Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân 1-31, 32

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 37 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân 1-31, 32 - 04.11.2005 11:51:05
Bệnh Tưởng

Hàn Lệ Nhân



Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, Châu Đại Hương (Hoa Lư, Ninh Bình), con ông Đinh Công Trứ, giữ chức thứ sử Hoan Châu về đời Dương Diên Nghệ và đời Ngô Vương Quyền. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông.

Năm Tân Hợi (951) đời hậu Ngô Vương Quyền, Nam Tấn Vương cùng Thiền Sách Vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều đại bại phải rút quân về. Đến khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương Xí, phá được Đỗ-động của Đỗ Cảnh Thạc. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng Vương. Chỉ trong một nǎm, Đinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế.

Năm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng Vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan vǎn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân (tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt Vương.

Tiên Hoàng bỏ trưởng lập ấu, cho đứa con út là Đinh Hạng Lang làm thái tử. Con trưởng là Nam Việt Vương Đinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thuở hàn vi, nay không được ngôi thái tử, lấy sự ấy làm tức giận bèn khiến người giết Hạng Lang đi. Ấy là gây nên mối loạn ở trong nhà.

Năm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Sử chép rằng Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm vua bèn định bụng làm sự thí đoạt. Một hôm Đỗ Thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ Vương Đinh Toàn (có sách gọi là Đinh Tuệ) lên làm vua. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 nǎm, thọ 56 tuổi.

Đinh Tiên Hoàng có 3 người con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn và Đinh Hạng Lang đã chết, mặc nhiên Đinh Toàn kế nghiệp ngôi vua.

Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy vua còn nhỏ, quyền bính nằm cả trong tay Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn, lại nghi Lê Hoàn tư thông với Dương Thái Hậu (Dương Vân Nga), nên cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết sạch.

Dương Vân Nga thay con cầm quyền trị nước (nhiếp chính) cũng thấy rõ chỉ có Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn là người có khả nǎng gỡ rối được tình hình nghiêm trọng cần kíp lúc này. Huống chi ý chí quân đội cũng muốn tôn người chỉ huy của họ lên ngôi tối thượng, thay cho vị vua 6 tuổi là con Dương Vân Nga. Bởi vậy, Dương Vân Nga bèn lấy áo long cổn mặc vào cho Lê Hoàn trong tiếng hò reo dậy trời của quân sĩ.

Đinh Toàn chỉ làm vua được 8 tháng, sử gọi là Phế Đế rồi tồn tại với tước vương (Vệ Vương) có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 nǎm. Nǎm Tân Sửu (1001) trong dịp cùng vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên hy sinh trên chiến thuyền vào tuổi 27.

Triều Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy 14 năm. Lê Hoàn lên làm vua, Dương Vân Nga trở thành Hoàng hậu. ( theo VN Sử Lược, Trần Trọng Kim, tập 1, trang 85-88).



949 năm sau, mạt thời Pháp thuộc, có một trung niên họ Đinh phiêu lưu qua Bến Khách. Đinh tiên sinh vốn giòng dõi thư hương lừng danh đất Nghệ-Tĩnh. Qua Bến Khách chẳng bao lâu tiên sinh chẳng may vắn số, tương truyền vì liên quan tới quốc sự nên tiên sinh bị kẻ thù hãm hại thủ tiêu tại một làng quê ven khúc đường Bến Khách-Thiên Đàng, để lại người vợ trẻ đẹp họ Phan và 3 đứa con sau còn nhỏ dại, người con trưởng ở lại đất Hoa Lư. Sau, Phan nương nương tái giá với một nhà nho họ Phạm, được thêm năm mặt con. Đối với ba người con riêng của Phan nương nương, Phạm tiên sinh thương như con đẻ ; nhất là thiếu gia Ba Ớt bấy giờ mới được hơn năm tuổi, Phạm tiên sinh hết mực cưng chiều coi như ông hoàng. Khác với truyền thống thư hương của gia tộc, thiếu gia Ba Ớt bản tánh "vốn đởm lược ưa tập luyện võ nghệ" nghĩa là ham chơi hơn ham đèn sách. Thiếu gia Ba Ớt quá vị thành niên, Phạm tiên sinh và gia đình càng điêu đứng vì cái số đào hoa chi mệnh "ưa thú gió trăng", vì chuyện yêu đương đến mức phạm pháp của thiếu gia (vì thiếu gia thường xuyên trốn qua biên giới để tìm ý trung nhân họ Mục), chút tài sản góp nhặt được của nhà họ Phạm nhờ đó một phần lớn trôi theo sau những chuyến đò ngang - phi pháp - trên sông Cửu, chảy vào hầu bao các quan bản địa.

Rốt cuộc Mục cô nương trốn qua bên nầy sông theo tiếng gọi của con tim. Phạm gia mất thêm một số tài khoản để lo lót giấy tờ cho nàng nhập" trấn Thiên Đàng". Thiếu gia Ba Ớt thành gia thất, vợ chồng Phạm tiên sinh được không cô con dâu trông xa xa rất xinh đẹp, nhưng không vì thế mà giảm thiểu chuyện lao đao, hao bạc vì thiếu gia Ba Ớt và Mục cô nương. Ba Ớt phu nhân đặc sệt máu Hoạn Thư thời đại. Nói Hoạn Thư thời đại là vì máu ghen của Kim Trọng đại phu nhân trong truyện Kiều sắc ngọt, thâm trầm bao nhiêu thì chất chanh ớt trong Ba Ớt phu nhân thực tiển, tung hê, tô hô bấy nhiêu. Ưu điểm của Hoạn Thư thời đại là con nhà lính tính nhà quan nên toàn nói chuyện trên trời với chút khuyết điểm là tính quan tướng dân nên làm hết cách cũng sang không nỗi, trông cứ cục mịch thế nào. Đúng là Tạo Hoá đố kỵ hồng nhan : Ghép tiểu tướng trong đại tính, đại hình.

Phạm tiên sinh mãn phần trong tuổi 60. Chuyện thiếu gia Ba Ớt thoạt đầu không chịu để tang cho người đã cưng dưỡng mình trong bao nhiêu năm trường chẳng có gì là bí sử.

Sau năm Ất Mão, thiếu gia Ba Ớt đưa bồ đoàn thê tử dạt qua Tân Thế Giới và bắt đầu làm thơ, viết văn. Thơ văn của thiếu gia Ba Ớt phải công tâm nhìn nhận là thuộc hạng trên trung bình. Và nếu quả thật Văn là Người thì trên văn đàn hạ giới nầy đố ai tìm ra văn thi sĩ giàu tình, giàu nghĩa, giàu hiếu - tưởng tượng - bằng thiếu gia Ba Ớt, bằng được cũng đã cực cực hiếm chứ đừng hàm hồ là hơn thiếu gia . Nhân sinh quan, ngoài vòng Thơ Văn, của thiếu gia Ba Ớt kể cũng hiện thực, bức phá, cách mạng vì thiếu gia hay Nói ngược, chẳng hạn "hạ bất chánh, thượng tắc loạn" hay "thờ người sinh chứ ai thờ người dưỡng" ... "Cốt cách văn nhân" của thiếu gia Ba Ớt ứng sử với năm người em khác giống chung giàn vẹn toàn đến nỗi họ đành kính nhi viễn chi như khách yêu thơ đối với thi tài Hàn Mặc Tử.

Người ta : em ngã anh nưng,
Chúng tôi : em ngã anh bưng miệng cười.

Còn nếu dựa vào các lượt đi chùa, làm Phật sự, đặc biệt như vụ việc Trì Địa ở Trúc Lâm Tự, để định mức thuần thành mộ đạo cũng như qua cuộc sống thường nhật để đánh giá hạnh dâu con, đức huynh trưởng ... để cọng điểm đủ hai chiếu khán lên cõi vĩnh hằng thì chắc chắn 99,99% vợ chồng thiếu gia Ba Ớt đứng đầu sổ khi hạn trần của họ hạ dấu chấm hết. Vợ chồng thiếu gia Ba Ớt không thể không trực thăng lên trên ấy. Sao vậy ? - Dạ, vì hồn họ phiêu diêu đi chỗ khác (trong 0,1% xác suất còn sót lại) lỡ gặp hồn lão bà "goá bụa" họ Phan, người nẻ ra thiếu gia Ba Ớt thì tình huống "tế nhị" quá : Lụ khụ giữa hai cụ ông họ Đinh và họ Phạm, một tay cụ bà xách thùng nước sạch, tay kia nâng niu nguyên tấm hình ai đó tươi mát trong cái quần đùi, chiếc áo thun màu trắng, tay ôm trái banh, tay chống nạnh ... vang bóng một thời. Phan lão bà lặng nhìn chờ câu trả lời : Sao mồm ai hằng niệm Phật mà lại ngậm máu phun ai ? Sao mắt ai hằng trết đen mà trắng dã bạc lòng ? Sao ai " trọng điều lễ nghĩa" mà thủ túc bất cận nhân tình ?

Sau lưng ba cụ già, phía dưới bàn thờ gia tiên hư ảo khói trầm là một bức hoành phi mạ vàng với đôi câu đối chữ nho theo lối triện góc cạnh màu châu sa :


重 生 輕 养 非 義 子
口 佛 心 蛇 濊 禅 門 (1)


Qua và sau giấc mơ TVQ, thiếu gia Ba Ớt tự kỷ ám thị mình là hậu duệ của vua Đinh. Đâu đâu thiếu gia cũng không bỏ lỡ cơ hội nhắc sử chăn trâu, xa gần liên kết mối liên hệ huyết thống cờ lau thành nghiệp đế. Thậm chí thiếu gia Ba Ớt định kiến " Họ Đinh làm quan, họ Phan làm lính ", ý thiếu gia Ba Ớt muốn nhắc tới quan đại sứ rồi quan thứ trưởng bộ ngoại giao (cs) họ Đinh nào đó, mà thịnh thời của ông, thiếu gia Ba Ớt chưa lần diện kiến ; trong khi xưa nay sinh kế cầu thực của thiếu gia Ba Ớt là lính may mặc bình thường lương thiện, chứ có ngọc đai, kim mão, ngân bào gì đâu. Chẳng lẽ bởi ham chơi biếng học thuở thiếu thời, "con đường bút nghiên dang dở", thiếu gia Ba Ớt không len vào được hoạn lộ quan trường (dẫu là quan như các quan cổ thụ trong triều đình đỏ) do đó mắc bệnh tưởng thấy sang bắt quàng làm họ ?

Trong tờ nguyệt san Cách Mạng Dân Tộc, có một tác giả ký tên Đinh Nh. Ng., thế là thiếu gia Ba Ớt cấp tốc nhờ người truy dùm vì đinh ninh tác giả nầy hẳn là hậu duệ của Đinh Tiên Hoàng Đế như mình. Gặp tác giả bài báo, hỏi ra chỉ biết cười ruồi : Đinh Nh. Ng. là bút hiệu của một cụ ông họ Phan, bút hiệu nầy, theo lời đương sự, ngụ nghĩa Tớ ( Đinh "丁 " = đàn ông, con trai = Tôi ) Nguyên (gốc) là nhà Nho ! Chữ và nghĩa trong văn tự việt nam, thiệt tình không đơn giản.

Ít người biết nhà thơ Tô Thùy Yên, nhà văn Thanh Lãng, học giả Thích Minh Châu vốn họ Đinh và may cho nhân vật chính Đinh Lăng trong tập truyện thơ Đồi Thông Hai Mộ, càng may hơn nữa cho nhà thơ Đinh Hùng qua đời từ 1967, chứ không thì ...

Còn những thường dân như Đinh Xiêm, Đinh Duy, Đinh Toàn, Đinh Tài, biết đến bao giờ mới được vợ chồng thiếu gia Ba Ớt mời tới tư gia để nhập động Hoa Lư ?



Hàn Lệ Nhân

(1)
Trọng sinh khinh dưỡng phi nghĩa tử
Khẩu Phật tâm xà uế thiền môn
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.09.2006 20:32:12 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 05.11.2005 22:42:57
Con Chim Ở Lại Cành Bàng

Hàn Lệ Nhân


Cha mẹ hoài thương những đứa con xa…



Trong chín đứa con của Cậu Mẹ, chị Ngọc Sương đứng thứ tư. Chị lấy chồng năm tôi còn nhỏ dại. Gia đình chồng chị cách gia đình tôi chỉ một khoảng sân do đó Cậu Mẹ vẫn coi như chị chưa hề xuất giá. Hầu như chiều nào chị cũng qua thăm Cậu Mẹ và các em.

Kỷ niệm sâu đậm trong tôi về chị là khoảng thời gian tôi bắt đầu có bạn gái đến ngày tôi ra đi. Tuy còn đi học và Cậu Mẹ không giàu có gì nhưng phải thú thật rằng thuở đó tôi luôn luôn " hào hoa phong nhã, mặt mày nhẳn nhụi, áo quần bảnh bao ". Được thế phần lớn là nhờ một tay chị. Chẳng mấy khi chị từ chối " giúp " tôi lấy le với bạn gái. Thường trưa thứ bảy nào thấy tôi qua chơi dỡn với con Lệ, con Trang, con Titi - mấy đứa con của chị - chị biết ngay cậu ấm đã có " vần đề " dành cho chị, vì chị biết rất rõ thứ bảy và chủ nhật cậu ấm thường xuyên " bận " lắm. Mỗi lần như vậy, thường chị chỉ ngắn gọn : Tí nữa. Nghĩa là tí nữa chị sẽ qua thăm Cậu Mẹ luôn thể. Chị phải kín đáo vì chồng chị, anh T., cũng có hai cậu ấm non đang thời kỳ tập tểnh học đòi làm " hiệp sĩ " như tôi. Cũng có khi chị làm lơ, bỏ mặc. Tôi biết chị kẹt, song con tim tôi lại sẵn lý luận chính đáng thế nầy: Chị kẹt nhưng tôi còn kẹt hơn nữa, hẹn hò đâu đã vào đấy, ngay từ buổi đưa nàng về từ chủ nhật tuần trước ! Quân tử nhất ngôn mà . Chị giả vờ không " ý hội " sự thăm viếng của tôi, tôi liền dùng mọi cách khác, hoặc về nhà viết vài hàng tả oán nỗi khổ, rồi trước mặt hai cậu ấm non kia, tôi đường hoàng trao cho chị bảo là thư của anh H., anh T., hay của chị L. ; hoặc láo lếu kẹp thư " khiếu nại " trong một cuốn sách, nhờ chị giải thích câu trong " sách " muốn nói ý gì ; hoặc nữa tôi sai con em gái qua xạo chị là Cậu Mẹ cho gọi chị …v.v… và v.v… Rốt cuộc lần nào chị cũng phải " giúp " tôi cùng lúc mắng yêu : Đồ quỉ nà !

Mỗi độ Tết về, mãi đến năm tôi ra đi, tôi và hai cô em gái là người sung sướng nhất trong gia đình. Trọn sáng mồng một Tết, ba đứa ở rịt trước sân, ngóng chị qua chúc Tết Cậu Mẹ. Phong bao của tôi bao giờ cũng " cộm " hơn hai đứa kia, vì phân nửa, tôi nghĩ, chị dành cho nàng, dù năm đó nàng có là người bản xứ, tiếng địa phương gọi là Phù-sáo.

Tôi có ba anh và ba chị. Người anh cả ở Việt Nam, tôi chưa lần gặp mặt. Chị L. và anh T. mưu sinh tận Vạn Tượng, ít khi về. Vị chi mỗi năm, ngoài Cậu Mẹ, tôi còn được chị Ngọc Sương, chị B. và anh D. lì xì. Mà tôi thì chẳng bao giờ mừng tuổi hai cô em gái. Chúng nó con gái, đâu phải hào hoa lo cho ai như con trai ! Lớp áo học trò của tôi coi vậy mà dễ gợi lòng thông cảm của hàng xóm, đặc biệt của Cậu Mẹ và anh chị tôi vô cùng: Nó chưa làm ra tiền !

Năm 1973, tôi lên Vạn Tượng học lớp đệ nhất để tiện việc theo khoá việt văn thi tú tài toàn phần do thầy Võ Thu Tịnh hướng dẫn tại sứ quán VNCH, thời đại sứ Hoàng Cơ Thụy, là năm chị Ngọc Sương khổ với tôi nhất. Ở Vạn Tượng tôi đã có hai anh chị lớn chu toàn chuyện ăn ở, và ngoài số tiền túi rộng rãi của Cậu Mẹ và chị B. tháng tháng gửi bằng bưu phiếu lên, chị Ngọc Sương vẫn đều đều gửi riêng cho tôi " để em mua sách học thêm, may sắm cho hợp thời trang với chúng bạn ở kinh đô ".

Cũng như Cậu Mẹ, chị tôi không muốn tôi thua kém bầu bạn. Dưới mắt chị, bao giờ các em cũng bé nhỏ, cần sự đùm bọc của chị. Và có lẽ, cho đến đêm nay, niềm vui duy nhất mà tôi đã trao cho chị là ngày chị được tôi báo tin tôi đã đậu tú tài toàn phần. Đậu tú tài có nghĩa là tôi, thẳng em trai út của chị, sẽ được đi du học bên Pháp Mà đi Pháp, bấy giờ không phải là chuyện xảy ra hàng … năm trong xóm BQ. Chị nghĩ vậy nên rất hãnh diện. Có điều chị Ngọc Sương ơi, chị có biết đâu thằng em trai cưng của chị, từ ngày qua Pháp, nó đổ mồ hôi và phí thời giờ xuôi ngược lo cho cái bao tử và sinh hoạt với cộng đồng việt nam tị nạn nhiều hơn việc du học như chị kỳ vọng.

Bao nhiêu năm sống trên đất Pháp, vốn liếng văn hoá Pháp trong em, tổng kết lại, chẳng tăng hơn trước là bao. Bù lại, vốn liếng việt văn em chị khá hơn trước nhiều. Có trường hợp éo le nầy là bởi thời thế đưa đẩy chị ạ. Hoàn cảnh đất Mẹ đã ray rứt, đày đoạ lòng em, buộc em phải tìm hiểu về nó, về dân tộc con rồng, cháu tiên mà anh chị em ta vẫn hãnh diện theo truyền thống gia tộc. Chị ơi, càng tìm hiểu về cội nguồn bao nhiêu, tâm tư em càng khổ sở bấy nhiêu. Em khổ sở vì cho đến nay em vẫn chưa tìm ra câu trả lời, hay nhờ ai giải thích cho câu hỏi: Đất nước mình đẹp đẻ, phì nhiêu như thế ; giống nòi mình quật cường, hoà ái như thế, bởi nguyên nhân nào mà sau bao cuộc cách mạng với đầy đủ chính danh dậy lòng toàn dân, động lòng thế giới, nay vẫn còn lận đận thế nầy ? Dân tộc Việt là một dân tộc thông minh và yêu nước. Sử ta nói vậy. Sách vở ngoại quốc cũng nói vậy. Ngược dòng lịch sử nước nhà, từ sau đệ nhị thế chiến đến nay, em nghiệm thấy rằng người Việt quả thông minh và yêu nước, song yêu nước hết sức kém thông minh ! Ấy vì:

Dân tộc ta,
Mỗi người là một trái tim yêu đất nước
Mỗi người là một trái tim yêu quê hương.
Đã mấy chục năm trường,
Khi trái tim yêu đất nước
Gặp trái tim yêu quê hương
Lại biến thành đau thương !


Nỗi khổ tâm của em ứ ngập quá độ nên em phải để mặc nó trào ra ngòi bút … Đó là phương cách tự cứu duy nhất của em để còn có thể tiếp tục sống yêu đời, quí kiếp làm người, nhất là làm người Việt nam !

Người ta bảo " với sức người, sỏi đá cũng thành cơm ". Em chỉ thêm chữ Máu sau chữ Cơm. Đúng ra thì phải thay chữ cơm bằng chữ máu. Nhưng ai lại uống máu của chính mình bao giờ ! Thi sĩ Kiên Giang có viết trong Lúa Sạ Miền Nam: " Mẹ ơi ! Cơn trắng bởi mồ hôi ". Thực trạng đất nước buộc em viết lại: Chị ơi ! Cơm đỏ vì thấm máu !

Ngòi bút của em, em tự ví nó như cái cuốc cùn, con dao rỉ, thế mà nó đã làm bận lòng chị, chị ơi !

Mỗi hàng trong thư chị gửi là mỗi nhịp ru êm ả cho từng ngày trước mắt đời em. Khi em để tâm tư uất nghẹn trào ra ngòi bút, trong trăm điều suy tính an nguy, em nào nghĩ đến chị đâu ! Thế mà, ở tận bên kia góc trời, nước mắt chị vẫn chảy xuôi xuống sự yên lành của em ở tận phương nầy. Chị sợ ngòi bút của em chị làm giận lòng người ta rồi người ta sẽ hãm hại em của chị. Sao chị không sợ người ta giận ngòi bút của em mà lại hãm hại cây bàng và gia đình chị ? Giận cá chém thớt là bản chất cố hữu, là một trong dăm quốc sách của người ta mà.

Chị sợ hai chữ chính trị nên khuyên em đừng dấn thân vào quỉ đạo đó. Chị khuyên em đừng đi ngược chiều gió. Chị ơi, ngòi bút em chị chưa đủ tầm vóc của danh từ đó đâu. Em không làm chính trị, nhưng ở thời buổi nầy, không có lập trường chính trị rõ ràng thì chính quyền sẽ làm khổ đời mình, đời con cháu mình. Em không chuồi theo chiều gió chị khuyên chỉ vì chiều gió đó, nhân danh đủ thứ, đã và đang thổi ngược, tàn phá hương hoả tổ tiên, hủy diệt con người. Và vì không đủ sức cản gió, em mượn ngòi bút nói to lên sự tàn bạo của gió. Thế thôi.

Chị ghê sợ chính trị vì, theo chị, chính trị đã gây tan nát, chia lià và giết chóc. Chị ơi, tan nát, chia lià và giết chóc đâu do chính trị mà là do chính quyền, giai cấp thống trị !

Trước khi làm chính quyền, mọi nơi mọi người đều phải qua giai đoạn làm chính trị … salon ; kế tiếp là giai đoạn làm chính đảng. Có thứ chính trị, chính đảng nào lại không lớn giọng rêu rao chính nghĩa vì dân, vì nước của mình, hứa hẹn toàn điều tốt , nào tự do, độc lập ; nào tự cường, dân chủ, nào hạnh phúc ấm no … mình sẽ thực hiện cho dân cho nước khi được làm chính quyền. Mà một khi đã được làm chính quyền, qua sử sách cận đại nước nhà, có chính phủ nào làm chính trị hay chính đảng nữa đâu. Chính phủ thì phải làm chính quyền mà muốn bảo vệ chính quyền ( quyền lực ) người ta đã không nề hà bội ước, gây tan nát, chià lià và giết chóc !

Ngày em quyết định giải tỏa tâm tư lên trang giấy và bởi không cưu mang hoài bảo làm chính trị, chính đảng để sau nầy làm chính quyền, em đã dại dột tự nguyện thế nầy: Nếu mai nầy ta phản bội lý tưởng của ta, đi ngược tình tự dân tộc thì chính những tác phẩm của ta sẽ hủy diệt đời ta !


Trên cây bàng tàn đông, còn sót mỗi con chim Ngọc Sương và mấy nhúm ruột của chim sớm hôm ríu rít cho cây bàng bớt trơ trọi. Và tiếng hót đầm ấm, thân quen của con chim ở lại, có lẽ do ngày lại ngày, mà cây bàng không còn xúc cảm khi lắng nghe nên hằng hoài thương, mộng tưởng tiếng hót của những con chim đã biền biệt ngút ngàn !


Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.11.2005 02:41:25 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 08.11.2005 01:13:38
Chiếc Lá Cuối Cùng
Hàn Lệ Nhân


Mình gặp lại Mẹ lần đầu sau 16 năm xa cách. Bấy giờ tình hình đôi bờ nơi chốn cũ còn nhiều biến động, vả lại niềm tin trong mình đối với chính quyền bên kia bờ hoàn toàn tan tác, nên Mẹ con hẹn gặp nhau ở bên nầy bờ. Mỗi lần hình dung lại cái cảnh bên nầy biên giới, đứng trên bờ nhìn xuống dốc bến đổ, thấy Mẹ, năm đó đã 76, lụ khụ giữa hai đứa con lớn của anh chị, bước từng bước lên từng nấc thang dựng đứng là lòng mình bồi hồi...



Mẹ vốn là người thâm trầm ít nói, nên dù gặp lại cậu út, cục cưng của Mẹ sau bao nhiêu năm cách biệt, Mẹ vẫn không vồ vập, chỉ nắm chặt hai tay mình, lặng nhìn từ đầu xuống chân, nói nhỏ : Tưởng út không về gặp lại Mẹ !

Tuổi đã 76, thể chất có suy mà tóc Mẹ còn đen nhánh, răng còn nguyên, nói năng tỉnh táo như thường. Mái tóc dài quá lưng ngày nào búi tó nay không còn nữa. Năm ngày được sống lại với Mẹ, mình hoàn toàn lột xác thành cậu ấm ngày nào, Mẹ vẫn nhớ chi li sở thích ăn uống của cậu ấm : Út thì dễ tánh lắm, ăn chi cũng được ... miễn là ngon ! Riêng cái tật mọt sách của mình, chị Ngọc Sương bảo : Tủ sách của út, Mẹ vẫn giữ nguyên, cất kỹ hơn vàng, không cho ai đụng tới. Mình nói : sao Mẹ không cho các trường hay Hội Người Việt đi. Mẹ trả lời : Không được vì Mẹ thấy trong sách con gạch, đánh dấu bằng bút chì, ghi chú bên lề, đưa cho, Mẹ sợ có chuyện, bít lối con về ...

Thoắt cái đã đến hạn Mẹ và gia đình anh chị phải về. Chuyến đò cuối hôm đó vào lúc 4 giờ chiều. Phượng đỏ ven bờ sông nở rộ, người người lao xao xuống bến. Đi bên Mẹ mà hồn mình để đâu đâu. Bên kia sông là nơi chốn tìm về, xa xôi chi cam, chỉ độ 30 phút lênh đênh thôi, thế mà lại ngút ngàn gấp bao lần 12 giờ bay của phản lực 747 và 12 giờ xe lửa tốc hành.

Năn nỉ mãi quan thuế Thái Lan mới đặc biệt cho phép mình cõng Mẹ xuống đò, cố được ôm Mẹ thêm vài phút nữa : Mẹ còn khá nặng !

Hai năm sau, từ Pháp, duyên may mình được chọn đi công tác thiện nguyện cho Hội Học Đường Không Biên Giới ( Ecoles Sans Frontière ) ở Vientiane, với một cái hộ chiếu tây. Thế là mộng về chốn cũ đã thành. An toàn. Xong nhiệm vụ là mình bay về với Mẹ ngay. Sau cảnh tương phùng, việc đầu tiên là Mẹ đưa cho mình một cái chìa khoá : Đây là chìa khoá tủ sách của út ! Mẹ đã làm đúng lời dặn của Cậu ( gia đình mình gọi Cha bằng Cậu ) trước khi Cậu qua đời !

Trong 13 năm, sau ngày mở cửa, mình về thăm Mẹ được có 6 lần + 1, không tính thời gian gần hai năm mình về đón Mẹ qua Pháp thăm anh em chúng mình và các cháu, chắt. Những lần đàm luận đủ thứ chuyện trên trời, dưới đất với bà cụ, mình đều ghi âm lại cả. Mẹ ít học, nhưng chịu khó đọc sách và rất trân quí sách. Chuyện biết đọc biết viết của Mẹ phải kể là hy hữu. Thời con gái của Mẹ, ở làng quê nước ta, phụ nữ vốn rất ít được đi học. Mẹ xin đi học, ông bà ngoại không cho, bẳn gắt " con gái học làm chi, tổ để đọc thư trai ". Mẹ trả lời : " Biết đọc biết viết, trai có gửi thư mà mình biết đọc, có điều xấu hổ cũng chỉ mình mình biết còn hơn là không biết đọc, không biết viết nhờ người khác đọc hộ, viết giùm có phải ôốc dôộc ( tiếng Nghệ Tĩnh = xấu hổ ) hơn không ? " Mẹ lén học với người cậu của Mẹ, ông cậu Đường, một nhà cách mạng chống Pháp.

Mẹ có một trí nhớ kỳ lạ. Ngồi nghe bà cụ đọc vanh vách những bài thơ " quốc cấm " dài cả trăm câu thời chống Pháp, hay nguyên cuốn kinh nhật tụng mà lạnh người, bây giờ thỉnh thoảng nghe lại những băng mình đã ghi âm, mình vẫn ghê cho bộ nhớ của Mẹ.


Bên nầy ông anh kế tên D. qua đời ở tuổi 50, năm 2000. Mình là người chủ trương giấu Mẹ chuyện nầy, mình bảo với các anh chị : Em nghĩ không nên cho Mẹ biết, Mẹ đã 86, biết cũng vậy. Ai nói ra người đó chịu trách nhiệm, nếu Mẹ có mệnh hệ gì. Vậy là mọi người giữ kín chuyện " lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời ". Suốt thời gian mình về lần thứ năm, năm 2001, Mẹ hỏi thăm anh D. và gia đình anh ấy, mình nói : " anh D. bây giờ " khoẻ và yên" lắm rồi, Mẹ khỏi lo, ảnh gửi lời vấn an Mẹ... v.v... Mẹ cười nhẹ, chẳng nói gì.

Lần thứ sáu mình cấp tốc về thăm Mẹ nhằm tháng 4 năm 2004. Mẹ đã 90. Người bà cụ đã hư hao quá lắm rồi, chỉ còn da bọc xương, tuy vẫn còn minh mẫn. Trước kia mình thích cầm tay Mẹ đặt lên bàn tay trái của mình, tay phải vuốt vuốt chơi. Lần nầy đặt bàn tay của Mẹ lên bàn tay mình mà lòng rưng rưng kim chích, nó khô tóp, lọt thỏm trong lòng tay mình. Mẹ bảo " con về kỳ nầy, Mẹ không còn sức ngồi bóc nem chua có lá chùm ruột cho con nhắm với bia như mọi khi ".

Trong sinh kế, mình có nhiều cơ hội chu du qua nhiều nước. Mẹ lại là người hay dặn mình khoan về Việt Nam, Mẹ biết bên nầy mình có vài sinh hoạt không vừa lòng người ta :

Mẹ ơi, từ lúc giã từ,
Con đi khắp chốn chỉ trừ Việt Nam !


Mẹ sợ ...

Trong lần thứ sáu, có bà xã cùng về, cả tháng ... Mẹ nói : " Mẹ biết bệnh tình của Mẹ, chỉ là bệnh già. Mẹ muốn thấy con đưa vợ về quê mình một lần, dăm bảy ngày cho biết." Được Mẹ cho phép, mình nghĩ " vả lại Việt Nam là đất nước của 80 triệu người việt nam chứ có phải là hương hoả của một nhúm người nào đâu ". Chồng chị Ngọc Sương đưa hai đứa mình về Việt Nam bằng xe nhà. Đây là mấy ngày đầu tiên trong đời mình được đặt chân lên vùng quê Mẹ, ăn bữa cơm hoàn toàn Việt : đất Việt, thực phẩm Việt, bếp Việt ! Lần đầu tiên được phiêu phiêu trên Đèo Hải Vân, tản bộ trong lòng phố cổ Hội An ... rồi Huế ... rồi leo tuốt lên động Phong Nha Kẻ Bàng ...Trở lại gặp Mẹ, Mẹ bảo : Từ rày " Quê Mẹ trong tôi " hết "chỉ là văn chương " rồi nha. (1) Con thấy thế nào ? Mình trả lời : Con có viết được mấy câu, Mẹ nghe thử :

Ra đi khi trời chưa thấy đất
Khi về thành phố đã lên đèn.
Métro, boulot, dodo, (2)
Càng dài viễn xứ càng mơ ước nhiều.

Mơ tôi theo đài VTV4,
Bay về trời nước đẹp vô ngần.
Xưa yêu quê nhờ ca dao,
Giờ ngàn cảnh thật lòng xao xuyến lòng.

Trời đất nước như một bức tranh thủy mạc
Mà Thượng Đế đã dành riêng trao.
Mới chỉ lần đầu
Mà đã như ngày nào
Thắm thiết dạt dào
Đến nghẹn ngào.


Chiều ôm Mẹ, chào trở lại Pháp, linh tính cho mình biết đây là lần cuối cùng mình còn được nghe Mẹ nói. Ánh mắt của Mẹ chiều hôm đó, cho tới đêm nay mình vẫn không sao diễn tả nổi, mặc dù đã từng viết nguyên một bài biên khảo khá dài về mấy chục loại mắt của con người.(3) Thế mới hay vốn liếng việt văn học lóm của mình trong 35 năm nay thật còn giới hạn lắm.

Trở lại Pháp đúng 30 ngày thì nhận được tin : Chiếc Lá Cuối Cùng đã rụng ! Và là lần thứ bảy mình về, nhìn hình Mẹ trên áo quan. Mẹ mất ngày 10 tháng 6 năm 2004 ( 23 tháng Tư năm Giáp Thân ):

Hai tay ôm lá vào lòng,
Hỡi ôi chiếc lá cuối cùng là đây !


Sau ngày an táng Mẹ, chị Ngọc Sương kể : Mẹ biết chuyện cậu D. ( anh kế mình) mất từ lâu, mấy cụ chia buồn với Mẹ trong chùa ! Hai tuần trước Mẹ có nói với chị : Mềng biết chuyện thằng D. từ đầu, Mềng vẫn đọc kinh cầu siêu cho nó, nhưng " người ta " muốn giấu thì mềng cũng không hỏi "!



Hàn Lệ Nhân
(Cho giỗ đầu ngày Mẹ mất)

(1) Lời trong bản nhạc Viễn Khúc Việt Nam (HLN)
(2) Xe điện ngầm, đi làm, ngủ nghê.
(3) Những Con Mắt Trần Gian (nhìn từ phương Đông), HLN.


*** Hi Anh HLN, ttl embeded nhạc thành "hình players" cho anh. Coi cho đẹp... hihihi... Nếu anh thích cách này thì để link nhạc của anh vào
"embed" link nhạc "/embed" <= Và thay " " bằng [ ]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.03.2006 02:15:16 bởi TTL >

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 10.11.2005 07:30:26
Bác Cả

Hàn Lệ Nhân


Bác cả tôi hiện sống tại Miền Bắc. Tôi không biết chính xác năm nay bác bao nhiêu tuổi nhưng dựa theo tuổi cô hai hiện sống tại Pháp, tôi có thể phỏng đoán tuổi bác cả không dưới 70.

Bác cả hầu như không được sống gần ông bà nội vì khi ông bà nội dắt díu nhau vào Nam kiếm sống, ông bà cố nội đã giữ bác cả lại, đích tôn mà, và nuôi dưỡng cho đến khôn lớn thành tài. Trước nay bác cả và bố tôi chưa lần gặp nhau. Tôi biết bác cả nhờ hình ảnh và thư từ.

Bác cả có gương mặt chữ điền, thông minh và cương nghị. Thời trẻ hẳn bác cả bô trai ra phết. Qua thư từ của bác cả cọng thêm cái thấy, cái nghe, cái đọc về con người xhcnvn của riêng mình, tôi hình dung ra không mấy khó khăn phần trong của bác cả. Ấy vì, trong khi đọc thư bác, thú thật, tôi có ngay cảm tưởng như đã được đọc, được nghe đâu đó cái nội dung tương tự. Cũng đế quốc Mỹ xâm lược, kim tiền thống soái, tư bản bóc lột … ; cũng xã hội chủ nghĩa đỉnh cao trí tuệ của loài người, Miền Nam trụy lạc, thối nát, nghèo đói, trường kỳ kháng chiến …và nhất là để hoàn thành thiên đường xhcn, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo anh minh của Đảng và Nhà nước, đều hồ hởi nhất trí thắt lưng buộc bụng nhiều và lâu hơn nữa.

Gom góp lời bố mẹ thường xuyên kể, ý niệm của tôi về bác hết sức ngây thơ. Tôi nghĩ dù sao với nền học vấn cao sâu, bác tôi tất phải khác những người khác trên đất Bắc ở mức độ suy tư, nhận xét, kiểm chứng, so sánh trên phương diện thực trạng đất nước… Thế mà tôi biết mình lầm. Tôi suy nghĩ nhiều về ông bác chưa lần gặp mặt và ghê cho bộ máy trồng người của họ. Mới hay càng được họ ưu đãi bao nhiêu, con người việt nam sống trên đất Bắc càng phải biết nhất trí bấy nhiêu. Nói cách khác, càng biết hồ hởi nhất trí bao nhiêu, người dân miền Bắc càng dễ trở thành đối tượng tốt của họ bấy nhiêu : Hồng hơn Chuyên, bố hay nói vậy. Quy luật xhcn là thế. Bác cả tôi thuộc thành phần trí thức trung kiên và cao cấp của họ. Tuổi đảng của bác cả ít ra cũng hơn gấp đôi tuổi đời của tôi, tức tuyệt đối nhập tâm thực thi năm lời thề với đảng. (1)

Sau đại thắng mùa xuân, cụ thể là khởi từ phong trào bỏ phiếu bằng chân ra biển, trong những lá thư từ Paris về cho bác, tôi đặt nhiều câu hỏi phản ánh rừng thắc mắc của mình về hiện tình đất nước. Không bao giờ bác cả trả lời những câu hỏi tả khuynh, xét lại đó.

Sau khi bố qua đời, mẹ viết thư khuyên tôi từ rày nếu có thư từ với bác cả thì chỉ nên thăm hỏi trong tình ruột thịt thôi chứ đừng hỏi nầy, hỏi nọ mà mẹ buồn. Thương mẹ, tôi chủ động ít liên lạc với bác cả từ đó. Có một bận, mẹ cho tôi biết bác được họ cho qua Liên Sô học thêm. Tôi mừng cho bác. Bẳng hơn một năm sau, có người qua Paris, nói với tôi rằng bác chưa đi Liên Sô như dự định, một phần là tại tôi. Bác cả tôi nhắn qua với người đó là họ có cho người đến " gặp " tôi tại chùa KA. Đại để, bác cả tôi đã không may có cô cháu " phản động " là tôi. Tôi đã trả lời người đó rằng " tôi là cái thớ gì mà bận lòng họ vậy, hơn nữa, thiếu vạn gì gia đình đồng cảnh ngộ với gia đình tôi ".

Từ chuyện trắc trở đi Liên Sô của bác cả, tôi nhớ lại trước đó có một anh chàng tên Dũng đến gặp tôi tận nhà. Câu chuyện diễn tiến như sau: Hồi đó nhà tôi còn làm việc cho hãng FP, phương tiện di chuyển của chàng là Métro. Theo lời nhà tôi kể lại thì liên tiếp mấy ngày, có một chàng cứ lẽo đẽo theo nhà tôi. Một hôm, dưới đường xe điện ngầm đến sở làm, anh chàng mượn dịp nhà tôi đang đọc một cuốn sách chữ việt để đến làm quen, sau đó nói với nhà tôi là có quen biết tôi. Mấy hôm sau, cũng trong Métro, anh chàng ngõ ý với nhà tôi là muốn đến thăm tôi. Nhà tôi về thuật lại, tôi cố lục soát trong ký ức mà không tài nào nhớ ra mình có quen biết người nào như thế. Tuy vậy, với sự đồng ý của nhà tôi, chúng tôi mời hắn đến.

Trưa hôm đó, nhằm ngày thứ bảy, đại gia đình tôi đang sửa soạn ăn trưa, có mặt ông bạn thân của nhà tôi là NNL, một trong mấy sáng lập viên cột trụ của GĐPTQĐ. Anh chàng đến rất đúng giờ, và nhằm ngay lúc tôi đang tập hát với nhà tôi. NNL ở sau bếp. Thấy anh chàng tôi nhớ ra ngay là đã gặp hắn nhiều lần ở quán cơm sinh viên trong cư xá đại học Paris 14, trạm Cité ( ligne de sceaux ). Tôi biết cu cậu nầy đến đây không ngoài chủ ý ôn lại bài học thuộc lòng của một con vẹt tự nhuộm đỏ từ sau mùa xuân 75.

Sau màn xã giao thông lệ, hắn ngây thơ cụ hỏi tôi sao lại hát những bản nhạc như vầy trong khi đất nước ta đã hoà bình và thống nhất. Được gãi trúng chỗ ngứa, vợ chồng tôi đi ngay một đường xa luân chiến cực kỳ " phản động ". Riêng tôi, bao nhiêu câu hỏi tôi viết ra cho bác cả ngày nào, nay tôi lập lại y chang bằng lời nói, nhẹ nhàng, rất đàn bà nhưng rốt cuộc cũng chẳng nhận được câu trả lời nào mới. Vẹt mà.

Ngay lúc đó, NNL dưới bếp đi lên, thấy hắn, vội thối lui trở lại bếp và ngoắt tay ra hiệu kêu nhà tôi xuống. Té ra cách đó mấy tuần, đồng chí Dũng cũng đã ghé thăm NNL tận nhà rồi !

Thấy NNL, cu cậu vẫn vui vẻ bắt tay chào hỏi, nhưng sau đó đồng chí ta đổi ngay đề tài nói chuyện, mãi cho đến khi chào ra về. Và cũng từ đó chúng tôi không còn gặp lại đồng chí Dũng nữa, có người bảo nghe đâu hắn đã hồ hởi về nước góp sức " biến sỏi đá thành cơm ", " bay theo đường dân tộc đang bay ".

Chẳng lẽ chàng " công an " làm đình trệ chuyến du học bổ túc của bác cả tôi lại là hắn ?

Tình cảnh giữa bác cả, bố tôi và tôi chẳng khác trường hợp cậu Ch. và cậu T. cùng mấy bà dì ruột hiện ở Hà Bắc. Tình ruột rà đã đành vì xa mặt nên kém phần thân ái, nhưng hỡi ôi, sự khác biệt chính kiến kiểu việt nam mới nát cả thâm tình.

Bác cả tôi mong một thế giới đại đồng, noi gương ai đó, xác quyết chủ nghĩa cộng sản (g) là phương tiện duy nhất đem thịnh vượng cho xứ sở, ấm no hạnh phúc cho muôn dân.

Là đàn bà tâm trí tôi nhỏ bé, nông cạn chỉ đủ chứa mỗi hình cong chữ S. Trình độ về chủ thuyết chủ nghĩa trong tôi, thú thật, hoàn toàn không có vì tôi quan niệm " chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương, chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm ? ". Thế thôi.

Thưa bác cả,

Bác của bác vĩ đại bao nhiêu nên lấy mạng người nuôi chủ nghĩa tức như Thành Cát Tư Hản từng nói : " Ta vì mưu đồ việc thiên hạ, há phải thương tiếc lũ dân đen. ( ngã vị thiên hạ kế, khởi tích tiểu dân tai ).

Cháu tầm thường nên chỉ biết tư tưởng phụng sự con người. Không vì con người dưới đất thì mọi tư tưởng lên trời cũng chỉ là số âm.

Dẫu bỏ ra ngoài thâm tình chung huyết thống, trong cháu, cháu vẫn kính phục bác ở điểm quang minh chính đại trên phương diện lập trường, có nghĩa là thủy chung bác mãi chính danh, sắt son với con đường đã chọn. Không như một số người quanh cháu, trước 1975 : ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản ; sau 1975 : khoác áo tị nạn lũng đoạn di cư, và kỳ lạ, tất cả trong Liên Hội đều là dân tị nạn chính trị cs sau 30/04/1975, rũ nhau tổ chức nhảy đầm ngay trong đêm quốc hận, thứ bảy 30/04/2005, dưới tấm bích chương Phi Chính Trị ! Ai vô tình ? Ai cố ý ? Ai ru ngủ ai trên sàn nhảy ? Có người nhận định hiện tượng nầy là :

Sóng nhục nhằn chưa gợn triều bể khổ,
Hờn vượt biên đã đóng bụi đất lành !

Mẹ bảo dù sao cũng là bác cả, tuổi đời tuổi đảng đều cao hơn gấp đôi tuổi cháu, sự nhận định của bác cả tất chín mùi, kinh nghiệm, nghiêm chỉnh hơn hẳn sự nhận định của cháu. Cháu đâu dám nghĩ khác. Tuy nhiên, mẹ đâu biết, đối thoại với cháu, trên khía cạnh lập trường, bác cả đã không lấy tuổi đè người, không dùng quyền trưởng thượng để cưỡng lý, như xưa, thuở sinh thời, bố cháu đã áp dụng với gia đình. Bác cháu ta đối thoại với nhau như hai người bạn trưởng thành, như hai thế hệ con dân nước Việt ngồi hai góc của một cái bàn, có hai cái nhìn khác nhau.

Hai bác cháu ta đã không chỉ trích lý tưởng đã chọn của nhau, không cho sự lựa chọn của nhau là bất trí. Riêng bác đã dạy cháu một điều cao quí là đừng bất nhất. Vì người ta chỉ xem thường những kẻ bất nhất. Dân gian gọi là nhổ ra liếm lại. Có lỡ bất trí thì hãy im lặng vì im lặng là phong thái giữ được sự kính trọng của đối phương. Cho nên, viết về bác đêm nay, cháu không đặt câu hỏi và cũng không còn thắc mắc vì sao bác không trả lời những câu hỏi của cháu ngày trước.

Hàn Lệ Nhân

(1) Năm lời thề gia nhập đảng CSVN :

1. Tuyệt đối trung thành với đảng, trung thành đến chết không thôi, nếu phản bội xin chịu tội tử hình.
2. Giữ bí mật của đảng đến cùng. Nếu sa vào tay giặc, dù có bị tra tấn đến chết cũng không khai.

3. Luôn luôn là con em của nhân dân, dựa vào dân, cùng nhân dân đấu tranh đến cùng.

4. Tuyệt đối tin tưởng ở chủ nghĩa cộng sản, bỏ tất cả các tín ngưỡng khác.

5. Kề vai sát cánh, chung sức đấu tranh để giải phóng dân tộc khỏi mọi xiềng xích phong kiến đế quốc, tiến tới thế giới đại đồng.( trích " Chỉ Một Con Đường, nxb Thanh Niên, Hà Nội-1974, trang 25).


Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 27.11.2005 02:36:59
Tứ Nhân Bang

Hàn Lệ Nhân


Ông nội có ba người bạn chí cốt, gộp lại thành "Tứ Nhân Bang" : Ông bác Nguyễn : Sáng lập viên trụ cột GĐPT ; ông bác Phan : Lý thuyết gia-sáng lập viên kiêm chủ nhiệm, chủ bút, bỉnh bút, trụ bút, cộng tác viên và nhiều "trọng trách linh tinh" khác của tờ PV - "cơ quan ngôn luận" của nhóm ĐM, trong đó có cụ cố Văn ; ông bác Trần : Sáng lập viên chủ nhiệm, chủ bút HV, tờ báo quay Ronéo đầu tiên trong cộng đồng người việt tỵ nạn tại Pháp, tác giả cuốn Thanh Niên, luận đề chính trị và ông nội: Long tong.

Trong "Tứ Nhân Bang" mỗi người có một biệt danh dí dõm chỉ dùng giữa họ với nhau :

1/ Cửu Chỉ Tuyệt Tình = Ông bác Phan, Vọng gọi bằng ông Phan. Cửu Chỉ vì ông Phan khuyết một ngón tay ; Tuyệt Tình vì ông Phan không chịu lấy vợ. Ông nội hay đùa «léng phéng Tuyệt Tình thành Tuyệt Tự», ông bác Trần tếu hơn «Thằng Lạc (ông nội) nói có lý vì thiếu một ngón mà thực sự không biết thiếu ngón nào».

2/ Ba Ái = Ông bác Nguyễn, Vọng gọi là ông Nguyễn. Ba vì ông Nguyễn quá khéo léo trong giao tế đến mức Ba Phải, ai nói gì cũng Oui cũng Yes ; Ái vì ông L cao to như ông bác Vũ.

3/ Thằng Công = Ông bác Trần, Vọng gọi là ông Trần. Trước kia biệt danh của ông Trần là Philoso-Fou ( cách chơi chữ của ông nội : Philosophe = triết gia , Fou = Điên/khùng ) sau thấy dài quá mới đổi thành Thằng Công. Công vì dáng cách và lối ăn mặc của ông Trần rất công tử nhưng đọc theo tiếng Pháp vẫn là thằng khùng (le con).

4/ Thằng Lạc = Ông nội. Lạc vì ông nội gốc bộ tộc Ba-Na (lạc loài, lạc vào sinh hoạt cộng đồng VN tỵ nạn), đọc trại theo tiếng Pháp thành l'art = nghệ thuật vì ông nội chỉ sinh hoạt văn nghệ thi phú, mù tịt lãnh vực chính trị. Nhập Pháp tịch cải biên Ba-Na thành Bernard. Người Ba-Na vốn chân chất, thẳng tánh. Thương ai có thể móc ruột cho người đó, ghét ai thì người đó có hấp hối trước mắt cũng quay lưng. Người Ba-Na hay nói " Gây niềm tin không khó, lấy lại niềm tin không dễ ". Lấy lại niềm tin nơi ông nội thì vô phương.

Mối thâm giao giữa "Tứ Nhân Bang" phải tràng giang đại hải may ra hết chuyện, ở đây Vọng chỉ trích lược vài nét về 3 người bạn qua lời kể của bà nội mà Vọng thích thôi :

1/ Ông bác Trần

Ông Trần là người Huế - Huế chay, Huế cả khi phát âm tiếng Pháp, tiếng Anh - cùng một tuổi với ông nội, sanh trước ông nội 4 tháng, du học tại Sorbonne-Paris từ 1973. Phải công tâm nhận là ông Trần rất đẹp trai, cao ráo (trên 1 thước 70), lịch sự, cọng một bồ triết lý Đông-Tây ngoài học vị chuyên môn. Ông nội gặp ông Trần từ 197... trong Nghị Hội Thanh Niên VN tại Âu Châu 1 ở Brunoy (nam Paris) do ông Trần làm trưởng ban tổ chức, kế đó cùng sinh hoạt GĐPT. Họ dính vào nhau nhân ông nội soạn tập nhạc sinh hoạt GĐPT lấy tựa là Sống. Ông Trần phụ ông nội cắt dán lên trang các bản nhạc do ông nội kẻ ký âm, đánh máy, bỏ dấu tay ; có ông bác An Bang lo phần cọ tên từng bản nhạc bằng Lettraset, ông bác Nguyễn Đức vẽ bià và phụ bản. Bốn tháng cu ki như thế, bản vỗ (morasse = bản in thử cuối cùng trước khi chính thức in hàng loạt = bon à tirer – BAT) tập nhạc được nhà in tây in ra được đâu chục bản. Chủ nhật tuần sau, lên sinh hoạt như thường lệ, có tiếng rầm rì về lời bạt do ông nội viết trong tập Sống, nội dung chính là để cảm ơn các ông bác nêu trên vậy thôi. Tiếng rầm rì là do ông nội đã ghi tên phương trượng chùa, người viết bài giới thiệu, ở sau cùng thay vì phải ghi tuốt lên trên tên các ông bác. "Đặc sứ" của GĐPT đề nghị ông nội lật ngược thứ tự trong bài bạt. Ông nội nói " thì ai góp công với tôi như thế nào tôi ghi vậy, phương trượng có dón tay làm gì đâu, vả lại anh cũng biết trong nghi thức xã giao, tiếp tân người đến sau cùng là người quan trọng nhất, trong bài bạt tôi viết rõ " đặc biệt ghi ân phương trượng đã ..." . Người kia cứ lải nhải nhưng-bởi-tại vì ... lộ ý ép ông nội đảo ngược thứ tự để vừa lòng chứng minh sư. Ông nội lên hỏi thẳng sư trù trì, sư tinh tế trả lời " tùy số đông quyết định". Ông nội bỏ đi xuống, chẳng nói chẳng rằng xé ngay tờ bạt trước mặt các ông bác : Vậy thì tập nhạc không cần lời bạt !

Tập nhạc vẫn được in ra, GĐPT chỉ việc thu nhập. In bao nhiêu bản, tái bản bao nhiêu lần ông nội không màng hỏi tới. Ông nội Mất tờ bạt nhưng Được ông bác Trần và ông bác Nguyễn.

Đến năm 198..., vì tham vọng chính trị, ông Trần đưa vợ qua định cư bên Mỹ. 13 năm chung sống êm ấm bên Pháp hai người không có con. Qua Mỹ được đúng 6 tháng họ rã đám. Nếu cao trào Vác Ngà Voi đã mang lại cho ông bác Nguyễn một cô vợ trẻ xinh như mộng thì ngược lại thổi bay mất tiêu cô vợ đẹp như mơ của ông Trần. Di cảo của ông nội có ghi rõ chuyện trên người ông Trần có mén vì hảo tâm nuôi con rận đực quanh váy vợ ; chuyện vợ ông Trần tránh mặt ông nội khi ông nội qua Mỹ nhưng ở đây không phải lúc, không đúng chỗ để nêu ra, duy câu nầy làm Vọng suy nghĩ :

[« ... Mới hay tình nghĩa vợ chồng cũng tương tự trái cam, quả quýt. Cùng một hạt giống mà khi ươm ở đất nầy thì sinh lá xanh trái ngọt, trồng ở đất kia lại nở cành lọi cùi chua hay ngược lại. »]

Mất vợ rồi, ông Trần càng hăng, từ chính trị sa-lông, lao vào chính đảng, có chân trong VQ, dan díu với Tiến Sĩ Gạo hay Tiến Sĩ Ceta và được/bị nêu danh trong bảng phong thần Lật Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị của Lê Trọng Văn.

Sau khi rời xứ Pháp cho tới lúc qua đời, ông Trần và ông nội gặp lại nhau 6 lần, 2 lần ông nội qua Cali, 4 lần ông Trần về lại Paris.

Qua thập niên 90 của thế kỷ trước, ông Trần quyết định về VN dạy ở Đại Học Mở (Open U). Con thoi giữa VN-USA được mấy năm thì ông Trần phát bệnh rồi mất tại San Francisco năm ... Mối thâm giao giữa ông bác TSH-LND và ông nội có thể tóm gọn trong hai câu nói của họ :

"Cái gì Thằng Công chịu làm Thằng Lạc làm theo
Cái gì Thằng Lạc chịu làm Thằng Công làm theo"

Mấy năm cuối đời, ông Trần soạn được hai tập sách, 1 về Quản Trị (Management), 1 về Tiếp Thị (Marketing).

2/ Ông bác Nguyễn

Ông Nguyễn là em rể hụt của ông nội, gốc Thanh Hoá. Tánh tình điềm đạm, ép mình trong "dĩ hoà vi quý". Một bụng giáo lý và là soạn giả các vở kịch trong mỗi mùa Phật Đản, diễn tại rạp Maubert Mutualité, Paris quận 5.

Tình cảm giữa ông Nguyễn và ông nội bỗng dưng phai nhạt, không do chuyện không thành giữa bà cô và ông Nguyễn mà, mãi lâu sau này, chỉ do một câu nói – có thể vui miệng lỡ lời - của ông Nguyễn qua một bản nhạc. Ông nội không ham Karaoke nên ít lưu tâm. Ông Nguyễn thì ngược lại. Bà nội kể : Hôm vợ chồng ông Nguyễn mời ông bà nội đến nhà dùng cơm trưa, có cả 4 trụ khác của GĐPT : Vợ chồng ông bác Lê và vợ chồng ông bác Võ. Sau đó là mục Karaoke. Bà bác Lê ca một bài gì đó, hoà âm êm ả, lạ và rất hay. Nghe xong ông nội thích quá, bảo " hoà âm bản nhạc nghe lạ như nhạc dịch ". Ông Nguyễn đáp liền «đâu có, đó là bản Một Ngày Không Gọi Nhau của Trúc Hồ, Như Quỳnh hát. Nhạc Việt 100%. Tưởng cái gì bồ cũng biết ». Ông nội không nói gì cho đến khi ra về. Vợ chồng ông bác Nguyễn vẫn thỉnh thoảng vô tâm mời, ông nội viện đủ cớ để khước từ ; nói chuyện qua điện thoại, ông nội bảo đang "dỡ tay" để cắt ngang câu chuyện, tắt máy. Tình cờ gặp nhau hai cụ vẫn tay bắt mặt mừng nhưng tâm sự như trước thì không và ông nội chẳng những không mời vợ chồng ông bác Nguyễn đến nhà như xưa mà cũng không trở lại nhà họ kể từ hôm đó. Tất nhiên vợ chồng ông bác Nguyễn cũng nhận ra sự lơi dần đó, truy hỏi nhưng đời nào ông nội nói lý do ra. Dân Ba-Na mà. Chín năm sau ông nội mất trong một tai nạn máy bay. Ông bác Nguyễn khóc trước linh vị ông nội, nhắc đi nhắc lại câu hỏi vì đâu xảy ra sự lạnh nhạt ?

Trích Di Cảo của Ông Nội :

[ «... Đã tự nguyện đi vác tù và thì khác gì chuyện làm dâu trăm họ cho nên chê khen là nguyên lý lở bồi. Thương ghét trong giao tế cũng vậy duy một điều mình kỵ nhất là tị hiềm, đã gọi là thâm giao mà ngầm óc tị hiềm thì nguy hiểm hơn cả người ghét mình, hơn cả đối phương.[...] "Tưởng cái gì bồ cũng biết", câu nầy ai nói không sao nhưng bố ấy nói thì không được. Té ra bao nhiêu năm qua lại, bố ấy rắp tâm rình cơ hội để nói câu đó, tranh đua chi chữ Biết.]

3/ Ông bác Phan

Ông Phan sinh quán tại Nha Trang-Khánh Hoà, lớn hơn ông nội 4 tuổi, bấy giờ tỵ nạn tại Toulouse, nam Pháp. Họ gặp nhau cũng trong Nghị Hội Thanh Niên VN tại Âu Châu 1 nói trên, dính vào nhau kể từ Nghị Hội TNVNAC 2 tại Strasbourg, đông bắc Pháp, được tổ chức sau Nghị Hội 1 mấy tháng. Theo dự định, Nghị Hội 2 chỉ là sự tiếp nối của Nghị Hội 1 (nặng tính cách thanh niên-sinh viên), chưa có ý tiến tới việc hình thành một cái gì cụ thể. Nhưng rồi qua sự bùa phép của nhóm LTH đứng ra tổ chức (nhóm chủ nhà), danh xưng khác đã được đề nghị và biểu quyết dứt điểm (vì họ là số đông áp đảo, dù chỉ khi bỏ phiếu thôi), bắt đầu bằng hai chữ Lực Lượng ... Các ban đã được bầu xong, 2 ông bác Phan và Trần từ chối khi được đề cử, chỉ nhận làm cố vấn, tức không làm gì cả. Ông nội thì từ chối thẳng khi được đề cử nắm phần văn nghệ nhưng xin được phát biểu. Bà nội kể lại lời phát biểu của ông nội như sau :

"Danh xưng của Nghị Hội nay đã biến thành Lực Lượng, thành tổ chức với đầy đủ các ban ... mà sao lại thiếu một tiểu ban quan trọng ? Đã gọi là Lực Lượng thì phải có quân đội, có vũ khí. Ở đây chúng ta không có hai thứ đó. Bởi vậy tiểu ban tôi muốn đề nghị bổ túc với các anh chị là tiểu ban Ám Sát ! Tại sao ? Thưa anh chị, chí ít chúng ta cần phải có tiểu ban này tại vì trước là để tương xứng phần nào với danh xưng đã được biểu quyết, sau nữa, lấy một thí dụ khi Lực Lượng ... thấy cần phải triệt một cá nhân phía đối phương liên tục gây bất lợi cho Lực Lượng, ban nào sẽ thi hành đặc vụ nầy ? Nếu không, hai chữ Lực Lượng chỉ là cái Đầu Voi ..."

Lời phát biểu của ông nội làm chưng hửng mọi người, ông điều phối viên Yên Vũ vội vàng, nén cười, ngắt lời " anh Bernard có máu văn nghệ nên tiếu lâm hoá những phút căng thẳng cuối cùng của buổi họp đêm nay ...Vậy tôi xin tuyên bố bế mạc buổi hội thảo và bắt đầu chương trình văn nghệ đấu tranh ...".

Lực lượng đã thành hình đêm đó nhưng rồi ai về nhà nấy, tự ngắm lại cái Đuôi Chuột hàng ngày và Lực Lượng vì không có sức cũng lặng lẻ ngưng thở khi chưa đầy tuổi tôi. Ông nội có thêm một người bạn chí cốt tên Phan.

Chính Điều Phối Viên Yên Vũ đã lanh ý tiếu lâm hoá lời phát biểu của ông nội vì sợ ông nội bị bề hội đồng, sau đó không lâu lại là người chịu trách nhiệm xuất bản & phát hành tập nhạc Ngày Mai của ông nội bên Tây Đức.

Ông Trần đi rồi, ông Nguyễn bị ông nội đóng cửa. "Tứ Nhân Bang" còn lại 2 người: Ông Phan và ông nội, do đó keo sơn càng thêm keo sơn. Cả hai đều "nghiện" viết, ông nội bay bằng thơ nhạc, diễn nôm ra là không thực, danh từ tin học ngày nay gọi là Ảo. Ông Phan bay bằng đề án chính trị, nhiều lắm, nhiều đến nỗi chính ông nội chịu không thấu phải cự nự «trong hai đứa, ai là Bá Nha ? ai là Tử Kỳ ? Tuần nào Bá Nha cũng phải nghe đề án mới 3 Dê của Tử Kỳ đến phát ngợp. Tớ cả tháng may lắm mới rặn ra được nửa bản nhạc, mươi câu có vần. Còn bố, đề án mà cứ lênh láng như Bùi Giáng thở ra thơ. Từ rày, đề án trước chưa thực sự ráo mực đừng ca với tớ đề án mới, cụ thể tí đi ». Và để có chút "cụ thể" cũng như để "phá đề án mới" của bạn, ông nội hay bất ngờ chạy xe ra Paris vớt ngang ông Phan đưa về nhà. Hai người gặp nhau thì đâu ai viết được.

Tháng 8 năm 199..., hai người bạn "chính trị gia" của ông nội và ông Phan từ Mỹ qua Paris, ngụ tại nhà ông nội, ông bác Lý và ông chú Thạch Hữu. Từ buổi đầu gặp nhau, họ đã nói chuyện suốt ba ngày hai đêm trước khi chịu đi viếng cảnh Paris. Hăng nhất là ông Phan và ông Lý. Chẳng biết họ nói cái gì mà dai đến thế. Tất nhiên, ông nội tham gia ít, tự nguyện dịch vụ nhiều, chỉ thòng một câu « các ngài cứ việc bàn, cứ việc luận chiến, cần gì em đây lo cho với chút điều kiện là phải đẻ ra một cái gì dù chỉ là một quả trứng chim cút ...».

Cũng xin nói sơ qua ông bác Lý, dân Quảng Trị, là người đa tài, trong đó có tài làm thơ. Trong thời gian du lịch Paris, ông bác Lý đưa cho ông nội nhiều bài thơ đề nghị ông nội phổ thành nhạc. Đêm trước ngày trở về Mỹ, ông bác Lý hỏi ông nội, ông nội trao cho một cái phong bì bảo trong đó có kết quả việc phổ nhạc, lên máy bay hay về tới Mỹ hẳng coi. Mấy tháng sau, trong một tờ báo của ông bác Lý có đăng kết quả việc phổ nhạc của ông nội giấu trong phong bì như sau :

Trích Di cảo của ông nội :

Đó cứ làm thơ
giống đây
nấu cơm bằng nồi điện
đây cứ phổ nhạc
như đó
pha trà với bếp ga
bấm nút một hai ba
rồi cũng thành cơm
thành trà
thành thi ca
thành âm nhạc
ngày một nồi cơm một bình trà
không là gì cả
ngày hai bản nhạc ba bốn bài thơ
thì hẳn đã
là nhạc sĩ nhạc sư
thi bá
có chi lạ
cha chả
dễ quá mà.
(Tự trào)


Mọi đề án chính trị ông Phan đều giao một bản cho ông nội cất giữ. Ông nội tâm đắc nhất là đề án Việt-Miên-Lào-Thái-Miến của ông Phan. Vọng không biết có gì liên hệ hay không nhưng Hành Lang Kinh Tế Đông Tây (East West Economic Corridor – EWEC) đang từng bước hình thành tại Đông Nam Á vô hình chung trùng với đề án hay ý tưởng của ông bác Phan soạn ra cách nay đã trên 10 năm.

Khi ông nội mất ông Phan mới qua Mỹ định cư trên 2 năm, quẹo hẳn theo một hướng khác, phụng sự một lý tưởng khác, cao siêu nhàn nhã và Ảo hơn các đề án nêu trên, nên về không được. Bà nội kể : Qua điện thoại, ông Phan nấc lên mấy tiếng, nghẹn ngào " Thằng Công rồi Thằng Lạc ... hai thằng ... Úm ma ni bát mê hồng ! "


Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.11.2005 07:57:06 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 28.11.2005 08:01:24
Cầu Phật

Hàn Lệ Nhân


* Xưa thật là xưa, có một người rất sùng đạo Phật nhưng nhất định không tin có sự mầu nhiệm của Đức Thế Tôn và càng không tin trong quả tim bao la của Đức Thế Tôn lại còn sót tư duy nhị nguyên thiên vị, ngược lại bà mẹ thì rất tin. Bà muốn tích công đức, niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" cả ngàn lần mỗi ngày. Mỗi lần bà mẹ niệm tới tên Đức Phật thì người con lại gọi "Mẹ". Bà mẹ bực mình, gắt lên. Người con đáp : « Mẹ nghĩ coi, nếu Đức Phật nghe được Mẹ gọi tên ngài cả ngàn lần mỗi ngày như vậy, ngài không bực mình sao ?» (*)

* Mẹ mất nhằm mùa mưa, mùa đồng áng. Mình về kịp, một ngày trước khi đưa đám, mưa rỉ rả như mưa ngâu. Qua hôm sau, gần giờ đưa quan tài ra nghĩa trang, mưa xuống như trút nước. Mấy cô bạn của mình và mấy cụ ông, cụ bà bạn Mẹ vội vàng qùy xuống trước bàn thờ Phật lâm râm cầu nguyện cho mưa tạnh, có người lại kỳ kèo xin Phật làm cho mưa tạm ngưng, chỉ cần cho xong tang lễ rồi muốn mưa thế nào thì mưa. Vừa bực mình, vừa tức cười, mình cũng qùy xuống bên cạnh, chấp tay hướng về phía bàn thờ Mẹ, lâm râm khấn ngược lại « nếu Mẹ có gặp Đức Phật thì bảo ngài đừng vì việc riêng của Mẹ mà lụy đến bao nhiêu nhà nông đang cần nước cho dễ bừa đất hay cắm mạ ». Vậy mà Mẹ nghe lời mình và lập lại nguyên văn với Đức Phật nên trưa đó đám tang của Mẹ dù mưa nhưng bà con trong tỉnh đều dầm mưa tiễn đưa Mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng.

Tối đó, Mẹ về âu yếm vuốt tóc mình, nói «Đời nào Đức Phật lại phù hộ độ trì cho những tín đồ ích kỷ, hợm hĩnh đó !»

Đến hôm 49 ngày của Mẹ làm tại nhà anh chị ở Pháp, họ có mời Ban Hộ Niệm đến tụng kinh. Thân hữu khá đông, Công Giáo có, Tin Lành có... nên cơm canh là thức mặn. Ông bạn chủ sám thấy chị mình bưng một mâm lên, lay hoay định đặt lên bàn thờ Mẹ, hỏi :

- Đồ Chay hay đồ Mặn ?
- Mặn.
- Vậy khỏi cần.

Và bắt bà chị đưa xuống. Vị chi cả ngày hôm đó ai nấy đều no nê, chỉ riêng Mẹ phải nhịn đói.



Hàn Lệ Nhân

(*) Theo The Importance of Living của Lin Yutang tức Sống Đẹp, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, SG-1964.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2005 00:01:59 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 30.11.2005 02:37:31
Lịch sử : Bài học áp chót

Hàn Lệ Nhân



Dạo sau này, từ khi ông ngoại qua đời, Mẹ là người dạy mình học tiếng Việt, tất nhiên trình độ cao hơn chút, thường là về lịch sử Việt Nam. Tình thiệt mà nói, ai sao không biết chứ riêng mình, học sử Việt, không hứng thú chút nào, chiến tranh rồi chiến tranh rồi chiến tranh từ đầu chí cuối. Hào hùng thì hào hùng thật đấy, trong khoảnh khắc nào đó, nhưng cái giá quá đắt ; làm như chiến tranh là sở trường duy nhất trời phú cho dân tộc ta...

Do đó, sáng chủ nhật này, mình vui lắm vì là buổi học áp chót về sử Việt do Mẹ dạy, như thường lệ, dưới hình thức đọc cho mình viết như viết chính tả (dictée/dictation) trong trường lớp. Mình có thắc mắc với Mẹ : Sao lại là bài học áp chót ? Mẹ bảo vì lịch sử là vô tận nhưng từ ngày mai và những ngày tháng tới, Bê (tên chơi trong gia đình của Vọng) phải ý thức học lấy một mình ; sau hôm nay coi như Mẹ đã làm tròn lời ký thác của ông ngoại.

[...] « Ngày 19-08-1945, ĐCSVN dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh đã cướp được chính quyền. Rồi tuyên ngôn độc lập ngày 02-09-1945, tức ngày Quốc Khánh của CS Hà Nội.

Thế nhưng, với tư cách một nước thuộc phe đồng minh thắng trận trong Thế Chiến thứ 2 và được sự tiếp tay của liên quân Anh-Ấn, Pháp đã trở lại Việt Nam, đẩy chính quyền CSVN ra khỏi Sàigòn.

Ngày 17-04-1946, CSVN và Pháp gặp nhau trong hội nghị Đà Lạt, nhưng cuộc hội đã tan rã ngay trong buổi đầu.

Năm tháng sau ( 09-1945 ) hai bên lại cố gắng điều đình trong hội nghị Fontainebleau. Hội nghị lần nầy cũng suýt tan vỡ thì vào nửa đêm 14 rạng ngày 15 tháng 9, ông Hồ Chí Minh và bộ trưởng thuộc địa Pháp, Marius Moutet đã ký một thoả ước ( Modus Vivendi ) điều đình cho Pháp kiểm soát Nam Kỳ, để đổi lại Pháp phải công nhận hình thức Độc Lập của Bắc Việt.

Nhưng chỉ ba tháng sau, Pháp gây sự, đánh phá Hải Phòng và Hà Nội, Việt Minh phải hạ lệnh toàn dân kháng chiến ngày 19-12-1946 …

Chín năm toàn dân kháng chiến đưa tới hiệp định Genève ngày 20-07-1954, chia đôi đất nước Việt Nam : Từ vĩ tuyến 17 trở lên là nước VNDCCH do Liên Sô và Trung Cộng lèo lái. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống là nước VNCH do Hoa Kỳ làm đạo diễn, mở màn cho vở thảm kịch tương tàn Nam Bắc, kéo dài 21 năm ( 1954 – 1975 ). Nước Việt Nam lại được gom về một mối, hết hoạ ngoại xâm ... Lịch sử gọi là Đại Thắng Mùa Xuân hay Việt Nam thắng Đế Quốc Mỹ, cũng có người gọi là Đại Nạn Mùa Xuân, tùy theo lập trường và góc độ nhìn của mỗi người.Chấm hết.»

Nghe Mẹ đọc hai chữ "chấm hết" mình vui sướng quá, buông bút nhảy dựng lên ... nước mắt lưng tròng, trong đầu hiện ra câu ông ngoại thường nghêu ngao " khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười " rồi đột ngột hỏi mẹ :

- Thế tại sao gia tộc mình và hàng mấy triệu người Việt lại phải phiêu dạt đến tận xứ lạnh này và khắp nơi trên thế giới ?

- À ... Chuyện dài và phức tạp lắm, mai kia Bê trưởng thành tự dưng Bê sẽ hiểu khi chịu khó lục coi phim ảnh Boat People và tìm đọc lịch sử VN trong tủ sách của ông ngoại và trên Internet. Ngay bây giờ Bê thử nhắc lại cho mẹ nghe huyền sử Thánh Gióng coi nào ...

- Thánh Gióng là gì hả mẹ ?

- Là châu chấu ...
- ... A ha ... châu chấu đá xe, chuyện ông Phù Đổng ... mà sao vậy mẹ ?
-
- Chậc ... thì Bê cứ trả lời đi đã.

Vọng nũng nịu dạ một tiếng rồi trả bài :

"Đời Hùng Vương thứ VI, có đám giặc gọi là giặc Ân, hung mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, có đứa trẻ xin đánh giặc giúp vua. Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa, và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong, thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc. Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong làm Phù Đổng thiên vương." (*)

- Giỏi, Bê mẹ giỏi ! Rồi sao nữa ?

- Sao là sao hở Mẹ ... a ha ... rồi toàn thể dân tộc Việt Nam ghi khắc công ơn, một lòng phụng thờ đời đời kiếp kiếp ... Mà sao hả mẹ ? A ha ... Bê hiểu rồi. David et Goliath ! C'est ça hein, maman ! Ờ ... ờ ... Bê xin lỗi Mẹ ... Có phải Mẹ muốn so sánh Thánh Gióng bé xíu đuổi giặc Ân khổng lồ chạy có cờ với nước VNDCCH tí hon đá văng Đại Đế Quốc Hoa Kỳ ra khỏi đất nước ta ?

- Đúng vậy. Bê Mẹ khá lắm ...

- ... nhưng Mẹ vẫn chưa trả lời câu hỏi của Bê : Đuổi Mỹ rồi, Bắc Nam thành một nhà rồi, sao mấy triệu người Việt lại phải chạy tán loạn ra khắp thế giới ? Như sinh thời ông ngoại thường ngâm :

" Đớn đau hai chữ quê mình,

Chiến tranh xum họp, hoà bình nát tan "


... rồi 30 năm qua, đất nước mình vẫn lụi đụi ... ờ ... không hẳn vậy ... sắp giàu mạnh ... theo báo đài ...

- Vì có chút khác biệt trong sự so sánh ...

- ... khác biệt thế nào hở Mẹ ?

- ... Thánh Gióng thời xưa dẹp xong giặc Ân thì biến mất, còn Thánh Gióng thời nay ... là hậu Hán Sở tranh hùng !

- Nghĩa là sao hở Mẹ ?



Hàn Lệ Nhân



(*) Theo Quốc Sử lớp tư của Phạm Văn Trọng & Huỳnh Văn Đồ trong bộ Quốc Sử do Bà cố Vi Khuê Trần Trinh Thuận gửi tặng để ông ngoại dạy mẹ Thúy Nguyện, đề ngày 19/09/1978)


Đã mang vào TV
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.03.2006 22:09:52 bởi TTL >

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 07.12.2005 04:27:10
Vẽ Lại Truyện Tàu (*)

Hàn Lệ Nhân


Kết cục cuộc Hán Sở tranh hùng : Lã Chính kiêm thâu thiên hạ dựng lên Tần triều, chấm dứt thời đại phân liệt, vội vàng thống nhất giang sơn.

Nhà Tần sở dĩ được dựng lên vì đã đáp ứng đúng nhu cầu chấm dứt chiến tranh, Tần kéo được về phía mình một lực lượng to tát: Nhân Tâm Quy Hướng. Song, khi gồm thâu thiên hạ rồi, Tần triều đã áp dụng chính sách trả thù cay nghiệt tàn khốc và cho vũ lực là vạn năng, thủ đoạn là vạn năng. Lã Chính thống nhất sơn hà không phải vì toàn dân mà hoàn toàn làm cho bản thân Lã Chính và các công thần trên xương máu của toàn dân, tạm gọi là Dịch Chủ Tái Nô.

Tần triều không tìm đến một phương thức lãnh đạo thích hợp với tình trạng mới mà chỉ đem phương thức "bá" nhỏ hẹp để thống trị đại thiên hạ. Nhà Tần đốt sách, đày đọa hay chôn sống nho gia nhằm quy kết rừng tư tưởng vào một rọ lỗ chỗ muôn vàn khuyết tật. Nhà Tần chỉ đem pháp chính ra mong làm chủ lưu tư tưởng. Pháp chính là một mặt rất hẹp của tư tưởng thì làm sao có thể lấp bít hết những trống rỗng trên nhiều mặt khác ? Nhà Tần kêu gọi nơi nơi đoàn kết, đồng thuận ... sau lưng mình để xây dựng đất nước nhưng lại khư khư lối đối thoại một chiều nghĩa là nhà Tần toàn quyền muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, số còn lại có quyền ... nghe và nhắm mắt làm theo. Cái mất lớn và toàn diện nhà Tần o ép thành cục bộ, điển hình (mất mùa là tại thiên tai) ; cái được nhỏ, nhà Tần cương lên bội phần thành cái vĩ đại, dù rỗng (được mùa là bởi thiên tài của ta). Ai cũng có quyền nhận định, phê bình nhưng luật nhà Tần chỉ bảo đảm an bình cho những kẻ bạo mồm bạo miệng trước khi nói, chứ sau khi nói thì tùy trời.

Không ai phủ nhận Tần triều đã có công thống nhất lãnh thổ, nhưng cũng không ai không công nhận nhà Tần đã bát nháo nhân tâm, lộn tùng phèo xã tắc, trì trệ đất nước.

LĐ-Hàn Lệ Nhân



(*) Mượn ý trong Nói chuyện Tam Quốc của Vũ Tài Lục
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.12.2005 11:35:10 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 17.01.2006 02:18:48
Tấm kính chiếu yêu


Hàn Lệ Nhân



Hỏi : - Trị nước phải ngăn ngừa gì ?

Đáp : - Lo con chuột ở nền xã.

- Thế là nghĩa làm sao?

- Nền xã ken bằng gỗ sơn vẽ, chuột nhân đấy mà làm ổ ở trong. Um lửa thì sợ cháy gỗ, đổ nước vào thì sợ lở sơn, cho nên chuột ấy không thể chết được, đó là tại nền xã vậy. Nước ta cũng có chuột nền xã, ấy là kẻ tả hữu của bực cầm quyền. Trong thì che đậy hết những điều hay dở không cho người trên biết ; ngoài thì bán quyền thế cho trăm họ. Chẳng ai bắt tội thì họ làm loạn. Bắt tội thì người trên binh vực, bao che. Vậy thì khác gì con chuột ở nền xã.

Ở nơi kia, có người bán rượu sạch, ngon nhưng rượu để chua ra mà chẳng ai mua, mới hỏi người làng vì cớ gì mà không bán được? Người làng trả lời :

- Chó nhà ông dữ quá. Người ta mang bình vào mua, chó nhà ông đón cắn, cho nên rượu nhà ông không bán được.

Nước cũng có chó dữ tức là kẻ cầm quyền. Nếu có người dám nói lên sự thật, tâm huyết hướng thiện thì kẻ cầm quyền lại cho là bôi bác, vạch lá tìm sâu, đón lấy mà cắn, thế là chó dữ của nước vậy. Kẻ tả hữu làm chuột nền xã, kẻ cầm quyền làm chó dữ thì tránh sao khỏi điều lo, người trên tránh sao khỏi điều nguy và dân tình làm sao tránh khỏi ta thán, đói khổ, suy đồi. (theo Chính Trị Cổ Nhân). Vậy mà cứ ra rả yêu nước, yêu dân. Vậy mà cứ ra rả yêu đồng bào trăm trứng. Vậy mà cứ ra rả tứ hải giai huynh đệ, ruột già ruột non, khế thơm khế ngọt.

Đêm đêm giở sách ra đọc thì trang nào cũng chi chít con chữ «dân tộc ta vốn thông minh, hiếu học, hoà ái, lễ phép, lịch thiệp, văn hoa, tao nhã, hiếu khách, chăm chỉ, cần cù, tương thân, tương trợ, liêm chính, anh hùng ...v.v. và v.v... cứ chắc nịch là trên trời, dưới biển có bao nhiêu linh khí cao cả, điều hay, nét đẹp đều tụ vào hai chữ Rồng Tiên...». Thì đấy, cứ giở cuốn chuyên luận "Người Việt Cao Quý", rồi cuốn chuyên đề "Người Việt Đáng Yêu" ... rồi lại bấm nút mở kênh VTV4 ra mà nghe nhìn ... để thấy rằng những mỹ từ kia hãy còn vô vàn thiếu sót, khi đối chiếu với chồng listing đặc ân thiên khải từ trên 4.000 năm nay.

Người viết những dòng này, nửa đời người chưa hề vướng víu chút gì tới dĩ vãng Rồng Tiên, ngoại trừ cái xác kèm cái tên cúng cơm do hai đấng sinh thành ban dưỡng trên đất khách ; chút vốn liếng tiếng mẹ đẻ cũng học lóm từ nước ngoài... Nửa kiếp ăn nhờ ở đậu xứ người, thay vì an nhiên nhắm mắt "ai chết mặc ai" nơi nguồn cội ... Thế mà không hiểu ma đưa lối, quỉ dẫn đường sao đó, từ 30 năm nay, cứ bận tâm khắc khoải bởi tiếng khóc, tiếng cười tận bên kia nửa vòng trái đất của những người chung bọc chưa quen biết. Xét cho cùng thì bản thân rõ là một đứa đại ngu, dớ dẩn, sính ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng. Mà cái hàng tổng kia, trong sách tuyệt diệu là như thế, trong thực tế có được một phần ngàn cho cam. Nội bay qua bay lại trên một vài thế giới có tên là Internet thôi cũng đủ để nhận chân được rằng Trong-Ngoài, Đỏ-Xanh chẳng khác nhau mấy tí. Chỉ cần suy diễn ngược lại những linh khí cao cả, điều hay, nét đẹp trên kia là sự sự gần như rõ ràng : Cái tâm ý xổ toẹt thâm căn cố đế hiển hiện trong từng con chữ trên màn ảnh ; chữ nghĩa trao đổi giữa các rường cột của quốc gia - hình như sinh trưởng sau chiến tranh - đến là cắt mạng. Ngôn ngữ đối thoại – trong nghịch cảnh - vốn dĩ là tấm kính chiếu yêu, lời cha mẹ dạy còn đau đáu trong tim. Sinh thời cha mẹ, mình cứ đinh ninh bốn chữ kia là "hủ nho", "lo bò trắng răng". Rồi tháng năm lang bạt qua khá nhiều xứ lạ, chứng kiến bao cuộc tranh luận trong nghịch cảnh, đối đầu "sinh tử" giữa những con người tâm huyết vị nhân sinh với Trăm cội nguồn, Một ngôn ngữ ..., đặc biệt trong mỗi mùa tranh cử "vị nhân sinh", mà chiều dài và bề dày lịch sử, văn hiến xem ra ngắn chưa toác một gang tay ; mỏng tựa miếng bánh đa, bánh tráng. Thế mà, sao nó dày dạn, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc gây đau, đau thấm thía, đau dài lâu cho đối phương - kẻ khác tư duy, chính kiến trong cuộc chạy đua giành trọng trách "vị nhân sinh" cũng như mình. Tự gẫm, tự xét mới bật ngữa ra, đó là sự Tương Kính mà bản thân mình chưa có hay tự xoá mình bỏ quên trong ... chiến tranh. Chứ chẳng lẽ lại bỏ quên trong hoà bình !

Tấm kính chiếu yêu té ra là vậy. Nó phản ánh trung thực trình độ dân trí, giáo dục của cả một dân tộc, dẫu chiều dài lịch sử, văn hiến của dân tộc đó, nghe nói, dài hơn bốn ngàn năm. Dài là dài, chiều dài không định được bề dày. Nếu phải ví von, thì tạm dùng vàng đen làm bằng cứ : Dầu thô là của thiên phú, là chiều dài. Xăng nhớt là của nhân tạo, là bề dày. Bản thân mình mới có dầu thô do tạo hoá vô tình ban cho, mãi vô tư lạm dụng thì rồi cũng cạn. Và ai nói gì thì nói, bản thân mình chưa có Xăng, mà đây mới là phạm trù duy nhất để định bề dày.

Cha mẹ giờ không còn nữa để thỉnh thoảng được thủ thỉ than van chuyện Tiên Rồng đang trên dốc biến thể thành cái gì gì đó mà từ điển chưa đặt tên, định nghĩa nên không dám trịch thượng nói liều.

Cha mẹ không còn nữa nên khi bản thân đối diện với con cái trong cái gọi là gia huấn mà thẹn thùng, xấu hổ. Cha mẹ có thấu cho lòng con trẻ, ni lâu đã thành chủ soái gia đình ! Cha mẹ có nghe chăng tiếng con trẻ lên lớp con cái bằng những điều kế thừa từ cha mẹ và lượm lọc trong sách vở việt ngữ ! Hoài bão cha mẹ đặt lên vai con trẻ mới ngày nào, nay đã thành sáo ngữ, lộng ngôn mỗi khi ngượng ngùng lập lại. Đừng nghe những gì con trẻ thuyết con nít, hãy độ lượng những gì con trẻ buộc phải làm vì con trẻ còn chút hy vọng cỏn con : Rồng Tiên chưa thực sự biến chất thành cái gì đó đội lốt người.

Ôi dân tộc ta !
Mỗi người là một trái tim yêu đất nước,
Mỗi người là một trái tim yêu quê hương...
Mà đã mấy chục nằm trường,
Khi trái tim yêu đất nước gặp trái tim yêu quê hương
Lại biến thành đau thương !

Nỗi đau này chỉ có thay toàn bộ tinh cha, máu mẹ trong người bằng huyết heo và bộ óc bằng mảng óc bò may ra mới tiếp tục vui sống phần đời còn lại.

Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.01.2006 04:20:17 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 15.02.2006 21:17:44
Bảng phong thần và cái lưỡi gỗ

Hàn Lệ Nhân



Hơn một tuần nay lòng mình cứ như lửa đốt, kể cả trong giấc ngủ cũng chập chờn những con chữ trên tấm bảng Phong Thần mang số 1481. Lại một lần nữa mình tự trách mình, tự oán cái tánh tò mò hám biết, cái tánh xoi mói lục lọi vô tích sự những điều, theo lẽ, vô can tới mình. Ôi nếu biết thế, đừng đọc gì cả mà hơn, mà khoẻ nhẹ cái đầu vốn cũng đã ứ bao nhiêu chật vật về miếng cơm manh áo trên xứ người. Sao không vô tư như các bạn bè cùng cảnh ngộ chung quanh, cuối tuần là Karaoke, nhảy đầm ... thậm chí nhảy đầm ngay trong đêm 30/04, chẳng hạn năm 2005. Năm nay (2006), 30/04 nhằm ngày chủ nhật, thật là lý tưởng cho LHNV (Tị Nạn) MLV tự do tổ chức dạ vũ thâu đêm suốt sáng. Ai khóc, ai cười mắc mớ gì tới sàn nhảy. Vô tư phi-chính-trị được như vậy vậy mà hay, quá hay. Thế rồi, do không thể chịu nổi cơn ám ảnh, mình lò mò ngồi dậy, đồng hồ chỉ 3 giờ sáng, buộc máy vi tính thức giấc, giúp mình xả những ray rứt sau đây. Những ray rứt tầm phào sau đây không mảy may ngụ ý chính chị, chính em gì cả vì bản thân mình có biết gì đâu mà nói mà bàn. Bạn hãy xem nó như những mảnh vụn tung toé ra từ một trái tim không yên khi hướng về nguồn cội.

2. The totalitarian communist regimes which ruled in Central and Eastern Europe in the last century, and which are still in power in several countries in the world, have been, without exception, characterised by massive violations of human rights. The violations have differed depending on the culture, country and the historical period and have included individual and collective assassinations and executions, death in concentration camps, starvation, deportations, torture, slave labour and other forms of mass physical terror, persecution on ethnic or religious base, violation of freedom of conscience, thought and expression, of freedom of press, and also lack of political pluralism.

2. Les régimes communistes totalitaires qui étaient en place en Europe centrale et orientale au siècle dernier, et qui existent toujours dans plusieurs pays du monde, ont été marqués sans exception par des violations massives des droits de l'homme. Ces violations, qui variaient selon la culture, le pays et la période historique, incluaient les assassinats et les exécutions, qu’ils soient individuels ou collectifs, les décès dans des camps de concentration, la mort par la faim, les déportations, la torture, le travail forcé et d'autres formes de terreur physique collective, les persécutions pour des motifs ethniques ou religieux, les atteintes à la liberté de conscience, de pensée et d’expression et à la liberté de la presse et l’absence de pluralisme politique.

2. Những chế độ toàn trị cộng sản từng cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ vừa qua, và hiện vẫn còn cầm quyền ở vài nước trên thế giới, tất cả (không ngoại lệ) biểu thị bởi các vi phạm nhân quyền tập thể. Những vi phạm nầy khác nhau tùy theo nền văn hóa, xứ sở và giai đoạn lịch sử, bao gồm những cuộc ám sát và hành quyết cá nhân hay tập thể, gây chết chóc trong các trại tập trung, chết vì đói, đày ải, tra tấn, lao động cưỡng bức, và những hình thức khác về khủng bố thân xác tập thể, ngược đãi vì lý do chủng tộc hay tôn giáo, vi phạm các quyền tự do lương tâm, tư tưởng và phát biểu, tự do báo chí và thiếu vắng cả đa nguyên chính trị.

3. The crimes were justified in the name of the class struggle theory and the principle of dictatorship of the proletariat. The interpretation of both principles legitimised the "elimination" of people who were considered harmful to the construction of a new society and, as such, enemies of the totalitarian communist regimes. A vast number of victims in every country concerned were its own nationals. It was the case particularly of peoples of the former USSR who by far outnumbered other peoples in terms of the number of victims.

3. Les crimes ont été justifiés au nom de la théorie de la lutte des classes et du principe de la dictature du prolétariat. L’interprétation de ces deux principes rendait légitime «l'élimination» des catégories de personnes considérées comme nuisibles à la construction d'une société nouvelle et, par conséquent, comme ennemies des régimes communistes totalitaires. Dans chaque pays, les victimes étaient en grande partie des nationaux. C’était le cas notamment des populations de l’ex-URSS qui en furent en nombre beaucoup plus victimes que d’autres nationalités.

3. Những tội ác đã được biện minh bằng nhân danh chủ thuyết đấu tranh giai cấp và nguyên tắc độc tài vô sản. Sự diễn đạt hai nguyên tắc nêu trên đã hợp thức hóa việc "thủ tiêu" những thành phần bị coi là có hại cho sự xây dựng một xã hội mới và vì thế, bị xem là kẻ thù của các chế độ toàn trị cộng sản. Một phần lớn các nạn nhân chính là công dân của các nước đó. Tiêu biểu nhất là các dân tộc của Liên Xô cũ với số nạn nhân đông hơn rất nhiều so với các dân tộc khác.

5. The fall of totalitarian communist regimes in Central and Eastern Europe has not been followed in all cases by an international investigation of the crimes committed by them. Moreover, the authors of these crimes have not been brought to trial by the international community, as was the case with the horrible crimes committed by National Socialism (nazism).

5. La chute des régimes communistes totalitaires d'Europe centrale et orientale n’a été suivie ni d’une enquête internationale exhaustive et approfondie, ni d’un débat sur les crimes commis par ces régimes. En outre, les crimes en question n’ont pas été condamnés par la communauté internationale, comme cela a été le cas pour les horribles crimes commis par le national-socialisme (nazisme).

5. Sự sụp đổ của các chế độ toàn trị cộng sản tại Trung và Đông Âu đã không được theo dõi bằng một cuộc điều tra quốc tế kỹ càng và đào sâu cũng như chưa có một cuộc thảo luận về các tội ác gây ra bởi các chế độ đó. Hơn nữa, những tội ác nầy chưa hề bị đưa ra xét xử trước cộng đồng quốc tế, như trường hợp những tội ác rùng rợn do Đức Quốc Xã gây ra trước đây.

9. Totalitarian communist regimes are still active in some countries of the world and crimes continue to be committed. National interest perceptions should not prevent countries from adequate criticism of present totalitarian communist regimes. The Assembly strongly condemns all those violations of human rights.

9. Il reste des régimes communistes totalitaires dans certains pays du monde et des crimes continuent d’y être commis. Les prétendus intérêts nationaux ne doivent pas empêcher les pays de critiquer les régimes communistes totalitaires actuels lorsque ceux-ci méritent de l’être. L’Assemblée condamne vivement toutes ces violations des droits de l’homme.

9. Các chế độ toàn trị cộng sản vẫn còn hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới và tội ác vẫn tiếp tục hiện hữu ở những nơi đó. Quan điểm về quyền lợi quốc gia không thể được viện cớ để ngăn chận các quốc gia phê phán thích đáng đối với các chế độ toàn trị cộng sản hiện nay. Hội Đồng cực lực lên án mọi vi phạm nhân quyền đó.

(trích dịch từ Resolution 1481- PACE, theo 2 ấn bản chính thức Anh và Pháp)


Ờ nhỉ, vốn tự nhận là "đỉnh cao trí tuệ của loài người", là "cạn nguồn lý luận" mà lại đưa đến kết cuộc buồn cười thế này, dân ngu khu đen như tuyệt đại đa số chúng ta nên lý giải như thế nào cho hợp tình hợp lý ? Chẳng lẽ cả thế giới đều là lũ mê muội? Đương nhiên phải loại trừ 4 nước còn lại, trong đó có Việt Nam số dzách của chúng ta vì Việt Nam - với đặc tánh bảo hoàng hơn vua bất di bất dịch - là nơi duy nhất biết phù phép sáng tạo ra được tiêu chí đầu Ngô mình Sở "Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" với [«Triển vọng của chủ nghĩa xã hội, của chủ nghĩa cộng sản được quyết định bởi tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, không sớm thì muộn. Sự vận động của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá đang ngày càng chuẩn bị những điều kiện khách quan chín muồi cho sự thay thế bằng chủ nghĩa xã hội. Từ xu thế đó, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chính là xu hướng tất yếu của sự phát triển.»](trích báo điện tử ĐCSVN). Nguồn:

http://dangcongsan.vn/details.asp?topic=84&subtopic=190&ID=BT3180581276

Kẻ chấp bút ngọng nghịu chống chế nghị quyết 1481 trong vô vọng (theo link nêu trên), rõ ràng chỉ tổ phơi bày bản chất táng tận lương tâm, căn cơ bất lương của hai chữ Văn Nô trong cung đình đỏ. Nguỵ biện bằng cái lưỡi gỗ không có nghĩa là "đão lộn được trắng đen", phỉnh phờ được thêm một lần nữa "những ảo tưởng mình từng mắc phải" khi mà ngược lại của "người bóc lột người" vẫn là "người bóc lột người", cọng thêm thực trạng người ta bóc lột người mình ngay trên đất nước mình, trước mắt chính phủ cần-kiệm-liêm-chính-chí-công-vô-tư của mình, dẫu chính phủ này hoàn toàn tự biên tự diễn, không do mình bầu chọn.

Buồn cười đến khóc thét lên được, trời hỡi trời ! Sự chuyển mình sơ khởi đáng mừng trong cái ăn cái mặc có được hiện nay ở xứ ta do đâu mà ra nếu không phải 90% là từ nguồn vốn đầu tư của cái tụi "đang trên đà diệt vong" mang tên tư bản Liên Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản, Úc và các con rồng Châu Á quanh ta, và không thể không kể tới 4/5 tỉ USD từ các khúc ruột ngàn dặm cũng từ các nước tư bản gửi về hàng năm.

Sự thật hiển nhiên như thế mà vẫn còn có kẻ đoạn lòng vờ vịt làm con đà điểu rúc đầu xuống hố cát ý thức hệ không tưởng, lỗi thời, tiếp tục lừa mình, lừa người bằng ngụy ngữ, xảo ngôn.

Hèn chi Liên Âu (PACE) nào dám chèn hai chữ Việt Nam vào danh sách của nghị quyết 1481. Thành ra chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi bản Dự thảo cho Đại Hội Đảng kỳ X của nước CHXHCN Việt Nam vẫn thủy chung với Con Đường Bác Đi, vì nhỡ có sai lầm, có nhỡ tàu thêm một lần nữa thì cũng chỉ phí phạm có mỗi 5 năm, nhằm nhò gì so với mục tiêu hoành tráng là 82 triệu người sẽ được miên viễn ngồi chôm hổm trên Thiên Đường, tha hồ nhìn xuống Địa Ngục, mồ "diệt vong của chủ nghĩa tư bản".

Nghị quyết 1481 chỉ nhắm thẳng vào tội ác của các cựu chính phủ đảng quyền toàn trị CS da trắng thôi, nhưng tại sao mấy nhà nước da vàng mũi tẹt còn sót lại lại day nảy lên cứ như "có tật giật mình, nuốt vôi sôi bụng" ? Chủ thuyết Mác-Xít đã được trân trọng xếp gọn vào một ngăn trong thư viện lịch sử từ non 2 thập niên qua. Có ai thời thượng đưa ra tranh luận nữa đâu. Có ai chống cộng nữa đâu. Người ta chống là chống độc tài, đảng trị ; chống bất công, tham nhũng ; chống phường chèo ngụy tặc trí trá.

Bạn ơi ! Bạn ơi !

Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm !

Chính phủ nào bằng chính phủ liêm sĩ, biết xấu hổ, biết sám hối. Sám là thú tội, nhận lỗi. Hối là nguyện sửa mình không tái phạm.

Chính phủ nào bằng chính phủ do dân tự giác dồn phiếu. Dân là nước, chính phủ là thuyền. Chở thuyền là nước, lật thuyền cũng là nước. Ai ai cũng biết chân lý này. 80 triệu dân vẫn chưa cạn lòng hỷ xả. Hỷ là vui vẻ, Xả là buông thả, thiệt tình thứ tha. "Thời cơ vàng" đang trong tầm với. Bỏ đao xuống là thành bụt, quay đầu lại là thấy bờ. Trì trệ, ù lì e rồi bụt không thành, bờ không thấy mà chắc chắn sẽ nhận lãnh hậu quả khôn lường, lưu xú vạn niên.

Hàn Lệ Nhân


Toàn văn bản nghị quyết 1481 của PACE có hầu hết trên các trang Web Âu-Mỹ. Chắc chắn và dễ dàng nhất là vào Google.com, gõ "resolution 1481".
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.02.2006 18:18:57 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 19.02.2006 01:21:22
Những câu hỏi chờ được trả lời

Hàn Lệ Nhân


Quán tính "bảo hoàng hơn vua" dường như trời phú riêng cho hậu duệ Trăm Trứng. Này nhé:

1/ Thời Tàu thuộc, Nho Việt chua hơn Nho Tàu. Đọc sách văn học cũ, mình có cảm tưởng hình như cái gì từ sách Tàu đều được sĩ phu Giao Chỉ cương lên thành Sách Thánh Hiền, là chánh thư toàn bích ; hầu hết các sách cổ Việt Nam có tí mùi biên khảo đều phải mượn oai các điển cố từ các chú làm chỗ dựa, không Tử này Tử kia viết thì cũng Bách Gia Chư Tử, Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Diễn Nghĩa ... và xổ toẹt những gì không có mùi Tàu.

2/ Thời Pháp thuộc, Tây An Nam còn tây hơn tây Paris nữa. Trong sự nhập nhằng Tàu đi, Tây đến, sĩ phu Giao Chỉ và trí thức An Nam chí tình đấu đá nhau còn hơn cuộc xung đột Đông-Tây giữa hai mẫu quốc. Kết cuộc là Thơ Mới ra đời, thôi thì Rimbaud, Verlaine, Musset, Eluard ... ngự trị trong đầu, trên ngòi bút của mỗi mỗi thi văn nghệ sĩ nước ta ...

3/ Thời Nhật thuộc, tuy ngắn ngủi nhưng trên đường phố VN chẳng thiếu gì những bộ dạng Lạc Long, Âu Cơ kéo guốc lẹt đẹt sao cho thật giống ... vịt Nhật, sang sảng Sayonara, Arigato nhặng xị.

4/ Thời Nam-Bắc tương tàn, một phương thì Mỹ hơn cả Mỹ NewYork , một phương thì đỏ hơn cả Nga Mát-xkơ-va và Tàu Bắc Kinh.

Rồi hai mươi năm qua, nơi nơi – đặc biệt là chính nơi xuất xứ – Tư Bản Luận, Cẩm Nang Đỏ này nọ hoặc đã được đưa vô bảo tàng viện đồ cổ, hoặc bị vất thẳng vào thùng rác lịch sử với lý giải "mèo trắng, mèo đen bất luận miễn là bắt được chuột". Duy ở một góc có dáng cong chữ S, còn một nhúm người là cố chịu đấm ăn xôi, vỏ đỏ ruột xanh, treo đầu beo bán thịt mèo ...

Xin hỏi các bạn:

Việt Nam ta đến nay, ngoài hào quang chiến tranh và chiến tranh ra, có gì xứng đáng để hãnh diện với các dân tộc khác?

- Cá nhân mình nhận thấy rằng đuổi ngoại xâm, VN là Number One ; còn đuổi nội xâm là Number Ten !

Câu hỏi :

"Việt Nam ta đến nay, ngoài hào quang chiến tranh và chiến tranh ra, có gì xứng đáng để hãnh diện với các dân tộc khác? "

Vốn là câu hỏi đã được nhiều bạn ngoại quốc đặt ra cho mình như tra vấn. Hầu hết họ chỉ biết đến Việt Nam qua phong trào phản chiến chống Mỹ và đặc biệt qua nhóm chữ Boat People. Tất nhiên là họ hết sức khâm phục tinh thần anh dũng, anh hùng của người Việt Nam, nhưng lại chấm hết ở bốn chữ anh dũng-anh hùng trong chiến tranh. Thậm chí họ ngỡ ngàng khi thấy mình viết chữ Việt bằng mẫu tự la-tin vì trong đầu họ chữ Việt phải là "du caractère chinois / chinese character" tức chữ Hán. Mình chưa kịp giải thích, trong số các bạn đó, có người biết về vần đề này, đã trả lời rằng chữ viết hiện hành của Việt Nam là do một cố đạo người Pháp ở Avignon tên Alexandre de Rhodes biến chế ra trong hậu bán thế kỷ XVII, ngụ ý cũng chẳng phải tự người Việt anh dũng-anh hùng làm ra.
Chuyện Boat People thì khỏi cần nói ra vì trẻ già người nước ngoài hầu như ai cũng biết. Riêng chuyện chuyển mình của đất nước ta, qua tiêu chí Đổi Mới (nghĩa là trở về cái cũ hay cũ người mới ta) cũng gây ngạc nhiên, trầm trồ không kém, có điều họ có mấy câu hỏi làm bản thân mình – một người rất tự hào là người Việt Nam – lâm vào thế kẹt:

1/ Những toà khách sạn cao cấp sang trọng ở Hà Nội, Huế, Sàigòn... đa số do ai làm chủ ? Khách trong đó chủ yếu là ai ? Và tuyệt đại đa số nhân viên dịch vụ (thí dụ dọn giường, chùi nhà vệ sinh) trong đó là ai ?

2/ Xem VTV4 bản tiếng Pháp, tiếng Anh thì VN đã xuất khẩu cả vàng đen nhưng Thô hay đã lọc thành Xăng ?

3/ Rừng VN được đốn chặt gần trụi lụi như thế, chắc hẳn 82 triệu dân đều đã có cơ ngơi đàng hoàng ?

4/ VN có luật giao thông chưa ? Chắc chắn là đã có từ lâu, nhưng sao xe cộ chạy cứ như lên đồng ? Vì họ nghe nói người mình vốn thượng tôn kỹ luật, nhất là dưới chính quyền một mình một chợ, sắt đá nghiêm minh thượng tôn hiến pháp, quyền lợi quốc gia trên đảng lệ và quyền lợi cá nhân, phe nhóm từ bao nhiêu năm nay.

5/ Sau 1975, đảng CSVN qua trung gian chính phủ CHXHCN Việt Nam, coi như đã bang giao thân thiện lại với mọi kẻ thù trong chiến tranh Đông Dương 2, mà sao riêng đối với Boat People vẫn lay hoay nửa hát chèo, nửa hài kịch ?

6/ Đối với người nước ngoài, dân mình cực kỳ hoà nhã, hiếu khách, lễ độ, khiêm cung, chín bỏ làm mười v.v. và v.v. mà sao giữa người Việt trong và ngoài nước, đặc biệt trong nghịch cảnh (chẳng hạn vì bất đồng quan điểm), chúng mình xử sự với nhau - dù chỉ trong ngôn từ - cứ như giữa kẻ thù bất cộng đái thiên ?

7/ Hiện nay, vì nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau, khoảng trên dưới ba triệu Con Rồng, cháu Tiên (trong đó có mình) đã nhập tịch các quốc gia khác trên thế giới, kể cả những quốc gia – so với Việt Nam ta - bé nhỏ, chậm tiến, lụi đụi như Lào, Kampuchia ... Và, Việt Nam hầu như đang lướt phăng trên đường băng ngon lành trên mọi mặt, đúng theo lời các truyền thông nội địa chính thống, vậy đã có ai từng có ý tưởng ba lơn thử làm một bản thống kê nho nhỏ vui vui xem là đã có mấy người nước ngoài (kể cả người Lào, người Miên) hăng say, cố gắng học tập xin nhập tịch ké với nòi giống anh dũng-anh hùng, bách chiến bách thắng ; độc lập, ấm no, tự do, hạnh phúc v.v. và v.v...?

8/ Phải chăng tiềm thức người Việt nói chung vốn được phú bẩm vi-rút chuộng ngoại ? Nhận thấy, bất cứ một điều gì có thương hiệu ngoại quốc hầu như đều được chúng ta đánh giá cao, cao hơn hàng nội địa là cái chắc. Trong một bài viết ngắn "Tôi không im lặng nữa " của LS Lê Quốc Quân, đăng trên Tuổi Trẻ Online, có câu «khi đủ đồng tiền ăn mặc là lúc tôi lại thấy thiếu một cái gì đó lớn hơn. Đó là quyền được phát triển. Tôi thất vọng khi phải cùng anh em "thổi ý tưởng" vào cho các chuyên gia ngoại "cố vấn lại" thì lãnh đạo người Việt mới nghe». Bạn nghĩ gì về trích đoạn này ?

Đơn cử thêm một ví dụ bé nhỏ khác đang là thời thượng mấy tuần nay trên mạng, chẳng hạn một câu nói, một bản nhạc có liên quan tới VN với phẩm chất trung bình nhưng bởi được ký tên John, Paul, Adeline, Cecilia ... thì người Việt chúng mình - đặc biệt những người biết ngoại ngữ - hùa nhau cương lên thành tuyệt phẩm, thành "hiện tượng", lăng xê ầm ầm nghẹt cả liên mạng ... đến chính tác giả và nhà sản xuất cũng phải trố mắt kinh ngạc trước sự nhạy cảm quá dễ dàng của chúng ta vì, theo họ, cái mà chúng ta đang xuýt xoa nuốt từng nửa lời từng nửa nốt nhạc - miễn phí - giữa chúng ta chỉ là bản nháp, bản thử nằm trong kịch bản thăm dò dư luận, quả bong bóng marketing ! Còn hậu ý của giới truyền thông trong nước lại là chuyện khác. Xin chân thành nêu thắc mắc: Nếu cũng câu nói đó, bản nhạc đó ký tên Nguyễn thị Mít, Trần văn Xoài ... liệu nó có thành "hiện tượng" không ?

9/ Tư tưởng Hồ-Chí-Minh là gì ? Sinh thời của tác giả, tư tưởng đó đã trước tác thành sách chưa ? Và 36 năm sau ngày tư tưởng gia ấy qua đời (1969), tim óc vĩ đại kia đã được tinh lọc, hệ thống hoá thành kim chỉ nam hầu đóng góp chút chút cho thế giới đại đồng chưa ? Nếu đã có thì từ bao giờ và ấn bản ngoại ngữ có tựa ra sao ?

10/ Bạn nghĩ gì về câu nói "Làm thế nào một dân tộc hạng ba có thể sinh ra được một chính quyền hạng nhất" ? Và " Vì đâu một dân tộc hạng nhất lại luân phiên đẻ ra toàn loại chính quyền hạng ba?"


Mấy trăn trở đại khái nêu trên đã và đang vò nát lòng mình... Bạn có hoan hỉ "gỡ rối tơ lòng" cho mình không?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.03.2006 19:20:43 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 05.03.2006 16:33:31
Lạc Hồng Khung Trời Nỗi Nhớ

Hàn Lệ Nhân


Quá trình học vấn của chị Nguyện, so với chúng bạn cùng lớp, xét chung, không đến nỗi tệ song tính theo tuổi tác thì có hơi trễ vì mải đến năm 22 chị mới xong tú tài Pháp toàn phần trong khi các bạn Lào của chị đều mới hai mươi.

Nguyên nhân chính và trực tiếp giải thích được sự chậm trễ nầy là bởi bố mẹ chị Nguyện, noi gương bà con láng giềng đồng hương, đồng cảnh trong tỉnh, nhất quyết muốn trước khi theo chương trình ngoại ngữ, chị phải biết nói, biết đọc, biết viết rành tiếng Việt ! Có sự trước và sau như vậy ấy vì ông bà thiển nghĩ nếu cho chị Nguyện học chữ Việt và chữ Tây cùng một lúc chị có thể "loạn óc" mất !

Sự chọn lựa của bố mẹ chị Nguyện rất giản dị. Nói giản dị vì bản thân ông bà nói riêng, hầu hết láng giềng nói chung, ngoài chút vốn việt và lào ngữ thường dụng, không có cái may mắn (?) cũng như không có cơ hội "tụng" cái gọi là NOS ANCÊTRES SONT DES GAULOIS ( tổ tiên chúng ta là người Gô-loa tức người Pháp ngày nay) ! Do đó, với hoài bảo giữ được mãi sự cảm thông hay ít ra giây liên lạc giữa cha mẹ và con cái, phương tiện và cứu cánh duy nhất của ông bà là Tiếng Việt. Tuy thế, ông bà chưa hề khuyến khích con gái bằng những danh từ to lớn, trừu tượng chẳng hạn Bảo Tồn Văn Hoá Dân Tộc, Duy Trì Tâm Việt ... và nhất là không bao giờ ông bà đem con số 5.000 Văn Hiến ra "thuyết" chị Nguyện. Trước hết chính ông bà cũng chưa hiểu rõ đó là thế nào, thứ đến ông bà cho là chỉ có hại đối với một đứa bé chưa ráo máu đầu.

Việc cho con em trong gia đình học tiếng mẹ đẻ tại Savannakhet (trước 1975) đã trở thành một tập tục tự nhiên như Tết Nguyên Đán tất có bánh dày, bánh chưng, có mai, có pháo ..., Tết Trung Thu thì có lồng đèn, có bánh dẻo, bánh nướng ... Và trường tiểu học Lạc Hồng của thấy Nguyễn Văn Viễn cùng trường của thầy Phúc (1) là hai nơi mà tôi tin rằng không người việt nào ở Savannakhet có thể quên được, đặc biệt anh chị nào hiện tạm dung trên các nước Âu Mỹ.

Chị Nguyện bắt đầu học i tờ với thầy Viễn năm chị lên 5. Thầy Viễn vừa là sáng lập viên hiệu trưởng vừa là giáo viên chính trường Lạc Hồng, sau có thêm cô Suzanne Gervais (người việt tên tây), cô Vân, thầy Sơn. Tôi không nhớ trường được thành lập năm nào, chỉ biết học trò lứa đầu tiên của thầy năm nay đều trên dưới 60, trong số đàn anh nầy người vẫn viết và viết rất hay là nhà văn Nhật Tảo Phan Tình. Chị Nguyện thuộc lứa thứ tư, cùng lứa với 2 anh em ca-nhạc sĩ tài danh Văn Tấn Phát, Văn Tấn Sỹ... và người viết bài nầy.

Màu xanh dương đậm và màu trắng là hai màu đồng phục của trường Lạc Hồng. Con gái tóc bum-bê, váy xanh áo trắng. Con trai quần đùi xanh áo trắng và bắt buộc phải cắt tóc ca-rê.

Phương pháp giáo dục của thầy Viễn rất cứng rắn, nếu không muốn nói là độc tài. Thầy luôn luôn to tiếng, cả những lúc thầy mệt nhất. Đường roi mây chập 2 chập 3 của thầy thì phải kể là tuyệt chiêu Thiên Ảnh Đoạt Hồn:

· Chớp nhoáng đến nỗi đối tượng không kịp có phản ứng ... gồng ;

· Chính xác vì không bao giờ nó trật khỏi ... lưng (né đường roi của thầy là một điều tối tối kỵ vì thầy sẽ nhân đôi con số roi đã ấn định) ;

· Bình đẳng vì thầy không phân biệt nam, nữ.

Ngoài ra thầy còn bí chiêu "Cởi-Quần-Sơn-Chim-Dạo-Phố" quỉ khốc thần sầu riêng dành cho cu cậu nào phạm lỗi, cụ thể như Không Thuộc Bài, Tắm Sông Cửu Long, Ghẹo Gái, Đánh Lộn, Chơi Thẻ ; vớ vẩn như Chọc Thiên Hạ Gọi Tên ... Thầy Ra Chửi ! Trong lứa chị Nguyện hai cu cậu nổi tiếng được thầy trường kỳ áp dụng bí chiêu nầy phải kể anh Đoan Lọ tức Đào Hữu Đoan, vua đánh lộn kiêm hiệp sĩ samourai chém bằng tay và anh Thìn Bộ tức Phan-Đình Thìn, vua chọc gái. Không có cuộc "dạo phố" nào mà không có mặt hai anh chàng nầy.

Bởi thế, học trò dù không còn học với thầy hoặc đã có vợ con rồi mà mỗi lần giáp mặt thầy vẫn cảm thấy sờ sợ như năm xửa năm xưa. Anh chị nào "lì" nhất, khi thấy bóng thầy ngoài đường, cũng đến len lét và nếu có thể, thường chọn cách ... tránh thầy. Kính thầy thì không ai không kính, ghét thầy tôi nghĩ chắc không ai nỡ song yêu thầy, bấy giờ, khó cô cậu nào yêu nỗi.

Phụ huynh học sinh đều tường tận lối giáo dục của thầy nhưng thường làm ngơ để mặc vì tất cả đều đồng quan điểm "thương cho roi cho vọt". Và cũng nhờ thế mà ông bà nào có con cái qua được trọn vẹn "Ải Lạc Hồng" thường yên tâm các cô cậu đọc thông, viết thạo nói rành tiếng mẹ đẻ. Đó là phần thưởng cao quí, điểm son cho một đời lưu lạc những khi chạnh lòng cảm khái "năm châu bốn biển quê mình là đâu".

Cô cậu nào muốn tiến xa hơn chút nữa thì ngoài cách đọc sách ra không còn phương tiện nào hơn, thời gian đã chứng minh trường hợp nầy. Bấy giờ còn nhà sách việt ngữ Hồng Yến do ông tây "Sông Hương Núi Ngự" – Louis Guigin – làm chủ (hiện sống tại Orange, nam Pháp), toạ lạc gần rạp chiếu bóng Nang Lịch. Những anh chị có tiếng mê sách, thường xuyên lui tới nơi nầy phải kể Thông Thân, Vinh Lợi tức Vinh Chó, Lâm Nảo tức Lê Văn Lâm, Thìn Bộ ... và chị Nguyện.(2).

Bấy giờ ở trường Lạc Hồng, từ lớp tư (năm thứ 3 bây giờ), có thêm một giờ lào ngữ mỗi chiều. Tác giả còn nhớ như in 2 đặc điểm của thầy phụ trách chương trình nầy:

1. Cặp môi dày thâm xịt ví thể hai lát thịt bò quá hạn để chồng lên nhau ;

2. Những làn roi mây thầy vụt lên đỉnh đầu ca-rê chúng tôi.

Chị Nguyện học hết lớp ba trường Lạc Hồng thì thi vào trường sơ (soeur, nữ tu) trên dốc Đôồng Đằm Đuồn (Savannakhet) chuyển hướng theo chương trình Pháp-Lào lạ hoắc khoảng bốn năm, lại thi vào vào đệ thất (lớp 6 bây giờ) trường trung học Savannakhet (trường công), đổ tú tài văn chương bảy năm sau. Chính bộ môn việt ngữ đã giúp chị Nguyện đậu trót lọt. Đó là nhờ căn bản i tờ học với thầy Viễn, cọng mấy năm miệt mài luyện chưởng Tàu cùng mười mấy buổi nghe thầy Võ Thu Tịnh lược giảng Kiều theo chương trình việt văn bổ túc thi tú tài trên sứ quán VNCH tại Vientiane ( chị Nguyện học đệ nhị tại Vientiane, thời đại sứ Hoàng Cơ Thụy). Khác hẳn hoàn cảnh tại kinh đô Vientiane, tỉnh Savannakhet không có lớp việt văn tương tự. Tệ hơn nữa không một ai, kể cả sứ quán, cho thí sinh việt tại các tỉnh biết chương trình việt ngữ gồm cái chi chi. Người chấm thi năm đó là linh mục Tình và đề thi do linh mục soạn được rút ra từ ... Kiều và Chinh Phụ Ngâm !

Tê tái nhất phải kể trường hợp của anh Minh, một học sinh trung bình đến từ Kôông Sê Đôn, một tỉnh nhỏ gần Paksé ( Hạ Lào), nơi rất ít người việt, bí quá mới chọn việt ngữ làm sinh ngữ thứ nhì (sau Anh văn). Linh mục Tình đã bĩu môi " ban phước lành " cho anh Minh năm tới đỗ ưu khi anh Minh đã dịch:

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
(Kiều, câu 39-40)

thành :

Durant le printemps, sur quatre-vingt dix navettes, l'hirondelle en a emporté à Thiều Quang soixante (!!!)

nghĩa là:

Suốt mùa xuân, trong 90 cái thoi chim én đã mang đến cho Thiều Quang 60 cái.

Chị Nguyện xa trường trung học Savannakhet, xa xóm Bảo Quang niên thiếu, xa những buổi hoàng hôn trĩu mộng ... thấm thoát cũng đã 15 năm ! 15 năm không một lần trở lại. 15 năm biết bao biến đổi, đối với chính chị và đối với cộng đồng người việt tị nạn chung quanh trên đất Pháp, nhất là đối với các em nhỏ cở Hiền, con gái đầu lòng của chị, sinh tại Strasbourg.

Thấm thía tình cảnh tha hương của chính mình từ thuở lọt lòng, ám ảnh bởi trường hợp hỏng tú tài của anh Minh, chồng chị ngày nay, chị Nguyện quyết định sưu tầm lại sách vở việt nam từ năm 1977, chuẩn bị dạy cháu Hiền sau nầy. Niềm hãnh diện lớn nhất của chị hiện nay là đã có một tủ sách cũ văn-sử-địa trên 2.000 cuốn xuất bản tại Sàigòn trước 1975 và kết quả khả quan của vợ chồng chị trong việc hướng dẫn cháu Hiền học tiếng mẹ đẻ tại nhà, song song với chương trình học của nước Pháp.

Vợ chồng chị Nguyện bắt đầu hướng dẫn cháu Hiền làm quen với tiếng việt từ thuở cháu mới lọt lòng, đọc và viết năm cháu lên năm. Phương pháp hướng dẫn của vợ chồng chị Nguyện rất đơn giản:

1. Lấy khung cảnh và không khí trong gia đình làm căn bản chính, nói rõ là lúc đầu anh chị tuyệt đối tránh dùng ngoại ngữ với cháu Hiền. Dần dần khi cháu Hiền lên bốn thì anh chị thêm phần giảng ra tiếng việt những chữ, những câu tiếng Pháp do cháu Hiền buột miệng nói ra.

2. Tài liệu: Vần Việt Ngữ của cụ Bùi Văn Bảo. Thỉnh thoảng kể chuyện cổ tích việt nam (sơ lược) cho cháu nó nghe, và phương tiện luyện phát âm hữu hiệu, thích thú nhất, theo anh chị, không gì bằng tập cho trẻ hát những bài ca nhi đồng vui nhộn, ngắn gọn và dễ hiểu.

3. Thời gian: Khoảng 1 giờ mỗi sáng chủ nhật, từng bài một, cho cháu kỳ thuộc mặt chữ mới sang bài khác dù phải mất 2 hay 3 tuần cho mỗi bài.

4. Địa điểm: Trên giường ngủ (sáng ngủ dậy, trước khi xuống giường – qua phòng cháu hay ngược lại).

Nhiều năm trôi qua, bằng vào phương pháp trên, cọng với sự quyết tâm của vợ chồng chị Nguyện, cháu Hiền đã khá trên cả ba phương diện, nói-đọc-viết tiếng mẹ đẻ. Có điều phải nói thêm ngay ở đây là cháu Hiền không vì học tiếng việt mà kém pháp văn tí nào ; nó đọc sách tây, nói tiếng pháp cứ như đầm, học hành trong lớp thuộc hạng khá.

Nếu chúng ta không cho trường hợp gia đình vợ chồng chị Nguyện là trường hợp hý hữu thì nhận định sau đây của chị Nguyện đáng được lưu tâm:

"Ngoài vần đề sinh kế và thời gian ra, các phụ huynh vẫn viện cớ sợ con em mình bị "loạn óc" nếu bắt chúng học 2 thứ tiếng cùng một lúc (Việt-Pháp, Việt-Anh). Đó là quan niệm thuở tôi - chị Nguyện – còn nằm ngữa tức là thời mới phát hiện khoa tâm-sinh-lý nhi đồng. Thảng hoặc xưa bố mẹ tôi có chút vốn tây-học kha khá và nhất là chịu khó đọc sách giáo dục thiếu nhi, tìm hiểu vấn đề phát triển tâm-sinh-lý học nói chung, trí thông minh, sự thâu nhận nói riêng của các trẻ, chắc chắn tôi đã phải đỗ tú tài Pháp trước tuổi 22."

"Nói thế tôi không mảy may có ý oán bố mẹ tôi đâu khi thâm tâm tôi đã hiểu mỗi Thời mỗi Thế. Và những khi nghiệm lại sự trễ nãi trong việc học hành tiếng pháp của mình, tôi thoáng lạnh người. Tôi lạnh người khi lòng tự hỏi lòng: Nếu bố mẹ không làm mình "mất" 5 năm trong " Ải Lạc Hồng" và cứ coi như mình đỗ tú tài pháp và du học từ năm 18 tuổi thì non 15 năm qua mình liên lạc với bố mẹ, anh chị em còn kẹt lại bên nhà thế nào ? Mình có phải là mình như hôm nay không ? ..., nhất là khi liên tưởng đến bé Hiền trong 10 hay 15 năm sau trên mảnh đất "lành" nầy hoặc may mắn về trên đất mẹ, sông cha mà thâm cảm xiết bao hậu ý sâu xa, nền hương hoả bất tận tuyệt vời của song thân đã giản dị dành giữ, trao truyền cho tôi !"

Trong một buổi hàn huyên, một đại đức có kể chuyện một đám trẻ con việt nam theo bố mẹ từ các nước tây âu về hành hương một chùa nọ tại Paris. Chúng nó chơi đùa với nhau nhưng hoặc ra dấu hoặc đoán ý mà hiểu nhau thôi vì mỗi nhóm nhỏ nói mỗi thứ tiếng, không đứa nào biết tiếng việt cả !

Mẫu chuyện trên khiến tôi nhớ lại tích thi hào la-tinh Ovide, cách nay 2.000 năm bị đày tới một miền mọi rợ. Ông không biết ngôn ngữ của thổ dân, than thở " ở đây không phải người bản xứ dã man mà chính tôi mới dã man vì tôi nói không ai hiểu tôi cả". Và lời học giả Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Luyện Văn, trang 16 "... người việt nào dù thông thái tới mấy mà viết không xuôi việt ngữ thì không phải là một nhà trí thức việt nam. Họ là những bác sĩ, tấn sĩ ngoại quốc mặc dù mang danh tánh việt".

Không biết tiếng mẹ đẻ không là một cái tội, song nhất định không những là một thiệt thòi lớn mà còn là niềm tủi thân dằng dặc trong thanh thiếu niên sinh ra và lớn lên tại hải ngoại mà thường tình các phụ huynh vì lý do nào đó ít khi lường trước được hậu quả. Một em chuyên viên kinh tế người việt, tên việt, họ việt đại diện cho một công ty Pháp về VN nghiên cứu thị trường để đầu tư, em không nói được tiếng việt, do đó đi đâu cũng kè kè một thông dịch viên, quay trở lại Pháp em đã gián tiếp oán trách cha mẹ đã chỉ khéo gầy dựng em thành một bức tượng việt nam khá hoàn chỉnh nhưng ... Tuy nhiên đừng vì quá mong muốn cho con em biết tiếng mẹ đẻ mà vấp phải sự sơ xuất là gây cho chúng mặc cảm "phạm tội" khi dùng tiếng địa phương trong gia đình, tức tránh chuyện chuyển từ cực đoan nầy sang cực đoan khác: Thái quá bất cập.

Trường hợp của gia đình chị Nguyện hẳn không thể là trường hợp duy nhất, và phương pháp khả quan của họ dĩ nhiên cũng chỉ tương đối. Nhưng chính vì sự tương đối đó, khi để nó cạnh chuyện kể của đại đức nêu trên, riêng cá nhân người viết bài nầy cảm thấy kém lạc quan khi nghĩ đến cộng đồng người việt hải ngoại từ thế hệ 2.0 trở về sau.

Trong một thời gian gần 30 năm, sau 1975, trường Lạc Hồng mang tên trường Thống Nhất, nay, trên nền cũ, là một cơ ngơi hai tầng khang trang rộng rãi do Hội Người Việt Nam tại Savannakhet vận động xây cất với sự hổ trợ cụ thể của BQGGD-XHCNVN và sáng suốt thay đã lấy lại cái tên thân thương cũ: Lạc Hồng.

Trường Lạc Hồng mới đã được chính thức khai trương từ niên học 2004-2005. Với một hình thức tiện nghi, đẹp đẻ như hôm nay cùng một số giáo viên đến từ quê nhà, tôi thiển nghĩ, đã đến lúc anh chị trong ban điều hành cũng như các giáo viên nói chung cần cương quyết hơn nữa trong cách giảng dạy, không thể để mặc hay kéo dài lâu hơn nữa tình trạng trong không gian việt ngữ mà từ giáo viên - sinh trưởng tại địa phương - chí đến học trò cũng như phụ huynh hầu như chỉ dùng tiếng địa phương để giảng dạy và trao đổi. Hình thức và phương tiện như thế mà nội dung như thế, e không mấy hợp lý đối với hoài bảo cao quí của những người chủ trương và càng không hợp lý - nếu không muốn nói là phi lý - đối với các phụ huynh.

Hàn Lệ Nhân

Chú thích:
(1) Có thêm trường thầy Quế và trường cô Hoà nhưng 2 trường nầy mở được vài năm thì đóng cửa.

(2) Mê sách có tiếng nhất phải kể anh Vũ Văn Tư, học trò lứa thứ nhì trường Lạc Hồng, sau trở lại làm giáo viên cho trường mãi đến 1975. Ở Savannakhet anh Tư nghèo cũng vì sách. Đối với đồng lương giáo viên lúc bấy giờ mà anh đã tậu được một tủ sách việt văn-sử-địa trên 600 cuốn thì quả là dân "ăn" sách thay cơm và chịu chơi. Nói anh Tư chịu chơi vì bà con, bè bạn từ muôn thuở muôn nơi chỉ khoái đọc sách chùa và quên ... trả lại. Rút kinh nghiệm của anh Tư, tủ sách việt của tôi có cái bảng " SÁCH KHÔNG RA KHỎI NHÀ ": Xong !
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.03.2006 16:34:49 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 15.03.2006 16:06:44
Tản mạn qua đêm 1 (*)


Hàn Lệ Nhân


"Triết thuyết vượt thắng dễ dàng những khổ đau đã qua lẫn những khổ đau sắp tới, nhưng những khổ đau hiện tiền lại vượt thắng bất cứ triết thuyết nào". Câu nói này tôi bắt gặp trong sách tiếng Pháp của La Rochefoucauld, ngay sau 30/04/1975, rồi dựa vào ý đó tôi chấm hết một bài thơ bằng hai câu:

Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

và lấy đó làm quan điểm nhân sinh.

Hồi mới lớn, tôi đinh ninh một người đã là danh nhân tất phải lưu phương. Nay tuổi đời bảng lảng tôi biết thêm là chẳng thiếu gì những danh nhân lưu xú. Hoặc giả lưu phương nhất đại, lưu xú vạn niên. Từ đó, tôi khắt khe là danh vọng của các vĩ nhân cần phải được thẩm định, tái thẩm định nghiêm minh qua thời gian, qua những phương tiện, những tiểu xảo mà họ đã sử dụng để đạt được danh vọng đó. Người vĩ đại thường vi phạm nhưng khéo che đậy những lỗi lầm vĩ đại. Đôi khi hào quang vĩ đại lại bị vỡ vụn bởi một vài chi tiết, sơ suất bé mọn đến buồn cười. Muốn biết rõ các sự việc vĩ đại cần phải truy biết đến chi tiết của nó, và bởi chi tiết thì hầu như bất tận cho nên những hiểu biết của thường dân chân đất như đa số chúng ta thường phiến diện, bất toàn.

Trong một thời gian khá dài tôi cho rằng tuổi già, như lứa ông ngoại tôi, bảo lưu giám thức bằng tập quán, hiện đại gọi là "tư duy hoá thạch" ; tuổi trẻ, như lứa tôi 30 năm trước, thay đổi giám thức bằng bầu nhiệt huyết, bằng cơn sốt của hiếu kỳ. Chắc chắn là có nhiều loại hiếu kỳ. Riêng tôi, tôi thấy rõ trong tôi có hai loại. Loại thứ nhất rặt mùi lại quả, nó thúc tôi tìm tòi những gì tôi nghiệm khả dĩ hữu ích cho bản thân. Loại thứ nhì là ngã mạn, nó thúc tôi cố tìm hiểu những điều tôi võ đoán chung quanh tôi hẳn chưa ai biết. Tuy nhiên, dù võ đoán là chung quanh tôi chưa ai biết không có nghĩa tôi dám nhận vơ mình là người phát kiến, là kẻ tiên phong, cầm đuốc như ai kia bất cố liêm sĩ vận vào cho bác cả của tôi: Bác cả có tư duy, động não gì đâu mà có tư tưởng. Những dòng suông suông, dăm câu mòn vẹt hiện nay vẫn được ai kia cố tình ứng dụng làm bình phong, lá chắn là do bác cả bắt gặp trong quá trình lao động ở nước ngoài ; truy nguyên bóc tách rạch ròi thì 99,99% không thể chối cãi là do người khác phát ngôn từ thưở nảo thưở nao. Chuyện "trước tác" của bác cả xem ra tương tự trường hợp tập viết của tôi, kể luôn bài tản mạn quí vị đang lướt vội qua đây. So sánh là so sánh làm màu giữa hai trường hợp, chứ tôi chưa cuồng đến độ cả gan so sánh trình độ, phẩm chất với một người xém tí ti đã được Du-nét-cô trao khiếm diện tờ giấy "nhà văn hoá của nhân loại". Nói cách khác, tất tật là nhờ ham đọc, chịu khó ghi chú, cọng chút óc tổng hợp, hệt người nội trợ chọn rau, lựa thịt, múa dao, nêm gia vị... vậy là thành món. Có điều, món của người nội trợ bình thường thì không thể tùy tiện đặt tên vì dù thế nào Phở vẫn là Phở, Bún bò Huế vẫn là Bún bò Huế... Không thể khác được. Ngon dở là do tay nghề và tùy khẩu vị. Chuyện "đọc rồi viết" thì không như thế, đã đành "ăn dâu" xong cùng lắm cũng chỉ nhả ra ... biên khảo nhưng, ngoài lòng tự trọng tối thiểu phải ghi nguồn gốc "dâu" đã "ăn qua", biên giả được tùy nghi, tùy hứng muốn đặt tên gì không ai hơi đâu cắc cớ vặn vẹo, ngoại trừ trường hợp vĩ nhân đánh đồng tham rồi biên khảo "thập niên thụ mộc, bách niên thụ nhân" thành sáng tác "mười năm trồng cây, trăm năm trồng người" là không được vì, đánh đồng như thế chóng chầy sẽ có những con mọt sách hiếu kỳ "vạch lá tìm sâu", lôi ra ánh sáng mặt trời: Cháy !

Ông ngoại không còn nữa để lại rầy rà "vô học không là cái tội, vô hạnh vô luân mới là cái tội". Không lập thuyết không là cái tội, nhận vơ mới là cái tội ; áp đặt sự nhận vơ cho một người không còn khả năng cải chính tội càng nặng hơn.Vĩ nhân vàng ròng thì chẳng cần lập thuyết vẫn là vĩ nhân. Bà Trưng, bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung, Sào Nam, Tây Hồ... có cần lập triết, lập thuyết gì đâu mà sao tiếng thơm rền mãi non sông, hậu thế đời đời dọn lòng bái phục, tự nguyện phụng thờ. Thôi đừng tiếp tục trơ trẻn gán đặt tên Cesar vào những gì vốn không thuộc sở hữu của Cesar. Internet nó cười. Ngược lại, đã đến lúc trả lại cho Cesar tác phẩm độc nhất mà Cesar đã ngẫu nhiên tạo ra trong những lần được "bồi dưỡng tâm tình". Đã công nhận ngục trung, sao chưa chịu nhận tất trung ?

Cách mạng 1917, theo một số người, đã tạo nên những thành quả vĩ đại suốt ba phần tư đầu thế kỷ XX, nhưng sự sụp đổ của Liên Sô và Đông Âu ở cuối thế kỷ XX, cũng theo một số người, còn vĩ đại hơn nhiều, ít ra cũng phải gấp đôi. Cách mạng 1917 là nguyên nhân vĩ đại của những cách mạng thần thánh sau đó trên một phần thế giới và những cách mạng thần thánh này lại là nguyên nhân vĩ đại của những hậu quả vĩ đại về hệ lụy cho đến ngày nay, trong đó có một nơi mà tôi vô tình mang cùng huyết thống.

Muốn giết khơi khơi một con chó, cách đơn giản nhất là quy cho nó bị bệnh dại. Muốn độc quyền hai chữ dân chủ, hai chữ tự do, cách hay nhất là quy đại cho đại thể dân trí còn chưa đủ tầm, nghĩa là ai đó tự hiến định đặc quyền dày xéo lên bề dày lịch sử và văn hiến tổ tông, vì chuyên chính thường bao gồm những nhà kách mạng thiếu thốn nhân tâm nhưng dư thừa ý chí để dửng dưng trước bao thống khổ của đồng bào. Ôi những đạo đức kách mạng đã tự tiêu ma trong đặc quyền đặc lợi chẳng khác gì các nhánh sông tự biến mất trong biển cả. Đặc quyền đặc lợi nói được đủ thứ ngôn ngữ bằng cái lưỡi gỗ và đóng được đủ thứ vai tuồng, kể cả vai tuồng của những nhân-vật "tiền rừng bạc bể" trân tráo ta đây trước sau vẫn là vô sản hay phi quyền, phi lợi. Đặc quyền đặc lợi làm mù quáng một nhúm người này nhưng lại mở mắt cho đại thể kia. Đại thể kia thấy rõ đã bị lừa ngay khi vở chèo hạ màn, nhưng rồi duyên cớ nào lại tiếp tục cam chịu sự phỉnh lừa của cái lưỡi gỗ ? Sự cam chịu không chỉ lai rai một tháng, một năm mà đăng đẳng đo đếm bằng từng thế hệ một. Do chán chường, do lòng sợ hãi ? Tôi không biết. Nhưng có người kể, một hôm ông cụ nhà văn đáng kính đáng quí kia thổ lộ trước mặt đám nhà văn trẻ «"tao còn sống đến bây giờ là nhờ biết sợ". Nói rồi (ông cụ) ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lả chả, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng...».

Thưa cụ, nếu sự yếu đuối là tật xấu mà người ta chưa biết cách sửa chửa thì theo cháu lòng sợ hãi cũng vậy, duy với chút khác biệt là lòng sợ hãi, khi bị dồn vào chân tường, sẽ tự biến thành lòng dũng cảm. Đấy hình như là đặc tánh của dân tộc, xuyên suốt dòng lịch sử của nước nhà khẳng định điều cháu nói. Mà xem ra lòng sợ hãi chưa đụng chân tường, xin cụ chỉ dạy cho.

- Cháu đừng quá bức xúc: Dục tốc bất đạt. Ông ngoại cháu không dạy cháu câu này sao ? Lòng sợ hãi chưa đụng chân tường ư, thì cháu cứ việc chờ. Chờ trong hy vọng. Cả nước đã chờ từ 30 năm qua, nay có chờ thêm 30 năm nữa thì cũng vậy. Kiên nhẫn cũng là đặc tánh của dân tộc. Ông cháu ta tuy âm dương cách biệt nhưng đồng bệnh, bệnh viễn mơ viễn mộng, lo bò trắng răng. Tuổi cháu bây giờ thuộc lứa "trẻ đã qua, già chưa tới", dân gian gọi là hườm hườm, chuyên chính đỏ vu là xét lại... Ngoắt ngoéo, nhiêu khê lắm. Cháu không nên bi thảm hoá sự việc, con người ta chẳng bao giờ sung sướng hay đau khổ như người ta – trong đó có ông, có cháu – hằng tưởng tượng. Theo báo đài chính thống, chóng chầy chúng ta cũng sẽ thành cọp thành rồng dẫu là cọp là rồng mà bà ngoại và cha mẹ cháu vẫn gửi cho ông ngoại cháu mỗi năm hai lần: Ngày giỗ kỵ và lễ Thập loại chúng sinh.

Cháu đòi công lý ư ? Cháu cần nhập tâm rằng công lý đối với nhúm người đặc quyền đặc lợi chỉ là mặt này của một đồng xu, mặt kia là nỗi sợ hãi phải hứng chịu sự bất công, cũng như chỉ có một và duy nhất một tình yêu tổ quốc nhưng lại có vô số bản sao khác nhau, với vô số nhân danh khác nhau, cốt lõi là thời và thế thế thôi, cháu ạ. Có thời có thế thì khẩu hứng chắp vá cũng trở thành sợi chỉ tư tưởng xuyên suốt. Có thế có thời thì ai cũng có thể ngoi lên cấp lãnh tụ, huống hồ các tay nghề cao như thợ sơn, thợ thiến. Với tư tưởng, lãnh tụ như thế thì làm gì tiêu hoá nổi những phê bình nghịch nhĩ hướng thượng, song song với những tâng bốc thuận tâm phản bội. Vì lời tâng bốc thực chất là đồng tiền giả, nó chỉ có giá trị đối với sự vô sĩ của người tâng, bốc và vẻ đắc chí của kẻ được bốc, tâng ; cả hai đều là phường chèo. Chỉ hơi xót cho 80 triệu khán thính giả buộc phải trả giá vé quá đắt... Nhưng thôi, đêm nay ông cháu ta tản mạn tào lao thế này tạm đủ rồi, là cho có chuyện để mà nói, cho cháu có cớ để tập viết, viết riết biết đâu mai kia mốt nọ gặp thời gặp thế cháu chẳng thăng quan như các quan trong Hội nhà văn...

Chậc, cháu cứ tủm tỉm "nhậm sà" xem chính sự nơi đó như khi xem David Copperfield trổ tài ảo thuật trên màn ảnh nhỏ, có thế mới tiếp tục vui sống được. Cháu ơi, ông không nhớ ai đó có câu "nếu biết tách mình ra khỏi thời cuộc, thì việc lớn của thiên hạ chỉ còn là một trò cười."

- Hiện tình nơi đó cũng là trò cười sao, thưa cụ ?

- Ừ, cũng là cười, đương nhiên là cười ra máu mắt !


Hàn Lệ Nhân


(*) Chút tổng hợp từ sách báo đã đọc qua.

Đã mang vào TV
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.03.2006 15:15:17 bởi Hàn Lệ Nhân >

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 25.03.2006 15:12:31
Tản mạn qua đêm 2 (*)

Hàn Lệ Nhân


Ai cũng biết nước biển mặn nhưng thực sự muốn biết chất mặn đó như thế nào, cần phải xuống biển, vốc nếm. Một oan khiên, một tội ác có thể trở nên chính xác, nếu chính người gây ra oan khiên, tội ác - hay ít ra thân nhân họ - phải một lần hứng chịu oan khiên, tội ác. "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay"...

Con người vốn tự sắp xếp đứng sau / dưới thần thánh và trước / trên súc vật. Thần thánh có nói, có viết, có dùng đến vũ lực hay không, thú thật tôi xin chịu dốt chưa biết. Súc vật không nói, không viết là điều chắc chắn nên súc vật không biết tranh biện mà chỉ giải quyết tranh chấp bằng bản năng là bắp thịt. Riêng con người là sinh vật duy nhất biết giải quyết dị biệt bằng bản năng là quả đấm, cú đá và vũ lực nói chung, phối hợp với đặc tánh trời ban là lời nói ; ngoài ra con người – để khác với thần thánh và đặc biệt để hơn hẳn súc vật - là sinh vật duy nhất biết nhận lỗi.

Những cuộc tranh biện bằng cái lưỡi hoặc bằng ngòi bút – nay thường xuyên bằng bàn phím vi tính - sẽ không bị kéo dài nếu sự nhầm lẫn nghiêng hẳn về một phiá và nhất là nếu bên đuối lý, bên "phi nghĩa" có chút tự trọng và can đảm nhận lỗi. Nguyên tắc chung theo lẽ chỉ có vậy. Thực tế đâu mà đơn giản thế. "Đến chết cũng không nhận lỗi" vốn là một trong vô số nhận định về "người Trung quốc xấu xí" của nhà văn Trung hoa tên Bá Dương (Bo Yang), nhưng chắc chắn dịch giả Nguyễn Hồi Thủ, khi đọc nguyên tác Hoa ngữ, là người Việt đầu tiên giật mình ngay ngáy cảm tưởng nhà văn họ Bá không chỉ nói riêng về người Tàu. Đại để chỉ cần đổi tên người, thay tên đất là sự sự khít khao y như khi bạn hay tôi đi đo may bộ vét-tông, cái áo dài ở tiệm. Đọc người lại gẫm đến ta...

Lúc đọc cuốn này, tôi cũng đã thót người nhiều bận, tạm gấp sách lại, nhắm mắt hồi lâu ... khục khục cười một mình, kế phải phá lên ha hả cho nó đã, như xưa đọc Tam Quốc, có người đã vỗ đùi văng tục "tiên sư cái thằng Tào Tháo" để tỏ lòng ngưỡng mộ một chính trị gia siêu đẳng về tài và thuật. Cười phá lên tất nhiên làm phiền kẻ đang thiêm thiếp sát bên cạnh, người ta bắn người choàng dậy, lắp bắp hỏi nguồn cơn. Phục thiện, tôi vuốt vuốt xin lỗi rồi vắn tắt "anh lại bị điểm trúng huyệt, mai mốt em đọc cuốn này chắc cũng vậy". Người ta chẳng nói gì, lừ mắt một phát, quay lưng dỗ giấc lại. Cái tật vừa đọc sách vừa tủm tỉm, cái thói nửa đêm tắt đèn bất chợt lồm cồm ngồi dậy lui cui ghi ghi chép chép của tôi, đối với người ta chẳng còn lạ lẫm gì sau gần 30 năm có với nhau nhiều cái chung, may mà người ta chưa nỡ phán cho hai tiếng đồ khùng.

Sự ngoan cố "đến chết không chịu nhận lỗi" của một cá nhân bình thường xem ra có thể du di thể tất vì xét chung nếu có di hại nó chỉ di hại cho bản thân đương sự, cùng lắm ảnh hưởng đến một hai gia đình, nhưng sự ngoan cố của một nhân vật, một tập đoàn "phụ mẫu chi dân" thì lại có vấn đề, vấn đề to tát bởi nó gây tang tóc ê chề cho bàn dân thiên hạ, làm khối khối người khuynh gia bại sản, bỏ mạng như ngoé - ngoại trừ thân bằng quyến thuộc của nhân vật đó, của tập đoàn đó ; nó kìm hãm đất nước không bút mực nào tả xiết.

Ông nội thỉnh thoảng vẫn rùng mình nghẹn ngào nhắc lại những nhân danh trong cải cách, đấu tố... (sao nguyên bản từ Trung Quốc) trời sầu đất thảm ở quê Bắc bên nội trong thập niên 50, đặc biệt nhiều thảm kịch kinh thiên động địa ở quê Nam bên ngoại cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, rồi chua chát dẫn câu "ngã vị thiên hạ kế, khởi tích tiểu dân tai" của Thành Cát Tư Hãn để tóm gọn sự sắt đá nghiệt ngã của nhúm người bảng đỏ tim đen vẫn tự ban bố "sứ mạng" từ dân, do dân, vì dân (1). Chuyện cải cách, đấu tố ghê rợn ở quê Bắc ông nội bảo rốt cuộc Người cử người khác "rưng rưng" ký bản công bố suông với dăm câu xin lỗi, sửa sai vậy thôi. Kẻ đứng đầu công cuộc cải cách, đầu tố phi nhân kia bị chế tài bằng cách chỉ việc lặn một thời gian ngắn trong các chức vụ chóp bu khác, sau lại ngang nhiên trồi ra nắm quyền cầm cân nẩy mực tột đỉnh đến mãn đời. Bao nhiêu tội ác mới hôm nào bị đặt dưới khu, được liệt thành quá khứ cần và phải quên đi, triệt để cấm khơi lại. Huề cả làng, trừ lịch sử dĩ nhiên. Thật đúng là "đảng vi quí, xã tắc thứ chi, dân vi khinh". Sửa sai nhưng vẫn cứ sai, vì liền sau đó lại tới thảm kịch Trăm Hoa Đua Nở, cũng lại du nhập từ người anh em phương Bắc, gây ra biết bao oan khiên, hoạn nạn trong văn giới, thui chột biết bao nhân tài của đất nước.

Chuyện ở quê Nam sau 1975 thì không "may mắn" như ở quê Bắc vì cho đến nay, sau 30 năm giang sơn tụ về một mối, có ai chính thức đứng ra nhận lỗi với quốc dân đâu. Mà nghĩ cũng hợp lý thôi, nhận lỗi là khi biết mình làm sai, chứ ai kia vẫn nằng nặc cho các chính sách ở quê Nam là hoàn toàn đúng đắn. Éo le là ở chỗ đó. Trây trúa là ở chỗ đó. Và mầm mống ly tâm cũng từ chỗ đó. Đã ly tâm thì điệp khúc "Đại Đoàn Kết" – sau lưng tôi – "Khế Ngọt, Ruột Thừa"..., rã họng cũng thuần là con chữ, lời nói, chỉ bùa phép được dăm kẻ quáng gà hay mấy trự giả đui, nhổ ra liếm lại. Lạ, trên nửa thế kỷ nay, những lỗi lầm kinh khủng ở nước ta sao đều có mùi thịt kho... Trung Quốc? Làm như "phụ mẫu chi dân" của chúng ta tư duy bằng cái đầu của các chú ! Và lạ cho các anh chị ăn cơm chúa múa tối ngày trên kênh này kênh nọ, trên báo nọ báo kia: Đôi khi tôi tự hỏi chẳng biết các anh chị đó, đêm đêm trước khi thiếp ngủ, họ có tự vấn, nghiền ngẫm và có thật sự tin tưởng vào các điều họ múa hay không ?

Ai chẳng biết biết nhận sai lầm và thành tâm hối cải là đã được tương đối tha thứ quá phân nửa rồi, cọng thêm đặc tánh dễ quên của con dân nữa vị chi coi như xí xoá, bắt tay nhau làm lại từ đầu, trễ hơn không. Nhập nhằng, cù nhây chỉ tổ thêm nặng tội. Không ai có thể nắm chặt bàn tay mãi mãi:

Nước đâu dám sánh non cao,
Nước xuôi chỗ trũng, nước vào đầm sâu.
Nước nào có phụ non đâu,
Nhưng non chớ tưởng bền lâu muôn đời.
Nước hèn mọn lắm non ơi,
Nước xuyên thủng đá, non trôi không chừng. (2)


30 năm qua đất nước đã bao lần lỡ tàu, lỗi lầm đừng đổ cho khách quan thù nghịch ma mà hoàn toàn là do chủ quan, kiêu ngạo hảo của "phụ mẫu chi dân". Chính cái tâm ý "bách chiến bách thắng" đã gây nên nông nỗi ; chính cái di ngôn tinh tướng "xây dựng bằng 10 ngày nay" ; chính cái tâm ý siêu việt đồng nhất sa trường bom đạn với sa trường kinh tế - nhìn đâu cũng thấy diễn biến hoà bình - đã trì trệ non sông.

Non sông châu về hợp phố tròn trịa 30 năm, nhưng thời lượng 30 năm lại bị cắt xén ra hai khúc: Khúc 10 năm đầu được lờ tịt, quy thành dĩ vãng ; khúc 20 năm sau lại được hô hê nối dài vào hiện tại. Nghĩa là thế nào, mặt trời chân lý ơi ! Cùng chung trên một dòng thời gian liên tục mà đoạn u ám thì biện chứng thành dĩ vãng, đoạn le lói lại tung hê thành hiện tại, thành bệ phóng "sẽ" vút lên thiên đường. Thiên đường nào ? Đố ai biết ! Từ thời đại bo bo tiến lên thời đại cơm trắng mà phí những 30 năm thì quả quá quá tệ ; khiên cưỡng chọn mốc 20 năm tuy vẫn tệ, vẫn rùa nhưng, theo ai đó, mược kệ "chúng nó". Cách chiết tính cắt khúc này vô hình trung khẳng định thêm một lần nữa bản chất bất thiện, trí trá thâm căn cố đế của "một mình một chiếu". Dẫu gian giảo tinh xảo thế nào sự thật vẫn hoàn sự thật. Đất nước ta: Nhắm mắt tự ru thì có "thành tựu to lớn". Mở mắt nhìn quanh là tụt hậu vĩ đại. Đã qua rồi thời kỳ đà điểu, đã no rồi thời kỳ ăn bánh vẽ ..., các bạn ơi ! Có điều, dù nhắm hay mở mắt thì thiểu số đầy tớ giàu sang, phè phởn hơn đứt đuôi triệu triệu lần tuyệt đại đa số chủ nhân là điều vô phương ngụy biện.

Ham hố, sĩ diện làm chi cái đuôi XHCN khi mà "chủ nghĩa cộng sản là con đường dài nhất đi từ ("địa ngục") tư bản đến ("địa ngục") tư bản".(3)

Hàn Lệ Nhân

(*) Chút tổng hợp từ các sách báo đã đọc qua.

(1) "...government from the people, by the people, for the people..." phát biểu của TT Mỹ Abraham Lincoln (1809-1865), sau trận chiến Gettysburg tháng 7 năm 1863. Ấy vậy mà có người bạo gan bảo nhóm chữ này do Người việt phát ngôn.

(2) Ghi theo lời đọc của LS Lê Chí Quang trên RFA.

(3) Lech Walesa (1943- ), nguyên chủ tịch công đoàn Solidarnosc và nguyên tổng thống nước Ba Lan hậu cộng sản.[/
font]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.03.2006 19:22:09 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 29.03.2006 22:42:39
Mái Tóc Dòng Sông
Hàn Lệ Nhân


Hầu hết dân trong xóm là người Việt, có cả ngôi chùa việt tên Bảo Quang Tự nên quen được gọi là xóm Bảo Quang và ít ai còn nhớ xóm vốn có sẵn tên lào là Bản Thôông (Xóm Đồng / Xóm Ruộng). Hình ảnh Xóm Bảo trong bài nầy là hình ảnh của trước 1975: Nhà anh Long ở khoảng giữa xóm, ven con đường đất đỏ, mưa bùn nắng bụi. Từ cổng nhà anh Long, quẹo trái là vào xóm trong, bên nầy đường có nhà bác Cai Lem, bác Dụ, bác Tề, ông bà Minh, chú thím Cận, anh chị Ta …, bên kia đường là nhà o Cọt - chú Nạp, nhà ông quan ba người Lào, nhà ông bà Bình … qua khỏi xưởng làm nước đá cục và nước ngọt Lê Sinh Ký mươi thước, bên kia con đường nhựa, là đồng ruộng với nhiều mái nhà sàn của người bản xứ và phi trường Savannakhet ; quẹo phải là ra xóm ngoài, bên nầy đường có nhà anh chị Phó, tiệm chú Chệt, nhà cô Công - chú François …, quá chùa Bảo Quang độ trăm thước gặp con đường trải nhựa cắt ngang, phân giới bất thành văn giữa xóm và phố ; phía trước mặt là nhà chú thím Chua, nhà anh chị Bột-Huống … cuối cùng là nhà hai bác Năm (Heo Quay) và hai bác Nhẫn (cũng chuyên làm heo quay). Bên kia con đường nầy có nhà chị Hồng ở cạnh nhà tôi, thuộc phố Nhà Thờ nơi có góc giáo đường được xây từ thời thực dân Pháp.

Anh Long, chị Hồng biết nhau từ thuở bé, lúc chị Hồng vào học hè trường tiểu học Lạc-Hồng của thầy Nguyễn Văn Viễn ; quen nhau từ năm đệ tứ nhờ học cùng lớp. Cuối năm đệ tứ anh Long chuyển, thi vào trường Trung Học Kỹ Thuật ( Lycée Technique) Savannakhet. Chị Thảo tôi và chị Hồng tiếp tục học đến hết lớp đệ nhất ban văn ở Trung Học (Pháp-Anh-Lào) Savannakhet. Sau mấy tháng đầu niên học năm 1972, chẳng hiểu do đâu anh Long thường đến nhà tôi chơi. Lúc đầu tôi nghĩ chẳng lẽ lại vì chị Thảo ? Không bao lâu sau, tôi mới biết mình lầm lớn khi anh Long bắt đầu gợi chuyện về chị hàng xóm sầu mộng thân thiết của tôi …

Chị Hồng kém chị Thảo tôi 2 tuổi mà xem ra chị ra vẽ hơn chị tôi nhiều. Chị Thảo nóng nảy, bộp chộp, chưa nói đã cười ra tiếng ( me thường bảo, gái lứa chưa nói đã cười là người … vô duyên). Chị Hồng chừng mực đoan trang. Chị Thảo ham dạo chơi hơn đọc sách. Chị Hồng, ngược lại. Ngày lại ngày, nỗi bận tâm của chị tôi, có lẽ cả trong giấc ngủ, chỉ lay hoay trong chuyện vải vóc, thời trang, giày nầy bóp nọ … sao tôi thấy chị tôi vẫn hoàn chị tôi. Chị Hồng trang sức giản dị lại thấy sang ơi là sang. Có lần tôi nêu thắc mắc đó trong gia đình, Bố mĩm cười trả lời " sách vở nâng cao phẩm cách con người ". Bấy giờ tôi không tin câu trả lời của Bố, tôi nghĩ ông cường điệu theo sách. Chị Hồng không có vẻ đẹp lộng lẫy, hấp dẫn của Linh, của Ái Thân hay của Phetsomphou ; không có đôi mắt to đen u uẩn của Ratmanyvone hay của Boupha để bạn trai đắm thuyền lòng trong đó ; không có nụ cười mím chi gợi cảm khó hiểu của Mai Phương hay của Samone cho người dám bỏ 5 / 7 triệu Kịp (trước 75) ra giành nhau ; không có sự hồn nhiên đầy sức sống của Moukda cho bạn bè yêu đời hơn … Sắc diện chị Hồng, chỉ thuộc loại " thường thường bậc trung " nếu thiếu mái tóc. Ôi mái tóc huyền của chị Hồng nó mới kỳ diệu khó tả làm sao ! Mái tóc mà đến nhà thi sĩ Nguyễn Long của tôi, sau nhiều đêm thức đua với trăng sao, góp hết ý lại cũng chỉ nẩy ra được mỗi bài thơ võn vẹn 4 chữ (1) : Mái Tóc Dòng Sông ! Thật vậy. Nhờ có mái tóc mà sắc vóc của chị Hồng trội hẳn lên. Nhưng, theo tôi, yếu tố sắc không thôi chưa đủ thành hấp lực làm nhiều bạn trai mơ mộng chị Hồng đến thế mà phải do cái nết của chị. Từ khi thân nhau, tôi chưa hề nghe chị Hồng phê phán, tranh cãi, giận hờn ai. Mà chị có giận ai, người đó cũng khó biết được vì lúc nào, với ai chị cũng hoà nhã đúng mức. Bố bảo " cái nết của cái Hồng đánh chết cái đẹp của mấy đứa khác". Me lại bảo " giao thiệp mà khéo léo, sâu sắc, chừng mực như cái Hồng, phi người thâm trầm, không dễ mấy ai làm được". Tuy nhiên, Me nhấn mạnh, "buồn vui không lộ ra mặt không hẳn là một nết tốt, nhất là trong tình nghĩa vợ chồng. Đó là tánh … nham hiểm ! Các con chớ có học theo …".

Trước Giáng Sinh năm đó, anh Long ghé nhà tôi. Tôi ngạc nhiên hết sức trước đầu tóc và cách ăn mặc của anh. Tôi cười cười hỏi anh: " chà, năm nay chắc bên Tây trở lại mốt Classique ?". Anh chỉ nhún vai thay câu trả lời. Trước khi chào ra về, anh Long đưa tôi một cuốn vở học trò, bảo nhờ Chi – tên tôi – đọc giùm, cho anh ý kiến và tuyệt đối kín miệng. Cuốn vở đó có tám bài thơ lâm ly, dằng dặc, do anh làm. Trong mấy bài thơ của anh, có bài " Một Mình " được mào đầu bằng hai câu thật hay, phía dưới có ghi N.B. Mãi sau nầy tôi mới biết hai câu đó được trích dẫn từ bài Tương Tư của Nguyễn Bính:

Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng !

Đọc xong mấy bài thơ của thi sĩ Nguyễn Long, tôi lạnh người: Anh Long yêu chị Hồng, trời ạ ! Tôi kêu trời không phải tôi ghen với chị Hồng đâu ( cần nói ngay đây để bạn đọc khỏi hiểu lầm, tôi đã xấu lại ngu ngơ " chỉ biết học thôi, chửa biết gì ") mà trước hết vì khoảng thời gian đó, dưới mắt đa số người Việt trong tỉnh, anh Long là mẫu người " khôn bò đì " (người không tốt). Quan niệm về tốt-xấu, phải-trái theo bố me tôi cũng như theo hầu hết những người Việt lớn tuổi trong tỉnh rất giản dị: Lào có cách sống của Lào, Âu Mỹ có nếp sống phong tục của Âu Mỹ, Việt Nam có nề nếp của Việt Nam thì dù lưu lạc nơi nào, hoà nhập vào bất cứ xã hội nào, điều cốt yếu là đừng đánh mất nề nếp, văn hoá đã sẵn có trong ta qua gia tộc. Bấy giờ tôi trộm nghĩ quan niệm ấy là quan niệm " bảo hoàng hơn vua " vì trong khi ở Việt Nam thiên hạ hãnh diện chung sức lấp liếm, xoá bỏ nề nếp bình dị, lễ nghĩa " cổ hủ " của ông cha để được hãnh diện hít thở, nói cười, ăn mặc, ca nhạc … sao cho giống ông Tây, bà Mỹ thì tận nơi " khỉ ho cò gáy " xứ " Lèo mọi rợ " (định ngữ đến từ VN), các trưởng bối lưu xứ lại chắt chiu gìn giữ tất cả, truyền thừa lại – truyền thừa hay áp đặt ? – cho con cháu tất cả, coi đó như hương hỏa bất khả tư nghì.

Anh Long mang tiếng như vậy tựu trung do cái vỏ thời trang nặng phần " ca-bồi-làng " của anh. Thời trang trẻ trước 1975 ở Lào thường rập khuôn theo thời trang Âu Mỹ - bây giờ cũng vậy - , đặc biệt qua tạp chí Salut les Copains của Pháp: Trai thì quần ống chân voi dài lết thết, áo bó sát người, thắt lưng da to bản, giày bốt da đế cao 10 / 13 phân tây, tóc dài phủ vai ; con gái lycéenne chúng tôi – trừ chị Hồng – có thêm mini-jupe củn cởn, thường là 10 / 15 phân trên đầu gối. Chữ " thường " ở đây ngụ ý của " giới hạn chót " vì, theo bố me, nếu xén cao hơn chút nữa, mặc hay không mặc đâu khác gì nhau ! Lý do thứ hai làm tôi kêu trời là anh Long lắm đào và có tiếng lì khi " ngoại giao tình cảm " tuy không có mã đẹp trai như ca sĩ Văn Tấn Phát. Nếu chị Hồng yêu anh Long chắc chắn là " yêu lần đầu ", còn anh Long yêu chị Hồng hẳn là " yêu lần sau, kỳ thứ 20 ". Theo chỗ tôi biết, trước khi để ý chị Hồng, anh Long đã công khai bắt bồ với trên chục cô trong tỉnh Savannakhet ( chưa kể ở thủ đô Vientiane và các tỉnh khác như Paksé, Thakhek …) ! Thôi thì đủ quốc tịch, đủ thành phần, có điều cô nào cũng xinh. Lý do thứ ba của tiếng kêu trời là chuyện anh Long biết làm thơ ! Tôi chưa hề nghe ai nói qua trường hợp nầy thành thử đâm ra nghĩ ngợi vu vơ về sức mạnh của tình cảm được định danh Tình Yêu, là thứ tình cảm tôi chưa lần biết qua. Tôi băn khoăn thắc mắc: chẳng lẽ tình yêu lại ghê gớm thế sao, không những có thể thay đổi bề ngoài của một anh Playboy sính thời trang diêm dúa, mà còn biến một trái tim theo lẽ phải hời hợt, cọng thêm một bộ óc, trên nguyên tắc, đặc những con số lạnh lùng duy lý (vì anh Long học kỹ thuật mà) … thành trái tim ủy mị và bộ óc - hoặc một phần nhỏ của bộ óc - cởi mở tạo nên những dòng chữ mà thiên hạ gọi là Thơ ?

Có lúc tôi lại nghĩ xấu chắc anh chàng " cóp " ở đâu chăng ? Kết luận nầy không vững vì người và cảnh trong thơ rõ ràng là chị Hồng và Savannakhet yêu dấu của tôi. Tôi đã có ý định nhờ bố kiểm chứng giùm song sợ bố thiên vị vì bố vốn không ưa cách sửa soạn " ca-bồi-làng " của anh Long, nên thôi. Tôi định đưa cho chị Thảo xem nhưng lại sợ nhỡ chị nhận vơ người trong thơ là chị thì mệt lắm. Sau cùng tôi quyết định chọn chép những đoạn tả cảnh hoàng hôn trên sông Cửu khúc Savannakhet yêu dấu của tôi hay những đoạn nói vu vơ không có hình ảnh chị Hồng, cầu cứu với chính người trong thơ. Chị Hồng biết nhiều về thơ việt nam lại từng có thơ đăng báo Quê Hương do sứ quán VNCH trên Vientiane ấn hành, báo Phụ Nữ Ngày Mai tận Sàigòn, có thơ Pháp đăng trên tờ nội san Lycée Savannakhet. Mấy hôm sau, ban đầu chị Hồng hiểu lầm anh chàng nào tán tôi, tôi phải đính chính hết hơi xém buột mồm thề độc chị mới tha cho. Sau mấy câu rào đón thường tình, chị nhận xét rất mạch lạc, nay vì lâu ngày tôi không nhớ trọn, nhưng đại khái chị bảo: " tác giả phải là ngườI ở địa phương nầy, mới khởi viết, niêm luật và bố cục, nhất là bố cục cần chỉnh lại chút đỉnh … lợi điểm của tác giả là sự chân thành …". Chị còn bảo " giả thuyết tác giả là em, chị thành thật khuyến khích nên tiếp tục".

Từ năm chị Thảo lên đệ tam (lớp 10), mỗi mùa mai nở, chị em tôi được bố me cho phép mời một số bạn bè, thường cùng lớp, và các thầy cô người Pháp, ngườI Anh, ngườI Lào đến nhà ăn Tết ta. Nói Tết ta là vì ở Savannakhet nói riêng, ngoài những ngày nghỉ như Tết Lào, Tết Tây và tuy không chính thức, học sinh Việt hay gốc Việt cũng như Lào chính cống thường nghỉ học ngày mồng một mà khỏi cần xin phép hay khỏi phải đưa giấy chứng minh của phụ huynh. Phép nước thua lệ làng là vậy.

Trong số năm người bạn tôi chọn mời riêng Tết năm đó có anh Long, dĩ nhiên với sự đồng ý của bố sau thời gian ngắn thấy sự thay đổi của anh chàng. (Tôi quên nói dạo sau nầy bố và anh Long hay trao đổi quan điểm văn thơ lắm. Bố thay đổi thái độ,theo tôi, vì bây giờ anh Long hợp lăng kính " việt " trong bố. Vả lại tôi chẳng hiểu vì sao và từ lúc nào mình có hảo ý làm mai chị Hồng cho anh ấy). Đã có chủ ý, tôi sắp anh Long ngồi cạnh chị Hồng. Bữa tiệc thật vui. Mọi ngườI đều thắc mắc về sự thay đổi của anh Long. Suốt buổi họp mặt, anh chàng không mấy tự nhiên, nó sao sao ấy. Sau đó là màn cả bọn trẻ đi xem ciné, phim Ấn Độ chuyển âm Lào-ngữ. Tôi lại ranh mảnh dàn xếp anh Long ngồi giữa chị Hồng và tôi. Tôi hơi bực mình vì gần hai giờ phim, ngoài mấy câu vu vơ lúc quảng cáo, anh chàng ngồi như khúc gỗ, câm như hến. Tôi nghĩ bụng " thật có tiếng mà không có miếng ". Sau nầy tôi hiểu lý do qua bài " Đắn Đo " của anh :

Nghiêng mình xuống, chợt nghe hồn buồn lạ,
Mấy canh rồi ray rứt mãi chưa nguôi.
Gọi tên ai : Dung nhan nàng như họa,
Gió ân tình ve vuốt trái tim côi.

Anh sẽ nói hết những gì ấp ủ
Tận đáy lòng chưa dịp nói em nghe,
Để đêm đêm, đêm dài yên giấc ngủ,
Để linh hồn thôi khắc khoải trong mê.

Em đứng đó như chờ câu anh ngỏ,
Đắn đo hoài... Đâu hết lời văn hoa ?
Bánh thời gian âm thầm trên xóm nhỏ ...
Đêm nay về, thức trắng xua đêm qua !

Chị Hồng và tôi thường đi lễ mỗi sáng chủ nhật. Chúng tôi có cái thú thỉnh thoảng đạp xe đạp ven sông Cửu Long mỗi khi chiều xuống. Anh Long biết điều đó mà không bao giờ anh theo ra để như " tình cờ " gặp nhau. Anh bảo " không dám vì như thế sẽ thiếu tự nhiên ". Tôi cắc cớ hỏi lại " vậy khi anh đến nhà em sao không đi thẳng cho gần mà đi vòng chi mất thời giờ, thế có tự nhiên không ?". Anh cười, trả lời: "không biết. Đừng hỏi khó anh, tội nghiệp". Đôi khi tôi gợi chuyện anh Long với chị Hồng, thấy chị tự nhiên như khi bàn về một người bạn trai khác. Là bạn thân nên biết rõ tánh nghiêm của chị, tôi không dám lanh chanh trực tiếp nầy nọ giúp anh Long, sợ chị giận. Tôi chọn tiểu thuật thế nầy: Mỗi khi gặp chị, làm như vô tình " chen " tên anh Long vài lần vào trong câu chuyện. Tôi tập cho đối tượng quen tai dần dần cái tên đó... Chị Hồng hiểu cách khác, ghẹo tôi:

- Bé Chi đã vỡ nòng ... dzồi, hơi sớm đấy cưng.

Tôi không nói gì. Bấm bụng cười thầm. Vài tháng sau, không thấy tôi chấm phá tên anh Long trong câu chuyện nữa, chị Hồng lại trêu:

- Dạo nầy anh Nong của Chi ra sao dzồi ?

- " Giờ đã điểm " . Tôi nghĩ vậy, bèn trả lời:

- Chi có điều nầy muốn nói với chị. Có gì không "đúng", chị hứa không trách giận, Chi mới dám nói.

- Khéo nhỉ. Học đâu ra câu Intro ... nhạt như nước ốc? Điều gì Chi đã quyết tâm cần phải nói thì cứ nói, chưa quyết thì khoan nói. Chị em rào đón làm gì. Nhưng thôi, chị hứa đấy, Chi nói đi. Giúp được gì, chị sẵn sàng.

- Danh dự nha. Dù sao, " bài thơ " nầy ngoài chị ra không ai " giải " được ...
- Lại thơ ! Bài thơ nào ?

- Bài thơ tên Long và một người tên ... Hồng là chị !

- Á ...

- Em xin thề : Anh Long là chị chứ không phải em. Em chỉ là bà mai nội tuyến thôi ...

Ai đó có ví tình yêu như khói, dù khéo che đậy bao nhiêu, chóng chầy khói - nhất là thứ khói đượm hương chân tình – cũng thoát ra ngoài, bay tới nơi cần tới. Khói tình của anh Long bay vào mắt chị Hồng cách nào, lúc nào, tôi không biết. Chỉ biết dạo nầy mỗi khi tôi nhắc đến tên anh Long thì chị có vẽ thẹn, mắt thoáng long lanh như cười ... song, nghiêm trang nói lãng qua chuyện khác ngay. Phần anh Long cũng vậy, anh không còn đưa thơ cho tôi đọc như trước, ít nhắc tới chị Hồng. Và thái độ của anh giống hệt thái độ chị Hồng tức cũng luýnh quýnh, né né lách lách như ăn vụng bị bắt quả tang. Thật khó hiểu.

Khoảng cách nhà anh Long và nhà chị Hồng không quá 400 thước, cho nên sau nầy tôi theo dõi - chẳng biết họ có hẹn nhau trước không - chiều chiều, hai anh chị thơ thẩn ngoài ngõ nhà mình, chịu khó liếc về phía nhà " đằng kia " vài chục lần, thế nào cũng có lần toại nguyện : Thấy nhau trong chốc lát và dù chỉ " mờ nhân ảnh ". Tôi là người duy nhất biết chuyện của họ: Tình trong như đã, mặt ngoài còn e ...

Lâu quá không thấy bài chị Hồng trên Quê Hương và Phụ Nữ Ngày Mai. Hỏi chị. Chị bảo chị bận. Hỏi bận gì, đâu phải mùa thi đâu. Chị không trả lời thẳng, lại xa xôi bí ẩn : " Viết hư cấu thì không hay, không động lòng mình, sao động được lòng người. Viết nửa vời thì không muốn. Còn viết thật " tình " mà đăng báo lại không ... ổn" ! Hỏi anh Long sao độ nầy không thấy anh đưa thơ cho đọc. Anh nói :" có thứ hạnh phúc chỉ thật sự là của mình khi mình mình biết, mình mình hay ... Trước khi du học, anh sẽ tặng bé toàn tập thơ anh. Chỉ sợ lúc đó bé lại thích thơ " người khác " đấy thôi ... "

Chị Thảo, chị Hồng và anh Long đều xuất ngoại sau mùa thi tú tài 1973, có điều ba người đi ba hướng. Chị Thảo đi Mỹ. Chị Hồng có ông chú nhận qua Pháp. Anh Long đi sau mấy tháng nhưng nhận học bổng đi Tiệp Khắc. Như đã hứa, anh Long tặng tôi tập thơ Sao Đen ( Etoiles Noires ). Sao Đen gồm cả thơ bằng tiếng Pháp, có mấy bài tùy bút. Bài " Nhà Nàng " được dẫn nhập bằng bốn câu thơ của Nguyễn Bính:

Nhà ấy hình như có mặt trời,
Có rừng có suối có hoa tươi.
Bao nhiêu chim lạ, bao nhiêu bướm ...
Chẳng có gì đâu, có một người !

Trước ngày chị Hồng theo xe đò lên Vientiane chờ đáp máy bay qua Paris, thi sĩ nhà ta còn lạc quan lưu niệm:

Mình chửa xa nhau đã nhớ nhau,
Nhớ nhau vì nỗi phải xa nhau.
Xa nhau chi để lòng nhau nhớ,
Mà có xa nhau mới nhớ nhau !
( Ca dao, 17/07/1973)

Nhưng anh bi quan ngay liền hôm sau:

..........

Tôi nhớ thương người kiều mỵ ấy,
Nhớ người sầu mộng của đời tôi.
Chiều qua, theo bánh xe rời bến,
Mang của tôi đi trọn tiếng cười !
(Đối diện, 18/07/1973)

Đêm mênh mông, một mình trước ngỏ,
Lặng lẻ buông lòng theo mêng mông.
Chẳng biết giờ nầy nơi phương đó,
Người ấy có thầm nhớ đây không ?
(Bâng khuâng, 06/08/1973)

Hai người có thư về cho tôi, do đó biết địa chỉ của nhau. Họ có liên lạc với nhau không, tôi không biết. Khi biến cố 30.4.1975 xảy ra, tôi và hai em trai đã qua Thái trước đó 5 ngày rồi xin tị nạn tại Tây Đức, lạc mất địa chỉ hai người. Bặt tin họ từ đó. Tập Sao Đen của anh Long tôi còn giữ. Hè 89 tôi theo chồng về đến Moukdahan. Chồng tôi người Lào trước ở Séno – bạn học đồng lứa với anh cả tôi – du học từ lâu lại có quốc tịch Đức nên thanh thảnh, tự nhiên qua sông vào Savannakhet. Tôi quyết định chờ gặp gia đình ở Mouk. Rất nhiều người tị nạn đã trở về thăm chốn cũ và đã an toàn trở ra. Riêng tôi, tôi không theo chồng qua sông chỉ vì chưa lấy lại được niềm tin đối với chính quyền đương thời, tuy biến cố 1975 (Lào 02/12/1975) trên đất Lào phải nói như một cái trở mình nhẹ nhàng, khác hẳn cuộc "giải phóng" ghê rợn ở Việt Nam hay ở Campuchia.

Ba ngày sau chồng tôi trở qua Mouk cùng Mẹ và gia đình anh chị tôi ... Sau năm ngày được sống hồn nhiên lại với gia đình, một lần nữa tôi lại nói câu giã từ với nhiều hứa hẹn như 16 năm xưa. Trên đường trở vào Bangkok chồng tôi kể:

" Năm 1977 chị Hồng (nhập tịch Lào với tên Khittiphone Keosavanh) có về lại Savannakhet trong phái đoàn " sinh viên yêu nước hồi hương kiến thiết xứ sở ". Ngồi chờ ròng rả hơn 7 tháng, không thấy chính phủ đả động gì tới chuyện bổ nhiệm, chị Hồng và mấy người em bèn trốn qua sông, hiện tị nạn tại Úc, đã lập gia đình với một người bạn học cũ. Phần anh Long, sau khi học xong, trên đường trở về tới Bangkok, trốn vào trại Latbouakhao (Thái Lan) xin tị nạn. Hiện anh đang sống tại Montpellier (Nam Pháp)." Thỉnh thoảng tôi có đọc bài anh trên các báo việt ngữ hải ngoại.

Giáng sinh năm 1991, tôi qua Pháp và có gặp anh Long. Nhắc lại chuyện xưa, anh đăm chiêu nhìn ra cửa sổ:

" Tình cảm giữa anh và Hồng chưa thành tên, nhưng hai đứa đều cảm nhận được và tin tưởng ở ánh mắt trao nhau như một hẹn thề ... Mùa Phục Sinh 1976, nhờ người bạn làm việc trong sứ quán cho biết – chắc Hồng cũng có ý tìm anh – anh gặp lại Hồng trong phái đoàn Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Pháp qua Tiệp tham quan. Anh quên cho Chi biết, từ lúc xa Lào, anh và Hồng không nối được liên lạc. Gặp lại nhau, hai đứa mừng lắm – lần đầu tiên anh với Hồng nói chuyện không có người thứ ba – tuy vẫn không bóng gió gì tới " chuyện ấy ". Hai hôm sau, sau đêm văn nghệ tại Prague có cả văn công từ Hà Nội sang, Hồng có gián tiếp cho anh biết là sẽ về lại Lào nay mai và có chúc anh sớm ra trường rồi về cùng phục vụ XHCN. Hồi ở Lào, anh đã tìm hiểu lịch sử Liên Sô, Trung Cộng và Đông Âu – bấy giờ anh nhất định không tin, mới quyết đi Tiệp – nay sống dở chết dở dưới chế độ, nên trong một phút không tự chủ, anh có nói thật với Hồng về hoàn cảnh tù hảm của anh từ ngày qua đây và bề trái của tấm huy chương XHCN... Hồng bình thản đưa ra quan điểm của mình nhưng trực giác cho anh biết, bất đồng ý kiến giữa hai đứa nẩy mầm từ đó. Rồi không hiểu vì bận rộn công việc trong phái đoàn hay vì lý do trên, Hồng không liên lạc với anh nữa. Anh có đến nhà khách tìm Hồng hai lần, để giấy lại... song vô ích. Hồng trở lại Paris, anh có viết thư cho Hồng nhiều bức. Hồng không trả lời. Trước kia, tuy đau khổ vì bặt tin người mình thương tưởng song anh không tuyệt vọng khi tự an ủi: Sự ngăn cách nầy chỉ là ngăn cách của không gian. Anh đã có lý, chứng cớ là hai đứa đã gặp lại nhau. Nhưng cay đắng thay, gặp nhau để vĩnh viễn mất nhau bởi một ngăn cách vô hình, đối lập của tình cảm, mang tên ý hệ XHCN. Anh thông cảm tâm huyết của Hồng lúc đó cũng như chia xẻ tâm trạng của nàng sau nầy, ngay cả giờ phút nói chuyện với Chi đây: Cả thế giới đã lầm và đã thức tỉnh trừ vài nước – đau đón thay – trong đó lại có đất nước ta ".

Kể xong, anh trầm ngâm suy nghĩ một lúc, nói: " Ông Sihanouk có một nhận định rất đúng, đại khái ông bảo: Sinh viên quốc gia du học các nước xanh đa số đều trở thành đỏ hay hồng, còn sinh viên du học các nước đỏ, chóng chầy cũng quay lại chống chế độ đã tạo nên họ ".

Tôi ngỏ ý muốn trao lại tập Sao Đen, anh Long trả lời: " Đó là những giọt máu từ tim anh tự nguyện chảy ra cho một người, một thời. Đớn đau nhưng êm đẹp. Nếu Chi chưa hé chuyện, Hồng không biết Sao Đen và mãi mãi anh không muốn Hồng biết. Anh đã tặng Chi, Chi cứ giữ lấy hay đốt đi tùy ý, đó chỉ là bản sao. Bản chính anh vẫn giữ trong tim ! "

Hàn Lệ Nhân

Chú thích:

(1) Truyện Kiều của Nguyễn Du là bài thơ việt ngữ dài nhất, 3.254 câu. Bài thơ ngắn nhất là lối thơ của ông Thao Thao:

Trời nước mơ hồ cá đớp trăng ( 8 chữ )
(Theo Luyện Văn của Nguyễn Hiến Lê).




Mái Tóc Dòng Sông
Nhạc & lời : Hàn Lệ Nhân

Hoà âm & thực hiện : Quang Đạt & Đình Nguyên

Ca sĩ : Quang Minh

Tác giả giữ bản quyền
(c) Hàn Lệ Nhân
NO COMMERCIAL USE
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.03.2006 23:09:56 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 18.05.2006 07:21:54
Sách cũ tình tôi 1
Hàn Lệ Nhân


Chợ sách cũ ven hai bờ sông Seine là một trong các địa điểm nổi tiếng của Paris. Chợ gồm những quầy sách be bé. Gọi là quầy cho lịch sự. Gọi xập là không đúng. Vì rõ ràng là những thùng bằng gỗ quét sơn màu rêu lưu cửu, mỗi cái rộng độ một mét vuông, có nắp đậy, có ổ khoá hẳn hoi. Mỗi quầy có từ hai đến ba thùng như thế. Quầy nào cũng được gác và bắt chặt lên bề dày chừng 50 phân của bức tường xi-măng được xây từ bờ sông xây lên, vượt mặt đường chừng 1 thước, chạy dọc sông Seine. Bức tường này là để giữ an toàn cho bộ hành đi trên hai bên lề đường, đồng thời từ bức tường khách có thể dừng chân nhìn xuống ngắm khúc sông trên địa phận Paris, lẫy lừng trên thế giới ; tất nhiên là không tình bằng đứng (hai mình) trên một trong 38 chiếc cầu nối liền đôi bờ, nỗi tiếng nhất phải kể cầu Mirabeau, cầu Mới (Pont Neuf), cầu Saint Louis và cầu được đánh giá tuyệt mỹ là cầu Alexandre III. Khúc sông Seine trong địa phận Paris dài 13 cây số, lững lờ cắt Paris thành Tả ngạn (Rive gauche) và Hữu ngạn (Rive Droite). Ngồi trên thuyền xuôi theo sông Seine, đặc biệt về đêm (Paris by night), du khách mới thưởng thức được trọn vẹn vẽ đẹp của mọi danh lam thắng cảnh trong thủ đô ánh sáng, với duy nhất một gam màu thời gian, biến hoá kỳ ảo qua giám thức nghệ thuật của con cháu gô-loa.

Những quầy sách cũ ven sông Seine sinh hoạt bốn mùa, mưa gió bất luận, không thiếu một ngày. Cứ khoảng 9 giờ sáng, chủ nhân của mỗi quầy đến mở ... nắp thùng - nắp thùng biến thành giá sách, đặt cái ghế ra lề đường rồi ngồi chờ khách. Đàn ông phì phà điếu thuốc lá, đàn bà ngồi đan... tán gẩu cho đến 19/20 giờ, mùa hè có thể đến 22 giờ ; hoàn toàn không có màn mời mọc, lôi kéo. Bài này chủ yếu nói sơ về sách việt cũ (tại Paris) nên không nhắc tới sự hiện diện của các thứ cũ linh tinh khác.

Hè 1976, lang thang lục tìm sách cũ nơi đó, tôi thấy một tấm bảng ghi: «Sách bẩn: nửa bán nửa biếu». Thắc mắc, tôi hỏi người bán sách:

- Thưa ông, sách bẩn nghĩa là sao?

- Sách bẩn là sách không được sạch – ông chủ quầy nheo mắt trả lời rồi hóm hỉnh tiếp: Nhưng không phải sách X. Đừng có mà mơ. Đống sách chữ Việt này là của một người bạn, mẹ Việt ba Tây, cho tôi. Bà cụ qua đời, bạn tôi cất trong kho dưới hầm, chẳng may kho bị lụt nên ra nông nổi.

- Ông cho tôi lục sơ qua được không?

- Ông cứ tự nhiên.

- Tình trạng sách như thế nầy mà ông còn bày bán sao? Tôi nói, sau khi lục sơ.

- Tôi không biết gồm sách gì nhưng mẹ bạn tôi là dược sĩ cho nên nó và tôi nghĩ rằng hẳn không tệ nên chưa nỡ vất đi. Tôi vác ra đây cả tháng nay, ông là người đầu tiên để ý tới.

- Tôi là người việt. Ông nói đúng, mớ sách này không tệ. Nhưng làm thế nào để tẩy lớp bùn trên đó?

- Ông đã lưu tâm đến nó. Tôi để thật rẻ cho và sẽ hướng dẫn ông cách thức làm sạch. Mùa này rất lý tưởng để làm công việc đó, nhưng lâu công à.

Nhìn qua mớ sách nhem nhuốc, xót quá, tôi quyết định mua trọn. Sau khi điều đình và chỉ phải trả 150 Francs (25 euros bây giờ) cho 107 cuốn văn học sử con rồng cháu tiên, Bắc và Nam ! Và như đã hứa ông ấy chỉ tôi cách tẩy bùn trên sách.

Mùa hè năm đó và hè kế tiếp tôi vật lộn với lớp bùn trên mỗi cuốn sách. Tủ sách của tôi trên đất Pháp được bắt đầu như thế.

Riết rồi tôi quen biết nhiều chủ quầy, có sách việt cũ là họ kêu tôi. Đa số chủ quầy mà tôi quen biết, tiếp xúc đều có kiến văn sâu rộng, họ chọn nghề này là vì "nghiện" sách cũ. Có mấy quầy là cha truyền con nối. Trước kia chưa có Internet, kẹt tài liệu là tôi ra hỏi họ, thay vì chui vô thư viện, cách này cách khác họ đều tìm ra. Đến bây giờ, có dịp là tôi ra đấy lang thang...

Hàn Lệ Nhân


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/FAF40E975785455797131DB186900ECE.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2006 04:02:41 bởi Hàn Lệ Nhân >
Attached Image(s)
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 20.05.2006 01:11:19
Sách cũ tình tôi 2
Hàn Lệ Nhân



Bấy giờ khu Paris 13 còn lưa thưa người Á châu. Gia đình nhà văn Thụy Khuê và gia đình chúng tôi là hai trong số mấy gia đình đầu tiên đến đó. Trong thương xá Masséna, có một tiệm bán thực phẩm Việt nấu sẵn, có bảng hiệu gợi cảm: Á Hương.

Hồi còn đi học, tôi trực điện thoại đêm cho một khách sạn cao cấp tại khu Paris-Opéra, quận 9. Tất nhiên là làm "lậu". Sáng thứ bảy hôm đó, đi làm về, ghé vào Á Hương, tôi thót người khi thấy một cái kệ khá lớn, đầy nhóc sách chữ Việt với tấm bảng: Sách cho thuê. 2 francs/ngày (0,30 euros hiện nay).

Lướt qua kệ sách: Tiểu thuyết chiếm đa số tuyệt đối. Tôi đến làm quen với chị bán hàng. Một lúc sau, tôi đề nghị chị nhượng lại cho mươi cuốn trên kệ. Chị bảo phải hỏi ông xã trước, hẹn tôi trở lại vào khoảng 19 giờ.

Đúng hẹn, tôi quay trở lại. Người tiếp tôi là một trung niên đeo kính trắng gọng xà-cừ, tóc muối tiêu bồng bềnh, hai con sâu róm trên môi, vóc dáng tầm thước gốc Bắc kỳ, nói năng điềm đạm, chững chạc. Bàn qua đề nghị của tôi, anh đồng ý trên nguyên tắc và mời tôi đến nhà sáng chủ nhật vì ở nhà anh – vùng Ivry, gần đó – còn nhiều sách khác, "độc" hơn các sách bày ở đây, rồi mới ngã giá "sĩ " luôn thể.

Bên tách trà sơ ngộ, anh cho biết anh đang dạy toán cho đại học Jussieu, lủng củng chuyện gia đình sau 1975, đang chuẩn bị ra toà cùng hát bài "Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi".

Anh đưa tôi vào một căn phòng ngỗn ngang đồ đạc và lù lù một kho sách, tây có, ta có. Anh bảo:

- Đấy, ông cứ tự nhiên ở đây mà lựa. Tôi phải qua bên kia dọn đồ vào két, chuẩn bị di cư. Lựa xong, ta "dứt điểm".

Ngôn ngữ anh dùng và qua tủ sách của anh cho tôi khái niệm anh thiên lực lượng thứ ba. Sau này, đúng là như thế. Tôi chọn thật kỹ vì sách nhiều quá, vả lại nhẩm tính e kham không hết. Cuối cùng tôi để riêng ra được 136 cuốn văn học sử, xuất bản trước 1975, từ Hà Nội và Sài-Gòn.

Tôi nói con số 136 trên. Nhìn chồng sách tôi lựa, anh cười vui vẻ, thân tình:

- Cậu có vẻ cũng sính văn thơ và mê sách cũ như tớ cách đây 15 năm. Tớ không thèm đếm lại, "nhất trí" một tiếng một: 1.500 Francs (230 Euros)!

Nghe giá, tôi tính nhẩm nhanh hơn máy: đổ đồng 11 francs/cuốn (1,7 Euros). Tôi run lên: Phần là giá quá đẹp, phần là không đủ tiền, phần lớn nhất là sợ - nhất - bà xã mới cưới trường kỳ rầy rà có mà nát tai. Lương tháng tối thiểu lúc đó là 1.500 Francs mà lương sinh viên của tôi chỉ được 1.300 Francs, làm lậu mà. Nhưng đây là cơ hội ngàn năm có một, trời ạ!

Tình huống của tôi lúc bấy giờ khác gì một hiệp sĩ lỡ dại có vợ sớm, duyên do chi đó, đứng trước một vệ nữ lồ lộ, thịt thừa vải thiếu, đỏng đảnh ba sẵn sàng, ba dam dang... mê tơi quá: Rút kiếm thì sợ. Trụ, cự thì...tiếc của trời, hơn nữa biết đâu chẳng bị vệ nữ chửi xả vào mặt là vừa mù, vừa ngu và vừa bao nhiêu tĩnh từ tiêu cực khác, thậm chí dám ra công báo, nghị định mời lên tran nhập băng liệt sĩ... sống, tương tự bà con việt kiều bên Thái Lan thờ sống ai đó từ cuối thập niên 1950.

Rốt cuộc, không kỳ kèo thêm bớt giá cả - mặt mũi nào làm thế - tôi đánh liều rút kiếm... nhưng chiêu thức chia thành ba nhịp, 500 Francs tiền mặt chi tức thời, số còn lại thành hai nhịp bán bán cân phương bằng chi phiếu. Anh ấy xuề xoà: Pas de problème! (không thành vấn đề).

Tôi mượn điện thoại nhà anh ấy gọi thằng bạn chí thân, nhờ chạy xe tới đưa sách về.

Hai tháng sau, anh ấy gọi cho tôi, mời ra ngay tiệm Á Hương có chút việc. Trong tíc tắc, tôi nghĩ tới chuyện cái chi phiếu thứ hai có vấn đề, ngay ngáy ra chỗ hẹn. Không phải vậy, tôi chỉ lo hảo. Hai bên cạn xong hai chai bia, anh ấy đi vào phiá sau quầy tính tiền, vác ra một cái két cạc-tông, loại để 6 chai rượu vang, bảo:

- Trong nầy có 18 cuốn về văn học, chèo queo ngủ trên kệ sách trong tiệm từ ngày ra đây, tớ lược ra... tặng cậu ! Lý do chính là không ai thuê cả. Để đấy chỉ là đống giấy lộn. Vô duyên. Tội nghiệp. Phần tớ, như đã từng nói qua với cậu dạo nọ, tớ bỏ chuyện chữ nghĩa Việt Nam ! Và ..., anh ấy thấp giọng: Tuần tới tớ "di cư" !

Đáng lẽ tôi nên dứt phần 2 này ở đoạn trên nhưng từ đó tới nay mỗi lần giở lại các sách kia và lúc gõ bài này trong tôi lại dạt dào tưởng nhớ tới anh ấy, nghĩ lại nguyên do từ trái chanh mặt trận đưa tới sự khủng hoảng tinh thần của anh ấy, gia đình tan nát vì quan điểm bất đồng, tôi viết thêm mấy dòng này thay chút lưu bút hướng về anh: Sách và chữ ký của anh tôi vẫn trân quí trọn vẹn như ngày đầu.

Hàn Lệ Nhân


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/5EB74961E48D4367A46D88925A9F1C24.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2006 02:17:27 bởi Hàn Lệ Nhân >
Attached Image(s)
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 22.05.2006 03:52:33
Sách cũ tình tôi 3
Hàn Lệ Nhân


Trong số các bà bạn áp-phe của mạ vợ tôi, có mấy bác, mấy dì ham đọc sách, chủ yếu là tiểu thuyết Tùng Long, Quỳnh Giao, Lệ Hằng ... và kiếm hiệp Kim Dung, Ngoạ Long Sinh. Biết tôi mê sách Việt cũ nên lần hồi các bác, các dì giúp tôi có thêm rất nhiều sách, với một điều kiện: Một cuốn hay một bộ tiểu thuyết tôi tìm ra cho họ mượn, họ sẽ tìm và biếu tôi một cuốn hay một bộ sách cũ. Ngày qua tháng lại sách cho mượn theo không kịp sách biếu, ban đầu tôi phải khất lại bằng cách ghi sổ nợ, sau các bác, các dì cười xoà, xuý xoá không tính đếm nhưng lại ra một điều kiện khác: Phải tự giác đưa cho họ mượn tiểu thuyết loại hay, nghĩa là tôi phải đọc tuốt luốt.

Bấy giờ tôi hăng viết và viết hăng lắm, nào Hướng Việt, Nhân Bản, Độc Lập, Tự Do...hầm bà lằng dưới nhiều bút hiệu khác nhau, nên còn thời giờ đâu mà đọc tiểu thuyết. Bí quá, tôi lái trách nhiệm giới thiệu tiểu thuyết qua cho bà xã, cho cả mạ vợ, đọc xong hai người tóm lược qua-loa-rơ-măng cho tôi nghe, tôi chỉ việc sắm vai quan toà, phán: Oui ou Non ! Đương nhiên 99, 99% là Oui. Vì thế nào là hay, thế nào là dở ? Đa số người đọc tiểu thuyết chỉ nhắm vào cốt truyện, lâm ly bi đát là chính, ý tại ngôn ngoại, văn phong là phụ. Sau, tôi chính thức giới thiệu bà xã cho các bác, các dì với 2 lý do ở cửa miệng, 1/ nghe quá hợp tình hợp lý: cũng là phụ nữ sở thích do đó dễ có nhiều điểm tương đồng ; 2/ nghe cũng kêu – là «cháu quá bận bịu cho "đại sự"». Lý do thứ 2, nói trắng ra là "ăn cơm nhà vác ngà voi / ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng".

Bác C người Huế, cùng làng với mạ vợ tôi, qua Pháp từ thời 1945. Bác C là "chuyên viên cao cấp" chạy hột soàn. Mỗi lần đến nhà, sau câu chào hỏi, bác C mà lên tiếng " thằng Th. đâu rồi?" là cứ như rằng tôi có tin vui, nhỏ lớn tùy lúc.

Một hôm vào cuối tuần, bác C gọi điện thoại lại bảo tôi lấy xe đến đón bác rồi cùng đi coi sách. Trên xe, bác kể "bà chủ nhà là vợ lớn của 1 nhà văn X nổi tiếng hiện ở Sàigòn, sách vở nhiều lắm, họ không bán đâu, nhưng con cái trong nhà không ai tha thiết chuyện tiếng Việt. Bác "tán" về cháu tợn lắm nên họ đồng ý cho đến coi cho biết, sau đó tùy duyên của cháu...". Nghe tên nhà văn chồng bà chủ nhà, tim tôi đã tưng tưng muốn vọt ra khỏi lồng ngực...

Chủ nhà người Nam, trạc tuổi bác C nhưng, từ lối ăn mặc đến cung cách nói chuyện, xem ra giản dị hơn nhiều. Chủ nhà và bác C có ngờ đâu là qua sách báo tôi đã biết khá rõ về nhà văn X cũng như về chủ nhà cho nên khi chủ nhà, cụ Y, nói qua chuyện sách của chồng bà, tôi như cá gặp nước, như cậu học trò đi thi trúng đề tài học gạo. Tôi nêu tục danh của chủ nhà, tên người con trai duy nhất của họ, "trả bài" mạch lạc về lý lịch của bà, thậm chí cả năm sinh, tháng đẻ... Ôi thôi, người nói đã cái mồm, người nghe chắc cũng mát tai, Bá Nha - Tử Kỳ đến thế là cùng ! Có điều phải nói ngay đây là xưa trong hiện trường và nay viết lại kỷ niệm, tôi vẫn một lòng như khi tôi nhìn tôi trong gương hàng ngày là, lúc huyên thiên về nhà văn X, tôi không hề có hậu ý mua sách. Tôi nói về ông với cả tấm lòng ngưỡng mộ, không tì vết. Lòng ngưỡng mộ đó được manh nha từ lần đâu tiên tôi đọc ông, năm 1972, khi tôi tập tểnh viết bích báo trong trường trung học...Tây ! Sau này tập viết văn Việt, mặc dù đã cố gắng học cách hành văn của ông, tôi tự nghiệm chỉ mới học lóm sự sáng sủa được vài phần trăm, duy thói quen khi viết luôn luôn có tự điển tiếng Việt bên cạnh là tôi rập khuôn, nghi ngờ Hỏi Ngã là lật tra ngay.

Bá Nha gặp Tử Kỳ, lúc sơ ngộ, thì làm gì rứt nhau dễ dàng được. Hiện trường lúc đó cũng vậy, đến nỗi chủ nhà để rơi lệ lúc nào không hay. Bác C ngồi lặng, không góp tiếng nào. Rồi từ chuyện đến coi sách cho biết, dự trù độ 1 giờ, buổi gặp mặt kéo dài không dứt, bác C bỏ luôn cuộc hẹn với mạ tôi và đồng ý ở lại dùng cơm tối theo lời mời thân thiết của chủ nhà, tôi thì khỏi nói, chỉ cáo lỗi gọi về cho phân nửa tôi, "xin phép" không ăn cơm nhà.

Trong khi chủ nhà và bác C xuống bếp, chủ nhà cho phép tôi vào coi sách. Sách không nhiều như lời bác C, nhưng sách đã xuất bản của nhà văn X đều được trang trọng xếp riêng ra một tủ kính, tầng trên cao, ở giữa là bức hình trắng đen của tác giả, mộc mạc trong chiếc áo bà ba màu trắng. Bấy giờ nhà văn X chưa qua đời. Mỗi cuốn sách đều có ghi ngày tháng, ba mẫu tự đầu họ tên tác giả và chử ký nhưng duy nhất một cuốn có lời đề tặng bình thường, do đó tôi biết thêm người con trai độc nhất của họ có lót tên tây.

Độ tiếng rưỡi sau, chủ nhà vào gọi tôi ra dùng cơm. Thấy tôi đang mê mẫn trước tủ sách, tay mân mê lật trang, cụ cười bảo:

- Thích quá phải không?

- Dạ, trong các trước tác của cụ nhà, cháu cũng đã có một số, vài cuốn bạn bè cho mượn đọc qua, phần còn lại chỉ mới biết qua thư mục.

- Cha là nhà văn, học giả mà do hoàn cảnh con cái phải sang đây nên lơ là sự nghiệp của cha, nghĩ cũng éo le. Tôi đã nhiều lần đọc hết sách của ổng. Non mười năm nay, cả phòng sách này chỉ để làm kiểng. Cháu là người khách đầu tiên vuốt ve từng cuốn một, chắc tụi nó vui lắm...

Trên bàn ăn, chủ nhà đề nghị tôi bỏ chữ cụ, cứ gọi bà bằng bác như gọi bác C. Mãi đến gần 10 giờ đêm hai bác cháu tôi mới xin chào ra về. Bác Y cầm chặt tay tôi, cảm động nói " Chị C là bạn lâu năm, không nói làm chi. Bác cám ơn cháu đã cho bác một ngày thật vui".

Trên đường về bác C hỏi:

- Sao cháu không gợi ý mua sách. Họ nỏ cần tiền nhưng họ để không mà.

- Vì qua sách vở cháu biết phần nào hoàn cảnh của họ. Đó là kỷ vật, là gia bảo, dù thế nào cháu đâu dám phạm thượng.

Dư âm buổi tương ngộ kể trên rồi cũng lắng xuống, tuy thỉnh thoảng tôi vẫn bần thần khi nhớ tới từng chi tiết của tủ sách kia.

Bà xã tôi đứng thứ hai và là con gái duy nhất trong gia đình 5 anh em tức tương đương đại công chúa rượu (!), vị chi bà gia tôi có mỗi "phò mã" là tôi (các bạn đừng cười). Chẳng là hồi qua Pháp học tôi một thân một mình, nên khi mới cưới tôi chịu ở rể. Mà người xưa chẳng đã di lưu "thương con gái thì phải thương con rể" và "thương con trai thì phải thương con dâu" đó sao ! Vợ chồng tôi được ưu tiên chiếm cái phòng rộng trong căn nhà có 3 phòng ngủ với phòng khách chữ L khá rộng, ngăn ra thành bản doanh của ông cậu cả - và bao nhiêu ưu tiên lỉnh kỉnh khác. Khổ nỗi lúc chưa ra đi, phiá gia đình tôi, tôi là út "vàng" trong 9 anh em, muốn gì là phải được như thế, chưa quen bị gia đình trái ý. Đó cũng do nguyên tắc gia huấn "nước chảy xuôi": trong mọi hoàn cảnh, anh chị là phải nhường em, đúng sai cậu mẹ xét sau. Do đó, dù phòng vợ chồng tôi khá rộng, nhưng sách đã trên con số ngàn, để chồng đống, luộm thuộm đời nào "út" chịu. Vả lại Cậu Mẹ tôi vẫn dạy "ở rể như chó chui gầm trạn" – lớn hay nhỏ, trạn vẫn là trạn, nên sau đó ít lâu tôi quyết ra riêng hầu có chỗ xếp sách đúng phóc theo ý mình.

Cho đến một hôm, đâu một năm sau, mạ tôi gọi điện thoại báo cho biết bác C tìm tôi vì có người nhắn chi đó, bác không nói rõ, chỉ tếu "chuyến mô chứ chuyến ni Hàn phò mã có mà ứ hự...". Tôi gọi cho bác C, bác nói «sáng mốt (thứ bảy) cứ tới nhà rồi hay.». 10 giờ sáng thứ bảy, tôi lái xe đến nhà bác C, bấm chuông nhà, bác chỉ gọn lõn: chờ đó, bác xuống, ta đi ngay !". Tôi ra xe chờ.

Tôi hỏi bác:

- Mình đi mô, thưa bác ?

- Nhà chị Y, chỗ có bữa cơm tối thịt luộc mắm Thái hai bác cháu mình được ăn a tề.

- Nhà vợ học giả X ! Có chuyện chi không bác?

- Ai biết – bà bác bí mật. Chị ta nói muốn gặp lại Hàn "phò mã" vậy thôi. Coi mòi bác cháu ta được "lại quả" buổi cơm trưa, vì đời mô chị ta dễ dàng "buông" bác cháu mình.

- Răng bác nói rứa ?

- Ừ, thì bác đoán mò.

Tôi chỉ biết cười như nắc nẻ, chịu bà bác quá trời, dễ thương chi lạ. Tôi đề nghị đi mua chút quà cầm tay, bác C bảo có trong xắc rồi.

Khung cảnh nơi đó vẫn như năm ngoái, hàng mai tây (forsythia) và hai gốc Anh đào đang độ cực thịnh. Mấy cây mận, cây đào cổ thụ đang nhú chồi. Hoa vàng, hồng, trắng chấm phá thảm cỏ xanh mới cắt. Không gian im ắng, có lẽ như chủ nhà.

Bác Y ra đón chúng tôi, cười nói rộn rã hơn lần trước. Sau câu chào hỏi, bác Y nói ngay "Hai bác cháu ở lại ăn cơm trưa đó nghen". Tôi nghĩ bụng "mệ Huế ni thánh thật !".

Trong hàn huyên, bác Y không đá động gì tới chuyện sách. Giữ kẽ, tôi cũng vậy. Gần trưa, hai bác xuống bếp, tôi gọi điện về cho biết không ăn cơm nhà. Bác Y lại cho phép tôi vô phòng sách. Sau bữa cơm, trong lúc pha cà-phê, bác nói:

- Bác muốn gặp cháu không phải để mời cơm đâu mà là vì chuyện sách đó. Một năm qua, bác suy nghĩ nhiều, lừng chừng giữa kỷ vật và tác dụng của kỷ vật. Như cháu đã biết, bác rất trân trọng các trước tác của bác trai, nhưng sách là để đọc, hữu ích chứ dùng để trang trí làm kiểng thì chẳng bổ báu chi, là đi ngược lại tâm nguyện của người soạn ra nó. Cháu nghĩ sao ?

- Thưa bác, đó là hợp tình hợp lý. Là mục đích trước hết và sau cùng của mọi tác giả, huống hồ... Tôi ngập ngừng.

- ... cháu muốn nói gì, cứ tự nhiên, e dè làm chi.

- Dạ, huống hồ...một tác giả như bác trai, cọng hay trừ, mọi thời mọi thế đều tâm phục.

- Cám ơn cháu. Do đó, hôm nay bác mời hai bác cháu tới đây là để cháu mặc lòng lựa chọn số sách trong tủ kính, bác tặng cháu những sách của bác trai mà cháu chưa có. Tặng là một cách nói, đúng ra phải nói bác nhờ cháu giữ dùm, có ích cho cháu lại an ủi cho bác và tác giả.

Chao ôi, nghe bác Y nói mà nghẹn ngào. Tôi đáp:

- Thưa bác, lý ra cháu không nên nói gì thêm vì những lời bác dạy đã đầy đủ. Nhưng cháu sung sướng và hãnh diện quá nên xin được tỏ bày: Vợ chồng cháu đều sinh ra và lớn lên trên xứ người. Con cái rồi đây cũng sẽ được sinh ra, trưởng thành trên mảnh đất này. Bởi vậy, cháu xin nói trước, mai này không chắc gì con cái cháu giữ được tủ sách gia đình nhưng cháu đã nguyện với lòng, bất cứ giá nào sẽ không bao giờ bán tủ sách của cháu, con cái cũng vậy. Cùng lắm là giao lại cho một thư viện nào đó làm của chung.

- Cháu nói thế coi như bác không lầm người. Không phải khi không bác lại giao gia bảo cho cháu, nói thật bác đã dò hỏi về cháu trong văn giới như các anh HG, HTK, NVH, PTN... kể cả ông TTV thầy việt văn của cháu lúc trước.

Uống cà-phê xong, bác Y bảo tôi trở vào phòng sách, tha hồ lựa. Tôi thuộc nằm lòng các sách của học giả Y mà tôi đã có, nên việc chọn dễ dàng. Kỳ lạ là bỗng dưng tôi hết hồi hộp. Thủng thỉnh lôi từng cuốn xuống, sắp ra đúng 31 cuốn. Ôm ra đặt trên bàn. Nhìn chồng sách, bác Y ngạc nhiên:

- Ủa, cháu thiếu ngần nầy thôi sao?

- Dạ, đúng vậy. Với 31 cuốn này, tổng cộng sách của bác trai, nhẩm tính cháu có 73 cuốn.

- Kể ra cháu cũng mê ổng - Bác Y vui vẻ nói. Được rồi, số sách còn lại, đến thời điểm nào đó, bác cũng sẽ góp vào thư viện trong vùng.

Thời gian sau đó, một đôi tháng tôi một mình đến thăm bác Y một lần với chút đặc sản miền Nam làm quà mọn. Viết được gì tôi đều hồn nhiên đem ra khoe tặng bác, hệt một đứa bé khoe mẹ chữ i, chữ tờ nguệch ngoạc đầu đời. Bác chẳng bao giờ tỏ ý kiến về chuyện viết lách của tôi.

Hàn Lệ Nhân


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/7BD6356D519B4F56A8CAACEDB438347A.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2006 04:51:12 bởi Hàn Lệ Nhân >
Attached Image(s)
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

ngocnhi
  • Số bài : 131
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.01.2006
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 24.05.2006 09:13:55
truyện chú viết hay mà bé đọc có chổ cứ trớt wớt câu từ chu sữ dụng điêu luyện wa'
ghé thăm chú lâu quá hong gặp chú có khoẻ không , chúc chú luôn vui nhé !
Duyên đáy nước
Nợ mây trời
Ngộ ra mới biết Cuộc Đời là Không !

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 26.05.2006 04:14:23


Trích đoạn: ngocnhi

truyện chú viết hay mà bé đọc có chổ cứ trớt wớt câu từ chu sữ dụng điêu luyện wa'
ghé thăm chú lâu quá hong gặp chú có khoẻ không , chúc chú luôn vui nhé !


Chào bé Nhi,

Chú vẫn lai rai như viết vậy. Hi hi, đọc riết rồi quen thôi. Vẫn lén dđ(c bià Nhi đó. Thăm chút, HLN.
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 26.05.2006 04:16:28
Sách cũ tình tôi 4

Hàn Lệ Nhân


Dì H người miền Nam lục tỉnh, kém mạ tôi bốn năm tuổi. Qua Pháp sau biến cố 1963. Dì H mê tiểu thuyết Tùng Long như điếu đổ. Dì thường nói "Tùng Long là nhức !" Tôi đùa lại " dì có gửi thư đến mục Gỡ Rối Tơ Lòng không vậy?". Dì cười khúc khích "có chứ sao không, nhưng tao lấy tên con bạn hàng xóm. Một lần nó chửi tao te tua vì bị thằng bồ nó hiểu lầm, cho rằng nó một bến hai thuyền. Thiệt ra chính tao bắt cá hai tay.". Tôi chọc tới " rồi kết quả ra sao?". Dì cười phá lên " kết quả là tao cho cái thuyền thứ ba gốc wuảng nôm cắm... ừ... ứ.... ư.... a... sào.". Cải lương là thuốc an thần của dì, sau lây sang mạ và cả vợ tôi cho đến ngày nay.

Dì H ly dị đã lâu, ở vậy nuôi hai đứa con. Dì làm chủ một nhà hàng miệt Cambronne, Paris 15, bảng hiệu cũng hay hay: Nam Vị. Món mắm và rau của dì thì hết ý, ăn quên no. Làm nhà hàng nên dì quen biết rộng, mấy ông văn nghệ sĩ gốc Nam ở Paris dì "quen ráo trọi"(chữ của dì). Vì dì mê bà Tùng Long nên sách dì toàn tiểu thuyết, không trực tiếp đáp ứng nhu cầu của tôi, dì cho tôi vui vẻ nhận, để dành, chuyển từ từ qua cho hai "chuyên viên đọc dùm" là bà ngoại và mẹ các con tôi với nhiệm vụ đã nói qua trong phần 3.

Một đêm, toàn thể đại gia đình chúng tôi rũ nhau đi ủng hộ nhà hàng dì H. Trong lúc cả nhà chờ món ăn, dì đi tới vỗ vai tôi:

- Vô đây dì giới thiệu cho ông cụ nhà thơ này, kho sách đó.

Tôi liền nói qua với gia đình, đứng dậy theo dì tới một cái bàn hai người phiá trong góc. Ngồi ở bàn là một người lớn tuổi, ăn mặc tươm tất, râu tóc muối nhiều hơn tiêu, đeo kính trắng gọng mạ vàng. Trên bàn chưa có thức ăn. Dì giới thiệu:

- Anh T à, đây là thằng cháu tui, nghe tui nói anh là nhà thơ nên nó háo hức muốn làm quen. Nó mê thơ và sách lắm. Anh ngồi một mình, vậy cho phép nó ngồi nói chuyện với anh cho vui nghen. Tui bận tay trong bếp, hai bác cháu cứ tự nhiên, chút nữa tui ra.

Ông khách lịch sự đứng dậy niềm nở bắt tay tôi, mời tôi ngồi xuống cái ghế đối diện, một tay lật cái ly thứ hai trên bàn, tay kia với chai rượu vang định rót mời. Tôi vội nói:

- Thưa bác, cháu không uống được rượu. Cám ơn bác. Để cháu về bàn lấy chai bia của cháu.

- Chà...nhưng tùy cậu. Ông khách trả lời ngắn gọn.

Tôi trở lại với ly bia mới rót đầy trên tay. Bàn ông cụ vẫn chưa có thức ăn.

- Tôi là TTT, bút hiệu HH. Ông cụ tự giới thiệu.

- A, có phải bác là tác giả Vượt Biển Chết không ? Tôi kinh ngạc hỏi.

- Ủa, cậu cũng đã đọc bài đó à ? Đọc trên tờ ĐT chứ gì ?

- Dạ, đúng rồi. Ai dè cháu lại gặp tác giả nơi nầy.

- Thế ra cậu là độc giả báo ông NVH.

- Ờ... dạ.

- Cậu thấy bài Vượt Biển Chết thế nào ?

- Hay lắm bác ạ, nội dung rất thực. Chắc bác và gia đình đã sống qua mọi cảnh trong thơ?

- Hà hà hà... nhà thơ cười lớn. Đâu có, tôi qua đây từ 45 lận. Tôi viết theo lời kể của một thằng bạn thuyền nhân...

- Mà bác tả lại được như thế, kể là tài.

- Cám ơn cậu. Cậu đọc báo ĐT lâu chưa ? Có viết lách gì không mà mê sách ?

- Dạ, cháu ủng hộ ĐT từ số đầu, vì bác NVH là chỗ quen biết, ở gần nhà cháu trong vùng Marne la Vallée (đông Paris). Cháu đang tập viết.

- Vậy là tốt rồi. So với mấy đứa con lai của tôi, bù trất... Ông cụ thở dài.

- Té ra...

- Ừ... tôi vợ đầm. Bả mất đã 8 năm. Hai đứa con tôi đều được sinh ra ở Bordeaux (nam Pháp). Một thằng hiện ở Mỹ, một thằng ở Tunisie...

Nghe ông cụ than chuyện gia cảnh, tôi vội bẻ lái câu chuyện:

- Bác viết đã lâu chưa ?

- Viết từ hồi sang đây, nhưng không đăng, vì viết lúc đó là để ôn tiếng mình. Vợ đầm mà. Sau 1980 tôi mới thực sự gửi bài, đăng lai rai.

Dì H trở lại, tay bưng khay thức ăn đặt lên bàn nhà thơ, nói với tôi:

- Thôi, tạm sì-tốp nghen, cả nhà đang chờ "phò mã" đẳng. Dì có làm 1 phần Mắm và Rau cho mày đó. Để dì ngồi "đấu" tiếp cho.

Tôi cáo lỗi với nhà thơ HH, trở về bàn, bắt đầu cầm đũa. Xong bữa, phải đưa gia đình về, tôi chạy lại bàn nhà thơ từ biệt:

- Tiếc quá bác ơi, cháu phải làm tài xế đưa vợ con về. Bác cho cháu số điện thoại, mai mốt cháu gọi, xin gặp lại bác hầu học hỏi...

- Còn sớm, về chi vội... ngồi xuống, ngồi xuống, ta nói chuyện tiếp...

- Không được đâu, cháu là thiên lôi, bả chỉ đâu đánh đó...

- Ờ ha – nhà thơ cười: "Khép nép bên nàng chẳng mất chi, cao lương mỹ vị chén tì tì ...". "hiếu vợ" như cậu thế mà tốt. D'accord, on se verra (đồng ý, ta sẽ gặp lại).

Rồi do lu bu, tôi quên hẳn cuộc tương ngộ "vượt biển chết". Một hôm, dì H đến áp-phe với mạ tôi, thấy tôi dì nói:

- Sao "phò mã" không gọi cho nhà thơ HH như đã hứa. Ổng có nhắc tới mày đó. Liên lạc đi, may ra "mèo mù vớ cá rán".

- Ổng ở xa quá, cháu lười đi.

- Đâu được mày. "Muốn ăn phải lăn vô bếp" chứ.

- Mai cháu sẽ gọi thăm ổng, thăm hỏi thôi chứ ổng là nhà thơ chắc còn quí sách hơn cháu...

- Ổng đã thất thập + 3 rồi đó...

- Ủa, sao trông bác ấy chỉ mới hưu ?

- Ừa, có thể nhờ trước ổng là dân tác chiến chi đó nên thể chất trụ hơn người khác. Hè hè, ổng chê mày là cờ không có gió...

- Là sao dì ?

- Là ổng "chích" mày trai tráng mà sợ rượu.

- À, kỳ vô phong. Cháu có sợ đâu, tại uống vô là quay đùng ra ngủ... xấu hổ lắm. Bia thì ça va...

- Muốn gọi bây giờ dì gọi cho, dì gọi là dính ngay...

- Sao hay vậy dì ?

- Ừa, ừa... tại...., dì ngập ngừng. Ừa, ừa... tại ổng nhắm tao đó.

- Ố là la... Tôi bật cười. Hèn chi ổng rành sáu câu: hiếu với vợ nên được "chén tì tì".

Nói là làm, dì H quay số điện thoại. Đúng như rằng: Hình như nhà thơ (cả ngày) chỉ chờ có bấy nhiêu. Không biết bên kia nói gì, chứ bên này nghe dì H thỏ thẻ, cục thép nguyên khối cũng phải rệu thành tương. Xong, dì trao điện thoại cho tôi. Thăm hỏi qua loa, nhà thơ hẹn tiếp tôi trưa thứ hai 8/5, nghỉ lễ đình chiến 1945, "sẽ có bia cho cháu".

Tôi mang theo hai chai vang Bordeaux Saint-Emillion làm quà. Cơ ngơi của nhà thơ ở tận Rambouillet thuộc Versailles-Yvelines (78), vùng nhà giàu, cách nhà tôi chừng 80 cây số. Một biệt thự quá rộng cho một người ở. Nhìn từ ngoài, tôi ước tính ít ra cũng 5/6 phòng. Tường rào phiá dưới bằng xi-măng cẩn đá hoa cương màu nghệ, cao độ 50 phân, phía trên làm bằng gỗ cao chừng 60 phân quét vẹc-ni màu nâu đậm mới toanh, ngay sau lưng rào là hàng thông cụt đầu xanh um cao trên dưới 2 thước, tắp lự. Cổng chính có vẽ nặng trình trịch với hệ thống đóng, mở tự động, bên cạnh là một cổng nhỏ.

Nhà thơ ra đón tôi bằng cửa nhỏ. Niềm nở tay bắt mặt mừng. Vườn bao quanh nhà, cỏ sân như thảm, cây xanh, hoa hồng đó đây rất điệu nghệ. Phải gọi là đẹp và sang.

- Nhà bác "chic" quá !

- Nhà của ông bà ngoại mấy đứa. Nhà tôi con một, nay chẳng còn ai. Hai đứa nhỏ đi biệt, ba bốn năm mới ghé về mươi ngày nửa tháng. Tôi thui thủi một mình – nhà thơ thở dài, "lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ ".

- Yên tĩnh thế này, chắc bác tha hồ viết.

- Chứ biết làm gì cho hết ngày. Trong tuần tôi ít đi đâu, cuối tuần chạy vô dì H của cậu tán...dóc.

Bước vô phòng khách rộng rinh, tôi giật mình vì cách trang trí nội thất quả là đẹp, nhã. Tôi còn nhớ như in nhưng xin miễn tả lại. Mời tôi ngồi xuống cái trường kỷ da màu nghệ ba chỗ ngồi, trên bàn có lưng chai vang Côtes du Rhône và một cái ly thủy tinh nửa vơi nửa đầy. Đồ nhậu u ê. Nhà thơ đi vào lấy ra hai chai bia Kronenbourg 1664 toát mồ hôi và một cái ly loại nửa lít cùng nhãn hiệu, tay mở nắp trút hết vào ly, miệng cười nói:

- Đêm đó ở nhà hàng Nam Vị, cậu từ chối uống vang, sau nhớ tới cậu tôi có đùa với bà H, cậu là kỳ vô phong, bả cười quá trời.

- Bia cũng là phong chứ bác...

- Đúng vậy, nhưng là ..."thu phong rụng lá vàng, lá bay hàng xóm lá bay sang..."

- "...Vàng bay mấy lá năm già nửa, hờ hững ai xui thiếp phụ chàng". Tôi đánh bạo nối hai câu sau đoạn một trong bài Gió Thu của Tản Đà.

- Cậu cũng thuộc bài này à ?

- Dạ, nhớ lỏm bỏm...

- Lỏm bỏm mà ăn khớp vậy tức đã đọc qua nhiều lần. Thôi ta cụng một cái đã, tính sau. Cậu chơi vàng, tôi chơi đỏ.

Cuộc gặp mặt rất thú vị, liên tu trên trời dưới đất, dọc núi ngang sông...nhưng thi ca là chính, kể lại thì quá dài, phần nầy cũng chỉ nói về sách.

Thơ thẩn tôi chỉ mới vỏ vẻ một vài, do đọc nhiều và chịu khó nhớ lận lưng làm vốn khi hữu sự (xưa còn độc thân ứng dụng trong ngoại giao tình cảm). Ai đi hơi xa là tôi lòi tẩy...gạo mốc. Ấy thế mà nhà thơ HH chịu quá. Tôi cho là vì nhà thơ "tủi thân" không có người nối dõi sự nghiệp văn chương của mình.

Nhà thơ chơi đỏ đến nửa chai thứ hai. Tôi chơi vàng đến chai thứ 7. Hai bên vẫn tỉnh như sáo. Đồ nhậu còn chút đỉnh. Bất ngờ bác T ngắt câu chuyện:

- Cậu theo tôi lên phòng sách coi qua cho biết. Chẳng có gì ghê gớm, một mớ tôi mang theo từ 1945, sang đây tôi vẫn nhờ bạn bè đều đặn mua gửi qua. 100% sách trước 75 à nghen.

- Cháu cũng chỉ thích sách giấy vàng... dĩ vãng. Sách in lại bên này hay bên Mỹ, giấy trắng cháu không ham...

- Mãi sau này mới in chứ trước toàn photocopie. Bố MTN bên này. Hai lão ĐNT và PCD bên Mỹ phất lên cũng nhờ loại sách lem nhem trắng dã này. Tụi nó dán gáy dổm thấy mẹ. Lật trang hơi mạnh tay là "long ốc", vô ý gấp ngược coi như tiêu, bià đi đường bià, trang đi đường trang. Không có cơm đành chịu khó ăn bánh mì, ăn hamburger đỡ đói... Tôi có đâu 20 chục cuốn "long ốc" vất dưới hầm. Tôi định... mà thôi... chật nhà.

Cầu thang lên từng trên bằng gỗ khối chạm trỗ tinh xảo, bóng lộn. Tôi liếc đếm, có 4 phòng. Nhà thơ mở cửa một phòng, mời tôi vào trước. Thoáng nhìn tôi biết phòng này trước là phòng ngủ, nay thành phòng sách. Có hai cái tủ cửa kính cao lớn, kín sách, sừng sửng đứng hai bên cái bàn viết rộng. Trước bàn là cái ghế da loại VIP. Tủ bàn đều là kiểu cổ bằng gỗ khối đánh vẹc-ni cùng màu với cầu thang. Hai cái ghế Rocking Chair mây, lót nệm mút. Tranh ảnh trong phòng tôi nhớ mang máng có đâu ba bức sơn dầu về 3 miền đất nước Việt Nam, không nhớ do hoạ sĩ nào.

- Tủ bên trái là sách tây, tủ bên phải là sách ta. Nhà thơ lên tiếng. Sách tây, cậu dân "nos ancêtres sont des gaulois" (tổ tiên chúng ta là người Gô-loa, ý nói học trò trường Pháp từ nhỏ) chắc chẳng lạ gì Corneille, Racine, Rousseau, Voltaire, Hugo, Balzac... Sách ta thì cậu cứ mở tủ ra mà coi, phân nửa là thơ và ca dao, loại tôi thích nhất.

- Hèn chi mà bác chẳng thở ra thơ...

- Ừa... tại nhập tâm sao đó, mà hình như các ổng nói dùm mình hết trơn rồi thì phải. Mọi tình huống đều có thể ứng dẫn mấy ổng ra là gọn nhẹ, đầy đủ.

- Dạ, nhưng đành là ứng dẫn nhưng hàm ý khác, đúng không bác?

- Đương nhiên, đương nhiên... Cần và phải như thế chứ, nếu không viết... chùa chi cho phiền vợ con.

- Có nghĩa là bác gái và hai anh không đồng tình việc bác làm thơ, viết báo?

- Thứ nhất, họ không hiểu. Thứ nhì, thấy mình viết chùa. Thứ ba, mình lơ là bổn phận ... Cậu ở bên này, cậu lạ gì, tụi tây cuối tuần là sortie (đi chơi), resto (đi ăn nhà hàng)... và trăm thứ thứ khác. Họ có lối sống đặc thù và cái lý chắc nịch của họ. Giải thích trẹo hàm, khô cuống họng...tắc tị hoàn tắc tị.

- Có thể do không muốn hiểu nên thiếu tình cảm thông chăng?

- Cậu ngụ ý họ hiểu bằng cái đầu mà không hiểu bằng con tim ?

- Dạ, đại khái là thế.

- Thì bác cũng nghĩ vậy, nhà thơ đổi cách xưng hô. Văn xuôi không nói làm chi, nó lòng thòng, còn thơ bác làm ra, lúc đầu bác đều chuyển ngữ thành tiếng Pháp đưa cho họ đọc, đọc xong họ hỏi: C'est pas mal, mais est-ce vendable? ( Khá lắm nhưng có bán được không?). Mình cứng họng. Vừa tức, vừa tủi. Mà thôi, bỏ chuyện Pháp-Việt đề huề đi. Trăm sự cũng do ông tơ bà nguyệt.

- Balzac có câu "dans ce siècle, vivre de sa plume est un travail auquel se refuseraient les forçats" (trong thế kỷ này, sống bằng ngòi bút là thứ lao động mà những người tù khổ sai khước từ)...

- Được vậy đã may. Balzac là thế kỷ XIX, bác cháu ta đang ở cuối thế kỷ XX. Balzac nói "vivre de (sống bằng)...", còn bác, bác lại cho rằng "đến thời buổi này, trong cũng như ngoài nước, sống nổi với ngòi bút Việt vẫn còn là một ước mơ xa-xa-xa vời..."

- Bác nói làm cháu nhớ tới mẩu chuyện tiếu lâm... Tôi ngập ngừng, do dự.

- Cháu cứ kể, dù thế nào cũng chẳng hề chi – nhà thơ cởi mở, bác cũng là cây tếu, bác hưu từ lâu, hưu de luxe (cao cấp, lương hưu cao).

- «Vợ nói với ông chồng nhà văn: "... Cuối cùng anh đã có cơ hội để khẳng định gia đình ta có thể tiếp tục sống với ngòi bút của anh: Anh mau viết thư ỉ ôi xin chị hai gửi gấp về cho 200 đô để trả 3 tháng tiền nhà, 3 tháng tiền điện !"»

Để tôi được tự nhiên ngắm sách, nhà thơ HH đề nghị tôi qua phòng bên cạnh gọi bác khi nào coi xong. Tôi thẩn thờ trước tủ sách ngon quá là ngon. Cả tủ sách Việt tôi độ chừng có trên dưới 600 cuốn, hoàn toàn sách cũ trước 1975 in tại Sàigòn. Sắp xếp gọn gàng. 3 ngăn trên là thơ và ca dao – ca dao không nhiều. 2 ngăn kế tiếp đủ loại. Ngăn cuối cùng là tiểu thuyết rặt Tự Lực Văn Đoàn. Thơ thì coi như chủ nhà sưu tầm được khá đầy đủ, tiêu biểu cho mọi thời, mọi trường phái... Nội Kiều chú giải tôi đếm được 5 cuốn do 5 biên giả và nhà xuất bản khác nhau.

Tôi rút ra bộ Thi Ca Bình Dân Việt Nam gồm 4 cuốn dày cộm của Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, lên nửa ngồi nửa nằm trên 1 trong hai cái Rocking Chair, lật trang cuối cuốn 1 ra đọc: Sống Mới xuất bản ngày 19 tháng 8 năm 1969. Lật trang cuối ra đọc là việc đầu tiên tôi máy móc làm, là tật cố hữu của tôi mỗi khi cầm 1 cuốn sách. Cuối loạt bài này tôi sẽ trình bày lý do tại sao.

Rồi mê mãi đọc tôi thiếp đi lúc nào không hay, quên luôn chuyện qua gọi bác T. Chẳng biết tôi thiếp đi bao lâu thì chính bác T là người qua lay tôi dậy. Tôi ngượng ngùng xin lỗi bác rối rít. Bác cười:

- Bác qua lần này là lần thứ 3. Hai lần trước thấy cháu ôm ấp Nguyễn Tấn Long và Phan Canh ngủ ngon quá nên để mặc. Sao thấy tủ sách thế nào ?

- Dạ - tôi dụi mắt trả lời. Sách bác chủ yếu là thơ, thích thật, nhất là thơ tiền chiến. Tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn đương nhiên là hay, là quí nhưng theo cháu không là sách hiếm. Còn 2 ngăn linh tinh thì hầu như cháu đều có cả...

- Thế bộ cháu đang coi ?

- Cháu mới đọc mấy chục trang phần mở đầu thôi nhưng nhìn sự đồ sộ của tác phẩm thì nhất định không tệ, riêng phần trích tuyển cũng đã đáng là toà lâu đài văn hoá dân tộc như lời ghi trên bià.

- Thấy cháu mê sách cũ, bác cũng thấy thú vị vì vô hình trung ta có cùng goût (giám thức, sở thích). Nghe bà H nói tủ sách cũ của cháu cũng "khẩm" lắm phải không ?

- Dạ, do duyên chi đó nên được các bác các dì "cựu trào" tìm cho, nay cũng gọi là. Có dịp mời bác đến coi.

- Bác bây giờ coi như hết mọi háo hức rồi...

Nghe ông cụ nói vậy, trong đầu tôi trộm bật ra ngay câu "... chỉ trừ dì H !"

- ... bao nhiêu hoài bảo rồi cũng như không, nữa là sách... Thôi ta xuống nhậu tiếp.

Xuống phòng khách tôi ngồi thêm độ nửa tiếng thì xin phép chào về. Bác T bảo tôi chờ chút rồi đi lên lầu. Bác xuống trong tay có một cái bọc ny-lông:

- Trong nầy bác đã chuẩn bị sẵn trước khi cháu tới mấy cuốn sách mà bác có hai bộ, bác tặng cháu làm quà cho buổi gặp mặt thú vị này. Cháu à, đọc sách chẳng khác gì ăn cơm, có tiêu hoá mới bổ ích. Còn đọc rồi mà chịu khó viết lại theo cảm quan của mình thì niềm vui càng lớn, chưa cần nói tới chuyện hữu ích cho ai. Tuy nhiên, làm gì thì làm không có sự đồng thuận của vợ, của chồng, của con cái thì...khổ tâm lắm.

Ở phần 4 này, tôi cũng định dứt ngang để bạn đọc đoán xem trong bọc ny-lông có những sách gì nhưng suy nghĩ rồi, tôi xin nói ra luôn. Trong đó có :

1/ Một cuốn Những Khuynh Hướng trong Thi Ca Việt Nam của Minh Huy, nxb Khai Trí – Sàigòn, 17/09/1962.

2/ Một cuốn Việt Nam Sử Lược (trọn bộ 2 cuốn đóng chung) của Trần Trọng Kim do nhà xuất bản Tân Việt in xong ngày 25 tháng 4 năm 1958 tại Nam Phần (MN), bià cứng.

3/ Trọn bộ 3 cuốn Thi Kinh Tập Truyện, nguyên tác Khổng Tư san định, Tạ Quang Phát diễn dịch, Bộ Giáo Dục - Trung Tâm Học Liệu (VNCH) xuất bản lần thứ nhất năm 1969.

Và chao ôi,

4/ Trọn bộ 4 cuốn Thi Ca Bình Dân Việt Nam do Nguyễn Tấn Long và Phan Canh, Sống Mới xuất bản ngày 19 tháng 8 năm 1969, tổng cộng 2.500 trang.

Hàn Lệ Nhân


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/99E796BB501149E4814E53387138236A.jpg[/image]
Attached Image(s)
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 30.05.2006 17:25:27
Sách cũ tình tôi 5 (hết)

Hàn Lệ Nhân


Nếu tôi nhớ không lầm thì đến năm bước vào thượng thọ cụ ông mới đậu bằng tiến sĩ tại Pháp. Đối với cá nhân tôi, cụ ông đáng là một biểu tượng cho sự kiên trì trong việc lấy học làm vui. Thời còn ở trong nước cụ ông đã nổi tiếng trong báo giới, tác giả của mấy cuốn chuyên đề đặc sắc. Tôi may mắn quen biết cụ ông từ khởi đầu có sinh hoạt văn nghệ, báo chí việt ngữ trong cộng đồng tị nạn tại Pháp, thường xuyên có bài trên cùng mấy tờ nguyệt san tại Âu Châu, tất nhiên bài của cụ ông bao giờ cũng được trang trọng đặt ở ngay sau bài quan điểm. Sự đều tay của cụ ông trong sáng tác, biên khảo ngắn hay dài hơi tôi xin ngã nón chào. Bao lần tôi đã hỏi cụ ông "bác làm thế nào mà ý tứ cứ như triều dâng?". Cụ ông điềm đạm trả lời – bao giờ cũng vậy " Đọc rồi viết, viết rồi đọc. Ý đẻ ý mà Hàn công tử". Ngoài kiến thức uyên bác, văn phong cụ ông, theo tôi, nặng phần hàn lâm hơn óng ả nhưng luôn luôn xúc tích dữ kiện, tài liệu nên rất bổ ích cho những ai lưu tâm tới lịch sử, văn hoá nói chung, địa phương chí nói riêng. Nói thế là vì địa phương chí nước Việt là địa hạt tôi vốn trống trơn đến ba con số Không. " Quê Mẹ trong tôi chỉ là văn chương" mà.

Một lần trong buổi họp mặt giữa dăm lão thành và huynh trưởng văn nghệ để bàn thảo việc tổ chức buổi ra mắt tuyển tập Làng Xưa Phố Cũ tập 2, tôi - trẻ nhất - đã "điếc không sợ súng" vanh vách về vài địa danh trên vùng Trung Việt, một huynh trưởng nhà thơ đã không gượng nhẹ:

- Cậu chưa một lần đạp đất Mẹ, sông Cha mà dám múa rìu qua mắt thợ.

- Thì em chỉ nói lại những gì em đọc được. Căn bản là có đúng như thế không ? Sai sót xin anh châm chước cho.

- Đúng thì có đúng nhưng thiếu chất sống. Hay nói như thời nay là thiếu cơ sở thể nghiệm, thiếu đi thực tế.

Cụ ông tủm tỉm góp lời:

- Anh đã công nhận Hàn công tử nói đúng về vùng quê chúng ta nhưng vẫn khó chịu. Vậy bác hỏi anh, anh thực tâm tin là có Niết Bàn không ?

- Là Phật tử thì cháu phải tin chứ. Huynh trưởng nhà thơ trả lời.

- Anh tin là tin theo kinh kệ. Mà kinh kệ cũng là sách vở. Vậy niềm tin của anh có cơ sở thể nghiệm, có đi thực tế chưa ? Hơn nữa, đã có ai đi thực tế trên đó mà được trở về đâu. Và có bao giờ anh vặn vẹo các đệ tam bảo như đã vặn vẹo Hàn công tử?

- Không thể so sánh như thế được...

- Tại sao không ? Cảnh giới Hàn công tử nói qua hoàn toàn có thể "sờ" được, bất cứ lúc nào; cảnh giới đó đã và đang có vài trăm ngàn người sinh sống. Còn cõi trên kia... Cụ ông mĩm cười, không nói tiếp.

Sau đó ít lâu tôi lại điếc không sợ súng hung hơn nữa, đứng ra chủ trương tuyển tập Viễn Phương, chuyên đề về Xứ Lào, sinh quán của tôi. Tôi đến nhà cụ ông đưa toàn bộ bản thảo các bài nhận được để cụ ông đọc qua hầu viết cho lời giới thiệu.

Hai tuần sau cụ ông gọi tôi đến lấy bài. Không những cụ ông viết lời giới thiệu với thật nhiều ưu ái mà góp thêm một bài giá trị về xứ Lào. Hàn huyên một lúc, cụ ông đi vào trong và khi trở ra trên tay ôm một bộ sách, nói:

- Đây là món quà của bạn bác, nhà thơ TQ, hiện còn ở Việt Nam gửi sang tặng Hàn công tử.

Tôi đứng bật dậy nhận món quà mà nước mắt lưng tròng: Đó là hai cuốn tự điển Hán-Việt-Pháp chính gốc Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của, do Imprimerie Rey, Curiol & Cie xuất bản tại Sàigòn năm 1895 !

Cái duyên hay cái nợ văn tự đã tạo cho tôi nhiều cơ hội gặp gỡ, quen biết khá nhiều bậc trưởng thượng trong làng văn làng nhạc, đặc biệt tại Pháp và Tây Âu. Tôi may mắn được cụ ông và một số huynh trưởng trong văn giới dành cho khá nhiều thiện cảm, soi gương và chân tâm mà nói, nguồn thiện cảm đó là do họ biết gốc gác và sự chịu thương chịu khó của tôi trong quá trình tự học tiếng mẹ đẻ trên xứ người.Vậy thôi.

Tạm kết

Xưa nay, khi cầm một cuốn sách chữ việt được phát hành tại VN, tôi có cái tật lật ngay trang cuối coi tên nhà xuất bản, ngày tháng in và đặc biệt ghi nhớ giá bán và số lượng in ấn. Để làm gì ? – Xin thưa :

A/ Để lượng định, theo quan điểm cá nhân, tác quyền có nuôi nổi tác giả hay không. Đã bao lần làm chiết tính và tôi đành ngao ngán cho nghề văn bằng chữ việt, thác lời cụ Tản Đà tôi rên " văn chương "việt" giới rẻ như bèo ! Đơn cử hai trường hợp :

1/ Tưởng Giới Thạch : Bạn và ThùNguyên tác : Vương Triều Trụ - Bản dịch : Lý Tôn Nhân và Phùng Ngọc Tường,
NXB Đà Nẵng, 09/2000.
Trọn bộ 3 cuốn, tổng cộng 3670 trang, giá 390.000VND. Phát hành 1.000 bộ.
390.000 x 1.000 bộ = 390.000.000VND.
Tác quyền : 390.000.000/20% ( tôi là nxb rộng rãi ) = 19.500.000VND.
Mỗi dịch giả : 19.500.000/2 = 9.750.000VND = 487,50 Euros = 609,38USD (theo hối đoái 28/09/2005).
609,38USD/12 tháng = 50USD. Chưa tính hai dịch giả đã bỏ ra bao nhiêu năm cho 3670 trang.

2/ Nguyễn Minh Châu toàn tập, NXB Văn Học, Hà Nội 2001 (sau khi tác giả qua đời)
Gồm 5 tập = 5341 trang = 750.000VND x 500 bộ = 375.000.000 VND.
Tác quyền thừa kế, chắc có : 375.000.000VND/20% (tôi là nxb rộng rãi) = 18.750.000VND.
18.750.000VND = 937,50 Euros = 1172,00USD ! (theo hối đoái 28/09/2005).

B/ Tôi coi giá bán ghi trên sách để so sánh với đồng lương tối thiểu hiện hành 350.000VND, 10/2005 (*) mà theo tôi là một lý do xác đáng giải thích tại sao cung cầu về sách lại khiêm nhượng như trên. Đơn cử:

1/ Trọn bộ 2 cuốn Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác, nxb Văn Học thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Học, Hà Nội tái bản quí 2-2003, giá 125.000VND/cuốn (250.000 trọn bộ)

2/ Trọn bộ 3 cuốn Tưởng Giới Thạch: Bạn và Thù nói trên, giá 390.000 VND...

Còn đối chiếu giá sách từ thập niên 1990 với 2005 tôi không thể không kêu lên hai tiếng Kinh Hoàng !

C/. Trung bình ở VN các nxb chỉ in 1.000 cuốn. Số lượng in ấn nói lên số người mua sách (1.000 người). Cứ cho có 1.000 người mua x 100 người đọc (99 người đọc ké) = 100.000 người đọc trên 80 triệu dân là con số quá khiêm nhường. Ai muốn nói gì thì nói, tôi không tin một người hay một dân tộc ít đọc sách mà có thể tự mở mang đầu óc, tự nâng cao kiến thức được. Đọc báo giấy hay báo mạng, nghe radio, coi truyền hình trong nước, nhất là từ VTV4 lại là vấn đề khác.

Hàn Lệ Nhân

(*) http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2005/09/3B9E25A7/


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/11081/B9D60D7153EB4ECD8D6CA85FA9FFE3CD.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.05.2006 17:27:21 bởi Hàn Lệ Nhân >
Attached Image(s)
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 04.06.2006 18:00:27
Văn hoá Lào, văn hoá Lèo
Hàn Lệ Nhân



"Nghe nói một số người mình có cách chửi hơi lạ: khi chửi là réo người Lào ra mà chửi. Thí dụ:

- Thằng Lào trộm cái xe đạp của ông?

- Con Lào vứt dzác trước cửa nhà bà?

Có ai hiểu tại sao không ạ? (1)

Một nhúm người quen miệng gọi Việt Nam và Lào là hai quốc gia anh em. Nhưng một sự thật trớ trêu là ở Việt Nam:

1/ điều gì tệ lậu cũng được gán cho cái thương hiệu Lào:

- Đôi dép mang tồi nhất, rẻ nhất là đôi dép Lào (15.000 VND/ 2 đôi). Bệnh thì có bệnh lang ben hay hắc Lào (dartre), đậu Lào (variole). Cái thứ thuốc hút nặng mùi nhất là thuốc Lào. Cơn gió khắc nghiệt nhất gọi là gió Lào. (2)

2/ điều gì ít phấn khởi cũng được bắt đầu bằng chữ Lào:

- Lào phào, lào quào, lào thào, lào xào, lào rào.

3/ duy một điều sáng sủa ta có : Lào lạo = sáng lào lạo, đẹp lào lạo.

Còn nếu đọc trại Lào ra Lèo, ta có:

- Lèo = dây buộc từ cánh buồm đến chỗ lái để điều khiển buồm hứng gió. Giữ lèo, kéo lèo. Diều không lên vì lệch lèo.

- Lèo = Diềm gỗ ở tủ, sập, giường, v.v... có chạm trổ trang trí: Lèo tủ có chạm hoa, chạm lèo.

- Lèo = Giải thưởng trong hội đua tài. Tranh lèo giật giải.

- Lèo = Móc nối thêm vào như liền một mạch. Nói, viết, đọc một lèo; ăn một lèo, uống một lèo, đi một lèo, chạy một lèo, làm một lèo...

- Lèo = Cọc đỡ cây con. Cắm lèo cho dưa, cho đậu.

- Lèo khoèo = Nhỏ và gầy. Tay chân lèo khèo.

- Lèo lá = Quá khôn khéo đến mức tráo trở, lật lọng. Lời lẽ con buôn lèo lá.

- Lèo lái = Điều khiển. Dây lèo và tay lái. Lèo lái con thuyền. Giữ vững lèo lái.

- Lèo nhèo = Mềm nhão, bèo nhèo. Bụng mỡ lèo nhèo.Quần áo lèo nhèo. Lèo phèo.

- Lèo tèo = Thưa thớt; ít ỏi, nghèo nàn.

- Lèo xèo = Nước sôi lèo xèo. Mỡ sôi lèo xèo.

- Hứa trăng hứa cuội gọi tắt là hứa Lèo. Lựa chọn có lựa lèo (lựa thế). Tết có Tết Lèo. Kẹo có kẹo thèo lèo ( đậu phụng/lạc chiên mỡ ngào đường dùng khi uống trà, đọc trại từ tiếng Tiều: Tề Léo = trà liệu). Giường có:

Một vợ ngủ giường lèo,
Hai vợ nằm chèo queo,
Ba vợ ngủ chuồng heo.

Hay:

Nằm giường lèo lại đòi treo trướng phụng. Giường lèo là giường cấp nào? Ai biết chỉ cho với.

- Trước 1975, có hai chữ Tiền Lèo ngụ ý tiền không có giá, bấy giờ 1 đồng VNCH ăn 7 kips hoàng gia Lào. Từ 1976 đến 1993, 1 Kip Lào cộng ăn 15 đồng Việt cộng (do đó có chữ tiền lèo VC), nay 1 Kip chỉ còn ăn 1,5 VCD.

- Freud bảo trong đầu nam nhi đại trượng phu thường trực hai chữ lờ lờ, tôi cho là Freud chỉ là người có công cô đúc hệ tư tưởng Hồ Xuân Hương "thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc, trái gió cho nên phải lộn lèo"(Kiếp tu hành), "thú vui quên cả niềm lo cũ, kià cái diều ai nó lộn lèo (Quán Khách).

- Đến chất lỏng có gia vị như nước phở, nước bún, nước mì, nước chấm ... tuyệt cú mèo trong Nam cũng là nước Lèo, ngon dở là do nước lèo. Ở Hà Bắc có làng Lèo. Sơn La có Mường Lèo.Vùng Thanh Hoá có làn điệu Hò lèo... Riêng lá lèo là gì tôi chịu không tìm đâu ra định nghĩa, có thể là một loại gỗ nên mới có lối chạm lèo nêu trên (?):

[«Làng La Xuyên ở cách Hà Nội 70km thuộc xã Yên Ninh, huyện Ý Yên, nổi tiếng về nghề chạm khảm gỗ có từ lâu đời. Các hoành phi, câu đối, sập gụ, tủ chè được trang trí rồng bay, phượng múa, lân chầu… rất đẹp và tinh xảo. Chỉ trên một lá lèo, người ta có thể thấy lễ cưới xin, ăn hỏi hay những trò chơi trẻ con rất ngộ nghĩnh được chạm tỉ mỉ, chau chuốt. Đây là một làng nghề chạm khảm cổ truyền. Sản phẩm của La Xuyên từ lâu đã được du khách trong và ngoài nước rất ưa chuộng.»]

http://www.vietshare.com/quehuong/namdinh/thangcanh.asp

- Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan người đích thân xử tử một đặc công VC trên đường phố Sàigòn hồi Mậu Thân 1968 có hỗn danh là Sáu Lèo. Người con trai thứ 18 của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu).

Và:

Một người Lào sang Việt Nam làm việc. Trong một chuyến đi công tác tại Huế, trên xe buýt, ông ta ngồi chung với 1 người Việt gốc bắc chính quy. Sau khi đến trạm dừng, ông bắc kỳ phát hiện đôi dép mình không cánh mà bay. Ông ta la lên: "thằng lào, thằng lào lấy dép tao".

Công an thường phục vội túm ngay thằng Lào ăn cắp.

- Không phải ông lày. Ông bắc kỳ phân trần.

- Thì bác mới hô hoán "thằng Lào lấy dép bác tê".

- Đúng thế nhưng đâu phải thằng Nào lày.

Bên Pháp tôi có người bạn ở gần nhà, người Việt sinh trưởng ở bên Lào – như tôi, vợ con đã đùm đề. Về Việt Nam lần đầu, chú ấy dính ngay một em nuôi lớn hơn thằng trưởng nam của chú ấy vài tuổi. Chẳng biết chú ấy hứa lèo kiểu nào mà thằng bạn đã hưu non người Pháp 100% bất chấp hệ lụy, chịu chạy chọt giấy tờ, đích thân về Việt Nam đứng tên cưới cô em nuôi mang sang giao tận tay cho chú ấy một mình nuôi trên giường. Một hôm trong siêu thị, một thằng bạn chính thống Nam Kỳ gặp cô em nuôi của bạn tôi, hỏi cô đi đâu dzậy, cô trả lời:

- Đi mua chúc đồ dzià nấu cho thằng Lèo ăng !

Tóm lại, Tiếng Việt và tiếng Lào có khá nhiều từ với phát âm giống nhau nhưng ý nghĩa lại khác hoặc tương phản.

Ý nghĩa khác, đơn cử:

Tìếng Việt.............................Tiếng Lào
Đức........................................Thâm trầm
Khăm (chơi khăm)...................Vàng
Không ....................................Gồng
(người Lào phát âm chữ Không không được, họ nói là khôông)
Luống......................................To lớn
Ma .........................................Đến
Má .........................................Chó
Mó..........................................Thầy ( thầy thuốc, thầy lang...)
Mó .........................................Thằng này, thằng kia.
Mổ .........................................Âm hộ
Mưa........................................Đi về
...

Ý nghĩa tương phản (xấu), đơn cử:

Tiếng Việt .............................Tiếng Lào
Hí (ngựa hí, chấm
câu của người Huế)..................Âm hộ
Khỉ .........................................Phân
Khôi........................................Dương vật
Mến........................................Thối
Sĩ ...........................................Làm tình
Tốt .........................................Đánh rắm

...

Người Lào vùng cố đô Luang Prabang (bắc Lào) có lối phát âm đặc thù thành thử đã có nhiều giai thoại Việt-Lào cười ra nước mắt. Đơn cử:

1.
Một người Lào tên Khăm kết bạn tâm giao với một người Việt tên Đức. Ngày nọ, Khăm đang ngồi mài và lau chùi con dao săn cưng quí của anh thì Đức tới chơi, ngồi xuống bên cạnh coi bạn làm việc. Vốn tính tinh nghịch, Khăm đưa dao lên chỉa thẳng vào người Đức. Đức hoảng hồn đưa hai tay lên trời, kêu lên:

- Không ! Không ! Không !

Khăm lại hiểu thành '' Khôông ! Khôông ! Khôông ! '', mật chú để tác động phép gồng, nên chắc mẩm ông bạn hiền muốn thử, không nói không rằng Khăm lụi nhẹ con dao quí vào ngực Đức, chẳng may con dao bén quá, lọt lút cán ! Đức chết ngay tại chỗ. Khăm rú lên khóc, lẩm bẩm:

- Rõ ràng nó nói: Khôông, khôông, khôông kia mà !

2.
Một Việt kiều bị cảnh sát Lào chận hỏi giấy tờ.

- Anh tên gì ?

- Sị Khôi ! (làm tình)

- Cái gì ? Anh dỡn mặt đại diện chính quyền đấy à ?

- Không, tên tôi là Sị Khôi thật mà !

- Đưa giấy tờ ra coi!

Anh ấy trưng giấy tờ : Tên họ anh ấy đúng là Sĩ Khôi họ Hoàng.

- Ở xứ Lào mà bố mẹ anh cũng khéo đặt tên !

Hàn Lệ Nhân

(1) Theo RuNha, dactrung.com
(2) Xào lại theo funnyhieu, tialia.com
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 10.06.2006 01:10:57
Tản mạn qua đêm 3
Hàn Lệ Nhân


Tôi vẫn tự biết mình là mọt sách, xem đọc sách tương đương với ăn uống. Đọc nhiều quá, ứ quá nên để tự cứu mình tôi viết này viết nọ ra chẳng qua để trong đầu bớt lộn xộn, do đó chút gì tôi thể hiện được, qua con chữ qua âm thanh, hoàn toàn nhờ lòng khao khát xoá dần sự dốt nát mà thành. Và tôi cho đó là một trò chơi, một thú tiêu khiển như trăm thứ tiêu khiển khác, tất cả đều phải trả một cái giá nào đó. Chẳng hạn cái giá mà bản thân tôi phải trả cho trò chơi chữ nghĩa tóm gọn là hai chữ cô đơn, xưa cô đơn trước đèn trước xấp giấy nay cô đơn trước máy vi tính; đương nhiên không thể quên niềm thông cảm chịu thiệt thòi của vợ con. Song song là trong vùng tôi ở, cơ man bằng hữu đồng hương, đồng cảnh và tuyệt đại đa số là đồng đạo, quanh năm suốt tháng lao tâm lao lực vào mỗi thú tiêu khiển tiêu tao sảng khoái là luân phiên tổ chức hàng tuần - dù thứ bảy đó có nhằm ngày 30/04 như năm 2005 - và ngày lễ các buổi giao lưu văn hoá trên sàn nhảy - sau này thêm phần phụ diễn không kém sôi nổi là hoạt cảnh B52 - khi to khi nhỏ dưới nhiều nhân danh, nhiều nhóm nhiều hội, dẫu quay đi quẩn lại cũng co cụm ngần ấy con người, nhẵn mặt nhau cả. Khi thì giao lưu theo nhạc chết phối hợp với nhạc sống. Nay có thêm Karaoke. Dạ Vũ và B52 giao duyên thành nghệ thuật sống, thành bản sắc. Lâu ngày chày tháng cộng đồng đó đã khắc được dấu ấn thành tên "Cộng Đồng Dạ Vũ". Cái giá họ đã, đang và coi mòi sẽ trường kỳ trả đâu rẻ gì.

Bạn tôi làm nghề ca sĩ, nhạc công phòng trà, dạ vũ tại Paris không ít, người nào trên áp-phích cũng thuộc hạng "tài danh hàng đầu" trong kinh thành ánh sáng cả. Riêng mấy ông trùm tổ chức dạ vũ cấp làng đều là các huynh trưởng tôi quen thân từ trên 30 năm nay cho nên đôi khi tôi tự cho phép vô tư nêu thắc mắc "toàn là tài danh hàng đầu tại Paris sao chưa thấy người nào được Thúy Nga mời cộng tác ? Phải chăng tại vì bà Marie Tô chỉ rành Paris by Night mà chưa biết khai thác Paris by Day?".

Một chiều đi làm về bằng Métro, tình cờ tôi gặp một ca sĩ từ Paris về thăm cha mẹ ngụ chung một vùng ngoại ô với gia đình tôi. Ca sĩ nầy và tôi có mối thâm tình vì thuở bé từng ở trong lớp việt ngữ và các sinh hoạt văn nghệ thiếu nhi trong vùng do tôi hướng dẫn trong nhiều năm. Chú cháu lâu ngày gặp lại nên rù rì đủ thứ chuyện, trong đó có chuyện đi hát phong trà và đặc biệt hát cho các dạ vũ làng nói trên.

- Cháu đi hát thế mà cũng đã trên 10 năm. Đôi khi nhớ lại những cuối tuần học với chú vui quá là vui, ước chi thời gian cũng đơn giản như cái nút review trên máy vidéo.

- Trong lứa cháu, thoắt đấy mà nay đứa nào cũng đã nên cặp nên đôi, thành cha thành mẹ con nít cả rồi. Riêng phần cháu coi như nổi trội hơn cả, lừng danh từ Paris đến các tỉnh. Thỉnh thoảng đưa thím đi chợ Tàu, chú để ý áp-phích nào trong vùng mình cũng có tên cháu.

- Sao chẳng thấy chú thím bao giờ ?

- Năm thì mười hoạ và chẳng đặng đừng chú mới tạt qua trình diện một lúc, nghe bà con bắt đầu tranh tài Karaoke vài hiệp là trốn về. Phô trương văn hoá liền tù tì kiểu nầy không hạp với tạng chú, vả lại chú hay bị đi làm xa, một hai tuần mới về, oải lắm.

- Người ta bảo tại chú làm cao, cho lối tổ chức của họ là thực dụng.

- Đời nào. Họ trách khéo chú khư khư đứng ngoài vòng thì có. Không có mợ chợ vẫn đông. Hơn ai hết, chú công nhận nhảy đầm đã được đặt ngang mọi sinh hoạt văn hoá khác, nếu không muốn nói là cao bứt mọi sinh hoạt văn hoá khác. Nhảy đầm là hấp lực thống soái, thiếu nó mọi buổi họp mặt trong cộng đồng ta sẽ lèo tèo, èo uột.

- Cháu cũng nhận thấy vậy. Hèn chi chùa, đền nào cũng có dăm chi hội kinh tài "trước mua vui sau làm việc nghĩa". Mà họ tổ chức lia chia như thế tụi cháu mới có đất sống.

- Bao năm hát cho các dạ vũ làng cháu có thích không ?

- Hát nhảy đầm thì lấy gì mà thích chú. Họ có nghe mình hát đâu. Miễn là có tiếng trống thùng thình giữ nhịp cho họ là OK. Âm thanh càng lồng lộn càng OK. Bọn ca sĩ tụi cháu muốn gào lời lẽ kiểu nào cũng chẳng ai để ý.

- Vậy chuyện tập tành với ban nhạc thì sao ?

- Coi như không có. Chú thừa biết, ban nhạc và ca sĩ tụi cháu chuyên bắt chước theo băng đĩa trên thị trường nhất là nhạc Anh, nhạc Pháp cho nên bên nào cũng có sẵn cùng một répertoire gần giống nhau, chỉ cần nói tông cho ông đánh solo là xong. Chơi chung nhiều năm nên hai bên ăn rơ lắm. Hơn nữa chủ yếu là nhạc tua mà chú.

- Cháu đã ra cái CD nào chưa ?

- Có thì cháu đã gửi tặng chú rồi. Còn chú, sao chú không chịu phổ biến nhạc chú như người ta ?

- Đâu dễ dàng vậy. Chú là tép riu, ai thèm ngó tới. Chú soạn nhạc chỉ để tiêu khiển. Mà tiền đâu ? Tóm lại nhạc chú không hạp với sàn nhảy mà sàn nhảy cũng chẳng ưa gì nhạc chú.

- Chứ không phải tại chú khó tánh... làm cao à ?

- Làm gì có chuyện tự kiêu hảo đó. Cháu hơn chú ở chỗ biết du di để vươn lên, khẳng định mình.

- Chú khéo đùa. Hát theo băng đĩa, bắt chước thiên hạ thì khẳng định mình cái nỗi gì. Thế, nếu cháu muốn lấy mấy bản chú đã làm thành K7 lúc trước ra hát có được không ?

- Ấy ấy đừng, đừng có dại mà bể nồi cơm của cháu.

- Chẳng lẽ chú chịu phổ biến chùa trên Internet mãi sao ?

- Ừ, rõ ràng chuyện sáng tác của chú chỉ được đến thế, mà được như thế cũng đã quá vui rồi vì chú có mưu sinh với nhạc như cháu đâu.

- Chú nói vậy chứ nghề hát rong của cháu thật thụ là trầy da tróc vảy chú ơi, nhất là ca sĩ nữ tụi cháu phải khoe nhiều thứ khác lắm. Thương vay khóc mướn là câu chí lý, nhất là thương vay khóc mướn bằng tiếng Việt ở xứ người.

- Cháu định hát rong đến bao giờ ?

- Cháu mới bâm lại còn độc thân nên vẫn thích tiêu khiển bằng nghề phụng sự sàn nhảy thêm vài năm nữa, rồi tính sau. Biết đâu mai này cháu chẳng nối nghiệp các bác trong vùng làm bà bầu dạ vũ làng trong cộng đồng ta !

- Nếu được vậy chú cũng mừng, yên tâm nhắm mắt vì bản sắc đặc thù của cộng đồng ta tựu trung là nhảy đầm, cần và nên có người bảo tồn và phát huy cái bản sắc đặc thù đó...

Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.06.2006 17:45:57 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hải Triều Tiên Sinh
  • Số bài : 198
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 17.05.2006
  • Nơi: ĐÀO NGUYÊN CỐC
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 10.06.2006 15:32:15
"Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm."

Cuộc sống chắc chắn phải cần tiền, phải cần áo cơm, và cuộc sống ở nơi đâu cũng vậy. Chia sẻ cùng Hàn Lệ Nhân, nhưng những gì cần biết và phải biết trong VNTQ chắc chắn ko phải là những điều gì mà HLN viết và trích ở đây, tôi ko cần, mọi người một số cần (nhưng họ sẽ đi tìm chỗ khác). Chắc HLN chưa từng về VN, đúng không. Tự do nơi đâu cũng có cả mà thôi, nhưng tự do theo kiểu nào mới là điều quan trọng. Tự do để mà hướng tới Chân - Thiện - Mỹ thì mới là tự do đúng đắn. Dĩ nhiên, cõi đời còn nhiều tranh chấp, còn nhiều khổ đau, HLN chắc cũng còn khổ đau, chẳng ai vẹn toàn cả. Giầu có thì sung sướng, đúng và sai pha trộn. Nếu không chê, xin mời HLN 1 vé khứ hồi về VN để nhìn tận mắt. OK? Liên lạc sau.
Không hẹn mà tới

Không chờ mà đi

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 13.06.2006 17:11:33


Trích đoạn: Hải Triều

"Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm."

Cuộc sống chắc chắn phải cần tiền, phải cần áo cơm, và cuộc sống ở nơi đâu cũng vậy. Chia sẻ cùng Hàn Lệ Nhân, nhưng những gì cần biết và phải biết trong VNTQ chắc chắn ko phải là những điều gì mà HLN viết và trích ở đây, tôi ko cần, mọi người một số cần (nhưng họ sẽ đi tìm chỗ khác). Chắc HLN chưa từng về VN, đúng không. Tự do nơi đâu cũng có cả mà thôi, nhưng tự do theo kiểu nào mới là điều quan trọng. Tự do để mà hướng tới Chân - Thiện - Mỹ thì mới là tự do đúng đắn. Dĩ nhiên, cõi đời còn nhiều tranh chấp, còn nhiều khổ đau, HLN chắc cũng còn khổ đau, chẳng ai vẹn toàn cả. Giầu có thì sung sướng, đúng và sai pha trộn. Nếu không chê, xin mời HLN 1 vé khứ hồi về VN để nhìn tận mắt. OK? Liên lạc sau.


Chào bạn Hải Triều,

Hai câu chữ ký được rút từ nguyên tác:

Rồi chiến cuộc, sau tháng năm nhuộm máu,
Đã lắng nghe tiếng đại bác sau cùng.
Trời tha phương, ôi sung sướng rỡ mừng
Như thuở bé Mẹ mua quà đầy tuổi.
Lòng hoan hỉ không phải vì đường lối,
Chủ nghĩa nao mà tận đáy lòng tôi :
Tôi xót thương Đất Mẹ luống nổi trôi,
Bao thế hệ chưa một giờ yên nghỉ.
Cuộc tương tàn, hai mươi năm rền rỉ,
Hỏi ai còn, ai mất, với ai đau ?
Rồi hôm nay khói súng đã bay cao,
Hỏi ai khóc, ai cười và ai đó ?
Ai sẽ là người dầm trong mưa gió,
Cùng Mẹ Việt Nam lượm xác con yêu ?
Và có ai, xin hỏi thêm một điều:
Thương dân Việt bằng đồng bào nước Việt ?
Tôi hoan hỉ vì chỉ mong tiêu diệt,
Bộ mặt chiến tranh, xoá bỏ chủ trương :
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương ?
Chủ nghĩ nào hơn chủ nghĩ áo cơm ?

(Cuối Cùng Một Cuộc Chiến, Hàn Lệ Nhân - Paris,1975 )


Thưa bạn,

HLN hoàn toàn không có dĩ vãng VN, mối liên hệ giữa quê mẹ và HLN là do huyết thống và cái tên cúng cơm lẫn bút hiệu cũng do ông thân đặt cho, trước sau vẫn giữ nguyên – không thêm không bớt - dẫu đã nhập Pháp tịch từ 1986, nói gọn là "quê mẹ trong tôi chỉ là văn chương". Đến nay HLN đã có đúng 19 ngày lang thang trên đất mẹ: 14 ngày tại Sàigòn năm 1973 trước khi du học ; 5 ngày năm 2004 quanh miền Trung. Lời bạn nói "chắc HLN chưa từng về VN" là không sai, nhưng cũng không đúng hẳn vì có thì có (19 ngày) nhưng có mà như không, vì chưa có dịp về làng quê VN mà HLN đi đến đâu chỉ muốn tìm hiểu làng quê, phần đô thị thì ở VN hay ở 21 xứ HLN đã từng đi qua xét tổng thể – xin lỗi – đều rán rập khuôn theo mô hình Âu-Mỹ, riêng đối với HLN, chẳng hứng thú gì.

Tự do đích thực, dù đứng ở góc độ, cương vị nào, cũng không thể vượt lên trên hai chữ Trách Nhiệm: Tự Do trong trách nhiệm, nếu không, tự do đó là tự sát, là độc tài hoặc nô lệ.

Tranh chấp bằng tư tưởng, bằng lời lẽ, trong sâu thẳm, là nguồn lực của thăng hoa. Khổ đau là tứ bất tận của sáng tác. Hết khổ đau là ngưng ưu tư, ngưng sáng tác, là hết.

Bạn có nhã ý mời mình "về VN để nhìn tận mắt", HLN xin ghi nhận thiện ý của bạn. Có điều trong năm 2006 này, HLN đã lập chương trình du lịch Đông Nam Á, lần thứ 8, nhân kỷ niệm 30 năm ngày cưới và làng quê Bắc Việt là mục đích chính. Đủ duyên để được cụng ly với bạn trong dịp này đã quá vinh dự, xin miễn cho phần "vé khứ hồi". Kính, HLN.
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 18.06.2006 03:19:45
Xứ Lào: Nửa Trái Tim Tôi 1

Hàn Lệ Nhân





Tôi sinh ra và lớn lên tại Savannakhet, Trung Lào, cách thủ đô Vientiane khoảng 500 cs về hướng Nam. Từ thuở biết băn khoăn suy nghĩ, ngày lại ngày, tôi hít thở vui buồn dưới bóng Trường Sơn, bên khúc sông Cửu êm đềm thơ mộng, chảy ngang Savannakhet nơi mỗi buổi tà dương là mỗi bức tranh kỳ diệu. Hăm ba năm trường, ngoài tình thương đùm bọc của gia tộc, tôi sống giữa vòng ôm hồn hậu, chất phác của người bản xứ. Niềm hồn hậu và bản tánh chất phác đó, trong nhiều thập niên, đã bị nhiều ngoại kiều - trong đó có tôi - hiểu lầm đưa đến kết luận vu vơ gọi là sự quê mùa, lạc hậu ... !

Trước 1975, ở Lào nói chung, học sinh lớp nhất (nay là lớp 7), trường tư hay trường công, muốn học tiếp trung học đệ nhất cấp (lớp 6 đến lớp 9) và đệ nhị cấp (lớp 10 đến lớp 12) chương trình Pháp đều phải thi vào. Ngoại kiều chưa nhập Lào tịch đều phải chịu một hạn chế bất thành văn là cứ 100 người đậu thì ngoại kiều chỉ được 2%. Do đó hầu hết học sinh việt nói riêng đều chọn cách đi vòng, nghĩa là nhập tịch Lào. Thời đó tôi không hiểu do đâu song thân tôi nhất định không chịu cho tôi " đi vòng " dù hai cụ biết hai năm rõ mười tôi chỉ thuộc típ " cậu ấm " chơi phá giỏi dang, học hành làng xàng !

Bây giờ tôi đã hiểu, hai thân tôi tiềm tàng cái gọi là Tự Tôn Văn Hoá ! Mà tự tôn văn hoá, ai cũng biết, cách tự tôn dân tộc chỉ độ nửa sợi tóc ! Sở dĩ bấy giờ hai cụ tôi có lối " nhìn xuống " đối với người Lào cũng như lối nhìn của thực dân, đế quốc đối với người Việt, một là bởi sự hiểu lầm vai trò đích thực của mấy chữ Văn Minh và Văn Hoá ; hai là bởi người tự tôn đều cho rằng chỉ Lẽ Sống của mình là đúng, là cao. Đúng và cao ở đây ngụ ý hợp với ý thích của người tự tôn, mặc dù kẻ bị xem là "thiếu văn minh, kém văn hoá" vốn đã sẵn ý thích từ rất lâu đời của họ. Kết quả, người tự tôn manh mún áp đặt ý thích của mình lên người bản xứ, mặc dù nơi đây cuộc sống ít xáo trộn, ít chênh lệch ; không gây cho con người những khủng hoảng trầm kha, những căn bệnh quái gỡ như thực trạng trong xã hội " văn minh đúng, văn hoá cao". Tuy nhiên, như thế không phải người "văn minh sai, văn hoá thấp" chê " cái đúng, cái cao " trên kia đâu, cũng không có nghĩa họ luôn cố định, bất biến. Bằng cớ là ngày nay các bộ tộc tận hang cùng, rừng thẳm đều có ít nhiều sự hiện diện của " văn minh đúng, văn hoá cao " tức là có sự thay đổi. Nhưng, sự thay đổi - nếu có - phải nằm trong đặc tánh của địa phương đó tức là " mọi ảnh hưởng bên ngoài chỉ du nhập trong chiều hướng thuận tiện của tánh chất cá biệt của nó. Vì thế mà tánh chất cá biệt dù bị ảnh hưởng đến đâu cũng không bị đồng hoá ". Hoà đồng: Có. Hoà tan: Không. Lấy trường hợp người " văn minh đúng, văn hoá cao " - với hậu ý trục lợi hơn là nhân bản - định cư, dựng nhà, lập làng cho thổ dân theo kiểu hiện đại, cấp phát cho họ những nhu yếu mới mẻ. Sau một thời gian chung đụng với " văn minh ", thổ dân đã làm nhíu mày những nhà hảo tâm kia. Nhà dựng cho họ, họ ra rừng ở. Giường tặng cho họ, họ đạp gãy làm củi đốt để được ngủ dưới đất... Rốt cuộc thổ dân chỉ còn giữ lại cái dao, cái búa, cái kim khâu ... và âm thầm khước từ mọi thứ khác.

Từ sự kiện trên tôi tạm hiểu rằng văn minh chỉ là khoa học mà văn hoá là đạo học. Khoa học lo cho cuộc sống. Mục đích của nó không ngoài việc nâng cao mức sống vật chất của con người. Đạo học tôi hiểu ở đây không đồng nghĩa với ý thức tín ngưỡng, tôn giáo mà chỉ là tâm hồn, bản chất của con người, là Lẽ Sống của con người. Khoa học hay kỹ thuật học và đạo học tuy được phân chia ra nhiều nhánh nhiều ngành song quay đi quẩn lại cũng chỉ nằm trong hai mục đích mưu cầu sự sống và lẽ sống cho con người.

Thực trạng các nơi " văn minh đúng, văn hoá cao " mà tôi đã có dịp viếng thăm dạy tôi điều nầy: Khi phát triển khoa học tiến nhanh hơn đạo học thì con người dễ đẩy nhau vào vòng xâu xé, xa rời lẽ sống uyên nguyên. Ngược lại, khi nền đạo học tiến mau hơn khoa học, con người dễ đưa nhau vào vòng lệ thuộc thần linh, lệ thuộc tín ngưỡng (giáo điều), làm cho xã hội con người cô đọng, thiếu ý thức cải tạo, tự biến thành thiêu thân cho các chuyên viên bán ghế trên thiên đàng, bán chỗ cõi tịnh như.

Nếu thu hẹp ý trên vào từng cá nhân thì lời cụ Trần Trọng Kim, cách nay hơn nửa thế kỷ trong cuốn Đường Thi, quả không có gì lầm lẫn: "Trong người ta bao giờ cũng có hai phần: Một phần Người và một phần Vật cùng đi đôi với nhau, điều hoà với nhau. Hể để phần Người át phần Vật quá độ thì người không đủ sức làm việc ; hể để phần Vật át phần Người quá độ thì hành vi của ta thành ra đê hạ, mất cả phẩm giá".

Tôi chưa đủ kiến thức để lạm bàn, bóc tách thế nào là Văn Minh, thế nào là Văn Hoá. Với tôi, hai thứ nầy tôi ví như quả trứng gà và con gà. Song tôi đã tự đặt câu hỏi: Văn hoá là gì ? Sách vở đã trả lời cho tôi: " theo nghĩa rộng rãi, văn hoá là tinh hoa tích lũy của nếp sống thể hiện qua cách thức, cảm nghĩ và thực hành của mỗi dân tộc trong những lãnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, giáo dục, giao tế, phong tục ...". Nếu hiểu theo nghĩa trên thì một người Mẹ quê mù chữ vẫn là người có văn hoá vì bà Mẹ ru con mang trong mình những kiến thức, những lối sống, những suy tư, cách thức ru con, tuy mộc mạc nhưng sâu xa, văn vẻ và có tính cách dân tộc (ca dao, tục ngữ, lời thánh hiền, chuyện cổ tích). Và như thế, ta dựa vào cái gì để luận chuyện văn minh nhiều, văn minh ít ; có hay không có văn hoá cũng như văn hoá cao, văn hoá thấp ? Mỗi chủng tộc có mỗi nền văn minh, văn hoá là do không cùng hoàn cảnh địa dư, kiến trúc xã hội, quan niệm nhân sinh, cảm xúc lãnh hội, phong tục tập quán...

Do đó, sau 30 năm tạm dung trên đất Pháp và đã có duyên may đặt chân lên nhiều nước có tiếng là văn minh, tiên tiến trên thế giới, tôi nghiệm xét lại sự ngộ nhận ấu trĩ của cá nhân tôi trong loạt bài này.

Niềm hồn hậu và bản tánh dung dị của các bộ tộc Lào không phải khi không mà có, không phải vô tình mà có, mà phần lớn chính là kết quả của cả một quá trình tôi luyện lâu dài, qua nhiều thế kỷ, dưới ánh sáng của đạo Phật đấy, các bạn ơi. Niềm hồn hậu và bản tánh chất phác của họ, trên phương diện xã hội, phản ánh quan niệm bất tranh mà thắng, bất luận mà đắc nhân tâm. Cứ lấy ví dụ khi ta bàn về một dân tộc khác quanh ta: Dân tộc Khmer làm ta nghĩ ngay đến tệ nạn Cáp Duồn, đến thảm trạng Khmer Đỏ dưới thời Polpot ; dân tộc Xiêm La cũng thế, cọng thêm tánh " hồi đao " (1) ; dân tộc Tàu làm ta nghi ngại, ngay ngáy lo sợ tuyệt chiêu " tằm ăn dâu, vết dầu loang " ... Tóm lại, khi nghĩ đến các dân tộc hàm hồ trích dẫn, trên phương diện cá nhân, hoặc ta có ngay ác cảm hoặc không mong được kết thân, còn trên phương diện quốc gia, nếu có kết thân gần gũi thì cũng chỉ là dạng đãi bôi chính trị, lợi nhuận bán buôn. Riêng dân tộc Lào nói chung, khi ta nghĩ đến họ trên cả hai phương diện, bỏ qua sự ngộ nhận, có ấn tượng xấu lưu-tập nào tự động nẩy ra không ? Thân kính mời các bạn tự trả lời.

Nếu chưa có dịp sống ít lâu trên xứ Lào, tôi thành thật mời bạn đi thăm một chuyến. Có điều phải nói ngay đây, nếu mục đích của bạn khi viếng đất nước nầy là để tìm tiện nghi theo tiêu chuẩn bốn năm sao phương Tây, như bải tắm như mơ, kỳ quan thế giới, kỳ nữ rẽ đẹp ... Tôi khuyên bạn đừng đi vì chỉ uổng công, hao bạc lại bực mình rồi đâm ra ngộ nhận. Ngược lại, bạn sẽ thấy: Từ thủ đô đến khoéng (tỉnh), nơi nào người bản xứ ( kể cả tướng tá uy quyền) cũng rút về sống gần thiên nhiên, thoải mái ngoài đồng ngoài ruộng trong những căn nhà sàn cổ truyền hay cách tân. Hầu như họ " bỏ mặc " phố xá kiến trúc tây phương cho ngoại kiều.

Tôi may mắn có dịp chu du từ Nam chí Bắc xứ Lào, nay xin sơ lược theo cảm quan riêng, vài địa danh tôi đã đặt chân tới và yêu thích, giới thiệu với các bạn cùng lúc coi như tự đưa mình về lại nơi chốn cũ thêm một lần.

Có ba phương tiện di chuyển để đến bất cứ nơi nào trên xứ Lào. Thông thường bạn dùng máy bay thì đương nhiên bạn phải đáp xuống thủ đô Vientiane. Từ Việt Nam bạn có thể qua Lào bằng xe đò hay xe nhà. Từ Thái Lan, ngoài hai phương tiện kể trên còn có thuyền, đò đưa bạn vào đất Lào.

1. Vientiane

Thủ đô Vientiane có hai sân bay kề sát bên nhau trong địa phận Wattay, cách trung tâm thành phố độ 4 cây số. Một quốc tế. Một nội địa. Thủ tục nhập cảnh rất đơn giản, nhanh chóng và sẽ không có cảnh mè nheo, cố ý làm khó vòi vấn đề đầu tiên trong thủ tục thị thực visa, kiểm tra hành lý.

Vientiane có đến hai tên: Vientiane-thủ đô và Vientiane-thị trấn. Mộ-bi thời Sai Fong đã chứng mình địa phận Vientiane, xưa, vốn thuộc đế quốc Khmer và sử biên niên của Lào có ghi vua Fa Ngum đã đánh chiếm hai vùng đất nầy vốn kề nhau, cai quản bởi hai ông hoàng. Vientiane trở thành thủ đô Vương Quốc Lào từ 1563 dưới triều vua Setthathirat. Cả hai Vientiane gộp lại rộng 19.837 cs vuông với dân số 1.066.600 người (2004). Chia ra bốn khu chính: Chanthaboury và Saysettha là trung tâm ; Sikhottabong phía Tây và Sisattanak phía Nam. Chính vua Setthathirat đã cho xây dựng cảnh quan That Luang với ngôi chùa và đại tháp cùng tên (1566) và Chùa Phra keo (1565), nổi danh cho đến ngày nay. Xứ Lào là xứ Chùa. Tổng cộng Lào có 1.400 ngôi chùa. Do đó, đến Vientaine bạn nên viếng thăm mấy cảnh chùa (Vat) nổi tiếng như cảnh quan That Luang và Chùa Phra Keo nói trên, Chùa Ông Tự, Chùa Sí Mương, Chùa Sisaket, Suốn Xiêng Khuôn (tục gọi là Suốn Phụt tức Vườn Chư Phật), quần thể hàng trăm bức tượng đúc theo Phật thoại, trong vùng Thà-Đừa, cách Vientiane khoảng 25 cs, gần cầu Hữu Nghị Lào-Thái. Ở Vientiane có một ngôi chùa Việt tên Bàng Long, khá nguy nga. Từ chợ sáng trên đại lộ Lan Xang, bạn đã thấy sừng sửng đài Anou Savary (đài chiến sĩ vô danh), sau 1975 được đổi tên thành Patousay (Khải Hoàn Môn), toạ lạc giữa bùng binh giới ranh phố Vientiane và khu vực That Luang. Đài Anou Savary được tạo dựng từ 1958, phần dưới và ngoài mô phỏng theo đài Arc de Triumphe tại Paris, phần trên và trong gồm những nét kiến trúc, phù điêu đặc thù Lào. Đứng trên tầng cao nhất của Anou Savary ta có thể thấy toàn diện cảnh quan Vientiane.

Con đường huyết mạch ở Vientiane là đường Sí Mương-Samsenthay, sầm uất trù phú, dấu ấn kiến trúc còn lại của thực dân Pháp chạy xuyên suốt từ khu That Khao lên trung tâm Ô-Điên - SengLao, ra đến vùng Si Khay - Wattay, rồi bổng dưng ngừng lại, nhường cho kiến trúc cổ truyền Lào: Nhà sàn. Đúng là thực dân Pháp chỉ " khai hoá " thành công các phố thị Lào và đã thất bại hoàn toàn đối với hương thôn xứ nầy.

Vientiane nằm thoai thoải ven sông Mêkông. Bên kia bờ là tỉnh NongKhai (Thái Lan). Khúc sông nầy, năm 1994 chính phủ Úc đã tài trợ xây chiếc cầu Hữu Nghị Lào-Thái (Lao-Thai Friendship Bridge) dài 1240m. Bờ sông Vientiane chưa được khai thác đúng mức, chủ yếu mới ở mặt hàng ăn, quán cóc. Quán cóc ven bờ sông Vientiane rất đa dạng về thực phẩm, bạn có thể gọi bất cứ món ăn Lào nào, lạ miệng, ngon mà giá lại quá phải chăng so với Dollar hay Euro. Mỗi ngày đưa nhau đi viếng cảnh thủ đô, chân cẳng rả rời, chạng vạng ra bờ sông gọi vài chai bia Lào (Beer Lao) hay vài trái dừa nướng ướp lạnh, gắp thịt gà nướng, đĩa Tằm Mạc Hùng (nộm đu đủ), đĩa lạp bò chín hay tái (gỏi thịt), tô canh chua gà hay cá, típ xôi trắng dẽo hay nếp lam nướng trong ống tre... Gió sông hây hẩy, trời chiều bảng lảng ... Bạn bè cũ, kỷ niệm xưa, chuyện trên trời dưới đất. Đâu mất cả rồi những phiền toái ngay ngáy mang theo từ các xã hội " văn minh đúng, văn hoá cao" ?

Có bạn sẽ thắc mắc: Còn khi phố đã lên đèn, ở Vientiane có mục gì ? Ở Lào cũng giống hệt ở Việt Nam, hồi mới " chiến thắng ", chuyện ba biếc tuyệt đối bị cấm, chuyện chị em ta là tội lỗi đối với cách mạng ; song khi men chiến thắng tiêu hết nồng độ, đâu lại hoàn đấy, địa điểm du hí mọc lên như nấm, đa dạng, rẻ và hiện đại hơn thời "đồi trụy" gấp nhiều lần.

Cộng đồng người Việt có mặt tại Vientiane từ những năm 1930, sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hiện có khoảng 10.000 người (1%, nguồn: Sứ quán Lào tại Pháp, 2004) sống rãi trong 13 phường như Thạt Kháo, Sí Mương, Khoua Đinh, Sa La Đeng, Ban Phai, Đôông Pa Lan, Sái Lôm ... Nghề chính: Buôn bán và xây cất. Nhìn chung người mình thành công trên phương diện thương mại, kinh tế. Có Hội Người Việt tại Vientiane, trực thuộc đại sứ quán XHCNVN, hiện nay do bà chị Trần Thị Huệ (Mayvanh Phouleuanghong) điều hành với sự khích lệ, phụ giúp cật lực của chồng là ông anh Đồng (Somphou Phouleuanghong). Trước 1975, Vientiane đã có nhiều ngôi trường việt như Nguyễn Du, Hy Vọng, Việt Anh ... Hiện nay Hội Người Việt tại Vientiane đang khởi công một dự án dài hơi, đồ sộ: Xây nguyên một khuôn viên trường học cho người việt trên một chu vi đất 10 ha do chính phủ Lào biếu, cách Vientiane 25cs.

Nói đến thủ đô Vientiane không thể không nhắc tới Lễ Hội hay Hội Chợ That Luang ( Boun That Luang).

Cảnh quan That Luang (Đại Tháp, tên chữ nguyên văn là Phra Chedi Lokatiounlamani = Phrả chê đi lô ka chun la ma ni, tạm dịch là Hoàn Vũ Đại Đỉnh Phật Tích) toạ lạc cách Vientiane 3 cs, về hướng Đông, được tôn tạo từ 1566 dưới triều vua Setthathirat. Theo truyền thuyết, trong tháp nầy có lưu giữ xá lợi của Đức Phật là một sợi tóc và rất nhiều châu báu. That Luang gồm tháp chính cao 45 thước, bao quanh là các tháp phụ, sơn thếp vàng rực rỡ, uy nghiêm dưới trời xanh trong.

Người Lào gọi lễ hội là Bun. Bun có nghĩa là phước, làm Bun = làm phước để được phước. Lễ Hội That Luang được tổ chức hàng năm vào ngày 13 đến 15 tháng 12 lịch Lào ( tháng 11 dl), gồm phần Lễ và phần Hội.

Phần Lễ trong Boun That Luang

Lễ là nghi thức tế tự do chính con người tưởng tượng ra để giao cảm với thần linh. Ngoài tính cách tín ngưỡng dân gian như nghi thức rước Phí Mương ( thần bảo hộ tỉnh) từ Chùa Sí Mương đến That Luang, lễ trong Boun That Luang còn mang ý nghĩa chính trị của Một Ngày Hội Thề. Từ thời vua Fa Ngum (thế kỷ XIV) cho đến 1975, lễ nầy do quốc vương Lào làm chủ tế. Trong lễ Hội Thề người ta thấy có mặt đầy đủ chức sắc, đại biểu, tỉnh mường, làng bản trưởng được mời về bàn việc nước...và mỗi vị có một cái kiệu bằng sáp ong (hó phợng), xếp thành hàng ngang trước nơi hành lễ. Nhà sư chủ trì cầm một cuộn dây bằng sợi vải trắng đi vòng nối các tỉnh mường, làng bản lại với nhau. Biểu tượng nầy phản ánh sự cam kết trung thành, thống nhất, đoàn kết quốc gia, cấm chia rẽ.

Phần Hội trong Boun That Luang

Câu cửa miệng của nguời Lào là " khôn Lao mặc muồn " ( người Lào thích vui) được thể hiện rõ nét trong phần hội. Hội chủ yếu là vui chơi, giải trí dưới nhiều hình thức từ ẩm thực đến văn nghệ, văn hoá, thể thao, mua bán, triển lãm. Đặc biệt Boun That Luang cũng là thời điểm của Hội Chợ triển lãm tầm vóc quốc tế, kéo dài ba ngày, ba đêm. Việt Nam, trước và sau 1975 đều có gian hàng triển lãm hàng hoá đặc sản trong dịp nầy kèm theo các bộ môn văn nghệ rất được bà con việt kiều yêu thích. Những tên tuổi như Thanh Thúy, Trang Thanh Lan ... Duy Khánh, Elvis Phương ... đều từng có mặt nhiều lần trong Boun That Luang trong phái đoàn Tâm Lý Chiến thời VNCH.

Xứ Lào có một nguồn vốn văn nghệ dân gian, cổ truyền phong phú, rực rỡ. Trong dịp nầy, mọi thể loại tiêu biểu từ Lăm Lưởng (hát truyện thơ), I Kề ( giống cải lương) ; đến vô số hình thức hò, ngâm như khắp, xởng, cạp, còn ...; đối đáp giao duyên như lăm (hò) vạy, lăm loòng, lăm tơi ; các loại lăm có tính địa phương như lăm Sa La Văn, lăm Si Phăn Đon (Nam Lào), lăm Tằng Vạy ( Trung lào), vũ điệu quốc gia như LamVôông, Natasine ... đều được phô diễn, hài hoà vui nhộn trong tiếng khèn, tiếng la-nạt (bộ đàn gõ), tiếng khui (sáo), tiếng Koong (trống) ... (2)

" Ti Khi " là một trò chơi không có không được trong Boun That Luang, nó vừa có tính cách thể thao vừa phản ánh nội dung tín ngưỡng. Ti Khi là lối chơi đánh cù trên sân cỏ, nguồn gốc của môn Polo rất thịnh hành tại Ấn Độ và Anh, với chút khác biệt là người chơi Polo ngồi trên lưng ngựa, còn người chơi Ti Khi thì dùng cặp giò. Trước 1975, vị khán giả đặc biệt là quốc vương Lào, nay là chủ tịch nước.

Ti Khi được chia ra hai phe. Phe áo đỏ tượng trưng cho quan chức (nay là cán bộ cao cấp). Phe áo trắng hay phe cởi trần là nông dân. Ti Khi không có luật lệ, không có trọng tài. Một trận đấu được chia làm 3 hồi, mỗi hồi 20-30 phút. Mục đích của đôi bên là làm thế nào dùng cù đánh văng trái banh gỗ (loukkhi) cho quá làn ranh nửa phần sân bên kia. Sau ba hồi, phe nào có điểm cao là phe thắng. Theo tín ngưỡng dân gian, nếu năm nào phe áo đỏ ( phe quan chức) thắng phe nông dân thì đất nước sẽ khó được yên, nhân dân sẽ bị khổ. Do đó, hầu như năm nào phe áo trắng hay phe cởi trần cũng thắng cả. Ngoài ra, Ti Khi còn có thêm ý nghĩa cầu nắng vì vào tháng nầy việc nông tang, đồng áng đã xong.


Hàn Lệ Nhân

Kỳ tới: LuangPrabang

Chú thích:

(1) Dĩ nhiên là ta không quên khía cạnh nhân bản tích cực của chính phủ Thái Lan trong thảm kịch tỵ nạn Việt-Miên-Lào từ 30/04/1975.

(2) Nhạc điệu dân ca Lào rất phong phú, mỗi miền mỗi điệu, mỗi sắc thái: Khạp-thun ( LuangPrabang), Kham-ngum (Vientiane), Lăm Phon-Sà-Vắn (Savannakhet), Lăm Ma-Há-Xay (Khammouane)... Sẽ có một bài riêng cho đề tài nầy.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.06.2006 03:59:45 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 21.06.2006 16:34:04
Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 2
Hàn Lệ Nhân




2. LuangPrabang

Việt Nam có Huế, xứ Lào có LuangPrabang. Cả hai đều là cố đô đồng thời được Unesco công nhận là di sản văn hoá thế giới. Cố đô Huế năm 1993. Cố đô LuangPrabang năm 1995. LuangPrabang là không gian đón nhiều lượt khách du lịch nhất trong xứ Lào.

LuangPrabang thuộc vùng núi miệt trung bắc xứ Lào, độ cao khoảng 700m, nằm giữa ngã ba sông MêKông và sông Khan, nối liền thủ đô Vientiane bằng quốc lộ 13, cách nhau 320cs. Quần thể LuangPrabang duỗi mình trên một doi đất có sông, có suối, có núi. Diện tích LuangPrabang và vùng phụ cận được 16.875cs vuông. Dân số 408.800 người (8,24% tổng số quốc dân, 2004), bao gồm 12 bộ tộc : Lao thơng (người Lào miệt trung du): 46% ; Lao Lùm (người Lào miệt đồng bằng): 40% và Lao Súng (người Lào miền núi): 14%. Nội thành LuangPrabang có 20.000 người. Sau 1975, phần lớn ngoại kiều như người việt còn trụ lại Lào đều tản về thủ đô Vientiane.

Xưa, LuangPrabang có tên là Mương Xua, kế là Xiêng Đôồng-Xiêng Thoong và LuangPrabang từ thời vua Fa Ngum (thế kỷ XIV) cho đến ngày nay. LuangPrabang có vị thế thủ đô xứ Lào cho tới khi vua Setthathirat, vì vấn đề địa lý chính trị, quyết định dời đô xuống Vientiane vào năm 1560. LuangPrabang trở lại vị thế đế đô từ 1947-1975.

Từ khi lập quốc LuangPrabang đã bị ngoại xâm tàn phá, cướp bóc nhiều lần. 1479: bởi bộ tộc Thái Đằm (Thái đen) ; 1525: bởi Việt Nam, triều Lê Chiêu Tông ; 1764: bởi Miến Điện ; 1887: bởi giặc Cờ Đen (Tàu).

Truyền rằng tượng Phật Prabang do lão tăng Phra Chounla Nark Théra và 500 vị sư khác sùng tạo bằng vàng (có trộn đồng đỏ và bạc để tăng thêm độ bền và sự bóng loáng) quyên góp được từ tín hữu tại đảo Sri-Lanka từ năm 107 trước CN. Prabang là một tượng Phật đứng, hai tay đưa ra phía trước, hơi gấp lại ở khoảng bán thân. Nặng 48 kg, cao 83 cm.

Vào thế kỷ thứ IX, vua Sri-Lanka tặng tượng Prabang cho vua Khmer - Indravarman, người cho xây Angkor Wat. Đến năm 1355, vua Khmer Paramantha Khempraja lại tặng Prabang cho con rể người lào là Chao Fa Ngum (1316-1373), sau khi ông nầy mang quân về xoá triều Mương Xua, thành công năm 1353. Vua Fa Ngum đổi tên kinh đô Xiêng Đôồng-Xiêng Thoong thành đế đô Luang Prabang, lấy tượng Prabang làm biểu tượng quốc gia, xây chùa Pasaman, thờ Prabang như bảo vật trấn quốc. Hiện nay bức tượng trấn quốc Prabang được an vị trong hoàng cung, nay là Bảo Tàng Quốc Gia, tại Luang Prabang. Đương nhiên đây chỉ là bức tượng nhái (copy), bức thật được cất giữ một nơi bí mật khác.

LuangPrabang gồm 3 chữ ghép lại. Luang (đọc là luống, do vua Fa Ngum thêm vào) = Lớn ; Pra = Phật ; Bang = tụ phúc, cọng đức. Luang Prabang có thể hiểu là tượng Phật lớn được sùng tạo từ công đức của nhiều người, tạm dịch là Tụ Đức Đại Phật Tượng .

Lần đầu tôi đến LuangPrabang vào năm 1972, theo lời mời của một cô bạn tâm thư qua mục Nhịp Cầu Tri Âm trên tờ Phụ Nữ Diễn Đàn. Lần sau vào mùa Tết Tân Tỵ, 2001.

Nghe bảo ngày mốt tôi sẽ đi Mương Luang (LuangPrabang) bằng xe đò, vợ chồng mấy người bạn đều giật nẫy lên, cản và khuyên tôi nên lấy máy bay cho tiện vì bấy giờ khúc đường Vientiane-LuangPrabang vừa xấu vừa kém an ninh, thường xuyên bị đột kích bởi nhóm ly khai Hmông. Tôi nói " đi bằng máy bay thì vù độ 1 tiếng là tới nơi, bao nhiêu cảnh đẹp, người các bộ tộc ven đường, ven núi ai ngắm, ai quay dùm tớ ?". Nói vậy nhưng rồi tôi cũng phải nghe lời các bạn, đi bằng máy bay. Ông bạn Pa-Thương (Quyền) bốc điện thoại cái vèo là đâu vào đấy, chẳng là nó có ông em cột chèo người Lào làm chủ một nhà khách (Guest House) ở LuangPrabang, nay qua lời nó tán, cậu em nầy tự nguyện làm hướng đạo cho tôi luôn. Từ máy bay nhìn xuống, LuangPrabang xanh ngát, chập chùng tuyệt đẹp.Sân bay nhỏ, thường. Nhân viên nhập cảnh hầu hết là người Kh'mú và người Hmông. Đón tôi về nhà xong, cậu em KhamĐy hỏi lịch trình của tôi như thế nào trong mấy ngày viếng cố đô. Kỷ niệm về cố đô trong tôi sau bao nhiêu nước chảy qua cầu đều phai nhạt, duy hình ảnh cô bạn nhịp cầu tri âm ngày nào thì vẫn còn nguyên. Do đó, việc đầu tiên tôi nhờ cậu ta là đưa tôi tới ngay địa chỉ nhà cô ấy gần khu chùa Vixun. Cảnh cũ còn đây, bạn xưa đâu tá ?

Phố xá LuangPrabang vẫn trầm mặc, gọn gàng, vương giả. Đâu đâu cũng thấy du khách da trắng, nhìn chung dạng ba lô chiếm đa số. Không biết ông bạn Pa-Thương dặn dò thế nào mà tối đầu tiên đó KhamĐy không hỏi ý kiến tôi, đưa ngay tới một nhà hàng Lào, gần hoàng cung cũ, có giàn nhạc cổ truyền Natasine. 80% khách là dân da trắng. Một bữa ăn tối tuyệt vời. Trở về nhà, KhamĐy bảo tôi sáng mai lúc 6 giờ sẽ có buổi Tắc-Bạt (khất thực) dọc đường, dưới chân Phou-Si và thòng thêm câu: anh dậy nổi không ? Tôi cười.

Tôi mò dậy lúc 5 giờ. Len lén vác camera đi bộ ra ngay chân cầu thang lên đồi Phou-Si. Trời còn tranh tối tranh sáng. Nửa muốn leo cầu thang lên đỉnh nhưng lại e trễ giờ quay phim buổi khất thực. Bấm bụng đi lòng vòng. Hương Champa (hoa sứ / hoa đại) thoang thoảng trong không gian tinh khiết. Nam nữ tín hữu đã bắt đầu xuất hiện, quỳ trên lề đường Sisavang Vong, trên tay mỗi người đều có một hai típ xôi, một cái khánh (ô) bạc đầy thức ăn. Đoàn tăng lữ Theravada áo cam chân trần có đến 50/60 người nối đuôi nhau, yên lặng đi ngang qua hàng tín hữu đang cung kính nâng khánh bạc lên ngang trán. Mỗi vị sư khi ngừng trước mặt một tín hữu, mở nắp bình bát ra, tín hữu bốc một vắt xôi kèm chút thức ăn, vái một cái rồi bỏ tất cả vào trong bình bát. Hoạt cảnh khất thực kéo dài trong thanh lặng đến khoảng 6 giờ 30 thì dứt. Phố xá bắt đầu lao xao. Vừa lúc Khamdy ra tìm.

Điểm tâm nhẹ trong một quán café bên cạnh Phou Si, xong tôi đưa cho KhamĐy tên các địa danh tôi muốn đến, tùy cậu ta sắp xếp thời gian. KhamĐy định về lấy xe hơi đưa tôi đi, tôi không chịu, tôi bảo chỉ có hai người, tôi khoái đi bằng xe gắn máy, gọn tiện hơn nhiều. Gửi xe với quán café. Chúng tôi leo lên Phou Si.

A. Cảnh quan từ đỉnh Phou Si

Phou Si (Núi Màu) là một ngọn đồi hay núi nhỏ rộng 250m, dài 1.000m và cao 80m. Trên đỉnh Phou Si có That Chom Si (tháp trên đỉnh núi màu, cao 20m). Muốn lên viếng cảnh Phou Si ta phải leo 329 bực thang bằng gạch đỏ, tráng xi măng, sơn trắng. Có mấy trạm nghỉ chân. Hai bên cầu thang phần dưới đất là hai tượng rồng Lào đúc, chầu hai bên rất linh động, dài trên dưới 10m với hàng trăm gốc Champa cổ thụ trên trăm năm tuổi ; thân, cành sần sùi kỳ quái, có gốc to đến 2 người ôm. Thời gian tôi có mặt nhằm tháng hai, hoa tuy ít nhưng hương vẫn ngát. Tháp được dựng từ 1804 dưới triều vua Anourout, Unesco trùng tu lần sau cùng năm 1994, là biểu tượng và trung tâm văn hoá, tín ngưỡng của cố đô LuangPrabang. Hiện nay khuôn viên núi Phou-Si còn lại 5 ngôi chùa. Toàn cảnh trên Phou Si thật cổ kính, thanh thoát ẩn hiện giữa rừng hoa đại. Từ đây dõi mắt, tôi thấy từ xa dòng Nam Khan uốn khúc lặng lờ dưới ánh sương mai, hai bên bờ là màu xanh của các ô vườn hoa trái, rau cỏ, chấm phá dăm bóng người lom khom cắt hái hay qua lại tưới nước. Đảo mắt qua, là cả khuôn viên hoàng cung rộng lớn, vườn thượng uyển vẫn đẹp, trăm hoa vẫn khoe sắc. Bức tượng đồng vua Sisavang Vong vẫn uy nghi đứng giữa trời, lặng nhìn bể dâu dâu bể... Kéo ống kính Camera lại gần, tôi thấy tấm bảng trên cổng vào, có chút thay đổi: Hoàng Cung Vương Quốc Lào nay là Bảo Tàng Viện Quốc Gia CHDCND Lào.

Ngoài ra, ta còn thấy gần xa rất nhiều mái chùa như bọc quanh lấy LuangPrabang: Wat Aham, nơi có Hó Phí Khôn (miếu thần hộ trì LuangPrabang và là nơi cất giữ các mặt nạ Pu Nhơ-Nha Nhơ, biễu tượng tổ tiên người Lào) Wat Mày (Chùa Mới, nơi ở của Phra Sangkharath, tăng thống Phật giáo Lào), Wat Vixun ... LuangPrabang có 36 ngôi chùa.

Dừng chân ở góc hướng tây, phóng mắt qua bên kia bờ Mêkông, tôi thấy một ngọn núi có hình thể một người đàn bà nằm quay lưng lại, hỏi KhamĐy, cậu giải thích đó là Phou Nang ( Núi Nàng), cách đó không xa là Phou Thao (Núi Chàng), dưới là bản Xiêng Men. Mốt em sẽ đưa anh qua đó. KhamĐy nói tiếp " bây giờ em đưa anh đi tham quan cảnh Wat Xiêng Thoong, coi kỹ chùa này thôi, mấy chùa khác em nghĩ không cần, sau đó ta đi Bản Phanôm. Ta phải quay lại, lên Phou Si cho kịp giờ thưởng thức cảnh ráng chiều rơi trên Mương Luang để anh còn tức cảnh làm thơ hoài niệm cái cô nhịp cầu tri âm nào đó ... Mai ta dành trọn ngày đi Thác Kuang Sí và Thặm Tìng.

B. Wat Xiêng Thoong

Khuôn viên Chùa Xiêng Thoong nằm ở bán đảo hình thành bởi ngã ba sông Mêkông và dòng Nam Khan. Được sùng tạo dưới triều vua Setthathirat năm 1559-1560. Là ngôi chùa đẹp và quan trọng nhất của LuangPrabang với lối kiến trúc đặc thù Lào, mái cong cong buông xuống gần mặt đất. Wat Xiêng Thoong là ngôi chùa chính bao quanh là những miếu đường nhỏ có cùng một lối kiến trúc, hợp thành một cảnh quan tuyệt mỹ. Từ ngoài vào trong, trên các tường ta thấy cơ man phù điêu, điêu khắc, chạm trỗ công phu, sắc sảo nội dung dựa theo phật tích. Nội thất của Wat Xiêng Thoong phải kể là tuyệt tác. Mỗi miếu đường cũng vậy.

Mỗi năm, vào dịp Pimay Lao ( Tết Lào) mọi chức sắc trong giáo hội Phật giáo Lào cũng như quan chức trong chính quyền tại LuangPrabang đều hội tụ về Chùa Xiêng Thoong hành lễ chào mừng năm mới, rước tượng Prabang từ Bảo Tàng Viện về an vị trong sân Wat Xiêng Thoong, hoà cùng dân chúng, nối đuôi tắm tượng Phật Prabang bằng nước hoa Champa suốt một ngày, biểu hiện lòng sùng tín đối với Phật giáo.

C. Bản Phanôm

Hai chúng tôi đến làng lúc 14 giờ. Từ cổng làng tôi đã thấy thấp thoáng dưới mỗi nhà sàn đều có một vài phụ nữ người Lự đang ngồi dưới khung cửi. KhamĐy dẫn tôi tới một căn nhà sàn khá lớn, có lẽ là chỗ quen biết. Dưới sàn có sáu cô đều còn trẻ. Hai tay đang thoăn thoắt phóng ống thoi qua lại thật điệu nghệ. KhamĐy sổ một tràng tiếng Lự, mấy cô nhìn nhau cười khúc khích. Tôi chấp tay chào mấy cô bằng tiếng Lào, mấy cô đồng thanh chào lại. Hai cô trẻ nhất, độ 22-23, ngưng dệt, đi lên nhà, một lúc sau trở xuống, một cô bưng một khay đu đủ chín và cô kia một khay có hai ba chai nước ngọt. Thế là màn giới thiệu bắt đầu và tôi được dịp thăm hỏi đủ thứ chuyện lẫn quay cảnh các cô đưa thoi.

Làng Phanôm chỉ cách LuangPrabang 3 cs về hướng đông, là một làng người Lự, một bộ tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Thái-kađai, di cư qua Lào từ thế kỷ XVII, gốc vùng Síp Soóng Phăn Na (12 ngàn thửa ruộng), Vân Nam (Trung Quốc), dân số 134.100 người, tản mác khắp miệt bắc Lào. Làng nầy nổi tiếng về nghề dệt và thủ công, đặc biệt kỹ thuật làm giấy bằng bông vải.

Trai gái Lự được tự do tìm hiểu nhau rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung, vợ chồng rất ít ly dị, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo tập tục. Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách.

KhamĐy sổ thêm một tràng tiếng Lự nữa, các cô cười ồ lên. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì, chỉ đoán là họ đang trao đổi về tôi. Ăn đu đủ chín, uống nước ngọt xong, tôi bảo KhamĐy đi sâu vô làng. KhamĐy đáp anh đi dạo với cô này, vừa nói vừa chỉ vào một cô xinh nhất, tên Vén Phệt (nhẩn ngọc). Được người đẹp làm hướng dẫn viên tôi mừng quá, cám ơn rối rít. Đi sâu vào làng, đó đây tre xanh cao vút ven đường, rù rì như chào khách. Những xấp " máy " (tơ lụa), những fứn sịn ( váy lào), áo cánh, phạ biềng ( khăn choàng)... đủ sắc, đủ kiểu được móc trên vách trong mỗi cửa hàng nho nhỏ, trông như tranh Van Gogh, thật thích mắt. Chúng tôi vào một ngôi chợ khá khang trang, hoàn toàn là đồ dệt và các thủ công mỹ nghệ sản xuất tại Bản Phanôm. Vén Phệt cho tôi biết, sản phẩm từ Làng Phanôm chỉ được bán tại chỗ và trong chợ đêm LuangPrabang của người Hmông thôi. Tôi nhờ Vén Phệt chọn cho hai xấp, mua về tặng bà xã may sịn (váy lào), một xấp tặng vợ KhamĐy. Tôi có ý muốn tặng Vén Phệt một xấp, cô nàng cười ré lên " ai lại chở củi về rừng, anh ơi ! ". Ừ ha, rõ thật ngớ ngẩn. Trong làng có chỗ làm rượu cần. Vén Phệt nói gì đó với ông chủ làm rượu, ông đưa ngay ra một hủ độ 5 lít, đặt xuống nền nhà bằng đất, cắm vào ba ống hút cong cong bằng tre dài khoảng 50cm, vui vẻ mời tôi và Vén Phệt. Tôi vốn chỉ uống được bia nhẹ, từng nghe nói tới loại rượu cực mạnh nầy nên do dự, sợ bị vật lăn quay ra đây thì chẳng ra thể thống gì. Ông chủ nhà rượu cũng tinh ý, bảo tôi " hủ nầy mới cất, nồng độ chưa cao, anh thử chút cho biết, không say đâu ; mà dẫu có say thì đã có cô đây đưa về nhà ... cô ta. Đến từ xa mà không thử đặc sản nầy thì uổng quả. Tây làm gì có thứ nầy ". Nễ tình, tôi hút hai lần, mỗi lần hai hơi. Cay sè. Nuốt xuống cổ mới có chút vị ngọt. Hai người kia họ hút liên tục. Ngồi một lúc, tôi móc tiền ra trả, chào để đi tiếp, ông chủ khoát tay cười " tôi mời hai người mà, anh đưa hủ nầy về Pháp tập uống, mai mốt trở lại, về đây uống suốt đêm với tụi nầy ".

Ra khỏi quán rượu cần, Vén Phệt đưa tôi tới một nơi làm giấy. Thợ làm giấy cũng toàn mấy cô. Tôi thấy mấy chục khung giấy điểm hoa văn được dựng phơi trước chòi. Nhìn dụng cụ của họ tôi không hiểu với bí quyết nào mà họ có thể lèn những hoa văn màu lên mảng giấy bằng bông gòn trắng mỏng tanh đó được. Đồ nghề họ sử dụng chỉ là một khung lưới rộng chừng 80cm x 80cm, lỗ nhỏ li ti. Một chậu nước cũng hình vuông to gấp đôi khung lưới. Vật liệu tôi thấy là bông gòn trắng phau. Có thể còn nhiều công đoạn mà họ giấu. Loại giấy nầy có phải người mình gọi là giấy dó chăng ? Nhưng loại giấy nầy sẽ làm tôi ngạc nhiên hơn nữa khi viếng cảnh Thác Kuang Sí.

Hồi sáng, từ đỉnh Phou Si tôi đã thấy trời-đất-nước LuangPrabang dưới ánh bình minh, tranh thủy mạc Trung Quốc phải nói là chưa thể so sánh được. Vì đó là một bức tranh thiên tạo ngẫu hứng, ngắn, duy nhất, không bao giờ có bức thứ hai y như thế. Ống kính camera DV đã ghi lại đầy đủ: cũng chỉ là bản sao vì thiếu khoảnh khắc sống.

Từ thuở còn học trung học tôi đã có nhiều kỷ niệm liên quan với hoàng hôn về trên sông. Nói cách khác, hoàng hôn là chứng nhân của nhiều kỷ niệm học trò trong đời tôi, từ đó hoàng hôn đã trở thành nỗi ám ảnh hay một đam mê trong tôi. Bất cứ đặt chân đến nơi nào có sông, có suối, nói chung là có bến nước, thế nào tôi cũng tìm hỏi bạn bè hay cư dân không và thời gian đẹp nhất khi hoàng hôn về trên sông của địa phương đó.

KhamĐy thả tôi dưới chân Phou Si, hẹn trở lại một tiếng sau " em về tắm rửa trước, tối nay vợ chồng em có mục dành cho anh". Tôi leo lên lại, đến đỉnh lúc 18 giờ 15. Khách chờ thưởng lãm hoàng hôn đã lố nhố tự bao giờ, hầu hết là khách da trắng, có một cặp người Nhật hay Đại Hàn khá lớn tuổi. Tất cả yên lặng, như nín thở. Chờ. Tôi châm điếu thuốc và trong một sát na, cuốn phim 30 năm về trước chập chờn theo khói thuốc...

Màn trời trắng bạc, vân xanh nhạt chuyển dần theo màu cam lửa từ cái đĩa tròn vo đang từ từ hạ xuống bên kia hai ngọn Phou Thao (núi chàng), Phou Nang (núi nàng), phản chiếu xuống dòng Nam Khan thành hai cái cùng một màu, nhưng với hai diễn biến khác nhau. Cái ở trên, nghiêm nghị uy nghi. Cái ở dưới, óng ánh, lung linh, nhấp nhô theo triều nước. Cái ở trên có mây ngủ sắc vờn quanh, có cánh chim lượn tiển. Cái ở dưới có thêm dăm bóng thuyền chài soi bóng.

Bức tranh nầy hoạ sĩ nào ghi lại nổi, nói chi tưởng tượng. Huống hồ " văn sĩ " như tôi. Cao xanh đã ưu ái dành cho LuangPrabang một khoảng không gian với hai mốc thời gian miên viễn tuyệt vời...

Tôi xuống đến chân cầu thang thì đã thấy KhamĐy ở đấy. Cậu em hỏi tôi " sao anh, tuyệt ha. Thế từ trên đó xuống đây, anh đã có ý tứ gì chưa ?". Tôi trả lời " đâu chỉ có ý tứ thôi, mà đã làm và chiếu xong một cuốn phim Tâm Thư Hoài Niệm và đã cất lại trên đó luôn rồi ".


Còn Tiếp
Kỳ tới: Động Ẩn Sĩ & Thác Kuang Sí

Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.06.2006 16:35:48 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 27.06.2006 21:59:12
Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 3
Hàn Lệ Nhân




Hơn nửa ngày viếng cảnh, đừ người, chỉ muốn về tắm vội rồi leo lên giường ... ghi sổ tay. Cuộc đời đâu đơn giản vậy. Vừa bước vào phòng khách tôi thấy 8, 9 người ngồi chuyện trò quanh salon, vợ KhamĐy đang bưng khay nước mời họ. Thấy tôi, vợ KhamĐy nói " à, họ đây rồi ". Theo phản ứng tự nhiên tôi chấp tay chào mọi người. KhamĐy lên tiếng " xin giới thiệu cùng các bạn, đây là anh Th., bạn anh Pa-Thương, từ Pháp về. Khới hạng (rể hụt) Mương Luang của chúng mình đó ! " Tôi cười, lại chấp tay lên tiếng chào thêm lần nữa. " Còn đây là vài nguời bạn của vợ chồng em. Hai cặp nầy là người Kh'mú U. Cặp nầy người Hmông. Chú nầy người Việt. Hai chị em nầy người Phou Noi ". Nghe lời giới thiệu của KhamĐy, tôi sướng mê người, bao nhiêu nhọc nhằn biến đâu cả, trừ cái nóng dẫu là tháng hai. Tôi xin phép được đi tắm một cái, rồi tính sau.

Pa-Thương quả được chuyện, không có nó "ngoại giao" làm gì mình tụ được bức phác hoạ tộc người nầy. Tôi thầm cám ơn vợ chồng KhamĐy cùng thằng bạn tốt bụng và tế nhị. Hèn gì mỗi lần gặp lại, chúng nó cứ bảo " mầy đã làm được ít việc mà tụi tao không nghĩ tới, cá nhân tao chỉ có thể giúp mầy ba chuyện lăng nhăng thôi ". " Như vầy mà là ba cái chuyện lăng nhăng, mầy thật khéo nói, xiều (bạn quí) ạ". Vừa tắm tôi thú vị nghĩ đến thằng bạn từ thuở mài đũng quần xà-lỏn trên ghế trường tiểu học việt ngữ Lạc Hồng.

Bước ra phòng khách tôi thấy trên bàn đã được phủ một lớp đĩa đầy thức ăn Lào. Ông người Việt lên tiếng bằng lào ngữ ngay:

- Tôi nghe nói falăng (tây) tắm lâu lắm mà, sao bạn làm lẹ vậy ?

Tôi phịch cười:

- Có thể falăng tắm lâu thật, còn tôi có phải falăng đâu, 26 năm ở Pháp, thời gian dài hơn thời gian tôi ở xứ Lào, tôi biến thành " chệc " (Tàu) thì có.

- Nghĩa là thế nào ?

- Lúc trước ở xứ nầy người lào gọi tôi là " bặc keo" (thằng việt), về Việt Nam họ cho tôi là "thằng lèo", qua Pháp, tây-rệp-lọ kêu tôi là " thằng chệc " (le chinois / the chinese).

Mọi người cười ồ lên.

- Thế anh thấy anh là người gì ? Cô người Kh'mú hỏi.

- Tôi tự ví tôi như sỉn sám sẳn (thịt ba chỉ) và ví con cái tôi như quả chuối chín.

- Thịt ba chỉ thì tụi nầy hiểu vì anh mới nói ở trên, nhưng quả chuối chín thì xin anh nói rõ.

- Có gì đâu, chuối chín vỏ vàng, ruột trắng. Tôi có vợ việt, con cái đều sanh ra tại Pháp, tức là da vàng. Các cháu nói được tiếng việt, nhưng cách suy nghĩ, lối sống là cậu tây, cô đầm cả, nghĩa là tâm hồn âu tây. Điều tôi hằng áy náy là đã không dạy các cháu nói được tiếng Lào.

- Hẳn anh đã có quốc tịch Pháp, thì anh là người Pháp rồi ?

- Đúng vậy, tôi nhập Pháp tịch từ 1986. Đối với nước Pháp tôi là một công dân gồm mọi bổn phận và quyền lợi nhưng trong đời sống hàng ngày, người Pháp chính thống hay người da trắng nói chung coi tôi là người á châu. Mà bản thân tôi, trong tiềm thức, kiếp nầy tôi mãi mãi là người việt-lào.

- Xin lỗi, hỏi anh câu nầy hơi tò mò, anh có tên Tây không ?

- Không. Trước ở Lào tôi vẫn giữ quốc tịch Việt, dù chưa bao giờ được quyền bỏ phiếu các cuộc bầu bán tại Việt Nam. Con cái tôi cũng không có tên Pháp. Nhập Pháp tịch, chính phủ Pháp không có điều khoản nào bắt buộc bất cứ ai muốn có quốc tịch Pháp phải lấy tên Pháp cả, tùy quyết định và chọn lựa của cá nhân người đó. Khác hẳn ở đây, vào quốc tịch Lào là phải chọn tên họ Lào.

Các món ăn trên bàn tôi đã quen ăn từ nhỏ, bên Pháp có đủ cả trừ món đặc sản nổi danh của LuangPrabang là món Chèo boong Mương Luang trộn da trâu thái mỏng. Tôi vốn dốt đặc trong chuyện bếp núc, song thiết tưởng nhân đây cũng đáng chép giới thiệu cùng các bạn món ăn đặc thù LuangPrabang nầy. Cheo boong Mương Luang là một loại tạm gọi là " ruốc " hay thức chấm vừa ngọt vừa cay, có thể dùng ăn kèm với xôi, thịt khô, cá nướng …, ngon lạ lùng. Vật liệu chính là tỏi, ớt, tôm khô, nước mắm, mật, đường, gừng và da trâu. Cách thức chế biến mời các bạn vào đây:

http://laos.luangprabang.free.fr/gastronomie/recettes/Tio_Bong.htm.

Buổi họp mặt rất thú vị vì ai cũng dùng ngôn ngữ quốc gia là tiếng Lào. Và trong buổi họp mặt bất ngờ nầy, cũng chính ông gốc việt, khi có cơ hội, cố ý lái tôi vào khía cạnh chính trị, tôi ý thức được hoàn cảnh tế nhị nên du di " Thiên Long Bát Bộ " lách ra an toàn. Tựu trung cả chín người bạn mới đều " đứng núi nầy, trông núi nọ ". Cũng là chuyện thường tình.

Bộ Tộc Kh'mú U

Ở Lào có ba nhóm người Kh'mú: Kh'mú U (506.250 người), Kh'mú Rok (56.250 người) và Kh'mú Me (39.375 người). Tổng cộng bộ tộc Kh'mú U là bộ tộc đông dân thứ nhì sau bộ tộc Lào (1.800.000 người). Người Kh'mú U, gốc từ Trung Quốc, có mặt tại Lào từ thế kỷ XI, sinh sống chủ yếu trong bốn tỉnh bắc Lào: Houaphăn, Phôôngsaly, Vientiane và LuangPrabang. Tiếng Kh'mú U thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer/Nam Á (Austro-asiatique). Người Kh'mu theo tín ngưỡng dân gian tức thờ " Phí " (ma), sinh sống bằng nghề nương rẫy.

Bộ Tộc Phou Noi

Bộ tộc Phou Noi có khoảng 50.000 người, sinh sống quanh vùng Phongsaly và LuangPrabang, bắc Lào. Gốc gác từ Nam Trung Quốc.Tiếng Phou Noi thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến. Người Phou Noi thường lập thành các nhóm nhỏ, từ 10 đến 20 căn nhà làm bằng gỗ hay tre. Phương tiện sinh sống chính là săn bắn, làm rẫy.

Bộ Tộc Hmông

Trước kia người Lào dùng từ Mẻo, người Việt dùng từ Mèo để chỉ định bộ tộc Hmông, đọc trại từ chữ "Miêu" theo cách gọi của Trung Quốc, nơi xuất phát của bộ tộc nầy. Nhưng chính họ, bộ tộc nầy, lại khẳng định họ là bộ tộc Hmông, nghĩa là người. Người Hmông di cư qua vùng bắc Lào vào khoảng hậu bán thế kỷ XVII. Tiếng Hmông thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông-Dao, Hán-Tạng. Trong nhiều thập niên người Hmông sống bên lề xã hội Lào, không có quan hệ với hành chính Lào. Họ thích sống trên rẻo cao, có trình độ sản xuất nông nghiệp thâm canh, chăn nuôi giỏi và có một nền văn hoá dân tộc độc đáo. Người Hmông được biết tới từ năm 1918, dưới thời Pháp thuộc, nhân một cuộc bạo loạn mà nguyên nhân chính do thực dân Pháp áp đặt khổ dịch và thuế khoá quá cay nghiệt đối với họ. Từ 1920 đền 1945 là khoảng thời gian vàng son của người Hmông trong việc trồng hoa Anh Túc (cây thuốc phiện). Năm 1945 là một khúc rẽ quyết định tương lai của bộ tộc nầy trước sự lựa chọn giữa nền Quân Chủ Lào ( hậu thuẩn bởi mặt trận Pháp Tự Do) và phong trào độc lập Lao Issara (hậu thuẩn bởi Việt Minh và Phát Xít Nhật). Bấy giờ, dưới sự lãnh đạo của ông Touby LyFoung, người Hmông đã chọn đứng về phe Quân Chủ Lào và Pháp Tự Do, và trở thành tử thù của cộng sản Lào-Việt.

Sau biến cố chính trị tại Lào cuối 1975, ông Vang Pao, ông Touxoua LyFoung (con trai ông Touby) và 200.000 đến 250.000 người Hmông chạy qua Thái Lan xin tỵ nạn cộng sản rồi được rãi ra khắp thế giới: Hoa Kỳ có 140.000 người, Pháp và Guyane thuộc Pháp: 15.000 người …, số còn lại qua Australia, Canada. Một số cố trụ lại Thái Lan vì vẫn hy vọng được trở về với núi rừng trên đất Lào.

Theo thống kê năm 2004, ở bắc Lào còn 355.000 người Hmông, gồm Hmông Đẩu (Trắng), Hmông Đu (Đen), Hmông Lềnh (Hoa), Hmông Lia (Đỏ) và Hmông Xua (Xanh).

Thế giới đã và đang chuyển từ đối đầu qua đối thoại, do đó theo tôi nghĩ bộ tộc chủ thể độc quyền ở Lào và bộ tộc Hmông nói riêng, nếu đôi bên thật tâm trân quí xứ sở đất rộng, người thưa nầy, không thể kéo dài lâu hơn nữa sự đối nghịch vô ích. Tôi mong sớm có cuộc đối thoại. Đối thoại chứ không độc thoại. Đồng thuận hàng ngang chứ không ai ép ai đoàn kết sau lưng ai cả.

Cho đến nay người Việt sinh sống ở Lào, chưa nhập tịch, vẫn được coi như ngoại kiều, chưa là một bộ tộc. Sẽ có một bài riêng cho đề tài nầy.


Thặm Tìng ( Động Ẩn Sĩ )


Chín người bạn mới kể trên đều là công chức trong các cơ quan hành chánh. Một trong hai chị em người Phou Noi làm việc tại sân bay LuangPrabang. Tất cả đều có nhà trong phố, chiều thứ sáu, tan sở họ về làng, sáng thứ hai đi làm luôn, trừ ông gốc việt. Gia đình hai cô Phou Noi ở làng Xiêng Men, bên kia sông, là nơi tôi dự định qua viếng trong ngày mốt, thứ bảy.

Tôi cố tìm sử liệu về động Thặm Phum và Thặm Tìng ở Pak U (Pak = miệng , U = sông U. Pak U = Cửa sông U) mà đành chịu, đâu đâu cũng chỉ nói đại khái " đã được phát hiện từ lâu lắm rồi ".

Bản Pak U có hai cái động nổi tiếng là linh địa của tín hữu Phật giáo Lào tại LuangPrabang: Thặm Prakalay = tên một đồ đệ của Đức Phật hay Thặm Phum (động trên) và Thặm Lư Sí = Động Ẩn Sĩ hay Thăm Tìng (động dưới). Pak U cách LuangPrabang 35 cs phía thượng lưu sông Mêkông. Có thuyền đưa khách tới nơi nhưng vì ngược dòng nên phải mất khoảng 2 giờ và chuyến đầu tiên thường tách bến lúc 10 giờ sáng, khi đã đủ số khách. KhamĐy đề nghị đi bằng xe hơi, tôi vẫn giữ ý dùng xe gắn máy và lên đường lúc 8 giờ sáng. Trên đường đi chúng tôi qua nhiều làng Kh'mú, làng Hmông và làng Thái đằm (thái đen). Đường khá tốt. Đến làng khoảng 9 giờ mà khung cảnh đã nhộn nhịp, 2 chiếc xe ca cỡ nhỏ, 4, 5 chiếc Túc-túc (loại xe lam) đầy khách da trắng và nhật bản có mặt tự bao giờ.

Động Pak U nằm trong dãy núi đá vôi, bên kia bờ sông U. Có thuyền đưa qua, mất khoảng 15 phút và 1 đô la / người. Đây là nơi hành hương hàng năm của người Lào trong dịp Pimay (Tết Lào), từ khi Lào mở cửa Pak U liền biến thành địa danh thu hút khách du lịch thế giới. Hai chúng tôi qua tới chân cầu thang để vào động lúc 10 giờ. KhamĐy bảo mình chỉ vô Thặm Tìng thôi, cảnh trong đó sáng rõ nhờ ánh mặt trời chiếu vào. Thặm Phum tối mù, phải cầm đuốc, nên ít người vào. Từ cầu thang nhìn vào Thặm Tìng đã thấy bao nhiêu tượng Phật. Xuôi theo cầu thang, khi lên khi xuống, lúc đầu tôi còn bày đặt nhẩm đếm, nhưng chỉ một lúc sau là ngậm tăm chiêm ngưỡng. Chao ôi, Phật đâu mà lắm thế nầy, đủ cỡ đủ loại (đa số là Phật đứng, đặc điểm Phật ở LuangPrabang), gỗ, đồng, xi-măng. Đúng là một động Phật. Phải vài thế kỷ mới tụ được ngần nầy tượng Phật. Cảnh thạch nhũ trong lòng động cũng ly kỳ nhưng bị số tượng che mờ đi. Từ trong động nhìn ra cảnh trời nước buổi sáng thật đẹp, bên kia bờ thấp thoáng những mái nhà sàn ẩn hiện trong màu xanh của lá chuối và tre.

Năm 1996, nhóm khảo cổ Australia đã làm thống kê động Pak U, được 8.126 bức tượng lớn nhỏ. Một bảo tàng khổng lồ như thế mà không hiểu sao không có một cơ quan nào bảo quản hay canh giữ ban đêm, chả trách thỉnh thoảng các " tín hữu " Thái Lan dùng thuyền cao tốc (speed-boat), đột nhập, " thỉnh " nhẹ vài vị đem "phổ biến" ra thị trường đồ cổ Âu-Mỹ:

http://asie.online.fr/laos.html

KhamĐy đi với tôi đủ một vòng là xuội lơ, có thể tại cậu em đến đây nhiều lần rồi nên hết hào hứng. Tôi làm vòng thứ hai một mình, đi thật chậm. Vừa xem vừa trộm nghỉ " thế nầy đúng là họ đã biến ông Bụt thành ông thần nhiệm mầu vạn năng, có phép thưởng lành, phạt ác … Rồi bổng dưng tôi liên tưởng tới Lourdes bên Pháp, nơi tôi có đến hai lần. Lần đầu đi coi vợ chồng bà chị cả đến tạ lời nguyền, chẳng là họ mới bán được giá cái nhà hàng ở phố biển. Lần sau nhân đi công tác mấy ngày ở Tarbes, tây nam Pháp. Tượng Đức Mẹ Maria tràn ngập thánh địa hành hương nầy, chu vi mênh mông quanh hang Massabielle là một siêu siêu thị tượng nước thánh, đủ mọi giá cho mọi túi tiền, mọi niềm tin. Niềm tin vợ tôi nghèo nên lần đầu thỉnh được mỗi một bức bằng nhựa đầy nước thánh cỡ 13cm x 3cm, có biên lai đàng hoàng: 4,50 Euros.

Trở lại làng Pak U, KhamĐy đưa tôi đi một vòng. Địa danh nầy đã thành khu du lịch nên các chòi hàng rất đa dạng, nhìn trang phục của mấy cô bán hàng KhamĐy giải thích cho tôi họ thuộc bộ tộc nào, ngoài mấy bộ tộc đã nói qua còn có người Ka Sắc, người Phuôn. Tôi để ý hàng mỹ nghệ Made in China hầu như lấn hẳn hàng thủ công đặc thù thổ nhưỡng. Gần làng Pak U có làng Xang Hay nổi tiếng với "lậu lao" (rượu đế Lào, không phải rượu cần), cất từ nếp trắng. KhamĐy khoe có nhiều bạn bên đó, tôi càng ngại lập lại trường hợp phải uống rượu như ở làng PhaNôm nên không muốn qua, hắn biết ý cười hề hề " anh yên chí, không ai ép anh đâu, anh cứ tự nhiên lai rai với Khới Lao (rể lào) của anh". Trên chai bia lào có đề chữ bia bằng chữ Lào nhưng đọc qua chữ Thái Lan lại thành chữ Khới (rể).

Thác Kuang Sí

Thác Kuang Sí cách LuangPrabang 30 cs hướng hạ lưu sông Mêkông nên chúng tôi quyết định quay lại LuangPrabang ăn vội mỗi đứa một tô bún cá, nấu kiểu lào. Trời nắng chang chang nên khi KhamĐy đề nghị về lấy xe hơi, tôi đồng ý liền. Chiếc Citroën LNA màu trắng, mới sơn lại, máy còn êm. Xe mới chạy độ mươi phút tôi đã ngủ khì nên chẳng thấy gì dọc đường. KhamĐy lay tôi dậy khi xe bắt đầu vào địa phận Kuang Sí.

Có bãi đậu xe cách thác độ 500 m. Tiếng thác vọng ra. Hai bên con đường đất đỏ dẫn vào có mấy cái quán, KhamĐy bảo, ở đây thuộc quyền khai thác của người Kh'mú, trên nguồn thác có làng Hmông. Muốn vào coi thác mỗi người đóng chút lệ phí (tôi không nhớ bao nhiêu). Đang mắt nhắm mắt mở, tôi khựng người trước quang cảnh hiện ra …

Cả một không gian rộng lớn với ba màu chính, trắng xoá là trời và nước trên núi đổ xuống, xám-nâu là màu của núi, xanh cẩm thạch là cỏ cây bao quanh và cái hồ ngay chân núi ! Chao ôi, cảnh đâu có cảnh kỳ diệu thế nầy, bút mực nào tả cho được muôn một. Dưới tàng cây, Ban Quản Trị tế nhị đặt đó đây một hai cái ghế dài bằng gỗ cho khách nghỉ chân và ngồi chiêm ngưỡng tuyệt phẩm của hoá công. Có một cái cầu gỗ bắc ngang hồ cẩm thạch tiến vào gần chân núi. Trong một tíc tắc tôi lại trộm nghĩ những triết nhân sống về nghề nói tới cõi trên sao không chịu khó tới đây, dựa vào khung cảnh Kuang Sí để làm cơ sở cho lời thuyết dụ. Cõi trên là đây, tìm đâu cho xa ! Tôi buột mồm đọc ngay:

Triết nhân là kẻ có thừa
Dù cho cái có là chưa có gì.
Thường nhân là kẻ ngu si,
Quẳng đi cái có khổ vì cái không !
(Nguyễn Chí Thiện)

Ông cụ Marcel Proust thật là chí lý khi bảo " Cuộc du lịch khám phá đích thực không cốt để tìm cảnh mới mà để có những cặp mắt mới " (le véritable voyage de découverte ne consiste pas à chercher de nouveaux paysages mais à avoir de nouveaux yeux).

Tôi lanh quanh non hai giờ trong cõi tiên, khi nhìn lại KhamĐy đã ra ngoài, khách viếng cảnh chỉ còn mình tôi. Trời đã bắt đầu chiều, Kuang Sí càng kỳ ảo.

KhamĐy ngồi uống nước dừa trong một cái quán có bày bán nhiều kỷ vật tạo bằng các ống tre nhỏ. Tôi cũng gọi một trái dừa. Ngồi chuyện vãn với ông chủ quán một lúc, bổng KhamĐy hỏi tôi " anh có biết cái nhà bên cạnh nầy là nhà gì không? Đây là nhà của một hoạ sĩ người Phuôn, ổng ra đây để vẻ. Căn nhà sàn nầy chính ổng bỏ tiền ra cất lên trên đất của ông chủ quán, hợp đồng là năm năm sau nhà sẽ thành của ông chủ quán." Tôi nhìn sang, thấy căn nhà sàn khá rộng, mới vướng chút màu thời gian, cửa đóng kín. Tôi tò mò hỏi ông chủ quán, tôi muốn gặp ông hoạ sĩ được không? Ông chủ quán sai cậu con trai nhỏ vô làng gọi ông hoạ sĩ. Một lúc sau ông hoạ sĩ theo cậu bé ra quán. Đó là một người khoảng 35/36, mặt mày sáng sủa, tóc tai bồng bềnh, rất tỉnh thành, rất nghệ sĩ. Sau màn giới thiệu, tôi biết ông hoạ sĩ tên Phone Anou ra Kuang Sí đã hơn một năm, ổng mời KhamĐy và tôi lên nhà. Trong nhà không ngăn phòng, chia bếp gì cả, đồ đạc chẳng có gì ngoài một cái nệm đủ cho hai người, còn là tranh và tranh, nhiều bức đã đóng khung, một số còn dang dở. Những bức đã đóng khung nhìn vào tôi chẳng hiểu gì cả, đại loại nhân vật nữ thì 3 hay 1 mắt, cổ cò, ngực bên to bên nhỏ …, nhân vật nam thì mặt mày hom hem như dân cai nghiện, môi miệng như mái hiên, tỉnh vật thì méo mó … màu sắc hoặc quá loè loẹt hoặc quá âm u. Chẳng thấy bức nào về Kuang Sí. Tôi thấy trong ông hoạ sĩ có cái lộn tùng phèo chút Picasso, chút Van Gogh, chút Modigliani … tóm lại là ông hoạ sĩ bị bệnh bắt chước âu tây !

Xem xong một vòng tôi hỏi:

- Anh vẻ chủ yếu để bán cho ai ?

- Cho khách du lịch falăng (da trắng).

- Anh đã bán được mấy bức từ khi ra đây ?

- Chưa được bức nào.

- Làm sao anh sống ?

- Thú thật với anh, tôi đang kẹt lắm, vốn liếng gom góp mấy năm một phần bỏ vô căn nhà, một phần nằm ụ trên những tác phẩm nầy. May mà có thằng em ở LuangPrabang tiếp tế …Hai anh thấy thế nào ?

KhamĐy trả lời :

- Tôi không biết gì về hội hoạ. Anh vẻ tôi không hiểu gì cả, nhìn vào tôi sờ sợ …

- Tôi cũng không hiểu, nhưng hình như anh muốn diễn tả sự khắc khoải nội tâm cùng cực đến biểu hiện ra ngoại hình gì gì đó. Tôi lên tiếng.

- Đại khái là vậy. Phone Anou trả lời.

- Nói thật anh đừng buồn.Cá nhân tôi, đến từ nước ngoài, nhưng không bao giờ tôi mua những bức tranh nầy …

- Xin anh thẳng thắn cho biết lý do.

- Theo tôi, anh đã phí công, phí của vô ích. Khách du lịch da trắng đời nào họ chịu bỏ tiền ra để chở củi về rừng. Bản thân anh, anh phải biết rõ hơn ai hết là mình đang bắt chước hội hoạ âu tây. Nói xong, tôi kể lại chuyện tôi bị cô Vén Phệt làng PhaNôm cười diễu ra sao khi tôi muốn tặng cô ấy xấp vải của Bản PhaNôm.

- Tôi ra nghề gần bốn năm nay, cứ nghĩ tụi da trắng có trình độ thẩm thấu, thích tranh lập thể, siêu thực nên hơn một năm nay tôi bỏ lối vẻ lào để theo trào lưu và thị hiếu tôi đọc được trong sách báo…

- Họ lặn lội qua đây là để tìm cái Lào, cái lạ chứ tìm chi ba cái xanh đỏ, méo mó mà họ đã chán ngấy kia. À, anh có thể cho tôi coi mấy bức tranh lối cũ của anh không ?

Phone Anou đứng dậy, lôi ra từ trong góc nhà một cuộn tranh to tướng, trải ra giữa sàn nhà. Tôi nhờ KhamĐy ra quán mua mấy chai bia lào với vài món thịt rừng nấu chín. Trong nầy tôi thủng thỉnh coi từng bức tranh một. Có nhiều bức về thác Kuang Sí, rất đẹp nhưng tôi đã bị cảnh thật hớp hồn, vả lại đã quay được nguyên một cuốn phim kỹ thuật số 60 phút nên trả bản vẻ lại chỗ cũ. Có mấy bức chân dung người các phầu (bộ tộc), vẻ bằng bút chì, thật linh động. Tôi lựa được hai bức, cẩn thận để riêng ra một bên, không nói gì. KhamĐy mua bia và đồ nhậu về, có cả xôi. Ba đứa vừa ăn uống vừa nói chuyện linh tinh. Phone Anou mời tôi và KhamĐy ở lại, tối anh đưa đi nghe các cô người La Mệt lăm (hò), sáng mai nghe thác Kuang Sí hát dưới bình minh. KhamĐy nhắc tôi cái hẹn với hai chị em Phou Noi bên làng Xiêng Men. Tôi đành từ chối. Một lát sau, tôi nói với Phone Anou:

- Tôi chọn hai bức bằng màu nước đen trắng nầy. Loại giấy anh dùng có phải đến từ Ban PhaNôm không?

- Đúng vậy, tôi có cô bồ người Lự. Mà sao anh lại chọn hai bức nầy ?

Hai bức phóng hoạ tôi thích nhất được dùng bột màu đen, hoà nước vẻ lên tấm giấy dó 80cm x 80 cm màu ngà. Một bức vẻ cô người Lự gánh nước, áo cánh trắng, sịn (váy) đen. Bức kia là thiếu niên một tay vác cày, tay kia cầm cái cào cỏ, có một chú chó con đi trước. Nét vẻ khoáng đạt, đậm nhạt phóng túng.

- Tôi vẻ hai bức nầy có nửa tiếng à.

- Anh cho biết tổng cộng bao nhiêu ?

- Tôi xin tặng anh làm kỷ niệm buổi tương ngộ nầy.

- Không, xin anh cho biết giá.

Nói qua nói lại một hồi, Phone Anou đành ra giá : 10.000 Kips hai bức (1USD)

Tôi im lặng, nghe xót xa chạy thẳng vào tim, đứng dậy xin đi vệ sinh. Khi trở ra tôi thấy hai bức tranh đã được cuốn tròn bỏ vô một ống tre.Tôi đưa cho Phone Anou một xấp tiền Lào. Cậu ta hoảng lên:

- Sao nhiều vậy anh ?

- Tôi thích hai bức tranh quá nên tự ra giá, xin gửi anh 300.000 Kips.

Phone Anou cầm xấp tiền, nhìn tôi đăm đăm. KhamĐy cũng vậy. Bất chợt Phone Anou quỳ xuống, hướng ra cửa, chấp tay vái lia lịa:

- Mẹ ơi, con có tiền về quê thăm Mẹ rồi !


Còn tiếp
kỳ tới: Cuộc hẹn bên Làng Xiêng Men


Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.06.2006 22:05:19 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Hàn Lệ Nhân
  • Số bài : 97
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 04.11.2005
RE: Góc nhỏ Hàn Lệ Nhân - 03.07.2006 18:40:59
Xứ Lào : Nửa Trái Tim Tôi 4

Hàn Lệ Nhân



Làng Xiêng Men

Quần thể Chùa Xiêng Thoong nằm bên tả ngạn sông Mêkông, có cầu thang xuống tận bến đò để qua bên kia bờ là Bản Xiêng Men. Địa danh nầy nổi tiếng với huyền thoại trữ tình về hai ngọn Phou Thao (Núi Chàng) và Phou Nang (Núi Nàng) ; di tích chùa Long Khoun và các xưởng đồ gốm ở Bản Chăn gần đó.

Từ bến Chùa Xiêng Thoong qua làng Xiêng Men bằng thuyền mất độ 20 phút và 3.000 Kips/người. Hai chị em người Phou Noi và hai người bạn trai của họ đã đứng đón KhamĐy và tôi ngay bến đổ, đưa chúng tôi về nhà cha mẹ hai cô. Họ đã chu đáo sắp đặt chương trình đâu vào đấy. Hai cụ khen tôi dù xa Lào đã lâu vẫn còn sử dụng tiếng Lào trôi chảy, lập đi lập lại nhiều lần từ " sí la pin " (nghệ sĩ) làm tôi thầm ngượng cả người. Người lào nói chung rất quí "sí la pin". Tôi nghĩ đây cũng do thằng bạn Pa-thương phóng đại với vợ chồng KhamĐy rồi vợ chồng nầy nói lại nhân tổ chức buổi họp mặt vừa qua. Chứ tôi mà "sí la pin" cái nỗi gì, tôi nhận định về mình như con chim lạc, mất phương hướng, thỉnh thoảng khắc khoải hót vu vơ… Việc tôi chuyên chú vào đề tài xứ Lào chẳng qua đây vẫn còn là một khu đất còn quá nhiều chỗ trống, tôi tha hồ "múa" ; nếu có "múa" tầm phào cũng không ai nỡ xét nét, trách cứ vì tôi chỉ "múa" bằng con tim, thể hiện qua sự giới hạn của con chữ.

"Xưa, có một con tinh tên Nang Kinna, sống trong một cơ ngơi khanh trang rộng lớn nằm thoai thoải trên một ngọn đồi. Con tinh cái chưa chồng, chưa con, luôn luôn sống cô độc trong khu rừng trên đồi. Mỗi buổi sáng Kinna thường dạo chơi giữa rừng cây, hoa cỏ ; giữa tiếng suối róc rách reo vui và chỉ quay về nhà khi đến giờ dùng bữa. Sự hiện diện thường xuyên của nàng trong rừng đã gây được nhiều thiện cảm nơi loài dã thú. Đôi khi người ta thấy nàng đùa giởn với các loài chim đến líu lo cho nàng nghe, ngồi trên cổ voi rừng hay vuốt ve những con hươu cái hiền lành, những con sóc xinh xinh…

Một sáng kia, Kinna bắt gặp một chàng trai xâm nhập vào rừng, chàng trai khôi ngô tuấn tú ví thể Intha (thần sắc đẹp). Kẻ lạ có trong tay một khẩu súng, một túi vải khoác chéo trên vai. Đã từ lâu Kinna hằng mơ ước có một tấm chồng nên nghe lòng rạo rực vui mừng khôn xiết. Song Kinna sợ sắc diện của nàng sẽ làm chàng trai thất vọng bèn niệm một tràng chú, tự biến nàng thành tuyệt đẹp. Kinna tiến tới gặp chàng trai, hỏi:

- Chàng đến đây làm gì ?

- Tôi đến săn thú, chàng trai trả lời và ngạc nhiên hỏi lại:

- Nàng ở đây một mình à ?

- Vâng, tôi sống một mình với cỏ cây, muông thú.

Sắc đẹp và sự duyên dáng của người con gái mau chóng chiếm lĩnh trái tim chàng trai tuấn tú. Chàng trai tự giới thiệu tên chàng là Phoutasén, kể cho Kinna nghe gia cảnh của mình. Kinna năn nỉ Phoutasén ở lại mãi mãi bên nàng, Phoutasén vui mừng chấp thuận.

Cuộc sống giàu sang, hạnh phúc bên mỹ nhân đã làm Phoutasén quên lãng người mẹ đang sống trong nghèo khó.

Một hôm, Kinna thố lộ với người tình:

- Phoutasén chàng ơi, em quên chưa nói với chàng là em có một tủ sắt đầy những quả chanh xanh do ông bà em để lại. Những trái chanh nầy có phép nhiệm mầu. Chàng đã đến vườn chanh đó chưa ?

- Chưa bao giờ, thế cái vườn đó nằm ở đâu ?

- Cách đây độ 3 cây số thôi. Nhưng em yêu cầu anh đừng bao giờ tới đó, nguy hiểm lắm.

Phoutasén không nói gì. Trầm ngâm suy nghĩ.

Một hôm Kinna có việc phải đi xa. Phoutasén bèn lợi dụng sự vắng mặt của người tình, lén tới khu vườn cấm. Chàng phát hiện một cái hố thật to, rất sâu, đầy xương người. Quá kinh hải, Phoutasén chạy về nhà, lục lấy tất cả chanh trong tủ sắt rồi bỏ đi.

Kinna trở về nhà, không thấy chồng, không thấy chanh. Biết là Phoutasén đã phản bội, Kinna vội vàng đuổi theo, chẳng mấy chốc nàng đã bắt kịp Phoutasén. Kinna kêu gào Phoutasén. Phoutasén càng tăng tốc độ và ném ngược lại một quả chanh, bất ngờ một ngọn lửa to lớn bùng lên cháy nguyên một chu vi đất rộng. Kinna càng gào. Để cản bước Kinna, quả chanh thứ hai được tung ra, khoét thành một cái hồ mênh mông. Kinna nhảy xuống nước bơi đuổi theo. Qua tới gần bờ bên kia thì nàng kiệt sức, nước cuốn nàng đi… Rút tàn hơi, nàng phát một lời nguyền xin trời trừng phạt người chồng phản bội, rồi mới buông xuôi vĩnh viễn.

Bị ăn năn hối hận dày vò Phoutasén quay trở lại và bắt gặp xác Kinna vẫn còn tươi nằm ven một con suối. Phoutasén vội vàng làm mọi cách để hồi tỉnh Kinna, nhưng quá trễ. Phần quá đau đớn, quá tuyệt vọng, phần kiệt sức Phoutasén gục lên xác Kinna, chết theo.

Mấy thế kỷ sau nơi có xác Kinna và xác Phoutasén mọc lên hai ngọn núi huyền thoại, có tên Phou Thao (Núi Chàng) và Phou Nang (Núi Nàng) ở LuangPrabang".

Kể xong sự tích, cô chị (PS) nói thêm:

- Chắc anh đã thấy Phou Thao, Phou Nang nhìn từ phía Chùa Xiêng Thoong. Ngọn núi có dáng người đàn bà nằm quay lưng lại là Phou Nang. Phou Nang nằm gác đầu lên gót chân Phou Thao.

Tôi cám ơn PS, hỏi:

- Tôi để ý và thắc mắc: Phou Nang cao lớn hơn Phou Thao, chẳng lẽ thời xưa đàn bà bự con hơn đàn ông ?

Cả nhà rộ lên cười, anh K., bạn trai của PS, lên tiếng:

- Bộ anh không thấy tôi là Phou Thao và PS là Phou Nang à ?

Bấy giờ tôi mới thấy K. thấp hơn PS đến nửa cái đầu ! Lại được thêm một trận cười. Cô em ( PK) cười xong, nói:

- Có nhiều ấn bản về sự tích Phou Thao, Phou Nang. Em kể anh nghe ấn bản thứ hai:

"Phoutasén là một hoàng tử người phàm. Nang Kang Hy là con gái của một tinh vương. Hai người sống ở hai nơi cách biệt, chưa từng quen biết nhau. Hoàng hậu yêu tinh làm phép đưa Phoutasén đến với công chúa Kang Hy, viện cớ công chúa cần dược thảo nhưng hậu ý lại muốn con gái mình ăn sống vị hoàng tử nầy. Hoàng hậu yêu tinh nhờ hoàng tử Phoutasén đưa đến cho Kang Hy một bức thư có câu "Con gái yêu, con phải ăn chàng trai trẻ nầy ngay".

Trước khi đến nơi ở của Kang Hy, Phoutasén dừng nghỉ chân trước một cửa động. Một ẩn sĩ biết chuyện, thương tình Phoutasén, bèn tráo bức thư có nội dung ác độc bằng một lá bùa yêu. Mới gặp mặt hai người đã yêu nhau ngay rồi vội vàng làm đám cưới. Mấy tháng trăng mật trôi qua, một hôm Kang Hy đang ngủ trưa hoàng tử Phoutasén phát hiện vợ mình là loài yêu quái nên bỏ trốn đi. Kang Hy tỉnh dậy không thấy chồng và biết Phouthasén đã lấy hết bửu bối của nàng. Kang Hy nhảy lên lưng ngựa đuổi theo, nhưng làm sao nàng có thể qua sông khi không còn bửu bối.

Mòn mỏi bên nầy sông, công chúa Kang Hy tắt nghỉ với lời nguyền "Phouthasén phải trở về và gục chết trên đầu gối nàng". Lời ước của Kang Hy được toại nguyện, nhưng từ trên trời, thượng đế nhìn xuống thấy, xét rằng thế nằm vợ chồng như thế không thích hợp, thượng đế bèn sửa lại, đặt đầu Kang Hy gác lên gót Phouthasén. Phou Thao, Phou Nang hình thành từ đó."

Bữa cơm trưa khá thịnh soạn được bày trên chiếu, mọi người ngồi xếp bằng chung quanh. Tôi chú ý đến món Ô Lám, một đặc sản tuyệt vời khác của cố đô LuangPrabang. Trước kia Ô Lám là một thực đơn vương giả. Cách thức chế biến cầu kỳ, vật liệu nhiêu khê. Cư dân LuangPrabang có câu "đến Mương Luang mà không nếm qua Ô Lám là coi như chưa đến". Cụ thể là mời các bạn vào đây:

http://laos.luangprabang.free.fr/gastronomie/recettes/o_lam.htm

Đường xá trong làng Xiêng Men cần được nâng cấp cho đồng bộ với phong cảnh u nhã của làng. Đó là nhận xét đầu tiên tôi nói với các bạn, trên đường đi viếng cảnh chùa Long Khoun. Tôi rất thích những gốc dừa xanh cao vút trời. Chùa Long Khoun được sùng tạo từ thế kỷ XVIII, không bệ vệ như chùa Xiêng Thoong nhưng đã một thời là nơi quan trọng của hoàng gia Lào. Trước 1975, bất cứ tân vương lào nào cũng phải qua đây tịnh tâm suốt ba ngày rồi mới về LuangPrabang làm lễ đăng quang. Quốc vương Lào cuối cùng qua đây tịnh tâm là vua Sisavang Vatthana (1907-1978). Một vương triều ngoài 600 năm lịch sử đã được hay bị lật qua như một thoáng mơ giữa ban ngày. Lớp sóng phế hưng càng rõ nét khi chúng tôi đến Vặt Thặm Xiêng Men (chùa động Xiêng Men hay Động Sakarine, quốc vương Lào: 1840-1903): Theo tôi, nếu không kíp thời trùng tu bảo quản, những di tích Phật giáo nơi đây chóng chầy sẽ thành phế tích.

Ra khỏi chùa động Xiêng Men chúng tôi đi coi vài nơi làm đồ gốm trong làng Chăn, sau đó về lại nhà hai bác người Phou Noi, chờ đến giờ lên Vặt Chom Phệt (Chùa Ngọc Đỉnh) xem tà dương giỡn sóng Mêkông, rồi trở qua LuangPrabang luôn. Trước thịnh tình của gia đình hai bác, tôi không biết đáp lễ ra sao cho hợp tình (đời nào tôi dám đưa tiền), cuối cùng tôi vờ hỏi trong hai cặp, cặp nào sẽ làm đám cưới trước. Cô chị PS dí dỏm lấy tay chỉ vào ngực rồi chỉ vào K. Tôi năn nỉ mãi họ mới chịu nhận như chút quà cưới cái máy hình Olympus loại bỏ túi mà tôi ít dùng tới. Tôi hướng dẫn cho K. bằng cách chụp hết phim trong đó, chỉ cách thay phim với một cuộn mới. Phần cô em PK tôi đã có ý vì biết thế nào tôi cũng gặp lại khi lấy máy bay đi Xiêng Khoáng.

Về tới Guest House tôi đã thấy ông bạn gốc việt đang ngồi tán gẫu với một ông khách người da trắng, chờ tôi. Vừa mệt, vừa ngại ổng lại lái tôi vào chuyện chính chị, chính em nên đành " cẩn tắc vô áy náy", từ chối đi ăn tối với ổng.

Còn tiếp
Kỳ tới: Xiêng Khoáng & Cánh Đồng Chum


Hàn Lệ Nhân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.07.2006 18:42:03 bởi Hàn Lệ Nhân >
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa tình thương,
Chủ nghĩa nào hơn chủ nghĩa áo cơm.

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 37 bài trong đề mục