Lưỡi Kiếm của Thần Shiva
Chương 13
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình (trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia) Năm 1915, bộ trưởng Hải quân Josephus Daniels thành lập một nhóm hội thảo gồm những nhà phát minh để giúp quân đội Hoa Kỳ làm các chuẩn bị để dự phòng khi phải tham gia vào cuộc Đại Chiến bên Âu châu, cái mà ngày nay chúng ta gọi là Thế Chiến thứ Nhất. Bộ trưởng Daniels nhận thấy rằng đầu những năm 1900, các kỹ thuật dùng trong chiến đấu đã phát triển với một tốc độ chưa từng có và ông lo rằng quân đội Hoa Kỳ không được trang bị và huấn luyện một cách đúng đắn cho chiến tranh cơ giới. Tổ chức này được gọi là Ủy Ban Cố Vấn Hải Quân, gồm có 24 nhà phát minh được giao nhiệm vụ cung ứng ‘thiết bị và cơ sở để sử dụng thiên tư phát minh của người Mỹ trong việc ứng phó với các điều kiện mới trong chiến tranh’. Mò mẫm trong cái nhiệm vụ cao vời nhưng mù mờ ấy, ủy ban này không có cơ sở pháp lý nào, không có ngân sách, mà cũng không có nhân viên trong năm đầu tiên. Mãi đến tháng 8 năm 1916, Quốc Hội mới ưng chuẩn ngân sách là 25 ngàn đô-la và bấy giờ Ủy Ban Cố Vấn Hải Quân mới bắt đầu hoạt động. Mặc dù được bộ trưởng Josephus Daniels đặt nhiều kỳ vọng, ủy ban không làm được điều gì đáng ghi nhận ngoài việc ưng chuẩn màu sơn ngụy trang cho thương thuyền tư nhân. Nhưng có một ngoại lệ đáng chú ý là sự khai triển của cái gọi là ‘ngư lôi bay’. Là đứa con tinh thần của ông Elmer Sperry, một trong những nhà tiên phong trong việc áp dụng thực tế máy con quay, ‘ngư lôi bay’ được dự trù là một quả bom bay không người lái, có khả năng tấn công mục tiêu ở xa mà không cần người điều khiển hay can thiệp vào. Ông Sperry bị say mê bởi tiềm năng đáng kể của một vũ khí như thế và ông hi vọng sức phá hoại khủng bố ấy sẽ làm các quốc gia không còn dám khai chiến nữa. Có một điểm cần ghi nhận là cái quan niệm của ông Sperry cho rằng chất nổ có thể làm người ta thoái chí, tuy ngày nay nghe có vẻ là khờ khạo, nhưng lại tương đối phổ biến trong các nhà chế tạo vũ khí ở đầu thế kỷ 20. Sperry và những người cùng thời đại tin rằng, nếu sự dễ sợ của chiến tranh có thể được đưa lên độ cao đủ, con người sẽ không còn cách nào khác hơn là từ bỏ chiến tranh. Đáng buồn thay, hai trận Thế Chiến, hằng hà sa số những cuộc chiến tranh nhỏ hơn và cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân trên toàn cầu đã phủ nhận cái lý thuyết ấy. Ông Elmer Sperry có thể đã sai lầm khi dự đoán sự kết thúc của chiến tranh, nhưng viễn ảnh của ông về món vũ khí bay tự hành đã giành được sự để ý của Ủy Ban Cố Vấn Hải Quân. Năm 1917, ủy ban ký với hãng Sperry Gyroscope một hợp đồng trị giá 200 ngàn đô-la để chế tạo một quả ngư lôi bay. Ông Sperry bắt đầu công việc bằng cách nghiên cứu một máy lái tự động dùng nguyên lý máy con quay và gắn nó vào một chiếc máy bay cánh đôi Curtiss N-9. Ông muốn bắt đầu bằng cách biểu diễn rằng một chiếc máy bay có thể tự điều hành mà không cần người nắm cần lái. Chiếc N-9 có một viên phi công để cất cánh và đáp xuống, nhưng ý định tối hậu là phi hành hoàn toàn tự động. Lúc này thì viên phi công còn được giao cho nhiệm vụ quan sát và báo cáo máy bay bay như thế nào dưới sự điều hành của máy lái tự động. Sau một số lần bay thử thành công, ông Sperry chỉ huy việc chế tạo một chiếc ngư lôi bay đặc chế, được trang bị một động cơ hai-thì. Công việc sản xuất và lắp ráp chiếc máy bay mẫu được tiến hành bởi hãng Curtiss Aeroplane and Motor. Chiếc ngư lôi bay mẫu được thiết kế để có thể chở một viên phi công, vì họ dự trù rằng cần có người để quan sát và trợ giúp tìm tòi và sửa chửa các sự thiếu sót, trong những chuyến thử nghiệm đầu tiên. Con trai của ông Sperry, ông Lawrence Sperry, chính là viên phi công thử nghiệm. Tuy ngày nay người ta không còn biết chính xác có bao nhiêu chuyến bay thử, nhưng được biết chắc là chiếc Ngư Lôi Bay Sperry đã rớt ít nhất là bốn lần dưới sự điều khiển của ông Lawrence Sperry. Tài liệu kỹ thuật còn sót lại đến nay cho thấy là các vụ trục trặc này là do chiếc mẫu bị hỏng máy, chứ không phải do lầm lỗi của viên phi công. Mặc dù gặp phải những thử thách ấy, ông Elmer Sperry cuối cùng vẫn cảm thấy rằng chiếc ngư lôi mẫu đã đủ chín chắn để có thể hoạt động mà không cần sự giúp đỡ của con người. Chuyến bay không người lái đầu tiên của chiếc Ngư Lôi Bay Sperry diễn ra vào ngày 6 tháng 3 năm 1918, ngày nay được xem là lần đầu tiên phi đạn điều khiển được phóng thành công. Hoạt động hoàn toàn tự động, chiếc ngư lôi bốc lên từ vị trí phóng, đạt đến một độ cao đã được định trước, tiếp tục bay một cách êm ái và ổn định cho đến khi máy lái tự động kết thúc vụ thử nghiệm ở khoảng cách 1.000 mét như đã định trước. Chuyến bay đầu tiên của chiếc Ngư Lôi Bay Sperry thành công rực rỡ. Tiếc thay, sự thành công này không được lặp lại. Các chuyến bay sau này không được như vậy: hoặc chiếc máy bay không người lái không bay ổn định được, hoặc bay lệch lộ tuyến đã được định sẵn, hoặc đơn giản hơn là đâm đầu xuống đất. Cuối cùng, các viên kỹ sư của hãng Sperry đành từ bỏ kiểu ngư lôi đặc chế ấy, mà quay trở lại chiếc Curtiss N-9 thử nghiệm để rà lại từ đầu sáng chế của họ. -***-
Trong khi ông Sperry và hãng Curtiss còn chật vật với vô số khó khăn về kỹ thuật, Ủy Ban Máy Bay của Lục quân Hoa Kỳ quyết định khởi đầu dự án ngư lôi bay của riêng họ. Lục quân yêu cầu nhà sáng chế kiêm kỹ sư Charles Kettering phát minh một quả bom bay không người lái, có khả năng đánh vào một mục tiêu cách xa 65 km hay hơn nữa. Năm 1917, ông Kettering đã từng quan sát những cuộc thử nghiệm của cái máy lái tự động của ông Sperry, nay chấp nhận cuộc thử thách sáng chế một quả ngư lôi bay này. Ông Kettering nhìn nhận tiềm năng của các cố gắng kỹ thuật của ông Sperry trong lãnh vực tự động điều khiển máy bay, nhưng ông muốn một phát minh rẻ tiền hơn và ít phức tạp hơn. Trong khi trao đổi ý kiến với ông Orville Wright và hãng Dayton-Wright Airplane, ông Kettering chế tạo ra một khung máy bay nhỏ có cánh đôi hơi chếch lên; thân máy bay thuôn tròn làm bằng ván ép và giấy bìa. Động cơ là một cái máy De Palma 40 mã lực, được giữ nguội bằng không khí. Chiếc máy bay không người lái này dài 3,8 mét, nặng 240 kg và được cấu tạo để mang một đầu đạn nặng 82 kg. Tên chính thức của nó là Ngư Lôi Bay Kettering, nhưng người ta bắt đầu gọi nó ngay từ đầu là Con Bọ Kettering, có lẽ vì hình dáng giống như con chuồn chuồn của nó. Ông Kettering lập ra từng nhóm kỹ sư độc lập để nghiên cứu các phần khác nhau của dự án. Một trong các nhóm này chế tạo một thiết bị phóng máy bay rẻ tiền có thể chở đi dễ dàng, gồm một cái giàn bốn bánh chạy trên hai đường ray. Mặc dù ông dự định phát minh một cái máy lái tự động rẻ hơn và đơn giản hơn cái máy của ông Sperry đã từng thử nghiệm trên chiếc N-9, ông Kettering không thành công chế tạo được một cái máy nào có thể hoạt động được. Cuối cùng, ông đành nhờ ông Elmer Sperry trợ giúp. Mặc dù hai người đang cạnh tranh, ông Sperry vẫn đồng ý giúp chế tạo máy lái tự động. Cuối cùng, sau khi mọi khó khăn kỹ thuật sơ khởi đã được giải quyết, Con Bọ Kettering đã sẵn sàng được thử nghiệm vào tháng 9 năm 1918. Sau nhiều cuộc thử nghiệm sơ khởi dưới đất, chuyến bay thử đầu tiên được tiến hành vào ngày 2 tháng 10. Chuyến bay bắt đầu bằng một màn cất cánh trơn tru, nhưng sau đó thì không ổn. Thay vì quẹo sang hướng đã được chỉ định và bay thẳng lại, Con Bọ tiếp tục bay thẳng lên không cho đến khi nó chết máy và đâm đầu xuống đất. Chiếc Ngư Lôi Bay Kettering có một màn khởi đầu không tốt đẹp, nhưng một số chuyến bay thử nghiệm sau thì thành công hơn. Lục quân cũng hài lòng đủ để đặt mua 100 chiếc mẫu, nhưng chỉ mới khoảng 45 chiếc được sản xuất khi Hòa Ước được ký kết chấm dứt Thế Chiến I. Thấy rằng không có nhu cầu cấp thiết gì với kỹ thuật này, mà thật ra cũng không có bao nhiêu ấn tượng tốt với thành quả đạt được đến thời điểm ấy, chính phủ Liên Bang quyết định nhập chung cả hai dự án ngư lôi bay của Hải quân và Lục quân. Thử nghiệm chung cho thấy phát minh của ông Sperry trội hơn, nên Con Bọ Kettering bị bỏ rơi. Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thí nghiệm chút ít trong hai năm kế tiếp, trước khi hoàn toàn hủy bỏ dự án vào năm 1920. Cuộc Chiến Để Chấm Dứt Mọi Chiến Tranh (tên thường gọi Thế Chiến I khi ấy) đã kết thúc và cũng chấm dứt luôn chương trình ngư lôi bay. Những người lạc quan tiên đoán một tương lai hòa bình và thịnh vượng trên toàn cầu, trong đó người ta sẽ không cần đến những dụng cụ chiến tranh nữa. Tiếc thay, họ đã sai rồi. Nhân loại còn chưa dừng chiến tranh, mà chiến tranh cũng chưa buông tha cho nhân loại. Một cuộc chiến toàn cầu khác, còn quy mô hơn và dữ tợn hơn cuộc chiến đầu tiên, đang lấp ló nơi chân trời. Và các nhà lãnh đạo quân sự của cuộc chiến sắp tới sẽ không quên cái khái niệm dùng một quả bom không người lái để tiêu diệt kẻ địch từ khoảng cách xa. Thế hệ đầu của vũ khí bay không người lái chưa từng tiến hành một cuộc tấn công trong hoàn cảnh thực chiến nào cả. Chúng chưa từng tiêu diệt một mục tiêu nào, chưa từng giết hại một quân địch nào. Tuy nhiên thế hệ thứ hai của loại vũ khí này chẳng bao lâu sau sẽ xuất hiện. Mà khi chúng xuất hiện, chúng sẽ thay đổi tất cả.
Chương 14
Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103) Tây Thái Bình Dương, phía Nam Nhật Bản Chủ Nhật, ngày 23 tháng 11, 13:48, giờ địa phương Trung tá Silva mở cửa phòng ăn dành cho sĩ quan, nhưng chưa kịp tiến vào, nàng đã nghe tiếng người nói chuyện. Âm thanh cuộc đối thoại chỉ nhỏ thôi, nhưng nàng vẫn nghe được rõ ràng. “Cứt chó!” Người thứ nhất nói. “Chúng ta sẽ tham chiến thật sao? Mày không đùa tao chứ? Chúng ta sẽ làm thật sao?” “Tao không biết mình có sẽ chiến đấu hay không.” Người thứ hai nói. “Đám cao tầng đâu có chia sẻ kế hoạch tác chiến với đám lính trơn cấp thấp chứ. Nhưng mà chúng ta đang lao đầu tới vịnh Bengal, mà đó là chỗ đang bắn nhau. Cái đó thì tao biết.” Silva nhìn qua khung cửa mở. Phòng ăn không có ai cả. Các ghế ngồi đều được đẩy gọn gàng sát vào chiếc bàn dài và không có vật gì trên tấm khăn bàn màu xanh lơ, ngoại trừ dãy tách cà-phê úp trên những chiếc dĩa nhỏ, được xếp đặt ngay ngắn. Nàng bước qua khung cửa và im lặng đóng cửa lại. Bây giờ nàng đã hiểu tiếng nói từ đâu tới rồi. Cái khung cửa sổ nhỏ thông qua bếp không được đóng kín. Một tấm cửa sắt có thể được kéo xuống để ngăn nhà bếp với phòng ăn và tạo sự kín đáo cho sĩ quan trong bữa ăn hoặc những cuộc họp. Khi tấm sắt được kéo lên, các thủy thủ phục dịch có thể chuyển các đĩa thức ăn qua lại giữa bếp và phòng ăn. Lúc này, tấm cửa không được kéo xuống hoàn toàn, chừa ra một khe hở 10 cm. Tiếng nói của hai gã phục dịch từ đó thoát ra. “Ờ.” Gã đầu tiên nói. “Nhưng mà tụi Ấn Độ và Trung quốc bắn nhau, phải không? Chúng ta chỉ ở đó vì lý do ngoại giao, hay cái gì ấy mà. Chúng ta đâu có phải đánh nhau.” “Tao không biết.” Gã thứ hai nói. “Bọn tạp chủng điên khùng ấy đang phóng phi đạn tùm lum. Chúng ta có thể chui đầu vào ngay một cơn bão cứt, không cần biết kế hoạch vĩ đại kia là cái gì.” Silva chợt cảm thấy muốn tằng hắng, hay tạo ra một âm thanh bất ngờ nào đó để cho hai gã thủy thủ trẻ kia biết vị hạm trưởng tương lai của họ đang ở trong phòng ăn. Không phải là nàng cần bọn gã rót cà-phê cho nàng. Nàng vui lòng tự rót lấy, nhưng mà nghe lén họ nói chuyện có vẻ bất lịch sự làm sao ấy. Tuy nhiên… thật không dễ cho một sĩ quan chỉ huy được dịp tìm hiểu xem thủy thủ đang thật sự suy nghĩ thế nào. Qua một thời gian, một sĩ quan chỉ huy sẽ lập được một quan hệ với thủy thủ đoàn để có thể trao đổi vượt qua cái vực giữa sĩ quan và thuộc hạ, ít ra cũng một phần nào đó. Nhưng Silva còn là người mới trên chiếc Towers. Nàng chưa có thời gian để có một chút quen biết những người đàn ông và phụ nữ sau này sẽ trở thành các sĩ quan thuộc hạ của nàng, chứ đừng nói gì tới đám lính trơn. Chẳng bao lâu nữa, nàng sẽ tiếp nhận quyền hạm trưởng, nhưng với các người này, nàng là một kẻ hoàn toàn xa lạ. Mà họ cũng là kẻ lạ đối với nàng. Lúc này, bao nhiêu băn khoăn khi nghe lén người ta nói chuyện riêng đã bị trấn áp bởi sự mong muốn được biết đám thủy thủ ở tầng thấp đang bàn luận những gì. Nàng cầm một tách cà-phê lên, cẩn thận không phát ra âm thanh nào. Hai gã phục vụ vẫn tiếp tục tán gẫu. “Mày nói đúng đó.” Gã đầu tiên nói. “Chiếc tàu này có khuynh hướng hay lọt ngay vào ống nhắm của người ta lúc mà bom đạn bắt đầu bay.” Gã thứ hai cười khảy. “Anh bạn à, mày đã thấy mấy tấm hình kia chưa? Mấy thằng trong tổ của tao có mấy tấm hình chụp các hư hại lần bắn nhau trước, trên vùng biển băng Nga ấy. Khẩu pháo trước bị nổ văng mất tích. Hoàn toàn mất tích đó! Không còn gì ngoài một cái lỗ trên sàn tàu.” “Tao có nghe đến cái đó.” Gã thủy thủ kia nói. “Nhưng tao chưa thấy tấm hình nào cả.” Silva đã xem qua hình chụp những thiệt hại trong lần ra trận trước và cả hình chụp các thiệt hại trong lần ra trận trước đó nữa. Hai gã nhóc này nói đúng: chiếc Towers quả thật là hay chui đầu vào những chỗ đánh nhau dữ nhất. Nàng tự rót một tách cà-phê từ cái bình đặt trên bếp điện. Nước cà-phê đen thui, mà mùi thì gay mũi. Một gã thủy thủ già sẽ gọi đó là cà-phê Hải quân ngon, nhưng Silva không thích cà-phê đã hâm trên bếp quá lâu. Nhưng nàng uống được, chứ không muốn gián đoạn buổi thu thập tình báo bất ngờ này để đòi một bình cà-phê mới pha. Nàng nhìn chất nước đen thui với vẽ nghi ngại, nhưng quyết định chỉ cần tăng gấp đôi số lượng sữa sẽ làm cái vị than cháy đỡ đi ngay. “Tao cũng không biết nên phấn khích, hay sợ vãi ra quần nữa.” Gã đầu tiên nói. Gã thứ hai bật cười. “Tao thì cả hai thứ.” Gã thứ nhất không cười cùng. “Tao mừng là đại tá Bowie vẫn còn là hạm trưởng. Nếu cái vụ lộn xộn với tụi Trung quốc xảy ra trễ hai tuần, thì chúng ta đã bị kẹt với hạm trưởng mới rồi.” “Mày có vấn đề với trung tá Silva sao?” Gã thứ nhì hỏi. “Bà ấy có vẻ cũng được, theo tao thấy.” “Tao không có vấn đề gì với bà ấy hết.” Gã trước nói nhỏ. “Tao tin rằng bà ấy cũng được, mà tao cũng tin là bà ấy biết mình nên làm cái gì. Nhưng mà nếu chúng ta phải chiến đấu, tao hi vọng rằng đại tá Bowie là hạm trưởng của chúng ta hơn.” “Tao hiểu ý mày rồi.” Gã kia nói. “Nhưng mà chúng mình đâu có quyền lựa chọn. Trong hai tuần nữa, bà ấy sẽ trở thành hạm trưởng rồi. Chúng ta chỉ có thể hi vọng rằng bà ấy làm được việc thôi.” “Ờ, nhưng lỡ bà ấy không làm nên việc thì sao? Bà ấy đã qua thực chiến bao giờ chưa? Lỡ bà ấy không kham nổi khi súng bắt đầu nổ thì sao?” Gã thứ nhì lại cười khảy. “Mày nên dừng lo lắng về những thứ cứt chó ấy đi, mà hãy lo đến mấy món ăn này đi. Chúng ta phải chuẩn bị cho bữa ăn tối rồi đó.” Trung tá Silva đặt tách cà-phê xuống bàn. Nàng không còn muốn uống cà-phê nữa. Nàng bước ra khỏi phòng ăn. Cà-phê vẫn sóng sánh trong cái tách chưa hề được uống qua, khi cánh cửa khép lại.
Chương 15
Khu kiến trúc thuộc bộ Quốc Phòng Tòa nhà ‘Ngày Một Tháng Tám’ Bắc Kinh, Trung quốc Thứ Hai, 24 tháng 11, 21:11, giờ địa phương Phó Chủ Tịch nhà nước Lu Shi đang ngồi ở bàn làm việc, chậm rãi lật qua xấp ảnh lần thứ mười hay mười một rồi. Các tấm ảnh gồm nhiều cỡ khác nhau, cũ mới khác nhau và có chất lượng cũng khác nhau. Có vài tấm được nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp chụp; có vài tấm được chụp gần đây bằng máy kỹ thuật số có độ phân giải cao và được in trên giấy bóng cứng. Nhưng phần đông là những tấm ảnh bình thường được chụp trong suốt gần ba chục năm. Lu Shi đã gom góp các tấm ảnh này trong mọi tập ảnh gia đình mà lão tìm được. Những tấm hình chụp trong nhà, ngoài trời, cận cảnh, chụp nhóm, ảnh chân dung… Các tấm ảnh có chung một yếu tố: mỗi tấm đều chứa hình nhi tử của Lu Shi, Lu Jianguo. Đây là Lu Jianguo lúc sáu bảy tuổi, đang chơi đá bóng với một nhóm bạn trên sân cỏ của công viên Chaoyang. Và đây là hài nhi mập mạp Jianguo, được bọc trong lớp lụa màu cam trong buổi lễ mà hắn được ban tên. Còn đây là Lu Jianguo lúc 14 tuổi, đeo khăn quàng đỏ của thiếu niên xung phong, đang bước đều trong đội ngũ tại quảng trường Thiên An Môn. Một ảnh chụp cậu bé lúc 8 tuổi đang nằm ngủ trên băng ghế sau của chiếc xe sang trọng, gối đầu lên đùi của bố. Một tấm chân dung chính thức của Lu Jianguo trong một bộ com-lê xám. Khi ấy, hắn có lẽ vào khoảng 25 tuổi. Có lẽ ảnh được chụp khi hắn là một nhân viên cấp thấp trong bộ An Ninh Công Cộng. Điện thoại trên bàn làm việc của Lu Shi reng lên, nhưng óc lão chỉ mơ hồ ghi nhận âm thanh ấy. Lão tiếp tục lật qua xấp ảnh, tìm tòi một thứ gì mà lão không gọi được tên, mà cũng không hoàn toàn tưởng tượng được. Một mẫu tin tức hay một tia thông hiểu nào đó có thể làm cho sự hỗn độn đã chiếm quyền kiểm soát trong cuộc sống của lão, trở nên hợp lý hơn. Làm thế nào mà Lu Jianguo có thể ra đi được chứ? Một đứa bẻ khả ái như thế, một đảng viên cộng sản thông thái và rực rỡ như thế? Một chuyện như vậy làm sao có thể xảy ra được chứ? Chỉ cái ý niệm như vậy thôi đã sai rồi. Sai một cách ghê tởm. Sai một cách kinh khủng. Đến một lúc nào đó, mắt của Lu Shi đã không còn ghi nhận các hình ảnh đang chuyển qua các ngón tay của lão nữa. Ngón tay của lão chuyển động một cách máy móc. Trong những năm cuối của thập niên 70, khi chính Lu Shi đang là một ngôi sao bắt đầu bốc lên của đảng Cộng Sản, lão đã đấu tranh mãnh liệt để chính sách một-con được thực thi. Thời ấy, chính sách này không được số đông ủng hộ, cho đến ngày nay vẫn thế. Nhưng nó thật sự là cần thiết. Năm 1976, dân số của Trung quốc đã lên gần đến một tỷ rồi, mà đà tăng trưởng vẫn tiếp tục. Nếu cứ để yên như thế, Trung quốc sẽ gặp phải nạn đói và sụp đổ kinh tế. Cái quyết định giới hạn mỗi gia đình chỉ được một con thôi không phải là một quyết định đơn giản. Mà muốn thi hành quyết định này cũng không phải là dễ dàng. Như mọi luật lệ nào khác, có nhiều khe hở mà thành phần cao cấp được ưu đãi có thể khai thác. Nhiều đảng viên cao cấp đã lợi dụng các sơ hở ấy, nhưng Lu Shi không nằm trong số đó. Chính sách một con quan trọng biết bao cho tương lai của Trung quốc. Lu Shi không thể nào vừa tranh đấu ủng hộ chính sách này, lại vừa vi phạm chính sách được. Do đó, lão đã tuân theo cái luật mà chính lão đã giúp lập nên. Lão chỉ sinh ra một đứa con thôi. Mà giờ đây, đứa con ấy đã ra đi, và tương lai cũng đã ra đi với hắn rồi.
Chương 16
Tàu ngầm USS California (SSN-781) Bắc Ấn Độ dương Thứ Ba, 25 tháng 11, 15:22, giờ địa phương Hạm trưởng James Patke đảo mắt nhìn qua màn ảnh chiến thuật trên chỗ làm việc, cẩn thận nghiên cứu cái vòng tròn phù hiệu lớn tượng trưng cho những tàu hộ vệ và khu trục hạm bao quanh chiếc tàu sân bay Trung quốc. Như phần đông những hạm trưởng tàu ngầm khác, Patke vô cùng kiên nhẫn khi đang theo đuổi con mồi; mà nhiệm vụ hiện tại đang thử nghiệm sự kiên nhẫn của hắn một cách nghiêm trọng. Trung quốc mới tham gia vào việc sử dụng tàu sân bay, nhưng các chiến thuật trong vòng đai bảo vệ của họ lại hữu hiệu một cách bất ngờ. Patke và thủy thủ đoàn của hắn đã phải tốn mất hai ngày chậm rãi dò dẫm mới tìm được điểm yếu trong vòng đai phòng vệ của chiếc tàu sân bay này. Cũng đã có vài cơ hội để Patke có thể đột phá một cách nhanh chóng hơn, nhưng hắn cương quyết cẩn thận hơn bình thường. Ngay lúc này, hải quân Trung quốc và Ấn Độ đang cực kỳ hung hăng. Nếu bạn làm họ giật mình, bạn có nguy cơ bị bọn họ bắn cho tan thành mảnh vụn lắm đó. Patke ngẩng đầu lên khỏi màn ảnh và nhìn viên sĩ quan trực. “Cho chúng ta lên tới độ sâu cho tiềm vọng kính đi.” Chiếc USS California là một chiếc tàu ngầm tấn công lớp Virginia (24), do đó thật ra nó không có tiềm vọng kính. Thay vì dùng tiềm vọng kính cổ điển Type 18 như các tàu ngầm tấn công khác của Mỹ, mỗi chiếc tàu lớp Virginia được trang bị hai cột cảm biến photon (quang tử học) AN/BVS-1. Hệ thống sợi quang mới mẻ này trên cả phương diện kỹ thuật lẫn chiến thuật đều cao cấp hơn các hệ thống cũ; nhưng nếu là một sĩ quan tàu ngầm biết tự trọng, thì không ai lại hô lệnh “cho lên độ sâu cột cảm biến photon” cả. Do đó, hầu như tất cả các từ ngữ chuyên dụng liên quan đến tiềm vọng kính vẫn còn được sử dụng, cho dù chính tiềm vọng kính đã không còn được dùng nữa. Viên sĩ quan trực gật đầu. “Dạ, độ sâu tiềm vọng kính, aye-aye!” Gã quay qua viên sĩ quan Lặn. “Cho độ sâu là 37 mét.” Viên sĩ quan Lặn gật đầu rồi lập tức chuyển lệnh cho thủy thủ phụ trách bánh lái. “Đưa mũi lên 5 độ. Chỉnh độ sâu là ba-bảy mét.” Gã thủy thủ bánh lái chậm rãi kéo cần chỉnh độ sâu, mắt dán vào kim chỉ góc bánh lái. “Dạ, kim chỉ 5 độ, tàu đang dâng lên ba-bảy mét.” Chiếc tàu ngầm bắt đầu chậm rãi và thận trọng nổi lên. Viên sĩ quan trực bấm nút nói trên bộ tai nghe. “Sonar (25), đây là phòng chỉ huy, đang nổi lên để chuẩn bị dùng tiềm vọng kính. Có tiếp xúc nào thì báo cáo.” Đại tá Patke quan sát nhân viên phòng điều hành làm việc thật trôi chảy. Họ là một nhóm người thật tài giỏi, tự tin nhưng không tự kiêu. Không thấy ai nóng nảy gì khi phải đột nhập vòng đai phòng vệ của một biên đội tàu sân bay của nước khác cả. Bản thân Patke thì thật ra hơi hồi hộp. Đây không phải là một vụ tập trận. Nếu có chuyện gì sai lầm, tình huống có thể trở nên tồi tệ. Hắn cũng không lo ngại gì các chiếc khu trục hạm và tàu hộ vệ kia. Hắn rất tự hào về kỹ thuật làm im lặng của chiếc tàu ngầm này. Chiếc California chạy êm đến nỗi có thể mon men đến gần hệ thống sonar của phần đông tàu mặt nước mà không sợ bị phát hiện. Gã hạ sĩ quan trưởng thường khoe khoang là chiếc California có thể lẻn đến áp sát bất cứ chiếc tàu mặt nước nào trên thế giới. Patke thì không đi xa đến mức đó, nhưng gã hạ sĩ quan trưởng cũng có lý do để khoe khoang như thế. Tuy nhiên trực thăng chống tàu ngầm của Hải quân QGPND không phải là trò đùa. Mà ở đâu đó, một chiếc tàu ngầm tấn công cấp Type-93 đang hoạt động để hỗ trợ biên đội tàu sân bay. Đội sonar của Patke dò được dấu vết của chiếc tàu ngầm Trung quốc trong hai ngày qua, lúc được lúc mất. Lúc này đây, nó đang nằm phía bên kia vòng đai phòng thủ của đội tàu sân bay. Nếu chiếc California bị phát hiện, nó sẽ lập tức truy đuổi theo. Mà muốn cắt đuôi một chiếc tàu ngầm khó hơn nhiều so với các chiếc tàu hộ vệ mặt nước kia. -***-
Khoảng 15 phút sau, chiếc California đã lên đến độ sâu cho tiềm vọng kính, sau khi dừng lại một chút để kiểm tra xem có ‘dáng và bóng đen’ nào hay không. Đó là dáng của các chiếc tàu bên trên mặt nước. Cái cột mang theo cảm biến photon của chiếc California chậm rãi thò lên khỏi mặt nước. Cái hộp cảm biến ở đầu cột chứa một máy thu hình màu, một máy thu hình trắng đen có độ phân giải cao và một máy thu hình hồng ngoại. Cả ba máy thu hình cùng hoạt động liên tục trong khi cái hộp quay một vòng 360 độ. Hình ảnh kỹ thuật số do từng máy thu hình được truyền xuống phòng điều khiển của chiếc California qua sợi quang nằm giữa cột photon. Ngồi nơi bàn điều hành, Patke điều khiển tay nắm khiến các máy thu hình quay về phía chiếc tàu sân bay. Hắn bấm nút để kích hoạt máy ghi hình và phóng lớn hình để nhìn rõ hơn. Chiếc chiến hạm Trung quốc to lớn này có một tiểu sử lạ lùng. Mà cho đến hiện nay, người ta cũng không biết gì nhiều về cách thiết trí và khả năng của nó. Được Liên Bang Sô Viết đóng vào những năm cuối cùng của cuộc Chiến Tranh Lạnh, nó được dự trù sẽ trở thành chiếc tàu mới nhất thuộc cấp Đô Đốc Kuznetsov. Nhưng chiếc tàu chưa được hoàn tất thì khối Sô Viết đã sụp đổ và nó được bán đấu giá cho một hãng du lịch Hồng Kông với dự tính sẽ biến nó thành một nhà hàng nổi và một sòng bạc. Dự án lập sòng bạc không thành sự thật, rồi không hiểu vì sao chiếc tàu sân bay bán thành phẩm của Sô Viết lại lọt vào tay Hải quân của QGPND. Hải quân của QGPND đặt tên mới cho nó là Liêu Ninh theo tỉnh Liêu Ninh ở đông bắc Trung quốc. Đại tá Patke vừa gật gù, vừa nhìn hình ảnh kỹ thuật số thật rõ nét nên màn ảnh. Đây là hình ảnh chiếc Liêu Ninh được thu gần và rõ nhất từ khi nó bắt đầu hoạt động quân sự. Bọn người ở các cơ quan tình báo sẽ sướng rơn khi vớ được những đoạn phim này. Họ sẽ săm soi từng đoạn băng, từ đủ mọi khía cạnh: nào là ăng-ten bố trí ở đâu, vũ khí được lắp như thế nào và cả đến vị trí dây điện và ống nước trên sàn tàu nữa; họ sẽ tìm tòi mọi dấu vết cho thấy các khả năng hay thiếu hụt của chiếc tàu này. Mọi thông số của bản thiết kế nguyên thủy của người Nga thì đã được biết rõ rồi. Nhưng mà người Trung quốc đã cải biến rất nhiều và không ai hiểu rõ những sự sửa đổi ấy sẽ ảnh hưởng sức chiến đấu của con tàu ra sao. Cũng vì vậy mà Patke cũng bận bịu gần như các máy thu hình kia vậy; hắn ghi nhớ và đánh giá từng chi tiết mà hắn có thể thấy. Họ đang nhìn thẳng vào mạn trái của chiếc tàu sân bay, hơn chếch phía sau khoảng 20 độ. Từ góc nhìn này, Patke nhận ra cái dáng như cái hộp của dàn phóng tên lửa FL-3000N (người dịch: tên lửa hải-không tầm ngắn 500 m – 6 km; tùy kích cỡ của chiến hạm, có thể trang bị hộp chứa 8 hay 24 tên lửa; một khi được cho phép tự vận hành, hệ thống có thể tự động phát hiện mục tiêu và phóng tên lửa, thí dụ như chống phi đạn) và cái dáng hơi giống một con người máy của một khẩu CIWS Type 730 (súng 30 mm 7 nòng vận hành theo kiểu Gatling, có công năng tương tự như Phalanx của Mỹ, xem phần chú thích). Theo cách bố trí của cả hai hệ thống này, có thể biết rằng bên mạn bên kia cũng được trang bị tương tự. Patke nghiên cần điều khiển về phía trước để phóng đại hình ảnh hơn nữa và bắt đầu chậm rãi đảo qua suốt chiều dài của chiếc chiến hạm Trung quốc. “Được rồi, đám tạp chủng này,” hắn nói. “Để xem xem chúng mày có những món đồ chơi nào đây.” -=-=-=-=-=- Chú Thích: (24) Tàu ngầm tấn công lớp Virginia: tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Hải quân Hoa Kỳ, được coi như tàu ngầm tiên tiến nhất thế giới. Thủy thủ đoàn gồm 120 thủy thủ và 14 sĩ quan. Tàu được trang bị 12 ống phóng phi đạn và 4 ống ngư lôi. Phi đạn gồm Tomahawk và Harpoon (xem chú thích riêng). Từ năm 1991, khi chiếc đầu tiên ra đời, cấp Virginia đã trải qua nhiều đợt nâng cấp. (25) Sonar: ban đầu là chữ tắt của cụm từ SOund Navigation And Ranging, ngày nay đã thành một chữ độc lập. Đây là kỹ thuật dùng sóng âm lan truyền trong nước để lái, liên lạc hay dò tìm các vật thể trên mặt nước hay dưới mặt nước. Có 2 loại sonar: tiêu cực và tích cực. Sonar tích cực là chính hệ thống sonar phát ra âm thanh theo một tầng số nhất định. Khi âm thanh chạm vào mục tiêu và dội ngược về, hệ thống sonar dùng sự sai lệch thời gian lúc phát đi và nhận về để xác định tầm xa; ngoài ra, hệ thống có nhiều cảm biến ở những nơi khác nhau giúp cho hệ thống xác định phương hướng của mục tiêu. Hệ thống tiêu cực không phát ra âm thanh mà chỉ lắng nghe âm thanh do mục tiêu phát ra, để xác định phương hướng và tầm xa. So sánh giữa 2 loại sonar, loại tích cực chính xác hơn nhiều, nhưng cũng bị phát hiện dễ dàng.
Chương 17
------ Người gởi: robert.monkman@navy.mil Thời gian: Thứ Ba, ngày 25 tháng 11, 16:31 Người nhận: b.haster@ucsd.edu Chủ Đề: Nhớ Em Quá Em Beth yêu dấu, Lại một ngày vui vẻ trên chiếc USS Midway đồ sộ. Ít ra anh nghĩ đây chính là chiếc Midway. Anh đã quẹo sai vào không biết bao nhiêu hành lang đến nỗi không chừng bây giờ anh đã bước qua một chiếc tàu nào khác rồi. Đã sáu tuần rồi, vậy mà anh vẫn chưa tìm ra đường trên con quái vật này. Anh phải rải mẫu vụn bánh mì mỗi lần rời phòng ngủ của anh, bằng không anh sẽ không bao giờ tìm được cái giường của mình nữa. Trừ cái nguy cơ bị đi lạc khi phải đến phòng họp ra, mọi thứ đều ổn cả. Tụi đồng bạn trong phi đoàn thật là khá lắm. Anh phải chịu đầy đủ mọi chế nhạo vì là một tên lính mới, nhưng có phải anh sẽ là đứa mới mãi đâu. Thật ra thì những gì xảy ra ở dưới đây có quan trọng gì đâu. Cái quan trọng là những gì xảy ra trên trời kìa, mà ở trên đó, không ai đụng vào anh được. Em còn nhớ thằng Chucky Barnes đã trình diện với phi đoàn cùng lúc với anh không? Nó đã bị lãnh một danh hiệu truyền tin mới rồi, mà nó không hài lòng chút nào với cái tên này. Trước đây, tên nó là Barnstormer (*), nghe cũng không tệ. Nhưng mà cách đây hai ngày, nó ói tùm lum nơi hành lang dành cho sĩ quan cấp Tá. Bây giờ mọi người trong phi đoàn đều kêu nó là Upchuck (nôn ọe) và chắc nó dính cái tên này luôn rồi, ha ha. (* Người dịch: barnstorming là một cách phi công biểu diễn nhào lộn với độ khó cao để kiếm tiền trong những cuộc lưu diễn khắp nước Mỹ vào thời những năm 1920, đặc biệt ở vùng thôn quê; ngày nay, có nhiều người vẫn tiếp tục loại biểu diễn này với những chiếc máy bay cánh đôi như xưa; barnstormer là người bay biểu diễn) Phi đội trưởng của anh là gã Poker nổi tiếng, đang hăm dọa đổi danh hiệu của anh thành Monkey Man (người khỉ); có lẽ đây là tất cả những gì cái óc tưởng tượng kém cỏi của hắn có thể suy ra từ cái họ Monkman của anh. Gã này già lắm rồi, nên chỉ tưởng tượng được như vậy cũng không phải là lạ. Dù sao, hiện giờ anh vẫn còn là Rob the ‘Monk’ (nhà sư) Monkman, mà như vậy là anh hài lòng rồi. Chính là anh đây, em à, nhà sư chùa Thiếu Lâm trên trời cao, đá đít mọi người với Công Phu bay của anh. OK, đùa với em một chút thôi. Cho đến nay, Công Phu bay của anh chỉ là những pha dùng thiết bị mô hình hóa và tập dợt giao chiến với các tay lái Hải quân Mỹ khác mà thôi. Lúc huấn luyện thì anh làm khá lắm, nhưng anh chưa đối diện với một kẻ địch thật sự nào cả. Nếu ngày nào anh gặp phải đụng độ thật, anh hi vọng bọn họ đừng đổi danh hiệu của anh thành ‘Monkey Butt’ (đít khỉ) hay gì đó, là anh mừng rồi. Nói đến đụng độ thật, bọn anh sẽ tiến vào khu vực hành quân vừa đúng dịp lễ Thanksgiving (**). Bọn anh đúng ra chỉ có công tác quan sát - bảo vệ - ổn định thôi, nhưng anh vẫn cảm thấy hơi lo. Hải quân Trung quốc và Ấn Độ đã đụng độ nhiều lần rồi và cả hai bên đều đang căng thẳng. Anh chỉ hi vọng bọn họ nhớ rõ bọn anh không phải là kẻ địch thôi. Anh thật không mong muốn lãnh đạn trong lúc mình chỉ muốn bửa ăn thịt gà tây ngon lành mà thôi. (** Người dịch: Thanksgiving là lễ lớn của Hoa Kỳ rơi vào ngày thứ năm cuối cùng tháng 11; theo truyền thống, ngày này người ta ăn thịt gà tây để tưởng niệm khi người Âu châu mới khám phá châu Mỹ được người da đỏ chiêu đãi; do đó, ngày này còn thường được gọi đùa là ngày Gà Tây (Turkey Day).) Chỉ đùa thôi, em ạ. Anh tin chắc rằng mọi chuyện sẽ ổn cả. Bọn anh có cả một biên đội tàu sân bay (26) hoàn chỉnh, có đầy đủ cả. Bọn anh không phải đến đây để chiến đấu và không ai ngu xuẩn đến độ gây rắc rối gì cho bọn anh đâu. Anh thật mong ước được ở nhà ngày mai, để phụ em chuẩn bị con gà tây bỏ vào lò nướng. Có lẽ mình phải nấu ăn riêng một lần mới được. Chứ chúng ta không thể nào cứ đến nhà Mẹ em ăn Thanksgiving mãi được. Mà không chừng làm như vậy mãi cũng được… Bà ấy làm bánh khoai lang nướng ngon nhất mà anh từng ăn qua, còn món đậu hầm thì thật tuyệt vời. Nói đến tuyệt vời, anh lại đang nghĩ là cô con gái duy nhất của Mẹ em cũng thật là tuyệt vời. Chính là em đó, em yêu ạ. Anh đang tự hỏi không biết Mẹ em có biết là em thường chỉ mặc quần lót và cái áo thun cũ của anh khi làm bếp? Có lẽ anh phải để dành mẫu tin này để tống tiền em rồi… Ừm… OK, đáng lý anh không nên nói đến mấy cái chuyện này. Bây giờ thì anh chỉ còn nghĩ được đến cái mông tròn trịa của em trong chiếc quần lót đi qua đi lại trong bếp thôi. Chắc anh phải đi tắm nước lạnh rồi. Anh yêu em, Beth. Mỗi giây trôi qua, anh lại càng nhớ em hơn. Chồng em, Rob Thiếu Úy Robert J. Monkman VFA-228 Marauders USS Midway (CVN-82) ----- -=-=-=-=-=- Chú Thích: (26) Biên đội tàu sân bay, tiếng Anh là ‘carrier strike group’ là một đội hình hành quân của Hải quân Hoa Kỳ. Hải quân Hoa Kỳ có tổng cộng 12 biên đội loại này. Mỗi biên đội gồm khoảng 7.500 người, một chiếc tàu sân bay (hàng không mẫu hạm), ít nhất một chiếc tuần dương hạm, một đội khu trục hạm gồm ít nhất 2 chiếc khu trục hạm và khu trục hạm nhỏ thuộc loại frigate, một phi đoàn có 65 – 70 máy bay. Ngoài ra, biên đội còn có một số tàu tiếp liệu và vận chuyển, và tùy theo hoàn cảnh có cả tàu ngầm.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.09.2016 08:51:44 bởi Quang11 >
Chương 18
Khu kiến trúc thuộc bộ Quốc Phòng Tòa nhà ‘Ngày Một Tháng Tám’ Bắc Kinh, Trung quốc Thứ Ba, 25 tháng 11, 21:48, giờ địa phương Thượng tướng Chen Caihou lên tiếng phá vỡ im lặng. “Các đồng chí, tình hình với Ấn Độ đang vượt ra ngoài sự kiểm soát đó! Chúng ta phải hành động lập tức, trước khi quá muộn.” Từ ngữ của hắn nghiêm trọng, nhưng giọng nói thì cẩn thận đều đều, để tránh lộ ra bất cứ dấu vết chỉ trích hay buộc tội nào. Hắn đảo mắt nhìn từng người trong nhóm tám người khác đang ngồi quanh cái bàn tròn. Kể cả hắn, tất cả chín thành viên của Ủy Ban Quân Sự Trung Ương đều có mặt. Hắn thoáng dừng một chút khi mắt đặt đến Lu Shi trước khi tiếp tục đảo đến người kế tới. Cái bàn hình tròn, để tượng trưng cho sự bình đẳng giữa mọi thành viên của ủy ban. Ở đây, không có chỗ ngồi vinh dự nào cả. Chỉ có những đảng viên cộng sản tận tụy gặp nhau một cách bình đẳng để bàn thảo và quyết định những vấn đề quân sự chiến lược mà thôi. Ít nhất, lý thuyết là như thế. Trên thực tế, trong căn phòng này, quyền lực phần lớn tập trung vào Lu Shi. Quyền lực của lão ở chức vụ Chủ Tịch của Ủy Ban Quân Sự Trung Ương trên nguyên tắc chỉ hữu danh vô thực, nhưng lão đồng thời lại là Phó Chủ Tịch nhà nước của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH). Mặc dù lão Xiao vẫn còn mang cái chức Chủ Tịch nhà nước, nhưng lão lãnh tụ già nua này từ lâu đã ủy nhiệm mọi quyền quyết định quan trọng cho Lu Shi. Do đó, qua mặt Lu Shi là một hành vi nguy hiểm. Ngoài ra, điều này cũng khiến đại tướng Chen Caihou và các thành viên khác trong Ủy Ban Quân Sự Trung Ương bị đặt vào một hoàn cảnh tế nhị. Nếu những trận chạm trán nhỏ với Ấn Độ tiếp tục leo thang, nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa có thể bị rơi vào một cuộc chiến toàn diện với một địch thủ quân sự nguy hiểm. Tướng Chen không hoài nghi gì là Trung quốc sẽ là kẻ chiến thắng trong một cuộc chiến như thế, tuy nhiên cái giá phải trả có lẽ sẽ rất lớn, về cả tài sản lẫn nhân mạng. Cuộc chiến phải được kết thúc trước khi mọi chuyện thoái hóa đến mức như thế. Tướng Chen lại đảo mắt quanh bàn, những lời của hắn vẫn không được trả lời. Hắn đã bàn trước vấn đề này với vài thành viên của ủy ban rồi và đã nhận được sự đồng ý và hứa hẹn chống lưng cho hắn: hắn sẽ nêu thẳng vấn đề một cách cung kính và các đồng minh ngầm sẽ lên tiếng hỗ trợ. Nhưng hắn đã lên tiếng mà căn phòng lại im lặng. Lu Shi cũng đảo mắt quanh bàn. “Đồng chí đại tướng à, có người bỏ rơi đồng chí rồi.” Lão nói nhẹ. Lão dừng mắt lại vào tướng Chen. “Là ai vậy?” Lu Shi hỏi. Lão nhướng một bên lông mày. “Là ai trong số đồng chí của chúng ta sẽ hỗ trợ cho đồng chí?” Tướng Chen ngồi yên vài giây, rồi quay sang vị Phó Chủ Tịch nhà nước. “Đồng chí Lu, chúng tôi chia sẻ nỗi đau buồn của đồng chí về việc Lu Jianguo mất. Anh ta là một thanh niên tốt và một đảng viên cộng sản chân chính. Cái chết của anh ấy thật là một tấm thảm kịch. Nhưng điều đó có đủ để gây nên chiến tranh hay không?” “Cái này hoàn toàn không phải là vì con trai tôi.” Lu Shi nói. Giọng lão trầm thấp và khắc nghiệt. “Đây là vì nền an ninh và chủ quyền của quốc gia. Những kẻ nào chứa chấp địch nhân của Trung quốc cũng là địch nhân của Trung quốc.” Đại tướng Guo Jinping, Tổng Tham Mưu của QGPND, hắng giọng. “Xin lỗi đồng chí Lu… Để xảy ra một cuộc đụng độ quân sự lớn chỉ vì trừng trị một nhóm chuột nhắt đã tiêu hủy một chuyến xe lửa có phải là việc làm khôn ngoan hay không?” Lu buồn bã mỉm cười. “Chỉ cần một đốm lửa đã đủ thiêu cả cánh đồng rồi.” Đây là nhắc nhở những vị lãnh tụ kia rằng chớ bao giờ coi thường một vấn đề nhỏ nhặt nào cả. “Đường ray Thanh Hải là một trong những thành tựu công nghệ lớn nhất trong lịch sử.” Lu nói tiếp. “Có nhiều đoạn đường nằm ở cao độ hơn 5.000 mét. Nhiều chiếc máy bay còn không bay cao đến thế. Khi chúng ta mời người Thụy Sĩ qua để khai triển các phương pháp đặt đường ray trên lớp đất bị đóng băng vĩnh cữu, các kỹ sư Thụy Sĩ đều cho là không khả thi. Báo chí phương Tây gọi nó là một dự án vứt đi, trị giá 5 tỷ đô-la. Họ đều bảo rằng dự án không thể thực hiện. Nhưng chúng ta đã làm được. Thế rồi, họ lại đều tiên đoán là nó sẽ hỏng trong vòng một năm. Nhưng đường ray Thanh Hải chở 3.000 người dân vào khu tự trị Tây Tạng mỗi ngày.” Lão Lu nhìn chầm chập vào tướng Guo Jinping. “Đồng chí đại tướng, chúng ta có thể thay thế toa xe và đầu máy khác. Chúng ta đã mất gần 200 binh sĩ trong vụ tấn công ấy, nhưng QGPND có thể tuyển mộ bấy nhiêu người chỉ trong một buổi chiều. Ngoài ra, kể cả người chết và bị thương, có hơn 1.000 thường dân bị thương vong, nhưng Trung quốc cũng vẫn chịu nổi. Chúng ta có thể ứng phó được các thiệt hại về thiết bị, nhân mạng và tài chính. Nhưng chúng ta không thể cho phép một cuộc tấn công thẳng vào uy tín quốc gia được… Cái quyết tâm của cả nước ta và tư tưởng chính trị của chúng ta đã bị trực tiếp khiêu khích. Nếu chúng ta để mặc một sự thách thức như thế mà không đáp trả, Trung quốc sẽ trở nên yếu ớt trong mắt của kẻ thù và của cả thế giới nữa.” Đại tướng Xu Zhiyuan, Tư Lệnh Không quân QGPND cung kính gật đầu, nói. “Tôi tin rằng mọi người chúng ta đều đồng ý là có nhiều quan hệ chính trị đáng kể. Nhưng có nên để cho các vấn đề chính trị dứt khoát biến thành chiến tranh không?” Lu quay sang viên tướng này, nói. “Tôi lấy làm lạ là đồng chí có thể hỏi một câu như thế. Đồng chí đã quên lời dạy của Mao Chủ Tịch rồi sao? Chính trị là chiến tranh không đổ máu, mà chiến tranh chính là chính trị có đổ máu.” Tướng Xu lại gật đầu. “Mao Chủ Tịch cũng đã dạy rằng ‘Cộng sản là chiếc búa ta dùng để đập bẹp kẻ thù’. Nhưng ngài ấy nói câu ấy vào thời điểm mà Trung quốc đang chiến đấu vì sinh tồn của mình. Thật sự cái đó còn là tình trạng hiện nay hay sao, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch? Sau mấy chục năm bang giao hòa hảo, lẽ nào nước láng giềng Ấn Độ chợt biến thành một mối đe dọa cho sự sinh tồn của nước ta? Nói thẳng ra, nếu không phải chúng ta đã phóng 100 quả phi đạn hành trình để đập tan một ngôi làng Ấn Độ thành tro bụi, thì chúng ta có đụng độ với họ đâu?” Trước khi Lu Shi kịp trả lời, tướng Chen đã giơ tay lên. “Làm thế nào mà chúng ta đi đến tình huống này đã không quan hệ nữa rồi. Không cần biết vì nguyên nhân hay ý định gì, thì chúng ta cũng đã tập kích ngôi làng của họ rồi và họ đã trả đũa. Cho đến nay, các cuộc đụng độ chỉ tương đối riêng lẻ. Nhưng mọi thứ đang thay đổi nhanh chóng. Chúng ta đã lọt vào một quỹ đạo trả đũa càng lúc càng leo thang. Vấn đề là: chúng ta phải làm thế nào để phá vỡ quỹ đạo này trước khi nó hoàn toàn vượt ra khỏi tầm kiểm soát?” “Tôi đồng ý.” Tướng Guo nói. “Nếu chúng ta không cẩn thận, chuyện này có thể biến thành thứ mà Việt Nam đã biến thành đối với người Mỹ. Hay thứ mà Afghanistan đã trở thành đối với Liên Bang Sô Viết. Một vũng lầy đầy máu mà không có viễn cảnh làm thế nào để kết thúc một cách đẹp đẽ được.” “Đây đã là phiên bản Việt Nam của chúng ta rồi!” Lu Shi gắt lên. “Các đồng chí không ai thấy được sao? Nghĩ lại mà xem… Việt Nam không phải là thất bại trên mặt kỹ thuật đối với người Mỹ. Mà cũng không phải là thất bại trên mặt chiến thuật nữa. Quân đội Mỹ khi ấy được trang bị tốt, huấn luyện tốt, có hậu cần tốt và ủng hộ tốt. So ra, địch thủ của họ chỉ là một đám khỉ mù chữ chỉ biết lặn lội trong ruộng và đánh đu trong rừng rậm mà thôi. Như vậy, tại sao người Mỹ lại bại trận?” “Thì lý tưởng cộng sản.” Tướng Guo ngập ngừng. “Quân Bắc Việt được thấm nhuần tư tưởng vĩ đại của Marx và Mao Chủ Tịch…” Lu Shi vỗ mạnh tay lên mặt bàn. “Mù quáng!” Giọng lão vẫn gay gắt. “Lý tưởng cộng sản không có dính dáng gì vào đó hết. Nếu chỉ là vấn đề lý tưởng, người Sô Viết đã dùng triết lý cộng sản để chiến thắng ở Afghanistan rồi. Ngược lại, quân đội Nga Sô hùng mạnh bị thảm bại bởi một lũ chăn cừu dơ bẩn sống trong hang động. Do đó tôi hỏi các đồng chí lần nữa… Tại sao người Mỹ thua trận bên Việt Nam? Tại sao Liên Sô bại trận ở Afghanistan? Làm thế nào mà hai đại cường quốc có quân lực hùng hậu lại bị kẻ địch yếu hơn đánh chạy? Khi các đồng chí biết được câu trả lời thì các đồng chí sẽ hiểu chúng ta đang đặt cược những gì trong cuộc chiến hiện tại.” Căn phòng rơi vào yên lặng. Lu Shi nhìn hết người này qua người kia. “Không ai trả lời được sao? Các bộ não của cả nước ta đang ngồi quanh bàn này mà không một người có thể trả lời một câu hỏi đơn giản như vậy sao?” Vẫn không ai nói gì. “Được lắm.” Lu Shi nói. “Tôi sẽ trả lời câu hỏi cho các đồng chí… Liên Bang Sô Viết thua ở Afghanistan cũng vì cùng lý do nước Mỹ thua ở Việt Nam. Đó là vì ý chí cả nước của họ yếu.” “Xin lỗi đồng chí Lu, cái này có lẽ là hơi đơn giản hóa vấn đề rồi.” Tướng Chen nói. “Đó không phải là đơn giản hóa.” Lu nói. “Đó chỉ là nói gọn lên sự thật mà thôi. Mà chỉ cần quan sát các sự kiện tỉ mỉ một chút là chứng minh nó ngay thôi.” Lão chỉ một ngón tay vào tướng Guo. “Đồng chí đại tướng, trong các hành động quân sự chống Mỹ, quân đội Bắc Việt đã mất bao nhiêu mạng người?” “Khoảng một triệu hay sao đó.” Viên tướng đáp. “Khoảng gần 1,1 triệu thì đúng hơn.” Lu nói. “Và bao nhiêu thường dân Bắc Việt thiệt mạng?” “Tôi không rõ lắm, thưa đồng chí Phó Chủ Tịch.” Tướng Guo nói. “Tôi từng thấy qua những con số thấp là 50.000, mà cao là đến 300.000.” “Cũng được.” Lu nói. “Các con số khác nhau tùy theo nguồn tài liệu. Nhưng chúng ta hãy dùng một con số thấp đi, khoảng 100,000 người chết. Cộng chung, tổng số người Bắc Việt bị chết là khoảng 1,2 triệu.” Lu lại liếc quanh bàn. “Các đồng chí, ai có thể cho tôi biết bao nhiêu quân nhân Mỹ chết ở Việt Nam không?” Tướng Chen nói. “Tôi nghĩ là có khoảng 58.000 người Mỹ chết.” “Gần đúng như vậy.” Lu nói. Lão nâng hai bàn tay lên, lòng bàn tay ngửa lên, đong đưa hai tay lên xuống như hai đòn cân. “Bắc Việt mất 1.2 triệu mạng và phần lớn cơ sở hạ tầng bị bom tan nát. Ngược lại, người Mỹ chết chưa tới 60 ngàn binh sĩ, mà cơ sở hạ tầng của Mỹ hoàn toàn không hư hao gì.” Lão hạ tay xuống. “Khi ấy, nước Mỹ đang thắng trên trận địa. Họ đang thắng trên mặt kinh tế. Khả năng chiến đấu của họ không tý xuy xuyển nào. Vậy, tôi hỏi các đồng chí… Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại thua trận Việt Nam?” Lần nữa, không ai trả lời. “Vũ khí của họ không hư hỏng gì.” Lu Shi nói. “Binh sĩ họ không thất bại. Kinh tế của họ không có nguy cơ sụp đổ. Chỉ có một thứ không ổn thôi, nhưng nó cũng đủ cho quân đội bất bại của Mỹ phải quay về nước như chó nhà có tang. Ý chí quốc gia của họ không ổn. Họ đã mất ý muốn chiến thắng. Và vì vậy, họ để mặc cho một đối thủ yếu hơn đánh bại họ.” Mắt lão Lu sáng rực lên. “Đó là lý do của cuộc chiến hiện tại của chúng ta. Không phải vì xe lửa. Không phải vì 200 binh sĩ QGPND đã bỏ mạng. Không phải vì một ngôi làng đầy chuột bên Ấn Độ. Mà cũng không phải vì con trai tôi. Mà là vì sức mạnh của ý chí quốc gia của chúng ta. Mà là vì không chịu cúi đầu trước một địch thủ yếu hơn.” “Tôi… Ơ…” Tướng Guo nhìn mặt những người ngồi quanh bàn và nuốt nước miếng. “Chúng ta sẽ đi bao xa trong vụ này?” “Nếu cần đi xa bao nhiêu, thì đi xa bấy nhiêu.” Lu Shi nói. “Cho đến khi chính phủ Ấn Độ thối lui.” “Nhưng mà, lỡ họ không thối lui thì sao?” Tướng Guo hỏi. “Họ sẽ.” Lu Shi nói. “Nhưng nếu họ không lui thì sao?” Guo lặp lại. “Họ là một địch thủ yếu hơn.” Lu Shi nói. “Nếu chúng ta cược cao đủ, họ sẽ không còn chọn lựa nào khác hơn là thối lui. Và nếu họ không lui… Các bạn hàng xóm Ấn Độ của chúng ta sẽ khám phá ra là có một độ cao nào đó mà họ cược không nổi.”
Chương 19
Phi trường Lhasa Gonggar Khu vực Shannan, Tây Tạng Thứ Tư, 26 tháng 11, 08:50, giờ địa phương Bánh của chiếc Airbus A320 của hãng China Eastern rời khỏi đường băng của phi trường Lhasa Gonggar đúng giờ và mục sư Bill McDonald hít vào hơi thở thông thoáng đầu tiên từ ba ngày nay. Từ hôm xảy ra vụ thảm sát ở quảng trường Barkhor, hắn chưa từng chợp mắt quá 15-20 phút mỗi lần. Bây giờ, cuối cùng máy bay cũng đã cất cánh và đang rời khỏi lãnh thổ Trung quốc và hắn có thể buông lỏng rồi. Chiếc điện thoại di động đang nằm an toàn trong túi của hắn và tấm thẻ nhớ có đoạn hình kia vẫn còn nguyên vẹn. Chỉ ba tiếng rưỡi nữa, hắn sẽ đáp xuống Kathmandu, rồi sau khi phải chờ đợi 4 tiếng, hắn sẽ lên một chuyến bay của hãng Cathay Pacific để đến phi trường San Francisco International sau khi ghé qua Hồng Kong. Hắn sẽ về đến nhà trễ tối mai, vừa kịp để ăn một bữa cơm Thanksgiving trễ nãi, nhưng hắn vẫn chưa quyết định được sẽ làm gì với đoạn phim đã thâu. Hắn phải giao nó đến đúng người cần đưa, đó là điều hiễn nhiên. Chỉ tiếc là hắn cũng không rõ ai mới là người cần được giao. Hắn đã nghĩ đến việc đi thẳng với hãng CNN hay là một trong những hãng báo chí mà cả nước đều biết đến, nhưng hắn không quen biết ai trong giới báo chí cả. Các tổ chức báo chí có lẽ mỗi ngày đều nhận được cả ngàn cú điện phá phách. Nếu hắn bất ngờ gọi đến văn phòng của bất cứ một tờ báo hay hãng thông tin nào, có lẽ họ sẽ liệt hắn ngay vào trong số những kẻ bài ngoại hoặc thích tán gẫu những câu chuyện âm mưu. Hắn sẽ không có một cơ hội nào để trình đoạn phim cho bất cứ ai có khả năng và quyền hạn công khai phổ biến nó trên tầm mức toàn quốc được. Như vậy là không thể nào đi thẳng đến các hãng thông tin lớn được rồi, trừ phi hắn có thể tìm cách cho một nhân vật cao cấp nghiêm túc chú ý đến câu chuyện của hắn. Hắn cũng đã nghĩ bỏ qua người trung gian và tự mình đưa đoạn phim lên mạng internet. Hắn có thể đưa nó lên một trang web chuyên dùng cho video, rồi đợi nó bốc lửa và lan nhanh như các clip trong vụ phản đối Occupy Wall Street năm 2011. Nhưng trên mạng có hằng trăm ngàn clip, không chừng hằng tỷ clip, mà chỉ có một số rất nhỏ làm người ta chú ý mà thôi. Bill không có fan trên mạng, mà muốn có đủ số fan phải mất nhiều năm. Hắn có thể đưa đoạn phim vào hằng trăm trang mạng, nhưng nếu không ai xem thì cũng chẳng có ích lợi gì. Có thể hắn sẽ may mắn và đoạn phim sẽ được lưu truyền trên mạng như lửa cháy đồng cỏ khô cho đến khi mọi người đều bàn luận về nó và các chính trị gia đều tranh cãi về nó trên các đài truyền hình. Hay cũng có thể là nó sẽ tan biến trong đại dương bao la của internet mà không để lại một gợn sóng nào. Thật mỉa mai thay. Hắn đã bay sang Tây Tạng để tìm kiếm một sự thật nào đó, nhưng số mệnh đã tuyển chọn hắn làm một nhân chứng cho một loại sự thật khác hẳn với mong muốn. Một sự thật có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của nhiều người hay vận mệnh của nhiều quốc gia. Hắn đang mang theo sự thật trong túi áo, nhưng hắn lại không biết phải làm gì với nó cả. -***-
Hắn vẫn còn đang giằng co với vấn đề này thì máy bay đã hạ cạnh xuống phi trường quốc tế Tribhuvan ở Kathmandu. Hắn vẫn chưa giải quyết được vấn đề bốn tiếng sau đó, khi chiếc máy bay hãng Cathay Pacific chở theo hắn cất cánh lên đường đến Hồng Kong. Đến lúc này, hắn đã mệt như chỉ còn là một cái xác biết đi. Hắn ngã ghế ra sau, nhắm mắt lại cố gắng ngủ, nhưng óc hắn vẫn cứ tỉnh táo. Tâm trí hắn nhất định không buông tha vấn đề ấy, cứ đảo nó qua lại mãi. Hắn cố rơi vào trạng thái thiền định để buông thả mọi lo âu và thả hồn vào thức hải. Hắn điều hòa hơi thở và buông lỏng từng cơ bắp một. Hắn đã yên bình… Tâm hồn bình hòa… Hắn… chợt tỉnh. Mắt hắn mở bừng ra. Chẳng ích lợi gì cả. Không cách nào ngủ được. Hắn thò tay vào ngăn chứa sách báo ở cái lưng ghế trước và lấy ra một tờ báo của hãng máy bay. Hắn lật nhanh qua các trang giấy, mà chỉ nhìn thoáng qua hình ảnh, hoàn toàn không lưu ý đến các bài viết. Mắt hắn đã quá mỏi để muốn đọc. Hắn chỉ muốn chia trí một lúc để đỡ phải suy nghĩ thôi. Khi lật đến trang cuối, hắn lại bắt đầu lại từ đầu, các trang giấy trơn bóng chỉ còn là những hình ảnh vụn vặt và những bảng quảng cáo. Khi đã lật đến lần thứ tư, một hình ảnh chợt đập vào mắt hắn. Đó là một số tranh vẽ của một họa sĩ trẻ người Nam Dương, được triển lãm tại một phòng trưng bày sang trọng nào đó ở New York. Ngay giữa trang giấy, có một bức tranh bộ ba: ba bức tranh vẽ cùng một cảnh, mỗi bức từ một góc độ hơi khác nhau. Giữa mỗi bức tranh là chân dung của một người đàn ông già có đường nét người Á châu rõ rệt, được vẽ từ bên trái, thẳng mặt và bên phải. Cả ba bức đều có một vòng kẽm gai rỉ sét chờn vờn trước mặt người đàn ông. McDonald chăm chú nhìn ba bức vẽ, tập trung vào mặt người chứ không để ý vòng kẽm gai. Nó làm hắn nhớ đến một cái gì đó, một tờ yết thị, một bảng quảng cáo, hay một thứ gì hắn đã từng thấy trên truyền hình. Hắn nhắm đôi mắt đau rát và cố nhớ lại. Ba vòng kẽm gai… Rồi hắn chợt nhớ ra, một tấm áp-phích đã nhiều năm rồi hắn chưa từng thấy lại. Trong suốt nhiều tuần trước Thế Vận Hội 2008 ở Trung quốc, bức áp-phích này được bày khắp nơi. Năm vòng kẽm gai trên một hàng rào sắt, in bóng trên nền trời vàng ảm đạm. Ba vòng nằm trên và hai vòng bên dưới, rõ ràng bắt chước theo đồ án năm vòng tròn trứ danh của hội Thế Vận Quốc Tế. Bên trong vòng tròn bên phải, có dòng chữ ‘Bắc Kinh 2008’. Trên hàng rào sắt, có treo tòn teng một danh sách dài liệt kê các vi phạm nhân quyền đang xảy ra ở Trung quốc khi mà dân chúng hay tổ chức xã hội đối lập với chính phủ bị bắt bớ và giam cầm để họ khỏi lộ mặt ra trong Thế Vận Hội. Tâm trí mệt mỏi của McDonald không hiểu vì sao lại nhớ ra tờ áp-phích này thật rõ ràng. Hắn còn thấy rõ phía dưới có dấu hiệu: hội Ân Xá Quốc Tế. Chính là nó rồi! Khi những chữ này hiện lên trong óc, hắn biết ngay là đã tìm ra được giải đáp cho vấn đề. Có lẽ chính hắn không thể nào làm cho các hãng thông tin lớn chú ý đến, nhưng một tổ chức nhân quyền quốc tế sẽ làm được. Nếu họ đưa đoạn phim cho các hãng lớn, các hãng này sẽ lắng nghe. CNN và các hãng lớn khác sẽ không dám bỏ qua một tin lớn như thế, nếu nó được hội Ân Xá Quốc Tế đưa ra. Họ sẽ không dám để vuột mất một câu chuyện có thể biến thành chuyện vị phạm nhân quyền lớn nhất từ khi vụ Thiên An Môn như thế. Hội Ân Xá Quốc Tế, một đáp án đơn giản như thế! Tại sao hắn lại không nghĩ ra từ sớm chứ? Đoạn phim trong túi hắn đã từ một vấn đề nan giải biến thành những công đoạn dễ dàng thực hiện. Chỉ cần vài cú điện là có thể hẹn gặp được một người sẽ nghe hắn nói, một người mà công việc hàng ngày là tìm kiếm những vật chứng như thứ McDonald đang mang theo trên người và đem công bố nó cho cả thế giới biết. Có lẽ hắn chỉ cần vào trang mạng của hội Ân Xá Quốc Tế là tìm ngay được số điện thoại. Sau đó, hắn sẽ… Chưa kịp nghĩ đến bước kế tiếp, mục sư William H. McDonald đã ngủ say trên ghế số 31B, tại một điểm nào đó bên trên biển Đông.
Chương 20
Bắc Kinh, Trung quốc Phủ Chủ Tịch Nhà Nước Thứ Tư, 26 tháng 11, 13:35, giờ địa phương Như thường khi, hai gã cận vệ của Lu Shi bị ngăn lại ngoài cửa và lão phải đi vào một mình. Lu Shi không thích bị buộc phải lưu lại hai tên cận vệ. Không phải là lão cảm thấy không an toàn tại nơi đây, vì phủ Chủ Tịch là một trong những kiến trúc an toàn nhất Trung quốc. Nhưng mà Lu Shi chỉ khó chịu về phương diện khí thế mà thôi. Trải qua suốt một cuộc đời đấu tranh cẩn thận và tỉ mỉ, đột nhiên lão cảm thấy khó lòng chịu được những gì hơi có vẻ là một trở ngại. Hai tên cận vệ bị chặn lại ngoài cửa làm lão chợt nhớ lại là cũng còn có vài địa điểm và hoàn cảnh mà ý muốn của lão không là trên hết. Lão phải tự đề tỉnh rằng trên giấy tờ, lão vẫn còn là nhân vật thứ hai trong chính phủ Trung quốc mà thôi. Tuy rằng việc mà trên thực tế lão nắm quyền điều hành cả nước chỉ là một bí mật mà mọi người đều rõ, nhưng quyền hành chính thức vẫn thuộc về lão Xiao Qishan, chủ tịch nhà nước, ít nhất trên giấy tờ là thế. Thường thì Lu Shi cố gắng không nghĩ rằng lão Xiao là một bù nhìn. Lão Xiao là một người rất giỏi lúc ở thời của lão và lão đã phục vụ cho đảng rất tốt. Cái từ ‘bù nhìn’ cũng không phải không chính xác. Ảnh hưởng chính trị của lão nhân này đã tàn lụi gần như không còn gì. Lực lượng của lão đã gần như mất hết rồi. Lão không còn bằng hữu để nhờ vả nữa. Lão Xiao còn giữ chức vị của lão là vì Lu Shi cho phép. Nếu Lu Shi không ủng hộ lão nữa, Xiao Qishan sẽ không còn ngồi trên chiếc ghế chủ tịch nhà nước chưa đầy một tháng sau đó. Hơn nữa, lão nhân này cũng biết điều đó. Mặc dù cả hai không ai trực tiếp nói ra, hai người đều ngầm hiểu. Lão Xiao đọc các bài diễn văn và chủ trì các cuộc họp báo, còn lão Lu thì toàn quyền quyết định các chính sách lớn để quốc gia tiếp tục tiến lên. Chính vì vậy mà cuộc họp hôm nay thêm phần bực mình. Xiao Qishan đã cho triệu vời lão, cứ như Lu Shi là một viên chức cấp thấp vậy. Lu Shi không hài lòng. Không hài lòng chút nào. Lão đã định phớt lờ lệnh triệu. Như thế, lão có thể khiến lão Xiao nhớ rõ quyền hành trong Trung quốc nằm trong tay ai. Nhưng phô trương thanh thế một cách trắng trợn như vậy thật ra không cần thiết; thôi thì cứ để cho lão mãnh long già này khoái chí một chút cũng được. Lu Shi cố gắng nở nụ cười khi bước vào phòng làm việc của lão Xiao. Lão nhân này đang ngồi nơi bàn làm việc, đọc một cuốn sách nhỏ có bìa đỏ đã tả tơi. Lu Shi nhận ra ngay đó là cuốn Mao Trạch Đông Ngữ Lục. Lão Xiao ngẩng đầu lên và mỉm cười. Lu Shi hơi nghiêng đầu, nửa gật đầu, nửa cúi nhẹ đầu. “Thưa đồng chí Chủ Tịch, ngài muốn gặp tôi sao?” Xiao đóng cuốn sách lại, kẹp một ngón tay để nhớ chỗ đang đọc. “A, đồng chí Lu. Cám ơn anh đã đến, lão bằng hữu.” Lu Shi lại gật đầu. “Tôi luôn sẵn sàng phục vụ đồng chí.” Không thành thật lắm, nhưng nghe cũng đủ cung kính và lễ phép. Xiao phất tay về phía một cái ghế. Lu vờ như không thấy. Lão vẫn đứng. Lão Chủ Tịch hơi nhíu mày, nhưng cũng không ép. “Tôi muốn nói chuyện với anh về… tình huống này… với nước Ấn Độ láng giềng của chúng ta. Vài đồng chí trong Ủy Ban Quân Sự Trung Ương đã tỏ ra… lo lắng…” Tiếng cười của Lu Shi cay đắng hơn là vui vẻ. “Vài đồng chí thân ái của chúng ta là những lão bà nhút nhát.” Xiao đặt cuốn sách đỏ xuống bàn, ngón tay giữ chỗ đang đọc. “Đương nhiên đồng chí biết rõ các đồng chí trong Ủy Ban hơn tôi,” lão nói. “Và có lẽ vài người trong nhóm quá cẩn thận. Tuy nhiên đây là một nơi mà tánh cẩn thận có lẽ là khôn ngoan đó.” Lu Shi cố gắng áp chế ý muốn đảo mắt coi thường. Lão nói. “Tôi không có vấn đề gì với tánh cẩn thận hết. Mà sự khôn ngoan là đức tính tốt của kẻ lãnh đạo. Nhưng tôi không phải nói về cẩn thận hay khôn ngoan. Tôi đang nói về nhút nhát. Sợ sệt. Thiếu can đảm.” Lão gật đầu về phía cuốn sách đỏ. “Thưa đồng chí Chủ Tịch, ngài thấm nhuần tư tưởng của Mao Chủ Tịch hơn bất cứ ai khác mà tôi được biết.” Điều này quả là sự thật. Khi mà khối quyền lực đáng sợ của lão Xiao dần suy thoái, lão mãnh long này ngày càng chìm đắm vào quá khứ. Hằng ngày, lão chỉ chuyên chú vào các bài nói và bài viết của Mao Trạch Đông, với niềm tin rằng học hỏi những thứ ấy sẽ biến lão thành một lãnh tụ sáng suốt hơn. Trong khi ấy, lão quên rằng sự lãnh đạo của lão chỉ gần như còn tồn tại trong trí tưởng tượng của lão mà thôi. Tuy nhiên Lu Shi cũng không tự kiêu đến nỗi bỏ qua lời của Mao để đưa câu chuyện qua một góc độ thuận lợi hơn cho lão. Lão với tay tới cuốn sách đỏ và nhẹ nhàng nhấc nó khỏi tay của lão nhân. “Đồng chí có nhớ rằng Mao Chủ Tịch đã nói thế nào về những người quá nhút nhát để làm ra các quyết định khó khăn không?” Xiao gật đầu. “Dĩ nhiên…” Lu cũng gật đầu. “Và tôi tin rằng, thưa đồng chí Chủ Tịch, đồng chí cũng nhớ những gì Mao Chủ Tịch viết về những kẻ bảo vệ cho kẻ thù của cách mạng cộng sản chứ?” Lão nhân lại gật. “Tôi nhớ…” Lu Shi cầm cuốn sách trong hai tay. “Mao Chủ Tịch đã sáng suốt đề tỉnh chúng ta phải liên hiệp với các bằng hữu chân chính để đánh đổ kẻ thù chân chính. Người đã nhắc nhở chúng ta rằng các giới lãnh đạo phải luôn tuân thủ nguyên lý này để tránh dẫn dắt quần chúng một cách sai lầm.” “Tháng 3, năm 1926.” Xiao nói. “Chủ tịch đang nói về sự phân chia giai cấp trong xã hội Trung Hoa…” “Phải,” Lu Shi đáp. “Nhưng có phải là Mao chủ tịch đang nói bằng phép ẩn dụ không? Hay ngài mong muốn các giới lãnh đạo hậu thế đem tư tưởng của ngài vào hành động?” “Ngài muốn chúng ta hành động.” Xiao nói. “Ngài luôn muốn chúng ta hành động.” “Tôi đồng ý.” Lu đáp. “Nếu chúng ta chấp hành những lời Mao Chủ Tịch răn dạy vào tình hình hiện tại, thì chúng ta nên coi làng giềng Ấn Độ là địch hay bạn?” Xiao ngập ngừng. “Tôi không biết chúng ta có đủ dữ kiện để xác định rõ ràng điều này.” “Bọn chúng cố tình chứa chấp kẻ địch của Trung quốc.” Lu nói. “Những kẻ địch đã tiêu hủy tài sản trị giá hằng tỷ nhân dân tệ và giết hằng trăm dân chúng của chúng ta. Vậy mà láng giềng Ấn Độ của chúng ta lại hoan nghênh bọn khủng bố ấy và đối xử với chúng như khách quý. Không bắt và giao trả chúng cho chúng ta trừng trị trong khi chúng vẫn đang lập mưu những hành động phá hoại và giết người kế tiếp.” Lu Shi đặt cuốn sách đỏ lại trên bàn, bên cạnh bàn tay của Xiao Qishan. “Theo luật pháp của chúng ta,” Lu nói tiếp. “Nếu kẻ nào chứa chấp và giúp đỡ một tên tội phạm, kẻ ấy cũng là tội phạm. Vậy chúng ta phải làm gì với một kẻ chứa chấp và giúp đở kẻ địch đây?” Lần này, Xiao ngần ngừ lâu hơn. Đến khi lão cất tiếng, tiếng của lão chỉ là thì thào. “Kẻ như thế cũng phải là kẻ địch của chúng ta…” Lu nhìn thẳng vào mắt của lão nhân. “Vậy, chúng ta có nên cho một quốc gia hưởng quy chế thấp hơn một cá nhân không?” Xiao chậm rãi lắc đầu. “Vậy thì chúng ta phải tự hỏi một câu đơn giản.” Lu Shi lại nói. “Mao Chủ Tịch răn dạy chúng ta phải làm sao với kẻ địch của Trung quốc?”
Chương 21
Trụ Sở của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) Langley, Tiểu Bang Virginia Thứ Năm, 27 tháng 11, 08:26 giờ địa phương Kurt Gray ngáp to trong suốt quá trình phức tạp kích hoạt máy điện toán của gã. Gã đút tấm thẻ điện tử vào máy đọc cạnh màn hình và đợi cho đèn đỏ trên máy đọc vân tay sáng lên. Nào là chìa khóa điện tử, nào là chìa khóa sinh trắc học, rồi lại mật khẩu dài ít nhất 15 chữ, máy điện toán của gã được mã hóa 9 cách khác nhau. Những năm gần đây, Cơ Quan đã đem bảo mật thông tin lên thành sự ám ảnh gần như bệnh hoạn. Kurt và các đồng bạn giải tích của gã đều cho rằng sớm muộn gì các phương pháp mã hóa sẽ gồm cả phân tích tế bào di truyền AND và khám hậu môn. Cái này cũng chỉ nửa đùa thôi, bởi vì có đủ mọi dấu hiệu cho thấy tính đa nghi của CIA càng lúc càng tăng cao. Kurt lại ngáp trong khi đánh vào máy mật khẩu thứ nhất. Có lẽ nghĩ đó là tính đa nghi cũng không công bằng lắm, bởi vì thật sự có nhiều người đang cố gắng vươn các ngón tay tin học nhớp nhúa của chúng vào các cơ sở dữ liệu của Cơ Quan. Rất nhiều người… Các chính phủ địch, các lực lượng quân sự nước ngoài, các phần tử tội phạm, những kẻ điên khùng, đủ loại phần tử trộm dữ liệu trên mạng và cả một số chính phủ nước bạn nữa. Nói đúng ra, có cả mớ người trong chính phủ Hoa Kỳ sẵn lòng bỏ ra bộn bạc để được ghé mắt vào kho tàng tin tức của CIA. Khi ngọn đèn đỏ sáng lên, Kurt đặt ngón trỏ tay phải lên máy đọc vân tay, rồi đánh vào máy mật khẩu thứ nhì của gã. Máy đáp lại bằng một tiếng bíp hài lòng và Kurt ngồi dựa ra sau, chờ cho máy điện toán của gã tiến hành quá trình thần kỳ giải mã ổ đĩa cứng. Gã với tay nâng tách cà-phê Starbucks luôn ở bên cạnh và nhấp một ngụm lớn cà-phê nóng bỏng và đậm đà. Đây là cà-phê sữa có thêm hương vị bí ngô, một hương vị chỉ có trong khoảng lễ Thanksgiving hằng năm. Kurt hạ tách cà-phê ấm áp từ môi và nghiêng tách về màn hình như để chào nó. “Chúc ông một lễ Thanksgiving tốt lành, ông Computer (máy điện toán) ạ. Hi vọng ông không phiền lòng khi phải làm việc vào ngày Gà Tây chứ? Tại vì tôi thì *** khoái chút nào.” Gã lại nhấp một ngụm trong khi bảng báo cáo hiện lên trên màn hình, rồi tên những tập tin bắt đầu hiện lên. Cả quá trình tốn hơn một phút. Danh sách không phải là ngắn. Kurt cuộn xuống dãy tên tập tin và cất tiếng rên rỉ đau khổ. Phương thức hoạt động của Ban Tình Báo được thành lập từ những năm 1960 và 1970, trước khi có internet, khi mà chưa từng ai nghe đến thư điện tử và động cơ tìm kiếm, và cũng là khi mà máy fax là phương tiện thông tin điện tử tiên tiến nhất. Khoảng thời gian ấy, nào có tần số điện thoại di động để mà ngăn chặn, nào có máy chủ mạng để mà tìm cách đột nhập và nào có ổ đĩa flash để chứa và đem theo hằng gigabyte hay terabyte hồ sơ đã đánh cắp được. Thời ấy, các chuyên gia giải tích tình báo phải cực khổ liên kết những mẫu tin tức nhỏ xíu, trong một hoàn cảnh cực kỳ khan hiếm tin tức. Ngày nay, Ban Tình Báo lại phải chật vật với một vấn đề trái ngược hẳn: tình trạng quá tải thông tin. Cái gọi là “siêu xa lộ thông tin” đã biến thành một ngọn sóng thần tin tức càng lúc càng nhiều và liên tục thay đổi. Thêm vào đó là hình ảnh từ máy bay trinh sát không người lái, tín hiệu bị đánh chặn và cả những bản báo cáo từ nhân viên hoạt động tại địa phương, thế là thông thường một chuyên gia giải tích bị tràn ngập bởi một số lượng hồ sơ mà không một người nào có thể tiêu thụ được. Cũng may là khoảng 98% lượng thông tin này không hữu ích gì hết, trên khía cạnh an ninh quốc gia và chính sách đối ngoại. Cái khó là làm sao thò tay vào trong cái biển rác rưởi ấy và lôi ra cái phần 2% có ý nghĩa thiết thực. Đó chính là công việc của Kurt. Mà tuy rằng thường thì nó chi ly và phiền toái, gã lại làm rất giỏi. Gã lại trở lên đầu danh sách và bắt đầu lọc lựa. Trước khi bắt đầu, gã hi vọng là lượng việc sẽ nhẹ một chút, nhưng xem ra không được rồi. Tuy vậy, có lẽ cũng không tệ quá. Từ tên của hồ sơ, gã đã nhận ra là phần lớn là những bài tóm gọn tình báo từng khu vực. Nhiều bản báo cáo chỉ nhắc lại các sự kiện trong báo cáo hôm trước. Gã có thể bỏ qua mớ hồ sơ này và gã chỉ cần đọc lướt qua số còn lại. “OK,” Gã tự nhũ. “Để xem có gì xảy ra trên vùng đất Ấn Độ huyền bí…” Kurt đã được điều đến Phòng Nam Á của CIA ba năm rồi; mà hai năm gần đây, gã được sắp xếp làm việc chuyên chú vào Bharat Ganarajya, tức là nước Cộng Hòa Ấn Độ. Gã có thể đọc ngôn ngữ Hindi như một người dân bản xứ vậy, mà nói thì không được thông thạo như vậy. Tuy nhiên sự tinh thông ngôn ngữ ấy cũng không hữu dụng như nếu gã phải làm việc ở những khu vực khác, bởi vì hơn phân nửa số hồ sơ xuất phát từ Ấn Độ được việt bằng Anh ngữ. Từ thời là thuộc địa của Anh quốc, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ dùng trong chính trị và thương mại ở Ấn Độ. Khi nước này dành lại độc lập năm 1947, người ta đã cố gắng nhiều lần chuyển sang ngôn ngữ Hindi khi giao tiếp chính thức, nhưng suốt một thế kỷ bị nước Anh đô hộ đã để lại một dấu ấn không thể phai mờ trên chính trường Ấn Độ. Theo thói quen, Kurt móc một đồng tiền từ túi quần và ném lên trời. Ngửa, gã sẽ đọc hồ sơ bằng tiếng Hindi trước. Sấp, gã sẽ bắt đầu từ hồ sơ Anh ngữ. Đồng tiền rơi trên mặt bàn, nảy lên rồi gương mặt George Washington hiện ra. “Tiếng Hindi vậy.” Gã nói và mở tài liệu đầu tiên ra. -***-
Hai giờ sau, mắt đã nhòa đi, Kurt mở một trong những hồ sơ viết bằng tiếng Hindi cuối cùng. Chỉ vài cái nữa, gã sẽ bắt đầu qua hồ sơ viết bằng Anh ngữ. Hồ sơ mở ra thật chậm. Khi mà nó cuối cùng hiện ra trên màn hình, Kurt hiểu ngay vì sao. Nó chứa ít nhất hàng chục hình ảnh. Kurt liếc nhanh đến tấm hình đầu tiên và nhấn nút trên con chuột để bức hình lớn lên. Đó là một bức vẽ đen trắng của kiến trúc sư, vẽ hình một kiến trúc vuông vức, giống như một cây cầu. Dựa theo đường tỷ lệ bên cạnh, cái kiến trúc này thật là vĩ đại: dài nhiều km và cao khoảng 200 m. Kurt phóng đại bức hình thêm nữa và cố gắng đọc chữ viết trong những ô nhỏ. Chữ viết này có dáng vẻ Á Đông mà Kurt không hiểu được. Trung Hoa, hay Nhật, hay Hàn, đại khái như thế. Tuy nhiên có những ghi chú viết tay ở vài nơi quanh bức vẽ; mà Kurt có thể đọc được các ghi chú này, bởi vì chúng được viết bằng ngôn ngữ Hindi. Nhiều khoảng ghi chú bằng tiếng Hindi được kèm theo những mũi tên vẽ tay và những đường cong chạm nhau, rồi lại tách ra, rồi lại tụ lại ở vài địa điểm có vẻ quan trọng trên cái kiến trúc đồ sộ ấy. Phải mất khoảng 30 giây, Kurt mới ý thức được là cái kiến trúc vuông vức vĩ đại ấy không phải là một cây cầu; nó là một cái đập nước. Một cái đập thủy điện khổng lồ, có nhiều cửa van thoát nước hơn bất cứ cái đập nào mà gã từng thấy qua. Kurt thu nhỏ bức vẽ lại và nghiên cứu qua số hình ảnh còn lại trong một cơn phấn khích và sợ hãi càng lúc càng dâng cao. Một ý nghĩ dần thành hình trong óc gã; mà nó không làm gã thoải mái chút nào cả. Gã nhìn trân trân vào màn hình suốt nhiều phút, lần đầu tiên trong sự nghiệp hi vọng rằng mình đừng tìm được cái gì thú vị. “Không ổn.” Gã tự nhủ, với tay đến máy điện thoại. “Cái này thật tình là không ổn rồi.”
Chương 22
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình (trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia) Sự bộc phát của Đệ Nhị Thế Chiến làm người ta lại chú ý đến những vũ khí bay không người lái. Năm 1940, kỹ sư người Anh Frederick George Miles đề nghị khai triển một chiếc máy bay nhẹ, được điều khiển từ xa, có khả năng mang một quả bom 450 kg. Được mệnh danh là chiếc Miles Hoop-la, nó không phải là một món vũ khí chỉ có thể dùng một lần. Trái lại, nó có thể thả quả bom vào mục tiêu được chỉ định, rồi quay về căn cứ để được tiếp liệu và đeo bom cho phi vụ kế tiếp. Nó được dự trù là có vận tốc trên 480 km/giờ, nhưng điều này không bao giờ được chứng nhận bởi vì dự án bị hủy bỏ trước khi một mô hình được chế tạo. Năm 1941, ReichluftMinisterium (Bộ Không Quân) Đức bắt đầu tìm hiểu các đề cương cho máy bay “ghép”, nghĩa là nhiều máy bay được trực tiếp ghép dính vào nhau và được điều khiển như một cá thể. Sự chú ý của Đức Quốc Xã đến khái niệm này có lẽ bắt nguồn từ các cuộc nghiên cứu của Sô Viết vào những năm 1930 về những chiếc máy bay chiến đấu được gắn vào thân hay cánh của những chiếc máy bay ném bom cỡ lớn, sẵn sàng bay lên bảo vệ cho máy bay mẹ khi bị máy bay địch đe dọa. Một kế hoạch của Đức là dùng một chiếc máy bay chiến đấu được gắn vào một chiếc máy bay ném bom Junkers Ju-88 không người lái, chứa đầy chất nổ để điều khiển chiếc máy bay ném bom vào mục tiêu. Khi bay đến địa điểm được định sẵn, viên phi công của chiếc máy bay chiến đấu sẽ nhắm chiếc máy bay ném bom vào mục tiêu, tách rời máy bay của mình ra và ly khai trong khi chiếc Junkers lao vào mục tiêu và nổ tung. Ban đầu giới lãnh đạo cao cấp của Luftwaffe (Không quân Đức) phản đối kế hoạch này, nhưng rốt cuộc bộ ReichluftMinisterium cũng ưng chuẩn dự án Beethoven để chế tạo một quả bom ghép mang bí danh Mistel. Vụ thử nghiệm thực sự đầu tiên tiến hành vào tháng 7 năm 1943. Chiếc máy bay dùng để điều khiển là một chiếc chiến đấu cơ Messerschmitt Mf-109E được lắp bên trên một chiếc oanh tạc cơ Ju-88A không người lái và được nối dây điều khiển vào bộ phận điều chỉnh ga (tốc độ) và hệ thống điều khiển hướng bay của chiếc Ju-88A. Viên phi công cất cánh suông sẻ và bay chiếc máy bay ghép về phía mục tiêu. Khi đạt đến đúng tầm, gã tách chiếc Messerschmitt khỏi chiếc oanh tạc cơ, khiến chiếc Ju-88A tự động bay về phía mục tiêu. Mức chính xác của vụ tấn công này không chê vào đâu được và lượng chất nổ trong chiếc oanh tạc cơ hoàn toàn phá hủy mục tiêu. (Ghi chú của dịch giả: Mf-109 là một chiến đấu cơ một động cơ cánh quạt, còn Ju-88 là một oanh tạc cơ cở trung bình có hai động cơ cánh quạt. Cả hai được Đức Quốc Xã sử dụng từ đầu đến cuối Thế Chiến thứ Hai.) Chiếc Mistel trông không giống quả Ngư Lôi Bay Sperry hay Con Bọ Kettering của thế chiến trước, nhưng cái phát minh mới này của Đức là con cháu trực hệ của các vũ khí bay kia. Chỉ trong một chuyến bay, chiếc Mistel đã chứng minh rằng cái khái niệm quả bom bay không người lái chẳng những thực thi, mà còn chí mạng nữa. Các sĩ quan cao cấp của Luftwaffe bèn bỏ qua mọi sự phản đối và ngay lập tức hào hứng với chiếc Mistel. Họ nhanh chóng lập kế hoạch hoàn thiện chiếc Mistel và đưa nó vào sản xuất và thực chiến. Chiếc Mistel bắt đầu vào thực chiến tháng 6 năm 1944, gần đúng một năm sau lần thử nghiệm đầu tiên. Hình thức sau cùng của nó là dùng một chiếc chiến đấu cơ Focke-Wulf Fw-190A lắp bên trên một chiếc Junkers Ju-88A-4. Phần mũi và phòng lái của chiếc oanh tạc cơ được tháo đi, thay vào đó là một đầu đạn 3,500 kg thuộc loại khối nổ lõm. (chú thích của người dịch: khối nổ lõm có phía trước bằng kim loại thường là đồng, hình nón; mặt lõm hướng về phía mục tiêu, thuốc nổ bao bọc phía sau. Khi nổ, sức nổ ép tấm kim loại hình nón thành một mũi tên kim loại nóng chảy bắn vào mục tiêu. Mục đích là xuyên phá. Thường được dùng để phá mục tiêu được bảo vệ bằng giáp dày như xe tăng, tàu chiến, tường dày, v.v.) Các cuộc thử nghiệm cho thấy cái đầu đạn khổng lồ này của chiếc Mistel có khả năng xuyên thấu xi-măng cốt sắt có hầu như bất cứ độ dày nào. Một cuộc tấn công thử vào một chiếc thiết giáp hạm cũ của Pháp làm cho chiếc chiến hạm này bị thiệt hại một cách nghiêm trọng lạ lùng, cho thấy khả năng của chiếc Mistel trong nhiệm vụ chống hạm. Khả năng này lập tức được thử nghiệm khi nhiều chiếc Mistel được dùng để tấn công tàu bè của quân Đồng Minh ngay trong tháng đầu tiên chiếc Mistel được đem vào thực chiến. Giới lãnh đạo cao cấp của Đức Quốc Xã liền bắt đầu lập kế hoạch cho một chiến dịch sử dụng Mistel trên quy mô lớn chống quân Đồng Minh, mang bí danh Chiến Dịch Eisenhammer (Thiết Chùy). Hơn 250 chiếc Mistel được sản xuất, nhưng Chiến Dịch Eisenhammer không bao giờ được tiến hành. Số Mistel đã được gom góp cho chiến dịch này được sử dụng trong nhiều vụ tấn công nhỏ, phần đông nhắm vào các cây cầu trên tuyến đường tiến quân của quân Đồng Minh. Không quân Đức có chế tạo một số kiểu Mistel khác nhau tý đỉnh, gồm vài thay đổi hay thay thế máy bay để phù hợp với các nhiệm vụ. Một kiểu Mistel dùng máy bay phản lực được nghĩ đến, với ý định là dùng chiếc máy bay chiến đấu phản lực Messerschmitt Me-262; tuy nhiên dự án này không bao giờ được thực thi. Nhiều kiểu khác được đề nghị, nhiều kiểu cực kỳ quái dị. Phần đông các ý tưởng quyết liệt nhất chỉ ở trên giấy thôi. -***-
Trong khi nước Đức đang nghiên cứu và sử dụng các vũ khí bay không người lái của họ, phía bên kia Đại Tây Dương, Hoa Kỳ lại tiếp tục nghĩ đến ngư lôi bay. Trong một chuyến viếng thăm nước Anh vào năm 1936, Tham Mưu Trưởng Hải Quân, Đô đốc William H. Standley chứng kiến một vụ tập trận bằng đạn thật chống lại một chiếc máy bay huấn luyện Queen Bee của Anh quốc; đây là một chiếc máy bay cánh đôi Tiger Moth của hãng de Havilland, được vô tuyến điều khiển và được dùng làm bia sống. Đặc điểm của chiếc Queen Bee ấy gây ấn tượng mạnh cho ông và ông liên lạc với chuẩn Đô đốc Ernest J. King, chỉ huy Phòng Phi Hành, và lệnh cho ông này nghiên cứu các phương án chế tạo máy bay vô tuyến điều khiển cho Hải Quân Hoa Kỳ. Dưới sự đề bạt của đô đốc Tham Mưu Trưởng, chuẩn đô đốc King chọn Trung Tá Delmar S. Fahrney làm người lãnh đạo đề án này. Là một phi công kỳ cựu và mang bằng thạc sĩ trong ngành kỹ sư hàng không, Fahrney đầy đủ kinh nghiệm và cực giỏi trên lãnh vực kỹ thuật. Ông ta còn là người có tầm nhìn xa. Làm việc chung với Xưởng Máy Bay Hải Quân, Fahrney điều hành việc biến đổi hai chiếc máy bay cánh đôi Curtiss và hai chiếc cánh đôi Stearman thành những chiếc “drone” (người dịch: drone là máy bay không người lái, nhưng cũng có nghĩa là tiếng vo ve). Gần như chắc chắn Fahrney là người đầu tiên dùng từ drone để chỉ một chiếc máy bay không người lái. Có lẽ đây là một sự công nhận đầy thiện ý rằng chiếc Queen Bee (ong chúa) của Anh quốc là nguồn linh cảm cho chương trình này của Hải Quân Hoa Kỳ. Đến năm 1937, nhóm Fahrney bắt đầu bay thử những chiếc máy bay này. Một năm sau, các chiếc máy bay không người lái của nhóm được dùng trong những cuộc tập trận chống máy bay của chiếc tàu sân bay USS Ranger. Những chiếc máy bay này là những mục tiêu cực khó cho các đội phòng không; qua hết đợt tấn công giả này đến đợt khác, chúng không bị sứt mẻ gì cả. Sự thành công của máy bay không người lái và sự thất bại của các đội phòng không đã khiến cho toàn bộ Hải quân phải đánh giá lại lực lượng phòng không của mình. Các cuộc thí nghiệm với chiếc USS Ranger này cũng khiến ông Fahrney tin rằng máy bay vô tuyến điều khiển có thể được sử dụng như một vũ khí để tấn công chiến hạm địch bằng cách oanh tạc hay phóng ngư lôi. Fahrney lập tức tiến hành một vụ thực nghiệm, cho một chiếc “drone tấn công” mang theo một đầu đạn giả tập kích chiếc thiết giáp hạm USS Utah. Tiếc thay cho ông Fahrney, các đội phòng không trên chiếc Utah bắn giỏi hơn các nhóm trên chiếc Ranger. Khi chiếc máy bay không người lái bắt đầu lao xuống để ném bom, một tràng đạn phòng không trúng ngay vào nó, làm nó đâm xuống biển. Thế là cuộc tấn công giả chấm dứt. Ông Fahrney không hề mất niềm tin. Cuộc biểu diễn của ông bị cắt ngang vì một viên đạn may mắn, nhưng ông không hề hoài nghi rằng khái niệm cơ bản vừa có ích, vừa có thể đạt được. Một chiếc máy bay vô tuyến điều khiển có thể tấn công một chiến hạm địch mà không cần phải lo lắng đến tính mạng của phi công. Trong khi nghiên cứu các phương pháp để cải tiến chiếc drone tấn công của mình, Fahrney được quen biết với Tiến Sĩ Vladimir Zworykin, một di dân người Nga thật sáng chói đã trở thành kỹ sư trưởng của hãng Radio Corporation of America (thường được gọi là RCA). Zworykin sau này nắm giữ nhiều bằng sáng chế trọng yếu nhất cho các kỹ thuật được sử dụng cho máy truyền hình và kính hiển vi điện tử; lúc này, ông đã cố gắng từ nhiều năm để Hải Quân Hoa Kỳ chú ý đến ý tưởng một quả ngư lôi bay được điều khiển bằng một con mắt điện tử. Giới lãnh đạo của Hải quân cho rằng khái niệm này của tiến sĩ Zworykin không cần thiết, đắt tiền và có lẽ không thể thực thi. Ông Fahrney chỉ nhìn bản kế hoạch đề xuất qua một lần, đã bỏ qua tất cả mọi thẩm định trước đó. Ông nhanh chóng soạn một hợp đồng với hãng RCA để khai triển một loạt thí nghiệm những hệ thống máy truyền hình có thể sử dụng trên máy bay Hải quân. Vì đã nghiền ngẫm ý tưởng này từ nhiều năm, tiến sĩ Zworykin tạo được một nguyên mẫu có thể hoạt động chỉ trong vòng vài tháng. Mô hình đầu tiên cân nặng 155 kg, quá nặng cho một chiếc máy bay không người lái cỡ nhỏ, nhưng đủ nhẹ để thử nghiệm trên một chiếc máy bay có người lái. Các cuộc thử nghiệm đầu tiên thành công, cho thấy tín hiệu hình ảnh phát đi từ một chiếc máy bay có thể được nhận và nhìn được trên một chiếc máy bay khác cách xa 30 km. Trong khi nguyên mẫu vẫn còn đang được thử nghiệm, nhóm Zworykin tại hãng RCA đang tìm cách chế tạo một mô hình khác nhỏ hơn. Được gọi là “Khối 1” vì hình dạng vuông vức của nó, mô hình mới này chỉ cân nặng 44 kg, đựng vừa trong một hộp có kích thước 20 cm x 20 cm x 60 cm (vì thế có tên “khối”). Trước khi mô hình Khối-1 có thể được lắp vào một chiếc máy bay để thử nghiệm, Hải Quân Hoàng Gia Nhật đã mở cuộc tập kích trứ danh ở Trân Châu Cảng, ở tiểu bang Hawai, gây nên thiệt hại trước nay chưa từng có cho hạm đội Thái Bình dương của Mỹ. Các tàu sân bay và một số tàu hộ vệ nhỏ của Mỹ không bị thiệt hại gì vì chúng không có mặt tại Trân Châu cảng khi nơi này bị tập kích, nhưng phần lớn hạm đội bị tiêu hủy. Hải Quân Hoa Kỳ náo loạn. Các thiết giáp hạm, khi ấy là thành phần chủ lực của hạm đội, đã bị đánh tơi tả. Về sau, một số được vớt lên, sửa chửa và trở về hàng ngũ; tuy nhiên khi ấy, Hải quân Hoàng gia Nhật đang tung hoành trên Thái Bình dương, Hoa Kỳ không thể nào ngồi yên chờ đợi đến khi các chiếc thiết giáp hạm được sửa xong. Hải quân Hoa Kỳ cần phải có khả năng tác chiến ngay tức khắc. Tàu sân bay là thành phần chính của đáp án. Chúng chính là một hướng đi mới triệt để khác với đại pháo và giáp dày của thời đại chiến tranh bằng thiết giáp hạm. Trong những tháng kế tới, các chiếc tàu sân bay đã chứng minh mình là tương lai của sức mạnh hải quân; tuy nhiên, ngay sau biến cố Trân Châu Cảng, khả năng và mức đáng tin cậy của chúng còn chưa được chứng minh. Trong không khí bất an ấy, máy bay không người lái được vô tuyến điều khiển của ông Fahrney bỗng nhiên đem lại đầy hứa hẹn. Tháng 2 năm 1942, Hải quân phát ra một chỉ thị tối mật, mệnh danh là Đề Án Lựa Chọn, biến máy bay không người lái tấn công thành một ưu tiên quốc phòng. Hai ông Fahrney và Sworykin còn chưa có một mô hình có thể sử dụng thì đã phải lao đầu vào một chương trình chế tạo quy mô lớn dưới sự lãnh đạo của hải quân đại tá Oscar Smith. Chỉ hai tháng sau khi chương trình được thành lập, nhóm Đề Án Lựa Chọn đã thành công thử tấn công chiếc USS Aaron Ward, một chiếc khu trục hạm đang chạy 15 hải lý/giờ (28 km/g) theo một lộ trình quanh co để tránh địch. Chiếc máy bay không người lái là một chiếc máy bay phóng ngư lôi được cải hóa và được điều khiển bởi viên phi công của một chiếc máy bay cách xa 13 km, hoàn toàn ngoài tầm nhìn của chiếc khu trục hạm bị tấn công. Vừa nhìn hình ảnh được truyền về từ máy thu hình lắp nơi mũi chiếc drone tấn công, viên phi công dễ dàng lái chiếc drone lao đến mục tiêu. Quả ngư lôi được chiếc drone phóng đi, chạy thẳng bên dưới lườn chiếc khu trục hạm đang điên cuồng tránh né. Nếu quả ngư lôi mang theo đầu đạn thật, chiếc USS Aaron Ward đã bị nổ tung khỏi mặt nước rồi. Các lãnh đạo cao cấp của chính phủ và quân đội bị chấn động khi xem đoạn phim quay cuộc tấn công thử nghiệm ấy. Không mấy ai đã từng xem đoạn phim ấy có chút hoài nghi nào rằng mình đang chứng kiến một bước ngoặc quan trọng trong phương thức tác chiến. Đô đốc King vừa được tổng thống Roosevelt thăng chức thành Tham Mưu Trưởng Hải Quân, hạ lệnh cho Hải quân Đại Tá Smith tiến hành việc sản xuất 5.000 chiếc drone tấn công. King còn lệnh cho Đại tá Smith thành lập 18 phi đoàn drone phục vụ dưới quyền chỉ huy của một đơn vị tác chiến không quân đặc biệt tân lập. Mặc dù Đề Án Lựa Chọn được sự ủng hộ ở cấp cao nhất, chương trình này thật ra không được hoan nghênh tại mọi nơi. Mỉa mai thay, chống đối dữ dội nhất lại đến từ Chuẩn Đô Đốc John H. Towers, khi ấy đã thay thế Đô đốc King trong chức vụ chỉ huy Phòng Phi Hành. Towers kiên quyết rằng hao tốn tài nguyên quý báu vào một vũ khí chưa qua thử thách là một quyết định kém khôn ngoan. Sự chống đối của ông càng có vẻ mỉa mai khi xét lại bao khó khăn chính ông đã từng gặp phải vào các năm 1920-1930, khi ông cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ cho ngành không quân của Hải quân, trước sự chống đối của những cấp lãnh đạo đã công khai hoài nghi sự hữu dụng của tàu sân bay và máy bay trong một thế giới được thống trị bởi tuần dương hạm và thiết giáp hạm. Fahrney quả thật tin tưởng vào khái niệm drone tấn công, nhưng ông cũng nhận rõ cần phải tạo càng ít cơ hội cho những kẻ chống đối chương trình này càng tốt. Ông quyết định rằng chiếc máy bay phóng ngư lôi không người lái sẽ được sản xuất bằng số lượng tối thiểu vật tư khan hiếm. Do đó, thế hệ máy bay phóng ngư lôi không người lái đầu tiên, được mệnh danh là TDN-1, được chế tạo gần như hoàn toàn bằng gỗ. Với đôi cánh lắp cao trên thân và hai động cơ nhỏ, chiếc TDN-1 có thể mang theo một quả ngư lôi hay một quả bom 900 kg dưới bụng, ở tốc độ 280 km/g. Chiếc máy bay rất nhẹ, rẻ tiền và chỉ dùng số lượng vật tư quý hiếm tối thiểu. Tiếc rằng cách thiết kế của chiếc TDN không tiện cho sản xuất quy mô lớn. Chỉ 114 chiếc được sản xuất, hầu như tất cả đều được dùng để thử nghiệm hay được dùng như bia ngắm bay. Không một chiếc TDN-1 nào được dùng trong thực chiến. Sự nhiệt tình với khái niệm drone tấn công bắt đầu xuống dốc, một phần do sự bài xích không ngừng của đô đốc Towers và những người phản đối khác. Đại tá Smith và trung tá Fahrney vẫn không nản chí. Nhóm Đề Án Lựa Chọn lập tức tiến hành sản xuất những chiếc TDR-1, thế hệ drone tấn công thứ nhì được thiết kế thích hợp với sản xuất hằng loạt hơn. Tháng 5 năm 1944, sau khi được đại tá Smith và trung tá Fahrney vận động kịch liệt, đơn vị tác chiến không quân đặc biệt số 1 (Special Air Task Force One, viết tắt STAG-1) được điều động đến vùng nam Thái Bình dương để chiến đấu chống Nhật. Các chiếc drone TDR-1 của STAG-1 được điều khiển từ những chiếc máy bay oanh tạc Grumman Avenger được cải biến với hệ thống vô tuyến điều khiển và ăng-ten truyền hình. Dụng cụ điều khiển gồm có một cần điều khiển cho viên phi công của chiếc Avenger sử dụng, và một bàn quay số điện thoại nối liền bằng vô tuyến với hệ thống lái tự động của chiếc TDR-1 để điều hành mẫu bay, lên đạn và thả bom hay ngư lôi. Hệ thống điều hành chỉ có 4 kênh, nên mỗi chiếc Avenger chỉ có thể điều hành tối đa là 4 chiếc drone cùng lúc. Vụ tập kích bằng TDR-1 đầu tiên diễn ra ngày 30 tháng 7 năm 1944 chống lại một chiếc tàu hàng Nhật đã bị thủy thủ đoàn rời bỏ sau khi mắc cạn gần đảo Guadalcanal. Sáu chiếc TDR-1 tham gia vào nhiệm vụ này: bốn chiếc sẽ tấn công, còn hai chiếc kia để dự bị. Cả sáu chiếc đều trang bị bom nặng 900 kg. Khởi đầu không được tốt. Hai chiếc drone nứt đôi khi cất cánh. Hai chiếc khác đánh trúng mục tiêu, nhưng bom không nổ. Hai chiếc cuối cùng tấn công thành công và bom của chúng phá hủy mục tiêu. Phim quay cảnh chiếc tàu hàng Nhật nổ tung thật là tạo chấn động, tuy nhiên mức ưa chuộng khái niệm drone tấn công đã xuống thấp đến nỗi đại tá Smith phải vận động mãnh liệt chương trình mới thoát khỏi số phận bị hủy bỏ. Khoảng 8 tuần sau, STAG-1 tiến hành một loạt tập kích bằng drone vào những cơ sở của quân Nhật trên đảo Bougainville. Các cuộc tập kích bắt đầu vào ngày 27 tháng 9 cho đến 26 tháng 10. Tổng cộng là 46 chiếc TDR-1 được sử dụng. Trong số này, 37 chiếc đột phá được hàng rào phòng không của quân Nhật và bay đến mục tiêu. Ít nhất là 21 chiếc đánh trúng mục tiêu được chỉ định. Quân Nhật bị chấn động bởi các đợt tập kích điên cuồng của các chiếc drone, tưởng rằng Hải quân Hoa Kỳ đã bắt đầu tấn công tự sát, một phương thức tác chiến mà chính nước Nhật chỉ mới bắt đầu vài tuần trước đó thôi. Thành tích của các vụ tập kích ở Bougainville rất khả quan, nhưng không đủ để giúp chương trình drone tấn công thoát khỏi số phận bị hủy bỏ. Các chiến binh và nhân viên của Đề Án Lựa Chọn vô cùng thất vọng, nhưng vào cuối năm 1944, mọi người có thể thấy rõ là chiến tranh ở Thái Bình dương không cần đến các quả bom bay kỳ quái của STAG-1 cũng có thể chiến thắng được. Trước kia chiếc TDR-1 từng được xem là một sự đột phá kỹ thuật tối quan trọng, nay không còn được xem là sẽ mang đến ích lợi đáng kể trong việc kết thúc chiến tranh nữa. Khi chương trình bị hủy bỏ, thế hệ drone thứ ba, chiếc TDR-3 đang được thiết kế. Một số hình ảnh của chiếc TDR-3 vẫn còn tồn tại, nhưng không rõ nó là nguyên mẫu có thể bay, hay chỉ là mô hình. Dù gì đi nữa, công cuộc truy tìm một chiếc máy bay tấn công không người lái của Hải quân đến đây đã kết thúc. -***-
Song song với các cố gắng của Hải quân, Không quân của Lục Quân Hoa Kỳ (KQLQHK) cũng nỗ lực phát triển một quả bom bay không người lái. Chương trình A-1 chủ yếu là một chiếc máy bay cánh đơn có khả năng mang theo một đầu đạn nặng 225 kg đến mục tiêu cách xa 650 km. Một số A-1 nhỏ được sản xuất khi chương trình bị hủy bỏ năm 1943. (chú thích của người dịch: mãi cho đến 1948, bộ quốc phòng Hoa Kỳ mới được Quốc Hội cho phép thành lập quân chủng Không Quân (Air Force); từ đó Không quân của Lục Quân tách ra khỏi Lục Quân và trở thành Không Quân; Lục Quân chỉ được phép sử dụng trực thăng (mọi cỡ lớn-nhỏ) và máy bay liên lạc và vận tải cở nhỏ) Trong một chương trình mệnh danh Dự Án Aphrodite, KQLQHK cộng tác với Hải quân trong việc phát triển một loạt thiết kế ngư lôi bay mang tên kỳ quái “BQ”. Một trong những kiểu khoa trương nhất là chiếc BQ-7: những chiếc oanh tạc cơ Pháo Đài Bay B-17 cũ được cải biến để được điều khiển bằng vô tuyến và chất đầy 9 tấn chất nổ để được sử dụng như những chiếc drone tiến công. Mỗi chiếc BQ-7 có một phi công trưởng và một phi công phó khi cất cánh. Nóc phòng lái đã bị cắt bỏ, để phi hành đoàn có thể nhảy dù thoát đi, sau khi chiếc máy bay đã cất cánh xong. Trên lý thuyết, sau đó chiếc BQ-7 sẽ được vô tuyến điều khiển bay đến mục tiêu. Khoảng 25 chiếc BQ-7 được chế tạo. Hầu hết được chỉ định để đánh vào những cơ sở quân sự kiên cố trong nước Đức, trong một kế hoạch mang tên Dự Án Perilous (hiểm nghèo). Tiếc thay, cái tên này lại vô cùng chính xác. BQ-7 được thử nghiệm trong thực chiến một số lần, không lần nào thành công đáng kể cả, mà vài lần còn gần tạo ra thảm họa nữa. Trong một vụ, chiếc BQ-7 mất khống chế và cứ bay vòng vòng bên trên một thành phố Anh quốc; mãi lâu sau, nhóm nhân viên điều khiển kinh hoàng mới dần dần thành công liên lạc được với nó và cho nó đâm vào một địa phương an toàn. Trong một lần khác, chiếc BQ-7 không nghe theo tín hiệu vô tuyến mà đâm đầu xuống một vùng đồng quê Anh quốc, để lại một cái hố rộng và sâu hoắm. Dự án Perilous lập tực bị hủy bỏ trước khi xảy ra tai nạn nghiêm trọng hơn. Một nỗ lực tiếp theo mang tên Dự Án Anvil (cái đe) dùng một chiếc oanh tạc cơ hạng nặng B-24 trong một hình dạng BQ-8 mới mẻ và coi như cải tiến. Tuy nhiên BQ-8 cũng không khá gì hơn BQ-7. Phi vụ Anvil đầu tiên diễn ra vào ngày 12 tháng 8, 1944. Chiếc oanh tạc cơ được cải tiến nổ tung trên không, trong khi hai nhân viên phi hành vẫn còn bên trong. Hai phi công chánh và phó, Hải quân trung úy Wilford Willy và Joseph P. Kennedy Jr. đều thiệt mạng ngay tức khắc. Đáng ghi nhận là Trung úy Kennedy chính là trưởng tử của một thương gia và chính trị gia xuất chúng, ông Joseph Kennedy Sr. Khi ấy, trung úy Joseph đang được chuẩn bị để ứng cử Tổng Thống. Em của ông, John Fitzgerald Kennedy sau này trở thành vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Phi vụ Anvil thứ nhì diễn ra vào ngày 3 tháng 9, 1944. Lần này, chiếc BQ-8 hụt mục tiêu được chỉ định do tín hiệu truyền hình khi được khi mất, nhưng cũng gây thiệt hại ít nhiều cho một cơ sở Đức khác, tuy không phải là mục tiêu. Sau đó, loạt máy bay BQ bị hủy bỏ vì biểu hiện kém và đôi khi nguy hiểm. Cũng như Hải quân, KQLQHK cũng từ bỏ ý đồ bom bay, ít nhất trong ngắn hạn. Đã gần 30 năm trôi qua từ những nỗ lực đầu tiên của hai ông Elmer Sperry và Charles Kettering, mà quân đội Hoa Kỳ vẫn không thành công tạo được một vũ khí bay không người lái có thể tin cậy. Xui xẻo cho dân chúng Anh quốc là người Đức đã giải được vấn đề này rồi. Người dân Luân Đôn sắp được biết những vũ khí này chí mạng như thế nào.
Chương 23
Phòng Tình Huống Nhà Trắng Thủ Đô Washington, D.C. Thứ Năm, 27 tháng 11, 10:34, giờ địa phương Tổng thống Dalton Wainright không để ý đến tập hồ sơ màu xanh lơ chứa tài liệu của buổi thuyết trình, mà gật đầu về phía màn hình rộng chiếm cả vách tường của phòng Tình Huống. “OK, quý vị, tôi đang nhìn vào cái gì đây?” Sĩ quan trực phòng Tình Huống là một Hải quân đại tá có cái mũi ưng và tóc muối tiêu hai bên thái dương. Gã nói. “Xin lỗi đã làm gián đoạn ngày lễ Thanksgiving của ngài, thưa ngài Tổng Thống. Đây là một bản vẽ kiến trúc của đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang, bên nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.” Gã để cho hình ảnh trên màn hình vài giây, rồi chỉ cây điều khiển vào màn hình. Bức vẻ kiến trúc bị thay thế bởi một bức không ảnh chụp tường chắn của đập Tam Hiệp, có cả cái hồ nước mênh mông phía sau. “Đây là dự án đập thủy điện lớn nhất từ trước đến nay.” Viên sĩ quan trực nói tiếp. “Mà nó cũng là một trong các kiến trúc nhân tạo lớn nhất thế giới, chỉ thua Vạn Lý Trường Thành thôi. Chiếc đập này đã hoàn toàn hoạt động từ năm 2011 và ngày nay, nó tạo ra điện lực khoảng 85 terawatt-giờ mỗi năm. Cái này là hơn gấp đôi sản lượng hàng năm của toàn bộ nhà máy điện nguyên tử của Trung quốc.” “Đáng nể thật.” Tổng thống nói. “Tôi nghĩ là anh có lý do nào đó khi nhắc đến cái này, phải không?” Viên sĩ quan trực gật đầu. “Thưa ngài, vâng ạ. Vài giờ trước đây, chúng tôi nhận được tình báo sơ khởi rằng quân đội Ấn Độ có thể đang lập kế hoạch phá hủy đập Tam Hiệp.” “Phá hủy nó sao? Làm sao được? Cái này chính là một con quái vật đó.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, Gregory Brenthoven, gật đầu. “Nó quả thật là một quái vật, thưa ngài Tổng thống. Nhưng mà người Ấn Độ có vẻ như đang định đánh sập nó trong một vụ tập kích bằng phi đạn hành trình được phối hợp cẩn thận: bảy quả phi đạn Nirbhay mang theo đầu đạn tiên tiến chuyên xuyên phá mục tiêu cứng.” Tổng thống Wainright giơ một tay lên. “Hai câu hỏi, Greg… Thứ nhất, nguồn tin của chúng ta là gì? Thứ nhì, có thể thành công không?” Ông lại nhìn vào màn hình. “Cái này quả thật là một quái vật. Trừ phi họ dự định đánh bằng đạn hạt nhân, tôi không làm sao mường tượng được phi đạn hành trình có thể đánh xập nó.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia móc từ trong túi áo ra một cuốn sổ nhỏ bìa da. “Nguồn tin là HUMINT (27).” Hắn nói. “Một nhân viên CIA ở New Delhi có quen biết trong bộ Quốc Phòng Ấn Độ. Hắn hay cô ta, tôi cũng không rõ, thành công lấy được một bản phân tích kỹ thuật và kế hoạch tập kích. Báo cáo của nhân viên này được chuyển đến bàn Nam Á ở Langley và gã chuyên gia giải tích đọc qua nó, lập tức đưa nó lên cho cấp cao ngay.” Tổng thống gật đầu. “Như vậy, chúng ta cũng tương đối tin tưởng rằng tin tức này là thật sao?” Brenthoven lật lật cuốn sổ và đọc lướt qua vài hàng. “Mức độ đáng tin được ghi là ‘trung bình’. Cái này có nghĩa là tin tức hợp lý và nguồn tin được coi là đáng tin, nhưng không có đủ đối chiếu từ nơi khác để làm tăng mức đáng tin.” “Vậy là chúng ta phải tìm đối chiếu rồi, đúng không?” Tổng thống nói. “Dĩ nhiên là thế, thưa ngài.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia đáp. “Chúng ta có CIA, DIA và ONI cùng tìm tin xác thực. Nhưng mà nếu kế hoạch này được giấu kỹ, chúng ta có thể sẽ không tìm được nguồn nào để xác thực cả. Nguồn cung cấp tin hiện tại có thể là tất cả mà chúng ta có rồi.” Tổng thống ngập ngừng vài giây, rồi gật đầu. “Hiểu rồi. Bây giờ đến câu hỏi thứ nhì của tôi nhé. Có khả năng bao nhiêu rằng vài quả phi đạn hành trình có thể đánh sụp một kiến trúc đồ sộ như đập Tam Hiệp?” “Thưa ngài, chúng tôi đang cho Phòng Nghiên Cứu Hải Quân chạy các mô hình về vấn đề này ngay lúc này đây.” Brenthoven nói. “Nhưng giải tích nhanh của chúng tôi cho rằng điều này có khả năng lắm, nếu phi đạn được trang bị đúng loại đầu đạn.” “Mà người Ấn Độ có đúng loại đầu đạn không?” Tổng thống hỏi. Bộ Trưởng Quốc Phòng Mary O’Neil-Broerman chồm người ra phía trước, nói. “Chúng tôi nghĩ là họ có. Quân đội Ấn Độ có một loại đạn xuyên phá mục tiêu cứng được sản xuất tại nội địa. Đạn này có thể có đủ uy lực để đánh vỡ toang cái đập ấy.” Tổng thống quay đầu nhìn trừng trừng vào viên bộ trưởng Quốc Phòng. “Bà nói là quân đội Ấn Độ đã phát triển một đầu đạn cực kỳ chuyên dụng, để dự phòng một ngày nào đó họ phải oanh tạc một đập thủy điện khổng lồ của Trung quốc sao?” Viên bộ trưởng lắc đầu. “Không phải vậy, thưa ngài. Buồn cười là họ nghiên cứu đầu đạn này cho Không Quân. Không Quân của chúng ta.” Tổng thống Wainwright xoa bóp gáy cổ mình. “Bà đùa tôi, phải không, Mary?” “Tiếc là không phải vậy. Tôi không đùa đâu, ngài Tổng Thống.” Bà bộ trưởng nói. “Đầu đạn ấy được nghiên cứu chế tạo bởi tổ chức Nghiên Cứu và Triển Khai Quốc Phòng của Ấn Độ để tranh thầu dự án ‘Đầu Đạn Xuyên Phá Thế Hệ Mới’ của Không Quân Hoa Kỳ. Đó là cái mà Không Quân gọi là NGP (tắt cho Next Generation Penetrator, Đầu Đạn Xuyên Phá Thế Hệ Mới). Giới công nghệ quốc phòng Ấn Độ có lẽ đã quyết định rằng một dự án nghiên cứu lớn của Không Quân là một cách tốt nhất để họ chen chân vào các chương trình trong tương lai của bộ quốc phòng Hoa Kỳ. Thiết kế của họ không lọt qua vòng tuyển chọn sau cùng, nhưng họ quyết định tiến hành triển khai một NGP của riêng họ. Họ gọi nó là Rudrasya khadgah. Theo chúng tôi được biết thì nó cực kỳ hữu hiệu.” Tổng thống nhíu mày. “Cái tên ấy là gì nhỉ? Rud…” “Rudrasya khadgah.” Bà bộ trưởng đáp. “Nó là tiếng Phạn, nghĩa là ‘Thanh kiếm của thần Shiva’.” Lông mày tổng thống nhướng cao. “Shiva sao? Vị thần của Ấn Độ giáo sao?” “Đúng vậy, thưa ngài.” Bà bộ trưởng nói. “Shiva là vị thần của Ấn Độ giáo tượng trưng cho sự sáng tạo và hủy diệt. Nhưng khi ngài xuất hiện dưới cương vị Rudra thì ngài chính là thần của bão tố, giông gió, hủy diệt và chết chóc.” Tổng thống Wainwright nhếch bên mép, cười nửa miệng một cách không vui. “Hài…, nghe có vẻ đầy hứa hẹn, phải không? Bà còn tin vui nào cho tôi nữa không?” “Chúng tôi còn đang duyệt qua các bản đánh giá sơ khởi.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia nói. “Nhưng mà nếu Rudra, cái đầu đạn Kiếm của thần Shiva kia, quả thật hữu hiệu như các mô hình đầu tiên cho thấy, thì bảy quả có lẽ là dư thừa rồi. Rất có thể chỉ cần bốn quả đã đủ đánh sụp cái đập nước, đương nhiên nếu đánh đúng chỗ và đúng lúc.” “Dĩ nhiên rồi.” Tổng thống nói. “OK, tình báo về kế hoạch này cũng đủ đáng tin và có lẽ một cuộc tập kích bằng phi đạn như vậy đục thủng được đập nước ấy. Có vẻ như phiền toái lớn cho Trung quốc rồi, nhưng mà cái đó tại sao lại là một vấn đề an ninh quốc gia trọng đại đối với chúng ta chứ?” Viên sĩ quan trực của phòng Tình Huống cất tiếng. “Thưa ngài, người Ấn Độ không phải chỉ dự định phá thủng vài chỗ trên đập nước đâu. Dường như mục đích của họ là khiến toàn bộ tường chắn bị hủy. Cái đó sẽ dẫn đến nạn lụt thảm thiết trên toàn bộ lưu vực Trường Giang, suốt từ đập Tam Điệp ra đến biển Đông.” Viên sĩ quan trực lại bấm nút điều khiển và màn hình chính trong phòng Tình Huống chuyển sang bản đồ vùng phía đông của trung phần Trung quốc. Đường màu xanh lơ ngoằn ngoèo của Trường Giang cắt ngang giữa bản đồ, chia hai phần nam-bắc thành hai vùng đất rõ ràng. Có ba chấm đen để chỉ ba thành phố bám trên dòng sông: Vũ Hán, Nam Kinh và Thượng Hải. “Trường Giang chảy xuyên ngay giữa nơi tập trung dân chúng lớn nhất của Trung quốc.” Viên sĩ quan trực nói. “Khoảng 400 triệu người sinh sống trong vùng lưu vực Trường Giang. Cái này chính là gần một phần ba tổng dân số của Trung quốc.” Gã chỉ vào màn hình. “Nếu đập Tam Hiệp bị sụp, ba trong những thành phố lớn nhất và đông dân cư nhất của Trung quốc sẽ nằm trực tiếp trên đường nước lũ tàn phá.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia gật đầu. “Dân số của cả ba thành phố Thượng Hải, Nam Kinh và Vũ Hán cộng chung tương đương như dân số của New York, Los Angeles và Washington của nước ta. Và ba thành phố ấy chính là cột sống của nền công nghệ và tài chính của Trung quốc. Chỉ cần mất đi một trong ba thành phố ấy đã gây thiệt hại trầm trọng cho kinh tế Trung quốc rồi. Còn nếu mất cả ba…” Brenthoven bỏ lửng câu cuối. “Đây là ác mộng của Trung quốc rồi.” Tổng thống nói. “Trong ngắn hạn là hằng triệu nhân mạng và thiệt hại nặng nề cho hạ tầng cơ sở quốc gia, tiếp theo là kinh tế suy sụp.” “Đúng là như vậy, thưa ngài Tổng Thống.” Brenthoven nói. “Chưa hẳn là tận thế cho người Trung quốc, nhưng cũng gần như thế rồi.” Tổng thống Wainwright lắc đầu. “Đã vậy, tại sao họ lại xây cái quỷ ấy chứ? Người Trung quốc có thể là đủ thứ, nhưng họ không phải là kẻ ngốc. Tại sao họ lại đặt bấy nhiêu dân chúng vào hiểm cảnh như thế?” “Có lẽ họ cho rằng họ đã loại bỏ tất cả mọi may rũi rồi.” Bà bộ trưởng Quốc Phòng nói. “Trên phương diện kiến trúc, đập Tam Hiệp được xây kiên cố hơn là cần thiết một cách đáng kể. Họ đã dự phòng cho địa chấn và các loại thiên tai khác và, ngoài trừ vũ khí hạt nhân, thật ra chẳng có bao nhiêu bom hay phi đạn có thể tạo sứt mẻ nghiêm trọng nào cho nó. Có lẽ bộ Chính Trị Trung quốc cảm thấy họ đã tính đến hết mọi khía cạnh rồi.” “Nhưng mà họ không tính đến cái đầu đạn mới của Ấn Độ.” Tổng thống tiếp lời. “Rõ ràng là không có tính đến.” Brenthoven nói. Tổng thống Wainwright nhìn sững suốt một lúc lâu vào cái màn hình rộng cả vách tường, rồi nói. “Chính phủ Trung quốc sẽ phản ứng như thế nào, nếu Ấn Độ thành công trong kế hoạch này?” “Đó chính là câu hỏi lớn nhất.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia nói. “Ngài sẽ phản ứng ra sao trong trường hợp như thế, thưa ngài? Trong giả thuyết mà Hoa Kỳ đang chiến đấu với một đối thủ nào đó và đột nhiên, không một lời cảnh báo, đối thủ của chúng ta quét tan New York, Los Angeles và Washington, giết mất khoảng một phần ba dân chúng của nước ta. Ngài sẽ phản kích như thế nào, thưa ngài?” “Tôi nghĩ mình là một người ưa chuộng hòa bình.” Tổng thống nói. “Nhưng nếu ai đó đánh chúng ta bằng một đòn tàn độc và trầm trọng như vậy, tôi sẽ phản kích bằng tất cả vũ khí mà tôi có. Tôi sẽ cố gắng hết sức để biến cả nước của chúng thành một bãi đậu xe.” Bà bộ trưởng thở dài nặng nề. “Tôi thật không muốn nhìn nhận, nhưng chính tôi cũng sẽ làm như thế. Bất cứ một lãnh đạo nào nếu có khả năng và uy lực cũng sẽ đáp trả mãnh liệt như vậy. Nếu có người đấm mình một cú nặng như vậy, mình sẽ không đấm lại làm gì. Mình sẽ đập bẹt nó.” “E rằng đó chính là giải đáp của chúng ta rồi.” Brenthoven nói. “Nếu quả thật Ấn Độ làm vụ này… Nếu họ đánh sụp đập nước Tam Hiệp, Trung quốc sẽ dùng mọi thứ để đánh trả…” Những âm thanh cuối của gã như dừng lại trong không khí, mà mọi người không hề hoài nghi cái từ ‘mọi thứ’ có ý nghĩa là gì. Tổng thống Wainwright dựa vào lưng ghế, nói. “Chúng ta đã bỏ qua một cái gì đó.” “Chúng ta còn trong giai đoạn tìm hiểu, thưa ngài.” Brenthoven nói. “Chúng ta còn thiếu nhiều thứ nữa. Các cơ quan tình báo còn phải tốn một thời gian nữa mới phát triển được các nguồn đối chiếu và thu gom những chi tiết trọng yếu.” “Tôi không nói đến chi tiết.” Tổng thống nói. “Mà tôi cũng không nói đến kiểm chứng các sự kiện.” “Tôi không hiểu ngài muốn nói gì, thưa ngài.” Brenthoven nói. “Mary mới vừa tổng kết thật hoàn hảo.” Tổng thống nói. “Nếu có người đấm mình một phát mạnh đến thế, mình sẽ không đấm qua đấm lại với họ. Mà mình đập bẹp họ. Đúng chứ?” Brenthoven gật đầu, nhưng không nói gì. “Tôi không tự cho là mình hiểu được tâm tình của chính phủ Ấn Độ.” Tổng thống nói. “Nhưng mà họ không đến nổi mù lòa để không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nếu họ đánh què Trung quốc bằng một cuộc tập kích có cường độ như thế. Toàn bộ kế hoạch này gần như là van xin người ta phản kích bằng vũ khí hạt nhân vậy. Đã thế, tại sao họ lại có thể nghĩ đến nó chứ?” Không ai thử trả lời. “Chúng ta đã bỏ qua một cái gì rồi.” Tổng thống lại nói. “Một phần lô-gic nào đó thiếu sót rồi.” Trưởng phòng Hành Quân của Hải Quân gõ nhịp ngón tay nhẹ trên mặt bàn. “Có gì không hợp lý vậy?” Hắn hỏi. “Trước khi gã khùng kia, Zhukov, đánh bom Trân Châu cảng (*), tôi từng cho rằng không ai có thể cuồng tín đến độ có thể làm chuyện ngu xuẩn như thế. Nhưng mà những lúc gần đây, thưa ngài Tổng Thống, tôi không còn coi thường uy lực của sự ngu si và điên cuồng nữa rồi.” (* được kể trong một truyện trước của cùng tác giả) Tổng thống Wainwright nhăn mặt, nói. “Ông nói đúng đó. Nhưng mà điên cuồng hay không, các bằng hữu Ấn Độ của chúng ta đang giấu cái gì đó trong tay áo của họ. Mà tốt nhất là chúng ta phải tìm được cái đó là cái gì…” -=-=-=-=-=- Chú Thích: (27) HUMINT hay Human Intelligence: Tình báo từ nguồn nhân viên, bao gồm đủ loại nhân viên tình báo, trong tối hay ngoài sáng, công khai hay bí mật. Đây là từ được dùng trong khối NATO. Ngoài ra còn có SIGINT hay Signals Intelligence bao gồm nghe lén liên lạc giữa người với người (tức là Communications Intelligence hay COMINT), hay máy với máy (ELINT hay Electronic Intelligence); IMINT hay Image Intelligence: phân tích hình ảnh từ vệ tinh hay các phương tiện trinh sát khác; và MASINT hay measurement and signature intelligence: tình báo gom góp và phân tích từ tín hiệu ra-da, phóng xạ, tiếng động, v.v.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2016 00:25:05 bởi Quang11 >
Chương 24
Tòa Đại Sứ Ấn Độ Thủ Đô Washington Thứ năm, 27 tháng 11, 17:15, giờ địa phương Gita Shankar, đại sứ của nước Cộng Hòa Ấn Độ tại Hoa Kỳ, đang ngồi, vội đứng lên khi viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ được mời vào văn phòng của bà. Bà bước vòng qua sau bàn để gặp hắn khi hắn tiến đến và đưa tay ra để bắt tay. Bà đại sứ mặc một áo sari lụa màu xanh lơ đậm, bên trong mặc một chiếc áo xám đơn giản và một chiếc váy có nếp. Tấm lụa rộng vắt chéo ngực và choàng qua eo bà, phần dư thì phủ bên vai trái theo một phương cách truyền thống. Quanh cổ là một chuỗi hạt trai và mái tóc đen của bà được gom lại phía sau để lộ ra cặp bông tai cũng bằng hạt trai tương xứng. Bà đại sứ Shankar mỉm cười với vị khách khi hắn nắm lấy bàn tay bà. “Hoan nghênh ông, ông Brenthoven. Hôm nay, chúng ta ăn mặc cùng màu rồi!” Gregory Brenthoven liếc nhìn tay áo bộ com-lê. Nó gần như cùng màu xám với chiếc áo của bà đại sứ và chiếc cà vạt màu xanh lơ, hiệu Salvatore Ferragamo tiệp màu với áo sari của bà một cách bất ngờ. Brenthoven mỉm cười. “Thưa bà đại sứ, tôi đã gọi điện trước khi đến để hỏi xem bà mặc màu gì. Rồi tôi chạy nhanh về nhà và thay đồ đúng y như thế.” Bà đại sứ bật cười và chỉ về cặp ghế dài kiểu thời Thuộc Địa Anh quốc mà các nhân vật trong chính phủ Ấn Độ vẫn chuộng. “Xin mời.” Bà đại sứ nói. “Mời ông an tọa, rồi cho tôi biết chuyện gì đã làm ông phải rời khỏi gia đình trong dịp lễ quan trọng của Hoa Kỳ này.” Brenthoven ngồi vào một chiếc ghế dài và bà đại sứ ngồi vào chiếc ghế đối diện. Brenthoven đảo nhanh mắt quanh văn phòng được trang trí thật lịch sự. “Tôi không muốn tỏ vẻ cường điệu, thưa bà đại sứ, nhưng mà căn phòng này có an toàn không?” Câu hỏi khiến bà đại sứ nhướng mày. Bà nói. “Nó cũng khá an toàn. Mỗi ngày văn phòng tôi đều được rà soát máy nghe lén và nhân viên an ninh của chúng tôi sử dụng những biện pháp đặc biệt để phá các phương pháp theo dõi khác. Tôi tin tưởng ông cũng quen thuộc với các biện pháp tương tự trong các kiến trúc của chính phủ các ông.” “Dĩ nhiên.” Brenthoven đáp. “Và tôi cũng biết rằng,” bà đại sứ nói tiếp, “ông cũng rõ là các phương pháp chỉ làm giảm bớt nguy cơ bị địch thủ theo dõi thôi. Chúng không thể nào bảo đảm không bị nghe lén được.” Viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ ngập ngừng. Hắn không phải là một đại diện của bộ Ngoại Giao, mà hắn cũng không có ủy nhiệm thư của bộ Ngoại Giao. Hắn cũng không phải là một bằng hữu được tin cậy của chính phủ Ấn Độ, và vì vậy nghi thức ngoại giao không cho phép hắn yêu cầu được sử dụng cái gọi là “bọt nước” của tòa sứ quán. Như hầu hết các sứ quán trên thế giới, tòa sứ quán Ấn Độ được trang bị một phòng cách âm làm bằng Plexiglas được sơn một lớp hợp chất đặc biệt để chống lại bức xạ điện từ. Theo tiếng lóng của giới ngoại giao, một căn phòng như thế thường được gọi là “bọt nước”. Trên lý thuyết, một cái bọt nước được thiết kế đúng đắn sẽ miễn dịch với các dụng cụ theo dõi từ bên ngoài, và gần như không thể nào bị cài đặt máy nghe lén ở bên trong. Trên thực tế, tiến triển kỹ thuật không ngừng khiến cho bất cứ căn phòng nào, cho dù được bảo vệ kỹ lưỡng đến đâu, cũng có nguy cơ bị nghe lén. Mặc dù vậy, một căn bọt nước được bảo quản tốt đã gần như đạt đến mức an toàn tuyệt đối rồi. Đại sứ Shankar đã thấy ánh mắt của Brenthoven đã đảo quanh phòng bà không mấy kín đáo. Và bà không hoài nghi rằng hắn đang tìm cách để được bà mời dùng căn bọt nước của sứ quán. Nhưng hắn đã xin hẹn rất gấp gáp và đã bỏ qua nhiều quy củ ngoại giao và chính trị. Hắn cũng không hề gợi ý về đề tài hắn định bàn thảo; điều này làm bà và viên phó đại sứ không có bất kỳ cơ hội nào chuẩn bị một tư thế chính thức để ứng phó với vấn đề hắn muốn bàn đến. Bởi các điểm thiếu hụt trên phương diện ngoại giao ấy, cho dù là nhỏ nhặt, bà không muốn cấp cho hắn một điểm nhân nhượng nào cả. Chờ khi hắn tiết lộ đề tài bí ẩn của cuộc gặp mặt này, bà có thể sẽ đổi ý và đề nghị dời vào căn bọt nước kia, nếu bà cho rằng nên dè dặt như thế. Còn bây giờ, cứ để hắn khó chịu một chút cũng không sao. “Tôi không biết nói tiếng Phạn.” Brenthoven nói. “Bởi vậy, xin bà tha thứ cho phát âm vụng về của tôi.” Bà đại sứ mỉm cười và phất phất tay. “Dĩ nhiên rồi.” Brenthoven lại đảo mắt quanh căn phòng và lại ngập ngừng trước khi cất tiếng. “Thưa bà đại sứ, bà có từng nghe đến đầu đạn cho phi đạn hành trình được mệnh danh là Rudrasya khadgah chưa?” Đại sứ Shankar hơi nhíu mày. “Tôi không tin đã từng nghe qua.” “Theo tôi hiểu,” Brenthoven nói, “cụm từ này là nói đến lưỡi kiếm của vị thần Shiva trong Ấn Độ giáo, khi ngài hiện thân thành Rudra, vị thần của bão tố, hủy diệt và chết chóc.” “Dịch như vậy cũng là đúng rồi.” Bà đại sứ nói. “Nhưng mà tôi không được biết đến phi đạn nào mang cái tên đó.” “Đó là một đầu đạn xuyên phá Thế Hệ Mới.” Brenthoven nói. “Nó được phát triển bởi Tổ chức Nghiên Cứu và Phát Triển Quốc Phòng của quý quốc, nhằm tấn công và xuyên phá những mục tiêu cực kỳ cứng chắc, thí dụ như hầm xây dưới mặt đất được gia cố thật tốt, hay hầm phi đạn bằng bê-tông cốt sắt dày.” Bà đại sứ chuyển người trên ghế. Bà không biết đề tài này đang đưa đến đâu, nhưng bà đã bắt đầu cảm thấy khó chịu vì giọng nói của hắn. Bà nói. “Tôi tin lời ông. Tôi nghĩ rằng tôi có được một sự hiểu biết cơ bản về khả năng quân sự của nước tôi, nhưng tôi không thể cho là mình biết mọi chi tiết về mọi vũ khí đang được phát triển.” Giọng bà ta trở nên sắc bén hơn. “Phải chăng Hoa Kỳ đột nhiên lo ngại rằng đầu đạn này vi phạm luật pháp quốc tế hay một hiệp nghị quốc tế nào đó?” “Không phải đâu.” Brenthoven nói. “Theo tôi hiểu, thiết kế của đầu đạn Rudrasya khadgah hoàn toàn hợp pháp dưới mọi hiệp ước hiện hành.” Bà đại sứ buông người dựa vào những cái gối kê nơi lưng ghế. “Vậy, cho tôi hỏi vấn đề nằm ở đâu? Chắc phải là điều gì nghiêm trọng lắm mới khiến ông tỏ ra quan tâm về tính an toàn của cuộc nói chuyện này như thế chứ?” “Quả thật là chuyện nghiêm trọng, thưa bà đại sứ.” Brenthoven nói. “Chúng tôi đã nhận được những dấu hiệu đáng tin cho thấy rằng quân lực của quý quốc đang lập kế hoạch sử dụng một số các đầu đạn xuyên phá tiên tiến này để tạo ra một sự thiệt hại có tính cách hủy diệt đối với đập nước Tam Hiệp của Trung quốc.” “Tôi không hề được nghe qua về kế hoạch nào như thế.” Bà đại sứ nói. “Tuy nhiên nước tôi đang chiến đấu để tự vệ chống một quân xâm lược mà trước đó không hề khiêu khích họ. Ấn Độ không phải là nước khởi đầu cuộc chiến này, ông Brenthoven ạ. Tôi tin chắc là ông cũng hiểu rõ điều này. Vậy, nếu chính ông đã công nhận là những vũ khí này không bị cấm bởi hiệp ước hay luật pháp và vì chúng tôi chỉ phản ứng lại vụ thảm sát cả một ngôi làng thường dân không vũ trang, tôi thật hiếu kỳ muốn biết vì sao các toan tính của quân đội chúng tôi lại đột nhiên gây nên sự chú ý của chính phủ Hoa Kỳ. Tôi không muốn tỏ ra lỗ mãng, nhưng mà chuyện này làm sao lại có thể được cho là một vấn đề của chính phủ Hoa Kỳ chứ?” “Chúng tôi đã làm vài đánh giá sơ khởi về các hậu quả khi đập nước Tam Hiệp chịu sự hủy hoại mang tính cách hủy diệt có thể đưa đến.” Brenthoven nói. “Các chuyên gia giải tích của chúng tôi ước tính rằng thiệt hại nhân mạng của Trung quốc có thể lên đến 350 triệu người. Ngoài ra, có khả năng là ba trong số những thành phố trù phú nhất của Trung quốc sẽ bị xóa tên trên bản đồ, khiến cho nền kinh tế của Trung quốc bị suy sụp trong suốt mấy chục năm.” “Tôi chưa từng thấy qua các ước tính như vậy.” Bà đại sứ nói. “Tuy nhiên, những con số ấy có vẻ hơi phóng đại rồi.” “Chúng tôi không nghĩ thế.” Brenthoven đáp. “Thật ra, các ước tính đầu tiên của chúng tôi có thể là quá lạc quan là khác.” Đại sứ Shankar không nói gì. Tất cả những chuyện này là một sự bất ngờ thật lớn đối với bà. Bà không biết có bao nhiêu trong đó, hay có chút nào trong đó, là sự thật nữa. Brenthoven đóng cuốn sổ nhỏ của hắn lại và nhét nó vào túi. “Thưa bà đại sứ, nếu cuộc tập kích vào đập nước Tam Hiệp xảy ra, chúng tôi tin rằng rất có khả năng nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung quốc sẽ đánh trả bằng một đợt tập kích hạt nhân cỡ lớn.” “Vô lý!” Bà đại sứ nói. “Chúng tôi không nghĩ vậy.” Brenthoven. “Nếu quý vị đánh Trung quốc một phát mạnh như thế, chúng tôi tin họ sẽ đánh trả càng dữ dội hơn.” Bà đại sứ chợt ý thức rằng mắt bà đang đảo loạn khắp nơi trong phòng. Bà nói. “Chúng ta không nên bàn những chuyện này ở đây. Chúng ta nên chuyển qua phòng bọt nước đi.” “Đó là một ý kiến rất tốt. Chúng ta cứ qua đó đi.” Brenthoven đáp.
Chương 25
Khu Trục Hạm USS Towers (DDG-103) Vịnh Bengal Thứ Sáu, 28 tháng 11, 19:24 giờ địa phương Viên sĩ quan Tác Chiến, Trung Úy Ben Lambert, không rời mắt khỏi màn hình Aegis khổng lồ nằm ở vị trí trung ương trong phòng hành quân CIC. Trên màn hình tác chiến, bốn ký hiệu tượng trưng cho máy bay đang di chuyển nhanh chóng về phía chu vi phòng thủ của các chiến hạm bảo vệ mẫu hạm USS Midway (27-A). Lambert nhấn nút để chuyển bộ ống nghe choàng đầu sang hệ thống điện thoại của chiếc tàu, rồi bấm ba số gọi phòng ngủ của hạm trưởng. “Hạm trưởng, đây là TAO. Xin lỗi đã làm phiền ông, nhưng mà có bốn Bogies đang bay về chúng ta từ hướng tây. Không có mã số, không có điện đàm, không có tín hiệu IFF (28).” “Cám ơn anh.” Đại tá Bowie nói. “Tôi lên ngay. Làm ơn gọi Trung tá Silva hộ tôi. Tôi tin chắc cô ấy muốn tham dự vào chuyện này.” “Tuân lệnh.” Viên TAO đáp. -***-
Không đến ba phút sau, Đại tá Bowie và Trung tá Silva đã đứng sau lưng viên TAO, nhìn qua vai gã vào màn hình tác chiến. “Chúng ta đang nhìn dấu hiệu của ai đây?” Bowie hỏi. Chiếc USS Towers đang chạy lặng im và tối đen, tận dụng kỹ năng tàng hình tiên tiến để ẩn núp khỏi tầm dò tra của cảm biến từ các chiến hạm và máy bay khác. Các góc cạnh của khung tàu và phần trên tàu đã được tính toán cẩn thận để làm các tia ra-đa từ ngoài tới bị lệch đi, không cho chúng phản chiếu lại khiến đối phương không thể phát hiện và theo dõi chiếc tàu. Thiết kế góc độ tiên tiến này lại được nâng cao thêm bởi những tấm làm bằng sợi các-bon có tác dụng hấp thu tia ra-đa và lớp sơn quang hợp ngụy trang bao phủ phần lớn những nơi lộ ra bên ngoài của chiếc tàu. Lại thêm vào các hệ thống ngăn âm thanh và che nhiệt, các kỹ thuật này che giấu chiếc chiến hạm 9.800 tấn này trên mặt biển một cách hữu hiệu lạ lùng. Tuy nhiên, không một thiết kế tinh vi nào có thể che giấu hay ngụy trang các làn sóng do chính chiếc chiến hạm này phát ra được. Nếu chiếc Towers bật các hệ thống ra-đa lên, trên phổ điện từ chúng sẽ sáng trưng như pháo hoa vậy. Mọi che đậy sẽ lập tức biến mất. Cách duy nhất để đạt được mức tàng hình hữu hiệu là đóng hết mọi ra-đa và máy phát sóng khác, mà chỉ dựa vào cảm biến từ các khí tài khác của Hải quân Hoa Kỳ trong vùng. Lúc này, chiếc Towers chính là đang làm như thế, lướt đi im ắng trong màn đêm, chỉ dựa vào tín hiệu nhận được từ các chiến hạm và máy bay trong hạm đội USS Midway để định hướng. “Các tín hiệu này được chuyển đến từ chiếc Hawkeye (29)”. Viên TAO nói. Hawkeye mà gã đang nói tới là chỉ một trong những chiếc máy bay cảnh báo sớm E-2D làm công tác theo dõi ra-đa tầm xa cho chiếc tàu sân bay và sư đoàn không quân của nó. Trung tá Silva gật đầu, nói. “Xem ra có vẻ chúng sẽ không bay qua ngay bên trên chúng ta.” Viên TAO phóng đại trên màn ảnh ký hiệu của bốn máy bay lạ. “Thưa cô, cô nhìn chính xác lắm. Bọn Bogies này sẽ không bay trên đầu chúng ta. Trừ phi lộ trình của chúng thay đổi, chúng sẽ bay qua cách chúng ta khoảng 16 km phía bắc, trong khoảng 8 phút nữa.” “Chúng nhắm hướng chiếc Midway đó.” Silva nói. “Có vẻ là vậy.” Viên TAO nói. “Chúng bay thấp và nhanh, mà ra-đa thì đóng lại. Tôi nghĩ chúng định hù dọa chiếc tàu sân bay của chúng ta một phát đó!” “Nói như vậy chắc là đúng rồi.” Đại tá Bowie nói. Mắt hắn dán chặt vào bốn cái tín hiệu máy bay. “Nếu cho tôi đoán, tôi nghĩ là chúng ta đang đối phó với tiêm kích J-15 (30) từ hạm đội tàu sân bay Trung quốc. Hai phi đội, mỗi đội hai chiếc.” “Có lẽ là vậy.” Viên TAO nói. “Vậy chúng ta để chúng bay qua, hay lệnh chúng dừng lại?” “Chúng ta có thể cho chúng đi qua.” Bowie nói. “Chiếc Hawkeye đã nắm cứng chúng rồi. Bọn Bogies này sẽ bị F-18 (31) đè ngập chúng trước khi chúng tiếp cận được chiếc tàu sân bay.” “Đúng vậy.” Viên TAO nói. Giọng gã có mang chút bâng khuâng, giống như gã đang hi vọng có chuyện gì hào hứng hơn trong lần đầu tiên gã chạm trán với một cái gì có thể là một mối đe dọa thật. Bowie mỉm cười. “Mặt khác, tình trạng EMCON (32) hiện tại của chúng ta là tự mình thiết lập. Chúng ta đang chạy lặng im và tối đen là để tập dợt, chứ không phải chúng ta được lệnh phải duy trì tình trạng kiểm soát phát xạ.” Viên TAO toét miệng cười. “Đại tá nghĩ là mình có nên rung cây dọa khỉ không?” Bowie cũng cười. “Tại sao không chứ? Không được bật ra-đa điều khiển hỏa lực. Dọa chúng thì được, nhưng chúng ta không nên cho chúng lý do để khai hỏa.” Viên TAO bấm nút nói. “Mọi vị trí nghe lệnh, đây là TAO. Đổi sang tình trạng EMCON Delta biến cải. Phát xạ không hạn chế từ hệ thống điều khiển hỏa lực, tiến hành lập tức. Uy lực tối đa trong mức độ an toàn. Lặp lại, mọi thiết bị lập tức phát xạ với uy lực tối đa trong mức độ an toàn. Break. Nhóm Phòng Không, đây là TAO. Tôi muốn radar SPY quét một phát thật mạnh vào khu vực từ hai-chín-không đến ba-năm-không.” Hệ thống ra-đa dạng phase AN/SPY-1D(V)2 là cột sống của hệ thống cảm biến phối hợp với vũ khí Aegis. Với công suất hơn 4 triệu watt, radar SPY có thể làm xáo trộn hay hư hại các hệ thống điện tử trên hầu hết các máy bay. Viên TAO vẫn cười toét miệng. Mấy tên phi công Trung quốc này sắp nhận được một sự bất ngờ lớn nhất đời họ rồi. Một giây trước, họ còn đang lén lén lút lút bay trong bóng đêm, bám sát vào các ngọn sóng biển và cố gắng biến mình thành vô ảnh vô tung. Mọi thứ đều thoải mái và yên ắng, không một dấu hiệu nào của bất cứ thứ gì giữa họ và mục tiêu của mình. Qua giây sau, ầm! Một chiếc khu trục hạm Hoa Kỳ ngay trước mặt đang phun mạnh 4 megawatt sóng vi ba, khiến máy cảnh báo của họ ré lên và các thiết bị hỗn loạn. Tiếng của viên sĩ quan trưởng nhóm Phòng Không vang lên trên mạng. “TAO, đây là Phòng Không. SPY đã được bật lên và phát xạ. Uy lực tối đa khu vực từ hai-chín-không đến ba-năm-không.” “Và đến nè!...” Viên TAO nói. Trên màn hình tác chiến Aegis, bốn dấu hiệu máy bay đảo ngoặc về bên trái, tránh hướng chiếc Towers và Midway. Nửa giây sau, tiếng nói của trưởng nhóm Phòng Không lại vang lên trên mạng. “TAO, Phòng Không đây. Bogies đang tháo chạy. Có vẻ chúng đang chạy về chuồng rồi.” Viên TAO bấm nút nói. “Roger (33), Phòng Không. Cứ để ý đến chúng nhé. Đừng để chúng lại lén quay lại và trả lại cú bất ngờ.” “Thật là dễ dàng nhỉ.” Trung tá Silva nói. Viên TAO gật đầu. “Chỉ là chào hỏi thân ái thôi, cho đám bạn Trung quốc của chúng ta biết rằng Hải quân Hoa Kỳ đang ở trong xóm.” Silva lắc đầu, nói. “Chúng ta làm hơi sớm rồi. Đáng lý chúng ta nên đợi đến tháng tới.” Viên TAO nhìn nàng. “Tôi không rõ cô muốn nói gì, Trung tá…” “Lễ Thanksgiving đã qua rồi.” Silva nói. “Mà chúng ta lại vừa cho bọn này món quà Giáng Sinh sớm trước cả tháng đó!” Viên TAO lại cười toét. “Tôi nghĩ họ sẽ tha lỗi cho chúng ta mà, thưa cô.” “Hi vọng anh nói đúng.” Đại tá Bowie nói. “Hi vọng anh nói đúng.” -=-=-=-=-=-=- Chú Thích: (27-A) USS Midway (CVN-82) là một tàu sân bay động cơ hạt nhân giả tưởng, có lẽ thuộc lớp Ford. Chiếc có thật mang số CV-41 tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ được hạ thủy năm 1945 và rời khỏi biên chế năm 1992, ngày nay là bảo tàng viện ở San Diego, bang California. Tàu này có giản lượng nước 64.000 tấn và chạy bằng động cơ tua-bin dầu. Tàu từng tham chiến ở Việt Nam và chiến dịch Bão Táp Sa Mạc ở Trung Đông năm 1990-1991. Nếu là hàng không mẫu hạm động cơ hạt nhân lớp Ford, tàu có chiều dài 337 m, rộng 78 m và giản lượng nước 100.000 tấn, tổng số nhân viên khoảng 4.297 người, kể cả nhân viên phi đoàn 2.480 người. Tổng số máy bay đủ loại kể cả trực thăng khoảng hơn 75 chiếc cấu thành phi đoàn (air wing) của tàu, gồm có tiếm kích đa năng F/A-18E/F Super Hornet, tiêm kích F/A-18C Hornet (nhỏ và cũ hơn, ngày nay dùng cho tấn công nhiều hơn là nhiệm vụ ngăn chặn tiêm kích địch), EA-18 Growler (phiên bảng F/A-18 chuyên dùng trong chiến tranh điện tử), E-2C Hawkeye (cảnh báo sớm), C-2A Greyhound (vận chuyển, tiếp liệu), trực thăng MH-60R Seahawk và MH-60S Knighthawk đa nhiệm và chống tàu ngầm. (28) IFF hay Identification Friend or Foe: tín hiệu bạn-địch. máy bay quân sự đều có trang bị dụng cụ để phát ra tín hiệu để có thể nhận diện địch hay bạn. (29) Hawkeye (Mắt Ưng) E-2 là máy bay cảnh báo sớm trên không (AEW) chiến thuật trang bị cho tàu sân bay, do hãng Northrop Grumman chế tạo. Hiện phục vụ cho hải quân Hoa Kỳ, Pháp và Mexico, lực lượng tự vệ Nhật Bản và Không quân Đài Loan. (30) J-15 Phi Sa (Cá Mập Bay) là máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay, được phát triển bởi Shenyang Aircraft Corporation và Viện 601 trang bị cho tàu sân bay của Không quân Hải quân Quân giải phóng Nhân dân. Có báo cáo cho rằng máy bay này được thiết kế dựa theo mẫu tiêm kích Sukhoi Su-33 của Nga. Năm 2001, một nguyên mẫu Su-33 được mua từ Ukraine và được mổ xẻ tỉ mỉ. Kết cấu của tiêm kích J-15 dựa theo Su-33, nhưng sử dụng kỹ thuật của Trung quốc tương tự như tiêm kích J-11. Theo lời của chuyên gia thiết kế trưởng của J-15, ông Sun Cong, tiêm kích J-15 tương đương với F/A-18 của Mỹ về phương diện tải trọng, tầm hoạt động và tính lưu động. Tuy nhiên, sau đó ông lại nói thêm rằng còn phải cố gắng nhiều hơn trên phương diện hệ thống điện tử và hệ thống tác chiến; ngoài ra, thiếu nguồn cung cấp máy phản lực nội địa cũng là điểm yếu. Chuẩn đô đốc Yin Zhuo tuyên bố rằng tiêm kích này có khả năng tác chiến hơn tiếm kích F/A-18 E/F của Hoa Kỳ; khả năng tấn công mục tiêu trên đất liền và trên biển hơi kém hơn F/A-18 E/F, nhưng dụng cụ điện tử lại chuẩn cho tiêm kích thế hệ thứ năm. (31) F-18 Hornet (Ong Bắp Cày), hay đúng hơn là F/A-18, là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, có khả năng chiến đấu và tấn công các mục tiêu mặt đất (F/A viết tắt của Fighter/Attack – Chiến đấu/Tấn công) do McDonnell Douglas và Northrop thiết kế. Được sử dụng bởi Hải quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa kỳ và nhiều nước khác: Úc, Canada, Phần Lan, Kuwait, Mã Lai, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. F/A-18 Hornet là thiết kế cơ sở của loại Boeing F/A-18E/F Super Hornet, một bản thiết kế lại lớn hơn, và có sự phát triển cao hơn của F/A-18. So với Hornet, chiếc Super Honet lớn hơn, nặng hơn và có tầm hoạt động cũng như tải trọng cao hơn. Ngày nay, hầu hết F/A-18 của quân đội Hoa Kỳ đã được thay thế bởi F/A-18E/F; Úc cũng thay thế F/A-18 bằng F/A-18E/F. Như đa số máy bay được thiết kế cho tàu sân bay, F/A-18 có đặc tính là tầm hoạt động lớn, mức độ đáng tin cậy cực cao và giỏi ‘chịu đòn’ vì phải hoạt động xa căn cứ và lục địa; cũng vì những đặc tính này, nước Úc cũng chọn F/A-18 cho không quân của mình. (32) EMCON là viết tắt của Electromagnetic Emission Control: tình trạng Kiểm Soát Phát Xạ Điện Từ, tức là tình trạng mọi thiết bị có thể phát xạ tín hiệu phải được kiểm soát gắt gao, để phòng đối phương có thể phát hiện sự hiện diện của mình. (33) Roger: đã hiểu. Tiếng lóng thường dùng trong điện đàm. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch.
Chương 26
Quá trình phát triển của phi đạn hành trình (trích từ bài viết của tiến sĩ David M. Hardy cho viện Phân Tích Chiến Lược Quốc Gia) Với quả tên lửa V-1, nỗ lực phát triển bom bay của Không quân Đức, Luftwaffe đã tách rời hoàn toàn khỏi khung máy bay cánh quạt và hệ thống điều khiển từ xa của các thiết kế trước kia. Vũ khí mới của Đức là một rô-bô tự kiểm soát, sử dụng những thiết bị điều khiển tự động được lắp bên trong, thay vì cần một người điều khiển từ xa. Thiết kế mới này không dùng động cơ cánh quạt, mà một động cơ ‘phản lực xung’ đơn sơ nhưng hữu hiệu, chỉ gồm có một phòng đốt nhiên liệu có hình dáng như một cái ống. Vũ khí này mang tên chính thức là Fiesler Fi-103, nhưng guồng máy tuyên truyền của Đức Quốc Xã gọi nó là Vergeltungswaffe Einz (Vũ Khí Phục Thù số 1), một cái tên sớm được gọi tắt là V-1. Khác với các thế hệ máy bay không người lái và ngư lôi bay trước kia, chiếc V-1 nhìn không giống như một chiếc máy bay truyền thống thời bấy giờ. Thân nó làm bằng những tấm thép mỏng, có dáng thuôn dài, đầu nhọn, làm nó nhìn giống như một mũi phi tiêu. Đôi cánh ngắn thẳng như thập tự giá, được bọc bằng ván ép để giảm trọng lượng và chi phí. Và động cơ hình ống nơi đuôi làm nó trông như thứ trong truyện tranh khoa học giả tưởng vậy. Quả thật, toàn bộ hình dáng của chiếc V-1 trông như trong truyện tranh hơn là sự thật, nhưng V-1 không phải là vật trong huyền thoại. Nó có thật và nó cực kỳ nguy hiểm. Cho đến lúc ấy, hơn 30 năm cố gắng và hao tốn chỉ đem lại vài trăm món vũ khí bay không người lái. Không một chương trình nào hơn mức tạm thành công trong thực chiến cả. Ngược lại, Đức Quốc Xã sản xuất gần 30.000 quả tên lửa V-1, hằng ngàn quả được sử dụng trong thực chiến, đạt được sự hữu hiệu tàn khốc. Với tầm hoạt động 250 km, V-1 không thể bay trực tiếp từ Đức qua Anh quốc được. Không quân Đức, Luftwaffe vượt qua hạn chế này bằng cách xây dựng 96 địa điểm phóng ở vùng bắc nước Pháp bị Đức chiếm đóng, trong tầm bắn đến London. Cuộc tập kích V-1 đầu tiên diễn ra vào ngày 13 tháng 4, 1944, một tuần sau cuộc đổ bộ D-day của quân Đồng Minh vào Âu châu. Quả tên lửa bay đến cuối lộ tuyến của nó và đâm xuống gần một cây cầu cho xe lửa ở khu East End của London. Tám thường dân thiệt mạng trong vụ nổ. Vài quả V-1 được phóng đi trong ngày hôm sau, trước khi đợt tấn công nghiêm trọng đầu tiên bắt đầu. Từ chiều ngày 15 tháng 6 đến nửa đêm 16 tháng 6, Trung Đoàn Phòng Không 155 của Đức đã phóng 244 V-1 về hướng London. Khoảng 90 trong số này không vượt qua được lãnh thổ nước Anh do có vấn đề xảy ra khi phóng hay ngay sau khi phóng. Khoảng 50 quả rơi vào những khu không người phía nam của thành phố mục tiêu và 22 quả khác bị lực lượng phòng không Anh quốc bắn hạ. Số 73 quả còn lại đánh vào London, gây thiệt hại nhà cửa đáng kể và làm hàng trăm người thiệt mạng, phần đông là thường dân. Cái âm thanh vù vù kỳ lạ của động cơ ‘phản lực xung’ của V-1 làm nhiều nhân chứng nghĩ đến tiếng vo-ve của côn trùng. Âm thanh đặc thù này khiến cho người ta gọi nó là “con bọ con” hay “bom vo-ve”. Mặc dù có những âm thanh và tên gọi buồn cười như vậy, V-1 không có gì là khôi hài cả. Chẳng qua bao lâu người dân nước Anh đã liên kết cái âm thanh côn trùng này với sự hủy diệt và chết chóc. Được kiểm soát bởi một hệ thống bay tự động sử dụng con quay hồi chuyển từ tính, một cái phong kế để tính toán khoảng cách đã bay và một thiết bị quả lắc để điều chỉnh góc cao thấp, hệ thống điều khiển của V-1 này không đủ chính xác để đánh vào những mục tiêu nhỏ. Nhưng hệ thống đơn sơ này đã đủ chính xác để nhắm vào những mục tiêu lớn như thành phố rồi; mà như vậy đã đủ để thỏa mãn nhu cầu chiến thuật của Luftwaffe. Theo một bản báo cáo của viên tướng Mỹ Clayton Bissell, nước Đức đã phóng khoảng 8.025 quả V-1 vào những mục tiêu bên nước Anh chỉ trong vòng 9 tuần lễ năm 1944. Hơn 1 triệu căn nhà hay các kiến trúc khác bị hư hỏng hay tiêu hủy, và hàng chục ngàn người thiệt mạng. Tuy nước Anh là mục tiêu chánh của chương trình này, thành phố Antwerp của nước Bỉ cũng bị 2.500 quả V-1 đánh trúng. Tháng 3 năm 1945, dàn phóng V-1 cuối cùng ở nước Pháp bị các quân đoàn Đồng Minh đánh chiếm, chỉ năm tuần rưỡi trước khi Đế Chế thứ Ba của Đức Quốc Xã sụp đổ và đầu hàng. Vũ Khí Phục Thù số 1 của Hitler sẽ không còn che kín bầu trời hai nước Anh và Bỉ nữa. Sự thống trị của bom vo-ve đã chấm dứt, nhưng di sản của nó chỉ vừa bắt đầu thôi. Những cứ điểm V-1, bao gồm hàng trăm quả đạn chưa được sử dụng, rơi vào tay nước Mỹ, Pháp và Liên Bang Sô Viết. Cả ba quốc gia bắt đầu nghiên cứu thiết kế của V-1 và sản xuất phiên bản vũ khí bay rô-bô của riêng họ. Ngày nay, nhiều sử gia quân sự cho rằng chiếc V-1 của Đức là chiếc phi đạn hành trình đúng nghĩa đầu tiên. Có nhiều điểm lý luận ủng hộ lập luận này và cũng nhiều điểm phản bác nó. Cho dù là đúng hay sai, chương trình V-1 chính là chất xúc tác cho sự phát triển kỹ thuật phi đạn hành trình. Khái niệm này đã được chứng minh qua sự hữu hiệu tàn khốc của nó. Một vũ khí bay không người lái quả thật đã có thể tìm đến và đánh vào một thành phố ở xa xôi, mà không cần người nào can thiệp vào. Trong những năm sau đệ Nhị Thế Chiến, những tổ nghiên cứu và phát triển khắp nơi trên địa cầu hối hả lặp lại, rồi vượt qua các thành quả của V-1 của Đức Quốc Xã. Thời đại của phi đạn hành trình đã đến. Tương lai của chiến kỹ đã bị thay đổi hoàn toàn.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.09.2016 00:32:39 bởi Quang11 >
Chương 27
Tòa Nhà Trắng, Washington Thứ Sáu, 28 tháng 11, 20:30 giờ địa phương Tổng thống Wainright bắt tay bà đại sứ Ấn Đồ, rồi đưa tay mời bà ngồi vào một trong chín chiếc ghế bành trong khu họp của Phòng Bầu Dục. “Cám ơn bà đã đến nhanh như vậy, thưa bà đại sứ. Tôi xin lỗi vì giờ giấc trễ như thế này.” Bà đại sứ Shankar ngồi xuống ghế và mỉm cười lịch sự. “Xin ngài đừng cảm thấy khó chịu, thưa ngài Tổng thống. Đây là nhiệm vụ và hân hạnh cho tôi khi được ngài triệu vời, bất cứ vào lúc nào.” Tổng thống ngồi vào cái vị trị truyền thống thuộc về ông ở chủ vị của số ghế xếp vòng, lưng quay về cái bàn làm việc trứ danh được đóng từ gỗ lấy từ chiếc tàu buồm của Anh quốc, chiếc HMS Resolute vào thế kỷ 19. Ghế của bà đại sứ bên tay phải của ông, còn ghế bên trái là của viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Gregory Brenthoven. “Tôi thật cảm kích lòng rộng lượng của bà.” Tổng thống nói. Ông dùng ngón tay đảo một vòng trên không, chỉ vào số ghế. “Như bà thấy đó, chúng ta đang bỏ qua mọi lễ nghi phiền phức thông dụng, để có thể làm việc nhanh và kín đáo.” Đám nhân viên ngoại giao và cố vấn thường ngày đều vắng mặt. Thông thường, một cuộc họp mặt giữa tổng thống và một viên đại sứ nước khác sẽ gồm cả viên chánh văn phòng, bộ trưởng Ngoại Giao, phụ tá bộ trưởng Ngoại Giao chuyên lo vụ việc khu vực Đông Nam Á, Cố Vấn An Ninh Quốc Gia và một thư ký của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia. Tuy nhiên, trừ viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia, không ai trong danh sách ấy có mặt cả. “Tôi hiểu.” Bà đại sứ nói. Nếu có cảm thấy không thoái mái vì việc không đúng nghi thức của tòa Nhà Trắng, bà cũng không để lộ ra. Mà lần này thật là không đúng nghi thức rồi. Ngoại trừ việc một số nhân vật vắng mặt ra, rất hiếm khi nào tổng thống lại gặp mặt trực tiếp với một viên đại sứ, càng hiếm hơn nữa là gặp mặt trong Phòng Bầu Dục. Các viên đại sứ hầu như bao giờ cũng làm việc với những đại diện của bộ Ngoại Giao và các cuộc gặp mặt thường xảy ra trong Phòng Roosevelt, hay trong trường hợp viên đại sứ đang bị ghét bỏ, thì gặp nhau trong tiền sảnh của cánh phía Tây. Đối với đại sứ Shankar, buổi họp hôm nay đã đi ngược với mọi sự chờ đợi của bà: trực diện với tổng thống, trong Phòng Bầu Dục, mà không có sự hỗ trợ đoàn nhân viên ngoại giao. “Tôi rất vui khi nghe bà nói vậy.” Tổng thống nói. “Xin lỗi cho tôi bỏ qua những lời khách sáo mà đi thẳng vào chuyện cần thiết.” “Dĩ nhiên rồi.” Bà đại sứ đáp. “Tốt lắm.” Tổng thống nói. “Bởi vì tôi muốn biết nước bà có phải dự định tập kích đập nước Tam Điệp, hay không?” Ông ta gật đầu về phía Brenthoven. “Theo tôi hiểu, Greg… tôi muốn nói là Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của tôi… đã chuyển lời cho bà các mối lo âu của chúng tôi về một cuộc tập kích như thế. Bà đã bàn thảo vấn đề này với chính phủ của bà chưa?” “Tôi đã được thuyết trình về toàn bộ dự tính của chính phủ trong vụ việc này rồi.” Bà đại sứ nói. “Trên chính thức, không hề có một kế hoạch tập kích đập nước Tam Hiệp nào hết.” “Còn không chính thức thì sao?” Tổng thống hỏi. “Câu trả lời không chính thức là, e rằng,” bà đại sứ đáp, “hơi khác một chút. Nói một cách không chính thức, tôi được phép thông báo cho ngài, trong điều kiện tối mật, rằng sự phá hủy đập nước Tam Hiệp được xem là một lựa chọn quân sự cần thiết và đúng đắn, nếu xung đột với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vẫn tiếp tục leo thang.” Tổng thống Wainright bóp bóp sau gáy. “Tôi biết rồi. Chính phủ của bà đã hiểu rằng hầu như chắc chắn một cuộc tập kích như vậy sẽ được Trung quốc xem như một sự công kích chiến lược trực tiếp vào cơ sở hạ tầng quan yếu của quốc gia họ chứ? Và chính phủ của bà cũng hiểu rằng một đòn mãnh liệt như vậy có lẽ sẽ được đáp trả bằng vũ khí hạt nhân chứ?” “Chính phủ của tôi đã nhận được những điều lo ngại của ngài rồi.” Bà đại sứ Ấn Độ đáp. “Nhưng chúng tôi không đồng ý với nhận định của quý ngài về phản ứng của nước CHNDTH. Chính phủ tôi không tin rằng Bộ Chính Trị Trung Ương Trung quốc sẽ dùng đến vũ khí hạt nhân để phản kích.” “Lỡ khi nhận định của quý chính phủ sai thì sao?” Tổng thống hỏi. “Tại sao quý vị lại mạo hiểm với khả năng ấy chứ?” Bà đại sứ nắm hai tay trên đùi. “Thưa ngài tổng thống, Trung quốc không phải là mối quan tâm duy nhất của chúng tôi. Tôi tin chắc là các vệ tinh của quý ngài đã cho thấy rằng láng giềng Hồi quốc (Pakistan) của chúng tôi đã bắt đầu tập kết quân đội gần biên giới phía đông của chúng tôi, ở hai tỉnh Punjab và Sindh. Ngay trong khi chúng ta đang thảo luận, Pak Faza’ya, Không Quân của Hồi quốc đang tiến hành một chiến dịch bay tuần tra kịch liệt ngay sát biên giới. Mặc dù các hoạt động này trên mặt kỹ thuật không được gọi là hoạt động quân sự chống lại nước tôi, nhưng các lực lượng vũ trang của Hồi quốc có hành vi gây hấn. Chính phủ Hồi quốc rõ ràng là muốn thừa nước đục thả câu rồi.” Bà nhướng mày. “Như thành ngữ của người Mỹ nói, đó chính là ‘lũ cá mập đang vờn quanh’, thưa ngài tổng thống. Cả ở phía bắc, lẫn phía đông của chúng tôi. Chúng tôi không thể nào để chúng đánh hơi thấy mùi máu trong nước được.” “Tôi hiểu nỗi lo của quý vị.” Tổng thống nói. Trước khi ông kịp nói tiếp, đại sứ Shankar lại cất tiếng. “Thành thật xin lỗi ngài, nhưng mà ngài không hiểu được nỗi lo của chúng tôi đâu. Nếu Hoa Kỳ thật sự hiểu được những mối căng thẳng về văn hóa và chính trị nơi vùng thế giới của chúng tôi, thì quý ngài đã không vội vã bán vũ khí cho Hồi quốc như thế, hoặc là chống lưng cho chế độ khủng bố đang cầm quyền tại Islamabad. Mà quý ngài cũng không hiểu được sự lo lắng của chúng tôi về Trung quốc. Tôi xin lưu ý ngài về cái gọi là chiến tranh Trung-Ấn vào đầu thập niên 1960. Nhân dân chúng tôi đã từng biết qua bị Quân Giải Phóng Nhân Dân tràn qua biên giới là như thế nào. Tôi cũng mừng là quốc gia quý ngài chưa từng trải qua kinh nghiệm như thế.” “Đối với chúng tôi, cái này không phải là một bài tập chính sách đối ngoại.” Bà nói. “Nó cũng không phải là lý thuyết chính trị. Mà chúng tôi đang phải đối đầu từ hai phía những đối thủ đã từng biểu hiện trong lịch sử ý định tiêu diệt Ấn Độ của họ, và hiện tại đang tiến hành những hành vi thù nghịch đối với nước tôi. Chúng tôi sẽ không tỏ ra yếu đuối. Và nếu điều này có nghĩa là đập nước Tam Hiệp phải bị tiêu hủy, thì đó chính là cái giá mà Trung quốc phải trả khi họ tàn sát các thôn làng của chúng tôi không một lời cảnh báo hay bị khiêu khích gì.” Tổng thống lắc đầu. “Bà đại sứ ạ, tôi xin quý vị đừng làm việc này.” Đại sứ Shankar ngồi yên suốt nhiều giây, trước khi lên tiếng. “Quý ngài có thể cho chúng tôi một lựa chọn nào khác không? Quý ngài có thể cho quân lực của quý ngài sát cánh với quân lực chúng tôi và cho Trung quốc và Hồi quốc thấy rằng chiến đấu với Ấn Độ cũng chính là chiến đấu với Hoa Kỳ không?” Tổng thống im lặng. Bà đại sứ cười buồn. “Câu trả lời của ngài chính là như thế đó, thưa ngài tổng thống. Nếu quý ngài không thể đứng bên cạnh chúng tôi, thì chúng tôi sẽ tự vệ mà không cần sự trợ giúp của quý ngài. Và chúng tôi sẽ sử dụng mọi biện pháp mà mình có.” “Lỡ như tính toán của quý vị sai lầm thì sao?” Tổng thống lại hỏi. “Lỡ như Trung quốc trả đũa bằng vũ khí hạt nhân thì sao?” Đại sứ Shankar thở dài. “Vậy thì họ sẽ khám phá ra là Ấn Độ cũng có những vũ khí như thế và, nếu bị bắt buộc, chúng tôi cũng không ngại gì đem chiến tranh đến trước ngưỡng cửa của kẻ thù.”
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: