lại chiếc giường. “Có bao giờ hắn sẽ không cần đến các máy móc này nữa không? Hắn có thể hồi phục để rời khỏi cái giường này không?”
 
Người đàn ông co rụt lại khi nghe giọng nói nghiêm khắc của Lu Shi. “Cái đó… Cái đó có lẽ không thể nào, thưa đồng chí. Con đồng chí đã bị thương rất nặng trong óc rồi.” Gã nuốt nước miếng. “Tôi… Tôi không nghĩ rằng ông ấy sẽ hoàn toàn không cần đến máy hỗ trợ.”
 
Giọng nói của Lu Shi thật trầm thấp và lạnh lùng. “Như vậy thì con trai tôi đã chết rồi. Tháo máy đi.”
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:07:46
0
Chương 3
Nhà tù Qushui
Khu Tây Nam thành phố Lhasa, Tây Tạng
Thứ Tư, ngày 19 tháng 11, 19:34, giờ địa phương
 
Có âm thanh gì đó bên kia cánh cửa. Trong căn phòng tối lù mù, Sonam đang bị trói vào một cái ghế tỉnh dậy ngay tức khắc.
 
Gã đang trôi dạt trong cái trạng thái lạ lùng giữa ý thức và vô thức. Nỗi đau đớn vẫn liên tục và thôi thúc làm gã không thể nào ngủ được; nhưng gã có thể cảm thấy dễ chịu hơn khi để mình chìm vào một sự mơ màng.
 
Mặt và phần trên thân thể của gã đau nhừ vì những pha đánh đập liên tiếp và những phát chấn động bởi roi điện. Ít nhất có hai thanh xương sườn của gã đã gãy và mỗi lần hô hấp lại đem đến nỗi đau xé thịt. Lỗ đạn nơi đùi trái đau nhói theo nhịp tim của gã. Bọn khốn kiếp này đã băng bó chân trái của gã rất tốt; gã phải nhìn nhận điều này. Viên đạn đã được gắp ra; vết thương được khâu lại gọn gàng và chúng thay băng sạch đều đặn. Dĩ nhiên, chúng làm thế không vì nhân đạo. Quân đội Trung quốc đâu có màng gì tới sức khỏe của gã? Chúng chỉ muốn gã tiếp tục sống tốt để chúng có thể thẩm tra thôi.
 
Nhóm người thẩm tra Sonam đã tránh đụng đến vết thương của Sonam. Chúng chỉ tập trung vào phần thân thể phía trên của gã thôi. Điều này vẫn còn chừa cho chúng khối nơi để hành động và chúng đã hành động một cách cực kỳ thô bạo.
 
Âm thanh lại vang lên và lần này, Sonam đã nhận ra nó: tiếng đế giày lê trên nền xi-măng. Ngay tiếp theo là tiếng chìa khóa được tra vào ổ, rồi chốt cửa được mở ra ken-két. Bọn lính lại đến nữa rồi.
 
Sonam chợt cảm thấy hốt hoảng, cùng với một cơn buồn tiểu hay buồn ói, hay cả hai. Gã cố gắng ép mình hít thở chậm lại.
 
Gã có thể chịu được. Gã sẽ vượt qua một đợt đánh đập nữa. Gã sẽ sống sót qua một bửa roi điện nữa. Gã sẽ nghiến chặt hàm răng và dùng ý chí để vượt qua. Gã tự nhủ hết lần này qua lần kia rằng gã sẽ không trả lời các câu hỏi của chúng. Gã sẽ không bao giờ phản bội dân tộc mình, mặc cho bọn súc vật Trung quốc này làm gì gã.
 
Nếu bọn thẩm tra tiến đến quá gần, gã sẻ nhổ vào mặt chúng. Nếu gã may mắn, chúng sẽ điên tiết lên và đánh gã bất tỉnh luôn.
 
Cánh cửa mở ra và, sau không biết bao lâu trong bóng tối mờ, chỉ một chút ánh đèn mờ từ ngoài hành lang cũng đủ làm Sonam ứa nước mắt và chớp mắt liên hồi. Phải mất vài giây gã mới nhận ra rằng lần này không phải lại đối diện với bọn lính. Lần này khác hẳn.
 
Người đàn ông đứng nơi khung cửa có dáng nhỏ bé và sạch sẽ. Hắn cũng là người Trung như bọn lính, nhưng chỉ giống nhau chừng đó thôi. Hắn mặc thường phục và không có cái dáng kiệt ngạo của bọn lính. Nhìn hắn không có gì là thô bạo cả. Nhìn hắn như một tên thơ ký văn phòng, hay một viên chức cấp thấp. Mắt hắn không có sự sống, như mắt của một con búp bê vậy. Ngũ quan của hắn thật bình thường và thái độ có vẽ hờ hững.
 
Nheo mắt nhìn người đàn ông thấp nhỏ tầm thường này, Sonam tự hỏi phải chăng hắn đi nhầm phòng.
 
Gã còn đang thắc mắc thì một người đàn ông khác tiến vào phòng, tay cầm một túi nhựa đen có khóa kéo và một cái bàn xếp nhỏ bằng gỗ. Cũng như tên thơ ký văn phòng, người này mặc thường phục. Y nhanh chóng dựng cái bàn, đặt túi nhựa lên mặt bàn, rồi rời căn phòng, đóng cánh cửa lại.
 
Tên thơ ký không nhìn đến cái túi, nhưng Sonam cảm thấy mắt của chính mình dán chặt vào nó. Mặt nhựa trầy sướt và đường may chung quanh sờn cũ đổi sang màu xám. Gã chợt hiểu rằng người đàn ông thấp nhỏ có vẽ mặt dửng dưng này không phải là một tên thơ ký gì cả, và gã cũng chợt nhận ra là gã không muốn biết chiếc túi đựng những gì bên trong.
 
Người đàn ông thấp nhỏ nói thẳng. “Tôi sẽ hỏi anh vài câu.”
 
Giọng nói của hắn thấp và đều đều. Hắn nói tiếng Tạng hợp cách, không như biết bao người Trung khác. Không như âm Tạng của Sonam bị ảnh hưởng của tiếng Ấn vùng Dharamsala, người đàn ông này nói tiếng Tạng không có tạp âm nào cả.
 
Sonam im lặng nhìn hắn.
 
“Anh sẽ trả lời các câu hỏi của tôi.” Người đàn ông thấp nhỏ nói. “Anh phải hiểu rằng không phải tôi khoe đâu, cũng không phải lời tiên đoán gì. Đây chỉ là sự thật thôi. Anh sẽ trả lời các câu tôi hỏi.”
 
Sonam vẫn không nói gì cả.
 
Người đàn ông đi đến chiếc bàn xếp và kéo dây khóa mở bao ra. Hắn ngước nhìn Sonam, vẽ mặt vẫn hờ hững. “Anh có thể lựa chọn ngay bây giờ, một cách dễ chịu, hay sáu tiếng sau, khi mà anh không còn ngón tay, hòn d**, con mắt nào nữa và khi mà cổ họng anh đã rách toang vì gào rống.”
 
Sonam biết ngay rằng đây không phải là đe dọa rỗng tuếch. Giọng nói của người đàn ông kia không có gì là tàn nhẫn, nhưng cũng không có một chút nhân từ nào.
 
Người đàn ông thò tay vào túi và lấy ra một cái kềm có cán dài và cái đầu vuông vức nặng nề.
 
“Tôi sẽ hỏi anh vài câu hỏi.” Hắn lại nói. Hắn mở rồi đóng cái kềm vài lần, như thể đang thử xem cái kềm có hoạt động trơn tru hay không. “Lần đầu tiên mà anh không trả lời, tôi sẽ kẹp cái kềm này vào ngón trỏ phải của anh và tôi sẽ kẹp nó thành tương máu.”
 
Hắn nhìn thẳng vào mắt Sonam. “Anh hiểu chưa?”
 
Đầu của Sonam suýt tự động gật, nhưng gã chợt nhận ra và giữ cứng các bắp thịt cổ lại. Gã quyết không trả lời, dù chỉ bằng bất cứ một cử chỉ nào.
 
Người đàn ông thấp nhỏ tiến đến cạnh chiếc ghế. Sonam nhớ đến dự định sẽ nhổ vào mặt những kẻ tra tấn gã. Người đàn ông đến đúng tầm rồi, nhưng miệng của Sonam đã khô khốc. Gã không tìm đâu ra được một giọt nước miếng nào cả.
 
Gã rụt người lại khi người đàn ông chộp bàn tay phải của gã. Gã cố giật bàn tay đi, nhưng cổ tay và khuỷu tay gã đã bị cột cứng vào cánh tay ghế rồi.
 
Hai gọng kềm lạnh ngắt khép quanh ngón tay gã, ở khớp xương giữa lóng thứ hai và ba. Gã cảm thấy hơi khó chịu khi mặt răng nghiến vào da, nhưng người đàn ông thấp nhỏ điều chỉnh vị trí của kềm và cảm giác khó chịu biến mất.
 
Sonam trố mắt nhìn người đàn ông hơi gồng người lên rồi bóp mạnh hai cán kềm. Đau đớn xé người Sonam, xuyên sâu vào thân gã như viên đạn trước kia của quân Trung quốc vậy. Xương ngón tay gã vở vụng trong tiếng răng rắc ghê người mà gã nghe và cảm nhận rõ ràng. Tầm nhìn của gã thu hẹp lại và đổ sụp xuống cho đến khi gã chỉ còn thấy một chấm đỏ chói như máu tươi.
 
Miệng gã đắng chát. Thế mà hai gọng kềm vẫn tiếp tục tiến đến nhau, nghiền vỡ xương, thịt, gân và da thành một đám bầy nhầy.
 
Hai gọng kềm đụng vào nhau. Chỗ ngón tay ấy của gã đã biến thành tương. Nhưng thanh kềm vẫn còn chưa dừng lại. Nó xoắn và kéo, hai gọng mở ra và đóng vào như miệng cá sấu đang tìm một tư thế để nuốt con mồi một cách gọn gàng hơn. Hai gọng kềm chạy lên chạy xuống từ vị trí đầu tiên, tìm tòi những phần ngón tay còn chưa dập nát, tìm đến những đầu xương gãy nham nhở để nghiền tất cả.
 
Ngón tay của Sonam, cái vật đã từng là ngón tay của gã, bây giờ đã trở thành trung tâm của cả vũ trụ. Nó che lấp tất cả. Không còn thứ gì khác tồn tại. Không còn sinh mạng. Không còn thế giới. Không còn tư duy. Chỉ còn hai gọng kềm tham lam và sự thống khổ vô bờ.
 
Phải cả phút sau gã mới ý thức ra rằng gã đang gào rống. Tiếng thét cao vút nghe giống như của thú vật hơn là con người. Lại phải tốn cả một, hai phút nữa gã mới cố ngừng tiếng hét được. Cuối cùng, khi gã đã ngừng lại, gã đã gục trên ghế, nức nở khóc.
 
Từ nơi xa xôi, xuyên qua cơn đau đớn, gã nghe tiếng nói của người đàn ông thấp nhỏ.
 
“Tôi thích biểu diển nho nhỏ như thế. Một màn nhỏ đủ để anh chú ý, nhưng cũng nhỏ đủ để anh có thể hồi phục nếu anh chịu hợp tác.”
 
Giọng nói của người đàn ông vẫn không có gì tàn nhẫn cả. Không một sự đe dọa nào, không có sự thích thú nào. Đây không phải là giọng nói của một người ngược đãi người khác vì sở thích. Đây là giọng nói của sự tự tin tuyệt đối và ý chí kiên định. Và Sonam hiểu rằng hắn sẽ tiếp tục công việc cho đến khi mục đích đã đạt được. Hắn sẽ không đánh đập nạn nhân đến bất tỉnh và hắn sẽ không phạm phải bất cứ một sai lầm ngu xuẩn nào. Hắn sẽ làm việc một cách hệ thống và tỉ mỉ, và hắn sẽ không ngưng nghỉ cho đến khi hắn lấy được tin tức mà hắn muốn. Công việc này sẽ chấm dứt ngay bây giờ khi mà thân thể của Sonam còn có hình người, hay sau vài giờ nữa khi thân thể của gã chỉ còn lại mãnh vụn và thống khổ.
 
“Chúng ta bắt đầu lại nhé.” Người đàn ông thấp nhỏ nói. “Tôi sẽ hỏi anh vài câu và anh sẽ trả lời. Anh hiểu chứ?”
 
Sonam gật đầu.
 
“Tốt lắm.” Người đàn ông nói. “Chỗ tôi biểu diễn kế tới là hòn d** bên trái của anh. Nếu anh nói dối hay nếu anh lại không chịu trả lời, tôi sẽ nghiền nát hòn d** của anh như ngón tay vậy. Anh hiểu chưa?”
 
Sonam lại gật đầu. “Tôi…” Tiếng gã khản đặc. “Tôi sẽ… nói hết… cho ông những gì ông muốn biết.”
 
“Phải.” Người đàn ông nói. “Tôi biết anh sẽ nói hết.”
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:11:34
0
Chương 4
Khu trục hạm USS Towers (DDG-103)
Quân Cảng Hoa Kỳ, tỉnh Yokosuka, Nhật Bản
Thứ Sáu, ngày 21 tháng 11, 13:21, giờ địa phương
 
Một tầng mây dày bao phủ hải cảng Yokosuka. Nhiệt độ ở khoảng 13 độ, nhưng gió từ vịnh Tokyo thổi tới làm người ta cảm thấy lạnh hơn. Mùa đông thật sự vẫn còn cách vài tuần lễ nữa và cái rét trong không khí chỉ dự báo trước thời tiết sắp tới thôi.
 
In dáng trên nền trời Nhật Bản âm u, chiếc tàu khu trục Mỹ nhìn trông góc cạnh một cách khác thường. Lớp sơn quang hợp ngụy trang của chiếc tàu đã chuyển sang màu đá xám đậm, rất tiệp với màu sóng biển đang vỗ lên mạn thép của nó.
 
Trung tá Silva đứng nơi đuôi tàu và đang tưởng tượng chiếc tàu sẽ trông ra sao trong hai tuần lễ nữa, khi những tấm thảm đỏ được trải xuống và những trang trí ca ngợi đất nước được treo lên. Các dây an toàn bên mạn tàu sẽ được treo băng đỏ, trắng và xanh dương. Lá cờ Hoa Kỳ đang tung bay trên cột cờ sẽ được thay thế bằng lá cờ “lễ hội” to lớn được dành riêng cho các ngày Chủ Nhật và các dịp đặc biệt khác.
 
Những trang trí và cờ lễ hội đó tượng trưng cho truyền thống hằng mấy trăm năm của hải quân. Chiếc USS Towers sẽ diễn ra buổi lễ bàn giao, chuyển quyền điều hành con tàu từ hạm trưởng này qua hạm trưởng kế tới.
 
Buổi lễ này, chỉ cách 14 ngày nữa, là đỉnh điểm của tất cả sự cố gắng của Silva. Sau nghi lễ Hải quân long trọng, nàng sẽ tiến lên bục và tuyên bố đảm nhiệm quyền chỉ huy của chiến hạm này. Sau khi trao đổi những nghi thức và quân lễ ngắn gọn, chức vị của nàng sẽ chuyển từ Trung Tá sang Hạm Trưởng. Nàng sẽ trở thành sĩ quan chỉ huy của một trong những chiến hạm tiên tiến nhất mà loài người chế tạo.
 
Và cũng cùng lúc ấy, Đại Tá Bowie sẽ từ bỏ quyền chỉ huy của chiến hạm. Khi quân lễ của hai người chấm dứt, một thời đại sẽ chấm dứt và một thời đại khác sẽ bắt đầu. Bowie sẽ chào từ giả các nhân viên nam và nữ đã phục vụ dưới quyền hắn.
 
Một số trong thủy thủ đoàn là người mới trên chiếc Towers, mới nhận được lệnh phục vụ trên chiến hạm này cách đây không lâu, cũng như chính Silva vậy. Nhưng nhiều người khác đã có mặt trong chuyến ra biển trước đây với Bowie khi mà chiếc khu trục hạm đã phải chạm trán với một chiếc tàu ngầm tà nghịch bên dưới biển băng Nga. Một vài người còn từng phục vụ với Bowie trong lần ra khơi trước đó nữa, khi mà chiếc Towers truy sát một nhóm tàu ngầm loại xung kích hoạt động theo kiểu ‘bầy sói’ (16) từ bên này qua bên kia vịnh Ba Tư. (Chú thích của dịch giả: tác giả có viết hai tác phẩm trước về khu trục hạm USS Towers)
 
Họ đã chiến đấu và đổ máu cho Bowie. Một số trong thủy thủ đoàn còn đã bỏ mạng cho hắn. Để đáp lại, Bowie đã mang lại cho họ chiến thắng. Mà quan trọng hơn nữa, hắn đã cho họ cơ hội cứu mạng hàng triệu người đồng hương. Hắn đã khiến cho mỗi thành viên của thủy thủ đoàn, từ gã thủy thủ thấp nhất cho đến sĩ quan cao nhất, cảm thấy mình là một chiến sĩ. Và bây giờ, hắn rời đi.
 
Trong mấy ngày qua, Silva đã thấy biểu cảm trên các gương mặt của thủy thủ đoàn khi sự ra đi của hạm trưởng của họ đã dần dần thành sự thật. Chiếc tàu dĩ nhiên sẽ có một hạm trưởng mới. Silva sẽ là vị hạm trưởng ấy. Nhưng hạm trưởng của họ sẽ đi mất và Katherine Silva sẽ chỉ gắng gượng ngồi vào vị trí của vị hạm trưởng đã biến họ thành những anh hùng mà thôi.
 
Một giọt mưa rơi xuống má của Silva và lăn xuống như một giọt lệ. Tiếp đó là hàng trăm hàng ngàn giọt mưa khác vùi dập bến cảng.
 
Silva chạy vào cánh cửa kín nước gần đấy nhất và ngước nhìn trời một lần cuối trước khi đóng sập cửa lại. Mây xám xịt đã sậm hơn và đầy đe dọa.
 
Nàng cầu Thượng Đế rằng đó không phải là một điềm xấu.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:14:06
0
Chương 5
Khu kiến trúc thuộc bộ Quốc Phòng
Tòa nhà ‘Ngày Một Tháng Tám’
Bắc Kinh, Trung quốc
Thứ Sáu, 21 tháng 11, 19:53, giờ địa phương
 
Có tiếng gõ cửa nhẹ. Phó Chủ Tịch nhà nước Lu Shi không ngước mặt lên khỏi xấp văn kiện trên bàn làm việc.
 
Cũng không phải lão đang đọc các văn kiện đó. Đúng ra, mắt lão không hề tập trung vào các văn kiện ấy chút nào. Tâm trí lão vẫn còn đặt trong căn phòng bệnh viện ở Lhasa, mắt chăm chăm vào cái thân xác đáng thương đã từng là nhi tử của lão… nhìn thân thể của Lu Jianguo đang bị xâm phạm bởi những cái ống và dây điện từ những cái máy khốn nạn kia.
 
Tiếng gõ cửa lại vang lên, lần này hơi to hơn. Lu Shi cưỡng ép tâm trí mình trở về hiện tại. Lão chớp mắt nhiều lần, cố gắng định hướng lại nơi chiếc ghế lão đang ngồi, cái bàn làm việc, căn phòng. “Vào đi!”
 
Cánh cửa mở ra và thơ ký riêng của lão, Miao Yin, bước vào phòng. Nàng là một thiếu nữ xinh đẹp khoảng 25 tuổi, ngũ quan thanh tú được bao quanh bởi mái tóc ngắn cắt khéo léo theo kiểu đang thịnh hành trong hàng ngũ công nhân viên nữ. Ánh mắt to đen lánh của nàng chạm vào mắt Lu Shi và nàng khẽ cúi đầu. “Xin lỗi đã quấy rầy ngài, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Bộ trưởng Shen yêu cầu được gặp ngài. Ông ấy không có hẹn trước nhưng cam đoan với tôi là ông ấy cần được nói chuyện khẩn cấp với ngài.”
 
Lu Shi nhìn cô thơ ký một cách xa vắng. Không như phần đông quan viên cao cấp Trung quốc, lão không hề ngủ với nữ nhân viên dưới quyền nào, tuy rằng điều đó không ngăn được lão thưởng thức vẽ đáng yêu của Miao Yin. Thông thường, chỉ cần nhìn nàng cũng đủ làm lão cảm thấy nhẹ nhõm.
 
Tuy nhiên những ý tưởng như vậy đã bị cái bóng đen trong tim lão làm lu mờ hết rồi. Sự hiện hữu của Miao Yin chỉ hơi xuất hiện trong ý thức của lão thôi. Lão không để ý gì đến nhan sắc của nàng và đã quên mất khái niệm sắc đẹp là gì. Tâm trí lão cứ bị kéo trở về căn phòng bệnh viện ấy. Cái mùi thuốc tẩy trùng gay mũi ấy. Cái dáng hơi giống loài người bên dưới tấm ga xanh. Gương mặt của nhi tử, băng bó hết phân nửa, có một con mắt mơ hồ nhìn thẳng lên trần phòng.
 
“Đồng chí Phó Chủ Tịch?” Miao Yin nói khẽ, nhưng tiếng nói của nàng làm lão giật mình.
 
“Hả?”
 
Viên thơ ký lại hơi cúi người xuống. “Bộ trưởng Shen… Ông ấy đang chờ ở phòng ngoài.”
 
Lu Shi vuốt gò má và cảm thấy râu cứng cọ vào lòng bàn tay. Lão đã quên cạo râu rồi.
 
“Bộ trưởng Shen…” Lão nói. Lão tằng hắng và ngồi thẳng lên. “Ờ, phải rồi. Cho ông ấy vào đi.”
 
Miao Yin thụt lùi khỏi phòng và vài giây sau, bóng dáng nàng đã được thay thế bởi thân hình to lớn của Shen Tao, bộ trưởng Quốc Phòng.
 
Shen Tao thoáng dừng ở ngưỡng cửa để bày tỏ sự tôn kính, rồi nện bước vào phòng. Lúc mới nhìn, cái thân thể to như cái thùng của gã có thể bị lầm là mập béo, nhưng thật ra cái thân thể của gã Shen đầy cơ bắp. Gương mặt của gã cũng dễ tạo ra sự lầm lẫn như thế. Phía dưới ngũ quan và vẽ mặt yên lặng không bắt mắt là một bộ óc nhanh nhẹn.
 
Lu Shi phất tay về phía một chiếc ghế.
 
Gật đầu cám ơn, vị bộ trưởng Quốc Phòng kéo cái ghế về phía trước nửa mét, rồi đẩy nó qua phải vài phân, trước khi đặt mông xuống.
 
Đây là một hành động vô ý thức, Lu Shi tin chắc như thế. Cái này cũng là phương thức làm việc đặc thù của Shen. Gã nhận tất cả, từ sự mời mọc của chủ nhà cho đến mệnh lệnh, hay mọi thử thách, bằng cách thức riêng của gã. ‘Vâng, tôi sẽ nhận chiếc ghế mà ông mời, nhưng tôi sẽ xê dịch nó đến vị trí mà tôi thích.’
 
Vào ngày nào khác thì Lu Shi tán thưởng tính cách ấy. Hôm nay thì lão không có kiên nhẫn với cái loại tranh hơi này. Lão cũng không có kiên nhẫn nghe những câu xin lỗi khách sáo, hay những nghi thức xã giao mà Shen sắp tuông ra ào ạt. Lu Shi chặn đứng mọi sự khách sáo bằng cách mở miệng trước.
 
“Tôi được biết là tên khủng bố đã khuất phục rồi, phải không? Anh biết được những gì?”
 
Cái từ ‘tên khủng bố’ là từ Lu Shi dùng để chỉ tên sát nhân trẻ tuổi ngu ngốc đã bị tóm sau vụ phá hoại đoàn tàu Thanh-Tạng.
 
Shen gật đầu. “Đồng chí nói đúng. Đương sự bây giờ đã rất phối hợp với cuộc điều tra…”
 
Lu Shi cảm thấy sự phẫn nộ bốc lên. “Nó không phải là một đương sự. Nó là một thằng khủng bố, một kẻ giết người hàng loạt. Và nó không có phối hợp với cuộc điều tra gì cả. Các anh đã tra tấn nó và nó đã khuất phục. Rồi, bây giờ chúng ta có thể ít tốn thời giờ nói quanh co được chưa?”
 
Lão nhìn chằm chằm vào mắt của viên bộ trường Quốc Phòng và lặp lại. “Anh biết được những gì?”
 
Khá khen cho Shen; gã không nao núng hay dời mắt đi, nhưng giọng nói của gã đã không còn tự tin như trước. “Đương sự… Ơ… Tên khủng bố tên là Sonam Dawa. Nó là một thành viên của nhóm phản động Tạng tự gọi là Gingara, một từ dường như có thể dịch là ‘người đưa tin’. Nó thuộc một tổ ba người được chỉ huy bởi một người tên Jampa Dorjee, cũng là thành viên của Gingara. Còn người thứ ba…”
 
Lu Shi nôn nóng phất tay. “Được, được rồi. Người thứ ba là một lão dropka chăn cừu tên là Nima. Tôi đã biết những cái này từ mấy giờ trước rồi. Anh còn biết gì thêm nữa? Bọn khủng bố đi đâu mất rồi? Kế hoạch đào tẩu của chúng như thế nào? Chúng nó đang ở đâu?”
 
Shen chớp mắt. “Kế hoạch của bọn chúng là… À… trốn đi qua sơn đạo Nathu La qua phía bên Ấn Độ của dãy Hi Mã Lạp sơn.” Gã nuốt nước miếng. “Chúng tôi chưa phát hiện được hai tên còn lại của tổ khủng bố, nhưng từ hôm xảy ra vụ tấn công, chúng đã có ba ngày thời gian để vượt qua biên giới rồi. Có lẽ giờ đây chúng đã an toàn ở bên phía kia của dãy núi, thuộc về Ấn Độ rồi.”
 
“Bên phía của Ấn Độ thì có thể lắm.” Lu Shi nói. “Nhưng còn an toàn hay không, thì còn phải xem lại.”
 
Lão dựa vào lưng ghế. “Chúng ta có biết đích đến sau cùng của chúng không, đồng chí bộ trưởng?”
 
Shen gật đầu. “Dạ có, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Nhóm này, nhóm Gingara này, đặt căn cứ trong một ngôi làng nhỏ tên là Geku, cách biên giới khoảng 40 cây số bên Ấn Độ.” Gã thoáng dừng rồi lại nói. “Có phải đồng chí đang tính một hành động mật? Cho một nhóm nhỏ qua Ấn Độ để bứng gốc bọn khủng bố?”
 
Lời của gã như nước chảy trên lá môn; tâm trí của Lu Shi đang quay trở về căn phòng bệnh viện ở Lhasa. Cái khối không ra nhân dạng của nhi tử vô cùng anh tuấn của lão, bên dưới tấm ga xanh…
 
Lão lắc đầu thật mạnh. “Không! Không có hành động mật gì hết. Chúng ta sẽ đáp trả trận công kích hèn hạ này bằng một trận công kích của chúng ta.”
 
Bộ trưởng Shen nhướng mày. “Tôi không hiểu, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch. Chúng ta không trả đũa sao?”
 
Lu Shi cảm thấy sự phẩn nộ rút đi, để lại một quyết tâm mãnh liệt làm lão gần như muốn lảo đảo. “Chúng ta sẽ trả đũa.” Lão nói. “Chúng ta sẽ tiêu diệt bọn chúng.”
 
“Bọn khủng bố sao?”
 
“Không phải.” Lu Shi nói. “Cái ngôi làng ấy tên là gì nhỉ? Geku à? Chúng ta sẽ tiêu diệt tất cả bọn chúng. Chúng ta sẽ cho chúng thấy chứa chấp kẻ thù của Trung quốc có nghĩa là gì.”
 
Mặt Shen chuyển từ chấn động sang vẽ khó tin. “Đồng chí Phó Chủ Tịch… Chúng ta không thể làm thế… Cộng đồng thế giới…”
 
“Chúng ta làm được.” Lu Shi nói. “Và chúng ta sẽ làm.”
 
Giọng lão nhẹ xuống. “Shen Tao, lão bằng hữu. Tin tưởng tôi đi. Cộng đồng thế giới sẽ không làm gì đâu.”
 
“Chúng ta không thể chắc chắn điều đó.” Shen nói.
 
“Tôi biết chắc.” Lu Shi nói. “Lịch sử cận đại cho chúng ta một thí dụ tốt nhất. Nghĩ lại mà xem. Trong suốt cả chục năm qua, Hoa Kỳ đã dùng phi đạn tập kích biết bao trại khủng bố ở Pakistan và Afghanistan đến nổi những vụ tập kích đó gần như không còn lọt vào các bản tin thế giới nữa.”
 
Lão chồm người tới trước và đặt hai tay lên mặt bàn. “Nước Mỹ đã làm mẫu. Chúng ta chỉ làm rập khuôn mà thôi. Chúng ta sẽ sử dụng phi đạn để tập kích một căn cứ quân khủng bố trong núi, phía bên Ấn Độ.”
 
Giọng lão cứng rắn lại. “Nhưng mà chúng ta sẽ không ngưng tay cho đến khi ngôi làng ấy hoàn toàn biến mất. Không để lại một kiến trúc nào. Không một căn nhà, không một cái chòi, hay bất cứ thứ gì còn sống.”
 
“Ủy Ban Trung Ương…” Shen nói. “Một cuộc tập kích quân sự tầm vóc này sẽ không bao giờ được chấp thuận đâu.”
 
“Tôi không cần sự chấp thuận của Ủy Ban Trung Ương.” Lu Shi đáp. “Ủy Ban Thường Trực có quyền lực trực tiếp ưng chuẩn một hành động quân sự.”
 
Bộ trưởng Shen không đáp. Ủy Ban Thường Trực của bộ Chính Trị là cơ cấu có quyền quyết định mạnh nhất trong Trung quốc. Trong số chín thành viên của ủy ban, một người chính là Lu Shi; một người khác là Chủ Tịch nhà nước Xiao, ngày nay do sức khỏe suy nhược thường làm theo các đề nghị của vị Phó Chủ Tịch này. Ít nhất là bốn người trong số bảy người còn lại đã bán linh hồn cho Lu Shi. Nói rằng Lu Shi thao túng Ủy Ban Thường Trực có lẽ không được đúng, nhưng Shen biết rằng lời nói của lão rất có trọng lượng trong những cuộc bàn thảo của ủy ban.
 
Lu Shi nhìn xuống đồng hồ đeo tay. “Sáng mai, tôi sẽ triệu tập một cuộc họp khẩn của Ủy Ban Thường Trực.”
 
Mắt lão chậm rãi đảo trở về mặt của Shen. “Và hành động này sẽ được thông qua, anh Shen à. Tôi hứa với anh đó.”
 
Lão hất đầu về phía cánh cửa. “Anh đi đi. Chuẩn bị lực lượng phi đạn của anh đi. Sáng mai anh sẽ nhận được mệnh lệnh chính thức.”
 
Viên bộ trưởng Quốc Phòng đứng dậy và choáng váng bước tới cửa trong im lặng. Trước khi gã kịp mở cửa, Lu Shi lại nói. “Hãy nhớ đấy, đồng chí bộ trưởng… Không được để lại một căn chòi nào cả. Không được để lại một người sống nào trong làng ấy hết.”
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:17:05
0
Chương 6
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình
(trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia)
 
Phi đạn hành trình… Những từ này gợi lên hình ảnh chiến tranh bằng kỹ thuật cao và độ chính xác siêu đẳng của những vũ khí đánh trúng ngay vào những mục tiêu cách xa hàng trăm (hay hàng ngàn) cây số. Đối với nhiều người Mỹ, lần đầu tiên họ biết đến phi đạn hành trình là vào đầu những năm 1990, khi mà các phương tiện truyền thông bắt đầu chiếu các đoạn phim chiến đấu trong chiến dịch Bão Táp Sa Mạc và những cuộc đột kích đầu tiên của quân đội Mỹ vào nước Iraq.
 
Từ ngày 16 tháng Giêng năm 1991, hằng triệu khán giả truyền hình được xem những đoạn phim bi tráng của những quả tên phi đạn Tomahawk (17) được phóng lên từ những thiết giáp hạm, tuần dương hạm và khu trục hạm của Mỹ. Do những sự khó khăn về kỹ thuật có thể mường tượng được, không có khúc phim nào chiếu cảnh tên lửa được phóng từ tàu ngầm đang lặn trong hoàn cảnh thực chiến. Tuy nhiên, các tàu ngầm tấn công của Mỹ trong vùng biển Ba Tư và Hồng Hải đã tham gia tập kích bằng phi đạn ngay từ những giây phút đầu của cuộc chiến.
 
Người dân Mỹ được lôi cuốn bởi cái khái niệm về vũ khí ‘thông minh’, thông minh đủ để bay dọc theo một con đường trong thành phố bên trên xe cộ đang giao thông, quẹo trái tại đúng một góc đường nào đó, rồi ngoằn ngoèo quanh những hàng quán hay căn hộ để nhận diện và tiêu hủy một kiến trúc đã được chỉ định, chứ không phải một kiến trúc nào khác.
 
Đại tướng Norman Schwarzkopf, Tổng Chỉ Huy Trưởng Địa Vực Trung Ương (18) từng nhận xét rằng phi đạn Tomahawk chính xác đến độ người ta có thể chọn lựa cho phi đạn bay vào cửa sổ nào của căn kiến trúc bị chỉ định là mục tiêu.
 
Sau cuộc chiến, kết quả đánh giá thiệt hại cho thấy rằng Đại tướng Schwarzkopf quả nhiên không nói khoác. Phi đạn BGM-109 Tomahawk quả thật chính xác như thế đấy.
 
Chiến dịch Bão Táp Sa Mạc là lần thực chiến đầu tiên cho thấy sự hữu hiệu khủng khiếp của vũ khí thông minh. Chính phủ và quân đội Iraq hoàn toàn thiếu chuẩn bị đối với sự chính xác và khả năng của các binh khí mới nhất của Mỹ.
 
Khi quần chúng trở nên hiểu biết hơn về các binh khí này, nhiều từ ngữ mới bắt đầu len lỏi vào ngôn ngữ thông dụng. Những cụm từ như Terrain Contour Matching (TERCOM) (19) (so sánh địa hình) và Digital Scene-Matching Area Correlation (DSMAC) (20) (so sánh hình ảnh được chụp dùng kỹ thuật số), mặc dù không đi vào ngôn ngữ hàng ngày, nhưng cũng biến thành từ ngữ kỹ thuật thông dụng khi nói về binh khí hiện đại.
 
Từ sau chiến dịch Bão Táp Sa Mạc, vô số hình ảnh báo chí, cộng thêm đồ hình và những lời bình phẩm trên truyền hình, có lẽ đã cho người dân bình thường cái cảm tưởng sai lầm rằng mình đã hiểu rõ các kỹ thuật liên quan đến phi đạn hành trình rồi. Mặc dù tác giả không muốn hạ thấp ai, nhưng chủ yếu những gì số đông người bình thường hiểu về phi đạn hành trình có thể tóm gọn trong ba câu sau đây:
 
  1. Phi đạn hành trình có thể được phóng đi từ đủ loại tàu bè, xe cộ và máy bay đến những mục tiêu cách xa hàng mấy ngàn cây số.
 
  1. Do bay sát mặt đất và lộ trình quanh co, ra-đa rất khó dò ra được phi đạn hành trình; muốn đánh chặn còn khó hơn nữa.
 
  1. Các vũ khí kỳ diệu này là thành quả của những ngành kỹ nghệ tiên tiến nhất.
 
Hai câu đầu coi như đúng. Câu thứ ba nghe có vẻ đương nhiên và không thể chối cãi, thật ra là sai.
 
Mặc dù phi đạn hành trình được cải tiến nhờ cái kỹ thuật hiện đại, kỹ thuật cơ bản của nó không phải mới mẻ. Thật ra, lịch sử của phi đạn hành trình kéo dài từ tận Thế Chiến thứ Nhất.
 
Tuy nó có khả năng kiệt xuất, cái mà hiện nay được gọi là ‘binh khí cho thế hệ tới’ đã trải qua một thế kỷ phát triển rồi. Và câu chuyện đời của nó cũng hấp dẫn như chính nó vậy.
 
-=-=-=-=-=-
Chú Thích:
(17) Tomahawk BGM-109: phi đạn hành trình được hải quân Mỹ sử dụng từ cuối những năm 1970, cho đến ngày nay sau nhiều đợt nâng cấp. Phi đạn nặng 1.300 kg, có tầm xa tối đa 2.500 km (phiên bản tấn công mặt đất) hay 460 km (chống hạm). Động cơ phản lực, tốc độ bay 880 km/giờ. Có nhiều loại đầu đạn kể cả hạt nhân (không còn sử dụng từ trước 2013), đầu đạn đơn (450 kg), đầu đạn phụ, v.v. Hình ảnh kèm theo được chụp trong một vụ thử nghiệm tập kích một phi trường địch, cho thấy độ bay cao của phi đạn; mục tiêu là một chiếc máy bay cũ.
 
(18) Địa Vực Trung Ương: United States Central Command (USCENTCOM or CENTCOM) là một cơ cấu của bộ quốc phòng Mỹ chịu trách nhiệm về mọi hoạt động quân sự của mọi binh chủng cho ‘địa vực Trung Ương’. Địa vực này bao gồm tất cả vùng Trung Đông, Bắc Phi và Trung Á, đặc biệt là Afghanistan và Iraq. Có tất cả 9 khu vực, không chỉ bao gồm địa vực mà còn cả lãnh vực quân sự. Đó là: USAFRICOM (địa vực Phi châu), USCENTCOM (địa vực Trung Ương), USEUCOM (địa vực Âu châu), USNORTHCOM (địa vực Bắc Mỹ châu), USPACOM (địa vực Thái Bình Dương), USSOUTHCOM (địa vực Trung và Nam Mỹ châu, kể cả quần đảo Ca-Ri-Bê), USSOCOM (lãnh vực Đặc Nhiệm toàn cầu), USSTRATCOM (lãnh vực Chiến Lược toàn cầu) và USTRANSCOM (lãnh vực Vận Chuyển toàn cầu)
 
(19) Terrain Contour Matching (TERCOM): tên của một phương pháp định vị được dùng cho phi đạn hành trình. Phương pháp này dùng ra-đa trên phi đạn để đo cao độ của địa điểm mà phi đạn đang bay qua, so sánh với cao độ của từng giai đoạn trên tuyến đường phải bay qua (đã được ghi vào bộ nhớ của phi đạn trước khi được bắn). Nhờ đó mà phi đạn luôn bay trên tuyến đường đã định trước một cách cực kỳ chính xác. Tuy nhiên điều này đỏi hỏi phải có chi tiết cao độ chính xác của toàn bộ lộ trình. Ngày nay, TERCOM được thay thế bằng hệ thống định vị vệ tinh toàn cầu GPS.
 
(20) Digital Scene-Matching Area Correlation (DSMAC): phương pháp định vị dùng cho phi đạn hành trình hay tên lửa đạn đạo. Hình ảnh của một số địa điểm dọc theo tuyến đường của phi đạn (được vệ tinh chụp bằng kỹ thuật số từ trước) ghi vào bộ nhớ của phi đạn khi tuyến đường đến mục tiêu được chọn. Khi bay đến những địa điểm đã được chọn (như núi, sông, …), máy hình trên phi đạn sẽ so sánh những gì đang thấy với hình ảnh đã có sẵn của các địa điểm ấy để xác định vị trí; do đó hành trình của phi đạn luôn được điều chỉnh chính xác nhất.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:19:43
0
Chương 7
Phía tây tỉnh Vân Nam, miền nam Trung Quốc
Thứ Bảy, ngày 22 tháng 11, 20:30, giờ địa phương
 
Sâu bên trong hộp chứa máy điện toán điều khiển bộ phận khai hỏa, một mạch điện khép lại và dòng điện được nhả ra. Khoảng hai giây sau, lớp vỏ che phía sau ống phóng phi đạn bị dòng khí nóng của phi đạn hòa tan. Trong tiếng gầm điếc tai, chiếc phi đạn xuyên qua khỏi nắp che mưa gió ở phía trước ống phóng, rồi lao vào trời đêm làm cho vùng đồi núi bên cạnh thoáng đỏ rực lên.
 
Trong một khoảng thời gian, chiếc xe tải lớn tám bánh bị khói bao phủ. Trước khi gió núi thổi tan cụm khói ấy đi, hai ống phóng khác trên xe đã phóng thêm hai quả phi đạn khác vào bầu trời đêm lạnh lẽo.
 
Nhiệm vụ của chiếc xe tải đã được hoàn thành rồi. Cả ba ống phóng của nó đã trống trơn. Nó không còn vũ khí gì để đe dọa ai, không còn một sứ giả tử thần nào khác để thả vào không trung. Tuy nhiên không phải chỉ có một mình nó.
 
Có tất cả 35 chiếc xe tải như vậy. 35 chiếc xe tải chở ống phóng có thể dựng thẳng, được đậu rời rạc 1,000 mét phía tây mặt đường. Màu sơn ngụy trang mờ làm chúng hòa vào màu cỏ chung quanh. Nhưng những cột lửa phóng ra từ những chiếc xe tải kỳ quái này đã phá hủy lớp ngụy trang của chúng.
 
Các phi đạn được nhanh chóng phóng ra, vọt lên cao, rồi biến mất dạng về phía tây.
 
Đợi đến khi mặt trăng ló ra khỏi rặng Hi Mã Lạp Sơn, cả khu vực này đã vắng hoe rồi. Các chiếc xe tải kia đã biến mất, chỉ để lại những vết cháy xém trên mặt đất và vết bánh xe khổng lồ của chúng.
 
Tại một địa phương nào đó trong màn đêm, 105 quả phi đạn đang bám sát vách núi lồi lõm, bay theo lộ trình đã được thiết kế rõ ràng trên những bản đồ chỉ cao độ cực kỳ chính xác, để lao đến mục tiêu chung của chúng: một ngôi làng nhỏ trong dãy Hi Mã Lạp Sơn, bên kia biên giới Ấn Độ.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:22:03
0
Chương 8
Làng Geku, miền Bắc Ấn Độ
Thứ Bảy, ngày 22 tháng 11, 19:17, giờ địa phương
 
Jampa đứng ở khung cửa đang mở của căn nhà của người chăn cừu, ánh đèn dầu mờ nhạt phía sau lưng, mặt hướng ra ngoài, lặng nhìn màn đêm. Hắn biết hắn phải đóng cửa lại; hơi nóng từ cái lò nhỏ đang thoát bên người hắn, vào màn đêm. Nhưng hắn vẫn muốn đứng lâu thêm một chút nữa, hưởng thụ cái buốt của gió lạnh trên gò má và ngắm nhìn ánh trăng mờ êm ả trên con đường.
 
Làng Geku trải rộng trước mắt hắn, một đám nhà và kiến trúc nhỏ nằm hỗn độn dưới bầu trời sao. Thật là một địa phương xinh đẹp, một khoảnh thiên đường nhỏ gắn vào những ngọn núi trên ‘mái nhà của thế giới’. Khắc nghiệt. Khó khăn. Đôi lúc tàn bạo. Nhưng luôn xinh đẹp.
 
Phần lớn dân làng đã ngủ rồi. Người dân ở đây sống một cuộc sống đầy đủ, nhưng đơn giản. Jampa cảm thấy thèm được sống như họ.
 
Nơi đây, bên phía Ấn Độ, đời sống tự do. Không phải là tự do vô bờ, nhưng ít ra dân địa phương có thể sống yên ổn mà không phải lo sợ nhà cửa của họ bị quân Trung quốc bố ráp. Trường học và đền thờ của họ sẽ không bị ai đốt rụi, hay bị nghiền nát dưới gót quân xâm lược.
 
Jampa cảm thấy mắt mình bị lôi kéo về phương đông, nơi mà quê hương của chính hắn nằm phía bên kia dãy núi. Bọn Trung quốc gọi nơi ấy là Khu Tự Trị Tây Tạng, một mánh khóe thông dụng của tuyên truyền cộng sản. Dân chúng nơi quê nhà của Jampa không có tự trị gì cả. Họ cũng không có tự do. Đã không có tự do từ hơn nửa thế kỷ nay rồi, từ khi cái gọi là QGPNDTH tràn qua sông Kim Sa vào năm 1950 để chiếm đóng Tây Tạng.
 
Quân Trung quốc xâm lược chỉ tốn có 13 ngày để chiến thắng quân đội Tây Tạng ít hơn chúng xa. Chỉ 13 ngày để biến một trong những quốc gia tự chủ cổ xưa nhất thành một tỉnh của đế quốc Trung Hoa.
 
Dĩ nhiên, ngày nay bọn Trung quốc đã trở nên kín đáo hơn nhiều, ít ra là ở bề ngoài. Sự thô bạo của quân Trung quốc chiếm đóng đã nhường chỗ cho thủ đoạn lắc léo hơn. Con đường sắt Thanh-Tạng liên tục đưa đến từng chuyến xe đầy người Hán, để giành và khai khẩn đất đai, buộc dân địa phương trở thành dân tộc thiểu số. Nếu không có ai chặn đứng sự di dân trái tự nhiên này, người dân Tây Tạng sẽ bị ép đến biến mất, chỉ trong vòng vài chục năm nữa mà thôi.
 
Môi Jampa thoáng nở nụ cười. Hắn đã ngăn chặn nó, ít nhất trong một khoảng thời gian. Hắn, lão Nima và gã Sonam đã chặn chuyến xe lửa ấy. Họ cho nó nổ văng ra khỏi đường ray.
 
Nụ cười của Jampa nhạt đi khi hắn nhớ lại ánh mắt của tên lính Trung quốc trẻ, ngay trước khi hắn nhấn cò khẩu phóng tên lửa đã trộm từ bọn Trung quốc. Cảnh tượng lại tràn ngập tâm trí hắn: cụm lửa nóng bức, màn khói đen, âm thanh kim loại rên siết khi các toa xe bị nghiền nát.
 
Hắn không muốn sát hại tên lính ấy. Hắn không muốn giết ai cả. Hắn chỉ muốn phá hủy chuyến xe lửa để ngăn chận làn sóng người Trung quốc xâm lược không ngừng tràn vào.
 
Hắn cảm thấy một thoáng hối hận, nhưng nó nhanh chóng bị xua khỏi tâm trí hắn bởi ký ức của một ngọn lửa khác. Luồng khói bốc lên từ đống đổ nát của ngôi trường nhỏ của hắn ở làng Amchok Bora. Gương mặt của Dukar, Chopa và các học sinh khác của hắn khi dân làng lôi thân xác cháy xém của chúng từ trong đống gạch vụn của ngôi trường.
 
Khi ấy, Jampa là một giáo viên. Một người học thức. Một người có tri thức khoa học trên một mảnh đất khan hiếm giáo dục. Dân làng Amchok Bora đã tôn kính hắn. Hắn được họ xem là một người từng trải và thông thái.
 
Bây giờ, Jampa không thấy mình thông thái chút nào cả. Hắn cảm thấy phẫn nộ và mệt mỏi. Nếu quả thật trước kia hắn có một chút gì là từng trải hay thông thái, nó đã biến mất rồi, thay thế bởi một quyết tâm duy nhất: giải phóng đất nước của hắn khỏi sự áp bức của Trung quốc.
 
Hắn tự hỏi bây giờ gã Sonam đang ở đâu. Hắn cảm thấy tội lỗi khi bỏ lại đồng bạn bị thương sau vụ tấn công ấy. Hắn hi vọng rằng, vì chính bản thân Sonam, gã chiến sĩ trẻ này đã thiệt mạng vì trúng đạn trước khi bọn Trung quốc tóm được gã.
 
Hắn thoáng tưởng tượng cảnh bọn tạp chủng vô nhân đạo kia đã làm gì để buộc gã khai. Cái rùng mình của hắn bị một cơn gió đêm lạnh lẽo làm càng mạnh hơn nữa.
 
Rùng mình xong, Jampa chợt ngáp, rồi lại ngáp. Hắn cố xua đuổi mọi ý nghĩ về gã Sonam bị bắt bớ ra khỏi óc. Hắn không thể làm gì giúp Sonam được nữa rồi. Hoặc là gã đã chết, hoặc là gã đang bị bọn Trung quốc nhốt trong một phòng giam nào đó. Dù sao đi nữa, muốn giúp đỡ Sonam cũng ngoài khả năng của Jampa, hay của bất cứ ai trong tổ chức Gingara.
 
Jampa lại ngáp. Hắn còn một chút thời gian để đọc vài trang sách trước khi ngủ. Ngày mai, có lẽ hắn và lão Nima lại lên kế hoạch cho một chuyến tập kích khác chống lại bọn xâm lược.
 
Hắn bắt đầu khép cửa, nhưng chợt dừng lại giữa chừng. Âm thanh gì vậy nhỉ?
 
Jampa nghiêng đầu, cố tập trung vào cái âm thanh văng vẳng. Cái âm thanh này bắt đầu thật thấp, nhưng lớn lên thật nhanh. Nó làm hắn nghĩ đến một sự pha trộn kỳ dị của tiếng mũi tên bay và hơi nước bắt đầu sôi trong một cái ấm nước. Cái âm thanh này mặc dù kỳ dị, lại không phải hoàn toàn xa lạ. Hắn đã nghe qua âm thanh này rồi, hay một âm thanh rất giống như vậy.
 
Ký ức của vụ đột kích đường ray Thanh-Tạng bằng tên lửa lại thoáng qua óc hắn. Hắn thấy lại hình ảnh của chính hắn nâng cái ống phóng tên lửa làm bằng sợi thủy tinh lên vai phải. Cảm thấy nút phóng lún xuống dưới ngón tay bấm của hắn. Nghe tiếng rít khi quả tên lửa chống tăng vọt ra khỏi ống phóng và lao đến hông chiếc toa xe.
 
Cái tiếng rít đang lớn dần lên… Nó gần như là cùng tiếng rít ấy, nhưng lớn hơn. Lớn hơn nhiều. Nó…
 
Suy nghĩ của Jampa bị cắt đứt khi một bóng đen khổng lồ bay thoáng qua vùng trời của khung cửa hé mở, lướt dọc theo con đường đến trung tâm ngôi làng. Không khí bị cái vật bay ấy cuống tốc lên, ụp vào người Jampa cùng với một cái mùi hóa chất làm hắn liên tưởng đến mùi dầu cháy.
 
Cái vật này, không hiểu là cái gì mà chỉ bay ở độ cao ngang tầm ngực người ta. Nó kéo theo một tiếng rít giống như huýt sáo, bây giờ đã to đến làm đau nhức lỗ tai.
 
Có phải là một loại tên lửa nào đó không? Không thể nào! Nó quá to. To gần như một cây cột điện vậy.
 
Jampa bị hất văng sang bên khi vật lạ bay đến trung tâm ngôi làng và nổ tung, làm màn đêm tóe ánh lửa và tàn phá một khu vực tròn chung quanh.
 
Jampa nằm trên mặt đất, đầu óc choáng váng ý thức rằng cái vật khổng lồ ấy quả thật là một loại tên lửa nào đó. Tai hắn còn đang ù sau phát nổ, nhưng hắn vẫn có thể nghe cụm lửa gầm rú và tiếng hô hoán của người ta bị chợt đánh thức từ giấc ngủ say. Hắn cũng nghe được thứ khác nữa: lại tiếng rít-huýt sáo kia. Không phải chỉ một cái mà nhiều cái.
 
Điên thật. Ai lại phóng tên lửa vào một ngôi làng Ấn Độ nhỏ tý chứ? Ai thèm làm thế chứ? Ai mà thèm hao phí cái loại binh khí mắc tiền như vậy vào một nơi mà hầu như không ai nghe nói qua?
 
Rồi chợt Jampa biết ra đáp án. Hắn hiểu tất cả một cách rõ ràng. Hắn khổ sở đứng dậy, lảo đảo đi ra cửa. Cánh cửa đã bị gãy một bản lề, đã gần đổ xuống.
 
Đây là lỗi của hắn. Tử thần đang đến làng Geku và tất cả do lỗi của hắn.
 
Ý đồ của hắn đơn giản và dễ hiểu biết bao. Tập kích vào các mục tiêu Trung quốc bên kia rặng núi phía Tây Tạng, rồi rút lui về bên này biên giới phía Ấn Độ. Chính quyền Trung quốc sẽ không bao giờ dám truy đuổi một nhóm phiến quân qua biên giới của một quốc gia lớn khác.
 
Mà rất nhiều cư dân ở các tỉnh vùng Bắc Ấn ủng hộ lý tưởng giải phóng Tây Tạng. Các dân làng người Ấn sẵn lòng chứa chấp Jampa, lão Nima và các anh em trong tổ chức Gingara.
 
Kế hoạch này luôn thành công, cho đến nay. Mọi cuộc truy nã của quân Trung quốc luôn dừng lại ở biên giới Ấn Độ.
 
Tại sao lần này lại khác chứ? Có gì đó đã thay đổi. Một cái gì thật lớn. Jampa không biết điều kiện chính trị đã thay đổi như thế nào, nhưng rõ ràng là mọi quy tắc cũ đã thay đổi một cách bất chợt và triệt để rồi. Không cần biết tại sao quy tắc lại đổi đi, nhưng cái tai họa đang diễn ra tại đây là để đáp trả lại vụ tập kích của Jampa vào chuyến xe lửa khốn nạn ấy.
 
Một phát nổ khác ném Jampa vào khung cửa. Đầu hắn va vào khung gỗ vang lên tiếng rắc đau đớn. Đầu gối hắn khuỵu xuống. Hắn đang quỵ xuống đất thì quả phi đạn vọt ra từ màn đêm và đâm sầm vào căn nhà nhỏ.
 
Jampa chỉ ở cách đầu đạn 2 mét khi nó nổ tung. Hắn không còn thấy gì nữa, không còn nghe gì nữa, mà cũng không còn tồn tại nữa…
 
Và người bắn phát súng đầu tiên khởi mào chiến tranh, đã không còn ở đó để chứng kiến đợt phi đạn đang tiếp tục lao xuống từ bầu trời.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:24:23
0
Chương 9
Bộ Quốc Phòng
Thủ đô New Delhi, Ấn Độ
Thứ Bảy, ngày 22 tháng 11, 19:32, giờ địa phương
 
Bộ trưởng Quốc Phòng Ấn Độ, Sanjay Nehru đang nói điện thoại thì cửa phòng làm việc của lão bật tung ra. Tấm cửa dày nặng mở nhanh, chạm vào ván ốp chân tường bằng gỗ sồi và bật trở lại; khi cửa gần đóng, vị khách không mời giơ tay ra cản lại.
 
Nehru giật mình quay lại nhìn. Lão không quen cảnh người ta xông vào phòng làm việc của mình như thế. Khi Nehru nhận ra kẻ xông vào, vẽ chấn động đổi ngay thành bực dọc. Chính là tên đại úy trẻ, sĩ quan phụ tá cho tướng Singh. Tên ngốc này tên là gì nhỉ? Kumar à? Katari sao? Đại khái tương tự như vậy.
 
Gã đại úy trẻ đang hít thở nặng nề, như thể gã vừa chạy vậy. Gã chấp hai tay dưới cằm, cúi đầu thi lễ thật nhanh. “Namaste (chào), thưa ngài bộ trưởng. Tôi xin lỗi đã quấy rầy ngài, nhưng tướng Singh yêu cầu ngài đến phòng kế hoạch càng sớm càng tốt. Chúng tôi không gọi ngài bằng điện thoại được, cho nên…”
 
Nehru đã không để ý đến tiếng tít-tít của máy điện thoại báo hiệu có một cú gọi đang chờ. Lúc này đã quá giờ làm việc trong ngày thứ Bảy từ lâu rồi; mà sau nửa ngày ngụp lặn trong đám văn kiện, lão đang muốn trò chuyện với đứa cháu nội mà lão cưng nhất. Lão dùng tay che ống nói. “Thì đừng có đừng ì ở đó.” Lão gắt. “Có gì mà khẩn cấp như vậy?”
 
Gã sĩ quan trẻ ngưng thoáng một giây để lấy hơi. “Mới nhận được báo cáo.” Gã nói. “Có phi đạn tập kích…”
 
Nehru gác điện thoại, mọi tư tưởng về đứa cháu đã bay biến mất. “Phi đạn tập kích à? Ở đâu? Anh muốn nói là chúng ta đang bị tấn công à?”
 
Viên đại úy gật đầu. “Dạ phải, thưa ngài bộ trưởng. Tới nay, chúng ta chỉ biết có một mục tiêu là làng Geku, một ngôi làng nhỏ ở Hi Mã Lạp Sơn. Theo phân tích đầu tiên, khoảng một trăm phi đạn từ một điểm phóng chưa được xác định ở Tây Nam Trung quốc.”
 
Nehru choáng váng. Trung quốc? Không hợp lý. Thật là điên rồ.
 
“Chắc phải có một sự nhầm lẫn nào đó.” Lão nói. “Chắc ra-đa sai lầm, hay báo cáo lộn xộn làm sao đó.”
 
“Tôi không nghĩ vậy, thưa ngài.” Viên sĩ quan nói. “Chúng ta có hình ảnh vệ tinh. Có vẽ như cả ngôi làng đã bị tiêu hủy. Không có dấu vết của người nào sống sót.”
 
Bộ trưởng Quốc Phòng Nehru nhìn gã sĩ quan trẻ chằm chặp. “Tại sao người Trung quốc lại tập kích một ngôi làng nhỏ như con ruồi bên phía nước ta chứ? Có một sự khiêu khích nào không?”
 
Viên đại úy lắc đầu. “Thưa ngài, chúng tôi không được biết đến sự khiêu khích nào cả. Mà cũng chẳng có gì có tính cách chiến lược trong khu vực ngôi làng ấy, theo như chúng tôi thấy.”
 
“Vậy thì tại sao bọn Trung quốc lại tấn công chúng ta?”
 
“Xin ngài bộ trưởng thứ lỗi.” Viên đại úy nói. “Chúng tôi không biết. Tướng Singh yêu cầu…”
 
Nehru gật nhanh và phất tay về phía cửa phòng. “Được. Tốt. Bảo tướng Singh rằng tôi sẽ đến ngay. Và thông báo cho ông ấy rằng tôi muốn nghe ban tham mưu báo cáo toàn diện trong vòng 10 phút.”
 
“Dạ, thưa ngài.” Viên đại úy nói. Gã quay nhanh đi và ra khỏi phòng.
 
Nehru với tay nhấc điện thoại. Lão phải gọi cho Thủ Tướng ngay tức khắc. Tay lão chợt dừng trước khi đụng vào điện thoại. “Này, đại úy!”
 
Viên sĩ quan trẻ ngừng lại và ngoái đầu. “Dạ, thưa ngài bộ trưởng?”
 
“Bảo tướng Singh hạ lệnh tổng báo động. Điều động mọi lực lượng không, hải và bộ. Chuẩn bị cao nhất.”
 
Giọng lão lắng xuống, cứng như thép. “Nếu những gì anh nói là thật, Trung quốc đã vô cớ thực thi một hành động chiến tranh đối với nước cộng hòa Ấn Độ.” Lão nói. “Tôi không biết bọn ngốc ấy muốn làm gì. Nhưng nếu chúng muốn đánh trận, chúng sẽ được một trận đánh.”
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:28:39
0
Chương 10
Phi đội trưởng
Phi Đoàn 303 Hắc Báo, Hải Quân Ấn Độ
Vịnh Bengal, phía tây quần đảo Andaman
Chủ Nhật, ngày 23 tháng 11, 05:12, giờ địa phương
 
Sau này nhìn lại, không ai biết được tại sao Trung Úy Ajit Chopra lại nhấn cò. Cho dù là nguyên nhân nào đi nữa cũng đã cùng chết với gã khi chiếc Mig-29K (21) thuộc hải quân Ấn do gã lái nổ tan nát trên bầu trời vịnh Bengal.
 
Trong những ngày và những tuần lễ sau ‘trận hải chiến vịnh Bengal thứ nhất’, hằng đám ký giả đã liên tiếp cố gắng liên kết hành động của Chopra với vụ phi đạn tập kích làng Geku tối hôm trước. Do số tuổi tương đối trẻ của viên phi công này và truyền thuyết về mãnh lực của con tim, vài bình luận gia trong giới báo chí đã suy đoán rằng Chopra đã gặp gỡ và có lẽ đã yêu một thiếu nữ sống trong ngôi làng này, mà thiếu nữ này đã thiệt mạng trong vụ tập kích ấy.
 
Thế là tin đồn bắt đầu nổi lên trên mạng internet, còn xác định là người yêu của Trung Úy Chopra là một thiếu nữ nghèo nhưng xinh đẹp tên là Mira. Câu chuyện tình bi tráng của Ajit và Mira trở thành câu chuyện tình Romeo-Juliet của thời mạng hiện đại, được truyền đi bằng hàng ngàn, rồi trăm ngàn bức email bởi vô số kẻ lãng mạn.
 
Truyền thuyết trong internet có khuynh hướng tự phát triển khi lưu hành và câu chuyện hấp dẫn của đôi tình nhân tuyệt vọng này cũng thế. Càng ngày càng có những dòng email dài dặc mô tả cảnh tử vong của nàng Mira khi mà những quả phi đạn Trung quốc lao xuống từ trời cao để nổ nát căn nhà nhỏ (nhưng sạch sẽ) của nàng. Lại có những bài văn bóng bảy mô tả tâm trạng tuyệt vọng của chàng Ajit khi chàng nhắm chiếc máy bay tiêm kích do Nga chế tạo vào một chiến hạm Trung quốc và với đôi mắt nhòa lệ, đã thay nàng Mira yêu dấu trả thù bọn người hiếu chiến vô thần.
 
Cho dù có bao nhiêu bài viết hoành tráng hoa lệ đi nữa, không ai tìm được một dữ kiện nào để xác thực câu chuyện ấy cả. Không có chứng cứ nào là nàng Mira đã từng tồn tại; ngay cả sự liên hệ, về tình cảm hay thứ gì khác, giữa Trung Úy Chopra và ngôi làng Geku đã bị hủy cũng không được xác thực.
 
Các phân tích sau trận chiến chỉ xác định những sự kiện sau đây. Sáng chủ nhật, ngày 23 tháng 11, Trung Úy Chopra là phi đội trưởng của một đội bốn chiếc Mig-29, cất cánh từ tàu sân bay INS Vikrant (21*) của Ấn Độ. Lúc 05:12 sáng, mặc dù không được lệnh, Chopra quay mũi máy bay về phía chiếc khu trục hạm tên lửa Zhuhai (Chu Hải) của Trung quốc. Khoảng 10 giây sau đó, viên phi công Ấn trẻ mở chốt an toàn và phóng hai quả Kh-35U ‘Switchblade’ (22) tên lửa chống hạm về phía chiến hạm Trung quốc này. Cả hai phi đạn hoạt động tốt, bay dưới tốc độ âm thanh đến mục tiêu.
 
Phản ứng của thủy thủ đoàn Trung quốc rất nhanh, nhưng không nhanh đủ. Ra-đa kiểu 360S Doppler dùng tần số E/F nhận dạng được hai viên phi đạn khi chúng còn cách khoảng 17 km.
 
Như số đông đồng bạn trên tàu, viên sĩ quan trưởng phụ trách vũ khí trên chiếc Zhuhai đã được huấn luyện hải chiến trong suốt sự nghiệp của hắn. Nhưng ngoài huấn luyện và thao diễn ra, hắn chưa trải qua thực chiến bao giờ. Hắn chưa từng bắn một viên đạn vào một kẻ địch người thật nào, mà chắc chắn là hắn chưa từng hứng chịu một cuộc tấn công như thế này bao giờ. Khi cảnh báo phi đạn xuất hiện trên màn ảnh, viên sĩ quan vũ khí này ngập ngừng vài giây trong khi óc hắn còn đang xác nhận rằng đây không phải là một lần thao dợt: có kẻ nào đó thật sự đang muốn mạng hắn đây mà.
 
Hắn lắc đầu thật mạnh, rồi nhấn cái nút khiến hệ thống điều hành chiến đấu ZJK-4 Thomson CSF (23) tự hành. Hệ thống điều hành chiến đấu lập tức kích hoạt hệ thống phòng không tầm ngắn HQ-7. Cái dàn 8 ống phóng tên lửa lập tức quay qua mạn tàu phải chỉa về hướng phi đạn địch.
 
Viên sĩ quan phụ trách vũ khí chỉ ngần ngừ rất nhanh. Điều này có thể hoàn toàn hiểu được. Tuy nhiên hắn không kịp hối hận.
 
Được mệnh danh là Harpoonski vì giống y như phi đạn Mỹ AGM-84 Harpoon do hãng Boeing sản xuất, hai quả Kh-35U bay sát mặt biển với tốc độ Mach 0,8 (Mach 1 = tốc độ âm thanh), hay khoảng 274,6 mét mỗi giây. Mỗi quả mang đầu đạn thuộc loại khối nổ lõm nặng 145 kg. Hai quả dập vào mạn phải của chiếc Zhuhai với 80% tốc độ âm thanh.
 
Như một màn ảo thuật, chiếc khu trục hạm Trung quốc biến mất trong một cụm lửa và khói đen. Khi màn khói tan đi, chiếc chiến hạm chỉ để lại một mãng dầu đang lan rộng, bên trong lởm chởm những mẫu vụn còn cháy.
 
Kế tiếp chỉ có thể mô tả là hỗn loạn.
 
***
 
Mạng thông tin của hải quân Ấn lập tức tràn ngập tiếng người nhốn nháo khi mọi viên phi công, sĩ quan phòng hành quân và nhân viên truyền tin cùng cất tiếng, cố gắng tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra. Không rõ có tiếng nói của Trung Úy Chopra trong đó hay không, cho dù là có đi chăng nữa, nó cũng đã bị những giọng nói tức tối và hoang mang của đồng đội che lấp rồi.
 
***
 
Hai chiếc khu trục hạm nhỏ Ma’anshan (Mã An Sơn) và Wenzhou (Ôn Châu) có nhiệm vụ hộ tống chiếc Zhuhai, không đợi một lời giải thích nào cả. Cả hai khai hỏa vào bốn chiếc Mig-29K của Trung Úy Chopra và đồng đội.
 
Trong vòng vài giây ngắn ngủi, bầu trời trên vịnh Bengal ngang dọc những dây khói của những quả tên lửa hải-không Trung quốc bay lên hướng các chiếc Mig của hải quân Ấn và của những viên Kh-35U do các phi công Ấn phản kích.
 
Lúc mà những phi đạn đầu tiên trúng vào mục tiêu, một phi đội khác đã cất cánh từ tàu sân bay INS Vikrant rồi.
 
Toàn bộ cuộc chạm trán chỉ mất chưa đến 20 phút. Khi tất cả xong xuôi, cả ba chiến hạm trong nhóm hành động Trung quốc đã chìm nghỉm. Bảy chiếc máy bay của Hải Quân Ấn Độ bị bắn hạ và ba chiếc khác bay khập khiểng về chiếc tàu sân bay mang theo ít nhiều hư hại. Mặt biển đầy xác thủy thủ đã chết hay bị thương.
 
Thế là trận Hải Chiến Vịnh Bengal Thứ Nhất đã chấm dứt. Chém giết thật sự thì còn chưa bắt đầu.
 
-=-=-=-=-=-
Chú Thích:

(21) Mig-29K là phiên bản Mig-29M được cải biến để dùng với tàu sân bay. Khung xương và bộ phận bánh đáp được chế tạo cứng chắc hơn để có thể đáp trên tàu sân bay. Mig-29K chỉ được hải quân Nga và Ấn Độ sử dụng. Ấn Độ bắt đầu sử dụng từ năm 2010.
 
(21*) INS Vikrant: tàu sân bay do Ấn Độ tự sản xuất, có lượng giản nước 40.000 tấn, chiều dài 262 m, rộng 60 m. Tổng số nhân viên kể cả nhân viên phi hành là 1.400 người. Số lượng máy bay gồm 30 tiêm kích Mig-29K và 10 trực thăng Kamov Ka-31 hay Westland Sea King. Tàu được hạ thủy năm 2013 và đến năm 2016 còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Dự trù chính thức vào biên chế năm 2018.
 
(22) Kh-35U, tên gọi của khối NATO là Switchblade (dao xếp): phi đạn chống hạm, có đầu đạn nặng 145 kg, tầm xa 260 km, có thể tự phát hiện mục tiêu (ra-đa) cách 50 km. Bắt đầu được Nga sử dụng từ năm 2003. Việt Nam bắt đầu được trang bị năm 2009 (17 quả), rồi 16 quả năm 2010; sau đó, tự sản xuất bắt đầu từ 2012. Được quân đội Mỹ gọi đùa là Harpoonski vì nó rất giống phi đạn AGM-84 Harpoon (cả bề ngoài lẫn đặc tính kỹ thuật) do hãng Boeing chế tạo và được sử dụng từ năm 1977. Người Mỹ thường ghép thêm vần –ski sau 1 từ thì lập tức biến từ đó thành Nga Sô, để chế nhạo Nga Sô hay sao chép các sản phẩm Mỹ; điều này làm nhiều người Ba Lan bực bội vì người Ba Lan mới thường hay mang họ có vần –ski ở đuôi chứ không phải người Nga, mà người Ba Lan lại thù ghét Nga Sô đã chiếm đóng nước họ sau Thế Chiến Thứ Hai và cưỡng ép Ba Lan thành một nước chư hầu trong khối Warsaw.
 
(23) ZJK-4 Thomson CSF là hệ thống điều hành chiến đấu của Pháp, được sử dụng chung với hệ thống tên lửa tầm ngắn HQ-7. HQ-7 là tên của Trung quốc dành cho hệ thống tên lửa Crotale của Pháp. Vào năm 1978-1979, Trung quốc mua Crotale của Pháp để trang bị cho chiến hạm. Sau này, Trung quốc tự sản xuất và gọi là HQ-7. Hệ thống này có thể ghi nhận 30 mục tiêu cùng lúc và điều khiển phi đạn chống lại 12 mục tiêu cùng lúc. Mỗi dàn HQ-7 có 8 ống phóng tên lửa; sau khi bắn hết có thể tự động nạp 8 viên khác mỗi lần. Tên lửa có tầm tối đa 15 km và tối thiểu 500 m (gần hơn, ra-đa không điều khiển được).
 
 
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:30:57
0
Chương 11
Phòng Tình Huống Nhà Trắng
Thủ Đô Washington, DC
Thứ Bảy, ngày 22 (ngày 23 tại Á châu) tháng 11
18:21, giờ địa phương
 
Tổng thống Dalton Wainright theo chân một gã nhân viên Sở Mật Vụ qua cửa căn phòng Tình Huống. Khi tổng thống tiến đến chiếc ghế dành cho ông ta ở đầu cái bàn dài bằng gỗ đào, gã cận vệ thuộc Sở Mật Vụ dừng lại ở góc phòng bên phải cửa vào; từ chỗ này, gã có thể quan sát nguyên căn phòng mà không cần nhúc nhích gì hết.
 
Trước kia, khi các màn hình phải được chiếu hình từ những máy phóng ảnh LCD gắn trên trần phòng, phòng Tình Huống phải nằm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Ngày nay, máy phóng ảnh đã được thay thế bằng sáu máy TV dẹp lớn đặt dọc theo hai bên chiều dài căn phòng và một TV khổng lồ chiếm nguyên vách tường đối diện với ghế dành cho tổng thống. Không còn máy phóng ảnh, không có lý do gì để tắt bớt đèn, nên căn phòng sáng trưng.
 
Tuy nhiên tổng thống Wainright sẽ không nhìn nhận với bất cứ ai, kể cả chính ông, là ông thích cảnh tối mờ của xưa kia hơn. Không phải là ông nhớ nhung gì cái vẻ thần bí của cảnh tranh tối ấy, mà là cái tính cách ẩn nặc, cái cảm giác giả tạo nhưng dễ chịu rằng mình đang vô hình mà đôi khi người ta cảm thấy khi đang xem phim trong bóng tối ấm cúng của một rạp chiếu phim.
 
Wainright không thấy thoải mái chút nào trong cái công việc của mình. Ông không phải là người đầu tiên trong cái chức vị này cảm thấy như thế, nhưng cái cảm giác bất ổn của ông không có cùng nguồn gốc với những người khác. Biết bao chính trị gia đã cực khổ cả đời để được lọt vào phòng Bầu Dục (Oval Office, tên gọi văn phòng tổng thống), để rồi khám phá ra rằng công việc này quá lớn, quá nhiều thử thách và không béo bở gì để phải tốn bấy nhiêu công sức.
 
Cái đó không phải là trường hợp của Wainright. Như phần đông những người làm chính trị, đôi khi ông cũng từng mơ đến cái ghế tổng thống, nhưng chỉ là mơ mộng chơi thôi. Ông chưa từng có ý định biến các giấc mơ ấy thành sự thật; và vì thế, ông không hề bất ngờ khi phát hiện ra chức vụ tổng thống làm ông chới với như bị ngập trong nước sâu.
 
Ông đã rất hài lòng với vị trí thượng nghị sĩ ít thâm niên hơn của tiểu bang Maine (chú thích: mỗi tiểu bang có hai thượng nghị sĩ), vui lòng khi nghĩ rằng sự nghiệp của ông đã đạt đến đỉnh điểm. Lời mời tham gia vào liên danh ứng cử tổng thống chung với Frank Chandler đã làm ông thật ngạc nhiên. Wainright đã nhận lời ứng cử chức vị phó tổng thống, không phải vì ông tin Chandler sẽ đắc cử mà là vì ông cảm thấy đây là một cách hợp lý để kết thúc sự nghiệp chính trị của mình.
 
Có lẽ ngoại trừ Chandler ra, không ai bị chấn động hơn Wainright khi cuộc vận động tranh cử của đảng Cộng Hòa đối lập với họ bỗng nhiên sụp đổ sau một vụ tai tiếng về tình dục bị làm ầm ỉ lên. Phản ứng dữ dội của dư luận đã đưa Frank Chandler tọt vào phòng Bầu Dục, cùng với Dalton Wainright còn khá sửng sờ bám theo đuôi áo.
 
Giờ đây Chandler cũng đã rời khỏi, bị sự công phẩn của quần chúng truất phế, sau vụ thất bại lớn ở Kamchatka và vụ phi đạn tập kích Trân Châu cảng (được tường thuật trong một tác phẩm trước). Sự ra đi của lão ta đã biến Dalton Wainright thành vị phó tổng thống thứ nhì trong lịch sử Mỹ được tiến vào phòng Bầu Dục sau khi tổng thống tại vị từ chức.
 
Trong nhiệm kỳ của ông ở Thượng Nghị Viện, một ký giả của tờ Washington Post đã từng mô tả Wainright là ‘giỏi dắn, chăm chỉ, nhưng không nổi bật”. Ngồi dưới ánh đèn sáng trưng của căn phòng Tình Huống, Wainright đang tự hỏi phải chăng cái khen ngợi nhỏ nhoi ấy là quá lời. Mặc dù không sáng rực, ông cũng đã xứng với cái ghế thượng nghị sĩ của ông. Khi ấy, ông cũng biết mình đang làm gì và đã đảm đương được mọi thử thách.
 
Còn chức vị tổng thống là một chuyện khác. Ông vẫn xứng với hai từ ‘chăm chỉ’ và ‘không nổi bật’, nhưng ông thật hoài nghi mình có giỏi dắn đủ để ngồi ở vị trí cao nhất trong quốc gia hay không.
 
-***-
 
Đúng theo nghi thức, sáu-bảy người quanh chiếc bàn dài đang đứng nghiêm. Wainright ra hiệu cho họ ngồi xuống và ông cũng ngồi xuống ghế của mình.
 
Viên sĩ quan trực phòng Tình Huống, một vị đại tá Không quân với gương mặt nghiêm khắc, đeo kính gọng viền sắt, vẫn đứng ở cuối bàn. Hắn gật đầu chào vị tổng tư lệnh. “Xin chào buổi tối, ngài tổng thống.”
 
Wainright mở tấm bìa cứng màu xanh đặt trước mặt, đựng tài liệu sẽ được thuyết trình và ngước nhìn vào mắt viên đại tá. Ông gật đầu nhanh đáp lễ. “Bắt đầu đi.”
 
Viên sĩ quan trực chỉ cây điều khiển về phía cái màn ảnh khổng lồ đối diện Wainright. Nền ảnh xanh lơ cùng với huy hiệu tổng thống biến mất khỏi cái màn ảnh rộng cả vách tường và được thay bằng bản đồ của một phần châu Á, bên trên có hằng trăm ký hiệu chiến thuật khó hiểu. Sáu màn ảnh nhỏ hơn dọc theo hai vách tường lập tức chiếu hình ảnh những chiếc chiến hạm, máy bay tiêm kích, tàu ngầm, trực thăng và hệ thống phi đạn.
 
Viên sĩ quan trực quay sang màn ảnh chính và nhấn một cái nút để biến cây điều khiển thành con trỏ laser. Điểm đỏ của ngọn laser dừng lại trên một vùng nước phía đông Ấn Độ, vịnh Bengal; nơi đây, có một đám ký hiệu nhiều màu lộn xộn dường như để biểu thị một nhóm tàu và máy bay.
 
“Thưa ngài tổng thống,” viên sĩ quan nói, “cuộc đụng độ giữa Trung quốc và Ấn Độ đang leo thang nhanh chóng. Cả hai bên đang điều động quân cụ từ đủ mọi nơi và cả hai đều đã chứng minh rằng họ sẵn sàng đụng chạm quân sự.”
 
Bộ trường Quốc Phòng Mary O’Neil-Broerman lên tiếng. “Tình hình ở đó đã tuột vào vực thẳm rồi đó, thưa ngài.”
 
“Tôi thấy được chứ.” Wainright nói. “Tôi muốn biết là tại sao.”
 
Ông lập tực hối hận đã dùng giọng gay gắt như thế. Ông có khuynh hướng trở nên nóng nảy khi ông không tự tin, mà hiện tại ông đang cực kỳ không tự tin.
 
Từ cái ngày mà ông thừa hưởng chức vị tổng thống, mỗi ngày ông đều bắt đầu bằng một lời cầu nguyện thật đơn giản, có lẽ ông nhắm vào toàn thể vũ trụ vì lời cầu xin của ông không hướng đến một vị thần linh nhất định nào cả. “Xin đừng để xảy ra chuyện gì mà tôi không ứng phó nổi.”
 
Cho đến nay, ông vẫn lò mò qua ngày mà không gây ra tai họa nào cả, phần lớn là do lão Frank Chandler đã để lại cho ông một nhóm nhân viên rất tài giỏi có thể giúp ông vượt qua các tình huống khó khăn. Nhưng mà ông cũng đã rất may mắn. Định mệnh chưa trao cho ông một vấn đề nào vượt qua khả năng của ông.
 
Vận may của Wainright không thể nào cứ kéo dài như thế mãi được. Ông biết thế. Sớm hay muộn mà thôi. Ông sẽ đụng phải một thử thách hay tai họa nào đó quá lớn đối với ông. Thế là người dân Mỹ sẽ biết ngay mọi chuyện có thể tệ hại như thế nào khi mà cái tên ngồi trên cái ghế cao vời ấy lại không đủ khả năng.
 
“Thưa ngài tổng thống, chúng tôi chỉ có thể trả lời câu hỏi của ngài phần nào thôi ạ.” Viên sĩ quan trực nói. “Căn nguyên có lẽ là vụ lật xe lửa ở Tây Tạng hôm thứ Ba, vụ tấn công đường xe lửa Thanh Hải bằng tên lửa ấy mà. Khói của vụ lật xe còn chưa tan, Trung quốc đã kêu đó là một vụ khủng bố. Dường như họ đã tra ra đám khủng bố ở ngôi làng Geku, trên Hi Mã Lạp Sơn bên phía Ấn Độ. Quân Giải Phóng Nhân Dân trả đủa bằng một vụ tập kích khổng lồ bằng phi đạn đã xóa ngôi làng khỏi bản đồ.”
 
“Không thể nào!” Ông tổng thống nói. “Người Trung quốc đâu có ngốc, mà cái đó là phản ứng quá mức rồi. Đâu có thể nào trả đủa một hành vi khủng bố địa phương bằng cách tập kích một quốc gia khác với quy mô lớn như thế được chứ.”
 
Bà bộ trưởng Quốc Phòng chồm người ra phía trước. “Thưa ngài tổng thống, xin thứ lỗi, cái đó cũng không nhất định là đúng. Nước Mỹ đã từng làm như vậy nhiều lần rồi. Thí dụ đầu tiên là vào tháng 8 năm 1998, khi mà tổng thống Clinton ra lệnh phóng phi đạn hành trình Tomahawk vào Afghanistan và Sudan. Chuyện này là để trả đủa hai vụ đặt bom tòa sứ quán của ta ở Kenya và Tanzania. Khi ấy, chúng ta cùng lúc phóng khoảng 75 phi đạn vào hai quốc gia nằm ở hai châu khác nhau.”
 
Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, Gregory Brenthoven, lắc đầu. “Mặc dù tiên đề của bà là đúng, nhưng mà thí dụ của bà không khớp với rắc rối hiện tại ở Á châu.”
 
Hắn quay sang tổng thống. “Khi cựu tổng thống Clinton hạ lệnh phóng phi đạn, ông ấy biết rằng cả Afghanistan lẫn nước cộng hòa Sudan nằm cách nước Mỹ một khoảng cách xa. Khoảng 10-11 ngàn km gì đó. Tổng thống Clinton còn biết là cả hai nước ấy đều không có hỏa lực hay phương tiện để phản kích vào đất Mỹ. Nói cách khác, khả năng leo thang lên chiến tranh toàn diện coi như không.”
 
Brenthoven chỉ về phía bản đồ Á châu trên màn ảnh chính. “Vụ rắc rối Trung-Ấn này không cùng tình huống ấy, thưa ngài. Không phải Trung quốc phóng phi đạn vào một nước thuộc đệ tam thế giới nằm phía bên kia trái đất. Mà họ đã khiêu khích một đối thủ cỡ lớn đang cạnh tranh quân sự với họ, mà còn là một nước hạt nhân nữa, nằm ngay ở biên giới phía nam của họ. Và cái này không hợp lý chút nào cả. Đúng như ngài đã nói, thưa ngài tổng thống, người Trung quốc không ngốc. Nếu có ai dám đấm Ấn Độ vào ngay lỗ mũi, mình nên cược tới đồng đô-la cuối cùng là Ấn Độ sẽ trả đủa bằng cả hai quyền ấy chứ. Người Trung quốc biết điều đó. Vậy mà họ vẫn làm thế.”
 
Ông tổng thống ngước nhìn bản đồ. “Tại sao họ lại làm thế chứ? Tại sao họ lại liều lĩnh ngu xuẩn như vậy?”
 
“Chúng tôi chưa biết, thưa ngài.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia nói. “Nhưng ngay bây giờ, chúng ta phải trả lời một câu hỏi lớn hơn. Chúng ta phải làm gì đây?”
 
“Tôi đã nói chuyện với chủ tịch của hội đồng Tham Mưu trưởng Liên Quân rồi.” Bà bộ trưởng Quốc Phòng nói. “Ông ấy đang soạn một bản thuyết trình chiến thuật đầy đủ. Khi làm xong, ông ấy sẽ bàn thảo chi tiết, nhưng nói chung, ông ấy đề nghị chúng ta cho một chiếc tàu sân bay đến vùng ấy càng sớm càng tốt. Ý định là để thiết lập một sự hiện diện và hi vọng là có thể tạo thành một lực lượng cân bằng cho vùng này.”
 
Ông tổng thống chậm rãi gật đầu. “Ai đang ở vị trí tốt nhất?”
 
Tham mưu trưởng Hải quân, Đề Đốc Robert Casey, tằng hắng. “Thưa ngài tổng thống, đó là nhóm của chiếc USS Midway, đóng tại Yokosuka, Nhật Bản.”
 
Tổng thống quay sang vị đề đốc. “Mà chiếc Midway sẵn sàng ra khơi chứ?”
 
“Thưa ngài, vâng.” Viên đề đốc đáp. “Chiếc Midway chính là chiếc hàng không mẫu hạm sẵn sàng của chúng ta (chú thích của dịch giả: Hải quân Mỹ luôn có hạm đội luân phiên trong trạng thái nghỉ ngơi và sẵn sàng ở mỗi khu vực trên thế giới; nên bao giờ HQ Mỹ cũng có thể tham chiến tại mọi nơi sau một thời gian chuẩn bị cực ngắn). Nó có đủ số tàu hộ vệ và tất cả có thể khởi hành trong vòng vài giờ.”
 
“Tốt lắm.” Tổng thống nói. “Làm như vậy đi. Cho các chiếc tàu đó khởi hành đi. Chúng ta sẽ tính toán chi tiết sau, trong khi chúng đang trên đường.”
 
Ông ngắm nhìn cái màn ảnh chiếm cả vách tường, tràn ngập những ký hiệu kỳ quái và ông bắt đầu thắc mắc phải chăng hôm nay là ngày mọi chuyện bắt đầu hỏng bét.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:33:19
0
Chương 12
Quảng trường Barkhor
Thành Phố Lhasa, Tây Tạng
Thứ Bảy, ngày 23 tháng 11, 09:24, giờ địa phương
 
Cho dù sau này chính phủ và báo chí Trung quốc có nói gì đi nữa, thì đó cũng không phải là một vụ bạo loạn.
 
Mục sư Bill McDonald nhìn xuống từ cửa sổ phòng khách sạn ở tầng hai khi dân chúng bắt đầu tụ tập trên quảng trường bên dưới. Ban đầu chỉ là một nhóm nhỏ sư sải mặc cà sa tím. Hắn tự hỏi phải chăng họ đến đây để tụng kinh, hay thiền hay chỉ đơn giản là để gặp gỡ và trò chuyện tại cửa của ngôi chùa Jokhang nổi tiếng.
 
Nhưng chẳng bao lâu sau, dân chúng mặc thường phục cũng nhập đoàn và nhiều người hơn nữa xuất hiện từ những con đường bên cạnh hoặc từ những ngỏ hẽm, bắt đầu tiến vào quảng trường. Nhóm người nhỏ mau chóng biến thành nhóm người lớn; và nhóm người lớn trở thành một đám đông. Vậy mà dòng người vẫn còn không dứt. Dần dần các màu sắc đỏ, xanh dương, vàng, trắng và xanh lục của lá cờ ‘Tuyết Sư’ của Tây Tạng bắt đầu xuất hiện, đôi khi được vung vẫy bên trên một tấm biểu ngữ, đôi khi quấn quanh thân một người nào đó như một tấm áo choàng.
 
Khi các lá cờ lộ ra, McDonald hiểu ngay rằng hắn đang chứng kiến một sự kiện không bình thường rồi. Lá cờ Tuyết Sư biểu tượng cho sự độc lập của Tây Tạng và điểm tập kết của các hoạt động giành độc lập. Do vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 đưa ra dùng vào năm 1912, lá cờ này vẫn là cờ chính thức của Tây Tạng cho đến khi vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 vượt thoát khỏi sự chiếm đóng của Trung quốc qua Ấn Độ năm 1959. Ngày nay, hơn nửa thế kỷ sau, nó đã trở thành biểu hiệu cho sự tự trị của Tây Tạng, một cách nhắc nhở đến những ngày tháng trước cuộc xâm lăng của Trung quốc và một hứa hẹn tự do trong tương lai.
 
Người Trung quốc thì coi lá cờ Tây Tạng như một huy hiệu của khủng bố và hỗn loạn. Họ đã cấm chỉ hành vi sở hữu lá cờ này trong lãnh thổ được Trung quốc kiểm soát, kể cả Tây Tạng. Trưng bày lá cờ nơi công cộng sẽ bị trừng trị nhẹ nhất là tù tội.
 
Tuy nhiên, đứng ở cửa sổ, McDonald có thể thấy ít nhất là 50 lá cờ này. Đám đông trên quảng trường Barkhor đang công khai vi phạm lệnh cấm này. Đây rõ ràng là một cuộc biểu tình phản kháng cở lớn. Lúc này đã có khoảng gần ngàn người trên quảng trường rồi, nhưng vẫn còn nhiều người hơn nữa đang gia nhập.
 
Cửa sổ của hắn đang đóng kín, nhưng hắn vẫn nghe được âm thanh từ đám đông, hàng trăm người đang cùng hô hò khẩu hiệu. Không la hét, không đe dọa. Chỉ cùng hô khẩu hiệu một cách trầm bổng. Tiếng hô nghe thật kỳ quái, thê lương mà mạnh mẽ, nhưng hoàn toàn yên bình.
 
Sự hiện diện của McDonald tại Tây Tạng không có liên quan gì đến chính trị hay báo chí cả. Hắn không phải đến đây để thu thập tư liệu về tình trạng dân chúng Tây Tạng hay để chất vấn gì sự chiếm đóng của Trung quốc trên mảnh đất đã từng tự chủ này. Ngoài ý đồ mở mang đầu óc của mình ra, hắn không có ý đồ nào khác. Hắn đến đây chỉ là để học hỏi với các nhà sư và tìm hiểu xem cái đạo của họ có giúp ích gì cho chính hắn trên con đường tìm đạo của mình hay không.
 
Trong thời chiến tranh Việt Nam, hắn đã từng là một xạ thủ và trưởng phi hành đoàn trong đại đội 128 Trực Thăng Tấn Công của Lục quân Hoa Kỳ. Hắn đã thực hiện không biết bao nhiêu chuyến công tác, thường là ngồi vắt vẻo bên cánh cửa của chiếc trực thăng Huey với một khẩu đại liên M-60 kẹp giữa đôi chân. Hắn đã từng bị bắn hạ hai lần, bị thương do đạn địch một lần và, quan trọng hơn cả, là hắn đã được thay đổi.
 
Bill McDonald đã trở về từ Việt Nam với một huy chương Distinguished Flying Cross (huy chương Thập Tự chứng nhận chiến tích phi hành), một huy chương Sao Đồng (Bronze Star chứng nhận chiến đấu anh dũng), 14 huy chương Phi Hành (Air medal) và một huy chương Tử Tâm (Purple Heart, trao tặng cho chiến binh bị thương trong chiến trận; mỗi lần bị thương, được trao tặng một Tử Tâm); nhưng trên chuyến bay trở về Hoa Kỳ, hắn đã mang theo một thứ còn quan trọng hơn tất cả các huy chương đang được cất giấu cẩn thận trong túi hành trang quân dụng. Hắn mang theo một tài sản tâm linh sâu sắc của riêng hắn.
 
Giữa nỗi kinh hoàng của chiến tranh, hắn đã phát hiện ra sự liên kết của riêng hắn với vũ trụ. Hắn đã trở thành thứ mà hắn gọi là “chiến sĩ tâm linh”. Hắn không còn suy nghĩ về chiến thắng quân địch. Hắn chỉ còn tập trung tinh thần để chiến thắng tâm hồn của chính mình và tìm hiểu chỗ đứng của mình trong vũ trụ tâm linh.
 
Nếu hắn không sai về tâm tính của chính phủ Trung quốc, chính quyền sẽ phản ứng vừa nhanh vừa hung bạo. Suốt vài chục năm qua, hắn đã cố gắng né tránh chính trị và bạo lực, nhưng giờ đây hắn vô tình đang ngồi ở vị trí tốt nhất để mục kích cả chính trị lẫn bạo lực.
 
Một phần trong hắn muốn quay đi khỏi cái cửa sổ để hắn khỏi bị lôi kéo vào cuộc xung đột sắp diễn ra, dù rằng chỉ với tư cách khán giả. Nhưng một phần khác của hắn lại hiểu rằng con đường tầm đạo cũng là tìm hiểu sự thật. Không cần biết chuyện gì sẽ xảy ra tại quảng trường Barkhor sáng nay, sau đó chính phủ Trung quốc sẽ dùng mọi quyền lực để chi phối dư luận quần chúng.
 
Dù muốn dù không, mục sư William (Dịch giả: Bill là viết tắt cho William) H. McDonald sắp trở thành chứng nhân của lịch sử. Nếu mà sự thật cần được phơi bày từ sự kiện sáng nay, hắn phải mang cái trách nhiệm đó.
 
Bill tháo cây gài cửa sổ và mở cửa sổ hé ra vài phân. Khi khe hở mở rộng ra hơn, tiếng hô hò của đám đông lớn hơn và rõ hơn.
 
Hắn tìm được chiếc điện thoại di động và mò mẩm tìm được cái hình biểu tượng cho máy thâu hình. Hình ảnh trên màn ảnh di động rõ nét và sáng sủa. Hắn không biết bộ phận thu âm nhỏ xíu có thâu nổi âm thanh dội lên từ phía dưới hay không. Hắn không biết làm sao để kiểm tra hay điều chỉnh mức thâu, cũng không biết máy có khả năng điều chỉnh hay không nữa. Hắn bèn quyết định kèm vào lời trần thuật, để cho khúc video dễ hiểu hơn, trong trường hợp âm thanh quá nhỏ hay quá rè để có thể hiểu được.
 
“Tên tôi là William H. McDonald.” Hắn nói. “Bây giờ là khoảng chín giờ ba mươi sáng, thứ Bảy, ngày 23 tháng 11. Tôi đang đứng ở cửa sổ của phòng tôi trên tầng hai, một khách sạn trước quảng trường Barkhor, thành phố Lhasa ở Tây Tạng.”
 
Hắn chậm rãi đảo máy quay phim sang phải, rồi sang trái, cố gắng thu hình cả đám đông. “Như quý vị có thể thấy, một đám người đông đảo, tôi đoán từ khoảng vài trăm đến ngàn người, đang tụ tập trên quảng trường. Họ đang hô hào khẩu hiệu, nhưng tôi chỉ biết lỏm bỏm vài từ Tây Tạng, nên tôi không rõ họ đang nói cái gì. Nhưng tôi muốn nói rõ đây là một cuộc tụ tập yên bình. Không có dấu hiệu bạo động nào, hay hành vi phá phách nào. Đây không phải là một đám hỗn tạp. Đây là một cuộc biểu tình hòa bình và có trật tự.”
 
Hắn dừng lại vài giây, phân vân không biết có nên nói gì thêm nữa không.
 
“Tôi không biết máy thâu hình của tôi có thâu được tiếng của họ hay không.” Hắn tiếp. “Tôi hi vọng nó thâu được, vì tiếng hô hò này, hay ca hát… hay là gì đó… thật là hay. Tôi chưa từng được nghe thứ gì như vậy…”
 
Hắn thôi nói, nhưng tiếp tục đảo máy qua lại để thu hình đám đông từ mọi khía cạnh mà khung cửa sổ cho phép. Hắn tính đi xuống quảng trường để có thể thu được nhiều hơn, nhưng lại quyết định thôi không đi. Có lẽ chỗ này cho hắn tầm nhìn tốt hơn và, nếu công an xuất hiện hay đúng hơn, khi công an xuất hiện, chúng sẽ tịch thu máy thu hình của hắn ngay khi nhận ra nó là thứ đồ gì. Nếu hắn ở lại phòng, hắn tin rằng hắn rất có hi vọng đem máy và hình ảnh đã thu được ra khỏi nước.
 
Lực lượng công an xuất hiện không bao lâu sau và McDonald cẩn thận thu hết.
 
“Tôi thấy ba chiếc xe tải chạy đến quảng trường.” Hắn nói. “Mỗi chiếc chứa khoảng 30, hay có thể là 50, người được vũ trang, dường như ăn mặc và trang bị chống bạo động. Tôi không nhận ra được đây có phải là quân đội hay cảnh sát chiến thuật đặc biệt nào đó, nhưng họ quả thật được trang bị nặng.”
 
“Họ đang leo xuống xe, lập trận hình ở ba nơi. Trông không giống như họ đang thiết lập một chu vi hay đang bao quanh đám đông.” Hắn lại dừng. Hắn lắng nghe suốt nhiều giây tiếng hô hò khẩu hiệu nhịp nhàng, không ngừng của đám đông. Những người trong quảng trường đã thấy các nhóm quân vũ trang lập trận hình, nhưng họ không có vẻ gì là muốn chống cự hay tháo chạy cả.
 
Đám đông dường như đứng khít vào nhau hơn như để tăng thêm can đảm và quyết tâm cho nhau. Giọng hô hò hơi xao động nhưng không tắt đi. Nhịp hô rất nhanh lại đều trở lại.
 
McDonald vừa đang định nói lên các nhận xét của hắn thì nghe tiếng bụp-bụp của những quả lựu đạn hơi cay. Hắn thấy nhiều lon khói rơi vào đám đông, rồi đám đông tản ra khỏi các cụm khói trắng phun ra từ các lon ấy.
 
Khói cay! Hắn đã gặp phải thứ này trong các buổi huấn luyện chiến tranh hóa học thời còn ở quân trường và đã từng thấy nó được sử dụng trong thực chiến nhiều lần ở Việt Nam. Hắn lại trông thấy hình ảnh quen thuộc của những người vừa ôm mặt, vừa nôn ọe khi hít phải một ngụm khói trắng, rồi lảo đảo thụt lùi tránh cụm khói. Đám đông có trật tự bỗng biến thành một đám nhốn nháo và sợ hãi.
 
“Họ dùng đạn khói.” McDonald nói. “Tôi đoán là khói cay. Không rõ là thứ gì, nhưng chắc chắn có hiệu quả rồi. Tôi nghĩ…”
 
Nhưng hắn không bao giờ thu được những cảm nghĩ của hắn nữa, vì sự chú ý của hắn chợt bị tiếng súng phá tan, tiếp theo là những tiếng rú kinh hoàng và đau đớn.
 
Hắn thoáng cảm thấy buồn nôn khi hóoc-môn adrenalin chợt cuộn tràn trong mạch máu, phát ra hiệu lệnh cổ xưa thôi thúc hắn bỏ chạy trước nguy hiểm. Hắn cảm thấy lòng bàn tay ứa mồ hôi và một âm thanh leng-keng kỳ lạ nơi tai không liên quan gì với âm vang tiếng súng.
 
Hắn nhanh chóng đảo mắt nhìn quanh, cố gắng tìm nguồn gốc của tiếng súng. Hắn thấy nhiều người trong số lính chống bạo động đã tháo súng khỏi vai. Hắn đưa vội máy thu hình trong chiếc di động qua và kịp thời thu được cảnh cả chục người mặc đồng phục đang khai hỏa vào đám dân thường nhốn nháo. Tiếng súng nổ dòn dã, từng tràng ba viên đúng theo phương pháp tác chiến.
 
Bao nhiêu ý định bình luận gì đó đã bay khỏi đầu óc của Bill McDonald rồi. Hắn thấy một số lớn người biểu tình bật người và loạng choạng khi trúng đạn. Máu văng tung tóe. Người ta ngã xuống đất. Mọi thứ được bao trùm trong tiếng súng vang nhanh và tiếng rú. Đây đầu phải là chống bạo động gì. Đây là thảm sát. Nhưng tại sao chứ?
 
Không phải mọi tên lính hay công an đều nổ súng. Đúng ra, phần đông không hề nổ súng. Có phải là họ đã được lệnh nổ súng, nhưng nhiều người không nghe lệnh? Hay là họ không hề được lệnh, nhưng một số đã tự mình quyết định khai hỏa? Thật là không hợp lý gì cả.
 
McDonald nhớ là có nghe tin tức trên truyền hình về một vụ tấn công một chuyến xe lửa chở lính Trung quốc cách đây vài ngày. Đây có phải là một sự trả đủa cho cuộc tấn công ấy không? Một sự trừng phạt chính thức? Hay một vụ phục thù đột xuất… Lính Trung quốc đang sẵn căm hận, lại đụng phải đám người Tây Tạng biểu tình phản đối ngay trước họng súng…
 
Càng suy nghĩ, Bill McDonald càng cái ý nghĩ sau là đúng. Cuộc biểu tình chỉ mới diễn ra chưa đầy một tiếng đồng hồ. Chừng đó không đủ thời gian cho các nhân vật cao tầng của Trung quốc quyết định và ưng chuẩn một kế sách dùng đòn sát thủ với đám đông này. Ngoài ra, trận này bắt đầu bằng khói cay. Cái đó cũng đã đủ cho đám đông tản đi rồi. Bằng không, nếu ý đồ là tận diệt đám phản kháng này, thì cách làm khôn ngoan nhất là quây họ lại, để có thể tập trung hỏa lực vào.
 
McDonald tiếp tục quét máy thu hình qua lại. Quảng trường đã gần như vắng người rồi, chỉ còn những người đã ngã gục, không còn đi đâu được nữa. Sau khi súng bắt đầu nổ, nhóm người vũ trang cũng không hề ngăn cản dân chúng trong cuộc biểu tình bỏ chạy. Điều này cũng tăng trọng lượng cho cái quan điểm rằng vụ nổ súng này không có kế hoạch từ trước, mà là do lòng căm phẫn và bạo lực trong nhất thời.
 
Đây là thứ mà hắn muốn lánh xa trong khi quyết định lên đường tầm đạo. Mọi khó khăn trên thế giới này không thể nào dùng súng để giải quyết được. Mà các thi thể dưới kia, khoảng 80 hay 100 thi thể, là minh chứng cho điều đó.
 
Ngay cả bọn lính cũng có vẻ sững sờ vì những gì đã xảy ra. Chúng chỉ đứng chộn rộn tại chỗ cả phút, rồi mới bắt đầu khó nhọc tiến đến các thi thể, kiểm tra xem có còn người sống hay không.
 
McDonald tắt máy thu hình và thụt lùi khỏi khung cửa sổ. Qua một lúc rất ngắn nữa, không chừng chỉ vài giây, bọn lính sẽ thoát ra khỏi sự sững sốt và bắt đầu truy tìm các nhân chứng. Một người nước ngoài mang theo một máy thâu hình sẽ thật không ổn nếu bị chúng bắt gặp.
 
Hắn nhét chiếc di động vào túi quần và rời khỏi khách sạn đến một ngõ hẻm, từ một cánh cửa phía đối diện với quảng trường. Mười phút sau đó, hắn đã ở cách đó 6 con phố, giả vờ ngắm nghía hàng hóa trong một cửa tiệm chuyên bán cho du khách. Hắn chẳng cần hay muốn một món quà kỷ niệm nào cả, nhưng nơi này đã cách hiện trường đủ xa rồi, và hắn nhất định không xuất hiện trên đường phố cho đến khi mọi thứ đã được dọn dẹp xong và nhóm lính chống bạo động kia đã rời khỏi.
 
Hai bàn tay của hắn vẫn còn run lẩy bẩy và hắn phải nhét chúng vào túi quần. Chiếc điện thoại di động đụng vào tay hắn, mang lại cảm giác trơn láng và ấm áp. Ngoài hắn ra, không ai có thể biết chiếc di động chứa những gì trong bộ nhớ. Hắn dự tính sẽ đợi đến lúc hắn đã ở thật xa khỏi lãnh thổ Trung quốc rồi mới tiết lộ cái mãnh vụn lịch sử chứa trong đó.
 
Theo bản năng, ý tưởng đầu tiên của hắn là tìm một chuyến bay rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt, nhưng đó có lẽ không phải là việc làm khôn ngoan. Tốt hơn là nên đợi ba ngày và cứ theo cái lộ trình mà hắn đã định từ trước. Nếu hắn đột nhiên thay đổi lộ trình, chính quyền Trung quốc có thể sẽ thắc mắc tại sao gã du khách Mỹ này lại khẩn trương rời khỏi lãnh thổ của họ như thế. Tốt nhất là kiên nhẫn. Như thế sẽ an toàn hơn.
 
Đến khi hắn đặt chân được đến vùng đất bạn, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có lẽ đã thi hành biện pháp quản lý chặt chẽ mọi thông tin rồi. Dựa theo lịch sử, hầu như chắc chắn chính phủ Trung quốc sẽ hoàn toàn che đậy sự kiện vừa rồi, phủ định rằng đã từng có một vụ tắm máu. Mà cho dù có công nhận rằng có vụ nổ súng, có lẽ họ cũng sẽ cố gắng che đậy tầm vóc của cuộc biểu tình và con số thương vong. Họ sẽ tuyên bố rằng các báo cáo về thương vong chỉ là sự thêu dệt của bọn phản động mà thôi. Họ còn có thể đổ tất cả lên đầu dân chúng trong cuộc biểu tình, tố cáo là họ đã có hành vi bạo lực đối với công an hoặc quân đội.
 
Nhưng mà, cho dù là thẳng thừng phủ nhận hay tung tin vịt, gần như chắc chắn là chính quyền Trung quốc sẽ làm tất cả để che giấu sự thật khủng khiếp đã xảy ra hôm nay ở đây. Đoạn phim trong chiếc di động của McDonald là bằng chứng tuyệt đối sẽ làm tan nát mọi sự phủ nhận hay thoái thác của bọn chúng. Nếu chúng tìm được nó, hắn không hoài nghi gì rằng bọn chúng sẽ không từ bất cứ thủ đoạn nào để hắn im miệng.
 
Kế hoạch không dính líu gì đến chính trị của hắn có vẻ như không xong rồi, nhưng có lẽ đây là vận mệnh. Có lẽ, tại thời điểm này trong cuộc đời của hắn, vận mệnh của hắn là ‘không được’ xa lánh cuộc sống nhân loại mà phải là kẻ đưa sự thật ra ánh sáng.
 
Hắn sẽ nghiền ngẫm và cầu nguyện. Thường thì suy ngẫm và cầu nguyện sẽ làm tâm trí của hắn sáng tỏ hơn và kiên định hơn.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:36:46
0
Chương 13
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình
(trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia)
 
Năm 1915, bộ trưởng Hải quân Josephus Daniels thành lập một nhóm hội thảo gồm những nhà phát minh để giúp quân đội Hoa Kỳ làm các chuẩn bị để dự phòng khi phải tham gia vào cuộc Đại Chiến bên Âu châu, cái mà ngày nay chúng ta gọi là Thế Chiến thứ Nhất. Bộ trưởng Daniels nhận thấy rằng đầu những năm 1900, các kỹ thuật dùng trong chiến đấu đã phát triển với một tốc độ chưa từng có và ông lo rằng quân đội Hoa Kỳ không được trang bị và huấn luyện một cách đúng đắn cho chiến tranh cơ giới.
 
Tổ chức này được gọi là Ủy Ban Cố Vấn Hải Quân, gồm có 24 nhà phát minh được giao nhiệm vụ cung ứng ‘thiết bị và cơ sở để sử dụng thiên tư phát minh của người Mỹ trong việc ứng phó với các điều kiện mới trong chiến tranh’. Mò mẫm trong cái nhiệm vụ cao vời nhưng mù mờ ấy, ủy ban này không có cơ sở pháp lý nào, không có ngân sách, mà cũng không có nhân viên trong năm đầu tiên. Mãi đến tháng 8 năm 1916, Quốc Hội mới ưng chuẩn ngân sách là 25 ngàn đô-la và bấy giờ Ủy Ban Cố Vấn Hải Quân mới bắt đầu hoạt động.
 
Mặc dù được bộ trưởng Josephus Daniels đặt nhiều kỳ vọng, ủy ban không làm được điều gì đáng ghi nhận ngoài việc ưng chuẩn màu sơn ngụy trang cho thương thuyền tư nhân. Nhưng có một ngoại lệ đáng chú ý là sự khai triển của cái gọi là ‘ngư lôi bay’.
 
Là đứa con tinh thần của ông Elmer Sperry, một trong những nhà tiên phong trong việc áp dụng thực tế máy con quay, ‘ngư lôi bay’ được dự trù là một quả bom bay không người lái, có khả năng tấn công mục tiêu ở xa mà không cần người điều khiển hay can thiệp vào. Ông Sperry bị say mê bởi tiềm năng đáng kể của một vũ khí như thế và ông hi vọng sức phá hoại khủng bố ấy sẽ làm các quốc gia không còn dám khai chiến nữa.
 
Có một điểm cần ghi nhận là cái quan niệm của ông Sperry cho rằng chất nổ có thể làm người ta thoái chí, tuy ngày nay nghe có vẻ là khờ khạo, nhưng lại tương đối phổ biến trong các nhà chế tạo vũ khí ở đầu thế kỷ 20. Sperry và những người cùng thời đại tin rằng, nếu sự dễ sợ của chiến tranh có thể được đưa lên độ cao đủ, con người sẽ không còn cách nào khác hơn là từ bỏ chiến tranh. Đáng buồn thay, hai trận Thế Chiến, hằng hà sa số những cuộc chiến tranh nhỏ hơn và cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân trên toàn cầu đã phủ nhận cái lý thuyết ấy.
 
Ông Elmer Sperry có thể đã sai lầm khi dự đoán sự kết thúc của chiến tranh, nhưng viễn ảnh của ông về món vũ khí bay tự hành đã giành được sự để ý của Ủy Ban Cố Vấn Hải Quân. Năm 1917, ủy ban ký với hãng Sperry Gyroscope một hợp đồng trị giá 200 ngàn đô-la để chế tạo một quả ngư lôi bay.
 
Ông Sperry bắt đầu công việc bằng cách nghiên cứu một máy lái tự động dùng nguyên lý máy con quay và gắn nó vào một chiếc máy bay cánh đôi Curtiss N-9. Ông muốn bắt đầu bằng cách biểu diễn rằng một chiếc máy bay có thể tự điều hành mà không cần người nắm cần lái. Chiếc N-9 có một viên phi công để cất cánh và đáp xuống, nhưng ý định tối hậu là phi hành hoàn toàn tự động. Lúc này thì viên phi công còn được giao cho nhiệm vụ quan sát và báo cáo máy bay bay như thế nào dưới sự điều hành của máy lái tự động.
 
Sau một số lần bay thử thành công, ông Sperry chỉ huy việc chế tạo một chiếc ngư lôi bay đặc chế, được trang bị một động cơ hai-thì. Công việc sản xuất và lắp ráp chiếc máy bay mẫu được tiến hành bởi hãng Curtiss Aeroplane and Motor.
 
Chiếc ngư lôi bay mẫu được thiết kế để có thể chở một viên phi công, vì họ dự trù rằng cần có người để quan sát và trợ giúp tìm tòi và sửa chửa các sự thiếu sót, trong những chuyến thử nghiệm đầu tiên. Con trai của ông Sperry, ông Lawrence Sperry, chính là viên phi công thử nghiệm. Tuy ngày nay người ta không còn biết chính xác có bao nhiêu chuyến bay thử, nhưng được biết chắc là chiếc Ngư Lôi Bay Sperry đã rớt ít nhất là bốn lần dưới sự điều khiển của ông Lawrence Sperry. Tài liệu kỹ thuật còn sót lại đến nay cho thấy là các vụ trục trặc này là do chiếc mẫu bị hỏng máy, chứ không phải do lầm lỗi của viên phi công.
 
Mặc dù gặp phải những thử thách ấy, ông Elmer Sperry cuối cùng vẫn cảm thấy rằng chiếc ngư lôi mẫu đã đủ chín chắn để có thể hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của con người. Chuyến bay không người lái đầu tiên của chiếc Ngư Lôi Bay Sperry diễn ra vào ngày 6 tháng 3 năm 1918, ngày nay được xem là lần đầu tiên phi đạn điều khiển được phóng thành công.
 
Hoạt động hoàn toàn tự động, chiếc ngư lôi bốc lên từ vị trí phóng, đạt đến một độ cao đã được định trước, tiếp tục bay một cách êm ái và ổn định cho đến khi máy lái tự động kết thúc vụ thử nghiệm ở khoảng cách 1.000 mét như đã định trước. Chuyến bay đầu tiên của chiếc Ngư Lôi Bay Sperry thành công rực rỡ. Tiếc thay, sự thành công này không được lặp lại.
 
Các chuyến bay sau này không được như vậy: hoặc chiếc máy bay không người lái không bay ổn định được, hoặc bay lệch lộ tuyến đã được định sẵn, hoặc đơn giản hơn là đâm đầu xuống đất. Cuối cùng, các viên kỹ sư của hãng Sperry đành từ bỏ kiểu ngư lôi đặc chế ấy, mà quay trở lại chiếc Curtiss N-9 thử nghiệm để rà lại từ đầu sáng chế của họ.
 
-***-
 
Trong khi ông Sperry và hãng Curtiss còn chật vật với vô số khó khăn về kỹ thuật, Ủy Ban Máy Bay của Lục quân Hoa Kỳ quyết định khởi đầu dự án ngư lôi bay của riêng họ. Lục quân yêu cầu nhà sáng chế kiêm kỹ sư Charles Kettering phát minh một quả bom bay không người lái, có khả năng đánh vào một mục tiêu cách xa 65 km hay hơn nữa.
 
Năm 1917, ông Kettering đã từng quan sát những cuộc thử nghiệm của cái máy lái tự động của ông Sperry, nay chấp nhận cuộc thử thách sáng chế một quả ngư lôi bay này. Ông Kettering nhìn nhận tiềm năng của các cố gắng kỹ thuật của ông Sperry trong lãnh vực tự động điều khiển máy bay, nhưng ông muốn một phát minh rẻ tiền hơn và ít phức tạp hơn.
 
Trong khi trao đổi ý kiến với ông Orville Wright và hãng Dayton-Wright Airplane, ông Kettering chế tạo ra một khung máy bay nhỏ có cánh đôi hơi chếch lên; thân máy bay thuôn tròn làm bằng ván ép và giấy bìa. Động cơ là một cái máy De Palma 40 mã lực, được giữ nguội bằng không khí. Chiếc máy bay không người lái này dài 3,8 mét, nặng 240 kg và được cấu tạo để mang một đầu đạn nặng 82 kg.
 
Tên chính thức của nó là Ngư Lôi Bay Kettering, nhưng người ta bắt đầu gọi nó ngay từ đầu là Con Bọ Kettering, có lẽ vì hình dáng giống như con chuồn chuồn của nó.
 
Ông Kettering lập ra từng nhóm kỹ sư độc lập để nghiên cứu các phần khác nhau của dự án. Một trong các nhóm này chế tạo một thiết bị phóng máy bay rẻ tiền có thể chở đi dễ dàng, gồm một cái giàn bốn bánh chạy trên hai đường ray.
 
Mặc dù ông dự định phát minh một cái máy lái tự động rẻ hơn và đơn giản hơn cái máy của ông Sperry đã từng thử nghiệm trên chiếc N-9, ông Kettering không thành công chế tạo được một cái máy nào có thể hoạt động được. Cuối cùng, ông đành nhờ ông Elmer Sperry trợ giúp. Mặc dù hai người đang cạnh tranh, ông Sperry vẫn đồng ý giúp chế tạo máy lái tự động.
 
Cuối cùng, sau khi mọi khó khăn kỹ thuật sơ khởi đã được giải quyết, Con Bọ Kettering đã sẵn sàng được thử nghiệm vào tháng 9 năm 1918. Sau nhiều cuộc thử nghiệm sơ khởi dưới đất, chuyến bay thử đầu tiên được tiến hành vào ngày 2 tháng 10.
 
Chuyến bay bắt đầu bằng một màn cất cánh trơn tru, nhưng sau đó thì không ổn. Thay vì quẹo sang hướng đã được chỉ định và bay thẳng lại, Con Bọ tiếp tục bay thẳng lên không cho đến khi nó chết máy và đâm đầu xuống đất.
 
Chiếc Ngư Lôi Bay Kettering có một màn khởi đầu không tốt đẹp, nhưng một số chuyến bay thử nghiệm sau thì thành công hơn. Lục quân cũng hài lòng đủ để đặt mua 100 chiếc mẫu, nhưng chỉ mới khoảng 45 chiếc được sản xuất khi Hòa Ước được ký kết chấm dứt Thế Chiến I.
 
Thấy rằng không có nhu cầu cấp thiết gì với kỹ thuật này, mà thật ra cũng không có bao nhiêu ấn tượng tốt với thành quả đạt được đến thời điểm ấy, chính phủ Liên Bang quyết định nhập chung cả hai dự án ngư lôi bay của Hải quân và Lục quân. Thử nghiệm chung cho thấy phát minh của ông Sperry trội hơn, nên Con Bọ Kettering bị bỏ rơi.
 
Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thí nghiệm chút ít trong hai năm kế tiếp, trước khi hoàn toàn hủy bỏ dự án vào năm 1920.
 
Cuộc Chiến Để Chấm Dứt Mọi Chiến Tranh (tên thường gọi Thế Chiến I khi ấy) đã kết thúc và cũng chấm dứt luôn chương trình ngư lôi bay. Những người lạc quan tiên đoán một tương lai hòa bình và thịnh vượng trên toàn cầu, trong đó người ta sẽ không cần đến những dụng cụ chiến tranh nữa. Tiếc thay, họ đã sai rồi. Nhân loại còn chưa dừng chiến tranh, mà chiến tranh cũng chưa buông tha cho nhân loại.
 
Một cuộc chiến toàn cầu khác, còn quy mô hơn và dữ tợn hơn cuộc chiến đầu tiên, đang lấp ló nơi chân trời. Và các nhà lãnh đạo quân sự của cuộc chiến sắp tới sẽ không quên cái khái niệm dùng một quả bom không người lái để tiêu diệt kẻ địch từ khoảng cách xa.
 
Thế hệ đầu của vũ khí bay không người lái chưa từng tiến hành một cuộc tấn công trong hoàn cảnh thực chiến nào cả. Chúng chưa từng tiêu diệt một mục tiêu nào, chưa từng giết hại một quân địch nào. Tuy nhiên thế hệ thứ hai của loại vũ khí này chẳng bao lâu sau sẽ xuất hiện. Mà khi chúng xuất hiện, chúng sẽ thay đổi tất cả.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:39:04
0
Chương 14
Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103)
Tây Thái Bình Dương, phía Nam Nhật Bản
Chủ Nhật, ngày 23 tháng 11, 13:48, giờ địa phương
 
Trung tá Silva mở cửa phòng ăn dành cho sĩ quan, nhưng chưa kịp tiến vào, nàng đã nghe tiếng người nói chuyện. Âm thanh cuộc đối thoại chỉ nhỏ thôi, nhưng nàng vẫn nghe được rõ ràng.
 
“Cứt chó!” Người thứ nhất nói. “Chúng ta sẽ tham chiến thật sao? Mày không đùa tao chứ? Chúng ta sẽ làm thật sao?”
 
“Tao không biết mình có sẽ chiến đấu hay không.” Người thứ hai nói. “Đám cao tầng đâu có chia sẻ kế hoạch tác chiến với đám lính trơn cấp thấp chứ. Nhưng mà chúng ta đang lao đầu tới vịnh Bengal, mà đó là chỗ đang bắn nhau. Cái đó thì tao biết.”
 
Silva nhìn qua khung cửa mở. Phòng ăn không có ai cả. Các ghế ngồi đều được đẩy gọn gàng sát vào chiếc bàn dài và không có vật gì trên tấm khăn bàn màu xanh lơ, ngoại trừ dãy tách cà-phê úp trên những chiếc dĩa nhỏ, được xếp đặt ngay ngắn.
 
Nàng bước qua khung cửa và im lặng đóng cửa lại. Bây giờ nàng đã hiểu tiếng nói từ đâu tới rồi. Cái khung cửa sổ nhỏ thông qua bếp không được đóng kín. Một tấm cửa sắt có thể được kéo xuống để ngăn nhà bếp với phòng ăn và tạo sự kín đáo cho sĩ quan trong bữa ăn hoặc những cuộc họp. Khi tấm sắt được kéo lên, các thủy thủ phục dịch có thể chuyển các đĩa thức ăn qua lại giữa bếp và phòng ăn.
 
Lúc này, tấm cửa không được kéo xuống hoàn toàn, chừa ra một khe hở 10 cm. Tiếng nói của hai gã phục dịch từ đó thoát ra.
 
“Ờ.” Gã đầu tiên nói. “Nhưng mà tụi Ấn Độ và Trung quốc bắn nhau, phải không? Chúng ta chỉ ở đó vì lý do ngoại giao, hay cái gì ấy mà. Chúng ta đâu có phải đánh nhau.”
 
“Tao không biết.” Gã thứ hai nói. “Bọn tạp chủng điên khùng ấy đang phóng phi đạn tùm lum. Chúng ta có thể chui đầu vào ngay một cơn bão cứt, không cần biết kế hoạch vĩ đại kia là cái gì.”
 
Silva chợt cảm thấy muốn tằng hắng, hay tạo ra một âm thanh bất ngờ nào đó để cho hai gã thủy thủ trẻ kia biết vị hạm trưởng tương lai của họ đang ở trong phòng ăn. Không phải là nàng cần bọn gã rót cà-phê cho nàng. Nàng vui lòng tự rót lấy, nhưng mà nghe lén họ nói chuyện có vẻ bất lịch sự làm sao ấy.
 
Tuy nhiên… thật không dễ cho một sĩ quan chỉ huy được dịp tìm hiểu xem thủy thủ đang thật sự suy nghĩ thế nào. Qua một thời gian, một sĩ quan chỉ huy sẽ lập được một quan hệ với thủy thủ đoàn để có thể trao đổi vượt qua cái vực giữa sĩ quan và thuộc hạ, ít ra cũng một phần nào đó. Nhưng Silva còn là người mới trên chiếc Towers. Nàng chưa có thời gian để có một chút quen biết những người đàn ông và phụ nữ sau này sẽ trở thành các sĩ quan thuộc hạ của nàng, chứ đừng nói gì tới đám lính trơn.
 
Chẳng bao lâu nữa, nàng sẽ tiếp nhận quyền hạm trưởng, nhưng với các người này, nàng là một kẻ hoàn toàn xa lạ. Mà họ cũng là kẻ lạ đối với nàng. Lúc này, bao nhiêu băn khoăn khi nghe lén người ta nói chuyện riêng đã bị trấn áp bởi sự mong muốn được biết đám thủy thủ ở tầng thấp đang bàn luận những gì.
 
Nàng cầm một tách cà-phê lên, cẩn thận không phát ra âm thanh nào. Hai gã phục vụ vẫn tiếp tục tán gẫu.
 
“Mày nói đúng đó.” Gã đầu tiên nói. “Chiếc tàu này có khuynh hướng hay lọt ngay vào ống nhắm của người ta lúc mà bom đạn bắt đầu bay.”
 
Gã thứ hai cười khảy. “Anh bạn à, mày đã thấy mấy tấm hình kia chưa? Mấy thằng trong tổ của tao có mấy tấm hình chụp các hư hại lần bắn nhau trước, trên vùng biển băng Nga ấy. Khẩu pháo trước bị nổ văng mất tích. Hoàn toàn mất tích đó! Không còn gì ngoài một cái lỗ trên sàn tàu.”
 
“Tao có nghe đến cái đó.” Gã thủy thủ kia nói. “Nhưng tao chưa thấy tấm hình nào cả.”
 
Silva đã xem qua hình chụp những thiệt hại trong lần ra trận trước và cả hình chụp các thiệt hại trong lần ra trận trước đó nữa. Hai gã nhóc này nói đúng: chiếc Towers quả thật là hay chui đầu vào những chỗ đánh nhau dữ nhất.
 
Nàng tự rót một tách cà-phê từ cái bình đặt trên bếp điện. Nước cà-phê đen thui, mà mùi thì gay mũi. Một gã thủy thủ già sẽ gọi đó là cà-phê Hải quân ngon, nhưng Silva không thích cà-phê đã hâm trên bếp quá lâu. Nhưng nàng uống được, chứ không muốn gián đoạn buổi thu thập tình báo bất ngờ này để đòi một bình cà-phê mới pha.
 
Nàng nhìn chất nước đen thui với vẽ nghi ngại, nhưng quyết định chỉ cần tăng gấp đôi số lượng sữa sẽ làm cái vị than cháy đỡ đi ngay.
 
“Tao cũng không biết nên phấn khích, hay sợ vãi ra quần nữa.” Gã đầu tiên nói.
 
Gã thứ hai bật cười. “Tao thì cả hai thứ.”
 
Gã thứ nhất không cười cùng. “Tao mừng là đại tá Bowie vẫn còn là hạm trưởng. Nếu cái vụ lộn xộn với tụi Trung quốc xảy ra trễ hai tuần, thì chúng ta đã bị kẹt với hạm trưởng mới rồi.”
 
“Mày có vấn đề với trung tá Silva sao?” Gã thứ nhì hỏi. “Bà ấy có vẻ cũng được, theo tao thấy.”
 
“Tao không có vấn đề gì với bà ấy hết.” Gã trước nói nhỏ. “Tao tin rằng bà ấy cũng được, mà tao cũng tin là bà ấy biết mình nên làm cái gì. Nhưng mà nếu chúng ta phải chiến đấu, tao hi vọng rằng đại tá Bowie là hạm trưởng của chúng ta hơn.”
 
“Tao hiểu ý mày rồi.” Gã kia nói. “Nhưng mà chúng mình đâu có quyền lựa chọn. Trong hai tuần nữa, bà ấy sẽ trở thành hạm trưởng rồi. Chúng ta chỉ có thể hi vọng rằng bà ấy làm được việc thôi.”
 
“Ờ, nhưng lỡ bà ấy không làm nên việc thì sao? Bà ấy đã qua thực chiến bao giờ chưa? Lỡ bà ấy không kham nổi khi súng bắt đầu nổ thì sao?”
 
Gã thứ nhì lại cười khảy. “Mày nên dừng lo lắng về những thứ cứt chó ấy đi, mà hãy lo đến mấy món ăn này đi. Chúng ta phải chuẩn bị cho bữa ăn tối rồi đó.”
 
Trung tá Silva đặt tách cà-phê xuống bàn. Nàng không còn muốn uống cà-phê nữa. Nàng bước ra khỏi phòng ăn. Cà-phê vẫn sóng sánh trong cái tách chưa hề được uống qua, khi cánh cửa khép lại.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:41:11
0
Chương 15
Khu kiến trúc thuộc bộ Quốc Phòng
Tòa nhà ‘Ngày Một Tháng Tám’
Bắc Kinh, Trung quốc
Thứ Hai, 24 tháng 11, 21:11, giờ địa phương
 
Phó Chủ Tịch nhà nước Lu Shi đang ngồi ở bàn làm việc, chậm rãi lật qua xấp ảnh lần thứ mười hay mười một rồi. Các tấm ảnh gồm nhiều cỡ khác nhau, cũ mới khác nhau và có chất lượng cũng khác nhau. Có vài tấm được nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp; có vài tấm được chụp gần đây bằng máy kỹ thuật số có độ phân giải cao và được in trên giấy bóng cứng. Nhưng phần đông là những tấm ảnh bình thường được chụp trong suốt gần ba chục năm.
 
Lu Shi đã gom góp các tấm ảnh này trong mọi tập ảnh gia đình mà lão tìm được. Những tấm hình chụp trong nhà, ngoài trời, cận cảnh, chụp nhóm, ảnh chân dung… Các tấm ảnh có chung một yếu tố: mỗi tấm đều chứa hình nhi tử của Lu Shi, Lu Jianguo.
 
Đây là Lu Jianguo lúc sáu bảy tuổi, đang chơi đá bóng với một nhóm bạn trên sân cỏ của công viên Chaoyang. Và đây là hài nhi mập mạp Jianguo, được bọc trong lớp lụa màu cam trong buổi lễ mà hắn được ban tên. Còn đây là Lu Jianguo lúc 14 tuổi, đeo khăn quàng đỏ của thiếu niên xung phong, đang bước đều trong đội ngũ tại quảng trường Thiên An Môn. Một ảnh chụp cậu bé lúc 8 tuổi đang nằm ngủ trên băng ghế sau của chiếc xe sang trọng, gối đầu lên đùi của bố. Một tấm chân dung chính thức của Lu Jianguo trong một bộ com-lê xám. Khi ấy, hắn có lẽ vào khoảng 25 tuổi. Có lẽ ảnh được chụp khi hắn là một nhân viên cấp thấp trong bộ An Ninh Công Cộng.
 
Điện thoại trên bàn làm việc của Lu Shi reng lên, nhưng óc lão chỉ mơ hồ ghi nhận âm thanh ấy. Lão tiếp tục lật qua xấp ảnh, tìm tòi một thứ gì mà lão không gọi được tên, mà cũng không hoàn toàn tưởng tượng được. Một mẫu tin tức hay một tia thông hiểu nào đó có thể làm cho sự hỗn độn đã chiếm quyền kiểm soát trong cuộc sống của lão, trở nên hợp lý hơn.
 
Làm thế nào mà Lu Jianguo có thể ra đi được chứ? Một đứa bẻ khả ái như thế, một đảng viên cộng sản thông thái và rực rỡ như thế? Một chuyện như vậy làm sao có thể xảy ra được chứ? Chỉ cái ý niệm như vậy thôi đã sai rồi. Sai một cách ghê tởm. Sai một cách kinh khủng.
 
Đến một lúc nào đó, mắt của Lu Shi đã không còn ghi nhận các hình ảnh đang chuyển qua các ngón tay của lão nữa. Ngón tay của lão chuyển động một cách máy móc.
 
Trong những năm cuối của thập niên 70, khi chính Lu Shi đang là một ngôi sao bắt đầu bốc lên của đảng Cộng Sản, lão đã đấu tranh mãnh liệt để chính sách một-con được thực thi. Thời ấy, chính sách này không được số đông ủng hộ, cho đến ngày nay vẫn thế. Nhưng nó thật sự là cần thiết.
 
Năm 1976, dân số của Trung quốc đã lên gần đến một tỷ rồi, mà đà tăng trưởng vẫn tiếp tục. Nếu cứ để yên như thế, Trung quốc sẽ gặp phải nạn đói và sụp đổ kinh tế.
 
Cái quyết định giới hạn mỗi gia đình chỉ được một con thôi không phải là một quyết định đơn giản. Mà muốn thi hành quyết định này cũng không phải là dễ dàng. Như mọi luật lệ nào khác, có nhiều khe hở mà thành phần cao cấp được ưu đãi có thể khai thác. Nhiều đảng viên cao cấp đã lợi dụng các sơ hở ấy, nhưng Lu Shi không nằm trong số đó. Chính sách một con quan trọng biết bao cho tương lai của Trung quốc. Lu Shi không thể nào vừa tranh đấu ủng hộ chính sách này, lại vừa vi phạm chính sách được.
 
Do đó, lão đã tuân theo cái luật mà chính lão đã giúp lập nên. Lão chỉ sinh ra một đứa con thôi. Mà giờ đây, đứa con ấy đã ra đi, và tương lai cũng đã ra đi với hắn rồi. 
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:43:37
0
Chương 16
Tàu ngầm USS California (SSN-781)
Bắc Ấn Độ dương
Thứ Ba, 25 tháng 11, 15:22, giờ địa phương
 
Hạm trưởng James Patke đảo mắt nhìn qua màn ảnh chiến thuật trên chỗ làm việc, cẩn thận nghiên cứu cái vòng tròn phù hiệu lớn tượng trưng cho những tàu hộ vệ và khu trục hạm bao quanh chiếc tàu sân bay Trung quốc. Như phần đông những hạm trưởng tàu ngầm khác, Patke vô cùng kiên nhẫn khi đang theo đuổi con mồi; mà nhiệm vụ hiện tại đang thử nghiệm sự kiên nhẫn của hắn một cách nghiêm trọng.
 
Trung quốc mới tham gia vào việc sử dụng tàu sân bay, nhưng các chiến thuật trong vòng đai bảo vệ của họ lại hữu hiệu một cách bất ngờ. Patke và thủy thủ đoàn của hắn đã phải tốn mất hai ngày chậm rãi dò dẫm mới tìm được điểm yếu trong vòng đai phòng vệ của chiếc tàu sân bay này. Cũng đã có vài cơ hội để Patke có thể đột phá một cách nhanh chóng hơn, nhưng hắn cương quyết cẩn thận hơn bình thường.
 
Ngay lúc này, hải quân Trung quốc và Ấn Độ đang cực kỳ hung hăng. Nếu bạn làm họ giật mình, bạn có nguy cơ bị bọn họ bắn cho tan thành mảnh vụn lắm đó.
 
Patke ngẩng đầu lên khỏi màn ảnh và nhìn viên sĩ quan trực. “Cho chúng ta lên tới độ sâu cho tiềm vọng kính đi.”
 
Chiếc USS California là một chiếc tàu ngầm tấn công lớp Virginia (24), do đó thật ra nó không có tiềm vọng kính. Thay vì dùng tiềm vọng kính cổ điển Type 18 như các tàu ngầm tấn công khác của Mỹ, mỗi chiếc tàu lớp Virginia được trang bị hai cột cảm biến photon (quang tử học) AN/BVS-1. Hệ thống sợi quang mới mẻ này trên cả phương diện kỹ thuật lẫn chiến thuật đều cao cấp hơn các hệ thống cũ; nhưng nếu là một sĩ quan tàu ngầm biết tự trọng, thì không ai lại hô lệnh “cho lên độ sâu cột cảm biến photon” cả. Do đó, hầu như tất cả các từ ngữ chuyên dụng liên quan đến tiềm vọng kính vẫn còn được sử dụng, cho dù chính tiềm vọng kính đã không còn được dùng nữa.
 
Viên sĩ quan trực gật đầu. “Dạ, độ sâu tiềm vọng kính, aye-aye!” Gã quay qua viên sĩ quan Lặn. “Cho độ sâu là 37 mét.”
 
Viên sĩ quan Lặn gật đầu rồi lập tức chuyển lệnh cho thủy thủ phụ trách bánh lái. “Đưa mũi lên 5 độ. Chỉnh độ sâu là ba-bảy mét.”
 
Gã thủy thủ bánh lái chậm rãi kéo cần chỉnh độ sâu, mắt dán vào kim chỉ góc bánh lái. “Dạ, kim chỉ 5 độ, tàu đang dâng lên ba-bảy mét.”
 
Chiếc tàu ngầm bắt đầu chậm rãi và thận trọng nổi lên.
 
Viên sĩ quan trực bấm nút nói trên bộ tai nghe. “Sonar (25), đây là phòng chỉ huy, đang nổi lên để chuẩn bị dùng tiềm vọng kính. Có tiếp xúc nào thì báo cáo.”
 
Đại tá Patke quan sát nhân viên phòng điều hành làm việc thật trôi chảy. Họ là một nhóm người thật tài giỏi, tự tin nhưng không tự kiêu. Không thấy ai nóng nảy gì khi phải đột nhập vòng đai phòng vệ của một biên đội tàu sân bay của nước khác cả.
 
Bản thân Patke thì thật ra hơi hồi hộp. Đây không phải là một vụ tập trận. Nếu có chuyện gì sai lầm, tình huống có thể trở nên tồi tệ.
 
Hắn cũng không lo ngại gì các chiếc khu trục hạm và tàu hộ vệ kia. Hắn rất tự hào về kỹ thuật làm im lặng của chiếc tàu ngầm này. Chiếc California chạy êm đến nỗi có thể mon men đến gần hệ thống sonar của phần đông tàu mặt nước mà không sợ bị phát hiện.
 
Gã hạ sĩ quan trưởng thường khoe khoang là chiếc California có thể lẻn đến áp sát bất cứ chiếc tàu mặt nước nào trên thế giới. Patke thì không đi xa đến mức đó, nhưng gã hạ sĩ quan trưởng cũng có lý do để khoe khoang như thế.
 
Tuy nhiên trực thăng chống tàu ngầm của Hải quân QGPND không phải là trò đùa. Mà ở đâu đó, một chiếc tàu ngầm tấn công cấp Type-93 đang hoạt động để hỗ trợ biên đội tàu sân bay. Đội sonar của Patke dò được dấu vết của chiếc tàu ngầm Trung quốc trong hai ngày qua, lúc được lúc mất. Lúc này đây, nó đang nằm phía bên kia vòng đai phòng thủ của đội tàu sân bay. Nếu chiếc California bị phát hiện, nó sẽ lập tức truy đuổi theo. Mà muốn cắt đuôi một chiếc tàu ngầm khó hơn nhiều so với các chiếc tàu hộ vệ mặt nước kia.
 
-***-
 
Khoảng 15 phút sau, chiếc California đã lên đến độ sâu cho tiềm vọng kính, sau khi dừng lại một chút để kiểm tra xem có ‘dáng và bóng đen’ nào hay không. Đó là dáng của các chiếc tàu bên trên mặt nước.
 
Cái cột mang theo cảm biến photon của chiếc California chậm rãi thò lên khỏi mặt nước. Cái hộp cảm biến ở đầu cột chứa một máy thu hình màu, một máy thu hình trắng đen có độ phân giải cao và một máy thu hình hồng ngoại. Cả ba máy thu hình cùng hoạt động liên tục trong khi cái hộp quay một vòng 360 độ.
 
Hình ảnh kỹ thuật số do từng máy thu hình được truyền xuống phòng điều khiển của chiếc California qua sợi quang nằm giữa cột photon.
 
Ngồi nơi bàn điều hành, Patke điều khiển tay nắm khiến các máy thu hình quay về phía chiếc tàu sân bay. Hắn bấm nút để kích hoạt máy ghi hình và phóng lớn hình để nhìn rõ hơn.
 
Chiếc chiến hạm Trung quốc to lớn này có một tiểu sử lạ lùng. Mà cho đến hiện nay, người ta cũng không biết gì nhiều về cách thiết trí và khả năng của nó. Được Liên Bang Sô Viết đóng vào những năm cuối cùng của cuộc Chiến Tranh Lạnh, nó được dự trù sẽ trở thành chiếc tàu mới nhất thuộc cấp Đô Đốc Kuznetsov. Nhưng chiếc tàu chưa được hoàn tất thì khối Sô Viết đã sụp đổ và nó được bán đấu giá cho một hãng du lịch Hồng Kông với dự tính sẽ biến nó thành một nhà hàng nổi và một sòng bạc.
 
Dự án lập sòng bạc không thành sự thật, rồi không hiểu vì sao chiếc tàu sân bay bán thành phẩm của Sô Viết lại lọt vào tay Hải quân của QGPND. Hải quân của QGPND đặt tên mới cho nó là Liêu Ninh theo tỉnh Liêu Ninh ở đông bắc Trung quốc.
 
Đại tá Patke vừa gật gù, vừa nhìn hình ảnh kỹ thuật số thật rõ nét nên màn ảnh. Đây là hình ảnh chiếc Liêu Ninh được thu gần và rõ nhất từ khi nó bắt đầu hoạt động quân sự. Bọn người ở các cơ quan tình báo sẽ sướng rơn khi vớ được những đoạn phim này. Họ sẽ săm soi từng đoạn băng, từ đủ mọi khía cạnh: nào là ăng-ten bố trí ở đâu, vũ khí được lắp như thế nào và cả đến vị trí dây điện và ống nước trên sàn tàu nữa; họ sẽ tìm tòi mọi dấu vết cho thấy các khả năng hay thiếu hụt của chiếc tàu này.
 
Mọi thông số của bản thiết kế nguyên thủy của người Nga thì đã được biết rõ rồi. Nhưng mà người Trung quốc đã cải biến rất nhiều và không ai hiểu rõ những sự sửa đổi ấy sẽ ảnh hưởng sức chiến đấu của con tàu ra sao. Cũng vì vậy mà Patke cũng bận bịu gần như các máy thu hình kia vậy; hắn ghi nhớ và đánh giá từng chi tiết mà hắn có thể thấy.
 
Họ đang nhìn thẳng vào mạn trái của chiếc tàu sân bay, hơn chếch phía sau khoảng 20 độ. Từ góc nhìn này, Patke nhận ra cái dáng như cái hộp của dàn phóng tên lửa FL-3000N (người dịch: tên lửa hải-không tầm ngắn 500 m – 6 km; tùy kích cỡ của chiến hạm, có thể trang bị hộp chứa 8 hay 24 tên lửa; một khi được cho phép tự vận hành, hệ thống có thể tự động phát hiện mục tiêu và phóng tên lửa, thí dụ như chống phi đạn) và cái dáng hơi giống một con người máy của một khẩu CIWS Type 730 (súng 30 mm 7 nòng vận hành theo kiểu Gatling, có công năng tương tự như Phalanx của Mỹ, xem phần chú thích). Theo cách bố trí của cả hai hệ thống này, có thể biết rằng bên mạn bên kia cũng được trang bị tương tự.
 
Patke nghiên cần điều khiển về phía trước để phóng đại hình ảnh hơn nữa và bắt đầu chậm rãi đảo qua suốt chiều dài của chiếc chiến hạm Trung quốc. “Được rồi, đám tạp chủng này,” hắn nói. “Để xem xem chúng mày có những món đồ chơi nào đây.”
-=-=-=-=-=-
Chú Thích:
(24) Tàu ngầm tấn công lớp Virginia: tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hải quân Hoa Kỳ, được coi như tàu ngầm tiên tiến nhất thế giới. Thủy thủ đoàn gồm 120 thủy thủ và 14 sĩ quan. Tàu được trang bị 12 ống phóng phi đạn và 4 ống ngư lôi. Phi đạn gồm Tomahawk và Harpoon (xem chú thích riêng). Từ năm 1991, khi chiếc đầu tiên ra đời, cấp Virginia đã trải qua nhiều đợt nâng cấp.
 
(25) Sonar: ban đầu là chữ tắt của cụm từ SOund Navigation And Ranging, ngày nay đã thành một chữ độc lập. Đây là kỹ thuật dùng sóng âm lan truyền trong nước để lái, liên lạc hay dò tìm các vật thể trên mặt nước hay dưới mặt nước. Có 2 loại sonar: tiêu cực và tích cực. Sonar tích cực là chính hệ thống sonar phát ra âm thanh theo một tầng số nhất định. Khi âm thanh chạm vào mục tiêu và dội ngược về, hệ thống sonar dùng sự sai lệch thời gian lúc phát đi và nhận về để xác định tầm xa; ngoài ra, hệ thống có nhiều cảm biến ở những nơi khác nhau giúp cho hệ thống xác định phương hướng của mục tiêu. Hệ thống tiêu cực không phát ra âm thanh mà chỉ lắng nghe âm thanh do mục tiêu phát ra, để xác định phương hướng và tầm xa. So sánh giữa 2 loại sonar, loại tích cực chính xác hơn nhiều, nhưng cũng bị phát hiện dễ dàng.
 
 
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 08.09.2016 08:46:33
0
Chương 17
------
Người gởi: robert.monkman@navy.mil
Thời gian: Thứ Ba, ngày 25 tháng 11, 16:31
Người nhận: b.haster@ucsd.edu
Chủ Đề: Nhớ Em Quá
 
Em Beth yêu dấu,
 
Lại một ngày vui vẻ trên chiếc USS Midway đồ sộ. Ít ra anh nghĩ đây chính là chiếc Midway. Anh đã quẹo sai vào không biết bao nhiêu hành lang đến nỗi không chừng bây giờ anh đã bước qua một chiếc tàu nào khác rồi. Đã sáu tuần rồi, vậy mà anh vẫn chưa tìm ra đường trên con quái vật này. Anh phải rải mẫu vụn bánh mì mỗi lần rời phòng ngủ của anh, bằng không anh sẽ không bao giờ tìm được cái giường của mình nữa.
 
Trừ cái nguy cơ bị đi lạc khi phải đến phòng họp ra, mọi thứ đều ổn cả. Tụi đồng bạn trong phi đoàn thật là khá lắm. Anh phải chịu đầy đủ mọi chế nhạo vì là một tên lính mới, nhưng có phải anh sẽ là đứa mới mãi đâu. Thật ra thì những gì xảy ra ở dưới đây có quan trọng gì đâu. Cái quan trọng là những gì xảy ra trên trời kìa, mà ở trên đó, không ai đụng vào anh được.
 
Em còn nhớ thằng Chucky Barnes đã trình diện với phi đoàn cùng lúc với anh không? Nó đã bị lãnh một danh hiệu truyền tin mới rồi, mà nó không hài lòng chút nào với cái tên này. Trước đây, tên nó là Barnstormer (*), nghe cũng không tệ. Nhưng mà cách đây hai ngày, nó ói tùm lum nơi hành lang dành cho sĩ quan cấp Tá. Bây giờ mọi người trong phi đoàn đều kêu nó là Upchuck (nôn ọe) và chắc nó dính cái tên này luôn rồi, ha ha.
 
(* Người dịch: barnstorming là một cách phi công biểu diễn nhào lộn với độ khó cao để kiếm tiền trong những cuộc lưu diễn khắp nước Mỹ vào thời những năm 1920, đặc biệt ở vùng thôn quê; ngày nay, có nhiều người vẫn tiếp tục loại biểu diễn này với những chiếc máy bay cánh đôi như xưa; barnstormer là người bay biểu diễn)
 
Phi đội trưởng của anh là gã Poker nổi tiếng, đang hăm dọa đổi danh hiệu của anh thành Monkey Man (người khỉ); có lẽ đây là tất cả những gì cái óc tưởng tượng kém cỏi của hắn có thể suy ra từ cái họ Monkman của anh. Gã này già lắm rồi, nên chỉ tưởng tượng được như vậy cũng không phải là lạ. Dù sao, hiện giờ anh vẫn còn là Rob the ‘Monk’ (nhà sư) Monkman, mà như vậy là anh hài lòng rồi. Chính là anh đây, em à, nhà sư chùa Thiếu Lâm trên trời cao, đá đít mọi người với Công Phu bay của anh.
 
OK, đùa với em một chút thôi. Cho đến nay, Công Phu bay của anh chỉ là những pha dùng thiết bị mô hình hóa và tập dợt giao chiến với các tay lái Hải quân Mỹ khác mà thôi. Lúc huấn luyện thì anh làm khá lắm, nhưng anh chưa đối diện với một kẻ địch thật sự nào cả. Nếu ngày nào anh gặp phải đụng độ thật, anh hi vọng bọn họ đừng đổi danh hiệu của anh thành ‘Monkey Butt’ (đít khỉ) hay gì đó, là anh mừng rồi.
 
Nói đến đụng độ thật, bọn anh sẽ tiến vào khu vực hành quân vừa đúng dịp lễ Thanksgiving (**). Bọn anh đúng ra chỉ có công tác quan sát - bảo vệ - ổn định thôi, nhưng anh vẫn cảm thấy hơi lo. Hải quân Trung quốc và Ấn Độ đã đụng độ nhiều lần rồi và cả hai bên đều đang căng thẳng. Anh chỉ hi vọng bọn họ nhớ rõ bọn anh không phải là kẻ địch thôi. Anh thật không mong muốn lãnh đạn trong lúc mình chỉ muốn bửa ăn thịt gà tây ngon lành mà thôi.
 
(** Người dịch: Thanksgiving là lễ lớn của Hoa Kỳ rơi vào ngày thứ năm cuối cùng tháng 11; theo truyền thống, ngày này người ta ăn thịt gà tây để tưởng niệm khi người Âu châu mới khám phá châu Mỹ được người da đỏ chiêu đãi; do đó, ngày này còn thường được gọi đùa là ngày Gà Tây (Turkey Day).)
 
Chỉ đùa thôi, em ạ. Anh tin chắc rằng mọi chuyện sẽ ổn cả. Bọn anh có cả một biên đội tàu sân bay (26) hoàn chỉnh, có đầy đủ cả. Bọn anh không phải đến đây để chiến đấu và không ai ngu xuẩn đến độ gây rắc rối gì cho bọn anh đâu.
 
Anh thật mong ước được ở nhà ngày mai, để phụ em chuẩn bị con gà tây bỏ vào lò nướng. Có lẽ mình phải nấu ăn riêng một lần mới được. Chứ chúng ta không thể nào cứ đến nhà Mẹ em ăn Thanksgiving mãi được. Mà không chừng làm như vậy mãi cũng được… Bà ấy làm bánh khoai lang nướng ngon nhất mà anh từng ăn qua, còn món đậu hầm thì thật tuyệt vời.
 
Nói đến tuyệt vời, anh lại đang nghĩ là cô con gái duy nhất của Mẹ em cũng thật là tuyệt vời. Chính là em đó, em yêu ạ. Anh đang tự hỏi không biết Mẹ em có biết là em thường chỉ mặc quần lót và cái áo thun cũ của anh khi làm bếp? Có lẽ anh phải để dành mẫu tin này để tống tiền em rồi… Ừm…
 
OK, đáng lý anh không nên nói đến mấy cái chuyện này. Bây giờ thì anh chỉ còn nghĩ được đến cái mông tròn trịa của em trong chiếc quần lót đi qua đi lại trong bếp thôi. Chắc anh phải đi tắm nước lạnh rồi.
 
Anh yêu em, Beth. Mỗi giây trôi qua, anh lại càng nhớ em hơn.
 
Chồng em,
 
Rob
 
Thiếu Úy Robert J. Monkman
VFA-228 Marauders
USS Midway (CVN-82)
-----
-=-=-=-=-=-
Chú Thích:
(26) Biên đội tàu sân bay, tiếng Anh là ‘carrier strike group’ là một đội hình hành quân của Hải quân Hoa Kỳ. Hải quân Hoa Kỳ có tổng cộng 12 biên đội loại này. Mỗi biên đội gồm khoảng 7.500 người, một chiếc tàu sân bay (hàng không mẫu hạm), ít nhất một chiếc tuần dương hạm, một đội khu trục hạm gồm ít nhất 2 chiếc khu trục hạm và khu trục hạm nhỏ thuộc loại frigate, một phi đoàn có 65 – 70 máy bay. Ngoài ra, biên đội còn có một số tàu tiếp liệu và vận chuyển, và tùy theo hoàn cảnh có cả tàu ngầm.
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.09.2016 08:51:44 bởi Quang11 >

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:07:02
0
Chương 18
Khu kiến trúc thuộc bộ Quốc Phòng
Tòa nhà ‘Ngày Một Tháng Tám’
Bắc Kinh, Trung quốc
Thứ Ba, 25 tháng 11, 21:48, giờ địa phương
 
Thượng tướng Chen Caihou lên tiếng phá vỡ im lặng. “Các đồng chí, tình hình với Ấn Độ đang vượt ra ngoài sự kiểm soát đó! Chúng ta phải hành động lập tức, trước khi quá muộn.”
 
Từ ngữ của hắn nghiêm trọng, nhưng giọng nói thì cẩn thận đều đều, để tránh lộ ra bất cứ dấu vết chỉ trích hay buộc tội nào. Hắn đảo mắt nhìn từng người trong nhóm tám người khác đang ngồi quanh cái bàn tròn.
 
Kể cả hắn, tất cả chín thành viên của Ủy Ban Quân Sự Trung Ương đều có mặt. Hắn thoáng dừng một chút khi mắt đặt đến Lu Shi trước khi tiếp tục đảo đến người kế tới.
 
Cái bàn hình tròn, để tượng trưng cho sự bình đẳng giữa mọi thành viên của ủy ban. Ở đây, không có chỗ ngồi vinh dự nào cả. Chỉ có những đảng viên cộng sản tận tụy gặp nhau một cách bình đẳng để bàn thảo và quyết định những vấn đề quân sự chiến lược mà thôi.
 
Ít nhất, lý thuyết là như thế. Trên thực tế, trong căn phòng này, quyền lực phần lớn tập trung vào Lu Shi. Quyền lực của lão ở chức vụ Chủ Tịch của Ủy Ban Quân Sự Trung Ương trên nguyên tắc chỉ hữu danh vô thực, nhưng lão đồng thời lại là Phó Chủ Tịch nhà nước của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH).
 
Mặc dù lão Xiao vẫn còn mang cái chức Chủ Tịch nhà nước, nhưng lão lãnh tụ già nua này từ lâu đã ủy nhiệm mọi quyền quyết định quan trọng cho Lu Shi. Do đó, qua mặt Lu Shi là một hành vi nguy hiểm. Ngoài ra, điều này cũng khiến đại tướng Chen Caihou và các thành viên khác trong Ủy Ban Quân Sự Trung Ương bị đặt vào một hoàn cảnh tế nhị.
 
Nếu những trận chạm trán nhỏ với Ấn Độ tiếp tục leo thang, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có thể bị rơi vào một cuộc chiến toàn diện với một địch thủ quân sự nguy hiểm. Tướng Chen không hoài nghi gì là Trung quốc sẽ là kẻ chiến thắng trong một cuộc chiến như thế, tuy nhiên cái giá phải trả có lẽ sẽ rất lớn, về cả tài sản lẫn nhân mạng. Cuộc chiến phải được kết thúc trước khi mọi chuyện thoái hóa đến mức như thế.
 
Tướng Chen lại đảo mắt quanh bàn, những lời của hắn vẫn không được trả lời. Hắn đã bàn trước vấn đề này với vài thành viên của ủy ban rồi và đã nhận được sự đồng ý và hứa hẹn chống lưng cho hắn: hắn sẽ nêu thẳng vấn đề một cách cung kính và các đồng minh ngầm sẽ lên tiếng hỗ trợ. Nhưng hắn đã lên tiếng mà căn phòng lại im lặng.
 
Lu Shi cũng đảo mắt quanh bàn. “Đồng chí đại tướng à, có người bỏ rơi đồng chí rồi.” Lão nói nhẹ. Lão dừng mắt lại vào tướng Chen.
 
“Là ai vậy?” Lu Shi hỏi. Lão nhướng một bên lông mày. “Là ai trong số đồng chí của chúng ta sẽ hỗ trợ cho đồng chí?”
 
Tướng Chen ngồi yên vài giây, rồi quay sang vị Phó Chủ Tịch nhà nước. “Đồng chí Lu, chúng tôi chia sẻ nỗi đau buồn của đồng chí về việc Lu Jianguo mất. Anh ta là một thanh niên tốt và một đảng viên cộng sản chân chính. Cái chết của anh ấy thật là một tấm thảm kịch. Nhưng điều đó có đủ để gây nên chiến tranh hay không?”
 
“Cái này hoàn toàn không phải là vì con trai tôi.” Lu Shi nói. Giọng lão trầm thấp và khắc nghiệt. “Đây là vì nền an ninh và chủ quyền của quốc gia. Những kẻ nào chứa chấp địch nhân của Trung quốc cũng là địch nhân của Trung quốc.”
 
Đại tướng Guo Jinping, Tổng Tham Mưu của QGPND, hắng giọng. “Xin lỗi đồng chí Lu… Để xảy ra một cuộc đụng độ quân sự lớn chỉ vì trừng trị một nhóm chuột nhắt đã tiêu hủy một chuyến xe lửa có phải là việc làm khôn ngoan hay không?”
 
Lu buồn bã mỉm cười. “Chỉ cần một đốm lửa đã đủ thiêu cả cánh đồng rồi.” Đây là nhắc nhở những vị lãnh tụ kia rằng chớ bao giờ coi thường một vấn đề nhỏ nhặt nào cả.
 
“Đường ray Thanh Hải là một trong những thành tựu công nghệ lớn nhất trong lịch sử.” Lu nói tiếp. “Có nhiều đoạn đường nằm ở cao độ hơn 5.000 mét. Nhiều chiếc máy bay còn không bay cao đến thế. Khi chúng ta mời người Thụy Sĩ qua để khai triển các phương pháp đặt đường ray trên lớp đất bị đóng băng vĩnh cữu, các kỹ sư Thụy Sĩ đều cho là không khả thi. Báo chí phương Tây gọi nó là một dự án vứt đi, trị giá 5 tỷ đô-la. Họ đều bảo rằng dự án không thể thực hiện. Nhưng chúng ta đã làm được. Thế rồi, họ lại đều tiên đoán là nó sẽ hỏng trong vòng một năm. Nhưng đường ray Thanh Hải chở 3.000 người dân vào khu tự trị Tây Tạng mỗi ngày.”
 
Lão Lu nhìn chầm chập vào tướng Guo Jinping. “Đồng chí đại tướng, chúng ta có thể thay thế toa xe và đầu máy khác. Chúng ta đã mất gần 200 binh sĩ trong vụ tấn công ấy, nhưng QGPND có thể tuyển mộ bấy nhiêu người chỉ trong một buổi chiều. Ngoài ra, kể cả người chết và bị thương, có hơn 1.000 thường dân bị thương vong, nhưng Trung quốc cũng vẫn chịu nổi. Chúng ta có thể ứng phó được các thiệt hại về thiết bị, nhân mạng và tài chính. Nhưng chúng ta không thể cho phép một cuộc tấn công thẳng vào uy tín quốc gia được… Cái quyết tâm của cả nước ta và tư tưởng chính trị của chúng ta đã bị trực tiếp khiêu khích. Nếu chúng ta để mặc một sự thách thức như thế mà không đáp trả, Trung quốc sẽ trở nên yếu ớt trong mắt của kẻ thù và của cả thế giới nữa.”
 
Đại tướng Xu Zhiyuan, Tư Lệnh Không quân QGPND cung kính gật đầu, nói. “Tôi tin rằng mọi người chúng ta đều đồng ý là có nhiều quan hệ chính trị đáng kể. Nhưng có nên để cho các vấn đề chính trị dứt khoát biến thành chiến tranh không?”
 
Lu quay sang viên tướng này, nói. “Tôi lấy làm lạ là đồng chí có thể hỏi một câu như thế. Đồng chí đã quên lời dạy của Mao Chủ Tịch rồi sao? Chính trị là chiến tranh không đổ máu, mà chiến tranh chính là chính trị có đổ máu.”
 
Tướng Xu lại gật đầu. “Mao Chủ Tịch cũng đã dạy rằng ‘Cộng sản là chiếc búa ta dùng để đập bẹp kẻ thù’. Nhưng ngài ấy nói câu ấy vào thời điểm mà Trung quốc đang chiến đấu vì sinh tồn của mình. Thật sự cái đó còn là tình trạng hiện nay hay sao, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch? Sau mấy chục năm bang giao hòa hảo, lẽ nào nước láng giềng Ấn Độ chợt biến thành một mối đe dọa cho sự sinh tồn của nước ta? Nói thẳng ra, nếu không phải chúng ta đã phóng 100 quả phi đạn hành trình để đập tan một ngôi làng Ấn Độ thành tro bụi, thì chúng ta có đụng độ với họ đâu?”
 
Trước khi Lu Shi kịp trả lời, tướng Chen đã giơ tay lên. “Làm thế nào mà chúng ta đi đến tình huống này đã không quan hệ nữa rồi. Không cần biết vì nguyên nhân hay ý định gì, thì chúng ta cũng đã tập kích ngôi làng của họ rồi và họ đã trả đũa. Cho đến nay, các cuộc đụng độ chỉ tương đối riêng lẻ. Nhưng mọi thứ đang thay đổi nhanh chóng. Chúng ta đã lọt vào một quỹ đạo trả đũa càng lúc càng leo thang. Vấn đề là: chúng ta phải làm thế nào để phá vỡ quỹ đạo này trước khi nó hoàn toàn vượt ra khỏi tầm kiểm soát?”
 
“Tôi đồng ý.” Tướng Guo nói. “Nếu chúng ta không cẩn thận, chuyện này có thể biến thành thứ mà Việt Nam đã biến thành đối với người Mỹ. Hay thứ mà Afghanistan đã trở thành đối với Liên Bang Sô Viết. Một vũng lầy đầy máu mà không có viễn cảnh làm thế nào để kết thúc một cách đẹp đẽ được.”
 
“Đây đã là phiên bản Việt Nam của chúng ta rồi!” Lu Shi gắt lên. “Các đồng chí không ai thấy được sao? Nghĩ lại mà xem… Việt Nam không phải là thất bại trên mặt kỹ thuật đối với người Mỹ. Mà cũng không phải là thất bại trên mặt chiến thuật nữa. Quân đội Mỹ khi ấy được trang bị tốt, huấn luyện tốt, có hậu cần tốt và ủng hộ tốt. So ra, địch thủ của họ chỉ là một đám khỉ mù chữ chỉ biết lặn lội trong ruộng và đánh đu trong rừng rậm mà thôi. Như vậy, tại sao người Mỹ lại bại trận?”
 
“Thì lý tưởng cộng sản.” Tướng Guo ngập ngừng. “Quân Bắc Việt được thấm nhuần tư tưởng vĩ đại của Marx và Mao Chủ Tịch…”
 
Lu Shi vỗ mạnh tay lên mặt bàn. “Mù quáng!” Giọng lão vẫn gay gắt. “Lý tưởng cộng sản không có dính dáng gì vào đó hết. Nếu chỉ là vấn đề lý tưởng, người Sô Viết đã dùng triết lý cộng sản để chiến thắng ở Afghanistan rồi. Ngược lại, quân đội Nga Sô hùng mạnh bị thảm bại bởi một lũ chăn cừu dơ bẩn sống trong hang động. Do đó tôi hỏi các đồng chí lần nữa… Tại sao người Mỹ thua trận bên Việt Nam? Tại sao Liên Sô bại trận ở Afghanistan? Làm thế nào mà hai đại cường quốc có quân lực hùng hậu lại bị kẻ địch yếu hơn đánh chạy? Khi các đồng chí biết được câu trả lời thì các đồng chí sẽ hiểu chúng ta đang đặt cược những gì trong cuộc chiến hiện tại.”
 
Căn phòng rơi vào yên lặng.
 
Lu Shi nhìn hết người này qua người kia. “Không ai trả lời được sao? Các bộ não của cả nước ta đang ngồi quanh bàn này mà không một người có thể trả lời một câu hỏi đơn giản như vậy sao?”
 
Vẫn không ai nói gì.
 
“Được lắm.” Lu Shi nói. “Tôi sẽ trả lời câu hỏi cho các đồng chí… Liên Bang Sô Viết thua ở Afghanistan cũng vì cùng lý do nước Mỹ thua ở Việt Nam. Đó là vì ý chí cả nước của họ yếu.”
 
“Xin lỗi đồng chí Lu, cái này có lẽ là hơi đơn giản hóa vấn đề rồi.” Tướng Chen nói.
 
“Đó không phải là đơn giản hóa.” Lu nói. “Đó chỉ là nói gọn lên sự thật mà thôi. Mà chỉ cần quan sát các sự kiện tỉ mỉ một chút là chứng minh nó ngay thôi.” Lão chỉ một ngón tay vào tướng Guo. “Đồng chí đại tướng, trong các hành động quân sự chống Mỹ, quân đội Bắc Việt đã mất bao nhiêu mạng người?”
 
“Khoảng một triệu hay sao đó.” Viên tướng đáp.
 
“Khoảng gần 1,1 triệu thì đúng hơn.” Lu nói. “Và bao nhiêu thường dân Bắc Việt thiệt mạng?”
 
“Tôi không rõ lắm, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch.” Tướng Guo nói. “Tôi từng thấy qua những con số thấp là 50.000, mà cao là đến 300.000.”
 
“Cũng được.” Lu nói. “Các con số khác nhau tùy theo nguồn tài liệu. Nhưng chúng ta hãy dùng một con số thấp đi, khoảng 100,000 người chết. Cộng chung, tổng số người Bắc Việt bị chết là khoảng 1,2 triệu.”
 
Lu lại liếc quanh bàn. “Các đồng chí, ai có thể cho tôi biết bao nhiêu quân nhân Mỹ chết ở Việt Nam không?”
 
Tướng Chen nói. “Tôi nghĩ là có khoảng 58.000 người Mỹ chết.”
 
“Gần đúng như vậy.” Lu nói. Lão nâng hai bàn tay lên, lòng bàn tay ngửa lên, đong đưa hai tay lên xuống như hai đòn cân. “Bắc Việt mất 1.2 triệu mạng và phần lớn cơ sở hạ tầng bị bom tan nát. Ngược lại, người Mỹ chết chưa tới 60 ngàn binh sĩ, mà cơ sở hạ tầng của Mỹ hoàn toàn không hư hao gì.”
 
Lão hạ tay xuống. “Khi ấy, nước Mỹ đang thắng trên trận địa. Họ đang thắng trên mặt kinh tế. Khả năng chiến đấu của họ không tý xuy xuyển nào. Vậy, tôi hỏi các đồng chí… Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại thua trận Việt Nam?”
 
Lần nữa, không ai trả lời.
 
“Vũ khí của họ không hư hỏng gì.” Lu Shi nói. “Binh sĩ họ không thất bại. Kinh tế của họ không có nguy cơ sụp đổ. Chỉ có một thứ không ổn thôi, nhưng nó cũng đủ cho quân đội bất bại của Mỹ phải quay về nước như chó nhà có tang. Ý chí quốc gia của họ không ổn. Họ đã mất ý muốn chiến thắng. Và vì vậy, họ để mặc cho một đối thủ yếu hơn đánh bại họ.”
 
Mắt lão Lu sáng rực lên. “Đó là lý do của cuộc chiến hiện tại của chúng ta. Không phải vì xe lửa. Không phải vì 200 binh sĩ QGPND đã bỏ mạng. Không phải vì một ngôi làng đầy chuột bên Ấn Độ. Mà cũng không phải vì con trai tôi. Mà là vì sức mạnh của ý chí quốc gia của chúng ta. Mà là vì không chịu cúi đầu trước một địch thủ yếu hơn.”
 
“Tôi… Ơ…” Tướng Guo nhìn mặt những người ngồi quanh bàn và nuốt nước miếng. “Chúng ta sẽ đi bao xa trong vụ này?”
 
“Nếu cần đi xa bao nhiêu, thì đi xa bấy nhiêu.” Lu Shi nói. “Cho đến khi chính phủ Ấn Độ thối lui.”
 
“Nhưng mà, lỡ họ không thối lui thì sao?” Tướng Guo hỏi.
 
“Họ sẽ.” Lu Shi nói.
 
“Nhưng nếu họ không lui thì sao?” Guo lặp lại.
 
“Họ là một địch thủ yếu hơn.” Lu Shi nói. “Nếu chúng ta cược cao đủ, họ sẽ không còn chọn lựa nào khác hơn là thối lui. Và nếu họ không lui… Các bạn hàng xóm Ấn Độ của chúng ta sẽ khám phá ra là có một độ cao nào đó mà họ cược không nổi.”
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:09:06
0
Chương 19
Phi trường Lhasa Gonggar
Khu vực Shannan, Tây Tạng
Thứ Tư, 26 tháng 11, 08:50, giờ địa phương
 
Bánh của chiếc Airbus A320 của hãng China Eastern rời khỏi đường băng của phi trường Lhasa Gonggar đúng giờ và mục sư Bill McDonald hít vào hơi thở thông thoáng đầu tiên từ ba ngày nay. Từ hôm xảy ra vụ thảm sát ở quảng trường Barkhor, hắn chưa từng chợp mắt quá 15-20 phút mỗi lần. Bây giờ, cuối cùng máy bay cũng đã cất cánh và đang rời khỏi lãnh thổ Trung quốc và hắn có thể buông lỏng rồi.
 
Chiếc điện thoại di động đang nằm an toàn trong túi của hắn và tấm thẻ nhớ có đoạn hình kia vẫn còn nguyên vẹn. Chỉ ba tiếng rưỡi nữa, hắn sẽ đáp xuống Kathmandu, rồi sau khi phải chờ đợi 4 tiếng, hắn sẽ lên một chuyến bay của hãng Cathay Pacific để đến phi trường San Francisco International sau khi ghé qua Hồng Kong.
 
Hắn sẽ về đến nhà trễ tối mai, vừa kịp để ăn một bữa cơm Thanksgiving trễ nãi, nhưng hắn vẫn chưa quyết định được sẽ làm gì với đoạn phim đã thâu. Hắn phải giao nó đến đúng người cần đưa, đó là điều hiễn nhiên. Chỉ tiếc là hắn cũng không rõ ai mới là người cần được giao.
 
Hắn đã nghĩ đến việc đi thẳng với hãng CNN hay là một trong những hãng báo chí mà cả nước đều biết đến, nhưng hắn không quen biết ai trong giới báo chí cả. Các tổ chức báo chí có lẽ mỗi ngày đều nhận được cả ngàn cú điện phá phách. Nếu hắn bất ngờ gọi đến văn phòng của bất cứ một tờ báo hay hãng thông tin nào, có lẽ họ sẽ liệt hắn ngay vào trong số những kẻ bài ngoại hoặc thích tán gẫu những câu chuyện âm mưu. Hắn sẽ không có một cơ hội nào để trình đoạn phim cho bất cứ ai có khả năng và quyền hạn công khai phổ biến nó trên tầm mức toàn quốc được. Như vậy là không thể nào đi thẳng đến các hãng thông tin lớn được rồi, trừ phi hắn có thể tìm cách cho một nhân vật cao cấp nghiêm túc chú ý đến câu chuyện của hắn.
 
Hắn cũng đã nghĩ bỏ qua người trung gian và tự mình đưa đoạn phim lên mạng internet. Hắn có thể đưa nó lên một trang web chuyên dùng cho video, rồi đợi nó bốc lửa và lan nhanh như các clip trong vụ phản đối Occupy Wall Street năm 2011. Nhưng trên mạng có hằng trăm ngàn clip, không chừng hằng tỷ clip, mà chỉ có một số rất nhỏ làm người ta chú ý mà thôi.
 
Bill không có fan trên mạng, mà muốn có đủ số fan phải mất nhiều năm. Hắn có thể đưa đoạn phim vào hằng trăm trang mạng, nhưng nếu không ai xem thì cũng chẳng có ích lợi gì.
 
Có thể hắn sẽ may mắn và đoạn phim sẽ được lưu truyền trên mạng như lửa cháy đồng cỏ khô cho đến khi mọi người đều bàn luận về nó và các chính trị gia đều tranh cãi về nó trên các đài truyền hình. Hay cũng có thể là nó sẽ tan biến trong đại dương bao la của internet mà không để lại một gợn sóng nào.
 
Thật mỉa mai thay. Hắn đã bay sang Tây Tạng để tìm kiếm một sự thật nào đó, nhưng số mệnh đã tuyển chọn hắn làm một nhân chứng cho một loại sự thật khác hẳn với mong muốn. Một sự thật có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người hay vận mệnh của nhiều quốc gia. Hắn đang mang theo sự thật trong túi áo, nhưng hắn lại không biết phải làm gì với nó cả.
 
-***-
 
Hắn vẫn còn đang giằng co với vấn đề này thì máy bay đã hạ cạnh xuống phi trường quốc tế Tribhuvan ở Kathmandu. Hắn vẫn chưa giải quyết được vấn đề bốn tiếng sau đó, khi chiếc máy bay hãng Cathay Pacific chở theo hắn cất cánh lên đường đến Hồng Kong.
 
Đến lúc này, hắn đã mệt như chỉ còn là một cái xác biết đi. Hắn ngã ghế ra sau, nhắm mắt lại cố gắng ngủ, nhưng óc hắn vẫn cứ tỉnh táo. Tâm trí hắn nhất định không buông tha vấn đề ấy, cứ đảo nó qua lại mãi.
 
Hắn cố rơi vào trạng thái thiền định để buông thả mọi lo âu và thả hồn vào thức hải. Hắn điều hòa hơi thở và buông lỏng từng cơ bắp một. Hắn đã yên bình… Tâm hồn bình hòa… Hắn… chợt tỉnh.
 
Mắt hắn mở bừng ra. Chẳng ích lợi gì cả. Không cách nào ngủ được.
 
Hắn thò tay vào ngăn chứa sách báo ở cái lưng ghế trước và lấy ra một tờ báo của hãng máy bay. Hắn lật nhanh qua các trang giấy, mà chỉ nhìn thoáng qua hình ảnh, hoàn toàn không lưu ý đến các bài viết. Mắt hắn đã quá mỏi để muốn đọc. Hắn chỉ muốn chia trí một lúc để đỡ phải suy nghĩ thôi.
 
Khi lật đến trang cuối, hắn lại bắt đầu lại từ đầu, các trang giấy trơn bóng chỉ còn là những hình ảnh vụn vặt và những bảng quảng cáo. Khi đã lật đến lần thứ tư, một hình ảnh chợt đập vào mắt hắn. Đó là một số tranh vẽ của một họa sĩ trẻ người Nam Dương, được triển lãm tại một phòng trưng bày sang trọng nào đó ở New York.
 
Ngay giữa trang giấy, có một bức tranh bộ ba: ba bức tranh vẽ cùng một cảnh, mỗi bức từ một góc độ hơi khác nhau. Giữa mỗi bức tranh là chân dung của một người đàn ông già có đường nét người Á châu rõ rệt, được vẽ từ bên trái, thẳng mặt và bên phải. Cả ba bức đều có một vòng kẽm gai rỉ sét chờn vờn trước mặt người đàn ông.
 
McDonald chăm chú nhìn ba bức vẽ, tập trung vào mặt người chứ không để ý vòng kẽm gai. Nó làm hắn nhớ đến một cái gì đó, một tờ yết thị, một bảng quảng cáo, hay một thứ gì hắn đã từng thấy trên truyền hình. Hắn nhắm đôi mắt đau rát và cố nhớ lại. Ba vòng kẽm gai…
 
Rồi hắn chợt nhớ ra, một tấm áp-phích đã nhiều năm rồi hắn chưa từng thấy lại. Trong suốt nhiều tuần trước Thế Vận Hội 2008 ở Trung quốc, bức áp-phích này được bày khắp nơi. Năm vòng kẽm gai trên một hàng rào sắt, in bóng trên nền trời vàng ảm đạm. Ba vòng nằm trên và hai vòng bên dưới, rõ ràng bắt chước theo đồ án năm vòng tròn trứ danh của hội Thế Vận Quốc Tế. Bên trong vòng tròn bên phải, có dòng chữ ‘Bắc Kinh 2008’. Trên hàng rào sắt, có treo tòn teng một danh sách dài liệt kê các vi phạm nhân quyền đang xảy ra ở Trung quốc khi mà dân chúng hay tổ chức xã hội đối lập với chính phủ bị bắt bớ và giam cầm để họ khỏi lộ mặt ra trong Thế Vận Hội.
 
Tâm trí mệt mỏi của McDonald không hiểu vì sao lại nhớ ra tờ áp-phích này thật rõ ràng. Hắn còn thấy rõ phía dưới có dấu hiệu: hội Ân Xá Quốc Tế.
 
Chính là nó rồi! Khi những chữ này hiện lên trong óc, hắn biết ngay là đã tìm ra được giải đáp cho vấn đề. Có lẽ chính hắn không thể nào làm cho các hãng thông tin lớn chú ý đến, nhưng một tổ chức nhân quyền quốc tế sẽ làm được. Nếu họ đưa đoạn phim cho các hãng lớn, các hãng này sẽ lắng nghe. CNN và các hãng lớn khác sẽ không dám bỏ qua một tin lớn như thế, nếu nó được hội Ân Xá Quốc Tế đưa ra. Họ sẽ không dám để vuột mất một câu chuyện có thể biến thành chuyện vị phạm nhân quyền lớn nhất từ khi vụ Thiên An Môn như thế.
 
Hội Ân Xá Quốc Tế, một đáp án đơn giản như thế! Tại sao hắn lại không nghĩ ra từ sớm chứ?
 
Đoạn phim trong túi hắn đã từ một vấn đề nan giải biến thành những công đoạn dễ dàng thực hiện. Chỉ cần vài cú điện là có thể hẹn gặp được một người sẽ nghe hắn nói, một người mà công việc hàng ngày là tìm kiếm những vật chứng như thứ McDonald đang mang theo trên người và đem công bố nó cho cả thế giới biết.
 
Có lẽ hắn chỉ cần vào trang mạng của hội Ân Xá Quốc Tế là tìm ngay được số điện thoại. Sau đó, hắn sẽ…
 
Chưa kịp nghĩ đến bước kế tiếp, mục sư William H. McDonald đã ngủ say trên ghế số 31B, tại một điểm nào đó bên trên biển Đông.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:11:15
0
Chương 20
Bắc Kinh, Trung quốc
Phủ Chủ Tịch Nhà Nước
Thứ Tư, 26 tháng 11, 13:35, giờ địa phương
 
Như thường khi, hai gã cận vệ của Lu Shi bị ngăn lại ngoài cửa và lão phải đi vào một mình.
 
Lu Shi không thích bị buộc phải lưu lại hai tên cận vệ. Không phải là lão cảm thấy không an toàn tại nơi đây, vì phủ Chủ Tịch là một trong những kiến trúc an toàn nhất Trung quốc. Nhưng mà Lu Shi chỉ khó chịu về phương diện khí thế mà thôi. Trải qua suốt một cuộc đời đấu tranh cẩn thận và tỉ mỉ, đột nhiên lão cảm thấy khó lòng chịu được những gì hơi có vẻ là một trở ngại.
 
Hai tên cận vệ bị chặn lại ngoài cửa làm lão chợt nhớ lại là cũng còn có vài địa điểm và hoàn cảnh mà ý muốn của lão không là trên hết. Lão phải tự đề tỉnh rằng trên giấy tờ, lão vẫn còn là nhân vật thứ hai trong chính phủ Trung quốc mà thôi. Tuy rằng việc mà trên thực tế lão nắm quyền điều hành cả nước chỉ là một bí mật mà mọi người đều rõ, nhưng quyền hành chính thức vẫn thuộc về lão Xiao Qishan, chủ tịch nhà nước, ít nhất trên giấy tờ là thế.
 
Thường thì Lu Shi cố gắng không nghĩ rằng lão Xiao là một bù nhìn. Lão Xiao là một người rất giỏi lúc ở thời của lão và lão đã phục vụ cho đảng rất tốt. Cái từ ‘bù nhìn’ cũng không phải không chính xác. Ảnh hưởng chính trị của lão nhân này đã tàn lụi gần như không còn gì. Lực lượng của lão đã gần như mất hết rồi. Lão không còn bằng hữu để nhờ vả nữa. Lão Xiao còn giữ chức vị của lão là vì Lu Shi cho phép. Nếu Lu Shi không ủng hộ lão nữa, Xiao Qishan sẽ không còn ngồi trên chiếc ghế chủ tịch nhà nước chưa đầy một tháng sau đó.
 
Hơn nữa, lão nhân này cũng biết điều đó. Mặc dù cả hai không ai trực tiếp nói ra, hai người đều ngầm hiểu. Lão Xiao đọc các bài diễn văn và chủ trì các cuộc họp báo, còn lão Lu thì toàn quyền quyết định các chính sách lớn để quốc gia tiếp tục tiến lên.
 
Chính vì vậy mà cuộc họp hôm nay thêm phần bực mình. Xiao Qishan đã cho triệu vời lão, cứ như Lu Shi là một viên chức cấp thấp vậy. Lu Shi không hài lòng. Không hài lòng chút nào.
 
Lão đã định phớt lờ lệnh triệu. Như thế, lão có thể khiến lão Xiao nhớ rõ quyền hành trong Trung quốc nằm trong tay ai. Nhưng phô trương thanh thế một cách trắng trợn như vậy thật ra không cần thiết; thôi thì cứ để cho lão mãnh long già này khoái chí một chút cũng được.
 
Lu Shi cố gắng nở nụ cười khi bước vào phòng làm việc của lão Xiao. Lão nhân này đang ngồi nơi bàn làm việc, đọc một cuốn sách nhỏ có bìa đỏ đã tả tơi. Lu Shi nhận ra ngay đó là cuốn Mao Trạch Đông Ngữ Lục.
 
Lão Xiao ngẩng đầu lên và mỉm cười.
 
Lu Shi hơi nghiêng đầu, nửa gật đầu, nửa cúi nhẹ đầu. “Thưa đồng chí Chủ Tịch, ngài muốn gặp tôi sao?”
 
Xiao đóng cuốn sách lại, kẹp một ngón tay để nhớ chỗ đang đọc. “A, đồng chí Lu. Cám ơn anh đã đến, lão bằng hữu.”
 
Lu Shi lại gật đầu. “Tôi luôn sẵn sàng phục vụ đồng chí.” Không thành thật lắm, nhưng nghe cũng đủ cung kính và lễ phép.
 
Xiao phất tay về phía một cái ghế. Lu vờ như không thấy. Lão vẫn đứng.
 
Lão Chủ Tịch hơi nhíu mày, nhưng cũng không ép. “Tôi muốn nói chuyện với anh về… tình huống này… với nước Ấn Độ láng giềng của chúng ta. Vài đồng chí trong Ủy Ban Quân Sự Trung Ương đã tỏ ra… lo lắng…”
 
Tiếng cười của Lu Shi cay đắng hơn là vui vẻ. “Vài đồng chí thân ái của chúng ta là những lão bà nhút nhát.”
 
Xiao đặt cuốn sách đỏ xuống bàn, ngón tay giữ chỗ đang đọc. “Đương nhiên đồng chí biết rõ các đồng chí trong Ủy Ban hơn tôi,” lão nói. “Và có lẽ vài người trong nhóm quá cẩn thận. Tuy nhiên đây là một nơi mà tánh cẩn thận có lẽ là khôn ngoan đó.”
 
Lu Shi cố gắng áp chế ý muốn đảo mắt coi thường. Lão nói. “Tôi không có vấn đề gì với tánh cẩn thận hết. Mà sự khôn ngoan là đức tính tốt của kẻ lãnh đạo. Nhưng tôi không phải nói về cẩn thận hay khôn ngoan. Tôi đang nói về nhút nhát. Sợ sệt. Thiếu can đảm.”
 
Lão gật đầu về phía cuốn sách đỏ. “Thưa đồng chí Chủ Tịch, ngài thấm nhuần tư tưởng của Mao Chủ Tịch hơn bất cứ ai khác mà tôi được biết.”
 
Điều này quả là sự thật. Khi mà khối quyền lực đáng sợ của lão Xiao dần suy thoái, lão mãnh long này ngày càng chìm đắm vào quá khứ. Hằng ngày, lão chỉ chuyên chú vào các bài nói và bài viết của Mao Trạch Đông, với niềm tin rằng học hỏi những thứ ấy sẽ biến lão thành một lãnh tụ sáng suốt hơn. Trong khi ấy, lão quên rằng sự lãnh đạo của lão chỉ gần như còn tồn tại trong trí tưởng tượng của lão mà thôi.
 
Tuy nhiên Lu Shi cũng không tự kiêu đến nỗi bỏ qua lời của Mao để đưa câu chuyện qua một góc độ thuận lợi hơn cho lão. Lão với tay tới cuốn sách đỏ và nhẹ nhàng nhấc nó khỏi tay của lão nhân. “Đồng chí có nhớ rằng Mao Chủ Tịch đã nói thế nào về những người quá nhút nhát để làm ra các quyết định khó khăn không?”
 
Xiao gật đầu. “Dĩ nhiên…”
 
Lu cũng gật đầu. “Và tôi tin rằng, thưa đồng chí Chủ Tịch, đồng chí cũng nhớ những gì Mao Chủ Tịch viết về những kẻ bảo vệ cho kẻ thù của cách mạng cộng sản chứ?”
 
Lão nhân lại gật. “Tôi nhớ…”
 
Lu Shi cầm cuốn sách trong hai tay. “Mao Chủ Tịch đã sáng suốt đề tỉnh chúng ta phải liên hiệp với các bằng hữu chân chính để đánh đổ kẻ thù chân chính. Người đã nhắc nhở chúng ta rằng các giới lãnh đạo phải luôn tuân thủ nguyên lý này để tránh dẫn dắt quần chúng một cách sai lầm.”
 
“Tháng 3, năm 1926.” Xiao nói. “Chủ tịch đang nói về sự phân chia giai cấp trong xã hội Trung Hoa…”
 
“Phải,” Lu Shi đáp. “Nhưng có phải là Mao chủ tịch đang nói bằng phép ẩn dụ không? Hay ngài mong muốn các giới lãnh đạo hậu thế đem tư tưởng của ngài vào hành động?”
 
“Ngài muốn chúng ta hành động.” Xiao nói. “Ngài luôn muốn chúng ta hành động.”
 
“Tôi đồng ý.” Lu đáp. “Nếu chúng ta chấp hành những lời Mao Chủ Tịch răn dạy vào tình hình hiện tại, thì chúng ta nên coi làng giềng Ấn Độ là địch hay bạn?”
 
Xiao ngập ngừng. “Tôi không biết chúng ta có đủ dữ kiện để xác định rõ ràng điều này.”
 
“Bọn chúng cố tình chứa chấp kẻ địch của Trung quốc.” Lu nói. “Những kẻ địch đã tiêu hủy tài sản trị giá hằng tỷ nhân dân tệ và giết hằng trăm dân chúng của chúng ta. Vậy mà láng giềng Ấn Độ của chúng ta lại hoan nghênh bọn khủng bố ấy và đối xử với chúng như khách quý. Không bắt và giao trả chúng cho chúng ta trừng trị trong khi chúng vẫn đang lập mưu những hành động phá hoại và giết người kế tiếp.”
 
Lu Shi đặt cuốn sách đỏ lại trên bàn, bên cạnh bàn tay của Xiao Qishan.
 
“Theo luật pháp của chúng ta,” Lu nói tiếp. “Nếu kẻ nào chứa chấp và giúp đỡ một tên tội phạm, kẻ ấy cũng là tội phạm. Vậy chúng ta phải làm gì với một kẻ chứa chấp và giúp đở kẻ địch đây?”
 
Lần này, Xiao ngần ngừ lâu hơn. Đến khi lão cất tiếng, tiếng của lão chỉ là thì thào. “Kẻ như thế cũng phải là kẻ địch của chúng ta…”
 
Lu nhìn thẳng vào mắt của lão nhân. “Vậy, chúng ta có nên cho một quốc gia hưởng quy chế thấp hơn một cá nhân không?”
 
Xiao chậm rãi lắc đầu.
 
“Vậy thì chúng ta phải tự hỏi một câu đơn giản.” Lu Shi lại nói. “Mao Chủ Tịch răn dạy chúng ta phải làm sao với kẻ địch của Trung quốc?”
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:13:15
0
Chương 21
Trụ Sở của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA)
Langley, Tiểu Bang Virginia
Thứ Năm, 27 tháng 11, 08:26 giờ địa phương
 
Kurt Gray ngáp to trong suốt quá trình phức tạp kích hoạt máy điện toán của gã. Gã đút tấm thẻ điện tử vào máy đọc cạnh màn hình và đợi cho đèn đỏ trên máy đọc vân tay sáng lên.
 
Nào là chìa khóa điện tử, nào là chìa khóa sinh trắc học, rồi lại mật khẩu dài ít nhất 15 chữ, máy điện toán của gã được mã hóa 9 cách khác nhau. Những năm gần đây, Cơ Quan đã đem bảo mật thông tin lên thành sự ám ảnh gần như bệnh hoạn. Kurt và các đồng bạn giải tích của gã đều cho rằng sớm muộn gì các phương pháp mã hóa sẽ gồm cả phân tích tế bào di truyền AND và khám hậu môn.
 
Cái này cũng chỉ nửa đùa thôi, bởi vì có đủ mọi dấu hiệu cho thấy tính đa nghi của CIA càng lúc càng tăng cao. Kurt lại ngáp trong khi đánh vào máy mật khẩu thứ nhất. Có lẽ nghĩ đó là tính đa nghi cũng không công bằng lắm, bởi vì thật sự có nhiều người đang cố gắng vươn các ngón tay tin học nhớp nhúa của chúng vào các cơ sở dữ liệu của Cơ Quan. Rất nhiều người… Các chính phủ địch, các lực lượng quân sự nước ngoài, các phần tử tội phạm, những kẻ điên khùng, đủ loại phần tử trộm dữ liệu trên mạng và cả một số chính phủ nước bạn nữa. Nói đúng ra, có cả mớ người trong chính phủ Hoa Kỳ sẵn lòng bỏ ra bộn bạc để được ghé mắt vào kho tàng tin tức của CIA.
 
Khi ngọn đèn đỏ sáng lên, Kurt đặt ngón trỏ tay phải lên máy đọc vân tay, rồi đánh vào máy mật khẩu thứ nhì của gã. Máy đáp lại bằng một tiếng bíp hài lòng và Kurt ngồi dựa ra sau, chờ cho máy điện toán của gã tiến hành quá trình thần kỳ giải mã ổ đĩa cứng.
 
Gã với tay nâng tách cà-phê Starbucks luôn ở bên cạnh và nhấp một ngụm lớn cà-phê nóng bỏng và đậm đà. Đây là cà-phê sữa có thêm hương vị bí ngô, một hương vị chỉ có trong khoảng lễ Thanksgiving hằng năm.
 
Kurt hạ tách cà-phê ấm áp từ môi và nghiêng tách về màn hình như để chào nó. “Chúc ông một lễ Thanksgiving tốt lành, ông Computer (máy điện toán) ạ. Hi vọng ông không phiền lòng khi phải làm việc vào ngày Gà Tây chứ? Tại vì tôi thì *** khoái chút nào.”
 
Gã lại nhấp một ngụm trong khi bảng báo cáo hiện lên trên màn hình, rồi tên những tập tin bắt đầu hiện lên. Cả quá trình tốn hơn một phút. Danh sách không phải là ngắn. Kurt cuộn xuống dãy tên tập tin và cất tiếng rên rỉ đau khổ.
 
Phương thức hoạt động của Ban Tình Báo được thành lập từ những năm 1960 và 1970, trước khi có internet, khi mà chưa từng ai nghe đến thư điện tử và động cơ tìm kiếm, và cũng là khi mà máy fax là phương tiện thông tin điện tử tiên tiến nhất. Khoảng thời gian ấy, nào có tần số điện thoại di động để mà ngăn chặn, nào có máy chủ mạng để mà tìm cách đột nhập và nào có ổ đĩa flash để chứa và đem theo hằng gigabyte hay terabyte hồ sơ đã đánh cắp được. Thời ấy, các chuyên gia giải tích tình báo phải cực khổ liên kết những mẫu tin tức nhỏ xíu, trong một hoàn cảnh cực kỳ khan hiếm tin tức.
 
Ngày nay, Ban Tình Báo lại phải chật vật với một vấn đề trái ngược hẳn: tình trạng quá tải thông tin. Cái gọi là “siêu xa lộ thông tin” đã biến thành một ngọn sóng thần tin tức càng lúc càng nhiều và liên tục thay đổi. Thêm vào đó là hình ảnh từ máy bay trinh sát không người lái, tín hiệu bị đánh chặn và cả những bản báo cáo từ nhân viên hoạt động tại địa phương, thế là thông thường một chuyên gia giải tích bị tràn ngập bởi một số lượng hồ sơ mà không một người nào có thể tiêu thụ được. Cũng may là khoảng 98% lượng thông tin này không hữu ích gì hết, trên khía cạnh an ninh quốc gia và chính sách đối ngoại. Cái khó là làm sao thò tay vào trong cái biển rác rưởi ấy và lôi ra cái phần 2% có ý nghĩa thiết thực.
 
Đó chính là công việc của Kurt. Mà tuy rằng thường thì nó chi ly và phiền toái, gã lại làm rất giỏi. Gã lại trở lên đầu danh sách và bắt đầu lọc lựa.
 
Trước khi bắt đầu, gã hi vọng là lượng việc sẽ nhẹ một chút, nhưng xem ra không được rồi. Tuy vậy, có lẽ cũng không tệ quá. Từ tên của hồ sơ, gã đã nhận ra là phần lớn là những bài tóm gọn tình báo từng khu vực. Nhiều bản báo cáo chỉ nhắc lại các sự kiện trong báo cáo hôm trước. Gã có thể bỏ qua mớ hồ sơ này và gã chỉ cần đọc lướt qua số còn lại.
 
“OK,” Gã tự nhũ. “Để xem có gì xảy ra trên vùng đất Ấn Độ huyền bí…”
 
Kurt đã được điều đến Phòng Nam Á của CIA ba năm rồi; mà hai năm gần đây, gã được sắp xếp làm việc chuyên chú vào Bharat Ganarajya, tức là nước Cộng Hòa Ấn Độ. Gã có thể đọc ngôn ngữ Hindi như một người dân bản xứ vậy, mà nói thì không được thông thạo như vậy. Tuy nhiên sự tinh thông ngôn ngữ ấy cũng không hữu dụng như nếu gã phải làm việc ở những khu vực khác, bởi vì hơn phân nửa số hồ sơ xuất phát từ Ấn Độ được việt bằng Anh ngữ.
 
Từ thời là thuộc địa của Anh quốc, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ dùng trong chính trị và thương mại ở Ấn Độ. Khi nước này dành lại độc lập năm 1947, người ta đã cố gắng nhiều lần chuyển sang ngôn ngữ Hindi khi giao tiếp chính thức, nhưng suốt một thế kỷ bị nước Anh đô hộ đã để lại một dấu ấn không thể phai mờ trên chính trường Ấn Độ.
 
Theo thói quen, Kurt móc một đồng tiền từ túi quần và ném lên trời. Ngửa, gã sẽ đọc hồ sơ bằng tiếng Hindi trước. Sấp, gã sẽ bắt đầu từ hồ sơ Anh ngữ.
 
Đồng tiền rơi trên mặt bàn, nảy lên rồi gương mặt George Washington hiện ra. “Tiếng Hindi vậy.” Gã nói và mở tài liệu đầu tiên ra.
 
-***-
 
Hai giờ sau, mắt đã nhòa đi, Kurt mở một trong những hồ sơ viết bằng tiếng Hindi cuối cùng. Chỉ vài cái nữa, gã sẽ bắt đầu qua hồ sơ viết bằng Anh ngữ.
 
Hồ sơ mở ra thật chậm. Khi mà nó cuối cùng hiện ra trên màn hình, Kurt hiểu ngay vì sao. Nó chứa ít nhất hàng chục hình ảnh.
 
Kurt liếc nhanh đến tấm hình đầu tiên và nhấn nút trên con chuột để bức hình lớn lên. Đó là một bức vẽ đen trắng của kiến trúc sư, vẽ hình một kiến trúc vuông vức, giống như một cây cầu. Dựa theo đường tỷ lệ bên cạnh, cái kiến trúc này thật là vĩ đại: dài nhiều km và cao khoảng 200 m.
 
Kurt phóng đại bức hình thêm nữa và cố gắng đọc chữ viết trong những ô nhỏ. Chữ viết này có dáng vẻ Á Đông mà Kurt không hiểu được. Trung Hoa, hay Nhật, hay Hàn, đại khái như thế. Tuy nhiên có những ghi chú viết tay ở vài nơi quanh bức vẽ; mà Kurt có thể đọc được các ghi chú này, bởi vì chúng được viết bằng ngôn ngữ Hindi. Nhiều khoảng ghi chú bằng tiếng Hindi được kèm theo những mũi tên vẽ tay và những đường cong chạm nhau, rồi lại tách ra, rồi lại tụ lại ở vài địa điểm có vẻ quan trọng trên cái kiến trúc đồ sộ ấy.
 
Phải mất khoảng 30 giây, Kurt mới ý thức được là cái kiến trúc vuông vức vĩ đại ấy không phải là một cây cầu; nó là một cái đập nước. Một cái đập thủy điện khổng lồ, có nhiều cửa van thoát nước hơn bất cứ cái đập nào mà gã từng thấy qua.
 
Kurt thu nhỏ bức vẽ lại và nghiên cứu qua số hình ảnh còn lại trong một cơn phấn khích và sợ hãi càng lúc càng dâng cao. Một ý nghĩ dần thành hình trong óc gã; mà nó không làm gã thoải mái chút nào cả.
 
Gã nhìn trân trân vào màn hình suốt nhiều phút, lần đầu tiên trong sự nghiệp hi vọng rằng mình đừng tìm được cái gì thú vị.
 
“Không ổn.” Gã tự nhủ, với tay đến máy điện thoại. “Cái này thật tình là không ổn rồi.”
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:15:29
0
Chương 22
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình
(trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia)
 
Sự bộc phát của Đệ Nhị Thế Chiến làm người ta lại chú ý đến những vũ khí bay không người lái.
 
Năm 1940, kỹ sư người Anh Frederick George Miles đề nghị khai triển một chiếc máy bay nhẹ, được điều khiển từ xa, có khả năng mang một quả bom 450 kg. Được mệnh danh là chiếc Miles Hoop-la, nó không phải là một món vũ khí chỉ có thể dùng một lần. Trái lại, nó có thể thả quả bom vào mục tiêu được chỉ định, rồi quay về căn cứ để được tiếp liệu và đeo bom cho phi vụ kế tiếp. Nó được dự trù là có vận tốc trên 480 km/giờ, nhưng điều này không bao giờ được chứng nhận bởi vì dự án bị hủy bỏ trước khi một mô hình được chế tạo.
 
Năm 1941, ReichluftMinisterium (Bộ Không Quân) Đức bắt đầu tìm hiểu các đề cương cho máy bay “ghép”, nghĩa là nhiều máy bay được trực tiếp ghép dính vào nhau và được điều khiển như một cá thể. Sự chú ý của Đức Quốc Xã đến khái niệm này có lẽ bắt nguồn từ các cuộc nghiên cứu của Sô Viết vào những năm 1930 về những chiếc máy bay chiến đấu được gắn vào thân hay cánh của những chiếc máy bay ném bom cỡ lớn, sẵn sàng bay lên bảo vệ cho máy bay mẹ khi bị máy bay địch đe dọa.
 
Một kế hoạch của Đức là dùng một chiếc máy bay chiến đấu được gắn vào một chiếc máy bay ném bom Junkers Ju-88 không người lái, chứa đầy chất nổ để điều khiển chiếc máy bay ném bom vào mục tiêu. Khi bay đến địa điểm được định sẵn, viên phi công của chiếc máy bay chiến đấu sẽ nhắm chiếc máy bay ném bom vào mục tiêu, tách rời máy bay của mình ra và ly khai trong khi chiếc Junkers lao vào mục tiêu và nổ tung.
 
Ban đầu giới lãnh đạo cao cấp của Luftwaffe (Không quân Đức) phản đối kế hoạch này, nhưng rốt cuộc bộ ReichluftMinisterium cũng ưng chuẩn dự án Beethoven để chế tạo một quả bom ghép mang bí danh Mistel.
 
Vụ thử nghiệm thực sự đầu tiên tiến hành vào tháng 7 năm 1943. Chiếc máy bay dùng để điều khiển là một chiếc chiến đấu cơ Messerschmitt Mf-109E được lắp bên trên một chiếc oanh tạc cơ Ju-88A không người lái và được nối dây điều khiển vào bộ phận điều chỉnh ga (tốc độ) và hệ thống điều khiển hướng bay của chiếc Ju-88A. Viên phi công cất cánh suông sẻ và bay chiếc máy bay ghép về phía mục tiêu. Khi đạt đến đúng tầm, gã tách chiếc Messerschmitt khỏi chiếc oanh tạc cơ, khiến chiếc Ju-88A tự động bay về phía mục tiêu. Mức chính xác của vụ tấn công này không chê vào đâu được và lượng chất nổ trong chiếc oanh tạc cơ hoàn toàn phá hủy mục tiêu. (Ghi chú của dịch giả: Mf-109 là một chiến đấu cơ một động cơ cánh quạt, còn Ju-88 là một oanh tạc cơ cở trung bình có hai động cơ cánh quạt. Cả hai được Đức Quốc Xã sử dụng từ đầu đến cuối Thế Chiến thứ Hai.)
 
Chiếc Mistel trông không giống quả Ngư Lôi Bay Sperry hay Con Bọ Kettering của thế chiến trước, nhưng cái phát minh mới này của Đức là con cháu trực hệ của các vũ khí bay kia. Chỉ trong một chuyến bay, chiếc Mistel đã chứng minh rằng cái khái niệm quả bom bay không người lái chẳng những thực thi, mà còn chí mạng nữa.
 
Các sĩ quan cao cấp của Luftwaffe bèn bỏ qua mọi sự phản đối và ngay lập tức hào hứng với chiếc Mistel. Họ nhanh chóng lập kế hoạch hoàn thiện chiếc Mistel và đưa nó vào sản xuất và thực chiến.
 
Chiếc Mistel bắt đầu vào thực chiến tháng 6 năm 1944, gần đúng một năm sau lần thử nghiệm đầu tiên. Hình thức sau cùng của nó là dùng một chiếc chiến đấu cơ Focke-Wulf Fw-190A lắp bên trên một chiếc Junkers Ju-88A-4. Phần mũi và phòng lái của chiếc oanh tạc cơ được tháo đi, thay vào đó là một đầu đạn 3,500 kg thuộc loại khối nổ lõm. (chú thích của người dịch: khối nổ lõm có phía trước bằng kim loại thường là đồng, hình nón; mặt lõm hướng về phía mục tiêu, thuốc nổ bao bọc phía sau. Khi nổ, sức nổ ép tấm kim loại hình nón thành một mũi tên kim loại nóng chảy bắn vào mục tiêu. Mục đích là xuyên phá. Thường được dùng để phá mục tiêu được bảo vệ bằng giáp dày như xe tăng, tàu chiến, tường dày, v.v.)
 
Các cuộc thử nghiệm cho thấy cái đầu đạn khổng lồ này của chiếc Mistel có khả năng xuyên thấu xi-măng cốt sắt có hầu như bất cứ độ dày nào. Một cuộc tấn công thử vào một chiếc thiết giáp hạm cũ của Pháp làm cho chiếc chiến hạm này bị thiệt hại một cách nghiêm trọng lạ lùng, cho thấy khả năng của chiếc Mistel trong nhiệm vụ chống hạm. Khả năng này lập tức được thử nghiệm khi nhiều chiếc Mistel được dùng để tấn công tàu bè của quân Đồng Minh ngay trong tháng đầu tiên chiếc Mistel được đem vào thực chiến.
 
Giới lãnh đạo cao cấp của Đức Quốc Xã liền bắt đầu lập kế hoạch cho một chiến dịch sử dụng Mistel trên quy mô lớn chống quân Đồng Minh, mang bí danh Chiến Dịch Eisenhammer (Thiết Chùy). Hơn 250 chiếc Mistel được sản xuất, nhưng Chiến Dịch Eisenhammer không bao giờ được tiến hành. Số Mistel đã được gom góp cho chiến dịch này được sử dụng trong nhiều vụ tấn công nhỏ, phần đông nhắm vào các cây cầu trên tuyến đường tiến quân của quân Đồng Minh.
 
Không quân Đức có chế tạo một số kiểu Mistel khác nhau tý đỉnh, gồm vài thay đổi hay thay thế máy bay để phù hợp với các nhiệm vụ. Một kiểu Mistel dùng máy bay phản lực được nghĩ đến, với ý định là dùng chiếc máy bay chiến đấu phản lực Messerschmitt Me-262; tuy nhiên dự án này không bao giờ được thực thi. Nhiều kiểu khác được đề nghị, nhiều kiểu cực kỳ quái dị. Phần đông các ý tưởng quyết liệt nhất chỉ ở trên giấy thôi.
 
-***-
 
Trong khi nước Đức đang nghiên cứu và sử dụng các vũ khí bay không người lái của họ, phía bên kia Đại Tây Dương, Hoa Kỳ lại tiếp tục nghĩ đến ngư lôi bay.
 
Trong một chuyến viếng thăm nước Anh vào năm 1936, Tham Mưu Trưởng Hải Quân, Đô đốc William H. Standley chứng kiến một vụ tập trận bằng đạn thật chống lại một chiếc máy bay huấn luyện Queen Bee của Anh quốc; đây là một chiếc máy bay cánh đôi Tiger Moth của hãng de Havilland, được vô tuyến điều khiển và được dùng làm bia sống. Đặc điểm của chiếc Queen Bee ấy gây ấn tượng mạnh cho ông và ông liên lạc với chuẩn Đô đốc Ernest J. King, chỉ huy Phòng Phi Hành, và lệnh cho ông này nghiên cứu các phương án chế tạo máy bay vô tuyến điều khiển cho Hải Quân Hoa Kỳ.
 
Dưới sự đề bạt của đô đốc Tham Mưu Trưởng, chuẩn đô đốc King chọn Trung Tá Delmar S. Fahrney làm người lãnh đạo đề án này. Là một phi công kỳ cựu và mang bằng thạc sĩ trong ngành kỹ sư hàng không, Fahrney đầy đủ kinh nghiệm và cực giỏi trên lãnh vực kỹ thuật. Ông ta còn là người có tầm nhìn xa.
 
Làm việc chung với Xưởng Máy Bay Hải Quân, Fahrney điều hành việc biến đổi hai chiếc máy bay cánh đôi Curtiss và hai chiếc cánh đôi Stearman thành những chiếc “drone” (người dịch: drone là máy bay không người lái, nhưng cũng có nghĩa là tiếng vo ve). Gần như chắc chắn Fahrney là người đầu tiên dùng từ drone để chỉ một chiếc máy bay không người lái. Có lẽ đây là một sự công nhận đầy thiện ý rằng chiếc Queen Bee (ong chúa) của Anh quốc là nguồn linh cảm cho chương trình này của Hải Quân Hoa Kỳ.
 
Đến năm 1937, nhóm Fahrney bắt đầu bay thử những chiếc máy bay này. Một năm sau, các chiếc máy bay không người lái của nhóm được dùng trong những cuộc tập trận chống máy bay của chiếc tàu sân bay USS Ranger. Những chiếc máy bay này là những mục tiêu cực khó cho các đội phòng không; qua hết đợt tấn công giả này đến đợt khác, chúng không bị sứt mẻ gì cả.
 
Sự thành công của máy bay không người lái và sự thất bại của các đội phòng không đã khiến cho toàn bộ Hải quân phải đánh giá lại lực lượng phòng không của mình. Các cuộc thí nghiệm với chiếc USS Ranger này cũng khiến ông Fahrney tin rằng máy bay vô tuyến điều khiển có thể được sử dụng như một vũ khí để tấn công chiến hạm địch bằng cách oanh tạc hay phóng ngư lôi.
 
Fahrney lập tức tiến hành một vụ thực nghiệm, cho một chiếc “drone tấn công” mang theo một đầu đạn giả tập kích chiếc thiết giáp hạm USS Utah. Tiếc thay cho ông Fahrney, các đội phòng không trên chiếc Utah bắn giỏi hơn các nhóm trên chiếc Ranger. Khi chiếc máy bay không người lái bắt đầu lao xuống để ném bom, một tràng đạn phòng không trúng ngay vào nó, làm nó đâm xuống biển. Thế là cuộc tấn công giả chấm dứt.
 
Ông Fahrney không hề mất niềm tin. Cuộc biểu diễn của ông bị cắt ngang vì một viên đạn may mắn, nhưng ông không hề hoài nghi rằng khái niệm cơ bản vừa có ích, vừa có thể đạt được. Một chiếc máy bay vô tuyến điều khiển có thể tấn công một chiến hạm địch mà không cần phải lo lắng đến tính mạng của phi công.
 
Trong khi nghiên cứu các phương pháp để cải tiến chiếc drone tấn công của mình, Fahrney được quen biết với Tiến Sĩ Vladimir Zworykin, một di dân người Nga thật sáng chói đã trở thành kỹ sư trưởng của hãng Radio Corporation of America (thường được gọi là RCA). Zworykin sau này nắm giữ nhiều bằng sáng chế trọng yếu nhất cho các kỹ thuật được sử dụng cho máy truyền hình và kính hiển vi điện tử; lúc này, ông đã cố gắng từ nhiều năm để Hải Quân Hoa Kỳ chú ý đến ý tưởng một quả ngư lôi bay được điều khiển bằng một con mắt điện tử. Giới lãnh đạo của Hải quân cho rằng khái niệm này của tiến sĩ Zworykin không cần thiết, đắt tiền và có lẽ không thể thực thi.
 
Ông Fahrney chỉ nhìn bản kế hoạch đề xuất qua một lần, đã bỏ qua tất cả mọi thẩm định trước đó. Ông nhanh chóng soạn một hợp đồng với hãng RCA để khai triển một loạt thí nghiệm những hệ thống máy truyền hình có thể sử dụng trên máy bay Hải quân.
 
Vì đã nghiền ngẫm ý tưởng này từ nhiều năm, tiến sĩ Zworykin tạo được một nguyên mẫu có thể hoạt động chỉ trong vòng vài tháng. Mô hình đầu tiên cân nặng 155 kg, quá nặng cho một chiếc máy bay không người lái cỡ nhỏ, nhưng đủ nhẹ để thử nghiệm trên một chiếc máy bay có người lái. Các cuộc thử nghiệm đầu tiên thành công, cho thấy tín hiệu hình ảnh phát đi từ một chiếc máy bay có thể được nhận và nhìn được trên một chiếc máy bay khác cách xa 30 km.
 
Trong khi nguyên mẫu vẫn còn đang được thử nghiệm, nhóm Zworykin tại hãng RCA đang tìm cách chế tạo một mô hình khác nhỏ hơn. Được gọi là “Khối 1” vì hình dạng vuông vức của nó, mô hình mới này chỉ cân nặng 44 kg, đựng vừa trong một hộp có kích thước 20 cm x 20 cm x 60 cm (vì thế có tên “khối”).
 
Trước khi mô hình Khối-1 có thể được lắp vào một chiếc máy bay để thử nghiệm, Hải Quân Hoàng Gia Nhật đã mở cuộc tập kích trứ danh ở Trân Châu Cảng, ở tiểu bang Hawai, gây nên thiệt hại trước nay chưa từng có cho hạm đội Thái Bình dương của Mỹ. Các tàu sân bay và một số tàu hộ vệ nhỏ của Mỹ không bị thiệt hại gì vì chúng không có mặt tại Trân Châu cảng khi nơi này bị tập kích, nhưng phần lớn hạm đội bị tiêu hủy.
 
Hải Quân Hoa Kỳ náo loạn. Các thiết giáp hạm, khi ấy là thành phần chủ lực của hạm đội, đã bị đánh tơi tả. Về sau, một số được vớt lên, sửa chửa và trở về hàng ngũ; tuy nhiên khi ấy, Hải quân Hoàng gia Nhật đang tung hoành trên Thái Bình dương, Hoa Kỳ không thể nào ngồi yên chờ đợi đến khi các chiếc thiết giáp hạm được sửa xong. Hải quân Hoa Kỳ cần phải có khả năng tác chiến ngay tức khắc.
 
Tàu sân bay là thành phần chính của đáp án. Chúng chính là một hướng đi mới triệt để khác với đại pháo và giáp dày của thời đại chiến tranh bằng thiết giáp hạm. Trong những tháng kế tới, các chiếc tàu sân bay đã chứng minh mình là tương lai của sức mạnh hải quân; tuy nhiên, ngay sau biến cố Trân Châu Cảng, khả năng và mức đáng tin cậy của chúng còn chưa được chứng minh. Trong không khí bất an ấy, máy bay không người lái được vô tuyến điều khiển của ông Fahrney bỗng nhiên đem lại đầy hứa hẹn.
 
Tháng 2 năm 1942, Hải quân phát ra một chỉ thị tối mật, mệnh danh là Đề Án Lựa Chọn, biến máy bay không người lái tấn công thành một ưu tiên quốc phòng. Hai ông Fahrney và Sworykin còn chưa có một mô hình có thể sử dụng thì đã phải lao đầu vào một chương trình chế tạo quy mô lớn dưới sự lãnh đạo của hải quân đại tá Oscar Smith.
 
Chỉ hai tháng sau khi chương trình được thành lập, nhóm Đề Án Lựa Chọn đã thành công thử tấn công chiếc USS Aaron Ward, một chiếc khu trục hạm đang chạy 15 hải lý/giờ (28 km/g) theo một lộ trình quanh co để tránh địch. Chiếc máy bay không người lái là một chiếc máy bay phóng ngư lôi được cải hóa và được điều khiển bởi viên phi công của một chiếc máy bay cách xa 13 km, hoàn toàn ngoài tầm nhìn của chiếc khu trục hạm bị tấn công.
 
Vừa nhìn hình ảnh được truyền về từ máy thu hình lắp nơi mũi chiếc drone tấn công, viên phi công dễ dàng lái chiếc drone lao đến mục tiêu. Quả ngư lôi được chiếc drone phóng đi, chạy thẳng bên dưới lườn chiếc khu trục hạm đang điên cuồng tránh né. Nếu quả ngư lôi mang theo đầu đạn thật, chiếc USS Aaron Ward đã bị nổ tung khỏi mặt nước rồi.
 
Các lãnh đạo cao cấp của chính phủ và quân đội bị chấn động khi xem đoạn phim quay cuộc tấn công thử nghiệm ấy. Không mấy ai đã từng xem đoạn phim ấy có chút hoài nghi nào rằng mình đang chứng kiến một bước ngoặc quan trọng trong phương thức tác chiến.
 
Đô đốc King vừa được tổng thống Roosevelt thăng chức thành Tham Mưu Trưởng Hải Quân, hạ lệnh cho Hải quân Đại Tá Smith tiến hành việc sản xuất 5.000 chiếc drone tấn công. King còn lệnh cho Đại tá Smith thành lập 18 phi đoàn drone phục vụ dưới quyền chỉ huy của một đơn vị tác chiến không quân đặc biệt tân lập.
 
Mặc dù Đề Án Lựa Chọn được sự ủng hộ ở cấp cao nhất, chương trình này thật ra không được hoan nghênh tại mọi nơi. Mỉa mai thay, chống đối dữ dội nhất lại đến từ Chuẩn Đô Đốc John H. Towers, khi ấy đã thay thế Đô đốc King trong chức vụ chỉ huy Phòng Phi Hành. Towers kiên quyết rằng hao tốn tài nguyên quý báu vào một vũ khí chưa qua thử thách là một quyết định kém khôn ngoan. Sự chống đối của ông càng có vẻ mỉa mai khi xét lại bao khó khăn chính ông đã từng gặp phải vào các năm 1920-1930, khi ông cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ cho ngành không quân của Hải quân, trước sự chống đối của những cấp lãnh đạo đã công khai hoài nghi sự hữu dụng của tàu sân bay và máy bay trong một thế giới được thống trị bởi tuần dương hạm và thiết giáp hạm.
 
Fahrney quả thật tin tưởng vào khái niệm drone tấn công, nhưng ông cũng nhận rõ cần phải tạo càng ít cơ hội cho những kẻ chống đối chương trình này càng tốt. Ông quyết định rằng chiếc máy bay phóng ngư lôi không người lái sẽ được sản xuất bằng số lượng tối thiểu vật tư khan hiếm. Do đó, thế hệ máy bay phóng ngư lôi không người lái đầu tiên, được mệnh danh là TDN-1, được chế tạo gần như hoàn toàn bằng gỗ.
 
Với đôi cánh lắp cao trên thân và hai động cơ nhỏ, chiếc TDN-1 có thể mang theo một quả ngư lôi hay một quả bom 900 kg dưới bụng, ở tốc độ 280 km/g. Chiếc máy bay rất nhẹ, rẻ tiền và chỉ dùng số lượng vật tư quý hiếm tối thiểu. Tiếc rằng cách thiết kế của chiếc TDN không tiện cho sản xuất quy mô lớn. Chỉ 114 chiếc được sản xuất, hầu như tất cả đều được dùng để thử nghiệm hay được dùng như bia ngắm bay. Không một chiếc TDN-1 nào được dùng trong thực chiến.
 
Sự nhiệt tình với khái niệm drone tấn công bắt đầu xuống dốc, một phần do sự bài xích không ngừng của đô đốc Towers và những người phản đối khác. Đại tá Smith và trung tá Fahrney vẫn không nản chí. Nhóm Đề Án Lựa Chọn lập tức tiến hành sản xuất những chiếc TDR-1, thế hệ drone tấn công thứ nhì được thiết kế thích hợp với sản xuất hằng loạt hơn.
 
Tháng 5 năm 1944, sau khi được đại tá Smith và trung tá Fahrney vận động kịch liệt, đơn vị tác chiến không quân đặc biệt số 1 (Special Air Task Force One, viết tắt STAG-1) được điều động đến vùng nam Thái Bình dương để chiến đấu chống Nhật.
 
Các chiếc drone TDR-1 của STAG-1 được điều khiển từ những chiếc máy bay oanh tạc Grumman Avenger được cải biến với hệ thống vô tuyến điều khiển và ăng-ten truyền hình. Dụng cụ điều khiển gồm có một cần điều khiển cho viên phi công của chiếc Avenger sử dụng, và một bàn quay số điện thoại nối liền bằng vô tuyến với hệ thống lái tự động của chiếc TDR-1 để điều hành mẫu bay, lên đạn và thả bom hay ngư lôi. Hệ thống điều hành chỉ có 4 kênh, nên mỗi chiếc Avenger chỉ có thể điều hành tối đa là 4 chiếc drone cùng lúc.
 
Vụ tập kích bằng TDR-1 đầu tiên diễn ra ngày 30 tháng 7 năm 1944 chống lại một chiếc tàu hàng Nhật đã bị thủy thủ đoàn rời bỏ sau khi mắc cạn gần đảo Guadalcanal. Sáu chiếc TDR-1 tham gia vào nhiệm vụ này: bốn chiếc sẽ tấn công, còn hai chiếc kia để dự bị. Cả sáu chiếc đều trang bị bom nặng 900 kg.
 
Khởi đầu không được tốt. Hai chiếc drone nứt đôi khi cất cánh. Hai chiếc khác đánh trúng mục tiêu, nhưng bom không nổ. Hai chiếc cuối cùng tấn công thành công và bom của chúng phá hủy mục tiêu.
 
Phim quay cảnh chiếc tàu hàng Nhật nổ tung thật là tạo chấn động, tuy nhiên mức ưa chuộng khái niệm drone tấn công đã xuống thấp đến nỗi đại tá Smith phải vận động mãnh liệt chương trình mới thoát khỏi số phận bị hủy bỏ.
 
Khoảng 8 tuần sau, STAG-1 tiến hành một loạt tập kích bằng drone vào những cơ sở của quân Nhật trên đảo Bougainville. Các cuộc tập kích bắt đầu vào ngày 27 tháng 9 cho đến 26 tháng 10. Tổng cộng là 46 chiếc TDR-1 được sử dụng. Trong số này, 37 chiếc đột phá được hàng rào phòng không của quân Nhật và bay đến mục tiêu. Ít nhất là 21 chiếc đánh trúng mục tiêu được chỉ định.
 
Quân Nhật bị chấn động bởi các đợt tập kích điên cuồng của các chiếc drone, tưởng rằng Hải quân Hoa Kỳ đã bắt đầu tấn công tự sát, một phương thức tác chiến mà chính nước Nhật chỉ mới bắt đầu vài tuần trước đó thôi.
 
Thành tích của các vụ tập kích ở Bougainville rất khả quan, nhưng không đủ để giúp chương trình drone tấn công thoát khỏi số phận bị hủy bỏ. Các chiến binh và nhân viên của Đề Án Lựa Chọn vô cùng thất vọng, nhưng vào cuối năm 1944, mọi người có thể thấy rõ là chiến tranh ở Thái Bình dương không cần đến các quả bom bay kỳ quái của STAG-1 cũng có thể chiến thắng được. Trước kia chiếc TDR-1 từng được xem là một sự đột phá kỹ thuật tối quan trọng, nay không còn được xem là sẽ mang đến ích lợi đáng kể trong việc kết thúc chiến tranh nữa.
 
Khi chương trình bị hủy bỏ, thế hệ drone thứ ba, chiếc TDR-3 đang được thiết kế. Một số hình ảnh của chiếc TDR-3 vẫn còn tồn tại, nhưng không rõ nó là nguyên mẫu có thể bay, hay chỉ là mô hình. Dù gì đi nữa, công cuộc truy tìm một chiếc máy bay tấn công không người lái của Hải quân đến đây đã kết thúc.
 
-***-
 
Song song với các cố gắng của Hải quân, Không quân của Lục Quân Hoa Kỳ (KQLQHK) cũng nỗ lực phát triển một quả bom bay không người lái. Chương trình A-1 chủ yếu là một chiếc máy bay cánh đơn có khả năng mang theo một đầu đạn nặng 225 kg đến mục tiêu cách xa 650 km. Một số A-1 nhỏ được sản xuất khi chương trình bị hủy bỏ năm 1943.
 
(chú thích của người dịch: mãi cho đến 1948, bộ quốc phòng Hoa Kỳ mới được Quốc Hội cho phép thành lập quân chủng Không Quân (Air Force); từ đó Không quân của Lục Quân tách ra khỏi Lục Quân và trở thành Không Quân; Lục Quân chỉ được phép sử dụng trực thăng (mọi cỡ lớn-nhỏ) và máy bay liên lạc và vận tải cở nhỏ)
 
Trong một chương trình mệnh danh Dự Án Aphrodite, KQLQHK cộng tác với Hải quân trong việc phát triển một loạt thiết kế ngư lôi bay mang tên kỳ quái “BQ”. Một trong những kiểu khoa trương nhất là chiếc BQ-7: những chiếc oanh tạc cơ Pháo Đài Bay B-17 cũ được cải biến để được điều khiển bằng vô tuyến và chất đầy 9 tấn chất nổ để được sử dụng như những chiếc drone tiến công.
 
Mỗi chiếc BQ-7 có một phi công trưởng và một phi công phó khi cất cánh. Nóc phòng lái đã bị cắt bỏ, để phi hành đoàn có thể nhảy dù thoát đi, sau khi chiếc máy bay đã cất cánh xong. Trên lý thuyết, sau đó chiếc BQ-7 sẽ được vô tuyến điều khiển bay đến mục tiêu.
 
Khoảng 25 chiếc BQ-7 được chế tạo. Hầu hết được chỉ định để đánh vào những cơ sở quân sự kiên cố trong nước Đức, trong một kế hoạch mang tên Dự Án Perilous (hiểm nghèo). Tiếc thay, cái tên này lại vô cùng chính xác.
 
BQ-7 được thử nghiệm trong thực chiến một số lần, không lần nào thành công đáng kể cả, mà vài lần còn gần tạo ra thảm họa nữa. Trong một vụ, chiếc BQ-7 mất khống chế và cứ bay vòng vòng bên trên một thành phố Anh quốc; mãi lâu sau, nhóm nhân viên điều khiển kinh hoàng mới dần dần thành công liên lạc được với nó và cho nó đâm vào một địa phương an toàn. Trong một lần khác, chiếc BQ-7 không nghe theo tín hiệu vô tuyến mà đâm đầu xuống một vùng đồng quê Anh quốc, để lại một cái hố rộng và sâu hoắm. Dự án Perilous lập tực bị hủy bỏ trước khi xảy ra tai nạn nghiêm trọng hơn.
 
Một nỗ lực tiếp theo mang tên Dự Án Anvil (cái đe) dùng một chiếc oanh tạc cơ hạng nặng B-24 trong một hình dạng BQ-8 mới mẻ và coi như cải tiến. Tuy nhiên BQ-8 cũng không khá gì hơn BQ-7.
 
Phi vụ Anvil đầu tiên diễn ra vào ngày 12 tháng 8, 1944. Chiếc oanh tạc cơ được cải tiến nổ tung trên không, trong khi hai nhân viên phi hành vẫn còn bên trong. Hai phi công chánh và phó, Hải quân trung úy Wilford Willy và Joseph P. Kennedy Jr. đều thiệt mạng ngay tức khắc.
 
Đáng ghi nhận là Trung úy Kennedy chính là trưởng tử của một thương gia và chính trị gia xuất chúng, ông Joseph Kennedy Sr. Khi ấy, trung úy Joseph đang được chuẩn bị để ứng cử Tổng Thống. Em của ông, John Fitzgerald Kennedy sau này trở thành vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ.
 
Phi vụ Anvil thứ nhì diễn ra vào ngày 3 tháng 9, 1944. Lần này, chiếc BQ-8 hụt mục tiêu được chỉ định do tín hiệu truyền hình khi được khi mất, nhưng cũng gây thiệt hại ít nhiều cho một cơ sở Đức khác, tuy không phải là mục tiêu.
 
Sau đó, loạt máy bay BQ bị hủy bỏ vì biểu hiện kém và đôi khi nguy hiểm.
 
Cũng như Hải quân, KQLQHK cũng từ bỏ ý đồ bom bay, ít nhất trong ngắn hạn. Đã gần 30 năm trôi qua từ những nỗ lực đầu tiên của hai ông Elmer Sperry và Charles Kettering, mà quân đội Hoa Kỳ vẫn không thành công tạo được một vũ khí bay không người lái có thể tin cậy.
 
Xui xẻo cho dân chúng Anh quốc là người Đức đã giải được vấn đề này rồi. Người dân Luân Đôn sắp được biết những vũ khí này chí mạng như thế nào.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:18:39
0
Chương 23
Phòng Tình Huống Nhà Trắng
Thủ Đô Washington, D.C.
Thứ Năm, 27 tháng 11, 10:34, giờ địa phương
 
Tổng thống Dalton Wainright không để ý đến tập hồ sơ màu xanh lơ chứa tài liệu của buổi thuyết trình, mà gật đầu về phía màn hình rộng chiếm cả vách tường của phòng Tình Huống. “OK, quý vị, tôi đang nhìn vào cái gì đây?”
 
Sĩ quan trực phòng Tình Huống là một Hải quân đại tá có cái mũi ưng và tóc muối tiêu hai bên thái dương. Gã nói. “Xin lỗi đã làm gián đoạn ngày lễ Thanksgiving của ngài, thưa ngài Tổng Thống. Đây là một bản vẽ kiến trúc của đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang, bên nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.”
 
Gã để cho hình ảnh trên màn hình vài giây, rồi chỉ cây điều khiển vào màn hình. Bức vẻ kiến trúc bị thay thế bởi một bức không ảnh chụp tường chắn của đập Tam Hiệp, có cả cái hồ nước mênh mông phía sau.
 
“Đây là dự án đập thủy điện lớn nhất từ trước đến nay.” Viên sĩ quan trực nói tiếp. “Mà nó cũng là một trong các kiến trúc nhân tạo lớn nhất thế giới, chỉ thua Vạn Lý Trường Thành thôi. Chiếc đập này đã hoàn toàn hoạt động từ năm 2011 và ngày nay, nó tạo ra điện lực khoảng 85 terawatt-giờ mỗi năm. Cái này là hơn gấp đôi sản lượng hàng năm của toàn bộ nhà máy điện nguyên tử của Trung quốc.”
 
“Đáng nể thật.” Tổng thống nói. “Tôi nghĩ là anh có lý do nào đó khi nhắc đến cái này, phải không?”
 
Viên sĩ quan trực gật đầu. “Thưa ngài, vâng ạ. Vài giờ trước đây, chúng tôi nhận được tình báo sơ khởi rằng quân đội Ấn Độ có thể đang lập kế hoạch phá hủy đập Tam Hiệp.”
 
“Phá hủy nó sao? Làm sao được? Cái này chính là một con quái vật đó.”
 
Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, Gregory Brenthoven, gật đầu. “Nó quả thật là một quái vật, thưa ngài Tổng thống. Nhưng mà người Ấn Độ có vẻ như đang định đánh sập nó trong một vụ tập kích bằng phi đạn hành trình được phối hợp cẩn thận: bảy quả phi đạn Nirbhay mang theo đầu đạn tiên tiến chuyên xuyên phá mục tiêu cứng.”
 
Tổng thống Wainright giơ một tay lên. “Hai câu hỏi, Greg… Thứ nhất, nguồn tin của chúng ta là gì? Thứ nhì, có thể thành công không?”
 
Ông lại nhìn vào màn hình. “Cái này quả thật là một quái vật. Trừ phi họ dự định đánh bằng đạn hạt nhân, tôi không làm sao mường tượng được phi đạn hành trình có thể đánh xập nó.”
 
Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia móc từ trong túi áo ra một cuốn sổ nhỏ bìa da. “Nguồn tin là HUMINT (27).” Hắn nói. “Một nhân viên CIA ở New Delhi có quen biết trong bộ Quốc Phòng Ấn Độ. Hắn hay cô ta, tôi cũng không rõ, thành công lấy được một bản phân tích kỹ thuật và kế hoạch tập kích. Báo cáo của nhân viên này được chuyển đến bàn Nam Á ở Langley và gã chuyên gia giải tích đọc qua nó, lập tức đưa nó lên cho cấp cao ngay.”
 
Tổng thống gật đầu. “Như vậy, chúng ta cũng tương đối tin tưởng rằng tin tức này là thật sao?”
 
Brenthoven lật lật cuốn sổ và đọc lướt qua vài hàng. “Mức độ đáng tin được ghi là ‘trung bình’. Cái này có nghĩa là tin tức hợp lý và nguồn tin được coi là đáng tin, nhưng không có đủ đối chiếu từ nơi khác để làm tăng mức đáng tin.”
 
“Vậy là chúng ta phải tìm đối chiếu rồi, đúng không?” Tổng thống nói.
 
“Dĩ nhiên là thế, thưa ngài.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia đáp. “Chúng ta có CIA, DIA và ONI cùng tìm tin xác thực. Nhưng mà nếu kế hoạch này được giấu kỹ, chúng ta có thể sẽ không tìm được nguồn nào để xác thực cả. Nguồn cung cấp tin hiện tại có thể là tất cả mà chúng ta có rồi.”
 
Tổng thống ngập ngừng vài giây, rồi gật đầu. “Hiểu rồi. Bây giờ đến câu hỏi thứ nhì của tôi nhé. Có khả năng bao nhiêu rằng vài quả phi đạn hành trình có thể đánh sụp một kiến trúc đồ sộ như đập Tam Hiệp?”
 
“Thưa ngài, chúng tôi đang cho Phòng Nghiên Cứu Hải Quân chạy các mô hình về vấn đề này ngay lúc này đây.” Brenthoven nói. “Nhưng giải tích nhanh của chúng tôi cho rằng điều này có khả năng lắm, nếu phi đạn được trang bị đúng loại đầu đạn.”
 
“Mà người Ấn Độ có đúng loại đầu đạn không?” Tổng thống hỏi.
 
Bộ Trưởng Quốc Phòng Mary O’Neil-Broerman chồm người ra phía trước, nói. “Chúng tôi nghĩ là họ có. Quân đội Ấn Độ có một loại đạn xuyên phá mục tiêu cứng được sản xuất tại nội địa. Đạn này có thể có đủ uy lực để đánh vỡ toang cái đập ấy.”
 
Tổng thống quay đầu nhìn trừng trừng vào viên bộ trưởng Quốc Phòng. “Bà nói là quân đội Ấn Độ đã phát triển một đầu đạn cực kỳ chuyên dụng, để dự phòng một ngày nào đó họ phải oanh tạc một đập thủy điện khổng lồ của Trung quốc sao?”
 
Viên bộ trưởng lắc đầu. “Không phải vậy, thưa ngài. Buồn cười là họ nghiên cứu đầu đạn này cho Không Quân. Không Quân của chúng ta.”
 
Tổng thống Wainwright xoa bóp gáy cổ mình. “Bà đùa tôi, phải không, Mary?”
 
“Tiếc là không phải vậy. Tôi không đùa đâu, ngài Tổng Thống.” Bà bộ trưởng nói. “Đầu đạn ấy được nghiên cứu chế tạo bởi tổ chức Nghiên Cứu và Triển Khai Quốc Phòng của Ấn Độ để tranh thầu dự án ‘Đầu Đạn Xuyên Phá Thế Hệ Mới’ của Không Quân Hoa Kỳ. Đó là cái mà Không Quân gọi là NGP (tắt cho Next Generation Penetrator, Đầu Đạn Xuyên Phá Thế Hệ Mới). Giới công nghệ quốc phòng Ấn Độ có lẽ đã quyết định rằng một dự án nghiên cứu lớn của Không Quân là một cách tốt nhất để họ chen chân vào các chương trình trong tương lai của bộ quốc phòng Hoa Kỳ. Thiết kế của họ không lọt qua vòng tuyển chọn sau cùng, nhưng họ quyết định tiến hành triển khai một NGP của riêng họ. Họ gọi nó là Rudrasya khadgah. Theo chúng tôi được biết thì nó cực kỳ hữu hiệu.”
 
Tổng thống nhíu mày. “Cái tên ấy là gì nhỉ? Rud…”
 
“Rudrasya khadgah.” Bà bộ trưởng đáp. “Nó là tiếng Phạn, nghĩa là ‘Thanh kiếm của thần Shiva’.”
 
Lông mày tổng thống nhướng cao. “Shiva sao? Vị thần của Ấn Độ giáo sao?”
 
“Đúng vậy, thưa ngài.” Bà bộ trưởng nói. “Shiva là vị thần của Ấn Độ giáo tượng trưng cho sự sáng tạo và hủy diệt. Nhưng khi ngài xuất hiện dưới cương vị Rudra thì ngài chính là thần của bão tố, giông gió, hủy diệt và chết chóc.”
 
Tổng thống Wainwright nhếch bên mép, cười nửa miệng một cách không vui. “Hài…, nghe có vẻ đầy hứa hẹn, phải không? Bà còn tin vui nào cho tôi nữa không?”
 
“Chúng tôi còn đang duyệt qua các bản đánh giá sơ khởi.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia nói. “Nhưng mà nếu Rudra, cái đầu đạn Kiếm của thần Shiva kia, quả thật hữu hiệu như các mô hình đầu tiên cho thấy, thì bảy quả có lẽ là dư thừa rồi. Rất có thể chỉ cần bốn quả đã đủ đánh sụp cái đập nước, đương nhiên nếu đánh đúng chỗ và đúng lúc.”
 
“Dĩ nhiên rồi.” Tổng thống nói. “OK, tình báo về kế hoạch này cũng đủ đáng tin và có lẽ một cuộc tập kích bằng phi đạn như vậy đục thủng được đập nước ấy. Có vẻ như phiền toái lớn cho Trung quốc rồi, nhưng mà cái đó tại sao lại là một vấn đề an ninh quốc gia trọng đại đối với chúng ta chứ?”
 
Viên sĩ quan trực của phòng Tình Huống cất tiếng. “Thưa ngài, người Ấn Độ không phải chỉ dự định phá thủng vài chỗ trên đập nước đâu. Dường như mục đích của họ là khiến toàn bộ tường chắn bị hủy. Cái đó sẽ dẫn đến nạn lụt thảm thiết trên toàn bộ lưu vực Trường Giang, suốt từ đập Tam Điệp ra đến biển Đông.”
 
Viên sĩ quan trực lại bấm nút điều khiển và màn hình chính trong phòng Tình Huống chuyển sang bản đồ vùng phía đông của trung phần Trung quốc. Đường màu xanh lơ ngoằn ngoèo của Trường Giang cắt ngang giữa bản đồ, chia hai phần nam-bắc thành hai vùng đất rõ ràng. Có ba chấm đen để chỉ ba thành phố bám trên dòng sông: Vũ Hán, Nam Kinh và Thượng Hải.
 
“Trường Giang chảy xuyên ngay giữa nơi tập trung dân chúng lớn nhất của Trung quốc.” Viên sĩ quan trực nói. “Khoảng 400 triệu người sinh sống trong vùng lưu vực Trường Giang. Cái này chính là gần một phần ba tổng dân số của Trung quốc.”
 
Gã chỉ vào màn hình. “Nếu đập Tam Hiệp bị sụp, ba trong những thành phố lớn nhất và đông dân cư nhất của Trung quốc sẽ nằm trực tiếp trên đường nước lũ tàn phá.”
 
Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia gật đầu. “Dân số của cả ba thành phố Thượng Hải, Nam Kinh và Vũ Hán cộng chung tương đương như dân số của New York, Los Angeles và Washington của nước ta. Và ba thành phố ấy chính là cột sống của nền công nghệ và tài chính của Trung quốc. Chỉ cần mất đi một trong ba thành phố ấy đã gây thiệt hại trầm trọng cho kinh tế Trung quốc rồi. Còn nếu mất cả ba…” Brenthoven bỏ lửng câu cuối.
 
“Đây là ác mộng của Trung quốc rồi.” Tổng thống nói. “Trong ngắn hạn là hằng triệu nhân mạng và thiệt hại nặng nề cho hạ tầng cơ sở quốc gia, tiếp theo là kinh tế suy sụp.”
 
“Đúng là như vậy, thưa ngài Tổng Thống.” Brenthoven nói. “Chưa hẳn là tận thế cho người Trung quốc, nhưng cũng gần như thế rồi.”
 
Tổng thống Wainwright lắc đầu. “Đã vậy, tại sao họ lại xây cái quỷ ấy chứ? Người Trung quốc có thể là đủ thứ, nhưng họ không phải là kẻ ngốc. Tại sao họ lại đặt bấy nhiêu dân chúng vào hiểm cảnh như thế?”
 
“Có lẽ họ cho rằng họ đã loại bỏ tất cả mọi may rũi rồi.” Bà bộ trưởng Quốc Phòng nói. “Trên phương diện kiến trúc, đập Tam Hiệp được xây kiên cố hơn là cần thiết một cách đáng kể. Họ đã dự phòng cho địa chấn và các loại thiên tai khác và, ngoài trừ vũ khí hạt nhân, thật ra chẳng có bao nhiêu bom hay phi đạn có thể tạo sứt mẻ nghiêm trọng nào cho nó. Có lẽ bộ Chính Trị Trung quốc cảm thấy họ đã tính đến hết mọi khía cạnh rồi.”
 
“Nhưng mà họ không tính đến cái đầu đạn mới của Ấn Độ.” Tổng thống tiếp lời.
 
“Rõ ràng là không có tính đến.” Brenthoven nói.
 
Tổng thống Wainwright nhìn sững suốt một lúc lâu vào cái màn hình rộng cả vách tường, rồi nói. “Chính phủ Trung quốc sẽ phản ứng như thế nào, nếu Ấn Độ thành công trong kế hoạch này?”
 
“Đó chính là câu hỏi lớn nhất.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia nói. “Ngài sẽ phản ứng ra sao trong trường hợp như thế, thưa ngài? Trong giả thuyết mà Hoa Kỳ đang chiến đấu với một đối thủ nào đó và đột nhiên, không một lời cảnh báo, đối thủ của chúng ta quét tan New York, Los Angeles và Washington, giết mất khoảng một phần ba dân chúng của nước ta. Ngài sẽ phản kích như thế nào, thưa ngài?”
 
“Tôi nghĩ mình là một người ưa chuộng hòa bình.” Tổng thống nói. “Nhưng nếu ai đó đánh chúng ta bằng một đòn tàn độc và trầm trọng như vậy, tôi sẽ phản kích bằng tất cả vũ khí mà tôi có. Tôi sẽ cố gắng hết sức để biến cả nước của chúng thành một bãi đậu xe.”
 
Bà bộ trưởng thở dài nặng nề. “Tôi thật không muốn nhìn nhận, nhưng chính tôi cũng sẽ làm như thế. Bất cứ một lãnh đạo nào nếu có khả năng và uy lực cũng sẽ đáp trả mãnh liệt như vậy. Nếu có người đấm mình một cú nặng như vậy, mình sẽ không đấm lại làm gì. Mình sẽ đập bẹt nó.”
 
“E rằng đó chính là giải đáp của chúng ta rồi.” Brenthoven nói. “Nếu quả thật Ấn Độ làm vụ này… Nếu họ đánh sụp đập nước Tam Hiệp, Trung quốc sẽ dùng mọi thứ để đánh trả…”
 
Những âm thanh cuối của gã như dừng lại trong không khí, mà mọi người không hề hoài nghi cái từ ‘mọi thứ’ có ý nghĩa là gì.
 
Tổng thống Wainwright dựa vào lưng ghế, nói. “Chúng ta đã bỏ qua một cái gì đó.”
 
“Chúng ta còn trong giai đoạn tìm hiểu, thưa ngài.” Brenthoven nói. “Chúng ta còn thiếu nhiều thứ nữa. Các cơ quan tình báo còn phải tốn một thời gian nữa mới phát triển được các nguồn đối chiếu và thu gom những chi tiết trọng yếu.”
 
“Tôi không nói đến chi tiết.” Tổng thống nói. “Mà tôi cũng không nói đến kiểm chứng các sự kiện.”
 
“Tôi không hiểu ngài muốn nói gì, thưa ngài.” Brenthoven nói.
 
“Mary mới vừa tổng kết thật hoàn hảo.” Tổng thống nói. “Nếu có người đấm mình một phát mạnh đến thế, mình sẽ không đấm qua đấm lại với họ. Mà mình đập bẹp họ. Đúng chứ?”
 
Brenthoven gật đầu, nhưng không nói gì.
 
“Tôi không tự cho là mình hiểu được tâm tình của chính phủ Ấn Độ.” Tổng thống nói. “Nhưng mà họ không đến nổi mù lòa để không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nếu họ đánh què Trung quốc bằng một cuộc tập kích có cường độ như thế. Toàn bộ kế hoạch này gần như là van xin người ta phản kích bằng vũ khí hạt nhân vậy. Đã thế, tại sao họ lại có thể nghĩ đến nó chứ?”
 
Không ai thử trả lời.
 
“Chúng ta đã bỏ qua một cái gì rồi.” Tổng thống lại nói. “Một phần lô-gic nào đó thiếu sót rồi.”
 
Trưởng phòng Hành Quân của Hải Quân gõ nhịp ngón tay nhẹ trên mặt bàn. “Có gì không hợp lý vậy?” Hắn hỏi. “Trước khi gã khùng kia, Zhukov, đánh bom Trân Châu cảng (*), tôi từng cho rằng không ai có thể cuồng tín đến độ có thể làm chuyện ngu xuẩn như thế. Nhưng mà những lúc gần đây, thưa ngài Tổng Thống, tôi không còn coi thường uy lực của sự ngu si và điên cuồng nữa rồi.”
 
(* được kể trong một truyện trước của cùng tác giả)
 
Tổng thống Wainwright nhăn mặt, nói. “Ông nói đúng đó. Nhưng mà điên cuồng hay không, các bằng hữu Ấn Độ của chúng ta đang giấu cái gì đó trong tay áo của họ. Mà tốt nhất là chúng ta phải tìm được cái đó là cái gì…”
-=-=-=-=-=-
Chú Thích:
(27) HUMINT hay Human Intelligence: Tình báo từ nguồn nhân viên, bao gồm đủ loại nhân viên tình báo, trong tối hay ngoài sáng, công khai hay bí mật. Đây là từ được dùng trong khối NATO. Ngoài ra còn có SIGINT hay Signals Intelligence bao gồm nghe lén liên lạc giữa người với người (tức là Communications Intelligence hay COMINT), hay máy với máy (ELINT hay Electronic Intelligence); IMINT hay Image Intelligence: phân tích hình ảnh từ vệ tinh hay các phương tiện trinh sát khác; và MASINT hay measurement and signature intelligence: tình báo gom góp và phân tích từ tín hiệu ra-da, phóng xạ, tiếng động, v.v. 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2016 00:25:05 bởi Quang11 >

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:21:41
0
Chương 24
Tòa Đại Sứ Ấn Độ
Thủ Đô Washington
Thứ năm, 27 tháng 11, 17:15, giờ địa phương
 
Gita Shankar, đại sứ của nước Cộng Hòa Ấn Độ tại Hoa Kỳ, đang ngồi, vội đứng lên khi viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ được mời vào văn phòng của bà. Bà bước vòng qua sau bàn để gặp hắn khi hắn tiến đến và đưa tay ra để bắt tay.
 
Bà đại sứ mặc một áo sari lụa màu xanh lơ đậm, bên trong mặc một chiếc áo xám đơn giản và một chiếc váy có nếp. Tấm lụa rộng vắt chéo ngực và choàng qua eo bà, phần dư thì phủ bên vai trái theo một phương cách truyền thống. Quanh cổ là một chuỗi hạt trai và mái tóc đen của bà được gom lại phía sau để lộ ra cặp bông tai cũng bằng hạt trai tương xứng.
 
Bà đại sứ Shankar mỉm cười với vị khách khi hắn nắm lấy bàn tay bà. “Hoan nghênh ông, ông Brenthoven. Hôm nay, chúng ta ăn mặc cùng màu rồi!”
 
Gregory Brenthoven liếc nhìn tay áo bộ com-lê. Nó gần như cùng màu xám với chiếc áo của bà đại sứ và chiếc cà vạt màu xanh lơ, hiệu Salvatore Ferragamo tiệp màu với áo sari của bà một cách bất ngờ.
 
Brenthoven mỉm cười. “Thưa bà đại sứ, tôi đã gọi điện trước khi đến để hỏi xem bà mặc màu gì. Rồi tôi chạy nhanh về nhà và thay đồ đúng y như thế.”
 
Bà đại sứ bật cười và chỉ về cặp ghế dài kiểu thời Thuộc Địa Anh quốc mà các nhân vật trong chính phủ Ấn Độ vẫn chuộng.
 
“Xin mời.” Bà đại sứ nói. “Mời ông an tọa, rồi cho tôi biết chuyện gì đã làm ông phải rời khỏi gia đình trong dịp lễ quan trọng của Hoa Kỳ này.”
 
Brenthoven ngồi vào một chiếc ghế dài và bà đại sứ ngồi vào chiếc ghế đối diện.
 
Brenthoven đảo nhanh mắt quanh văn phòng được trang trí thật lịch sự. “Tôi không muốn tỏ vẻ cường điệu, thưa bà đại sứ, nhưng mà căn phòng này có an toàn không?”
 
Câu hỏi khiến bà đại sứ nhướng mày. Bà nói. “Nó cũng khá an toàn. Mỗi ngày văn phòng tôi đều được rà soát máy nghe lén và nhân viên an ninh của chúng tôi sử dụng những biện pháp đặc biệt để phá các phương pháp theo dõi khác. Tôi tin tưởng ông cũng quen thuộc với các biện pháp tương tự trong các kiến trúc của chính phủ các ông.”
 
“Dĩ nhiên.” Brenthoven đáp.
 
“Và tôi cũng biết rằng,” bà đại sứ nói tiếp, “ông cũng rõ là các phương pháp chỉ làm giảm bớt nguy cơ bị địch thủ theo dõi thôi. Chúng không thể nào bảo đảm không bị nghe lén được.”
 
Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ ngập ngừng. Hắn không phải là một đại diện của bộ Ngoại Giao, mà hắn cũng không có ủy nhiệm thư của bộ Ngoại Giao. Hắn cũng không phải là một bằng hữu được tin cậy của chính phủ Ấn Độ, và vì vậy nghi thức ngoại giao không cho phép hắn yêu cầu được sử dụng cái gọi là “bọt nước” của tòa sứ quán.
 
Như hầu hết các sứ quán trên thế giới, tòa sứ quán Ấn Độ được trang bị một phòng cách âm làm bằng Plexiglas được sơn một lớp hợp chất đặc biệt để chống lại bức xạ điện từ. Theo tiếng lóng của giới ngoại giao, một căn phòng như thế thường được gọi là “bọt nước”. Trên lý thuyết, một cái bọt nước được thiết kế đúng đắn sẽ miễn dịch với các dụng cụ theo dõi từ bên ngoài, và gần như không thể nào bị cài đặt máy nghe lén ở bên trong. Trên thực tế, tiến triển kỹ thuật không ngừng khiến cho bất cứ căn phòng nào, cho dù được bảo vệ kỹ lưỡng đến đâu, cũng có nguy cơ bị nghe lén. Mặc dù vậy, một căn bọt nước được bảo quản tốt đã gần như đạt đến mức an toàn tuyệt đối rồi.
 
Đại sứ Shankar đã thấy ánh mắt của Brenthoven đã đảo quanh phòng bà không mấy kín đáo. Và bà không hoài nghi rằng hắn đang tìm cách để được bà mời dùng căn bọt nước của sứ quán. Nhưng hắn đã xin hẹn rất gấp gáp và đã bỏ qua nhiều quy củ ngoại giao và chính trị. Hắn cũng không hề gợi ý về đề tài hắn định bàn thảo; điều này làm bà và viên phó đại sứ không có bất kỳ cơ hội nào chuẩn bị một tư thế chính thức để ứng phó với vấn đề hắn muốn bàn đến.
 
Bởi các điểm thiếu hụt trên phương diện ngoại giao ấy, cho dù là nhỏ nhặt, bà không muốn cấp cho hắn một điểm nhân nhượng nào cả. Chờ khi hắn tiết lộ đề tài bí ẩn của cuộc gặp mặt này, bà có thể sẽ đổi ý và đề nghị dời vào căn bọt nước kia, nếu bà cho rằng nên dè dặt như thế. Còn bây giờ, cứ để hắn khó chịu một chút cũng không sao.
 
“Tôi không biết nói tiếng Phạn.” Brenthoven nói. “Bởi vậy, xin bà tha thứ cho phát âm vụng về của tôi.”
 
Bà đại sứ mỉm cười và phất phất tay. “Dĩ nhiên rồi.”
 
Brenthoven lại đảo mắt quanh căn phòng và lại ngập ngừng trước khi cất tiếng. “Thưa bà đại sứ, bà có từng nghe đến đầu đạn cho phi đạn hành trình được mệnh danh là Rudrasya khadgah chưa?”
 
Đại sứ Shankar hơi nhíu mày. “Tôi không tin đã từng nghe qua.”
 
“Theo tôi hiểu,” Brenthoven nói, “cụm từ này là nói đến lưỡi kiếm của vị thần Shiva trong Ấn Độ giáo, khi ngài hiện thân thành Rudra, vị thần của bão tố, hủy diệt và chết chóc.”
 
“Dịch như vậy cũng là đúng rồi.” Bà đại sứ nói. “Nhưng mà tôi không được biết đến phi đạn nào mang cái tên đó.”
 
“Đó là một đầu đạn xuyên phá Thế Hệ Mới.” Brenthoven nói. “Nó được phát triển bởi Tổ chức Nghiên Cứu và Phát Triển Quốc Phòng của quý quốc, nhằm tấn công và xuyên phá những mục tiêu cực kỳ cứng chắc, thí dụ như hầm xây dưới mặt đất được gia cố thật tốt, hay hầm phi đạn bằng bê-tông cốt sắt dày.”
 
Bà đại sứ chuyển người trên ghế. Bà không biết đề tài này đang đưa đến đâu, nhưng bà đã bắt đầu cảm thấy khó chịu vì giọng nói của hắn. Bà nói. “Tôi tin lời ông. Tôi nghĩ rằng tôi có được một sự hiểu biết cơ bản về khả năng quân sự của nước tôi, nhưng tôi không thể cho là mình biết mọi chi tiết về mọi vũ khí đang được phát triển.”
 
Giọng bà ta trở nên sắc bén hơn. “Phải chăng Hoa Kỳ đột nhiên lo ngại rằng đầu đạn này vi phạm luật pháp quốc tế hay một hiệp nghị quốc tế nào đó?”
 
“Không phải đâu.” Brenthoven nói. “Theo tôi hiểu, thiết kế của đầu đạn Rudrasya khadgah hoàn toàn hợp pháp dưới mọi hiệp ước hiện hành.”
 
Bà đại sứ buông người dựa vào những cái gối kê nơi lưng ghế. “Vậy, cho tôi hỏi vấn đề nằm ở đâu? Chắc phải là điều gì nghiêm trọng lắm mới khiến ông tỏ ra quan tâm về tính an toàn của cuộc nói chuyện này như thế chứ?”
 
“Quả thật là chuyện nghiêm trọng, thưa bà đại sứ.” Brenthoven nói. “Chúng tôi đã nhận được những dấu hiệu đáng tin cho thấy rằng quân lực của quý quốc đang lập kế hoạch sử dụng một số các đầu đạn xuyên phá tiên tiến này để tạo ra một sự thiệt hại có tính cách hủy diệt đối với đập nước Tam Hiệp của Trung quốc.”
 
“Tôi không hề được nghe qua về kế hoạch nào như thế.” Bà đại sứ nói. “Tuy nhiên nước tôi đang chiến đấu để tự vệ chống một quân xâm lược mà trước đó không hề khiêu khích họ. Ấn Độ không phải là nước khởi đầu cuộc chiến này, ông Brenthoven ạ. Tôi tin chắc là ông cũng hiểu rõ điều này. Vậy, nếu chính ông đã công nhận là những vũ khí này không bị cấm bởi hiệp ước hay luật pháp và vì chúng tôi chỉ phản ứng lại vụ thảm sát cả một ngôi làng thường dân không vũ trang, tôi thật hiếu kỳ muốn biết vì sao các toan tính của quân đội chúng tôi lại đột nhiên gây nên sự chú ý của chính phủ Hoa Kỳ. Tôi không muốn tỏ ra lỗ mãng, nhưng mà chuyện này làm sao lại có thể được cho là một vấn đề của chính phủ Hoa Kỳ chứ?”
 
“Chúng tôi đã làm vài đánh giá sơ khởi về các hậu quả khi đập nước Tam Hiệp chịu sự hủy hoại mang tính cách hủy diệt có thể đưa đến.” Brenthoven nói. “Các chuyên gia giải tích của chúng tôi ước tính rằng thiệt hại nhân mạng của Trung quốc có thể lên đến 350 triệu người. Ngoài ra, có khả năng là ba trong số những thành phố trù phú nhất của Trung quốc sẽ bị xóa tên trên bản đồ, khiến cho nền kinh tế của Trung quốc bị suy sụp trong suốt mấy chục năm.”
 
“Tôi chưa từng thấy qua các ước tính như vậy.” Bà đại sứ nói. “Tuy nhiên, những con số ấy có vẻ hơi phóng đại rồi.”
 
“Chúng tôi không nghĩ thế.” Brenthoven đáp. “Thật ra, các ước tính đầu tiên của chúng tôi có thể là quá lạc quan là khác.”
 
Đại sứ Shankar không nói gì. Tất cả những chuyện này là một sự bất ngờ thật lớn đối với bà. Bà không biết có bao nhiêu trong đó, hay có chút nào trong đó, là sự thật nữa.
 
Brenthoven đóng cuốn sổ nhỏ của hắn lại và nhét nó vào túi. “Thưa bà đại sứ, nếu cuộc tập kích vào đập nước Tam Hiệp xảy ra, chúng tôi tin rằng rất có khả năng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung quốc sẽ đánh trả bằng một đợt tập kích hạt nhân cỡ lớn.”
 
“Vô lý!” Bà đại sứ nói.
 
“Chúng tôi không nghĩ vậy.” Brenthoven. “Nếu quý vị đánh Trung quốc một phát mạnh như thế, chúng tôi tin họ sẽ đánh trả càng dữ dội hơn.”
 
Bà đại sứ chợt ý thức rằng mắt bà đang đảo loạn khắp nơi trong phòng. Bà nói. “Chúng ta không nên bàn những chuyện này ở đây. Chúng ta nên chuyển qua phòng bọt nước đi.”
 
“Đó là một ý kiến rất tốt. Chúng ta cứ qua đó đi.” Brenthoven đáp.
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:28:48
0
Chương 25
Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103)
Vịnh Bengal
Thứ Sáu, 28 tháng 11, 19:24 giờ địa phương
 
Viên sĩ quan Tác Chiến, Trung Úy Ben Lambert, không rời mắt khỏi màn hình Aegis khổng lồ nằm ở vị trí trung ương trong phòng hành quân CIC. Trên màn hình tác chiến, bốn ký hiệu tượng trưng cho máy bay đang di chuyển nhanh chóng về phía chu vi phòng thủ của các chiến hạm bảo vệ mẫu hạm USS Midway (27-A).
 
Lambert nhấn nút để chuyển bộ ống nghe choàng đầu sang hệ thống điện thoại của chiếc tàu, rồi bấm ba số gọi phòng ngủ của hạm trưởng. “Hạm trưởng, đây là TAO. Xin lỗi đã làm phiền ông, nhưng mà có bốn Bogies đang bay về chúng ta từ hướng tây. Không có mã số, không có điện đàm, không có tín hiệu IFF (28).”
 
“Cám ơn anh.” Đại tá Bowie nói. “Tôi lên ngay. Làm ơn gọi Trung tá Silva hộ tôi. Tôi tin chắc cô ấy muốn tham dự vào chuyện này.”
 
“Tuân lệnh.” Viên TAO đáp.
 
-***-
 
 Không đến ba phút sau, Đại tá Bowie và Trung tá Silva đã đứng sau lưng viên TAO, nhìn qua vai gã vào màn hình tác chiến.
 
“Chúng ta đang nhìn dấu hiệu của ai đây?” Bowie hỏi.
 
Chiếc USS Towers đang chạy lặng im và tối đen, tận dụng kỹ năng tàng hình tiên tiến để ẩn núp khỏi tầm dò tra của cảm biến từ các chiến hạm và máy bay khác. Các góc cạnh của khung tàu và phần trên tàu đã được tính toán cẩn thận để làm các tia ra-đa từ ngoài tới bị lệch đi, không cho chúng phản chiếu lại khiến đối phương không thể phát hiện và theo dõi chiếc tàu. Thiết kế góc độ tiên tiến này lại được nâng cao thêm bởi những tấm làm bằng sợi các-bon có tác dụng hấp thu tia ra-đa và lớp sơn quang hợp ngụy trang bao phủ phần lớn những nơi lộ ra bên ngoài của chiếc tàu.
 
Lại thêm vào các hệ thống ngăn âm thanh và che nhiệt, các kỹ thuật này che giấu chiếc chiến hạm 9.800 tấn này trên mặt biển một cách hữu hiệu lạ lùng. Tuy nhiên, không một thiết kế tinh vi nào có thể che giấu hay ngụy trang các làn sóng do chính chiếc chiến hạm này phát ra được. Nếu chiếc Towers bật các hệ thống ra-đa lên, trên phổ điện từ chúng sẽ sáng trưng như pháo hoa vậy. Mọi che đậy sẽ lập tức biến mất.
 
Cách duy nhất để đạt được mức tàng hình hữu hiệu là đóng hết mọi ra-đa và máy phát sóng khác, mà chỉ dựa vào cảm biến từ các khí tài khác của Hải quân Hoa Kỳ trong vùng.
 
Lúc này, chiếc Towers chính là đang làm như thế, lướt đi im ắng trong màn đêm, chỉ dựa vào tín hiệu nhận được từ các chiến hạm và máy bay trong hạm đội USS Midway để định hướng.
 
“Các tín hiệu này được chuyển đến từ chiếc Hawkeye (29)”. Viên TAO nói.
 
Hawkeye mà gã đang nói tới là chỉ một trong những chiếc máy bay cảnh báo sớm E-2D làm công tác theo dõi ra-đa tầm xa cho chiếc tàu sân bay và sư đoàn không quân của nó.
 
Trung tá Silva gật đầu, nói. “Xem ra có vẻ chúng sẽ không bay qua ngay bên trên chúng ta.”
 
Viên TAO phóng đại trên màn ảnh ký hiệu của bốn máy bay lạ. “Thưa cô, cô nhìn chính xác lắm. Bọn Bogies này sẽ không bay trên đầu chúng ta. Trừ phi lộ trình của chúng thay đổi, chúng sẽ bay qua cách chúng ta khoảng 16 km phía bắc, trong khoảng 8 phút nữa.”
 
“Chúng nhắm hướng chiếc Midway đó.” Silva nói.
 
“Có vẻ là vậy.” Viên TAO nói. “Chúng bay thấp và nhanh, mà ra-đa thì đóng lại. Tôi nghĩ chúng định hù dọa chiếc tàu sân bay của chúng ta một phát đó!”
 
“Nói như vậy chắc là đúng rồi.” Đại tá Bowie nói.
 
Mắt hắn dán chặt vào bốn cái tín hiệu máy bay. “Nếu cho tôi đoán, tôi nghĩ là chúng ta đang đối phó với tiêm kích J-15 (30) từ hạm đội tàu sân bay Trung quốc. Hai phi đội, mỗi đội hai chiếc.”
 
“Có lẽ là vậy.” Viên TAO nói. “Vậy chúng ta để chúng bay qua, hay lệnh chúng dừng lại?”
 
“Chúng ta có thể cho chúng đi qua.” Bowie nói. “Chiếc Hawkeye đã nắm cứng chúng rồi. Bọn Bogies này sẽ bị F-18 (31) đè ngập chúng trước khi chúng tiếp cận được chiếc tàu sân bay.”
 
“Đúng vậy.” Viên TAO nói. Giọng gã có mang chút bâng khuâng, giống như gã đang hi vọng có chuyện gì hào hứng hơn trong lần đầu tiên gã chạm trán với một cái gì có thể là một mối đe dọa thật.
 
Bowie mỉm cười. “Mặt khác, tình trạng EMCON (32) hiện tại của chúng ta là tự mình thiết lập. Chúng ta đang chạy lặng im và tối đen là để tập dợt, chứ không phải chúng ta được lệnh phải duy trì tình trạng kiểm soát phát xạ.”
 
Viên TAO toét miệng cười. “Đại tá nghĩ là mình có nên rung cây dọa khỉ không?”
 
Bowie cũng cười. “Tại sao không chứ? Không được bật ra-đa điều khiển hỏa lực. Dọa chúng thì được, nhưng chúng ta không nên cho chúng lý do để khai hỏa.”
 
Viên TAO bấm nút nói. “Mọi vị trí nghe lệnh, đây là TAO. Đổi sang tình trạng EMCON Delta biến cải. Phát xạ không hạn chế từ hệ thống điều khiển hỏa lực, tiến hành lập tức. Uy lực tối đa trong mức độ an toàn. Lặp lại, mọi thiết bị lập tức phát xạ với uy lực tối đa trong mức độ an toàn. Break. Nhóm Phòng Không, đây là TAO. Tôi muốn radar SPY quét một phát thật mạnh vào khu vực từ hai-chín-không đến ba-năm-không.”
 
Hệ thống ra-đa dạng phase AN/SPY-1D(V)2 là cột sống của hệ thống cảm biến phối hợp với vũ khí Aegis. Với công suất hơn 4 triệu watt, radar SPY có thể làm xáo trộn hay hư hại các hệ thống điện tử trên hầu hết các máy bay.
 
Viên TAO vẫn cười toét miệng. Mấy tên phi công Trung quốc này sắp nhận được một sự bất ngờ lớn nhất đời họ rồi. Một giây trước, họ còn đang lén lén lút lút bay trong bóng đêm, bám sát vào các ngọn sóng biển và cố gắng biến mình thành vô ảnh vô tung. Mọi thứ đều thoải mái và yên ắng, không một dấu hiệu nào của bất cứ thứ gì giữa họ và mục tiêu của mình. Qua giây sau, ầm! Một chiếc khu trục hạm Hoa Kỳ ngay trước mặt đang phun mạnh 4 megawatt sóng vi ba, khiến máy cảnh báo của họ ré lên và các thiết bị hỗn loạn.
 
Tiếng của viên sĩ quan trưởng nhóm Phòng Không vang lên trên mạng. “TAO, đây là Phòng Không. SPY đã được bật lên và phát xạ. Uy lực tối đa khu vực từ hai-chín-không đến ba-năm-không.”
 
“Và đến nè!...” Viên TAO nói.
 
Trên màn hình tác chiến Aegis, bốn dấu hiệu máy bay đảo ngoặc về bên trái, tránh hướng chiếc Towers và Midway.
 
Nửa giây sau, tiếng nói của trưởng nhóm Phòng Không lại vang lên trên mạng. “TAO, Phòng Không đây. Bogies đang tháo chạy. Có vẻ chúng đang chạy về chuồng rồi.”
 
Viên TAO bấm nút nói. “Roger (33), Phòng Không. Cứ để ý đến chúng nhé. Đừng để chúng lại lén quay lại và trả lại cú bất ngờ.”
 
“Thật là dễ dàng nhỉ.” Trung tá Silva nói.
 
Viên TAO gật đầu. “Chỉ là chào hỏi thân ái thôi, cho đám bạn Trung quốc của chúng ta biết rằng Hải quân Hoa Kỳ đang ở trong xóm.”
 
Silva lắc đầu, nói. “Chúng ta làm hơi sớm rồi. Đáng lý chúng ta nên đợi đến tháng tới.”
 
Viên TAO nhìn nàng. “Tôi không rõ cô muốn nói gì, Trung tá…”
 
“Lễ Thanksgiving đã qua rồi.” Silva nói. “Mà chúng ta lại vừa cho bọn này món quà Giáng Sinh sớm trước cả tháng đó!”
 
Viên TAO lại cười toét. “Tôi nghĩ họ sẽ tha lỗi cho chúng ta mà, thưa cô.”
 
“Hi vọng anh nói đúng.” Đại tá Bowie nói. “Hi vọng anh nói đúng.”
 
-=-=-=-=-=-=-
Chú Thích:
(27-A) USS Midway (CVN-82) là một tàu sân bay động cơ hạt nhân giả tưởng, có lẽ thuộc lớp Ford. Chiếc có thật mang số CV-41 tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ được hạ thủy năm 1945 và rời khỏi biên chế năm 1992, ngày nay là bảo tàng viện ở San Diego, bang California. Tàu này có giản lượng nước 64.000 tấn và chạy bằng động cơ tua-bin dầu. Tàu từng tham chiến ở Việt Nam và chiến dịch Bão Táp Sa Mạc ở Trung Đông năm 1990-1991. Nếu là hàng không mẫu hạm động cơ hạt nhân lớp Ford, tàu có chiều dài 337 m, rộng 78 m và giản lượng nước 100.000 tấn, tổng số nhân viên khoảng 4.297 người, kể cả nhân viên phi đoàn 2.480 người. Tổng số máy bay đủ loại kể cả trực thăng khoảng hơn 75 chiếc cấu thành phi đoàn (air wing) của tàu, gồm có tiếm kích đa năng F/A-18E/F Super Hornet, tiêm kích F/A-18C Hornet (nhỏ và cũ hơn, ngày nay dùng cho tấn công nhiều hơn là nhiệm vụ ngăn chặn tiêm kích địch), EA-18 Growler (phiên bảng F/A-18 chuyên dùng trong chiến tranh điện tử), E-2C Hawkeye (cảnh báo sớm), C-2A Greyhound (vận chuyển, tiếp liệu), trực thăng MH-60R Seahawk và MH-60S Knighthawk đa nhiệm và chống tàu ngầm.
 
(28) IFF hay Identification Friend or Foe: tín hiệu bạn-địch. máy bay quân sự đều có trang bị dụng cụ để phát ra tín hiệu để có thể nhận diện địch hay bạn.
 
(29) Hawkeye (Mắt Ưng) E-2 là máy bay cảnh báo sớm trên không (AEW) chiến thuật trang bị cho tàu sân bay, do hãng Northrop Grumman chế tạo. Hiện phục vụ cho hải quân Hoa Kỳ, Pháp và Mexico, lực lượng tự vệ Nhật Bản và Không quân Đài Loan.
 
(30) J-15 Phi Sa (Cá Mập Bay) là máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay, được phát triển bởi Shenyang Aircraft Corporation và Viện 601 trang bị cho tàu sân bay của Không quân Hải quân Quân giải phóng Nhân dân. Có báo cáo cho rằng máy bay này được thiết kế dựa theo mẫu tiêm kích Sukhoi Su-33 của Nga. Năm 2001, một nguyên mẫu Su-33 được mua từ Ukraine và được mổ xẻ tỉ mỉ. Kết cấu của tiêm kích J-15 dựa theo Su-33, nhưng sử dụng kỹ thuật của Trung quốc tương tự như tiêm kích J-11. Theo lời của chuyên gia thiết kế trưởng của J-15, ông Sun Cong, tiêm kích J-15 tương đương với F/A-18 của Mỹ về phương diện tải trọng, tầm hoạt động và tính lưu động. Tuy nhiên, sau đó ông lại nói thêm rằng còn phải cố gắng nhiều hơn trên phương diện hệ thống điện tử và hệ thống tác chiến; ngoài ra, thiếu nguồn cung cấp máy phản lực nội địa cũng là điểm yếu. Chuẩn đô đốc Yin Zhuo tuyên bố rằng tiêm kích này có khả năng tác chiến hơn tiếm kích F/A-18 E/F của Hoa Kỳ; khả năng tấn công mục tiêu trên đất liền và trên biển hơi kém hơn F/A-18 E/F, nhưng dụng cụ điện tử lại chuẩn cho tiêm kích thế hệ thứ năm.
 
(31) F-18 Hornet (Ong Bắp Cày), hay đúng hơn là F/A-18, là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, có khả năng chiến đấu và tấn công các mục tiêu mặt đất (F/A viết tắt của Fighter/Attack – Chiến đấu/Tấn công) do McDonnell Douglas và Northrop thiết kế. Được sử dụng bởi Hải quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa kỳ và nhiều nước khác: Úc, Canada, Phần Lan, Kuwait, Mã Lai, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. F/A-18 Hornet là thiết kế cơ sở của loại Boeing F/A-18E/F Super Hornet, một bản thiết kế lại lớn hơn, và có sự phát triển cao hơn của F/A-18. So với Hornet, chiếc Super Honet lớn hơn, nặng hơn và có tầm hoạt động cũng như tải trọng cao hơn. Ngày nay, hầu hết F/A-18 của quân đội Hoa Kỳ đã được thay thế bởi F/A-18E/F; Úc cũng thay thế F/A-18 bằng F/A-18E/F. Như đa số máy bay được thiết kế cho tàu sân bay, F/A-18 có đặc tính là tầm hoạt động lớn, mức độ đáng tin cậy cực cao và giỏi ‘chịu đòn’ vì phải hoạt động xa căn cứ và lục địa; cũng vì những đặc tính này, nước Úc cũng chọn F/A-18 cho không quân của mình.
 
(32) EMCON là viết tắt của Electromagnetic Emission Control: tình trạng Kiểm Soát Phát Xạ Điện Từ, tức là tình trạng mọi thiết bị có thể phát xạ tín hiệu phải được kiểm soát gắt gao, để phòng đối phương có thể phát hiện sự hiện diện của mình.
 
(33) Roger: đã hiểu. Tiếng lóng thường dùng trong điện đàm. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch.
 
 

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:30:48
0
Chương 26
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình
(trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia)
 
Với quả tên lửa V-1, nỗ lực phát triển bom bay của Không quân Đức, Luftwaffe đã tách rời hoàn toàn khỏi khung máy bay cánh quạt và hệ thống điều khiển từ xa của các thiết kế trước kia. Vũ khí mới của Đức là một rô-bô tự kiểm soát, sử dụng những thiết bị điều khiển tự động được lắp bên trong, thay vì cần một người điều khiển từ xa. Thiết kế mới này không dùng động cơ cánh quạt, mà một động cơ ‘phản lực xung’ đơn sơ nhưng hữu hiệu, chỉ gồm có một phòng đốt nhiên liệu có hình dáng như một cái ống.
 
Vũ khí này mang tên chính thức là Fiesler Fi-103, nhưng guồng máy tuyên truyền của Đức Quốc Xã gọi nó là Vergeltungswaffe Einz (Vũ Khí Phục Thù số 1), một cái tên sớm được gọi tắt là V-1.
 
Khác với các thế hệ máy bay không người lái và ngư lôi bay trước kia, chiếc V-1 nhìn không giống như một chiếc máy bay truyền thống thời bấy giờ. Thân nó làm bằng những tấm thép mỏng, có dáng thuôn dài, đầu nhọn, làm nó nhìn giống như một mũi phi tiêu. Đôi cánh ngắn thẳng như thập tự giá, được bọc bằng ván ép để giảm trọng lượng và chi phí. Và động cơ hình ống nơi đuôi làm nó trông như thứ trong truyện tranh khoa học giả tưởng vậy.
 
Quả thật, toàn bộ hình dáng của chiếc V-1 trông như trong truyện tranh hơn là sự thật, nhưng V-1 không phải là vật trong huyền thoại. Nó có thật và nó cực kỳ nguy hiểm.
 
Cho đến lúc ấy, hơn 30 năm cố gắng và hao tốn chỉ đem lại vài trăm món vũ khí bay không người lái. Không một chương trình nào hơn mức tạm thành công trong thực chiến cả. Ngược lại, Đức Quốc Xã sản xuất gần 30.000 quả tên lửa V-1, hằng ngàn quả được sử dụng trong thực chiến, đạt được sự hữu hiệu tàn khốc.
 
Với tầm hoạt động 250 km, V-1 không thể bay trực tiếp từ Đức qua Anh quốc được. Không quân Đức, Luftwaffe vượt qua hạn chế này bằng cách xây dựng 96 địa điểm phóng ở vùng bắc nước Pháp bị Đức chiếm đóng, trong tầm bắn đến London.
 
Cuộc tập kích V-1 đầu tiên diễn ra vào ngày 13 tháng 4, 1944, một tuần sau cuộc đổ bộ D-day của quân Đồng Minh vào Âu châu. Quả tên lửa bay đến cuối lộ tuyến của nó và đâm xuống gần một cây cầu cho xe lửa ở khu East End của London. Tám thường dân thiệt mạng trong vụ nổ.
 
Vài quả V-1 được phóng đi trong ngày hôm sau, trước khi đợt tấn công nghiêm trọng đầu tiên bắt đầu. Từ chiều ngày 15 tháng 6 đến nửa đêm 16 tháng 6, Trung Đoàn Phòng Không 155 của Đức đã phóng 244 V-1 về hướng London. Khoảng 90 trong số này không vượt qua được lãnh thổ nước Anh do có vấn đề xảy ra khi phóng hay ngay sau khi phóng. Khoảng 50 quả rơi vào những khu không người phía nam của thành phố mục tiêu và 22 quả khác bị lực lượng phòng không Anh quốc bắn hạ. Số 73 quả còn lại đánh vào London, gây thiệt hại nhà cửa đáng kể và làm hàng trăm người thiệt mạng, phần đông là thường dân.
 
Cái âm thanh vù vù kỳ lạ của động cơ ‘phản lực xung’ của V-1 làm nhiều nhân chứng nghĩ đến tiếng vo-ve của côn trùng. Âm thanh đặc thù này khiến cho người ta gọi nó là “con bọ con” hay “bom vo-ve”. Mặc dù có những âm thanh và tên gọi buồn cười như vậy, V-1 không có gì là khôi hài cả. Chẳng qua bao lâu người dân nước Anh đã liên kết cái âm thanh côn trùng này với sự hủy diệt và chết chóc.
 
Được kiểm soát bởi một hệ thống bay tự động sử dụng con quay hồi chuyển từ tính, một cái phong kế để tính toán khoảng cách đã bay và một thiết bị quả lắc để điều chỉnh góc cao thấp, hệ thống điều khiển của V-1 này không đủ chính xác để đánh vào những mục tiêu nhỏ. Nhưng hệ thống đơn sơ này đã đủ chính xác để nhắm vào những mục tiêu lớn như thành phố rồi; mà như vậy đã đủ để thỏa mãn nhu cầu chiến thuật của Luftwaffe.
 
Theo một bản báo cáo của viên tướng Mỹ Clayton Bissell, nước Đức đã phóng khoảng 8.025 quả V-1 vào những mục tiêu bên nước Anh chỉ trong vòng 9 tuần lễ năm 1944. Hơn 1 triệu căn nhà hay các kiến trúc khác bị hư hỏng hay tiêu hủy, và hàng chục ngàn người thiệt mạng.
 
Tuy nước Anh là mục tiêu chánh của chương trình này, thành phố Antwerp của nước Bỉ cũng bị 2.500 quả V-1 đánh trúng.
 
Tháng 3 năm 1945, dàn phóng V-1 cuối cùng ở nước Pháp bị các quân đoàn Đồng Minh đánh chiếm, chỉ năm tuần rưỡi trước khi Đế Chế thứ Ba của Đức Quốc Xã sụp đổ và đầu hàng. Vũ Khí Phục Thù số 1 của Hitler sẽ không còn che kín bầu trời hai nước Anh và Bỉ nữa. Sự thống trị của bom vo-ve đã chấm dứt, nhưng di sản của nó chỉ vừa bắt đầu thôi.
 
Những cứ điểm V-1, bao gồm hàng trăm quả đạn chưa được sử dụng, rơi vào tay nước Mỹ, Pháp và Liên Bang Sô Viết. Cả ba quốc gia bắt đầu nghiên cứu thiết kế của V-1 và sản xuất phiên bản vũ khí bay rô-bô của riêng họ.
 
Ngày nay, nhiều sử gia quân sự cho rằng chiếc V-1 của Đức là chiếc phi đạn hành trình đúng nghĩa đầu tiên. Có nhiều điểm lý luận ủng hộ lập luận này và cũng nhiều điểm phản bác nó. Cho dù là đúng hay sai, chương trình V-1 chính là chất xúc tác cho sự phát triển kỹ thuật phi đạn hành trình.
 
Khái niệm này đã được chứng minh qua sự hữu hiệu tàn khốc của nó. Một vũ khí bay không người lái quả thật đã có thể tìm đến và đánh vào một thành phố ở xa xôi, mà không cần người nào can thiệp vào. Trong những năm sau đệ Nhị Thế Chiến, những tổ nghiên cứu và phát triển khắp nơi trên địa cầu hối hả lặp lại, rồi vượt qua các thành quả của V-1 của Đức Quốc Xã.
 
Thời đại của phi đạn hành trình đã đến. Tương lai của chiến kỹ đã bị thay đổi hoàn toàn.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2016 00:32:39 bởi Quang11 >

Quang11
  • Số bài : 63
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.02.2007
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - 09.09.2016 00:35:29
0
Chương 27
Tòa Nhà Trắng, Washington
Thứ Sáu, 28 tháng 11, 20:30 giờ địa phương
 
Tổng thống Wainright bắt tay bà đại sứ Ấn Đồ, rồi đưa tay mời bà ngồi vào một trong chín chiếc ghế bành trong khu họp của Phòng Bầu Dục. “Cám ơn bà đã đến nhanh như vậy, thưa bà đại sứ. Tôi xin lỗi vì giờ giấc trễ như thế này.”
 
Bà đại sứ Shankar ngồi xuống ghế và mỉm cười lịch sự. “Xin ngài đừng cảm thấy khó chịu, thưa ngài Tổng thống. Đây là nhiệm vụ và hân hạnh cho tôi khi được ngài triệu vời, bất cứ vào lúc nào.”
 
Tổng thống ngồi vào cái vị trị truyền thống thuộc về ông ở chủ vị của số ghế xếp vòng, lưng quay về cái bàn làm việc trứ danh được đóng từ gỗ lấy từ chiếc tàu buồm của Anh quốc, chiếc HMS Resolute vào thế kỷ 19.
 
Ghế của bà đại sứ bên tay phải của ông, còn ghế bên trái là của viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Gregory Brenthoven.
 
“Tôi thật cảm kích lòng rộng lượng của bà.” Tổng thống nói. Ông dùng ngón tay đảo một vòng trên không, chỉ vào số ghế. “Như bà thấy đó, chúng ta đang bỏ qua mọi lễ nghi phiền phức thông dụng, để có thể làm việc nhanh và kín đáo.”
 
Đám nhân viên ngoại giao và cố vấn thường ngày đều vắng mặt. Thông thường, một cuộc họp mặt giữa tổng thống và một viên đại sứ nước khác sẽ gồm cả viên chánh văn phòng, bộ trưởng Ngoại Giao, phụ tá bộ trưởng Ngoại Giao chuyên lo vụ việc khu vực Đông Nam Á, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia và một thư ký của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Tuy nhiên, trừ viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, không ai trong danh sách ấy có mặt cả.
 
“Tôi hiểu.” Bà đại sứ nói. Nếu có cảm thấy không thoái mái vì việc không đúng nghi thức của tòa Nhà Trắng, bà cũng không để lộ ra. Mà lần này thật là không đúng nghi thức rồi. Ngoại trừ việc một số nhân vật vắng mặt ra, rất hiếm khi nào tổng thống lại gặp mặt trực tiếp với một viên đại sứ, càng hiếm hơn nữa là gặp mặt trong Phòng Bầu Dục.
 
Các viên đại sứ hầu như bao giờ cũng làm việc với những đại diện của bộ Ngoại Giao và các cuộc gặp mặt thường xảy ra trong Phòng Roosevelt, hay trong trường hợp viên đại sứ đang bị ghét bỏ, thì gặp nhau trong tiền sảnh của cánh phía Tây. Đối với đại sứ Shankar, buổi họp hôm nay đã đi ngược với mọi sự chờ đợi của bà: trực diện với tổng thống, trong Phòng Bầu Dục, mà không có sự hỗ trợ đoàn nhân viên ngoại giao.
 
“Tôi rất vui khi nghe bà nói vậy.” Tổng thống nói. “Xin lỗi cho tôi bỏ qua những lời khách sáo mà đi thẳng vào chuyện cần thiết.”
 
“Dĩ nhiên rồi.” Bà đại sứ đáp.
 
“Tốt lắm.” Tổng thống nói. “Bởi vì tôi muốn biết nước bà có phải dự định tập kích đập nước Tam Điệp, hay không?”
 
Ông ta gật đầu về phía Brenthoven. “Theo tôi hiểu, Greg… tôi muốn nói là Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của tôi… đã chuyển lời cho bà các mối lo âu của chúng tôi về một cuộc tập kích như thế. Bà đã bàn thảo vấn đề này với chính phủ của bà chưa?”
 
“Tôi đã được thuyết trình về toàn bộ dự tính của chính phủ trong vụ việc này rồi.” Bà đại sứ nói. “Trên chính thức, không hề có một kế hoạch tập kích đập nước Tam Hiệp nào hết.”
 
“Còn không chính thức thì sao?” Tổng thống hỏi.
 
“Câu trả lời không chính thức là, e rằng,” bà đại sứ đáp, “hơi khác một chút. Nói một cách không chính thức, tôi được phép thông báo cho ngài, trong điều kiện tối mật, rằng sự phá hủy đập nước Tam Hiệp được xem là một lựa chọn quân sự cần thiết và đúng đắn, nếu xung đột với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vẫn tiếp tục leo thang.”
 
Tổng thống Wainright bóp bóp sau gáy. “Tôi biết rồi. Chính phủ của bà đã hiểu rằng hầu như chắc chắn một cuộc tập kích như vậy sẽ được Trung quốc xem như một sự công kích chiến lược trực tiếp vào cơ sở hạ tầng quan yếu của quốc gia họ chứ? Và chính phủ của bà cũng hiểu rằng một đòn mãnh liệt như vậy có lẽ sẽ được đáp trả bằng vũ khí hạt nhân chứ?”
 
“Chính phủ của tôi đã nhận được những điều lo ngại của ngài rồi.” Bà đại sứ Ấn Độ đáp. “Nhưng chúng tôi không đồng ý với nhận định của quý ngài về phản ứng của nước CHNDTH. Chính phủ tôi không tin rằng Bộ Chính Trị Trung Ương Trung quốc sẽ dùng đến vũ khí hạt nhân để phản kích.”
 
“Lỡ khi nhận định của quý chính phủ sai thì sao?” Tổng thống hỏi. “Tại sao quý vị lại mạo hiểm với khả năng ấy chứ?”
 
Bà đại sứ nắm hai tay trên đùi. “Thưa ngài tổng thống, Trung quốc không phải là mối quan tâm duy nhất của chúng tôi. Tôi tin chắc là các vệ tinh của quý ngài đã cho thấy rằng láng giềng Hồi quốc (Pakistan) của chúng tôi đã bắt đầu tập kết quân đội gần biên giới phía đông của chúng tôi, ở hai tỉnh Punjab và Sindh. Ngay trong khi chúng ta đang thảo luận, Pak Faza’ya, Không Quân của Hồi quốc đang tiến hành một chiến dịch bay tuần tra kịch liệt ngay sát biên giới. Mặc dù các hoạt động này trên mặt kỹ thuật không được gọi là hoạt động quân sự chống lại nước tôi, nhưng các lực lượng vũ trang của Hồi quốc có hành vi gây hấn. Chính phủ Hồi quốc rõ ràng là muốn thừa nước đục thả câu rồi.”
 
Bà nhướng mày. “Như thành ngữ của người Mỹ nói, đó chính là ‘lũ cá mập đang vờn quanh’, thưa ngài tổng thống. Cả ở phía bắc, lẫn phía đông của chúng tôi. Chúng tôi không thể nào để chúng đánh hơi thấy mùi máu trong nước được.”
 
“Tôi hiểu nỗi lo của quý vị.” Tổng thống nói.
 
Trước khi ông kịp nói tiếp, đại sứ Shankar lại cất tiếng. “Thành thật xin lỗi ngài, nhưng mà ngài không hiểu được nỗi lo của chúng tôi đâu. Nếu Hoa Kỳ thật sự hiểu được những mối căng thẳng về văn hóa và chính trị nơi vùng thế giới của chúng tôi, thì quý ngài đã không vội vã bán vũ khí cho Hồi quốc như thế, hoặc là chống lưng cho chế độ khủng bố đang cầm quyền tại Islamabad. Mà quý ngài cũng không hiểu được sự lo lắng của chúng tôi về Trung quốc. Tôi xin lưu ý ngài về cái gọi là chiến tranh Trung-Ấn vào đầu thập niên 1960. Nhân dân chúng tôi đã từng biết qua bị Quân Giải Phóng Nhân Dân tràn qua biên giới là như thế nào. Tôi cũng mừng là quốc gia quý ngài chưa từng trải qua kinh nghiệm như thế.”
 
“Đối với chúng tôi, cái này không phải là một bài tập chính sách đối ngoại.” Bà nói. “Nó cũng không phải là lý thuyết chính trị. Mà chúng tôi đang phải đối đầu từ hai phía những đối thủ đã từng biểu hiện trong lịch sử ý định tiêu diệt Ấn Độ của họ, và hiện tại đang tiến hành những hành vi thù nghịch đối với nước tôi. Chúng tôi sẽ không tỏ ra yếu đuối. Và nếu điều này có nghĩa là đập nước Tam Hiệp phải bị tiêu hủy, thì đó chính là cái giá mà Trung quốc phải trả khi họ tàn sát các thôn làng của chúng tôi không một lời cảnh báo hay bị khiêu khích gì.”
 
Tổng thống lắc đầu. “Bà đại sứ ạ, tôi xin quý vị đừng làm việc này.”
 
Đại sứ Shankar ngồi yên suốt nhiều giây, trước khi lên tiếng. “Quý ngài có thể cho chúng tôi một lựa chọn nào khác không? Quý ngài có thể cho quân lực của quý ngài sát cánh với quân lực chúng tôi và cho Trung quốc và Hồi quốc thấy rằng chiến đấu với Ấn Độ cũng chính là chiến đấu với Hoa Kỳ không?”
 
Tổng thống im lặng.
 
Bà đại sứ cười buồn. “Câu trả lời của ngài chính là như thế đó, thưa ngài tổng thống. Nếu quý ngài không thể đứng bên cạnh chúng tôi, thì chúng tôi sẽ tự vệ mà không cần sự trợ giúp của quý ngài. Và chúng tôi sẽ sử dụng mọi biện pháp mà mình có.”
 
“Lỡ như tính toán của quý vị sai lầm thì sao?” Tổng thống lại hỏi. “Lỡ như Trung quốc trả đũa bằng vũ khí hạt nhân thì sao?”
 
Đại sứ Shankar thở dài. “Vậy thì họ sẽ khám phá ra là Ấn Độ cũng có những vũ khí như thế và, nếu bị bắt buộc, chúng tôi cũng không ngại gì đem chiến tranh đến trước ngưỡng cửa của kẻ thù.”
 

Thay đổi trang: 123 > | Trang 1 của 3 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 62 bài trong đề mục