Quang11
-
Số bài
:
63
- Điểm: 0
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 02.02.2007
|
Re:Lưỡi Kiếm của Thần Shiva
-
08.09.2016 04:41:15
Chương 1 Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103) Nam Biển Nhật Bản Thứ Tư, ngày 19 tháng 11 13:41, giờ địa phương Nửa giây sau khi trúng phi đạn, đèn trên trần tắt phụt, làm cho Combat Information Center (1, xem chú thích) (CIC) tối đen. Tiếng rơ-le điện kêu lách tách. Đèn khẩn cấp đỏ mờ bật lên thay thế ánh đèn chiến đấu xanh lam. Tiếng ồn trong phòng hành quân CIC giảm xuống nhiều decibel sau khi gần phân nửa số màn ảnh điện tử trong phòng tắt phụt vì mất điện. Những chiếc quạt làm giảm nhiệt cho máy móc từ từ ngừng lại, tiếng rít của những hộp cung cấp điện cao thế tụt dần vào im lặng. Cả tiếng rầm rì của máy điều hòa không khí cũng nhạt đi khi máy nén hơi ở phòng bên cạnh dừng lại. Những dấu hiệu cảnh báo đỏ và vàng bắt đầu nhấp nháy trên các màn ảnh điện tử còn hoạt động, báo cáo chi tiết các hư hại trong hệ thống điện tử và tín hiệu đang biến mất dần. Các màn ảnh khổng lồ của hệ thống chiến đấu Aegis (2) nhấp nháy lia lịa với những ký hiệu tác chiến hỗn loạn, rồi biến thành những đường sọc khi mất tín hiệu. Trong bóng tối, hai-ba thủy thủ bị thương đang đau đớn rên siết. Đâu đó bên ngoài vách tường sắt của phòng hành quân CIC, còi báo động vang rền rĩ và những nhóm khống chế hư hại đang kêu gọi nhau. Vì khoảng cách xa, cùng với vách ngăn thép và mặt nạ bảo hộ, âm thanh của họ trở nên những tiếng xì xào vô nghĩa. Tiếng nói của hạm trưởng Bowie xuyên qua bóng tối đỏ âm u: “Sĩ quan chỉ huy CIC, báo cáo thiệt hại cho tôi, lập tức! Tôi muốn biết chúng ta trúng phi đạn vào đâu và thiệt hại thế nào!” Bowie không chờ viên trung úy trẻ đáp lời, đã ra mệnh lệnh tiếp: “TAO (3), báo cáo kiểm kê tất cả vũ khí và hệ thống cảm biến của ta. Chúng ta còn thấy được gì và còn thứ gì để chiến đấu? Khi nào tra được, tôi muốn biết còn lại bao nhiêu Bogies (4) và chúng đang ở đâu!” Viên sĩ quan Tác Chiến lập tức trả lời: “Hạm trưởng, ra-đa SPY đang hoạt động bằng nguồn điện phụ, nhưng Aegis không hoạt động vì máy điện toán đang khởi động lại. Pháo tháp 51 sẵn sàng chiến đấu và có vẻ như khẩu CIWS (5) phía sau bị hỏng. Khẩu CIWS phía trước thì còn tốt. Đề nghị chúng ta quay mũi về hướng mấy chiếc bogies còn lại và để khẩu CIWS phía trước phòng vệ phi đạn cho đến khi chúng ta bắt đầu thấy lại được.” Bowie chỉ thoáng ngập ngừng, rồi: “Làm đi!” Ngay lúc này, sĩ quan chỉ huy phòng hành quân CIC, trung úy Westfall báo cáo: “Hạm trưởng, tôi liên lạc được với CCS (6). Chỗ trúng đạn phỏng định là bên phải, ngay giữa thân tàu, gần mép nước. Cả hai máy bên phải đều hỏng và nhóm phòng máy báo cáo lửa cấp Bravo (7) ở phòng Máy số một. Chúng ta đang ngập nước tại nhiều khoang và phòng Tổng Đài số 2 bị hỏng vì nước ngập.” Sau khi thoáng ngừng: “Báo cáo thương vong là… CCS ước tính 41 người chết và khoảng gấp đôi bị thương, thưa Hạm trưởng. Sĩ quan chỉ huy phòng máy đã chết. Phó hạm trưởng bị thương ở đầu, có thể bị vỡ sọ và đang bất tỉnh.” Bowie gật đầu: “Đã hiểu.” Một giọng nói vang lên trong loa treo trên trần. “TAO, đây là phòng lái. Thủy thủ canh gác phía trước báo cáo nhìn thấy ba máy bay ở bên trái phía trước, vị trí ba-năm-bảy độ. Tốc độ tiếp cận rất nhanh.” Bowie nhìn trung tá Silva. Viên trung tá đang đứng, hai tay nhét sâu vào túi của bộ áo liền quần màu xanh dương đậm, dáng người thẳng tắp và nhanh nhạy, mắt nhanh chóng chuyển từ vị trí chiến đấu này qua cái khác. Nàng chạm ánh mắt với Bowie, rồi chuyển đi nơi khác. Nàng đang thu thập tất cả, như một cái máy quay phim ghi nhớ tất cả dữ liệu, mà không nhả ra lại bất cứ thứ gì. “Đám bogies đang lao tới nhanh và thật thấp.” Bowie nói. “Chúng chuẩn bị tập kích chúng ta bằng một đợt phi đạn khác.” Trung tá Silva gật đầu, nhưng không trả lời. Bowie quay đầu đi. “TAO, tình trạng Aegis thế nào rồi?” “Máy vi tính đã kích hoạt xong, thưa hạm trưởng.” Viên sĩ quan Tác Chiến nói. “Phải vài giây nữa ra-đa SPY mới liên kết và khóa cứng mục tiêu được.” “Chúng ta không có vài giây nào hết.” Bowie nói. “Lệnh cho pháo tháp 51 xạ kích đám Bogies dùng video từ máy thu hình trên cột tàu. Lệnh cho nhóm Phòng Thủ Chống Tiểu Thuyền (8) xạ kích mọi mục tiêu bằng đại liên 12,7 mm ở phía trước, và cả hai khẩu đại bác nhẹ nữa.” Bowie im lặng nghe viên TAO truyền đạt mệnh lệnh của hắn cho các vị trí súng. Đây là một bước tuyệt vọng. Khẩu pháo lớn 127 mm ở pháo tháp 51 trên boong trước có lẽ có khả năng tiêu diệt một máy bay đang lao tới nếu được ra-đa điều khiển. Muốn hạ ba chiếc máy bay địch mà chỉ dùng máy thu hình đen-trắng sao? Khó hơn nhiều! Nếu kể cả những hư hại của chiếc tàu, thì coi như vô vọng. Mấy khẩu đại liên 12,7 mm ư? Có cầu nguyện cách mấy cũng chẳng hi vọng gì. Hai khẩu 25 mm cũng không hơn bao nhiêu. Bắn tán loạn có lẽ cũng chỉ tốn đạn thôi, nhưng chẳng lẽ họ cứ ngồi đó rung đùi mà không làm gì sao? Chiếc USS Towers là một chiếc khu trục hạm hiện đại nhất. Đây là một chiếc chiến hạm tiên tiến từ đáy tàu được thiết kế bằng máy điện toán, cho đến chóp xéo của cột tàu. Nó được thiết kế và chế tạo cho tốc độ, hỏa lực và khả năng tàng hình. Trong khoảng thời gian hoạt động vài năm ngắn ngủi, nó đã trải qua số thực chiến nhiều hơn tổng số của bất cứ hai chiến hạm nào khác trong Hải Quân Mỹ. Bowie mỉm cười hung tợn. Nếu chiếc Towers phải đắm, thì nó sẽ vừa đắm vừa chiến đấu. Hắn rời ánh mắt khỏi những màn ảnh đã hỏng, đảo mắt tìm trong bóng tối đỏ cho đến khi hắn thấy dáng khổng lồ của một gã trung sĩ. Chuyên viên tác chiến cấp hai Kenfield đã lớn lên trong một nông trại ở tỉnh Gordonsburg, tiểu bang Tennessee. Tên gã là Bruce, nhưng thủy thủ đoàn gọi gã là Ruộng Đồng Thênh Thang, một phần vì khổ người đáng kể của gã mà phần khác là vì giọng nói đặc sệt vùng quê miền Nam của gã. Trong thủy thủ đoàn vẫn lưu truyền câu chuyện đùa rằng Ruộng Đồng Thênh Thang không cần xe cày hay trâu bò để cày ruộng nhà gã; gã chỉ cần dùng sức lực khủng khiếp tự mình kéo cày và dùng hai tay sắn đất. Hạm trưởng Bowie hất đầu về phía gã. “Này Ruộng Đồng Thênh Thang … hát cho chúng ta nghe một bài đi.” Không khí trong CIC thật căng thẳng, nhưng gã thủy thủ khổng lồ vẫn nhe răng cười trắng ởn trong bóng tối đỏ. “Có phải là mệnh lệnh không, hạm trưởng?” “Chứ còn gì nữa?” Bowie đáp. Gã thủy thủ càng cười toét hơn nữa. “Aye-aye (9), hạm trưởng!” Gã tằng hắng đầy kịch tính, rồi phát ra bài hát duy nhất mà người ta từng nghe gã khổng lồ này ca: một tiếng gầm rống chấn động. Trung tá Silva còn chưa quen thuộc với nếp sinh hoạt của chiến hạm này, suýt nhảy nhỏm khi nghe tiếng gầm phá không gian này. Nhưng nhân viên trong phòng hành quân CIC đã có kinh nghiệm lâu rồi. Họ đã biết rõ gã Ruộng Đồng Thênh Thang này ca hát như thế nào. Trước khi dư âm tiếng rống tắt đi, họ đã thêm vào tiếng gào riêng của họ. Nam hay nữ, trẻ hay trung niên, già dặn hay non nớt, tiếng gào rú của họ cùng dâng lên, như một sự phản kháng chống lại những chiếc máy bay địch đang lao đến tấn công chiến hạm của họ. Họ là một thủy thủ đoàn. Họ là một thể. Họ sẽ cùng chiến đấu. Họ sẽ chết cùng nhau. Mẹ nó chứ! Chiếc Towers là chiến hạm của họ! Trung tá Silva ngắm nhìn các thành viên của phòng hành quân CIC. Vẻ mặt của nàng lộ rõ cảm nghĩ của nàng. Nàng là một sĩ quan từng trải, với hơn mười bảy năm trong quân ngũ. Nàng đã sống gần suốt quảng đời người trưởng thành ngoài đại dương và nàng đã thấy qua hầu hết những gì đại dương có thể cống hiến. Nhưng suốt những năm sống trong Hải quân, nàng chưa từng thấy qua cái gì như cái này. Thật là điên rồ. Thật là những cử chỉ vô ích. Nhưng Mẹ nó! Thật là đáng nể. Silva hé môi, có lẽ để góp phần vào cuộc gầm thét, nhưng chưa kịp làm gì thì đã bị tiếng nói trong loa treo trên trần cắt ngang. “TAO, nhóm Điều Khiển Vũ Khí báo cáo. Aegis đã hoạt động. Có 5 Vipers (10), rất gần và đang tiếp cận! Lặp lại, 5 phi đạn đang tiếp cận, ước tính 20 giây trước khi bị trúng đạn.” Tiếng reo hò lập tức ngưng bặt khi mọi người khẩn trương làm việc. Hai mươi giây quá ngắn để có làm gì hữu hiệu, nhưng điều đó không làm cho thành viên phòng hành quân CIC ngừng cố gắng. Giọng nói của viên sĩ quan Tác Chiến xuyên qua mạng liên lạc: “Mọi vị trí chiến đấu, đây là TAO. Năm Vipers đang tiếp cận! Tôi lặp lại, có nhiều phi đạn đang tiếp cận! Nhóm Điều Khiển Vũ Khí, chuyển hệ thống Aegis qua tự động hoạt động. Cho CIWS tự động khai hỏa. Break (11). EW (12), cho tôi biết đường đi tốt nhất để giảm tối đa hình chiếu ra-đa (13), và chuẩn bị phóng chaff (14).” Tiếng vâng dạ và những mệnh lệnh phụ thuộc lan truyền trên các mạng tác chiến. Phân nửa vị trí trong phòng hành quân CIC vẫn chưa hoạt động. Chiếc tàu đã tàn phế rồi. Một phần ba thủy thủ đoàn đã chết hay đang hấp hối, và tệ nhất là thời gian đã hết. Nhưng họ vẫn còn chiến đấu. Vẫn còn phản kích. Giọng nói của viên sĩ quan chỉ huy nhóm Điều Khiến Vũ Khí vang lên trong loa. “Mọi vị trí chiến đấu, đây là nhóm Điều Khiển Vũ Khí. Chuẩn bị! Ước tính phi đạn sẽ trúng trong sáu… năm… bốn…” Bowie khoanh tay và dựa vào một màn ảnh ra-đa đã hỏng. Hắn huýt sáo nhẹ qua kẽ răng, trong khi tiếng đếm ngược tiếp tục. “Ba… Hai… Một…” Chữ cuối cùng gần như là một tiếng hét. “Trúng!” Căn phòng đột nhiên sáng trưng lên khi dòng điện tràn vào các ngọn đèn. Một giọng nói khác vang lên trên loa. “Mọi vị trí, đây là Tổng Huấn Luyện viên. Huấn luyện kết thúc. Lặp lại, huấn luyện kết thúc. Cho phần mềm ngưng lại. Ngưng đồng hồ. Bật điện lên, cho mọi hệ thống trở lại hoạt động bình thường. Huấn luyện chấm dứt lúc 13 giờ 25 phút 9 giây.” Các thành viên trong phòng hành quân CIC chớp chớp mắt và che mắt chống lại ánh đèn bất ngờ. Khắp trong phòng, các nhân viên đã “chết” hay “bị thương” đứng dậy, phủi bụi trên quân phục và bắt đầu kích hoạt lại các máy móc. Một trung sĩ tháo sợi dây tròng nơi cổ xuống và ngắm tấm bìa cứng màu vàng. Trên đó có dòng chữ in to: “Phòng hành quân CIC thương vong số 6 – phỏng vì điện giật, hôn mê do va chạm vật cứng, tử thương.” Gã đưa tấm bìa cho một người mặc đồng phục màu cam, một thành viên trong nhóm Huấn Luyện. “Đây này, tôi không cần cái này nữa. Tôi hết chết rồi.” Gã quan sát viên mặc đồ cam kẹp tấm bìa vào một sấp bìa tương tự, nói: “Hoan nghênh bạn trở về cõi sống. Nhưng nếu tôi là bạn, tôi sẽ tiếp tục chết cho đến giờ cơm. Như vậy, bạn sẽ không phải tốn cả buổi chiều quét dọn CIC.” Gã chuyên viên Tác Chiến cấp Ba mỉm cười: “Ài, nếu giả chết có thể miễn lao động được thì tốt rồi! Có chết cũng không tránh khỏi lao động quét nhà đâu.” Nhún vai, nói tiếp. “Ít ra họ cho tôi chết sớm. Tôi cũng chợp mắt được một lúc trong khi mọi người khác còn đang cố gắng cứu tàu.” Cách đó khoảng mười bộ, đại tá Bowie đang trò chuyện cùng trung tá Silva gần chỗ ngồi của viên sĩ quan Tác Chiến. Bowie nhướng mày. “Trung tá thấy sao?” Silva gật đầu. “Đáng nể lắm, thưa đại tá. Tôi chưa từng thấy qua cái gì như thế này. Ông có một thủy thủ đoàn thật là giỏi đó.” Bowie tủm tỉm cười: “Nói thật ra, họ quả thật rất đáng nể. Tôi hãnh diện được phục vụ chung với từng người bọn họ. Mỗi người nam hay nữ trên chiếc tàu này đều cống hiến 120% sức lực của mình.” Hắn lắc đầu. “Nhưng mà họ chẳng còn là thủy thủ đoàn của tôi bao lâu nữa, phải không? Họ sẽ thuộc về cô chỉ trong khoảng hai tuần nữa mà thôi, trung tá.” Mắt hắn đảo quanh phòng hành quân CIC, thật chậm, cố gắng thu nhận từng chi tiết như thể hắn sẽ không bao giờ thấy được quang cảnh tráng lệ như vậy nữa. Mà điều đó sẽ là sự thật trong chẳng bao lâu nữa. Lễ bàn giao chỉ cách đó 16 ngày nữa. Sau đó, chiến hạm này sẽ không còn là của hắn nữa. Sau khi hai người chào nhau lần cuối trong buổi lễ bàn giao ấy, Đại tá Samuel Harland Bowie sẽ trở thành Chỉ Huy Phó hạm đội khu trục hạm số 15. Cùng lúc ấy, Trung tá Katherine Elisabeth Silva sẽ trở thành Hạm trưởng Silva, chỉ huy trưởng mới của chiếc USS Towers. Quảng thời gian bi tráng nhất và quan trọng nhất trong quân nghiệp của Bowie sẽ chấm dứt. Ngay từ bây giờ, hắn đã biết là không gì có thể lắp đầy cái khoảng trống ấy trong cuộc đời của hắn. Và qua cả quá trình ấy, hắn sẽ phải tươi cười, với những phát biểu lịch sự, giả vờ rằng hắn vui lòng giao quyền lãnh đạo chiến hạm của hắn cho một người gần như xa lạ. Khốn nạn! Thật khốn nạn! Hắn chậm rãi thở ra. Hắn quay sang trung tá Silva, người lãnh đạo kế tiếp của chiếc USS Towers. “Chúng ta xuống phòng ăn đi. Chúng ta có thể uống một ly cà phê trong khi chờ đợi nhóm Huấn Luyện viết xong báo cáo.” Silva bước theo hắn ra cửa. Bowie thả chậm bước để nàng tiến lên bên cạnh hắn. “Bạn bè gọi cô là Kate sao?” Trung tá Silva mỉm cười. “Chỉ có bố tối là được quyền gọi như vậy thôi. Mọi người khác đều gọi tôi là Kat.” (trùng âm với ‘cat’, con mèo) “Với chữ K chứ?” “Đúng rồi. Với chữ K.” Nàng lại cười. “Đây là một câu chuyện dài.” Bowie mở cánh cửa có thể ngăn nước (để phòng ngập lụt lan tràn nếu tàu bị nước vào) và ra hiệu cho nàng đi vào. Khi họ đã bước qua cửa, hắn lại gài cửa lại cẩn thận, rồi họ mới tiếp tục đi. “Còn anh thì sao?” Silva hỏi. “Bạn bè gọi anh là Sam hả?” Viên đại tá lắc đầu. “Không. Họ kêu tôi là Jim.” Silva thoáng ngưng bước. “Họ gọi anh là Jim Bowie (15) sao? Thật vậy à?” Đại tá Bowie ngoác miệng cười. “Thật mà!” Hắn lại tiếp tục đi về phía phòng ăn. “Đây cũng là một câu chuyện dài.” -=-=-=-=-=- Chú Thích: (1) Combat Information Center (CIC): phòng hành quân trên tàu chiến Mỹ, trong hải quân Hoàng gia Anh quốc thì được gọi là Action Information Centre. Là trung tâm chỉ huy và kiểm soát của tàu chiến hoặc cả hạm đội dưới quyền. Từ bây giờ, dịch giả sẽ dùng ‘phòng hành quân CIC’ nếu nói về hải quân Mỹ. Không nên lầm với phòng điều khiển hay lái tàu. (2) Hệ thống chiến đấu Aegis là hệ thống chiến đấu tiên tiến và phức tạp nhất thế giới, được bắt đầu trang bị cho hải quân Mỹ vào thập niên 1980 và được không ngừng cải tiến cho đến ngày nay. Hệ thống này dung hợp thông tin từ các loại hệ thống thông tin, ra-đa, sonar trên tàu, của cả hạm đội và từ mọi nguồn khác (vệ tinh, phi cơ, v.v.), phân chia cho các chiến hạm trong hạm đội các công tác tấn công và phòng thủ chống tất cả các loại nguy cơ trên và dưới mặt biển, trên không và cả ngoài khí quyển. Gần đây, hệ thống còn được triển khai trên đất liền để phòng thủ chống tên lửa đạn đạo và phi đạn hành trình, cũng như mọi mối đe dọa trên không khác. Xem thêm: vi.wikipedia.org/wiki/Hệ_thống_Chiến_đấu_Aegis (3) Tactical Action Officer (TAO): sĩ quan Tác Chiến phụ trách hệ thống tác chiến của chiến hạm. Đây là một nhiệm vụ chỉ có trong hải quân. Quân đội Mỹ có thói quen dùng từ viết tắc trong khi nói chuyện để tiết kiệm thời giờ. (4) Bogie hay bogey: tiếng lóng thường dùng trong quân đội Mỹ để chỉ máy bay hay phi đạn địch. Vì là tiếng lóng chuyên dụng, dịch giả sẽ không dịch. (5) CIWS (phát âm là Xi-uy-zơ) hay Close-In Weapon System là hệ thống tự vệ chống phi đạn, tầm cực ngắn. CIWS bắt nguồn từ hải quân Mỹ vào những năm 1980, nhưng ngày nay nhiều quốc gia cũng có các hệ thống tương tự. CIWS của Mỹ có tên Phalanx gồm một khẩu súng 20 ly 6 nòng có thể bắn 4.500 viên/phút, có tầm hữu hiệu cỡ 2.000 mét; nhiệm vụ là tầng bảo vệ cuối cùng chống phi đạn nếu lọt lưới qua các hệ thống phòng thủ khác. Súng được tự động điều khiển bởi một hệ thống ra-đa độc lập. Gần đây, có vài hệ thống CIWS sử dụng phi đạn tầm ngắn thay thế súng, có lợi thế là tầm xa hơn và có thể đối phó nhiều phi đạn cùng lúc, nhưng mắc tiền hơn và số lượng lần bắn ít hơn (thể tích lớn hơn). Trên một chiến hạm Mỹ, thường có một khẩu ở phía trước và một khẩu phòng thủ phía sau, mỗi khẩu có thể xoay chuyển khoảng 240 độ. Gần đây, hệ thống phalanx được sử dụng trên bộ (Afghanistan) để phòng thủ các căn cứ chống tên lửa, đại bác và súng cối, cực kỳ hữu hiệu. Người Mỹ thường viết tắc nhưng cụm từ chuyên môn dài, rồi đọc luôn như một từ mới; trong trường hợp này, CIWS được phát âm thành Xi-Uy-Zơ. (6) CCS là Crew Coordination System: dữ liệu về thủy thủ đoàn được lưu trữ trong hệ thống điện toán của tàu. Nhân viên điều hành có thể tùy thời kiểm tra và tổng hợp tình trạng thủy thủ đoàn theo từng ban ngành, vị trí, v.v. (7) Bravo: Bắt đầu từ những năm 1950, để báo cáo qua điện đài một cách chính xác và tránh nhầm lẫn vì nghe lầm, quân đội Mỹ và đồng minh áp dụng cách phát âm chữ cái thống nhất cho quân đội như sau: A – Alpha, B – Bravo, C – Charlie, D – Delta, E – Echo, F – Foxtrot, G – Golf, H – Hotel, I – India, J – Juliet, K – Kilo, L – Lima, M – Mike, N – November, O – Oscar, P – Papa, Q – Quebec, R – Romeo, S – Sierra, T – Tango, U – Uniform, V – Victor, W – Whiskey, X – X-ray, Y – Yankee và Z – Zulu. Thí dụ: “Báo cáo, phát hiện 2 chiếc MIG, mike-india-golf (đánh vần để tránh nghe lầm), đang bay về hướng…” (8) Phòng Thủ Chống Tiểu Thuyền: khu trục hạm Mỹ có vài đội thủy thủ có nhiệm vụ bảo vệ tàu chống lại những mục tiêu nhỏ và quá gần để sử dụng pháo 127 mm (pháo tháp 51) một cách hữu hiệu, như ghe nhỏ. Tàu được trang bị một số đại liên 12,7 mm (tầm hữu hiệu khoảng 1,000-1,500 mét) và hai khẩu súng máy 25 mm M242 Bushmaster có thể bắn 500 viên/phút (tầm hữu hiệu tối đa 3,000 mét). Có thể miễn cưỡng dùng chống máy bay hoặc phi đạn. (9) Aye-aye: Thưa vâng. Đây là từ ngữ chỉ dùng trong hải quân Anh và Mỹ (và có thể Úc và các nước nói tiếng Anh khác) có nghĩa là “Thưa vâng!” hay “Dạ!” Chữ Aye có nghĩa là Yes (vâng) được dùng từ đầu thế kỹ 17, đến nay vẫn còn được dùng ở Tô Cách Lan, nhưng không rõ vì lý do gì lại biến thành chuyên dùng trong hải quân. Vì là từ ngữ chuyên dùng, dịch giã sẽ để nguyên. (10) Viper: rắn độc. Tiếng lóng chỉ phi đạn địch. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch. (11) Break: đứt, gãy. Trong khi liên lạc bằng điện đài, quân đội Mỹ dùng từ “break” này để cho biết rõ người nói đang chuyển đề tài. Thí dụ như ra lệnh cho đội một xong, “break” chuyển đến ra lệnh cho đội hai, rồi “break” chuyển đến lệnh cho đội ba. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch. (12) Electronic Warfare (EW): đội phụ trách vũ khí điện tử. Thí dụ máy phát sóng phá rối tia laser, liên lạc điện đài của địch, ra-đa của địch, v.v…. (13) Hình ra-đa: mặt phẳng có diện tích càng lớn thì sẽ phản chiếu tia ra-đa càng mạnh, và do đó càng dễ trở thành mục tiêu cho phi đạn được ra-đa điều khiển. Một chiến hạm muốn giảm diện tích ra-đa có thể phản chiếu thì phải hướng mũi tàu về phía ra-đa, mà tránh để ra-đa chiếu vào hông tàu. Ngoài ra, các máy bay hay chiến hạm ‘tàng hình’ có thể giảm hình ra-đa bằng cách thiết kế hình dáng bên ngoài theo những góc độ đặc biệt để làm tia ra-đa bị trợt đi, thay vì dội ngược lại; và sơn một lớp sơn, hay lắp những tấm vật liệu có tính cách hấp thu tia ra-đa. (14) Chaff: một loại đạn phòng thủ chống ra-đa, bên trong đầu đạn chứa hằng vạn sợi kim loại chiều dài bất đồng. Khi được bắn ra, đạn nổ cách chiến hạm không xa và hằng vạn sợi kim loại được tung ra thành một vầng mây kim loại phản chiếu đủ loại làn sóng ra-đa (do chiều dài bất động của sợi kim loại), làm nhiễu loạn ra-đa của địch. Nếu thành công, ra-đa của địch sẽ tỏa định vào một sợi kim loại nào đó và bay lạc hướng khỏi chiến hạm. Chaff cũng thường được dùng để bảo vệ máy bay chống phi đạn. (15) Jim Bowie là một anh hùng hi sinh trong trận đánh phòng vệ thành Alamo, tiểu bang Texas trong cuộc cách mạng Texas, năm 1836. Đây là lúc Texas tách ly khỏi Mexico và trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ. James (gọi tắt là Jim) Bowie là một trong hai viên chỉ huy lực lượng phòng thủ Alamo, gồm khoảng từ 180 đến 257 người. Số người này gồm một ít quân đội và phần còn lại là chiến sĩ tự nguyện khác kể cả David Crockett, một nhân vật truyền kỳ khác. Họ đẩy lui 2 đợt tấn công của 1800 quân chính quy Mexico, giết chết khoảng 600 người, trước khi thất thủ trong đợt tấn công thứ ba. Có từ 5 đến 7 quân phòng thủ bị bắt sống, nhưng bị hành quyết ngay lập tức. Jim Bowie còn là người chế ra loại dao chiến đấu mang tên ông, “dao Bowie”. Tuy chiều dài lưỡi dao có thể từ 13 phân đến 60 phân, đặc điểm của dao này là sống dày, rất bén, có hình dáng hơi giống đao dùng trong võ thuật Trung Hoa nhưng lưỡi thẳng. Ngày nay, loại dao Bowie vẫn còn là loại dao thường thấy nhất trong dao dã ngoại. (16) Bầy Sói (wolfpack): chiến thuật sử dụng tàu ngầm do đô đốc Karl Donitz của Quốc Xã Đức đề xuất trong đệ nhị Thế Chiến, tiếng Đức là Rudeltaktik. Trước kia, tàu ngầm được sử dụng riêng lẻ. Nhận thấy từng chiếc tàu ngầm bị lần lượt phát hiện và đánh chìm, đô đốc Donitz đề xuất cho cả toán tàu ngầm (có khi cả mấy chục chiếc) bao vây và tấn công các đoàn tàu tiếp tế qua lại từ nước Anh qua Mỹ, và gọi nó là chiến thuật Bầy Sói. Chiến thuật này cực kỳ hữu hiệu làm phân tán lực lượng phòng vệ cho đoàn tàu quân đồng minh.
|